luan an.pdf
Transcript of luan an.pdf
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ QUỐC PHÒNG
VIỆN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Y DƯỢC LÂM SÀNG 108
VŨ HẢI NAM
NGHIÊN CỨU GIẢI PHẪU VÀ ỨNG DỤNG LÂM SÀNG
VẠT CƠ, DA CƠ THON TRONG ĐIỀU TRỊ
KHUYẾT HỔNG Ở VÙNG CẲNG CHÂN - BÀN CHÂN
CHUYÊN NGÀNH: CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VÀ TẠO HÌNH
MÃ SỐ: 62 72 0129
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS.TS. NGUYỄN VIỆT TIẾN
PGS.TS. LÊ VĂN ĐOÀN
HÀ NỘI, NĂM 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan rằng, nội dung nghiên cứu về giải phẫu trong nghiên cứu
này được chính tôi thực hiện. Về nghiên cứu trên lâm sàng, tôi được phân
công phụ mổ, phẫu thuật viên chính là các thày và đồng nghiệp công tác tại
Viện Chấn thương Chỉnh hình, Bệnh viện TƯQĐ 108. Tuy nhiên, việc thu
thập số liệu, tổng hợp và phân tích kết quả phẫu thuật là do tôi thực hiện với
sự đồng ý của các thày và đồng nghiệp nói trên. Kết quả nghiên cứu được
trình bày trong luận án là trung thực, khách quan và chưa từng sử dụng để bảo
vệ ở bất kỳ cấp học nào.
Tôi cam đoan rằng, các thông tin được trích dẫn trong luận án này là trung
thực và có nguồn gốc rõ ràng.
Tôi cũng cam đoan rằng, hiện nay tôi đã thực hiện thành công phẫu thuật
tương tự như trong đề tài nghiên cứu với nhiệm vụ là phẫu thuật viên chính.
Hà Nội, ngày 20 tháng 7 năm 2015
Tác giả luận án
Vũ Hải Nam
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Đảng ủy, Ban Giám đốc Viện Nghiên cứu
Khoa học Y Dược lâm sàng 108, Phòng Sau đại học, Bộ môn Chấn thương
Chỉnh hình cùng tập thể thầy thuốc Viện Chấn thương Chỉnh hình Bệnh viện
Trung ương Quân đội 108 đã nhiệt tình giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi trong
suốt quá trình học tập, nghiên cứu tại Viện, đặc biệt là cho phép tôi sử dụng
tư liệu nghiên cứu trên lâm sàng để phục vụ đề tài luận án.
Chân thành cảm ơn Đảng ủy, Ban Giám đốc, Khoa Ngoại Chấn thương
Chỉnh hình và Bỏng Bệnh viện 19-8 Bộ Công an nơi tôi làm việc đã tạo mọi
điều kiện thuận lợi để tôi yên tâm học tập và hoàn thành công trình nghiên
cứu này.
Xin chân thành cảm ơn Khoa Giải phẫu Trường Đại học Y Dược
Thành phố Hồ Chí Minh, Khoa Gây mê thuộc Bệnh viện Trung ương Quân
đội 108 và 33 bệnh nhân cùng 20 xác tử thi đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi
trong quá trình thu thập số liệu nghiên cứu.
Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới GS.TS. Nguyễn
Việt Tiến và PGS.TS. Lê Văn Đoàn - những thầy đã hết lòng giúp đỡ tôi
trong những năm tháng qua, ngay từ khi làm luận văn cao học và suốt quá
trình thực hiện đề tài luận án này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy trong Hội đồng chấm luận án các
cấp đã đóng góp nhiều ý kiến quý báu để luận án của tôi được hoàn thiện.
Xin chân thành cảm ơn những người bạn, đồng nghiệp luôn chia sẻ,
động viên khuyến khích tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Đặc biệt, xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cha mẹ, vợ con và những
người thân yêu trong gia đình đã luôn động viên, giúp đỡ cả về vật chất và
tinh thần, giúp tôi vượt qua mọi khó khăn trong quá trình học tập, nghiên cứu
để hoàn thành luận án.
Tác giả
Vũ Hải Nam
MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục bảng
Danh mục hình
ĐẶT VẤN ĐỀ 1
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1. Giải phẫu cơ thon 3
1.1.1. Đại cương 3
1.1.2. Những nghiên cứu về giải phẫu cơ thon 5
1.2. Điều trị khuyết hổng ở vùng cẳng chân, bàn chân 19
1.2.1. Giải phẫu cẳng chân, bàn chân liên quan đến khuyết hổng và điều trị 19
1.2.2. Điều trị khuyết hổng ở vùng cẳng chân, bàn chân 21
1.3. Sử dụng vạt cơ, da cơ thon điều trị khuyết hổng ở cẳng chân, bàn chân 28
1.3.1. Điều trị khuyết hổng ở cẳng chân 28
1.3.2. Điều trị khuyết hổng vùng bàn chân 30
1.3.3. Biến chứng và di chứng tại nơi cho vạt cơ, da cơ thon 32
1.3.4. Những yếu tố liên quan đến kết quả chuyển cơ, da cơ thon tự do 34
1.3.5. Nghiên cứu sử dụng vạt cơ, da cơ thon trong điều trị khuyết hổng
ở chi thể tại Việt Nam 35
Chương 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 37
2.1. Đối tượng nghiên cứu 37
2.1.1. Nghiên cứu giải phẫu 37
2.1.2. Nghiên cứu trên lâm sàng 37
2.2. Phương pháp nghiên cứu 38
2.2.1. Nghiên cứu giải phẫu 38
2.2.2. Nghiên cứu trên lâm sàng 45
Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 57
3.1. Nghiên cứu giải phẫu 57
3.1.1. Đặc điểm giải phẫu cuống mạch chính 57
3.1.2. Đặc điểm giải phẫu cuống mạch phụ 63
3.1.3. Thần kinh chi phối 63
3.2. Kết quả nghiên cứu trên lâm sàng 63
3.2.1. Đặc điểm đối tượng 63
3.2.2. Kết quả phẫu thuật 65
Chương 4. BÀN LUẬN 83
4.1. Đặc điểm giải phẫu mạch máu, thần kinh cơ thon 83
4.1.1. Cấp máu cho cơ, da cơ thon 83
4.1.2. Thần kinh vận động 91
4.2. Nghiên cứu ứng dụng lâm sàng 91
4.2.1. Đặc điểm đối tượng 91
4.2.2. Chỉ định sử dụng cơ, da cơ thon trong phục hồi ở cẳng - bàn chân 93
4.2.3. Kết quả chuyển vạt cơ, da cơ thon điều trị khuyết hổng ở cẳng - bàn chân 97
4.2.4. Biến chứng, thất bại và xử trí 101
4.2.5. Những yếu tố liên quan đến kết quả 103
4.2.6. Vai trò của liệu pháp chân không 104
4.3. Biến chứng sớm và di chứng tại nơi cho vạt 105
KẾT LUẬN 106
CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BN: Bệnh nhân
ĐM: Động mạch
TM: Tĩnh mạch
TK: Thần kinh
KHX: Khuyết hổng xương
KHPM: Khuyết hổng phần mềm
KHPH: Khuyết hổng phức hợp
KTVP: Kỹ thuật vi phẫu
TNGT: Tai nạn giao thông
TNLĐ: Tai nạn lao động
VTHK: Vết thương hỏa khí
VXTX: Viêm xương tủy xương
1/3T: 1/3 trên
1/3G: 1/3 giữa
1/3D: 1/3 dưới
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1. Vị trí đi vào cơ, chiều dài cuống mạch 59
Bảng 3.2. Đường kính ngoài của ĐM và TM 60
Bảng 3.3. Số mạch xuyên tách từ cuống ĐM chính 61
Bảng 3.4. Vị trí mạch xuyên tách từ cuống ĐM chính 61
Bảng 3.5. Diện da ngấm thuốc màu 62
Bảng 3.6. Số lượng, vị trí cuống mạch phụ 63
Bảng 3.7. Liên quan giữa nguyên nhân và kết quả chuyển vạt 66
Bảng 3.8. Liên quan giữa vị trí khuyết hổng và kết quả chuyển vạt 67
Bảng 3.9. Liên quan giữa tổn thương giải phẫu và kết quả chuyển vạt 67
Bảng 3.10. Liên quan giữa mạch nuôi tại vùng nhận và kết quả chuyển vạt 68
Bảng 3.11. Liên quan giữa nhiễm khuẩn tại khuyết hổng và kết quả chuyển vạt 68
Bảng 3.12. Liên quan giữa chủng vi khuẩn và kết quả chuyển vạt 69
Bảng 3.13. Tình trạng nhiễm khuẩn và thời gian điều trị nội trú 69
Bảng 3.14. Thời gian theo dõi để đánh giá kết quả cuối cùng 70
Bảng 3.15. Liên quan giữa kết quả điều trị và nguyên nhân 71
Bảng 3.16. Liên quan giữa kết quả điều trị và vị trí khuyết hổng 71
Bảng 3.17. Liên quan giữa kết quả điều trị và tổn thương giải phẫu 72
Bảng 3.18. Liên quan giữa kết quả điều trị và nhiễm khuẩn nơi nhận 72
Bảng 3.19. Loét vạt và liên quan với vị trí tổn thương 72
Bảng 3.20. Kết quả thẩm mỹ và liên quan với vị trí tổn thương 73
DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1. Giải phẫu định khu cơ thon. 3
Hình 1.2. Phân loại cấp máu cho cơ của Mathes và Nahai. 4
Hình 1.3. Cuống ĐM chính tách từ ĐM cơ khép. 6
Hình 1.4. Cuống ĐM chính tách từ ĐM mũ đùi trong. 7
Hình 1.5. Cuống đôi, tách từ ĐM cơ khép, mũ đùi trong. 7
Hình 1.6. Hình thái cấp máu của các cuống mạch cơ thon. 11
Hình 1.7. Phân vùng cấp máu cho da phủ trên cơ thon. 12
Hình 1.8. Phân bố ĐM xuyên quanh rốn mạch cơ thon. 13
Hình 1.9. Mạch xuyên cơ da tách từ cuống ĐM chính. 13
Hình 1.10. Phân bố mạch xuyên quanh rốn mạch cơ thon. 14
Hình 1.11. Giải phẫu mặt trước trong cẳng chân, mu chân và gan bàn chân. 21
Hình 2.1. Vẽ cơ thon và thực hiện đường rạch da. 39
Hình 2.2. Bộc lộ các cuống mạch và TK cơ thon. 40
Hình 2.3. Phẫu tích nguyên ủy cuống ĐM chính. 40
Hình 2.4. Phẫu tích mạch xuyên tách từ cuống chính. 41
Hình 2.5. Đo khoảng cách từ nơi cuống chính đi vào cơ tới củ mu. 42
Hình 2.6. Đo chiều dài cuống chính. 42
Hình 2.7. A, B, C, D: Đo đường kính ngoài của ĐM, TM. 43
Hình 2.8. A, B: Phẫu tích các mạch xuyên, đo khoảng cách từ nơi đi vào
cơ của cuống chính tới nơi đi vào da của mạch xuyên. 43
Hình 2.9. Khảo sát cuống mạch phụ 44
Hình 2.10. Xác định diện da ngấm thuốc khi bơm vào cuống ĐM chính. 45
Hình 2.11. Đường rạch da bóc tách vạt cơ thon. 49
Hình 2.12. Bóc tách cuống mạch cơ thon. 49
Hình 2.13. Đường rạch da bóc tách toàn bộ cơ thon. 50
Hình 2.14. Vạt cơ thon được cô lập hoàn toàn. 50
Hình 2.15. Bóc tách vạt da cơ thon. 51
Hình 2.16. Vạt da cơ thon được cô lập hoàn toàn. 51
Hinh 3.1. Cuống ĐM chính tách từ ĐM cơ khép. 57
Hình 3.2. Cuống ĐM chính tách từ ĐM đùi sâu. 57
Hình 3.3. Cuống ĐM chính tách từ ĐM mũ đùi trong 58
Hình 3.4. Cuống đôi tách từ ĐM đùi sâu. 58
Hình 3.5. Phân bố 55 mạch xuyên quanh rốn mạch 62
Hình 3.6. BN Vũ Thị D., bị KHPM và viêm ổ gãy 1/3D xương chày
trái do di chứng chấn thương. 75
Hình 3.7. BN Hoàng Văn Tr., VXTX đường máu 1/3D xương chày 76
Hình 3.8. BN Ngô Văn Th., 28 tuổi, KHPM gây lộ ổ gãy xương chày phải 78
Hình 3.9. BN Hà Văn N., bị viêm rò ổ gãy xương 1/3G xương chày phải 80
Hình 3.10. BN Nguyễn Văn Q., bị KHPM lộ ổ gãy phức tạp xương chày 81
Hình 3.11. BN Nguyễn Văn T., bị KHPM, viêm thối xương gót 82
Hình 4.1 A, B, C. Trường hợp không có chỉ định dùng cơ sinh đôi, cơ dép 93
Hình 4.2 A, B, C, D. Những KHX, KHPH nhỏ ở cổ chân, bàn chân 97
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Khuyết hổng ở vùng cẳng chân, bàn chân bao gồm khuyết hổng tổ chức
phần mềm, khuyết hổng xương và khuyết hổng phức hợp phần mềm - xương
là thường gặp. Nguyên nhân có thể do tai nạn giao thông, tai nạn lao động,
vết thương và di chứng vết thương hoả khí, viêm xương tủy xương…
Với những khuyết hổng phần mềm sâu rộng gây lộ xương viêm, ổ viêm
khuyết ở 1/3D xương chày hoặc xương gót, khuyết hổng phức hợp phần mềm
- xương ở 1/3 dưới cẳng chân, bàn chân có nhiễm khuẩn thì việc điều trị
không dễ dàng. Trong những trường hợp này, phương pháp điều trị kinh điển
như sử dụng vạt da tại chỗ hoặc từ xa hiếm khi có chỉ định vì yêu cầu điều trị
là ngoài việc che phủ còn cần tăng cường nuôi dưỡng nhằm góp phần giải
quyết nhiễm khuẩn và nhất là khi cần trám ổ viêm khuyết xương sao cho
không để lại khoang chết nên vạt cơ hoặc da cơ luôn được ưu tiên lựa chọn.
Việc sử dụng vạt cơ chéo chân hiện ít được áp dụng vì phải phẫu thuật nhiều
lần, tư thế bất động sau mổ gò bó...
Phương pháp sử dụng vạt cuống mạch liền đã khắc phục những nhược
điểm nêu trên của phương pháp điều trị kinh điển, đảm bảo giải quyết thành
công những khuyết hổng phức tạp ở vùng cẳng chân, bàn chân. Tuy vậy,
không ít trường hợp không có chỉ định sử dụng vạt cuống mạch liền với lý do
có thể là: Cuống vạt bị tổn thương, vạt không với tới khuyết hổng… Khi đó,
chuyển vạt tự do được chỉ định và đây là bậc cuối của bậc thang điều trị.
Trong nhiều nghiên cứu, khi đã chỉ định chuyển vạt cơ tự do thì cơ
lưng rộng, cơ thẳng bụng và cơ thon thường được cân nhắc lựa chọn. Đã có
nhiều báo cáo về chuyển cơ, da cơ thon trong điều trị khuyết hổng ở cẳng
chân, bàn chân với những đánh giá kết quả và nhận xét khoa học tin cậy.
Về giải phẫu cơ thon, đã có nhiều nghiên cứu cơ bản được thực hiện ở
nhiều nước. Nhìn chung, những đặc điểm về hình thể của cơ, đặc điểm cuống
2
mạch chính và phụ, mạch xuyên tách từ cuống động mạch chính, thần kinh
của cơ thon… cũng như những biến đổi của chúng đã được sáng tỏ.
Ở Việt Nam, việc điều trị những khuyết hổng vùng cẳng chân, bàn chân
bằng chuyển vạt tự do phát triển mạnh từ những năm cuối thập niên 1990. Đã
có nhiều nghiên cứu đánh giá kết quả và nhận xét về sử dụng vạt cơ hoặc da
cơ lưng rộng, vạt cơ thẳng bụng, vạt da cân hoặc da cơ vùng bả vai, vạt da
cân vùng đùi trước ngoài… để điều trị khuyết hổng ở vùng này. Ngoài ra, một
số báo cáo có đề cập tới sử dụng vạt cơ, da cơ thon để điều trị những khuyết
hổng nói trên nhưng được phân tích, đánh giá trong điều trị khuyết hổng ở chi
thể nói chung, hiện chưa có nghiên cứu nào chuyên về sử dụng vạt cơ, da cơ
thon trong điều trị khuyết hổng ở cẳng chân, bàn chân.
Về giải phẫu cơ thon, đã có 1 công trình thuộc chuyên ngành Giải phẫu
nghiên cứu sâu về đặc điểm hình thể, mạch máu, thần kinh; 1 công trình khác
tập trung nghiên cứu về đặc điểm cuống mạch chính và thần kinh của cơ thon
để phục vụ ứng dụng lâm sàng. Giữa 2 nghiên cứu này, đặc điểm nguyên ủy
của cuống ĐM chính có sự khác biệt và chưa thấy đề cập tới mạch xuyên tách
từ cuống động mạch chính.
Từ thực tiễn trong nước nêu trên, với mong muốn tìm hiểu giải phẫu
mạch máu cơ thon ở người Việt liệu có gì khác biệt so với những nghiên cứu
đã có, đồng thời muốn đánh giá khả năng ứng dụng vạt này trong điều trị khuyết
hổng ở vùng cẳng chân và bàn chân, chúng tôi thực hiện đề tài "Nghiên cứu
giải phẫu và ứng dụng lâm sàng vạt cơ, da cơ thon trong điều trị khuyết
hổng ở vùng cẳng chân - bàn chân" với 2 mục tiêu sau:
1. Tìm hiểu đặc điểm giải phẫu mạch máu, thần kinh cơ thon ở người Việt
trưởng thành.
2. Đánh giá kết quả chuyển vạt cơ, da cơ thon trong điều trị khuyết
hổng ở cẳng chân - bàn chân; tìm hiểu một số yếu tố liên quan tới kết quả,
nguyên nhân thất bại và di chứng tại nơi cho vạt.
3
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Giải phẫu cơ thon
1.1.1. Đại cương
Cơ thon nằm ở mặt trong đùi, ngay dưới cân sâu, nguyên uỷ bám vào
ngành ngồi mu và một phần ụ ngồi. Gân của cơ dài, hình oval, có thể sờ thấy,
nằm ngay trước cơ bán gân và bán mạc, nơi bám tận là phía trong lồi củ trước
xương chày. Cơ thon thuộc nhóm cơ khép đùi, thân cơ nằm sau cơ khép dài
và cơ may, nằm trên cơ khép ngắn, có chức năng tăng cường lực khép đùi,
gấp háng và gấp cẳng chân (hình 1.1).
Hình 1.1. Giải phẫu định khu cơ thon, (nguồn từ [126]).
Các nghiên cứu về giải phẫu cơ thon đều cho thấy cơ này được cấp
máu bởi nhiều cuống mạch nhưng luôn có một cuống với đường kính động
mạch (ĐM) lớn hơn những cuống mạch khác, cấp máu cho phần lớn cơ phía
trung tâm, nó được gọi là cuống chính (main pedicle, major pedicle) hoặc
cuống trội (dominant pedicle). Những cuống khác có ĐM nhỏ hơn, đa số ở
phía ngoại vi so với cuống chính, cấp máu cho phần cơ còn lại và được gọi là
cuống phụ (accessory pedicle, minor pedicle) [44],[77],[90],[134],[137]...
Theo phân loại cấp máu cho cơ dạng mạch trục của Mathes và Nahai
[97],[98], giải phẫu cấp máu cho cơ thon thuộc type II (hình 1.2).
Hình 1.1:
1. Cơ thon
2. Cơ may
3. Cơ khép lớn
4. Cơ thẳng đùi
5. Cơ lược
6. ĐM đùi
4
Type I Type II Type III Type IV Type V
Hình 1.2. Phân loại cấp máu cho cơ của Mathes và Nahai, (nguồn từ [97]).
Type I: Cơ có 1 cuống ĐM, ví dụ: cơ căng cân đùi. Type II: Cơ có cuống ĐM chính và cuống ĐM phu, ví dụ: cơ thon. Type III: Cơ có 2 cuống ĐM chính, ví dụ: cơ mông to. Type IV: Cơ có nhiều cuống ĐM theo từng đoạn, ví dụ: cơ may. Type V: Cơ có 1 cuống ĐM chính và nhiều cuống ĐM phụ theo từng phần, ví dụ: cơ lưng to.
Năm 1986, Manktelow [93] mô tả khái quát giải phẫu mạch máu và thần
kinh (TK) của cơ thon như sau:
Cuống ĐM chính đi vào cơ ở mặt sâu và lệch về bờ trước, tại nơi cách
củ mu khoảng 9 cm (6 - 12 cm). Đường kính ngoài của ĐM là 1 - 2 mm, nếu
bóc tách lên cao và thắt các nhánh vào cơ khép thì đường kính này thường ít
nhất là 1,5 mm. Luôn có 2 TM tuỳ hành ĐM, mỗi TM đều lớn hơn ĐM và
đường kính thường là 4 mm. Động mạch thường tách từ ĐM đùi sâu hoặc
ĐM mũ đùi trong. Ở một số ít trường hợp, cuống ĐM chính là cuống đôi
(double supply from both arteries) với 2 ĐM và 2 TM. Ngoài cuống ĐM
chính, còn có 1 - 4 cuống ĐM phụ tách từ ĐM đùi nông. Cuống ĐM phụ dưới
cùng có thể chỉ cấp máu cho phần cuối của cơ, trong phạm vi vài centimet
(cm). Có nhiều ĐM dọc nối cuống ĐM chính và phụ với nhau. Do đó, chỉ với
cuống ĐM chính, toàn bộ cơ vẫn được cấp máu thoả đáng.
Thần kinh (TK) vận động cơ thon nằm sau cơ khép dài và trước cơ
khép ngắn, đây là nhánh của nhánh trước TK bịt, đi vào cơ theo đường chếch,
ngay phía trên cuống ĐM chính. Dây TK có từ 2 - 7 bó sợi, thường là 3 bó.
5
Trong phẫu thuật, có thể tách những bó sợi TK này thành hai để chi phối cho
mỗi phần cơ riêng biệt. Theo cách đó, cơ thon thường được tách dọc thành hai
phần, có TK vận động chi phối. Mẫu tách cơ chức phận phổ biến nhất là lấy
25 - 50% phần cơ ở phía trước với một bó sợi riêng biệt. Phần cơ còn lại ở
phía sau (50 - 75%) chịu sự chi phối của những bó sợi còn lại. Thường có một
phần cơ nhỏ ở giữa hai phần nêu trên cũng được chi phối của bó sợi nên có
thể tách dọc thành 3 phần cơ chức năng.
Ở đoạn 3/5 thân cơ phía trung tâm, các sợi cơ chạy song song với nhau.
Ở đoạn 2/5 phía ngoại vi, các sợi cơ đi vào gân nằm dọc theo bờ sau của cơ.
Những sợi cơ ở phần sau thân cơ là ngắn nhất và bám vào gân ở phía trên;
những sợi cơ ở phần trước dài hơn và bám vào phần gân ở phía dưới. Thân cơ
rộng 5 - 6 cm, dài 32 cm và dày 1 cm.
1.1.2. Những nghiên cứu về giải phẫu cơ thon
1.1.2.1. Trên thế giới
Giải phẫu cơ thon được nhiều tác giả nghiên cứu và công bố kết quả từ
những năm 1970 như Orticochea (1972) [107], Harii (1976) [67], McCraw
(1976) [101] và vẫn tiếp tục trong 3 thập kỷ qua. Những nghiên cứu đó tuy có
khác nhau về đặc điểm đối tượng và phương pháp nhưng đều tập trung tìm
hiểu sự hiện diện của cuống chính; nguyên ủy, vị trí, kích thước ĐM trong
cuống chính và phụ; số lượng, vị trí ĐM xuyên tách từ cuống chính; diện tích
da được cấp máu bởi cuống ĐM chính, nguyên ủy và đường đi của thần kinh
chi phối cơ… Dưới dây là tóm tắt kết quả của một số nghiên cứu.
- Cuống chính:
+ Sự hiện diện:
Cơ thon được cấp máu bởi nhiều cuống mạch, trong đó luôn có một
cuống với đường kính ĐM lớn hơn cả, cấp máu cho phần lớn cơ phía trung
tâm nên được gọi là cuống chính [44],[63],[77],[80],[90],[109],[134],[137].
6
+ Nguyên ủy của ĐM:
Những nghiên cứu về giải phẫu mạch máu cơ thon đều đề cập đến
nguyên ủy của cuống ĐM chính. Kết quả cho thấy nó có thể tách từ ĐM cơ
khép, hoặc từ ĐM đùi sâu, hoặc từ ĐM mũ đùi trong. Tỷ lệ tách từ những
ĐM này trong một số nghiên cứu như sau (theo trình tự thời gian công bố):
. Nghiên cứu của Giordano (1990) [63] ở 30 đùi của 15 xác tươi cho
thấy, cuống ĐM chính cơ thon ở tất cả 30 đùi này đều tách từ ĐM mũ đùi
trong.
. Trong nghiên cứu của Juricic (1993) [77] với cỡ mẫu là 84 đùi của 42
xác, trong đó có 52 đùi được nghiên cứu về nguyên ủy của cuống ĐM chính,
kết quả cho thấy: Tỷ lệ tách từ ĐM cơ khép là 73% (38/52), hình thái nguyên
ủy thuộc nhóm này gồm 4 dạng (hình 1.3); tách từ ĐM mũ đùi trong là 19,2%
(10/52), hình thái nguyên ủy thuộc nhóm này gồm 2 dạng (hình 1.4); 4/52
(7,7%) trường hợp còn lại là cuống đôi, chúng tách từ ĐM cơ khép và ĐM
mũ đùi trong, hình thái nguyên ủy thuộc nhóm này gồm 2 dạng (hình 1.5).
Trong nghiên cứu này, tác giả không gặp trường hợp nào cuống ĐM chính
tách trực tiếp từ ĐM đùi sâu.
Hình 1.3. Cuống ĐM chính tách từ ĐM cơ khép, (nguồn từ [77]) Hình 1.3a: Dạng 1 ĐM (27/38). Hình 1.3b: 2 ĐM tách từ nơi phân nhánh sớm của
ĐM cơ khép (2/38). Hình 1.3c: 1 ĐM chính tách từ ĐM cơ khép và 1 nhánh nhỏ từ ĐM đùi chung hoặc từ ĐM bịt (8/38). Hình 1.3d: 2 ĐM tách từ 2 ĐM cơ khép.
Hình 1.3a:
1. TK đùi
2. ĐM mũ đùi trong
3. Củ mu
4. TK cơ thon
5. Cơ khép bé
6. Cơ thon
7. Cơ khép lớn
7
Hình 1.4. Cuống ĐM chính tách từ ĐM mũ đùi trong, (nguồn từ [77]) Hình 1.4a: 1 ĐM (7/10). Hình 1.4b: 2 ĐM tách từ nơi phân nhánh của ĐM mũ đùi
trong (3/10).
a b
Hình 1.5. Cuống đôi, tách từ ĐM cơ khép, mũ đùi trong, (nguồn từ [77])
Hình 1.5a: ĐM cơ khép là cuống trội (3/4). Hình 1.5b: 2 ĐM có đường kính như
nhau (1/4).
Nghiên cứu của Kappler (2005) [80] ở 23 xác đùi cho thấy: Tỷ lệ cuống
ĐM chính của cơ thon tách từ ĐM mũ đùi trong là 95,6% (22/23). Ở 1/23
(4,4%) trường hợp còn lại, cuống chính tách đôi tại nguyên ủy của nó là ĐM
đùi sâu (cuống đôi) và cả hai đi song song tới cơ.
. Nghiên cứu của Coquerel-Beghin (2006) [44] ở 32 đùi của 18 xác tươi
cho thấy: Tỷ lệ cuống ĐM chính tách từ ĐM cơ khép là 81,25%, từ ĐM mũ
đùi trong là 12,5% và từ ĐM đùi sâu là 6,25% số trường hợp.
. Trong nghiên cứu của Vigato (2007) [134] ở 40 bệnh nhân (BN)
được chụp CT angiography ở cả hai chân cho thấy: Tỷ lệ cuống ĐM chính
tách từ ĐM cơ khép là 46%, tách trực tiếp từ ĐM đùi sâu là 45% và tách từ
ĐM mũ đùi trong là 9% số trường hợp.
8
. Nghiên cứu của Magden (2010) [90] ở 30 cơ thon của 15 xác cho
thấy: Tỷ lệ cuống ĐM chính tách từ ĐM đùi sâu là 87%, từ ĐM mũ đùi trong
là 13% số trường hợp.
. Trong công trình của Whitaker (2012) [137], với mẫu nghiên cứu là
27 đùi, kết quả cho thấy: Tỷ lệ cuống ĐM chính tách từ ĐM đùi sâu là 92,6%,
từ ĐM mũ đùi trong là 7,4% số trường hợp.
Như vậy, cuống ĐM chính có thể tách từ ĐM cơ khép, ĐM đùi sâu
hoặc ĐM mũ đùi trong với tỷ lệ khác nhau giữa các nghiên cứu trên, đó là:
Từ ĐM cơ khép: 81,25% [44], 73% [77], 46% [134] số trường hợp.
Từ ĐM đùi sâu: 92,6% [137], 87% [90], 45% [134], 6,25% [44], 4,4%
[80] số trường hợp.
Từ ĐM mũ đùi trong: 100% [63], 95,6% [80], 19,2% [77], 13% [90],
12,5% [44], 9% [134], 7,4% [137] số trường hợp.
+ Vị trí cuống chính đi vào cơ thon (rốn mạch):
Vị trí cuống chính đi vào cơ thon hay còn gọi là rốn mạch (helium)
được xác định so với mốc là củ mu bằng việc đo khoảng cách từ củ mu tới
rốn mạch. Kết quả một số nghiên cứu cho thấy: Rốn mạch cơ thon cách dưới
củ mu trung bình là 6 cm [90], là 8,2 cm (± 0,4 cm) [63], là 8,63 cm (± 1,0
cm) [123], là 9,28 cm (7,8 - 11,4 cm) [44], là 10 cm (± 2,0 cm) [80], là 10 cm
(± 1,0 cm) [104], là 10,3 cm (± 1,3 cm) [134], là 8 - 13 cm [137], là 9 - 12 cm
[109]. Trong nghiên cứu của Juricic [77], khoảng cách này là 16,3 cm (± 0,32
cm) - Đây là khoảng cách lớn nhất được biết qua y văn.
+ Thành phần trong cuống chính:
Theo mô tả của Manktelow [93], cuống mạch chính gồm có 1 ĐM và 2
TM tùy hành. Đặc điểm này cũng được Coquerel-Beghin [44] khẳng định.
Trường hợp cuống chính là cuống đôi thì nó có 2 ĐM và 2 TM tùy hành [93].
Một số nghiên cứu có đề cập tới cuống mạch chính có 2 ĐM (cuống đôi)
nhưng không thấy nêu số lượng TM, cụ thể như sau:
9
Trong nghiên cứu của Peek [109], tỷ lệ có cuống đôi là 21% (9/43 cơ),
tác giả không đề cập đến nguyên ủy của chúng. Tỷ lệ này là 11,11% (3/27 cơ)
trong nghiên cứu của Whitaker [137], cả 2 ĐM đều tách từ ĐM đùi sâu và có
đường kính như nhau. Nghiên cứu của Juricic [77] cho thấy tỷ lệ cuống đôi là
7,7% (4/52 cơ), chúng tách từ ĐM cơ khép và ĐM mũ đùi trong. Trong
nghiên cứu của Kappler [80], tỷ lệ có cuống đôi là 4,4% (1/23 cơ), cuống ĐM
này tách đôi tại nguyên ủy của nó là ĐM đùi sâu.
+ Chiều dài cuống mạch, đường kính ĐM và TM:
Có nhiều nghiên cứu đề cập đến chiều dài, đường kính ĐM và TM
cuống chính. Tuy vậy, nhiều nghiên cứu không nêu rõ mốc đo chiều dài, vị trí
đo đường kính ĐM và TM, có nghiên cứu đo đường kính ngoài nhưng có
nghiên cứu đo đường kính trong của mạch, có nghiên cứu đo trên xác tươi
nhưng có nghiên cứu đo trên xác bảo quản. Sau đây là kết quả nghiên cứu về
nội dung này trong một số công trình (xếp theo thứ tự thời gian công bố):
. Nghiên cứu của Giordano [63], (32 đùi của 15 xác tươi), cho thấy
đường kính ĐM là 1 - 2 mm. (Tác giả không nêu vị trí đo và không rõ đây là
đường kính ngoài hay đường kính trong).
. Trong nghiên cứu của Morris [104], với 14 xác được bơm vào ĐM đùi
dung dịch oxyde chì + gelatin + nước được làm nóng 800C với liều 200 ml/1
kg cân nặng, sau đó xác được làm lạnh ở 40C, sau 24 giờ thì phẫu tích, kết quả
phẫu tích ở 23 cơ thon (5 cơ thon bị hỏng do oxyde chì chảy ra ngoài) cho
thấy: Cuống ĐM chính dài 7 - 10 cm. Đường kính ĐM là 1,5 - 2,5 mm. (Tác
giả không nêu các mốc đo chiều dài cuống mạch, không nêu vị trí đo đường
kính và không rõ đây là đường kính ngoài hay đường kính trong của ĐM).
. Trong nghiên cứu của Shatari [123] ở 52 đùi của 26 xác bảo quản
bằng formalin, tác giả đo đường kính trong tại nơi cắt của cuống chính (không
nêu vị trí cắt) bằng kính hiển vi Nikon Optiphot-2. Kết quả cho thấy đường
kính trong của ĐM là 1,08 ± 0,24 mm, TM lớn là 1,52 ± 0,43 mm.
10
. Trong nghiên cứu của Coquerel-Beghin [44], với 32 đùi của 18 xác
tươi, chiều dài trung bình của cuống mạch chính là 7,61 cm (5,6 - 11,4 cm);
đường kính ngoài đo tại nguyên ủy sát ĐM đùi sâu trung bình là 2,5 mm (0,9
- 5 mm), đường kính trung bình của TM là 1,4 mm (0,6 - 2,7 mm). (Tác giả
không nêu mốc đo chiều dài cuống mạch).
. Trong nghiên cứu của Vigato (2007) [134] ở 40 BN được chụp CT
angiography ở hai chân, đường kính trong của ĐM cuống chính trung bình là
2,5 mm. Có sự liên quan giữa đường kính ĐM và nguyên ủy của nó (p =
0,0056), đó là: khi tách trực tiếp từ ĐM đùi sâu thì có đường kính là 2,7 mm,
lớn hơn so với 2,3 mm khi tách từ ĐM cơ khép. (Tác giả không nêu vị trí đo).
. Trong nghiên cứu của Magden (2010) [90], n = 30 cơ của 15 xác bảo
quản bằng formalin, trường hợp cuống ĐM chính tách từ ĐM đùi sâu (87% số
trường hợp) thì nó có chiều dài trung bình là 5,4 cm và đường kính trung bình
là 1,6 mm; Trường hợp tách từ ĐM mũ đùi trong (13% số trường hợp) thì
đường kính trung bình của ĐM là 1,2 mm.
