Tailieu.vncty.com phat trien-tin_dung_nha_o_cho_nguoi_co_thu_nhap_trung_binh_va_thap
Xay dung bao ton va phat trien van hoa dan toc tay bac
-
Upload
tailieufileword-com -
Category
Education
-
view
461 -
download
6
description
Transcript of Xay dung bao ton va phat trien van hoa dan toc tay bac
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HCM
KHOA THƯƠNG MẠI-DU LỊCH-MARKETING
ĐỀ TÀI
XÂY DỰNG GIẢI PHÁP BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA CÁC
DÂN TỘC TÂY BẮC NHẰM PHÁT TRIỂN DU LỊCH VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN TỪ 2012-2015
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN : ThS. NGUYỄN QUỐC NAM
SINH VIÊN THỰC HIỆN : ĐẶNG THỊ YÊN
LỚP DU LỊCH 1
NIÊN KHÓA 2008-2012
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HCM
KHOA THƯƠNG MẠI-DU LỊCH-MARKETING
ĐỀ TÀI
XÂY DỰNG GIẢI PHÁP BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA CÁC
DÂN TỘC TÂY BẮC NHẰM PHÁT TRIỂN DU LỊCH VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN TỪ 2012-2015
GVHD: ThS. NGUYỄN QUỐC NAM
SVTH: ĐẶNG THỊ YÊN
LỚP DU LỊCH 1
NIÊN KHÓA 2008-2012
NỘI DUNG ĐỀ TÀI
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 3
CHƯƠNG 1 : CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1 VĂN HOÁ
1.1.1 Định nghĩa
Văn hóa là những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong
lịch sử. Văn hóa là sản phẩm của loài người, nó được tạo ra và phát triển trong
quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính văn hóa lại tham gia vào
việc tạo nên con người, duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa được truyền
từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa. Văn hóa được tái
tạo và phát triển trong quá trình hành động và tương tác xã hội của con người.
Văn hóa là trình độ phát triển của con người và của xã hội được biểu hiện trong
các kiểu, hình thức tổ chức đời sống và hành động của con người cũng như trong
giá trị vật chất và tinh thần mà do con người tạo ra.
Bản sắc văn hoá là tổng thể các giá trị đặc trưng bản chất của văn hóa dân tộc,
được hình thành, tồn tại và phát triển suốt quá trình lịch sử lâu dài của đất nước,
các giá trị đặc trưng ấy ở "tầng nền" mang tính bền vững, trường tồn, trừu tượng
và tiềm ẩn.
Văn hoá kiến thức truyền thống là hệ thống kiến thức của các dân tộc hoặc của
một cộng đồng tại một khu vực cụ thể nào đó. Nó tồn tại và phát triển trong những
hoàn cảnh nhất định với sự đóng góp của mọi thành viên trong cộng đòng ở một
vùng nhất định. Văn hoá kiến thức truyền thống được hình thành trực tiếp từ lao
động và sinh hoạt văn hoá của mọi người dân trong cộng đồng, được hoàn thiện
dần và truyền thụ chủ yếu bằng miệng, truyền tay trong gia đình, thôn bản hoặc
qua ca dao, dân ca, tục ngữ, truyện kể, sử thi, luật tục…
1.1.2 Các loại hình văn hoá
Văn hóa được phân loại thành hai phạm trù lớn là văn hóa vật thể và văn hóa
phi vật thể. Văn hóa vật thể bao gồm những sản phẩm văn hóa chứa đựng trong
vật chất mà sự tồn tại của chúng gắn liền với sự hiện diện của khối vật chất cụ
thể. Văn hóa phi vật thể gồm những sản phẩm văn hóa có giá trị tinh thần thuần
túy, sự tồn tại của chúng có tính độc lập tương đối, không trực tiếp liên quan đến
những vật chất mà chúng nhờ vả. Có thể hình dung qua sơ đồ sau :
Văn hóa phi vật thể
- Các hệ thống tư tưởng tôn giáo,
triết học.
- Các sáng tác văn học nghệ thuật.
- Những chuẩn mực đạo đức.
- Những phong tục tập quán, lối
sống.
- Những phẩm chất tinh thần, tâm
hồn.
Văn hóa vật thể
- Các công trình kiến trúc :
đền, đài…
- Nhà cửa, đường sá, cầu
cống.
- Thành phố.
- Công viên, tượng đài
- Di tích lịch sử, danh lam
thắng cảnh.
Văn hóa
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 5
Tất nhiên, sự phân chia trên chỉ là tương đối, để dễ phân biệt, không nên cứng
nhắc trong quan niệm, bởi lẽ trong những cái gọi là “ văn hóa vật thể” có giá trị của
văn hóa phi vật thể và trong những cái gọi là “ văn hóa phi vật thể” thì ít nhiều cũng
cần những nhân tố vật chất nhất định để thể hiện chúng.
1.1.3 Đặc điểm của Văn Hóa
Văn hóa có tính ổn định, tính bền vững. Vì về mặt phát sinh và phát triển, văn
hóa được tích lũy, được truyền lại, được tái tạo trong một cộng đồng. Về mặt chức
năng, văn hóa tạo ra sự ổn định, sự bền vững của cuộc sống con người trong cộng
đồng. Do đó, xã hội nào, cộng đồng nào cũng có truyền thống văn hóa của nó. Khái
niệm truyền thống văn hóa bao hàm tính bền vững của văn hóa, hay đúng hơn, sự tồn
tại của những yếu tố không thay đổi của văn hóa thường được gọi là hằng số văn hóa.
Tính bền vững, ổn định của văn hóa dưới một cách nhìn nhận định có khi lại được
xem là tính bảo thủ của văn hóa.
Nhưng ngay trong thực tiễn quan sát thông thường, ta cũng thấy không có một
nền văn hóa nào tồn tại trong trạng thái tĩnh hoàn toàn, nền văn hóa nào cũng phải
trải qua những biến đổi ở những mức độ khác nhau: biến đổi nhỏ, từng yếu tố, biến
đổi lớn, trên một phạm vi rộng, biến đổi từ từ, biến đổi có tính bước ngoặt … Khái
niệm đổi mới trong lĩnh vực văn hoá dùng để chỉ xu hướng và kết quả của những sự
biến đổi văn hóa, và khi dùng cặp đôi với khái niệm truyền thống thường chỉ mối
quan hệ giữa tính bền vững và tính biến đổi của văn hóa, mối quan hệ ấy nói lên qui
luật vận động của văn hóa. Như vậy nghiên cứu sự biến đổi, sự đổi mới của văn hóa
trên cái nền của truyền thống văn hóa. Qui luật vận động ấy bảo đảm cho văn hóa tồn
tại liên tục nhưng không ngưng đọng.
Do đó, khi có sự tiếp xúc kinh tế – xã hội giữa các nhóm người, các cộng đồng,
các dân tộc… thì sẽ tạo ra sự tiếp xúc văn hóa hay còn gọi là sự giao lưu văn hóa.
Qua việc tiếp xúc, một số yếu tố văn hóa ở cộng đồng người này có thể lan truyền
đến văn hóa của cộng đồng người khác và khi đó có thể có hai phản ứng: hoặc chối
từ hoặc tiếp nhận. Trong sự tiếp nhận văn hóa, những yếu tố văn hóa lan truyền ấy có
khi chỉ là những yếu tố cá biệt, tồn tại rời rạc bên cạnh nền văn hóa bản địa, có khi
được cộng đồng người bản địa bản địa hóa, có khi gây ra những tác động làm đổi
mới các yếu tố cũ của nền văn hóa bản địa.
1.1.4 Chức năng và vai trò của văn hoá
1.1.4.1 Chức năng :
Chức năng giáo dục: là chức năng mà văn hóa thông qua các hoạt động, các
sản phẩm của mình nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần,
thể chất của con người, làm cho con người dần dần có những phẩm chất và năng lực
theo tiêu chuẩn mực xã hội đề ra. Văn hóa thực hiện chức năng giáo dục không chỉ
bằng những giá trị đã ổn định là truyền thống mà còn bằng cả những giá trị đang hoàn
thành. Văn hóa tạo nên sự phát triển liên tục của lịch sử mỗi dân tộc cũng như hình
thành nhân loại.
Chức năng nhận thức : là chức năng đầu tiên, tồn tại trong mọi hoạt động văn
hóa. Văn hóa giúp nâng cao trình độ nhận thức của con người.
Chức năng thẩm mĩ : cùng với nhu cầu hiểu biết con người còn có nhu cầu
hưởng thụ, hướng tới cái đẹp. Con người đã tạo ra hiện thực dựa trên quan niệm về
cái đẹp nên văn hóa cũng có chức năng này. Trong quá trình phát triển, văn hóa sẽ
không ngừng được thanh lọc theo hướng vươn tới cái đẹp và khắc phục cái xấu trong
mỗi người.
Chức năng giải trí : các hoạt động văn hóa, câu lạc bộ, bảo tàng, lễ hội, ca
nhạc… sẽ đáp ứng được nhu cầu giải trí của con người. Sự giải trí bằng các hoạt động
văn hóa là bổ ích, cần thiết góp phần giúp con người lao động sáng tạo có hiệu quả
hơn và giúp con người phát triển toàn diện. Phát triển và hoàn thiện con người là mục
tiêu cao cả của văn hóa.
1.1.4.2 Vai trò
Văn hóa là nền tảng tinh thần : văn hóa thuộc lĩnh vực tinh thần, là nền tảng
tinh thần của xã hội, văn hóa thể hiện sức sống, sức sáng tạo phát triển và bản lĩnh
của một dân tộc. Văn hóa có mối quan hệ thống nhất biện chứng với kinh tế, chính
trị. Văn hóa có khả năng khơi dậy tiềm năng sáng tạo của con người – nguồn nhân
lực quyết định sự phát triển xã hội.
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 7
Văn hóa là mục tiêu của sự phát triển : văn hóa là mục tiêu của phát triển xã
hội, bởi văn hóa đại diện theo trình độ văn minh, là thước đo phẩm giá con người.
Văn hóa có vai trò điều tiết hành vi, mối quan hệ giữa người với người bằng giá trị
chuẩn mực xã hội, bằng văn hóa hướng tới mục đích nâng cao chất lượng cuộc sống,
vì hạnh phúc của con người, nối dài cuộc sống, an ninh xã hội, điều tiết sự công bằng
xã hội.
Văn hóa là động lực của sự phát triển : chìa khóa của sự phát triển là nguồn
lực tự nhiên thiên nhiên, nguồn vốn, nguồn khoa học công nghệ, nguồn lực con người.
Phát triển hiện đại hóa dân tộc, trước hết phải hiện đại hóa nguồn lực con người, đầu
tư vào giáo dục. Văn hóa làm bàn đỡ để cho sự ra đời của nền kinh tế tiên tiến văn
minh thông qua việc hoàn thành hệ thống pháp lí và đạo lí xã hội, chống lại những
tiêu cực phản giá trị, phản văn hóa do nền kinh tế thị trường Việt Nam đã tạo ra.
1.1.5 Các hình thức bảo tồn văn hoá dân tộc
Trong quá trình hiện đại hóa thì việc mất đi các giá trị văn hoá (đặc biệt là các
giá trị văn hóa phi vật thể) là một quy luật tất yếu. Con người khi nhận thức được
điều này sẽ có những hoạt động chủ quan, với nhiều hình thức để cố gắng lưu giữ lại.
Có thể nói hiện tại có các phương pháp bảo tồn văn hóa sau đây:
Đối với văn hóa vật thể : Thực hiện công tác trùng tu, tôn tạo, bảo quản các di
tích lịch sử và các văn hoá vật thể. Tu bổ di tích không chỉ đơn giản là khôi phục lại
như mới một công trình kiến trúc cổ truyền, mà là sự tổng hợp của nhiều mặt hoạt
động phức tạp có quan hệ qua lại rất chặt chẽ như: Nghiên cứu, sáng tạo nghệ thuật
và quá trình thi công, sản xuất v.v... Công tác tu bổ di tích phải đáp ứng được các nhu
cầu: Giải phóng, loại bỏ khỏi di tích tất cả các lớp bổ sung xa lạ, gây ảnh hưởng xấu
tới các mặt giá trị của di tích; giữ lại tối đa những yếu tố nguyên gốc của di tích; trên
cơ sở khoa học đáng tin cậy khôi phục lại một cách chính xác những yếu tố đã bị
thiếu hụt, mất mát trong quá trình tồn tại của di tích; trả lại cho di tích hình dáng vốn
có của nó; làm cho di tích có độ bền vững về mặt kết cấu để tồn tại lâu dài trước tác
động của điều kiện khí hậu và thời tiết khắc nghiệt, cũng như thử thách của thời gian.
Đối với văn hóa phi vật thể có hai phương pháp: Một là, phương pháp bảo tồn
tĩnh: quay phim, chụp ảnh, ghi chép để tư liệu hóa thật chi tiết (khi có nhu cầu, thì
căn cứ vào đó để phục dựng). Hai là, bảo tồn động: đưa nó về với cộng đồng. Vì,
cộng đồng chính là chủ thể của di sản, không ai có thể thay thế họ. Tất nhiên, khi bảo
tồn trong cộng đồng thì nó sẽ biến đổi, nhưng "cái hồn" của di sản vẫn sẽ được người
dân lưu giữ. Còn cố níu giữ cái cũ, mà người dân không chấp nhận, thì cũng không
được. Có thể, qua quá trình phát triển, nó sẽ gắn với một tâm thức khác. Vấn đề là ta
phải chủ động tạo điều kiện cho nó kế thừa, và nhập vào xã hội mới.
1.2 TÌM HIỂU VỀ DU LỊCH VĂN HOÁ
1.2.1 Định nghĩa
Du lịch văn hoá là hình thức du lịch dựa vào bản sắc văn hoá dân tộc với sự
tham gia của cộng đồng nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống.
1.2.2 Các loại hình du lịch văn hoá
Du lịch lễ hội, du lịch hoa: Festival Huế, Festival hoa Đà Lạt, hội chùa Hương,
hội Lim, tết cổ truyền… Với loại hình du lịch này du khách có thể vừa tham quan
vừa kết hợp du lịch văn hóa. Đặc biệt là với du khách quốc tế. Những tour du lịch tìm
hiểu văn hóa, lịch sử có thể thực hiện rất đa dạng ở Việt Nam. Loại hình này được tổ
chức theo mùa ở các thời điểm khác nhau trong năm.
Du lịch phố cổ: Hội An, Hà Nội, phố Hiến (Hưng Yên)… loại hình này có tính
chất thường xuyên, diễn ra đều đặn hơn.
Du lịch làng nghề: gốm Bát Tràng, tơ lụa Vạn Phúc - Hà Đông…
Du lịch ẩm thực: tiệc cung đình Huế hay ẩm thực Bắc Trung Nam… Nét tinh
tế của ẩm thực Việt Nam chịu sự ảnh hưởng rất lớn của yếu tố lịch sử, khí hậu, điều
kiện tự nhiên… Sự tinh tế trong ẩm thực vùng miền cũng là một yếu tố được du lịch
khai thác hiệu quả.
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 9
1.2.3 Các điều kiện để phát triển du lịch văn hoá
Điều kiện 1 : Có Tài nguyên du lịch văn hóa phong phú và mang tính độc đáo,
có sức hấp dẫn đối với du khách.
Du lịch là một trong những ngành có sự định hướng tài nguyên rõ rệt. Tài
nguyên du lịch có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc phát triển du lịch. Nó ảnh
hưởng trực tiếp đến tổ chức lãnh thổ của ngành du lịch, đến việc hình thành chuyên
môn hóa các vùng du lịch và hiệu quả kinh tế của hoạt động dịch vụ.
Tài nguyên du lịch văn hóa bao gồm cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên,
di tích lịch sử văn hóa, công trình lao động sáng tạo của con người và các giá trị nhân
văn khác có thể được sử dụng để đáp ứng nhu cầu du lịch tìm hiểu về văn hóa các tộc
người. Đặc biệt là phải có sự tồn tại của các sắc thái tộc người, mỗi tộc người có bản
sắc đặc trưng riêng khác biệt với những tộc người ở các vùng khác. Sự khác biệt này
được thể hiện qua :
- Kiến thức canh tác, khai thác, bảo tồn và sử dụng các loài sinh vật phục vụ
cuộc sống của cộng đồng.
- Đặc điểm sinh hoạt văn hóa với các lễ hội truyền thống.
- Kiến trúc dân gian, công trình gắn với các truyền thuyết, đặc điểm tự nhiên
của khu vực.
- Các sản phẩm thủ công mỹ nghệ gắn liền với cuộc sống cộng đồng.
- Các di tích lịch sử - văn hóa, khảo cổ gắn liền với lịch sử phát triển tín
ngưỡng của cộng đồng.
Điều kiện 2 : Cơ sở hạ tầng du lịch
Cơ sở hạ tầng du lịch là các yếu tố đảm bảo cho việc khai thác những giá trị
tài nguyên góp phần hình thành nên các điểm, khu du lịch.
Bao gồm :
- Hệ thống và phương tiện giao thông
- Hệ thống cung cấp điện
- Hệ thống cấp thoát nước
- Hệ thống thông tin liên lạc
- Hạ tầng tài chính
- Hạ tầng y tế ….
Điều kiện 3 : Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch
Là những yếu tố trực tiếp tham gia vào việc hình thành các sản phẩm du lịch,
có ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ du lịch. Bởi vậy, nó đóng một vai trò hết sức
quan trọng trong quá trình tạo ra và thực hiện sản phẩm du lịch cũng như quyết định
mức độ khai thác các tiềm năng du lịch nhằm thỏa mãn các nhu cầu của khách du
lịch. Sự phát triển ngành du lịch bao giờ cũng gắn liền với việc xây dựng và hoàn
thiện cơ sở vật chất kỹ thuật.
Các yếu tố cơ bản của hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật :
- Cơ sở lưu trú
- Cơ sở thể thao, vui chơi giải trí
- Các công trình thông tin – văn hóa, biểu diễn nghệ thuật.
- Các cơ sở dịch vụ hỗ trợ khác.
Điều kiện 4 : Yếu tố con người
Con người luôn đóng vai trò chủ đạo và quyết định trong hầu hết các lĩnh vực
kinh tế. Du lịch văn hóa cũng không ngoại lệ.
Yếu tố con người đầu tiên được thể hiện qua khả năng đón tiếp và phục vụ khách
du lịch. Đây là điều kiện quan trọng và cần thiết cho sự phát triển du lịch. Khả năng
đón tiếp và phục vụ du khách không chỉ là yêu cầu đối với các nhân viên, những
người hoạt động trong ngành du lịch, mà nó còn là yêu cầu đối với những người dân
tại địa phương, tại nơi du lịch, tại các cơ quan quản lý hành chính…
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 11
Yếu tố con người tiếp theo đó chính là khách du lịch. Một địa danh dù có giàu
đẹp, nhiều tiềm năng du lịch đến mấy mà không có khách du lịch thì cũng không thể
phát triển du lịch được. Con người phải có thời gian nhàn rỗi, có nhu cầu muốn đi du
lịch, có tiền để chi trả cho các dịch vụ … thì lúc đó du lịch mới có thể phát triển.
1.2.4 Các nguyên tắc khi khai thác loại hình du lịch văn hoá
- Có các hoạt động giáo dục và diễn giải nhằm nâng cao hiểu biết về văn
hóa, di tích lịch sử.
- Bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
- Mang nét đẹp, sự tinh hoa của mỗi tộc người đến với khách du lịch,
góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại và giao lưu quốc tế để quảng bá
hình ảnh đất nước, con người Việt Nam.
- Đem lại sự hài lòng và thỏa mãn nhu cầu của du khách, tăng cường
thu hút ngày càng nhiều khách du lịch nước ngoài vào Việt Nam.
- Bảo vệ môi trường, hạn chế tác động đến mức tối thiểu đến hệ sinh
thái.
- Bảo đảm sự tham gia của mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư
trong phát triển du lịch, tạo thêm cơ hội việc làm và mang lại lợi ích
cộng đồng địa phương.
- Phát triển du lịch bền vững, theo quy hoạch, kế hoạch, bảo đảm hài
hoà giữa kinh tế, xã hội và môi trường; phát triển có trọng tâm, trọng
điểm theo hướng du lịch văn hoá - lịch sử, du lịch sinh thái; bảo tồn,
tôn tạo, phát huy giá trị của tài nguyên du lịch.
- Bảo đảm chủ quyền quốc gia, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã
hội.
- Bảo đảm lợi ích quốc gia, lợi ích cộng đồng, lợi ích chính đáng và an
ninh, an toàn cho khách du lịch, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức,
cá nhân kinh doanh du lịch.
1.3 MÔ HÌNH LÀNG DU LỊCH VĂN HÓA
1.3.1 Mô hình và làng du lịch văn hóa
Mô hình là những yếu tố căn bản cấu thành sự vật. Nhờ các yếu tố này có thể
dựng lại sự vật theo một nguyên tắc chung nhất, khiến sự vật không bị biến đổi mặc
dù nó vẫn bao chứa được những khác biệt đa dạng của điều kiện cụ thể.
Làng du lịch văn hoá là một điểm du lịch có tài nguyên du lịch văn hoá và có tổ
chức khai thác các tài nguyên du lịch văn hoá phục vụ du khách.
Mô hình “ làng văn hoá” là một mô hình đầu tư vào lĩnh vực văn hoá để phục vụ
cho du lịch nhằm phát triển kinh tế – xã hội. Trong mô hình này mối quan hệ hữu cơ
giữa hai yếu tố bảo tồn phát huy bản sắc văn hoá với kinh tế – du lịch luôn tồn tại đan
xen và hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển.
1.3.2 Các yếu tố cấu thành Làng du lịch văn hóa
Trong thực tế làng du lịch văn hoá được quyết định bởi ba nhóm nhân tố khác
nhau:
Nhóm nhân tố thứ nhất là các nhân tố liên quan đến sức hấp dẫn của
làng du lịch văn hoá. Nhóm này bao gồm các vị trí địa lý (gần trung tâm du
lịch, nằm trên tuyến du lịch), tài nguyên du lịch văn hoá (sự độc đáo và
phong phú của nguồn tài nguyên, các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể).
Nhóm nhân tố thứ hai là những nhân tố liên quan đến việc bảo đảm du
khách lưu lại ở làng du lịch văn hoá. Đó là các cơ sở phục vụ việc nghỉ ngơi
(cơ sở lưu trú như phòng ngủ, nhà nghỉ…), các cơ sở phục vụ ăn uống, phục
vụ nhu cầu vui chơi giải trí (xem văn nghệ, lễ hội…), mua sắm hàng thủ công lưu
niệm…
Nhóm nhân tố thứ ba gồm những nhân tố đảm bảo giao thông cho
khách đến điểm du lịch (bao gồm những điều kiện đã có và khả năng mở các
tuyến đường mới thuận tiện…).
Nhóm nhân tố thứ nhất là tạo ra vẻ hấp dẫn của làng du lịch văn hoá. Nhưng
nhóm nhân tố thứ hai, thứ ba lại có ý nghĩa quyết định đến việc hình thành làng du
lịch văn hoá. Nhân tố thứ nhất đóng vai trò tiềm năng, còn nhóm nhân tố thứ hai, thứ
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 13
ba mới biến "tiền năng" thành khả năng hiện thực. Vì vậy, đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng (hệ thống đường giao thông, thông tin liên lạc) và xây dựng cơ sở lưu trú, khai
thác các nguồn lực văn hoá phục vụ du lịch vẫn là vấn đề cấp thiết nhằm xây dựng
làng du lịch văn hoá.
CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ CÁC DÂN TỘC
VÀ SỰ PHÁT TRIỂN DU LỊCH VĂN HOÁ KHU VỰC TÂY BẮC
2.1 KHÁI QUÁT VỀ TÂY BẮC
2.1.1 Vị trí địa lý :
Vùng Tây Bắc gồm vùng đất từ bờ phải sông Hồng đến lưu vực sông
Đà, sông Mã bao gồm 6 tỉnh : Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu, Lào Cai, Điện
Biên, Yên Bái. Tây Bắc là một vùng rộng lớn có địa lý chính trị, kinh tế- văn
hóa độc đáo, có vị trí chiến lược rất quan trọng đối với sự phát triển đất nước
cả về an ninh – quốc phòng, kinh te, xã hội và văn hóa.
Diện tích tự nhiên của vùng là 37.533,8 km2, chiếm 11,33 % diện tích
cả nước. Với số dân 2.650.100 người, chiếm 3,11 % dân số cả nước (năm
2007). Phía Bắc của vùng giáp với Trung Quốc, phía Tây giáp Lào, phía Đông
giáp với Đông Bắc và một phần Đồng bằng sông Hồng còn phía Nam giáp với
Bắc Trung Bộ.
2.1.2 Điều kiện tự nhiên
Địa hình
Địa hình núi cao, hiểm trở với dãy Hoàng Liên Sơn chạy dọc theo hướng
Tây Bắc – Đông Nam,cắt xẻ mạnh. Phía Bắc là những dãy núi cao, phân định
biên giới Việt – Trung. Phía Đông và Đông Nam là dãy Hoàng Liên Sơn cao
nhất Việt Nam và Đông Dương với đỉnh Phanxipan (3.143 m). Phía Tây và
Tây Nam là các dãy núi cao kế tiếp nhau, phân định biên giới Việt – Lào. Nằm
giữa vùng Tây Bắc là sông Đà chảy theo hướng Tây Bắc – đông Nam. Hai bên
sông Đà là các sơn nguyên và cao nguyên đá vôi kế tiếp nhau.
Khí hậu
Khí hậu của vùng là khí hậu nhiệt đới chịu ảnh hưởng của chế độ gió mùa.
Chế độ gió mùa có sự tương phản rõ rệt: Mùa hè - Mùa đông. Biên độ nhiệt
giữa ngày và đêm ở vùng cao nguyên là núi cao lớn hơn ở các thung lũng. Độ
ẩm tương đối trung bình thường từ 78 – 93%,ở các tiểu vùng có độ chênh lệch
từ 2 – 5%. Khu vực Tây Bắc có lượng mưa lớn, bình quân từ 1.800 – 2.500
mm/năm. Các hiện tượng thời tiết đặc biệt ở Tây Bắc là gió Lào và gió lạnh
địa phương.Ngoài ra: Mưa đá ,sương muối,băng giá…
Tài nguyên nước
Tây Bắc là đầu nguồn của một vài hệ thống sông lớn như sông Đà, sông
Mã, sông Bôi. Sông Đà bắt nguồn từ Ngụy Sơn (Vân Nam, Trung Quốc), có
chiều dài 983 km (trên đất Việt Nam dài 543 km), là nguồn thuỷ năng lớn nhất
Việt Nam. Nguồn nước nóng ở trong vùng tương đối nhiều nhưng đang ở dạng
tiềm năng và chưa được khai thác nhiều.
2.1.3 Các yếu tố nhân văn
Các dân tộc chính ở Tây Bắc
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 15
Ơ Tây Bắc có hơn 20 dân tộc sinh sống nhưng có 4 dân tộc chính đó là:
Thái, Mường, Dao và H’Mông. Về địa lí tự nhiên, vùng văn hóa này gồm ba
loại môi trường: môi trường thung lũng, môi trường rẻo cao và môi trường rẻo
giữa (sườn núi).
Vùng thung lũng lòng chảo ở chân núi là địa bàn cư trú của các tộc người
Thái và Mường. Với người Mường chiếm 1,2 % dân số cả nước và người Thái
chiếm gần 1,3 % dân số của cả nước. Còn người Mông, định cư và hoạt động
sản xuất ở các sườn núi với độ cao trên 1.500m sát biên giới phía Bắc đến
thượng du Thanh Hoá, Nghệ An. Chiếm khoảng 0,7% dân số cả nước. Người
Dao, cư trú ở độ cao 700 – 1000 m, tức là thấp hơn độ cao của người Mông ở
lưng chừng núi, nơi nạn đốt rừng đang gây ra hiện tượng xói mòn với tốc độ
đáng lo ngại. Cùng sinh sống trên địa bàn này còn có các dân tộc thiểu số khác
: Tày, Nùng… và có cả người Kinh.
Mật độ dân số
Mật độ dân số toàn vùng rất thấp và không đồng đều. Nơi tập trung đông
nhất là các thị xã, thị trấn, các điểm dân cư tập trung (nông, lâm trường), các
thị tứ và trên các trục đường giao thông. Trái lại ở các khu vực núi cao, đường
giao thông ít, đi lại khó khăn...thường chỉ có các dân tộc ít người sinh sống,
nên mật độ dân cư rất thấp.
Nguồn lao động
Tổng số lao động trong độ tuổi ở Tây Bắc là 986 nghìn người, trong đó
có 878 nghìn lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân (chiếm
90,7 % tổng số lao động). Như vậy còn 9,3 % số lao động chưa có việc làm.
Lao động của khu vực nông nghiệp chiếm ưu thế 76,6 %, công nghiệp và dịch
vụ chỉ có 23,4 %. Số người trên và dưới độ tuổi có khả năng tham gia lao
động ước khoảng 163.000 người (chiếm 18,8 % lực lượng lao động).
Giá trị lịch sử
Theo suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, trên địa
bàn Tây Bắc đã diễn ra nhiều sự kiện trọng đại, nhiều địa danh đã trở thành di
tích lịch sử các mạng và tồn tại như những chứng nhân lịch sử.
2.2 KHÁI QUÁT CÁC DÂN TỘC VÀ ĐẶC ĐIỂM VĂN HOÁ CÁC
DÂN TỘC TÂY BẮC
2.2.1 Văn hoá dân tộc Thái
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 17
2.2.1.1 Đặc điểm
Khái quát
Dân tộc Thái có trên 1 triệu người sinh sống tập trung chủ yếu tại các tỉnh
Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hoà Bình, Yên Bái, Nghệ An, Thanh Hoá và
sinh sống rải rác ở một số tỉnh miền núi phía Bắc và Tây Nguyên do di cư.
Dân tộc Thái còn có những tên gọi khác là Táy và có các nhóm Táy Đăm, Táy
Khao, Táy Mười, Táy Thanh, Hàng Tổng, Pu Thay, Thổ Đà Bắc. Tiếng Thái
thuộc hệ ngôn nghữ Tày-Thái. Dân tộc Thái có nguồn gốc từ Vân Nam (Trung
Quốc), trải qua các cuộc thiên di trong lịch sử, dân tộc Thái có mặt ở Việt Nam
từ hàng trăm năm trước.
Hoạt động kinh tế
Canh tác lúa nước là hoạt động sản xuất chính của người Thái, đây là
nguồn lương thực chính, đặc biệt là lúa nếp. Họ có nhiều kinh nghiệm đắp
phai, đào mương, dựng cọn, bắc máng lấy nước làm ruộng. Tuy nhiên, người
Thái cũng làm nương để trồng lúa, ngô, lạc, vừng… và nhiều thứ cây trồng
khác. Trong từng gia đình còn chăn nuôi gia súc, gia cầm, đan lát, trồng bông,
nuôi tằm để dệt vải, một số nơi còn làm đồ gốm… Sản phẩm nổi tiếng của
người Thái là vải thổ cẩm với những nét hoa văn độc đáo sắc màu rực rỡ, bền
đẹp.
Am thực
Trước năm 1954, người Thái không hay dùng gạo tẻ làm cơm. Họ cho
rằng ăn gạo tẻ chóng đói, không đủ sức lao động cả ngày ở ngoài trời. Mặc dù,
hiện nay người Thái có thói quen ăn gạo tẻ, nhưng họ vẫn coi gạo nếp là lương
thực lý tưởng và xem như là vật đặc trưng văn hóa tộc người. Sinh ra từ văn
hóa trồng lúa, dân tộc này có đủ kỹ thuật bằng thủ công để biến thóc thành
gạo. Có thể nói ngay rằng, người Thái chưa biết làm và dùng cối xay gạo mà
chỉ biết giã. Người ta giã gạo bằng cối chân hoặc các loại cối giã bằng sức đẩy
của dòng nước chảy trong tự nhiên. Từ gạo chế biến thành các món ăn mang
bản sắc dân tộc rõ rệt. Có lẽ, cách chế biến mang cổ xưa nhất là cơm nếp Lam.
Đó là cách bỏ gạo vào ống tre nứa, dạng bánh tẻ, ngâm cho hột gạo nở. Sau
đĩ, đốt ống Lam cho gạo chín rồi tước bỏ tre nứa lấy cơm mà ăn.
Lương thực ăn chính là xôi nếp nên dụng cụ bếp núc không phải là nồi
niêu, xoong, chảo mà là chiếc ninh đúc bằng đồng và chõ. Cơ cấu bữa ăn
thường nhật đậm đà bản sắc Thái là cơm, xôi. Xôi không phải chỉ là lương
thực cho bữa ăn hàng ngày mà còn là nguyên liệu để làm bánh cho trẻ em,
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 19
người già, để ăn chơi lót dạ ngon miệng như các món: xôi nướng, xôi cặp, xôi
giã nhão bóp tựa bánh dầy.
Nổi tiếng nhất là các món canh rau quả, trong đó có món rất Thái là
canh măng chua với cá, với các loại nhuyễn thể, côn trùng sống dưới nước
hoặc trên cạn. Thức ăn rau quả còn có thể kể tới các loài rong rêu, mọc ở đá
hoặc ở bùn.
Gần với rau, ta kể đến hàng trăm loài nhuyễn thể, sâu bọ, côn trùng ở
dạng nguyên và dạng nhộng sống ở dưới nước và trên cạn nằm trong tổng thể
thứ được con người chọn làm thức ăn.
Dân tộc Thái có nhiều cách chế biến thức ăn bằng cá. An cá sống,tươi
thì gọi là gỏi hoặc chế biến thành mắm để ăn dần. An chín có nhiều cách, trong
đó có những món đặc trưng Thái là nướng, cá lùi, cá ninh… Cá có thể sấy khô
trên gác bếp để ăn dần.
Lạp hay Xạ lấy thịt nạc còn tươi nguyên thái thành từng lát mỏng đem
nhúng vào nước lá ổi để lấy chất chát thàm thịt se, bỏ vào gạo nếp để vuốt cho
sạch nhớt hoặc có thể dùng giấy bản thấm… Sau đó thái thành miếng nhỏ để
vào bát tô to dùng nước măng chua hòa cùng lạc, vừng giã nhỏ trộn rau thơm,
mùi, tỏi, ớt và hoa chuối rừng. Để một lúc cho thịt ngấm gia vị rồi hãy ăn cùng
ghém rau xanh như cải bắp và một vài loại lá rau rừng. Nếu không nhúng nước
lấy trong ruột non của các con thú thuộc bộ nhai lại như trâu, bò, dê, hoẵng,
hươu, nai… thì lạp có thể làm chín bằng cách băm nhỏ thịt nạc đem rang khô
để nguội hẳn mới trộn vào nước chua. Lạp thường được ăn sống.
Cũng như cá, thịt nướng, lùi, ninh là những món sở trường của người
Thái. Thịt cũng được sấy khô trên gác bếp hoặc ướp lên men chua để ăn dần.
Món thịt ăn chín thường có: nướng, lùi, ninh. Đặc biệt thịt giống thú ăn
cỏ nhai lại thì thường luộc để chấm nặm pia thì rất ngon và đượm đà bản sắc
Thái.
Rượu là thức uống trong các dịp vui, buồn và là vật tượng trưng của
các nghi thức. Rượu Thái có hai loại chính: cất, cần và 2 loại phụ : nếp, một
thứ có tên là vạng hay lọn.
Trang phục
Trang phục truyền thống của người Thái, nam giới mặc quần áo thổ
cẩm màu chàm xanh hoặc chàm đen nhưng vài chục năm gần đây nam giới đã
chuyển sang mặc âu phục là chủ yếu.
Phụ nữ Thái vẫn gắn bó với trang phục truyền thống: áo cỏn màu trắng,
xanh hoặc đen, áo có tay hoặc xẻ ngực, bó sát thân với hàng khuy bạc trắng
hình bướm, váy dài đen quấn suông hoặc được thêu viền hoa văn ở gấu. Cùng
với váy, áo phụ nữ Thái Đen còn có chiếc khăn Piêu thêu hoa văn bằng nhiều
loại chỉ màu rất sặc sỡ và đẹp. Đồ trang sức của phụ nữ chủ yếu là vòng bạc,
xuyến bạc đeo ở cổ tay và cổ; hoa tai bằng bạc hoặc vàng.
Hiện nay, thanh thiếu niên đã ưa mặc áo sơ mi, quần âu may sẵn. Phụ
nữ vẫn ưa trang phục truyền thống, may thủ công bằng dệt vải công nghiệp.
Vào những dịp hội hè hay liên hoan văn nghệ, phụ nữ Thái mặc trang phục
dân tộc rất trang nhã, màu đặc sắc dân tộc rất nguyên vẹn.
Nhà ở
Bản mường Thái thường định cư gần nguồn nước, mỗi bản có từ vài
chục đến hơn trăm nóc nhà kề bên nhau. Theo truyền thống thì người Thái ở
nhà sàn. Nếp nhà được cấu trúc bởi các loại cây thân gỗ và có gióng như tre,
vầu, nứa… lợp bằng cỏ tranh. Nhà sàn của người Thái kết cấu bằng gỗ, với
những hàng cột gỗ vuông hoặc tròn được kê đá, sàn cao, lợp lá cọ hoặc ngói.
Mỗi nhà tuỳ theo gia cảnh mà dựng 3,4 gian hoặc 5 gian. Người Thái Đen làm
nhà thường tạo mái hình mai rùa, trang trí trên hai đầu nóc nhà bằng khau cút
theo phong tục xưa truyền lại.
Nếu ai đó đã quen với nếp sống thủ công nghiệp phát triển hoặc công
nghiệp đến quan sát thì sẽ không sao tránh khỏi ngạc nhiên vì cả một ngôi nhà
sàn, có nếp sống khá đồ sộ như nhà của quý tộc xưa. Thay vì đóng đinh là cả
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 21
một hệ thống dây chằng, buộc, thắt khá công phu và tinh xảo bằng lạt tre, giang
và mây hoặc những vỏ cây chuyên dùng.
Nhà sàn của người Thái làm bằng gỗ rất đẹp và chắc chắn. Nhà vẫn làm
theo quy chuẩn truyền thống, gồm 4 gian có hệ thống cột vững chãi, sàn làm
bằng giát tre. Trong nhà không có vách ngăn, có hệ thống cửa sổ thoáng mát.
Mái lợp bằng gỗ hoặc ngói móc. Cầu thang lên phía đầu hồi nhà, gắn liền với
một khoảng sàn hẹp làm sân. Ngoài ra, còn có cầu thang lên phía tay phải.
