Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

140
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương LỜI MỞ ĐẦU Thị trường chứng khoán Việt Nam hình thành và chính thức đi vào hoạt động từ năm 2000. Trong thời gian hoạt động, thị trường chứng khoán Việt Nam đã chứng tỏ là một kênh tập trung và phân phối các nguồn vốn của nền kinh tế một cách hiệu quả, tập trung các nguồn tiết kiệm để phân phối lại cho những ai muốn sử dụng các nguồn tiết kiệm đó theo giá mà người sử dụng sẵn sàng trả và theo phán đoán của thị trường về khả năng sinh lời từ các dự án của người sử dụng. Để làm được điều này phải kể tới vai trò của các định chế tài chính trung gian tham gia hoạt động kinh doanh trên thị trường chứng khoán. Các định chế này có thể là các công ty môi giới và kinh doanh chứng khoán. Họ giữ vai trò cầu nối trung gian giữa tổ chức cần vốn và những người cung cấp vốn, tham gia vào việc huy động các nguồn tài chính từ thị trường tiền tệ và thị trường tài chính để đáp ứng nhu cầu về tài trợ cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp và các tổ chức phi chính phủ. Các định chế này cũng có thể là các tổ chức giữ vai trò của người nhận tiền huy động từ công chúng và thay mặt họ để thực hiện việc đầu tư vào các công cụ tài chính trên thị trường chứng khoán. Người ta thường biết đến các tổ chức này với tên là các quỹ đầu tư tập thể. 1

Transcript of Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Page 1: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

LỜI MỞ ĐẦU

Thị trường chứng khoán Việt Nam hình thành và chính thức đi vào hoạt động

từ năm 2000. Trong thời gian hoạt động, thị trường chứng khoán Việt Nam đã

chứng tỏ là một kênh tập trung và phân phối các nguồn vốn của nền kinh tế một

cách hiệu quả, tập trung các nguồn tiết kiệm để phân phối lại cho những ai muốn sử

dụng các nguồn tiết kiệm đó theo giá mà người sử dụng sẵn sàng trả và theo phán

đoán của thị trường về khả năng sinh lời từ các dự án của người sử dụng. Để làm

được điều này phải kể tới vai trò của các định chế tài chính trung gian tham gia hoạt

động kinh doanh trên thị trường chứng khoán. Các định chế này có thể là các công

ty môi giới và kinh doanh chứng khoán. Họ giữ vai trò cầu nối trung gian giữa tổ

chức cần vốn và những người cung cấp vốn, tham gia vào việc huy động các nguồn

tài chính từ thị trường tiền tệ và thị trường tài chính để đáp ứng nhu cầu về tài trợ

cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp và các tổ chức phi chính phủ. Các

định chế này cũng có thể là các tổ chức giữ vai trò của người nhận tiền huy động từ

công chúng và thay mặt họ để thực hiện việc đầu tư vào các công cụ tài chính trên

thị trường chứng khoán. Người ta thường biết đến các tổ chức này với tên là các

quỹ đầu tư tập thể.

Các quỹ đầu tư tập thể được hình thành từ cuối thể kỷ 19 tại các thị trường

chứng khoán có lịch sử phát triển lâu đời. Các quỹ này với vai trò là các nhà đầu tư

có tổ chức tham gia đầu tư vào thị trường chứng khoán và góp phần đáng kể vào

việc bình ổn hoạt động của thị trường. Thị trường chứng khoán Việt Nam mặc dù

đã đi vào hoạt động được một thời gian nhưng tham gia đầu tư trên thị trường hiện

nay vẫn chủ yếu là các nhà đầu tư cá nhân. Sự thiếu vắng vai trò của các nhà đầu tư

có tổ chức, đặc biệt là các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp như các quỹ tập thể, một

định chế đầu tư quan trọng và điển hình trên thị trường chứng khoán, bộc lộ qua các

đợt biến động lớn trên thị trường chứng khoán trong thời gian qua cho thấy sự thiếu

ổn định của thị trường chứng khoán Việt Nam.

Nếu thị trường chứng khoán và các công ty chứng khoán là các khái niệm đã

tương đối quen thuộc đối với công chúng đầu tư tại Việt Nam, quỹ đầu tư chứng

1

Page 2: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

khoán dường như còn là khái niệm mới mẻ với các nhà đầu tư. Vì vậy, đề tài nghiên

cứu này của em nhằm giúp cho mọi người hiểu rõ hơn về sự hình thành và phát

triển của quỹ đầu tư chứng khoán cũng như hoạt động của quỹ trên thị trường

chứng khoán Việt Nam.

Trong đề tài này, em giới hạn phạm vi nghiên cứu đề tài chỉ trong các quỹ đầu

tư tập thể thực hiện việc huy động vốn hình thành quỹ và hoạt động đầu tư tại Việt

Nam, còn được gọi trong đề tài với tên là quỹ đầu tư chứng khoán đối với hình thái

quỹ này tại Việt Nam. Ngoài những vấn đề cơ bản liên quan tới tổ chức và hoạt

động của các quỹ đầu tư tập thể, của công ty quản lý quỹ cũng như mối quan hệ

trong hoạt động của quỹ với công ty quản lý quỹ và các tổ chức giám sát cũng như

bảo quản tài sản của quỹ, đề tài sẽ tập trung vào vào đánh giá sự cần thiết cũng như

các yếu tố tồn tại ảnh hưởng tới việc hình thành các quỹ đầu tư tập thể, làm cơ sở

đưa ra các đề xuất nhằm thúc đẩy sự hình thành quỹ đầu tư chứng khoán cũng như

các công ty quản lý quỹ chuyên nghiệp, góp phần vào sự phát triển của thị trường

chứng khoán Việt Nam.

Nhiệm vụ nghiên cứu của khoán luận là tìm hiểu những vấn đề lý thuyết có

liên quan tới sự hình thành và phát triển của quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ,

phân tích các nhân tố ảnh hưởng và thực trạng hoạt động của quỹ đầu tư và công ty

quản lý quỹ; và cuối cùng là đánh giá và kết luận. Và phương pháp nghiên cứu

được sử dụng trong khoá luận là phương pháp duy vật biện chứng.

Nội dung nghiên cứu đề tài của em có kết cấu chính gồm ba phần:

Chương I: Những vấn đề cơ bản về tổ chức và hoạt động của quỹ đầu tư và công ty

quản lý quỹ

Chương II: Sự hình thành và phát triển của quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ trên

thị trường chứng khoán Việt Nam

Chương III: Một số định hướng và giải pháp phát triển các quỹ đầu tư và công ty

quản lý quỹ trên thị trường chứng khoán Việt Nam.

2

Page 3: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

Do thời gian nghiên cứu không được nhiều và trình độ nhận thức cũng như khả

năng của em có hạn nên bài nghiên cứu của em không tránh khỏi những sai sót và

hạn chế, em rất mong nhận được sự nhận xét và đóng góp ý kiến quý báu của các

thầy cô để khoá luận của em được hoàn chỉnh hơn.

Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của giáo viên TS. Đào Thị Thu

Giang đã giúp em hoàn thành việc nghiên cứu và hoàn thành bài khoá luận này.

3

Page 4: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

Chương I

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG

CỦA QUỸ ĐẦU TƯ VÀ CÔNG TY QUẢN LÝ QUỸ

1.1. Khái niệm và vai trò của quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ:

1.1.1 Khái niệm về quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ:

Trong các tài liệu khác nhau cũng như trong các văn bản pháp lý của các nước

có ngành quỹ đầu tư phát triển, người ta đưa ra nhiều các định nghĩa về quỹ đầu tư

tập thể với phạm vi khái niệm rộng hẹp cũng như các tiêu chí khác nhau.

Các quỹ đầu tư tại Mỹ được định nghĩa là các tổ chức tài chính phi ngân hàng

thu nhận tiền từ một số lượng lớn các nhà đầu tư và tiến hành đầu tư số vốn đó vào

các tài sản chính có tính thanh khoản dưới dạng tiền tệ và các công cụ của thị

trường tài chính.1

Các quỹ đầu tư tập thể tại Anh được coi là mọi hình thái về tài sản hoặc bất kỳ

loại nào với mục đích là cho phép những người tham gia vào các hình thái đó được

tham gia hoặc thu lợi nhuận phát sinh từ việc mua, giữ, quản lý hoặc xử lý tài sản

hoặc tiền được thanh toán từ lợi nhuân hoặc thu nhập đó.2

Tại Thái Lan, việc quản lý một quỹ đầu tư tập thể có nghĩa là việc quản lý đầu

tư theo một dự án quỹ tập thể bằng cách phát hành các đơn vị đầu tư của mỗi dự án

bán cho công chúng và đầu tư tiền thu được vào chứng khoán hoặc các tài sản khác

hoặc đầu tư thu lợi nhuận bằng các cách khác.3

Các quỹ tín thác theo mô hình của Nhật Bản được coi là một sản phẩm đuợc

hình thành nhằm đầu tư số tiền tập hợp được từ một số nhà đầu tư vào chứng khoán

(cổ phiếu và trái phiếu) chủ yếu tập trung dưới sự quản lý của những người không

1 Tr 139, Chứng khoán nhập môn, NXB Lao động – xã hội, năm 2006, HN2 Tr 56, Chứng khoán - Đầu tư và quản lý, NXB Lao động – xã hội, 2008, HN3 Tr 34, Tìm hiểu về Chứng khoán và Thị trường chứng khoán, NXB Lao động – xã hội, HN, 2007

4

Page 5: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

phải là người đầu tư và phân phối lợi nhuận thu được cho các nhà đầu tư theo tỷ lệ

vốn mà họ đóng góp vào quỹ.4

Theo định nghĩa của Trung quốc, quỹ đầu tư tập thể là một phương pháp đầu

tư tập thể vào chứng khoán, chủ yếu bằng việc thu hút vốn của người đầu tư thông

qua phát hành các đơn vị quỹ. Vốn được uỷ thác cho các tổ chức giám sát quỹ và

được những người điều hành quỹ quản lý và đầu tư vào các công cụ tài chính như

cổ phiếu và trái phiếu.5

Và Luật chứng khoán Việt Nam cũng nêu rõ: Quỹ đầu tư chứng khoán là quỹ

hình thành từ vốn góp của nhà đầu tư với mục đích kiếm lợi nhuận từ việc đầu tư

vào chứng khoán hoặc các dạng tài sản đầu tư khác, kể cả bất động sản, trong đó

nhà đầu tư không có quyền kiểm soát hàng ngày đối với việc ra quyết định đầu tư

của quỹ. 6

Từ các định nghĩa trên có thể rút ra định nghĩa chung cho quỹ đầu tư như sau:

Quỹ đầu tư được coi là một phương tiện đầu tư tập thể, là một tập hợp tiền của các

nhà đầu tư có cùng mục đích và được uỷ thác cho các nhà quản lý đầu tư chuyên

nghiệp tiến hành đầu tư để đạt được các mục tiêu của những người tham gia góp

vốn.

Có thể thấy rõ là các quỹ đầu tư tập thể tạo vốn bằng cách phát hành rộng rãi

ra công chúng. Những người đầu tư vào các quỹ có thể là các cá nhân hoặc các tổ

chức kinh tế nhưng đa phần là các nhà đầu tư riêng lẻ ít am hiểu về thị trường

chứng khoán. Vì vậy, hoạt động của các quỹ đầu tư mang tính xã hội hoá rất cao.

Các quỹ đầu tư không tự tiến hành hoạt động đầu tư mà uỷ thác số tiền của

mình cho một tổ chức đầu tư chuyên nghiệp hay còn gọi là các công ty quản lý quỹ.

Hình thái và vai trò của công ty quản lý quỹ theo mô hình quỹ đầu tư khác nhau

cũng khác nhau, có thể là các tổ chức tư vấn đầu tư, cũng có thể là các công ty quản

lý tài sản chuyên nghiệp. Công ty quản lý quỹ có thể chỉ tiến hành quản lý đầu tư

4 Tr 339, Giáo trình Những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán, NXB Chính trị quốc gia, HN năm 20025 Tr 139, Chứng khoán nhập môn, NXB Lao động – xã hội, năm 2006, HN6 Điều 6, chương 1 Những quy định chung, Luật chứng khoán Việt Nam năm 2006

5

Page 6: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

thay cho quỹ nhưng cũng có thể đồng thời đảm nhận cả việc huy động vốn cũng

như quản lý đầu tư của quỹ.

Theo khái niệm về công ty quản lý quỹ đầu tư (Fund management) tại thị

trường chứng khoán Mỹ thì công ty quản lý quỹ là công ty chuyên trách thực hiện

việc quản lý các quỹ đầu tư. Các quỹ đầu tư được tổ chức dưới dạng một công ty,

phát hành cổ phần. Công ty đầu tư sử dụng nhà tư vấn đầu tư, hay người quản lý

đầu tư để quyết định loại chứng khoán nào sẽ đưa vào danh mục đầu tư của quỹ.

Người quản lý quỹ được toàn quyền quản lý danh mục đầu tư, mua bán chứng

khoán phù hợp với các mục tiêu đầu tư của quỹ. 7

Công ty quản lý quỹ được cấu trúc dưới hai dạng: quản lý quỹ đầu tư quỹ dạng

đóng và quỹ dạng mở. Ở Việt Nam, theo Nghị định 144/2003/NĐ-CP ban hành

ngày 28/11/2003 về chứng khoán và thị trường chứng khoán, thì công ty quản lý

quỹ thực hiện việc quản lý quỹ đầu tư chứng khoán.

1.1.2. Lợi thế và vai trò của quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ:

Các quỹ đầu tư thu hút được công chúng đầu tư do rất nhiều lợi thế mà quỹ

mang lại cho họ.

Một lợi thế cơ bản của quỹ đầu tư là sự đa dạng hóa danh mục đầu tư, giảm

thiểu rủi ro. Tiêu chuẩn cho việc đa dạng hoá đầu tư biến đổi rộng, ví dụ như các

loại chứng khoán và các ngành công nghiệp liên quan tới các loại chứng khoán, các

quốc gia và các đồng tiền mà chúng sử dụng. Các quỹ đầu tư, thông qua các tổ chức

quản lý quỹ, tìm kiếm để đa dạng hoá rủi ro, cải thiện tình hình đầu tư và tuân thủ

theo chính sách đầu tư của từng quỹ. Theo thuyết đầu tư hiện đại, rủi ro của toàn bộ

danh mục đầu tư có thể được giảm thiểu bằng việc đa dạng hoá danh mục đầu tư

vào một số lượng lớn cổ phiếu của các ngành công nghiệp khác nhau với mức sinh

lời rủi ro khác nhau. Quỹ đầu tư có thể làm được điều đó. Các quỹ đầu tư có thể tự

do đầu tư nhiều loại sản phẩm tài chính khác nhau vào một danh mục nhiều sản

phẩm tín thác đầu tư khác nhau. Chúng cũng có thể tạo ra các sản phẩm khác như

7 http://www.giaothongvantai.com.vn/Desktop.aspx/News/Cophan-hoa-chungkhoan/SO_TAY_KIEN_THUC-Cong_ty_quan_ly_quy/ , truy cập 20:05 ngày 20/4/2009

6

Page 7: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

những chứng chỉ tiền gửi ngân hàng vẫn đảm bảo khoản tiền gốc bằng việc giao

dịch tổng hợp các công cụ trên thị trường tiền tệ như chứng chỉ tiền gửi và thương

phiếu. Mặt khác chúng có thể tạo ra những sản phẩm của thị trường giá lên/giá

xuống mà mang lại tình hình đối ngược sự chuyển động của thị trường bằng việc sử

dụng các công cụ phái sinh. Các quỹ đầu tư cũng có thể tạo ra một danh mục đầu tư

chuyên ngành bằng việc đầu tư vốn của quỹ vào các cổ phiếu của nhóm ngành công

nghiệp được nhiều người ưa chuộng. Những người đầu tư với một khoản tiền nhỏ

không thể đa dạng hoá danh mục đầu tư của họ với một số lượng lớn cổ phiếu phát

hành nhưng họ có thể hưởng lợi từ việc đa dạng hoá đầu tư với khoản tiền nhỏ đó

bằng việc đầu tư nó vào một quỹ đầu tư.

Một lợi thế khác phải kể đến, đó là các dịch vụ đầu tư chuyên nghiệp do các tổ

chức quản lý quỹ cung cấp cho các nhà đầu tư. Các tổ chức quản lý quỹ đầu tư có

các chuyên gia thực hiện việc phân tích kinh tế vi mô, vĩ mô, phân tích thị trường và

xây dựng các danh mục đầu tư phù hợp để đạt được mục đích của quỹ đầu tư. Họ

cũng có những người chuyên điều hành việc đầu tư hàng ngày. Xu thế tự do hoá thị

trường tài chính thông qua việc bãi bỏ dần các quy định pháp luật và việc xuất hiện

tràn ngập các sản phẩm mới như các công cụ phái sinh tài chính đòi hỏi các kỹ năng

tài chính và phân tích toán học có tính nguỵ biện cao mà những người không có

chuyên môn sâu không thể hiểu thấu sự phức tạp của thị trường cũng như áp dụng

vào thực tế những cách thức này để đạt được mục tiêu đầu tư của họ. Sự bãi bỏ quy

định mang lại những cơ hội lớn hơn để thực hiện nhiều phương thức đầu tư khác

nhau mà chỉ các chuyên gia mới nắm được. Hơn nữa, đối với các quỹ đầu tư theo

ngành thường đầu tư vào cổ phiếu của các ngành đặc biệt như ngành công nghệ sinh

học, công nghệ thông tin và một số ngành công nghệ cao khác, vai trò của các

chuyên gia hiểu biết về những lĩnh vực này đặc biệt cần thiết để có thể đánh giá xu

hướng phát triển của các ngành này trong tương lai, dự đoán hiệu quả đầu tư vào

các ngành đó.

Chi phí giao dịch thấp cũng được coi là một lợi thế khác của quỹ đầu tư được

người đầu tư quan tâm.. Chi phí cho mỗi lần giao dịch là từ 0,3% tới 0,5% giá trị

7

Page 8: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

giao dịch đối với những công ty chứng khoán lâu đời và từ 0,15% tới 0,2% đối với

các công ty chứng khoán mới8. Các quỹ đầu tư là định chế đầu tư thường có khối

lượng giao dịch lớn. Vì vậy, các chi phí giao dịch mà quỹ phải chi trả (tính trên đơn

vị mỗi cổ phiếu) thường thấp hơn nhiều so với các cá nhân đầu tư, dù cho các cá

nhân này ký hợp đồng giao dịch với các nhà môi giới có mức hoa hồng môi giới

chiết khấu thấp nhất. Chi phí giao dịch thấp có thể được hiểu như là hoạt động đầu

tư tốt hơn và hiệu quả hơn đáng kể.

Chính vì những lợi thế nêu trên mà các quỹ đầu tư giữ vai trò rất quan trọng

không những đối với thị trường chứng khoán nói riêng mà đối với toàn bộ nền kinh

tế nói chung. Vai trò đó được thể hiện ở các đóng góp của quỹ đầu tư như sau:

Quỹ góp phần huy động vốn cho việc phát triển nền kinh tế nói chung và góp

phần vào sự phát triển của thị trường sơ cấp nói riêng. Các quỹ đầu tư tham gia bảo

lãnh phát hành trái phiếu chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp, cung cấp vốn cho

phát triển kinh tế. Với chức năng này, các quỹ đầu tư giữ vai trò quan trọng trên thị

trường sơ cấp.

Quỹ góp phần vào việc ổn định thị trường thứ cấp. Với vai trò là các tổ chức

đầu tư chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán, các quỹ đầu tư góp phần bình ổn

giá cả giao dịch trên thị trường thứ cấp, góp phần vào sự phát triển của thị trường

này thông qua các hoạt động đầu tư chuyên nghiệp với các phương pháp phân tích

đầu tư khoa học.