. Trong nghiên cứu của Whitaker (2012) [137], n = 27 đùi, kết quả cho
thấy: Cuống ĐM chính tách trực tiếp từ ĐM đùi sâu ở 25/27 cơ, tách từ ĐM
mũ đùi trong ở 2/27 cơ, chúng có chiều dài 5,4 - 11 cm, đường kính là 0,8 -
2,5 mm. (Tác giả không nêu mốc đo chiều dài và vị trí đo đường kính ĐM)
+ Mạch xuyên tách từ cuống ĐM chính và diện da ngấm thuốc khi
bơm thuốc xanh methylen vào cuống ĐM chính:
Một số nghiên cứu về đặc điểm mạch xuyên tách từ cuống ĐM chính
và diện da ngấm thuốc khi bơm thuốc xanh methylen vào cuống ĐM chính
cho kết quả như sau:
. Trong nghiên cứu của Giordano (1990) [63], tác giả chia hình thái cấp
máu của cuống mạch cơ thon thành 3 dạng (type) dưới đây (hình 1.6):
11
I II III
Hình 1.6. Hình thái cấp máu của các cuống mạch cơ thon, (nguồn từ [68])
Type I: ĐM cấp máu cho một mình cơ thon. Type II: ĐM cấp máu cho cơ thon và tổ chức cân, da xung quanh. Type III: ĐM cấp máu cho cơ thon, cân, da xung quanh và cơ may.
Theo cách phân loại hình thái này, với mẫu là 30 cơ thon của 15 xác
tươi, số trường hợp cuống ĐM chính thuộc type I là 73,33% và thuộc type II
là 26,64%. Những cuống phụ ở vùng giữa và ngoại vi cơ thon có hình thái của
cả 3 type với những tỷ lệ khác nhau. Như vậy, tỷ lệ cuống ĐM chính tách
những nhánh xuyên cân da là 26,64% (8/30).
Nghiên cứu cũng cho thấy các ĐM xuyên cơ da nằm ở mặt trong của
cơ (tách từ các cuống mạch chính và phụ), tập trung ở 2/3 phía trung tâm và
ĐM xuyên có đường kính lớn nhất nằm ở 1/3 phía trung tâm của cơ. Ở 10/30
cơ được bơm thuốc xanh methylen vào cuống ĐM chính, diện da ngấm thuốc
màu có kích thước trung bình là 16,5 x 11 cm. Giới hạn trên của da ngấm
thuốc màu trùng với nguyên ủy của cơ. Da phủ trên 40% của cơ ở phía ngoại
vi đều không ngấm thuốc ở tất cả 10 mẫu.
Từ kết quả trên, Giordano nhận xét rằng giải phẫu mạch máu cơ thon
liên quan mật thiết đến việc thiết kế vạt da cơ, đó là: ĐM xuyên cơ da tách từ
cuống ĐM chính là đáng tin cậy nhất; khoảng 30% các trường hợp, những
ĐM cân da đi kèm (type II) là nguồn cấp máu bổ sung cho da mặt trong đùi
phía trung tâm. Nếu chia vùng cấp máu cho da mặt trong đùi nằm trên cơ thon
thành 3 phần dài bằng nhau thì vùng 1 (1/3 phía trung tâm) là đáng tin cậy
nhất, nếu lấy rộng tới vùng 2 (1/3G) thì cũng an toàn. Ở vùng 3 (1/3 phía
12
ngoại vi), cấp máu cho da phụ thuộc vào ĐM nuôi cơ may nên không đảm
bảo an toàn (hình 1.7).
Hình 1.7. Phân vùng cấp máu cho da phủ trên cơ thon, (nguồn từ [68]).
. Trong nghiên cứu của Kappler (2005) [80], tác giả phẫu tích 23 xác
đùi được bảo quản theo phương pháp của Walter Thiel (cách bảo quản này
giữ cho xác có màu tương tự xác tươi, đương kính mạch không thay đổi). Kết
quả phẫu tích sau khi bơm silicon màu đỏ vào ĐM mũ đùi trong 24 giờ cho
thấy (ĐM này là nguyên ủy của cuống ĐM chính ở 22/23 tiêu bản như đã nêu
trên): Có 44 mạch xuyên cơ da tách từ cuống ĐM chính/23 cơ thon. Tỷ lệ cơ
có 1 mạch xuyên là 34,8% (8/23), có 2 mạch xuyên là 43,5% (10/23), có 3
mạch xuyên là 17,4% (4/23), có 4 mạch xuyên là 4,3% (1/23). Các ĐM xuyên
này tập trung trong vùng 6 x 6 cm mà tâm là rốn mạch cơ thon (hình 1.8). Ở 6
đùi được bơm thuốc màu vào cuống ĐM chính, vùng da ngấm thuốc có kích
thước trung bình là 88 cm2, hình oval với chiều dài trung bình là 11 cm và
rộng 8 cm, phủ trên cơ phía trung tâm.
Độ lớn của mạch xuyên tỷ lệ nghịch với số lượng mạch xuyên/1 cuống.
Khi đo đường kính ở 38 mạch xuyên, 86,4% số mạch xuyên này có đường
kính xấp xỉ 0,5 mm, số còn lại (13,6%) có đường kính khoảng 1 mm, không
mạch xuyên nào có đường kính > 1 mm.
13
Hình 1.8. Phân bố ĐM xuyên quanh rốn mạch cơ thon, (nguồn từ [85]).
Nghiên cứu của Coquerel-Beghin (2006) [44] về nội dung này được
thực hiện ở 32 đùi của 18 xác tươi. Tác giả bộc lộ cuống ĐM chính, bơm
xanh methylen trộn latex, sau 48 giờ thì bóc tách. Kết quả cho thấy mỗi cơ
thon có ít nhất 1 ĐM xuyên, trung bình là 3,78 mạch/1 cơ (1 - 6 mạch/1 cơ),
tách từ cuống ĐM chính (hình 1.9). Những mạch này hoặc là ĐM xuyên cơ
da hoặc đi trực tiếp tới da, nhưng ĐM xuyên cơ da là đa số với tỷ lệ 93,4%,
đường kính trung bình là 0,7 mm (0,4 - 1,1 mm). Trên 80% số ĐM xuyên này
phân bố trong vùng 6 cm dọc theo cơ mà tâm là rốn mạch cơ thon (+ 3 cm
đến - 3 cm), hình 1.10. Ở 28 tiêu bản có ngấm thuốc màu sau bơm xanh
methylen vào cuống ĐM chính, diện da ngấm thuốc có chiều dài trung bình là
11 cm (7,2 - 15,8 cm), chiều rộng trung bình là 9,14 cm (6,5 - 14,4 cm).
Hình 1.9. Mạch xuyên cơ da tách từ cuống ĐM chính, (nguồn từ [44])
G: cơ thon (Gracilis). GPP: cuống ĐM chính (Gracilis principal pedicle). Perf: mạch xuyên (Perforator vessels). SCT: tổ chức dưới da (Sub-cutaneous tissue)
14
Hình 1.10. Phân bố mạch xuyên quanh rốn mạch cơ thon, (nguồn từ [44])
Nghiên cứu của Peek [109] cũng cho thấy: 100% số tiêu bản (43/43 cơ
thon của 24 xác tươi) đều có ĐM xuyên tách từ cuống ĐM chính, trung bình là
5 ĐM/1 cơ, số mạch có đường kính >0,5 mm chiếm 48% các ĐM xuyên.
Theo tác giả, kích thước này đảm bảo cho chuyển vạt da dựa trên ĐM xuyên.
. Gần đây, nghiên cứu của Whitaker (2012) [137] ở 27 đùi, trong đó có
25 đùi được bơm thuốc cản quang rồi chụp CT, kết quả cho thấy:
Động mạch xuyên có ở tất cả 27 đùi, trung bình là 7,5 mạch/1 cơ. Số
ĐM xuyên cơ da nhiều hơn ĐM xuyên cân da (85 so với 27), chúng tập trung
ở 1/3 trên và gần cuống chính. Đa số ĐM xuyên cân da (20/27) có đường kính
1 mm trong khi các ĐM xuyên cơ da đều có đường kính nhỏ hơn (0,8 mm).
Cấp máu cho da: Trong 25 mẫu được tiêm thuốc cản quang, chỉ có 12
mẫu thành công được dùng để phân tích, kết quả như sau:
Với thuốc cản quang được bơm vào cuống ĐM chính: vùng da ngấm
thuốc hình oval với kích thước 15 x 13 cm (195 cm2) - 35 x 19 cm (665 cm2).
Với thuốc cản quang được bơm vào cuống ĐM phụ thứ nhất: vùng da
ngấm thuốc có hình oval với kích thước 15 x 9 cm - 34 x 10 cm.
Những nhánh của ĐM xuyên tách từ cuống chính nối với những nhánh
lên của cuống ĐM phụ thứ nhất tại vùng thắt 1 (choke zone 1), vùng này cách
15
nếp gấp bẹn 8,5 - 29 cm (trung bình là 15,4 cm). Ở những mẫu có cuống phụ
thứ hai thì nhánh xuống của cuống ĐM phụ thứ nhất nối với nhánh lên của
cuống ĐM phụ thứ hai tại vùng thắt 2 (choke zone 2), vùng này cách nếp bẹn
20,5 - 22 cm (trung bình là 21 cm). Ở những mẫu có cuống phụ thứ ba thì
cuống này không cấp máu cho da vì nằm ở vùng tiếp nối cơ - gân. Tất cả các
ĐM xuyên phía trung tâm đều nằm trong vùng 7 x 6 cm mà tâm là điểm đi vào
cơ của cuống chính. Những ĐM xuyên phía ngoại vi tập trung ở vùng 4 x 3 cm
quanh điểm đi vào cơ của cuống phụ. Như vậy, diện tích da được cấp máu liên
quan tới mạch nuôi cơ thon có hình chữ “T” và lệch về phía sau cuống chính.
Từ kết quả nghiên cứu giải phẫu, tác giả nhận xét rằng khi cần một vạt da lớn,
có thể lấy vạt với hình chữ “T” trong đó phần đứng của chữ này gồm vùng
thắt 1 và 2 để lấy được cuống chính, cuống phụ thứ nhất và thứ hai.
- Cuống phụ:
Ngoài cuống chính, cơ thon có cuống phụ với đường kính ĐM nhỏ hơn
cuống chính. Dưới đây là đặc điểm của chúng về số lượng, nguyên ủy, vị trí
đi vào cơ, đường kính ĐM trong một số nghiên cứu (theo thời gian công bố):
Trong nghiên cứu của Giordano [63], 27/30 cơ thon (90%) có 2 cuống
phụ, 3/30 cơ (10%) có 1 cuống phụ, chúng đều ở ngoại vi so với cuống chính,
tỷ lệ tách từ ĐM đùi nông, ĐM kheo lần lượt là 56% và 44% số trường hợp.
Nghiên cứu của Juricic [77], n = 84 đùi, cho thấy luôn thấy có ít nhất 1
cuống phụ ở phía ngoại vi cuống chính.
Trong nghiên cứu của Morris [104], n = 28 đùi của 14 xác, có 1 - 3
cuống ĐM phụ/1 cơ, ở phía ngoại vi cuống chính, tách từ ĐM đùi nông.
Nghiên cứu của Coquerel-Beghin [44] ở 32 đùi của 18 xác ướp cho
thấy, có 2,66 cuống phụ/1 cơ (1 - 5 cuống/1 cơ). Đa số cuống phụ (68/85 =
80%) nằm ở ngoại vi so với cuống chính, trong đó có 40/68 (58%) cuống này
đi vào cơ ở vùng 1/3 giữa và số còn lại đi vào vùng 1/3 phía ngoại vi. Tỷ lệ
cuống phụ phía ngoại vi tách từ ĐM đùi nông là 85% (58/68), từ ĐM kheo là
16
15% (10/68). Có 17/85 (20%) cuống phụ nằm ở phía trung tâm so với cuống
chính, đường kính của ĐM tại nguyên ủy là 1,1 mm (0,5 - 1,8 mm).
Trong nghiên cứu của Magden [90], n = 30 cơ thon của 15 xác, kết quả
nghiên cứu về cuống phụ được mô tả như sau: Cuống ĐM trung tâm của tất
cả 30 cơ đều là ngành sâu của ĐM mũ đùi trong, đi vào cơ cách dưới củ mu 6
cm và đường kính trung bình là 0,9 mm. Cuống thứ 2 là ĐM mũ đùi trong,
đây là cuống chính ở 13% các trường hợp, đường kính trung bình là 1,2 mm
và đi vào cơ cách dưới củ mu 9,8 cm. Cuống ĐM thứ 3 tách từ ĐM đùi sâu,
đây là cuống chính ở 87% cách trường hợp, đường kính trung bình là 1,6 mm
và dài 5,4 cm. Tất cả cuống ĐM phía ngoại vi đều tách từ ĐM đùi nông,
chúng hiện diện ở 100% trường hợp và có 2 cuống như thế ở 77% trường
hợp, đường kính là 1,4 mm và dài 5,2 cm, đi vào cơ cách dưới củ mu 26,6 cm.
Những cuống ĐM ngoại vi này đủ lớn để nuôi tới 1/3 giữa cơ.
Nghiên cứu của Vigato [134] cho thấy: So với cuống chính, 8% các
trường hợp có 1 cuống phụ ở phía trung tâm và 100% các trường hợp có ít
nhất 1 cuống phụ ở phía ngoại vi, trung bình là 1,8 cuống phụ/1 cơ (1 - 4
cuống phụ), chúng tách từ ĐM đùi nông hoặc ĐM kheo, đường kính trung
bình là 2 mm.
Trong nghiên cứu Whitaker [137], n = 27 đùi, tất cả các cơ đều có
cuống phụ với những đặc điểm như sau:
Cuống mạch Vị trí đi vào
cơ Nguyên ủy
Khoảng cách từ củ mu
(cm)
Đường kính (mm)
Độ dài (cm)
Phụ thứ nhất 1/3G SFA 15-28 0,8-1,5 3-9
Phụ thứ 2 1/3G - 1/3D SFA: 10 cơ PA: 2 cơ
25-35 0,7-1,0 2-5
Phụ thứ 3 1/3D SFA 30-36 0,5-1,0 2-5
Phụ phía trung tâm
Phía trên cuống mạch chính
OA: 4 cơ AB: 2 cơ PF: 1 cơ
0,5-1,0 4,5-11
PF (profunda femoris): động mạch đùi sâu, MCFA (medial circumflex femoral artery): động mạch mũ đùi trong, SFA (superficial femoral artery): động mạch đùi nông, PA (popliteal artery): động mạch kheo, OA (obturator artery): động mạch bịt, AB (ascending branch of main pedicle): ngành lên của cuống chính.
17
- Mạch máu tại vùng bám nguyên ủy của cơ thon:
Trong nghiên cứu của Shatari (2000) [123], tác giả đặt câu hỏi rằng,
ngoài cuống mạch chính thì liệu còn có mạch nào khác nuôi phần cơ được lấy
với độ dài cần thiết cho phẫu thuật tạo hình cơ thắt hậu môn? Kết quả nghiên
cứu ở 52 đùi của 26 xác người Nhật Bản cho thấy: Tại vùng nguyên ủy của
cơ, tất cả 52 cơ thon (100%) đều có ≥ 5 bó mạch nhỏ với đường kính ĐM là
0,34 ± 0,14 mm và TM là 0,52 ± 0,21 mm. Theo tác giả, những mạch này đủ
khả năng cấp máu cho toàn bộ cơ thon mà không nhất thiết cần có cuống ĐM
chính khi sử dụng nó ở dạng cuống cơ trong phẫu thuật tạo hình che phủ, trám
độn khuyết hổng ở vùng đáy chậu.
- Thần kinh:
Những nghiên cứu về nội dung này đều thống nhất rằng TK vận động
cơ thon tách từ nhánh trước TK bịt, nằm giữa cơ khép dài và khép ngắn, đi
vào cơ cùng với cuống ĐM chính, khi vào cơ thì phân nhánh chạy dọc theo
sợi cơ cùng với mạch máu [104],[123]. Kết quả nghiên cứu về vấn đề này
được Manktelow (1986) [93] khái quát như nêu trên.
1.1.2.2. Ở Việt Nam
Hiện có 2 nghiên cứu giải phẫu cơ thon, đó là:
- Nghiên cứu của Trần Sinh Vương (1996) [28] với 36 cơ thon của 29
xác (5 xác ngâm formalin và 24 xác tươi), kết quả cho thấy:
+ Mạch máu: Ở 30/36 cơ thon được nghiên cứu về số lượng cuống
mạch thì tất cả 30/30 cơ đều có 2 cuống mạch, có thêm cuống thứ 3 là 17/30
(56,67%) và thêm cuống thứ 4 chỉ gặp ở 2/30 cơ thon (6,67%).
Cuống mạch thứ nhất: Đây là cuống có ĐM lớn nhất, hằng định ở tất
cả 30/30 cơ. Ở 25 cơ được nghiên cứu về đặc điểm cuống mạch này, kết quả
cho thấy nó tách từ ĐM mũ đùi trong, hoặc thân ĐM mũ, hoặc trực tiếp từ
ĐM đùi sâu với tỷ lệ lần lượt là 44%, 12%, 24%. Số còn lại (20%) tách từ
18
ĐM xuyên, có chiều dài 5,86 cm (3 - 8 cm), đi vào cơ cách dưới củ mu 9,5
cm (6 - 12 cm). Đường kính tại nơi tách từ ĐM đùi sâu là 1,35 mm (0,7 - 3
mm). Luôn có 2 TM tùy hành với đường kính lớn hơn ĐM. Ở 17/36 cơ được
bơm thuốc màu vào cuống ĐM này, diện da ngấm thuốc là 18,2 x 6,05 cm (9
x 3 cm - 20,1 x 10 cm).
Cuống mạch thứ 2: Tất cả 30/30 cơ đều có cuống thứ 2, chúng đều tách
từ ĐM đùi nông (100%), dài 6,8 cm (3 - 8 cm), đường kính tại nguyên ủy là
0,76 mm (0,5 - 1,5 mm). Đi vào cơ cách trên lồi cầu trong xương đùi 11,36 cm.
Cuống mạch thứ 3 và thứ 4: Trong số 17/30 cơ có cuống thứ 3 thì cuống
ĐM này tách trực tiếp từ ĐM đùi nông gặp ở 9/17 cơ, từ ĐM gối xuống ở 6/17
và từ ĐM cơ may gặp ở 2/17 cơ. Ở 2 cơ có cuống thứ 4 thì cuống này tách trực
tiếp từ ĐM đùi nông (1 cơ) hoặc từ ĐM gối xuống (1 cơ).
+ Thần kinh: Tách từ nhánh trước TK bịt (30/30 cơ = 100%), đi vào cơ
cùng với cuống chính, khi tới cơ thì tách thành những nhánh nhỏ (2 - 4 nhánh)
cách nhau 0,3 - 0,5 cm để vào cơ.
- Nghiên cứu của Nguyễn Tài Sơn (2003) [20] ở 18 cơ thon trên xác và
53 cơ thon trên BN cho thấy: Cuống chính hiện diện ở 18/18 cơ thon trên xác,
gồm 1 ĐM và 2 TM, nguyên ủy của ĐM đều là ĐM đùi sâu (18/18 ), dài 6,72
cm (4 - 7 cm), đi vào cơ cách dưới củ mu 9,13 cm (6 - 12 cm), đường kính
ĐM tại nguyên ủy là 1,35 mm (0,8 - 1,8 mm), đường kính TM là 1,52 mm
(0,8 - 2,8 mm), da ngấm thuốc xanh dọc theo cơ và có chiều dài 19,23 cm (16
- 22 cm). Thần kinh vận động tách từ nhánh trước của TK bịt (18/18), trước
khi vào cơ thì chia thành nhánh nhỏ (2 - 4 nhánh). Kết quả nghiên cứu ở 53
BN cho thấy: cuống chính đều tách từ ĐM đùi sâu (100%), 52/53 cơ (98,1%)
có 1 cuống chính, 1/53 cơ (1,9%) có cuống chính là cuống đôi, đi vào cơ cách
dưới củ mu 9,22 cm (6 - 12 cm), đường kính ĐM tại nguyên ủy là 1,38 mm
(0,8 - 1,8 mm), đường kính TM là 1,52 mm (0,8 - 2 mm).
19
Tóm lại, những nghiên cứu của tác giả trong và ngoài nước về giải phẫu
mạch máu, TK của cơ thon cho thấy:
- Cơ thon được cấp máu bởi nhiều cuống mạch, trong đó có 1 cuống
chính với đường kính ĐM lớn nhất và cuống phụ với ĐM nhỏ hơn.
- Cuống ĐM chính có thể tách từ ĐM cơ khép, ĐM mũ đùi trong, hoặc
tách trực tiếp từ ĐM đùi sâu với những tỷ lệ khác nhau giữa nhiều nghiên
cứu. Vị trí cuống chính đi vào cơ cách dưới củ mu khác nhau giữa nhiều
nghiên cứu (trong khoảng 6 - 16,3 cm). Nếu bóc tách tới sát ĐM đùi sâu thì
chiều dài cuống mạch này đều > 6 cm và đường kính ĐM ≥ 1 mm. Tất cả các
cơ đều có 1 - 5 cuống phụ/1 cơ.
- Da phủ trên cơ thon được cấp máu từ các ĐM xuyên cơ da hoặc
xuyên cân da. Những ĐM xuyên đó tách từ cuống chính, cuống phụ nhưng đa
số tách từ cuống chính, chúng tập trung quanh điểm vào cơ của cuống chính.
- Thần kinh chi phối cơ thon tách từ nhánh trước TK bịt, đi vào cơ cùng
cuống chính, chia nhánh chạy dọc theo sợi cơ cùng với mạch của cuống chính
nên cho phép lấy mảnh cơ theo chiều dọc để chuyển cơ chức phận.
1.2. Điều trị khuyết hổng ở vùng cẳng chân, bàn chân
1.2.1. Giải phẫu cẳng chân, bàn chân liên quan đến khuyết hổng và điều trị
- Vùng cẳng chân:
Cẳng chân có xương chày và xương mác. Các cơ vùng cẳng chân phân
bố không đồng đều. Ở mặt cẳng chân trước trong, ngay dưới lớp da và tổ
chức dưới da là xương chày, không có cơ nào che phủ xương (hình 1.11 A). Ở
1/3 D cẳng chân, các cơ thoát vào gân nên dưới lớp da là gân, xương [9].
Đặc điểm giải phẫu nêu trên có liên quan đến tổn thương xương và
phần mềm cũng như điều trị những tổn thương này như sau:
+ Ở mặt cẳng chân trước trong, lớp da nằm ngay trên xương mà không
có cơ đệm đỡ ở dưới nên rất dễ rách nát, bầm dập, bong lóc rộng khi bị chấn
thương trực tiếp. Nếu có gãy kín xương chày di lệch lớn thì sự di lệch của ổ
gãy và khối máu tụ có thể làm da phủ trên căng phồng, gây giảm và thậm chí
20
mất nuôi dưỡng, dẫn đến hoại tử diện da che phủ ổ gãy. Nếu bị khuyết da
hoặc gãy xương hở thì gây lộ xương, lộ ổ gãy xương. Với những KHPM lớn,
việc dịch chuyển tổ chức phần mềm kế cận để che phủ xương là khó khăn vì
dự trữ da ít và nuôi dưỡng kém.
+ Ở khu trước, ngoài và sau cẳng chân, có nhiều cơ che phủ xương
chày và lớp da phủ trên được nuôi dưỡng bởi mạng mạch phong phú. Do vậy,
ít gặp những khuyết hổng lộ xương ở những khu vực này và nếu có thì việc
điều trị cũng thuận lợi hơn so với ở mặt trước và trước trong cẳng chân. Đặc
biệt, đây còn là nơi cung cấp nhiều vạt tổ chức có cuống nuôi dạng mạch trục
(axial flap) như: cơ sinh đôi trong và sinh đôi ngoài với mạch nuôi tách từ
ĐM kheo [53],[102]; nửa trong cơ dép với mạch nuôi tách từ ĐM chày sau
[129], nửa ngoài cơ dép với mạch nuôi tách từ ĐM mác [118]; vạt da cân sau
bắp chân với mạch nuôi là ĐM thần kinh hiển [96]; vạt da cân bắp chân ngoài
(vạt mác) với mạch nuôi là nhánh xuyên sau của ĐM mác; vạt da cân bắp
chân trong (vạt chày) với mạch nuôi tách từ ĐM chày sau [5]; vạt da cân trên
mắt cá ngoài [5] với mạch nuôi là nhánh xuyên trước của ĐM mác. Gần đây,
nhiều tác giả đã phát hiện và ứng dụng lâm sàng vạt da cân vùng cẳng chân
được nuôi bởi mạch xuyên tách từ ĐM chày trước, ĐM chày sau, ĐM mác,
ĐM cơ sinh đôi [65],[72],[78],[108],[112],[130].
- Vùng bàn chân:
Ở trước cổ chân và mu chân, dưới lớp da mỏng và cân nông là gân cơ
chày trước, duỗi dài, duỗi ngắn ngón chân phủ trên các xương cổ chân và
xương đốt bàn chân. Động mạch mu chân là tiếp tục của ĐM chày trước đi
xuống bàn chân, nằm ngay trên xương cổ chân (hình 1.11 B).
Ở vùng đệm gót, lớp da và tổ chức dưới da dày, kém di động, có cấu
trúc đặc biệt để chịu sự tỳ nén của cơ thể. Ở gan bàn chân, lớp da và tổ chức
dưới da cũng dày, gần tương tự như vùng đệm gót. Cấp máu cho vùng gan
chân là cung ĐM gan chân (hình 1.11 C). Cảm giác da gan chân là TK gan
chân ngoài, gan chân trong tách từ TK chày sau tại ống gót.
Đặc điểm giải phẫu này liên quan tới tổn thương và điều trị như sau:
21
+ Vết thương vùng mu bàn chân thường có tổn thương gân, xương.
Trường hợp KHPM kèm theo gãy xương thì thường có ứ đọng dịch, viêm
xương trong khi nuôi dưỡng ở đây rất kém nên gặp khó khăn trong điều trị.
Vạt da cân mu chân với cuống nuôi là ĐM mu chân [100] có thể sử dụng ở
dạng cuống liền để che phủ KHPM vùng cổ chân hoặc 1/3D cẳng chân.
+ Da vùng đệm gót có cấu trúc đặc biệt mà không vị trí nào trên cơ thể có
lớp da với cấu trúc tương tự ngoại trừ da ở vùng gan bàn chân. Tổn thương hay
gặp ở gan bàn chân là loét đệm gót. Vì phần mềm ở đây khá dày nên ổ loét tuy
không rộng nhưng lại sâu nên việc điều trị gặp khó khăn vì cần có vạt tổ chức
dày để trám độn, che phủ và phải có cảm giác. Với tổn thương này, việc sử dụng
vạt gan chân trong cuống liền để điều trị khuyết hổng là ưu việt [68].
A B C
Hình 1.11. Giải phẫu mặt trước trong cẳng chân, mu chân và gan bàn chân
(Nguồn từ [13]).
1.2.2. Điều trị khuyết hổng ở vùng cẳng chân, bàn chân
1.2.2.1. Các phương pháp kinh điển
- Vạt có cuống ngẫu nhiên (pedicled random flap):
Đây là vạt da mỡ hoặc da cân, được nuôi bởi những mạch máu ngẫu
nhiên ở cuống vạt. Vạt được lấy với kích thước có tỷ lệ chiều dài/ chiều rộng
2/1. Dạng vạt này được chia thành 2 loại: vạt tại chỗ và từ xa.
22
Vạt tại chỗ ở vùng cẳng chân và bàn chân chỉ đáp ứng yêu cầu che phủ
những KHPM nhỏ. Vạt từ xa như trụ da Filatov hiện không còn áp dụng. Vạt da
chéo chân có chỉ định cho KHPM đơn thuần, nhưng hiện hiếm khi được áp dụng
vì phải phẫu thuật nhiều lần, bất động gò bó trong 3 tuần, viêm kéo dài ở chân
vạt, kích thước hạn chế, sẹo nơi lấy vạt kém thẩm mĩ...
- Vạt cơ chéo chân:
Cơ thường được sử dụng chéo chân là cơ sinh đôi trong, sinh đôi ngoài,
nửa trong cơ dép. Do có nhược điểm như vạt da chéo chân nêu trên nên hiện
nay vạt cơ chéo chân chỉ được sử dụng khi không có chỉ định dùng vạt cơ
cuống liền hoặc tự do. Khi đó, vạt cơ chéo chân lại là lựa chọn hợp lý, nhiều
trường hợp là biện pháp cứu cánh để bảo tồn chi thể khỏi bị cắt cụt. Một số
tác giả như Ingianni (1977) [71], Liu (2002) [88], Ladas (2009) [87] nhận xét
rằng: sử dụng cơ sinh đôi chéo chân là hiệu quả với khuyết hổng lộ gân,
xương, khớp cổ chân khi các vạt tại chỗ và vạt tự do không có chỉ định.
1.2.2.2. Vạt cuống liền (pedicled flap)
Trên thế giới, đã có nhiều nghiên cứu sử dụng vạt cuống liền trong điều
trị khuyết hổng ở vùng cẳng - bàn chân như:
- Năm 1946, Stark [125] báo cáo sử dụng cơ dép để trám khuyết hổng
xương (KHX) tại ổ gãy xương chày. Sau đó, có nhiều báo cáo về phẫu thuật này
như Mathes [98], Yajima [138] sử dụng cơ dép cuống cơ trung tâm để che phủ
KHPM 1/3G cẳng chân hoặc trám KHX trong điều trị viêm xương tủy xương
mạn tính ở xương chày. Trong những nghiên cứu này, tác giả đều sử dụng toàn
bộ hoặc một phần cơ dép. Nửa trong cơ dép hình đảo cuống ngoại vi cũng được
dùng để điều trị khuyết hổng 1/3D cẳng chân [52],[122],[131].
- Năm 1966, Ger [60] đã sử dụng cơ bụng chân cuống trung tâm để
trám KHX ở 1/3T xương chày do viêm xương tủy xương, KHPM gây lộ
xương chày, lộ khớp gối, lộ gân bánh chè bị dập nát và báo cáo kết quả vào
năm 1971. Trong báo cáo sử dụng 218 vạt cơ bụng chân cuống liền của
23
Daigeler [47], vạt cơ bụng chân ngoài ít được sử dụng hơn cơ bụng chân
trong vì đa số các khuyết hổng đều nằm ở mặt trước trong cẳng chân nên vạt
cơ bụng chân ngoài khó vươn tới tổn thương. Vạt cơ sinh đôi trong cuống
ngoại vi dựa trên mạch nối thông giữa cơ sinh đôi trong và sinh đôi ngoài
cũng được sử dụng để che phủ khuyết hổng vùng 1/3G cẳng chân [34],[120].
- Năm 1975, McGraw [100] mô tả giải phẫu và ứng dụng lâm sàng vạt
mu chân. Sau công bố của ông, vạt mu chân nhanh chóng được nhiều tác giả
khác như May [99], Ohmori [106], Robinson DW [119], ... sử dụng ở dạng
cuống liền hoặc tự do vì có ưu điểm là mỏng, có TK cảm giác, cuống mạch
hằng định và dài, đường kính mạch lớn. Tuy nhiên, sau nhiều nghiên cứu về
ưu, nhược điểm của những vạt da và vạt da cơ khác thì ngày nay chỉ định sử
dụng vạt mu chân dạng tự do được giới hạn trong trường hợp cần vạt da có
cảm giác để che phủ KHPM vùng bàn tay và khoang miệng, hoặc khi cần vạt
da kèm theo xương đốt bàn II để phục hồi phần mềm và xương đốt bàn tay,
phục hồi xương hàm dưới sau cắt bỏ khối ung thư [92],[94].
- Năm 1981, Harrisson [68] mô tả giải phẫu và kỹ thuật chuyển vạt gan
chân trong để điều trị KHPM vùng gót. Tiếp theo, nhiều tác giả báo cáo kết
quả sử dụng vạt này trong điều trị KHPM vùng đệm gót và có nhận xét là: vạt
có cảm giác, độ dày và cấu trúc tương tự như phần mềm ở diện tỳ đè của gót
chân mà không vị trí nào trên cơ thể có được, cuống mạch dài và tin cậy, có
thể lấy được vạt với kích thước tới 10 x 10 cm ở vùng vòm gan bàn chân,
nhưng có nhược điểm là khuyết nơi cho vạt được ghép da mỏng nên dễ bị trợt
loét khi tì đè vào vùng này nếu không được bảo vệ [31],[124]. Ngoài ra, vạt
còn được sử dụng ở dạng cuống ngoại vi để che phủ khuyết da ở nửa trước
gan bàn chân [29],[39] và gần đây là vạt dựa trên động mạch xuyên mà không
phải hy sinh động mạch gan chân trong [140].
- Năm 1988, Masquelet [95] mô tả giải phẫu và ứng dụng lâm sàng vạt
trên mắt cá ngoài. Sau đó, nhiều nghiên cứu khác cho thấy đây là vạt có mạch
24
nuôi tin cậy, cuống mạch dài (khoảng 8 cm) nên cung xoay rộng, là vạt da cân
mỏng nên thích hợp cho che phủ khuyết da vùng gân Achille, cổ chân, mu
chân và củ gót [50],[66],[111],[132]. Tuy nhiên, nhược điểm của vạt là không
có cảm giác và mỏng nên không thích hợp cho che phủ khuyết da vùng tỳ đè
ở gót chân và những ổ khuyết xương [50],[66],[95],[111],[132].
- Năm 1992, Masquelet [96] mô tả giải phẫu và ứng dụng lâm sàng vạt
hiển cuống ngoại vi. Sau đó, có nhiều nghiên cứu sâu thêm về giải phẫu và
một số cải tiến trong ứng dụng lâm sàng nên vạt được sử dụng khá phổ biến
để che phủ KHPM vùng 1/3D cẳng - bàn chân [36],[55],[73],[133].
- Vạt da cân dựa trên mạch xuyên vùng cẳng chân: Năm 1981, Ponten
[113] báo cáo kết quả sử dụng 23 vạt da ở khu vực cẳng chân được lấy hết lớp
cân sâu theo tỷ lệ dài /rộng là 2,5/1. Như vậy, kích thước chiều dài lớn hơn so
với vạt da ngẫu nhiên mặc dù không dựa vào trục mạch. Kết quả là: 20 vạt
sống, 3 vạt bị hoại tử. Với thành công này, tác giả gọi đó là siêu vạt
“superflaps”. Thành công của Ponten thôi thúc nhiều tác giả khác nghiên cứu
sâu thêm về cấp máu cho da như công trình của Cormack và Lamberty [45]...
Ở khu vực cẳng - bàn chân, nhiều vạt mạch xuyên được phát hiện và ứng dụng
lâm sàng ở dạng cuống liền nên đã tạo bước phát triển mới trong điều trị
KHPM ở khu vực này [59],[136].
Ở Việt Nam, việc sử dụng vạt cuống liền trong điều trị khuyết hổng ở
cẳng - bàn chân được thực hiện từ những năm 1990. Đã có nhiều nghiên cứu
về giải phẫu và ứng dụng lâm sàng vạt cuống liền ở khu vực này, góp nhiều
kinh nghiệm quý như công trình của Nguyễn Tiến Lý (1996) [12], Nguyễn
Tiến Bình (1997) [1], Vũ Nhất Định (2004) [5], Nguyễn Văn Đại (2007) [3],
Mai Trọng Tường (2011) [27], Vũ Hữu Dũng (2011) [2] và nhiều tác giả khác
[7],[15],[17],[19]...
Tóm lại, trong điều trị khuyết hổng vùng cẳng chân - bàn chân, các
phương pháp điều trị kinh điển hiện rất ít được áp dụng. Từ những năm 1970,
25
nhiều vạt tổ chức ở khu vực này được sử dụng nhưng cơ sinh đôi, nửa trong cơ
dép, vạt hiển cuống ngoại vi, vạt trên mắt cá ngoài, vạt mu chân, vạt gan chân
trong với cuống nuôi dạng mạch trục và gần đây là vạt da cân với cuống nuôi là
mạch xuyên ở vùng cẳng chân được sử dụng phổ biến. Nhiều nghiên cứu nhận
xét rằng: vạt cuống mạch liền có độ tin cậy cao; đáp ứng yêu cầu điều trị hầu
hết các trường hợp khuyết hổng ở vùng cẳng - bàn chân; phẫu thuật không quá
phức tạp nhưng khắc phục được những nhược điểm căn bản của các phương
pháp kinh điển... Ở Việt Nam, việc sử dụng vạt mạch trục cuống liền được áp
dụng từ những năm 1990. Từ những năm cuối 2010, đã nghiên cứu sử dụng vạt
da cân dựa trên mạch xuyên với kết quả bước đầu rất khích lệ.