Trong nhà có nơi tiếp khách, tại đây có bày bộ bàn ghế gỗ hoặc ghế mây tre.
Một số gia đình khá giả có thêm tủ ly, hòm đựng quần áo. Trong nhà còn có
nơi đặt bàn thờ tổ tiên, nơi kê giường nằm nam, nữ cách biệt. Hàng xa phía cột
sau của nhà là nơi gác chăn đệm. Đó là đồ dùng phục vụ sinh hoạt gia đình và
khách. Gầm nhà sàn để trống, làm nơi chứa công cụ sản xuất và để trẻ em chơi.
Hiện nay, người Thái đã tự cải tiến và thay đổi kiến trúc nhà của mình khá
nhiều. Sự cải tiến và thay đổi ấy chủ yếu học ở cách làm của người Kinh. Các
nhà sàn thì dựng cột kê và lắp ghép theo phương pháp nối dầm vào cột bằng
mộng thắt. Sự giao thoa văn hóa giữa hai dân tộc đã tạo ra các kiểu nhà sàn
đẹp đẽ và bề thế vô chừng. Ơ nhiều nơi, đặc biệt dọc theo đường quốc lộ và
ven thị trấn, thị xã đã có nhiều nhà sàn lắp cầu phong li tô để lợp ngói. Xu thế
hiện nay là mọi người đang đua nhau xây dựng nhà ngói hai tầng hoặc các kiểu
nhà mái bằng, xi măng, cốt thép.
Lễ hội
Lễ hội cộng đồng :
Xên Mường: như Xên Cha Mường, do Tạo Muổi ( người đứng đầu
dân tộc Thái làm chảu xửa – chủ áo). Lễ này từ ngày giải phóng Tây Bắc
đến nay không làm, vì nó không có lợi cho đoàn kết các dân tộc.
Xên Bản (lễ bản), người Thái thường xên hàng năm hoặc 3 năm một
lần vào tháng 3 khi hoa ban nở rộ. Hiện nay, xên Bản đang hồi phục ở một
số địa phương. Nội dung chủ yếu của cuộc Xên Bản là : cúng thổ thần, thần
nước, mưa gió, và những người có công khai phá xây dựng bản, tạ ơn họ
và cầu các thần phù hộ cho bản mùa màng tốt tươi, người, xúc vật khoẻ
mạnh và phát triển. Mục đích cuối cùng và cố kết cộng đồng bản thêm bền
chặt.
Xên Bản được mọi người tự nguyện tham gia và tự nguyện góp các lễ
vật hiến tế và chảu xửa do dân bàn bạc cử ra. Chủ áo ( chảu xửa) là người
có uy tín, hiểu phong tục tập quán và là người có công khai phá bản đầu
tiên, hoặc là người đứng đầu bản lâu đời. Nay có nơi cử người đứng đầu
Mặt trận Tổ Quốc ở bản, trưởng bản hoặc đồng chí bí thư cấp uỷ Đảng ở
đấy và có nơi vẫn cử người trong dòng dõi quí tộc.
Xên Bản hay Xên Mường, ngoài cúng tế thần linh, mọi người còn tham
gia các hoạt động vui chơi như ném còn, múa xòe, hát giao duyên và hát
chúc tụng lẫn nhau trong bữa cơm tại nhà chảu xửa. Riêng lễ Xên Mường,
diễn ra trong phạm vi Mường Tạo, nghĩa là nhiều bản, nhiều xã cùng một
lúc tại một địa điểm và có nhiều trò chơi kéo dài vài ngày do ông mo định
thường không quá 5 ngày.
Lễ hội gia đình
Xên Hướn theo lịch Thái :
Tháng giêng Thái vào tháng 7 âm lịch, nhưng lễ hội gia đình cũng như
lễ hội cộng đồng chỉ tổ chức vào mùa xuân, khi hoa ban nở rộ, măng vầu
đã mọc, cho nên Xên Hướn (lễ nhà hay cúng nhà) còn gọi là “ Xên lảu nó”
( lễ rượu măng). Người Thái ngày xưa không ăn tết Nguyên Đán, do đó có
thể gọi Xên Hướn là lễ tết của người Thái. Xên Hướn, mời mọi người trong
bản và họ hàng nội ngoại đến dự rất vui. Ông Mo ngoài việc dâng lễ mời
tổ tiên về ăn, uống và nhận lễ, cầu xin tổ tiên và các thần phù hộ còn có
người hát để chúc tụng chủ nhà mạnh khỏe làm ăn phát tài. Với làn điệu
rất hay và câu văn chắt lọc tinh túy.
Xên lảu nó ( lễ rượu Măng) 3 năm/lần vào tháng ba, là tết của Mo
một, con nuôi đến tạ ơn thầy đã có công chữa khỏi ốm, nhưng cũng là ngày
mọi người trong bản đến vui chơi múa hát, lễ thường diễn ra trong 3 ngày.
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 23
Lễ cầu hôn chúc thọ, người Thái gọi là panh khuân ( sửa hồn). Người
Thái quan niệm, người có “xam xíp khuân mang nả, hả xíp khuân mang
lăng” nghĩa là ba mươi hồn đằng trước, năm mươi hồn đằng sau, hồn có
thể bị lạc, bị ma xấu bắt, người bùa yểm … cho nên phải sửa hồn cho thể
xác được mạnh khỏe. Lễ này có thể do ông Mo Một (Một lào) hoặc bà Một
Nhính (một Á Ni) thực hiện, Một lào : hát có nhạc đệm, làn điệu sôi nổi,
thiết tha, tiết tấu mạnh mẽ, gần như duy nhất dân ca Thái đen có tiết tấu rõ
ràng, nhưng là hát Một lào nên không ai hát trước công chúng. Một Á Ni,
giọng con gái tha thiết, đằm thắm nhất là đoạn ru hồn. Nói chung lời ca của
cả hai loại đều mượt mà trau chuốt, giàu tính nhân văn, nhưng về hình thức
mang tính mơ hồ, cho nên bị coi là mê tín dị đoan.
Lễ cưới gồm lễ tiễn rể và đón dâu :
Lễ tiễn rể (đưa con trai đến làm rể nhà gái) lễ này còn gọi là lễ lên (khửn).
Lễ sau mấy năm ở rể, có con, được bố mẹ vợ cho nhà trai đón dâu về nhà
hoặc làm nhà ở riêng, bố mẹ vợ cho một số tài sản nhất định đủ để vợ chồng
con gái con rể sử dụng, gọi là lễ xuống (lống). Mỗi lễ tiến hành theo các
nghi thức dân gian rất chặt chẽ về vai trò trách nhiệm của con gái, con trai,
hai bên cha mẹ nội ngoại. Tại lễ cưới người ta thực hiện các lễ thức kèm
theo một hệ thống nói vần, hát lời rất hay do đó lễ cưới có rất nhiều người
tham dự.
Lễ tang: người Thái có tục hỏa táng, tục này ngày nay còn ở nông thôn
Sơn La và được thực hiện theo một qui ước chặt chẽ, phức tạp nhưng mỗi
nghi thức đều mang một ý tưởng bày tỏ sự tiếc thương, tưởng nhớ, lo cho
người chết về phương ma với tổ tiên không thiếu một thứ gì.
Văn hóa, nghệ thuật dân gian
Do người Thái có chữ viết riêng nên kho tàng văn học dân dân như
truyền thuyết, ca dao, truyện thơ, văn học, dân ca… và một số luật lệ còn được
lưu giữ và truyền lại khá nguyên vẹn qua các bản ghi chép trên giấy bản hoặc
trên lá cây . Một số tác phẩm truyện thơ nổi tiếng như “Xống chụ xon xao”,
“Khun Lú, Nàng ửa”… Đồng bào Thái rất thích ca hát, đặc biệt là khắp. Khắp
là lối ngâm thơ hoặc hát theo lời thơ, có thể đệm đàn và múa. Nhiều điệu múa
như múa xoè, múa sạp, múa quạt rất độc đáo đã được trình diễn trên sân khấu
trong và ngoài nước, hấp dẫn đông đảo khán giả. Vào dịp lễ hội, hạn khuống
và ném còn là hai trò chơi mang nét đặc trưng văn hoá nổi tiếng của người
Thái.
Do có chữ sớm và có một đội ngũ trí thức hình thành từ trước, nên đã
tổng kết, tinh lọc kho tàng kiến thức truyền thống thành sách “ Lời khuyên
người” vừa có giá trị văn chương vừa có tính trí tuệ. Nội dung là khuyên mọi
người phải tu dưỡng đạo đức cá nhân, thận trọng, cảnh giác, không được khoe
khoang; Mọi người phải sống chăm chỉ, lương thiện; phải tôn trọng người già;
phải đoàn kết nương tựa, yêu thương nhau.
Điệu múa bắt gặp nhiều nhất là điệu xòe đặc trưng của người Thái. Vào
những dịp lễ hội hay những cuộc vui, có thể múa xòe quanh đống lửa, quanh
hũ rượu cần với sự tham gia đông đảo của mọi lứa tuổi trong tiếng chiêng,
tiếng trống rộn ràng. Mọi người nắm tay nhau nhảy theo điệu xòe, như sợi chỉ
tơ gắn kết con người với nhau, tăng sự hiểu biết, đoàn kết.
Múa xòe là điệu múa tập thể không thể thiếu trong các dịp lễ hội của
người Thái. Xòe là điệu múa dân gian phản ánh cuộc sống lao động và sự đấu
tranh sinh tồn giữa con người với cuộc sống thiên nhiên. Nó tượng trưng cho
sức sống mãnh liệt của dân tộc Thái trong việc đấu tranh chống ngoại xâm,
qua đó thể hiện ước mơ về một cuộc sống thanh bình, ấm no và hạnh phúc.
Ngày nay, múa xòe đã trở thành đặc trưng văn hóa truyền thống của người
Thái, góp phần vào việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc. Hệ thống các điệu xòe: Các điệu xòe quạt, Các điệu xòe khăn, Các
điệu xòe cúp, Các điệu xòe má hính.
Bên cạnh nền văn học rất đa dạng người Thái đã có nền nghệ thuật của
mình. Đặc trưng nghệ thuật của dân tộc Thái biểu hiện bằng ba mặt: Họa tiết
thể hiện bằng điêu khắc trên các môtíp trang trí nhà cửa như những tâm “khâu
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 25
cút” đặt ở hai đầu đốc hồi mái cong mai rùa hoặc ở những bậc cửa sổ…; Nghệ
thuật trang trí còn được thể hiện bằng phương pháp thêu, dệt thành những tấm
thổ cẩm; Nghệ thuật múa folklore của Thái khá phát triển.
Nhạc cụ
Nhạc cụ gõ của người Thái Tây Bắc gồm trống, chiêng, chũm chọe và
quả nhạc. Bộ gõ này có vai trò rất quan trọng trong đời sống nghệ thuật và tâm
linh. Bộ gõ là vật linh thiêng của mỗi bản, không bao giờ được để mất, không
để kẻ thù chiếm đoạt, không được đổi chác mua bán. Việc chế tác bộ gõ được
tiến hành với những bước rất nghiêm ngặt: Cúng tế xin phép thần linh, cầu
mong thần cho phép, chứng giám và phù hộ rồi tiến hành ở nơi kín đáo, sạch
sẽ. Khi chế tác xong phải cử hành lễ tế trang trọng và cất giữ ở nhà sàn hoặc
gian thờ ma nhà của trưởng bản hoặc người có chức sắc và chỉ được dùng
trong dịp tết hoặc lễ cúng xên bản, xên mường. Người Thái cho rằng nếu dùng
trống chiêng tùy tiện sẽ có hại cho bản mường.
Trống có hai loại "cống" và "cong". Thông thường "cống" hay được
dùng trong hội xuân, lễ cúng ma bản mường, còn "cong" dùng khi chủ mường
chết hoặc khi có giặc, báo động… Tang trống dùng cây gỗ tròn được đục bỏ
lõi, thường là gỗ xâng hoặc mít. Tang dài 0,8 - 1 m, mặt có đường kính từ
30cm đến 50 cm, bịt bằng da trâu bò, âm thành trầm và gần.
"Cong" là loại trống dài từ 1,5m đến 3 m, mặt bịt da bò, có đường kính
từ 50cm đến 70cm, âm thanh trong hơn, vọng rất xa. Khi chế tác tang trống,
để có âm thanh như ý, các nghệ nhân cạo nhẵn bên trong và mặt ngoài chứ
không dùng sơn.
Chiêng và chũm chọe được chế tác công phu, đặc biệt là rốn chiêng. Để
có âm thanh mong muốn, các nghệ nhân pha thêm vào đồng một tỷ lệ vàng
theo công thức bí truyền. Chiêng có âm thanh trầm được gọi "tô me", tức là
con mái, chiếc có âm thanh cao gọi là "tô po", tức là con trống, chiếc có âm
thanh ở khoảng giữa gọi là "tô lụ" tức là con con.Chũm chọe gọi là "xánh",
chùm nhạc là "mắc hính". Chiêng có thể dùng riêng hoặc phối hợp cả ba cái
tạo ra một hợp âm độc đáo mà các nhà nghiên cứu cho rằng đậm đà ý nghĩa
nhân sinh.
Thường là đàn ông đánh trống, đàn bà đánh chiêng, trẻ con dùng chũm chọe,
con gái trẻ dùng quả nhạc tạo ra những âm thanh sôi động, lôi cuốn lòng
người.Nghe tiếng trống, chiêng, người ta có thể biết ở bản Thái ấy đang có
việc vui hay buồn: Nghe tiếng trống nhịp 2/4 theo kiểu 3 tiếng cùng với 7
tiếng, tiếng chuông gõ trên con mái và con trống rơi vào nhịp mạnh, tiếng của
con rơi rơi và nhịp nhẹ của trống, thì chắc chắn rằng ở đó có hội xòe. Còn khi
nghe tiếng "cong" dồn dập 3 tiếng hoặc 5 tiếng là có việc khẩn cấp như: cháy
nhà, có lũ bão, có giặc. Các quả nhạc cùng phụ trợ cho hát và các điệu xòe làm
tăng sự vui tươi, sôi động.
Bộ gõ nói chung và chiêng trống nói riêng là những nhạc cụ không thể
thiếu của người Thái Tây Bắc, góp phần làm cho đời sống nghệ thuật thêm
phong phú, đồng thời còn chứa đựng những ý nghĩa tâm linh và nhân sinh cao
cả, gửi gắm vào đó cả tình yêu, tinh thần lạc quan tin tưởng vào cuộc sống no
ấm, hạnh phúc. Ngoài ra, Thổi khèn bè, pí (sáo) là một hình thức sinh hoạt văn
hóa cộng đồng của đồng bào Thái. Trong gian nhà đơn sơ của người Thái, bên
tường luôn có dựng nhiều loại nhạc cụ của người Thái như: khèn bè, pí (sáo),
kèn la… Trải qua bao biến đổi, thăng trầm của lịch sử và thiên nhiên, người
Thái vẫn lưu giữ được nét văn hóa truyền thống của dân tộc mình thông qua
các nhạc cụ như khèn bè, pí (sáo), đàn tính tẩu, tập pinh, kèn la, tăng bu, trống
chiêng…
Khèn bè : Gỗ làm thân khèn được làm từ vỉa ngoài của cây gỗ tốt nhiều
năm tuổi và được dán kín bằng nhựa một loại cây rừng. Có như vậy, luồng hơi
mới được giữ trong bầu khèn ống... vừa để thổi giải trí hàng ngày vừa để trình
diễn vào các ngày lễ hội làng xã, hát giao duyên hay thổi khèn mỗi khi trong
làng có người qua đời.
Trong những ngày vui, lễ hội, cúng bản, đồng bào Thái thường sử dụng
các loại nhạc cụ: đàn tính, nhị, pí đôi, pí tam, pí thiu... để đệm cho múa và hát
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 27
các làn điệu dân ca. Pí thiu dành cho thầy Mo, thầy cúng. Riêng cây pí pặt,
loại nhạc cụ nhỏ nhất được làm bằng ống nứa mỏng, để trên sàn bếp có màu
sáng như đánh véc ni. Pí pặp có 6 lỗ, nằm thẳng hàng trên một ống nứa, to
bằng ngón tay út người lớn. Miệng thổi là lưỡi gà làm bằng đồng lá thật mỏng,
khi sử dụng như sáo dạo của người Kinh. Pí pặp làm hai chức năng chính:
Đệm cho hát các làn điệu dân ca, gọi người tình của các chàng trai chưa vợ
trong những đêm đi chọc sàn.
Thiết chế xã hội – luật tục
Trong hôn nhân gia đình, hiện vẫn còn duy trì tục ở rể, vài năm sau, khi
đôi vợ chồng có con mới về nhà chồng sinh sống rồi sau đó mới tách hộ ra ở
riêng. Về thế giới tâm linh, người Thái có quan niệm đa thần và giữ tục cúng
tổ tiên. Do đời sống gắn liền với sản xuất nông nghiệp nên có tục lấy nước
đêm giao thừa, lễ hội đón tiếng sấm năm mới và một số lễ hội cầu mùa khác.
Đối với người chết, họ quan niệm là tiếp tục “sống” ở thế giới bên kia vì vậy
đám ma là lễ tiễn người chết về với “mường trời”. Người Thái có nhiều họ,
mỗi họ có những qui định kiêng kỵ khác nhau, chẳng hạn: họ Lò kiêng không
ăn thịt chim Táng Lò, họ Quàng kiêng con hổ…
Tục chọc sàn : Vào những đêm trăng sáng, đồng khô sau gặt mùa. Từng
tốp thanh niên chưa vợ, rủ nhau tìm đến các bản có nhiều con gái chưa chồng
để chọc sàn. Những đêm khuya trăng sáng, tĩnh mịch, ngoài đồng văng vẳng
tiếng pí pặp tha thiết nỉ non, gợi tình khúc triết, ngọt ngào làm cho các cô gái
chưa chồng thao thức đợi chờ. Đến đầu bản điệu pí pặp lại vút lên nỉ non, báo
hiệu, rồi các chàng trai chia nhau đến từng nhà có gái đẹp để chọc sàn. Khi
đến gầm sàn, họ tìm đến chỗ cô gái ngủ, rồi dùng một đoạn cây cứng, có thể
làm bằng tre hoặc gỗ, dài chừng 30 đến 50 cm, nhẹ nhàng nâng cái đệm của
cô gái lên, báo hiệu người tình đã đến. Nếu cô gái ưng thuận thì chỉ trong giây
lát sẽ có tiếng mở cửa, chàng trai nhẹ nhàng bước lên cầu thang và vào nhà.
Hai chiếc ghế mây để sẵn, cô gái hồi hộp chờ đợi trước cửa, rồi sau đó cả hai
cùng ngồi vào ghế để nói chuyện. Họ đắm say trong tình yêu đôi lứa, cuộc nói
chuyện kéo dài đến gần sáng mới tạm chia tay. Nếu cả hai đã ưng thuận thì
sau đó sẽ tiến hành cho lễ cưới, nếu không ưng thuận thì chàng trai sẽ đi tìm
cô gái khác. Nhưng cũng có trường hợp cô gái đã ưng thuận nhưng còn thử
thách lòng chung thủy, kiên nhẫn của chàng trai, nên cứ nằm ì, không dậy.
Gặp trường hợp này thì chàng trai phải ra xa nhà một chút, mượn cây pí pặp
thay lời tỏ tình, cho đến khi cô gái dậy mở cửa mới thôi. Tục lệ chọc sàn của
dân tộc Thái vùng Điện Biên có từ lâu, tình yêu đôi lứa, nên vợ, nên chồng
hầu hết đều thông qua hình thức chọc sàn. Nhiều đôi vợ chồng phải tìm hiểu
như thế năm, bảy đêm mới thành, nhưng tình yêu của họ rất trong sáng và
chung thủy. Ngày nay tục lệ chọc sàn chỉ còn lại ở những vùng sâu, vùng xa,
tuy vậy đó cũng là một nét đẹp văn hóa của đồng bào các dân tộc Thái ở Điện
Biên.
2.2.1.2 Nhận xét về văn hóa dân tộc Thái
Những giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của người Thái tồn tại và gắn
bó với đời sống người dân như một phần không thể thiếu vắng. Những tập
tục truyền thống, những tập quán sinh hoạt, các lễ hội, các bài múa dân
gian… có giá trị rất lớn đối với việc phát triển du lịch văn hóa, góp phần
làm phong phú thêm bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên,
trong văn hoá truyền thống, bên cạnh những mặt tích cực đã nêu trên còn
tồn tại khá nhiều hủ tục, tập quán không thể phù hợp với cuộc sống của
con người hiện đại, chính nó đã gây cản trở, kìm hãm lối sống văn minh,
tiến bộ mà nhiều chính sách của Đảng và Nhà nước đã từng khuyến khích.
Các yếu tố tiêu cực này bao gồm tục lệ cưới hỏi, lễ tang còn khá nhiều tốn
kém. Đồng bào dân tộc còn phụ thuộc khá nhiều vào tự nhiên, chưa thực
sự làm chủ được cuộc sống của mình. Tin tưởng vào thần linh, có nhiều
phong tục mang tính chất mê tín dị đoan.
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 29
2.2.2 Văn hoá dân tộc Mường
2.2.2.1 Đặc điểm
Khái quát
Người Mường ở Tây Bắc cư trú trên một vùng đồi núi khá rộng nằm
giữa vùng người Việt ở phía Đông và vùng người Thái ở phía Tây, chiều
dài ước chừng khoảng 350 km. Khu vực cư trú của người Mường chủ yếu
tập trung trong các thung lũng chân núi, địa lý môi sinh có nhiều thuận lợi
cho trồng trọt. Sự phong phú của cảnh quan, môi trường đã có những tác
động tích cực đến đời sống nhiều mặt của người Mường ở đây, chính trên
cơ sở nền tảng đó họ đã sáng tạo ra một nền văn hóa Mường “văn hóa
thung lũng” đa dạng nhưng thống nhất.
Hoạt động kinh tế
Môi trường thung lũng chân núi đã tạo điều kiện cho người Mường làm
ruộng nước. Trong đó, cây lúa với hàng chục loại giống khác nhau đóng
vai trò quan trọng bậc nhất trong các loại giống cây trồng. Trên nền tảng
của truyền thống làm nông nghiệp ruộng nước người Mường đã xây dựng
được một hệ thống nông lịch hoàn chỉnh, đồng thời đúc kết và tích lũy
được nhiều kinh nghiệm quý báu trong trồng trọt và đến nay vẫn còn tác
dụng tích cực.
Ngày nay, bên cạnh việc duy trì các biện pháp thủy lợi truyền thống,
nhờ sự giúp đỡ về vốn, vật tư và kỹ thuật của nhà nước, nhiều phai đập, kè,
cống đã được xây dựng. Cùng với thủy lợi, người Mường đã xây dựng một
tập quán canh tác nông nghiệp khá ổn định và thành thạo phù hợp với từng
loại ruộng: ruộng lầy thụt và ruộng bậc thang, đúc kết thành những kinh
nghiệm trong sản xuất. Bên cạnh đó hiện nay, một số tiến bộ khoa học kỹ
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 31
thuật nông nghiệp cũng đã được người Mường áp dụng như thuốc trừ sâu,
bón phân hóa học. Người Mường không chỉ làm ruộng nước trong thung
lũng mà còn làm nương trên các sườn đồi, núi bao quanh thung lũng. Khác
với ruộng nước, nương bao gồm những khoảnh đất rừng được phát, đốt để
gieo trồng. Nhưng không bằng phẳng, không có bờ giữ nước. Nương ở
người Mường chủ yếu là nương lúa, ngoài ra còn có nương sắn, nương ngô,
nương bầu, nương bí… được trồng xen canh với một vài loại giống cây
trồng khác như đỗ, vừng…
Điều kiện môi trường đã tạo cho chăn nuôi phát triển thành một nghề
phụ của gia đình. Vật nuôi bao gồm: gà, vịt, ngan, ngỗng, lợn, trâu, bò
nhằm mục đích lấy sức kéo phục vụ cho sản xuất, một phần để làm thực
phẩm phục vụ cho nghi lễ của gia đình và một phần đem bán. Tập quán thả
rông trâu bò từ lâu đã trở thành phổ biến, ngoài lối chăn thả này trâu bò
còn được chăn theo lối buộc dây để trẻ em hoặc người già trông nom, còn
đàn lợn được chăm sóc chu đáo hơn, chuồng lợn làm ở dưới gầm sàn hoặc
ở góc vườn, hàng ngày được chủ cho ăn ba bữa.
Cùng với trồng trọt và chăn nuôi, các nghề thủ công truyền thống cũng
tương đối phát triển không những đáp ứng nhu cầu tự cung tự cấp mà còn
đem bán, trao đổi. Trong nghề thủ công, nổi bật là nghề dệt, nuôi tằm ươm
tơ, đan lát, ở những nghề này nhiều người đã đạt tới trình độ tinh xảo. Dẫu
vậy, nhìn chung, thủ công ở người Mường chưa tách khỏi nông nghiệp, nó
chỉ đóng vai trò phụ và phụ thuộc vào nông nghiệp. Hoạt động của nghề
thủ công mang tính thời vụ, làm vào lúc nông nhàn, tranh thủ lúc rỗi rãi
trong ngày, chưa đạt tới trình độ chuyên môn hóa. Những sản phẩm tiểu
thủ công nghiệp chỉ nhằm đáp ứng cho sản xuất và sinh hoạt hàng ngày
nhằm đảm bảo cho tính tự cấp tự túc trong kinh tế ở phạm vi gia đình, làng
bản, địa phương.
Ơ người Mường các hình thức kinh tế chiếm đoạt vẫn còn khá phổ biến,
đặc biệt là hái lượm vẫn giữ vị trí đáng kể trong sinh hoạt hàng ngày. Hái
lượm được tiến hành theo mùa, mỗi mùa có một loại rau quả khác nhau.
Nhìn chung, người Mường có rất nhiều kinh nghiệm trong hái lượm. Họ
nắm vững chu kỳ sinh trưởng và phát triển các loại cây trong rừng nên hiểu
rõ thời vụ hái của từng loại.
Việc kiếm nhặt thức ăn dưới nước như mò cua, bắt ốc, đánh cá cũng
được tiến hành thường xuyên. Đánh cá có hai hình thức cá nhân và tập thể.
Đông nhất và huyên náo nhất là những buổi đánh cá xưa kia do nhà lang
tổ chức. Hiện nay, đánh bắt cá chủ yếu tiến hành dưới hình thức cá nhân,
dụng cụ bắt cá chủ yếu tiến hành dưới hình thức cá nhân với dụng cụ là
nhiều loại chài, vó, câu…
Ngoài ra thì săn bắt cũng góp thêm một phần quan trọng trong bữa ăn
hàng ngày. Tuy nhiên, săn bắt không được tiến hành thường xuyên và công
cụ săn bắt thường là súng kíp, nỏ và các loại bẫy.
Việc trao đổi hàng hóa thông qua các chợ phiên ở người Mường đã xuất
hiện từ lâu, tuy nhiên trong cộng đồng Mường chưa hình thành một tầng
lớp thương nhân chuyên nghiệp. Người dân đến chợ mang theo những sản
phẩm làm ra như: thóc, gạo, ngô, các sản phẩm của nghề thủ công, hái
lượm bán lấy tiền mua các sản phẩm như: dầu hỏa, muối, vải vóc và nhiều
hàng tiêu dùng khác.
Am thực
Trải qua thời gian dài lịch sử hình thành và phát triển, người dân
Mường ngày càng biết cách sống cùng thiên nhiên, tận dụng tiềm năng của
nó phục vụ đời sống con người. Hầu hết, các món ăn của Người Mường
không được chế biến cầu kỳ nhưng lại mang tính độc đáo, đậm bản sắc
riêng của dân tộc mình. Họ phát hiện ngày càng nhiều về nguồn thức ăn có
sẵn trong thiên nhiên và tìm cách chế biến hợp khẩu vị, bồi dưỡng và có
món ăn còn có tác dụng ngăn ngừa, chữa bệnh. Hơn thế nữa, các dân tộc
cũng đã hình thành được tập quán, phong tục ăn uống mang bản sắc riêng.
Lợn thui luộc.
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 33
Lợn thả rông được thui vàng, thui đến đâu thì cạo lông đến đó. Sau đó
rửa sạch trước khi mổ lấy phần nội tạng, không rửa lại nước, mà chỉ lấy
lạt giang buộc treo lên để cho ráo máu. Thịt lợn làm như vậy sẽ để được
lâu, không bị ôi thiu. Sau đó, thịt được pha ra cho vào nồi luộc trên bếp
củi ở nhiệt độ vừa phải. Khi thịt vừa chín tới được đem ra thái mỏng
bày trên lá chuối rừng tươi xanh. Thịt nóng quyện với lá chuối rừng tạo
ra hương vị thơm ngon. Thịt luộc được chấm với muối rang và hạt dổi
nướng giã nhỏ.
Thịt lợn muối chua.
Thịt lợn nuôi thả ướp với men của lá rừng cùng với gạo rang giã nhỏ
thời gian khoảng 60 phút. Sau đó, lấy lá chuối rừng hơ lên trên lửa, lau
sạch rồi lót vào đáy bồ làm bằng tre, nứa, trước khi đưa thịt vào bồ.
Phần dưới của bồ (trên của lá chuối) được rải một lớp gạo rang nhỏ trộn
với muối rang sau đó xếp thịt lên, cứ một lần xếp thịt lại rải một lần gạo
rang với muối. Sau đó, đậy kín nắp bồ bằng lá chuối và để bồ thịt muối
ở quang bếp củi hoặc trên gác bếp đun củi. Khi thưởng thức món ăn thịt
lợn chua vẫn cảm nhận được màu sắc của thịt, ngậy của bì, độ chua của
men rừng, độ mặn vừa phải của muối, độ thơm của gạo. Món ăn này
thường được ăn với các loại lá rừng.
Măng chua nấu thịt gà
Gà nuôi thả có trọng lượng từ 0,8 – 1 kg được làm sạch lông rồi mổ bỏ
phần nội tạng, gà chặt ra thành miếng nhỏ, đem ướp với măng chua
(măng muối càng lâu càng tốt) cùng với gia vị bóp ướp để từ 20 – 30
phút cho ngấm hương vị của măng và gia vị, sau đó cho vào nồi vần
quanh bếp củi than khoảng 1-2 giờ. Khi thịt gà và măng đã chín nhừ
rắc thêm một ít hạt dổi nướng giã nhỏ. Món ăn này khi ăn thịt gà, măng
chua, hạt dổi được quyện với nhau.
Chả cuốn lá bưởi.
Thịt lợn ba chỉ thái con chì, ướp một chút nước mắm, hành. Lá bưởi cắt
làm đôi, cuốn mỗi miếng thịt một nửa lá to hoặc một lá nhỏ, kẹp vào
kẹp tre nướng trên than hồng. Mỡ lợn gieo xuống than hồng làm dậy
lên ngọn lửa mỏng mơn man kẹp chả, lá bưởi ngả màu hơi tím se lại là
được.
Nhộng ong rừng rang măng chua
Đây là một món ăn dân dã mà độc đáo được đồng bào Mường ở Mai
Châu (Hòa Bình) rất ưa chuộng. Vào mùa ong rừng (thường là dịp
cuối hè) người dân trong bản tìm những tổ ong to bằng chiếc rổ con
mang về. Nhặt những con ong già màu nâu đem ngâm rượu, còn
những con ong non màu trắng béo tròn mập mạp thì để chế biến các
món đặc sản. Sau khi lấy hết ong ra khỏi tổ đem rửa qua bằng nước
lạnh để ráo nước. Ong rừng có thể rang với lá chanh giống như rang
nhộng tằm, nhưng ở đây người dân rang với măng chua. Khi thưởng
thức món này, để hương vị thêm đậm đà và đúng vị thì ăn kèm với củ
kiệu muối.
Món cá nướng đồ
Một số loại cá như: cá diếc, cá trê, cá chép... thường được đem nướng
thơm. Trước khi nướng, cá được thọc các que nhỏ dài qua miệng xuống
bụng, xuống tận đuôi cá rồi dùng kẹp tre xanh kẹp vào để cho cá khỏi
rơi, gãy. Cá nướng được đem rắc muối, gói lá chuối, đồ lên rồi mới ăn.
Thịt trâu nấu lá loam
Thịt trâu đem thui cho thơm, cạo sạch rồi bung cho mềm, đem bóc thái
miếng nhỏ, hầm trong nồi đất chín kỹ rồi giã lá lồm ( một loại lá chua),
nêm một ít tấm gạo bỏ vào nồi hầm với thịt trâu. Khi tấm chín nở và
hơi sánh thì cũng là lúc thịt trâu nhừ và ngấm vị chua của lá lồm. Đây
là món ăn dân tộc phổ biến của người Mường Hoà Bình.
Cơm lam
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 35
Cơm lam được làm bằng cách bỏ gạo nếp vào ống nứa tươi non, đổ
nước sâm sấp sau đó đem nướng trên lửa. Cơm chín với vị thơm của
hạt gạo quyện với mùi thơm tự nhiên của nứa tươi mang đậm hương vị
của món ăn vùng Tây Bắc.
Xôi các màu
Người ta tạo ra màu xôi từ các thứ cây thân cỏ, sau đó lần lượt cho gạo
màu đỏ xuống trước, sau là màu xanh, vàng, tím, trắng cho lên trên
cùng. Khi xôi chín, dỡ ra rồi trộn với nhau hoặc để riêng từng màu thành
loại xôi nhiều màu với hương vị khác nhau trông rất đẹp mắt.
Măng đắng
Măng ngon là thứ mầm cây thuộc họ tre, trúc, mai, vầu, sặt, nứa mới
nhú khoảng 1-2 đốt ngón tay trở xuống, phần thân còn lại ngập trong
đất. Lấy củi nướng cho đến khi măng cháy xém, quắt lại bóc dần từng
bẹ chấm vào gói chẩm cheo gồm muối, ớt, lá gừng, mắc khén, lá tỏi và
củ tỏi giã nhỏ. Khi ăn, ta sẽ cảm nhận được vị đắng ngọt của măng, vị
mặn của muối, vị cay nồng của ớt, vị cay ấm của lá gừng, vị cay tê của
mắc khén, vị cay rát của tỏi cùng hương vị đặc trưng của nước măng
chua và cây măng nướng.
Rau rừng đồ
Rau rừng đồ được ăn với bánh dày làm từ gạo và sắn. Rau rừng gồm
rất nhiều loại như: Rau beo, rau tầm bóp, rau đốm, rau đu đủ, rau the
hởi, hoa chuối, quả quạnh… rửa sạch đem đồ trên cuốp gỗ khoảng 30-
40 phút. Món ăn này được dùng với loại nước chấm đặc biệt, mang đậm
mùi vị riêng của đặc sản Tây Bắc.
Canh Loóng
Đây là món canh được nấu từ nước luộc thịt với cây chuối rừng thái
mỏng. Cây chuối rừng lấy về được bóc vỏ ngoài lấy nõn thái mỏng, nhỏ
bóp với muối sau đó thả vào nước luộc thịt đun trên bếp củi khoảng 30
phút. Sau đó rắc vào một ít hạt dổi nướng giã nhỏ và lá lốt rừng thái
mảnh trước khi ăn.
Nước chấm ớt
Ớt nướng giã với củ kiệu, sau đó lấy đầu gà, tiết gà, ruột gà giã tiếp cho
nhuyễn rồi trộn với ít rau thơm thái nhỏ thành món nước chấm ớt, đây
là nước chấm cổ truyền của người Mường. Món này dùng để chấm thịt
luộc rất ngon.
Rượu cần
Rượu cần được làm bằng cách lấy một nắm lá rừng nghiền nhỏ rồi trộn
với tinh bột để tạo men, sau đó cho vào vò, phủ một lớp trấu để ủ. Khi
uống, chỉ việc đổ nước đun sôi để nguội hoặc nước khoáng đóng chai
vào đầy bình, vơi đến đâu lại đổ tiếp nước đến đó, sao cho bình rượu
bao giờ cũng đầy.
Rượu cần của người Mường rất nổi tiếng bởi cách chế biến và
hương vị đậm đà của men rượu. Rượu được đem ra mời khách quí và
uống trong các cuộc vui tập thể. Rượu cần đóng vai trò quan trọng trong
đời sống văn hóa tinh thần của người Mường, từ việc uống chơi giữa
những người thân đến cuộc vui cộng đồng, thờ cúng tổ tiên, thần thánh.
Họ đã biết làm ra những vò rượu vừa ngọt vừa thơm, để được lâu. Vò
đựng rượu thực sự là của cải đáng giá và rất quí trong gia đình Mường.
Trang phục
Người Mường chăm lo đến trang phục từ rất lâu đời. Trang phục
Mường hết sức tinh tế và có những nét riêng nổi bật không thể pha lẫn với
các dân tộc khác. Những màu sắc được kết hợp với nhau làm cho bộ trang
phục Mường không chói chang rực rỡ mà mang một vẻ đẹp nhẹ nhàng, tinh
khiết của núi rừng. Với nhiều biện pháp kĩ thuật dệt, cuối cùng họ đã đạt
tới sự trang nhã như thẩm mỹ và tính cách của dân tộc, đó là tính trầm lắng
nhưng vui vẻ của người Mường. Các bộ phận của bộ trang phục đã kết hợp
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 37
với nhau hết sức hài hòa, đến nỗi nếu thiếu thứ gì là có thể nhận biết được
sự mất cân đối ngay.
Nam thường mặc áo cánh phủ kín mông, xẻ ngực, cổ tròn, cúc sừng
vai, hai túi dưới hoặc thêm túi trên ngực trái. Quần lá ống rộng dùng khăn
thắt giữa bụng còn gọi là khăn quần. Trên đầu quấn khăn trắng. Xa xưa,
đàn ông Mường thường để tóc dài và búi gọn gàng phía sau. Khi đi bắt còn,
vui hội hay trong lễ cưới, người ta mặc những bộ quần áo mới, sang trọng
là áo lụa tím, xanh hoặc vàng tơ tằm. Khăn đầu màu tím than. Khăn quần
bằng lụa xanh tím. Ngoài cùng mặc đôi áo chùng. Ao chùng màu đen, dài
tới đầu gối, cổ cao và cứng hơn cổ áo thường, đằng trước vó một vạt rộng
trùm từ bên trái sang phải, khuy vai cài ở nách và sườn phải. Hai bên áo xẻ
tà cao tới hông. Trong lễ cưới, chàng rể cùng hai người phụ rể mặc áo
chùng trình bàn thờ tổ tiên và bố mẹ vợ.
