freephung.free.frfreephung.free.fr/cactacphamchuain/ANDOPHUCHUNG/8)RAMANAMA… ·...
Transcript of freephung.free.frfreephung.free.fr/cactacphamchuain/ANDOPHUCHUNG/8)RAMANAMA… ·...
RAMANA
MAHARSHI VỚI CON ĐƯỜNG
TỰ BIẾT MÌNH
Nguyên-Tác :
" RAMANA MAHARSHI AND
THE PATH OF SELF KNOWLEDGE "
By
ARTHUR OSBORNE
Dịch-Giả :
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
RAMANA
MAHARSHI
VỚI CON ĐƯỜNG
TỰ BIẾT MÌNH
( WHO AM I ? )
( -- )
" Tự tri giả minh "
" Cái bí-quyết thực-hiện của Ramana
Maharshi là Ngủ-Say đặc-biệt, cho nên
Ngài là Hoạt Phật ."
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
1
MỤC LỤC
Lời Tựa
I._ Những năm đầu...........................................5
II._ Cuộc Thức Tỉnh.......................................17
III._ Cuộc Hành Trình....................................37
IV._ Dường Như Khổ Hạnh...........................53
V._ Vấn-Đề Trở Về........................................73
VI._ Arunachala Ngọn Núi Đỏ_Thần Siva....95
VII._ Bất Bạo Động Nhẫn Nhục.................139
VIII._ Người Mẹ..........................................157
IX._ Bất Nhị Pháp ( Advaita )......................187
X._ Các Đệ-Tử Đầu Tiên
a/ Sivaprakasam Pillai.........................199
b/ Natesa Mudaliar...............................217
c/ Ganapati Sastri.................................228
d/ Humphreys......................................239
e/ Một Nhà Thông-Thiên-Học.............263
f/ Một Đệ-Tử Vô-Danh.......................269
XI._ Các Súc Vật..........................................273
ADPH RAMANA MAHARSHI
2
XII._ Tùng Lâm Của Ngài Ramana.............299
XIII._ Đời Sống Với Ngài Bhagavan...........319
XIV._ Giáo Lý Truyền Thụ..........................353
XV._ Những Đệ-Tử.....................................419
XVI._ Tác-Phẩm Thành Văn........................447
XVII._ Đại Định ( Mahasamadhi )...............467
XVIII._ Hiện Diện Tiếp Tục........................493
***
PHỤ - LỤC
I._ Ta Là Ai ? Who Am I ? ...........................1
II._ Thơ Vịnh Viên Ngọc Quý Về Khoa
Biện-Biệt Của Sư-Phụ Sankara ...........23
III._ Thơ Tụng Đạo Yoga Vasishtha _
Đạo-Dẫn Tiên-Tri .................................33
*****
*
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
1
TỰA Của RADHAKRISHNAN
Phó Chủ-Tịch
Nước Ấn-Độ Cộng-Hòa
Tôi rất lấy làm sung-sướng được viết một
bài tựa ngắn cho tập sách của ông Osborne nói
về cuộc đời và giáo-lý của Ngài Ramana
Maharshi. Giáo-lý này đặc-biệt quan-trọng cho
thời-đại chúng ta đang bị bao-trùm bởi luồng
gió hoài-nghi, đề-phòng và ngờ-vực. Chúng ta
thấy ở đây một tôn-giáo tâm-linh, nó cho chúng
ta giải-thoát khỏi những giáo-điều, những mê-
tín, những nghi-thức và lễ-bái, để được sống
như những tinh-thần tự-do. Tinh-túy của tất cả
tôn-giáo cốt ở một sự thực-nghiệm nội-tâm cá-
nhân, một sự liên-hệ giữa cá-nhân chúng ta với
Thượng-Đế. Chẳng phải là một sự thờ-phụng
mà là một sự tìm-tòi. Đấy là một đường hướng
về sự sinh-thành, sự giải-thoát .
ADPH RAMANA MAHARSHI
2
Cách-ngôn Hy-Lạp có câu rất phổ-thông
" Tri ngã tự thân = Tự biết lấy mình = Connais
toi Toi même ", tương-tự như mệnh-lệnh của
Ảo-Nghĩa-Thư ( Upanisad ) : " Atman Viddhi
= Hãy biết lấy chính mình " . Bằng cách trừu-
tượng-hóa, chúng ta nhập vào ngoài những
giới-hạn của thân-thể, của tinh-thần, của trí-tuệ
và chúng ta đạt tới cái Ngã Đại-đồng : " Ánh-
sáng chân-thật soi chiếu tất cả cá-thể nhân-loại
trong thế-giới này " .
Để đạt tới Thượng-Đế chúng ta phải vươn
lên những đỉnh cao và luôn luôn chú-mục
hướng lên, rời bỏ ảo-ảnh mà chúng ta đã nhận
lấy khi đi xuống thế-gian này, cũng như trong
Huyền-bí-học những người nào được phép vào
trong cung-điện thì phải bỏ hết tất cả quần-áo
và bước lên, hoàn-toàn trần-truồng, sau khi đã
được tinh-khiết-hóa. Chúng ta lặn vào trong
bản-thể vô-lượng, không có giới-hạn và cũng
không nhất-định. Đấy không phải là một cá-thể
đối-lập với chủ-thể. Người ta tự đồng-nhất-hóa
mình với những đối-tượng và những sự-thể
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
3
hiển-hiện ra cho người ta. Cái thực-tại đối với
nó không còn dựng lên những sự ưa thích hay
đố-kỵ, những ý-vị và vô-vị, cái thực-tại ấy tràn-
ngập tất cả. Những chướng-ngại ấy không còn
có thể dùng làm phương-tiện để phân-giải nữa .
Tuổi trẻ-thơ thì rất gần với thị-giác về
" Ngã ". Chúng ta phải trở nên những đứa trẻ-
thơ trước khi đi vào trong những ngõ-ngách
của chân-lý. Bởi thế chúng ta được khuyên-nhủ
gạt xa mình những trí-thức ngụy-biện của các
nhà bác-học. Người ta nhấn mạnh vào sự cần-
thiết phải tái-sinh. Người ta bảo chúng ta rằng
hiền-trí của những đứa trẻ-thơ thì lớn hơn là
hiền-trí của những nhà học-giả .
Ngài Ramana Maharshi trình-bày cho
chúng ta những nét đại-cương của một tôn-giáo
căn-cứ vào Thánh Kinh Ấn-Độ, tôn-giáo cốt-
yếu tâm-linh không phải vì thế mà không hợp-
lý và đạo-đức .
*****
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
5
- I -
NHỮNG NĂM ĐẦU
Arudra Darshan là ngày biểu-hiện của
Thần Siva, là một trong những ngày lễ của tín-
đồ Siva kỷ-niệm với một lòng hết sức thành-
tín, vì ngày đó được nhắc lại sự biểu-hiện của
chính Thần Siva cho tín-đồ của Ngài, như là
Nataraja, nghĩa là nhịp múa vũ-trụ, của sự
sáng-tạo và hủy-diệt vũ-trụ. Ngày hôm ấy, vào
năm 1879 từ tinh-sương những tín-đồ của Thần
Siva ở tại tỉnh nhỏ Tiruchushi trong xứ Tamil
miền Nam Ấn-Độ, ra khỏi nhà họ để đi bộ theo
con đường đất bụi dẫn đến một cái bể của điện-
thờ. Tập-tục đòi rằng tín-đồ phải tắm vào buổi
bình-minh. Ánh-sáng đỏ rực của mặt-trời mới
mọc chiếu vào những cái lưng nâu của các
người đàn-ông đóng khố bằng vải trắng quấn
quanh lưng. Ánh-sáng ấy làm lóng-lánh những
kim-tuyến và, viền đỏ trên những chiếc áo
ADPH RAMANA MAHARSHI
6
quàng của phụ-nữ đang bước xuống các bực đá
ở bể tắm lớn, vuông, để tự dìm mình xuống
nước. Hôm ấy trời giá lạnh vì ngày hội vào
tháng chạp, nhưng dân bản-xứ rất chịu-đựng.
Chỉ một số nhỏ thay quần áo dưới gốc cây hay
là trong những nhà lân-cận. Còn đa số chờ đợi
để có thể phơi khô dưới ánh mặt-trời và bước
lên những bậc ướt sướt-mướt đi về phiá điện-
thờ của tỉnh nhỏ, cái điện-thờ ấy từ lâu đã được
các bậc sư-phụ Sundaramurthi ca-tụng, một
trong sáu mươi ba bậc Thánh-Thi của xứ
Tamil .
Trong điện-thờ có pho-tượng của Thần
Siva quàng hoa và được kiệu rước suốt ngày
đêm kèm theo tiếng trống và chiêng cùng
những tiếng hát tụng thờ. Cuộc rước dừng lại
vào một giờ sáng, nhưng buổi lễ còn tiếp-tục vì
ngày của Ấn-Độ kể từ bình-minh nọ đến bình-
minh kia chứ không phải từ nửa đêm này sang
nửa đêm khác. Khi tượng Thần Siva lại được
trả về trong điện thì đúng vào lúc mà ở nhà của
vợ chồng ông bà Sundaram Ayyar, đứa trẻ
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
7
Ventakaraman ra chào đời. Chính ở tại đứa trẻ
này mà Thần Siva đã biểu-hiện là Ngài
Ramana. Những ngày lễ Ấn-Độ theo tiết của
trăng cũng như ngày lễ phục-sinh Tây-phương,
và năm này thì ngày lễ Thần Siva rơi vào ngày
29 tháng chạp thành thử đứa trẻ ra đời hơi
muộn về ngày cũng như về thời-tiết của năm,
so với đứa trẻ Thần-linh của xứ Bethlehem
2000 năm trước đấy .
Cùng một sự gặp-gỡ đã đánh dấu việc
kết-thúc cuộc đời trần-thế của Ngài Ramana, vì
Ngài mất vào ngày 14 tháng tư, trễ hơn một
chút về giờ và ngày so với buổi chiều thứ sáu
Thánh-linh. Hai thời-điểm đều là đặc-trưng :
nửa đêm và Đông-Chí đánh dấu lúc mà mặt-
trời đem lại ánh-sáng cho thế-gian. Vào xuân-
phân thì ngày dài bằng đêm và bắt đầu vượt
hơn đêm .
Sau khi bắt đầu một cuộc đời làm thư-ký
kế-toán với đồng lương rẻ mạt, ngay ở vào thời
ấy, là hai Rupi một tháng, Sundaram Ayyar tự
ADPH RAMANA MAHARSHI
8
tạo cho mình độc-lập. Ông thảo những đơn-từ
cho người khác và sau vài năm ông được phép
hành nghề thầy cãi tư. Công việc thịnh-vượng,
ông đã xây được nhà, ở đấy là nơi ông đã ra
đời. Một cái nhà rộng-rãi có một gian để dành
cho khách hàng. Hẳn rằng thầy kiện tỉnh-lỵ có
tính-tình đáng yêu và đãi khách, ông cũng tiếp-
đãi những khách công-chức và những người
mới đến trong tỉnh, bởi vì những sự tiếp-đãi ấy
làm cho ông trở nên một công-dân quan-trọng
và có hậu-quả tốt cho công việc nghề-nghiệp
của ông .
Nếu đời sống của Sundaram Ayyar có
thành-công ở đời thì một thứ định-mệnh đặc-
biệt đã đè nặng vào gia-đinh ông. Người ta kể
lại rằng, một hôm có một nhà tu-hành dừng
chân ở trước cửa nhà của một ông Tổ trong
gia-đình ông để khất-thực, và vì bị từ-chối
không được bố-thí mới tiên-đoán cho người
chủ nhà rằng kể từ ngày hôm ấy một phần-tử
trong mỗi thế-hệ sau này sẽ xuất-gia khất-thực
rong đường. Điều ấy là một sự nguyền-rủa hay
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
9
là một ân-điển thì không biết, nhưng chắc chắn
là điều ấy đã hiệu-nghiệm theo như lời tiên-
đoán của nhà tu-sĩ kia. Một ông nội của
Sundaram đã khoác tấm áo vàng vào mình rồi
bỏ nhà ra đi với cái gậy và cái bát. Người anh
cả lấy cớ đi chơi sang một làng bên cạnh, và đã
đi biệt-tích để từ bỏ đời sống xã-hội và trở nên
một đạo-sĩ du-hành ( Sanyasin ) nghĩa là một
người bỏ gia-đình của-cải, giai-cấp và những
ràng-buộc của mình với thế-gian để tập-trung
vào sự tìm-kiếm tâm-linh .
Tuy vậy không có gì có vẻ khác lạ đã xẩy
ra trong chính gia-đình của Sundaram Ayyar.
Đứa trẻ Vantakaraman trưởng-thành là một
thanh-niên bình-thường rất khỏe-mạnh. Người
ta gởi cậu vào một trường-học bản-xứ một
thời-gian và đến khi cậu mười một tuổi thì đến
trường của tỉnh Dindigul. Cậu ta có một người
anh tên là Nagaswami lớn hơn cậu hai tuổi. Sáu
năm sau, sau khi cậu ra đời thì lại có một người
con trai thứ ba ra đời, và hai năm sau nữa một
ADPH RAMANA MAHARSHI
10
người con gái tên là Alamêlu ra đời. Đấy là
một gia-đình trung-bình sung-túc .
Nhưng khi Ventakaraman được mười hai
tuổi thì ông thân-sinh mất, và gia-đình bị chia-
ly, phân-tán. Các con đi theo sống với người
chú tên là Subbier, có một ngôi nhà láng-giềng
ở tỉnh Madura. Trước hết người ta cho
Ventakaraman vào trường trung-học Anh, rồi
tới trường cao-đẳng Mỹ. Không có gì tỏ ra cho
thấy y có thể trở nên một người học-thức. Y là
một mẫu trẻ thể-thao, thích đời sống ngoài trời.
Đá bóng, đánh vật, bơi lội làm cho y rất ham.
Sở-trường của y về mặt học là y có một trí-nhớ
kỳ lạ, để bù cho tính lười học của y, là y có thể
thuộc bài học ngay, sau khi đọc qua một lần .
Y còn có một đặc-tính khác nữa là y có
một năng-khiếu ngủ-say đặc-biệt. Một người
tín-đồ của y sau này là Mudaliar đã kể trên một
tờ báo điều mà chính Venkataraman mấy năm
sau nói lại khi một trong hàng bà con của y
bước vào trong nhà .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
11
" Khi nhìn thấy anh làm tôi nhớ lại
một sự-kiện đã xẩy ra cho tôi ở tỉnh
Dindigul khi tôi còn nhỏ. Ông chú anh là
Periappa Seshayyar bấy giờ ở tỉnh ấy.
Người ta đang bận làm lễ ở trong nhà và
tất cả mọi người đều tham-dự. Đến tối
người ta kéo nhau đi ra đền-thờ. Tôi ở lại
nhà một mình. Tôi ngồi đọc sách ở gian
nhà phiá trước, nhưng được một lát, tôi
đóng cửa cái ra vào và cửa sổ để đi ngủ.
Sau đấy những người nhà ở đền-thờ trở
về, họ hết gọi cửa lại đập cửa mà không
thể đánh thức tôi dậy được. Tha hồ cho
những đứa trẻ đánh đập tôi túi-bụi nhưng
vô-hiệu. Tôi chẳng hề biết chi hết, cho
đến hôm sau người ta mới kể lại cho tôi
hay những việc đã xẩy ra .
" Cùng một hiện-tượng ấy lại xẩy ra
cho tôi ở tỉnh Madura. Những đứa bạn
trai khác không có thể đụng vào tôi trong
khi tôi thức, nhưng khi nào chúng bất-
bình với tôi về một chuyện gì thì chúng
ADPH RAMANA MAHARSHI
12
chờ tôi ngủ-say rồi mang tôi đi đến một
chỗ nào và đánh đập cho hả, xong rồi
chúng lại đem tôi trả về giường. Chỉ đến
sáng hôm sau, nghe chúng kể lại, tôi mới
hay việc chúng đã làm . "
Ngài Hoạt-Phật ( tức Ventakaraman khi
đã thành Phật ) gán sự-kiện ấy cho một trạng-
thái kháng-kiện đặc-biệt. Có khi ban đêm Ngài
ở trong trạng-thái nửa thức nửa ngủ. Có lẽ hai
biểu-hiện ấy báo trước sự thức tỉnh tâm-linh
của Ventakaraman. Trạng-thái ngủ-say biểu-thị
trước còn lờ-mờ, tuy tiêu-cực cái khả-năng rời
bỏ tinh-thần để lặn chìm vào trong vực-thẳm
ngoài tất cả tư-nghị. Và trạng-thái nửa thức,
nửa ngủ biểu-thị khả-năng tự mình quan-sát
mình một cách khách-quan, như là một khán-
giả về chính thái-độ của mình .
Chúng ta không có một bức ảnh nào của
Hoạt-Phật thời niên-thiếu. Ngài có kể lại cho
chúng ta một mẩu chuyện, lối kể chuyện của
Ngài có duyên và rất hài-hước, ngài kể lại một
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
13
buổi chụp ảnh tập-thể như sau. Người ta bắt
Ngài mang một quyển sách kếch-sù để tỏ vẻ
chăm học. Nhưng đến khi chụp thì có con ruồi
đậu vào mặt khiến Ngài phải lấy tay sua nó đi.
Sau này không làm sao tìm lại được bức hình
đó nữa. Hẳn là nó đã mất-tích .
Điểm bình-minh tinh-thần đầu tiên là một
ảo-giác về núi Arunachala. Cậu học-trò Venka-
taraman sự thực chưa từng đọc chút gì về
Thần-học. Cậu chỉ biết Arunachala là một nơi
rất Thánh-linh, và đấy ắt là một linh-cảm về
định-mệnh của cậu khiến cậu bối-rối. Một hôm
cậu gặp một người bà con trong họ đã lớn tuổi
và cậu đã biết ở tỉnh Tiruchushi. Cậu hỏi ông ta
từ đâu đến. Ông già đáp : " Từ Arunachalab ! "
Và sự phát-hiện đột-nhiên cái thực-tại của ngọn
núi thiêng, một chỗ cụ-thể của thế-giới này, mà
người ta có thể tới thăm, đã làm cho Vanka-
taraman kinh-sợ đến nỗi cậu ta chỉ dám bập-bẹ
hỏi : " Sao, ông từ Arunachala đến à ?
Arunachala ở đâu vậy ?
ADPH RAMANA MAHARSHI
14
Đến lượt ông già bị hỏi, kinh-ngạc về sự
ngu-muội của người thanh-niên, và giải-thích
cho cậu rằng Arunachala chính ở tại Tiruvan-
namalai .
Hoạt-Phật về sau có nhắc lại sự-kiện ấy
trong bài thơ thứ nhất, trong tám bài dâng cho
núi Arunachala :
" Hãy lắng nghe lời tôi nói !
Arunachala đứng sừng-sững như ngọn núi
câm. Hành-động của nó rất bí-mật huyền-
bí, vượt quá sự hiểu-biết của nhân-loại.
Tôi còn là một đứa trẻ nhỏ thơ ngây thì
tỉnh ngộ về sự biểu-hiện của Arunachala
vĩ-đại vô-song. Tuy nhiên một người
khác bảo cho biết Arunachala là Tiruvan-
namalai thì tôi không hiểu ý-nghĩa. Và
Arunachala hấp-dẫn tôi, bắt tinh-thần tôi
phải yên-lặng. Và đến khi tôi lại gần, tôi
thấy nó sừng-sững lạnh-lùng không lời . "
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
15
Sự việc xẩy ra vào tháng mười một năm
1895, ít lâu sau khi cậu thanh-niên được mười
sáu tuổi Tây, mười bẩy tuổi Ấn-Độ .
Báo-hiệu thứ hai đến ít lâu sau đấy. Lần
này là do một cuốn sách. Lại lần nữa một trào
lạc-cảm điên-cuồng tràn-ngập tâm-hồn Vanka-
taraman khi cậu hiểu rằng Thần-linh có thể
biểu-hiện dưới mặt đất này. Ông chú cậu hỏi
mượn được một quyển sách Periapuraman,
sưu-tập tiểu-sử của 63 vị Thánh dòng Tamil.
Venkataraman vồ lấy và đọc một cách say-sưa
đến thất-thần. Làm thế nào mà một đức-tin,
một tình-yêu, một nhiệt-thành, có khả-năng
sản-sinh ra một cái đẹp đến thế, mà lại có thể
có được ở đời sống nhân-loại này ?
Những truyện hy-sinh, giải-thoát cho rằng
nó dẫn đến sự phối-hợp với Thần-linh làm cho
cậu bồng-bột hăng-hái. Có cái gì lớn hơn cả
mộng-tưởng, lớn hơn tất cả hoài-bão đã tỏ ra có
thực và có thể thực-hiện được. Sự phát-hiện ấy
ADPH RAMANA MAHARSHI
16
làm cho cậu rùng mình vì sung-sướng và biết-
ơn .
Kể từ đấy trở đi, quá-trình giác-ngộ mà
Ngài Hoạt-Phật cùng đệ-tử gọi là "Tiền-định"
bắt đầu hiện ra ở nơi Ngài. Không phải tri-giác
về cái gì, bởi một người nào, mà là cái biết ở
bên trên lưỡng-tính năng-tri và sở-tri, một
trạng-thái ý-thức hoan-hỷ vượt cả bình-diện
vật-lý và trí-thức, tuy nhiên nó vẫn thích-hợp
với sự sử-dụng năng-khiếu trí-thức và vật-lý .
Ngài Hoạt-Phật đã kể lại theo cách giản-
dị đặc-biệt của Ngài sự bắt đầu thức-tỉnh trong
khi Ngài đến chiêm-ngưỡng đền Meenakshi ở
Madura. Ngài nói : " Lúc đầu tôi tưởng bị sốt
rét, nhưng nếu là trường-hợp ấy thì là bệnh sốt
rét rất thú-vị và như thế thì nên để mặc cho
bệnh tình, khỏi phải chữa chạy " .
***
*
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
17
- I I -
CUỘC THỨC TỈNH
Quá-trình giác-ngộ ấy được một sự gắng
sức liên-tục nâng-đỡ càng ngày càng mạnh và
càng bền-bỉ cho đến khi cuối cùng nó dẫn đến
sự thực-hiện Tự-tính, đến Tam-muội Thuộc-
tính ( Sahaja Samadhi ) là một trạng-thái ý-
thức thuần-túy hoan-lạc giác-ngộ, trong đó sự
giác-ngộ lâu bền và không gián-đoạn, đồng
thời nó cũng không cản-trở tri-giác thông-
thuờng và hoạt-động của đời sống. Sự thực
hiếm thấy có sự thực-hiện trình-độ này trên mặt
đất. Ở trường-hợp của Ngài Hoạt-Phật ( Bha-
gavan ) này thì cái Thuộc-tính Tam-muội đạt
được chỉ trong vài tháng về sau và không cầu
tìm, không cố-gắng, không sửa-soạn một cách
ý-thức. Chính Ngài đã mô-tả như sau :
ADPH RAMANA MAHARSHI
18
" Chỉ khoảng sáu tuần-lễ, trước khi
tôi từ-biệt Madura vĩnh-viễn mà sự biến-
đổi lớn trong đời tôi đã xẩy ra. Đấy hầu
như thình-lình, lúc tôi đang ngồi một
mình trong gian phòng ở tầng thứ nhất
căn nhà của cậu tôi. Tôi ít khi đau ốm, và
sức khoẻ của tôi hôm ấy bình-thường,
không có gì khác lạ, nhưng có một sự lo
sợ thình-lình về cái chết đã tràn ngập tâm-
hồn tôi. Không có gì trong trạng-thái sức
khoẻ của tôi để giải-thích cho điều ấy, và
tôi cũng không tìm cách giải-thích trạng-
thái ấy hay tìm lý do gì cho sự sợ-hãi ấy.
Bấy giờ tôi chỉ cảm thấy là “ Tôi sắp
chết ”, và tôi bắt đầu suy-nghĩ về cách
đối-phó với nó. Tôi cũng không nghĩ đến
đi hỏi bác-sĩ hay các bậc gia-trưởng hoặc
bạn-bè. Tôi chỉ cảm thấy là tôi phải tự
giải-quyết vấn-đề ấy một mình, tại đấy và
ngay lúc ấy .
" Sự xúc-động về cái chết kéo tinh-
thần tôi vào nội-hướng và tôi tự nói một
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
19
mình, không có sự sửa-soạn về ngôn-ngữ:
“ Bây giờ đây, cái chết đã đến, nó có ý-
nghĩa gì ? Cái gì nó đã chết ? Cái thân-
thể này chết ? "
" Và lập-tức tôi bi-kịch-hóa cái cảnh
chết nó đến. Tôi nằm dài, tay chân ruỗi
thẳng, ngay đơ như có sự chết thật, và tôi
bắt-chước như một xác chết làm cho càng
đúng với sự thực, cho sự khảo-cứu tìm-
tòi : Tôi cầm hơi thở, mím môi thật chặt
để cho không có tiếng nào thoát ra, ngay
cả đến tiếng ‹ Tôi › hay tiếng nào khác
cũng không thoát ra được. Tôi tự nói :
“ Được rồi, cái thân-thể này sẽ chết, nó sẽ
được khiêng đi cứng đờ ra bãi hỏa-thiêu
và ở đấy nó sẽ bị đốt thành than. Nhưng
với cái chết của thân-thể này, phải chăng
là chết. Phải chăng cái thân-thể này là tôi,
nó yên-lặng và ngay đơ, nhưng tôi cảm
thấy rất mạnh về cái bản-ngã của tôi.
Ngay cả cái tiếng ‹ Tôi › ở bên trong
cũng đứng biệt-lập. Do đó tôi là Tinh-
ADPH RAMANA MAHARSHI
20
thần Siêu-việt vượt ra ngoài thân-thể. Cái
thân-thể này chết thì cái Tinh-thần Siêu-
việt vượt ra ngoài không đụng-chạm tới.
Điều đó có nghĩa là _ Tôi là Tinh-thần
bất-tử. Tất cả điều trên không phải là ý-
nghĩ hôn-mê, tối-tăm và nhạt-nhẽo, hời-
hợt. Nó lóe ra ở nơi tôi, chói-lọi như một
linh-tính sinh-động mà tôi trực-giác thấy
và không qua sự suy-luận thông-thường.
Tôi là một cái gì rất thật, một cái gì độc-
nhất thật trong trạng-thái hiện-tại của tôi,
và tất cả những hoạt-động liên-quan tới
thân-thể thì tập-trung vào Cái Tôi. Kể từ
lúc ấy Cái Tôi hay là Tự-tính thu-hút tất
cả sự chú-ý vào chính nó bằng một sức
mê-ly rất mạnh. Sự sợ cái chết đã biến đi
hẳn và hoàn-toàn cái Tự-tính thu-hút và
tiếp-tục không gián-đoạn. Từ lúc ấy trở
đi, những ý-nghĩ khác có thể tự đến và đi
như những tiếng đàn, tiếng nhạc khác
nhau, nhưng tiếng ‹ Tôi › vẫn tiếp-tục
như một âm-thanh cơ-bản liên-kết với tất
cả âm-thanh khác ; hoặc là thân-thể đang
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
21
bận đọc sách hay làm việc gì khác, nhưng
tôi vẫn tập-trung vào Cái Tôi. Trước sự
khủng-hoảng ấy, tôi không có tri-giác rõ-
rệt về Tự-tính của tôi. Tôi cảm thấy
không chú-ý một cách cụ-thể vào nó và
cũng không chú-ý đến nó một cách có ý-
thức. Tôi không cảm thấy ý-nghĩa về nó
và lại ít có khuynh-hướng thường-trụ ở tại
nó . "
Những lời mô-tả giản-dị trên không có
chút văn-vẻ gì về ngôn-ngữ, có thể làm cho
người ta ngỡ là một trạng-thái gần như trạng-
thái Tự-kỷ chủ-nghĩa ( Egotism ). Nhưng cái
cảm-tưởng ấy là do sự hàm-hồ của hai danh-từ:
Tôi và Tự-Tính ( I and Self ). Sự khác-biệt hiện
ra trong thái-độ đối với cái chết bởi vì ở người
nào có sự chú-ý tập-trung vào Cái Tôi, cái Ngã
cá-nhân biệt-lập thì sự sợ cái chết đe-dọa làm
tan-biến cái Ngã ấy, nhưng ở trường-hợp của
chàng Vankataraman này thì sự sợ cái chết đã
biến hẳn đi rồi. Vì sự thực-hiện rằng : Cái Tôi
( Ego ) chỉ là một với cái Tự-Tính đại-đồng
ADPH RAMANA MAHARSHI
22
bất-tử, nó chính là Tinh-thần và Tự-tính của
mỗi người. Cả đến bảo rằng chàng ta biết mình
là một với Tinh-Thần thì cũng không đúng sự-
thực, bởi vì sự khẳng-định ấy giả-định có cái
Tôi biệt-lập nó biết điều ấy, mà kỳ thực Cái Tôi
ở ( I ) đã tự ý-thức là Tinh-Thần. Vài năm sau
đấy Ngài Hoạt-Phật ( Sri Bhagavan ) trình-bày
giữa hai quan-niệm trên với Paul Bruton một
nhà tầm đạo Tây-phương như sau :
_ Paul Brunton : " Cái Tự-Tính ông đang nói
đó đích-xác nó là cái gì ? Nếu điều mà
ông nói là thật thì phải có một cái Tính
khác nữa ở trong con người ? "
_ Sri Bhagavan : " Một người có thể có hai
căn-cước, hai cái tính hay sao ? Muốn
hiểu vấn-đề này trước hết người ta phải tự
phân-tích mình. Người ta chưa từng nhận-
xét Cái Tôi của mình một cách chân-thật,
bởi vì nó đã có thói quen nghĩ như mọi
người. Nó không có một ý-niệm chính-
xác về mình, nó đã tự đồng-nhất-hóa quá
lâu với thân-thể của nó, hay là với bộ óc
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
23
của nó. Bởi thế cho nên tôi bảo ông phải
theo đuổi sự cứu-xét này “ Ta là Ai ? ”
( Who am I ? ). Ông đòi tôi mô-tả cái Tự-
Tính chân-thật ấy. Tôi còn biết nói làm
sao ? Chính tự cái Ấy ( I ) mà xuất-hiện
ra cái ý-niệm về Cái Tôi ( I ) cá-nhân và
trong cái ấy nó tự tan biến ."
_Paul Brunton : " Tự tan biến ? Làm thế nào
mà người ta có thể mất cái ý-niệm về
Bản-Ngã của mình được ? "
_ Sri Bhagavan : " Tư-tưởng đầu tiên, nguyên-
thủy đứng hàng đầu trong các tư-tưởng
khác ở tinh-thần của mọi người là cái tư-
tưởng về Cái Tôi ( I ), và chỉ sau khi cái
tư-tưởng về Cái Tôi ( I ) sinh ra thì các
tư-tưởng khác mới có thể xuất-hiện. Cái
đại danh-từ ‹ Anh › ( You ) chỉ có thể
xuất-hiện sau khi cái Tinh-thần của chủ-
từ ‹ Tôi › ( I ) cá-nhân đầu tiên đã nổi
lên. Nếu ông có khả-năng theo đuổi trong
tinh-thần ông sợi dây của chủ-từ Tôi
khởi-thủy của nó, ông sẽ khám-phá thấy
rằng cũng như nó đã nổi-hiện đầu tiên, nó
ADPH RAMANA MAHARSHI
24
sẽ biến đi sau rốt, đấy là một sự thực mà
người ta có thể thực-nghiệm ."
_ Paul Brunton : " Vậy ông tin rằng có thể
khảo-sát như thế ở trong nội-tâm của
mình . "
_ Sri Bhagavan : " Đúng thế, người ta có thể
vào sâu trong bản-thể thân-mật của mình
cho đến chừng nào cái ‹ Tôi › dần dần
biến đi ."
_ Paul Brunton : " Bấy giờ còn lại cái gì ? Phải
chăng bấy giờ một người sẽ hoàn-toàn
vô-ý-thức hay là trở nên ngu-ngốc ? "
_ Sri Ramana : " Không ! Trái lại nó đạt tới
một đời sống ý-thức, đời sống bất-tử, và
nó sẽ thật là một nhà hiền-triết khi nào cái
Tự-Tính thật của nó tỉnh dậy, tức là cái
Chân-tính của con người . "
_ Paul Brunton : " Nhưng cái cảm nghĩ về Cái
Tôi tất nhiên là thành-phần tồn-tại của cái
ấy ."
_ Sri Ramana : Cái cảm-nghĩ về Cái Tôi là
thành-phần của nhân-cách, nó liên-hệ vào
thân-thể, vào bộ óc. Khi nào một người
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
25
nhận ra cái Chân-Tính của mình lần đầu
thì có một năng-lực nổi lên tự trong thâm
sâu của bản-tính nó và choán lấy nó. Cái
năng-lực ấy vượt cả trí-tuệ. Nó vô-hạn,
linh-thiêng và vĩnh-cửu. Có người gọi nó
là Thiên-đường, người khác cho nó danh-
hiệu là Linh-hồn, còn người khác nữa lại
gọi nó là Niết-Bàn, tín-đồ Ấn-Độ-giáo
cho nó là Giải-thoát. Ông có thể cho nó
bất cứ một danh-hiệu gì ông muốn. Khi
nào cái sự-kiện ấy đến thì một người
không tự mất đi, mà trái lại đúng hơn là
nó đã tìm thấy nó .
" Chừng nào người ta không nhập
vào công-trình khảo-sát cái Chân-Tính
ấy, thì sự nghi-hoặc ngờ-vực theo đuổi nó
suốt đời. Những nhà Vua vĩ-đại nhất,
những nhà chính-khách lớn nhất cố-gắng
điều-khiển người khác mà thực ra chỉ
trong tâm-hồn họ, họ tự biết rằng họ
không điều-khiển được chính mình.
Nhưng cái quyền-năng chân-thật thuộc về
ADPH RAMANA MAHARSHI
26
ai đã nhập vào nội-tâm bản-tính thân-mật
của mình... Có ích-lợi gì để biết tất cả sự
vật trong khi mình không biết chút gì về
chính mình ? Người ta trốn tránh sự khảo-
sát về cái Chân-Tính của mình. Nhưng
còn có sự khảo-sát nào khác xứng-đáng
hơn để khảo-cứu ? "
_ ( Rút ở Thánh Kinh Maharshi, phần II )
Tất cả lời đạo-dẫn ( Sadhana ) chỉ diễn ra
trong nửa giờ đồng-hồ, vậy mà đối với chúng
ta nó có một ý-nghĩa trọng-đại rất lớn như là
một khoa đạo-dẫn, một sự khát-vọng về ánh-
sáng chứ không phải một thức-tỉnh không nỗ-
lực, bởi vì thông-thường đó là sư-phụ ( Đạo-sư
tâm-linh ) hướng-dẫn một đệ-tử trên con đường
tự mình đã theo đuổi. Sự-kiện mà Ngài
Bhagavan thành-tựu trong thời-gian nửa giờ,
không phải chỉ là đạo-dẫn của một đời mà là
đạo-dẫn của một số đời của các nhà tu-hành
tâm-linh. Sự thực nó là một nỗ-lực cứu-xét Tự-
Tính như Ngài chỉ-định sau này cho đệ-tử Ngài
vậy .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
27
Ngài cảnh-tỉnh họ rằng sự thành-tựu là
mục-đích của khoa đạo-dẫn thì không có thể
đạt được mau chóng trong hoàn-cảnh bình-
thường mà chỉ có thể đạt được sau một nỗ-lực
lâu bền. Và Ngài nói thêm rằng : " Sự nỗ-lực
ấy là cách độc-nhất chắc-chắn để thực-hiện
bản-thể tuyệt-đối vô điều-kiện, ngoài thời-gian,
không-gian, nhân-quả, mà sự thực chính là
bản-tính của mình .
Ngài Bhagavan nói về chính sự nỗ-lực
này mà Ngài đã làm nổi lên ngay lập-tức cái
hiện-tượng biến-hóa-khí-chất, kỳ-thực dù nó có
thể trải qua nhiều thời-gian trước khi có sự
thành-tựu hoàn-toàn. " Nhưng khi nào Cái Tôi
cá-nhân thử tìm tự biết mình thì nó dần dần
càng không là thành-phần của cái thân-thể,
trong đó nó bị giới-hạn và nó sẽ càng thâm-
nhập vào cái Ý-thức về Tự-Tính ." ( Vì Bhaga-
van đã có tính ngủ-say đặc-biệt phú-bẩm . )
Cũng có ý-nghĩa rằng, tuy không biết gì
về lý-thuyết hay về thực-hành của khoa đạo-
ADPH RAMANA MAHARSHI
28
dẫn, Ngài Bhagavan, sự thực, đã làm một công-
trình điều-tức ( Pranayama ) như là một trợ-lực
cho sự tập-trung tinh-thần. Tuy nhiên, nếu Ngài
có thừa-nhận sự điều-tức ấy là chính-đáng, có
thể giúp cho người ta tập-trung tinh-thần, Ngài
không khuyên đệ-tử của mình sử-dụng điều-tức
cho mục-đích khác và chính Ngài cũng không
từng khuyến-khích mình. " Điều-tức cũng là
một trợ-lực, nó là một trong các phương-pháp
nhằm giúp chúng ta trong sự nỗ-lực tập-trung
tinh-thần vào một điểm duy-nhất, nhưng không
nên dừng ở đấy. Sau khi đã đạt tới sự kiểm-soát
tinh-thần rồi, nhờ vào công-phu điều-tức,
người ta không nên tự-mãn với thực-nghiệm,
nó có thể tăng thêm, nhưng phải làm sao cho
trí-tuệ tự-chủ hướng về câu hỏi " Ta là ai ? "
( Who am I ? ) cho đến khi nào trí-tuệ chìm vào
trong Tự-Tính . "
Sự thay đổi trạng-thái ý-thức ấy tự nhiên
sinh ra ở Venkataraman một thay-đổi về giá-trị
mà Ngài vẫn gán cho thói quen của đời mình.
Những sự-vật mà trước kia Ngài thưởng-thức
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
29
thì nay mất dần hết hấp-dẫn. Những quan-điểm
ước-lệ về đời sống mất hết sự thực và một sức
mạnh cưỡng-ép bắt-buộc Venkataraman phải
để tâm vào điều mà cho tới bây giờ Ngài mới
biết. Sự thích-ứng đời sống của Ngài vào sự
hiểu-biết mới này không phải là việc dễ-dàng,
vì Ngài hãy còn là một cậu học-trò thiếu hết tất
cả luyện-tập về đời sống Tâm-linh. Ngài không
nói cho ai biết tâm-trạng ấy, và ngay lúc này
Ngài vẫn còn ở trong gia-đình, tiếp-tục đi học.
Tuy nhiên người nhà không khỏi nhận thấy sự
thay-đổi thái-độ, tác-phong của Ngài, và chê-
trách một số những biểu-hiện ấy. Chính Ngài
cũng đã mô-tả như sau :
" Người ta sớm nhận thấy hậu-quả
trong cuộc đời của tôi về cái ý-thức mới
mà tôi đối-phó với sự-vật. Trước hết tôi
mất hết cả sự quý-trọng của tôi đối với
những quan-hệ bề-ngoài của các bạn tôi
hay là của người nhà, họ hàng thân thuộc.
Rồi sự học-hành trở nên máy-móc đối với
tôi. Tay tôi cầm quyển sách mở, để làm
ADPH RAMANA MAHARSHI
30
cho người nhà tin là tôi đang đọc sách,
nhưng kỳ-thực tư-tưởng tôi rời xa khỏi
công việc phù-phiếm ấy. Trong sự giao-
dịch với người đồng-loại của tôi, tôi chỉ
tỏ ra thuận theo và phục-tòng. Trước kia
khi người ta đòi tôi phải làm việc nhiều
hơn những đứa trẻ khác thì tôi đã phàn-
nàn, và nếu có một người bạn học nào
trêu ghẹo tôi thì tôi đã trả miếng ngay,
chẳng ai dám trêu-ghẹo tôi hay là đối sử
trịch-thượng với tôi. Bây giờ tất cả đều
khác, bất cứ ai bắt tôi làm việc gì, hoặc
trêu-ghẹo tôi, bất cứ tôi bị quấy-rầy thế
nào tôi đều chịu nhận tất cả với sự bình-
thản. Cái Ngã giận-dữ cũ của tôi và trả
miếng hay trả-thù đã biến mất. Tôi không
đi ra ngoài để tham-dự vào các trò chơi
với các bạn học nữa, và tôi ưa sự cô-đơn
hơn hết. Tôi thường ở một mình với cử-
chỉ thích-hợp cho việc thiền-định và tinh-
thần tôi tập-trung tất cả vào cái Tự-Tính,
cái Tâm-linh, cái năng-lực hay trào-lưu
diễn-tiến ở nơi tôi. Tôi duy-trì thái-độ ấy,
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
31
mặc dù sự chế-nhạo của người anh-cả tôi,
đã gán cho tôi một cách mỉa-mai danh-
hiệu : " Hiền-giả, Đạo-sĩ " và khuyên tôi
lui vào rừng như các bậc tiên-tri thủa xưa.
Tôi cũng thay-đổi về sự ưa-thích hay đố-
kỵ đối với thức-ăn, tôi không còn cảm
thấy thú-vị nữa, và tôi nuốt một cách vô-
tình tất cả cái gì người ta cho tôi ăn, dù
thơm ngon hay vô-vị, tốt hay xấu. Thái-
độ của tôi đối với điện-thờ Minakshi ở
Madura biểu-lộ một trong những phương-
tiện của trạng-thái tinh-thần mới của tôi.
Trước kia, ít khi tôi đến điện-thờ với bạn-
hữu để chiêm-ngưỡng các bức họa và
tượng, hoặc rắc lên đầu những tro thơm
và phấn hồng rồi trở về nhà, chẳng có
chút cảm-động chi hết. Nhưng sau khi
thức-tỉnh, tôi đến điện-thờ hầu như hàng
ngày. Tôi quen đến một mình, dừng lại ở
đấy rất lâu trước một pho-tượng Thiên-
Thần Siva hay là Minakshi hay là
Nataraja, hoặc trước mặt sáu mươi ba vị
Thánh trong khi đó tâm-hồn tôi rạo-rực vì
ADPH RAMANA MAHARSHI
32
cảm-xúc. Tâm-hồn tôi rời bỏ thể xác khi
nào tôi từ bỏ cái ý-niệm " Tôi là thân-
thể " và tôi đi tìm những bến đò mới. Từ
đấy tôi đến điện-thờ thường-xuyên và
nước mắt tôi tuôn rơi để làm cho tâm-hồn
nhẹ bớt. Đấy là trò chơi của Thượng-Đế
với linh-hồn tôi. Tôi đứng trước Thần
Iswara ( Thượng-Đế Hữu-Ngã ), ngôi
chủ-tể vũ-trụ và tất cả số-mệnh, Toàn-tri,
Vô-sở Bất-tại. Có khi tôi cầu-nguyện để
cho ân-điển của Ngài ban xuống cho tôi
và để cho đức-tin của tôi tăng-tiến và trở
nên bền-bỉ, thường-xuyên như là đức-tin
của sáu mươi ba vị Thánh. Thường-xuyên
hơn nữa, tôi không cầu-nguyện, nhưng tôi
đã để cho cuồn-cuộn trong yên-lặng cái
hạo-khí tự trong đáy bản-ngã của tôi nổi
lên. Những than khóc thường đi đôi với
tâm trạng bồng-bột của tâm-hồn ấy,
không phải là dấu-hiệu của sự vui hay
buồn, sướng hay khổ đặc-biệt, tôi không
phải là một người yếm-thế, tôi chẳng biết
gì về sự đời, và tôi cũng không hiểu rằng
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
33
nó đầy sầu não, trong lòng tôi không có ý
muốn gì về sự tái-sinh hay là tìm giải-
thoát, hay cả đến để có được sự bình-thản
hoặc cứu-độ. Tôi chưa từng đọc Kinh
sách, trừ Kinh Périapuraman, Kinh Thiên-
Chúa và các mẩu Kinh Tayuzanavar hay
là Kinh Tévarana. Quan-niệm của tôi về
Thượng-Đế như Thượng-Đế Hữu-Ngã
của Tây-phương, thì tương-tự với cái gì
đã thấy ở trong Puranas. Tôi chưa bao giờ
thấy nói về Brahman ( tức là thực-tại vô-
ngã làm bản-thể cho Thượng-Đế Hữu-
Ngã vũ-trụ và Nhân-loại ), Samsara
( Luân-hồi ) v.v... Tôi chưa từng được
biết rằng có một Bản-thể hay là Thực-tại
Vô-Ngã làm cơ-bản cho tất cả và rằng
Thượng-Đế Hữu-Ngã và tôi, cả hai đều
đồng-nhất với Cái Ấy. Về sau này ở tại
Tiruvannamalai trong khi tôi nghe đọc
Kinh Ribhu Gita và các Kinh sách khác,
tôi giác-ngộ tất cả Cái Ấy, và thấy rằng
tất cả Kinh sách đã phân-tích và đặt tên
cho cái gì mà tôi đã trực-giác thấy, không
ADPH RAMANA MAHARSHI
34
phân-tích hay là gọi tên. Theo ngôn-ngữ
của Kinh sách tôi sẽ mô-tả cái trạng-thái
mà tôi đã đạt được sau khi thức tỉnh là
Suddha Manas hay là Vijinana tức là
trực-giác của bậc giác-ngộ ."
Cái trạng-thái ấy khác hẳn trạng-thái của
các nhà Tâm-linh-học đi vào thần-hóa trong
một khoảnh-khắc ngắn để rồi sau đấy tinh-thần
của họ lại bị bức tường sương-mù bao-phủ.
Ngài Bhagavan đã giác-ngộ lâu hơn, không
gián-đoạn về cái Tự-Tính và Ngài đã nói minh-
bạch rằng đấy không còn là đạo-dẫn nữa,
không còn nỗ-lực tâm-linh nữa, sau khi Ngài
đã thức-tỉnh. Không còn khát-vọng về sự tồn-
tại trong cái Tự-Tính nữa, bởi vì cái Tiểu-Ngã,
cái Tôi là sự trở-ngại, nguyên-nhân của sự
phấn-đấu, thì hoàn-toàn tan-biến ở Ngài và
không còn lại đối-phương để phấn-đấu nữa.
Những tiến-bộ của Ngài Bhagavan về sự đồng-
nhất-thể lâu bền với cái Tự-Tính tiếp-tục kể từ
đấy một cách hoàn-toàn tự nhiên và không phải
nỗ-lực trong đời sống bình-thường ở ngoại-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
35
giới. Một hào-quang Ân-điển tràn-ngập những
ai đến gần Ngài. Ngài Bhagavan nói cho biết
rằng những tiến-bộ ấy có thật và linh-hồn Ngài
còn tìm những bến đậu mới nữa. Sự khích-lệ
mà các vị Thánh đã gợi lên ở Ngài, sự lo sợ về
ý-kiến của các bậc đàn anh của Ngài là họ còn
tỏ ra có sự chấp-nhận thực-tế về lưỡng-tính. Sự
chấp-nhận mà sau này nó phải biến đi .
Những dấu-hiệu sinh-lý của sự biến-hóa
khí-chất ấy cũng hiện ra. Kể từ cuộc thức-tỉnh
cho đến lúc mà Ngài nhập vào nội-cung của
điện Tiruvannamalai. Ngài Bhagavan cảm thấy
ở thân-thể mình một sự nóng bỏng thường-
xuyên .
( Lúc này Bhagavan mới khoảng 17 tuổi
‹ 1895 - 1896 › ) .
*****
*
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
37
- I I I -
CUỘC HÀNH - TRÌNH
Sự thay-đổi cách-thức sống của Venkata-
raman hết sức khó-khăn, anh ta lơ-là với sự học
hơn bao giờ hết, hẳn là không phải để theo đuổi
các trò chơi, mà là để cầu-nguyện và thiền-
định. Ông chú và người anh cả của anh càng
ngày càng phê-phán gay-gắt thái-độ của anh
đối với họ. Theo quan-điểm của họ thì
Vankataraman chỉ là một thanh-niên trong một
gia-đình trung-lưu, mà bổn-phận bắt-buộc là
phải kiếm tiền giúp-đỡ người nhà .
Sự khủng-hoảng ấy hiện ra vào ngày 29
tháng 8 năm 1896, vài tháng sau khi anh thức-
tỉnh. Vankataraman phải phạt vì không học bài
văn-phạm Anh-ngữ của Bain, nên phải chép lại
ADPH RAMANA MAHARSHI
38
ba lần việc ấy. Vào một buổi sáng, chàng
thanh-niên đang ở tầng lầu một trong một căn
phòng của người anh cả. Anh đã chép được hai
lần và sắp sửa chép tới lần thứ ba, thì bỗng
nhiên anh cảm thấy rất mạnh sự phù-phiếm của
việc làm này, đến nỗi anh gạt đi để ngồi kiết-
già, phó mình cho Thiền-định. _ ( Danh-từ
Thiền-định này dễ làm cho ngộ-nhận vì thông-
thường nó ngụ ý tư-duy. Cách sử-dụng danh-từ
ấy của Ngài Bhagavan đã được ghi-chú. Ta có
thể thêm vào ở đây là Ngài dùng nó cho chữ
Tam-muội ( Samadhi ). Bởi vì không có danh-
từ tiếng Anh tương-đương, nhưng nó có nghĩa
là chiêm-ngưỡng không tư-tưởng, hay là chìm
vào trong tinh-thần. Ngài cũng dùng chữ ấy
ngụ ý nỗ-lực để đạt tới Tam-muội bằng sự suy-
cứu bản-ngã. Nó không phải là một sự-kiện
Tư-duy mà là bỏ hết, vượt khỏi Tư-duy .)
Người anh cả Nagaswami bực mình vì
thấy em mình ở trong trạng-thái ấy, có nói một
cách mỉa-mai rằng : " Tất cả những thứ này còn
có ích gì cho một người như thế ? " Câu nói có
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
39
ý-nghĩa dĩ-nhiên là người nào đã muốn sống
một đời tu-sĩ, thì không có quyền hưởng-thụ sự
vui thú đời sống gia-đinh. Venkataraman nhận-
thức chân-lý trong lời nói của anh và sự phũ-
phàng phải thừa-nhân sự thật hay công-lý, nó là
sự thật ứng-dụng, vốn là tác-phong của mình.
Anh bèn quyết-định rời bỏ gia-đình, rời bỏ tất
cả rồi ra đi. Đối với anh điều ấy có nghĩa là
ngôi đền Tiruvannamalai cùng ngọn núi thiêng
Arunachala. Tuy nhiên anh cũng phải dùng
mưu-trí, bởi vì uy-quyền trong một gia-đình
Ấn-Độ đối với bậc huynh-trưởng không phải là
chuyện đùa, vì họ sẽ không cho anh ra đi một
cách dễ-dàng, nếu họ biết rõ ý muốn của anh.
Bởi thế anh mới bịa cớ phải trở lại nhà trường
để theo một lớp học đặc-biệt về điện. Thật là
vô-tình mà người anh cả đã đem lại phương-
tiện cho cuộc hành-trình của Venkataraman,
khi anh ta bảo rằng : " Nếu vậy thì hãy xuống
nhà dưới lấy năm đồng Rupi ở trong cái hộp và
nhân-tiện trả tiền học cho anh ."
ADPH RAMANA MAHARSHI
40
Không phải là một sự mù-quáng trong
gia-đình Vankataraman mà nó làm cho họ
không nhận ra sự biến-đổi trong tâm tình của
anh. Không một ai để ý đến cái hào-quang, cái
năng-lực thánh-linh ở tinh-thần anh hãy còn
tiềm-tàng lại. Mấy năm sau này, một trong
những người bạn của anh, tên là Ranga Aiyar
đến thăm anh ở Tiruvannamalai đã giật mình
kinh-ngạc đến nỗi y phải quỳ móp dưới chân
Venkataraman. Nhưng lúc này thì y chỉ thấy
Venkataraman như người thường. Về sau y có
hỏi tại sao có sự mù-quáng ở y như thế. Và
Ngài Bhagavan trả lời rằng, lúc bấy giờ chẳng
ai nhận biết có sự biến-đổi ở Ngài cả .
Ranga Aiyar lại hỏi : " Tại sao anh không
bảo, ít nhất là cho tôi, biết là anh sắp từ-giã gia-
đình ? "
Ngài Bhagavan đáp : " Làm sao tôi có thể
bảo cho anh biết được ? Vì chính tôi cũng
không tự biết ."
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
41
Bà cô của Venkataraman lúc bấy giờ
đang ở nhà dưới, bà cho anh năm rupi và dọn
cơm cho anh ăn. Anh ăn cơm một cách vội
vàng, anh mở bản-đồ ra xem trạm ga gần nhất
tên là Tindivanam. Sự thực người ta đã làm
thêm một con đường nối dẫn đến Tiruvanna-
malai, nhưng ở trong tấm bản-đồ của anh
không ghi. Venkataraman đoán chắc chỉ ba
rupi là đủ mua vé, nên không lấy hơn. Anh để
lại một lá-thư cho ngưòi anh để khỏi tìm kiếm
sau khi anh đã đi. Lá thư ấy kèm theo hai đồng
rupi và viết như sau :
" Em đi tìm Cha, theo mệnh-lệnh
của Ngài, việc em làm là đạo-đức, chớ để
cho ai lo-lắng và buồn phiền, thêm phí
tiền tìm kiếm vô ích. Tiền học của anh
chưa trả, anh sẽ thấy có hai rupi trong thư
này . "
Những việc xẩy ra ấy chứng tỏ lời nói của
Bhagavan là tâm-hồn của mình rời bỏ với thân-
thể còn đang đi tìm một bến mới vĩnh-viễn bất-
biến ở tại bản-ngã mà anh đã thực-hiện sự
ADPH RAMANA MAHARSHI
42
đồng-nhất. Cái cớ về lớp học điện tuy vô hại,
nhưng sẽ không có thể có sau này, cả đến cái ý-
niệm về một sự tìm-kiếm cũng không có nữa,
bởi vì ai đã tìm thấy rồi thì không tìm nữa. Đến
khi những đệ-tử quỳ xuống chân Ngài, thì Ngài
đã đồng-nhất với Đức Cha rồi, nên không phải
tìm kiếm Đức Cha nữa. Tất cả việc xẩy ra
chứng-minh sự chuyển-tiếp giữa tình-yêu và
lòng sùng-bái lưỡng-tính đến cái cảnh bình-
thản hoan-lạc của đồng-nhất-tính. Giai-đoạn
thứ nhất bắt đầu với lưỡng-tính của cái ‹ Tôi ›
và ‹ Cha Tôi › với sự nhận-định của một mệnh-
lệnh và một sự tìm kiếm. Ở giai-đoạn thứ hai
thì không còn nói đến tác-giả như là ‹ Tôi › mà
là ‹ Cái Ấy ›. Đến giai-đoạn cuối cùng, khi đến
lúc phải ký tên thì Venkataraman thực-hiện
thực-sự, không còn ‹ cái Ta › nữa, bởi vậy nên
không còn tên để ký và chỉ kết-thúc bằng một
cái gạch, thay chữ ký. Kể từ lúc ấy trở đi không
bao giờ Ngài viết một bức thư, và không bao
giờ Ngài ký tên nữa, tuy vậy có hai lần Ngài
viết tên Ngài là gì. Cũng còn một lần, nhiều
năm về sau, có một người Tầu đến thăm tùng-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
43
lâm đã trình Ngài một cuốn sách của Ngài,
nhan-đề " Ta là Ai ? " ( Who am I ? ) với cách
lịch-sự và kiên-nhẫn của người Tầu ép Ngài
ký-tên. Ngài cầm cuốn sách và ký tên vào đấy
bằng chữ Phạn, chữ OM biểu-tượng sự hiện-
hữu. Cái tiếng thiêng-liêng biểu-thị cho âm-
thanh nguyên-thủy làm bản-thể cho tất cả mọi
vật .
Venkataraman cầm ba đồng rupi và để lại
hai đồng, như thế có nghĩa là anh chỉ lấy đủ,
không hơn không kém số tiền lộ-phí đến
Tiruvannamalai .
Venkataraman bỏ nhà ra đi vào khoảng
trưa, nhà ga cách đấy nửa cây số, anh đã đi bộ
thật mau, bởi vì xe lửa phải khởi-hành đúng 12
giờ. Tuy đã trễ, mà xe lửa vẫn còn ở tại ga
chưa khởi-hành khi anh tới nơi. Anh nhìn lên
bảng giá vé, giá vé hạng ba đến Tindivanam là
hai rupi mười ba xu. Anh lấy một vé và giữ lấy
ba xu còn lại. Nếu anh nhìn xuống cuối bảng-
giá một chút thì anh sẽ thấy vé đi Tiruvanna-
ADPH RAMANA MAHARSHI
44
malai đúng ba rupi. Sự-kiện của cuộc hành-
trình có ý-nghĩa tượng-trưng cho một hành-
trình vất-vả của một tu-sĩ đi tìm tới đích. Trước
hết, đấy là một ưu-đãi của định-mệnh đã đem
lại cho anh tiền ăn đường và làm cho anh bắt
kịp xe lửa mặc dầu anh đã tới trễ giờ. Thứ đến
là số tiền có đủ với sự cần-thiết để đạt tới đích.
Chỉ vì sự đãng-trí của người du-hành mà cuộc
hành-trình đã kéo dài và gây nên những nỗi
vật-vả và phiêu-lưu trên đường đi .
Lên toa xe lửa, Venkataraman ngồi yên-
lặng trong đám hành-khách. Anh mê-ly với
mục-đích tìm-tòi, xe lửa dừng lại tại một số ga,
một nhà Thần-học Hồi-giáo đã từng đọc về
cuộc đời các Thánh, quay lại anh và hỏi :
_ Đạo-sĩ đi đâu ?
_ Đi đến Tiruvannamalai .
_ Tôi cũng đi đến đấy .
_Sao, Ông cũng đi đến Tiruvannamalai à?
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
45
_ Không đúng hẳn, nhưng đến một ga sau
_ Ga sau là ga gì ?
_ Tirukeilur .
Bấy giờ Venkataraman mới nhận thấy lỗi-
lầm của mình, kêu lên kinh-ngạc :
_ Sao ? Ông muốn nói là cái xe lửa này
đi thẳng đến Tiruvannamalai à ?
Nhà Thần-học Hồi-giáo nói :
_ Anh là một hành-khách kỳ lạ ; thế thì
anh đã lấy vé đi đâu ?
_ Đến ga Tindivanam .
_ Ôi ! Tội-nghiệp, cần gì mà phải đi xa
thế ? Chúng ta xuống ga sép Villu-
puram, nơi giao-điểm rồi sang xe đi
Tiruvannamalai và Tirukeilur .
ADPH RAMANA MAHARSHI
46
Định-mệnh đã đem lại cho anh những
chỉ-thị cần-thiết. Anh lại chìm vào trạng-thái
hoan-hỷ của thiền-định. Chiều hôm ấy xe lửa
đến Trichinemeyi và anh bắt đầu cảm thấy đói,
anh mua hai quả táo của địa-phương với giá hai
xu. Thứ táo rất lớn và ngọt, sản-phẩm của miền
Nam Ấn-Độ. Anh kinh-ngạc thấy hết đói ngay
từ miếng đầu, mặc dầu ngày thường anh ăn rất
ngon và khoẻ. Anh tiếp-tục hành-trình trong
một trạng-thái mê-ly, nửa thức nửa ngủ cho
đến khi xe lửa vào ga Villupuram đúng ba giờ
sáng .
Anh ở lại nhà ga cho tới bình-minh rồi đi
vào tỉnh để tìm lối đi Tiruvannamalai, anh
nhất-định đi bộ nốt quãng đường còn lại. Tuy
cái tên chỉ đường không còn thấy ở một cột chỉ
đường nào, nhưng anh không muốn hỏi thăm.
Anh cảm thấy mệt nhọc và đói sau một cuộc đi
bộ, anh đi vào khách-sạn để hỏi thức ăn. Người
trong khách-sạn nói :
_ Đến trưa mới có bữa ăn .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
47
Anh bèn ngồi xuống chờ, và tức thì anh
lại chìm vào trong thiền-định .
Bữa ăn trưa dọn ra, ăn xong, anh đưa hai
đông xu ( annas ) để trả. Người chủ ngạc-nhiên
thấy dáng-điệu của một người Bà-la-môn trẻ,
tóc dài, tai đeo khuyên vàng, ngồi như một nhà
đạo-sĩ. Chủ tiệm hỏi để biết anh có bao nhiêu
tiền, sau khi nhận thấy anh chỉ có hai xu rưỡi,
người chủ bèn từ-chối không nhận đồng nào
hết. Anh lại được chủ tiệm bảo cho anh biết
Mambalapattu là tên mà anh đã nhìn thấy trên
một cột chỉ đường ở trên con đường dẫn đến
Tiruvannamalai. Venkataraman bèn trở lại nhà
ga và mua một vé đi Mambalapattu, giá vé
đúng số tiền anh còn lại .
Anh tới Mambalapattu vào buổi trưa, và
lại tiếp-tục đi bộ. Anh đi được vào khoảng
mười cây-số thì sẩm tối, trước mắt anh hiện ra
ngôi đền Arayaninallur xây trên một tảng đá
lớn. Đi bộ đường dài dưới ánh nắng làm cho
anh mệt nhọc, anh ngồi xuống bên cạnh ngôi
ADPH RAMANA MAHARSHI
48
đền để nghỉ. Một lát sau có người đến mở cửa
đền cho người thủ-từ và mọi người vào lễ .
Venkataraman vào đền, ngồi xuống một
chỗ hành-lang có cột, nơi độc-nhất của ngôi
đền không hoàn-toàn tối. Ngay bấy giờ một
luồng hào-quang chiếu sáng rực cả ngôi đền.
Anh nghĩ rằng đấy phải là ánh sáng từ cung-
điện thờ chiếu ra. Anh bước tới để xem xét thì
thấy rằng mình đã lầm. Ánh-sáng ấy chẳng
phải ánh-sáng vật-chất, nó biến đi ngày và anh
lại ngồi xuống để thiền-định .
Một lát sau anh bị quấy-rối bởi người làm
bếp bảo rằng buổi lễ đã xong, phải đóng cửa
đền lại. Lúc ấy anh đến gần người thủ-từ để hỏi
xin ăn, nhưng người ta cho biết là không có gì
ăn cả. Anh hỏi xin phép ở lại trong đền cho tới
sáng, nhưng điều ấy cũng bị từ-chối. Những
người đi lễ bảo cho anh biết họ đi đến Kilur
cách đấy ba phần tư cây số để làm lễ, sau đó
người ta có thể cho anh một món gì để ăn. Anh
bèn nhập bọn đi theo, vừa vào tới trong điện
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
49
anh lại chìm vào trong thiền-định. Khoảng chín
giờ tối buổi lễ kết-thúc, các đệ-tử ngồi xuống
ăn tối. Venkataraman lại hỏi xin ăn. Mới đầu
hình như cũng không có gì cho anh ăn, nhưng
sau người đánh trống trong đền cảm-động về
hình-dáng của anh có vẻ nhiệt-thành bèn chia
cho anh phần ăn của mình. Ăn xong anh đòi
uống nước, anh cầm cái đĩa cơm bằng lá đến
xin nước, thì được người ta cho biết nhà ông
Sastri ở gần đấy có thể cho anh nước để uống.
Khi anh đứng chờ trước cửa nhà của ông này
để xin nước thì anh bị lảo-đảo, ngã xuống, nửa
như ngủ, nửa như bất-tỉnh nhân-sự. Một vài
phút sau anh tỉnh dậy, thấy một đám đông đang
nhìn anh một cách tò-mò, anh lặng yên uống
nước, lượm cơm rơi xuống đất, ăn vài miếng
rồi nằm xuống đất mà ngủ .
Sáng hôm sau, tháng tám ngày ba mươi
mốt là ngày Gekulashtami, ngày lễ giáng-sinh
của Thần Sri Krishna và là một trong những
ngày thiêng-liêng nhất trong lịch-sử Ấn-Độ-
giáo. Tiruvannamalai còn cách xa chừng 20
ADPH RAMANA MAHARSHI
50
cây-số, Venkataraman đi bộ một quãng để tìm
đường, anh lại bắt đầu cảm thấy mệt và đói.
Giống như những người Bà-la-môn vào thời ấy
còn giữ lại những phong-tục cổ, Venkataraman
đeo khuyên-tai bằng vàng. Ở trường-hợp của
anh đôi khuyên còn được khảm bằng ngọc-
thạch. Anh tháo khuyên để đổi lấy tiền ngõ-hầu
hoàn-thành cuộc hành-trình bằng xe lửa.
Nhưng cầm bán cho ai, và ở đâu ? Anh dừng
chân lại cầu may trước một ngôi nhà dáng như
của một người Mathukrishnan và hỏi xin ăn.
Bà chủ nhà chắc đã bị xúc-động sâu xa khi
nhìn thấy hiện ra ở trước của nhà mình một
thanh-niêm dòng Bà-la-môn đẹp trai, dáng-điệu
quý-phái, mắt sáng-ngời vào chính ngày giáng-
sinh của Chúa Krishna, bà bèn cúng-dường một
bữa ăn nguội thịnh-soạn. Cũng như hai ngày
trước, trên xe lửa, anh thấy hết đói ngay từ
miếng ăn đầu tiên, nhưng bà chủ nhà săn-sóc
anh với thái-độ mẫu-tử và khuyên anh ăn hết
phần cúng-dường. Còn vấn-đề khuyên-tai
vàng, đôi khuyên đáng giá 20 rupi nhưng
Venkataraman chỉ lấy có bốn đồng để đủ tiền
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
51
lộ-phí của mình. Để tránh sự nghi-ngờ, anh lấy
cớ bảo là đi hành-hương bị mất hết hành-lý.
Người chủ nhà xem kỹ đôi khuyên-tai, thấy nó
là đồ thật, bèn đưa bốn đồng rupi cho anh.
Người chủ nhà khẩn-khoảng muốn biết địa-chỉ
của người thanh-niên, đồng thời cũng ghi địa-
chỉ của họ cho anh ngõ hầu đôi khuyên-tai
được chuộc lại bất cứ lúc nào. Vợ chồng chủ
nhà tốt bụng giữ anh ở lại với họ cho đến buổi
trưa và mời anh dùng bữa cơm trưa với họ,
đồng thời gói những món ăn và biếu thêm một
gói đồ ngọt mà họ đã soạn cho ngày lễ Chúa
Krishna, nhưng chưa cúng. Khi ra khỏi nhà anh
liền xé địa-chỉ của chủ nhà đi vì anh không có
ý chuộc lại đôi khuyên-tai. Thấy mãi đến sáng
mới có xe lửa, anh bèn ngủ lại ở ga một đêm .
Không một ai có thể kết-thúc cuộc hành-
trình của mình đúng với kỳ-hạn. Venkataraman
đến được nhà ga Tiruvannamalai vào sáng
ngày mồng một tháng chín năm 1896, ba ngày
sau khi bỏ nhà ra đi .
ADPH RAMANA MAHARSHI
52
Mau bước, tim đập hồi-hộp vì vui-sướng,
anh vội đi đến ngôi đền vĩ-đại. Tất cả cửa đền
đều mở toang hầu như thầm-lặng để đón tiếp
một quý-khách. Trong đền không có một người
nào. Anh đi thẳng vào trong nội-điện và đứng
sững-sờ, hồi-hộp trước mặt Chúa Cha
Arunachala .
Đến đây là hoàn-thành cuộc hành-trình,
cùng với sự cầu-tìm Hợp-nhất cùng với Chúa
trong hoan-lạc . _ ( 1896 - 1979 ) : 17 tuổi .
*******
*
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
53
- I V -
DƯỜNG NHƯ KHỔ - HẠNH
Venkataraman ra khỏi đền và đi lang-
thang vào trong tỉnh. Bấy giờ có một người hỏi
anh có muốn xuống tóc không. ( Theo người
Ấn-Độ-giáo chính-thống thì mỗi người có
mang một cái chỏm ở sau gáy, cạo đi là dấu-
hiệu của sự từ bỏ ). Vấn-đề phải là linh-ứng vì
không có dấu-hiệu gì cho thấy là anh thanh-
niên Bà-la-môn xuất-gia hay là định xuất-gia
cả. Anh nhận lời ngay để xuống tóc, người ta
dẫn anh đến hồ nước Ayyamkulam, có một số
thợ cạo đang chờ khách. Ở đấy người ta cạo
trọc đầu anh. Anh đứng ở trên bờ hồ, ném hết
số tiền còn lại, _ còn khoảng hơn ba ru-pi _ kể
từ đấy về sau anh không còn mó đến tiền nữa.
ADPH RAMANA MAHARSHI
54
Anh ném cả gói kẹo mà anh vẫn cầm ở tay, anh
tự nói : " Tại sao còn nuôi cái cục gỗ này ? "
Anh còn bỏ cả cái giây lưng thiêng-liêng,
dấu-hiệu của giai-cấp giáo-sĩ, bởi vì kẻ nào đã
xuất-gia thì phải từ bỏ không những gia-đình,
tài-sản mà còn cả đến quyền công-dân .
Sau cùng Venkataraman cởi cả chiếc khố
( dhoti ) ra, chỉ còn giữ lại mảnh vải quấn
quanh lưng .
Sau khi đã làm hết thủ-tục nghi-lễ, anh
trở lại đền, khi tới gần đền anh nhớ lại lời Kinh
dạy là phải tắm rửa sau khi xuống tóc, nhưng
anh lại tự nhủ : " Tại sao còn đem cho cái khúc
gỗ thể-xác này một sự tắm rửa phí công ? " .
Tức thì có một trận mưa rào đổ xuống tắm gội
cho anh trước khi anh bước chân vào đền .
Anh không trở lại lần nữa trong nội-cung
vì anh thấy không cần-thiết. Ba năm sau, anh
thấy cần nên anh mới quay lại. Anh dọn chỗ
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
55
ngồi ở một hành-lang có cái sân bằng đá dùng
làm mái, mở ra tứ phiá. Một cái mái được nâng
đỡ bằng một rừng cột chạm, anh ngồi ở đấy
chìm vào trong trạng-thái hoan-lạc. Suốt đêm
suốt ngày anh ngồi bất-động ; anh quên hết cả
thế-giới bên ngoài, nó chỉ còn như một bóng
mờ vô nghĩa khi anh đã chìm vào trong Thực-
Tại. Qua mấy tuần-lễ anh ngồi im-lặng bất-
động. Đó là giai-đoạn thứ hai sau cuộc đời
thực-hiện Tự-Tính. Trong giai-đoạn thư nhất,
hào-quang Thần-linh còn tàng-ẩn và anh nhận
những điều-kiện của đời sống như trước với
tinh-thần thuận-thụ đối với các bậc gia-trưởng
và thày-giáo. Đến giai-đoạn thứ hai, anh tập-
trung hoàn-toàn vào nội-quan và quên đi thế-
giới bên ngoài. Cứ như thế, như người ta sẽ
thấy anh dần dần chìm vào giai-đoạn thứ ba, là
giai-đoạn kéo dài hơn nửa thế-kỷ, trong đó
hào-quang tâm-linh của anh rọi chiếu vào tất cả
những ai đến gần. Tuy nhiên những giai-đoạn
tinh-thần ấy chỉ ứng-dụng vào sự biểu-hiện bên
ngoài của tâm-trạng anh. Anh đã nhiều lần
tuyên-bố công-khai rằng đấy chỉ là sự biến-đổi
ADPH RAMANA MAHARSHI
56
hoàn-toàn bên ngoài, không có gì biến-đổi hay
tiến-triển về sự thực-nghiệm hay ý-thức tâm-
linh cả .
Một tu-sĩ tên là Seshadri tới tỉnh Tiruvan-
namalai mấy năm trước, tự đảm-nhiệm trông-
nom đạo-sĩ Brahmana ( pháp-danh của Venka-
taraman bắt đầu được biết đến ). Sự săn-sóc ấy
cũng chỉ giới-hạn tối-thiểu cần-thiết. Đó không
phải là một sự có lợi cho Seshadri, bởi vì y sẽ
bị quấy rối do một lũ học-sinh luôn luôn ném
đá hành-hạ. Nay chúng để ý vào người săn-sóc
cho Brahmana và chúng gọi đạo-sĩ là " Sesha-
dri nhỏ ". Chúng bắt đầu ném đá, một phần vì
tính đùa nghịch dữ-tợn của tuổi trẻ, một phần
vì chúng thấy lạ, một anh chàng không hơn gì
tuổi chúng mà lại ngồi bất-động như pho-
tượng. Vả lại có một đứa trong bọn sau này nói
rằng chúng muốn khám-phá xem có phải
Venkataraman thực-sự như thế không .
Sự nỗ-lực của Seshadri để đuổi chúng đi
không có kết-quả, mà trái lại, bởi thế cho nên
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
57
Brahmana phải rút lui vào một cái hầm ẩm-ướt,
tối-tăm, không từng có ánh-sáng mặt-trời dưới
ngàn cột đá, ít khi có người tới. Ở đấy ít khi có
người tới, duy chỉ có kiến, ruồi, muỗi, ròi bọ
đầy rẫy. Chúng lấy đạo-sĩ làm mồi cho tới khi
đùi chảy mủ, chảy máu vì những vết thương.
Những vết-thương ấy còn để lại dấu-vết suốt
đời đạo-sĩ Brahmana. Trong khoảng mấy tuần-
lễ Brahmana ngồi như là ngồi trong địa-ngục,
vậy mà khi chìm vào trạng-thái Thần-hóa đạo-
sĩ không cảm thấy khó-chịu, đau-đớn, coi
những điều đó như không có thật. Một bà già
sùng-tín tên là Matmanmal đi vào hầm đó và
đem đồ ăn cho đạo-sĩ, cầu-khẩn đạo-sĩ rời khỏi
chỗ ấy để về nhà bà. Nhưng đạo-sĩ không tỏ
dấu-hiệu gì là nghe thấy, sau cùng bà để lại một
chiếc khăn sạch, xin đạo-sĩ ngồi lên đó, hoặc để
nằm hay dùng để đuổi ruồi, muỗi, nhưng đạo-sĩ
không rờ tay tới .
Những lũ trẻ sợ không dám vào hầm,
chúng bèn ném đá và những mảnh sành vào
cửa làm đổ vỡ tứ-tung. Tu-sĩ Seshadri canh-gác
ADPH RAMANA MAHARSHI
58
lại càng làm cho lũ-trẻ phá quầy thêm. Một
hôm vào buổi trưa, người thủ-từ tên là Venka-
tarachala Mudali đến gần nơi hành-lang ngàn
cột ; bất-bình thấy lũ trẻ ném đá vào cột điện-
thờ, ông bèn cầm gậy xua đuổi chúng đi. Khi
ông quay lại, ông thấy tu-sĩ Seshadri trong hầm
tối xuất-hiện, ông giật mình, khi đã hoàn-hồn
ông hỏi Seshadri có bị thương không. Tu-sĩ
Seshadri trả lời là không bị thương, nhưng hãy
nhìn vào xem có một đạo-sĩ nhỏ đang ở trong
đó. Nói xong tu-sĩ bỏ đi .
Mudali ngạc-nhiên vội đi xuống hầm. Từ
ngoài ánh-sáng ban ngày đi vào trong tối, mới
đầu ông không nhìn thấy gì nhưng dần dần mắt
ông đã tập quen với bóng tối, ông nhận ra hình-
thể của một đạo-sĩ trẻ tuổi. Ông kinh-ngạc nhìn
sự-kiện trước mắt, ông bèn đi báo cho một tu-sĩ
đang làm vườn với mấy đệ-tử ở gần đó. Tất cả
bọn đều kéo đến xem, nhưng đạo-sĩ trẻ không
động-đậy hay nói năng gì, và như là không
thấy sự hiện-diện của bọn họ. Cả bọn bèn
khiêng đạo-sĩ lên và mang ra ngoài, đặt xuống
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
59
trước bàn-thờ của Subramaniam ( Linh phù
Patala này đã được dựng lại vì thánh-linh là
công-phu tu-luyện của Ngài Bhagavan, nay
được soi sáng bởi đèn điện với một chân-dung
của Ngài Bhagavan ) mà Venkataraman không
tỏ ra ý-thức về việc đã xẩy ra .
Đạo-sĩ Brahmana ở lại đấy chừng hai
tháng. Đạo-sĩ ngồi đấy và chìm vào trong
trạng-thái Tam-muội bất-động, nhiều khi người
ta phải đút món ăn cho đạo-sĩ, mà đạo-sĩ cũng
chẳng để ý là đã ăn những món gì. Trong suốt
mấy tuần-lễ đạo-sĩ cũng không để ý đến mảnh
vải quàng thân. Có một tu-sĩ tịch-khẩu
( mouni ) cũng ở tại đấy để săn-sóc đạo-sĩ
Brahmana trong thời-gian ấy .
Bàn thờ Đức Mẹ Goddessuma trong đền
hàng ngày được người ta tắm rửa với một thứ
nước pha sữa, bột thơm, đường, chuối và nhiều
thứ khác nữa, tu-sĩ tịch-khẩu thường mang đến
hàng ngày cho đạo-sĩ một tô nước lạ lùng ấy.
Chàng đạo-sĩ này nuốt thứ nước ấy chẳng kể gì
ADPH RAMANA MAHARSHI
60
đến mùi vị, và đấy là tất cả món ăn duy-nhất
mà đạo-sĩ nhận được. Sau đấy ít lâu, người thủ-
từ nhận thấy điều ấy bèn bảo lấy sữa để cho tu-
sĩ tịch-khẩu đem lại cho đạo-sĩ Brahmana .
Sau vài tuần, đạo-sĩ đến ngồi dưới bụi cây
hoa, có cây cao đến vài thước. Ở đấy đạo-sĩ
Brahmanan vẫn ngồi đắm chìm trong trạng-thái
hoan-lạc tam-muội. Đạo-sĩ đi trong trạng-thái
Thần-hóa đến bụi cây khác mà tự mình đã
không biết mình đi đến đấy như thế nào. Sau
đấy đạo-sĩ đi vào hành-lang của đền, nơi mà
những hình-ảnh đã được rước vào những ngày
lễ. Có khi đạo-sĩ tỉnh lại và nhận thấy thân-thể
mình ở một chỗ khác, tự mình tránh hết những
chướng-ngại làm cho đạo-sĩ có thể sẽ bị
thương .
Sau đấy đạo-sĩ đến ngồi ít lâu dưới một
cây trên con đường rước Thần chung-quanh
điện, ở trong bức tường phiá ngoài điện. Ít lâu
sau đạo-sĩ vào điện Mangaibillayair, hàng năm
đông-đảo những tín-đồ đi hành-hương tiến đến
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
61
Tiruvannamalai vào những ngày hội Kartikai.
Trong dịp này người ta đốt trên đỉnh núi
Arunachala một ngọn đuốc, một ngọn lửa đỏ
rực để kỷ-niệm ngày xuất-hiện của Thần Siva.
Năm nay có nhiều người đến chiêm-ngưỡng
nhà đạo-sĩ trẻ và phủ-phục trước mặt đạo-sĩ.
Bắt đầu từ đấy có tín-đồ trung-thành đầu tiên
nguyện đi theo đạo-sĩ .
Một tín-đồ tên là Uddandi từng đã
nghiên-cứu về tâm-linh-học mà chưa từng thấy
bình-an trong tâm-hồn. Y thấy đạo-sĩ Brah-
mana liên-tục chìm trong trạng-thái thần-hóa
tam-muội và có vẻ như không ý-thức về thân-
thể mình, y cảm thấy đấy là sự thực-hiện, và
qua nhà đạo-sĩ trẻ này y có thể tìm thấy sự an-
tĩnh cho tâm-hồn. Y rất sung-sướng được hầu-
hạ đạo-sĩ Brahmana, nhưng y chẳng giúp được
gì, trừ việc ngăn giữ cho đám đông hiếu-kỳ đến
xem và ngăn những đứa trẻ nghịch-ngợm khỏi
đến hành-hạ đạo-sĩ .
ADPH RAMANA MAHARSHI
62
Y để thì giờ đọc Kinh sách chữ Tamil,
trình-bày về học-thuyết tối-cao Bất-nhị-pháp
( Advaita ). Y đặt hết hy-vọng để cầu xin được
đạo-sĩ khai đạo cho y, nhưng đạo-sĩ không bao
giờ nói một lời và chính y cũng không dám nói
trước, sợ phá tan sự yên-lặng của bậc sư-phụ
mình .
Trong thời-gian đó có Annamalai Tambi-
ram đi qua gần chỗ ngồi của đạo-sĩ trẻ, ông này
rất cảm-xúc trước hiện-tượng đẹp thanh-thản
của nhà đạo-sĩ ngồi yên-lặng bất-động, đến nỗi
ông ta phải nằm rạp xuống trước mặt đạo-sĩ.
Từ đấy về sau, hàng ngày ông ta đến rập đầu
trước mặt đạo-sĩ. Ông là một tu-sĩ thường đi bộ
với một số đông, dạo quanh trong tỉnh để hát
những bài ca sùng-tín. Đoàn tu-sĩ hát rong này
dùng những của bố-thí để nuôi những kẻ
nghèo-khó và để cúng-dường trước mộ vị tổ
của họ là sư-phụ Anadia Adhina ở ngoại-ô .
Sau một thời-gian tu-sĩ Tambiram thấy
rằng đạo-sĩ trẻ ít khi bị quấy rối ở điện
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
63
Gurumurtam và cũng để tránh mùa lạnh đã tới,
ông ta lo-nghĩ về việc ấy nên nói với Uddandi
về ý-nghĩ của mình, vì cả hai chưa từng được
nói gì với đạo-sĩ trẻ .
Sau cùng, ông can-đảm nói thẳng ra đề-
nghị của mình. Đạo-sĩ Brahmana chấp-nhận và
đến tháng hai năm 1897, sau một năm đạo-sĩ ở
đây, đạo-sĩ cùng với Tambiram đến Gurumur-
tam ở Tiruvannamalai. Không có gì thay-đổi
trong cuộc đời của nhà đạo-sĩ trẻ này. Khi đạo-
sĩ đến đấy ( Gurumurtam ) dưới sàn đầy kiến,
nhưng ông không cảm thấy khó-chịu khi chúng
bò lên mình hay cắn đốt. Sau đấy ít lâu có
người đặt một chiếc ghế ở góc điện để cho đạo-
sĩ ngồi và đặt chân đạo-sĩ vào một chậu nước
để tránh khỏi đàn kiến, nhưng ngay bấy giờ
đạo-sĩ dựa lưng vào tường và như vậy lại là bắc
cầu cho kiến. Từ đấy về sau đạo-sĩ luôn luôn
ngồi như thế, đến nỗi lưng đạo-sĩ còn in dấu
trên tường .
ADPH RAMANA MAHARSHI
64
Những khách hành-hương bắt đầu tò-mò
kéo nhau lũ-lượt tới Gurumurtam, nơi đạo-sĩ
ngồi và nhiều người còn phủ-phục trước mặt
đạo-sĩ, kẻ thì cầu xin ân-điển, kẻ thì chỉ vì tôn-
ngưỡng. Họ đến đông-đảo đến nỗi người ta
thấy cần phải lập một hàng-rào bằng tre, không
cho họ đến gần mó vào mình đạo-sĩ. Bắt đầu
đạo-sĩ Tambiram cung-ứng một chút thực-
phẩm cần-thiết cho đạo-sĩ, lấy ở phần cúng
dâng trên bàn-thờ của sư-phụ mình. It lâu sau
chính Tambiram cũng bỏ nơi ấy mà đi, một đệ-
tử khác tên là Mayinar được Tambiram bảo cho
biết là ông ta sẽ trở lại sau một tuần, nhưng rồi
ông ta trở lại sau một năm. Được vài tuần-lễ,
Mayinar cũng bỏ chỗ ấy mà đi về điện-thờ
riêng của y để lại đạo-sĩ của chúng ta ở đó một
mình không người săn-sóc. Về việc ăn uống
không có gì là khó-khăn, sự thực luôn luôn có
một số tín-đồ thường thường cầu-khẩn dâng đồ
cúng-dường. Điều khó-khăn nhất là làm thế
nào bảo-vệ cho đạo-sĩ khỏi bị đám đông những
người tò-mò đến thăm hỏi .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
65
Chẳng bao lâu lại có tín-đồ khác đến
phụng-sự thường-xuyên. Có một tu-sĩ người
Malayali tên là Palaniswami sẵn-sàng hiến
cuộc đời của mình để thờ Thần Vinayaka _ Y
sống rất khổ-hạnh, chỉ ăn mỗi ngày một bữa và
chỉ ăn những đồ đã cúng Thần, nhạt-nhẽo
không muối. Một người bạn của y tên là
Srinavasa một hôm hỏi y rằng : " Tại sao anh
hy-sinh suốt đời cho một tượng đá này ? Hiện
nay ở Gurumurtam có một nhà đạo-sĩ bằng da
bằng thịt luôn luôn chìm vào khổ-hạnh, chẳng
khác gì Thần Dhruva ở trong Kinh Purana
( chuyện Anh-hùng-ca Ấn-Độ ). Nếu anh tìm
đến phụng-sự Ngài và trung-thành theo đuổi
đường tu thì cuộc đời anh sẽ đạt tới đích ."
Cùng lúc ấy cũng có nhiều người khác nói về
đạo-sĩ trẻ này và rằng đạo-sĩ đang không có
người hầu-hạ. Và nếu có người nào đến hầu-hạ
thì hẳn là một ân-điển lớn cho y. Palaniswami
do đó mới đến Gurumurtam để được chính
mình mục-kích nhà đạo-sĩ đó. Khi nhìn thấy
đạo-sĩ trẻ y rất cảm-động, nhưng phải chờ một
ít lâu để y tiếp-tục phụng-thờ ở điện Vinayaka
ADPH RAMANA MAHARSHI
66
mà y cho là một bổn-phận của mình. Tâm-hồn
của y vẫn để cả vào nhà đạo-sĩ trẻ này. Y sẽ để
hết cuộc đời còn lại để phụng-thờ đạo-sĩ, suốt
hai mươi mốt năm, y là một tín-đồ chung-thủy
nhất .