1.2.2.3. Chuyển vạt tự do
Năm 1973, Daniel và Taylor [48] thực hiện thành công chuyển vạt bẹn để
điều trị KHPM ở cẳng chân, đánh dấu thời kỳ phát triển mới của phẫu thuật phục
hồi, đó là chuyển những vạt tổ chức khác nhau ở dạng tự do như da, cơ, xương
và phức hợp của những tổ chức này, với nhiều nơi cho vạt khác nhau.
Trong chuyên ngành Chấn thương Chỉnh hình, những khuyết hổng ở
vùng cẳng - bàn chân chiếm tỷ lệ lớn và cũng đòi hỏi sử dụng vạt tự do nhiều
hơn những khu vực khác. Từ những năm 1980, nhiều tác giả công bố kết quả
chuyển vạt tự do trong điều trị những khuyết hổng ở chi dưới với số lượng
lớn và có những nhận xét khoa học với độ tin cậy cao. Năm 1989, Khouri
[81] báo cáo kết quả sử dụng 304 vạt tự do để điều trị khuyết hổng ở chi dưới
trong 10 năm. Trong nghiên cứu này, 91% các khuyết hổng là do tai nạn giao
thông và hầu hết đều ở vùng 1/3D cẳng chân (73%), những gãy xương kèm
theo đều là độ IIIC theo phân loại của Gustilo. Vạt được sử dụng đa số là cơ
lưng to, cơ thẳng bụng và vạt da cân bả vai (chiếm 77% số vạt). Kết quả vạt
sống là 92%, thất bại là 8%. Với kết quả đạt được, tác giả nhận xét rằng
chuyển vạt tự do đã sớm làm liền tổn thương và sớm phục hồi chức năng, cứu
nhiều chi thể khỏi cắt cụt, tạo hình mỏm cụt để lắp chi giả tốt hơn và đạt thẩm
26
mỹ hơn so với các phương pháp khác. Ngoài ra, nhiều nghiên cứu khác về
chuyển vạt tự do như: chỉ định, lựa chọn vạt, lựa chọn mạch nhận, dự phòng
và xử trí biến chứng tắc mạch, ảnh hưởng ở nơi cho vạt... cũng đã được thực
hiện [38],[41],[54],[79],[82] ...
Ở Việt Nam, chuyển vạt tự do được Nguyễn Huy Phan thực hiện thành
công vào năm 1980, đó là trường hợp chuyển vạt bẹn để che phủ KHPM vùng
mặt. Sau đó, ông thành công trong chuyển nhiều vạt tổ chức khác nhau trong
điều khuyết hổng thuộc chuyên ngành Phẫu thuật Tạo hình, Chấn thương
Chỉnh hình [18], đánh dấu bước phát triển mới trong phẫu thuật phục hồi ở
nước ta. Từ những năm 1990, có nhiều nghiên cứu về chuyển vạt tự do trong
điều trị khuyết hổng ở cơ quan vận động, bao gồm KHPM, KHX, khuyết
hổng phức hợp phần mềm - xương (KHPH) và chủ yếu tập trung ở vùng cẳng
chân, bàn chân với nhiều loại vạt khác nhau được sử dụng, ví dụ:
Năm 2001, Võ Văn Châu và cộng sự báo cáo kết quả tạo hình phủ
KHPM có kèm theo gãy xương chày cho 40 BN với 28 vạt cuống mạch liền
(10 vạt cơ sinh đôi, 7 vạt hiển cùng chân, 9 vạt hiển chéo chân, 2 vạt da mu
chân) và 12 vạt tự do gồm: 5 vạt bả vai, 4 vạt da cơ lưng to và 3 vạt da cơ
thẳng bụng; kết quả chuyển vạt tự do là 12 vạt đều sống, có 1 vạt cơ thẳng
bụng bị hoại tử một phần. Với kết quả này, tác giả kết luận rằng chuyển vạt tự
do có nhiều ưu điểm vượt trội so với ghép da kinh điển, vạt tại chỗ hoặc căng
giãn da (trích dẫn theo Lê Văn Đoàn [6]).
Năm 2009, Nguyễn Việt Tiến và cộng sự [23] báo cáo tổng kết 20 năm
ứng dụng vi phẫu thuật trong Chấn thương Chỉnh hình tại Bệnh viện TƯQĐ
108. Trong báo cáo này, nhóm tác giả đã thực hiện chuyển 391 vạt tự do với
13 nơi cho khác nhau để điều trị những khuyết hổng thuộc cơ quan vận động,
kết quả như sau: tỷ lệ vạt sống là 96,42% (377/391), hoại tử là 3,58%
(14/391). Thành công trong chuyển vạt phần mềm là 96,5% (303/314),
chuyển vạt xương là 96,1% (74/77 vạt). Tỷ lệ thành công giữa các vạt không
27
khác biệt (p> 0,05). Tác giả nhận xét rằng : Chuyển vạt tự do trong điều trị
những khuyết hổng phức tạp thuộc cơ quan vận động là phương pháp phục
hồi hiện đại, khắc phục được những nhược điểm căn bản của các phương
pháp kinh điển hoặc sử dụng vạt cuống mạch liền.
Đặc biệt, có một số đề tài nghiên cứu sâu về giải phẫu và ứng dụng lâm
sàng một vạt cụ thể hoặc điều trị một dạng tổn thương tại một vị trí cụ thể
như: Nghiên cứu giải phẫu và ứng dụng lâm sàng vạt xương mác của Nguyễn
Việt Tiến (1995) [21], nghiên cứu giải phẫu và ứng dụng lâm sàng vạt cơ
lưng to của Lê Văn Đoàn (2003) [6], che phủ và phục hồi chức năng bàn
chân mất mô mềm vùng gót của Đỗ Phước Hùng (2004) [10], nghiên cứu
giải phẫu và ứng dụng lâm sàng vạt bả vai và bên bả của Lê Hồng Hải (2005)
[8]... Hiện nay, chuyển vạt tự do trong điều trị khuyết hổng ở cơ quan vận
động được thực hiện tại nhiều bệnh viện trong cả nước, góp phần quan
trọng nâng cao chất lượng điều trị loại tổn thương này ở nước ta [14],[16].
1.2.2.4. Liệu pháp chân không
Liệu pháp chân không hay còn gọi là liệu pháp VAC (vacuum assisted
closure therapy) được Argenta và Morykwas nghiên cứu và ứng dụng lâm
sàng từ 1989 [30]. Liệu pháp này được chỉ định trong điều trị vết thương cấp
tính, bán cấp hoặc mạn tính do nhiều nguyên nhân. Đã có nhiều báo cáo về
kết quả sử dụng liệu pháp này trong điều trị KHPM có lộ gân, xương ở khu
vực cẳng chân với mục đích làm liền tổn thương hoặc chuẩn bị cho những tạo
hình cơ bản tiếp theo [49],[64],[69],[110],[139]…
Ở Việt Nam, liệu pháp chân không được triển khai từ năm 2006. Đã có
một số báo cáo về hiệu quả của liệu pháp này trong điều trị vết thương hoặc
khuyết hổng tổ chức ở cơ quan vận động [4],[11],[24],[26]. Trong những
bệnh nhân minh họa của Nguyễn Việt Tiến [26], có nhiều trường hợp KHPM
lớn, phức tạp ở vùng cẳng chân gây lộ gân Achille, lộ ổ gãy xương chày
nhưng được làm liền bằng liệu pháp VAC mà không phải tạo hình bằng vạt tổ
28
chức với ảnh minh họa rất thuyết phục. Đây là phương pháp điều trị mới, hiệu
quả cao, đang được áp dụng khá phổ biến ở nước ta.
1.3. Sử dụng vạt cơ, da cơ thon điều trị khuyết hổng ở cẳng chân, bàn chân
1.3.1. Điều trị khuyết hổng ở cẳng chân
Khi cần sử dụng vạt cơ hoặc da cơ để điều trị khuyết hổng lớn ở vùng
cẳng chân, một số tác giả như Beris [37], Gao [57], Kaplan [79], Khouri [81],
Melissinos [103]... lựa chọn vạt cơ, da cơ lưng to hoặc cơ thẳng bụng vì có
kích thước lớn, cuống mạch dài, kích thước mạch lớn và hằng định, nơi cho
vạt ít bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, với khuyết hổng không quá lớn ở vùng này,
khi cần vạt cơ thì một số tác giả khác ưu tiên lựa chọn vạt cơ, da cơ thon vì có
ưu điểm là: dễ bóc tách, cuống mạch dài và tin cậy, nơi cho vạt không bị ảnh
hưởng đáng kể, có thể làm rộng bề ngang của vạt bằng cách cắt bao cơ. Điều
này đã được một số tác giả chứng minh, cụ thể là:
Nghiên cứu của Holle [70] ở 10 xác tươi cho thấy: khi lấy bỏ bao cơ
thon thì có thể làm chiều rộng của cơ tăng gấp 2 lần. Điều này cho phép sử
dụng cơ thon để che phủ những KHPM lớn tới 300 cm2. Trong lâm sàng, tác
giả đã điều trị cho 27 BN có KHPM lớn ở 1/3D cẳng chân gây bộc lộ xương
chày bằng cơ thon được cắt bao cơ để trải rộng che phủ khuyết hổng, đồng thời
ghép da xẻ đôi che phủ cơ, tất cả đều thành công - vết thương liền vững chắc,
vạt không to xù nên có tính thẩm mĩ cao, không để lại di chứng đáng kể tại nơi
cho vạt. Với kết quả này, tác giả cho rằng cơ thon được cân nhắc đầu tiên khi
lựa chọn vạt cơ để điều trị KHPM gây lộ xương vùng cẳng chân.
Zukowski [141] có báo cáo về vị trí của cơ thon trong việc lựa chọn vạt
cơ để điều trị khuyết hổng vùng 1/3D cẳng chân và cổ chân do chấn thương.
Trong 7 năm (1988 - 1995), tác giả điều trị cho 25 BN có khuyết hổng vùng
1/3 dưới cẳng chân - bàn chân với 26 vạt cơ thon được sử dụng. Kích thước
khuyết hổng từ 3 x 3 cm (9 cm2) đến 13 x 18 cm (234 cm2), trung bình là 75,5
cm2. Kết quả cho thấy: 26 vạt đều sống (100%) và tất cả các khuyết hổng liền
ổn định. Theo tác giả, chuyển cơ thon tự do là lựa chọn đầu tiên trong điều trị
29
khuyết hổng do chấn thương ở chi thể, đạt kết quả tốt về phục hồi chức năng
và thẩm mĩ. Khi cần che phủ khuyết hổng rộng thì cắt bao cơ để trải rộng vạt.
Trong báo cáo của Vranckx (2004) [136], có 60 cơ thon được sử dụng
để điều trị khuyết hổng ở 1/3D cẳng chân, tổn thương gồm có KHPM kèm
theo gãy hở xương chày độ IIIB theo phân loại của Gustilo và những KHX
sau lấy xương chết do viêm xương tủy xương mạn tính ở xương chày. Với
trường hợp khuyết hổng có bề mặt rộng, tác giả cắt bao cơ để tách vạt đủ rộng
theo yêu cầu che phủ. Kết quả theo dõi 59/60 vạt cơ thon trong thời gian ít
nhất là 3 năm cho thấy tất cả 59 trường hợp đều làm liền khuyết hổng ổn
định. Với kết quả đó, tác giả nhận xét rằng: Vạt cơ thon đủ để che phủ KHPM
lớn hình thang hoặc hình trụ dài; trong điều trị gãy hở xương chày độ IIIB với
KHPM lớn hoặc trung bình và KHX sau lấy xương chết do viêm xương tủy
xương mạn tính ở xương chày thì cơ thon là một lựa chọn lý tưởng; kết quả
tốt về chức năng, thẩm mĩ ở nơi nhận và không để lại di chứng đáng kể ở nơi
cho so với những vạt khác là những ưu điểm tuyệt vời của vạt cơ thon. Từ kết
quả này, tác giả cho rằng cơ thon là một vạt thanh nhã, duyên dáng "graceful"
trong phẫu thuật phục hồi ở 1/3D cẳng chân.
Một nghiên cứu khác về sử dụng cơ thon trong điều trị khuyết hổng
phức tạp ở chi dưới cũng được Redett [116] báo cáo vào năm 2000. Trong 7
năm (1991-1998), tác giả điều trị cho 50 BN có khuyết hổng do chấn thương
ở vùng thấp của chi dưới bằng vạt cơ thon tự do. Có 22 BN bị KHPM kèm
theo gãy xương hở. Trong đó, 90% số BN bị gãy hở độ IIIB và 9% độ IIIC
theo phân loại của Gustilo. Kích thước KHPM trung bình là 92,2 cm2. Tỷ lệ
cứu chi thành công là 95%. Có 28 BN bị gãy 2 xương cẳng chân với viêm
xương tủy xương hoặc nhiễm khuẩn sâu, tỷ lệ chuyển cơ thon thành công ở
nhóm này là 93% (26/28 BN); trong số 2 BN chuyển cơ thon bị thất bại, có 1
BN được điều trị hết nhiễm khuẩn nên tỷ lệ cứu chi thành công ở nhóm này là
96% (27/28 BN). Tác giả kết luận rằng: sử dụng cơ thon trong phẫu thuật
30
phục hồi điều trị vết thương cấp tính và mạn tính ở vùng thấp của chi dưới là
tin cậy với tỷ lệ thành công cao khi so sánh với những nghiên cứu khác.
1.3.2. Điều trị khuyết hổng vùng bàn chân
Theo Tamura [128], điều trị KHPM vùng đệm gót chân là khó khăn,
nhất là những trường hợp khuyết hổng rộng. Tác giả nhất trí rằng vạt gan
chân trong là lý tưởng để che phủ KHPM vùng đệm gót vì có độ dày tương tự
và có TK cảm giác, nhưng có nhược điểm là hạn chế về kích thước nên không
đủ để che phủ khuyết hổng lớn ở vùng này. Trên lâm sàng, tác giả đã tạo hình
phủ cho 3 trường hợp có KHPM lớn vùng đệm gót và gan bàn chân sau cắt bỏ
rộng khối u da ác tính bằng vạt da cơ thon, tất cả đều thành công. Theo dõi
sau mổ 1,8 năm, cả 3 BN đều không bị loét vạt. Với kết quả này, tác giả nhận
xét rằng vạt da cơ thon nên được lựa chọn trong phẫu thuật phục hồi điều trị
KHPM rộng vùng đệm gót và gan bàn chân sau cắt ung thư da.
Về sử dụng cơ thon trong điều trị khuyết hổng vùng gót, Jeong [75] có
báo cáo với kết quả được nhiều phẫu thuật viên quan tâm. Trong 4 năm (1994
- 1997), tác giả điều trị cho 7 BN bị khuyết hổng vùng gót bằng chuyển cơ
thon có ghép da xẻ đôi che phủ cơ, gồm: 5 khuyết hổng vùng bờ gót và 2
khuyết hổng toàn bộ gót. Nguyên nhân gây khuyết hổng là: 1 do carcinoma
sẹo loét trên BN đã cắt cụt cẳng chân bên đối diện, 5 do chấn thương và 1 do
viêm xương tủy xương. Kết quả là: tất cả 7 vạt đều sống hoàn toàn, nơi cho
liền kỳ đầu. Theo dõi kết quả từ 12 - 38 tháng cho thấy: trong thời gian đầu
sau mổ thì cơ to hơn khuyết hổng nhưng sau 2 tháng thì thoái hóa nhanh và
sau 3 tháng thì vừa với khuyết hổng, đạt yêu cầu về thầm mĩ. Bệnh nhân bắt
đầu tỳ nén vào tuần thứ 4 sau mổ, 6/7 BN có thể đi bộ mà không cần dùng
giày đặc biệt. Vì vạt không có cảm giác nên BN được hướng dẫn cách bảo vệ
vạt, do vậy tất cả tổn thương đều liền ổn định và vạt không bị trợt loét. Qua
nghiên cứu này, Jeong nhận xét rằng: vạt cơ thon có ưu điểm là dễ bóc tách,
sau khi thoái hóa thì khối lượng cơ phù hợp với khuyết hổng; nếu khuyết
31
hổng giới hạn ở phần mềm thì hiếm khi cần dùng giày đặc biệt, nơi cho không
bị ảnh hưởng về chức năng và thẩm mĩ, cuống mạch cơ thon dài nên linh hoạt
cho vùng gót, bề rộng và chiều dài của cơ đáp ứng mọi dạng khuyết hổng
vùng này, da ghép che phủ cơ chịu được lực kéo trượt tốt hơn vạt da cơ. Tuy
nhiên, nhược điểm của vạt cơ thon trong trường hợp này là: không có cảm
giác nên có thể loét thứ phát, không áp dụng cho khuyết hổng lớn hơn vùng
gót, độ bền chắc của da ghép là vấn đề cần quan tâm.
Trong điều trị gãy xương gót phức tạp, Koski [86] sử dụng vạt tự do và
vạt cuống liền để phục hồi phần mềm. Trong nghiên cứu của tác giả, có 35
vạt được sử dụng để che phủ xương gót bị bộc lộ ở 31 BN. Tất cả BN đều có
gãy xương gót phức tạp. Trong đó, 19/31 BN có gãy hở kèm theo KHPM
ngay sau chấn thương, 12/31 BN gãy xương kín nhưng có KHPM thứ phát do
biến chứng sau phẫu thuật xử trí gãy xương. Trong số 35 vạt được sử dụng,
có 21 vạt tự do (11 cơ thon, 3 cơ thẳng bụng, 2 cơ lưng to và 5 vạt da cân đùi
trước ngoài), 14 vạt cuống mạch liền (8 vạt hiển, 3 vạt cơ tại chỗ và 3 vạt da
xoay tại chỗ). Kết quả cho thấy: 1 vạt hiển bị hoại tử được thay thế bằng cơ
lưng to - kết quả là thành công, hoại tử mép vạt có yêu cầu phẫu thuật bổ sung
ở 3 BN, nhiễm khuẩn sâu ở 2 BN và chậm liền vết thương ở 4 BN khác. Với
thời gian theo dõi trung bình 14 tháng (3 tháng - 4 năm), tổn thương liền ổn
định ở tất cả 31 BN và không có dấu hiệu của viêm xương gót. Theo tác giả,
với những trường hợp được chuyển vạt tự do trong nghiên cứu này thì tổn
thương liền nhanh nhất. Kết quả xa cho thấy, cơ thon được ghép da đạt kết
quả che phủ và thẩm mỹ tốt, vạt hiển cũng tin cậy.
Năm 2001, Loréa [89] báo cáo kết quả chuyển cơ thon để điều trị viêm
xương tủy xương mạn tính ở cổ chân và bàn chân. Trong 7 năm, có 12 BN
tuổi từ 9 - 71 bị viêm xương tủy xương ở cổ chân, bàn chân được trám KHX
sau lấy xương chết bằng cơ thon. Kết quả là: tất cả 12 cơ đều sống, nhưng có
2 BN bị viêm rò kéo dài do cắt bỏ xương chết không thỏa đáng nên dù đã cố
32
gắng điều trị nhưng cuối cùng phải cắt cụt; không có BN nào phàn nàn về ảnh
hưởng ở nơi cho vạt. Với kết quả này, tác giả cho rằng vạt cơ thon là tin cậy
vì được cấp máu tốt, dễ bóc tách và cơ thon là lựa chọn đầu tiên của tác giả
trong điều trị viêm xương tủy xương ở cổ chân, bàn chân.
Ghods [62] có báo cáo điều trị thành công viêm xương gót phức tạp
bằng phẫu thuật lấy xương chết và dùng cơ thon trám KHX. Từ tháng 2 -
9/2009, tác giả điều trị cho 3 BN bị viêm xương tủy xương gót mạn tính dai
dẳng. Tất cả 3 BN đều bị rò mủ kéo dài, tối thiểu là 6 tháng và tối đa là 23
năm. Bệnh nhân được phẫu thuật lấy bỏ xương chết và sử dụng liệu pháp
VAC nhiều lần nhưng nhiễm khuẩn vẫn tồn tại. Với cả 3 BN này, tác giả lấy
bỏ toàn bộ xương xốp, chỉ giữ lại thành xương cứng. Sau đó, KHX trong
xương gót được trám đầy bằng cơ thon và ghép da xẻ đôi che phủ cơ, dùng
kháng sinh trong 2 tuần. Kết quả là: tất cả đều liền ổn định, BN đi lại bình
thường. Kết quả cuối cùng cho thấy không có dấu hiệu viêm xương gót cả
trên lâm sàng, xét nghiệm huyết học và hình ảnh X.quang. Với kết quả này,
tác giả nhận xét rằng: đối với viêm rò xương gót dai dẳng, cần lấy bỏ toàn bộ
xương xốp chết và cả xương xốp lành để loại bỏ nhiễm khuẩn và nguy cơ
nhiễm khuẩn. Khuyết hổng xương sau đó phải được trám đầy bằng cơ và cơ
thích hợp nhất cho những trường hợp này là cơ thon vì có kích thước phù hợp
- đây là chìa để điều trị thành công viêm rò xương gót dai dẳng.
Những nghiên cứu trên cho thấy, cơ thon được nhiều tác giả sử dụng để
che phủ ổ gãy xương gót, trám ổ khuyết sau lấy toàn bộ xương xốp để điều trị
viêm rò xương gót mạn tính, tạo hình KHPM rộng ở đệm gót và gan bàn chân
khi vạt gan chân trong không đáp ứng yêu cầu về kích thước.
1.3.3. Biến chứng và di chứng tại nơi cho vạt cơ, da cơ thon
Ngoài nhận xét về ảnh hưởng tại nơi cho vạt cơ, da cơ thon trong
nghiên cứu của Holle [70], Jeong [75], Loréa [89], Vranckx [135]... cho rằng
33
việc lấy cơ thon không để lại di chứng đáng kể tại nơi cho, một số nghiên cứu
chuyên sâu về vấn đề này cho thấy những kết quả cụ thể hơn, ví dụ:
Năm 1995, Carr [40] báo cáo kết quả nghiên cứu về biến chứng ở nơi
cho cơ thon ở 104 BN. Biến chứng trong thời gian nằm viện gặp ở 10 BN,
gồm có: đau nặng (4 BN), nhiễm khuẩn (3 BN), chảy máu (2 BN), liệt TK
tạm thời (1 BN). Theo dõi lâu dài cho thấy: những vấn đề liên quan đến sẹo
như ngứa, bạc màu, dãn rộng, giảm cảm giác gặp ở gần 50% các trường hợp;
ngoài ra, liên quan đến sẹo còn có đau, phì đại. Những vấn đề liên quan đến
sẹo khác nhau có ý nghĩa giữa nhóm BN trẻ em và người lớn. Biến chứng ảnh
hưởng tới chức năng vận động của chi gặp ở 26% số BN, có 15% số BN (đều
là nam) có yếu tạm thời trong 6 tháng, 6% số BN có yếu kéo dài khi chạy, đi
bộ hoặc tham gia thể thao. Theo ông, việc phẫu tích lấy vạt cơ thon bằng nội
soi như hiện nay đã giảm độ dài của sẹo xuống 50% nên những vấn đề liên
quan đến sẹo như nêu trên cũng giảm theo.
Một nghiên cứu khác của Deutinger [51] về biến chứng tại nơi cho cơ
thon ở 42 BN cũng cho thấy: bằng dụng cụ đo, thấy lực khép khớp háng giảm
11% so với bên lành nhưng BN không cảm nhận thấy sự giảm này. Cảm giác
đau ở vùng TK bịt chi phối gặp ở 40,5% số BN. Ngoài ra, một số BN không
hài lòng với sẹo thiếu thẩm mĩ vùng mặt trong đùi. Với kết quả này, tác giả
cho rằng ảnh hưởng tới chức năng vận động của chi sau lấy cơ thon là không
đáng kể.
Về ảnh hưởng tại nơi cho sau khi lấy vạt da cơ thon, cũng đã có nhiều
nghiên cứu về vấn đề này, cụ thể như sau:
Trong nghiên cứu của Pülzl (2011) [114] ở 22 BN được lấy vạt da cơ
thon (vạt da được lấy theo chiều ngang cơ thon) ở 2 bên đùi để tạo hình 2 vú,
kết quả ở nơi cho vạt tại thời điểm 10 tháng sau mổ cho thấy: Tất cả BN đều
hài lòng với sẹo ở vùng nếp bẹn. Liên quan đến tính đối xứng hai bên đùi,
42% số BN có kết quả rất tốt, 40% có kết quả tốt và 18% kết quả xấu. Liên
34
quan đến sẹo, 24% số BN có kết quả rất tốt, 46% có kết quả tốt và 30% kết
quả khá. Liên quan đến hình dáng của đùi, 26% số BN đạt mức rất tốt, 52%
đạt mức tốt và 22% đạt mức khá. Tác giả nhận xét rằng, vùng đùi trong cho
phép lấy một khối tổ chức trung bình, thậm chí ở cả người gày, sẹo sau mổ rất
kín đáo. Vạt da cơ thon với vạt da được lấy theo chiều ngang là an toàn, nơi
cho bị ảnh hưởng không đáng kể. Báo cáo của Barbara [32] năm 2014 cũng
có nhận xét tương tự. Trong nghiên cứu này, 49 vạt da cơ thon (vạt da được
lấy theo chiều ngang) được dùng để phục hồi vú ở 36 BN. Biến chứng tại nơi
cho vạt gặp ở 59% số BN, chủ yếu là toác vết mổ và nhiễm khuẩn. Tuy nhiên,
khi lấy vạt da với kích thước nhỏ hơn ở 16 BN sau cùng thì những biến chứng
này giảm có ý nghĩa (p < 0,001). Theo dõi trên 6 tháng ở 22 BN thấy hầu hết
đều hài lòng với kết quả ở nơi cho và nhận.
1.3.4. Những yếu tố liên quan đến kết quả chuyển cơ, da cơ thon tự do
Đã có nhiều nghiên cứu tìm hiểu những yếu tố liên quan đến kết quả
chuyển vạt tự do (trong đó có cơ, da cơ thon) để từ đó đưa ra tiên lượng và
hướng xử trí đối với những yếu tố ảnh hưởng xấu tới kết quả… Qua tham
khảo tài liệu, chúng tôi tóm tắt những yếu tố này thành 2 nhóm như sau:
- Những yếu tố thuộc về BN: Nhiều nghiên cứu cho thấy, tuổi không
phải là yếu tố nguy cơ độc lập đối với chuyển vạt tự do ngoại trừ những
trường hợp có bệnh lý mạch máu ở nơi nhận vạt. Tình trạng thể chất và thời
gian phẫu thuật kéo dài là những yếu tố ảnh hưởng tới biến chứng nội khoa
sau mổ [46],[91],[121]. So với BN không hút thuốc lá, những BN nghiện
thuốc (hút ≥ 20 điếu/ngày) thì vết thương chậm liền hơn vì nồng độ
hydroxyproline giảm có ý nghĩa (p = 0,03) (hydroxyproline là một loại acid
amin cần thiết trong việc tạo nên collagen, đây là thành phần quan trọng làm
liền vết thương) [74],[76],[117] nên những BN nghiện thuốc lá dừng hút
thuốc trước mổ 6 - 8 tuần thì sẽ giảm tỷ lệ biến chứng sau mổ [105]. So với
BN cân nặng bình thường, những BN béo phì có tỷ lệ biến chứng tại vạt cao (p
35
= 0,001), tỷ lệ mất vạt cao (p= 0,001), vạt phù nề (p = 0,004), tỷ lệ nhiễm
khuẩn cao (p = 0,016), đọng dịch tại vùng mổ cao (p< 0,001) [42], nhiều
nghiên cứu khác cũng cho kết quả tương tự [56],[58]. So với BN không tiểu
đường, những BN tiểu đường gặp tỷ lệ thất bại cao cả về vạt sống cũng như
làm liền tổn thương, thời gian liền khuyết hổng lâu hơn [33],[43],[84],[115].
- Những yếu tố thuộc về phẫu thuật viên: Loại vạt và nơi cho vạt được
lựa chọn không ảnh hưởng xấu đến kết quả chuyển vạt [85],[103]. Về ghép
mạch: nhiều nghiên cứu cho thấy ghép mạch làm tăng tỷ lệ thất bại
[81],[127], nhưng nghiên cứu khác nhận thấy ghép mạch không ảnh hưởng
đến thất bại chuyển vạt [61].
Ngoài ra, một số nghiên cứu khác cũng được quan tâm, ví dụ: Năm
1998, Khouri [83] tập hợp và phân tích số liệu chuyển vạt tự do của 23 tác giả
mà họ thực hiện trong 6 tháng để tìm hiểu những yếu tố liên quan tới kết quả.
Kết quả cho thấy: Nhóm vùng nhận đã được chiếu tia xạ có tỷ lệ thất bại cao
hơn so với không chiếu tia xạ (p = 0,01). Biến chứng tắc mạch tăng có ý
nghĩa khi chuyển vạt điều trị vết thương mạn tính (p = 0,02). Tỷ lệ máu tụ và/
hoặc chảy máu tăng ở BN béo phì và ở những trường hợp phải ghép mạch.
Những yếu tố khác cũng ảnh hưởng có ý nghĩa tới kết quả chuyển vạt như:
nơi nhận (đầu/ cổ, ngực, chi dưới...), nguyên nhân gây tổn thương (chấn
thương, ung thư...), người nghiện thuốc lá, tiểu đường, kỹ thuật nối động
mạch tận - tận hoặc tận - bên, tưới rửa mạch bằng dung dịch có hoặc không
có pha heparine, phổ kháng khuẩn của liệu pháp kháng sinh. Theo Khouri,
nhiều vấn đề liên quan tới kết quả cần được nghiên cứu tiếp.
1.3.5. Nghiên cứu sử dụng vạt cơ, da cơ thon trong điều trị khuyết hổng ở
chi thể tại Việt Nam
Ở Việt Nam, vạt cơ và da cơ thon được nghiên cứu sử dụng trong phẫu
thuật phục hồi ở chi thể từ những năm đầu thập niên 1990 [22]. Năm 2011,
Nguyễn Việt Tiến [25] báo cáo kết quả chuyển 471 vạt tự do với 14 loại
36
vạt khác nhau trong điều trị khuyết hổng ở chi thể với tỷ lệ vạt sống là
96,2% (453/471 vạt). Trong đó, có 90 vạt cơ và da cơ thon với tỷ lệ thành
công như sau: vạt sống hoàn toàn là 93,3% (84/90), hoại tử một phần là 1,1%
(1/90), hoại tử toàn bộ là 5,6% (5/90). Trong báo cáo này, tác giả không nêu
rõ là điều trị khuyết hổng ở vùng nào của chi thể. Năm 2010, Phạm Đăng
Nhật [16] báo cáo chuyển cơ thon chức năng để điều trị khuyết hổng cơ ở khu
trước cẳng tay ở 1 BN, kết quả là khả quan.
Tóm lại, qua tổng quan tình hình hiện nay về điều trị khuyết hổng ở
vùng cẳng chân - bàn chân, chúng tôi có một số nhận xét sau:
- Chuyển vạt tự do thường là lựa chọn sau cùng, khi không có chỉ định
sử dụng vạt cuống liền. Khi cần một vạt cơ, đa số cho rằng cơ lưng to và cơ
thẳng bụng được dùng cho những khuyết hổng lớn, cơ thon cho những khuyết
hổng trung bình và nhỏ. Tuy nhiên, một số tác giả khác cho rằng cơ thon nên
được cân nhắc lựa chọn đầu tiên trong điều trị khuyết hổng ở vùng cẳng chân
và bàn chân vì có thể làm rộng vạt gấp đôi sau khi cắt bỏ bao cơ nhằm khai
thác những ưu điểm cơ bản của vạt này là: dễ bóc tách, không để lại di chứng
đáng kể tại nơi cho vạt.
- Ở Việt Nam, hiện chưa có công trình nào nghiên cứu sử dụng vạt cơ
và da cơ thon trong điều trị khuyết hổng ở vùng cẳng chân - bàn chân một
cách căn bản. Nhận xét này cùng với tóm tắt tổng quan về nghiên cứu giải
phẫu cơ thon là lý do để chúng tôi thực hiện đề tài này với 2 mục tiêu như đã
nêu trong phần đặt vấn đề.
37
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
2.1.1. Nghiên cứu giải phẫu
40 đùi của 20 xác người Việt trưởng thành, gồm 13 xác bảo quản
trong formalin và 7 xác tươi được bảo quản lạnh sâu, để rã đông trước khi phẫu
tích 24 giờ. Nghiên cứu được thực hiện tại Bộ môn Giải phẫu, Trường Đại học
Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh.
- Tiêu chuẩn lựa chọn: Xác người Việt trưởng thành (>18 tuổi). Không
có bệnh lý hoặc tổn thương ở cơ, mạch máu, TK vùng đùi. Không có can thiệp
ngoại khoa hoặc phẫu tích giải phẫu tại vùng đùi.
- Tiêu chuẩn loại trừ: Không đạt những tiêu chí như lựa chọn.
- Nội dung nghiên cứu: Đặc điểm giải phẫu cuống mạch chính (nguyên ủy
ĐM, vị trí đi vào cơ cách dưới củ mu, thành phần, chiều dài, đường kính của
ĐM và TM). Số lượng, vị trí ĐM xuyên cấp máu cho da tách từ cuống ĐM
chính. Phạm vi cấp máu cho da của cuống ĐM chính. Số lượng, nguyên ủy, vị trí
vào cơ của cuống mạch phụ. Nguyên ủy, đường đi của TK chi phối cơ thon.
2.1.2. Nghiên cứu trên lâm sàng
33 BN có khuyết hổng ở cẳng chân, bàn chân được điều trị tại Viện
Chấn thương Chỉnh hình, Bệnh viện TƯQĐ 108 từ 4/2009 - 8/2014.
- Tiêu chuẩn lựa chọn BN: Có KHPM - yêu cầu điều trị là cần che phủ
bằng vạt cơ hoặc da cơ. Có KHX (sau lấy xương chết hoặc u xương) - yêu cầu
điều trị là trám KHX để không có “khoang chết”, KHPH (KHPM và KHX) -
yêu cầu điều trị là trám KHX và phục hồi phần mềm. Mạch máu vùng nhận
(ĐM và TM) đảm bảo cho chuyển vạt tự do. Nơi lấy vạt cơ thon hoặc da cơ
thon không bị tổn thương. BN đồng ý phẫu thuật.
- Tiêu chuẩn loại trừ: Không đạt những tiêu chí như lựa chọn.
(Việc chọn BN được tập thể bác sỹ Viện Chấn thương Chỉnh hình thảo luận, nhất trí sau khi đã cân nhắc đến những phương pháp điều trị khác).
38
- Nội dung nghiên cứu: Đặc điểm đối tượng. Đặc điểm tổn thương
(nguyên nhân, vị trí, tổn thương giải phẫu, tình trạng nhiễm khuẩn). Kết quả
chuyển vạt và những yếu tố liên quan. Kết quả điều trị và những yếu tố liên
quan. Biến chứng, thất bại sau mổ tại nơi nhận và nơi cho vạt. Di chứng gây
về chức năng và thẩm mĩ tại nơi cho vạt.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Nghiên cứu giải phẫu
- Phương pháp: Mô tả cắt ngang.
- Dụng cụ và vật liệu: Kính lúp phẫu thuật với độ phóng đại 4X, bộ
dụng cụ phẫu tích thông thường và phẫu tích mạch máu nhỏ. Bơm tiêm nhựa
10 ml và 20 ml, catheter luồn mạch máu các cỡ, dung dịch xanh methylen.
Thước kẹp Palmer với độ chính xác 0,1 mm và thước dây với độ chính xác 1
mm (hai thước này hiện được dùng tại Bộ môn Giải phẫu, Trường Đại học Y
Dược thành phố Hồ Chí Minh).