Về y phục nữ thì phức tạp hơn rất nhiều.
Trên đầu thắt một chiếc khăn màu trắng, tiếng Mường gọi là mũ. Mũ
này là một dải trắng không viền, rộng khoảng một gang tay, dài quá vòng đầu
để thắt ở phía sau gáy theo kiểu giắt vặn. Dù tóc cắt ngang vai hay tóc búi, cái
mũ vẫn thắt ra ngoài, không luồn dưới tóc. Trên đỉnh đầu, mũ thường tạo nên
một góc nhọn, xa trông giống hình phễu.
Ao ngắn, tiếng Mường gọi là “áo pẳn”. Ao này dài đến chấm eo lưng,
phía sau có một đường can vải dọc theo sống lưng. Phía trước không có cổ mà
may tràng vắt qua cổ sang hai bên. Tràng rộng bằng ngón tay, dày hai lớp vải,
nửa dưới được may nhỏ, thanh hơn cho áo dễ bay. Ao thường không may túi,
nếu có chỉ khâu một túi nhỏ ở bên trong.
Ao chùng là cái áo ngắn được may kéo dài xuống đến đầu gối hoặc quá
gối. Phía chân áo hơi xòe ra. Phía trước áo mở hoàn toàn và không dùng cài
như áo chùng của người Thái ở Mai Châu hoặc người Tày ở Đà Bắc. Loại áo
này họ ưa dùng màu tím than, màu đen. Trong lễ cưới, nàng dâu cùng 2 người
phụ dâu mặc áo chùng trùm mông, hai vạt trước túm gọn vào lòng. Trong lễ
hội, các cuộc vui chơi ném còn hay trong đoàn sắc bùa quanh mường bản, áo
chùng buông, vạt áo ngắn khoe màu cùng cạp váy con rồng, nẹp gắn hoa ẩn
hiện theo nhịp chân bước rộn ràng hòa trong điệu chiêng ngân quyện với gió.
Cái yếm mặc hàng ngày người Mường gọi là áo báng – tức là áo một
bên. Nó là một miếng vải hình vuông, cạnh trên khoét một cổ tròn và khít,
dùng hai dây cài sau gáy. Ba cạnh còn lại được để nguyên, cũng dùng hai cài
để thắt đằng sau lưng. Riêng ở Mường Bi, phục nữ dùng yếm có hai bên, tiếng
Mường gọi là áo báng hai bên. Để cho yếm được nổi bật giữa áo và đầu váy,
yếm được may bằng màu trắng hoặc màu khác với màu áo ngắn nhưng không
dùng màu đỏ, vàng tươi. Còn một loại yếm thứ hai mà người Mường gọi hẳn
là yếm chứ không gọi là áo báng. Yếm này y hệt như yếm của người Kinh.
Loại yếm này có thể dùng màu hồng đào, màu xanh nõn chuối, hoặc vàng…
Họ mặc trùm lên cái áo báng ở trong, trùm lên cả đầu váy, nhưng chỉ mặc vào
trường hợp đặc biệt. Đó là các nàng dâu đi quạt ma trong đám tang và mặc cho
người chết làm mồ mang về mường ma.
Váy Mường được chia làm hai phần chính. Phần từ hông trở lên, rực rỡ
bởi bộ cạp váy. Phần từ hông trở xuống đến mắt cá chân là thân váy. Thân váy
được khâu nối với bộ đầu váy rồi khâu thành hình ống to gấp đôi thân người.
Chân váy chỉ dùng màu đen hoặc màu xanh đen. Do đó, cạp váy ôm sát ngực
không chỉ là điểm nhấn tạo nên nét duyên dáng cho người phụ nữ Mường mà
thể hiện sự khéo léo của người mặc váy.
Gấu váy có miếng vải nẹp lót phía trong được trang trí một cách kín
đáo. Nẹp rộng hơn một đốt ngón tay, nhuộm hồng hoặc đỏ hoặc xanh điểm
một số bông hoa. Những bông này tô điểm cho nẹp váy chỗ nhiều, chỗ thưa
lác đác.
Bộ đầu váy người Mường được nối với thân váy thành cái váy hoàn
chỉnh. Bộ đầu váy bao gồm cao váy và đang dưới. Cao váy rộng khoảng từ 10
đến 15cm, trang trí vòng quanh hông và eo bằng những sọc đứng nhiều màu.
Mỗi sọc to nhỏ khác nhau, có sọc mang hoa văn hình học, có sọc mang hoa
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 39
văn hình cây cách điệu. Đang dưới là bộ phận nổi bật nhất của đầu váy. Bộ
phận này được trang trí các hoa văn hình học, hình bông hoa cách điệu và quả
cây. Có khi được trang trí hình bèo hoa dâu với kích thước nhỏ, giản dị dùng
để mặc đi làm. Có khi được trang trí hoa văn động vật trên nền loại vải đẹp và
dệt một cách cầu kì nhất để làm thành cái váy đi dự lễ hội nhất là cho con gái.
Các hoa văn động vật này thường là các kiểu rồng như : rồng cái, rồng con,
rồng ngắn, rồng lượn, con phượng, con công, con gà lôi… Hoa văn càng cầu
kì thì việc dệt nó phải tinh tế và tốn rất nhiều thời gian, công sức.
Đi đôi với bộ váy là bộ tênh khăn. Cái tênh bằng vải hoặc lụa dài hơn
sải tay, khâu nối hai đầu thành một vòng kép, thắt đúng giữa eo trên nền cao
váy, làm nổi eo người mặc. Tênh thuần một màu: hoặc trắng, hoặc xanh, hoặc
tím, hoặc vàng.
Khăn là một dải vải nhuộm đen hoặc tím than giống váy. Khăn thắt phía
dưới tênh, hai đầu quấn với nhau ở phía trước, sang tới hai bên hông buông
hai đầu xòe xuống như tua. Có lúc khăn được thắt ra ngoài áo chùng cho gọn
áo.
Đồ trang sức: trang sức người Mường thường là để dành đến ngày cưới,
ngày hội mới mang ra dùng. Đôi vòng bạc đeo ở cổ tay gọi là lằm. Lằm cũng
phổ biến ở người Mường có hai kiểu: kiểu dẹt nổi gờ gọi là lằm ba, kiểu tròn
như chiêc đũa gọi là lằm lâm. Lằm có chiếc trơn, chiếc chạm. Lằm ba hay
chạm hoa dây tinh tế, gần với hoa văn dây trên đồ gốm cổ. Lằm lâm chỉ chạm
một kiểu hoa văn múi quả thông rất độc đáo tạo nên vẻ trang trọng, khỏe
khoắn. Ngoài ra, người Mường còn có một loại vòng dùng để đeo trên vùng
cánh tay, tiếng Mường gọi là lằm kẻnh tức vòng cánh. Loại vòng này cũng có
hình thức như lằm nhưng to hơn.
Bên cạnh lằm, có một chuỗi hạt cườm mà người Mường gọi là pượn
khạu. Người Mường rất quý khạu vì khạu đẹp đáng giá trâu bò. Bộ xà tích toàn
bằng bạc tết thành dây bốn cạnh dài hai gang, bốn dây gập lại thành tám, móc
vào tênh từ bên hông đeo vòng về phía trước.
Nhà ở
Văn hóa người Mường là văn hóa ở nhà sàn mà theo truyền thuyết dân
gian là nhà rùa: có 4 mái, 3 tầng, mô phỏng theo quan niệm vũ trụ dân gian ba
tầng bốn thế giới của người Mường (ba tầng là: Tầng trên, tầng giữa, tầng
dưới; bốn thế giới: Mường trời, Mường bằng, Mường vua khú và Mường dưới
nữa hay còn gọi là Mường vua đín).
Hình thức bố trí nơi cư trú của người Mường cũng rất đa dạng: làng có
thể thiết lập ở sườn đồi, nhà cửa bố trí từ chân đồi lên lưng chừng đồi thành
hình vành khăn. Nếp nhà chính là nhà sàn, tựa lưng vào núi, mặt ngoảnh ra
đồng ruộng.
Lễ hội
Ngày 27 tháng chạp hàng năm, các gia đình Mường sửa lễ cúng Tản
Viên để đón mừng năm mới, mùng 3 tết gia chủ lại có mâm cơm cúng với mục
đích đón thần tản viên về ngự trị tại nhà. Trong năm vào ngày rằm tháng bảy,
nhà nào có bàn thờ Tản Viên lại làm cỗ cúng, chủ yếu là cổ chay gồm: xôi
chuối, chè, oản nhất thiết phải có đu đủ luộc. Nếu nhà nào sửa cỗ mặn thì làm
cá nướng sau đó cho đồ chin bày lên mâm cúng. Nhà nào định thịt gà cũng
phải nhốt 3 ngày cho sạch sẽ. Đền, miếu thờ Tản Viên thường được lập ở các
trung tâm Mường. Hàng năm, vào ngày 7 tháng giêng dân chúng toàn Mường
đến rước kiệu đưa thánh Tản từ bãi vào miếu. Ong mo mặc áo thụng, đội mũ
tai én làm lễ khấn thánh Tản phù trợ mùa màng tươi tốt.
Vào ngày mùng một tết, hầu hết các gia đình người Mường đều sửa
soạn cúng tổ tiên và thổ công. Vào bất cứ ngôi nhà nào của người Mường,
chúng ta thường thấy ở sân trước hoặc ở đầu nhà có một nhà thờ nhỏ làm bằng
tre, mái tranh. Đấy là nơi thờ thổ công, vị thần cai quản đất đai của gia đình,
nghi lễ cúng thổ công do gia đình thực hiện vào bất cứ thời điểm nào khi gia
đình có công việc.
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 41
Lễ khống mùa ( xuống đồng) : đầu xuân, khi có tiếng sấm, những trận
mưa xuân bắt đầu cũng là lúc người Mường làm lễ khai mở mùa cày cấy, tổ
chức lễ cúng cầu lúa còn gọi là khống mùa.
Hội ném còn được tổ chức ở bãi đất rộng trước sân đình, ở giữa dân
làng trồng 1 cọc tre, trên ngọn cao có buộc 1 chiếc võng quấn giấy màu ngũ
sắc trông rất đẹp. Quả còn làm bằng vải màu nhiều mảnh ghép lại, hình thang
vuông, trong quả còn nhồi cát, ở 4 góc và chính giữa có đính các mảnh vải nhỏ
nhiều màu sắc. Khi tung còn người tung cầm gần cuối đoạn dây vải quay quả
còn thuận theo chiều kim đồng hồ để tung lên ngọn cột sao cho quả còn bay
đúng vào giữa vòng tròn thì mới thắng cuộc. Trước khi ném còn, người chủ tế
đem các quả còn được dùng trong hội lên đình thắp hương để làm lễ. Hội còn
chia làm 2 bên nam – nữ đứng cách cột giữa sân khoảng 15m. Dân làng đứng
thành hàng dọc để cổ vũ, động viên cuộc thi tài. Sau 3 hồi chiêng – trống nổi
lên thì cuộc ném còn mới bắt đầu, các bên nam – nữ tung còn sang cho
nhau,vừa tung vừa hát.
Buổi ném còn cứ hát đối giữa bên nọ bên kia kéo dài theo ngày hội, các
tốp nam – nữ thay nhau đua tài mỗi lần còn được tung vào giữa vòng tròn thì
tiếng reo hò, vỗ tay tán thưởng và những hồi trống chiêng lại vang lên.
Chàm đuống hày còn gọi là đâm đuống: Đuống hay máng thường
được làm bằng gỗ. Trước đây có đuống bằng đồng, còn gọi là đuống thau.
Đuống được khoét từ một thân cây lớn và người ta dùng một chiếc chày dài
để đâm (giã). Đâm đuống trước hết bắt nguồn từ công việc giã lúa và dân dần
được nâng cao trở thành một hình thức sinh hoạt nghệ thuật độc đáo. Vào sáng
sớm tinh mơ, các thiếu nữ Mường cho lúa nguyên bông vào máng để giã, họ
dùng chày đâm thẳng xuống máng tạo nên những âm thanh trầm và khi chạm
vào thành máng tạo nên các âm thanh trong phối hợp với nhau. Từ đó dần dần
hình thành tục chơi đuống.
Hàng năm vào sáng sớm 29 tết âm lịch, mỗi gia đình đem 4 bó lúa buộc
lên 4 dây của gác bếp. Sáng mồng 7 thán giêng nhà Lang và sau đó là cả làng
tiến hành đam đuống và dùng thóc đó cho gà, lợn ăn. Ngày 7-7 âm lịch, dân
làng tổ chức lễ cầu lá lúa. Ơ ngoài đồng, người ta cắm các cọc cao từ 1m đến
1,5m, trên mỗi cọc có treo 7 xâu vòng làm bằng gỗ hoặc bằng nứa. Một nghi
lễ mang tính phồn thực mong mùa màng bội thu, người và muôn vật sinh sôi
nảy nở, phổ biến của các cư dân trồng trọt, trong khi đó thì trong làng trai gái
tổ chức đâm đuống suốt ngày, đâm đuống còn được sử dụng trong lễ cơm mới,
đặc biệt trong đám cưới. Vào dịp này, người ta đâm đuống khi nhà trai đến
làm lễ, khi đưa cô dâu ra khỏi nhà gái, khi đón cô dâu về đến sân nhà trai.
Thông thường khi chơi, người ta sử dụng 3-4 đuống kề liền nhau, những
người tham gia được kết hợp thành từng đôi đối diện nhau, thường từ 3-4 đôi
giữ một đuống; người ta chọn một đôi đứng đầu đuống làm “cái” đánh nhịp
cho các đôi con đánh theo, thành một thể thức nhất định đảm bảo sự phối hợp,
nhịp nhàng cho cả cuộc chơi. Đây là thứ nhạc cụ và trò chơi độc đáo trong kho
tàng văn hóa cổ truyền của người Mường.
Chàm thau ( đánh trống đồng) : Trước đây, người Mường chỉ tổ chức
chàm thau vào tháng giêng và tháng 7 âm lịch, trong hội lễ cầu mùa. Tại bãi
hội, người ta làm giá treo trống bằng một cái sào đặt trên những cây tre bắc
chéo nhau ở hai đầu sào. Dưới đáy trống, người ta đào một hố nông vừa đường
kính đáy trống, khi đâm trống tiếng trống sẽ vọng từ hố lên. Chàm thau cũng
có người cái, người con. “Cái” cầm hai dùi đam xuống mặt trống, còn “con”
chỉ cầm một dùi. Mỗi lần, một hoặc hai cặp “con” đâm cso khi cặp nam, cặp
nữ cùng đánh. Những người chàm thau tay đam nhịp nhàng, thân hình đung
đưa, nhẹ nhàng uyển chuyển. Chàm thau cũng có nhịp điệu thay đổi tiết tấu
chàm đuống. Hiện nay, chàm thau còn được biểu diễn trong lễ hôi đền hùng
hàng năm.
Hội sắc bùa: Tổ chức vào dịp mùa xuân và những dịp hội hè cưới xin.
Nội dung cơ bản của hội sắc bùa là mang những dàn cồng vào các gia đình
đánh lên để chúc tụng mọi nghà với ý nghĩa cầu được mùa, cầu sinh sôi nảy
nở, thịnh vượng phồn vinh. Hát sắc bùa do phường bùa tiến hành. Phường bùa
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 43
không chỉ đi sắc bùa trong xóm mà còn đi sang các xóm, mường bên cạnh. Đi
sắc bùa thành hàng một, dẫn đầu đoàn là người mang cồng boòng beng rồi lần
lượt đến cồng đúm, cồng khệ, cồng đàm. Phường bùa đến nhà hẹn trước để hát
sắc bùa, lúc đó chủ nhà tập trung anh em, họ hàng để chờ đón, nhưng theo tục
lệ cổng vào nhà vẫn đóng. Phường bùa đứng ngoài cổng đánh bài báo hiệu.
Người đi đầu hát bài mở cổng, chủ nhà ra mở cổng chào đón. Phường bùa đi
vào sân, vừa đi vừa đánh cồng, cứ sau mỗi bài cồng là mọi người trong đoàn
hát một bài chúc tụng, ngợi ca. Sau cuộc hát, gia đình mang thóc gạo tặng
phường bùa, chủ nhà cầm thóc vãi nhẹ vào chiếc cồng đàm, người cầm cồng
ngửa cồng, nâng hai tay đỡ lấy. Những hạt thóc từ tay chủ nhà rời nhẹ vào
lòng cồng như gieo mạ tượng trưng cho sự sinh sôi nảy nỏe, tươi tốt thuận hòa
của mùa gieo trồng sắp tới. Nhận quà từ tay chủ nhà, người dẫn đầu hát lời tạ
ơn.
Văn hóa, nghệ thuật dân gian
Dân tộc Mường chưa có chữ viết nhưng ngôn ngữ về căn bản rất thống
nhất và có một nền văn học nghệ thuật dân gian rất phong phú. Có thể nói, vốn
văn nghệ dân gian của người Mường đã góp phần không nhỏ vào kho tàng văn
hóa chung của dân tộc Việt Nam. Nền văn học nghệ thuật dân gian Mường
không những đồ sộ về khối lượng mà còn phong phú về thể loại. Các truyện
thơ út lót Hồ Liêu, Nàng Nga Hai mối, Nàng ởm chằng Bồng Hương, Con
côi… không chỉ nói về tình yêu nam nữ mà còn lên án nạn ép duyên của chế
độ cũ. Ca dao tục ngữ Mường phản ánh cuộc đấu tranh bất khuất của con người
với thiên nhiên, của nhân dân lao động với bọn thống trị, mặt khác ca ngợi tinh
thần lao động, tình yêu, phản ánh kinh nghiệm sản xuất. Người Mường có một
pho tư liệu truyền miệng đặc sắc là “ Mo Lễ Tang”. “Mo Lễ tang” chứa đựng
2 bộ phận có giá trị đặc biệt là sử thi sáng thế Đẻ đất, đẻ nước và thần thoại hệ
thống Mo lên. “Mo Lễ tang” chỉ ra những bước đi gian lao của lịch sử. Mo
dạy cho người sau lòng biết ơn ông bà, tổ tiên, cảm thông với những gian khổ
của con người từ thời nguyên thuỷ. Mo lên trời thể hiện một tình yêu chứa
chan với cuộc sống, quê hương và con người. Giá trị tư tưởng cơ bản của Mo
lên trời là lòng nhân ái, bao đời nay Mo lên trời đã giáo dục cho con người
bản Mường tình yêu cuộc đời, lối sống nhân hậu, lòng từ thiện, không ích kỷ,
biết lo toan cho mọi người… bằng một nghệ thuật hấp dẫn, tác động tâm lý
mạnh mẽ và sâu sắc. Đây là một di sản quý và có hiệu lực trong việc giáo dục
chủ nghĩa nhân văn.
Thơ ca cũng có nhiều hình thức như rằng thường, bộ mẹng, hát đúm.
Rằng thường là loại dân ca ca ngợi công việc làm ăn, phản ánh một phần phong
tục tốt đẹp của dân tộc. Bộ mẹng là hình thức hát giao duyên diễn tả tâm sự,
tình yêu của tuổi trẻ. Hát đúm giống như hát ví là thể loại hát đối đáp và được
hát nhiều trong khi đi chợ, lúc gặp nhau dọc đường hoặc trong lao động sản
xuất. Trước khi đi tới hôn nhân, nam nữ Mường được chủ động tìm hiểu nhau
ở mức độ nhất định, được thổ lộ tình yêu qua các buổi làm đồng, lên nương,
qua những lần gặp nhau trong các dịp hội hè hàng năm, qua các phiên chợ, đặc
biệt là những chuyến đi chơi hang. Đó là những chuyến đi vui nhất của trai gái
Mường ở tuổi trưởng thành trong các dịp múa xuân dù ở ngoài hang, hay trong
hang, ngày cũng như đêm, là nơi hội ngộ của hàng trăm đôi nam nữ. Họ mặc
những bộ quần áo đẹp nhất, mời nhau uống rượu cùng nhau hát ví, hát đúm,
hai bên đối đáp sôi nổi, rồi đến một lúc nào đó từng đôi dắt nhau đến nơi thanh
vắng để tâm sự. Nam, nữ Mường còn biểu lộ tình cảm thông qua các bài dân
ca thường rang, bộ mẹng với những hình thức đối đáp phong phú. Trong làn
điệu thường rang, bộ mẹng, trai gái đã gửi gắm vào đó những tâm tư tình cảm,
những ước mơ của mình để nói cho người mà họ muốn kết duyên. Sau mỗi
buổi hát, chàng trai thường tặng cho cô gái những vật kỷ niệm như vòng bạc,
chiếc túi thổ cẩm… Nếu cô gái nhận lấy các vật kỷ niệm, cũng có nghĩa là đã
ngầm hẹn vơi các chàng trai. Nếu cô gái từ chối, chàng trai phải chuyển sang
đối tượng khác. Mặc dầu vậy, mọi chuyện chỉ mới dừng lại ở tình yêu. Dẫu
yêu nhau đắm say, dù thề thốt nặng lời đến may những vẫn cần phải có sự
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 45
đồng ý của cha mẹ. Các cô gái thường phải nghe theo lời bố mẹ, không vâng
lời sẽ bị coi là đứa bất hiếu.
Ngoài ra, người Mường còn có các loại hát khác như: hát ru con, Đồng
Dao, hát Đập Hoa… Trong kho tàng văn học dân gian cũng cần kể đến các
áng tang ca, đó là những bài khấn do ông mo, ông tượng đọc và hát trong đám
tang, bài mo đẻ đất, đẻ nước là một vốn quí văn học dân gian có giá trị.
Múa sạp là điệu múa đặc sắc của dân tộc Mường trong những dịp vui,
lễ hội và nay nhân rộng ra nhiều dân tộc khác. Đạo cụ cần thiết cho múa sạp
phải có hai cây tre to, thẳng và dài làm sạp cái và nhiều cặp sạp con bằng tre
nhỏ hay nứa. Khi múa, người ta đặt hai sạp cái để cách nhau khoảng rộng vừa
đủ để gác hai đầu các cây sạp con, từng cặp sạp con đặt song song, cách đều
nhau chừng hai gang tay, tạo thành dàn sạp. Người múa chia ra một tốp đập
sạp và một tốp múa, mỗi tốp có thể từ vài cặp trai gái đến nhiều cặp, càng
nhiều, đội hình càng phong phú sinh động.
Về nghệ thuật, đáng chú ý nhất là các họa tiết hoa văn trang trí trên
cạp váy với nhiều mô típ rất đẹp mắt trong bộ nữ phục. Cạp váy là một sản
phẩm mỹ thuật, còn giữ được toàn bộ cấu trúc trang trí của hoa văn trên trống
đồng đông sơn. Ở đất Mường tồn tại một loại lịch sao Đoi. Theo lịch đó thì
ngày lui đi một ngày, tháng tiến trước hai tháng, nên gọi là lịch ngày lui tháng
tiến, một thứ lịch độc đáo khác hẳn lịch mặt trời, lịch mặt trăng mà lại thích
hợp với nông nghiệp vùng cao.
Nhạc cụ
Trước hết phải nói đến văn hóa trống đồng. Con số trống đồng luôn
được giữ là con số lý tưởng với số trống đồng phát hiện được riêng trong
tỉnh Hòa Bình đến nay lên đến 112 chiếc. Việc đó nói lên rằng, việc sử
dụng trống đồng ngày xưa đã được coi trọng, là một công cụ, là một nhạc
cụ được sử dụng trong hầu hết các nghi lễ quan trọng như : tế thần, cầu
mưa, tang lễ, hội hè… trống đồng là sự biểu hiện của uy quyền, của giàu
sang, của thế lực; tiếng trống là hiệu lệnh thúc giục tiến quân khi có kẻ thù
xâm lăng đất nước, quê hương; là vật tùy táng theo người chết về thế giới
bên kia. Trống đồng còn mang những giá trị tôn giáo, nghệ thuật, xã hội.
Nếu văn hóa trống đồng được dùng trong những lễ trọng, những nghi
thức lớn, thì văn hóa cồng chiêng tham gia vào mọi sinh hoạt hàng ngày
của cộng đồng như: hội sắc bùa, lễ cưới, lễ tang, cuộc đi săn, cuộc kéo gỗ
mừng nhà mới, hội xuống đồng, khi thiên tai địch hoạ, đặc biệt cồng chiêng
được sử dụng trong hội lễ mùa Xuân. Trong dịp tết xuân, thường có những
phường chiêng, phường cồng đi chúc tết các gia đình gọi là phường sắc
bùa. Mỗi phường cồng đi chúc tết các gia đình tập trung từ 15 đến 30 người,
mang cồng chiêng khi đi đường đánh bài đi đường, khi đến từng nhà đánh
bài chúc phúc cùng những tặng phẩm mang theo ngày tết.
Văn hóa cồng chiêng Mường từ lâu đã đi vào cuộc sống không thể thiếu
được của đồng bào Mường. Cồng có nhiều loại: cồng boòng beng là loại
nhỏ nhất, cồng đúm là loại trung bình, cồng đàm tiếng tram nhất tron bộ
cồng và cồng khệ dùng đánh trùng âm. Các loại cồng này được ghép thành
dàn cồng từ 8-12 chiếc. Số lượng 12 chiếc biểu tượng cho 12 tháng trong
một năm.
Cùng với chàm đuống, chàm thau, hát sắc bùa cùng với bộ chiêng cồng
là những sáng tạo văn hóa đặc sắc của dân tộc Mường.
Thiết chế xã hội – luật tục
Thiết chế xã hội trong xã hội cổ truyền ở người Mường nói chung là
xóm và mường. Ơ đó hình thành một bộ máy quản lý, điều hành theo luật
tục, mọi thành viên trong cộng đồng xóm, mường phải tuyệt đối tuân thủ.
Làng (xóm) là đơn vị cơ sở của xã hội Mường gồm nhiều tiểu gia đình phụ
quyền mà tế bào gia đình là cha mẹ và con cái, trong đó quyền thế tập thuộc
về con trưởng. Mỗi làng của người Mường thường quần tụ nhiều dòng họ,
trung bình mỗi làng có 4-5 dòng họ. Hiện nay, kết cấu dân làng có cùng
một huyết thống hầu như không còn nữa.
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 47
Mường là đơn vị tổ chức xã hội, tập hợp nhiều làng trong cùng một
thung lũng, hay nhiều thung lũng liền kề nhau. Đơn vị tổ chức này đặt dưới
sự cai quản của một dòng họ quý tộc Mường vẫn gọi là nhà lang. Tầng lớp
thống trị nhà lang tập hợp thành những dòng họ phụ hệ, mỗi dòng họ chiếm
lĩnh một Mường. Họ có rất nhiều đặc quyền đặc lợi, tầng lớp dân thường
phải có nghĩa vụ lo phục dịch, mang lễ cúng biếu mỗi khi nhà lang có công
việc như đám cưới, ma chay. Nếu những người là anh em của nhà lang
không may qua đời thì mọi người phải đến chịu tang như chính bố, mẹ
mình chết. Ngoài ra, họ còn phải đóng góp cho lễ tang, tùy từng nơi mà lễ
vật có thể nhiều hay ít. Nhà lang là người đứng đầu về mặt tôn giáo, người
dân coi ông ta là người đại diện cho mình tiếp xúc với thần thánh. Ruộng
đất của nhà lang nhiều nhất trong vùng, toàn bộ sản phẩm thu hoạch thuộc
về nhà lang, dân chỉ được cho ăn một bữa hôm cày cấy.
Sau khi miền Bắc hoàn toàn được giải phóng (1954), chế độ nhà lang
không còn nữa. Người nông dân có ruộng đất tự do làm ăn, sinh sống và
bình đẳng về mọi mặt. Tổ chức xã hội theo cơ cấu làng, xã, huyện, tỉnh.
Xã hội được quản lý bởi hệ thống hành chính thống nhất trong toàn quốc.
Tuy nhiên, bên cạnh việc quản lý xã hội bằng luật pháp thì ở một mức độ
nhất định, vai trò của tập quán vẫn còn tác động ít nhiều trong xã hội
Mường hiện nay.
2.2.2.2 Nhận xét về văn hóa dân tộc Mường
Từ trong truyền thống, văn hóa Mường ít nhiều mang tính khép kín, chưa
thật sự mạnh dạn vươn rộng ra khỏi không gian quê hương của nó. Điều này
có tác động hai mặt đến văn hóa của dân tộc Mường. Một mặt, sự khép kín
này giúp cho văn hóa Mường được giữ vững và ít bị lai tạp bởi các nền văn
hóa khác. Do đó, dù đã trải qua một thời gian rất dài sống bên cạnh người miền
xuôi và nhiều dân tộc khác nhưng người Mường dường như vẫn giữ được
nguyên vẹn bản sắc văn hóa của dân tộc mình. Mặt khác, sự khép kín đã ảnh
hưởng không nhỏ đến sự phát triển của dân tộc này. Cụ thể như dân tộc Mường
ở Hòa Bình, rất nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài của Hà Tây
mọc lên nằm cách đất Hòa Bình chỉ vài cây số. Các doanh nghiệp này khai
thác nguyên liệu ở Hòa Bình, bán sản phẩm ở trên thị trường này nhưng lại rất
hiếm có các doanh nghiệp như vậy có mặt trên đất Hòa Bình. Hơn nữa, văn
hóa Mường Hòa Bình chưa thực sự khẳng định vị thế của mình như một trung
tâm văn hóa cổ xưa và hiện đại của vùng và của cả nước. Tỉnh Hòa Bình đã
không tận dụng được ưu thế của một nền văn hóa Mường gốc (tập trung gần
50 vạn người), một vùng địa văn hóa cửa ngõ phía Tây Tổ Quốc làm nội lực
cho sự phát triển của tỉnh.
Một cuộc hôn nhân ở người Mường thường phải qua nhiều giai đoạn, với nhiều
nghi lễ phức tạp, tiêu tốn nhiều tiền của. Việc thách cưới khá nặng nề, ngoài những
đòi hỏi của nhà gái về lương thực, thực phẩm, đồ dùng cá nhân thì sự tiêu tốn về
tiền bạc cũng khá lớn. Việc định giá cô dâu hoàn toàn do nhà gái quyết định, nhà
trai phải chấp nhận, không có quyền nài bớt. Do tính chất mua bán đã can thiệp
trực tiếp vào hôn nhân nên người phụ nữ bị xem như là một món hàng, một vật
trao đổi. Khi lấy chồng, nhà gái mất đi một lao động, bù lại nhà trai phải trả cho
nhà gái một số của cải ngang giá. Vì vậy, các cô gái khi về nhà chồng phải chịu
địa vị thấp kém. Do tính chất mua bán của hôn nhân, do luật tục quy định rất
nghiêm ngặt nên việc ly dị rất ít xảy ra. Trong trường hợp xảy ra ly dị, nếu người
vợ chủ động thì phải trả lại toàn bộ lễ vật mà nhà chồng đã chi phí từ lúc ăn hỏi
đến lúc cưới. Nếu người chồng chỉ động thì tài sản sẽ chia đôi.
Tang lễ là một trong những nghi lễ tôn giáo “đậm đặc” của người Mường, là
hình thái khá tập trung của nhiều tập tục cổ truyền. Tang lễ của người Mường thể
hiện những quan niệm về vũ trụ và về nhân sinh của dân tộc. Bên cạnh những
quan niệm lỗi thời những tập tục lạc hậu, tang lễ Mường còn bao gồm nhiều giá
trị của di sản văn hóa dân tộc. Theo quan niệm thông thường, chết là kết thúc một
đời người, là sự vĩnh viễn ra đi không bao giờ gặp lại, là đem lại sự mất thăng
bằng tới một nhóm gia đình do sự mất đi của một thành viên. Khi còn sống với
nhau, đạo lý người Mường đã chỉ ra rằng nên đối xử tốt đẹp với nhau thì khi có
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 49
người chết đi đạo lý ấy cũng khuyên người sống phải chăm lo tận tình. Đó là trách
nhiệm, là bổn phận, đồng thời cũng thể hiện các mối quan hệ giữa con người với
con người thông qua nghi lễ tang ma. Tang lễ được tổ chức cho người chết bình
thường tức là chết già với rất nhiều thủ tục dài dòng, kỹ lưỡng gây tốn kém rất
nhiều và có nhiều hủ tục. Đối với người chết trẻ, nghi lễ tang ma đơn giản hơn
nhiều, những trường hợp chết “ bất đắc kỳ tử” như bị cây đè, đá lăn, đám tang
được tổ chức ở ngoài nhà. Trong tang lễ của người Mường còn có một số tục lệ
mà đến nay vẫn còn duy trì như : làm nhà mồ, đặt hòn mồ, làm quan tài hình
thuyền… theo quan niệm của người Mường, sự mất mát của con người là mất mát
chung, nên khi một thành viên trong cộng đồng qua đời, mọi gia đình trong làng
không phân biệt giàu, nghèo đều mang đến nhà tang chủ một đến hai ống gạo,
một lạng muối, một con gà và một lít rượu, họ hàng gần gũi góp một, hai con lợn.
Tang chủ tiếp nhận tất cả để lo làm cỗ mời dân làng, những người thân thích hay
họ hàng, dù đã dời quê hương đi làm ăn cách xa làng hàng chục ngày đường bộ,
họ vẫn giữ suất gạo, muỗi, gà về quê cũ theo tục lệ tang lễ của địa phương mình.
Điều này thể hiện sự chân thành, đậm nghĩa tình giữa người sống và người chết,
giữa những người còn sống với nhau.
Ẩm thực của người Mường có rất nhiều món ngon và đặc sắc. Tuy nhiên, trong
bữa ăn hàng ngày vấn đề về dinh dưỡng chưa thực sự được chú ý. Điều này sẽ ảnh
hưởng đến sự phát triển thể chất và trí tuệ của giới trẻ.
Người Mường có tập tục nuôi gia súc gần nhà. Điều này nếu không được chú
ý sẽ gây ra sự mất vệ sinh, ô nhiễm môi trường xung quanh.
Thiết chế xã hội, các phong tục tập quán cổ xưa vẫn còn ảnh hưởng khá mạnh
tới người dân bản Mường.
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 51
Người Dao có những nhóm địa phương: Dao Đỏ, Dao Cóc Ngảng, Dao Sừng,
Dao Dụ Lay (Dao Đại Bản), Dao Quần chẹt (Dao Sơn Đầu, Dao Tam Đảo, Dao
Nga Hoàng, Dụ Cùn), Dao Lô Gang, Dao Thanh Phán, Dao Cóc Mùn, Dao Tiền
(Dao đeo tiền, Dao Tiểu Bản), Dao Quần Trắng (Dao Họ), Dao Thanh, Dao Thanh
Y, Dao Làn tẻn (Dao tuyển, Dao áo dài). Tiếng nói thuộc ngữ hệ H’Mông - Dao,
với dân số khoảng 494.952 người. Tổ tiên của người Dao xưa kia sinh tụ từ lưu
vực sông Hoàng Giang trở xuống phía nam Trung Quốc. Người Dao có mặt ở
nước ta vào giữa thế kỷ thứ XII vào những thời điểm khác nhau cho đến đầu thế
kỷ XX. Ngoài các đặc điểm chung ra các nhóm người Dao về nguồn gốc, số phận
lịch sử, thì mỗi nhóm Dao lại có những sắc thái riêng. Người Dao không chỉ có
nhiều nhóm nhỏ, mà mỗi nhóm lại có nhiều tên gọi khác nhau, thông thường mỗi
tên gọi thường bắt nguồn từ một quá khứ lịch sử.
Hoạt động kinh tế
Người Dao là một cộng đồng cư dân canh tác vào vùng rẻo cao giữa đồi núi.
Họ sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nương và lúa nước với kỹ thuật canh tác
khá tiến bộ. Họ vừa làm nương vừa làm ruộng. Xưa kia họ chuyên du canh du cư,
nghĩa là sau dăm bảy năm họ bỏ làng bỏ bản đi tìm vùng đất mới. Ngày nay, người
Dao đã bỏ phong tục đó, xây dựng cuộc sống mới định canh định cư. Vừa phát
triển nương rẫy vừa bảo vệ và khai thác rừng hợp lý.
Ngoài việc gieo trồng, người Dao còn chăn nuôi gia súc, gia cầm, vào rừng
hái lượm lâm thổ sản, săn bắn, đánh bắt ven sông, ven suối, làm thêm nghề phụ
gia đình, kéo sợi dệt vải, may vá lấy quần áo, dệt thổ cẩm là công việc của phụ
nữ. Các làng của người Dao đều có lò rèn, để sản xuất công cụ, làm súng hoả mái,
súng kíp, nghề trạm bạc, làm đồ trang sức, vòng cổ, vòng chân, vòng tay, hoa tai
đạt tới trình độ kỹ thuật cao về thẩm mỹ.
Ẩm thực
Là cư dân nương rẫy, trước đây người Dao thường ăn hai bữa chính ở nhà, bữa
sáng vào khoảng 6 giờ, bữa tối khoảng 19 - 20 giờ. Bữa trưa họ thường ăn cơm
gói tại nương rẫy. Lương thực chính là gạo, bao gồm cả gạo tẻ và gạo nếp. Sau
gạo, nguồn lương thực quan trọng thứ hai là ngô. Ngô thường được xay thành bột
để nấu cháo đặc. Ngoài ra, khi thiếu đói họ còn tìm các loại củ như củ mài, củ bấu
hoặc các loại bột như bột đao, bột báng để chế biến đồ ăn.
Người Dao có tục chia làm hai mâm trong khi ăn. Gian trước bàn thờ được bố
trí bàn ăn cho nam giới và khách. Nữ giới ăn ở gian bên trong và thường được bố
trí ngồi ở một chiếc bàn thấp. Nồi cơm được để ở gần chân cột nhà, giữa khoảng
cách của 2 mâm. Gian ngoài (chỗ ăn của nam giới) và gian trong (chỗ ăn của nữ
giới) được ngăn bằng một miếng liếp nhỏ, thấp. Đối với các bữa ăn khi gia đình
có khách, cô gái ở gian trong thỉnh thoảng đứng dậy quan sát mâm cơm qua vách
ngăn này, nếu thấy các bát đựng thức ăn đã vơi, họ sẽ chủ động tiếp thêm chứ
không bao giờ để người trong mâm phải đứng dậy lấy hoặc gọi tiếp. Trong bữa
ăn thường ngày, ai có nhu cầu ăn cơm tiếp thì tự đi xúc lấy. Khi gia đình có khách
quý, ngoài việc chuẩn bị thêm 1 - 2 đồ ăn ngon họ luôn bố trí một bát to đựng cơm
cho khách tự xẻ.
