CUỘC ĐỜI CỦA RAMAKRISHNA -...
Transcript of CUỘC ĐỜI CỦA RAMAKRISHNA -...
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
CUỘC ĐỜI
CỦA
RAMAKRISHNA
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
KHẢO-LUẬN
VỀ TÂM-LINH-HỌC
VÀ HÀNH-ĐỘNG
CỦA ẤN-ĐỘ
SỐNG
Tác-giả ROMAIN ROLLAND
Dịch-giả NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
1
VÀO ĐỀ
Tôi sẽ bắt đầu câu chuyện này như
là một truyền-kỳ. Điều lạ lùng hơn hết là cái
chuyện cổ-tích ấy, như là trích-dẫn trong một
huyền-thoại, lại là lịch-sử của những người
sống hôm qua, của những người láng-giềng
cùng một thế-hệ mà những người sống hiện
nay đã được nhìn thấy tận mắt. Những bằng-
chứng của họ hãy còn nóng hổi mà tôi đã được
nhận tận tay của họ. Tôi đã được nói chuyện
với một số người bạn đồng-hành với nhân-vật
thần-thoại kia _ Của con người Bách-Thần.
Tôi bảo-đảm lòng chân-thật của họ. Những
SRI RAMAKRISHNA
2
người chứng-kiến ấy không phải là những
người truyền-giáo Tân-Ước ngây-thơ. Trong số
ấy có những tinh-thần nghiêm-túc, thông hiểu
tư-tưởng Âu-Tây với những kỷ-luật của nó.
Thế mà họ nói chuyện như những người xưa ba
ngàn năm về trước vậy .
Ở giữa thế-kỷ hai mươi ( 20 ) này mà có
thể sống chung trong những trí não giống nhau,
lý-trí khoa-học với tinh-thần huyền-ảo thời cổ
Hy-Lạp, thời mà các thần tiên ngồi chung một
bàn, và ngủ chung một giường với người trần.
Hay là thời trên đất Galilée, khi người ta nhìn
thấy giữa không-trung trong sáng mùa hạ, con
đà-điểu của Thiên-Cung đem Tin Lành xuống
cho một Trinh-nữ ôm nặng ân-điển trong lòng,
thật là điều khó tin đối với các hiền-triết của
chúng ta, là những người không còn quá điên
rồ. Mà thật là một điều kỳ-lạ, sự phong-phú của
thế-giới mà họ không biết thưởng-thức. Đại đa
số những tinh-thần của chúng ta ở Âu-châu tự
đóng cửa trong cái lầu riêng của gian nhà nhân-
loại. Và mặc dầu cái lầu ấy đầy thư-viện, kể lể
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
3
dai dòng lịch-sử các lầu quá-khứ, nhưng các
gian nhà còn lại hình như đối với họ như không
có người ở. Và họ không nghe thấy gì ở dưới
chân, ở trên đầu, có những bước chân của láng-
giềng họ, những thế-kỷ xưa vẫn còn sống mãi.
Trong bản hòa-tấu của thế-giới mà tất cả thế-hệ
quá-khứ cũng như hiện-tại đều hòa-nhịp và
trình-bày cùng một lúc, nhưng mỗi người chỉ
chú-mục vào cái bản nhạc trước mắt mình, và
vào cái thước của nhạc-trưởng : nó chỉ lắng
nghe nhạc-cụ của nó thôi ...
Chúng ta hãy nghe toàn-thể ! Hòa-điệu
rực-rỡ, cái hiện-tại trong đó phối-hợp tất cả
những giấc mộng và những đà vươn lên của
quá-khứ và của ngày mai, tất cả những chủng-
tộc và những thời-dại ! Đối với ai biết nghe thì
mỗi một giây là tổng-hợp tiếng hát của tất cả
chúng-sinh, kể từ đứa sơ-sinh cho đến kẻ chết,
cuối cùng nó vấn-vít như hoa lài chung-quanh
bánh-xe của thới-đại. Và không cần phải ngược
dòng các tư-tưởng của người để hiểu nghĩa các
SRI RAMAKRISHNA
4
cổ-thư. Những tư-tưởng ấy vẫn ở đấy, nó quấn-
quanh chúng ta từ ba ngàn năm về trước, không
có gì tắt hẳn. Hãy lắng nghe ! nhưng hãy nghe
với lỗ tai của mình ! hãy gác sách vở đi, chúng
nói nhiều quá .
Nếu có một địa-phương nào người ta thấy
được tất cả những giấc mộng của người sống,
kể từ những ngày đầu tiên nhân-loại bắt đầu
giấc mộng sinh-tồn, đấy là đất Ấn-Độ. Sự ưu-
đãi độc nhất, như nhà Ấn-Độ-học Barth đã
chứng-minh, ấy là sự ưu-thế của một đàn anh
lớn, mà sự trưởng-thành linh-hồn độc-lập và
liên-tục trên lịch-trình trường-thọ của truyền-
thống dân-tộc không từng gián-đoạn. Hơn ba
mươi ( 30 ) thế-kỷ nay, trên cái đất nồng-nhiệt
ấy, cái não nóng hổi của Chư-Thần mọc lên
một cây Mộng-tưởng, cây ngàn cành sinh-sôi
nẩy-nở thành triệu triệu chi-nhánh, tự sinh tự
hóa không ngừng, không cỗi. Trên tất cả mọi
cành đồng-thời kết tất cả mọi thứ quả ; bên
cạnh nhau, người ta hái tất cả hình-thức Thần-
linh, từ những hình-thức man-dã cho đến hình-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
5
thức thanh-tao, cho đến Thượng-Đế tối-cao,
vô-hình, vô-danh, vô-hạn ... vẫn cùng một cây
mãi mãi ...
Và những chi-nhánh quấn-quít ấy, mà đã
có cùng một nhựa sống nuôi-dưỡng, đã pha-
trộn thân-mật da-thịt chúng với tư-tưởng của
chúng, từ chân đến đầu, rung-động như cột
buồm của chiếc thuyền vĩ-đại là địa-cầu, toàn-
thể thân cây rung-rinh với một đại hòa-điệu
ngàn tiếng, ngàn tín-ngưỡng của loài người.
Cái đại hòa-tấu muôn điệu, thoạt kỳ thủy như
là hỗn-độn chằng-chuộc đối với những lỗ tai
trâu không biết nghe, nhưng đối với một người
hiểu-biết, thì nó đã bầy-tỏ một trật-tự kín-đáo,
một đại hòa-điệu tiềm-tàng .
Và những ai trong chúng ta, một khi đã
nếm mùi, thì không còn có thể tự-mãn với trật-
tự phũ-phàng và giả-tạo của lý-trí Tây-phương,
nó áp-bức trên một chiến-trường đổ nát, và tín-
ngưỡng hay là những tín-ngưỡng của nó, tất cả
đều cùng độc-đoán và tự-phủ-nhận lẫn nhau.
SRI RAMAKRISHNA
6
Không có chi lấy làm hãnh-diện mà ngự-trị
một thế-giới, mà trong ấy ba phần tư bị nô-lệ-
hóa, bị miệt-thị hay là bị hủy-hoại. Phải ngự-trị
đời sống, toàn-thể sự sống được ôm-ấp, được
tôn-kính, được phối-hợp, mà người ta biết
điều-hòa những năng-lực chống-đối thành một
hòa-điệu quân-thiên .
Đấy là khoa-học tối cao chúng ta có thể
học được ở tâm-hồn vũ-trụ-hóa, mà tôi muốn
cố-gắng trình-bày cho độc-giả vài kiểu-mẫu
tuyệt đẹp. Cái bí-quyết tự-chủ của các Ngài và
tinh-thần bình-thản của các Ngài không phải là
cái bí-quyết của " bông hoa gai ngoài đồng có
hào-quang bao-phủ, không làm mà cũng không
kéo sợi." Những tâm-hồn này đã dệt áo cho kẻ
khác không áo không quần. Những tâm-hồn ấy
đã kéo chỉ của nàng Tiên Ariane để dẫn đạo
chúng ta trong đường rối nơi vực thẳm. Chúng
ta chỉ cần quấn chặt đầu mối vào cổ tay chúng
ta để tìm thấy đường trong rừng-rậm của chúng
ta. Con đường đi lên, từ những đầm lầy của
tâm-hồn trong đó những quỷ-thần nguyên-thủy
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
7
gào thét hãy còn chìm đắm trong bùn nhơ của
chúng, để tới những ngọn đỉnh của Trời quang,
xòe cánh đại-bàng, Tinh-thần vô-hạn bất khả
đắc ...
Vậy mà cái bức thang Thần Jacob trên đó
lên xuống từ đất lên trời, từ trời xuống đất, một
mạch, hai chiều không gián-đoạn của Thần-linh
trong con người. Đấy chính là cuộc đời, tôi sẽ
kể, về con người Bách-Thần : Ramakrishna .
*
***
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
9
CHƯƠNG I
PHÚC-ÂM BUỔI THƠ-ẤU
Ở xứ Bengal ( Nam Ấn ) , quận
Kamarpukur, một trong những cái làng xây nhà
mái nón, có những cây dừa bao-bọc chung-
quanh, có ao, có ruộng. Ở đấy có một đôi vợ
chồng già Bà-La-Môn chính-thống, tên gọi là
Chat Topadhyaya. Ông này rất nghèo và rất
thành-tín, suốt đời phụng thờ Thần-Linh anh-
hùng và đạo-đức Grama. Thân-sinh ông là
Khudiaram tính-tình chính-trực và cổ-điển, ông
ta đã từ-chối làm chứng giả-mạo cho người chủ
của ông mà ông làm tá-điền, vì thế mà ông bị
lột hết tư-sản. Thần-Linh đã xuống thăm ông.
Hồi 60 tuổi, ông đi hành-hương đến đất Thánh
Gaya, nơi đây có dấu chân của Thần Vishnu,
Thần Cứu-thế này đã hiện ra cho ông thấy
SRI RAMAKRISHNA
10
trong một đêm và nói : " Ta tái-sinh để cứu
nhân-loại ."
Cùng lúc ấy ở Kamarpukur, người vợ ông
là Chandramani đang nằm ngủ một mình, bà
mộng thấy Thần-Linh ôm-ấp. Tại điện Thần
Çiva, trước lều tranh của bà hình-ảnh Thần-
Linh linh-động trước mắt, rồi một tia sáng chói
nhập vào người bà. Trong sự tràn-ngập sự lạ-
lùng ấy, bà rụng-rời ngã xuống, khi giá Thần-
Linh thăng, bà tỉnh dậy thấy mình có mang.
Ông chống khi trở về nhà thấy vợ đổi sắc-diện.
Bà nghe thấy tiếng Thiên-lai, bà mang trong
lòng bà một Thần-Linh .
Đứa trẻ ra đời ngày 18 tháng 2 năm 1836,
đấy là cậu bé mà thế-giới sau này được biết
dưới danh-hiệu là Ramakrishna. Nhưng tên tục
của cậu bé, nghe vui như tiếng nhạc nhẩy múa
rung-rinh, là Gadadhar .
Bấy giờ cậu bé vui-vẻ, sinh-lực dồi-dào,
láu-lỉnh và đáng yêu, dáng-điệu như con gái,
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
11
mà suốt đời nó vẫn giữ như vậy. Không ai ngờ
chính ở con người cậu bé ấy, khác hơn mọi
người, có những khoảng không vô-biên, những
vực-thẳm mở rộng trong chiếc thân nhỏ bé của
một đứa trẻ đang vui cười nhẩy múa. Những
sự-kiện ấy đã biểu-hiện ra cho nó khi nó mới
có 6 tuổi. Một hôm, vào tháng 6 tháng 7 năm
1842, nó đang đi lang-thang như con chim
nhẩy-nhót, ôm trong vạt áo một chút gạo rang.
Nó đi ra cánh-đồng nơi cha nó đang làm việc ...
_ " Tôi đang đi trên một bờ ruộng
nhỏ hẹp phân chia những thửa ruộng...
Chợt nhìn lên trời, miệng nhai gạo rang,
tôi thấy một đám mây đẹp tối đen của cơn
giông kéo đến mau lẹ ngập trời... thình
lình trên đâu tôi, lượn trong đám mây,
một đàn cò bay qua trắng toát như tuyết.
Sự tương phản ấy đẹp quá đến nỗi tinh-
thần tôi bị lạc vào những cõi xa vời. Tôi
mê-ly ngã xuống, gạo rang tung tóe. Có
người đã nhấc tôi lên và bế tôi về nhà. Sự
thích-thú quá độ, sự xúc-động đã làm tôi
SRI RAMAKRISHNA
12
ngất đi... Đấy là lần đầu tiên tôi đã mê-ly
đến xuất-thần... "
Ông còn phải trải qua tâm-trạng ấy hơn
nửa đời người .
Sự xuất-thần đầu tiên ấy biểu-lộ tính-chất
đặc-biệt của sự ngự-trị Thần-linh trong tâm-
hồn của cậu bé. Xúc-động mỹ-thuật, bản-năng
đam-mê cái đẹp, là bước đầu đưa cậu ta đến
với Thượng-Đế. Rồi chúng ta sẽ thấy về khải-
ngộ có nhiều con đường khác nữa : Hoặc con
đường thương yêu người đồng-loại ; hoặc con
đường tư-tưởng ; hoặc con đường tự làm chủ
được mình và con đường hành-động trong-sạch
vô-tư ; hoặc tình-thương bác-ái ; hoặc mặc-
niệm trầm-tư v.v... Ramakrishna sẽ trải biết tất
cả. Nhưng con đường trực-tiếp nhất ở tại nơi
bản-tính ông, là sự mê-li bộ mặt đẹp của
Thượng-Đế, mà ông đã thấy trong tất cả cái gì
ông ngắm nhìn. Ông sinh ra là một nghệ-sĩ.
Ôi ! thật là khác hẳn với cái tâm-hồn vĩ-đại kia
của bực Thánh Ấn-Độ, mà tôi đã là người Âu
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
13
truyền-giáo, Thánh Gandhi, con người không
nghệ-thuật, con người không huyền-tưởng, mà
Ngài cũng không muốn thế, mà Ngài hầu như
nghi-ngờ. Ngài là người sống với Thượng-Đế
trong hành-động suy-tư ! Con đường của Cam-
Địa chắc-chắn hơn và bảo-đảm hơn cả, nó là
con đường thích-hợp cho người lãnh-đạo nhân-
dân. Con đường của Ramakrishna sẽ nguy-
hiểm hơn nhiều, nhưng nó đi xa hơn, nó ven
theo từ trong những vực-thẳm để khai mở đến
những chân trời vô-hạn. Đấy là con đường của
tình-yêu .
Nó vốn là con đường của dân xứ Bengale
( Nam Ấn ), của cái giống-nòi nghệ-sĩ và tình-
nhân thi-sĩ, nó đã tìm thấy người hướng-đạo
thiên-khải ở Thần Krishna đa-tình siêu-hóa, ở
Thánh Chaïtanya ( 1485 - 1553 ) với cái nhạc-
điệu tuyệt-vời của những bài ca thích-thú là
Chandidas và Vidyapati. Các sư-phụ cao-siêu
ấy, hoa thơm của thổ-ngơi, đã thấm-nhuần vào
tâm-hồn nó hơi thở nồng-nhiệt của họ. Hàng
bao nhiêu thế-kỷ xứ Bengale đã say-sưa.
SRI RAMAKRISHNA
14
Tâm-hồn của cậu bé Ramakrishna đã do thực-
chất của họ tạo nên, cậu là da thịt của họ, và
người ta đã nhận thấy ngay rằng Ramakrishna
là cành hoa của gốc cây Chaïtanya .
Người say-mê cái đẹp Thần-linh, nhà
nhgệ-sĩ thiên-tài chưa tự ý-thức, lại biểu-lộ ra
một lần nữa trong một trạng-thái thứ hai của
ông ta.
_ " Đêm Hội Thần Çiva, đứa trẻ tám
tuổi ấy đam-mê âm-nhạc và thi-ca, hay
chơi nặn các hình-tượng và điều-khiển
một ban kịch nhỏ trẻ-con cùng tuổi, đã
tham-gia vào một biểu-diễn Thần-linh.
Nó đóng vai Çiva và toàn thân nó bị vai-
trò thu-hút ; trên hai má xinh xinh của nó
nước mắt sung-sướng chẩy ròng-ròng, nó
mê-ly vào trong hào-quang của Thần-
linh, nó như là tiên đồng-tử bị con
Phượng-hoàng cầm Thiên-lôi cắp đi mất,
người ta tưởng nó chết ... "
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
15
Từ đấy về sau, những kinh-nghiệm Thần-
hóa xẩy ra liên-tiếp. Nếu ở Âu-châu thì trường-
hợp này sẽ bị đem ra xét-đoán : Người ta sẽ
giam đứa trẻ vào nhà dưỡng-sinh, hàng ngày
điều-trị thần-kinh của nó tỉ-mỉ để rồi dần dần
người ta diệt tắt, thế là hết ngọn đèn ảo-hóa ! ...
Ngọn nến đã tắt mất rồi ... Cũng có khi cả đứa
trẻ cũng bị chết ... Ở Ấn-Độ, tuy trải qua hàng
thế-kỷ, có cả triệu ảo-đăng ấy nối tiếp, vậy mà
người ta cũng lo sợ cho cậu bé Ramakrishna
này. Cả người cha và người mẹ kia, từng quen
với sự thăm viếng của Thần-linh, cũng lo sợ
khi quan-sát những sự xuất-thần của đứa trẻ.
Nhưng ngoài những lúc bất-thường ấy, nó vẫn
hoàn-toàn mạnh-khoẻ, nó không cuồng nhiệt.
Nó có những thiên-tài lớn, những ngón tay
thần-tình của nó làm xuất-hiện Chư-Thần từ
cục đất thó, những thần-thoại và anh-hùng nẩy
ra trong tư-tưởng của nó như hoa. Người ta mê-
ly khi nghe nó hát những điệu hát mục-đồng
của Thần Krishna. Có khi trí thông-minh sớm
nẩy nở của nó tham-gia vào những cuộc thảo-
luận của các bậc đàn anh thông-thái, làm cho
SRI RAMAKRISHNA
16
họ phải ngạc-nhiên, như thể Chúa Jésus đối với
các bậc thông-thái. Cũng như đứa trẻ Mozart,
nó vẫn giữ tính hồn-nhiên và nó đã giữ mãi đến
tận tuổi lão-thành. Đúa trẻ trắng-trẻo, tóc tơ
quăn đẹp, miệng cười hấp-dẫn, tiếng nói êm-
dịu, đứa trẻ tính-tình độc-lập, bỏ trường học và
tự-do như không-khí, cho đến năm 13 tuổi luôn
luôn được phụ-nữ nâng-niu âu-yếm. Các bà,
các cô tự nhận thấy mình ở nó và nó đã đồng-
hóa tính-tình của các bà các cô, đến nỗi trong
một giấc mộng trẻ con êm ru với những thần-
thoại về Krishna, với các cô gái đẹp chăn bò,
nó đã mộng tái-sinh làm một nàng gái góa yêu
mê Thần Krishna, thường đến nhà thăm viếng.
Nhưng đấy chỉ là một trong vô số kiếp tái-sinh
tưởng-tượng của nó : chúng tự nhiên hành-
động vào trong cái tâm-hồn uyển-chuyển ấy và
khuôn theo liền với mỗi nhân-vật nó thấy trong
mộng. Cái tính dễ uốn-nắn huyền-ảo ấy không
một ai trong chúng ta không có, trình-độ thấp
nhất của nó là sự bắt-chước điệu-bộ và dáng
mặt, trình-độ cao nhất có thể nói là Thượng-Đế
đóng vai " trẻ tạo-hóa trong vũ-trụ ". Và đấy
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
17
cũng còn là dấu-hiệu của nghệ-thuật và tình-
yêu, ở đấy báo-hiệu cái khả-năng kỳ-lạ phát-
triển ở Ramakrishna sau này, ấy là thiên-tài
phối-hợp với tất cả tâm-hồn của thế-giới .
*
***
Thân-sinh Ramakrishna mất khi ông mới
7 tuổi, gia-đình thanh-bạch đã trải qua những
năm túng-thiếu. Người con cả là Ramkumar đi
ra tỉnh Calcutta để mở một lớp học. Y đem
theo người em út, bấy giờ đã trưởng-thành
( 1852 ), nhưng người thanh-niên tự-do ấy,
tâm-hồn tràn-ngập nguồn sống nội-tâm, từ-chối
không đi học .
Vào thời ấy có một bà nhà giầu dòng hạ-
lưu là Rani-Rasmani thiết-lập ở Dakshineswar,
trên hữu-ngạn sông Hằng-Hà, cách Calcutta 6
cây-số, một ngôi đền thờ Đức Bà Thiên-Mẫu
Kali. Bà ta khó có thể tìm được một người Bà-
SRI RAMAKRISHNA
18
La-Môn bằng lòng làm Thủ-từ cho ngôi đền
của bà. Một điều lạ là ở Ấn-Độ tín-ngưỡng tôn-
trọng những nhà tu-sĩ, những thấu-thị tự-do,
người ta ít quý-trọng địa-vị của hạng giáo-sĩ
được trả lương như viên-chức. Các đền không
như những nhà-thờ ở bên Âu-châu là thân-thể
và trái tim của Thượng-Đế, nơi lễ-bái hàng
ngày. Những đền, chùa ở Ấn là những xây-
dựng công-quả của nhà giầu để được Thần-linh
ban phước. Nhưng tôn-giáo chân-chính là một
việc riêng, trung-tâm của nó ở mỗi tâm-hồn cá-
nhân riêng-biệt. Hơn nữa, người sáng-lập ngôi
đền Dakshineswar lại thuộc dòng nô-lệ, hạ-lưu.
Đối với một người dòng Bà-La-Môn, nhận
chức-vụ Thủ-từ là một điều mất giá-trị. Năm
1855, Ramkumar đành chịu nhẫn-nhục nhận
việc này, nhưng đứa em trẻ, bấy giờ còn hết
sức giữ-gìn giới-luật, đối với vấn-đề giai-cấp
đã thấy khó lòng công-nhận việc làm này của
anh mình. Nhưng rồi dần dần, sự đố-kỵ nguôi
đi và sang năm sau, khi người anh cả mất,
Ramakrishna nhất-định thay thế anh .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
19
CHƯƠNG II
ĐỨC MẸ KALI
Hai mươi tuổi, người Thủ-từ đền Kali
không có chút nghi-ngờ gì về Bà Chủ ghê-gớm
mà y nhận phụng-sự. Bà chẳng khác gì con hổ
mẹ đang gầm-gừ và thôi-miên cái mồi của nó,
nó sắp ngấu-nghiến ông này, đồng thời vờn
chơi suốt khoảng ngót 10 năm. Mười năm mê-
mẩn như bị thủy-phù dưới con mắt lửa của Đức
Mẹ Kali. Ông ta sống một mình trong đền với
Đức Mẹ. Ở giữa một luồng gió lốc đến chóng
mặt. Bởi vì những hơi thở nóng hổi của quần-
chúng ảo-giác, khác nào như những cơn gió
mùa thổi vào cửa đền, làm tung bụi mù. Biết
bao nhiêu khách hành-hương, nhà tu, nhà sãi,
đạo-sĩ thuộc Ấn-Độ giáo hay Hồi-giáo, tất cả
SRI RAMAKRISHNA
20
những người cuồng-tín về Thần-linh đều tụ-tập
đến đấy .
Ngôi đền rộng lớn có 5 vòm với nóc nhọn
như mũi tên. Người ta leo lên qua cái bệ đá trên
bờ sông Hàng-Hà để vào đền, giữa hai hàng 12
vòm điện nhỏ thờ Thần Çiva. Bên kia là cái
sân, xây rộng hình chữ nhật, đối-diện với điện
Kali, lại có một ngôi đền lớn nữa thờ Thần
Krishna và Radha. Cả một thế-giới phù-hiệu
tượng-trưng : Ba ngôi làm Một : Tạo-Hóa Đức
Mẹ ( Kali ) ; Tuyệt-Đối ( Çiva ) và Tình-Yêu
( Krishna, Radha ). Cầu-vồng bắc qua Đất với
Trời .
Nhưng Bà Chúa tối-cao ở đây là Đức Mẹ
Kali.
Bà hiện tại đây trong hình-tượng mầu
huyền, mặc áo lụa Bénarès rực-rỡ, Chúa ngự-trị
thế-giới và các Thiên-Thần. Bà nhẩy múa trên
thân-thể nằm dài của Thần Çiva. Và với vô số
cánh tay, bên trái bà cầm kiếm với một đầu-lâu,
bên phải bà ban phước và vẫy gọi : " Đến đây,
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
21
đừng sợ..." Bà là Tạo-Hóa vừa huỷ-diệt vừa
sáng-tạo. Bà còn hơn thế nữa, đối với kẻ biết
nghe Bà : _ Mẹ Vũ-trụ, " Mẹ toàn-năng của tôi
biểu-hiện ra cho các con qua thiên-hình vạn-
trạng và những Thần-linh giáng-thế", Thượng-
Đế hữu-hình dẫn dắt những con tin được tuyển
lên Thượng-Đế vô-hình ; " Và nếu Ngài vui
lòng, Ngài tước bỏ ở tất cả tạo-vật dấu-vết cuối
cùng của cái Ngã, và Ngài ban cho đầy đủ cái
biết về Thượng-Đế Tuyệt-đối bất-phân. Nhờ
ân-huệ của Ngài, cái Ngã hữu-hạn tan hòa vào
trong cái Ngã vô-hạn _ Atman _ Brahman ... "
Nhưng dù bằng những con đường gián-
tiếp của trí-tuệ, chàng Thủ-từ 20 tuổi này còn
xa mới tới được hạch-tâm của sự hỗn-hợp tất
cả thực-tại. Cái thực-tại duy-nhất vừa Thánh-
linh vừa nhân-bản mà chàng ta có thể tới được
là cái thực-tại y có thể nhìn thấy, nghe thấy và
sờ thấy. Về điểm này, y không khác với phần
lớn đồng-bào của y. Điều làm cho các tín-đồ ở
Âu-châu chú-ý nhất ( nhất là tín-đồ Tân-giáo
hơn là tín-đồ Gia-Tô ) là ở những tín-đồ Ấn-Độ
SRI RAMAKRISHNA
22
ấy, sự cụ-thể-hóa mạnh-mẽ những viễn-tượng
tín-ngưỡng của họ. Như sau này khi anh sinh-
viên trẻ Vivekananda hỏi Ramakrishna :
_ Ông có nhìn thấy Thượng-Đế không ?
Ông ta đã trả lời :
_ Ta nhìn thấy Ngài như ta nhìn thấy anh,
mà còn hiển-hiện hơn nữa !
Và để sác-định, ông ta thêm :
_ Không theo ý-nghĩa triết-học đâu .
Nghĩa là không theo ý-nghĩa Vô-ngã
trừu-tượng, mặc dầu ông ta cũng có biết về
phương-diện này và đã thực-hành .
Đấy chẳng phải đặc-ân của một vài thiên-
khải. Tất cả tín-đồ Ấn-Độ-giáo thành-thật đều
dễ-dàng đạt tới điểm ấy : Nguồn sống sáng-tạo
ở họ còn bồng-bột và thanh-xuân biết bao. Một
trong những bạn gái của chúng tôi, đi theo
nàng Công-chúa trẻ, đẹp, thông-minh, có học
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
23
của xứ Népal tới đền này để cho Công-chúa
cầu-nguyện yên-lặng rất lâu trong khói hương
ngây-ngất, dưới ngọn đèn le-lói _ khi ra về
nàng Công-chúa thản-nhiên nói với bạn tôi :
_ Tôi đã nhìn thấy Thần Rama ...
Như thế thì làm sao Ramakrishna lại
không nhìn thấy Kamalakanta " Đức Mẹ da
xanh biếc " ?... Bà là hiện-thân, là giáng-thế
nửa ở hình-thức phụ-nữ của những năng-lực
tạo-hóa ở Thần-linh trà-trộn với người trần, _
Đức Mẹ Kali ... Bà vấn-vít lấy ông ta trong
điện thờ với hương thơm của thân-thể Bà, với
những cánh tay và mớ tóc như những dây leo.
Bà chẳng phải là một hình-ảnh chủng-viện tu-
sĩ, với nụ cười lạnh-lùng sinh-sống qua những
lời cầu-nguyện. Bà sống-động, hô-hấp, ngủ
dậy, ăn uống, đi lại, lại đi ngủ. Tất cả nghi-lễ
của đền tuân theo nhịp điệu hàng ngày của Bà.
Mỗi buổi sáng, lúc bình-minh, giàn chuông nhỏ
rung lên, những ánh-sáng chập-chờn. Trong
nhạc điệu, tiếng sáo thờ nổi dậy hòa với tiếng
trống và tiếng não bạt : Mẹ thức dậy. Người ta
SRI RAMAKRISHNA
24
hái hoa trong vườn, nhài và hồng thơm phức,
để tết những vòng hoa trang điểm cho Bà. Đến
9 giờ sáng có âm-nhạc báo giờ làm lễ Mẹ ngự
lên bàn thờ. Đến giữa trưa, âm-nhạc rước Mẹ
đi nghỉ trên giường bằng bạc, suốt những giờ
nóng-nực. Chiều đến vào 6 giờ, âm-nhạc đón
chào khi Mẹ tái hiện. Âm-nhạc còn nổi lên vào
sẩm tối, dưới ánh đuốc chập-chờn trong buổi lễ
đêm. Rồi những tiếng mõ nổi lên với những
tiếng chuông leng-keng không ngớt. Sau cùng
đến 9 giờ đêm là giờ Mẹ đi nghỉ : Mẹ đi ngủ .
Và người Thủ-từ tham-gia vào tất cả
những cử-chỉ thân-mật của Mẹ thường ngày. Y
mặc áo cho Bà, cởi áo cho Bà, dâng hoa cùng
thực-phẩm. Y hầu-hạ Bà Chúa từ buổi sáng dậy
cho đến tối đi nằm. Làm thế nào mà ngón tay
của Y, con mắt, trái tim của Y không thấm-
nhuần da thịt của Bà ? Ngay từ sự xúc-tiếp đầu
tiên đã buộc Y với Bà. Khi mà Y hãy còn
lưỡng-lự đến phụng-sự Bà, khi bàn tay nghệ-sĩ
của Y đã tu sửa những bộ-phận của pho
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
25
tượng Bà bị gẫy. Y còn giữ trên ngón tay
những vết kim châm của Đức Mẹ Kali .
Tuy nhiên, sau khi đã châm vào Y, Bà
liền bỏ đi, Bà từ-chối không biểu-hiện nữa. Vì
như con ong, khi nó đã rung-động vào tình-yêu
của Y đến tâm can, nó lại chui vào cái tổ đá của
nó, Y không còn làm nó linh-động được nữa.
Người đam mê nữ Thần tự nung-nấu âm-thầm.
Làm thế nào để với tới, ôm lấy, cướp lấy một
dấu-hiệu sống, một cái nhìn, một hơi thở, một
nụ cười, đấy là ý-nghĩa duy-nhất của đời Y. Y
lăn lộn trong góc vườn rộng như là con thú
trong rừng sâu trầm-tư và than khóc, bỏ cả
quần áo và dấu-hiệu của nhà tu Bà-La-Môn, mà
giới-luật không cho phép ; nhưng lòng yêu Mẹ
đã bảo thầm Y rằng kẻ nào muốn nghĩ đến
Thượng-Đế, trước hết phải bỏ hết thành-kiến.
Y như là một đứa trẻ lạc-lõng, mất hồn. Y cầu-
khẩn, khóc than xin Đức Mẹ biểu-hiện. Mỗi
ngày trôi qua uổng phí làm cho Y hoảng-sợ. Y
không còn tự-chủ được nữa. Thất-vọng, Y lăn
lộn trước mặt những người đến lễ-bái. Y thành
SRI RAMAKRISHNA
26
vật cho họ thương-hại, cho họ mỉa-mai, cho họ
chế-diễu, họ cho là Y bị trụy-lạc. Y bất-chấp,
đối với Y chỉ có một điều trọng-yếu : Y tự biết
chỉ còn cách có hai tấc nữa là đi tới hạnh-phúc
tối cao mà một bức tường mỏng phân-chia, Y
không thể xuyên qua được. Trong sự cuồng-
nhiệt không có gì hướng-dẫn _ Bởi vì Y
không được học khoa Thần-hóa Đạo-dẫn mà
hàng ngàn năm tôn-giáo Ấn-Độ đã ghi-chú và
quy-định hết sức tỉ-mỉ với kỷ-luật chặt-chẽ của
một phân-khoa sinh-đôi Y-học và Thần-học _
Trong sự cuồng-nhiệt, Y đâm quàng đâm xiên,
mặc cho sự điên rồ mù-quáng lối cuốn, đến chỗ
gần như tiêu-diệt. Sự chết luôn luôn rình người
đạo-sĩ liều-lĩnh đi trên bờ vực thẳm này. Trong
những ngày điên cuồng này, các chứng-nhân
bấy giờ tả Y : mặt và ngực Y đỏ rực vì tức
máu, nước mắt Y ròng ròng, thân-thể giật lên
từng cơn. Y tới biên-giới của sinh-lực. Xa chút
nữa là rơi vào đêm tối, là đứt mạch máu _
Hay là biểu-hiện Thần-linh ...
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
27
Y thấy ! bức tường ngăn đổ xuống. Đây
chính là lời của Ramakrishna _ Lời nói của
ông ta nhắc lại cho chúng ta luận-điệu của
những kẻ " điên cuồng Thượng-Đế ", ở những
bậc thấu-thị ở Âu-châu của chúng ta :
_ " Một hôm tôi đang quằn-quại
trong lo-âu nặng-nề. Hình như có ai vắt
trái tim tôi như là vắt cái khăn ướt ... Sự
đau đớn làm cho tôi đứt ruột. Nghĩ đến
nông-nỗi suốt đời không được ân-điển
thấy hiển-hiện Thần-linh, tôi rùng mình
ghê sợ. Tôi nghĩ rằng, nếu đấy là số-phận
thì còn sống làm gì ?... Một thanh gươm
trường treo trên bàn thờ Đức Mẹ Kali.
Mắt tôi chợt thấy, và một tia sáng loé
trong trí não tôi. _ gươm !... “ Nó sẽ giúp
ta chấm dứt...” Tôi nhào đến nắm lấy nó
như là một thằng điên !... đây rồi ! ...
Gian nhà cùng tất cả cửa nhỏ, cửa lớn,
ngôi đền, đều biến mất. Tôi thấy như là
không còn có gì hết. Và thay vào đó, tôi
tri-giác thấy một bể tinh-thần vô-biên
SRI RAMAKRISHNA
28
sáng-chói, nhìn quanh bốn bề, nhìn ra
đàng xa, xa-lắc tôi thấy những ngọn sóng
khổng-lồ của đại-dường sáng chói kéo
đến. Sóng cuồn-cuộn dồn-dập vào tôi với
một âm-thanh vĩ-đại như để nuốt lấy tôi.
Trong một khoảnh-khắc chúng tràn lên
tôi, chúng đổ xuống, chúng lôi tôi, chúng
cuốn tôi vào vực thẳm. Cuốn theo sóng,
tôi ngộp thở, mất ý-thức ngày thường và
tôi ngã ra ... Bữa ấy và bữa sau như thế
nào, tuyệt-nhiên tôi không biết. Ở trong
lòng tôi rào-rạt một bề sung-sướng vô tả.
Và từ đầu chí cuối tôi ý-thức sự hiện-diện
của Đúc Mẹ Thần-linh ... "
_ ( Sri Ramakrishna " The Great Master "
vol.II _ by Swami Saradananda, Madras
1920 )
Trong lời kể lại rất đẹp ấy, người ta nhận
thấy rằng trừ những tiếng sau cùng, không có
vấn-đề " Đức Mẹ Thánh-linh " nữa, Bà đã tan
vào biển-cả. Những đệ-tử nhắc lại trung-thực
những lời nói của ông ta tự hỏi : " Có thật sư-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
29
phụ đã thấy hình-tướng Thần-linh ? Thầy
không nói điều ấy. Nhưng trong khi hồi tỉnh,
trạng-thái Thần-hóa, Thầy lẩm-bẩm giọng rên-
rỉ : " Mẹ!... Mẹ !... "
Đối với tôi _ " Xin thứ lỗi cho tôi điều
mạo-muội này " : _ Tôi tin-tưởng là ông ta
không thấy hình-tướng Đức Mẹ, nhưng tri-giác
hiện-diện của Ngài thì ở khắp cả. Ông gọi tên
Ngài là biển-cả. Đấy là trạng-thái mà chúng ta
biết ( thu nhỏ ) qua giấc mộng, trong đó tinh-
thần chúng ta tự nhiên gán tên của người đã
tràn-ngập trong tư-tưởng ta cho bất cứ một
hình-tướng nào khác : bởi vì người ta yêu là tất
cả ; tất cả hình-tướng đều khoác vào nó... Và
cái hình-ảnh, trên bãi cát của biển-cả đang lan
tràn vào Ramakrishna, đã gợi lên cho tôi ngay
hình-ảnh của Thérèse D'Avila, khi Bà cảm thấy
lần đầu tiên lặn chìm vào trong một vô-biên, _
trước khi Bà có những sự thận-trọng của đức
tin Cơ-Đốc và những lời cảnh-cáo của những
Sư Trưởng săn-sóc Bà, họ đã dắt dẫn Bà trái
SRI RAMAKRISHNA
30
với ý muốn, bắt Bà phải khuôn Thượng-Đế vào
một hình-tướng Nhân-Thần .
Nhưng người đang yêu say-mê là Rama-
krishna không phải phấn-đấu với con tâm
xuống dốc. Hơn thế nữa, dốc của con tâm lôi
kéo ông ta từ vô-hình đến cái bộ mặt yêu dấu.
Ông ta khoa-khát thấy bộ mặt ấy. Và đến khi
ông ta đã nhìn thấy và được phối-hợp một
khoảnh-khắc, thì ông ta đã không có thể rời xa
được nữa. Kể từ bữa ấy, không lúc nào ông
không khao-khát cái huyễn-tượng nóng hổi ấy
tái diễn. Thế-giới không có nó là thế-giới chết ;
còn những người đang sống hiện diện trước
mắt ông thì chỉ như là những hình vẽ trên màn-
bạc, những cái bóng hão-huyền .
Nhưng không phải người ta đương đầu
với Vô-hạn một cách dễ-dàng, không nguy-
hiểm. Sự súc-động của cuộc gặp-gỡ đầu tiên ấy
đã mãnh-liệt đến nỗi toàn thân-thể ông phát sốt
phát rét. Ông ta chỉ còn nhìn thấy sự-vật
chung-quanh qua một màn khói nhấp-nhoáng,
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
31
những ngọn sóng bạc-đầu, những đom đóm
lửa. Ông không còn làm chủ được mắt ông nữa,
thân-thể ông, tinh-thần ông đã có một Ý-chí
khác điều-khiển ; và ông ta trải qua những lúc
hoảng-sợ. Vì ông không thể hiểu được như vậy
là cái gì. Ông bèn cầu-nguyện Đức Mẹ đến
cứu ...
Rồi thình-lình ông tỉnh-ngộ ... Đấy là
Đức Mẹ đã ốp-đồng ông ta. Bấy giờ thì ông
buông suôi, không cưỡng lại nữa ... Tuân theo
lệnh Ngài truyền ! .. Và Đức Mẹ choán lấy hết
ông ta. Và từ trong đám sương mù, bản-thể của
Mẹ, từng bộ-phận một xuất-hiện. Trước hết
được thấy là bàn tay _ hơi thở _ tiếng nói _
rồi Bà hiện hình toan-thể. Trong hàng trăm
hình-ảnh, hình-ảnh mê-ly này là của thi-sĩ :
_ Vào buổi chiều. Những nghi-lễ ban
ngày đã xong. Theo lệ Đức Mẹ đi nghỉ. Và ông
ta trở về buồng riêng, ở ngoài cung-điện, nhìn
xuống sông Hằng. Nhưng ông không sao ngủ
được. Ông lắng nghe ... Ông nghe thấy Mẹ dậy,
SRI RAMAKRISHNA
32
Mẹ đi lên thượng lầu của đền, vui thích như cô
con gái ; trên bực thang những cái vòng ở chân
Bà kêu leng-keng. Ông tự hỏi có phải ông mê
hay không, tim đập hồi-hộp, ông ra sân ngẩng
đầu lên, ông thấy Bà : Làn tóc lòa-xòa trên lan-
can thượng lầu trong cảnh đêm sáng đẹp. Mẹ
đang ngắm sông Hằng chảy, và đàng xa lóng-
lánh ánh đèn của tỉnh Calcutta ...
Từ đấy về sau, ngày đêm trôi qua trong sự
hiện-diện liên-tục của Người Yêu. Mẹ, con nói
chuyện với nhau không dứt, như nước sông
thao thao. Ông ta đi đến chỗ tự đồng-nhất-hóa
với Bà. Và dần dần cái nội-quan của ông ta
biểu-hiện ra bên ngoài. Những người ngoài
cũng nhìn thấy như ông, họ nhìn qua thân-hình
ông như là qua tấm kính thấy thân-hình Chư
Thần. Mathur Babu, con rể của bà sáng-lập ra
ngôi đền và là chủ-nhân của nơi ấy, một hôm
đang ngồi trong buồng của ông ta, đối-chiếu
với gian buồng của Ramakrishna, không để cho
Ramakrishna nhìn thấy mình nhìn trộm ông
đang đi đi lại lại trên bao-lơn. Thình-lình ông
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
33
ta kêu lên. Ông đã nhìn thấy trên vai
Ramakrishna cái đầu của Thần Çiva và của
Đức Mẹ, lần lượt cái nọ đến cái kia, tùy theo
bước đi, lại của Ramakrishna trên bao-lơn ...
Nhưng đối với phần đông, người si tình
điên cuồng ấy là một quái-thai sống. Ông
không còn khả-năng để làm trọn lễ-nghi trong
đền. Giữa lúc đang hành lễ, ông bất tỉnh nhân
sự, bị đắm chìm, bị cứng đơ vì ông nghe thấy
cánh cửa cung-điện mở ra đóng vào, làm ông
biến thành một pho-tượng. Hoặc nữa, ông có
những cử-chỉ thân-mật lạ kỳ với Đức Mẹ. Tất
cả công việc Thủ-từ ông phụ-trách đều gián-
đoạn. Ông không nhắm được mắt nữa. Ông
không ăn nữa. Nếu không có đứa cháu ở đấy
săn-sóc ông về nhu-cầu thiết-yếu thì ông đã
chết. Một trạng-thái như thế dẫn ông đến bệnh-
hoạn, mà những nhà thần-bí Tây-phương của
chúng ta đã nhiều lần được thưởng-thức.
Những giọt máu nhỏ rỉ ra ngoài da. Tất cả thân-
thể ông là khối lửa và tinh-thần ông ta là một lò
than, mà những tia lửa nổ lách-tách là những
SRI RAMAKRISHNA
34
Thần-linh. Sau thời-kỳ mà ông ta đã nhìn thấy
Thần-linh _ ở các nhân-vật : ở một đứa con
gái đi ngoài phố ông nhìn thấy Thần Sitâ ; ở
một người thanh-niên Anh, đứng chéo chân tựa
vào một thân cây, ông nhìn ra Thần Krishna _
Ông là Chư Thần, ông là Thần Kâli, Thần
Râma, ông là Nữ-Thần Radha, người yêu của
Thần Krishna ; ông là Công-chúa Sita ; ông là
Hunaman !... Tôi không muốn bỏ qua những
cơn điên cuồng của tâm-hồn thả-lỏng không
dẫn đạo, để trôi theo làn sóng giận-dữ của đam
mê, để cho con sói khao-khát Thần-linh nó
ngấu-nghiến ; _ " Nhưng chúng trả-thù, chính
ông ta đến lượt bị chúng vò xé ! " _ Tôi không
muốn đánh lừa độc-giả Tây-phương. Tôi để
cho độc-giả tất cả quyền tự-do phán-đoán ( tôi
cũng cho chính tôi cái quyền tự-do ấy ) để
phán-đoán cái con người điên cuồng về Thần-
linh đó là một người điên đáng trói lại. Chúng
ta có rất nhiều lý-do để đối-phó, để phê-phán,
khi mà ở Ấn-Độ chính các tín-đồ ngoan đạo
nhìn thấy ông ta cũng phán-đoán như chúng
ta ! Và chính ông ta cũng ngoan-ngoãn để cho
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
35
các thầy thuốc xem xét và tuân theo chỉ-thị của
họ. Sau này khi nhìn lại những bước đã qua,
ông ta ngắm những miệng vực mà ông ta đã
thoát, thì ông đã không thể hiểu nổi tại sao lý-
trí của ông, cả đến tính-mệnh nữa, đã không bị
tan-nát .
Nhưng điều lạ-lùng đối với chúng ta, và
chỉ có điều ấy là đáng kể, là chính lý-trí và
tính-mệnh của ông ta đã không bị tan-nát vào
đấy mà còn vượt khỏi những cơn bão-tố đó, đã
đắc thắng ! _ Cái giai-đoạn điên cuồng ấy hình
như là một giai-đoạn cần-thiết để cho tinh-thần
vươn lên, đầy nghị-lực hoan-hỷ và hòa-hài, để
đến những thực-hiện mãnh-liệt có ích lợi cho
nhân-loại. Ở đấy là một đề-tài để khảo-cứu của
các nhà y-học danh tiếng về thân-thể và tư-
tưởng. Bởi vì chỉ nhận-định sự phá-hoại bề
ngoài của tất cả kiến-trúc tinh-thần và sự tan-
lià những thành-phần của nó như thế không đủ.
Nhưng làm thế nào mà những thành-phần ấy
tái hợp lại thành một cơ-thể tổng-hợp cao hơn,
đấy mới là điều đáng kể. Làm thế nào mà cái
SRI RAMAKRISHNA
36
lâu-đài đổ nát xuống kia lại tự tái dựng lại rộng
lớn hơn và theo ý muốn, như sau này Rama-
krishna sẽ cho ta thấy một khi ông đã làm chủ
được cơn điên cuồng của mình ; lý-trí với
Thần-linh cùng các nhân-vật kia, để khi thì
khép mở những vực thẳm tâm-hồn của mình,
khi thì vấn-đáp với đệ-tử của mình như một
nhà Socrate, với miệng cười diễu cợt đầy trí-
tuệ và lẽ phải sắc bén .
Nhưng vào năm 1858, là niên-kỷ của
những thực-kiện tôi kể ở đây, thì Ramakrishna
chưa hẳn đã đến cái trình-độ tự chủ này. Ông
còn xa mới tới. Và nếu tôi đã đi trước để tóm-
tắm về đoạn cuối của cuộc đời ấy, thì chỉ là cốt
để cảnh-cáo độc-giả Âu-Tây của tôi về sự
phán-đoán vội-vàng, mà nó cũng đã là sự phán-
đoán của tôi. Kiên-nhẫn ! Những con đường
của tinh-thần thường kỳ-lạ. Hãy chờ tới đích !
Sự thực, người lang-thang trên đường
Đạo, đi như thằng mù không người dẫn-dắt,
nhắm mắt mà đi. Đáng nhẽ đi trên đường cái,
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
37
nó lại đâm đầu vào bụi rậm bên đường và ngã
lăn xuống hố. Nhưng nó vẫn đứng lên tiến
bước. Bởi vì luôn luôn nó lại đứng lên và lại đi.
Không phải Ramakrishna kiêu-ngạo,
bướng-bỉnh, ông ta là người hết sức ngây-thơ...
Ví thử ai bảo ông bệnh-hoạn thì xin hãy bảo
cho ông biết thuốc chữa ! Ông không từ-chối
chữa bệnh ...
Người ta đuổi ông về quê nhà một thời-
gian ở Kamarpukur. Mẹ ông muốn ông lấy vợ
để kéo ông ra khỏi tình-trạng đồng-bóng Thần-
linh. Ông không phản-đối, và nghĩ đến điều ấy,
ông còn ngây thơ thấy thích-thú... cuộc hôn-
nhân độc-đáo, chẳng chút thật sự nào, càng ít
thật, đối với tinh-thần, hơn là sự hợp-phối với
Nữ-Thần ! Người ông lấy làm vợ ( 1859 ) là
một đứa con-nít 5 tuổi ! Viết đến đây, tôi cảm
thấy sự hốt-hoảng của độc-giả Tây-phương
( tôi không tránh cho họ chút nào ! ) Cuộc
hôn-nhân trẻ con là một trong những phong-tục
Ấn-Độ đã làm cho Âu-châu bất-bình nhất : Cô
SRI RAMAKRISHNA
38
Mayo đạo-đức mới lại khêu-gợi lên, nhưng
chuyện này đã cũ rích. Từ lâu thượng-lưu trí-
thức Ấn-Độ trong Hội Brahmosamaj như
Tagore, Gandhi đã cấm cái tập-tục ấy, tuy nó
chỉ có thực ở hình-thức. Cuộc hôn-nhân con nít
thông-thường chỉ là một sự giao-kèo tôn-giáo,
tương-tự với sự hứa-hôn, nó chỉ trở nên sự thực
sau khi đến tuổi cập-kê. Ở trường-hợp Rama-
krishna, dưới con mắt cô Mayo còn khả-ố gấp
bội _ một cuộc hôn-phối giữa đứa con gái 5
tuổi với một thanh-niên 23 tuổi !... Nhưng các
luơng-tâm phẫn-nộ hãy bình-tĩnh ! Đây chỉ là
một sự phối-hợp giữa tâm-hồn với tâm-hồn,
không từng thành-tựu. Và cuộc hôn-nhân Cơ-
Đốc ấy, theo nghĩa thời sơ-thủy, về sau này đã
tỏ ra đẹp-đẽ vô cùng. Hãy phán-xét cây ở quả
của nó ! Ở đây trái cây thuộc về Thượng-Đế,
thuộc về tình-yêu tinh-khiết, không phải xác
thịt. Đứa bé Saradamani sẽ trở nên người em
gái tinh-khiết của người bạn lớn kính thờ làm
bạn đường đồng-trinh của lòng-tin và chứng-
nghiệm của ông ta. Bà là một tâm-hồn chắc-
chắn và thanh-thản, mà các đệ-tử của Rama-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
39
krishna, sau này đã liên-hợp với Thánh-linh
của Sự-phụ họ _ Thánh-Mẫu .
Lúc này thì đứa con gái trở về gia-đình
với cha mẹ như thường-lệ, sau những nghi-lễ
hôn-nhân. Nàng chỉ được thấy lại người chồng
sau một thời-hạn 8, 9 năm. Và người chồng
cũng ở lại nhà với mẹ mình, sau khi hình như
ông ta đã thấy lại sự bình-tĩnh, ông bèn trở về
đền .
Kali đang chờ. Vừa bước tới thềm ngôi
đền, cơn điên Thần-linh ở ông lại bột-phát
mãnh-liệt hơn. Khác nào như Hercule bị tiêm-
nhiễm bệnh quỷ của cái áo bằng da Nessus,
ông ta trở thành một đài hỏa-thiêu sống. Và
hàng đoàn Thần-linh đổ vào ông ta như bão-
táp. Ông bị phanh thây, ông ta xuất-thần một
thành hai, thành bốn, ở trong người ông xuất-
hiện Ma-vương hay Thần-linh : Nào bộ mặt
đen sì, hiện-thân của tội-lỗi ; rồi đến một đạo-
sĩ, như là Thiên-Thần nhẩy ra diệt tội-lỗi ...
( chúng ta đang ở Ấn-Độ hay là ở trong một
SRI RAMAKRISHNA
40
Nhà-Thờ Tây-phương ngàn năm trước đây ?... )
Đương-sự không có chút thái-độ nào, ông ta
nhìn ngắm hành-động của tất cả thế-giới ấy
xuất-hiện nơi mình. Sự kinh-khủng làm tê-liệt
tứ-chi ông. Suốt tháng này đến tháng khác, mắt
ông lại bắt đầu không nhắm lại được. Ông cảm
thấy sắp điên. Hoảng sợ, ông cầu-nguyện Đức
Mẹ. Nhìn thấy hiện-diện Đức Mẹ Kali là một
cách độc-nhất để ông còn thấy là mình sống.
Suốt trong hai năm trời ông ta trải qua tâm-
trạng điên-cuồng và tuyệt-vọng ấy .
Và sau cùng, sự giải cứu đến .
*****
*
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
41
CHƯƠNG III
HAI SƯ-PHỤ CỦA TRÍ-THỨC
Ni Sư Bà-La-Môn
Và
Đạo-Sĩ Khỏa-Thân TOTAPURI
Cho tới đây, Ramakrishna đã bơi lội một
mình, phiểu-lưu không được học-hỏi, trong cơn
gió lốc của tâm-hồn giữa giòng sông không bờ
bến, nước chẩy như thác gầm. Sức ông đã kiệt.
Ông sắp ngã gục ...
Chợt xuất-hiện hai nhân-vật đến nâng đầu
ông lên khỏi mặt nước, họ dậy ông cách sử-
dụng giòng nước chẩy và khoa học sang sông .
SRI RAMAKRISHNA
42
Nên biết rằng, lịch-sử ngàn năm tinh-thần
Ấn-Độ là một lịch-sử của một dân-tộc đông-
đảo đi chinh-phục Thực-tại tối-cao. Tất cả các
dân-tộc lớn trên thế-giới, tại căn-bản, đều cùng
một mục-đích, ý-thức hay mơ-màng, họ đều là
những chiến-sĩ đời nọ qua đời kia, tiến lên
chinh-phục cái thực-tại ấy, nó đã quấn chặt lấy
họ mà họ là một mảnh. Họ ôm chặt lấy, họ leo
lên, rồi họ ngã xuống, kiệt lực, rồi lại lấy hơi
leo lên không mỏi, cho đến khi nào họ chinh-
phục được hay là họ chịu khuất-phục. Chỉ có
một điều khác là họ không nhìn thấy cùng một
bộ mặt của Thực-tại. Cái Thực-tại ấy như là
một thành-trì khổng-lồ của các đoàn quân khác
nhau, không liên-hệ với nhau, từ các mặt
đường tiến đánh lấy. Và mỗi đoàn quân có một
chiến-lược riêng với những chiến-cụ khác
nhau. Mỗi đoàn quân đã phải giải-quyết những
vấn-đề tấn-công khác nhau. Các dân-tộc Tây-
phương chỉ quan-niệm đắp đồn và công-cuộc
bảo-vệ bên ngoài, tất cả những hệ-thống năng-
lực thiên-nhiên mà họ muốn cướp lấy, nắm giữ
lấy trong tay những định-luật để tạo nên những
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
43
chiến-cụ, ngõ hầu quay vào cái thành-trì bên
trong cho tới khi nào toàn-thể thành-trì chịu
hàng-phục .
Còn Ấn-Độ hành-động một cách khác.
Nó đi thẳng đến ông tướng thủ-thành, đến
người chủ chỉ-huy tất cả, đến tổng-tham-mưu
vô-hình, vào thẳng trung-tâm. Cái Thực-Tại nó
nhằm thì siêu-nhiên. Nhưng người ta đừng đem
cái chủ-nghĩa Thực-Tại của Tây-phương đối-
lập với chủ-nghĩa Duy-Tâm Ấn-Độ ! Cả hai
đều là chủ-nghĩa Thực-Tại. Và người Ấn-Độ
căn-bản đều là những nhà thực-hiện. Họ khó
lòng tự-mãn với ý-niệm trừu-tượng ; và
phương-pháp của họ để đạt tới muốn mượn
cách-thức của một sự thích-thú và của một sự
phối-hợp cảm-giác. Họ phải nhìn thấy, nghe
thấy, nếm được, sờ được những ý-niệm. Cảm-
tính của họ phong-phú, khả-năng lạ-lùng của trí
tưởng-tượng và trực-giác cụ-thể của họ vượt xa
Tây-phương. Chúng ta có quyền gọi đến lý-trí
để từ-chối những năng-khiếu của họ chăng ?
Lý-trí đối với chúng ta là một con đường chung
SRI RAMAKRISHNA
44
vô-ngã và khách-quan, nó mở ra cho tất cả mọi
người. Có thực nó khách-quan chăng ? Nó
khách-quan đến mức nào ở người này hay ở
người kia ? Nó có những giới-hạn cá-nhân
không ? Người ta đã từng quan-sát những
thực-hiện của tinh-thần Ấn-Độ, nó đối với
chúng ta có vẻ chủ-quan tuyệt-đối mà ở Ấn-Độ
thì chúng không chút nào chủ-quan cả. Ở đấy,
chúng là kết-quả hợp-lý của những phương-
pháp ( khoa-học hay là của những thí-nghiệm
đanh thép ), hàng thế-kỷ được chứng-thực và
ghi-chép cẩn-thận. Mỗi một đại khải-thị tôn-
giáo ấy, dạy bảo đệ-tử của mình con đường
chắc-chắn dẫn đến cùng một khải-thị. Vậy thì
phương-pháp của họ và phương-pháp của
chúng ta, không xứng-đáng được đo-lường
bằng cùng một nghi-ngờ khoa-học và tin-tưởng
tạm-thời hay sao ? Đối với một tinh-thần chân
khoa-học ngày nay, dù là một sai-lầm thành-
thật chung và phổ-quát-hóa cũng là một chân-
lý tương-đối. Nếu thần nhỡn sai lạc thì điều
cốt-yếu là phải biết cái ý-nghĩa duy-nhất, trong
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
45
đó có sự làm cho sai lạc, và tìm những lý-do
của nó trong một Thực-Tại xa hơn và cao hơn .
Cái tín-ngưỡng chung _ hoặc minh-sác,
hoặc lờ-mờ _ của Ấn-Độ là tất cả cái gì có là
chỉ có ở trong và nhờ vào Tinh-Thần đại-đồng
đồng-nhất và bất-phân : Brahman ( Phạn-
Thiên ). Nhờ ở Phạn-Thiên mà có thiên-hình
vạn-trạng sự-vật khác nhau của Vũ-trụ sinh-
thành. Và toàn-thể Thực-Tại của Vũ-trụ lại nhờ
vào tinh-thần đại-đồng mà Vũ-trụ là một ý-
niệm. Những tinh-thần cá-nhân là chúng ta, là
thành-phần bất-phân và cơ-cấu của Tinh-Thần
Vũ-Trụ. Chúng ta tri-giác cái ý-niệm ấy về Vũ-
trụ đa-nguyên và biến-đổi, nhưng chúng ta gán
cho nó một Thực-tại độc-lập, chừng nào chúng
ta chưa hồi-nguyên vào cái biết về Brahman
duy-nhất. Chúng ta bị ảo-hóa ( Maya ) làm lầm
lạc, cái Maya vô-thủy vô-chung ngoài thời-gian
làm cho ta nhận làm Thực-tại vô-thường là cái
dòng hiện-tượng nhất thời luôn luôn biến-đổi
từ trong Nguồn vô-hình Thực-tại độc-nhất
phát-xuất ra .
SRI RAMAKRISHNA
46
Vậy thì điều cốt-yếu là phải giải-thoát
khỏi cái trào-lưu ảo-hóa, nó lăn cuốn ta như là
con cá ngược giòng nước nhẩy lên trên mặt
sóng ngăn-cản, chúng ta phải trở về nguồn.
Định-mệnh gian-truân ! Nhưng cuối cùng là
giải-thoát. Cuộc chiến-đấu vĩ-đại, đau-đớn anh-
hùng ấy, cứu-cánh là đi tới đích như thế, có tên
là Hành-Đạo ( Sadhana ). Và những Sadhaka,
Đạo-sĩ là những người chiến-sĩ trong cuộc
chiến-đấu ấy. Cái tiểu-đoàn chiến-sĩ ấy, đời nọ
qua đời kia, không ngừng nối-tiếp và thâu-nhận
vào trong hàng-ngũ những tâm-hồn mạo-hiểm
chịu tuân theo một giáo-lý ứng-dụng, một kỷ-
luật khổ-hạnh, được ấn-chứng trải qua hàng
thế-kỷ. Các chiến-sĩ được chọn hai con đường,
hai khí-giới mà chúng phải học-tập rất lâu cách
sử-dụng : Một đàng là " Không phải cái này !
Không phải cái này ! " _ ấy là con đường
giác-ngộ bằng phủ-nhận triệt-để ; đấy là khí-
giới của Tri-thức _ và một đàng là " Cái này !
Cái này ! " _ con đường giác-ngộ bằng khẳng-
định dần dần ; ấy là khí-giới của Tình-yêu. Con
đường thứ nhất đặt tất cả hy-vọng vào sự hiểu-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
47
biết tri-thức, và tất cả năng-lực tập-trung, mắt
luôn luôn hướng về mục-đích tối cao, người
Đạo-sĩ từ-chối tất cả cái gì hiện có, hay là có vẻ
có thực bên ngoài. Con đường thứ hai chỉ là
tình-yêu và chỉ cho tình-yêu người yêu lý-
tưởng, mà hình-thức có thay-đổi khác nhau sau
khi được thanh-tao-hóa. Con đường này đòi
phải từ bỏ dần dần cái gì không thuộc về Người
Yêu Lý Tưởng. Con đường Giác là giác-ngộ
tuyệt-đối Thượng-Đế vô-ngã vô-hình. Con
đường Sùng-bái là yêu Thượng-Đế hữu-ngã
hữu-hình, hay là ít ra nó cũng dừng chân ở đấy
rất lâu, trước khi kết-thúc nối gót tín-đồ của
con đường Giác .
Con đường Sùng-bái ( Bhakti ) ngay từ
bước đầu là con đường bản-năng mù-quáng của
Ramakrishna, nó đã đưa ông vào một cách vô-
tình. Nhưng ông không biết những ngoắt-ngoéo
của nó, những khúc-mắc của nó. Ở Ấn-Độ, từ
thời cổ-xưa có cả một bản-đồ chỉ đạo, như thể
cả một hành-trình từ Paris đến Jérusalem, _ từ
mốc khởi-hành đến cái mốc tới đích _ trên
SRI RAMAKRISHNA
48
bản-đồ ấy người ta đã ghi-chú tỉ-mỉ tất cả
những khúc-khuỷu của đường, những đoạn
giốc lên, giốc xuống, những chỗ quanh nguy-
hiểm, tất cả những độ đường đã biết trước và
đã được chỉ-dẫn khôn-khéo. Nhưng cái anh
chạy đua đất Kamarkupur này chẳng biết chi
hết, ông ta đi tuỳ hứng theo trái tim cuồng-
nhiệt bằng những bước chân của ông ta. Đến
bây giờ thì kiệt-lực vì sức cố-gắng siêu-phàm,
không người chỉ-dẫn, không ai nâng-đỡ, hoảng
sợ và cô-đơn giữa rừng vắng, có những lúc ông
tưởng lạc đường lại là lúc ông gần vượt khỏi
đoạn đường khó-khăn nhất .
Sự giúp-đỡ đã đến với ông ta do một
người phụ-nữ .
Một hôm, đang ngồi trên thềm đền ông
nhìn xuống sông Hằng-Hà có những cánh
buồm sặc-sỡ qua lại khắp chiều, chợt một cánh
buồm hướng về chân thềm để ghé bến. Một
người phụ-nữ bước lên thềm, cao lớn, đẹp, tóc
xoã dài, mặc áo nâu như một đạo-sĩ. Bà trạc từ
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
49
30 đến 40 tuổi, nhưng vẻ mặt trẻ hơn. Dáng
điệu của bà khiến cho Ramakrishna chú-ý, ông
bèn bảo người đi mời bà. Bà ta đến. Vừa gặp
mặt ông, bà ta òa lên khóc gọi : Con ơi ! chính
con mà lâu nay ta đang đi tìm .
Bà ta là một người Bà-La-Môn, dòng-dõi
quý-tộc ở xứ Bengale, tín-đồ dòng Sùng-bái,
trình-độ văn-hóa phong-phú, rất giỏi về Thánh-
Kinh và đặc-biệt về giáo-lý Bhakti Sùng-bái.
Bà ta bảo rằng bà ta đi tìm con người Thiên-
khải mà tâm-linh bề trên đã vén mở sự hiện-
hữu ; và bà ta lĩnh sứ-mệnh đem lại cho người
ấy tin lành. Rồi chẳng giới thiệu, chẳng nói cho
biết tên mình _ người ta chỉ biết gọi bà là nữ
Đạo-sĩ Bà-La-Môn _ tức thì có sự quan-hệ mẹ
con được thiết-lập giữa bà Nữ-Thánh với người
Thủ-từ đền Thánh-Mẫu Kali. Như một đứa con
nít, Ramakrishna thú với bà tất cả những kinh-
nghiệm cuồng loạn về đời sống với Thần-linh,
tất cả kinh-nghiệm trên con đường luyện đạo.
Như một đứa trẻ, ông ta kể những nỗi thống
khổ, những đau đớn về thân-thể và tinh-thần,
SRI RAMAKRISHNA
50
ông ta nói với bà là mọi người đã nhìn ông như
một người điên. Nữ-Thánh Bà-La-Môn Sùng-
bái, sau khi đã nghe hết những lời thú nhận
tâm-sự của Ramakrishna, bèn an-ủi ông ta với
cử-chỉ âu-yếm mẫu-tử, và bà ta bảo ông rằng
không lo-sợ nữa mà hãy vui mừng, bởi vì vô-
tình ông ta đã thực-hiện được, chỉ bằng tự-lực
của mình, một trong các trình-độ luyện đạo cao
nhất, đúng như viết ở trong Kinh-sách Sùng-
bái, và những đau-đớn của ông là những bước
leo thang. Rồi bà ta sửa chữa cho ông, băng bó
thân-thể, soi sáng tinh-thần. Con đường hiểu-
biết mà ông ta đã đi một mình mắt nhắm trong
đêm tối, bà ta bèn bắt ông đi lại trong ánh-sáng.
Bởi vì một mình mà bản-năng của Rama-
krishna đã khiến cho ông ta trong khoảng vài
năm đạt đến những thực-hiện mà khoa-học
tâm-linh đã phải mất bao nhiêu thế-kỷ để
chinh-phục, nhưng ông chỉ có thể thực làm chủ
được, chừng nào ý-thức ông được soi sáng về
toàn-thể con đường mà mình đã chinh-phục .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
51
Đạo-sĩ Bhakta, người giác-ngộ bằng
Tình-yêu, bắt đầu bằng sự thừa-nhận một hình-
tướng nào của Thượng-Đế mà y lấy làm lý-
tưởng, như là Thánh-Mẫu mà Ramakrishna
tôn-thờ chẳng hạn. Y chìm đắm lâu vào trong
cái tình-yêu duy-nhất ấy. Y không thể đạt tới
ngay đối-tượng, nhưng dần dần y đến chỗ nhìn
thấy, sờ thấy và truyện-trò với đối-tượng ấy
được. Bắt đấu từ đấy, y chỉ cần tập-trung tinh-
thần để có thể cảm thấy hiện-diện sự linh-hoạt
của Chúa. Vì y tin rằng Chúa là tất cả, là tất cả
hình-tướng y tri-giác thấy trước các biểu-hiện
của hình-tướng khác về Thần-linh, tất cả đều
là phản-ảnh của Người Yêu duy-nhất của mình,
trong nhỡn-quan của y là cảnh thiên-hình vạn-
trạng Thần-linh. Sau cùng, cảnh ấy tràn-ngập
nhạc-điệu của nó, đến nỗi, đâu đâu cũng chỉ là
cảnh-tượng ấy, không còn chỗ nào có thế-giới
vật-chất nữa : " Vật ngã câu vong ". Đấy là
Tam-Diểu Tam-Ma-Địa, trạng-thái siêu-thần
nhập-hóa mà tinh-thần vẫn còn ngưng định
trong nội-giới của thế-giới tư-duy ; Y vẫn còn
cảm-tưởng về đời sống riêng của y với
SRI RAMAKRISHNA
52
Thượng-Đế. Nhưng khi nào một ý-niệm duy-
nhất choán lấy tâm-hồn thì tất cả những ý-niệm
khác đều mờ tắt : Người ta đi đến gần sát mục-
đích cuối cùng của trạng-thái vô-tư, Niết-bàn
Tam-Ma-Địa, nấc tối cao nối liền với Brahman
Phạn-Thiên. Chẳng còn cách xa mấy với trạng-
thái vô-niệm tịch-tĩnh để sau hết thể-hiện cái
Duy-nhất Tuyệt-đối bằng sự từ bỏ hết tất cả
toàn-thể .