Y chẳng có phải làm gì cho đạo-sĩ cả, vì
nhiều tín-đồ đem thực-phẩm đến cúng-dường,
nhưng đạo-sĩ chỉ nhận có một bát cơm vào buổi
trưa mỗi ngày. Số còn lại bèn trả hết cho thí-
chủ như là một ân-điển. Thỉnh-thoảng Palani-
swami bỏ đạo-sĩ để đi vào tỉnh vì một lý do nào
đó, thường là để mượn Kinh sách về tâm-linh
hay sùng-bái nào, của một người bạn. Khi y đi,
y khóa cửa lại, và khi về y vẫn thấy đạo-sĩ ngồi
yên như cũ .
Thân-thể của đạo-sĩ hoàn-toàn bỏ mặc
như là không biết đến, không tắm rửa, tóc mọc
dài ra và rối bời, móng tay cũng dài ra và cuốn
lại. Một vài người cho thế là dấu-hiệu của tuổi-
tác và thì-thầm với nhau rằng đạo-sĩ giữ được
trẻ-trung là nhờ thần-thông của khoa đạo-dẫn.
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
67
Tuy vậy, lúc này thực-sự là đạo-sĩ đã đạt tới
mức cùng-cực về sự chịu-đựng của thân-thể.
Tới khi đạo-sĩ thấy cần phải đi ra khỏi ngôi
điện thì đạo-sĩ không còn sức để đi nữa, đi
được vài bước, tự thấy yếu-đuối và choáng-
váng, phải tập lại nhiều lần để có thể đứng
được. Có một lần đạo-sĩ đi ra tới cửa, cả hai tay
phải nắm chặt lấy cánh cửa, đạo-sĩ cảm thấy có
Palini nâng-đỡ. Đạo-sĩ luôn luôn chống lại sự
giúp-đỡ của người khác, nên đã hỏi : " Tại sao
anh lại đỡ tôi ? "
Palani đáp : " Vì đạo-sĩ sắp ngã nên tôi
phải đỡ để Ngài khỏi bị ngã " .
Người nào đã đạt tới sự hợp-nhất với
Thần-linh Tối-cao, thường được thờ-phụng như
người ta thờ một ngẫu-tượng trong đền thờ,
cũng hương hoa, trầm rượu và ca-tụng. Khi tu-
sĩ Tambiram đến ở điện Gurumurtam y cũng
muốn thờ-phụng Ngài Bhagavan ( Brahmana )
như thế. Ngày đầu đạo-sĩ bị thờ bất ngờ, thì tu-
sĩ này còn đạt được mục-đích, nhưng đến ngày
ADPH RAMANA MAHARSHI
68
hôm sau, khi Tambiram đến điện với bát cơm
hàng ngày để cúng-dường thì y thấy ở trên
tường phiá sau lưng đạo-sĩ có một hàng chữ
Tamil viết bằng than như sau : " Cái này đủ
dùng cho cái kia rồi ", nghĩa là bát cơm là tất cả
đồ ăn để dùng cho cái thân-thể này rồi .
Những tín-đồ của đạo-sĩ rất là ngạc-nhiên
thấy rằng đạo-sĩ có một giáo-dục tục-thế, biết
viết, biết đọc. Một trong những tín-đồ mới
quyết-định dùng sự-kiện ấy để hỏi xem đạo-sĩ
từ đâu đến và tên gọi là gì. Người ấy là một bậc
có tuổi tên là Venkatarama Iyer chủ-tịch hiện-
hành của tỉnh-lỵ Taluq. Ông này thường đến
đây mỗi buổi sáng, và ngồi thiền-định đối-diện
với đạo-sĩ trước khi vào bàn giấy làm việc.
Người ta tôn-kính sự yên-lặng của đạo-sĩ và vì
đạo-sĩ không nói, người ta ngờ rằng đạo-sĩ có
lời nguyền tịch-khẩu, nhưng một người không
nói thì cũng có thể tùy trường-hợp nói ra ý-
nguyện của mình, nay y đã thấy đạo-sĩ có thể
viết ra được nên y cố nài đạo-sĩ viết. Y đặt một
tờ giấy trắng và một chiếc bút-chì trước mặt
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
69
đạo-sĩ để yêu-cầu đạo-sĩ viết tên tuổi cùng quê-
quán .
Thấy đạo-sĩ không đáp-ứng lời thỉnh-cầu
của mình, y thề không ăn và không trở về bàn-
giấy tới khi nào nhận được tài-liệu y cần. Đạo-
sĩ viết bằng tiếng Anh " Venkataraman Tiru-
chuzhi ". Sự hiểu-biết tiếng Anh càng làm cho
Iyer ngạc-nhiên và kinh-ngạc hơn nữa là tên
Tiruchuzhi phiên dịch sang tiếng Anh, nhất là
phần zh. Bởi vậy đạo-sĩ cầm quyển sách có tờ
giấy để xem chữ Tamil ngõ hầu đạo-sĩ có thể
chỉ-dẫn chữ phổ-thông phiên dịch ra zh, một
chữ thường đọc thành âm zh giữa R và L. Thấy
quyển sách là quyển Kinh Periapuranam, từng
đã để lại cảm-xúc rất mạnh cho đạo-sĩ trước
khi thức-tỉnh tâm-linh. Đạo-sĩ tìm ra đoạn có
chữ Tiruchuzhi được ghi là tên một tỉnh đã
được đạo-sĩ Sundaramurti ca-tụng và chỉ cho
Iyer .
Vào khoảng tháng 5 năm 1898, sau khi ở
Gurumurtam hơn một năm, đạo-sĩ ( 20 tuổi )
ADPH RAMANA MAHARSHI
70
chuyển đến vườn Măng-cụt gần đấy. Chủ vườn
tên là Venkatarama Naicker đề-nghị với đệ-tử
của đạo-sĩ là Palaniswami để chuyển-dịch vào
trong vườn vì vườn ấy có thể khoá lại được,
ngõ hấu cho đạo-sĩ được yên-tĩnh hơn. Hai thày
trò mới đến ngồi, mỗi người trong một cái lều
của người giữ vườn và chủ vườn ra lệnh cho
người giữ vườn cấm không cho ai vào vườn
quấy rối, trừ phi có phép của Palani. Đến ở
đây, thày trò suốt sáu tháng trời bắt đầu thu-
thập kiến-thức sâu rộng mà đạo-sĩ sẽ chứng-
minh sau này. Điều đặc-biệt là không phải đạo-
sĩ muốn học hỏi, mà là chỉ nhận muốn giúp-đỡ
người đệ-tử trung-thành. Đệ-tử Palani thường
đem sách triết-học tâm-linh tới để học, nhưng y
chỉ có sách viết bằng chữ Tamil, một thứ tiếng
mà y không hiểu mấy, cho nên y đọc hết sức
vất-vả. Thấy đệ-tử phải vật-lộn như thế, đạo-sĩ
cầm lấy sách đọc suốt quyển, rồi trao trả đệ-tử
rồi toát-yếu ngắn giáo-lý cần-thiết. Sự hiểu-biết
tâm-linh từ trước khiến cho đạo-sĩ chỉ nhìn qua
sách đã hiểu tất cả những điều đã trình-bày
trong sách và trí-nhớ kỳ-diệu của đạo-sĩ, nhớ
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
71
tất cả những điều đã đọc, cho nên đạo-sĩ đã trở
nên một nhà thông-thái rất dễ-dàng. Cũng như
thế mà sau này đạo-sĩ học tiếng Phạn, tiếng
Sanskrit, tiếng Telugu và tiếng Malayalam
bằng cách đọc những sách người ta đem đến
cho đạo-sĩ, và giải-đáp những câu hỏi bằng
những tiếng ấy .
*************
*
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
73
- V -
VẤN ĐỀ TRỞ VỀ
Cuộc đời của Venkataraman thật là một
sự-kiện lạ-lùng đối với thân-thuộc. Mặc dầu sự
thay đổi và cách sống của anh ta và mặc dầu
hoàn-cảnh gia-đình không một ai tiên-liệu được
sự-thể ấy. Những sự tìm-kiếm và điều-tra về
anh ta không đem lại kết-quả. Mẹ anh bấy giờ
ở nhà một người bà con ở thành Madura là
người đau khổ nhất. Bà cầu khẩn hai người em
rể tên là Subbier và Mélliappier đi ra ngoài
thành để tìm kiếm cho đến khi nào tìm thấy con
bà tức là Venkataraman. Theo tin đồn thì con
bà đã đi theo một gánh hát diễn những vở kịch
về tôn-giáo truyền-thống Trivandrum. Mélliap-
pier, người dượng này lập tức đi đến đấy để
điều-tra về đứa cháu của mình trong gánh hát,
nhưng vô-hiệu. Bà mẹ không chịu thất-bại và
ADPH RAMANA MAHARSHI
74
nài-nỉ ông này đi tìm lần thứ hai với bà. Tại
tỉnh Trivandrum, thực-sự bà đã nhìn thấy một
thanh-niên vào tuổi của Venkataraman, cũng
cao và tóc đen như con bà, nhưng quay mặt đi
không tiếp bà. Cảm thấy và tin-tưởng rằng con
mình đã tránh mình, bà trở về tuyệt-vọng.
Người cậu là Subbier đã từng sống chung với
Venkataraman ở Madura và mất vào năm 1898.
Người em rể cùng với gia-đình đi đưa đám tang
và chính trong trường-hợp này mới được tin
chính-thức đầu tiên về Venkataraman mất tích.
Một chàng thanh-niên dự đám tang kể cho họ
biết rằng, trong cuộc vừa đi thăm một Tùng-
lâm tư ở Madura, y có nghe thấy nói với thái-
độ hết sức cung-kính về một đạo-sĩ trẻ ở tỉnh
Tiruvannamalai. Nghe thấy người ta nói đạo-sĩ
quê ở Tiruchuzhi. Y đã hỏi kỹ và biết tên là
Venkataraman. Y bèn kết-luận : " Đấy phải là
Venkataraman của bà và nay ông ta đã trở nên
một đạo-sĩ được tôn kính . "
Mélliappier là một luật-sư hạng nhì, hành
nghề ở Manamadura. Khi được tin ấy, ông bèn
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
75
đi thẳng đến Tiruvannamalai với một người
bạn để điều-tra hư-thực. Họ tìm đường đến chỗ
ở của đạo-sĩ, nhưng đạo-sĩ đã đổi chỗ đến vườn
Măng-cụt của người chủ vườn Naicker, người
chủ vườn không cho họ vào và nói rằng :
" Đạo-sĩ tịch-khẩu làm sao các ông còn đến
quấy-nhiễu người ta ? " Cả đến sau khi nài-nỉ,
tự giới-thiệu là bà con với đạo-sĩ thì họ cũng
chỉ được gởi đến cho đạo-sĩ mấy lời viết trên
giấy. Mélliappier bèn viết lên một mảnh giấy
đã mang theo, mấy chữ như sau : " Mélliappier,
luật-sư ở tỉnh Manamadura muốn gặp cháu ."
Nhà đạo-sĩ trẻ đã tỏ ra ý-thức sâu-sắc về
thế-lực, đi đôi với sự hoàn-toàn lãnh-đạm với
thế-lực, đấy là đặc-tính của đạo-sĩ, khiến cho
các đệ-tử sau này lấy làm lạ. Đạo-sĩ nhận ra tờ
giấy trên đó ông cậu đã viết mấy chữ là giấy
của sở kiểm-kê, đằng sau có một vài nét chữ
viết tay của người anh cả là Nagaswami có
liên-quan đến công-việc ở sở. Đạo-sĩ bèn kết-
luận anh cả mình là một nhân-viên ở sở kiểm-
kê, vẫn tính quan-sát sâu-sắc ấy mà đạo-sĩ sẽ
ADPH RAMANA MAHARSHI
76
chứng-tỏ sau này, khi nhận được lá thư, đạo-sĩ
cũng coi xét tỉ-mỉ trước khi bóc thư. Đạo-sĩ cho
phép người nhà vào thăm, đến khi hai người đã
được vào, thì đạo-sĩ không để ý đến họ và cũng
không để ý đến lá thư do ông Mélliappier viết,
vì nếu tỏ ra để ý đến người nhà thì như là
khuyến-khích họ hy-vọng vào sự trở về của
đạo-sĩ. Đúng là một đạo-sĩ chân-chính nhưng
tóc rối bời, móng tay mọc dài, bẩn-thỉu không
tắm rửa. Giả-định rằng đạo-sĩ tịch-khẩu và ông
chú bèn hỏi đệ-tử của đạo-sĩ là Palani và người
chủ vườn Naicker, ông tỏ ý rất hoan-hỷ thấy
người cháu mình đã đạt được trình-độ tâm-linh
cao như thế, nhưng không phải vì thế mà quên
hết vệ-sinh cùng những yếu-tố cần-thiết cho sự
sống .
Bà con của đạo-sĩ mong muốn cho đạo-sĩ
trở về nhà, và họ nguyện không đòi hỏi ở đạo-
sĩ bỏ ý-nguyện hay nếp sống của mình. Họ sẽ
tôn-trọng sự yên-lặng riêng của đạo-sĩ và lối
sống khổ-hạnh của đạo-sĩ. Ở thành Madura nơi
người cậu Mélliappier sinh-hoạt có một ngôi
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
77
Thánh-thất của một vị Đại-Thánh. Đạo-sĩ có
thể đến đấy tu và họ sẻ cúng-dường tất cả thứ
gì cần-thiết. Nhà luật-sư chuyên biện-hộ rất
hùng-hồn cho chủ-trương của mình, nhưng lần
này đã vô-ích, vì đạo-sĩ vẫn ngồi yên không
động-đậy, cũng không tỏ ra hiểu chủ-ý của
người cậu luật-sư này. Người cậu đành chấp-
nhận thất-bại, ông ta bèn báo tin cho bà mẹ
Venkataraman biết sự may rủi về con bà, rằng
con bà đã tìm thấy được rồi, nhưng y hoàn-toàn
thay-đổi, y không thể trở về với gia-đình được.
Sau năm ngày thì người cậu đành rời khỏi tỉnh
Tiruvannamalai trở về Madura .
Sau đó ít lâu đạo-sĩ rời vườn Măng cụt để
đến một khu vườn nhỏ gần đấy. Những ác-cảm
tự-nhiên của đạo-sĩ đối với sự sống ỷ-lại phát-
khởi, nên hàng ngày đạo-sĩ thường đi khất-thực
để ăn, không muốn qua tay đệ-tử Palani nữa.
Đạo-sĩ bảo đệ-tử : " Anh đi một đường, tôi đi
một ngả ! Chúng ta không sống chung nữa ! "
Những lời nói ấy là những đòn đau-đớn cho đệ-
tử Palani. Phụng-sự đạo-sĩ là một sự sùng-bái
ADPH RAMANA MAHARSHI
78
của y, ban ngày thày trò phân chia nhau mỗi
người một ngả, tới tối mới gặp mặt nhau ở
điện-thờ Arunagirinathar. Làm thế nào mà đệ-
tử Palani có thể sống xa sư-phụ của mình
được ? Vì vậy đạo-sĩ đã cho phép Palani ở lại
sống với mình .
Đạo-sĩ vẫn giữ yên-lặng, dừng chân trước
cửa nhà chỉ để khất-thực. Nếu có người nào
cúng-dường thì đạo-sĩ dơ hai tay ra đón lấy và
ăn ngay tại ngoài đường. Không bao giờ đạo-sĩ
vào một nhà nào, mỗi buổi đi khất-thực đạo-sĩ
đi một đường khác nhau, không giống những
đường trước và không bao giờ đạo-sĩ khất-thực
hai lần một nhà. Sau này đạo-sĩ kể lại, đạo-sĩ
đã khất-thực hầu hết các nhà ở Tiruvannamalai.
Sau một tháng ở tại đền-thờ Thần-linh
Arunagirinathar, đạo-sĩ đến trụ tại một trong
những ngôi tháp của đền và tại vườn Alari,
trong khuôn-viên của đền. Bắt đầu từ đấy các
đệ-tử đã theo gót đạo-sĩ từng bước không dời,
mỗi khi đạo-sĩ đi tới đâu. Tại chỗ ở mới này
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
79
đạo-sĩ cũng chỉ trụ lại khoảng một tuần, rồi lại
chuyển sang một ngôi lầu phiá đông của đền,
sau đó đạo-sĩ vào trụ hẳn ở trong đền. Lúc này
đạo-sĩ luôn luôn ở trong trạng-thái đại-định và
chỉ tỉnh lại những khi đi khất-thực mà đệ-tử
Palani vắng mặt, có khi người thủ-từ khóa cửa
lại sau khi đã làm lễ xong, không buồn để ý
đến đạo-sĩ có ở đấy hay không .
Chính tại đây, bà mẹ đạo-sĩ là Alagammal
đã tìm thấy con. Sau khi người cậu Melliappier
kể lại, bà chờ cho đến kỳ nghỉ lễ giáng-sinh để
có dịp cho người con cả của bà là Nagaswami
cùng đi với bà đến tỉnh Tiruvannamalai. Mới
nhìn thấy, bà đã nhận ra con mình, mặc dầu lúc
ấy Venkataraman đầu bù tóc rối, bà hết sức
đau-đớn với tất cả lòng mẫu-tử của bà. Bà
khẩn-khoản yêu-cầu con bà trở về, nhưng đạo-
sĩ không hề để ý và vẫn ngồi yên, không trả lời
như là không hay biết, không nghe thấy gì hết.
Ngày ngày bà mẹ đến cạnh đạo-sĩ với các thức
ăn ngon lành, nhưng tất cả đều vô-hiệu .
ADPH RAMANA MAHARSHI
80
Lòng tự-ái của bà mẹ bị thương-tổn, bà
khóc òa lên, đạo-sĩ vẫn giữ thái-độ yên-lặng, sợ
tỏ ra cảm-động thì có thể tạo ra cho bà những
hy-vọng hão-huyền, đạo-sĩ bèn đứng lên và đi
khỏi. Một ngày kia bà mẹ gợi lên cho tín-đồ
một sự thông-cảm, bà khẩn-khoản nói với tín-
đồ can-thiệp cho bà với đạo-sĩ. Một trong đám
tín-đồ tên là Pillai thưa với đạo-sĩ : " Mẹ của
Ngài khóc và cẩu-khẩn, tại sao Ngài không đáp
ứng cho bà một lời ? Dù lời đáp-ứng bằng lòng
hay không, Ngài cũng nên ban cho bà. Ngài
không cần phải bỏ lời nguyền tịch-khẩu. Đây là
một cây bút-chì và một mảnh giấy, Ngài hãy
viết vào đấy những gì Ngài muốn trả lời . "
Đạo-sĩ bèn cầm giấy và bút chì viết với
giọng hoàn-toàn khách-quan :
" Đấng Tối-cao đã quyết-định mọi
sự-vật, điều-khiển vận-mệnh của tất cả
chúng-sinh, tùy theo nghiệp của chúng.
Cái gì mà định-mệnh không cho phép tạo
ra thì nó không đến, dù chúng ta cố-gắng
như thế nào cũng vẫn như thế. Cái gì
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
81
định-mệnh cho phép xẩy ra thì tất nhiên
là sẽ xẩy ra, dù có cố-gắng cản-trở thế
nào cũng không được. Đó là điều rất
chính-xác. Thái-độ tốt hơn hết là yên
lặng ."
Những lời ấy cũng đúng về vấn-đề căn-
bản với những lời mà đấng Cơ-Đốc nói với
mẹ :
" Này người phụ-nữ kia, có cái gì
quan-hệ giữa ta với người ? Người không
hiểu là ta còn phải phục-vụ cho đấng
CHA ta ! "
Về hình-thức của hai luận-điệu, thì luận-
điệu của Ngài Bhagavan có vẻ đặc-sắc hơn.
Trước hết, đạo-sĩ giữ yên-lặng, mà giải-đáp chỉ
là phủ-định thôi. Kế đó, sự yên-lặng không
được tiếp-nhận và người ta càng thúc-giục hơn,
thì những lời giải-đáp mà đạo-sĩ đưa ra có một
luận-điệu phô-diễn một triết-lý hết sức vô-ngã
và khách-quan hơn. Tuy vậy, là lời giải-đáp
ADPH RAMANA MAHARSHI
82
cho một câu hỏi đặc-thù mà cũng thích-ứng với
nhu-cầu của người hỏi .
Ngài Bhagavan dạy một cách đanh-thép
tuyệt-đối rằng những gì xẩy ra sẽ xẩy ra, và
đồng thời Ngài khẳng-định rằng, những gì xẩy
ra là do nghiệp, bản chi thu ở định-mệnh của
một người phải được thanh-toán. Định-luật
nhân-quả đanh-thép như thế, đến nỗi danh-từ
công-lý còn là quá tình-cảm để mà diễn-tả.
Ngài đã tránh những cuộc thảo-luận tranh-biện
về tự do ý-chí và tiền-định, bởi vì những thuyết
ấy, tuy ở bình-diện trí-thức thì mâu-thuẫn,
nhưng có thể phản-chiếu những phương-diện
của sự thật chẳng hạn. Ngài nói rằng : " Hãy
tìm xem ai là tiền-định, ai có tự-do ý-chí."
Ngài thường nói một cách công-nhiên rằng :
" Tất cả những gì ở trong thể-xác của người ta,
nó đã có ngay từ lúc thai-nghén, cái tự-do ý-chí
duy-nhất mà anh đã được ban, ấy là cái tự-do
ý-chí tự đồng-nhất hay không với thân-thể của
anh ."
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
83
Vở kịch mà người ta đóng một vai ở
trong đó tất nhiên là đã biết từ trước rồi, và
kịch-sĩ làm trọn vai-trò của mình với một sự
trung-thành, dù là César bị đâm hay Brutus
đâm, nó không bị ảnh-hưởng bởi vai-trò nó
đóng. Nếu có người đến tự hỏi rằng. _ Còn có
cái thực-tại gì tồn-tại cho nó không _ Khi mà
tất cả hành-vi của nó đều đã quy-định, thì nó sẽ
chỉ còn đi đến câu hỏi khác như sau : Vậy thì ta
là ai ? Nếu cái " Tôi " nghĩ rằng nó làm những
quyết-định thì không có thật, và đồng thời Tôi
biết rằng Tôi hiện-thực, vậy thì cái thực-tại của
Tôi là cái gì ?
Một số câu trên chỉ là một bài-học sửa-
soạn tinh-thần dự-bị mà Ngài Bhagavan đã chỉ-
thị, nhưng nó là việc sửa-soạn tối hảo cho việc
cứu-xét chân-chính .
Vậy mà cái ý-tưởng bề ngoài có vẻ mâu-
thuẫn ấy, theo đấy thì một người tự làm lấy
định-mệnh của mình cũng chẳng kém chính-
xác, bởi vì tất cả xẩy ra đều do định-luật nhân-
ADPH RAMANA MAHARSHI
84
quả chi-phối và tất cả tư-tưởng, lời nói, hành-
động đều chịu ảnh-hưởng cả. Ngài Bhagavan
về điểm này cũng rất quả-quyết như các bậc
sư-phụ khác. Ngài nói với đệ-tử Pillai của Ngài
như câu trả lời đã ghi nhận sau đây :
" Khi mà người ta nuôi chín mùi
những quả táo trong hành-vi của mình,
theo đúng lời thiên-mệnh thần-linh, thì
trách-nhiệm là do họ chứ không phải là
do Thượng-Đế ."
Ngài Bhagavan luôn luôn nhấn mạnh vào
sự thiết-yếu của nỗ-lực. Trong Thánh Kinh của
Maharshi ( Đại Tiên-Tri ) người ta có thể ghi
lại lời than-vãn của một đệ-tử như sau :
" Sau khi từ-giã Tùng-lâm này vào
tháng mười, suốt trong mười ngày, tôi
cảm thấy tâm-hồn bình-an nhờ ảnh-hưởng
của sự hiện-diện bao-phủ bởi hình-ảnh
của Ngài Bhagavan. Trong thời-gian ấy,
trong khi tôi làm việc, tôi ý-thức trạng-
thái bình-an trong đồng-nhất-tính, như là
một sự nâng-đỡ tâm-hồn tôi. Nó cũng
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
85
giống như trạng-thái sinh-đôi của ý-thức
mà người ta thực-nghiệm khi người ta
ngủ-gật trong một cuộc nghe diễn-thuyết
buồn-tẻ. Thế rồi cảm-giác bình-an ấy biến
đi hoàn-toàn, mà những sự ngu-ngốc cũ
lại thay-thế vào đấy." Và Ngài Bhagavan
đã trả lời như sau : " Nếu anh chịu củng-
cố tinh-thần anh thì sự bình-an ấy sẽ trở
nên bền-bỉ dài lâu. Sự lâu bền của nó đi
đôi với sức mạnh tinh-thần mà người ta
có thể có được bằng một sự tu-tập
chuyên-cần liên-tục ."
Trong khoa giáo-dục tâm-linh, một đệ-tử
liên-tưởng một cách công-khai đến ảo-ảnh
mâu-thuẫn giữa định-mệnh và nỗ-lực :
" Nếu thực người ta nói rằng tất cả
những gì xẩy ra đều do định-mệnh thì
chính những trở-ngại làm chướng-ngại và
chậm tiến trên con đường thiền-định của
chúng ta phải coi như là không thể vượt
qua, vì chúng đã được dựng lên bởi một
định-mệnh đanh-thép ."
ADPH RAMANA MAHARSHI
86
Ngài Bhagavan trả lời cho câu vấn nạn
này rằng :
" Cái mà người ta gọi là “ định
mệnh ” chỉ ứng-dụng vào cho những tinh-
thần hướng ngoại chứ không phải cho
những tinh-thần hướng nội. Bởi thế cho
nên, đối với người đã ở trong sự tìm kiếm
bản-tính của mình, thì họ nhập vào đời
sống tâm-linh, không còn sợ-hãi bất cứ
một sự khó-khăn nào có thể làm chướng-
ngại con đường thiền-định của họ. Chính
ý-nghĩ về những trở-ngại như thế chúng
đã là một sự trở-ngại lớn nhất ."
Sứ-mệnh của Ngài ban bố là :
" Thái-độ nên chọn hơn hết là yên-lặng."
Thái-độ ấy ứng-dụng vào cho bà mẹ của
đạo-sĩ bởi vì bà đã đòi-hỏi một điều mà không
thể thỏa-mãn được. Nó cũng ứng-dụng vào đời
sống thông-thường của chúng ta với ý-nghĩa là:
" Không có ích-lợi gì mà bực-tức đối với cái
kim châm của con ong ." Chống-đối với định-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
87
mệnh không tránh khỏi, như thế không có
nghĩa là sẽ không bao giờ cố-gắng. Người mà
nói : " Tất cả đều do tiền-định, do đó mà tôi sẽ
không cố-gắng làm gì nữa ." Đấy là lầm tưởng
rằng : " Chính tôi đã biết cái gì là tiền-định ."
Có thể rằng người ấy vẫn phải cố-gắng. Cũng
như Thần Krishna trong Thế-Tôn-Ca ( Bha-
gavad Gita ) đã phán cho Arjuna, chính bản-
tính tự-nhiên của nó bắt buộc nó phải nỗ-lực .
Bà mẹ đành phải trở về, và đạo-sĩ vẫn giữ
thái-độ như cũ. Tuy nhiên, không hẳn là như
cũ. Trong khoảng hai năm, ba tháng đạo-sĩ ở
tại trong đền và điện Tiruvannamalai thì những
dấu-hiệu đầu tiên của một sự trở lại đời sống
bình-thường bên ngoài đã hiện ra. Đạo-sĩ đã
bắt đầu ăn uống mỗi ngày vào giờ nhất-định và
đã tự đi khất-thực để không lệ-thưộc vào người
nào. Đạo-sĩ cũng đã nhiều lần nói lên lời, đạo-
sĩ đã bắt đâu trả lời cho các tín-đồ của mình,
bắt đầu đọc và giảng những điều cốt-yếu trong
giáo-lý mà đạo-sĩ đã đọc .
ADPH RAMANA MAHARSHI
88
Khi đạo-sĩ mới đến Tiruvannamalai, đạo-
sĩ chìm trong trạng-thái hoan-hỷ an-lạc của
Bản-Thể Tồn-Tại, hoàn-toàn không biết gì đến
thế-giới bên ngoài và cũng chính cả thân-thể
của mình. Đạo-sĩ chỉ ăn khi nào người ta đổ
thức ăn vào tận tay hay vào tận miệng của
mình ; ngay bấy giờ đạo-sĩ cũng chỉ thu-nhận
những gì thiết-yếu mà thôi. Người ta đã mô-tả
trạng-thái ấy dưới danh-từ TAPAS (phát nhiệt)
nhưng danh-từ ấy có nhiều ý-nghĩa phức-tạp.
Nó ngụ ý là tập-trung dẫn đến sự khắc-phục.
Thông-thường trong phương-pháp trì-giới phải
khắc-phục những nhược-điểm quá-khứ và để
nhổ sạch tất cả khuynh-hướng dục-vọng tái-
diễn, để giữ không cho năng-lực trong mình
tìm đường phát-tán ra tinh-thần và giác-quan.
Như thế TAPAS thường thường có nghĩa là sự
cố-gắng để thực-hiện Tự-Tính bằng phương-
tiện chịu hành-phạt và khổ-hạnh .
Ở trường-hợp của đạo-sĩ Bhagavan đây,
những yếu-tố như nỗ-lực, chịu-đựng và thúc-
ước một cách bạo-động thì hoàn-toàn không có
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
89
nữa, bởi vì sự đồng-nhất-hóa sai lầm " cái tôi "
với thân-thể và sự bám-víu chấp chặt vào thân-
thể đã được khắc-phục. Về phương-diện này,
người đạo-sĩ trẻ không tin-tưởng vào nếp sống
khổ-hạnh, chính bởi ví ông ta đã đồng-nhất
mình hết với thân-thể. Sau này Ngài đã giải-
thích điểm ấy như sau :
" Tôi không ăn thì người ta bảo tôi
tịch-cốc, tôi không nói thì người ta bảo
tôi tịch-khẩu ."
Điều rất đơn giản là sự khổ-hạnh ấy
không do sự tìm kiếm và thực-hiện. Chính nó
là kết-quả của thực-hiện. Đạo-sĩ Bhagavan
công-nhiên nói rằng đối với Ngài không có
vấn-đề tu-hành ( sadhana ) để tìm đạt tới đích,
sau khi đã giác-ngộ tâm-linh tại nhà người chú
ở Madura .
Vả lại, đạo-sĩ Bhagavan cũng không phải
là một nhà tu tịch-khẩu ( mouni ) theo nghĩa
thông-thường là giữ lời nguyện yên-lặng ( tịch
mặc ) ngõ hầu để giữ mình không tiếp-xúc với
ADPH RAMANA MAHARSHI
90
người khác. Hoàn-toàn không còn nhu-cầu thế-
tục. Ngài cảm thấy không cần phải nói năng.
Hơn nữa Ngài đã giải-thích rằng sau khi tịch-
khẩu Ngài thấy có ý-tưởng là khi không nói
người ta thắng rất dễ-dàng tất cả những giao-
động ở trong tâm-hồn .
Suốt mấy tháng đầu chìm vào trong trạng-
thái an-lạc, ở trong trạng-thái ấy thường làm
gián-đoạn sự tiếp-xúc với thế-giới bên ngoài,
và Ngài đã kể lại trạng-thái ấy với những hình-
ảnh linh-động như sau :
" Có khi tôi mở mắt ra thì thấy buổi
sáng, có khi tôi mở mắt ra lại thấy buổi
chiều. Tôi không biết khi nào mặt-trởi
mọc cũng như khi nào mặt-trời lặn ."
Trạng-thái quên thời-gian ấy tiếp-diễn,
chỉ khác là nó ít xẩy ra hơn là liên-tục. Mấy
năm về sau Ngài Bhagavan có lần nói rằng :
" Ngài thường nghe thấy khúc đầu của lời tụng
Vedas và kế đến là khúc cuối, nhưng không
nghe thấy khúc giữa. Vì xuất-thần, lúc ấy Ngài
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
91
ngạc-nhiên mà hỏi tại sao bài cầu tụng lại đã
hết một cách mau chóng thế, phải chăng người
cầu tụng đã bỏ quên một đoạn ? Tuy nhiên, cả
đến trong mấy tháng đầu, khi Ngài ở tại
Tiruvannamalai, Ngài hoàn-toàn ý-thức những
sự-kiện đã xẩy ra ở thời-kỳ này, mà người
ngoài tưởng rằng Ngài là người luôn luôn vô-ý-
thức. Người ta gọi sự hoàn-toàn thể-nhập vào
cái Tự-Tính mà kết-quả là quên hết thế-giới
biểu-hiện, ấy là trạng-thái Vô-tướng ( Nirvi-
kalpa Samadhi ) Tam-muội .
Đó là một trạng-thái xuất-thần hoan-hỷ
nhưng không thường-xuyên .
Trong bộ Kinh giáo-lý của Maharshi ví
trạng-thái ấy như một cái gầu thả xuống giếng.
Trong gầu đó nước Tinh-thần được dìm xuống
giếng ( Tự-Tính ). Cái dây và cái gầu là cái Tôi
( tiểu-ngã ) mà cái dây buộc gầu và cái gầu vẫn
còn để múc nước ra khỏi giếng .
ADPH RAMANA MAHARSHI
92
Trạng-thái cao nhất hoàn-toàn cùng-tột
thì gọi là Thuộc-tính Tam-muội ( Sohaja
Samadhi ). Nói vắn-tắt ở đầu trang hai trạng-
thái ấy là một trạng-thái ý-thức thuần-túy và
thường-xuyên, siêu-việt cả tinh-thần lẫn vật-
chất. Tuy nhiên trạng-thái đó không bài-trừ tri-
giác sáng-suốt về thế-giới bên ngoài cùng sự
sử-dụng đầy đủ năng-khiếu tinh-thần và vật-
chất. Đó là một trạng-thái hoàn-toàn quân-bình,
hoàn-toàn hòa-điệu, vượt cả trạng-thái hoan-
lạc. Ngài Bhagavan ví trạng-thái đó như nước
của giòng sông hòa lẫn vào nước của biển-cả.
Ở trạng-thái này thì tất cả tiểu-ngã với tất cả
giới-hạn của nó hoàn-toàn gia-nhập vào cái Tự-
Tính mãi mãi. Đó là một Tự-do tuyệt-đối, một
ý-thức thuần-túy, một trạng-thái Tôi tồn-tại
thuần-túy không còn giới-hạn vào thân-thể hay
cá-tính .
Ngài Bhagavan đã ở trong trạng-thái tối-
cao, tuy rằng cái ý-thức về ngoại-giới không
liên-tục. Sự trở về đời sống hoạt-động đối
ngoại hiện ra sau này cũng chỉ là bề ngoài và
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
93
không hề có ngụ sự biến-đổi. Thực như là đã
được nói ở trong Thánh Kinh Đại-giác của
Maharshi ( Bhagavan ) :
" Ở trường-hợp của nhà tu Trí-tuệ
( Jnani ) cái tiểu-ngã chỉ có bề ngoài, và
vị ấy hưởng-thụ những kinh-nghiệm vô-
hạn và siêu-việt của mình, mặc dầu có sự
hiện-diện ảo-ảnh của ý-thức cá-nhân, bởi
vì luôn luôn vị ấy chú-ý vào cái Nguồn
của Đạo. Cái tiểu-ngã của mình thì vô
hại, chẳng qua nó chỉ giống như sợi dây
đã cháy còn lại cái hình và không còn ích-
dụng gì nữa ."
*****************
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
95
- VI -
ARUNACHALA NGỌN NÚI ĐỎ
( Hồng-Sơn - Linh-Sơn )
Quang-cảnh có vẻ khô-khan. Hình như có
vị Thần khổng-lồ ra tay rài-rác những tảng đá
chung quanh những bụi gai-góc khô-cằn.
Những bụi xương-rồng, những thửa ruộng khô
cháy bởi ánh-nắng, những đồi nhỏ trơ-trụi. Tuy
vậy mà có những cây cổ-thụ rườm-rà che mát
đường bụi trắng, thỉnh-thoảng bên cạnh những
ao, chuôm, giếng khơi, hiện ra những thửa
ruộng xanh tươi. Ngọn núi Arunachala, Hồng-
sơn, đứng sừng-sững giữa cảnh hoang-vu tuyệt
đẹp. Chiều cao của núi chỉ độ 800 thước và nó
bao-trùm cả miền. Về phiá Nam của Tùng-lâm
quang-cảnh giản-dị đến thất-vọng. Đó là một
ngọn núi cân-đối với hai ngọn có chiều cao
bằng nhau, mỗi ngọn ở một phiá của Tùng-lâm.
ADPH RAMANA MAHARSHI
96
Để cho sự cân-đối hoàn-toàn hơn nữa, mỗi
buổi sáng ngọn núi được bao-phủ bởi một vầng
mây mù. Nhưng có điều lạ là sự biến-đổi
quang-cảnh khi người ta đi theo con đường dài
8000 thước từ cung-điện phiá Nam sang phiá
Tây trên sườn hữu-ngạn của ngọn núi. Mỗi một
cảnh-tượng đều có riêng một sắc-thái và ý-
nghĩa tượng-trưng của nó, là ở đấy nổi lên âm-
hưởng vang-dội ; là ở đấy ngọn núi lộ ra giữa
hai chân đồi như là Tự-Tính giữa hai ý-tưởng,
là cảnh-tượng của năm ngọn tượng-trưng cho
Thần Siva và Sakti, và các vị khác .
Có những thửa ao linh-thiêng đánh dấu
cho tám hướng và những điện-thờ dựng lên rải-
rác ở các nơi trọng-yếu. Trong những điện-thờ
này, ngôi điện có ý-nghĩa nhất là Dakshina-
murthi ở vị-trí cực Nam của núi, bởi vì Dakshi-
namurthi chẳng gì khác hơn là Thần Siva
truyền-giáo trong yên-lặng và chính là Hồng-
sơn, Arunachala :
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
97
" Ai là người chứng-kiến ? Khi tôi
quay vào bên trong nội-tâm tìm kiếm thì
tôi thấy người chứng-kiến đã biến mất
cùng với tất cả những cái còn lại. Không
một tư-tưởng nào quan-hệ với cái tiểu-
ngã có thể nổi hiện. Không một tư-tưởng
" Tôi thấy " nào hiện lên, vậy thì làm thế
nào cái tư-tưởng " Tôi không thấy " nổi
lên được ? Ai là người có quyền-năng để
diễn lên thành lời, khi mà khởi-thủy,
chính Ngài ở thời xa xưa chỉ là yên-lặng
mà thôi. Ngài tự giới-thiệu Ngài qua yên-
lặng, Ngài, đỉnh núi chói-lọi từ trên trời
xuống dưới đất ."
_ ( Bài tụng núi Arunachala của
Bhagavan Maharshi )
Ngài Bhagavan luôn luôn khuyên người
ta đi bộ quanh sườn núi Arunachala. Cả đến
những người già-cả, tàn-tật, mù-lòa, Ngài cũng
khuyên đi bộ như thế, nhưng có điều là Ngài
khuyên họ nên đi chầm-chậm, vả lại việc đi
hành-hương đòi hỏi phải đi chậm " Nên đi
ADPH RAMANA MAHARSHI
98
chậm như một bà Chúa có mang chín tháng ".
Đi giữ yên-lặng hay chìm vào trong thiền-định,
hay ca-tụng hoặc thổi tù-và, và đi chân không.
Những ngày tốt cho cuộc hành-hương ấy là
những đêm Siva ( Sivarathri ), những ngày mà
các vì sao gặp-gỡ với mặt-trăng rằm. Những
ngày ấy thường vào khoảng tháng mười một
Dương-lịch. Vào cơ-hội này người ta đi bộ-
hành, hành-hương vòng-quanh trái núi, đông-
đúc như một vòng hoa vĩ-đại .
Có một ông già tàn-tật thường đi khập-
khiễng quanh núi, ông ta thường hành-hương
như thế nhiều lần, nhưng lần này, đặc-biệt là
lúc ông sắp từ-giã tỉnh Tiruvannamalai. Ông
cảm thấy ông là một trở-ngại cho gia-đình
mình. Trong nhà thường xẩy ra cãi-lộn và ông
có ý quyết-định rời bỏ gia-đình, đến sống ở
một làng hẻo-lánh khác. Nhưng thình-lình
xuất-hiện một chàng Bà-la-môn trẻ giằng lấy
đôi nạng chống của ông và nói : " Ông không
cần đến đôi nạng này nữa ". Trước khi lời nói
của chàng Bà-la-môn ấy kịp gây cho ông giận-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
99
dữ để thốt ra lời, thì ông cảm thấy không cần
phải có đôi nạng để chống nữa. Thế rồi ông
không rời bỏ Tiruvannamalai. Ông đã ở lại và
trở nên nổi-tiếng. Ngài Bhagavan kể lại chuyện
ấy rất chi-tiết với một số đệ-tử và nhấn mạnh
vào điểm tương-tự kể trong Kinh Arunachala
Sthala Purana. Vào thời-gian ấy Ngài Bhaga-
van là một đạo-sĩ trẻ của núi Arunachala,
nhưng đạo-sĩ không thú-nhận mình là người
Bà-la-môn trẻ tuổi đã xuất-hiện .
Núi Arunachala là một trong những ngọn
núi cổ nhất và linh-thiêng nhất trong tất cả
những Thánh-địa ở Ấn-Độ .
Ngài Bhagavan tuyên-bố đấy là trung-tâm
của trái đất, trung-tâm tinh-thần của thế-giới.
Ngài Bhagavan ví núi Arunachala như là núi
Tu-Di. Kinh Purana ca-tụng rằng : " Đây là
Thánh-địa ! Trong tất cả những Thánh-địa thì
Arunachala là núi tối linh-thiêng. Đây là trái
tim của thế-giới. Nên biết rằng đấy là trung-
tâm huyền-bí của Thần Siva ! "
ADPH RAMANA MAHARSHI
100
" Có nhiều bậc Thánh đã từng sống
ở núi này, Thánh-linh của nó đồng-nhất-
hóa với núi. Người ta tin rằng, và sự tin
ấy được Ngài Bhagavan xác-nhận, chính
ngày hôm nay các bậc Thánh thần-thông
vẫn còn tồn-tại trong các hang-động của
núi Arunachala với thể-xác hay không.
Có một số người đã chứng-kiến hình-thức
ngọn lửa lung-linh chung-quanh núi. Một
đoạn Kinh Purana kể lại nguyên-lai của
ngọn núi như sau :
" Có một hôm thần Vishnu với thần
Brahma, hai vị thần sáng-tạo vũ-trụ, cãi-
cọ nhau xem ai là đấng Tối-cao. Cuộc
cãi-cọ ấy ảnh-hưởng xuống trần-gian và
chư thần lại gần thần Siva cầu xin chấm-
dứt cuộc cãi lộn. Bấy giờ thần Siva mới
hiện-hình thành một cột lửa, trong cột lửa
đó phát ra tiếng nói : Ai tới được cực-
đoan tối cao hay cực đoan tối hạ thì người
ấy lớn nhất. Thần Vishnu biến thành con
heo rừng đào sâu xuống đất để tìm cái
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
101
đáy của cột lửa. Trong khi ấy Thần
Brahma biến thành con hạc bay bổng lên
không trung để tìm cái ngọn của cột lửa.
Thần Vishnu thất-bại trong công việc của
mình và " bắt đầu tìm ra cái Ánh-sáng
tối-cao đó ở tại chính mình, ở tâm của
mỗi chúng-sinh, rồi nó chìm lặng trong
thiền-định. Quên cả thể-xác, quên cả
mình là chủ-thể của sự cầu tìm ." Brahma
tìm thấy bông hoa trên cây núi rơi rụng
vào không-gian nên nghĩ rằng mình có
thể thắng cuộc bằng một sự lừa dối. Nó
bèn trở lại, mang theo bông hoa và tuyên-
bố là nó đã hái bông hoa ấy từ trên ngọn
cột lửa, thần Vishnu công-nhận sự thất
bại của mình và đến gần đấng Tối-cao
cầu nguyện : " Ngài là tự-giác ! Ngài là
tiếng OM, Ngài là khởi-thủy, là trung-
gian và là trung-cục của tất cả tạo-vật !
Ngài là tối-cao của tất cả tạo-vật, soi-sáng
tất cả tạo-vật ." Nó được thần Siva tuyên-
bố là cao nhất, trong khi ấy thì thần
ADPH RAMANA MAHARSHI
102
Brahman hãy còn hoang-mang về tội dối-
trá của mình . "
Trong truyện huyền-thoại trên đây thì
thần Vishnu là đại-biểu tượng-trưng cho tiểu-
ngã, cá-tính ; Brahman đại-biểu cho trí-thức,
còn Siva là đại-biều cho Atman ( Bản-ngã ),
tâm-linh .
Và câu chuyện còn tiếp-tục, vì linh-phù
( lingam ) cột lửa chói-lọi quá cho nên thần
Siva phải biểu-hiện ra ngọn núi Arunachala,
đồng thời tuyên-bố : " Ví như mặt-trăng mà
ánh-sáng phản-chiếu mặt-trời, tất cả các thánh-
linh của thánh-điện đều do sức thánh-linh của
núi Arunachala. Chính tại đây là nơi duy-nhất
mà ta đã hiện thân để giúp-đỡ cho những kẻ
sùng-bái ta, ngõ hầu để đạt đến Giác-ngộ. Núi
Arunachala chính là nguyên-thanh OM vũ-trụ,
hay là thần-chú tối-linh ( thần-chú hay chân-
ngôn là một công-thức dùng trong kinh cầu-
nguyện ). Ta giáng hiện trên ngọn núi mỗi kỳ
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
103
húy-nhật, ban ân-điển hoan-lạc ở hình-thức
một ngọn lửa an-lành .
Những lời nói ấy không phải chỉ quan-hệ
với đức thánh-linh của chính núi Arunachala,
mà còn quan-hệ tới sự trọng-yếu khởi-thủy của
Bất-nhị-pháp ( Advaita ), và là một con đường
Kiến-tánh mà núi Arunachala là trung-tâm
Thánh-điện. Người ta có thể hiểu nghĩa ấy
trong giáo-lý của Ngài Bhagavan : " Cuối cùng
ai cũng phải đến núi ARUNACHALA ."
Phải sau hơn hai năm, kể từ khi Ngài
Bhagavan đến an-trụ tại núi này, cho tới ngày
ấy Ngài vẫn thường ở nay đền này mai điện
khác. Mãi cho đến cuối năm 1898 ( 19 tuổi ),
Ngài mới an-trụ tại một ngôi miếu nhỏ,
Pavashakkunru đã được thánh-hóa hàng mấy
thế-kỷ trước bởi sự hiện-diện của vị Đại-thánh
Gautama Rishi, và chính tại đấy mà bà mẹ của
Ngài Bhagavan đã tìm thấy Ngài. Rồi từ đấy
Ngài không rời khỏi núi Arunachala này nữa.
Vào đầu năm sau, Ngài di-chuyển đến một cái
ADPH RAMANA MAHARSHI
104
động của núi, cũng từ đấy Ngài thường ở nay
động này mai động kia cho đến năm 1922 Ngài
di chuyển xuống chân núi và chính tại đây đã
được dựng lên Tùng-lâm hiện-tại. Và cũng
chính tại đó Ngài Bhagavan đã an-trụ suốt đời.
Suốt trong thời-gian Ngài cư-trú ở núi
Arunachala, Ngài chưa từng rời khỏi sườn núi
phiá Nam. Tùng-lâm của Ngài ở phiá Nam của
núi, ngay dưới đền thờ Dashinamurthi ( truyền-
giáo vô ngôn ). Trong 108 danh-hiệu của Ngài
Bhagavan mà người ta tụng-niệm hàng ngày ở
trước mộ Ngài, có một danh-hiệu ngụ-ý trông
về phiá Nam. Danh-hiệu ấy tượng-trưng cho
uy-tín tâm-linh phổ-quát. Cũng như là bẩy vị
Sư-phụ là phản-cực cho tuyệt-đỉnh của thế-
giới. Và nó là đặc-trưng của Dashinamurthi .
Dashinamurthi là thần Siva truyền-giáo
trực-tiếp không qua lời nói .
Trong những câu thơ mở đầu chương này
thì Bhagavan tự đồng-nhất-hóa với Arunachala
và Dashinamurthi. Trong những câu thơ sau
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
105
này thì Ngài Bhagavan nói về Ramana và núi
Arunachala là Một :
" Trong sự sâu-sắc của trái tim vũ-
trụ đại-đồng, hình-dáng là một bông hoa
sen từ thần Vishnu giáng xuống có Đại-
Hồn vũ-trụ chiếu sáng như là trạng-thái
của ý-thức tuyệt-đối. Đại-Ngã hay là Đại-
Hồn vũ-trụ tức là núi Arunachala hay là
Ramana. Khi nào trí-tuệ hợp với tình-yêu
núi Arunachala là đạt tới điểm thâm-hiểm
nhất của trái tim nơi Ngài ngự. Ngài là
đức tin yêu, là con mắt vi-diệu của ý-thức
tuyệt-đối hé mở, và Ngài tự biểu-lộ như là
cái biết thuần-túy . "
Cái động mà Ngài chọn và an-trụ lâu nhất
ở tại sườn núi Đông-Nam. Động ấy mang tên
một vị thánh Virupaksha, một vị thánh ở vào
thế-kỷ thứ 13, vị thánh đã sống ở động này và
khi chết đi cũng chôn ở động ấy. Về hình-dáng
lạ lùng của động giống như là chân-ngôn
" OM " linh-thiêng. Ngôi mộ của vị thánh ấy ở
ADPH RAMANA MAHARSHI
106
thâm cung của động và người ta tin rằng có thể
nghe thấy tiếng " OM " từ bên trong phát ra .
Người thủ-từ của đền Virupaksha thường
ở trong tỉnh, ông ta có quyền sở-hữu về cái
động ấy, ông ta được quyền thu thuế nhẹ của
những người đến hành-hương vào những ngày
lễ ( Kartikai ) hàng năm theo lịch Ấn-Độ-giáo.
Trong thời-kỳ Ngài Bhagavan đến Virupaksha
thì tục-lệ hành-hương đến động này không
được thị-hành, bởi vì có hai phe tranh-giành
động đó và việc kiện-tụng vẫn chưa được giải-
quyết .
Khi việc kiện-tụng đã được xét sử xong
thì phe thắng kiện lại bắt đầu thu thuế của
những người đến hành-hương, nhưng vào lúc
ấy thì số người tăng lên, không những vào ngày
lễ mà còn suốt cả năm .
Vì sự-kiện của Ngài Bhagavan đã thu hút
họ đến, do đó tiền thu thuế trở thành tiền bán
vé để được gần Ngài Bhagavan. Để cho lệ đó
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
107
không thành chính-thức, Ngài Bhagavan bỏ
động và đi xuống cư-trú dưới một gốc cây trên
một cái bệ phẳng và rộng. Nhưng người thu
thuế lại mở rộng giới-hạn quyền thu thuế bao-
hàm cả gốc cây nơi Ngài Bhagavan cư-ngụ.
Ngài Bhagavan lại phải rời gốc cây ấy để
xuống một cái động của đạo-sĩ Sadguru
( Chân - Sư-phụ ) ở phiá dưới. Được ít lâu Ngài
lại dời đến một cái động thứ ba .
Làn sóng người hành-hương đến Viru-
paksha chấm-dứt và người sử-hữu-chủ nhận
thấy mình chỉ quấy-rầy đạo-sĩ, mà không thu
được lợi-tức gì cả. Ông ta bèn cầu xin Ngài
Bhagavan trở lại với lời hứa của ông ta là
không thu thuế nữa khi đạo-sĩ còn ở tại động.
Ngài Bhagavan đã ở lại với điều-kiện đó .
Vào mùa hè trời hết sức nóng-nực, trong
động Virupaksha có một cái động khác ở gần
một cái ao tên là Mulaipaltirtha dưới chân đồi.
Động này mát hơn mà người ta lại còn thấy có
nước uống trong sạch, có một cây măng-cụt
ADPH RAMANA MAHARSHI
108
che-phủ rợp bóng. Động này mang tên là động
măng-cụt. Có hai anh em người kia, vì ngưỡng-
mộ Ngài Bhagavan bèn cho nổ tảng đá ở phiá
trên để xây một bức mái hiên và trổ một cái
cửa thông-suốt. Ngài Bhagavan đã sống mùa
hè ở trong động đó .
Năm 1900, ít lâu sau Ngài Bhagavan di
chuyển đến núi, có một tín-đồ tên là Mallapillai
từ Kumbakkenam đến tỉnh Tiruvannamalai
chụp một bức hình Ngài. Đó là bức-hình đầu
tiên mà chúng ta có được về Ngài. Một bức
hình của Ngài thời niên-thiếu chưa trưởng-
thành nhưng đã có một sức mạnh tinh-thần sâu
rộng của Bhagavan. Trong những năm đầu
Ngài ở tại núi này, Ngài vẫn giữ thái-độ yên-
lặng tịch-khẩu, sức mạnh tâm-linh của Ngài
phản-chiếu ra ngoài và đã thu-hút được một số
tín-đồ, rồi một Tùng-lâm đã bắt đầu dựng lên.
Không những Ngài thu-hút những người
chuyên cầu tìm chân-lý, mà còn cả những
người chất-phác, cả những trẻ em và thú-vật.
Những đứa trẻ nhỏ ở trong tỉnh cũng leo lên
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
109
núi tới tận động Virupaksha để ngồi chung-
quanh dưới chân Ngài, chơi nghịch một lát rồi
trở về với sự hớn-hở sung-sướng. Có những
con vật như con sóc, con khỉ đến ăn tận tay
Ngài. Tùy cơ-hội, Ngài Bhagavan có viết
những giáo-lý và chú-thích cho đệ-tử, nhưng
Ngài vẫn không dùng tới ngôn-ngữ. Tuy vậy
mà sự giáo-huấn đệ-tử không vì thế mà thiếu
hiệu-năng ngay ở tại bước đầu và về sau, vì đến
khi Ngài lại tập quen với sự phát-biểu ra ngôn-
ngữ, thì giáo-huấn chính-thức của Ngài vẫn là
yên-lặng theo truyền-thống Dakshinamurthi,
truyền-thống ấy đã có ở Trung-Hoa trong học-
phái của Lão-Tử và Đạo-gia :
( )_ ( )
" Đạo khả đạo phi thường đạo "
_ ( Đạo Đức Kinh )
( Chân-lý mà có thể nói ra được thì không
phải là chân-lý vĩnh-cửu ) .
Giáo-lý vô-ngôn ấy là một chí-hướng
chính-xác về tâm-linh-học mà tinh-thần thâu-
ADPH RAMANA MAHARSHI
110
hóa và giải-thích tùy theo với trình-độ của đệ-
tử. Người khách Âu-Tây đến thăm viếng đạo-sĩ
đã ghi lại những điều mắt thấy tai nghe như
sau :
" Khi đến động chúng tôi ngồi
xuống dưới chân Ngài Bhagavan. Chúng
tôi ngồi yên-lặng như thế một hồi lâu và
tôi cảm thấy tinh-thần vươn lên lâng-lâng
ra ngoài thân-thể tôi. Suốt nửa giờ đồng-
hồ, mắt tôi chìm sâu vào mắt của Ngài
Bhagavan. Mắt của Ngài vẫn không
ngừng cái vẻ trầm-tư mặc-tưởng. Tôi bắt
đầu hiểu ra rằng cái thân-thể người ta là
một lâu-đài chứa-đựng Thánh-linh, tôi
cảm thấy rằng thân-thể này không phải là
Người nữa, nó chỉ là công-cụ của bề-trên,
một xác chết bất-động, trong đó thần-linh
chiếu sáng rực-rỡ đáng sợ. Điều mà tôi
cảm thấy không sao diễn-tả hết được . "
_ ( Theo một lá thư gửi cho người bạn
của Humphreys đăng trên tạp-chí " Tân-
học Quốc-tế " .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
111
Một người Âu khác tên là Paul Brunton,
khi mới đến thì hoài-nghi nhiều hơn là tin-
tưởng, y đã kể lại như sau sự rung-động đầu
tiên do sự yên-lặng của Ngài Bhagavan đã gợi
lên :
" Tôi chủ-trương từ lâu rằng người
ta có thể hiểu tâm-hồn người khác bằng
cách nhìn sâu vào mắt y, nhưng với đôi
mắt của Ngài Bhagavan thì tôi ngần-ngại,
lúng-túng và hoang-mang ...
" Tôi không thể nào dời đôi mắt của
tôi khỏi mắt Ngài. Sự hoang-mang muốn
xâm-chiếm lấy tôi, sự kinh-hoàng, trong
đó cái cảm-giác chết thì hoàn-toàn bị tiêu-
tan bởi sự hấp-dẫn mãnh-liệt dần dần tác-
động ở nơi tôi. Nhưng chỉ tới giờ thứ hai
của cảnh-tượng kỳ-lạ ấy tôi mới tri-giác
được sự biến-đổi yên-lặng tâm-hồn tôi
một cách không sao chống-cự được.
Những thắc-mắc và những câu chất-vấn
mà tôi đã sửa-soạn trong khi đi xe-lửa tới
đây dần dần tan-biến hết, bởi vì bây giờ
những vấn-đề ấy có đặt ra hay không
ADPH RAMANA MAHARSHI
112
cũng không quan-trọng nữa và cũng
không quan-trọng gì tới những điều mà
tôi có thể tự giải được cho những vấn-đề
này. Tôi chỉ biết có một điều là một giòng
êm-đềm bình-tĩnh dường như đang chảy
bên cạnh tôi, một sự an-tĩnh vĩ-đại đang
thâm-nhập sâu vào tâm-hồn tôi ; tinh-thần
tôi bị khắc-khoải bởi những tư-duy, nay
đã tìm thấy sự bình-tĩnh . "
Ân-điển của Ngài Bhagavan không những
chỉ đem lại sự bình-tĩnh cho tâm-hồn trí-thức
mà còn cho cả những tâm-hồn quằn-quoại bởi
đau-khổ .
Ở Tùng-lâm có một phụ-nữ được gọi tên
là Echammal, tên trước kia của bà là
Lakshiammal. Bà ta vốn là một người vợ và
người mẹ hiền ở trong làng Mandakelathur. Bà
bi goá chồng từ năm 24 tuổi, đồng thời cũng
mất luôn cả đứa con trai độc-nhất. Bà bị
khủng-hoảng bởi hai cuộc thử-thách ghê-gớm
ấy, bà quằn-quoại vì lòng tưởng-nhớ không còn
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
113
tìm thấy ở đâu sự an-ủi, đến nỗi bà không còn
muốn ở lại quê-hương, nơi mà bà đã từng được
hưởng hạnh-phúc của mình trước kia. Bà
tưởng-tượng có thể quên được nỗi buồn-phiền
bằng cách đi đến tỉnh Dokarnam, gần tiểu-bang
Bombay để phục-vụ các vị Thánh sống ở tại
đấy, nhưng rồi bà lại trở về với tất cả nỗi đau-
khổ như trước. Những bạn của bà nói cho bà
biết có một đạo-sĩ trẻ ở Tiruvannamalai, Ngài
có thể đem lại sự an-vui cho người cầu-tìm, Bà
liền khởi-hành ngay tới Tiruvannamalai. Bà có
một số họ-hàng ở trong tỉnh, nhưng bà không
đến với họ, vì chỉ nhìn thấy họ cũng sẽ thức-
tỉnh ở bà ký-ức đau-đớn. Cùng đi với một
người bạn, bà leo thẳng lên đồi để tìm đến vị
đạo-sĩ. Khi đến trước mặt đạo-sĩ, bà đứng yên-
lặng không nói chi đến nỗi đau lòng của mình
cho đạo-sĩ biết. Điều ấy là vô ích, chỉ với vẻ
nhìn trong con mắt từ-bị của đạo-sĩ cũng đã đủ
soa dịu nỗi thống-khổ của bà. Bà đứng lặng
một giờ lâu, không động-đậy, không nói một
lời, rồi bà lui gót trở về tỉnh. Chân bước nhẹ-
nhàng, gánh nặng đau buồn tiêu-tan hết .
ADPH RAMANA MAHARSHI
114
Từ đấy hàng ngày ba lên chầu đạo-sĩ, vì
đạo-sĩ lúc này đối với bà là mặt-trời làm tiêu-
tan hết mây mù buổn thảm. Bây giờ thì bà có
thể ôn lại quá-khứ mà không còn thấy chua sót.
Từ đấy bà ở lại núi Tiruvannamalai đến trọn
đời. Bà thuê một căn nhà nhỏ để ở, nhờ số tiền
của người cha để lại với sự giúp-đỡ của người
anh trai. Có nhiều người được hưởng ân-huệ
cúng-dường của bà. Hàng ngày bà dọn cơm
dâng lên đạo-sĩ, cơm cúng-dường ấy là công-
quả của toàn-thể Tùng-lâm, bởi vì đạo-sĩ không
nhận một cái gì mà không chia sẻ cho toàn-thể
tín-đồ. Bà leo giốc núi và tự mình đội thực-
phẩm lên Tùng-lâm, cho đến khi vì tuổi tác và
sức-khoẻ không cho phép bà tiếp-tục công việc
ấy nữa, và bà không bao giờ ăn trước khi hầu-
hạ cho mọi người ăn xong .
Vì số tín-đồ ở Tùng-lâm càng ngày càng
đông, bà Echammal không thể cáng-đáng hết
số phần ăn, nên bà chỉ có thể cống-hiến được
một số phần nhỏ cho bữa ăn công-cộng, đạo-sĩ
Bhagavan cũng cố chờ để khỏi làm cho bà thất
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
115
vọng. Mặc dầu những buồn-phiền quá-khứ đến
nay bà đã tìm được sự an-tâm, nhưng tình mẫu-
tử của bà còn nặng, để cố tìm bám lấy một đứa
con, bà bèn nuôi một đứa con gái nuôi sau khi
đã xin phép Ngài Bhagavan. Gặp cơ-hội, bà
thu-xếp gả chồng cho đứa con nuôi ấy, và bà
được thấy hạnh-phúc khi có một đứa cháu trai
ra đời, bà đã đặt tên cho nó là Ramana. Nhưng
một ngày kia, không có gì báo trước, bà nhận
được điện-tín báo cho bà biết về cái chết của cô
con gái nuôi của bà, nỗi đau khổ lại hiện lên
dầy-vò trở lại. Bà vội chạy lên, đem theo bức
điện-tín cho đạo-sĩ xem, đạo-sĩ đọc điện-tín
mắt đầy lệ. Bà Echammal đi dự đám tang, lòng
buồn rười-rượi, tuy được an-ủi nhưng vẫn
buồn-thảm và trở lại núi với đứa cháu bé trên
tay .
Đặt đứa trẻ vào tay đạo-sĩ, một lần nữa
đạo-sĩ lại khóc, lòng từ-bi thương-hại của Ngài
đã đem lại an-tĩnh cho bà Echammal .
ADPH RAMANA MAHARSHI
116
Bà Echammal thực-hành khoa đạo-dẫn
Yoga. Bà đã được một đạo-sĩ khác ở miền Nam
Ấn-độ dạy cho sự luyện-tập khoa tập-trung
tinh-thần ( khoa thiền-định ). Bà chuyên-chú
nhìn vào đầu mũi và thường ngồi tọa-định,
thần-hóa vào ánh-sáng mà bà đã thấy ở đàng
trước mặt. Trạng-thái ấy có khi kéo dài hàng
giờ, trong khi ấy bà Echammal không động-
đậy, thân-thể đối với bà hình như không có
nữa. Khi đó có người đến báo cho đạo-sĩ biết.
Đạo-sĩ yên-lặng không nói gì, sau cùng tự bà
kể lại trạng-thái thần-hóa của bà cho đạo-sĩ
nghe, đạo-sĩ đã khuyên bà nên thôi, không nên
thực-hành khoa đạo-dẫn ấy nữa. Đạo-sĩ nói :
" Ánh-sáng bên ngoài mà con thấy
trước mắt không phải là đối-tượng thật
mà con đi tìm, con phải để nguyện-vọng
vào sự thực-hiện Tự-Tính, ngoài ra không
còn gì khác nữa ."
Sau đó bà Echammal bỏ thực-hành khoa
đạo-dẫn và bà đặt hết tin-tưởng vào Ngài
Bhagavan .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
117
Có một hôm, một nhà thông-thái tên là
Sastri ở Bắc Ấn nói với đạo-sĩ Bhagavan lúc ở
trong động rằng khi bà Echammal đem cơm
đến, bà có vẻ bối-rối xúc-động, toàn thân run-
rẩy. Hỏi bà về sự xúc-động ấy, bà đáp rằng khi
đi trên đường qua cửa động của đạo-sĩ
Sadguru, bà thấy đạo-sĩ Bhagavan đi với một
người lạ. Bà tiếp-tục đi thì có tiếng gọi : " Tại
sao còn đi xa nữa vì ta ở đây mà ? " Bà quay
lại xem tiếng nói của ai thì không thấy ai cả, bà
hoảng-sợ chạy vội về Tùng-lâm. Bấy giờ đạo-sĩ
Sastri hỏi lại sư-phụ Bhagavan như thế là thế
nào, trong khi sư-phụ với tôi đang đàm-đạo thì
Ngài lại hiện ra với người phụ-nữ trên đường
đi, sao Ngài không ban cho tôi một dấu-hiệu
ân-điển gì cả. Bấy giờ Ngài Bhagavan giải-
thích rằng : " Sự thấy tôi thị-hiện của Echam-
mal là do bà tập-trung tư-tưởng liên-tục vào
tôi ". Bà Echammal không phải chỉ riêng một
mình từng có sự thị-hiện của Ngài Bhagavan,
tuy rằng theo ý bà, bà không từng có thấy sự
thị-hiện nào khác làm cho bà sợ-hãi. Vài năm
sau, một người đã có tuổi cũng đến cư-ngụ tại
ADPH RAMANA MAHARSHI
118
Tùng-lâm dưới chân núi. Sau bữa cơm, ông ta
đi dạo quanh núi, và bị lạc đường. Trời nóng
bức, ông ta cảm thấy mệt mỏi, tìm mãi không
thấy lối về, ông đang ở trong tình-trạng tuyệt-
vọng. Lúc ấy Ngài Bhagavan thị-hiện và Ngài
chỉ đường cho ông về Tùng-lâm. Mọi người ở
Tùng-lâm đang lo sợ cho ông, khi họ thấy ông
về, họ bèn hỏi nguyên cớ. Ông nói :
" Tôi chỉ muốn đi chơi quanh núi
một vòng, nhưng tôi lại bị lạc lối. Sự
nóng nực và mệt mỏi đã làm tôi kiệt sức,
tôi đang ở trong tình-trạng lo buồn không
biết phải làm thế nào thì thấy có Ngài
Bhagavan cùng đi một đường với tôi,
Ngài đã chỉ cho tôi biết đường về Tùng-
Lâm ."
Mọi người đều kinh-ngạc vì Ngài
Bhagavan không từng rời Tùng-lâm lúc nào .
Ông Rudra Raj Paude là hiệu-trưởng một
trường Đại-học ở Népal, ông đến đây cùng với
một người bạn để làm lễ ở đền thờ Tiruvan-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
119
namalai. Trước khi rời khỏi tỉnh này, ông đã kể
lại :
" Cánh cửa của đền mở toang, người
hướng đạo dẫn tôi vào cung-điện, nơi mờ-
ảo thiếu ánh-sáng trước ánh đèn dầu le-
lói, bạn tôi đang cầu-nguyện. Tiếng cầu-
nguyện vang lên : Arunachala ! Tất cả ý
muốn của tôi là để thấy được hình-ảnh
linh-phù ( Linh-phù, Lingam tức là pho-
tượng tiêu-biểu cho thần-linh tối-cao
vĩnh-cửu ở thâm-cung ). Lạ thay, ở chỗ
đáng lẽ là hình-ảnh của Linh-phù tôi lại
thấy sự hiện-diện của Ngài Bhagavan
Maharshi Ramana. Hình-ảnh của Ngài
mỉm cười, hai mắt long-lanh nhìn tôi.
Một điều lạ hơn nữa là không những chỉ
có một Ngài Bhagavan thị-hiện mà còn có
vô số Ngài Bhagavan. Tôi nhìn thấy hàng
trăm Ngài Bhagavan, tất cả đều mỉm cười
và mắt long-lanh như nhau ; bất cứ nơi
nào mà tôi quay mặt nhìn tới, bất cứ nơi
nào ở chốn tối-linh đều có sự thị-hiện của
Ngài. Mắt tôi không nhìn thấy tất cả hình-
ADPH RAMANA MAHARSHI
120
thể của Ngài Bhagavan mà chỉ có bộ mặt
mỉm cười trên miệng, từ cầm trở lên. Tôi
ở trong trạng-thái xuất-thần ngoài ý muốn
của tôi. Tâm-hồn tôi tràn ngập hân-hoan,
làm sao có thể diễn-tả được trạng-thái
hân-hoan ấy, một trạng-thái của tâm-hồn
an-lạc. Nước mắt sung-sướng của tôi
chảy ròng theo đôi má. Tôi bèn đi đến núi
Arunachala để chiêm-ngưỡng Ngài Bha-
gavan, và tôi thấy Ngài luôn luôn biểu-
hiện linh-hoạt trước mắt tôi. Từ đấy
không bao giờ tôi quên được sự thực-
nghiệm quý báu trong đền-thờ cổ-kính
đó ."
Tuy nhiên, Ngài Bhagavan không từng
khuyến-khích đệ-tử cầu tìm sự thị-hiện của
Ngài, đồng thời các đệ-tử và các tín-đồ cũng ít
ai thấy được sự thị-hiện ấy .
Vào thời-gian này đạo-sĩ Seshadri là
người trung-tín nhất của Ngài Bhagavan. Chính
ông là người đầu tiên đã sua đuổi lũ trẻ đến
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
121
quấy nhiễu khi Ngài mới đến Tiruvannamalai.
Hiện nay ông sống tại sườn núi không xa với
động Virupaksha, nơi Tùng-lâm của Ngài, và
ông luôn luôn đến thăm hỏi Ngài .
Ông đã đạt được trình-độ rất cao về tâm-
linh và hơn nữa ông có một diện-mạo thanh-tú,
tươi đẹp như bức ảnh còn lại của ông đã cho
thấy. Ở nơi ông có thể nói có một cái gì phiêu
nhiên xa vời. Người ta khó mà đến gần ông và
ông cũng rất ít nói năng, mỗi khi ông nói ra đều
là những lời sấm-ký, bí-hiểm. Ông bỏ nhà ra đi
từ năm 17 tuổi, ông đã được khai-ngộ về các
thần-chú. Sự khai-ngộ đó phát-triển về năng-
lực thần-thông, người được khai-ngộ có khi
suốt đêm ở tại nghĩa-địa để gọi lên nguyên-lực
dương-khí .
Không những đạo-sĩ Seshadri khuyên-
nhủ mọi người đến với Ramana, tức là Ngài
Bhagavan, mà có vài trường-hợp ông còn
đồng-nhất-hóa với Ngài Bhagavan. Ông có
khả-năng đọc được tư-tưởng người khác. Khi
ADPH RAMANA MAHARSHI
122
Ngài Bhagavan nói một vài lời với tín-đồ, ông
có thể bảo : " Tôi đã bảo anh làm điều này điều
nọ sao anh còn hỏi nữa ". Hay là ông nói : Tại
sao anh đã không kịp làm ? "
Ít khi ông khai ngộ cho một người nào,
nếu người cầu-khẩn đã là tín-đồ của Ngài
Bhagavan rồi thì Seshadri nhất-định từ-chối lời
cầu xin ấy. Ông nói : " Hãy ở yên vị-trí của
mình để theo sự chỉ-định Tối-cao ".
Hiếm-hoi mới có trường-hợp ông thực
khuyến-khích một tín-đồ trên đường tu-luyện,
hoạt-động để cầu tìm giác-ngộ .
Thời-gian ấy có một người tên là Mudali
cùng với mẹ và vợ thường sửa-soạn món ăn
cho các tu-sĩ. Cũng như bà Echammal, ông ta
hàng ngày đem cơm đến cúng-dường đạo-sĩ và
cho Tùng-lâm, đồng thời ông cũng cúng-dường
cả cho Seshadri khi nào ông ta trông thấy, cùng
hồi này có Subramania, là sở-hữu-chủ về đất-
đai, ông ta đang theo đuổi một vụ kiện để làm
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
123
cho tăng thêm tài-sản của mình. Đạo-sĩ
Sesasdri phàn-nàn về ông này vì ông ta đã là
một người sùng-tín có tuổi mà vẫn còn có sự
hệ-lụy, chấp-trước. Đạo-sĩ khuyên ông nên bỏ
những lo-lắng về tài-sản để hiến thân hoàn-toàn
cho sự cầu tìm Thượng-Đế và để tự mình tăng-
tiến về tâm-linh. Subramania nói : " Đạo-sĩ
không thấy đấy à, em tôi được lợi-tức mười
ngàn rupi, mà tôi chỉ có một ngàn rưởi mà thôi,
tại sao tôi lại không cố-gắng để có thêm ? "
Người em nhỏ của ông ta chính là đạo-sĩ
Ramana có được " lợi-tức " mà lợi-tức đó chỉ là
cái vốn tâm-linh. Vì Subramania không
nhượng-bộ lời yêu-cầu của Seshadri, khi lời
yên-cầu ấy càng khẩn-thiết thì Seshadri bảo với
Subrania rằng anh đã phạm tội giết một người
Bà-la-môn. Không có thể tin-cậy vào một ai
khác nữa, Subramania đặt hết niềm tin vào
Ngài Bhagavan nên hỏi Ngài về những điều mà
Seshadri nói là có đúng không. Ngài Bhagavan
đã giải-thích lời nói của Seshadri như sau :
" Phải. Y có thể nói rằng anh đã giết Đại-Ngã
ADPH RAMANA MAHARSHI
124
Brahman, bởi vì anh không hiểu rằng chính anh
là Đại-Ngã Brahman . "
Một hôm đạo-sĩ Seshadri ngồi trong động
Măng-cụt đăm đăm nhìn để cố đọc được tư-
tưởng của Ngài Bhagavan, nhưng tâm-hồn của
Ngài chìm vào trong sự an-tĩnh tâm-linh,
không biểu-biện mảy-may qua tư-tưởng. Thất
vọng, Seshadri kêu lên : " Điều mà Ngài vừa
tư-duy không rõ-rệt ! "
Ngài Bhagavan vẫn giữ yên-lặng và đạo-
sĩ Seshadri vẫn tiếp-tục nói : " Nếu một người
nào phụng-thờ thần Arunachala thì Thần sẽ ban
cho sự cứu-độ ". Bấy giờ Ngài Bhagavan mới
hỏi : " Ai là người phụng-thờ và cái gì là vật
được phụng-thờ ? "
Seshadri phá lên cười, nói : " Chính cái ấy
mới không rõ-rệt ".
Ngài Bhagavan bắt đầu giải-thích chi-tiết
giáo-lý của Ngài về Tự-Tính Duy-nhất biểu-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
125
hiện ra thiên-hình vạn-trạng của vũ-trụ, tuy
nhiên nó vẫn tự-tại và tuyệt-đối bất-biến không
bị thay-đổi bởi sự biểu-hiện của nó, Thực-tại
Duy-nhất và Tự-tính Tối-cao của người sùng-
bái. Đạo-sĩ Seshadri kiên-nhẫn nghe lời giảng
của Ngài Bhagavan, sau cùng đứng dậy nói :
" Tôi không biết nói thế nào, tất cả đều mờ mịt
đối với tôi, dù sao tôi vẫn sùng-bái ."
Nói dứt lời, đạo-sĩ Seshadri đứng dậy,
quay mặt về núi Arunachala lễ mấy lễ rồi đi .
Tuy nhiên đạo-sĩ Seshadri cũng có khi
đứng ở quan-điểm Duy-Nhất để nói : tất cả đều
là biểu-hiện của Tâm-linh ( Tự-Tính ), nhưng
bất cứ ở quan-điểm nào ông đứng nhìn, ông
đều biết trình-bày tư-tưởng của mình một cách
khô-khan và hài-hước lạ-thường. Một hôm
đạo-sĩ Narayana thấy ông nhìn chăm-chú con
trâu, bèn hỏi :
_ Đạo-sĩ đang nhìn cái gì đó ?
_ Tôi nhìn Cái Ấy ( Tự-Tính )
ADPH RAMANA MAHARSHI
126
Đạo-sĩ Narayana nhắc lại :
_ Phải chăng con trâu mà ngài đang nhìn?
Chỉ vào con trâu, đạo-sĩ Seshadri hỏi lại :
_ Hãy nói cho ta biết Cái Ấy là cái gì ?
Narayana trả lời :
_ Nó là con trâu .
Seshadri nổi xùng, mắng :
_ Trâu, chính anh là trâu. Hãy gọi Cái Ấy
là Đại-Ngã ( Tự-Tính ). Nói xong ông quay
lưng đi khỏi người đối-thoại .
Đạo-sĩ Seshadri tịch vào tháng giêng năm
1929, ở trường-hợp của một vị đã thành Thánh
thì thi-hài của Ngài không thiêu mà đem chôn.
Ngài Bhagavan đến dự đám tang trong yên-
lặng. Seshadri được thờ ở đền Tiruvannamalai,
và đến ngày kỵ thì người ta rước ảnh ông đi
trong thành-phố Tiruvananamalai .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
127
Trong những năm đầu Ngài Bhagavan ở
trên núi thì sự trở về đời dần dần biểu-lộ. Ngài
bắt đầu đi dạo chơi chung-quanh núi, Ngài
thám-hiểm núi. Ngài đọc sách và viết lại những
lời chú-giải về những sách mà Ngài đã đọc .
Một đạo-sĩ tên là Padmanabha cũng có
tên khác là đạo-sĩ Jatai, bởi vì tóc của ông rối-
bời. Ông cũng đã kết-hợp thành một Tùng-lâm
ở trên núi và có sưu-tập một số kinh-điển chữ
Phạn. Những sách ấy trình-bày về trí-thức tâm-
linh và khoa-học ứng-dụng, lấy tâm-linh làm
cơ-bản cũng như Ayurveda ( Y-học truyền-
thống Ấn-Độ ). Ngài Bhagavan đến thăm đạo-
sĩ ấy và xem qua những bộ sách của ông ta,
Ngài liền nắm ngay được tinh-hoa của sách và
ghi nhớ trong ký-ức, đến nỗi không những
Ngài có thể đọc lại mà còn trích-dẫn từng
chương, từng đoạn đã có ở trong sách. Chính
đạo-sĩ Padmanabha thường gọi đến uy-tín của
Ngài trong những cuộc tranh-luận về các điểm
học-thuyết. Người ta truyền-tụng trong Kinh
Puranas rằng ở sườn phiá Bắc núi Arunachala
ADPH RAMANA MAHARSHI
128
gần đỉnh núi có một vị Tiên có khả-năng thần-
thông, tên là Arunagiri Yogi, Ngài thường ngồi
ở dưới gốc một cây chuối cổ-thụ tại một nơi
hiểm-trở, khó có người nào có thể đặt chân tới
được. Vị Tiên thần-thông ấy thuyết-giảng một
cách yên-lặng. Một bàn-thờ được dựng ở trong
đền Arunachala để thờ vị ấy. Lịch-sử cho rằng
ân-điển của đạo-sĩ hướng-dẫn mọi người yên-
lặng trên con đường tìm-tòi Tự-Tính để đi tới
giải-thoát. Ân-điển ấy không thể đạt được vào
thời-đại tối-tăm, mạt-pháp, tuy nhiên ân-điển
vẫn tiềm-tàng. Ý-nghĩa tượng-trưng của đoạn
dã-sử này không phải là không thật, không làm
cho nó kém phần chính-xác theo nguyên-văn .
Việc xẩy ra vào năm 1906, Ngài
Bhagavan lần theo lòng một con suối cạn ở
sườn núi phiá Bắc, Ngài bắt gặp một tầu lá
chuối khổng-lồ, khá lớn có thể dùng làm mâm
để dọn cơm. Ngài kết-luận rằng tầu lá chuối
này phải từ giòng nước cuốn tới đây. Ngài
muốn tìm tới cây chuối đã có tầu lá khổng-lồ
ấy, Ngài bèn leo ngược giòng suối rất vất-vả,
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
129
cực-nhọc, mới tới được một chỗ mà Ngài thấy
một bàn-thạch. Trên bàn-thạch đó có một cây
chuối mà Ngài đang đi tìm. Đó là một cây
chuối vĩ-đại, có những tầu lá xanh đậm. Ngài
Bhagavan rất kinh-ngạc vì thấy một cây chuối
mọc trên một bàn đá trơ-trọi. Ngài tiếp-tục đi
lên, nhưng tới gần đỉnh Ngài vấp phải một tổ
ong. Những con ong nổi-giận đốt chân Ngài.
Ngài đứng yên để mặc cuộc hành-phạt của đàn
ong kết-thúc, Ngài tự nhận là mình có tội vì đã
phá một đàn ong. Ngài tự cho đó là triệu-trứng
báo cho Ngài không được tiến lên nữa, Ngài
liền quay về động của Ngài. Nhóm tín-đồ ở
Tùng-lâm đang lo sợ về sự vắng mặt của Ngài,
họ rất kinh-ngạc khi thấy Ngài trở về với chân
tấy sưng vì bị ong đốt. Ngài Bhagavan sau này
có chỉ rõ chỗ có cây chuối vĩ-đại, nhưng khó có
người nào đến được đấy và Ngài cũng không
có ý muốn làm lại cuộc mạo-hiểm tìm đến đấy
nữa. Ngài cũng cản đệ-tử để bỏ hoài bão đi tìm
cây chuối ấy. Một nhóm đệ-tử thân-cận, trong
đó có một người Anh tên là Thomson quyết-
định đi tìm bằng được. Sau một cuộc mạo-hiểm
ADPH RAMANA MAHARSHI
130
leo núi, những người leo núi đều lâm vào một
cảnh-ngộ nguy-hiểm đến có lúc sợ-hãi không
còn dám leo lên hoặc trở xuống nữa. Họ bèn
cầu-nguyên để Ngài Bhagavan đến cứu-độ, sau
cùng họ trở về động an-toàn. Có những người
khác cũng cố làm lại cuộc mạo-hiểm nhưng
đều không đi tới kết-quả, mạc dầu Ngài
Bhagavan không tán-thành ý-kiến, mà Ngài
cũng không cản-trở công-khai. Sự thông hiểu
về điều gì thích-hợp hay không, phải là sự
thông hiểu nội-tâm. Ở trường-hợp này thì
những nỗ-lực của đệ-tử để thành-công trong sự
việc mà sư-phụ không đồng tình, đó là một
việc không thích-đáng. Có một thời-gian Ngài
Bhagavan đi phiêu-lưu chung-quanh núi hoặc
leo lên đỉnh núi. Như thế Ngài đã làm một cuộc
hành-hương và đã biết chi-tiết ngọn núi. Một
hôm Ngài đi chơi một mình, Ngài đi qua trước
mặt một bà già đang nhặt củi khô ở sườn núi.
Bà này có vẻ thuộc loại hạ-cấp ngoài bốn giai-
cấp chính. Bà nói với đạo-sĩ trẻ tuổi bằng giọng
bình-đẳng không e-sợ. Bằng một giọng chửi
rủa đê-tiện hạ-cấp, bà nói : " Anh hãy leo lên
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
131
đài thiêu ! Tại sao anh đi lang thang dưới mặt-
trời ? Tại sao anh không ngồi yên một chỗ ? "
Ngài Bhagavan tự nhủ : " đây không phải là
người đàn bà hà-tiện tầm-thường ; ai mà biết
được bà là ai ? " Chắc-chắn là không có một
người đàn bà ở cấp nào có một luận-điệu như
thế đối với một đạo-sĩ. Nhóm tín-đồ khi nghe
Ngài Bhagavan kể lại chuyện ấy tin chắc là
Ngài đã gặp sự biểu-hiện của Thần núi
Arunachala. Kể từ đấy Ngài Bhagavan không
còn dám đi phiêu-lưu trên sườn núi nữa .
Cuộc hành-trình của Ngài Bhagavan đến
tỉnh Tiruvannamalai, chân ngọn núi Aruna-
chala như đã kể ở trên diễn ra trong trạng-thái
Thần-hóa. Trạng-thái ấy chỉ chấm-dứt vào năm
1912 khi Ngài thực-nghiệm cuối cùng về sự
chết. Một buổi sáng Ngài từ-giã động Viru-
paksha cùng với một số đệ-tử là đạo-sĩ
Palaniswami, đạo-sĩ Vasudevasastri và một số
người khác tới Pachalamman. Tới nơi Ngài có
tắm dầu và khi cả bọn trở về tới Tảng-đá Con
Rùa ( Tortoise Rock ) thì Ngài thấy một hiện-
ADPH RAMANA MAHARSHI
132
tượng là mất hết cả sức-lực. Sau này Ngài có
mô-tả lại trạng-thái ấy như sau :
" Cảnh-tượng trước mắt tôi biến mất
vì một màng mây trắng chói-lọi ngăn-cản
cảnh-tượng, không cho tôi thấy nữa. Tôi
tri-giác tất cả những điều đang xẩy ra.