- Số mẫu phục vụ các nội dung nghiên cứu: Đặc điểm giải phẫu cuống
mạch chính được nghiên cứu ở 40 đùi. Số lượng, vị trí ĐM xuyên cấp máu cho
da tách từ cuống ĐM chính và đặc điểm cuống mạch phụ được nghiên cứu ở 26
đùi trên xác bảo quản trong formalin. Phạm vi cấp máu của cuống ĐM chính
được nghiên cứu ở 14 đùi của xác tươi.
- Kỹ thuật phẫu tích trên xác bảo quản, n = 26:
+ Đặt tử thi nằm ngửa, đùi giạng nhẹ (20 - 250). Vẽ hình cơ thon đối
chiếu trên da, chia chiều dài cơ thành 3 phần bằng nhau. Rạch da theo nếp
bẹn, từ củ mu tới gai chậu trước trên, rạch tiếp từ giữa nếp bẹn (tương xứng
với nơi bắt ĐM đùi) dọc xuống giữa cực trên xương bánh chè rồi rạch ngang
vào vùng lồi cầu trong xương đùi (hình 2.1).
+ Bóc tách lật vạt da cân về hai phía của đường rạch dọc. Đối với vạt da
phía trong, bóc tách để bộc lộ cơ may, cơ khép dài, khi tới bề mặt cơ thon thì
chú ý tìm các mạch xuyên đi vào da và đánh dấu vị trí của chúng trên mặt da.
39
Bóc tách vào tam giác đùi, tìm ĐM đùi, ĐM đùi sâu và các nhánh của các
ĐM này đi vào vùng đùi trong. Cắt và lật cơ khép dài để tìm các cuống mạch
và phẫu tích cho tới nơi những cuống này đi vào mặt sâu cơ thon (hình 2.2).
Xác định cuống mạch chính (cuống có ĐM lớn nhất) và các cuống mạch phụ.
Phẫu tích cuống ĐM chính cho tới ĐM đùi sâu để xác định nguyên ủy của nó
(Tách trực tiếp từ ĐM đùi sâu, tách từ cuống chung cấp máu cho những cơ
khép khác hay còn gọi là tách từ ĐM cơ khép, tách từ ĐM mũ đùi trong),
(hình 2.3 A, B). Tiếp theo, phẫu tích và xác định mạch xuyên tách từ cuống
chính, gồm có: mạch xuyên da trực tiếp (direct cutaneous perforator, tức là
mạch đi thẳng lên da), mạch xuyên vách da (septocutaneous perforator, tức là
mạch đi trong vách cân liên cơ lên da), mạch xuyên cơ da (musculocutaneous
perforator, tức là mạch tách từ nhánh trong cơ thon lên da), (hình 2.4 A, B).
Tìm nhánh nông của TK bịt (nhánh chi phối cơ thon) ở chỗ nó đi giữa các cơ
khép dài và khép ngắn. Bộc lộ TM đi kèm các ĐM. Cuối cùng, bộc lộ rõ cơ
thon, chia chiều dai cơ thành 3 khoảng bằng nhau để đánh giá vị trí của các
cuống mạch đi vào cơ.
Hình 2.1. Vẽ cơ thon và thực hiện đường rạch da (Tiêu bản 380)
Củ mu
40
Hình 2.2. Bộc lộ các cuống mạch và TK cơ thon (Tiêu bản 450)
A
B
Hình 2.3. Phẫu tích nguyên ủy cuống ĐM chính (Tiêu bản 361)
A: Bộc lộ cuống chính B: Cắt nhánh mạch đi vào cơ khép dài, nâng cơ này và bóc tách tìm nguyên ủy
Cơ may
Cơ thon
Cuống phụ
ĐM đùi nông
TM đùi
Cuống chính
Cơ khép dài
Nhánh trước TK bịt
ĐM đùi sâu
Cơ thon
Mạch xuyên
vách cân da
Cuống chính
Cơ may
Cơ thon
Cơ khép dài
ĐM đùi sâu
Cuống chính
Mạch xuyên vách
cân da
Nhánh cơ khép dài
41
A
B
Hình 2.4. Phẫu tích mạch xuyên tách từ cuống chính (Tiêu bản 380,361)
A: M xuyên da trực tiếp B: M xuyên vách cân da và cơ da
+ Xác định nguyên ủy, các mốc đo và kỹ thuật đo những thông số liên
quan đến đặc điểm cuống mạch chính, mạch xuyên như sau:
. Xác định nguyên ủy cuống ĐM chính dựa theo hình minh họa của
Juricic (1993) [77].
. Xác định vị trí cuống chính cách dưới củ mu: Đo khoảng cách từ nơi
cuống chính đi vào cơ tới củ mu (hình 2.5).
. Xác định chiều dài cuống chính: Đo chiều dài từ nơi cuống chính đi
vào cơ thon tới ĐM đùi sâu (trường hợp cuống ĐM chính tách từ ĐM cơ khép
Cơ thon
Cơ khép ngắn
ĐM đùi nông
TM đùi
Bó mạch cơ khép
Nhánh trước TK bịt
ĐM đùi nông
Tĩnh mạch đùi
ĐM đùi sâu
Cơ khép dài
Cơ thon
Mạch xuyên vách
cân da
Cuống mạch chính
Mạch xuyên cơ
da
Mạch xuyên da trực tiếp
Cơ khép dài
ĐM đùi sâu
Cuống chính
Nhánh cơ khép ngắn
Nhánh cơ khép dài
42
hoặc tách trực tiếp từ ĐM đùi sâu) hoặc tới ĐM mũ đùi trong (trường hợp cuống
ĐM chính tách từ ĐM mũ đùi trong), (hình 2.6).
. Xác định đường kính của mạch máu cuống chính: Cắt cuống chính
sát ĐM đùi sâu (trường hợp tách từ ĐM cơ khép hoặc tách trực tiếp từ ĐM đùi
sâu), hoặc cắt sát ĐM mũ đùi trong (trường hợp tách từ ĐM mũ đùi trong), đo
đường kính ngoài của ĐM và TM tại mặt cắt này (hình 2.7 A, B, C, D).
. Xác định đặc điểm của mạch xuyên tách từ cuống ĐM chính: Xác
định số lượng và phân bố của mạch xuyên quanh điểm đi vào cơ của cuống
chính (trước trên, trước dưới, sau trên, sau dưới), đo khoảng cách từ nơi đi
vào cơ của cuống chính tới điểm đi vào da của mạch xuyên (hình 2.8 A, B).
Hình 2.5. Đo khoảng cách từ nơi cuống chính đi vào cơ tới củ mu (Tiêu bản 361)
Hình 2.6. Đo chiều dài cuống chính (Tiêu bản 361)
ĐM đùi sâu
Cuống chính
Củ mu
Cơ khép dài
Cơ thon
Rốn mạch
Rốn mạch
ĐM đùi sâu
Cuống chính
Cơ thon
43
A B
C D
Hình 2.7 A, B, C, D: Đo đường kính ngoài của ĐM, TM (Tiêu bản 361)
A
B
Hình 2.8 A, B: Phẫu tích các mạch xuyên, đo khoảng cách từ nơi đi vào cơ của cuống chính tới nơi đi vào da của mạch xuyên (Tiêu bản 406)
+ Phẫu tích cuống ĐM phụ, khảo sát nguyên ủy, vị trí đi vào cơ theo
phân đoạn độ dài cơ: 1/3T, 1/3G, 1/3D, (hình 2.9 A, B).
Rốn mạch
Cơ thon
Mạch xuyên cơ da
Cơ khép dài
Cơ thon Rốn mạch
Cuống chính
Cơ thon
TM cuống chính
ĐM cuống chính
Cuống chính
Cuống chính Nhánh trước TK bịt
44
A
B
Hình 2.9. Khảo sát cuống mạch phụ
A: Cuống phụ tách từ ĐM đùi nông, đi vào cơ 1/3 G (Tiêu bản 450) B: Cuống phụ tách từ ĐM đùi sâu, đi vào cơ 1/3 T (Tiêu bản 380)
- Kỹ thuật phẫu tích trên xác tươi, n = 14:
+ Đặt tử thi nằm ngửa, đùi giạng 20 - 250. Đường rạch da, phẫu tích và
xác định đặc điểm cuống mạch chính như khi thực hiện trên xác bảo quản.
+ Bộc lộ cuống ĐM chính, thắt các nhánh vào cơ khép, cắt sát ĐM đùi
sâu. Luồn catheter và bơm methylen (20-30 ml) vào ĐM, tốc độ 1ml/20 giây.
Khi bơm xong, chờ 1 giờ thì đo vùng da ngấm thuốc (hình 2.10 A, B, C, D).
A B
Cơ may
ĐM đùi nông
Cuống phụ
Cơ khép dài
ĐM đùi nông
Cơ thon
Tĩnh mạch đùi
ĐM đùi sâu
Cơ khép dài
Cơ khép ngắn
Cuống phụ Cuống chính
Nhánh nông TK bịt Cơ thon
Cơ thon
Cơ thon
45
C D Hình 2.10. Xác định diện da ngấm thuốc khi bơm vào cuống ĐM chính (TB 479)
A: Bộc lộ cuống chính, thắt các nhánh vào cơ khép B: Bơm thuốc xanh methylen C: Đo chiều dài diện da ngấm thuốc D: Đo chiều rộng diện da ngấm thuốc.
- Cách tính đường kính tròn của mạch máu:
+ Trên xác bảo quản: Đo đường kính dẹt (khi kẹp dẹt mạch) rồi tính ra
đường kính tròn theo công thức của Bộ môn Giải phẫu - Đại học Y Hà nội:
Đường kính dẹt x 2
Đường kính tròn = ______________________________ + 18%
3,14
(18% là tỷ lệ co mạch khi xác được bảo quản trong formalin)
+ Trên xác tươi: Đo đường kính dẹt rồi tính đường kính tròn như sau:
Đường kính dẹt x 2
Đường kính tròn = ______________________________
3,14
- Chụp ảnh lấy tư liệu. Bảo quản tiêu bản, lưu tại Bộ môn Giải phẫu,
Trường Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh.
- Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS, phiên bản 21.0.
2.2.2. Nghiên cứu trên lâm sàng
Nghiên cứu tiến cứu, phẫu thuật ở loạt BN, không nhóm chứng.
2.2.2.1. Chuẩn bị trước mổ chuyển vạt
Chuẩn bị BN:
- Đánh giá toàn trạng BN để chỉ định thực hiện phẫu thuật kéo dài.
46
- Trao đổi với BN và gia đình BN về tình trạng tổn thương, kế hoạch
điều trị, những biến chứng có thể gặp để BN đồng ý và hợp tác điều trị.
- Tại nơi nhận: Xác định vị trí, tổn thương giải phẫu, kích thước và
hình dạng khuyết hổng, phân loại giai đoạn và đánh giá mức độ nhiễm khuẩn.
Kiểm tra và dự kiến ĐM, TM được sử dụng để cấp máu cho vạt.
+ Chúng tôi phân loại giai đoạn nhiễm khuẩn tại khuyết hổng làm 3
loại dựa vào lâm sàng theo những tiêu chí sau:
. Cấp tính: Các triệu chứng nhiễm khuẩn khởi phát đột ngột, có nhiều
dịch viêm, tổ chức xung quanh viêm tấy lan tỏa (sưng - nóng - đỏ - đau),
nhiễm khuẩn toàn thân với biểu hiện sốt cao với BN khỏe, môi khô, lưỡi bẩn,
BN khó chịu, ăn ngủ kém…
. Mạn tính: Nhiễm khuẩn kéo dài trong nhiều tháng, nhiều năm, tổ chức
xung quanh bình thường, không sốt. Điển hình cho loại này là những ổ viêm
do di chứng chấn thương, vết thương hỏa khí, viêm xương tủy xương mạn
tính.
. Bán cấp: Có những triệu chứng trung gian giữa cấp tính và mạn tính.
+ Xử trí cụ thể nơi nhận trong một số tình huống sau:
. Nhiễm khuẩn giai đoạn cấp tính: Tưới rửa, lấy hết dị vật nếu có, dùng
kháng sinh có phổ kháng khuẩn rộng hoặc theo kháng sinh đồ (nếu có) với
liều cao, thuốc giảm sưng nề, bất động và kê cao chi, nghiên cứu đặt VAC.
. Trường hợp khuyết hổng có nhiều tổ chức hoại tử và tình trạng nhiễm
khuẩn toàn thân cho phép thực hiện phẫu thuật cắt lọc thì tiến hành cắt lọc
sạch tổ chức hoại tử và đặt VAC, duy trì VAC cho tới khi khuyết hổng sạch,
mọc tổ chức hạt.
- Tại nơi cho vạt:
+ Đánh giá độ di động và chiều dày của da vùng mặt trong đùi. Căn cứ
vào độ di động và chiều dày của lớp da cùng với đặc điểm về vị trí, kích
thước, hình dạng khuyết hổng để xác định sử dụng vạt cơ hay da cơ thon.
47
+ Thiết kế vạt: Đánh dấu bờ sau cơ khép dài tại vùng nguyên uỷ và
bám tận, vẽ đường nối giữa hai điểm. Bờ trước cơ thon tương ứng với đường
thẳng này. Khi sử dụng vạt da cơ, kích thước và hình dạng vạt da được căn cứ
vào kích thước và hình dạng của khuyết hổng được dự kiến sau khi cắt lọc.
Chuẩn bị dụng cụ chuyên dụng:
Kính hiển vi phẫu thuật, kính lúp có độ phóng đại 4X. Bộ dụng cụ vi
phẫu mạch máu. Kim chỉ không chấn thương loại 9/0 - 10/0. Dụng cụ phẫu
thuật xương (nếu cần can thiệp vào xương, khớp). Bơm tiêm, kim nhựa đầu
tròn, dung dịch thanh huyết mặn 9%o có pha heparin với nồng độ 1.000 đơn
vị/100 ml để bơm rửa lòng mạch. Thuốc chống co mạch papaverin, lidocain.
Lựa chọn phương pháp vô cảm:
Phẫu thuật được thực hiện ở chi dưới nên gây tê tủy sống có kết hợp
các biện pháp làm kéo dài tác dụng giảm đau được ưu tiên lựa chọn. Với
những BN quá lo lắng thì sử dụng gây mê qua ống nội khí quản.
2.2.2.2. Kỹ thuật chuyển vạt cơ, da cơ thon
Kỹ thuật mổ :
- Tư thế BN trên bàn mổ: Đặt BN nằm ngửa, đùi cho vạt giạng và gấp
nhẹ, cẳng chân gấp nhẹ.
- Tại vùng nhận:
+ Chuẩn bị nơi nhận vạt:
Băng ép dồn máu từ ngoại vi về trung tâm, đặt garô sát dưới gối hoặc
1/3T cẳng chân. Cắt lọc tổn thương tới mô lành, chuẩn bị nơi nhận như sau:
• Với KHPM lộ xương, có viêm xương thì cắt lọc tổ chức phần mềm bị
hoại tử, đục bỏ xương viêm ở bề mặt tới khi mặt xương rớm máu.
• Với viêm xương tủy xương (VXTX) mạn tính: Đục lấy bỏ hết xương
chết, san phẳng khuyết xương. Đối với VXTX thể đông đặc ở xương chày,
mở cửa sổ thành xương với chiều dài tới xương lành (thành xương không phì
48
đại, ống tủy thông) và chiều rộng đủ để lấy hết xương viêm chết và đưa được
cơ thon vào ống tủy nhưng không gây yếu thành xương.
• Với ổ viêm khuyết xương phức tạp, ngoài xử trí nêu trên còn phá hết
các ngóc ngách, tạo ổ khuyết hình lòng chảo để cơ thon áp được sát xương.
• Với tổ chức u, thực hiện cắt bỏ u tới giới hạn lành. Việc xác định ranh
giới giữa tổ chức u và tổ chức lành được căn cứ vào đặc điểm của u (mật độ,
màu sắc, cấu trúc...), hình ảnh X quang (đối với u xương).
• Với trường hợp có biến dạng xương khớp kèm theo ở vùng cổ chân,
bàn chân, những biến dạng này được chỉnh sửa rồi đặt cố định ngoài để ổn
định diện khuyết hổng và giữ tư thế của đoạn chi trong quá trình điều trị.
Chúng tôi thường sử dụng cọc ép ren ngược chiều của Nguyễn Văn Nhân.
Với khuyết hổng nhiễm khuẩn, sau khi cắt lọc sạch thì tưới rửa bằng dung
dịch ôxy già 5 thể tích hoặc betadin.
+ Chuẩn bị mạch nuôi: Lựa chọn mạch nuôi ở vị trí thuận lợi cho khâu
nối mạch và ở ngoài vùng tổn thương, gồm 1 ĐM và 2 TM ở phía trung tâm
(đầu gần) của tổn thương. Chúng tôi thường lựa chọn mạch nuôi như sau:
• Đoạn 1/3 trên cẳng chân: chọn mạch cơ sinh đôi và TM hiển trong.
• Đoạn 2/3 dưới cẳng chân và cổ chân: chọn bó mạch chày trước hoặc
chày sau, hoặc bó mạch cơ dép, có thể sử dụng thêm TM hiển trong.
• Vùng bàn chân: chọn bó mạch chày trước hoặc mu chân, bó mạch chày
sau hoặc ống gót, có thể thêm TM hiển trong hoặc TM bàn chân trong.
- Tại vùng cho vạt: Bóc tách vạt cơ hoặc da cơ thon theo kỹ thuật như
Manktelow [93] và Strauch [126] mô tả, cụ thể như sau:
+ Bóc tách vạt cơ thon (có 18/34 là vạt cơ thon đơn thuần):
• Rạch da 10 - 15 cm theo bờ trước cơ thon, ở nửa trên của cơ (hình
2.11). Mở cân đùi, tìm khe giữa cơ khép dài và cơ thon, tách cơ thon khỏi cơ
khép dài. Tách da và cân trên cơ thon, tìm bờ sau và tách cơ thon khỏi cơ
khép ngắn. Kéo cơ khép dài để tìm cuống mạch chính, cuống này đi vào cơ
49
cách củ mu từ 6 - 12 cm (hình 2.13). Bóc tách TK đi vào cơ ở mặt sâu, ngay
phía trên cuống chính. Thần kinh nằm trên cơ khép ngắn và trong tổ chức liên
kết lỏng lẻo. Tới thì này, chúng tôi thường cắt đầu cơ phía trung tâm để tạo
thuận lợi cho bóc tách cuống mạch, cắt sát ngành ngồi mu để tránh chảy máu.
Hình 2.11. Đường rạch da bóc tách vạt cơ thon, (nguồn từ [126]).
Hình 2.12. Bóc tách cuống mạch cơ thon, (nguồn từ [126]).
• Bóc tách thân cơ với độ dài theo yêu cầu, tìm và thắt cuống mạch phụ.
Cuống phụ thứ nhất thường ở phía dưới cuống chính 10 - 15 cm. Cắt đầu cơ
phía dưới để lấy cơ theo độ dài cần thiết. Nếu cần lấy toàn bộ cơ, rạch thêm
một đường thứ hai dài 5 - 7 cm nằm dọc trên gân cơ. Qua đường rạch này,
bộc lộ gân cơ thon nằm giữa cơ may ở phía trước và cơ bán mạc ở phía sau
(hình 2.13). Sau khi kiểm tra bằng cách co kéo thì cắt đứt gân cơ thon phía
trên gân chân ngỗng, sau đó bóc tách ngược lên phía trung tâm để tách cơ
khỏi tổ chức xung quanh. Kéo đầu dưới cơ thon lên phía trên qua một đường
hầm dưới da giữa hai đường rạch.
Hình 2.11:
1. Cơ thon
2. Cơ khép dài
9. Cơ bán gân
Hình 2.12:
1. Cơ thon
2. Cơ khép dài
3. Cơ khép ngắn
4. Cơ khép lớn
5. Cuống mạch cơ thon
6. Nhánh trước TK bịt
50
Hình 2.13. Đường rạch da bóc tách toàn bộ cơ thon, (nguồn từ [126])
• Tiếp theo, bóc tách cuống chính nuôi vạt. Giữ nhánh TK cảm giác da
phía trong đùi và nhánh vận động cơ khép lớn, cả hai đều nằm ở mặt sâu của
cơ thon. Đặt hai van kéo dưới cơ khép lớn, mỗi cái ở một phía cuống chính và
nhấc cao cơ khép lớn, bóc tách và thắt những nhánh mạch đi vào cơ khép lớn
để tới bó mạch đùi sâu. Với cách xử trí này, có thể làm cuống mạch dài thêm
3 cm nên độ dài toàn bộ cuống mạch của vạt là 6 - 7 cm. Tách mặt sâu cuống
mạch khỏi cơ khép nhỡ. Tìm và thắt những nhánh đi vào cơ khép nhỡ. Đến
đây, vạt cơ thon đã được cô lập hoàn toàn (hình 2.14).
Hình 2.14. Vạt cơ thon được cô lập hoàn toàn, (nguồn từ [126]).
• Sau khi bóc tách xong, đặt cơ vào vị trí ban đầu nhưng không gây
căng cuống mạch để quan sát tình trạng cấp máu cho cơ.
+ Bóc tách vạt da cơ thon (có 16/34 là vạt da cơ thon):
Hình 2.13:
1. Cơ thon
2. Cơ khép dài
7. Cơ bán mạc
8. Cơ may
Hình 2.14:
1. Cơ thon
2. Cơ khép dài
3. Cơ khép ngắn
4. Cơ khép lớn
5. Cuống mạch cơ thon
6. Nhánh trước TK bịt
51
• Khi cần lấy vạt da cơ thon, thiết kế vạt da ở nửa trên thân cơ. Trục của
vạt da là đường giữa cơ hoặc ngang thân cơ. Khi lấy vạt da dọc trên cơ, để
đảm bảo những mạch xuyên cơ da nằm trong vạt, đầu tiên là rạch mép vạt
phía trước và bóc tách tìm cơ thon (hình 2.15). Khi xác định được vị trí cơ
thon, vạt da có thể được vẽ lại nếu cần thiết.
• Khâu lớp cân nông hoặc da ở mép vạt vào cơ để bảo vệ các mạch
xuyên cơ da không bị tổn thương. Những mối khâu này được lấy bỏ khi đã
chuyển vạt, trước khi khâu vạt da vào vùng nhận. Từ đây, tiếp tục bóc tách
vạt cơ thon như đã mô tả ở trên để cô lập hoàn toàn vạt da cơ (hình 2.16).
Hình 2.15. Bóc tách vạt da cơ thon, (nguồn từ [126]).
Hình 2.16. Vạt da cơ thon được cô lập hoàn toàn, (nguồn từ [126]).
+ Đóng vết mổ: Cầm máu, đặt dẫn lưu, khâu vách liên cơ và đóng da.
- Ghép vạt vào vùng nhận:
Hình 2.15:
1. Cơ thon
2. Cơ khép dài
3. Cơ khép ngắn
4. Cơ khép lớn
5. Cuống mạch cơ thon
7. Cơ bán mạc
8. Cơ may
Hình 2.16:
1. Cơ thon
2. Cơ khép dài
3. Cơ khép ngắn
4. Cơ khép lớn
5. Cuống mạch cơ thon
7. Cơ bán mạc
8. Cơ may
52
+ Băng ép dồn máu từ ngoại vi về trung tâm và đặt lại garô sát dưới gối
hoặc 1/3 trên cẳng chân. Vạt được đặt vào vùng nhận sao cho cuống mạch vạt
gần với mạch nuôi, cuống mạch không căng, không xoắn vặn.
+ Phục hồi tuần hoàn trong vạt:
• Thứ tự nối mạch: Nối TM trước rồi đến ĐM, khi nối xong ĐM thì bỏ
garô. Việc nối mạch dưới garô có ưu điểm là trường mổ sạch.
• Chuẩn bị mạch máu: Dưới kính hiển vi phẫu thuật, bộc lộ ĐM và TM
trên một đoạn 7 - 10 mm để có thể đặt được kẹp mạch. Các đầu mạch được
cắt bỏ lớp áo ngoài một đoạn dài 3 - 5 mm. Nong rộng lòng mạch bằng kìm
cặp kim vi phẫu. Bơm rửa làm sạch lòng mạch bằng dung dịch nước muối
9%o có pha heparin theo tỷ lệ 1.000 đơn vị/100 ml.
Đặt kẹp mạch đôi để đưa 2 đầu mạch sát nhau. Trường hợp nối mạch tận
- bên, tạo cửa sổ ở thành mạch nuôi rộng hơn mặt cắt của mạch vạt khoảng
20% - 30%. Đầu mạch của vạt được cắt chéo để sau khi khâu nối tạo thành
góc nhỏ hơn 900 và hướng theo chiều dòng máu chảy.
• Khâu nối mạch máu: Kỹ thuật khâu nối mạch máu được chọn theo
từng trường hợp cụ thể. Kỹ thuật 2 mũi khâu chuẩn của Cheng Zong Wei
được áp dụng cho miệng nối có đường kính tương đương nhau. Kỹ thuật 3
mũi khâu chuẩn của Cobbett hay 4 mũi khâu chuẩn của Harashina được áp
dụng khi miệng nối có đường kính không bằng nhau, hai cách khâu này còn
làm cho thành sau và thành truớc của mạch không dính vào nhau nên tránh
được khâu xuyên qua 2 thành mạch. Sau khi hoàn thành khâu nối mạch, mở
kẹp mạch ở phía xa trước (đối với ĐM là phía vạt) rồi đến kẹp ở đầu gần.
• Kiểm tra lưu thông mối nối: Quan sát mối nối và đoạn mạch trong
trường mổ dưới kính hiển vi. Khi mối nối và đoạn mạch phía sau căng tròn,
rung theo nhịp mạch phía trên (ĐM) thì chứng tỏ mối nối đó thông tốt. Nếu
đoạn mạch sau mối nối xẹp thì làm nghiệm pháp kiểm tra như sau: Dùng nỉa
vi phẫu cặp đoạn mạch sau mối nối, gần sát chỗ nối mạch (với ĐM thì cặp ở
53
ĐM vạt, với TM thì cặp ở TM nhận), nỉa thứ hai cặp sát nỉa thứ nhất ở phía
dưới dòng chảy rồi vuốt nhẹ một đoạn 5 - 10 mm và cặp giữ rồi thả nỉa thứ
nhất. Nếu đoạn mạch vừa bị vuốt xẹp mà căng đầy trở lại nhanh thì chứng tỏ
mối nối lưu thông. Khi đoạn mạch còn xẹp hoặc căng chậm thì kiểm tra, xử
trí co thắt mạch tại chỗ, ngoài ra cũng cần kiểm tra huyết áp của BN. Nếu các
biện pháp trên không kết quả thì chứng tỏ đã tắc mạch, lúc này tháo một số
mũi chỉ kiểm tra mối nối xem có cục nghẽn hoặc khâu dính thành mạch.
Thường thì mối nối được cắt bỏ rồi bơm rửa lại lòng mạch và nối lại.
• Các biện pháp chống co thắt mạch tại chỗ trong mổ: Chúng tôi
thường sử dụng papaverin 40 mg/ml hoặc lidocain 2% để tưới vào cuống
mạch, đồng thời kết hợp với đắp huyết thanh ấm để chống co thắt mạch.
+ Khâu cố định vạt trám độn và che phủ khuyết hổng:
• Với vạt cơ thon đơn thuần: Khâu cố định cơ trám đầy khuyết hổng
sao cho không để lại khoang chết. Có thể ghép da xẻ đôi che phủ cơ tức thì
hoặc ghép da kỳ sau. Nếu ghép da thức thì, rạch da hình mắt lưới để tránh
máu tụ dưới da và để quan sát màu sắc vạt cơ sau mổ.
• Với vạt da cơ thon: Sau khi khâu cố định vạt cơ như trên, khi khâu
trải vạt da thì chú ý không để mối khâu da bị căng. Nếu vạt da bị căng thì
ghép da bổ sung hoặc khâu định hướng để tránh chèn ép cơ phía dưới, việc
đóng da hoàn chỉnh sẽ được thực hiện sau mổ 5 - 7 ngày khi cơ bớt nề.
• Đặt dẫn lưu hút hoặc mảnh cao su được cắt từ găng tay phẫu thuật để
dẫn lưu vùng mổ. Băng vết mổ bằng băng thường, mở cửa sổ ở giữa vạt để
theo dõi, cố định chi ở tư thế làm chùng cuống mạch (trong 10 - 14 ngày).
Theo dõi sau mổ:
- Theo dõi lâm sàng: Bao gồm quan sát màu sắc, hồi lưu mao mạch,
nhiệt độ trên bề mặt vạt, màu sắc máu chảy khi châm kim lên vạt. Việc quan
sát được thực hiện dưới ánh sáng thường.
54
+ Theo dõi đối với vạt cơ thon qua lỗ mắt lưới ở da ghép có thể thấy:
Khi cơ có màu hồng, không phù nề nhiều thì chứng tỏ lưu thông máu tốt. Khi
cơ sẫm màu nhưng không phù nề nhiều thì đó là dấu hiệu của tắc ĐM. Khi cơ
sẫm màu và phù nề nhiều thì đó là dấu hiệu của tắc TM.
+ Theo dõi đối với vạt da cơ thon: Nếu da có màu hồng, hồi lưu mao
mạch bình thường thì chứng tỏ lưu thông máu trong vạt tốt. Nếu da có màu đỏ
tím, nề và hồi lưu nhanh thì đó là dấu hiệu của dẫn lưu TM kém, tình trạng
này tăng lên nhanh chóng thì là dấu hiệu của tắc TM. Nếu da nhợt màu,
không có hồi lưu mạch thì đó là dấu hiệu của tắc ĐM. Có thể châm kim trên
vạt da, nếu máu chảy ra đỏ tươi là tuần hoàn trong vạt tốt và ngược lại
- Theo dõi bằng ống nghe siêu âm Doppler: Đối với cả vạt cơ và da cơ
thon, kiểm tra lưu thông máu trong vạt bằng nghe mạch với ống nghe siêu âm
Doppler. Phương pháp này cho phép phát hiện sớm tình trạng tắc ĐM.
Các biện pháp theo dõi nêu trên được thực hiện ngay khi BN về buồng
bệnh và liên tục trong 72 giờ đầu sau mổ.
Điều trị sau mổ:
- Giảm đau sau mổ: Dùng Morphin 0,01g hoặc Dolacgan 0,1g tiêm bắp
1 ống/ngày, trong 1 - 2 ngày. Thường phối hợp những thuốc này với
Prodafalgan, Efferalgan Codein, trong 3 - 5 ngày.
- Chống nhiễm khuẩn: Sử dụng kháng sinh có phổ kháng khuẩn rộng
ngay trong mổ. Nếu cấy khuẩn dương tính, sử dụng thuốc theo kháng sinh đồ
- Thuốc dự phòng tắc mạch: Dextran trọng lượng phân tử 40.000: 500
ml/ngày, trong 3 ngày. Dipyridamol (persantin): uống 150 mg/ngày, trong 10
ngày. Aspirin PH8: uống 1g /ngày, trong 10 ngày.
- Chăm sóc nơi nhận vạt: Đặt chân trên giá Braun. Sưởi ấm vạt bằng
bóng đèn tròn loại 30W, nguồn nhiệt cách vạt 30 - 35 cm, trong 3 ngày đầu.
Vào mùa đông nhiệt độ thấp, thời gian sưởi ấm có thể trong 5 - 7 ngày.
55
- Xử trí máu tụ: Trường hợp có nhiều máu tụ sẽ làm vùng mổ nề căng,
đẩy lồi vạt tự do, chỉ khâu hằn lõm da, rỉ máu đen tại vết mổ, BN có cảm giác
căng tức tại vùng mổ. Khi xác định có nhiều máu tụ thì cắt một số mũi chỉ,
dùng dụng cụ lấy máu tụ với thao tác nhẹ nhàng, rửa sạch bằng ôxy già.
- Xử trí biến chứng tắc mạch: Trước hết là cắt chỉ để kiểm tra vùng nối
mạch và cuống mạch vạt để đánh giá lưu thông máu. Có thể gặp những
nguyên nhân ngoài mạch máu (máu tụ chèn ép cuống mạch, đóng vết mổ
căng đè ép cuống vạt). Khi mối nối mạch bị tắc thì chuyển BN lên phòng mổ
để xử trí cơ bản... Nếu xử trí thất bại thì tháo bỏ vạt, nghiên cứu chuyển vạt tự
do lần hai khi toàn trạng BN cho phép.
- Xử trí nhiễm khuẩn tại vùng nhận: Cắt chỉ vết mổ ở một bờ vạt, kiểm
tra lấy bỏ máu tụ và dịch đọng, sau đó để hở nơi cắt chỉ. Sử dụng kháng sinh
theo kháng sinh đồ, nâng cao thể trạng BN. Có thể sử dụng liệu pháp VAC.
- Xử trí biến chứng hoại tử một phần vạt: Phần vạt hoại tử được cắt lọc,
chăm sóc vết thương, khi tổ chức hạt phát triển sẽ ghép da bổ sung. Có thể
dùng liệu pháp VAC để chuẩn bị nền ghép da.
- Với cơ thon chưa được ghép da ngay sau mổ: Thực hiện ghép da xẻ
đôi sau mổ 5 - 7 ngày. Có thể dùng liệu pháp VAC để chuẩn bị nền ghép.
- Tại nơi cho vạt: Có thể gặp máu tụ, nhiễm khuẩn, toác vết mổ hoặc
hoại tử mép da do khâu căng sau lấy vạt da rộng và được xử trí như sau:
+ Xử trí máu tụ: Cắt chỉ khâu, lấy máu tụ, để ngỏ và thay băng hoặc sử
dụng liệu pháp VAC. Khâu da kỳ hai khi vết thương sạch.
+ Hoại tử mép da hoặc toác vết mổ: Cắt chỉ khâu da và cân, cắt lọc tổ
chức hoại tử, chăm sóc vết thương như sau khi lấy máu tụ.
+ Nhiễm khuẩn: Xử trí tại chỗ như đối với xử trí máu tụ kết hợp với
liệu pháp kháng sinh toàn thân.
56
2.2.2.2. Theo dõi và đánh giá kết quả
- Các chỉ tiêu đánh giá kết quả: Tình trạng nuôi dưỡng của vạt ghép
(sống hoàn toàn, hoại tử một phần, hoại tử hoàn toàn phải tháo bỏ). Thời gian
điều trị nội trú sau chuyển vạt. Tình trạng liền tổn thương (liền kỳ đầu, liền kỳ
hai, viêm rò kéo dài). Tình trạng to xù của vạt. Tình trạng loét tại vạt. Tình trạng
nơi lấy vạt: rối loạn tại sẹo (sẹo xù, sẹo phì đại), rối loạn cảm giác và ảnh
hưởng chức năng của chi thể.
- Phân loại kết quả:
+ Kết quả chuyển vạt:
Vạt sống hoàn toàn.
Vạt hoại tử một phần.
Vạt hoại tử toàn bộ, phải tháo bỏ.
+ Kết quả điều trị (đánh giá sau mổ 3 tháng, 6 tháng và lâu hơn):
Tham khảo y văn, hiện không thấy có bảng phân loại kết quả điều trị
khuyết hổng bằng chuyển vạt tự do được coi là chuẩn nên chúng tôi phân loại
và sử dụng những tiêu chí đánh giá kết quả điều trị như sau:
• Tốt: Khuyết hổng liền ổn định, không viêm rò, vạt không bị loét,
không to xù, đạt yêu cầu về thẩm mỹ.
• Vừa: Vùng nhận viêm rò, phải can thiệp nhiều lần để làm liền tổn
thương hoặc vạt to xù nhưng BN chấp nhận và tổn thương liền ổn định.
• Xấu: Vùng nhận viêm rò, can thiệp không thành công hoặc vạt bị loét
và can thiệp không hiệu quả.
57
Chương 3.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Nghiên cứu giải phẫu
3.1.1. Đặc điểm giải phẫu cuống mạch chính
- Nguyên uỷ của ĐM (n = 40):
+ Động mạch cơ khép: 31/40 (77,5%).