Nhìn chung, đồng bào người Dao rất coi trọng việc ăn uống trong dịp tết, nhất
là tết Thanh minh, rằm Tháng bảy và tết Nguyên đán. Đây là các kỳ nghỉ lao động,
sản xuất. Do vậy, bà con thường chuẩn bị thực phẩm hết sức công phu, cách chế
biến món ăn cũng đa dạng và cầu kỳ. Các món đặc sản của người Dao :
Bánh chim gâu : là một loại bánh mang ý nghĩa của tình mẫu tử và đòi hỏi sự
cầu kỳ, tinh tế trong cách làm bánh. Nguyên liệu chính để làm bánh là gạo nếp và
không thể thiếu được lá dứa rừng . Người làm bánh có thể trộn thêm một chút đậu
xanh, hay nhuộm gạo các màu bằng các loại lá cây hoặc ngâm gạo bằng nước tro
nẳng để tạo thêm hương vị khác nhau. Chuyện xưa kể rằng, tháng ba vào mùa
nương rẫy, các bà, các chị tất bật, làm lụng cả ngày thu quả tra hạt vắng nhà. Đi
làm nương, nhưng người mẹ luôn hướng về những đứa con đang ngóng mẹ. Lúc
nghỉ trên nương, người mẹ Dao tranh thủ dùng những chiếc lá dừa rừng này đan
vỏ bánh chim, để cuối ngày trở về gia đình nhồi gạo làm bánh cho con. Chiếc
bánh chim gâu như món quà đầy tình mẫu tử dành cho những đứa con yêu của
mình. Bánh chim gâu giờ không chỉ là món ăn trong gia đình vào những ngày
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 53
rằm, ngày tết mà đã vượt ra khỏi ranh giới ngôi nhà sàn truyền thống của đồng
bào đến với các lễ hội. Và có thể nhờ thứ lá vỏ bánh và vị thuốc chữa một số bệnh
mà bánh chim gâu trở thành đặc sản được các thực khách yêu thích dùng nhiều
hơn trong nay mai.
Thịt lợn hun khói : Thịt lợn hun khói của đồng bào dân tộc ở Tây Bắc đã có
rất lâu, và trở thành một đặc sản của địa phương. Thịt lợn hun khói ở đây mang
đậm phong vị núi rừng, ăn rồi mới thấy khác. Hằng năm cứ đến mùa đông người
dân mới chọn những miếng thịt lợn ngon về, thái mỏng, rồi treo lên gác bếp. Hơi
nóng của lửa sẽ làm cho miếng thịt săn lại, mỡ chảy ra, thịt hun khói được chế
biến thành nhiều món khác nhau như: luộc, nướng, xào, hoặc kho cùng củ cải…
rất đa dạng.
Lạp sườn treo gác bếp : Lạp sườn ở vùng cao được chế biến cầu kỳ hơn ở vùng
đồng bằng. Cũng giống như thịt lợn hun khói, sau khi chế biến, từng cặp lạp sườn
lại được treo lên nóc bếp ngay để hóng khói và hơi của lửa. Người ta chế biến lạp
sườn bằng cách đem lòng lợn rửa sạch nhiều lần, cuối cùng là rửa bằng rượu. Sau
khi làm vệ sinh sạch sẽ, lòng lợn được phơi khô rồi thổi hơi vào trở thành bong
bóng, để làm vỏ bao bọc bên ngoài của lạp sườn. Nhân của lạp sườn được làm
bằng thịt thăn, thịt vai hoặc thịt mông lợn. Thịt được băm nhỏ và tẩm ướp gia vị,
sau cùng là chút rượu để làm chất lên men, rồi nhồi vào bong bóng. Công đoạn
tiếp theo là phơi khô khoảng ba nắng, rồi treo lên nóc bếp, khói và hơi nóng của
bếp lửa làm cho miếng thịt săn hơn và ngon hơn. Lạp sườn được chế biến theo hai
cách, đó là thái lát rồi đem hấp trước khi ăn hoặc có thể đem rán.
Măng cuốn thịt (măng đắng) : Măng phải chọn đúng măng vầu, sau đó luộc
chín rồi lạng mỏng sao cho vừa miếng để quấn thịt. Nhân của món măng cuốn có
thể chọn là thịt thăn, mông, vai. Thịt băm nhỏ, trộn gia vị rồi cuốn măng đem hấp
hoặc đồ cho tới chín. Măng cuốn thịt có vị đắng quyện với vị ngọt của thịt, tạo
cho người ăn có cảm nhận khác lạ và rất ngon miệng.
Về thức uống : Trong sinh hoạt hàng ngày, đồng bào Dao thường uống nước
chè. Chè được hái từ các cây cổ thụ, gọi là chè tuyết. Hái xong, họ sao chè trong
các chảo gang cho đến khi khô thì đút vào ống nứa to, bịt kín lại và để trên gác
bếp. Loại đồ uống phổ biến thứ hai trong sinh hoạt của người Dao là rượu. Rượu
được dùng khi tiếp khách, làm lễ, hay dùng uống sau khi lao động mệt nhọc và
trong các bữa ăn… Rượu là một trong những nét đẹp văn hoá truyền thống của
dân tộc Dao, trong lòng mỗi người dân đều ý thức được việc lưu truyền lại bí
quyết nấu rượu để giữ gìn và bảo lưu phong tục của dân tộc mình. Họ rất tự hào
khi mang những giọt rượu đã chưng cất cầu kỳ phục vụ khách phương xa. Rượu
Cao Lương là một loại rượu nổi tiếng của dân tộc Dao. Rượu Cao Lương có vị
ngọt, thơm của Cao Lương, xen lẫn trong vị cay, nóng của men rượu và quyện
trong đó là tình cảm đặc biệt của người chế biến chứa đựng trong từng ly rượu.
Trang phục
Mỗi nhóm người Dao khác nhau thì có những kiểu trang phục khác nhau. So
với các dân tộc khác thì dân tộc Dao được coi là còn giữ được nhiều nét bản sắc
trang phục của mình với chất liệu bằng vải bông nhuộm chàm, màu xanh, đỏ, đen,
tím than hoặc để trắng.
Đàn ông Dao khi xưa để tóc dài búi sau gáy hoặc để chỏm tóc trên đỉnh đầu,
vấn khăn đầu rìu. Y phục thường quần áo ngắn hoặc dài màu chàm. Ngoài áo cổ
truyền, người đàn ông Dao còn mặc áo cánh như nông dân người Việt.
Trang phục của phụ nữ phong phú hơn, hiện vẫn giữ được các nét hoa văn
truyền thống. Phụ nữ người Dao ưa dùng trang sức nhẫn, vòng tay, vòng cổ và
hoa tai hạt cườm, hoặc bằng ngà voi. Trang phục truyền thống của người phụ nữ
Dao vẫn giữ được nét cổ truyền dân tộc như:
Phụ nữ Dao Đỏ để tóc dài vấn xung quanh đầu, đội khăn bằng vải dỏ, quần
áo màu chàm, nhưng có thêu nhiều loại hoa văn bằng chỉ màu đỏ là chủ yếu.
Phụ nữ người Dao Quần chẹt thì lại khác, họ cắt tóc ngắn, chải sáp ong, đội
khăn màu chàm, ống quần hẹp, bó sát vào chân, chiều dài chỉ đến đầu gối.
Phụ nữ Dao Lô Gang nói chung về trang phục cũng gần giống phụ nữ quần
chẹt, chỉ khác ở chiếc khăn đội đầu, vì có nhiều chiếc khăn vuông 20 cm x 20 cm
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 55
chồng lên nhau, nó được giữ chắc ở trên đầu bằng chuỗi hạt cườm thuỷ tinh, nhiều
màu sắc.
Phụ nữ Dao Tiền cắt tóc ngắn, đội khăn dài màu chàm, thêu nhiều màu ở hai
vai trước, cổ áo mở về phía sau gáy, chỗ xẻ tà có gắn mấy đồng tiền. Phụ nữ Dao
Tiền mặc váy màu chàm, hoa văn ở gấu váy in màu sáp ong, đây là nét đặc trưng
của họ.
Đối với trang phục của phụ nữ Dao Quần trắng, thì chiếc khăn đội đầu và chiếc
yếm là hai nét nổi bật, khăn vuông thêu nhiều màu sặc sỡ, chiếc yếm to và dài che
kín cả ngực đến bụng, được thêu bằng nhiều các hoa văn hoặc đất bằng nhiều màu
ngang. Ngày thường vẫn mặc bộ quần áo màu chàm, trong sinh hoạt, trong lao
động và giao tiếp cộng đồng, còn quần trắng chỉ được mặc khi cô dâu làm lễ cưới
về nhà chồng, đó là nét đặc điểm của phụ nữ Dao Quần trắng.
Còn phụ nữ Dao Thanh Y họ để tóc dài vấn khăn trên đỉnh, đội mũ, trông xa
giống như hình cái đấu, đỉnh mũ gắn ngôi sao bằng bạc, xung quanh vành mũ gắn
nhiều hình vẩy đá bằng bạc.
Trang phục của phụ nữ Dao áo dài tương tự giống như Dao Thanh Y chỉ có
khác là cái mũ dẹt như cái đĩa, đó là đặc điểm trang phục của các nhóm phụ nữ
người Dao hiện nay, đồng thời còn bảo tồn nét đẹp văn hoá truyền thống.
Nhà ở
Về cấu trúc nhà ở của người Dao có ba loại nhà: nhà sàn, nhà đất, nhà nửa sàn
nửa đất. Nguyên vật liệu làm nhà là bằng các loại cây rừng, gỗ, tre, nứa, buông,
luồng, lợp bằng phên, nứa hoặc cỏ tranh… rất chắc chắn, đơn giản nhưng được
kết hợp khéo léo toát lên sự kín đáo, tế nhị của người á Đông. Kiểu nhà truyền
thống của người Dao quần trắng là nhà sàn, thường được làm ba gian, cách chắp
nối các cấu kiện bằng nguyên liệu rời. Tuy nhiên, họ không phải dùng đinh trong
quá trình lắp ghép nhà ở. 8 cột cái trong nhà được làm bằng những cây gỗ quí, có
tuổi rất già 80-90 năm. Mỗi lần chuyển nhà, họ có thể bỏ phên, tranh tre nứa lá
còn những cột cái bằng gỗ quí có sức bền với thời gian thì họ chuyên chở đi để
làm ngôi nhà nơi ở mới.
Kiểu nhà này chỉ có một cầu thang lên xuống, cầu thang có số bậc lẻ; trong
nhà thường có hai bếp. Nhà người Dao đỏ làm nửa sàn nửa đất ở lưng chừng đồi.
Cách chọn hướng nhà thì cũng như các dân tộc khác.
Làng của người Dao được xây dựng ở gần các con nước hoặc những nơi có
nguồn nước để dẫn nước về nhà. Người Dao có tập quán mỗi khi có gia đình dựng
nhà mới người cùng làng sẽ đến tương trợ, giúp đỡ mọi công việc cho đến khi
dựng xong nhà.
Lễ hội
Lễ hội Cầu mùa là một lễ hội của người Dao Tuyển. Đây là nét văn hóa truyền
thống tốt đẹp của người Dao Tuyển, không cầu kỳ nhưng mang nhiều yếu tố tâm
linh sâu sắc của cả cộng đồng.Trước khi mở hội người già trong bản, phân công
là những người có uy tín, người cao tuổi làm bàn thờ cho ngày lễ. Cột bàn thờ
được làm bằng bốn cây gỗ, xung quanh đan bằng nan nứa, phía bên trong đặt ba
ống bầu to dùng làm bát hương. Ba bát hương đó thể hiện có trời có đất có con
người, trong có đặt một ít tiền vàng mã. Dưới gầm bàn thờ là một bó ngọn mía
như muốn cho mọi điều ngon ngọt. Khi vào lễ, bốn người trẻ tuổi ăn mặc chỉnh tề
đội lễ từ bốn hướng đi về nơi được chọn làm lễ. Trên mâm lễ là gà luộc, bánh
chưng, bánh mật, tiền vàng mã. Trong các mâm lễ người ta quan niệm phải có
nam có nữ vì thế nhất thiết là các con gà trên mâm lễ có cả gà trống, gà mái. Thầy
mo đọc bài cầu khấn trời đất cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, bội thu,
con cháu học hành thành đạt, nhà nhà no đủ. Cầu mong mọi sự bình yên, giảm đói
nghèo. Sau đó, Tất cả mọi người cùng nhau tham gia các trò chơi dân gian kéo
co, đẩy gậy, ném còn. Trong trò chơi ném còn người Dao quan niệm rằng nếu ai
ném quả còn qua vòng đầu tiên trong lễ hội là người đó gặp nhiều may mắn trong
năm.
Lễ hội lập tịch ( lễ cấp sắc) là một lễ hội của đồng bào dân tộc Dao Họ, bản
Khe Mụ, Sơn Hà, Bảo Thắng, Lào Cai. Giống như lễ thành đinh của các dân tộc
trên thế giới. Đó là nghi lễ đánh dấu một giai đoạn của cuộc đời con người, giai
đoạn từ tuổi thiếu niên lên tuổi trưởng thành, được cộng đồng công nhận có vị trí
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 57
trong đời sống và sinh hoạt. Là sự công nhận chính của cộng đồng, sự chấp nhận
của thần linh cho chàng trai đó có đầy đủ mọi tiêu chuẩn của một thành viên chính
thức của cộng đồng. Lễ lập tịch là một lễ hội vừa phong phú vừa phức tạp, trong
đó chứa đựng rất nhiều các các phong tục, tín ngưỡng của dân tộc Dao Họ. Nó
gồm nhiều loại hình múa, nhạc, lễ và đặc biệt là số lượng lớn những bài cúng do
các thầy cúng đọc từ các sách đã được quy định từ lâu đời, có ý nghĩa rất quan
trọng đến đời sống vật chất vào tâm linh của tộc người này. Để làm được một lễ
lập tịch cần phải chi phí khá tốn kém về mặt kinh tế, do đó không phải ai cũng có
thể làm được, dù rằng đó là điều mong ước của mọi gia đình. Bởi vì, khi chưa làm
lễ này thì người đàn ông cho đến khi chết vẫn chỉ là người thường, không có vai
trò gì trong cộng đồng. Đến những nơi thiêng liêng anh ta không được quyền vào,
không được coi trọng trong các buổi hội hè, ăn uống, mà chỉ là người phục vụ
bình thường.
Lễ hội nhảy lửa là một lễ hội của đồng bào dân tộc Dao đỏ. Thường từ mồng
2 đến mồng 5 tháng giêng âm lịch, những người xa quê chuyến đi đầu xuân trở về
quê hương, dự lễ hội khai xuân. Những già làng, các ông trưởng họ cùng với thanh
niên chuẩn bị những thứ cần thiết, các vật lễ như đồ cúng, thực phẩm, lương thực,
bánh trái dành cho bữa ăn trưa.Vào đúng giờ tốt, những đồ lễ mang tính dân tộc,
theo tập quán được bày ra một chiếc bàn dài, nơi được coi là chỗ trang nghiêm
nhất, trước chiếc sân rộng. Một đống củi to đã được thanh niên mang đến, như
đống củi thường đốt trong những đêm lửa trại. Ông chủ lễ bắt đầu ngồi xuống
ghế, phụ lễ và bài cúng thần lửa được cất lên bằng những câu cầu may cho một
năm mới, một cuộc sống bình yên, hạnh phúc, cầu mong "mưa thuận, gió hòa",
muôn nhà khỏe mạnh. Chủ lễ mong cầu thần lửa mang hơi ấm của mình về sưởi
ấm dân làng, về vui cùng lễ hội. Trong lúc cầu khấn, cũng là lúc người phụ lễ
dùng một gióng vầu tre đã được chuẩn bị từ trước, được chẻ đôi, cầm chặt vào
nhau như chưa hề chẻ ra, gieo xuống bàn. Gieo quẻ xin âm dương, khi hai mảnh
tre hay vầu cùng ngửa, hay cùng sấp thì cũng có nghĩa là thần lửa đã đồng ý về
vui cùng dân bản, còn một sấp, một ngửa thi phải xin lại, đến lúc nào được thì
thôi. Đống củi được đốt lên, trở thành một đống than hồng rừng rực cháy. Những
người muốn được nhảy lửa đã ngồi "hầu lễ" từ đầu buổi lễ, họ lấy que tre gõ liên
tục vào những nửa ống vầu đã chuẩn bị sẵn và sẵn sàng ngồi xin thần lửa, chủ lễ
lại tiếp tục "gieo quẻ xin âm dương", đến khi thần lửa đồng ý. Từng đôi một nhảy
lửa, họ đi chân không trên đống than, họ nhảy, họ lăn vòng trên than hồng khi lửa
còn lem lém bốc cháy theo từng bước chân của họ. Và khi những đôi bắt đầu được
thần lửa đồng ý cho nhảy lửa thì cũng là lúc các đôi khác tiếp tục vào "hầu lễ" để
được là người nhảy lửa. Tiếp theo, cứ đôi nọ, nối tiếp đôi kia cho đến khi đống
than hồng tắt lịm dưới những đôi chân trần đen nhẻm do than để lại.
Lễ tết nhảy là lễ hội của đồng bào dân tộc Dao Quần Chẹt, nhằm hậu tạ tổ
tiên và chuẩn bị làm lễ hứa đầu năm mới. Theo quan niệm của người Dao Quần
Chẹt, trong cuộc sống con người phải trải qua nhiều trắc trở, rủi ro, hàng năm phải
khấn trời đất, thần linh, tổ tiên để được cứu giúp, trừ giải những oan trái, bất hạnh,
ban cho những điều may mắn, hạnh phúc. Hàng năm cứ đến ngày 15.12 âm lịch,
Họ sửa sang thay mới ban thờ, làm bánh ống (gói bằng lá quận chặt hai đầu) và
làm bánh dầy. Lễ “hứa” đầu năm là một thủ lợn tượng trưng cho con lợn khoảng
(10 - 15kg), 5 chiếc bánh dầy hoặc bánh ống, nhà nào không có lợn thì thịt một
con vịt hoặc 3 con gà đặt lên ban thờ cúng tổ tiên để cầu lộc, cầu tài và gánh vác
mọi công việc như: tai họa, trừ tà ác... Là Tết của gia đình nhưng lại được cả bản,
cả vùng coi như Tết chung. Tất cả đều đến tham gia múa nhiều điệu múa truyền
thống như múa cờ, múa tế rùa, múa kiếm, múa chuông... Trước ban thờ Bàn
vương, ông thầy múa đi trước, theo sau là một tốp thanh niên (khoảng 10 người)
nối tiếp nhau vừa đi, vừa diễn tả các động tác múa minh họa, cùng với tiếng trống,
tiếng cồng, tiếng chiêng và tiếng hú, tiếng hò vang tạo thành không khí tưng bừng,
nhộn nhịp làm rung động cả vùng núi rừng. Trong suốt thời gian nhảy, chủ nhà
mổ lợn, gói bánh để đãi khách. Họ vừa cúng, vừa uống rượu, ăn cỗ, múa hát thay
phiên nhau liên tục trong nhiều ngày.
Chợ tình là một nét văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc Dao ở vùng
Tây Bắc nước ta nói từ xa xưa. Đó là do các bản làng ở xa, chợ phiên thường họp
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 59
mỗi tuần một buổi vào sáng chủ nhật. Đêm hôm trước (thường là ngày thứ 7 hằng
tuần), nam thanh nữ tú ở các làng xã vùng xa đến trước buổi chợ để cùng qua đêm
gặp gỡ, giao lưu tình cảm (thường là chơi trò kéo co, thổi khèn lá, hát giao
duyên…) theo phong tục truyền thống của dân tộc mình. Sau đêm đi chơi chợ
phiên, nhiều đôi trai gái đã trở nên thân thiết và hẹn gặp lại trong phiên chợ sau.
Mùa xuân sau, trong số đó có không ít đôi đã trở thành bạn đời trăm năm. Chợ
tình là nơi hò hẹn, trao gửi tình cảm, có những cử chỉ yêu đương diễn ra ở chợ
theo phong tục, tập quán tuỳ từng địa phương. Chợ tình nhiều người biết đến nhất
là chợ tình Sapa - một điểm du lịch hấp dẫn đối với khách du lịch cả trong và
ngoài nước. Cái thị trấn nhỏ bé này nằm lọt trong một vùng tiểu khí hậu ôn đới,
mát mẻ quanh năm. Có những năm mùa đông tuyết rơi nên thật lãng mạn, hấp dẫn
du khách. Mỗi tuần, chợ họp một lần vào tối thứ Bảy. Đây là chợ của người Dao.
Từ chiều, dưới phố và ở sân nhà thờ đã thấy rất nhiều phụ nữ đầu quấn khăn đỏ
và mặc trang phục thêu hoa văn lộng lẫy cùng với những vòng bạc, khuy bạc,
những đồng tiền nhỏ đính trên vai áo. Hấp dẫn hơn nữa là có những tiếng reo theo
mỗi bước chân, từ những chùm lục lạc đồng xinh xắn đính trên những chiếc khăn
choàng đầu. Đối tượng của họ là những chàng trai người Dao trong trang phục áo
Chàm, khăn cùng màu, tay đeo đồng hồ và vai khoác chiếc đài cassette. ở một góc
nọ, dăm bảy chàng trai xúm quanh một cô gái, họ đưa những chiếc máy catssette
của họ vào gần cô gái để ghi âm những khúc hát tỏ tình bằng tiếng dân tộc. Thấy
có người lạ, cô gái xấu hổ cúi đầu hoặc lấy tay che mặt, nhưng vẫn hát với giai
điệu run run.
Văn hóa, nghệ thuật dân gian
Người Dao có nền văn hoá lịch sử lâu đời và tri thức dân gian rất phong phú,
đặc biệt là học cổ truyền. Họ không có văn tự riêng mà sử dụng chữ Hán đã được
Dao hoá gọi là chữ Nôm Dao. Tiếng nói của họ thuộc ngữ hệ H’Mông - Dao .
Xưa kia người Dao mặc dầu phải sống trong điều kiện có nhiều khó khăn, vất
vả nhưng vốn là dân tộc biết chịu đựng những thử thách, gian nan, rất tha thiết
yêu quê hương, mảnh đất mà họ đang sinh sống, trải qua bao thế hệ, họ đã lao
động, sáng tạo ra cả một kho tàng văn hoá, văn nghệ dân gian rất phong phú và
đa dạng, làm giàu thêm đời sống tinh thần, thể hiện trong nhiều truyện cổ, nhiều
bài hát dân ca đối đáp giữa nam và nữ. Khi ở trên nương có tiếng cô gái Dao cất
lên tiếng hát: “Trên đời quý nhất thứ gì? Mong anh giải đáp em thì được hay"; ở
phía bên kia con suối có mấy chàng thanh niên Dao liền hát đối đáp lại: “Em hỏi
anh trả lời ngay: Trên đời quý nhất bàn tay cần cù''.
Họ có kho tàng truyện cổ tích, thơ ca, hò vè được phổ biến rộng rãi, kể về các
đề tài: đấu tranh với thiên nhiên, lao động sản xuất, quan hệ xã hội và gia đình,…
thể hiện ước vọng có được cuộc sống ấm no, hạnh phúc v.v… như những truyện
“Hai chị em”, “Bắt yêu tinh”; như: “múa chuông”, “múa trống”. Các nhạc cụ
truyền thống được sử dụng như: trống, chiêng, chuông.Tiêu biểu là truyện ''Quả
bầu'' với nạn hồng thuỷ, sự tích bàn vương, rất được phổ biến. Riêng múa và nhạc
cụ quy định: Phần nhiều được sử dụng cho nghi thức tôn giáo.
Nhạc cụ
Theo phong tục, mỗi gia đình người Dao Đỏ đều phải có một bộ trống và khèn
(một bộ gồm một trống và một khèn) để phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt văn hóa
vào những ngày lễ tết, cưới hỏi...
Cách làm trống của người Dao Đỏ khá công phu, tỉ mẩn. Mặt trống được chọn
lựa từ da bò, trâu, sơn dương nhưng phải có độ mỏng cần thiết, nếu da dày thì phải
bào mỏng thêm mới có thể dùng được. Sau đó, da được đem phơi nắng hoặc để
gác bếp 10-15 ngày. Tang trống được lấy từ gỗ mít đã bị rỗng, hoặc khoét thủng
ruột, sau đó vót tròn, vót bóng xung quanh, làm sao cho tang mỏng, nhẹ nhưng
vẫn bền và chắc. Thông thường, da mặt trống sẽ được giữ vào tang trống bằng
cách đóng đinh chết vào nhưng với cách làm trống của người Dao Đỏ là dùng các
dây mây dẻo, bền nối lại hai mặt trống. Sau đó người thợ sẽ dùng các thanh gỗ
nhỏ đã được vót đều gọi là nêm đóng chặt vào tang trống để kéo các sợi mây đan
vào với nhau để cho da mặt trống căng ra mới có thể tạo ra âm thanh trầm bổng.
Các thanh gỗ dăm găm tròn xung quanh tang trống trống như những cánh hoa nhỏ
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 61
chính là nét độc đáo của trống người Dao Đỏ so với một số loại trống của một số
dân tộc khác ở nước ta.
Âm thanh của trống,khèn của người dân tộc Dao được tạo ra từ sự khéo léo
của người làm công cụ và người sử dụng chúng. Điều đó làm cho các nhạc cụ của
dân tộc Dao mang một vẻ đặc trưng của dân tộc mình, phản ánh được tâm hồn,
cuộc sống của đồng bào Dao.
Thiết chế xã hội
Tín ngưỡng của người Dao là tín ngưỡng đa thần “vạn vật hữu linh” mang dấu
ấn của Nho giáo và Đạo giáo chính thống. Tư tưởng Nho giáo được thể hiện rõ
trong cách phân định tôn ti, trật tự, theo thứ bậc ở mỗi gia đình, mỗi dòng họ.
Đồng thời, Đạo giáo ảnh hưởng bao trùm hầu hết các phong tục tập quán thờ cúng
tổ tiên (Bàn Hồ – Bàn Vương), được thể hiện qua lễ đặt tên cho con trai và cấp
sắc cho người làm thầy cúng... Người Dao quan niệm khi chết thì chỉ chết về thể
xác, còn linh hồn mãi mãi bất diệt “quay về với tiên tổ”.
Dưới chế độ thực dân phong kiến xưa kia, người Dao phải sống trong cảnh
nghèo nàn, lạc hậu vì điều kiện canh tác và cư trú là khác nhau. Xã hội người Dao
bị kìm hãm kém phát triển, là sống có sự chênh lệch giữa các vùng, miền, giữa
các nhóm người Dao với nhau. Bọn thực dân phong kiến lợi dụng chính sách "chia
để trị'' rất thâm độc và tàn ác, đặt ra bộ máy cai trị người Dao để gây chia rẽ, mâu
thuẫn giữa những người cùng đồng tộc với nhau, chúng chỉ cho người Dao tự quản
''tự trị” từ Cấp Châu trở xuống để làm công cụ cho chúng bóc lột.
Bên cạnh bộ máy cai trị, đế quốc, phong kiến hà khắc, xã hội Dao lại còn tồn
tại một số tàn dư của tổ chức công xã nông thôn từ thời xa xưa do đó cũng làm
hạn chế sự phát triển của toàn xã hội. Trong sử thi của người Dao xưa có nòi:
Cộng đồng của dân tộc Dao có đến 12 họ, nhưng trong thực tế thì số họ nhiều hơn,
mỗi một họ lại có những kiêng ky riêng biệt như dùng lễ vật để cúng tổ tiên cũng
khác nhau, những người cùng trong họ cấm không được có quan hệ hôn nhân với
nhau.
Song ngày nay, sự cấm kỵ này đã phai nhạt dần, chỉ còn cấm những người
cùng một chi họ với nhau là tuyệt đối không được có quan hệ hôn nhân với nhau.
Mỗi chi lại có nhiều tông tộc, đứng đầu mỗi tông tộc là tộc trưởng, có hệ thống
tên đệm riêng, được sử dụng tên đệm cho mỗi chi họ như một chu kỳ khép kín.
Gia đình của người Dao là một gia đình nhỏ phụ quyền, chủ gia đình là người
cha hoặc con trai trưởng ( khi cha già yếu người con này được quyết định mọi
công việc trong nhà. Tuy là các thành viên khác nhau trong gia đình cũng được
tham gia góp ý kiến, đề xuất những việc quan trọng như: Dựng vợ gả chồng, làm
nhà mới, di chuyển chỗ ở, tìm nương rẫy mới đều sản xuất.
Xã hội truyền thống của người Dao là hôn nhân một vợ một chồng, cô dâu cư
trú hẳn bên nhà chồng. Sau khi làm lễ cưới vẫn mang màu sắc gả bán, chú rể phải
ở rể có thời hạn, hoặc ở rể vĩnh viễn. Những nghi thức thủ tục từng bước diễn ra,
trong hôn lễ vẫn khá phổ biến và tồn tại trong xã hội người Dao hiện nay.
Người Dao còn bị ảnh hưởng nhiều bởi tôn giáo – tín ngưỡng nguyên thuỷ,
nhất là tam giáo và đạo giáo đã ảnh hưởng sâu sắc đến xã hội người Dao. Người
Dao tin rằng vạn vật đều có linh hồn gọi là vần. Khi mọi thực thể bị chết (bị huỷ
diệt) thì hồn lìa khỏi xác và biến thành ma. Theo quan niệm người Dao thì bất kỳ
ở đâu, cả trong trời đất, vũ trụ bao la đều có hồn và ma người, cũng chia ra làm
hai loại: Ma lành và ma dữ. Ma lành thì ban phúc, ma dữ thì giáng hoạ, nhưng nếu
làm điều gì để ma lành phật ý thì cũng có thể bị quở trách, gặp phải những điều
không hay.
Những ma lành gồm có tổ tiên, Bàn vương, ma đất, ma bếp, thần nông, Ngọc
Hoàng, Thượng Đế, tam thánh. Người Dao tin rằng: Mỗi con người ta đều có 12
hồn hoặc 3 hồn 7 vía, trong số 12 hồn này thì có 1 hồn chính quyết định sự sống
của con người, khi ngủ hồn thoát ra khỏi cơ thể để chu du ở thế giới bên kia, khi
nằm mơ mới thấy điều kỳ diệu đó. Xuất phát từ quan niệm đó, nên người Dao tin
ở những giấc mơ, giấc mộng giữa hai thế giới linh hồn và thế giới trần gian huyền
ảo và hư lực luôn đảo ngược lẫn nhau. Người Dao còn tin có ma Ngọ Hải giống
như ma gà, ma kỳ lân. Cũng giống như quan niệm ma người Tày, Nùng, người
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 63
Dao cũng tin ở ma thuật, ma thuật phòng thủ, ma thuật làm hại, ma thuật chữa
bệnh. Ngoài ra, người Dao có nhiều tín ngưỡng liên quan đến nền sản xuất nông
nghiệp, thờ cúng các ma, nó đã từng đi sâu vào trong đời sống xã hội, tinh thần
của người Dao ở bao đời nay, nó còn tồn tại nhiều tục lệ phức tạp.
2.2.3.2 Nhận xét về văn hóa dân tộc Dao
Dân tộc Dao có một nền văn hóa rất phong phú và đậm đà bản sắc thể hiện
qua nhiều phong tục, nhiều điệu múa đẹp, nhiều bài hát hay, kho tàng truyện cổ
tích, thần thoại, ngụ ngôn, ca dao, thành ngữ, chiêm tinh, tướng số, câu đố...
Nhưng cũng giống các dân tộc thiểu số khác chủ yếu tồn tại dưới dạng truyền
khẩu, vốn này ngày nay cũng bị mai một, thất truyền với những lý do khách quan
cũng như chủ quan.
Đồng bào Dao có nhiều phong tục kỳ lạ như trong hôn nhân, Nam giới phải ở
rể từ hai đến ba năm, có khi ở luôn nhà vợ (nếu ở luôn nhà vợ thì phải đổi họ bên
vợ). Họ còn có tục dùng bạc trắng để định giá cô dâu, theo nghĩa đen là mua và
gả bán, số bạc ấy sau này sẽ là của đôi vợ chồng trẻ. Ngày cưới, cô dâu trang điểm
rất đẹp, đội mũ màu đỏ, có hoa văn; cổ và tay đeo nhiều vòng bạc. Ngày cưới,
đoàn đưa cô dâu, có cả thầy cúng, và thổi kèn, đánh chiêng, khua trống, rung nhạc.
Tới nhà chồng, cô dâu phải qua nhà tạm, khi được giờ thì mới được vào nhà chồng.
Lên tới nhà chồng, cô dâu phải “rửa tay”, bước qua chậu than hồng và nhiều nghi
thức khác... trước sự chứng kiến của hai họ rồi mới bước qua cửa vào nhà với ý
nghĩa là “Từ nay đoạn tuyệt với con ma họ ngoại và từ nay theo con ma họ nhà
nội”. Sau khi vợ chồng lấy nhau, khi sinh con đầu lòng thì họ đẻ ngay tại buồng
ngủ của mình. Ba ngày đầu, các cửa ra vào đều phải cắm lá kiêng không cho người
lạ vào nhà. Gia đình dân tộc Dao tồn tại bền vững theo chế độ phụ quyền, người
con gái không có tên trong chúc thư, không được thừa kế tài sản của gia đình.
Người ta nói : “ẩm thực Dao không tinh tế như ẩm thực Mường, không đẹp
mắt như ẩm thực Kinh nhưng mỗi món ăn lại toát lên được nét đẹp mộc mạc của
các loại nguyên liệu địa phương”. Tất cả đều rất đơn giản không cầu kỳ và thật
phù hợp với thực khách ưa thích sự mới mẻ khi tìm hiểu về các món ăn dân tộc.
2.2.4 Văn hoá dân tộc H’ Mông
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 65
2.2.4.1 Đặc điểm
Khái quát
Người Mông vùng Tây Bắc có 473.514 người chiếm tới 60,12% tổng
số người Mông cư trú ở toàn quốc. Người Mông vùng Tây Bắc là một dân tộc
có tính truyền thống văn hóa giàu bản sắc, có tính sáng tạo, nhiều thành tựu
đạt đến đỉnh cao, thích ứng với môi trường khắc nghiệt. Người Mông vùng
Tây Bắc cư trú đông nhất ở tỉnh Lai Châu (có 170.460 người), tiếp đến là tỉnh
Lào Cai (có 123.778 người), tỉnh Sơn La (có 114.578 người), tỉnh Yên Bái (có
6.073 người), tỉnh Hòa Bình (có 2.027 người). Địa bàn cư trú của người Mông
là các dãy núi cao nhất nước ta. Độ cao bình quân của các làng người Mông
cư trú từ 900 đến 1.600m. Đây là vùng đất cao nhất, hiểm trở nhất. Độ chia cắt
sâu, chia cắt ngang từ lớn đến rất lớn. Địa hình phức tạp gây nhiều khó khăn
cho đời sống văn hóa.
Người Mông trong quá trình phát triển tộc người đã sáng tạo một số
thành tựu văn hóa rực rỡ về nhiều lĩnh vực. Đời sống văn hóa tinh thần của
dân tộc Mông rất phong phú. Từ lễ thức dân gian gắn liền với chu kỳ đời người
đến sinh nở, cưới xin, tang lễ bao gồm nhiều nghi lễ khác nhau phản ánh các
quan niệm về vũ trụ, về nhân sinh, về lịch sử xã hội, về cộng đồng dân tộc là
một hiện tượng văn hóa đặc sắc.
Hoạt động kinh tế
Cơ cấu kinh tế truyền thống của người Mông gồm 3 bộ phận chính: trồng
trọt, chăn nuôi và hái lượm, tiểu thủ công nghiệp và trao đổi. Cơ cấu kinh tế
này tạo ra thế “chân kiềng” trong phát triển, nhờ nó người Mông xác lập được
thế cân bằng, duy trì sự bền vững tương đối ở môi trường thiên nhiên có nhiều
bất lợi cho sản xuất lương thực. Trong cơ cấu kinh tế truyền thống, trồng trọt
luôn đóng vai trò chính, chăn nuôi, nghề thủ công chỉ đóng vai trò phụ và luôn
phụ thuộc vào trồng trọt. Ngoài ra, kinh tế hái lượm, trao đổi hàng hóa ở chợ
phiên cũng thực hiện chức năng hỗ trợ cho nông nghiệp. Cơ cấu kinh tế này
tồn tại như một hệ thống chỉnh thể, thực hiện các chức năng hỗ trợ cho nhau,
khuyết một trong những yếu tố đó, toàn bộ đời sống người Mông sẽ mất cân
đối.
Trong kinh tế truyền thống, tuy ở vùng cao điều kiện tự nhiên khó khăn
nhưng ở người Mông đã sáng tạo và xác lập mô hình canh tác nương rẫy thích
hợp với từng tiểu vùng khác nhau.Người Mông cư trú ở bất cứ môi trường nào
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 67
đều tạo ra khả năng thích nghi một cách linh hoạt. Người Mông khu vực Tây
Bắc cư trú ở vùng núi đá đã canh tác trên loại hình nương thổ canh hốc đá.
Các mảnh nương này nằm cheo leo trên các sườn núi đá vôi nhỏ hẹp. Ơ khu
vực rừng già, người Mông phát rừng làm nương dốc, loại nương dốc này dễ bị
xói mòn nên người Mông chỉ canh tác được vài ba vụ phải di chuyển luân
canh. Trên các sườn đồi nương thoai thoải, ít dốc người Mông khai khẩn thành
các nương bậc thang. Nương bậc thang bề ngang hẹp nhưng tương đối bằng
phẳng, xung quanh nương đồng bào đắp bờ nhỏ để giữ ẩm giữ nước mưa.
Nương bậc thang là gạch nối giữa ruộng và nương. Tuy nhiên nương bậc thang
chưa phải là ruộng vì thiếu nước và đất có độ thẩm thấu lớn. Quy trình khai
khẩn ruộng bậc thang là một điển hình ở thế xử linh hoạt với môi trường.
Người Mông thường khai khẩn đất canh tác ngay sau khi ăn tết. Công việc làm
ruộng bậc thang rất nặng nhọc nên phải huy động cả dòng họ hoặc trai tráng
cả làng tham gia.