Khởi thủy tôi còn thấy một phần của
cảnh-tượng trong khi làn mây lần lần tiến
tới che-lấp hẳn cảnh-tượng ấy. Người ta
có thể ví làn mây như một bức chấn-
phong, nó rơi xuống trước ống nhòm kính
để che lấp hoàn-toàn thị-giác. Bấy giờ tôi
đứng lại vì sợ ngã, khi ánh-sáng trở lại,
tôi lại tiếp-tục đi, nhưng rồi kiệt sức và
sức yếu-đuối lại một lần nữa bao-trùm lấy
tôi, tôi phải vịn vào một tảng đá, chờ, để
trở lại trạng-thái bình-thường. Lần thứ ba,
tôi cảm thấy khôn-ngoan hơn là nên ngồi
xuống gần táng đá. Khi tấm màn sáng
chói-lọi tràn ngập hết nhãn-giới của tôi
thì đầu tôi choáng-váng, tim và hơi thở
ngừng lại, máu không chạy và tôi hết thở.
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
133
Mặt tôi xanh mét, đó là mầu của xác chết
và nó càng trở nên trầm-trọng. Đạo-sĩ
Sastri tưởng là tôi đã chết, ông ôm tôi
trong vòng tay khóc-lóc kêu than về cái
chết của tôi. Tôi cảm thấy rõ-rệt ông ta
ôm chặt lấy tôi và run-rẩy, tôi nghe rất rõ
tiếng than-vãn của ông, và tôi hiểu cả ý-
nghĩa của nó. Tôi cũng nhìn thấy cả da
của tôi đổi mầu trắng phếch. Tôi tri-giác
thấy cả sự ngừng đập của trái tim và hơi
thở cũng như sự lạnh dần chân tay, thân-
thể. Tuy nhiên trạng-thái ý-thức bình-
thường của tôi vẫn không thay đổi, tôi
không có chút sợ-hãi nào cả, tôi cũng
không buồn-phiền gì về trạng-thái đó của
thể-xác tôi .
" Tôi bèn ngồi tựa vào tảng đá theo
dáng-điệu thông-thường, nhắm mắt lại và
không tựa vào tảng đá như trước. Trong
thân-thể tôi máu ngưng chạy. Tôi giữ
thái-độ đó khoảng mười lăm phút, có một
sự đập mạnh nào đó làm tôi rùng mình,
máu trong người trở lại đập rất mau, tim
ADPH RAMANA MAHARSHI
134
và hơi thở cũng thế, mồ-hôi toát ra từ các
lỗ chân-lông và mầu da tôi lại trở lại có
sinh-khí. Tôi liền mở mắt ra, đứng dậy,
nói : " Thôi chúng ta hãy đi ". Chúng tôi
trở về một cách trôi chảy. Tới động
Virupaksha không có gì xấy ra nữa. Đó là
lần khủng-hoảng độc-nhất, kèm theo với
sự máu và hơi thở ngừng lưu-thông mà
tôi đã trải qua ."
Ngài Bhagavan có thêm một đoạn sau đây
vào sự thực-nghiệm trên để tu-sửa lại những lời
truyền-tụng sai lầm :
" Tôi không có dụng ý tạo ra trạng-
thái khủng-hoảng bi-đát đó. Và tôi cũng
không muốn nhìn thấy cái thể-xác này sau
khi chết. Tôi cũng không muốn nói rằng
tôi muốn rời bỏ thể-xác này mà không
báo trước cho người thân-cận. Tôi đã
từng có nhiều trạng-thái thực-nghiệm
tương-tự như thế, nhưng lần này sự thực-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
135
nghiệm có một hình-thức trầm-trọng đặc-
biệt ."
Điều đáng chú ý nhất trong sự thực-
nghiệm này là nó đã nhắc đi nhắc lại, đi đôi với
một sự chứng-minh cụ-thể, một cách chính-
xác, rằng người ta có thể trải qua sự chết. Sự
thực-nghiệm chính-xác ấy chính là cốt-yếu cho
sự thức-tỉnh tâm-linh của Ngài Bhagavan, nó
nhắc lại lời của thi-sĩ Tamil Thayumanavar mà
Ngài Bhagavan thường nhắc tới :
" Kẻ nào đã khắc-phục được cái vô-
hạn, vô-biên, không có quá-khứ, hiện-tại
và vị-lai, kẻ ấy đã thực-hiện được an-lạc
bất-nhị tuyệt-đối ! "
Có thể rằng sự-kiện xẩy ra trên đây đánh
dấu việc trở về đời sống bình-thường của Ngài
Bhagavan. Người ta khó lòng có thể giải-thích
cho mọi người hiểu cách-thức sinh-hoạt của
Ngài Bhagavan là bình-thường và nhân-bản
đến mức nào. Tuy vậy cũng cần-thiết phải giải-
ADPH RAMANA MAHARSHI
136
thích, ngõ hầu người ta khỏi lầm cách sống
khổ-hạnh và man-rợ đầu tiên của Ngài. Trái lại,
thái-độ tự-nhiên khoáng-đạt của Ngài đã làm
cho người mới tiếp-xúc được thỏa-mãn. Câu
chuyện trao-đổi của Ngài đầy hài-hước và nụ
cười rất dễ gợi cảm hấp-dẫn hồn-nhiên như nụ
cười của đứa trẻ thơ, khiến cho người không
hiểu tiếng nói của Ngài cũng bị lôi cuốn, dễ
lây .
Tất cả những gì liên-can đến Ngài
Bhagavan và Tùng-lâm đều được xếp đặt một
cách tinh-khiết. Sau khi Tùng-lâm được tổ-
chức điều-hòa thì sự sinh-hoạt ở đấy được sắp
xếp có quy-củ, đúng như công việc của một
văn-phòng. Không có một sự cẩu-thả nào của
người phục-vụ trong Tùng-lâm. Tôi thấy một
người lạ bị khiển-trách vì đã lấy một tờ giấy
mới để bọc một quyển sách trong khi đã có một
tờ giấy khác dành riêng cho việc ấy. Đối với sự
ăn uống cũng thế. Ngài Bhagavan đã không để
sót lại một hạt cơm nào trên đĩa lá khi đã ăn
xong. Người ta giữ lại những cuộng rau, những
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
137
vỏ trái cây để nuôi súc-vật. Ở Ngài Bhagavan
có một tinh-thần đơn-giản, hồn-nhiên. Có một
vài việc có thể làm cho Ngài bực mình đôi
chút, chẳng hạn như là khi nào người bếp dành
cho Ngài phần ăn ngon lành, đầy đủ hơn mọi
người. Ngài không thích người ta đứng dậy khi
Ngài đi vào một đám đông, nếu họ đã đứng dậy
thì Ngài ra hiệu lanh-lẹ cho họ, ai ngồi đâu cứ
ngồi đó. Thường vào buổi trưa Ngài đi một
mình xuống núi hướng về phiá Tùng-lâm. Ngài
có tầm-vóc cao lớn, da đen bánh mật, tóc đã
bạc và cử-chỉ lanh-lẹ mảnh-khảnh. Vì bệnh
phong-thấp nên khi Ngài đi Ngài thường cúi
lom khom chống gậy. Một người phục-dịch da
đen vạm-vỡ thường đi theo Ngài. Gập khi nào
có một tín-đồ đi sau, Ngài bèn tránh sang một
bên và nói : " Con còn trẻ hơn ta, con đi được
mau, con đi lên trước ." Cử-chỉ nhã-nhặn, nhẹ-
nhàng nhưng rất đẹp giữa tình thày-trò cũng
nên ghi-chú ở đây .
Người ta có thể tiếp-tục như thế mãi,
những tác-phong có ý-nghĩa của Ngài Bha-
ADPH RAMANA MAHARSHI
138
gavan sẽ được kể lại sau, nhưng hiện giờ ta nên
chỉ chú ý về sự trở lại đời sống bình-thường
của Ngài Bhagavan. Phải nói rằng phong-thái
sống ấy bình-thường đến mực đầy ý-nghĩa
nhân-bản và hòa-nhã .
*********************
*
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
139
- VII -
BẤT BẠO - ĐỘNG NHẪN - NHỤC
Sự bất-bạo-động có vẻ không ứng-dụng
được trong một tôn-giáo đã thành-lập, bởi vì
bất cứ nơi nào cũng có toà-án, công-an, cảnh-
sát và quân-đội, ít ra cũng phải có ở thời cận-
đại .
Tuy vậy, nghĩa-vụ của một tôn-giáo phải
có hai : Nghĩa-vụ nhẹ nhất áp-dụng cho những
người phục-tòng và cho các nước mà nguyên-
tắc ấy đã được thi-hành. Nghĩa-vụ lớn nhất
quan-hệ đến những người đã hiến cuộc đời
mình để theo đuổi con đường đã vạch, hy-sinh
tất cả quyền-lợi thế-tục để cầu tìm ân-huệ.
Chính theo nghĩa thứ hai này là nghĩa cao-cả
mà Ngài Bhagavan chủ-trương, vạch ra con
ADPH RAMANA MAHARSHI
140
đường để chỉ-dẫn cho đệ-tử và rồi cho chính
mình, " Không nên kháng-cự với điều ác ".
Ngài không tuyên-bố điều ấy như là một định-
luật xã-hội có giá-trị đối với toàn-thể cộng-
đồng, nhưng mà là lối sống cho đệ-tử. Cách-
thức sống ấy chỉ có thể thực-hành được cho
những ai quy-y tất cả vào đấng Tối-cao. Và coi
tất cả những gì xẩy ra đều là tất-yếu và công-
bằng, dù rằng đối với người thế-gian đó là một
điều bất-hạnh. Một hôm Ngài Bhagavan nói
với một đệ-tử rằng : " Anh chỉ biết ơn đấngTối-
cao về những điều lành ; chính như thế là anh
sai lầm ."
Người ta có thể phản-đối một tín-ngưỡng
đơn-giản ấy như là khác hẳn với học-lý Đồng-
Nhất-Tính mà Ngài Bhagavan đã giảng-dạy.
Nhưng lý-thuyết ấy chỉ mâu-thuẫn trên bình-
diện trí-thức. Ngài Bhagavan thường nói : " Tất
cả những gì thiết-yếu là phục-tòng đấng Tối-
cao, Sư-phụ và Tự-Tính ". Người ta sẽ thấy ở
chương sau ba sự phục-tòng ấy cũng chỉ là
Một, không có gì khác nhau trên thực-tế. Chỉ
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
141
cần nói ở đây rằng, đối với ai tin chắc vào Tự-
Tính Tối-cao thì tất cả những hoạt-động đối với
thế-gian bên ngoài chỉ là huyễn-ảo hay là hình-
ảnh phản-chiếu trên màn-bạc, xuất-phát từ cơ-
bản Tự-Tính, đúng như là một nhân-chứng bất-
động. Đấy là thái-độ của Ngài Bhagavan .
Ở ngoài động Gurumurtam có những cây
me mà hồi Ngài Bhagavan sinh-hoạt ở đấy,
Ngài thường ngồi dưới một gốc cây. Có hôm
Ngài ngồi một mình ở đấy thì có những tên kẻ-
trộm tới định hái trộm những trái cây chín.
Thấy đạo-sĩ trẻ ngồi yên-lặng dưới gốc cây,
một đứa nói rằng : " Hãy ném vào mắt y mấy
giọt Át-xít thử xem y có nói hay không ". Đó là
một chất có thể làm cho mắt bị mù, ngoài ra nó
còn gây ra nhiều vết thương đau đớn, nhưng
Ngài Bhagavan vẫn giữ thái-độ bình-tĩnh bất-
động, không để ý tới những việc xẩy ra trước
mắt cũng như đối với những trái cây. Một đứa
khác kêu lên rằng : " Không thèm để ý đến y. Y
có thể làm gì được chúng ta, chúng ta cứ tiếp-
tục công việc của mình ". Đôi khi có sự trở-
ADPH RAMANA MAHARSHI
142
ngại và chống-đối trong những năm đầu Ngài ở
trên núi. Trong thế-giới kỳ-lạ của tu-sĩ, có một
số giả-mạo và một số khác còn đầy dục-vọng
chưa giải-thoát được, mặc dù họ đã tiến-bộ trên
con đường giác-ngộ và họ phát-triển khả-năng
thần-thông. Chúng ta biết trước rằng, việc nể
sợ hào-quang Tâm-linh của một đạo-sĩ trẻ có
thể gây nên cho một số tu-sĩ lòng ghen-tỵ. Tuy
nhiên, đa số vẫn phải cúi mình trước sự hiện-
diện của Ngài và cầu ở Ngài ân-điển .
Một tu-sĩ già sống trong một động ở trên
núi đá đã tỏ ra rất tôn-kính đối với Ngài
Bhagavan suốt thời-gian Ngài sống ở động
Gurumurtam. Sau khi Ngài đến động Virupak-
sha, Ngài có đến thăm viếng tu-sĩ này và Ngài
thường ngồi bên cạnh tu-sĩ. Tu-sĩ già sống một
cuộc đời khổ-hạnh và cũng có nhiều đệ-tử tin
theo. Tuy vậy, tu-sĩ còn xa mới khắc-phục
được hết những dục-vọng nhân-loại đến nỗi tu-
sĩ khó-chịu khi thấy số người tin theo Ngài
Bhagavan càng ngày càng tăng, mà số người
tin theo mình thì ít dần đi. Tu-sĩ có ý quyết -
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
143
định giết, trừ-bỏ bằng được Ngài Bhagavan hay
là đuổi Ngài ra khỏi núi. Sau một buổi mặt-trời
lặn, ông ta ẩn mình trên sườn đồi phiá trên
động Virupaksha, nơi Ngài Bhagavan cư ngụ,
và đẩy những tảng đá xuống động của Ngài,
nhưng Ngài vẫn giữ thái-độ bình-tĩnh bất-động,
mặc dù có tảng đá rơi gần tới chỗ Ngài ngồi.
Nhờ năng-khiếu quan-sát của mình, Ngài biết
rõ những điều xẩy ra. Có một hôm Ngài leo lên
núi và bắt gặp tại trận vị tu-sĩ già nay đang lăn
đá xuống ; ngay cả đến trường-hợp này mà tu-
sĩ già vẫn cười xòa như là một trò chơi đùa
bỡn .
Vì thất-bại lần này nên tu-sĩ già cầu-viện
một đồng-nghiệp thuộc loại vô-lại tên là Bala-
nanda, tên này có tài, đẹp trai, giả làm đạo-sĩ để
mua lòng tin kính của mọi người. Gã tu-sĩ giả-
mạo Palananda này cũng quyết-định lợi-dụng
uy-tín của Ngài Bhagavan vì gã biết rằng Ngài
có đức tính Thánh quá cao để chống-cự với tội
ác. Gã bèn xưng là sư-phụ và gọi Bhagavan là
đệ-tử của mình. Gã nói với những khách hành-
ADPH RAMANA MAHARSHI
144
hương rằng : " Đạo-sĩ trẻ ấy là đệ-tử của tôi ",
hay là " phải nên cho chú em đó bánh kẹo ", và
gã nói với đạo-sĩ Bhagavan : " Venkataraman,
con hãy cầm lấy những bánh kẹo ấy ". Gã còn
có dụng ý đi xuống tỉnh mua bán sắm-sửa cho
đệ-tử Bhagavan của gã. Khi ngồi với Ngài
Bhagavan, gã nói : " Tôi bảo với khách hành-
hương tôi là sư-phụ của anh để kiếm chút tiền,
anh chẳng mất-mát gì, anh đừng phản-đối
những điều tôi làm ". Sự khiêu-khích của gã tu-
sĩ này thật không có bờ-bến .
Một đêm kia gã đến nghỉ ở hành-lang của
động, sáng hôm sau gã bỏ đi và để lại một gói
quần-áo ; có cả thứ quần-áo bằng lụa dua đăng
ten. Ngài Bhagavan không nói gì cả. Sáng hôm
sau Ngài Bhagavan đi đến một ao thiêng, trước
khi đi đạo-sĩ Palani đã rửa sạch hành-lang, ném
gói quần-áo của tu-sĩ giả-mạo đi và khoá cửa
động lại .
Khi tu-sĩ giả-mạo trở về thấy thế, phát
khùng lên, mắng đạo-sĩ Palani là sao dám động
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
145
đến quần-áo của tạo, và gã ra lệnh cho Ngài
Bhagavan là phải đuổi ngay đệ-tử của Ngài đi.
Nhưng cả đệ-tử và sư-phụ Bhagavan đều
không thèm nói năng chi hết, cũng không để ý
đến lời nói của gã tu-sĩ giả-mạo Palananda.
Trong cơn tức-giận, gã này nhổ cả vào mặt
Ngài Bhagavan ; ở trường-hợp này mà Ngài
vẫn ngồi thản-nhiên bất-động và các đệ-tử
đứng chung-quanh đó cũng không phản-ứng
chút nào. Có một đệ-tử của Ngài sống ở một
động gần đó, khi được tin những việc xẩy ra
bèn chạy vội lại mà quát lên rằng : " Mày dám
nhổ cả lên mặt sư-phụ chúng ta à ? " Người ta
khó lòng mà giữ nổi anh ta khỏi nhẩy sổ vào
mà vồ lấy tên vô-lại. Thấy rằng mình đã đi quá
trớn, Palananda quyết-định rời bỏ tỉnh Tiruvan-
namalai. Gã tuyên-bố rằng ngọn núi này không
đáng ở và bỏ đi với lòng kiêu-căng hơn bao giờ
hết. Gã đi đến một nhà ga, gã không buồn lấy
vé, leo thẳng vào một toa hạng thứ hai mà
trong đó đã có một cặp nam nữ trẻ chiếm cứ
rồi. Balananda bèn phê-phán chàng thanh-niên
nọ, nhưng anh này cũng không thèm để ý đến
ADPH RAMANA MAHARSHI
146
lời nói của gã. Gã nổi giận mắng lớn lên :
" Sao, anh không nghe lời tôi à ? Bởi anh đang
mê-hoặc đứa con gái kia nên anh quên cả lễ-độ
đối với tôi ". Anh chàng thanh-niên nổi giận,
rút ngay chiếc dép đánh cho gã một trận tơi-
bời. Cách ít lâu sau Palananda quay trở lại tỉnh
Tiruvannamalai càng kiêu-căng hơn trước. Một
hôm gã chăm-chú nhìn vào mắt Ngài Bhagavan
với dụng ý dẫn tinh-thần Ngài vào Tam-muội,
nhưng sự nỗ-lực của gã đưa đến kết-quả là gã
bị ngủ-gật. Bấy giờ Ngài Bhagavan cùng đệ-tử
đứng dậy rời khỏi động. Sau đó ít lâu thái-độ
của mọi người ở đấy đối với gã làm cho gã
phải rời khỏi núi một lần nữa .
Lại có một tu-sĩ khác muốn cầu tìm uy-tín
bằng cách tự xưng là sư-phụ của Bhagavan trẻ
tuổi. Tu-sĩ này từ Kalahasti đến, hắn nói với
Ngài Bhagavan : " Tôi từ xa-xôi tới đây là để
kiểm-điểm xem sự tiến-bộ về tinh-thần của anh
như thế nào, tôi sẽ khai-ngộ cho anh về Chân-
ngôn Ảo-nghĩa-thư ( Dattatreya Mantra ) " .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
147
Ngài Bhagavan yên-lặng không đáp lại
một lời nào. Tu-sĩ kia tiếp-tục nói : " Đấng Tối-
cao đã hiện ra trong mộng của ta, Ngài sai ta
trao lại giáo-lý cho anh ". Ngài Bhagavan bèn
đáp : " Được rồi, anh hãy làm thế nào cho
Thượng-Đế cũng hiện ra cho tôi và ban cho tôi
giáo-lý ấy ".
_ " Không được, giáo-lý ấy rất ngắn,
chỉ thu gọn có mấy lời. Anh có thể bắt
đầu ngay đây ".
Ngài Bhagavan trả lời :
_ " Giáo-lý ấy có công-dụng gì cho
tôi, nếu tôi không tiếp-tục đọc Chân-
ngôn, Thần-chú. Giáo-lý ấy không thích-
hợp cho tôi. Anh hãy đi tìm đệ-tử khác ".
Sau đó ít lâu, vị tu-sĩ kia chìm vào trong
thiền-định, trong khi ấy Ngài Bhagavan thị-
hiện cho ông ta, và nói : " Đừng đi vào con
đường lầm lạc ! " Vị tu-sĩ hoảng-sợ, tưởng
Ngài Bhagavan đã dùng quyền-năng thần-
ADPH RAMANA MAHARSHI
148
thông đối với mình. Tu-sĩ bèn chạy vội lên
động Virupaksha, xin lỗi Ngài Bhagavan về
những việc mình đã làm và lạy van Ngài giải-
thoát cho mình sự thị-hiện ấy. Ngài Bhagavan
an-ủi ông ta và cam-đoan không sử-dụng
quyền-năng thần-thông nữa. Vị tu-sĩ kia nhận
biết là Ngài Bhagavan không hờn-giận gì ông
ta cả .
Lại một sự can-thiệp khác nữa do một
nhóm tu-sĩ say rượu gây nên. Chúng kéo nhau
đến trước động Virupaksha, trịnh-trọng tuyên-
bố :
" Chúng tôi là tu-sĩ của núi Podikai,
một ngọn núi thiêng, trên đó Thần Tiên-
tri cổ kính Agastya luôn luôn thực-hành
khổ-hạnh, hình như là Ngài đã làm từ
mấy ngàn năm nay. Ngài ra lệnh cho
chúng tôi đến đưa anh tới hội-họp trong
một kỳ với các vị thần-thông ở Srigan-
gam, rồi từ đấy tới Podikai để đem lại cho
anh một sự khải-đạo đều đều và thứ-tự.
Sau khi đã tiêu-trừ ở thân-hình anh hết
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
149
cặn-bã làm trở-ngại cho anh đạt tới
quyền-năng siêu-đẳng " .
Cũng như mọi trường-hợp tương-tự, Ngài
Bhagavan thường không trả lời, nhưng lần này
một đệ-tử của Ngài là đạo-sĩ Perumswami còn
đi xa hơn nữa về cách lừa-dối, anh ta nói :
" Chúng tôi đã được cho biết về sự thăm-viếng
của các ông, và người ta bảo tôi phải đặt các
ông vào lò nung và đốt lửa để nung ". Quay lại
một tín-đồ khác, anh ra lệnh : " Hãy đi đào một
cái hố để có thể đặt những người này vào đó
mà đốt ". Bọn tu-sĩ say rượu vội vàng bỏ chạy
ra khỏi động .
Năm 1924, khi Ngài Bhagavan tới sống ở
động hiện-tại dưới chân đồi, những kẻ trộm
vào động, trong đó có ngôi mộ của thân-mẫu
Ngài, chúng đã lấy đi một số đồ-đạc. Vài tuần
sau ba tên kẻ-trộm vào thẳng động để cướp
bóc. Đó là ngày 26 tháng 6 vào lúc 11 giờ đêm.
Trời tối mịt, Ngài Bhagavan đã lui về phòng
nghỉ. Trên một cái bệ đối-chiếu với ngôi mộ
ADPH RAMANA MAHARSHI
150
thân-mẫu Ngài, bốn tín-đồ của Ngài nằm ngủ
trên sàn trước cửa sổ ; hai tín-đồ là Kunju và
Mastan, Kunju là nghĩa-bộc, khi ấy có nghe
thấy tiếng nói ở bên ngoài : " Có sáu người ngủ
ở bên trong ". Kunju lên tiếng hỏi : " Ai đó ? ".
Những kẻ-trộm trả lời bằng cách phá một cửa
sổ, dụng ý hăm-dọa những người ở bên trong.
Cả hai Kunju và Mastan cùng đứng dậy, tiến
tới cái vòm cửa động mà trong ấy có Ngài
Bhagavan. Tại đấy, bọn kẻ-trộm phá một cái
cửa kính của cái vòm, nhưng Ngài Bhagavan
không tỏ vẻ bối-rối về những hành-động ấy,
người nghĩa-bộc bèn rời bỏ điện đường đi ra
bằng một cửa phiá bắc, vì những tên kẻ-trộm
đang ở cửa phiá nam. Khi trở về, người nghĩa-
bộc đem theo một tín-đồ tên là Ramakrishna
đang ngủ ở trong một cái lều khác đến để giúp
sức. Khi tín-đồ Ramakrishna mở cửa thì hai
con chó của Tùng-lâm chạy sổ ra ngoài. Những
kẻ-trộm đập chúng và chúng đã chạy trốn hết .
Ngài Bhagavan nói với lũ kẻ-trộm rằng
họ chẳng kiếm được chi hết ở đây, Ngài hoan-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
151
hỷ tiếp-đón mời chúng lấy hết đi những gì mà
chúng muốn. Sợ bị mắc bẫy hoặc vì quá ngu-
ngốc không chừa được thói quen, chúng không
để ý đến lời của Ngài Bhagavan, chúng cố phá-
hoại thêm một khung cửa sổ khác. ( Theo tục lệ
Ấn-Độ thì cửa sổ chấn song bằng sắt để ngăn
những kẻ xâm-phạm ). Sự phá-hoại của bọn
cướp làm cho tín-đồ Ramakrishna nổi giận, y
xin phép Ngài Bhagavan để đánh nhau với bọn
cướp. Ngài từ-chối, Ngài nói : " Họ có phận-sự
của họ, mình có phận-sự của mình. Phận-sự
của chúng ta là chịu-đựng và nhân-nhượng
không nên can-thiệp vào hành-vi của họ " .
Mặc dầu Ngài Bhagavan mời những kẻ
ăn-trộm vào trong nhà nhưng bọn này vẫn tiếp-
tục đi theo con đường hung-bạo của chúng.
Chúng cho nổ pháo ở ngoài cửa để giả-mạo là
chúng có súng. Một lần nữa các tín-đồ của
Ngài Bhagavan lại bảo chúng vào mà lấy đồ-
đạc, chúng chỉ trả lời bằng sự dọa-nạt. Trong
khi ấy tín-đồ Kunju đi xuống tỉnh để cầu-cứu
chưa về .
ADPH RAMANA MAHARSHI
152
Ramakrishna một lần nữa lại khuyên-nhủ
bọn kẻ-trộm đừng làm việc phá-phách vô-ích,
mà chỉ nên lấy đi những gì mà chúng muốn.
Chúng vẫn giữ luận-điệu dọa-nạt, nổi lửa đốt
túp lếu tranh. Ngài Bhagavan bảo chúng đừng
làm thế và để tự Ngài rời khỏi túp lều rồi
nhường chỗ cho chúng. Chính đó là điều mà
bọn kẻ-trộm mong muốn. Có lẽ Ngài sợ rằng
có kẻ khác bị tai vạ trong khi chúng làm phận-
sự của chúng .
Ngài Bhagavan bảo Ramakrishna nhốt
con chó vào một chỗ an-toàn, vì Ngài sợ con
chó bị kẻ-trộm đánh đập nếu để nó trong nhà.
Ngài cùng với đệ-tử Mastan, Pillai và Muni
một cậu bé chuyên về nghi-lễ cúng-bái đi ra
khỏi nhà bằng cửa phiá bắc. Đứng ở trên thềm,
bọn kẻ-trộm đánh Ngài Bhagavan cùng bọn
tùy-tùng để trừ cái họa đối-phương có thể
chống-cự lại. Ngài Bhagavan bị mấy đòn vào
đùi phiá bên trái, Ngài nói : " Nếu các anh thấy
chưa thỏa-mãn thì cứ đánh thêm vào đùi phiá
bên phải của ta ". Trong khi đó, tín-đồ Rama-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
153
krishna tới kịp, y đã tránh đỡ đòn cho Ngài
Bhagavan. Ngài cùng bọn tín-đồ vào ngồi trong
túp lều phiá bắc của Tùng-lâm, bọn kẻ-trộm bắt
buộc họ phải ngồi yên trong đó, chúng dọa-nạt:
" Nếu chúng bay động-đậy, chúng tao sẽ đập
vỡ sọ ! " Ngài Bhagavan nói : " Các anh có cả
một gian nhà, các anh muốn làm gì thì làm ".
Một tên kẻ-trộm muốn lấy cái đèn bão,
tín-đồ Ramakrishna tuân theo ý của thày bèn
đem đến cho chúng cái đèn bão đang cháy ;
một đứa khác đòi chùm chìa khóa tủ, nhưng có
một tín-đồ trả lời là chùm chìa khoá Kunju đã
đem theo xuống tỉnh. Bọn kẻ-trộm bèn phá cửa
tủ, chúng thấy ở trong đó có một ít giấy bạc
mỏng dùng để mặc cho các pho tượng, vài quả
măng-cụt và một ít gạo. Tất cả đáng giá độ
mười rupi và chúng lấy của Pillai sáu rupi .
Thất-vọng vì chỉ thấy những món lặt-vặt,
một đứa trong bọn trở lại với cái gậy, giơ gậy
lên rồi quát : " Tiền của chúng bay để đâu ? "
ADPH RAMANA MAHARSHI
154
_ Ngài Bhagavan trả lời : " Chúng tôi chỉ
là tu-sĩ nghèo, sống nhờ thập-phương, nên
không bao giờ có tiền ". Tên kẻ-trộm đành chịu
lời giải đáp ấy dù hắn đã cố ý dọa-nạt .
Ngài Bhagavan khuyên tín-đồ đi băng-bó
vết thương, tín-đồ Ramakrishna hỏi lại Ngài :
" Còn sư-phụ thì sao ? "
Ngài Bhagavan cười , trả lời : " Tôi cũng
nhận được vài đòn cúng-dường ( Puja có nghĩa
là bị đòn và cũng có nghĩa là cúng-dường ) .
Thấy sư-phụ bị sưng tấy ở đùi, Rama-
krishna nổi giận, nhặt một thanh sắt trên mặt
đất và xin phép thày đi xem bọn kẻ cướp đang
làm gì, nhưng Ngài Bhagavan gạt hắn đi, Ngài
nói : " Chúng ta là tu-sĩ, chúng ta không nên từ
bỏ vai-trò của chúng ta, nếu con định đánh
nhau với một trong bọn chúng mà nó bị chết,
người ta sẽ không chê-trách bọn kẻ-cướp mà
họ sẽ chê-trách chúng ta, điều ấy cũng chính-
đáng. Bọn vô-lại kia là những người đi lầm
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
155
đường vì chúng bị mù-quáng bởi ngu-si, còn
chúng ta là những hạng người đã nhận ra điều
chân-chính thì hãy giữ thái-độ tương-đương
với điều chúng ta biết. Nếu vô-tình anh cắn
phải lưỡi, anh sẽ nhổ cái răng ấy đi à ? "
Mãi đến hai giờ đêm bọn kẻ-cướp mới bỏ
đi. Sau đó ít lâu, tín-đồ Kunju mới ở tỉnh về,
đem theo một người cảnh-sát trưởng và hai
nhân-viên. Ngài Bhagavan vẫn còn ngồi ở căn
nhà trống phiá bắc, Ngài đang đàm đạo với các
tín-đồ về vấn-đề tâm-linh. Viên cảnh-sát
trưởng hỏi Ngài về các việc đã xẩy ra, Ngài chỉ
trả lời là có những người điên vừa mới đột-
nhập, đập phá Tùng-lâm và đã bỏ đi, thất vọng
vì không tìm được cái gì đáng giá để lấy .
Một nhân-viên làm biên-bản theo lời của
Ngài Bhagavan và viên cảnh-sát trưởng cũng
bỏ đi. Tín-đồ Muni chạy đuổi theo những
người cảnh-sát để nói cho họ biết rằng đạo-sĩ
và các tín-đồ vừa bị bọn kẻ-cướp đánh-đập.
Sáng hôm sau, thanh-tra cảnh-sát và phó thanh-
ADPH RAMANA MAHARSHI
156
tra cùng một cảnh-sát trưởng đến điều-tra tại
chỗ. Ít lâu sau, một đại-biểu của hội-đồng tỉnh
cũng tới Tùng-lâm, nhưng Ngài Bhagavan
không hề nói với họ về việc Ngài bị bọn chúng
hành-hung và những đồ-vật bị chúng cướp mất.
Ngài chỉ trả lời họ những câu hỏi trực-tiếp.
Mấy ngày sau Ngài thu-hồi lại được những vật
đã mất, và bọn kẻ-cướp đều bị lùng bắt giam .
********************
*
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
157
- VIII -
NGƯỜI MẸ
Sau cuộc du-lịch vô ích mong tìm về
được đứa con của mình là Bhagavan, thì người
mẹ lại mất đi một người con cả nữa. Hai năm
sau, người con út tên là Nagasundaram, mới
mười bẩy tuổi, đi đến thăm anh ở Tiruvanna-
malai. Khi nhìn thấy anh, y cảm-động quá, òa
lên khóc và nhẩy sổ tới ôm cổ anh là Ngài
Bhagavan. Ngài Bhagavan vẫn ngồi bình-tĩnh
bất-động. Người mẹ cũng trở lại một lần nữa
để thăm hỏi Ngài, trong một cuộc gặp-gỡ ngắn-
ngủi khi bà đi hành-hương ở Balanai trở về.
Năm 1914, bà lại đi hành-hương lần nữa tới
Tùng-lâm Tirupati ; khi trở về bà có dừng lại
nơi Ngài Bhagavan cư-trú. Lần này bà bị đau
và bị bệnh, bệnh sốt thương-hàn hành suốt mấy
tuần-lễ. Ngài Bhagavan thăm hỏi thuốc-thang
ADPH RAMANA MAHARSHI
158
hết sức chu-đáo cho bà. Bài thơ mà Ngài làm ra
trong thời-kỳ bà mẹ bị bệnh là bài tụng duy-
nhất mà người ta được biết đã ảnh-hưởng vào
tình-thế lúc bấy giờ :
" Hởi Chúa ! Tảng đá che-chở cho con.
Ngài chữa được bệnh tái-sinh.
Ngài có quyền-năng chữa khỏi mẹ con
qua cơn sốt rét .
Hỡi Thượng-Đế, Ngài thắng được tử-
thần ! Hãy ấn-chứng gót chân của Ngài
vào trái tim Hoa-Sen của người đã mang
tôi trong bào-thai .
Để cho mẹ tôi được an-trụ dưới chân
Hoa-Sen của Ngài, và che-chở cho bà
chống với thần chết. Chết là gì ? Hãy nhìn
thẳng vào đấy .
Hỡi núi Arunachala, ngọn lửa trí-tuệ linh-
động .
Hãy bao-bọc lấy mẹ tôi với ánh-sáng của
Ngài .
Và hãy đồng-nhất-hóa giữa bà với Ngài .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
159
Hỏa-thiêu để làm gì ? Hỡi núi Aruna-
chala ! từng phá tan mây mù mê vọng .
Sao Ngài chậm giải-thoát cho mẹ tôi khỏi
cơn mê sảng ?
Ai là kẻ có thể che-chở như một người
Mẹ hơn là Ngài đối với kẻ nào đến cầu
xin sự che-chở của Ngài, và để giải-thoát
khỏi nghiệp-báo khắc-nghiệt ."
Bài cầu-nguyện ấy làm ra để cầu cho mẹ
Ngài khỏi bệnh. Sự thực là để cứu-vớt bà ra
khỏi bệnh sốt mê-hoặc nặng hơn, và để dẫn bà
trở về với trạng-thái Tự-Tính, sau khi đã giải-
thoát được cho bà sự đam mê cuộc sống.
Không cần phải nói rằng bà mẹ được khỏi bệnh
mà trở về quê-hương, nhưng sau lời cầu của
Ngài Bhagavan thì bà thoát khỏi sự đam mê
đời sống trần-tục và bắt đầu hướng về đời sống
Tùng-lâm. Căn nhà ở Tiruchushi đã bán đi để
trả nợ và trang-trải những tiêu-pha thiết-yếu.
Người anh chồng của bà đã qua đời để lại gia-
đình trong cảnh khó-khăn. Năm 1915, vợ của
người con út cũng qua đời. Con của cô ta nhờ
ADPH RAMANA MAHARSHI
160
người bà cô nuôi nấng và gả chồng. Bà
Alagammal bắt đầu nhận thấy rằng chỉ còn một
nơi độc-nhất để dưỡng già đó là đến sống với
con bà là Ngài Bhagavan ở Tiruvannamalai .
Mới đầu bà ở với cô Echammal được vài
hôm. Một số đệ-tử của Ngài Bhagavan sợ Ngài
bỏ Tùng-lâm, phản-đối thầm-lặng cũng như khi
trước Ngài bỏ gia-đình vào năm 1896 nên họ
đã tỏ thái-độ không vui lòng để bà ở bên Ngài
Bhagavan. Nhưng mà có sự khác nhau ở giữa
hai cảnh-ngộ vì lần này chính bà mẹ đã rời bỏ
gia-đình chứ không phải là Ngài mà họ phải lo
giữ Ngài. Uy-thế trang-nghiêm của Ngài Bha-
gavan gợi lên một sự sợ-hãi tôn kính, mặc dầu
cử-chỉ của Ngài hết sức thân-thiện đến nỗi mỗi
khi Ngài tỏ có ý muốn gì thì không ai dám căn
vặn, dù có người nào phạm-thượng dám đến
cật-vấn Ngài, Ngài vẫn giữ thái-độ yên-lặng
không giải-đáp chi hết, Ngài không còn có dục-
vọng. Ý muốn cho bà mẹ khỏi bệnh đã được
trình-bày trong bài thơ trên, đó là một điều hết
sức đặc-biệt. Sau khi bà mẹ đến chung sống với
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
161
Ngài được ít lâu, thì Ngài rời bỏ Virupaksha để
đi đến Tùng-lâm Skandashram trên sườn núi
cao hơn, ngay phiá trên động Virupaksha.
Động này rộng-rãi hơn nhiều so với động
trước, và người ta đã sửa-soạn nhằm mục-đích
để Ngài có thể định-cư tại đấy được. Những
tín-đồ tìm thấy ở đấy một khoảng đất ẩm và
đoán biết sự hiện-diện của một mạch nước
ngầm, khi đào sâu xuống quả nhiên người ta
thấy một ngọn nước ngọt bất tận vọt tuôn tung-
tóe đủ để cung-cấp cho nhu-yếu của Tùng-lâm
và cho cả một vườn nhỏ bên cạnh hang động.
Bà mẹ bắt đầu sửa-soạn cơm nước cho Tùng-
lâm và từ đó bắt đầu vào một đời sống mới. Bà
mẹ Alagammal muốn đem cả người con út đến
ở đấy với bà ; Ngài Bhagavan liền sai một đệ-
tử đi tìm người em út ấy để cho y tự quyết-định
xuất-gia. Người em út này bèn bỏ việc làm ở
Tiruvengadu và nhất-định đến ở vĩnh-viễn tại
Tiruvannamalai. Mới đầu y còn ăn ở trong tỉnh,
khi ăn ở nhà người bạn này, khi ăn ở nhà người
bạn khác, nhưng đều đều ngày nào y cũng đến
Tùng-lâm của Ngài Bhagavan và chẳng bao lâu
ADPH RAMANA MAHARSHI
162
y quyết-định xuống tóc xuất-gia để được khoác
tấm y mầu vàng của nhà tu, đồng thời được
pháp-danh là Niranjanananda. Nhưng thông
thường người ta gọi y là đạo-sĩ Chinna, nghĩa
là một người đạo-sĩ nhỏ, em út của đạo-sĩ
Bhagavan. Trong một thời-gian y sống bằng
cách khất-thực, nhưng nhóm đệ-tử của Tùng-
lâm xét rằng không nên để cho em ruột của sư-
phụ mình đi khất-thực sinh sống trong khi ở
Tùng-lâm có đủ thức ăn cho tất cả mọi người
và họ còn khuyên y thường trụ tại Tùng-lâm .
Người ta có thể tin-tưởng rằng Ngài
Bhagavan trở về đời sống gia-đình, với đại gia-
đình gồm tất cả đệ-tử. Sự thật thì Ngài đối-đãi
với mọi người như trong một gia-đình. Chính
sự mâu-thuẫn bề ngoài ấy đã làm cản-trở lúc
đầu là sự đến sống chung của bà mẹ với người
em út. Đạo-sĩ Seshadri thường nói đến cảnh
sống ấy là cách sống rất hài-hước. Một khách
hành-hương đến thăm Tùng-lâm có ý muốn leo
lên cao hơn để đến động của Ngài Ramana,
đạo-sĩ Seshadri đã nói : " Cứ leo lên mà xem,
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
163
ông sẽ thấy một người cha của đại gia-đình,
Ngài sẽ cho ông bánh kẹo " .
Lối tinh-nghịch trêu chọc của Seshadri
muốn nói lên rằng một người cha trong gia-
đình thấp kém hơn là một bậc đạo-sĩ, bởi vì
một đạo-sĩ đã hiến-dâng trọn đời mình cho việc
cầu tìm Chân-lý, còn người cha trong gia-đình
chỉ suốt đời lo việc cầu tìm vật-chất. Người ta
coi sự từ bỏ gia-đình như một bước tiến dài
trên con đường cầu đạo. Có nhiều tín-đồ của
Ngài Bhagavan thường tỏ ý với Ngài là họ
muốn từ bỏ gia-đình xuất-gia, thì Ngài luôn can
ngăn là không nên làm như thế. Trong một
đoạn giải-thích sau này Ngài đã cho ta biết là
đời sống xuất-gia không phải là sống xa cách
mọi người mà là mở rộng tình-yêu với tha-
nhân. Một tín-đồ tỏ ý với Ngài là muốn từ bỏ
việc làm ở đời để đến sống luôn luôn bên cạnh
Ngài. Ngài Bhagavan đã trả lời : " Bhagavan
luôn luôn ở với anh, ở trong anh. Cái Tự-Tính
Tối-cao ở tại nơi anh đó chính là Bhagavan. Đó
là điều anh cần phải hiểu như thế ".
ADPH RAMANA MAHARSHI
164
Tín-đồ : _ Nhưng con muốn rũ hết những
ràng buộc, từ bỏ đời sống gia-đình, xã-hội để
trở nên một đạo-sĩ độc-lập .
Bhagavan : _ Sự từ bỏ không phải là vấn-
đề thay đồi quần áo hay là cái gì khác, hoặc rời
bỏ gia-đình. Sự từ bỏ chân-thật là từ bỏ tham-
dục đam-mê, từ bỏ sự ràng-buộc tình-cảm .
Tín-đồ : _ Sự hoàn-toàn phục-tòng
Thượng-Đế không có thể thành-tựu, nếu không
từ bỏ thế-gian .
Bhagavan : _ Không phải thế, kẻ xuất-gia
chân-thật là dấn thân vào đời để mở rộng tình-
yêu của mình bao-quát lấy thế-giới. Nói cho
chính-xác hơn thì thái-độ của tín-đồ là tình-yêu
đại-đồng hơn là chủ-trương từ bỏ gia-đình và
khoác vào mình tấm áo nhà tu .
Tín-đồ : _ Trong gia-đình liên-hệ tình-
cảm quá chặt-chẽ .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
165
Bhagavan : _ Kẻ nào từ bỏ (xuất-gia)
trong khi chưa trưởng-thành thì chỉ tạo thêm
những hệ-lụy mới .
Tín-đồ : _ Sự từ bỏ không phải là những
phương-tiện tối cao để phá hủy, dứt trừ những
liên-hệ xã-hội hay sao ?
Bhagavan : _ Có lẽ đối với những người
nào đã giải-thoát tất cả chướng-ngại, nhưng
anh thì chưa nắm được hết ý-nghĩa của chữ
" từ bỏ ". Những tâm-hồn cao-cả không từ-bỏ
gia-đình vì ác-cảm với đời sống gia-đình,
nhưng vì họ có một tình-yêu rộng lớn bao-quát
và thâm-sâu bao-hàm tất cả nhân-loại chúng-
sinh .
Tín-đồ : _ Những liên-hệ gia-đình bắt
buộc phải đoạn-tuyệt bởi cách này hay cách
khác. Vậy tại sao lại không bắt đầu chấm-dứt
ngay bây giờ, ngõ hầu cho tình-yêu của tôi có
thể là tình-yêu chung của tất cả mọi người .
ADPH RAMANA MAHARSHI
166
Bhagavan : _ Nếu thực anh có một tình-
yêu bình-đẳng đối với tất cả chúng-sinh, nếu
tâm-cảm của anh đã mở rộng thì hẳn là anh sẽ
nghĩ rằng anh không từ bỏ cái này hay cái
khác, mà anh chỉ giải-thoát khỏi hệ-lụy thế-
gian, chẳng khác gì một trái chín mùi đã rơi
khỏi cành cây. Anh sẽ cảm thấy rằng gia-đình
anh sẽ là cả thế-giới " .
Không có gì làm ta ngạc-nhiên khi thấy
nhắc đi nhắc lại những lời giải-đáp của Ngài
Bhagavan. Thái-độ của Ngài không phù-hợp
với quan-điểm truyền-thống mặc dầu là Chân-
lý truyền tục từ đời nọ đến đời kia không bao
giờ thay-đổi. Các sự-phụ thích-ứng giáo-lý của
mình liên-quan đến sự thực-hiện chân-lý trong
hoàn-cảnh thời-đại. Trong thế-giới hiện-đại, có
nhiều người mà sự từ bỏ hay cả đến những sự
tôn-trọng nghi-thức chính-thống cũng không có
thể thực-hành được. Có những tín-đồ là những
người mại-bản, nhân-viên bàn-giấy, bác-sĩ,
luật-sư, kỹ-sư, liên-hệ với đời sống gia-đình
cách này hay cách khác, với tục-lệ tập-quán
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
167
của một đô-thị tân-tiến vậy mà họ vẫn cố tìm
con đường giải-thoát. Ngài Bhagavan thường
giải-thích rằng sự từ bỏ, hỷ-sả chân-thật là ở
tinh-thần của kẻ muốn từ bỏ, hỷ-sả. Nó không
lệ-thuộc vào hình-thức này hay hình-thức khác.
" Tại sao anh lại dừng lại ở chỗ anh
là cha của một gia-đình ? Cái tư-tưởng tự
cho mình là một tu-sĩ xuất-gia sẽ luôn
luôn ám-ảnh anh, dù anh có thôi không là
một tu-sĩ nữa, dù anh có tiếp-tục trông coi
việc nhà hay rút vào nơi thanh-vắng của
núi rừng chính là do tinh-thần nó chi-phối
anh. Cái tư-ngã là nguồn tư-tưởng nó tạo
ra thân-thể và ngoại-giới, chính nó đã làm
cho anh tưởng anh là chủ của một gia-
đình. Nếu anh nhất-quyết từ bỏ, anh chỉ
thay-thế cái ý-niệm từ bỏ vào cái ý-niệm
làm chủ gia-đình, và khung-cảnh của núi
rừng thay-thế vào hình-ảnh của gia-đình.
Nhưng những trở-ngại của tinh-thần vẫn
còn tồn-tại ở nơi anh, nó bám chặt cả vào
hoàn-cảnh mới của anh, cho nên thay-đổi
ADPH RAMANA MAHARSHI
168
hoàn-cảnh không có ích-lợi gì cho anh cả.
Trở-ngại duy-nhất của anh là tinh-thần,
anh phải khắc-phục nó ở tại hoàn-cảnh
gia-đình hay hoàn-cảnh núi rừng. Nếu
anh có thể chinh-phục nó được ở trong
núi rừng, thì tại sao anh lại không chinh-
phục được nó ở ngay trong gia-đình ?
Bởi thế mà tại sao anh phải thay-đổi
hoàn-cảnh, anh có thể làm các việc nỗ-lực
ngay bây giờ hay bất cứ anh ở trong
hoàn-cảnh nào " .
Ngài Bhagavan cũng nói rằng không phải
công việc mình làm là chướng-ngại trên con
đường tu-luyện mà chính là cái thái-độ tinh-
thần của người tu-luyện. Người ta có khả-năng
tu-luyện nếu người ta không chấp vào công
việc mình làm. Người ta có thể tiếp-tục công
việc hàng ngày của mình để tu-luyện, miễn là
không chấp vào công việc ấy. Cái ý-niệm " tôi
làm việc " đấy chính là Ngã-ái, theo trong
Kinh Thánh của Maharshi đã nói : " Hãy tự hỏi
mình, ai làm việc ? Hãy nhớ lại mình là ai ? thì
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
169
bấy giờ công việc làm sẽ không làm cho mình
mờ tối và việc tu-luyện sẽ thi-hành một cách
thành-tựu và chu-đáo " .
Trong tập bút-ký của Devaraja Mudaliar
nhan-đề là " Hàng ngày với Ngài Bhagavan "
người ta sẽ thấy đầy đủ hơn về vấn-đề trên :
" Người ta có thể làm tất cả công
việc của đời sống hàng ngày với tinh-thần
vô-chấp và chỉ coi cái Tự-Tính Tối-cao là
có thật mà thôi. Người ta tưởng lầm là
những người quá chăm-chú vào Tự-Tinh
thì bổn-phận ở đời của y sẽ không thành-
tựu đúng đáng. Chẳng khác gì một diễn-
viên hóa-trang để hành-động theo vai-trò
của mình diễn, chính nó cảm thấy cái
tình-tự của vai-trò đó, đồng thời nó cũng
biết rằng chính nó không phải là nhân-vật
của vai-trò mà là một nhân-vật khác trong
đời sống thực-tế. Cũng thế mà tại sao cái
ý-thức vật-lý tự cho " Tôi là thân-thể " lại
ADPH RAMANA MAHARSHI
170
làm cho ta bối rối một khi mà ta tự ý-thức
được rằng ta không là thân-thể mà là Tự-
Tính .
" Không có hành-động nào của
thân-thể cản-trở được việc ta trụ ở trong
Tự-Tính. Sự chìm đắm vào trong Tự-Tính
không can dự gì vào việc hoàn-thành
thực-tế và lương-thiện tất cả những phận-
sự của thân-thể đòi-hỏi. Cũng như cái ý-
thức của người diễn-viên không can dự gì
vào vai-trò của y trên sân-khấu " .
Cũng vậy, mà thiền-định hay hồi-niệm,
bất cứ người ta gọi bằng danh-từ gì không làm
thương-tổn đến công việc người ta làm, cũng
như không làm hại tới thiền-định .
Về vấn-đề này Ngài Bhagavan đã cho ta
thấy trong cuộc vấn-đáp giữa Ngài với Paul
Brunton :
Bhagavan : _ Không cần phải từ bỏ đời sống
hàng ngày. Nếu anh bỏ ra một hay hai giờ
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
171
mỗi ngày để thiền-định, anh có thể hoàn-
thành nhiệm-vụ của mình. Nếu việc thiền-
định của anh được thực-hành một cách
nghiêm-chỉnh thì luồng năng-lực tinh-
thần không dừng tuôn ra trong khi anh
đang làm việc .
_ Hình như có hai cách để diễn-tả
một ý-tưởng ấy. Sự hoạt-động của anh
hướng theo định-hướng của chính chiều-
hướng thiền-định .
Paul Brunton : _ Kết-quả sẽ ra sao ?
Bhagavan : _ Dần dần với sự tiến-bộ của anh,
anh sẽ thấy từ từ thái-độ của anh với mọi
người và đối với sự-vật. Chính hành-động
của anh sẽ tự nó hướng theo chiều-hướng
thiền-định của anh. Một nhân-vật phải
quên lòng vị-kỷ làm cho mình lệ-thuộc
vào thế-gian. Hãy từ bỏ cái ngã giả-dối ấy
đi, đấy là thực từ bỏ .
ADPH RAMANA MAHARSHI
172
Paul Brunton : _ Làm thế nào mà có thể rời bỏ
cái ngã của mình trong khi sống cuộc đời
hoạt-động thực-tế ?
Bhagavan : _ Không làm gì có sự mâu-thuẫn
chống-đối giữa công việc làm với trí-tuệ .
Paul Brunton : _ Có phải Ngài muốn nói rằng
người ta có thể sống tiếp-tục làm phận-sự
thông-thường của mình và có thể đạt tới
giác-ngộ ?
Bhagavan : _ Tại sao không ? Nhưng ở
trường-hợp này thì không phải cái ngã
của người ta nó hành-động, bởi vì ý-thức
của người ta biến-đổi không ngừng cho
đến khi nhập vào Cái Ấy, ở nó vượt ra
khỏi cái tư-ý tiểu-khí của con người .
Có nhiều người lúng-túng khi nghe thấy
nói làm việc trong khi thiền-định là phải làm
việc với tinh-thần từ bỏ và tự hỏi rằng việc làm
như vậy có được kết-quả mỹ-mãn với tinh-thần
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
173
đó không ? Có nhiều người với sự khuyến-
khích làm việc, tuy họ được cái gương-mẫu ở
chính Ngài Bhagavan, vì Ngài làm tất cả công
việc một cách rất tỷ-mỷ, hoặc sửa lại bản-thảo,
đóng sách, làm cơm hay đẽo một cái muỗng
bằng vỏ dừa, và lại còn đánh bóng nó nữa. Sự
thực cả đến trước khi phá tan được cái ảo-
tưởng " Tôi là người làm việc này ". Một thái-
độ vô-tư đối với công việc không làm giảm
thiểu mà còn làm tăng-gia hiệu-năng của công
việc. Chừng nào thái-độ ấy đi đôi với nỗ-lực có
ý-thức, vì thái-độ ấy không ngụ-ý sao-lãng với
phẩm-chất của công việc thành-tựu, đủ tỏ rằng
thái-độ ấy không tham-dự vào vai-trò nào trong
công việc. Chính cái tự-ngã của mình là
nguyên-nhân của sự va-chạm và của sự vô-
hiệu-quả. Nếu tất cả mọi người làm việc chỉ vì
công việc, không khoe-khoang hay vụ-lợi thì
tất cả sự bóc-lột đều tiêu-tan, tất cả nỗ-lực
được hướng dẫn chính-đáng và sự phối-trí
thay-thế cho sự cạnh-tranh. Và phần lớn vấn-đề
của thế-giới này sẽ được giải-quyết. Và dĩ
nhiên là hiệu-năng của công việc thành-tựu sẽ
ADPH RAMANA MAHARSHI
174
không bị thương-tổn chút nào. Hãy nên nhớ
rằng ở các thời-đại lớn của tín-ngưỡng tôn-
giáo, người ta thấy xuất-hiện những công-trình
vĩ-đại, những ngôi nhà-thờ kiểu Gothic, Thánh-
điện của Hồi-giáo, những điêu-khắc ( Tô-tạc )
Ấn-Độ, những họa-phẩm của Đạo-học. Các
nghệ-sĩ là tác-giả chỉ tự coi mình như công-cụ
vô-danh .
Người ta có thể dẫn-chứng nhiều thí-dụ ở
các khu-vực nghệ-thuật khác. Một Y-sĩ làm
việc có hiệu-năng hơn khi y có thái-độ bình-
tĩnh, cho nên y không chữa cho chính người
trong gia-đình mình. Một nhà tài-chính làm
việc có hiệu-năng hơn khi quyền-lợi của y
không can-dự. Ngay cả đến trong cuộc chơi
bạc sự may rủi bao giờ cũng về phần người
không hăm-hở .
Khi Ngài Bhagavan khuyên-nhủ người ta
về sống trong đời sống gia-đình, những người
này phản-đồi Ngài vì chính Ngài đã từ bỏ
những người thân của Ngài để xuất-gia. Ngài
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
175
trả lời gọn rằng tất cả mọi người đều phải
hành-động đúng định-mệnh của mình. Tuy
nhiên, cũng phải công-nhận rằng tính-cách
phổ-thông của đời sống hàng ngày bên ngoài
mà Ngài Bhagavan sau này đã cho ta một mẫu-
mực hoàn-hảo và Ngài bắt buộc các đệ-tử phải
tuân theo thì không thể thực-hành được ngay
sau khi Ngài thức-tỉnh ở trong ngôi nhà của
người chú tại Madura. Nhưng sự thực Ngài
Bhagavan có cái ân-huệ để ban cho những
người nào đã theo Ngài, có thể thực-hành được
những điều mà chính Ngài đã không thể làm
được trước kia .
Hãy trở lại việc bà mẹ của đạo-sĩ, bà cũng
phải theo một giới-luật nghiêm-khắc ; nhiều
khi Ngài Bhagavan có thái-độ lãng-quên sự
hiện-diện của bà. Ngài không trả lời bà khi bà
nói chuyện với Ngài, nhưng Ngài lại chú-ý đến
những người khác. Nếu bà có phàn-nàn thì
Ngài nói : " Tất cả những phụ-nữ đều là mẹ của
con, không riêng gì mẹ ! " người ta liên-tưởng
đến đấng Cơ-Đốc khi Ngài nói : " Tất cả những
ADPH RAMANA MAHARSHI
176
người nào thi-hành ý muốn của đấng Cha lành
ở trên trời đều là anh chị em ruột thịt và là mẹ
của tôi " .
Lúc đầu thì bà mẹ của Ngài Bhagavan
thường khóc-lóc, tự thấy tủi thân vì bà tưởng
rằng bị hắt-hủi lãnh-đạm, nhưng dần dần bà
cũng hiểu rằng cái cảm-tưởng mình cao-quý
hơn người khác, là mẹ của đạo-sĩ tan biến đi ở
bà. Cái tiểu-ngã của bà mờ dần đi và từ đó bà
mới hoàn-toàn tự hiến thân mình phụng-sự cho
các tín-đồ .
Cả đến lúc ấy Ngài Bhagavan còn mỉm
cười về thái-độ chấp-chước của bà đối với tinh-
thần chính-thống. Thảng-hoặc có khi váy của
bà chạm vào một vị Bà-la-môn, Ngài Bhagavan
kêu lên với vẻ mặt kinh-sợ giả-tạo : " Tại hại
thay, sự tinh-khiết đã bị phá ! Tôn-giáo bị hủy-
hoại " .
Ở Tùng-lâm, sự ăn uống hoàn-toàn thanh-
tịnh, nhưng bà Alagammal cũng như tất cả
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
177
những người Bà-la-môn sùng tín còn chịu
khắc-khổ hơn nữa và coi một vài thứ rau như là
ô-nhiễm. Ngài Bhagavan thường trêu bà mà nói
rằng : " Hãy coi chừng những củ hành, nó có
thể làm chướng-ngại cho sự cứu-độ ! "
Nhưng chúng ta phải nói rằng Ngài không
phản-đối tinh-thần chính-thống nói chung ở bà
mẹ Alagamman, Ngài chỉ phản-đối sự cố-chấp
của bà về một hình-thức chính-thống. Bình
thường Ngài rất chú-trọng đến thực-phẩm
( tinh-khiết ) ít khi Ngài chỉ-thị về đường lối
sống bề ngoài .
Phương-pháp của Ngài cốt ở sự gieo-rắc
mầm tâm-linh vào lòng người và để cho nó tự
phát-triển, tự biểu-hiện ra hình-thức bên ngoài.
Mệnh-lệnh phải tự bên trong, tự bản-tính thâm
sâu của thực-thể phát-xuất ra. Một tín-đồ Tây-
phương của Ngài Bhagavan là một người ăn
mặn cố-cựu. Khi ông ta đến Tùng-lâm, trước
mắt ông chỉ có thịt là món ăn có thực-chất cốt-
yếu và là món ăn ngon nhất trong bữa cơm.
ADPH RAMANA MAHARSHI
178
Không có một dư-luận nào nổi lên về vấn-đề
ấy, nhưng sau một thời-gian, chính người mới
đến ấy tự cảm thấy một sự ác-cảm thật sự khi
nghĩ đến ăn thịt .
Ở đây phải mở ngoặc đối với độc-giả
không phải tín-đồ Ấn-Độ-giáo. Giới-điều ăn
chay không phải chỉ-định rằng về sự ghê-tởm
sát sinh, tuy rằng đó là một lý-do để giữ giới.
Sự quan-trọng cũng là vì những món ăn không
chay-tịnh mà trong đó phải kể cả đến rau cũng
như là thịt, mục-đích là sự phát-triển thú-tính
nó cản-trở sự tinh-tiến của tinh-thần .
Cũng đã có những con đường khác để cho
bà mẹ tin theo rằng con bà đẻ ra là một nhập-
thể thần-linh. Một hôm bà ngồi trước mặt Ngài
Bhagavan, tự nhiên Ngài biến mất, chỉ còn có
một cột tinh-sáng, bà nghĩ rằng con mình đã
thoát xác, bà òa lên khóc, tức thì cái cột tinh-
sáng biến đi và Ngài Bhagavan lại hiện ra như
cũ. Một lần khác, bà lại thấy Ngài hiện ra ở
giữa đàn rắn, đàn rắn cuốn chặt lấy Ngài như
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
179
tượng thần Siva. Bà kêu lên : " Hãy đuổi chúng
đi ! Chúng làm cho ta sợ ! "
Sau những hiện-tượng xẩy ra như thế thì
bà mẹ khẩn-khoản yêu-cầu Ngài chỉ biểu-hiện
ở hình-thức thông-thường. Mục-đích của sự
thị-hiện đã đạt được rồi, bà Alagammal đã hiểu
rằng hình-thức nhân-loại của con bà mà bà
được biết, bà đã yêu như con của bà thì cũng
ảo-huyễn như tất cả các hình-thức khác mà
Ngài Bhagavan có thể khoác vào .
Vào năm 1920 sức khoẻ của bà mẹ bắt
đầu suy-giảm, bà không còn có khả-năng để
làm việc như cũ ở Tùng-lâm nữa và bắt-buộc
bà phải nghỉ-ngơi nhiều hơn. Trong khi bà mắc
bệnh, Ngài Bhagavan không ngừng tâm để
trông nom săn-sóc tới bà, với sự thông-cảm
giữa bà và Ngài càng ngày càng tăng tiến trong
yên-lặng và thiền-định .
Khoảng 8 giờ tối, bà mẹ Alagammal thoát
xác. Ngay bấy giờ Ngài Bhagavan đứng dậy,
ADPH RAMANA MAHARSHI
180
Ngài nói : " Bây giờ có thể chúng ta đi dùng
cơm được rồi, ở đây không còn chút ô-uế nào
nữa ! "
Câu nói ấy có một ý-nghĩa rất thâm-trầm,
một sự chết ở Ấn-Độ-giáo ngụ có một sự
nhiễm-ố. Về nghi-lễ đòi-hỏi phải làm một lễ
tẩy-uế, nhưng ở trường-hợp của bà Alagammal
thì không phải là sự chết mà là sự tái-hợp với
Đại-Ngã. Ở đây không còn linh-hồn cá-biệt
thoát xác mà là sự đồng-nhất-hóa hoàn-toàn
với Tự-Tính Tối-Cao. Như vậy thì nghi-lễ tẩy-
uế không còn cần-thiết nữa. Vài hôm sau Ngài
Bhagavan xác-định lại sự-kiện đó khi có người
nói là bà mẹ Alagammal đã mất hẳn, Ngài sửa
lại mà nói : " Bà không mất hẳn mà chỉ là sát-
nhập ". Ngài còn nói thêm để diễn-tả những
kinh-nghiệm đã qua : " Những khuynh-hướng
tiên-thiên và những ký-ức tế-nhị về kinh-
nghiệm đã qua dẫn đến khả-năng tương-lai, trở
nên hết sức hoạt-động. Hết cảnh nọ tới cảnh kia
diễn ra ở trong tiềm-thức của bà dầu rằng ý-
thức ngoại-biểu đã tắt. Tâm-hồn trải qua một
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
181
chuỗi kinh-nghiệm, tránh được cho bà sự cần-
thiết tái-sinh và làm cho tâm-hồn sát-nhập vào
Tự-Tính. Cuối cùng linh-hồn trút khỏi cái vỏ
tinh-vi trước khi đạt tới cứu-cánh cuối cùng
cảnh-giới Tối-cao hoàn-toàn Giải-thoát, không
còn trở lại cõi vô-minh nữa " .
Mặc dầu khả-năng trợ-lực của Ngài
Bhagavan, chính nhờ ở khả-năng thánh-thiện
của bà Alagammal, sự từ bỏ đầu tiên đối với tất
cả lòng luyến-ái và chấp-chước nó giúp cho bà
lợi-lạc để tái-nhập vào Tự-Tính Tối-Cao. Ngài
Bhagavan sau này có nói : " Chắc hẳn ở
trường-hợp của bà là một sự thành-công. Tôi
cũng làm hệt như thế cho đạo-sĩ Palani khi đạo-
sĩ sắp mất mà tôi đã thất-bại. Đạo-sĩ mở mắt ra
rồi tắt thở ". Ngài lại nói thêm : " Tuy vậy,
chưa hẳn là đã hoàn-toàn thất-bại, bởi vì nếu
tư-ngã của đạo-sĩ không tham-nhập hoàn-toàn
vào Tự-Tính Tối-Cao, nhưng cách chết của
đạo-sĩ Palini khiến cho ta có thể biết trước rằng
ông sẽ tái-sinh vào một đời sống tốt-lành .
ADPH RAMANA MAHARSHI
182
Thường khi một đệ-tử của Ngài cảm thấy
đau-khổ với người mình thương-yêu thì Ngài
Bhagavan nhắc lại cho chúng biết là chỉ có thể-
xác mất đi mà thôi. Chỉ là huyễn-tưởng cho ta
là thể-xác nên nó mới làm cho sự chết thành
một bi-kịch. Lúc này chính Ngài đã ly-biệt
người mẹ mà Ngài không tỏ ra buồn-phiền.
Ngài cùng đệ-tử ở lại đó suốt đêm để ca tụng
những bài ca nghi-lễ. Sự thản-nhiên đối với cái
chết thể-xác của người mẹ chính là ý-nghĩa của
sự cầu-nguyện. Lời cầu-nguyện ấy đã được
Ngài sáng-tác trong khi bà mẹ còn đang bệnh.
Vấn-đề đặt ra là người ta sẽ làm gì ( hỏa-thiêu
hay chôn ). Với thể-xác của bà mẹ cũng phải để
ý đến sự khẳng-định của Ngài Bhagavan rằng
bà đã được sát-nhập vào Tự-Tinh Tối-Cao hay
không còn tái-sinh vào cảnh-giới huyễn-ảo của
tiểu-ngã. Tuy vậy vẫn còn một chút nghi-hoặc.
Phải chăng người ta có thể chôn xác một người
phụ-nữ dù là bậc thánh-nữ thay vào việc hỏa-
thiêu. Hơn nữa người ta còn nhớ lại năm 1917,
Sastri cao-đệ và các đệ-tử khác đã vấn-nạn về
vấn-đề này với Ngài Bhagavan. Ngài đã giải
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
183
đáp bằng sự khẳng-định rằng : " Ví con đường
Giáo ( Jnana ) với con đường Giải-thoát
( Mukti ) không khác nhau dù là nam hay nữ,
thì không cần-thiết phải hỏa-thiêu thể-xác của
người phụ-nữ. Chính cái thể-xác này cũng là
nơi ngự-trị của Thần-linh ". Không ai dám hỏi
lại Ngài về sự quyết-định phải làm như thế nào
đối với thể-xác của bà mẹ. Thể-xác của bà mẹ
sẽ thuộc thành-phần của Tùng-lâm ? Hình như
không một người đệ-tử nào để ý rằng lời cầu-
nguyện năm 1914 đã là lời giải-đáp : " Hởi
đấng Tối-Cao hãy bao-bọc lấy thể-xác của mẹ
con bằng ánh-sáng của Ngài và hãy hợp-nhất
bà với Ngài, như thế có cần phải làm hỏa-thiêu
hay không ? "
Ngài Bhagavan giữ yên-lặng, không
tham-gia vào những hành-vi của người khác.
Mộ của bà mẹ được xây cất dưới chân núi phiá
nam, giữa hai ngôi điện ( một ngôi thờ môn
Tịnh và một ngôi thờ môn Thiền Trí-Tuệ ). Các
bà con và thân bằng cố hữu đến dự lễ tang cùng
với quần-chúng ở trong tỉnh tới. Người ta tung
ADPH RAMANA MAHARSHI
184
những than-tro thiêng và trầm hương chung-
quanh thể-xác của bà trước khi lấp huyệt.
Người ta xây ngôi mộ bằng đá và đặt ở trên mộ
một linh-phù đem từ Benares đến ; về sau tại
chỗ ấy người ta dựng một ngôi đền thờ, cho tới
năm 1949 ngôi điện ấy mới hoàn-thành và đặt
tên là Matrabhateswara, một ngôi điện-thờ Nữ-
Thần biểu-tượng Thượng-Đế biểu-hiện ở hình
tướng người Mẹ .
Nếu việc đến Tùng-lâm của bà mẹ đã
đánh dấu một giai-đoạn cho đời sống của
Tùng-lâm, thì sau khi bà mất cũng đánh dấu
một giai-đoạn khác. Sự phát-triển của Tùng-
lâm tăng-tiến hơn là suy-giảm. Một số tín-đồ
có cảm-tưởng về sự hiện-diện của bà mẹ như là
Năng-lực Sáng-tạo, thì có hiệu-lực hơn là trước
kia. Một hôm Ngài Bhagavan nói : " Mẹ sẽ đi
đâu ? Mẹ ở tại đây ."
Niranjananda làm một cái lều ở dưới chân
núi bên cạnh mộ của bà mẹ. Còn Ngài
Bhagavan thì ở lại Tùng-lâm, nhưng ngày nào
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
185
Ngài cũng xuống sườn núi một lần, bộ-hành
mất khoảng hơn nữa giờ. Rồi khoảng sáu tháng
sau, một hôm Ngài đi chơi mát và cảm thấy
lòng nhiệt-thành muốn xuống ngôi mộ của mẹ,
và Ngài đã ở lại đấy. Tín-đồ ở Tùng-lâm không
thấy Ngài về, họ bèn theo Ngài xuống mộ , do
đó mới dựng thêm một Tùng-lâm tên là
Ramanashram. Về sau Ngài tuyên-bố : " Không
phải tôi muốn rời bỏ Tùng-lâm cũ để về đây ;
có một sức-mạnh đã thúc-đẩy tôi xuống đây,
không phải quyết-định riêng của tôi mà là của
đấng Thiêng-liêng ".
**************
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
187
- IX -
BẤT NHỊ PHÁP
Ngài Bhagavan không phải là một nhà
triết-học trí-thức và giáo-lý của Ngài không
bao giờ thay-đổi. Sự trình-bày đầu tiên của
Ngài " Sự cứu-xét Tự-Tính " và " Ta là Ai ? "
không có gì sai khác với giáo-lý mà sau này
Ngài trình-bày bằng ngôn-ngữ vào những năm
cuối cùng. Khi hãy còn là một thiếu-niên, Ngài
tri-giác thấy sự đồng-nhất-tính của mình với
Tuyệt-đối, với Hữu-Thể thuần-túy tiềm-tàng
trong tất cả hiện-hữu, sự nhận-thức ấy hoàn-
toàn trực-giác, và học-thuyết ngụ-ý ấy chỉ sau
này mới được người ta nhận thấy : " Bấy giờ
tôi không biết rằng có một Thực-Thể, một
Thực-Tại phi-nhân-cách tiềm-tàng trong tất cả,
và Thượng-Đế với tôi đều đồng-nhất với Thực-
Thể ấy. Sau này ở tỉnh Tiruvannamalai tôi hiểu
ADPH RAMANA MAHARSHI
188
ra rằng, qua những Kinh sách Ribhu Gita
( Kinh Luật Vedas ) và các Thánh-kinh khác,
tôi khám-phá thấy những sự phân-tích trong ấy
và gọi tên khác nhau, thì chính là cái mà tôi đã
trực-giác thấy mà không gọi tên và phân-tích ".
Đấy không phải là vấn-đề quan-điểm kiến-văn
mà là vấn-đề Chân-lý được tái ngộ thấy, nghĩa
là Ngài Bhagavan không tin những điều mà
Ngài đọc, Ngài chỉ nhận ra những điều Ngài
thấy là phù-hợp với những gì Ngài trực-giác .
Ấn-Độ-giáo gồm tất cả những trình-độ,
những cách-thức của học-thuyết, mỗi cách-thức
chính-đáng và phù-hợp với những phương-tiện
cận-đạo khác nhau mà người ta đòi-hỏi tùy
theo tính-tình và trình-độ phát-triển khác nhau.
Đường cận-đạo bằng tình-yêu và sùng-bái với
một thần-linh nhân-cách-hóa phổ-thông, chẳng
hạn ở trong tôn-giáo Tây-phương hay Hồi-giáo
cũng như con đường cận-đạo bằng phụng-sự
thần-linh biểu-hiện ra tất cả sáng-tạo của Ngài.
Người ta thờ cúng bằng cách phụng-sự những
sáng-tạo đó. Tuy nhiên sự nhận-thức hữu-thể
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
189
thuần-túy coi như là Tự-Tính Tối-Cao, Đại-
đồng-tính của toàn-thể vạn-vật là chân-lý cùng-
tột siêu-việt, tất cả những trình-độ của học-
thuyết đồng thời không phủ-nhận chân-lý
riêng-biệt của từng trình-độ. Đấy là Advaita
Bất-Nhị-Pháp. Tức là không hai tính, mà do
các bậc tiên-tri cổ-xưa truyền dạy, nhất là Ngài
Shankara. Một chân-lý đơn-giản nhất đồng thời
cũng uyên-thâm nhất, chân-lý cùng-tột nó vượt
tất cả những sự phức-tạp của vũ-trụ-luận .
Bất-nhị-pháp Tính có nghĩa là chỉ có
Tuyệt-Đối mà thôi. Toàn-thể vũ-trụ nằm bên
trong Tuyệt-Đối, không làm gì có Thực-Tại
chân-thực tự-tính của nó. Nó chỉ biểu-hiện
Tuyệt-Đối. Tuyệt-Đối ấy vĩnh-viễn bất-di bất-
dịch và không biểu-hiện. Cũng tương-tự như
thế mà sự-vật bên trong giấc mộng chỉ có thực
với người nằm mộng, không thêm bớt gì cho y
bởi sự xuất-hiện của chúng, và tới khi tan biến
hết mộng, y cũng không mất-mát gì cả. Điều
này có nghĩa là Tuyệt-Đối là Tự-Tính của vũ-
trụ và của mỗi chúng-sinh. Bởi vậy, khi người
ADPH RAMANA MAHARSHI
190
ta truy-tầm cái Tự-Tính của mình, khi người ta
đặt cho mình câu hỏi " Ta là Ai ? " người ta có
thể thực-hiện cái đồng-nhất-tính của mình với
Hữu-Thể Đại-Đồng. Đấy là học-thuyết Bất-
nhị-pháp thuần-túy nhất mà Ngài Bhagavan
chứng-nghiệm và dạy dẫn .
Một số người lo sợ về học-thuyết Tự-
Tính Duy-Nhất có thể làm cho họ mất Thượng-
Đế nhân-cách để họ có thể kêu cầu. Chừng nào
người ta thừa-nhận cái tự-ngã của mình như là
có thật, thì Thượng-Đế siêu-việt và ngoại-giới
vẫn còn là Thực-Tại đối với y. Đó là trình-độ
của tôn-giáo lưỡng-nguyên với Thượng-Đế
Hữu-ngã. Tôn-giáo ấy chân-thật nhưng chưa
phải Chân-lý cùng-tột. " Tất cả các tôn-giáo
đều có ba tiền-đề căn-bản : Cá-nhân ; Thượng-
Đế và Thế-giới. Chỉ chừng nào cái tự-ngã còn
tồn-tại thì người ta mới có thể nói, hoặc là
‹ Đồng-nhất tự biểu-hiện ra là ba tiền-đề › hoặc
là ‹ ba phương-diện ấy thật là Ba ›. Trạng-thái
Tối-Cao là trở về Tự-Tính, tự đồng-hóa với
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
191
Tự-Tính, tự-ngã tan biến ". _ ( Rút ở trong 40
bài thơ về Thực-Tại ; Q. 2 )
Có nhiều người lên tiếng phản-đối quan-
niệm thế-giới không có thật, dù là họ công-
nhận sự thật của tinh-thần, đấy là vì họ chưa
hiểu rõ thế nào là thế-giới không có thật. Ngài
Bhagavan thường giải-thích ý-nghĩa huyễn-ảo
của thế-giới ấy, nhưng không có lần nào Ngài
giải-thích xác-thiệt hơn là những lời trích-dẫn
của S.S. Cohen :
" Shankara, vị tổ Bất-nhị-pháp
( Advaita ) ở Ấn-Độ đã phê-bình về triết-
lý ảo-hóa của ông mà không hiểu ý-nghĩa
của nó. Ông đặt ra ba nguyên-tắc : Đại-
Ngã có thật ; Vũ-trụ hiện-tượng không có
thật ; Đại-Ngã với Thế-giới hiện-tượng là
Một. Ông không dừng ở nguyên-tắc thứ
hai, nguyên-tắc thứ ba giải-thích cho hai
nguyên-tắc trên, nó có nghĩa là khi nào
vũ-trụ được tri-giác ở ngoài Đại-Ngã (ý-
thức vũ-trụ ) thì tri-giác ấy là sai-lầm và
ADPH RAMANA MAHARSHI
192
huyễn-ảo, nói một cách khác thì như thế
có nghĩa là hiện-tượng có thật khi nào
thực-nghiệm như là Tự-Tính, và nó chỉ
huyễn-ảo khi nào nhìn ở ngoài Tự-Tính ".
Phép truyền đạo của Ngài Bhagavan hết
sức thực-tiễn. Ngài chỉ trình-bày lý-thuyết
chừng nào giải-đáp cho những nhu-yếu đặc-
biệt và cho những câu hỏi của tín-đồ, và như là
cơ-bản thiết-yếu cho sự thực-hành. Một hôm
người ta nhắc lại cho Ngài là trong Thánh-giáo
của Ngài nói rằng Đức Phật đã từ-chối trả lời
những câu hỏi về Thượng-Đế. Ngài đáp-ứng
với thái-độ biểu-đồng-tình với Đức Phật : " Kỳ
thực Đức Phật chú-trọng nhiều vào việc hướng-
dẫn người tầm đạo thực-hiện an-lạc ngay tại
đây hơn là những thảo-luận kinh-viện về
Thượng-Đế và các vấn-đề khác ". Ngài
Bhagavan cũng thế, Ngài thường từ-chối thỏa-
mãn sự tò-mò của những người vấn đạo, hơn
thế nữa Ngài còn hướng-dẫn họ về sự tinh-tiến
thực-hiện. Ví dụ hàng ngày Ngài trả lời cho
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
193
một số người hỏi Ngài về số-phận sau khi chết
của con người. Ngài có thể đáp :
" Tại sao các anh lại muốn biết số-
phận mình sau khi chết trước khi mình
biết mình là cái gì hiện-tại ".
" Vị tri sinh an tri tử " _ ( Khổng-Tử )
Một người có hiện-tại đồng thời vĩnh-
viễn cũng là cái Tự-Tính bất-tử. Nó tồn-tại
trong bối-cảnh ở đời này và ở các đời khác,
nhưng chỉ nói và chỉ tin chưa đủ, còn phải cố-
gắng thể-hiện thành sự thật. Cũng vậy mà khi
người ta hỏi Ngài Bhagavan về vấn-đề
Thượng-Đế, Ngài đã trả lời :
" Tại sao anh muốn biết Thượng-Đế
trước khi anh tự biết mình ? Trước hết
hãy khám-phá ra xem chính mình là cái gì
đã ! "
Phương-pháp để thành-đạt đáng lẽ sẽ
được trình-bày ở các chương sau, nhưng vì
chương sau đây trình-bầy những sự liên-quan
ADPH RAMANA MAHARSHI
194
tới học-thuyết của Ngài cho đệ-tử, nên người ta
có thể nói ngay đến phương-pháp cùng với
học-thuyết của Ngài .
Giáo-lý của Ngài không phải là một triết-
học theo nghĩa thông-thường của chữ " Triết-
học ". Ngài không dạy các tín-đồ của Ngài suy-
tưởng những vấn-đề mà là tiêu-trừ tư-tưởng.
Người ta có thể kết-luận rằng cách-thức ấy có
vẻ kỳ-lạ, nhưng cũng như Ngài Bhagavan đã
giải-thích cho Paul Brunton trong cuộc vấn-đáp
đã dẫn ở Ch. II , thì phương-pháp ấy không có
gì là lạ-lùng. Tất cả mọi người đều đồng-nhất-
thể với Tự-Tính Tối-Cao là Thực-Tại Thuần-
Túy, Ý-Thức Thuần-Túy, Lạc-Cảnh Thuần-
Túy, nhưng lý-trí đã tạo ra ảnh-hưởng của một
cá-thể phân-biệt. Trong giấc ngủ-say lý-trí yên-
lặng và người ta là Một với Tự-Tính Tối-Cao,
nhưng nó không ý-thức. Ở trong trạng-thái đại-
định nó là Tự-Tính, nó trở nên Tự-Tính mà nó
hoàn-toàn ý-thức. Ở đấy không còn tối-tăm nữa
mà là sáng-lạn. Khi nào lý-trí không can-thiệp
vào thì cái ý-thức về Tự-Tính Tối-Cao sẽ được
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
195
khải-ngộ nhờ ân-điển của sư-phụ ; sửa-soạn
như thế cho trạng-thái đồng-nhất-thể viên-mãn,
hoan-lạc. Trạng-thái ấy chẳng phải là sự mê-
muội mà là một sự tri-kiến sáng-chiếu, Giác-
ngộ, Tôi tồn-tại thuần-túy .
Một vài người lùi bước trước ý-tưởng về
sự hủy-diệt lý-trí, hay là nói một cách khác sự
hủy-diệt cái cá-tính riêng-biệt và thấy nó một
cách ghê-sợ. Tuy vậy, sự ly-khai ấy xuất-hiện
với chúng ta hàng ngày trong giấc ngủ mà
chúng ta không hề lo sợ giấc ngủ, chúng ta còn
lấy làm thích-thú trong giấc ngủ-say. Tuy rằng
tinh-thần chỉ được an-tĩnh một cách vô-ý-thức.
Vả lại trong trạng-thái hoan-lạc hay thần-hóa,
tinh-thần nhất thời tham nhập vào trong cảnh
an-lạc, là Chân-Tính của nó. Chính những
danh-từ mê-ly và thần-hóa ngụ-ý siêu-việt
những cá-tính bởi vì mê-ly ( ravissement ) có
nghĩa là vượt ra khỏi mình và thần-hóa (extase)
có nghĩa là đi ra ngoài bản-ngã của mình. Từ-
ngữ " đứt hơi, ngừng thở " ( couper la respi-
ration ) có nghĩa thực-sự là đoạn-tuyệt tư-duy,
ADPH RAMANA MAHARSHI
196
bởi vì hơi-thở với tư-duy đều do cùng một
nguồn phát-xuất ra như Ngài Bhagavan giải-
thích khi Ngài nói về sự điều-ngự hơi thở. Sự
thật cá-tính không bị hủy-diệt ; nó triển-khai
tới Vô-hạn, Vô-biên .
Sự gạt bỏ tư-duy ấy nhằm mục-đích bắt
lý-trí tập-trung hết sức vào sự giác-ngộ thâm-
thúy ở đàng sau và ở ngoài tư-tưởng. Nó làm
cho an-tĩnh .
Sự từ bỏ tư-duy ấy không làm yếu lý-trí
chút nào, mà nó lại làm cho thêm sức mạnh
tinh-thần, vì nó chỉ-dẫn tập-trung tinh-thần.
Ngài Bhagavan thường khẳng-định như thế,
chính cái tinh-thần yếu-đuối và không chế-ngự
thường bị đãng-trí bởi những ý-nghĩ viển-vông
làm cho tiêu-hao, và những ưu-tư vô ích. Tinh-
thần cường-kiện có thể tập-trung bất cứ vào
một đối-tượng nào, thì có thể hướng-dẫn nghị-
lực tập-trung vào sự từ bỏ tư-tưởng và sự cầu
tìm Tự-Tính Tối-Cao. Trái lại sự nỗ-lực để trừ
bỏ tư-tưởng theo cách nói trên là một nguồn
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
197
sinh-sản ra năng-lực và sức mạnh tập-trung.
Sau khi kết-thúc công-trình cứu-xét thì những
năng-khiếu của tinh-thần không mất đi chút
nào. Ngài Bhagavan minh-chứng học-thuyết ấy
bằng sự so-sánh cùng nhà đạo-sĩ Tuệ-Giác về
mặt-trăng giữa trời đang trưa. Ánh sáng của
trăng đương nhiên là có, nhưng không thiết-yếu
vì ánh-sáng mặt-trời còn mạnh hơn và làm
nguồn phát-xuất ánh-sáng cho mặt-trăng .
*****************
*
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
199
- X -
CÁC ĐỆ-TỬ ĐẦU TIÊN
CỦA MAHARSHI
Mặc dầu học-thuyết của Ngài Bhagavan
giảng-dạy không bao giờ thay-đổi, nhưng cách-
thức giảng-dạy thay-đổi tùy theo tính-cách và
sức thông-minh của người vấn-đạo. Trong
những năm mà đạo-sĩ ở tại trong núi, người ta
ghi nhận những thực-nghiệm của một số đệ-tử
cùng là những giải-thích mà những thực-
nghiệm đó tạo ra. Một số những thực-nghiệm
ấy sẽ được ghi lại sau đây, và thực ra những
thực-nghiệm ấy của tín-đồ hợp thành tiểu-sử
của Ngài Bhagavan. Bởi vì chính Ngài ở tại
trong bất-di bất-dịch, ngoài tất cả những thực-
nghiệm .
ADPH RAMANA MAHARSHI
200
Sivaprakasam Pillai, đệ-tử đầu tiên trí-
thức nhất trong hàng đệ-tử của Ngài Bhagavan.
Ông ta đã từng học triết-học ở Đại-học và có
khuynh-hướng tìm hiểu bí-quyết về sự tồn-tại.
Năm 1900 ông được bổ vào làm ở sở kho-bạc
tại quận phiá nam Arcet. Hai năm sau ông di-
chuyển đến Tiruvannamalai, ông được nghe
tiếng về một đạo-sĩ trẻ ở trong núi. Ngay cuộc
tiếp-xúc đầu tiên ông đã bị hấp-dẫn và trở nên
một trong những đệ-tử của Ngài Bhagavan.