Toàn cuộc hành-trình của tinh-thần ấy,
Ramakrishna đã đi được ba phần tư, mờ mờ
nhân ảnh như người đi đêm. Ni-Cô Sùng-Bái
Bhaïravi, người mà ông ta nhận làm mẹ tinh-
thần, làm sư-phụ, đã bầy-tỏ cho ông ta tất cả
các mặt và các chiều-hướng của hành-trình.
Vốn thân-mật với con đường giác-ngộ ấy, và
chính bản-thân bà đã thực-hành những luyện-
tập tín-ngưỡng, bà đã chỉ-dẫn có phương-pháp
theo những nguyên-tắc của Thánh-Kinh để đi
đến tất cả các con đường luyện đạo, đường nọ
sang đường kia, cả những con đường nguy-
hiểm nhất, là con đường Mật ( Tantra ), nó mở
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
53
tung giác-quan và tinh-thần cho tất cả vọng-
động của xác thịt và tưởng-tượng, ngõ-hầu
chinh-phục được tất cả. Nhưng ở đây, người ta
đi ven bờ vực-thẳm của sự trụy-lạc và điên-
cuồng, và đã biết bao nhiêu người từng phiêu-
lưu vào đấy không có ngày về, mất-tích. Con
người thuần-khiết Ramakrishna đã trở về, vẫn
thuần-khiết và được tôi-luyện như miếng thép .
Bây giờ thì ông đã nắm được tất cả các
hình-thức phối-hợp bằng tình-yêu với Thượng-
Đế _ 19 thái-độ hay là súc-động khác nhau
của tâm-hồn trước hiện-diện của Chúa : Nào
liên-hệ giữa thày và tớ, giữa mẹ và con, giữa
bầu và bạn, giữa tình-nhân với tình-nhân, giữa
vợ, chồng v.v... Ông ta đã bao-vây thành-trì
thiêng-liêng khắp mặt và người đi chinh-phục
Thượng-Đế ấy đã tham-gia vào bản-tính Thần-
linh .
Bà khai-đạo cho ông ta đã công-nhận
ông ta là một Giáng-thế Thần-linh. Trong một
cuộc hội-họp bà triệu-tập ở Dakshineswar, sau
SRI RAMAKRISHNA
54
những cuộc thảo-luận bác-học giữa các bậc kỳ-
túc có uy-tín về Thánh Kinh, bà Nữ Đạo-sĩ
Sùng-bái Bhaïravi này bắt buộc các chức-sắc
cao-cấp về Thần-học phải công-nhận Rama-
krishna là vị Bồ-tát hóa-thân mới giáng-thế
( Avatara ) .
Sau đấy thì tiếng-tăm của ông ta bắt đầu
loan-truyền. Từ phương xa, người ta đi đến để
được nhìn thấy con người kỳ-lạ, đã thành-tựu
việc đạt đạo, không những bằng một con
đường mà bằng tất cả. Và tất cả những người
hành-hương cố tiến về Thượng-Đế, bằng con
đường này hay con đường khác, _ tu-sĩ khổ-
hạnh, bác-học đạo-sĩ thần-khải _ kéo đến xin
ông chỉ-giáo, và khải-ngộ của Người bây giờ
ngồi ở giao-điểm các con đường mà ông đã
nhất-quán. Họ kể lại cái cảm-tượng kỳ lạ hấp-
dẫn mà con Người trở về đó đã tạo nên ở họ. _
Ông không phải như Dante từ địa-ngục trở
về _ mà là từ đáy biển thâm sâu như một kẻ
mò ngọc-trai _ hào-quang tỏa ra tự thân-hình
ông từng bị thiêu đốt bởi hỏa tam-muội. Nhưng
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
55
riêng ông ta, quá say mê về Thượng-Đế, không
có lúc nào say mê về mình, thì vẫn là một
người rất bình-thường cho đến phút cuồi cùng,
không chút tự kiêu, ít để ý đến cái gì ông đã thu
lượm được, mà luôn luôn để ý đến những ánh-
sáng mới. Ông khó-chịu khi nghe thấy người ta
nói ông là Bồ-Tát hóa-thân. Nhưng đối với mọi
người, cả với con mắt của bà mẹ Bhaïravi từng
hướng-dẫn ông, cũng coi ông là người đã tới
đích. Riêng ông, luôn luôn nhìn về đàng trước
quãng đường dốc còn lại treo-leo, mà ông phải
trèo lên đến tận đỉnh .
Nhưng đến đây thì những người chỉ
đường cho ông trước đó không còn khả-năng.
Và người mẹ tâm-linh, từng ấp-ủ ông suốt
trong ba năm, đã bị đau lòng như các bà mẹ
khác, nhìn thấy đứa con sau khi đã bú sữa bà,
nay rời khỏi bà để theo một cấp bậc khác cao
hơn, một bậc sư-phụ có tiếng nói cương-nghị
và còn đanh-thép hơn .
***
SRI RAMAKRISHNA
56
Khoảng cuối năm 1864, chính vào lúc mà
Ramakrishna đã thành-tựu cuộc chinh-phục
Thượng-Đế hữu-ngã thì có một Sứ-Thần về
Thượng-Đế vô-ngã mà không tự biết, đã tới
quận Dakshineswar, đấy là Totapuri người
" trần-truồng " , một vị đạo-sĩ Vệ-Đà xuất-
chúng, một tu-sĩ lang-thang mà 40 năm tu-
luyện đã đi đến khải-ngộ cùng-tột, một tâm-
hồn giải-thoát soi chiếu ánh-sáng vô-tình của
con mắt lạnh-lùng vào thế-giới ảo-hóa .
Đã từ lâu, Ramakrishna lo sợ, cảm thấy
lảng-vảng chung-quanh mình Thượng-Đế vô-
hình và sự lạnh-lùng bất-nhân siêu-nhân của
sứ-mệnh Thế-Tôn, của những con hạc tối cao
thanh không còn chút ràng-buộc, của những
bậc đạo-sĩ kia thoát tục cả thân-thể lẫn tinh-
thần, lột sạch cho đến vật sở-hữu cuối cùng là
lòng bố-thí, hạt kim-cương kia : là tình-yêu
Thần-linh. Trong những buổi đâu trù-trì tại
quận Darshineswar, Ramakrishna đã kinh-ngạc
nhìn thấy sự sinh-hoạt của những xác chết ghê-
gớm và ông khóc vì sợ-hãi với ý-nghĩ chính
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
57
mình cũng sẽ phải đi đến đây, giống như họ.
Hãy tưởng-tượng biết bao khó-khăn ở một
tính-tình, như tôi đã mô-tả : yêu điên cuồng,
sinh ra đã yêu như người nghệ-sĩ, nó cần phải
thấy, phải nhìn thấy, phải sờ thấy, phải ăn tất cả
cái gì nó yêu, không thể thiếu hình-ảnh sinh-
hoạt để ôm-ấp như giòng suối chẩy vào trong
lòng và phối-hợp với cái khuôn Thần-linh của
những ngón tay nõn-nà !... Mà ông ta phải bỏ
cái tổ ấm của tình-yêu ấy để cho cả thân tâm
tan loãng trong cái lò vô-hình và trừu-tượng !...
Một sự vận-động tư-tưởng như thế đối với ông
còn vất-vả, xa-lạ hơn là đối với một nhà khoa-
học ở Tây-phương của chúng ta .
Nhưng ông không thể lẩn tránh được.
Chính sự sợ-hãi của ông nó đã quyến-rũ ông
như là những cặp mắt của rắn thần. Sự thác
loạn làm cho ông say-sưa. Ai đã từng nếm mùi
đỉnh núi thì phải trèo cho tới đích. Kẻ thám-
hiểm cảnh-giới thần-tiên không có quyền dừng
lại trước khi về đến tận nguồn con sông thần-
bí .
SRI RAMAKRISHNA
58
Tôi đã từng nói rằng Thượng-Đế vô hình
tướng đang đón chờ Ramakrishna. Ông ta vừa
hoảng-sợ vừa ham thích, không phải ông ta đi
tìm đến Sư-phụ, mà chính Sư-phụ Totapuri đã
tìm đến người yêu của Đức Mẹ Kali .
Totapuri đi qua đấy, ông này không bao
giờ được ở lại một chỗ hơn ba ngày. Ông ta
thấy Ramakrishna mà Ramakrishna thì không
thấy ông ta. Đang ngồi ở trên thềm cửa đền,
người thủ-từ trẻ nhìn đăm chiêu vào cảnh cực-
lạc kín-đáo, Sư-phụ Totapuri trông thấy ông,
giật mình mà bảo ông rằng :
_ " Con ơi, ta thấy con đã tiến khá
xa trên con đường chân-lý. Nếu con
muốn, ta có thể giúp con đạt tới giai-đoạn
kế-tiếp. Ta dạy con triết-lý Vệ-Đà
( Vedanta ) .
Ramakrishna, với tính chất-phác ngây-thơ
làm cho nhà khổ-hạnh nghiêm-khắc phải mỉm
cười, đã trả-lời ông này là trước hết phải xin
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
59
phép Đức Mẹ Kali. Đức Mẹ đã cho phép. Bấy
giờ Ramakrishna bèn hoàn-toàn ngoan-ngoãn
tin theo sự chỉ-dẫn của Sư-phụ Thần-linh .
Trước hết ông phải chịu nhận trắc-nghiệm
khải-đạo. Và điều-kiện đầu tiên là trút-bỏ
những uy-quyền của giai-cấp, cả đến những
phù-hiệu : dây lưng Bà-La-Môn ; chức-phẩm
thủ-tử (điều này rất dễ đối với ông ) ; trừ bỏ cả
những hy-vọng, những cảm-tình, những ảo-
tưởng để sinh-hoạt của mình, ấy là Thượng-Đế
nhân-cách-hóa ; trừ bỏ tất cả những thành-quả
thu-lượm được của tình-yêu và lòng hy-sinh
của mình tại đây và ở khắp nơi, bây giờ và mãi
mãi. Ông phải hoàn-thành sự hỷ-sả tượng-trưng
ấy, lột trần như đất, bằng cái lễ tự chôn mình.
Ông phải chôn những di-tích cuối cùng của cái
ngã _ trái tim của ông... Bấy giờ, và chỉ đến
bấy giờ, ông mới có thể mặc vào cái áo nâu
sẫm của Đạo-sĩ Samayasin, dấu-hiệu của con
đường mới. Và Totapuri bắt đầu dạy cho biết
những đức-tính cơ-bản của Bất-Nhị Pháp-Môn
( Advaïta Vedanta ), Phạn-Thiên ( Brahman )
SRI RAMAKRISHNA
60
duy-nhất bất phân, với những cách lặn chìm để
tìm Tự-Tạo, để thực-hiện sự đồng-nhất-hóa với
Phạn-Thiên và trụ bền vững ở đấy bằng phép
Tam-muội Thần-hóa ( Samadhi ) .
Đừng tưởng rằng dễ dàng gì cho con
người đã trải qua tất cả giai-đoạn thần-hóa ấy,
để tìm thấy chìa-khóa mở cái cửa nhỏ hẹp dẫn
đến giai-đoạn thần-hóa cuối cùng. Chúng ta
phải nhắc lại lời ông ta kể, những lời ấy thuộc
về những Thánh Kinh Ấn-Độ cũng như là
những tài-liệu phát-hiện ở thư-viện khoa-học
tinh-thần của Tây-phương :
_ " ... Người trần-truồng ( Totapuri )
bắt tôi phải đem tinh-thần dời khỏi tất cả
sự-vật và lặn chìm vào lòng Tự-Ngã
( Atman ). Nhưng mặc dầu với tất cả sự
cố-gắng, tôi không thể vượt qua cõi hình-
danh sắc-tướng để đem tinh-thần vào
trạng-thái " vô điều-kiện ". Tôi không
thấy có gì khó-khăn để dời tinh-thần khỏi
tất cả sự-vật, trừ một đối-tượng, ấy là
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
61
hình-ảnh quá thân-mật của Đức Mẹ hiền-
hòa tươi sáng, bản-thể của Ý-thức thuần-
túy hiện ra trước mắt tôi như một thực-tại
linh-động. Bà chặn đường tôi vào thế-giới
bên kia. Đã mấy lần tôi cố-gắng tập-trung
tinh-thần vào giáo-lý Bất-Nhị-Pháp
( Advaïta ), nhưng lần nào cũng bị hình-
ảnh Đức Mẹ can-thiệp. Thất-vọng, tôi nói
với Sư-phụ Totapuri :_" Không thể được !
Tôi không thể đem tinh-thần vươn lên
trạng-thái " vô điều-kiện " để đối-diện
với Tự-Ngã ( Atman ) _ Sư-phụ nghiêm-
nghị trả lời : _ " Sao, con không có thể à ?
Con phải tới ! " Nhìn chung-quanh mình,
ông ta thấy một mảnh kính, ông cầm lên
và đâm thẳng vào giữa hai lông mày của
tôi, rồi bảo tôi : _ " Hãy tập-trung tinh-
thần vào cái điểm này ! " _ Tôi bèn định-
niệm với tất cả năng-lực của tôi, và mỗi
khi hình-ảnh hân-hoan của Đức Mẹ Thần-
linh xuất-hiện, tôi dùng khả-năng biện-
biệt của tôi như là một lưỡi dao chém đứt
hình-ảnh làm hai. Rồi thì tôi không còn
SRI RAMAKRISHNA
62
thấy gì trở-ngại trước tinh-thần, nó liền
vỗ cánh bay lên trên bình-diện của những
sự-vật hệ-lụy. Và tôi nhập vào Tam-muội
Samadhi ... "
Ông ta phải căng-thẳng hết năng-lực, chịu
đau-đớn vô cùng để có thể mở được cửa vào
cõi " bất khả đắc ". Nhưng một khi đã vào
được rồi, ông liền đạt tới điểm cùng tột, là cảnh
Tam-Diểu Tam-Bồ-Đề (Nirvi Kalpa Samadhi),
cảnh " vật ngã câu vong ", tức là năng-tri và
sở-tri đều biến đi hết :
_ " Cả vũ-trụ đều tắt. Không-gian
cũng không còn. Trước hết những bóng
dáng ý-niệm còn chập-chờn trên nền tối
của tinh-thần. Ý-thức yếu-ớt về Ngã một
mình còn lại buồn-tẻ... Rồi cái ấy cũng
yên-lặng. Chỉ còn lại một mình sự Sống.
Linh-hồn hòa-nhập vào Tự-tại. Tất cả
lưỡng-nguyên đối-đãi tan nhòa. Không-
gian hữu-hạn với không-gian vô-hạn chỉ
là Một. Ngoài ngôn-ngữ, ngoài ý-nghĩ,
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
63
( bất-khả tư-nghị, vô ngôn thông),
Rama-krishna đã thực-hiện Phạn-Thiên
( Brahman ) ... "
Ông đã dùng có một ngày để thực-hiện
cái mà Đạo-sĩ trần-truồng Totapuri phải mất
bốn mươi năm trời mới đạt tới. Nhà Đạo-sĩ
khổ-hạnh giật mình bởi cái thực-nghiệm mà
ông đã khích-khởi : ba ngày ông cứng đơ như
xác chết, phản-chiếu một Tinh-Thần chủ-tể
thản-nhiên mà đạt tới đích của Giác-Ngộ .
Đáng lý Đạo-sĩ trần-truồng chỉ được ở lại
đấy ba ngày, ông ta đã ở lại 11 tháng để trao-
đổi với người đệ-tử đã tiến xa hơn Sư-phụ này .
Đến đây thì vai-trò đổi lại. Con chim non
đã từ đỉnh trời cao trở về, và con mắt đã nhìn
xa ra ngoài vòng đầu tiên của đồi núi. Con
ngươi mở rộng của nó mang lại một không-
gian rộng lớn hơn là cái con mắt sắc nhọn của
con rắn Thần xưa. Đến lượt phượng-hoàng dạy
lại rắn .
SRI RAMAKRISHNA
64
Không phải không có sự chống-cự .
Chúng ta phải nhìn hai nhà thấu-thị đối-
diện với nhau : Một đàng Ramakrishna, người
nhỏ bé, râu ngắn, mắt đẹp ( mắt ông dài, đen,
sáng-ngời, sắc và hơi ti-hí ), mắt ấy không từng
mở to, nên càng nhìn thấy rõ hơn bên trong và
bên ngoài, miệng ông hé mở hai hàm răng
trắng với một nụ cười quyến-rũ, âu-yếm và láu-
lỉnh. Thân-hình trung-bình, mảnh-khảnh đến
như gầy ốm và hết sức mỏnh-manh. Một tính-
tình hết sức nóng-nẩy, dễ cảm-súc, với không-
khí vui mừng và đau-khổ về tinh-thần hay vật-
chất. Phản-ảnh linh-động tất cả cái gì qua lại
trước tấm gương của con mắt ông ta, con mắt
nhìn cả ra ngoài lẫn vào trong. Ông có một
khả-năng uyển-chuyển duy-nhất khiến cho
tinh-thần ông có thể khuôn theo tất cả vật-thể
ngay tức thì, mà không quên mất nội-tâm, cái
điểm bất-biến và vô-biên tại trung-tâm biến-
động vô cùng. " Tiếng nói của ông là tiếng nói
xứ Bengale, rất phổ-thông. Ông có một giọng
nói nhịu, nhưng rất thích-thú, làm cho người ta
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
65
mê, vì cái nhịp điệu thuần-túy của nó, và vì sự
phong-phú kinh-nghiệm tâm-linh với cái vốn
vô-tận những mỹ-dụ và những hình-ảnh năng-
lực quan-sát hiếm có, ý-vị diễu-cợt tế-nhị, sức
cảm-thông phổ-quát lạ-lùng và cái nguồn bất-
tuyệt về trí-tuệ ... "
Trước mặt sông Hằng-Hà, với làn nước
sâu và ánh phản-chiếu của nó, mặt nước phẳng-
lặng với giòng nước lượn quanh uốn-uéo, với
hàng triệu vật-thể nó mang theo và nó nuôi-
dưỡng, đấy là hình-ảnh của con người Rama-
krishna đứng trước mặt con người Đạo-sĩ
Totapuri giống như một eo-bể. Ông này rất lớn,
lực-lưỡng, dãi-dầu với phong sương, vững như
bàn thạch, không gì phá-hủy được : Một tảng
đá có hình sư-tử. Cơ-thể của ông làm bằng sắt.
Tinh-thần cũng thế. Ông không từng bao giờ
đau ốm, không từng biết đau-khổ, ông mỉm
cười khinh-bỉ những cái ấy. Ông là một nhà
chăn dắt người mãnh-liệt. Trước khi sống đời
nay đây mai đó, ông đã điều-khiển, thống-lĩnh
cả một nhà tu 700 tu-sĩ ở đất Penjab. Ông là
SRI RAMAKRISHNA
66
bậc thầy trong khoa giới-luật để nhào nặn thân-
thể và tinh-thần của người ta, như nặn một cục
đất sét. Ông không từng bao giờ có ý-nghĩ rằng
một ý-chí cương-cường có thể thất-bại được :
dù đam mê hay những rủi may, hay những vật-
lộn của giác-quan, hay là sức mạnh ma-thuật
của Huyền-ảo Thần-linh làm cho cuộc đời nổi
sóng cuồn-cuộn, cũng không có thể lay-chuyển
được. Bởi vì đối với ông, tuồng ảo-hóa chỉ là
một hư-không rỗng tuếch, một sự dối-trá, chỉ
cần vạch mặt chỉ tên là tự-nhiên nó biến mất.
Đối với Ramakrishna thì chính ảo-hóa cũng là
Thượng-Đế _ Ảo-hóa là một phương-diện của
Phạn-Thiên Brahman. Và khi đạt tới tuyệt đỉnh,
sau một cuộc thượng thăng bão-táp, Rama-
krishna không quên mất một chút gì về những
nỗi lo-âu thổn-thức, những tai-nạn của bước
đường leo lên. Những hình-ảnh nhỏ của hành-
trình còn được giữ lại trong con mắt của ông.
Nhưng ông đã ghi nhận lấy tất cả theo cấp bậc
của chúng, tùy lúc tùy thời, vào trong toàn-bộ
của đại-quan tuyệt-đỉnh. Nhưng ngược lại thì
người trần-truồng còn có thể ghi-nhận được chi
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
67
trong ký-ức của ông ta ? Ký-ức của ông ta
cũng trần-truồng như ông ta vậy, nó đã gột
sạch cảm-súc và tình-yêu, ( một trí-não kim-
cương ). _ Như người Ý thường nói về một đại
họa-sĩ xứ Ombrie. _ Cái bàn thạch ấy cần phải
được rạch bởi những móng tay của đau-khổ và
sáng-tạo. _ Và nó đã bị rạch .
Nhà đại trí-thức ấy không hiểu rằng tình-
yêu có thể là con đường đi đến Thượng-Đế.
Ông không thừa-nhận thực-nghiệm của Rama-
krishna, ông khi thị những cầu-nguyện to tiếng,
những biểu-hiện bề ngoài, những ca nhạc và
múa hát có tính-cách tôn-giáo. Khi ông nhìn
thấy Ramakrishna cứ đến sẩm tối là bắt đầu ca,
tụng danh hiệu Thượng-Đế, hai tay vỗ nhịp, thì
ông mỉm cười chế giễu mà hỏi rằng : _ " Có
phải anh đang làm bánh đấy không ? " Nhưng
rồi không cưỡng lại được, ông cũng bị thấm-
nhuần dần dần cái thích-thú ấy. Có những điệu
hát du-dương của người bạn làm cho ông bối-
rối, cảm-động đến chẩy nước mắt, mà ông che
dấu. Khí-hậu xứ Bengale nguy-hiểm, mỏi mệt
SRI RAMAKRISHNA
68
cũng ảnh-hưởng vào con người của xứ Penjab
ấy, mà ông ta không muốn để ý đến. Nghị-lực
của ông giảm đi, không còn sức để kiểm-soát
chặt-chẽ những vận-động của súc-cảm. Lý-trí
đanh thép nhất có những mâu-thuẫn mà tự nó
không biết. Con người khinh-bỉ sự thờ cúng ấy
còn nuôi ở trong lòng sự nhu-nhược thờ phụng
giá-trị tượng-trưng của Lửa, và luôn luôn ông
giữ bên mình một lò lửa cháy. Một hôm có một
người tùy-phái đến lấy một hòn than. Totapuri
nổi nóng chống với cử-chỉ, mà ông cho là vô-lễ
đó. Ramakrishna thấy thế cười khanh-khách
như ông thường cười tiếng cười vui vẻ của đứa
trẻ :
_ " Xem đấy, xem đấy, ông reo lên
nói với Totapuri, quyền-năng không
chống lại được của Maya Ảo-hóa hành-
động vào ông đấy ."
Totapuri giật mình. Vậy ra ông này không
ngờ rằng mình cũng phải chịu sức chi-phối của
huyền-ảo ?... Được ít lâu thì bệnh tật đã đến
hoạch định giới-hạn cho tinh-thần kiêu-ngạo
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
69
của ông ta. Tôi đã nói rằng ông ta không từng
bao giờ gập bệnh tật trong cuộc đời. Xứ
Bengale trong mấy tháng đó đã xẩy ra bệnh
dịch kiết-lỵ dữ-dội. Đáng lẽ ông phải bỏ đi.
Nhưng như thế ông cho là trốn tai-họa và đau-
khổ. Ông cưỡng lại, bướng-bỉnh nói :
_ " Ta không nhượng-bộ cho thân-thể !..."
_ Bệnh trở nên nặng đến nỗi tinh-thần không
còn có thể rời khỏi được. Ông phải chịu chữa
chạy thuốc men nhưng vô-ích, bệnh đau càng
nặng như là một bóng tối dần dần che lấp mất
ban ngày của mỗi buổi bình-minh. Bệnh trở
nên hãi-hùng đến nỗi nhà khổ-hạnh không còn
có thể tập-trung vào Phạn-Thiên Brahman tối
cao được nữa. Ông ta nổi khùng chống với cái
thân-thể hủ-bại của ông, và ông ta đi xuống
sông Hằng để hy-sinh nó đi. Nhưng khi bước
xuống đấy, có một bàn tay vô-hình giữ ông lại.
Và khi xuống giòng sông rồi ông không còn
nghị-lực để dìm mình ... Ông trở lại, bất-lực,
ông đã cảm thấy quyền-năng của Ảo-hóa
SRI RAMAKRISHNA
70
Maya. Ảo-hóa hiện-diện ở đây, ở khắp nơi
trong sự sống, trong sự chết, trong lòng bệnh-
tật, và là Thánh-Mẫu Thần-linh ! Một mình,
ông thức suốt đêm để mặc-niệm về Bà. Và đến
sáng thì ông trở thành một người mới. Trước
mặt Ramakrishna, ông thú-nhận rằng tuyệt-đối
vô-hình Brahman là năng-lực biểu-hiện Çakti,
hay là Ảo-hóa Maya hữu-hình cũng đều là một
Thực-Hữu. Và nhờ Đức Mẹ Thần-Linh đã hài
lòng giải bệnh cho ông. Ông chào từ-biệt người
đệ-tử đã trở nên Sư-phụ của mình và giác-ngộ
bỏ đi .
Sau này Ramakrishna toát-yếu cái thực-
nghiệm song đôi, của tự một mình ông và
Totapuri đã làm sau đó cho ông :
_ " Khi tôi nghĩ đến Thực-Hữu tối
cao như là vô vi, bất động, không sáng-
tạo, không bảo-tồn, không hủy-diệt, thì
tôi gọi là Brahman Phạn-Thiên, hay là
Thần Ngã Purusha, Thượng-Đế Vô-Ngã.
Khi tôi nghĩ đến Ngài hoạt-động sáng-tạo,
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
71
bảo-tồn, hủy-diệt, tôi gọi là Năng-lực
Çakti, hay là Ảo-hóa Maya, hay là Thiên-
nhiên Prakriti, Thượng-Đế Hữu-Ngã.
Nhưng sự phân-biệt giữa hai phương-diện
không ngụ một chút sai-biệt nào. Vô-ngã
và Hữu-ngã đều là một Thực-Hữu cũng
như sữa với mầu trắng. Cũng như kim-
cương với sự lóng-lánh của nó. Cũng như
con rắn với sự bò sát của nó. Người ta
không có thể nghĩ mặt này mà không mặt
kia được. Đức Mẹ Thần-Linh và Phạn-
Thiên là Một ."
*****
*
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
73
CHƯƠNG IV
SỰ ĐỒNG-NHẤT VỚI TUYỆT-ĐỐI
Cái tư-tưởng vĩ-đại ấy không phải mới
mẻ. Nó đã từ lâu nuôi-dưỡng tinh-thần Ấn-Độ.
Kể hàng thế-kỷ, Ấn-Độ đã liên-tiếp được nhào
nặn, được sàng sẩy, được cán dài dưới máy cán
của triết-lý Vệ-Đà. Nó đã là đề-tài thảo-luận
liên-tục của hai đại-học phái Vệ-Đà : Học phái
của Çankara _ học phái Bất-Nhị-Pháp(Advaïta)
thuần-túy _ và học phái của Ramanuja, hay là
Bất-Nhị-Pháp Biến-thái ( Vicistavaïta ). Học
phái thứ nhất, Bất-Nhị-Pháp Tuyệt-Đối coi Vũ-
trụ như không có thật, và Tuyệt-Đối là Thực-
Tại độc-nhất. Học phái thứ hai, Bất-Nhị-Pháp
Tương-Đối cũng thừa-nhận Phạn-Thiên như là
Thực-Tại độc-nhất, nhưng gán cho thế-giới
hiện-tượng, cho linh-hồn cá-nhân một giá-trị
SRI RAMAKRISHNA
74
biến-hóa, hay là cách-thức không huyền-ảo do
những thuộc-tính của Brahman phản-chiếu, ví
như tư-tưởng, năng-lực là hạt giống của đa-thù-
tính linh-hoạt. Hai học phái bao dung lẫn nhau
_ Học phái quá-khích nhất coi học phái kia với
con mắt nhân-nhượng, khủng-khỉnh như là một
sự hòa-giải tạm-thời, thích-hợp với sự nhu-
nhược của nhân-loại. Đấy là một cái nạng, để
chống thực-tế có ích, để giúp cho sự trèo-leo
lao-đao. Cái điểm gay-go vẫn còn là định-nghĩa
cho sự huyền-ảo cái hiện-tượng bản-tính của
Ảo-hóa Maya. Phải chăng Ảo-hóa Maya cũng
là tương-đối hay Tuyệt-đối ? Chính Çankara
cũng không bảo nó là thế nào. Ông bảo nó là có
đấy và mục-đích của Bất-Nhị-Pháp là tiêu-trừ
nó đi. Trái lại, mục-tiêu của học phái Bất-Nhị-
Pháp Biến-Thái hóa-trang như Ramanuja lại
như muốn sử-dụng nó cho sự tiến-hóa của
những linh-hồn cá-nhân .
Giữa hai học phái thì vị-trí chính-sác của
Ramakrishna là thế nào ? Bản-tính nồng-nhiệt
uyển-chuyển của Ramakrishna có khuynh-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
75
hướng về biện-pháp dung-hòa của Ramanuja
hơn. Nhưng mặt khác thì cái đức tin nhiệt-
thành của ông, lại khiến ông ấp-ủ cái quan-
niệm cực-đoan nhất về Tuyệt-Đối. Với cái
thiên-tài mầu-nhiệm, ông đã tìm thấy những
biểu-thị mạnh-mẽ nhất, những mỹ-dụ thần-tình
nhất để sác-định, không những sự bất-khả tư-
nghị của Tuyệt-đối bằng trí-năng, ông còn có
thể truyền thông gần như cả đến sự xúc-tiếp cụ-
thể với " thực-thể vô-vi ", với cái mặt-trời kia,
mà Çankara bảo rằng : " Mặt-trời chiếu sáng,
dù không có đối-tượng để chiếu sáng " _ ( Trả
lời vấn nạn rằng Tuyệt-đối thuần-túy trí-thức
không có thể có được nếu không có đối-tượng
của trí-tuệ ). Nhưng chúng ta hãy để ý vào cái
sự biểu-thị khác nhau của Ramakrishna sử-
dụng, vì ông ta có khuynh-hướng cụ-thể-hóa
quá để có thể không cần đến những " đối-
tượng để chiếu sáng " kia, cả đến khi ông ta
phủ-nhận ! Về mặt-trời của ông ta, ông ta bảo
rằng mặt-trời chiếu sáng cho cả thiện lẫn ác.
Nó là ánh-sáng của ngọn đèn để cho người ta
có thể đọc được những Thánh Kinh, và cũng là
SRI RAMAKRISHNA
76
ngọn đèn để người ta có thể làm sai lạc một
văn thư của nhân-loại. Nó là một ngọn núi
đường, để cho những đàn kiến tưởng có thể
mang đi khi chúng chỉ nhấm được vài hạt đã no
bụng. Nó là đại-dương, mà con búp-bê bằng
muối men đến ven bờ để chực tìm đo bề sâu
của nước : vừa dúng chân vào nước thì búp-bê
muối đã bị uống mất tan biến. " Thực-thể vô-vi
không hệ-lụy " thế có nghĩa là chúng ta không
nắm được nó, nó thoát khỏi tay ta, nhưng thế
không có nghĩa là chúng ta không có nó. Bởi vì
nó soi sáng những nỗ-lực của chúng ta, sự mê-
muội của chúng ta, sự khôn biết của chúng ta,
công việc thiện của chúng ta và những tội-lỗi
của chúng ta, _ bởi vì chúng ta chỉ nhấm cái
vỏ của nó _ bởi vì có một điểm dung-hòa
trong ấy nó thu-hút chúng ta vào trong cái
miệng vĩ-đại của nó _ trước cái điểm ấy thì
con búp-bê bằng muối vận-động ở đâu ? Đàn
kiến kia bò nơi nào ? Người làm công việc
dưới bóng đèn, bậc Thánh ẩn-dật thật hay giả
an-tọa ở nơi nào ? Vật y đọc và nhỡn-quang
của y là cái gì ? ...
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
77
Ramakrishna bảo chúng ta rằng cả những
Thánh Kinh Thiên-khải cũng đã bị nhiễm-ố
nhiều hay ít, như là những món ăn thừa, vì
chúng đã qua miệng nhân-loại. Nhưng cả đến
nhiễm-ố, vì nó ngụ sự thanh-khiết Brahman _
có thật hay không ? Những môi kia, những
hàm răng kia, đã từng nếm, nhai một vài mảnh
thực-phẩm Thần-Linh thì ở đâu ?
Vậy thì cái " phân-hóa " phải có ở chỗ
nào, vì " không liên-hệ " với cái " đồng nhất "
_ Và bởi vì cái liên-hệ kết-thúc " sự hợp-nhất
giữa bất-phân và phân-hóa " thì như Rama-
krishna đã nói, là " đối-tượng riêng của triết-lý
Bất-Nhị-Pháp Vệ-Đà " .
Sự thực, đối với Ramakrishna hai bình-
diện phân-biệt và xếp thành tầng của quán-
tưởng : Quán-tưởng ở quan-điểm Ảo-hóa Maya
nó sáng-tạo ra thực-tại vũ-trụ phân-hóa _ và
cái siêu-quán của nhập-định hoàn-toàn " Tam
Muội " mà chỉ một sự đụng chạm với Tuyệt-
SRI RAMAKRISHNA
78
đối làm tan biến tức thì cái hư-vô của tất cả cái
Ngã phân-hóa của chúng ta và của người khác .
Nhưng Ramakrishna sác-định rõ-ràng là
bảo thế-giới này không thật là vô-lý, chừng nào
chúng ta còn là thành-phần của nó, duy-trì cái
ngã của ta, chúng ta tiếp-nhận ở nó cái tin-
tưởng bất-diệt vào thực-tại của nó ( dù cái tin-
tưởng ấy có bị che-phủ bên trong cái đèn ló của
chúng ta ). Cả đến bậc Thánh từ trạng-thái
Thần-hóa Tam Muội trở về bình-diện đời sống
hàng ngày, cũng bắt buộc khoác vào mình cái
vỏ tư-ngã " phân-hóa " tuy đã được giảm đi và
tinh-khiết-hóa. Bậc Thánh ấy đã bị ném vào
thế-giới tương-đối. Chừng nào cái ngã của y
tương-đối có thật đối với y thì thế-giới này
cũng thế ; Và Tuyệt-Đối đối với y thì tương-đối
không thật. Y tri-giác Ảo-hóa Maya là thật,
nhưng với cái ngã tinh-khiết-hóa của y, thì bấy
giờ y nhìn toàn-thể thế-giới hiện-tượng như là
biểu-hiện thiên-hình vạn-trạng của tuyệt-đối
cho giác-quan. " Và bộ mặt thật của Ảo-hóa
Maya hiện ra cho y ; nó vừa là thật vừa là giả,
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
79
vừa là tri-thức vừa là ngu-mê " minh và vô-
minh ", tất cả cái gì dẫn đến Thượng-Đế và tất
cả cái gì không dẫn đến. Vậy thì Maya là có
thật .
Và sự sác-định của Ramakrishna có giá-
trị của một nhân-chứng cá-nhân, _ Thánh
Thomas, sứ-đồ Cơ-Đốc đã nhìn thấy và đã sờ
thấy _ khi ông chứng-nhận cho những nhà
Duy-Thức ( Vijnani ) kia, mà ông là một trong
những nhà siêu-thức ấy, đã từng có tư-thế
" thực kiện " tại đời này : Thượng-Đế Hữu-ngã
và Vô-ngã .
Họ đã thấy Thượng-Đế ở bên trong và ở
bên ngoài. Họ đã tiếp-nhận sự khải-ngộ của
Ngài. Thượng-Đế Hữu-ngã đã nói với họ : " Ta
là Tuyệt-Đối, ta là nguyên-lai của sự “ phân-
hóa ”." Họ đã trực-giác thẳng vào trong năng-
lực bản-tính Thần-Linh, phản-chiếu của Tuyệt-
Đối, chính cái nguyên-lý nó phân-hóa Linh-hồn
( Atman ) tối cao với vũ-trụ, cái ở tại Thượng-
Đế Tuyệt-Đối và cái ở tại Ảo-hóa Maya.
SRI RAMAKRISHNA
80
Không, Maya Ảo-hóa, Çakti Năng-lực, Prakriti
Thiên-nhiên, chẳng phải là một hư-huyễn.
Trước mắt cái ta thanh-khiết-hóa, nó là sự biểu-
hiện của Atman tối cao, người gieo hạt giống
vĩ-đại của sinh-linh và tạo-vật .
Từ nay, tất cả đều sáng-tỏ. Và người
thấu-thị từ trong vực lửa của Brahman bắn ra, y
đã tìm thấy bến bờ với bao nhiêu bồng-bột, tìm
thấy người Mẹ Thần-Linh là người yêu duy-
nhất của mình. Và y đã nhìn Bà với con mắt
mới, vì kết-cục y đã nhận thấy ý-nghĩa thâm-
trầm của Bà, sự đồng-nhất-tính của Bà với
Tuyệt-Đối. Bà là Tuyệt-Đối tự truyền thông
vào loài người, Vô-Ngã, tự nhân-cách-hóa là
đàn-ông, tự nhân-cách-hóa là đàn-bà. Bà là
nguyên-lý của tất cả những hóa-thân. Bà là
trung-gian Thần-Linh giữa vô-hạn và hữu-hạn .
Và Ramakrishna lên giọng tụng bài
Thánh-ca dâng Thánh-Mẫu :
_ " Phải, Thánh-Mẫu của ta chẳng
phải ai xa lạ. Ngài là Tuyệt-Đối. Ngài vừa
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
81
là một vừa là nhiều "đồng qui nhi thù đồ"
và siêu-việt cả một lẫn nhiều... Thánh-
Mẫu ta nói : “ Ta là Mẹ Vũ-trụ ” " Vạn
vật chi mẫu ", Ta là Bất-Nhị-Pháp " Vô
danh chi thủy ", Ta là Atman của Ảo-
Nghĩa-Thư... Chính Ta là Brahman
Tuyệt-Đối đã tạo ra sự Phân-hóa thiên-
hình vạn-trạng... Những hành vi thiện, ác
đều tuân theo Ta. Hẳn rằng có Luật
Nghiệp. Nhưng chính Ta là Nhà Lập
Pháp. Chính Ta mở đóng, kết giải những
luật-pháp. Ta điều-khiển tất cả nghiệp tốt
và xấu... Hãy đến đây với Ta ! Hoặc
bằng con đường Sùng-Ái Bhakti, hoặc
bằng con đường Giác-ngộ Jñãna, hoặc
bằng con đường Hành-vi Karma, các con
đường ấy đều dẫn đến Thượng-Đế. Và Ta
sẽ dẫn các con đi qua thế-gian, Biển-cả
của tất cả công-nghiệp... Và Ta sẽ ban
cho các con sự hiểu-biết về Tuyệt-Đối
nữa, nếu các con muốn... Các con không
thể thoát khỏi cái Tiểu-Ngã và cái Đại-
Ngã. Cả đến những ai đã thực-hiện được
SRI RAMAKRISHNA
82
Tuyệt-Đối trong ý-thức Tam-Muội, đều
trở về cái Ngã do ý-chí của Ta ...
" Thánh-Mẫu, ta là Năng-Lực
Thần-Linh Nguyên-Thủy. Ngài ở khắp
nơi. Ngài vừa ở trong và ở ngoài các
hiện-tượng. Ngài đã sinh-nở ra thế-giới.
Và thế-giới mang Ngài trong lòng mình.
Ngài là con Nhện và thế-giới là mạng-
nhện do Ngài đã dệt ra. Nhện rút mạng-
nhện từ trong thực-thể của nó, rồi lại cuộn
vào nó. Đức Mẹ, ta vừa là ngoại bao vừa
là nội-dung... Ngài là vỏ, Ngài là nhân ..."
Lời cầu-nguyện nhiệt-thành ấy, mà những
yếu-tố lấy ở trong nguồn cổ-kính Ấn-Độ. Và
không bao giờ Ramakrishna và tín-đồ đòi sự
mới mẻ bằng ý-tưởng sáng-tạo. Thiên-tài của
sư-phụ ở chỗ khác : Sư-phụ làm sống lại những
ý-tưởng Thần-linh nằm ngủ và nhập-thể chúng,
sư-phụ đánh thức những nguồn suối " trong
rừng im-lìm " và tô-điểm lại với con người
nóng hổi, huyền-diệu của sư-phụ. Lời cầu-
nguyện nhiệt-thành ấy là của sư-phụ, bởi giọng
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
83
cầu, bởi cái đà vươn lên, bởi cái nhịp-điệu và
hòa-điệu, bởi lời ca của tình-yêu nồng-nhiệt .
Chúng ta hãy nghe cho rõ ! Lời ca bao-la
vô-biên mà hòa-điệu du-dương. Nó không bị
giam vào mực-thước chật hẹp nào hết. Nhưng
tự nó, nó phân-hóa ra có trật-tự mỹ-miều rung-
cảm. Phụng thờ Tuyệt-Đối hợp-nhất êm-đềm
với tình-yêu nồng-nhiệt Ảo-hòa Maya. Cái
tiếng kêu của yêu-thương ấy, hãy ghi lấy !
Chúng ta sẽ ước-lượng cái tính-cách bao-dung
của nó, sau này khi chúng ta nghe Vivekananda
lên tiếng. Người chiến-sĩ vĩ-đại này sẽ vùng-
vẫy trong những hệ-lụy của Ảo-hóa Maya để
phá tung xiềng-xích. Ảo-hóa với y tranh-đấu
vật-lộn. Đấy là một trạng-thái mà Ramakrishna
không từng biết đến. Ông không chiến-đấu với
cái chi hết. Ông yêu kẻ-thù như say-mê. Và đối
với sự hấp-dẫn của ông, không ai có thể cưỡng
lại được. Kẻ-thù yêu ông, Ảo-hóa Maya ôm
ông trong vòng tay của Nàng. Hai bên hôn
nhau. Văn-Quân đã thấy Tương-Như của mình.
Nàng phù-thủy làm mê-hoặc đàn cừu nhân-loại
SRI RAMAKRISHNA
84
đã tự biến thành nàng Công-chúa để nhờ tay
anh-hùng Thésée dắt đến cái lưới của đường
mê. Ảo-hóa toàn-năng lấy cái mũ chụp vào mắt
con cú-vọ, vành mắt ông ta, và ném tung vào
không-trung bình-thản, Maya là Mẹ, Bà
" biểu-lộ cho các con của Bà trong thiên-hình
vạn-trạng rực-rỡ và qua những Hiện-Thân
Thần-Linh " với tình-yêu của Bà, với nhiệt-độ
của Tâm ( Bhakti ) = ( Sùng-Bái ). Bà dung-
hòa, tan-biến vỏ của những cái Ngã, đến nỗi
chúng chỉ còn là " một đường dài không dầy
đặc ", một sợi dây, một điểm dưới tay của Bà,
như trong tay người thợ-giặt mà tan chìm vào
Đại Ngã Brahman .
Vậy thì phúc thay những ngón tay và
nước ! Phúc thay vẻ mặt và mạng choàng !
Tất cả đều là Thượng-Đế và Thượng-Đế ở tại
tất cả. Ngài ở trong những bóng râm và ánh
sáng. Thi-hào Hugo, nói theo các văn-sĩ Anh
thế-kỷ 17, là mặt-trời đã là bóng của Thượng-
Đế. " Mặt-trời ấy đã là bóng của Thượng-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
85
Đế...", Ramakrishna sẽ nói bóng râm là ánh-
sáng của Ngài .
Và cái gì đã đem lại cho tư-tưởng của
Ramakrishna hư-vị của sự sống, cũng như đối
với bất cứ tư-tưởng-gia Ấn-Độ chân-chính nào,
là ông không tin điều gì mà ông chưa thực-hiện
ở tại tất cả bản-thân của ông. Cái quan-niệm
của ý-tưởng ở đây, lấy lại được ý-nghĩa đầy đủ
và nhục-thể của nó. Tin là ôm chặt trong tay, là
ghì vào trong tay, giữ lại trong người trái cây
chín tới .
Vậy thì, nếu Ramakrishna đã từng-trải cái
sự ôm-ấp của những chân-lý như thế, những
chân-lý ấy tại nơi ông không còn là những ý-
tưởng nữa, chúng sống-động, là mầm-mống
của sự sống, và được ấp-ủ bằng Lời, tín-
ngưỡng của ông, nó sẽ ra hoa và kết quả thành
một vườn " thực-hiện ", không còn trừu-tượng
và cô-đơn, mà chính-sác, thực-tiễn, trà-trộn vào
sự sống hàng ngày để nuôi nhân-loại đói khát.
Cái chất thịt Thần-Linh ấy, ông ta đã được nếm
SRI RAMAKRISHNA
86
và nó là thực-thể của vũ-trụ mà hiện nay ông
sắp gặp lại nó, vẫn là nó trên tất cả bản-thể của
tất cả tôn-giáo. Và ông sẽ phân-hóa nó thành
món ăn bất-tử cho bữa tiệc, không phải của 12
giáo-đồ như của Thiên-Chúa giáo, mà là của tất
cả những linh-hồn khao-khát, ông san-sẻ với
vũ-trụ .
Sau khi sư-phụ trần-truồng Totapuri đi
rồi, vào cuối năm 1865, Ramakrishna còn sống
hơn một nửa năm trời trong không-khí mầu-
nhiệm, trong cái vòng hào-quang bừng bừng.
Ông kéo dài cảnh sinh-hoạt ấy đến tận cùng
sinh-lực của mình, đến sự đồng-nhất với Tuyệt-
Đối. Suốt sáu tháng trời, như lời ông nói lại,
ông ở tại trong một trạng-thái Thần-hóa, bất
tỉnh nhân sự như các nhà đạo-sĩ cổ-xưa từng
mô-tả : Thân-thể rời khỏi linh-hồn như một cái
nhà trống, để mặc cho sức phá-hủy. Nếu không
có một người cháu săn-sóc cái thân-thể vô chủ
ấy, và ép buộc nó phải nuôi dưỡng, thì ông ta
đã chết. Không còn có thể đi xa hơn nữa trong
sự hợp-nhất Thần-hóa với cái " vô hình " ; và
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
87
sự thực, đấy là cực điểm của lịch-trình Đạo-dẫn
Yoga, nó hẳn đã làm cho độc-giả Pháp của tôi
nhiều lần hoang-mang, có lẽ còn bực-tức vì
quen đi trên con đường vững chắc, và từ lâu
không còn biết đến những rung-động của ngọn
lửa nội-tâm. Xin độc-giả hãy cố theo tôi một
chút nữa ! chúng ta xuống dốc hỏa-diệm-sơn
Tử để về với nhân-loại .
Sau này, chính Ramakrishna cũng đã
thừa-nhận ông đã mạo phạm Thượng-Đế, và
đấy là một kỳ tích là ông còn có thể trở về
được. Ông rất thận-trọng, giữ-gìn, không dám
dạy bảo cái chứng-nghiệm ấy cho đệ-tử ; ông
cấm cả Vivekananda coi nó như một cảnh lạc-
thú, mà những tâm-hồn cao quí không được
hưởng vì bổn-phận của họ là phải hy-sinh
hạnh-phúc của mình để phụng-sự kẻ khác. Khi
thanh-niên Naren, tên tục của Vivekananda,
khẩn-khoản nhiệt-thành cầu xin ông mở cửa
cho vào Tam Muội Vô Phân Biệt Tâm ( Nirvi
Kalpa Samâdhi ) _ cửa ngõ ghê gớm dẫn vào
vựa-thẳm Tuyệt-Đối. Chính Ramakrishna đã
SRI RAMAKRISHNA
88
nổi giận mà từ-chối lời cầu xin ấy của
Vivekananda, ông không từng nổi nóng bao giờ
và không từng sẵng với đúa con yêu quý của
mình : _ " Thôi rồi ! lời Ramakrishna quát
Vivekananda, thày tưởng rằng con sẽ là cây đa
vĩ-đại để che-chở cho hàng ngàn linh-hồn mỏi
mệt ... mà đáng lẽ thế, con lại đi tìm giải-thoát
riêng cho con, tư lợi vị-kỷ ! Hãy vứt những vật
nhỏ-nhen ấy đi con ơi ! Làm sao con có thể tự
mãn với một lý-tưởng phiến-diện như thế ?
Phải thực-hiện toàn-diện. Hãy vui thú về Tối-
cao ở tất cả hình-tướng biểu-hiện !... "
_ " Nghĩa là vui-thú tối-cao trong
chiêm-ngưỡng và trong hành-động. Diễn-
tả cái Biết tối-cao trong Việc Làm tối-cao
cho nhân-loại ."
Và Naren đã nức-nở khóc mà nhẫn-nhục,
tan nát cõi lòng vì phải hỷ-sả. Nhưng ông này
đã công-nhận sự nghiêm-khắc chính-đáng của
sư-phụ. Rồi suốt đời ông ta ấp-ủ trong lòng,
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
89
hồi-niệm về vực-thẳm Thần-Linh. Suốt đời
nhẫn-nhục, lạnh-lùng, anh-dũng, ông ta tự buộc
mình vào việc phụng-sự đại-chúng .
Nhưng chúng ta phải nghĩ rằng Rama-
krishna ở điểm mà chúng ta đang kể chuyện
đây thì ông chưa đạt tới đích của lịch-trình
thực-hiện. Và tất cả những thực-nghiệm về đời
sống ông đã học, không hẳn như chúng ta bằng
hiểu-biết phổ-thông, mà bằng chính sự mạo-
hiểm riêng của mình và tự-lực .
Nếu ông đã thoát ra được, không phải vì
tài-năng và ý-chí riêng của mình. Như ông nói,
Đức Mẹ gọi ông về bổn-phận nhân-loại bằng
sự đau-đớn của thể-xác. Một bệnh kiết-lỵ kịch-
liệt làm cho ông đau-đớn suốt 6 tháng, dần dần
lôi ông ra khỏi cảnh vô-tướng Niết-Bàn. với sự
đau-đớn vật-lý đến sự đau-đớn về tinh-thần đã
buộc ông vào thế-gian. Một tu-sĩ, đã biết ông,
kể rằng : Trong những ngày đầu, khi ông mới
ra khỏi cảnh Thần-hóa, trong lòng đồng-nhất-
thể, Ramakrishna nhìn thấy hai người lái
SRI RAMAKRISHNA
90
thuyền cãi nhau giận-dữ, ông ta đã gào lên đau
đớn. Ông tự đồng-nhất-hóa với tất cả đau-phiền
ô-uế và phá-hoại của thế-gian. Và tim ông đã bị
nứt rạn, đầy thương-tích .
Nhưng từ nay trở đi ông cũng biết rằng tất
cả những khác-biệt mà loài người đang tranh-
chấp đều là con đẻ của cùng một Mẹ, rằng sự
" Phân-Hóa Vạn Năng " là bộ mặt của Thượng-
Đế, người ta phải yêu Thượng-Đế trong tất cả
sự sai-biệt, chống-đối và thù-địch của loài
người, trong tất cả những đường lối tư-tưởng
điều-khiển cuộc đời của chúng, và thường gây
nên sự tranh-chấp của chúng. Nhưng trước hết
chúng ta phải yêu loài người qua tất cả
Thượng-Đế của chúng .
Và thình-lình, ông nhận thấy rằng tất cả
tôn-giáo, qua những con đường khác nhau, đều
dẫn đến cùng một Thượng-Đế, và ông khao-
khát thám-hiểm ngay tất cả những con đường
ấy. Hiều-biết đối với ông không phân-biệt với
thành-tựu và hành-động .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
91
CHƯƠNG V
TRỞ VỀ NHÂN-LOẠI
Con đường đầu tiên được thám-hiểm là
con đường Hồi-giáo ( Islam ). Ramakrishna
chưa bình-phục hẳn, ông đã lên đường đi vào
đấy để thực-nghiệm, cuối năm 1866 .
Ngôi đền mà ông làm Thủ-từ thường thấy
những đạo-sĩ Hồi-giáo qua lại. Bà chủ đất
Darkshineswar là Rani-Rasmani, bà " tân phú
hào " này thuộc về hạ-cấp xã-hội, nhưng có
tấm lòng quảng-đại nồng-nhiệt tin sùng, bà đã
muốn rằng công-trình xây ngôi đền của bà
dành một căn cho những khách thập-phương
tín-đồ các tôn-giáo qua lại. Ở đấy Ramakrishna
gặp một tín-đồ Hồi-giáo nhũn-nhặn, tên là
Govinda-Rai chìm đắm vào trong cầu-nguyện.
Và qua cái vỏ thể-xác nằm phục lễ-bái,
SRI RAMAKRISHNA
92
Ramakrishna đã thấy người này, bằng con
đường Hồi-Giáo cũng " thực-hiện " được
Thượng-Đế. Ông bèn đến xin y mở đạo. Suốt
mấy ngày, nhà giáo-sĩ Kali hàng phục hoàn-
toàn, lãng quên Thần-Linh của mình, ông
không lễ-bái các Ngài nữa, ông không nghĩ gì
đến nữa, ông sống ngoài phạm-vi của đền, luôn
miệng nhắc đến tên Allah ( danh-hiệu Thần-
Linh Hồi-giáo ) mặc y-phục và cử-động theo
Hồi-giáo, ông sẵn-sàng cả đến _ " Trời ơi ! " _
ăn những đồ ăn Bà-La-Môn giáo cấm kỵ là thịt
của con bò Thánh-linh ! Người chủ và bảo-trợ
của ông, Mathur-Babu kinh-hoàng, lậy van xin
ông đừng làm thế, và bí-mật cho một người tín-
đồ Bà-La-Môn nấu ăn cho ông dưới sự cai-
quản của người Hồi-giáo, ngõ hầu bảo-vệ
Ramakrishna khỏi bị nhiễm-ố. Sự hiến-dâng
hoàn-toàn cái mình cho một tư-tưởng khác
ngự-trị, đưa đến sự thành-tựu, như thông-
thường, theo tiến-triển của tinh-thần ở nhà suy-
nghĩ đam-mê ấy, một sự cụ-thể-hóa hiển-hiện
về ý-niệm : một nhân-vật có hào-quang, vẻ mặt
trang-nghiêm, dâu dài, hiện ra trước mặt ông ta
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
93
_ ( đấy là hình-ảnh của ông quan-niệm về
Người Tiên-Tri ) _ ông ta đến gần, tan chìm
vào Người Tiên-Tri này ) _ Ramakrishna đã
" thực-hiện " Thần-Linh Hồi-giáo, " đấng
Brahman với đức tính ". Rồi từ đấy ông đi
sang " Brahman không đức tính ": giòng sông
Hồi-giáo ( Islam ) chở ông ta vào Đại-dương .
Về sau này những người chú-giải cái
thực-nghiệm ấy, liền ngay sau cái đại trạng-thái
Thần-hóa trong Tuyệt-Đối theo ý-nghĩa tối
trọng-yếu đối với Ấn-Độ, là tín-đồ Hồi-giáo và
Ấn-Độ-giáo là những đứa con thù-địch, chỉ có
thể tái-hợp lại trên cơ-bản Bất-Nhị-Pháp
( Advaïta ), Thượng-Đế vô-tướng mà Rama-
krishna đã dựng lên trước đây ở nơi ẩn-cư
trong Tuyết-sơn một điện-thờ, then-trốt tối cao
của lâu-đài vĩ-đại và phong-phú của tất cả tôn-
giáo .
Bẩy năm sau _ tôi tổ-hợp các thực-kiện
để trình-bày cho sáng-tỏ _ một thực-nghiệm
khác cùng một loại, khiến Ramakrishna
SRI RAMAKRISHNA
94
" thực-hiện " Cơ-Đốc-giáo. Vào tháng 11 năm
1874, một người Ấn-Độ-giáo ở Calcutta tên là
Mallik có một cái vườn gần Darshineswar, đã
đọc cho ông ta nghe Kinh Thánh. Lần đầu tiên
Ramakrishna gặp Christ. Và chẳng bao lâu sau,
Lời hiện vào xác-thịt. Đời sống của Jésus bí-
nhiệm thâm-nhập vào ông. Một hôm, ông đang
ngồi trong buồng khách nhỏ của người bạn Ấn-
Độ-giáo giầu-có, ông nhìn lên tường vào một
bức họa vẽ Đức Mẹ ( Madone ) bồng con. Rồi
thì những hình-ảnh liền hoạt-động. Bấy giờ các
cảnh-tượng hiện trước bèn diễn ra, theo thứ-tự
bất-di bất-dịch của tinh-thần : những cảnh-
tượng Thánh-linh đến gần ông, nhập vào ông.
Và toàn-thể người ông bị thấm-nhuần với
những hình-ảnh ấy. Lần này là cả một sự tràn-
ngập mạnh gấp mấy lần sự thực-nghiệm Hồi-
giáo. Làn sóng bao-trùm toàn-thể tâm-hồn ông,
không có bờ đê nào có thể ngăn-cản được.
Những ý-niệm Ấn-Độ-giáo bị lôi cuốn theo.
Hoảng sợ, Ramakrishna vùng-vẫy trong các
lớp sóng mà kêu lên : _ " Mẹ ơi ! Mẹ làm chi
thế này ? Cứu con với ! "
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
95
Vô-ích, làn sóng thủy-triều quét sạch hết,
tinh-thần Người Ấn-Độ-giáo ở ông đã biến-cải.
Ở đấy chỉ còn chỗ cho đấng Cơ-Đốc. Suốt mấy
ngày liền chỉ có tư-tưởng Cơ-Đốc, tình-yêu
Cơ-Đốc choán hết tâm-hồn. Ông không còn
nghĩ đến đi lên đền thờ Ấn-Độ-giáo... Rồi vào
một buổi trưa, trong vườn cây Darshineswar,
ông thấy hiện đến một nhân-vật với đôi mắt to
đẹp, vẻ nhìn bình-thản, da sáng ; ông bi hấp-
dẫn, ông không biết là một vị nào. Người
khách lạ đó lại gần ông. Một tiếng nói nổi dậy
trong đáy lòng Ramakrishna : _ " Đây là đấng
Cơ-Đốc, Ngài đã đem máu trái tim Ngài để
chuộc tội cho loài người ; đây là một người đã
chịu đựng một bể đau phiền vì yêu thương loài
người. Chính Người đấy, chính là Tổ-sư Du-Da
( Yoga ) vĩnh-viễn hòa-hợp với Thượng-Đế.
Chính là Jésus đấy, Tình-Yêu hiện-thân nhập-
thể ! ... "
Người Con Nhân-loại ôm hôn nhà thấu-
thị Ấn-Độ, người con của Đức Mẹ, và tan hòa
vào nhân-cách của ông ta. Và Ramakrishna tự
SRI RAMAKRISHNA
96
nhập vào ý-thức Thần-hóa. Lại một lần nữa
ông thực-hiện đồng-nhất-hóa với Tuyệt-Đối
Brahman. Rồi dần dần ông trở về đời bình-
thường. Kể từ đấy về sau, ông tin-tưởng vào
tính Thần-linh của Jésus Christ, Nhập-thể-hóa
của Chúa. Nhưng không phải chỉ có một Nhập-
thể mà thôi, Đức Phật Bouddha, Đấng Chí-tôn
Krishna, đối với ông còn là những Giáng-thế
khác nữa .
Đến đây, tôi cảm thấy tín-đồ Cơ-Đốc độc-
tôn chúng ta, canh giữ thân-thể Thượng-Đế
duy-nhất, trau mày nói lên vẻ kênh-kiệu :
_ " Y biết gì về Thượng-Đế của
chúng ta ? Một ảo-tưởng. Một sự bồng-
bột biểu-lộ. Quá dễ dàng thế ! Y chẳng
biết gì về giáo-lý cả ."
Ông ta biết rất ít, thực vậy. Ông là một
tín-đồ Sùng-Bái ( Bhakta ) tin vào Tình-yêu.
Ông không tự-phụ là một trí-thức của hiền-triết
( Jñãnin ) họ tin vào đường giác-tuệ. Nhưng
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
97
mỗi đường là một trong hai chiếc tên nỏ, khi
giây nỏ căng lên với cánh tay thật cứng, nó
chẳng bắn trúng cùng một đích hay sao ? Và
kẻ nào đi cho hết đường, đến tận cùng, thì hai
đường ( Lý và Tình, Tri và Hành ) chẳng gặp-
gỡ nhau hay sao ? Cao-đệ trí-thức của Rama-
krishna là Vivekananda, nói về sư-phụ mình
rằng :
_ " Thày, bên ngoài thì hoàn-toàn
Sùng-bái ( Bhakta ), bên trong hoàn-toàn
Trí-tuệ ( Jñãnin ) ."
Đến một trình-độ nhiệt-thành nào thì tình-
yêu vĩ-đại thấu-hiểu và trí-tuệ vĩ-đại phá cổng,
thành con tim hay tình-yêu .
Vả chăng, phải đâu đến tín-đồ Cơ-Đốc để
từ-chối năng-lực của tình-yêu, họ đã coi những
kẻ lỗi-lầm đất Galilée là tín-đồ yêu dấu của
Thượng-Đế mình và là những người sáng-lập
ra Nhà-Thờ của mình. Và ai xứng-đáng đầu
tiên nhìn-nhận Đấng Phục-sinh, nếu chẳng phải
SRI RAMAKRISHNA
98
người phụ-nữ tội-lỗi đã sám-hối, không có
danh-nghĩa gì khác để được ưu-đãi hơn là chỉ
những giòng nước mắt yêu thương mà nàng đã
rửa chân cho Đấng Cơ-Đốc, lấy tóc mình chùi
chân cho Ngài ?
Sau hết là sự hiểu-biết của một người
không thể đo bằng sách y đã đọc. Ở bên Ấn-Độ
của Ramakrishna còn như ở thời cổ, văn-hóa
tốt nhất được khẩu-truyền. Và nhờ những cuộc
nói chuyện với hàng ngàn người hiền ( sadhu ),
tu-sĩ, hành-giả, thông-thái ( pandit ), các hạng
người để tâm vào vấn-đề tôn-giáo, Rama-
krishna, trên đường đời, đã thâu-hoạch một
hiểu-biết đại-toàn về tôn-giáo và triết-lý tôn-
giáo, luôn luôn được đào sâu bằng sự trầm-tư
định-niệm của mình .
Một hôm trong đám học-trò có một
người, lấy làm ngạc-nhiên về sự hiểu-biết của
Thày, bèn hỏi :
_ " Làm sao mà Thày có thể hiểu-
biết hết khoa-học thời xưa như thế ?
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
99
Ramakrishna đáp :
_ " Ta không đọc sách, Ta nghe
được ở các nhà bác-học, Ta lấy cái biết
của họ kết thành vòng hoa bọc quanh lấy
tâm Ta và Ta đã ném xuống chân của
Mẹ . "
Đối với đệ-tử, ông sẽ nói :
_ " Ta đã thực-hành tất cả tôn-giáo :
Ấn-Độ-giáo, Hồi-giáo, Cơ-Đốc-giáo, và
Ta cũng đã theo những con đường của
các môn-phái khác nhau của Ấn-Độ-
giáo... Và ta đã thấy rằng chính là cùng
một Thượng-Đế mà tất cả đều hướng lên
qua những con đường khác nhau... Các
con phải thực-hành một lần tất cả các tín-
ngưỡng, và trải qua các con đường khác
nhau ấy... Ta thấy rằng tất cả loài người
cãi nhau vì danh-nghĩa tôn-giáo : Ấn-Độ-
giáo ; Hồi-giáo ; tín-đồ phái Brahmo ; tín-
đồ phái Vaishnava v.v... Và họ không
nghĩ rằng Đấng gọi là Krishna cũng gọi là
Çiva, Ngài còn có tên gọi là Năng-lực
SRI RAMAKRISHNA
100
Nguyên-thủy, Jésus hay Allah ! Một
Thần Rama duy-nhất có hàng ngàn tên
gọi !... Bể chứa nước có nhiều bậc lên
xuống. Ở một bậc, tín-đồ Ấn-Độ-giáo
múc nước vào những cái bình, và họ gọi
nước là " Jal ". Ở bậc khác, tín-đồ Hồi-
giáo múc nước trong những túi da, và họ
gọi là " Pani ". Ở bậc thứ ba tín-đồ Cơ-
Đốc gọi nước ấy là " Water "... Chúng ta
ai dám bảo cái nước ấy không phải là Jal
mà là Pani hay Water ? Sao mà lố-lăng
thế ! ... Thực-thể là Một, nhưng nó mang
các danh-hiệu khác nhau. Và mỗi người
đều cầu tìm cùng một Thực-thể ấy, và chỉ
có khí-hậu, tính-tình và danh-hiệu thay-
đổi thôi... Ai nấy hãy theo đuổi con
đường của mình ! Nếu họ thành-thực,
nồng-nhiệt muốn biết Thượng-Đế, họ cứ
yên tâm ! Họ sẽ thực-hiện được ... "
Thời kỳ kế-tiếp 1867 không đem vào cho
kho báu nội-tâm của Ramakrishna điều cốt-yếu
gì thêm. Nhưng nó chỉ bảo cho ông sử-dụng.
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
101
Nó đem những khải-ngộ của ông vào trực-tiếp
với thế-giới bên ngoài ; nó bảo ông đối-chiếu
những chinh-phục tâm-linh của mình với
những chinh-phục của những thực-nghiệm ở
nhân-loại khác. Và nó khiến ông cảm thấy
nhiều hơn về giá-trị duy-nhất mà ông đã được
ban, khiến ông ý-thức về sứ-mệnh của mình
trong đời sống loài người, cùng bổn-phận
hành-động hiện-tại .
Ông ví như Thánh Assise và ông giống về
nhiều tính nết, vừa tinh-thần lẫn vật-chất, một
người em dịu-hiền của tất cả chúng-sinh ; ông
quá thèm sữa tình-thương nhân-loại để có thể
tự-mãn-nguyện với một bầu sung-sướng mà
không san-sẻ. Ở tại ngưỡng cửa cảnh Thiền-
định Thần-hóa thâm-thúy, ông cầu-nguyện Mẹ
đang ôm-ấp ông vào lòng :
_ " Mẹ ơi ! con xin Mẹ để cho con
tiếp-xúc với loài người ! Đừng làm cho
con thành một nhà tu khổ-hạnh lạnh-
lùng ! "
SRI RAMAKRISHNA
102
Và Đức Mẫu, ném ông từ đáy đại-dương
lên bãi cát đời sống thế-gian, bảo ông qua tiếng
nói trong cảnh nửa thức nửa mê :
_ " Hãy dừng lại ở ngưỡng cửa ý-
thức tương-đối vì tình thương nhân-loại!"
Vậy nên ông trở về đời, giữa loài người.
Và trước hết, ông tắm trong lòng nhân-loại
nóng ấm, hồn-nhiên. Tháng 5 - 1867, hãy còn
rất mệt vì những cơn khủng-hoảng trước đấy,
ông về nghỉ 6, 7 tháng nơi quê-hương nhỏ bé
Karmarpukur, mà đã 8 năm qua ông chưa về.
Ông cởi-mở một cách thích-thú như đứa trẻ để
đón lấy tình thân-ái của những người trong
làng xóm, họ vui sướng được thấy lại đứa trẻ
Gadadhar của họ, mà danh-tiếng lạ kỳ của nó
đã vang tới tận họ, làm cho họ hơi lo sợ.
Những người nhà quê chất-phác ấy, với tính-
tình hồn-nhiên đã tỏ ra gần-gũi với quan-điểm
thâm sâu của ông hơn là các nhà bác-học ở đô-
thị và các tín-đồ ở đền, chùa .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
103
Và trong chuyến về quê này, lần đầu tiên
ông bắt đầu hiểu-biết về người vợ trẻ con của
mình, là Saradadevi, nay nàng đã 14 tuổi. Nàng
ở với cha, mẹ cách nhà của ông không xa, khi
nghe được tin ông về, nàng liền đến Karmar-
pukur. Người vợ trẻ ấy có tâm-hồn tinh-khiết
và tinh-thần trưởng-thành sớm hơn tuổi. Nàng
liền hiểu ngay sứ-mạng của chồng nàng cùng
vai-trò ấn-định cho mình là tinh-yêu Thánh-
linh với lòng âu-yếm vô-tư. Nàng chấp-nhận ở
ông là người chỉ đạo của mình và bắt tay vào
việc phụng-sự .
