Khủng hoảng tài chính k hung hoảng nợ công hy lạp

46
BỘ TÀI CHÍNH Trường Đại học Tài Chính – Marketing NHÓM : 8 Đề tài Phân tích khủng hoảng nợ công Hy Lạp Và bài học cho Việt Nam 1

Transcript of Khủng hoảng tài chính k hung hoảng nợ công hy lạp

BỘ TÀI CHÍNH

Trường Đại học Tài Chính – Marketing

NHÓM : 8

Đề tài

Phân tích khủng hoảng nợ công Hy LạpVà bài học cho Việt Nam

TP.HCM, tháng 5 năm 2015

1

Mục Lụ

c

Phần 1: Tổng quan về khủng hoảng tài chính..................................................................3

I. Khái niệm..................................................................................................................3

II. Một số dấu hiệu và các dạng của khủng tài chính quốc tế:.....................................4

2.1 Dấu hiệu.............................................................................................................4

2.2 Các dạng khủng hoảng tài chính........................................................................4

III. Sự khác biệt giữa khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế...............................5

Phần 2: Phân tích khủng hoảng nợ công tại Hy Lạp........................................................6

I. Diễn biến khủng hoảng nợ công tại Hy Lạp.............................................................6

1.1 Giai đoạn trước khi khủng hoảng bùng nổ.........................................................6

1.2 Diễn biến khủng hoảng nợ công tại Hy Lạp......................................................8

II. Nguyên nhân diễn ra cuộc khủng hoảng nợ công Hy Lạp....................................11

2.1 Các nhân tố trong nước....................................................................................12

C hi tiêu chính phủ quá lớn trong khi nguồn thu hạn chế.........................................12

Vấn đề chính sách và năng lực cạnh tranh....................................................................12

2.2 Các nhân tố quốc tế..........................................................................................13

Tham vọng nhất thể hóa bằng mọi giá của các nhà lãnh đạo Châu Âu.........................13

Những gói cứu trợ lãi suất thấp làm nợ Hy Lạp cao ngất ngưỡng.................................14

Không tuân thủ các quy định của EU............................................................................14

2.3 Các nhân tố khác..............................................................................................16

Tác động của khủng hoảng tài chính 2008...............................................................16

Mâu thuẩn chính sách tiền tệ và chính sách sách tài chính........................................16

III. Tác động của khủng hoảng nợ công....................................................................17

3.1 Đối với Hy Lạp................................................................................................17

3.2 Đối với thế giới................................................................................................18

3.3 Đối với Việt Nam.............................................................................................20

Phần 3: Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam..................................................................20

I. Thực trạng nợ công Việt Nam................................................................................20

II. Những bài học kinh nghiệm của Việt Nam..........................................................22

2

2.1 Công khai minh bạch về ngân sách nhà nước và nợ công..............................22

2.2 Tăng nguồn thu giảm chi đối với ngân sách nhà nước....................................24

2.3 Nâng cao hiệu quả kinh tế................................................................................25

2.4 Phát triển thị trường nợ trong nước..................................................................26

Kêt Luận.........................................................................................................................27

3

Phần 1: Tổng quan về khủng hoảng tài chính

I. Khái niệm

Khủng hoảng kinh tế là sự suy giảm của hoạt động kinh tế kéo dài và trầm trọng hơn cả suy thoái trong chu kỳ kinh tế. Khủng hoảng kinh tế lên đến đỉnh điểm là nguyên nhân xảy ra khủng hoảng tài chính vì khủng hoảng kinh tế bị suy thoái, khủng hoảng sản xuất thừa sẽ làm gia tăng nhu cầu sử dụng tiền cho mục đích tiêu dùng hàng hóa. Khủng hoảng tài chính xảy ra khi nhu cầu tiền vượt quá nguồn cung của xã hội, nhu cầu về tiền của nhân dân hay của các nhà đầu tư trong và ngoài nước đã gây ra sức ép cho hệ thống ngân hàng và tổ chức tài chính khiến cho ngân hàng và các tổ chức tài chính có thể sụp đổ. Khủng hoảng tài chính chỉ là một phần của khủng hoảng kinh tế nhưng khủng hoảng tài chính lại gây ra thiệt hại lớn nhất vì các nước có tự do thương mại, nguồn vốn được di chuyển qua những nước khác nhau nên khủng hoảng tài chính là yếu tố lây lan còn khủng hoảng kinh tế nó không có yếu tố trực tiếp lây lan.

Khủng hoảng tài chính là một biến cố mà khi đó các khu vục tài chính và các tổ chức kinh tế có sự vỡ nợ với số lượng lớn, các tập đoàn và định chế tài chính phải đối mặt với rất nhiều khó khăn với những hợp đồng đến hạn thanh toán. Do đó những khoản nợ mất khả năng thanh toán tăng vọt và tất cả hoặc hầu hết nguồn vốn của hệ thống ngân hàng bị rút cạn. Tình huống này có thể xuất hiện cùng lúc với sự sụt giảm giá trị tài sản, sự tăng nhanh của lãi suất thực và sự chậm lại hoặc đảo chiều của dòng vốn đầu tư. Trong một vài trường hợp, cuộ khủng hoảng bắt đầu bằng những người gửi tiền vào ngân hàng, tuy nhiên trong hâu hết các trường hợp khác là do họ nhận thấy các định chế tài chính quan trọng rơi vào khó khăn có tính hệ thống dẫn đến hiện tượng rút tiền hàng loạt. Khủng hoảng là 1 trong 2 biến cố:

Rút tiền hàng loạt dẫn đến chính phủ phải đóng cửa, sáp nhập, hoặc thâu tóm một hoạc nhiều định chến tài chính.

Nếu không có sự rút tiền, đóng cửa, sáp nhập, thâu tóm hay sự giúp đở quy mô lớn của chính phủ đối với một định chế tài chính quan trọng thì sẽ đánh dấu sự bắt đầu căng như dây đàn đối với các định chế tài chính khác.

Nói cho dễ hiểu thì khủng hoảng tài chính được hiểu là sự sụp đổ của thị trường tài chính, khiến nó không thể thực hiện được hai chức năng cơ bản nhất:

Thứ nhất, ổn định giá trị đồng tiền hoặc các tài sản tài chính như một phương tiện giao dịch, cất trữ tài sản.

Thứ hai, là trung gian chuyển vốn tiết kiệm vào những dự án đầu tư có hiệu quả nhất.

4

Hệ quả của khủng hoảng tài chính là nền kinh tế bị đẩy ra khỏi quỹ đạo tăng trưởng tiềm năng, gây nên sự sụt giảm mạnh về sản lượng, việc làm, đi kèm với lạm phát, hoặc gây nguy cơ bùng nổ lạm phát.

II. Một số dấu hiệu và các dạng của khủng tài chính quốc tế:

II.1 Dấu hiệu

Tuỳ theo mức độ và phạm vi, khủng hoảng tài chính thể hiện qua các điểm sau đây:

Sự giảm giá dây chuyền của các đồng tiền Tỷ gia hối đoái tăng đột biến và dây chuyền Lãi suất tín dụng gia tăng: lãi suất tăng kéo theo cầu tiền tệ, cầu tín dụng sụt

giảm làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh bị suy giảm. Hệ thống ngân hàng bị tê liệt Thị trường cổ phiếu sụt giá nhanh chóng Các hoạt động kinh tế bị suy giảm

II.2 Các dạng khủng hoảng tài chính

Khủng hoảng ngân hàng: rất hay gặp do ngân hàng là trung gian tài chính nhận tiền gửi của các thể nhân và pháp nhân để cho vay nên rủi ro dồn cả về mặt số lượng, thừoi hạn cũng như chủng loại tiền. Ngân hàng có thể lâm vào khủng hoảng do cho vay quá mức và không thu hồi lại được dẫn đến tỷ lệ nợ quá hạn cao làm ngân hàng không thể thanh toán các nghĩa vụ khi đến hạn. Ngân hàng là một hệ thống chặt chẽ nên khủng hoảng rất dễ lây lan và tạo khủng hoảng cả hệ thống ngân hàng. Trong trường hợp khủng hoảng các Ngân hàng thương mại thường có xu hướng siết chặt các điều kiện tín dụng hay nâng lãi suất để bù đắp rủi ro và kết quả là đẩy các doanh nghiệp – bạn hàng chủ yếu của ngân hàng vào tình thế khó khăn do thiếu nguồn tài chính để hoạt động.

Khủng hoảng nợ công: Khủng hoảng nợ công là tình trạng nợ công tăng cao (vỡ nợ), làm chao đảo nền kinh tế do sự mất cân đối giữa thu và chi ngân sách quốc gia. Nhu cầu chi quá nhiều, trong khi thu không đáp ứng nổi, chính phủ đi vay tiền thông qua nhiều hình thức như phát hành công trái, trái phiếu, hiệp định tín dụng,… để chi, từ đó dẫn đến tình trạng nợ không có khả năng hoàn trả. Thâm hụt ngân sách kéo dài làm cho nợ công gia tăng. Nợ không trả sớm, để lâu thành "lãi mẹ đẻ lãi con" và ngày càng chồng chất thêm.

5

Khủng hoảng tiền tệ: là hiện tượng không đủ ngoại tệ để thanh toán các nghĩa vụ đến hạn hay đáp ứng nhu cầu cả thực tế và giả tạo do đầu cơ buộc chính phủ phải dùng quỹ dự trữ ngoại tệ để duy trì tỷ giá hối đoái hoặc phá giá nội tệ cho nội tệ mất uy tín nhanh chóng.

Khủng hoảng thị trường chứng khoán: với tư cách là đỉnh cao của kinh tế thị trường, thị trường chứng khoán rất nhạy cảm và phức tạp nên cũng dễ đổ vỡ. Khủng hoảng thị trường chứng khoán xảy ra khi giá chứng khoán biến động mạnh (“tuột dốc” hay “không thang” quá nhanh) ngoài tầm kiểm soát và do hiệu ứng “bầy đàn” làm cho chứng khoán bị “bán đổ, bán tháo” hay thị trường bị “đông cứng” vì không có giao dịch tạo ra sự thâm hụt giữa tiền (chứng khoán) vào so với tiền ra thị trường chứng khoán (quỹ chứng khoán)

Khủng hoảng cán cân thanh toán (cán cân vãng lai), cán cân vốn (còn được gọi là tài khoản) là cấu thành quan trọng nhất của tài khoản quốc gia: khủng hoảng xảy ra khi cán cân này thâm hụt quá nặng trong thời gian dài và không có nguồn bù đắp. Khủng hoảng cán cân vãng lai thường xảy ra khi cán cân thương mại (nhập trừ đi xuất) bị thâm hụt và khủng hoảng cán cân thanh toán khi tổng cácluồng ngoại tệ ra lớn hơn ngoại tệ vào (cán cân vãng lai, tài khoản vốn) gây nên thâm hụt nặng nề.