Ông đặt cho Ngài Bhagavan 14 câu hỏi, nhưng
Ngài còn đang ở trong thời-gian tịnh-khẩu, nên
những câu hỏi và những câu giải đáp đều được
viết ra. Ngài Bhagavan viết câu cuối cùng trên
một tảng đá, nhưng đệ-tử Pillai chép ngay vào
giấy. Sau này Pillai còn ghi lại, theo trí nhớ, 13
câu vấn đáp khác. Và Ngài Bhagavan đã sửa lại
trước khi xuất-bản :
S. Pillai : _ Thưa đạo-sĩ, Tôi là ai ? Bằng cách
nào người ta có thể đạt được sự cứu-độ ?
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
201
Bhagavan : _ Bằng cách luôn luôn tự đặt cho
mình, trong tâm-khảm, câu hỏi " Ta là
ai ? " anh sẽ biết được chính anh, và theo
cách ấy anh sẽ đạt được sự cứu-độ .
S. Pillai : _ Ta là ai ?
Bhagavan : _ Cái Ngã thật của mình, cái Ngã
siêu-việt không phải là thân-thể, cũng
chẳng phải là một trong năm giác-quan,
cũng chẳng phải đối-tượng của giác-quan,
cũng chẳng phải cơ-năng động-tác, chẳng
phải sinh-khí (prajna), cũng chẳng phải
lý-trí, cũng chẳng phải cảnh ngủ-say mà
trong đó tất cả những nhận-thức trên đây
không còn nữa .
S. Pillai : _ Nếu tôi không phải là những cái ấy
thì tôi còn là cái gì khác ?
Bhagavan : _ Sau khi đã vứt bỏ tất cả đi rồi, và
nói : " Đấy là những cái không phải tôi,
ADPH RAMANA MAHARSHI
202
còn lại cái gì thì chính là " Cái Ngã của
tôi " và cái Ngã ấy là Ý-thức .
S. Pillai : _ Bản-tính của Ý-thức ấy là gì ?
Bhagavan : _ Cái ấy là Hữu-thể, Ý-thức, và
Hoan-lạc ( Sat, Chit, Ananda ). Chính
trong cảnh-giới ấy thì mới không còn cả
đến dấu-vết của ý-niệm về " Cái Tôi tư-
duy ). Người ta còn gọi là Tịch-Tĩnh
( Mouna ), hay là Ngã ( Atman ). Chỉ có
cái Ấy là thật. Nếu người ta coi Tam-tài
( Ngã, Thế-giới và Thượng-Đế ) như là
những cá-thể biệt-lập thì chúng chỉ là
huyễn-ảo mà thôi ; chẳng khác gì cái
bóng lóng-lánh của sà-cừ, nó có vẻ như là
bạc thật. Thượng-Đế, Tự-Ngã và Thế-
giới, sự thật chỉ là hình-tướng của Siva
( Hình-danh sắc-tướng của Ngài ), hay là
hình-tướng của Tâm-linh .
S. Pillai : _ Làm thế nào chúng ta có thể đạt tới
Thực-tại ấy ?
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
203
Bhagavan : _ Khi nào những sự-vật chúng ta
nhìn thấy biến đi, thì Chân-tính của người
nhìn thấy hay là Chủ-thể (Năng ) hiện ra .
S. Pillai : _ Người ta không có thể thực-hiện
Cái Ấy trong khi đang nhìn ngoại vật ?
Bhagavan : _ Không, bởi vì người nhìn ( Năng
kiến ) như thế và những sự-vật được nhìn
( Sở kiến ) cũng chẳng khác gì cái thừng
mà người ta lầm tưởng là con rắn. Chỉ khi
nào người ta thoát khỏi cái ý-niệm về con
rắn, thì người ta mới có thể nhận ra là chỉ
có cái thừng mà thôi .
S. Pillai : _ Khi nào thì những sự-vật ngoại-giới
biến đi ?
Bhagavan : _ Khi nào tinh-thần ( Tâm trí ) là
nguyên-nhân của tư-tưởng mà những
hoạt-động của nó biến đi, thì sự-vật
ngoại-giới cũng biến đi theo .
ADPH RAMANA MAHARSHI
204
S. Pillai : _ Bản-tính của Tinh-thần ( Tâm-trí )
là gì ?
Bhagavan : _ Tinh-thần chỉ là tư-tưởng, là một
hình-thức của năng-lượng, nó tự biểu-
hiện ra là Thế-giới. Khi nào tinh-thần
nhập vào trong Tự-Tính thì Tự-Tính được
thể-hiện ; khi nào tinh-thần lại xuất-hiện,
thì Thế-giới lại hiện ra và Tự-Tính không
được thể-hiện .
S. Pillai : _ Làm thế nào mà tinh-thần có thể
biến đi ?
Bhagavan : _ Chỉ có câu hỏi " Ta là ai ? " mới
có thể làm cho nó biến đi, mặc dù câu hỏi
ấy cũng thuộc về động-tác tư-duy, nó
hủy-diệt tất cả những động-tác của tinh-
thần cả đến tự bản-thân nó nữa, cũng như
que củi đốt đống củi trên lò hỏa-thiêu, tự
nó cũng hủy-diệt thành than sau khi củi
thiêu cùng tử-thi bị thiêu hết. Chỉ đến bấy
giờ Tự-Tính mới thể-hiện. Cái ý-niệm về
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
205
" Tôi tư-duy " bị tiêu-trừ, đồng thời sinh-
khí với tất cả hoạt-động khác cũng tiêu-
trừ nốt. Cái Tự-Ngã và sinh-khí đều do
một nguồn chung xuất-hiện. Tất cả những
công việc làm của anh, anh hãy làm một
cách vô-tư không vị-kỷ, nghĩa là không
có cảm-tưởng là " Tôi làm việc đó ". Khi
nào một người đạt tới trạng-thái ấy thì
chính vợ mình cũng hiện ra là một người
Mẹ " Đại-đồng ". Đức Tín-Yêu ( Bhakti )
chân-chính chẳng phải là cái gì khác hơn
là đem Tự-Ngã phục-tòng Tự-Tính .
S. Pillai : _ Có cách nào khác để tiêu-hủy tinh-
thần không ?
Bhagavan : _ Có nhiều phương-pháp thích-hợp
để diệt-trừ tinh-thần. Không có phương-
pháp nào thích-hợp hơn là phương-pháp
Cầu-tìm Tự-Tính của chính mình. Khi
nào tinh-thần được nâng-niu, ru-ngủ bởi
những phương-tiện khác thì trong một
ADPH RAMANA MAHARSHI
206
khoảnh-khắc nó không hoạt-động nữa, rồi
sau nó lại cất đầu lên để lại hoạt-động
như trước .
S. Pillai : _ Nhưng làm thế nào tất cả những
bản-năng của tôi, tất cả những su-hướng,
chẳng hạn như bản-năng bảo-tồn, có thể
khắc-phục được .
Bhagavan : _ Anh càng thu vào Tự-Tính bao
nhiêu thì những su-hướng kia lại càng
thoái-lui và cuối cùng chúng sẽ rời khỏi
nơi anh .
S. Pillai : _ Thực ra, làm thế nào mà có thể nhổ
được hết rễ những su-hướng ấy, vì chúng
đã tiêm-nhiễm vào tinh-thần chúng ta trải
qua biết bao nhiêu kiếp ?
Bhagavan : _ Không nên để tâm vào sự nghi-
ngờ ấy, mà phải quyết chí đi sâu vào Tự-
Tính, nếu tinh-thần luôn luôn hướng vào
Tự-Tính thì cuối cùng nó sẽ tiêu-tan đi và
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
207
biến thành chính Tự-Tính. Nếu anh còn
cảm thấy có sự nghi-hoặc thì đừng nên
tìm cách làm cho nó tan biến đi, nhưng
hãy tự hỏi " ai là người nghi-hoặc ? "
S. Pillai : _ Phải mất bao nhiêu lâu để tìm-tòi
như thế ?
Bhagavan : _ Chừng nào trong tinh-thần anh
còn một chút khuynh-hướng tạo ra tư-
duy, chừng nào còn kẻ thù chiếm-đoạt
thành-trì, thì chúng sẽ luôn luôn tìm mở
lối ra. Nếu anh giết lần lượt từng kẻ-thù
một khi nó đi ra, thì thành-trì cuối cùng sẽ
rơi vào tay anh. Cũng vậy, mỗi khi tư-
tưởng cất đầu lên, thì anh hãy đập nát đầu
nó bằng cách Cầu-Tìm cái Ngã của anh.
Hãy đập tan tư-tưởng tự nguồn-gốc của
chúng. Động-tác đập tan ấy gọi là siêu-
thoát, bất-động ( vairagya ). Cứ như thế
mà sự Cầu-Tìm Bản-Lai Diện-Mục
( Vichala ) tiếp-tục cần-thiết chừng nào
Tự-Tính chưa được thực-hiện. Phải nghĩ
ADPH RAMANA MAHARSHI
208
về Tự-Tính một cách liên-tục, không bao
giờ gián-đoạn là thiết-yếu .
S. Pillai : _ Nhưng thế-giới với tất cả những
chứa-đựng của nó, phải chăng tất cả chỉ là
ý muốn của đấng Tối-Cao ? Tại sao đấng
Tối-Cao lại muốn như thế ?
Bhagavan : _ Thương-Đế không hữu ý, Ngài
không bị lệ-thuộc vào một động-tác nào.
Tất cả những hoạt-động ở thế-gian này
không đụng-chạm tới Ngài. So-sánh
Thượng-Đế với mặt-trời ; mặt-trời mọc
lên không có ý muốn, nó không chủ-định
và không nỗ-lực gì cả, nhưng khi nó mọc
lên thì vô số những hoạt-động nẩy-sinh.
Kính hiển-vi đặt dưới tia nắng bốc ra lửa
tại trọng-tâm tập-trung, nhị sen nở ra hoa,
nước bốc thành hơi, và tất cả tạo-vật cùng
chúng-sinh bắt đầu hoạt-động, dấn thân
vào đấy để sau cùng rời bỏ. Nhưng mặt-
trời không bị ảnh-hưởng chút nào bởi
những hoạt-động ấy, vì nó chỉ hành-động
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
209
theo bản-tính của nó, là một định-luật
nhất-định không chủ-định như là một
nhân-chứng. Đối với Thượng-Đế cũng
thế .
Hay là hãy tỉ-dụ một cách khác như
không-gian và tinh-khí. Trái đất, nước,
lửa, không-khí, chứa trong ấy và biến-thái
trong ấy, nhưng cả không-gian cũng như
tinh-khí không vì thế mà bị ảnh-hưởng .
Cũng như vậy, đối với Thượng-Đế.
Thượng-Đế không có dục-vọng, không có
chủ-đích trong động-tác sáng-tạo, duy-trì,
hủy-diệt, rút lui và cứu-độ mà chúng-sinh
bị lệ-thuộc. Chúng-sinh tiếp hái lấy kết-
quả hành-vi của mình theo định-luật của
Thượng-Đế. Chính chúng mang lấy trách-
nhiệm chứ không phải Thượng-Đế,
Thượng-Đế không lệ-thuộc vào một
hành-vi nào của chúng-sinh ."
Những lời nói của Ngài Bhagavan, theo
đấy thì " Cái Chân-tính của người nào nhìn,
chỉ thấy xuất-hiện khi nào những vật nhìn thấy
ADPH RAMANA MAHARSHI
210
biến đi ", những lời nói ấy không nên hiểu
theo nghĩa đen. Không còn ý-thức về thế-giới
hữu-hình là ở trong trạng-thái xuất-thần vô-
hình-tướng ( Tam-muội Vô-dư = Nirvikalpa
Samadhi ) .
Điều mà Ngài Bhagavan muốn nói là
những vật không còn hình-tướng và chỉ còn
thấy như là những hình-dáng biểu-hiện của Tự-
Tính. Cái tỉ-dụ sợi giây thừng và con rắn,
minh-chứng cho ý-tưởng ấy. Nó là một tỉ-dụ
điển-hình mà Ngài Bhagavan thường dùng :
" Trong đêm tối, một người nhìn thấy cái thừng
tưởng là con rắn, người ấy rất sợ-hãi, nhưng
đến khi trời sáng người đó mới biết đó chỉ là
một sợi giây thừng, và sự sợ-hãi trước đó chỉ là
hão-huyền. Cái thừng là thực-tại của Thực-Thể.
Hình-ảnh con rắn làm cho người kia hoảng-sợ
là thế-giới khách-quan .
Điều khẳng-định cho rằng việc thoát-ly
tư-tưởng là một sự tiêu-trừ tư-tưởng ngay từ
lúc nó mới nẩy sinh, đòi hỏi phải có giải-thích.
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
211
( Vairagya = thoát-lý nghĩa là tuyệt tham-vọng,
ly-khai, bình-thản ). Đạo-sĩ Pillai khi hỏi Ngài
Bhagavan lúc nào thì những bản-năng và
những su-hướng tiềm-tàng có thể khắc-phục
được để chứng-tỏ rằng ông ta khao-khát thoát-
ly ( vairagya ). Sự thực, Ngài nói với Pillai
rằng sự Cứu-xét Tự-Tính mình chính là con
đường tắt, ngắn nhất dẫn đến sự thoát-ly
( vairagya ). Đam-mê, cố-chấp là bản-lai của
tinh-thần ( tâm trí ), bởi vậy mà khi tinh-thần
kiểm-soát trí-thức người ta, thì chúng bị khắc-
phục và đấy là Thoát-ly ( Vairagya ) .
Những câu giải đáp ấy sau này được bổ-
túc khi xuất-bản tác-phẩm nhan-đề " Ta là
Ai ? ". Nó là sự trình-bày bằng văn xuôi của
Ngài Bhagavan, có lẽ đã được thưởng-thức
nhiều nhất .
Năm 1910, đạo-sĩ Pillai coi chức-nghiệp
công-khai của mình như là một trở-ngại trên
con đường tu-luyện tâm-linh ( Sadhana ). Ông
ta có thừa tư-sản ở nhà, khỏi phải kiếm tiền và
ADPH RAMANA MAHARSHI
212
ông bèn tự nguyện từ-chức. Ba năm sau, ông
phải quyết-định một sự quan-trọng, sự từ-chức
của ông phải chăng có ý-nghĩa từ bỏ cuộc đời
thế-gian này hay chỉ là sự từ bỏ những điều
bận-bịu, ràng-buộc mà không phải là từ bỏ
những điều thích-thú. Người vợ ông từ-trần,
nên ông phải đứng trước một vấn-đề giải-quyết
là tục-huyền hay là hiến dâng cho đời sống tu-
sĩ. Ông còn ở tuổi trung-niên và đang có một
người phụ-nữ mà ông rất quyến-luyến. Và như
thế lại nẩy ra vấn-đề tiền bạc ở trường-hợp lập
gia-thất mới. Đạo-sĩ Pillai lưỡng-lự trước sự
trình-bày về vấn-đề ấy với sư-phụ của mình, có
lẽ trong mấy ngày suy-nghĩ ông đoán biết câu
hỏi sẽ phải như thế nào, cho nên ông tìm cách
khác để thăm hỏi. Ông viết bốn câu hỏi vào
một tờ giấy :
1/ Con phải làm gì để giải-thoát khỏi
những ưu-phiền ?
2/ Con có nên kết-hôn với người con gái
mà con đang mơ-tưởng ?
3/ Nếu không thì tai sao ?
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
213
4/ Nếu đi tới hôn-nhân thì lấy đâu ra
tiền ?
Ông đi đến đền-thờ Thần Vighneswara và
mang theo tờ giấy, hình-tướng Thần-linh mà
thủa nhỏ ông thường tới cầu-nguyện. Ông đặt
tờ giấy trước mặt tượng Thần và thức suốt đêm
ở trong đền để cầu-nguyện, mong được câu trả
lời hiện ra trên tờ giấy hay một dấu-hiệu nào
đó, hoặc được ban cho một sự thị-hiện nào .
Tất cả những điều ấy không thấy xẩy ra,
nên đạo-sĩ Pillai đành phải tìm đến Ngài
Bhagavan. Đạo-sĩ đi tới động Virupaksha của
Ngài. Đạo-sĩ lần-lữa mãi để chờ cơ-hội gặp-gỡ,
tuy rằng Ngài Bhagavan không bao giờ
khuyến-khích ai xuất-gia, điều đó không có
nghĩa là Ngài không khuyến-khích người nào
mà chính định-mệnh đã giải-thoát khỏi cuộc
đời ràng-buộc vào gia-thất thứ hai. Dần dần
đạo-sĩ Pillai cảm thấy rõ lời giải-đáp mong
muốn đó đã do sự hiện-diện và chứng-kiến về
đời sống thanh-tao huyền-bí của Ngài Bhaga-
ADPH RAMANA MAHARSHI
214
van ban cho phụ-nữ, tiền bạc không có vai-trò
gì vào đấy. Thế rồi ngày ra đi đã định của đạo-
sĩ Pillai đến mà những câu hỏi kia vẫn chưa
được giải-quyết vì Ngài Bhagavan luôn luôn có
một đám đông vây quanh, ngay cả khi đạo-sĩ
Pillai muốn hỏi Ngài .
Đạo-sĩ Pillai ngồi yên một chỗ, chăm chú
nhìn Ngài Bhagavan, thình-lình ông nhìn thấy
trên đầu Ngài có một vầng ánh-sáng tỏa ra, một
đứa bé lóng-lánh như bạc từ trong đó đi ra, rồi
lại nhập vào. Phải chăng đó là câu trả lời linh-
động mà đạo-sĩ Pillai đã từng chờ đợi ?
Đạo-sĩ Pillai phải chăng nên hiểu rằng sự
sinh-sản chân-chính không phải là do xác-thịt
mà là do tinh-thần ? Thình-lình ông chìm vào
trong trạng-thái thần-hóa. Giai-đoạn mà tinh-
thần bị căng thẳng bởi sự nghi-hoặc và bất-định
lâu dài, cuối cùng đã nhường chỗ, đạo-sĩ Pillai
đã nức-nở và thỏa-mãn .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
215
Bằng-chứng về điều-kiện sinh-sống rất
bình-thường chung-quanh Ngài Bhagavan, ấy
là giọng cười mà đa số đệ-tử của Ngài đã biểu-
lộ ra sau khi được nghe S. Pillai kể lại câu
chuyện trên. Một số khác còn nghi-ngờ, lại một
số khác nữa tưởng là đạo-sĩ Pillai say rượu.
Tuy rằng người ta có thể dẫn-chứng nhiều thị-
hiện của Ngài Bhagavan cùng những sự-kiện
phi-thường trong cuộc đời của Ngài, chỉ xẩy ra
cách xa nhau trong vòng hơn hai mươi năm mà
Ngài biểu-hiện với chúng ta .
Ngày hôm ấy đạo-sĩ Pillai tràn ngập niềm
vui sướng, ông bỏ hẳn ý-tưởng ra đi. Hôm sau
trong khi đạo-sĩ Pillai ngồi với Ngài Bhagavan,
ông lại được thấy một sự thị-hiện khác. Lần
này thân-thể Ngài lóng-lánh như mặt-trời ban
mai, chung-quanh tỏa ra hào-quang như một
ánh trăng tròn. Kế đến lại được phủ một lớp tro
thiêng mà đôi mắt phóng ra tia sáng hiền-từ.
Hai hôm sau lại có một sự thị-hiện mới, lần này
thân-thể Ngài hiện ra như một thứ pha-lê trong
suốt .
ADPH RAMANA MAHARSHI
216
Trong không-khí hồi-hộp đạo-sĩ Pillai lo-
sợ phải rời bỏ đi nơi khác, e niềm vui sướng
tràn-ngập tâm-hôn ông tan biến mất .
Tuy đạo-sĩ Pillai đã trở về làng mà bốn
câu hỏi của ông vẫn chưa được giải đáp. Ông
sống độc-thân trọn đời và khổ-hạnh. Ông sáng-
tác, ông mô-tả tất cả những kinh-nghiệm của
mình trong một bài thơ tiếng Tamil. Ông cũng
sáng-tác nhiều bài thơ khác ca tụng Ngài
Bhagavan và đến nay vẫn có nhiều đệ-tử còn ca
hát .
***
*
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
217
NATESA MUDALIAR
Những người đến gặp Ngài Bhagavan
không hiểu thấu tất cả giáo-lý thầm-lặng của
Ngài. Cuối cùng Mudaliar đã hiểu được giáo-lý
ấy, nhưng phải mất một thời-gian khá lâu. Anh
này đang làm giáo-viên tiểu-học, nhân đọc sách
của Vivekananda nên anh cảm thấy nao-nức
muốn xuất-gia và cầu-tìm một sư-phụ. Bạn-hữu
của anh kể cho anh biết một đạo-sĩ trẻ ở núi
Arunachala, nhưng người bạn ấy lại nói thêm
rằng anh khó có hy-vọng được sư-phụ đó ấn-
chứng cho ( giáo-lý thầm-lặng ). Tuy vậy,
Mudaliar cũng quyết-định thử tới xem. Hồi đó
vào năm 1918, Ngài Bhagavan đã sống ở
Tùng-lâm Skandashram. Mudaliar bèn tới
Tùng-lâm, anh ngồi xuống trước mặt Ngài
Bhagavan, nhưng Ngài vẫn yên-lặng, Mudaliar
không dám lên tiếng trước, anh đành trở về với
sự thất-vọng .
ADPH RAMANA MAHARSHI
218
Thất-bại về cuộc thí-nghiệm của mình,
Mudaliar bèn đi chu-du khắp thiên-hạ, tìm gặp
một số đạo-sĩ cao-tăng khác, nhưng anh không
thấy được ở vị nào có sự thể-hiện thần-linh để
tự khuất-phục. Sau hai năm tìm kiếm vô hiệu-
quả, anh đành viết một bức thư dài cho Ngài
Bhagavan để khẩn-khoản xin Ngài không nên
lãnh-đạm với những tâm-hồn đang khát-khao
đi tìm chân-lý, và anh xin phép Ngài cho anh
được trở lại Tùng-lâm, bởi vì cuộc thăm viếng
đầu đã không đem lại ích-lợi gì cho anh cả.
Một tháng đã qua mà không được hồi đáp,
Mudaliar bèn viết một bức thư bảo-đảm và có
được trả lời. Lần này anh đã viết như sau :
" Bất cứ bao nhiêu kiếp tôi phải tái-
sinh, tôi cũng nhất-quyết xin Ngài truyền
pháp ( giáo-lý thầm-lặng = Upadesa ) và
chỉ của Ngài thôi. Ngài sẽ buộc lòng phải
như thế. Tôi sẽ thề tái-sinh để cầu-khẩn
nếu đời này Ngài bỏ rơi tôi và coi tôi như
là căn-cơ còn non nớt chưa đủ để tiếp-
nhận giáo-lý của Ngài hay là còn ấu-trĩ
chưa sửa-soạn " .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
219
Mấy hôm sau Ngài Bhagavan thị-hiện
cho Mudaliar trong một giấc mộng và nói :
" Đừng luôn luôn nghĩ đến ta. Trước hết anh
phải có được Ân-điển của Thần-linh Tối-Cao
( Maheswara ) Thần-linh của Bò-Mộng. Chính
Thần-linh ấy mà anh phải tâm-niệm để có được
Ân-điển của Ngài. Sự giúp-đỡ của ta sẽ đến với
anh rất tự-nhiên .
Mudaliar có ở trong nhà một bức họa
hình ảnh Thần Maheswara cưỡi trên lưng bò-
mộng, anh đã lấy bức họa ấy làm đối-tượng để
tâm-niệm. Vài hôm sau anh nhận được bức thư
của Ngài Bhagavan trả lời :
" Các đại Tiên-Tri ( Maharshi )
không trả lời bằng thư, anh có thể đến
thẳng Tùng-lâm này để thấy chính bản-
thân Ngài ."
Mudaliar lại viết một bức thư nữa để
được chắc-chắn rằng chính bức thư giải đáp
vừa rồi là mệnh-lệnh của Ngài Bhagavan, thế
ADPH RAMANA MAHARSHI
220
rồi anh lên đường tới tỉnh Tiruvannamalai. Nơi
gần Tùng-lâm, theo con đường đã vạch sẵn như
trong giấc mộng, trước tiên anh tới chánh-điện
của đền-thờ ở tỉnh để có được Ân-điển của
Thần núi Arunachala và anh đã ngủ đêm tại
đấy. Anh gặp một người Bà-la-môn, người ấy
đã khuyên anh nên bỏ dự-định lúc đầu đó đi :
" Hãy nghe ta đây, ta đã trải qua mười sáu năm
bên cạnh Ngài Bhagavan để cầu tìm hoài mà
không được Ân-điển của Ngài. Ngài lãnh-đạm
với tất cả, dù anh có đập vỡ sọ anh ra Ngài
cũng không buồn hỏi tại sao. Đã không được
Ân-điển của Ngài thì anh còn đến tìm Ngài làm
gì nữa ".
Những lời ấy minh-chứng rõ-ràng cho ta
thấy những gì về sự biểu-hiện mà Ngài
Bhagavan đòi-hỏi ở đệ-tử của Ngài. Những
người nào có lòng cởi-mở sẽ gặp được ở Ngài
một sự săn-sóc tha-thiết hơn là một người mẹ
đối với con ruột của mình. Một số người trong
hàng đệ-tử sợ-hãi một cách tôn-kính ; nhưng
những ai chỉ chú ý đến dấu-hiệu bề ngoài thì
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
221
không thấy gì hết. Mudaliar là hạng đệ-tử
không lùi bước trước những sự-kiện ấy. Vì anh
bền chí trong quyết-định của mình, cho nên
người kia đã nói với anh : " Dù sao, anh sẽ thấy
xem anh có duyên may nhận được Ân-điển của
Ngài Bhagavan hay không. Ở trên núi có một
đạo-sĩ Seshadri không hay tiếp-xúc với ai và
thường sua đuổi những người muốn tới gần
ông. Nếu anh có thể nhận được ở ông một ân-
huệ gì thì đó là một điều rất tốt để có được một
sự thành-công đối với Ngài Bhagavan " .
Sáng hôm sau, Mudaliar lên đường với
một đồng-nghiệp J.V. Subrahmanya Iyer để đi
tìm nhà đạo-sĩ khó bắt gặp ấy ( Seshadri ). Sau
khi đã tìm được đạo-sĩ, bọn này được mục-kích
và họ rất lấy làm lạ và hoan-hỷ khi thấy chính
đạo-sĩ đã đến với họ. Không buồn hỏi đến lý-
do đưa họ đến đây, đạo-sĩ Seshadri bảo ngay
Mudaliar : " Con ơi ! Tại sao con đau khổ và
lo-âu đến thế ? Con đường Giác-ngộ là gì ?
Sau khi trí-thức đã lần lượt vứt bỏ tất cả những
đối-tượng, coi như là vô-thường và không
ADPH RAMANA MAHARSHI
222
chân-thật, còn lại cái gì sau cuộc tiêu-trừ ấy đi,
đó là Giác-ngộ, ( Chân-tri : Jnana ), đó là
Thượng-Đế. Tất cả là Cái Ấy và chỉ có Cái Ấy
thôi. Thật là điên-rồ mà chạy ngược chạy suôi
tưởng có thể đạt được Giác-ngộ ở trên núi hoặc
ở trong một hang động. Đi đi, không có gì phải
lo-lắng cả ".
Trong khi nói thế, đạo-sĩ Seshadri không
ban cho Mudaliar giáo-lý ( Upadesa ) của mình
mà là giáo-lý của Ngài Bhagavan, đúng theo
luận-điệu của sư-phụ ( là Ngài Bhagavan ) đã
dùng .
Sau khi được khuyến-khích bởi điểm tốt
lành ấy, Mudaliar cùng người bạn lại men theo
sườn núi mà tới Tùng-lâm Skandashram của
Ngài Bhagavan. Khi tới nơi, vừa đúng giữa
trưa, Mudaliar ngồi tĩnh-tọa trước mặt Ngài
Bhagavan suốt năm, sáu tiếng đồng hồ mà
không có lời nào trao đổi giữa hai người, đến
giờ ăn cơm, Ngài Bhagavan đứng dậy đi ra
khỏi phòng .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
223
Người bạn J.V. Subramanya nói với anh :
" Đó là nhân-vật mà anh đã viết cho Ngài hai lá
thư ". Ngài Bhagavan quay lại, chăm-chú nhìn
Mudaliar một lát rồi quay đi khỏi, với thái-độ
yên-lặng .
Hết tháng này sang tháng khác, Mudaliar
đều đều đến Tùng-lâm. Một hôm anh ngồi
xuống và hướng về phiá Ngài Bhagavan với sự
cầu khẩn yên-lặng, nhưng Ngài không hề nói
câu gì với anh, mà anh cũng không dám lên
tiếng trước. Cứ như thế kéo dài suốt một năm,
Mudaliar không thể chịu-đựng được lâu hơn
nữa, cuối cùng anh thốt ra rằng :
" Tôi muốn học-hỏi thực-nghiệm
xem Ân-điển của Ngài thế nào, vì người
kể lại, mỗi người nói một cách khác ".
Ngài Bhagavan trả lời : " Tôi luôn luôn
ban Ân-điển của tôi. Nếu anh không có khả-
năng nhận-thức thì tôi biết làm thế nào ? "
ADPH RAMANA MAHARSHI
224
Ngay lúc bấy giờ Mudaliar cũng chưa
hiểu giáo-lý thầm-lặng của Ngài Bhagavan.
Anh ta nghi-hoặc về con đường mình đang theo
đuổi. Sau đó ít lâu, Ngài Bhagavan thị-hiện cho
anh trong một giấc-mộng, Ngài nói : " Hãy
thống-nhất nhãn-quan của anh, hãy bắt nó tự
quay đi khỏi đối-tượng chủ-quan cũng như
khách-quan. Cứ như thế dần dần những sự
khác biệt biến đi khỏi mắt anh, anh sẽ tiến-bộ
trên con đường anh theo đuổi ". Mudaliar
tưởng rằng những lời dạy ấy ứng-dụng vào
những đối-tượng vật-lý nên đáp : " Tôi không
tin rằng phương-tiện ấy có hiệu-năng. Nếu một
bậc cao-thượng như Ngài cho tôi lời khuyên
dạy như thế, thì ai là người khuyên dạy tôi
những lời chính-xác ? " Ngài Bhagavan khẳng-
định rằng phương-tiện ấy là những phương-tiện
chính-xác thực sự .
Chính Mudaliar đã mô-tả giai-đoạn tu-
luyện thứ hai của anh như sau :
" Tôi theo đuổi một thời-gian giáo-
lý trong mộng ( Upadesa ), trong khi ấy
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
225
tôi lại có một giấc mộng khác. Lần này
Ngài Bhagavan hiện ra cho tôi trong khi
thân-phụ tôi đứng ở bên cạnh, Ngài chỉ
vào thân-phụ tôi rồi nói : " Người này là
ai ? " Tôi đang do-dự về lời giải-đáp
chính-xác về phuơng-diện triết lý. Tôi trả
lời : " Đó là cha tôi ". Ngài Bhagavan
mỉm cười một cách đầy ý-nghĩa, tôi vội
nói tiếp : " Lời giải-đáp của tôi phù-hợp
với ngôn-ngữ thông-thường chứ không
với ngôn-ngữ triết-học ", bởi vì tôi sực
nhớ lại là thân-thể tôi không phải là của
tôi. Ngài Bhagavan kéo tôi về phiá Ngài,
Ngài đặt bàn tay trước hết lên đầu tôi, rồi
ngực bên phải của tôi và ấn ngón tay vào
ngực tôi. Tôi cảm thấy một cảm-giác khó-
chịu, nhưng vì cảm-giác ấy đến với tôi là
do Ân-điển của Ngài, tôi chịu-đựng một
cách bình-tĩnh. Bấy giờ tôi chưa hiểu tại
sao Ngài lại để tay lên ngực bên phải của
tôi thay vì bên trái ."
ADPH RAMANA MAHARSHI
226
Vậy là Mudaliar không thành-công để
tiếp-nhận khải-ngộ thầm-lặng. Y đã được khải-
ngộ bằng sự tiếp-xúc, dù là trong một giấc
mộng .
Mudaliar thuộc hạng người có nhiệt-
thành và mong muốn làm tất cả nỗ-lực dẫn đến
ý-niệm xuất-gia, đi lang-thang tay không,
không một đồng tiền nhỏ. Ngài Bhagavan
khuyên anh nên bỏ dự-định ấy, cũng như Ngài
đã từng khuyên nhiều người khác ở các trường-
hợp tương-tự. Ngài nói :
" Cũng như ở đây, anh không lo-
lắng về đời sống gia-đình, thì anh hãy thử
thí-nghiệm một khi anh về nhà, anh hãy
cố lãnh-đạm và thản-nhiên trong sự lo-âu
hàng ngày. "
Mudaliar chưa đạt tới sự hiểu-biết hoàn-
toàn của một đệ-tử đối với sư-phụ và anh đã
làm công việc từ bỏ xuất-gia, mặc dầu Ngài
Bhagavan đã cấm-đoán. Như Ngài Bhagavan
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
227
đã tiên-liệu cho anh, anh cảm thấy những khó-
khăn tăng lên hơn là giảm đi trên con đường
phiêu-lưu vô-định. Sau vài năm anh trở về sống
trong gia-đình và tiếp-tục làm việc như thường-
lệ .
Sau sự quyết-định ấy, lòng hiếu-đễ đối
với sư-phụ của anh tăng thêm. Anh trước-tác
những bài thơ bằng tiếng Tamil để ca tụng
Ngài Bhagavan và sau cùng anh đã tiếp-nhận
được đầy đủ hơn các đệ-tử khác, những sự
truyền-giáo qua lời nói mà anh vốn khao-khát
từ lâu, vì chính anh đã được phần lớn lợi lạc về
lời chỉ giáo của sư-phụ chứa đựng ở trong bộ
Kinh-bổn về giáo-lý " Catechism of Instruc-
tion ". Đó là một bộ sách trình-bày tuyệt-diệu
học-thuyết của sư-phụ và cũng là Ân-điển của
Ngài .
***
*
ADPH RAMANA MAHARSHI
228
GANAPATI SASTRI
Ông Ganapati Sastri này là một đệ-tử
khác hẳn với các đệ-tử của Ngài Bhagavan.
Ông nổi tiếng là một nhà Hiền ( Ganapati
Muni ), người ta còn tặng ông một cái tên
danh-dự " Một người xuất khẩu thành thơ :
Kaviakanta " vì ông có tài thốt ra thơ Phạn-
ngữ. Đó là một người có tài-năng xuất-chúng,
có thể xếp vào hàng đầu các nhà bác-học và
văn-học hiện-đại, nếu ông muốn, hay là ông có
thể trở nên một sư-phụ Tinh-Thần, nếu ông
hoàn-toàn không có hoài-vọng, nhưng ông bị
đứng vào hai cực-đoan : Hoặc là hướng lên
Thần-linh để cầu tìm tiếng-tăm và danh-lợi, tuy
nhiên ông cũng lại quá mong muốn cứu-vãn
nhân-loại thoát khỏi ảo-ảnh : Ta là người hành-
động .
Ông ra đời vào năm 1878 ( một năm
trước Ngài Bhagavan ), thân-phụ ông ở thành
Benares. Trước hình-tượng của Thần Ganapati
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
229
và đã có một thị-hiện của một đứa trẻ từ Thần
Ganapati chạy lại ; vì thế nên ông được thân-
phụ đặt tên cho là Ganapati. Năm năm đầu từ
lúc sinh ra, Ganapati đã bị câm và hay bị ngất
vì bệnh kinh-phong. Ông không có vẻ gì là một
đứa trẻ có triển-vọng lớn. Rồi thình-lình ông
khỏi bệnh vì một sự phải bỏng bởi một thanh
sắt nung, ngay sau đó ông tỏ ra hết sức thông-
minh kỳ-lạ. Năm lên mười tuổi, ông đã biết
làm thơ Phạn-ngữ và trước thuật một bộ lịch
chiêm-tinh, không kể đến những tác-phẩm khác
bằng Phạn-ngữ và văn-phạm Phạn-ngữ .
Năm mười bốn tuổi Ganapati đã biết
Kinh Panchakavyas, và những điển-tích chính
về văn xuôi và biện-luận. Ông đã đọc xong
Đại, Tiểu Anh-hùng-ca Ấn-Độ ( Ramayana
Mahabharata ) và một số chuyện cổ-tích
( Puranas ). Ông đã viết và đọc thông văn-
chương tiếng Phạn. Năng-khiếu trí-nhớ của ông
thật kỳ-diệu chẳng khác gì trí-nhớ của Ngài
Bhagavan. Bất cứ điều gì ông đã được nghe và
đọc ông đều ghi nhớ cũng như Ngài Bhagavan.
ADPH RAMANA MAHARSHI
230
Ông có năng-khiếu Ashtavadhana, nghĩa là
cùng trong một lúc ông có thể chú-ý đến nhiều
việc khác nhau .
Sự-tích các vị Tiên-tri cổ xưa làm cho
ông phấn-khởi nhiệt-liệt, và kể từ năm mười
sáu tuổi, sau khi thành gia-thất, ông đã chu-du
khắp nước Ấn để chiêm-ngưỡng các Thánh-địa
và thu-nhận các giới khổ-hạnh ( tapas ). Năm
1900 ông dự thính một hội-nghị của các nhà
thông-thái Phạn-ngữ ở Nadiyà thuộc tỉnh
Bengal ( Nam Ấn-Độ ). Năng-khiếu kỳ-lạ xuất
khẩu thành chương và những bài diễn-thuyết
về triết-học hùng-hồn đã đem lại cho ông danh-
hiệu Kavyakanta nói trên .
Năm 1903 ông đến thành Tiruvannamalai
và đến thăm Ngài Bhagavan hai lần. Một thời-
gian ông có nhận làm giáo-sư cho một trường
Đại-học ở Vellore cách Tiruvannamalai vài
tiếng đồng hồ xe lửa. Ông tập-họp chung-
quanh ông một số đệ-tử chuyên tìm phát-triển
năng-lực tinh-thần ( Sakti ) bằng cách đọc
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
231
thần-chú, chân-ngôn nhiều lần có thể làm nẩy
sinh một luồng sinh-khí mới cho dân-tộc nếu
không phải cho cả toàn-thể nhân-loại .
Đời sống làm hiệu-trưởng cho một trường
học không lấy gì làm hấp-dẫn ông lâu dài. Năm
1907 ông trở lại Tiruvannamalai, nhưng dần
dần có sự nghi-hoặc nổi lên trong lòng ông.
Vào thời trung-niên, mặc dầu tài-ba lỗi-lạc với
sự hiểu-biết uyên-bác, cùng tất cả những chân-
ngôn và giới-hạnh của ông, ông cũng chưa
thành-tựu được việc thấy Thần-linh hay là
thành-công đối với đời. Ông cảm thấy mình đi
đến đường cùng. Ngày thứ chín của một hội lễ
Kartikai, ông bỗng nhớ lại nhà đạo-sĩ ở trên
núi. Chắc-chắn là đạo-sĩ ( Bhagavan ) có khả-
năng giải-đáp những thắc-mắc của ông. Nghĩ
thế, ông làm ngay tức khắc. Giữa buổi trưa
nắng gắt, Ganapati theo đường dẫn tới hang
động Virupaksha. Khi ông tới nơi thì Ngài
Bhagavan đang đứng một mình dưới mái hiên.
Sastri phủ-phục trước mặt Ngài, hai tay ôm lấy
chân Ngài. Với giọng run run cảm-động, ông
ADPH RAMANA MAHARSHI
232
cất tiếng nói : " Tất cả những gì có thể đọc tôi
đã đọc ; tôi cũng thông-hiểu hết triết-lý Vedas
Bất-nhị-pháp ( Vedanta Sastra ) ; tôi hân-hoan
tự hiến cho những lời cầu-nguyện ( japa )
nhưng cho tới nay tôi chưa hiểu thấu được ý-
nghĩa của giới khổ-hạnh ( japa ). Bởi vậy nên
tôi tìm sự cứu-độ dưới chân Ngài, xin Ngài
giảng dạy cho tôi về tính-chất của giới khổ-
hạnh . "
Ngay trước khi những lời ấy thốt ra,
chính Ân-điển của đạo-sĩ tỏa ra làm cho
Ganapati hân-hoan vui sướng. Với sự hăng-hái
nhiệt-tình, đặt tất cả vào công việc của mình,
ông bèn mô-tả giáo-lý vô-ngôn mà ông đã được
tiếp-thụ, ông bắt đầu làm những bài thơ ca tụng
Ngài Bhagavan. Đạo-sĩ Palani nói cho ông biết
rằng Ngài Bhagavan trước kia có tên là
Venkataraman, và ông tuyên-bố từ nay trở đi
phải xưng danh Ngài Bhagavan là Ramana
Maharshi ( Đại Tiên-tri ). Tức thì tên
" Ramana " được dùng để tôn xưng, cũng như
danh-hiệu Maharshi ( Đại Tiên-tri : Great
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
233
Rishi ). Trong thời-gian khá lâu, người ta nói
về đạo-sĩ công-khai và người ta viết về Ngài
như là một " Đại Tiên-tri ". Nhưng dần dần đệ-
tử của Ngài Bhagavan thông dụng gọi Ngài ở
ngôi thứ ba và tôn xưng Ngài là " Bhagavan "
hay là " Thế-Tôn " có nghĩa là " Thần-Linh ".
Chính Ngài tự xưng về Ngài ở ngôi thứ ba một
cách vô-ngã, để tránh dùng đến chữ " Tôi ". Ví
dụ Ngài không nói : " Tôi không biết lúc nào
mặt-trời mọc hay lúc nào mặt-trời lặn " như ở
Chương V, nhưng Ngài nói : " Ai biết lúc nào
mặt-trời mọc và lúc nào mặt-trời lặn ". Cũng có
khi Ngài dùng chữ " Cái Ấy " để tự xưng và để
chỉ vào thân-thể của Ngài. Ngài chỉ dùng danh-
hiệu " Bhagavan " ở ngôi thứ ba trong những
câu văn mà danh-từ " Thế-Tôn " có thể được
dùng thay-thế .
Lại ví dụ như khi con gái tôi đi học mà
người ta hỏi Ngài rằng Ngài có nhớ Kitty
không ( Kitty là tên con gái tác-giả ) khi nó
vắng mặt, Ngài trả lời : " Nếu Kitty nhớ đến
Bhagavan thì Bhagavan sẽ nhớ đến Kitty ."
ADPH RAMANA MAHARSHI
234
Ganapati cũng thích nói về Ngài Bhaga-
van như là hiện-thân của Thần Subramaniam ;
nhưng những đệ-tử khác từ-chối hoàn-toàn
không theo chủ-trương của ông, họ cảm thấy
rằng chỉ nên coi Ngài Bhagavan như là biểu-
hiện của một vài phương-diện Thần-linh, họ cố
giới-hạn cái vô-hạn. Chính Ngài Bhagavan
cũng không chịu nhận sự đồng-nhất-hóa ấy.
Một người khách đến thăm đã nói với Ngài :
" Nếu Ngài là một hiện-thân nhập-thể của
Subramaniam như một số người đã nghĩ, thì tại
sao Ngài không nói thẳng ra mà lại để cho
chúng tôi phải suy-đoán về Ngài ? " Ngài
Bhagavan trả lời : " Một nhập-thể là gì ? một
sự nhập-thể hiện-thân chỉ là biểu-hiện phương-
diện Thần-linh, còn như Giác-tính ( Jnani ) mới
là Thượng-Đế ."
Sau một năm gặp-gỡ Ngài Bhagavan,
Ganapati cảm thấy Ân-điển của Ngài dồn-dập
trong tâm-hồn mình một cách kỳ-diệu. Trong
khi ông nhập-định tại điện Ganapati ở một tỉnh
nọ ( Tiruvothiyur ), ông cảm thấy một sự bải-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
235
hoải trong tinh-thần và nhiệt-thành khát-vọng
sự hiện-diện và cứu-độ của Ngài Bhagavan.
Lập tức Ngài Bhagavan xuất-hiện ngay tại
điện. Ganapati phủ-phục trước mặt Ngài và khi
đang định đứng lên thì ông thấy tay Ngài
Bhagavan đặt trên đầu mình, một sinh-lực
kinh-khủng tràn-ngập tất cả cơ-thể. chính
Ganapati đã nhận được Ân-điển bằng sự tiếp-
xúc với Sư-phụ .
Sau này khi nhắc lại sự-kiện ấy, Ngài
Bhagavan nói : " Cách đây một vài năm, một
hôm tôi đang nằm nhưng vẫn thức, tôi chợt
cảm thấy thân-thể tôi cất cao lên dần dần. Bên
dưới, tôi nhìn thấy những vật cụ-thể nhỏ mãi
đến biến mất, để lại chung-quanh tôi một
khoảng không-gian ánh-sáng chói-lọi vô-biên.
Một lúc sau, thân-thể tôi lại trở xuống và
những vật cụ-thể lại bắt đầu tái hiện. Trong lúc
ấy tôi vẫn ý-thức tới những việc xẩy ra và tôi
kết-luận rằng những quyền-năng thần-thông
vượt qua không-gian xa rộng hiện ra và biến đi
một cách nhiệm-mầu. Sau những hiện-tượng
ADPH RAMANA MAHARSHI
236
tương-tự mà tôi trải qua, trong khi thân-thể tôi
trở xuống mặt đất thì tôi nhận ra là tôi đang ở
tỉnh Tiruvothiyur, mặc dầu tôi chưa từng thấy
chỗ này. Tôi đang tiến bước trên một con
đường rộng, cách đường cái một quãng xa là
ngôi điện Ganapati mà tôi đang đi tới ."
Sự-kiện trên rất đặc-trưng ở ngài Bhaga-
van, bởi vì sự khủng-hoảng tinh-thần hay là
nhiệt-thành sùng-bái của một trong hàng đệ-tử
của Ngài thường làm xuất-hiện một sự đáp-ứng
hay sự can-thiệp dưới hình-thức có thể gọi là
kỳ-diệu ; cũng lại rất đặc-trưng nơi Ngài
Bhagavan, bởi vì Ngài có tất cả quyền-năng
thần-thông mà Ngài không để ý trong việc sử-
dụng ở thế-giới tinh-thần hay thế-giới thế-tục.
Khi nào phải trả lời cho một trong hàng đệ-tử
cầu-cứu thì hiện-tượng trên lại xuất-hiện và
Ngài nói một cách giản-dị, hồn hiên như một
đứa trẻ : " Tôi chắc rằng đó là hành-vi của
quyền-năng thân-thông " .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
237
Chính sự thản-nhiên ấy mà Ganapati
Sastri không có khả-năng cảm thấy. Một bữa
kia ông hỏi Ngài Bhagavan : " Phải chăng sự
cầu tìm nguyên-lai của ý-niệm " Tôi " đủ để
thực-hiện tất cả khát-vọng hay là còn cần phải
tới chân-ngôn ?" Ganapati không bao giờ thay
đối chí-hướng và lúc nào cũng chỉ thấy
nguyện-vọng và hoài-bão của mình là sự phục-
hưng xứ-sở, đem lại luồng sinh-khí mới cho
tôn-giáo .
Ngài Bhagavan trả lời một cách thản-
nhiên : " Nỗ-lực thứ nhất đủ rồi." Hỏi đến
những nguyện-vọng, những lý-tưởng của mình
thì Ngài Bhagavan nói tiếp : " Anh phải nên
trút hết gánh nặng cho Chúa. Ngài sẽ mang
gánh nặng cho anh và anh sẽ được giải-thoát.
Ngài sẽ biết cách xử-trí của Ngài ."
Năm 1917, Ganapati và một số đệ-tử
khác có đặt cho Ngài Bhagavan một số vấn-đề.
Các lời vấn đáp ấy đã được sưu-tập trong một
cuốn sách dưới nhan-đề " Sri Ramana Gita ".
ADPH RAMANA MAHARSHI
238
Tác-phẩm này uyên-thâm về học-thuyết hơn
các tác-phẩm khác. Một điều đặc-trưng là có
một trong những câu hỏi của Ganapati Gastri
có liên-quan đến vấn-đề đi tới Giác-Ngộ
( Ghana ) về Tự-Tính. Làm thế nào đồng thời
đạt được một vài quyền-năng thần-thông đặc-
biệt mà những người Giác-ngộ về Duy-thức có
thể khám-phá ra nguyên-vọng nguyên-thủy
được thành-tựu ? Không bao giờ sự hài-hước
của Ngài Bhagavan lại tế-nhị và mau-lẹ hơn là
những trường-hợp mà Ngài giải-đáp này :
" Nếu những nhà đạo-sĩ Yoga bắt đầu từ khoa
Đạo-dẫn Yoga để thành-tựu những dục-vọng
của mình, đồng thời cũng phải đạt được trí-
thức. Họ sẽ không bị say mê bởi những quyền-
năng ấy mặc dầu những dục-vọng có được sự
thành-tựu ."
Năm 1936, Ganapati Sastri định-cư ở
làng Nimpura gần Kharagpur cùng với một số
đệ-tử của mình, kể từ ngày ấy cho đến lúc mất,
hai năm sau, ông hoàn-toàn hiến thân cho giới
khổ-hạnh ( Tapas ). Sau khi Ganapati mất,
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
239
người ta hỏi Ngài Bhagavan xem ông này có
đạt tới sự thực-hiện trong cuộc đời ông ta chưa.
Ngài Bhagavan trả lời : " Làm sao mà ông ta có
thể thực-hiện được ? Những nghiệp-chướng
của ông ta còn nặng lắm ."
***
*
HUMPHREYS
Người đệ-tử Tây-phương của Ngài
Bhagavan là Humphreys, ông này đã từng học-
tập về Thần-bí-học khi ông mới tới Ấn-Độ vào
năm 1911. Bấy giờ ông mới có hai mươi mốt
tuổi, ông đến Ấn-Độ để nhận một chức-vụ an-
ninh trong tỉnh Vellore. Ông thuê một giáo-sư
tên là Narasimhayya để dạy ông thổ-ngữ
Telugu . Ngay bài học đầu tiên, ông đã hỏi
giáo-sư có thể tìm cho ông quyển sách chiêm-
ADPH RAMANA MAHARSHI
240
tinh Ấn-Độ bằng tiếng Anh. Đó là một sự yêu-
cầu lạ-lùng của một ông quan da trắng. Thày
giáo Narasim bằng lòng tìm cho ông quyển
sách đó ở trong một thư-viện. Ngay hôm sau,
ông Humphreys đi đến một câu hỏi lạ-lùng hơn
nữa : " Thày có biết quanh đây có vị Thánh nào
không ? " Ông thày Narasim trả lời là không
biết một vị Thánh nào cả. Câu trả lời làm cho
Humphreys lúng-túng khá lâu, và ngày hôm
sau Humphreys lại nhắc lại : " Hôm trước thày
đã chẳng nói với tôi là thày không biết một ông
Thánh nào đó ư ? Vậy mà sáng nay tôi đã gặp
Sư-phụ của thày ngay trước bữa ăn sáng của
tôi. Ông ấy ngồi bên cạnh tôi và có nói với tôi
mấy câu, mà buồn thay tôi không hiểu được ."
Thày Narasim không có vẻ tin lời nói của
người học-trò, thì Humphreys lại nói tiếp :
" Người dân xứ Vellore đầu tiên mà tôi gặp
chính là thày ". Ông thày Narasim phản-đối là
ông chưa bao giờ tới Bombay. Nhưng
Humpreys giải-thích rằng khi ông mới đến
Bombay thì bị mang vào nhà thương vì một
cơn sốt rét nặng. Để tiêu-khiển cho quên cái
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
241
đau, ông ta đến tỉnh Vellore bằng tinh-thần mà
đáng lẽ ông phải đi thẳng tới ngay khi đến Ấn-
Độ nếu ông không bị bệnh nặng. Và cái thể-
phách của ông đã đến tỉnh Vellora để được gập
thày Narasim. Thày Narasim trả lời là thày
không biết gì về thể-phách hay bất cứ thể nào
khác ngoài cái thể-xác này. Tuy vậy, để thử
xem giấc mộng của Humphreys có đúng
không, Narasim giả-vờ bỏ quên ở bàn của
Humphreys một gói ảnh chụp khi đến nơi khác
dạy cho một số sĩ-quan cảnh-binh khác nữa.
Humphreys giở ra xem qua những tấm ảnh và
nhận ra ngay tấm ảnh của Sastri. Khi Narasim
trở lại thì Humphreys trỏ ngay cho thày giáo
xem, rồi nói : " Sư-phụ của thày đây này ! "
Narasim nhận là đúng, thế rồi Humphreys lâm
bệnh và bắt buộc phải đi tĩnh-dưỡng ở tỉnh
Cotacamund. Ông ta chỉ trở lại Vellore sau
mấy tháng. Lại một lần nữa ông làm cho
Narasim kinh-ngạc. Lần này Humphreys vẽ
một cái hang trong núi mà ông đã thấy ở trong
mộng. Trong hang động đó có một giòng suối
và có một vị Hiền-trí đang đứng trước cửa
ADPH RAMANA MAHARSHI
242
động. Động đó chỉ có thể là động Virupaksha
nơi Tùng-lâm của Ngài Bhagavan. Bấy giờ
Narasim mới thổ-lộ cho Humphreys biết về
Ngài Bhagavan. Humphreys được giới thiệu
với Ngài Ganapati Sastri bằng sự tôn kính
nhiệt-thành. Thế rồi vài tháng sau, vào khoảng
tháng 11 năm 1911 ba người cùng đến tỉnh
Tiruvannamalai dưới chân núi Arunachala, nơi
Ngài Bhagavan cư-ngụ. Ở chương trên đã nói
về cảm-tưởng của Humphreys trước sự im-lặng
kinh-khủng của Ngài Bhagavan. Trong bức thư
mà Humphreys viết để mô-tả sự yên-lặng ấy
ông còn viết thêm : " Cảnh tượng làm cho tôi
cảm-động hết sức là cảnh-tượng những đứa trẻ
tự-động leo lên sườn núi để được đến gần Ngài
Bhagavan, dù rằng Ngài không nói với chúng
một lời nào và không nhìn tới chúng đã nhiều
ngày. Vậy mà lũ trẻ vẫn ngồi hoàn-toàn yên-
lặng không đùa nghịch gì cả ."
Ganapati thường lo-lắng ưu-tư về sự cứu-
độ thế-giới. Cũng như Ganapati, Humphreys là
người lo-lắng ưu-tư về sự cứu-độ thế-giới .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
243
Humphreys hỏi : _ Kính thưa Sư-phụ, chúng
tôi có thể đem sự cứu-độ đến cho thế-giới
được không ?
Bhagavan : _ Có chứ. Khi mà các anh tự cứu-
giúp các anh, đó là các anh đã cứu-độ thế-
giới. Anh ở trong thế-giới, anh chính là
thế-giới, thế-giới không khác gì các anh .
Dừng một lát, Humphreys lại nói : _ Tôi có làm
đưọc phép lạ như Chúa Krishna hay Chúa
Jésus không ?
Bhagavan : _ Phải chăng Chúa Krishna hay
Chúa Jésus nghĩ rằng chính các vị đã hóa
hiện ra phép lạ .
Humphreys : _ Không, Chúa Krishna không
hóa ra phép lạ, đó là lẽ tự-nhiên, vô-tư .
Không bao lâu Humphreys đã trở lại thăm
Ngài Bhagavan .
ADPH RAMANA MAHARSHI
244
" Lần này tôi đến bằng xe gắn máy
và leo lên tới hang động. Ngài Bhagavan
nhìn tôi mỉm cười nhưng không tỏ vẻ
ngạc-nhiên. Chúng tôi vào trong động,
cùng ngồi xuống. Ngài Bhagavan hỏi tôi
về đời tư của tôi mà Ngài đã biết. Dĩ
nhiên Ngài đã nhận ra tôi. Tất cả những
người đến với Ngài đều là những cuốn
sách mở, vì chỉ liếc mắt nhìn qua, Ngài đã
biết hết nội-dung cuốn sách đó .
" Ngài Bhagavan hỏi tôi : _ Anh
chưa ăn gì à, anh đang đói ?
" Tôi nhận là đúng, thì Ngài
Bhagavan gọi ngay một chú tiểu đến đem
cho tôi cơm và trái cây... Tôi phải ăn bằng
tay vì người Ấn-Độ quen ăn bốc, không
dùng thìa. Tuy rằng tôi đã tập quen với lối
ăn đó, nhưng tay tôi vẫn còn vụng-về
lắm. Ngài Bhagavan đưa cho tôi một cái
thìa bằng vỏ dừa. Trong khi tôi ăn, Ngài
Bhagavan vui cười ngồi nói chuyện với
tôi. Người ta cho tôi uống nước dừa trắng
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
245
như sữa bò và rất thơm tho. Chính tay
Ngài Bhagavan còn cho tôi thêm một chút
đường .
" Sau khi ăn xong, tôi vẫn còn thấy
đói. Ngài Bhagavan biết thế nên sai chú-
tiểu mang thêm thức ăn cho tôi. Trong khi
những người khác cố ép tôi ăn nhiều trái
cây, thì Ngài bảo ngưng lại .
" Tôi phải xin-lỗi về cách uống
nước dừa của tôi. Ngài Bhagavan nói :
" Không quan-hệ ". Người Ấn-Độ rất tế-
nhị về vấn-đề này. Họ không bao giờ
uống sùng-sục như ta, cũng như họ không
chạm môi vào cái bình chứa nước uống.
Họ rót nước thẳng vào cổ khiến cho nhiều
người có thể uống trong cùng một cái
bình mà không sợ vi-trùng .
" Trong khi tôi đang ăn, Ngài
Bhagavan kể tiểu-sử của tôi cho mọi
người nghe, và Ngài kể rất đúng, tuy rằng
Ngài chưa từng thấy tôi một lần nào. Ngài
đã từng tiếp hàng trăm người sau chuyến
thăm viếng đầu tiên của tôi. Ngài tin-
ADPH RAMANA MAHARSHI
246
tưởng vào sự thấu-thị của Ngài, trong khi
ở trường-hợp chúng ta lại cần đến Bách-
Khoa Tự-Điển. Tôi ở lại đến ba tiếng
đồng hồ để nghe lời chỉ-giáo của Ngài .
" Sau này tôi thấy khát nước vì trên
đường leo núi nóng quá. Tôi không thể
chịu-đựng được bằng bất cứ giá nào.
Trong khi ấy Ngài Bhagavan lại sai chú-
tiểu mang nước chanh cho tôi uống .
" Cuối cùng tôi phải đi, tôi cúi đầu
trước Ngài Bhagavan và đi lùi dần ra phiá
cửa hang. Ngài Bhagavan cũng đi theo và
Ngài mời tôi sau này sẽ trở lại thăm Ngài.
Một điều lạ là chỉ nhờ sự hiện-diện của
Ngài Bhagavan mà người ta thay đổi đến
thế ."
Chắc-chắn là những ai đứng trước mặt
Ngài đều là những cuốn sách mở đối với Ngài.
Tuy vậy mà Humphreys vẫn còn lầm về khả-
năng thấu-thị của Ngài. Chắc hẳn Ngài đã vào
tới chỗ thâm-sâu của những người mà Ngài
muốn hướng-dẫn, giúp-đỡ, nhưng Ngài không
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
247
nghĩ đến cách sử-dụng thần-thông của Ngài ở
bình-diện nhân-loại. Ngài có một ký-ức kỳ-lạ
về diện-mạo cũng như về sách-vở. Hàng ngàn
tín-đồ đến thăm Ngài mà Ngài không quên mặt
một người nào. Ngay như một đệ-tử lâu năm
mới trở lại, Ngài cũng nhận ra ngay. Ngài
Bhagavan cũng không quên tiểu-sử của một đệ-
tử nào, và Narasim chắc đã nói cho Ngài biết
về Humphreys. Khi nào đáng lẽ một vấn-đề
được đề-cập tới thì Ngài rất dè-dặt kín-đáo.
Thông thường Ngài nói về một người nào ngay
trước mặt người ấy, Ngài không hề lúng-túng
và cũng không làm cho người ấy ngượng-
nghịu. Khi nào liên-quan tới vấn-đề ăn uống,
Ngài không những biết đoán trước ý muốn của
từng người mà Ngài còn săn-sóc đặc-biệt đến
khách của Ngài, ngõ hầu khiến cho khách được
mãn-nguyện .
Những triệu-chứng ảo-thuật bắt đầu hiện
ra ở Humphreys, nhưng Ngài cảnh-giác ông ta
chớ nên sử-dụng và Humphreys có đủ nghị-lực
để kiềm-chế ý muốn sử-dụng quyền-năng ảo-
ADPH RAMANA MAHARSHI
248
thuật của mình. Sự thực, dưới ảnh-hưởng của
Ngài Bhagavan, Humphreys sớm lãnh-đạm với
khoa-học thần-bí .
Sau nữa, ông ta còn tránh khỏi sai-lầm rất
phổ-thông ở Tây-phương và nhất là đặc-biệt
phổ-thông ở thời-đại cận-kim Đông-phương,
theo đó thì người ta có khả-năng cứu-độ được
nhân-loại bằng một hành-vi thuần hình-thức
bên ngoài. Humphreys được dạy rằng trong khi
tự độ lấy mình thì người ta độ cho thế-giới ; cái
định-đề ấy mà trường-phái tự-do hành-động
( the laisses faire school ) về kinh-tế-học đã
lầm cho là chính-xác về phương-diện kinh-tế,
thì kỳ-thức nó rất chính-xác về phương-diện
tâm-linh, bởi vì sự phong-phú tâm-linh của một
người không làm tổn-giảm tâm-linh của người
khác, trái lại nó còn làm cho tăng tiến. Cũng
như Humphreys đã gặp Ngài Bhagavan buổi
đầu " dưới trạng-thái một hình-thể cá-biệt
không cử-động mà phát ra những hào-quang
thần-linh ghê-sợ ", thì mỗi người chúng ta có
thể tuy theo với căn-cơ của mỗi người đều là
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
249
những đài phát ra những ảnh-hưởng vô-hình.
Tùy theo với trình-độ của mỗi người có khả-
năng hòa-đồng vô-tư, không chút vị-kỷ sẽ là
chủ-động tạo-tác hòa-điệu một cách tự-nhiên,
không tránh được, dù có hoạt-động ra ngoài
hay không. Nhưng tùy theo với trình-độ của
bản-tính hiếu-động và vị-kỷ vô độ của nó, nó
sẽ tạo ra sự bất hòa, dù bề ngoài nó có làm ra
những công việc phục-vụ .
Tuy rằng Humphreys chưa từng ở lại lâu
tại trụ-sở của Ngài Bhagavan, chỉ đến thăm
Ngài mấy lần ngắn-ngủi, y đã thấm-nhuần
giáo-lý và nhận được Ân-điển của Ngài. Sau
này người ta phổ-biến trong tạp-chí Tâm-linh
Quốc-tế một đại-luận tồng-quát bằng tiếng Anh
mà Humphreys đã gửi cho người bạn, và bài ấy
đã trở thành bài giới-thiệu tối-hảo về giáo-lý
của Ngài Bhagavan :
" Một Sư-phụ là người đã tập-trung
tinh-thần vào Thưọng-Đế, đã cởi bỏ
hoàn-toàn cái ngã-tính của mình vào bể
ADPH RAMANA MAHARSHI
250
Giác, dìm nó và quên nó ở đấy cho đến
khi nào nó thành một dụng-cụ của Thần-
Linh, và khi nào hạng người ấy mở miệng
nói ra là nói tiếng nói của Thần-Linh,
không cần phải nỗ-lực hoặc tính-toán
trước ; và khi họ giơ tay lên thì Thần-
Linh tuôn vào tay ấy để tạo ra những kỳ-
tích .
" Chớ nghĩ nhiều về những hiện-
tượng Tâm-linh hay là cái gì tương-tự.
Những hiện-tượng đó thì nhiều vô kể, và
một khi tin-tưởng vào hiện-tượng Tâm-
linh đã thiết-lập trong lòng người cầu tìm,
thì hiện-tượng ấy đã làm hết công-tác của
chúng. Quyền-năng thấu-thị hay nhĩ-
thông không đáng để cho chúng ta cầu
tìm, vì rằng chúng ta có thể đạt được
giác-ngộ và an-lạc là những báu vật đáng
quý hơn nhiều. Sư-phụ sử-dụng những
quyền-năng của mình như là một sự hy-
sinh bản-thân. Quan-niệm về một Sư-phụ
như là một người đã chinh-phục được
những quyền-năng thần-bí nhờ công-phu
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
251
tập-luyện lâu ngày, hay bằng cầu-nguyện,
hay bằng một cách gì khác, đó là một
quan-niệm sai lầm. Không bao giờ một
Sư-phụ lại để ý vào một quyền-năng thần-
bí, bởi vì các bậc ấy không cần dùng gì
đến chúng trong đời sống hàng ngày .
" Những hiện-tượng mà chúng ta
nhìn thấy đều kỳ-lạ. Nhưng cái hiện-
tượng kỳ-diệu nhất trong các hiện-tượng,
mà chúng ta không hiểu là cái năng-lực
vô-hạn, mà chỉ có nó mới chi-phối tất cả
hiện-tượng chúng ta thấy và động-tác
thấy chúng .
" Các anh không nên chú-ý vào
những vật biến-đổi, như sự sống, sự chết
hay là những hiện-tượng khác. Cũng
không nên nghĩ cả đến động-tác thực-tế
của sự nhìn thấy hay tri-giác chúng, mà
chỉ nên chú-ý vào cái gì nó nhìn thấy tất
cả vật ấy. Lúc đầu thì sự nỗ-lực đối với
các anh như là không thể làm được,
nhưng rồi dần dần, ngày một ngày hai anh
sẽ cảm thấy kết-quả. Người ta phải trải
ADPH RAMANA MAHARSHI
252
qua ngày ấy sang ngày khác một cách
chuyên-cần và đều đều. Chính như thế mà
một Sư-phụ thành-tựu. Hãy dành ra mười
lăm phút trong mỗi ngày vào sự thực-tập
ấy. Hãy thử cố-gắng chú-ý liên-tục vào
Cái Ấy nó nhìn. Nó ở trong mình anh.
Đừng tưởng thấy Cái Ấy như là vật gì
nhất-định để tinh-thần có thể tập-trung
vào đấy dễ dàng. Không phải thế đâu.
Tuy phải mất hàng năm để thấy được Cái
Ấy. Kết-quả của sự chú-định sẽ thấy
trong vòng bốn hay năm tháng ở các hiện-
tượng vô-ý-thức thấu-thị, tinh-thần an-
tĩnh, khả-năng tiếp-thụ và giải-quyết các
khó-khăn, khả-năng chung đối-phó với tất
cả sự-vật tuy vẫn luôn luôn vô-ý-thức .
" Tôi đã giảng dạy cho anh những
Giáo-lý ấy bằng cách dùng chính những
danh-từ của các Sư-phụ đối với các đệ-tử
thân-cận của mình. Bắt đầu từ hôm nay
trở đi mong rằng tư-tưởng duy-nhất của
anh trong khi thiền-định không còn chấp
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
253
vào động-tác của sự thấy mà chỉ tập-trung
vào Cái Ấy nó thấy .
" Người ta không được thưởng gì về
sự đạt tới cả. Và người ta sẽ hiểu rằng
người ta không muốn được một phần-
thưởng nào. Cũng như Thần Krishna đã
nói : " Anh có quyền làm việc nhưng anh
không có quyền được hưởng kết-quả của
việc anh làm." Sự đạt đạo hoàn-toàn chỉ
là Sùng-bái. Sùng bái là đạt đạo .
" Nếu anh ngồi xuống và hiểu rằng
khi anh chỉ tư-duy về một Sự Sống thôi,
và tinh-thần khích-động do một Sự Sống
vào động-tác tư-duy, đấy là thành-phần
của toàn-thể, là Thượng-Đế, bấy giờ thì
anh sẽ không cho tinh-thần trí-tuệ của
mình một sự tồn-tại biệt-lập. Và kết-cục
là tinh-thần và thân-thể biến mất về mặt
vật-lý. Cái duy-nhất còn lại là Tồn-Tại,
Thực-Hữu, nó vừa sinh-tồn và vô-sinh
không thể giải-thích bằng ngôn-ngữ hay
ý-nghĩa. Nó bất-khả-tư-nghị .
ADPH RAMANA MAHARSHI
254
" Một Sư-phụ không thể không
thường-xuyên ở trong trạng-thái ấy, chỉ
có một sự khác này là chúng ta không
hiểu vị ấy có thể sử-dụng tinh-thần, thân-
thể, trí-tuệ của mình mà không rơi vào sự
mê-lầm của ý-thức biệt-lập. Vô-ích mà
suy-luận, vô ích mà cố-gắng nắm sự-vật
bằng trí-thức hay bằng tinh-thần để rồi
theo đấy mà làm việc. Tất cả điều này chỉ
là một giáo-điều, một kỷ-luật cho trẻ con
và cho đời sống xã-hội ; một chỉ-đạo cho
chúng ta tránh khỏi sự vấp ngã, ngõ hầu
nội hỏa có thể thiêu đốt hết nỗi mê-lầm,
một chỉ-đạo dạy chúng ta sớm hơn về lẽ-
phải phổ-thông, nghĩa là nó làm cho
chúng ta nhận-thức sự hư-ảo về việc
phân-biệt các sự-vật .
" Tôn-giáo dù là Thiên-Chúa-giáo,
Phật-giáo, Ấn-Độ-giáo, Thông-Thiên-
Học hay là một loại " Duy " nào đó, hoặc
một lý-thuyết, một hệ-thống, chỉ có thể
dẫn chúng ta đến một điểm duy-nhất là tất
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
255
cả các tôn-giáo gặp nhau, chứ không xa
hơn .
" Điểm độc-nhất mà tất cả các tôn-
giáo gặp nhau là sự thực-hiện, không phải
theo nghĩa thần-bí mà theo nghĩa thông-
thường ở thế-gian này, và theo nghĩa
nhật-dụng. Thực-tế và nhật-dụng bao
nhiêu lại càng hay bấy nhiêu. Thần-linh là
tất cả và tất cả là Thần-linh (Thượng-Đế).
" Kể từ điểm ấy mà đi, bắt đầu là
công việc thực-hành, thông-cảm tinh-thần
và tất cả quy về sự phá chấp, tất cả tóm-
tắt lại chỉ là vấn-đề phá tan thành-kiến và
thói quen, phải từ bỏ cách gọi vật là vật
mà phải gọi là Thần-Linh. Thay vì tưởng-
tượng " Sinh-tồn " là vật độc-nhất có thể
có được, người ta phải thực-hiện cái sự
Sinh-tồn, hiện-tượng này chỉ là tạo-tác
của tinh-thần và " Vô sinh " là hậu-quả tất
nhiên nếu người ta giả-định có " Sinh-
tồn " .
" Tri-thức về sự-vật chỉ tỏ cho
chúng ta là có một cơ-năng để biết. Âm-
ADPH RAMANA MAHARSHI
256
thanh không có đối với người điếc, không
làm gì có cảnh-vật đối với người mù, và
tinh-thần ( mind ) chỉ là cơ-quan quan-
niệm hay là thẩm-thức một vài khiá-cạnh
về Thần-Linh ( Thượng-Đế : God ) .
" Thượng-Đế thì vô-biên, do đó mà
sinh-tồn, hữu-vi và vô-vi chỉ là phương-
diện đối-chiếu mà thôi. Không phải tôi
muốn nói rằng Thượng-Đế là do những
thành-phần nhất-định hợp nên. Rất khó
lòng mà làm cho người ta hiểu được khi
nói về Thượng-Đế. Cái Chân-tri chính-
xác là ở bên trong chứ không phải từ bên
ngoài vào. Sự hiểu-biết chính-xác không
phải là cái trí-thức thông-thái mà là Cái
Thấy Trực-giác ( Kiến-tính ) .
" Đạt tới sự quán-thông hay là liễu-
ngộ thì chẳng gì khác hơn là thấy
Thượng-Đế. Chúng ta thường mắc vào
lỗi-lầm lớn tin rằng Thượng-Đế chỉ hành-
động một cách trừu-tượng ở mỹ-dụ bằng
những phù-hiệu và mỹ-từ mà không phải
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
257
Ngài hành-động một cách thực-tế theo
nghĩa đen nguyên-tự nghĩa .
" Hãy lấy một miếng kính vẽ lên
hình-tướng và mầu sắc rồi để vào một cái
đèn ảo-thuật, sau đó đặt một cái đèn nhỏ
ở đàng sau miếng kính thì anh sẽ thấy
phản-chiếu lên màn ảnh những hình-
tướng, mầu sắc mà anh đã vẽ. Nếu không
có đèn chiếu ở bên trong thì anh sẽ không
thấy gì hết .
" Làm thế nào những mầu sắc đó
thành được ?
" Bằng cách phân-giải ánh-sáng
trắng với một lăng kính có nhiều mặt.
Tính-cách của con người cũng vậy.
Người ta sẽ thấy tính-cách đó qua Ánh-
Sáng của Nguồn Sống ( God ) soi chiếu
vào những hành-vi của nó. Khi con người
ngủ hay chết thì anh không thể biết được
tích-cách của nó. Chỉ khi nào Ánh-Sáng
của Sự Sống (Ánh-Sáng Thần-Linh ) làm
linh-động tích-cách và khiến nó động-tác
hàng ngàn lối khác nhau đáp-ứng cho sự
ADPH RAMANA MAHARSHI
258
tiếp-xúc với thế-giới đa-thù này, bấy giờ
anh mới có thể tự-giác tính-cách của một
người .
" Nếu Ánh-Sáng Trắng chưa được
phân-tích và chưa hình-dung vào hình-
tướng trên tấm kính của đèn ảo-thuật thì
chúng ta sẽ không biết được có một
miếng kính chắn trước ánh-sáng vì ánh-
sáng sẽ chiếu qua miếng kính. Theo một
nghĩa nào đó người ta có thể hiểu rằng
Ánh-Sáng Trắng đã bị đảo-lộn và đã mất
đi một phần tinh-túy của nó sau khi chiếu
qua kính mầu .
" Người bình-thường cũng tương-tự
như thế. Cái tinh-thần ( mind ) của người
ấy giống như màn ảnh được ánh-sáng
chiếu, ánh-sáng lu mờ và thay-đổi vì
người kia đã để cho thế-giới đa-thù chặn
ngang. Ánh-Sáng Thần-Linh bị tan vỡ,
người ấy chỉ còn nhìn thấy những hiệu-
quả của ánh-sáng thay vì chính ánh-sáng,
( Thượng-Đế hay Thần-Linh ). Và tinh-
thần của y phản-chiếu những hiệu-quả
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
259
của y đã thấy cũng như màn ảnh phản-
chiếu những mầu sắc vẽ qua miếng kính.
Cất miếng lăng-kinh đi và những mầu sắc
sẽ tan biến, bị thu trở về Ánh-Sáng Trắng,
từ đó chúng đã xuất-hiện. Xóa nhòa
những mầu sắc vẽ trên kính thì ánh-sáng
sẽ chiếu qua sáng-suốt. Hãy gạt bỏ trước
mắt chúng ta cái thế-giới hiệu-quả mà
chúng ta đang thấy, và chúng ta hãy chỉ
nhìn về nguyên-lai của thế-giới thôi, thì
chúng ta sẽ thấy được Ánh-Sáng
( Thượng-Đế ) .
" Một Sư-phụ trong thiền-định, tuy
mắt mở, tai có thể thông, chuyên-chú
mạnh vào " Cái Tính Thấy " đến nỗi Sư-
phụ không nhìn thấy, không nghe thấy
cũng không ý-thức ở bình-diện vật-lý hay
trí-thức mà chỉ còn cái ý-thức Tâm-Linh
thôi .
" Chúng ta phải từ bỏ thế-giới, là
nguyên-nhân của tất cả nghi-hoặc, nó làm
lu mờ tất cả tinh-thần sáng-suốt của
ADPH RAMANA MAHARSHI
260
chúng ta, thì bấy giờ Ánh-Sáng Thần-
Linh ( Thượng-Đế ) sẽ chiếu sáng tỏ tâm
ta .
" Làm thế nào mà có thể gạt bỏ thế-
giới đi được ?
" Thí dụ khi thấy một người, thay vì
nhìn một người, anh tự hỏi : “ Đây là
Thượng-Đế làm linh-động một cơ-thể ”.
Cái cơ-thể này đáp-ứng đúng hay không
đúng theo mệnh trời, cũng như cái thuyền
đáp-ứng đúng hay không đúng theo bánh-
lái vậy .
" Tội-lỗi là ý-nghĩa thế nào ?
" Ví dụ : Tại sao một người uống
quá nhiều rượu ? Vì y sợ cái ý-tưởng bị
buộc vào sư kém tửu-lượng không uống
được như y muốn. Mỗi khi người ấy
phạm lỗi là một lần người ấy khao-khát
được giải-thoát. Sự khát-vọng được tự-do
giải-thoát chỉ là tự-động đầu tiên của
Thiên-tính trong tinh-thần nhân-loại, bởi
vì Thiên-tính biết mình tự-do, không bị
hệ-lụy. Uống quá độ sẽ không giải-thoát
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
261
cho người ấy được, nhưng người ấy, bấy
giờ không biết là mình thực cầu tìm tự-
do. Khi nào nó biết được điều ấy thì bấy
giờ nó sẽ tìm ra các đường-lối tối-hảo để
đạt tới giải-thoát .
" Nhưng người ấy chỉ có được tự-do
khi nào nó hiểu rằng nó chưa từng bao
giờ bị trói buộc. Những chữ " Tôi, Tôi,
Tôi ) nó tự cảm thấy nô-lệ đến thế thì sự
thực chỉ là trí-tuệ, không có thể bị giới-
hạn. Tôi là nô-lệ vì tôi chỉ biết cái gì mà
tôi không cảm thấy bằng của một trong
các quan-năng. Đáng lý thực ra thì tôi
luôn luôn là Cái Nó cảm-giác ở tại tất cả
thân-thể, tất cả tinh-thần. Những vật-thể
và những tinh-thần ấy chỉ là những công-
cụ của cái Ngã, cái Tâm-linh Vô-biên .
" Tôi làm gì với những công-cụ mà
chính tôi là chúng, cũng như mầu sắc là
công-cụ của Ánh-Sáng Trắng, thuần-túy
chưa phân ? "
ADPH RAMANA MAHARSHI
262
Không cần phải nói là chức-vụ công-an
không thích-hợp cho Humphreys. Ngài Bhaga-
van khuyên ông ta nên làm phận-sự của mình
đồng thời thiền-định. Humphreys tuân theo lời
khuyên ấy trong nhiều năm, rồi cuối cùng ông
từ bỏ chức-vụ. Ông có đạo gốc là Thiên-Chúa
và sau khi ông hiểu tính-đại-đồng của các tôn-
giáo, ông thấy không cần-thiết phải thay đạo
của mình. Nhưng ông trở về nước Anh để xin
vào một tu-viện .
***
*
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
263
MỘT NHÀ
THÔNG - THIÊN - HỌC
Sự bao-dung và lòng nhân-từ của Ngài
Bhagavan khiến người ta phải ngạc-nhiên.
Không những Ngài thừa-nhận chân-lý của tất
cả các tôn-giáo, vì bất cứ người nào có khả-
năng tâm-linh đều làm như thế, và khi nào một
tập-đoàn, một môn-phái, hay một Tùng-lâm
tìm cách truyền-bá Tâm-linh, Ngài Bhagavan
cũng tỏ ra tán-dương việc tốt của họ làm. Và
như thế, mặc dù có sự sai-biệt giữa phương-
pháp của họ với phương-pháp của Ngài, hay
học-lý ấy có sai biệt với giáo-lý chính-thống .
Raghavachria, một công-chức của chính-
quyền ở tỉnh Tiruvannamalai thỉnh-thoảng có
đến thăm Ngài Bhagavan. Ông ta muốn biết ý-
kiến của Ngài về Hội Thông-thiên-Học, nhưng
mỗi khi ông đến, ông đã thấy nhiều đệ-tử ở đó,
ADPH RAMANA MAHARSHI
264
ông không thích thổ-lộ những điều ông muốn
nói trước mặt họ. Một hôm ông nhất-định
trình-bày với Ngài Bhagavan ba câu hỏi như
sau :
" Đây là những vấn-đề mà tôi muốn
đặt ra với Ngài :
1/ Ngài có thể cho tôi được hỏi riêng
Ngài vài phút, mà không có sự hiện-diện
của chứng nhân ?
2/ Tôi muốn được biết Ngài nghĩ thế nào
về một Hội Thông-Thiên-Học mà tôi là
một thành-phần ?
3/ Ngài có cho tôi được phép thấy chân-
tướng của Ngài nếu tôi xứng-đáng ?
" Khi tôi đến, cúi đầu làm lễ và tôi
ngồi xuống trước mặt Ngài, lúc đó có ít
nhất là ba chục người đang bao vây
chung-quanh, nhưng những người ấy dần
dần đi khỏi và chỉ còn tôi với Ngài thôi .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
265
" Đó là câu hỏi thứ nhất đã được trả
lời mà không cần trình-bày. Tôi rất lấy
làm kinh-ngạc.
" Sau đó Ngài hỏi tôi rằng quyển
sách mà tôi đang cầm trên tay có phải là
quyển Thế-Tôn-Ca không, và có phải là
tôi là thành-phần của Hội Thông-Thiên-
Học không. Ngài nói tiếp trước khi tôi trả
lời : “ Hội ấy làm nhiều việc tốt ”. Tôi trả
lời bằng cách khẳng-định : “ Vâng, chính
thế. Hội ấy làm được việc tốt lành ”.
" Lời giải-đáp của Ngài cũng đã đi
trước câu hỏi thứ hai của tôi, cho nên tôi
nóng lòng chờ đợi xem câu hỏi thứ ba của
tôi, Ngài có giải đáp như thế nào. Sau nửa
giờ đồng hồ tôi mới mở miệng nói :
“ Cũng như Arjuna đệ-tử của Thần
Krishna muốn được thấy chân-tướng sự-
phụ của mình thị-hiện. Cũng như thế, tôi
kỳ vọng được thấy sự thị-hiện chân-tướng
của Ngài, nếu tôi xứng đáng ? ”
ADPH RAMANA MAHARSHI
266
" Lúc ấy Ngài Bhagavan đang ngồi
trên một cái bục, bên cạnh ngài ở trên
tường có một bức họa Thần Darkshina-
murthi. Ngài Bhagavan nhìn tôi một cách
yên-lặng và như thường-lệ, tôi chuyên-
chú nhìn vào mắt Ngài. Bỗng nhiên thân-
thể Ngài và cả bức họa đều biến mất
trước mắt tôi. Tôi chỉ còn thấy không-
gian trống rỗng, bức tường cũng biến mất.
Dần dần có một bóng trắng đục hình-
dung là Ngài Bhagavan và Thần Dark-
shinamurthi hình thành trước mắt tôi.
Đường viền chạy chung-quanh hình-dung
lóng lánh như bạc bắt đầu hiện rõ, thế rồi
tôi thấy hiện ra bằng những tia lửa, đôi
mắt, mũi và những chi-tiết khác. Hình-
dung ấy lớn dần và cuối cùng là chính
hình dáng Ngài Bhagavan và Thần Dark-
shinamurthi hiện sừng-sững trước mắt tôi
như là một ánh-sáng chói-lọi .
" Sau một vài phút chờ đợi, tôi lại
mở mắt ra và thấy Ngài Bhagavan cùng
Thần Darkshinamurthi ở trạng-thái thông-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
267
thường. Tôi phục xuống lễ và lui ra khỏi
động. Trong khoảng suốt một tháng, tôi
không dám đến gần Ngài Bhagavan nữa
vì ấn-tượng thâm-sâu tạo ra bởi kinh-
nghiệm trên đây ở nơi tôi .
" Một tháng trôi qua tôi trở lại động
và nhìn thấy Sư-phụ đứng ở trước Tùng-
lâm Skandashram. Tôi thưa với Ngài :
" Tháng trước tôi có đặt với Ngài mấy câu
hỏi và đã được Ngài ban cho sự thực-
nghiệm ấy ", rồi tôi kể lại với Sư-phụ
những sự-kiện tôi đã trải qua. Tôi xin
Ngài giải-thích cho tôi sự thực-nghiệm
ấy. Sau một lúc yên-lặng, Sư-phụ nói :
“ Anh muốn thấy chân-tướng và hình-
dung thật của tôi thì anh đã được chứng-
kiến sự biến đi của tôi, đó là tôi không có
hình-tướng, khiến cho sự thực-nghiệm ấy
có thể là chân-lý chính-xác. Còn những
thị-hiện khác mà anh có thể có được, theo
với kinh-nghiệm cá-nhân của anh đọc
Thế-Tôn-Ca mà ra. Tuy nhiên Ganapati
ADPH RAMANA MAHARSHI
268
Sastri đã có một thực-nghiệm tương-tự.
Anh có thể hỏi ông ta về sự thực-nghiệm
ấy được.” Nhưng sự thực tôi không hỏi
lại Ganapati Sastri . "
Sau đấy Đại-Sư-phụ Maharshi nói :
" Hãy khám-phá ra " Cái Tôi " là ai,
người nhìn, hay là người suy-tư, và nó
tồn-tại ở đâu ? "
***
*
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
269
MỘT ĐỆ - TỬ VÔ - DANH
Một người khách đến chơi Virupaksha,
mặc dù ông ta chỉ đến chơi có năm hôm, rõ-
ràng là ông đã được Ân-điển của Ngài
Bhagavan. Đạo-sĩ Narasimha, người sưu-tập
những tài-liệu để thảo tiểu-sử của Ngài và đã
xuất-bản dưới nhan-đề " Sự Thực-hiện Tự-
Tính " ( mà quyển sách này phần lớn đã căn-
cứ vào đấy ), tin rằng mình có bổn-phận phải
ghi rõ tên và địa-chỉ của người ấy. Một sự
bình-thản Thần-hóa của Ngài Bhagavan phản-
chiếu và tỏa khắp người khách lạ. Ánh-sáng
đôi mắt của Ngài phản-ánh vào mắt của người
khách. Hàng ngày ông ta viết một bài ca tụng
Ngài bằng tiếng Tamil, có tính-cách siêu-thần,
hồn-nhiên, đầy hồn thơ và tràn-ngập hoan-lạc
với lòng sùng-ái đến nỗi trong những bài ca
tụng cúng là bài ca hiếm-hoi còn được người ta
ngày nay tụng đọc. Sau này đạo-sĩ Narasimha
ADPH RAMANA MAHARSHI
270
đi đến Sayamangalam mà người khách kia đã
chỉ cho ông biết để tìm hiểu rõ chi-tiết và đời
sống của người khách lạ ấy, nhưng không ai
biết có tên đó ở đấy. Người ta đã nhận-thức
rằng cái tên đó có nghĩa là " Cảnh-giới Hoan-
lạc " và người ta giải-thích rằng người khách lạ
ấy đã từ " Cảnh-giới Hoan-lạc " bí-ẩn đến để
tôn-vinh Chân-Sư-phụ của thời-đại .