Có người trách Ramakrishna ( có ý thô-
tục ) là đã hy-sinh nàng. Nàng không bao giờ tỏ
ra là mình bị hy-sinh ; suốt đời nàng chiếu sáng
những người chung-quanh bằng đức-hạnh an-
lạc và tâm-hồn bình-tĩnh của mình. Nhưng có
một điều người ta không hề nói đến, mà Vive-
kananda đã bầy-tỏ cho chúng ta là Rama-
krishna đã ý-thức sáng-suốt ý-nghĩa trách-
nhiệm để hiến cho vợ mình, đó là sự hy-sinh
lớn lao nhất mà ông cũng có thể làm được,
SRI RAMAKRISHNA
104
nếu nàng đòi-hỏi, ấy là sứ-mệnh của mình. Ông
nói với nàng rằng :
_ " Tôi đã học hiểu để coi tất cả
phụ-nữ như là Đức Mẹ Thánh-Linh của
tôi ! Đấy là tình-cảm duy-nhất tôi có thể
có được với nàng. Nhưng nếu nàng muốn
kéo tôi vào cuộc đời thế-gian này " cuộc
đời ảo-tưởng " tôi cũng sẵn-sàng phụng-
sự nàng vì tôi đã cưới nàng làm vợ ."
Trong tinh-thần Ấn-Độ, đấy là một điều
hoàn-toàn mới mẻ. Vì truyền-thống Ấn-Độ-
giáo đã thiết-định rằng, kẻ nào sống cuộc đời
tôn-giáo thì thực sự được giải-thoát khỏi tất cả
phận-sự khác. Ramakrishna nhân-đạo hơn,
thừa-nhận cho vợ mình một quyền lâu dài đối
với mình .
Bà ta đã có cái lòng khoáng-đạt để từ-
chối điều ấy và thêm nữa bà còn khuyến-khích
chồng trong sứ-mệnh của ông ta. Như Viveka-
nanda đã sác-định, đấy là " do tự-nguyện của
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
105
vợ ông ta " để ông ta hoàn-toàn tự-do sống
cuộc đời theo ý muốn. Ramakrishna đã, cảm-
động về sự hồn-nhiên và lòng hỷ-sả ấy, đảm-
nhận bổn-phận làm người anh cả đối với nàng.
Ông nhẫn-nại trong những tháng vợ chồng ở
với nhau, cúc cung giáo-huấn vợ để trở nên
một người nội-trợ siêng-năng. Ông có tinh-thần
thực-tế đi đôi với bản-tính tâm-linh kỳ-lạ. Đứa
con nhà nông-dân đã được một nền giáo-dục
tốt lành. Không một chi-tiết gì của đời sống
nông-thôn mà ông không quen biết. Và tất cả
những ai đã biết ông đều nhận thấy là nhà ông
thật trật-tự và sạch-sẽ. Về điểm này đứa nhỏ
nghèo của Thượng-Đế có thể cho các đệ-tử trí-
thức và đại trưởng-giả những bài học .
Cuối năm 1867, ông trở về Darshineswar,
liền mấy năm sau ông đi những cuộc hành-
hương ngắn với nhà bảo-trợ ông, người chủ của
ngôi đền, ông Mathur Babu. Trong những
tháng đầu năm 1868, ông chứng-kiến đô-thành
của Thần Çiva, Bénares _ và ngã ba thiêng-
liêng của sông Hằng ( Gange ) với sông Jumna
SRI RAMAKRISHNA
106
ở Allahabad _ và Bindaban, bó hoa thần-
thoại, bài nhã-ca, viên ngọc của thi tập đồng
quê của Chúa Krishna ( Romancero ). Người
ta không thể mường-tượng nổi sự hào-hứng say
mê của ông. Khi ông đi qua sông Hằng-Hà,
đối-diện thành Bénares, " đô-thành hoàng kim"
hiện ra trước mắt ông không phải xây bằng
gạch mà là " một khối tâm-linh kết-tinh " ví
như Thánh Địa Jérusalem. Tại nghĩa-địa của
thành-đô, ông nhìn thấy Thánh Mẫu với Thần
Çiva, thân-thể trắng như tuyết, mái tóc xõa ra,
miệng mỉm cười từ bi cứu khổ, cúi xuống đài
hỏa-thiêu đỡ đầu cho các con mình. Sẩm tối,
trên bờ sông Jumna, gặp bầy súc-vật của mục-
đồng đi chăn về, ông cảm-súc điên cuồng vừa
chạy, vừa kêu gọi : _ " Chúa Krishna ! Chúa
Krishna ở đâu ? ... "
Nhưng nếu ông không thấy Thần-Linh
trong những cuộc hành-hương này, thì ông lại
đã gặp một sự-kiện khác, mà đối với Tây-
phương chúng ta, nó có một giá-trị quan-trọng
với một ý-nghĩa thâm-trầm hơn ! Ông khám-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
107
phá thấy bộ mặt đau-khổ của nhân-loại. Trong
trạng-thái mê-ly Thần-hóa, ông đã sống, từ
trước đến nay, trong cái vỏ sơn son thiếp vàng
của điện thờ, mái tóc Thánh-Mẫu Kali đã che
lấp mắt ông, bộ mặt nhân-loại ấy. Đi tới
Deoghar, dân ở đấy, _ dân Santhal _ gần như
trần-truồng, thân-thể xương bọc da, đang chết
đói. Ông bảo đoàn hành-hương ngừng lại và
hỏi việc gì đã xẩy ra ở đây. Một nạn đói ghê-
gớm đang tàn phá cả miền. Ông nói với nhà
bảo-trợ, ông Mathur Babu, là phải nuôi
dưỡng, tắm mặc cho những kẻ khó ấy. Mathur
Babu phản-đối rằng gia-tài của ông không đủ
để cứu sự nghèo-khổ của thế-giới. Rama-
krishna bèn òa lên khóc, ngồi bệt xuống trong
đám nghèo khổ và tuyên-bố không đi nữa để
san-sẻ với số-phận của chúng. Nhà phú-hộ
đành phải chiều theo ý muốn của ông thủ-từ
nhỏ của mình .
Trong một cuộc hành-hương khác, mùa
hè năm 1870, Mathur vô-tình đã dẫn ông về
thăm một trong những trang-trại của mình vào
SRI RAMAKRISHNA
108
đúng thời-kỳ thu thóc. Mùa màng đã mất mát
hai năm liền và những tá-điền bị dồn vào cảnh
nghèo-túng cùng cực. Ramakrishna đòi Mathur
tha thuế cho chúng, phát tiền cứu-trợ chúng và
cho chúng ăn một bữa đầy đủ. Mathur Babu
kêu trời. Nhưng Ramakrishna nhất định không
nhượng-bộ, nói với nhà phú-hộ rằng :
_ " Ông chỉ là người quản-lý của
Đức Mẹ. Những nông-dân kia là những
tá-điền của Đức Mẹ. Hãy tiêu tiền của
Đức Mẹ đi ! Chúng đau-khổ mà ông lại
không muốn giúp chúng hay sao ? Phải
làm chứ ! "
Mathur Babu lại phải nhượng-bộ .
Kỷ-niệm về những cuộc gập-gỡ ấy không
thể quên được. Swami Shivananda, hiện nay
điều-khiển sứ-đồ của Ramakrishna ( Rama-
krishna Math Et Mission ) và là một trong
những sứ-đồ đầu tiên, đệ-tử trực-tiếp của sư-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
109
phụ, đã kể lại cho tôi câu chuyện này, mà ông
ta đã được mục-kích :
" Một hôm ở Darshineswar, trong
một trạng-thái siêu-thức, Ramakrishna
nói thành tiếng rằng : _ “ Chúng-sinh
‹ Çiva › là Thượng-Đế ‹ Çiva › ai dám nói
từ-bi đối với chúng-sinh ? không phải từ-
bi mà là hầu-hạ, hầu-hạ vì coi nhân-loại
như là Thượng-Đế ! ”
" Vivekananda lúc bấy giờ có mặt ở
đấy, nghe thấy những lời phong-phú, tư-
tưởng sáng-tạo ấy, ông bèn nói với đạo-
hữu Shivananda : _ “ Hôm nay tôi được
nghe một lời cao siêu ... tôi sẽ tuyên-bố
cái chân-lý linh-động của nó ấy cho thế-
giới . ”
" Và Swami Shivananda thêm rằng :
_ “ Kẻ nào tìm nguồn-gốc của bao nhiêu
công-trình phụng-sự từ bấy đến nay do
sứ-đồ Ramakrishna đã thành-tựu ở Ấn-
Độ, thì y sẽ thấy ở đây .” "
SRI RAMAKRISHNA
110
Cũng vào thời ấy, có mấy cái tang in sâu
móng tay nhọn độc ác vào da thịt Ramakrishna.
Con người chìm vào Thần-Linh ấy vốn coi cái
chết như là trở về lạc-cảnh bất-tuyệt, con người
say mê vĩnh-cửu ấy, mà người ta đã nhìn thấy
ông ta khi mất một người bạn trẻ, một người
cháu, vui mừng cười và hát điệu giải-thoát,
chính con người ấy, sau cái tang kia đã bị sự
thống-khổ tấn-công, ông cảm thấy trái tim bị
vò nát nghẹt thở và ông tự nghĩ rằng : _ " Trời
ơi ! đối với tôi mà còn như thế này thì tất cả
những ai mất người yêu, mất con, còn đau đớn
biết là nhường nào ? ... "
Và Đức Mẹ đã rỉ tai ông cái bổn-phận và
cái quyền-năng để đem lại cho những đám
tang-tóc ấy bài thuốc tín-ngưỡng của mình ...
Swami Shivananda viết cho tôi hay rằng :
_ " Những ai chưa từng nhìn thấy ông ta, thì
không sao tưởng-tượng được con người xuất-
thế ấy đã luôn luôn để tâm chuyên-chú nghe
thập-phương nam, nữ kể lại những đau-phiền
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
111
thế-tục và đã xoa dịu cho họ đến mực nào.
chúng tôi đã được thấy bao nhiều là tỉ-dụ về
những sự-kiện ấy ; và có lẽ hiện nay, trên đời
này hãy còn một số chủ gia-đình ghi nhớ biết
ơn về cái lòng thương người vô-hạn và những
nỗ-lực nhiệt-thành của ông để xoa dịu thống-
khổ của mọi người. Một hôm vào năm 1883, có
một ông già giàu-có và quí-phái tên là Mani
Mallick mới mất một đứa con trai, lòng tan nát
đi đến gặp ông. Ramakrishna cảm-thông sâu xa
sự đau lòng của ông ta đến nỗi như chính
Ramakrishna đã mất con mình và sự đau lòng
của mình vượt cả sự đau lòng của Mallick.
Cảnh-tượng ấy kéo dài một thời-gian. Thình-
lình Ramakrishna cất tiếng hát ... "
Không phải một bài điếu. Không phải lễ
cầu hồn. Ông hát một bài anh-hùng ca điệu
hành quân chiến-đấu của linh-hồn chống với
cái chết :
_ " Tiến lên ! Tiến lên ! hỡi loài
người, Thần chết đột-nhập vào gia-đình
của người, hãy giàn trận. Hãy lên xe trận
SRI RAMAKRISHNA
112
của tín-ngưỡng và dương cung trí-tuệ.
Căng thẳng dây cung toàn năng của tình-
yêu và bắn cái mũi tên Thần-Linh, Hồng
Danh của Đức Mẹ ! ... "
Rồi Shivananda kết-luận : " Tôi còn ghi
nhớ nỗi đau-khổ của người cha đó đã được xoa
dịu như thế nào. Bài hát ấy đã đem lại can-đảm
cho y, an-ủi y và đem cho tâm-hồn y sự bình-
an ."
Trong khi chép lại câu chuyện trên đây,
tôi nghĩ đến Beethoven của chúng ta, lặng-lẽ đi
tới ngồi vào chiếc dương-cầm, an-ủi bà mẹ
tang-tóc bằng một bản nhạc ...
Sự cảm-thông Thần-linh ấy với nhân-loại
sinh-hoạt, yêu-thương và đau-khổ, phải nẩy-nở
thành một biểu-tượng thành-kính, tinh-khiết và
đa-cảm .
Năm 1872, khi lần đầu tiên, bà vợ Sarada-
devi đến tìm ông ở Darshineswar, lòng âu-yếm
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
113
của Ramakrishna, lòng thờ kính tôn-giáo của
ông đối với bà, tẩy sạch hết dục-vọng và bối rối
nhục-dục, làm ông đã nhìn-nhận thấy ở bà là
Nữ-Thần dưới mạng che ; và ông đã long-trọng
chứng-minh với bà. Trong một đêm tháng năm,
sau khi sửa-soan nghi-lễ, ông đặt Saradadevi
ngồi lên ngai của Thánh Mẫu Kali ; và nhân-
danh tử tế, ông làm lễ Shorashi Puja _ lễ thờ
phụ-nữ của Mật-giáo _ Cả hai ông, bà đều ở
trong trạng-thái nhập-định thần-hóa, bán-vô-
thức ( hay là siêu thức ). Khi tỉnh lại, ông lạy
người bạn đời của mình như là lậy Thánh Mẫu.
Bà là hiện thân, dưới mắt ông, vào cái biểu-
tượng sinh-động của nhân-loại, trong trắng
thuần-túy .
Như vậy quan-niệm Thượng-Đế của ông
tiến lên từng bậc _ từ ý-niệm Thượng-Đế là
tất cả và tất cả thu về đấy như một vầng mặt-
trời duy-nhất sôi nóng _ đến cảm-giác nồng-
nhiệt của tất cả là Thượng-Đế, như bao nhiêu
mặt-trời nhỏ mà ở tại mỗi mặt-trời Ngài đều có
mặt và hoạt-động. Có lẽ cùng một ý-tưởng,
SRI RAMAKRISHNA
114
nhưng lộn ngược đã được thấy và thực-hiện,
không còn chỉ là từ trên xuống dưới, mà là từ
dưới lên trên, và khắp tất cả chiều hướng cùng
một lúc, như là một giòng sinh-đôi liên-tục nối
liền không dừng, Thực-hữu với Vạn-hữu và
làm cho con người thành linh-thiếng .
Hai năm trước khi mất, ông nói ( ngày 5
tháng 4 năm 1884 ) :
_ " Bây giờ ta nhận thấy ở ta đã có
sự biến-hóa mới. Từ lâu, Vaishnav
Charan bảo ta rằng, khi ta thấy được
Thượng-Đế ở nơi con người, ta sẽ đạt tới
giác-ngộ hoàn-toàn. Bây giờ, ta thấy
chính Thượng-Đế hành-động ở trong các
hình-thức khác nhau, _ lúc là người
thành-tín, lúc là kẻ dối-trá, hay là cả đến
kẻ phạm tội. Vậy nên ta bảo : " Nârâyana
( linh-hồn tối cao ) ở con người thành-
tín ; Nârâyana ở kẻ dối-trá ; Nârâyana ở
kẻ phạm tội và kẻ dâm đãng . "
_ ( Vie De Ramakrishna. p. 543 )
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
115
Ở đây, một lần nữa, tôi phải đi trước lịch-
trình đời sống, để cho độc-giả khỏi lạc mất
hướng của giòng tư-tưởng, và họ thấy trước,
con sông có những khúc lớn, hình như phân-
tán và có khi hồi đầu, tiến về đâu và đưa chúng
ta về đâu .
Và tôi nói tiếp ở điểm vào khoảng 1874,
sau khi hoàn-thành cái vòng thực-nghiệm tôn-
giáo của mình, ông đã gặt hái được, như lời
ông nói, ba kết-quả đẹp của Giác-ngộ :" Từ-bi ;
Sùng-tín và Hỷ-sả " .
Cũng trong khoảng thời-gian ấy, nhờ
những dịp chuyện-trò với các nhân-vật cao-quí
xứ Bengale, ông nhận thấy chỗ thiếu sót trong
cái học hiền-triết của họ và sự khao-khát rộng
lớn của tâm-hồn Ấn-Độ đang mong đợi ông .
Không bao giờ ông quên học hỏi, mỗi khi
có được cơ-hội gặp-gỡ tất cả những nhà tôn-
giáo hay bác-học, nghèo hay giầu, lữ-hành hay
cột-trụ của khoa-học và xã-hội. Tất cả tư-tưởng
SRI RAMAKRISHNA
116
tự-ái đối với ông đều xa lạ ; ông có khuynh-
hướng tin rằng, mỗi người trong số " cầu tìm
chân-lý " ấy đã nhận được ánh-sáng đặc-biệt
mà ông thiếu và ông lo-lắng lượm nhặt những
miếng vụn còn lại trên bàn ăn của họ. Vậy nên
ông đi tìm họ bất cứ ở đâu, chẳng e-ngại cách
mình được tiếp-đãi .
Nhưng không bao giờ ông nhượng-bộ để
mất tinh-thần phê-phán, và cái quan-sát đáng
yêu của ông sắc bén lạ lùng. Cái tia sáng tinh-
khôn hồn-nhiên từ đôi mí mắt nửa nhắm bừng
lên trong con người thiền-định, đã gặp được
cơ-hội để thi-thố ở các cuộc viếng thăm của
ông bấy giờ với các nhà giáo-chủ tư-tưởng tôn-
giáo đương thời được công nhận .
Ở đây chúng ta phải cho độc-giả Âu-Tây
có một đại-quan về cuộc vận-động vĩ-đại kể từ
sáu mười năm nay, đã làm sôi-động tâm-hồn
Ấn-Độ. Người ta không biết gì đến cuộc thức-
tỉnh vĩ-đại ấy, mà Ấn-Độ năm nay ( 1928 )
làm lễ kỷ-niệm bách chu niên, một trong những
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
117
niên-biểu đáng ghi-nhớ nhất : Brahmosamaj
( ngôi nhà Thượng-Đế ) được thành-lập. Không
phải chỉ có một mình Ấn-Độ mà là toàn-thể
nhân-loại phải ăn mừng với Ấn-Độ, ngày kỷ-
niệm nhà khai-sáng thiên-tài, dám muốn và mở
đầu chống với tất cả trở-ngại của sự hợp-tác
bình-đẳng Đông-phương với Tây-phương và
những sức mạnh của lý-trí với sức mạnh của
tín-ngưỡng _ không phải theo nghĩa thừa-
nhận mù-quáng của nó ở thời-đại nô-lệ và các
dân-tộc bạc-nhược _ mà là trực-giác linh-
động và sáng-suốt : con mắt trên trán Thần
Độc-nhãn ( Cyclope ) nó không hủy-bỏ mà là
bổ-túc cho hai mắt .
Tôi muốn nói đó là Ram Mohun Roy .
***
*
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
119
CÁC NHÀ XÂY-DỰNG
THỐNG-NHẤT
Ram Mohun Roy, Devendranath Tagore,
Keshab Chunder Sen, Dayananda
Con người lạ-kỳ mở một kỷ-nguyên mới
trong lịch-sử tâm-linh Cựu-Lục-Địa, ở Ấn-Độ
đã là một mô-thức đầu tiên của nhân-loại đại-
đồng. Ông ta ôm-ấp tất cả trong cuộc đời ngót
sáu mươi tuổi ( 1774 - 1883 ) _ từ Thần-thoại
Hy-Mã Lạp-Sơn của Á-châu cổ-tích cho đến
lý-trí khoa-học của Âu-châu cận-đại .
Con của một nhà đại-gia quý-tộc xứ
Bengale, mang danh-hiệu truyền thừa là Roy
( Vua, Chúa ) được dưỡng-dục tại triều-đình
Đại Đế Mongol, mà ngôn-ngữ chính vẫn còn là
SRI RAMAKRISHNA
120
tiếng Ba-Tư, từ nhỏ đã được học tiếng A-Rạp ở
trường học Patna, từng đọc Aristote và Euclide
qua bản dịch A-Rạp, tuy dòng-dõi chính-thống
Bà-La-Môn, được nuôi với văn-hóa Hồi-giáo,
ông chỉ khám-phá tác-phẩm thần-học Ấn-Độ-
giáo, kể từ khi học chữ Phạn ( Sanscrit ) từ
mười bốn đến mười sáu tuổi tại Bénarès. Các
tác-giả Ấn viết tiểu-sử ông, sác-nhận rằng sự-
kiện ấy là một cuộc tái-sinh cho ông. Tuy vậy,
người ta có thể tin rằng ông không cần đến
triết-học Vedanta để tìm ở đấy lấy tín-ngưỡng
nhất-thần, vì sự tiếp-súc với Hồi-giáo đã in vào
nơi ông từ thửa nhỏ. Và cũng vì thế mà khoa-
học với thực-hành tâm-linh Ấn-Độ-giáo chỉ
làm tăng sức ảnh-hưởng không phai mờ của
Soufisme ( Tâm-linh thần-bí Hồi-giáo ), mà hơi
thở nóng hổi đã thấm vào tâm-hồn ông từ
những năm niên-thiếu .
Thiên-tài phấn-đấu hăng say của ông,
hăm-hở như một con ngựa trận non khiến ông
từ năm 16 tuổi đã tham-gia vào cuộc chiến-đấu
hăng-hái, nó kéo dài suốt đời ông, để rồi viết ra
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
121
quyển sách tiếng Ba-Tư, phản-đối Sùng-bái
Ngẫu-tượng, bài tựa viết bằng tiếng A-Rạp.
Ông chống-đối như thế là cả Ấn-Độ-giáo
chính-thống và là phạm vào tín-ngưỡng của
thân-phụ, đến nỗi bị đuổi ra khỏi nhà. Ông du-
lịch bốn năm ở đất Ấn-Độ và Tây-Tạng,
nghiên-cứu Phật-giáo bị chống-đối để suýt
chết vì gây cơn phẫn-nộ của phái cuồng-tín
Lạt-Ma-giáo. Năm 20 tuổi, người con thần-
đồng được cha gọi về, và ông về ở nhà. Người
nhà ép ông lấy vợ để cố buộc ông vào đời,
nhưng đối với con chim ấy thì làm gì có lồng
chứa .
Năm 24 tuổi, ông bắt đầu học tiếng Anh
và tiếng Do-Thái, tiếng Hy-Lạp và La-Tinh.
Ông tiếp-xúc với người Âu, thông-hiểu luật-
pháp và chính-trị của họ. Rồi thình-lình bỏ hết
thành-kiến với người Anh, cùng với họ cộng-
tác, nhưng để làm lợi ích tối cao cho dân-tộc
mình ; ông chinh-phục được lòng tin của họ và
cùng họ liên-minh. Ông đã rút được kinh-
nghiệm là ông chỉ có thể phấn-đấu cải-tạo xã-
SRI RAMAKRISHNA
122
hội Ấn bằng cách dựa vào Âu-châu mà thôi.
Ông lại bút-chiến mãnh-liệt chống những mê-
tín dị-đoan, chống tục Sùng-bái Ngẫu-tượng và
nhất là tục-lệ man-rợ như hỏa-thiêu góa-phụ.
Cơn bão-tố đã nổi dậy. Năm 1799, tín-đồ Bà-
La-Môn đã trục-xuất ông ra khỏi gia-đình, và
vài năm sau, cả đến những người thân-yêu nhất
của ông, mẹ và vợ đã từ-chối không ở chung
với ông. Ông lại trải qua 10 năm gian-truân và
mạo-hiểm, trong sự từ-bỏ của mọi người, trừ
có hai, ba người bạn Ê-Cốt ; ông nhận một
chức-vụ thu-thuế, và dần dần lên chức Tổng-
vụ-trưởng của quận hạt .
Rồi thân-phụ ông mất ; ông lại cùng với
thân-nhân hòa-hợp ; được thừa-hưởng một
hương-hỏa đồ-sộ ; Hoàng-Đế Delhi phong cho
ông tước Vương ( Rajah ), có dinh-thự và vườn
tược trang-hoàng ở Calcutta. Là một ông Chúa
lớn và hào-hoa, ông bầy những cuộc tiếp-tân
linh-đình theo kiểu Đông-phương có ban nhạc
và múa hát .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
123
Tuy nhiên, cái ông Hoàng " Một Ngàn
Lẻ Một Đêm " ( Mille et Une Nuits ) ấy, mà ở
Bảo-tàng-viện Bristol ( Anh-quốc ) còn giữ
được bức họa chân-dung đẹp đẽ, vẻ đàn ông
thanh-tao, đôi mắt mầu nâu to, đội một chiếc
khăn dẹp như mũ miện, vai khoác một cái khăn
choàng phủ lên chiếc áo nâu tu-sĩ dòng
François d'Assise _ ông vẫn theo đuổi nhiệt-
thành nghiên-cứu Kinh-điển Ấn-Độ-giáo và
công-cuộc tranh-đấu để chấn-hưng tinh-thần
thuần-túy Vedas, mà ông có dịch ra tiếng
Bengali và Anh-văn. Ông có chú-giải .
Ông không chịu dừng ở đấy. Với Áo-
Nghĩa-Thư ( Upanisads ) và các Thánh Kinh
( Sutras ), ông nghiên-cứu vào sâu Tân-Cựu-
Ứơc của Thiên-Chúa-giáo. Người ta cho rằng
ông là người Ấn đầu tiên thuộc giới thượng-
lưu, đã tìm giáo-lý của đấng Cơ-Đốc ( Christ ).
Năm 1820, ông cho xuất-bản tác-phẩm, căn-cứ
vào Phúc-Âm, ( Les Evangiles ) " Những Lời
Dạy Của Jésus, Chỉ-nam cho Hòa-bình và
Hạnh-phúc " .
SRI RAMAKRISHNA
124
Khoảng 1856, một thời ông tham-gia vào
" Hội Các Tín-đồ Duy-Nhất " ( Société des
Unitariens ), do một trong những người bạn Âu
của ông, bấy giờ là Mục-sư Tin-Lành, ông
Adam, đã lập ra, ông này tự-phụ thầm là đã
cải-hóa được ông theo Thiên-Chúa-giáo và Roy
đã là người sứ-đồ chính ở Ấn-Độ. Nhưng Roy
chẳng tự lệ-thuộc vào dòng chính-thống Cơ-
Đốc-giáo hay là Ấn-Độ-giáo, mặc dầu ông tự
khoe đã tìm được lại ý-nghĩa chân-thật của
chúng. Ông vẫn chỉ là một nhà Thần-đạo độc-
lập, căn-bản duy-lý và đạo-đức-hóa ; điều ông
có lẽ đã mượn của Thiên-Chúa-giáo ấy chỉ là
đạo-đức-học. Ông cũng từ-chối cả Thần-linh-
tính của Christ cùng thuyết tái-sinh của Ấn-Độ-
giáo ; ông cũng phản-đối cả thuyết Tam-Ngôi
Nhất-thể lẫn Tam-Thần. Ông là một tín-đồ
Duy-Nhất-giáo say mê. Bởi vậy ông gây lên sự
hợp-nhất các đối-phương, tín-đồ Bà-La-Môn
và các nhà Thiên-Chúa truyền-giáo .
Ông không phải con người để lo-lắng
điều ấy. Vả lại, nếu tất cả Nhà-Thờ đóng cửa
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
125
ông, thì ông lập cho mình và cho tất cả tín-đồ
tự-do hoàn-vũ một Nhà-Thờ khác. Ông đã tiên-
liệu từ năm 1815 khi lập ra Hội Thân-Hữu
( Atmiya Sabha ) để phụng-thờ Thượng-Đế
Một và Vô-hình. Năm 1827, ông cho xuất-bản
một sơ-tập Gayatri, nó trở nên cái công-thức
Thần-đạo xưa nhất của tín-đồ Ấn-Độ-giáo.
Năm 1828 một số bạn-hữu ưu-tư của ông,
trong đó có hai ông Tagore, hội-họp trong nhà
ông, thành-lập cùng với ông Hội Tín-Đồ Duy-
Nhất, nó đã có một vận-mệnh chói-lọi ở Ấn-
Độ, với danh-hiệu Brahmosamaj ( Adi Brah-
mosamaj ) ( Ngôi Nhà của Chúa ). Ngôi Nhà ấy
thờ " Sự phụng thờ Phạm-Thiên ( Brahman )
Duy-nhất Bất-nhị, là Thực-Hữu Vĩnh-cửu,
siêu-việt, bất-dịch, vừa sáng-tạo vừa bảo-tồn
vũ-trụ ". Ngài được thờ " không danh-hiệu,
không chỉ-định, không ngôi-vị, dùng riêng biệt
cho một người hay một đoàn người hay để cho
một đấng cá-biệt nào ". Nhà-Thờ này không
đóng cửa một ai. Ram Mohun Roy đã muốn
rằng Brahmosamaj phải là một ngôi nhà để
cầu-nguyện đại-đồng, mở cửa đón tất cả mọi
SRI RAMAKRISHNA
126
người, không phân-biệt mầu da, giai-cấp, dân-
tộc và tôn-giáo. Trong hành-vi cúng dâng ấy,
ông còn nối thêm : " Ở đây không một tôn-
giáo nào bị xúc-phạm hay bị miệt-thị. Tôn-giáo
là phải khuyến-khích sự chiêm-ngưỡng Đấng
Tối-cao của mình, tình Bác-ái, tình Thương,
Đạo-đức và củng-cố sự liên-hiệp giữa mọi
người trong tất cả tín-ngưỡng " .
Như vậy là một tôn-giáo đại-đồng mà
Roy muốn lập nên ; và đệ-tử của ông cùng
những người ngưỡng-mộ ông đã mệnh-danh
cho nó là " chủ-nghĩa đại-đồng ( Universa-
lisme ). Nhưng tôi không thể thừa-nhận danh-
từ ấy theo ý-nghĩa đầy-đủ và viên-mãn, bởi vì
Roy bài-ngoại tất cả hình-thức Đa-thần-giáo từ
thấp nhất đến cao nhất. Đối với ai muốn nhìn
không huyễn-tượng cái thực-tại tôn-giáo của
nhân-loại hiện-thời, phải hiểu rằng Đa-thần-
giáo _ gồm cả những hình-thức cao-siêu nhất
và tinh-vi nhất, như giáo-lý Tam Vi Nhất, Tam
Thần Luận Cơ-Đốc _ nó ngự-trị ít nhất hai
phần ba nhân-loại sinh-hoạt. Roy tự xưng một
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
127
Ấn-Độ-giáo Duy-Nhất thì đúng hơn. Vả lại,
ông không sợ gì việc vay mượn của hai tôn-
giáo Duy-nhất thần lớn nhất : Hồi-giáo và Cơ-
Đốc-giáo. Nhưng ông mạnh-mẽ phản-đối điều
đó _ và đệ-tử ông không đồng-tình về điểm
này _ chống lại ông và trách ông về chủ-nghĩa
triết-trung. Học-thuyết của ông lập trên cơ-sở
một sự phân-tích tổng-hợp độc-đáo, nó đi vào
sâu mãi trong thực-nghiệm tâm-linh. Nó không
lẫn-lộn với Nhất-nguyên-luận của Vedanta
cũng như với Duy-nhất-luận của Cơ-Đốc-giáo.
Thần-đạo của Roy đòi nối liền giữa hai cực :
triết-lý Vedanta " tuyệt-đối " với tư-tưởng
Bach-khoa thế-kỷ XVIII bên Âu-châu,
_ Thượng-Đế Vô-hình và Lý-trí .
Một tư-tưởng như thế không phải dễ dàng
giới thuyết. Và nó còn khó hơn để thực-hiện,
cho những kẻ đi sau ông. Nó ngụ một hòa-điệu
hiếm có giữa trí-tuệ phê-phán với tín-ngưỡng,
để đi đến tận những giác-ngộ của một tâm-linh-
học cao-quí, được lý-trí luôn luôn kiểm-soát và
chi-phối. Dáng người đài-các về thể-chất cũng
SRI RAMAKRISHNA
128
như tinh-thần, ông có khả-năng đạt tới đỉnh
mặc-niệm mà không một khoảnh-khắc mất
quân-bình của đời sống hàng ngày, cũng chẳng
bị gián-đoạn bước đường hành-động, ông tránh
hết được tất cả. Những súc-động của các nhà
Sùng-bái ( Bhakta ) đất Bengale bị làm mồi,
ông khinh miệt gạt họ đi. Phải chờ đến Auro-
bindo Ghose hiện nay, sau một thế-kỷ, mới lại
thấy cái thái-độ thắng-phục quý-phái ấy về các
năng-lực phức-tạp và cao-siêu nhất của tinh-
thần. Nó khó mà truyền cho ai được. Sự thực là
nó đã không được truyền lại. Dù các nhà thừa-
kế Ram Mohun Roy có cao-thượng và thuần-
túy mấy đi nữa, họ vô-tình đã bóp méo học-
thuyết của ông .
Tuy nhiên, như là người ta đã hiểu được
và thâu-hóa, Hiến-chương của Hội Brahmo-
samaj _ Magna Charta Dei = cái Đại Hiến-điển
Thần-Linh _ đã thiết-lập một thời-đại mới ở
Ấn-Độ và ở Á-châu. Một thế-kỷ đã chứng-
minh sự vĩ-đại của nó .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
129
Roy bổ-túc học-thuyết ấy trong hành-
động thực-tế, bằng những vận-động mạnh-mẽ
cải-cách xã-hội, được chính-quyền người Anh,
bấy giờ cởi-mở hơn và sáng-suốt hơn chính-
quyền ngày nay, tán-trợ. Ông không có chủ-
nghĩa ái-quốc hẹp-hòi, bế-quan. Vấn-đề tự-do,
tiến-bộ xã-hội và tôn-giáo ở ông choán hết tất
cả lý-do khác. Không những không muốn đuổi
nước Anh ra khỏi Ấn-Độ, ông còn tìm cách
làm cho nước Anh mọc rễ ở Ấn-Độ, làm sao
cho nó hòa máu của nó vàng và tư-tưởng của
nó ở đấy, hơn là con đỉa hút máu nó đến làm
hao mòn kiệt sức. Đến nỗi ông dẫn-dụ dân-tộc
ông thâu-nhận tiếng Anh làm ngôn-ngữ phổ-
thông, Âu-hóa xã-hội Ấn-Độ, rồi mới chinh-
phục lại nền độc-lập và để soi sáng Á-châu.
Những bài báo của ông hăm-hở về lý-tưởng tự-
do ở tất cả dân-tộc thế-giới, ở Ái-Nhĩ-Lan
( Irlande ), ở Naples đang bị phản-động nghiền
nát, về những vấn-đề lập-hiến ở I-Pha-Nho
( Espagne ), về nước Pháp ( France ) cách-
mệnh tháng bẩy năm 1830. Người chiến-sĩ
trung-thực của sự hợp-tác với nước Anh biết
SRI RAMAKRISHNA
130
nói thẳng với nước Anh và không giấu-diếm
rằng nếu nó làm cho ông mất hy-vọng mà ông
đã đặt vào nó để cho dân-tộc ông tiến-bộ, ông
sẽ công-nhiên đoạn tình với nó .
Vào cuối năm 1830, Hoàng-đế Delhi phái
Roy sang Anh làm đại-sứ, để dự vào Hội-đàm
Hạ-viện về việc cải-cách Hiến-chương Liên-
đoàn Đông-Ấn. Ông đến nước Anh tháng tư
năm 1831, được đón-tiếp nồng-nhiệt ở bến
Liverpool, Manchester và ở Luân-Đôn
( Londres ), tại Triều-đình, ông kết được nhiều
bạn trứ-danh, trong số đó có Bentham. Ông qua
Pháp du-lịch ít lâu, và mất về bệnh đau màng
óc, ngày 27 tháng 9 năm 1833 tại Bristol và
được chôn cất ở đấy. Trên bia mộ đề :
" Tín-đồ Ý-thức và Trung-kiên của
Thần-Linh Đồng-nhất, hiến-dâng trọn đời
với lòng thành-tín cho Sùng-bái một
Thần-Linh " .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
131
Chúng ta ở Âu-châu, theo văn Âu sẽ viết :
( Ý-nghĩa cũng thế ) _ Một Đồng-nhất-tính
nhân-loại .
Cái nhân-cách vĩ-đại ấy, mà người ta lấy
làm xấu-hổ không thấy tên đề trên bia thờ
Danh-nhân ( Pantheon ) Âu cũng như Á, đã xới
sâu luống cầy trên đất Ấn. Sau mười năm cầy
xới đã làm cho nó biến đổi. Đại văn-hào tiếng
Phạn ( Sanscrit ), tiếng Bengali, tiếng A-Rạp,
Ba-Tư và tiếng Anh, cha đẻ của văn suôi
Bengali hiện-đại, tác-giả của nhiều danh-ca,
thi-văn, diễn-văn, khái-luận triết-học, chính-trị,
biện-thuyết đủ các loại, ông đã thẳng tay reo
rắc tư-tưởng và lòng nhiệt-thành của ông. Và từ
đất Bengale nổi dậy một đồng lúa chín _ lúa
công-trình _ lúa nhân-vật .
Chính tự nơi ông đã xuất-hiện _ đây cũng
đủ rồi _ dòng Tagore .
Tổ-phụ của nhà đại thi-hào Tagore là
Dvarkanath Tagore, bạn của Ram Mohun Roy,
SRI RAMAKRISHNA
132
sau khi Roy qua đời ông này đã là cột-trụ tốt
nhất của Hội Brahmosamaj. Và thân-phụ của
thi-hào Rabindranath là Devendranath Tagore
( 1817 - 1905 ) người thừa-kế thứ nhìn của Roy
( sau một giai-đoạn không chủ của Hama-
handra Vidya Bagish ), đó là người tổ-chức
chân-chính của Brahmosamaj. Cái diện-mục
quý-phái ấy, mà lịch-sử đã tôn-trọng là bậc
Thánh ( Maharshi ) của nhân-dân ông đã xưng-
tụng, đáng cho chúng ta cố thử mô-tả lại hình-
dung .
Ông này vừa đẹp về thân-thể lẫn tâm-hồn,
tinh-thần cao, đạo-đức tinh-khiết, hoàn-toàn
quí-phái mà ông đã truyền cho dòng họ nhà
ông. Và ông cũng có một hồn thơ thâm sâu và
nồng-nhiệt .
Ông sinh ở tỉnh Calcutta, con trai trưởng
của một gia-đình giầu-có, được dưỡng-dục
trong truyền-thống chính-thống, lớn lên tiếp-
xúc với những cám-dỗ thế-tục và những tấn-
công đầu tiên của thích-thú, ông đã thoát ra vào
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
133
năm 18 tuổi vì thần chết đến thăm nhà ông.
Nhưng cơn khủng-hoảng tinh-thần đã kéo dài
trước khi ông đến được bậc cửa bình-an tôn-
giáo. Đặc-biệt là luôn luôn những xúc-động
thi-ca ngẫu-nhiên quyết-định cho sự bồng-bột
định-hướng _ ngọn gió trong một đêm trăng
trên bờ sông Hằng ( Gange ) đem lại tiếng Hari
( Vishnu ) của một kẻ hấp-hối cầu-nguyện ; _
câu nói của một người lái-đò trong cơn bão :
" Đừng sợ hãi ! Hãy tiến lên ! " _ lại một ngọn
gió thổi một tờ sách Phạn ( Sanscrit ) bay tới
chân ông với lời Kinh ( Upanisads ) như là
tiếng gọi của Thần-Linh : " Hãy bỏ hết đi theo
Ngài ! Hãy thích-thú với cái kho báu khôn
tả !" ...
Năm 1839 , cùng các em và vài người
bạn, ông lập ra một Hội để phổ-biến những
chân-lý ông đã giác-ngộ. Ba năm sau, ông gia-
nhập vào Hội Brahmosamaj, mà ông trở nên
tinh-thần lãnh-đạo. Chính ông đã dựng lên ngôi
đền tín-ngưỡng và nghi-lễ. Ông tổ-chức buổi lễ
đều đều, lập ra một Trường Thần-Học để huấn-
SRI RAMAKRISHNA
134
luyện lễ-sinh, giáo-sĩ, tự ông cũng truyền-giáo
và viết năm 1848 Thư-cảo Thần-học " Brahmo
Dharma " ( Pháp-luật Phạm-Thiên ) về giáo-lý
và luân-lý để xây-dựng tín-đồ. Chính ông xem
nó như là " khải ngộ ". Nguồn hứng-khởi ấy,
khác với Ram Mohun Roy, quảng-đại hơn và
phong-phú hơn, ở đây gần như chỉ là Kinh
Upanisads, nhưng giải-thích tự-do. Về sau ông
có cho xuất-bản bốn giáo-điều của Brahmo-
samaj :
I._ Khởi kỳ thủy là hư-vô. Thái Nhất một mình
độc-lập. Thái Nhất tạo ra vũ-trụ .
II._ Chỉ Thái Nhất một mình là Thượng-Đế
của Chân-lý, Trí-tuệ Vô-biên, Chí Thiện
và Toàn-Năng, Vĩnh-Cửu và Nhất Quán,
Một không hai .
III._ Thờ-phụng Ngài, Sùng-bái Ngài, có sự
giải-cứu cho chúng ta tại đời này và đời
sau .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
135
IV._ Phụng-thờ cốt là yêu Ngài và làm điều
Ngài yêu .
Vậy là tín-ngưỡng vào một Thượng-Đế
Duy-nhất, từ cái Không, sáng-tạo ra vũ-trụ ;
Thượng-Đế ấy thì cốt-yếu đặc-trưng là Tinh-
thần từ-thiện, năng-lực và chân-lý ; Sự sùng-
bái tuyệt-đối Ngài là tất-yếu cho sự giải-thoát
của loài người tại thế-giới bên kia .
Tôi không dám phán-đoán, phải chăng
đấy là một quan-niệm thật thuần-túy Ấn-Độ-
giáo như Devendranath đã nghĩ. Nhưng tôi
thấy đáng chú-ý là gia-đình Tagore thuộc về
một cộng-đồng Bà-La-Môn, mệnh-danh là
Pirilis, hay là giáo-sĩ chính, chức-vị của các
thành-phần từng giữ dưới chế-độ Hồi-giáo.
Theo nghĩa ấy thì họ là ngoại cấp, vì sự liên-hệ
của họ với tín-đồ Hồi-giáo. Do ảnh-hưởng xa
xăm ấy mà có lẽ họ có được cái tín-ngưỡng
độc-thần nghiêm-khắc lâu bền của họ. Từ
Dvarkanath đến Rabindranath, họ đã là kẻ thù
tuyệt-đối của tất cả ngẫu-tượng .
SRI RAMAKRISHNA
136
Như K.T. Paul đã bầy-tỏ, Devendranath
đã phải, một mặt, tranh-đấu kịch-liệt với tập-
tục chính-thống Ấn-Độ-giáo, và mặt khác với
truyền-giáo Cơ-Đốc cố du-nhập vào nội-địa.
Nhu-cầu tự-vệ buộc ông phải bao-vây thành-trì
của mình bằng một vòng đai những nguyên-lý
cứng dắn, ngay-thẳng như là những cột-trụ.
Nhịp cầu qua lại đã cắt đứt giữa hai cực-đoan
của tư-tưởng Ấn-Độ với Brahmosamaj. Hai
cực-đoan ấy là đa-thần-giáo mà Devendranath
cương-quyết bài-trừ, cùng nhất-nguyên-luận
tuyệt-đối của Çankara : Bởi vì Thành-trì Phạm-
Thiên ( Burg Brahmo ) là cung-điện của đại
Lưỡng-Nguyên tôn-giáo _ của Thượng-Đế độc-
nhất nhưng phân-biệt, và đối-diện là Lý-tính
nhân-loại đã được bẩm-thụ quyền-năng giải-
thích Thánh-điển. Tôi đã nói rằng Lý-tính ấy ở
Devendranath có khuynh-hướng đồng-hóa và
về sau càng đồng-hóa hơn nữa với khải-ngộ
tôn-giáo. Vào năm 1860, sau mười tám tháng
ẩn-cư trong núi Tuyết-sơn ( Himalayas ) gần
những ngọn đồi Simla, ông hái về một bó hoa
mặc-niệm trầm-tư một mình. Ông đem chúng
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
137
vào những bài thuyết-pháp xuất-khẩu, làm
rung-động đại-chúng tỉnh Calcutta. Và ông đã
cống-hiến cho Brahmosamaj một bộ Thánh-ca
mới lấy cảm-hứng ở nguồn Upanisads và thấm-
nhuần một tâm-linh nồng-nghiệt và thuần-túy .
Nhưng ít lâu sau, khi ở núi Tuyết-sơn về,
vào năm 1802 ông thâu-nhận một cộng-sự trẻ
tuồi ( 23 tuổi ), y đã vượt ông mà gây nên một
cuộc phân chia biệt phái _ một hàng biệt phái _
trong Brahmosamaj. Người thanh-niên ấy là
Keshab Chender Sen .
Con người ấy, sống một đời ngắn-ngủi,
tâm-hồn bất-định, lo-lắng và khải-ngộ ( 1838 -
1884 ), ông là nhân-vật chính-yếu đã in dấu
vào Brahmosamaj, ở hậu-bán thế-kỷ XIX. Ông
làm cho nó phong-phú và cố canh-tân _ đến nỗi
ông đã làm thương-tổn đến vận-mệnh của nó .
Ông là đại-biểu cho một giai-cấp và một
thế-hệ khác, thấm-nhuần ảnh-hưởng Tây-
phương hơn nhiều. Ông không phải là một đại-
SRI RAMAKRISHNA
138
gia quí-tộc như Roy và Devendranath, mà là
một phần-tử của giai-cấp tự-do, ưu-tú xứ
Bengale, cùng với Âu-Tây đổi trao tư-tưởng.
Ông thuộc giới Y-sĩ. Ông nội của ông, một
nhân-vật có tên tuổi, bí-thư bản-xứ của Hội Á-
Châu ( Société Asiatique ) đã từng quản-lý tạp-
chí phát-hành bằng tiếng Ấn ( Hindoustani ).
Ông mồ-côi từ sớm, được dưỡng-dục trong một
trường-học Anh và khác hẳn với hai vị tiền-bối
của ông, suốt đời ông không biết tiếng Phạn
( Sanscrit ), ông vội bỏ qua các hình-thức phổ-
thông của tôn-giáo Ấn-Độ. Đấng Cơ-Đốc đã
làm ông xúc-động và ông phải giới-thiệu Ngài
với Brahmosamaj, cũng như với tâm-hồn của
giới thượng-lưu Ấn. Khi ông mất, báo " Indian
Christian Herald " ( Cơ-Đốc Ấn Truyền-Lệnh )
viết : " Nhà Thờ Thiên-Chúa-giáo ai-điếu cái
chết của người đồng-minh vĩ-đại của nó ...
Những tín-đồ Thiên-Chúa coi ông như một sứ-
thần của Chúa để thức-tỉnh Ấn-Độ về tinh-thần
của Cơ-Đốc. Ông đã đánh tan lòng đố-kỵ của
Ân-Độ đối với Cơ-Đốc."
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
139
Điều khẳng-định cuối trên đây không
đúng. Bởi vì chúng ta sẽ thấy sau đây, Keshab
tự mình đã trải bao nhiêu là đau-khổ vì việc
biện-hộ cho Cơ-Đốc. Và ý-nghĩa thật của đời
ông đã bị phần lớn những người nói về ông làm
sai lạc, cả ở trong Brahmosamaj, mà dị-đoan
của lãnh-tụ đã che phủ và tìm cách dấu-diếm
đi. Chính ông cũng chỉ cởi mở dần dần. Phải
nhờ vào những tài-liệu hai mươi năm sau để
chúng ta mới biết được rằng ở thời niên-thiếu
ông đã từng chịu động-tác của ba đại Cơ-Đốc-
giáo đến thăm : Jean, nhà Tiên-phong ; Đấng
Cơ-Đốc và Thánh Paul. Trong một bức thư hệ-
trọng, ông kể hết tâm-sự với đệ-tử thân-tín
Pratap Chunder Mozoomdar, bức thư chính-
yếu mà các phần-tử Brahmo không Cơ-Đốc đã
làm ngơ. Trong đó cho chúng ta thấy sách-lược
của ông : chờ khi cơ-hội tới để tuyên-bố cho
công-chúng cái tín-ngưỡng hoàn-toàn của ông
vào Đấng Cơ-Đốc. Cuộc đời sinh-đôi ấy, mà
Keshab bắt-buộc phải sống từ lâu, và do tính-
tình phức-tạp của ông tạo nên, tính-tình gồm
nhiều yếu-tố Tây-phương và Đông-phương
SRI RAMAKRISHNA
140
song song với nhau, mà ông không dung-hòa
được chúng khiến cho sử-gia nghiên-cứu về
ông một cách khách-quan có nhiệm-vụ hết sức
khó-khăn. Các tiểu-sử-gia Ấn, hầu hết là những
người của phe-phái càng làm cho nhiệm-vụ ấy
thêm khó hơn .
Lúc đó, đầu tiên ông gia-nhập Brahmo-
samaj là do một người con trai của Deven-
dranath Tagore, bạn học trường cao-đẳng với
ông, đã giới-thiệu, thì Keshab rất được quí
mến. Ông được Devendranath yêu dấu và cả
lớp thanh-niên Brahmo thân yêu vì họ cảm
thấy gần với ông hơn là với nhà quí-phái
Devendranath. Miễn-cưỡng bị cô-lập bởi giai-
cấp và lý-tưởng oai-nghiêm, Keshab có ý-thức
xã-hội và muốn truyền cho Ấn-Độ. Chính ông
có bản-tính quá độ cá-nhân _ và có lẽ chính bởi
ông như thế _ từ sớm ông đã nhận-thức rằng
một phần những tệ-đoan của nước mình là do
chủ-nghĩa quá cá-nhân ấy mà ra, và nó phải
thâu-hoặch một ý-thức xã-hội mới. " Tất cả
tâm-hồn hãy xã-hội-hóa và thực-hiện đồng-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
141
nhất-tính của chúng với Dân cộng-đồng hữu-
hình ". Cái quan-niệm ấy làm cho thống-nhất-
luận quí-phái của Roy gần với quần-chúng Ấn-
Độ, và đưa thanh-niên Keshab đến sự cảm-
thông với những nguyện-vọng nồng-nhiệt nhất
của thế-hệ mới. cũng như sau này, Viveka-
nanda đã phải chịu ảnh-hưởng nhiều _ có lẽ
ông này không nhận thấy : vì rằng những ý-
tưởng là sản-phẩm tự-nhiên của thời-đại, và
cùng những ý-tưởng như nhau nẩy sinh vào
thời-đại như nhau, trong những tinh-thần khác
nhau _ Keshab quan-niệm tôn-giáo thiết-yếu
cho sự phục-hồi dân-tộc ; và trong một bài
tuyên-ngôn ở Bombay ( 1868 ), ông muốn lấy
tôn-giáo làm " cơ-bản cho cải-cách xã-hội ".
Như vậy là Cải-cách của Brahmosamaj sắp
đem thành-quả của nó vào hành-động. Người ta
sẽ thấy từ bàn tay hoạt-động, nhưng còn run
rẩy, của Keshab gieo rắc vào đất Ấn một mớ
hạt giống phong-phú, để rồi đến lượt cánh tay
cường-tráng ném tung ra bốn phương trong tổ-
quốc thức-tỉnh bởi lời sấm vang của Viveka-
nanda .
SRI RAMAKRISHNA
142
Nhưng Keshab đi trước thời-đại ; và một
số cải-cách của ông đụng chạm với tinh-thần
truyền-thống của Brahmosamaj. Người ta còn
cho rằng vấn-đề hôn-nhân giữa các giai-cấp đã
là vật chướng ngại giữa ông với Devendranath.
Tôi tin rằng còn nhiều chướng ngại khác nữa
quan-trọng hơn. Về nguyên-nhân chia rẽ giữa
hai người ấy thì tình liên-ái của họ đã che phủ,
nhưng người ta có thể tưởng-tượng ra theo việc
xẩy đến ngay sau khi ấy. Dù tinh-thần của
Devendranath có cởi mở đến đâu đi nữa cho
những hy-vọng xây-dựng hòa-điệu nhân-loại
qua Brahmosamaj, ông vẫn còn tha-thiết với
truyền-thống Ấn-Độ và Thánh-điển của nó.
Ông không có thể không biết công việc Cơ-
Đốc-hóa đang diễn ra trong tâm-hồn của người
đệ-tử yêu dấu của ông ; và dù với giá đau lòng
nào, ông cũng không có thể hợp-tác lâu nữa,
với một người tư-giáo, đã lấy Tân-Ước làm
nguồn giáo-lý được .
Năm 1866 xảy ra sự chia rẽ tất nhiên. Hội
Brahmosamaj bị cắt ra làm hai, Devendranath
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
143
giữ ngành lãnh-đạo của Adi Brahmo ( Nguyên-
thủy Brahmo ), còn Keshab ra lập ngành Brah-
mosamaj của Ấn-Độ .
Thử-thách cay đắng cho cả hai người,
nhất là cho Keshab, mà chủ-trương dị-đoan làm
nổi lên bao nhiêu oán-hận chống ông. Nhưng ở
phút đầu, ông không tiên-liệu. Cả hai tin vào
uy-tín của mình với công-luận và sự tán-dương
của một vài người bạn thân-tín, Keshab công-
khai tuyên-bố, ba tháng sau cuộc ly-khai ấy
bằng một bài diễn-văn vang-dội về Jésus
Christ, Âu-châu và Á-châu. Ông công-bố giáo-
lý Cơ-Đốc _ nhưng là một Cơ-Đốc Á-châu
không được Âu-châu hiểu _ " tất cả sự vĩ-đại
mà tính-tình Á-châu cảm thấy được " _ Và
giáo-lý của ông còn lấy tính-chất luân-lý làm
chính ; Keshab bị hấp-dẫn bởi luân-lý đạo-đức
Cơ-Đốc và hai nguyên-lý " tha-thứ " và " hy-
sinh tự-ngã ". Ông nói là chỉ ở hai nguyên-lý ấy
và tin vào Ngài mà Âu-châu và Á-châu có thể
lại tìm thấy hòa-điệu và đồng-nhất-tính chung .
SRI RAMAKRISHNA
144
Lòng nhiệt-thành của tân tín-đồ đến mức
ông tự xưng, với danh-hiệu của bạn ông cho, là
Jésusdas hay là " tôi tớ của Jésus ", và trong
đám nhỏ thân-hữu, ông cùng họ làm lễ Noel
nhịn ăn .
Nhưng bài diễn-thuyết gây nên phẫn-nộ ;
và Keshab không tìm cách làm lắng dịu tinh-
thần người ta, với bài diễn-thuyết thứ hai về
đề-tài " Các đại Danh-nhân " ( 1866 ) : " Tôi
dám nói Jésus được xếp vào hàng các sứ-giả
của Thượng-Đế, mỗi vị mang một sứ-mệnh
riêng, vậy nên người ta phải đón-tiếp tất cả, mà
không tự buộc vào một ai." Ông mở rộng Nhà-
Thờ của ông cho tất cả hạng người của tất cả
các xứ-sở và thời-đại, lần đầu ông đem vào
sách giáo-lý tín-đồ Brahmosamaj những trích
văn của Thánh Kinh Bible, Coran, Zend
Avesta. Nhưng sự xúc-động đã không lắng
xuống, lại nổi dậy bội phần .
Keshab chẳng phải con người thản-nhiên
trong tình-thế ấy. Với cái tâm-hồn rung-động,
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
145
không được bảo-vệ, ông đau khổ hơn ai hết về
sự bị bỏ rơi. Công-chúng không hiểu, bạn-hữu
lánh xa, những khó-khăn về vật-chất, và trên
hết là những bối-rối của lương-tâm mình _ biết
đâu là đúng ? Sự nghi-ngờ về sứ-mệnh của
mình _ " Một cảm-tưởng sâu sắc về sự yếu
hèn, về tội-lỗi và về hối-hận ", riêng đặc-tính
ông đã làm chia cách ông với phần nhiều các
đại tinh-thần Ấn-Độ-giáo và đã khiến ông phải
trải qua, năm 1867, một cơn bão-tố, nó đã làm
tan nát tâm-hồn ông. Một mình với đau-khổ,
không trợ-lực, một mình với Thượng-Đế.
Thượng-Đế nói với ông. Những thực-nghiệm
tín-ngưỡng của ông bấy giờ, những xúc-động
ông đã trải qua, một mình hành-lễ hàng ngày.
Sự thờ-phụng Thần-linh tại-gia, dẫn đến một
biến-đổi hoàn-toàn, không phải về ý-tưởng mà
là về những biểu-hiện của chúng. Con người
ấy, người lãnh-tụ ấy cho tới nay tỏ ra là một
nhà trí-thức tôn-giáo, giảng đạo-đức xa lạ với
tình-cảm bồng-bột _ ( kỳ thực ông ẩn-ức
chúng ) _ chợt bị tràn-ngập một luồng cảm-
SRI RAMAKRISHNA
146
xúc : tình-yêu với nước mắt. Ông đón nhận với
lòng dào-dạt .
Một kỷ-nguyên mới cho Brahmosamaj.
Tâm-linh của nhà đại Bhakta ( Sùng-bái )
Chaïtanya, và những lễ-nhạc Sankirtans được
thâu-nhập. Từ sớm đến tối, cầu-nguyện và tụng
ca, nhạc-khí Vaishnavites, lễ mừng Thượng-
Đế ; và Keshab hành-lễ, nước mắt ròng ròng _
người ta bảo trước đấy ông chưa từng khóc bao
giờ .
Làn sóng cảm-xúc lan đi. Lòng thành của
Keshab, tinh-thần quảng-đại thông-cảm đại-
đồng và lòng ưu-thời mẫn-thế của ông đã kéo
trở về những cảm-tình vừa của giới thượng-lưu
Ấn lẫn Anh, của phó-vương. Năm 1870, cuộc
du-lịch sang Anh-quốc của ông toàn-thắng, ông
làm nổi dậy những cuộc hoan-nghênh, giống
như những hoan-nghênh Kossuth đã từng khích
khởi. Suốt sáu tháng ông cư-ngụ ở đấy, ông đã
nói trong bẩy mươi cuộc hội-họp, trước bốn
mươi ngàn người, làm cho họ mê-li bởi chính
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
147
lời nói đơn-giản bằng Anh-văn thuần-túy, với
giọng nói du-dương. Người ta sánh ông với
Gladstone. Người ta đón chào ông như là bạn
đồng-minh tinh-thần của Tây-phương, nhà
truyền Phúc-Âm của Cơ-Đốc ở Đông-phương.
Cả hai bên đều có tin-tưởng nuôi ảo-vọng mà
những năm sau đã bị đánh tan, làm cho người
Anh không khỏi thất-vọng ngây-thơ. Bởi vì
Keshab vẫn là tâm-hồn Ấn-Độ thâm sâu và
không nhập vào hàng-ngũ của Cơ-Đốc-giáo
Âu-tây. Trái lại, ông muốn tính thâu-nhận
thiện-chí của chính-quyền để Ấn-Độ được lợi,
và cả Brahmosamaj nữa. Giáo-hội Brahmo-
samaj cải-cách, lập chi-nhánh khắp nơi, ở
Simla, Bombay, Lahore, Lucknow, Monghyr
v.v... Keshab đi một vòng, truyền-giáo Ấn-Độ
năm 1873, để tìm thống-nhất anh chi em tín-đồ
tân-giáo, nó đã mở rộng chân-trời mới cho ông.
Và cuộc du-hành này đã là một kiểu tiên-phong
thu nhỏ cho cuộc đại du-hành thám-hiểm mà
hai mươi năm sau này Vivekananda thực-hành
như là một đạo-sĩ tự-do ( Sannyasin ). Keshab
tưởng đã tìm thấy chìa khóa của đa-thần-giáo
SRI RAMAKRISHNA
148
bình-dân mà Brahmosamaj xưa nay vốn đố-kỵ,
và có thể ký-kết với nó liên-minh thần-giáo
thuần-túy. Nhưng Keshab cũng đã đem vào
trong sự hợp-nhất ấy một tinh-thần điều-giải
của trí-thức, còn Ramakrishna đồng thời đã
thực-hiện hồn nhiên. Ông muốn tự khuất-phục
_ ông không làm cho tín-đồ Đa-thần-giáo
khuất-phục _ rằng chư Thần-linh của chúng
căn-bản chỉ là những danh-hiệu thuộc-tính của
Một Thượng-Đế, Nhất-Thần .
_ " Như ông đã viết trong tạp-chí
" Sunday Miror " ( Gương Chúa Nhật ) _
ngày 1 - 8 - 1880 dưới nhan-đề " La
Philososphie du Culte des Idoles " ( Triết-
lý Thờ-phụng Ngẫu-tượng ) : Thờ ngẫu-
tượng Ấn-Độ-giáo chẳng phải chi khác
hơn là thờ thuộc-tính Thần-linh cụ-thể-
hóa. Nếu người ta để sang một bên hình-
tướng vật-thể, còn lại là một mỹ-dụ... Khi
nào chúng ta thám-hiểm những miền u-tối
của Ấn-Độ thần-thoại, chúng ta khám-phá
thấy rằng mỗi một ngẫu-tượng của Ấn-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
149
Độ-giáo phụng-thờ biều-hiệu cho một
thuộc-tính của Thượng-Đế, với một danh-
hiệu đặc-thù. Chúng ta đòi thờ Thượng-
Đế như là ba trăm ba mươi triệu thuộc-
tính. Tin vào một Thần-linh bất-phân,
một phiến duy-nhất, không nghĩ đến các
phương-diện vô cùng phong-phú của bản-
tính Thần-linh. Đấy là tin vào một
Thượng-Đế trừu-tượng ; điều ấy, về thực-
hành đưa đến duy-lý-luận và vô-tín-
ngưỡng. Nếu chúng ta muốn thờ Ngài ở
tất cả biểu-hiện của Ngài thì chúng ta
mệnh-danh cho chúng với danh-hiệu
Thần-linh... "
Đấy là bước tiến lớn của tri-thức tôn-giáo,
nó đưa đến chiều-hướng thông-cảm nhân-loại-
tính hơn. Nhưng đà tiến ấy dừng lại giữa
đường, Keshab nhất-định bảo-tồn cho thần-
giáo của mình tất cả quyền-thế thực-sự, còn
nhường lại cho Đa-thần-giáo những danh-dự
hình-thức bề-ngoài. Và đồng thời ông tránh
Advaïtisme, Nhất-nguyên Tuyệt-đối-luận mà
SRI RAMAKRISHNA
150
giáo-hội Brahmo luôn luôn phủ-nhận. Nghĩa-lý
tôn-giáo ở lại quãng giữa bức tường ngăn hai
đối-phương, hai tín-ngưỡng cực-đoan. Tình-thế
ngự-trị bấp-bênh, không quân-bình ổn-định và
nó không cho phép đứng vững. Tuy vậy
Keshab cứ dựng lập tại đấy. Và ông tự tin có
sứ-mệnh của Thượng-Đế ban xuống cho nhân-
dân Luật-pháp Khải-ngộ mới, mà ông gọi là :
" Tân Thiên Khải " ( Nouvelle Dispensation ).
Ông bắt đầu ý-thức điều ấy kể từ năm 1875,
năm bắt đầu có sự liên-lạc của ông với Rama-
krishna .
Cũng như bao nhiêu người thú-vị về
pháp-chế, ông còn phải vất-vả nhiều để xây-
dựng luật-pháp và trật-tự trong tư-tưởng của
mình. Ông muốn bao-quát tất cả một lúc : Cơ-
Đốc với Brahman, Tân-Ước và các Đạo Yogas,
tất cả tôn-giáo và lý-tính. Ramakrishna, về vấn-
đề tín-ngưỡng ấy đã lãnh-hội được rất giản-dị
bằng con tim, ông ta không đòi sự phát-hiện
của ông ta phải thành một thể học-thuyết và qui
phép. Ông ta tự mãn vạch đường đi, làm
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
151
gương-mẫu cho đà khởi hành. Còn Keshab thì
lại vừa mượn phương-pháp trí-thức Âu-tây, nó
điều-khiển một hội-thảo lịch-sử các tôn-giáo _
và phương-pháp của các nhà khải-ngộ Ấn-Độ
và Mỹ-quốc, của các tín-đồ Sùng-bái ( Bhakti )
than khóc cùng các nhà Phục-hoạt ( Revivals ),
các sự sám-hối công-khai. Ông phân-phát cho
đệ-tử ưu-tú, tùy theo tính-tình của mỗi người _
đấy là điều thuộc về một sư-phụ khôn khéo _
các loại giáo-lý để học-hỏi và các Đạo-dẫn
( Yogas ) để thực-hành. Ông cân-nhắc giữa hai
chỉ-đạo, đối với ông, điều quý giá là gương-
mẫu sinh-hoạt của Ramakrishna, mà ông hay
đến tìm kiếm những bài học về trí-tuệ trong
thần-hóa, và ánh-sáng của tín-ngưỡng Cơ-Đốc,
do một mục-sư Anh, sau này trở nên một linh-
mục Thiên-Chúa Da-Tô, là Luke Revington.
Ông cũng không nhất-quyết giữa cách sống
Đạo ở Thượng-Đế với cách sống Đời ở thế-
gian. Một lòng thuần-khiết, ông hiểu rằng cách
nọ không phương hại gì cách kia. Nhưng ông
đã làm hại cho chính mình và hậu-quả cho
giáo-hội Brahmosamaj đối với dư-luận. Và hơn
SRI RAMAKRISHNA
152
nữa, với một " lòng thành-thực trong sáng hơn
hết ", ông không chút giữ-gìn để che-dấu
những sự biến-đổi hay là mâu-thuẫn phức-tạp
trong tính-tình của mình .
Hậu-quả là vào năm 1878, lại diễn ra một
biệt-phái mới trong Brahmosamaj của ông. Và
Keshab tự thấy mình là đích cho người trong
nhà chống-đối mãnh-liệt. Ông bị tố-cáo là đã
phản-bội nguyên-tắc giáo-lý của ông. Phần lớn
bạn-hữu đã bỏ rơi ông. Ông càng thấy phải
tuân theo định-mệnh mà trông cậy vào vài
người hiếm-hoi còn tin-tưởng nơi ông : vào
Ramakrishna và Cha Luke Revington. Và cuộc
thử-thách mới này đã mở cửa cho một trào-lưu
phát-biểu tín-ngưỡng Cơ-Đốc-giáo, càng ngày
càng bộc-lộ và đi sâu mãi vào ý-nghĩa thâm-
trầm của siêu-hình Cơ-Đốc-giáo. Đấy là những
bài diễn-văn nhan-đề : " Phải chăng tôi là một
nhà tiên-tri khải ngộ ? " ( tháng 1 năm 1879 ),
nói về ba ảo-tưởng thủa bình-sinh của ông :
Jean le Baptiste, Cơ-Đốc le Christ và Thánh
Phao-Lồ ( Paul ) ; " Ấn-Độ hỏi ai là Cơ-Đốc ? "
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
153
( Lễ Phục-sinh 1879 ) trong đó ông báo cho
Ấn-Độ ngày giáng lâm của " Người Chồng ...
đấng Cơ-Đốc tôi, đấng Cơ-Đốc hiền-hòa con
đẻ của Thượng-Đế ở nhân-loại ... " ; " Thượng-
Đế có tự biểu-hiện một mình không ? " ( 1879 )
bầy tỏ người Con ngồi bên người Cha .
Song, điều ấy cũng không ngăn-trở ông,
cùng vào lúc ấy từ đỉnh Tuyết-sơn (Hymalaya),
ông đọc cho nhân-loại Sứ-đồ-thư nổi tiếng là
" Epitre aux Frères Indiens " ( Sứ-đồ-thư cho
Anh Em Ấn-Độ ) ( 1880 vào dịp lễ kỷ-niệm hội
Brahmosamaj ), với luận-điệu giáo-chủ, ông
báo cho hoàn-vũ sứ-mệnh của Thượng-Đế đã
ban cho ông _ Tân Pháp Thiên Khải _
( Nouvelle Dispensation ). Người ta tưởng như
đọc những trang Thánh Kinh ( Bible ) :
_ " Nghe đây, đất Hindoustan,
Chúa-tể Thượng-Đế Người là Một ... "
Đấy là mở đầu Sứ-đồ-thư cho anh em Ấn-
Độ. " Tinh-thần vĩ-đại Jehovah, mà giáo-đồ
hét : _ Ta thực có và đất trời tuyên-dương ... "
SRI RAMAKRISHNA
154
_ " Tôi viết Sứ-đồ-thư này,
anh em quý mến thương yêu ơi, trong
tinh- thần và theo gương Thánh Phao-Lồ
(Paul) dù tôi không xứng-đáng một chút
nào đối với Thầy tôn kính của ông ... "
Nhưng ông lại thêm :
_ " Phao-Lồ ( Paul ) viết trong
lòng tin vào Cơ-Đốc. Là tín-đồ Thần-
giáo tôi viết điều này, Sứ-đồ-thư kính- cẩn
của tôi không phải dưới chân một
tiên-tri giáo-tổ, mà tất cả giáo-tổ tiên-tri
trên trời dưới đất, còn sống hay đã khuất."