Khủng hoảng khả năng tính thanh khoản: nếu các loại khủng hoảng tài chính ở trên liên quan tới cả ba mặt số lượng, thời hạn và chủng loại tiền (và giống như tiền) thì khủng hoảng tình thanh khoản là sự mất cân đối chủ yếu liên quan tới thời hạn và chủng loại của “giống như tiền” và một số loại tài sản đặc thù.

Khủng hoảng ngân sách: NSNN thâm hụt nặng và kéo dài trong khi các nguồn thu bù đắp thâm hụt (in tiền, vay nợ trong và ngoài nước) bị hạn chế hay không thể lạm dụng hơn nữa nếu muốn tránh hậu quả như vỡ nợ hay bùng nổ lạm phát.

Trên đây là những dạng khủng hoảng tài chính cơ bản và trong tương lai có thể xuất hiện nhiều dạng nữa cùng với sự phát triển của tài chính trong tiến trình phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế.

III. Sự khác biệt giữa khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế

Giống nhau

6

Khi có hiện tượng suy thoái kinh tế xãy ra sẽ làm tụt giảm nền kinh tế kéo dài nhiều tháng, tốc độ tăng trưởng âm liên tục kéo dài trong hai quý, kéo theo tình trạng đó là thị trường tài chính cũng đi xuống, khi đó các nhà đầu tư thường có xu hướng bán đỗ bán tháo các chứng khoán cả tốt lẫn xấu, làm cho giá chứng khoán xụt giảm mạnh, cũng tạo ra một cơ hội đầu tư mới, với các chứng khoán tốt có cơ hội phát triển mạnh sẽ có giá thấp hơn rất nhiều sơ với trước đó. Nếu nắm bắt cơ hội và biết phân tích tốt đây chính là thời điểm vàng của các nhà đầu tư có tầm nhìn.

Giống như thị trường tài chính thì khi suy thoái nền kinh tế đi xuống, những bong bóng và vấn đề còn tồn tại như trên sẽ được thanh lọc và nền kinh tế sẽ lại có một cái nền vững chắc để tăng trưởng. Cũng giống như một bệnh nhân đi khám răng, người đó sẽ phải chịu đau khá lâu, nhưng cuối cùng người đó sẽ có sức khỏe tốt hơn. Một nền kinh tế tăng trưởng tốt sẽ đi lên từ sự giải quyết triệt để những vấn đề còn tồn tại hiện nay.

Khủng hoàng tài chính và suy thoái kinh tế đều không thể kéo dài mãi mãi

Khác nhau

Khủng hoảng tài chính là sự mất khả năng thanh khoản của các tập đoàn tài chính dẫn tới sự sụp đỗ và phá sản dây chuyền trong hệ thống, nó phản ánh lên nền kinh tế tiền tệ và liên quan đến cấu trúc tiền tệ, đầu tư tài chính.

Suy thoái kinh tế theo cơ quan nghiên cứu kinh tế quốc gia của Hoa Kỳ là sự tụt giảm hoạt động kinh tế trên cả nước và kéo dài nhiều tháng, nó phản ánh lên nền kinh tế thực và liên quan đến cấu trúc tài chính, đầu tư thực

Bên cạnh đó suy thoái kinh tế còn liên quan đến sự suy giảm các chỉ số kinh tế của toàn bộ hoạt động kinh tế như việc đầu từ, việc làm, lợi nhuận của doanh nghiệp. Các thời ky suy thoái có thể đi liền với giảm phát hoặc lạm phát trong thời kỳ định lạm.

Một sự suy thoái trầm trọng và lâu dài được goi là khủng hoảng kinh tế

Ta có thứ tự

T kh ng ho ng tài chính -> kh ng ho ng kinh t -> kh ng ho ng kinhừ ủ ả ủ ả ế ủ ả t th c -> kh ng ho ng an ninh l ng th c -> kh ng ho ng chính trế ự ủ ả ươ ự ủ ả ị.

Phần 2: Phân tích khủng hoảng nợ công tại Hy Lạp

I. Diễn biến khủng hoảng nợ công tại Hy Lạp

I.1 Giai đoạn trước khi khủng hoảng bùng nổ

7

Hy Lạp là một quốc gia ở Đông-Nam  u là thành viên của khu vực đồng tiền chung Châu Âu (eurozone). Dân số Hy Lạp khoảng 10.7 triệu người ( 7/2007)chiếm khoảng 2,2% EU. GDP của Hy Lạp 351 tỉ USD, và thu nhập bình quân đầu người là 32,800 USD.Tỷ lệ thất nghiệp 8%và tỷ lệ lạp phát là 4,4% (năm 2008)

 Hy Lạp có nền kinh tế công-nông nghiệp khá phát triển, là sự pha trộn giữa nền kinh tế tư bản và kinh tế nhà nước. Có nhiều khoáng sản như: Bốc-xít, quặng sắt, ni-ken.

Thế mạnh kinh tế Hy Lạp là vận tải đường biển và du lịch: có đội thương thuyền đứng thứ 3 thế giới, kiểm soát 25% kim ngạch vận tải biển thế giới; có hệ thống đường xá, khách sạn, hải cảng, sân bay hiện đại. Hàng năm Hy Lạp thu hút khoảng 17 triệu lượt khách du lịch, ngành này đóng góp 15% GDP của Hy Lạp. Công nghiệp du lịch đóng 15% GDP quốc dân.  Hy Lạp là nước nhận viện trợ lớn nhất của EU, chiếm khoảng 3,3% tổng GPD. 

Từ 19/6/2000, nhờ áp dụng các biện pháp kinh tế tài chính có hiệu quả, Hy Lạp đã đạt các tiêu chí và được gia nhập  khu vực đồng Euro. Hy Lạp là một trong những nước có tốc độ phát triển cao nhất  ở EU (giai đoạn 2001-2007 tăng trưởng trung bình 4%/năm).  Năm 2008 tăng trưởng của Hy Lạp chỉ đạt 2,8%, đây là con số thấp hơn các năm trước nhưng vẫn cao hơn tăng trưởng trung bình của các nước thuộc khối EU. Tuy nhiên, Hy Lạp vẫn gặp nhiều thách thức như: việc giảm nợ nhà nước, lạm phát, thất nghiệp, cơ cấu lại nền kinh tế bao gồm cả việc tư nhân hóa một số các công ty nhà nước, tăng lương và giảm thiếu tính quan liêu.

Kinh tế Hy Lạp tăng trưởng hàng năm từ 2004-2007 khoảng 4% do một phần là chi tiêu cho Thế vận hội Athens 2004 và phần còn lại là sự gia tăng của tín dụng mà đóng góp đáng kể là sự gia tăng của tín dụng tiêu dung. Cho đến năm 2008 - khi khủng hoảng tài chính toàn cầu nổ ra, ngân sách quốc gia Hy Lạp luôn nằm trong tình trạng thâm hụt với mức trung bình 5% GDP/năm trong khi tính trung bình cho toàn khu vực sử dụng đồng tiền chung châu Âu (Eurozone), con số này chỉ dừng lại ở mức 2%/năm. Cùng với thâm hụt ngân sách, cán cân vãng lai của quốc gia này cũng liên tục bị thâm hụt, trung bình vào khoảng 9% GDP hàng năm (so với mức trung bình của toàn khu vực Eurozone là 1%).

Cả hai mức thâm hụt ngân sách và thâm hụt cán cân vãng lai của Hy Lạp đều vượt quá trần quy định cho phép của Liên minh Tiền tệ và Kinh tế châu Âu (EMU), đặc biệt là Hiệp ước Bình ổn và Tăng trưởng của Liên minh châu Âu (EU) với quy định trần thâm hụt ngân sách 3% GDP và trần nợ nước ngoài 60% GDP. Tuy nhiên, không chỉ có mình Hy Lạp mà trong số 27 quốc gia thành viên EU, cũng có tới 20 thành viên hiện tại đang vi phạm mức trần mà Hiệp ước Bình ổn và Tăng trưởng đặt ra. Để bù đắp cho khoản thâm hụt kép này, Hy Lạp đã đi vay trên thị trường vốn quốc tế và trong suốt một thập kỷ trước khi diễn ra cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, chính

8

phủ này đã vay mượn khá nặng nề từ bên ngoài, trở thành một con nợ triền miên với tổng số nợ nước ngoài lên tới 115% GDP vào năm 2009.

Sự phụ thuộc quá nhiều của Hy Lạp vào nguồn tài trợ nước ngoài đã khiến cho nền kinh tế nước này trở nên dễ tổn thương trước những thay đổi trong niềm tin của giới đầu tư. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bùng nổ vào mùa thu năm 2008 khiến nhiều quốc gia gặp khó khăn trong vấn đề thanh khoản, trong đó có cả một vài quốc gia Trung và Đông Âu. Mặc dù vậy, chính phủ Hy Lạp bước đầu cho thấy những ứng phó khá tốt với cuộc khủng hoảng và đã có thể tiếp tục tiếp cận những nguồn vốn mới từ thị trường quốc tế. Tuy nhiên, suy thoái toàn cầu bắt nguồn từ khủng hoảng tài chính vẫn tạo căng thẳng cho ngân sách của nhiều chính phủ, trong đó Hy Lạp không phải là ngoại lệ, do nhu cầu chi tiêu tăng lên trong khi nguồn thu từ thuế lại giảm đi. Và cũng từ đây, bi kịch nợ công của Hy Lạp bắt đầu được vén màn.

I.2 Diễn biến khủng hoảng nợ công tại Hy Lạp

Bắt đầu từ cuối năm 2009, chỉ vài tuần trước khi bị đánh bại trong cuộc tổng tuyển cử ngày 4/10/2009, chính quyền của Thủ tướng Costas Karamanlis cho biết thâm hụt ngân sách năm 2009 của nước này ở mức 6-8% so với GDP.Niềm tin của các nhà đầu tư vào chính phủ Hy Lạp bắt đầu bị lung lay khi vào tháng 10, chính phủ mới do Thủ tướng George Papandreou lãnh đạo đưa ra con số ước tính thâm hụt ngân sách mới cho năm 2009 là 12,7% GDP, gần gấp đôi con số ước tính hiện tại lúc đó là 6,7% và gấp hơn 4 lần giới hạn cho phép của một quốc gia sử dụng đồng Euro. Mức thâm hụt này cùng với khoản nợ trị giá 300 tỷ Euro đã thực sự cho thấy tính nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng tại Hy Lạp. Nguy hiểm hơn, nền kinh tế lớn thứ 27 thế giới này rất có thể chỉ là kíp nổ của toàn bộ hệ thống tài chính, tiền tệ châu Âu.

Sau khi công bố trên đưa ra lập tức đã khiến cho trái phiếu chính phủ Hy Lạp bị ba tổ chức định mức tín dụng lớn của thế giới đánh tụt hạng. Ngày 8/12/2009 khủng hoảng leo thang khi trái phiếu của quốc gia này sụt giảm nhanh chóng sau khi bị tổ chức Fitch hạ bậc tín nhiệm về nợ dài hạn từ A- xuống BBB+.