Một trong những bài ca tụng ấy tôn xưng
Ngài Bhagavan Ramana là " Chân Sư-phụ ".
Một hôm Ngài nghe hát, Ngài bèn hòa theo.
Một đệ-tử vừa cười vừa nói : " Đây là lần đầu
tiên con được nghe một người tự ca tụng
mình ."
Ngài Bhagavan trả lời : " Tại sao lại giới-
hạn Ramana vào sáu vế thơ ? Sự thực Ramana
là Đại-Đồng ."
Một trong năm bài ca tụng linh-động với
lạc-thú bình-minh và Giác-Tỉnh đến nỗi người
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
271
ta tưởng rằng người làm bài hát ấy có thể đã ca
mỗi buổi bình-minh thật cho chính mình :
" Bình-minh đã tới trên đỉnh núi !
Hỡi Ramana dịu-hiền hãy đến !
Hỡi Thần Arunachala hãy đến !
Đỗ-quyên hót trong bụi cây .
Sư-phụ Ramana yêu quý hãy đến !
Chúa của Giác-Tính hãy đến !
Tiếng loa đã nổi lên, sao sáng đã mờ,
Thần Ramana dịu-hiền hãy đến !
Chúa Trời của các Chúa hãy đến !
Gà gáy cúc cu, chim kêu chíp chíp,
Giờ đã điểm rồi, hãy đến !
Đêm tối đã tan, hãy đến !
Kèn thổi vang, trống đã dóng,
Thần Kim-quang Ramana hãy đến !
Tri-thức, Giác-ngộ hãy đến !
Buổi sớm quạ kêu inh-ỏi, Thần Siva cuộn
mình trong vòng rắn, hãy giáng hiện !
Hỡi Chúa cổ biếc, hãy giáng hiện !
Vô-minh đã tan, Tâm Sen đã nở .
ADPH RAMANA MAHARSHI
272
Giáng hiện ! Hỡi Chúa Ramana, Thánh
hiền !
Hãy giáng hiện ! Vòng hoa Veda !
Hỡi Chúa giải-thoát, vô-nhiễm .
Hãy giáng hiện ! Ngài Ramana Mỹ-miều!
Hãy giáng hiện ! Hỡi Chúa Thanh-Bình !
Hiền, Triết và Thánh Chúa .
Thực-thể, Chính-giác, Hoan-lạc !
Giáng hiện! Đức Chúa nhảy múa vui vầy,
Tình yêu siêu-việt trí-thức ,
Vượt đau khổ, Hãy giáng hiện !
Yên-lặng hoan-hỷ, Hãy giáng hiện ! "
*************
*
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
273
- XI -
CÁC SÚC - VẬT
Ấn-Độ-giáo chủ-trương như là Shankara
đã nói trong tác-phẩm bình-luận về Thế-Tôn-
Ca ( Bhagavad Gita - Ch. V từ câu 40 - 44 )
rằng sau khi người ta chết, người nào đánh tan
được mê-vọng về một cá-tính biệt-lập trong sự
thực-hiện đồng-nhất với Tự-Tính Tối-Cao thì
đi lên thiên-đường hay xuống địa-ngục tùy theo
nghiệp tốt xấu ( cán cân thưởng phạt ) tùy theo
hành-vi của mình ở trong đời trần-thế. Sau đó,
sau một mùa gặt hái được thu-hoạch về hành-vi
thiện, ác của mình ở trần-thế, nó lại trở xuống
trần-gian tái-sinh vào thân-phận cao-quý hay
thấp hèn tùy theo với nghiệp-báo để hoàn-
thành phần nghiệp-báo gọi là Prabdha nghĩa là
định-mệnh một đời sống thế-gian. Trong cuộc
đời tái-sinh nó tăng thêm nghiệp mới (Aganya)
ADPH RAMANA MAHARSHI
274
vào nghiệp cũ ( Sanjata Karma ) của nó . Di-
tích của tiền-nghiệp vốn không phải là định-
mệnh ( Prabdha ) .
Người ta thường nghĩ rằng trong một đời
người, một người có thể tiến-bộ và có thể trau-
giồi được nghiệp-quả. Tuy nhiên Ngài Bhaga-
van cũng đã bảo cho người ta biết rằng cả đến
súc-vật cũng có thể trau-giồi tu-sửa nghiệp-báo
của chúng. Trong một cuộc nói chuyện có ghi
lại ở chương này, Ngài nói : " Biết đâu cái linh-
hồn ẩn trong con vật ấy phải chăng nó cũng đi
tìm một thể-xác khác làm bạn để hoàn-thành
một phần nào của cái nghiệp chưa hết." Sư-tổ
Shankara cũng khẳng-định rằng những súc-vật
cũng có thể đạt tới giải-thoát. Và hơn nữa trong
một Kinh điển kể lại rằng nhà Hiền Jada
Bharata khi sắp chết bị ý-niệm thoáng qua phải
làm một con hươu, vì nuôi ám-ảnh đó nên phải
tái-sinh làm con hươu để có thể tẩy sạch được
sự ràng-buộc chặt-chẽ còn lại .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
275
Ngài Bhagavan đối-đãi với súc-vật cùng
một thái-độ như đã đối-đãi với các đệ-tử khác
mà tình cờ Ngài đã gặp ở trên đường. Vậy nên
súc-vật cũng như người, đã bị Ngài thu-hút.
Khi còn ở Gurumurtam, những con sóc và
những chim muông đến làm tổ bên cạnh Ngài.
Vào thời này, những đệ-tử nghĩ rằng Ngài quên
thế-gian tương-đương với sự thoát-ly của Ngài,
nhưng sự thực thì Ngài để ý đến tất cả mọi sự-
vật. Một hôm Ngài kể lại gia-đình một con sóc,
gia-đình con sóc này đã đến chiếm-cứ một cái
tổ hoang của một con chim .
Không bao giờ Ngài nói về một con vật
một cách thông-thường của tiếng Tamil bằng
cách dùng danh-từ một cách khách-quan,
nhưng Ngài luôn luôn dùng chủ-từ nam-tính
hay nữ-tính. Ngài có thể nói khi trỏ vào đám
chó của Tùng-lâm : " Các con đã cho những
đứa nhỏ ấy ăn chưa ? " Tục-lệ của Tùng-lâm
thường cho chó ăn trước, rồi tới hành-khất, sau
cùng mới tới đệ-tử. Biết rằng sự đố-kỵ của
Ngài Bhagavan là tiếp-nhận bất cứ vật gì mà
ADPH RAMANA MAHARSHI
276
không chia sẻ cho những người khác. Tôi ngạc
nhiên một hôm thấy Ngài đang thưởng-thức
một quả măng-cụt sau bữa cơm, rồi sau tôi mới
khám-phá ra cử-chỉ của động-tác ấy là mùa
măng-cụt mới bắt đầu nên Ngài muốn biết
trước xem quả măng đã chín chưa trước khi
đem cho con công trắng ăn, con công trắng này
do Maharani đã gửi đến cho Ngài nuôi. Cũng
như nhiều con công khác ở Tùng-lâm, Ngài
Bhagavan thường bắt-chước tiếng kêu của
chúng, chúng thường đến gần Ngài để xin đậu
phụng và trái măng. Trước khi Ngài tịch, mặc
dầu Bác-sĩ bảo cho biết là Ngài đang đau ghê-
gớm, nhưng khi Ngài nghe thấy tiếng con công
đang đậu ở trên một cây gần đó, Ngài còn hỏi
đã cho nó ăn chưa .
Những con sóc nhảy qua cửa sổ đến gần
giường của Ngài nằm, vì Ngài thường có
những hạt đậu-phụng đựng trong một cái hộp
nhỏ để dành cho chúng. Có khi Ngài đưa cả cái
hộp cho một trong các vị khách ấy để cho
chúng tự sử-dụng lấy. Lần khác, những con sóc
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
277
ấy thường đến nhặt những hạt đậu-phụng trên
bàn tay Ngài. Khi tuổi Ngài đã cao và bị bệnh
tê-thấp, bắt-buộc Ngài phải dùng đến một chiếc
gậy để chống, một hôm Ngài đi xuống bậc
thang dẫn đến Tùng-lâm, chợt có một con sóc
chạy đến chỗ Ngài vì nó bị một con chó đuổi.
Ngài vội-vàng gọi con chó lại, ném cái gậy vào
giữa con chó và con sóc, cử-chỉ ấy làm cho
Ngài bị ngã và Ngài đã bị sai khớp xương quai-
hàm. Cũng vì cử-chỉ ấy mà con chó phải bỏ
mồi và con sóc được thoát nạn.
Các súc-vật cảm thấy được Ân-điển của
Ngài Bhagavan, nếu xẩy ra có con dã-thú nào
được người ta đưa đến thì cả đàn đồng-loại của
nó tìm cách tẩy-chay nó khi nó trở về, nhưng ở
trường-hợp những con vật được gần-gũi Ngài
Bhagavan thì lại khác ; những con ở trong đàn
tiếp-đón nó một cách hãnh-diện khi nó trở về.
Chúng đoán biết rằng chúng không bao giờ
cảm thấy sợ-hãi hay giận-dữ chút nào. Một
hôm Ngài ngồi ở dưới sườn núi, có một con rắn
bò lên chân ngài, Ngài không động-đậy và
ADPH RAMANA MAHARSHI
278
cũng không tỏ ra lo-lắng. Một đệ-tử hỏi Ngài,
khi con rắn bò lên chân thì Ngài có cảm-tưởng
như thế nào ? Ngài trả lời bằng một nụ cười :
" Một cảm-giác mát dịu ! "
Ngài không cho phép người ta giết rắn tại
nơi Ngài ở, Ngài nói : " Chúng ta đã chiếm-
đoạt chỗ ở của chúng, và như thế chúng ta
không có quyền gì để quấy-rầy hay làm cho
chúng đau-đớn. Chúng không làm hại gì chúng
ta." Và Ngài rất có lý. Một hôm bà mẹ của
Ngài sợ một con rắn hổ-mang đang bò tới.
Ngài tiến tời gần con rắn thì con rắn bỏ đi. Con
rắn bò luồn qua hai tảng đá, Ngài Bhagavan
theo dõi nó, nhưng lối đi bị chặn bởi một tảng
đá trơn, con rắn bị chặn lại, không có lối thoát,
nó bèn cuộn khúc lại và nhìn Ngài Bhagavan.
Ngài cũng nhìn lại nó, như thế qua mấy phút,
con rắn hổ-mang bắt đầu duỗi thẳng người ra
và nó cảm thấy không có gì đáng lo-sợ nữa. Nó
bèn từ từ luồn qua dưới chân ngài .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
279
Một hôm Ngài đang ngồi với một vài đệ-
tử ở động Skandashram, một con vượn chạy tới
chân Ngài, rồi nhảy lên đùi Ngài ngồi một lát,
Ngài nói : " Ai mà biết được tại sao nó đến ?
Chắc-hẳn không phải là một con vượn tầm-
thường." Có một trường-hợp về một con vượn
khác không tầm-thường được trích-dẫn ở trong
tập kỷ-yếu của giáo-sư Venkatramiah. Trả lời
cho một câu hỏi của ông Grant Duff, Ngài
Bhagavan nói :
" Bấy giờ vào ngày lễ Thần Dương-
khí ( Arudradarsham ), tôi đang ở trên núi
trong đại Tùng-lâm Skandashram. Lúc ấy
khách hành-hương cuồn-cuộn từ dưới
tỉnh leo lên núi, bỗng có một con vượn
khác thường, lông đỏ lông vàng, khác với
mầu lông sám của những con vượn khác,
và ở đuôi không có những vết đốm, len đi
ngang qua đám đông mà không sợ-hãi.
Nó đến thẳng tới chỗ đạo-sĩ Palani đang
tắm dưới suối gần động. Đạo-sĩ vuốt-ve
con vật, nó theo gót đạo-sĩ vào trong động
và nó tra xét tất cả những góc, xó của
ADPH RAMANA MAHARSHI
280
động, rồi nó lại nhập vào đám đông để lên
động Skandashram. Tất cả mọi người đều
chú-ý tới dáng-điệu hấp-dẫn của con vật,
mà cử-chỉ khoan-thai không có vẻ gì là
sợ-hãi. Nó leo lên đùi tôi ngồi một lát. Nó
ngẩng đầu lên nhìn chung-quanh rồi bắt
đầu chạy vòng-quanh động. Tôi theo dõi
nó, trong lòng lo-sợ có kẻ nào cố ý làm
hại nó, hay là một trong những con công
làm thương-tổn nó, nhưng nó đi đi lại lại
một cách bình-tĩnh để rồi sau cùng nó rút
lui vào những tảng đá ở đàng sau Tùng-
lâm về phiá Đông Nam ."
Một buổi sáng sớm, trước khi mặt-trời
mọc, Ngài Bhagavan hái rau cho nhà bếp với
hai người đệ-tử. Một đệ-tử tên là Lakshmana
dắt theo một con chó trắng đẹp, con chó nhảy
nhót có vẻ vui thích lắm, trong cái tâm-trạng
được nhảy nhót tự-do ấy, nó từ-chối thực-phẩm
của người ta cho nó ăn, Ngài Bhagavan nói :
" Hãy nhìn kià, một tâm-hôn cao quý đang vui
sướng ở hình-thức một con chó ."
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
281
Giáo-sư Venkatramiah có kể ở trong một
nhật-ký của ông về một kiểu-mẫu thân-mật của
một trong những con chó ở Tùng-lâm :
" Ở thời ấy, vào năm 1924, trên
Tùng-lâm có bốn con chó. Những con
chó chỉ ăn khi nào Ngài Bhagavan san sẻ
thức ăn cho chúng. Nhà thông-thái muốn
kiểm-chứng lại thái-độ của lũ chó ấy bằng
cách đem cho chúng một vài món ăn,
nhưng chúng từ-chối, không đụng tới.
Ngài Bhagavan bắt đầu nếm thử một chút
món ăn, tức thì lũ chó sô nhau tới để cướp
lấy phần mình ."
Hầu hết các con chó ở Tùng-lâm đều là
dòng-dõi của con Kamala, con chó này đã đến
Tùng-lâm khi còn nhỏ. Bấy giờ các đệ-tử muốn
đuổi nó đi vì sợ rằng nó sẽ đẻ ra một lũ chó nhỏ
hết năm này sang năm khác. Nó nhất-định
không chịu đi. Từ đó một đại gia-đình chó nẩy-
nở ở Tùng-lâm, nhưng đối với chúng người ta
vẫn phải đối-xử một cách bình-đẳng trong cái
ADPH RAMANA MAHARSHI
282
đại-gia-đình chó đó. Lần đầu tiên khi nó sinh
đẻ, người ta tắm rửa cho nó, bôi bột hương đàn,
bột kim nhũ lên đầu nó và đặt nó ở một chỗ
sạch-sẽ trong hang động, và cho nó ở đó với
con nó trong mười hôm. Đến hôm thứ mười
người ta làm một buổi lễ để tẩy-uế. Trong buổi
lễ đó tất cả nghi-thực đều được tôn-trọng.
Kamala là một con chó cái thông-minh và có
nghĩa. Ngài Bhagavan thường giao cho nó sứ-
mệnh hướng-dẫn khách hành-hương đi quanh
núi. Ngài nói : " Này Kamala ! Hãy dẫn các vị
khách này đi quanh nơi đây ; và nó sẽ dẫn tất
cả khách hành-hương đi xem những pho-tượng,
những mảnh ao, những đền-thờ chung-quanh
Tùng-lâm .
Một trong những con chó ở Tùng-lâm có
một con đặc-biệt, tuy không là dòng giống của
Kamala, nó mang tên là Chinna Karuppan
( một con chó mực con ). Chính Ngài
Bhagavan cũng để lại một bản văn mô-tả nó
như sau :
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
283
" Con chó Chinna Karuppan là một
nhân-vật có những nguyên-tắc cao độ.
Khi chúng tôi ở Tùng-lâm Virupaksha
thường có một vật gì đen đen đi qua đi lại
chỗ chúng tôi. Chúng tôi thường nhận
thấy cái đầu của nó nhô lên trong đám bụi
cây. Tinh-thần độc-lập của nó rất cao. Nó
không cầu tìm làm bạn với ai và dường
như nó lại lẩn tránh tất cả mọi người.
Chúng tôi tôn-trọng tinh-thần độc-lập của
nó nên thường đặt thức ăn vào chỗ nó ưa-
thích, rồi chúng tôi lánh đi. Một hôm
trong khi chúng tôi đang leo núi thì con
chó đó đột nhiên nhảy ra giữa đường,
chạy sô đến chỗ tôi, ve vẩy đuôi và kêu
lên. Làm sao mà nó có thể phân-biệt tôi
với mọi người để nó tỏ lòng quyến-luyến
của nó ? Thật là khó hiểu !
" Sau đó con Karuppan ở lại với
chúng tôi và trở nên một gia khách của
Tùng-lâm. Thật là một người bạn thông-
minh và được việc ! Thế rồi nó mất hết
cái tính cô-độc và trở nên rất âu-yếm,
ADPH RAMANA MAHARSHI
284
thường tỏ ra có một tình-cảm bác-ái đại-
đồng. Nó đánh bạn với tất cả khách hành-
hương, tất cả cư-dân ở Tùng-lâm, nó
thường leo lên đùi họ và nằm ẩn-náu vào
lòng họ. Những sự mời mọc của nó
thường được tiếp-đón nồng-hậu. Có
người tránh nó nhưng nó nỗ-lực không
mệt mỏi và không nhận sự từ-chối vĩnh-
viễn. Tuy nhiên nếu người ta bảo nó lui ra
thì nó tuân theo mệnh-lệnh như là một tu-
sĩ đã có lời thề thuận-thụ .
" Một hôm con Karuppan đến gần
một vị Bà-la-môn chính-thống đang đọc
thần-chú dưới một gốc cây gần hang động
của chúng tôi. Vị Bà-la-môn này coi
giống chó như là một sự ô-uế và vị ấy đã
tỉ-mỉ tránh không tiếp-xúc với nó, tránh
cả sự gần-gũi với nó. Con Karuppan dĩ-
nhiên nó không hiểu điều ấy và chỉ tôn-
trọng định-luật bình-đẳng nên nó mới cố
nhẫn-nại tìm tới gần vị Bà-la-môn này.
Một người dân của Tùng-lâm vì kính-nể
tính-tình của vị Bà-la-môn nên đã giơ gậy
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
285
lên đánh con chó. Con Karuppan rên-rỉ
rồi đi khỏi. Thế rồi nó không trở lại Tùng-
lâm nữa và từ đó người ta không tìm thấy
nó ở đâu. Con Karuppan có năng-khiếu
xúc-động nhậy cảm, khiến cho nó không
trở lại nơi mà nó đã bị ngược-đãi .
" Người phạm lỗi đánh chó chắc đã
miệt-thị nguyên-tắc và tính nhậy-cảm của
con chó ? Tuy vậy chúng tôi đã được
cảnh-cáo một lần, nhưng những sự-kiện
ấy vẫn xẩy ra như thế ! Một hôm đạo-sĩ
Palani đã nói một cách gắt-gỏng với con
Karuppan và đối với nó có vẻ khắc-
nghiệt, nên mặc dầu đêm lạnh và mưa con
chó vẫn nhất-định không trở lại Tùng-lâm
nữa, nó đã ngủ trên một chiếc bao than
cách xa đấy. Đến sáng hôm sau người ta
mới tìm được nó về .
" Chúng ta có một cảnh-giác mới về
thái-độ của một con chó khác. Trước đấy
mấy năm, đạo-sĩ Palani có mắng-mỏ một
con chó nhỏ đã sống với chúng tôi ở động
Virupaksha. Con chó nhỏ chạy thẳng đến
ADPH RAMANA MAHARSHI
286
hồ Sankhatirtham và sau đó mấy hôm
người ta thấy xác nó nổi lềnh-bềnh trên
mặt nước. Người ta giải-thích cho đạo-sĩ
Palani và tất cả các đệ-tử ở Tùng-lâm biết
là những con chó nhỏ và những con vật
khác sống ở Tùng-lâm đều rất thông-
minh, có một nguyên-tắc sống rất có bản-
lãnh cho nên người ta không nên đối-đãi
với chúng một cách phũ-phàng. Chúng ta
không biết linh-hồn nào tiềm-tàng ở trong
những thân-thể ấy và không biết phần
nghiệp-báo nào của chúng chưa hoàn-
thành mà chúng tìm cách hoàn-tất trong
cuộc sống chung với chúng ta . "
Lại còn một số chó khác tỏ ra có trình-độ
thông-minh đặc-biệt và sống có nguyên-tắc rất
cao. Khi Ngài Bhagavan còn ở tại Tùng-lâm
Skandashram, Ngài luôn luôn có mặt trước
những con chó sắp chết, khi nó đã chết người
ta chôn cất nó đàng-hoàng và đặt lên mộ nó
một tấm bia đá. Trong những năm cuối cùng,
khi Tùng-lâm đã được xây-cất xong, và nhất là
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
287
trong thời-kỳ mà sức khoẻ của Ngài Bhagavan
suy-sút, những đệ-tử nhân-loại của Ngài
thường bắt Ngài theo ý-kiến của họ nhiều hơn,
còn những đệ-tử súc-vật ít có cơ-hội đến gần .
Những con khỉ leo qua cửa sổ để đến gần
giường Ngài nằm cho đến lúc Ngài gần tịch,
chúng nhìn qua cửa sổ. Có khi người ta thấy
những con khỉ mẹ tới, đèo theo những con nhỏ.
Người ta có thể nói rằng những con khỉ mẹ đó
muốn trình cho Ngài Bhagavan thấy rằng
chúng cũng như những bà mẹ nhân-loại thường
làm. Nhưng có một sự dung-hòa giữa Ngài
Bhagavan với những người hầu-cận của Ngài
là những người ấy có quyền sua đuổi những
con khỉ ra khỏi phòng, có điều là trước khi đuổi
chúng phải cho mỗi con một quả chuối .
Trước khi Ngài Bhagavan bị tệ-thấp
không đi lại được, Ngài vẫn đi chơi trên sườn
núi mỗi buổi sáng trước bẩy giờ, và buổi chiều
vào lúc trước năm giờ .
ADPH RAMANA MAHARSHI
288
Một buổi chiều, đáng lẽ đi chơi như
thường-lệ, Ngài leo lên Tùng-lâm Skandhash-
ram. Khi không thấy Ngài trở về như mọi lần,
những đệ-tử bèn leo lên sườn núi, tụ-họp thành
những đám nhỏ hỏi nhau không biết Ngài đã đi
đâu với ý-nghĩ về sự vắng mặt của Ngài và
mình sẽ phải làm gì. Có những đệ-tử khác vẫn
ngồi chờ ở trong phòng, đồng thời cũng có hai
con khỉ đến trước cửa phòng, không tỏ ra sợ-
hãi người như thường-lệ, chúng đến chiêm-
ngưỡng và đi vào trong phòng ngắm-nghía, lo
sợ chiếc giường Ngài nằm bị bỏ trống .
Mấy năm về sau, trước khi Ngài Bhaga-
van biến-dạng khỏi cõi đất này thì cái thời của
những con khỉ cũng chấm-dứt. Những mái nhà
bằng lá gồi ở trước cửa phòng đã được mở rộng
nên những con vật ấy đi lại khó-khăn, vả chăng
một số lớn những con vật ấy đã quay về rừng
hoặc một số thì chính-phủ bắt để gửi sang bên
Mỹ làm vật thí-nghiệm .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
289
Kể từ năm 1900, khi Ngài Bhagavan bắt
đầu ở trên núi cho đến năm 1922 Ngài định-cư
ở Tùng-lâm dưới chân núi, Ngài đã có một
quan-hệ mật-thiết với đàn khỉ. Ngài săn-sóc
chúng với lòng thương và tình-cảm mà các bậc
Giác-ngộ thường có đối với tất cả chúng-sinh,
trong ý-thức quan-sát sắc bén mà Ngài thường
có. Ngài bắt đầu hiểu tiếng kêu của chúng, quy-
tắc về thái-độ sống của chúng và phương-pháp
hành-chính của chúng. Ngài nhận-thức ra rằng
mỗi bộ-tộc của chúng đều có vua và quần-
chúng mà mọi người đều công-nhận. Nếu bộ-
tộc khác đến xâm-chiếm thì có chiến-tranh.
Nhưng trước khi tuyên-chiến hay hòa-giải thì
bộ-tộc này phải gửi sứ-thần đến bộ tộc khác.
Ngài Bhagavan kể cho khách hành-hương nghe
rằng, những con khỉ đó coi Ngài như một
đồng-loại của chúng, và nhận Ngài làm trọng-
tài trong những cuộc cãi-lộn với nhau .
" Ở bọn khỉ, nguyên-tắc đòi rằng kẻ
nào trong hàng-ngũ có giao-dịch với loài
người sẽ bị tẩy-chay, nhưng ngoại trừ tôi
ADPH RAMANA MAHARSHI
290
ra. Cũng như khi nào ở trong hàng-ngũ
của chúng có sự xung-đột, cãi-lộn thì
chúng đến gần tôi để tôi an-ủi bằng cách
trừng-phạt hoặc đình-chỉ sự xung-đột ấy.
Có hôm một con khỉ nhỏ bị một con khỉ
già trong đàn cắn và bị bỏ rơi không có ai
bênh-vực ở gần Tùng-lâm. Con khỉ nhỏ
ấy đi khập-khễnh tới Tùng-lâm Virupak-
sha và từ đó về sau chúng tôi gọi nó là
Nendi ( con khỉ què ). Sau đó năm ngày,
khi đàn khỉ của nó trở lại Tùng-lâm, thấy
tôi đang chữa chạy cho con khỉ què, tuy
vậy chúng cũng cứ đem con khỉ nhỏ ấy
đi. Kể từ hôm ấy, những con khỉ thường
đến đông đảo để cuớp món ăn ở Tùng-
lâm mà người ta đã đặt dành riêng cho
chúng ở phiá ngoài. Nhưng con khỉ què
thường nhảy thẳng lên đùi tôi, nó ăn uống
một cách hết sức sạch sẽ và giữ-gìn. Khi
người ta đặt một cái đĩa bằng lá để đựng
cơm cho nó, nó không để vãi một hạt nào
ra ngoài, nếu vô-tình nó đánh rơi ra thì nó
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
291
liền nhặt ngay lên mà ăn trước khi hoàn-
tất bữa ăn .
" Con khỉ què rất nhạy-cảm. Một
hôm vì một lý-do gì đó, nó đánh vãi một
ít thức ăn. Tôi bèn mắng nó : " Xin anh
đừng phí-phạm thực-phẩm ! " Nó liền
thưởng cho tôi một quả đấm lên trên mắt,
làm cho tôi bị thương nhẹ. Để phạt nó, tôi
cấm nó mấy hôm không được nhảy lên
đùi tôi, nhưng con khỉ nhỏ đó cầu-khẩn
tôi một cách khúm-núm để được trở lại
chỗ ngồi mà nó thích-thú. Lại một lần nữa
nó làm tôi bất-bình. Trường-hợp này là
lúc tôi bưng một ly sữa nóng đưa lên
miệng để thổi nguội đi cho nó ; thấy thế
nó bực mình, nó lại đánh tôi một lần nữa
vào mí mắt. Lần này tôi không bị thương
nặng, mà ngay lúc ấy đã thấy con khỉ
nhảy lên ngồi trên đùi tôi rồi, làm như nó
muốn sám-hối để nói rằng : " Hãy quên
những điều tôi làm đi, và tha-thứ cho tôi."
Và tôi đã tha-thứ cho nó .
ADPH RAMANA MAHARSHI
292
" Về sau con khỉ què đã trở nên một
tù-trưởng bộ-tộc của nó. Ngài Bhagavan
lại kể chuyện một con khỉ chúa nữa. Nó
có can-đảm loại trừ hai con khỉ đực trong
đàn. Sau việc ấy xẩy ra cả bộ-lạc đứng
lên phản-đối và vị tù-trưởng của nó đã bỏ
đấy đi vào rừng suốt mười lăm hôm. Khi
nó trở về, nó thách đấu những con khỉ
làm loạn và những con khỉ đã bất-bình
với nó. Nó đã tích chứa một sức mạnh
đến nỗi trong hai tuần khổ-sở để nói mà
không ai dám nhận cuộc thách đấu với
nó ."
Một buổi sớm tinh-sương, người ta báo
cho biết có một con khỉ đang hấp-hối ở Tùng-
lâm. Ngài Bhagavan lật-đật tới nơi thì chính là
con khỉ chúa. Người ta đem nó vào Tùng-lâm,
đặt nó nằm tựa vào Ngài Bhagavan. Hai con
khỉ đực bị loại-trừ đi đến một cây gần đấy ngồi
chứng-kiến cảnh-tượng ấy. Ngài Bhagavan khẽ
cử-động để lay-chuyển sức nặng của con khỉ
đang đè nặng xuống Ngài thì con khỉ hấp-hối
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
293
liền tự-động cắn vào chân Ngài. Chỉ vào chân,
Ngài nói : " Tôi còn giữ lại bốn vết thương-tích
của những con khỉ chúa trước đã thưởng cho
tôi ! " Thế rồi con khỉ chúa thở phào, kêu lên
một tiếng rối trút hơi thở. Hai con khỉ đực cũng
từ trên cây nhảy xuống và cùng kêu rên-rỉ
thảm-thương. Thể-xác của con khỉ chúa đó
được chôn cất theo nghi-thức dành cho bậc
đạo-sĩ độc-lập. Người ta tắm cho nó bằng sữa,
nước thơm và rắc tro thiêng lên mình nó.
Người ta phủ lên thân-thể nó bằng một tấm
khăn trắng mới và để chừa cái mặt ra ngoài.
Người ta đốt hương trầm trước thi-thể nó.
Huyệt của nó đào ở cạnh Tùng-lâm và đặt ở mộ
nó một tấm bia đá .
Người ta kể một chuyện rất lạ về loài khỉ.
Có một hôm Ngài Bhagavan đi chơi quanh núi
với một nhóm tín-đồ. Đi tới địa-điểm Pacha-
lamman Koil thì họ cảm thấy đói và khát, tức
thì có một đàn khỉ nhảy lên một cây mận dại
bên lề-đường rung cho những trái mận rơi
xuống. Những trái mận rơi rải-rác đầy trên mặt
ADPH RAMANA MAHARSHI
294
đường ; làm xong việc ấy đàn khỉ bỏ đi không
ăn một trái nào. Đồng thời cũng có những phụ-
nữ đem những bình nước đến cho họ uống .
Con bò cái Lakshmi là một trong hàng
đệ-tử súc-vật được cưng nhất của Ngài Bhaga-
van. Khi nó mới chỉ là con bê đi cùng với mẹ
nó do đạo-sĩ Pillai đưa đến để dâng lên cho
Ngài vào năm 1926. Ngài Bhagavan ngần-ngại
khi nhận món quà ấy, bởi vì ở Tùng-lâm người
ta chưa đủ chỗ để nuôi hai mẹ con con bò,
nhưng đạo-sĩ Pillai nhất-định không đem về hai
con vật ấy và nhân có một đệ-tử tên là Rama-
nath Dikshitar đứng ra đảm-nhận trông-nom
nên người ta mới giữ lại .
Đạo-sĩ Dikshitar trông-nom hai con bò ấy
trong vòng ba tháng, rồi người ta gởi nó cho
một người ở tỉnh nuôi. Người này nuôi được
một năm và đến một hôm ông ta lên xin Ngài
Bhagavan làm lễ qui-y cho ông ta, ông đem cả
hai mẹ con con bò cùng đi theo. Con bê
Lakshmi có vẻ hết sức quyến-luyến Ngài
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
295
Bhagavan, hình như nó nhớ được con đường từ
tỉnh dẫn đến Tùng-lâm, bởi vì hôm sau người
ta thấy nó từ tỉnh trở lại Tùng-lâm có một
mình. Từ đó về sau nó quen lệ ban ngày nó ở
Tùng-lâm và đến tối nó mới về tỉnh. Sau này
khi nó đã ở hẳn Tùng-lâm, nó thường đi thẳng
tới chỗ Ngài Bhagavan và không hề để ý tới ai
hết. Ngài Bhagavan thường để dành cho nó
một quả chuối hoặc một món ăn gì khác. Trong
một thời-gian, nó đến động đều đều và đúng
vào giờ ăn để theo Ngài Bhagavan tới phòng
ăn. Nó giữ rất đúng giờ, đến nỗi Ngài Bhaga-
van vì bận không nhớ tới giờ ăn, mà khi Ngài
thấy con Lakshmi đến Ngài mới nhìn đồng hồ
thì ra đã đến lúc Ngài phải ngưng tay làm việc .
Con Lakshmi đẻ ra nhiều con bê, ít nhất
là có ba con vào đúng dịp sinh-nhật Ngài
Bhagavan. Người ta xây một cái chuồng bò
bằng đá ở Tùng-lâm và chắc là con bò cái
Lakshmi sẽ vào đấy đầu tiên nhân ngày sinh-
nhật của Ngài. Nhưng ngày hôm ấy nó vắng
mặt mà người ta không biết nó đi đâu. Mãi sau
ADPH RAMANA MAHARSHI
296
người ta mới tìm ra nó nằm ở cạnh Ngài
Bhagavan. Nó chỉ chịu dậy khi nào Ngài dẫn
nó đến chuồng bò và đã khiến cho chính Ngài
Bhagavan phải bước chân vào chuồng trước để
rồi nó mới bước vào sau. Nếu Lakshmi đặc-biệt
quyến-luyến Ngài Bhagavan bao nhiêu thì ân-
điển và lòng nhân-từ của Ngài ban cho nó cũng
rất khác thường. Về sau số bò cái và bò đực trở
nên rất đông ở Tùng-lâm nhưng không một con
bò nào được Ngài Bhagavan lưu-luyến và ban
cho nhiều ân-điển như con Lakshmi này.
Lakshmi luôn luôn có con nối dõi ở Tùng-lâm
Skandakshram .
Ngày 17 tháng 6 năm 1948, Lakshmi bị
bệnh và sáng hôm sau có vẻ như nó sắp chết.
Vào lúc 10 giờ sáng, Ngài Bhagavan đến thăm
nó, Ngài nói : " Mẹ đi ! Mẹ muốn tôi ở bên
cạnh Mẹ phải không ? " rồi Ngài ngồi xuống
bên cạnh nó, đặt đầu nó lên đùi mình. Ngài
nhìn vào mắt nó, đặt tay lên đầu nó như là
khai-ngộ cho nó vậy. Ngài cũng lại để tay lên
ngực của Lakshmi, đặt má nó vào má mình và
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
297
vuốt-ve nó. Biết chắc rằng tâm của nó trong
sạch và không còn tiềm-năng dục-vọng, hoàn-
toàn tập-trung sự chú-ý vào Ngài, Ngài mới từ-
giã nó để vào phòng ăn .
Con bò ý-thức cho đến phút cuối cùng ;
đến 11 giờ rưỡi thì nó trút hơi thở, rời bỏ thể
xác một cách êm-thắm. Nó đuợc chôn cất ở
một khoảnh đất ở Tùng-lâm với tất cả lễ-nghi
tống-táng theo tục-lệ, ở bên cạnh mộ của con
nai, con quạ và con chó, mà người ta đã đặt
chúng theo chỉ-thị của Ngài Bhagavan. Người
ta đặt một tấm bia vuông trên mộ nó với lời
văn bia khắc của chính Ngài Bhagavan là nó đã
được hoàn-toàn giải-thoát .
Đạo-sĩ hỏi Ngài Bhagavan có phải đó là
một câu văn ước-lệ mà người ta thường dùng
cho ai đã đạt tới ý-thức Tam-muội ( Samadhi )
để nói một cách lịch-sự rằng y đã chết. Hay là
thật sự con bò lakshmi đã được giải-thoát
( Mukti ) ?
*************
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
299
- XII -
TÙNG - LÂM CỦA
NGÀI RAMANA
Vào năm 1922, khi các đệ-tử đi theo Ngài
đến mộ của Bà Mẹ ở dưới chân núi, thì ở đây
mới chỉ là một cái nhà kho lợp tranh. Vào
những năm sau, số đệ-tử tăng lên và sự cúng-
dường cũng rồn-rập tới ; người ta mới bắt đầu
xây-dựng các gian nhà khác ở Tùng-lâm : Nhà
ăn ; nhà bếp ; chuồng bò ; bưu-điện ; nhà-
thương ; những phòng cư-trú cho phái nam ( nó
chỉ là một phòng lớn để cho những người nào
muốn ở lại vài hôm ) và hai gian cốc nhỏ cho
những ai muốn ơ lại lâu tại Tùng-lâm. Những
gian nhà đó chỉ có một tầng và được quét vôi
trắng ở phiá ngoài theo kiểu Ấn-Độ. Phiá Tây
bên cạnh Tùng-lâm có một bể lớn hình vuông
ADPH RAMANA MAHARSHI
300
đựng nước. Người ta đến lấy nước ở bể do bốn
mặt nhờ những bậc đá. Ở phiá Nam Tùng-lâm
có một con đường chạy thẳng từ Tiruvanna-
malai tới Bangalore, theo hướng Tây Đông.
Con đường đi rẽ qua phiá Tây, quẹo chung-
quanh núi. Từ con đường ấy nhìn về phiá Bắc,
người ta nhìn thấy từ đàng xa cái cổng tò-vò
bằng gỗ sơn đen có kẻ chữ vàng " Tùng-Lâm
Ramana ". Không có cánh cổng, người ta ra
vào tự-do. Những khóm dừa um-tùm che mát
những gian nhà của Tùng-lâm và xa xa là ngọn
núi đứng sừng-sững oai-nghiêm .
Không phải người ta xây-dựng chỉ có
Tùng-lâm mà thôi, ngoài ra trên con đường đi
tới đó người ta còn dựng lên một khách-sạn do
Tiểu-Vương Mervi cúng-dường để tiếp-đón các
Tiểu-Vương khác đến viếng cảnh. Một lớp
những gian nhà nhỏ và những gian cốc xuất-
hiện do các đệ-tử phụ-trách công-việc nội-trợ
dựng lên. Ngay phiá Tây của Tùng-lâm, ở
khoảng giữa một chiếc ao và núi, những tu-sĩ
họp thành một đoàn-thể nhỏ ở Pelakettu. Họ
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
301
sống trong các hang động hay các lều giữa
những hàng cây. Chính trong Tùng-lâm, nhũng
ai thiên về hành-động hơn là mặc-niệm thì có
một đời sống hoạt-động ở trong bàn giấy, ở
trong vườn hay là thư-viện, ở trong bếp hoặc ở
đây, ở đó tự lấy làm hân-hạnh đặc-biệt để sống
gần Ngài Bhagavan, được nhìn thấy, có khi
được Ngài để ý, được Ngài hỏi han đến .
Tất cả những công-trình xây-dựng ấy,
cùng là quản-lý về tài-chánh đòi phải có một
ông giám-đốc, bởi vì Ngài Bhagavan không
muốn nhúng tay vào những việc đó. Người em
trai của Ngài là Niranjananda do đó mà phải
đảm-nhận vai-trò giám-đốc của Tùng-lâm.
Người ta lập nội-quy và có những điều trong
nội-quy làm buồn lòng các tín-đồ. Tuy nhiên
nếu một trong số tín-đồ bất-bình muốn phản-
đối hay muốn chống lại những điều của nội-
quy thì thái-độ của Ngài Bhagavan ngăn-cản họ
lại. Bởi vì chính Ngài tự phục-tòng những
điều-lệ và bênh-vực uy-quyền. Có lẽ không
phải vì Ngài coi trọng đặc-biệt một điều nào,
ADPH RAMANA MAHARSHI
302
mà đại-khái chỉ vì Ngài cho rằng phải tuân theo
mệnh-lệnh. Về điểm này thái-độ của Ngài có
điểm đặc-biệt cũng như đối với các điểm khác .
Ngài vạch đường cho người ta theo không
phải để hoạt-động cô-đơn, mà là ở trong điều-
kiện của thế-gian vào thời mạt-pháp, cái thời-
đại quá ư đen tối này, và Ngài còn thúc-dục đệ-
tử của Ngài hãy nghĩ tới Bản-lai Diện-mục Tối-
Cao, đồng thời tuân theo những điều-kiện sinh-
hoạt ở thế-gian dù không thích-hợp với mình.
Ngài làm gương-mẫu bằng cách thích-ứng với
kỷ-luật ở Tùng-lâm. Hơn nữa Ngài chỉ-trích
những tín-đồ đã lãng quên mục-đích đã dẫn họ
đến với Ngài, để tham-gia vào những cuộc cãi-
vã về hành-chánh. Ngài nói : " Những người
leo lên trên đường dẫn đến Tùng-lâm để cầu
tìm giải-thoát, thế mà lại sa-lầy vào chính-sách
của Tùng-lâm mà quên mất lý-do khiến họ đến
Tùng-lâm. Nếu họ tha-thiết về những vấn-đề ấy
thì có cần chi mà họ phải đến Tiruvannamalai
này làm gì ? "
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
303
Có khi sự phản-đối và bất-bình thỉnh-
thoảng biểu-thị ra những sự bùng-nổ mà không
người nào có thể nói là sự xung-đột ấy không
căn-cứ vào sự-kiện hoàn-toàn chính-đáng,
nhưng Ngài Bhagavan không bênh-vực họ. Có
hôm một nhóm đệ-tử công-chức và kinh-doanh
ở tỉnh Madras đã đến bằng một chiếc xe đò, có
mục-đích nhất-định là để thay-đổi hoàn-toàn
hành-chánh của Tùng-lâm và tổ-chức thành
một hệ-thống mới. Họ kéo đến một số đông,
ngồi đối-diện với Ngài Bhagavan, nhưng Ngài
vẫn ngồi yên-lặng, gương mặt nghiêm-nghị
không để ý và bất-động như một tảng đá. Bọn
khách đến, nhóm tín-đồ kia cảm thấy lúng-túng
nhìn nhau một cách bối-rối. Không một đệ-tử
nào dám mở miệng. Sau cùng bọn họ phải rút
lui trở về Madras bằng phương-tiện như lúc
đến. Lúc bấy giờ người ta mới trình-bày mục-
đích của sự thăm viếng, thì Ngài nói : " Tôi tự
hỏi tại sao mà họ đến đây, họ đến để tự cải-tạo
họ hay là để cải tổ Tùng-lâm ? "
ADPH RAMANA MAHARSHI
304
Tuy nhiên, đây là một bài học mới để
tiếp-nhận, nếu có vài điều trong nội-quy có vẻ
không những phiền-toái mà còn bất-công nữa,
thì Ngài Bhagavan không thừa-nhận cũng như
Ngài không thừa-nhận tiền thù-lao ở hang-động
Virupaksha. Cả đến trường-hợp này, phương-
pháp của Ngài cũng không cốt-yếu ở sự phản-
đối mà là để gợi sự chú-ý vào thái-độ của mình
về sự bất-công mà người ta đã phạm. Đã có
một lần, khi người ta bắt đầu dọn cơm ở phòng
ăn trong Tùng-lâm, nhưng người ta chưa tìm
được phương-tiện để đãi cà-phê cho tất cả mọi
người, khiến những người không quan-trọng
phải ngồi ăn ở phiá dưới chỉ được uống nước.
Ngài Bhagavan nhận thấy thế, bởi vì Ngài
thường để ý tới tất cả mọi việc. Ngài bèn nói :
" Hãy đem nước lại đây cho tôi ! " Sau đó Ngài
chỉ uống nước và không bao giờ Ngài uống cà-
phê nữa .
Khi Ngài đã cao niên, một hôm đầu gối
Ngài bị tê-liệt vì bệnh phong-thấp, Ngài vẫn
ngồi tiếp-kiến một nhóm khách Âu-Tây. Trong
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
305
đám khách có một phụ-nữ không quen ngồi
xếp bằng, người ấy phải ngồi tựa vào tường và
duỗi chân ra. Một người hầu, chắc không hiểu
sự khó-khăn của người không quen ngồi xếp
bằng, nên đã nói với người phụ-nữ này là
không nên ngồi như thế, lập tức Ngài ngồi
thẳng dậy và cũng ngồi xếp bằng, mặc dầu đầu
gối của Ngài không thể chịu-đựng được mà
Ngài vẫn cố chịu-đựng. Khi các đệ-tử yêu-cầu
Ngài thay đổi cách ngồi thì Ngài nói : " Nếu là
quy-tắc thì tôi phải tuân theo như tất cả mọi
người, nếu duỗi chân là việc thiếu lịch-sự thì
tôi là người thiếu lịch-sự với tất cả mọi người ở
phòng này. " Người hầu kia đã ra khỏi phòng,
nhưng người ta gọi lại để xin lỗi bà khách và
để mời bà cứ ngồi thoải-mái như ý bà muốn.
Còn Ngài Bhagavan thì không dễ gì thuyết-
phục được để Ngài ngồi duỗi chân ra sau đấy .
Buổi đầu những lời phê-phán nổi lên
nhiều nhất là trong đám đệ-tử Âu-Tây, thường
thiên về sứ-mạng truyền-giáo. Một trong những
người đệ-tử hăng-hái nhất vào cả trong phòng
ADPH RAMANA MAHARSHI
306
và dồn-dập tuyên-truyền lý-thuyết với Ngài
Bhagavan. Ngài không trả lời, nhưng từ cuối
phòng nổi lên tiếng của ông Major Chadwich
phản-đối người khách Âu-Tây về việc tuyên-
truyền ý-nghĩa Thiên-Chúa-giáo. Người thanh-
niên Âu-Tây bị hoang-mang bất-ngờ nên đã
thôi không cố tuyên-truyền nữa. Vào những
năm cuối, có những Giáo-sĩ Gia-Tô đến Tùng-
lâm bầy tỏ sự tôn-kính và chú-trọng đến giáo-
lý của Ngài Bhagavan, nhưng lại biểu-lộ sự
hoài-nghi đến nỗi người ta phải tự hỏi tâm-hồn
của họ có cởi-mở không hay là sự thực họ có
chủ-đích truyền-giáo và xuyên-tạc ?
Một người Hồi-giáo đến Tùng-lâm để bắt
đầu thảo-luận, nhưng anh ta có vẻ thành-thực
trong sự thách-thức vì Ngài đã kiên-nhẫn trả lời
anh ta như sau :
Người Hồi-giáo hỏi :
_ Thượng-Đế có hình-tướng hay
không ?
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
307
Ngài Bhagavan vặn lại :
_ Ai bảo rằng Thượng-Đế có hình-
tướng ?
Người Hồi-giáo cố nhấn mạnh nói :
_ Nếu Thượng-Đế không có hình-
tướng, thì một sự sai lầm đã gán cho
Thượng-Đế có hình-tướng, của một ngẫu-
tượng để thờ Ngài ở đấy ?
Người Hồi-giáo đợi, Ngài Bhagavan chắc sẽ trả
lời :
_ Chẳng ai bảo rằng Thượng-Đế có
hình- tướng .
Câu trả lời đúng như người Hồi-giáo đã
nghĩ, nhưng Ngài Bhagavan đã khai-triển nó ra
như sau :
_ Hãy để Thượng-Đế đó ; và ngay
đây anh hãy cho tôi biết anh có hình-
tướng hay không ?
ADPH RAMANA MAHARSHI
308
_ Tôi chắc là tôi có một hình-tướng!
Như Ngài đã thấy, nhưng tôi không phải
là Thượng-Đế .
_ Phải chăng anh là cái thân-thể vật-
chất có xương, có thịt, có máu và ăn mặc
chỉnh-tề đó ?
_ Hẳn rằng điều đó không còn nghi-
ngờ gì nữa, tôi ý-thức tôi có thật trong
hình-thức thân-thể này .
_ Anh tự đồng-nhất anh với thân-thể
này, bởi vì anh đã có ý-thức về nó nhưng
phải chăng anh là cái thân-thể đó ? Phải
chăng chính anh khi ngủ-say không ý-
thức gì về nó, anh vẫn chính là nó ?
_ Phải, tôi vẫn là cái thân-thể vật-
chất này dù có ngủ-say, bởi vì tôi ý-thức
cho đến lúc tôi ngủ-say và lập-tức sau khi
thức dậy, tôi ý-thức tôi đúng như trước
khi tôi bắt đầu ngủ .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
309
_ Và khi anh chết thì sao ?
Nhà vấn nạn yên-lặng suy-nghĩ :
_ Vậy người ta cho là tôi đã chết và
khiêng đi chôn .
_ Nhưng anh vừa bảo rằng thân-thể
của anh là chính anh. Khi người ta khiêng
thân-thể anh đi chôn, thì tại sao cái thân-
thể không phản-đối mà nói : " Không !
Không ! Đừng khiêng tôi đi ! Cái sản-
nghiệp này tôi đã tạo ra, quần áo tôi mặc,
con cái tôi đã sinh đẻ ra, tất cả đều là của
tôi, tôi phải ở lại với chúng ! "
Người Hồi-giáo vấn-nạn bấy giờ mới thú-
nhận rằng y đã lầm là tự đồng-nhất với thân-
thể, nên nói : " Tôi là sức sống của thân-thể này
chứ không phải thân-thể này là chính tôi ."
Ngài Bhagavan giải-thích cho người Hồi-
giáo :
ADPH RAMANA MAHARSHI
310
_ Cho tới nay anh vẫn thành-thực tin
anh là thân-thể của anh và có một hình-
tướng. Sự vô-minh nguyên-thủy ấy là
nguồn-gốc cho tất cả những khó-khăn về
sau. Cho tới bao giờ anh tự giải-thoát
khỏi cái vô-minh ấy, và cho đến chừng
nào anh nhận-thức được bản-tính không
hình-tướng của anh, thì tất cả những sự
bàn-luận về Thượng-Đế có hình-tướng
hay không là việc hợm-hĩnh hão-huyền,
và tìm hiểu xem Thượng-Đế có hình-
tướng hay không, hoặc phải chăng nên
thờ Ngài ở ngẫu-tượng là phải khi mà sự
thực Thượng-Đế không có hình-tướng.
Người ta không có thể thành-thực thờ-
phụng Thượng-Đế vốn không có hình-
tướng trước khi tri-giác được cái Tự-Tính
vô-hình .
Có khi những lời giải-đáp của Ngài
Bhagavan rất chính-xác và văn-vẻ, có khi lại
rất tỷ-mỷ và chu-đáo, nhưng lời giải-đáp ấy rất
thích-hợp với tính-tình của người chất-vấn và
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
311
thích-đáng lạ-lùng. Một thày pháp lõa-thể đến
ở Tùng-lâm một tuần-lễ, thày luôn luôn ngồi
giơ tay lên, không vào trong phòng và nhờ
người chuyển-giao lên Ngài Bhagavan những
câu hỏi như sau :
_ Kiếp sau tôi sẽ thế nào ?
Ngài Bhagavan trả lời :
_ Hãy nói với anh ta rằng : " Tương-
lai của anh ta tùy theo hiện-tại của anh."
Nói thế không phải chỉ để làm nản lòng
pháp-sư về sự chú-ý đến đời vị-lai của y,
mà là để nhắc lại y rằng hành-động hiện-
tại của y có thành-thực hay không, để sẽ
tạo cho y cái kết-quả về vị-lai .
Có một người khách khác phô-trương
kiến-thức của mình. Y nói đến những con
đường khác nhau của nhiều sư-phụ đã vạch ra
và trích-dẫn các nhà triết-gia Tây-phương. rồi y
kết-luận :
ADPH RAMANA MAHARSHI
312
_ Người thì chủ-trương thế này,
người chủ-trương thế kia. Vậy thì ai có
lý ? Tôi phải theo con đường nào ?
Ngài Bhagavan ngồi yên-lặng, nhưng
người khách nhắc đi nhắc lại mãi câu hỏi
" Làm ơn nói cho tôi biết tôi phải đi theo con
đường nào ? " Ngài Bhagavan đứng dậy đi ra
khỏi phòng nói :
_ Anh hãy đi trở lại con đường đã
dẫn anh tới đây .
Người khách phàn-nàn với đệ-tử của Ngài
Bhagavan về sự vô-ích của câu giải-đáp.
Nhưng những đệ-tử đã bảo cho y nhận-thức ra
ý-nghĩa sâu xa của câu giải-đáp ấy : " Con
đường duy-nhất là con đường dẫn trở về Nguồn
bản-tính của mình. Phải trở về chỗ nào mà do
đấy chúng ta đã xuất ra. Chính đấy là câu trả
lời chính-đáng đối với người khách này vậy .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
313
Sundarash Aiyar, một đệ-tử đã nói ở trên,
được tin phải đổi đi chỗ khác nên đã phàn-nàn :
" Tôi từng ở gần Ngài bốn mươi năm rồi mà
bây giờ người ta chuyển tôi đi chỗ khác. Xa
Ngài tôi biết sống thế nào ? "
Ngài Bhagavan hỏi :
_ Anh ở với Ngài Bhagavan bao lâu
rồi ?
_ Bốn mươi năm !
Bấy giờ Ngài Bhagavan quay lại nói với
đệ-tử của Ngài :
_ Này đây, một người đã theo học
giáo-lý của tôi suốt bốn mươi năm trời
mà bây giờ y lại bảo rằng y đi chỗ khác
xa Ngài Bhagavan ! "
Ở đây Ngài muốn ngụ-ý nói về ý-nghĩa
hiện-diện vô-sở bất-tại phổ-biến đại-đồng của
ADPH RAMANA MAHARSHI
314
Ngài. ( Bhagavan có nghĩa là Tối-Cao,
Thượng-Đế )
Năm ấy qua năm khác, căn phòng đó đã
trở nên trung-tâm-điểm của các đệ-tử và là nơi
ấm-cúng cho tất cả mọi người trên thế-giới
không đến đấy trực-tiếp được. Nếu người ta
quan-sát một cách hời-hợt, có thể ngờ rằng
không có gì xẩy ra, nhưng sự-thực, sự sinh-
hoạt ở Tùng-lâm rất đỗi kinh-ngạc .
Quy-tắc chặt-chẽ ở Tùng-lâm có thể thay-
đổi đôi chút với thời-gian. Quy-tắc ấy được
tăng lên cùng với sự hạn-chế tùy theo sự suy-
giảm về sức khoẻ của Ngài Bhagavan. Cho đến
khi tuổi-tác của Ngài làm Ngài suy-yếu rõ-rệt
thì không có giờ giấc nhất-định để người ta đến
thăm Ngài. Ngài tiếp đón tất cả mọi người, mọi
người đều có thể đến gần Ngài được, bất cứ lúc
nào, ngày cũng như đêm. Tình-trạng ấy đến nỗi
người ta phải đóng cửa phòng của Ngài trong
khi ngài ngủ để cấm mọi người đến xin cứu-độ.
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
315
Nhiều khi Ngài tiếp chuyện một nhóm tín-đồ
cho đến tận khuya .
Người trong bọn tín-đồ ấy như là Sunda-
resh Aiyar được giao-phó việc săn-sóc mọi
chuyện trong nhà, phải làm việc từ sớm sau
một đêm hầu chuyện với Ngài Bhagavan, vậy
mà y tuyên-bố không mệt-nhọc gì cả mặc dầu
không ngủ .
Trong đời sống hàng ngày ở tùng-lâm,
người ta tôn-trọng trật-tự nghiêm-khắc, bởi vì
đó là một sự chịu nhận những điều-kiện sống
mà Ngài Bhagavan đã làm gương, và khuyên-
nhủ các đệ-tử. Bởi vậy cho nên tất cả đều gọn-
gàng, sạch-sẽ và tề-chỉnh .
Có một thời-kỳ Ngài Bhagavan thường
thức dậy vào khoảng ba bốn giờ sáng, và để
một hai giờ nhặt rau hay làm những điã bằng
lá, ( từ khi người ta trồng chuối ở Tùng-lâm, thì
bấy giờ những lá chuối mới thay-thế cho những
điã bằng lá ). Khi Ngài làm những công việc ấy
ADPH RAMANA MAHARSHI
316
thì đệ-tử của Ngài luôn luôn bao vây chung-
quanh Ngài, để giúp Ngài và để có được cái
hạnh-phúc ở gần Ngài. Có khi Ngài muốn giúp
việc bếp núc, nấu nướng, Ngài khuyên nhà bếp
không nên vứt bỏ những vỏ rau, vỏ hành đi mà
phải để dành nuôi gia-súc. Một hôm, mặc dầu
có lời căn dặn của Ngài, Ngài vẫn thấy nhà bếp
vứt bỏ vỏ khoai, vỏ hành đi. Kể từ bữa ấy trở đi
Ngài không làm việc ở nhà bếp nữa .
Từ năm 1926, Ngài Bhagavan không đi
hành-hương chung-quanh núi ( Giri - Pradak-
shina ) nữa. Tín-đồ trở nên đông-đúc đến nỗi
không thể điều-khiển được, nhất là không ai
muốn ở lại trong phòng, họ đều muốn đi theo
Ngài khi Ngài đi ra ngoài .
Sau hết có những khách hành-hương đến
trong khi Ngài vắng mặt, họ đành phải thất-
vọng trở về vì không được gặp Ngài. Có nhiều
lần Ngài dạy rằng sứ-mệnh của Ngài ở đời này
là đem lại cho người ta Ân-điển. Vậy thì Ngài
phải làm sao cho mọi người đều được Ngài
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
317
tiếp, Ngài nói rằng đó là một lý-do để Ngài ở
lại chân núi hơn là trở lại Tùng-lâm Shandak-
shram, khó cho người ta tới. Không những
Ngài Bhagavan bỏ đi bộ hành chung-quanh núi
Arunachala, mà Ngài còn không vắng mặt ở
Tùng-lâm bất cứ lý do nào, ngoại trừ hai buổi
Ngài đi hóng mát buổi sớm và buổi tối. Sự bỏ
công việc bếp núc có lẽ là vì để tiếp nhận mọi
người được gần Ngài, bởi vì chỉ có những
người Bà-la-môn mới có thể chia sẻ việc bếp
núc với Ngài thôi .
Khi người ta thúc giục Ngài đi hành-
hương các Thánh-địa khắp đất Ấn, thì một
trong các lý-do để Ngài từ chối việc ấy là sợ
rằng các tín-đồ không được gặp Ngài ở Tùng-
lâm. Trong thời-kỳ lâm bệnh cuối cùng, Ngài
khẩn-khoản để cho khách hành-hương đến để
có được Ân-điển của Ngài ban .
Người ta có thể viết nhiều bộ sách về
những kinh-nghiệm của các tín-đồ trong nhiều
năm. Nhưng không phải mục-đích của quyển
ADPH RAMANA MAHARSHI
318
sách này để kể lại những kinh-nghiệm ấy, cũng
như những lời dạy mà các tín-đồ đã được thụ-
hưởng. Mục-đích quyển sách này không nhằm
diễn-tả hết những sự-kiện, những kinh-nghiệm,
mà chỉ là tìm cách trình-bày một bức họa đại-
khái về đời sống và giáo-lý của Ngài
Bhagavan .
*******************
*
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
319
- XIII -
ĐỜI SỐNG
VỚI NGÀI BHAGAVAN
Có lẽ khó mà diễn-tả hình-ảnh một vị
Thần-linh trong thực-dụng hàng ngày hơn là
hình-dung Ngài trong phép lạ hay là trong
thần-hóa. Một sự mô-tả buồn-tẻ hàng ngay
trong những năm cuối cùng của Ngài Bhagavan
có lẽ giúp cho chúng ta đạt được ý muốn.
Những việc xẩy ra được diễn-tả không phải
đáng chú-ý hơn là những việc khác đã xẩy ra
trước, cũng như những tín-đồ sẽ nói đến sau,
không phải đặc-sắc hơn là những tín-đồ không
được nói tới .
Chúng ta đang ở vào năm 1947. Đã năm
mươi năm trôi qua ở tỉnh Tiruvannamalai. Tuổi
ADPH RAMANA MAHARSHI
320
tác suy-giảm và sức suy-yếu đã bắt buộc Ngài
Bhagavan phải hạn-chế sự hoạt-động của mình,
và Ngài không thể tiếp riêng một ai và tiếp
khách suốt ngày. Ngài thường quen nằm trên
ghế dài về ban đêm, và cũng tại đấy, ban ngày
Ngài ban Ân-điển ở sự hiện-diện của mình.
Nhưng bây giờ thì người ta đóng cửa phòng lại.
Vào khoảng năm giờ sáng, cửa phòng mở rộng,
những tín-đồ đi vào bái lạy Sư-phụ rồi ngồi
xuống trên nền đá đen nhẵn bóng. Một vài
người ngồi trên chiếu mang theo. Tại sao Ngài
Bhagavan là người hết sức khiêm-nhường,
thường tỏ ra rất bình-đẳng đối với những người
hèn kém nhất, mà lại để cho người ta bái lạy
như thế trước mặt mình ? Tuy rằng trên bình-
diện nhân-bản Ngài từ-chối tất cả những sự
biệt-đãi, Ngài có thừa-nhận rằng sự thờ-phụng
Sư-phụ được biểu-lộ ra qua hình-thức bề ngoài
có thể rất lợi cho tín-đồ về phương-diện tinh-
thần. Không phải thái-độ tôn-kính bề ngoài là
đủ. Ngài Bhagavan một hôm có nói : " Những
người bái lạy trước mặt tôi, nhưng tôi biết
người nào thành-tín tâm phục ."
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
321
Một nhóm nhỏ Bà-la-môn ở tại Tùng-lâm
ngồi phiá trên ghế dài hát tụng Kinh Vedas.
Một hai người đi bộ hai cây số từ tỉnh lên tới
Tùng-lâm. Dưới chân Ngài người ta đốt nhang
khiến cho không-khí trong phòng ngào-ngạt
hương thơm. Trong những tháng mùa đông,
người ta đặt một hỏa lò với than củi bên cạnh
giường, nhắc nhở lại một cách cảm-động sinh-
lực sắp tàn của Ngài Bhagavan. Có khi Ngài
giơ hai tay gầy-gò rất đẹp, ngón tay búp măng,
vào lò than hồng để đón lấy một chút hơi nóng
rồi xoa khắp chân tay. Tất cả mọi người ở trong
phòng đều ngồi yên-lặng mặc-niệm, thường
nhắm mắt lại .
Một vài phút trước sáu giờ, tiếng hát
ngừng lại. Tất cả mọi người đứng lên vì Ngài
Bhagavan đã cố-gắng ngồi dậy ở trên giường.
Ngài cầm lấy cây gậy của người hầu đưa cho
và thủng-thỉnh bước ra ngoài cửa. Chẳng hiểu
vì suy-nhược hay sợ ngã, Ngài phải nhìn
xuống. Người ta đoán Ngài làm như thế là do
tính khiêm-nhường tự-nhiên. Ngài rời phòng
ADPH RAMANA MAHARSHI
322
qua cửa phiá Bắc, trông về núi và thủng-thỉnh
chống gậy đi, thân hơi nghiêng dọc qua hành-
lang có bức tường vôi trắng và bàn giấy, rồi
Ngài lại ven theo phòng cư-trú của khách để tới
buồng tắm ở bên cạnh chuồng bò, phiá Đông
các gian nhà của Tùng-lâm. Hai người hầu theo
Ngài đều là những người da đen, béo lùn, đóng
khố trắng bỏ thõng xuống tới mắt-cá chân.
Ngài Bhagavan thân hình thanh-cao, mảnh-dẻ,
nước da đỏ hồng và quấn quanh mình một
mảnh vải trắng ; đó là tất cả quần áo của Ngài.
Ngài chỉ mở mắt khi nào có một tín-đồ tới gần
hay Ngài chỉ mỉm cười với một đứa bé .
Người ta không thể mô-tả cái hào-quang
tỏa ra từ miệng cười của Ngài Bhagavan. Một
doanh-nhân có vẻ lão-luyện, khi rời thành
Tiruvannamalai trong lòng hớn-hở chỉ vì hiệu-
năng của miệng cười ấy. Một phụ-nữ thượng-
lưu nói rằng : " Tôi chẳng hiểu gì về triết-học
cả, tôi chỉ biết mỗi khi Ngài mỉm cười với tôi,
tôi cảm thấy được an-ổn như đứa trẻ nằm trong
tay người mẹ ". Tôi chưa từng bao giờ được
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
323
thấy Ngài, khi tôi nhận được lá thư của đứa con
gái tôi mới có năm tuổi : " Cha sẽ mến Ngài
Bhagavan, khi Ngài mỉm cười, tất cả mọi
người đều sung-sướng ."
Bữa điểm-tâm buổi sáng vào lúc bẩy giờ.
Sau đó Ngài Bhagavan đi dạo một vòng rồi đi
vào phòng họp. Trong khoảng thời-gian vắng
mặt Ngài, người ta lau quét sạch-sẽ sàn nhà và
trải một chiếc khăn giường mới sạch-sẽ. Khăn
giường được thêu diêm-dúa do tín-đò cúng
dường. Tất cả đều sạch-sẽ không thể chê được,
và gấp nếp cẩn-thận vì người hầu biết rõ rằng
Ngài Bhagavan có tinh-thần quan-sát tỉ-mỉ và
Ngài dễ nhận ra những chi-tiết dù Ngài có để ý
hay không .
Vào khoảng 8 giờ, Ngài Bhagavan trở về
phòng và những người đệ-tử đầu tiên bắt đầu
tới. Khoảng 9 giờ trong phòng đông đủ chật
ních. Nếu anh là khách mới đến, anh sẽ thấy
ngạc-nhiên về không-khí thân-mật của căn
phòng, anh sẽ cảm thấy rất gần-gũi với Sư-phụ,
ADPH RAMANA MAHARSHI
324
bởi vì phòng chỉ rộng năm mươi tư mét vuông
( 12 nhân cho 4 rưỡi ). Phòng xây theo hướng
Đông-Tây, mỗi mặt đều có cửa thông suốt ra
ngoài. Cửa phiá Bắc đối-diện với núi, trông ra
một bãi cây rậm mát. Phòng ăn chạy theo
hướng Đông và ở phiá Tây có vườn ăn trái, có
nhà-thương. Cửa hướng Nam trông lên điện
thờ và đàng xa có con đường mà tín-đồ phải đi
qua để tới Tùng-lâm .
Chiếc giường của Ngài Bhagavan đặt
theo chiều Đông-Bắc của gian phòng. Bên cạnh
có tủ sách lăn được, trong đó chứa những sách
cần-thiết. Trên tủ sách có chiếc đồng hồ quả lắc
và một chiếc khác treo trên tường bên cạnh
giường. Cả hai chỉ giờ đúng từng phút .
Nếu có ai cần một quyển sách để đối
chiếu thì Ngài Bhagavan thường biết rõ quyển
sách đó ở ngăn nào. Có lẽ Ngài nhớ cả trang
trong đoạn văn để đối-chiếu. Dọc theo tường
phiá Nam người ta thấy có nhiều tủ sách lớn có
cửa kính .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
325
Phần lớn những đệ-tử ngồi ở phiá dưới
phòng, trông hướng về phiá Đông, đối-diện với
Ngài Bhagavan, phụ-nữ ngồi trước mặt Ngài ở
nửa phòng phiá Bắc, còn đệ-tử nam ngồi phiá
bên tay trái của Ngài. Chỉ có một số ít đàn ông
được ngồi rất gần với Ngài, dọc theo chiếc
giường nằm, lưng tựa vào tường phiá Nam.
Cách đấy một vài năm, chỗ này là của phụ-nữ
được ưu-đãi, rồi không biết vì lý do gì mà vị-trí
đổi thay. Tập-tục của người Ấn-Độ đòi phụ-nữ
và thanh-niên không được ngồi gần nhau, Ngài
Bhagavan biểu-đồng-tình với tập-tục ấy vì e
rằng nhân-điện hỗ-tương của hai phái có thể
làm rối-loạn điện-lực mạnh-mẽ của tinh-thần.
Người ta lại còn thắp nhang nữa, một vài người
ngồi chìm trong thiền-định nhắm mắt lại, một
số khác ngồi thư-thả mắt chuyên-chú nhìn ngài
Bhagavan. Một người khách khác đi ra ngoài,
khi trở lại với nhiều trái cây để dâng cúng-
dường dưới chân ngài, rồi tìm đến ngồi ở một
chỗ được biệt-đãi. Một người hầu đứng lên
phân-phát những trái cây ấy như là một ân-điển
của Ngài Bhagavan. Phải có một cái gì để cho
ADPH RAMANA MAHARSHI
326
những đứa trẻ, khi chúng bước vào phòng ; cho
những con khỉ đứng ở cửa sổ gần giường hoặc
đứng lấp-ló ở cửa ra vào, cho những con công
hay con bò cái lakshmi khi nào nó đến thăm.
Những trái còn lại người ta đem vào phòng ăn
để phân-phát cho những đệ-tử khác sau .
Ngài Bhagavan không nhận gì cho mình
cả, đôi mắt hiền-từ khôn tả hiện ra ở Ngài,
không phải chỉ vì cảm tình đối với sự khó-nhọc
của đệ-tử mà còn đối với cả gánh nặng nghiệp-
chướng luân-hồi, tức là của đời sống nhân-loại.
Mặc dầu vẻ hiền-từ hiện ra ở đôi mắt, nhưng
nét mặt nghiêm-nghị của một người quen
chinh-phục tâm-hồn và chưa từng bao giờ
nhượng-bộ. Nét mặt dắn-dỏi ấy thường được
bộ râu, tóc bạc che phủ, vì Ngài là một đạo-sĩ
độc-lập cho nên thường phải cạo râu, tóc vào
những ngày trăng tròn hàng tháng. Một số đệ-
tử rất tiếc việc làm ấy, vì theo họ râu, tóc bạc
phơ sẽ làm nổi bật vẻ nhân-từ của Sư-phụ,
nhưng không ai dám nói lên .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
327
Diện-mạo của Ngài Bhagavan chẳng khác
gì mặt nước luôn luôn thay-đổi, nhưng tâm của
Ngài thì luôn luôn tự-tại. Người ta rất lấy làm
kinh-ngạc về sự thay-đổi mau lẹ ấy, từ thái-độ
hiền-từ sang thái-độ oai-nghiêm như một tượng
đá, từ thái-độ vui cười sang thái-độ từ-bi, mỗi
một vẻ của Ngài tự nó viên-mãn. Người ta cảm
thấy không phải người ta đứng trước diện-mạo
của một người, mà là đứng trước cả một nhân-
loại. Có lẽ về phưong-diện thẩm-mỹ thì Ngài
Bhagavan không thuộc loại đẹp, vì nét mặt của
Ngài không đều. Vậy mà nếu có một bộ mặt
đẹp nhất đứng bên cạnh Ngài thì cũng hóa ra
xấu-xí. Nét mặt đó tỏ ra ánh hào-quang chân-
thật, đến nỗi in sâu vào ý-thức người ta và tồn-
tại sau khi tất cả những bộ mặt khác bị lu-mờ,
bị dập tắt .
Chính những người nào đã nhìn thấy
Ngài, chỉ một lúc ngắn-ngủi hay là chỉ nhìn
thấy Ngài qua hình-ảnh thì thấy lại Ngài rõ-
ràng bằng cái nhìn tinh-thần hơn là đối với
những người khác mà họ rất quen biết. Có lẽ
ADPH RAMANA MAHARSHI
328
lòng hiền-từ đức-độ, trí thông-hiểu, vẻ hồn-
nhiên ngây-thơ biểu lộ ra qua hình-ảnh ấy, là
khởi-điểm để thiền-định tốt hơn là những lời
nói .
Chung-quanh giường nằm của Ngài, cách
đấy sáu tấc có tấm bình-phong lưu-động cao
chừng mười tám phân. Chiếc bình-phong đó đã
là cái cớ cho sự bàn-cãi trong hàng đệ-tử.
Những người quản-lý Tùng-lâm đã nhận ra
rằng Ngài Bhagavan thường tránh sự đụng
chạm và Ngài thường lùi lại nếu có ai cố-ý tới
gần. Nhớ lại một đệ-tử dốt nát đã đập nát một
quả dừa, và tưới nước dừa lên đầu Ngài, tưởng
là để tôn-vinh Ngài, cho nên ban quản-trị nghĩ
rằng phải nên có một sự ngăn cách Sư-phụ ;
mặt khác nhiều tín-đồ lại quan-niệm như thế là
họ đã dựng lên một bức tường để ngăn cách
giữa họ với Ngài Bhagavan. Ban quản-trị phải
thảo-luận trước mặt Ngài về vấn-đề ấy, để xem
Ngài có chấp-nhận để cho họ dựng lên một bức
bình-phong hay không, nhưng không ai dám
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
329
hỏi về sự quyết-định của Ngài và Ngài vẫn giữ
thái-độ thản-nhiên .
Có nhiều đệ-tử không rời chỗ ngồi, nói
lên với Ngài về chính họ và bạn-hữu của họ,
hoặc báo tin cho Ngài biết về việc vắng mặt
của các đệ-tử khác, hoặc để hỏi Ngài về giáo-
lý. Người ta cảm thấy trong phòng có một
không-khí đại-gia-đình. Có khi một người nào
đứng lên trình-bày về một vấn-đề cá-nhân thì y
có thể đi đến gần Ngài nói thầm với Ngài hay
là đưa tay Ngài một tờ giấy mà trong đó có ghi
những điều mà y muốn Ngài biết và để hỏi
Ngài .
Một bà mẹ bế một đứa con đến và Ngài
có một nụ cười với đứa trẻ còn hiền-từ hơn là
của người mẹ. Một đứa con gái nhỏ tới với một
con búp-bê quỳ lạy trước giường Ngài Bhaga-
van, rồi dâng lên cho Ngài. Ngài cầm lấy và
nhìn con búp-bê. Một con khỉ con hiện ra ở cửa
ra vào và tìm cách ăn-cắp một quả chuối. Nó bị
một người hầu đuổi, nhưng chẳng may lúc đó
ADPH RAMANA MAHARSHI
330
chỉ có một ngưòi hầu ở trong phòng, con khỉ
chạy vòng-quanh và cuối cùng nó nhảy vào
phòng bằng một cửa sổ khác đối-diện với Ngài
Bhagavan. Ngài bèn nói thầm với con khỉ :
" Mau lên ! Mau lên, con ! Nó trở lại đấy ! "
Một tu-sĩ có vẻ man-rợ, tóc rối bời, mặc một
tấm cà-sa vàng tiến lên, hai tay giơ trước
giường của Ngài. Một công-dân giầu-có ăn
mặc Âu-phục đàng-hoàng, quỳ lạy dưới chân
ngài, rồi tìm một chỗ ngồi ở phiá trước ; một
người bạn đồng-hành của y không tín-ngưỡng
nên y không quỳ bái gì cả .
Một nhóm người thông-thái ( Pandita )
ngồi gần giường Ngài Bhagavan đang dịch một
bộ Kinh tiếng Phạn. Thỉnh-thoảng họ trình lên
Ngài một vài điểm nghi-ngờ để hỏi Ngài, và
xin Ngài làm sáng-tỏ. Một đứa bé bạo-dạn đem
quyển sách tranh ảnh đến cho Ngài. Ngài nhận
lấy với tất cả lòng nhân-từ như đối với tất cả
mọi người khác, và Ngài chú-ý xem quyển
sách. Nhưng quyển sách bị rách nát, Ngài đưa
cho một đệ-tử để đóng lại. Ngày hôm sau, Ngài
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
331
đưa trả đứa bé quyển sách đó khi đã tu-bổ
xong .
Người hầu rất chăm-chỉ siêng-năng công
việc của mình, bắt buộc anh phải làm như thế,
bởi vì Ngài Bhagavan biết xem-xét và cũng
biết làm việc, không dung-thứ một sự cẩu-thả
nào. Những người hầu-cận thấy mình được
hưởng ân-huệ của Ngài, cũng như các nhà
thông-thái kia và đứa trẻ .
Người ta dần dần nhận thấy bởi sự giải-
đáp mau lẹ chính-xác của Ngài, khiến cho các
đệ-tử biến-hóa tâm-hồn và tính-cách là chừng
nào và để họ cảm thấy một tình thân-mật giữa
thày trò .
Người ta cũng nhận thấy dần dần sự
khéo-léo tế-nhị trong cách giáo-hóa của ngài,
hay ít ra về tính-cách nhân-bản trong sự hướng-
dẫn của ngài, một sự hướng-dẫn vô-hình. Tất
cả đối với Sư-phụ như là một cuốn sách mở
sẵn. Sư-phụ nhìn thấu suốt vào từng người đệ-
ADPH RAMANA MAHARSHI
332
tử để xem xét sự tiến-bộ trong tinh-thần thiền-
định của chúng thế nào. Có khi mắt Ngài nhìn
vào một trong hàng đệ-tử và truyền thẳng Ân-
điển của mình cho y. Vậy mà tất cả những
công-việc này được thi-hành một cách không
có vẻ lộ-liễu. Có khi Ngài chỉ liếc mắt qua một
bên để cho người ta khỏi lưu-ý. Có khi con mắt
nhìn ấy chuyên-chú như là đọc vào một tờ báo,
hay là người được nhìn ngồi nhắm mắt lại mà
không ý-thức được dụng ý của Sư-phụ. Sự dè-
dặt ấy có mục-đích là để tránh sự ghen-tỵ của
một số đệ-tử khác, hoặc sự khoa-trương ở một
người đệ-tử nào được ân-huệ của Ngài ban cho.
Ngài đặc-biệt chú-ý tới những đệ-tử nào
mới tới, với một nụ cười, Ngài tiếp-đón người
này mỗi khi đi vào trong phòng, Ngài săn-sóc
trong khi y ngồi thiền-định và khuyến-khích y
bằng những lời thân-mật. Việc ấy có thể tiếp-
tục như thế hàng tuần hay hàng tháng, cho đến
khi nào tinh-thần của y hoàn-toàn nội-hướng
vào thiền-định hay khi nào có một liên-hệ của
tình-yêu giữa y với Sư-phụ .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
333
Đó là bản-tính của nhân-loại mà cái bản-
ngã của đệ-tử có thể được tăng-cường bởi sự
chuyên-chú của Ngài Bhagavan và để gán cho
sự chuyên-chú ấy một giá-trị cao, chỉ có Sư-
phụ và chính y thấy được thôi. Lúc bấy giờ thì
Ngài lãng-quên người đệ-tử trong ít lâu cho
đến khi nào sự thông-cảm sâu-xa tạo ra một sự
giải-đáp thâm-thúy hơn. Nhưng đáng buồn là
điều ấy không thường xẩy ra, vì có khi sự tự-ái
hão-huyền của đệ-tử đối với Sư-phụ còn tồn-
tại .
Khoảng 8 giờ rưỡi mỗi ngày, người ta
đem nhật-báo đến cho Ngài Bhagavan, Ngoài
ra còn có nhiều câu hỏi do người này hay
người kia đặt ra cho Ngài. Ngài liếc qua tin-
tức, có khi Ngài đưa ra ý-kiến rất có ý-nghĩa về
một vấn-đề, nhưng không bao giờ Ngài để cho
người ta kết-luận về ý-kiến là Ngài có khuynh-
hướng chính-trị. Một số báo-chí gửi thẳng đến
Tùng-lâm ; một số khác do một đệ-tử đã mua
dài hạn, đưa tới để Ngài đọc trước, chỉ vì nhiều
người có cái thích-thú được đọc một tờ báo đã
ADPH RAMANA MAHARSHI
334
qua tay Sư-phụ mình. Người ta nhận ra được tờ
báo của một đệ-tử mua dài hạn vì Ngài mở tờ
báo ấy rất cẩn-thận để rồi lại gấp lại như cũ,
sau khi đã đọc qua, khiến cho tờ báo khi đến
tay người đọc vẫn y-nguyên như mới .
Thông-thường vào khoảng từ mười giờ
kém mười tới mười giờ, Ngài Bhagavan có thói
quen đi dạo mát quanh núi, nhưng mấy năm
sau này, vì sức khoẻ suy kém, nên Ngài chỉ có
thể đi quanh Tùng-lâm mà thôi. Trong khi Ngài
vắng mặt, các đệ-tử đều đứng dậy, trừ khi có
người nào đang ngồi thiền-định. Các đệ-tử
khác xúm lại túm năm tụm ba, nam cũng như
nữ, thảo-luận với nhau và họ chỉ thôi khi nào
Ngài vào ngồi trong phòng ; một vài người đọc
báo, một vài người khác thì nhận thư do Raja
đem tới. Raja, một người đưa thư nhỏ bé,
thông-minh, sốt-sắng và biết tường-tận tất cả
mọi người .
Khi Ngài Bhagavan trở lại phòng, những
người đang ngồi thiền muốn đứng dậy, thì Ngài
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
335
bảo họ cứ ngồi yên như trước, Ngài nói : " Nếu
các con đứng dậy khi thày đến, thì các con bắt
buộc phải đứng dậy mỗi khi có người khách
nào tới ". Một hôm vào mùa nóng, người ta kê
tại cửa sổ gần Ngài một cái quạt. Ngài sai
người hầu tắt quạt đi, nếu người hầu không tắt
thì chính Ngài đứng dậy đi tắt quạt. Những đệ-
tử chịu nóng-nực cũng như Ngài thì tại sao
Ngài lại phải có quạt. Sau này người ta gắn
nhiều quạt trần thì mọi người đều được mát
như nhau .
Thư-từ đã đem lại cho Ngài, trong đó có
một bao thư chỉ ghi vắn-tắt " Maharshi ở Ấn-
Độ ". Một đệ-tử người Mỹ đã gởi cho Tùng-
lâm hạt hoa giống để trồng. Trên khắp thế-giới
các đệ-tử đều gởi thơ đến cho Ngài. Ngài đọc
hết các thư một cách rất tỷ-mỷ và soi-xét cả
đến địa-chỉ và con niêm. Nếu Ngài nhận được
tin-tức của một đệ-tử mà khi đó có bạn của
Ngài ở trong phòng thì Ngài cũng báo tin cho
người bạn đó biết .
ADPH RAMANA MAHARSHI
336
Ngài Bhagavan chính mình không tự tay
trả lời những thư-từ đó. Thực ra thì các bậc
giác-ngộ không làm gì có thân-quyến và cả đến
tên ký cũng không. Người ta viết những thư
trả-lời ở bàn giấy của Tùng-lâm. Người ta trình
lên cho Ngài vào buổi sế chiều để Ngài chỉ bảo
cho biết những điều không chính-đáng hoặc
phải bổ-túc những chi-tiết đặc-thù. Nói chung
những chỉ-thị của Ngài đơn-giản đến nỗi một
đệ-tử có thể học thuộc lòng khi cần nói lại
không khó-khăn gì mấy, đó là Ân-điển ẩn bên
trong những lời nói của Ngài ở trong thư, mà
chỉ có Ngài ban cho được thôi. Sau khi những
thư-từ đã thu-xếp, mọi người đều giữ yên-lặng
chứa đựng một không-khí an-lành. Có một
người đến từ-biệt Sư-phụ hoặc một phụ-nữ ra
đi, nước mắt tràn lệ thì đôi mắt của Ngài truyền
cho sức mạnh của tình-thương. Làm sao có thể
mô-tả được những con mắt ấy ? Chỉ nhìn kỹ
vào con mắt ấy người ta đã cảm thấy được tất
cả nỗi đau khổ của thế-gian, tất cả những phấn-
đấu đã trải qua, tất cả những phiền-muộn của
tinh-thần, đều biến đi như là những khí độc,
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
337
những hơi tanh-tưởi trước thực-tại thanh-tịnh
của sự an-hòa. Không cần đến lời nói, Ân-điển
của Ngài cũng đã làm biến đổi tâm-hồn chúng
ta, khiến cho Sư-phụ ngoại-tại khích-động ở
chúng ta ý-thức về Sư-phụ nội-tại .
Khoảng mười một giờ, đánh kẻng. Tất cả
mọi người đứng lên và chờ cho đến khi Ngài
Bhagavan rời phòng. Nếu ngày thường thi đệ-
tử giải-tán người nào về nhà người ấy, nhưng
nếu là ngày lễ hay ngày cúng-dường của một
đệ-tử nào dâng lên để tỏ lòng biết ơn, hoặc là
hiến dâng, thì tất cả mọi người đều được mời
tham-dự vào bữa trai. Phòng ăn lớn trống-rỗng
không có bàn ghế, những lá chuối được bày
thành hai hàng dưới đất dùng làm chỗ ăn, còn
các đệ-tử ngồi xếp bằng tròn trên nền gạch đỏ .