Người Mông còn sáng tạo một số nghề thủ công tinh xảo đạt đến đỉnh cao
của ngành nghề thủ công các dân tộc miền núi như nghề rèn đúc, nghề trồng
lanh dệt vải, nghề mộc. Hầu hết, các làng Mông vùng Tây Bắc còn giữ được
nghề trồng lanh dệt vải với nhiều công đoạn phức tạp từ sơ chế nguyên liệu
đến kỹ thuật nhuộm cho bền màu. Đặc biệt là kỹ thuật dùng sáp ong vừa làm
tăng vẻ đẹp, độ bóng của vải vừa làm tăng giá trị bền chống giá rét. Nếu như
các dân tộc trong vùng chỉ sử dụng một, hai kỹ thuật tạo hoa văn thì riêng
người Mông áp dụng tổng hợp nhiều kỹ thuật tạo hoa văn như kỹ thuật thêu,
ghép vải, ghép kim loại, in hoa văn sáp ong… Do đó, bộ trang phục người
Mông thực sự là một tác phẩm nghệ thuật tạo hình độc đáo ( nhất là các bộ
trang phục cưới, trang phục mặc khi sang thế giới bên kia). Nhiều mẫu thêu
hoa văn trên váy người Mông như những dấu ấn lịch sử ghi lại lịch sử di cư
của người Mông.
Nghề rèn đúc là một nghề nổi tiếng của đồng bào Mông. Sản phẩm phổ
biến của nghề rèn đúc Mông là lưỡi cày to khỏe, những con dao sắc, lưỡi cuốc
bướm và cả nòng súng. Sản phẩm nghề rèn của người Mông có giá trị như một
loại đặc sản nổi tiếng. Lưỡi cày Mông khoẻ, Dao Mông được coi như một công
cụ quý, vì dao vừa sắc vừa bền hơn bất cứ con dao nào trong vùng. Phương
pháp rèn đúc là phương pháp thủ công nhưng kỹ thuật đã đạt trình độ cao, nhất
là khả năng nhìn màu thép để đưa vào tôi. Đây là bí quyết để tạo nên những
sản phẩm nổi tiếng. Người Mông vừa rèn được nòng súng vừa khoan nòng
súng bằng phương pháp khoan nước.
Nghề mộc ở người Mông cũng được coi trọng. Người Mông đóng thùng
đựng nước, nhuộm chàm, làm chậu, muôi, thìa gỗ… Công cụ làm mộc rất đơn
giản, chỉ một chiếc rìu, một con dao không có bào , đục, cưa nhưng vẫn dựng
được nhà, sản xuất đồ dùng, ghép thùng nước. Trong nghề mộc đồng bào
không sử dụng các loại đinh, chủ yếu dùng kỹ thuật ghép mộng, nhưng nhiều
đồ dùng đựng nước vẫn bền, nước không chảy.
Am thực
Lương thực chính của người Mông là ngô, lúa. Ngô được chế biến thành
hai loại: một là mèn mén ( dùng thay cơm), hai là làm bánh trong những ngày
lễ tết, hội hè.
Mèn mén: là ngô bột được xay nhỏ bằng cối đá, sau đó sàng xẩy thật sạch
rồi cho nước vừa phải để nhào trộn thật tơi, xốp cho vào chõ để đồ, khi hơi tảo
đều trên mặt chõ, lại đổ ra nia nhào nước và cho vào chõ đồ lần thứ hai đun
cho tới khi chín.
Bánh ngô được làm bằng ngô nếp hoặc ngô tẻ non, nếu là ngô non bà con
chọn quả ngô bánh tẻ, bấm ra sữa, chưa tẽ được, lay dao mỏng lát lay hạt ngô,
sau đó cho vào cối say được thứ nước quánh đặc như sữa. Gói bột ngô đó vào
lá cho vào chõ đồ thành bánh. Đối với ngô nếp, bà con say bột rồi ủ nước, sau
đó được thứ bột giống bột gạo người việt làm bánh phở, tiếp đó gói lại cho lên
bếp đồ. Ngoài ra bà con còn dùng bột ngô nếp để làm bánh trôi.
Thực phẩm hàng ngày của người Mông gồm rau cải, đậu, bí đỏ. Ngày mùa,
ngày tết, ngày lễ có thêm thịt gà, thịt dê, thịt lợn hoặc thịt bò. Thịt lợn có thể
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 69
là thịt lạp treo trên bếp làm thức ăn dần. Thịt bò có thể là thịt khô treo gác bếp.
Người mông làm thức ăn thường ninh nhừ, ít có món xào, gia vị thường có ớt,
gừng. Bình thường, không có khách cả nhà người Mông ngồi ăn chung, nếu
có khách thì đàn ông và khách ăn trước, phụ nữ, trẻ em ăn sau.
Ngoài ra, Người Mông có một món ăn rất độc đáo là thắng cố. Chế biến
thắng cố thật đơn giản. Con bò hoặc ngựa sau khi giết mổ, người ta lọc thân
bắp và các phần nạc riêng ra để bán. Còn phần xương xẩu được chặt nhỏ, gân
cốt bạc nhạc, mỡ và các loại thịt vụn được lọc ra cùng với tiết đông cắt thành
miếng nhỏ cộng với tim gan phèo phổi thế là đủ nguyên liệu cõ bản để làm
nên món thắng cố. Sau khi nổi lửa cho nước trong chảo sôi, người ta cho các
thứ nói trên vào chảo đun liên tục. Rồi vừa đun vừa vớt váng bẩn bỏ đi. Thắng
cố được múc ra bát cho thực khách luôn nóng bỏng, vừa ăn vừa thổi. Muối
hoặc bột canh để ngoài, khi ăn mới chấm cho vừa miệng mỗi người.
Trang phục
Về trang phục, mỗi ngành Mông có kiểu trang phục khác nhau. Người
Mông Đơ ( Mông trắng) phụ nữ có áo xẻ ngực váy lanh trắng. Phụ nữ Mông
Đen váy có nhiều băng dải hoa văn in sáp ong màu chàm đen, cánh tay áo có
khoang thêu hoa văn. Phụ nữ Mông Lềnh áo xẻ nách thêu nhiều hoa văn nẹp
cổ, ống tay, váy áo rực rỡ sắc màu. Phụ nữ Mông Xanh mặc váy, áo màu chàm
như người Tày trong vùng.
Điển hình hơn cả là trang phục phụ nữ Mông Hoa với áo xẻ nách, váy
chàm xếp nếp in hoa văn xòe rộng, phía trước và sau có tạp dề. Trang trí họa
tiết hoa văn rực rỡ. Cả cuộc đời người phụ nữ Mông đều gắn bó với công việc
xe lanh, dệt vải, in thêu làm nên những bộ váy áo cho bản thân và con cái. Đồ
trang sức của người Mông gồm có khuyên tai, vòng cổ, vòng tay, bộ xà tích
và nhẫn chủ yếu làm bằng bạc trắng, một số nơi lại sử dụng đồ trang sức bằng
hợp kim nhôm.
Nhà ở
Nhà ở của người Mông cũng như các dân tộc khác gắn liền với họ cả cuộc
đời nên được làm khá khang trang: nhà gỗ lợp tranh, lá, phên vách hoặc nhà
trình tường lợp ngói. Trong nhà thường có gác để cất giữ lương thực, thực
phẩm và đồ dùng trong nhà. Nhà người Mông làm thống nhất theo một Lễ -
Tết – Hội của người Mông.
Nhà của người Mông là nhà nền đất nhưng có nhiều kiểu khác nhau. Ơ
vùng biên giới là nhà kiểu nền đất tường trình dày. Ơ vùng Sa Pa là nhà nền
đất tường ghép gỗ pơ mu hoặc ở các vùng nội địa ghép gỗ …
Nhà ở của dân tộc Mông là nhà nền đất, trình tường, lợp cỏ gianh hoặc cây
rừng. Gian giữa rộng làm nơi thờ cúng và sinh hoạt chung, hai gian bên hẹp
hơn làm buồng ngủ, bếp và phía trên có gác dùng để chứa ngô lúa và vật dụng
gia đình, 60% số hộ gia đình ở thô sơ tạm bợ. Xung quanh nhà là chuồng trại
chăn nuôi, các gia đình người Mông thường thả rông gia súc, hầu hết không
có công trình vệ sinh vì vậy nơi ở thường không được vệ sinh.
Lễ hội
Tết Nguyên Đán có thể coi là ngày hội lớn của người Mông nên đồng
bào chuẩn bị cho những ngày tết rất chu đáo, cẩn thận. Ngày tết không chỉ là
ngày nghỉ ngơi, ăn uống thỏa thích mà là ngày tụ họp , gặp gỡ gia đình, đón
người thân đi công tác học hành, đi làm ăn xa trở về. Tết là ngày của người
sống, người chết gặp nhau nên con cháu làm lễ cúng viếng tổ tiên, chào mừng
ngày âm dương giao hòa. Người Mông cũng cầu mong cho mọi sự được bình
an, tốt đẹp nhân ngày tết. Người Mông cũng như các dân tộc khác coi ngày tết
là những ngày quan trọng, ngày họ có thể làm tròn nghĩa vụ với anh em, họ
hàng, láng giềng, với tổ tiên, với các vị thần mà họ tôn thờ. Người Mông chuẩn
bị giấy xanh, đỏ, giấy bản, gà trống, trứng gà, ngô, rượu, nước, những gia đình
khá giả có thể mổ lợn, dê, bò... làm lễ cúng tết. Đặc biệt ngày ba mươi tết là
ngày trọng đại nhất, họ làm lễ cúng đêm ba mươi rất cẩn thận và chu đáo. Sau
giao thừa, người đàn ông mới đi lấy nước, họ cầm ba thẻ hương, ba tờ giấy
bản, cắm đốt ở đầu nguồn nước, khấn xin được lấy nước, nước lấy về qua cửa
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 71
chính hai lần ra, ba lần vào, sau đó đổ lên các chén trên bàn thờ làm nước cúng.
Họ quan niệm nước sáng mồng một là nước tinh khiết, uống vào người sẽ khỏe
mạnh và trừ được ma quỷ, vì thế họ đổ vào đun một ấm nước để uống.
Mồng một họ làm cơm mới, thịt mới, nước mới cúng tổ tiên. Mồng hai,
mồng ba tết họ lấy cơm thịt của ngày mồng một đi nhét vào các cây ăn quả
quanh nhà để lấy phúc cho cây, cây sẽ sai quả cho ngày bội thu.
Ngoài tết nguyên đán, người Mông còn ăn tết Rằm Tháng Giêng (15
tháng 1 âm lịch), tết Thanh Minh (3 tháng 3), tết Đoan Ngọ (5 tháng 5), rằm
Tháng Bảy (15 tháng 7), Tết Trùng Cửu (9 tháng 9) giống như các dân tộc
khác.
Các lễ hội khác như lễ Cúng Mưa, cúng Cơm Mới, người Mông làm rất đơn
giản và gọn nhẹ.
Đặc biệt người Mông có phiên chợ tình (Chợ Phong Lưu), Khâu Vai,
Lũng Hồ, Du Già…Mỗi năm có một phiên tổ chức vào tháng hai hoặc tháng
ba âm lịch. Chợ Tình người đến chợ không phải là bán mua mà để gặp lại
người tình xưa. Cả nhà ông, bà, cha, mẹ, con cái cùng đi không có sự ghen
tuông, nghi kỵ. những đôi lứa yêu nhau dù đã lên ông, lên bà, dù đã có vợ có
chồng đều có thể gặp lại bạn xưa để tâm tình công khai, tha thiết. Tan chợ ai
về nhà nấy, còn quyến luyến, vấn vương gì thì lại đợi ngày này của phiên chợ
năm sau. Đây là một hình thức sinh hoạt độc đáo, mang tính nhân văn sâu sắc.
Ngoài ra, chợ Tình cũng như phiên chợ thường đều trở thành tụ điểm sinh hoạt
văn hóa lành mạnh với các điệu múa Khèn, xòe Ô, đua ngựa, thổi kèn Lá…
Chợ Tình chính là ngày hội lớn của người Mông.
Hội Gầu Tào là lễ hội truyền thống đón năm mới của người H’Mông ở
Lào Cai, được tổ chức từ ngày mồng 4 đến mồng 6 Tết Âm lịch hàng năm.
Đây là hội cầu phúc, cầu tự, cầu sức khỏe, cầu cho lúa xếp đầy bồ, ngô treo
đầy gác, trâu bò đứng chật trong chuồng, nhà nhà con đàn cháu đống, hàng
xóm vui vẻ thuận hòa, “người yên, vật thịnh”. Những nét văn hóa điển hình và
đặc trưng nhất của người H’Mông được thể hiện rõ nét qua lễ hội lớn nhất
trong năm này. Hội Gầu Tào ở đây được tổ chức giữa những sườn núi tràn
nắng. Một cây nêu rất cao Chồ nằm giữa sân khấu chính, trên đỉnh có một
vòng lá tre non và có gắn một dải lanh dài hai màu xanh đỏ. Sau phần lễ của
thầy cúng theo phong tục, là phần hội được các bạn trẻ đón chờ. Dưới chân
cây nêu để một bầu rượu và một cây khèn. Các chàng trai vừa thổi khèn, vừa
nhảy múa tưng bừng bên các cô gái. Hội còn có nhiều trò chơi và thi đấu khác
như “Chọi bò” (giống như chọi trâu) hay “chọi chim” (thi xem con chim nào
hót to nhất và lâu nhất).
Văn hóa, nghệ thuật dân gian
Văn học dân gian người Mông cũng rất phong phú gồm nhiều thể loại như
thần thoại, truyện cổ tích, dân ca, tục ngữ, truyện thơ, sử thi… Mỗi thể loại
còn có nhiều loại hình khác nhau. Trong các dân tộc thiểu số ở Tây Bắc bên
cạnh người Thái, người Mường thì dân tộc Mông có kho tàng âm nhạc dân
gian giàu bản sắc, có nhiều giá trị nhất. Văn hóa dân gian người Mông không
những phong phú đa dạng mà có nhiều loại hình đã đạt đến đỉnh cao, trở thành
loại hình đặc sắc trong kho tàng văn hóa các dân tộc thiểu số như loại hình
truyện cổ tích, loại hình dân ca đặc biệt.
Văn học dân gian dân tộc Mông chiếm vị trí đặc biệt quan trọng. Do không
có chữ viết nên văn hóa dân gian chủ yếu lưu truyền qua ngôn ngữ kể, từ
chuyện thần thoại cổ tích đến các câu tục ngữ đều phản ánh sâu sắc khát vọng
và giải thích hiện tượng thiên nhiên, xã hôi, gia đình, đạo đức… đề cao tính
cộng đồng, quan hệ huyết thống, nhiều truyện mang tính sử thi.
Múa khèn là múa dân gian dân tộc Mông trong các cuộc vui, trong hội hè
có tinh thần thượng võ, tính cách mạnh mẽ, dũng cảm, nhanh nhẹn, khéo léo,
tài hoa.
Nhạc cụ
Sinh hoạt văn hóa dân tộc Mông gắn liền với đời sống thường ngày là sản
phẩm của nền kinh tế nương rẫy khép kín trong vùng cư trú ít chịu ảnh hưởng
của văn hóa các dân tộc khác. Nhạc cụ tuy không nhiều loại nhưng hết sức độc
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 73
đáo chuyên biệt như khèn, sáo, gay tiền, đàn môi… bài ca, điệu múa dân tộc
Mông biểu đạt sâu sắc tình cảm, tâm trạng con người hài hòa với thiên nhiên,
xã hội nơi vùng cao, cuốn hút được tình cảm người nghe. Nhạc cụ, âm nhạc,
ca hát là nhu cầu thường nhật, là phương tiện quan trọng trong lễ hội, hò hẹn
giao duyên bộc lộ khá sâu sắc tình cảm tình cảm của đồng bào Mông.
Thiết chế xã hội
Trong tổ chức quản lý làng, người trưởng làng, các già làng, người trưởng
họ, người chỉ huy quân sự, thầy cúng làng những nhân vật nắm giữ các vị trí
chủ chốt của sinh hoạt cộng đồng làng Mông. Mỗi vị trí, chức vụ dù có trách
nhiệm nhiều hay ít theo kiểu suy tôn, đề cao thì đều đóng vai trò quan trọng
trong bộ máy điều hành của làng. Họ được dân làng ngưỡng mộ trọng vọng
nhưng họ chưa thoát ly lao động sản xuất, không tách rời khỏi đời sống cộng
đồng.
Trong cơ chế vận hành của làng Mông, tất nhiên đầu tiên phải kể đến bộ
máy quản lý của làng. Bộ máy quản lý này thường sử dụng các biện pháp hành
chính với tính chất áp đặt và đôi khi cưỡng chế bằng bạo lực buộc mọi thành
viên tuân theo quy định của chính quyền, đồng thời làng Mông tự vận hành
một cách hữu hiệu, vững chắc còn nhờ sự chỉ đạo thống nhất của chức dịch và
hội đồng già làng cũng như uy tín của người đứng đầu làng đối với các dòng
họ, đối với các thành viên. Bởi lẽ làng Mông là một tiểu nông trọng tình cảm
nên không phải lúc nào mọi sự cưỡng chế bằng mệnh lệnh đều đạt kết quả. Xã
hội Mông có hệ thống tập quán pháp riêng. Lý của người Mông bao gồm
những quy định bất thành văn, được truyền dạy từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Đó là tập quán về quan hệ đối xử giữa người với người, là những tập tục trong
sinh hoạt gia đình và xã hội. Cái lý của người Mông là hệ thống tập quán pháp
của cả cộng đồng tộc người tạo nên bản sắc dân tộc. Tập quán này buộc mọi
người Mông dù ở bất cứ làng nào. Thuộc bất cứ dòng họ nào cũng phải tuân
theo. Tập quán pháp ( luật tục) còn là cơ sở để các làng Mông xây dựng quy
ước. Những quy ước làng Mông (hương ước) dựa trên cơ sở tập quán pháp
truyền miệng của người, đồng thời còn dựa trên yêu cầu cụ thể của từng làng.
Quy ước đã được thiêng liêng hóa, có sức mạnh của cả thần linh. Do đó, sự
cưỡng chế của quy ước càng trở thành một sức mạnh không ai giám không
chấp hành. Quy ước trở thành một sợi dây vô hình nhưng bền chặt cố kết mọi
thành viên cộng đồng làng. Nhưng sức mạnh của tập quán pháp, sức mạnh của
hương ước muốn cố kết mạnh mẽ các thành viên, chỉ đạo kiểm soát được mọi
thành viên phải thông qua dư luận của làng. Dư luận làng là tiếng nói chính
thức của cộng đồng làng nhằm bảo vệ tập quán pháp và hương ước. Nhất là
các làng Mông có trình độ dân trí thấp, môi trường giao tiếp bị khuôn chặt
trong các mối quan hệ giữa người làng với nhau thì dư luận của làng càng đóng
vai trò quan trọng. Dư luận làng trở thành lực lượng hướng dẫn và cưỡng chế
các thành viên ứng xử theo đúng chuẩn mực của quy ước và tập quán pháp.
Dư luận làng tác động đến ý thức của các thành viên, chi phối ý chí cá nhân,
điều chỉnh nó phù hợp với các quy ước, chuẩn mực tập quán pháp. Dư luận
làng còn góp phần cổ vũ, khích lệ các thành viên chấp hành các quy ước, làm
tốt những điều phải làm, đồng thời dư luận còn có tác dụng răn đe ngăn ngừa
những người có hành động vi phạm quy ước, tập quán pháp. Dư luận cũng góp
phần cổ vũ, khích lệ các thành viên chấp hành các quy ước, làm tốt những điều
phải làm, đồng thời dư luận còn có tác dụng răn đe ngăn ngừa những người có
hành động vi phạm quy ước, tập quán pháp. Dư luận cũng góp phần quản lý
từng con người cụ thể, nó có tác dụng bùng nổ nhanh, bao vây chặt các đối
tượng vi phạm. Dư luận cũng là sợi dây vô hình trói chặt mọi thành viên vào
cơ chế vận hành của làng. Sức mạnh của dư luận càng trở nên mạnh mẽ khi
người tạo nguồn dư luận lại là những người có uy tín trong làng xã như già
làng, trưởng làng, trưởng họ…
2.2.4.2 Nhận xét về văn hóa dân tộc H’ Mông
Trước đây, đời sống văn hóa tinh thần của người Mông mang tính khép kín, ít
có sự giao lưu. Về sau, văn hóa truyền thống của dân tộc Mông được khai thác
phát huy đan xen với dòng văn hóa mới, tạo nên sắc vẻ mới trong đời sống tinh
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 75
thần người dân. Các lễ hội như Sải Sán, Nào Xồng, ăn thề được khôi phục, tổ chức
gạn bỏ mê tín dị đoan có tác dụng tích cực trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng.
Các bài hát dân ca, điệu khèn, sáo Mông, đàn Môi, gay tiền… không những được
bảo tồn mà còn được cải tiến nâng cao trở thành những tiết mục nghệ thuật tiêu
biểu độc đáo của dân tộc Mông. Văn hóa dân gian có bước nhảy vọt, cùng với chữ
quốc ngữ, chữ Mông ra đời đánh dấu một bước phát triển lớn trong đời sống văn
hóa của người Mông và đã hòa nhập với cái chung trong sự phát triển văn hóa
quốc gia.
Việc cưới: người Mông có quy định nghiêm ngặt trong quan hệ gia đình dòng
họ, người cùng họ cùng ma không được lấy nhau làm vợ chồng. Ơ người Mông
không có chuyện ép gả nhưng có sự kén chọn sao cho tương hợp. Người Mông
thực hiện hôn nhân một vợ một chồng. Trong lễ cưới vẫn tồn tại tục kéo vợ và
thực hiện các lễ từ ăn hỏi đến lễ cưới. Nhìn chung, lễ cưới của người Mông còn
nặng nề tốn kém như thách cưới cao, hàng chục đồng bạc trắng, hàng trăm kg lợn
thịt, hàng trăm lít rượu, gạo, có nơi còn tiền mặt đến 2-3 triệu. Tục lệ trong đám
cưới cũng còn rườm rà, như đến đám cưới phải ăn đủ 3 bữa cơm, vẫn còn tục nắm
cơm cho đoàn đón dâu dù chỉ cách nhau không đầy 100m… Do vậy, những nhà
nghèo thường không tổ chức được đám cưới và phải đi ở rể.
Trong tang lễ : Lễ tang của người Mông là một hiện tượng văn hóa đặc sắc
gồm nhiều nghi lễ khác nhau phản ánh các quan niệm về lịch sử xã hội, về cộng
đồng dân tộc, nhưng chủ yếu liên quan đến 3 thế giới và 3 hồn. Trong đám tang
thực hiện nhiều lễ thức: lễ chỉ đường, lễ thổi khèn, lễ đuổi giặc, lễ viếng, lễ cúng
cơm, lễ hã huyệt, tục cắt quần áo người chết trước lúc chôm, tục thả hồn làm ma
khô, tục lợn già, lợn cửa… và nhiều điều kiêng kị. Người Mông kiêng người khác
họ chết trong nhà, kiêng người sống nằm dọc theo nhà, kiêng nhấc cánh cử chính,
một số nơi còn để người chết trên một chiếc cáng treo trươc bàn thờ, không liệm
vào áo quan, cúng bái nhiều ngày. Đám tang Mông tuy có nhiều nét độc đáo nhưng
nhìn chung còn rất nặng nề, tốn kém, nhiều hủ tục lạc hậu chưa được xóa bỏ.
Ngoài việc tang, việc cưới, trong đồng bào Mông còn nhiều tập tục truyền
thống khác tồn tại. Đáng chú ý là tục thả rông gia súc không đảm bảo vệ sinh nơi
ở, tục cúng bái đuổi ma trừ tà chữa bệnh cho người ốm… ở một số nơi hiện nay
đã có chuyển biến tích cực bà con không còn thả rông gia súc, ốm đau đến trạm
xá chữa bệnh.
Do nơi ở xa các trung tâm kinh tế của vùng, mặt khác do giao thông đi lại khó
khăn chủ yếu là ngựa thồ, đường mòn nên việc lưu thông hàng hóa, giao lưu văn
hóa trở nên khép kín, thiếu thông tin. Vì vậy, chợ phiên vùng cao trở thành nơi
giao lưu chính về kinh tế, văn hóa của đồng bào Mông. Đời sống kinh tế của đồng
bào Mông nhìn chung còn rất nhiều khó khăn, nhà ở phổ biến còn tạm bợ, lao
động cực nhọc, cuộc sống sinh hoạt thiếu thốn tiện nghi, thu nhập thấp, có gia
đình chỉ thu vài ba trăm ngàn một năm, tình trạng thiếu đói từ 2 – 3 tháng vẫn còn
phổ biến.
Bữa cơm của người Mông bình thường đạm bạc (mèn mén, nước canh, rau
luộc và muối ớt). Trẻ em người Mông tỉ lệ suy dinh dưỡng cao. Nhiều gia đình
còn thiếu quần áo mặc cho các em. Việc đến tuổi đi học không được đến trường,
tỷ lệ mù chữ cao, chưa thực hiện tốt vệ sinh phòng bệnh, nhiều thôn bản còn thiếu
nước sinh hoạt phải đi lấy nước xa hàng cây số.
2.3 THỰC TRẠNG ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ CỦA CÁC DÂN TỘC
TÂY BẮC
2.3.1 Sự mai một những giá trị truyền thống
Đất nước ta có bề dày lịch sử trên 4000 năm, bao gồm 54 dân tộc anh em sống
trải dài khắp trên các vùng địa lí từ miền núi phía Bắc đến duyên hải miền Trung,
từ các đồng bằng châu thổ đến các cao nguyên Nam Trung Bộ… sự đa dạng về
điều kiện tự nhiên, điều kiện sống cũng như nguồn gốc xuất xứ của từng dân tộc
dẫn đến sự đa sắc về văn hoá của các dân tộc. Chúng ta có rất nhiều những di sản
văn hóa quý giá mà phải trải qua hàng ngàn năm hun đúc mới có được. Từ văn
hoá vật thể như kiến trúc nhà cửa, làng bản đến những giá trị văn hoá phi vật thể
như phong tục, tập quán, ngôn ngữ âm nhạc… từ những nếp nhà sàn xinh xắn yên
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 77
bình của rừng núi Tây Bắc, từ những tiếng cồng chiêng rộn rã của các chàng trai
H’Mông đến những điệu xoè vòng, xoè điệu của các thiếu nữ dân tộc Thái, điệu
múa khèn đá chân hùng dũng của trai Mông, điệu múa Bông của dân tộc Mường…
những di sản văn hoá quí giá và thiêng liêng như vậy nhưng nó đang dần bị mai
một, nhất là trong xu thế phát triển và hội nhập như hiện nay, đồng thời cũng là
lãng quên một tiềm năng tiềm tàng về du lịch. Đây thực sự là một tình trạng đáng
báo động.
Đến chợ tình Sa Pa bây giờ đâu còn được nghe những lời hát giao duyên của
trai gái mà thay vào đó là những âm thanh hỗn độn phát ra từ băng cassette dè dè
bên hông những chàng trai, cô gái. Hoặc như việc báo chí gần đây đề cập rất nhiều
tới việc “chảy máu” nhà sàn từ miền ngược về miền xuôi đặc biệt là người Hà Nội
đã không còn hào hứng lắm với những bức tường bê tông kiểu Tây nữa mà muốn
gần gũi với thiên nhiên bằng ngôi nhà gỗ của mình. Có một nghịch lý trong chuyện
này là người Kinh đi mua nhà sàn để ở, còn bà con các dân tộc lại bán nhà sàn đi
để xây mái nhà bằng bê tông cốt thép.
Những giá trị truyền thống đang mất dần và ngày càng vắng bóng. Ở vùng
người Thái chẳng còn mấy nghệ nhân. Ơ vùng người Mông hai xã Hang Kia, Pà
Cò hầu như chưa tìm được giá trị văn hoá nào. Mọi người đều biết cả hai dân tộc
Thái –Mông đều có một kho tàng dân ca, dân vũ, truyện cổ, truyện thơ, áng mo,
điệu khèn, điệu trống những bài bản Keng Lóng… đặc sắc. Nếu không lưu tâm,
không có biện pháp khẩn trương để giữ gìn, bảo tồn sẽ bị mờ nhạt, mai một và
mất hết.
Văn hóa trang phục truyền thống hiện nay trở nên mờ nhạt ở hầu hết các vùng
Mường. Đối với người Mường độ tuổi trên dưới 45 hầu như không còn mặc trang
phục dân tộc thường xuyên nữa. Chỉ có những ngày lễ tế thì một số các chị lớn
tuổi đã có gia đình riêng thì mặc vì giữ ý tứ với các bậc già cả bên chồng, còn đàn
ông nam giới thì hầu như không mặc. Đặc biệt là giới trẻ hầu như không biết mặc
trang phục dân tộc. Ngày thường thì vậy nhưng ngày cưới là một ngày đặc biệt
trọng đại, trước bàn thờ gia tiên nhà vợ – nhà chồng cũng như họ mạc đôi bên là
lúc cô dâu chú rể thể hiện nền nếp, gia phong nhưng họ vẫn thờ ơ, hay dường như
còn thiếu hiểu biết về cách trang phục trong ngày lễ trọng đại. Ơ nông thôn không
có nhiều hàng áo cưới thời trang, hoặc họ cũng chưa thích kiểu áo cưới thời trang
như ở thị xã và các thành phố nên phần nhiều họ mặc kiểu quần áo như ngày
thường (quần tây, áo sơmi). Thực tế ngày nay, lớp trẻ người Mường không còn
biết cách mặc trang phục cổ truyền.
Ơ các trường học cả thầy và trò rất hiếm khi mặc trang phục dân tộc. Trang
phục dân tộc trong nhà trường hiện nay chỉ còn được giữ ở các trường phổ thông
dân tộc nội trú. Tuy nhiên, việc mặc trang phục dân tộc cũng chỉ có ở một số giờ
quy định của nhà trường như giờ chào cờ buổi sáng thứ hai hàng tuần, những buổi
lễ mít tinh kỷ niệm trong năm học, những ngày đón khách đến thăm nhà trường…
các trường phổ thông ở các xã, phường trong tỉnh thì không có một thầy cô nào
và cũng không có một học sinh nào mặc trang phục dân tộc đến trường trong ngày
thường một cách tự nhiên như những năm 60-70 của thế kỷ trước nữa.
Ngôn ngữ đã trở thành thứ “dễ bị tuyệt chủng nhất”, hơn cả các loại động vật
quý hiếm. Các nhà ngữ học thế giới đã lập bản đồ, phân loại tất cả những nguyên
nhân chính trị, xã hội, địa lý, kinh tế … gây nên cái chết của ngôn ngữ. Cũng như
các dân tộc thiểu số khác, các dân tộc thiểu số ở Tây Bắc cũng có ngôn ngữ riêng
của mình. Tuy nhiên, Tiếng Thái và tiếng Mông được dạy trong trường học gần
50 năm qua với bao thăng trầm đã để lại cho những người chỉ đạo giáo dục, những
người có trách nhiệm và cả bản thân đồng bào các dân tộc phải suy ngẫm.
2.3.2 Sự xâm lấn của xã hội hiện đại
Dưới tác động của nền kinh tế thị trường và xu thế toàn cầu hoá, nhiều giá trị
văn hoá truyền thống tốt đẹp đã và đang bị xâm hại, tàn phá. Các tập quán sinh
hoạt ăn, ở, mặc có những biến động không nhỏ. Đời sống vật chất đã khá hơn và
ngày càng sáng sủa, lan đến tận các vùng sâu, vùng xa, vùng cao do hệ thống “
điện, đường, trường, trạm” được Nhà nước quan tâm và hỗ trợ khá lớn trong nhiều
dự án, chương trình. Điều đó phù hợp quy luật phát triển của mọi thời đại. Đời
sống văn hoá cũng dần dần được thay đổi, nâng cao theo xu hướng chung. Người
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 79
dân đã thích ăn ngon, mặc đẹp và tiện lợi. Họ tỏ ra thích nghi một cách nhanh
chóng các mốt trang phục và nhà ở mới, vừa đẹp vừa sẵn có ở thị trường, bỏ xa
dần trang phục truyền thống và nhà sàn của mình. Ngay cả với dân tộc Mông một
dân tộc được coi là “ bảo thủ nhất” nhất trong vấn đề ăn, mặc cũng đã bị quần áo,
vải vóc hiện đại trên thị trường xâm lấn. Đàn ông mặc như người miền xuôi, ngồi
xe máy sành điệu, đi đôi giầy đắt tiền đánh bóng, đàn bà, con gái đã vận quần áo
thời trang, mái tóc được gội bằng dầu công nghiệp và giới trẻ đã cắt tóc ngang vai
theo kiểu các cô gái điện ảnh Hàn Quốc khác xa một trời một vực so với nền nếp
cũ.
Phương tiện sinh hoạt văn hoá tinh thần cũng đã được thay thế bằng các đồ
điện tử. Đài băng, ti vi, đàn Oóc gan… đã rập rình trên các bản rừng núi Tây Bắc.
Những khèn, bè, kèn môi, khèn Mông, trống chiêng, keng lóng, pí muội, những
cuộc hát đối giao duyên, những cuộc hát mo lễ hội… tuyệt nhiên vắng bóng, có
chăng chỉ thấy trên sân khấu văn nghệ quần chúng nhưng đã được cải biên, nâng
cao.
Đã có một hiện thực đời sống văn hóa không đơn giản diễn ra từng ngày, từng
giờ từng phút trên đất Hòa Bình. Đó là khi có một bảo tàng lưu giữ trống đồng,
đa số các làng Mường đều giữ gìn các bộ cồng ( kiểm kê sơ bộ có đến gần 4.000
chiếc cồng cổ) và văn hóa nhà sàn của mình, thì đã xảy ra hiện tượng buôn bán
trống đồng, buôn bán cồng chiêng thậm chí bán cả nhà sàn. Thương mại hóa đã
len lỏi vào từng bản làng dân tộc. Có một nghịch lý: miền núi nhà sàn ít đi, thành
phố và đồng bằng nhà sàn tăng lên. Một bộ phận thanh niên các dân tộc, đã không
nói tiếng dân tộc của mình, không mặc y phục dân tộc, không hát dân ca, không
múa dân vũ, không nghe dân nhạc. Cuộc sống ngoại lai đang từng ngày, từng giờ
xâm nhập vào vùng đất này.
Thực tế cho thấy sự tăng trưởng về kinh tế không phải bao giờ cũng tỷ lệ thuận
với sự phát triển văn hóa. Ơ nhiều làng Mường vùng thấp sát với các làng Kinh,
hầu như không còn sắc thái gì của văn hóa Mường. Nhiều giá trị truyền thống
đang bị coi là tàn dư phong kiến là mê tín dị đoan nên người dân thiếu thái độ trân
trọng, chưa kể đến cá biệt còn có nững hành vi làm xâm hại văn hóa dân tộc. Ngày
nay, nhiều thanh niên nam nữ Mường muốn ăn mặc, nói năng sao cho thật giống
thanh niên vùng ngoài, có nơi hầu như bỏ hẳn y phục truyền thống của dân tộc
mình. Nhiều nhà sàn được dỡ bỏ thay thế bằng nhà xây cho giống nhà người kinh.
Đến Thuận Châu hôm nay, Phố Thuận giờ san sát nhà ngói, nhà bê tông mái
bằng, một tầng, hai tầng, ba tầng, có cả những ngôi nhà cơ quan, trường học bề
thế, khang trang. Nhà sàn bị đẩy lùi tít hai đầu rìa của phố và sang mãi bên kia
suối Muội, giáp núi. Điều đáng buồn là trong cái phố hiện đại, tấp nập học sinh –
sinh viên Cao Đẳng, Đại Học Tây Bắc ấy không còn chỗ len chân cho những làn
điệu dân ca Thái, những lời hát kể chuyện Thái. Những bạn trẻ nhiều người biết
quá ít về dân tộc Thái. Trẻ con học trường tiểu học và phổ thông cơ sở lại không
được học chữ Thái. Thậm chí các thầy cô ở trường cũng không biết chữ Thái,
nhiều người còn không nói được cả tiếng Thái nữa.
Văn hoá thời đại đang len lỏi vào mọi nẻo đường đời sống xã hội. Nó góp phần
nâng cao mức sống cho người dân miền núi nhưng nó cũng che mờ, thậm chí mài
mòn những tinh hoa văn hoá bản sắc. Điều này đang và sẽ diễn ra đối với nhiều
dân tộc thiểu số mà nền văn hoá của họ không thể đương đầu nổi.
2.3.3 Thực trạng bảo tồn văn hóa các dân tộc Tây Bắc
Từ khi khách du lịch đổ dồn về các tỉnh Tây Bắc ngày càng đông trong mấy
năm gần đây. Điều này đã giúp những người dân ở nơi đây, nhất là người Mường,
người Thái và người Mông ý thức được việc giữ gìn bản sắc của mình. Họ đã sớm
nhận thức được tầm quan trọng và sự cần thiết của việc bảo tồn và giữ gìn các bản
sắc văn hóa dân tộc mình. Khoảng mười, hai mươi năm trước đây, ở điểm du lịch
Bản Lác cũng mọc lên những ngôi nhà xây, hoặc nhà gỗ theo kiểu miền xuôi, bỏ
nhà sàn. Khi có khách du lịch, chính tự thân bà con đã dỡ bỏ nhà đất để xây lại
nhà sàn, mặc dù tìm gỗ lạt khá khó khăn.
Những năm gần đây, một số công chức nữ người Mường đã có chú ý đến trang
phục dân tộc. Họ đã bắt đầu mặc trang phục dân tộc trong một số ngày lễ tết hoặc
trong những buổi lễ tiếp tân trọng đại. Tuy nhiên có một số chị em nhận thức sai
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 81
rằng, váy áo Mường cổ truyền rất xấu nên họ đã tự biến một số chi tiết trên bộ váy
áo. Họ may thêm viền hoa văn ở gấu váy, thêm hoa văn ở viền cổ áo, cải tiến áo
theo kiểu áo Tây thân áo và tay áo nối với nhau qua cầu vai, may yếm màu lòe
loẹt, sặc sỡ và kéo yếm trễ xuống thấp hơn so với cổ áo. Sự cải biến này không
những không làm cho bộ trang phục truyền thống trở nên đẹp và hợp thời trang
hơn mà lại làm cho bộ trang phục trở nên kệch cỡm, thiếu hài hòa. Thi thoảng ta
còn bắt gặp có người mặc váy Mường cùng với áo Thái, váy Mường nhưng bỏ
mất phần cao váy và hầu hết trong số họ không vấn khăn đầu… với những bộ
trang phục như vậy, người mặc tưởng như là biểu hiện được bản sắc dân tộc,
nhưng người ta nhìn vào cảm nhận đó là một sự chắp vá, sống sượng không còn
nhận ra sắc thái trang phục gì Mường không ra Mường, Thái không ra Thái. Tình
trạng trên phản ánh một thực tế đang có vấn đề về thị hiếu thẩm mỹ cũng như ý
thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Ngay cả ở đài truyền hình trong tỉnh, cơ
quan ngôn luận và là bộ mặt của địa phương được mệnh danh là “xứ Mường”
nhưng những biên tập viên, phát thanh viên của đài cũng rất ít khi lên hình trong
trang phục Mường.