Ngày 14/12/2009, Thủ tướng Papandreou tuyên bố sẽ thẳng tay với nạn tham nhũng, thắt chặt chi tiêu hơn nữa, trong đó đánh thuế 90% lên các khoản thưởng của giới “cá mập” ngân hàng cũng như ra lệnh cấm toàn bộ việc thưởng tiền cho các quan chức điều hành trong khu vực công. Mười ngày sau, Quốchội Hy Lạp thông qua dự thảo ngân sách nỗ lực đểcắt giảm thâm hụt ngân sách 4% và dự báo mức thâm hụt ngân sách của năm 2010 là 9,1%. Trước tình hình đó hàng nghìn công nhân đã đổ xuống đường phản đối chính s ách cắt giảm ngân sách của thủ tướng Papandreou, tiếp đó tổ chức Standard & Poor’s tiếp nối Fitch giảm hạng mức tín dụng của Hy Lạp vào ngày17/12/2009.

9

Những lo ngại về tình trạng vỡ nợ của Dubai World lúc bấy giờ lại dấy lên những quan ngại về khả năng xảy ra tình trạng vỡ nợ quốc gia hàng loạt của các chính phủ dưới sức ép của khủng hoảng tài chính, trong đó Hy Lạp với những khoản nợ nước ngoài lớn đã trở thành mối quan tâm đặc biệt của các nhà đầu tư. Những nghi ngờ về việc chính phủ Hy Lạp đã làm sai lệch số liệu thống kê và cố tình che giấu mức độ nợ thật sự nhờ vào các công cụ tài chính phức tạp đã khiến các nhà đầu tư giảm sút lòng tin nặng nề vào quốc gia này. Trước khủng hoảng, lãi suất trái phiếu kỳ hạn 10 năm của Hy Lạp cao hơn từ 10 đến 40 điểm cơ sở so với trái phiếu cùng kỳ hạn của Đức thì khi khủng hoảng nợ nổ ra, khoảng cách này tăng lên tới 400 điểm cơ sở vào tháng 01/2010, mức kỷ lục bấy giờ.

Bất chấp những lo ngại ngày càng tăng xung quanh nền kinh tế Hy Lạp, chính phủ nước này vẫn tiếp tục thành công trong việc bán ra 8 tỷ euro (tương đương 10,6 tỷ đô la Mỹ) trái phiếu vào cuối tháng 01/2010, 5 tỷ euro (6,7 tỷ đô la Mỹ) vào cuối tháng 3 và 1,56 tỷ euro (2,07 tỷ đô la Mỹ) vào giữa tháng 4, tất nhiên với mức lãi suất rất cao. Tuy nhiên số tiền này vẫn chưa đủ, Hy Lạp vẫn cần phải vay mượn thêm khoảng 54 tỷ euro (71,8 tỷ đô la Mỹ) để chi trả cho các khoản nợ và lãi phải trả đến hạn của mình và người ta bắt đầu lo ngại về khả năng của chính phủ trong việc xoay xở với số tiền này.

Sự nghi ngờ của giới đầu tư lên đến đỉnh điểm lần nữa vào tháng 4/2010 khi Cơ quan Thống kê của Liên minh châu Âu (Eurostat) công bố ước tính về thâm hụt ngân sách của Hy Lạp. Với con số 13,6% GDP, ước tính của Eurostat cao hơn hẳn so với con số ước tính được chính phủ Hy Lạp đưa ra trước đó vào tháng 10/2009. Điều này lặp lại một câu hỏi về khả năng trả nợ của Hy Lạp với 8,5 tỷ euro (11,1 tỷ đô la Mỹ) đến hạn vào giữa tháng 5/2010.

Đến ngày 23/4/2010, chính phủ Hy Lạp đã phải chính thức kêu gọi hỗ trợ tài chính từ Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và các quốc gia thành viên Eurozone khác. Sau cuộc họp diễn ra ở Brussels tối 2/5, Bộ trưởng Tài chính các nước Eurozone đã quyết định khởi động cơ chế hỗ trợ tài chính dành cho Hy Lạp. Theo đó, Hy Lạp sẽ được hỗ trợ 110 tỷ euro trong vòng 3 năm với mức lãi suất bình quân ưu đãi là 5%, trong đó các nước thuộc Eurozone bỏ ra 80 tỷ euro và 30 tỷ còn lại sẽ do IMF đảm nhận. Đổi lại, Hy Lạp phải cam kết cắt giảm thâm hụt ngân sách xuống còn 11% GDP và xuống dưới mức quy định 3% của EU vào năm 2013.

Ngoài ra, do kinh tế lún sâu hơn vào suy thoái, mặc dù đã cam kết những chính sách khắc khổ nhằm giảm thâm hụt ngân sách nhưng thâm hụt ngân sách trong 8 tháng đầu năm 2011 của Hy Lạp đã lên tới 18,1 tỷ euro (24,67 tỷ USD), tăng mạnh so với 14,813 tỷ euro cùng kỳ năm ngoái. Biểu đồ dưới cho thấy mức thâm hụt ngân sách CỦA một số quốc gia Châu Âu, trong đó Hy Lạp và Ireland là 2 nước có mức thâm hụt lớn nhất. Trong khi thâm hụt ngân sách của Ireland chủ yếu là những khoản nợ chuyển từ khu vực tư nhân sang khu vực công do chính phủ phải “ra tay” cứu hệ

10

(Nguồn: Morgan Stanly)

thống ngân hàng, thâm hụt ngân sách Hy Lạp lại chủ yếu gây ra bởi trình độ quản lý công yếu kém.

Theo tính toán của Morgan Stanley, chi phí lãi trung bình cho các khoản nợ của Hy Lạp vào khoảng 6%GDP tương đương khoảng 10 tỷ EUR (2010). Giới phân tích cho biết, kinh tế Hy Lạp sẽ tăng trưởng âm trong năm 2011, theo đó, chi phí lãi  trên GDP sẽ tăng lên mức  lên mức 6,5% trong năm 2011. Gần đây Phó Bộ trưởng tài chính Hy Lạp cho biết Hy Lạp sẽ chỉ còn đủ tiền mặt để tiếp tục hoạt động cho đến giữa tháng 10/2011.

11

Rõ ràng sau khi khùng hoảng nổ ra từ năm 2008 thì tình hình Hy Lạp càng ngày càng tồi tệ, GDP năm 2013 của Hy Lạp đã giảm đi hơn một phần tư so với thời đỉnh điểm năm 2007 và tỷ lệ thất nghiệp là 27,8 phần trăm (Mười năm 59,2 phần trăm cho thanh niên cả nước), mức cao nhất trong Liên minh châu Âu. Nhưng trong những tháng gần đây đã có dấu hiệu của một kết thúc khả năng của suy thoái kinh tế đã ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến người dân Hy Lạp

Trong khi điểm yếu vẫn còn, đặc biệt là sự tồn tại của hành vi trốn thuế và các vấn đề trong tinh giản bộ máy hành chính, các cơ quan chức ước tính rằng trong năm 2013 Hy Lạp nhận ra một thặng dư ngân sách cơ (trước khi trả lãi trên nợ công), thặng dư này đại diện cho một thành tích tương đối lớn đối với thâm hụt tương đương với 10,5 phần trăm của GDP trong năm 2009, và là một thành tích lớn hơn khi điều chỉnh chu kỳ để lấy tài khoản của sự suy giảm trong hoạt động kinh tế tổng thể.

Vào tháng 4 /2015 đến hạn thanh toán của các khoản nợ, Chính phủ Hy Lạp đã quyết định sẽ hoãn thanh toán số nợ 2,5 tỷ Euro cho Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) vào tháng 5 và tháng 6 nếu không đạt được thỏa thuận với chủ nợ. Điều này đồng nghĩa với việc Hy Lạp vỡ nợ cấp quốc gia. Hiện Chính phủ Hy Lạp đang ở trong tình trạng gần cạn kiệt quốc khố để trả lương cho công chức và người hưu trí.

“Chúng tôi đã rơi vào cảnh đường cùng… Nếu châu Âu không giải ngân tiền cứu trợ, chúng tôi không còn lựa chọn nào khác ngoài tuyên bố vỡ nợ”, một quan chức Chính phủ Hy Lạp nói.

13/4/ 2015 Hy Lạp đã nối lại đàm phán với các chủ nợ về các vấn đề biện pháp tài khóa, mục tiêu ngân sách, và tư nhân hóa các doanh nghiệp. Các chủ nợ cho biết sẽ không giải ngân tiền cứu trợ mà Hy Lạp cần để trả các khoản nợ sắp đáo hạn nếu như Athens không đáp ứng yêu cầu mà họ đưa ra về các vấn đề này.

Chính phủ Hy Lạp đang cố gắng tìm nguồn tiền để trả 2,4 tỷ Euro lương hưu và lương công chức tháng này. Athens cũng phải trả 203 triệu Euro cho IMF vào ngày 1/5 và 770 triệu Euro vào ngày 12/5, chưa kể 1,6 tỷ Euro đáo hạn vào tháng 6 tới đây.

II. Nguyên nhân diễn ra cuộc khủng hoảng nợ công Hy Lạp

Tác nhân bên ngoài và rõ nét nhất thường được các nhà lãnh đạo EU đề cập là tác động của cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Để cứu vãn nền kinh tế khỏi cơn suy thoái, chính phủ Hy Lạp đã tung ra những gói hỗ trợ khổng lồ nhằm kích thích kinh tế phát triển. Gói hỗ trợ này làm gia tăng chi ngân sách và nợ công một cách đáng kể. Tuy nhiên thực trạng này diễn ra ở hầu hết các nước trên thế giới không chỉ có ở Hy Lạp và EU. Do vậy ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu chỉ là tác nhân thêm vào những vấn đề sẵn có trong nội tại nền kinh tế Hy Lạp.

12

Tiếp cận vấn đề nguyên nhân khủng hoảng nợ công tại Hy Lạp có rất nhiều luồng ý kiến và nhiều cách phân tích vấn đề khác nhau. Bài tiểu luận này, chúng tôi phân tích nguyên nhân của cuộc khủng hoảng nợ Hy Lạp theo quan điểm của tổ chức Nghiên cứu cho quốc hội Hoa Kỳ (CRS).

II.1 Các nhân tố trong nước

C hi tiêu chính phủ quá lớn trong khi nguồn thu hạn chế

Vào giai đoạn 2001-2007, GDP của Hy Lạp tăng ở mức trung bình 4.3%, so với mức trung bình của khu vực châu  u là 3.1%. Tốc độ phát triển kinh tế cao là nhờ có sự gia tăng nhanh của tiêu dụng ở khu vực tư nhân (được cung cấp bởi các gói tín dụng dễ dãi) và đầu tư công được chính phủ và EU tài trợ. Tuy nhiên trong sáu năm đó trong khi chi tiêu chính phủ tăng lên 87% thì khoản thu chỉ tăng có 31% dẫn tới thâm hụt ngân sách trên mức cho phép theo quy định của EU. Các nhà quan sát đã chỉ ra một việc quản lý công thiếu hiệu quả và cồng kềnh của Hy Lạp, hệ thống y tế và trợ cấp lương hưu tốn kém, trốn thuế và việc thiếu ý thức duy trì kỷ cương tài chính là những nhân tố chính phía sau thâm hụt ngân sách của Hy Lạp.