Quỹ góp phần tạo ra các phương thức huy động vốn đa dạng qua thị trường

chứng khoán. Khi nền kinh tế phát triển và các tài sản tài chính ngày càng tạo khả

năng sinh lợi hơn, người đầu tư có khuynh hướng muốn có nhiều dạng công cụ tài

chính để đầu tư. Để đáp ứng nhu cầu của người đầu tư, các quỹ đầu tư hình thành

dưới nhiều dạng sản phẩm tài chính khác nhau như thời hạn đáo hạn, khả năng sinh

lời, mức độ rủi ro…

8 http://www.vietime.com/news/index.aspx?n/568/9496 , 04h51’ngày 24/12/2007 truy cập lúc 23h20 ngày 20/4/2009

8

Page 9: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

Quỹ làm cho các hoạt động đầu tư chứng khoán mang tính xã hội hoá. Quỹ

đầu tư tạo một phương thức đầu tư được ưa thích đối với các nhà đầu tư nhỏ, ít có

sự hiểu biết về chứng khoán. Nó góp phần tăng tiết kiệm của công chúng đầu tư

bằng việc thu hút tiền đầu tư vào quỹ.

Quỹ đầu tư thực sự đã và đang là một loại định chế tài chính rất phát triển tại

thị trường chứng khoán ở nhiều nước trên thế giới cũng như tại thị trường chứng

khoán Việt Nam.

1.2 Tổ chức và hoạt động của quỹ đầu tư:

1.2.1 Các mô hình tổ chức và hoạt động của quỹ đầu tư:

a) Mô hình công ty:

Đặc điểm cơ bản nhất của các quỹ đầu tư trong mô hình này đó là bản thân

quỹ là một pháp nhân đầy đủ, tức là một công ty được hình thành theo quy định của

pháp luật từng nước và cơ quan điều hành cao nhất của quỹ là hội đồng quản trị

quỹ. Các nhà đầu tư góp vốn vào quỹ là các cổ đông và họ có quyền bầu ra các

thành viên hội đồng quản trị.

Các tổ chức tham gia vào cơ cấu hoạt động của quỹ đầu tư dạng công ty là

công quản lý quỹ, ngân hàng bảo quản. Ngoài ra, tuỳ từng nước, còn có sự tham gia

của các đại lý chuyển nhượng và nhà bảo lãnh phát hành chính hay những tổ chức

sáng lập, bảo trợ cho việc thành lập quỹ.

Hội đồng quản trị quỹ đầu tư do các cổ đông bầu ra, có nhiệm vụ chính là quản

lý toàn bộ hoạt động của quỹ, lựa chọn người quản lý quỹ và giám sát hoạt động

đầu tư của quỹ, hàng năm xem xét lại hoặc từ chối các hợp đồng với người quản lý

quỹ nếu nguời đó thực hiện việc đầu tư không đem lại hiệu quả. Hội đồng quản trị

chính là người được các cổ đông của quỹ uỷ thác bảo vệ quyền lợi của những người

tham gia đầu tư vào quỹ.

Người quản lý quỹ có nhiệm vụ phân tích đầu tư, tiến hành hoạt động đầu tư,

mua hoặc bán các chứng khoán trong danh mục đầu tưphù hợp với các mục tiêu do

quỹ đề ra dưới sự giám sát của hội đồng quản trị của quỹ. Trong mô hình này,

9

Page 10: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

người quản lý quỹ hoạt động như một nhà tư vấn đầu tư do công ty quỹ thuê quản lý

đầu tư và họ được hưởng phí một tỷ lệ phí nhất định từ hoạt động quản lý đầu tư đó.

Người quản lý quỹ ở đây có thể là một cá nhân hoặc một nhóm các cá nhân có kinh

nghiệm và nhiều thành tích trong hoạt động đầu tư chuyên nghiệp được Hội đồng

quản trị của quỹ đại diện cho các cổ đông lựa chọn.

Ngân hàng bảo quản là ngân hàng được quỹ lựa chọn để lưu giữ và bảo quản

các tài sản của quỹ. Ngân hàng bảo quản thường giữ luôn vai trò là đại lý chuyển

nhượng cho quỹ, huỷ các cổ phần cũ và phát hành cổ phần mới. Tổ chức này cũng

giữ danh sách cổ đông để gửi các báo cáo, giấy uỷ quyền hoặc thực hiện phân phối

cho các cổ đông. Khi thực hiện các chức năng này, ngân hàng bảo quản nhận được

phí bảo quản tài sản.

Cơ chế tổ chức hoạt động của các quỹ theo mô hình công ty này (xem phụ lục

1: Sơ đồ cơ chế hoạt động của quỹ đầu tư dạng công ty) tại các thị trường đều có

những nét chung. Tuy nhiên, việc huy động vốn lập quỹ có đôi nét khác biệt. Ví dụ,

tại Mỹ quỹ đầu tư dạng công ty (công ty đầu tư) chỉ được phát hành cổ phiếu

thường. Trong khi ở Anh, ngoài cổ phiếu phổ thông, các quỹ đầu tư được phát hành

quyền. Việc huy động vốn lập công ty quỹ do các tổ chức bảo trợ lập quỹ kiêm luôn

chức năng bảo lãnh phát hành cho quỹ thực hiện. Các tổ chức này lập bản cáo bạch,

đưa ra mục tiêu và chính sách đầu tư của quỹ, các mức chi phí liên quan…Để hỗ trợ

việc chào bán cổ phần của quỹ, tổ chức bảo lãnh phát hành có thể ký hợp đồng với

một số công ty khác lập thành tổ hợp chào bán. Tổ hợp chào bán sẽ giúp tổ chức

bảo lãnh phát hành phân phối cổ phần của quỹ và được tổ chức bảo lãnh chi trả

khoản phí trích từ chi phí chào bán của tổ chức bảo lãnh phát hành.

Ngoài các tổ chức tham gia chính như đã nêu, tuỳ từng nước còn có thể có các

đại lý chuyển nhượng hoặc nhà bảo lãnh phát hành chính tham gia vào các hoạt

động của quỹ đầu tư. Đại lý chuyển nhượng thường được uỷ nhiệm để tiến hành

việc bán hoặc mua lại cổ phần của quỹ (nếu quỹ đó là quỹ dạng mở ). Nhà bảo lãnh

phát hành chính giúp quỹ chào bán và phân phối cổ phần của quỹ cho các nhà đầu

tư.

10

Page 11: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

Ngoài các tổ chức kể trên liên quan tới hoạt động của quỹ, Hội đồng quản trị

của công ty quỹ có thể thuê thêm một tổ chức chuyên quản trị hành chính. Tổ chức

sẽ cung cấp trụ sở làm việc, các trang thiết bị văn phòng, thiết bị thông tin; uỷ

nhiệm chi trả lương thưởng cho Hội đồng quản trị; giám sát việc lập các báo cáo

định kỳ cho các cổ đông. Tổ chức quản trị hành chính này cũng được nhận một tỷ lệ

phí nhất định khi thực hiện các dịch vụ trên.

Mô hình quỹ đầu tư dạng công ty hiện được áp dụng rộng rãi tại các nước có

thị trường chứng khoán hình thành và phát triển từ lâu đời mà điển hình là thị

trường chứng khoán Mỹ và Anh.

b) Mô hình quỹ đầu tư dạng hợp đồng:

Quỹ đầu tư dạng hợp đồng còn được gọi là mô hình quỹ tín thác đầu tư. Bản

chất hoạt động của các quỹ tín thác đầu tư là dựa trên cơ sở quan hệ tín thác tài sản

và hợp đồng tín thác được coi là một chứng từ pháp lý cơ bản để điều chỉnh hoạt

động của các bên tham gia. Một đặc điểm khác biệt cơ bản với mô hình quỹ đầu tư

dạng công ty là trong mô hình này quỹ đầu tư không phải là một pháp nhân. Quỹ

hoàn toàn chỉ là một lượng tiền nhất định do các nhà đầu tư đóng góp hình thành

nên quỹ. Mô hình này thể hiện rõ vai trò của ba bên tham gia vào hoạt động của

quỹ: công ty quản lý quỹ giữ vai trò là người tín thác, tổ chức bảo quản tài sản cũng

như giám sát hoạt động của quỹ giữ vai trò người nhận tín thác và các nhà đầu tư là

những người hưởng lợi của quỹ.

Khác biệt với mô hình trên, quỹ đầu tư dạng hợp đồng (xem phụ lục 2: Sơ đồ

cơ chế hoạt động của quỹ đầu tư dạng hợp đồng) do chính công ty quản lý quỹ đứng

ra huy động vốn thành lập quỹ. Sau khi quỹ đã hình thành, vốn và tài sản của quỹ

được giao cho tổ chức nhận tin thác bảo quản và thực hiện việc thu chi cho hoạt

động đầu tư. Công ty quản lý quỹ bắt đầu thực hiện việc đầu tư của quỹ theo những

chính sách và mục tiêu đã đề ra trong bản cáo bạch huy động vốn ban đầu cũng như

cam kết trong hợp đồng tín thác.

Người nhận tín thác được lựa chọn thường là các ngân hàng hoặc các tổ chức

có chức năng quản lý tài sản tín thác theo quy định của pháp luật về tín thác tài sản.

11

Page 12: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

Khi tham gia vào hoạt động của quỹ đầu tư, bên cạnh vai trò bảo quản vốn và các

tài sản của quỹ, tổ chức giám sát, bảo quản còn làm nhiệm vụ giám sát hạot động

của công ty quản lý quỹ để đảm bảo việc tuân thủ các mục tiêu và chính sách đầu tư

đã đề ra.

Người đầu tư hay những người thụ hưởng là những người góp vốn vào quỹ và

tín thác việc đầu tư cho công ty quản lý quỹ để đảm bảo khả năng sinh lợi cao nhất

từ khoản vốn đóng góp của họ. Tổng số vốn quỹ dự kiến huy động sẽ được chia

thành các đơn vị tínt hác. Việc góp vốn của các nhà đầu tư được thể hiện bằng việc

hị mua các chứng chỉ đầu tư do công ty quản lý quỹ thay mặt qũy phát hành trong

đó xác nhận số đơn vị tương ứng với số vốn góp của họ. Các nhà đầu tư trong mô

hình này không phải là các cổ đông như mô hình quỹ đầu tư dạng công ty mà chỉ

đơn thuần là những người thụ hưởng kết quả kinh doanh từ hoạt động đầu tư của

quỹ.

Hợp đồng tín thác được ký kết bởi tất cả các bên tham gia vào quỹ: công ty

quản lý quỹ, tổ chức giám sát bảo quản và những người hưởng lợi. Trách nhiệm cảu

tổ chức tín thác cũng như của người được tín thác được phân định rõ ràng và cụ thể

đối với từng hoạt động. Nhưng cả hai đối tượng đó đều có một nghĩa vụ chung nhất

là thực thi công việc một cách mẫn cán và có những hành vi thích hợp để bảo vệ

quyền lợi của những người hưởng lợi là những người nắm giữ chứng chỉ của quỹ.

1.2.2. Hoạt động của quỹ đầu tư:

a) Huy động cấu trúc vốn:

Phương thức hình thành vốn và cách thức chào bán

Các quỹ tập thể hình thành vốn bằng phát hành cổ phiếu hoặc chứng chỉ đầu tư

thu hút vốn từ công chúng

Đối với các quỹ đầu tư dạng công ty, quỹ phát hành cổ phần để huy động vốn

hình thành nên quỹ. Tương tự như các công ty cổ phần, cổ đông của quỹ cũng nhận

được các cổ phiếu xác nhận số cổ phần mình sở hữu tại công ty.

12

Page 13: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

Đối với các quỹ đầu tư dạng hợp đồng, thông thường lượng vốn dự kiến hình

thành nên quỹ được chia thành các đơn vị (tương tự như các cổ phần như quỹ dạng

công ty). Quỹ sẽ phát hành chứng chỉ đầu tư xác nhận số đơn vị tương ứng với số

vốn người đầu tư góp vào quỹ. Cũng như cổ phiếu phổ thông khác, chứng chỉ đầu

tư có thể phát hành dưới hình thức ghi danh hoặc vô danh và có thể được giao dịch

và chuyển nhượng như cổ phiếu, tuy quyền và nghĩa vụ của người hưởng lợi (nguời

nắm giữ chứng chỉ đầu tư) có một số khác biệt so với các cổ đông trong mô hình

quỹ dạng công ty.

Về cách thức chào bán: cổ phiếu/chứng chỉ đầu tư 9 của các quỹ đầu tư được

chào bán bằng hai hình thức chính là qua các tổ hợp chào bán và do quỹ trực tiếp

tiến hành qua các mạng lưới của mình.

Chào bán qua các tổ hợp

Các tổ hợp chào bán thường bao gồm các nhà bảo lãnh phát hành và các đại lý

chào bán của họ. Các tổ chức bảo lãnh phát hành giữ vai trò là những người bán

buôn hay người phân phối cho các đại lý bán hàng. Các đại lý chào bán có thể là

các ngân hàng thương mại, các công ty chứng khoán hoặc các công ty tài chính. Các

đại lý này, đến lượt mình, sẽ đứng ra chào bán cổ phần tới công chúng thông qua

mạng lưới chi nhánh của họ. Đây là cách thức phổ biến nhất để bán cổ phần của các

quỹ đầu tư theo mô hình công ty. Bản thân các công ty chứng khoán có tên tuổi

hoặc các ngân hàng thương mại có thể là những người sáng lập hoặc những người

bảo lãnh chính cho việc phát hành các quỹ dạng công ty. Các quỹ đầu tư dạng hợp

đồng cũng áp dụng cách thức chào bán này đối với các quỹ có quy mô lớn.

Chào bán trực tiếp từ quỹ hoặc công ty quản lý quỹ

Các quỹ được trực tiếp bán cổ phiếu của mình cho nhà đầu tư không thông qua

một trung gian nào. Các quỹ đầu tư dạng hợp đồng do công ty quản lý quỹ đứng ra

thành lập thường hay chào bán chứng chỉ đầu tư bằng hình thức này thông qua hệ

thống mạng lưới của công ty quản lý quỹ hoặc mạng lưới của tổ chức bảo quản.

9 Do sự khác biệt giữa hai mô hình, thuật ngữ cổ phiếu /chứng chỉ đầu tư được sử dụng đồng thời tại các phần có liên quan để chỉ chung về chứng từ xác nhận quyền sở hữu của những người tham gia góp vốn vào các quỹ thuộc các mô hình.

13

Page 14: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

Ngoài ra, họ giao dịch với các cổ đông hiện thời và tiềm năng thông qua thư, điện

thoại, mạng lưới ngân hàng hoặc các văn phòng địa phương của họ. Các quỹ này

hấp dẫn nhà đầu tư trước hết thông qua quảng cáo, thư trực tiếp cũng như những bài

diễn văn, các phương tiện quảng cáo hữu hiệu.

Định giá ban đầu và các chi phí liên quan tới phát hành lần đầu

Việc định giá cổ phiếu /chứng chỉ đầu tư phát hành lần đầu của quỹ do các tổ

chức đứng ra thành lập quỹ xác định. Đối với các quỹ theo mô hình công ty, việc

định giá cổ phiếu quỹ do các tổ chức sáng lập (fund sponsor) hoặc các tổ chức bảo

lãnh phát hành xác định giá. Đối với các quỹ đầu tư dạng hợp đồng, công ty quản lý

quỹ sẽ xác định giá chào bán ban đầu các chứng chỉ đầu tư của quỹ.

Các chi phí liên quan tới việc phát hành ra công chúng lần đầu của các quỹ nói

chung thường bao gồm một số loại chính:

Chi phí tiếp thị

Chi phí in ấn bản cáo bạch

Chi phí trả cho các đại lý bán cổ phiếu /chứng chỉ đầu tư

Thông thường, các chi phí trên ước tính trung bình vào khoảng 4 -6% tổng số

tiền huy động được từ nhà đầu tư10. Chỉ phí chào bán lần đầu được khấu trừ từ tổng

giá trị của quỹ huy động được.

Cơ cấu vận động của vốn

Cơ cấu vốn phát hành của các quỹ đầu tư có thể vận động và chu chuyển khác

nhau. Dựa vào tiêu chí này, quỹ đầu tư thuộc các mô hình có thể hình thành vốn

theo hai dạng quỹ đầu tư dạng đóng và quỹ đầu tư dạng mở .

Quỹ đầu tư dạng đóng: Quỹ chỉ phát hành cổ phiếu/chứng chỉ đầu tư ra công

chúng một lần với số lượng nhất định và quỹ không thực hiện việc mua lại cổ

phiếu/chứng chỉ đầu tư khi nhà đầu tư có nhu cầu bán lại. Sau khi phát hành lần đầu

ra công chúng, cổ phiếu/chứng chỉ đầu tư của quỹ được giao dịch như bất kỳ chứng

khoán niêm yết nào trên thị trường chứng khoán tập trung (sở giao dịch chứng 10 http://kinhdoanhgioi.com/index.php?topic=549.0 , 14:47’ ngày 21/4/2009

14

Page 15: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

khoán). Các nhà đầu tư có thể mua hoặc bán để thu hồi vốn cổ phiếu hoặc chứng chỉ

đầu tư của mình trên thị trường thứ cấp thông qua các nhà môi giới11. Nói tới quỹ

đầu tư dạng đóng, người ta thường đề cập tới một trong những ưu điểm nổi bật của

các quỹ này là cơ cấu vốn rất ổn định do chúng chỉ phát hành duy nhất một lần. Các

nhà điều hành quỹ không phải đương đầu với các luồng tiền lớn ra, vào liên tục

không theo quy luật về chu kỳ thời gian nào. Nếu các nhà đầu tư không muốn tiếp

tục đầu tư vào quỹ, họ có thể bán các cổ phiếu hoặc chứng chỉ đầu tư họ đang nắm

giữ trên thị trường tập trung. Các nhà điều hành quỹ không phải động chạm đến

danh mục đầu tư ngay cả khi các nhà đầu tư bán tống bán tháo cổ phiếu/chứng chỉ

đầu tư của mình. Trong trường hợp đó, quỹ có thể tiến tới một mức chiết khấu cao

hơn trước. Tuy nhiên, mức chiết khấu lớn lại là cơ hội thu hút những người đầu tư

khác tham gia đầu tư.

Cơ cấu vốn của các quỹ dạng đóng đặc biệt thích hợp cho việc kinh doanh các

chứng khoán có mức độ biến động cao và ít được giao dịch ví dụ như cổ phiếu của

các công ty có vốn nhỏ hoặc cổ phiếu giao dịch trên các thị trường mới nổi bởi vì

việc rút tiền của các nhà đầu tư lớn tại những thời điểm được coi là không hợp lý sẽ

không thể thực hiện được với các danh mục đầu tư gồm các chứng khoán có tính

thanh khoản kém trong các lĩnh vực kinh doanh có biến động cao. Các quỹ đầu tư

dạng đóng có thể thành công trong các thị trường giao dịch ít bởi vì các quỹ này

không cần phải nghiên cứu các phương pháp đầu tư thêm để cung cấp cho các

khoản mua mới cũng như không cần phải bán các chứng khoán trong danh mục đầu

tư để trang trải các khoản mua lại.

Tuy nhiên, quỹ đầu tư dạng đóng có một nhược điểm cơ bản là hầu như

thường giao dịch với giá chiết khấu tức là thị giá thấp hơn giá trị tài sản ròng của

quỹ. Có một số nguyên nhân có thể đưa ra xem xét để giúp cho việc giải thích sự

chênh lệch giữa mức chiết khấu và mức trên giá trị giữa các quỹ khác nhau cũng

như của các quỹ trong các điều kiện thị trường khác nhau như quỹ đầu tư dạng đóng

được coi là rủi ro hơn so với quỹ đầu tư dạng mở vì người đầu tư không thể bán lại

11 Tr 343, Giáo trình Những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán, NXB Chính trị Quốc gia, 2002

15

Page 16: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

cổ phiếu/chứng chỉ đầu tư tại mức giá trị tài sản ròng, quỹ hoạt động kém hiệu quả,

chi phí cao, mức độ đa dạng hoá của các quỹ ít…

Quỹ đầu tư dạng mở: Quỹ liên tục phát hành cổ phiếu/chứng chỉ đầu tư ra

công chúng và thực hiện việc mua lại cổ phiếu/chứng chỉ đầu tư khi người đầu tư có

nhu cầu thu hồi vốn. Đặc điểm quan trọng đối với quỹ đầu tư dạng mở là giá của cổ

phiếu/chứng chỉ đầu tư của quỹ mở luôn gắn trực tiếp với giá trị tài sản thuần của

quỹ. Cổ phiếu/chứng chỉ đầu tư của quỹ dạng mở không giao dịch trên thị trường

thứ cấp mà giao dịch thẳng với quỹ hoặc các đại lý được uỷ quyền của quỹ12. Khác

với quỹ đầu tư dạng đóng, quỹ đầu tư dạng mở có cơ cấu vốn luôn biến động do các

lượng tiền vào ra liên tục từ việc chào bán mới và việc mua lại cổ phiếu/chứng chỉ

đầu tư. Chính vì vậy, các nhà điều hành quỹ luôn phải tạo các danh mục đầu tư với

các sản phẩm đầu tư có tính thanh khoản cao để đối phó với các thay đổi liên tục về

nguồn vốn. Nếu có nhiều nhà đầu tư đổ tiền vào quỹ trong giai đoạn thị trường lên

cao, những nhà điều hành có thể không lấy gì làm hấp dẫn. Điều đó càng đặc biệt

đúng đối với các quỹ có các chính sách đầu tư toàn bộ số tiền thu được tại bất kỳ

thời gian nào. Hoặc các nhà điều hành quỹ đầu tư dạng mở sẽ phải bán tống bán

tháo các khoản đầu tư mình đang nắm giữ khi mà các loại này giảm thảm hại: đó có

thể là thời kỳ mà quỹ phải thực hiện mua lại nhiều hơn là chào bán thêm.