Hình 3.1. Cuống ĐM chính tách từ ĐM cơ khép (Đùi trái, Tiêu bản 380)
+ Động mạch đùi sâu: 7/40 (17,5%).
Hình 3.2. Cuống ĐM chính tách từ ĐM đùi sâu (Đùi phải, Tiêu bản 416 )
ĐM đùi nông
Tĩnh mạch đùi
ĐM đùi sâu
Cơ khép ngắn
Cuống chính
Cơ khép dài
Cơ may
Cơ thon
Cuống mạch cơ khép
Cơ khép dài
Cơ khép ngắn
Cuống mạch cơ
khép ngắn
ĐM đùi nông
Tĩnh mạch đùi
Cơ thon
Cuống ĐM chính cơ thon
Nhánh nông TK bịt
ĐM đùi sâu
ĐM xuyên gia t rực tiếp
Cuống ĐM cơ khép
58
+ Động mạch mũ đùi trong: 2/40 (5%).
Hình 3.3. Cuống ĐM chính tách từ ĐM mũ đùi trong (Đùi phải,Tiêu bản417)
- Cuống đôi (cuống kép): 1/40 (2,5%), có 2 ĐM và 2 TM tùy hành
Hình 3.4. Cuống đôi tách từ ĐM đùi sâu (Đùi phải, Tiêu bản 473)
Cơ may
Cơ thon
Cơ khép dài
ĐM đùi nông
ĐM đùi sâu
Cuống đôi
Nhánh trướcTK bịt
Cuống chính
Cơ khép dài
Cơ thon
TM đùi
ĐM mũ đùi trong
Cuống phụ
Nhánh cơ
ĐM đùi nông
ĐM đùi sâu
59
- Vị trí đi vào cơ, chiều dài cuống mạch:
Bảng 3.1. Vị trí đi vào cơ, chiều dài cuống mạch (n = 40)
Chỉ số Xác khô (n = 26) Xác tươi (n = 14) Mann-Whitney U
test
Từ củ mu đến rốn mạch ≤ 4,5cm
4,6 --> 5,5cm 5,6 --> 6,5 cm 6,6 --> 7,5 cm 7,6 --> 8,5 cm 8,6 --> 9,5 cm 9,6 --> 10,5 cm 10,6 --> 11,5 cm
1 4 8 8 2 1 1 1
0 0 1 7 4 1 1 1
P = 0,012 X ± SD 6,95 ± 1,44 7,96 ± 1,29
Chiều dài cuống mạch ≤ 4 cm 4,1- 5 cm 5,1 - 6 cm 6,1 - 7 cm 7,1 - 8 cm 8,1 - 9 cm
0 9 7 6 3 1
0 3 7 4 0 0
P = 1,0 X ± SD 5,91 ± 1,22 5,75 ± 0,75
Bảng 3.1 cho thấy: Vị trí đi vào cơ của cuống chính cách củ mu ở xác
ướp trung bình là 6,95 cm (5,5 - 11 cm), ở xác tươi là 7,96 cm (5,5 - 9,5 cm),
sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p = 0,012). Chiều dài cuống mạch
chính ở xác khô trung bình là 5,91 cm (4 - 8,5 cm) và ở xác tươi là 5,75 cm (4
- 7 cm), sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p = 1,0).
- Số lượng ĐM và TM:
+ Số lượng ĐM (n = 40): 1 ĐM: 39/40 (97,5%). 2 ĐM: 1/40 (2,5%).
+ Số lượng TM (n = 40): 1 TM: 3/40 (7,5%). 2 TM: 37/40 (92,5%).
60
- Đường kính ngoài của ĐM và TM:
Bảng 3.2. Đường kính ngoài của ĐM và TM (n = 40)
ĐM TM lớn TM nhỏ
Đường kính Tần suất Đường kính Tần suất Đường kính Tần suất
1,2 mm
1,3 mm
1,4 mm
1,5 mm
1,6 mm
1,7 mm
1,8 mm
1,9 mm
2,0 mm
2,1 mm
2,2 mm
2,3 mm
2,4 mm
2,5 mm
2
3
0
20
1
0
5
0
5
0
3
0
0
1
1,1 mm
1,2 mm
1,3 mm
1,4 mm
1,5 mm
1,6 mm
1,7 mm
1,8 mm
1,9 mm
2,0 mm
2,1 mm
2,2 mm
2,3 mm
2,4 mm
2,5 mm
2,6 mm
2,7 mm
2,8 mm
2,9 mm
3,0 mm
3,1 mm
3,2 mm
3,3 mm
2
1
1
0
10
0
0
4
0
6
0
13
0
0
1
1
0
0
0
0
0
0
1
0,7 mm
0,8mm
0,9 mm
1,0 mm
1,1 mm
1,2 mm
1,3 mm
1,4 mm
1,5 mm
1,6 mm
1,7 mm
1,8 mm
1,9 mm
2,0 mm
2,1 mm
2,2 mm
2
0
0
1
3
1
1
0
17
0
0
1
0
6
0
5
X ± SD = 1,67 ± 0,31 X ± SD = 1,93 ± 0,46 X ± SD = 1,60 ± 0,41
Bảng 3.2 cho thấy đường kính ngoài trung bình của ĐM là 1,67 mm,
của TM lớn là 1,93 mm. Ở 37 trường hợp có 2 TM thì đường kính trung bình
của TM nhỏ là 1,6 mm.
61
- Số lượng, vị trí mạch xuyên tách từ cuống ĐM chính:
Bảng 3.3. Số mạch xuyên tách từ cuống ĐM chính (n = 26)
Mạch xuyên Xác khô (n=26)
Số lượng Tỷ lệ%
Số mạch xuyên da: 0 mạch 1 mạch 2 mạch 3 mạch 4 mạch
Tổng số mạch xuyên của 26 mẫu cơ = 55 mạch
2 7 8 4 5
7,7 26,9 30,8 15,4 19,2
Bảng 3.3 cho thấy 2/26 cơ (7,7%) không có mạch xuyên tách từ cuống
chính, đa số có 1 - 2 mạch (57,7%). Tổng số có 55 mạch/ 26 cơ.
Bảng 3.4. Vị trí mạch xuyên tách từ cuống ĐM chính (n =55)
Vị trí mạch xuyên Xác khô
Số lượng Tỷ lệ%
Vị trí so với rốn mạch của tất cả mạch xuyên (n=55): - Trước trên - Sau trên - Trước dưới - Sau dưới
28 9 16 2
50,9 16,3 29,1 3,6
Vị trí so với rốn mạch của mạch số 1: (n=24) - Trước trên - Sau trên - Trước dưới - Sau dưới
16 5 3 0
Vị trí so với rốn mạch của mạch số 2: (n=17) - Trước trên - Sau trên - Trước dưới - Sau dưới
9 0 8 0
Vị trí so với rốn mạch của mạch số 3: (n=9) - Trước trên - Sau trên - Trước dưới - Sau dưới
1 2 4 2
Vị trí so với rốn mạch của mạch số 4: (n=5) - Trước trên - Sau trên - Trước dưới - Sau dưới
2 2 1 0
Khoảng cách so với rốn mạch của các mạch xuyên: X ± SD = 3,09 ± 1,44 cm
62
Hình 3.5. Phân bố 55 mạch xuyên quanh rốn mạch
Bảng 3.4 và hình 3.5 cho thấy đa số mạch xuyên nằm ở vùng trước trên
và trước dưới rốn mạch, cách rốn mạch 3,09 ± 1,44 cm.
- Diện da ngấm thuốc khi bơm thuốc màu vào cuống ĐM chính:
Bảng 3.5. Diện da ngấm thuốc màu (n = 14)
Diện da ngấm thuốc Xác tươi (n=14)
X ± SD
Chiều dài (cm): 10 --> 12 cm
13-16 cm ≥ 17 cm
5
7 2
14,4 ± 4,1
Chiều rộng (cm): 6 - 8 cm 9 - 10 cm
> 10 cm
4 5
5
10,0 ± 2,2
Bảng 3.5 cho thấy diện da ngấm thuốc màu có chiều dài trung bình là
14,4 cm (10 - 17 cm), chiều rộng trung bình là 10,0 cm (6 - 10 cm).
2 3 4 2 3 4
2
3
4
2
3
4
Trên
Sau Trước
Dưới
cm
cm
Rốn mạch
63
3.1.2. Đặc điểm giải phẫu cuống mạch phụ
- Số lượng, vị trí:
Bảng 3.6. Số lượng, vị trí cuống mạch phụ (n = 26)
Cuống mạch phụ Xác khô (n = 26)
Số lượng Tỷ lệ%
Số lượng cuống phụ: - 1 cuống - 2 cuống
- 3 cuống - 4 cuống Tổng số cuống phụ = 35 Số cuống phụ trung bình/1 cơ = 1,35
20 4
1 1
76,9 15,4
3,8 3,8
Vị trí cuống phụ theo vùng cơ thon (n = 57): - 1/3 trung tâm
- 1/3 giữa - 1/3 ngoại vi
2
33 0
5,7
94,3 0
Bảng 3.6 cho thấy đa số trường hợp có 1 cuống mạch phụ và chủ yếu đi
vào cơ ở vùng 1/3 giữa.
- Nguyên ủy cuống ĐM phụ (n = 35):
+ ĐM đùi sâu: 2 (2 trường hợp mạch đi vào cơ ở vùng 1/3 trung tâm)
+ ĐM đùi nông: 33/35 (94,3%)
3.1.3. Thần kinh chi phối
Ở tất cả 40 mẫu nghiên cứu, TK chi phối cơ thon đều tách từ nhánh
trước của TK bịt, đi chếch từ trên xuống dưới, từ ngoài vào trong, từ trước ra
sau, nằm ở phía trung tâm cuống chính, đi vào cơ cùng cuống chính.
3.2. Kết quả nghiên cứu trên lâm sàng
3.2.1. Đặc điểm đối tượng
- Tổng số BN:
33 BN, gồm 28 nam và 5 nữ, tuổi từ 15 - 82 (tuổi trung bình là 40,66).
Có 22/33 BN đang trong độ tuổi lao động (≤ 55 tuổi). Có 8/33 BN trên 60
tuổi, trong đó có BN tuổi già ( 75 tuổi và 82 tuổi).
Có 1 BN được chuyển vạt da cơ thon lần 2 do lần đầu bị thất bại.
64
- Bệnh kèm theo:
1 BN nam 61 tuổi bị tiểu đường type II và cao huyết áp.
Nghiện thuốc lá (> 20 điếu/ngày): không có. Béo phì: không có.
- Nguyên nhân gây khuyết hổng (n = 33):
+ Chấn thương: 17 BN
(Tai nạn giao thông - TNGT: 14 BN, tai nạn lao động - TNLĐ: 3 BN)
+ Di chứng vết thương khỏa khí (VTHK): 9 BN
(Gây viêm xương, rò mủ và sẹo xấu ở phần mềm; Vị trí: 1/3D xương
chày: 4 BN, xương gót: 2 BN, xương tụ cốt - đốt bàn chân: 3 BN)
+ Sau cắt khối u: 4 BN
(1 u tế bào Schwann ở gan bàn chân; 1 u xương sụn xương đốt bàn chân IV, V; 1 u xơ xâm lấn (Aggressive Fibromatosis) ở gan bàn chân gây tổn thương xương đốt bàn II, III, IV; 1 u tế bào khổng lồ ở xương chêm).
+ Viêm xương tủy xương (VXTX) đường máu mạn tính: 3 BN
(3 VXTX đường máu mạn tính ở 1/3 dưới xương chày, rò mủ).
- Vị trí (n = 33):
+ 1/3 giữa (1/3G) cẳng chân: 3 BN.
+ 1/3 dưới (1/3D) cẳng chân: 18 BN.
+ Cổ chân: 3 BN.
+ Mu bàn chân: 3 BN.
+ Gót chân: 4 BN.
+ Gan bàn chân: 2 BN.
- Tổn thương giải phẫu (n= 33):
+ KHPM (đều lộ gân, xương): 4 BN (1 ở gan bàn chân, 3 ở cẳng chân).
+ KHX: 11 BN (7 ở xương chày, 2 ở xương gót, 1 ở xương đốt bàn
chân, 1 ở xương tụ cốt cổ chân).
+ KHPH: 18 BN (KHPM có kèm theo khuyết hổng ở xương chày: 11
BN, kèm theo khuyết hổng xương gót: 3 BN, kèm theo khuyết hổng xương
đốt bàn chân: 2 BN, kèm theo khuyết hổng xương tụ cốt bàn chân: 2 BN).
65
- Phẫu thuật tạo hình thất bại trước khi chuyển cơ, da cơ thon:
Chuyển vạt hiển điều trị KHPM vùng củ gót: 1 BN
- Tình trạng nhiễm khuẩn tại khuyết hổng khi chuyển vạt (n= 33):
+ Cấp tính: không có
+ Bán cấp tính: 18 BN.
Cấy khuẩn dịch vết thương của 12/18 BN, khuẩn mọc ở 9/12 BN
(P.aeruginosa: 5 BN, S.aureus: 2 BN, E.Coli: 1 BN, Acinetobacter: 1 BN).
+ Mạn tính: 14 BN.
Cấy khuẩn dịch vết thương của 10/14 BN, khuẩn mọc ở 5/10 bệnh
phẩm (P.aeruginosa: 3 BN, S.aureus: 2 BN).
+ Vô khuẩn: 1 BN (1 u xương sụn khổng lồ xương đốt bàn chân IV, V
được cắt u và trám độn cơ thon trong 1 lần mổ).
- Phẫu thuật chuẩn bị trước khi chuyển vạt cơ, da cơ thon:
Cắt lọc tổ chức hoại tử (phần mềm hoại tử hoặc xương chết) hoặc tổ
chức u và đặt VAC: 17/33 khuyết hổng (3 KHPM, 12 KHPH, 2 KHX).
3.2.2. Kết quả phẫu thuật
3.2.2.1. Kết quả bóc vạt
Tất cả 34 vạt gồm 18 vạt cơ và 16 vạt da cơ thon đều được bóc tách an
toàn (1 BN được chuyển vạt da cơ thon lần 2 nên tổng số vạt là 34).
3.2.2.2. Kết quả chuyển vạt
- Sự sống của vạt (n = 34):
+ Vạt sống hoàn toàn: 32/34 vạt (94%), gồm 18 vạt cơ và 14 vạt da cơ.
+ Hoại tử toàn bộ: 1/34 vạt (3%), đây là vạt da cơ thon được dùng để
trám độn và che phủ KHPH vùng 1/3 dưới cẳng chân, phải tháo bỏ vạt.
+ Hoại tử một phần: 1/34 (3%), đây là vạt da cơ thon được chuyển lần
2 để trám độn và che phủ KHPH vùng 1/3 dưới cẳng chân sau chuyển lần đầu
bị thất bại. Phần hoại tử là lớp da, nhưng toàn bộ vạt cơ sống hoàn toàn, được
xử trí bằng ghép da xẻ đôi trên cơ, kết quả là làm liền tổn thương.
66
- Biến chứng tắc mạch và kết quả xử trí: 3 BN
+ Tắc ĐM: 1 BN, đây là trường hợp chuyển cơ thon điều trị KHX ở
1/3D xương chày do viêm xương tủy xương đường máu; mạch nuôi là bó
mạch chày sau, tắc ĐM được phát hiện vào giờ thứ 4 sau mổ, xử trí bằng cắt
bỏ mối nối bị tắc, bơm rửa và nối lại, kết quả là vạt sống hoàn toàn, tổn
thương liền kỳ đầu và ổn định.
+ Tắc TM: 1 BN, đây là trường hợp chuyển cơ thon điều trị KHPH ở
1/3D cẳng chân do TNGT; mạch nuôi là bó mạch chày trước, tắc TM được
phát hiện vào giờ thứ 4 sau mổ, xử trí bằng cắt bỏ mối nối bị tắc, bơm rửa và
nối lại 2 TM, kết quả là vạt sống hoàn toàn, tổn thương liền kỳ đầu và ổn định.
+ Tắc ĐM và TM: 1 BN, đây là trường hợp chuyển vạt da cơ thon điều
trị KHPM lớn 1/3D cẳng chân. Do phát hiện tắc mạch muộn (sau mổ 18 giờ)
nên không còn khả năng xử trí để cứu vạt, phải tháo bỏ vạt và sau đó 5 ngày
được chuyển vạt da cơ thon lần 2, kết quả là tổn thương liền ổn định.
3 trường hợp này sẽ được minh họa và phân tích về nguyên nhân gây
biến chứng.
- Đánh giá những yếu tố liên quan tới kết quả chuyển vạt:
Bảng 3.7. Liên quan giữa nguyên nhân và kết quả chuyển vạt (n =34)
Kết quả
Nguyên nhân gây khuyết hổng
Cộng Chấn
thương VTHK
VXTX đường
máu Sau cắt u
Sống hoàn toàn 16 9 3 4 32
Hoại tử toàn bộ 1 1
Hoại tử một phần 1 1
Cộng 18 9 3 4 34
(1 BN có khuyết hổng do chấn thương được chuyển vạt 2 lần)
Bảng 3.7 cho thấy 1 vạt hoại tử hoàn toàn và 1 hoại tử một phần là
trường hợp chuyển vạt điều trị khuyết hổng nguyên nhân chấn thương. So
sánh kết quả chuyển vạt giữa 4 nhóm thấy sự khác biệt không có ý nghĩa
thống kê (p > 0,05 với kiểm định Fisher,s exact test).
67
Bảng 3.8. Liên quan giữa vị trí khuyết hổng và kết quả chuyển vạt (n =34)
Kết quả
Vị trí khuyết hổng
Cộng 1/3G
cẳng chân
1/3D
cẳng chân
Cổ
chân
Mu
chân
Gót
chân
Gan
chân
Sống hoàn
toàn
Vạt cơ 1 10 3 1 3 18
Da cơ 2 7 2 1 2 14
Hoại tử
toàn bộ
Vạt cơ
Da cơ 1 1
Hoại tử
một phần
Vạt cơ
Da cơ 1 1
Cộng 3 19 3 3 4 2 34
(1 BN có khuyết hổng ở 1/3D được chuyển vạt 2 lần)
Bảng 3.8 cho thấy 1 vạt da cơ thon bị hoại tử toàn bộ và 1 vạt da cơ
thon bị hoại tử một phần (hoại tử lớp da) khi sử dụng để điều trị khuyết hổng
ở 1/3D cẳng chân. So sánh kết quả chuyển vạt giữa 6 nhóm thấy sự khác biệt
không có ý nghĩa thống kê (p >0,05 với kiểm định Fisher,s exact test).
Bảng 3.9. Liên quan giữa tổn thương giải phẫu và kết quả chuyển vạt (n =34)
Kết quả
Tổn thương giải phẫu
Cộng KHPM KHX KHPH
Sống hoàn toàn 3 11 18 32
Hoại tử toàn bộ 1 1
Hoại tử một phần 1 1
Cộng 5 11 18 34
(1 BN có KHPM được chuyển vạt 2 lần)
Bảng 3.9 cho thấy trường hợp vạt bị hoại tử toàn bộ và một phần gặp
trong điều trị KHPM. So sánh kết quả chuyển vạt giữa 3 nhóm thấy sự khác
biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05 với kiểm định Fisher,s exact test).
68
Bảng 3.10. Liên quan giữa mạch nuôi tại vùng nhận và kết quả chuyển vạt
(n=34)
Kết quả
Mạch nuôi tại vùng nhận
Cộng Chày
trước
Chày
sau
Gan chân
trong
Mu
chân
Ống
gót
Cơ
dép
Lưu thông ĐM và TM 9 11 1 6 3 1 31
Tắc ĐM 1 1
Tắc TM 1 1
Tắc ĐM và TM 1 1
Cộng 11 12 1 6 3 1 34
Bảng 3.10 cho thấy có 6 bó mạch khác nhau ở vùng cẳng - bàn chân
được sử dụng. Gặp 3 vạt có biến chứng tắc mạch. Trong đó, 1 vạt bị tắc mối
nối ĐM (mạch nuôi là ĐM chày sau),1 vạt bị tắc mối nối TM (2 TM dẫn lưu
là tùy hành của ĐM chày trước),1 vạt bị biến chứng tắc ĐM và TM. So sánh
tỷ lệ tắc mạch ở 6 nhóm thấy sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05
với Fisher,s exact test).
Bảng 3.11. Liên quan giữa nhiễm khuẩn tại khuyết hổng và kết quả chuyển
vạt (n =34)
Kết quả chuyển vạt
Nhiễm khuẩn tại khuyết hổng
Cộng Bán cấp Mạn tính Vô khuẩn
Sống hoàn toàn 17 14 1 32
Hoại tử toàn bộ 1 1
Hoại tử một phần 1 1
Cộng 19 14 1 34
(1 BN có khuyết hổng nhiễm khuẩn bán cấp được chuyển vạt 2 lần)
Bảng 3.11 cho thấy 2 vạt có biến chứng (hoại tử toàn bộ khi chuyển lần
đầu và hoại tử lớp da khi chyển vạt lần 2) là những trường hợp chuyển vạt
điều trị khuyết hổng bị nhiễm khuẩn bán cấp. So sánh kết quả chuyển vạt giữa
3 nhóm thấy sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05 với Fisher,s
exact test).
69
Bảng 3.12. Liên quan giữa chủng vi khuẩn và kết quả chuyển vạt (n = 15)
Kết quả
Nhiễm
khuẩn
Chủng vi khuẩn tại khuyết hổng
Cộng P.aeruginosa S. aureus E.coli Acinetobacter
Sống hoàn
toàn
Bán cấp 4 3 1 8
Mạn tính 3 1 1 5
Hoại tử
một phần
Bán cấp 1 1
Mạn tính
Hoại tử
toàn bộ
Bán cấp 1 1
Mạn tính
Cộng 9 4 1 1 15
Bảng 3.12 cho thấy có 1 vạt hoại tử toàn toàn bộ và 1 vạt hoại tử một
phần, hai biến chứng này xảy ra ở 1 khuyết hổng bị nhiễm P.aeruginosa. So
sánh kết quả chuyển vạt giữa 4 nhóm chủng vi khuẩn tại khuyết hổng thấy sự
khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p= 0,42 với Fisher,s exact test).
3.2.2.3. Tình trạng nhiễm khuẩn và thời gian điều trị sau chuyển vạt
Bảng 3.13. Tình trạng nhiễm khuẩn và thời gian điều trị nội trú (n = 33)
Tình trạng nhiễm khuẩn
Số ngày điều trị nội trú sau chuyển vạt
X ± SD
Kruskal-Wallis test
Bán cấp: 18
Cấy khuẩn: 12
Khuẩn mọc: 9
P.aeruginosa (5) 11-12-14-22-28 17,4 ± 7,3
21,5 ± 4,9
18,0 ± 0
20 ± 0
18,7 ± 9,0
17,8 ± 5,2
P = 0,56
S. aureus (2) 18-25
Acinetobacter (1) 18
E.coli (1) 20
Âm tính (3) 13-14-29
Không cấy (6) 14-14-15-16-21-27
Ngày điều trị nội trú của nhóm X ± SD = 18,4 ± 5,76
Mạn tính: 14
Cấy khuẩn: 10
Khuẩn mọc: 5
P.aeruginosa (3) 10-15-29 18,0 ± 9,8
26,5 ± 2,1
18,4 ± 5,5
13 ± 0,8
P = 0,28 S. aureus (2) 25-28
Âm tính (5) 10-18-18-21-25
Không cấy (4) 12-13-13-14
Ngày điều trị nội trú của nhóm X ± SD = 17,92 ± 6,60
Vô khuẩn: 1 21 X ± SD = 21 ± 0
70
Bảng 3.13 cho thấy: Ở nhóm nhiễm khuẩn bán cấp tính, số ngày điều
trị nội trú sau chuyển vạt là 18,4 ngày (11 - 29 ngày), số ngày điều trị trung
bình ở nhóm có khuẩn mọc, không mọc và 4 nhóm chủng vi khuẩn nêu trên
khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p = 0,56). Ở nhóm nhiễm khuẩn mạn
tính cũng có kết quả tương tự (p = 0,28). Số ngày điều trị trung bình giữa 3
nhóm khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p= 0,749).
3.2.2.3. Kết quả điều trị khuyết hổng
- Thời gian theo dõi đánh giá kết quả điều trị:
Bảng 3.14. Thời gian theo dõi để đánh giá kết quả cuối cùng (n= 33)
Năm phẫu thuật và số BN Thời gian theo dõi lâu nhất và số BN X
2009: 7 BN 3 tháng: 1 BN, > 5 năm: 6 BN
39,3 ±
1,2 tháng
2010: 9 BN 3 tháng: 1 BN, > 2 năm: 1 BN, > 4 năm: 7 BN
2011: 6 BN > 3 năm: 2 BN, > 4 năm: 4 BN
2012: 1 BN 3 năm: 1 BN
2013: 3 BN > 18 tháng: 2 BN, >2 năm: 1 BN
Tháng 1- 8/2014: 7 BN > 6 tháng: 4 BN, > 1 năm: 3 BN
Bảng 3.14 cho thấy thời gian theo dõi sau mổ trung bình là 39,3 tháng (3
tháng - ≥ 5 năm). Trong số BN được phẫu thuật năm 2009 và 2010, 2 BN chỉ
có kết quả sau mổ 3 tháng vì không liên hệ được (BN minh họa số 1) và (BN số
18, phần phụ lục).
- Những biến chứng và can thiệp bổ sung:
+ Viêm rò tại vùng nhận: 1 BN.
Đây là BN có KHPM gây lộ đoạn gãy trung gian 1/3 D xương chày,
được lấy bỏ đoạn xương bị chết và trám độn - che phủ khuyết hổng bằng vạt da
cơ thon, vết mổ liền kỳ đầu. Sau mổ 2 tháng, xuất hiện rò mủ tại vùng nhận do
có xương chết ở đầu ngoại vi xương chày, được phẫu thuật cắt xương chết. Sau
xử trí 21 ngày, tổn thương liền. Sau đó, BN được xử trí mất đoạn xương chày
7 cm bằng kết xương căng dãn và nén ép theo nguyên lý Ilizarov.
71
+ Thu gọn vạt: 1 BN. (1 BN khác có vạt to xù nhưng không đồng ý thu
gọn vạt, đó là BN số 28 - Phần phụ lục).
+ Ghép xương mào chậu để làm liền ổ gãy 1/3D xương chày: 2 BN
+ Kết xương căng giãn và nén ép theo nguyên lý Ilizarov để giải quyết
mất đoạn xương chày: 2 BN
- Kết quả điều trị (n = 33):
+ Tốt: 32/33 BN (97%).
+ Vừa: 1/33 BN (3%) - (BN số 28, phần Phụ lục).
+ Xấu: Không có
(Kết quả điều trị cuối cùng của 33 BN được trình bày trong phần minh
họa kết quả và tổng hợp đầy đủ trong phần Phụ lục).
- Kết quả điều trị và những yếu tố liên quan:
Bảng 3.15. Liên quan giữa kết quả điều trị và nguyên nhân (n =33)
Kết quả
Nguyên nhân Cộng
Chấn thương VTHK VXTX đường máu Sau cắt u
Tốt 17 8 3 4 32
Vừa 1 1
Xấu 0
Cộng 17 9 3 4 33
Bảng 3.15 cho thấy kết quả điều trị giữa 3 nhóm nguyên nhân khác biệt
không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05 với Fisher,s exact test).
Bảng 3.16. Liên quan giữa kết quả điều trị và vị trí khuyết hổng (n= 33)
Kết quả
Vị trí
Cộng 1/3G
cẳng chân
1/3D
cẳng chân
Cổ chân Mu chân Gót chân Gan
chân
Tốt 3 18 3 2 4 2 32
Vừa 1 1
Xấu 0
Cộng 3 18 3 2 5 2 33
Bảng 3.16 cho thấy kết quả điều trị giữa 6 nhóm vị trí khuyết hổng
khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05 với Fisher,s exact test).
72
Bảng 3.17. Liên quan giữa kết quả điều trị và tổn thương giải phẫu (n =33)
Kết quả
Tổn thương giải phẫu
Cộng KHPM KHX KHPH
Tốt 4 11 17 32
Vừa 1 1
Xấu 0
Cộng 4 11 18 33
Bảng 3.17 cho thấy kết quả điều trị giữa 3 nhóm tổn thương giải phẫu
khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05 với Fisher,s exact test).
Bảng 3.18. Liên quan giữa kết quả điều trị và nhiễm khuẩn nơi nhận (n =33).
Kết quả
Tình trạng nhiễm khuẩn tại nơi nhận
Cộng Bán cấp Mạn tính Vô khuẩn
Tốt 17 14 1 32
Vừa 1 1
Xấu 0
Cộng 17 15 1 33
Bảng 3.18 cho thấy kết quả điều trị giữa 3 nhóm tình trạng nhiễm
khuẩn tại nơi nhận khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05 với
Fisher,s exact test).
Bảng 3.19. Loét vạt và liên quan với vị trí tổn thương (n =33).
Tình trạng loét
vạt
Vị trí nhận Cộng
1/3G cẳng
chân
1/3D cẳng
chân
Cổ
chân
Mu bàn
chân
Gót
chân
Gan
chân
Không
loét
Cơ 2 10 2 1 5 20
Da - cơ 1 8 1 1 2 13
Loét vạt Cơ
Da - cơ
Cộng 3 18 3 2 5 2 33
Bảng 3.19 cho thấy không gặp trường hợp nào loét vạt cơ hoặc da cơ
thon sau tạo hình ở khu vực cẳng chân và bàn chân.
73
- Kết quả thẩm mỹ và liên quan với vị trí tổn thương
Bảng 3.20. Kết quả thẩm mỹ và liên quan với vị trí tổn thương (n =33).
Kết quả
Vị trí nhận
Cộng 1/3G cẳng
chân
1/3D cẳng
chân
Cổ
chân
Mu
chân
Gót
chân
Gan
chân
Vạt bằng phẳng với
xung quanh
3 18 3 2 4 2 32
Vạt to xù, có chỉ
định thu gọn
1 1
Cộng 3 18 3 3 4 2 33
Bảng 3.20 cho thấy 31 vạt bằng phẳng với xung quanh, đạt yêu cầu về
thẩm mỹ. Có 1 vạt to xù và có chỉ định thu gọn (BN số 28 - Phần phụ lục).
3.2.2.4. Ảnh hưởng tại nơi cho vạt
- Sẹo dãn: 3/15 BN được lấy vạt da cơ.
- Sẹo xù: 1 BN
- Sẹo lồi: không có
- Ngứa tại sẹo: không có
- Rối loạn cảm giác vùng TK bịt chi phối: không có
- Giảm lực khép đùi: không có (theo chủ quan của BN)
74
BỆNH NHÂN MINH HỌA KẾT QUẢ
Xử trí biến chứng tắc mạch, thất bại (3 BN):
BN số 1: Vũ Thị D., 23 tuổi. Vào viện: 30/6/2009. Bệnh án số: 11237
Ngày 23/6/2009, bị TNGT gây gãy hở độ IIIB 1/3D 2 xương cẳng chân
trái, được điều trị tại bệnh viện tuyến trung ương ở Hà Nội nhưng không khỏi.
Ngày 30/6/2009, vào điều trị tại Bệnh viện TƯQĐ 108 với chẩn đoán:
KHPM và viêm ổ gãy 1/3D xương chày trái do chấn thương tháng thứ nhất.
Ngày 02/7/2009, được phẫu thuật cắt lọc tổ chức hoại tử và đặt VAC.
Ngày 07/7/2009, được đục bạt bề mặt thành xương bị viêm và lấy tổ
chức viêm trong ống tủy xương chày. Sau xử trí, để lại KHX dài 10 cm x rộng
5 cm và sâu 2,5 cm. Bệnh nhân được chuyển cơ thon để trám KHX và tạo
hình phần mềm. Cuống vạt được nối vào bó mạch chày trước kiểu tận - tận.
Sau mổ, vạt được cấp máu tốt, cơ có màu hồng như bình thường. Tuy nhiên,
sau mổ 4 giờ, thấy cơ sẫm màu và có máu đen chảy từ mép vạt, được xác định
là tắc TM. Ngay sau đó, BN được phẫu thuật xử trí tắc mạch. Khi kiểm tra
thấy 2 mối nối TM đều bị tắc do gập mạch vì mạch quá dài. Sau khi cắt bỏ 2
mối nối, bơm rửa lòng TM và nối lại thì cơ hồng lại như bình thường. Sau đó,
dùng liệu pháp VAC chuẩn bị cho ghép da.
- Ngày 13/7/2009, thực hiện ghép da mỏng che phủ cơ. Kết quả là tổn
thương liền kỳ đầu, BN ra viện ngày 21/7/2009 (sau chuyển cơ thon 14 ngày).
Kiểm tra sau mổ 5 năm 10 tháng cho thấy tổn thương liền ổn định, BN đi lại
bình thường, vạt không trợt loét, nơi lấy vạt không có diễn biến gì đặc biệt.
Nhận xét: Đây là KHPH vùng 1/3D cẳng chân do gãy xương hở độ
IIIB, không có chỉ định sử dụng cơ sinh đôi. Nguyên nhân gây tắc TM là do
mạch dài gây gập TM. Việc phát hiện và xử trí tắc mạch kịp thời đã cứu được
vạt, tổn thương liền kỳ đầu và ổn định, kết quả điều trị đạt loại tốt.
75
A B C D E
F G H I
Hình 3.6. BN Vũ Thị D., 23T, bị KHPM và viêm ổ gãy 1/3D xương chày trái
do di chứng chấn thương
A, B: Lâm sàng và X.quang trước chuyển vạt. C: Vạt sau khi chuyển. D: Vạt sẫm màu do tắc TM sau mổ 4 giờ. E: Xử trí tắc TM thành công, cứu được vạt, ghép da lưới sau đó 6 ngày. F, G, H, I: Lâm sàng và X.quang sau mổ 5 năm 10 tháng.
BN số 2: Hoàng Văn Tr., 25 tuổi. Vào viện: 05/8/2009. Bệnh án số: 6864
Bệnh nhân bị VXTX đường máu vùng 1/3D xương chày trái từ năm 9
tuổi, được điều trị trong nhiều năm do bệnh tái phát bằng thuốc kháng sinh.
Tháng 6/2009, tại chỗ sưng - nóng - đỏ - đau, sau đó chảy dịch mủ.
Ngày 05/8/2009, vào điều trị tại Bệnh viện TƯQĐ 108 với chẩn đoán:
VXTX đường máu 1/3D xương chày trái mạn tính, rò mủ. Kết quả cấy khuẩn
dịch vết thương: âm tính.
Ngày 19/8/2009, được mở cửa sổ xương chày, lấy xương chết và xương
viêm, KHX được trám bằng cơ thon, cuống mạch vạt được nối vào bó mạch
chày sau, để ngỏ cơ. Sau phẫu thuật 4 giờ, phát hiện thấy cơ nhợt màu, nghe
76
không thấy có mạch nên được xác định là tắc ĐM. Ngay sau đó, BN được phẫu
thuật để xử trí tắc mạch. Khi kiểm tra, thấy mối nối ĐM bị tắc trong khi 2 mối
nối TM vẫn thông. Sau khi cắt mối nối, bơm rửa lòng ĐM và nối lại thì cơ
được cấp máu tốt. Sau đó, dùng liệu pháp VAC chuẩn bị cho ghép da.
Ngày 27/8/2009, BN được ghép da che phủ cơ. Kết quả là tổn thương
liền kỳ đầu, ra viện ngày 07/9/2009 (sau chuyển cơ thon 18 ngày). Kiểm tra
kết quả vào tháng 6/2015 thấy tổn thương liền ổn định, vạt bằng phẳng với
xung quanh, BN đi lại bình thường, không để lại ảnh hưởng tại nơi cho vạt.
Nhận xét: Đây là KHX do VXTX đường máu, không có chỉ định sử
dụng vạt cơ cuống liền hoặc chéo chân. Nguyên nhân gây tắc ĐM là lỗi về kỹ
thuật khâu mạch. Việc phát hiện và xử trí tắc ĐM kịp thời đã cứu được vạt,
tổn thương liền kỳ đầu và ổn định, kết quả điều trị đạt loại tốt.