Vì ông có bão-phụ được là sự thành-tựu
của Cơ-Đốc tiên-phong :
_ " Tân-pháp Thiên-khải là lời tiên-
tri thành-tựu của Cơ-Đốc ... Đấng Toàn-
Năng nói cho nước ta ngày nay cũng như
Ngài đã nói cho các dân-tộc khác xưa
kia ."
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
155
Lúc ấy ông tin-tưởng như là cùng một
thể-chất với Tinh-thần Thượng-Đế :
_ " Thần-linh với bản-ngã tôi kết-
hợp với nhau. Nếu Người thấy tôi, Người
thấy Ngài ..."
Vậy thì Đấng Toàn-Năng mà ông là tiếng
nói, đã nói gì ? " Tình-yêu mới nào, Hy-vọng
mới nào, Lạc-thú mới gì Ngài đem lại ?
_ ( Thật là êm-dịu cái Tân-Ước mới này ! ... ) "
Đây là lời của Jehovah trở thành
" Thượng-Đế của Ấn-Độ " nói cho Moïse mới :
_ " Tinh-thần vô-hạn không mắt nào
thấy được, không tai nào đã nghe tiếng, là
Thường-Đế của các người, và các người
không còn có Thượng-Đế nào khác. Có
hai Thượng-Đế ngụy mà Ấn-Độ các
người đã dựng lên đối-lập với Tối-Cao :
Thần-linh mà tay kẻ ngu dốt đã nặn ra, và
Thần-linh mà tưởng-tượng khoe-khoang
của kẻ thông-minh đã quan-niệm. Cả hai
đều thù-địch với Đấng Chúa-tể của chúng
SRI RAMAKRISHNA
156
ta. Và các người phải từ bỏ cả hai đi...
Chớ thờ-phụng vật-chất chết, người chết
hay là trừu-tượng chết. Hãy thờ Tinh-thần
linh-hoạt, nhìn mà không mắt... Sự
thông-đồng tâm-hồn, với Thượng-Đế và
với những tinh-thần các bậc Thánh đã
qua, sẽ là thiên-đường duy-nhất chân-
chính của các người và các người không
có thiên-đường nào khác nữa... Trong sự
bồng-bột của tâm-linh hãy tìm lạc-thú và
thánh-linh thiên-đường... Thiên-đường
của các người không xa, ở tại trong
lòng... Hãy tôn-kính và yêu-mến tất cả
Tổ-tiên của gia-đình nhân-loại : tiên-tri,
thánh, tử-đạo, hiền, sứ-đồ, giáo-sĩ, nhà từ-
thiện của tất cả thời-đại và xứ-sở, không
thành-kiến giai-cấp. Các bậc Thánh Ấn-
Độ không độc-quyền tình-cảm của các
người cùng sự tôn-kính của các người !...
Hãy dâng lên cho tất cả bậc tiên-tri lòng
tin và những kẻ ái-mộ đại-đồng của các
Ngài sẽ được hưởng... Mỗi người thiện
và vĩ-nhân là nhân-cách-hóa một yếu-tố
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
157
đặc-biệt của Chân-lý và Thánh-thiện. Hãy
ngồi khúm-núm dưới chân của mỗi Sứ-
giả Nhà Trời... Da thịt của Ngài là da-thịt
của các người, máu của Ngài là máu của
các người. Hãy ở tại nơi Ngài và Ngài sẽ
ở tại nơi các người mãi mãi !... "
Người ta không có thể đọc được điều gì
cao-thượng hơn. Đấy là biểu-diễn tối-cao của
Thần-giáo đại-đồng ; và nó sẽ rất gần với các
tín-đồ Thần-đạo Âu-châu, không tuân theo một
tôn-giáo khải-ngộ. Nó giang tay đón lấy tất cả
tinh-thần thanh-khiết toàn cõi mặt đất, ở quá-
khứ, ở hiện-tại và ở tương-lai : Vì Phúc-Âm
của Keshab không tự xưng là tiếng nói cùng tột
của Thiên-khải. " Kinh Thánh Ấn-Độ không
đóng kín, mỗi năm có nhiều chương mới thêm
vào, luôn luôn tiến xa trong tình-yêu và hiểu-
biết về Thượng-Đế !... Điều mà Chúa bộc-lộ
cho chúng ta, mười năm nữa, ai biết được, trừ
phi là Ngài ? "
SRI RAMAKRISHNA
158
Nhưng cái Thần-giáo tự-do và rộng-rãi
ấy, tự-tin và bình-thản, thì làm thế nào giải-
thích nhất-trí với sự phủ-phục của ông dưới
chân Đấng Cơ-Đốc, ngay năm sau ?
_ " ... Tôi phải nói với các người
rằng, tôi có liên-hệ với Phúc-Âm của
Jésus, và ở đấy tôi giữ một địa-vị quan-
trọng. Tôi là đứa con trai hoang, mà Đấng
Cơ-Đốc đã nó đến, và tôi mong muốn trở
về với Cha tôi, trong lòng sám-hối. Tôi sẽ
còn nói nhiều hơn nữa để cho đối-phương
của tôi thỏa-thích và được xây-dựng...
Tôi là Judas, đứa khốn-nạn đã phản-bội
Thày mình... Judas chính thật nó đã phạm
tội đối với Chân-lý. Và Jésus ngự trong
lòng tôi !... "
Người ta hãy tưởng-tượng cái hiệu-quả
đảo-điên của một lời sám-hối công-khai như
thế, đối với các phần-tử hội-viện Brahmosamaj,
là những người đã tin vào lời ông để đi theo
lãnh-tụ của mình .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
159
Thực ra Keshab còn rẫy-rụa. Ông truyền-
giảng Cơ-Đốc-giáo, ông từ-chối là " tín-đồ
Cơ-Đốc-giáo ". Ông cố-gắng một cách lạ-kỳ để
phối-hợp Cơ-Đốc với Socrate và Chaïtanya,
bằng cách xếp-đặt mỗi vị vào một bộ-phận
thân-thể mình hay là trong tư-tưởng của mình.
Nhưng kìa, ông quy-định trong Nhà-Thờ Samaj
những nghi-thức Thánh-lễ của Cơ-Đốc-giáo và
thích-ứng vào tục-lệ Ấn-Độ. Ấy là ngày 6
tháng 3 năm 1881, ông làm lễ Thánh Thể
( Saint Sacrément ) với gạo và nước, thay cho
bánh mì và rượu chát. Và ba tháng sau, làm lễ
rửa tội, mà ông làm tỉ-mỉ để ca-tụng ngôi Cha,
Con và Thánh Thần ( Le Père, le Fils et le Saint
Esprit ) .
Sau cùng, năm 1882 ông làm một bước
chót : Nguyên-lý " Tam vi nhất thể " ( Trinité )
của Cơ-Đốc-giáo _ trong tất cả bí-quyết của
Cơ-Đốc thì bí-quyết này luôn luôn đã là trở-
ngại nhất cho Á-châu, đối-tượng của ác-cảm
hay riễu-cợt, _ cái nguyên-lý ấy, không những
SRI RAMAKRISHNA
160
Keshab công-nhận ; ông còn làm lễ long-trọng;
ông được khải-ngộ ; cái bí-quyết ấy hiện ra cho
ông _ ( và hẳn rằng không phải vô-lý ) như là
chìa-khóa mở cửa vào tất cả vòm trời siêu-hình
Cơ-Đốc-giáo, giải-thích tối cao về vũ-trụ...
" Cái kho báu ấy trong đó tàng-trữ thần-học,
triết-học và thi-ca của tất cả nhân-loại... Biểu-
thị tối-cao của ý-thức tôn-giáo thế-giới..."
Theo tôi thì ông giới-thuyết rất chính-xác Ba
Ngôi theo quan-điểm chính-thống :
_ " Hình Tam Giác = Ngôi Cha tại
ngọn. Qua Ngôi Con, Thượng-Đế giáng
xuống và tiếp-xúc với bể-trần nhân-loại.
Qua Ngôi Thánh Thần, Thượng-Đế kéo
nhân-loại sa-đọa trở về. Thần-linh đi
xuống là Ngôi Con, Thần-linh trở lên
mang những linh-hồn về Ngôi Cha là
Ngôi Thánh Thần. Đấy là tất cả triết-lý
Cứu-độ : Tạo-hóa - Mô-Phạm - Thánh-
hóa _ Thượng-Đế bất-động - Thượng-Đế
du-hành - Thượng-Đế trở về. _ Tôi tồn-
tại - Tôi thương-yêu - Tôi giải-thoát ).
_ ( Keshab, 1882 )
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
161
Không còn chi phân-cách ông với Cơ-
Đốc-giáo nữa chăng ?
_ Một chút Không mà là cả một thế-giới.
Đấy là Sứ-mệnh riêng của ông, " Thiên-Khải "
Ấn-Độ của ông. Ông không nhất-quyết từ bỏ.
Ông thâu-nhận Cơ-Đốc, nhưng Cơ-Đốc phải
thâu-nhận Ấn-Độ và Thần-đạo của Keshab...
Lui đi, tín-ngưỡng ngẫu-tượng ! Kẻ truyền-giáo
ngẫu-tượng lùi đi ! " ( Và tiếng gọi này cho
tín-đồ Tây-phương ). Đấng Cơ-Đốc là Chúa
Lời ( Logos ) vĩnh-cửu. " Như Lời đang ngủ,
Cơ-Đốc đang sống như tiềm-năng trong lòng
Cha, từ lâu trước khi Ngài giáng xuống thế-
gian chúng ta ."
Trước kỷ-nguyên Thiên-Chúa, Đấng Cơ-
Đốc ở tại Hy-Lạp và La-Mã, ở tại Ai-Cập và ở
tại Ấn-Độ, ở tại các thi-sĩ Rig. Veda cũng như
ở tại Khổng-Phu-Tử và Thích-Ca Mâu-Ni...
Và phận-sự giáo-đồ của Tân-pháp Thiên-khải
là tuyên-bố cái ý-nghĩa chân-chính đại-đồng
của Cơ-Đốc. Bởi vì sau Ngôi Con là Ngôi
SRI RAMAKRISHNA
162
Thánh Thần. " Nhà-Thờ Tân-Pháp Thiên-Khải
là Nhà-Thờ Thánh Thần, do Thần-linh thiết-lập
để hoàn-thành Cựu và Tân Ước ."
Như thế là không có mật gì ở Thần-đạo
Hy-Mã-Lạp-Sơn ( Tuyết-sơn ) mặc dù có
những chuyển-động mạnh bạo có vẻ như muốn
sẻ đôi bức tường từ trên xuống dưới. Với một
sức cố-gắng dũng-mãnh về tư-tưởng, Keshab
đã đạt được sự thâu-hóa Cơ-Đốc, và ông đã
phủ danh-hiệu Cơ-Đốc lên Tân-pháp Thiên-
khải riêng của ông, tự cho được gọi lên để bộc-
lộ ý-nghĩa chân-chính của Cơ-Đốc, cho Cơ-
Đốc-giáo Tây-phương .
Đây là mục-tiêu công-khai của Thông-
điệp cuối cùng của Keshab, trước khi ông mất :
" Thông-điệp của Á-châu cho Âu-châu ( 1883):
_ " Âu-châu, tôn phái và nhục-thể,
hãy tra lưỡi gươm tín-ngưỡng hẹp-hòi của
ngươi vào vỏ ! Hãy bỏ nó đi mà về đây
hợp vào Nhà-Thờ Da-Tô Đại-Đồng chân-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
163
chính, dưới danh-nghĩa Chân Cơ-Đốc,
Con Thượng-Đế !...
_ " Cơ-Đốc Âu-châu chỉ hiểu có
phần nửa những lời nói của Cơ-Đốc. Nó
đã hiểu rằng Cơ-Đốc và Thượng-Đế chỉ
là Một, nhưng không hiểu rằng Cơ-Đốc
chỉ làm Một với Nhân-loại... Và đấy là
cái đại bí-quyết mà Tân-pháp Thiên-khải
bộc-lộ cho thế-giới : không những chủ-
định hòa-giải Người với Người !... Á-
châu với Âu-châu ; Chị em ! Hãy hợp-
nhất nơi Cơ-Đốc !... Tất cả cái gì tốt, thật
và đẹp _ đức hiền-từ của Á-châu Ấn-Độ-
giáo, tính ngay-thật của Hồi-giáo và đức
từ-bi của Phật-giáo _ tất cả cái gì Thánh
là của Cơ-Đốc ... "
Và vị Giáo-hoàng mới của tân La-Mã Á-
châu cất tiếng hát bài Thánh-ca Hòa-giải tuyệt
đẹp .
Nhưng ông thực quá là Giáo-hoàng. Cái
lý thống-nhất tất cả mọi người hòa-giải phải
SRI RAMAKRISHNA
164
theo đúng giáo-lý, và để bệnh-vực giáo-lý ấy,
ông đã cầm sẵn trong tay lưỡi tầm sét. Ông
không điều-giải về nguyên-tắc Nhất-thần-giáo
_ Duy-nhất Thượng-Đế _
" Khoa-học là một. Nhà-Thờ có một ."
Và đệ-tử ông, B.Mozoomdar gán cho ông
lời nói sau Đấng Cơ-Đốc mà ông nhắc lại với
cử-chỉ nguyền-rủa, còn hung bạo hơn :
_ " Một là Đạo, và không có cổng
sau để vào thiên-đường. Và kẻ nào không
vào bằng cửa chính, là một đứa kẻ-trộm
và một đứa kẻ-cướp ."
Và đấy thực là trái hẳn với lời hiền-từ
tươi cười của Ramakrishna .
Cái nhu-yếu thâm-căn cố-đế về kỷ-luật
thống-nhất, nó không thích-hợp mấy với quan-
điểm đại-đồng tôn-giáo, hay là nó vô-ý-thức
làm lẫn-lộn với chủ-nghĩa đế-quốc tinh-thần,
dẫn Keshab đến sự lập-pháp để kết-thúc cuộc
đời. Luật Tân Ca-vịnh ( 2-9-1883 ) trong đó
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
165
ông ban-bố cái mà ông gọi là " Tân Luật-pháp
của Aryen ở Ấn-Độ, Luật-pháp đạo-đức của
Thượng-Đế, thích-ứng cho nhu-cầu và cơ-cấu
đặc-biệt của người Ấn-Độ-giáo cải-cách, căn-
cứ vào truyền-thống dân-tộc họ và tính-cách
của họ ". Chủ-nghĩa Duy-nhất dân-tộc. Một
Thượng-Đế, một Kinh Thánh, một lễ rửa tội,
một hôn-nhân. Tất cả một bộ điều-lệnh, cho
gia-đình, cho trong nhà, cho công-việc, cho
học-tập, giải-trí, việc từ-thiện, sự giao-thiệp
v.v... Nhưng ông lập-pháp trong trừu-tượng
cho một Ấn-Độ chưa ra đời. Có bao giờ nó ra
đời ?
Chính ông, ông có chắc nó sẽ được thực-
hiện không ? Tất cả lâu-đài kiến-trúc của lý-
trí, theo ý-chí đứng trên nền-móng không chắc-
chắn, dựa vào một bản-tính phân-vân giữa
Đông-Phương và Tây-phương. Bệnh đau đến,
nó gậm nát nền xi-măng. Linh-hồn sẽ về ai ?
Sẽ là Đấng Cơ-Đốc hay là Đức Mẹ Kali ? Bên
giường hấp-hối, đến ngồi có Ramakrishna và
Devendranath ông thầy già đã giải-hòa và
SRI RAMAKRISHNA
166
Giám-mục tỉnh Calcutta. Ngày 1 tháng 1 năm
1884, Keshab đi ra ngoài một lần cuối để cúng
dâng một Thánh-đường mới cho " Đức Mẹ
Thánh-Linh của tôi "... Và lúc mất ngày 8
tháng giêng, ông được bao-phủ với những lời
Thánh-ca do một đệ-tử hát cho ông về nỗi lo-âu
của Đấng Cơ-Đốc ở Geshsémani .
Làm sao cho một dân-tộc tâm-hồn chất-
phác có thể nhận thấy mình ở nơi Keshab, một
người luôn luôn dao-động trong tư-tưởng,
được ? Đối với chúng ta, chúng ta ngả về nỗi
lòng thân-mật của ông ta, và chúng ta thấy
được những bối-rối phong-phú gì mà tâm-hồn
ấy mang nặng, nó làm cho Keshab gần-gũi với
chúng ta hơn, và cảm-động hơn. Và không ai
hơn là Ramakrishna, hiền-từ sáng-suốt, biết
đọc cái vở kịch kín-đáo của một tâm-hồn kiệt-
sức tìm Thượng-Đế, mà thân-thể thì bị
Thượng-Đế không có thể nắm được đó, đã
nghiền nát. Nhưng một người sinh ra để làm
lãnh-tụ, phải chăng có quyền buông suôi cho
những dao-động ấy, dù có giữ riêng cho mình
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
167
những nỗi lo-âu cho đến phút cuối cùng.
Nhưng dao-động ấy đã được truyền lại, sau khi
ông mất, cho hội thánh Brahmosamaj ; chúng
vừa làm cho tinh-thần của hội thêm phong-phú,
nhưng đồng thời chúng cũng làm cho uy-tín
của hội lung-lay trên đất Ấn, một thời-gian lâu
_ nếu chẳng phải mãi mãi. Người ta tự hỏi, như
Max Müller, phải chăng kết-cục của cái Thần-
đạo ấy sẽ không ở trong Cơ-Đốc-giáo ? Và sau
khi ông mất rồi, đấy là điều mà đối-phương
cùng bằng-hữu của Keshab đã cảm thấy trước .
Lễ an-táng ông tụ-họp vào một cái tang
chung các đại-biểu chính-thức của giới thượng-
lưu Anh và Ấn-Độ Âu-hóa " Ông là đốt giây
nối kết giữa Âu-châu và Ấn-Độ " và đốt giây
ấy đứt đã không được nối lại. Không một lãnh-
tụ tinh-thần và tôn-giáo nào của Ấn-Độ kế-tiếp
đã thành-thật được như ông, để đem cả tâm và
trí hiến cho tư-tưởng và Thượng-Đế Tây-
phương. Bởi vậy nên Max Muller có thể viết :
" Ấn-Độ đã mất một người con vĩ-đại nhất ."
Những báo-chí Ấn đồng thanh ca-tụng thiên-tài
SRI RAMAKRISHNA
168
ông, đã thú rằng " số lượng đệ-tử của ông
không xứng với giá-trị của ông." ( Năm 1921,
hội-viên của ba Thánh-thất Brahmosamaj
không quá 4000 người ) .
Ông quá xa-cách với tầng-lớp thâm sâu
của tâm-hồn dân-tộc ông. Ông yêu nó. Ông
muốn một bước nâng nó lên những tầng tinh-
túy của trí-thức ông, do lý-tưởng và Cơ-Đốc
Âu-châu đã nuôi-dưỡng . Và về mặt xã-hội, thì
trước ông, ngoài Roy ra không ai đã làm nhiều
cho sự tiến-bộ của Ấn-Độ. Nhưng chống lại
ông thì có cả một làn sóng đang nổi lên của ý-
thức dân-tộc đang thức-tỉnh như trong cơn sốt
nóng. Và chống lại ông, ba trăm triệu Thần-
linh của Ấn-Độ cùng ba trăm triệu người sống
mà chúng nhập-thể, cái rừng bát-ngát những
mộng nhân-loại, mà Tây-phương đã làm cho nó
mất dấu-vết và mùi vị. Ông đã mời chúng nhập
vào Đấng Cơ-Đốc Ấn-Độ. Nhưng tiếng gọi của
ông không được đáp-ứng. Chúng chẳng buồn
nghe nữa .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
169
Đang lúc sinh-thời, chống-đối với
Brahmosamaj, và tất cả mưu-toan Âu-hóa tư-
tưởng tôn-giáo Ấn-Độ, thì một giáo-hội Samaj
khác thuần-túy Ấn-Độ đã sớm được dụng lên,
và đứng đầu là một nhân-vật thượng-lưu _
Dayananda Sarasvaty ( 1824 - 1883 ) .
Ông này tính sư-tử, mà Âu-châu không hề
biết đến khi họ phán-xét Ấn-Độ, và ông ta chỉ
được biết đến sau này _ có lẽ hơi chua chát.
Ông là một trong các nhà tư-tưởng hành-động
thời ấy, cũng như Vivekananda sau đó, có
thiên-tài chỉ-huy lãnh-đạo .
Đáng lẽ như tất cả các lãnh-tụ tôn-giáo
như chúng ta vừa kể ở trên và sẽ còn nói đến
sau đây, đều thuộc xứ Bengale, nhà lãnh-tụ này
lại từ một xứ khác hẳn xuất-hiện, xứ-sở mà nửa
thế-kỷ sau này đã sinh ra Gandhi, nghĩa là ở bờ
bể Tây-Bắc biển A-Rập. Ông sinh tại xứ
Gujarat ở Morvi, Tiểu-bang Kathiawar, trong
một gia-đình giầu thuộc dòng Bà-La-Môn, quí-
tộc bậc nhất, vừa thông-hiểu khoa-học Veda
SRI RAMAKRISHNA
170
vừa thạo về công việc thế-gian : chính-trị và
tài-chính. Thân-phụ ông tham-gia trong chính-
phủ tiểu-bang bản-xứ. Chính-thống, nghiêm-
khắc, theo đúng phép-tắc, ông ta có một tính-
cách cứng-cỏi và thống ngự mà ông đã truyền
lại cho con _ với hậu-quả tai-hại cho chính
mình .
Nuôi-dưỡng theo qui-tắc nghiêm mật của
Bà-La-Môn giáo, từ tám tuổi đã mang giây
lưng tôn-giáo, tuân theo quy-ước tinh-thần
khắc-khổ ngụ trong cái đặc-quyền ấy, mà gia-
đình đòi-hỏi chặt-chẽ, đứa trẻ kia, hình như
đến lượt mình, phải được trở nên cột-trụ của
chính-thống, lại chính là Samson đạp đổ những
cột đền _ tỉ-dụ rõ-rệt trong hàng trăm những tỉ-
dụ khác về sự hão-huyền của những nỗ-lực mà
người ta tưởng-tượng có thể uốn-nắn tinh-thần
các thế-hệ mới bằng một giáo-dục bắt-buộc, và
định sẵn tương-lai. Kết-quả chắc-chắn nhất là
phản-kháng .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
171
Sự phản-kháng của Dayananda đáng được
kể lại. Ông mới mưới bốn tuổi, khi thân-phụ
ông dắt ông đến ngôi đền để dự một buổi lễ lớn
nhất của Thần Çiva. Sau một kỳ trai-giới cẩn-
thận, người ta phải thức suốt đêm thành-kính
cầu-nguyện. Tất cả tín-đồ đều ngủ. Một mình
ông, thanh-niên, cố gượng không ngủ : kìa ông
nhìn thấy một con chuột đang gặm đồ lễ cúng
Thần và nó bò trên mình Thần Çiva. Thế là đủ
rồi ! _ ( ai có ngờ đâu sự mãnh-liệt đảo-lộn
tinh-thần trong tâm-hồn đứa trẻ ? ) _ Tức thì,
lòng tin của ông vào ngẫu-tượng bị phá tan.
Ông ra khỏi đền, một mình về nhà trong đêm
tối, và từ đấy trở đi ông từ-chối thực-hành
ngẫu-tượng .
Thế là bắt đầu cuộc xung-đột dữ-dội giữa
cha con. Cả hai, tinh-thần tự-phụ và tuyệt-đối,
tự đóng cửa và không nhân-nhượng lẫn nhau.
Năm mười chín tuổi, Dayananda trốn nhà đi để
tránh cuộc hôn-nhân bị ép-uổng. Người ta đuổi
bắt ông lại, đem giam. Ông lại trốn và bỏ đi
SRI RAMAKRISHNA
172
hẳn ( 1845 ). Từ đấy không bao giờ ông gặp lại
thân-phụ ông .
Suốt mười lăm năm, người con nhà Bà-
La-Môn giầu có ấy, bấy giờ bị lột hết sạch và
sống cả vào bố-thí, lang-thang như tu-sĩ Sadhu
áo nâu trên các nẻo đường đất Ấn-Độ. Và khác
nào một sơ-bản cuộc đời của Vivekananda du-
hành buổi thanh-niên qua khắp lãnh-thổ
Hindoustan. cũng như Vivekananda, Daya-
nanda đi khắp nơi tìm kiếm các bác-học, nhà
khổ-hạnh, học-hỏi ở đây triết-học, ở kia Vedas,
học-tập khoa Đạo-dẫn Yogas. Cũng như ông,
Dayananda thăm viếng hầu hết các Thánh-địa
Ấn-Độ, tham-gia vào tất cả các cuộc tranh-biện
tôn-giáo. Cũng như Vivekananda, ông chịu-
đựng, đương đầu với những cực-nhọc, những
sỉ-nhục và những nguy-hiểm. Và sự xúc-tiếp ấy
với thân-thế, tổ-quốc kéo dài bẩy lần khó nhọc
hơn cuộc thực-nghiệm lớn của Vivekananda.
Nhưng khác với ông này, Dayananda xa-cách
với đại-chúng, nhân-dân ông đi qua, ngay vì lý-
do đơn-giản này là trong suốt thời-kỳ ấy ông
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
173
chỉ biết nói tiếng Phạn ( Sanscrit ). Ông có
thái-độ ví như Vivekananda trước khi ông này
gặp được Ramakrishna, và nếu không có lòng
nhân-từ bao-dung và tinh-thần tinh-tế với sự
cảm-thông nhân-loại nhất trong hàng sư-phụ
( gourous ) để cởi mở cho cái tính kiêu-ngạo
quí-tộc của mình. Thì Dayananda chỉ nhìn thấy
và chỉ muốn nhìn thấy chung-quanh mình toàn
mê-tín và ngu-si, hèn-nhát tâm-linh, thành-kiến
đồi-bại, và hàng triệu Thần ngẫu-tượng mà ông
ghê-tởm. Sau cùng, ông gặp vào năm 1860 ở
Madhura, một sư-phụ già còn kiên-quyết hơn
ông, để kết-án tất cả nhu-nhược và để ghét bỏ
những mê-tín, một đạo-sĩ Sannyasin mù _ ông
này mù từ nhỏ, và cô-độc trên đời từ mười một
tuổi _ một nhà bác-học, một người ghê-gớm
Swami Virjananda Sarasvaty. Ông tự-nguyện
phục-tòng " kỷ-luật " của thày, không phải chỉ
là kỷ-luật tinh-thần, mà theo nghĩa danh-từ
khổ-hạnh thế-kỷ XVII của chúng ta, kỷ-luật in
hằn vào da thịt những vết sẹo sâu. Con người
bạo nghịch kia, bất phục-tòng kia, đã hàng
phục. Trong hai mươi năm rưỡi trời, ông hầu-
SRI RAMAKRISHNA
174
hạ thày ; và điều rất đúng mà nhận rằng hầu hết
tất cả hành-vi sau này của ông chỉ là hoàn-
thành ý muốn của thày mù cứng-cỏi mà ông
đổi lấy tên thay cho tên họ mình quên bỏ. Khi
thày trò ly-biệt, Virjananda đòi ông phải thề
đem cả cuộc đời để vò nát vụn những sai-lầm
giả-dối của tín-ngưỡng thần-thoại Purana, và
dựng lại chính pháp tôn-giáo thời cổ xưa, tiền
Phật-giáo và truyền-bá chân-lý .
Ngay sau đấy, Dayananda bắt đầu truyền-
giáo thuyết-pháp ở Bắc-Ấn, nhưng không phải
như các người của Thượng-Đế hòa-nhã kia, mở
cửa thiên-đường cho tất cả mọi người đến
nghe. Ông như là một anh-hùng thần-thoại
trong truyện cổ Hy-Lạp Iliade, hay là trong
Kinh Gita. Với sức-lực võ-sĩ và thân-hình lực-
sĩ Hercule, ông thách tất cả chiến-sĩ của bất-cứ
hình-thức tư-tưởng nào khác với tư-tưởng của
ông. Ông tấn-công. Đến nỗi trong vòng 5 năm
miền Bắc-Ấn bị xáo-trộn. Trong 5 năm ấy đã
xẩy ra 5 vụ mưu-sát ông. Người ta tìm đầu-độc
ông. Một kẻ cuồng-tín, nhân-danh Thần Çiva
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
175
ném vào mặt ông một con rắn hổ-mang, mà
Dayananda dẫm chết tươi. Người ta không sao
khuất-phục được. Khoa-học Vedas và Sanscrit
của ông không ai chối-cãi được. Lời nói kịch-
liệt sấm sét của ông làm tê-liệt đối-phương.
Người ta bảo ông như một ngọn " nước lũ "
tràn ngụp. Kể từ Çankara đến nay chưa bao giờ
có một nhà tiên-tri Vedas như thế xuất-hiện.
Các giáo-sĩ Bà-La-Môn chính-thống ngã-ngửa,
gọi đến uy-thế La-Mã của họ là Bénarès,
Dayananda hăng-hái đến dự. Ông nhận ( tháng
11 - 1860 ) nhập cuộc tranh-biện kỳ-lạ công-
khai dưới quyền chủ-tọa của Đại Vương Ấn-
Độ ( Maharajah ) trước hàng ngàn người tham-
dự, ai nấy sôi động, sẵn-sàng định dầy xéo ông
xuống chân, ông tranh-biện hàng giờ, một mình
chống với ba trăm bác-học tôn-giáo _ tất cả
đoàn lớn, đoàn nhỏ động-viên của tổ-chức
chính-thống Ấn-Độ-giáo. Ông lập-luận rằng
Vedanta hiện tại hoàn-toàn mâu-thuẫn với
Vedas nguyên-thủy. Ông đòi người ta phải trở
về với Lời chân-chính, với Pháp thuần-túy hai
ngàn năm về trước. Người ta từ-chối nghe ông
SRI RAMAKRISHNA
176
đến cùng, người ta la-ó, bài-xích ông ra khỏi
cuộc họp. Ông bị bỏ rơi, cô-liêu. Nhưng vang-
dội của cuộc khẩu-chiến ấy, cũng như ở trong
Anh-hùng-ca Mahâbhârata, truyền đi khắp
trong nước. Và khắp Ấn-Độ, tên tuổi ông nổi
dậy như còi lệnh .
Tại tỉnh Calcutta, ông đến ở đấy từ ngày
15 tháng 12 năm 1872 tới 15 tháng 4 năm
1873, Ramakrishna có gặp ông. Ông được tiếp
đón niềm-nở ở hội Brahmosamaj. Keshab và
đệ-tử có lẽ muốn làm ngơ về những điểm khác
nhau phân chia hai bên ; họ nhận thấy ở ông
một đồng-minh dữ-tợn trong cuộc tấn-công
chống thành-kiến của chính-thống giáo với
hàng triệu Thần-linh. Nhưng Dayananda không
phải người chịu nhận thỏa-hiệp với các nhà
triết-gia tôn-giáo thấm-nhuần những tư-tưởng
Tây-phương. Chủ-nghĩa thần-đạo dân-tộc Ấn
của ông có một tín-ngưỡng đanh-thép, tôi-
luyện bằng chất thép thuần-túy của Vedas duy-
nhất, không muốn có chi chung với tín-ngưỡng,
in dấu hoài-nghi, cận-đại của họ, không công-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
177
nhận tính-chất toàn-vẹn của Vedas và giáo-điều
truyền kiếp. Ông cắt đứt liên-lạc với họ. Nhưng
cuộc gặp-gỡ ấy đem lại cho ông điều lợi này, là
nhờ họ mà ông có được gợi ý rất giản-dị _ ông
không nhận thấy điều ấy _ rằng sự truyền-giáo
của ông chỉ có hiệu-quả được nếu ông nói bằng
tiếng nói của nhân-dân. Ông đi Bombay và ở
đấy, ít lâu sau theo gương hội giáo Brahmo-
samaj, nhưng với tài tổ-chức cao hơn hội này
nhiều, sứ-mệnh của ông bắt rễ vào đời sống xã-
hội Ấn-Độ. Ngày 10 tháng 4 năm 1875, ông
sáng-lập ở đấy hội những người Arya Ấn-Độ
" Arya Samaj " đầu tiên của ông, những người
Ấn thuần-túy, dòng-dõi dân chinh-phục Ấn-
Độ-hà ( Indus ) và Hằng-Hà ( Gange ) cổ xưa.
Và sự thực, chính ở tại những xứ ấy mà hội
Arya Samaj bắt gốc nẩy chồi mạnh nhất. Năm
1877 là năm mà những nguyên-lý nhất-định
của ông được thiết-lập ở Lahore, cho tới năm
1883, Dayananda phát-triển một hệ-thống tổ-
chức chặt-chẽ ở miền Bắc Ấn-Độ, ở
Rajpoutana, ở Gujarat, ở các tỉnh liên-hiệp
Agra và Oude, nhất là ở xứ Penjab, là đất lý-
SRI RAMAKRISHNA
178
tưởng của ông. Hầu khắp Ấn-Độ chịu ảnh-
hưởng của ông, chỉ riêng có xứ Madras là ông
không thể gây ảnh-hưởng được thôi .
Đang lúc sung-sức tiến-triển thì ông bị
ngã gục, ông bị ám-sát. Vì thiếp của một ông
chúa Ấn ( Maharajah ) bị nhà tiên-tri nghiệt-
ngã hắt hủi đã đầu-độc ông. Ông mất ở Ajmère
ngày 30 tháng 10 năm 1883 .
Nhưng sự-nghiệp của ông không ngừng
tiếp-tục con đường tiến-triển. Từ bốn mươi
ngàn tín-đồ năm 1891, số thành-viên tăng lên
100.000 năm 1901, 243.000 năm 1911,
468.000 năm 1921. Các nhân-vật Ấn-Độ-giáo
trọng-yếu, các nhà hành-động, chính-khách,
tiểu-vương ( Maharajah ) đều gia-nhập. Sự
thành-công bồng-bột, hăng-say ấy, trái hẳn với
tiếng vang thưa-thớt của hội Brahmosamaj với
Keshab, chứng-tỏ đến mức nào lời nói hùng-
mạnh của Dayananda đã đáp-ứng tư-tưởng
trong nước và su-hướng đầu tiên của chủ-nghĩa
dân-tộc Ấn-Độ mà ông đã đóng góp .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
179
Một điều có lẽ có ích để nhắc lại cho Âu-
châu vài lý-do làm nổi dậy ý-thức dân-tộc ấy,
mà ngày nay chúng ta nhìn thấy nó bùng nổ .
Chủ-nghĩa Âu-hóa tiến-triển quá mau lẹ
và người ta không biết bộ mặt tốt của nó. Về
trí-thức nó đã trở nên một khuynh-hướng tinh-
thần phù-phiếm, miễn tránh, tự mình suy-nghĩ,
nhổ rễ những trí-thức trẻ tuổi và dạy họ khinh-
miệt thiên-tài của nòi-giống. Bản-năng sinh-tồn
phản-kháng lại. Thế-hệ Dayananda cũng như
ông lo âu, đau đớn và giận-dữ, đã nhìn thấy
trong mạch máu Ấn-Độ có thấm một chủ-nghĩa
duy-lý Âu-tây hời-hợt, kiêu-căng, chế-riễu,
chẳng hiểu gì đến chỗ thâm-trầm của tinh-thần
Ấn-Độ, đồng thời với một Thiên-Chúa giáo nó
lẻn vào các gia-đình và thường là để thực-hành
quá giỏi lời nói của Cơ-Đốc : " Nó đến phân
chia người con chống cha nó ... "
Không phải là việc chúng tôi nói dèm-pha
ảnh-hưởng của Thiên-Chúa giáo. Chúng tôi
sinh-trưởng là tín-đồ Da-Tô, và tuy rằng đã
SRI RAMAKRISHNA
180
giải-phóng khỏi tất cả hình-thức Nhà-Thờ hay
tôn-giáo đóng cửa, đã từng biết vì máu của Cơ-
Đốc, luôn luôn thích-thú các kho báu đời sống
nội-tâm của kinh sách và của các vĩ-nhân Cơ-
Đốc hàm-chứa, chúng tôi không có ý-tưởng đặt
cái tín-ngưỡng ấy ở dưới tín-ngưỡng nào khác :
đi quá mức nào của " cực điểm linh-hồn " ( la
pointe de l'âme ) thì không còn có trình-độ cao,
hạ. Nhưng thường không phải luôn luôn bằng
cách tối-hảo mà các tôn-giáo du-nhập vào các
dân-tộc khác ở ngoại-quốc. Chúng pha quá
nhiều phen những vấn-đề kiêu-hãnh nhân-loại
vào sự thắng-lợi của chúng trên mặt đất, bất kể
phương tiện thắng-lợi nào, cốt sao có được
thắng-lợi. Tôi còn có thể nói hơn nữa rằng, cả
đến những biểu-thị cao-cả nhất của nó, ít khi
một tôn-giáo xâm-nhập vào tâm-hồn của một
chủng-tộc khác bằng bản-chất thâm-thúy nhất
của nó _ bằng cái " cực điểm linh-hồn " như
vừa nói. Nó dẫn-dụ bằng các phương-diện hẳn
là rất có ý-nghĩa nhưng mà thứ yếu. Chúng ta
ai đã ngó vào nền siêu-hình Cơ-Đốc tôn kính
và từng thăm dò vào vực-thẳm của nó, đều biết
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
181
cõi trời bao-la nó dành cho triển-vọng tinh-
thần, và cái Vũ-trụ Thần-linh của Hữu-thể và
Tình-yêu " gắn liền " vào đấy chẳng kém bao-
la và siêu-việt so với Vũ-trụ Vô-cực Vedas.
Nếu một Keshab đã ngó thấy, nhưng một
Keshab thì hiếm có trong dân-tộc ông, và thật ít
khi Cơ-Đốc-giáo có vẻ biểu-hiện cho dân Ấn-
Độ với bộ mặt ấy. Tôi có thể nói là chính nó
biểu-hiện qua bộ-dạng luân-lý, qua hành-động
thực-tiễn, qua tình-yêu hiện-hành, tuy rất
trọng-yếu đấy, nhưng không phải là tiên-quyết.
Đáng chú-ý là trong những người cải-giáo
danh-tiếng nhất, hàng đầu đại-biểu là những
nhân-vật có năng-lực hành-động nhiều hơn là
chiêm-nghiệm tâm-linh, hạng người thuộc về
nòi chiến-sĩ anh-dũng .
Dù thế nào đi nữa, vấn-đề này có thể là
đề-tài tranh-biện sâu rộng, có một thực-kiện
lịch-sử là ở thời-kỳ thành-lập trí-thức của
Dayananda, tinh-thần tôn-giáo cao của Ấn-Độ
đang suy-yếu và tinh-thần tôn-giáo Âu-châu
đang đe dọa làm tắt ngọn lửa héo hắt mà không
SRI RAMAKRISHNA
182
có thể tự-phụ sẽ thay-thế vào đấy. Hội giáo
Brahmosamaj lấy làm lo-lắng về điều ấy.
Nhưng chính mình lại miễn-cưỡng mang dấu
Cơ-Đốc-giáo Tây-phương. Điểm khởi-hành
của Ram Mohun Roy đã là duy-nhất-luận Tân-
giáo ( Protestant ). Devendranath, tự thống-chế,
lại đã không đủ sức để bảo-vệ Samaj, vì ông đã
nhường chỗ cho Keshab, là người ba phần tư
đã đem hiến hội giáo cho Cơ-Đốc. Năm 1880,
một nhà phê-bình Keshab có thể nói được rằng:
" Kẻ nào tin vào ông ta, thì đã mất danh-nghĩa
tín-đồ Thần-đạo, bởi vì ông ta càng ngày càng
thiên về Cơ-Đốc-giáo." Và thái-độ của đệ-tam
chi hội Brahmosamaj ( Sadharana Brahmo ly-
khai với Keshab ) chống với Cơ-Đốc-giáo Ấn-
Độ có rõ-rệt mấy đi nữa, thì tinh-thần công-
chúng còn có thể tin-tưởng gì vào một Nhà-
Thờ, mà trong vòng nửa thế-kỷ đã bị hai cuộc
phân-chia nội-bộ liên-tiếp và bị đe dọa _ chúng
ta đã thấy đó _ và trong nửa thế-kỷ về sau
hoàn-toàn thu-hút bởi Cơ-Đốc-giáo ?
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
183
Vậy sao người ta chẳng lại không hiểu sự
hoan-nghiênh nồng-nhiệt đối với nhà chiến-sĩ
hăng-hái cho truyền-thống Vedas đó, một tín-
đồ Vedas chính nòi, thấm-nhuần Thánh Kinh
Ấn-Độ cổ-điển, với tinh-thần anh-hùng, một
mình chống tất cả, thay mặt Ấn-Độ để thách
bọn xâm-lăng nó ? Dayananda tuyên-chiến với
Cơ-Đốc-giáo. Và chém nó bằng một thanh
kiếm nặng khối, không cần để ý đến mức-độ và
sự chính-xác. Ông đem nó ra mà phê-phán một
cách thù-oán bất công, mạt sát, hăm-hở như
điếc như mù vào mỗi câu Thánh Kinh Cơ-Đốc
( Bible ) không còn để công suy-nghĩ ý-nghĩa
tôn-giáo hay là cả đến nghĩa chữ ( vì ông đọc
Thánh Kinh qua bản dịch sang tiếng Ấn-Độ, và
ông còn vội ). Những lời bình-luận soi-mói như
nhắc lại luận-điệu của Voltaire trong Tự-điển
Triết-học ( Dictionnaire Philososphique ), và
than ôi, từ bấy đến nay vẫn là kho tài-liệu cho
chủ-nghĩa phản Cơ-Đốc-giáo căm-hờn của một
số tín-đồ Ấn-Độ-giáo hiện-đại. Tuy nhiên, như
nhận-xét có lý của Glasenapp, chúng rất đáng
để cho Cơ-Đốc-giáo Âu-tây chú-ý, nếu nó
SRI RAMAKRISHNA
184
muốn biết hình-ảnh chính-sác của đối-phương
Á-châu của nó đã có về Cơ-Đốc-giáo .
Dayananda cũng chẳng nể gì Kinh Coran
của Hồi-giáo lẫn thần-thoại của Puranas. Ông
giẫm lên thây Bà-La-Môn-giáo chính-thống.
Ông tàn-nhẫn đối với tất cả những người trong
dân-tộc ông hiện-tại và quá-khứ đã làm cho
Ấn-Độ xưa kia chúa-tể hoàn-cầu, đã bị hàng
ngàn năm suy-đồi. Ông không chừa một điều
gì, theo ông, đã xuyên-tạc hay là làm ô-uế tôn-
giáo chân-chính Vedas. Ông là một Luther,
phá-phách vào Nhà-Thờ La-Mã lạc-lõng, trụy-
lạc. Và sự chăm-chú đầu tiên của ông là làm
sao để cho dân-tộc ông, lần đầu, được tự mình
đến uống nước tại những nguồn Thánh Kinh
của mình. Ông dịch và chú-giải Vedas bằng
ngôn-ngữ bình-dân. Đại niên biểu cho Ấn-Độ :
một người Bà-La-Môn không những cho phép
tất cả mọi người có quyền hiểu-biết Vedas mà
chính-thống Bà-La-Môn đã cấm học-hỏi ; ông
còn lấy việc tụng đọc và phổ-biến Vedas làm
bổn-phận của tất cả dân Arya (A-Lỵ-An-Nhân).
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
185
( Điều III trong Mười nguyên-tắc Lahore
( 1872 ) :
" Kinh Vedas là sách chân-tri. Bổn-
phận đầu tiên của tất cả người A-Lỵ-An
(Arya) là phải đọc và giảng dạy ." )
Chắc hẳn bản-dịch là một bình-giải, và
người ta có nhiều nghi-ngờ về sự chính-xác của
nó, cả đến những giáo-điều cứng dắn và những
nguyên-lý ông bảo là đã lấy ở Vedas ra _ Về sự
chân-thật tuyệt-đối của Kinh Điển độc-nhất,
theo ông thì đã phát-xuất thẳng tự Thần-linh có
trước nhân-loại, siêu-nhân, _ về sự phủ-nhận
không thay-đổi của ông, về sự kết-án của ông,
về Thần-đạo hành-động của ông, về Tín-điều
chiến đấu, về Thượng-Đế dân-tộc của ông .
Nhưng để bù vào chỗ thiếu tâm-tình
bồng-bột và hào-quang bình-thản của một tinh-
thần tắm nhuần tất cả dân-tộc Người và Thần-
Linh _ bù vào chỗ thiếu hồn thơ nóng sốt của
tâm-hồn một Ramakrishna tỏa-chiếu ra hay là
cái điệu trữ-tình vĩ-đại của Vivekananda _
SRI RAMAKRISHNA
186
Dayananda đã thổi vào thân-thể Ấn-Độ uể-oải,
cái lực hùng mạnh, lòng tự-tin, dòng máu sư-tử
của ông. Tất cả lời nói của ông kêu gọi hùng
tính. Thay vì tính thụ-động truyền-thống hàng
thế-kỷ của một dân-tộc quá phục-tòng định-
mệnh, ông nhắc lại rằng linh-hồn tự-do và
hành-động tạo nên định-mệnh. Ông tự làm
gương để khai phá bụi rậm, để mở đường bằng
những nhát búa vào mớ đặc-quyền và thành-
kiến. Nếu hệ-thống siêu-hình của ông khô-khan
và tối nghĩa, nếu thần-học của ông hẹp-hòi và,
theo ý tôi, thoái lui, nhưng hành-động xã-hội
và thực-tiễn của ông lại táo-bạo và mạo-hiểm.
Trên lập-trường thực-tế ông tiến xa hơn, không
những hội Brahmosamaj, mà hiện nay còn xa
hơn cả Sứ-đồ truyền-giáo Ramakrishna nữa .
Hội Aryasamaj do ông dựng lên đặt
nguyên-tắc công-lý chung cho tất cả mọi
người, cho tất cả dân-tộc, bình-đẳng giữa nam,
nữ. Ông từ-chối giai-cấp thê tập, và chỉ công-
nhận giai-cấp nghề-nghiệp, hay phường bạn
thích-ứng với năng khiếu hỗ-trợ bổ-túc của
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
187
nhân-loại trong xã-hội ; tốn-giáo không có
quan-hệ gì vào đấy cả ; sự ích-lợi của Quốc-
gia, Nhà-nước, phân-phối phận-sự một mình có
trách-nhiệm ; và chính nó, khi nào nó xét là tốt
cho cộng-đồng để nâng lên hay là hạ xuống
giai-cấp này sang giai-cấp kia vì thưởng hay
phạt. Bất cứ trường-hợp nào, Dayananda muốn
rằng, mọi người đều có cơ-hội để có được mớ
hiểu-biết mà bước lên nấc thang xã-hội, cao
thấp tùy theo khả-năng. Nhưng nhất là ông
không dung thứ chút nào cho sự bất-công bỉ-ổi
của việc tồn-tại giai-cấp tiện-nhân ( pâria )
ngoại-tính nô-lệ ( sudra ), và không ai hơn ông
đã làm chiến-sĩ nhiệt-thành cho quyền sống bị
trà đạp của chúng. Chúng được nhận vào hội
Aryasamaj, bình-đẳng với các hội-viên khác.
Bởi vì người A-Lỵ-An ( Arya ) không phải là
một giai-cấp : " Người A-Lỵ-An đều là người
của nguyên-lý cao-thượng ; và những Quỷ-sứ
( Dasyu ) là những kẻ sống một đời độc ác và
tội lỗi ."
SRI RAMAKRISHNA
188
Dayananda chẳng kém khoan-dung và
mạnh-bạo trong cuộc vận-động nâng cao thân-
phận phụ-nữ ở Ấn-Độ bấy giờ, họ thật thảm-
thương. Ông phản-kháng những sự bạc-đãi mà
họ phải chịu-đựng, ông nhắc lại rằng thời oanh-
liệt xưa, người phụ-nữ trong gia-đình và xã-hội
có một địa-vị ít ra cũng bằng người nam-nhi.
Giáo-dục bình-đẳng. Trong hôn-thú, quyền
nội-tướng trong gia-đình, gồm cả tài-chính,
Dayananda không lưỡng-lự đòi quyền bình-
đẳng và bổn-phận ngang nhau giữa đàn-ông và
đàn-bà trong gia-đình. Và tuy rằng ông tôn-
trọng hôn-nhân là thiêng, ông thừa-nhận rõ-
ràng sự tái-giá của quả-phụ, và cho đến cả sự
nhìn-nhận có thể phối-hợp tạm thời cho đàn-
ông cũng như đàn-bà để có con khi nào hôn-
nhân không sinh đẻ được .
Sau hết, Aryasamaj mà điều thứ Tám là
" Phổ-biến học-thức và đánh tan ngu dốt ", đã
đóng vai-trò thật lớn lao ở Ấn-Độ. Nhất là ở tại
xứ Penjab, và trong các Liên-hiệp Tỉnh
( Provences Unies ), ông đã tổ-chức các trường
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
189
nam và nữ, mà những tổ hoạt-động thì tập-
trung quanh hai cơ-sở kiểu-mẫu : " Dayananda
Anglo Vedic " ở Lahore và Gurukula ở Kangri
_ thành-trì quốc-gia giáo-dục Ấn-Độ-giáo, nó
tìm làm sống lại những năng-lực chủng-tộc,
đồng thời thâu-nhận những tiến-bộ trí-thức và
kỹ-thuật Tây-phương .
Sau hết, nên nói thêm về những hoạt-
động bác-ái, những nhà nuôi trẻ mồ-côi, những
xưởng cho con trai con gái, những trung-tâm
quả-phụ _ và những đại công-trình phụng-sự
xã-hội, vào dịp có tai-nạn công-cộng, nạn dịch,
nạn đói v.v... mà Aryasamaj sẽ ganh đua với
hội truyền-giáo " Ramakrishna Mission " sau
này .
Tôi đã nói khá đủ để chúng-minh cái đòn
bẩy dân-tộc, là nhà đạo-sĩ Sannyasin cứng dắn,
có tinh-thần lãnh-tụ ấy như thế nào. Ông là một
lực-lượng mãnh-liệt nhất của hành-động hiện-
tại, của hành-động tức thì của Ấn-Độ nhất thời,
vào lúc thức-tỉnh ý-thức dân-tộc và phục khởi
SRI RAMAKRISHNA
190
Hội giáo Aryasamaj của ông, dù ông có muốn
hay không, nó đã dọn đường cho cuộc khởi-
nghĩa ở Bengale năm 1905 ; chúng ta lại còn sẽ
thấy nó ở đấy. Nó đã là một công xưởng náo-
nhiệt nhất cho cuộc tái-thiết và tổ-chức chủ-
nghĩa dân-tộc. _ Tôi cảm thấy ở ông buổi ra
quân. Cái gì làm sức mạnh ở ông, làm nhược
điểm của ông. Lý-do tồn-tại của ông là trong
hành-động, và đối-tượng của ông là dân-tộc.
Hành-động hoàn-thành và dân-tộc lập rồi, như
thế đối với một dân-tộc nào khác không có
viễn-tượng thì có lẽ tất cả là đã hoàn-tất. Đối
với Ấn-Độ Vũ-trụ, Ấn-Độ Thế-giới thì tất cả
còn phải làm .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
191
SỰ GẶP-GỠ GIỮA RAMAKRISHNA
VÀ CÁC NHÀ ĐẠI MỤC DÂN
CỦA ẤN-ĐỘ
Đây là những nhà mục dân lớn, những
vua mục-sư của Ấn-Độ, vào giờ phút xuất-hiện
trên các ngọn núi, ngôi sao Ramakrishna ra
khỏi mây mờ .
Trong số bốn nhân-vật kia, lẽ dĩ-nhiên là
ông không có thể biết được vị tiên-phong đầu
tiên là Ram Mohun Roy. Nhưng ông biết tự
thân ba vị kia. Ông đi đến thăm họ, trong lòng
khao-khát Thượng-Đế không bao giơ mãn-túc,
khiến ông luôn luôn tự hỏi :
SRI RAMAKRISHNA
192
_ " Còn có nguồn suối Thượng-Đế
nào khác, họ đã thấy mà tôi chưa được
uống nước đó ? "
Nhưng con mắt từng-trải của ông đã sớm
phán-xét họ ; và cúi xuống các suối kia, nếm
với một lòng nhiệt-tín, ông ngẩng lên cười với
nụ cười vui tinh-khôn : " Suối của họ ngon
hơn... "
Ông chẳng phải hạng người để cho sự
khoa-trương, sự vinh-quang hay là sự hùng-
biện làm quáng mắt. Mắt ông xếch, không
chớp, trừ phi bên trong chúng đã chạm với ánh-
sáng chúng tìm : _ cái nhìn của Thượng-Đế.
Chúng nhìn suốt qua lồng ngực như qua tấm
kính, tò mò chúng soi mói vào tim. Điều chúng
thấy bất ngờ có khi gây lên ở người khách
không kín-đáo một trận tức cười, không ác ý .
Câu chuyện chính, tự ông kể lại về cuộc
ông viếng thăm, Devendranath Tagore oai-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
193
nghiêm, là một cảnh hài-kịch nhỏ thú-vị, trong
đó biểu-diễn tự-do cái điệu hài-hước nhạo-báng
với sự tôn kính vô-lễ của " đứa em " đối với
ngài đại giáo-chủ _ nhà " vua đạo-sĩ Janaka "...
_ một hôm có một trong các người thăm-vấn
hỏi ông rằng : _ " Phải chăng không có thể hòa-
giải thế-tục và Thượng-Đế ? Ông nghĩ thế nào
về Devendranath Tagore ?
Ramakrishna dịu-dàng nhắc lại : " Deven-
dranath Tagore... Devendranath... Devendra...
Rồi ông vái mấy lần. Rồi ông nói : _ " Ông có
biết không ?... Ngày xưa có một lần, một người
có thói quen làm lễ linh-đình mở hội Durga
Pûjâ ( cúng Thánh Mẫu ). Người ta sinh tế
nhiều cừu từ sáng đến tối. Sau vài năm sinh tế
mất vẻ huy-hoàng. Có người nói với gia-chủ :
" Sao mà lễ giảm đi quá thế ? " Gia-chủ đáp :
" Vì ngày nay răng tôi rụng hết rồi ."
Người kể chuyện khiêm lễ nói tiếp :_" Ấy
thế đấy, lẽ tự-nhiên là vào tuổi cao này,
Devendranath thực-hành định-niệm ."
SRI RAMAKRISHNA
194
Ngừng một lúc, ông lại vái và thêm :
" Nhưng đấy là một người chắc chắn là vĩ-
đại..."
Rồi ông kể lại buổi viếng thăm của ông :
_ ( Ramakrishna được người bảo-trợ của mình
là Mathur Babu, vốn là đạo-hữu của Deven-
dranath, giới-thiệu với ông này. Trong cuộc
thăm viếng có một chi-tiết lạ, đáng được khoa-
học sinh-tâm-lý chú-ý, là khi vừa giới-thiệu
xong, Ramakrishna yêu-cầu Devendranath cởi
áo để cho ông thấy ngực. Devendrananth
không hề ngạc-nhiên, liền thuận theo. Mầu da
ông này đỏ thắm, Ramakrishna ngắm nhìn và
chẩn-đoán : " Vâng, Ngài đã thấy Thượng-Đế."
Vì rằng cái sắc da hồng ấy còn ở ngực là một
dấu-hiệu đặc-biệt của sự tập-luyện khoa đạo-
dẫn ( Yoga ), và sau này Ramakrishna cũng
không quên quan-sát ngực của đệ-tử mình,
năng-lượng hô-hấp, mạch máu chạy đều trước
khi cho phép hay ngăn cấm những thực-hành
tập Chính-Định ). _ " Khi tôi vừa thấy ông, lời
Ramakrishna kể lại, ông ta thoạt tiên có vẻ hơi
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
195
kiêu... Ôi, lẽ đương nhiên ! Ông đầy đủ của
cải : quí-phái, uy-tín, giầu-sang... Bỗng nhiên
tôi đi vào trạng-thái, trong ấy tôi có thể nhìn
suốt qua một người : bấy giờ tôi coi những kẻ
giầu-sang nhất, bác-học nhất như là cỏ rác, nếu
tôi không thấy được ở họ hình-ảnh Thượng-
Đế... Và một nụ cười thầm nở nơi tôi... Tôi
phát-hiện người này vừa hưởng-thụ thế-gian
vừa sống cuộc đời tin-ngưỡng tôn-giáo ; ông ta
có nhiều con, đều còn trẻ, mặc dầu ông là một
đại đạo-sĩ trí-tuệ ( Jñãnin ) ; và đời không từ-
chối ông điều gì hết. Tôi nói với ông : _ " Ông
là Vua Janaka ngày nay. Vua hưởng-thụ thế-
gian mà đồng thời đạt tới những thực-hiện tối
cao. Ông ở tại thế-gian mà tinh-thần ông bay
bổng lên tới Thượng-Đế. Xin ông cho tôi nghe
chút gì về Ngài ! "
Devendranath bèn đọc cho Ramakrishna
nghe những trang thơ Veda tuyệt-diệu :
" Vũ-trụ này như giá nến nhiều
ngọn. Và mỗi người chúng ta là một giọt.
SRI RAMAKRISHNA
196
Nếu chúng ta không thắp thì tất cả giá nến
trở nên tối om... Thượng-Đế đã tạo nên
loài người để tán-dương sự vinh-quang
của Ngài... "
Rồi câu chuyện vấn-đáp giữa hai bên
tiếp-tục với điệu lịch-sự thân-mật. Deven-
dranath hết sức kinh-ngạc về con mắt sáng như
đèn của Ramakrishna. Ramakrishna là khách
của ông và ông đã mời Ramakrishna đến dự
buổi lễ ngày hôm sau ; nhưng ông có yêu cầu
ông này " nên che kín thân-thể hơn " nếu có
đến dự, vì rằng người lữ-hành bé nhỏ đó đã
không diêm-dúa về y-phục. Ramakrishna trả
lời với cách hòa-nhã tinh khôn là không mong
được ở ông điều ấy, ông vẫn là ông, ông sẽ đến
như ông lúc này. Và hai bên từ-giã, rất thân
hữu. Nhưng sáng hôm sau có người mang đến
cho Ramakrishna một lá thư rất lễ-phép của
ông chúa vương-giả xin ông đừng mất thì giờ
đến nữa .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
197
Và thế là hết. Như con mèo vẫy chân,
vuốt ve không cào cấu, nhà quí-tộc tránh sang
một bên, ở lại trong thiên-đường duy-tâm lý-
tưởng .
Dayananda còn bị ước đạc, xét đoán, lên
án rẻ tiền hơn nữa. Phải nhận rằng vào lúc hai
người gặp nhau (đầu năm 1873 ) thì Hội giáo
Aryasamaj chưa thành-lập, nhà cải-cách còn
đang trên đường vận-động. Ramakrishna đến
quan-sát ông, nhận thấy ở ông " có chút quyền
năng " _ nghĩa là có thực tiếp-xúc với thiêng-
liêng " _ Nhưng tính-tình mất bình-tĩnh và
hiếu-động, vũ-lực hiếu-chiến của chiến-sĩ cho
Vedas, sự hăm-hở sốt nóng, muốn tranh thắng
và khuất-phục người khác phải theo cái lý của
mình, điều này có vẻ làm hại cho sứ-mệnh của
ông ta. Ramakrishna thấy ông ta ngày đêm
biện-giải về Thánh Kinh, vặn vẹo ý-nghĩa của
nó, muốn xây-dựng bất cứ bằng giá nào một
giáo-phái mới. Theo con mắt của Ramakrishna
thì tất cả dụng ý chiến-thắng cá-nhân và tục-thế
SRI RAMAKRISHNA
198
làm ô-uế tình-yêu Thượng-Đế chân-thật. Ông
xa lánh Dayananda .
Sự giao-thiệp với Keshab Chunder Sen có
một tính-cách khác hẳn : thân-mật, âu-yếm và
lâu bền .
Trước khi kể lại mối liên-lạc ấy, tôi phải
tỏ bầy ý tiếc rằng những đệ-tử của hai sư-phụ
đã để lại cho chúng ta những tường-thuật quá
thiên-lệch. Giữa hai phe, mỗi phe đều tìm cách
" lệ-thuộc-hóa " " bậc người của Thượng-Đế "
của đối-phương cho ông Thánh của phe mình.
Tuy rằng đệ-tử của Ramakrishna luôn luôn nói
về Keshab với cảm-tình kính-nể, họ hài lòng về
chỗ ông đã tỏ lòng tôn kính bậc Paramahamsa
( Đại Thánh ). Nhưng một số đệ-tử của Keshab
không tha-thứ cho Ramakrishna về thế-lực của
ông đã có, hay là có vẻ có, đối với sư-phụ của
họ ; và để phủ-nhận cái ảnh-hưởng ấy mà ông
có thể có được, họ đua nhau đào sâu, giữa hai
phe, cái hố tư-tưởng bất-khả xâm-phạm ; họ
khủng-khỉnh, làm như là không biết chân giá-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
199
trị của Ramakrishna ; và sự thù-hận, mạt sát
nhau lan tràn ra tới người truyền-bá, để làm
thắng Phúc-Âm của mình : Vivekananda .
Tôi thông-cảm, sau khi đã đọc những
trang sách đẹp và mới mẻ của Keshab, trong đó
báo-hiệu trực-tiếp những tư-tưởng và hành-
động của Vivekananda, tại sao Hội Brahmo-
saimaj khó chịu về sự yên-lặng và bỏ quên của
" Sứ-đồ Ramakrishna " về những điểm ấy. Tùy
theo khả-năng của tôi, tôi sẽ cố sửa chữa điều
bất-công ấy mà tôi ngờ là vô-tình. Nhưng
không có gì sai-lầm hơn để bảo-vệ kỷ-niệm
cho Keshab như một số tín-đồ Brahmosamaj đã
làm, là gán cho ông sự hẹp-hòi của họ, và ném
vào bóng tối tình thân-ái vô-tư của ông đối với
Ramakrishna. Trong suốt cuộc đời của Keshab,
điều đáng kính, đáng yêu không gì quí-báu hơn
đối với chúng ta, chính là thái-độ thân-ái và
kính-nể mà con người vĩ-nhân ấy tới đỉnh vinh-
quang, đại đạt trong tư-tưởng ngay từ đầu và
giữ tới cùng đối với anh nhà quê ( Poverello )
làng Dakshineswar, bấy giờ rất ít ai biết tới hay
SRI RAMAKRISHNA
200
là không ai biết. Trong tinh-thần tự-ái, bị-
thương vì sự thân-mật của " người khùng
Thượng-Đế " với ông hoàng trí-thức, những
đệ-tử Brahmo càng chăm chú trích-dẫn những
văn-kiện của Keshab, kết án cao ngạo sự thần-
hóa hỗn-loạn như người ta đã gán cho
Ramakrishna, thì Ramakrishna càng là một sự-
kiện đặc-biệt hãn-hữu để cho Keshab chú-ý .
Nếu sự thực Keshab, khác với phần lớn
các nhà tôn-giáo Ấn-Độ, là ông không từng có
Sư-phụ ( Gourou ) đứng trung-gian giữa ông và
Thần-linh _ vậy nên người ta không nên coi
Keshab như là đệ-tử của Ramakrishna, như đệ-
tử của Ramakrishna muốn hiểu _ cái tinh-thần
quảng-đại của Keshab sẵn-sàng công-nhận tất
cả cái gì cao cả, và ông vốn sùng-bái chân-lý
một cách quá tinh-khiết, để pha-trộn với lòng
tự cao. Bậc giáo-sư ấy luôn luôn sẵn-sàng thụ-
giáo. Ông nói : " Tôi là một kẻ học-trò bẩm
sinh. Tất cả sự-vật đều là thày tôi, tất cả động-
vật đều là thày tôi. Tôi học-hỏi tất cả ... " Vậy
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
201
thì làm sao ông lại không học-hỏi " con người
Chư Thần " kia ?
Keshab bấy giờ đang ở với đệ-tử của ông,
trong một biệt-thự gần Darshineswar, vào
những tháng đầu năm 1875. Ramakrishna đến
gặp ông và nói với ông :
_ " Tôi nghe nói ông đã thấy
Thượng-Đế, tôi đến xem như thế nào ."
Thế rồi Ramakrishna cất tiếng hát bài
tụng Đức Mẹ Kali nổi tiếng, và giữa chừng ông
nhập-định thần-hóa. Điều này, đối với người
Ấn-Độ-giáo, dù đã được lý-trí giải-phóng, cũng
chỉ là một cảnh-tượng bình-thường. Và Keshab
hay đề-phòng những biểu-hiện sùng-bái hơi
bệnh-hoạn ấy, có lẽ không để ý mấy vào đấy,
nếu Ramakrishna, được người cháu ông gọi
ông tỉnh ra khỏi ý-thức Tam-Muội ( Samadhi )
đó, mà ông không tuôn ra một tràng những lời
tuyệt-diệu về Thượng-Đế Duy-nhất và Vô-
biên, và trong dòng cảm-hứng tuôn ra ấy lẽ
SRI RAMAKRISHNA
202
phải bóng bẩy vẫn không mất quyền. Keshab
lấy làm lạ. Ông bảo đệ-tử quan-sát. Sau một lúc
lâu, ông không còn nghi-ngờ là mình đang gặp
một nhân-vật hãn-hữu đặc-biệt. Rồi đến lượt
ông tìm đến thăm Ramakrishna. Hai người
thành đôi bạn. Keshab mời Ramakrishna đến
Thánh-thất Brahmosamaj, hay là đến đền ông
này mời đi chơi thuyền trên sông Hằng
( Gange ). Và lòng quảng-đại của ông cần có
người khác để san-sẻ nỗi vui-mừng và ân-huệ
mình khám-phá được, ông nói về Ramakrishna
trong khắp cả những bài diễn-thuyết của ông
cùng trên bài báo và tạp-chí ông viết bằng tiếng
Anh hay tiếng bản-xứ. Danh-tiếng ông đã
chinh-phục được, ông đem ra phụng-sự Rama-
krishna. Nhờ ông mà Ramakrishna, cho tới lúc
bấy giờ tiếng-tăm không ra ngoài phạm-vi
bình-dân ( trừ một ít trường-hợp ), bỗng một
sớm, một tối nổi tiếng trong giới trưởng-giả trí-
thức xứ Bengale và ngoài biên-giới .
Điều đáng trọng là sự khiêm-tốn của nhà
lãnh-đạo danh-tiếng của Hội giáo Brahmo-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
203
samaj. Keshab cao-thượng, có đủ cả trí-thức
lẫn uy-thế, cúi đầu trước mặt một vị khách lạ,
không chút hiểu-biết sách vở, không hiểu
Phạn-ngữ ( Sanscrit ), chẳng muốn đọc sách,
không biết cả viết nữa, vậy mà sự thấu-thị
uyên-thâm của ông ta làm cho ông bối-rối. Ông
ngồi xuống chân người ấy như là một đệ-tử đối
với sư-phụ .
Tuy vậy, chớ bảo là tôi nói Keshab từng
làm đệ-tử của Ramakrishna ! Tôi nói vậy là để
ám-chỉ điều ấy cho một số tín-đồ cuồng tín của
phái Ramakrishna đã lầm. Không có gì xác thật
là Keshab đã lấy ở Ramakrishna những ý-
tưởng căn-bản. Tất cả ý-tưởng căn-bản của ông
ta đã thành-tựu rồi, trước khi ông gặp Rama-
krishna lần đầu. Ngay từ năm 1862, chúng ta
đã thấy ông quan-niệm hòa-điệu các tôn-giáo
và tính đồng-nguyên của chúng. Từ năm 1863
ông đã nói :
_ " Tất cả chân-lý là chung của tất
cả, bởi vì tất cả đều do Thượng-Đế.