Điểm bất lợi trên đây của quỹ đầu tư dạng mở đối với các nhà điều hành quỹ

chính là ưu điểm của quỹ trong việc thu hút công chúng đầu tư vào quỹ. Đó chính là

tính thanh khoản của các quỹ dạng này. Trong rất nhiều trường hợp, quỹ đầu tư

dạng mở thậm chí còn có tính thanh khoản cao hơn các loại cổ phiếu thường khác.

Một khối lượng tiền lớn có thể được đầu tư hoặc trả cho việc mua lại tại mức giá trị

tài sản ròng tính hàng ngày cộng thêm chi phí bán hoặc giảm trừ chi phí mua lại.

Hơn nữa, đồng tiền có thể được di chuyển linh hoạt và hiệu quả giữa các quỹ có

mục tiêu đầu tư khác nhau với chi phí không đáng kể. Tuy nhiên, tính thanh khoản

của các quỹ dạng mở không phải lúc nào cũng là một ưu thế tuyệt đối. Nói chung,

các quỹ đầu tư dạng mở đều được quy định thời gian tối thiểu để thực hiện việc mua 12 Tr 344, , Giáo trình Những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán, NXB Chính trị Quốc gia, 2002

16

Page 17: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

lại chứng chỉ theo yêu cầu cảu người đầu tư, thời gian dài ngắn phụ thuộc vào quy

định của các nước khác nhau. Trong điều kiện thị trường có nhiều biến động, thời

gian thực hiện việc mua lại dài, lợi ích của người đầu tư sẽ bị ảnh hưởng.

Định giá chứng chỉ đầu tư /cổ phiếu của các quỹ sau phát hành

Có một chỉ tiêu luôn luôn gắn liền với hoạt động của các quỹ đầu tư tập thể, đó

là giá trị tài sản ròng của quỹ. Đối với các quỹ đầu tư, giá trị tài sản ròng của quỹ là

một trong các chỉ tiêu quan trọng đánh giá hiệu quả hoạt động của các quỹ nói

chung và là cơ sở để định giá chào bán mới cũng như để xác định giá mua lại đối

với các quỹ đầu tư dạng mở.

Giá trị tài sản ròng của một quỹ (được gọi tắt là NAV) được xác định bằng

hiệu số giữa tổng giá trị tài sản và các khoản đầu tư của quỹ với giá trị các khoản nợ

phải trả của quỹ. Giá trị tài sản của quỹ bao gồm tiền mặt, các chứng khoán hoặc

các tài sản khác do quỹ nắm giữ được tính theo giá trị thị trường hoặc được định giá

theo quy định của pháp luật.

Giá trị tài sản ròng của từng cổ phần/chứng chỉ đầu tư của quỹ được xác định

bằng cách chia NAV của quỹ cho tổng số cổ phần /chứng chỉ đầu tư đang lưu hành

của quỹ đầu tư. Đối với các quỹ đầu tư dạng mở, cũng như tổng giá trị tài sản ròng,

số lượng cổ phần /chứng chỉ đầu tư đang lưu hành thay đổi hàng ngày.

Nói chung, đối với cả hai loại hình quỹ dạng đóng và dạng mở, sự biến động

về giá trị tài sản ròng của quỹ là do các thay đổi về giá trị của các chứng khoán nằm

trong danh mục đầu tư của quỹ.

Vay và cho vay vốn của quỹ

Pháp luật ở một số nước thường không cho phép các quỹ đi vay với số lượng

lớn. Thực tế cho thấy một số quỹ ví dụ quỹ cổ phiếu tăng trưởng linh hoạt đôi lúc

lại sử dụng các khoản tiền vay mượn để cố gắng thổi phồng các khoản lãi vốn khi

thị trường đi xuống. Đồng thời với chi phí vay, được phản ánh bằng lãi suất ngắn

hạn duy trì hợp lý làm cho danh mục đầu tư hoạt động vẫn tốt.

17

Page 18: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

Tuy nhiên, việc vay vốn của quỹ thực sự là một con dao hai lưỡi khi mà nó

thổi phồng các khoản lỗ. Các quỹ có hệ số đòn bẩy cao thường được xếp vào hạng

các quỹ hoạt động kém nhất trong các thị trường đang đi xuống. Việc bán lại cổ

phiếu hay chứng chỉ đầu tư của các quỹ mở có thể làm trầm trọng thêm các vấn đề

thông thường khi giá rớt xuống. Một quỹ hay sử dụng đòn bẩy thường mang theo

các rủi ro lớn hơn. Khi biện pháp đòn bẩy được sử dụng, NAV thường có chiều

hướng lên xuống rất nhanh.

Vì vậy, quỹ thường chỉ được phép vay tiền ngắn hạn từ các ngân hàng. Do

vậy, các danh mục đầu tư đòn bẩy chỉ có thể để đáp ứng nhu cầu về vốn ngắn hạn.

Các quỹ này cũng bị giới hạn về số lượng vay nợ tức là phải khống chế hệ số đòn

bẩy. Nếu giá trị của danh mục đầu tư tăng thì tỷ lệ tài sản trên khoản vay cũng tăng

lên. Nhưng nếu giá trị tài sản giảm, quỹ đó phải ngay lập tức giảm các khoản vay

ngân hàng xuống. Điều này có thể buộc nhà quản lý phải bán cổ phiếu ép giá.

Tất nhiên, quỹ này cũng phải thanh toán lãi suất trên khoản vay bằng tiền rút

từ khoản lợi nhuận của quỹ. Chi phí lãi suất được tính tách biệt trong tổng các chi

phí hoạt động. Hiệu ứng đòn bẩy đặc biệt khó khăn khi tỷ lệ lãi suất tăng lên hoặc

khi giá chứng khoán giảm xuống, mà thường thì hai vấn đề này vẫn xảy ra cùng

nhau. Tuy nhiên, vay đến tận mức giới hạn đối với bất kỳ quỹ nào cũng là điều bất

bình thường. Nhiều quỹ thường chỉ vay các khoản vay nhỏ để giúp các nhà quản lý

thực hiện việc mua lại mà không cần phải bán các cổ phiếu đang sở hữu.

Các tài sản bao gồm cả vốn và các tài sản khác mà quỹ sở hữu hầu như không

được phép đem cho vay.

b) Hoạt động đầu tư:

Hoạt động quan trọng nhất với một quỹ đầu tư là thực hiện và quản lý đầu tư.

Đối với bất kỳ một quỹ đầu tư nào, quy trình đầu tư của quỹ cũng lần lượt qua các

bước (xem phụ lục 3: Sơ đồ các bước của quy trình đầu tư)

Bất kỳ một công ty quản lý tài sản, nhà tư vấn chuyên nghiệp nào cũng có một

bộ phận và các chuyên gia nghiên cứu và phân tích để đưa ra các dự đoán có tác

18

Page 19: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

động trực tiếp tới các quyết định đầu tư. Nghiên cứu đầu tư tập trung vào việc

nghiên cứu và dự đoán các yếu tố kinh tế vĩ mô ảnh hưởng tới việc đầu tư như lãi

suất, tỷ giá…, dự đoán khuynh hướng biến động của toàn bộ thị trường nói chung

cũng như phân tích và dự đoán sự phát triển hay tăng trưởng của từng ngành, khu

vực kinh doanh cụ thể.

Phân tích rủi ro và lợi nhuận liên quan tới phân tích phương án lập quỹ, dự

đoán thu nhập và đánh giá rủi ro. Hai bước này là coi như các dữ liệu đầu vào để

lập một quỹ đầu tư và cũng là cơ sở để tiến hành hoạt động đầu tư.

Lựa chọn mục tiêu đầu tư của quỹ

Phụ thuộc vào mục đích của đầu tư, người ta hình thành nên các mục tiêu đầu

tư của từng loại quỹ. Thông thường, mục tiêu đầu tư phải cụ thể hoá được tỷ lệ sinh

lời kỳ vọng và rủi ro chấp nhận đối với sản phẩm đầu tư. Khi thiết lập mục tiêu đầu

tư, các đặc trưng liên quan tới người đầu tư phải được cân nhắc tới. Các đặc trưng

này bao hàm nhiều yếu tố trong đó có thể kể đến kỳ vọng của người đầu tư, sự phức

tạp và bản chất khả năng tham gia đầu tư của người đầu tư. Ví dụ đối với những

người đầu tư kỳ vọng vào các khoản thu nhập hoặc lãi vốn trong tương lai dài, tính

chất dài hạn của hoạt động đầu tư sẽ tạo cho quỹ đầu tư có khả năng cơ cấu lại các

tài sản nắm giữ để hướng tới “các tài sản tăng trưởng”, có thể đem lại các khoản

sinh lời cao hơn mang tính dài hạn, phản ánh thu nhập từ biến động của vốn cũng

như thu nhập.

Bất kỳ quỹ nào cũng nhằm đạt được một trong số các mục tiêu ban đầu như

sau:

+ Thu nhập: nhanh chóng có nguồn chi trả cổ tức.

+ Lãi vốn (tăng trưởng): làm tăng giá trị của các nguồn vốn ban đầu thông

qua việc đánh giá các chứng khoản trong danh mục đầu tư của quỹ.

+ Thu nhập và lãi vốn: sự kếp hợp của cả hai yếu tố trên.

Về cơ bản, mỗi một mục tiêu đều có lối thoát của nó và các nhà đầu tư cũng

vậy. Điều này thực sự rất khó để có thể tìm ra được một quỹ cổ phiếu mà cùng một

19

Page 20: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

lúc đạt được cả hai mục tiêu thu nhập cao và lãi vốn chấp nhận được. Thường thì

các quỹ đặt mục tiêu vào tiềm năng tăng trưởng tối đa sẽ phải từ bỏ mục đích thu

nhập. Một danh mục đầu tư ổn định nhất sẽ chỉ đầu tư vào các trái phiếu chính phủ.

Nhưng nó không có tiềm năng tăng trưởng và kém về mặt cổ tức so với các quỹ đầu

tư các khoản thu nhập rủi ro hơn thường tập trung vào các chứng khoán như trái

phiếu không giá trị.

Người đầu tư sẽ lựa chọn và quyết định đầu tư vào các quỹ theo khả năng và

mức độ chịu rủi ro của mình dựa vào các thông tin về chính sách và mục tiêu đầu tư

của quỹ.

Phân bổ tài sản

Phân bổ tài sản có nghĩa là phân chia tiền của quỹ vào “các rổ” đầu tư, mỗi rổ

nhằm đạt được mục tiêu cụ thể riêng biệt hoặc toàn bộ các yêu cầu sinh lời từ danh

mục đầu tư. Phân bổ tài sản được thực hiện trong từng thời kỳ phù hợp với quan

điểm và phán đoán đầu tư của người quản lý quỹ. Nó liên quan tới quyết định sẽ

đầu tư bao nhiêu vốn của quỹ vào từng loại tài sản - cổ phiếu, trái phiếu, bất động

sản, tiền mặt hoặc từng lĩnh vực đầu tư – ngành công nghiệp, ngành công nghệ

cao…Khi chia số tiền của quỹ vào từng loại tài sản khác nhau, người quản lý đầu tư

có thể tính toán cân đối giữa giá trị của danh mục đầu tư cũng như mức độ sinh lời

của từng loại chứng khoán cấu thành.

Phân bổ tài sản của quỹ, hình thành danh mục đầu tư của quỹ được coi là một

khâu quan trọng trong chiến lược đầu tư của từng quỹ. Việc phân bổ tài sản sẽ góp

phần quan trọng vào tối ưu hoá danh mục đầu tư và tối ưu hoá mức sinh lời từ các

khoản đầu tư và cũng là phương thức cơ bản nhất để kiểm soát rủi ro đầu tư. Công

ty quản lý quỹ là người nắm rất rõ kỹ thuật phân bổ tài sản. Các khoản đầu tư đều

có mức độ rủi ro nhất định. Việc nắm bắt được các rủi ro và quyết định phân bổ tài

sản có thể làm tăng hoặc giảm rủi ro từng khoản đầu tư cũng như toàn bộ danh mục

đầu tư của quỹ. Ví dụ như giá cổ phiếu thường biến động trong thời gian ngắn hạn,

nhưng nếu tính về thu nhập dài hạn thì lại tương đối phù hợp và tương đối cao. Tín

phiếu kho bạc có mức sinh lời tương đối ổn định và phù hợp nhưng lại có rủi ro liên

20

Page 21: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

quan đến sức mua của đồng tiền sau một thời gian do ảnh hưởng của lạm phát. Khi

đã tiến hành phân bổ tài sản, nhà quản lý đầu tư của quỹ có thể đánh giá các khoản

đầu tư và khả năng sinh lời của chúng.

Đối với các quỹ có mức độ rủi ro cao, việc phân bổ tài sản sẽ được tập trung

vào các loại sản phẩm đầu tư có độ rủi ro cao, chẳng hạn cổ phiếu, để có thể đạt

mức lợi nhuận kỳ vọng cao hơn. Những quỹ với các đối tượng khách hàng là những

người đầu tư bảo thủ sẽ phân bổ một tỷ trọng lớn vốn đầu tư vào trái phiếu hoặc các

công cụ tương đương với tiền.

Lựa chọn chứng khoán

Lựa chọn chứng khoán là bước tiếp theo của việc tiến hành phân bổ tài sản.

Việc lựa chọn chứng khoán cho danh mục đầu tư là việc quyết định sẽ đầu tư thế

nào vào từng loại chứng khoán cụ thể trong từng loại tài sản đã được phân bổ với tỷ

trọng vốn của quỹ là bao nhiêu. Ví dụ, nếu đầu tư vào cổ phiếu thì sẽ chọn loại cổ

phiếu của công ty nào để đầu tư, trong trái phiếu sẽ đầu tư loại trái phiếu cụ thể nào,

trái phiếu chính phủ hoặc trái phiếu công ty nào.

Phân bổ tài sản và lựa chọn chứng khoán trong danh mục đầu tư la hai quyết

định cơ bản trong việc thực hiện mục tiêu đầu tư. Các quyết định này là liên tục, có

nghĩa là chúng không bao giờ kết thúc. Chúng liên quan tới các quy trình đầu tư dẫn

tới việc xây dựng và điều chỉnh một danh mục đầu tư. Đồng thời, quyết định phân

bổ tài sản và quyết định lựa chọn chứng khoán đầu tư thể hiện toàn bộ quy trình

quản lý tài sản của quỹ. Quy trình này quyết định nguồn của các yếu tố tạo nên tổng

thu nhập của danh mục đầu tư. Việc đa dạng hoá thông qua các loại tài sản được

đầu tư khác nhau có thể tăng khả năng chắc chắn để đạt được mức sinh lời đầu tư

đặt ra.

Xây dựng danh mục đầu tư

Xây dựng danh mục đầu tư phụ thuộc vào chính sách đầu tư. Chính sách đầu

tư được phân chia thành hai phương thức cơ bản: đầu tư chủ động và đầu tư thụ

21

Page 22: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

động. Một sự lựa chọn mà bất kỳ tổ chức quản lý quỹ nào cũng phải cân nhắc, đó là

từng danh mục đầu tư sẽ được quản lý thụ động và chủ động ở mức độ nào.

Quản lý danh mục đầu tư thụ động được dựa trên dự đoán tin tưởng rằng giá

chứng khoán luôn gần với mức trung bình trên thị trường. Thay vì dành thời gian và

các nguồn khác nhằm đánh bại thị trường, ví dụ như tìm mua các loại chứng khoán

với giá cả không có mức chuẩn trên thị trường và không có những đặc điểm rủi ro -

khoản sinh lời hấp dẫn, người đầu tư (tổ chức quản lý quỹ) giả thiết rằng họ sẽ có

thể bù đắp với rủi ro mà họ mong muốn và lựa chọn một danh mục đầu tư phù hợp

với mức độ rủi ro họ đưa ra.

Trái ngược với các chiến lược đầu tư thụ động, phương thức quản lý chủ động

đưa ra khả năng của bản thân quỹ có thể khôn hơn các đối thủ cạnh tranh khác trên

thị trường và có thể xác định loại chứng khoán cụ thể nào trong từng loại tài sản

phân bổ có thể sáng giá trong tương lai gần. Việc lựa chọn chứng khoán chủ động

đối với các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp như quỹ đầu tư thường yêu cầu hai lớp:

phân tích chứng khoán và lựa chọn danh mục đầu tư. Phân tích chứng khoán được

tiến hành chuyên sâu theo từng ngành cũng như từng công ty cụ thể và việc chuẩn

bị các đánh giá về các khoản trống của thị trường. Người quản lý danh mục đầu tư

xem xét chọn lọc thông qua báo cáo của nhiều nhà phân tích. Họ sử dụng các dự

đoán về điều kiện thị trường để đưa ra các quyết định phân bổ tài sản và sử dụng

các khuyến nghị của các nhà phân tích chứng khoán để lựa chọn loại chứng khoán

cụ thể trong từng loại tài sản được phân bổ.

c) Công bố thông tin:

Cũng như bất kỳ các công cụ tài chính khác trên thị trường, giá của cổ

phiếu/chứng chỉ đầu tư của quỹ đầu tư phản ánh nhận định và dự đoán của người

đầu tư về giá trị của quỹ phát hành các cổ phiếu/chứng chỉ đầu tư đó.

Đối với quỹ đầu tư, việc công bố thông tin liên quan tới hoạt động của quỹ sẽ

đạt được các mục đích:

22

Page 23: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

+ Đối với những nhà đầu tư đang đầu tư vào quỹ: cho biết hoạt động và hiệu

quả kinh doanh của quỹ để quyết định tiếp tục đầu tư hay rút vốn khỏi quỹ. Đồng

thời, uy tín của công ty quản lý quỹ và người quản lý đầu tư cũng được nâng cao

khi quỹ hoạt động hiệu quả.

+ Thu hút vốn đầu tư cho quỹ: các thông tin về hoạt động của quỹ sẽ giúp

người đầu tư mới đưa ra quyết định đầu tư.

Các thông tin trên do Hội đồng Quản trị của Quỹ (trong mô hình Công ty)

hoặc Công ty Quản lý quỹ (trong mô hình quỹ dạng hợp đồng) thực hiện việc công

bố.

+ Đối với các quỹ đầu tư dạng công ty: Hội đồng quản trị phải cung cấp cho

các nhà đầu tư báo cáo về tình hình đầu tư cũng như tình hình tài chính của quỹ.

+ Đối với các quỹ đầu tư dạng hợp đồng, các tài liệu công bố định kỳ bao

gồm báo cáo của công ty quản lý quỹ, báo cáo của người thụ uỷ, báo cáo tài chính

bao gồm báo cáo về tài sản và công nợ của quỹ, thu nhập và chi phí, thay đổi giá trị

tài sản ròng và các bản thuyết minh.