A B C D
E F G H Hình 3.7. BN Hoàng Văn Tr., 25 T, VXTX đường máu 1/3D xương chày trái, rò mủ.
A, B: Lâm sàng và X.quang trước mổ. C: Ảnh trong mổ. D: Ghép da sau 5 ngày. E, F, G,H: Lâm sàng và X.quang sau mổ 5 năm 9 tháng
77
BN số 3: Ngô Văn Th., 28 tuổi. Vào viện: 7/12/2009. Bệnh án số: 12012.
Ngày 23/11/2009, bị TNLĐ gây gãy hở độ IIIB 1/3G giáp 1/3D 2 xương
cẳng chân phải, được điều trị tại bệnh viện tỉnh nhưng không thành công.
Ngày 07/12/2009, vào Bệnh viện TƯQĐ 108 điều trị với chẩn đoán:
KHPM, lộ ổ gãy xương chày do TNLĐ, ngày thứ 14. Cấy khuẩn dịch vết
thương 08/12/2009 thấy có P.aeruginosa. Ngày 11/12, được cắt bằng 2 đầu
xương, đặt cố định ngoài ép sát 2 đầu gãy (ngắn xương 2,5 cm), đặt VAC.
Ngày 23/12/2009, được chuyển vạt da cơ thon lấy ở đùi trái. Cuống vạt
được nối tận - tận vào bó mạch chày trước. Sau nối mạch, ĐM không đập,
được xử trí bằng nhỏ Papaverin và đắp gạc nhúng nước muối ấm 9%o. Sau 15
phút, thấy vạt được cấp máu nhưng yếu, cơ không hồng, da có hồi lưu mao
mạch nhưng kém. Tình trạng này được cho là co thắt mạch nên đóng vết mổ.
Theo dõi sau mổ thấy hồi lưu mao mạch kém dần, nghe mạch bằng siêu âm
Doppler ban đầu thấy có nhưng yếu. Kiểm tra lần cuối (18 giờ sau mổ) thấy
da không có hồi lưu mao mạch, nghe không thấy có mạch. Khi cắt chỉ, thấy
cơ thon đã chết (nhợt màu, phù nề, kích thích điện không thấy co cơ) nên tháo
bỏ vạt, kiểm tra thấy bó mạch chày trước nằm sát sau đinh Steinmann và bị
tắc, bóc tách và kiểm tra ĐM cao hơn thấy thành mạch viêm dày. Bệnh nhân
được dùng kháng sinh: Suprapime 2g/24 + Amikacin 0,5g/ngày, trong 5 ngày
(23 - 27/12) và liệu pháp VAC.
Ngày 28/12/2009, BN được chuyển vạt da cơ thon lần thứ 2 (lấy ở đùi
phải). Cuống mạch của vạt được nối tận - tận vào ĐM và 1 TM cơ dép và 1
TM tùy hành ĐM chày sau. Sau mổ, vạt cơ sống tốt nhưng vạt da bị hoại tử
nên phải cắt bỏ da. Vết thương được chăm sóc bằng liệu pháp VAC, cấy
khuẩn dịch vết thương ngày 03/01/2010 vẫn có trực khuẩn P.aeruginosa và
BN được dùng kháng sinh Suprapime 2g/24 + Amikacin 0,5g/ngày, trong 10
ngày. Ngày 11/1/2010, được ghép da xẻ đôi che phủ cơ. Kết quả là khuyết
78
hổng liền, BN ra viện ngày 25/01/2010 sau chuyển vạt lần hai 27 ngày. Kết
quả sau cùng là tổn thương liền ổn định, xương liền tốt.
Nhận xét: Với tổn thương này, không có chỉ định sử dụng cơ sinh đôi
hoặc cơ dép. Nguyên nhân thất bại trong chuyển vạt lần đầu sẽ được phân tích
trong phần bàn luận. Với chuyển vạt lần hai, tuy vạt da bị hoại tử nhưng cơ
thon sống hoàn toàn, làm liền tổn thương, kết quả sau cùng đạt loại tốt.
A B C
D E F
Hình 3.8. BN Ngô Văn Th., 28 tuổi, bị KHPM gây lộ ổ gãy xương chày phải
A: Trước khi chuyển vạt. B,C: Trong mổ chuyển vạt da cơ thon lần đầu. D:Trước khi chuyển vạt lần hai. E: Vạt da bị hoại tử. F: Sau ghép da che phủ cơ thon.
79
Điều trị KHPM lớn kèm theo viêm khuyết xương chày:
BN số 4: Hà Văn N., 17 tuổi. Vào viện: 18/5/2010. Bệnh án số: 3922
Ngày 21/10/2009, BN bị TNGT gây gãy kín 1/3G xương đùi và 1/3G 2
xương cẳng chân - chân phải, được bệnh viện tỉnh kết xương đùi và xương
chày bằng đinh nội tủy. Sau mổ, cẳng chân phải bị viêm rò kéo dài, được trám
cơ sinh đôi trong nhưng không khỏi.
Ngày 18/5/2010, vào điều trị tại Bệnh viện TƯQĐ 108 với chẩn đoán:
Viêm rò ổ gãy đang liền ở 1/3G xương chày phải do TNGT, còn đinh nội tủy
xương chày, sau kết xương tháng thứ 7. Cấy khuẩn dịch viêm rò ngày
19/5/2010 thấy có S.aureus đã kháng hầu hết các loại kháng sinh. Ngày
25/5/2010, được tháo đinh nội tủy, lấy xương chết, đặt hệ thống VAC.
Ngày 3/6/2010, được trám độn và che phủ khuyết hổng bằng vạt da cơ
thon (kích thước vạt da: 20 x 8 cm, cơ dài 25 cm), cuống vạt được nối tận -
tận vào bó mạch chày trước. Sau mổ, tổn thương liền kỳ đầu, BN ra viện ngày
21/6/2010 (sau chuyển vạt 18 ngày). Kiểm tra sau 2 năm thấy tổn thương liền
ổn định, chức năng chi thể phục hồi, đạt yêu cầu về thẩm mỹ.
Nhận xét: Tổn thương là KHPM lớn kèm theo viêm khuyết xương
chày, bị nhiễm khuẩn bán cấp tính bởi S.aureus. Vạt cơ sinh đôi hoặc cơ dép
không đáp ứng yêu cầu điều trị. Việc chuyển vạt da cơ thon đã làm liền tổn
thương kỳ đầu và ổn định, phục hồi chức năng chi thể và đảm bảo thẩm mĩ,
kết quả điều trị đạt loại tốt.
A B C D E
80
F G H I J Hình 3.9. BN Hà Văn N., bị viêm rò ổ gãy xương 1/3G xương chày phải
A: X.quang khi vào viện. B: X.quang sau xử trí ổ viêm xương. C: Vết thương trước khi chuyển vạt da cơ thon. D, E: Ảnh trong mổ chuyển vạt. F: Vết mổ liền kỳ đầu. G, H, I, J: Kết quả lâm sàng và X.quang sau mổ 2 năm
Điều trị KHPM lớn kèm theo mất đoạn xương chày:
BN số 5: Ng.Văn Q, 37 tuổi. Vào viện: 13/01/2010. Số bệnh án: 321
Ngày 22/12/2009, bị TNGT gây gãy hở độ II 1/3D xương chày trái.
Được điều trị tại bệnh viện tỉnh nhưng không thành công.
Ngày 13/01/2010, vào điều trị tại Bệnh viện TƯQĐ 108 với chẩn đoán:
KHPM lộ ổ gãy xương chày, còn phương tiện kết xương.
Ngày 16/01/2010, được phẫu thuật lấy xương chết, cắt bằng 2 đầu
xương (mất đoạn xương 5 cm), trám KHX và tạo hình phần mềm bằng vạt da
cơ thon (kích thước vạt da: 15 x 10 cm, cơ dài 20 cm). Cuống vạt được nối
tận - tận vào bó mạch chày trước. Sau mổ 24 giờ, vạt da nề và tím nhẹ ở đỉnh
vạt, được xử trí bằng cắt một số mũi chỉ khâu da để chống căng. Những ngày
sau, vạt da hồng trở lại, tổn thương liền kỳ đầu, ra viện ngày 02/2/2010 (sau
mổ 16 ngày).
4/2010, vào Bệnh viện TƯQĐ 108 điều trị lần 2 với chẩn đoán: Mất
đoạn xương chày 5 cm, KHPM sau tạo hình bằng vạt da cơ thon liền ổn định,
tháng thứ 3. Được điều trị mất đoạn xương bằng kết xương căng dãn và nén
ép theo nguyên lý Ilizarov. Kiểm tra ngày 27/5/2015 (sau mổ 4,5 năm) thấy:
tổn thương liền ổn định, xương chày liền vững, BN đi lại bình thường.
81
Nhận xét: Tổn thương là KHPH, không có chỉ định sử dụng vạt cuống
liền ở cẳng chân. Việc chuyển vạt da cơ thon đã làm liền khuyết hổng ổn
định, đảm bảo cho điều trị mất đoạn xương tiếp theo. Kết quả điều trị sau
cùng đạt loại tốt.
A B C D E F
G H I J K
Hình 3.10. BN Nguyễn Văn Q., bị KHPM lộ ổ gãy phức tạp xương chày
A, B: Lâm sàng và X.quang trước chuyển vạt da cơ thon. C, D, E, F: Hình KHPH và kết quả chuyển vạt da cơ thon. G: Mất đoạn xương 5 cm. H: Kết xương căng dãn và nén ép. I, J, K: X.quang và lâm sàng sau 4,5 năm
Điều trị KHPH ở vùng cổ chân:
BN số 6: Nguyễn Văn T., 37 tuổi. Vào viện: 11/5/2011. Số bệnh án: 9772.
Ngày 22/4/2011, bị TNLĐ gây gãy hở xương gót trái, được điều trị tại
bệnh viện tuyến trung ương ở Hà Nội nhưng không khỏi.
Ngày 11/5/2011, vào điều trị tại Bệnh viện TƯQĐ 108 với chẩn đoán:
KHPM mặt ngoài cổ chân trái gây lộ ổ gãy xương gót do chấn thương, ngày thứ
82
17 do TNLĐ. Cấy khuẩn dịch vết thương ngày 12/5/2011 thấy có P.aeruginosa.
Ngày 13/5/2011, được lấy bỏ xương gót bị viêm thối, đặt hệ thống VAC.
Ngày 25/5/2012, được chuyển vạt da cơ thon. Cuống vạt được nối tận -
tận vào bó mạch chày trước. Sau mổ, tổn thương liền kỳ đầu, BN ra viện
ngày 06/6/2011 (sau chuyển vạt 11 ngày). Kiểm tra 5/2015 thấy tổn thương
liền ổn định, đi lại bình thường, đạt thẩm mĩ tại nơi nhận và nơi cho vạt.
Nhận xét: Đây là KHPH, yêu cầu điều trị là trám ổ khuyết xương gót và
tạo hình phần mềm. Vạt da cơ thon tự do đã đáp ứng yêu cầu này. Tuy có nhiễm
khuẩn P.aeruginosa nhưng tổn thương liền kỳ đầu và ổn định. Kết quả điều trị
đạt loại tốt.
A B C D E
F G H
Hình 3.11. BN Nguyễn Văn T., bị KHPM, viêm thối xương gót
A, B: X.quang khi vào viện và sau khi lấy bỏ xương chết ở xương gót. C: Tổn thương trước khi chuyển vạt. D: Thiết kế vạt da cơ thon. E: Kết quả sau mổ chuyển vạt 10 ngày. F, G, H: Kết quả tại nơi nhận và nơi cho vạt sau mổ 36 tháng.
83
Chương 4
BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm giải phẫu mạch máu, thần kinh cơ thon
4.1.1. Cấp máu cho cơ, da cơ thon
4.1.1.1. Cuống chính
- Tính hằng định về sự hiện diện:
Nghiên cứu của chúng tôi ở 40 tiêu bản cho thấy tất cả cơ thon đều có 2
- 5 cuống mạch, trong đó luôn có 1 cuống với đường kính ĐM lớn hơn những
cuống khác, đi vào cơ ở vùng 1/3 trên, đây là cuống chính, tương tự như
nhiều nghiên cứu nghiên khác [44],[77],[90],[134],[137].
Một nghiên cứu thấy có 2 ĐM và gọi nó là cuống đôi hay cuống kép.
Tỷ lệ có cuống đôi trong nghiên cứu của Juricic [77] là 7,7% (4/52 cơ), chúng
tách từ ĐM cơ khép và ĐM mũ đùi trong; trong nghiên cứu của Kappler [80],
tỷ lệ này là 4,4% (1/23 cơ) và ĐM tách đôi tại nguyên ủy của nó từ ĐM đùi
sâu; trong nghiên cứu của Peek [109], tỷ lệ này là 21% (9/43 cơ), tác giả
không đề cập đến nguyên ủy của chúng; trong nghiên cứu của Whitaker
[137], tỷ lệ này là 11,11% (3/27 cơ), cả 2 ĐM này đều tách từ ĐM đùi sâu và
có đường kính như nhau.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 1/40 (2,5%) cuống chính là cuống
đôi, cả 2 ĐM đều xuất phát từ 1 thân chung tách từ ĐM đùi sâu và có đường
kính như nhau (hình 3.4). Trong phẫu thuật cho 33 BN với 34 vạt cơ và da cơ
thon được sử dụng, không gặp trường hợp nào có cuống chính là cuống đôi.
Tuy nhiên, đặc điểm giải phẫu này đặt câu hỏi đối với phẫu thuật viên: Sẽ xử
trí thế nào khi chuyển vạt cơ thon có cuống chính là cuống đôi? Về phần
mình, nếu gặp trường hợp này thì chúng tôi xử trí như sau:
- Trường hợp 2 ĐM cuống chính có thân chung thì lý tưởng nhất là bóc
tách và cắt thân chung sát nguyên ủy để nối chúng vào vùng nhận. Nếu không
84
tiếp cận được tới thân chung hoặc 2 ĐM có nguyên ủy khác nhau như trong
nghiên cứu của Juricic [77] thì chọn ĐM có đường kính lớn để nối.
- Trường hợp 2 ĐM cuống chính có đường kính như nhau và không có
thân chung thì nghiên cứu nối cả 2 ĐM vào vùng nhận với 2 ĐM nuôi khác
nhau hoặc nối 1 ĐM với đầu trung tâm và ĐM còn lại với đầu ngoại vi của 1
ĐM ở vùng nhận (đầu ngoại vi luôn có máu chảy ngược qua vòng nối phía
ngoại vi) vì chưa có nghiên cứu nào chứng minh rằng 1 trong 2 ĐM cuống
đôi này đủ cấp máu cho vạt.
- Nguyên ủy:
Cuống ĐM chính có thể tách từ ĐM mũ đùi trong, hoặc ĐM cơ khép,
hoặc tách trực tiếp từ ĐM đùi sâu, tỷ lệ tách từ những ĐM này khác nhau
giữa các nghiên cứu, cụ thể là:
+ Tỷ lệ tách từ ĐM mũ đùi trong là 100% số trường hợp trong nghiên
cứu của Giordano [63] và Kappler [80], trong những nghiên cứu khác là
19,2% [77], là 13% [90], là 12,5% [44], là 10% [134], là 7,4% [137].
+ Tỷ lệ tách từ ĐM cơ khép là 81,25% số trường hợp trong nghiên cứu
của Coquerel-Beghin [44], là 73% trong nghiên cứu của Juricic [77].
+ Tỷ lệ tách trực tiếp từ ĐM đùi sâu là 92,6% số trường hợp trong
nghiên cứu của Whitaker [137], là 87% trong nghiên cứu của Magden [95] và
trong những nghiên cứu khác là 44% [134], là 6,25% [44].
Trong nghiên cứu của Trần Sinh Vương [28], tỷ lệ cuống chính tách từ
ĐM mũ đùi trong là 44%, từ thân ĐM mũ là 12%, tách trực tiếp từ ĐM đùi
sâu là 24% số trường hợp, số còn lại (20%) tách từ ĐM xuyên. Trong nghiên
cứu của Nguyễn Tài Sơn [20], cuống chính luôn tách từ ĐM đùi sâu (100%).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, căn cứ vào hình minh họa các dạng
nguyên ủy về cuống ĐM chính của Juricic [77] như đã nêu trong mục phương
pháp, kết quả cho thấy: Nguyên ủy cuống ĐM chính là ĐM cơ khép chiếm tỷ
lệ 77,5% (31/40 cơ thon), là ĐM đùi sâu chiếm tỷ lệ 17,5% (7/40 cơ thon),
85
chỉ 5% (2/40 cơ thon) mẫu nghiên cứu có nguyên ủy là ĐM mũ đùi trong.
Như vậy, kết quả của chúng tôi tương tự như của Coquerel-Beghin [44] và
Juricic [77], nhưng khác biệt so với nhiều nghiên cứu khác.
Về vấn đề này, nguyên ủy của cuống chính rất khác nhau giữa nhiều
nghiên cứu của tác giả trong và ngoài nước. Theo chúng tôi, sự khác biệt này
có thể do đặc điểm đối tượng và cỡ mẫu trong mỗi nghiên cứu khác nhau và
cách xác định nguyên ủy trong mỗi nghiên cứu chưa hẳn đã thống nhất. Theo
sách giải phẫu hiện nay, trong hệ thống ĐM đùi sâu thì chỉ một số ĐM có tên
chính thức, đó là: ĐM đùi sâu (deep femoral artery), ĐM mũ đùi ngoài và
trong (lateral/medial circumflex artery of thigh) và các ĐM xuyên
(perforating arteries). Các nhánh mạch cơ không có tên chính thức mà chỉ
được nói đến trong tài liệu về tạo hình, cụ thể ở đây là ĐM cơ khép. Như vậy,
có 2 cách tiếp cận để xác định nguyên ủy cuống ĐM chính. Theo cách tiếp
cận thuần về giải phẫu thì những trường hợp cuống chính tách từ ĐM cơ khép
trong nghiên cứu của chúng tôi cũng thuộc nhóm tách từ ĐM đùi sâu, theo đó
thì tỷ lệ tách từ ĐM đùi sâu sẽ là 95%, tách từ ĐM mũ đùi trong là 5%. Còn
theo cách tiếp cận liên quan tới ứng dụng lâm sàng thì việc xác định cuống
chính tách từ ĐM cơ khép có ý nghĩa như sau: ĐM cơ khép tách những nhánh
cấp máu cho cơ khép dài, khép ngắn, khép lớn và cơ thon (cơ thon cũng thuộc
nhóm cơ khép) nên muốn có cuống mạch vạt cơ thon dài và đường kính lớn
thì phải bộc lộ rồi cắt các nhánh đi vào các cơ khép để tới sát ĐM đùi sâu -
việc làm này khó hơn so với trường hợp nó tách trực tiếp từ ĐM đùi sâu hoặc
từ ĐM mũ đùi trong. Như vậy, với cách tiếp cận này, số liệu về tỷ lệ cuống
chính tách từ ĐM cơ khép giúp cho phẫu thuật viên dự kiến khả năng gặp khó
khi bóc tách vạt.
Trong ứng dụng lâm sàng, với 34 vạt cơ hoặc da cơ thon được sử dụng
thuộc đề tài nghiên cứu, trước tiên chúng tôi đều tìm cuống chính tại vị trí đi
vào cơ, sau đó thì bóc tách về phía nguyên ủy của nó. Trường hợp cuống này
86
tách từ ĐM cơ khép (hầu hết đều tách từ ĐM cơ khép), khi phẫu tích tới nơi
tách các nhánh vào cơ thì luôn rất cẩn thận, bộc lộ thật rõ các nhánh vào cơ
khép rồi thắt và cắt chúng để tới được ĐM đùi sâu mà không gây thủng, rách
cuống mạch, vì nơi tách nhánh này có nhiều mạch máu và lại ở trong sâu.
- Vị trí đi vào cơ:
Trong nghiên cứu của chúng tôi, nơi cuống chính đi vào cơ thon cách
dưới củ mu trung bình là 6,95 cm ở 26 tiêu bản xác bảo quản và 7,96 cm ở 14
tiêu bản xác tươi (bảng 3.1). Ở nghiên cứu khác trong nước, khoảng cách này
là 9,5 cm trong nghiên cứu của Trần Sinh Vương [28], là 9,13 cm trên tiêu
bản xác và 9,22 cm trên BN được phẫu thuật của Nguyễn Tài Sơn [20].
Khoảng cách này cũng khác nhau giữa nhiều nghiên cứu của tác giả
nước ngoài, ví dụ: trung bình là 6 cm trong nghiên cứu của Magden [90], là
8,2 cm trong nghiên cứu của Giordano [63] và trong nghiên cứu khác là 8,63
cm [123], là 9,28 cm [44], là 10 cm [80],[104], là 8 - 13 cm [137], là 9 - 12
cm [109], là 10 - 13 cm [134].
Với kết quả trên, có thể tóm tắt rằng rốn mạch cơ thon cách dưới củ mu
6 - 13 cm. Điều này giúp phẫu thuật viên ước lượng khi thiết kế lấy vạt trước
khi mổ, nhất là khi sử dụng vạt da cơ thon.
- Thành phần:
Trong nhiều nghiên cứu của tác giả nước ngoài, ngoại trừ ĐM thì rất ít
tác giả đề cập đến những thành phần khác trong cuống chính. Điều này có thể
là, theo giải phẫu cơ bản về mạch máu ở chi thể thì 1 ĐM bao giờ cũng có 2
TM tùy hành nên ít tác giả quan tâm. Tuy vậy, Coquerel-Beghin [44], Nguyễn
Tài Sơn [20], Trần Sinh Vương [28] cũng nêu rõ thành phần trong cuống
chính gồm 1 ĐM và 2 TM tùy hành.
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, gặp 3/40 cơ thon (7,5%) với cuống
chính có 1 ĐM và 1 TM, số còn lại đều có 1 ĐM và 2 TM tùy hành. Ở 1
trường hợp cuống đôi, 2 ĐM có 1 thân chung tách từ ĐM đùi sâu và đi kèm
87
với mỗi ĐM có 2 TM, nhưng tới gần nguyên ủy của ĐM thì 2 TM tùy hành
mỗi ĐM hợp thành 1 TM và đổ và TM đùi sâu. Trong lâm sàng, qua phẫu
thuật cho 33 BN với 34 vạt cơ và da cơ thon, chúng tôi đều bóc tách cuống
chính tới sát ĐM đùi sâu, tới đó thì cả 34 cuống vạt đều có 1 ĐM và 2 TM tùy
hành, những mạch này đều được nối vào ĐM và 2 TM ở vùng nhận.
- Chiều dài:
Trong những nghiên cứu về giải phẫu cơ thon, một số ít tác giả có nêu
chiều dài cuống chính. Chiều dài trung bình của cuống này trong nghiên cứu
của Coquerel-Beghin [44] là 7,61 cm, của Whitaker [137] là 5,4 cm, của
Nguyễn Tài Sơn [20] là 6,72 cm và của Trần Sinh Vương [28] là 5,86 cm.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, chiều dài này là 5,91 cm trên xác bảo
quản và 5,75 cm trên xác tươi (bảng 3.1), kết quả này tương tự nhu của
Whitaker và Trần Sinh Vương. Theo chúng tôi, trong chuyển vạt tự do nói
chung và cơ thon nói riêng, độ dài cuống mạch của vạt luôn được quan tâm vì
nó liên quan tới việc đặt mối nối mạch sao cho nằm ngoài vùng tổn thương để
giảm thiểu tối đa nguy cơ tắc mạch. Do vậy, khi chuẩn bị vùng nhận, chúng
tôi căn cứ vào độ dài cuống vạt qua nghiên cứu giải phẫu để chuẩn bị sơ bộ
mạch nuôi, khi bóc tách xong vạt thì phẫu tích bổ sung để xác định vị trí nối
mạch cụ thể dựa trên độ dài thực tế cuống mạch của vạt.
- Đường kính mạch:
Về đường kính mạch máu trong cuống chính, kết quả của chúng tôi như
sau: Đường kính ngoài trung bình của ĐM là 1,67 mm, của TM lớn là 1,93
mm, của TM nhỏ là 1,6 mm (bảng 3.2). Kết quả nghiên cứu về nội dung này
ở 2 công trình trong nước cho thấy: Đường kính ngoài trung bình của ĐM là
1,35 [20],[28], của TM là 1,52 mm [20]. Như vậy, đường kính của ĐM cuống
chính và TM tùy hành trong nghiên cứu của chúng tôi đều lớn hơn so với
trong nghiên cứu của Trần Sinh Vương và Nguyễn Tài Sơn. Giải thích về
điều này, đó có thể do sự không đồng nhất về đối tượng nghiên cứu.
88
Theo y văn nước ngoài, hầu hết các nghiên cứu đều đề cập đến đường
kính ĐM và TM của cuống chính. Tuy nhiên, có nghiên cứu xác định đường
kính ĐM qua phẫu tích trên xác, và nêu vị trí đo sát ĐM đùi sâu nhưng không
nêu đây là đường kính ngoài hay đường kính trong [44], nhưng nhiều nghiên
cứu không nêu vị trí đo và cũng không nêu đó là đường kính ngoài hay đường
kính trong [63],[90],[104],[137]. Có nghiên cứu đo đường kính trong của ĐM
trên xác [123], có nghiên cứu đo đường kính trong của ĐM dựa trên phim
chụp CT angiography ở BN [134], nhưng không nêu rõ vị trí đo. Ngoài ra,
cách trình bày kết quả cũng khác nhau, có nghiên cứu nêu số đo tối thiểu - tối
đa, có nghiên cứu nêu số trung bình nên việc so sánh kết quả giữa những
nghiên cứu này để tìm sự khác biệt hoặc tương đồng là không thể. Về TM, có
một số ít tác giả đề cập, đường kính của TM lớn là 1,52 ± 0,43 mm [123]
(không rõ vị trí đo và đây là đường kính ngoài hay trong), là 1,4 mm (0,6 - 2,7
mm) [44] (đo sát TM đùi sâu nhưng không rõ đây là của TM lớn hay nhỏ, là
đường kính ngoài hay đường kính trong)...
Với cách diễn đạt và trình bày kết quả nêu trên, chúng tôi thấy không
thể đối chiếu kết quả nghiên cứu của đề tài với số liệu của tác giả nước ngoài.
Tuy vậy, có điều chung là, ĐM và TM cuống chính đều có đường kính > 1
mm, đây là đặc điểm thuận lợi cho nối mạch bằng KTVP.
4.1.1.2. Cuống phụ
- Tính hằng định:
Tất cả nghiên cứu giải phẫu cơ thon ở trong và ngoài nước đều cho
thấy, ngoài cuống chính thì cơ thon còn được cấp máu tăng cường bởi cuống
phụ. Cuống chính và phụ chia nhánh trong cơ và nối với nhau nên có thể
chuyển toàn bộ cơ thon tự do dựa trên 1 cuống nuôi là cuống chính - đặc điểm
này là hằng định. Tuy nhiên, số lượng, nguyên ủy, vị trí đi vào cơ của cuống
phụ ở mỗi cơ trong mỗi nghiên cứu có khác nhau. Trong nghiên cứu của
chúng tôi, 100% tiêu bản (26/26 cơ thon) cũng đều có cuống phụ.
89
- Số lượng:
Trong nghiên cứu của Giordano [63], có 1 - 2 cuống phụ/1 cơ thon, nhưng
đa số (90% số cơ) có 2 cuống phụ. Trong nghiên cứu khác, số lượng này là 1 -
3/1 cơ thon [104], là 1 - 5/1cơ thon [44]. Trong nghiên cứu của Trần Sinh
Vương [28], cơ thon có 1 - 3 cuống phụ; trong đó, số có 2 cuống phụ là 17/30 cơ
(56,67%), có 3 cuống phụ là 2/30 cơ (6,67%).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, cơ thon có 1 - 4 cuống phụ, trung bình
là 1,35 cuống/1 cơ, nhưng cơ có 1 cuống phụ chiếm đa số (76,9%), những cơ
có 3 - 4 cuống phụ là rất ít (chỉ gặp 2/26 cơ = 7,6%), không gặp trường hợp
nào có 5 cuống phụ. Kết quả của chúng tôi không khác biệt so với nghiên cứu
của Trần Sinh Vương.
- Vị trí, nguyên ủy:
Các nghiên cứu đều cho thấy tất cả hoặc đa số cuống phụ đều ở phía
ngoại vi so với cuống chính, những cuống phụ phía ngoại vi đi vào cơ thon ở
đoạn 1/3 giữa - 1/3 dưới của cơ, ví dụ: Tỷ lệ các cuống phụ ở phía ngoại vi so
với cuống chính và đi vào cơ ở đoạn 1/3 giữa - 1/3 dưới là 100% các trường
hợp trong nghiên cứu của Trần Sinh Vương [28] và Giordano [63], Juricic
[77], Morris [104]. Tỷ lệ này là 92% trong nghiên cứu của Vigato [134], là
87% trong nghiên cứu của Magden [90], là 80% trong nghiên cứu của
Coquerel-Beghin [44], là 74% trong nghiên cứu của Whitaker [137] và cũng
đi vào cơ ở đoạn 1/3 giữa - 1/3 dưới. Như vậy, trong nghiên cứu của Vigato,
Magden, Coquerel-Beghin và Whitaker, một số trường hợp cơ thon có cuống
phụ ở phía trung tâm so với cuống chính. Trong những trường hợp đó, ĐM
cuống phụ có thể tách từ ĐM mũ đùi trong [90], từ ĐM đùi sâu, ĐM bịt hoặc
ngành lên của cuống mạch chính [137]. Với những trường hợp cuống phụ ở
phía ngoại vi của cuống chính, chúng đi vào cơ ở đoạn 1/3 giữa - 1/3 dưới cơ
thon và tách từ ĐM đùi nông, ĐM kheo với những tỷ lệ khác nhau trong mỗi
nghiên cứu [90],[44],[109],[137].
90
Trong nghiên cứu của chúng tôi, với 35 cuống phụ của 26 cơ thon, đa
số cuống này tách từ ĐM đùi nông (chiếm 94,3%) và chủ yếu đi vào cơ ở
vùng 1/3G hoặc 1/3G giáp 1/3D (chiếm 94,3%); có 2/35 cuống phụ (5,7%) ở
2 cơ thon tách từ ĐM đùi sâu và đi vào cơ ở vùng 1/3 trung tâm. Như vậy, kết
quả nghiên cứu về nội dung này của chúng tôi cũng không khác biệt so với
những nghiên cứu nêu trên.
4.1.1.3. Mạch xuyên và diện da ngấm thuốc xanh từ cuống mạch chính
Da phủ trên cơ thon được cấp máu bởi những mạch xuyên tách từ
cuống chính, cuống phụ. Trong đó, đa số là mạch xuyên tách từ cuống chính
và chúng là tin cậy nhất khi sử dụng vạt da cơ thon cuống liền hoặc tự do dựa
trên cuống chính, tất cả những mạch này đều có đường kính >1 mm
[44],[63],[109],[137].
Trong nghiên cứu của chúng tôi về số lượng, vị trí mạch xuyên tách từ
cuống ĐM chính ở 26 tiêu bản xác bảo quản, kết quả cho thấy: Có 2,1 mạch/1
cơ, cơ có 1 mạch và 2 mạch xuyên chiếm đa số (26,9% và 30,8%), tỷ lệ cơ có
3 mạch và 4 mạch thì ít hơn (15,4% và 19,2%) (bảng 3.3). Chúng phân bố
chủ yếu ở vùng trước trên, trước dưới và trên sau rốn mạch, cách rốn mạch
3,09 ± 1,44 cm (bảng 3.4 và hình 3.5).
Kết quả nghiên cứu về nội dung này của của Kappler (2005) [80] như
sau: Trung bình có 1,9 mạch/1 cơ thon, tỷ lệ cơ có 1 mạch là 34,8% (8/23), có
2 mạch là 43,5% (10/23), có 3 mạch là 17,4% (4/23) và 4 mạch là 4,3%
(1/23), chúng nằm trong vùng 6 x 6 cm (36 cm2) mà tâm là rốn mạch cơ thon
(hình 1.8). Trong công trình của Coquerel-Beghin (2006) [44], mỗi cơ thon có
ít nhất 1 ĐM xuyên tách từ cuống ĐM chính, trung bình là 3,78 mạch/1 cơ (1
- 6 mạch/1 cơ) và trên 80% số ĐM này phân bố trong vùng 6 cm dọc theo cơ
mà tâm là rốn mạch cơ thon (+ 3 cm đến - 3 cm), hình 1.10.
Khi đối chiếu với nghiên cứu của Kappler và Coquerel-Beghin, kết quả
của chúng tôi có điểm tương tự là: tỷ lệ cơ thon có 1 - 2 mạch xuyên tách từ
91
cuống ĐM chính chiếm đa số, chúng nằm cách rốn mạch khoảng 3 cm. Tuy
nhiên, những mạch xuyên này chủ yếu nằm ở vùng trước trên, trước dưới và
trên sau rốn mạch, điều này khác với nghiên cứu của Kappler và Coquerel-
Beghin rằng chúng phân bố đều xung quanh rốn mạch.
- Về diện da ngấm màu sau khi bơm xanh methylen vào cuống ĐM
chính, kết quả của chúng tôi ở 14 tiêu bản xác tươi cho thấy diện da ngấm
thuốc này có chiều dài trung bình là 14,4 cm (10 - 17 cm), chiều rộng là 10,0
cm (6 - 10 cm) (bảng 3.5) và ở 1/2 phía trung tâm của cơ thon (hình 2.11).
Kết quả này cũng tương tự như nghiên cứu của Trần Sinh Vương [28],
Coquerel-Beghin [44] và một số tác giả khác [63],[80]...
4.1.2. Thần kinh vận động
Ở tất cả 40 mẫu nghiên cứu của chúng tôi, TK cơ thon đều tách từ
nhánh trước TK bịt, nằm giữa cơ khép dài và khép ngắn, đi từ trên xuống
dưới, từ ngoài vào trong, ngay phía trên cuống mạch chính và đi vào cơ cùng
cuống này. Khi tới cơ thì phân chia làm 2 - 3 nhánh đi theo các nhánh mạch
của cuống chính. Kết quả này không khác biệt so với những nghiên cứu của
nhiều tác giả khác [20], [28],[44],[93],[104],[123],[137].
4.2. Nghiên cứu ứng dụng lâm sàng
4.2.1. Đặc điểm đối tượng
Theo nhiều nghiên cứu về chuyển vạt tự do nói chung, những BN
nghiện thuốc lá, béo phì, tiểu đường là nhóm có nguy cơ biến chứng tắc mạch
cao. Trong nghiên cứu của chúng tôi, không có BN nào nghiện thuốc lá, béo
phì; có 1 BN tiểu đường type II. Về vị trí tổn thương, đề tài này chọn những
BN có khuyết hổng ở cẳng - bàn chân, đây cũng là nhóm có nguy cơ tắc mạch
cao so với chuyển vạt tự do ở những vùng khác trên cơ thể [83].
Nhiễm khuẩn tại vùng nhận cũng là yếu tố gây khó khăn cho điều trị,
kể cả khi chuyển vạt và việc làm liền tổn thương. Trong nghiên này, có 32/33
khuyết hổng bị nhiễm khuẩn, trong đó có 18 khuyết hổng nhiễm khuẩn giai
92
đoạn bán cấp tính và 14 khuyết hổng nhiễm khuẩn giai đoạn mạn tính. Ở 22
trường hợp được cấy khuẩn thì 14 trường hợp có khuẩn mọc, trong đó có 8
khuyết hổng nhiễm khuẩn P.aeruginosa và 4 khuyết hổng nhiễm khuẩn
S.aureus đã kháng với hầu hết các loại kháng sinh, đặc điểm này cũng là minh
chứng về những khó khăn đối với quá trình điều trị.