Theo chiều rộng của phòng ăn, phòng
được chia làm hai phần ba. Một bên đệ-tử Bà-
la-môn ngồi theo nghi-lễ chính-thống. Bên kia
là đệ-tử không phải Bà-la-môn hay Ấn-Độ-
giáo, đều muốn ngồi ăn với các đệ-tử khác. Sự
ADPH RAMANA MAHARSHI
338
bố-thí đã được tôn-trọng đối với tín-đồ Bà-la-
môn chính-thống, nhưng Ngài Bhagavan không
nói gì hết, sợ ảnh-hưởng đến những người Bà-
la-môn theo tinh-thần tôn-trọng truyền-thống,
hay ít ra thì Ngài cũng dè-dặt không nói ra với
tất cả mọi người. Ngài ngồi giáp vào tường ở
phiá Đông đối diện với hai hàng tín-đồ nói
trên. Những người hầu và phụ-nữ đi quanh
phòng để dâng cơm, rau và các thứ gia-vị vào
các điã lá. Mọi người chờ Ngài Bhagavan bắt
đầu ăn và Ngài cũng chờ để mọi người được
đầy đủ thức ăn. Ăn là một công việc cốt-yếu
tiên-quyết nên người ta không nói chuyện trong
bữa ăn như ở Tây-phương. Một bà người Mỹ
thấy khó thích-ứng với phong-tục Ấn-Độ, nên
đem theo một cái muỗng. Một trong những
người hầu đặt vài món lên trên đĩa lá và giải-
thích cho bà là những món ăn ấy được nấu đặc-
biệt dành riêng cho bà, không có gia-vị cay
nóng bỏng thường dùng trong các món ăn Ấn-
Độ, và chính Ngài Bhagavan đã ra lệnh như
vậy. Còn tất cả tín-đồ đều ăn bằng tay. Những
người hầu đi lại theo hàng của người ngồi ăn
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
339
để tiếp món ăn cho thực-khách như : nước, sữa,
trái cây và bánh ngọt. Ngài Bhagavan gọi một
người hầu lại, có vẻ bất-bình. Khi nào công
việc thực-tế của sự sống không được chu-đáo
thì Ngài thường tỏ ra có vẻ bất-bình, vì người
hầu đã đặt một góc trái cây lên lá của mọi
người mà đĩa của Ngài lại đặt lên nửa trái. Ngài
Bhagavan bèn đẩy cái đĩa ra ngoài và chọn lấy
cho mình một miếng nhỏ mà Ngài đã trông
thấy .
Đệ-tử tuần-tự ăn xong, mỗi người khi ăn
xong đứng dậy, đi ra, đều dừng lại rửa tay ở
một cái vòi nước đặt ở phiá bên ngoài trước khi
về phòng .
Ngài Bhagavan nằm nghỉ cho đến hai giờ
và phòng ăn đóng cửa không cho tín-đồ vào.
Người quản-lý Tùng-lâm đã quy-định việc nghỉ
trưa ấy cho Ngài vì sức khoẻ của Ngài suy
giảm, nhưng làm thế nào cho người ta có thể
tôn-trọng giấc ngủ trưa ấy ? Khi mà người ta
đòi Ngài chấp-nhận một sự biệt-đãi nào làm
ADPH RAMANA MAHARSHI
340
phiền cho tín-đồ thì chắc-chắn Ngài sẽ từ-chối.
Để tránh có sự phải hỏi Ngài về điều ấy, người
ta thường bỏ quy-định đó để chỉ yêu-cầu riêng
tất cả tín-đồ không được vào phòng trong khi
Ngài nghỉ trưa. Tất cả mọi việc đều êm suôi
trong mấy ngày đầu, rồi có một người lạ đến, vì
không biết kỷ-luật nên thường đi thẳng vào
phòng khi Ngài nghỉ trưa. Một người hầu ra
hiệu cho người ấy đi ra, nhưng Ngài đã gọi
người ấy lại để hỏi việc gì đã xẩy ra. Ngày hôm
sau, người ta thấy Ngài không nghỉ trưa mà
Ngài ngồi trên một cái bục ở ngoài phòng ; khi
người hầu hỏi Ngài sao Sư-phụ lại ngồi như thế
thì Ngài đáp : " Hình như không có ai được vào
phòng cho tới hai giờ " . Người ta thấy khó-
khăn mới thuyết-phục được Ngài chấp-nhận sự
thiết-yếu của giấc ngủ trưa .
Buổi trưa, người ta thường thấy những
người lạ mặt ở trong phòng Ngài ; một số tín-
đồ thường ngồi ở đấy suốt ngày ; ngay cả
những người ở gần Tùng-lâm, có gia-đình, hay
những người có phận-sự gì khác, phần nhiều họ
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
341
đều xếp đặt những giờ nhất-định để đến gần
Ngài .
Ngài Bhagavan không bao giờ đề-cập tới
học-thuyết, trừ-phi phải trả lời những câu
người ta hỏi hay những trường-hợp đặc-biệt.
Và khi Ngài trả lời những câu hỏi ấy, Ngài
thường dùng lời lẽ không trịnh-trọng nhưng rất
phổ-thông, theo luận-điệu nói chuyện và
thường pha ý-vị hài-hước, pha trò. Người hỏi
Ngài không phải thụ-nhận lời giải đáp của Ngài
như lời " Thánh phán ". Y tự-do bàn cãi cho
tới khi nào thực khuất-phục. Một nhà Thông-
Thiên-Học muốn xem Ngài có tin về sự Tìm
cầu Sư-phụ vô-định hay không ? Ngài đã hỏi
vặn lại nhà Thông-Thiên-Học với vẻ hài-hước
như sau : " Nếu các bậc Sư-phụ vô-hình thì làm
cách nào mà ông thấy được ? " Nhà Thông-
Thiên-Học trả lời : " Thấy ở trong tiềm-thức " .
Bấy giờ mới tới câu trả lời đích-thực là :
" Những bậc Sư-phụ vô-hình không có ở trong
bình-diện ý-thức, thì làm gì có bậc Sư-phụ vô-
hình " . Một người khác ở Tùng-lâm đã đặt câu
ADPH RAMANA MAHARSHI
342
hỏi : " Có phải giữa Ngài và chúng tôi có sự
sai-biệt ? Ngài thì cho thế-giới này là không có
thật, còn tôi thì thấy là có thật ?"
Ngài Bhagavan liền khôi-hài để tránh
cuộc cãi-vã, Ngài nói : " Khi chúng ta nói tất cả
chỉ là Một, thì chúng ta đã gán cho thế-giới một
Thực-tại đầy đủ, hơn nữa chúng ta cũng gán
cho Thượng-Đế một Thực-Tại đầy đủ. Nhưng
nếu anh nói có ba Thực-Tại, thì anh chỉ cho
thế-giới một phần ba, Thượng-Đế một phần
ba ! "
Tất cả đều cười ồ lên với Ngài Bhagavan.
Mặc dầu thế, nhưng một số đệ-tử vẫn còn thảo-
luận với người khách đến hỏi cho tới lúc Ngài
phải can-thiệp. Ngài nói : " Cãi vã như thế
không đi đến đâu cả ! "
Khi nào câu hỏi đặt ra bằng tiếng Anh, thì
Ngài trả lời qua người thông-ngôn. Tuy Ngài
không nói tiếng Anh, nhưng Ngài hiểu tiếng
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
343
Anh ; Ngài có thể chặn đứng ngay người
thông-ngôn lại nếu có điều gì y dịch sai .
Về học-thuyết của Ngài nhất-trí, nhưng
cách trả lời thì tùy theo từng người hỏi và thay-
đổi rất nhiều. Một nhà truyền-giáo Thiên-Chúa
hỏi ngài : " Thượng-Đế có nhân-cách không ?"
Câu giải-đáp của Ngài rất dễ hiểu cho người
hỏi, nhưng không phải là một sự nhượng-bộ
đối với Bất-Nhị. Ngài trả lời : " Có nhân-cách,
Ngài là chủ-từ thứ nhất. Cái " Tôi " luôn luôn
ở trước mặt ông ; nếu ông cho thế-giới này một
giá-trị tiên-quyết, thì Thượng-Đế ẩn ở bên
trong thế-giới ; nếu ông bỏ hết các công-việc
khác, chỉ để tìm có Ngài, thì Thượng-Đế chỉ
còn lại có chủ-từ ( I, The Self : Tôi, Tự-Tính )
mà thôi .
Người ta tự hỏi xem người truyền-giáo
kia có nhớ lại lời tiên-tri của Moises về danh-
hiệu Thượng-Đế ? Ngài Bhagavan thường nhấn
mạnh vào lời tối-hảo : " Tôi Tồn-Tại " ( I am )
thay danh-hiệu Thượng-Đế .
ADPH RAMANA MAHARSHI
344
Thường thì chỉ những người khách mới
đến, mới đặt những câu hỏi và được giải-thích ;
còn những đệ-tử thì ít khi đặt câu hỏi, và một
số khác hầu như chưa bao giờ đặt câu hỏi.
Những lời giải đáp không phải chính là giáo-lý,
mà chỉ là cái mốc chỉ đường đi đến Chân-lý .
Đến bốn giờ thiếu mười lăm, Ngài
Bhagavan đứng dậy, Ngài xoa bóp chỗ đầu gối
bị tê-liệt rồi cầm gậy đứng lên. Có khi Ngài
phải cố gượng tới ba, bốn lần mới đứng lên
được, nhưng Ngài vẫn sẵn-sàng từ-chối sự
giúp-đỡ của người khác. Khi Ngài vắng mặt
chừng hai mươi phút, người ta lau quét lại
phòng, xếp đặt lại chăn gối trên giường .
Khi Ngài Bhagavan đã về phòng, các tín-
đồ cất lên tiếng hát Kinh Vệ-đà, khoảng mười,
mười lăm phút tiếp theo là đọc bài thơ Giáo-lý
ba mươi câu của Ngài ( Upadesasaram : Giáo-
thị của Sư-phụ ). Về điểm này Ngài Bhagavan
không theo chính-thống, bởi vì, nói thực ra chỉ
những người dòng Bà-la-môn mới được phép
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
345
dự thính những bài ca tụng thơ Vệ-đà, vậy mà
ở đây tất cả mọi người đều được dự-thính.
Người ta hỏi Ngài sự lợi ích ở điểm ấy, Ngài
trả lời giản-dị : " Điệu hát làm lắng dịu tâm-
hồn " . Vả lại, như Ngài đã nói một cách công-
khai rằng Ngài không cần hiểu ý-nghĩa của
điệu hát ấy. Những lời nói này là những lời dạy
thực-tế của Ngài về " Thiền-định " mà Ngài
thường khuyên-nhủ. _ " Thiền-định không phải
là tư-duy, mà là một sự nỗ-lực hướng tinh-thần
vào nội-tâm, vươn lên những trạng-thái giác-
ngộ, vượt quá tư-duy ! "
Bài hát kéo dài chừng ba mươi lăm phút.
Trong khi hát, Ngài ngồi yên-lặng, diện-mạo
trang-nghiêm bất-động như tượng đá. Khi hát
xong không một ai rời đi trước sáu giờ rưỡi.
Đến bấy giờ thì phụ-nữ phải rời khỏi Tùng-
lâm. Một số đàn ông còn ở lại hơn một giờ nữa.
Có khi họ ngồi yên-lặng, có khi họ nói chuyện
với nhau, có khi họ còn hát những bài hát
Tamil, hoặc họ ăn cơm chiều rồi giải-tán .
ADPH RAMANA MAHARSHI
346
Cuộc họp buổi chiều rất quý báu, vì sự
trang-nghiêm của những giọng hát buổi sớm
hòa vào với sự thân-mật của buổi chiều tà.
Nhưng dĩ-nhiên, đối với những ai ý-thức được
rõ-rệt thì sự trang-nghiêm không phải thiếu, cả
khi Ngài Bhagavan cười đùa .
Một người hầu đến xoa chân nóng cho
Ngài, nhưng Ngài sua hắn đi. Người ấy rất lấy
làm bối-rối về sự từ-chối của Ngài, Ngài biến
nó thành sự pha-trò : " Anh đã tiếp nhận Ân-
điển bằng mắt nhìn, bằng lời nói ; mà lúc này
anh lại còn đòi được Ân-điển bằng xúc-giác ?
Hãy cho phép tôi có được chút Ân-điển bằng
sự xúc-giác chính mình ."
Người ta chỉ có thể ghi lại một cách lờ-
mờ những ấn-tượng khôi-hài của Ngài, nó
không có thể viết ra trên giấy vì nó là điệu-bộ
cử-chỉ hơn là diễn tả bằng lời nói của Ngài, dù
lời nói ấy có thâm-thúy mấy đi nữa. Khi nào
Ngài kể lại một câu chuyện thì Ngài thật là một
diễn-viên thành-thực, Ngài biểu-diễn cũng như
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
347
chính ngài đã sống vậy. Những người nào
quan-sát Ngài, dù không hiểu tiếng nói của
Ngài cũng bị hấp-dẫn .
Đời sống thực-tế cũng cống-hiến cho
Ngài một vai-trò để biểu-diễn, và trong cuộc
đời thực-tiễn, sự chuyển-biến giữa tính-cách
hài-hước và cảm-tình thắm-thiết cũng rất mau-
lẹ .
Lúc đầu người ta tưởng Ngài lãnh-đạm
với tất cả, nhưng thực ra Ngài có một tinh-thần
hài-hước rất sắc bén. Cũng có những sự hài-
hước trong cuộc đời của Ngài mà mấy năm sau
này Ngài mới nói tới. Như có một lần bà mẹ
với mấy người khác đến thăm Ngài ở
Pavazahakkunru ( nơi trụ-trì đầu tiên của
Ngài ). Họ khóa cửa phiá ngoài trước khi đi
chợ vì họ sợ Ngài trốn khỏi đấy. Nhưng Ngài
biết rằng người ta có thể nâng cánh cửa ra khỏi
bản-lề để mở ra mà cửa vẫn khóa ; vì Ngài
muốn tránh khỏi đám đông quấy-rầy, nên Ngài
đã lẳng-lặng bỏ ra đi. Khi bọn đi chợ về, cửa
ADPH RAMANA MAHARSHI
348
còn khóa mà căn phòng vắng lặng. Lát sau, lúc
vắng người, Ngài lại chui vào phòng như lúc
Ngài đã chui ra. Sau này, khi người ta kể lại
việc Ngài biến ra khỏi phòng, rồi lại tái hiện
qua một cửa phòng khóa, người ta cho là Ngài
có quyền-năng thần-thông ( Siddhi ). Sắc mặt
của Ngài thường thản-nhiên không chút biến-
đổi, mặc dầu tất cả phòng đều phá lên cười về
chuyện phiêu-lưu hài-hướng của Ngài .
Cũng nên nói một vài câu về những ngày
lễ của Tùng-lâm. Phần đông các tín-đồ không
thể ở lại Tiruvannamalai lâu được. Họ chỉ có
thể đến đấy nhân một dịp lễ nào thôi, cho nên
họ kéo đến đông-đúc vào ngày lễ công-cộng và
đặc-biệt là ngày kỵ của bà Mẹ hay ngày sinh-
nhật của Ngài. Ngày lễ sinh-nhật của Ngài là
quan-trọng nhất, và được nhiều người tham-dự.
Lúc đầu Ngài không nhận cho người ta làm lễ
sinh-nhật của mình, nên Ngài có làm những bài
thơ sau đây :
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
349
" Các người mong-mỏi làm kỷ-niệm
ngày sinh-nhật ấy, hãy tìm xem các người
sinh ra tự bao giờ. Ngày sinh-nhật chính-
thức của một người nào chính là ngày của
người đó đã gia-nhập vào cái gì vượt khỏi
sống chết -- Tự-Tính Vĩnh-Cửu .
" Ít ra vào ngày sinh-nhật người ta
phải khóc than vì đã nhập vào thế-gian
luân-hồi ( Samsara ). Tự quang-vinh và
ăn mừng sự gia-nhập ấy và làm lễ kỷ-
niệm đó là người ta thích-thú trang-điểm
cho một tử-thi. Tự tìm Bản-lai Diện-mục
của mình và gia-nhập vào Tự-Tính Tối-
Cao đó là Hiền-triết ! "
Tuy nhiên, ngày sinh-nhật của Ngài
Bhagavan là một cơ-hội vui-thích cho tín-đồ và
Ngài cũng phải nhượng-bộ sự đòi hỏi của họ,
nhưng Ngài từ-chối, vào trường-hợp ấy và các
trường-hợp khác, không cho người ta cúng-
dường Ngài .
ADPH RAMANA MAHARSHI
350
Tín-đồ của Ngài đông vô-kể, tất cả đều
muốn dùng bữa với Ngài ngày đó. Chính
phòng ăn rộng lớn cũng không chứa đủ, người
ta bèn đựng lên những chiếc lều lợp bằng lá
trên những cột tre ở sân trước các tòa nhà, và
tất cả mọi người đều ngồi xuống ăn, cả những
người nghèo cũng được hưởng thực-phẩm. Có
khi hai ba bữa đãi liền nhau. Trong khi ấy thì
Cảnh-sát và Hướng-đạo-sinh canh-gác lối vào
và hướng-dẫn đại-chúng. Vào những ngày đó
Ngài Bhagavan ngồi riêng một chỗ ở trên cao,
tuy vậy Ngài vẫn nhìn thấy tất cả những tín-đồ
với con mắt thân-tình của Ngài khi họ tới
phòng để tỏ cho Ngài biết sự hiện-diện của họ .
Trong một buổi lễ Kartikai, khi một đám
đông tín-đồ chen-chúc nhau ở trước sân Tùng-
lâm, và người ta đã phải ngăn cách Ngài bằng
một hàng lan-can để cho Ngài khỏi bị quấy rối,
có một đứa nhỏ chui qua hàng rào, chạy thẳng
đến chỗ Ngài để trình lên Ngài coi một món
đồ-chơi của nó. Ngài quay lại phiá người hầu,
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
351
vừa cười vừa nói : " Anh xem đó, lan-can của
anh có công-dụng gì đâu ! "
Vào tháng chín năm 1946, người ta tổ-
chức một đại-lễ trọng-thể để kỷ-niệm năm thứ
năm mươi khi Ngài đến Tiruvannamalai. Đệ-tử
từ các nơi kéo tới. Một quyển sổ vàng được
sửa-soạn vào ngày đại-lễ để chứa đựng những
bài thơ. Vào những năm cuối cùng, căn phòng
cũ tỏ ra nhỏ hẹp, những ngày thường người ta
hay ngồi dưới mái lá gồi. Việc xây-dựng một
Thánh-điện cho bà Mẹ ở trên mộ bắt đầu vào
năm 1939 đồng thời với một phòng riêng cho
Ngài, và các đệ-tử của Ngài. Hai công-trình
xây-dựng ấy hoàn-thành vào năm 1949 hợp lại
thành một tòa. Kiến-trúc được trao cho những
kiến-trúc-sư chính-thống về Thánh-điện, thích-
ứng với nguyên-tắc Thánh-Kinh. Tòa nhà kéo
dài về hướng Nam của gian phòng cũ và những
bàn giấy, ở giữa là các bàn giấy và đường đi .
Điện-thờ chiếm mặt phiá Tây, Phía Nam
của gian phòng cũ, nửa về phiá Đông là một
ADPH RAMANA MAHARSHI
352
căn phòng vuông thoáng khí để cho Ngài ngự
với các đệ-tử của Ngài. Ngày khánh-thành có
một buổi lễ long-trọng với rất đông đệ-tử tham-
dự. Ngày khánh-thành ấy kết-thúc một sự nỗ-
lực và những chương-trình dự-định. Tuy vậy,
mà Ngài không muốn vào căn phòng mới, Ngài
thích sự giản-dị và không thích sự sang-trọng
cho riêng mình. Có nhiều đệ-tử không thỏa-
mãn với cách-thức mới hiện-đại _ Căn phòng
cũ còn rung-động bởi sự hiện-diện của Ngài, và
căn phòng mới có vẻ lạnh-lùng, hết sinh-khí.
Khi Sư-phụ vào căn phòng mới ấy thì Ngài đã
lâm bệnh cuối cùng .
****************
*
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
353
- XIV -
GIÁO - LÝ TRUYỀN - THỤ
Phương-pháp hướng-dẫn vào đạo của
Ngài Bhagavan đối với đệ-tử huyền-bí lạ-lùng.
Mặc dầu Sư-phụ để cho mọi người tự-do tới
tiếp-xúc, mặc dầu những câu hỏi về đạo đặt ra
một cách bình-thuờng, Ngài đều giải-thích một
cách công-khai bình-đẳng, những sự hướng-
dẫn ý-chí của Ngài mà mỗi đệ-tử tiếp-thụ được
cũng rất trực-tiếp và thích-ứng với tính-tình
của từng người .
Đạo-sĩ Yogananda, người đã từng có
nhiều đệ-tử ở Mỹ, một hôm hỏi Ngài là người
ta phải đem lại giáo-lý tâm-linh như thế nào
cho mọi người để khai-triển họ, Ngài Bhagavan
đáp : " Điều ấy lệ-thuộc vào tính-tình và căn-cơ
ADPH RAMANA MAHARSHI
354
của từng người. Không làm gì có một nguyên-
tắc chung ."
Về vấn-đề này chỉ cần dẫn ra đây trường-
hợp của bốn đệ-tử đã kể ở trên : Bà Echammal;
Thân-mẫu của Ngài Bhagavan ; đạo-sĩ Pillai ;
đạo-sĩ Mudaliar, thì đủ thấy phương-pháp thay-
đổi là chừng nào .
Ngài Bhagavan đã hết sức nhiệt-thành
hoạt-động. Chình Ngài đã nói thế. Mặc dầu
không một người nào trong những người được
thực-nghiệm Ân-điển của Ngài không cần có
một sự xác-định nào hết, nhưng sự hoạt-động
của Ngài kín-đáo đến độ những người khách
ngẫu-nhiên hay là những người nào không thấy
được, tưởng rằng Ngài không truyền pháp gì
cả, hay là Ngài lãnh-đạm với những nhu-cầu
của người cầu đạo. Có nhiều trường-hợp
tương-tự như thế, như trường-hợp của Matesa
Mudaliar gặp vị Bà-la-môn, vị này đã bảo đừng
đến xin gặp Ngài. Sự quan-trọng nhất của vấn-
đề là thực-hiện Giác-ngộ chỉ có thể thành-tựu
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
355
bằng Ân-điển của Sư-phụ ( trừ trường-hợp
hiếm có như ở Ngài Bhagavan ). Ngài
Bhagavan cũng quyết-định tích-cực về vấn-đề
này như các bậc Sư-phụ khác. Vậy các vị tu-sĩ
chỉ mới biết truyền pháp của Ngài Bhagavan là
tuyệt-diệu và sự hiện-diện của Ngài là một
khích-động, cũng chưa đủ mà còn phải nhận ra
rằng Ngài là Sư-phụ ban cho sự khải-ngộ và
truyền-pháp .
Danh-từ " Sư-phụ " có ba nghĩa. Một
nghĩa chỉ vào người, tuy không đạt Giác-ngộ
tâm-linh mà có được địa-vị một giáo-sĩ thông-
thường để có quyền truyền pháp. Quyền ấy
thường là gia-truyền, người có địa-vị tương-tự
phần nào về phương-diện chữa chạy tinh-thần
với một bác-sĩ của gia-đình. Thứ đến là Sư-phụ
có thể là một người hơn hạng người kể trên, có
được trình-độ tâm-linh đến một mức nào đó,
mặc dầu ông ta chỉ-thị cách thức tu-luyện
giống nhau, cũng có thể hướng-dẫn đệ-tử đến
một trình-độ tâm-linh cao như chính mình đã
đạt được .
ADPH RAMANA MAHARSHI
356
Theo nghĩa chân-thật và cao hơn hết là
bậc Sư-phụ đã đạt tới Đồng-nhất với Tâm-linh
là Tự-Tính của tất cả. Đó là Chân Sư-phụ ( Sat
- Guru ) .
Ngài Bhagavan gán nghĩa trên cho danh-
từ Sư-phụ. Cho nên Ngài nói : " Thượng-Đế ;
Sư-phụ ; Đại-Ngã là Một, như nhau ". Để mô-
tả về một bậc Sư-phụ mà Ngài viết trong
" Giáo-Lý Tâm-Linh " như sau :
" Sư-phụ là người luôn luôn trụ
vững trong cảnh-giới thâm-trầm của Đại-
Ngã. Ngài hoàn-toàn không phân-biệt
giữa mình với người. Chính Ngài là
người hoàn-toàn Giác-ngộ hay là Giải-
thoát, còn những người chung-quanh
Ngài vẫn còn bị giam-hãm trong vòng
đen tối của vô-minh. Sự kiên-cường và
tự-chủ, không còn bị hoàn-cảnh làm lay-
chuyển. Không bao giờ có gì làm cho
Ngài giao-động . "
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
357
Sự phục-tòng Sư-phụ không phải là sự
phục-tòng một người nào khác ở ngoài chúng
ta mà là sự phục-tòng chính Bản-Ngã Tối-Cao
của mình, tự biểu-hiện ra ngoài để giúp người
ta khám-phá cái Tự-Tính bên trong.
" Sư-phụ thì nội-tại. Thiền-định
nhằm mục-đích gạt bỏ những sai lầm ở
nơi chúng ta. Sự sai lầm đó làm cho
chúng ta lầm tưởng Sư-phụ ở ngoài chúng
ta. Nếu Sư-phụ chỉ là người khách lạ mà
chúng ta chờ đợi, thì tất nhiên vị Sư-phụ
đó sẽ biến đi. Và cái vị vô-thường ấy thì
có ích lợi gì ? Nhưng chừng nào mà anh
nghĩ rằng anh là một cá-thể biệt-lập hay
là anh tự đồng-nhất với thân-thể mình, thì
một Sư-phụ ngoại-tại vẫn cần-thiết cho
anh, và Ngài sẽ hiện-diện với anh ở hình-
tướng của thân-thể. Khi nào hết sự đồng-
nhất-hóa sai lầm giữa Tự-Tính với thân-
thể, thì người ta sẽ khám-phá ra rằng Sư-
phụ chẳng qua là Tự-Tính Tối-Cao. Tự-
Tính Tối-Cao đó là Sư-phụ ."
ADPH RAMANA MAHARSHI
358
Điều định-lý là một Sư-phụ theo đúng
nghĩa tối-cao của nó là đã thực-hiện sự đồng-
nhất-thể với tuyệt-đối, thì không hề nói thế, vì
người ấy không còn tiểu-ngã để có thể khẳng-
định sự đồng-nhất-hóa ấy. Người ấy cũng
không nói rằng mình có đệ-tử, bởi vì đã vượt
cái ý-thức có người khác ở ngoài mình. Tất cả
liên-hệ đối với y đều không còn nữa .
Một vị Giác-ngộ thực chỉ là Một với
Tuyệt-đối, nhưng những nét về tính-cách của vị
ấy vẫn còn tồn-tại ở hình-thức bên ngoài, để
làm môi-trường cho sự biểu-hiện của Tuyệt-
đối, khiến cho các vị Giác-ngộ rất khác nhau về
tính-cách nhân-loại. Trong những phẩm-chất
của Ngài Bhagavan phải kể đến sự thấu-triệt và
sáng-suốt. Ngài lợi-dụng sự bất-năng ở vị-trí
vô-ngôn để khẳng-định sự đồng-nhất về học-
thuyết của Ngài hay sự liên-hệ với học-thuyết
khác khi Ngài từ-chối sự đòi-hỏi khải-ngộ của
những người không phải là đệ-tử chính-thức
của mình. Thái-độ của Ngài cũng tương-tự như
những năm đầu khi còn ở Tiruvannamalai, khi
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
359
Ngài không muốn người khác đến quấy-rối.
Một điều đáng ghi lại là thái-độ tự-vệ ấy đã
thành-công là nhường nào đối với những kẻ
đến quấy mà các đệ-tử chân-chính không bị
ảnh-hưởng và cũng không để phải chịu ảnh-
hưởng về điều ấy .
Nay hãy xét kỹ về nhận-định của Ngài
Bhagavan. Có khi Ngài nói Ngài không từng có
đệ-tử và cũng không bao giờ Ngài công-nhiên
tuyên-bố mình là một Sư-phụ, tuy nhiên danh-
từ " Sư-phụ " đối với Ngài thì tương-đương
với " Giác-ngộ ". Vậy thì chính Ngài là Sư-phụ,
và có nhiều lần Ngài cùng với đệ-tử ca hát tôn-
vinh " Ramana là Chân Sư-phụ " .
Hơn thế nữa, khi có một đệ-tử thật lo-âu,
muốn tìm một biện-pháp thì Ngài an-ủi y,
khiến cho y hết không còn chỗ để ngờ-vực.
Một đệ-tử người Anh, thiếu-tá Chadwick đã
viết về một trong sự bảo-đảm của Ngài
Bhagavan mà y đã nhận được từ năm 1940 :
ADPH RAMANA MAHARSHI
360
Chadwick : _ Ngài Bhagavan nói Ngài không
có đệ-tử phải không ?
Bhagavan : _ Phải .
Chadwick : _ Ngài cũng nói rằng ai muốn giải-
thoát cần phải có một Sư-phụ phải
không ?
Bhagavan : _ Phải .
Chadwick : _ Vậy thì tôi phải làm thế nào ?
Phải chăng tôi đã uổng bao nhiêu năm
đến ngồi đây ? Phải chăng tôi phải tìm
một Sư-phụ có khả-năng khải-ngộ cho
tôi, bởi vì Ngài Bhagavan tự cho mình
không phải là một Sư-phụ .
Bhagavan : _ Theo ý anh thì động-cơ nào thúc-
đẩy anh đã làm một cuộc hành-trình xa-
xôi và ở đây lâu như thế ? Tại sao anh
còn nghi-ngờ ? Nếu anh muốn đi tìm một
Sư-phụ ở nơi khác thì anh đã bỏ đây từ
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
361
lâu rối ? Sư-phụ hay là bậc Giác-ngộ
không phân-biệt mình với người khác.
Đối với y tất cả đồng-loại đều là những
bậc Giác-ngộ ; tất cả chỉ là Một với y thôi
( Đồng-nhất-thể ) ; do đó mà làm thế nào
một bậc Giác-ngộ lại có thể nói rằng vị
Giác-ngộ này, vị Giác-ngộ khác, là đệ-tử
của mình được ? Nhưng người nào chưa
đạt tới Giải-thoát thì thấy đa-thù, sai-biệt
trong tất cả. Đối với con mắt của y thì tất
cả đều sai khác ; và đối với y thì liên-hệ
giữa đệ-tử với Sư-phụ là có thực ; và y
phải cần tới Ân-điển của một Sư-phụ để
thức tỉnh mình về Thực-Tại. Sư-phụ có ba
cách để Khải-đạo : bằng cách tiếp-xúc ;
bằng cách nhìn và bằng cách yên-lặng.
( Ở đây Ngài Bhagavan chỉ cho tôi biết có
một phương-tiện mà Ngài sử-dụng là yên-
lặng cũng như Ngài đã biểu-thị ở những
trường-hợp khác ) .
Chadwick : _ Vậy thì Ngài Bhagavan đã có đệ-
tử rồi !
ADPH RAMANA MAHARSHI
362
Bhagavan : _ Tôi đã nói với ông, đối với
Bhagavan thì không có đệ-tử, nhưng ở
quan-điểm của đệ-tử thì Ân-điển của Sư-
phụ là một đại-dương. Kẻ nào đến đại-
dương với một cái bát thì chỉ được đầy
nước một cái bát. Không có ích lợi gì mà
phàn-nàn về sự kiệm-ước của đại-dương.
Cái vật để chứa đựng càng lớn bao nhiêu
thì sẽ chứa được nhiều bấy nhiêu. Tất cả
đều lệ-thuộc vào đồ chứa .
Chadwick : _ Vậy thì muốn biết Ngài
Bhagavan có phải là một Sư-phụ hay
không, lại là vấn-đề thuộc về tín-ngưỡng,
vì Ngài không muốn nói cho tôi biết .
Bhagavan : _ ( Đứng dậy, nói nhấn-mạnh với
người thông-ngôn ) : Hãy hỏi y xem có
cần tôi xác-định bằng chữ viết không ?
Ít có đệ-tử nào cố nài-nỉ như thiếu-tá
Chadwick này để có một sự xác-định, nhưng
Ngài Bhagavan không công-nhiên tuyên-bố là
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
363
Ngài thừa-nhận lưỡng-tính, Ngài cũng dần dần
thừa-nhận Ngài là một Sư-phụ một cách vừa đủ
rõ-rệt đối với những ai có đủ thiện-chí và hiểu-
biết. Một vài người có biết điều ấy tuy không
được xác-nhận công-khai của Sư-phụ
Bhagavan .
Ông Cohen ghi lại rằng, ông A. Bose một
nhà kỹ-nghệ ở xứ Bengale, một hôm cố cầu tìm
lấy một sự xác-nhận của Ngài Bhagavan. Ông
ta nói : " Tôi tin chắc rằng một Sư-phụ là cần-
thiết cho sự nỗ-lực của một tu-sĩ để thành-tựu."
Rồi ông lại nói thêm với một nụ cười hài-hước:
" Ngài Bhagavan có đồng tình với chúng tôi
chăng ? " Ngài trả lời với chính phương-pháp
của mình : " Sự thực-hành là cần-thiết cho anh,
Ân-điển luôn luôn có ở đấy ". Sau một lát yên-
lặng, Ngài nói thêm : " Anh chìm trong nước
đến cổ mà anh còn gào khát nước " .
Sự thực-hành thực ra là sự sửa-soạn đón
lấy Ân-điển. Có khi Ngài Bhagavan minh-
chứng tư-tưởng của mình bằng một tỷ-dụ :
ADPH RAMANA MAHARSHI
364
" Mặc dầu mặt-trời chiếu sáng, anh cũng phải
cố-gắng nhìn lên thì mới thấy được ". Giáo-sư
Venkatramiah kể lại trong kỷ-yếu của mình
rằng Ngài đã nói với một người khách phụ-nữ
người Anh là cô Pigott : " Thực-hiện là hậu-
quả Ân-điển của Sư-phụ hơn là của giáo-lý,
tụng-kinh và thiền-định ... Những điều này là
phụ-thuộc, chỉ có Ân-điển là nhân-tố tiên-quyết
và cốt-yếu " .
Có một số khách hành-hương chỉ biết
được giáo-lý của Ngài Bhagavan một cách
gián-tiếp, tưởng rằng một Sư-phụ thì không
cần-thiết, điều đó giải-thích sự thiếu Khải-ngộ
công-khai, nhưng Ngài phản-đối giả-thuyết ấy
một cách quả-quyết .
Ông Cohen kể lại một cuộc đối-thoại về
vấn-đề này giữa Ngài Bhagavan với nhà nhạc-
sĩ nổi-tiếng ở Tùng-lâm của Aurobindo, tên là
Dilip Kumar Roy :
Dilip : _ Có người kể lại rằng Ngài Bhagavan
không phủ-nhận sự cần-thiết của một Sư-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
365
phụ. Người khác thì nói ngược lại. Ngài
đối với vấn-đề ấy như thế nào ?
Bhagavan : _ Tôi chưa từng bao giờ bảo Sư-
phụ là vô ích .
Dilip : _ Ngài Aurobindo nhấn mạnh vào sự-
kiện là Ngài Bhagavan không từng có Sư-
phụ .
Bhagavan : _ Điều ấy là tùy theo quan-niệm
của anh về Sư-phụ. Không cần một Sư-
phụ phải có hình-tướng người. Thần
Dattatreya có hai mươi bốn Sư-phụ, là
những nguyên-tố v.v. Như thế có nghĩa là
tất cả hình-tướng trong thế-gian này đều
là Sư-phụ của Ngài. Sư-phụ là một sự
thiết-yếu tuyệt-đối. Kinh Áo-nghĩa-thư
( Upanisads ) có nói : " Chỉ có một Sư-
phụ mới có thể kéo được một ẩn-sĩ khỏi
rừng rậm của tri-giác tinh-thần và giác-
quan ", như thế thì phải có một Sư-phụ !
ADPH RAMANA MAHARSHI
366
Dilip : _ Tôi muốn nói về một Sư-phụ nhân-
loại. Ngài không từng có Sư-phụ ấy .
Bhagavan : _ Chắc tôi đã phải có một Sư-phụ ở
một lúc nào đó. Tôi chẳng từng ca tụng
Thần núi Arunachala đấy ư ? Vậy thì một
Sư-phụ là gì ? Một Sư-phụ là Thượng-Đế
hay Đại-Ngã. Trước hết người ta cầu-
nguyện Thưọng-Đế để được thành-tựu
những ước muốn của mình, rồi đến lúc
người ta không cầu-nguyện để thỏa-mãn
ước muốn nữa, mà để được chính
Thượng-Đế. Thượng-Đế hiện ra cho
người ta ở hình-tướng người hay không là
để đáp lời cầu-nguyện của người ta và để
dẫn-đạo, đó là Sư-phụ .
Người ta vặn Ngài Bhagavan là Ngài
không có Sư-phụ, nhưng Ngài giải-thích cho
họ rằng Sư-phụ không tất nhiên phải hiện ra ở
hình-thể người. Người ta hiểu ngay rằng Ngài
muốn nói đến những trường-hợp hiếm có .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
367
Phải chăng, có lẽ khi Ngài còn niên-thiếu,
mang tên Venkataraman thì Ngài dễ thừa-nhận
Ngài là một Sư-phụ. Một hôm Ngài nói với
Dilip : " Có hai việc phải làm, trước hết phải
tìm một Sư-phụ ở ngoài, sau đó phải tìm Sư-
phụ ở nội-tâm mình. Anh đã làm việc thứ nhất
rồi, bây giờ anh phải làm tới việc thứ hai " .
Có lẽ sự xác-định tư-tưởng của Ngài mà
tôi đã nhận được còn rõ rệt hơn nữa. Sau vài
tuần-lễ ở tại Tùng-lâm, tôi cảm thấy Ngài
Bhagavan thực-sự là một Sư-phụ mà chúng tôi
đang tiếp-thụ sự khải-ngộ và sự hướng-dẫn.
Tôi bèn viết thư báo tin cho những người bạn
của tôi ở Âu-Châu, nói rõ những việc trên,
nhưng trước khi gửi lá thơ đó đi tôi đã trình lên
Ngài Bhagavan để xem Ngài có cho phép tôi
gửi đi hay không. Ngài đã biều-đồng-tình với
những điều tôi viết, Ngài nói : " Được. Cứ gửi
đi . "
Là Sư-phụ có nghĩa là trao sự khải-ngộ và
truyền-thụ giáo-lý, cả hai không thể rời nhau ra
ADPH RAMANA MAHARSHI
368
được. Không làm gì có giáo-lý nếu không có
một động-tác khải-ngộ, và không làm gì có
khải-ngộ nếu không có giáo-lý tiếp theo. Vấn-
đề là hỏi xem Ngài Bhagavan có khi nào ban
sự khải-ngộ hay là giáo-lý không ?
Khi người ta hỏi Ngài, Ngài có ban khải-
ngộ hay không, thì Ngài luôn luôn tránh sự trả
lời trực-tiếp. Nếu Ngài phải trả lời bằng cách
phủ-định thì chắc-chắn Ngài sẽ trả lời là không,
nhưng nếu Ngài trả lời theo cách khẳng-định,
thì sách-lược tự-vệ của Ngài đối với sự đòi hỏi
không chính-đáng về khải-ngộ sẽ bị bỏ. Và như
thế sẽ cần phải nhận một số quyết-định này mà
bỏ những quyết-định khác. Sự quyết-định tỏ ra
vũ-đoán. Thay thế cho sự trả lời, Ngài để mặc
cho người ta tùy ý quyết-định tùy theo với sự
hiểu-biết riêng hay là thiếu sự hiểu-biết. Thông
thường thì Ngài hay trả lời như là Ngài đã trả
lời thiếu-tá Chadwick : " Có ba cách khải-ngộ ;
một là bằng xúc-giác ; hai là bằng mắt nhìn ; ba
là bằng sự yên-lặng ." Cứ như thế mà Ngài
Bhagavan thường phát-biểu một giáo-lý khách-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
369
quan vô-ngã, nó ngụ một giải đáp về một câu
hỏi đặc-biệt. Quan-niệm về ba cách-thức khải-
đạo rất phổ-thông đối với người Ấn-Độ-giáo,
bởi vì đối với họ nó được biểu-thị bằng con
chim ấp trứng để cho trứng nở ( là xúc-giác ) ;
bằng con cá nhìn cho trứng cá nở thành con
( mắt nhìn ) ; và như con rùa, nó chỉ phải tưởng
đến trứng nở ( sự yên lặng ). Sự khải-ngộ bằng
yên-lặng hay bằng mắt nhìn ngày nay hiếm
thấy. Đó là cách truyền pháp yên-lặng ( Vô-
ngôn ) của Thần Dakshinamurthi ở núi Aruna-
chala. Và đó cũng là cách-thức truyền-giáo
trực-tiếp đặc-biệt thích-ứng với con đường
đốn-ngộ về Tự-Tính mà Ngài Bhagavan đã
giảng dạy. Cách khải ngộ ấy rất thích-hợp về
giá-trị tự-thân của nó lẫn sự kín-đáo thích-
đáng .
Khải-ngộ bằng mắt nhìn rất chính-xác.
Ngài Bhagavan quay về phiá người đệ-tử và
chuyên-chú với một sức mạnh phi-thường. Sức
sáng chói và năng-lực của đôi mắt Ngài xuyên
qua tâm-hồn người ta làm vỡ cái quá-trình tư-
ADPH RAMANA MAHARSHI
370
duy. Có khi người ta tưởng như một luồng điện
xuyên qua người mình, có khi như đã chìm vào
trong sự an-tĩnh của một bể ánh-sáng. Một đệ-
tử mô-tả ấn-tượng của y như sau :
" Một hôm thình-lình Ngài
Bhagavan quay lại nhìn tôi với con mắt
chói-lọi và thấu-suốt. Trước đây tôi
không kham nổi lâu cái nhìn ấy, nhưng
bấy giờ thì tôi lặn chìm vào trong đôi mắt
thấu suốt và kinh-khủng ấy, bao nhiêu lâu
tôi cũng không biết. Con mắt nhìn ấy làm
nẩy sinh ra ở nơi tôi một luồng ba-động
mà tôi nghe thấy rõ-rệt ."
Khi Ngài Bhagavan nhìn anh như thế thì
anh có cảm-giác tin-tưởng chính-xác rằng từ
đây Ngài đảm-nhận việc dẫn-đạo anh. Có một
số người tri-giác thấy sự khải-ngộ bắt đầu,
nhưng thông-thường nó được thi-hành một
cách bất-tri bất-giác. Đôi khi trong lúc người ta
ca tụng Kinh Vệ-Đà mà ít người chú-ý, hoặc là
có một đệ-tử thình-lình cảm thấy muốn đi đến
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
371
gặp Ngài trước khi mặt-trời mọc, hay là vào lúc
Ngài ngồi một mình vắng-vẻ ít khách .
Sự khải-ngộ yên-lặng cũng rất xác-thực,
nó được thi-hành ở những người nào có tâm-
hồn hướng về Ngài mà chính họ không có
điều-kiện để tới được Tiruvannamalai. Đôi khi
sự khải-ngộ ấy được ban cho ở trong giấc-
mộng, như trường-hợp của Natesa Mudaliar .
Không có một Sư-phụ nào lại quyết-tâm
như Ngài Bhagavan đối với vấn-đề trợ-lực và
dẫn-đạo, một khi đệ-tử nào được Ngài đảm-
nhận, và được ban khải-ngộ. Trong thuyết-trình
sau đây dưới nhan-đề " Ta La Ai ?" Ngài có
nói với đệ-tử Pillai :
" Người nào đã nhận được Ân-điển
của Sư-phụ, tất nhiên là sẽ được cứu-độ
không bao giờ bị bỏ rơi, cũng như miếng
mồi đã rơi vào miệng cọp không bao giờ
ra khỏi ."
ADPH RAMANA MAHARSHI
372
Một đệ-tử Hòa-Lan L. Harts, không thể ở
lâu tại Tùng-lâm được, và có lẽ y sợ rằng đức
tin của mình sẽ phai mờ sau khi rời khỏi Tùng-
lâm. Y bèn cầu xin Ngài một sự bảo-đảm chắc-
chắn, Ngài trả lời : " Dù anh có bỏ Sư-phụ
Bhagavan, nhưng Sư-phụ Bhagavan không bao
giờ bỏ anh ."
Có hai đệ-tử khác, một nhà ngoại-giao
người Tiệp-Khắc, một giáo-sư Hồi-giáo, bị
khích-động về sự bảo-đảm mạnh-mẽ và trực-
tiếp ấy, mới hỏi xem phải chăng sự bảo-đảm ấy
chỉ dành riêng cho Harts hay cho tất cả các đệ-
tử. Họ được Ngài đáp : " Cho tất cả ! " .
Một lần khác, một đệ-tử nản lòng thấy
không có tiến-bộ nội-tâm của mình, bèn nói :
" Nếu cứ tiếp-tục thế này, tôi sợ tôi sẽ rơi
xuống địa-ngục ! "
Ngài Bhagavan trả lời : " Nếu anh rơi
xuống địa-ngục thì Sư-phụ Bhagavan sẽ theo
anh xuống mà kéo anh lên ."
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
373
Cả trường-hợp sinh-sống của đệ-tử cũng
khuôn theo Sư-phụ ngõ hầu tạo ra sự tinh-tiến
trên đường tâm-linh. Người ta nói với một đệ-
tử : " Sự-phụ vừa ở bên ngoài, vừa ở nội-tâm
khiến cho Ngài tạo ra những điều-kiện để kéo
chúng ta về sự nội-quan và đồng thời sửa-soạn
tâm-trạng dẫn thân đến Trung-Tâm ."
Nếu người nào không hướng vào Ngài
Bhagavan mà hỏi xem Ngài có truyền-pháp cho
mình không thì thường Ngài trả lời một cách
bí-hiểm hoặc Ngài không nói gì cả. Dù sao,
chắc hẳn là sẽ được trả lời phủ-định. Sự thực,
sự truyền-giáo cũng như sự khải-ngộ của Ngài
ban cho đều được thi-hành trong sự yên-lặng.
Tinh-thần yên-lặng không theo chiều chính-
đáng. Một người đệ-tử phải hiểu thấu điều đó.
Ít có người cần sự xác-định công-khai bằng lời
nói .
Lịch-sử của Venkatraman đã từng được
nói ở trên thì rất độc-đáo. Trong thời thiếu-
niên, y là đệ-tử một cao-đệ của Ramakrishna,
ADPH RAMANA MAHARSHI
374
nhưng y cảm thấy cần phải có một Sư-phụ
bằng xương bằng thịt, nên y khẩn-khoảng cầu
xin Sư-phụ với ý muốn nhiệt-thành : " Thưa
Thày ! Ngài hãy cho con một Sư-phụ sinh-hoạt
cũng hoàn-toàn như chính Ngài ! " Sau đó y
được nghe thấy nói đến Ngài Ramana ( tức
Bhagavan ) bấy giờ Ngài mới đến vài năm tại
Tùng-lâm dưới chân núi. Venkatraman liền lên
đường, đem theo một bó hoa để cúng-dường.
Nhưng thường lệ hay xẩy ra theo nguyên-vọng
âm-thầm, nên lúc y tới thì trong phòng vắng
khách chỉ có Ngài Bhagavan nằm trên giường
thiền. Trên tường sau lưng Ngài có treo bức
hình của Ngài Ramakrishna mà Venkatraman
đã thờ và từng cầu nguyện. Ngài Bhagavan
chia bó hoa làm hai phần, một phần sai người
hầu đặt trước bức ảnh và một phần đặt trên
điện Linh-phù. Venkatraman cảm thấy nhẹ-
nhàng và thoải-mái, y cảm thấy như mình đang
ở tại nhà mình và nguyện-vọng đã được thành-
tựu. Y kể lại lý cố như thế nào y đã đi đến
Tùng-lâm này và Ngài Bhagavan bèn hỏi y :
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
375
" Anh biết gì về Thần truyền-giáo Vô-ngôn ?
( Dakshinamurthi ) ."
_ Con biết rằng Ngài truyền-thụ trong
yên-lặng .
_ Chính sự truyền-thụ ấy anh sẽ được
truyền-thụ ở đây .
Sự truyền-thụ không lời ấy có nhiều hình-
thức khác nhau. Ngài Bhagavan qua lời nói và
văn-tự thường luôn luôn nhấn mạnh vào cách-
thức cứu tìm Tự-Tính, và bởi vậy, nổi lên ý-
kiến cho rằng Ngài chỉ nói và viết về con
đường Giác ( Jnana-marga ) mà nhiều người
thời nay coi như là con đường treo-leo. Nhưng
Ngài Bhagavan có tinh-thần đại-đồng và sự
đạo-dẫn của Ngài thích-hợp với tất cả căn-cơ.
Sự đạo-dẫn đó đi theo con đường Sùng-bái
cũng như con đường Giáo-lý. Tình-yêu và sự
Sùng-bái đối với Sư-phụ là nhịp cầu bắc qua
vực thẳm mà người cầu tìm giải-thoát cần phải
ADPH RAMANA MAHARSHI
376
vượt qua ; Ngài Bhagavan không khuyên-nhủ
các đệ-tử đi theo con đường nào khác .
Venkatraman cảm thấy bối-rối sau một
thời-gian ngắn ở Tùng-lâm vì không nhận được
sự truyền-giáo, nghĩa là sự dạy bảo về phép tu-
hành vì thế y đã phàn-nàn .
Ngài Bhagavan hỏi :
_ Điều gì đã khiến anh tới đây ?
_ Con đã thường nghĩ tới Ngài, thưa
Đạo-sĩ !
_ Đó là con đường tu-luyện của anh.
Thế là đủ rồi .
Sự thực tư-tưởng và hoài-niệm về Ngài
Bhagavan theo sát y bất cứ ở đâu, đến nỗi Sư-
phụ không còn rời khỏi y nữa .
Tóm lại, con đường Sùng-bái cũng chính
là con đường phục-tòng. Người ta trút hết cả
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
377
gánh nặng lên vai Sư-phụ. Và chính điều ấy mà
Ngài thường khuyên-nhủ. Ngài nói với một
trong những tín-đồ của Ngài :
" Hãy phục-tòng Thày, Thày sẽ phá
cái trí-thức đi cho con ".
Ngài lại nói với một tín-đồ khác :
" Hãy tự mãn, đừng đòi hỏi, Sư-phụ
Bhagavan sẽ hoàn-thành những điều còn
lại ."
Và Ngài nói với Devaraja Mudaliar :
" Tất cả những điều mà anh phải
làm là thần-phục ta và trao lại cho ta tất
cả ."
Ngài nhắc đi nhắc lại nhiều lần : " Có hai
con đường phải theo : Một là anh phải tự hỏi
" Ta là ai ? " ; Thứ nữa là hoàn-toàn phó-thác
cho Sư-phụ " .
Tuy vậy không phải là việc dễ để giữ cho
tâm-hồn an-tĩnh, và đồng thời cởi mở để sẵn
ADPH RAMANA MAHARSHI
378
sàng tiếp-nhận Ân-điển của Sư-phụ. Thái-độ ấy
đòi hỏi một sự nỗ-lực bền-bỉ, một sự ôn-cố
thường xuyên và chỉ có như thế thì Ân-điển
của Sư-phụ mới có thể thi-hành được. Có nhiều
tín-đồ thường thực-hành Sùng-bái để trợ-lực,
Ngài Bhagavan biểu-đồng-tình với họ và cho
phép sử-dụng những phương-tiện ấy. Tuy rằng
chính Ngài ít khi ấn-định thực-sự những điều
thuộc loại ấy .
Những phương-tiện hiệu-nghiệm hơn hết,
tuy vô-hình, ấy là sự hợp-nhất với Tự-Tính.
Nói thẳng là phương-tiện hợp-nhất với Tồn-
Tại, có nghĩa là với người nào đã thể-hiện được
Tự-Tính. Ngài Bhagavan nói, với luận-điệu hết
sức ca tụng Tồn-Tại. Năm câu thơ đầu ( trong
số 40 câu thơ bổ-túc ) đều là để ca-tụng Tự-
Tính. Lai-lịch của sự tập-hợp vào bản văn đại-
cương rất đặc-biệt. Con gái nuôi của bà
Echammal thấy được một câu thơ tiếng Phạn
trên một tờ giấy gói kẹo. Cô ta rất cảm-động
đến nỗi đã học thuộc lòng câu thơ ấy và đã đọc
lại cho Ngài Bhagavan nghe. Ngài thấy sự
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
379
trọng-đại của câu thơ bèn dịch ra tiếng Tamil.
Vào thời kỳ này Ngài sưu-tập bốn mươi câu
thơ bổ-túc, viết một số bài, dịch một số khác và
những bài thơ khác dịch từ tiếng Phạn mới thu-
nhập vào toàn-bộ. Bài thơ thứ ba nói về sự hòa-
hợp với Sư-phụ được đề-cao hơn tất cả các
phương-pháp khác : " Khi nào người ta đã hòa-
hợp được với Thánh-hiền thì tất cả giới-điều
khác còn có công-dụng gì nữa ? Hãy nói cho ta
biết công-dụng của một chiếc quạt khi có gió
Nam hiu-hiu thổi ? "
Sự sống hòa-hợp với Ngài Bhagavan tạo
ra một sự biến-hóa vi-diệu mà hiệu-quả chỉ
thấy được vào mấy năm về sau. Có khi Sư-phụ
thảo-luận với đệ-tử về sự trọng-đại của những
hiệu-quả ấy. Ngài nói với bạn học cũ của Ngài
là Ranga Aiyar như đã đề-cập ở chương III :
" Nếu anh ở lại với bậc Giác-ngộ,
Người sẽ ban cho anh quần áo có nếp
sẵn! "
ADPH RAMANA MAHARSHI
380
Ngài ngụ ý rằng với những phương-pháp
khác người ta chỉ thu-lượm được những tơ-sợi
mà tự mình phải dệt lấy áo mà mặc .
Sundaresh Aiyar khi xin làm đệ-tử Ngài
Bhagavan, mới có mười hai tuổi. Đến năm
mười tám tuổi y cảm thấy bất-bình với chính
mình và nhận thấy mình phải nỗ-lực để ý-thức
hơn nữa. Y là cha của một gia-đình sống tại-
gia, nhưng hầu như hàng ngày y luôn luôn lên
thăm Ngài Bhagavan. Bấy giờ y mới quyết-
định cố tuân theo kỷ-luật một cách thật
nghiêm-chỉnh và nguyện không trở lại Tùng-
lâm nếu chưa giải-thoát hết hệ-lụy để xứng-
đáng với giáo-hội. Y nhất-định nhịn không đến
thăm Ngài Bhagavan một trăm ngày, thế rồi
bỗng có một ý-niệm lóe ra từ từ trong tinh-thần
của y là sự không đến thăm Ngài Bhagavan có
ích lợi gì cho mình ? Thế là y đi thẳng đến
Tùng-lâm .
Ngài Bhagavan tiếp y ở ngay cửa Tùng-
lâm và hỏi ngay y rằng : " Sự không đến thăm
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
381
Ngài Bhagavan có ích lợi gì cho y ? " Thế rồi
Ngài mới nói với y về sự quan-trọng và hiệu-
năng của việc hợp-nhất với Tự-Tính, dù rằng
tín-đồ không nhận-thức được sự tiến-bộ do đấy
mà có. Ngài so-sánh sự hợp-nhất ấy với một
người mẹ nuôi con ban đêm trong khi đứa con
vẫn ngủ. Tới sáng hôm sau đứa con tưởng
mình không ăn chút gì, tuy rằng người mẹ biết
rõ sự thực là mình đã nuôi nó ban đêm .
Ví dụ ấy ngụ ý hơn là một lợi-lạc tự-
nhiên do sự sống trong bầu không khí của một
Thánh-hiền, nó cũng ngụ-ý một sự hướng-dẫn
có ý-thức do ảnh-hưởng của Ngài tạo ra. Một
lần Ngài Bhagavan đã khẳng-định mạnh-mẽ
điều ấy, tuy rằng người nào được thực-nghiệm
về sự dẫn-đạo của Ngài thì không cần có sự
khẳng-định ấy nữa. Đệ-tử Sundaresh Aiyar
sáng-tác một bài thơ ca tụng Ngài bằng tiếng
Tamil, trong đó y mô-tả hào-quang Ân-điển từ
con mắt của Ngài tuôn ra để nâng-đỡ đệ-tử.
Ngài Bhagavan sửa lại : " Không phải là nó
tuôn ra mà là nó phóng chiếu, vì nó là quá-trình
ADPH RAMANA MAHARSHI
382
ý-thức hướng-dẫn Ân-điển thẳng đến cho
người được lựa-chọn ."
Người đệ-tử cũng phải nỗ-lực hết sức để
lợi-dụng đầy đủ Ân-điển của Sư-phụ. Về điều
ấy Ngài Bhagavan luôn luôn đề-nghị dùng
phưong-pháp Cứu-xét Tự-Tính, tự hỏi " Ta là
ai ? ". Con đường đạo-dẫn ( Sadhana ) của
Ngài đáp ứng nhu-cầu của thời-đại chúng ta và
nó không có gì là bí-mật hay dấu diếm cả. Ngài
Bhagavan nhất-quyết đề-cao phương-pháp :
" Tự Cứu-xét cầu-tìm Tự-Tính là con đường
không thể thất-bại, con đường trực-tiếp độc-
nhất để thực-hiện Thực-Thể Tuyệt-Đối, vốn
thực chính là TA ( Bản-lai Diện-mục ). Hãy
phá cái TA riêng hay là trí-tuệ bằng con đường
tu đạo khác với con đường tự Cứu-xét Tự-Tính
thì chẳng khác gì trò ăn-trộm mà tự mình là
cảnh-sát để lại tự bắt mình. Chỉ có con đường
tự Cứu-xét Tự-Tính mới có thể làm cho mình
hiểu được Chân-lý về sự hư-ảo của tiểu-ngã và
trí-tuệ. Và chỉ có sự Cứu-xét Tự-Tính mới cho
phép chúng ta thực-hiện bản-thể thuần-túy bất-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
383
phân, Tự-Tính hay Tuyệt-Đối. Sau việc thực-
hiện Tự-Tính, không còn cái gì để cần biết nữa,
bởi vì Tự-Tính là hoan-lạc viên-mãn, là tất cả."
_ ( Kinh Thánh Maharshi ) .
" Mục-đích của sự Cứu-xét Tự-Tính
là đạt sự tập-trung toàn-thể tinh-thần vào
Nguồn của nó, cho nên không có vấn-đề
của một cái Tôi đi tìm cái Tôi khác " _
( Sách dẫn trên ). Tập-trung toàn-thể tinh-
thần vào Nguồn của nó " Dĩ tâm quán
tâm " .
Ngài Bhagavan dạy đệ-tử hãy lặn chìm
vào trong thiền-định mà tự hỏi : Ta là Ai ?
Đồng thời phải tập-trung tất cả sự chú-ý vào
tâm, không phải vào trái tim bên trái mà là trái
tim Tâm-Linh bên phải. Tùy theo tính-chất câu
hỏi của người vấn đạo, Ngài Bhagavan sẽ nhấn
mạnh trước tiên vào phương-diện vật-lý hay
tinh-thần của sự tập-trung vào trái tim hay vào
câu hỏi : " Ta là Ai ? "
ADPH RAMANA MAHARSHI
384
Trái tim tinh-thần ở bên phải lồng ngực
không phải là cái huyệt của nhà đạo-sĩ Du-già,
nó là trung-tâm và nguồn-gốc Tự-Tính, và như
vậy là nơi phối-hợp. Khi hỏi Ngài Bhagavan
xem ở trong Kinh-điển hay một Thánh-giáo
nào đã chỉ-định vị-trí cho trái tim ấy, thì Ngài
trả lời là Ngài đã khám-phá ra chân-lý ấy và về
sau sự khám-phá ấy đã được xác-nhận ở trong
một cuốn sách về Y-học Malayalam, nói về Y-
học Ấn-Độ Ayurveda .
Ai đã theo lời chỉ-giáo của Ngài thì đều đi
đến kết-quả tương-tự. Cái vị-trí của trái tim bên
phải ấy có một ý-nghĩa trọng-đại quyết-định
cho sự thực-hành, sự Cứu-xét đáng để cho
chúng ta nhắc lại ở đây, cuộc đối-thoại đã diễn
ra ở trong Kinh của Ngài Maharshi ( tức
Bhagavan ). Trong ấy Ngài đã trình-bày đầy đủ
vấn-đề :
Đệ-tử ( Dilip ) : _ Ngài Bhagavan định vị-trí
đặc-biệt cho trái tim ấy ở thân-thể vật-lý,
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
385
nghĩa là ở trong ngực cách hai ngón tay
bên phải từ giữa ngực đi ra ?
Bhagavan : _ Chính đấy là trung-tâm thực-hiện
Tâm-linh theo các nhà Hiền chứng-minh.
Trái tim Tâm-linh thì rất khác với cơ-thể
thúc đẩy cho mạch máu chạy mà người ta
gọi chung một tên. Trái tim Tâm-linh
không phải là cơ-thể, tất cả những điều
anh có thể nói được về TÂM là nó, là
trung-tâm đích thật của Hữu-thể anh, mà
thực-sự anh đồng-nhất với nó ; dù anh
thức hay ngủ, hay mộng, hay anh đang
hoạt-động, hoặc anh đang chìm trong
trạng-thái thần-hóa Tam-muội (Samadhi).
Dilip : _ Vậy thì sao Tâm ấy lại có thể có một
vị-trí ở một chỗ nào trong thân-thể được ?
Định một vị-trí cho Tâm ấy ngụ có sự
giới-hạn về sinh-lý cho cái gì ở ngoài
thời-gian và không-gian .
ADPH RAMANA MAHARSHI
386
Bhagavan : _ Đúng, nhưng người đặt câu hỏi
về Tâm đã tự tin là chính mình có thật với
nó hay là ở trong thân-thể... Vì nhà Hiền
không ý-thức được thân-thể mình chút
nào trong sự thực-nghiệm xuất-thần về
cái Tâm ( Tâm-linh ) coi như ý-thức
thuần-túy. Y định vị-trí cho sự thực-
nghiệm tuyệt-đối ấy ở trong vòng giới-
hạn của thân-thể vật-lý bằng cách nhớ lại
những cảm-giác đã thấy trong khi y ý-
thức về thân-thể vật-lý của mình .
Dilip : _ Đối với những người như tôi, không
từng làm thực-nghiệm trực-tiếp về Tâm
và do đó mà tôi không có hồi-niệm về nó,
thì vấn-đề có vẻ khó hiểu. Có lẽ về vị-trí
của Tâm chúng ta lệ-thuộc vào sự ước-
đoán .
Bhagavan : _ Nếu phải suy-đoán về vị-trí của
Tâm Tâm-linh thì dù đối với kẻ ngu-độn
vấn-đề không đáng để xét kỹ. Không,
Không phải lệ-thuộc vào sự ước-đoán của
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
387
anh mà vào một trực-giác chắn-chắn
không sai lầm .
Dilip : _ Ai là người có cái trực-giác ấy ?
Bhagavan : _ Tất cả mọi người .
Dilip : _Ngài có tin là tôi có trực-giác về cái
Tâm Tâm-linh không ?
Bhagavan : _ Không. Anh không phải trực-giác
về cái Tâm Tâm-linh, mà vị-trí của Tâm
ấy tương-đối với cá-tính của anh .
Dilip : _ Có phải Ngài muốn nói là tôi biết
trực-giác về vị-trí của Tâm Tâm-linh
trong cơ-thể vật-lý của tôi ?
Bhagavan : _ Tại sao không ?
Dilip : _ ( Tự chỏ vào mình ) Phải chăng chính
là tôi mà Ngài đang nói đấy không ?
ADPH RAMANA MAHARSHI
388
Bhagavan : _ Phải. Đấy là trực-giác. Tại sao
anh lại chỏ vào anh bằng cử-chỉ ấy đúng
lúc này ? Anh chẳng lấy ngón tay chỉ vào
ngực bên phải anh đấy ư ? Đấy chính là
vị-trí của Tâm Trung-tâm . .
Dilip : _ Bởi vậy mà khi thiếu sự nhận-thức
trực-tiếp về vị-trí của Tâm Trung-tâm thì
tôi phải nhờ đến cái Trực-giác ấy ?
Bhagavan : _ Có gì hại về điều ấy ? Khi một
người học-trò nói : " Chính tôi đã làm bài
tính cộng này đúng ", hay là khi nó hỏi
anh : " Tôi sẽ phải đi tìm cho ông quyển
sách ấy ư ? ", thì nó chỉ vào đầu nó để nói
nó đã làm được bài tính hay là nó chỉ vào
chân nó để chạy mau lẹ đến chỗ có quyển
sách ? Không phải ở cả hai trường-hợp
ngón tay nó đều tự nhiên chỉ vào bên phải
của lồng ngực. Nó diễn-tả một cách rất tự
nhiên về cái chân-lý uyên-thâm rằng
Nguồn của cái Ngã tại nó là ở đấy. Đấy là
một cái trực-giác không sai lầm khiến nó
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
389
tự chỉ vào mình, vào cái Tâm Tâm-linh là
Tự-Tính như thế. Cử chỉ đó hoàn-toàn vô-
tình và phổ-thông đại-đồng, nghĩa là nó
có chung cho tất cả mỗi trường-hợp cá-
nhân. Anh còn đòi-hỏi một bằng-chứng
nào chính-xác hơn về vị-trí của cái Tâm
Trung-tâm ở tại thân-thể vật-lý con
người ? "
Vậy giáo-lý của Ngài Bhagavan từ nay
phải ngồi chỉ-định vào trái tim bên phải lồng
ngực và tự hỏi " Ta là Ai ? " Nếu trong khi
thiền-định tư-tưởng có nổi hiện lên thì ta không
nên theo nó đến cùng, mà phải quan-sát chúng
và tự hỏi : Cái tư-tưởng này là gì ? Từ đâu nó
đến ? Và nó đến cho ai ? Phải chăng nó đến
cho tôi – Vậy tôi là ai ? Cứ như thế mỗi tư-
tưởng đều biến đi khi người ta phân-tích nó và
nó sẽ trở về cái ý-tưởng cơ-bản : Tôi tư-tưởng .
Nếu có những tư-tưởng nhiễm-ố hiện lên
thì cũng phải đối-phó với chúng như thế, bởi vì
sự thực nhà tu-tập làm công việc như nhà phân-
ADPH RAMANA MAHARSHI
390
tâm-học, nhà phân-tâm-học tẩy sạch tiềm-thức
những ô-nhiễm bằng cách đưa nó ra ánh-sáng
để rồi phá hủy đi .
" Phải ! Tất cả các loại tư-tưởng đều
xuất-hiện trong khi thiền-định. Điều ấy
rất đúng bởi vì tất cả cái gì ẩn-náu ở mình
đã được phơi bày ra ánh sáng của ý-thức.
Nếu những tư-tưởng ẩn-náu không được
phơi bày ra ánh sáng thì làm thế nào
chúng có thể tiêu hủy đi được ."
_(Trích dẫn trong Kinh Thánh Maharshi)
Tất cả các hình-thức tư-tưởng đều xa lạ
đối với lối thiền-định này. Có khi một đệ-tử hỏi
Ngài Bhagavan xem y có thể dùng đề-tài như :
" Tôi là nó ! " hay một người khác trong khi
Cứu-xét, nhưng Ngài luôn luôn cấm y làm như
thế. Có trường-hợp khi một đệ-tử đề-nghị hết
đề-tài này đến đề-tài khác, Ngài giải-thích :
" Tất cả hình-thức tư-tưởng đều không thích-
hợp cho sự Thực-hiện. Điều nên làm và cần
phải là diệt-trừ tất cả tư-tưởng về mình và tất
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
391
cả tư-tưởng khác. Tư-tưởng là một việc mà
Thực-hiện lại là một việc khác ."
Câu hỏi : Ta là Ai ? không ngụ có sự trả
lời. Không thể có trả lời được ở đấy bởi vì nó
làm tan biến cái tôi tư-tưởng, nó đi theo tất cả
các tư-tưởng khác và nó thấu suốt ra đến tận
chỗ tịch-tĩnh không còn một tư-tưởng nào hết .
" Nó sẽ không trả lời cho trí-thức
trên quá-trình cứu-xét bằng một câu gợi ý
nào, ví như " Sivoham " : ( Tôi là Thần
Siva ). Câu trả lời chính-xác tự nó sẽ đến,
Tiểu-Ngã bất-lực không thể đem lại giải-
đáp chính-xác " .
Giải đáp chẳng phải cái gì khác hơn là
dòng ý-thức thức-tỉnh nó rung-động như là
bản-thể của mỗi cá-tính. Và tuy nhiên nó vô-
ngã. Nhờ sự thực-tập chuyên-cần, quá-trình
thức-tỉnh ấy càng tăng tần-số ba-động đến
thành liên-tục. Không những trong khi thiền-
định mà còn tiềm-tàng trong khi nói và hành-
ADPH RAMANA MAHARSHI
392
động nữa. Cả những lúc ấy, sự tự Cứu-xét Tự-
Tính ( Vichara ) vẫn còn phải được sử-dụng,
bởi vì cái Tiểu-ngã có thể chặn lại dòng thức-
tỉnh, và nếu được tự-do nó sẽ dần dần trở nên
mạnh để chiếm lại địa-vị ưu-thế, chẳng khác gì
quân ngoại-quốc được dân Do-Thái để cho ở
lại Đất Thánh. Ngài Bhagavan khi trả lời cho
đệ-tử Pillai thường nhấn mạnh rằng phải theo
đuổi việc Cứu-xét Tự-Tính cho đến cùng. Bất
cứ trạng-thái ý-thức nào, bất cứ quyền-năng
thần-thông gì, bất cứ những tri-giác gì hay là
hiện-thị gì có thể đến, luôn luôn phải hỏi chúng
đến cho ai, cho đến khi chỉ có Tự-Tính còn lại
thôi .
Sự thực những thị-hiện và những quyền-
năng đều chứng-tỏ một sự đãng-trí. Chúng kéo
tinh-thần xuống, cũng như sự chấp-trước vào
thế-lực vật-chất và khoái-lạc. Chúng làm cho
tinh-thần lầm mà tưởng-tượng rằng nó đã biến
hình vào Tự-Tính. Và đi đôi với quyền-năng
thích-thú trần-tục thì tham-dục về chúng còn tai
hại hơn cả sự có được chúng .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
393
Một hôm đạo-sĩ Narasimha ngồi trước
mặt Ngài Bhagavan, y đang dịch ra tiếng Tamil
đời sống và lời nói của Vivekananda. Khi dịch
đến sự-kiện ai cũng biết là chỉ một đụng chạm
mà Ramakrishna đã làm cho Vivekananda tri-
giác được " Vạn vật đồng nhất thể ". Y bèn có
ý-nghĩ phải chăng nên mong cầu được cái tri-
giác ấy và phải chăng Ngài Bhagavan có thể
ban cho y cái ấy bằng sự đụng chạm hay mắt
nhìn ? Như thường xẩy ra, vấn-đề đang làm
cho y thắc-mắc, thì một tín-đồ khác nêu lên vào
chính lúc ấy. Bà Echammal hỏi không biết
những tín-đồ có đạt được quyền-năng thần-
thông không ? Đấy là vào thời-kỳ Ngài
Bhagavan đang sáng-tác bốn mươi câu thơ về
Thực-Tại, công-trình ấy thêm vào với những
bổ-túc có thể coi như là toát-yếu học-thuyết
của Ngài. Ngài viết bài thơ này để trả lời cho
câu hỏi trên đây :
" An-trụ vững trong Thực-Tại Vĩnh-
cửu đấy là quyền-năng thần-thông chân-
chính. Còn tất cả những sở-đắc khác thì
ADPH RAMANA MAHARSHI
394
cũng giống như những cái gì người ta vẫn
có ở trong mộng. Những sở-hữu ấy có
thật không sau khi người ta đã tỉnh mộng?
Những ai đã an-trụ vào Thực-Tại và giải-
thoát khỏi tất cả huyễn-tưởng còn cần chi
đến những vật ấy ? "
Tất cả cái gì bí-mật đều là chướng-ngại
vật cho tinh-thần. Quyền-năng thần-thông và
sự mong muốn có quyền-năng ấy đều là
chướng-ngại cho nhà tu-luyện. Trong Devika-
lettram mà Ngài Bhagavan đã dịch từ tiếng
Phạn sang tiếng Tamil có nói :
" Không được nhận những quyền-
năng thần-thông, dù cả đến khi anh được
ban cho một cách trực-tiếp, vì chúng
chẳng khác gì một chiếc giây thừng buộc
con vật, chiếc giây thừng ấy sớm muộn
thế nào cũng làm cho anh sa-ngã. Giải-
thoát Tối-cao không ở con đường ấy. Nó
chỉ ở tại trong ý-thức vô-biên ."
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
395
Sau khi đã đi ra ngoài đề, hãy trở lại vấn-
đề của chúng ta. Ngài Bhagavan không những
khuyên-nhủ người ta Cứu-xét Tự-Tính như là
kỹ-thuật thiền-định, mà còn là kỹ-thuật sống
nữa. Hỏi về sự Cứu-xét ấy phải dùng thường-
xuyên hay là chỉ dùng vào giờ nhất-định của
thiền-định. Ngài trả lời : " Thường xuyên ! "
Câu trả lời ấy soi sáng sự từ chối đời sống
xuất-gia. Vì chính những trường-hợp cản-trở
tu-luyện lại biến thành công-cụ của tu-luyện
( Sadhana ) .
Rốt cuộc tu-luyện chỉ là phấn-đấu chống
Tự-ngã ( cái Ta ) và Thần-hóa thiền-định cũng
không đem lại thành-công cho nó chừng nào
Tự-ngã còn trong vòng mong ước, sợ-hãi, hoài-
bão và oán-hờn hay là tất cả những đam mê
dục-vọng đủ loại .
Thần Rama và Vua Janaka trong thần-
thoại được giải-thoát hết cả hệ-lụy, mặc dầu
các vị ấy vẫn sống tại thế-gian này. Nhà tu-sĩ
từng đã lăn tảng đá xuống động của Ngài
ADPH RAMANA MAHARSHI
396
Bhagavan thì vẫn còn bị giam-cầm trong thế-
gian mặc dầu ông ta đã xuất-gia .
Tuy nhiên không nên tin rằng một hành-
động hoàn-toàn vô-tư không cần đến những kế-
hoạch chiến-đấu là đủ đâu, bởi vì Tự-ngã rất
vi-tế và dai dẳng, nó sẽ ẩn-náu ngay tại chính
hành-động nhằm phá hủy nó, dưới hình-thức
khoe-khoang trong sự khiêm-nhường hay là
thích-thú trong sự khổ-hạnh .
Cứu-xét Tự-Tính ở trong công việc hàng
ngày, tự hỏi mình tất cả suy-tư hiện ra cho ai,
đấy là kế-hoạch chiến-đấu và là kế-hoạch hiệu-
nghiệm nhất. Người ta có thể ngờ-vực hiệu-
năng của kế-hoạch ấy khi nào liên-quan đến
một tư-tưởng lạnh-lùng vô-tình. Ví dụ như
phán-đoán về một cuốn sách hay một chuyện
phim ( Cinéma ), nhưng hiệu-năng của nó
mạnh ghê-gớm đối với tư-tưởng có cảm-xúc,
nó nhổ ngay tận rễ những đam mê. Có người
nào làm thương-tổn anh, anh nhìn người ta với
con mắt thù-hận – ai là người bị thương-tổn và
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
397
ai hận-thù ? Ai là người tự mãn hay bất mãn, ai
giận-dữ hay đắc-thắng ? Có khi người ta mộng
ban ngày hay là người ta gọi lầm những khả-
năng thành-công, và như thế thổi phồng Tự-
ngã ( cái Ta ) lên cũng như là thiền-định làm nó
xẹp xuống. Vào những lúc ấy thì phải có nghị-
lực và sáng trí để tuốt lưỡi gươm Cứu-xét Tự-
Tính, chặt đứt tung con rắn uốn khúc đang xiết
chặt .
Ngài Bhagavan cũng khuyên nhủ phải
hoàn-toàn phục-tòng Thiên-mệnh, ý muốn của
Thiêng-liêng, song hành với việc Cứu-xét Tự-
Tính. Ngài thường ví một cá-nhân lầm tưởng tự
mình mang lấy gánh nặng và những trách-
nhiệm của mình với một người hành-khách trên
xe lửa khư-khư mang lấy hành-lý của mình tuy
đã có xe chở mình và hành-lý, trong khi ấy có
một hành-khách khác đặt hành-lý vào giỏ lưới
của tầu và ngồi thoải-mái. Tất cả những
khuyên-nhủ và tất cả những thí-dụ mà Ngài đã
ban cho đều hướng vào một điểm làm giảm nhẹ
ADPH RAMANA MAHARSHI
398
sự xả-tư tự-lợi và đánh tan cái huyễn-tưởng cho
" Đấy là tôi làm " .
Một nhà hoạt-động đắc-lực cho một hội-
nghị là Jammalal Bajaj một hôm đến Tùng-lâm
và hỏi : " Nguyện-vọng đặc-biệt chính-trị có
chính-đáng không ? " Ngài Bhagavan trả lời :
" Có ! Một sự cố-gắng bền-bỉ nhằm đạt tới
mục-đích ấy thì mở rộng nhãn-quan khiến cho
cá-nhân dần dần lặn chìm vào dân-tộc. Sự lặn
chìm cá-nhân ấy rất đáng mong muốn và
nghiệp hành-động là hành-động vô-cầu không
tạo nghiệp-báo nữa ( Nishkamyakarma ) ! "
Chắc hẳn hân-hoan vì thấy đạo-sĩ công-
nhận chủ-trương chính-trị của mình và muốn
được đạo-sĩ xác-định lại một cách rõ-rệt hơn,
Jammalal hỏi thêm một câu hỏi nữa có vẻ hợp
lý tiếp theo với câu hỏi trên : " Nếu đạt được
độc-lập chính-trị sau một sự cố-gắng lâu dài và
hy-sinh ghê-gớm phải chăng người ta có quyền
tự-mãn với kết-quả tranh-đấu của mình ? "
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
399
Nhưng lần này thì y thất-vọng._" Không !
Trên quá-trình tranh-đấu, đáng lẽ nó phải tòng-
phục một Thế-lực cao hơn luôn luôn hiện-tại
trong tinh-thần mình mà mình không bao giờ
được lãng quên. Làm thế nào mà mình có thể
tự-mãn được ? Y không được để ý cả đến kết-
quả về việc làm của y. Chỉ bấy giờ y mới thật
là vô-tư ( Hành-động không tạo nghiệp -
Nishkamya ) ."
Điều này có nghĩa là kết-quả việc làm của
mình nằm ở trong tay Thượng-Đế và chúng ta
chỉ chịu trách-nhiệm về sự tinh-khiết và vô-tư
của việc làm. Hơn nữa việc làm chính-nghĩa vì
chính-nghĩa không có tư-lợi cá-nhân, người ta
phục-vụ cho người khác ngoài cả kết-quả cụ-
thể. Và sự phục-vụ ấy có khả-năng hơn, đủ tế-
nhị hơn là kết-quả cụ-thể cho thấy. Người ta
cũng tự làm lợi cho mình một cách trực-tiếp, sự
thực hoạt-động vô-tư ví như mở trương-mục tại
ngân-hàng ; Nó tích lũy và tăng tiến các nghiệp
tốt và là nhân duyên cho đời sống vị-lai .
ADPH RAMANA MAHARSHI
400
Ở một trường-hợp tương-tự khi có khách
hỏi, Ngài Bhagavan đã trả lời họ về thái-độ
tinh-thần và có thể khiến cho hoạt-động xã-hội
hay chính-trị thành con đường tu đạo chính-
đáng. Nhưng Ngài can ngăn không cho đệ-tử
mình hoạt-động theo kiểu ấy. Cần thành-tựu
nhiệm-vụ của mình ở đời cho trong sạch và vô-
tư, làm việc thiện vì là thiện. Dù rằng tình-thế
hiện-tại của thế-giới có vẻ như hỗn-độn nhưng
nó là thành-phần trong một đại-hòa-điệu to lớn
hơn, và khi người ta khai-triển sự Tri Ngã Tự
Thân thì người ta có thể đồng thời biết được cái
hòa-điệu ấy và ảnh-hưởng vào cái hòa-điệu lớn
hơn, nhiều hơn là cố-gắng thay-đổi trào-lưu sự-
vật của thế-giới .
Giáo-lý của Ngài Bhagavan được toát-
yếu về điểm này trong cuộc vấn-đáp với Paul
Brunton :
Paul Brunton : _ Ngài ( Maharshi : Đại Tiên
Tri ) có sẵn lòng cho tôi biết ý-kiến của
Ngài về tương-lai của thế-giới mà chúng
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
401
ta đang sống những thời buổi khủng-
hoảng Này ?
Bhagavan : _ Tại sao ông lo-lắng về tương-lai,
ông không biết đứng đắn cả về hiện-tại.
Hãy để ý về hiện-tại, còn tương-lai sẽ có
biện pháp của nó !
Paul Brunton : _ Thế-giới sắp đi vào một thời-
đại thân-yêu và hỗ-tương lẫn nhau hay là
sẽ chìm vào hỗn-độn chiến-tranh ?
Bhavavan : _ Có một đấng cai-quản thế-giới và
đấy là nhiệm-vụ của Ngài phải trông-
nom. Ai đã sinh ra thế-giới thì chính vị ấy
cũng biết săn-sóc thế-giới. Ngài đảm-
nhận vận-mệnh của thế-giới chứ không
phải ông .
Paul Brunton : _ Tuy vậy, khi người ta nhìn
chung-quanh một cách khách-quan thì
khó lòng nhìn thấy con mắt nhân-từ ấy ở
chỗ nào .
ADPH RAMANA MAHARSHI
402
Bhagavan : _ Ông thế nào thì thế-giới như thế.
Khi mà ông không hiểu chính ông thì có
ích gì để tìm hiểu thế-giới ? Người cầu
tìm chân-lý không cần đặt câu hỏi như
thế. Người ta đã phí phạm thì-giờ về
những vấn-đề như thế. Trước hết hãy
khám-phá cái chân-lý ẩn tại nơi mình, bấy
giờ ông sẽ có khả-năng hiểu chân-lý ẩn
trong thế-giới mà ông là thành-phần .
Phải thêm rằng ở câu chót của Ngài
Bhagavan, Ngài đã dùng chữ " Chính ông " để
chỉ-thị cái Tự-ngã ( cái tôi cá-nhân ) mà trong
khi ấy người nói lấy làm là mình. Cái Chân-ngã
( Tự-Tính ) không phải là thành-phần của thế-
giới mà vừa là Tự-Tính vừa là Hóa-công của
thế-giới .
Cái công-dụng thực-hành sự Cứu-xét Tự-
Tính trong hoạt-động đời sống hàng ngày là sự
khai-triển việc sử-dụng truyền-thống của nó và
là một sự ứng-dụng vào nhu-cầu của thời-đại
chúng ta .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
403
Sự sử-dụng trực-tiếp nó làm định-niệm,
đấy là con đường đạo-dẫn ( Sadhana ) thuần-
túy và cổ-kính nhất. Tuy rằng Ngài Bhagavan
tiếp-thụ nó một cách tự-nhiên và không từng có
ai chỉ bảo, nó vốn là truyền-thống của các
Tiên-Tri thời xưa .
Nhà Hiền-triết Vashista viết :
" Sự Cứu-xét " Ta là Ai ? " là sự
cầu tìm cái Tự-Tính, và nó có thể trở nên
ngọn lửa đốt cháy trong mầm độc của Tư-
tưởng danh-lý khái-niệm ( Conceptual ) .
Tuy nhiên, trước kia nó chỉ là con đường
Giác ( Jnana Yoga ) uyên-thâm và giản-dị
nhất, Chân-lý tối huyền-nhiệm chỉ biểu-lộ
cho ai có được hiểu-biết thuần-túy nhất
mà họ phải noi theo chuyên-cần trong
thiền-định, xa lánh những cám-dỗ ở thế-
gian. Mặt khác, Đạo Hành-động ( Karma
- Yoga ) thích-hợp cho người tại-gia. Như
ở trong Thế-Tôn-Ca ( Bhagavad Gita )
được định-nghĩa là một đời phụng-sự và
hành-động vô-cầu, không lệ-thuộc vào
ADPH RAMANA MAHARSHI
404
kết-quả của hành-động, nghĩa là vô-vị-lợi,
không chút vị-kỷ. Hai con đường ấy Tri
và Hành hợp-nhất với nhau ở đây, tạo ra
một con đường mới thích-ứng với điều-
kiện thời-đại chúng ta, một con đường mà
người ta có thể theo đuổi trong sự yên-
lặng ở ngay trong bàn-giấy hay trong nhà
máy, cũng như ở trong Tùng-lâm hay
trong hang-động, trì-giới hay không trì-
giới, nó chỉ cần để chút thì-giờ hàng ngày
vào việc Tâm-niệm và Hồi-niệm về sự
Cứu-xét Tự-Tính ".
" Chung-cục tất cả những gì bí-ẩn sẽ
lộ ra ánh-sáng ."
Lời ấy của Chúa Cơ-Đốc được hoàn-
thành ở học-thuyết bằng sự tuyên-bố công-khai
con đường đạo cùng tột và bí-hiểm nhất, và
bằng sự thích-ứng với điều-kiện ở thời-đại
chúng ta. Đấy là công-trình Ngài Bhagavan đã
thực-hiện .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
405
Sự thực, con đường ấy còn hơn là một sự
hỗn-hợp con đường Tri và Hành, mà cũng là
con đường Sùng-bái ( Tín-ái ) của Tình-yêu
( Bhakti ), bởi vì nó tạo sinh Tình-yêu thuần-
túy – Tình-yêu Tự-Tính, Sư-phụ nội-tâm là
Tình-yêu Thế-Tôn, Tình-yêu Thượng-Đế. Ngài
Bhagavan đã nói trong Kinh ( Maharshi ) :
" Thường-trụ vĩnh-viễn thường-
xuyên, tự-nhiên ở Tự-Tính Tối-cao sự
thực là con đường Giác ( Jnana Yoga ).
Muốn thường-trụ ở Tự-Tính thì phải yêu
Tự-Tính. Bởi vì Thượng-Đế sự thực là
Tự-Tính, yêu Tự-Tính là yêu Thượng-Đế,
và đấy là Tín-yêu Sùng-Bái ( Bhakti ).