SRI RAMAKRISHNA
204
Những chân-lý chẳng phải là Âu-châu
hay Á-châu, của anh hay của tôi."
Năm 1869, trong một bài diễn-thuyết về
Nhà Thờ tương-lai, ông nhìn-nhận toàn-thể các
tôn-giáo như là một đại hòa-tấu, trong đó mỗi
tôn-giáo giữ lấy một tính riêng, thanh-âm của
nhạc-khí của mình, âm vực của mình, tất cả
đều cùng nhau cất lên một Thánh-ca đại-đồng,
ca-tụng Thượng-Đế và loài người anh em .
Mặt khác, bảo rằng Keshab phải cần đến
Ramakrishna mới có được quan-niệm Ngôi
Mẹ, là sai lầm. Cái quan-niệm ấy ở Ấn-Độ vốn
có từ xưa nay, cũng như ở Tây-phương quan-
niệm Ngôi Cha. Ramakrishna không từng sáng-
tạo ra. Những tụng ca của Ramakrishna chứa
đầy trong ký-ức ông, ông lễ tụng Ngài với các
điệu. Hội Brahmosamaj đã đón nhận Mẫu-tính
của Thượng-Đế ngay từ thời giáo-trưởng
Devendranath. Và đệ-tử của Keshab tha hồ
trích-dẫn suốt công-trình của sư-phụ mình,
những lời cầu-nguyện Đức Mẹ .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
205
Chắc hẳn ! Hai ý-niệm vĩ-đại : Đức Mẹ
Thần-linh và tình huynh-đệ của những người
sùng-bái, bất cứ cử-chỉ nghi-lễ và hình-thức
biểu-diễn như thế nào _ những ý-niệm ấy coi
như ý-niệm đã thuộc về Keshab rồi ; và đức tin
nhiệt-thành mà ông làm cho chúng nóng ấm...
Nhưng vấn-đề khác hẳn là chúng ta thấy chúng
được sống, sinh-động ở một Ramakrishna !
Người quê mùa Povezello không bận tâm với
thuyết-lý : ông hiện-tại, hiện-tại là chỗ tham-
thông các Thần-linh với sùng-bái đồ ; ông
hiện-tại là Đức Mẹ và Người Yêu ; ông nhìn
thấy Bà, người ta thấy Bà qua ông, người ta sờ
thấy... bậc Thiên-tài của tâm truyền-cảm cho
những ai tới gần hơi thở nóng hổi của Nữ-Thần
và sự tiếp-xúc với cánh tay từ-mẫu mỹ-miều...
Cảm kích thay ! Và Keshab đã cảm-động về
điều ấy, vốn ông cũng là một Bhakta, một tín-
đồ vì Tình-Yêu !...
Nhà viết tiểu-sử Ramakrishna là Chira-
nyïb Sarma viết : " Tính-tình hồn-nhiên, chất-
phác, êm ái, có duyên, đáng mến của Rama-
SRI RAMAKRISHNA
206
krishna nhuốm mầu vào con đường yoga của
Keshab, vào quan-niệm trong trắng về tôn-giáo
của ông ta ."
Và một sứ-đồ Nhà Thờ của Keshab là
Babu Girish Chundra Sen cũng viết : " Chính ở
Ramakrishna mà Keshab tiếp-nhận cái ý-tưởng
cầu-nguyện Thượng-Đế với danh-hiệu Đức Mẹ
ngọt-ngào, với tính chất-phác của một đứa
trẻ..."
Tôi chỉ ghi những chữ cuối, bởi vì tôi vừa
bấy-tỏ rằng Keshab không phải chờ đến Rama-
krishna để cầu-nguyện Đức Mẹ. Những điều
mà Ramakrishna mang lại cho ông là tình-yêu
mới mẻ, sự xác-thực trực-tiếp _ cái tâm-hồn trẻ
thơ .
Do đấy mà Keshab bắt đầu phát-biểu,
không phải sự phát-minh " Tân-pháp Thiên-
khải " năm 1875, mà là con đường của ông gặp
con đường của Ramakrishna _ lại chính là lời
phát-biểu sự bồng-bột gây ra của tín-ngưỡng và
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
207
sự hoan-hỷ khiến ông phải kêu lớn tiếng Sứ-
mệnh này cho thế-giới biết .
Ramakrishna đối với tín-đồ Brahmos là
một khích-động lạ-lùng, ngọn lưỡi lửa, vào dịp
Thánh-linh giáng-lâm múa trên đầu sứ-đồ, và
đốt cháy trong khi soi-sáng chúng. Ông là
người bạn chân-thành của họ, và một chứng-
nhân phán-xét họ. Ông có nhiều tình-cảm đối
với họ đồng thời với sự phê-phán tinh-khôn .
Ngay từ những dịp viếng thăm Brahmo-
samaj đầu tiên, con mắt thức-tỉnh của ông
thích-thú, đã soi thấu qua sự sùng-bái có vẻ
ước-lệ của những người lương-thiện ấy. Ông tự
kể lại với giọng hài-hước :
_ " Chủ lễ bảo chúng : “ Hãy vào
tham thông với Ngài ! ” Tôi bèn chờ :
“ Bấy giờ họ sắp nhập vào trong nội-giới
và thâm-nhập lâu lâu...” Nhưng chưa
được vài phút trôi qua, họ đã lại mở mắt
ra. Tôi rất ngạc-nhiên... “ Sao người ta có
SRI RAMAKRISHNA
208
thể thấy Ngài sau một định-niệm hời-hợt
như thế ?...” Khi tất cả xong suôi, và
chúng tôi còn lại một mình, tôi nói với
Keshab : “ Tôi đã quan-sát thánh-hội ông
định-niệm, mắt nhắm. Ông có biết họ làm
cho tôi tưởng đến cái chi không ?... Đôi
khi ở Darshineswar tôi thấy một đàn khỉ
ngồi dưới gốc cây, ngay đơ... hình-ảnh
của sự ngây-thơ... Chúng đang tâm-niệm
về những trái cây, những củ và những vật
gì khác ăn được để chúng đi ăn trộm, vài
phút sau đó... Sự tham-thông của các đệ-
tử ông bữa này với Thượng-Đế, này
Keshab ạ, sự thực không đứng đắn
hơn...” "
Trong một bài Thánh-ca của Brahmo có
câu : _ " Tưởng-niệm Ngài và thờ Ngài bất cứ
lúc nào, cả ngày ! "
Ramakrishna bắt người hát ngừng lại, và
nói : " Hãy đổi câu thơ ấy đi, mà nói : _ “ Hãy
cầu-nguyện Ngài và tôn thờ Ngài hai lần một
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
209
ngày mà thôi ! ”... Nói điều mình làm thực-
sự ! Tại sao nói dối với Vô-Biên ?... "
Hội giáo Brahmosamaj của Keshab làm
nâng cao đức-tin với một giọng cố ý cầu kỳ,
trừu-tượng, trịnh-trọng, có cái gì giống như
giáo-hội Anh-quốc. Người ta luôn luôn cảm
thấy nó đề-phòng chống với tất cả nghi-ngờ
ngẫu-tượng-giáo. Ramakrishna có cái thú tinh
ma là đổ cho họ, chính họ là ngẫu-tượng-giáo
thiếu nhiệt-thành. Một hôm ông nghe Keshab
kể lể trong một bài cầu-nguyện tất cả những
đức tính hoàn-hảo của Chúa, ông bèn hỏi :
_ " Tại sao ông làm cái thống-kê ấy ? Phải
chăng một người con trai nói với cha nó : " Ồ
cha tôi ơi, cha có bao nhiêu nhà, bao nhiêu
vườn, bao nhiêu ngựa v.v....! " Lẽ tự-nhiên là
người cha phải để tài-sản của mình cho con
mình hưởng-thụ. Nếu ông nghĩ đến Chúa và
những ân-huệ của Ngài như là cái gì phi-
thường thì ông sẽ không bao giờ thân-mật được
với Ngài, ông không có thể đến gần Ngài...
Đừng nghĩ đến Ngài như là xa-lạ với mình !
SRI RAMAKRISHNA
210
Quan-niệm Ngài như người thân nhất của
mình. Bấy giờ Ngài sẽ biểu-hiện cho ông...
Ông không nhận thấy rằng những Thuộc-tính
của Ngài mà ông mê-ly đó, làm ông thành
ngẫu-tượng-giáo ?"
Keshab phản-đối ; ông bị chạm vào
nhược điềm, ông kêu lên rằng ông chiến-đấu
ngẫu-tượng-giáo, rằng Thượng-Đế ông tôn-thờ
là một Thượng-Đế vô-hình. Ramakrishna bình-
tĩnh trả lời :
_ " Thượng-Đế ở trong hình-tướng
và Ngài vô-hình. Những hình-ảnh và
biểu-tượng khác đều cũng có giá-trị như
các Thuộc-tính của ông. Nhưng những
Thuộc-tính ấy không khác gì ngẫu-tượng,
là những hình-tướng cứng dắn và giá
lạnh."
Và ở chỗ khác :
_ " Ông muốn hạn hẹp và thiên-lệch
ư ?... Tôi, tôi có khát-vọng nhiệt-thành
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
211
thờ Chúa càng nhiều cách bao nhiêu càng
tốt bấy nhiêu ; vậy mà lòng khao-khát của
tôi không bao giờ được mãn-nguyện. Tôi
muốn thờ cúng Ngài với hoa quả _ niệm
danh Thánh trong cô-tịch _ mạc niệm về
Ngài, hát bài ca tụng Ngài, nhẩy múa
trong niềm vui mừng Chúa !... Những ai
tin Thượng-Đế vô-hình, đạt tới Ngài cũng
như những ai tin Ngài với các hình-tướng.
Chỉ có hai điều thiết-yếu là đức tin và
quên mình ... "
Tôi phiên dịch những chữ đã bạc mầu.
Điều mà tôi không có thể truyền-thông được là
sự hiện-diện thực-tại, sự phản-chiếu của nhân-
cách, tiếng nói, đôi mắt và miệng cười hấp-dẫn
_ không một ai đã được tiếp-xúc mà có thể ra
khỏi được ảnh-hưởng của chúng _ đấy là sự
xác-nhận sống động về Ramakrishna, nó in vào
khán-giả cái hình người mà lời nói, không phải
như chúng ta, là một cái áo lùng-thùng và tô-
điểm, nó giấu-giếm nhiều hơn là nó tưởng đã
SRI RAMAKRISHNA
212
diễn-dịch nguồn sống thâm-trầm, khó bắt được:
nguồn sống thâm-trầm nổi hiện ; và Thượng-
Đế kia, đối với phần lớn những người ( tôi nói
những người tín-ngưỡng ) là một cái khung tư-
tưởng, trong đó bức họa không thể đạt được thì
mắt nhìn không thấy được, " cái kiệt tác vô
danh ". Thượng-Đế kia, người ta thấy khi thấy
con người đó, thấy con người lặn chìm vào
Thượng-Đế đó, trong khi nói với anh, ví như
một người tắm lội, lặn xuống nhô lên ngay tức
thì, còn ướt lướt mướt và mang theo mùi rong
bể, vị muối của Đại-dương. Với những luồng
khí phát tán ấy, ai có thể tránh được ? Một
tinh-thần khoa-học Tây-phương có lẽ đã phân-
tích hóa-chất. Nhưng bất luận những thành-tố
thế nào, sự thực-tại tổng-hợp của chúng thì
không thể nghi-ngờ được. Những kẻ đa nghi
nhất có thể sờ thấy con người ngụp lặn đó, nó
ngoi lên từ trong vực thẳm của Mộng, và có thể
bắt được ở tại thân người ấy còn những phản-
ảnh của sản-vật đáy biển. Keshab với một vài
đệ-tử của ông đã phải say sưa trong không khí
ấy vậy .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
213
Phải đọc qua một vài cuộc đối-thoại kỳ-lạ
của vị Platon Ấn-Độ đó diễn ra ở du-thuyền
với Keshab trên giòng sông Hằng ( Gange ).
Người kể lại đã trở nên nhà thuyết-giáo Phúc-
Âm của Ramakrishna, là người đầu tiên ngạc
nhiên về một sự gặp-gỡ như thế, có thể xẩy ra
giữa hai tinh-thần trái-nghịch như thế. Mảnh
đất chung sẽ ra sao giữa " con người Thần-linh
và con người thế-tục, đại trí-thức, Keshab, thân
với người Anh mà lý-trí kết án các Thần ?...
Tất cả đệ-tử của Keshab xúm chung-
quanh hai vị hiền, trong buông thuyền như là
đàn ruồi ở cửa tò-vò. Nhưng từ môi Rama-
krishna, mật ngọt của lời nói vừa chẩy ra thì
đàn ruồi bắt đầu ngụp lặn vào trong thích-thú
mê-ly ...
_ " Cho đến nay, đã hơn bốn mươi
năm qua mà việc đã xẩy ra, và tất cả điều
Paramahamsa ( Ramakrishna ) đã nói còn
in trong ký-ức tôi những nét không có thể
nhòa. tôi chưa từng bao giờ được nghe
SRI RAMAKRISHNA
214
một người nói như ông... Vừa nói, ông
vừa sát đến gần Keshab, đến nỗi vô-tình
ông gần ngã vào đùi Keshab. Nhưng
Keshab ngồi yên, hoàn-toàn bất-động, và
không làm gì để lui ra cả..."
Ramakrishna nhìn chăm chú âu-yếm tất
cả bộ mặt chung-quanh, và ông tả tính-tình
từng người. Tất cả trong nét mặt, con mắt trước
hết, rồi đến trán, mũi, răng, môi, tai nữa, tất cả
đều là một thứ ngôn-ngữ mà ông có chìa-khoá.
Đương khi ông nói với giọng lắp êm-ái đáng
yêu, ông đi đến đề-tài Nirakara Brahman
( Thượng-Đế vô-hình )...
" ... Đương khi ông nhắc đi nhắc lại
chữ " Nirakara ", ông êm đềm đi vào
nhập-định Tam-muội ( Samadhi ) khác
nào người lặn ngụp chìm xuống đáy bể...
Chúng tôi hăm-hở quan-sát ông... toàn
thân-thể thõng ra, rồi ông trở nên hơi
cứng. Đường gân hay thớ thịt không chút
co-quắp. Không chút động-đậy. Hai bàn
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
215
tay đặt trên đùi, ngón tay sẽ gài với nhau.
Dáng ngồi của thân-thể thoải-mái, nhưng
hoàn-toàn bất-động. Mặt hơi ngẩng lên,
hết sức bình-tĩnh. Hai con mắt không
nhắm hẳn, hé mở, nhãn cầu không đảo
lộn, không lệch, nhưng đứng nguyên...
Môi hé mở, mỉm cười sung sướng, làm lộ
hàm răng trắng bóng. Không một bức
hình nào có thể tả xiết cái miệng cười
huyền-diệu đó... "
_ ( Nagendranath Gupta )
Người ta gọi ông thức tỉnh bằng cách hát
bài ca tụng ...
" ... Ông mở mắt to, nhìn chung-
quanh, ngạc nhiên. Bản nhạc dừng lại.
Paramahamsa nhìn chúng tôi, hỏi :
“ Những người này là ai ? ” _ Rồi ông
đập mạnh mấy cái xuống đỉnh đầu, kêu
lên : “ Xuống ! xuống !...” Ông thức dậy,
trở lại ý-thức bình-thường và hát bài ca
tụng Đức Mẹ Kali với giọng êm dịu..."
SRI RAMAKRISHNA
216
Ông ca hát đồng-nhất-tính của Đức Mẹ
Thần-linh với Tuyệt-đối. Ông hát trò chơi thả
diều các linh-hồn, mà Đức Mẹ thả bay lên, giữ
chúng buộc vào sợi giây Ảo-hóa :
" ... Thế-giới là đồ chơi của Đức
Mẹ. Thích-thú của Bà là để cho một hai
cái diều đứt giây, thoát khỏi tuồng Ảo-
hóa, trong số hàng ngàn cái. Đấy là trò
chơi của Bà. Bà nháy mắt tinh-nghịch nói
thầm tâm-sự với linh-hồn nhân-loại :
_ Hãy ra sống trong thế-gian, cho tới
chừng nào ta sai bảo làm việc khác !... "
Rồi bắt chước Bà, Ramakrishna quay vào
các đệ-tử của Keshab, với vẻ riễu cợt bao dung
để cùng cười với nhau :
_ " Các anh ở tại thế-gian. Hãy ở
đấy ! Không phải vai-trò của các anh là
bỏ đi. Các anh rất đúng ở vị-trí của các
anh, vàng mười và vàng pha, đường và
mật... Chúng tôi chơi một trò mà phải
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
217
mười bẩy điểm mới gọi là được. Tôi, tôi
đã vượt quá mức, tôi thua. Các anh, người
khôn-ngoan, các anh chưa được đủ điểm,
nhưng các anh có thể tiếp-tục trò chơi...
Sự thực dù các anh sống tại-gia hay là
trong thế-gian, điều ấy không quan-trọng
mấy, miễn là các anh không mất tiếp-xúc
với Thượng-Đế..."
Chính trong những câu chuyện nói một
mình ấy, mà sự quan-sát với sự xuất-thần hòa-
hợp với nhau lạ-lùng, lẽ phải riễu-cợt với suy-
tư cao-siêu nhất, mà Paramahamsa (Đại Thánh-
hiền) cởi mở những ngụ-ngôn đẹp, kể trên về
cái " Giếng Thần nhiều bậc " và về Đức Mẹ
Kali, Con Nhện. Ông ý-thức quá tế-nhị về
thực-tại, nhìn thấy quá rõ tận đáy lòng các
người ngồi nghe ông để mơ tưởng có thể kéo
chúng lên trạng-thái tâm-hồn giải-thoát của
ông. Ông ước-lượng hiền-trí của ông với lực-
lượng của chúng ; ông không đòi ở chúng điều
gì hơn là cái sức của chúng có thể mang được,
_ nhưng phải mang cho trọn vẹn ! Điều trước
SRI RAMAKRISHNA
218
hết là ông truyền cho Keshab và đệ-tử ông này,
sự bao-dung và quảng-đại trí-thức hơn để phát-
hiện sự chính-đáng của các quan-điểm khác
nhau hết sức ( và cho tới nay, họ tin là đối-lập
không có thể nào dung-hòa được ) _ trước hết
tất cả là tinh-thần sống-động, hơi thở sáng-tạo.
Ông cởi trói chân tay và nắn mềm lại cho bọn
trí-thức ấy, chúng đang bị tê-liệt trong ống
máng lý-trí _ các lý-trí _ Ông lôi chúng ra khỏi
các cuộc tranh-biện trừu-tượng... " Hãy sống,
yêu và sáng-tạo !... " Máu của họ bắt đầu lưu-
thông ...
_ " Sáng-tạo là làm như Thượng-Đế,
lời ông nói với Keshab, bấy giờ ông này
đang phí sức vào những cuộc tranh-biện
không cùng và vô hiệu. Khi nào ông tràn
đầy bản-thể của tất cả sinh-tồn, thì tất cả
điều ông nói ra đều trở nên thật. Những
thi-sĩ từng ca tụng từ đời nọ sang đời kia
chân-lý và đạo-đức. Phải chăng điều ấy
đã làm cho độc-giả trở thành đạo-đức và
chân-thật ? Nhưng khi có một người vô-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
219
ngã sống chung với chúng ta, những cử-
chỉ của y trở nên những tiếng đập của trái
tim đạo-đức ; tất cả điều y làm cho người
khác, cải-thiện cả giấc mộng tầm-thường
nhất của chúng, tất cả cái gì y chạm tới
đều trở nên tinh-khiết và chân-thật ; y trở
nên cha sinh của thực-tại. Và cái gì y
sáng-tạo ra thì không bao giờ biến mất.
Đấy là điều tôi không đợi ở nơi ông. Hãy
làm câm đàn chó sủa ! Con voi Thực-thể
hãy rống vang lên như kèn lệnh Thiên-
phúc ban xuống cho tất cả vạn-hữu ! Ông
có quyền-năng ấy. Ông có muốn sử-dụng
không ? Hay là ông đem phung-phí cuộc
đời ngắn-ngủi này vào việc tranh-đấu với
người ta ?... "
_ ( Mukerji _ " Le Visage du Silence " )
Keshab nghe lời khuyên nhủ. Ông lại bắt
rễ trong cái đất nóng hổi của đời sống giác-
quan, đời sống được nhựa máu Bản-thể tắm
gội. Ramakrishna đã làm cho ông cảm thấy
rằng dù là cái cây hèn mọn nhất của tư-tưởng
SRI RAMAKRISHNA
220
nhân-loại, không một mầm-mống nào là không
có cái nhựa sống ấy. Keshab tự cởi mở lại cho
tình-thương để thông-cảm với các hình-thức
tín-ngưỡng, cả với một số tập-tục ngoại-biểu
mà ông vốn gạt đi. Người ta thấy ông khấn cầu
Thượng-Đế bằng danh-hiệu Çiva, Çakti,
Sarasvati, Lakshmi, Hari, đồng-nhất với đức-
tính Thần-linh. Suốt trong hai năm ông tập-
trung tinh-thần vào một trong cái đại-mô-phạm
tôn-giáo, những nhập-thể oanh-liệt của Thánh-
Thần : Jésus ; Bouddha ; Chaïtanya... mà mỗi
mô-thức đại-biểu một trong nhiều mắt của cái
Minh Kính vĩ-đại ; ông cố sức lần lượt thâu-
hóa lấy chúng để thực-hiện lý-tưởng đại-đồng
bằng sự tổng-hợp. Nhất là người ta thấy ông,
vào lúc lâm-chung, bị ám-ảnh bởi hình-thái
Bhakti : Sùng-bái là hình-thái thân-mật của
Ramakrishna : tình-yêu đắm say Đức Mẹ.
Những đệ-tử của Keshab nói với Ramakrishna,
khi ông này đến thăm Keshab những ngày sắp
mất, rằng : " Có một sự biến đổi lớn xảy ra...
Người ta thường thấy Keshab làm như nói với
Thánh Mẫu, lắng nghe Thánh Mẫu, nước mắt
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
221
ròng ròng... " Và Ramakrishna được biết điều
ấy, ngạc-nhiên vui-sướng, liền xuất-thần nhập-
định. Không gì cảm-động hơn, trong câu-
chuyện dài về cuộc gặp mặt cuối cùng giữa hai
người, đó là hình-ảnh Keshab bước tới, ốm
yếu, sắp chết, ho đến tắc thở, vịn vào tường,
dựa vào ghế bàn để lần bò gục xuống chân
Ramakrishna. Và Ramakrishna còn đang nửa
thực nửa mê trong trạng-thái nhập-thần, lẩm
bẩm nói một mình, còn Keshab, yên-lặng đang
như uống lấy những lời huyền-diệu ấy, như từ
Đức Mẹ tỏa ra . Những lời ấy bình-thản, đau
đớn và an-ủi, giải-thích cho ông ý-nghĩa thâm-
thúy những thống-khổ của ông và cái chết sắp
đến. Ramakrishna thấu-hiểu biết chừng nào
những rối loạn âm-thầm của cuộc đời tín-
ngưỡng và thương-yêu lo-lắng ấy ! Ông dịu-
dàng nói với Keshab :
_ " Ông đau bệnh. Điều đó có một
ý-nghĩa lớn đấy. Suốt thân-thể ông có bao
nhiêu lần kinh-nghiệm vươn lên sùng-bái
thâm sâu, vươn lên cầu tìm Chúa ? Bệnh
SRI RAMAKRISHNA
222
của ông mang chứng-tích của những xúc-
động ấy. Người ta không có thể có được
một ý-niệm gì về sự tàn-phá nó gây ra
trong cơ-thể vào lúc chúng phát-sinh. Một
con tầu lướt trên sông Hằng, không ai để
ý. Nhưng sau đấy, chẳng bao lâu, một làn
sóng lớn đập vào bờ và đem theo một
mảng đất. Khi lửa của Thần Quan châm
vào cái ngôi nhà mỏng-manh của thân-
thể, trước hết nó thiêu-đốt những dục-
vọng, rồi đến cái ngã giả, sau hết tất cả bị
thiêu... Ông không phải là đã xong hết.
Tại sao ông để cho tên ông ghi vào sổ nhà
thương của Thượng-Đế ? Người ta sẽ
không để cho ông ra khỏi nữa, chừng nào
người ta chưa ghi tên chữ “ khỏi ”..."
Rồi ông gọi đến hình-ảnh so-sánh duyên-
dáng của người làm vườn thiêng-liêng, đào bới
quanh gốc rễ cây hoa hồng quý để chúng có thể
uống hạt sương đêm ...
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
223
_ " Bệnh cố ý bới chung-quanh gốc
rễ bản-thể ông ..."
Keshab lặng-lẽ nghe và mỉm cười. Đấy là
nụ cười của Ramakrishna, trong lúc sẩm tối của
nhà tang và sự đau đớn của người bệnh, như ở
những bức họa của Rembrandt, tỏa ra một tia
sáng bình-tĩnh huyền-diệu. Ramakrishna chỉ
lên tiếng trịnh-trọng khi Keshab kiệt sức rời
ông đi : ông cấm con người sắp chết không
được ở tại buồng trong với phụ-nữ và con cái
nữa, mà phải ở tại chỗ nào một mình với
Thượng-Đế .
Và trong phút hấp-hối, người ta bảo rằng,
những tiếng cuối cùng của Keshab là : " Mẹ !
Mẹ ! ... "
Người ta hiểu rõ rằng nhà đại lý-tưởng
duy-tâm, tín-ngưỡng vào Thượng-Đế Lý-tính,
Từ-thiện, Công-lý và Chân-lý đó, những ngày
bi-kịch còn thấy mình quá xa với Đấng Tối-
Cao, Tối-Tối-Cao, mà ông ta cần tới được gần,
SRI RAMAKRISHNA
224
cần sờ thấy bằng bụi chân của Ramakrishna,
được nhìn và nghe thấy Ngài qua Ramakrishna
đã làm cho ông được mát-mẻ trong cơn sốt
nóng. Đấy là thực-nghiệm của các thời-đại.
Nhưng chính vì thế mà một số các đệ-tử tự-phụ
của Keshab không có thể tha-thứ cho Rama-
krishna. Và tôi cũng xin các đệ-tử của
Ramakrishna không nên lấy thế làm hãnh-diện.
Xin các vị hãy noi gương sư-phụ hiền-hòa của
mình ! Rất khiêm-tốn, sau khi Keshab mới rời
đi trong cuộc gặp-gỡ cuối cùng, tôi vừa kể trên,
Ramakrishna ngưỡng-mộ mà nói về sự vĩ-đại
của Keshab đã bắt-buộc cả thượng-lưu xã-hội
và tín-đồ chất-phác như ông phải kính-trọng.
Và ông luôn luôn hâm-mộ Hội giáo Brahmo-
samaj. Những phần-tử ưu-tú của Hội Brahmo-
samaj cũng đã tôn kính lại Ramakrishna, và đã
biết học-hỏi thêm nhờ có sự hiện-diện của ông
trong tập-thể của họ. Trí óc và trái tim họ đã
được mở rộng. Ảnh-hưởng của Ramakrishna
hơn là ảnh-hưởng nào khác đã vãn-hồi vào tư-
tưởng dân-tộc mình, khỏi cái tư-tưởng của một
giới thượng-lưu trí-thức Ấn-Độ bị làn sóng đầu
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
225
bán thế-kỷ khoa-học, chưa thâu-hóa của Tây-
phương làm cho mất gốc, đảo điên .
Một tỉ-dụ này đủ minh-chứng : đệ-tử vĩ
đại của Ramakrishna là Vivekananda đã từ
trong hàng-ngũ Brahmosamaj và giáo-phái bài
ngẫu-tượng kịch-liệt nhất ( một thời-gian ),
nhân danh Lý-tính Tây-phương, chống với tục-
truyền truyền-thống Ấn-Độ-giáo, mà sau này
ông phải học-hỏi để tôn-kính và bảo-vệ .
Trong sự thức tỉnh trở dậy của Ấn-Độ-
giáo, tư-tưởng chân-chính của Tây-phương
không có chi mất mát cả. Nhưng tư-tưởng
Đông-phương đã giữ-gìn được tính độc-lập của
nó. Từ nay, chính là giữa nhân-cách bình-đẳng
và tự-do mà sự hợp-nhất sẽ thực-hiện. Không
phải sự lệ-thuộc bên này vào bên kia, hay là
phải tiêu-diệt một trong hai nền văn-minh vậy .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
227
KÊU GỌI ĐỆ - TỬ
Người ta nhìn thấy rõ-ràng điều mà Ấn-
Độ đã thu-lượm được trong sự gặp-gỡ của
Ramakrisha với Hội giáo Brahmosamaj. Những
lợi đắc ấy, đối với ông không rõ-rệt lắm, vậy
mà chúng không phải là không có thực .
Đây là lần đầu tiên ông xúc-tiếp cá-nhân
và liên-tục với giới thượng-lưu học-thức của
nước ông _ và qua nó, tiên-phong của tiến-bộ,
ông đã tiếp-xúc với những tư-tưởng Tây-
phương. Ông, hầu như hoàn-toàn, không biết
đến cái tính-tình ấy .
Ông không phải là người phản-ứng theo
như hạng tín-ngưỡng hẹp-hòi và cố-chấp, vội-
vàng đóng xập cửa hang mình lại. Trái lại, ông
mở cửa phanh ra, tò-mò khao-khát, ham ăn trái
cây sinh sống để không cần thưởng nếm đến
SRI RAMAKRISHNA
228
những ý-vị kia. Ông học-hỏi với con mắt nhìn
lâu, nó len lỏi như một ngọn cây leo vào tất cả
kẽ hở của ngôi nhà, tất cả chỗ ở khác nhau của
cùng một Chủ, tất cả những tinh-thần kia. Để
hiểu chúng trực-tiếp, ông tự là chúng. Ông
phối-hợp với quan-năng của chúng, hạn-độ
chúng và lượng-chừng cho mỗi cá-tính viễn-
tượng của ông về Bản-thể với bổn-phận cá-
nhân. Không bao giờ ông có ý-tưởng khuôn ép
chúng vào quán-tưởng và hành-động có thể
làm sai lạc bản-tính riêng của chúng. Đối với
ông, cho tới nay, hỷ-sả tôn-giáo là _ và còn là
để dùng vào việc riêng của ông _ tiếng đầu
tiếng cuối của chân-lý, ông khám-phá thấy rằng
phần-đông không dùng làm gì cả, và ông
không lấy thế làm lạ hay buồn phiền. Những
sai-biệt mà người ta đua nhau dựng lên, phân
cách chúng với nhau như là những hàng rào, thì
theo con mắt ông là những bụi hoa tô-điểm
cùng một cánh-đồng và tăng thêm phong-phú.
Ông hiểu tất cả. Ông yêu tất cả. Ông nhìn thấy
con đường của từng người và cái mục-đính đã
ấn-định của chúng ; ông nhìn thấy rõ-rệt hơn là
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
229
chúng thấy và ông chỉ đường cho chúng _
những người được chứng-kiến đều lấy làm lạ _
ông mượn ngay luận-điệu và tư-tưởng của
chúng. Không phải tính để thay đổi. Tinh-thần
ông nắm vững chặt tay lái của con thuyền. Và
nếu ông lái mỗi người về một điểm khác của
bờ, thì trước sau vẫn là bờ của Thượng-Đế.
Ông giúp họ, mà họ không chút ngờ, để đáp
vào bờ bằng chính phương-tiện của họ. Dưới
con mắt ông, tất cả tính-cách vốn là của
Thượng-Đế, thì phận-sự là phát-triển mỗi tính-
cách theo chiều hướng riêng để đưa đến chỗ
viên-mãn .
Cái hành-động tâm-linh ấy, mà ông
không từng cầu tìm, cho tới nay, thì cơ-hội
biểu-lộ cho ông là, ông vốn có năng-khiếu. Có
một câu của Tây-phương, mà thời-đại Phục-
hưng Ý-Đại-Lỵ ưa lấy làm cách-ngôn, cho
rằng : " Muốn là được " (Vouloir c'est pouvoir).
Phách-lối mỹ-miều của tuổi trẻ ! Nó chưa từng
thi-hành... Một người chân-thật không thích
nói suông, đối với y tất cả là hành-động, y lật
SRI RAMAKRISHNA
230
lại lá cờ châm-ngôn đó thành : " Được là
muốn " ( Pouvoir c'est vouloir ) .
Ramakrishna tri-giác thấy tất cả một lúc
là năng-lực của ông được ban và tiếng gọi của
thế-giới để sử-dụng chúng. Uy-thế của ông đối
với giới thượng-lưu trí-thức Ấn-Độ đã tỏ ra cho
ông thấy những nhược-điểm của chúng, những
nhu-cầu của những người trí-thức ấy, những
khát-vọng không thỏa-mãn, những khiếm-
khuyết trong giải-đáp của khoa-học đem lại cho
họ và sự cần-thiết đến việc can-thiệp của ông.
Và Hội giáo Brahmosamaj đã bầy-tỏ cho ông
thấy khả-năng của tổ-chức, sự tốt đẹp của một
tập-thể tinh-thần kết nạp những linh-hồn trẻ-
trung chung-quanh một người anh cả cùng hiến
dâng với chúng như một lẵng hoa tình-yêu lên
cho Người Yêu _ Đức Mẹ .
Kết-quả trực-tiếp là sứ-mạng của ông,
cho tới bấy giờ còn lờ-mờ, bắt đầu rõ-rệt ; nó
phản-hồi thành một hạch tâm tư-tưởng ý-thức
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
231
nóng bỏng để kết-tinh vào quyết-định. Rồi,
quyết-định đi sang động-tác .
Trước hết, nhìn toàn-diện đầy-đủ về mình
và Thượng-Đế của mình. Ông thấy Thượng-Đế
ấy ở tại bản-thân ông không mãn-nguyện như ở
tại các nhà tâm-linh thực-hiện khác (Sâdhakas)
với tự-giác cá-nhân. Ngài đòi ở ông tình-yêu và
phụng-sự loài người. Những phấn-đấu tâm-linh
của ông, những nhập-định thần-hóa, những
thực-hiện, chẳng phải để cho ích-lợi của riêng
mình ... " Vậy anh không phải của anh ". ( Sic
vos non vobis ) .
Chúng là để nhằm đường lối cho sự phát-
triển nhân-loại, cho một kỷ-nguyên thực-hiện
tâm-linh mới. Những người khác có quyền
khát-vọng giải-thoát và có thể hy-vọng. Ông
không, ông không có thể trông mong vào đấy.
Luôn luôn, hết thế-hệ nọ sang thế-hệ kia, ông
phải chạy đến cứu người khác, chừng nào
chúng bị nguy-khốn .
SRI RAMAKRISHNA
232
Và đây là khẩu-hiệu tập-hợp, lời cứu-thế
mà ông được uỷ-nhiệm để đem lại cho nhân-
loại hiện nay .
1/_ Tất cả tôn-giáo đều chân-chính _ xét trong
tinh-túy chúng và trong tín-ngưỡng thành-thật
của tín-đồ chúng. Sự khải-ngộ cái Chân-lý đại-
đồng ấy mà Ramakrishna đã đạt được bằng lẽ-
phải cũng như bằng trực-giác, là đối-tượng
đặc-biệt về sự xuất-hiện của ông tại thế-gian .
2/_ Ba trình-độ của tư-tưởng siêu-hình : _
Lưỡng-nguyên-luận ; Nhất-nguyên-luận "dung-
hòa" và Nhất-nguyên Tuyệt-đối, đều là những
độ đường trên con đường dẫn đến Chân-lý tối-
cao. Không có sự mâu-thuẫn giữa chúng với
nhau, chúng bổ-túc lẫn cho nhau và hoàn-
thành. Mỗi trình-độ hiện ra một cảnh thấu-thị
tùy theo quan-điểm tinh-thần của một hạng
người. Đối với đại-chúng bị giác-quan chi-
phối, thì hình-thức tôn-giáo Lưỡng-nguyên với
lễ-nghi, hình-ảnh, biểu-tượng rất ích-lợi. Trí-
thức thuần-túy có thể đạt tới được Nhất-nguyên
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
233
dùng-hòa ; nó biết có một cõi bên kia, nhưng
nó không được phép " thực-hiện " thế-giới bên
kia. Đây lại thuộc về một trình-độ khác :
Advaïta ( Bất nhị ) Tuyệt-đối Vô-hình, Bất khả
tự nghị, Vô ngôn, vượt quá các phương-tiện lý-
luận của ngôn-ngữ và của tinh-thần, mà khoa
Đạo-dẫn, tu-luyện Thiền-tông cho ta ý-vị trước
tiên. Đấy là kết-luận của " Thực-hiện "
( Réalisation ). Nó là Đồng-nhất-thể với Thực-
tại duy-nhất .
3/_ Với quá-trình tư-tưởng ấy, tự-nhiên có một
quá-trình phận-sự tương-đương. Người phổ-
thông sống trong thế-tục, có thể và phải làm
tròn phận-sự ở đời với tình thương chuyên-cần,
không chấp vào cái tư-ngã ( hay là ít ra cũng cố
vô-tư ), ví như người quản-gia coi sóc trong
nhà, nhưng bà ta tự biết nhà ấy không phải của
mình. Bởi lòng tinh-khiết và tình yêu, người ta
đi đến giải-thoát khỏi dục-vọng ! Nhưng phải
từng bước dần dần, kiên-nhẫn và khiêm-
nhường ...
SRI RAMAKRISHNA
234
_ " Chỉ nên đảm-đương những
hành-động tùy theo giới-hạn tư-tưởng và
mơ-mộng trong sạch của anh. Các anh
không nên nuôi bão-phụ với những sự-
nghiệp vĩ-đại, hãy làm những phận-sự
nhỏ vừa tầm với sức quên mình cho
Thượng-Đế. Rồi thì chừng nào lòng sả-kỷ
và tinh-khiết tăng-trưởng _ ( và sự-vật,
tâm-hồn trưởng-thành rất mau ) _ chúng
tự tìm ra con đường của chúng qua thế-
giới vật-chất và tỏa chiếu tốt lành vào
những người khác, cũng ví như sông
Hằng ( Gange ) khơi giòng qua lớp đá dắn
Tuyết-sơn ( Hymalaya ) để tưới đức lành
ra khắp hàng ngàn dặm xa ."
" ... Vậy chớ vội-vàng, mà bước đi
tùy theo với bước chân của mỗi người !
Chắc-chắn thế nào anh cũng tới đích.
Đừng chạy ! Nhưng tối kỵ là dừng lại !...
“ Tôn-giáo là một đường đi đưa đến
Thượng-Đế. Một con đường không phải
là một ngôi nhà ... ” _ “ Và con đường dài
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
235
chăng ? ” _ “ Đó là tùy đấy. Nó là con
đường chung cho tất cả. Nhưng bọn
người này đi đã từ lâu rồi, và cái đích gần
lại ...”
_ " Người thợ gốm phơi những bình
đất đã nặn ra ánh nắng mặt-trời. Trong số
có cái đã chín, có cái chưa. Đàn bò đi qua
dẫm nát... ( tức là chết )... Người thợ gốm
lượm lại mảnh vụn. Chừng nào các anh
chưa chín, người thợ gốm lại đặt anh vào
bàn nặn, y không để cho anh đi. Nhưng
khi ánh mặt-trời Thượng-Đế đã hoàn-
thành việc nung chín rồi, người thợ gốm
bỏ mảnh vụn lại, vì anh không còn ích-
dụng nữa, trên bình-diện Ảo-hóa. Tuy
nhiên, y còn giữa lại một vài cái trong số
những bình đã hoàn-thành để dùng làm
kiểu-mẫu cho nhân-loại ."
Ramakrishna là một trong những người
này. Và ông phải tìm những người ở giai-đoạn
kiếp chót ( dernière naissance ) để lập nên với
SRI RAMAKRISHNA
236
họ _ đấy là sứ-mạng riêng của ông và ý-muốn
của Đức Mẹ _ một tổ-hợp mới những người
truyền thừa và giảng-dạy thế-giới chân-ngôn
bao-hàm tất cả những lời khác. Và lời ấy là
" Đại-đồng ", Hợp-nhất và Đồng-nhất tất cả
phương-diện biểu-hiện của Thượng-Đế, tất cả
nhiệt-thành của tình-yêu và của trí-thức, tất cả
hình-thái nhân-loại. Cho tới ngày nay, mỗi
người chỉ mới tìm thực-hiện có một mẫu Bản-
thể. Người ta phải thực-hiện tất cả, đấy là
nhiệm-vụ hiện-đại. Và người nào đạt tới đấy,
tự đồng-nhất-hóa với tất cả và từng người anh
em sinh-hoạt của mình, phối-hợp với con mắt
chúng, quan-năng chúng, trí-não và tâm tình
chúng, người ấy là hỏa-tiêu và hướng-đạo của
thời-đại mới .
Vừa tri-giác cái thần-quan ấy xong thì
lòng ông như bị đốt cháy với ý-muốn thực-
hiện. Và như một người dụ chim, ông gọi lên
trong không-trung những tinh-thần có cánh bay
về tập-hợp chung-quanh tổ chim. Thời giờ đã
đến. Ông không có thể chờ đợi được nữa. Ông
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
237
phải họp chung-quanh mình cái ổ chim non của
mình. Ngày đêm ông bị ám-ảnh với cái ý-tưởng
về những bạn đồng-hành yêu mến. Ông kêu
gào trong lòng... _ " Không còn giới-hạn cho
nhiệt-vọng của tôi. Ban ngày, tôi còn tự-chủ
được ít nhiều. Tôi không còn có thể nghe thấy
điều gì người ta nói chung-quanh tôi... Chúng
( hình-ảnh đệ-tử mơ-tưởng ) tràn-ngập tinh-
thần tôi. Tôi nhìn thấy chúng. Tôi sắp đặt
những điều tôi sẽ nói với người này, với người
nọ... Nhưng tối đến, tư-tưởng về chúng đè nặng
lòng tôi... Lại một ngày đi qua mà chúng chưa
đến !... Chuông rung lên, cồng róng lên. Tôi
trèo lên mái nhà, trong đêm tối sập xuống, và
tim tôi thắt lại, tôi kêu gọi : _ " Đến đây, các
con tôi ! Các con hiện ở đâu ? Tôi không thể
sống vắng các con ... " Hơn cả người mẹ, hơn
cả người bạn, hơn cả người tình-nhân, tôi yêu
họ, tôi khát-vọng họ, và vắng họ tôi chết mất ."
Tiếng kêu của tâm-hồn mãnh-liệt ấy nổi
dậy trong đêm như đầu con rắn thần ; và sức
hấp-dẫn của nó ảnh-hưởng vào tất cả những
SRI RAMAKRISHNA
238
con chim trời chung-quanh. Từ bốn phiá,
chúng không hiểu những mệnh-lệnh nào, sức
mạnh gì thu-hút chúng, chúng cảm thấy như có
sợi giây vô-hình lối kéo , chúng quây-quần, sát
gần lại, và chẳng bao lâu, từng người lần lượt
đi đến .
Những đệ-tử đầu tiên đến trình-diện vào
năm 1879 là hai người trí-thức tư-sản tỉnh
Calcutta, hai anh em họ : một là Y-sĩ ở Calcutta
Medical College ( Phân-khoa Đại-học ) tuyệt-
đối duy-vật và vô-thần, Ramchandra Dutt ;
người kia, có vợ, chủ gia-đình, Manomohan
Mitra. Các ông này để ý vào vài hàng báo của
Hội Brahmosamaj nói đến Ramakrishna. Họ
đến và họ bị cuốn theo. Họ không xuất-gia hẳn,
và Ramakrishna cũng không khuyên họ rời bỏ
thế-gian. Nhưng con người phi-thường, với
tính-tình và vẻ quyến-rũ, đã chinh-phục họ.
Chính họ đã dẫn đến cho ông hai đệ-tử chính :
một người sau này trở thành tu-viện-trưởng đầu
tiên của dòng Ramakrishna, với pháp-danh
Brahmananda ( Rakhal Chandra Ghosh ) ; và
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
239
người thứ hai, mà thiên-tài sẽ rọi sáng Ấn-Độ
và thế-giới với pháp-danh Vivekananda
( Narendranath Dutt ) .
Trước khi dừng vào các nhân-vật chính,
đây là danh-sách _ tôi cố-gắng liệt-kê được
chừng nào thôi _ và sơ lược vào những nhân-
vật có tiếng nhất, đã tụ-họp chung-quanh
Ramakrishna, khoảng những năm 1879 và
1885 _ kèm theo lại-lịch và nghề-nghiệp :
_ 1879 : - 1 & 2 : Y-sĩ Ramchandra, và anh họ
là Manomohan Mitra .
- 3 : Latu, người làm của Ram-
chandra _ dòng-dõi hạ-lưu, đất Behar _ sau này
mang pháp-danh là Adbhutananda .
- 4 : Surendranath Mitra, tư-chức
giầu có của một hãng thương-mại Anh, có nhà,
hội-viên Hội giáo Brahmosamaj .
_ 1881 : - 5 : Rakhal Chandra Ghosh, con trai
của Zemindar ( chủ đất ), sau này là viện-
SRI RAMAKRISHNA
240
trưởng của dòng, với pháp-danh là
Brahmananda .
- 6 : Gopal, anh cả, buôn bán giấy,
sau này có pháp-danh là Advatiananda .
- 7 : Narendranath Dutt, thanh-
niên trí-thức, dòng-dõi Võ-sĩ Kshatriya, sau
này là Vivekananda .
_ 1882 : - 8 : Mahendra Nath Gupta, hiệu-
trưởng trường Cao-đẳng Vidyasagar High
School ở Shambazar Calcutta, _ sau này có
bút-hiệu M. viết " Phúc Âm của Ngài
Ramakrishna " ( Gospel of Sri Ramakrishna ),
và nếu tôi không lầm thì còn điều-khiển một
trường-học lớn, mà ông đã thiết-lập " The
Morton Institution " .
- 9 : Tarak Nath Ghosal, con một
nhà luật-sư, hội-viên Brahmosamaj, viện-
trưởng hiện-tại ( 1929 ) dòng Ramakrishna với
pháp-danh Shivananda .
- 10 : Jogendra Nath Chaudhury,
dòng Bà-La-Môn đất Darshineswar, gia-đình
quí-tộc, sau lấy pháp-danh là Yogananda .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
241
_ 1883 : - 11 : Sasibhushan, sau này là
Ramkrishnananda .
- 12 : Saratchandra Chakravarti,
sau này là Saradananda, thư-ký của hội
Truyền-giáo Ramakrishna suốt phần tư thế-kỷ,
và là nhà viết tiểu-sử chính về Ramakrishna.
Ông cũng như vị trên, thuộc dòng Bà-La-Môn,
tỉnh Calcutta và là hội-viên Brahmosamaj .
- 13 : Kaliprasat Chandra, con trai
một giáo-sư Anh-văn, sau là Abhedananda .
- 14 : Harinath Chattopadhyaya, Bà-
La-Môn, sau này là Turyananda .
- 15 : Hariprasanda Chatterjee,
sinh-viên, sau là Vijnananda .
_ 1884 : - 16 : Gangadhar Ghatak, sinh-viên
trẻ, 14 tuổi, sau này là Akhandananda .
- 17 : Girish Chandra Ghosh, đại
kịch-sĩ, sáng-lập kịch-nghệ Bengali cận-đại,
giám-đốc rạp hát " Star Theatre " ở Calcutta .
SRI RAMAKRISHNA
242
_ 1885 : - 18 : Subodh Ghosh, sinh-viên 17
tuổi, con nhà sáng-lập đền Kali ở tỉnh Calcutta,
sau này pháp-danh là Subhodananda .
- 19 : Purnachandra Ghosh, một
trong số sáu đệ-tử chính, và đến theo Rama-
krishna từ khi mới 13 tuổi .
Còn các vị sau đây tôi không có thể ghi rõ
ngày họ nhập hội giáo :
- 20 : Nhà đại-phú Balaram Bose, người
đứng tuổi và rất thành-tín, có công-quả giúp
vào sự thiết-lập hội giáo .
- 21 : Nhà thôi-miên trẻ Nitya Niranjan
Sen, mà Ramakrishna đã lôi thẳng ông ta ra
khỏi những tín-ngưỡng quỷ-thuật, sau này
mang pháp-danh Niranjananda .
- 22 : Devendra Mazumdar, người đứng
tuổi, có vợ, làm công cho chủ đất ( Zemindar ),
em ruột thi-sĩ Bengali Surendranath .
- 23 : Baburam Ghosh, sinh-viên 20
tuổi, sau là Premananda .
- 24 : Tulasi Charan Dutt, sinh-viên 18
tuổi, sau là Nirmalananda .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
243
- 25 : Durga Charan Nag, đệ-tử chính,
sống đời cư-sĩ tại thế-gian, và sau này thành
một vị Thánh như ở Thần-thoại " Légende
Dorée " ... v.v .
Như người ta thấy, trừ người đầy-tớ Latu
ra, phần lớn các đệ-tử đều thuộc nghề-nghiệp
tự-do, ở giai-cấp quí-tộc Bà-La-Môn hay là tư-
sản giầu-có xứ Bengale, trẻ tuổi hay đứng tuổi,
mà một số đã được giáo-hóa trong hội giáo
Brahmosamaj. Nhưng ở đây tôi chỉ kể những
người mật-thiết liên-hệ với Ramakrishna, và là
những người phụng-sự tư-tưởng của ông thôi .
Bây giờ thì ùn ùn kéo đến một làn sóng
người thuộc các giới, các cấp xã-hội, vậy bọc
lấy ông không ngớt. Chúng kéo đến lẫn-lộn với
nhau, nào tiểu-vương ( maharajahs ) cùng kẻ
hành-khất, nhà-báo với nhà bác-học ( Pandits ),
nghệ-sĩ với sùng-bái-đồ, Thần-đạo Brahmos và
Cơ-Đốc-giáo với Hồi-giáo, người tín-ngưỡng
với người hành-động và kinh-doanh, người già,
phụ-nữ và trẻ-con. Chúng thường từ phương xa
SRI RAMAKRISHNA
244
lại để hỏi-han ông. Suốt ngày đêm, ông không
được nghỉ. Ông trả lời cho tất cả mọi người, hai
mươi giờ trên hai mươi bốn. Tuy rằng sức-lực
của ông đi đến tiêu-diệt, ông vẫn không từ-chối
một ai, ông ban cho họ tất cả tình thương (ánh-
sáng và năng-lực tâm-hồn kỳ-lạ, dù ông không
nói lên, nó cũng đi sâu vào lòng khách thập-
phương ( và làm biến-hóa đi, lâu về sau ). Ông
tôn-trọng tất cả tín-ngưỡng thành-thật, và sẵn
lòng để các người tín-ngưỡng khác nhau tranh-
luận trước mặt ông, ngõ hầu để ông dung-hòa
họ .
Nhưng sự hòa-giải các tôn-giáo đối với
ông chỉ là một trong những yếu-tố của cái đại-
hòa-điệu. Ông đòi nhiều hơn nữa kia : con
người toàn-diện, hiểu, cảm, yêu con người
toàn-diện ; nó tự đồng-nhất-hóa với bản-thể
của tất cả nhân-loại. Bởi vì, linh-tính vốn bản-
nhiên ở tại mỗi cá-tính, thì mỗi sinh-mệnh đối
với ông đã thành, phải thành một tôn-giáo cho
mọi người. Và chúng ta càng yêu người bao
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
245
nhiêu _ con người khác-biệt nhất _ chúng ta
càng gần Thượng-Đế bấy nhiêu .
" Anh tìm Thượng-Đế ư ? Này,
này, tìm ở tại con người. Thần-linh biểu-
hiện ở tại con người, hơn là ở tại vật nào
khác ."
_ ( Phúc-Âm của Ramakrishna )
Không cần cầu tìm Ngài trong các đền
thờ, kêu gọi Ngài vì kỳ-tích hay khải-ngộ. Ngài
ở tại đây, ở tất cả các nơi, bất cứ giờ nào chúng
ta cũng đều nhìn thấy. Ngài là anh em của ta,
thù-địch của ta, Ngài là chúng ta. Và bởi vì
Đấng hiện-tại khắp nơi ấy từ thực-thể
Ramakrishna tuôn ra, bởi vì mặt-trời của ông
tràn-đầy, thanh-quang trong sáng xuống quần-
chúng quây-quần, và quần-chúng tự cảm thấy
không hiểu được, vươn lên phấn-khởi và sống
lại .
SRI RAMAKRISHNA
246
Ông nói với đệ-tử :
_ " Chúng ta phải xây-dựng trên
những nền-móng khác với các nhà làm
tôn-giáo. Chúng ta phải sống một đời
sống nội-tâm, nhiệt-thành đến trở nên một
Thực-thể. Thực-thể tạo sinh ra vô số ngọn
đuốc Chân-lý ... Các giòng sông cuồn-
cuộn chảy, bởi vì thân sinh ra chúng là
Núi đứng yên bất động... Hãy dựng lên ở
giữa nhân-loại một ngọn Núi Thượng-
Đế ! Bất cứ ở đâu và khi nào. Khi nào nó
được dựng lên, nó sẽ đổ hàng sông ánh-
sáng và tình-thương vào cho tất cả loài
người, cho tất cả thời-đại ."
Như vậy là không phải vấn-đề thiết-lập,
thuyết-trình một tín-ngưỡng mới ; Premananda
được nghe thấy ông cầu-nguyện :
_ " Mẹ ơi ! Xin Mẹ đừng mang lại
cho con danh-dự, bằng cách đem lại cho
con những tín-đồ của những tín-ngưỡng.
Đừng dùng lời nói của con để trình-bày
những tín-ngưỡng, những giáo-lý ! "
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
247
( Khi người ta dồn ông định-nghĩa
Thượng-Đế, ông nói :
_ " Và nếu tôi cho các anh một
định-nghĩa về Thượng-Đế, thì anh làm gì
bằng cái định-nghĩa ấy ? Một tín-điều để
lập nên một tôn-giáo mới, nhân-danh tôi
chăng ? Tôi không đến đây để mở ra
một tôn-giáo khác... Không, không !
Không nên tìm một tôn-giáo ! Hãy là
tôn-giáo ! "
Và ông đã cảnh-giác đệ-tử ông đối với tất
cả chủ-nghĩa duy Ramakrishna ( Ramakrish-
nisme ) .
Trước hết là đừng có những rào ngăn !
_ " Một giòng sông, không cần bờ
ngăn. Nếu nó tự hạn-hẹp, nó ngưng đọng
và trở nên nước tù độc ."
Không nên đóng cửa, mà mở cửa, cởi mở
tâm mình và tâm người khác, ngõ hầu cùng xây
lại cái Nhất-tính toàn-năng. Đấy phải là sứ-
SRI RAMAKRISHNA
248
mệnh đặc-biệt của đệ-tử ưu-tú : nhờ nỗ-lực
chung " tái tạo Thực-thể, nó sẽ nuôi-dưỡng
nam nữ những thế-kỷ sắp tới ."
Vai-trò hoạt-động đòi những năng-khiếu
dũng-mãnh, tinh-thần và tâm-tình khoáng-đạt.
Và đừng có chút suy-bì, so-kè gì với mình : tự
hiến thân cho tất cả .
Bởi thế cho nên, ông kêu gọi tất cả mọi
người, không trừ một ai, vào cộng-đồng linh-
thiêng, ông tỏ ra hết sức nghiêm-khắc trong
việc lựa-chọn đệ-tử : vì rằng họ sẽ là Đạo, con
đường cho nhân-loại đi lên .
Ông tuyên-bố, không phải ông lựa-chọn.
Đấy là " Đức Mẹ " đã lựa-chọn .
" ... Tôi không chọn họ. Thánh Mẫu
đem họ lại cho tôi, Mẫu bảo tôi quan-sát.
Ban đêm tôi định-niệm. Những màn che
rơi xuống. Mẫu chỉ ra cho tôi... Bây giờ
anh thấy những Tự-Tại của các người
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
249
nam cũng như nữ, như là thấy qua một hộp
thủy-tinh... Tôi tin chắc tính-cách của đệ-tử đã
có từ lâu trườc khi tôi khai đạo họ ... "
Nhưng " Mẫu " là ai, nếu chẳng phải cái
Tự-Tại thâm sâu nhất mà chúng ta mang ở nơi
mình ? Và cái Tự-Tại ấy, ở những người như
Ramakrishna, đã có được quyền-năng đặc-biệt
để giữ-gìn cái chí-trung cô-liêu, giữa không-khí
của đời sống trong giòng quần-chúng cuồn-
cuộn chảy _ cái Tự-Tại ấy có những đường
giây bắt tin hết-sức chính-xác, không thể sai
lầm trong cái vô-hình của các thể-tính. Trong
một tiếp-xúc lướt qua, ông đã phát-hiện được
đáy lòng _ những năng-lực và những nhu-
nhược, những đức-tính, những ô-nhiễm, cái gì
mà chính kẻ bị quan-sát còn không biết _ cái gì
hiện-tại _ cái gì sẽ đến. Và những người
thường có khuynh-hướng ngờ sự chính-xác của
cái khiếu nhìn trực-giác, nó vượt quá hiện-tại
vươn tới tương-lại đó. Nhưng nó chẳng hơn,
chẳng kém ngoài cái khuôn-khổ của bản-tính,
và chỉ là những rung-động của một chiếc kim
SRI RAMAKRISHNA
250
tìm mạch suối trên vỏ trái đất che lấp giòng
nước ngầm .
Ramakrishna là cái huyền-diệu trong tay
" Đức Mẹ ". Người ta kể chuyện về cái khả-
năng tinh-nhuệ vật-lý và tinh-thần quá mức của
ông, mà nó có những sắc-thái kỳ-lạ. Cũng như
về lúc chung cục cuộc đời ông, trong tinh-thần
ghê-tởm tài-sản, ông không có thể sờ vào vàng
mà không bị đốt bỏng, _ cũng như thế trong sự
tiếp-xúc với một người ô-uế, theo người ta kể
lại, đã là một vết đau-đớn cho thân-thể như ông
bị rắn độc cắn vậy .
Ông đọc thẳng vào trong tâm-hồn những
kẻ đến gần ông, và chỉ thâu-nhận đệ-tử sau khi
biết rõ họ. Ông khám-phá thấy ở một thanh-
niên chưa trưởng-thành, còn đầy tối-tăm về
ngờ-vực cái nhiệm-vụ chính-xác thích-hợp với
y, và có khi cả đến định-mệnh lớn lao mà chính
đương-sự không ngờ chi hết. Có khi ông giúp
cho chúng nẩy-sinh bằng cách báo trước cho
chúng biết. Bởi vì, vị ngào-nặn tâm-hồn ấy, với
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
251
những ngón tay nóng như lửa, làm tan chảy cả
chất sáp mềm và nhuyễn như tâm-hồn một
Yogananda hay Brahmananda, lẫn chất thanh
đồng như tâm-hồn Vivekananda. Điều kỳ-lạ là
những tính-chất hung-hăng, độc-lập nhất như
tính-chất Vivekananda, nhất quyết chống-đối,
sớm muộn đã hiến-dâng mà phục-tòng sự lựa
chọn tâm-linh của ông. Hơn thế nữa, bấy giờ
họ càng cố sức muốn từ-chối bao nhiêu, thì họ
càng ham phục-tòng bấy nhiêu. Ông biết nhìn,
bắt lấy, và bảo giữ những tinh-thần tiền-định
cho sứ-mệnh của ông. Hình như không một lần
nào, con mắt chim hạc lượn của Ramakrishna
đã nhằm sai vậy .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
253
THÀY VÀ TRÒ
Trong bọn tùy-tòng ấy, những linh-hồn
cao-thượng quây-quần ông, người ta phải phân
ra hai lớp _ có thể nói là một đoàn-thể gồm
nam và nữ ở tại-gia để phụng-sự Thượng-Đế _
với Hội-đoàn sứ-đồ .
Trước tiên, hãy nói về lớp người thứ nhất:
vì rằng những đệ-tử này hay là thính-giả hạng
thứ hai, hay là thứ ba này chứng tỏ cho chúng
ta tinh-thần " đại-đồng " rộng-rãi của Rama-
krishna, và tôn-giáo của ông luôn luôn để tâm
biết bao đến bổn-phận của nhân-loại, đối với
người khác cũng như đối với mình .
Ông không đòi những người có thiện-chí
phải bỏ tất cả đi để theo ông. Đối với những ai
đã bị ràng buộc vào tục-lụy, đối với những
người đã lập gia-thất, đối với những người cha
SRI RAMAKRISHNA
254
của gia-đình, ông giữ-gìn không bảo họ :
_ " Hãy bỏ đi tất cả để được cứu-độ ! "
Trái hẳn, ông cấm không được hy-sinh
những quyền chính-đáng của một người nào
khác, " bởi vì, con ơi, con muốn trở nên một
thánh-nhân ". Giải-thoát cá-nhân là một chủ-
nghĩa vị-kỷ ở quá nhiều trường-hợp. Và như
thế là cái chết khốn-nạn nhất của linh-hồn :
" ... Có cái nợ đối với Thần-linh ; có
cái nợ đối với cha mẹ ; có cái nợ đối với
người phụ-nữ... Không một công việc gì
có thể thành-tựu tốt-lành, trừ-phi cái nợ
đối với cha mẹ đã trả xong... Harish đã
bỏ vợ, và đến ở đây. Nhưng nếu vợ y
không được mãn-nguyện và cung-cấp đầy
đủ, tôi sẽ coi y là phạm tội... Có người
luôn luôn trích-dẫn Kinh-điển, nhưng
hành-vi của y lại hoàn-toàn trái-nghịch.
Ramaprasana nói rằng Manou đã ban lệnh
phải phụng-sự tu-sĩ Sadhus. Và kià mẹ
già của y chết đói và bà bắt buộc phải đi
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
255
ăn mày cho nhu cầu của bà !... Điều ấy
làm cho tôi phát điên !... Cả đến một
người mẹ sa-đọa cũng không bao giờ
được hắt-hủi... Nếu cha mẹ còn chưa
được mãn-nguyện, thì không một thực-
hành sùng-bái gì có ích lợi cả ... "
" ... Anh của S... có đến đây vài
ngày. Y bỏ vợ và con lại cho người anh rể
trông-nom. Tôi đã trách mắng dữ-dội...
Phải chăng không phải là phạm tội vì bỏ
nhà đi khi người ta có bao nhiêu con phải
nuôi-dưỡng ? Phải chăng không phạm tội
mà để cho người khác nuôi-dưỡng săn-
sóc hộ ? Thật là xấu hổ !... Tôi bảo y
phải đi tìm việc làm ... "
" ... Tôi bảo người ta làm trọn
nhiệm-vụ ở đời, cũng như nghĩ đến
Thượng-Đế. Tôi không đòi họ phải từ bỏ
tất cả... ( Cười nụ ). Bữa trước, Keshab
diễn-thuyết, ông ta nói : _ " Hỡi Chúa ban
cho chúng con được phép lặn vào giòng
SRI RAMAKRISHNA
256
sông Sùng-tín và đạt tới đại-dương Thực-
tại, Tri-thức, Lạc cảnh vĩnh-cửu !
( Satchitananda )... " Các bà phụ-nữ có
mặt ở đấy, ngồi sau bình-phong. Tôi nói
với Keshab, chỉ về phiá các bà : _ Làm
sao ông có thể bảo tất cả lặn một lúc
được ? Số-phận của các bà ấy sẽ ra
sao ?... Bởi thế mà thỉnh-thoảng hãy ngoi
lên khỏi mặt nước, lặn xuống, ngoi lên
lần lượt !... Keshab và các người khác bèn
cười rộ ... "
" ... Con đường của anh có gia-thất
là sống với vợ anh như người anh với em
gái, sau khi có một hai con, thì cầu Chúa
để cho hai người có được năng-lực sống
một đời tâm-linh hoàn-hảo và tự làm chủ
được mình ..."
" ... Chắc hẳn đối với ai đã chinh-
phục được cực-lạc của Thượng-Đế thì
thế-gian là vô vị. Sống đời sống tâm-linh
trong thế-tục là ở trong buồng kín, ánh-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
257
sáng lờ-mờ. Những ai đã làm quen với
không-khí tự-do, thì không sống nổi trong
ngục-tù... Nhưng nếu anh ở tại-gia, thì
anh có những bổn-phận phải gánh ở đấy.
Hãy học biết trong khi làm bổn-phận để
luôn luôn được hưởng thú tia-sáng !
Không để mất chút gì, không để mất tia-
sáng ấy ! ... Trong khi làm việc, một tay
làm, còn một tay hãy đặt vào chân Chúa !
Khi nào nghỉ việc, hãy ôm lấy chân Chúa
cả hai tay và đặt vào lòng mình !... Anh
được gì mà xuất-gia, từ bỏ thế-gian ? Đời
sống gia-đình đối với anh là một thành-
trì... Vậy nên ai đã đạt tới giác-ngộ, thì
bất cứ ở đâu cũng tự-do. Chỉ kẻ ngu xuẩn
mới nói : _ " Tôi bị tró buộc " rồi thì bị
trói thật... Tinh-thần vô sở bất tại, ở khắp
nơi. Nếu nó tự-do thì anh tự-do... Trong
thế-gian hay trong rừng sâu, tôi không bị
hệ-lụy. Tôi là con Thượng-Đế, vua trong
hàng vua. Vậy ai trói buộc được tôi ? ..."
_ ( Ramakrishna _ Đối-thoại với Keshab
và đệ-tử của ông này _ 1882 )
SRI RAMAKRISHNA
258
Như vậy, ông mang lại cho tất cả mọi
người phương-tiện để tự giải-thoát, để uống
nước suối nội-tâm, để tham-gia vào lạc-thú của
sinh-tồn đại-đồng ở tại mỗi người và nó là
Thượng-Đế, _ không đi ngược với bản-tính
riêng của chúng, không bóp méo hay cưỡng ép
nó, và nhất là không làm hư hỏng một ly nào
đối với ai lệ-thuộc vào những phương-tiện ấy.
Không những không chút cấm-đoán những
tình-cảm chính-đáng, ông còn dùng chúng để
làm cho người ta giác-ngộ. Những tình-cảm ấy
là ngòi lạch êm-đềm, óng ánh, mỹ-miều để đưa
những tâm-hồn trong sạch, hồn-nhiên đến
Thượng-Đế. Đây là một tỉ-dụ thích-thú :
( Con gái một đệ-tử ( Bramo Manila
Malik ) hay đãng trí, buồn bã nói với ông, khi
nàng cầu-nguyện, nàng không làm sao tập-
trung được tinh-thần .
( Ramakrishna hỏi nàng :
_ " Trước hết con yêu cái gì nhất ? "
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
259
( Nàng thưa rằng, nàng yêu nhất đứa con
của người anh nàng .
( Người sư-phụ âu yếm bảo nàng :
_ " Vậy thì con tập-trung tư-tưởng
vào đấy ! "
( Nàng bèn làm theo lời sư-phụ, và nàng
đã thấy qua đứa cháu trai nhỏ đó, Chúa bé
Krishna . )
Cái đóa hoa dịu cảm ấy đối với tôi mới
quý báu biết bao ! Ý nghĩa thâm-trầm biết bao.
Mỗi người chúng ta, tâm-hồn tối-tăm đến mấy,
cũng có tia-sáng thần-linh trong một phút
bồng-bột nhỏ mọn nhất của tình-yêu chân-thật.
Không một ai có thể hoàn-toàn không có nhất
điểm lương-tâm như ngọn đèn le-lói. Nó đủ soi
con đường của mình. Và tất cả con đường đều
tốt, cả đến những con đường xấu _ tất cả định-
mệnh cá-nhân, nếu ai nấy theo con đường của
mình với một lòng trung-thực. Còn thì phó cả
cho Thượng-Đế. Hãy tin-tưởng và bước lên !