Ngoại trừ 3 BN có khối u ở bàn chân (u xương sụn, u tế bào Schwann,
u xơ xâm lấn xương) thì 30 BN đều đã được can thiệp ngoại khoa điều trị, có
BN đã trải quan 12 lần mổ để xử trí viêm rò vùng mu bàn chân do di chứng
VTHK, có BN đã được chuyển cơ sinh đôi để điều trị khuyết hổng 1/3G cẳng
chân hoặc chuyển vạt hiển để che phủ ổ gãy xương gót. Như vậy, việc lựa
chọn phương pháp và thực hiện kỹ thuật điều trị đối với 30 BN nói trên nhằm
làm liền khuyết hổng một cách ổn định không phải là dễ dàng.
Về yêu cầu phẫu thuật phục hồi, trong số 21 BN có khuyết hổng ở cẳng
chân thì 3 trường hợp là KHPM sâu rộng gây lộ ổ gãy phức tạp xương chày -
yêu cầu điều trị là trám ổ khuyết phần mềm và che phủ xương, 7 trường hợp
là KHX sau lấy xương chết ở xương chày do viêm xương tủy xương đường
máu hoặc chấn thương - yêu cầu điều trị là trám KHX và 11 trường hợp là
KHPH - yêu cầu điều trị là trám KHX (khuyết thành xương hoặc mất đoạn
xương) và phục hồi phần mềm. Trong số 12 tổn thương ở bàn chân, 1 trường
hợp là KHPM sâu rộng ở gan chân sau cắt u tế bào Schwann - yêu cầu điều trị
là tạo hình che phủ, 4 trường hợp là KHX sau lấy mảnh gãy xương gót bị
viêm thối hoặc sau cắt u xương ở xương tụ cốt bàn chân, xương đốt ngón
chân (u tế bào khổng lồ, u xương sụn) - yêu cầu điều trị là trám KHX và 7
trường hợp là KHPH ở xương gót, xương tụ cốt bàn chân và xương đốt bàn
chân - yêu cầu điều trị là trám KHX và phục hồi phần mềm.
Với những điểm khái quát nêu trên, sơ bộ có thể thấy đây là những BN
có khuyết hổng phức tạp, việc điều trị là một thách thức không nhỏ đối với
phẫu thuật phục hồi trong chuyên ngành Chấn thương Chỉnh hình.
93
4.2.2. Chỉ định sử dụng cơ, da cơ thon trong phục hồi ở cẳng - bàn chân
4.2.2.1. Sử dụng vạt cơ, da cơ thon trong điều trị khuyết hổng ở cẳng chân
Tại Viện Chấn thương Chỉnh hình thuộc Bệnh viện TƯQĐ 108, trước
khi chỉ định sử dụng vạt tự do, chúng tôi đều phân tích để trả lời câu hỏi: Có
thể chọn cách điều trị nào khác ngoài chuyển vạt tự do, nhất là vạt cuống
mạch liền? Nếu cần chuyển vạt tự do thì chọn vạt nào cho phù hợp?
Tron nghiên cứu của chúng tôi, tất cả 21 khuyết hổng ở vùng cẳng chân
(3 ở 1/3G và 18 ở 1/3D) đều không có chỉ định áp dụng phương pháp phục
hồi kinh điển và chuyển vạt cuống mạch liền. Trong mỗi trường hợp cụ thể,
đó có thể là: Vạt cuống mạch liền đã bị tổn thương hoặc đã sử dụng nhưng
thất bại (1 BN đã được dùng cơ sinh đôi bị thất bại); hoặc cơ sinh đôi, cơ dép
không đủ để trám độn và che phủ đối với những khuyết hổng lớn vùng 1/3G -
1/3D cẳng chân (hình 4.1 A); hoặc cơ sinh đôi, cơ dép không đưa được tới
vùng 1/3 D cẳng chân để trám KHX (hình 4.1 B); hoặc cơ sinh đôi, cơ dép
không đưa được tới vùng 1/3 D cẳng chân và cũng rất khó đảm bảo trám ổ
khuyết xương trung tâm ở xương chày sao cho không để lại khoang chết (hình
4.1 C)... Theo chúng tôi, trong nghiên cứu này, chỉ định sử dụng vạt cơ tự do
là buộc phải lựa chọn bậc thang cao nhất trong phẫu thuật phục hồi sau khi đã
cân nhắc đến việc dừng lại ở những bậc thang dưới.
A B C Hình 4.1 A, B, C. Trường hợp không có chỉ định sử dụng cơ sinh đôi, cơ dép
Nguồn: BN trong nghiên cứu
94
Khi xét thấy cần sử dụng vạt cơ dạng tự do, nên lựa chọn cơ nào trong
những cơ thường được dùng như: Cơ lưng to? Cơ thẳng bụng? Cơ thon?...?
Nhiều nghiên cứu cho thấy cơ lưng to và thẳng bụng được dùng trong điều trị
những khuyết hổng lớn, cơ thon được dùng cho những khuyết vừa và nhỏ
[37],[57],[79], [81],[103]... Tuy vậy, với y văn hiện tham khảo được, chúng
tôi chưa thấy tác giả nào nêu cụ thể những khuyết hổng với kích thước bao
nhiêu được xác định là lớn, vừa và nhỏ. Về giải phẫu hình thể, cơ lưng to và
thẳng bụng là hai cơ lớn và cơ thon thuộc loại trung bình. Theo đó, chúng tôi
cho rằng với những khuyết hổng đòi hỏi phải sử dụng toàn bộ cơ lưng to, cơ
thẳng bụng hoặc lớn hơn thế mới đáp ứng yêu cầu điều trị thì được coi là
khuyết hổng lớn, còn với những khuyết hổng chỉ cần toàn bộ cơ thon là đủ thì
được coi là khuyết hổng vừa và dưới mức đó là khuyết hổng nhỏ. Tuy nhiên,
trong điều trị KHPM lớn lộ xương ở cẳng chân, thay vì sử dụng cơ lưng to
hoặc cơ thẳng bụng là lựa chọn đầu tiên thì một số tác giả lại chủ trương sử
dụng cơ thon. Điều này xuất phát từ nghiên cứu của Holle [70] công bố vào
năm 1995. Trên xác tươi, ông đã chứng minh rằng: khi lấy bỏ bao cơ thon thì
có thể làm chiều rộng của cơ tăng gấp 2 lần. Ứng dụng trên lâm sàng, tác giả
điều trị cho 27 BN có KHPM lớn gây lộ xương chày, kết quả cho thấy tất cả
đều liền ổn định, đạt thẩm mĩ cao. Với kết quả đạt được, Holle cho rằng vạt
cơ thon được cân nhắc đầu tiên khi cần vạt cơ để che phủ KHPM lớn gây lộ
xương chày. Sau nghiên cứu của Holle, nhiều tác giả khác như Vranckx
[135], Zukowski [141]... đã sử dụng cơ thon được cắt bao cơ để che phủ
KHPM rộng ở cẳng chân và cũng có nhận xét tương tự.
Về phần mình, chúng tôi cũng cắt bao cơ thon để trải rộng vạt nhằm
đáp ứng yêu cầu che phủ KHPM rộng (BN số 1: Vũ Thị D - Phần minh họa
kết quả). Ngoài ra, gặp 3 BN khác có KHPH lớn ở cẳng chân, cụ thể là: 1 BN
có KHPM sâu rộng kèm theo viêm khuyết phức tạp ổ gãy ở 1/3G xương chày,
tổn thương bị nhiễm khuẩn bán cấp tính, cấy khuẩn dịch vết thương có
95
S.aureus đã kháng hầu hết các loại kháng sinh (BN số 4: Hà Văn N - Phần
minh họa kết quả), 1 BN có KHPM sâu và dài kèm theo lộ ổ gãy ở 1/3G
xương chày, tổn thương cũng bị nhiễm khuẩn bán cấp tính, cấy khuẩn dịch
vết thương thấy có P.aeruginosa đã kháng hầu hết các loại kháng sinh (BN số
3: Hà Đức Ng - Phần phụ lục) và 1 BN có KHPM kèm theo mất đoạn xương
chày 5 cm sau cắt xương chết, tổn thương cũng bị nhiễm khuẩn bán cấp tính
tổn thương cũng bị nhiễm khuẩn bán cấp tính (BN số 5: Nguyễn Văn Q - Phần
minh họa kết quả). Xét về kích thước thì cơ thon và cả khi cơ thon được cắt
bao cơ đều không đáp ứng yêu cầu điều trị. Tuy nhiên, khi xét về tổn thương
giải phẫu bao gồm tổn thương ở phần mềm và xương cùng với hình dáng
khuyết hổng thì chúng tôi quyết định sử dụng vạt da cơ thon làm chất liệu
phục hồi với kỹ thuật cụ thể là: dùng toàn bộ cơ trám đầy khuyết hổng trong
sâu và lấy vạt da với kích thước lớn theo yêu cầu che phủ. Kết quả là tất cả 3
khuyết hổng đều liền kỳ đầu và ổn định mặc dầu đều bị nhiễm khuẩn bán cấp,
trong đó có 2 trường hợp với khuẩn mọc thuộc loại khó giải quyết vì đã kháng
hầu hết các kháng sinh. Với trường hợp mất đoạn xương chày 5 cm, kết quả
này đã tạo điều kiện tốt để giải quyết mất đoạn xương theo nguyên lý Ilizarov.
Như vậy, việc sử dụng vạt da cơ thon đã đáp ứng yêu cầu về kích thước
vạt tạo hình, không phải chuyển tư thế BN trong mổ nếu sử dụng cơ lưng to
và tránh nguy cơ thoát vị thành bụng nếu sử dụng cơ thẳng bụng. Theo chúng
tôi, 3 trường hợp thành công nêu trên là khá độc đáo, nó cũng cho thấy khả
năng sử dụng vạt da cơ thon trong điều trị những KHPM và KHPH không quá
lớn ở vùng cẳng chân.
17 khuyết hổng ở cẳng chân còn lại trong nghiên cứu này đều là những
khuyết hổng vừa và nhỏ, việc sử dụng toàn bộ hoặc một phần cơ, da cơ thon
đã đáp ứng yêu cầu điều trị, khai thác hết ưu điểm của vạt này như: Bóc tách
nhanh, không gây đụng dập cơ so với lấy một phần cơ lưng to hoặc một phần
cơ thẳng bụng... Đặc biệt, với hình dáng dài và thon nhỏ nên rất phù hợp cho
96
trám KHX sau mở cửa sổ xương chày và lấy xương chết do viêm xương tủy
xương, không chỉ làm liền tổn thương nhanh chóng và bền vững mà còn đạt
kết quả tốt về thẩm mĩ, (BN số 5, số 6, số 7, số 8 - Phần phụ lục). Chỉ định và
kết quả đạt được của chúng tôi cũng tương tự như nghiên cứu của Redett
[116], Vranckx [135], Zukowski [141],...
4.2.2.2. Sử dụng cơ, da cơ thon trong điều trị khuyết hổng ở cổ - bàn chân
Yêu cầu điều trị những khuyết ở vùng cổ - bàn chân là không chỉ làm
liền tổn thương mà còn phục hồi hình thể và kích thước bàn chân như bên
lành, phục hồi chức năng vận động của các khớp, phục hồi cảm giác ở những
vùng tỳ nén và cọ xát (đệm gót, nửa trước gan bàn chân, sau cổ chân). Theo
đó, căn cứ vào vị trí, tổn thương giải phẫu, kích thước để lựa chọn vạt tạo
hình sao cho đáp ứng đầy đủ những yêu cầu điều trị ở mức tối đa trong khả
năng của y học và BN chấp nhận được, ví dụ: trong che phủ KHPM ở vùng tỳ
đè, cọ xát thì lựa chọn vạt da cân có thần kinh cảm giác như vạt delta, vạt
cánh tay ngoài, vạt cẳng tay quay, vạt đùi trước ngoài; trong trám khoang chết
ở phần mềm và trong xương đồng thời tạo hình che phủ thì có thể sử dụng vạt
cơ như cơ lưng to, cơ thẳng bụng, cơ thon, da cơ thon, da cân vùng bả vai
kèm theo cơ tròn to, vạt cánh tay ngoài có lấy một phần cơ cánh tay trước, vạt
đùi trước ngoài kèm theo một phần cơ tứ đầu đùi.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 12 khuyết hổng ở khu vực cổ chân,
bàn chân và đều không có chỉ định sử dụng vạt da cân cuống mạch liền, trong
đó có 1 trường hợp đã sử dụng vạt hiển nhưng tổn thương không liền (rò mủ
kéo dài) mặc dù vạt hiển vẫn sống. Ngoài 1 trường hợp KHPM sâu rộng ở
giữa gan chân sau cắt u tế bào Schwann, 11 trường hợp còn lại đều là những
KHX và KHPH nhỏ, chúng tôi thấy chỉ định sử vạt cơ, da cơ thon trong
những trường hợp này là rất phù hợp (ví dụ: hình 4.2 A, B, C, D). Chỉ định
này của chúng tôi cũng phù hợp với nghiên cứu sử dụng vạt cơ, da cơ thon
97
trong phẫu thuật phục hồi ở khu vực cổ chân, bàn chân của Ghods [62], Jeong
[75], Koski [86], Loréa [89], Tamura [128]...
A B C D
Hình 4.2 A, B, C, D. Những KHX, KHPH nhỏ ở cổ chân, bàn chân Nguồn: BN trong nghiên cứu
4.2.3. Kết quả chuyển vạt cơ, da cơ thon điều trị khuyết hổng ở cẳng -
bàn chân
4.2.3.1. Kết quả chuyển vạt
Chúng tôi có 1 BN với vạt da cơ thon được chuyển lần đầu bị hoại tử
hoàn toàn, BN này được chuyển vạt da cơ thon lần thứ 2 nhưng lớp da bị hoại
tử trong khi cơ sống hoàn toàn, sau đó được ghép da che phủ cơ và kết quả
cuối cùng là đáp ứng yêu cầu điều trị. Như vậy, kết quả chuyển vạt cơ và da
cơ thon trong nghiên cứu này đạt tỷ lệ sống hoàn toàn là 94% (32/34 vạt),
hoại tử một phần là 3% (1/34 vạt) và hoại tử toàn bộ là 3% (1/34 vạt). Nếu xét
về yêu cầu điều trị thì vạt bị hoại tử lớp da vẫn đạt yêu cầu nên có thể coi
trường hợp này là thành công, như vậy tỷ lệ vạt sống là 97% (33/34 vạt).
Về thành công trong chuyển vạt tự do để điều trị khuyết hổng ở chi thể,
những nhiên cứu có số liệu lớn cho thấy: Melissinos [103] với 442 vạt tự do ở
17 nơi cho khác nhau được sử dụng trong điều trị khuyết hổng ở chi thể nói
chung do chấn thương, tỷ lệ vạt sống là 96,4%. Khouri [81] với 304 vạt tự do
trong điều trị khuyết hổng ở chi dưới, tỷ lệ vạt sống là 92%. Kaplan [79] với
98
33 vạt tự do trong điều trị khuyết hổng ở chi dưới, tỷ lệ vạt sống là 88%.
Nguyễn Việt Tiến [23] với 391 vạt tự do trong điều trị khuyết hổng ở chi thể
nói chung, tỷ lệ vạt sống là 96,42%. Lê Văn Đoàn [6] với 33 vạt cơ lưng to
trong điều trị khuyết hổng ở chi dưới, tỷ lệ vạt sống là 90,9%. Lê Hồng Hải
[8] với 46 vạt da cân vùng bả vai trong điều trị khuyết hổng ở cẳng chân và
bàn chân, tỷ lệ vạt sống là 95,65%.
Về thành công trong chuyển vạt cơ và da cơ thon trong điều trị khuyết
hổng ở vùng cẳng chân và bàn chân, nghiên cứu của Vranckx [135] với 60 vạt
cơ và da cơ thon trong điều trị khuyết hổng ở 1/3 dưới cẳng chân cho thấy tỷ lệ
vạt sống là 98,3%. Trong nghiên cứu của Holle [70] với 27 vạt cơ và da cơ
thon trong điều trị khuyết hổng ở 1/3 dưới cẳng chân, tỷ lệ vạt sống là 100%.
Trong nghiên cứu của Zukowski [141] với 26 vạt cơ thon trong điều trị khuyết
hổng ở 1/3 dưới cẳng chân và cổ chân do chấn thương, tỷ lệ vạt sống là 100%.
Tuy việc so sánh thành công, thất bại trên lâm sàng là không chính xác
vì số n và đặc điểm đối tượng nghiên cứu trong mỗi công trình là khác nhau,
nhưng khi xem xét một cách khái quát và đánh giá tương đối thì chúng tôi
thấy rằng kết quả chuyển vạt cơ, da cơ thon đạt tỷ lệ thành công 97% trong
nghiên cứu này là tương tự so với kết quả của những tác giả nêu trên.
4.2.3.2. Kết quả điều trị
Mục đích phẫu thuật là làm tổn thương liền ổn định, chi thể phục hồi về
chức năng và thẩm mĩ, vạt cơ hoặc da cơ thon không bị loét.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 32/33 trường hợp liền kỳ đầu và ổn
định. Ở trường hợp còn lại, xuất hiện viêm rò sau mổ 2 tháng do còn xương
chết không được lấy hết trước khi chuyển cơ thon, sau khi xử trí triệt để
nguyên nhân này thì tổn thương liền ổn định (BN số 18 - Phần phụ lục). Như
vậy, tất cả 33 BN trong nghiên cứu này với những khuyết hổng phức tạp như
đã phân tích trong phần bàn về đặc điểm đối tượng và chỉ định chuyển vạt cơ,
da cơ thon nhưng đều được làm liền với thời gian điều trị nội trú sau chuyển
99
vạt là 18,4 ngày (11 - 29 ngày). Số ngày điều trị nội trú trung bình giữa nhóm
nhiễm khuẩn giai đoạn bán cấp, mạn tính và vô khuẩn khác biệt không có ý
nghĩa thống kê, p= 0,749, (Bảng 3.14). Đặc biệt, ở 8 trường hợp có nhiễm
khuẩn P.aeruginosa và 4 trường hợp nhiễm khuẩn S.aureus đã kháng hầu hết
các kháng sinh khi làm kháng sinh đồ, BN được dùng Cephalosporin thế hệ 3
thay vì phải dùng Imipenem hoặc Meropenem theo kết quả của kháng sinh đồ
vì lý do kinh tế nhưng tổn thương cũng liền kỳ đầu và ổn định (BN số 3, số 4,
số 6 - Phần minh họa kết quả và BN số 3, số số 5, số 10, số 12, số 14, số 20,
số 22, số 28, số 33 - Phần Phụ lục). Phân tích nguyên nhân để có được kết
quả này, chúng tôi thấy đây là tác động tổng hợp của việc sử dụng liệu pháp
VAC trước mổ đối với những khuyết hổng sâu rộng có nhiễm khuẩn bán cấp
tính cùng với việc cắt lọc sạch tổ chức hoại tử rồi trám đầy khuyết hổng sao
cho không có khoang chết và sự tăng cường nuôi dưỡng tại chỗ từ cơ thon,
sau cùng là liệu pháp kháng sinh là hỗ trợ.
Điều trị viêm xương tủy xương mạn tính ở xương chày do nhiễm khuẩn
huyết hoặc di chứng vết thương hỏa khí, di chứng chấn thương hiện vẫn là
vấn đề khó khăn. Nguyên tắc điều trị loại tổn thương này là phải lấy bỏ hết
xương chết và xương viêm tới giới hạn lành, đồng thời trám đầy KHX để
không có khoang chết và tăng cường nuôi dưỡng xương bằng vạt cơ. Trong
số 33 BN thuộc nghiên cứu, có 7 BN với tổn thương nói trên và đều là ở 1/3D
xương chày, đây là nơi được nuôi dưỡng kém nhất và cũng khó liền nhất ở chi
dưới (3 do nhiễm khuẩn huyết và 4 do chấn thương) nhưng tất cả 7 trường
hợp này đều liền kỳ đầu và ổn định (BN số 2 - Phần minh họa kết quả và BN
số 5, số 6, số 7, số 8, số 9, số 11- Phần phụ lục). Theo chúng tôi, những yếu
tố đem lại thành công này là: Thứ nhất, xương viêm chết được lấy bỏ triệt để;
thứ hai, cơ thon tự do rất phù hợp cho việc trám đầy khuyết hổng xương có
hình dáng dài, hẹp và sâu, đồng thời tăng cường nuôi dưỡng tại chỗ; thứ ba,
100
luôn đặt dẫn lưu hút để không có máu ứ đọng ở vùng mổ nhằm loại bỏ môi
trường thuận lợi đối với vi khuẩn.
Về thẩm mĩ, có 1 trường hợp vạt to xù được thu gọn vạt, BN hài lòng với
kết quả sau cùng, đây là trường hợp sử dụng vạt da cơ thon trám độn và che phủ
khuyết hổng sau lấy u xương sụn xương đốt bàn IV, V bàn chân (BN số 13 -
Phần phụ lục). Một trường hợp khác, vạt to xù, kém thẩm mĩ nhưng BN chấp
nhận mà không muốn thu gọn vạt với lý do về kinh tế và cao tuổi (BN số 28 -
Phần phụ lục). Ngoài ra, không gặp trường hợp nào có loét tại vạt (Bảng 3.19).
Tổng hợp kết quả điều trị với thời gian theo dõi 3 tháng - ≥ 5 năm,
trung bình là 39,3 tháng, cho thấy: Kết quả tốt là 32/33 BN (97%), kết quả
vừa là 1/33 BN (3%), không có trường hợp nào viêm rò kéo dài mà can thiệp
không thành công.
Tham khảo y văn nước ngoài, kết quả điều trị khuyết hổng vùng cẳng
chân, bàn chân bằng chuyển vạt cơ, da cơ thon của một số tác giả như sau:
Trong nghiên cứu của Holle [70] với 27 BN có KHPM lớn ở 1/3D cẳng chân
được che phủ bằng vạt cơ thon có ghép da xẻ đôi, tất cả 100% các trường hợp
đều liền vững chắc, vạt không to xù, đạt yêu cầu về thẩm mĩ. Báo cáo của
Vranckx [135] với 60 BN có khuyết hổng ở 1/3D cẳng chân được chuyển vạt
cơ, da cơ thon, kết quả theo dõi 59/60 BN trong thời gian ít nhất là 3 năm cho
thấy tất cả 59 trường hợp đều liền vững chắc và ổn định. Kết quả điều trị cho
50 BN có khuyết hổng ở 1/3D cẳng chân bằng chuyển vạt cơ thon của Redett
[116] cho thấy: Ở nhóm 22 BN có KHPM kèm theo gãy xương hở - tỷ lệ liền
tổn thương là 95% (21/22 BN); Ở nhóm 28 BN bị gãy 2 xương cẳng chân có
biến chứng viêm xương tủy xương hoặc nhiễm khuẩn sâu, tỷ lệ liền tổn
thương là 96% (26/27 BN). Trong 7 năm, Loréa [89] điều trị cho 12 BN bị
viêm xương tủy xương mạn tính ở cổ chân và bàn chân bằng chuyển cơ thon
để trám KHX sau lấy xương chết, kết quả là 12 vạt đều sống nhưng có 2 BN
bị viêm rò kéo dài, điều trị không thành công nên phải cắt cụt chi. Phân tích
101
nguyên nhân thất bại, tác giả cho rằng đó là do không lấy hết xương chết
trước khi trám vạt.
Như vậy, kết quả điều trị loại tổn thương này của chúng tôi nêu trên
tương tự như của Holle [70], Loréa [89], Redett [116], Vranckx [135].
4.2.4. Biến chứng, thất bại và xử trí
Trong nghiên cứu này, gặp 3 biến chứng tắc mạch và 1 viêm rò vùng
nhận, phân tích tìm hiểu nguyên nhân và kết quả xử trí, chúng tôi thấy:
- Ở trường hợp tắc ĐM, biến chứng được phát hiện vào giờ thứ 4 sau mổ
và ngay sau đó thực hiện phẫu thuật xử trí. Khi kiểm tra, thấy mối nối ĐM vạt
vào ĐM chày sau bị tắc trong khi 2 TM vẫn thông. Sau khi cắt bỏ mối nối,
bơm rửa lòng mạch và nối lại thì cứu được vạt, tổn thương liền kỳ đầu (BN số 2
- Phần minh họa kết quả). Trường hợp này, tắc mối nối ĐM là do lỗi kỹ thuật,
vì khi xử trí cũng đã dùng chính ĐM chày sau này làm nguồn nuôi, nhưng với
mối nối mạch đảm bảo đúng kỹ thuật. Bài học rút ra từ trường hợp này là sự
thuần thục về KTVP và theo dõi phát hiện, xử trí kịp thời biến chứng tắc mạch
là yếu tố tiên quyết đảm bảo thành công của phẫu thuật chuyển vạt tự do, đây
cũng là nhận xét của nhiều tác giả [79],[81],[82].
- Ở trường hợp tắc TM, biến chứng cũng được phát hiện tắc TM vào
giờ thứ 4 sau mổ. Khi phẫu thuật kiểm tra, thấy 2 TM bị gập do quá dài và 2
mối nối đều tắc trong khi mối nối ĐM vẫn thông. Sau khi cắt bỏ mối nối TM,
bơm rửa lòng mạch và nối lại, vạt được cấp máu tốt, 6 ngày sau ghép da che
phủ cơ, kết quả là tổn thương liền kỳ đầu (BN số 1 - Phần minh họa kết quả).
Trường hợp này, nguyên nhân tắc TM là TM bị gập do quá dài gây ngưng trệ
dòng chảy. Như vậy, đây là lỗi kỹ thuật. Kinh nghiệm rút ra là không để
cuống mạch căng nhưng cũng để quá chùng. Nếu sau nối mạch mà thấy
chúng dài thì nên chủ động làm cuống mạch đi ngoằn ngoèo bằng cách khâu
tổ chức quanh bao mạch cố định vào tổ chức vùng nhận.
102
- Ở BN có biến chứng tắc ĐM và TM (BN số 3 - Phần minh họa kết
quả), theo chúng tôi, tắc ĐM xảy ra trước và tắc TM là hậu quả. Trường hợp
này, khi nối xong và thả kẹp mạch thấy ĐM không đập, được xử trí co mạch
trong thời gian khá lâu nhưng vạt được cấp máu yếu, cơ không hồng thì lẽ ra
cần cắt mối nối để kiểm tra, nếu dòng máu ĐM không phụt mạnh như bình
thường thì chọn ĐM khác. Tuy vậy, chúng tôi đã chủ quan cho rằng tình trạng
trên là do co thắt mạch nên đã chờ đợi khả năng mạch tự giãn mà không nghĩ
tới khả năng tổn thương thực thể ở ĐM như thấy được khi tháo bỏ vạt (bó
mạch chày trước nằm sát sau đinh Steinmann, thành mạch viêm dày). Hơn
nữa, việc nhận định rõ là mạch bị tắc quá muộn (sau mổ 18 giờ) nên không
còn khả năng cứu vạt. Sau chuyển vạt lần thứ hai, tuy lớp da bị hoại tử nhưng
vạt cơ sống tốt nên tổn thương liền kỳ đầu và ổn định. Bài học rút ra từ thất
bại này là phải lựa chọn mạch nuôi lành lặn, nếu cần thì tháo ga rô để kiểm tra
độ mạnh của dòng máu phụt từ ĐM. Ngoài ra, khi nghi ngờ có tắc mạch thì
chủ động cắt một số mũi chỉ để kiểm tra vạt thì mới thực chính xác. Chỉ định
chuyển vạt lần hai khi lần đầu thất bại của chúng tôi cũng tương tự như cách
xử trí của Benacquista [35], Melissinos [103]...
- Ở BN có viêm rò tại vùng nhận, đây là trường hợp KHPM lộ đoạn gãy
trung gian 1/3 D xương chày, nhiễm khuẩn bán cấp tính, cấy khuẩn dịch vết
thương thấy có Acinetobacter (BN số 18 - Phần phụ lục). Sau khi lấy bỏ đoạn
xương trung gian bị chết, đặt khung cố định ngoài (mất đoạn xương là 7 cm)
và dùng liệu pháp VAC 1 tuần thì BN được chuyển vạt da cơ thon để trám ổ
mất đoạn xương chày và tạo hình phủ, kết quả là vết mổ liền kỳ đầu. Tuy
nhiên, sau 2 tháng thấy xuất hiện viêm rò. Chụp X.quang thấy có xương chết
ở mỏm cụt đoạn ngoại vi xương chày. Bệnh nhân được cắt xương viêm chết
đến xương lành và trải lại vạt cơ thon, kết quả là tổn thương liền ổn định, đảm
bảo điều kiện tốt cho xử trí mất đoạn xương chày 7 cm theo nguyên lý
Ilizarov. Như vậy, nguyên nhân gây viêm rò là còn xương viêm chết do
103
không được cắt lọc triệt để trước khi chuyển vạt, điều này tương tự như trong
nghiên cứu của Loréa [89].
4.2.5. Những yếu tố liên quan đến kết quả
Trong nghiên cứu của chúng tôi, về những yếu tố nguy cơ thuộc về BN,
có 2 BN tuổi già (BN 75 tuổi với tổn thương viêm rò 1/3 dưới xương chày trái
do di chứng VTHK - BN số 6 phần Phụ lục và BN 82 tuổi với tổn thương
viêm rò 1/3 D xương chày phải do di chứng VTHK - BN số 23 phần Phụ lục)
và 1 BN 61 tuổi bị tiểu đường type II, cao huyết áp với tổn thương viêm rò
mạn tính mu bàn chân phải vùng nửa trước bàn chân do di chứng VTHK -
BN số 31 phần Phụ lục. Đặc biệt là, có 32/33 (97%) khuyết hổng bị nhiễm
khuẩn giai đoạn bán cấp (18 BN) hoặc mạn tính (14 BN). Đây là những
trường hợp có yếu tố nguy cơ tắc mối nối mạch cao như nhận xét của nhiều
tác giả [33],[43],[83],[84],[115]. Tuy vậy, kết quả phẫu thuật ở 2 BN tuổi già
và 1 BN tiểu đường đều đạt mức tốt, tổn thương liền kỳ đầu và ổn định, đáp
ứng yêu cầu về thẩm mĩ. Ở những BN có khuyết hổng nhiễm khuẩn, gặp 3
trường hợp biến chứng tắc mối nối mạch ở nhóm nhiễm khuẩn bán cấp tính,
trong đó có 1 vạt bị hoại tử toàn bộ, 2 trường hợp còn lại được xử trí kịp thời
nên cứu được vạt. Nguyên nhân gây tắc mạch ở những trường hợp này là do
lỗi kỹ thuật chứ không phải do nhiễm khuẩn và loại chủng vi khuẩn.
Ở BN có viêm rò tại vùng nhận (BN số 18 - Phần phụ lục), câu hỏi đặt
ra là liệu nguyên nhân gây viêm rò có phải do không cắt bỏ triệt để xương
viêm chết trước khi chuyển vạt như nêu trên (mục 4.2.4) hay là do tình trạng
nhiễm khuẩn gây viêm chết xương tái phát? Theo chúng tôi, khả năng thứ hai
ít thuyết phục, vì rằng cùng nằm trong ổ mổ có nhiễm khuẩn nhưng đầu
xương chày phía trung tâm không bị viêm; Thêm nữa, sau khi xử trí cắt bỏ
triệt để xương viêm chết thì tổn thương liền ổn định. Với phân tích như trên,
biến chứng này là lỗi kỹ thuật chứ không hẳn do yếu tố nhiễm khuẩn gây ra
một cách độc lập.
104
Ngoài những lỗi kỹ thuật như nêu trên, những yếu tố khác như nguyên
nhân, vị trí tổn thương, tổn thương giải phẫu, ĐM nuôi cụ thể tại vùng nhận,
tình trạng nhiễm khuẩn và chủng vi khuẩn đều không ảnh hưởng xấu đến kết
quả chuyển vạt cũng như làm liền tổn thương (Bảng 3.7 đến 3.12 và Bảng
3.15 đến 3.18). Tuy nhiên, đây chỉ là nhận xét bước đầu do số BN nói chung
và trong mỗi nhóm yếu tố cần nghiên cứu nói riêng còn ít, hơn nữa lại không
có nhóm đối chứng. Do vậy, vấn đề này cần được nghiên cứu tiếp.
4.2.6. Vai trò của liệu pháp chân không
Trong nghiên cứu này, có 17/33 BN (51,5%) được sử dụng liệu pháp
VAC chuẩn bị vùng nhận trước khi chuyển vạt và 8 BN được sử dụng liệu
pháp VAC chuẩn bị cho ghép da che phủ cơ thon sau khi đã chuyển vạt tới
nơi nhận. Trong số 17 BN được sử dụng liệu pháp VAC trước khi chuyển vạt,
ngoài 3 BN có khuyết hổng đơn giản sau lấy u được đặt VAC trong thời gian
chờ kết quả Giải phẫu bệnh (1 u tế bào Schwann ở gan bàn chân, 1 u xơ xâm
lấn ở gan bàn chân, 1 u tế bào khổng lồ ở xương chêm bàn chân) thì 14
trường hợp còn lại đều là những khuyết hổng với hình thái phức tạp (sâu,
rộng, nhiều ngóc ngách, lộ xương hoặc ổ gãy xương...). Việc sử dụng liệu
pháp VAC đã làm khuyết hổng phức tạp trở thành đơn giản hơn nên tạo thuận
lợi cho vạt trám hết khuyết hổng, không để lại khoang chết và liền tốt với
vùng nhận. Đặc biệt, có 14 khuyết hổng đang trong giai đoạn nhiễm khuẩn
bán cấp tính với 9 trường hợp cấy khuẩn có khuẩn mọc (5 trường hợp có
P.aeruginosa, 2 trường hợp có S.aureus, 1 trường hợp có E.Coli, 1 trường hợp
có Acinetobacter) và 3 khuyết hổng bị nhiễm khuẩn mạn tính với 2 trường
hợp có khuẩn mọc (1 trường hợp có P.aeruginosa, 1 trường hợp có S.aureus),
nhưng tất cả đều được điều trị thành công. Chỉ định sử dụng liệu pháp VAC
của chúng tôi cũng tương tự như những tác giả nêu trên và kết quả đạt được
trong chuẩn bị trước khi chuyển vạt là rất thuyết phục (BN số 1, số 3, số 4, số
6 - Phần BN minh họa và BN số 3, số 18, số 26, số 27, số 32, số 33 - Phần
105
phụ lục). Theo chúng tôi, liệu pháp này có những đóng góp quan trọng trong
điều trị đối với 17 BN nêu trên. Chỉ định và nhận xét này của chúng tôi tương
tự như nghiên cứu của nhiều tác giả khác [24],[26],[49],[64],[69],[110],[139].
4.3. Biến chứng sớm và di chứng tại nơi cho vạt
Nghiên cứu của Holle [70], Jeong [75], Loréa [89] và Vranckx [135]
đều có nhận xét rằng việc lấy vạt cơ thon không để lại di chứng đáng kể tại
nơi cho. Tuy nhiên, trong nghiên cứu của Carr [40] ở 104 BN sau lấy cơ thon,
tác giả gặp 10 biến chứng sớm như: đau nặng (4 BN), nhiễm khuẩn (3 BN),
chảy máu (2 BN), liệt TK tạm thời (1 BN). Về di chứng, những vấn đề liên
quan đến sẹo như ngứa, bạc màu, dãn rộng, giảm cảm giác gặp ở gần 50% số
BN; một số ít có sẹo phì đại. Liên quan tới vận động của chi, 15% số BN có
yếu tạm thời trong 6 tháng, 6% số BN có yếu kéo dài khi chạy, đi bộ hoặc
tham gia thể thao. Nghiên cứu của Deutinger [51] ở 42 BN sau lấy cơ thon
cho thấy: lực khép khớp háng giảm 11% so với bên lành nhưng BN không
cảm nhận thấy sự giảm này. Cảm giác đau ở vùng TK bịt chi phối gặp ở
40,5% số BN, nhưng tác giả thấy rằng những di chứng này không đáng kể.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, vết mổ nơi cho vạt ở 33 BN đều liền
kỳ đầu, không gặp biến chứng nhiễm khuẩn, máu tụ gây toác vết mổ. Liên
quan tới kết quả này, chúng tôi thấy việc bóc tách lấy vạt đạt mức thuần thục,
cầm máu kỹ và đặt dẫn lưu hút tại vùng mổ là những yếu tố quan trọng hàng
đầu, kế đến là bất động chi trong 5 - 7 ngày để tránh tiết dịch. Theo dõi trong
thời gian 3 tháng - 5 năm thấy 3 BN có sẹo dãn (đây là 3 trong số 15 BN được
lấy vạt da cơ thon) và gặp 1 BN có sẹo xù. Không có BN nào phàn nàn về
tình trạng ngứa tại sẹo hoặc rối loạn cảm giác vùng TK bịt chi phối, hoặc yếu
lực khép đùi. Trong nghiên cứu này, chúng tôi không lượng hóa được chính
xác độ giảm của lực khép đùi mà chỉ căn cứ vào chủ quan của BN, đây là
điểm hạn chế của đề tài.