Theo như OECD, trong năm 2004, chi tiêu cho quản lý công trong tổng chi tiêu công của Hy Lạp cao hơn bất kỳ nước nào của OECD và không có gì chứng minh rằng số lượng và chất lượng của các dịch vụ công ích này là vượt trội. Năm 2009, chi tiêu công của chính phủ chiếm 50% GDP. Chính phủ kế tiếp tiếp tục muốn hiện đại hóa và củng cố vấn đề quản lý công, tuy nhiên những gì thấy được chỉ là việc bố trí quá đông nhân viên và năng suất làm việc thấp ở khu vực công lại là chướng ngại vật để tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh đó độ tuổi của dân số Hy Lạp trung bình trên 64 dự đoán gia tăng từ 19% vào năm 2007 lên 32% vào 2060, điều này có thể đặt thêm gánh nặng lên các khoản chi công cộng và hệ thống trợ cấp lương hưu thuộc hàng tốt nhất châu Âu. Theo như OECD, việc tăng tỷ lệ lương từ 70% lên 80% là khá cao và tương tự là quyền được hưởng toàn bộ trợ cấp lương hưu chỉ đòi hỏi 35 năm đóng góp so với 40 như nhiều nước khác. Hơn thế nữa, tổng các khoản thanh toán cho trợ cấp công cộng của Hy Lạp dự đoán là sẽ tăng từ 11.5%GDP năm 2005 lên 24% GDP vào 2050.

Ngược lại với khoản chi, các khoản thu sụt giảm cũng góp phần vào thâm hụt ngân sách Hy Lạp. Nhiều nhà kinh tế chỉ ra rằng vấn nạn trốn thuế và nền kinh tế không được ghi chép của nước này là nhân tố chính cho việc mất khả năng thanh toán. Họ cho rằng Hy Lạp phải giải quyết vấn đề này nếu muốn tăng thu cần thiết để

13

nâng cao vị thế tài chính. Một vài nghiên cứu đã ước lượng nền kinh tế ngầm ở Hi Lạp chiếm 25-30% GDP.

V n đ chính sách và năng l c c nh tranhấ ề ự ạ

Nền công nghiệp của Hy Lạp đang trải qua sự sự giảm sút về cạnh tranh quốc tế. Các nhà kinh tế cho rằng vấn đề tiền lương và năng suất lao động thấp cũng là những tác nhân chính. Theo bảng bên dưới, chúng ta có thể thấy rằng mức độ cạnh tranh của Hy Lạp rất thấp chỉ xếp thứ 109 về những quốc gia thuận lợi kinh doanh năm 2009 bị bỏ xa so với các nước trong khu vực và đặc biệt là A i Len.

Bảng 1: Mức độ cạnh tranh của một số nước châu Âu năm 2009

Country Ranking

Greece 109

Ireland 7

Italy 78

Potugal 48

Spain 62

N guồn: WB

Theo một nghiên cứu, mức độ chi tiền công của Hy Lạp đã tăng khoảng 5% hàng năm từ khi nước này ra sử dụng đồng euro là đồng tiền quốc gia tăng gấp hai lần tốc độ trung bình của khu vực. Cùng lúc, xuất khẩu từ Hy Lạp đến các bạn hàng chính chỉ tăng 3.8% /năm, bằng một nửa tốc độ tăng nhập khẩu của các nước này từ các bạn hàng khác. Hy Lạp muốn thúc đẩy khả năng cạnh tranh và giảm việc thâm hụt cán cân vãng lai cần tăng năng suất lao động, cắt giảm mức lương, và tăng việc tích lũy. Theo một số nghiên cứu, chính phủ Papandreou đã bắt đầu hạn chế mức tiền lương ở khu vực công và hi vọng tăng xuất khẩu thông qua việc đầu tư ở các những lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh. Trong quá khứ, ngành công nghiệp du lịch và vận tải biển của nước này là những ngành thế mạnh.

II.2 Các nhân tố quốc tế

14

Tham v ng ọ nh t th hóa b ng m i giá c a các nhà lãnh đ o ấ ể ằ ọ ủ ạ Châu Âu

Bi kịch ngày nay của Hy Lạp, ngoài việc bắt nguồn từ thói quen tiêu “hoang” của chính phủ nước này, còn có một phần là do tham vọng nhất thể hóa bằng mọi giá của các nhà lãnh đạo châu Âu - những người bị cho là đặt vấn đề chính trị lên trên thực lực kinh tế.

Năm 1981, Hy Lạp đã vội vàng xin gia nhập Cộng đồng châu Âu (hiện nay là EU), sớm hơn các quốc gia giàu có khác như Áo, Phần Lan và Thụy Điển tới 14 năm, và sớm hơn Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha 5 năm. Ở thời điểm đó, Tổng thống Pháp Francois Mitterand đã phản đối sự mở rộng của Cộng đồng châu Âu về phía Nam, vì lo ngại những quốc gia như Hy Lạp chưa đủ điều kiện gia nhập.

Tuy nhiên, những người ủng hộ chủ trương mở rộng khối đã lập luận rằng, kết nối các quốc gia bị xem là có nền dân chủ mong manh như Hy Lạp, Tây Ban Nha, và Bồ Đào Nha vào Cộng đồng châu Âu sẽ là cách tốt nhất để cải thiện nền dân chủ ở các nước này.

Các nhà lãnh đạo châu Âu cũng cho rằng, việc đưa Hy Lạp, một quốc gia còn nghèo khó với khoảng cách địa lý xa xôi vào chung một “mái nhà” với các nước Tây Âu giàu có là một “sứ mệnh lịch sử” - theo lời kể của cựu Bộ trưởng Bộ Tài chính Hy Lạp Yannos Papantoniou trên New York Times.

Nh ng gói c u tr lãi su t th p làm n Hy L p cao ng t ng ngữ ứ ợ ấ ấ ợ ạ ấ ưỡ

Trong thập kỷ đầu tiên là thành viên của EU, Hy Lạp đã được hưởng những khoản tài trợ hào phóng và nhờ đó vượt qua được nhiều khó khăn kinh tế - chính trị. Tới giai đoạn 1996 - 1997, khi châu Âu chuẩn bị cho ra đời một đồng tiền chung, Hy Lạp đã nhận được nhiều mời chào hấp dẫn, trong đó có cả những lời ca ngợi tốc độ tăng trưởng 3% khi đó của quốc gia này là phù hợp với việc sử dụng chung một đồng tiền với các quốc gia khác trong khu vực.

Đối với Athens khi đó, việc gia nhập khu vực sử dụng đồng Euro (Eurozone) vừa là vấn đề danh dự, vừa là sự cần thiết, vì nếu Hy Lạp sử dụng đồng tiền chung, giới đầu cơ tiền tệ sẽ không thể tấn công và nền kinh tế của nước này sẽ có được sự bình ổn. Bên cạnh đó, việc tham gia “câu lạc bộ nhà giàu” Eurozone cũng đồng nghĩa với việc Hy Lạp có thể tiếp cận được với nguồn vốn tín dụng lãi suất thấp.

“Ngay khi xin được gia nhập khối Eurozone, chúng tôi bắt đầu cải tổ hình ảnh của Hy Lạp từ một nước thế giới thứ ba thành một quốc gia có vẻ giống như Thụy Sỹ”, cựu Bộ trưởng Bộ Tài chính Hy Lạp Papantoniou hồi tưởng.

Và chính những lợi ích này đã góp phần nên vấn đề nợ công của Hy Lạp. Tiếp cận dễ dàng với các khoản tín dụng với lãi suất thấp làm cho Hy Lạp nhanh chóng đạt

15

mức độ nợ cao. Và nếu như thị trường gây khó dễ cho các khoản vay bằng cách khiến các khoản tài trợ tài chính cho nợ công trở nên quá đắt đỏ, Hy Lạp có thể sẽ phải thực hiện các điều khoản nhằm tái cơ cấu và chính sách thắt lưng buộc bụng.

Không tuân th các quy ủ đ nhị c a EUủ

Vào tháng 12/1996, các quy định cho việc tham gia đồng Euro càng thêm ngặt nghèo khi một văn kiện mang tên Hiệp ước Bình ổn được thông qua. Hiệp ước này ngầm quy định, thành viên nào của Eurozone vi phạm các tiêu chuẩn về lạm chi, nợ công, lạm phát… sẽ phải chịu mức phạt nặng nề. Điều này như một chướng ngại vật quá sức đối với các nước Nam Âu, nơi vẫn bị xem là áp dụng các chính sách tiền tệ và tài khóa lỏng lẻo hơn.

Nước Đức muốn những hình phạt này được áp dụng tự động, nhưng một số nước khác mà đi đầu là Pháp muốn các nhà lãnh đạo của EU ra quyết định. Tuy vậy, từ trước tới nay, chưa một quốc gia nào trong khối Eurozone, kể cả Hy Lạp, bị phạt, dù những quy định của khối vẫn thường xuyên bị hầu hết các nước thành viên vi phạm.

Ngay ở thời điểm năm 2000, Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) đã bày tỏ sự quan ngại về tình hinh nợ của Hy Lạp và nhấn mạnh rằng, mức nợ này đã vượt xa trần quy định của Eurozone. Tuy nhiên, Hy Lạp vẫn cố gây áp lực và đã được chấp nhận vào khối Eurozone vào tháng 1/2001, sớm hơn một năm so với mục tiêu của Athens.

Khi đó, trên giấy tờ, Hy Lạp cho thấy họ đã cắt giảm được thâm hụt ngân sách. Và dù chưa giảm được nợ tới mức chuẩn, Athens đã nhấn mạnh vào tiền lệ là một số quốc gia khác như Italy và Bỉ vẫn được gia nhập Eurozone khi chưa đáp ứng được đỏi hỏi về mức nợ chính phủ. Đòi hỏi chính trị về việc giữ yên đồng Euro đã dìm sâu mọi lời chỉ trích về những hành vi “phá trần” này.

“Ở thời điểm đó, đã có những bằng chứng rõ ràng cho thấy, Hy Lạp đưa ra những số liệu không trung thực, đặc biệt là về thâm hụt ngân sách, nhằm đưa ra hình ảnh về tình hình tài chính công của họ ‘đẹp’ hơn thực tế. Nhưng các nhà lãnh đạo châu Âu đã không phản đối. Vì lý do chính trị, họ phải cho Hy Lạp tham gia đồng Euro”, Giáo sư kinh tế học Jürgen von Hagen thuộc Đại học Bonn, Đức, cho biết.

Sau đó, chính những nước “anh cả” trong Eurozone đã vi phạm các quy định về tài khóa. Vào các năm 2002, 2003, và 2004, ngay cả Đức và Pháp đã không tuân thủ được các điều khoản về thâm hụt ngân sách, tạo ra một tiền lệ nguy hiểm.