Một hình thức công bố thông tin cơ bản và trực tiếp nhất của các quỹ, đó là các

báo cáo của công ty quản lý quỹ hoặc hội đồng quản trị của quỹ gửi cho những

người hưởng lợi hoặc các cổ đông của quỹ với nội dung đã được đề cập. Ngoài ra,

các thông tin còn được công bố tại trụ sở các công ty quản lý quỹ hoặc tại các đại lý

của công ty.

Đối với các nước có quỹ đầu tư phát triển, các thông tin về hoạt động của các

quỹ đầu tư cũng như các thông tin liên quan tới các chứng khoán giao dịch trên thị

trường chứng khoán đều được công bố trên các tạp chí tài chính hoặc các phương

tiện thông tin đại chúng.

1.2.3. Chi phí liên quan tới hoạt động:

Có ba loại chi phí cơ bản liên quan tới hoạt động của các quỹ. Ở đâychỉ kể tới

các khoản chi phí cho hoạt động của quỹ sau khi quỹ đã hình thành và tiến hành

hoạt động đầu tư. Đó là các loại chi phí:

23

Page 24: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

+ Phí liên quan tới hoạt động đầu tư bao gồm:

- Phí tư vấn đầu tư

- Phí lưu giữ và bảo quản tài sản của quỹ

- Lãi suất trong trường hợp quỹ phải vay ngắn hạn, thuế (nếu có)

- Phí trả cho các tổ chức định giá các khoản đầu tư của quỹ

Các chi phí trả cho các nhà môi giới thường không được tính vào các chi phí

hoạt động của quỹ. Các chi phí này thường được khấu trừ trực tiếp từ giá trị giao

dịch mua hoặc bán với người môi giới và được phản ánh bằng mức độ giảm trực

tiếp trong NAV của quỹ.

+ Chi phí quản lý và điều hành bao gồm phí và thưởng cho người quản lý

cũng như các chi phí khác nhau trong điều hành quỹ, phí giám sát.

- Chi phí điều hành và quản lý hoạt động thường xuyên xuất hiện như

là một phần chủ yếu của tỷ lệ chi phí, là một trong các chỉ tiêu đánh giá hoạt động

của quỹ sẽ được đề cập dưới đây.

- Phí quản lý, một loại phí thông dụng đối với tất cả các danh mục đầu

tư, được các công ty tư vấn thanh toán cho các nhà phân tích chứng khoán và các

chức năng quản lý danh mục đầu tư mà họ thực hiện.

+ Các chi phí quản lý hành chính khác bao gồm:

- Phí lập các báo cáo cho các cổ đông/người hưởng lợi

- Phí duy trì quản lý tài khoản của người đầu tư

- Phí kiểm toán

- Phí trả cho những người điều hành quỹ

- Phí cho các dịch vụ pháp lý

- Phí thay đổi các quy định của hợp đồng tín thác theo yêu cầu của cổ

đông (nếu có)

- Phí tổ chức đại hội đồng cổ đông hoặc đại hội các nhà đầu tư của quỹ.

24

Page 25: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

1.2.4. Một số tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động của một quỹ đầu tư:

Khi đánh giá hoạt động của một quỹ có hiệu quá hay không, người ta thường

dựa vào một số chỉ tiêu chính là tổng thu nhập mà quỹ mang lại cho các nhà đầu tư,

tỷ lệ chi phí, tỷ lệ doanh thu.

Tổng thu nhập của quỹ

Tổng thu nhập của quỹ là một trong các chỉ tiêu quan trọng đánh giá hoạt động

của một quỹ tốt hay không.

Dưới góc độ đánh giá chung về thu nhập của quỹ mà người điều hành quỹ

mang lại, dù là quỹ dạng đóng hay dạng mở, tổng thu nhập của một quỹ được cấu

thành từ ba khoản chính là:

+ Thu nhập ròng từ các khoản đầu tư: Khoản thu nhập đầu tư bao gồm cổ tức

và lãi suất thu được từ danh mục đầu tư của quỹ khấu trừ đi chi phí.

+ Các khoản thu nhập ròng được thừa nhận chủ yếu là lãi vốn: các khoản thu

nhập ròng được thừa nhận được hiểu là các khoản đầu tư đã quyết toán xong có lãi

(hoặc bị lỗ)

+ Sự tăng (hoặc giảm) ròng trong giá trị tài sản ròng. Sự thay đổi của NAV

phản ánh sự tăng hoặc giảm trong giá trị các khoản đầu tư vào cổ phiếu mà quỹ

đang nắm giữ. Ngoài ra, nó cũng bao gồm các khoản thu nhập ròng được thừa nhận

hoặc thu nhập ròng từ các khoản đầu tư chưa chia cho các nhà đầu tư.

Tổng thu nhập được xác định bằng công thức:

Thu nhập ròng + lãi vốn +giá trị chênh lệch của NAV

TR = ---------------------------------------------------------------------- 13

NAV tại thời điểm đầu kỳ

Tỷ lệ chi phí

Tỷ lệ chi phí là một chỉ tiêu dùng để đánh giá việc kiểm soát các chi phí liên

quan tới hoạt động của một quỹ.13 Tr 237, Giáo trình Phân tích và đâu tư chứng khoán, NXB Chính trị quốc gia, HN - 2002

25

Page 26: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

Tỷ lệ này được xác định bằng chi phí hoạt động trong năm (các loại chi phí

cho hoạt động đầu tư, chi phí quản lý, chi phí hành chính như đã đề cập ở mục 3.3

trên đây) chia cho giá trị tài sản ròng trung bình của quỹ. Phí môi giới từ các giao

dịch của quỹ không tính trong tỷ lệ chi phí này. Bởi vì tỷ lệ chi phí có thể thay đổi

nên người ta thường tính giá trị bình quân cho khoảng từ 3 đến 5 năm về trước. Tuỳ

theo danh mục đầu tư, tỷ lệ chi phí có thể khác nhau từ 0,5% đến trên 5%. Những tỷ

lệ chi phí thấp nhất thường thấy ở các quỹ chỉ số là các quỹ thực hiện chiến lược

mua và nắm giữ thụ động các loại chứng khoán giống như những chứng khoán có

trong chỉ số bình quân phổ biến nào đó, ví dụ chỉ số S&P 500. Các quỹ nhỏ và tăng

trưởng nhanh có sử dụng hiệu ứng đòn bẩy và chịu chi phí lãi suất cao là các quỹ

phải hoạt động với tỷ lệ chi phí cao nhất. Nói chung, tất cả các tỷ lệ chi phí thấp hơn

1% đều được coi là thấp.

Các quỹ nhỏ có xu hướng chịu tỷ lệ chi phí cao hơn so với các quỹ lớn hơn

vốn là những quỹ thu được lợi ích từ tính kinh tế theo quy mô do chi phí quản lý và

các chi phí khác của chúng được trải rộng cho khối tài sản lớn hơn. Các quỹ đầu tư

trên thị trường quốc tế có xu hướng chịu tỷ lệ chi phí lớn hơn một cách đáng kể so

với các danh mục đầu tư trong thị trường nội địa do chi phí nghiên cứu và các chi

phí khác liên quan đến hoạt động đầu tư quốc tế. Các quỹ cổ phiếu có tỷ lệ chi phí

cao hơn so với các quỹ đầu tư chứng khoán thu nhập cố định.

Tỷ lệ chi phí của một quỹ sẽ có ý nghĩa hơn nếu đem so sánh chúng với số liệu

của các danh mục khác có cùng quy mô.

Tỷ lệ thu nhập đầu tư

Tỷ lệ thu nhập được tính bằng giá trị thu nhập ròng chia cho giá trị tài sản ròng

trung bình. Con số này không có tầm quan trọng như tổng thu nhập đã đề cập ở

trên, bởi vì tổng thu nhập là một thước đo trọn vẹn về hoạt động trong khi đó tỷ lệ

này chỉ tập trung vào thu nhập. Tỷ lệ này cũng tương tự như lợi suất cổ tức khi đánh

giá hiệu quả đầu tư của cổ phiếu thường.

Tỷ lệ doanh thu

26

Page 27: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

Tỷ lệ này thể hiện tổng giá trị giao dịch (mua và bán) do công ty quản lý quỹ

tiến hành đối với quỹ. Tỷ lệ này được xác định bằng lượng tài sản được bán hoặc

mua chia cho giá trị tài sản ròng của quỹ trong năm. Tỷ lệ doanh thu càng lớn, chi

phí giao dịch càng cao.

Doanh thu luôn biến đổi theo từng loại quỹ và triết lý đầu tư của các nhà quản

lý quỹ. Nhiều nhà quản lý tìm kiếm lợi nhuận nhanh chóng và có xu hướng mua và

bán linh hoạt. Nhiều nhà quản lý khác lại theo mua và nắm giữ dài hạn. Các quỹ mà

tin tưởng vào chiến lược hợp đồng tương lai, hợp đồng lựa chọn và bán khống có

thể mong đợi có một doanh thu và chi phí giao dịch cao hơn.

1.3. Tổ chức và hoạt động của công ty quản lý quỹ:

1.3.1. Hình thái của công ty quản lý quỹ:

Như đã đề cập ở trên, quỹ đầu tư tổ chức và hoạt động theo hai mô hình: quỹ

đầu tư dạng công ty và quỹ đầu tư dạng hợp đồng. Tuỳ theo từng mô hình khác

nhau và theo quy định của pháp luật ở các nước khác nhau, hình thái của tổ chức

quản lý quỹ cũng khác nhau tuy bản chất hoạt động của chúng đều như nhau. Bản

chất việc quản lý đầu tư trong hoạt động quản lý quỹ và hoạt động quản lý tài sản

hoàn toàn giống nhau. Sự khác nhau cơ bản là ở nguồn vốn đầu tư hình thành khác

nhau và nó liên quan tới trách nhiệm khác nhau của tổ chức quản lý đối với từng

nguồn vốn.

Tổ chức quản lý quỹ tồn tại dưới hai hình thái cơ bản là tổ chức tư vấn đầu tư

và tổ chức quản lý tài sản.

Tổ chức quản lý quỹ có thể là các tổ chức tư vấn, chỉ đơn thuần tiến hành hoạt

động đầu tư bao gồm việc lập và quản lý danh mục đầu tư theo cam kết với quỹ mà

không chịu trách nhiệm về các nguồn vốn cũng như việc huy động vốn của quỹ như

đối với các quỹ đầu tư dạng công ty.

Tổ chức quản lý quỹ có thể là một tổ chức chuyên nghiệp về việc lập và quản

lý hoạt động đầu tư của các quỹ đầu tư tập thể do công ty lập ra theo mô hình quỹ

dạng hợp đồng. Bản thân công ty quản lý quỹ đồng thời đảm nhiệm việc huy động

27

Page 28: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

vốn và tiến hành đầu tư cho quỹ. Hình thái của các công ty quản lý quỹ theo mô

hình này thường mang hình thái rộng hơn dưới góc độ kinh doanh. Đó là hình thái

của các tổ chức quản lý tài sản chuyên nghiệp. Các tổ chức này ngoài việc lập và

quản lý các quỹ, còn đảm nhận việc quản lý tiền hoặc tài sản cho những tổ chức

hoặc cá nhân có nhu cầu uỷ thác cho các tổ chức chuyên nghiệp nhằm tăng khả

năng sinh lời tối đa các tài sản của mình.

1.3.2. Hoạt động của công ty quản lý quỹ:

a) Hoạt động của công ty tư vấn đầu tư: (công ty quản lý các quỹ đầu tư

theo mô hình công ty)

Theo mô hình này, các tổ chức tư vấn hoạt động theo hợp đồng quản lý đầu tư

được ký kết với quỹ đầu tư và hoạt động dưới tư cách là người quản lý quỹ. Các

hợp đồng dạng này nói chung đều quy định trách nhiệm của người quản lý quỹ phải

quản lý các tài sản của quỹ phù hợp với các mục tiêu đầu tư, các chính sách và giới

hạn đầu tư cũng như thực hiện các giao dịch các chứng khoán trong danh mục đầu

tư của quỹ phù hợp với chính sách quy định về tổ chức môi giới quỹ. Thông

thường, hợp đồng của người quản lý đầu tư với quỹ có những kỳ hạn nhất định. Sau

thời hạn đó, tuỳ theo hiệu quả hoạt động của quỹ mà hội đồng quản trị của quỹ sẽ

quyết định có tiếp tục ký hợp đồng đầu tư tiếp với người quản lý quỹ đó không.

Do người quản lý đầu tư theo mô hình này là một tổ chức tư vấn với lượng

khách hàng nhiều và đa dạng. Vì vậy, các quỹ đều có quy định rõ ràng với người

quản lý đầu tư về cung cấp dịch vụ tư vấn cho khác hàng.

Khác với vai trò của công ty quản lý quỹ trong mô hình quỹ dạng hợp đồng (sẽ

trình bày dưới đây), người quản lý đầu tư của quỹ không có bất kỳ trách nhiệm nào

liên quan tới việc lập quỹ, quyền lợi của các cổ đông của quỹ, tính thanh khoản của

quỹ, hoạt động của các tổ chức bảo quản tài sản và các tổ chức khác tham gia vào

hoạt động của quỹ.

28

Page 29: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

Có một số quỹ, nhà tư vấn đầu tư chỉ đảm nhận trách nhiệm liên quan tới việc

đầu tư, còn việc quản trị hành chính do một tổ chức khác đảm nhận theo hợp đồng

ký kết với quỹ.

b) Hoạt động của công ty quản lý quỹ trong mô hình quỹ dạng hợp

đồng:

Công ty quản lý quỹ trong mô hình hợp đồng thực hiện nhiều chức năng quan

trọng đối với việc hình thành và tổ chức hoạt động của quỹ đầu tư. Công ty quản lý

quỹ trong mô hình này thực hiện cả hai mảng hoạt động chính của quỹ đầu tư: huy

động vốn hình thành quỹ và thay mặt quỹ tiến hành hoạt động đầu tư.

Vai trò của công ty quản lý quỹ là người đứng ra nhận tiền của những người

đầu tư để tiến hành việc đầu tư thay cho người đầu tư, hoạt động kinh doanh hiệu

quả hay không của công ty không những ảnh hưởng đến quyền lợi trực tiếp của

người đầu tư vào quỹ mà còn ảnh hưởng trực tiếp tới uy tín của bản thân công ty

quản lý quỹ. Nhiệm vụ chính của công ty quản lý quỹ là quản lý và quản trị các hoạt

động của quỹ theo phương thức hiệu quả và thích đáng đúng mức, phù hợp với hợp

đồng tín thác của quỹ, các quy định của pháp luật cũng như các tập quán kinh doanh

hiệu quả và được chấp nhận trong ngành tín thác. Công ty quản lý quỹ phải tuân thủ

các tiêu chuẩn cao về giao dịch công bằng và chính trực khi tiến hành quản lý vì lợi

ích duy nhất và tốt nhất cho những người nắm chứng chỉ đầu tư của quỹ. Công ty

quản lý quỹ cũng phải hoạt động mẫn cán, có kỹ năng và sự thận trọng cần thiết khi

tiến hành quản lý quỹ và sử dụng một cách hợp lý các nguồn lực và các thủ tục cần

thiết cho các hoạt động chính đáng của quỹ. Ngoài ra, công ty quản lý quỹ cũng cần

có các quyết định cần thiết để đảm bảo các tài sản của quỹ được bảo vệ đầy đủ và

tách bạch với các tài sản của công ty. Trong trường hợp công ty quản lý quỹ có hoạt

động gây tổn hại đến tài sản của quỹ công ty phải bồi thường thiệt hại cho quỹ do

sơ suất, thiếu thận trọng, các tổn thất do sơ ý hoặc cố ý của mình.

Đối với việc huy động vốn, các hợp đồng tín thác quy định trách nhiệm rõ ràng

của công ty quản lý quỹ trong việc phát hành chứng chỉ, chào bán chứng chỉ cũng

như việc mua lại chứng chỉ trong trường hợp đối với các quỹ đầu tư dạng mở. Các

29

Page 30: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

quy định liên quan tới phát hành được đề cập rất cụ thể: chứng chỉ hưởng lợi xác

nhận số đơn vị tín thác của quỹ người đầu tư nắm giữ, việc đăng ký mua của đơn vị

tín thác, người hưởng lợi và việc đăng ký tên người hưởng lợi (người nắm giữ

chứng chỉ), việc chuyển nhượng chứng chỉ, việc huỷ bỏ chứng chỉ,…

Đối với các hoạt động đầu tư, các quy định về hội đồng đầu tư và các thành

viên hội đồng đầu tư, các giới hạn đầu tư của riêng quỹ, việc giao dịch các khoản

đầu tư của quỹ.

Cũng giống như người quản lý quỹ trong mô hình quỹ dạng công ty, việc lựa

chọn nhà môi giới trong giao dịch chứng khoán cũng là một yêu cầu đối với công ty

quản lý quỹ nhằm tiết kiệm các chi phí cho hoạt động đầu tư của quỹ đồng thời tăng

hiệu quả kinh doanh cho quỹ. Thông thường, các công ty quản lý quỹ đều có các

tiêu chí cụ thể cho các nhà môi giới của quỹ. Một trong các tiêu chí đối với các nhà

môi giới là sự “mẫn cán tốt nhất”. Sự mẫn cán tốt nhất có thể hiểu dưới góc độ các

dịch vụ mang lại lợi ích tốt nhất cho quỹ. Ngoài ra, việc đưa các tỷ lệ giới hạn về

giá trị giao dịch của từng nhà môi giới cũng như giá trị giao dịch tối đa với một nhà

môi giới đối với từng quỹ cũng là một yêu cầu đối với công ty quản lý quỹ.

Các hoạt động khác mà công ty quản lý quỹ phải làm vì quyền lợi của người đầu tư

bao gồm việc tính toán các khoản lời của quỹ để chi trả cho người đầu tư, việc định

giá các tài sản của quỹ và xác định giá trị tài sản ròng.

c) Quyền lợi của công ty quản lý quỹ:

Dù hoạt động theo mô hình nào , tổ chức quản lý quỹ cũng được chi trả phí

quản lý như đã đề cập ở trên. Ngoài ra các tổ chức quản lý quỹ còn được nhận tiền

thưởng do hoạt động đầu tư có hiệu quả của các quỹ do công ty đảm nhận. Khoản

tiền này có thể được tính theo nhiều dạng khác nhau, có thể là tỷ lệ phần trăm của

mức gia tăng trên tài sản ròng của năm tài chính so với giá trị tài sản ròng của năm

hoạt động trước.

d) Hội đồng đầu tư và quy trình ra quyết định đầu tư tại công ty quản lý

quỹ:

30

Page 31: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

Thông thường, các tổ chức quản lý quỹ đầu tư có hội đồng đầu tư để phân chia

trách nhiệm trong từng quyết định đầu tư. Hội đồng đầu tư bao gồm các thành viên

trong ban lãnh đạo, các chuyên gia quản lý danh mục đầu tư thâm niên và các

chuyên gia phân tích giàu kinh nghiệm. Hội đồng quyết định các chính sách đầu tư

và kiểm tra những người điều hành quỹ (chuyên gia quản lý danh mục đầu tư) và

các chuyên gia phân tích hoạt động trong giới hạn của các chính sách đầu tư cụ thể.

Một trách nhiệm cụ thể chủ yếu của hội đồng đầu tư là biến các mục tiêu của người

đầu tư thành danh mục các loại hàng hoá sẽ đầu tư hay thông qua danh sách các tài

sản của danh mục đầu tư của từng quỹ. Vì vậy, hội đồng đầu tư có trách nhiệm đối

với việc phân bổ tài sản ở mức độ và phạm vi rộng nhằm xác định đặc trưng rủi ro

của danh mục đầu tư. Nhiệm vụ lựa chọn các chứng khoán cụ thể từ tổng thể các

loại tài sản được phê duyệt thường được uỷ quyền cho những người điều hành quỹ

(xem phụ lục 4: Quy trình ra quyết định đầu tư trong tổ chức quản lý quỹ).

e) Tổ chức giám sát và bảo quản tài sản:

Do tính chất đặc biệt của mình, trong hoạt động của quỹ đầu tư, ngoài vai trò

của tổ chức quản lý quỹ, không thể thiếu vai trò của tổ chức giám sát hoạt động của

quỹ và tổ chức lưu giữ tài sản của quỹ.