SRI RAMAKRISHNA
260
Con mắt mẹ hiền của Ramakrishna đã
biết đến mức nào, như " Đức Mẹ " để bao-
dung thấu-hiểu và hướng-dẫn những tâm-hồn
bấn-loạn của các người con tinh-thần lạc lõng
nhất của ông, như câu chuyện đáng gọi là
huyền-thoại dòng tu-sĩ François d'Assise, về
mối liên-hệ của ông với nhà hài-kịch Girish
chandra Ghosh sau đây đã cho chúng ta thấy :
( Nhà kịch-sĩ và bi-kịch danh-tiếng ấy
vốn là một anh phóng-đãng và trác-táng, phản-
nghịch Thượng-Đế, mặc dầu thiên-tài của ông
ta đã khiến ông ta tùy hứng viết nên những tác-
phẩm hay, có tính-cách tôn-giáo. Nhưng theo
con mắt ông ta đấy là một trò chơi .
( Ông ta không nhìn thấy _ điều mà
Ramakrishna thoạt nhìn lần đầu đã nắm được _
rằng chính ông là trò chơi của Thượng-Đế .
( Ông ta nghe nói đến Paramahamsa. Ông
ta tò-mò muốn nhìn thấy như người ta đi xem
một con vật lạ trong hội-chợ. Ông ta đang say
rượu ; thoạt gặp mặt Ramakrishna, ông ta liền
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
261
thóa-mạ. Ramakrishna bình-tĩnh và tinh quái
bảo ông :
_ " Ít ra, hãy uống chúc Thượng-Đế!
Có lẽ Ngài cũng uống ... "
( Anh say há họng, kêu lên :
_ " Làm sao ông biết ? "
_ " Nếu Ngài không uống rượu thì
làm sao Ngài có thể tạo ra cái thế-giới
này lộn đảo ? "
( Girish đứng tắc nghẹn. Khi ông ta bỏ đi
khỏi, Ramakrishna thủng-thẳng nói với đệ-tử
mình, làm họ ngạc-nhiên :
_"Đấy là đại thành-tín Thượng-Đế."
( Theo thỉnh-cầu của Girish, ông đến xem
ông này biểu-diễn ở rạp hát Calcutta. Girish có
tính hợm, chờ đợi lời khen của Ramakrishna.
Ông bảo y :
_ " Con ơi ! con đau bệnh tâm-hồn
có bướu ."
SRI RAMAKRISHNA
262
( Girish phát cáu, chửi rủa ầm ĩ.
Ramakrishna ban phúc rồi đi về. Ngày hôm sau
Girish nhờ người đến xin Ramakrishna tha thứ
hộ mình. Rồi ông ta theo hầu Ramakrishna.
Nhưng ông ta bỏ được rượu chè, dù không bao
giờ Ramakrishna bảo ông ta phải bỏ. Bởi thế
nên Girish tự ý bỏ. Ramakrishna đã thổi vào
tâm-hồn ông ta cái ý-thức tự-do .
( Nhưng thế chưa đủ. Ramakrishna bảo
ông ta rằng không làm điều ác là một đức-tính
quá tiêu-cực, phải tự tiến lên gần Thượng-Đế.
Và Girish thì thấy mình bất-lực. Ông ta không
làm sao tự ép được vào một kỷ-luật nào hết.
Thất-vọng, ông ta muốn tự-sát thay vì định-
niệm và cầu-nguyện... Ramakrishna bảo :
_ " Ta không đòi anh quá nhiều. Chỉ
một lời cầu-nguyện trước bữa ăn. Một lời
cầu-nguyện trước khi ngủ. Anh có thể
làm được không ? "
_ " Không ! Tôi ghét thói quen lắm.
Tôi không thể cầu-nguyện, định-niệm
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
263
được. Tôi không thể nghĩ về Thượng-Đế,
dù chỉ là một khoảnh-khắc ! "
( Ramakrishna đáp :
_ " Được ! Vậy này, nếu anh muốn
thấy Chúa Tối-cao, và nếu anh lại không
muốn bước một bước nào tới gần Ngài,
thì anh có ủy-quyền cho ta không ?
Chính ta cầu-nguyện cho anh. Còn anh,
hãy sống cuộc đời anh ! ... Nhưng, hãy
coi chừng ! Anh phải hứa với ta là anh
sống, từ nay về sau, hoàn-toàn phó cho ý-
muốn của Chúa Tối-cao ... "
( Girish nhận lời, chẳng xét nghĩ gì đến
tất cả hậu-quả. Vấn-đề là sống không còn ý-
muốn riêng của mình nữa, phó-mặc cho năng-
lực nội-tâm, khác nào chiếc lá trước gió, hoặc
là như con mèo con mà mẹ nó tha đi, có khi lên
trên lòng sàng, cũng như có khi xuống dưới hố
phân. Nó phải chịu nhận tất cả, và không được
đòi-hỏi chi hết. Vấn-đề không phải dễ dàng.
SRI RAMAKRISHNA
264
Gisrish thành-thực nỗ-lực. Nhưng có một bữa,
ông nói :
_ " Phải, tôi muốn làm cái kia ."
( Ramakrishna nghiêm-nghị quát :
_ " Anh nói chi ! Anh không còn
được có ý muốn để làm hay không làm.
Hãy nhớ !... Ta có ủy-nhiệm-thư của anh.
Anh phải làm theo ý-muốn của Chúa. Ta
cầu-nguyện thay cho anh, nhưng lời cầu
của ta sẽ hoàn-toàn vô-hiệu, nếu anh
không từ bỏ hết cả ý-kiến của anh đi ."
( Girish xin phục-tòng .
( Và kết-quả của cái kỷ-luật ấy là sau một
thời-gian, Girish đã thực-hiện tự-hiến cho Tự-
Tại vô-ngã ; và ông ta đã bị Thượng-Đế chinh-
phục .
( Tuy vậy, ông ta không bỏ nghề kịch-sĩ
và diễn-viên của ông ta. Vả lại Ramakrishna
cũng không muốn như thế chút nào. Nhưng
ông ta đã tinh-khiết-hóa cái nghề ấy đi. Ông ta
là người đấu tiên đem phụ-nữ lên sân-khấu xứ
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
265
Bengale. Như thế là lúc bấy giờ ông ta đã cứu
và nâng cao giá-trị cho rất nhiều phụ-nữ nghèo
khó ở Ấn-Độ. Rồi sau đó ông ta còn dẫn họ
đến tu-viện của Ramakrishna. Ông ta đã trở
nên một trong những người tín-ngưỡng nhất
noi theo Ramakrishna, đệ-tử tại-gia trọng-yếu
nhất. Mặc dù tính nói thẳng và châm-biếm chua
cay của ông ta, ông ta cũng được các đệ-tử
xuất-gia rất kính-trọng và nể vì, sau khi sư-phụ
đã nhập-hóa .
( Khi sắp mất, ông ta nói :
_ " Cái trò điên cuồng của vật-chất
là cái màn che đáng ghê-sợ. Ramakrishna,
ông hãy gạt vén nó khỏi mắt tôi đi ! " )
*
SRI RAMAKRISHNA
266
Vậy là Ramakrishna biết trong những
người qua mắt ông. Ông đã lựa chọn lấy những
người nào mà ý-hướng tôn-giáo _ cái giác-quan
thứ sáu nó là giác-quan thứ nhất của ông _
biểu-lộ cho ông là những tiền-định cho hạt
giống thần-linh. Ở những ai mà Thượng-Đế
còn ngủ thì chỉ cần cái nhìn của ông, hay một
cử-động để thức-tỉnh. Hầu hết tất cả đệ-tử của
ông cởi mở cho ông sự rung-động ở bản-thể
tiềm-tàng của họ, dù họ muốn hay không, ngay
từ lúc mới tiếp-xúc với ông. Ông soi xét tận
đáy lòng họ. Những người khác chỉ phải cầu
tìm sự giải-thoát riêng, còn những người đệ-tử
chân-chính thì phải được hướng-dẫn ; họ sẽ có
trách-nhiệm về linh-hồn. Bởi vậy nên, như tôi
đã nói, sự chọn-lọc của ông phải qua một việc
xét-nghiệm vật-lý và tinh-thần, một khi đã
được thu-nhận thì tiếp-tục thành một giới-luật
cha con, luôn luôn được cảnh-giác .
Ông ưu-tiên chọn-lọc những người còn
trẻ, có khi rất trẻ, vị-thành-niên, chưa có vợ, _
" chưa mắc vào cái lưới dục, chưa sa-ngã vào
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
267
vòng tài lợi, không hệ lụy... " Nếu họ đã có vợ,
như trường-hợp Brahmananda, thì ông xét-
nghiệm người vợ để tin chắc rằng nàng không
là trở-ngại trong sứ-mệnh của chồng, mà sẽ còn
là người hỗ-trợ cho chồng nữa. Nói chung
những đệ-tử của con người vô-học ấy đều là
những thanh-niên học-thức, biết ít nhất là một
ngoại-ngữ và thông-thạo cả cổ-ngữ, tiếng
Sanscrit ( Phạn ). Nhưng điều này không tất-
yếu. Tỉ-dụ về việc đệ-tử Latu, rất có ý-nghĩa _
( tuy rằng người ta có nói đến sự đặc-cách duy-
nhất ấy đã chứng-nhận nguyên-tắc ). _ Người
tôi tớ kia, xa lạ đất Bengale, nông-dân hạt
Behar, dốt nát, mà chỉ một cái nhìn của
Ramakrishna đủ làm cho y thức-tỉnh đời sống
vĩnh-cửu, y mang tại bản-thân mà không biết
thần-linh của tâm cũng như sư-phụ của mình...
Ramakrishna nói với đệ-tử học-thức của ông
rằng : _ " Nhiều người trong các con muốn đến
Thượng-Đế phải vượt qua những làn nước vẩn
bùn của hiểu-biết... Nhưng Latu, hắn đã nhẩy
vọt lên trên, như Hannuman (con vượn hầu-hạ
Chúa Krishna)..."
SRI RAMAKRISHNA
268
Ông dạy họ gì ? Vivekananda đã ghi-
nhận rõ phương-pháp độc-đáo của ông, nhất là
vào thời đại này và ở Ấn-Độ _ ( bởi vì kể từ
đấy, một số những nguyên-lý tự bản-năng của
ông đã được các " Tân Học-đường " Âu-châu
nhắc lại và hợp-lý-hóa. Lời nói của sư-phụ cho
tới bấy giờ ở Ấn-Độ làm bằng-chứng. Sư-phụ
( gourou ) đối với môn-đồ ( chelas ) được
hưởng một sự kính-trọng tối cao, cao hơn cả sự
kính-trọng của họ đối với cha mẹ họ. Rama-
krishna không muốn như thế một chút nào.
Ông tự đặt mình ngang hàng với các đệ-tử trẻ
của ông, ông là bạn đường của họ, là người anh
cả, ông nói chuyện với họ rất thân-mật. Chẳng
chút tự cao. Những lời chỉ bảo họ của ông
không do nơi ông : Đức Mẹ nói qua miệng
ông... " Tôi có chi phải can-thiệp vào đấy ?... "
Bởi vậy nên ngôn-ngữ chẳng qua chỉ là phụ-
thuộc. Nó không phải là giáo-lý. Giáo-dục
chân-chính chẳng phải là nhồi cho một học-
thuyết mà là " truyền cảm ", " truyền thông "...
Cái gì ? Thể-tính của ông ? Chẳng phải là
( hay là còn hơn thế nữa ! )... Bản-thể ... Hay
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
269
nói là cái trạng-thái nội-tâm phong-phú, cái
kho báu sinh-lực tinh-khiết-hóa, gọi là " tâm
linh tính ". Và người ta truyền trao cái này
" như người ta trao cho bông hoa ". Vậy thì
một người làm vườn tốt chỉ ban cho những
linh-hồn nẩy nụ, mà mặt-trời và bóng râm nuôi
dưỡng, giao-phó cho để chúng nở ra hoa thơm
ngát tâm-linh. Không có chi khác. Hậu-quả tự
nó đến. " Khi bông sen nở hoa, đàn ong đến hút
mật. Bông sen, tính-cách cũng vậy, hãy nở hoa
một cách tự nhiên ! "
Do đấy mà sư-phụ phải giữ-gìn không
được cản-trở sự phát-triển tự-nhiên kia bằng
cách xen vào giữa mặt-trời và cây nhân-loại.
Sự tôn-trọng của ông, tình-yêu những bản-ngã
khác, sự lo sợ nô-lệ-hóa chúng, ở Ramakrishna
sâu xa đến nỗi ông sợ cả được đệ-tử quá yêu
mến, ông không muốn sự âu-yếm của đệ-tử đối
với mình, ràng buộc họ ...
_ " Những con ong hút hết tâm can,
nhưng chớ có để nó bị giam cầm vào vẻ
đẹp của tâm-hồn mình ! "
SRI RAMAKRISHNA
270
Huống hồ là vấn-đề bắt họ theo ý-tưởng
của mình. Không có giáo-điều cố-định ! Tôi đã
dẫn lời của ông :
_ " Hỡi Mẹ ! Xin Mẹ đừng lấy
miệng tôi để trình-bày những giáo-lý ! "
Càng ít nghi-lễ nữa !
_ " Thượng-Đế không có thể bắt vào
một hệ-thống nghi-lễ," mà chỉ đạt tới
bằng tình-yêu và lòng thành của các con."
Chẳng có bàn cãi suông về siêu-hình và
thần-học !
_ " Ta không ưa biện-luận. Thượng-
Đế ở trên các năng-lực lý-luận. Ta thấy
tất cả cái chi có, là Thượng-Đế. Vậy thì
lý-luận để làm gì ?... Vào ngay trong
vườn, ăn những trái măng linh-thiêng, và
đi ! Các con không vào vườn, các con
đếm những lá trên cây măng. Tại sao lại
phí thời giờ để bàn cãi về thuyết Tái-sinh
hay là về Thượng-Đế ngẫu tượng ? Và có
quan-hệ gì nếu bài tính đúng hay sai ! ... "
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
271
Vậy thì cái gì quan-hệ ? _ Thực-nghiệm
bản-thân. Trước hết hãy thực-nghiệm, và sau
đấy là tín-ngưỡng Thượng-Đế. Tín-gưỡng
không được đi trước, mà theo sau thực-nghiệm
tôn-giáo. Nếu nó đi trước thì nó không vững
chắc .
Song, Ramakrishna giả-thiết trước tín-
ngưỡng của ông về Thượng-Đế ở tại tất cả,
Ngài là tất cả, và do đấy kẻ nào mở mắt và nhìn
chung-quanh mình, kết-cục sẽ gặp Ngài ! Ở
ông, vốn là một cảm-giác thâm-trầm và bền bỉ,
đến nỗi ông không cả đến cảm thấy cần phải
chứng-minh. Ông không nghĩ đến bắt ép ai tin
theo ông. Ông quá chắc rằng bất cứ một tâm-
hồn lành-mạnh trong-sạch và thành-thật nào
cũng đều sẽ đạt tới như ông và chỉ cần bằng tự-
lực của mình. Vậy nên ông chỉ có lo làm sao
cho đệ-tử thành những người trong-sạch và
thành-thực .
Nhưng ai biết được cái sức tiêm-nhiễm
tinh-thần của con người thấm-nhuần Thượng-
SRI RAMAKRISHNA
272
Đế ấy ? Lẽ dĩ-nhiên là quan-tưởng Thần-linh
của ông bình-tĩnh và bền bỉ, nhập-thể vào da
thịt ông ví như hương thông thấm vào mật ong
mùa thu ; nó sẽ thấm-thía ngấm-ngầm trên lưỡi
các thanh-niên khao-khát chúng, như nuốt lấy
cử-chỉ và vận-động của ông vậy. Ông không
ngờ điều ấy. Ông để chúng tự-do ( ông tưởng
thế ). Ông tưởng rằng đấy là Thượng-Đế tỏa
hương thơm của Ngài qua bản-chất của ông,
như cỏ xạ-hương dưới làn gió. Xạ-hương
không tìm chinh-phục anh. Hãy ngửi đi với
quan-năng mới mẻ !
Và chính ở đây là tinh-túy của kỷ-luật
Ramakrishna. Trước hết hãy có và giữ lấy một
thân-thể quan-năng, và một tinh-thần toàn-vẹn
và trong-sạch, không chút nhiễm-ố, hư mòn
Một thân-thể trẻ-trung như Adam vậy .
Để được thế thì quy-tắc đầu tiên là tiết
dục.
Cái quy-tắc ấy, mà những người chống
giáo-hội Tây-phương chúng ta, ngây-thơ không
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
273
biết, đã cho là độc-quyền của Nhà-Thờ La-Mã,
và chúng không ngừng lấy những mũi tên cùn
cũ-rích của chúng để bắn phá, cái quy-tắc ấy
vốn cổ xưa như thế-giới, tuy rằng, nếu cả thế-
giới đã ứng-dụng, dĩ nhiên nó không thành cổ
xưa ! Tất cả các nhà tâm-linh-học danh-tiếng
và một phần lớn các nhà duy-lý nổi tiếng, các
thiên-tài sáng-tạo tinh-thần, đã có ý-thức sáng-
suốt hay là lương-tri về cái năng-lực vĩ-đại của
tâm-hồn tập-trung, tinh-khí sáng-tạo tích chứa
nhờ sự từ-chối phao-phí tính-dục vào cơ-thể và
tinh-thần. Cả đến những người hết sức tự-do
tín-ngưỡng và mở cửa cho những bất ngờ của
giác-quan, cho những bùng cháy của vật-dục
như Beethoven, Balzac hay là Flaubert, đều đã
cảm thấy và đã nói về khả-năng, về tính-dục ...
_ " Này ! tôi còn lại chi để cho cái
chí-thiện ? ( cho Thượng-Đế, cho nghệ-
thuật sáng-tạo ) đấy là Beethoven kêu
lên, một bữa kia, ông xua đuổi tiếng gọi
của nhục-dục. Huống chi là những người
sủng-ái Thượng-Đế, làm sao có thể chịu
SRI RAMAKRISHNA
274
sự phân chia ! Họ biết rõ rằng Thượng-
Đế của họ từ-chối đến thăm họ trong một
căn nhà bề-bộn và nhơ bẩn những dục-
tính ( vì rằng không phải chỉ động-tác là
thủ-phạm, mà hơn nữa chính là tư-tưởng.
Không ích dụng chi ở thực-hành tiết-chế
tính-dục, nếu dâm-dục lui ẩn trong xó kín
của tâm-hồn. Như vậy sẽ là một sự bất-
lực, là một thất-bại nữa _ chứ đâu phải là
giải-thoát.) Quy-tắc ấy bất-khả xâm-
phạm đối với đạo-sĩ Sannyâsin Ấn-Độ ;
và những hướng đạo tâm-linh khác nhau,
như Ramakrishna, nhu-mì, thanh-thản,
đầy nữ-tính, và Vivekananda, cái bó đuốc
nhiệt-tình trước gió bốn phương ấy, người
nam-tính, người hùng-dũng, bạo mạnh, cả
hai đều không dung cho sự nhân-nhưỡng
châm-chước mảy may .
_ " Để thực-hiện Thượng-Đế người
ta phải thực-hành tiết-dục hoàn-toàn...
Nếu người nào hoàn-toàn tiết-chế tính-
dục suốt mười hai năm, y đạt được một
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
275
năng-lực xuất-chúng siêu-nhân. Có một
đường gân phát-triển, gọi là đường
" thần-kinh trí-tuệ ". Và y có khả-năng
nhớ lại tất cả và hiểu-biết tất cả... Sự từ
bỏ " phụ-nữ và vàng bạc " ( Kamini
Kanchana ) là căn cốt ... "
Nghèo khó, Trinh khiết, Hôn-phối tâm-
linh của Thánh François. Chẳng cần đến những
mệnh-lệnh của Nhà-Thờ hay là Kinh Thánh để
cho tinh-thần bà con Đông-phương và Tây-
phương đi đến cùng một quan-niệm và cùng
kết-quả. Nói chung là người trí, hiến cho đời
sống nội-tâm ( mang danh-hiệu là Cơ-Đốc,
Çiva hay Krishna, hoặc là Ý-niệm thuần-túy
của tư-tưởng-gia và nghệ-sĩ ), " đều phải hoàn-
toàn làm chủ quan-năng " _ ( Phúc âm
Ramakrishna ) .
Và đến đấy còn chưa đủ. Đối với những
ai _ và là số đông _ phải ở lại tiếp-xúc với
đời thế-tục và làm việc tại đấy, thì chúng còn
phải làm chủ được cả đối-tượng của việc làm
SRI RAMAKRISHNA
276
với ham-vọng trí-thức nuôi-dưỡng việc làm của
chúng. Chúng phải đề-phòng không thành nô-
lệ cho hoạt-động, dù hoạt-động có cao quý
mấy, mà chúng đã hiến thân .
_ " Các con không thể không làm
việc được, bởi vì Tạo-hóa ( Prakriti ) xô
đẩy các con vào đấy. Đành thế rồi, tất cả
công việc phải được làm cho trọn-vẹn, tất
nhiên là phải như thế. Nếu việc làm
không có ràng buộc, nó sẽ dẫn ta đến
Thượng-Đế. Công việc làm như thế là
một phương-tiện để đi đến đích. Và cái
đích ấy là Thượng-Đế ."
" Không ràng buộc " không có nghĩa là :
không ý-thức, vô-lương-tâm, không sốt-sắng,
hay là không yêu việc làm tốt đẹp. Nhưng là
làm việc vô-tư, vô-cầu, không vụ lợi .
_ " Làm việc vô-tư không ràng-buộc
là làm việc không chờ mong chút phần
thưởng nào, không lo sợ một hình phạt gì,
tại thế-gian này và tại thế-giới khác ... "
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
277
Và Ramakrishna thì nhân-bản quá để
không hiểu rằng một lý-tưởng như thế, ít có khi
mà sự bạc-nhược của người ta có thể đạt được .
_ " Hành-động, làm việc không ràng
buộc là điều cực khó khăn nhất ở thời-đại
chúng ta ngày nay. Chỉ có thể thực-hiện
được cho các bậc thượng-lưu ưu-tú thôi.."
Nhưng phận-sự chung là ít ra cũng khát-
vọng cái sự vô-hệ-lụy, không ràng buộc ấy,
bằng cầu-nguyện nhiệt-thành và từ-thiện chân-
thật .
Ở đây xin hãy tạm dừng lại : danh-từ
( charité = từ-thiện ) dễ bị hàm-hồ ngộ-nhận.
Đại phàm, hầu như chữ từ-thiện và bác-ái đã
thành đồng nghĩa. Đối với chữ " bác-ái "
Ramakrishna tỏ ra nghi-hoặc đặc-biệt, có thể
làm cho các nhà văn châm-biếm Tây-phương
như Dickens, Mirabeau, không xa lạ, khi lật
mặt nạ, với giọng cười hay thoá-mạ, sự giả-dối
của một số người " làm phúc ", _ nhưng nó có
thể làm cho nhiều người tốt bụng buồn hay
SRI RAMAKRISHNA
278
phật lòng. Nhiều lần Ramakrishna cảnh-cáo
tín-đồ ông về sự bác-ái khoe-khoang. Trực-giác
của ông về vận-động bí-mật của con tim, khiến
ông cảm thấy quá thường trong những hoạt-
động và phát-biểu tín-ngưỡng từ-thiện, một sự
ích-kỷ, một lòng khoe-khoang, một ý muốn
vinh-dự, hay là sự hiếu-động vô-ích thiếu tình-
yêu chân-thật, nó tìm lấp những buồn-tẻ của
cuộc đời mình ; và khi nó ném đồng-tiền bố-thí
cho kẻ khốn-nạn chính là để mau trút cho nhẹ
cái hình-ảnh khốn-nạn đó làm bận lòng nó hơn
là sự giúp-đỡ những người đau khổ. Ông nói
với Mallik, tốt bụng, khi y đề-nghị xây-dựng
nhà-thương và công-tác cứu-trợ
_ " Phải đấy, nhưng với điều-kiện là
anh phải không bị ràng buộc ( nghĩa là
anh hoàn-toàn vô-tư ) khi làm những việc
thiện ."
Người ta thấy ông gần như nổi nóng khi
nói chuyện với người thế-tục, với Bankim
Chandra Chatterjee, nhà tiểu-thuyết-gia, hay là
với nhà chủ báo " Hindu Patriot ", họ ít có kể
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
279
đến những ý-hướng, đến tâm-hồn thâm-sâu, mà
chỉ cho công-tác là tất cả _ họ luôn miệng nói
đến công việc xã-hội, nào đường-xá và công-
trình hoạt-động công ích v.v... Ông không thừa
nhận một việc thật thiện, một việc thiện lâu
bền, có thể từ trong những tâm-hồn ô-uế phát
sinh ra được. Chúng hãy tự tẩy sạch từ trước
cái tính vị-kỷ của chúng đi đã. Chỉ sau đó rồi
chúng mới có thể làm việc hữu ích cho thế-gian
được .
Tôi có đặt nhiều câu hỏi để làm sáng-tỏ
cái thái-độ trên đây của Ramakrishna, các đệ-tử
uy-tín nhất hiện còn sống của ông, hay là đệ-tử
đại-biểu cho học-thuyết của ông, như Swami
Shivananda và Swami Ashokananda, đã mất
nhiều thì giờ vất vả để giải đáp ; và mặc dầu
một số nét lẻ-tẻ, chứng thực có trường-hợp
lòng từ-thiện hoạt-động của Ramakrishna _
( tôi có dẫn ở trên ) _ họ không có thể chứng-
minh cho tôi rằng vấn-đề từ-thiện bằng công-
tác có địa-vị cốt-yếu trong giáo-lý của Rama-
krishna. Đấy là điều quan-trọng theo quan-
SRI RAMAKRISHNA
280
điểm người Tây-phương, tôi nói người Tây-
phương trung-thực _ quen đặt công-tác trước ý
muốn và điều tốt lành của người khác lên trên
giải-thoát cá-nhân _ điều quan-trọng, nếu
chúng ta trước hết, không nhớ rằng Rama-
krishna cự-tuyệt cả chủ-nghĩa vị-kỷ của giải-
thoát cá-nhân lẫn chủ-nghĩa vị-kỷ trong việc
làm bác-ái từ-thiện không có tình-yêu, vô-tư _
sau nữa là mục-đích của ông chính là cốt để
châm ngọn lửa Từ-thiện chân-chính trong lòng
người .
_ " Sự khác biệt giữa lòng Từ-thiện
với lòng yêu riêng mình như thế nào ?
Từ-thiện là tình-yêu phổ-biến ra tất cả, và
nó không có giới-hạn vào mình, vào chi-
phái của mình hay là vào nước mình.
Tình-yêu riêng là ràng buộc vào mình,
gia-đình mình, chi-phái mình, nước mình.
Hãy nuôi-dưỡng đức từ-thiện, nó nâng lên
và dẫn đến Thượng-Đế ! ... "
Từ-thiện chân-chính thực ra đối với
Ramakrishna là tình-yêu Thượng-Đế ở tại tất
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
281
cả mọi người : vì rằng Thượng-Đế nhập-thể
vào người .
" Anh tìm Thượng-Đế ư ? Này, hãy
tìm tại người ! Thần-linh biểu-hiện ra ở
người nhiều hơn là ở tất cả mọi vật khác...
Sự thực Thượng-Đế vô sở bất tại, ở tất cả
sự-vật ; nhưng Thế-lực của Ngài biểu-
hiện ít hay nhiều ở tại chúng. Thượng-Đế
nhập-thể ở người là Thế-lực của Thượng-
Đế biểu-hiện rõ-rệt ở xác thịt... Người là
sự biểu-hiện vĩ-đại nhất của Thượng-Đế."
_ ( Phúc Âm _ Ramakrishna )
Người không yêu người lắm, và do đấy
người ta không thể giúp-đỡ được họ, nếu người
ta không yêu Thượng-Đế ở tại họ. Và trái lại,
người ta không có thể biết được Thượng-Đế là
thế nào, chừng nào người ta chưa thấy Ngài ở
tại mỗi người .
Đấy là ý-nghĩa mà nhân-vật hiện nay có
trách-nhiệm đại-diện tinh-thần chính-xác của
Ramakrishna, viện-trưởng giáo-hội, ông Shiva-
SRI RAMAKRISHNA
282
nanda, đã được quyền viết cho tôi ( 7 - 12 -
1927 ) những hàng sau, mà ý-nghĩa tâm-linh có
vẻ rất quen thuộc với độc-giả của Pascal :
_ " Hình như ông quan-niệm có sự
phân-biệt giữa sự thực-hiện Thần-linh tại
con người và cái ý-thức về đau khổ của
nhân-loại, coi như động-cơ của phụng-sự.
Đối với tôi thì đấy có vẻ như không phải
hai trạng-thái tinh-thần khác nhau. Đấy là
hai phương-diện của một tinh-thần. Chỉ
trong sự thực-hiện Thần-linh bản-nhiên ở
con người mà chúng ta có thể thực-sự
thấu-hiểu sâu xa nỗi đau-khổ của nó : vì
rằng chỉ đến lúc ấy, thân-phận nô-lệ tâm-
linh của nhân-loại, sự thiếu-thốn thành-
tựu và hạnh-phúc thiêng-liêng mới trở
nên hiển-nhiên cụ-thể đối với ý-thức
chúng ta. Đấy là cái ý-thức đau-đớn về sự
phản trái giữa Thần-linh ở tại nhân-loại
và sự ngu-mê hiện-tại của nó, mà đau-khổ
là hậu-quả. Đấy là cái nó khích-thích vào
lòng người ta để phải phụng-sự loài
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
283
người. Thiếu sự thực-hiện Tâm-linh
( Thần-linh ), nó ở tại nơi mình và tại tha-
nhân, thì tình-cảm chân-thật, tình-yêu
chân-thật, phụng-sự chân-thật, không có
thể có được. Bởi vậy nên Thánh Rama-
krishna muốn rằng đệ-tử của ông đạt tới
sự thực-hiện Tự-thể trước khi có thể tự
hiến thân : phụng-sự nhân-loại một cách
có ích được . "
Nhưng trong khi ấy thì nhân-loại đau khổ,
nhân-loại đang chết, bị bỏ rơi. Bỏ nó, không
cứu-vớt chăng ? _ Không được. Vì rằng điều
mà Ramakrishna không làm, cá-nhân ông
không thể làm được trong khuôn-khổ Nghiệp
( Karma ) của ông và viễn cảnh cuộc đời hữu-
hạn của ông _ ( cuộc đời mai đây đã sắp tắt ) _
Ông truyền lại sự thi-hành điều ấy cho cao-đệ
nhất của ông, cho người mà trong một viễn
giác _ ( tôi sẽ nói sau ) _ Ông xem như một
phản-ảnh của Thần-linh cao hơn mình, mà sứ-
mệnh riêng là để gọi lên, trong nhân-loại, ngõ
hầu đến cứu vớt chúng _ cho người thừa-tự lời
SRI RAMAKRISHNA
284
nói của mình : Vivekananda. Ông bắt buộc
người này, gần như trái cả ý muốn của y, là
phải hành-động trong thế-gian và phải " làm
nhẹ đau khổ cho những kẻ thấp hèn và những
kẻ nghèo khổ ."
Và Vivekananda sẽ đem vào đấy một
nghị-lực hành-động, một nhiệt-thành sôi-động.
Hẳn rằng tính-cách ông thuộc thể-chất khác với
sư-phụ mình, ông không có thể chờ-đợi một
ngày, một giờ để đến cứu-giúp những kẻ khốn-
nạn. Ông đau đớn đến tận da thịt ông. Nỗi
thống-khổ của nhân-loại ám-ảnh ông, chúng
làm cho ông thốt ra những tiếng kêu-gào tuyệt-
vọng. Ông không có được sự bình-thản lạ kỳ
của tinh-thần Ramakrishna, vào những năm
cuối cùng, bay lượn như tinh-thần xuất-thể,
phi-chất, tinh-thần Ramakrishna đã thâm-nhập
vào tầng trời đáng sợ, bên trên thiện và ác :
_ " Tuyệt-đối không có liên-hệ với
thiện cũng như ác. Nó là ánh sáng ngọn
đèn. Anh có thể nhờ nó đọc Thánh Kinh.
Nhưng cũng có thể làm giả chữ ký dưới
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
285
cùng ánh sáng ấy... Bất cứ tội-lỗi, điều ác
hay là khốn-nạn, mà chúng ta thấy trong
thế-gian, chúng chỉ khốn-nạn, ác, hay tội-
lỗi tương-đối với chúng ta thôi. Tuyệt-đối
không bị ảnh-hưởng của chúng. Tuyệt-đối
ở trên và ngoài xa. Mặt-trời Tuyệt-đối
chiếu sáng cả Thiện lẫn Ác... Tôi e rằng
các anh phải thừa-nhận những sự thực của
vũ-trụ như thế, y nhiên. Người ta không
tài gì thấu-triệt được các đường lối của
Đấng Chúa-tể. Tôi nhìn thấy, tôi thực-
hiện rằng tất cả ba vật đều cùng một
Thực-thể : kẻ làm đồ sinh-tế ; bàn để kê
đầu và người tù-tể chặt đầu... Ôi ! huyễn
tượng gì ! ... "
Phải, cái huyền-quan đó có tính vĩ-đại bi-
kịch, và khác nào Đại-dương. Rất tốt để cho tất
cả tâm-hồn anh-dũng thỉnh-thoảng lặn vào đấy.
Rất tốt cho đáy lòng âu-yếm của Ramakrishna
giữ lấy tiếng rào-rạt bao-trùm và hơi gió muối
mặn. Nhưng huyền-quan ấy không phải để
dành cho người thường tục. Nó có thể làm
SRI RAMAKRISHNA
286
chúng hoảng-sợ, hay là lạnh gáy, dựng tóc. tính
nhu-nhược của chúng không đủ khả-năng làm
cái tổng-hợp giữa Tuyệt-đối và Tự-ngã. Để
khỏi cắt đứt ở chúng cái đà sống vươn lên, thì
phải bảo-vệ cho chúng " cái đũa thần tự-ngã
đặt trên mặt Đại-dương Satchitananda ( Thực-
tại, Ý-thức, Hoan-lạc ). Đấy chỉ là " một
đường lằn trên mặt nước ". Nhưng " nếu anh
xóa nhòa đi thì chỉ còn lại có Đại-dương Duy-
nhất bất phân ". Hãy giữ lấy nó đấy để bảo-vệ
cho anh khỏi chóng mặt ! Chính Thượng-Đế
đã cho phép có cái ảo-ảnh ấy để nâng đỡ các
con Ngài trong những bước đi chập-chững.
Chúng sẽ cũng vẫn cùng với Ngài. Có những
người lo-âu hỏi Ramakrishna :
_ " Thưa Ngài, Ngài nói với chúng
con về bậc thực-hiện cái Đồng-nhất-thể :
" Tôi là Ngài "... Nhưng những ai không
có thể làm được, những ai nói : " Ngài
không phải là tôi. Và tôi cầu tìm Ngài... "
Những người ấy số-phận sẽ ra sao ? "
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
287
Ramakrishna trả lời với nụ cười an-ủi :
_ " Không có chút gì khác biệt, dù
anh gọi cái Ấy là " Ngài " hay là anh tư-
duy : " Tôi là Ngài ". Những người thực-
hiện cái Ấy là Ngài. Anh nuôi dưỡng với
Ngài quan-hệ thần-linh, ví như một
nghĩa-bộc già với chủ mình. Dần dần hai
thày trò trở về già, người Chủ nương tựa
vào Tớ. Ông ta hỏi-han về tất cả công
việc của mình. Một ngày kia, ông ta cầm
tay y và kéo lên ngai của mình. Người
đầy-tớ luống-cuống nói với Chủ : " Chúa
ơi, Chúa làm gì thế này ?... " Nhưng
người Chủ giữ y trên ngai gần sát với
mình và nói : " Anh với Tôi là một, như
nhau, người Yêu quí của tôi ơi ! ... "
_ ( Mukerji _ " Le Visage du Silence " )
Vậy, Ramakrishna luôn luôn biết thích-
ứng tư-tưởng mình vào nhỡn-giới của mỗi
người trong đệ-tử của ông. Và không những
không phá đổ thế quân-bình mong-manh của
tất cả tinh-thần nhân-loại, ông còn coi chừng để
SRI RAMAKRISHNA
288
thiết dựng một cách tế-nhị từng bước, tùy theo
những tỷ-lệ của các yếu-tố cấu-tạo ở mỗi
người. Người ta sẽ thấy ông châm-chước cách-
thức theo từng tính-tình đến nỗi, có khi như
ông chủ-trương mâu-thuẫn trái ngược. Đối với
đệ-tử cao-thượng, Yogananda, thiên quá về
hiền-từ, ông khuyên phải cương-nghị :
_ " Một tín-đồ sùng-tín không phải
là một thằng ngốc ."
Ông trách mắng người này không biết tự-
vệ ở đời. Đối với Vivekananda, hung-hăng,
luôn luôn sẵn-sàng tấn-công kẻ đối-phương và
đập đầu kẻ thoá-mạ, Ramakrishna cương-quyết
bắt phải quên những nhục-mạ đó đi mà hiền-từ.
Ở các đệ-tử " kiểu anh hùng ", ông dung cho
một số nhu-nhược mà không tha-thứ cho kẻ
hèn yếu, bởi vì hạng người trên không có thể
sa-ngã lâu dài được. Với tài mẫn-cảm rất chắc-
chắn, luôn luôn ông biết tính đoán những sức
phản-ứng của mỗi nhân-vật .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
289
Người ta có khuynh-hướng tin rằng con
người sống tiếp-xúc thường-xuyên với Tuyệt-
đối, vượt ra ngoài những tiêu-chuẩn quy-định
đời sống thông-thường, sẽ không có khả-năng
nắm được hàng ngàn sắc-thái của hành-vi hàng
ngày và để len lỏi vào trong ấy. Vậy mà trái
hẳn lại, một người như ..... Ramakrishna. Sự
giải-thoát của ông khỏi hệ-lụy Ảo-ảnh có hiệu-
quả trước tiên là gạt đi những che lấp của tất cả
thành-kiến, của tất cả cuồng-tín, của tất cả hạn-
hẹp về tâm trí. Và con mắt ông nhìn tự-do,
thẳng-thắn, không vướng-víu. Ông phán-đoán
tất cả sự-vật và tất cả mọi người với lẽ phải,
phổ-thông, vui-tươi. Người ta sẽ rất ngạc-
nhiên, khi nghe kể một vài những mẩu đối-
thoại của ông theo kiểu Socrate xưa bên Hy-
Lạp. Có lúc chúng gần với Montaigne và
Erasme hơn là với Jésus đất Galilée Do-Thái.
Cách điều-độ trào-phúng của chúng, cách
châm-biếm vui-vẻ, tạo ra một hiệu-quả mát-
mẻ. Giá-trị của chúng phải gấp bội ở cái đất
Bengale nóng-nực, đối với những trí óc trẻ
trung kia luôn luôn dễ bị cuồng loạn. Tôi xin
SRI RAMAKRISHNA
290
kể ở đây hai mẩu vấn-đáp thú-vị : Ngụ-ngôn
con Voi và con Rắn. Ở một chuyện, Rama-
krishna với một điệu hài-hước thích-thú, cảnh-
giác đệ-tử mình về hai cực-đoan trái-nghịch là
bạo-động và bất-bạo-động tuyệt-đối. Ở mẩu
chuyện thứ nhì, hình như ông chế-riễu chính
mình ; Ông đã ý-thức thấy những nguy-cơ của
thái-độ phi-luân-lý, lãnh-đạm vô-vi, có thể tạo
cho những đầu óc thanh-niên bồng-bột, dễ say
nắng với mặt-trời Thượng-Đế vô-sở bất-tại ;
Ông ước-lượng một cách riễu-cợt những trình-
độ hiện-diện của Ngài tại nơi chúng ta và
chung-quanh ta, thứ bực các hình-thái và
mệnh-lệnh của Ngài .
_ CON VOI .
Trong một khu rừng nọ có một vị Thánh
sống với một số đông đệ-tử. Một hôm, ông dạy
rằng : _ " Thượng-Đế, ông nói thế, thì ở tại tất
cả mọi vật. Do đấy mà chúng ta phải cúi đầu
sùng bái trước mọi vật trên thế-gian này." Xẩy
ra có một đệ-tử phải đi vào rừng kiếm củi để
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
291
đốt lửa thờ. Thình lình, y nghe thấy một tiếng
gào thét : " Tránh ra ! Tránh ra ! Kìa một con
voi điên lồng đến ! Lập tức mọi người bỏ
chạy. Nhưng người tu-sĩ không chạy trốn. Y
suy-tính rằng : " Con voi là Thượng-Đế trong
một hình-thức biểu-hiện, vậy thì sao ta phải
chạy trốn ? Y bèn ở lại chỗ của y vẫn đứng,
vái lạy con voi như là Chúa tối-cao, và bắt đầu
lên giọng ca tụng. Người quản-tượng hết hơi
bỏng họng gào thét : Chạy đi ! Chạy đi ! "
Nhưng tu-sĩ không thèm di-động nửa bước.
Con voi cuốn lấy anh ta vào vòi nó rồi tung ra
ngoài xa. Anh chàng tu-sĩ khốn-nạn đó ngất đi,
bị thương, máu me nằm chết bẹp tại chỗ... Sư-
phụ được tin, vội cùng với đệ-tử khác chạy đến
khiêng anh ta về nhà chữa chạy thuốc-thang.
Khi anh tỉnh lại, đạo-hữu hỏi duyên-do : " Tại
sao vậy, anh không tránh đi khi nghe thấy
người quản-tượng hét ?" Tu-sĩ trẻ tuổi kia đáp
lại : " Sư-phụ chúng ta đã dạy rằng chính là
Thượng-Đế tự biểu-hiện ra ở tất cả chúng-sinh.
Tôi đã coi đó là Thượng-Đế Voi và vì vậy tôi
không rời đi chỗ khác." Bấy giờ sư-phụ anh ta
SRI RAMAKRISHNA
292
mới bảo : " Con ơi, đích thật là chính Thượng-
Đế voi đến đấy. Nhưng phải chăng Thượng-Đế
quản-tượng đã không báo cho con ẩn-náu ? Sự
thực là Thượng-Đế biểu-hiện ra ở hình con voi,
Ngài chẳng cũng biểu-hiện như thế hay hơn thế
nữa ở hình-thể người quản-tượng ? Vậy này
con, sao con không nghe cảnh-cáo của người
quản-tượng ? "
Và đây là câu chuyện dí-dỏm của sư-phụ
Ramakrishna với đệ-tử trẻ Vivekananda :
_ CON RẮN.
Sư-phụ ( mỉm cười ) : _ Này Naren, con
nghĩ sao ? Những người tại-gia sống trong thế-
tục thường không khoan-dung mà bình-luận về
những người xuất-gia sống với Thượng-Đế.
Khi con voi đi trên đường cái, luôn luôn có đàn
chó và những con vật khác chạy theo, sủa ran
và kêu nhặng lên. Nhưng voi làm như điếc, và
tiếp-tục đi đường mình. Giả thử, con ơi, có
những người nói xấu con, sau lưng con. Con sẽ
làm gì ?
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
293
Naren ( khinh bỉ ) : _ Con sẽ nhìn chúng
như là đàn chó đi trên đường sủa đàng sau con .
Sư-phụ ( cười ) : _ Không được, con ạ,
không nên bao giờ đi quá xa thế ! Hãy biết
rằng Thượng-Đế ngự tại tất cả sự vật tri-giác
hay vô tri-giác. Thế thì tất cả phải là đối-tượng
cho ta kính nể... Trong sự tương-quan của
chúng ta với loài người, tất cả điều chúng ta có
thể làm được là phải chú-ý giao-thiệp với
người tốt và tránh giao-thiệp với kẻ độc-ác. Sự
thực Thượng-Đế có ngự cả ở con hổ. Nhưng
như thế không có nghĩa là chúng ta phải nhẩy
lên cổ nó và ôm lấy nó vào lòng .
( Các đệ-tử cười rộ . )
Narendra : _ Vậy thì phải ngậm miệng,
nếu có những kẻ vô-lại đến xúc-phạm chúng ta
chăng ?
Sư-phụ : _ ... Ngày xưa, một lần có một
bãi cỏ trên đó trẻ trăn bò thả bò ăn cỏ. Cũng ở
trên bãi ấy có một con rắn độc ghê-gớm làm tổ.
SRI RAMAKRISHNA
294
Một hôm có một vị Thánh sống đi qua. Những
trẻ mục-đồng chạy tới và kêu : " Thánh sống,
xin Ngài đừng đi lối kia ! Cẩn-thận kẻo rắn
cắn ! " _ Vị Thánh ấy nói : _ " Các con ơi, ta
không sợ con rắn của các con. Ta biết những
lời chú Chân-ngôn ( Mantras ) bảo-vệ cho ta tất
cả điều dữ. " Nói xong, ông cứ việc đi đường
ông... Con rắn nhìn thấy ông, bò đến và phồng
mang dựng cổ lên. Vị Thánh lẩm-nhẩm đọc
thần-chú, và kià, con rắn rập đầu xuống chân
ông, bất lực như một con run. Vị Thánh ấy nói:
_ " Này, tại sao mi làm như vậy, hại cho người
khác thế ? Ta cho mi một tên Thánh ( của
Chúa ) để mi nhẩm, và mi sẽ học tập yêu
Thượng-Đế ; sau cùng mi sẽ thấy Ngài, và ý
muốn làm hại người ta sẽ mất." Ông ta nói
thầm vào tai con rắn cái tên Linh-thiêng. Con
rắn cúi đầu tuân theo và nói : _ " Hỡi sư-phụ,
tôi phải làm gì để được giải-thoát ? " Vị Thánh
sống nói : _ " Nhẩm danh-hiệu Thiêng-liêng,
và không làm hại một chúng-sinh nào ! Ta sẽ
trở lại xem mi ăn ở thế nào." Nói xong vị
Thánh-nhân bỏ đi... Ngày ấy qua ngày khác.
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
295
Những trẻ mục-đồng nhận thấy con rắn không
hay cắn người ta nữa. Chúng lấy đá cuội ném
nó. Nó vẫn hiền-lành và vô hại như con sâu.
Một đứa trẻ trong đám cầm đuôi nó quay tít
vòng tròn và ném vào đống đá nhiều lần. Con
rắn ứa máu mồm và lũ trẻ bỏ nó nằm chết ngất.
Đến đêm nó hồi tỉnh, chậm chạp lần lần nó lết
vào trong hang, thân-thể đau đớn như dần. Sau
mấy ngày nó chỉ còn là một bộ xương. Phải lâu
lắm trước khi nó có thể đi ra kiếm cái ăn. Sợ lũ
trẻ, nó chỉ dám bò ra ban đêm. Kể từ khi nó
được nhà Bà-La-Môn khai đạo cho, nó thôi hẳn
không làm hại một tạo-vật nào của Thượng-Đế.
Tạm tạm, nó cố sống bằng cách ăn rơm rác và
lá cây. Vị Thánh sống trở lại, nhìn khắp chung-
quanh để tìm con rắn. Trẻ mục-đồng bảo ông là
nó không còn nữa. Nhà Bà-La-Môn ngạc
nhiên, vì ông biết rằng danh-hiệu Chúa Tối-cao
mà con rắn nhắc lại có năng-lực tâm-linh làm
cho bất-tử trước khi vấn-đề sinh-sống được
giải-quyết, nghĩa là trước khi thấy được
Thượng-Đế. Ông bèn đi tìm rắn, gọi nó bằng
tên mấy lần. Con rắn bò ra khỏi hang và cúi
SRI RAMAKRISHNA
296
đầu phục xuống trước mặt sư-phụ. Cuộc vấn-
đáp bắt đầu :
Thánh-nhân : _ Này ! Mi có được mạnh
giỏi không ?
Con rắn : _ " Thưa thày, cảm ơn thày, nhờ
ơn Bề Trên con được mạnh giỏi lắm .
Thánh nhân : _ Vậy mà làm sao con chỉ
còn xương với da thế kia ? Việc gì đã xẩy ra ?
Rắn : _ Ôi, Thưa thày, phục-tòng mệnh-
lệnh của thày, con nỗ-lực không làm ác đối với
chúng-sinh. Con sống ăn lá và các rơm rác
khác. Có lẽ vì thế mà con trở nên gầy yếu
chăng .
Thánh nhân : _ Thày e rằng không phải
chỉ vì việc ăn uống mà con trở nên thế kia.
Chắc phải còn có điều gì khác nữa. Nào hãy kể
lại ta nghe !
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
297
Rắn : _ À ! ... Phải rồi, có lẽ như con hiểu
vì sao... Một bữa kia, những trẻ mục-đồng đối
xử với con khá tàn tệ. Chúng cầm đuôi con và
quật con vào đá rất mạnh nhiều lần. Những trẻ
đáng thương đó chúng không có ý-niệm gì về
sự biến-đổi đã có ở nơi con. Làm sao chúng có
thể biết được là con không cắn ai nữa ?
Thánh nhân : _ Sao mà dại dột, sao mà
dại dột thế ! Mi phải là thằng ngốc để không
còn biết cản ngăn kẻ thù mi hành-hạ mi như
thế !... Điều ta cấm mi là đừng cắn một tạo-vật
nào của Thượng-Đế. Nhưng tại sao mi không
thổi phì phì vào những kẻ muốn giết mi, để làm
cho chúng sợ ?...
Rồi Ramakrishna nhìn đệ-tử, cười mắt mà
kết-luận :
_ " Vậy, hãy dựng mào lên...
Nhưng không cắn !... Một người sống
trong xã-hội và nhất là một người công-
dân, chủ gia-đình, phải sống làm ra vẻ
chống-cự điều ác để bảo-vệ. Nhưng nó
SRI RAMAKRISHNA
298
cũng phải vừa tránh không ăn miếng trả
miếng ... "
_ ( Ramakrishna _ Phúc Âm )
Và tôi không giải-đáp cái đơn thuốc tối
hảo thực-tiễn và luân-lý rất gần với câu cách-
ngôn " Si vis pacem para bellum ! " ( Muốn
hòa-bình sửa soạn chiến-tranh " mà chao ơi,
chúng ta đã thí-nghiệm cái bẫy đó... Nhưng tôi
chỉ ghi nhận cái nụ cười riễu-cợt của người kể
chuyện tinh-khôn, làm cho tôi nhớ lại hình ảnh
La Fontaine ( nhà ngụ-ngôn trứ danh người
Pháp ). Và về nội-dung thì phải nghĩ đến
phương-pháp của Ramakrishna _ trên cái
thuyền hành-động chòng-chành, nguy-hiểm
giữa bờ nọ sang bến kia theo sức thổi của hai
chiều gió trái nghịch _ phương-pháp của ông
là lập lại quân-bình giữa hai cực-đoan bằng
một lẽ-phải phổ-thông mạnh-mẽ .
Sự thực rõ-ràng là ông thực-hành và chủ-
trương giáo-lý " Bất bạo động " ( Ahimsa )
cũng như Gandhi sau này. Ông nhấn mạnh
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
299
nhiều lần, không những đối với loài người mà
còn đối với tất cả chúng-sinh .
Nhưng hài-hước hơn, và nhiều vẻ hơn là
Gandhi, không chút để tâm phát-biểu một qui-
tắc độc-nhất nào. Và nhìn phải trái với con mắt
chung. Ông, một người nhiệt-thành về Tuyệt-
đối ấy, trong thế-giới Ảo-hóa ( Maya ) này, ông
đã có ý-thức rất thâm-thúy về ý-nghĩa trung-
dung. Và đồng thời, như Đức Mẹ thả tung
những tâm-hồn cánh diều bay lên khung trời
sâu thẳm. Ông kéo chúng về mặt đất bằng sợi
dây lẽ-phải chung. Chưa phải lúc để chúng bay
đi ...
Chúng phải ở lại thế-gian này để được
dạy dỗ. Trước hết chúng phải tự dạy lấy mình.
chúng hãy ý-thức cho chính-xác bản-tính của
chúng, của những người chung-quanh và của
Bản-thể Thần-linh thấm-nhuần tất cả ! Phần
đông chỉ đạt tới đấy bằng việc làm chậm chạp,
tuần-tự và liên-tục. Công việc ấy phải xuất phát
tự nơi chúng, bằng phương-tiện riêng của
SRI RAMAKRISHNA
300
chúng, chắc hẳn là với sự giúp đỡ của sư-phụ
( gourou ) với tình cha con, nhưng không một
trường-hợp nào mà ý-chí của sư-phụ có thể
thay thế vào ý-chí của đồ-đệ được. Sư-phụ chỉ
có mặt để hướng-dẫn chúng mà thôi. Ngoại trừ
trường-hợp đặc-biệt, sư-phụ từ-chối can-thiệt
làm thay đổi ý-chí của đệ-tử ở thời kỳ đầu, mà
chúng phải là những người tạo tác ra chính sự
phát-triển riêng của chúng. Ông chỉ nuôi-
dưỡng chúng với mặt-trời nội-tâm của ông thôi.
Ông làm tăng năng-lực của chúng gấp bội. Nói
chung chung, đến giai-đoạn cuối cùng trên giốc
đi lên, khi họ đã thành-thực đạt được hạnh-
phúc của giai-đoạn sắp tới bằng tự sức cố-gắng
độc-lập, đến giai-đoạn đỉnh cao trên giốc, bấy
giờ sư-phụ mới bằng lòng cho chúng một
khích-động cuối cùng của giác-ngộ. Bấy giờ
chỉ cần một chút là đủ : một tiếng nói ; một cái
nhìn ; một đụng chạm. Ví như một tia chớp của
Ân-huệ. Nó chỉ thường giáng xuống cho những
tâm-hồn đã dọn, đã tới đỉnh .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
301
( Những đệ-tử đã từng-trải những thực-
nghiệm tâm-linh ấy _ và một số trí-thức có
tiếng hiện còn sống _ chứng thực rằng trong ấy
không có một hiệu-lực nào của thôi-miên nó
cưỡng ép ý-chí bằng cách thay-thế, bức hiếp
những trạng-thái ý-thức ngoại lai. Đấy là một
thứ bổ-dưỡng, làm phấn-khởi. Đệ-tử nhờ sự
khích-động mà đạt được một nhỡn-quan sáng-
sủa hơn về chính những lý-tưởng của mình.
Viện-trưởng Giáo-hội hiện tại là Swami
Shivananda viết cho tôi rằng :
_ " Ramakrishna có quyền-năng
nâng cao người khác lên trạng-thái ý-thức
cao hơn bằng cách truyền vào cho họ
năng-lực tâm-linh của ông. Ông thi-hành
bằng năng-lực tư-duy hay là bằng tiếp-
xúc. Nhiều người chúng tôi đã được ưu-
đãi, nâng lên các bình-diện ý-thức tâm-
linh cao-đẳng, tùy theo khả-năng của
chúng tôi. Đấy không phải là thuật thôi-
miên, cũng chẳng phải ngủ-say ( thụy-
miên )... Chính tôi đã được ưu-đãi đạt tới
SRI RAMAKRISHNA
302
cái ý-thức tâm-linh cao ấy ba lần, nhờ sự
đụng-chạm hay là ý muốn của sư-phụ.
Tôi hiện còn sống để làm chứng trực-tiếp
cho sức tâm-linh cao cả của Ramakrishna,
thày của tôi ."
( Nhưng ngay cả khi Ramakrishna muốn
để cho đệ-tử tự-do, ông không ảnh-hưởng vào
họ, cũng không được. Ông có được thần-lực
đạo-pháp ( Yoga ) kỳ lạ và đáng sợ. Ông ít khi
sử-dụng vì ông ghét những phương-tiện pháp-
thuật. Ông hoàn-toàn chống-đối " kỳ tích ",
ông không cho là không có thể có, nhưng vô
ích và có hại nữa ; ông tỏ ra ghê-tởm đối với
chúng cũng như Cơ-Đốc xưa kia vậy ; những
năng-lực gọi là siêu-nhiên đối với ông, hình
như là những trở-ngại cho con đường thành-tựu
tâm-linh, nó phải là kết-quả tự-nhiên của tâm.
Nhưng những năng-lực ấy phải chăng được để
không thi-hành chúng ? _ Tulasi, sau này
pháp-danh là ( Nirmalananda ) khi chưa biết
ông ; Y chờ ở hành-lang, nhìn thấy một người
đi qua, chuyên chú, bước loạng choạng ; người
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
303
ấy ( là Ramakrishna ) nhìn y không dừng chân.
Tulasi cảm thấy nhói vào ngực và bị tê dại mất
một lúc. _ Tarak ( Shivananda ) đứng trước mặt
Ramakrishna, yên-lặng, bất-động ; sư-phụ để
mắt nhìn vào y ; Tarak nức nở khóc và chân tay
run lên. _ Lần viếng thăm đầu tiên, Kaliprasad
(Abheda-nanda) sờ vào người Ramakrishna,
liền bị tràn ngập một làn sóng khí-lực .
( Những bận khác hình như chính sư-phụ
tự ý tạo ra, sự tỉnh dậy của những năng-lực nội-
tâm. Ông giúp chúng khi thấy những nỗ-lực
của thiện-chí. Ví như ông nhận thấy Latu
( Adbhutananda ) kiệt sức về sùng bái nhiệt-
thành, ông cầu xin Đức Mẹ ban cho Latu kết-
quả của lòng khao-khát tín-ngưỡng. Mấy ngày
sau Latu đạt được thần-hóa tam-muội trong lúc
định-niệm. _ Kỳ thăm viếng thứ hai của
Subodh ( Subodhananda ), Ramakrishna vuốt
ngực y, nói : " Thức tỉnh dạy, Đức Mẹ. Thức
tỉnh dạy ! " và lấy ngón tay vạch vào lưỡi của
y. Subodh cảm thấy một trào ánh sáng chạy từ
tủy lên não ; các hình tướng nam-thần và nữ-
SRI RAMAKRISHNA
304
thần hiện lên như chớp nhoáng và tan chìm vào
vô-biên ; y mất ý-thức về đồng-nhất-tính cá-
nhân của mình, mà Ramakrishna trả lại ngay,
ngạc nhiên về những phản-ứng bão-táp ấy._
Đứa trẻ Gangadhar ( Akhandananda ) được ông
dắt lên đền Kali Đức Mẹ, và bảo : " Nhìn Thần
Çiva sống ! " và Gangadhar đã thấy .
( Nhưng không nên ngộ-nhận ! Sư-phụ
không bao giờ tìm cách bắt ép một đệ-tử nào về
các hình-thái nhỡn-quan hay tư-tưởng nào
không sẵn có ở nơi họ rồi. Ông là người đánh
thức. Đối với tính-cách trí-thức, ông là người
đầu tiên không tán-thành việc cầu tìm những
thực-hiện thần-kiến. Khi Baburam ( Prema-
nanda ), là đệ-tử ông quý mến, cầu xin ông ban
cho thần-hóa tam-muội, Đức Mẹ cảnh-cáo
Ramakrishna là Baburam có duyên với con
đường Triết-lý Jñãna ( giác-ngộ bằng trí-tuệ )
và không phải con đường Sùng-bái Bhakta
( nhập-thể-hóa vào Thượng-Đế ) _ Đối với
người sau này là đệ-tử đại trí-thức của ông,
Saratchandra ( Saradananda ), ông hỏi : " Anh
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
305
ưa thực-hiện Thượng-Đế như thế nào ? "
Saratchandra đáp : " Con không thích những
thần-kiến. Con không chú ý thấy một hình
tướng đặc-biệt nào của Thượng-Đế khi định-
niệm. Con chú ý thấy Ngài biểu-hiện ở tại tất
cả tạo-vật trong thế-gian." Ramakrishna mỉm
cười và nói : " Nhưng đấy là điều cùng tột của
tâm-linh. Anh không có thể đạt tới ngay bước
đầu." Saratchandra thưa lại : " Con cũng lấy
làm mãn-nguyện vậy ."
( Cả đối với những người mẫn cảm nhất,
sự thực-hiện thần-kiến cũng chỉ là một độ
đường phải vượt qua, Abhedananda sau khi đã
được thấy ở Ramakrishna các Nhập-thể khác
nhau, một hôm ông ta thấy tất cả những hình-
thái đó dung-hợp lại thành một hình-ảnh sáng
chói. Ramakrishna báo cho ông ta biết là từ nay
trở về sau, ông ta sẽ không có thần-kiến nữa,
ông ta đã vượt qua độ đường rồi. Và thực vậy,
kể từ hôm ấy, Abhedananda chỉ còn có những
ý-niệm về vô-biên, mênh mang, liên-quan đến
Brahman Phạm-Thiên vô-ngã. _ Khi Baburam
SRI RAMAKRISHNA
306
năn nỉ xin sư-phụ cho có được năng-lực đặc-
biệt, Ramakrishna quở trách y và nói : " Anh
còn xin tôi cái gì nữa ? Tất cả cái gì tôi có
chẳng phải là của anh sao ? Tất cả cái gì tôi
chinh-phục ở thực-hiện là để cho các anh cả.
Chìa khóa mở cửa kho đây, hãy mở ra, và lấy
hết đi ! " .
( Nhưng ông nói tiếp cho nhà triết-gia
Vedanta là Harinath ( Turyananda ) : " Nếu anh
tưởng thấy Thượng-Đế nơi khác hơn là nơi tôi,
thì đi đi ! Điều tôi muốn là các anh vượt lên
trên đau-khổ của thế-gian này, và các anh hãy
hưởng lấy cái vui thú thần-linh ."
( Bằng ngàn cách như thế, ông chỉ chuyên
tâm hướng-dẫn những tâm-hồn non nớt ấy
trong ý-thức tín-ngưỡng riêng của họ, ngõ hầu
để họ tự phát-triển cá-tính chân-chính cao cả
của họ. Không một lúc nào ông không nghĩ tới
sự đồng-hóa họ với mình. ông tự hiến cho họ.
Ông không nói cho họ biết điều ấy, ông không
nghĩ rằng : " Các anh phải hiến các anh cho
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
307
tôi." Và đấy là một trong những khác-biệt
chính giữa giáo-lý của ông với Thiên-Chúa-
giáo . )
Nhưng tất cả điều người ta đã biết, tất cả
điều người ta có của khoa-học thu-lượm được,
dần dần trở thành sự sống cụ-thể và thực-tại
linh-động sinh-hoạt .
_ " Bấy giờ thì các anh ý-thức rằng
tất cả sự-vật sống như các anh ở tại
Thượng-Đế. Các anh trở nên ý-chí năng-
lực ( will power ) và là ý-thức của tất cả
cái gì có thật. Ý-chí của anh trở nên ý-chí
vũ-trụ toàn-thể ..."
Đến đấy chưa phải là độ đường cuối
cùng, bởi vì rằng bên ngoài cái khải-ngộ tạm-
thời còn có sự thực-hiện tối-cao, sự Đồng-nhất-
hóa tuyệt-đối, người ta đạt được trong một
trạng-thái Nhập-định Thần-hóa vĩ-đại là ( Nir-
vikalpasamadhi = A - nốc - đa - la Tam diểu
Tam Bồ-đề ). Nhưng điều này dành riêng cho
SRI RAMAKRISHNA
308
hạng người đã hoàn-thành sứ-mệnh của họ ở
đời : đấy là lạc-thú cùng tột, trái cấm ; bởi vì
vào đấy là một đi không trở về nữa _ trừ phi
có năng-lực đặc-biệt, hãn-hữu như Rama-
krishna đã được thụ-hưởng. Mặc dầu các đệ-tử
có van xin, ông cũng từ-chối không cho họ
nếm mùi ; họ chưa có quyền vào đấy. Ông biết
quá rõ rằng những " con bup-bê muối ấy " chỉ
chạm vào ngọn sóng đầu của Đại-dương liền sẽ
tan hòa vào nước bể. Ai muốn đạt tới Đồng-
nhất-thể với Thực-tại Duy-nhất, phải là kẻ đã
có một kỳ-tích để đạt được vé khứ hồi .
Các đệ-tử phải ở lại đây, tại độ đường áp
chót, là trạng-thái tinh-thần tự mình hòa-đồng
hợp-nhất với tất cả chúng-sinh, với tất cả thực-
tại ; và đấy chính là Giác-ngộ. Chúng ta đều có
thể ngưỡng vọng Giác-ngộ và làm cho người
khác tự Giác-ngộ. Đấy là bổn-phận của chúng
ta ...
Chúng ta còn làm gì khác được, chính ta,
những tinh-thần tự-do Tây-phương, chúng ta đã
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
309
biết qua lý-tính và tình-yêu cái đồng-nhất-tính
của chúng-sinh ? Đấy chẳng phải là mục-tiêu
bền vững nỗ-lực của chúng ta, là cái nhiệt tâm
nó sưởi ấm lòng chúng ta, là cái tín-ngưỡng
thâm-trầm nó làm cho chúng ta sống và nó chở
chúng ta trên mặt nước nhuốm máu của hận-
thù giữa người với người, mà chúng ta không
cả đến dúng gót chân vào đấy. Đấy chẳng phải
là ý-chí của chúng ta, sớm chầy sẽ thành-tựu để
hợp-nhất các dân-tộc, các chủng-tộc và các tôn-
giáo ? Và phải chăng về điểm này, chúng ta đã
là đệ-tử của Ramakrishna, mà chúng ta không
hay đấy ư ?
***
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
311
NGƯỜI ĐỆ - TỬ THÂN YÊU
NAREN
Nhưng trong cái hội-đồng các đệ-tử Ấn-
Độ ấy, tất cả sau này đều là những người đặc-
sắc, vừa về đức tin, vừa về công-tác xã-hội, có
một người đặc-biệt mà thái-độ của Ramkrishna
đối với ông ta cũng đặc-cách ; vì rằng thoạt
mới nhìn thấy ông này lần đầu, khi ông này còn
là một chàng thanh-niên còn chưa biết về phận
mình ra sao, Ramakrishna đã bầu ông ta lên
làm chủ tâm-linh của nhân-loại : Narendranath
Dutt _ Vivekananda .
Thánh Ramkrishna Paramahamsa với
thiên-tài trực-giác các tâm-hồn, nhìn trong một
nhịp động của trái tim phô-diễn tất cả trào dâng
về hậu-vận của chúng. Ông tư-duy trước cả khi
gặp người đại đệ-tử trong đời này, ông từng đã
SRI RAMAKRISHNA
312
giao-tiếp với y trong cửa ngõ của các Định-
mệnh .
Tôi ghi lại đây cái viễn-tưởng tuyệt đẹp
của ông. Tôi có thể, cũng như các nhà tâm-lý-
học của chúng ta, tìm giải-thích bằng cách
thông-thường. Nhưng chúng ta cần chi ? Phải,
chúng ta biết rằng một viễn-tưởng mạnh xác
nhận sáng-tạo và làm nẩy sinh cái gì nó đã
thấy. Theo nghĩa thâm-thúy hơn, những nhà
tiên-tri về tương-lai đã là những nhà sáng-tạo
thật sự của cái gì chưa có, nhưng sắp sửa có.
Cái giòng thác như định-mệnh thiên-tài của
Vivekananda có thể chìm mất vào trong lòng
đất, nếu con mắt của Ramakrishna không như
một nhát rìu bổ tan tảng đá ngăn mạch nước.
Và qua khe đá mở ra con sông linh-hồn vọt
chảy .
" Một hôm tôi cảm thấy linh-hồn tôi
bay bổng lên các tầng cao thiền-định
Tam-ma-địa ( Samadhi ), theo con đường
sáng. Nó sớm vượt vũ-trụ tinh-tú và nhập
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
313
vào cõi tinh-vi của ý-niệm. Cứ thế lên
mãi cao hơn, tôi thấy hai bên đường
những hình tượng chư Thần nam và nữ.
Tinh-thần đạt tới điểm ngoại biên của cõi
trời ấy, đến tận biên-cương sáng lạn ngăn
cách thế-giới sinh-tồn tương-đối với thế-
giới của Tuyệt-đối. Nó vượt qua biên-
cương ấy. Nó vào cõi siêu-nhiên, trong đó
không một thể hữu-hình cụ-thể nào được
nhìn thấy. Cả đến chư Thần cũng không
dám ngó vào đấy, họ tự-mãn ngồi xa hẳn
ở bên dưới. Nhưng một lúc sau tôi thấy ở
đấy có bẩy vị Hiền tôn-kính ngồi thiền-
định Tam-muội ( Samadhi ). Tôi nghĩ
bụng rằng các vị Hiền này hẳn đã vượt cả
loài người lẫn chư Thần về trí-tuệ và
thánh-linh, về hy-sinh và tình-yêu. Hớn-
hở chiêm-ngưỡng, tôi đang chú tâm vào
sự cao cả của các Ngài thì chợt thấy một
mảnh của cõi sáng bất phân kết-tinh lại
thành hình một đứa trẻ. Đứa trẻ lại gần
một trong các vị Hiền ấy, Âu-yếm ôm lấy
cổ một vị Hiền với đôi cánh tay nhỏ bé và
SRI RAMAKRISHNA
314
nói với ông này bằng giọng thần tiên, để
thử kéo tinh-thần ông từ cõi thiền-định
Tam-muội cao siêu xuống. Cái đụng
chạm huyền-diệu ấy đánh thức vị Hiền
trong trạng-thái siêu-thức và ông ta nhìn
đứa trẻ thần tiên với con mắt hé mở. Vẻ
mặt hân-hoan của ông tỏ ra rằng đứa trẻ
ấy phải là kho báu của tâm ông. Đứa trẻ
kỳ lạ đó vui vẻ nói với ông : " Con xuống.