Tới năm 2004, việc Hy Lạp công bố số liệu kinh tế giả mạo đã rõ như ban ngày. EU đã mở cuộc điều tra đầu tiên nhằm vào tình trạng bội chi của Athens.

Hy Lạp vào 2004 khi Hy Lạp báo cáo về tình hình thâm hụt ngân sách của nước này vào năm 2003 là 3.2% GDP. Trong báo cáo của mình ủy ban đã chỉ ra rằng

16

“chất lượng của các số liệu công là không thỏa đáng”, không chỉ có phòng thống kê của EU mà của Eurostat cũng không công nhận hay là có những yêu cầu sửa đổi số liệu do cục thống kê quốc gia của Hy Lạp đưa ra từ năm 2000. Xem xét lại các báo cáo thống kê từ 2004 đến 2007 cho thấy Hy Lạp đã vượt quá 3% giới hạn mỗi năm kể từ 2000, đạt mức cao nhất là 7.9% GDP năm 2004 . Ủy ban cũng thông báo rằng nợ công của Hy Lạp trên mức 100% GDP từ khi Hy Lạp ra nhập các nước sử dụng đồng euro, những con số này đã đẩy mức nợ công lên cao vọt. EU đóng thẩm định về thâm hụt nợ vào năm 2007 với thông báo thỏa đáng rằng Hy Lạp thâm hụt ngân sách là 2.6% GDP năm 2006 và 2.4% năm 2007. Mặc dù Cơ quan Thống kê châu Âu (Eurostat) thu thập đủ bằng chứng về sự gian dối số liệu của Hy Lạp, nhưng các quan chức của châu Âu vẫn tuyên bố rằng, việc trục xuất Hy Lạp khỏi Eurozone không phải là lựa chọn của họ.

II.3 Các nhân tố khác

Tác động của khủng hoảng tài chính 2008

Khi khủng hoảng tài chính 2008 diễn ra, các nhà lãnh đạo EU đã tung ra những gói hỗ trợ khổng lồ nhằm kích thích phát triển kinh tế để vượt qua cơn khủng hoảng. Chính những gói tài trợ này đã góp phần quan trọng làm cho tăng chi ngân sách và nợ công đáng kể.

Mâu thu n chính sách ti n t và chính sách sách tài chínhẩ ề ệ

Hy lạp tha gia vào Eurozone đồng nghĩa với việc chấp nhận chính sách tiền tệ do Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) đề ra nhằm theo đuổi mục đích kiềm chế lạm phát. Chính sách tiền tệ do ECB đưa ra là phù hợp khi muốn kiềm chế lạm phát khu vực nhưng nó lại gây nhiều khó khăn cho chính phủ các nước thành viên khi phải xây dựng chính sách tài khóa phù hợp với điều kiện kinh tế nước mình. Cụ thể, lãi suất trên thị trường tiền tệ phụ thuộc vào chính sách lãi suất do ECB định đoạt. Lãi suất trái phiếu chính phủ lại do bộ tài chính của từng quốc gia quyết định. Quyết định của bộ tài chính phụ thuộc vào chính sách tài khóa của từng quốc gia. Đối với một số nước có năng lực cạnh tranh kém hơn, thâm hụt ngân sách lớn hơn các quốc gia khác trong khối, để bình ổn nền kinh tế, phát hành trái phiếu chính phủ với lãi suất cao hơn là giải pháp được ưa chuộng. Vì vậy, khủng hoảng nợ do mất khả năng chi trả chỉ còn là vấn đề thời gian.

Ngoài ra, so với các quốc gia khác, khoản chi phúc lợi - an sinh xã hội và thu thuế của EU rất cao s o với nhiều quốc gia khác trên thế giới. Mỹ có thu nhập bình quân đầu người là 34.320 đô la nhưng chỉ dành 19,4% GDP chi phúc lợi và an sinh xã hội. Con số tương tự ở Nhật là 25.130 đô la Mỹ/người và 18,6%. Trong khi đó, tại EU, tỷ lệ này dao động từ trên 20-38,2%.

17

Để có tiền chi phúc lợi và an sinh xã hội, các nước buộc phải gia tăng các khoản thuế. Thực tế cho thấy, tỷ lệ thu thuế tính trên GDP của các nước trong khối EU cũng tăng vượt trội so với các quốc gia khác trên toàn cầu. Tỷ lệ này biến động từ trên 30-50% GDP. Trong khi đó, tỷ lệ này tại M ỹ, Nhật, Canada lần lượt là 28,2%; 27,4%; 33,4%.

Để có nguồn thu lớn, EU đã xây dựng một biểu thuế suất cao hơn. Thuế giá trị gia tăng trung bình trên 20%, trong khi tỷ lệ này ở M ỹ và Hàn Quốc khoảng 10%; tại Nhật và Canada là Chính điều này đã làm cho EU trở thành thiên đường của hưởng thụ hơn là nơi hấp dẫn nhà đầu tư bỏ vốn kinh doanh. dẫn nhà đầu tư bỏ vốn kinh doanh. Là một thành viên của EU, trong các hoạt động kinh tế đối ngoại với các quốc gia ngoài EU, Hy Lạp cũng gặp những khó khăn tương tự. Không chỉ bị tác động bởi các yếu tố bên ngoài, Hy Lạp còn bị thất thế trong các giao dịch nội khối. Là một quốc gia nhỏ, nghèo tài nguyên, năng lực cạnh tranh của Hy Lạp giảm. Mặc dù Hy Lạp thiết lập một tỷ lệ thu thuế và chi phúc lợi và an sinh xã hội ở mức trung bình của khu vực đồng tiền chung, nhưng nó cũng làm tăng mức thâm hụt ngân sách, tạo áp lực gia tăng nợ công.

III. Tác động của khủng hoảng nợ công

III.1 Đối với Hy Lạp

Hệ lụy đầu tiên Hy Lạp phải đối mặt là mất khả năng tiếp cận thị trường tài chính quốc tế hoặc những điều kiện ưu đãi đi kèm các khoản vay sẽ mất đi, chi phí lãi vay sẽ ở mức rất cao hoặc thậm chí không huy động được nguồn vốn.

Theo thông tin từ Reuters, hiện các ngân hàng Hy Lạp đang giữ 62,8 tỷ USD trái phiếu Chính phủ và là chủ nợ lớn nhất của Chính phủ Hy Lạp. Nếu Hy Lạp vỡ nợ, các ngân hàng này có khả năng được yêu cầu tìm kiếm các nguồn vốn mới để bù đắp các khoản lỗ và hầu như chắc chắn là Hy Lạp sẽ quốc hữu hóa những ngân hàng có liên quan đến nợ Chính phủ. Ngoài ra, việc các tổ chức tài chính trong nước bán tháo các tài sản nợ  có thể xẩy ra sẽ dẫn tới 1 cuộc khủng hoảng tài chính tại Hy Lạp.

Khủng hoảng nợ công là làm xếp hạng tín dụng của Hy Lạp bị hạ xuống rất thấp. Ngày 15/06/2010, Tổ chức xếp hạng tín dụng Moody’s đã hạ 4 bậc xếp hạng tín dụng của Hy Lạp xuống mức không đầu tư và cảnh báo, việc Hy Lạp thâm hụt ngân sách sẽ tạo ra nhiều hậu quả xấu về kinh tế. Dù được EU và IFM hứa hẹn “bơm” tiền nhưng 14/07/2011, hãng xếp hạng Fitch đã hạ 3 bậc đối với mức tín dụng của Hy Lạp từ B+ xuống CCC, thấp nhất trong thang xếp hạng của Fitch. Ngày 28/07/2011, Standard&Poor (S&P) nhận định rằng Hy Lạp sẽ phá sản một lần sau khi các quan chức châu  u thúc đẩy kế hoạch tái cơ cấu nợ xuống gói

18

cứu trợ 2. Chính vì vậy S&P đã hạ tiếp xếp hạng tín dụng của Hy Lạp từ CCC xuống CC chỉ trên mức vỡ nợ 2 bậc với đánh giá triển vọng tiêu cực.

Tác động thứ hai đến tình hình tài chính tiền tệ của Hy Lạp chính là làm giá trái phiếu giảm và lãi suất tăng. Lãi suất trái phiếu tăng cao vì chính phủ phải nâng lãi suất trái phiếu thì mới huy động được người mua. Lãi suất này có thời điểm đã lên tới 11,39%.

Tiếp theo, khủng hoảng nợ công cũng dẫn tới việc cắt giảm chi tiêu và tăng các loại thuế để cải thiện tình hình mặc dù theo nhận định của các chuyên gia, chính sách này sẽ làm cuộc sống của người dân Hy Lạp khó khăn hơn rất nhiều.

Khủng hoảng nợ công của Hy Lạp cũng dẫn đến tốc độ tăng GDP giảm và thất nghiệpgia tăng.

Như vậy, Hy Lạp phải đối mặt là mất khả năng tiếp cận thị trường tài chính quốc tế hoặc những điều kiện ưu đãi đi kèm các khoản vay sẽ mất đi, chi phí lãi vay sẽ ở mức rất cao hoặc thậm chí không huy động được nguồn vốn.

III.2 Đối với thế giới

Ảnh hưởng nặng nề đến hệ thống ngân hàng khu vực Châu Âu và thế giới

Đức và Pháp là 2 nước chủ nợ lớn nhất của Hy Lạp. Theo ước tính của các chuyên gia kinh tế, thiệt hại của các ngân hàng Pháp và Đức nếu Hy Lạp vỡ nợ lần lượt là 56,9 và 23,8 tỷ USD. Ngoài ra, việc Hy Lạp vợ nợ cũng gây thiệt hại lớn cho ngân hàng Anh, Bồ Đào Nha, Mỹ, Hà Lan, Nhật…Nếu Hy Lạp vỡ nợ, hệ thống ngân hàng của các quốc gia này sẽ đối mặt với khoản nợ xấu lớn, ảnh hưởng đến an toàn hệ thống ngân hàng toàn cầu.Tuy nhiên, đó mới chỉ là tính toán về những khoản nợ tài chính trực tiếp, chưa có cơ quan nào đưa ra số liệu chính xác về những tài sản tài chính gián tiếp có liên quan tới Hy Lạp. Báo cáo công bố ngày 18/08/2011 của cơ quan tài chính trực thuộc Quốc hội Mỹ cho biết trong khi những khoản vay trực tiếp của Mỹ tới Hy Lạp là 7,3 tỷ USD (tính đến tháng 12/2010), nhưng ước tính giá trị những khoản tín dụng gián tiếp của nước Mỹ với Hy Lạp lớn hơn đến gần 5 lần với 34,1 tỷ USD. Báo cáo cũng cho biết thêm tổng các khoản tín dụng gián tiếp của Mỹ tới 5 quốc gia đang “vướng mắc” trong khủng hoảng nợ công là Hy Lạp, Ireland, Ý, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha ước tính lên tới 641 tỷ USD

19

Top 10 những nước có giá trị các khoản nợ trực tiếp với Hy Lạp lớn nhất

(Nguồn: Bank of International Settlement)

(Nguồn: Cơ quan nghiên cứu thuộc Quốc hội Mỹ)

Hiệu ứng domino và hệ lụyđến tăng trưởng kinh tế toàn cầu

20

Hy Lạp là một nước thành viên nhỏ của khối các nước sử dụng đồng tiền chung Châu Âu, chỉ đóng góp khoảng 2,4% tổng GDP của khu vực. Tuy nhiên, cái người ta lo ngại là hiệu ứng domino sẽ xảy ra khi Hy Lạp vỡ nợ. Ireland và Bồ Đào Nha là 2 quốc gia cũng đang trong tình trạng ngập đầu nợ nần và sẽ phải đối mặt với việc kinh tế tăng trưởng chậm lại trong các năm tới khi chính phủ nỗ lực thắt chặt chi tiêu, giảm thâm hụt ngân sách và mang đến sự ổn định cho hệ thống ngân hàng.