Trang phục dân tộc được thấy nhiều trong các kỳ hội diễn nghệ thuật quần
chúng, những lễ kỷ niệm lớn, ngày hội văn hóa – thể thao, các hội thi, lễ hội…
Những năm gần đây, một số diễn viên của một số đoàn tham gia hội diễn rất có ý
thức mặc trang phục dân tộc cổ truyền, nhưng vẫn có một số diễn viên của đoàn
chưa có ý thức mặc trang phục dân tộc, hoặc chưa biết mặc trang phục sao cho
đẹp.
Trong những năm qua có nhiều cuộc thi người đẹp với trang phục. Trong
những cuộc thi như thế cũng đã có nhiều mẫu trang phục nữ Mường được sáng
tạo, cách điệu trên những nét cơ bản của bộ cổ truyền. Tuy nhiên, vẫn chưa thấy
có bộ nào đẹp bằng bộ truyền thống cả. Điều đó cho thấy bộ trang phục Mường
truyền thống đã đạt đến trình độ hoàn hảo.
Hiện nay, điều kiện để giữ gìn và phát huy trang phục truyền thống Mường
trong đời sống có nhiều thuận lợi, vì hiện nay trên thị trường có rất nhiều loại vải,
nhiều chất liệu và giá cả cũng phải chăng có thể thay thế chất liệu cũ làm chân
váy, làm quần, làm áo báng, làm mũ, làm áo chùng… Phần cạp váy là nét đặc
trưng đặc sắc nhất của trang phục truyền thống Mường, không có bán sẵn thì
chúng ta có thể mua sợi, mua tơ về dệt theo cách dệt cạp váy cổ truyền rất thuận
lợi.
Đối với người Mông, Các sinh hoạt văn hóa ở làng Mông được duy trì và phát
triển nhờ sự hình thành các nhóm hoạt động theo lứa tuổi và giới tính. Các thiếu
nữ Mông khi bước vào lứa tuổi trưởng thành ( khoảng 13-14 tuổi) thường được
người phụ nữ đi trước dạy học hát dân ca, thêu thùa … các cô gái được trang bị
các kiến thức văn hóa, từ cách ứng xử giao tiếp đến vốn văn nghệ truyền thống.
Nam giới cũng hình thành các nhóm như vậy. Khi đến tuổi trưởng trung niên, một
số người có năng khiếu hoạt động văn nghệ trở thành nhóm sinh hoạt riêng về
nhạc tang, mú khèn, truyền dạy đọc bài cúng, đọc “ khúa kê”- bài hát chỉ đường
cho hồn người chết. Bên cạnh chức năng trao truyền văn hóa của mỗi gia đình (bố
mẹ dạy con cái, ông bà bảo ban các cháu kiến thức về văn hóa) thì các nhóm, các
cộng đồng nhỏ này đóng góp vai trò cực kỳ quan trọng trong vấn đề bảo tồn di
sản văn hóa dân tộc. Nhờ các nhóm này, lớp trẻ mới được tiếp thu và thực hành
các ứng xử văn hóa, các sinh hoạt văn nghệ dân gian. Đồng thời chính sinh hoạt
nhóm đã trở thành môi trường sáng tạo văn hóa dân gian ở các làng Mông. Đặc
biệt là trong sinh hoạt nhóm đã xuất hiện một số nghệ nhân, họ là những người có
năng khiếu nghệ thuật, am hiểu văn hóa truyền thống. Họ vừa có khả năng tiếp
thu nhanh nhạy các di sản văn hóa truyền thống của thế hệ trước trong nhóm trao
truyền, tự học hỏi qua các hộ làng, các sinh hoạt văn hóa ở chợ phiên, qua giao
lưu văn hóa giữa các làng… vốn tri thức của họ trở nên phong phú, họ trở thành
những người rất giỏi về phong tục, ứng xử có khả năng cãi lý. Họ cũng có thể là
người hát và đặt lời ca giỏi, thạo thổi khèn trở thành các “ thợ kềnh” nổi tiếng của
làng, của vùng. Các nghệ nhân dân gian này lại trở thành một trung tâm vừa tiếp
nhận, vừa trao truyền kiến thức văn hóa đến người dân, đến thế hệ trẻ. Học cũng
đóng vai trò quan trọng trong bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc. Như
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 83
vậy có thể xác định ở các làng Mông, nhóm và nghệ nhân là những trạm thu phát
tín hiệu văn hóa của làng, của cả cộng đồng. Và các sinh hoạt văn hóa cộng đồng
như hát giao duyên, lễ cưới, lễ tang, hội gầu tào, chợ phiên… chính là môi trường
nuôi dưỡng vun trồng di sản văn hóa ở các làng Mông.
Từ khi có nghị quyết trung ương 5 của Đảng, đời sống văn hóa của các dân
tộc đã có định hướng nên phát triển theo chiều hướng tích cực. Những ngày hội
lớn của tỉnh như ngày hội văn hóa Tây Bắc, ngày đón nhận danh hiệu Anh hùng
lực lượng vũ trang nhân dân đã diễn ra chương trình hoành tráng biểu diễn của
hàng trăm chiếc cồng. Ơ các cấp huyện cũng liên tục tổ chức các ngày văn hóa
như ngày Văn hóa dân tộc Mông, ngày văn hóa dân tộc Thái, ngày hội cồng chiêng
dân tộc Mường, cùng với hàng trăm hàng nghìn buổi liên hoan văn nghệ ở xóm,
xã, huyện. Trong những ngày hội văn hóa đó, văn nghệ dân gian được truyền
thống được bảo lưu và khuyến khích.
Nhiều hoạt động quản lý nhà nước đối với văn hóa đã được xúc tiến, các di
tích lịch sử, các danh thắng quê hương đã được làm thủ tục xếp hạng, trường ca
“Đẻ đất, đẻ nước” của dân tộc Mường, sử thi “Ẳm Ệt Luôn” của dân tộc Thái, đặc
biệt là toàn bộ hệ thống mo bao gồm tang ca 12 đêm ngày đã được sưu tầm và tái
hiện với toàn bộ lễ thức âm nhạc và lời ca. trong những năm gần đây, trên địa bàn
tỉnh Hòa Bình dấy lên và diễn ra phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa”. Trước khi xây dựng những làng văn hóa thì hàng trăm, hàng ngàn bản
quy ước – làng văn hóa được xây dựng. Cùng với phong trào xây dựng làng văn
hóa, phong trào xây dựng gia đình văn hóa cũng phát triển rộng rãi. Phong trào
xây dựng nếp sống văn hóa đã có tác động to lớn đến nếp sống văn hóa của các
dân tộc Hòa Bình làm giảm thiểu tác động tiêu cực của những hủ tục trước đây,
phát huy được những mặt mạnh của nếp sống văn hóa truyền thống giữ gìn được
những bản sắc dân tộc, hòa nhập vào cuộc sống văn minh thời đại.
Nhà nước ta đã có dự án đầu tư xây dựng “ làng văn hoá – du lịch các dân tộc
Việt Nam”. Đây là một dự án lớn mang tầm cỡ quốc gia với mục đích bảo tồn,
giới thiệu nền văn hoá cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, vì đây là một
dự án lớn ( kinh phí dự kiến riêng cho khu Làng các dân tộc đã lên tới gần nghìn
tỷ đồng) nên việc đầu tư sẽ phải kéo dài, hơn nữa sẽ rất khó cho việc duy trì lâu
dài những bản sắc văn hoá riêng của một số lượng đông các dân tộc trong một
không gian chật hẹp. Đặc biệt là sẽ không tránh khỏi sự can thiệp quá mạnh tay
của con người vào khâu quy hoạch xây dựng làm mất đi cái tự nhiên, cái thiên
nhiên vốn có của từng vùng dân tộc. Đó là chưa kể đến những bất cập về môi
trường địa lý- nhân văn, nơi đã sinh ra và nuôi dưỡng nền văn hoá đó tồn tại và
phát triển.
2.3.4 Nguyên nhân
Tự bà con đồng bào đã không nhận thức được rằng giữ gìn trang phục truyền
thống là góp phần quan trọng trong việc giữ gìn nền văn hóa dân tộc. Từ nhận
thức chưa đúng nên có nhiều người, nhất là thế hệ trẻ hiểu sai lệch về giá trị của
bộ trang phục truyền thống.
Bên cạnh việc không tự ý thức được tầm quan trọng của việc giữ gìn, bảo lưu
sắc phục truyền thống là sự tác động mạnh mẽ, ồ ạt của văn hóa nước ngoài, trong
đó dễ nhận thấy, dễ bắt chước nhất là trang phục. Hơn nữa, sự tiện lợi của quần
áo may sẵn ngập tràn thị trường đã thu hút, hấp dẫn đối với nhiều cô gái Mường
vì để có một bộ trang phục dân tộc phải mất rất nhiều thời gian để dệt một tấm
cạp và may áo, yếm, tênh.
Thực tế đó cho thấy, các bậc cha mẹ ngày nay rất thờ ơ với việc giáo dục lớp
trẻ dùng trang phục truyền thống, một yếu tố quan trọng giữ gìn, lưu giữ giá trị
văn hóa dân tộc. Một số người cho rằng, mặc quần áo truyền thống không tiện lợi
cho việc đồng áng và sinh hoạt. Lý do đó chưa hẳn đúng, vì cách thức sản xuất
nông nghiệp ở đây nay chưa có gì khác xưa lắm, vẫn cày, cuốc, bừa, cấy bằng tay,
trong khi đó các cụ ngày xưa còn mặc cả áo chùng đi làm ruộng mà hiệu quả công
việc cũng không kém ngày nay.
Một số trường trung học phổ thông trong tỉnh có quy định trong một số ngày
nhất định các em nữ sinh phải mặc đồng phục áo dài trắng, trong đó rất nhiều nữ
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 85
sinh là người dân tộc thiểu số. Như vậy, vô tình sẽ làm mất đi lòng tự hào về trang
phục truyền thống của dân tộc các em.
Cho đến ngày nay trang phục cổ truyền của đồng bào dân tộc đã bị lãng quên
khá lâu. Chính vì không chú ý đến bộ trang phục cổ truyền đúng mức như hiện
nay, ở một số vùng, các nghề thủ công truyền thống như nghề dệt, thêu thùa, nghề
làm trang sức bằng bạc… đã có phần bị mai một. Hơn nữa, kinh tế thương nghiệp
đang phát triển mạnh, các nhu cầu về vải vóc của con người đều có thể dễ dàng
tìm kiếm được ở thị trường. Điều đó đã dần dần đẩy nghề dệt truyền thống vào dĩ
vãng.
Hiệu quả đưa văn hóa mới vào các vùng dân tộc chưa cao. Các chương trình
bằng tiếng dân tộc còn nghèo nàn chưa hấp dẫn, sóng phát thanh truyền hình đến
vùng cao còn nhiều tạp nhiễu, những nơi chưa có điện quốc gia việc cấp máy thu
hình và các phương tiện thông tin chưa phát huy được hiệu quả. Điều này dẫn đến
việc tuyên truyền, nâng cao ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc chưa cao.
Công tác dạy tiếng dân tộc cho các dân tộc ở vùng Tây Bắc không đạt được
hiệu quả như mong đợi, đang còn rất nhiều bất cập vì thiếu giáo viên, chương
trình giảng dạy chưa phù hợp, vì cuộc sống của người dân còn nghèo khổ không
có thời gian đến lớp…
Ngày nay trước xu thế phát triển chung của đất nước, đời sống kinh tế của
đồng bào Thái đã có nhiều đổi thay tiến bộ hơn trước nhưng do tác động của yêu
cầu nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước một số công trình thuỷ điện
được xây dựng ở Hoà Bình, Sơn La, Lai Châu. Điều này đã có tác động ảnh hưởng
trực tiếp đến đời sống của hàng chục nghìn hộ đồng bào dân tộc vùng Tây Bắc
trong đó có dân tộc Thái, do vậy việc di dân tái định cư, thay đổi tập quán sản
xuất sẽ có những tác động không nhỏ đến không gian văn hoá và sinh hoạt văn
hoá truyền thống của đồng bào do đó mỗi dự án liên quan cần cẩn trọng trong
nghiên cứu, hoạch định và triển khai thực hiện để đồng bào ổn định đời sống bền
vững nhưng vẫn bảo tồn và phát huy được những giá trị văn hoá truyền thống tốt
đẹp.
Chúng ta có thể nói rằng mục đích chính của việc thụ hưởng giáo dục tiếng
mẹ đẻ của đồng bào Thái, Mông, Mường là để tăng thêm sự hiểu biết về văn hoá
dân tộc, góp phần bảo vệ bản sắc văn hoá của mình. Hiện nay, chúng ta chưa đào
tạo giáo viên dạy tiếng dân tộc trong các trường sư phạm. Những giáo viên đang
dạy tiếng Mông chủ yếu chỉ được tham gia các lớp bồi dưỡng trong dịp hè. Nếu
không có kế hoạch đào tạo giáo viên dạy tiếng dân tộc thì việc dạy tiếng dân tộc
không thể có chất lượng. Như vậy, cho tới nay, mặc dù tiếng Mông đã được dạy
trong các trường tiểu học nhưng chưa có trường sư phạm nào tổ chức đào tạo giáo
viên dạy tiếng Mông.
2.4 THỰC TRẠNG KHAI THÁC DU LỊCH VĂN HOÁ Ở TÂY BẮC
2.4.1 Nhu cầu du lịch đến Tây Bắc
Trong những năm gần đây, Lượng du khách trong và ngoài nước tới Tây Bắc
đã có mức tăng trưởng đột biến và ấn tượng với mức trung bình là 10%, có tỉnh
là 33%. Điều này cho thấy sự hấp dẫn mãnh liệt của Tây Bắc đối với du khách
trước vẻ đẹp nguyên sơ, hùng vĩ, với nguồn tài nguyên nhân văn bao gồm các di
tích lịch sử và nền văn hóa truyền thống của hơn 20 dân tộc.
Theo số liệu điều tra của Tổ chức du lịch thế giới, ngày nay có trên 80% số
khách đi du lịch nhằm mục đích hưởng thụ các giá trị văn hoá độc đáo và khác
biệt với nền văn hoá của dân tộc họ. Họ muốn được xem và hưởng thụ những giá
trị văn hoá giàu bản sắc, đích thực, sống động trong cuộc sống hàng ngày của
người dân. Người dân tự tổ chức các sinh hoạt văn hoá đích thực vì cuộc sống của
người dân chứ không phải "đóng giả" vì du khách. Do đo, các hoạt động văn hoá
sống động ở Tây Bắc như phiên chợ, cảnh làm ruộng bậc thang, lễ cưới, sinh hoạt
ở từng gia đình, sản xuất đồ rèn, thêu dệt thổ cẩm… luôn thu hút du khách cả
trong nước và quốc tế.
Khách du lịch mong muốn có thể hiểu rõ về nếp sống, văn hóa và phong tục
tập quán của các dân tộc. Do đó, họ đòi hỏi ở người hướng dẫn viên sự am hiểu
về lịch sử văn hóa của các dân tộc, hiểu rõ nguồn gốc các phong tục, tập quán lễ
hội… để giúp họ có cách hiểu sâu nhất về văn hóa dân tộc nơi họ đến.
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 87
Ngoài ra, vì Khách du lịch phải vượt qua một quãng đường rất hiểm trở mới
đến được với Tây Bắc, do đó họ cần có phương tiện vận chuyển, nơi lưu trú, nơi
ăn uống… có chất lượng để phục vụ cho suốt chuyến đi của họ.
2.4.2 Thực trạng khai thác du lịch văn hóa đến Tây Bắc
Qua một thời gian dài thực hiện chiến lược phát triển du lịch Tây Bắc, Các sản
phẩm du lịch chung của vùng Tây Bắc đang dần được hình thành. Chính những
sản phẩm đặc trưng này đã và đang mang lại một diện mạo mới cho du lịch Tây
Bắc. Các tỉnh Yên Bái, Lào Cai và Phú Thọ trong 4 năm phối hợp thực hiện
chương trình "Du lịch về cội nguồn" đã đón và phục vụ trên 10 triệu lượt khách,
doanh thu đạt trên 1.000 tỷ đồng, thu hút trên 2.000 tỷ đồng đầu tư vào du
lịch. Theo ngành du lịch Lào Cai, mỗi năm đồng bào vùng Tây Bắc có hơn 30 lễ
hội, thu hút đông đảo du khách trong và ngoài nước. Hai tháng đầu năm, Lào Cai
đón gần 150.000 lượt khách, tăng trên 40% so với cùng kỳ. Trong đó khách quốc
tế đạt gần 60.000 lượt. Hiện nay, nhiều bản làng ở Hòa Bình cũng đã xuất hiện
các hình thức khai thác du lịch văn hóa, homestay phục vụ du khách như bản Văn,
bản Lác, bản Tòng, bản Giang Mỗ… nằm dưới các chân núi giữa các thung lũng,
gần các cánh đồng ruộng bậc thang lớn có cảnh quan và khí hậu trong lành nên
rất hấp dẫn du khách.
Nhiều thương hiệu, sản phẩm du lịch mới, đặc thù đã bước đầu được hình
thành và gây ấn tượng với du khách quốc tế tại một số khu, điểm du lịch thuộc
vùng như cao nguyên đá Đồng Văn ở Hà Giang, ruộng bậc thang Mù Cang Chải
ở Yên Bải, làng du lịch cộng đồng người Thái ở Hoà Bình…
Tuy nhiên, việc khai thác du lịch ở Tây Bắc có một số vấn đề cần chú ý. Cụ
thể : Sa Pa là một vùng du lịch hấp dẫn của quốc gia, cách thị xã Lào Cai 37 km.
Sa Pa giàu tài nguyên du lịch tự nhiên và du lịch văn hoá. Hàng nãm, SaPa đón
nhận từ 70 đến 100.000 lượt khách. Riêng lễ hội 100 năm du lịch SaPa vừa qua,
SaPa đã đón hơn 5 vạn lượt du khách. Du khách đến với Sa Pa có nhiều nhu cầu,
nhưng nhu cầu về du lịch văn hoá ngày càng nổi bật. Điều này phản ánh xu thế
chung về nhu cầu du lịch trên thế giới hiện nay. Nhưng rất tiếc là các nguồn lực
văn hoá này vẫn mang tính chất tự phát, chưa tạo thành dịch vụ. Do đó chưa tăng
được nguồn thu từ du khách. Nguồn thu chủ yếu của du khách vẫn là dịch vụ lưu
trú và dịch vụ ăn uống. Mức chi tiêu trung bình của khách du lịch quốc tế tại Sa
Pa năm 2001 là 200.000 đ/ 1 ngày. Cơ cấu chi tiêu cụ thể như sau:
Chi phí dịch vụ ngủ là 30%
Chi phí ăn uống là 25%
Vận chuyển, đi lại là 18%
Chi phí mua bán là 7,2%
Chi phí khác là 19,8%
Như vậy, chi phí về ăn, ngủ, đi lại của du khách ở SaPa rất cao, chiếm tới 73%
chi phí. Còn chi phí mua sắm hàng hóa của du khách lại chiếm tỷ trọng rất thấp
(chỉ có 7,2%). So sánh với việc chi tiêu của du khách ở các nước cùng khu vực,
càng thấy cơ cấu chi tiêu của khách du lịch ở Sa Pa nói riêng và Tây Bắc nói
chung còn rất hạn chế. Ở khu vực Tây Bắc tuy đã có một số hàng hóa để khách
mua về làm quà tặng, vật lưu niệm… nhưng chi tiêu để mua hàng của du khách
lại quá thấp, thấp hơn rất nhiều so với những địa điểm du lịch văn hóa khác ở
trong nước và nước ngoài.
Bảng 2.1 : Cơ cấu chi tiêu của khách quốc tế ở một số nước và địa phương.
ĐVT: %
S
TT
Cơ cấu chi tiêu
Các địa phương,
nước ngoài
Ngủ Ăn
uống
Đi
lại
Tham
quan
Mua
hàng
giải trí
Khác
1 Singapo 22,3 13,3 5,1 6,1 55,8
2 Hồng Kông 30,2 10,8 0 8,0 51,0
3 Thái Lan 23,4 15,1 13,3 9,4 38,8
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 89
4 Trung Quốc 22,5 9,5 11,3 31,3 25,5
5 Inđônêxia 30,8 17,4 4,6 9,6 23,6
6 Mai Châu (Hoà Bình) 22 23 16 5,0 10,4 23,6
7 SaPa (Lào Cai) 30 25 18 6,0 7,2 15,8
(Nguồn: Phòng thương mại du lịch SaPa )
2.4.3 Cơ sở vật chất hạ tầng du lịch
Mặc dù được coi là vùng đất đầy tiềm năng phát triển du lịch song hạ tầng
cơ sở, dịch vụ du lịch ở khu vực Tây Bắc khá yếu kém, hầu hết khách sạn đều
dạng 2 sao trở xuống, thường xuyên quá tải vào các dịp lễ hội. Thiếu các cơ
sở thể thao, vui chơi giải trí, các công trình thông tin – văn hóa, biểu diễn nghệ
thuật cũng như các cơ sở dịch vụ hỗ trợ khác. Điều này kìm hãm rất nhiều tiềm
năng phát triển du lịch ở Tây Bắc.
Bảng 2.2- Số khách đi thăm làng bản ở Sa Pa năm 2005
Số TT Số ngày Tour Số người
1 Đi trong ngày 37.877
2 Đi 2 ngày 1 đêm 9.549
3 Đi 3 ngày 2 đêm 6.620
4 Đi 4 ngày 3 đêm 1.455
Tổng cộng 55.501
(Nguồn: Phòng Thương mại - Du lịch Sa Pa)
Như vậy, Con đường đến với Tây Bắc rất gập ghềnh hiểm trở, tốn rất nhiều thời
gian nhưng du khách ở lại qua đêm rất ít, chủ yếu là họ đi trong một ngày. Điều này
cần phải suy ngẫm. Có phải thực sự, khách du lịch không có nhu cầu lưu trú lại mà
do cơ sở hạ tầng du lịch ở đây còn nhiều yếu kém, du khách rất khó khăn và bất tiện
khi ở lại.
Bảng 2.3: Số người đi theo các tuyến du lịch làng bản chủ yếu năm 2005
Các tuyến du lịch làng bản Số người
Sa Pa - Cát Cát - Sín Chải - Sa Pa 147
Sa Pa - Cát Cát - Ý Lình Hồ - Lao Chải - Tả Van 2.375
Sa Pa - Lao Chải - Tả Van - Bản Hồ - Thanh Phú 37.823
Sa Pa - Thanh Kim 362
Sa Pa - Tả Phìn 3.574
(Nguồn: Phòng Thương mại - Du lịch Sa Pa)
Qua bảng 2, ta có thể thấy ở những tuyến du lịch có cơ sở lưu trú, ăn uống,
giao thông phát triển thì lượng khách du lịch đến đây cao hơn rất nhiều.
Mới đây, khu thương mại công nghiệp Kim Thành lớn nhất vùng biên giới
Tây Bắc hoàn thành, góp phần thu hút nhiều dự án khách sạn cao cấp đầu tư.
Đó là dự án khách sạn 4 sao Indochina Sapa Hotel với quy mô 88 phòng, vốn
11 triệu USD do Công ty CP đầu tư Thương mại Quốc tế Đông Dương
(Investcom) đầu tư. Quý II năm 2011, khách sạn này đã khánh thành và đi vào
hoạt động. Ngoài ra, khu đô thị nghỉ dưỡng Indochina Sapa Resort với hơn
200 phòng, là một quần thể các lô biệt thự nghỉ dưỡng, trên tổng diện tích 28
ha, tổng vốn đầu tý 22 triệu USD. Dự kiến tháng 5/2011 sẽ khởi công và khánh
thành vào năm 2012. Bên cạnh đó, một số tỉnh Tây Bắc cũng vừa chấp nhận
một loạt các dự án trung tâm thương mại, khách sạn cao cấp nhằm phát triển
thương mại, du lịch. Điều này hứa hẹn một tương lai sáng sủa cho du lịch Tây
Bắc.
2.4.4 Cơ sở vật chất kỹ thuật
Hệ thống giao thông
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 91
Giao thông đường bộ
Mật độ đường bộ bình quân đạt 0,59km/km2 và 2,56km/1.000 dân (so
với cả nước là 0,63km/km2 và 4,95km/1.000 dân). Chất lượng đường bộ nhìn
chung kém, tỷ lệ rải mặt còn thấp, đặc biệt là đối với đường giao thông nông
thôn. Hiện trong Vùng còn nhiều xã chưa có đường ô tô đến trung tâm.
Thời gian qua, hàng loạt các công trình cơ sở hạ tầng lớn đã và đang
triển khai đầu tư. Các dự án này hoàn thành và đưa vào khai thác sẽ là động
lực cho sự phát triển kinh tế xã hội của toàn vùng…Đặc biệt là nhiều tuyến
quốc lộ trọng điểm trong vùng đã được cải tạo, nâng cấp; một số công trình
hoàn thành, đưa vào sử dụng.
Nhà nước chủ trương đầu tư 9.500 tỷ đồng để xây dựng hệ thống giao
thông tránh ngập nước khi xây dựng các công trình thủy điện ở khu vực này
trong thời gian tới.
Theo thứ tự ưu tiên, các công trình tránh ngập thủy điện Sơn La sẽ được
khẩn trương hoàn thành, gồm quốc lộ 279 và cầu Pá Uôn, 35 km quốc lộ 12
và cầu Hang Tôm, dự án cầu Lai Hà và đường giao thông vào địa điểm xây
dựng thủy điện Lai Châu (tỉnh lộ 127).
Giao thông đường sắt
Các tuyến đường sắt trong Vùng có chiều dài khoảng 700km, năng lực
vận tải chưa đáp ứng được yêu cầu, gồm (Hà Nội - Đồng Đăng 163km; Hà
Nội – Lào Cai 296km hiện nay đã xuống cấp nghiêm trọng; Hà Nội – Thái
Nguyên 79km và Lưu Xá – Kép – Hạ Long 162km).
Công ty Cổ phần tý vấn đầu tý và xây dựng đường sắt (TRICC-JSC) đã
báo cáo kết quả nghiên cứu bước đầu về hai tuyến đường đôi tiêu chuẩn khổ
1435mm Lào Cai-Hà Nội và Hà Nội- Đồng Đăng. Theo đó tiêu chuẩn kỹ thuật
được áp dụng theo tiêu chuẩn của đường sắt Trung Quốc, đường cấp 1, khổ
1435mm, vận tốc 160 km/h đối với tàu khách và 120 km/h với tàu hàng, sử
dụng sức kéo điện, công suất đầu máy lớn hơn 2000 kw.
Giao thông đường sông
Trên địa bàn các tỉnh Vùng Tây Bắc có nhiều sông lớn chảy qua. Tuy
nhiên do địa hình phức tạp, nhiều núi cao nên hệ thống giao thông đường sông
chưa phát triển. Hiện có một cảng đường sông (Cảng Tà Hộc) của Hồ Hoà
Bình, đang xây dựng một cảng tại huyện Mường la, tỉnh Sơn La để vận chuyển
hàng hóa lên vùng Tây Bắc tại thời điểm mùa nước cho phép.
Một số cảng đường thủy tại Hòa Bình do có sông Đà chảy qua như:
Cảng Bích Hạ, cảng Ba Cấp, cảng Bình Thanh, cảng Thung Nai.
Đường hàng không
Hiện nay, Vùng mới chỉ có 2 sân bay Nà Sản và Điện Biên nhưng năng
lực còn hạn chế. Sân bay Nà Sản xuống cấp đã phải dừng hoạt động. Sân bay
Điện Biên Phủ được đầu tư nâng cấp năm 2004, hiện đang khai thác đường
bay Hà Nội – Điện Biên với tần suất trung bình 2 chuyến máy bay
ATR72/ngày, định hướng trong thời gian tới sẽ tiếp tục nâng cấp để trở thành
sân bay có hoạt động quốc tế tiểu vùng.
Hệ thống cung cấp Điện
Lưới điện quốc gia đã phủ rộng khắp toàn vùng, đạt tỷ lệ trung bình khoảng
93% số xã đã có điện. Một số địa phương như Lào Cai, Phú Thọ, Lạng Sơn tỷ
lệ 100% số xã có điện lưới quốc gia. Tuy nhiên, nguồn điện hiện chưa đáp ứng
được hết nhu cầu sử dụng của người dân, tại nhiều nơi tình trạng mất điện
thường xuyên xảy ra.
Hệ thống cấp thoát nước
Nhiều công trình thủy điện đã và đang được xây dựng, được đưa vào
sử dụng. Điều này đã giúp cho cuộc sống của người dân Tây Bắc trở nên thuận
tiện và đỡ khó khăn hơn trước. Tuy nhiên, nó cũng gây rất nhiều khó khãn cho
đồng bào khi nhà nước không giải quyết được triệt để việc di cư đồng bào dân
tộc đến nõi ở mới, đảm bảo được việc sinh hoạt và làm kinh tế của họ. Mặt
khác, việc xây dựng các công trình thủy điện dẫn đến việc ngập lụt một số nơi,
sạt lở những con đường.
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 93
Hệ thống thông tin liên lạc, Hạ tầng y tế, Hạ tầng tài chính… cũng đã
được xây dựng nhưng đang còn thiếu hụt và cần có chính sách quan tâm, đầu
tư rất nhiều từ nhà nước và chính quyền.
2.4.5 Các chính sách nhà nước
Tại buổi tổng kết Chương trình hợp tác du lịch của các tỉnh Tây Bắc mở rộng
2011, các đại biểu đã xác định hướng thu hút đầu tư cơ sở hạ tầng và cơ sở vật
chất cần phải được đẩy mạnh trong thời gian tới.
Trong năm 2012, các tỉnh Tây Bắc thống nhất đẩy mạnh phát triển và khai
thác sâu các mô hình du lịch cộng đồng mang tính chất đặc trưng gắn với văn
hóa dân tộc và các điểm du lịch đặc thù như du lịch cộng đồng Điện Biên gắn
với di tích lịch sử, du lịch cộng đồng của các dân tộc Mông, Dao, Giáy, v.v..
Gắn với các làng nghề, trong đó chú trọng vào quyền lợi của người dân và vai
trò của các doanh nghiệp trên địa bàn.
Đại diện các địa phương ở khu vực Tây Bắc mở rộng đã cùng cam kết đưa ra
các chính sách mạnh mẽ hơn nữa nhằm thu hút đầu tư du lịch vào vùng, đồng thời
tiếp tục đẩy mạnh khai thác các mô hình du lịch cộng đồng gắn với văn hoá dân
tộc địa phương. Bên cạnh đó cũng sẽ có những chính sách đào tạo nguồn nhân lực
du lịch tại chỗ, tạo việc làm du lịch cho người dân địa phương và tăng cường nhận
thức về du lịch có trách nhiệm với môi trường cho người dân và doanh nghiệp.
2.4.6 Vốn đầu tư của các doanh nghiệp
Trên 40.000 tỷ đồng vốn đăng ký đầu tư vào Tây Bắc đã được ký kết tại
Diễn đàn xúc tiến đầu tư Tây Bắc năm 2008. Hiện nay, có rất nhiều nhà đầu
tư đang có dự định đầu tư vào Tây Bắc.
2.4.7 Mức độ tham gia đóng góp của cộng đồng địa phương
Bảng 2.4: Số người tham gia hoạt động dịch vụ du lịch
STT Loại hình dịch vụ Cát Cát Lý Lao Chải
1 Bán hàng rong 72 77
2 Chở xe ôm 18 17
3 Bán hàng lưu niệm cố định ở chợ 6 5
4 Hướng dẫn khách du lịch 9 3
5 Biểu diễn văn nghệ 7 0
Cộng 112 102
(Nguồn: Khảo sát tháng 10/2005)
Làng Cát Cát có 360 người H’Mông mà có tới 112 người tham gia hoạt động
du lịch chiếm tỷ lệ 31,11% dân số. Làng Lý Lao Chải có 561 người H’Mông có
102 người tham gia dịch vụ du lịch chiếm tỷ lệ 18,18% dân số nhưng tính theo
đơn vị hộ gia đình tỷ lệ số hộ có người tham gia hoạt động du lịch rất cao. Khảo
sát 28 hộ ở thôn Lao Chải 1 có 22 hộ (chiếm 78,6%) số hộ có người tham gia dịch
vụ du lịch. Như vậy là số người trực tiếp tham gia dịch vụ du lịch khá đông. Đó
là chưa kể số người gián tiếp tham gia các dịch vụ này như sản xuất, đi mua thổ
cẩm, hàng lưu niệm....
Trong các ngành nghề mới xuất hiện, có nghề hướng dẫn viên du lịch và phục
vụ khách du lịch( mang đồ, dẫn đường cho khách du lịch) phát triển khá nhanh,
nhất là trong tầng lớp thanh niên. Mỗi một làng người H’Mông có một vài thanh
niên làm nghề hướng dẫn viên tự phát. Đặc biệt, một số công ty du lịch đã tuyển
người H’Mông ở các làng đào tạo trở thành đội ngũ hướng dẫn viên chuyên
nghiệp. Làng Cát Cát có 5 hướng dẫn viên người H’Mông chuyên nghiệp, làng
Lao Chải có 12 hướng dẫn viên, xã Hầu Thào có 7 hướng dẫn viên....v.v. 16 làng
người H’Mông còn thành lập các đội văn nghệ phục vụ khách du lịch, thu hút
khoảng 200 nam nữ diễn viên không chuyên tham gia. Một số đội ở Lao Chải, Sa
Pa, San Sả Hồ không chỉ biểu diễn ở làng mà còn trở thành đội văn nghệ không
chuyên của các khách sạn Victorya, BamBeo, khách sạn Châu Long, khách sạn
Hàm Rồng....
Tuy nhiên, nhìn chung thì mức độ tham gia đóng góp của cộng đồng địa
phương vào du lịch của vùng chưa thực sự đúng nghĩa.
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 95
2.4.8 Du lịch tác động tiêu cực đến đời sống văn hoá
Tình trạng học sinh bỏ học, lang thang trên địa bàn Tây Bắc đã bắt đầu xuất
hiện khi du lịch bắt đầu phát triển. Chính quyền các cấp ở Tây Bắc đã có nhiều cố
gắng giải quyết vấn đề này. Một số tổ chức phi chính phủ tài trợ kinh phí để lập
các dự án đào tạo việc làm, mở lớp học cho các em. Tuy nhiên, hiện tượng các em
bỏ học bán hàng rong lang thang ở các điểm du lịch, ở các thị trấn vẫn tồn tại khá
phổ biến.
Số phụ nữ bán hàng rong, đeo bám khách cũng diễn ra thường xuyên ở mọi
địa điểm du khách tham quan ở Tây Bắc. Hiện tượng chèo kéo, ép mua đồ lưu
niệm thường xuyên xảy ra. Vào ngày thứ 7, chủ nhật có tới gần 200 phụ nữ, trẻ
em các làng người H’Mông đổ về thị trấn bán hàng rong. Ở các làng Tả Van, Lao
Chải, Bản Pho cũng có tới 30 đến 40 phụ nữ chèo kéo khách mua đồ thổ cẩm.
Hiện tượng chèo kéo này du khách rất phản đối, gây ảnh hưởng tiêu cực đến vấn
đề phát triển du lịch và đời sống văn hoá các làng người H’Mông.
Nhiều di sản văn hoá vật thể và phi vật thể truyền thống bị biến dạng, nghèo
nàn hoặc bị “đóng giả”, lợi dụng phục vụ mục đích “thương mại hoá”, tạo nhiều
nguồn thu. Điển hình là du khách ồ ạt đến xem các sinh hoạt giao duyên của trai
gái H’Mông, Dao tối thứ 7 khiến cho các sinh hoạt giao duyên biến mất. Chợ
phiên ở vùng cao không chỉ là nơi trao đổi hàng hoá mà còn là nơi giao lưu tình
cảm. Chợ là nơi gặp mặt của tình yêu. Người H’Mông ở Sa Pa đi chợ phải đi từ
chiều hôm trước. Buổi tối trước phiên chợ là ngày hội của nam nữ thanh niên. Họ
thổi sáo, gẩy đàn môi, hát giao duyên. Nhưng từ đầu thập kỷ 90 của thế kỷ 20,
dòng người du lịch ồ ạt đổ về xem sinh hoạt “chợ tình”. Những tình cảm sâu kín
của nam nữ thanh niên luôn bị chụp ảnh, quay phim, hoặc trở thành một trò vui
kỳ lạ cho du khách. Sinh hoạt giao duyên buổi tối trước hôm chợ không còn diễn
ra ở thị trấn. Trước nhu cầu của du khách, một số người đóng giả sinh hoạt văn
hoá giao duyên bằng múa khèn, thổi sáo. Các sinh hoạt này mang nặng tính chất
thương mại, trở thành một sản phẩm làm giả để thu tiền.
Người H’Mông có nghề thổ cẩm tinh xảo. Một tấm thổ cẩm được sản xuất
phải qua nhiều công đoạn dệt, nhuộm, tạo hoa văn công phu. Dệt xong tấm vải
lanh, người H’Mông phải nhuộm từ 12 đến 15 lần mới tạo thành tấm vải bền màu.
Nhưng muốn tạo sự láng bóng của vải, người H’Mông còn phải bôi sáp ong lên
vải và lăn trên phiến đá. Người lăn đứng trên phiến đá dùng chân day đi day lại,
cho đến khi vải mềm, ánh bóng màu tím than. Tạo được vải, phụ nữ H’Mông còn
phải áp dụng cả ba thủ pháp nghệ thuật in sáp ong, thêu, ghép vải tạo hoa văn.
Các mẫu hoa văn truyền thống giàu tính biểu tượng phản ánh cả tín hiệu văn hoá
tộc người, lịch sử di cư. Nhưng hiện nay, do nhu cầu cần “nhanh, nhiều, rẻ” nên
người H’Mông dùng máy khâu thêu hoa văn. Các mô típ hoa văn đơn giản đã thay
thế hoa văn đặc sắc cổ truyền. Vì vậy giá trị nghệ thuật trong thổ cẩm H’Mông bị
mai một, đứt đoạn với truyền thống. Các hoạ tiết hoa văn giàu tính biểu tượng đã
nhường chỗ cho các hoa văn đơn giản loè loẹt phổ biến khắp từ Côn Minh Vân
Nam Trung Quốc đến Hà Nội. Bản sắc nghệ thuật thổ cẩm H’Mông đang có nguy
cơ suy tàn, kho tàng hoa văn thổ cẩm H’Mông ở Sa Pa không còn nét độc đáo,
mất tín hiệu văn hoá tộc người.