Như vậy thì con đường Giác ( Jnana-
Yoga và Tín-yêu Sùng-bái ( Bhakti ) là
MỘT và như nhau .
" Con đường Giác ( Jnana-Yoga ) và
con đường Tín-ái Sùng-bái (Bhakti-Yoga)
liên-hợp, có vẻ là hai đường không khác
nhau, nhưng chúng lại có vẻ khó mà gần
với nhau, cái nọ không ngăn cản cái kia.
ADPH RAMANA MAHARSHI
406
Sự thực chúng có thể dung-hợp làm một
đường độc-nhất, chúng toàn-diện như
mô-tả trên đây ."
Một đàng sự phục-tòng Sư-phụ ngoại-
biểu nhờ Ân-điển dẫn đến Sư-phụ nội-tâm, mà
công-trình Cứu-xét Tự-Tính cố tìm khám-phá,
và đàng khác, sự Cứu-xét Tự-Tính dẫn đến
trạng-thái an-tĩnh và phục-tòng .
Cả hai phương-pháp đều nỗ-lực nhằm
khắc-phục tinh-thần, một đàng trước Sư-phụ
bên ngoài, một đàng trước Sư-phụ bên trong.
Những phương-pháp gián-tiếp của khoa tu-tập
( Sadhana ) đạo-dẫn là tìm củng-cố và xây-
dựng tinh-thần, ngõ hầu nó trở nên đủ mạnh và
lớn để khuất-phục trước Tâm-linh. Và chính
điều ấy mà Ngài Bhagavan đề-cập đến như là
đứa kẻ-trộm hóa thành người cảnh-sát để bắt
kẻ-trộm là chính mình. Sự thực rất đúng là
tinh-thần phải được củng-cố và thanh-khiết-hóa
trước khi nó hàng phục. Nhưng với sự sử-dụng
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
407
Cứu-xét Tự-Tính dưới Ân-điển của Ngài
Bhagavan, điều ấy đến một cách tự-nhiên .
Một đệ-tử khác Krishna Javrajani hỏi
Ngài Bhagavan về vấn-đề ấy như sau :
" Trong kinh điển nói rằng người ta
phải trau-giồi ở mình tất cả những phẩm-
tính tốt và linh-thiêng, ngõ hầu sửa soạn
để thực-hiện Tự-Tính ".
Ngài Bhagavan trả lời :
" Tất cả những phẩm-tính tốt và
linh-thiêng đều nằm trong đạo Giác
( Jnana ) và tất cả những phẩm-tính xấu
và ma quỷ thì nằm cả trong vô-minh
( Ajnana ). Khi nào Giác-ngộ thì tất cả
vô-minh biến mất và tất cả đức-tính linh-
thiêng tự nhiên xuất-hiện. Nếu một người
là bậc Giác thì không thể nào nói ra một
điều dối-trá hay làm một điều gì sai lầm .
" Chắc có kinh-điển viết rằng người
ta phải lần lượt trau-giồi đức tính và như
thế để sửa-soạn giải-thoát ( Moksha ) cuối
ADPH RAMANA MAHARSHI
408
cùng, nhưng đối với ai theo con đường
Giác hay con đường Cứu-xét Tự-Tính thì
tự nó cũng đủ để được tất cả những
phẩm-tính thiêng-liêng, không cần phải
làm gì khác nữa ."
Tuy nhiên có lẽ người ta cũng hỏi rằng
con đường Cứu-xét Tự-Tính thực-tế như thế
nào thì có thể đạt được .
Ngài Bhagavan nhắc lại trong Giáo-lý
Tâm-linh ( Spiritual Instruction ) thu-thập ngay
sau khi Ngài rời khỏi Tùng-lâm Skanda. Bấy
giờ có một đệ-tử hỏi Ngài : " Tất cả những
người cầu tìm Chân-lý bất cứ ở trình-độ tinh-
thần nào có thể thâu-nhận và hoàn-toàn thực-
hành phương-pháp Cứu-xét Tự-Tính ấy được?"
Ngài Bhagavan trả lời :
" Phương-pháp ấy chỉ dành cho
những tâm-hồn đã chín mùi, những người
khác phải tập-luyện các môn cần-thiết
bằng cách thâu-nhận những phương-pháp
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
409
thích-ứng với trình-độ phát-triển cá-nhân
của mình về tinh-thần cũng như đạo-đức."
Người ta cũng dẫn-chứng một câu trả lời
tương-tự vào thời ở Tùng-lâm Virupaksha đã in
trong Ramanagita "Những Phương-pháp khác"
ấy gồm có sự tôn-trọng nghi-lễ Sùng-bái và
tôn-giáo Thiền-định, cầu-nguyện, chân-ngôn,
cả sự điều-tiết hơi thở. Sự thực-hành ấy hẳn là
để sửa-soạn cho việc sử-dụng Cứu-xét Tự-
Tính, nhưng người ta cũng có thể dùng đồng
thời với khoa Cứu-xét Tự-Tính. Có nhiều đệ-tử
nói với Ngài Bhagavan rằng họ sử-dụng những
phương-pháp đó do Sư-phụ họ đã ấn-định hay
được Ngài cho phép sử-dụng. Ngài Bhagavan
vui lòng nghe họ trình-bày và biểu-đồng-tình .
Nhưng nếu có một trong nhóm đệ-tử bỏ
giới-luật của mình, cho là không thích-hợp nữa,
thì Ngài cũng đồng-ý. Một đệ-tử thú-nhận với
Ngài rằng những phương-pháp y thực-hành
trước đây không có ích gì nữa và xin phép Ngài
cho y bỏ đi .
ADPH RAMANA MAHARSHI
410
Ngài trả lời :
" Phải ! Tất cả phương-pháp tóm lại
chỉ là dẫn đến phương-pháp Cứu-xét Tự-
Tính ."
Trong những ngày cuối ở Tùng-lâm dưới
chân núi, người ta không thể bảo rằng Ngài đã
giới-hạn sự thực-hành phương-pháp Cứu-xét
Tự-Tính, nhưng trái lại Ngài chỉ-định một cách
công-khai cho tất cả những ai hỏi Ngài về con
đường cầu đạo. Đồng thời với sự Cứu-xét Tự-
Tính, Ngài khuyên nên thiền-định, lấy trái tim
làm đối-tượng. Như thế có thể kết-luận rằng
nhờ hình-thức mới mà Ngài Bhagavan đã đem
lại cho phương-pháp Cầu tìm Tự-Tính trở nên
dễ theo cho tất cả những ai khao-khát sử-dụng
nó nhờ vào môi-trường Ân-điển của Ngài .
Người ta cũng nhận thấy rằng, chừng nào
người ta có thể tin cậy vào sự hiển-nhiên thì ít
có người trong số đệ-tử thực-sự khao-khát sử-
dụng con đường ấy. Thực ra nhiều người đến
Tùng-lâm để xin Ngài soi sáng về bí-quyết của
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
411
đời sống hoặc là họ chỉ muốn thi-hành một vài
giới-điều, nhằm mục-đích đem lại cho họ sự
an-tĩnh hay tẩy sạch và củng-cố bản-tính của
họ. Rõ ràng là họ còn xa mới hiểu được học-
thuyết Bất-Nhị-Pháp hay là thực-hành con
đường tu đạo Cầu-tìm Tự-Tính. Những người
quan-sát bề-ngoài thì khó mà khỏi thất-vọng
hay buồn tẻ vì không được khuyến-khích.
Nhưng đấy chỉ là đối với người quan-sát phù-
phiếm. Quan-sát kỹ sẽ hiểu rằng sự giải đáp
thực đã không phải ở tại lời nói. Nó chính là ở
tại ảnh-hưởng yên-lặng, thấm-nhuần từ từ vào
tinh-thần người vấn đạo .
Trong diễn giải Ngài Bhagavan chủ-
trương Chân-lý cùng-tột mà bậc đại Giác công-
nhận như Chân-lý tuyệt-đối. Cũng như Ngài
chủ-trương bậc đại Giác ( Jnani ) siêu lên trên
Nhị-biên, hết cả liên-hệ cho nên không nhận ai
là đệ-tử. Những Ân-điển thầm-lặng của Ngài
ảnh-hưởng vào tinh-thần người ta, khiến cho
nó tự tìm ra " các phương-pháp khác " thích-
hợp hơn cho sự phát-triển của nó. Như điều đã
ADPH RAMANA MAHARSHI
412
nói về những người nào chỉ tìm khắc-phục và
giữ tinh-thần yên-lặng tịch-tĩnh. Chỉ-giáo bằng
lời không cần-thiết, mỗi người được độ thích-
ứng với bản-tính của mình, tương-đương với
khả-năng và đức Sùng-bái Tín-ái. " Ân-điển
của Sư-phụ ví như đại-dương, kẻ nào đến với
cái bát sẽ được một bát nước, không nên phàn-
nàn về sự kiệm-ước của đại-dường, đồ chứa
càng lớn càng chứa được nhiều nước. Tất cả
đều thuộc vào khả-năng của người cầu đạo ."
Một bà già người Pháp, mẹ của một đệ-tử
đến thăm Tùng-lâm. Bà không hiểu gì và cũng
không hiểu về triết-lý của Ngài Bhagavan. Từ
cuộc thăm viếng ấy về sau bà sùng-tín Da-Tô-
giáo nhiệt-thành mà trước đấy tín-ngưỡng của
bà chỉ là hình-thức. Bà công-nhận rằng sự biến-
đổi ở bản-thân bà là do ảnh-hưởng của Ngài
Bhagavan. Giáo-lý của Ngài cốt ở bề sâu hơn
là ngôn thuyết .
Cũng có thể rằng với thời-gian Ân-điển
tăng-tiến của Ngài Bhagavan cũng thắt chặt tín-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
413
đồ vào với Ngài và như thế sửa-soạn tâm-hồn
họ để Cứu-xét Tự-Tính, qua đức Sùng-bái Tín-
ái. Không phải chỉ riêng những đệ-tử mới nhận
thấy sự hiền-hòa kỳ-lạ sáng chiếu ở nét mặt của
Ngài, mà những người khách vãng-lai cũng
nhận thấy thế. Qua Tình-Yêu Ngài dẫn đến
Giác-Ngộ. Cũng như Cứu-xét Tự-Tính qua
Giác-Ngộ đi đến Tình-Yêu. Sự Sùng-bái vào
Ngài biến chuyển tinh-thần nội-hướng vào Tự-
Tính. Ngài biểu-hiện, cũng chính như Cứu-xét
Tự-Tính nội-tâm gọi dậy Tình-yêu vô-hạn về
Tự-Tính biểu-hiện ở Ngài .
Một trong hàng đệ-tử mô-tả sự kiện ấy
như sau :
" Chỉ cần nhìn gương mặt hiền-hòa
khôn tả, nhậy-cảm, hết sức hiền-triết
đồng thời hồn-nhiên như đứa trẻ sơ-sinh.
Ngài biết tất cả những điều cần biết ở ta.
Có khi một ba-động làm cho tôi rung-
động cả trong tim. Ngài Bhagavan !
Chính là tinh-hoa của bản-thể tôi hiện-
ADPH RAMANA MAHARSHI
414
hình, chính tâm tôi biểu-hiện ra ngoài. –
Tôi là Ai ? " .
Như vậy thì sự Cứu-tầm lệ-thuộc vào
Tình-Yêu. Thông-thường một Sư-phụ không
công-khai mô-tả bằng lời nói hay văn-tự, Kỹ-
thuật con đường tu-đạo ( Sadhana ) như Ngài
Bhagavan. Như thế là vì Kỹ-thuật kia chỉ có
hiệu-năng khi nào Sư-phụ trực-tiếp truyền cho
đệ-tử .
Sự phát-minh của Ngài Bhagavan về vấn-
đề này từ một quan-điểm khác nổi lên, vấn-đề
là làm thế nào để có thể đạt được Cứu-tầm Tự-
Tính, làm thế nào một khoa đạo-dẫn có thể đạt
được mà không có Sư-phụ trực-tiếp truyền
pháp cho ?
Chính Ngài Bhagavan cũng công-nhận
cái truyền-thống phổ-quát theo đấy thì Kỹ-
thuật đạo-dẫn chỉ có giá-trị khi nào chính Sư-
phụ truyền-thụ cho. Khi hỏi xem người ta có
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
415
thể lợi-dụng được một Chân-ngôn ( Mantra )
tiếp-nhận bất cứ bằng cách nào, thì Ngài trả lời:
" Không phải có một ai khải-ngộ về
Chân-ngôn ấy ".
Như vậy thì tại sao Ngài công-nhiên nói
về con đường Cứu-tầm Tự-Tính và có khi chỉ
dẫn cho người ta những đoạn văn của mình đã
mô-tả về con đường ấy ?
Giải thích duy-nhất là Ngài Bhagavan
không phải chỉ là Sư-phụ của một số đệ-tử đến
gần Ngài bằng da bằng thịt tại tỉnh Tiruvan-
namalai mà còn hơn thế nữa, Ngài là uy-thế và
Ngài phê-chuẩn. Ở vào thời mạt-pháp đen tối
của chúng ta ngày nay biết bao nhiêu người đi
tìm, nhưng một Sư-phụ rất khó tìm. Chính
Ngài Bhagavan đã giáng-thế thể-nhập như là
Chân Sư-phụ ( Sad Guru ), Người chỉ-đạo
Thánh-linh cho tất cả ai đã hướng vào Ngài và
Ngài đã tuyên-bố một con đường đạo-dẫn
( Sadhana ) mà tất cả ai cũng có thể đạt được.
ADPH RAMANA MAHARSHI
416
Ngài mở đường cho sự thành-đạo để tất cả mọi
người có thể đạt được bằng môi-trường Ân-
điển của Ngài. Sự thực-hành phương-pháp
Cứu-tầm Tự-Tính không phải chỉ dành riêng
cho những người đến Tiruvannamalai, mà cũng
không dành riêng cho người Ấn-Độ-giáo,
Giáo-lý của Ngài là tinh-túy của tất cả các tôn-
giáo, nó đã đưa ra ánh-sáng cái gì từ trước tới
nay vẫn còn bí-mật. Bất-Nhị-Pháp là định-đề
trọng-tâm của đạo Lão và đạo Phật. Học-thuyết
về Sư-phụ nội-tâm chính là học-thuyết của
" Chúa Cơ-Đốc tại bản thân mình " được phục-
hưng với ý-nghĩa đầy đủ của nó. Cứu-tầm Tự-
Tính thâm-nhập vào Chân-lý cùng-tột của tín-
ngưỡng Hồi-giáo hay là Shahada rằng chỉ có
một Thượng-Đế duy-nhất ngoài ra không có
Thượng-Đế nào khác. Không làm gì có Ngã
nào khác, chỉ có một Tự-Ngã Tự-Tính mà thôi .
Ngài Bhagavan đã vượt khỏi giới-hạn để
không còn phân-biệt các tôn-giáo. Những kinh-
điển Ấn-Độ-giáo có ích dùng được thì Ngài
đọc và giải-thích bằng chính bản văn của
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
417
những kinh-điển ấy. Ngài cũng sẵn-sàng, khi
nào có người hỏi, để giải-thích theo luận-điệu
của các tôn-giáo khác .
Con đường đạo-dẫn của Ngài chủ-trương
thì không lệ-thuộc vào một tôn-giáo nào.
Không những tín-đồ Ấn-Độ-giáo đến với Ngài,
ngoài ra còn có tín-đồ Phật-giáo, Thiên-Chúa-
giáo, Hồi-giáo, Do-Thái-giáo, Ba-Tư-giáo và
Ngài không đòi hỏi một tín-đồ nào phải thay
đổi tôn-giáo của mình .
Sự Sùng-bái Tín-ái Sư-phụ và nguồn Ân-
điển của Ngài dẫn đến Thực-tại thâm-trầm của
tất cả các tôn-giáo. Và Cứu-tầm Tự-Tính đưa
đến Chân-lý cùng-tột bên trong tất cả các tôn-
giáo .
*****
*
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
419
- XV -
NHỮNG ĐỆ - TỬ
Nói chung thì các đệ-tử là những người
rất bình-thường. Họ không có chút gì là bác-
học hay trí-thức. Và thường có một số trí-thức
cố-chấp về lý-thuyết của mình không nhận thấy
được Chân-lý sống-động và bỏ đi trong khi
những người chất-phác thì ngồi chìm trong
trạng-thái Sùng-bái, và nhờ vào đức Thành-tín
họ đã tiếp-thụ được Ân-điển của Ngài
Bhagavan .
Có khi người ta tưởng rằng vì sự Cứu-tầm
Tự-Tính mang danh-hiệu là Đạo Giác-ngộ
( Jnana marga ) thì chỉ có những người trí-thức
mới có thể theo được. Nhưng điều mà Ngài
Bhagavan cầu tìm là sự thông-cảm bằng tâm
chứ không phải bằng sự hiểu-biết lý-thuyết. Sự
hiểu-biết lý-thuyết hay học-thuyết có thể là trợ-
lực nhưng cũng có thể là một trở-ngại .
ADPH RAMANA MAHARSHI
420
Ngài Bhagavan viết :
" Sự hiểu-biết của những người
không biết sóa tẩy nghĩa đen của hai chữ
" định-mệnh " bằng tự hỏi " Chúng ta
sinh ra ở đâu, mà là người biết chữ ? "
Họ tự biến thành mọt đĩa-hát, hay là cái
gì khác ? Hỡi Thần núi Arunachala ?
Chính những người không biết chữ được
cứu-độ hơn là những người có sự hiểu-
biết mà tự-ngã không biết khắc-phục,
không chịu đầu-hàng ."
Câu nói về sự tẩy trừ nghĩa đen của định-
mệnh có liên-hệ với quan-niệm Ấn-Độ về định-
mệnh ghi rõ trên trán mọi người. Do đấy chính
nó ngụ-ý sự giải-thoát khỏi nghiệp-báo. Nó
xác-định điều đã nói ở chương V, liên-quan
đến thuyết định-mệnh, không trừ bỏ khả-năng
của nỗ-lực và thực ra cả sự thiết-yếu của nó .
- ( Theo 40 câu thơ bổ-túc. Bài 35 ; 36 )
Ngài Bhagavan không cấm-đoán học-
thức tự-thân, cũng không bài-bác tài-sản vật-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
421
chất hay quyền-năng thần-thông, điều mà Ngài
lên án là cái dục-vọng về chúng và sự bận tâm
về chúng sẽ làm chướng-ngại cho tinh-thần
mọi người, và khiến y lãng quên mục-đích
chân thật. Một bản văn cổ-điển đã trích-dẫn ở
quyển sách này nói rằng những quyền-năng
thần-thông cũng ví như một cái thừng trói chặt
một con vật. Ngài Bhagavan đòi một lòng
thành-thật chứ không phải một tinh-thần lanh-
lợi, sự thấu hiểu hơn là lý-thuyết, sự khiêm-tốn
hơn là kiêu-ngạo trí-thức .
Người ta nhận thức điều ấy nhất là trong
những buổi hát tụng những bài Thánh ca ở
trong phòng họp. Ngài chú-ý một cách thờ-ơ
vào tài-ba nghệ-thuật và dành tất cả hào-quang
Ân-điển cho một người hát với tất cả tâm-hồn
nhiệt-thành dù không không tài giỏi .
Dĩ nhiên đệ-tử của Ngài phần lớn là
người Ấn-Độ, nhưng ngoài ra còn có nhiều
người khác đến nữa. Paul Brunton, người Anh,
hơn tất cả ai hết, là người đã từng quảng-bá cho
ADPH RAMANA MAHARSHI
422
thế-giới biết về Ngài Bhagavan qua tác-phẩm
" Ấn-Độ Huyền-Bí " (A Search in Secret India)
của ông .
Trong đám đệ-tử thường-xuyên ở
Tùng-lâm hay gần đấy trong những năm cuối
cùng của Ngài, phải kể đến thiếu-tá Chadwick,
thân người vạm-vỡ, cử-chỉ quân-nhân, đôi mắt
hiền-từ, giọng nói sang-sảng ; Cô Taleyarkhan,
một tín-đồ đạo Ba-Tư, tính-tình có vẻ nghiêm-
nghị và dáng-điệu như một mệnh-phụ ; S.S.
Cohen từ A-Rap tới, bản tính êm đềm và kín-
đáo ; bác-sĩ Hafiz Syed, giáo-sư tiếng Ba-Tư đã
về hưu, vẻ người hấp-dẫn như một bậc quý-
phái cổ-điển Hồi-giáo. Những khách các nước
đến tham-vấn tùy theo lâu hay chóng : Người
Mỹ ; Pháp ; Đức ; Hòa-Lan ; Ba-Lan ; Tiệp-
Khắc .
Một người trẻ tuổi là bà con của Ngài
Bhagavan tên là Viswanathan vào năm 1923 và
đã ở lại hẳn đấy. Khi y đến đây mới có 19 tuổi
và không phải là lần đầu tiên y thăm viếng
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
423
Tùng-lâm, nhưng lần này, ngay sau khi bước
vào trong phòng y đã được Ngài Bhagavan hỏi
ngay : " Anh đã từ-giã cha mẹ anh chưa ? "
Bằng câu hỏi ấy vì Ngài Bhagavan đã
nhận thấy sự ở hẳn của Viswanathan. Ngài
thừa-nhận rằng người thanh-niên này cũng như
là mình xưa kia đã bỏ nhà ra đi để lại một
mảnh giấy, không cho gia-đình biết là mình đi
đâu. Ngài Bhagavan bắt y phải viết một bức-
thư cho thân-nhân. Tuy vậy thân-phụ của y
cũng đoán biết được là con mình đã đi về đâu.
Ông ta bèn đến nơi để nói chuyện với Ngài
Bhagavan. Ông này có tinh-thần cởi mở, mặc
dầu có những lời đồn đại về Ngài Bhagavan,
nhưng ông chỉ biết Ngài khi còn là Venkata-
raman, một người bà con trẻ của mình, chứ ông
khó có thể có một ý-niệm rằng đó là một vị
Thánh sống .
Khi ông đến trước mặt Ngài Bhagavan, tự
nhiên ông thấy thân-thể mình rung động, vì
ADPH RAMANA MAHARSHI
424
kinh-ngạc và vô-tình ông đã phủ-phục xuống
trước khi ý-thức được việc làm của mình .
Ông ta kêu lên : " Tôi không thấy ai ở
đây, ai là chàng Venkataraman xưa
nữa !"
Ngài Bhagavan bèn cười rộ lên :
" Ôi con người ấy còn đâu nữa ! Y
đã biến mất từ lâu rồi ! "
Một hôm Ngài ngồi nói chuyện vui vẻ với
Viswanathan, vẫn giọng hài-hước như thường
lệ, Ngài nói :
" Ít ra anh cũng biết Phạn-ngữ
( Sanscrit ) trước khi anh bỏ nhà ra đi,
còn tôi bấy giờ chưa biết gì cả ! "
Có nhiều đệ-tử khác ở Tùng-lâm biết
Phạn-ngữ và nghiên-cứu kinh-điển, trong số đó
có giáo-sư hưu-trí Venkatramiah, ông sống như
một tu-sĩ và viết nhật-ký về Tùng-lâm, ông đã
từng ở Tùng-lâm nhiều năm. Ngoài ra còn có
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
425
nhà giáo Sundares Siyar đã từng đề-cập ở trên,
và vẫn tiếp-tục dạy học ở Tiruvannamalai .
Một trong đại thi-hào tiếng Tamil Muru-
ganar cũng tới Tùng-lâm một năm với Viswa-
nathan. Chính Ngài Bhagavan có khi đã dẫn lời
thơ của ông ta hoặc yêu-cầu người khác đọc
cho mình nghe, chính Muruganar đã sưu-tập 40
bài thơ ấy và hợp thành một cuốn, và ông ta đã
bình-giải một cách rất đặc-sắc bằng tiếng
Tamil. Nhạc-sĩ đạo-sĩ Rama Aiyar còn là đệ-tử
lâu đời hơn cả, và cao niên hơn Ngài Bhaga-
van. Ông này đến tìm Ngài vào năm 1907 và
cũng sáng-tác một số bài thơ ca tụng Sư-phụ
Bhagavan .
Ramaswami Pillai đến vào năm 1911.
Còn trẻ tuổi, từ trường đại-học ông đi thẳng tới
đây và không rời khỏi Tùng-lâm nữa. Ông sống
đời tu-sĩ như hai vị trên, nhưng theo con đường
hoàn-toàn sùng-bái và phụng-sự .
ADPH RAMANA MAHARSHI
426
Vào năm 1947, một hôm Ngài Bhagavan
bị thương ở chân vì vấp phải một hòn đá khi đi
dạo mát quanh núi. Ngày hôm sau, đạo-sĩ
Pillai, tuy tóc đã hoa-râm nhưng vẫn khoẻ
mạnh và lực-lưỡng, đạo-sĩ đã lên đắp một con
đường nhỏ ở trên sườn núi. Đạo-sĩ làm việc
suốt ngày từ sáng đến tối, ngày này sang ngày
khác cho đến khi con đường nhỏ ấy hoàn-
thành, và đắp bên đường những tảng đá có đẽo
những bực lên xuống. Con đường nhỏ ấy rất
bền và được xây-dựng kỹ-lưỡng đến nỗi không
bao giờ bị trôi đi bởi nước lũ vào mùa mưa.
Tuy vậy người ta cũng không giữ-gìn con
đường ấy lâu, vì sau khi hoàn-thành thì sức
khoẻ của Ngài Bhagavan đã suy-nhược, bắt
buộc Ngài phải bỏ thói quen đi chơi mát hàng
ngày .
Ranga Aiyar, bạn học cũ của Ngài
Bhagavan, đã nói ở trên, ông này không đến
cư-trú thường-xuyên ở Tiruvannamalai, nhưng
thường đến Tùng-lâm với gia-đình. Ông đã
theo học cùng lớp với Ngài Bhagavan và đã
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
427
từng chơi nghịch và đánh nhau với Ngài. Trước
mặt Ngài ông vẫn có lối ăn nói tự-do, nói bông
đùa không gìn-giữ. Ông đến Tùng-lâm Vira-
paksha ngay khi mới thành-lập mà Ngài Bha-
gavan đến trụ-trì. Ông tò-mò muốn biết người
bạn cũ của mình vẻ mặt nay thế nào bây giờ, là
một đạo-sĩ. Lập tức ông nhận thấy mình đang
đứng trước một vị Thánh sống .
Đối với người anh cả của ông là Mani thì
không thế, người này coi thường nhà đạo-sĩ trẻ
tuổi mà y từng đã biết là học dưới lớp y khi còn
ở nhà trường. Y nhìn Ngài Bhagavan, Ngài
nhìn lại và với sự tiếp-xúc ấy, Mani liền phủ-
phục dưới chân Ngài. Kể từ đấy về sau y trở
nên một tín-đồ .
Một trong những người con của Ranga
Aiyar có sáng-tác một bài thơ dài bằng tiếng
Tamil ca tụng cuộc hôn-phối của Ngài Bhaga-
van với Linh-Giác .
ADPH RAMANA MAHARSHI
428
Thánh-kinh của Ngài Bhagavan được
sưu-tập sau những cuộc đối-đáp giữa Ngài với
Friedman, một nhà lánh-nạn Ba-Lan. Hai người
phụ-nữ Ba-Lan rất quen-thuộc ở Tùng-lâm.
Khi bà Noye buộc phải quay về quê nhà ở Mỹ-
quốc, bà ta không sao cầm nổi nước mắt, Ngài
Bhagavan đã an ủi :
" Tại sao bà khóc như thế ? Tôi sẽ ở
bên bà, bất cứ bà đi đến đâu ."
Điều ấy rất thật đối với tất cả đệ-tử của
Ngài. Nếu chúng nghĩ đến Ngài thì Ngài nhớ
đến chúng. Cả đến khi đệ-tử đã quên Ngài mà
Ngài cũng không bỏ họ. Tuy nhiên sự bảo-đảm
Ngài tự-thân ban cho là một đại Ân-điển đối
với người nào nhận được .
Ba đứa con tôi là những đứa trẻ Âu-Tây
duy-nhất ở Tùng-lâm cũng được để ý đến trong
hàng đệ-tử. Một buổi chiều vào năm 1946,
Ngài Bhagavan khai đạo Thiền-định cho hai
đứa lớn. Ngài nói với hai đứa rằng : Nếu sự
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
429
cố-gắng của chúng không có kết-quả thì đối
với những người lớn tuổi cũng thế thôi .
Đứa con gái của tôi 10 tuổi đã viết rằng :
" Chiều hôm ấy tôi ngồi ở trong
phòng, Ngài Bhagavan mỉm cười với tôi,
tôi nhắm mắt lại và thiền-định. Ngay sau
khi tôi nhắm mắt, tôi cảm thấy rất sung-
sướng và cảm thấy Ngài rất gần với tôi.
Ngài ở tại trong tôi. Không phải là một sự
thích-thú, không phải hoàn-toàn sung-
sướng hay mê-ly về cái gì. Tôi không biết
nói gì hơn là cảm thấy sung-sướng và
Ngài Bhagavan thật đáng mến làm sao ! "
Một đứa con khác của tôi là Adam, 7 tuổi
viết như sau :
" Trong khi tôi đang ngồi ở trong
phòng, tôi không thấy sung-sướng cho
nên tôi bắt đầu cầu-nguyện, tôi liền cảm
thấy rất vui sướng, nhưng không phải như
tôi được món đồ chơi, mà chỉ là yêu
Bhagavan và yêu tất cả mọi người ."
ADPH RAMANA MAHARSHI
430
Những đứa trẻ không từng ở lại trong
phòng lâu, chúng chỉ ở trong phòng lúc nào
chúng thích, thường thì chúng chơi chung-
quanh bên ngoài .
Khi đứa con gái út của tôi là Frania, 7
tuổi, thấy hai đứa kia nói về bạn-bè của chúng,
còn nó thì lại không có bạn tri-kỷ nào, nhưng
lại không muốn bị bỏ rơi, bèn nói là bác-sĩ
Syed là bạn rất tốt của mình trên đời này.
Người ta bèn đem câu chuyện ấy nói với Ngài
Bhagavan.
Ngài lạnh lùng nói : _ Vậy hả !
Mẹ đứa trẻ mới hỏi nó : _ Này thế còn
Ngài Bhagavan thì sao ?
Lần này Ngài Bhagavan quay lại có vẻ
chú-ý nghe câu chuyện .
Frania nói : _ Ngài Bhagavan không phải
người thế-gian này .
Ngài Bhagavan kêu lên : _ A !
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
431
Ngài ngồi ngay lại với diện-mạo hoan-hỷ.
Ngài để ngón tay chỏ lên một bên mũi, như
Ngài thường làm khi Ngài ngạc-nhiên về một
điều gì. Ngài dịch ra tiếng Tamil câu chuyện
nhỏ ấy và nhắc lại một cách hoan-hỷ cho mọi
người trong phòng. Ít lâu sau bác-sĩ Syed hỏi
đứa bé :
_ Ngài Bhagavan không ở thế-gian
này thì ở đâu ?
Nó trả lời : _ Ngài Bhagavan ở khắp mọi
nơi .
Bác-sĩ Syed tiếp-tục lối biện-luận theo
kinh-điển Hồi-giáo :
" Làm thế nào mà ta có thể bảo rằng
Ngài không phải là người ở thế-gian này,
trong khi ta thấy Ngài ngồi trên giường
thiền, ăn uống ở trước mắt và đi lại ở
chung-quanh ? "
Đứa bé đáp lại : _ Thôi, hãy nói chuyện
khác !
ADPH RAMANA MAHARSHI
432
Tiếc rằng ở đây chỉ kể được một số đệ-tử
thôi, còn phải bỏ đi một số lớn khác cũng đáng
để ý mà không thể kể hết được .
Thí-dụ như đạo-sĩ Davaraja hay là đạo-sĩ
Rama Chandriah, mà ông nội của anh này một
hôm đã lôi kéo Ngài Ramana ( Bhagavan ) đến
dự một bữa tiệc do ông ta thết đãi lễ trai tại gia
( Đấy là một gia-đình độc-nhất mà Ngài nhận
đến dự tiệc kể từ khi Ngài đến tỉnh Tiruvan-
namalai ). Ít có người đệ-tử nào nói với Sư-phụ
một cách phóng-túng như người này .
Lại có một đệ-tử nữa là T.N. Krishna
Swami từ Madras đến, ông này thường họa
chân-dung của Ngài Bhagavan, những bức họa
đẹp có nhiều điểm phong-phú lạ-lùng. Những
lá thư của một tín-đồ trung-thành tên là Sastry,
làm chủ một ngân-hàng ở Madras, mô-tả linh-
động và thích-thú không khí ở Tùng-lâm với sự
hiện-diện của Ngài Bhagavan .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
433
Lại có những đệ-tử ít khi hay là không
bao giờ cần nói chuyện trực-tiếp với Sư-phụ.
Có những ông chủ gia-đình khi nào có cơ-hội ở
các tỉnh xa hay ở một xứ nào, do số-phận đã
định cho họ và có những người khác chưa được
gặp mặt Ngài. Lại cũng có một số chưa từng
nhìn thấy Ngài, nhưng nhận được sự khai-ngộ
thầm-lặng từ nơi xa cách .
Một số người chỉ đến thăm ngắn ngủi rồi
thành đệ-tử của Sư-phụ, tuy không có hiện-
diện nhục-thể của Ngài .
Ngài Bhagavan không khuyến-khích sự
lập-dị trong việc ăn mặc, trong tác-phong hay
sự phô-trương thần-hóa. Người ta đã thấy đến
mức nào Ngài Bhagavan không biểu-đồng-tình
với những dục-vọng ảo-giác hay là quyền-năng
thần-thông. Và Ngài rất hài lòng khi thấy một
chủ gia-đình sống một cuộc đời tuân theo điều-
kiện của gia-đình hay nghề-nghiệp .
ADPH RAMANA MAHARSHI
434
Ngài không đòi hỏi đệ-tử của mình một
sự biến-đổi lộ-liễu phô-trương, bởi vì những sự
biến-đổi ấy chỉ là phù-phiếm thiếu cơ-sở, nó sẽ
bị sụp đổ với thời-gian .
Sự thực có khi xẩy ra có một đệ-tử nản
chí vì thấy không có tiến-bộ trong nội-tâm và
phàn-nàn không tiến-bộ. Ở trường-hợp ấy Ngài
Bhagavan an-ủi hoặc phản-đối :
" Làm sao mà anh có thể biết được
là anh không tiến-bộ ? "
Và Ngài giải-thích rằng không phải đệ-tử
tự thấy tiến-bộ hay không mà chỉ có Sư-phụ y
mới nhận thấy được. Vai-trò của đệ-tử là kiên-
nhẫn và tinh-tiến, dù trí thông-minh của mình
không có khả-năng để nhìn thấy công-trình
đang xây-dựng. Con đường ấy có vẻ khó-khăn,
nhưng tình-yêu của đệ-tử đối với Sư-phụ
Bhagavan và nụ cười nhân-từ của Ngài đem lại
cho Ngài vẻ đẹp tuyệt-diệu .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
435
Ngài Bhagavan cũng không khuyến-khích
thực-hành quá-đáng phép yên-lặng (tịnh-khẩu :
mouni), và Ngài tỏ cho biết rõ-rệt, ít nhất ở một
trường-hợp. Được biết thiếu-tá Chadwich dự-
định thực-hành phép tịnh-khẩu vào ngày hôm
sau, Ngài đã phản-đối mạnh-mẽ về sự thực-
hành ấy, Ngài nói :
" Lời nói là một cánh-cửa an-toàn
và nên kiểm-điểm lời nói của mình hơn là
tịnh-khẩu " .
Ngài vừa cười vừa kể lại những người từ
bỏ ngôn-ngữ mà nói bằng bút chì. Người tịnh-
khẩu chân-chính là tại tâm. Người ta có thể
yên-lặng trong khi đang nói chuyện cũng như
người ta có thể cô-tịch giữa đám đông người.
Tuy nhiên cũng có một vài điểm quá đáng khi
phép khai đạo ( upadesa ) có tính-cách bí-ẩn,
như đã nói ở một chương trên. Ngài Bhagavan
ít khi cho phép hay không cho phép một điều gì
công-nhiên. Nhưng những người nào thực-tập
quá-đáng phải cảm thấy là Ngài không biểu-
đồng-tình. Dù họ không tự thú-nhận, vì họ
ADPH RAMANA MAHARSHI
436
ngừng nghỉ đến thăm Ngài. Tôi còn nhớ về một
trong những đệ-tử ấy, tinh-thần đang bị khủng-
hoảng và Ngài nói dứt khoát rằng : " Sao bà
không đến tôi ? " Phải nhớ rằng Ngài tránh
một cách rất ý-nhị ban ra những lời giáo-huấn
công-khai, hay chỉ bảo cho một người nào đến
hay đi. Ngài cũng rất khôn-khéo để tránh
những mưu-mô muốn bắt buộc Ngài phải làm
như thế, đủ biết rằng ý muốn nhỏ-nhoi của
Ngài được tôn-trọng là nhường nào, ngõ hầu
thẩm-định giá-trị về lời nói ấy. Ở trường-hợp
kể trên như bà tín-đồ kia không đến Tùng-lâm
và chẳng bao lâu tinh-thần bị khủng-hoảng.
Trường-hợp này không phải là ít có. Mặc dầu
vẻ ngoài bình-thường phòng họp của Tùng-
lâm, hào-quang tỏa ra từ Ngài Bhagavan quá
mạnh, ghê-sợ cho một số khách đến. Người ta
nhận thấy ở trường-hợp khi nào mà tâm-hồn
mất thăng-bằng, thì người bị bệnh không tìm
cách lánh xa không-khí Tùng-lâm, mà là tìm
đến. Có khi Ngài Bhagavan quở-trách người
tín-đồ bệnh-hoạn ấy như là mắng một đứa bé
hư đã để bị quyến-rũ mà đáng lẽ nó phải chống
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
437
lại. Bấy giờ trong tâm-hồn bệnh-nhân nổi lên
sự phấn-đấu giữa ảnh-hưởng của Sư-phụ và xu-
hướng của mình cho đến khi phục-hồi được
trạng-thái bình-thường .
Tuy kể ra trường-hợp ở đây là để cho đầy
đủ cảnh-tượng, nhưng phải nói rằng trong tập-
sách này chuyện ấy ít khi xẩy ra .
Giới-thuyết phương-pháp truyền pháp của
Ngài là một vấn-đề rất khó vì có nhiều ngoại-
lệ. Có trường-hợp sự truyền pháp của Ngài rất
công-khai và nhất là khi nào có một đệ-tử ở
một mình với Ngài. Một đệ-tử tên là Ananta
Narayam Rao là một thú-y hồi-hưu đã cất một
ngôi nhà ở bên cạnh Tùng-lâm. Ông này luôn
luôn bị gọi gấp về Madras vì người anh rể của
ông bị bệnh nặng. Một hôm ông nhận được một
điện-tín mới, mặc dầu đêm đã khuya, ông cũng
đem trình ngay lên Ngài Bhagavan. Trước đây
không bao giờ Ngài Bhagavan để ý đến những
tiếng gọi gấp rút từ Madras đó, nhưng lần này
Ngài nói với Rao : " Phải, anh nên đi ngay đi !"
ADPH RAMANA MAHARSHI
438
Và Ngài bắt đầu nói chuyện về ý-nghĩa không
quan-trọng của sự chết. Rao trở về nhà nói với
vợ là bệnh của người anh rể lần này khó lòng
qua khỏi. Hai vợ chồng Rao liền về Madras hai
ngày trước khi người anh rể tắt thở .
Người ta có thể kể nhiều tỉ-dụ sống-động
hơn nữa .
Có một đệ-tử được sử-dụng danh-hiệu
Ramana ( tên húy của Ngài ) như là một lời
cầu-nguyện, nhưng vấn-đề này không mấy khi
được thảo-luận giữa đám đệ-tử. Thông-thường
mỗi người tự quyết-định lấy cho mình và
tuyên-bố dè-đạt. Sự-kiện chọn lấy một quyết-
định là thành-phần trong quá-trình tu đạo của
mình. Nếu có chính-đáng thì được Sư-phụ tiếp-
nhận với nụ cười biểu-đồng-tình, nó đủ làm
cho y hả dạ. Có lẽ y cũng nhận được một sự
tán-đồng bằng một lời vắn-tắt. Nếu sự quyết-
định không được tán thành thì điều ấy cũng
thông-thường dễ thấy ngay. Một hôm có một
người chủ gia-đình đến nói với Ngài về ý-định
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
439
đi khỏi tỉnh Tiruvannamalai để đến một tỉnh
khác, ngõ hầu có được việc làm lương bổng
hậu hơn. Ngài Bhagavan cười, nói : " Mọi
người tự-do quyết-định mưu-kế của mình ! "
Dự định của người ấy không đi đến đâu .
Khi có một nhà lãnh-tụ Ấn đến chủ-tọa
một buổi họp ở Madras, một người ở Tùng-lâm
rất hâm-mộ nhà chính-khách ấy, nên xin phép
Ngài Bhagavan đến dự. Ngài Bhagavan ngồi
với bộ mặt lạnh như đá, làm như không nghe
nói gì, người tu-sĩ vẫn bỏ Tùng-lâm đi Madras.
Y chạy theo hết buổi họp nọ đến buổi họp kia,
nhưng đều đến chậm nên không được dự buổi
nào. Khi về đến Tùng-lâm, Ngài Bhagavan
riễu-cợt : " Này ! Vậy là anh đi Madras không
có phép, chuyến đi của anh có thành-công
không ? "
Ngài Bhagavan đã Vô-ngã đến nỗi Ngài
nói và riễu-cợt chính hành-vi của mình cũng rất
tự-nhiên và vô-ngã như là đối với người khác .
ADPH RAMANA MAHARSHI
440
Ảnh-hưởng của Ngài Bhagavan là chuyển
người đệ-tử từ những thích-thú, những đau
khổ, những hy-vọng, những lo-âu do hoàn-
cảnh tạo nên để hướng về hạnh-phúc nội-tâm,
là bản-tính chân-thật của mình .
Và thực-hiện điều ấy, tín-đồ không bao
giờ cầu được gì cả ở trong tâm niệm, nhưng chỉ
nỗ-lực vượt khỏi những chấp-trước tạo sinh ra
vọng cầu. Dù cả đến khi họ chưa hoàn-toàn
thành-công điều ấy, họ có vẻ như phản-bội để
tới Ngài Bhagavan mong cầu lợi ích bên ngoài
thay vì để cầu mong một tình yêu rộng lớn hơn,
một sự cương quyết bền bỉ hơn và một sự hiểu-
biết thâm-thúy hơn .
Khi nào có sự buồn phiền thì phương-
pháp không phải là gạt bỏ đi mà là để hỏi : " Ai
là người có sự buồn phiền này ? Ta là Ai ? "
Như thế người ta càng đi được gần đến sự
đồng-nhất có ý-thức với cái Ấy, bất sinh ( bất
tử ) và không buồn phiền. Và nếu có ai hướng
vào Ngài Bhagavan với ý muốn ấy thì sự an-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
441
lành và nghị-lực tự-nhiên tràn ngập tâm-hồn y.
Bản tính của nhân-loại là như thế. Có những
đệ-tử cầu xin Ngài Bhagavan trợ lực và bảo-hộ
trong những biến-chuyển của cuộc đời. Họ coi
Ngài như cha, mẹ và gọi đến Ngài trong những
trường-hợp có sự bối-rối hay tai họa đe dọa .
Có khi họ gửi một bức thư cho Ngài
Bhagavan mô-tả tình-trạng của mình hay là họ
khẩn-cầu Ngài. Những lời cầu-khẩn ấy đều
được đáp-ứng. Những sự khó-khăn, nguy-hiểm
đều được giải-tỏa, ở trường-hợp không có thể
được, hay là không có lợi, thì sự bình-an và
kiên-cường sẽ phát-hiện ra nơi tâm-hồn họ để
họ chịu-đựng. Sự cứu-độ tự-nhiên đến với họ
không cần sự can-thiệp dụng-ý của Ngài
Bhagavan. Như thế không có nghĩa là sự cứu-
độ ấy chỉ nhờ vào đức tin của tín-đồ mà thôi,
nó còn có Ân-điển của Sư-phụ tỏa ra, đáp lại
đức tin của tín-đồ .
ADPH RAMANA MAHARSHI
442
Một số tín-đồ bối-rối về việc sử-dụng
quyền-năng. Đệ-tử Mudaliar đã ghi lại khi hỏi
Ngài Bhagavan về vấn-đề ấy :
" Nếu ở trường hợp của Ngài
Bhagavan hay là của tất cả các bậc Giác
( Gnani ) theo con đường triết-lý thì trí-
thức đã bị tiêu-hủy và nhà hiền-triết
không còn biết Bỉ, Thử giữa chúng-sinh
mà chỉ thấy có Tự-Tính Duy-Nhất, như
thế thì Ngài làm thế nào chiếu-cố từng
đệ-tử hay tín-đồ riêng biệt được, hoặc
cảm-thông với họ, hoặc là làm gì cho
họ ? "
Tôi có hỏi Ngài Bhagavan thêm rằng :
" Điều ấy dĩ nhiên cho cả tôi lẫn
đạo-hữu ở đây, là khi nào chúng tôi bị
khích-động bởi một sự khó-khăn gì và
chúng tôi tâm-niệm vào Ngài Bhagavan
thì chúng tôi ở bất cứ nơi đâu sự cứu-độ
cũng tới ngay một cách tự-nhiên ?
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
443
Một đệ-tử kỳ-cựu của Ngài đến thăm
Ngài và kể lại tất cả sự khó-khăn trên bước
đường đời của mình, kể từ lần đến thăm Ngài
trước đấy, Ngài Bhagavan nghe y một cách rất
chăm chú và rất cảm-tình, có khi Ngài ngạc-
nhiên mà kêu lên rằng : " Ồ ! Thực thế à ?"
Câu chuyện kể có khi kết-thúc vào câu nói như
sau : " Khi nào tất cả đều thất-bại, cuối cùng
tôi gọi đến Ngài Bhagavan và Ngài đã cứu-vớt
tôi ."
Ngài Bhagavan nghe tất cả điều ấy như là
chuyện mới mẻ. Có khi Ngài nói lại với người
khác đến sau rằng :
" Hình như việc này hay việc kia đã
xẩy đến cho người này hay người khác kể
từ lần cuối cùng y đến đây . "
Chúng ta đều biết rằng Ngài Bhagavan
không từng nói dối bao giờ, như vậy thì hình
như Ngài không biết gì đến những việc đã xẩy
đến, ít ra cũng ở trên bình-diện nào, cho tới khi
có người nói cho Ngài biết. Và đồng thời
ADPH RAMANA MAHARSHI
444
chúng ta cũng biết rằng ở trường-hợp những
lúc lo-lắng, sợ-hãi, khi chúng ta kêu gọi cầu
cứu thì Ngài Bhagavan nghe thấy chúng ta và
ban cho sự cứu-độ cần-thiết bằng cách này hay
bằng cách khác. Dù sao Ngài cũng ban cho
chúng ta sự can-đảm hay một đức-tính nào để
chúng ta chịu-đựng được sự khó-khăn dồn-dập
đến với chúng ta, nếu vì một lý-do gì chúng
không được giải-tỏa hay biến-cải .
Sau khi chúng tôi trình-bày với Ngài
Bhagavan tất cả điều ấy thì Ngài trả lời :
" Phải, tất cả những điều ấy đều đến
một cách tự-nhiên ".
Ngài Bhagavan ít khi sử-dụng tới quyền-
năng thần-thông. Vả lại khi nào Ngài sử-dụng
đến thì ảnh-hưởng của quyền-năng ấy rất kín-
đáo, cũng như sự khai-ngộ và truyền giáo của
Ngài. Về những năm cuối cùng, có một người
chủ gia-đình trong bọn hầu-cận của Ngài là
Aiyar, anh ta có một đứa con chừng ba tuổi, mà
người ta đã ban cho nó cái tên là Ramana. Nó
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
445
là một đứa bé rất dễ thương, thường chạy đến
Tùng-lâm sụp lạy Ngài Bhagavan. Một buổi
tối, sau khi các đệ-tử đã lui về, đứa bé bị một
con rắn độc cắn. Người cha liền bế đứa bé chạy
thẳng lên phòng Ngài Bhagavan. Đứa bé lúc ấy
nước da xám ngắt, và hơi thở khó-khăn, Ngài
Bhagavan lấy tay soa lên người nó, nói : " Con
rất bình-thường mà ! " Tức thì đứa bé được
lành mạnh. Người cha nó kể lại chuyện ấy cho
một số đệ-tử, nhưng sau này người ta ít khi kể
lại những chuyện như thế .
Người ta phải phân-biệt lời cầu-nguyện
để có được một ân-huệ và sự trông-cậy chắc-
chắn vào Ngài Bhagavan bảo-đảm cho sự che-
chở và hạnh-phúc .
Ngài Bhagavan thường biểu-đồng-tình
với thái-độ sau. Nếu người ta trút cho Ngài
trọng-trách về hạnh-phúc của họ thì Ngài liền
tiếp nhận. Ngài có viết một tập thơ : Thần Siva
Núi Arunachala, tả thái-độ của đệ-tử đối với
Sư-phụ :
ADPH RAMANA MAHARSHI
446
" Ngài chẳng từng đã gọi Ta đến, Ta đã
đến và bấy giờ thì Ngài sẽ cáng đáng sự bảo-
tồn của Ta ."
Một hôm, theo lời yêu-cầu của tín-đồ,
Ngài Bhagavan đã chọn lựa lấy 42 câu thơ ở
trong Thế-Tôn-Ca ( Bhagavad Gita ) và Ngài
xếp đặt lại thứ-tự theo một cách khác để trình-
bày giáo-lý của mình .
Trong những câu thơ ấy có một câu như
sau :
" Ta nhận che-chở và bảo-tồn phúc
lành cho những ai không cầu tìm sự phân-
biệt Bỉ, Thử, tập-trung tất cả tinh-thần
vào Ta. Tất cả ai sùng-bái Ta và như thế
luôn luôn an-trụ trong hòa-đồng ."
Có lẽ còn phải có nhiều thử-thách lớn và
những lúc bất-an, trong đó đức tin bị đe-dọa,
nhưng có một đệ-tử nào đặt hết tin-tưởng vào
Ngài Bhagavan thì kẻ đó chắc-chắn không bị
bỏ rơi .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
447
- XVI -
TÁC - PHẨM THÀNH VĂN
Toàn-bộ tác-phẩm thành văn của Ngài
Bhagavan rất nghèo-nàn về lượng và nó được
sáng-tác để thỏa-mãn nhu-cầu của đệ-tử. Đạo-
sĩ Mudaliar ghi lại trong nhật-ký của ông rằng
Ngài Bhagavan để ý về điều này khi nói tới
một thi-sĩ đến thăm :
" Tất cả những sáng-tác ấy chỉ là
hoạt-động của trí-thức. Ông càng điêu-
luyện trí-thức để thành-công trong sáng-
tác văn thơ thì ông càng bỏ mất sự bình-
an trong tâm-hồn. Những tài-ba ấy ông
dùng làm gì khi mà ông không có một
chút an-tĩnh nội-tâm nào ? Nhưng nếu
ông nói điều ấy cho mọi người thì người
ta sẽ không vui-lòng, bởi vì họ không có
thể ở yên được cho nên họ phải làm
ADPH RAMANA MAHARSHI
448
những bài hát... Tôi không từng có ý viết
một quyển sách hay sáng-tác một vần thơ,
tất cả những bài thơ tôi sáng-tác đều do
lời yêu-cầu của người này hay người
khác, hoặc ở trong những trường-hợp
đặc-biệt. Chính cả đến 40 bài thơ về
Thực-Tại Tối-Cao cũng không được
quan-niệm như một quyển sách. Đó là
những bài thơ sáng-tác trong nhiều
trường-hợp khác nhau, rồi Murugana và
những người khác đã sưu-tập lại thành
một quyển sách với rất nhiều lời chú-giải.
Có những bài thơ đã khởi-hứng tự trong
tâm tôi và hình như tôi bị thúc đẩy phải
viết, không có ai yêu-cầu đó là 11 bài ca
tụng Thần Núi Arunachala và 8 bài nữa
cũng ca tụng Ngài. Bài khai mở mười một
bài thơ ấy đã xuất-hiện trong tinh-thần tôi
vào một buổi sáng sớm. Và tuy cố dẹp
chúng đi vì tôi tự nhủ : " Tôi dùng làm gì
những lời thơ ấy ?" Nhưng tôi không làm
thế nào mà rũ chúng đi được, kết cục tôi
phải làm một bài hát để thu dụng chúng,
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
449
và tất nhiên lời thơ tuôn ra không chút
dụng ý tìm tòi .
" Cùng một tinh-thần ấy tôi làm bài
thứ hai vào buổi sáng hôm sau, và những
bài tiếp-tục vào những ngày sau, mỗi
ngày một bài. Chỉ có bài thứ mười và
mười một là được làm ra cùng một ngày."
Ngài Bhagavan còn kể lại một cách hoạt-
bát và linh-động việc sáng-tác " Tám bài thơ "
( Eight Stanza ) của Ngài như thế nào :
" Sáng hôm sau, tôi đi dạo mát trên
núi, đạo-sĩ Palani đi theo tôi. Chúng tôi
mới đi được một quãng thì đạo-sĩ
Aijaswami hình như gọi Palani lại để trao
cho y một chiếc bút chì và một tờ giấy,
nói : “ Mấy hôm nay Sư-phụ thường làm
thơ, hôm nay chắc cũng thế nên tốt hơn là
anh mang theo bút và giấy này .”
" Trong khi ấy tôi không biết gì về
việc Palani bỏ tôi quay trở lại cho tới lúc
đạo-sĩ đã theo kịp tôi. Ngày hôm ấy,
trước khi đến động Virupaksha tôi viết
ADPH RAMANA MAHARSHI
450
xong sáu trong tám bài. Thi sĩ Narayana
Reddi không đến tối hôm ấy cũng như
ngày hôm sau. Bấy giờ ông ta ở tỉnh
Vellore làm việc cho hãng Sender, ông ta
có thói quen thỉnh-thoảng đến chơi. Đạo-
sĩ Aijaswami và Palani nói với ông ta về
những bài thơ của tôi. Narayana nói :
" Các ông hãy đem cho tôi ngay đi để tôi
cho ấn-hành. " Chính ông ta đã cho xuất-
bản mấy tác-phẩm. Khi ông ta khẩn-
khoản xin tôi những bài thơ, tôi đã bằng
lòng và khuyên xuất-bản cả mười một bài
trước vào một tập. Còn những bài sau
khác vận, thì thành một tập thư hai. Tức
thì tôi sáng-tác thêm hai bài bổ-túc và ông
ta mang tất cả 19 bài thơ đi để xuất-bản ."
Còn có rất nhiều thi-sĩ làm thơ ca tụng
Ngài Bhagavan bằng nhiều thứ tiếng khác
nhau. Trong đó đặc-biệt nhất phải kể đến bài
của Ganapati Sastri bằng tiếng Sanskrit, và bài
của Muruganar bằng tiếng Tamil. Mặc dù trong
câu chuyện nhắc lại trên kia Ngài Bhagavan
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
451
không ưa thích thi-ca vì nó thâu-hút tất cả nghị-
lực để tập-trung vào sự thiền-định nội-tâm, tức
là con đường tu-luyện. Ngài cũng khoan-dung
để nghe người ta đọc thơ ca-tụng mình và còn
tỏ ra rất chú-ý. Người ta cũng viết về Ngài trên
những bài báo và những sách bằng văn xuôi.
Ngài yêu-cầu người ta đọc cho nghe và Ngài
còn dịch ra để cho mọi người có thể hiểu được.
Sự chú-ý vô-tư của Ngài rất kỳ lạ, hồn-nhiên
như đứa trẻ thơ khiến mọi người lấy làm ngạc
nhiên .
Hai tác-phẩm văn xuôi được chính-thức
Ngài Bhagavan sáng-tác. Buổi đầu khi Ngài ở
động Virupaksha, thời hãy còn giữ giới tịnh-
khẩu, Ngài có viết những lời giáo-huấn trong
nhiều trường-hợp khác nhau cho đệ-tử Gambi-
ram Seshayyar, và sau khi ông này mất, sách ấy
được tập-hợp lại thành một quyển, nhan đề :
" Sự Cứu-tầm Tự-Tính ". Cũng như những lời
giải-đáp cho đệ-tử là đạo-sĩ Pillai vào thời ấy
cũng đã được bổ-túc thành một quyển sách
nhan-đề : " Ta là Ai ? "
ADPH RAMANA MAHARSHI
452
Các tác-phẩm văn xuôi khác do Tùng-lâm
xuất-bản thì không phải tác-phẩm của Ngài
Bhagavan, đấy là sự chuyển-định và trình-bày
những lời nói của Ngài trong những câu
chuyện giữa Ngài với đệ-tử, được trình-bày
dưới hình-thức vấn-đáp .
Những bài thơ của Ngài Bhagavan được
xếp vào hai loại : Loại thứ nhất được xếp vào
loại thuyết-giải sự tiếp-cận đạo-lý bằng con
đường tin-yêu và sùng-bái. Loại thứ hai là
những bài thơ nói về học-lý. Loại thứ nhất gồm
năm bài ca tụng Thần Núi Arunachala được
sáng-tác vào thời ở động Virupaksha. Yếu-tố
sùng-bái chứa đựng ở trong ấy không ngụ ý từ
bỏ con đường Bất-Nhị-Pháp ( Advaita ) hoàn-
toàn hòa-hợp vào con đường Giác ( Jnana ).
Chúng được viết ở quan-điểm người khát-vọng
hay tín-đồ, dù rằng người viết ra chứng-thực
đứng ở trong Giác-tính Tối-cao, Hoan-lạc,
Thái-hòa, chứ không phải ở trong sự đau khổ
khát-vọng. Và chính vì thế mà chúng rung-
động rất mạnh vào tâm-hồn tín-đồ vậy .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
453
Hai loại trong các bài thơ đã được dẫn
trên đây tức là Tám Bài và Mười Một Bài.
Ngài Bhagavan không những viết những bài
sau ở quan-điểm tu-sĩ, mà thực như " Một
người chưa đạt tới Chính-Giác ". Muốn được
Sư-phụ xác-định điều ấy, A. Bose một trong
hàng đệ-tử bèn hỏi Ngài : " Tại sao Ngài viết
như thế. Phải chăng Ngài viết theo quan-điểm
của tín-đồ để cho tín-đồ ? " Ngài Bhagavan đã
nhận : " đúng là như vậy, để cho tín-đồ " .
Ngài Bhagavan viết Năm bài Ca-Tụng
bằng tiếng Phạn rồi dịch sang tiếng Tamil. Lai
lịch sáng-tác của Năm bài Thơ trên rất lạ-lùng.
Một đệ-tử Ganapati yêu-cầu Ngài viết một bài
thơ tiếng Phạn, nhưng Ngài cười trả lời rằng
Ngài không biết Phạn-ngữ. Đạo-sĩ Ganapati
bèn giải-thích nghiêm luật cho Ngài và khẩn-
khoản xin Ngài làm thử. Ngay chiều hôm ấy
Ngài bèn sáng-tác ra Năm Bài Thơ bằng tiếng
Phạn tuyệt-tác. Năm bài thơ ấy dịch ra tiếng
Anh như sau :
ADPH RAMANA MAHARSHI
454
" Bể Cam-lồ đầy Ân-điển bao-hàm
vũ-trụ trong hào-quang của Ngài, Hỡi
Arunachala ! Đấng Tối-Cao .
" Hãy là Mặt-trời và hoa Sen của
tâm con trong bầu an-lạc .
" Hỡi Thần Núi Arunachala ! Nơi
Ngài con tồn-tại và tan-biến .
" Hình-ảnh vũ-trụ đã tạo nên. Kỳ-
diệu của Chân-lý ở tại trong bí-quyết ấy .
" Ngài là cái Ngã nội-tại nhảy múa
trong tim người ta. Ngài, Cái Tồn-Tại,
Danh-hiệu Ngài là trái tim, Hỡi Chúa tôi !
" Ai hay nhìn vào đáy lòng mình với
tinh-thần thanh-thản để phát-hiện từ đâu
sinh ra cái ý-thức về Ngã thì đạt tới cái
Ngã Tối-Cao, và an nghỉ nơi Ngài, Hỡi
Thần Núi Arunachala ! Như con sông
chìm vào biển cả .
" Đã rời bỏ ngoại-giới và chế-ngự
trí-thức cùng hơi thở của mình để cho
định- lực tập-trung vào Ngài ở tại nơi
mình, nhà đạo-sĩ thấy được ánh-sáng của
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
455
Ngài, Hỡi Thần Núi Arunachala ! Và y
đặt cả hoan-hỷ nơi Ngài .
" Kẻ nào hiến dâng tinh-thần của
mình cho Ngài, thấy được Ngài thì luôn
luôn thấy vũ-trụ qua hình-ảnh của Ngài.
Ai luôn luôn tôn-vinh Ngài và kính-yêu
Ngài không ngớt. Ngài không phải là ai
hết, mà chính là cái Ngã Tối-Cao, người
ấy là Chúa-tể không hai, vì y với Ngài chỉ
là Một, Hỡi Thần Núi Arunachala ! Y đã
biến vào trong lạc-cảnh mê-ly ! "
Những bài thơ này có tính-cách học-
thuyết hơn là bốn bài Thánh-ca khác. Vì chúng
là một toát-yếu ba con đường đạo-dẫn chính
( Margas ) hay là tiếp-cận đạo Thực-hiện. Về
sau Ngài Bhagavan có nhắc lại :
_ Bài thứ ba nói về phương-diện
Tồn-Tại ( Sat ) ;
_ Bài thứ tư nói về trạng-thái Ý-thức
( Chit ) ;
_ Bài thứ năm nói về cảnh Hoan-lạc
( Ananda ) .
ADPH RAMANA MAHARSHI
456
Bậc Giác-ngộ với Tồn-Tại là Một, khác
nào con sông nhập vào biển. Nhà đạo-sĩ Yogi
tri-giác thấy ánh-sáng của Ý-thức ( Chit ). Nhà
tín-ái sùng-bái và đạo-sĩ hành-động chìm vào
trong bể Hạnh-phúc Hoan-lạc ( Ananda ) .
Tuy nhiên cảm-động nhất và thích-thú
nhất trong năm bài ca tụng là bài Marital
Garland ( Vòng hoa cưới của 108 bài thơ dâng
lên, ca-tụng Thần Núi Arunachala, được phổ-
thông sang tiếng Anh bằng điệp-khúc : " SIVA
ARUNACHALA " )
Buổi đầu khi Ngài Bhagavan trụ-trì ở
động Virupaksha đệ-tử Palaniswami cùng mấy
người khác quen vào tỉnh khất-thực để nuôi
đoàn-thể nhỏ tín-đồ. Một hôm họ yêu-cầu Ngài
Bhagavan làm cho họ một bài hát sùng-bái để
hát dong đường. Ngài đã trả lời là đã có rất
nhiều bài ca tuyệt-diệu do các vị Thánh sáng-
tác, mà phần nhiều bị lãng quên, nên không cần
Ngài làm một bài mới. Tuy nhiên vì họ cứ
khẩn-khoản yêu-cầu nên vài hôm sau trên
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
457
đường đi vòng-quanh núi Ngài cầm theo bút
chì và giấy, vừa đi vừa làm 108 bào thơ trên.
Trong khi Ngài viết, nước mắt thần-diệu ròng
ròng chảy, có khi làm mờ cả mắt, có khi Ngài
nấc lên mất cả tiếng. Bài thơ ấy thành nguồn
cảm-hứng sùng-bái lớn cho tín-đồ. Tất cả đau
phiền, khát-vọng và hạnh-phúc thành-tựu,
phản-ảnh cả vào trong biểu-tượng nồng-nhiệt
của lời thơ .
Sự Giác-ngộ hoàn-toàn phối-hợp với sự
nhiệt-thành của tín-ái sùng-bái. Tuy nhiên,
những bài thơ nồng-nàn nhiệt-tình ấy đã được
sáng-tác ở quan-điểm của tín-đồ, của người còn
đang cầu-tìm. Chúng cũng thuộc về chiết-cú
thi-ca. Một trăm lẻ tám ( 108 ) bài đều bắt đầu
với một chữ cái của mẫu-tự Tamil. Vậy mà
không một bài thơ nào lại hồn-nhiên bồng-bột
hơn. Một số tín-đồ đã xin Ngài giải-thích
những bài thơ này, và Ngài đã đáp : " Các anh
hãy nghĩ xem, và tôi cũng nghĩ. Nhưng tôi
không nghĩ trong khi tôi sáng-tác. Tôi chỉ viết
đúng như khi nó đến với tôi ."
ADPH RAMANA MAHARSHI
458
Theo truyền-thống cổ xưa, một số các nhà
Tiên-tri hay cổ-Hiền sống với gia-đình ở trong
rừng sâu, thực-hành đạo-Nghiệp, nghĩa là
động-tác nghi-lễ và sùng-bái cùng là Thần-chú
Chân-ngôn. Nhờ đấy họ đã đạt được những
quyền-năng thần-thông và hy-vọng được giải-
thoát cùng-tột. Tuy vậy trong ấy họ đã lầm. Để
thuyết-phục họ về sự sai lầm Thần Siva mới
hiện ra với hình-thức một kẻ ăn mày đi với Nữ-
Thần Vishnu ở hình dạng Mohini, một Nữ-thần
tuyệt đẹp. Tất cả các vị Tiên-tri đều mê sắc đẹp
của Nữ-thần Mohini, và vợ của họ thì lại mê
Thần Siva, kết-quả họ đã mất bình-tĩnh trong
tâm-hồn, bao nhiêu quyền-năng thần-thông của
họ bị biến hết. Thấy vậy, họ xác-định Thần
Siva là một kẻ thù, họ bèn niệm Thần-chú làm
xuất-hiện ra những con rắn, con hổ và một con
voi để tấn-công Thần Siva. Nhưng Thần Siva
lại dùng những con rắn như là một vòng hoa
quấn vào cổ và giết con hổ, con voi, lấy da hổ
làm một chiếc khố và da voi làm một chiếc
khăn quàng. Bấy giờ các nhà Tiên-tri mới nhận
ra những quyền-năng cao hơn mình của Thần
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
459
Siva, họ bèn bái-phục và khẩn-khoản Ngài chỉ
giáo. Chỉ đến bấy giờ Thần Siva mới giải-thích
cho họ biết sự sai lầm của họ và dạy cho họ
biết rằng hành-động không thể giải-thoát được
hành-động, và nghiệp chỉ là cơ-quan chứ không
phải là nguyên-lý của vũ-trụ. Điều cần-thiết là
vượt lên trên hành-động để đạt đến chiêm-
ngưỡng .
Nhà thi-sĩ và tín-đồ Murugana viết
chuyện ấy ra tiếng Tamil. Khi đến điểm Thần
Siva giảng dạy cho các Tiên-tri, ông bèn khẩn-
khoản xin Ngài Bhagavan, hiện thân của Thần
Siva, viết thay ông. Ngài bèn viết Ba mươi bài
thơ thuyết-pháp ( Upadesa Sarang ) trong đó
bắt đầu với hoạt-động thành-tín vô-tư, và giải-
thích rằng mặc dầu có lợi lạc nhưng sự cầu
nguyện còn lợi lạc hơn. Cầu-nguyện thầm còn
lợi lạc hơn là cầu ra tiếng, và lợi lạc hơn hết là
chiêm-ngưỡng .
Ngài Bhagavan dịch ra tiếng Phạn Ba
Mươi Bài Thơ và bản dịch ấy trở nên những
ADPH RAMANA MAHARSHI
460
bài Kinh tụng, được hát cùng với Kinh Vệ-Đà
hàng ngày trước mặt Ngài Bhagavan và ngày
nay ở trước mộ sau khi Ngài nhập-tịch .
Học-thuyết của Ngài Bhagavan được
trình-bày hai cách rõ rệt, sáng-sủa hơn ở trong
những bài thơ ấy, và trong Uliadie Narpadu
hay là Bốn Mươi Bài về Thực-Tại, cùng với
phần Bổ-túc của Bốn mươi bài thứ hai .
Nhiều bản dịch của Bốn Mươi Bài Thơ về
Thực-Tại với các lời bình-giải chúng. Chúng
ngụ một triết-lý đại-đồng đòi phải có bình-giải,
tuy vậy, như Ngài Bhagavan đã nhận-định
trong vần-đáp dẫn trên, chúng không được viết
ra liên-tục mà là sáng-tác trong khoảng thời-
gian khác nhau, tùy theo cơ-hội. Một số bốn
mươi bài bổ-túc cũng không phải do Ngài làm
cả mà là lựa lấy ở những nguồn khác, bởi vì
khi Ngài thấy ở đâu một câu thích-hợp đã có
rồi, thì Ngài cho là không cần thay một câu
khác .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
461
Tuy vậy, toàn-thể là trình-bày thâm-trầm
đầy đủ hơn hết về học-thuyết của Ngài. Ngoài
hai tập thơ trên còn có một vài bài thơ ngắn
nữa, rất phong-phú, đầy thi-vị. Một bài gồm
những lời giáo-huấn về đường tu-tập ở hình-
thức tượng-trưng của cách-thức làm món ăn
( Poppadum ) ưa thích của miền Nam Ấn-Độ.
Bà mẹ Ngài Bhagavan một hôm làm món ăn ấy
và bà gọi con giúp một tay, do đó mà có sự
sáng-tác bột-nhiên bài thơ tượng-trưng này cho
bà. Thi-sĩ Avvayar có làm một bài thơ than-vãn
về bao-tử :
" Mi không nhịn ăn được một ngày,
và mi cũng không thể ăn được một lần
cho hai ngày. Mi không có ý-niệm gì về
sự buồn-phiền của Ta về mi, ôi bao-tử
khốn nạn !
" Ta không có thể chịu đựng được
mi nữa ! "
Một hôm, ở Tùng-lâm gặp ngày đại-tiệc
chay. Ai nấy đều cảm thấy khó ở, Ngài Bhaga-
van nhái lại bài thơ của thi-sĩ Avvayar :
ADPH RAMANA MAHARSHI
462
" Hỡi bao-tử, mi không cho ta được
yên một giờ sao ? Ngày ấy sang ngày
khác, giờ nọ sang giờ kia, mi tiếp-tục đòi
ăn. Mi không có một ý-niệm gì, biết bao
ta khốn-khổ vì mi, Hỡi cái phá-rối !
Không sao chịu-đựng được mi nữa ."
Năm 1947, Ngài Bhagavan sáng-tác
những bài thơ cuối cùng. Lần này không để trả
lời cho đòi hỏi nào mà hình như có vận-dụng
phi-thường, bởi vì Ngài bắt đầu viết bằng thơ
Telegu, dùng niêm-luật Tamil, để rồi lại dịch
sang tiếng Tamil. Người ta gọi là Năm Bài Thơ
về Tự-Tính ( Ekatma panchakam ) :
" Quên mất Tự-Tính, lầm thân-thể
với Tự-Tính .
" Trải qua không biết bao nhiêu kiếp
để rút cục tìm thấy Tự-Tính chân-thật và
trở nên Tự-Tính, đấy chính là thức tỉnh
khỏi giấc mộng phiêu-lưu khắp thế-gian .
" Kẻ nào tự hỏi “ Ta là Ai ? ” mặc
dầu đang sống với Tự-Tính, thì chẳng
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
463
khác gì người say rượu tự hỏi mình là ai
và đang ở đâu .
" Khi sự thực thân-thể ở tại trong
Tự-Tính mà nghĩ rằng Tự-Tính có ở trong
thân-thể vô-tri vô-giác thì chẳng khác nào
nghĩ rằng màn-bạc trên ấy có bóng chiếu
lại ở trong bóng ấy .
" Phải chăng đồ trang-sức tồn-tại
ngoài vàng bạc tạo nên nó ?
" Ở đâu có thân-thể ngoài Tự-Tính ?
" Người ngu mê lầm thân-thể là Tự-
Tính, nhưng bậc Giác biết Tự-Tính là Tự-
Tính.
" Cái Tự-Tính duy-nhất ấy, Thực-
Tại Tối-Cao một mình có mãi mãi. Dù
rằng Sư-phụ nguyên-thủy ( Adi-Guru,
Dakshinamurthi ) đã biểu-lộ trong yên-
lặng. Ai có khả-năng đã biểu-lộ nó trong
yên-lặng, có khả-năng biểu-thị nó ra lời
nói ? "
Có một ít bản dịch những lời thơ trên,
phần lớn là của Tổ-sư Shankara. Một người
ADPH RAMANA MAHARSHI
464
khách đi hành-hương tới động Virupaksha có
để lại một bản dịch " Một Bó Hoa Biền Biệt
Huyền-Diệu " ( Vivekachudamani ) của Ngài
Shankara. Sau khi đã đọc qua, Ngài Bhagavan
khuyên đệ-tử Gambiram Seshayyar đọc.
Nhưng y không biết tiếng Phạn ( Sanskrit ) lại
hết sức muốn nó là tiếng Tamil. Đạo-sĩ Palani
mượn được bản bằng tiếng Tamil và Seshayyar
thấy bản ấy lại muôn có một bản cho mình, nên
đã viết thơ cho nhà xuất-bản để mình có được
một bản, nhưng nhà xuất-bản nói là đã hết. Y
bèn xin với Sư-phụ dịch ra văn xuôi Tamil đơn
giản. Ngài Bhagavan bèn nỗ-lực dịch ngay,
nhưng trước khi Ngài đi sâu vào công việc dịch
ấy thì Seshayyar lại nhận được của nhà xuất-
bản một bản mà y đã yêu-cầu, thành thử Ngài
đành bỏ dở công trình của mình. Mấy năm sau,
vì sự khẩn-khoản của đệ-tử Ngài đã hoàn-thành
bản dịch bỏ dở trước đó. Chỉ bấy giờ thì đệ-tử
mới nói rõ ra rằng mục-đích của họ là muốn
xuất-bản tập thơ dịch ấy nên mới thúc-dục
Ngài sớm hoàn-thành. Nghe vậy, Ngài Bhaga-
van mới viết bài tựa bản dịch ra văn vần bằng
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
465
tiếng Tamil. Chính bài tựa này đã toát-yếu tất
cả quyển sách và là sự trình-bày khúc-chiết tất
cả đạo-lý và con đường thực-hiện .
Tác-phẩm cuối cùng của Ngài viết ra là
một bản dịch về Kinh Atma-Bodha của
Shankara. Ngài có quyển sách ấy ngay từ khi ở
động Virupaksha, nhưng không từng nghĩ đến
việc dịch ra. Năm 1949, một bản dịch tiếng
Tamil có lẽ không được hoàn-thành đã gửi đến
Tùng-lâm và sau đó ít lâu, Ngài cảm thấy cần
phải làm một bản dịch khác. Trong mấy ngày
đầu, Ngài vẫn còn lưỡng-lự chưa muốn dịch,
nhưng rồi những từ-ngữ hiện ra trong tinh-thần
Ngài. Hết bài thơ nọ, nối tiếp bài thơ kia như là
chúng đã được thành-tựu sẵn rồi. Bởi thế cho
nên Ngài đòi lấy giấy bút để ghi lại bản dịch
ấy, nhưng bản dịch này quá dễ dàng đến nỗi
Ngài vừa cười vừa thú-nhận sự mong mỏi của
Ngài là thấy được một tác-giả khác đến nhận
bản dịch ấy là tác-phẩm của mình, và đã bị
phóng-tác .
ADPH RAMANA MAHARSHI
466
Cũng phải kể vào hàng tác-phẩm của
Ngài Bhagavan sự sưu-tập bốn mươi hai (42)
câu thơ trong Thế-Tôn-Ca ( Bhagavad Gita )
mà Ngài đã lựa chọn theo lời yêu-cầu của tín-
đồ. Ngài đã trình-bày giáo-lý của mình. Những
lựa chọn ấy đã được dịch ra tiếng Anh, nhan-đề
là " Thiên Đường Ca " ( The Song Celestial ) .
****************
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
467
- XVII -
ĐẠI - ĐỊNH
( MAHASAMADHI )
Sức khoẻ của Ngài Bhagavan đã làm cho
người ta lo-lắng mấy năm trước khi thoát xác,
và nhất là kể từ năm 1947, chân của Ngài bị
quằn-quại vì tê-thấp. Ngài cũng thấy đau-đớn ở
lưng và gáy, Ngài tỏ ra cực kỳ suy-nhược mặc
dầu Ngài vẫn có vẻ thản-nhiên. Ai cũng nghĩ
rằng Ngài cần phải có thực-phẩm nhiều dinh-
dưỡng hơn là thực-phẩm ở Tùng-lâm, nhưng
Ngài nhất-định không chịu ăn thêm. Ngài chưa
tới 70 nhưng có vẻ già trước tuổi, không phải
vì Ngài có sự lo-lắng trong lòng. Người ta
không nhận thấy một dấu-hiệu gì như thế ở
Ngài. Ngài có vẻ già-nua và mảnh-khảnh.
Trước kia, sao Ngài vốn lực-lưỡng cường-kiện,
ADPH RAMANA MAHARSHI
468
có thể nói là chưa từng bi đau ốm bao giờ và
không từng có sự lo nghĩ phiền não, mà bây
giờ lại già trước tuổi như thế ? Người gánh
chịu lấy tội lỗi của thế-gian. Người làm nhẹ
nghiệp-báo của tín-đồ -- chỉ là vì uống thuốc
độc tự mình tạo ra mà Thần Siva mới có thể
cứu thế-giới khỏi bị hủy-diệt. Sư Tổ Shankara
viết : " Hỡi Thần Sambhu ( tức Siva ) Chúa-tể
của sự sống, Ngài cũng mang trên vai cả gánh
nặng đời sống thế-gian của tín-đồ mình . "
Ngài Bhagavan cũng mang lấy gánh nặng
của tín-đồ. Chính thân-thể cũng chịu gánh nặng
ấy. Có nhiều dấu-hiệu tuy không hiển-hiện đã
chứng-minh điều ấy. Krishna Murthi, một tín-
đồ có ghi lại trong tạp-chí tiếng Tamil do nữ
tín-đồ Janaki Ammal xuất-bản, rằng một hôm y
vào ngồi trong phòng họp khi đó đang bị đau
nặng ở ngón tay chỏ, y không nói cho ai biết,
nhưng ngạc-nhiên thấy Ngài Bhagavan nắn soa
chính ngón tay chỏ của Ngài, và Krishna
Murthi thấy hết đau ngay lập-tức. Có rất nhiều
đệ-tử khác cũng khỏi bệnh tương-tự .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
469
Đối với Ngài Bhagavan, đời sống trần-thế
không phải kho-báu để tiết-kiệm. Ngài thản-
nhiên đối với sự thọ, yểu của mình. Một hôm
người ta thảo-luận về vấn-đề thọ, yểu của Ngài
trong phòng họp, có người dẫn lời nhà chiêm-
tinh đoán Ngài sẽ sống đến tám mươi (80) tuổi.
Người khác phản đối không cho rằng chiêm-
tinh-học có giá-trị, hoặc không tin khoa ấy có
thể thích-ứng vào Ngài Bhagavan, vì Ngài
không còn nghiệp-báo nữa. Ngài nghe họ thảo-
luận chỉ mỉm cười, mà không tham-gia cuộc
tranh-biện ấy .
Một người mới đến, thấy thế thắc-mắc
hỏi : " Ngài Bhagavan nghĩ thế nào ? " Ngài
không trả lời chỉ mỉm cưòi và tỏ vẻ biều-đồng-
tình khi nghe Mudaliar trả lời thay Ngài :
" Ngài Bhagavan không chú-ý đến vấn-đề ấy."
Năm cuối cùng của Ngài đã xác-chứng điều ấy.
Các tín-đồ buồn phiền vì sự đau đớn của Ngài
và lo-lắng về cái chết của Ngài, nhưng chính
Ngài lại không lo-lắng gì hết .
ADPH RAMANA MAHARSHI
470
Năm 1949 có một cái nhọt nhỏ hiện ra ở
khủy tay trái của Ngài. Người ta cho là không
quan-trọng, nhưng vào tháng hai năm sau, thày
thuốc ở Tùng-lâm mới băng bó. Một tháng sau,
cái nhọt đó trở nên to và làm cho Ngài đau đớn.
Lần này cái nhọt đó trở nên nguy-hiểm và tất
cả Tùng-lâm bị khủng-hoảng. Đến cuồi tháng
ba có mấy bác-sĩ ở Madras đến để giải-phẫu.
Bệnh không lành mà cái nhọt mủ ấy lại tái hiện
nặng hơn .
Kể từ đó về sau tình-trạng trở nên nguy-
kịch không cứu-vãn được. Các bác-sĩ chính-
thống tuyên-bố bất-lực. Tất cả điều có thể làm
được là giải-phẫu cái nhọt đó, mặc dầu có
phương-pháp chữa-trị bằng quang-tuyến mà
bệnh-tình vẫn tỏ ra tuyệt-vọng. Có một phái
thuật-sĩ, trái lại, cho rằng không cần phải giải-
phẫu mà vẫn có thể chữa được. Phương-pháp
của nhóm thuật-sĩ lại làm bệnh-tình nặng thêm
và quả nhiên như thế. Những nhà thuật-sĩ đó
không đủ thì-giờ để chữa trị. Vào tháng ba năm
đó, khi cái nhọt tái hiện dữ-dội, các nhà giải-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
471
phẫu đòi phải cắt cánh tay ấy đi, nhưng truyền-
thống cấm không cho người ta làm thương-tổn
tới thân-thể của Đại-Giác, và còn cấm không
cho kim-khí chạm vào thân-thể. Ngay cả sự
giải-phẫu cũng là một xúc-phạm tinh-thần
truyền-thống, nhưng Ngài vẫn chịu-đựng. Lần
này Ngài không bằng lòng để cho cắt tay. Ngài
nói :
" Không có gì phải quan-tâm đến
thân-thể này, chính nó đã là một chứng-
bệnh rồi ; để nó kết-thúc một cách tự-
nhiên, tại sao lại phải cắt nó đi ? Chỉ cần
băng-bó lại cái chỗ đau thôi " .
Lời Ngài nói : " Không có gì phải hoảng-
sợ ", làm cho mọi người hy-vọng là Ngài sẽ
khỏi, mặc dầu có lời nói tiếp theo của Ngài và
những ý-kiến của các bác-sĩ, đối với Ngài sự
chết không là lý-do để hoảng sợ .
Ngài cũng làm cho người ta hy-vọng khi
Ngài nói : " Mọi sự đều đến đúng lúc ". Nhưng
sự thực chúng ta phải tri-giác sự đúng đáng của
ADPH RAMANA MAHARSHI
472
việc gì xảy đến, Ngài không bao giờ nghi-ngờ
điều ấy .
Vào thời gian ấy Ngài Bhagavan đang
dịch sang tiếng Tamil một bài thơ ở trong Thế-
Tôn-Ca ( Bhagavad Gita _ Bhagavatam Skanda
II , ch. 13 , Sloka 36 ). Mặc dầu thân-thể là kết-
quả của nghiệp nó hành-động, tĩnh chỉ hay vận-
động, sống hay chết Hiền-giả đã thực-hiện Tự-
Tính không còn để ý vào nó, ví như người say
rượu đang mê man không ý-thức đến quần áo
mình mặc .
Sau đấy Ngài diễn-giải một bài thơ Đạo-
dẫn của Tiên-tri Vasishtam :
" Bậc Đại-Giác tự thấy mình là cái
Ý-thức Giác-Ngộ thuần-túy vô-hình thì
bất-động tâm dù thân-thể có lưỡi kiếm
xuyên qua. Đường không thấy vị ngọt của
nó dù nguyên cục hay tán nhỏ ."
Phải chăng Ngài Bhagavan thực thấy đau
đớn ? Ngài nói với một tín-đồ : " Họ cho thân-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
473
thể này là Bhagavan và gán sự đau đớn ấy cho
Bhagavan. Thương thay ! " Và Ngài nói với
một người hầu cận : " Đau đớn ở đâu, nếu tinh-
thần không để vào đấy ? " Tuy nhiên sự phản-
ứng của Ngài về vật-lý vẫn bình-thường đối
với nóng và lạnh. Cohen, một tín-đồ trung-
thành có nhớ lại những lời nói của Ngài mấy
năm về trước :
" Nếu một Đại-Giác đứt tay thì Ngài
cũng đau đớn như mọi người, nhưng bởi
vì tinh-thần của Ngài chìm vào trong
hoan-lạc, cho nên Ngài không cảm thấy
đau đớn dữ-dội như mọi người. Như thế
không phải bậc Đại-Giác không tự đồng-
nhất mình với thân-thể ."
Các Bác-sĩ y-học và một số người hầu-
cận đều tin rằng Ngài có đau đớn và ở giai-
đoạn sau cùng thì sự đau đớn đến cực độ, vậy
mà sự thản-nhiên của Ngài đối với sự đau-đớn
phải làm cho các bác-sĩ kinh-ngạc, nhất là sự
hoàn-toàn bình-tĩnh của Ngài trong khi đang
giải-phẫu .
ADPH RAMANA MAHARSHI
474
Vấn-đề đau-đớn của Ngài cũng như vấn-
đề nghiệp-báo của chúng ta, chỉ có thật ở quan-
điểm lưỡng-nguyên ; còn ở quan-điểm Bất-nhị-
pháp thì không có gì thật cả. Chính cái ý-nghĩ
ấy mà nhiều lần Ngài đã nói với tín-đồ : " Tôi
chỉ bệnh-hoạn khi các anh tin là tôi bệnh-hoạn,
còn nếu các anh nghĩ rằng tôi lành-mạnh thì tôi
sẽ lành-mạnh." Chừng nào một tín-đồ tin vào
thực-tại của chính thân-thể mình và sự đau đớn
của nó là thật, thì đối với y thân-thể của Sư-phụ
và bệnh-hoạn đau đớn của Sư-phụ là có thật .