Nhưng nếu như Hy Lạp vỡ nợ, không trả được tiền hoặc không trả đủ tiền cho các trái chủ, thì tại sao Ireland và Bồ Đào Nha lại không thể làm thế? Và có thể việc Hy Lạp vỡ nợ sẽ tạo tiền đề cho một loạt sự đổ vỡ tiếp sau đó. Lo lắng về một cuộc khủng hoảng, đổ vỡ toàn cầu đang tới gần khiến tâm lý thận trọng của nhà đầu tư tăng lên, ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động đầu tư, chi tiêu của cá nhân…dẫn tới làm giảm tăng trưởng GDP của cả khu vực. Ngoài ra, các nền kinh tế lớn cũng phải chia sẻ một phần nguồn lực tài chính của các chương trình hỗ trợ kinh tế trong nước cho các gói cứu trợ Hy Lạp và hệ thống ngân hàng, qua đó giảm tăng trưởng kinh tế trong nước.Như đã nói ở trên, Hy Lạp vỡ nợ đồng nghĩa với việc chi tiêu toàn cầu đặc biệt là từ Châu Âu giảm sút. Ngoài ra, nước Mỹ cũng đang đứng trên bờ vực của suy thoái.  Việc 2 đối tác xuất khẩu chính của Trung Quốc gặp khó khắn khiến nhu cầu hàng hóa Trung Quốc có khả năng giảm mạnh. Sự sụt giảm này được đánh giá là có tác động lớn tới Trung Quốc và có thể buộc chính phủ phải từ bỏ cuộc chiến chống lại lạm phát để giữ cho nền kinh tế đang phát triển.

Bất ổn chính trị và xã hội Việc Hy Lạp cũng như các quốc gia khác trong khu vực thực thi các chính sách thắt lưng buộc bụng đã làm làm dấy lên làn sóng biểu tình phản đối trong khu vực đồng thời cũng làm tăng lên những bất ổn xã hội khác. Ví dụ dự thảo việc Hy Lạp hoãn trả lương công chức hay áp thêm nhiều loại thuế mới khiến làn sóng phản đối chính phủ càng mạnh thêm. Giờ đây không chỉ thị trường quốc tế mà còn cả chính nhân dân Hy Lạp đã không còn niềm tin vào chính phủ Hy Lạp.Ngoài ra những cuộc đàm phán giữa các thành viên trong khu vực cho thấy những bất đồng chính trị đang ngày càng lớn dầngiữa các nước.  Đức là quốc gia đã phản ứng mạnh với những phương cách cứu trợ Hy Lạp. Với tích cách của dân tộc Đức, nhiều người đã kiên quyết phản đối việc cứu Hy Lạp khi họ coi Hy Lạp là một quốc gia thiếu trách nhiệm. Bản thân trong chính phủ Đức cũng có những luồng ý kiến trái chiều về việc này. Theo đó, khủng hoảng nợ Hy Lạp là một cơ hội khiến bất đồng gia tăng trong nội bộ chính phủ vốn đã nhiều rối ren. Như vậy, khủng hoảng nợ công Hy Lạp đang làm gia tăng bất ổn chính trị của khu vực.

III.3 Đối với Việt Nam

21

Do đồng EUR giảm giá, nên các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường EU sẽ bị đắt lên tương đối, do dó ảnh hưởng đến kim ngạch xuất khẩu của Việt nam vào thị trường này.Dù Hy Lạp không phải là một nền kinh tế lớn ở châu Âu và quan hệ thương mại, dòng vốn đầu tư  với Việt Nam không lớn, nhưngViệt Nam sẽ chịu tác động gián tiếp nếu cuộc khủng hoảng này nổ ra. Cuộc khủng hoảng nợ của châu Âu có thể gây gián đoạn thương mại toàn cầu, ảnh hưởng tới nhu cầu xuất khẩu của châu Á, trong đó có Việt Nam và khiến “các nguồn tiền nóng” chảy vào khu vực Châu Á giảm sút, góp gây mất cân đối cán cân tổng thể của các quốc gia trong đó có Việt Nam.

Phần 3: Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

I. Thực trạng nợ công Việt Nam.

I.1 Thu ngân sách nhà nước

Theo các Báo cáo Quyết toán NSNN giai đoạn 2003-2010, có thể thấy nguồn thu NSNN của Việt Nam khá ổn định, dao động trong khoảng từ 25-30% GDP. Tổng nguồn thu được phân chia thành ba khoản bao gồm thu từ thuế và phí, thu về vốn, và thu viện trợ không hoàn lại.Trong số này thì phần lớn vẫn đến từ nguồn thu thuế và phí, thu về vốn chiếm khoảng 2% và thu viện trợ không hoàn lại chỉ chiếm khoảng 0,5% (Hình 10). Năm 2009 nguồn thu từ thuế có dấu hiệu suy giảm nhẹ do Chính phủ thực hiện hàng loạt các biện pháp cắt giảm nhằm kích thích tổng cầu. Tuy nhiên sang năm 2010 thì tỉ lệ thu thuế lại gia tăng trở lại, lên đến gần 30%. Theo như Dự toán NSNN trong hai năm gần nhất là 2011 và 2012 thì tỉ lệ thu thuế đang có xu hướng giảm xuống chỉ còn khoảng 25%. Mặc dù vậy những con số của năm 2011 và 2012 chưa thể phản ánh đúng xu hướng này, do nếu căn cứ vào thực trạng tổng thu NSNN từ năm 2003 đến 2010 thì những số liệu quyết toán luôn luôn vượt so với những số liệu dự toán.

So sánh với các quốc gia khác ở châu Á khác có thể thấy Việt Nam luôn là quốc gia có tỉ lệ thu thuế cao nhất . Trung Quốc, mặc dù có sự gia tăng liên tục nhưng cũng chỉ ở mức khoảng 17-18% GDP; Thái Lan hay Malaysia vào khoảng 15%; Indonesia và Philippines vào khoảng 12%; trong khi Ấn Độ chỉ thu thuế vào khoảng 7%. Tổng mức thu thuế cao đã hạn chế khả năng tích lũy của doanh nghiệp, làm giảm đầu tư phát triển cũng như việc nâng cao năng lực cạnh tranh của khu vực tư nhân. Bên cạnh đó, mặc dù có mức thu thuế cao nhất trong số các quốc gia châu Á nhưng có vẻ như các khoản thu thuế này lại không tương xứng với tốc độ phát triển cơ sở

22

hạ tầng cũng như các phúc lợi xã hội cho người dân. Điều này có thể tạo nên những rào cản lớn trong việc phát triển kinh tế trong dài hạn.

I.2 Chi ngân sách nhà nước

Theo các Báo cáo Dự toán và Quyết toán của Bộ Tài chính thì tổng chi cân đối NSNN sẽ bao gồm chi tiêu cho đầu tư phát triển và chi thường xuyên. Bắt đầu tư năm 2009, tổng chi tiêu NSNN đã có xu hướng giảm do chính phủ thực hiện những chính sách thắt lưng buộc bụng nhằm bình ổn nền kinh tế. Tuy nhiên, nhìn vào thực trạng chi tiêu của nước ta có thể thấy rằng bất chấp sư thu hẹp của tổng chi tiêu, các khoản chi thường xuyên lại đang có xu hướng tăng lên, trong khi các khoản chi cho đầu tư phát triển lại đang có xu hướng giảm xuống. Rõ ràng điều này phản ánh sự không hiệu quả trong chi tiêu của chính phủ. Việc chi thường xuyên tăng lên chứng tỏ rằng chính phủ vẫn đang phải gồng gánh một bộ máy nhà nước cồng kềnh và hoạt động kém hiệu quả.

I.3 Thâm hụt ngân sách và nợ công

M ặc dù có nguồn thu khá cao nhưng Việt Nam cũng vẫn không tránh khỏi việc thường xuyên bị thâm hụt ngân sách trong khoảng một thập kỷ trở lại đây. Số liệu Quyết toán và Dự toán NSNN của Bộ Tài chính phân biệt hai khái niệm bội chi NSNN. Đó là bội chi theo tiêu chuẩn quốc tế (không bao gồm chi trả nợ gốc) và theo tiêu chuẩn Việt Nam (bao gồm cả chi trả nợ gốc). Nếu tính theo tiêu chuẩn quốc tế thì mức thâm hụt hay bội chi của Việt Nam thấp hơn nhiều, và cũng khá gần với thống kê của IMF và A DB (Bảng 7). Tuy nhiên, nếu theo như tiêu chuẩn Việt Nam thì thâm hụt Việt Nam vào khoảng 5% GDP, duy chỉ có năm 2009 Việt Nam thâm hụt cao hơn hẳn là 6,9% GDP do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu.

M ức độ thâm hụt ngân sách của Việt Nam được xem là cao s o với các quốc gia khác trong khu vực. Trong giai đoạn kể từ khủng hoảng năm 2009, tỉ lệ thâm hụt của Việt Nam chỉ thua Malays ia và Ấn Độ. Bước sang năm 2010, Việt Nam là quốc gia duy nhất tiếp tục gia tăng thâm hụt ngân sách, trong khi các quốc gia còn lại đều bắt đầu cải thiện tình hình của mình. Tuy nhiên đến năm 2011, theo xu hướng chung, Việt Nam đã giảm được một nửa mức thâm hụt ngân sách của mình. Điều này có thể được giải thích do các nền kinh tế đều có xu hướng phục hồi và ổn định trở lại sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu.

Nợ công tổng nợ công Việt Nam tính đến cuối năm 2011 là khoảng 55% GDP, trong đó 31% là nợ nước ngoài và 24% là nợ trong nước. Theo như khuyến cáo của Caner, Grennes và Koehler-Geib (2011) thì mức nợ công nguy hiểm cho các quốc gia đang phát triển như Việt Nam là 64%. Có thể thấy, nợ công Việt Nam đã ở khá gần, và có lẽ tính đến thời điểm hiện tại đã vượt qua ngưỡng nguy hiểm này. Điều này

23

là do các khoản nợ xấu của khu vực DNNN, chưa có số liệu rõ ràng, nhiều khả năng chính phủ sẽ phải sử dụng thêm ngân sách nhà nước để trả. Thêm nữa, nợ trong nước của khu vực DNNN theo ghi nhận trong đề án Tái cấu trúc DNNN của Bộ Tài chính (2012) cũng chiếm đến 16,5% GDP.