Tương tự như vậy, các sản phẩm thủ công như chạm khắc bạc, làm đỗ gỗ, làm
nhạc cụ .... cũng chạy theo số lượng, làm sản phẩm kém chất lượng, thậm chí còn
là đồ giả bán cho du khách. Điển hình nhất là các đồ trang sức bằng bạc được thay
thế bằng nhôm. Thậm chí, ở nhiều làng, người H’Mông không làm đồ chạm khắc
bạc mà đi mua đồ trang sức của người Kinh ở miền xuôi đem bán kiếm lời. Nhưng
nguy cơ đứt đoạn văn hoá, đánh mất bản sắc văn hoá dân tộc còn diễn ra nghiêm
trọng khi một bộ phận người H’Mông qua sự tuyên truyền của du khách chối bỏ
tín ngưỡng truyền thống theo đạo Tin lành. Đạo Tin lành theo bước chân của du
khách len lỏi đến các làng người H’Mông Sa Pa dẫn đến tình trạng gây mất ổn
định trong một làng, một dòng họ. Mâu thuẫn giữa người theo đạo với người theo
tín ngưỡng cổ truyền liên tiếp xảy ra ở khắp các làng H’Mông gắn với các điểm
du lịch.
Kết luận
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 97
Tây Bắc có nhiều khu di tích lịch sử đã được xếp hạng, cùng những nét đặc trưng
văn hoá truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu số là tài nguyên du lịch tự nhiên
và nhân văn vô giá để phát triển du lịch. Sự phát triển của du lịch tại đây trong những
năm qua đã có sự khởi sắc nhất định. Nhiều sự kiện, lễ hội với quy mô lớn, hoạt động
văn hóa, hội thảo chuyên đề cấp quốc gia, nhiều chương trình hợp tác liên tỉnh được
tiến hành thành công đã có tác động quan trọng trong tuyên truyền, quảng bá, tạo điều
kiện thông thoáng cho các doanh nghiệp đầu tư, khai thác các giá trị sản phẩm đặc
thù của mỗi địa phương để thu hút du khách trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, những
gì du lịch đã và đang làm được vẫn chưa thật sự khai thác được tiềm năng sẵn có của
vùng. Nhìn chung, Các sản phẩm du lịch đến Tây Bắc hiện nay có các đặc điểm sau
đây :
Thứ nhất, Khó khăn thách thức lớn nhất đối với các sản phẩm du lịch của Tây
Bắc chính là chất lượng cõ sở hạ tầng ( giao thông khó khăn, chưa phát triển hệ thống
khách sạn, cơ sở lưu trú… ), chất lượng dịch vụ, trình độ nhân lực chưa được trú
trọng nâng cao. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng sản phẩm và hình ảnh của
du lịch Tây Bắc.
Thứ hai, Dân trí thấp đi kèm với cuộc sống của người dân còn nghèo khiến họ
tham gia hạn chế vào chuỗi giá trị mà du lịch mang lại. Các công ty lữ hành hưởng
lợi trong việc khai thác các giá trị độc đáo ở các bản làng Tây Bắc, trong khi người
dân hầu như không được hưởng lợi từ du lịch. Do đó, họ có thái độ chưa thân thiện
với du khách, bất hợp tác với nhiều công ty du lịch.
Thứ ba, Mối quan hệ và hợp tác giữa cơ quan quản lý du lịch địa phương với các
tổ chức kinh doanh du lịch (lữ hành, lưu trú…), giữa các tổ chức kinh doanh du lịch
với nhau, giữa các tổ chức kinh doanh du lịch với người dân địa phương chưa được
chặt chẽ. Dẫn đến thiếu sự liên kết trong quy hoạch phát triển du lịch, liên kết trong
khai thác các sản phẩm du lịch, phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển du lịch,
liên kết tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến du lịch cũng như đào tạo, phát triển nguồn
nhân lực trong lĩnh vực này.
Thứ tư, hoạt động quảng bá, tuyên truyền chưa được thực hiện đầy đủ, có quy
mô. Bao gồm: tuyên truyền cho người dân địa phương hiểu về du lịch và giá trị bản
sắc vãn hóa dân tộc mình, quảng bá về hình ảnh du lịch Tây Bắc đến với du khách.
Thứ năm, chưa xây dựng được thương hiệu riêng cho du lịch Tây Bắc với với
nét riêng biệt, đặc trưng, độc đáo, khác biệt với các vùng du lịch khác.
Thứ sáu, đội ngũ hướng dẫn viên còn chưa thực sự hiểu về văn hóa địa phương,
không giúp khách hiểu thêm được nhiều về chiều sâu văn hóa các dân tộc địa phương.
2.5 TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH VĂN HÓA ĐẾN KHU
VỰC TÂY BẮC
Tây Bắc là vùng đất có bề dày văn hóa lịch sử và nhiều dân tộc thiểu số sinh
sống, là nơi ghi dấu quá trình dựng nước và giữ nước hào hùng của dân tộc. Cảnh
quan hùng vĩ và hệ sinh thái phong phú là yếu tố hấp dẫn, thu hút du khách. Có
thể khẳng định, vùng Tây Bắc của Tổ quốc là nơi hội tụ đầy đủ những điều kiện
cần và đủ để trở thành tuyến du lịch quan trọng trong chiến lược phát triển du lịch
của đất nước.
Tây Bắc với thiên nhiên hùng vĩ, có nhiều khu rừng nguyên sinh như Vườn
quốc gia Hoàng Liên, khu bảo tồn thiên nhiên Mường Nhé, rừng Mường Phăng;
có nhiều khối núi và dãy núi cao trong đó, dãy Hoàng Liên Sơn có đỉnh Phan-xi-
păng cao 3.143 mét được mệnh danh là "nóc nhà của Đông Dương". Vùng Tây
Bắc còn có nhiều điểm cao trên 1.000 mét với khí hậu mát mẻ quanh năm như Sa
Pa (Lào Cai), Sìn Hồ (Lai Châu), Mộc Châu (Sơn La), nhiều hang động và nhiều
suối nước nóng, thích hợp với phát triển loại hình du lịch.
Bên cạnh sự hùng vĩ của núi non Tây Bắc còn làm đắm say lòng người bằng
những vũ điệu dân gian. Những điệu múa dân gian vùng Tây Bắc vừa mang đậm
bản sắc văn hóa, là một sinh hoạt mang tính cộng đồng, lại vừa thể hiện tính nghệ
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 99
thuật cao qua từng bước đi, điệu nhảy. Trong mỗi điệu múa còn chứa đựng tâm
hồn, tình cảm và cả cốt cách của người dân vùng cao.
Cũng giống như không gian văn hóa cồng chiêng của các cộng đồng cư dân
Tây Nguyên, cồng chiêng và diễn tấu cồng chiêng là một loại hình nghệ thuật âm
nhạc lâu đời, có vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống tinh thần của đồng bào
Tây Bắc. Một dàn cồng chiêng cồng Mường đủ bộ thường có 12 chiếc, tượng
trưng cho 12 tháng trong năm, 12 tia sáng của mặt trời trên trống đồng Mường.
Du khách rất ấn tượng khi nghe âm thanh trầm bổng với thang âm đầy đủ của dàn
cồng chiêng Mường ở các dịp lễ tết, cưới xin... hay những tối chung vui đón khách.
Ngoài ra, âm nhạc truyền thống, người dân tộc Tây Bắc còn có một số nhạc cụ
khác như sáo Mường, khèn, đàn tam, đàn tứ, pí… có thể diễn tấu chung như một
dàn nhạc tạo nên âm hưởng sống động, kết hợp với những điệu múa hát dân gian
độc đáo thể hiện tâm hồn và đời sống tinh thần phong phú của cộng đồng dân tộc
nơi đây.
Có những món ăn đặc biệt đã trở thành "thương hiệu" nổi bật cho ẩm thực Tây
Bắc như cơm lam trong ống giang, nhái nấu măng chua chả lá bưởi, thịt treo gác
bếp, lạp sườn… Đặc biệt, hương vị men lá dịu nhẹ, thơm ngon của ché rượu cần
Tây Bắc là nét chấm phá độc đáo cho từng bữa ăn của du khách mỗi khi tới thăm
vùng đất này.
Mỗi tộc người ở Tây Bắc có hình thức trang phục riêng, nên cũng có nghề dệt
thổ cẩm đặc trưng. Với người Mường, trang phục nữ có những chiếc váy bó sát
thân, cạp váy có những đường nét hoa văn tinh tế, áo cánh lửng, khăn đội đầu và
áo choàng buộc cạp thắt lưng xanh. Phụ nữ Thái có trang phục đa dạng, màu phổ
biến là màu xanh và trắng với hàng cúc bạc cùng hoa văn trang trí... Mỗi bộ trang
phục của mỗi dân tộc ở Tây Bắc mang một vẻ đẹp riêng thể hiện cho tâm hồn,
tính cách của tộc người. Đây thực sự là những tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh,
đòi hỏi khiếu thẩm mỹ và sức sáng tạo của nghệ nhân.
Ngoài những yếu tố kể trên, văn hóa Tây Bắc còn sở hữu nhiều giá trị nhân
văn khác, hoàn toàn có thể khai thác phục vụ du lịch như văn học dân gian địa
phương (sử thi, truyện cổ, truyện kể, truyện ngụ ngôn, thần thoại, trường ca, ca
dao, tục ngữ…), ngành nghề thủ công truyền thống (đan lát, nuôi trồng, khai thác
lâm sản...) và các lễ hội diễn ra quanh năm (lễ khung mùa, hội cầu mưa, lễ rửa lá
lúa…).
Các tỉnh Tây Bắc có nhiều điểm chung cho việc hợp tác cùng phát triển du lịch
như có nét văn hóa tương đồng, có nhiều di sản thiên nhiên đẹp, khí hậu trong
lành mát mẻ. Con người Tây Bắc đa dân tộc với văn hóa độc đáo, hấp dẫn, nhiều
loại hình nghệ thuật dân gian và các sản phẩm thủ công nổi tiếng hấp dẫn. Đó
chính là những yếu tố tự nhiên thuận lợi để ngành du lịch phát triển các sản phẩm
đặc sắc mang thương hiệu Tây Bắc.
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ
Định Hướng Phát Triển Du Lịch Tây Bắc Giai Đoạn 2012 - 2015
Quan điểm của trung ương về du lịch Tây Bắc nhấn mạnh rằng đến năm
2020, Tây Bắc sẽ trở thành một trong bảy vùng du lịch trọng điểm của cả
nước.
Quan điểm của chính phủ là xem du lịch ngành kinh tế mũi nhọn góp phần
tích cực vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy các ngành kinh tế phát
triển đẩy mạnh sự phát triển, đẩy mạnh sự công nghiệp hóa hiện đại hóa
đất nước, tạo việc làm, góp phần xóa đói giảm nghèo.
Phát triển du lịch nhanh và bền vững, khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực
trong nước, nâng cao chất lượng và đa dạng hóa các sản phẩm du lịch để
đáp ứng nhu cầu phát triển.
3.1 NHÓM GIẢI PHÁP “ BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HOÁ
TÂY BẮC”
3.1.1 Giải pháp 1 : Phổ cập giáo dục, tăng cường dạy song ngữ : tiếng
Việt - tiếng dân tộc trong các trường học.
Mục tiêu :
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 101
Nâng cao ý thức dân tộc và tính tự giác của các đồng bào dân
tộc trong việc bảo vệ, kế thừa, phát huy và phát triển các giá
trị văn hoá của đồng bào dân tộc mình.
Đáp ứng được nhu cầu học tiếng mẹ đẻ của đồng bào dân tộc
thiểu số và đồng thời cũng bảo tồn được ngôn ngữ của họ,
một trong những thành quả văn hóa có giá trị nhất, tuyệt vời
nhất.
Tăng thêm sự hiểu biết của đồng bào về văn hoá dân tộc, góp
phần bảo vệ bản sắc văn hoá, đảm bảo phát triển bền vững
của cộng đồng dân tộc trong một quốc gia đa dân tộc.
Bảo tồn các tác phẩm văn học, những phong tục văn hóa của
dân tộc.
Giải pháp cụ thể :
Để việc dạy tiếng Mông và Thái trong trường học trong thời gian
tới cần thiết phải có những giải pháp đồng bộ :
Tùy theo năng lực tài chính và nhu cầu của địa phương, mỗi
địa phương phải tiến hành xây dựng các trường học từ mầm non đến
tiểu học, trang bị đầy đủ các thiết bị, điều kiện cần thiết cho việc
giảng dạy và học tập. Giáo viên và học sinh đều phải mặc trang phục
truyền thống của dân tộc mình khi đến trường.
Cần chọn một phương án chữ viết khả dĩ được đông đảo cộng
đồng chấp nhận, được nhà nước thừa nhận.
Xây dựng chương trình học một cách có hệ thống bằng
chương trình song ngữ tiếng Việt – tiếng dân tộc. Bên cạnh việc dạy
tiếng dân tộc, bộ chữ, bộ vần là một vốn văn hoá của các dân tộc
được đưa vào chương trình dạy. Thông qua vốn văn học thành văn
và văn học dân gian của các dân tộc, các em được học tiếng dân tộc
góp phần hiệu quả hơn trong việc duy trì và phát triển vốn văn hoá
dân tộc. Chính nội dung phản ánh cuộc sống và vốn văn hoá dân tộc
khiến các em học tiếng mẹ đẻ hấp dẫn. Học tiếng mẹ đẻ có hệ thống
và bài bản, các em, những công dân tương lai của đất nước, những
thành viên có tri thức của các dân tộc sẽ là người góp phần làm giàu
thêm tiếng mẹ đẻ của mình. Các em sẽ sáng tạo những tác phẩm
bằng chính tiếng mẹ đẻ của mình, làm cho kho tàng văn học thành
văn của dân tộc phong phú thêm. Nhờ đó, tiếng dân tộc ngày càng
đảm đương có hiệu quả các chức năng xã hội của mình.
Việc dạy tiếng dân tộc chỉ trở nên thiết thực khi tiếng dân tộc
được sử dụng trong in ấn tài liệu. Nghĩa là người học có tài liệu,
sách đọc thêm để đọc. Do đó, bên cạnh việc xuất bản sách giáo khoa,
dạy dỗ ở trường thì cần có những bài viết bằng tiếng dân tộc in trên
các tờ báo địa phương thường nhật, xuất bản những cuốn sách tham
khảo, truyện tranh… được viết bằng hai thứ chữ Việt – tiếng dân
tộc để phục vụ cho nhu cầu học tập và tìm hiểu của đồng bào dân
tộc.
Phải xây dựng được một đội ngũ giáo viên có chất lượng và
giàu nhiệt huyết, đảm bảo chữ dân tộc nào được người dân tộc đó
dạy. Có như vậy chất lượng học tiếng dân tộc mới được đảm bảo.
Kinh nghiệm cho thấy rằng, những tiếng dân tộc nào có một đội ngũ
giáo viên là người dân tộc mình đảm nhận việc dạy học thì tiếng dân
tộc đó được dạy có chất lượng và được duy trì liên tục. Do đó, cần
có những chính sách khuyến khích, động viên, chế độ lương thưởng
phù hợp để giúp cho các giáo viên có thể yên tâm công tác và làm
hết trách nhiệm của mình.
Thêm khoa tiếng dân tộc vào các trường cao đẳng, đại học
dạy về sư phạm và ngôn ngữ để có thể đào tạo được một đội ngũ
giáo viên chuyên nghiệp, có hiểu biết sâu sắc về văn hóa ngôn ngữ
dân tộc trở về phục vụ địa phương.
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 103
Tạo điều kiện cho các con em người dân tộc được học các
trường đào tạo sư phạm để mai này họ sẽ trở thành giáo viên phục
vụ cho bản làng của mình.
Ngoài ra, Cần phải có sự tham gia của các ngành, các cấp,
trước hết là được sự ủng hộ, quan tâm của chính quyền tỉnh. Thực
tế cho thấy, việc tổ chức dạy tiếng dân tộc ở tỉnh nào có sự quan tâm
của chính quyền, của ngành giáo dục thì phong trào được duy trì.
Ý nghĩa : Nâng cao được trình độ dân trí cũng như những hiểu biết,
ý thức của đồng bào về các giá trị văn hóa của dân tộc mình. Các giá
trị văn hoá này được hình thành suốt chiều dài của lịch sử, tạo nên
bản sắc và phong cách riêng của từng dân tộc. Đây là cơ sở liên kết
dân tộc và tạo nên sức sống của dân tộc trong giao lưu với các cộng
đồng dân tộc khác trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Việc
nâng cao ý thức và tính tự giác của các đồng bào dân tộc trong việc
thực hiện gìn giữ “ bộ gien di truyền” văn hóa quý hiếm của từng dân
tộc là công việc đầu tiên và có ý nghĩa quyết định đến công tác bảo
tồn, kế thừa và phát huy các giá trị dân tộc, tạo cơ sở vững chắc cho
việc xây dựng một quốc gia đa dân tộc thống nhất và là nền tảng để
phát triển du lịch văn hóa tới Tây Bắc.
Việc dạy tiếng dân tộc trong nhà trường là một biện pháp tốt
nhất, có hiệu quả nhất nhằm bảo tồn, phát triển ngôn ngữ các dân
tộc thiểu số. Bằng việc dạy học, học tiếng trong trường học, các thế
hệ sau sẽ được tiếp nhận tiếng mẹ đẻ và góp phần làm giàu đẹp tiếng
mẹ đẻ của mình. Nhờ vậy, tiếng mẹ đẻ không những được duy trì
phát triển mà còn từng bước trở thành một ngôn ngữ văn hoá.
Đây cũng là một biện pháp nhằm đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng
cấp thiết của đồng bào dân tộc Tây Bắc. Chỉ khi nắm bắt, hiểu rõ và
đáp ứng được tâm tư nguyện vọng, nhu cầu của người dân tộc ở đây
một cách chính xác và đầy đủ thì việc quản lý mới có hiệu quả được.
3.1.2 Giải pháp 2 : Đẩy mạnh và khẩn trương sưu tầm, bảo vệ,
khôi phục các di sản văn hóa đã và đang dần bị lãng quên hoặc bị thương
mại hóa. Bảo vệ những di sản văn hóa có giá trị cho việc phát triển du lịch
và văn hóa cộng đồng.
Mục tiêu
Tìm lại những giá trị văn hóa đã bị lãng quên.
Tìm lại nguyên vẹn các giá trị văn hóa đã bị thương mại hóa.
Bảo vệ những giá trị văn hóa và làm phong phú thêm kho
tàng văn hóa dân tộc.
Các giải pháp cụ thể
Thực hiện việc kiểm kê các tài sản văn hoá vật thể và phi vật thể
của đồng bào các dân tộc Tây Bắc, đặc biệt là ở những vùng khó khăn,
xa xôi cách trở là một trong những việc làm cấp bách hiện nay của Đảng
và Chính phủ, của bản thân mỗi dân tộc và trước hết là của các cấp lãnh
đạo quản lý ngành văn hoá hiện nay ở địa phương cũng như của Trung
ương.
Khai thác phải đi đôi với việc bảo vệ, khôi phục những địa danh
mang đậm bản sắc văn hóa của người Mường, người Thái, người Dao,
người H’Mông (nhữngđịa điểm đang dần trở thành những điểm du lịch
văn hoá thú vị ), Những chợ văn hoá ở Hoà Bình, Sơn La, Lai Châu,
Lào Cai (đang dần thu hút được sự quan tâm của du khách trong nước
và quốc tế). Việc khai thác các dịch vụ văn hoá và di sản văn hoá phải
được tiến hành đồng bộ, có qui hoạch và phương pháp cụ thể, cần tránh
sự thô thiển, thương mại hoá tràn lan, không chú ý bảo vệ các giá trị
văn hoá dân tộc, phá vỡ cảnh quan và môi trường văn hoá dân tộc.
Sưu tầm, bảo tồn những giá trị văn hoá đã bị thất lạc, lãng quên
hoặc đang bị thương mại hoá. Đảng, nhà nước và các cấp chính quyền
có trách nhiệm ở địa phương cần có sự quan tâm và đầu tư kinh phí hơn
nữa cho công tác thu thập, sưu tầm các giá trị văn hóa còn nằm rải rác
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 105
trong trí nhớ của các cụ già, các làng thủ công truyền thống đang có
nguy cơ bị thất truyền và đặc biệt là các luật tục, tác phẩm dân gian dân
tộc. Vì các dân tộc ở vùng Tây Bắc có một kho tàng kiến thức rất phong
phú và có giá trị cao về mặt quản lý xã hội được thể hiện qua văn hoá
dân gian, như : tục ngữ, ca dao, truyện kể, hội lễ, sử thi, hương ước,
luật tục… trong số này, hương ước và luật tục có vai trò quan trọng
trong việc quản lý xã hội, nhưng mấy năm gần đây mới được quan tâm.
Nếu thu thập được đầy đủ, đây là một kho tài sản quý báu, dồi dào về
số lượng, phong phú về chủng loại. Chúng sẽ rất hữu ích cho sự nghiệp
quản lý, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, phát triển bền vững
kinh tế – xã hội cho các dân tộc cũng như tạo nên một nét đẹp đặc trưng
riêng biệt của mỗi dân tộc.
Khuyến khích đồng bào duy trì và giữ vững nếp sống, phong tục
tập quán, thói quen sinh hoạt theo phong cách riêng của dân tộc mình.
Nhà sàn và sinh hoạt nhà sàn, y phục, phong cách giao tiếp, khôi phục
các lễ hội, các nhạc cụ, điệu hát dân tộc bằng cách đưa lên sàn diễn, chế
biến các món ăn dân tộc… là những công việc cần làm trước tiên, vừa
đáp ứng được nhu cầu thưởng thức và tìm hiểu của du khách, vừa bảo
tồn được những giá trị văn hoá dân tộc, đưa tinh hoa văn hoá dân tộc
trở lại với cuộc sống cộng đồng. Gắn công tác du lịch với việc giữ gìn
bản sắc văn hoá hoá là phương án tối ưu trong điều kiện hiện nay.
Khẩn trương lập kế hoạch khai thác, di chuyển các di tích văn
hóa ở vùng sắp bị ngập khi xây dựng các nhà máy thuỷ điện. Khu vực
Tây Bắc cụ thể là ở Sơn La, trong những năm gần đây thường xuyên bị
xảy ra các tình trạng sụt lún và ngập nước ở nơi gần nhà máy thủy điện
Sơn La điều này ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của nhân dân, đe
dọa nghiêm trọng đến sự sống còn của những di tích văn hóa và tiềm
năng phát triển du lịch của địa phương. Chính quyền địa phương và
những bên có liên quan cần có những kế hoạch cụ thể để di chuyển hoặc
bảo vệ các di tích văn hóa khỏi những tác động của con người.
Việc tái định cư cho hàng chục vạn dân vùng lòng hồ Sơn La –
Lai Châu phải được chú trọng đến và gắn với việc bảo vệ các di sản văn
hoá. Cần đảm rằng ở nơi ở mới đồng bào vẫn có thể sinh hoạt và xây
dựng cuộc sống bình thường, những di sản văn hóa vẫn được bảo vệ
trước sự tác động của thời buổi công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đẩy mạnh phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hoá cơ sở. Mọi hoạt động văn hoá phải hướng về cơ sở, dân trực tiếp
làm, dân quản lý, dân hưởng thụ. Cấp uỷ, chính quyền, đoàn thể vừa
lãnh đạo hướng dẫn, vừa trực tiếp tham gia các hoạt động văn hoá cùng
quần chúng nhân dân.
Tăng cường hơn nữa công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm
công tác văn hoá là người dân tộc để trở về phục vụ cho xã, bản mình.
Coi trọng trường văn hoá nghệ thuật tỉnh để đủ sức đào tao cán bộ văn
hoá cho các xã, bản. Xây dựng mô hình “ gia đình văn hoá”,”bản văn
hoá” cho phù hợp với mỗi vùng dân tộc.
Tuyên truyền giới thiệu văn hoá các dân tộc Thái,Mường, Dao,
Mông với các dân tộc khác, với cả nước và quốc tế. Tạo nhiều chương
trình giao lưu để các dân tộc có thể hiểu biết và học hỏi lẫn nhau.
Đưa nội dung văn hoá, nhất là các tác phẩm văn học dân gian
nổi tiếng của các dân tộc vào giảng dạy và học tập trong các trường phổ
thông, chuyên nghiệp, đào tạo cán bộ.
Nâng cao ý thức trách nhiệm cho mọi thành viên trong cộng
đồng bảo vệ các giá trị văn hóa của dân tộc mình, của địa phương mình.
Đề cao pháp luật trong việc bảo vệ di sản văn hóa dân tộc, thuần
phong mỹ tục của dân tộc. Việc bảo vệ tiếng nói, y phục, mái nhà dân
tộc, thuần phong mỹ tục dân tộc trong điều kiện giao lưu văn hóa, mở
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 107
cửa và sự tác động mạnh mẽ của thị trường phải được quy định rõ bằng
văn bản, chính sách luật.
Nhà nước cần đầu tư và khuyến khích các tầng lớp nhân dân
tham gia đóng góp sức mình vào công việc tôn tạo, tu bổ, sử dụng, khai
thác hợp lý, có hiệu quả cách giá trị văn hóa truyền thống.
Cần có sự tập hợp cách nghệ nhân văn hóa dưới mọi hình thức
để làm sống dậy những giá trị văn hóa đang bị thời gian vùi lấp bằng
sự quan tâm đầu tư đầy đủ và tổ chức chặt chẽ, đồng bộ, làm đến đâu
chắc đến đó.
Cần đưa ngay ra các thiết chế văn hóa để nghiên cứu, sưu tầm,
biên dịch, biên tập xuất bản thành sách, thành băng hình, băng nhạc,
thành tiết mục văn nghệ dân gian, lễ hội dân gian để phổ biến và lưu
trữ các gái trị văn hóa truyền thống
Cần sớm quy hoạch nhóm tượng đài chiến thắng chiến dịch Hòa
Bình nằm trong quần thể khu bảo tàng du lịch văn hóa dân tộc.
Ý nghĩa : Giữ gìn và lưu truyền được những giá trị văn hóa của đồng
bào dân tộc trong thời buổi công nghiệp hóa hiện đại hóa. Góp phần
giữ vững bản sắc riêng của từng dân tộc trong cộng đồng 54 dân tộc
Việt Nam. Nâng cao chất lượng đời sống văn hóa của người dân,
nâng cao ý thức của các cán bộ đảng viên trong công cuộc bảo tồn
và phát huy giá trị văn hóa của các dân tộc thiểu số.
3.1.3 Giải pháp 3 : Cải thiện những điểm chưa hoàn thiện, loại
bỏ những yếu tố tiêu cực và tiếp thu tinh hoa văn hoá của các dân tộc
khác
Mục tiêu
Xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc
Mang đến cho đồng bào dân tộc một cuộc sống văn minh,
tiến bộ nhưng vẫn đậm đà bản sắc văn hóa riêng.
Mô tả giải pháp
Việc chuyển một nền văn hoá tiền công nghiệp ở vùng núi và
dân tộc thiểu số sang một nền văn hoá công nghiệp hiện đại là một quá
trình cải tiến căn bản và lâu dài. Ơ đây, cần phải làm một cách bình
tĩnh, kiên trì và thận trọng. Quá trình này không phải chỉ là quá trình
đưa các yếu tố văn minh cấy vào xã hội cổ truyền mà còn là quá trình
cấu trúc lại hệ thống cũ để tạo lập hệ thống mới trên cơ sở chuyển các
giá trị tiến bộ và tích cực của hệ thống cũ vào hệ thống mới trên cơ sở
những đòi hỏi của thời đại. Những yêu cầu phát triển của thời đại phải
trở thành điểm tựa để lựa chọn các giá trị trong quá khứ và hiện tại. Bản
sắc dân tộc không phải là cái bất biến, tĩnh tại, khép kín mà là ở trong
xu thế động và mở. Nó luôn mang tính lịch sử cụ thể và luôn tạo lập
các giá trị mới để thích ứng với yêu cầu phát triển chung của thời đại.
Vì vậy, bản sắc dân tộc phải được hiểu trong xu thế phát triển và phát
triển là điều kiện để giữu gìn bản sắc. Do đó điều quan trọng là phải
thay đổi cách nhìn, cách suy nghĩ của đồng bào cho phù hợp với xu thế
tiến bộ của thời đại, tránh xu thế bảo thủ, khép kín và phục cổ.
Giáo dục, tuyên truyền và gần gũi với người dân tộc giúp họ hiểu
được đâu là những giá trị cần được giữ gìn và phát huy, đâu là những
giá trị cần được loại bỏ dần. Những phong tục, tập quán có giá trị văn
hoá tích cực trong đám cưới, đám tang, làm vía, lễ hội, các nhạc cụ,
ngành nghề truyền thống cần được khuyến khích phổ biến trong cộng
đồng. Tránh tình trạng những phong tục đẹp lại cho là lạc hậu, tốn kém,
bị xoá bỏ như “ lễ lên thang và ăn thề” trong đám cưới của người Thái.
Không có lễ này sẽ không còn đám cưới theo phong tục người Thái.
Với người Thái cần cải tiến đám cưới, tiến bộ và gọn như miền xuôi,
chỉ giữ lại phong tục đẹp như đã nêu trên. Trong tang ma cũng chỉ nên
rút gọn, mặc dù xã hội cộng đồng còn nặng tâm lý “ nghĩa tử là nghĩa
tận”, nhất là đối với dân tộc Mông. Thực ra, thời gian tang ma kéo dài
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 109
như dân tộc Mông do thầy cúng phải “ cúng hết bài” “ cúng dở dang sẽ
không thiêng, hồn không lên trời được sẽ quanh quẩn ở làng xóm thành
ma đói hại người”, đó là những tư tưởng lạc hậu cần phải được loại trừ
dần trong xã hội hiện đại.
Ý nghĩa : Thực hiện một cách triệt để những biện pháp trên sẽ góp
phần hoàn thiện nền văn hóa của các đồng bào dân tộc Tây Bắc.
Góp phần vào công cuộc xây dựng một nền văn hóaViệt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
3.1.4 Giải pháp 4 : Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong
sinh hoạt hàng ngày.
Mục tiêu
Khôi phục lại những hoạt động văn hóa đã và đang dần bị mai một.
Đưa các hoạt động văn hóa vào trong cuộc sống thật của người dân,
làm cho các giá trị văn hóa sống trong từng nếp sống, sinh hoạt hàng
ngày của người dân.
Mô tả giải pháp
Để đáp ứng nhu cầu phát triển văn hóa vùng đồng bào dân tộc
Mông, nhà nước cần có chính sách đầu tư thỏa đáng, xây dựng nhà
văn hóa cộng đồng, nơi sinh hoạt tập thể cho đồng bào Tây Bắc để
phục vụ cho hội họp, các hoạt động văn hóa của nhân dân.
Thực hiện các cuộc thi đua làng văn hóa, bản văn hóa giữa các
bản làng, giữa các dân tộc ở khu vực Tây Bắc với nhau. Tổ chức các
cuộc giao lưu văn hóa giữa các dân tộc với nhau để đồng bào các
dân tộc hiểu biết hơn về phong tục, tập quán của nhau. Tạo mối quan
hệ gần gũi thân thiết giữa cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Chú ý mở các cuộc liên hoan, sáng tác văn học nghệ thuật, những
bài dân ca, bài hát mới đáp ứng nhu cầu ca hát của đồng bào ở các
bản thôn hoặc cụm thôn bản.
Có chính sách đãi ngộ thỏa đáng cho các các hoạt động văn hóa
lưu động về vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc Tây Bắc.
Khuyến khích người dân tổ chức nếp sống theo truyền thống dân
tộc mình, mặc trang phục truyền thống của dân tộc mình.
Tổ chức tốt đời sống văn hóa cơ sở, nâng cao mức hưởng thụ và
tiếp nhận văn hóa mới, đồng thời có biện pháp ngăn chặn các nguồn
băng đĩa nhạc ngoại lai, tuyên truyền đạo trái phép đang thâm nhập
một cách mạnh mẽ và phổ biến vào vùng đồng bào dân tộc Tây Bắc.
Đưa ra những quy định bắt buộc người dân phải mặc trang phục
truyền thống trong những ngày hội hè, lễ tết. Quy định mặc trang
phục truyền thống của dân tộc của dân tộc mình đối với những cán
bộ công chức nhà nước ở từng địa phương, các giáo viên giảng dạy
và các em học sinh đến lớp.
Khôi phục và duy trì các làng nghề thủ công truyền thống như
thêu dệt, in sáp ong, ghép vải hoa văn tạo ra các sản phẩm thổ cẩm
mới, nghề chạm khắc bạc, nghề thêu rèn đúc, nghề làm đồ mộc gia
dụng, đan lát....
Bảo tồn tôn tạo các di sản văn hoá vật thể, các cảnh quan như
các khu rừng thiêng, kiến trúc nhà cửa, khu ruộng bậc thang, rừng
thảo quả, nương trồng lanh, dòng suối v.v...
Ý nghĩa : Giúp cho đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Bắc duy trì
và bảo tồn nền văn hóa truyền thống của mình trong quá trình phát
triển và hội nhập đất nước.
3.2 NHÓM GIẢI PHÁP “ PHÁT TRIỂN DU LỊCH VĂN HOÁ TÂY
BẮC VÀ DU LỊCH VIỆT NAM”
3.2.1 Giải pháp 1 : Xây dựng Làng Văn Hóa các dân tộc Tây Bắc
Mục tiêu
Tạo một không gian cho du khách có thể tìm hiểu về văn hóa, sinh hoạt của
cộng đồng dân tộc ở Tây Bắc. Bên cạnh đó có thể tham gia các lễ hội, các trò
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 111
vui chơi giải trí cùng đồng bào dân tộc nơi đây mà không phải mất nhiều thời
gian vận chuyển.
Mô tả giải pháp
Ngoài việc, nhà nước đã có chủ trương đầu tư cho dự án “ làng văn hoá
– du lịch các dân tộc Việt Nam” tập trung ở Hà Tây thì cũng nên đầu tư làng
văn hoá du lịch đặc trưng cho nền văn hoá của từng vùng ( Tây Bắc, Tây
Nguyên,Việt Bắc…) với qui mô vừa phải, cũng không nhất thiết Nhà nước
phải dùng nguồn ngân sách để đầu tư mà có thể kêu gọi các doanh nghiệp vào
đầu tư. Nhà nước hỗ trợ một phần đầu tư cơ sở hạ tầng, chính sách thuế, đất
đai, và một số chính sách ưu tiên khác.
Mỗi vùng văn hoá có thể có rất nhiều dân tộc khác nhau, tuỳ theo từng
điều kiện cụ thể mà có thể khai thác giới thiệu về văn hoá của toàn bộ các dân
tộc trong vùng, nhưng cần tập trung khai thác có điểm nhấn một số dân tộc
đặc trưng vùng văn hoá đó. Ví dụ : dân tộc Thái – Mường- H’ Mông ở Tây
Bắc, Tày – Nùng ở Việt Bắc.
Chọn địa điểm có địa thế, địa hình và vị trí phù hợp, kể cả việc thuận
lợi cho phục vụ tham quan, nghỉ ngơi du lịch sau này.
Việc thiết kế, qui hoạch và tổ chức khác thác dự án nên qui hoạch đầy
đủ các khu chức năng để đảm bảo từ việc bảo tồn, giới thiệu văn hoá đến việc
nghỉ ngơi, thưởng thức và tham gia vào hoạt động văn hoá dân gian, tổ chức
sản xuất giới thiệu các nghề thủ công truyền thống…
o Khu làng của các dân tộc : ngoài việc quan tâm đến qui hoạch
cảnh quan làng – bản, thiết kế kiến trúc từng ngôi nhà, vườn,
cây… thì phải lưu ý đến các tinh hoa văn hoá vật thể tiêu biểu,
điển hình đã có trong lịch sử đời sống các dân tộc như : đình,
nhà sàn, nhà mồ, tượng, nhạc cụ hay các phẩm vật thủ công…
o Khu trung tâm vui chơi giải trí : tổ chức các lễ hội như : lễ cầu
mát, Lễ Thành Hoàng, Hội xuống đồng của người Mường, lễ tế
thần linh, lễ cúng trời, xên bản của người Thái, các lễ hội lịch
sử, nghi lễ vòng đời, lễ hội tốn giáo, tín ngưỡng…
o Tổ chức các trò chơi dân gian bao gồm : các trò chơi giải trí như
thả diều, đánh đu, chọi gà, bắt trạch trong chum, leo cầu um…
các trò chơi mang ý nghĩa tín ngưỡng như: tung còn, đánh phết,
ném cầu, vật cù, cướp nõ nường, múa mo… các trò chơi thi tài
như : thổi cơm thi, leo cầu, bắt vịt, săn cuốc, đuổi lợn, thi pháo
đất, thi dệt vải… ngoài ra còn có các trò chơi dân gian cho trẻ
em, các trò thi đấu thể thao…
o Tổ chức các chợ và chợ phiên của các dân tộc như chợ xuân, chợ
thủ công, chợ tình, chợ phiên…
o Tổ chức các khu công viên văn hoá : nơi đây sẽ tái hiện sống
động các truyền thuyết, lịch sử văn háo của từng dân tộc.
o Khu sản xuất các sản phẩm văn hoá bằng thủ công là nơi diễn ra
các hoạt động sản xuất thường nhật của người dân nhằm mục
đích giới thiệu và kinh doanh các mặt hàng trực tiếp từ những
bàn tay khéo léo của bà con các dân tộc như dệt vải, sản xuất
nhạc cụ dân tộc, rèn đúc công cụ sản xuất, mây tre đan, rượu
cần…
Trong làng văn hoá – du lịch ta không thể đưa nguyên xi tất cả những
gì đang có và đang diễn ra thường nhật ở các dân tộc vào được mà phải nghiên
cứu chọn lọc các yếu tố điển hình và những nét đặc trưng tiêu biểu nhất. Cần
vật thể hoá, tạo ra những bối cảnh độc đáo và hấp dẫn cho các hình thái hoạt
động của văn hóa phi vật thể.