106
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu giải phẫu mạch máu, thần kinh cơ thon ở 40 xác
đùi và chuyển 34 vạt cơ, da cơ thon trong điều trị khuyết hổng vùng
cẳng - bàn chân ở 33 BN, chúng tôi có kết luận sau:
1. Đặc điểm giải phẫu mạch máu, thần kinh cơ thon
- Cơ thon được cấp máu bởi nhiều cuống mạch. Trong đó, luôn có 1
cuống với đường kính ĐM lớn hơn cả mà y văn gọi là cuống chính.
- Cuống ĐM chính tách từ ĐM cơ khép hoặc ĐM đùi sâu, hoặc ĐM mũ
đùi trong với tỷ lệ lần lượt là 77,5%, 17,5%, 5% , đi vào cơ thon cách dưới củ
mu 6,95 ± 1,44 cm. Khi bóc tách tới sát ĐM đùi sâu hoặc ĐM mũ đùi trong,
cuống này có thông số trung bình là: dài 5,91 cm, đường kính 1,63 mm. Có 2
TM hoặc 1 TM tùy hành ĐM với tỷ lệ lần lượt là 92,5%, 7,5%. Đường kính
trung bình của TM lớn là 1,98 mm, của TM nhỏ là 1,91.
- Có 1 - 4 cuống phụ/1 cơ, trung bình là 1,35 cuống /1 cơ. Tỷ lệ cơ có 1
cuống, 2 cuống, 3 - 4 cuống phụ lần lượt là 76,9%, 15,4% và 7,6%. So với
cuống chính, đa số cuống phụ (94,3%) nằm ở phía ngoại vi và đi vào cơ ở
vùng 1/3G. Tất cả cuống ĐM phụ phía ngoại vi đều tách từ ĐM đùi nông.
- Cuống ĐM chính tách mạch xuyên cấp máu cho da, trung bình có 2,1
mạch/1 cơ. Tỷ lệ có 1 - 2 mạch và 3 - 4 mạch /1 cơ lần lượt là 57,7 và 34,6%,
2 trường hợp không có mạch xuyên. Đa số mạch xuyên nằm ở vùng trước trên
và trước dưới rốn mạch, cách rốn mạch trung bình 3,09 cm. Vùng da ngấm
xanh methylen sau khi bơm thuốc này vào cuống ĐM chính có kích thước
trung bình là 14,4 x 10,0 cm.
- Thần kinh chi phối cơ thon: Đều là nhánh trước của TK bịt, nằm ở
phía trung tâm cuống chính, đi vào cơ cùng cuống chính.
107
2. Kết quả chuyển vạt cơ, da cơ thon trong điều trị khuyết hổng ở cẳng -
bàn chân; một số yếu tố liên quan tới kết quả, nguyên nhân thất bại và di
chứng tại nơi cho vạt
- Chuyển vạt cơ, da cơ thon để điều trị khuyết hổng ở cẳng - bàn chân
đạt tỷ lệ vạt sống là 97% (33/34 vạt), hoại tử hoàn toàn là 3% (1/34 vạt).
- Tỷ lệ khuyết hổng liền ổn định là 100% (33/33 khuyết hổng), nếu kết
hợp cả yêu cầu về thẩm mỹ thì kết quả điều trị tốt là 97% (32/33 BN), kết quả
vừa là 3% (1/33BN).
- Trong nghiên cứu điều trị 33 BN này, yếu tố tuổi BN, bệnh tiểu
đường, nguyên nhân gây tổn thương, vị trí khuyết hổng, tổn thương giải phẫu
của khuyết hổng, mạch nuôi cụ thể tại vùng nhận không là yếu tố độc lập ảnh
hưởng xấu tới kết quả chuyển vạt và làm liền khuyết hổng. Với tác dụng tổng
hợp của liệu pháp VAC, cắt lọc sạch tổ chức hoại tử, trám đầy khuyết hổng
bằng cơ thon sao cho không có khoang chết, không để lại dịch ứ đọng bằng
dẫn lưu hút và liệu pháp kháng sinh hỗ trợ thì tình trạng nhiễm khuẩn và
chủng vi khuẩn tại khuyết hổng không ảnh hưởng xấu tới kết quả điều trị.
- Biến chứng tắc mạch gặp ở 3/34 vạt, nguyên nhân là do lỗi kỹ thuật.
Việc phát hiện và phẫu thuật xử trí kịp thời tắc mạch là yếu tố quyết định để
cứu vạt (2 vạt), nếu không thì vạt bị hoại tử hoàn toàn (1 vạt).
- Sau lấy vạt cơ hoặc da cơ thon, tất cả 34/34 vùng cho đều liền vết mổ
kỳ đầu, không để lại di chứng gây ảnh hưởng đáng kể về vận động khép đùi
cũng như những vấn đề liên quan đến sẹo mổ.
CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ
1.Vũ Hải Nam (2015 ) “Nghiên cứu đặc điểm giải phẫu mạch máu cơ thon”
Tạp chí Y học Thực hành số 7 (972), tr. 91-94.
2. Vũ Hải Nam, Lê Văn Đoàn, Nguyễn Thế Hoàng, Ngô Thái Hưng, Nguyễn
Viết Ngọc, Bùi Việt Hùng, Nguyễn Văn Phú, Trương Anh Dũng, Nguyễn
Việt Tân (2015 ) “Đánh giá kết quả điều trị khuyết hổng ở cẳng chân, bàn
chân bằng chuyển vạt cơ hoặc da cơ thon tự do”. Tạp chí Y dược lâm sàng
108 số 5(10), tr. 54-59.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt:
1. Nguyễn Tiến Bình (1997), Nghiên cứu giải phẫu vạt da cân trên mắt cá
ngoài, vạt bắp chân cuống ngoại vi và ứng dụng điều trị khuyết hổng
phần mềm đoạn 2/3 dưới cẳng chân, cổ chân, Luận án tiến sỹ khoa học y
dược, Hà Nội.
2. Vũ Hữu Dũng (2011), Nghiên cứu giải phẫu và ứng dụng lâm sàng vạt da
cơ bụng chân hình đảo cuống ngoại vi điều trị viêm khuyết hổng phần
mềm ở 1/3 dưới cẳng chân, cổ chân và đệm gót, Luận án tiến sỹ Y học,
Hà Nội.
3. Nguyễn Văn Đại (2007), Nghiên cứu giải phẫu - Ứng dụng lâm sàng vạt
cơ dép điều trị viêm khuyết hổng xương, phần mềm 2/3 dưới cẳng chân,
Luận án tiến sĩ Y học, Hà Nội.
4. Trần Đoàn Đạo, Lê Nguyễn Diên Minh và Ngô Đức Hiệp (2011), "Đánh
giá hiệu quả của máy hút áp lực âm trong điều trị các vết thương mãn tính
kết quả bước đầu", Tạp chí Y học TP Hồ Chí Minh. 15(4), tr. 198-204.
5. Vũ Nhất Định (2004), Nghiên cứu giải phẫu ứng dụng lâm sàng vạt da
cân bắp chân hình đảo cuống ngoại vi dựa vào các động mạch tuỳ hành
thần kinhvà tĩnh mạch hiển ngoài, Luận án tiến sỹ Y học, Hà Nội.
6. Lê Văn Đoàn (2003), Nghiên cứu giải phẫu và ứng dụng lâm sàng vạt cơ,
da - cơ lưng to trong điều trị khuyết hổng lớn ở chi dưới, Luận án tiến sỹ
y học, Hà Nội.
7. Lê Văn Đoàn (2006), "Kết quả sử dụng các vạt cơ có cuống mạch nuôi
trong điều trị tổn khuyết vùng gối, cẳng chân cổ chân và bàn chân", Tạp
chí y dược học lâm sàng 108, tr. 51-56.
8. Lê Hồng Hải (2005), Nghiên cứu giải phẫu và ứng dụng lâm sàng vạt da
cân bả vai, bên bả trong điều trị khuyết hổng phần mềm lớn vùng cẳng
chân, bàn chân, Luận án tiến sỹ y học, Hà Nội.
9. Đỗ Xuân Hợp (1978), Giải phẫu thực dụng ngoại khoa chi trên và chi
dưới, Nhà xuất bản Y học.
10. Đỗ Phước Hùng (2004), Che phủ và phục hồi chức năng bàn chân mất mô
mềm vùng gót, Luận án tiến sỹ y học, thành phố Hồ Chí Minh.
11. Trần Ngọc Lĩnh, Nguyễn Anh Tuấn và Vũ Hữu Thịnh (2013), "Điều trị
các vết thương, vết loét mạn tính", Tạp chí Y học Tp Hồ Chí Minh. 17(1).
12. Nguyễn Tiến Lý (1996), Nghiên cứu giải phẫu vạt gan chân trong và ứng
dụng điều trị khuyết hổng phần mềm vùng cổ chân, gót chân, Luận án tiến
sỹ, khoa học y học, Hà Nội.
13. Trịnh Văn Minh (1998), Giải phẫu người, Nhà xuất bản Y học, tr.376-
400.
14. Phạm Đăng Nhật và và cộng sự (2003), "Che phủ các khuyết hổng phần
mềm vùng cẳng - bàn chân tại Bệnh viện TW Huế", Tạp chí y học. 10, tr.
161-167.
15. Phạm Đăng Nhật (2008), "Điều trị các khuyết hổng phần mềm lộ xương
vùng cẳng chân do chấn thương tai bệnh viện TƯ Huế", Y học Thực hành
620+621, tr. 332-345.
16. Phạm Đăng Nhật (2010), "Nhân một trường hợp chèn ép khoang ở cẳng
tay bị bỏ sót được bảo tồn chi, tạo hình bằng ghép xương mác vi phẫu và
chuyển cơ chức năng", Tạp chí Y học Việt Nam. 2(374), tr. 436-444.
17. Phạm Đăng Ninh (2006), "Đánh giá kết quả điều trị viêm khuyết 1/3 trên
và 1/3 giữa xương chày bằng các vạt cơ có cuống mạch liền tai bệnh viện
103", Tạp chí Y Dược học Lâm sàng 108, tr. 46-50.
18. Nguyễn Huy Phan và các cộng sự (1993), Các vạt ghép tự do bằng kỹ
thuật vi phẫu trong điều trị các tổn khuyết chi dưới do chấn thương, Phẫu
thuật tạo hình, Tập 1, Tổng hội y dược học Việt nam tr.31-35.
19. Lê Đình Phong và các cộng sự (2002), "Nhận xét kết quả điều trị các
khuyết hổng phần mềm vùng cẳng chân, bàn chân bằng vạt da cân trên
mắt cá ngoài", Kỷ yếu Hội nghị ngoại khoa Việt Nam lần thứ 12, tr. 164-
168.
20. Nguyễn Tài Sơn (2003), Nghiên cứu điều trị liệt thần kinh mặt ( VII )
bằng ghép cơ thon tự do có nối mạch máu thần kinh, Luận án tiến sỹ Y
Học, Hà Nội.
21. Nguyễn Việt Tiến (1995), Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật ghép xương mác
có nối mạch nuôi trong điều trị mất đoạn xương thân dài, Luận án phó
tiến sĩ khoa học y dược, Hà Nội.
22. Nguyễn Việt Tiến (1999), "Trám ổ viêm khuyết xương vùng 1/3 dưới
cẳng chân, bàn chân bằng vạt cơ thon tự do có nối mạch nuôi bằng kỹ
thuật vi phẫu", Y học thực hành. 6, tr. 31-34.
23. Nguyễn Việt Tiến và các cộng sự (2009), "Vi phẫu thuật trong Chấn
thương Chỉnh hình - Kết quả 20 năm áp dụng tại Viện Chấn thương Chỉnh
hình, Bệnh viện TƯQĐ 108", Kỷ yếu Hội nghị khoa học Hội Chấn thương
Chỉnh hình Việt Nam lần thứ 8, tr. 12-15.
24. Nguyễn Việt Tiến, Nguyễn Văn Lương và Nguyễn Vũ Tuấn Anh (2009),
"Băng kín và hút chân không, một liệu pháp mới trong điều trị vết
thương", Tạp chí y dược học quân sự. 2, tr. 11-15.
25. Nguyễn Việt Tiến và các cộng sự (2011), "Phẫu thuật nối chi, chuyển
ngón chân phục hồi ngón tay vàchuyển vạt tổ chứctự do - Kết quả 20 năm
tại Viện Chấn thương Chỉnh hình , Bệnh viện TƯQĐ 108", Tạp chí Y
Dược lâm sàng 108. 6 (số đặc biệt), tr. 238-245.
26. Nguyễn Việt Tiến (2012), Điều trị vết thương bằng liệu pháp chân không,
Nhà xuất bản Y học.
27. Mai Trọng Tường (2011), Khảo sát giải phẫu cuống mạch đầu xa đảo da
cân thần kinh hiển ngoài, áp dụng và các cải tiến lâm sàng, Luận án tiến
sĩ Y học, Thành phố Hồ Chí Minh.
28. Trần Sinh Vương (1996), Giải phẫu vạt da cơ thon ứng dụng trong phẫu
thuật tạo hình, Luận văn thạc sĩ khoa học Y Dược, Hà Nội.
Tiếng Anh:
29. Amarante J., Martins A., Reis J. (1998), "A distally based median plantar
flap", Ann Plast Surg. 20, p. 468-470.
30. Argenta L.C., Morykwas M.J. (1997), "Vacuum-assisted closure: a new
method for wound control and treatment: clinical experience", Ann Plast
Surg. 38(6), p. 563-565.
31. Baker G.L., Newton E.D., Franklin J.D. (1990), "Fasciocutaneous island
flap based on the medial plantar artery: clinical applications for leg, ankle
and forefoot", Plast Reconst Surg. 85, p. 47-58.
32. Barbara C., Bert V., Assaf Z. et al. (2014), "Donor-Site Morbidity
following Harvest of the Transverse Myocutaneous Gracilis Flap for
Breast Reconstruction", Plast Reconstr Surg. 134(5), p. 689-691.
33. Barr L.C., Joyce A.D. (1989), "Microvascular anastomoses in diabetes:
An experimental study", Br J Plast Surg. 42, p. 50-53.
34. Bashir A.H. (1983), "Inferioly based gastrocnemius muscle flap in the
treatment of war wound of the middle leg", Br J Plast Surg. 36(3), p. 307-
309.
35. Benacquista T., Kasabian A.K., Karp N.S (1996), "The fate of lower
extremities with faied free flaps", Plast Reconstr Surg. 98, p. 834-842.
36. Belfkira F., Forli A., Pradel P. et al. (2006), "Distally based sural
neurocutaneous flap: clinical experience and technical adaptations. Report
of 60 cases", Ann Chir Plast Esthet. 51(3), p. 199-206.
37. Beris A.E., Soucacous P.N., Xenakis T.A. (1995), "Latissimus dorsi free
issue transfer for coverage of extensive soft tissue defects", Acta Orthop.
264, p. 31-34.
38. Brumback R.J., Mc Bride M.S., Ortolani N.C. (1992), "Functional
evaluation of the shouder after transfer of the vascularized latissimus dorsi
muscle", J bone and joint Surg. 79A, p. 377-382.
39. Butler C.E., Chevray P. (2002), "Retrograde-flow medial plantar artery
flap reconstruction of distal forefoot, toe and webspace defects", Ann
Plast Surg. 49, p. 196-201.
40. Carr M.M., Manktelow R.T., Zuker R.M. (1995), "Gracilis donor site
morbidity", Microsurgery. 16, p. 43-47.
41. Chaivanichsiri P. (1999), "In fluence of recipient vessels on free tissue
transplantation of the extremities", Plast Reconstr Surg. 104, p. 970-975.
42. Chang D.W., Wang B., Robb G.L. et al. (2000), "Effect of obesity on flap
and donor-site complications in free transverse rectus abdominis
myocutaneous flap breast reconstruction", Plast Reconst Surg. 105(5), p.
1640-1648.
43. Cooley B.C., Hanel D.P., Lan M. et al. (1992), "The influence of diabetes
on free flap transfer: I. The effect of ischemia on flap survival", Ann Plast
Surg. 29, p. 65-69.
44. Coquerel-Beghin D., Milliez P.Y., Auquit-Auckbur I. et al. (2006), "The
gracilis musculocutaneous flap: vascular supply of the muscle and skin
components", Surg Radiol Anat. 28(6), p. 588-595.
45. Cormack G. C., Lamerty G.H. (1992), The anatomical basis for
fasciocutaneous flaps, In Fasciocutaneous flaps, Cambridge: Blackwell
Scientific Publications.
46. Coskunfirat O.K., Chen H.C., Spanio S. et al. (2005), "The safety of
microvascular free tissue transfer in the elderly population", Plast Reconst
Surg. 115(3), p. 771-775.
47. Daigeler A., Drucke D., Tatar K. et al. (2009), "The pedicled
gastrocnemius muscle flap: a review of 218 cases", Plast Reconstr Surg.
123(1), p. 250-257.
48. Daniel R.K., Taylor G.I. (1973), "Distant transfer of an island flap by
microvascular anastomosis", Plast Reconst Surg. 52, p. 111-112.
49. De Franzo A.J., Argenta L.C., Marks M.W. et al. (2001), "The use of
vacuum assisted closure therapy for the treatment of lower extremity
wounds with exposed bone", Plast Reconst Surg. 108(5), p. 1184-1186.
50. Demiri E., Foroglou P., Dionyssiou D. (2006), "Our experience with the
lateral supramalle-olar island flap forreconstruction of the distal leg and
foot: A review of 20 cases", J Plast Hand Surg. 40(2), p. 106-110.
51. Deutinger M., Kuzbari R., Paternostro-Sluga T. et al. (1995), "Donor-site
morbidity of the gracilis flap", Plast Reconst Surg. 95(7), p. 1240-1244.
52. Fayman M.S., Orak F., Hugo B. et al. (1987), "The distally based split
soleus muscle flap", British journal of plastic surgery. 40(1), p. 20-26.
53. Feldman J.J., Cohen B.E., Mayo S.W. (1978), "The medial gastrocnemius
myocutaneous flap", Plast Reconst Surg. 61, p. 531-533.
54. Ferreira M.C, Besteiro J.M., Zumiotti A. (1994), "Reconstruction of the
foot with microvascular free flaps", Microsurg. 15, p. 33-36.
55. Ferreira A.C. Reis J., Pinho C. et al. (2001), "The distally based island
superficial sural artery flap: clinical experience with 36 flaps", Ann Plast
Surg. 46, p. 308-313.
56. Fischer J.P., Nelson J.A., Sieber B. et al. (2013), "Free tissue transfer in
the obese patient: an outcome and cost analysis in 1258 consecutive
abdominally based reconstructions", Plast Reconst Surg. 131(5), p. 681-
692.
57. Gao R., Loo S. (2011), "Review of 100 consecutive microvascular free
flaps", N Z Med J. 124(4), p. 1345-1348.
58. Garvey P.B., Villa M.T., Rozanski A.T. et al. (2012), "The advantages of
free abdominal-based flaps over implants for breast reconstruction in
obese patients", Plast Reconst Surg. 130(5), p. 991-1000.
59. Georgescu A.V. (2012), "Propeller Perforator Flaps in Distal Lower Leg:
Evolution and Clinical Applications", Arch Plast Surg. 39(2), p. 94-105.
60. Ger R. (1971), "The technique of muscle transposition in the operative
treatment of traumatic and ulcerative lesions of the leg", J Trauma. 11(6),
p. 502-510.
61. Germann G., Steinau H.U. (1996), "The Clinical Reliability of Vein
Grafts in Free-Flap Transfer", J Reconstr Microsurg. 12(1), p. 11-18.
62. Ghods M., Grabs R., Kersten C. et al. (2012), "A modified free muscle
transfer technique to effectively treat chronic and persistent calcaneal
osteomyelitis", Ann Plast Surg. 68(6), p. 599-605.
63. Giordano P.A., Abbes M., Pequignot J.P. (1990), "Gracilis blood supply:
anatomical and clinical re-evaluation", British Journal of Plastic Surgery.
43, p. 266-272.
64. Greer S.E., Longaker M.T., Margiotta M. et al. (1999), "The use of
subatmospheric preesure dressing for the coverage of radial forearm free
flap donor site exposed tendon complications", Ann Plast Surg. 43(5), p.
551-554.
65. Hallock G.G., Sano K. (2004), "The medial sural medial gastrocnemius
perforator free flap: an 'ideal' prone position skin flap", Ann Plast Surg.
52, p. 184-187.
66. Hamdi M.F., Anis Khlifi (2012), "Lateral Supramalleolar Flap for
Coverage of Ankle and Foot Defects in Children", J Foot Ankle Surg.
51(1), p. 106-109.
67. Harii K., Ohmori K., Torii S. (1976), "Free gracilis muscle
transplantation, with microneurovascular anastomoses for the treatment of
facial paralysis. A preliminary report", Plast Reconstr Surg. 57(2), p. 133-
143.
68. Harrison D.H., Morgan D.G. (1981), "The instep island flap to resurface
plantar defects", British journal of plastic surgery. 34(3), p. 315-318.
69. Heugel J.R. Sias Parks K., Christie S.S. et al. (2002), "Treatment of the
exposed Achilles tendon using negative pressure wound therapy: a case
report", J Burn Rahabil. 23, p. 167-169.
70. Holle J., Worseg A., Kuzbari R. et al. (1995), "The extended gracilis
muscle flap for reconstruction of the lower leg", Br J Plast Surg. 45, p.
353-359.
71. Ingianni G., Muhlbauer W (1977), "The musculo – cutaneous cross leg
flap", Eur J Plast Surg. 4, p. 289-292.
72. Jakubietz R.G., Jakubietz M.G., Gruenert J.G. (2007), "The 180 - degree
perforator-based propeller flap for soft tissue coverage of the distal, lower
extremity: a new method to achieve reliable coverage of the distal lower
extremity with a local, fasciocutaneous perforator flap", Ann Plast Surg.
59, p. 667-671.
73. Jeng S.F., Wei F.C., Kuo Y.R. (1999), "Salvage of the distal foot using
the distally based sural island flap", Ann Plast Surg. 43, p. 499-505.
74. Jensen J.A. Goodson W.H., Hopf H.W. et al. (1991), "Cigarette smoking
decreases tissue oxygen", Arch Surg. 126(9), p. 1131-1134.
75. Jeong J.H. (1997), "Reconstruction of large heel defects using gracilis
muscle free flaps", The Yeungnam Univ. Med. J. 14, p. 227-236.
76. Jorgensen L.N., Kallehave F., Christensen E. et al. (1998), "Less collagen
production in smokers", Surgery. 123(4), p. 450-455.
77. Juricic M., Vaysse P., Guitard J. et al. (1993), "Anatomic basis for use of
a gracilis muscle flap", Surg Radiol Anat. 15(3), p. 163-168.
78. Kamath B.J., Joshua T.V., Pramod S. (2006), "Perforator based flap
coverage from the anterior and lateral compartment of the leg for medium
sized traumatic pretibial soft tissue defects: a simple solution for a
complex problem", J Plast Reconstr Aesthet Surg. 59, p. 515-520.
79. Kaplan I., Ozerkan F., Bora A. (1998), "Reconstruction of soft tissue and
bone defects in lower extremity with free flap", Microsurgery. 18(3), p.
176-181.
80. Kappler U.A., Constantinescu M.A., Büchler U. et al. (2005), "Anatomy
of the proximal cutaneous perforator vessels of the gracilis muscle", Br J
Plast Surg. 58(4), p. 445-448.
81. Khouri R.K., Shaw W.W (1989), "Reconstruction of the lower extremity
with microvascular free flaps: A 10 year experience with 304 consecutive
cases", J Trau. 29, p. 1086-1094.
82. Khouri R.K. (1992), "Avoiding free flap failure", Clin Plast Surg. 19, p.
773-781.
83. Khouri R.K. Cooley B.C., Kunselman A.R. et al. (1998), "A prospective
study of microvascular free-flap surgery and outcome", Plast Reconst
Surg. 102(3), p. 711-721.
84. Kim B.K., Lee Y.K., Park K.Y. et al (2014), "Analysis of multiple risk
factors affecting the result of free flap transfer for necrotising soft tissue
defects of the lower extremities in patients with type 2 diabetes mellitus",
J Plast Reconstr Aesthet Surg. 67(5), p. 624-628.
85. Koll S.S, Schusterman M.A., Reece G.P. (1996), "Choice of flap and
incidene of free flap success", Plast Reconst Surg. 98, p. 459-463.
86. Koski E.A., Kuokkanen H.O. Koskinen S.K. et al. (2004),
"Reconstruction of soft tissue after complicated calcaneal fractures",
Scand J Plast Reconstr Surg Hand Surg. 38(5), p. 284-287.
87. Ladas C., Nicholson R., Chinh V. (2000), "The cross - leg soleus muscule
flap", Annals of plastic surgery. 45, p. 612-615.
88. Liu X., Kuang X. (2002), "The cinical application of cross – leg flaps for
coverage of bone exposure on the leg", Chinese journal of plastic surgery
18, p. 346-353.
89. Loréa P., Vercruysse N., Coessens B.C. (2001), "Use of gracilis muscle
free flap for reconstruction of chronic osteomyelitis of foot and ankle",
Acta Orthopædica Belgica. 67(3), p. 267-273.
90. Magden O., Tayfur V., Edizer M. et al. (2010), "Anatomy of gracilis
muscle flap", J Craniofac Surg. 21(6), tr. 1948-1950.
91. Malata C.M., Cooter R.D., Batchelor A.G. et al. (1996), "Microvascular
free-tissue transfers in elderly patients: The leeds experience", Plast
Reconst Surg. 98(7), p. 1234-1241.
92. Man D., Acland R.D. (1980), "The microarterial anatomy of the dorsalis
pedis flap and its clinical application", Plast Reconst Surg. 65, p. 419-422.
93. Manktelow R.T. (1986), Gracilis. Microvascular reconstruction -
Anatomy, Application and Surgical Technique, Springer - Verlag Berlin
Heidelberg New York Tokyo, ed, p.37-44.
94. Manktelow R.T. (1986), Dosal foot flap. Microvascular Reconstruction -
Anatomy, Application and Surgiacal Technique, Springer - Verlag Berlin
Heidelberg New York Tokyo, ed, p.14-24.
95. Masquelet A.C., Beveridge J., Romana M.C. et al. (1988), "The lateral
supramalleolar flap", Plastic and reconstructive surgery. 81(1), p. 74-84.
96. Masquelet A.C., Romana M.C., Wolf G. (1992), "Skin island flaps
supplied by the vascular axis of the sensitive superficial nerves: anatomic
study and clinical experience in the leg", Plast Reconstr Surg. 89, p. 1115-
1121.
97. Mathes S.J., Nahai F. (1981), "Classification of the vascular anatomy of
muscles: experimental and clinical correlation", Plastic and reconstructive
surgery. 67(2), p. 177-185.
98. Mathes S.F., Nahai .F (1982), Clinical applications of muscle and
musculocutaneous flaps, St Louis Mosby.
99. May J.W, Chait L.A., Cohen B.E (1977), "Free neurovascular flap from
the first web of the foot in hand reconstruction", J Hand Surg. 2, p. 387-
389.
100. McCraw J.B., Furlow L.T. (1975), "The dorsalis pedis arterialized flap.
A clinical study", Plasr. Reconstr. Surg. 55, p. 122-127.
101. McCraw J.B., Massey F.M., Shanklin K.D. et al. (1976), "Vaginal
reconstruction with gracilis myocutaneous flaps", Plast. Reconstr. Surg.
58(2), p. 176-183.
102. McCraw J.B., Fishman J.H., Sharzer L.A. (1978), "The versatile
gastrocnemius myocutaneous flap", Plast Reconstr Surg. 62, p. 15-23.
103. Melissinous E.G., Parks D.H. (1989), "Post - trauma reconstruction with
free tissue transfer -analysis of 442 consecutive cases", J Trau. 29, p.
1095-1102.
104. Morris S.F., Yang D. (1999), "Gracilis muscle: arterial and neural basis
for subdivision", Ann Plast Surg. 42(6), p. 630-633.
105. Møller A.M., Villebro N., Pedersen T. et al. (2002), "Effect of
preoperative smoking intervention on postoperative complications: a
randomised clinical trial", Lancet. 12, 359(9301), p. 114-117.
106. Ohmori K., Harri K. (1976), "Free dorsalis pedis sensory flap to the hand
with microneurovascular anastomoses", Plast Reconst Surg. 58, p. 546-
548.
107. Orticochea M. (1972), "The musculocutaneous flap method: an
immediate and heroic substitute for the method of delay", Br J Plast
Surg. 25, p. 106-110.
108. Parrett B.M., Winograd J.M., Lin S.J. (2009), "The posterior tibial artery
perforator flap: an alternative to free-flap closure in the comorbid
patient", J Reconstr Microsurg. 25, p. 105-109.
109. Peek A., Müller M., Ackermann G. et al (2009), "The free gracilis
perforator flap: anatomical study and clinical refinements of a new
perforator flap", Plast Reconstr Surg. 123(2), p. 578-588.
110. Pelham F.R, Kubiak E.N., Sathappan S.S (2006), "Topical negative
pressure in the treatment of infected wounds with exposed orthopaedic
implants", J Wound Care. 15(3), p. 111-113.
111. Philippe V., Michel M., Jean-David S. (2005), "The lateral
supramalleolar flap: Experience with 41 cases", Ann Plast Surg. 54(1), p.
49-54.
112. Pignatti M., Pasqualini M., Governa M. (2008), "Propeller flaps for leg
reconstruction", J Plast Reconstr Aesthet Surg. 61, p. 777-783.
113. Ponten B. (1981), "The fasciocutaneous flap: its use in soft tissue defects
of the lower leg", Br J Plast Surg. 34, p. 215-220.
114. Pülzl P. Schoeller T., Kleewein K. et al. (2011), "Donor-site morbidity
of the transverse musculocutaneous gracilis flap in autologous breast
reconstruction: short-term and long-term results", Plast Reconst Surg.
128(4), p. 233-242.
115. Randon C. Vermassen F., Jacobs B. et al. (2010), "Outcome of arterial
reconstruction and free-flap coverage in diabetic foot ulcers: long-term
results", World J Surg. 34(1), tr. 177-184.
116. Redett R.J., Robertson B.C., Chang B. et al. (2000), "Limb salvage of
lower-extremity wounds using free gracilis muscle reconstruction", Plast
Reconst Surg. 106(7), p. 1507-1513.
117. Reus W.F., Colen L.B., Straker D.J. (1992), "Tobacco smoking and
complications in elective microsurgery", Plast Reconst Surg. 89(3), p.
490-494.
118. Richou J. (2011), "Lateral hemisolius island flap with a distal fibular
pedicle: A new option for skin defects of the leg", J Bone Joint Surg Br.
93-B (4), p. 496.
119. Robinson D.W. (1976), "Microsurgical transfer of the dorsalis pedis
neurovascular island flap", Br J Plast Surg. 29, p. 209-213.
120. Salibian A.H., Menick F.J. (1982), "Bipedicle gastrocnemius
myocutaneous flap for defect of the distal one - third of the leg", Plast
Reconstr Surg. 70, p. 17-23.
121. Serletti J.M., Higgins J.P., Moran S. et al. (2000), "Factors affecting
outcome in free-tissue transfer in the elderly", Plast Reconst Surg.
106(1), p. 66-70.
122. Shaker A. (1998), "The Use of distally based hemisoleus in
reconstruction of lower third leg defects", Egypt J Plast Reconstr Surg.
22(2), p. 161-169.
123. Shatari T. Niimi M., Fujita M. et al. (2000), "Vascular anatomy of
gracilis muscle: arterial findings to enhance graciloplasty", Surg Radiol
Anat. 22(1), p. 21-24.
124. Siddiqi M.A và Hafeez K. (2012), "The Medial Plantar Artery Flap: A
Series of Cases over 14 Years", J Foot and Ankle Surg. 51, p. 790-794.
125. Stark W.J. (1946), "The use of pedicled muscle flaps in the surgica
ltreatement of chronic osteomyelitis resulting from compound fractures",
J Bone Joint Surg. 28-A, p. 343 - 350
126. Strauch B., Yu H.L., Chen Z.W. et al. (1993), "Gracilis flap. Atlas
microvascular surgery- Anatomy and operative approaches", Thieme
Medical Publisher, Inc. New York, p. 166-173
127. Souminen S., Seljavaara S.A. (1995), "Free flap failures", Microsurg.
16(6), p. 396-399.
128. Tamura A., Takeuchi Y., Yamakage A. (1994), "Reconstruction of
plantar heel defects with free gracilis musculocutaneous flap", J Foot
and Ankle Surg. 33(3), p. 274-277.
129. Tobin G.F. (1985), "Hemisoleus and reversed hemisoleus flaps", Plast
Reconstr Surg. 76(1), p. 87 - 96
130. Tos P., Innocenti M., Artiaco S. (2011), "Perforator-based propeller flaps
treating loss of substance in the lower limb", J Orthop Traumatol. 12, p.
93-99.
131. Townzend P.L.G. (1978), "An inferiorly based soleus muscle flap", Plast
Reconst Surg. 31, p. 210-212.
132. Valenti P., Masquelet A.C., Romana C. et al. (1991), "Technical
refinement of the lateral supramalleolar flap", Br J Plast Surg. 44(6), p.
459-462.
133. Vergara-Amador E. (2009), "Distally - based superficial
suralneurocutaneous flap for reconstruction of the ankle and foot in
children", J Plast Reconstr Aesthet Surg. 62(8), p. 1087-1093.
134. Vigato E., Macchi V., Tiengo C. et al. (2008), "The clinical role of the
gracilis muscle: an example of multidisciplinary collaboration",
Pelviperineology. 26, p. 149-151.
135. Vranckx J.J., Misselyn D., Fabre G. et al. (2004), "The gracilis free
muscle flap is more than just a "graceful" flap for lower-leg
reconstruction", J Reconstr Microsurg. 20(2), p. 143-148.
136. Wei F.C., Mardini S. (2004), "Free-style free flaps", Plast Reconst Surg.
114, p. 910-916.
137. Whitaker I.S., Karavias M., Shayan R. et al. (2012), "The gracilis
myocutaneous free flap: a quantitative analysis of the fasciocutaneous
blood supply and implications for autologous breast reconstruction",
PLoS One. 7(5), e36367, p. 1-12.
138. Yajima H., Tamai S., Yamaguchi T. (1995), "Use of the muscle flap
covering in the treatment of chronic osteomyelitis of tibia", Seikeigeka.
39, p. 1594-1597.
139. Yang C.C., Chang D.S., Webb L.X. (2006), "Vacumm assisted closure
for fasciotomy wounds following compartment syndorme of the leg", J
Surg Orthop Adv. 15(1), p. 19-21.
140. Yang D., Yang J.F., Morris S.F. et al. (2011), "Medial plantar artery
perforator flap for soft-tissue reconstruction of the heel", Ann Plast Surg.
67(3), p. 294-298.
141. Zukowski M., Lord J., Ash K. et al. (1998), "The gracilis free flap
revisited: a review of 25 cases of transfer to traumatic extremity
wounds", Ann Plast Surg. 40(2), p. 141-144.