Tài sản của quỹ đầu tư, dù quỹ đầu tư thuộc bất kỳ mô hình nào, để được lưu

giữ tại một tổ chức chuyên cung cấp dịch vụ này. Lưu giữ tài sản là hoạt động nhằm

đảm bảo tài sản và vốn của quỹ được an toàn. Hoạt động này thường do các ngân

hàng thương mại là các tổ chức với chức năng bảo quản tài sản chuyên nghiệp của

mình với hệ thống kho két để lưu giữ tài sản cũng như hệ thống mạng lưới chu

chuyển và lưu thông tiền tệ.

Giám sát là nhằm bảo vệ lợi ích của những người tham gia đầu tư vào quỹ. Tổ

chức thực hiện việc giám sát hoạt động của quỹ được coi là người nhận uỷ thác tài

sản (hay còn được gọi là người thụ uỷ) của các nhà đầu tư, giám sát và đảm bảo các

bên tham gia vào hoạt động của quỹ thực hiện tốt các cam kết của mình với người

đầu tư.

31

Page 32: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

Các hoạt động phụ trợ này ở bất kỳ mô hình nào cũng được giao phó cho các

bên thứ ba tham gia vào hoạt động quỹ. Tuy nhiên, đối với từng mô hình khác nhau,

chức năng này có thể do cùng một tổ chức đảm nhận hay phân chia cho các bên

khác nhau.

Đối với mô hình quỹ đầu tư dạng công ty, người thụ uỷ của quỹ chính là hội

đồng quản trị của quỹ. Hội đồng quản trị của quỹ là do các cổ đông bầu ra. Hội

đồng quản trị đại diện cho các cổ đông và có nghĩa vụ giám sát hoạt động của các tổ

chức tham gia và hoạt động của quỹ: tổ chức tư vấn đầu tư, ngân hàng bảo quản tài

sản, đại lý chuyển nhượng. Nếu các tổ chức tham gia không hoàn thành các nghĩa

vụ của mình, hội đồng quản trị sẽ chuyển giao các hợp đồng dịch vụ liên quan cho

các tổ chức khác. Công ty quản lý quỹ trong mô hình này không có mối liên hệ

trách nhiệm trực tiếp nào với ngân hàng bảo quản.

Hầu hết các nước áp dụng mô hình quỹ đầu tư dạng hợp đồng hay dạng tín

thác đầu tư, bảo quản tài sản và giám sát hoạt động của quỹ thường do cùng một tổ

chức đảm nhận, thường là một ngân hàng thương mại hay một tổ chức nhận tài sản

tín thác chuyên nghiệp. Vai trò của các tổ chức nhận tín thác này thường được quy

định trong pháp luật, đặc biệt là các nước theo hệ thống luật Anh (thông luật) quy

định rất cụ thể và rõ ràng. Bên cạnh việc thực hiện chức năng lưu giữ vốn và tài sản

của quỹ, tổ chức này có nhiệm vụ cơ bản là giám sát các hoạt động đầu tư của công

ty quản lý quỹ, đảm bảo việc tuân thủ với các quy định đã đưa ra đối với từng quỹ

về việc phát hành và chào bán chứng chỉ đầu tư, các loại phí liên quan tới phát

hành, các loại tài sản và chứng khoán cũng như mức giới hạn đối với từng loại mà

quỹ được đầu tư, việc thu chi của quỹ. Trong mô hình này, công ty quản lý quỹ là

người trực tiếp phối hợp với tổ chức giám sát và bảo quản để thực hiện các công

việc kinh doanh của quỹ cũng như lợi ích của người đầu tư.

32

Page 33: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

Chương II

SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA QUỸ ĐẦU TƯ VÀ CÔNG

TY QUẢN LÝ QUỸ TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM

2.1. Sự cần thiết của việc hình thành quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ

trên thị trường chứng khoán Việt Nam:

Xuất phát từ những đặc điểm riêng biệt của thị trường chứng khoán Việt Nam,

yêu cầu hình thành và phát triển các quỹ đầu tư chứng khoán và công ty quản lý quỹ

đã trở thành cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Sự cấp thiết đó xuất phát từ yêu cầu

thực tiễn của hoạt động trên thị trường chứng khoán nhằm tạo tính ổn định và hiệu

quả của thị trường chứng khoán cũng như đa dạng các loại hàng hoá cho thị trường.

Điều đó có thể được thể hiện qua vai trò không thể phủ nhận được của các quỹ đầu

tư đối với thị trường chứng khoán trong thời gian qua qua các thực tế dưới đây:

Nhiều biến động trên thị trường chứng khoán mà chưa có được giải pháp

bình ổn hiệu quả mà một trong những nguyên nhân là do sự thiếu vắng vai trò tạo

lập thị trường và phân tích đầu tư của các định chế đầu tư có tổ chức chuyên

nghiệp.

Sau gần 18 tháng hoạt động của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Thành phố

Hồ Chi Minh, một thị trường giao dịch chứng khoán tập trung đầu tiên tại Việt

Nam, đã chứng kiến các đợt biến động giá lớn trên thị trường, làm chao đảo các

hoạt động giao dịch, thể hiện rõ rệt sự không ổn định của thị trường. Từ tháng

8/2000 đến tháng 5/2001, giá các loại chứng khoán niêm yết trên thị trường tăng

không ngừng. Sau một thời gian dao động, từ tháng 8 – 10/2001, giá các chứng

khoán niêm yết lại giảm liên tục. Dường như các đợt biến động chưa có những giải

pháp bình ổn hiệu quả mà người ta thường hay đề cập tới. Đó là vai trò tạo lập của

các nhà đầu tư có tổ chức, đặc biệt là các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp.

Các nhà đầu tư có tổ chức chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán phải kể

đến là các công ty bảo hiểm, các quỹ hưu trí và điển hình nhất là các quỹ đầu tư

33

Page 34: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

chứng khoán. Hoạt động đầu tư của họ đều dựa trên các hiểu biết sâu rộng cũng như

việc nghiên cứu các điều kiện thị trường và tình hình tài chính của doanh nghiệp

của từng công ty cũng như từng loại chứng khoán riêng biệt. Vì vậy, các quyết định

đầu tư của họ không bị ảnh hưỏng bởi các yếu tố tâm lý mua bán theo phong trào

hay là “mua theo, bán theo” mà hoàn toàn dựa vào các dự đoán trong tương lai của

họ.

Sau hơn một năm thị trường chứng khoán Việt Nam đi vào hoạt động, tham

gia vào hoạt động đầu tư tại thị trường chứng khoán tập trung chủ yếu là các nhà

đầu tư cá nhân. Cho đến tháng 11/2001, tổng số các tài khoản giao dịch chứng

khoán mở tại các công ty chứng khoán là trên 8000 tài khoản trong đó số tài khoản

của các tổ chức kinh tế chỉ có 40 tài khoản chiếm tỷ lệ khoảng 0,05% trong tổng số

các nhà đầu tư trên thị trường. Đa phần các nhà đầu tư có tổ chức tham gia đầu tư

trên thị trường đều là tổ chức kinh tế Việt Nam, tận dụng các nguồn vốn tạm thời

nhàn rỗi để đầu tư chứ không phải là các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp. Các tổ chức

đầu tư chuyên nghiệp đầu tư hiện nay chỉ có một số công ty bảo hiểm trong nước và

công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài bắt đầu tham gia đầu tư, tuy nhiên khối

lượng giao dịch còn rất khiêm tốn. Các nhà đầu tư có tổ chức chuyên nghiệp thường

giao dịch mua, bán với khối lượng lớn, do đó có tác động đáng kể tới giá cả trên thị

trường.

Việc hình thành các quỹ đầu tư chứng khoán sẽ góp phần quan trọng tạo cung,

cầu cũng như bình ổn các hoạt động giao dịch cho thị trường chứng khoán Việt

Nam đang bước đầu phát triển và đang chịu tác động mạnh mẽ của yếu tố tâm lý.

Tạo một phương thức đầu tư mới cho các nhà đầu tư muốn đầu tư vào thị

trường chứng khoán, cũng như tạo đa dạng cho hàng hoá mới.

Chứng chỉ đầu tư được coi là một loại chứng khoán, đặc biệt đối với chứng chỉ

đầu tư của các quỹ dạng đóng được niêm yết trên thị trường tập trung sẽ góp phần

tăng lượng hàng hoá giao dịch trên các Trung tâm Giao dịch Chứng khoán. Với đặc

điểm quỹ đầu tư như phần trên đã nói, quỹ đã tạo ra một phương thức đầu tư mới

cho người đầu tư. Nếu như trước kia người đầu tư phải trực tiếp đưa ra quyết định

34

Page 35: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

mua bán chứng khoán cho mình qua tổ chức trung gian thì nay họ tham gia một

cách gián tiếp vào thị trường chứng khoán bằng cách mua chứng chỉ quỹ đầu tư của

quỹ đầu tư, các quỹ đầu tư sẽ thay mặt họ đảm nhiệm việc đầu tư sao cho có hiệu

quả nhất theo mục đích của quỹ. Ngoài ra, các quỹ đầu tư chứng khoán với các

chính sách và mục tiêu đầu tư khác nhau, với những mức lợi nhuận kỳ vọng và rủi

ro khác nhau, tạo ra nhiều loại sản phẩm đầu tư khác nhau, có thể cung cấp cho

người đầu tư nhiều sự lựa chọn đầu tư theo khả năng tài chính cũng như mức độ

chấp nhận rủi ro của mình.

Có thể nhận thấy vai trò đặc biệt quan trọng và cấp thiết của các quỹ đầu tư

chứng khoán đối với thị trường chứng khoán hiện nay trong việc tạo cung và cầu

cho thị trường, đảm bảo sự ổn định và góp phần phát triển từng bước một thị trường

chứng khoán hiệu quả. Các quỹ đầu tư chứng khoán không chỉ tham gia vào hoạt

động đầu tư tức là tạo cầu cho thị trường mà thông qua việc phát hành chứng chỉ

đầu tư, quỹ góp phần đáng kể vào việc tạo cung cho thị trường.

Có nhiều ý kiến cho rằng sự cấp bách của việc hình thành các quỹ đầu tư

chứng khoán cũng như các công ty quản lý quỹ còn xuất phát từ thực tế là sự hình

thành tự phát trên thị trường một số quỹ tư nhân và coi đây là hình thức manh nha

đầu tiên của các quỹ đầu tư tập thể. Các quỹ tư nhân tự phát trên hình thành khoảng

3 – 4 tháng sau khi thị trường giao dịch tập trung đi vào hoạt động dưới tên các câu

lạc bộ đầu tư. Xuất phát từ sự khan hiếm hàng hoá trên thị trường, giá cả chứng

khoán tăng không ngừng. Tại thời điểm đó, cứ mua được chứng khoán ở phiên giao

dịch trước sẽ có lợi nhuận ngay. Vì vậy, đa số các công ty chứng khoán đã đưa ra

hình thức bắt thăm đặt lệnh. Thứ tự đặt lệnh sẽ theo số thăm bắt được. Một số người

đầu tư cá nhân đã tụ họp với nhau và cùng hùn vốn vào để đầu tư, chủ yếu tận dụng

việc bắt thăm đầu tiên đặt lệnh mua 9900 cổ phiếu (khối lượng giao dịch lô chẵn

lớn nhất được phép đặt lệnh). Những người tham gia câu lạc bộ thường uỷ quyền

cho một số cá nhân có chút kinh nghiệm về đầu tư và đã tham gia đầu tư từ những

ngày đầu của thị trường. Các chứng khoán mua được đứng tên sở hữu của một vài

cá nhân có số vốn góp lớn. Các cá nhân tham gia câu lạc bộ và những người lập quỹ

35

Page 36: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

đều có các cam kết với nhau để đảm bảo sở hữu đối với các chứng khoán theo số

tiền mình góp. Thực chất, các mối quan hệ uỷ quyền, vay, mượn, chuyển nhượng

giữa những người tham gia vào quỹ thuộc điều chỉnh của Bộ luật Dân sự. Hoạt

động đầu tư của các quỹ do chính những người góp vốn vào quỹ mà chủ yếu là

những người có nhiều tiền và có chút kinh nghịêm về tham gia đầu tư trên thị

trường chứng khoán tự tiến hành đầu tư mà không cần phải thuê một tổ chức đầu tư

chuyên nghiệp nào.

Trong các loại hình kinh doanh của mình, công ty chứng khoán được phép

thực hiện quản lý danh mục đầu tư cho khách hàng. Dưới giác độ đầu tư chuyên

nghiệp, bản chất của hoạt động quản lý danh mục đầu tư cũng tương tự như hoạt

động đầu tư mà công ty quản lý quỹ thực hiện cho các quỹ. Sự khác biệt cơ bản là ở

chỗ vốn uỷ thác quản lý danh mục đầu tư là vốn của một hoặc một số cá nhân riêng

lẻ mà ở một số nước còn được gọi là các quỹ đầu tư tư nhân để phân biệt với các

quỹ đầu tư tập thể là vốn huy động từ công chúng. Sự khác biệt về tính chất của

nguồn vốn huy động dẫn đến sự bảo hộ khác nhau của pháp luật. Với mục đích là

bảo vệ nhà đầu tư, pháp luật các nước đều tập trung chủ yếu vào điều chỉnh các đối

tượng tham gia vào hoạt động của quỹ đầu tư tập thể do việc phát hành ra công

chúng hay tính chất xã hội hoá của các định chế này. Vấn này được đề cập để đưa

ra một thực tế là các quỹ tự phát trên không thực hiện việc huy động vốn mà là sự

đóng góp tự nguyện của những người tham gia. Các quỹ này mang hình thái của

quỹ tư nhân nhưng nó lại rất khác biệt là không uỷ thác hoạt động đầu tư cho một tổ

chức nào mà tự tiến hành đầu tư cho mình. Điều đó có thể lý giải bởi một trong

những hạn chế cơ bản của thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay là tính

chuyên nghiệp của hoạt động đầu tư hầu như chưa cao. Ngay cả đội ngũ những

người hành nghề kinh doanh chứng khoán tại các công ty chứng khoán cũng chưa

có nhiều kinh nghiệm và chuyên môn cao. Từ sự phân tích trên đâycó thể thấy rằng

các quỹ tự phát không có nét tương đồng về bản chất hoạt động với quỹ đầu tư

chứng khoán hay các quỹ đầu tư tập thể là đối tượng nghiên cứu chính trong đề tài.

36

Page 37: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

2.2. Điều kiện và nhân tố tác động tới việc hình thành và phát triển quỹ

đầu tư và công ty quản lý quỹ ở Việt Nam:

2.2.1 Điều kiện vĩ mô:

a) Môi trường kinh tế:

Sau những năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã có những bước phát triển đáng

kể. Nhịp độ tăng trưởng bình quân hàng năm ổn định từ 8% - 9% trong giai đoạn từ

năm 1992 -1997. Giai đoạn 1998 -1999, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài

chính tại các nước trong khu vực, mức tăng trưởng giảm xuống chỉ còn 4,4%/năm.

Sang năm 2000 lại có dấu hiệu phục hồi với mức tăng trưởng trên 6% . Lạm phát

giảm từ 774,7% năm 1986 xuống còn 67,5% năm 1990, từ năm 1998 xuống dưới

5%. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển đổi theo chiều hướng tích cực, từ năm 1990 bắt

đầu có tích luỹ nội bộ từ nền kinh tế14.

Các chính sách tiền tệ, vấn đề lãi suất, tỷ giá ngoại hối, chỉ số chứng khoán là

những vấn đề nhạy cảm, luôn có tác động đối với thị trường tài chính và thị trường

chứng khoán nói chung cũng như đối với nền kinh tế thị trường nói chung. Về cơ

bản, sự điều hành vĩ mô về các chính sách này ngày càng mang tính thị trường hơn.

Đứng dưới giác độ của người đầu tư, lãi suất tiền gửi cũng như tỷ giá hối đoái là

những yếu tố tác động đến việc di chuyển luồng tiền dùng để đầu tư của công chúng

từ thị trường tiền tệ sang thị trường chứng khoán và ngược lại. Các biến động về lãi

suất cũng như tỷ giá trên thị trường tiền tệ có tác động đáng kể tới thị trường chứng

khoán.

Từ tháng 8/2000, Thống đốc Ngân hàng nhà nước đã thực hiện bước đổi mới

căn bản về điều hành lãi suất, thay cơ chế cũ bằng cơ chế điều hành lãi suất cơ bản

đối với cho vay đồng Việt Nam và cơ chế lãi suất thị trường có sự quản lý đối với

cho vay bằng đồng ngoại tệ. Theo đánh giá chung, với việc thực hiện các giải pháp

đồng bộ, việc thực hiện cơ chế lãi suất cơ bản đã đi vào nề nếp, mặt bằng lãi suất đã

hình thành một cách hợp lý theo xu hướng có lợi cho lãi suất VNĐ, hạn chế được

14 http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=414&idmid=4&ItemID=1337 , truy cập lúc 20:46’ ngày 22/04/2009

37

Page 38: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

vòng chu chuyển vốn từ VNĐ sang ngoại tệ; lãi suất cho vay được hình thành theo

hướng tích cực, đáp ứng được chủ trương kích cầu của Chính phủ. Hôm

21/10/2007, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đưa lãi suất cơ bản từ mức 14% về

13%. Đây được xem là bước nới lỏng chính sách tiền tệ đầu tiên sau nhiều tháng

thắt chặt. Để chống lạm phát, hôm 1/2/2008, Ngân hàng Nhà nước tăng lãi suất cơ

bản lên 8,75%, sau hơn hai năm duy trì ở mức 8,25%. Tiếp đó, ngày 19/5, lãi suất

cơ bản tăng mạnh lên ngưỡng 12% và chạm đỉnh 14% vào ngày 11/6. Trước diễn

biến của tình hình kinh tế thế giới và trong nước, từ tháng 11/2008, Ngân hàng Nhà

nước tiếp tục giảm mức lãi suất cơ bản từ 13%/năm xuống còn 12%/năm. Đây là

lần cắt giảm lãi suất thứ 2 trong năm 200815. Lãi suất tiền gửi ngoại tệ trong năm

qua của các ngân hàng thương mại đều giảm so với năm trước, mức lãi suất cao

nhất chỉ còn 3,4 – 3,7%/năm so với 6%/năm của cùng kỳ năm trước16.

Môi trường kinh tế ổn định làm cho nhu cầu về vốn cho sản xuất và kinh

doanh tăng lên, các doanh nghiệp có nhu cầu huy động vốn, do đó tạo ra cơ hội cho

việc tham gia của các quỹ đầu tư vào nền kinh tế nói chung.

Theo một kết quả điều tra của Tổng cục thống kê về vốn đầu tư cho phát triển

của toàn xã hội trong hai năm 2007 – 2008, khối lượng vốn đầu tư toàn xã hội thực

hiện năm 2007 theo giá thực tế ước tính đạt 461,9 nghìn tỷ đồng, bằng 40,4% tổng

sản phẩm trong nước (đạt kế hoạch đề ra 40% GDP) và tăng 15,8% so với năm

2006, trong đó vốn khu vực Nhà nước 200 nghìn tỷ đồng, chiếm 43,3% tổng vốn và

tăng 8,1%; vốn khu vực ngoài Nhà nước 187,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 40,7% và tăng

24,8%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 74,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 16% và tăng

17,1%.Trong vốn nhà nước, vốn đầu tư từ ngân sánh nhà nước (gồm vốn dự án và

chương trình mục tiêu) ước tính thực hiện 97 nghìn tỷ đồng, bằng 101,6% kế hoạch

năm, trong đó vốn do địa phương quản lý 64,4 nghìn tỷ đồng, bằng 107,2%, vốn

trung ương quản lý đạt thấp hơn so với dự toán, chỉ bằng 92,2%; vốn tín dụng đầu

tư phát triển của Nhà nước ước tính 40,3 nghìn tỷ đồng, đạt kế hoạch năm và vốn

15 http://www.vnexpress.net/GL/Kinh-doanh/2008/11/3BA08093/ , 15:16 ngày 5/11/2008 truy cập lúc 21:4’ ngày 22/04/200916 http://vietbao.vn/Kinh-te/Lai-suat-tien-gui-tiet-kiem-tiep-tuc-giam/10830393/87/ ngày 28/11/2008 truy cập lúc 21:29’ ngày 22/04/2009

38

Page 39: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

của các doanh nghiệp nhà nước và các tổ chức nhà nước khác khoảng 62,7 nghìn tỷ.

Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tiếp tục tăng khá, ước tính năm 2007 đạt 20,3 tỷ

USD, tăng 69,3% so với năm 2006 và vượt 56,3% kế hoạch cả năm, trong đó vốn

cấp phép mới là 17,86 tỷ USD17. Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2008 theo

giá thực tế ước tính đạt 637,3 nghìn tỷ đồng, bằng 43,1% GDP và tăng 22,2% so với

năm 2007, bao gồm vốn khu vực Nhà nước 184,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 28,9% tổng

vốn và giảm 11,4%; khu vực ngoài Nhà nước 263 nghìn tỷ đồng, chiếm 41,3% và

tăng 42,7%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 189,9 nghìn tỷ đồng, chiếm

29,8% và tăng 46,9%. Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài năm nay tiếp tục đạt

kết quả cao. Trong tháng 12/2008, cả nước có 112 dự án đầu tư nước ngoài được

cấp phép mới với tổng số vốn đăng ký 1254 triệu USD, nâng tổng số dự án cấp

phép từ đầu năm đến 19/12/2008 lên 1171 dự án với tổng vốn đăng ký 60,3 tỷ USD,

giảm 24,2% về số dự án nhưng gấp 3,2 lần về vốn đăng ký so với năm 2007. Nếu

tính cả 3,7 tỷ USD vốn đăng ký tăng thêm của 311 dự án được cấp phép từ các năm

trước thì năm 2008 cả nước đã thu hút được 64 tỷ USD vốn đăng ký, gấp gần 3 lần

năm 2007, đạt mức cao nhất từ trước tới nay. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực

hiện năm 2008 đạt 11,5 tỷ USD, tăng 43,2% so với năm 200718.

Số liệu trên cho thấy nhu cầu vốn đầu tư của xã hội rất lớn và nhu cầu đó sẽ

ngày càng tăng cùng với sự phát triển của nền kinh tế. Để tạo điều kiện cho các định

chế tài chính trong đó có thị trường chứng khoán và các quỹ đầu tư chứng khoán

phát triển và hoạt động hiệu quả cũng như người dân có thể an tâm bỏ vốn đầu tư

qua các tổ chức trên, cần tạo ra các cơ chế và chính sách phù hợp như chính sách

phát triển kinh tế một cách hợp lý, đổi mới cơ chế tài chính cho hệ thống tài chính

quốc gia và tài chính doanh nghiệp.

Chính sách đề cập ở đây bao gồm chính sách dài hạn, trung hạn và ngắn hạn.

Chính sách dài hạn, trung hạn phải được xây dựng trên một tầm nhìn chiến lược,

được sử dụng trong một thời gian dài. Vì vậy, nó cần được xây dựng trên cơ sở báo

17 http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=230&ItemID=6900 , 17:38 31/12/2007 truy cập 22:18’ ngày 25/04/200918 http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=507&ItemID=8217 ,14:08 31/12/2008 truy cập 22:30’ ngày 25/04/2009

39

Page 40: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

cáo tổng hợp, phân tích chuẩn xác, từ đó mới có thể đề ra được một chiến lược đúng

đắn. Chính sách ngắn hạn được xây dựng trên cơ sở chính sách dài hạn, đồng thời

có sự điều chỉnh dựa trên diễn biến tình hình thực tế của từng thời kỳ.

b) Môi trường pháp lý:

Nếu như môi trường kinh tế là nền tảng thì môi trường pháp lý, nếu phù hợp

và đồng bộ, sẽ tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán nói chung và công ty quản

lý quỹ cũng như các quỹ đầu tư hoạt động lành mạnh, có hiệu quả và ngày càng

phát triển. Môi trường pháp lý đồng bộ, ổn định phải đạt được các yêu cầu sau:

+ Có hệ thống văn bản pháp quy mang tính tổng thể quy định cụ thể và rõ

ràng về địa vị pháp lý, phạm vi hoạt động, quyền và trách nhiệm của các bên tham

gia vào hoạt động của các định chế trên nhằm mục đích của pháp luật là bảo vệ

người đầu tư.

+ Tạo ra các cơ chế đầy đủ và đồng bộ cho các hoạt động của các định chế

như cơ chế thuế, ngoại hối,…

Ngành chứng khoán tại Việt Nam hình thành chậm hơn rất nhiều so với các

ngành khác. Vì vậy khái niệm về chứng khoán và thị trường chứng khoán dường

như chưa được đề cập nhiều tới trong các bộ Luật trước đây từ Luật Dân sự đến

Luật Thương mại, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Doanh nghiệp… Riêng công ty

quản lý quỹ và quỹ đầu tư lại là các đối tượng hoàn toàn mới chưa từng được đề cập

đến trong bất lỳ văn bản pháp lý nào trước đây ngoài Nghị định 48/1998/CP – NĐ

về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Vì văn bản điều chỉnh hoạt động của

các đối tượng tham gia vào thị trường chứng khoán nói chung và công ty quản lý

quỹ cũng như quỹ đầu tư chỉ ở cấp độ Nghị định, do đó các đối tượng này đồng thời

phải chịu sự điều chỉnh của các luật liên quan trong khi các luật này lại chưa đưa ra

các quy phạm điều chỉnh cụ thể và đầy đủ. Điều đó dẫn đến nhiều mâu thuẫn, chồng

chéo, không đồng bộ trong hệ thống các văn bản điều chỉnh về các đối tượng tham

gia thị trường chứng khoán. Sự ra đời Luật Chứng khoán năm 2005 đã đảm bảo

hiệu lực pháp lý cao hơn, góp phần ổn định môi trường pháp lý cho hoạt động của

40

Page 41: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

thị trường chứng khoán cũng như của các định chế tài chính trung gian như quỹ đầu

tư và công ty quản lý quỹ.

2.2.2. Điều kiện vi mô:

Điều kiện vi mô cho sự phát triển của bất kỳ một tổ chức kinh tế nào bao gồm

nhiều yếu tố, tuy nhiên tôi chỉ đề cập ở đây những yếu tố cơ bản và có thể tác động

tới các quỹ đầu tư tập thể cũng như các công ty quản lý quỹ. Đó là triển vọng phát

triển của ngành chứng khoán, khả năng gia nhập ngành hay việc tham gia vào hoạt

động kinh doanh quản lý quỹ của các tổ chức kinh tế, yếu tố tâm lý người đầu tư,

các nhân tố định mức tín nhiệm.

a) Sự phát triển của thị trường chứng khoán:

Triển vọng tăng trưởng của một ngành kinh tế có thể có liên hệ chặt chẽ với

chu kỳ kinh tế. Một ngành có triển vọng tăng trưởng mạnh có thể mang lại cho các

doanh nghiệp trong ngành những cơ hội kinh doanh thuận lợi.

Sự phát triển của thị trường chứng khoán là một trong các yếu tố vi mô ảnh

hưởng lớn tới sự hình thành của các quỹ đầu tư chứng khoán và công ty quản lý quỹ

bởi vì đây chính là môi trường hoạt động kinh doanh chính cho các định chế này.

Sự ra đời thị trường chứng khoán Việt Nam được đánh dấu bằng việc đưa vào

vận hành Trung tâm Giao dịch Chứng khoán tại TP Hồ Chí Minh vào tháng

7/200119. Lúc này thực tế cho thấy quy mô thị trường còn quá nhỏ. Sự đóng góp của

thị trường đối với sự phát triển kinh tế hầu như chưa đáng kể. Tuy thị trường chứng

khoán Việt Nam chưa mang lại hiệu quả thực sự cho nền kinh tế Việt Nam nhưng

bước đầu đã tạo tiền đề cho việc huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế.

Tuy nhiên, cùng với các chính sách định hướng của chính phủ cũng như yêu

cầu của nền kinh tế thị trường để nền kinh tế Việt Nam sớm có thể hoà nhập vào

nền kinh tế thế giới, vai trò của thị trường chứng khoán sẽ ngày càng được thừa

nhận và sẽ thu hút đông đảo công chúng đầu tư. Nhờ đó mà hoạt động kinh doanh

19 http://vietnamnet.vn/60nam/2006/02/538850/ , 16:52' 06/02/2006 truy cập lúc 23:56’ ngày 25/04/2009

41

Page 42: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

của các định chế tài chính như các quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường cũng

phát triển và có hiệu quả hơn.

Mặc dầu quy mô TTCK Việt Nam vẫn còn khiêm tốn, nhưng triển vọng phát

triển trong tương lai được đánh giá là khá tiềm năng khi mà chính phủ và các doanh

nghiệp đang có những động thái rất tích cực nhằm thúc đẩy hoạt động của thị

trường chứng khoán. Chính phủ đang xúc tiến cổ phần hóa một loạt các tổng công

ty lớn thuộc sở hữu Nhà nước như Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Mobile

phone, Vina phone, v.v... với quy mô vốn từ vài trăm đến vài ngàn tỉ đồng. Chính

phủ chủ trương sau khi cổ phần hóa sẽ nhanh chóng niêm yết cổ phiếu của các tổng

công ty này trên TTGDCK. Các ngân hàng cổ phần tiến hành niêm yết cổ

phiếu.Sacombank đã niêm yết vào đầu tháng 7.2006 và dự kiến tiếp đến sẽ là ACB.

Mỗi ngân hàng có giá trị thị trường hơn 1 tỉ đô la Mỹ. Cổ phần hóa và niêm yết các

công ty đầu tư nước ngoài. Công ty có vốn đầu tư nước ngoài đầu tiên đã cổ phần

hóa thành công là Công ty cáp điện Taya vào tháng 5.2005 với số vốn điều lệ là

182,67 tỉ đồng. Công ty thứ hai là Interfood với số vốn điều lệ 206,3 tỉ đồng. Đây là

một nguồn cung quan trọng cho TTCK.20

b) Khả năng gia nhập ngành :

Khi tham gia vào một ngành kinh doanh nào đó, các doanh nghiệp sẽ phải

đương đầu với áp lực cạnh tranh tiềm tàng để gia nhập ngành đó. Có thể đưa ra ví

dụ về các công ty chứng khoán thực hiện kinh doanh chứng khoán trong một thị

trường với quy mô hẹp và hạn chế như hiện nay đang phải chịu nhiều cạnh tranh về

nhiều lĩnh vực hoạt động và điều đó sẽ tạo nhiều áp lực đối với các công ty có ý

định hoặc mong muốn tham gia hoạt động kinh doanh chứng khoán.

Đối với các công ty quản lý quỹ và quỹ đầu tư, hiện các áp lực cạnh tranh để

gia nhập ngành này dường như chưa lớn. Do ngành chỉ mới được hình thành trong

vài năm gần đây nên hiện còn rất tiềm năng và số lượng các quỹ và công ty quản lý

quỹ trên thị trường cũng chưa nhiều. Vì vậy áp lực gia nhập ngành chủ yếu chỉ là

các chính sách vĩ mô từ phía các cơ quan quản lý nhà nước nhằm đảm bảo sự vận 20 http://vietbao.vn/Kinh-te/Bai-6-Thi-truong-chung-khoan-va-quy-dau-tu-o-Viet-Nam/45201257/87/ , 00:02 ngày 14/07/2006, truy cập lúc 00:27’ ngày 26/04/2009

42

Page 43: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

hành suôn sẻ ngay từ ban đầu của các định chế tài chính mới xuất hiện trong thời

gian gần đây tại Việt Nam. Sau khi các quỹ đầu tư và các công ty quản lý quỹ đã

phát triển tới một mức độ nhất định, các chính sách vĩ mô chắc chắn sẽ mang tính

thị trường hơn và sẽ không tác động nhiều tới việc gia nhập ngành quỹ đầu tư của

các tổ chức kinh tế nếu họ đáp ứng đủ các tiêu chí theo yêu cầu của pháp luật.

c) Yếu tố tâm lý người đầu tư:

Yếu tố tâm lý tồn tại tại bất kỳ thị trường chứng khoán nào, dù đó là một thị

trường phát triển. Đặc biệt trong các thị trường còn sơ khai như thị trường chứng

khoán Việt Nam, yếu tố tâm lý có tác động chi phối đáng kể các hoạt động giao

dịch trên thị trường.

Ngay từ những ngày đầu mở cửa Trung tâm Giao dịch Chứng khoán thành phố

Hồ Chí Minh, thị trường chứng khoán đã thu hút công chúng đầu tư, mặc dù thị

trường chỉ có ít loại cổ phiếu được niêm yết và hoạt động giao dịch ở quy mô nhỏ

bé. Giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường có nét đặc biệt là sự gia tăng giá liên

tục của các loại cổ phiếu niêm yết, nguyên nhân chính là do sự chênh lệch cung cầu

trên thị trường chứng khoán và tâm lý của người đầu tư. Người đang nắm giữ cổ

phiếu hầu như không muốn bán ra, chờ hưởng chênh lệch giá. Việc lao vào mua cổ

phiếu với kỳ vọng thu lãi lớn từ việc tăng giá, hoàn toàn không quan tâm đến kết

quả kinh doanh thực tế của công ty niêm yết đã liên tục đẩy giá cổ phiếu liên tục

chạm trần. Điều này làm cho giá của các loại cổ phiếu tăng giá gấp nhiều lần so với

giá tham chiếu ban đầu khi bắt đầu đưa vào giao dịch. Để tránh biến động lớn cho

thị trường do có sự chênh lệch lớn về khối lượng đặt mua và khối lượng chào bán,

Trung tâm Giao dịch Chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh đã áp dụng một số biện

pháp mang tính hành chính (thay đổi biên độ dao động, khối lượng tối đa mà người

đầu tư được phép đặt mua). Việc làm này có một số tác động nhất định làm bình ổn

thị trường. Nhưng đến giai đoạn bắt đầu từ tháng 8 đến tháng 10/2001, giá lại liên

tục hạ. Người đầu tư tranh nhau “bán tống, bán tháo” các chứng khoán mình nắm

giữ làm cho giá cả liên tục hạ dẫn đến tình trạng không thể kiểm soát được.

43

Page 44: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

Việc đầu tư theo phong trào dẫn đến các hiệu ứng “đàn cừu” là một trong các

yếu tố tồn tại của thị trường chứng khoán Việt Nam. Có thể thấy một thực tế sẽ

không tránh khỏi là yếu tố tâm lý chi phối các quỹ đầu tư từ việc thu hút vốn tới

việc giao dịch các chứng chỉ quỹ đầu tư trên thị trường thứ cấp. Ngoài ra, yếu tố

tâm lý của người đầu tư sẽ tác động dưới giác độ khác do đặc điểm riêng biệt khi

đầu tư vào quỹ. Khi người đầu tư quyết định đầu tư vào quỹ, vấn đề họ sẽ quan tâm

trước tiên là quỹ đầu tư có mang lại thu nhập cao hơn tiền gửi tiết kiệm hay không?

Người đầu tư sẽ cân nhắc giữa việc gửi tiền tiết kiệm và đầu tư vào quỹ. Khi gửi

tiền tiết kiệm, người đầu tư chắc chắn sẽ nhận được một khoản tiền lãi định kỳ và số

tiền gốc mình gửi không hề bị hao hụt (trừ trường hợp hao hụt hữu hình khi tính giá

trị của đồng tiền theo thời gian). Ngược lại, các quỹ đầu tư không cam kết bất cứ

khoản lợi nhuận kỳ vọng nào cho những người đầu tư vào quỹ. Người đầu tư chỉ

dựa vào uy tín của công ty quản lý quỹ mà quyết định việc đầu tư của mình. Vì vậy,

khả năng thành công trong lần phát hành đầu tiên của các quỹ là vấn đề đáng quan

tâm. Ngoài ra, nếu quỹ hình thành đầu tiên dưới dạng các quỹ đóng, việc giá chứng

chỉ quỹ đầu tư giao dịch với giá chiết khấu cũng sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ đến tâm lý

của người đầu tư, có thể dẫn đến hiện tượng bán theo phong trào như đã kể trên.

d) Các tổ chức định mức tín nhiệm:

Việc định mức tín nhiệm quỹ đầu tư chứng khoán ở các thị trường có ngành

quỹ đầu tư phát triển có một vai trò quan trọng. Bởi vì một số công trình nghiên cứu

khoa học trên thế giới cho thấy những quỹ được xếp hạng càng cao thì càng thu hút

nhiều hơn các luồng tiền của người đầu tư. Nếu như việc định mức tín nhiệm trái

phiếu dựa trên cơ sở là mức trả gốc và lãi của một trái phiếu, việc định mức tín

nhiệm quỹ đầu tư chứng khoán được thực hiện bằng cách phân loại các kiểu quỹ

theo mục đích đầu tư. Sau đó, việc định mức được dựa trên việc tổng hợp thu nhập

có tính rủi ro trong khoảng thời gian 3 năm, 5 năm và 10 năm đối với những quỹ có

thời gian hoạt động từ 10 năm trở lên, trong khoảng thời gian 3 năm, 5 năm đối với

những quỹ có thời gian hoạt động từ 5 năm đến 10 năm và trong khoảng 3 năm đối

với các quỹ có thời gian hoạt động ít hơn 5 năm. Và nếu như biểu tượng của định

44

Page 45: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

mức tín nhiệm trái phiếu là các chữ cái in hoa A, B, C thì biểu tượng mức tín nhiệm

của quỹ đầu tư chứng khoán là dấu sao.

Việc định mức tín nhiệm quỹ đầu tư chứng khoán do một tổ chức chuyên

ngành thực hiện. Đây là một tổ chức độc lập hoàn toàn, không chịu ảnh hưởng của

các áp lực về chính trị cũng như sự tác động của các tổ chức mà nó đang thực hiện

việc xếp hạng.

Thực trạng tại Việt Nam cho thấy tới nay có rất ít tổ chức định mức tín nhiệm

được hình thành và hoạt động. Thực tế, việc vắng bóng các tổ chức định mức tín

nhiệm không phải là một tồn tại đáng kể đối với việc hình thành các quỹ đầu tư

chứng khoán và công ty quản lý quỹ. Tuy nhiên, người đầu tư sẽ an tâm hơn khi

tiếp cận được một số thông tin từ các tổ chức đánh giá có uy tín, giúp họ dự đoán,

phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở, nền tảng cho các quỹ đầu tư chứng khoán hoạt động

lành mạnh.

2.3. Thực trạng hoạt động của quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ tại VN:

2.3.1. Giới thiệu về các quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ tại VN:

Ngành quản lý quỹ đầu tư tại Việt Nam chỉ mới hình thành từ cuối năm 2003,

và đến nay cũng chỉ đang trong những bước đi ban đầu. Tháng 6.2006, trên thị

trường có 7 công ty quản lý quỹ được cấp giấy phép21. Cho tới cuối năm 2008 trên

thị trường số công ty quản lý quỹ đã tăng lên 46 quỹ được cấp phép hoạt động22. Có

được điều này là do sự thông thoáng trong các quy định pháp lý của Uỷ ban Chứng

khoán nhà nước. Trước đây các quỹ đầu tư và các công ty quản lý quỹ nước ngoài

muốn tham gia đầu tư vào thị trường chứng khoán Việt Nam phải tiến hành liên

doanh với một doanh nghiệp Việt Nam chứ không được phép thành lập và đầu tư

trực tiếp vào thị trường. Nhưng hiện nay theo các quy định mới nhất của pháp luật

Việt Nam về đầu tư cũng như chứng khoán như Nghị định số 14/NĐ/2007, Quyết

định 35/2007/QĐ – BTC về Công ty quản lý quỹ, Quyết định 45/2007/QĐ – BTC

21 http://vietbao.vn/Kinh-te/Bai-6-Thi-truong-chung-khoan-va-quy-dau-tu-o-Viet-Nam/45201257/87/ ,00:02 ngày 14/07/2006, truy cập lúc 00:27’ ngày 26/04/200922 http://www.ssc.gov.vn/portal/page/portal/ubck/csdlcty/1321016?p_page=1 ,truy cập ngày 26/04/2009 14:30

45

Page 46: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

về Quỹ đầu tư…các công ty quản lý quỹ và quỹ đầu tư nước ngoài đã có thể đuợc

hình thành và tham gia đầu tư trực tiếp trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Điều

này sẽ làm cho ngành quản lý quỹ tại Việt Nam phát triển sôi động và nhanh chóng

bắt kịp với sự phát triển của thế giới.