Ý nghĩa
Mô hình “ làng văn hoá” nếu đầu tư thích đáng, nghiên cứu kỹ, khai
thác triệt để, thì có thể sẽ trở thành một mô hình thu nhỏ của một
dân tộc, một vùng văn hoá hoặc của cả một đất nước. Nó vừa giúp
bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc trong một quốc gia, vừa thúc
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 113
đẩy phát triển kinh tế du lịch mạnh mẽ. Góp phần quảng bá hiệu quả
hình ảnh Việt Nam với bạn bè năm châu và góp phần thúc đẩy phát
triển kinh tế, cải thiện xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của
nhân dân.
3.2.2 Giải pháp 2 : Nhà nước cần đưa ra các chính sách khuyến khích,
Kêu gọi và hỗ trợ các nhà đầu tư tư nhân đầu tư vào phát triển du
lịch văn hoá Tây Bắc
Mục tiêu
Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư khai thác tiềm năng du lịch
ở Tây Bắc, tăng thêm nguồn vốn để giúp phát triển kinh tế du lịch Tây
Bắc, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân và tăng nguồn
doanh thu cho khu vực và quốc gia.
Mô tả giải pháp
Nhà nước cần có những chính sách phù hợp và kịp thời để
khuyến khích, kêu gọi và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân
đầu tư vào việc phát triển du lịch văn hóa ở Tây Bắc. Để tuỳ theo hoàn
cảnh, điều kiện địa lý, xã hội, năng lực và khả năng tài chính và khai
thác tài chính của mỗi doanh nghiệp mà họ có thể lựa chọn một lĩnh
vực đầu tư cho phù hợp chẳng hạn :
o Đầu tư khai thác trong lĩnh vực văn hoá phi vật thể như: khai thác,
giới thiệu, biểu diễn diễn những làn điệu dân tộc, tái hiện các lễ hội,
phong tục tập quán mang đậm bản sắc riêng của từng dân tộc.
o Đầu tư khai thác sản xuất các sản phẩm văn hoá ( văn hoá phẩm)
đặc trưng phục vụ cho khách du lịch và xuất khẩu : dệt thổ cẩm, sản
xuất đồ mây tre đan, sản xuất các nhạc cụ dân tộc nguyên mẫu và
mô hình, các sản vật như rượu cần…
Những chính sách khuyến khích đầu tư cụ thể như sau :
Cần nhanh chóng hoàn thiện chính sách quy hoạch du lịch
tổng thể vùng Tây Bắc, tiến tới xây dựng quy hoạch chi tiết,
định hướng phát triển du lịch Tây Bắc theo một hướng thống
nhất, hiệu quả.
Hoàn thiện cơ chế chính sách, tăng cường hiệu lực quản lý
Nhà nước trong việc sử dụng hợp lý và hiệu quả các nguồn
tài nguyên nhân văn cho phát triển du lịch.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo cơ chế ưu đãi về thuế, hỗ
trợ vốn… cho các doanh nghiệp du lịch đầu tư vào lĩnh vực
du lịch văn hóa.
Tăng cường, chú trọng đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch phục vụ
cho loại hình du lịch văn hóa - nhân văn như đường sá giao
thông, hệ thống cấp thoát nước, cơ sở y tế, thông tin liên
lạc… tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển du lịch ở khu
vực Tây Bắc.
Nâng cao nhận thức của cộng đồng về phát triển du lịch văn
hóa và những lợi ích mà du lịch đem lại cho người dân địa
phương, cảnh báo những tác động tiêu cực mà hoạt động du
lịch có thể gây ra, đồng thời đẩy mạnh công tác xúc tiến
quảng bá du lịch thông qua các chiến dịch quảng bá trong và
ngoài nước.
Ý nghĩa
Việc kêu gọi, tạo điều kiện và để cho các doanh nghiệp tham gia
gánh vác một phần vào sự nghiệp giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá
dân tộc bằng cách đầu tư vào các lĩnh vực văn hoá sẽ mang lại nhiều
lợi ích cho cả xã hội và doanh nghiệp ở chỗ :
o Nhà nước không phải dùng nguồn ngân sách để đầu tư mà các di
sản văn hoá vẫn được bảo tồn và phát huy.
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 115
o Do doanh nghiệp phải tự bỏ vốn hoặc tự khai thác các nguồn vốn,
cho nên việc đầu tư sẽ được tính toán kỹ lưỡng tránh lãng phí và đặc
biệt là không để dự án kéo dài dây dưa.
o Doanh nghiệp đầu tư vào văn hoá để khai thác du lịch và kinh doanh
sản xuất sẽ tạo động lực phát triển kinh tế-xã hội, giải quyết công
ăn việc làm tai các địa phương và vùng lãnh thổ. Chính sự phát triển
này sẽ lại là động lực, thậm chí còn là nguồn lực phục vụ cho việc
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá.
o Tuỳ theo năng lực của mỗi doanh nghiệp, có thể đầu tư vào nhiều
lĩnh vực văn hoá khác nhau, cùng với sự đầu tư của Nhà nước, sẽ
tạo ra được nhiều nguồn lực, tạo được tính xã hội hoá cao trong việc
giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc.
3.2.3 Giải pháp 3 : Thực hiện hàng loạt các chính sách nhằm nâng cao
vai trò và trách nhiệm của cộng đồng địa phương trong việc phát triển
du lịch Tây Bắc.
Mục tiêu
Xây dựng và đào tạo nguồn nhân lực địa phương có chất lượng để
phục vụ cho sự phát triển du lịch Tây Bắc.
Tăng mức độ tham gia đóng góp của cộng đồng địa phương vào
hoạt động du lịch, tạo công ăn việc làm, nâng cao chất lượng cuộc
sống của người dân.
Mô tả giải pháp
Muốn phát triển du lịch văn hóa một cách bền vững thì đầu tiên
phải nâng cao được vai trò, trách nhiệm của cộng đồng địa phương.
Các cấp chính quyền ở các tỉnh Tây Bắc phải trao quyền cho các
tộc người ở đây tham gia vào quá trình xây dựng kế hoạch và đề
ra các quyết định về quản lý du lịch, phát triển du lịch tại địa
phương có sự tham gia của các tổ chức tư vấn và thành phần hữu
quan khác. Họ phải được tham gia cung cấp các dịch vụ du lịch
như dịch vụ ăn nghỉ, giải trí, mua bán… cho du khách. Nhà nước
phải có chính sách bắt buộc các doanh nghiệp khai thác du lịch ở
Tây Bắc phải sử dụng nhân lực tại các làng dân tộc địa phương.
Cộng đồng địa phương có quyền thu lệ phí tại các điểm du lịch ở
làng bản như : Cát Cát, Tả Phìn, Cầu Mây…
Để đảm bảo chất lượng nguồn nhân lực ở địa phương trong du lịch
thì phải xây dựng và phát triển các trường đào tạo về du lịch ở Tây
Bắc dành cho con em người dân địa phương. Mỗi tỉnh ở khu vực
Tây Bắc nên xây dựng ít nhất là một trường hoặc một cơ sở đào
tạo nhân lực du lịch theo yêu cầu cụ thể của từng tỉnh. Phải tuỳ vào
tình hình thực tế của du lịch cả nước nói chung và của Tây Bắc nói
riêng để có số lượng và chính sách đào tạo cho phù hợp. Chính
phủ và các tỉnh ở Tây Bắc cần có quy hoạch chung về đào tạo và
gắn đào tạo với sử dụng, không nên để xuất hiện tình trạng tự phát.
Công tác đào tạo nên gắn với việc sử dụng cho du lịch ngay tại địa
phương, tránh kiểu nhân lực vừa thừa vừa thiếu. Cần có những
chính sách ưu tiên con em dân tộc ở các vùng này, tạo điều kiện
để họ tham gia trực tiếp vào các công trình, dự án du lịch tại địa
phương.
Nguồn nhân lực quyết định chất lượng sản phẩm, vì vậy các
công ty khai thác du lịch ở Tây Bắc nên tập trung xây dựng đội
ngũ nhân lực du lịch đáp ứng yêu cầu về số lượng và chất lượng
cho hoạt động của doanh nghiệp mình. Đánh giá chính xác chất
lượng đội ngũ, có chính sách bồi dưỡng, nâng cao trình độ nguồn
nhân lực hiện co, thu hút và tăng cường chất lượng đào tạo nhân
lực du lịch trong tương lai. Có cơ chế phù hợp để khuyến khích
các nghệ nhân tham gia các hoạt động du lịch văn hóa.
Chính quyền địa phương phải có trách nhiệm giáo dục, hướng
dẫn, mở các lớp đào tạo cho con em địa phương tham gia vào lĩnh
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 117
vực du lịch. Không để tình trạng tự phát như trẻ em bỏ học, người
dân địa phương đua nhau đi bán hàng rong chèo kéo du khách hoặc
xin ăn… làm mất đi hình ảnh tốt đẹp về du lịch Tây Bắc trong mắt
du khách.
Ý nghĩa : Du lịch văn hóa là một loại hình du lịch đòi hỏi mối
quan hệ mật thiết giữa cơ sở khai thác du lịch và cộng đồng địa
phương. Sự đóng góp của cộng đồng địa phương là điều kiện quan
trọng để xây dựng được một sản phẩm du lịch văn hóa Tây Bắc có
chất lượng và có những nét đặc trưng nổi bật, khác biệt với các sản
phẩm du lịch ở các nơi khác. Như vậy, có thể nói đào tạo về nhân
lực địa phương có chất lượng là sự đầu tư đúng đắn và góp phần
hình thành nên thương hiệu sản phẩm du lịch văn hóa Tây Bắc.
3.2.4 Giải pháp 4 : Nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ du lịch văn
hóa khu vực Tây Bắc
Mục tiêu
Tập trung phát triển sản phẩm du lịch văn hóa tiêu biểu, độc đáo
và có chất lượng, mang dấu ấn riêng của Tây Bắc.
Khai thác hiệu quả các tiềm năng du lịch sẵn có ở Tây Bắc.
Xây dựng thương hiệu cho du lịch Tây Bắc
Mô tả giải pháp . Chất lượng sản phẩm dịch vụ cần được hiểu là
sự tổng hợp của giá trị nhân văn, tính đa dạng, thái độ phục vụ, sự
tiện nghi và khả năng sẵn sàng phục vụ. Bởi vậy, giải pháp nâng
cao chất lượng sản phẩm dịch vụ du lịch văn hóa Tây Bắc là thực
hiện những giải pháp cụ thể sau :
Thứ nhất, về công tác quy hoạch các điểm, tuyến du lịch Tây
Bắc. Nhà nước cần phải chủ động xây dựng quy hoạch và quy
hoạch phải đi trước một bước, quy hoạch phải đảm bảo tính khoa
học và đồng bộ. Chú trọng đầu tư đối với những khu, điểm du lịch
có khả năng phát triển các sản phẩm du lịch đặc thù, có sức cạnh
tranh và đặc biệt cần quan tâm và có những cơ chế chính sách ưu
tiên đầu tư ở những khu, điểm du lịch ở những miền núi xa xôi -
nơi có tiềm năng du lịch hấp dẫn, nhưng hệ thống cơ sở hạ tầng xã
hội còn yếu kém và cuộc sống người dân còn nhiều khó khăn. Đối
với những điểm du lịch trọng điểm của khu vực Tây Bắc cần quy
hoạch đường sá hợp lý, có hệ thống cầu vượt, hệ thống công trình
ngầm, bãi đậu xe đủ rộng, hợp lý. Hệ thống sân bay, cảng biển,
điện, thoát nước, cấp nước, bãi xử lý nước thải, nghĩa trang hiện
đại, khoa học và kiến trúc hài hoà giữa cảnh quan thiên nhiên và
môi trường với hạ tầng khu vực.
Thứ hai, Đầu tư xây dựng đồng bộ và có trọng tâm, trọng điểm
hệ thống cơ sở hạ tầng ở các khu, điểm du lịch: Hiện nay, ngành
Du lịch Việt Nam đang tiếp tục thực hiện “Chương trình hành
động quốc gia về du lịch”, trong đó có chương trình đầu tư phát
triển cơ sở hạ tầng du lịch, trong đó ưu tiên đầu tư cho các khu du
lịch quốc gia. Từ năm 2000 - 2010, chương trình này đã đầu tư
trên 4 ngàn tỷ đồng vào phát triển cơ sở hạ tầng du lịch trên phạm
vi toàn quốc. Tuy nhiên, việc đầu tư này còn dàn trải, không đồng
bộ… nên hiệu quả đầu tư là không cao. Đây là nguồn vốn đầu tư
ban đầu của Nhà nước nhằm kích thích và hấp dẫn các nhà đầu tư.
Tây Bắc là một vùng hội tụ đủ những điều kiện để có thể trở thành
một khu du lịch quốc gia. Vì vậy cần tranh thủ nguồn vốn hỗ trợ
từ “Chương trình” để đầu tư xây dựng đồng bộ cơ sở hạ tầng (giao
thông, cấp điện nước, bến tàu du lịch, xử lý môi trường và chất
thải…) để làm cơ sở thu hút các nhà đầu tư vào các công trình dịch
vụ du lịch khác. Ngoài ra, các tỉnh Tây Bắc cũng cần kiến nghị để
được hỗ trợ thêm nguồn vốn này để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 119
ở một số khu, điểm du lịch quan trọng khác của khu vực, đặc biệt
là ở những vùng sâu vùng xa, các vùng có điều kiện KT - XH khó
khăn, các điểm du lịch gắn với giá trị đa dạng sinh học, gắn với
giá trị văn hóa bản địa…
Ngoài nguồn vốn ngân sách nhà nước (cả Trung ương và địa
phương) dành cho phát triển cơ sở hạ tầng khu du lịch, Tây Bắc có
thể khai thác thêm các nguồn vốn khác cho công tác này như tranh
thủ các nguồn tài trợ quốc tế, nguồn vốn ODA, FDI và các nguồn
vốn khác… Nghiên cứu xây dựng và ban hành cơ chế huy động
các nguồn vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng du lịch theo hướng:
Cơ chế huy động vốn đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch từ việc đấu giá
quyền sử dụng đất; xã hội hóa công tác đầu tư cơ sở hạ tầng du
lịch; phát hành trái phiếu; hình thức BOT trong việc đầu tư cơ sở
hạ tầng du lịch gắn với các cơ sở dịch vụ kinh doanh du lịch; điều
tiết các khoản thu ngân sách của địa phương trong việc đầu tư phát
triển cơ sở hạ tầng du lịch; cơ chế về việc sử dụng các ưu đãi đầu
tư (tín dụng phát triển, thuế..)...
Thứ ba, Đầu tư phát triển đồng bộ hệ thống cơ sở lưu trú có
chất lượng và các công trình dịch vụ du lịch bổ trợ khác: Trong
tiến trình hội nhập của du lịch Tây Bắc với du lịch cả nước, du lịch
Việt Nam với khu vực và thế giới, các tiêu chuẩn về dịch vụ du
lịch phải được nâng cao phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế. Trên
phạm vi cả nước, hiện nay Việt Nam có hệ thống khách sạn du lịch
tương đối phát triển, tuy nhiên đối với Tây Bắc thì hệ thống khách
sạn mặc dù đã đứợc đầu tư xây mới và nâng cấp, phần nào đã đáp
ứng được nhu cầu lứu trú cho khách du lịch. Nhưng trong bối cảnh
hội nhập và trong xu thế phát triển hiện nay, khả nãng đáp ứng của
hệ thống khách sạn ở Tây Bắc còn rất hạn chế và chưa đáp ứng
được nhu cầu. Chính vì vậy việc đầu tư nâng cấp và xây dựng mới
hệ thống khách sạn, đặc biệt là các khách sạn thương mại, khách
sạn nghỉ dưỡng cao cấp (3 - 4 sao) với đầy đủ các công trình dịch
vụ bổ trợ (tổ hợp thể thao, khu hội chợ, hội nghị, hội thảo, các nhà
hàng, cõ sở vui chõi giải trí…) ở nơi đây là hết sức quan trọng và
cần thiết.
Về hướng đầu tư phát triển không gian hệ thống khách sạn
thì cần ưu tiên các dự án xây dựng khách sạn, nhà hàng cao cấp ở
Khu du lịch, những tuyến du lịch trọng điểm. Ở các không gian du
lịch khác (các khu, điểm du lịch có ý nghĩa địa phương) chỉ nên
đầu tý xây dựng các khách sạn với quy mô và tiêu chuẩn trung
bình để đảm bảo tính hiệu quả và phù hợp với lĩnh vực kinh doanh.
Bên cạnh đó cũng cần chú trọng phát triển hệ thống lưu trú sinh
thái, hệ thống lưu trú trong dân...
Thứ tư, tăng cường quản lý nhà nước về cơ sở hạ tầng. Ban hành
các chính sách pháp luật phù hợp và thực hiện nghiêm chính sách
đó. Quản lý tốt công trình hạ tầng kỹ thuật và quản lý tốt đất đai.
Quản lý tốt quá trình đầu tư nhằm tạo ra sản phẩm có chất lượng
đảm bảo. Tăng cường quản lý nhà nước đảm bảo thu hút đầu tý tạo
ra các công trình chất lượng hiệu quả, chống thất thoát trong xây
dựng cơ bản.
Ý nghĩa : Xây dựng tiền đề cho việc phát triển Tây Bắc trở thành
một khu du lịch văn hóa trọng điểm của quốc gia.
3.2.5 Giải pháp 5 : Xúc tiến và quảng bá hình ảnh du lịch Tây Bắc
Mục tiêu
Mang hình ảnh của du lịch Tây Bắc đến với đồng bào mọi miền
của tổ quốc và với du khách quốc tế.
Mô tả giải pháp
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 121
Xuất bản các ấn phẩm giới thiệu về du lich Tây Bắc, đĩa tư liệu
CD ROM, bản đồ du lịch Tây Bắc bằng hai thứ tiếng Việt và tiếng
Anh.
Xây dựng và phát triển website, tận dụng ưu thế của Blog, của các
forum để giới thiệu về du lịch Tây Bắc. Đặc biệt, phải xây dựng 1
website chuyên biệt về du lịch Tây Bắc.
Phối hợp với các phương tiện truyền thông, tổ chức các hội nghị,
hộ thảo giới thiệu về du lịch Tây Bắc với du khách tham quan và
các nhà đầu tư.
Đặt panno giới thiệu về du lịch Tây Bắc tại các vị trí cửa ngõ giao
thông.
Tăng cường khả năng liên kết vùng và khu vực. Đặc biệt là liên
kết với những khu vực lân cận. Tây Bắc cần tận dụng ưu thế thu
hút khách của các vùng du lịch lân cận đã phát triển để kết hợp thu
hút du khách đến Tây Bắc, tổ chức các tour du lịch kết hợp giữa
các vùng.
Ý nghĩa
Quảng bá về con người, phong cảnh, văn hóa của các dân tộc vùng
Tây Bắc. Tạo điều kiện phát triển du lịch đến Tây Bắc.
3.3 CÁC GIẢI PHÁP KHÁC
3.3.1 Giải pháp 1 : Dạy người dân Tây Bắc làm kinh tế, nâng cao chất
lượng cuộc sống của người dân Tây Bắc
Mục tiêu
Cải thiện, nâng cao chất lượng cuộc sống của đồng bào.
Tạo cơ sở vững chắc để bảo tồn và phát triển văn hóa dân
tộc.
Các giải pháp cụ thể
Cuộc sống của đồng bào Tây Bắc hiện nay vẫn còn rất khó khăn,
mang đậm tính chất của một nền kinh tế nông nghiệp, thủ công nghiệp.
Bởi vậy, việc các dân tộc tìm đến miền xuôi, học theo lối sống văn hóa
và làm kinh tế như người miền xuôi để dần mai một hết những giá trị
truyền thống của dân tộc mình cũng là một điều dễ hiểu. Muốn duy trì,
bảo vệ và phát triển được các giá trị văn hóa của các dân tộc Tây Bắc
thì phải giúp người dân Tây Bắc làm kinh tế, cải thiện và nâng cao chất
lượng cuộc sống của họ. Chỉ khi cuộc sống của họ được đảm bảo thì
các giá trị văn hóa của họ mới được đảm bảo. Mặt khác, Văn hoá không
phải là nhân tố đứng bên ngoài là kết quả thụ động của kinh tế mà là
nguồn lực nội sinh, là nguyên nhân thúc đẩy kinh tế-xã hội phát triển.
Đó là lí do vì sao muốn bảo tồn các giá trị văn hóa thì phải phát triển
kinh tế và muốn phát triển kinh tế du lịch thì phải bảo tồn văn hóa.
Để phát triển kinh tế ở Tây Bắc trước tiên phải Sử dụng và phát
huy văn hoá kiến thức truyền thống. Vì Tây Bắc là một nơi khá đặc
trưng về khí hậu, môi trường sinh thái, địa hình đa dạng, tình trạng văn
hoá xã hội cũng khá đa dạng với rất nhiều dân tộc sinh sống. Nếu chỉ
áp dụng các biện pháp khoa học, kỹ thuật, kinh tế, xã hội sẽ dẫn đến sai
lầm, thiệt hại, lãng phí và suy thoái nặng nề. Cho nên văn hoá kiến thức
truyền thống của dân tộc có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Trở ngại lớn nhất cho việc sử dụng, phát huy kiến thức truyền
thống là thuộc hệ tư tưởng. Tâm lý phổ biến trong nhân dân và cán bộ
là chỉ ham chuộng kỹ thuật mới lạ từ bên ngoài đem đến, kiến thức của
ông cha để lại thì cho là lạc hậu. Lâu nay khi nói đến chuyển giao kỹ
thuật thì chỉ nghĩ đến kỹ thuật hiện đại, khoa học phương tây. Do nhận
thức sai mà một số người quá mê tín văn hoá kiến thức nước ngoài, chê
bai văn hoá kiến thức truyền thống. Dần dần chính đông đảo cộng đồng
địa phương vốn có rất nhiều kinh nghiệm quý cũng mất lòng tin vào
khả năng của mình, trở nên phục thuộc vào các giải pháp từ bên ngoài
đưa vào để giải quyết các vấn đề rất đặc trưng của họ. Kết quả là thất
bại. Do đó, trước tiên là phải giáo dục cho người dân có nhận thức đúng
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 123
đắn về vai trò của văn hoá kiến thức truyền thống. Tiếp theo là các
phương hướng và biện pháp cụ thể như sau :
o Sưu tầm ghi chép văn hoá kiến thức truyền thống, xây dựng
bộ hồ sơ về kho tàng văn hoá kiến thức truyền thống.
o Giúp các cộng đồng bảo tồn văn hoá kiến thức truyền thống,
cung cấp cho cán bộ và nhân dân địa phương.
o Có chính sách, chế độ bảo đảm quyền sở hữu văn hoá kiến
thức truyền thống.
o Sử dụng văn háo kiến thức truyền thống trong các dự án kinh
tế – xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm thì văn hoá kiến thức truyền
thống cũng có không ít nhược điểm. Vì vậy trước khi sử dụng văn hoá kiến
thức truyền thống phải được đánh giá một cách kỹ lưỡng sự phù hợp, tính
hiệu quả và tính bền vững của nó.
Tiếp đó, có thể nói phát triển kinh tế du lịch là một giải pháp giúp
thay đổi sâu sắc xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân
Tây Bắc một cách hiệu quả nhất. Nhà nước cần có chính sách cụ thể để
hướng dẫn người dân làm kinh tế bằng cách làm ra những sản phẩm phục
vụ cho khách du lịch. Những chính sách này phải được quy hoạch đồng bộ,
tránh tình trạng tự phát làm ảnh hưởng đến hình ảnh du lịch Tây Bắc và
làm mai một đi những giá trị văn hóa của con người nơi đây.
Ý nghĩa
3.3.2 Giải pháp 2 : Phát triển đài phát thanh, truyền hình bằng tiếng dân
tộc thiểu số phục vụ cho bà con dân tộc đồng bào Tây Bắc
Mục tiêu
Tạo kênh thông tin giải trí cho người dân, giúp cho đời sống
tinh thần của họ thêm phong phú.
Tạo kênh giáo dục, tuyên truyền và kênh thông tin chính thức
những chính sách của Đảng và nhà nước đến các đồng bào
dân tộc thiểu số xa xôi.
Giải pháp cụ thể
Vùng tây bắc là vùng có địa hình hiểm trở nhất, giao thông đi lại
khó khăn nhất, trình độ dân trí và văn hoá còn thấp, đời sống của bà
con dân tộc thiểu số còn gặp nhiều khó khăn. Do đó, việc đẩy mạnh
hoạt động của hệ thống thông tin đại chúng, trong đó có phát thanh,
truyền thanh bằng tiếng dân tộc thiểu số ở khu vực này là đặc biệt quan
trọng trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc.
Đài tiếng nói Việt Nam là cơ quan thông tin đại chúng quốc gia
có nhiều chương trình phát thanh bằng tiếng dân tộc thiểu số nhất. Với
nội dung phong phú và hình thức thể hiện sự gần gũi, sinh động, các
chương trình phát triển bằng tiếng dân tộc trên làn sóng đài tiếng nói
Việt Nam đã thực sự vừa là diễn đàn rộng rai, vừa là người bạn gần gũi
tâm tình của đồng bào các dân tộc.
Vốn là những cư dân sinh sống bằng kinh tế nông nghiệp nương
rẫy, địa bàn cư trú của đồng bào dân tộc thiểu số Tây Bắc rất xa xôi,
hẻo lánh, giao thông cản trở, có những nơi báo chí muốn đến được phải
mất 5-7 ngày đường. Chính vì vậy, các chương trình phát thanh tiếng
dân tộc là một binh chủng tinh nhuệ, có hiệu quả nhất trên mặt trận tư
tưởng – văn hoá đáp ứng nhanh chóng và kịp thời nhu cầu thông tin và
nhận thức của đồng bào.
Trong tình hình chữ viết đã thiếu, sách báo về bản, làng lại hết
sức khó khăn thì việc nghe đài xem truyền hình bằng tiếng mẹ đẻ là
một nhu cầu cấp thiết và là phương tiện chính để đồng bào các dân tộc
tiếp nhận thông tin thưởng thức giải trí. Có thể nói làn sóng của đài
tiếng nói việt nam và hệ thống phát thanh cả nước là địa chỉ tin cậy, là
nơi lưu giữ bảo tồn phát huy văn hoá các dân tộc qua dân ca, ngâm thơ,
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 125
qua diễn đàn giao lưu văn hoá các dân tộc anh em. Tất cả các chương
trình phát thanh dành cho đồng bào các dân tộc thiểu số từ tiếng Việt
đến các dân tộc đều phải dành một tỷ lệ cao để nói về chủ đề văn hoá
tinh thần các dân tộc. Qua Đài tiếng nói Việt Nam, phải giúp cho bà
con miền núi phía bắc có thể hiểu biết thêm nhiều về đời sống sinh hoạt
và phong tục của các dân tộc anh em trong đại gia đình việt nam nhất
là của người Tây Nguyên, người Khơme Nam Bộ. Phát triển được kênh
truyền thông đến đồng bào các dân tộc thiểu số cũng có nghĩa là đã phát
triển được một trong các cơ quan tuyên truyền quan trọng nhất của
Đảng và Chính Phủ. Phải nâng cao được chất lượng các chương trình
phát thanh tiếng dân tộc, đài phát thanh phải là người bạn gần gũi nhất,
đưa tin tức nhanh nhất đến cho cả những người mù chữ, những người
khiếm thị, những người nghèo và cho mọi tầng lớp nhân dân ở mọi tầng
lớp xa xôi nhất.
Muốn đạt được yêu cầu nội dung chương trình dân tộc, miền núi
hấp dẫn bổ ích đòi hỏi phải có một đội ngũ làm các chương trình tiếng
dân tộc đủ mạnh cả về số lượng, năng lực, nhất là khả năng ngôn ngữ.
Đây là một khó khăn lớn cho đối với phần lớn các đài phát thanh tỉnh
cũng như đài tiếng nói Việt Nam trước mắt cũng như lâu dài. Bởi vậy,
để tạo nguồn phóng viên là người dân tộc thì không thể bỏ mặc cho đài
tiếng nói Việt Nam tự lo liệu. Ngay từ bây giờ, nhà nước cần ưu tiên
kinh phí và có kế hoạch chiến lược đào tạo cho học sinh người dân tộc
thành thạo cả hai loại ngôn ngữ, tiếng Việt và tiếng dân tộc. Đồng thời,
các khoa báo chí của các trường đại học phải có kế hoạch đề xuất với
nhà nước đầu tư đội ngũ phóng viên, biên tập, phiên dịch, phát thanh
viên người dân tộc một cách cơ bản nhất.
Tăng cường công tác lãnh đạo quản lý đối với hệ thống phát
thanh tiếng dân tộc là một nhiệm vụ quan trọng cấp bách hiện nay. Đài
phát thanh tiếng nói việt nam và cả nước nói chung, công tác phát thanh
tiếng dân tộc nói riêng cần phải được phát triển về số lượng, chất lượng
và quy mô theo bước tiến của xã hội. Đối với đài tiếng nói việt nam cần
có những giải pháp tối ưu nhất để các chương trình phát thanh tiếng dân
tộc ngày càng hay càng hấp dẫn được người nghe, có tác dụng thúc đẩy
phát triển văn hoá, kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong
công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay. Công việc quan
trọng hàng đầu là xây dựng kế hoạch tuyển chọn, đào tạo đội ngũ phóng
viên, biên tập, biên dịch, phát thanh viên là người dân tộc để chương
trình nào có người của chương trình ấy có đủ trình độ năng lực chuyên
môn đảm đương chương trình phát thanh.
Đài cần quan tâm tới chính sách cụ thể đối với cán bộ phóng
viên đang làm công tác phát thanh dân tộc nhằm giúp chị em có thu
nhập ổn định tạo điều kiện tốt cho hoạt động chuyên môn. Bộ biên tập
cần lấy hoạt động chuyên môn để khuyến khích cán bộ phóng viên nâng
cao nhận thức, rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp phục vụ cho sự nghiệp
phát thanh tiếng dân tộc. Đảng và Nhà nước cần có chính sách cụ thể,
phù hợp đối với đôi ngũ cán bộ, phóng viên để động viên khích lệ bằng
lợi ích vật chất, tinh thần một cách công bằng, dân chủ để họ có thu
nhập bằng chính hoạt động của mình. Đối với cán bộ quẩn lý trực tiếp
cần bố trí công tác trong nội bộ hợp lý, phát huy tài năng sáng tạo của
mỗi cá nhân. Ngoài ra cũng cần phải tạo điều kiện để anh chị em tham
gia vào các hoạt động, công tác khác, đồng thời tham gia giám sát xây
dựng chương trình. Bộ biên tập đài tiếng nói Việt Nam cần thiết lập
mối quan hệ quản lý sao cho có sự tập trung thống nhất giữa ban biên
tập phát thanh dân tộc (tại Hà Nội) với các cơ quan thường trú của đài
tại các địa phương và đài phát thanh truyền hình các tỉnh miền núi về
các chương trình phát thanh tiếng dân tộc. Trước hết là sự thống nhất
phương thức quản lý, về kế hoạch nội dung tuyên truyền. Các cơ quan
thường trú có chương trình phát thanh tiếng dân tộc vừa hoàn chỉnh vai
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 127
trò thường trú của mình vừa có nhiệm vụ quản lý tổ chức các chương
trình phát thanh dân tộc, giúp lãnh đạo đài nắm chắc công tác tuyên
truyền để có hướng chỉ đạo kịp thời. Đối với “ Ban biên tập phát thanh
dân tộc” trực thuộc Bộ biên tập đài tiếng nói Việt Nam tại Hà Nội cần
được hoàn thiện về tổ chức, quy định rõ chức năng, nhiệm vụ đối với
công tác phát thanh dân tộc. Ban biên tập phát thanh dân tộc còn có
nhiệm vụ tổ chức xây dựng mạng lưới cộng tác viên ở miền núi và vùng
đồng bào dân tộc thiểu số có tin bài ngày càng phong phú, phản ánh
toàn diện các mặt kinh tế – xã hội của mỗi vùng, tham mưu cho lãnh
đạo đài có chế độ khuyến khích kịp thời tính tự chủ, sáng tạo và tính
độc lập tương đối trong công tác phát thanh dân tộc đảm bảo đúng quy
chế, pháp luật quy định về hoạt động báo chí. Đồng thời, tham mưu cho
lãnh đạo đài về kế hoạch, quy hoạch đào tạo cán bộ cho các chương
trình phát thanh tiếng dân tộc. Ban biên tập chỉ đạo các đài phát thanh
ở các tỉnh, huyện miền núi về nội dung tuyên truyền, nâng cao trang
thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ. Một tồn tại lớn nhất hiện nay của Đài tiếng
nói Việt Nam đáng quan tâm là việc phủ sóng phát thanh cho các tỉnh
phía Bắc đến nay vẫn chưa tốt. Cần phải có giải pháp kỹ thuật đảm bảo
thực hiện phủ sóng cho vùng dân tộc và miền núi. Ngoài hệ thống sóng
trung, cần có hệ thống sóng ngắn 50KW và 10KW tại Đài phát thanh
các tỉnh miền núi. Trang bị thêm một số ăngten thích hợp để tiếp tốt
sóng Đài tiếng nói Việt Nam.
Ngoài ra, mỗi tỉnh cần có ít nhất một kênh phát thanh, truyền
hình bằng tiếng dân tộc để phục vụ cho bà con dân tộc ở địa phương,
nâng cao chất lượng đời sống tinh thần của họ, để họ có thể được thể
hiện những nhu cầu, nguyện vọng của mình cũng như được biết cụ thể
những chính sách của Nhà Nước, cuộc sống của các đồng bào dân tộc
khác trên lãnh thổ Việt Nam. Nội dung phát thanh, truyền hình phải sát
với nhu cầu cuộc sống của đồng bào. Chú trọng nêu các gương người
tốt, việc tốt của đồng bào để học tập lẫn nhau.
Ý nghĩa : Đài phát thanh, truyền hình đến tới từng làng bản Tây Bắc
sẽ góp phần làm cho đời sống tinh thần của người dân thêm phong
phú, góp phần nâng cao ý thức của người dân trong công cuộc bảo
tồn văn hóa dân tộc. Đây cũng là kênh thông tin chính thức của nhà
nước với các đồng bào dân tộc Tây Bắc, là phương tiện hữu hiệu để
phổ biến những chính sách của nhà nước đối với đồng bào Tây Bắc.
KẾT LUẬN
Nằm ở vùng tận cùng của Tổ Quốc, Tây Bắc là một vùng đất giàu tiềm năng về
du lịch, không chỉ có phong cảnh thiên nhiên rất hùng vĩ mà còn cả một bề dày văn
hóa lịch sử và sự đa dạng sắc tộc của hơn 30 đồng bào dân tộc thiểu số. Đây là một
điều kiện lý tưởng để phát triển du lịch mà tự nhiên đã ban tặng cho vùng đất này.
Trên cơ sở nghiên cứu về đặc điểm văn hóa của 4 dân tộc tiêu biểu ở khu vực Tây
Bắc (Thái, Mường, Dao, H’Mông), cộng với việc phân tích thực trạng văn hóa cũng
như thực trạng khai thác du lịch ở nơi đây, Đề tài đã đưa ra những giải pháp cụ thể
và tiêu biểu để bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc Tây Bắc nói chung để phục vụ
cho việc phát triển du lịch ở khu vực này trong giai đoạn 2012-2015. Đề tài hứa hẹn
sẽ đem lại cho ngành du lịch Việt Nam nói chung, ngành du lịch Tây Bắc nói riêng
một cái nhìn tổng quan và rõ nét hơn về thực trạng nền văn hóa cũng như tiềm năng
phát triển du lịch văn hóa ở Tây Bắc. Giúp cho cơ quan chức năng có thêm các giải
pháp hữu hiệu để bảo tồn văn hóa dân tộc và phát triển du lịch Việt Nam, mang hình
ảnh tươi đẹp đầy nhân văn của vùng đất Tây Bắc đến với mọi du khách trong nước
và quốc tế.
Trên cơ sở lí luận và nghiên cứu cụ thể, Đề tài xin đề xuất một vài kiến nghị với
các cơ quan chức năng vùng Tây Bắc như sau :
Lãnh đạo tỉnh và các ban, ngành có liên quan cần nhanh chóng
hoàn thành công tác xây dựng quy hoạch du lịch để định hướng cho
hoạt động đầu tư và phát triển du lịch.
GVHD : Ths Nguyễn Quốc Nam SVTH : Đặng Thị Yên
Trang 129
Đẩy mạnh tuyên truyền các chương trình, tuyến, điểm du lịch ở
Tây Bắc. Xây dựng thương hiệu Du Lịch Tây Bắc trên phạm vi rộng,
tổ chức các sự kiện để thu hút sự chú ý của khách du lịch và các nhà
đầu tư.
Cấp ngân sách cho việc thực hiện bảo tồn và phát huy các giá trị
văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc Tây Bắc.
Tận dụng cơ hội để nhận sự hỗ trợ của Trung Ương về cơ sở hạ tầng
tích cực, học hỏi kinh nghiệm của các tỉnh đi trước, hình thành diễn đàn
trao đổi thông tin, kinh nghiệm về phát triển du lịch với việc tuân thủ các
cam kết khi gia nhập qui tắc và luật lệ của WTO trên mạng thông tin dành
cho du lịch.
Bên cạnh chính sách kích cầu của nhà nước, Tây Bắc cần linh động
hơn nữa trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp và nhà đầu tư về nhiều mặt,
tạo điều kiện giải quyết khó khăn, đặc biệt là về công tác giải phóng mặt
bằng và các thủ tục hành chính, tránh tình trạng tháo chạy đầu tư.
Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã tác động không nhỏ đến Việt Nam nói
chung và Tây Bắc nói riêng. Các doanh nghiệp trong tỉnh đang gặp không ít khó khăn
trong hoạt động kinh daonh, các nhà đầu tư thì dè dặt howng trong các quyết định
đàu tư của mình. Với năng lực cạnh tranh còn thấp, môi trường kinh doanh chưa
thuận lợi, Tây Bắc cần có những bước đi mạnh mẽ hơn trong cải cách và đổi mới để
có thể nắm bắt cơ hội để từ đó đưa địa phương vượt qua những sóng gió phía trước,
hướng đến sự phát triển lâu dài, bền vững. Nếu Tây Bắc thành công trong việc này
thì các nhà đầu tư hiện tại chắc chắn sẽ mở rộng kinh doanh và kêu gọi các nhà đầu
tư khác đến với Tây Bắc. Với nhiều nỗ lực của chính quyền địa phương cùng với các
biện pháp hữu hiệu cụ thể thì Tây Bắc sẽ nhanh chóng trở thành một vùng du lịch
trọng điểm của nước ta.