Ông cũng thế, ông phải cùng xuống với
con ! " Vị Hiền yên-lặng, nhưng con mắt
nhìn âu-yếm tỏ ra bằng lòng. Trong khi
ông ngắm đứa trẻ, ông lại chìm vào trong
thiền-định Tam-muội. Và tôi ngạc-nhiên
thấy một phần thân-thể và tinh-thần ông
giáng xuống cõi đất, ở hình-thức một tia
sáng chói-lọi... Đến khi tôi mới nhìn thấy
Narendra, tôi liền nhận ra là vị Hiền
kia ..."
Nhà huyền-giác thần-kiến không nói đứa
trẻ là ai. Nhưng chúng ta đã đoán ra đứa trẻ đó
chính là Ramakrishna _ ( và các đệ-tử đã được
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
315
ông thú-nhận ) _ Thực ra, suốt đời ông quả
nhiên là một đứa trẻ ( Bambino = Đồng-tử )
miệng ngậm vú Mẹ, và chỉ rời cánh tay Đức
Mẹ = Quan-Âm được một lúc để làm tròn sứ-
mạng riêng của mình ; và theo ông, cái định-
mệnh ấy phải là một người thích-hợp hơn ông,
xuống nhân-gian, để hướng-dẫn và cầm quyền
chỉ-huy đội-quân .
Ông xét-đoán đúng. Với tấm lòng quảng-
đại của ông, tràn đầy tình-yêu để san-sẻ cho cả
thế-giới, thì cần phải có một thân-thể cường-
kiện, những cánh tay có thể lật ngược trái đất
và những bắp chân để đi khắp mặt đất, với một
đội-quân lao-động và cái đầu để chỉ-huy.
Nguyện-vọng của ông đã làm cho đất nẩy ra sự
thực-hiện ấy, điều này không những xác-chứng
tinh-thần sáng suốt và năng-lực của lòng dục
cầu ở ông, mà còn chứng-minh rằng đất Ben-
gale đã chín mùi và đang nóng sốt đợi chờ
tiếng gọi của ông. Vivekananda đã được chính
Tạo-vật thai-nghén tung vào cho " thời đại " :
SRI RAMAKRISHNA
316
đấy là thời sinh nở cho cái hình-thức tinh-thần
ấy vậy .
Một điều chẳng kém đáng khâm-phục là
Ramakrishna đã nhìn thấy ngay rằng người
niên-thiếu bất-định, hoang-mang, tâm-hồn sôi-
động kia, như Narendra lúc đó, chính là vị thủ-
lãnh tương-lai, Sứ-giả Phúc-Âm mà ông đang
chờ đợi .
Tất cả cuộc gặp gỡ đâu tiên giữa hai
người đáng được kể lại. Nó tạo cho độc-giả
một sự hấp-dẫn tương-tự như bất đắc dĩ Naren
đã cảm thấy và cũng bất đắc dĩ cuộc gặp gỡ
đầu tiên này đã liên-hệ ông ta với người sư-phụ
tuyển-cử ông .
Nhưng trước hết chúng ta phải phác-họa
hình-tướng người thiên-tài trẻ tuổi ấy vào lúc
mà ngôi sao ông du-nhập và bị thu-hút vĩnh-
viễn vào quĩ-đạo của Ramakrishna .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
317
Vivekananda vốn thuộc dòng-dõi đại-gia-
đình quí-tộc Võ-sĩ ( Kshatriya ). Về dòng-dõi
này ông vẫn có và luôn luôn giữa dấu-tích. Ông
sinh ngày 12 tháng Giêng năm 1863 tại tỉnh
Calcutta. Bà mẹ ông là người có trình-độ văn-
hóa rất cao, vẻ người vương-giả và tinh-thần
anh-thư, bà được nuôi-dưỡng bằng những Anh-
hùng-ca vĩ-đại Ấn-Độ. Một người cha sống đời
sống sa-hoa và náo-động, tương-tự với một đại
quận-chúa Pháp thế-kỷ XVIII, phô-trương một
tinh-thần độc-lập gần như kiểu Voltaire, lãnh-
đạm với giai-cấp, vừa căn-cứ vào tình nhân-
loại rộng-rãi với cái ý-thức vui-vẻ tự-cao.
Nhưng tổ-phụ Vivekananda là một nhà luật-
pháp giầu có và học-thức, năm 25 tuổi ông này
bỏ vợ con, chức-vị, tài-sản và xã-hội để xuất-
gia vào ở ẩn trong rừng, rồi trở nên một đạo-sĩ
Sannyâsin ; từ đấy người ta không còn bao giờ
thấy bóng hút ông ta nữa ...
Thời niên-thiếu và tráng-niên của Viveka-
nanda là thời của một hoàng-tử trẻ, nghệ-sĩ
kiểu Phục-hưng ở Âu-châu. Ông có tất cả
SRI RAMAKRISHNA
318
năng-khiếu về thể-chất cũng như tinh-thần ; và
ông trau-giồi tất cả. Ông có dáng đẹp sư-tử với
điệu-bộ khoan-thai và phản-ứng như hổ báo.
Ông có dũng-cảm về sinh-lý, thân-thể lực-sĩ và
sở-trường về các môn thể-thao. Ông biết đấu
quyền của dân Anh, bơi lội, chèo thuyền và
ham đua ngựa. Ông là thần-tượng của thanh-
niên và trọng-tài của thời-trang. Ông múa có
nghệ-thuật tinh-vi những điệu vũ tôn-giáo có
tiếng. Ông có giọng hát rất hay, mà sau này
những bài ông hát làm cho Ramakrishna mê-ly.
Suốt bốn hay năm năm, ông đã học-tập âm-
nhạc, đàn và hát với các giáo-sư Ấn-Độ-giáo
và Hồi-giáo. Ông có viết những bản nhạc, một
Khái-luận có kê cứu về khoa-học và triết-lý
âm-nhạc Ấn-Độ. Khắp nơi, ở đâu đâu người ta
cũng đều công-nhận là một uy-tín về âm-nhạc.
Âm-nhạc đối với ông sẽ còn là cửa để vào đền
thờ ( Nữ-Thần Sarasvati bảo-trợ nghệ-thuật ),
là hành-lang của Thiên-cung Tối-cao. Ở Đại-
học, ông xuất-sắc về trí thông-minh chói-lọi,
nó bao-hàm toán-học, thiên-tượng-học, triết-
học, ngôn-ngữ Ấn và Tây-phương. Ông đọc
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
319
các thi-sĩ tiếng Anh và tiếng Phạn ( Sanscrit ).
Ông nghiền-ngẫm những tác-phẩm lịch-sử của
Green và Gibbon. Người ta sẽ thấy ông tán-
dương nhiệt-liệt Cách-mệnh Pháp và Nã-Phá-
Luân ( Napoléon ). Từ thủa trẻ, ông vốn như
phần lớn trẻ con Ấn-Độ, thực-hành hàng ngàn
khoa định-niệm. Lúc này ( khi mới gặp Rama-
krishna ) ông định-niệm ban đêm về các sách
" Imitation de Jésus Christ " và " Vedanta "
( Triết-lý Veda-Upanisad ). Ông thích bàn cãi
về triết-học. Cái con quỷ biện-chính, phê-phán
" biện-biệt " đó, khiến sau này ông mang danh-
hiệu Vivekananda = (Discriminer = biện-chính)
Ông tìm hòa-điệu giữa lý-tưởng mỹ-thuật Hy-
Lạp với tư-tưởng Ấn-Độ, Nhật-Nhĩ-Man
( Indo-Germanique ). Nhưng con người đại-
đồng ấy, theo tiêu-chuẩn của Léonard và
Alberti, có thêm vòng hoa tâm-hồn tôn-giáo để
thống-lĩnh tâm-linh chúng vào đời sống. Một
tinh-thần tinh-khiết tuyệt-đối. Con người trẻ
đẹp tự-do và nhiệt-thành, được phú-bẩm tất cả
của-báu trên đời và giầu cảm-súc ấy đã tự bắt
mình vào một giới dục nghiêm-khắc. Chưa lệ-
SRI RAMAKRISHNA
320
thuộc vào một giáo-phái nào, trước khi chấp-
nhận một giáo-điều nào, ông đã ý-thức được
điều mà tôi đã nói lý-do sâu xa trên đây, là sự
trong sạch của tâm-hồn và thân-thể là một
năng-lực tâm-linh và ngọn lửa thấm-nhuần tất
cả đời sống, và một khi nó bị phạm vào thì lửa
kia tắt. Nhưng ông đã ý-thức về vận-mệnh lớn
lao của mình, và tuy chưa biết rõ chiều-hướng
của chúng sẽ dẫn mình về đâu, ông muốn phải
xứng đáng và thực-hiện .
Những năng-khiếu phong-phú với lòng
nhiệt-thành ấy khiến ông sống trong nhiều năm
trời với tâm-hồn quay-cuồng, trước khi nhân-
cách ông được xác-định. Trong những khoảng
thời-gian từ mười bẩy tới hai mươi mốt tuổi
( 1880 - 1884 ) ông trải qua một giai-đoạn
khủng-hoảng trí-thức liên-tiếp, càng ngày càng
kịch-liệt để cuối cùng chấm-dứt vào sự khai-
thông tín-ngưỡng tôn-giáo .
Ông vừa bị bối-rối sau khi đọc tác-phẩm
" Essais sur la Religion " ( Khái-Luận về Tôn-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
321
giáo ) của Stuart Mill ; cái quan-niệm Thần-
giáo lạc-quan phù-phiếm đầu tiên của ông,
giới-hạn vào trong các nhóm tín-đồ Brahmo-
samaj su-thời, bị sụp đổ. Và bộ mặt của cái Ác
trong Tạo-vật hiện ra trước mắt ông. Ông liền
nhẩy chồm lên ! Nhưng ông không thể tránh
khỏi cái Bâng-khuâng cổ điển ( theo nghĩa của
Dürer ) với cái Buồn thất-vọng. Ông cố thử tự
an-ủi hoài với các lý-thuyết của Herbert
Spencer, mà ông có viết thư cho ông này. Ông
đến xin Brajendra Nath Seal, người bạn học
niên-trưởng ở Đại-học, những lời khuyên-nhủ.
Ông thổ-lộ với ông này nỗi lòng hoài-nghi của
ông, yêu-cầu ông này hướng-dẫn mình trên con
đường tìm chân-lý. Nhờ Seal mà ông đọc
Shelley và dìm tinh-thần thiêu-đốt của ông vào
ba-động không-khí thơ-mộng phiếm-thần-giáo.
Rồi người cố-vấn trẻ tuổi đó muốn dụ ông thờ-
phụng Thượng-Đế Lý-tính _ Parabraman
( Phạm-thiên vô-ngã ) mà ông ta đã tự dựng lên
cho mình. Chủ-nghĩa Duy-lý của Brajendra là
một loại đặc-biệt đòi dung-hòa tất cả thuần-túy
nhất-nguyên-luận Vedanta, biện-chứng-pháp
SRI RAMAKRISHNA
322
Ý-niệm Tuyệt-đối của Hegel với Giáo-điều của
Cách-mệnh Pháp : Tự-do ; Bình-đẳng ; Bác-ái.
Đối với Seal thì nguyên-lý cá-nhân-hóa là ác.
Lý-tính đại-đồng là thiện. Vậy thì cốt-yếu là
biểu-hiện Lý-tính thuần-túy : đấy là vấn-đề lớn
của thời cận-đại, và Brajendra tưởng có thể
giải-quyết bằng Cách-mệnh. Cái chủ-nghĩa
duy-lý cách-mệnh và đế-quốc ấy có thể thoả-
mãn cho một số khiá-cạnh của tính-tình bá-chủ
của Narendra. Nhưng bản-tính sôi-động của
ông không thể tự giam vào đấy được. Trí-tuệ
ông muốn thừa nhận lắm hay là bắt ép chủ-
quyền tối-cao của lý-tính đại-đồng và lập nên
luân-lý đạo-đức trên cơ-sở phủ-nhận chủ-nghĩa
cá-nhân một cách quyết-liệt. Nhưng đời sống
mãn-nguyện của ông. Nó đang khao-khát vẻ
đẹp của thế-gian và ham-vọng. Đòi tiết-chế là
bắt hổ non ăn chay. Sự khó chịu của ông, sự
khủng-hoảng tinh-thần của ông càng tăng bội.
Thật là một điều riễu-cợt nếu chỉ cho ông ăn có
một món là lý-tính tiềm-tại, cái Thượng-Đế
thiếu máu. Đối với một người Ấn-Độ-giáo
chân-thật, coi sự sống là đức tính đầu tiên, nếu
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
323
chẳng phải chính là bản-tính của Chân-lý, thì
cần phải cho y sự khải-ngộ sinh-hoạt, Tuyệt-
đối thực-hiện, Thượng-Đế hiện thân làm người,
một vị Thánh sống Gourou = Sư-phụ có thể nói
với y : " Ta đã nhìn thấy Chân-lý, Thượng-Đế,
ta đã sờ thấy Ngài, ta đã là Ngài... " Tuy nhiên,
trí thông-minh của ông được nuôi-dưỡng với
tư-tưởng Âu-Tây, tinh-thần phê-phán thừa
hưởng của thân-sinh, không ưa cái khát-vọng
của tâm-tình và giác-quan _ ( người ta sẽ thấy
sau đây những phản-động mạnh đầu tiên của
ông chống đối với Ramakrishna ) .
Cũng như tất cả thanh-niên trí-thức thời
ấy ở xứ Bengale, ông bị thu-hút vào luồng ánh-
sáng trong sạch của Keshab Chender Sen. Bấy
giờ ánh-sáng ấy đang rực-rỡ, và Naren thèm
muốn : ông muốn là Keshab. Dĩ-nhiên là ông
liên kết cảm-tình với hội đoàn mới của ông
này. Và ông nhập hội. Tên tuổi ông còn ghi
trong danh-sách hội-viên của tân-giáo-hội
Brahmosamaj. Giáo-hội truyền-giáo Rama-
krishna từ bấy đến nay đã tuyên-bố rằng ông
SRI RAMAKRISHNA
324
không có thể đồng tình với tinh-thần cải-cách
triệt-để của hội Samaj ấy được, nó đối-lập với
tất cả thành-kiến cả đến những thành-kiến đáng
tôn-trọng nhất của Ấn-Độ-giáo chính-thống.
Tôi nghĩ trái lại. Tính-cách toàn vẹn, không vì
nể của Naren trẻ, ưa thích bẻ gẫy tất cả ; ông
không phải hạng người bấy giờ để trách móc
chủ-trương, bài-bác thánh tượng của đạo-hữu
mới của ông. Chỉ sau này _ và phần lớn nhờ
ảnh-hưởng của Ramakrishna _ ông phải quan-
niệm và truyền dạy cả đến những tín-ngưỡng
và tập-tục cũ kỹ khi nào chúng thuộc một bộ-
phận những truyền-thống đồng-hóa sâu xa với
tính-chất của dân-tộc. Nhưng tôi tin chắc rằng
ông đạt tới đấy không phải không có sự cố-
gắng, và chính điều ấy đã biểu-lộ ra ở thái-độ
trí-thức nghi-ngờ đầu tiên của ông đối với
Ramakrishna. Đương lúc này thì ông đi theo
phong-trào vận-động của phái trẻ Bramos đất
Bengale muốn thống-nhất giới đại-chúng Ấn-
Độ, không phân-biệt giai-cấp, chủng-tộc và tín-
ngưỡng. Trong đám có một số thanh-niên còn
nghiêm-khắc phản-đối Ấn-Độ-giáo chính-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
325
thống, hơn cả sứ-đồ truyền-giáo Cơ-Đốc nữa.
Nhưng nhất-định là trí-tuệ tự-do và linh-hoạt
của Naren rất sớm nhận thấy những sự phản-
đối cuồng-tín ngược đời ấy là bất công, hẹp-
hòi, và làm thương tổn trong tinh-thần ông và
trong cả tự-ái dân-tộc nữa. Ông không có thể
đồng tình đem đạo-học Ấn-Độ hàng-phục
khoa-học Tây-phương chưa tiêu-hóa. Tuy vậy,
ông tiếp-tục tham-dự vào các buổi hội-họp của
giáo-hội Brahmosamaj, nhưng trong lòng thì
không mãn-nguyện .
Bấy giờ ông buộc mình vào một đời sống
làm việc khắc-khổ, trong một gian buồng tối
ẩm, nằm trên nền nhà trong một cái chăn, sách
vở bừa bãi, nước trà nóng để dưới đất, vừa đọc
sách vừa định-niệm suốt ngày đêm ; đầu óc đau
như bị dùi xuyên. Ông không sao dẹp yên nổi
những nhiệt-vọng mâu-thuẫn trái nghịch trong
bản-tính của mình. Chúng chiến đấu với nhau,
kéo dài vào cả trong giấc ngủ không yên... Ông
kể lại : _ " Từ thuở nhỏ, mỗi đêm, trong giấc
ngủ tôi có hai cái mộng hiện-hình rõ-rệt. Ở một
SRI RAMAKRISHNA
326
cái thì tôi nhìn thấy những vĩ-nhân thế-giới
giầu có, quí-trọng, thế-lực và vinh-quang ; và
tôi cảm thấy ở tôi có khả-năng để đạt được như
họ. Nhưng ngay sau đấy, tôi thấy tôi từ bỏ tất
cả trần-tục, khoác mảnh khố, sống hành-khất,
ngủ dưới gốc cây, và tôi nghĩ rằng tôi có thể
sống như thế, khác nào các nhà tiên-tri ( rishis )
thời cổ. Giữa hai bức họa ấy, bức thứ nhì trội
hơn, tôi tưởng rằng chỉ có con đường này mới
có thể làm cho tôi đạt được cực-lạc... Và tôi lại
ngủ đi, cảm thấy trước ý-vị lạc-thú ấy...
Nhưng đêm nào cái hiện-tượng ấy cũng tái
diễn ... "
Đấy là tình-trạng của Vivekananda vào
lúc ông sắp gặp sư-phụ đã quyết-định cuộc đời
ông. Trong một đô-thị lớn mà Âu-Tây với Ấn-
Độ gặp-gỡ trà-trộn, ông đã lần-lượt tham vấn
các nhân-vật tôn-giáo thượng-lưu, và ông đã
thất-vọng trở về. Ông đi tìm hoài, thử-thách,
từ-chối. Ông lang-thang lạc-lõng ...
***
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
327
Năm ông mười bẩy tuổi, sửa-soạn thi kỳ
đệ-nhất vào Đại-học. Năm 1880 ông ở nhà
người bạn Surendranath Mitra, ông này là một
người kinh-doanh giầu, cải giáo theo Cơ-Đốc
Ấn-Độ. Trong một buổi lễ nhỏ, Naren hát một
bài Thánh ca tôn-giáo rất hay, và đấy là lần đầu
tiên " con mắt diều hâu " của Ramakrishna đã
thông-cảm cái tâm-hồn bất-mãn đó. Và ông đã
lựa-chọn Naren. _ ( " Tôi nhận thấy, lời của
Ramakrishna kể lại sau này, ở y không chút để
ý vào thân-thể, chẳng có gì là trang-điểm,
không chút tha-thiết vào ngoại-vật... Và mắt
của y !... Hình như có một quyền-năng đã
khao-khát trong nội-tâm y... Tôi tự nghĩ :
_“ Làm sao mà một người như thế này lại có
thể sống được ở Calcutta ! ...” ) Ramakrishna
bèn yêu-cầu Surendranath dẫn Naren đến gặp
ông ở Dakshineswar .
Người thanh-niên với vẻ khinh suất đến
cùng một nhóm bạn. Y bước vào và ngồi
xuống, không để ý đến tất cả chung-quanh, làm
như không thấy, không nghe, thu hết cả tâm trí
SRI RAMAKRISHNA
328
vào trong tư-tưởng của mình. Ramakrishna
quan-sát y, yêu-cầu y hát. Naren vâng lời, và
tiếng hát của ông có giọng bi-thống cảm-động :
sư-phụ cũng như y, ham mê âm-nhạc, đi vào
nhập-định xuất thần. Ở đây tôi nhường lời cho
Naren :
_ " Sau khi tôi hát xong rồi, ông ta
( Ramakrishna ) đột nhiên đứng dậy, cầm
lấy tay tôi dắt đến mái hiên phiá Bắc và
đóng cửa lại. Chúng tôi có một mình,
không một ai thấy... Tôi rất ngạc nhiên
thấy ông khóc vì sung-sướng. Ông cầm
tay tôi và nói với tôi rất âu-yếm như là
nói với một người quen biết thân-mật từ
lâu, ông nói : _ “ Chao ôi, sao anh đến
chậm thế ! Làm sao mà anh vô-tình, nỡ
để tôi chờ đợi lâu thế ! Tai tôi đã nghe
nhàm những lời vô vị của những người
kia. Ôi ! tôi mong mỏi chờ đợi mãi để
được cởi mở tâm-hồn tôi vào lòng người
nào đủ tư-cách và khả-năng để tiếp-nhận
những thực-nghiệm nôi-tâm của tôi !...”
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
329
Cứ như thế, ông nói tiếp với giọng nghẹn-
ngào. Rồi đứng đối-diện tôi, chắp tay :
_ “ Chúa ơi, ông nói, tôi biết Ngài là bậc
Thánh-hiền Nara thời tối cổ, hiện thân
giáng thế của Thần Nârâjana, xuống trần-
thế để làm mất hết khổ thống cho nhân-
loại... ” Tôi ngã bổ-chửng từ trên cao rơi
xuống !... Tôi tự nghĩ : " Tôi đến để gặp
ai đây ! " " Ông này chắc phải điên dại
lắm ! Sao ! tôi là con nhà Viswanath Dutt,
mà ông ta dám nói với tôi như thế ư ! ... "
Nhưng lúc đó tôi vẫn bình-thản để mặc
cho ông ta nói... Ông ta cầm lấy tay tôi
và nói với tôi : _ “ Anh hãy hứa anh sẽ trở
lại với tôi một mình, và không lâu !...”
Naren hứa để giải-thoát khỏi ông chủ nhà
kỳ-lạ này, nhưng ông thề nhất-định không trở
lại nữa. Cả hai cùng trở vào phòng khách, nơi
các bạn khác còn ngồi tại đấy. Naren ngồi ra
một bên và quan-sát nhân-vật này. Ông không
nhận thấy một chút gì là quái gở trong cử-chỉ
của ông ta, trong lời nói : có một luận-lý nội-tại
SRI RAMAKRISHNA
330
mà người nghe cảm thấy là kết-quả của một đời
sống thâm sâu, hỷ-sả tuyệt-đối, một sự chân-
thành khả-kính. Ông nghe thấy Ramakrishna
nói _ ( và những lời này đáp-ứng cho sự tìm tòi
âm-thầm trong đêm tối của ông ) :
_ " Thượng-Đế có thể thực-hiện
được. Người ta có thể nhìn thấy và nói
với Ngài như là tôi đang nói với các anh.
Nhưng có ai nghĩ đến việc ấy ? Người ta
khóc cho vợ, con và tài-sản của mình.
Nhưng có ai rỏ nước mắt cho Thượng-
Đế ? Ai là người làm thành-thực điều ấy
cho Ngài, Ngài sẽ biểu-hiện cho thấy ... "
( Vivekananda còn kể lại trong bài diễn-
văn của ông " My Master " rằng có lần chính
ông đã hỏi sư-phụ Ramakrishna :
_ " Thưa Ngài, Ngài có nhìn thấy
Thượng-Đế không ? Và Ramakrishna đã
đáp :
_ " Có, con ạ, ta đã nhìn thấy
Thượng-Đế. Ta nhìn thấy Ngài sự thực
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
331
chẳng khác chi ta nhìn thấy con trước mặt
ta đây. Duy ta nhìn thấy Thượng-Đế hiển-
nhiên hơn nhiều, và ta có thể bầy tỏ Ngài
cho con biết được ." )
Và Naren lúc này nghe Ramakrishna nói
thì có cảm-tưởng những lời người đang nói đó
chẳng phải là những lời hão-huyền, mà chính
ông ta đã chứng-nghiệm có hiệu-lực. Người
thanh-niên này không làm sao có thể dung-hòa
được hình-ảnh đang ở tại trước mắt đó của vị
hiền giản-dị và bình-thản ấy với cái cảnh khó
hiểu vừa rồi mà ông đã chứng-kiến. Ông tự
nghĩ : " Đây là một người cuồng chấp, nhưng
không phải không có giá-trị. Có thể ông ta
điên, nhưng người ta phải tôn-kính." Naren đi
khỏi Dakshineswar trong tư-tưởng bối-rối như
thế ; và nếu người ta hỏi ông, lúc ấy về những
liên-hệ của ông với Ramakrishna, có lẽ ông sẽ
trả lời là chỉ có thế thôi. Nhưng cái huyền-giác
độc-đáo đó đã " động-tác " vào tâm trí ông ...
SRI RAMAKRISHNA
332
Một tháng sau, ông đi bộ trở lại
Dakshineswar ...
_ " Tôi thấy Ramakrishna ngồi một
mình trên cái giường nhỏ. Ông sung-
sướng được thấy tôi, và âu-yếm gọi tôi lại
ngồi bên cạnh ông trên một góc giường.
Nhưng một lát sau, tôi thấy ông bối-rối vì
một cảm-súc. Đôi mắt chuyên-chú nhìn
tôi, miệng lẩm-nhẩm những tiếng nói, từ
từ ông sát lại gần. Tôi tưởng có lẽ ông lại
đi vào thái-độ quái-dị như lần trước.
Nhưng trước khi tôi kịp liệu trước thì ông
đã đặt chân phải vào người tôi. Sự xúc-
tiếp quá đột-ngột. Mắt tôi mở, tôi thấy các
bức tường và tất cả đồ vật trong phòng
đảo lộn, quay cuồng và tan biến vào hư-
không. Cả vũ-trụ, đồng thời, với cá-nhân
tôi hầu như hòa vào một cái Không vô-
danh, nó ngốn nuốt tất cả cái gì hiện-tại...
Tôi hoảng sợ, tôi tưởng tôi đứng trước
mặt thần chết... Không sao có thể giữ nổi
mình, tôi kêu lên : _ " Ông làm gì tôi thế
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
333
này ! Tôi còn cha mẹ anh em ở nhà... "
Bấy giờ ông cười rộ lên và lấy tay soa lên
ngực tôi, ông nói : _ " Được ! Hãy để
đấy, lúc này ! Tất cả sẽ đến với thời-
gian... " Ông vừa nói xong thì hiện-tượng
kỳ-lạ biến mất. Tôi lại thấy tôi như trước.
Và tất cả bên trong và bên ngoài lại trở lại
như cũ ... "
Tôi ghi chép cái mẩu chuyện lạ-lùng và
không có thêm sự suy-nghĩ vô ích. Bất cứ độc-
giả Tây-phương nghĩ thế nào, họ cũng không
thể không ngạc-nhiên về cái năng-lực ảo-giác
của những tâm-hồn ấy ở Ấn-Độ, nó nhắc nhở
chúng ta những nhân-vật huyền-giác nhiệt
cuồng trong kịch của Shakespeare. Nên nhớ
rằng người huyền-giác ở đây chẳng phải một
tinh-thần yếu đuối, dễ tin và thiếu phê-phán.
Ông tự kháng cự lại huyền-giác của mình. Cái
bản-lĩnh mãnh-liệt của ông, được báo trước
những nguy-hiểm, thì hết sức phản-kháng kịch-
liệt tất cả mọi động-tác thôi-miên ; ông tự hỏi,
trước hết có phải chăng ông chỉ là cái trò chơi
SRI RAMAKRISHNA
334
của thuật thôi-miên kiểu Mesmer ? Nhưng ông
không nhận thấy một dấu-hiệu nào hết. Còn
đương rung-động bởi cơn lốc, ông tự đề-phòng
cẩn-thận. Nhưng sau cái đụng chạm mạnh ấy
thì buổi thăm-viếng đó hoàn-toàn bình-thường.
Ramakrishna tiếp ông khi ông đến thăm với
thái-độ thiện-cảm giản-dị và thân-mật, như
không có gì đã xẩy ra cả .
Kỳ viếng thăm lần thư ba, _ có lẽ là một
tuần lễ sau _ Naren tự đề-phòng trước với tất
cả khí-giới phê-phán. Ông không để cho đến
gần, và Ramakrishna cũng không tìm cách đến
gần ông. Cả hai ra chơi ngoài vườn, xong rồi
trở vào buồng khách ; Ramakrishna nhập-định
xuất-thần. Naren quan-sát. Nhưng đang quan-
sát, ông bị thu hút vào xuất-thần theo. Khi ông
tỉnh lại thì thấy Ramakrishna đang nhìn ông và
để tay vào ngực ông .
Về sau, sư-phụ có nói cho đệ-tử của mình
hay :
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
335
_ " Trong khi y ( Naren ) đang ở
trong trạng-thái xuất-thần ấy, tôi có đặt
cho y mấy câu hỏi về kiếp trước của y ;
về nguồn gốc, về sứ-mệnh của y trong
thế-gian, và thời-gian y sống ở đời này. Y
lặn vào trong đáy lòng y và mang lên cho
tôi những giải-đáp, chỉ là để xác-nhận
những điều mà tôi đã thấy trước về y.
Những điều ấy sẽ phải giữ kín, bí-mật.
Nhưng như thế tôi đã biết được rằng y là
một bậc hiền-triết, sở-trường về định-
niệm, đã đạt tới tột đỉnh, và đến ngày nào
y đi đến giác-ngộ bản-tính chân thật của
y, y sẽ rũ tuột thể-xác bằng một động-tác
của ý-chí ... "
_ ( " Cuộc Đời Của Ramakrishna "
_ Swami Madhavananda )
Ông không thổ-lộ cho Naren biết vậy.
Nhưng ông đã đối xử với y theo đấy. Trong
hàng đệ-tử, Naren có địa-vị ưu-đãi .
SRI RAMAKRISHNA
336
Tuy nhiên, còn lâu Naren mới chịu nhận
làm đệ-tử. Ông không muốn làm đệ-tử của một
ai. Ông rất chú-ý vào cái năng-lực khó hiểu của
Ramakrishna. Nhưng tâm-hồn ông làm bằng
thứ thép cứng. Lý-trí ông không thừa-nhận sự
chi-phối ấy. Nếu trước kia trong cuộc giao-dịch
với nhà duy-lý Brajendra Nath Seal, tâm-tình
ông đòi hỏi chống với lý-trí, thì ở đây lý-trí
hoài-nghi tâm-tình. Ông nhất quyết bảo-vệ sự
độc-lập của ông, không nhận gì của Rama-
krishna mà lý-trí của mình chưa kiểm-chứng
chặt-chẽ. Tín-ngưỡng không phê-phán của
những kẻ khác chỉ làm cho ông khinh miệt.
Người ta không thể tưởng-tượng có
những liên-lạc lạ-lùng nào hơn là những liên-
lạc thành-lập nên giữa người thanh-niên kia với
người sư-phụ ( gou-rou ) có tuổi. Naren ghét
những hình-thức kính tin thuộc về tình-cảm,
những nước mắt và tất cả điều ông gọi là nhi-
nữ. Naren bàn cãi tất cả. Không bao giờ ông để
trí-tuệ của ông lùi bước. Ông là người độc-nhất
để cân-nhắc tất cả lời nói của Ramakrishna.
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
337
Người độc-nhất nghi-ngờ. Không lấy thế làm
phật lòng, Ramakrishna càng thích-thú. Trước
khi gặp Naren, người ta đã nghe thấy ông cầu-
nguyện :
_ " Hỡi Mẹ, cho con một người dám
thử-thách những Thực-hiện của con ! "
Đức Mẹ đã ứng chiều. Naren phủ-nhận
những Thần-linh Ấn-Độ-giáo. Đồng thời ông
cũng từ-chối Bất-Nhị-Pháp luận ( Advaïtisme ),
coi như vô-thần luận. Ông chế-riễu những lời
cầu-nguyện của Thánh Kinh Ấn-Độ-giáo. Ông
nói với Ramakrishna :
_ " Khi nào có hàng ngàn người gọi
ông là Thượng-Đế, nếu tôi đây chưa có
bằng-chứng tự tôi, thì tôi sẽ chẳng gọi ."
Ramakrishna cười, biểu-đồng-tình. Sư-
phụ nói với đệ-tử :
_ " Chớ công-nhận điều gì vì là ta
đã nói. Hãy thực-nghiệm tất cả tự thân
mình ! " .
SRI RAMAKRISHNA
338
Sự phê-phán ráo-riết của Naren, những
tranh-biện náo-nhiệt của y làm Ramakrishna
sung-sướng, thoả-mãn. Ông rất tôn-trọng cái
lòng nhiệt-thành trí-thức ấy, cái tinh-thần hăng-
hái cầu chân-lý ấy ; ông nhìn thấy ở đấy một
biểu-hiện của thần-lực Çiva quy kết, nó thống-
trị tất cả huyễn-ảo. Ông nói :
_ " Nhìn đấy ! Nhìn đấy ! Năng-
lực tham-cứu ghê chưa ! ...
" Y là một ngọn lửa bừng bừng,
thiêu cháy sạch tất cả ố-uế... Đại Ảo-hóa
( Maha Maya ). Chính Đức Mẹ không
dám đến gần quá mười tấc ; Bà bị giữ lại
vì hào-quang Bà đã chuyển sang cho
nó..."
Và sự hiểu-biết của Naren đã đem lại cho
ông một niềm vui sướng, đến nỗi, nhiều khi, nó
dẫn ông vào trạng thái nhập-định xuất-thần .
Nhưng cũng có lúc sự phê-phán quá
khốc-liệt, không chút kiêng nể làm cho người
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
339
sư-phụ già phải chột dạ. Trước mặt ông, Naren
nói :
_ " Những " Thực-hiện " của ông
biết đâu chẳng phải là những cuồng-nhiệt
của bộ óc bệnh-hoạn, chẳng phải là ảo-
tưởng ? "
Và Ramakrishna trong lòng bối-rối,
khiêm-tốn đi tìm an-ủi nơi Đức Mẹ, được Bà
bảo :
_ " Nhẫn nại ! Chẳng bao lâu nữa
mắt Naren sẽ mở ... "
Có khi trong cuộc tranh-biện không dứt
giữa Naren và đồ-đệ làm cho sư-phụ mỏi mệt.
Ông khấn :
_ " Hỡi Mẹ, xin Mẹ giáng xuống
chút Ảo-hóa cho Naren ! ... ngõ hầu làm
nguôi cơn sốt trí-tuệ của y để cho tâm
tình y có thể tiếp-xúc với Thượng-Đế " .
Nhưng thiên-tài náo-động của
Vivekananda kêu lên :
SRI RAMAKRISHNA
340
_ " Tôi không cầu Thượng-Đế, tôi
cầu bình-an _ nghĩa là chân-lý tuyệt-đối,
hiểu-biết tuyệt-đối, vô-biên tuyệt-đối ... "
Vivekananda không biết rằng một sự dục
cầu ấy vượt quá giới-hạn của lý-trí và chứng-
minh ; nó đòi hỏi khẩn-thiết và tâm-tình. Trí
thông-minh của ông không từng mãn-nguyện
với bằng-chứng về Thượng-Đế. Theo lối Ấn-
Độ, ông nói :
_ " Nếu Thượng-Đế có thật thì phải
thực-hiện được ."
Và đây, dần dần ông thấy rằng con người
hay xuất-thần nhập-hóa mà thoạt đầu ông
tưởng là do hoàn-toàn phó-thác cho sự bồng-
bột của tâm-tình, thì người ấy lại hoàn-toàn
làm chủ được hơn mình trong phạm-vi trí-tuệ.
Say này, ông sẽ nói về sư-phụ Ramakrishna
như sau :
_ " Sư-phụ hoàn-toàn tin tình-yêu ở
bề ngoài ; hoàn-toàn tin trí-tuệ ở bề
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
341
trong... Tôi thì hoàn-toàn trái-nghịch,
( Bhakta bên trong, Jñânin bên ngoài )... "
Nhưng trước khi ông đi đến nhận-định ấy,
và tính độc-lập, kiêu-ngạo của ông tự ý đặt vào
tay sư-phụ, thì ông tìm kiếm và trốn tránh sư-
phụ : và giữa hai người hiện ra một trò hấp-
dẫn, nồng-nhiệt, hỗ-tương lẫn nhau và tranh-
đấu ngấm-ngầm. Sự thành-thật phũ-phàng của
Naren, sự thiếu nhân-nhượng đối với tất cả
điều gì mà ông miệt-thị, cuộc chiến không đội
trời chung, ông tuyên-bố chống tất cả ảo-thuật,
thái-độ khủng-khỉnh của ông đối với dư-luận
đã gây nên thù-địch và mạt-sát ông mà ông
không thèm để ý .
Không bao giờ Ramakrishna dung cho
những điều ấy phát-biểu ra trước mặt ông. Ông
tin-tưởng chắc-chắn vào Naren. Ông nói rằng
người thanh-niên ấy là vàng mười thuần-túy
nhất và không ô-uế trần-tục gì có thể bợn đến
y. Ông chỉ lo sợ rằng cái trí thông-minh tuyệt-
vời ấy bị lạc-lõng giữa đường, và cái năng-lực
SRI RAMAKRISHNA
342
đa diện đang tranh-chấp nơi tâm-hồn y không
khéo sẽ đi đến một sử-dụng sai lầm tai hại, như
là dựng lập một giáo-phái mới hay là một
đảng-phái mới, chứ không để hiến cho công-
cuộc hợp-nhất và thống-nhất. Ông có một cảm-
tình nồng-nhiệt đối với y mà sự biểu-hiện lo-
lắng hay âu-yếm khi Naren vắng mặt ít lâu
khiến cho ông phải khó-chịu hay bực-mình.
Chính Ramakrishna cũng thấy thế mà tự thẹn.
Nhưng ông không thể không biểu-lộ. Ông làm
cho Naren không chịu nổi vì những lời khen
ngợi quá-đáng, công-khai hạ giá vinh-quang
công-nhiên của Keshab xuống dưới cái vinh-
quang khả-nghi của người thanh-niên chưa có
công-trình gì. Ông đi tìm kiếm y trong các
đường phố ở Calcutta, cả đến ngôi đền Sadha-
ran Brahmosamaj, mà sự đột-nhập bất ngờ của
ông đang buổi lễ đã gây nên việc chê cười và
xét-đoán bất-chính về ông. Naren vừa cảm-
động vừa tủi nhục, đã gay-gắt nói với ông ngõ
hầu thoát khỏi sự theo đuổi ấy. Y nói với ông
rằng không ai được lệ-thuộc quá mức vào một
người khác, rằng nếu Ramakrishna yêu y quá-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
343
đáng thì sẽ sa-đọa về tâm-linh cao cả để biến
thành như y. Con người chất-phác và trong
sạch Ramakrishna nghe nói, hoảng hồn lên, và
đi tìm cầu Đức Mẹ chỉ bảo. Nhưng trở về đền,
ông được an ủi. Ông nói với Naren :
_ " Chà ! Ranh con, ta không nghe
anh nói nữa, Đức Mẹ bảo ta rằng ta yêu
anh vì ta nhìn thấy Chúa ở anh. Ngày nào
ta không còn nhìn thấy Chúa ở anh nữa,
thì ta không có thể cả đến nhìn mặt anh !"
Được ít lâu, vai-trò đổi lại. Đã đến lúc mà
sự có mặt của Naren không làm cho Rama-
krishna hào-hứng nữa. Ông hoàn-toàn lãnh-
đạm, hình như không để ý đến y nữa và tiếp
chuyện với các người khác. Trạng-thái ấy nhắc
đi nhắc lại suốt mầy tuần-lễ. Tuy vậy, Naren
kiên-nhẫn cứ đến gặp ông. Ramakrishna hỏi y
tại sao y cứ đến, bởi vì ông không nói với y
nữa. Naren thưa :
_ " Không phải chỉ vì lời nói của
ông hấp-dẫn mà tôi đến. Tôi yêu ông, tôi
cần nhìn thấy ông ."
SRI RAMAKRISHNA
344
Tinh-thần của sư-phụ dần dần thấm-
nhuần, chi-phối lấy người đồ-đệ bướng-bỉnh.
Vô ích, Naren riễu cợt hoài tất cả tín-ngưỡng
của Ramakrishna :
_ Hai cực đoan : thờ ngẫu-tượng cũng như tín-
ngưỡng vào Duy-nhất Tuyệt-đối, _ dần dần sự
quyến-dụ vào thượng-Đế ảnh-hưởng :
_ " Tại sao anh đến đây, nếu anh không muốn
thừa-nhận Đức Mẹ của ta ? " lời Ramakrishna
hỏi Naren. Ông này đáp :
_ " Phải chăng tôi phải thừa-nhận vì tôi đến
đây ! "
_ " Được lắm, lời sư-phụ. Chỉ ít ngày nữa
không những anh thừa-nhận, mà nghe nói đến
danh-hiệu Ngài anh còn khóc nữa ."
Cũng theo cách tương-tự như thế mà
Ramakrishna muốn mở cửa cho Naren vào
Vedanta Bất-Nhị-Pháp ( Advaïta ), vào đồng-
nhất-hóa với Tuyệt-đối. Naren từ-chối cái ý-
tưởng như thế, cho là phạm thượng và phi-lý.
Ông không bỏ một cơ-hội nào để chế-riễu ; và
có một hôm, một đệ-tử khác cùng với ông đang
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
345
cười ngặt-nghẽo về cái điều cuồng-vọng :
_ " Cái hũ nước kia, chúng ta nói, là Thượng-
Đế... Và những con ruồi này đều là Thượng-
Đế..." Ở buồng bên, Ramakrishna nghe thấy
những tiếng cười của bọn học-sinh to đầu ấy.
Ông thủng-thẳng bước tới. Ông đang ở trong
trạng-thái bán ý-thức. Ông sờ vào người
Naren... Và thình-lình cơn lốc tinh-thần tái
hiện. Tức thì trước con mắt của Naren tất cả
đều biến đổi. Y ngạc nhiên nhìn thấy chỉ có
Thượng-Đế, không có gì khác nữa. Y trở về
nhà. Tất cả cái gì y nhìn đến, sờ vào, ăn vào
đều là Thượng-Đế... Y dừng lại không cử-
động, bị cái Năng-lực đại-đồng thu-hút. Người
nhà lo sợ và cho là y bị bệnh. Trạng-thái ấy kéo
dài mất vài ngày. Rồi giấc mộng tan biến.
Nhưng trong ký-ức cái kỷ-niệm ấy vẫn còn tồn-
tại ở Naren, như là một ý vị tiên-phong cho
trạng-thái ý-thức Bất-Nhị ( Advaïta ). Và từ
đấy trở đi y không dám phủ-nhận nữa .
Rồi y trải qua những trận bão-tố tâm-linh.
Y nhắc đi nhắc lại như một người điên :
SRI RAMAKRISHNA
346
_ " Çiva !... Çiva !... " Ramakrishna nhìn
Naren với tinh-thần hiểu-biết ái-ngại : _ " Phải
rồi, ta đã phải trải qua mười năm như thế
đấy ... "
Nhưng bản-tính sư-tử của Naren nó nhẩy
vọt từ thái-độ phủ-định châm-biếm đến giác-
ngộ, ông ta không bao giờ chịu đựng và thừa-
nhận một sự biến-hóa khí-chất bền vững, nếu
động-cơ không tự bên trong mình ra, mà lại do
từ bên ngoài đến. Cái roi tàn-nhẫn của khổ-cực
bỗng nhiên đánh thức ông ta ra khỏi cái hoài-
nghi ru ngủ, cái trí-thức sa-hoa, trong đó ông ta
đang chìm đắm để ném ông ta đối-diện với
vấn-đề bi kịch của tội ác và sinh-tồn .
***
Đầu năm 1884, sự khất bóng của người
cha, một người vô-tâm và phóng-túng bỗng
nhiên bị cơn đau tim đem đi mất làm cho gia-
đình sụp-đổ. Sáu bẩy miệng ăn phải nuôi-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
347
dưỡng. Và một bầy khách nợ. Một sớm, một
chiều Naren biết ngay cảnh khốn cùng, cuộc đi
săn việc làm, sự thờ ơ ích-kỷ của thế-tình và sự
mất bạn-hữu. Ông đã có kể lại sự khủng-hoảng
của mình trên các trang sách tương-tự với lời
tố-giác đau đớn nhất : _ " ... Tôi đói lả. Chân
không, tôi lê gót lang-thang, hết văn-phòng này
sang văn-phòng khác, ở đâu cũng bị sua đuổi.
Tôi làm thực-nghiệm về tình nhân-loại... Đấy
là sự xúc-tiếp đầu tiên của tôi với thực-tại của
đời sống. Tôi phát-hiện, nó không có chỗ cho
kẻ yếu, kẻ nghèo và mồ-côi. Những người, vài
ngày trước có thể hãnh-diện được giúp-đỡ tôi,
thì nay quay mặt đi, tuy rằng họ dư sức để giúp
đỡ tôi. Thế-giới hiện ra cho tôi như là công-
trình của một con quỷ... Một hôm, trời nắng
như thiêu, khiến tôi không còn có thể dẫm đất
đi được nữa, tôi ngồi xuống cái bệ dưới bóng
một pho tượng. Vài người bạn học cũ có mặt
tại đấy, một người đang hát bài ca tụng ân-huệ
tràn ngập của Thượng-Đế. Thật là một nhát búa
bổ vào đầu tôi. Tôi đang nghĩ đến số-phận
khốn-nạn của mẹ và các em tôi ở nhà. Tôi hét
SRI RAMAKRISHNA
348
lên : _ " Thôi câm đi đừng hát bài ấy nữa.
Những ngông-cuồng ấy có thể vui lòng những
kẻ nào sinh ra đã ngậm thià bạc trong miệng,
những kẻ ở nhà không có mẹ, con, anh, em
đang đói lả. Phải, đã một thời tôi cũng nghĩ như
các anh. Nhưng ngày nay đứng trước sự tàn-
khốc của cuộc đời, điệu hát ấy đập vào tai tôi
như một trò chế-nhạo ghê-tởm ! " Bạn tôi bị
phật lòng. Anh ta không sao hiểu nổi cảnh cùng
quẫn của tôi... Nhiều hôm, khi tôi thấy ở trong
nhà không đủ cơm cho tất cả, tôi bỏ đi, nói dối
mẹ tôi là được mời đi ăn cơm khách và bữa ấy
tôi nhịn đói. Những bạn giầu có của tôi, đôi khi
mời tôi đến nhà họ để hát. Trừ có một trường-
hợp, còn tất cả không ai thèm tò-mò tìm hiểu
cảnh cùng khốn của tôi ; và tôi ôm-ấp trong
lòng ... "
Tuy vậy, ông vẫn tiếp-tục cầu-nguyện
Thượng-Đế mỗi buổi sáng. Một hôm, bà mẹ
mà lòng mẫu-tử bị cảnh khổ quá sức làm rung-
động, chua-chát khi nghe thấy ông cầu-nguyện,
liền mắng ông : _ " Điên ! Câm miệng lại !
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
349
Con khan cổ cầu-nguyện Thượng-Đế từ nhỏ
đến giờ. Mà Ngài đã làm được gì cho con ? ... "
Rồi thì đến lượt ông đầy oán-hận
Thượng-Đế. Tại sao Ngài không đáp-ứng lời
kêu gọi tuyệt-vọng của ông ? Tại sao Ngài để
bao nhiêu đau khổ trên mặt đất này ? Và lời
nói phũ-phàng của Vidyasagar hiện lên trong
trí nhớ ông :
_ " Nếu thực có một Thượng-Đế
chí-thiện và giầu lòng ân-huệ, thì tại sao
hàng triệu người chết vì thiếu vài miếng
ăn ? "
Một sự nổi loạn sôi xục chống với Trời.
Ông tuyên-chiến với Thượng-Đế !
Không bao giờ ông có thể giấu-diếm tư-
tưởng của mình. Vì vậy ông tuyên-bố công-
khai chống đối Thượng-Đế. Ông chứng-minh
không có Thượng-Đế hay là sự độc-ác của
Ngài. Ông nổi tiếng là vô thần. Và theo thói
quen của người ngoan đạo, người ta gán cho sự
SRI RAMAKRISHNA
350
mất tín-ngưỡng của ông những động-cơ xấu
xa ; người ta lên án ông về những hành-vi tội
lỗi. Sự bất-chính ấy càng làm cho thái-độ của
ông cứng dắn. Ông tỏ ra ngông-nghênh khinh-
bỉ để tuyên-bố lớn tiếng rằng, trong một thế-
giới bẩn-thỉu thế này, có một người nào như
ông bị số-phận hành-hạ đủ điều, thì có quyền
tìm khây-khỏa một lúc trong bất cứ vui thú gì
cũng được ; và nếu ông, Narendra, thấy hiệu-
quả của những phương-tiện như thế thì ông
không sợ một ai để phải lùi bước. Những đệ-tử
của Ramakrishna có đến trách ông về đạo tín,
ông trả lời họ là chỉ có thằng hèn nhát vì sợ-hãi
mới tin có Thượng-Đế. Và ông liền đuổi họ
đi... Tuy nhiên, ông đau lòng nghĩ đến Rama-
krishna có thể lên án ông như đối với những
người khác. Nhưng lòng tự kiêu của ông lại
kêu lên : _ " Cần gì ! Nếu uy-tín của một
người căn-cứ vào những nền-móng mong-
manh như thế, thì ta không thiết, ta đạp xuống
dưới chân ! ... "
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
351
Ai cũng cho là ông hỏng. duy chỉ có
Ramakrishna, tại chốn hẻo-lánh Dakshineswar
vẫn giữ một lòng tin-tưởng nơi Naren, nhưng
ông còn chờ đến giờ. Ông biết rằng chỉ có ông
mới cứu được Naren ...
Mùa hạ qua. Naren vẫn tiếp tục đi săn tìm
cần-câu-cơm vất-vả. Một buổi chiều, bụng đói
người mệt-nhọc, dầm nước mưa từ đâu đến
chân, Naren ngồi phệt xuống vệ đường, dưới
chân tường một ngôi nhà. Cơn sốt nóng bừng
bừng nổi lên trong thân-thể ủ-rũ của ông...
Thình-lình, như cái vỏ bọc lấy tâm-hồn tự xé
tan. Và bừng sáng. Tất cả điều nghi-hoặc đã
qua, tự-động được giải-quyết. Ông có thể nói
câu :
_ " Tôi thấy, tôi biết, tôi tin, tôi đã
giải mê ! "
Thân-thể và tinh-thần ông được thoải-
mái. Ông trở về nhà và trải qua một đêm định-
niệm. Sáng hôm sau, ông đã quyết-định. Ông
quyết-định xuất-thế, theo gót tổ-phụ ngày
SRI RAMAKRISHNA
352
trước. Và ông tính lấy một ngày để hoàn-thành
nguyện-vọng nhất-định ấy .
Nhưng chính vào bữa ấy, bất ngờ
Ramakrishna đến Calcutta. Và ông yêu-cầu
Naren đi cùng với ông đến Dakshineswar ở
một đêm. Naren cố sức thoái-thác hoài mà
không xong ; ông đành phải đi theo sư-phụ.
Trong một căn buồng, suốt đêm thày trò tự
giam riêng. Ramakrishna lên tiếng hát. Bài hát
hay và cảm-động khiến người đệ-tử trẻ phải rớt
nước mắt, biết rằng sư-phụ đã thấu hiểu ý-định
của mình. Ramakrishna bèn nói với Naren :
_ " Tôi biết rằng anh không có thể ở
lại trong thế-tục. Nhưng vì tình yêu đối
với tôi, xin anh hãy ở lại chừng nào tôi
còn sống ! "
Naren trở về nhà. Ông đã tìm được một
vài việc làm trong một cơ-quan dịch-thuật và ở
một văn-phòng luật-sư, nhưng ông vẫn chưa có
việc thường xuyên ; và số-phận của gia-đình
ông vẫn chưa được bảo-đảm có ngày mai. Ông
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
353
xin Ramakrishna cầu-nguyên cho ông và gia-
đình ông :
_ " Con ơi ! Ramakrishna nói, thày
không có thể cầu-nguyện như thế được.
Nhưng sao con không tự cầu-nguyên
lấy ? "
Naren bèn lên đền Đức Mẹ. Ông đi vào
trạng-thái nhiệt-thành bồng-bột, tràn-ngập một
trào tình-yêu và tín-ngưỡng. Nhưng khi trở
xuống, Ramakrishna hỏi ông :
_ " Này, con đã cầu-nguyện thế
nào? "
Naren mới tỉnh-ngộ là mình đã quên cầu
xin cứu giúp giàm bớt cảnh nghèo khốn.
Ramakrishna bảo ông :
_ " Con trở lại đi ! "
Ông trở lên đền lần thứ hai, rồi lần thứ ba.
Nhưng chưa đặt chân vào cung điện thì mục-
tiêu cầu-nguyện của ông đã biến khỏi ý-nghĩ.
Lần thứ ba, tuy có nghĩ đến, nhưng ông thấy
SRI RAMAKRISHNA
354
quá hổ-thẹn, mà tự hỏi : " Vì quyền-lợi nhỏ-
nhen thế mà nó đến quấy Đức Mẹ sao ? ... "
Rồi ông bèn khấn :
_ " Đức Mẹ, con không cần điều gì
hơn là biết và tin ."
Bắt đầu từ bữa ấy, một kỷ-nguyên mới
mở ra trong tinh-thần ông. Ông biết và tin. Và
đức tin của ông do sự khổ-cực sản-sinh, khác
nào nhà Phong-cầm già của Gœthe, không bao
giờ quên được vị bánh mì tẩm nước mắt hay là
những anh em đau khổ, cùng nhau san-sẻ
những mảnh bánh mì vụn. Như vậy mà rồi ông
làm vang thế-giới bằng một tiếng kêu cùng tột
tuyệt-vời :
_ " ... Thượng-Đế duy-nhất mà tôi
tin ấy là toàn-thể tất cả tâm-hồn, và trên
hết, Thượng-Đế của tôi là những kẻ dữ,
Thượng-Đế của tôi là những kẻ khốn-nạn,
Thượng-Đế của tôi là những kẻ nghèo-
khó, của tất cả chủng-tộc ! ... "
_ " Con Người Galilée ( xứ Do-Thái
đã thắng ! ... "
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
355
Người sư-phụ nhu-mì xứ Bengale đã
khuất-phục được sức kiên-trì của đứa trẻ kiêu-
ngạo kia. Ramakrishna không có được đứa con
tinh-thần nào phục-tòng ông hơn là nhà đại Võ-
sĩ Kshatriya đó, y sinh ra để điều-khiển các
dân-tộc .
Sự hợp-nhất giữa thày trò hoàn-toàn đến
nỗi có lúc như thể là họ thực-hiện đồng-nhất-
hóa. Từ nay trở đi phải tiết-chế đức tin của cái
tâm-hồn bồng-bột ấy, nó không biết đòi cái chi
hay cho cái chi nửa vời. Ramakrishna hiểu biết
sự nguy-hiểm ở đấy. Nó sôi-động, thăng-trầm,
khó-khăn mà đi từ tri-thức sang tình-yêu, từ
nhu-cầu tuyệt-đối về mạc-định đến nhu-cầu
hành-động tuyệt-đối. Nó muốn ôm lấy tất cả
một lúc. Trong những buổi chót cuộc đời của
Ramakrishna, chúng ta sẽ thấy Naren thường
khẩn-cầu sư-phụ ban cho thực-hiện tối cao
siêu-thức, trạng-thái xuất-thần nhập-hóa, Tam-
diểu Tam-muội ( Nirvikalpasamâdhi ). Và
Ramakrishna đã nghiêm-nghị từ-chối. Swami
Shivananda có kể cho tôi nghe cảnh-tượng mà
SRI RAMAKRISHNA
356
chính ông có mặt được chứng-kiến tại vườn
Cossipore gần Calcutta rằng :
_ " Một hôm Naren thực đạt tới
trạng-thái ấy. Nhìn thấy ông bất-tỉnh
nhân-sự và thân-thể lạnh cứng như một
xác chết, chúng tôi vội chạy về gọi sư-
phụ, cuống quýt báo cho sư-phụ tình-hình
đang xẩy ra đó. Sư-phụ không tỏ ra lo-
lắng chi hết ; ông mỉm cười và nói :
_" Được lắm ! " rồi ông ngồi yên-lặng ;
Naren hồi-tỉnh lại trở về ý-thức bình-
thường ngoại-vật và đi đến gặp sư-phụ.
Sư-phụ bảo ông : _ " Này, bây giờ con đã
hiểu chưa ? Từ nay điều này sẽ phải khoá
lại. Con còn phải làm công việc của Đức
Mẹ giao phó. Khi nào con xong suôi, Mẹ
sẽ mở khoá cho con."
Naren nói :
_ " Sư-phụ, con thật sung-sướng
trong cảnh Tam-muội. Con quên hết thế-
gian, trong lạc-thú vô-hạn. Con van thày,
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
357
hãy làm cho con ở mãi trong trạng-thái
ấy ! "
Sư-phụ quát lên :
_ " Xấu hổ ! những lời ấy thốt ra ở
miệng con sao ? ... Thày tưởng con là một
niềm chứa-đựng bao-la cho sự sống, mà
con lại muốn thu vào cái lạc-thú cá-nhân
riêng như là một kẻ tầm-thường vậy ư ...
Sự thực-hiện kia sẽ thành rất tự-nhiên với
con, nhờ ân-huệ của Đức Mẹ, con sẽ
thực- hiện ở trạng-thái thông-thường của
con, Thần-linh Duy-nhất tại trong tất cả
chúng-sinh ; con sẽ làm những đại sự ở
đời ; con mang lại cho loài người sự hiểu-
biết tâm-linh, và con sẽ làm nhẹ thống-
khổ cho những kẻ thấp hèn và những kẻ
nghèo khốn ."
_ ( Phúc-Âm của Ramakrishna )
Ramakrishna đã biện-biệt vai-trò ở đời
của Vivekananda. Và dù trái ý muốn của đệ-tử,
ông đã bắt buộc y. Ông nói :
SRI RAMAKRISHNA
358
_ " Những tâm-hồn tầm-thường sợ
gánh-vác nhiệm-vụ giáo-hóa thế-gian.
Cây gỗ vô-dụng mới chỉ tìm cánh trôi-nổi
thế nào cũng được, ví thử có con chim
đậu xuống nó, nó liền chìm ngay. Nhưng
Naren không phải như thế. Y như là
những thân cây to trở người và vật trên
giòng sông Hằng-Hà ( Gange ) ... "
Ramakrishna, sư-phụ, đã đánh dấu vào
trán người khổng-lồ này, dấu-hiệu Mang
Thánh-giá ( Christophore ). Người vác loài
người .
***
*
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
359
KHÚC HÁT CUỐI CÙNG
Vậy nay Ramakrishna sống, kể từ 1881,
giữa các đệ-tử yêu mến ông như một người
cha, ở tại Dakshineswar với giòng sông Hằng-
Hà ( Gange ) êm-đềm, rì-rào bao-bọc. Điệu hát
vĩnh-cửu của giòng sông mà nước triều hàng
ngày dâng lên, dồn về phương Bắc, phủ lấy
những câu chuyện đàm đạo tuyệt vời. Và từ
bình-minh đến hoàng-hôn, tiếng chuông leng-
keng, tiếng ốc thổi, điệu sáo, tiếng não bạt
rung-ring, tiếng hát thờ, tất cả cầm canh ngày
giờ của chư-vị và Thánh Mẫu, hoà nhịp với
cuộc vấn-đáp giữa Thày và Trò. Mùi hương
thơm say sưa của vườn thiêng đưa lên với
hương sạ theo gió thoảng bay. Qua hàng cột
hiện nửa vành trăng, có mái che, người ta nhìn
thấy qua lại phất-phới như đàn bướm, những
SRI RAMAKRISHNA
360
cánh buồm sặc-sỡ trên mặt sông thần, hình-ảnh
của Vĩnh-cửu .
Nhưng bây giờ, chung-quanh ngôi đền lại
có những trào-lưu rộn-rập của một giòng sông
người _ quần-chúng khách đi hành-hương. Nào
là tín-đồ Sùng-bái, nào thạc đức Pandits, tín-đồ
tôn-giáo và những người tò-mò của các tầng-
lớp xã-hội và các địa-vị từ các đô-thị láng-
giềng hay là từ thập-phương trong nước Ấn-Độ
kéo đến để chiêm-ngưỡng con người thần-bí,
không tự biết, và hỏi han ông túi bụi. Rama-
krishna trả lời luôn luôn với tiếng nói thổ-ngữ
đáng yêu, với tinh-thần kiên-nhẫn không mỏi
và thái-độ nhã-nhặn thân-tình, không xa với
thực-tại thâm-trầm mà bỏ mất một điều gì
trong cuộc diễn-tiến của cảnh-vật hàng ngày.
Ông vừa biết thưởng-thức như đứa trẻ hồn-
nhiên và xét-đoán như nhà hiền-triết. Và chính
cái thái-độ hoàn-toàn tự-nhiên bồng-bột, vui-
vẻ, âu-yếm, sâu-sắc, không xa với cái gì nhân-
bản đó, đã là cái sức hấp-dẫn của ông. Dĩ
nhiên, một nhà ẩn-dật như thế thì khác hẳn với
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
361
các nhà tu khổ-hạnh ở thế-giới Cơ-Đốc giáo
của chúng ta. Nếu ông tiếp nhận tất cả phiền
muộn và cảm-thông chúng thì chúng tự tan
biến nơi ông ; không có chút rầu-rĩ và khắc khổ
nào có thể thích-ứng với thổ-ngơi của ông. Con
người rửa tội vĩ-đại ấy, với nụ cười khoan-dung
và con mắt không ảo-tưởng, không lo-lắng, soi
thẳng vào đáy lòng mọi người. Ông biết gỡ
những lót bọc tâm-hồn và tẩy sạch những
nhiễm-ố, từ một chàng Girish biến thành một vị
Thánh, trong bầu không-khí vườn hoa của
Dakshineswar thơm nức hương hồng và nhài.
Ông không thừa-nhận được cái ý-niệm bệnh-
hoạn về Tội-lỗi hổ-thẹn, nó không dứt sờ nắn
và để ý vào đấy để che đậy sự lõa-lồ của nó.
Ông nói :
_ " Có một số tín-đồ Cơ-Đốc và
Brahmo thấy trong ý-nghĩa tội-lỗi tất cả
tôn-giáo. Cái lý-tưởng sùng-tín của họ là
của những kẻ cầu-nguyện : " Lạy Chúa,
con là kẻ có tội ! Xin Chúa rủ lòng tha-
thứ tội-lỗi cho con !... " Họ quên rằng ý-
nghĩa tội-lỗi mới chỉ đánh dấu bước đầu
SRI RAMAKRISHNA
362
và thấp nhất của tâm-linh... Ngưòi ta
không ý-thức về sức mạnh của thói quen.
Nếu anh nói mãi : " Tôi là kẻ có tội " thì
anh sẽ còn là kẻ có tội mãi mãi không bao
giờ hết. Anh phải nhắc luôn : " Tôi không
bị ràng buộc, tôi không bị trói buộc... Ai
có thể trói buộc tôi ? Tôi là con Thượng-
Đế, của Vua các Vua... " Hãy làm cho ý-
chí anh hành-động và anh sẽ tự-do !... Kẻ
ngu-si luôn miệng nói : " Tôi ở trong nô-
lệ " rút cục thực-sự thành nô-lệ. Kẻ khốn
nạn nhắc đi nhắc lại mãi rằng : " con là kẻ
có tội " trở nên kẻ có tội thực sự...
Nhưng người kia tự-do mà nói : " Tôi tự-
do khỏi nô-lệ thế-tục. Tôi tự-do. Chúa
Trời chẳng phải cha chúng ta đấy ư ?... _
Thượng-Đế không bao giờ có thể hiện ra
ở đâu có sự xấu-hổ, có hận-thù, có sợ-hãi.
_ Nô-lệ là ở trong tinh-thần. Tự-do cũng
ở trong tinh-thần ... "
_ ( Sri Ramakrishna Teachings I § 293 ,
178 , 316 )
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
363
Như vậy, ông thổi vào những người
chung-quanh ông, một hơi gió hoan-lạc và tự-
do. Và những tâm-hồn tê mê bị đè nặng dưới
bầu-trời nhiệt-đới, bắt đầu giở lại những trang
sách nát của chúng. Đối với ai mỏi mệt nhất,
ông nói : _" Cơn mưa sắp đến đồi. Hãy nhẫn-
nại ! Các anh sẽ hồi sinh !... "
Đấy là cảnh-giới của các tâm-hồn giải-
phóng _ tâm-hồn đang giải-phóng _ tâm-hồn sẽ
được giải-phóng... ( Thời-gian không đáng kể ở
Ấn-Độ ). Các buổi họp ngày chủ-nhật có tính-
cách buổi lễ Tết nhỏ _ ca vũ nhạc Samkirtans.
Nhưng ngày thường, cuộc đàm đạo với đệ-tử
không bao giờ có vẻ một buổi thuyết-pháp,
giảng dạy đạo lý. Không giáo-lý mà là thực-
hành thích-ứng cho mỗi tinh-thần, mỗi trường-
hợp của đời sống, ngõ hầu khai mở tinh-túy
của Bản-thể ở mỗi người, đồng thời làm cho
tinh-thần họ thi-thố tự-do đầy đủ. Tất cả mọi
phương-tiện đều tốt : tập-trung tinh-thần nội-
hướng, cũng như tự-do phê-phán của trí-thức,
những thực-nghiệm xuất-thần ngắn cũng như
SRI RAMAKRISHNA
364
những câu chuyện ngụ-ngôn ý-vị, những mẩu
chuyện vui và cả sự quan-sát sâu-sắc và riễu-
cợt tuồng thiên diễn của Tạo-hóa .
Sư-phụ ngồi trên cái giường nhỏ và theo
dõi tâm-sự của đệ-tử, ông san-sẻ những nỗi lo
nghĩ thân mật của họ, những công việc gia-đình
của họ ; ông âu-yếm khuyến-khích người an-
phận Jogananda ; ông ghìm cương người hung-
hăng Vivekananda ; ông riễu-cợt thần-thông
của đệ-tử mê-tín Niranjanananda. Ông thích để
cho những con ngựa non chạy xổng, và trong
cuộc tranh-biện sôi nổi rối bời, ông điểm vào
một nét thâm-trầm và tinh-quái soi sáng cho
chúng và cầm bước chúng lại. Với một lời, ông
vừa biết kéo về mực trung, chỗ thái quá, chỗ
bất cập, thức tỉnh kẻ ngủ mê, và dội nước
xuống kẻ quá sốt-sắng. Mắt ông âu-yếm nhìn
bộ mặt hồn nhiên của Thánh Jean của ông là
Premananda ( Baburam ), một trong hàng
những đệ-tử ông xếp vào loại thuần khiết và
hoàn-toàn trước khi sinh ra, loại người không
cần phải hướng-dẫn ; mắt ấy cũng nhấp-nháy
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
365
riễu-cợt đối với kẻ thanh-khiết quá lố, mà ông
phê-bình rằng :
_ " Sự chuyên tâm thái quá vào tinh-
khiết trở thành tai họa. Những người bị
mắc vào cái bệnh ấy, không còn thời giờ
nghĩ đến người hay là Thượng-Đế ."