Trong các công ty quản lý quỹ được hình thành và đang hoạt động trên thị

trường hiện nay phải kể tới hoạt động của hai công ty chứng khoán tiêu biểu đánh

dấu cho sự phát triển của lĩnh vực quản lý quỹ tại Việt Nam, đó là Công ty quản lý

Quỹ đầu tư chứng khoán Việt Nam (VFM) và Công ty Quản lý quỹ Prudential Việt

Nam. Công ty Quản lý Quỹ đầu tư chứng khoán Việt Nam (VFM) là công ty đầu

tiên được hình thành, đánh dấu cho sự ra đời của ngành quản lý quỹ đầu tư tại Việt

Nam với sự ra đời của Qũy đầu tư VF1. Công ty hiện đang là công ty quản lý quỹ

Việt Nam hàng đầu trên thị trường. Trong các công ty quản lý quỹ nước ngoài đang

hoạt động trên thị trường hiện nay, Công ty quản lý quỹ Prudential Việt Nam, một

trong những công ty quản lý quỹ nước ngoài đầu tiên đuợc cấp phép thành lập và

hoạt động tại Việt Nam, được đánh giá là một trong những công ty nước ngoài hàng

đầu trong lĩnh vực quản lý quỹ với số lượng nhà đầu tư lớn nhất tại Việt Nam.

a) Công ty quản lý Quỹ đầu tư chứng khoán Việt Nam (VFM) và quỹ

đầu tư Chứng khoán Việt Nam VF1:

Công ty Quản lý Quỹ đầu tư Chứng khoán Việt Nam (VFM)23: là đơn vị tiên

phong trong lĩnh vực quản lý quỹ đầu tư tại Việt Nam. Thành công liên tiếp của

công ty VFM dựa trên nền tảng đoàn kết, liêm chính, sáng tạo và luôn đặt lợi ích

nhà đầu tư lên hàng đầu.

Công ty Quản lý quỹ được thành lập từ sự liên doanh hợp tác của hai đối tác

tài chính lớn là Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn thương tín (Sacombank) và

công ty tài chính Dragon Capital. Hoạt động chính của công ty là quản lý các quỹ

đầu tư và quản lý danh mục đầu tư. Hiện công ty đang quản lý 4 quỹ đầu tư dạng

đóng gồm VF1, VF2, VF3 và VF4 với tổng tài sản lên đến 300 triệu USD.

23 http://www.vinafund.com/VFVN/index.php?l1=357&l2=361 , truy cập 24h:00 ngày 27/04/2009

46

Page 47: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

Quỹ đầu tư chứng khoán Việt Nam (VF1)24: là quỹ công chúng dạng đóng đầu

tiên của Việt Nam được lập năm 2004 bởi Vietfund, được huy động nguồn vốn từ

cá nhân, pháp nhân trong và ngoài nước với quy mô vốn ban đầu 300 tỷ đồng trong

vòng 10 ngày vào tháng 4/2004. Quỹ đầu tư VF1 được niêm yết tại Sở Giao dịch

Chứng khoán Tp. HCM (trước đây là Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Tp. HCM)

từ tháng 11/2004.

Mục tiêu mà Quỹ đầu tư VF1 nhắm đến là xây dựng được một danh mục đầu

tư cân đối và đa dạng nhằm tối ưu hóa lợi nhuận, tối thiểu hóa các rủi ro cho nguồn

vốn đầu tư của quỹ. Phần lớn các thương vụ đầu tư sẽ được tập trung vào các loại

chứng khoán đang và sẽ niêm yết trên TTCK Việt Nam. Chứng khoán này bao gồm

chứng khoán của các công ty đang niêm yết trên thị trường, các loại trái phiếu

Chính phủ, trái phiếu công ty, cổ phiếu của các công ty cổ phần. Ngoài ra, mục tiêu

của quỹ còn nhắm đến trong quá trình đầu tư là giúp các đơn vị tái cơ cấu về mặt tài

chính, phát triển hệ thống quản trị, nâng cao năng lực cạnh tranh… nhằm làm gia

tăng giá trị của chính các công ty này và vì thế gia tăng về mặt giá trị các khoản đầu

tư của Quỹ đầu tư VF1.

Các cột mốc chính:

Năm 2004: khởi đầu với số vốn điều lệ 300 tỷ đồng

Năm 2006: Tăng vốn điều lệ lên 500 tỷ đồng

Năm 2006: Trở thành quỹ hoạt động hiệu quả nhất trong nhóm các thị

trường mới nổi (LCF Rothschild Country Fund Research – Daily Pairty Sheet 8 Jan

2007)

Năm 2007: Tăng vốn điều lệ lên 1.000 tỷ đồng

31/12/2007: Tổng giá trị tài sản ròng là 3.837,1 tỷ đồng

Với những thành quả mà Quỹ đầu tư VF1 đạt được, Quỹ đầu tư VF1 đã trở

thành quỹ đầu tư lớn nhất và thành công nhất tại Việt Nam (xem phụ lục: Thông tin

chi tiết về Quỹ đầu tư VF1).

24 http://www.vinafund.com/VFVN/index.php?l1=358&l2=366 truy cập ngày 28/04/2009 15:40

47

Page 48: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

Hoạt động của quỹ: Kết thúc năm 2008, tổng tài sản ròng (NAV) của quỹ đầu

tư VF1 đạt 1.697 tỷ đồng, tương đương 16.970 đồng/chứng chỉ quỹ. So với đầu

năm, NAV của Quỹ đầu tư VF1 ghi nhận mức giảm 52,6% bằng 79,8% mức giảm

của VN-Index và bằng 78% mức giảm của HASTC-Index. Sự sụt giảm NAV của

Quỹ đầu tư VF1 năm 2008 thấp hơn mức giảm của thị trường nhờ vào cơ cấu tài

sản của Quỹ đầu tư VF1 được phân bổ cân bằng và linh hoạt theo từng giai đoạn

diễn biến của thị trường. Giai đoạn từ tháng 1 đến tháng 4/2008, tỷ lệ trái phiếu, tiền

và tài sản khác trong danh mục tuy ở mức thấp nhưng cũng duy trì từ 20% đến

27,8%; trong khi đó tỷ lệ cổ phiếu dao động quanh mức 72,2% đến 80%. Trong giai

đoạn từ tháng 5 đến tháng 12/2008, khi VN-Index luôn ở mức thấp nhất trong vòng

2 năm trở lại đây và nền kinh tế thế giới đang bước vào thời kỳ suy thoái, Quỹ đầu

tư VF1 nhanh chóng tái cơ cấu lại tài sản trong danh mục đầu tư nhằm giảm thiểu

mức độ ảnh hưởng của thị trường đối với danh mục, tỷ lệ trái phiếu, tiền và tài sản

khác luôn duy trì từ mức 32% đến 46%, tỷ lệ cổ phiếu dao động quanh mức 54%

đến 68%. Luỹ kế từ khi hoạt động, tăng trưởng NAV VF1 đạt 69,7% (sau khi trừ cổ

tức đã chia từ khi thành lập tới nay), gấp hơn 3 lần mức tăng trưởng 20,7% của VN-

Index trong cùng kỳ.25( xem phụ lục 5: Danh mục đầu tư của quỹ)

Bảng 1.1: Cơ cấu phân bổ tài sản của quỹ VF1

4 Ứn g trướ c cho

các

kho

ản

4,8

5 Tiề

n -

phải

thu

khá c

18,4

b) Công ty quản lý quỹ Prudential Việt Nam và quỹ đầu tư chứng khoán

PRUBF 1:

Công ty quản lý quỹ Prudential Việt Nam26: chính thức hoạt động từ đầu

tháng 6/2005, là công ty quản lý quốc tế hàng đầu với số lượng nhà đầu tư lớn nhất

tại Việt Nam. PVFMC áp dụng nguyên tắc đầu tư theo định hướng giá trị trong dài

hạn đối với các quỹ và danh mục đầu tư cho các nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư tổ

25 Báo cáo thường niên năm 2008 của VF1, http://www.vinafund.com/VFVN/index.php?l1=359&l2=371&l3=413&year=2008 truy cập ngày 28/04/2009 14:36’26 http://prudentialfund.com.vn/vn/company_profile.php , truy cập ngày 29/04/2009 13:30

48

Page 49: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

chức trong và ngoài nước, với tổng tài sản hiện đang quản lý trị giá trên 1,4 tỉ đô la

Mỹ (tính đến 31/12/2007).

Từ năm 1999, PVFMC đã xây dựng đội ngũ chuyên gia đầu tư (gồm 25

chuyên gia đầu tư) ngay tại Việt Nam, với thành tích quản lý đầu tư trái phiếu, cổ

phiếu niêm yết và chưa niêm yết, đầu tư trực tiếp /đầu tư thỏa thuận và bất động sản

trong vùng Đông Dương, hoạt động trên cùng một nền tảng đầu tư toàn cầu mà

PCA đang áp dụng tại 13 thị trường tại châu Á, bao gồm: Trung Quốc, Hồng Kông,

Ấn Độ, Indonesia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mã Lai, Philippines, Singapore, Đài Loan,

Thái Lan, Việt Nam và Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất.

Quỹ đầu tư cân bằng Prudential (PRUBF1)27: Đây là quỹ đầu tư cân bằng đầu

tiên được thành lập của Công ty quản lý quỹ Prudential Việt Nam. Hiện đang là một

trong những quỹ đầu tư nước ngoài hàng đầu tại Việt Nam. Các thông tin cơ bản về

quỹ được trình bày tại bảng 1.2.

Hoạt động của quỹ: Chiến lược đầu tư là đầu tư vào một danh mục đầu tư

cân bằng bao gồm các công cụ nợ (trái phiếu từ trung đến dài hạn) và cổ phiếu

công chúng của các công ty đang hoạt động tại Việt Nam trong các ngành và

lĩnh vực có tiềm năng cao. Ban đại diện quỹ được uỷ quyền để xác định mức

phân bổ tài sản với mục đích đặt ra tỷ suất lợi nhuận nhằm xác định hiệu quả

hoạt động của quỹ theo tỷ suất cơ bản. Ban đại diện Quỹ đã đặt ra mức phân

bổ tài sản chuẩn là 30% vào cổ phiếu (gắn liền với chỉ số VN-Index) và 70%

vào công cụ nợ cố định (gắn liền với Trái phiếu Nhà nước kỳ hạn 5 năm) cho

giai đoạn đầu tư từ ngày 01/01/2009 đến 31/12/2009. Tháng 2/2009 chỉ số Vn –

Index giảm 0,5%. Tính đến thời điểm ngày 28/02/2009, Quỹ đầu tư 79% vào

trái phiếu và 10% vào cổ phiếu. Quỹ cũng đang nắm giữ 11% giá trị danh mục

bằng tiền mặt và tiền gửi ngắn hạn. Bảng 1.2: Giới thiệu chung về quỹ

PRUBF1

Ngà

y

được

cấp

phép

5/10

/

2006

27 http://staging.prudentialfund.com.vn/file/PRUBF1/PRUBF1%2028%20Feb%202009%20V.pdf , truy cập ngày 29/04/2009 14:35

49

Page 50: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

Côn

g

ty

quản

quỹ

Côn

g

ty

quản

quỹ

đầu tư

Prud

e

ntia

l

Việ

t

Nam

Thời

gian

hoạt

động

7 nă

m từ

ngày

cấp

phép

Trong tháng 02/2009, Quỹ tiếp tục đầu tư ưu tiên vào trái phiếu hơn là cổ

phiếu. Danh mục cổ phiếu bao gồm 17 công ty niêm yết chiếm 5% giá trị tài sản

ròng (NAV), và 9 công ty đại chúng chưa niêm yết (OTC) chiếm 4% NAV. Trong

suốt tháng 02/2009, danh mục cổ phiếu đã được tái cấu trúc lại bao gồm giảm tỷ lệ

các cổ phiếu nhỏ đã không còn phù hợp với tiêu chí đầu tư của quỹ. Tỷ suất lợi

nhuận của danh mục cổ phiếu cao hơn Vn – Index 4,3%. Danh mục trái phiếu

chiếm 79% tổng tài sản của quỹ. Trong suốt tháng 02/2009, lãi suất của thị trường

trái phiếu giảm nhẹ giúp cải thiện danh mục đầu tư của quỹ. Đến cuối tháng

02/2009, NAV/chứng chỉ của PRUBF1 là 7.701. Chứng chỉ quỹ đang giao dịch ở

mức 44% thấp hơn NAV của PRUBF1 tại thời điểm 20/02/2009 (xem phụ lục 6)

Bảng 1.3: Cơ cấu phân bổ tài sản của quỹ PRUBF1

STT

Loạ

i

tài

sản

%

NA

V

đầu

1 Cổ

phiế

u

niêm

yết 5

2 Cổ

phiế

u

OTC 4

3 Cổ

phần

hoá 1

4 Trái

phiế

u

79

5

Tiền

gửi c

ó

kỳ

hạn

11

Với những lợi ích tiềm tàng có thể mang lại cho các nhà đầu tư cá nhân và tổ

chức, cũng như khả năng đóng góp vào sự phát triển của TTCK, quỹ đầu tư thật sự

đang đứng trước một cơ hội phát triển to lớn.

2.3.2. Đánh giá chung :

50

Page 51: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

a) Các quy định của pháp luật về Quỹ đầu tư chứng khoán và công ty

quản lý quỹ chưa đầy đủ và chặt chẽ:

Do quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ là những định chế mới được thành lập

trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong vài năm gần đây nên hệ thống pháp

luật điều chỉnh việc thành lập và hoạt động của các định chế này vẫn chưa được

hoàn thiện và còn tồn tại nhiều bất cập. Điều này khiến cho việc vận hành các công

ty quản lý quỹ và quỹ đầu tư tại Việt Nam hiện nay đang gặp nhiều khó khăn.

Các quy định hiện hành liên quan tới các quỹ đầu tư dạng tín thác tại Việt Nam

còn chưa chặt chẽ và đầy đủ để điều chỉnh quyền hạn, trách nhiệm của người tín

thác và đặc biệt là người thụ uỷ trong hoạt động của quỹ cũng như các quyền của

người hưởng lợi trong trường hợp tài sản của họ bị xâm phạm. Điều đó thể hiện ở

các điểm sau:

Về hợp đồng quản lý giám sát: Bản chất của hợp đồng quản lý giám sát

chính là hợp đồng tín thác. Hợp đồng tín thác là hợp đồng ký kết giữa ba bên, giữa

người đầu tư (người hưởng lợi), người tín thác và người thụ uỷ. Nhưng người

hưởng lợi cũng như quyền của họ đều chưa được đề cập tới trong hợp đồng quản lý

giám sát. Họ là người thụ hưởng chính trong quan hệ tín thác đó nhưng các quy

định pháp luật chưa đưa ra các quy định về việc tham gia của họ vào ký kết hợp

đồng tín thác.

Trách nhiệm của người giám sát: Theo quy định hiện nay, các ngân hàng

sẽ đảm nhận luôn chức năng giám sát hoạt động của quỹ. Có thể thấy rõ nghĩa vụ

của tổ chức giám sát hoạt động là những người phải chịu trách nhiệm đối với các tài

sản uỷ thác, tức là tiền góp vào quỹ, của người đầu tư uỷ thác cho họ, những vấn đề

này dường nhưu chưa được quy định cụ thể. Liên quan tới quyền lợi của người

giám sát, theo quy định ngân hàng giám sát được hưởng các phí quy định trong

Điều lệ quỹ mà chứng từ này do công ty quản lý quỹ lập. Nếu trường hợp công ty

quản lý quỹ và ngân hàng giám sát không thoả thuận được mức phí giám sát bảo

quản hoặc mức này quá thấp thì liệu tổ chức thụ uỷ có đảm nhận được vai trò của

mình không khi quyền lợi và nghĩa vụ không tương đương. Việc công ty quản lý

51

Page 52: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

quỹ được tự lựa chọn ngân hàng giám sát cho các qũy do mình quản lý sẽ có thể

dẫn đến những hoạt động không khách quan. Sự lựa chọn nhiều khi không phải dựa

vào năng lực cũng như chất lượng dịch vụ của bản thân ngân hàng được lựa chọn.

Ngoài ra, do trả chi phí thấp nên vai trò giám sát đối với hoạt động của quỹ của tổ

chức bảo quản không cao. Như vậy, họ không phải chịu bất kỳ trách nhiệm vật chất

nào nếu quyền lợi của người đầu tư bị phương hại do hoạt động của quỹ không hiệu

quả.

Quyền truy đòi của người hưởng lợi trong trường hợp người thụ uỷ

không làm tròn trách nhiệm của mình, gây thiệt hại cho người đầu tư chưa được đề

cấp đến cũng như chưa có quy định rõ các trường hợp ngân hàng giám sát có quyền

ntruy đòi công ty quản lý qũy khi công ty này không tuân thủ Điều lệ của quỹ đầu

tư chứng khoán hoặc các quy định của pháp luật.

Đối với việc thành lập các công ty quản lý quỹ, các quy định hiện hành không

tạo ra một rào cản đáng kể nào ngoài trình tự cũng như thủ tục thành lập. Hiện nay

các thủ tục để tiến hành thành lập công ty quản lý quỹ còn rườm rà. Thời gian để có

đuợc cấp giấy phép hoạt động còn dài. Và các điều kiện để thành lập được các công

ty quản lý quỹ còn tương đối khắt khe. Vì vậy để đáp ứng đầy đủ tất cả các điều

kiện thành lập theo quy định của pháp luật là một điều khá khó khăn đối với các

công ty quản lý quỹ và đòi hỏi một thời gian chuẩn bị tương đối dài. Đặc biệt là đối

với các công ty quản lý quỹ nước ngoài, việc có được giấy phép hoạt động trên thị

trường Việt Nam là một vấn đề khá khó khăn khi họ phải chịu nhiều quy định

chồng chéo của nhiều bộ luật khác nhau như Luật đầu tư, Luật Doanh nghiệp,…

cũng như các quy định của nhiều cơ quan quản lý khác nhau. Nhiều khi những bộ

luật và các quy định của các cơ quan khác nhau không có sự thống nhất khiến các

công ty quản lý quỹ nuớc ngoài muốn thành lập và hoạt động tại Việt Nam không

biết phải tuân thủ theo nhưncg quy định nào và xin phép cơ quan quản lý nào. Điều

này khiến cho số lượng công ty quản lý quỹ được cấp phép hoạt động trên thị

trường Việt Nam hiện nay còn ít.

b) Chưa có hệ thống kế toán và cơ chế quản lý tài chính thống nhất:

52

Page 53: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

Cũng như hoạt động kinh doanh chứng khoán, hoạt động quản lý quỹ là loại

hình kinh doanh mới tại Việt Nam. Loại hình kinh doanh này khác biệt khá nhiều so

với các loại hình kinh doanh khác. Đối với công ty quản lý quỹ, ngoài việc hạch

toán kinh doanh cho bản thân công ty còn phải hạch toán hoạt động đầu tư của từng

quỹ đầu tư do công ty quản lý và các quỹ này không phải là một pháp nhân độc lập.

Tuy nhiên hiện nay chưa có một hệ thống chuẩn mực kế toán cho các công ty quảng

lý quỹ về kế toán, kiểm toán, về báo cáo tài chính và công bố thông tin của quỹ đầu

tư và công ty quản lý quỹ. Vì vậy, các công ty quản lý quỹ hiện nay thực hiện việc

kế toán, kiểm toán, hợp nhất báo cáo tài chính, tính giá trị tài sản,... theo những

phương thức và chuẩn mực khác nhau. Có rất nhiều điểm khác nhau trong cách tính

các khoản dự phòng, đánh giá giá trị tài sản, tính toán khấu hao,... của các công ty

quán lý quỹ. Điều này khiến cho các nhà đầu tư khó có thể đánh giá tình hình kinh

doanh của các quỹ và các công ty quản lý quỹ khác nhau trên thị trường. Đồng thời

cũng khiến cho các cơ quan quản lý nhà nước gặp khó khăn trong việc kiểm soát

hoạt động của các công ty quản lý quỹ.

c) Trình độ đầu tư chuyên nghiệp còn thấp:

Sự thiếu tính chuyên nghiệp đầu tư được coi là một hạn chế cơ bản của thị

trường chứng khoán Việt Nam. Đó cũng chính là một nguyên nhân quan trọng chủ

yếu tác động tới việc hình thành các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp như quỹ đầu tư

và công ty quản lý quỹ.