II. Những bài học kinh nghiệm của Việt Nam

II.1 Công khai minh bạch về ngân sách nhà nước và nợ công

Nhằm quản lý tốt thâm hụt ngân sách cũng như nợ công, điều quan trọng đầu tiên cho mỗi quốc gia chính là thực hiện công khai minh bạch về những vấn đề này. Những nguyên tắc chủ đạo nhằm giúp các quốc gia thực hiện những chính sách cải thiện tính minh bạch trong quản lý tài khóa của mình được tóm tắt đầy đủ trong Cẩm nang Minh bạch Tài khóa (IMF, 2007).

Theo IMF, các quốc gia cần xác định và phân biệt rõ vai trò và trách nhiệm của các tổ chức chính phủ. Theo đó khu vực chính phủ nên được tách bạch rõ ràng với khu vực các tổ chức công, cũng như toàn bộ hai khu vực này cũng cần phải được tách bạch so với phần còn lại của nền kinh tế. Bên cạnh đó vai trò chính sách và quản lý của khu vực công cũng cần rõ ràng và được công khai. Để làm được điều này, IMF đưa ra cấu trúc cho khu vực công, được mô tả trong hình 1, phân chia rạch ròi giữa từng cơ quan chính phủ, phân theo cấp bậc cũng như có sự phân loại rõ ràng giữa các hình thức hoạt động của các tổ chức công. Ngoài ra, tất cả các hoạt động tài khóa liên quan đến ngân sách nhà nước cũng đều cần được tường trình và minh bạch rõ ràng, và điều này cần được thực hiện không chỉ ở cấp chính phủ trung ương, mà cần áp dụng tại tất cả các cấp, từ trung ương đến địa phương.

Về quản lý nợ công, chính phủ cũng cần phải đưa ra một khuôn khổ pháp luật quản trị rõ ràng và giao trách nhiệm cho một cơ quan chuyên trách. Cơ quan này thường là Bộ Tài chính, với vai trò lựa chọn các công cụ và hình thức vay nợ cần thiết, xây dựng chiến lược và lộ trình vay nợ hợp lý, nghiên cứu về các chiến lược quản lý nợ công bền vững thông qua các chỉ số về giới hạn nợ và các thông số về rủi ro mà nợ công mang lại, đồng thời với đó cơ quan này cũng cần thiết lập một bộ phận làm nhiệm vụ kiểm tra giám sát nhằm đưa ra được những con số thống kê cập nhật rõ ràng và xác thực.

Bên cạnh một cơ quan quản lý chuyên trách như Bộ Tài chính, IMF cũng đưa ra những khuyến cáo về vai trò của Ngân hàng Trung ương trong những vấn đề này. Theo đó, Ngân hàng Trung ương với tư cách là một cơ quan tài khóa của chính phủ không được nhầm lẫn trong việc thực hiện các chính sách tiền tệ cùng với việc quản lý một phần nguồn quỹ chứng khoán của chính phủ. Tất cả các khoản vay phải được ghi lại trong một tài khoản ngân hàng dưới sự kiểm tra và giám sát của Bộ Tài chính. Cùng với đó, các điều khoản vay nợ đi kèm cũng cần được minh bạch và công bố và cập nhật đầy

24

đủ. Ngoài ra theo IMF thì tại nhiều quốc gia, việc thực hiện kiểm toán các hoạt động vay nợ hàng năm của chính phủ được giao cho một cơ quan độc lập nhằm nâng cao tính khách quan và minh bạch về những thông tin này. Mối quan hệ giữa khu vực chính phủ và khu vực công cũng cần được minh bạch rõ ràng, đặc biệt về vấn đề tài chính công. Cụ thể hơn, do các tổ chức công được nắm giữ toàn bộ hoặc một phần bởi chính phủ, và chính vì thế, cần có sự rõ ràng trong việc làm thế nào lợi nhuận thu được từ các tổ chức này có thể đóng góp cho chính phủ. Những báo cáo tài chính hàng năm của các tổ chức công cần phải công khai về lợi nhuận và phần sẽ đóng góp vào ngân sách nhà nước, thông tin này cũng cần được ghi lại trong báo cáo hàng năm về ngân sách nhà nước. Tương tự như thế, các nguồn chi của chính phủ nhằm phục vụ lợi ích của các tổ chức công cần phải được công khai trong báo cáo về ngân sách nhà nước cũng như báo cáo tài chính hàng năm của các tổ chức này

Về mặt pháp luật, cho đến năm 2010, Việt Nam mới bắt đầu có Luật quản lý nợ công. Tuy nhiên, nhiều điều khoản trong Bộ luật này lại liên quan đến các văn bản pháp lý khác, như Luật Ngân sách Nhà nước cùng các hàng loạt các nghị định và thông tư khác, dẫn đến cơ chế quá cồng kềnh và chồng chéo trong việc thực thi. Ngoài ra, Luật quản lý nợ công Việt Nam cũng không hề đề cập đến chiến lược vay nợ và quản lý một cách rõ ràng, mà chỉ đưa ra một quy định chung chung không rõ ràng, cụ thể như Chính phủ phải trình Quốc hội quy định các chỉ tiêu an toàn về nợ, mục tiêu, định hướng huy động, sử dụng vốn vay và quản lý nợ công trong từng giai đoạn 5 năm. Rõ ràng khoảng thời gian 5 năm là quá lâu để làm minh bạch hóa những thông tin cần thiết liên quan đến vấn đề tài khóa và nợ công của Việt Nam.

Về mặt thống kê, Việt Nam cũng chưa có được một hệ thống thống kê điển hình nhằm quản lý về ngân sách nhà nước và nợ công Việt Nam. Những số liệu mà Bộ Tài chính đưa ra chỉ là những con số tổng hợp về từng khoản lớn, chứ chưa hề được phân chia thành nhiều khoản nhỏ cũng như ghi rõ sự chung chuyển giữa Chính phủ và các tổ chức công như khuyến nghị của IMF. Các số liệu về nợ công cũng rất thiếu, chưa có một nguồn số liệu cụ thể nào. Về các số liệu quan trọng về nợ nước ngoài, nguồn đáng tin cậy nhất được lấy từ các bản tin nợ nước ngoài của Bộ Tài chính trong vài năm trở lại đây. Tuy nhiên, bản tin này chỉ mang tính chất thống kê thuần túy, chưa đưa ra được những thông tin cần thiết về rủi ro của Việt Nam.

Về mặt kiểm toán các hoạt động vay nợ của Chính phủ cũng như các chính quyền địa phương, Luật quản lý nợ công cũng chỉ quy định chung chung về việc được thực hiện bởi Kiểm toán Nhà nước hoặc kiểm toán độc lập. Trong khi đó, trách nhiệm cụ thể cho Kiểm toán Nhà nước hay các tổ chức kiểm toán độc lập lại không hề được đề cập.

25

Có thể thấy, việc quản lý nợ công Việt Nam vẫn còn rất nhiều hạn chế so với nhiều quốc gia trên thế giới theo khuyến nghị của IMF. Trách nhiệm giải trình của các cơ quan Chính phủ vẫn chưa rõ ràng, mặc dù đã được quy định trong Luật quản lý nợ công nhưng lại không có một cơ chế giám sát, khiến cho chất lượng minh bạch và công khai thông tin tài khóa vẫn chưa đạt yêu cầu. Dựa trên phân tích

về cây nhị phân cũng như các kịch bản xấu mà Việt Nam có thể gặp phải, việc xây dựng minh bạch và sát sao các chỉ tiêu này sẽ là thực sự cần thiết trong công tác đánh giá và có những điều chỉnh phù hợp. Mặc dù hiện nay Việt Nam vẫn đang ở vùng an toàn, nhưng việc phòng ngừa những rủi ro trong tương lai cần phải được thực hiện sớm nhằm phòng ngừa những biến động bất thường có thể xảy ra trong tương lai, hoặc do sự nhập nhằng trong các con s ố thống kê chưa thể lường trước được.

II.2 Tăng nguồn thu giảm chi đối với ngân sách nhà nước.

M ặc dù có tỉ lệ thu NSNN ở mức cao trong khu vực nhưng Việt Nam vẫn thường xuyên phải chịu thâm hụt, điều này là do mức chi tiêu công quá cao mà phần lớn lại được chi cho các khoản chi thường xuyên mà không phải là chi cho đầu tư phát triển. Chính vì vậy, nếu như có thể cắt giảm và phân bổ lại các khoản chi thường xuyên của mình một cách hiệu quả, cụ thể là giảm thiểu đi cơ chế hành chính cồng kềnh đang là gánh nặng của nền kinh tế, Việt Nam hoàn toàn có thể khắc phục được tình trạng bội chi ngân sách của mình.

Việc thực thi những chính sách làm giảm gánh nặng thâm hụt ngân sách và nợ công kéo dài đã được rất nhiều các quốc gia áp dụng. Cụ thể là các chính sách thắt lưng buộc bụng mà các quốc gia châu Âu đang sử dụng để đối phó với cơn bão nợ công tại khu vực này. Các biện pháp nhằm tăng nguồn thu ngân sách có thể là tiến hành tăng thuế giá trị gia tăng hoặc đặt thêm các khoản thuế mới, đánh thuế mạnh tay vào các đối tượng có thu nhập cao, tăng thuế với bất động sản hoặc các tài sản có giá trị cao.

Hiện nay Việt Nam chưa rơi vào khủng hoảng như các quốc gia châu  u. Chính vì vậy, việc áp dụng các chính sách gia tăng nguồn thu này khó có thể được thực hiện một cách thận trọng, có lộ trình, tránh gây phản ứng của dư luận cũng như tạo thêm những bất ổn xã hội. Tuy nhiên, có vẻ như Việt Nam đã và đang thực hiện những chính s ách nhất định làm gia tăng nguồn thu thông qua việc đánh thêm thuế đường bộ, thuế và phí phương tiên, tăng giá xăng dầu… và thực hiện một cách khá liên tục. Một cách khác để giảm thâm hụt ngân sách, chính là cắt giảm chi tiêu công.

26

Cụ thể trong phần phân tích về thực trạng thâm hụt ngân sách của Việt Nam có thể thấy cắt giảm chi tiêu công đồng nghĩa với việc cắt giảm các khoản chi thường xuyên. Đây là các khoản chi cho một bộ máy hành chính cồng kềnh vẫn đang tồn tại ở Việt Nam và không mang lại lợi nhuận, do là những khoản chi bắt buộc và mang tính cố định. Tuy nhiên, việc xu hướng các khoản chi này đang ngày một gia tăng thực sự là một dấu hiệu xấu, cho thấy bộ máy này đang ngày càng một phát triển, và việc phát triển này không mang lại lợi ích khi nó càng làm phình to các khoản chi ngân sách. Chính vì vậy, việc tinh giản khu vực này, có thể thông qua tư nhân hóa một số bộ phận của khu vực công cung cấp các hàng hóa và dịch vụ công như giáo dục, giao thông công cộng, thông tin… Tuy nhiên, tương tự như việc nâng cao nguồn thu, việc cắt giảm này cũng cần phải được thực hiện dưới một lộ trình, bởi tinh giản bộ máy hành chính nhà nước đồng nghĩa với việc để lại hậu quả xấu, đặc biệt về vấn đề giải quyết việc làm.