Ông ngăn cản những tín-đồ nhập-môn về
những thực-hành vô ích và nguy-hiểm của các
khoa Đạo-dẫn ( Yogas ) chính. Mạo-hiểm về
sức khoẻ và tính-mệnh mình để làm gì, khi mà
chỉ cần mở mắt và tâm-tình để thấy Thượng-Đế
ở mỗi bước đi ?
_ " ... Arjuna cầu-nguyện Chúa Krishna như là
Tuyệt-đối... Krishna nói với ông :
_ " Đến đây một chút xem ta như thế nào !..."
Ngài dẫn ông ta đi đến một nơi và hỏi : " Anh
thấy gì đấy ? "
_ " Thưa một cây to, Arjuna nói, và những
chùm trái lủng-lẳng ."
SRI RAMAKRISHNA
366
Chúa Krishna nói :
_ " Không phải, anh bạn ơi, hãy lại gần và nhìn
cho kỹ : đấy không phải là trái đâu mà là vô số
Chúa Krishna ... "
Người ta cần gì phải đi hành-hương đến
các đất Thánh ? ...
_ " Chính là thánh tính của người tạo nên thánh
tính của đất. Nếu không thế thì làm sao một
chỗ đất có thể thánh-linh-hóa một người
được ? "
Thượng-Đế vô-sở bất tại, ở tại khắp nơi,
Thượng-Đế ở tại bản thân chúng ta. Toàn-thể
sự sống và vũ-trụ là giấc Mộng của Thượng-
Đế...
Nhưng trong sự thêu dệt với ngón tay
khéo léo những ngụ-ngôn về đề-tài đẹp đẽ
muôn thủa, đồng thời người nông-dân nhỏ bé
đất Kamarpukur đó đã hợp-nhất nơi ông cả
tính-chất của Thánh Marthe lẫn Thánh Marie
để cũng biết nhắc lại cho đệ-tử mình đời sống
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
367
thực-tế với công-việc nội-trợ, chi tiết hèn mọn ;
ông không chịu ngồi không, dơ bẩn hay là mất
ngăn-nắp trật-tự, và về điểm này, ông có thể
cho các con nhà đại tư-bản kia những bài học ;
ông làm gương-mẫu ; ông quét nhà và làm
vườn .
Không có gì qua được mắt ông. Ông
mộng, ông nhìn, ông làm. Và cái khoa học vui
của ông vẫn giữ cái khiếu cười như đứa trẻ.
Đây là ông tự giải-trí bằng tấn hài-kịch của thế-
tục và sùng-tín giả-dối :
" ... Sư-phụ bắt chước rất ngộ-
nghĩnh một Kirtani ( Nữ ca sĩ nhà nghề về
Thánh ca tôn-giáo ) làm cho đệ-tử hết sức
buồn cười. Nữ ca-sĩ với gánh hát đi vào
một cuộc hội-họp. Cô ta ăn mặc rất trang-
điểm, tay cầm hờ hững một cái khăn tay
mầu. Mỗi khi có một quan-khách đến,
nàng ra chào mừng, vừa hát vừa nói :
Kính mời ngài vào cho ! Rồi nàng vén
khăn choàng để hở cánh tay phô bầy đồ
SRI RAMAKRISHNA
368
trang điểm... Bộ điệu hài-hước của sư-
phụ làm cho đệ-tử cười bò. Paltu lăn lộn
dưới đất. Sư-phụ vừa cười và nói :
_ " Con nít thế ! Paltu, đừng có về
kể lại cho cha con nghe đấy ! Ông ta sẽ
hết kính-nể thày. Ông ta đã thành một
người dân Anh thuần-túy rồi ! ... "
Đây lại các mẩu kịch khác diễn ra :
Ramakrishna nói : _ " Có những người
không bao giờ ham nói chuyện phiếm hơn là
vào lúc lễ-bái hàng ngày. Nhưng vì họ bị cấm
nói chuyện, họ ngậm miệng mà làm hiệu bằng
cử-chỉ hay diện-mục nhăn-nhó :
_ “ Kìa ! Kìa ! Mang cho tôi cái này...
Đưa cho tôi cái kia... Xuỵt ! Xuỵt !... ” Kẻ thì
lần tràng-hạt, nhưng vừa lần, y vừa mặc cả mua
cá. Và đương khi ngón tay vê những hạt tràng,
y chỉ vào con cá y thèm... Một phụ-nữ xuống
nước thánh sông Hằng ( Gange ) tắm, đáng ra
bà phải nghĩ về Thượng-Đế, nhưng này bà đối
mách :
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
369
_ “ Và họ biếu cho con bà tư-trang gì ?...
Ông nọ bệnh... Anh kia đi thăm vị hôn-thê...
Và người có tưởng đến của hồi-môn sẽ lớn hay
không... Harish yêu tôi, anh ấy không có thể
xa tôi một giờ... Tôi đã không đến được suốt
thời-gian gần đây ; người ta đã làm lễ ăn hỏi
con gái ông nọ, và tôi đã bận quá ! ” _ Và vân
vân và vân vân... Bà ta đã đến tắm dưới nước
thánh. Nhưng lại bận tâm vào những chuyện
đâu đâu, trừ vấn-đề ấy ... "
Và chính lúc ấy, sư-phụ nhìn vào một
trong các đệ-tử đang nghe và súc-động, ông đi
vào Thần-hóa Tam-muội ...
Khi ông hồi tỉnh, không hề gián-đoạn,
ông nối ngay lại sợi giây liên-tục vấn-đáp.
Hoặc ông hát một trong những bài ca-tụng vẻ
đẹp về tình-yêu dâng " Đức Mẹ mầu da xanh
biếc " hay là dâng Chúa Krishna yêu-giấu :
_ " Ôi ! tiếng sáo ngọt ngào ! Nó
nổi dậy trong rừng cây xa xa !... Tôi đến
SRI RAMAKRISHNA
370
đây. Tôi đến đây !... Hỡi người yêu giấu
của tôi, nước da ngăm ngăm đang chờ
tôi... Các bạn gái của tôi ơi, này này hãy
cùng đến với tôi chăng ?... Hỡi người yêu
của tôi ! Tôi e nó chỉ là một tiếng đối với
chàng, một tiếng suông ý-nghĩa... Nhưng
đối với tôi nó là cả tâm-tình, là tâm-hồn
tôi, nó là cả sự sống của tôi !...
" ... Hãy lặn, lặn, lặn sâu xuống đáy,
hỡi tinh-thần tôi ! Lặn xuống biển-cả mỹ-
lệ !... Hãy đi và tìm trong những miền
chìm sâu thăm-thẳm dưới các biển !
Người sẽ đạt tới kho báu kim-cương của
Prema = Tình-yêu linh-thiêng. Ở tại trong
tâm người là cõi thần-tiên Brindaban của
Thượng-Đế tình-yêu. Đi đi và tìm, đi đi
và tìm ! Và người sẽ thấy ... Bấy giờ
Bất-tuyệt nó sẽ cháy mãi ngọn đèn trí-
tuệ... Ai là vị kia điều-khiển con thuyền
trên bộ _ trên mặt đất _ trên mặt đất
liền ?...
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
371
" ... Bạn đường của Tuyệt-đối. Hỡi
Đức Mẹ, Bà đã lặn vào trong lạc-thú của
Trò Chơi !... Rượu lạc làm cho Bà say.
Chân Bà lảo đảo, nhưng chưa bao giờ mất
thăng-bằng. Tuyệt-đối, đấng trượng-phu
nằm bên cạnh Bà. Bất động, Bà ôm
choàng vào trong lòng, và Bà có vẻ đã
mất tự-chủ... Vũ-trụ rung-động dưới gót
chân Bà. Sự điên cuồng hiện ra trong con
mắt Bà và trong mắt chồng Bà... Sự thực
thế-giới là một lạc-thú !... Hỡi Đức Mẹ
xanh biếc !... "
Điệu hát của ông là vị rượu Tình-yêu làm
say sưa Đức Mẹ. Vivekananda nói :
_ " Chì một cái nhìn của Rama-
krishna đủ làm biến cải cả một đời con
người ."
Naren hẳn có biết ít nhiều về điều ấy, vì
chính ông từng phản-ứng chống Ramakrishna
để bênh-vực hăng-hái những nghi-ngờ triết-lý
SRI RAMAKRISHNA
372
của mình, và đã cảm thấy chúng bị thiêu hóa
trong ngọn lửa liên-tục cho đến khi phải tự thú-
nhận khâm-phục. Ông đã chứng-nghiệm điều
mà Ramakrishna đã báo trước rằng : " Tín-
ngưỡng sinh-động có thể đem cho và tiếp-thụ
một cách cụ-thể và thực sự hơn cả vật gì khác ở
thế-gian. " Sự chính-sác của Ramakrishna êm
đềm và mạnh-mẽ đến nỗi những mâu-thuẫn thô
bạo nhất của những đệ-tử thanh-niên ấy làm
cho ông phải mỉm cười. Ông tin chắc rằng
chúng sẽ tiêu-tan như sương mù buổi sớm
trong ánh mặt-trời trưa. Khi Kaliprasad rồn-rập
với một tràng phủ-định của y đối với những
câu hỏi của ông :
_ " Con ơi, con có tin vào Thượng-
Đế không ? "
_ " Thưa không . "
_ " Con có tin vào một tôn-giáo nào
không ? "
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
373
_ " Thưa không, con chẳng tin vào
Vedas hay là bất cứ một Thánh điển nào
hết. Con chẳng tin vào cái gì tâm-linh cả."
Sư-phụ khoan dung trả lời :
_ " Con ơi, nếu con nói thế với một
sư-phụ khác, không biết con sẽ lãnh được
cái gì ? Thôi, hãy đi bình-an. Nhiều kẻ
khác con đã trải qua những khủng-hoảng
của con ; và bây giờ... hãy coi Naren
xem ! Y tin. Những ngờ-vực của con sẽ
được sáng tỏ. Con sẽ tin ."
Và Kaliprasad về sau đã trở nên vị Thánh
sứ-đồ Abhedananda .
Vô số đại-học-gia, trí-thức, hoài-nghi, bất
khả tri luận đã được cảm-hóa với con người
nhỏ-nhắn ấy. Ông nói những lời giản-dị nhất
với ngôn-ngữ nông-dân, nhưng thực-thể ông ta
chiếu vào tận đáy tim người ta, ánh-sáng của
nó. Ông không cần người khách đến thăm ông
thú khai tâm-sự của họ... Ông nói :
SRI RAMAKRISHNA
374
_ " Những con mắt là cửa sổ của
tâm-hồn... "
Ông nhìn họ thông suốt ngay từ đầu. Giữa
đám đông, ông đi thẳng đến người khách thẹn-
thùng đang náu ẩn ; Ông đặt ngón tay vào mối
nghi-ngờ hay là nỗi lo-lắng, vết thương kín-đáo
của họ. Ông không bao giờ thuyết-pháp. Tâm-
hồn ông không chút vơ-vẩn , không chút u-
buồn. Một lời, một nụ cười, cái tay sờ là ông đã
truyền an-tĩnh, hạnh-phúc không tên mà người
ta mong mỏi. Người ta kể lại rằng, có một
thanh-niên được con mắt của ông nhìn tới, đã
sống suốt một năm trời trong trạng-thái xuất-
thần chỉ có thể nhắc đi nhắc lại những câu :
_ " Chúa ơi ! Chúa ơi ! Người yêu của tôi !
Người yêu của tôi ! ... "
Sư-phụ tha-thứ tất cả, tin-tưởng vào Từ-
thiện vô-biên. Và đọc được ở một người nào
trong số người đến xin ông cứu-độ, là người ấy
không có thể, tại đời này, đạt tới Thượng-Đế y
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
375
cầu tìm. Ông muốn truyền ngay cho y ít nhất
một ý-vị trước của cực-lạc .
Không một lời nào ở ông chỉ là lời nói ;
tất cả đều là động-tác ; tất cả đều là thực-thể .
Ông nói :
_ " Đừng nói về tình-yêu đối với
anh em. Hãy yêu !... Đừng biện-thuyết về
học-thuyết và tôn-giáo. Chỉ có một thôi.
Tất cả giòng sông đều chảy ra Bể cả. Hãy
đi lên và để cho người khác đi !... Con
nước chính đại theo sườn núi _ tùy theo
chủng-tộc, thời-đại và tâm-hồn _ tìm khai
một lòng sông khác. Đấy chính là cùng
một thứ nước... Chẩy đi. Hãy chảy cả về
Đại-dương !... Đà của nước vui-vẻ từ
trên đổ xuống truyền vào tất cả tâm-hồn.
Ông là đà nước, ông là sườn giốc, ông là
giòng suối ; và các sông con khác và các
ngòi lạch chảy về sông của ông. Ông là
sông Hằng-Hà ( Gange ) . "
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
377
CON SÔNG
CHẢY VÀO BỂ
Ông tới gần Đại-dương. Giờ chót đang
điểm. Thân-thể ẻo-lả của ông, hầu như hàng
ngày bị thiêu đốt trong xuất-thần nhập-hóa, đã
bị hao tổn tàn tạ bởi sự tự hiến cho quần-chúng
đói lả. Có khi, ông phàn-nàn với Đức Mẹ như
đứa con nũng-nịu, về làn sóng khách thập-
phương ngày đêm thăm viếng làm cho ông như
bị ngốn nát. Với luận-điệu hài-hước, ông nói
với Đức Mẹ :
_ " Tại sao Mẹ đưa đến cho con tất
cả loại người này, khác gì như sữa loãng
pha gấp năm lần nước lã ? Mắt con đã
mòn mỏi, phải thổi mãi lửa canh cho
nước bốc đi ! Con mất hết sức-khoẻ !
Con không chịu nổi nữa ! Mẹ hãy làm
lấy nếu Mẹ thích !... Cái này ( chỉ vào
thân-thể mình ) chỉ còn là cái trống vỡ.
SRI RAMAKRISHNA
378
Và nếu Mẹ cứ đánh mãi ngày đêm thì nó
còn được bao lâu ? "
Nhưng vậy mà ông không từng từ-chối
một ai. Ông nói :
_ " Tôi nguyện được bị bắt tái sinh
mãi mãi, dù phải làm thân chó, nếu tôi chỉ
có thể được như thế, để có thể giúp cho
một linh-hồn nào ! "
Và ông lại nói :
_ " Tôi hy-sinh hai mươi ngàn thân-
thể như của tôi để giúp đỡ cho một người.
Thật là vẻ-vang cho mình đã giúp-đỡ
được kẻ khác, dù chỉ cho một người ! "
Ông tự trách về khuynh-hướng xuất-thần
nhập-hóa của mình, làm mất chút thì giờ để hy-
sinh cho người khác :
_ " Ôi Mẹ ơi, hãy cản con đường
làm cho con thích-thú ! Con xin được
luôn luôn ở trạng-thái bình-thường để có
thể giúp ích cho đời ! "
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
379
Vào những ngày cuối, khi đệ-tử bảo-vệ
ông bắt ông làm trái với ý ông, chống với sự
lạm-dụng của những tín-đồ sùng ái, ông nói :
_ " Thày khổ quá vì không còn ai
cần đến sự giúp đỡ của thày hôm nay ! "
Người bạn thân của ông, giáo-chủ danh-
tiếng của hội Brahmosamaj là Keshab Chunder
Sen đã đi trước ông về trời rồi. Ông này mất
năm 1884. Mấy ngày trước khi ông ta mất,
Ramakrishna, mắt tràn lệ nói : " Người trồng
cây hoa hồng sắp đem trồng nơi khác, bởi vì
người làm vườn hoa muốn nó nở ra những
bông hồng rực-rỡ hơn nữa kia ." Ông nói tiếp :
_ " Một nửa tâm-hồn tôi đã chết ."
Người ta có thể nói : còn nửa nữa của ông
là những kẻ thấp hèn, ông gần với chúng hơn là
các nhà thông-thái. Và trong hàng các người
thân-mật về những năm cuối đời của ông, ông
kể đến những người chất-phác, những kẻ điên
cuồng về Thượng-Đế mà ông coi ngang hàng
với những đệ-tử thân yêu của ông. Ví như bà
SRI RAMAKRISHNA
380
già Gopalerma, mà tiểu-sử ngây-thơ của bà có
thể xếp vào tập thần-tiên của dòng Thánh
françois d' Assise .
Đấy là một bà sáu mươi tuổi. Ở góa
chồng từ nhỏ, bà hoàn-toàn hiến thân cho
Chúa. Lòng khao-khát tình-yêu mẫu-tử không
mãn-nguyện, khiến bà từ ba mươi năm qua,
nhận một đứa trẻ Gopala của Krishna làm con
nuôi. Cái ý-tưởng ấy ở bà đã biến thành thói
quen ngây thơ. Chợt gặp Ramakrishna lần đầu
tiên, con mắt ám-ảnh về Thượng-Đế thấy ở
người ông này xuất-hiện đứa bé Gopala. Lòng
thương nồng-nàn của ông cảm-thông nguyện-
vọng thầm kín và hối tiếc của những ai đến
gần, truyền hơi cho cái mộng bất-mãn của
người mẹ hiếm-hoi không có con. Ông đặt đứa
trẻ Thượng-Đế vào tay bà ta. Kể từ lúc ấy trở
đi, đứa bé Gopala không rời người mẹ nuôi. Và
bà ta không cầu-nguyện nữa vì bấy giờ bà sống
cảm-thông liên-tục với Thượng-Đế của bà. Bà
đã ném tràng hạt xuống sông và trải qua ngày
ấy sang ngày khác lắp bắp với đứa trẻ. Trạng-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
381
thái ấy kéo dài hai tháng ; và rồi nó nguôi dần,
đứa trẻ chỉ hiện ra những lúc định-niệm.
Nhưng trong lòng bà ta sự sung-sướng còn tồn-
tại. Và Ramakrishna ấp-ủ cái lạc-thú ấy với con
mắt từ-thiện. Nhưng vì không bao giờ ông
quên mất tính tinh-khôn của ông, ông yêu cầu
bà già kể lại câu chuyện cho Naren kiêu-ngạo
nghe, vốn hãnh-diện với lý-trí phê-phán của
mình cho những ảo-giác huyễn-tượng ấy và
cho là huyền-hoặc vô-lý và bệnh-hoạn. Bà già
ngây-thơ, giữa cuộc chuyện trò mẹ con của bà,
lấy Naren ra phán-xét :
- " Thưa ông, bà nói với Naren, tôi
chỉ là một người đàn bà tầm-thường, dốt
nát, tôi không hiểu rõ như thế là thế nào.
Ông là một người bác-học, xin ông bảo
cho tôi hay, ông có tin đấy là sự thật
không ?"
Và Naren cảm-động, trả lời :
_ " Vâng, thưa mẹ, đấy là sự thật " .
***
SRI RAMAKRISHNA
382
Vào năm 1884, sức khoẻ của
Ramakrishna bắt đầu suy sụp nặng. Trong một
trạng-thái xuất-thần, ông bị trẹo cổ tay ở bên
cánh tay trái và ông đau lắm. Một biến đổi lớn
xây ra ở ông. Giữa thân-thể tàng tật và tinh-
thần kỳ lạ của ông có một sự phân-hóa. Ông
không còn có thể dùng được tiếng " tôi ". Ông
không còn cả là " ta " nữa. Ông nói về mình :
" Cái này "... Bệnh-nhân tri-giác thấy " Lila...
Hý-lộng... Hóa-công hý-lộng trong các hình
tướng... Người đột nhiên túm lấy cái Chân
Ngã của mình ; rồi thì y lặn chìm vào sự kinh-
ngạc yên-lặng ; lạc-thú của y thì không biết có
giới-hạn, khác nào như vô tình y bắt gặp một
người thân-yêu... Khi thần Çiva thấy cái Ngã
Chân-thật của mình, thần kêu lên : " Ta là thế !
Ta là thế ! "... Và thần nhẩy múa sung-sướng..."
Năm sau, tháng tư 1885, cổ-họng ông
phát viêm. Quá mệt vì nói nhiều và những
trạng-thái xuất-thần Samadhi nguy-hiểm làm
cho máu dồn về cổ-họng, hẳn rằng đã là
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
383
nguyên-nhân cho chứng bệnh ấy. Các thày
thuốc thăm bệnh cấm ông không được nói
nhiều và xuất-thần nhập-hóa. Ông không buồn
để ý tới. Trong dịp đại lễ tôn-giáo Sùng-bái của
Vaishanavite, ông đã dùng sức quá độ. Trở về
đền, bệnh tình thành nặng. Ông không còn có
thể nuốt nổi thực-phẩm. Tuy vậy, ông vẫn tiếp
tục tiếp nhận tất cả những ai đến với ông ngày
đêm. Một buổi tối, cổ-họng ông bị đứt mạch
máu. Người ta khám nghiệm là chứng ung-thư.
Các đệ-tử cốt cán xin ông để cho bác-sĩ
Mahendra Lal Sarkar ở Calcutta trông nom.
Tháng chín 1885, họ thuê một gian nhà nhỏ thu
xếp cho bà Ramakrishna đến ở bên cạnh để
trông nom cơm nước. Các đệ-tử thân tín nhất
thức canh ban đêm. Phần lớn họ thanh bạch ;
họ phải cầm bán, vay mượn để lo chi-phí cấp
dưỡng cho ông ; và bệnh của sư-phụ đã củng-
cố cho sự hợp-nhất của họ. Bác sĩ Sarkar là
một nhà duy-lý, không tin tư-tưởng tôn-giáo
của Ramakrishna và ông ta nói thẳng điều ấy
với Ramakrishna. Nhưng dần dần, ông hiểu
biết bệnh-nhân của ông, ông rất kính-trọng và
SRI RAMAKRISHNA
384
chữa bệnh không lấy thù-lao. Ông ta đến thăm
ba lần một ngày và nói chuyện hàng giờ với
bệnh-nhân _ điều ấy, nhân dịp nói đây, có lẽ
không phải phương-tiện tốt để làm bớt bệnh.
Ông ta nói với Ramakrishna :
_ " Tôi mến ông lắm vì lòng tận-
trung của ông cho chân-lý ! Ông không
trệch một ly nào ra ngoài điều ông tin là
thật... Đừng tưởng là tôi phỉnh ông ! Nếu
cha tôi mà sai lầm, tôi cũng nói thẳng cho
ông ta biết ."
Và bác-sĩ Sarkar công nhiên chê sự tôn
thờ tôn-giáo của các đệ-tử đối với Rama-
krishna :
_ " Bảo rằng Vô-hạn giáng xuống
trần-thế ở một người, đấy là điều làm
hỏng tất cả tôn-giáo ."
Ramakrishna, buồn cười, không phản-đối;
nhưng các đệ-tử hăm hở trong những bàn cãi,
càng làm tăng thêm sự quí-trọng lẫn nhau ; và
đức tin của họ thêm củng-cố vào người thày
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
385
mà bệnh đau sáng chiều. Họ tìm hiểu những lý
do của cái thử-thách ấy. Họ phân ra làm mấy
nhóm. Những người nhiệt-thành nhất, đứng
đầu là Girish, người có tội được chuộc tội, tin
rằng chính tự sư-phụ đã có bệnh ngõ hầu tạo
nên chung quanh mình đoàn-thể giáo-đồ.
Những người duy-lý nhất, mà người phát ngôn
là Naren thừa-nhận rằng thân-thể của sư-phụ
thì không khác gì với thân-thể của mọi người
khác, cũng phải tuân theo định-luật thiên-
nhiên. Nhưng tất cả đều tri-giác thấy hiện-diện
thánh kinh ở người sắp chết ; và nhân ngày đại
lễ Đức Mẹ Kali hàng năm, họ ngạc nhiên thấy
sư-phụ tịnh khẩu, chuyên chú vào xuất-thần
nhập-hóa, tất cả đều tin chắc là Đức Mẹ hiện
thân ở mình sư-phụ .
( Trong đám người muốn đến chiêm-
ngưỡng con người linh-cảm thiên-khải đó, có
một giáo-đồ Cơ-Đốc giáo Bắc-Ấn là
Prahbudayal Misra, ngày 31 tháng 10 năm
1883 đến nói chuyện với Ramakrishna. Tỉ-dụ
kiểu-mẫu của tinh-thần hợp-sáng nó bao-trùm
SRI RAMAKRISHNA
386
một không-khí điều-hòa những giáo-phái đóng
cửa nhất khi chúng thâm-nhập vào tâm-hồn
Ấn-Độ. Người Cơ-Đốc-giáo Ấn này thấy có
thể vừa tin vào đấng Cơ-Đốc lẫn Ramakrishna!
Người ta đã chứng-kiến câu chuyện đối đáp
như sau đấy :
Giáo-đồ Cơ-Đốc : _ " Chính là Chúa Lời
chiếu sáng qua tất cả tạo-vật ."
Ramakrishna : _" Chúa Lời có một nhưng
mang hàng ngàn tên gọi ."
Giáo-đồ Cơ-Đốc : _ " Jésus không phải
chỉ là con Đức Mẹ Maria, Ngài chính là
Thượng-Đế _ ( và quay về phiá đệ-tử
Ramakrishna, chỉ vào Ramakrishna ) _ Người
này, như các ông thấy đây, lúc này ; nhưng ở
lúc khác, Ngài chính là Thượng-Đế. Vậy mà
các ông không nhận ra... "
Cuối câu chuyện, Ramakrishna bảo ông ta
là khát-vọng Thượng-Đế của ông ta sẽ được
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
387
mãn-nguyện. Và giáo-đồ Cơ-Đốc đó đã tự hiến
hoàn-toàn cho Ramakrishna ... " )
Cái tư-tưởng nồng-nhiệt ấy không phải
không nguy-hiểm. Họ dễ xô vào những
khuynh-hướng tình-cảm cực-đoan kinh-động.
Họ trải qua hay là tự cho là mình đã có huyễn-
tượng, những trạng-thái xuất-thần nhập-hóa với
những cơn cười hát và nức nở. Chính ở đây mà
lần đâu tiên Naren biểu-lộ sức mạnh lý-trí và ý-
chí của ông. Ông tỏ thái-độ miệt-thị họ. Ông
nói với họ rằng : _ " Những xuất-thần nhập-hóa
của sư-phụ đã phải mua bằng cả một cuộc đời
khắc-khổ dũng-cảm và bằng một công-phu
chinh-phục cam-go về tri-thức giác-ngộ ; còn
những bồng-bột của họ chỉ là hậu-quả của nhu-
nhược bệnh-hoạn, nếu chẳng phải là giả-dối lừa
bịp. Kẻ nào bệnh-hoạn hãy lo mà chữa bệnh đi.
Hãy ăn uống thêm đi và hãy chống-cự với
những cơn động-kinh đàn-bà đồng-bóng đó. Và
liệu hồn ! Trong số những người tu theo tôn-
giáo tình-cảm súc-động phô-trương ấy, thì 80%
trở thành vô-lại, và 15% là những người
SRI RAMAKRISHNA
388
điên !... " _ Đấy là một gáo nước đá dội lên
đầu họ. Họ tự thẹn, và phần-đông khúm-nút
thú-nhận rằng trạng-thái xuất-thần của họ đều
là giả-tạo... Hành-động của Naren không phải
chỉ dừng lại ở đấy. Ông họp-tập những thanh-
niên lại, bắt phải tuân theo một kỷ-luật cứng
dắn, đem lại cho họ mục-tiêu tích-cực cho nhu-
yếu hành-động và phụng-sự. Con sư-tử non từ
buổi ấy tự khẳng-định như lãnh-tụ tương-lai
của tập-đoàn .
Tuy vậy mà chính Naren cũng chưa giải-
thoát được tất cả băn-khoăn và lo-âu. Những
ngày ấy ghi dấu sự khủng-hoảng tuyệt-vọng,
trong khi đó ông phải quyết-định hẳn giữa
những năng-lực xung-đột tại trong bản-tính
ông. Ngày tan nát, ngày phong-phú, chúng cầy
tâm-hồn và gieo hạt ...
Bệnh tình của Ramakrishna trở nên trầm-
trọng. Bác-si Sarkar khuyên di chuyển về quê,
ngoài đô-thi Calcutta. Vào giữa tháng chạp
năm 1885, người ta xếp đặt để ông ra ở một
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
389
ngôi nhà ngoại-ô, giữa các vườn hoa Cossi-
pore. Ông ở tại đây tám tháng cuối cùng cho
tới lúc mất. Mười hai đệ-tử trẻ được lựa chọn
để hầu cận cho tới ngày cuối cùng. Naren điều-
khiển mọi sinh-hoạt và những buổi cầu-nguyện
của họ. Họ khẩn-khoản với sư-phụ hợp lực với
họ để cầu-nguyện Thượng-Đế cho khỏi bệnh ;
và một nhà thông-thái Pandit tới thăm cũng bầy
tỏ cùng cái tin-tưởng ấy, khiến cho họ có dịp
khẩn-cầu với sư-phụ lần nữa. Nhà thông-thái
kinh-điển Phạn-ngữ ấy nói với Ramakrishna
rằng, theo Kinh Thánh xác-nhận các vị Thánh
như Ramakrishna có thể chữa bệnh bằng năng-
lực của ý-chí .
Ramakrishna trả lời :
_ " Cái tinh-thần này đã phó-thác
cho Thượng-Đế một lần chót rồi. Làm sao
tôi còn có thể lấy lại được nữa ? "
Các đệ-tử của ông trách ông không muốn
khỏi bệnh ...
SRI RAMAKRISHNA
390
_ " Các con nghĩ rằng bệnh đau của
ta là do ta muốn sao ? Ta muốn khỏi.
Nhưng điều ấy là tùy Đức Mẹ . "
_ " Vậy thì thày cầu Bà đi ! "
_ " Điều ấy đối với các con nói dễ !
Nhưng những lời nói ấy ta không có thể
nói lên được ."
Naren van xin :
_ " Thày vì chúng con ! "
Sư-phụ dịu-dàng nói :
_ " Được lắm. Nếu có thể, để ta thử
xem ."
Tất cả rút lui, để ông một mình vài giờ.
Khi họ trở lại, sư-phụ nói :
_ " Thày đã nói với Đức Mẹ rằng :
" Hỡi Mẹ, con không có thể ăn được chi
hết vì bệnh đau này. Hãy làm cho con ăn
được chút ít ! " Đức Mẹ trỏ các con cho
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
391
ta, và Ngài nói : " Sao thế ! Con ăn bằng
nhiều miệng thế kia mà !... " Thày xấu hổ,
và không có thể mở miệng nói lên lời gì
khác nữa ."
Vài bữa sau đấy, ông nói :
_ " Nhiệm-vụ giáo-hóa sắp cáo-
chung rồi ; ta không có thể dạy được nữa.
Ta nhìn thấy toàn-thể thế-giới như là tràn-
ngập Thượng-Đế. Và ta tự nhủ : " Tôi biết
dạy ai bây giờ ? "
Ngày 1 tháng giêng 1886, ông cảm thấy
dễ chịu, dậy, ra vườn đi mấy bước. Ông ban
phúc cho đệ-tử. Sự cảm-động của họ biểu-diễn
ra những hiệu-quả rất khác nhau : nào xuất-
thần yên-lặng ; nào hân-hoan phát-biểu hò reo.
Tất cả đều nói rằng họ tiếp-nhận như là chạm
vào luồng điện một sức mạnh tăng tiến làm cho
mỗi người một bước được vọt tới lý-tưởng của
mình chọn. ( Cái đặc-sắc của Ramakrishna
trong hàng các giáo-chủ tôn-giáo, là ông đã
luôn luôn không phải truyền cho người ta một
SRI RAMAKRISHNA
392
tín-ngưỡng nhất-định, mà là truyền cho người
ta năng-lực cần-thiết cho tín-ngưỡng ; ông
đóng vai có thể ví với một phát điện-cơ tâm-
linh vĩ-đại.) Trong bầu vui-sướng tràn đầy, các
đệ-tử được ban phúc từ ngoài vườn, và gọi với
vào trong nhà cho những đệ-tử còn ở lại trong
đó để ra hưởng-thụ phúc lành. Ở đây có một
nét có thể nói là thuộc về Phúc-âm Cơ-Đốc ; ấy
là đệ-tử khiêm-nhường Latu và dòng họ Bà-La-
Môn Sarat, hai nhân-sự vắng mặt đang quét
dọn buồng và giường nằm của sư-phụ, nghe
tiếng gọi, nhìn xuống thấy cảnh-tượng đó ;
nhưng vì yêu sư-phụ, hai người tiếp-tục phận-
sự và đành từ-chối phần lạc-thú của mình .
Chỉ có Naren là còn bất-mãn. Nào tang
cha, nào lo phiền thế-tục, nào nhiệt-vọng trong
lòng, tất cả đang ngấu-nghiến. Ông thấy các
đạo-hữu khác được đầy đủ. Và chỉ riêng ông bị
bỏ rơi. Ông không nhận được một giải-đáp nào
cho mối lo âu của ông, không một tia sáng để
sưởi ấm cho tâm-hồn. Ông van nài Rama-
krishna ban cho ông vài ngày xuất-thần Tam-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
393
muội ( Samadhi ) để nguôi lòng ; và sư-phụ
nghiêm-khắc mắng _ ( sư-phụ khoan-dung đối
với những ai ít trông-cậy. ) Ramakrishna trách
mắng Naren " có những tư-tưởng hèn kém " ;
chính ra là tự ở một mình Naren phải tìm lấy sự
an-ủi, y phải vượt lên trên những lo nghĩ của
mình và thực-hiện qua sự chiến-thắng ấy lấy
một trạng-thái cao-siêu hơn cả xuất-thần nhập-
hóa. Và Naren, nước mắt ròng ròng chạy như
điên qua thành-phố và cánh-đồng, đâm cả đầu
vào đống rơm, đầy mình rơm bụi ; rên xiết và
tự thiêu trong lửa nhiệt-vọng, cái không có thể
tới được, và rồi tâm-hồn rối-loạn không phút
an-nghỉ... Ramakrishna, từ xa theo dõi, âu-yếm
và thương hại những bước chạy lạc-lõng của y;
ông biết chắc rằng y phải như con chó săn,
đánh hơi lâu, thở hồng hộc đến rơi hàm, trước
khi bắt được mồi linh. Và ông xét-đoán trạng-
thái của Naren là kỳ-diệu, người trước kia vẫn
tự khoe là không tín-ngưỡng, mà ngày nay bị
ám-ảnh nỗi nhớ-nhung quê-hương Vô-biên.
Ông biết trong mọi người y là người có ơn trên,
và càng bị thử-thách bao nhiêu thì ân kia càng
SRI RAMAKRISHNA
394
lớn. Ông vuốt ve gương mặt của Naren trước
hiện-diện của các đệ-tử. Ông nhận thấy tất cả
dấu-tích của " Bhakta " ( của tín-đồ tình-yêu ).
Tín-đồ Bhaktas không như tín-đồ Jñãnins ( tín-
đồ tri-thức giác-ngộ của tinh-thần ) lấy giải-
thoát làm mục-đích. Những tín-đồ tình-yêu là
sinh ra để yêu-thương và phụng-sự nhân-loại.
Chúng phải tái-sinh, lại tái-sinh vì hạnh-phúc
của nhân-loại. Chừng nào còn chút dục-vọng
cắn rứt thì còn phải tái-sinh. Khi nào tất cả dục-
vọng đã được nhổ đi hết ở trong lòng người,
chỉ đến bấy giờ người ta mới đạt được giải-
thoát " Mukti ". Nhưng tín-đồ tình-yêu
" Bhakta " không từng mong mỏi điều ấy. Bởi
thế cho nên sư-phụ yêu thương, trong lòng ôm-
ấp tất cả chúng-sinh và không muốn quên
chúng, ông luôn luôn ưa-chuộng những tín-đồ
tình-yêu ( Bhakta ), mà tín-đồ vĩ-đại nhất là
Naren của mình. Ông không giấu diếm là ông
coi y như là người con thừa-tự của ông. Ông
bảo y một hôm rằng :
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
395
_ " Thày để lại những thanh-niên ấy
dưới sự bảo-vệ của con. Hãy chuyên tâm
luyện tập tâm-linh cho chúng ! "
Và để sửa-soạn chúng vào đời sống tu-
viện, ông khuyên nhủ chúng đi khất thực ở các
cửa nhà dân, không phân-biệt giai-cấp quý tiện.
Vào cuối tháng ba hay đầu tháng tư, ông phát
cho họ vải nâu xẫm và dấu-hiệu của đạo-sĩ
Sannyâsin xuất-thế .
Naren tự-cường, đã làm gương hỷ-sả.
Nhưng ông không bỏ được lòng tự kiêu tâm-
linh. Con quỷ dâng cho ông hoài, như cho
Jésus, tất cả của cải của trần-thế, khi ông được
đề nghị làm chủ-quyền của linh-hồn thì sớm
thấy thiếu áo giáp. Một hôm, để chứng-nghiệm
năng-lực tâm-linh của mình, Naren bảo bạn
ông là Kaliprasad hãy sờ vào mình khi ông sắp
sửa đi vào trạng-thái nhập-định. Kali đặt bàn
tay vào người ông và liền rơi vào trạng-thái của
ông. Ramakrishna nghe nói lai, bèn trách mắng
Naren thậm-tệ ; ông trách Naren đã phao phí
SRI RAMAKRISHNA
396
cái mầm cây lúa mới mọc vì một mục-đích
phiếm, và ông cấm ngặt cách ám-thị tư-tưởng
đó. Cấm không được phạm vào tự-do tinh-
thần ! Các con phải giúp-đỡ người khác. Các
con không được thay thế tư-tưởng của các con
vào tư-tưởng của họ .
Sau đấy ít lâu, Naren ngồi định-niệm
tham-thiền, cảm thấy một luồng sáng bắt nguồn
từ đàng sau gáy, và đột nhiên ông xuất-thần rồi
tự tan hòa vào Tuyệt-đối. Ông rơi vào đáy sâu
của trạng-thái Tam-muội Vô-phân-biệt = Nirvi-
kalpasamadhi, mà từ lâu ông kêu gọi và Rama-
krishna đã từ chối ông. Khi ông hồi tỉnh, sau
một thời-gian khá lâu, thì hình như ông không
thấy thân-thể của mình nữa, và chỉ thấy có cái
mặt, ông kêu ầm lên : _ " Thân-thể tôi đâu ?..."
Các đệ-tử khác hoảng-sợ, chạy đến báo-cáo sư-
phụ. Ramakrishna bình-tĩnh nói :
_ " Được lắm. Cứ để cho y như thế
một thời-gian. Nó đã quấy rầy ta mãi ..."
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
397
Khi Naren đã hạ sơn, trở về với thực-tế,
ông ta đã lặn chìm trong một tâm-hồn an-lạc vô
tả. Ông ta đi về với sư-phụ. Ramakrishna bảo
ông :
_ " Nay, Đức Mẹ đã bày tỏ cho con
hết rồi. Nhưng cái thực-hiện ấy hãy khóa
lại, và ta giữ chìa khoá. Khi nào con
hoàn-thành công việc của Đức Mẹ sai,
con sẽ thấy lại kho-tàng kia ."
Rồi ông dặn bảo Naren những điều cần
cho sức khoẻ và chế-độ ăn uống cho những
ngày tiếp theo .
Càng gần đến ngày cuối, Ramakrishna
thấy mình không bận tâm nữa. Ông bao-phủ
nỗi buồn rầu của đệ-tử vào bầu không khí
thanh-thản của ông : Lời Phúc-âm viết hầu như
ở bên giường người đang hấp hối, ghi chép
tiếng rì-rầm êm ái của tâm-hồn như tiếng róc-
rách của một giòng suối buổi chiều hôm, trong
không-khí im-lặng nặng-nề của đệ-tử, ngoài
vườn ngọn gió phương Nam nóng ấm đang thổi
SRI RAMAKRISHNA
398
vào những cành lá rì-rào dưới ánh trăng suông.
Ông thì-thảo kể lại cho những người bạn, cho
những người yêu không an-phận mất ông :
_ " Radha ( nàng ý-trung-nhân của
thần Krishna ) nói với Krishna : " Ôi,
người yêu ơi, ở lại trong lòng em, và
đừng hiện ra hình người nữa " ... Nhưng
ngay sau đấy, nàng héo hon không thấy
người yêu ở hình-tướng người nữa.
Nhưng ý muốn của Chúa phải được thi-
hành. Và từ lâu thần Krishna không biểu-
hiện ra hình người... Chúa bèn đến và
nhập thể vào nhân-loại. Rồi với đệ-tử của
mình, Ngài trở về với Đức Mẹ Thánh-
linh ."
Rakhal ( một đệ-tử của Ramakrishna ) :
_ " Vậy thì sư-phụ đừng đi trước
chúng con ! "
Ramakrishna mỉm cười âu yếm và nói :
_ " Một đám Bauls ( phái Ấn-Độ-
giáo say mê Thượng-Đế mà từ-giã thế-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
399
gian ) chợt đi vào một nhà kia ; họ ca hát
danh hiệu của Chúa và nhẩy múa vui vẻ ;
rồi họ ra khỏi nhà ấy, cũng đột nhiên như
khi họ đến ; và người ta chẳng ai biết họ
là ai ... "
Ông thở dài :
_ " Có lúc ta nói : " Van Chúa ban
ơn cho con khỏi phải bị sai xuống thế-
gian này nữa ! "
Nhưng rồi tức thì ông gỡ lại :
_ " Thượng-Đế đội lốt thân-thể
người vì lòng thuơng yêu những linh-hồn
tinh-khiết yêu mến Thượng-Đế ."
Rồi ông nhìn Naren với vẻ âu yếm vô tả .
Ngày 9 tháng 4 :
Ramakrishna ( nhìn cái quạt ông phe phẩy
trong đêm nóng bức ) :
_ " Đúng như ta đang nhìn cái quạt
ta cầm trước mặt, ta đã thấy Thượng-Đế...
SRI RAMAKRISHNA
400
Và ta nhìn ... ( Ông nói rất nhỏ, đặt bàn
tay lên tim và hỏi : ) Hãy nói xem ta đã
nói gì ... "
Naren : _ " Con không thể nghe được rõ."
( Ramakrishna làm hiệu chỉ rằng Ngài,
Thượng-Đế, và cái tôi của ông chỉ là một )
Naren : _ " Vâng, Tôi là Ngài."
Ramakrishna :
_ " Chỉ thiếu một đường chỉ, phải
vượt qua... Lạc-thú của sung-sướng... Tất
cả dung-hòa... "
Naren :
_ " Những vĩ-nhân ở lại cõi đời, dù
là sau khi đã thực-hiện sự giải-thoát của
mình rồi. Họ còn giữ lấy cái Ngã với
những đau khổ, ngõ hầu phân-phát cứu-
độ cho nhân-loại." ...
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
401
Yên-lặng hoàn-toàn. Rồi sư-phụ nói :
_ " Đỉnh ( Tuyệt-đối ) hoàn-toàn
trong tầm mắt ; nhưng rất khó mà đạt
tới ... "
Naren :
_ " Ồ ! Vâng ... "
Ramakrishna :
_ " Nhưng ai đã đạt tới có thể ném
xuống một sợi giây và kéo những người
khác lên đỉnh nóc nhà ... "
_ ( Những Giáng-thế Thần-linh có
trong tầm tay sự Hiểu-biết Tuyệt-đối
trong ý-thức Tam-muội. Đồng thời các vị
ấy có thể xuống từ đỉnh cao, bảo-vệ lấy
cái Ngã nhân-cách của họ và yêu
Thượng-Đế như Cha hay Mẹ v.v.... Khi
nói : " Không phải cái này ! Không phải
cái này ! " các vị ấy bỏ lại đàng sau
những Bậc thang, hết bậc nọ đến bậc kia,
cho đến khi họ leo lên tới Nóc đỉnh. Và
SRI RAMAKRISHNA
402
đến đấy, họ lên và họ xuống, có khi nghỉ
ngơi trên Nóc Đỉnh đại-biểu Tuyệt-đối,
Bậc thang là thế-giới hiện-tượng ".
_ ( Phúc-Âm của Ramakrishna, I § 324 )
Chính những ngày ấy, thực-hiện viên-
mãn đồng-nhất-thể của tất cả hiện-hữu với
Thực-thể duy-nhất, ông nhìn thấy rằng " Tất cả
ba ngôi là cùng một Bản-thể : tội-nhân ; thớt kê
cổ để chém và người thủ phủ ", _ và ông kêu
lên với giọng yếu ớt :
_ " Chao ôi ! Trời ơi, huyễn tượng
kinh hồn ! ... "
Ông ngất đi vì cảm-động ; và khi hồi tỉnh,
ông nói :
_ " Ta lành mạnh... Không bao giờ
ta đã được lành mạnh thế này ."
Những đau đớn của ông thì cùng cực.
Những ai biết cái bệnh ghê-gớm làm ông chết _
ung thư cổ họng _ sẽ cảm-động về nụ cười
thương yêu và hiền-từ không lúc nào rời miệng
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
403
ông. Nếu con người ấy, mà tín-đồ Ấn-Độ coi
như đấng Cơ-Đốc không được hưởng cái chết
vinh-quang trên cây thánh-giá như đấng Cơ-
Đốc, thì tấm gương hấp-hối của Ramakrishna
cũng chẳng kém gì một cây thánh-giá. Nhưng...
_ " ... Chỉ có thân-thể đau đớn, ông
nói. Khi nào tinh-thần nối liền với Chúa,
người ta không còn cảm thấy gì hết ... "
Hay nữa :
_ " Thân-thể là bệnh đau, hai bên
hãy lo lấy nhau ! Người, tinh-thần ta hãy
ở lại trong lạc cảnh ! "
Và ông nói :
_ " Bây giờ, ta với đức Mẹ Thánh-
linh của ta, chúng ta là một thể mãi mãi ."
Ba hay bốn ngày trước khi mất, ông gọi
Naren đến, và yêu cầu để y ở lại một mình với
ông. Ông ngắm âu yếm Naren, rồi đi vào xuất-
thần nhập-định. Trạng-thái ấy bao bọc lấy
SRI RAMAKRISHNA
404
Naren trong lớp sóng của nó. Khi Naren ra
khỏi cảnh tối tăm, ông thấy Ramakrishna đang
khóc. Sư-phụ nói với ông :
_ " Hôm nay, thày đã trao hết cả cho
con rồi, và thày trở nên một thày pháp
khốn nạn, thày chẳng còn chi nữa. Với cái
năng-lực ấy, con sẽ làm một việc đại phúc
vô cùng cho thế-giới. Và sau đấy, chỉ đến
bấy giờ con sẽ trở về ..."
Kể từ giờ ấy, tất cả năng-lực của ông đã
truyền sang cho Naren. Thày và trò chỉ còn là
một .
Chủ-nhật 15 tháng 8 năm 1886... Ngày
cuối... Buổi chiều, ông còn nghị-lực phi-
thường, mặc dầu cổ họng đau đớn, mà nói suốt
hai giờ liền cho đệ-tử. Đến sẩm tối, ông ngất
đi. Người ta tưởng ông tịch. Vào nửa đêm, ông
tỉnh lại. Ngồi dựa vào năm hay sáu chiếc gối,
do đệ-tử khiêm-tốn, Ramkrishnananda lấy thân
mình chống đỡ trong bầu không-khí âm-u ngạt
thở, ông nói chuyện với đệ-tử thân-mến là
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
405
Naren cho đến phút cuối-cùng ; ông nói tiếng
sẽ-sẽ, dặn bảo y những lời chỉ thị chót. Rồi với
tiếng nói trong vang, ông gọi ba lần danh-hiệu
Người yêu của đời ông, Đức Mẹ Thánh-linh
Kali _ rồi nằm xuống. Trạng-thái xuất-thần
nhập-hóa tối cao bắt đầu. Ông ở tại trong trạng-
thái ấy cho tới nửa giờ, trước mười hai giờ trưa
thì ông đi hẳn. Theo lời tin của ông, " ông đi
buồng nọ sang buồng kia ... "
Và tất cả đệ-tử đồng-thanh hô :
_ " Chiến thắng ! "
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
407
KẾT - LUẬN
Người không còn nữa. Tinh-thần bắt đầu
đi vào mạch máu nhân-loại .
Đoàn-thể giáo-đồ được thành-lập ngay.
Các đệ-tử trẻ tuồi, từng đã là nhân-chứng
những tháng sau cùng của Ramakrishna, không
có khả-năng trở về đời sống thế-gian được nữa.
Tất cả mọi phương-tiện họ đều thiếu. Nhưng có
bốn đệ-tử có gia-thất là Balaram Bose, tạm thời
được giữ thánh tích Ramakrishna ở nhà mình,
Surendranath Mitra, Mohandranath Gupta và
Girish Chandra Ghosh, nhà hài-kịch sám-hối _
những người này đều khuyến-khích họ và giúp-
đỡ họ thiết-dựng một trung-tâm. Người thứ
nhất giúp tiền để mua một ngôi nhà gần nát ở
Barnagore, gần sông Gange. Đấy là tu-viện
Math dầu tiên. Chừng mười hai đệ-tử tụ-họp ở
đấy, với pháp-danh tu-sĩ, họ đã từ bấy lâu xóa
SRI RAMAKRISHNA
408
bỏ tên tục-thế của họ trong lịch-sử. Người
mang tên trước kia là Naren _ người tương lai
sẽ là Vivekananda _ đứng lên lãnh-đạo với sự
đồng-tình mặc nhiên. Ông là người cương-
quyết hơn cả và thông-minh hơn cả ; và sư-phụ
đã chỉ-định từ trước. Trong khi các đệ-tử khác
đang tính lặn chìm vào tinh-thần nhớ-nhung
hoài-niệm, say mê của kỷ-niệm và mộng-
tưởng, Naren, người đệ-tử cao đệ đã biết hơn
cả về sự hấp-dẫn của vực-thẳm, nhưng cũng
hiểu biết sự nguy-hại của nó, nên tự nhiệm dạy
bảo họ. Ông đứng giữa các người ẩn-sĩ ấy như
là một cơn lốc lửa ; ông thức tỉnh họ trong tâm-
trạng tang tóc và hưởng phúc ; ông giằng họ ra
khỏi cái ý-niệm duy-nhất cố-định, quá yên-ổn
nó đang chi-phối họ ; ông làm cho họ nếm mùi
vị tất cả trái cây của Tri-thức : các tôn-giáo
đối-chiếu và các khoa-học, lịch-sử, xã-hội-học;
ông muốn họ có một viễn-tượng đại-đồng ; ông
thiết-định giữa họ những buổi thảo-luận phong-
phú, sáng-tạo, mà không một khoảnh-khắc nào
quên bảo-vệ ngọn lửa thiêng .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
409
Vào ngày lễ Giáng-Sinh Noël năm 1886,
_ một niên-biểu tượng-trưng _ tờ khai-sinh của
đấng Người Thần-linh mới, được ký-chú tối
hậu. Câu chuyện xẩy ra rất lạ, vì nó mang cái
rung-động của sự bất ngờ trong đêm tối giữa
" Thượng-Đế đẹp " của Tây-phương với Lời
của Ấn-Độ ...
" Họ kéo đến Antpur, nhà người mẹ của
một đệ-tử ( Baburam ) ...
" ... Tối đã vào đêm. Họ quây-quần
chung-quanh lò sưởi. Họ đã mang lại và đốt lên
những thân củi lớn ; và chẳng bao lâu ngọn lửa
bốc cháy... Ngoài trời màn đêm Ấn bao phủ
như tàn che. Chung quanh nhà là cánh-đồng
ngủ im phăng-phắc an-bình vô tả. Họ mặc-
niệm trong yên-lặng... Vivekananda mới kể cho
họ nghe sự-tích Chúa Jésus. Ông nói đến cái
bí-quyết kỳ lạ về Giáng-sinh và Ngự-cáo...
Những tu-sĩ hân-hoan tràn ngập sống lại những
ngày trốn chạy sang Ai-Cập của dân Do-Thái.
Họ theo chân đứa trẻ Cơ-Đốc vào trong đền,
SRI RAMAKRISHNA
410
trong ấy các nhà thông-thái Do-Thái bao vây
chung-quanh... Họ đi theo với Ngài, khi Ngài
họp các đệ-tử đầu tiên lại ; và hình như họ đã
quen biết Ngài cũng như họ biết chính sư-phụ
của họ. Nhiều nét giống nhau trong tư-tưởng và
trong hành-động, cũng như trong những quan-
hệ với đệ-tử giữa đấng Cơ-Đốc và Rama-
krishna, nhắc nhở trong trí nhớ của họ những
ngày hạnh-phúc đã qua với sư-phụ của họ.
Những lời nói của đấng Cứu-thế văng-vẳng
bên tai họ như những lời thân-mật ...
" Và sự-tích Khổ-nạn, hình Thập-Tự-Giá
và Thăng-Thiên, tất cả dẫn họ vào vực thẳm
của mặc-niệm... Nhờ sự hùng-biện của
Narendra, họ đều được nhận vào giáo-hội sứ-
đồ, trong ấy Thánh Phao-Lồ ( Paul ) truyền-bá
Phúc-âm... Ngọn lửa tiết Thánh-linh Giáng-lâm
( Pentecôte ) thiêu đốt tâm-hồn họ trong cảnh
an-bình của làng mạc xứ Bengale ; và trong
không-khí ban đêm vang dậy những danh-hiệu
Cơ-Đốc và Ramakrishna lẫn lộn ...
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
411
" Bấy giờ Vivekananda mới nói với các
tu-sĩ. Ông cổ-võ họ để chính tự họ trở nên
những đấng Cơ-Đốc đi giúp cho công-cuộc
Cứu-thế... Chính tự họ phải sả-kỷ như Jésus
xưa kia, và thực-hiện Thượng-Đế. Đứng trước
đống lửa, mà ngọn lửa bốc cao làm cho mặt họ
đỏ bừng và chỉ có củi cháy đánh tan sự yên-
tĩnh của dòng tư-tưởng của họ. Tất cả long-
trọng phát-nguyện Sannyâs ( xuất-gia ) vĩnh-
viễn, người nọ trước mặt người kia, và tất cả
trước Thượng-Đế ...
" Và chỉ đến lúc ấy thôi, và sau khi tất cả
xong xuôi, các tu-sĩ bấy giờ mới chợt nhớ lại
đêm ấy là đêm thức Giáng-sinh ... "
_ ( trich dẫn trong " The Life of Swami
Vivekananda " )
Tượng-trưng thâm-trầm tuyệt đẹp lễ
Giáng-Sinh, một Ngày mới của Thượng-Đế ...
Nhưng Âu-Tây chớ vội lầm tưởng khi
đọc câu chuyện sự-tích này. Không phải là trở
SRI RAMAKRISHNA
412
về sông Jourdan. Đấy là chỗ ngã ba, hợp lưu
của sông Jourdan và sông Gange. Cả hai giòng
trộn nước với nhau _ ( và với nhiều giòng nước
khác nữa ) _ để rồi lại cùng nhau chảy theo
giòng của chúng mở rộng .
Tập-thể vừa mới phác-họa, chưa xong đã
có điểm độc-đáo này là không những nó dung-
hợp nơi mình những năng-lực tín-ngưỡng của
Đông-phương và của Tây-phương ; không
những nó kết nối học-vấn bách-khoa của các
khoa-học định-niệm tôn-giáo, mà nó còn phối-
hợp lý-tưởng trầm-tư mặc-tưởng với lý-tưởng
hành-động phụng-sự nhân-loại. Và ngay từ
buổi đầu những người con tinh-thần của
Ramakrishna đã chẳng tự giam mình trong một
tu-viện. Kẻ trước người sau, họ phân-tán trong
thế-giới, làm tu-sĩ lang-thang. Chỉ có một mình
Ramakrishnananda ( Sasibhursham ) trông nom
di-tích của sư-phụ, còn ở lại nơi tổ chim để cho
những con chim du-hành đến kỳ trở về nghỉ-
ngơi. Từ những tháng chót cuộc đời sư-phụ,
ông đã hiện-thân lý-tưởng của Thanh Marthe _
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
413
" Dienen... Dienen... " _ " Phụng-sự ! " ( danh-
từ của Parsifal ) : Phụng-sự thày trong lúc đau
ốm, phụng-sự huynh-đệ trong những cầu-
nguyện của họ, phụng-sự thân-thể những người
mà tinh-thần phụng-sự Thượng-Đế. Đấy là
đường lối của ông ta để " thực-hiện " Ngài.
Và ông già Tolstoi có thể đã cho đường lối ấy
là đường lối tốt hơn hết .
Nhưng ai nấy có đường lối của mình. Và
mỗi người đệ-tử, vô tình, đã chỉ theo khuynh-
hướng trong bản-tính họ, đại-biểu một phương-
diện, một trạng-thái cái bản-ngã thiên-hình
vạn-trạng của Ramakrishna. Khi nào chúng
hợp lại thì toàn-diện Ramakrishna tái hiện .
Người phát-ngôn-viên hùng-mạnh của họ
là Vivekananda, ông nói lên cái tín-ngưỡng của
tất cả, sắp truyền bá đi khắp thế-giới Lời của
một con người, như ông nói, đã thực-hiện sự
tổng-hợp linh-động các năng-lực tâm-linh Ấn-
Độ :
SRI RAMAKRISHNA
414
_ " ... Tôi đã có duyên may-mắn
được ngồi dưới chân một vị mà cuộc đời
ông ngàn lần hơn là giáo-lý ; đời ông là
một luận-giải sống-động các kinh văn
Áo-Nghiã-Thư ( Upanisads ) ; là tinh-tuý
Áo-Nghĩa-Thư hiện-thân ở hình-thể nhân-
loại, hòa-điệu tất cả những tư-tưởng khác
nhau của Ấn-Độ... Ấn-Độ đã giầu về tư-
tưởng-gia và hiền-triết : Vị thì có một trí-
óc quảng-đại, và vị thì có một tâm-linh
bác-ái. Đã đến lúc chín mùi để cho xuất-
hiện một vị hợp-nhất cả trí-óc kia với
tâm-linh ấy, người mà trong cùng một
tâm-hồn có được cả trí-tuệ sáng-chói của
Çankara và tâm-tình mầu-nhiệm của
Chaïtanya, người thấy được trong tất cả
tín-ngưỡng cùng một tinh-thần hoạt-bát,
cùng một Thượng-Đế _ người thấy được
thần-linh trong tất cả chúng-sinh _ người
mà tâm-tình thương khóc tất cả người
nghèo, người hèn yếu, kẻ bị xã-hội bỏ rơi,
kẻ bị áp bức, tất cả hạng người ở Ấn-Độ _
người thực-hiện được hòa-điệu đại-đồng,
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
415
tôn-giáo của lý-trí và tình-yêu... Người
ấy đã giáng-sinh... Rất thiết-yếu người ấy
xuất-hiện. Người ấy đã đến. Và điều lạ-
lùng nhất là sự-nghiệp của đời ông đã
diễn ra tại cửa ngõ một đô-thị đầy tư-
tưởng Tây-phương, một đô-thị điên cuồng
với chủ-nghĩa Tây-phương giả được
nhập-cảng, một đô-thị Âu-hóa hơn tất cả
các đô-thị khác ở Ấn-Độ... Ở đấy ông đã
sống, không chút trí-thức sách vở. Cái trí-
tuệ thiên-phú ấy chưa biết viết cả đến tên
mình. Nhưng những bằng-cấp cao nhất
của Đại-học chúng ta đều nhận thấy ở ông
một tinh-thần vĩ-đại... Người hiền-triết
này đã hoàn-thành công-trình hàng ngàn
năm của các hiền-triết Ấn... Người hiền
của thời-đại hiện-tại, người mà đã đem lại
giáo-lý tốt lành nhiều nhất cho giờ phút
này của thế-giới... Nếu tôi từng có nói
cho loài người một lời nào chân-thật, thì
lời ấy là của ông ta, hoàn-toàn của ông ta.
Chỉ có những lầm-lỗi là của tôi ... "
SRI RAMAKRISHNA
416
Đấy là nhà trí-thức nhất, kiêu-ngạo nhất,
hãnh-diện chính-đáng nhất trong các tinh-thần
tôn-giáo vĩ-đại của Ấn-Độ hiện-đại, ông đã tự
khiêm-tốn dưới chân của Ramakrishna chất-
phác vậy. Người ấy đã là Thánh Phao-lồ (Paul)
của Chúa Cứu-thế đất Bengale. Chính ông
sáng-lập Nhà-Thờ và giáo-lý. Chính ông đã đi
khắp thế-giới và là nhịp cầu _ ví như những
nhịp cầu mái đỏ bắc qua cánh-đồng La-Mã _
qua đấy, làn sóng tinh-thần lan tràn từ Ấn-Độ
sang Âu-Tây và từ Âu-Tây vào Ấn-Độ, nối liền
lý-trí khoa-học với tin-ngưỡng Vệ-Đà, quá-khứ
với tương-lai .
Chính cuộc hành-trình của tâm-hồn ấy mà
tôi sắp tả lại ở tập sách tiếp theo. Ở tập này tôi
đã dẫn tinh-thần Tây-phương đến những miền
xa-xăm của thần-thoại tôn-giáo, mà cây đa cổ-
thụ, ở bên mình người ta quá quen tin-tưởng đã
chết và khô héo, thì nó vẫn tiếp tục nẩy chồi,
đâm cành xum-xuê. Tôi sẽ dẫn Tây-phương
qua những con đường bất ngờ, trở về nhà mình
có lý-trí cận-đại ngự-trị. Và chúng ta sẽ phát-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
417
hiện, một khi tới nơi, thấy rằng từ thế-giới nọ
sang thế-giới kia, eo bể các thế-kỷ phân-cách,
thì đối với " vô tuyến " của con mắt nhìn tự-
do chỉ dầy bằng sợi tóc và trong một khoảnh-
khắc .
Hết tập " Cuộc Đời Ramakrishna "
Tác-Giả : Romain rolland
Dịch-Giả : Nguyễn-Đăng-Thục
Dịch xong tại Gia-Định Saigon
9/7 đường Tự-Đức ngày 19 tháng 8 năm 1975
***
*
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
419
LỜI GIỚI - THIỆU
Một tinh-thần triết-gia và tôn-giáo vĩ-đại
của Ấn-Độ hiện thời là Aurobindo Ghose, đứng
ngoài tất cả học-phái đã long trọng chứng-nhận
thiên-tài của Ramakrishna, nhất là việc ông đã
làm sáng-tỏ những năng-lực tinh-thần đặc-biệt
đa-diện ; và sự tự-chủ còn đặc-biệt hơn nữa của
cái tâm-hồn điều-khiển chúng ấy :
" ... Một tỉ-dụ mới đây và độc-nhất
bầy-tỏ cho chúng ta, trong cuộc đời của
Marakrishna Paramahamsa, cái khả-năng
của ông đối với một năng-lực tâm-linh
đặc-biệt, trước hết nó vươn thẳng lên
thực-hiện Thần-linh và có thể nói rằng
nó đã định đoạt bằng báo động lấy
Thiên-đường, để rồi sau bắt được tất cả
các phương-pháp Đạo-dẫn ( Yogas ) liên-
tiếp mà rút lấy tất cả tinh-túy để điều-
SRI RAMAKRISHNA
420
động mau-lẹ lạ-lùng, chung qui luôn luôn
đạt tới cùng một kết-quả chính là : sở-
hữu và biểu-hiện Thần-linh bằng năng-
lực tối cao của tình-yêu, bằng cái biết
giác-ngộ bột-phát, bằng những năng-
khiếu phong-phú bản-nhiên, thành những
thực-nghiệm tâm-linh thâm-trầm và đa-
diện. Một tỉ-dụ như thế rất là hiếm, không
có thể phổ-thông-hóa. Việc sử-dụng liên-
tiếp các phương-pháp Đạo-dẫn ( Yogas )
ở trường-hợp như thế có mục-tiêu đặc-
biệt và nhất thời, chứng-minh qua thực-
nghiệm nhất-định của một tâm-hồn tự-
chủ, cái chân-lý ngày nay quá thiết-yếu
cho một thế-giới, bao lâu phân-hóa bởi
những trái-nghịch, giáo-phái thù-địch, nó
từng nỗ-lực vất-vả để vươn lên : ấy là tất
cả những tín-ngưỡng, tất cả những học-
thuyết, chỉ là những hình-thức khác nhau,
những khiá cạnh rải-rác của một Chân-lý
toàn-diện, duy-nhất, mà tất cả kỷ-luật,
đường lối, bằng các nẻo khác nhau, đều
hướng về mục-đích đồng-nhất của một
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
421
thực-nghiệm tối cao là : Biết ; sở-hữu ;
thành Thượng-Đế Thần-linh, đấy là vật
tất-yếu duy-nhất nó bao-hàm tất cả vật
khác... Và tất cả cái gì mà Ý-chí tối cao,
lựa chọn cho chúng ta về sau, tất cả
phương-tiện, tất cả hình-thức biểu-diễn,
sẽ chỉ là góp thêm vào đấy mà thôi..."
_ ( " La Synthèse des Yoga " --Revue
Arya-Pondichery, n°5.15-12-1914
_Aurobindo Ghose )
Và Mahatma Gandhi gần đây cũng giới-
thiệu :
" Lịch-sử cuộc đời của Rama-
krishna Paramahamsa là lịch-sử tôn-giáo
đem vào thực-hành. Cuộc đời của Người
cho chúng ta thấy được Thượng-Đế đối-
diện. Không một ai đọc tiểu-sử ấy mà
không tự xác-nhận rằng chỉ có Thượng-
Đế là có thật, còn tất cả chỉ là ảo-tưởng.
Ramakrishna là một hiện-thân sinh-động
của một Thượng-Đế tính. Những lời nói
của Người không phải lời nói của nhà
SRI RAMAKRISHNA
422
thông-thái : đấy là những trang Sách
Sống ; đấy là những giác-ngộ của thực-
nghiệm bản-thân của Người. Chúng, do
đấy, để lại cho độc-giả một ấn-tượng mà
nó không có thể cưỡng lại. Ở vào thời-đại
hoài-nghi này, Ramakrishna là một tỉ-dụ
tín-ngưỡng rực-rỡ và linh-động, đem lại
an-ủi cho hàng ngàn nam nữ, bằng không
họ sẽ sống không ánh-sáng tâm-linh.
Cuộc đời của Ramakrishna đã là một
" bài học cách trí " về nguyên-lý Bất-bạo-
động ( Ahimsa ). Tình thương-yêu của
Người không biết có giới-hạn địa-lý hay
giới-hạn nào khác. Mong rằng tình-
thương Thánh-linh của Người trở nên một
khích-động cho tất cả mọi độc-giả những
trang sách này ."
_ ( M. K. Gandhi )
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
423
THƯ TỊCH
I._ Swami Madhavananda _ Life of Sri Ramakrishna -
- compile from various authentic sources --
1vol. 765 pages _ Editions Advaïta Ashram
Mayavati Almora Himalayas 1925 .
II._ Sri Ramakrishna -- lilà -- prasanga ; by
Swami Saradananda .
5 vol ; Bengali :
1 - 2 _ Sri Ramakrishna comme Gourou
3 _Vàlya Jivan ( thời niên-thiếu của Ramakrishna ) .
4 _ Sadhakabhava ( Ramakrishna comme Sâdhaka .
5 _ Divya-bhava ( Sri Ramakrishna dans ses modes
divins ) .
III._ Gospel of Sri Ramakrishna ( theo M. Người Con
của Chúa và đệ-tử ) _ hay là Con Người lý-
tưởng cho Ấn-Độ và cho Thế-giới _ hai quyển
_ Madras ed. by. Ramakrishna Math, 1897 ; có
hai lá thư của Vivekananda kèm theo, 1911 --
1924.
SRI RAMAKRISHNA
424
IV._ The Life of Swami Vivekananda by his Eastern
and Western Disciples._ ed. Avaïta Ashram
Himalyas 1914-1915-1918 _Toàn bộ tác-phẩm
của Vivekananda ; 7 quyển , 1923 .
V._ Sri Ramakrishna ' s Teachings ; 2 q. ; 1916-1920
VI._ Words of the Master ( selected Precepts of Sri
Ramakrishna) compiled by Swami Bramananda
1924 ; Udbodhan Office --Bagbhazar, Calcutta .
VII._ Max Muller : Rama' Krishna, his life and
Sayings ; Longmans, Green and Co. 1898-1923
VIII._ Dhan Gopal Mukerji _ The Face of Silence
_ New-York, E.P. Dutton et Co. 1926
IX._ Prabudha Bharata ; Vedanta Kesari .
§§§§§§§§§§§§