Một, hai tuần-lễ sau cuộc giải-phẫu vào
tháng ba thì có một thày thuốc lá xin được phép
vào thử chữa, nhưng cũng vô-hiệu. Ngài Bha-
gavan nói với một thày thuốc khác cũng muốn
chữa : " Tôi mong rằng ông đừng bận tâm mất
công tìm tòi các môn thuốc để chữa cho tôi."
Ngài không từng nghĩ đến mình mà chỉ bận
tâm nghĩ đến những người muốn chữa chạy
cho Ngài thôi. Ngài rất tin-tưởng vào các
phương trị-liệu của thày thuốc, nhưng Ngài
phản-đối sự chú-ý quá-đáng vào thân-thể của
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
475
Ngài. Nhiều lần người ta tưởng bệnh-tình của
Ngài thuyên-giảm vì Ngài tuyên-bố là không
muốn được chữa trị nữa. Cái nhọt đó của Ngài
được coi như là bệnh Sarcoma, nó làm tiêu-hao
sinh-lực còn lại của Ngài, nhưng càng ngày
Ngài càng suy-nhược thì diện-mạo Ngài lại
càng hiền-hòa hơn và sáng ngời với vẻ đẹp
tuyệt-vời. Có khi vẻ đẹp ấy làm cho người ta
không dám nhìn .
Cánh tay của Ngài trở nên nặng-nề và tấy
lên. Cái nhọt sưng to. Có khi Ngài thú-nhận :
" Cái ấy làm đau đớn." Nhưng không bao giờ
Ngài nói " Tôi đau ". Đến tháng tám, người ta
lại thử chữa trị cho Ngài bằng quang-tuyến,
ngõ-hầu hủy-diệt những tế-bào bị nhiễm độc,
và không cho cái nhọt tái phát. Cũng trong buổi
chiều hôm ấy, hai giờ sau cuộc chữa trị, Ngài
Bhagavan có lòng nhân-từ, đến ngồi ở hành-
lang của phòng giải-phẫu, ngõ hầu cho tín-đồ
diễn-hành qua trước mặt để tiếp-thụ Ân-điển.
Diện-mạo của Ngài tỏ ra kiệt sức, nhưng không
thấy có sự đau đớn. Tôi ( tác-giả ) từ Madras
ADPH RAMANA MAHARSHI
476
tới suốt một ngày và đứng chiêm-ngưỡng Ngài,
với hào-quang trên nụ cười làm lu-mờ tất cả vẻ
đau đớn. Ngày hôm sau Ngài trở về Tùng-lâm
để chỗ cho bệnh-nhân khác đến chữa bệnh .
Không phải chỉ sự chẩn mạch của y-sĩ
mới tiên-liệu được định-mệnh cuối cùng mà
chính Ngài Bhagavan đã biết trước cái gì sẽ
đến. Và Ngài tìm cách cho chúng tôi có can-
đảm để chứng-kiến cái chết xác-thịt của Ngài.
Sự thực bệnh tình dai dẳng và đau đớn của
Ngài tỏ ra là một phương-tiện để sửa soạn cho
chúng ta chịu-đựng sự vĩnh-biệt không tránh
khỏi của Ngài mà đa số chúng ta lúc đầu đã
nghĩ rằng không sao có thể chịu-đựng được.
Kitty, con gái tôi ( tác-giả ) lưu-trú ở trên núi
viết, khi nhận được tin bệnh tình nguy kịch của
Ngài : " Tôi rất đau buồn về cái tin nhận được,
nhưng Ngài Bhagavan đã biết trước cái gì tốt
hơn hết cho chúng ta." Người ta trình lên Ngài
bức thư đó, Ngài tỏ vẻ hết sức hân-hoan khi
khen sự hiểu-biết của Kitty về câu nói : " Cái gì
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
477
tốt hơn hết cho chúng ta " thay vì " Cái gì tốt
hơn hết cho Ngài " .
Ngài Bhagavan thương vô cùng những
người mà bệnh-tình của Ngài đã làm họ đau
phiền, và Ngài tìm cách an-ủi họ, không phải
bằng lối giản-dị là làm khỏi bệnh qua một số
năm nữa, mà bằng đường lối cơ-bản là làm cho
họ thực-hiện rằng thân-thể đó không phải là
Bhagavan : " Họ lầm mà cho cái thân-thể này
là Bhagavan và gán sự đau đớn cho Bhagavan.
Ôi thương thay ! Họ đều thất vọng vì Ngài
Bhagavan sắp sửa bỏ họ và vĩnh-biệt --
Bhagavan có thể đi đâu và đi làm sao được ? "
Sau cuộc giải-phẫu hồi tháng tám, bệnh
tình của Ngài có vẻ thuyên giảm, nhưng đến
tháng mười một, cái nhọt lại tái hiện, lần này
nó chạy lên đến bắp tay, chỗ gần vai. Tháng
mười hai năm ấy, người ta cố làm một cuộc
giải-phẫu cuối cùng. Vết thương không lành
được nữa và các bác-sĩ thú-nhận bất-lực.
Trường-hợp đi đến tuyệt-vọng và nếu cái nhọt
ADPH RAMANA MAHARSHI
478
tái hiện thì người ta chỉ có cách là làm cho dịu
đi bằng thuốc mê. Lễ sinh-nhật nhằm vào ngày
mùng năm tháng giêng năm 1950. Đại-chúng,
tín-đồ buồn rầu tụ họp mừng thọ 70 tuổi Ngài.
Đa số tín-đồ cảm thấy lần này là ngày sinh nhật
cuối cùng của Ngài. Ngài ban Ân-điển và nghe
tụng những bài hát mới ca tụng Ngài .
Ngài cũng đọc suốt vài bài. Con voi đền
Siva từ đô-thành đến quỳ trước mặt Ngài và lấy
vòi hôn chân Ngài. Một nữ tín-đồ, Rami từ Bắc
Ấn đến, được phép quay phim quang-cảnh
Tùng-lâm. Cuộc lễ tiến-hành như thường-lệ,
nhưng lần này trong một bầu không-khí buồn
rầu lo-lắng khôn tả. Nhiều người đã cảm thấy
chỉ còn vấn-đề hàng tuần hay hàng ngày. Lúc
này là lúc bệnh-tình của Ngài tuyệt-vọng,
người ta còn yêu-cầu Ngài tự mình cho biết
phải thử phương trị-liệu nào. Ngài đáp : " Tôi
chưa từng đòi trị-liệu gì hết. Chính các vị đã
đề-nghị chữa cách này cách khác, vậy thì các vị
tự quyết-định lấy nên như thế nào. Nếu các vị
hỏi tôi thì tôi luôn luôn nói như là tôi đã từng
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
479
nói từ đầu là không cần trị-liệu. Hãy để cho sự-
vật diễn-tiến theo định-luật của nó." Sau đấy
người ta để cho bệnh tự chữa cho bệnh và theo
y-học cổ-truyền ( Ayurveda ) nhưng quá muộn
rồi .
Ngài Bhagavan tiếp-tục sinh-hoạt như
thường-lệ cho đến khi Ngài hoàn-toàn bất-lực
về thể-chất. Ngài tắm buổi sáng trước một giờ
mặt-trời mọc, ban Ân-điển vào giờ đã định
buồi sáng và buổi chiều, xem qua thư-từ và
trông coi sự ấn-hành những tác-phẩm của
Tùng-lâm ; có khi Ngài đề-nghị thêm bớt trong
những bài báo. Hết tháng giêng thì bệnh-tình
không cho phép Ngài ngồi ở sảnh-đường để
ban Ân-điển nữa, người ta xây một phòng tắm
có hành-lang thông qua đối chiếu phiá đông
sảnh-đường. Ngài Bhagavan ở đó cho đến phút
cuối cùng. Có một mái hiên nhỏ ở ngoài để
Ngài ngồi ban Ân-điển cho tín-đồ mà bệnh-tình
của Ngài đã gọi hang trăm người đến Tiruvan-
namalai. Ngài tiếp-tục như thế cho đến phút
cuối và không cho người ta can gián, chừng
ADPH RAMANA MAHARSHI
480
nào còn có các tín-đồ ngồi ở hành-lang đối
chiếu với Ngài. Sau đó ít lâu, khi bệnh-tình
Ngài trầm-trọng thêm, tín-đồ lũ-lượt diễn-hành
từ sớm đến tối trước cửa buồng Ngài. Đến hôm
bệnh trở nên quyết-liệt thì sự ban Ân-điển mới
hoãn lại. Nhưng khi Ngài thấy không ai đến
tiếp-thụ Ân-điển nữa thì Ngài tỏ ra bất bình và
lại ra lệnh để họ tiếp-tục đến .
Cái nhọt tái hiện ngay trên vết thương
chưa khỏi, nó lại chạy lên đến vai và tất cả cơ-
thể đều bị nhiễm độc, sự suy-nhược đặc-biệt đã
hiện ra. Các bác-sĩ cho rằng vết thương chắc
phải làm cho đau đớn lắm. Ngài không ăn uống
gì nữa. Có khi người ta nghe thấy Ngài rên-rỉ
trong giấc ngủ, nhưng Ngài không tỏ ra dấu-
hiệu đau đớn gì khi tỉnh. Thỉnh-thoảng bác-sĩ
từ Madras đến thăm Ngài, đối với họ Ngài vẫn
tỏ ra lịch-sự hòa-nhã. Cho đến phút cuối cùng,
câu hỏi đầu tiên của Ngài là để biết xem các
tín-đồ có được nuôi dưỡng chu-đáo không .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
481
Ngài vẫn giữ được tinh-thần hài-hước,
cười rỡn về bệnh hoạn của mình, coi như là
không liên-can gì tới mình cả. Một nữ tín-đồ ở
phòng bên cạnh, trong lúc đau buồn về bệnh-
tình của Ngài, đã đập đầu vào cột. Ngài tỏ vẻ
ngạc-nhiên và nói : " Ôi, tôi tưởng bà ta đập
trái dừa ."
Khi nói với người hầu-cận và bác-sĩ
Krishnaswami, vừa là thày thuốc vừa là đệ-tử
của Ngài, Ngài giải-thích như sau : " Cái thân-
thể này ví như mảnh lá chuối, trên đó người ta
đã dọn biết bao nhiêu thức ăn ngon lành, sau
khi đã ăn xong, phải chăng người ta còn giữ lá
chuối ? Chúng ta có vứt bỏ nó đi không, sau
khi nó đã hết nhiệm-vụ của nó rồi ? "
Một lần khác, Ngài nói với người hầu-
cận : " Ai là người còn muốn mang gánh nặng
của thân-thể này, khi nó phải cần sự giúp-đỡ về
mọi phương-diện ? Anh có nghĩ đấy là tôi mà
phải ít ra bốn người để cáng-đáng gánh nặng ?"
ADPH RAMANA MAHARSHI
482
Và Ngài nói với đệ-tử khác : " Các con
hãy tưởng-tượng là các con đi đến một vựa củi
để mua một bó củi, và thuê người khuân vác
mang về nhà. Trong khi các con cùng đi đường
với y, thì y nghĩ về thời-gian chóng tới đích để
trút gánh nặng xuống. Cũng thế, bậc Đại-Giác
chỉ mong mau giải-thoát khỏi thân hủy-diệt ".
Rồi Ngài lại sửa lại để giải-thích câu nói trên :
" Nói thế có thể chính-xác đến một mức nào,
nhưng thực ra không phải hoàn-toàn đúng. Bậc
Đại-Giác ( Jnani ) không lo về sự bỏ rơi thể-
xác, Ngài thản-nhiên đối với sự tồn-tại hay
không của thân-thể vì không ý-thức đến sự có
hay không của nó . "
Một hôm, mặc dù không hỏi, Ngài giải-
thích cho một người trong đám hầu cận về sự
giải-thoát ( Moksha ) : " Anh có biết giải-thoát
là gì không ? Rũ sạch đau-khổ không có thật
và đạt tới hoan-lạc luôn luôn hiện-diện, đó là
giải-thoát ! "
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
483
Người ta khó mất cái hy-vọng, dù bác-sĩ
đã thất-bại, nghĩ rằng Ngài có thể chữa khỏi
bằng chính quyền-năng của mình. Một tín-đồ
van xin Ngài chỉ có một ý-tưởng mong muốn
trở lại lành mạnh, chỉ một ý-nghĩ đó thôi là đủ
rồi, nhưng Ngài khinh-bỉ phản-đối : " Vậy ai
sẽ có cái ý-tưởng đó ? "
Đối với những người khác yêu-cầu Ngài
có ý muốn bình-phục, Ngài đáp : " Ai ở đây có
ý muôn ấy ? " Cái Ấy cá-nhân chống-đối với
định-mệnh không còn ở Ngài nữa ; nó là
" sự thống-khổ không thật " mà Ngài đã trút bỏ
đi rồi .
Một số tín-đồ lấy sự lành bệnh của Ngài
làm điều-kiện cho hạnh-phúc của mình đã
thỉnh-cầu : " Chúng con sẽ như thế nào nếu
không còn Ngài Bhagavan ? Chúng con quá
yếu-đuối để tự mình trông cậy vào mình.
Chúng con nương-nhờ cả vào Ân-điển của
Ngài ". Và Ngài trả lời : " Các con quá trọng
thân-thể của mình ", rõ-ràng ngụ-ý sự chết ở
ADPH RAMANA MAHARSHI
484
thân-thể vật-lý không làm gián-đoạn Ân-điển
và sự hướng-dẫn của Ngài .
Ngài còn nói : " Tín-đồ tưởng rằng tôi
đương chết, nhưng tôi không đi đâu cả. Tôi còn
đi đâu nữa, tôi ở tại đây ."
Bà Taleyarkhan, tín-đồ đạo Parsi cũng
van nài : " Xin Ngài Bhagavan hãy chuyển dịch
bệnh của Ngài sang cho tôi, cho phép tôi mang
bệnh thay Ngài ! " Và Ngài trả lời : " Thế thì ai
đã đem nó cho tôi ? "
Vậy thì ai đã đem bệnh lại cho Ngài, phải
chăng là độc-dược ở nghiệp-báo của chúng ta ?
Một đạo-sĩ người Thụy-Điển mộng thấy
cánh tay đau của Ngài, ông ta mở ra và nhìn
qua thấy trong ấy một người phụ-nữ tóc sõa bù
rối, người ta giải-thích ý-nghĩa của giấc mộng
ấy là Ngài Bhagavan đã gánh lấy nghiệp của bà
mẹ khi Ngài độ cho bà phút cuối cùng. Người
khác lại cho rằng hình-ảnh người đàn-bà ấy
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
485
tượng-trưng cho toàn-thể nhân-loại hay là
chính tuồng ảo-hóa ( Maya ) .
Vào ngày thứ năm ( 13 - 4 ), một bác-sĩ
đem lại cho Ngài một liều thuốc để chữa bệnh
phổi, Ngài từ-chối : " Không cần-thiết, chỉ
trong hai ngày nữa mọi việc sẽ ổn cả ". Đêm
hôm ấy, Ngài yêu-cầu những người phục-dịch
lui ra mà đi ngủ hay là định-niệm và để Ngài
một mình .
Hôm sau, thứ sáu, bác-sĩ và những người
phục-dịch đã biết là ngày cuối cùng. Buổi sáng,
Ngài lại bảo họ lui về phòng tụng niệm. Buổi
trưa, người ta đem lại cho Ngài đồ ăn loãng,
Ngài hỏi giờ chính-xác như thường-lệ và nói :
" Từ nay trở đi thời-gian không còn ý-nghĩa
nữa." Ngài nhã-nhặn cảm-tạ những người đã
săn-sóc Ngài từ nhiều năm nay. Ngài nói :
" Người Anh có tiếng " thanks " để diễn-tả
điều mà tôi muốn nói lúc này, còn chúng ta chỉ
có chữ Santosham ( Tôi hoan-hỷ ) .
ADPH RAMANA MAHARSHI
486
Sáng sớm hôm đó, một đoàn người diễn
qua trước cửa, yên-lặng vì buồn-bã, lo-âu.
Cảnh-tượng ấy lại tái-diễn vào khoảng bốn
năm giờ chiều. Thân-thể Ngài bị bệnh tàn phá
làm cho co dúm lại, xương sườn lồi ra, da đen
xậm lại. Tất cả người ta thấy ở thân-hình Ngài
là di-tích của sự thống-khổ và đau-thương. Tuy
vậy mà trong mấy ngày cuối cùng, mỗi tín-đồ
còn nhận được một cái nhìn trực-tiếp chói-lọi,
thâm-trầm của sự biết ơn mà họ cảm thấy như
là một luồng Ân-điển truyền thẳng vào mình .
Tối hôm đó tất cả tín-đồ không giải-tán
sau lễ Ân-điển của Sư-phụ. Sự lo-âu cầm giữ
họ lại đấy. Vào lúc mặt-trời lặn, Ngài
Bhagavan yêu-cầu người hầu cận nâng Ngài
ngồi dậy. Họ đều ý-thức rằng một sự đụng
chạm rất nhỏ cũng làm cho Ngài đau-đớn,
nhưng Ngài bảo họ đừng bận tâm về điều ấy.
Ngài ngồi dậy dựa đầu vào tay người hầu cận.
Một bác-sĩ muốn tiếp cho Ngài dưỡng-khí,
nhưng Ngài lấy tay phải sua đi. Có chừng mười
hai người vừa bác-sĩ vừa hầu-cận tu-tập ở một
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
487
căn phòng nhỏ bên cạnh. Hai người hầu-cận
quạt cho Ngài và những tín-đồ đứng ở bên
ngoài chỉ nhìn vào sự vận-động của chiếc quạt
mà biết rằng Sư-phụ hãy còn sống. Một phóng-
viên của tạp-chí Mỹ không sao cầm được sự
cảm-động trước cảnh-tượng ấy. Ông ta nguyện
không viết ra văn-tự những việc xẩy ra mà ông
đã chứng-kiến trước khi rời khỏi nơi đây, tức là
Tiruvannamalai, để tới khi có thể thấy được sự
bình-tĩnh mọi ngày, thì mới có thể viết lại
được. Đi theo ông còn có một nhà nhiếp-ảnh
của báo-chí Pháp .
Thình-lình, không ai ngờ một số tín-đồ
ngồi ở thềm hành-lang trước phòng của Sư-phụ
cất lên tiếng hát tụng Thần Siva Arunachala.
Nghe thấy tiếng hát Ngài mở choàng mắt ra
chói-lọi. Ngài mỉm nụ cười hiền-từ vô-tả, giọt
nước mắt an-lạc long-lanh trên mi mắt. Ngài
thở hắt ra một hơi dài rồi tắt nghỉ, không nấc,
không giẫy-giụa, không có gì biểu-lộ là Ngài
tắt nghỉ, duy không còn hơi thở nữa .
ADPH RAMANA MAHARSHI
488
Trong một lúc, mọi người đều ngơ-ngác,
điệu hát vẫn tiếp-tục. Một nhà phóng-viên Pháp
đến hỏi tôi Ngài tắt thở vào đúng lúc nào. Tôi
tin vào sự bình-tĩnh của các nhà báo nên tôi trả
lời y một cách phũ-phàng -- Tôi không biết ! --
Thế rồi tôi chợt nhớ lại thái-độ hòa-nhã của
Ngài Bhagavan, tôi bèn nói lại là -- đúng vào
lúc 8 giờ 47 phút. Bấy giờ y bèn kể lại cho tôi
rằng vào đúng giờ phút ấy trên đường y đi đến
đây có một ngôi sao lớn bay ngang qua trời.
Nhiều người đã nhìn thấy từ đàng xa ở Madras
và đã đoán ra điều báo trước của nó. Ngôi sao
ấy bay vút về phiá Đông Bắc tới núi Aruna-
chala .
Sự kinh-ngạc đầu tiên liền tiếp theo một
sự kêu gào buồn thảm. Người ta đặt thi-thể
Ngài ngồi ở trước hiên với tư-thế tĩnh-tọa. Đàn
ông, đàn bà tụ đông đến chấn-song hành-lang
để nhìn. Một phụ-nữ ngất đi còn những người
khác thì nức-nở .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
489
Sau đấy thi-hài được phủ một vòng hoa
rồi rời vào trong phòng và đặt lên một chiếc
ghế ngựa, các tín-đồ tụ-họp ngồi vây chung
quanh. Người ta đều thấy diện-mạo của Sư-phụ
bất-động như tảng đá ở trạng-thái Tam-muội,
nhưng diện-mạo ấy bị sự đau-đớn làm biến
dạng khiến cho mọi người đau lòng khi nhìn
thấy. Chỉ mãi đến đêm diện-mạo ấy mới trở lại
bình-thản huyền-nhiệm .
Những đệ-tử thức suốt đêm ở trong
phòng, còn nhiều người khác ở thị-sảnh thì lũ-
lượt cung kính diễn-hành một cách yên-lặng.
Họ từ tỉnh đến từng đám đông, diễn-hành và
hát bài cầu tụng Thấn Siva Arunachala khi trở
về .
Một số tín-đồ ở trong phòng cất tiếng hát
ca tụng và than-vãn ; một số khác ngồi yên-
lặng .
Điều đáng chú ý nhất không phải là sự
yên-lặng bao-trùm bởi vì họ thấy mất đi người
ADPH RAMANA MAHARSHI
490
ban Ân-điển làm ý-nghiã chân-thật của đời
sống. Ngay đêm đầu tiên và những đêm sau
này người ta mới cảm thấy ý-nghĩa sâu đậm
của Ngài Bhagavan : " Ta không đi đâu cả. Ta
còn đi đâu nữa ? Ta ở tại đây ! " Lời nói " ở
đây " không có ngụ ý vào giới-hạn không-gian,
thực ra nó có nghĩa là -- Cái Tự-Tính Tồn-Tại
không làm gì có sự thay-đổi, không có sự đi
đâu và sự biến-đổi đối với Cái Ấy Đại-Đồng.
Tuy nhiên, tín-đồ cảm thấy Hiện-diện của
Bhagavan nội-tại cũng như họ cảm thấy Hiện-
diện Thần-linh ở Tiruvannamalai, họ bắt đầu
coi thế như là một hứa hẹn đầy tình thương ân-
cần .
Trong đêm túc-trực, người ta phải quyết-
định về việc tống-táng Sư-phụ. Một số tín-đồ
nghĩ có thể chôn cất thi-thể của Ngài ở trong
căn phòng mới, nhưng đa số phản-đối cho rằng
về một mặt căn phòng nối với Đền khiến cho
bàn-thờ Ngài Bhagavan có vẻ kém quan-trọng
so với bàn thờ Bà Mẹ, sẽ làm mất cả thứ-tự
chính-đáng .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
491
Hôm sau toàn-thể đồng tình đào một cái
huyệt để mai-táng thi-hài Ngài Bhagavan với
nghi-lễ Thần-linh giữa căn phòng cũ và Ngôi
Đền .
Quần-chúng tụ-tập dự lễ mai-táng trong
bầu không khí đau buồn lặng-lẽ. Thôi còn đâu
nữa diện-mục đáng yêu, còn đâu nữa tiếng nói
biết bao quý-báu của Ngài. Từ nay trở đi, tảng
đá đen nhẵn bóng biểu-tượng Thần Siva đặt
trên ngôi mộ đã gợi cho người ta bề ngoài của
Sư-phụ, nhưng trong tâm-khảm mọi người vẫn
còn tồn-tại dấu-tích của Ngài BHAGAVAN
*****************
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
493
- XVIII -
HIỆN - DIỆN TIẾP - TỤC
Quần-chúng giải-tán và Tùng-lâm vắng
tanh, khác nào một cảnh bỏ hoang như lò than
tắt lửa. Tuy vậy người ta không thấy sự biểu-lộ
đau đớn và thất-vọng thường diễn ra sau khi
một Sư-phụ Tâm-linh qua đời. Sự sinh-hoạt
bình-thường trước kia rất rộn-rịp thì nay không
có gì thay-đổi. Tín-đồ nhận ra dần dần tất cả sự
săn-sóc và âu-yếm của Sư-phụ Bhagavan đã
chứng-tỏ để sửa-soạn cho điều ấy. Những tuần
đầu có ít người muốn ở lại, và một số khác
muốn ở lại thì lại bị cản-trở .
Một thiểu-số có nhiệt-thành đối với Sư-
phụ thì tìm cách biểu-thị bằng hành-động. Họ
lập một ủy-ban để quản-lý Tùng-lâm. Đạo-sĩ
Niranjanananda bằng lòng cộng-tác với họ, họ
ADPH RAMANA MAHARSHI
494
cũng bằng lòng bầu ông làm Hội-trưởng. Còn
các tín-đồ khác họp thành từng nhóm rải-rác ở
khắp các tỉnh đến họp thường-xuyên .
Khốn thay, cũng lại có vài người phá-đám
và những người muốn tự đề-cao mình lên hàng
đầu. Những hạng người ấy thường hiện ra sau
khi một Chân Sư-phụ Tâm-linh qua đời, nhưng
lần này thì hạng người ấy có ít thôi, còn các
tín-đồ vẫn một lòng trung-tín. Mấy năm trước,
người ta đã ghi thành văn-kiện về sự quản-lý
Tùng-lâm, khi nào Sư-phụ không còn hiện-
diện. Một số tín-đồ đã đem lại trình Ngài
Bhagavan lúc sinh-thời, Ngài đã đọc qua những
điều-lệ ấy và biểu-đồng-tình. Sau đó tất cả
những người có mặt đều ký tên chứng-nhận .
Các điều-lệ được quy-định vắn-tắt như
sau :
1/ Người ta phải đến tưởng-niệm trước
mộ Ngài Bhagavan và Bà Mẹ Ngài .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
495
2/ Gia-đình người con Đạo-sĩ
Niranjanananda được Tùng-lâm chu-cấp hàng
tháng .
3/ Trung-tâm Tâm-linh Tiruvannamalai
phải duy-trì sinh-hoạt.
Người ta về sau góp thêm những quyết-
định khác nữa, nhưng Ngài Bhagavan không
bằng lòng .
Chính điều-lệ thứ 3 là di-chúc chính quy-
định phận-sự. Những tín-đồ tôn-trọng điều-lệ
trên tùy theo tính-tình và khả-năng. Có người
không làm gì khác hơn là ngồi yên-lặng chìm
vào trong thiền-định, hay là chỉ đến khi nào có
cơ-hội để tìm an-ủi và chứng-tỏ lòng nhiệt-
thành sùng-bái và tri-ân. Có tín-đồ nói rằng :
" Những bài giảng của Sư-phụ có thể giải-trí
cho một số thính-giả hàng giờ, tuy không tu
sửa con người, nhưng sự yên-lặng có ích lợi
bền dai cho toàn-thể nhân-loại." Có thể sự
định-niệm ấy của họ còn xa với trạng-thái yên-
ADPH RAMANA MAHARSHI
496
lặng tâm-linh phi-thường của Ngài Bhagavan.
Nhưng không những nó tiếp-thụ Ân-điển của
Ngài mà còn truyền-bá nữa. Và sự truyền-bá ấy
chỉ có thể hiệu-nghiệm một phần nào thôi,
nhưng hợp sự sùng-bái và định-niệm lại thì
hiệu-quả được bội phần. Lại có những tín-đồ
khác nhờ lời nói hay văn-tự tạo nên chung-
quanh họ một sự chú ý có thể biến thành hiểu-
biết thâm-thúy .
Những tín-đồ chuyên tâm vào sự hoạt-
động bên ngoài thì đảm nhận tổ-chức. Nó cũng
là một con đường đạo-dẫn ( Sadhana ) mà Ngài
Bhagavan chỉ thừa-nhận trong tinh-thần ấy
thôi. Các tin-đồ hy-vọng sẽ xây lên được một
phòng riêng cho sự định-niệm. Hiện nay ngoài
ngôi Đền thờ và căn phòng cũ, chỉ có ngôi mộ
bằng đá, bên trong có tượng một Linh-phù
( Lingam ) có mái lợp lá dừa .
Bàng-bạc khắp nơi người ta cảm thấy sự
hiện-diện của Ngài Bhagavan, nhưng không-
khí có khác nhau. Buổi sáng và buổi chiều có
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
497
hát Kinh thơ Vệ-Đà ( Panayanam ) trước mộ
cũng như trước kia khi Ngài còn sống. Các tín-
đồ ngồi đấy định-niệm cũng như trước kia họ
ngồi định-niệm trước mặt Ngài trong phòng, và
họ tri-giác như trước thấy cùng cái quyền-năng,
cùng sự đạo-dẫn tế-nhị tương-tự .
Trong khi tụng hát, họ làm lễ cúng-dường
trước mộ và đọc lên 108 danh-hiệu của Ngài
Bhagavan. Nhưng ở trong phòng xưa, người ta
thở một không-khí êm-đềm hơn, thân-mật hơn
do sự hiện-diện thực-tại lâu năm của Sư-phụ đã
tạo nên. Mấy tháng sau khi Sư-phụ nhập-tịch
có xẩy ra một trận cháy, làm hư-hại căn phòng,
nhưng may thay không thiêu-hủy hoàn-toàn .
Căn phòng mà Ngài Bhagavan trụ-trì
trong những ngày sau cùng thì vẫn còn (1954).
Một bức chân-dung của Sư-phụ có vẻ sống-
động và đáp-ứng sự sùng-bái của tín-đồ. Người
ta cũng còn thấy nhiều đồ-vật mà Sư-phụ từng
dùng hay đã sờ mó đến : cây gậy ; những bầu
đựng nước ; một chiếc quạt bằng lông công ;
ADPH RAMANA MAHARSHI
498
thư-viện lưu-động và kể cả chiếc giường hiện
nay vắng bóng Ngài. Căn phòng ấy hình như
gây cho người ta một sự xúc-động, tuy vậy nó
tỏa ra một luồng ân-huệ vô-tả. Một pho tượng
của Ngài được dựng lên ở trong một căn phòng
mới. Người ta đã ước định sẽ tạc tượng Ngài,
nhưng không tìm được một nhà điêu-khắc có
khả-năng tạc nên hình-ảnh thỏa-đáng. Có lẽ
người ấy phải tự mình được thấy sự huyền-diệu
của Ngài Bhagavan, được Ngài khởi-hứng, vì
rằng không phải vấn-đề diễn-tả được những nét
của con người mà là biểu-thị năng-lực và vẻ
đẹp Thần-linh xuyên qua những nét ấy .
Khuôn-viên của Tùng-lâm là Thánh-địa,
cả đến miền phụ-cận. Sự bình-an của những
địa-điểm ấy bao-phủ và thâm-nhập vào người
ta. Không phải bình-an thụ-động mà là một
không-khí khích-động. Cả đến những không-
khí ở đây cũng được sự hiện-diện của Ngài làm
cho thơm-tho .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
499
Hẳn rằng sự hiện-diện ấy không từng bao
giờ giới-hạn vào thị-xã Tiruvannamalai. Bất cứ
đệ-tử ở chỗ nào cũng thấy Ân-điển và sự hộ-trì
của Ngài, cùng sự hiện-diện nội-tại của Ngài.
Sự hiện-diện không những chỉ mãnh-liệt ở lúc
này mà còn mạnh-liệt hơn cả trước kia. Tuy
nhiên, bây giờ cũng như trước, sự an-ủi cho
một cuộc hành-hương đến Tiruvannamalai đã
thâm-nhập vào tâm-hồn họ, và khu cư-ngụ ở
đấy có một vẻ đẹp khôn tả .
Có những bậc Thánh từng hứa-hẹn trở lại
trần-gian để tiếp-tục hướng-dẫn tín-đồ của
mình trong cuộc đời tái-sinh, nhưng Ngài
Bhagavan là bậc Đại-Giác, không còn một chút
dấu-tích của Tiểu-Ngã để tái-sinh, và các tín-đồ
đều biết như thế. Điều Ngài hứa-hẹn thì khác :
" Ta không đi đâu cả ! Ta còn đi đâu nữa ? Ta
luôn luôn ở tại đây ! " Không cả đến : " Ta sẽ
ở tại đây ", mà là " Ta hiện-tại đây " . Bởi vì
đối với bậc Đại-Giác thì không còn biến-đổi,
không có thời-gian, không có sai-biệt giữa quá-
khứ và tương-lai, không đi đâu cả, chỉ có Hiện-
ADPH RAMANA MAHARSHI
500
tại Vĩnh-cửu là toàn-thể thời-gian đại-đồng.
Không có không-gian " Vô sở bất tại ". " Tại
đây ", điều Ngài khẳng-định là Hiện-diện liên-
tục không gián-đoạn, sự đạo-dẫn liên-tiếp của
Ngài .
Từ lâu Ngài nói với Sivaprakasam Pillai :
" Người đã tiếp-thụ Ân-điển của Sư-phụ thì
chắc-chắn được cứu-độ, và không bao giờ bị bỏ
rơi nữa ". Và những tín-đồ bầy tỏ sự lo sợ bị
Ngài bỏ rơi khi Ngài lâm bệnh cuối cùng, cùng
sự yếu-đuối luôn luôn cần đến Ngài, thì Ngài
trả lời như đã nói trên : " Các con chú-ý quá-
đáng vào thân-thể của mình ."
Các tín-đồ sớm tỉnh-ngộ ra rằng điều ấy
rất thật. Hơn bao giờ hết, Ngài trở nên Sư-phụ
Nội-tâm. Những người nương-tựa vào Ngài
bây giờ cảm thấy sự đạo-dẫn của Ngài còn
linh-hoạt hơn, mãnh-liệt hơn. Tư-tưởng của họ
gắn liền vào Ngài bền-bỉ hơn. Khoa Cứu-tầm
Tự-Tính dẫn đến Sư-phụ Nội-tâm, dễ trưởng-
thành hơn, dễ đạt được hơn. Định-niệm đem
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
501
luồng Ân-điển mau lẹ hơn. Sự phản-ứng của
hành-vi thiện, ác thì nhanh chóng và mạnh-mẽ
hơn. Sau sự xúc-động mạnh đầu tiên, các tín-đồ
lại cảm thấy như bị thu-hút đến Tiruvanna-
malai. Đấy không phải chỉ ở kiểu nội-hướng để
cảm thấy sự hiện-diện liên-tục của Ngài .
Một tín-đồ là bác-sĩ T.N. Krishnaswami
tin rằng mình chỉ liên-hệ vào Sư-phụ Bhagavan
bằng tình-yêu cá-nhân và sùng-bái, nên đã nói
sau một cuộc Đại-định ( Mahasamdhi ) : " Đối
với người như tôi, tất cả đều hết rồi " .
Mấy tháng sau trở lại thăm tỉnh Tiruvan-
namalai, ông ta nói : " Ngay những ngày trước
không làm gì có sự an-lạc và tốt đẹp như bây
giờ ". Và đấy không phải lời nói kiểu nội-quan
mà ông cảm thấy sự dẫn-đạo nội-tại trong lòng,
mà là một đáp ứng ngay cho sự tín-ái, sùng bái.
Các tín-đồ luôn luôn là một đại gia-đình,
nhưng nay một ý-thức thân-thuộc mạnh hơn đã
nẩy nở ở họ. Họ tụ-họp ở căn phòng cũ và
ADPH RAMANA MAHARSHI
502
thảo-luận về giáo-lý của Sư-phụ Bhagavan và
ôn lại với nhau những kỷ-niệm xưa, đưa ra
ánh-sáng những thực-nghiệm về lời dạy của
Sư-phụ mà trước kia không ai cảm thấy cần
phải bàn-luận .
Những bí-quyết của Núi Arunachala cũng
trở nên dễ hiểu hơn. Ngày xưa, nhiều người
trong hàng tín-đồ không ai cảm thấy quyền-
năng của Núi. Đối với họ, nó chỉ là một ngọn
núi đá và đất thường, có cây-cối bao-bọc như
các núi khác. Bà Talayarkhan, một tín-đồ đã
nói ở chương trên, một hôm ngồi trên sườn núi
vời một người bạn, nói chuyện về Ngài Bhaga-
van. Bà nói : " Bhagavan là một Thượng-Đế
đang lưu-hành, tất cả lời cầu-nguyện của ta đều
được Ngài đáp-ứng. Đấy là thực-nghiệm của
tôi. Bhagavan nói rằng ngọn núi này chính là
Thượng-Đế hiện-thân. Tôi không hiểu được hết
tất cả, nhưng Bhagavan nói thế nên tôi tin."
Bạn của bà, một tín-đồ Hồi-giáo còn quan-hệ
với truyền-thống lịch-sử về văn-hóa Ba-Tư,
đáp lại bà : " Theo tín-ngưỡng Ba-Tư của
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
503
chúng tôi thì nếu mưa xuống, tôi sẽ cho là một
bằng-chứng điều bà nói." Tức thì lúc ấy đổ
xuống một trận mưa rào. Hai bà xuống núi ướt
lướt-mướt kể lại câu chuyện .
Nhưng từ khi tinh-thần Sư-phụ Bhagavan
rời khỏi thể xác và một ngôi sao sáng bay
ngang trời về phiá Núi thì tín-đồ cảm thấy trực-
tiếp nó là Thánh-địa ; họ cảm thấy cái bí-quyết
của Bhagavan ở Núi .
Một truyền-thống cố-hữu cho rằng Núi
Arunachala thành-tựu các nguyên-vọng, và
cuộc hành-hương về Núi trải qua hàng thế-kỷ
để cầu-nguyện được ân-huệ, nhưng những
người cảm thấy an-lạc sâu xa hơn thì không
ước-vọng, vì con đường của Arunachala là con
đường của Ngài Bhagavan là giải-thoát con
người khỏi ước-vọng, và nó là sự thành-tựu
hơn .
" Khi nào tới gần để chiêm-ngưỡng
Ngài ở hình-tướng, Ngài đứng sừng-sững
như một quả Núi trên mặt đất. Kẻ nào tìm
ADPH RAMANA MAHARSHI
504
hình-tướng, vô-tướng đó, thì tựa như
khách lữ-hành đi khắp mặt đất để tìm
không-gian vô-hình. Không nghĩ đến bản-
tính của Ngài là bỏ mất đồng-nhất-tính
của mình, thì chẳng khác gì con búp-bê
đường tìm vào trong biển-cả. Đến khi tôi
thấy được tôi là ai thì còn cái gì khác hơn
là chính Ngài, cái đồng-nhất-tính của tôi .
" Hỡi Thần Núi Arunachala, Ngài
sừng-sững cao vọi ! "
_ ( Tám bài thơ về Ngài Arunachala )
Chỉ những người đã từng có mặt và đã
nhìn thấy vẻ đẹp của Ngài Bhagavan ở hình-
tướng nhục-thể mới cảm thấy hấp-dẫn. Họ là
những người có may-mắn vô-giá, nhưng các
người khác cũng bị hấp-dẫn về Ngài, về Núi
Arunachala. Chỉ cần ghi nhận hai trường-hợp :
Cô Hower đã chờ mười bốn năm, sau khi đọc
cuốn sách " Ấn-Độ Huyền-bí " ( A Search in
Secret India ) của Paul Brunton mới có khả-
năng đến được Tiruvannamalai. Cơ-hội đem lại
cho cô điều-kiện ấy chỉ sau khi Ngài Bhagavan
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
505
đã vào Đại-định. Cô ta đã bỏ việc và bán tất cả
tài-sản để có một số tiền cần-thiết. Cô chỉ đủ
phương-tiện ở lại đấy vài tuần. Nhưng cô đã
cảm thấy Ân-điển ở sự Hiện-tại của Ngài, cô
nói : " Tôi tưởng tôi sẽ thất-vọng khi nhận
được tin Ngài đã tịch, nhưng sự thực tôi không
thất-vọng. Những giờ phút ngắn-ngủi nhất của
những ngày có mặt tại đấy cũng đáng là những
giờ phút đáng sống. Tôi chỉ khao-khát có ngày
trở lại ."
Việc trở lại là ở trong tay Ngài Bhagavan.
Bây giờ cũng như trước kia Ngài kéo về mình
và về Tiruvannamalai bất cứ ai Ngài muốn. Cô
Howes tin vào kinh-nghiệm đã trải qua của cô,
là khi trở về Mỹ cô dễ tìm thấy việc làm mới.
Nhưng lần này sự việc không xẩy ra như ý cô
tưởng. Hết tuần này sang tuần khác, không thấy
gì như ý cô muốn cả. Rồi cô nghe nói có một
chỗ làm tốt bỏ trống. Cô được hỏi ý và người ta
bảo cô có thể được chỗ làm ấy nếu cô muốn,
nhưng nó ở tận bên Ấn-Độ. Do đấy mà sự trở
lại Tiruvannamalai đã được dễ-dàng .
ADPH RAMANA MAHARSHI
506
Bác-sĩ Acharya xin về hưu-trí sau nhiều
năm hoạt-động thành công ở Trung-Ấn và ông
ta định dành những ngày chót của cuộc đời để
cầu tìm tâm-linh. Ông đã chu-du khắp Ấn-Độ,
thăm hết Đền này đến Tùng-lâm khác mà chưa
tìm được sự an-ổn cho tâm-hồn. Sau cùng ông
đền Tiruvannamali. Tức thì ông cảm thấy
" đây là quê nhà " của mình và bèn định-cư làm
bác-sĩ của Tùng-lâm .
Sau một thời-gian ông cảm thấy chán-nản
cũng như những người khác đến đây trước ông,
vì không thấy tinh-thần tiến-bộ. Ông đến khóc
trước mộ Ngài Bhagavan : " Tại sao Ngài dẫn
tôi đến đây. Ngài Bhagavan ! Nếu Ngài không
định ban cho tôi sự an-tĩnh tâm-hồn mà tôi tìm
kiếm ? "
Ngay đêm hôm ấy, ông ta mộng thấy
Ngài Bhagavan ngồi trên giường thiền của
Ngài. Ông lại gần, quỳ xuống. Ngài Bhagavan
ôm lấy đầu ông và hỏi : " Cái gì đã làm cho
ông buồn nản ? " Sau khi nghe lời ta-thán của
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
507
ông, Ngài trả lời như Ngài đã từng trả lời cho
các tín-đồ lúc bình-sinh : " Sự thực không phải
ông không tiến-bộ, chính tôi mới biết được
điều ấy, chẳng phải ông ". Bác-sĩ Acharya cãi
lại : " Nhưng tôi phải đạt tới sự thực-hiện ngay
trong đời này, bây giờ. Sao tôi còn phải chờ
đợi. Sao mà nó đến chậm như thế ? "
Ngài Bhagavan cười : " Đấy là định-mệnh
của ông ( Prarabdha Karma ) ."
Những lời giải-đáp của Ngài trong mộng
cho những người chưa từng nhìn thấy Ngài lúc
sinh-thời cũng đúng như những lời Ngài có thể
giải-đáp khi còn sống. Cũng như trước kia,
những lời ấy không phải chỉ an-ủi khích-lệ mà
còn hấp-dẫn vô-cùng và ân-cần nữa .
Còn có những người khác cũng đến
Tùng-lâm, Ananda Mayi Ma, một nữ Thánh có
tiếng xứ Bắc-Ấn đến tận mộ Ngài và từ-chối
ngồi ở ghế danh-dự đã dành cho Bà, Bà nói :
" Sao có sự bầy vẽ phiền-phức thế ? Tôi đến
ADPH RAMANA MAHARSHI
508
đây để tôn-vinh đức Cha tôi và tôi có thể ngồi
xuống đất như mọi người ."
Một nữ Thánh miền Nam-Ấn, khi bà
Taleyarkhan hỏi về bản-thân Bà cùng các vị
Thánh khác còn sống trong nhục-thể. Nữ
Thánh trả lời : " Ngài Bhagavan là mặt-trời mà
chúng tôi là những tia-sáng mặt-trời. Lịch-sử
Ngài Bhagavan Ramana Harshi không kết-thúc
tại đây cũng như Chúa Jésus không kết-thúc ở
nơi cây Thánh-giá. Sự thực Ngài Bhagavan
không mang lại cho thế-giới một tôn-giáo mới,
nhưng mà là một hy-vọng mới, một con đường
mới cho những người hiểu-biết và khát-vọng từ
các địa-phương và các tôn-giáo đang ở thời
mạt-pháp. Ảnh-hưởng của Ngài không chỉ giới-
hạn vào đời sống thân-thể vật-lý của Ngài. Đối
với những người lo-sợ về sự dẫn đạo tâm-linh
của Ngài chấm-dứt với sự qua đời của Ngài thì
Ngài trả lời vắn-tắt :
" Các con gán cho thân-thể một sự
quan-trọng quá đáng " .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
509
Ngày nay cũng như ngày trước Ngài
Bhagavan hướng dẫn tất cả mọi người đến gần
Ngài và nâng-đỡ tất cả những người tin-tưởng
vào Ngài. Đối với tất cả ai cầu tìm ở đâu, Ngài
hiện tại đấy .
*
***********
*************************
RAMANA
MAHARSHI VỚI CON ĐƯỜNG
TỰ BIẾT MÌNH
Nguyên-Tác :
" RAMANA MAHARSHI AND
THE PATH OF SELF KNOWLEDGE "
By
ARTHUR OSBORNE
Dịch-Giả :
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
PHỤ LỤC
I._ Ta Là Ai ? Who Am I ? ............................1
II._ Thơ Vịnh Viên Ngọc Quý Về Khoa
Biện-Biệt Của Sư-Phụ Sankara .........23
III._ Thơ Tụng Đạo Yoga Vasishtha ..........33
Đạo-Dẫn Tiên-Tri
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
1
TA LÀ AI ?
( WHO AM I ? )
Tất cả mọi người luôn luôn khao-khát
một hạnh-phúc không bị buồn-phiền khuấy-rối.
Và rồi mỗi người chúng ta cảm thấy một tình-
yêu nồng-hậu đối với chính mình, như thế chỉ
vì một sự thực này : Hạnh-phúc là bản-tính
chân-thật của chúng ta. Như vậy để thực-hiện
cái hạnh-phúc lâu bền và không vẩn đục ấy, mà
thực ra chúng ta thực-nghiệm hàng ngày khi
tinh-thần chúng ta nhập vào giấc ngủ-say, thì
cốt-yếu là chúng ta phải tự biết lấy ta. Muốn
đạt tới cái biết ấy, có cách hoàn-hảo nhất là tự
đặt câu hỏi " Ta là ai ? " Ta không phải là
thân-thể vật-chất, ta cũng không phải là năm
R. MAHARSHI TA LA AI ?
2
giác-quan ( nhỡn, nhĩ, tị, thiệt, thân ) với những
tác-dụng của chúng ( thị, thính, khứu, vị, xúc ).
Ta không phải là năm cơ-năng bên ngoài ( cơ-
quan phát-âm và ngôn-gnữ, chân tay cai-quản
cử-chỉ và vận-động của thân-thể, hậu-môn bài
tiết uế-chất, và cơ-năng sinh-lực đem lại sự
thích-thú ). Ta cũng chẳng phải năm sinh-lực
( chúng kiểm-soát hơi-thở, tiêu-hóa, thâu-hóa,
mạch máu lưu-hành, mồ-hôi và bài-tiết ). Ta
cũng không phải tinh-thần suy-tưởng. Ta cũng
không phải trạng-thái vô-thức ngủ-mê, nó chỉ
giữ lại được những khuynh-hướng tinh-vi của
tinh-thần và nó giải-phóng ta khỏi hoạt-động
tác-dụng của quan-năng và của tinh-thần, và
không biết có những đối-tượng của tri-giác .
Kết-quả, sau khi đã gạt bỏ đại-khái tất cả
phụ-thuộc vật-lý trên đây với những tác-dụng
của chúng, sau khi tự nói : " Ta không phải cái
này ; không, ta cũng không phải là cái này hay
cái kia ", thì chỉ còn có một vật xót lại, cô-liêu,
là cái Biết thuần-túy. Đấy mới thật là ta. Cái
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
3
Biết ấy bản-chất nó là SAT ( hiện-hữu ) CHIT
( ý-thức ) ANANDA ( Cực-lạc ) .
Nếu tinh-thần vốn là dụng-cụ để biết và
cơ-bản của tất cả hoạt-động giảm đi, thì tri-giác
về thế-giới như là thực-tại khách-quan cũng
ngừng lại. Năm trường-hợp về tri-giác huyễn-
ảo về con rắn lầm ra cái thừng, thì cái thừng
trên ấy có huyễn-tượng không được tri-giác là
cái thừng. Cũng vậy mà trừ-phi tri-giác về bản-
tính ảo-hóa của thế-giới là thực-tại khách-quan
có mất đi thì chúng ta mới có thể thấy được
bản-tính chân-chính của thực-tại .
Tinh-thần là một năng-lực duy-nhất trong
Đại-Ngã ( Atman ). Nó là môi-giới cho tư-
tưởng xuất-hiện ở ta. Nếu sau khi đã tiêu-trừ
hết tư-tưởng, chúng ta cố tìm kỹ xem có còn lại
gì không, bấy giờ chúng ta sẽ thấy rằng tinh-
thần không còn ngoài tư-tưởng. Vậy thì tư-
tưởng chính là tinh-thần .
R. MAHARSHI TA LA AI ?
4
Thế-giới vật-chất này cũng như thế,
không có ở ngoài và biệt-lập với tư-tưởng. Tam
giới duy-tâm, vạn-pháp duy-thức ( Thế-Thân ).
Ở trạng-thái ngủ-say chúng ta không có tư-
tưởng thì cũng không có thế-giới nữa. Ở trạng-
thái mộng và thức thì tư-tưởng cùng với thế-
giới lại xuất-hiện. Ví như con nhện tự rút
mạng-nhện tự trong mình nó ra để rồi lại thu về
bản-thân nó, tinh-thần cũng phóng-đại ra thế-
giới từ trong tinh-thần ra để rồi lại thu vào
chính bản thân của tinh-thần .
Chúng ta tri-giác thế-giới như là một
thực-tại ảo-hóa không khách-quan khi nào tinh-
thần ta tự đối-tượng-hóa ra bên ngoài và cũng
bỏ sự đồng-nhất-tính của nó với Tự-Tại (Self).
Khi người ta tri-giác thế-giới cách ấy thì chân-
tướng của Tự-Tại không được biểu-lộ. Trái lại
khi nào người ta thực-hiện được Tự-Tại thì bấy
giờ thế-giới không còn hiện ra như là một
Thực-Tại khách-quan nữa .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
5
Nhờ sự cứu-xét đúng-đắn và liên-tiếp
kiên-nhẫn về chính bản-tính của tinh-thần, tinh-
thần biến-hóa ra Cái Ấy có liên-hệ ra cái TA.
Cái Ấy chính thực là Tự-Tại. Tinh-thần có thể
có được là nhờ nương-tựa vào một cái gì rộng
lớn hơn. Tự nó không thể tự-tồn được một
mình. Chính cái tinh-thần ấy người ta gọi bằng
danh-từ khác là TÍNH, NGÃ, hay Linh-Hồn.
Cái tư-tưởng đầu tiên của tất cả tư-tưởng nổi-
hiện lên trong tinh-thần là cái tư-tưởng nguyên-
thủy ( TA ). Chỉ sau tư-tương TA ấy phát-sinh
mà vô số các tư-tưởng khác mới xuất-hiện. Nói
cách khác thì chỉ sau khi nhân-danh đại-danh-
từ cho ngôi chủ-từ thứ nhất TA nổi lên thì các
đại-danh-từ của ngôi thư hai ANH, nó mới có
được ở tinh-thần, chúng không thể đứng không
có ngôi thứ nhất được .
Bởi vì tất cả tư-tưởng khác chỉ có thể
thành được sau khi tư-tưởng TA đã phát-sinh,
và bởi vì tinh-thần chỉ là một mớ tư-tưởng cho
nên chúng ta chỉ có thể chinh-phục được nó
bằng câu hỏi " Ta là Ai ? ". Vả chăng tư-tưởng
R. MAHARSHI TA LA AI ?
6
toàn-diện TA ngụ trong một câu hỏi như thế thì
đã phá hủy mọi tư-tưởng khác rồi, kết-cục nó
tự phá hủy nó đi hay mai một đi, khác nào que
củi dùng để đốt đài hỏa-thiêu, kết-cục cũng bị
thiêu nốt vậy .
Dù trong khi xét-cứu như thế có những
tư-tưởng khác nẩy-nở thì ta không nên tìm bổ-
túc cho những tư-tưởng ấy, mà trái lại ta phải
tự hỏi một cách sâu xa rằng : " Cái tư-tưởng
này hiện ra cho ai ? " Bất luận các số tư-tưởng
hiện ra như thế có nhiều đến mấy đi nữa, nếu
chúng ta chuyên-chú tinh-thần tự hỏi ngay
chính vào lúc mỗi tư-tưởng đơn-thuần nổi hiện
và hỏi xem nó xuất-hiện cho ai, thì chúng ta sẽ
thấy ngay nó xuất-hiện ra cho Ta. Nếu bấy giờ
chúng ta tự đặt cho mình câu hỏi " Ta là Ai ? "
thì tinh-thần liền đổi hướng và tư-tưởng đang
nẩy nở sẽ biến đi ngay tại chỗ. Cứ như thế mà
chúng ta kiên-nhẫn mãi lên để xét-cứu Tự-Tại
thì tự-nhiên tinh-thần có được năng-lực và thế-
lực mạnh hơn và lớn hơn để tồn-tại nơi nguồn-
gốc của nó .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
7
Chỉ khi nào tinh-thần phô-diễn hoạt-động
của trí-thức và giác-quan thì cái thế-giới hình-
danh sắc-tướng này mới xuất-hiện. Mặt khác,
khi nào tinh-thần thu về tâm và ngưng lại tại
đấy thì thế-giới hình-danh sắc-tướng mới biến
đi. Phương-pháp thúc-ước tinh-thần không cho
nó phóng ra và thu nó vào Tâm gọi là nội-
hướng ( Câu kỳ phóng tâm _ Mạnh-Tử ),
ngoại-hướng là thả lỏng cho tinh-thần để nó tự
trong Tâm phóng ra ngoài .
Cứ như thế chúng ta thu-hồi được tinh-
thần vào Tâm thì cái Ngã và cái Ta trung-tâm
và vô số tư-tưởng rút cục sẽ biến đi và cái Biết
thuần-thúy ( Ý-Thức ) hay Tự-Tại tồn-tại trong
tất cả những trạng-thái của tinh-thần một mình
nổi hiện sáng-ngời diệu-minh. Các trạng-thái
đó không còn một dấu vết nhỏ nào về tư-tưởng
TA, ấy là chân bản-thể của chính mình. Và
trạng-thái ấy gọi là Tịch-Tĩnh .
Cái trạng-thái mong-manh liên-hệ với
tồn-tại thuần-túy thì được biết là tư-tưởng của
R. MAHARSHI TA LA AI ?
8
Tuệ. Sự liên-hệ ấy có nghĩa là ngụ-ý lệ-thuộc
hoàn-toàn của tinh-thần vào Tự-Tại. Chỉ trạng-
thái ấy mới gọi được là Tuệ, tất cả quyền-năng
tâm-linh của tinh-thần như tiên-tri, thần-giao
cách-cảm, thấu-thị không được coi là Tuệ .
Chỉ Đại-Ngã ( Atman ) một mình hiện-
hữu và có thật. Thế-giới, Linh-hồn cá-nhân và
Thượng-Đế đều như là ảo-ảnh của kim-ngân
trong xà-cừ, tạo-tác tưởng-tượng trong Đại-
Ngã. Chúng biểu-hiện cùng một lúc. Sự thực,
chỉ có Tự-Tại là thế-giới của Cái Ta và
Thượng-Đế. Tất cả cái gì có hiện-hữu chỉ là
biểu-hiện của Tối-Cao .
Cách hữu-hiệu nhất để giảm bớt tinh-thần
đi là sự cầu tìm Tự-Tại. Tất cả những cách
khác có thể làm cho tinh-thần giảm đi được chỉ
là giảm đi bề ngoài, nó sẽ lại nổi-hiện lên .
Bởi thế mà tinh-thần giảm đi bằng cách
Chỉ-định ( Pranayama ) ( Ước-thúc và kiểm-
soát hơi thở và năng-lực sinh-lý ). Nhưng tinh-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
9
thần chỉ giảm đi chừng nào có sự kiểm-soát hơi
thở và năng-lực sinh-lý thôi. Một khi hơi thở và
năng-lực sinh-lý không bị ước-thúc nữa thì
tinh-thần lại phóng ra lập-tức và hoạt-động qua
những năng-lực của những khuynh-hướng tế-
nhị tiềm-tàng .
Nguồn-gốc của tinh-thần và của hơi thở
cùng năng-lực sinh-lý là một. Sự thực đa số tư-
tưởng hợp nên tinh-thần, tư-tưởng TA là tư-
tưởng nguyên-thủy của tinh-thần và cái ấy
chính là cái Ngã. Hơi thở cùng bắt-nguồn ở
chính nơi xuất-hiện ra cái Ngã, do đấy khi tinh-
thần giảm đi thì hơi thở và sinh-lực cũng giảm.
Và ngược lại khi bên này bớt đi thì bên kia
cũng bớt theo .
Hơi thở và sinh-lực cũng được coi như là
những biểu-hiện thô-sơ của tinh-thần. Cho đến
lúc chết tinh-thần vẫn bảo-vệ và duy-trì những
năng-lực ấy trong thân-thể. Khi sự sống tắt,
tinh-thần ôm-ấp lấy chúng và mang đi. Tuy
nhiên trong lúc ngủ-say những sinh-lực ấy vẫn
R. MAHARSHI TA LA AI ?
10
tác-dụng mặc dầu tinh-thẩn không biểu-lộ.
Điều này là do định-mệnh thiêng-liêng tạo nên,
có mục-đích để bảo-vệ cho thân-thể, không cho
ngờ-vực về trạng-thái ngủ-say với trạng-thái
chết. Nếu Tạo-hóa không xắp đặt như thế thì
thân-thể ngủ-say nhiều khi sẽ bị đốt sống.
Tinh-thần để lại đàng sau như một giám-thị cái
sinh-lực biểu-hiện là hơi thở. Nhưng trong
trạng-thái thức và trạng-thái xuất-thần Tam-
muội ( Samadhi ) khi tinh-thần rút đi thì sinh-
khí cũng rút đi theo. Bởi lý do ấy mà tinh-thần
có khả-năng bảo-vệ và kiểm-soát hơi thở cùng
sinh-lực và do đấy mà nó thâm sâu hơn. Phép
Chỉ-định ( Pranayama ) chỉ giúp cho ta làm chủ
tinh-thần chứ không làm cho tinh-thần tĩnh hẳn
được .
Cũng như phép Chỉ-định ( định-niệm vào
hình-tướng ), phép Hiện-chú, Hô-danh ( nhắc
lại những danh-hiệu thiêng-liêng hay những
danh-hiệu thần-linh ) và phép Tuyệt-thực chỉ
giúp chúng ta kiểm-soát được tinh-thần mà
thôi. Thực-hành Thiền-định ( Dhyana ) thì tinh-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
11
thần tập-trung vào một điểm độc-nhất. Ví như
cái vòi con voi luôn luôn động-đậy sẽ ngừng lại
nếu người ta buộc nó vào xích sắt, con voi vẫn
theo đuổi đường đi của nó mà không tìm kiếm
la bà vật gì khác nữa, tinh-thần chúng ta cũng
thế, luôn luôn vọng-động, bị lôi cuốn vào tập
quen với danh-hiệu và hình-tướng ; trong
trạng-thái Thiền-định nó sẽ bám chặt vào một
điểm duy-nhất .
Khi nào tinh-thần phân-tán vào vô số
những điểm khác nhau, thì mỗi tư-tưởng đặc-
thù sẽ trở nên hết sức mơ hồ và không có hiệu-
lực. Trái lại khi nào những tư-tưởng như thế
bớt đi cho đến khi tắt hẳn thì tinh-thần định-
hướng cả vào một chiều và có được sức mạnh
và một khả-năng để bảo-tồn. Nó sẽ dễ-dàng đạt
được kết-quả hoàn-hảo trên đường cầu tìm Tự-
Tại ( Atma Vichara ) .
Những khuynh-hướng tế-nhị và tiềm-tàng
của tinh-thần quan-hệ với đối-tượng thỏa-mãn
giác-quan thì xuất-hiện ra vô số, cái nọ nối tiếp
R. MAHARSHI TA LA AI ?
12
cái kia thành hàng lớp trôi chảy như sóng biển
quấy động tinh-thần. Tuy vậy, chúng cũng bớt
đi dần và sau cùng tắt hẳn bằng phép tiệm-tiến
Thiền-định về Tự-Tại. Chúng ta không được
ngờ-vực phân-vân, phải kiên-quyết bền-bỉ, cứ
tiếp-tục thiền-định .
Một người dù tội lớn mấy đi nữa nếu y
đừng rên xiết : " Tôi là kẻ có tội làm sao giải
cứu được ? " Và nếu y xua đuổi tư-tưởng tội-lỗi
ấy đi mặc dù thực mình là kẻ có tội, nếu y tiếp-
tục thiền-định vào Tự-Tại, thì y sẽ tự hoán-cải
được tâm tính một cách chắc-chắn .
Chừng nào những làn sóng dục còn tiếp-
diễn trong tinh-thần, thì điều tối cần-thiết là
phải luôn luôn tự hỏi " Ta là Ai ? " Chính lúc
những tư-tưởng đang hiện ra thì phải tiêu-trừ đi
ngay tại nơi xuất-phát bằng cách cầu tìm Tự-
Tại .
Không ham muốn cái gì xa lạ với mình ấy
là không tham hay không dục. Không quên
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
13
hướng vào Tự-Tại là minh-triết, nhưng thực ra
vô-dục và minh-triết chỉ là một. Khác nào kẻ
mò trai đeo vào người những hòn đá để lặn
xuống nước sâu và mang lên khỏi đáy biển
những hạt trai, kẻ tầm đạo trên đường vô-dục
cũng thế, có thể lặn sâu vào bản-tính mình để
thực-hiện Đại-Ngã quý-báu. Chỉ nuôi cái kỷ-
niệm bền-bỉ và trầm-tư chân-tướng của Tự-Tại
cho đến chừng nào Tự-Tại thể-hiện ra, như thế
cũng đủ là kẻ tầm đạo chân-chính. Những tư-
tưởng vọng-động khác nào những kẻ địch giữ
thành. Chừng nào chúng còn giữ được thành
chúng sẽ cố tìm cách mở lối thoát. Nhưng nếu
chúng ta muốn thì hãy đưa lưỡi kiếm ra mà đón
chúng khi nào chúng thò đầu ra, như thế thành-
trì kết-cục sẽ chiếm được .
Cái trụ chắc-chắn và có phương-pháp vào
Đại-Ngã không để tơ hào tư-tưởng nào nổi-
hiện ngoài ý-niệm trầm-tư vào Tự-Tại, ấy là
thật phó-thác mình cho Thượng-Đế. Trút hết
gánh nặng cho Ngài, Ngài sẽ gánh hết vì sự
thực quyền-năng của Ngài vô-hạn, điều-khiển,
R. MAHARSHI TA LA AI ?
14
bảo-vệ và kiểm-soát tất cả sự-vật trong thế-
giới. Vậy tại sao chúng ta còn buồn-phiền lo-âu
với những tư-tưởng đáng tiếc, như nói : " Làm
cách này khôn hơn, làm cách kia là dại ... " Sao
ta không ngoan-ngoãn và vui vẻ phục-tòng
quyền-lực tối-cao của Thượng-Đế ? Chúng ta
như kẻ đang ngồi trên xe lửa đã biết xe chở tất
cả gánh nặng mà chúng ta còn ôm trong lòng
những hành-lý riêng để thêm bận-bịu chứ
không chịu xếp sang bên cạnh cho được ngồi
thảnh-thơi . _ Fiat tua volontas _ ( )
Cái gì hoan-lạc thì cái ấy thực là Tự-Tại.
Hoan-lạc với Tự-Tại không phải hai vật khác
nhau mà là một vật đồng-nhất. Và chỉ Cái Ấy
là có thật. Trong vô số sự-vật của thế-giới hiện-
đại có cái gì có thể gọi là hạnh-phúc chăng, hay
chỉ vì ngu-si, dại-dột nên chúng ta tưởng có thể
tìm được hạnh-phúc ở đấy. Nhưng trái lại, mỗi
khi tinh-thần phóng ra ngoài để tìm kiếm thì nó
lại thấy thống-khổ và lo-âu. Thực ra mỗi khi
dục-vọng của chúng ta được thỏa-mãn thì tinh-
thần bấy giờ quay vào nguồn mà cảm thấy
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
15
hạnh-phúc là bản-tính của Tự-Tại. Cũng như
thế mà trong giấc ngủ-say hay ở trạng-thái
siêu-thần Tam-muội hoặc bất-tỉnh nhân-sự ...
khi vật-dục mong cầu đã đạt được hay vật
không ưa-thích đã bị hủy đi thì bấy giờ tinh-
thần mãn-nguyện quay vào và thích-thú cái lạc-
thú của Đại-Ngã. Cái lối đi lang-thang ra ngoài
đường chính như thế, bỏ rơi Tự-Tại rồi lại trở
về, đấy là số-phận bất-tận và nặng-nề của tinh-
thần .
Được đứng dưới bóng cây, người ta thấy
khoan-khoái để tránh ánh-nắng của mặt-trời
thiêu đốt. Một kẻ làm lụng dưới ánh-nắng thì
tìm bóng mát dưới gốc cây và lấy làm hoan-hỷ.
Nhưng y chỉ ở đấy được một lúc, rồi lại đi
lang-thang ra xung-quanh để rồi lại không chịu
nổi khí nóng của trời nắng, y chạy như vậy
không ngớt, từ bóng mát ra ánh-nắng để rối lại
trở về bóng mát. Kẻ nào tầm đạo trên đường tu-
luyện mà hành-động như thế là kém trí-khôn.
Người hiền khôn không bao giờ rời bỏ bóng
mát, vì tinh-thần Giác-ngộ không bao giờ có
R. MAHARSHI TA LA AI ?
16
được ở ngoài Đại-Ngã, Tuyệt-đối. Tinh-thần kẻ
ngu mê đi vào thế-giới hiện-tượng chịu đau-
khổ và lo-âu. Bấy giờ nó mới quay về Đại-Ngã,
chốc lát được nếm mùi hạnh-phúc. Tuy nhiên,
thế-giới hiện-tượng này chỉ là tư-tưởng khi nào
trong nhãn-giới không có hình-ảnh thế-giới
nữa, nghĩa là khi nào tinh-thần tĩnh-lự, không
còn tư-tưởng thì nó mới được hưởng lạc-thú ở
Tự-Tại. Trái lại, khi nào thế-giới biểu-hiện,
nghĩa là tư-tưởng bắt đầu hoạt-động thì bấy giờ
tinh-thần lại cảm thấy đau-khổ và lo-âu .
Không phải một ý-niệm, một quyết-định
hay một cố-gắng của mặt-trời mà kính hiển-vi
phản-chiếu nhiệt-lực, mà bông sen nở, mà nước
bốc hơi, mà nhân, vật trong xã-hội hoạt-động,
mà chính là vì hiện-diện của ánh-sáng mặt-trời.
Gần đá nam-châm thì kim động-đậy. Linh-hồn
nhân-loại cũng thế, bị chi-phối bởi ba hoạt-
động là : Sáng-tạo ; Bảo-tồn và Hủy-diệt, chỉ vì
hiện-diện duy-nhất của đấng Tối-cao. Nó hành-
động vì nghiệp-báo và yên-nghỉ sau khi đã
hoạt-động xong. Nhưng đấng Tối-cao chính
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
17
Ngài không quyết-định gì, không một động-tác
hay một sự việc gì có thể đụng chạm tới bản-
thể của Ngài. Cái trạng-thái biệt-lập thuần-túy
không nhiễm-ố ấy tựa như mặt-trời trên kia
không bị những hoạt-động của sự sống chạm
tới, hay là tựa như tinh-khí không bị những
phẩm-tính phức-tạp của Tứ-đại Giả-hợp ảnh-
hưởng vào .
Tất cả Thánh-kinh không trừ Thánh-kinh
nào đều tuyên-bố muốn được cứu-độ thì phải
khất-phục tinh-thần. Và biết rằng sự kiểm-soát
tinh-thần là kết-luận cuối cùng thì người ta
không cần phải học thuộc lòng Kinh sách. Một
điều yếu-quyết để kiểm-soát tinh-thần là cầu
tìm hiểu-biết thật sự về chính mình bằng cách
tự đặt câu hỏi " Ta là ai ? ". Như vậy thì làm
thế nào chỉ đọc Thánh-kinh thuộc lòng mà có
thể tìm cầu được Tự-Tại ? Chúng ta phải thực-
hiện Tự-Tại bằng con mắt trí-tuệ. Cái gì mà
Cái Ta quy chiếu thì ở bên trong ngũ-uẩn
( ): Sắc ( ) là năm giác-quan ; Thụ ( )
là cảm-giác về ngoại-vật ; Tưởng ( ) là tác-
R. MAHARSHI TA LA AI ?
18
dụng biện-biệt của tinh-thần ; Hành ( ) là
tác-dụng của tinh-thần về yêu, ghét, thiện, ác ;
Thức ( ) là tri-năng của tinh-thần và sự-vật.
Còn như Kinh sách thì ở bên ngoài ( ngoại
biểu ). Vậy thì cầu tìm Tự-Tại bằng Kinh sách
chẳng hóa ra viển-vông, vì Tự-Tại phải thực-
hiện bằng cách vượt lên trên ngũ-uẩn ( )
Tự hỏi " Ta là ai ? ", " Ai bị trói buộc ? ",
và biết được chân-tướng của mình thì mới có
thể giải-thoát. Giữ cho tinh-thần luôn luôn
khuynh-hướng vào nội-tâm và cứ như thế trụ
nơi Tự-Tại ấy là con đường Đại-Ngã. Cũng
như Thiền-định là trầm-tư vào Tự-Tại, coi như
Chân, Thiện, Mỹ. Sự thực đến một lúc nào
chúng ta phải quên hết cái gì chúng ta đã học
hỏi được .
Cũng như kẻ muốn thoát sạch hết rác-rưởi
đi mà cứ nhìn ngắm trước đã, ấy là việc viển-
vông, thì kẻ cầu tìm Tự-Tại đáng lý phải sua
đuổi ngay những yếu-tố trong tinh-thần hay
xếp đặt hiện-tượng che phủ Tự-Tại, kẻ ấy cứ
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
19
ngồi mà kể lể hay quan-sát tính-chất của hiện-
tượng thì cũng là điều viển-vông vậy. Y phải
chỉ nhìn nhận thế-giới hiện-tượng liên-quan với
y như là một ảo-mộng .
Ngoài sự dài ngắn khác nhau ra, trạng-
thái thức và trạng-thái mộng giống nhau như
hệt. Tất cả hoạt-động của trạng-thái thức sau
khi chúng ta tỉnh mộng thì cũng như trong
mộng. Tuy nhiên, trong mộng tinh-thần khoác
một hình-thức vật-lý khác, bởi vì những tư-
tưởng và những hình-danh đồng thời phô-diễn
ra ở trạng-thái thức và mộng .
Không làm gì có hai tinh-thần, một tinh-
thần xấu và một tinh-thần tốt. Đấy chỉ là
khuynh-hướng của một tinh-thần thuộc về hai
loại, tốt hay thích-hợp, xấu hay không thích-
hợp. Khi nào tinh-thần đi đôi với khuynh-
hướng thích-hợp thì gọi là tốt, trái lại thì gọi là
xấu. Có kẻ nuôi trong lòng đầy ý xấu nhưng
chúng ta không nên khinh-bỉ họ hay ghét họ.
Cảm-tình và ác-cảm, yêu và ghét, cả hai chúng
R. MAHARSHI TA LA AI ?
20
ta đều nên tránh. Và cũng không nên để cho
tinh-thần luôn luôn chấp vào sự-vật của tục-
thế. Nên cố tránh không được can-thiệt vào
việc của kẻ khác. Tất cả cái gì xẩy ra cho kẻ
khác thì thực ra là món quà cho chúng ta. Và
nếu cái chân-lý ấy thực-hiện được thì ai là kẻ
từ-chối ai một vật gì ? Nếu cái Ngã hiện ra thì
tất cả sự vật khác cũng đều hiện ra, nó biến đi
thì tất cả đều biến theo. Chúng ta càng nhún-
nhường bao nhiêu thì càng tốt cho mình bấy
nhiêu, nếu chúng ta kiểm-soát được tinh-thần
thì bất-cứ ở chỗ nào cũng được cả .
" Quân tử tố kỳ vị chi hành "
_ ( Trung-Dung )
" Nếu biết ở đâu vui thú đấy,
Người xưa Ẩn-cả lọ lâm tuyền ! "
_ ( Nguyễn-Trãi )
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
21
Đạo thông thiên học hữu hình ngoại
Tứ nhập vân sơn biến thái trung ;
Hỏi giang san mấy kẻ anh hùng ?
Tri Ngã giả bất tri Ngã giả ?
Người có biết Ta chăng hay chớ ,
Chẳng biết Ta, Ta vẫn là Ta ;
Linh Khâm bảo hợp Thái hòa,
Sạch không trần lụy ấy là Thần Tiên;
Ngang tàng lạc Ngã tính Thiên .
_ ( Nguyễn-Công-Trứ )
R. MAHARSHI TA LA AI ?
22
Tam Tài ( Ta là ai ? )
Trời Đất sinh Ta có ý không ?
Chưa sinh Trời Đất có Ta trong,
Ta cùng Trời Đất ba ngôi sánh ,
Trời, Đất, Ta, in một chữ đồng .
Đất nứt Ta ra Trời chuyển động ,
Ta thay Trời mở Đất mênh-mông ,
Trời che Đất chở Ta thong thả ,
Trời Đất Ta đầy đủ Hóa-công .
_ ( Trần-Cao-Vân
_ Cách-mệnh Duy-Tân 1916 )
************
*******
*
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
23
VERSETS DU
VIVEKA CHUDAMANI
DE SANKARACHARYA
1/ Des moyens de libération, Bhakti est le plus
puissant -- l'amour Qui est, le sais-tu ?
La recherche en toi, la découverte en toi .
2/ En vérité, le Divin est au dedans de toi .
Etre suprême félicité intérieure éternelle .
Il est, il demeure, il ne passe, sans second,
indivisible, splendeur de conscience
absolue
Témoin de L'intelligence,
au delà du réel et tu non-réel,
Le Divin - L'être vrai en toute créature .
R. MAHARSHI TA LA AI ?
24
3/ Cela - Paramâtman
Cela qui est par delà, Le réel et le non-réel,
Sa nature est pure connaissance :
il est lumière au dedans de l'être ,
Montrant les phénomène présent et avenir
distinct pourtant de Prakriti aux
mouvantes formes sache qu'il est ton
être, sans qu'il est ton être, que tu
dormes, ou que tu rêves, ou que tu
veilles de ton intelligence seulement le
témoin .
4/ Lumière constante au dedans de toi
- et au dedans de tous -
ton être intérieur éternel se manifeste en
toi,
vois-toi en toi, quand tu dors et quand tu
rêves et quand tu veilles, Il est en toi
témoin qui regard ces formes nombreuse,
ces formes changeantes.
Principe de ton être depuis
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
25
" Je " pensée racine sens le aussi comme
Eternité, Béatitude conscience en ton
cœur réalise Cela qui est ton être .
5/ Avec ta pensée bien réglée,
et ton intellect pur et clair
réalise Cela - ton Atman -
et dis : " Moi c'est Cela "
Franchissant ainsi Samsara
océan insondable, océan sans limites
des morts et des renaissances et alors
connais la joie d'avoir atteint te propre
essence et à jamais ainsi demeure
-- Brahman même .
6/ Cela de tout le témoin
Cela à soi la lumière dans la gaine de
l'intellect toujours luit .
Le sachant par delà le réel,
et par delà le non - réel
Faisant de lui ton but suprême
R. MAHARSHI TA LA AI ?
26
atteins - le l'un effort sans trêve,
sachant que rien autre rien autre que toi .
7/ Subtil est Paramâtman
le pressier ne le peut.
Peut l'atteindre
Ce vertueux, le pur en cette paix
transcendé
que donne l'attentive ferveur .
8/ Quand se fond ainsi en Brahman
L'un effort constant façonnée L' intelligence
La paix aussi venue en toi,
- Savakalpa Samadhi -
d'elle même franchit ses limites et devient
suprême conscience
là où n'est plus " Toi " et " Moi "
là où n'est plus rien que L' " Un " .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
27
9/ Samadhi, joie essentielle,
qui tranche les racines et les branches de
l'arbre mental avec ses forces et ses
tendances et les actions par elles causées .
Samadhi devenu, manifestation spontanée
de l'être réel unique à jamais,
au dedans de toi et hors de toi et alentour .
10/ Brahman le Réel,
l'unique est au cœur même, au cœur
profond des créatures,
par delà les phénomènes manifestés et
non manifestés,
Qui demeure en son propre cœur devenu
Cela est libéré des renaissances .
***
R. MAHARSHI TA LA AI ?
28
THƠ VỊNH VIÊN NGỌC QUÝ
VỀ KHOA BIỆN - BIỆT
CỦA SƯ-PHỤ SANKARA
HIỀN - TRIẾT BẤT-NHỊ-PHÁP
( ADVAITA - VEDANTA )
1/ Trong các phương-diện giải-thoát,
Tình-yêu Sùng-bái mạnh nhất nhiệm-mầu
Đệ-tử nào có biết đâu,
Nơi mình tìm kiếm mới hầu phát minh .
2/ Trong mình mới thật Thần-Linh,
Tối-cao Thực-thể mình thành nội-tâm,
Cực-lạc vĩnh-cửu uyên-thâm.
Tồn-Tại thường trụ cổ kim không rời .
Bất phân thuần nhất không hai,
Tuyệt-đối Ý-thức sáng ngời vô-biên.
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
29
Chứng nhân của trí lưỡng-nguyên,
Siêu-việt Không, Sắc hai biên thể tình.
Tạo vật Thực-thể Thần-linh .
3/ Cái Ấy siêu-ngã tính minh vô cùng.
Cái Ấy trên cả Có, Không .
Nguồn biết thuần-túy ở trong muôn loài.
Ánh sáng bản-thể minh soi,
Cho thấy hiện-tại tương-lai sinh-thành.
Tuy nhiên khác với hiện hình.
Thiên-nhiên biến-hóa vận-hành đổi thay.
Khi thức lúc mộng, ngủ-say.
Cái Ấy bản-thể ở ngay tâm mình.
Nhận thức cảm thấy cho minh.
Chứng nhân ngắm cái trí tình mà thôi.
4/ Ánh sáng nơi mình thường soi.
Trong người và vật tính Trời bản nhiên.
Khi thức, lúc mộng, thụy-miên.
Vĩnh-cửu biểu-hiện Tiên-Thiên nơi mình.
Kiến-tính là ở tâm thành,
R. MAHARSHI TA LA AI ?
30
Bản-thể vũ-trụ trong mình không xa.
Chứng kiến hình tướng diễn ra,
Thiên-hình vạn-trạng trôi qua đổi đời.
Nguyên-lý tồn-tại từ đây,
Cỗi rễ tư-tưởng từ " Tôi " sinh-thành.
Hãy cảm khi " Tôi " chưa sinh,
Ý-thức Cực-lạc tâm minh vĩnh hằng .
5/ Thực-hiện Cái Ấy vinh-quang,
Điều-chỉnh tư-tưởng trí càng sáng trong.
Thực-hiện lấy Bụt làm lòng,
Ta là Cái Ấy tính đồng bản-lai.
Vượt qua bể thẳm luân-hồi,
Vô-biên sinh tử hoài hoài tử sinh.
Bấy giờ thấy thực tính mình,
Là nguồn lạc-thú phản thành bản thân.
Tại đấy mãi mãi Brahman .
6/ Cái Ấy tất cả chứng-nhân muôn đời,
Cái Ấy ánh-sáng tự soi.
Trong vỏ trí-tuệ hoài hoài tự minh.
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
31
Biết nó ở ngoài tử sinh,
Hữu vô vượt khỏi một mình ở trên.
Lấy làm mục-đích siêu-nhiên,
Đạt tới ắt phải sức chuyên tu-hành.
Biết nó không khác là mình,
Siêu-nhiên nội-tại tính minh tâm nhàn .
7/ Siêu Ngã Paramâtman.
Tế vi, tục tử không bàn tới đâu.
Đạo-đức trong sạch nhiệt cầu,
Lòng thành chuyên-chú mới hầu tâm an.
Đạt tới ý-thức siêu-nhiên .
8/ Trí-thức nhân tạo tâm Thiền hóa đi.
Bình an thiền-định Hữu-vi
( Savikalpasamadhi ).
Tinh-thần tiến tới Vô-vi mới nhàn
( Nirvikalpasamadhi ).
Ở đấy tha, ngã không còn,
Tối-cao ý-thức cô-đơn một mình.
Chỉ còn Duy-Nhất tối-linh,
R. MAHARSHI TA LA AI ?
32
Thiền-định lạc-thú duy tinh đặc-thù.
Cắt đứt gốc rễ sum suê,
Thân cành cây trí cùng thì tác-phong.
Hình tướng su hướng nói chung .
9/ Tâm trí tác động trong vòng lưỡng-
nguyên.
Tâm Thiền biểu-hiện tự nhiên.
Biểu-hiện nhất-thể thường-xuyên không
dời.
Lúc đi, lúc đứng, nằm, ngồi.
Quanh mình thiền-định trong ngoài thiền
tâm .
10/ Thực-Tại duy-nhất Brahman.
Trong lòng tạo-vật nhân-gian tâm mình.
Siêu-việt hiện-tượng sinh-thành,
Biểu-hiện tiềm-tại, có hình hay không.
Thực-hiện Cái Ấy trong lòng.
Ai trụ tại đấy khỏi vòng tài-sinh .
**************
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
33
VERSETS DE YOGA VASISHTHA
1/ Stable en l'état de plénitude
Qui brille quand tu as renoncé
aux désirs et paisible en l'état de qui,
vivant c'est libre .
Agis en te jouant dans le Monde .
O BHAGAVA !
2/ Intérieurement libre de tout désir, sans
passion, ni attachement, mais
extérieurement actif en toutes directions
Agis en te jouant dans le Monde.
O BHAGAVA !
3/ De noble conduite et plein de bienveillant
tendresse,
R. MAHARSHI TA LA AI ?
34
te conformant à l'extérieur aux
conventions,
mais à l'intérieur libéré d'elles.
Agis en te jouant dans le Monde.
O BHAGAVA !
4/ Percevant l'évanescence de toutes les
étapes et expériences de la vie demeure
résolument en l'état transcendant sublime,
et agis en ta jouant dans le Monde.
O BHAGAVA !
5/ Sans nul attachement au fond de toi
mais agissant en apparence comme qui
est attaché, point brulé au dedans, mais en
dehors plein d'ardeur.
O BHAGAVA !
6/ Extérieurement zélé en l'action mais libre
en ton cœur de tout zèle, actif à
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
35
l'extérieur mais paisible à l'intérieur,
travaille en te jouant dans le Monde.
O BHAGAVA !
7/ Sachant l'essence de tout être,
joue dans le Monde comme tu le veux.
O BHAGAVA !
8/ Libre de tout égoïsme, la pensée en repos,
Lumineux au firmament de l'esprit à
jamais sans souillure,
agis en te jouant dans le Monde.
O BHAGAVA !
9/ Libéré des passions multiples,
égal parmi les pensées qui passent
et l'extérieurement adonné aux travaux
qui sont dans ta nature,
marche à travers la vie.
O BHAGAVA !
R. MAHARSHI TA LA AI ?
36
THƠ TỤNG ĐẠO
YOGA VASISHTHA
ĐẠO-DẪN TIÊN-TRI
1/ Thường-trụ trong tinh-thần viên-mãn.
Sáng long-lanh khi cạn tình trần.
Êm-đềm sống với tâm nhàn,
Vui chơi hành-động lạc-quan ở đời .
2/ Bên trong lòng hết thôi dục-vọng.
Hết đam-mê giải-phóng buộc ràng.
Bên ngoài hoạt-động mọi đường.
Vui chơi hành-động như thường nhân-
gian .
3/ Hiền-từ với đức-nhân cao-thượng.
Bên ngoài thì tôn-trọng phép thường.
Trong lòng thoát xác kỷ-cương.
Vui chơi hành-động trong trường thế-nhân
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
37
4/ Biết rằng cảnh phù-vân trần-thế.
Trải cuộc đời mặt bể nhấp-nhô.
Vượt lên siêu-việt tối-cao,
Vui chơi hành-động vô-cầu thế-gian .
5/ Vô hệ-lụy tâm nhàn thư-thái.
Những hành-vi đối-ngoại cầm giam.
Trong lòng nguội lạnh tro tàn,
Bên ngoài hăng-hái như than đỏ hồng .
6/ Vui chơi hành-động không mong.
Bên ngoài sốt-sắng khác trong hẳn đầy.
Mà trong lòng giữ lấy tự-do,
Ngoài tích-cực, trong ưu-du.
Ở đời làm việc đắn-đo không thành .
7/ Biết Tự-thể nơi mình tồn-tại.
Ấy nguồn Tri ở tại lòng thành.
Tòng tâm sở dục phân-minh.
Sinh-tồn nghệ-sĩ mới tinh ở đời .
8/ Vị-ngã giải-thoát thời tâm tính.
Vọng niệm tan, tâm định sáng ngời.
R. MAHARSHI TA LA AI ?
38
Không mấy trắng sáng chiều soi,
Tinh-thần trong sáng cao vời trời xanh .
9/ Vui chơi hành-động mới thành.
Hết bụng dục nó thành vô kể.
Tư-tưởng qua như kẻ qua đường.
Thản-nhiên không chút vấn-vương.
Bên ngoài làm việc như thường tính
Nhiên.
Hành-động là đức-tính Thiên.
Tiến lên cuộc sống không nên nghi-ngờ .
HỠI BHAGAVA !
%%%%%%%%%%%%
%%%%
*