II.3 Nâng cao hiệu quả kinh tế

M ột trong những vấn đề lớn của Việt Nam chính là việc các khoản nợ công và đầu tư công không mang lại lợi ích cần thiết, không hiệu quả dẫn đến thất thoát và ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế. Việc các tập đoàn lớn thay phiên nhau công bố vỡ nợ hoặc phá sản lại càng gây nên tâm lý lo ngại cho giới đầu tư trong nước cũng như quốc tế. Hàng loạt các khoản nợ xấu có thể khiến chính phủ phải sử dụng ngân sách của mình để trả nợ, điều này có thể khiến cho ngân sách chính phủ thâm hụt nặng hơn. Chính vì vậy, việc tái cấu trúc hệ thống DNNN cũng cần được đặt lên hàng đầu trong việc cải thiện tình hình nợ công của Việt Nam. Vấn đề tái cấu trúc nâng cao hiệu quả đầu tư công cũng rất quan trọng, cụ thể như đã phân tích trong phần bản chất kinh tế của thâm hụt ngân sách và nợ công, đó là hiệu ứng đầu tư công lấn át đầu tư tư nhân. Điều này cũng rất đúng với Việt Nam khi hiệu quả đầu tư vào khu vực chỉ bằng một nửa so với hiệu quả đầu tư vào khu vực ngoài nhà nước. Những khuyến nghị trực tiếp nhằm cải thiện hai quá trình tái cấu trúc này được đề cập trong hai chương của Báo cáo Thường niên Kinh tế Việt Nam 2012: Đối diện thách thức tái cơ cấu kinh tế (Nguyễn Đức Thành, 2012).

Việc tái cấu trúc DNNN, bên cạnh việc tinh giản số lượng, thu hẹp khu vực nhà nước và mở rộng khu vực tư nhân như đã nói ở trên, cũng cần phải có những cơ chế quản lý thích hợp để nâng cao hiệu quả khu vực này. Thứ nhất, cần định vị lại vai trò của DNNN, liệu khu vực này có phải thành phần kinh tế chủ đạo, hay sẽ chỉ đóng vai trò hỗ trợ cho sự phát triển? Thứ hai, mục tiêu của khu vực DNNN cũng cần xác định rõ, các lĩnh vực hoạt động công ích và cung cấp các hàng hóa công cần được chỉ định cụ thể. Những chính sách nhằm nâng cao hiệu quả của khu vực phải bao gồm cả cơ chế quản trị bên trong lẫn bên ngoài. Cụ thể, cần có những cơ chế đánh giá,

27

khích lệ, đồng thời xây dựng và bổ nhiệm đội ngũ lãnh đạo một cách công khai thông qua năng lực cũng như các tiêu chí khác. Cùng với đó có thể xây dựng thị trường CEO/giám đốc mang tính cạnh tranh để hạn chế việc bổnhiệm thông qua các kênh hành chính. Về cơ chế quản trị bên ngoài, khu vực DNNN cũng cần phải minh bạch thông tin cũng như các hệ thống văn bản liên quan đến quản trị và hoạt động, có những điều chỉnh cần thiết khi xuất hiện những dấu hiệu tiêu cực nhằm cải thiện một cách có hiệu quả hơn. Ngoài ra cũng có thể bóc tách các mảng kinh doanh, mang tính cạnh tranh trong các ngành độc quyền tự nhiên để tiến hành cải cách thị trường hóa (phi quốc hữu hóa).

Ngoài việc cải cách khối DNNN, đầu tư công của Việt Nam cũng cần phải được chú trọng, tránh để các khoản đầu tư này gây hiệu ứng lấn át khu vực tư nhân, làm thu hẹp khu vực này. Quy hoạch yếu kém và cơ chế phân quyền đầu tư công giữa trun ương và địa phương như hiện nay vô tình khuyến khích các địa phương chạy đua nhiều dự án trong việc xin ngân sách chính phủ. Chính quyền trung ương cũng thiếu cơ chế giám sát nguồn vốn đầu tư từ trung ương, dẫn đến việc hiệu quả và chất lượng không đi kèm với số lượng. Việc thiếu vắng sự hợp tác giữa Nhà nước và tư nhân trong việc triển khai các dự án đầu tư công cũng là nhân tố quan trọng dẫn đến tình trạng này.

Nhằm thực hiện tái cấu trúc đầu tư công, cần có lô trình giảm dần tỉ trọng đầu tư công trong tổng vốn đầu tư của xã hội, đồng thời với đó cải thiện và nâng cao chất lượng các khoản đầu tư này. Không nên phân bổ đầu tư công vào các ngành hay lĩnh vực mà tư nhân có thể hoạt động tốt hơn. Đi kèm với đó cũng cần tập trung vào phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội, cải thiện thể chế và nâng cao năng lực quản lý và điều hành. Ngoài ra, cũng có thể phát triển kinh tế-xã hội phân theo từng vùng miền kinh tế, chứ không mang tính hành chính địa phương. Cụ thể, một vùng kinh tế có thể bao gồm nhiều tỉnh thành, địa phương hành chính ở gần nhau, nhờ đó việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng, thúc đẩy phát triển sẽ mang tính hiệu quả kinh tế hơn. Các dự án này cũng đều cần một sự quản lý chặt chẽ từ phía trung ương

II.4 Phát triển thị trường nợ trong nước

Việt Nam cũng như nhiều quốc gia đang phát triển khác, đều gặp phải tình trạng original sin, vay mượn nước ngoài bằng những ngoại tệ mạnh. Tuy nhiên, hiện nay Việt Nam khó có thể tiếp tụcnhận được các khoản vốn vay ODA với lãi suất ưu đãi do đã trở thành nước có thu nhập trung bình. Việt Nam sẽ phải vay các khoản vay nước ngoài với lãi suất cao của thị trường. Các rủi ro khi vay nợ nước ngoài đã được đề cập trong các phần trên, và đặc biệt từ kinh nghiệm của cuộc khủng hoảng khu vực Mỹ Latinh thập niên 80. Chính vì vậy, việc phát triển thị trường nợtrong nước là thực sự cần thiết trước nhu cầu cần vốn đầu tư hiện nay của Việt Nam.

28

Việt Nam không giống như Nhật Bản, khi thị trường trái phiếu chính phủ chưa thực sự phát triển để thu hút nhiều nhà đầu tư trong nước. Nhật Bản đã rất thành công trong việc phát triển thị trường trái phiếu chính phủ của mình, với việc phần lớn các khoản tiết kiệm của người dân, bên cạnh chi cho bảo hiểm và các quỹ hưu trí, được các tổ chức tài chính sử dụng đầu tư vào trái phiếu chính phủ. Để làm được điều đó, Việt Nam cần có chiến lược cụ thể phát triển thị trường này, cùng với phát triển thị trường tài chính trong nước nói chung. Trong Quyết định phê duyệt chiến lược nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 2030 của Thủ tướng Chính phủ cuối tháng 7 vừa qua đã đề cập đến việc phát triển thị trường này nhằm giảm bội chi ngân sách. Trong ngắn hạn, Việt Nam sẽ phải chấp nhận chi phí vay mượn, hay lãi suất cao nhằm thu hút đầu tư nội địa. Cùng với thời gian, cần phải có những chiến lược tăng dần hợp lý tỉ trọng nợ trong nước trong danh mục nợ chính phủ, xây dựng chính sách, quy trình, và hệ thống cho cả thị trường sơ cấp và thứ cấp thông qua các giao dịch mua lại, hoán đổi nợ để dần nâng cao tính thanh khoản trên thị trường này. Khi tính thanh khoản đã được cải thiện, chính phủ có thể vay mượn khi cần thiết với mức rủi ro thấp do phát hành bằng đồng nội tệ, có kỳ hạn dài hơn và lãi suất cố định.

Kêt Luận

Hy Lạp chỉ là một quốc gia nhỏ ở Châu Âu với đóng góp không nhiều vào GDP hàng năm của khu vực nhưng việc vỡ nợ của Hy Lạp lại có ảnh hưởng nặng nề chưa tính toán hết được tới nền kinh tế toàn cầu. Đây là bài học rõ ràng cho những quốc gia đang phát triển nóng theo đuổi những con số đẹp về chỉ tiêu tăng trưởng, nếu cứ tiếp tục đi vay và sử dụng tiền vay như Hy Lạp đã làm trong thập kỷ vừa qua, chắc chắn di sản có thể để lại cho tương lai sẽ là một món nợ khổng lồ. Có nhiều tiên toán về kịch bản của Hy Lạp, nhưng dù đi theo hướng nào thì kết của Hy Lạp đều không tốt đẹp. Nguy cơ nợ công cao và quản lý ngân sách yếu kém là một rủi ro lớn cho Việt Nam trong tương lai. Bài học về Hy Lạp sẽ là tấm gương tốt cho chính phủ Việt Nam trong quản lý ngân sách, nợ công và ra các quyết định liên quan định hướng đúng đắn cho con đường phải đi sau này.

29

Tài Li u Tham Kh oệ ả1. Sách Tài Chính Quốc Tế ( tác giả: Trần Ngọc Thơ- Nguyễn Ngọc Định xuất bản

năm 2011)

2. http://www.vnba.org.vn/?option=com_content&view=article&id=1557&catid=43&Itemid=90 (hiệp hội ngân hàng Việt Nam)

3. http://kinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/quoc-te/kich-ban-hy-lap-vo-no-co-the-xay-ra-2715215.html

4. http://www.vietnamembassy-slovakia.vn/en/vnemb.vn/cn_vakv/euro/nr040819111400/ ns090305150938 (cơ quan đại diện ngoại giao việt nam ở hy lạp.

5. http://kmacle.duytan.edu.vn/Home/ArticleDetail/vn/101/863/van-de-no-cong-cua-hy-lap-va-tac-dong-cua-no-den-tinh-hinh-chinh-tri-o-hy-lap

6. http://vneconomy.vn/the-gioi/bi-kich-no-cong-o-hy-lap-vi-dau-nen-noi-20100505011039118.htm

7. http://vneconomy.vn/the-gioi/hy-lap-da-san-sang-tuyen-bo-vo-no-20150414112521491.htm8. http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/kinh-te-thi-truong-XHCN/2013/22601/Khung-

hoang-no-cong-chau-Au-va-bai-hoc-cho-Viet-Nam.aspx

9. https://pgbankresearch.wordpress.com/2011/09/30/kh%E1%BB%A7ng-ho%E1%BA%A3ng-n%E1%BB%A3-cong-hy-l%E1%BA%A1p/

30

31

 

32