Có thể minh chứng điều đó qua đôi nét về thực trạng về đội ngũ chuyên gia

đầu tư tài chính hiện nay. Thực tế hoạt động của các công ty quản lý quỹ và quỹ đầu

tư đã cho thấy sự thiếu hụt cả về số lượng lẫn chất lượng những người phân tích và

đầu tư chuyên nghiệp. Hiện nay, số nhân viên kinh doanh của các công ty quản lý

quỹ và qũy đầu tư chứng khoán được cấp giấy phép hành nghề còn chưa nhiều,

phần lớn chỉ chiếm 2/3 tổng số nhân viên để đáp ứng các yêu cầu về pháp lý trong

việc hình thành công ty, trong đó phần lớn được tuyển chọn từ những người đã từng

công tác trong lĩnh vực ngân hàng, tài chính, bảo hiểm. Mặc dù hoạt động đầu tư

trong ngành chứng khoán có những nét tương đồng với hoạt động đầu tư của các

53

Page 54: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

ngân hàng, các công ty bảo hiểm, nhưng tính chuyên nghiệp trong hoạt động đầu tư

trên thị trường chứng khoán đòi hỏi sự nhạy bén linh hoạt cũng như áp lực hơn rất

nhiều so với các ngành khác. Đa số các nhân viên này mới chỉ đáp ứng những yêu

cầu nghiệp vụ tối thiểu như tư vấn tài chính, nghiên cứu thị trường, phân tích cơ bản

giá trị tài chính, đánh giá thị trường dựa trên các chỉ số tài chính cơ bản nhất,… Và

họ thường không được đào tạo bài bản về lĩnh vực quản lý quỹ cũng như quản lý

danh mục đầu tư. Bản thân nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư là một nghiệp vụ

mang bóng dáng của quản lý đầu tư chuyên nghiệp đòi hỏi nhân viên cần phải có

các tiêu chí về học vấn cũng như kinh nghiệm cao hơn đặc biệt là những người điều

hành quỹ.

Ngoài các yếu tố về con người, trình độ đầu tư chuyên nghiệp có thể đem lại

hiệu quả kinh doanh cao còn phụ thuộc vào các nguồn thông tin cũng như việc sử

dụng chúng trong phân tích đầu tư. Đây cũng là một vấn đề đáng quan tâm tại Việt

Nam nơi mà việc công bố thông tin về hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp

dường như còn là vấn đề rất mới mẻ. Các nguồn thông tin được sử dụng để phân

tích rất thiếu và chưa đảm bảo chất lượng.

Như những phần trên đã phân tích, quỹ đầu tư chứng khoán là một loại hình

đầu tư chuyên nghiệp, đòi hỏi rất cao ở trình độ chuyên môn cũng như kinh nghiệm

đầu tư của các nhân viên tác nghiệp cũng như những người điều hành quỹ. Đội ngũ

các nhân viên phân tích và đầu tư chứng khoán, quản lý đầu tư còn quá ít ỏi như

hiện nay là một trở ngại lớn đối với việc thành lập và hoạt động của các công ty

quản lý quỹ cũng như quỹ đầu tư chứng khoán.

Tồn tại trên chủ yếu xuất phát từ những nguyên nhân dưới đây:

Hoạt động đầu tư chuyên nghiệp nhất là đầu tư vào thị trường chứng khoán

chỉ mới hình thành ở nước ta trong một vài năm gần đây. Do đó, khó có thể đòi hỏi

ngay sự tồn tại của một đội ngũ lớn những người đầu tư chuyên nghiệp có đủ trình

độ cũng như kinh nghiệm hoạt động đầu tư.

Công tác đào tạo cơ bản về phân tích đầu tư chứng khoán chưa được tiến

hành một cách bài bản và quy củ.

54

Page 55: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

Điều đó được thể hiện ở thực tế cho đến nay chưa có chương trình đào tạo

chuyên sâu về kỹ năng phân tích và đầu tư chuyên nghiệp trong hệ thống đào tạo

của Việt Nam. Việc đào tạo về thị truờng chứng khoán và phân tích đầu tư mới đây

đã được các trường đại học khối kinh tế như trường đại học Kinh tế quốc dân,

trường đại học Tài chính, trường đại học Ngoại thương, Học viện ngân hàng,…đưa

vào chương trình giảng dạy. Hầu như các chương trình đó mới chỉ dừng lại ở các lý

thuyết cơ bản chủ yếu tham khảo từ tài liệu nước ngoài mà học viên chưa có điều

kiện tiếp cận và thực hành trong thực tế. Các chương trình đào tạo mang tính chất

chuyên sâu và thực tế hơn là các khoá học do Trung tâm Nghiên cứu khoa học và

Bồi dưỡng nghiệp vụ chứng khoán và thị trường chứng khoán trực thuộc Uỷ ban

Chứng khoán Nhà nước thực hiện. Các chương trình này chủ yếu mới dừng lại ở

việc cung cấp các kiến thức cơ bản nhất cho những người sẽ xin giấy phép hành

nghề kinh doanh chứng khoán để làm việc tại các công ty chứng khoán. Các chương

trình chuyên sâu dành cho những người điều hành quỹ vẫn chưa được xây dựng.

Hiện nay cũng có những chương trình đào tạo chuyên sâu nước ngoài về các

kỹ năng trong lĩnh vực tài chính tại Việt Nam. Chẳng hạn như chương trình đào tạo

CFA về phân tích tài chính, CPA hay ACCA… Tuy nhiên những khoá học như vậy

thường có chi phí rất lớn (chi phí cho một khoá học CFA gồm 3 level sẽ khoảng

hơn 5000$) mà với thu nhập và điều kiện kinh tế của người Việt Nam hiện nay

không phải ai cũng có thể có điều kiện theo học. Ngoài ra những khoá học như vậy

cũng đòi hỏi người học phải có những trình độ nhất định về tiếng anh cũng như

những kiến thức về chuyên ngành nhất định.

d) Số lượng quỹ và công ty quản lý quỹ chưa nhiều, quy mô nhỏ và hàng

hoá chưa đa dạng:

Ngành quản lý quỹ đầu tư tại Việt Nam chỉ mới hình thành từ cuối năm 2003,

và đến nay cũng chỉ đang trong những bước đi ban đầu. Tháng 6/2006, trên thị

trường có 7 công ty quản lý quỹ được cấp giấy phép. Tới đầu năm 2009, hiện có 46

công ty quản lý quỹ được cấp giấy phép hoạt động. Tuy so với năm 2006, số lượng

công ty quản lý quỹ đã tăng gấp 5 lần nhưng so với toàn bộ thị trường tiềm năng

55

Page 56: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

của ngành quản lý quỹ đầu tư hiện đang phát triển tại Việt Nam thì vẫn chưa phải là

một con số đáng kể. Nhờ tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình khá cao (đạt

8%/năm, chỉ sau Trung Quốc), Việt Nam còn có nguồn dầu mỏ và đặc biệt là sự ổn

định về chính trị, đó chính là những lý do khiến thị trường VN hấp dẫn các công ty

quản lý quỹ nước ngoài. Vì vậy, hiện nay số lượng các công ty quản lý quỹ và quỹ

đầu tư có nhiều hơn do sự tham gia của các quỹ đầu tư nước ngoài. Các quỹ này

thường có tiềm lực vốn đáng kể. Song do những rào cản và sự thiếu hoàn thiện về

khung pháp lý nên số lượng quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ đầu tư nước ngoài

được cấp giấy phép kinh doanh tại thị trường chứng khoán Việt Nam còn hạn chế

(hiện nay các công ty quản lý quỹ nước ngoài chỉ chiếm khoảng 16% trên tổng số

các công ty quản lý quỹ hiện đang hoạt động trên thị trường chứng khoán Việt

Nam).

Những công ty quản lý quỹ hiện đang hoạt động trên thị trường thường có quy mô

không lớn do hoạt động kinh doanh chưa được đa dạng, hoạt động chủ yếu là quản

lý đầu tư những quỹ do mình đứng ra huy động vốn. Ngoài ra, yếu tố tâm lý và trình

độ của nhà đầu tư còn chưa chuyên nghiệp khiến việc huy động vốn nhằm tăng vốn

để mở rộng quy mô của các quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ cũng gặp khó khăn.

Nhất là trong thời gian này khi mà cả thế giới đang trải qua cuộc khủng hoảng tài

chính và thị trường chứng khoán thì đang có chiều hướng bất ổn, lúc lên lúc xuống

thất thường nên nhiều nhà đầu tư đã rút chân ra khỏi thị trường. Vì vậy việc huy

động vốn để mở rộng quy mô trong thời gian này lại càng khó khăn hơn đối với các

quỹ đầu tư.

Một trong những lợi thế mà quỹ đầu tư có thể thu hút các nhà đầu tư, đó là khả

năng đa dạng hoá danh mục đầu tư, giảm thiểu rủi ro. Các quỹ sẽ chỉ phát huy ưu

thế của mình trong một thị trường chứng khoán với nhiều chủng loại hàng hoá đa

dạng khác nhau. Tình trạng khan hiếm hàng hoá niêm yết trên thị trường là yếu tố

tác động đáng kể tới sự hình thành của các quỹ đầu tư chứng khoán. Đến thời điểm

hiện nay, tình hình hàng hoá đã được cải thiện rất nhiều.

Thực trạng chứng khoán niêm yết:

56

Page 57: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

Về cổ phiếu: Trong phiên giao dịch đầu tiên ngày 28/07/2000 chỉ có hai

loại cổ phiếu được niêm yết trên Trung tâm Giao dịch chứng khoán (TTGDCK)

thành phố Hồ Chí Minh là cổ phiếu của Công ty cơ điện lạnh (REE) và Công ty cổ

phần Cáp và vật liệu viễn thông (SACOM) với tổng giá trị phát hành là 270 tỷ

đồng. Đến phiên giao dịch ngày 4/08/2000 có thêm hai cổ phiếu của Công ty cổ

phần giấy Hải Phòng (HAPACO) và công ty Kho vận giao nhận ngoại thương thành

phố Hồ Chí Minh (TRANSIMEX) được niêm yết với tổng giá trị phát hành là 32,08

tỷ đồng. Cuối năm 2000, cổ phiếu Công ty cổ phần chế biến hàng xuất khẩu Long

An (LAFOCO) được cấp phép niêm yết với tổng giá trị phát hành là trên 19 tỷ

đồng. Và đến tháng 6/2001 có thêm cổ phiếu của công ty cổ phần Khách sạn Sài

Gòn được cấp phép niêm yết với tổng giá trị phát hàng trên 17 tỷ đồng. Như vậy,

sau một năm hoạt động của thị trường chứng khoán, chỉ có 06 loại cổ phiếu niêm

yết với tổng giá trị phát hành của các cổ phiếu niêm yết là 338,8 tỷ đồng. 8 năm sau

đó, đến nay, số cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán đã gấp 100 lần (trên

300 loại cổ phiếu niêm yết), số tài khoản của nhà đầu tư cũng đã gấp trên 1.000 lần

(430.000 tài khoản)28.

Về trái phiếu:

+ Trái phiếu Chính phủ: Tháng 06/2001, TTGDCK thành phố Hồ Chí

Minh đã tổ chức được 7 đợt đấu thầu trái phiếu Chính phủ. Hai đợt đấu thầu đầu

tiên đã thành công với tổng giá trị trúng thầu mỗi đợt là 300 tỷ đồng, kỳ hạn 5 năm,

lãi suất trúng thầu tương ứng mỗi đợt là 6,5%/năm và 6,6%/năm. Năm đợt đấu thầu

tiếp theo không thành công, do lãi suất chỉ đạo quy định thấp hơn lãi suất đặt thầu

và kết quả là không có đơn vị nào tham gia đấu thầu. Nhằm đa dạng hoá phương

thức phát hành trái phiếu chính phủ trên thị trường sơ cấp, tháng 9/2000, Bộ tài

chính đã phát hành 500 tỷ đồng trái phiếu kho bạc kỳ hạn 5 năm với lãi suất 6,6%

theo phương thức bảo lãnh phát hành. Đến ngày 14/11/2008, có 507 mã trái phiếu

niêm yết trên HASTC, trị giá theo mệnh giá gần 154.702 tỷ đồng, đạt trên 11%

28 http://vmfc.vn/content/view/1013/31/ ,truy cập 17:05’ ngày 29/04/2009

57

Page 58: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

GDP, cho thấy TPCP là một trong những kênh huy động vốn hữu hiệu cho nền kinh

tế29.

+ Trái phiếu doanh nghiệp: Trước năm 2006, việc phát hành trái phiếu

doanh nghiệp chỉ tập trung ở các tổ chức tín dụng, số doanh nghiệp phát hành trái

phiếu rất ít và đa số quy mô phát hành nhỏ. Trong số đó, có thể kể đến một số đợt

phát hành trái phiếu doanh nghiệp đầu tiên như của REE năm 1996 thu về 5 triệu

USD; EIS năm 1998 với 10 tỷ đồng; Tổng công ty Dầu khí phát hành 3.400 tỷ đồng

năm 2003 và sau đó là Tổng công ty Xi măng với 200 tỷ đồng và tổng công ty Điện

lực 300 tỷ đồng. Sang đến năm 2006, Việt Nam chứng kiến sự phát triển đột biến

trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp khi hàng loạt doanh nghiệp phát hành trái

phiếu với quy mô lớn. Tổng giá trị phát hành năm 2006 lên đến 7.000 tỷ đồng.

Trong đó, riêng EVN phát hành 5.000 tỷ đồng; Vinashin 800 tỷ đồng và Sông Đà

300 tỷ đồng. Năm 2007, xu hướng phát hành trái phiếu doanh nghiệp liên tục gia

tăng, chỉ tính 7 tháng đầu năm tổng giá trị phát hành đã lên tới gần 7.000 tỷ đồng.

Trong đó Vinashin phát hành 3.000 tỷ đồng; Lilama 1.500 tỷ đồng; Vinaconex

1.000 tỷ đồng; Tổng công ty thép 400 tỷ đồng và Vilexim 5 tỷ đống. Tuy phát triển

nhanh nhưng đến nay quy mô của thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam vẫn

cón khá nhỏ với tổng giá trị khoảng 16 ngàn tỷ đồng, tương đương với 1,5% GDP,

chưa tương xứng với nhu cầu vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp.30

Tình hình giao dịch chứng khoán niêm yết

Sau tám năm hoạt động, tính đến ngày 02/04/2009, kết thúc phiên giao dịch,

chỉ số VN-Index đóng cửa ở 297,3 điểm tăng 7,78 điểm (tương đương tăng 2,69%).

Tổng khối lượng giao dịch khớp lệnh đạt 28.935.590 đơn vị, tăng 41,26% so với

phiên trước. Tổng giá trị giao dịch khớp lệnh đạt 629,222 tỷ đồng, tăng 48,22% so

với phiên trước. Tổng giao dịch thoả thuận cổ phiếu và trái phiếu thành công đạt

483.200 đơn vị với tổng giá trị giao dịch đạt hơn 26,12 tỷ đồng. Như vậy, tổng khối

29 http://cafef.vn/2008112502187257CA31/tri-gia-trai-phieu-niem-yet-da-chiem-11-gdp.chn ,Thứ 3, ngày 25/11/2008, 14:20; thời gian truy cập: 23:30 ngày 29/04/200930 http://www2.vietnamnet.vn/kinhte/2007/08/729726/ , 18:44’ ngày 14/08/2007 thời gian truy cập 23:40 ngày 29/04/2009

58

Page 59: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

lượng giao dịch toàn phiên đạt 29.418.790 đơn vị (tăng 32,61% so với phiên trước)

và tổng giá trị giao dịch đạt 655,342 tỷ đồng (tăng 45,67%)31.

Thực trạng Chứng khoán không niêm yết:

Ngoài các cổ phiếu của các công ty cổ phần đang niêm yết trên thị trường

chứng khoán, còn có nhiều loại cổ phiếu của công ty cổ phần được thành lập theo

Luật Doanh Nghiệp, các công ty cổ phần được chuyển đổi hình thức sở hữu từ

doanh nghiệp Nhà nước được cổ phần hoá chưa đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn niêm

yết trên TTGDCK hoặc chưa sẵn sàng tham gia niêm yết. Các loại cổ phiếu này

được gọi dưới cái tên là các chứng khoán không niêm yết.

Tính đến thời điểm cuối năm 2008, đã có hơn 4.500 doanh nghiệp nhà nước

thực hiện cổ phần hoá32 và rất nhiều công ty cổ phần được thành lập mới theo Luật

Doanh nghiệp. Trong số đó mới chỉ có khoảng gần 320 doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn

niêm yết và có ý định niêm yết trên thị trường33.

Thực trạng giao dịch chứng khoán không niêm yết:

Trước khi thị trường chứng khoán tập trung chính thức đi vào hoạt động, đã

lưu hành nhiều loại cổ phiếu của một số công ty cổ phần hoặc tổ chức tín dụng,

nhưng những chứng chỉ vốn này ít được lưu thông, chuyển nhượng. Một phần là vì

chưa có cơ chế cho hoạt động này, một phần vì người dân còn rất mơ hồ về khái

niệm cổ phần, cổ phiếu, cổ đông, thị trường chứng khoán. Hoạt động của TTGDCK

thành phố Hồ Chí Minh đã có tác động kích hoạt việc lưu thông cổ phiếu chưa niêm

yết theo một phương thức riêng và hoàn toàn tự phát. Việc tự do chuyển nhượng cổ

phiếu đã được sự thừa nhận của pháp luật mà cụ thể là Luật Doanh Nghiệp và Luật

chứng khoán 2005.

Việc giao dịch các chứng khoán chưa niêm yết đã và đang diễn ra khá sôi động

với những diễn biến phức tạp trong một thị trường mà người ta thường quen gọi là

31 http://www.hpsc.com.vn/news/news2detail.aspx?newsid=6003&grpid=2 , 14:38:14 Thứ năm ngày 2/4/2009, thời gian truy cập 23:50 ngày 29/04/2009 32 http://www.hids.hochiminhcity.gov.vn/xemtin.asp?idcha=1677&cap=3&id=3852 , theo Vnexpress tháng 11/2008, thời gian truy cập: 00:05, ngày 30/4/200933 http://vietbao.vn/Kinh-te/Nhieu-DN-chua-co-y-dinh-niem-yet/45142712/91/ , 14/11/2008, thời gian truy cập: 00:45 ngày 30/4/2009

59

Page 60: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

“thị trường ngầm”. Có những thời điểm hoạt động của thị trường này đã thu hút

nhiều người đầu tư hơn thị trường chính thức bởi tính “tự do” và “dễ dãi” của nó,

đặc biệt hơn là nó hứa hẹn một khoản lợi nhuận được dự báo trước. Hoạt động giao

dịch này có tác dụng thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư. Tuy nhiên, hoạt

động mua bán tự do này đã bộc lộ tính rủi ro cao xuất phát từ tình trạng thiếu thông

tin trong giao dịch, dễ xảy ra tình trạng ép giá, lừa gạt và tạo môi trường cho một số

kẻ đầu cơ trục lợi.

Thực trạng trên cho thấy hàng hoá trên thị trường chứng khoán tập trung còn

chưa nhiều cũng như chưa đa dạng về chủng loại, một trong các yếu tố góp phần

hình thành các quỹ đầu tư. Bản thân hàng hoá ít cũng làm cho các quỹ, nếu đã hình

thành, cũng khó có thể thiết lập các danh mục đầu tư tối ưu.

Đối với các chứng khoán không niêm yết, nếu giả định là các công ty quản lý

quỹ có thể tiếp cận được nhiều nguồn thông tin chất lượng liên quan tới hoạt động

của các công ty cổ phần hơn là những người đầu tư cá thể, việc giới hạn phạm vi

đầu tư quá hẹp của các quỹ đầu tư chứng khoán trong định nghĩa về quỹ đã nêu trên

cũng sẽ ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động đầu tư của quỹ.

60

Page 61: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

Chương III

MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CÁC QUỸ

ĐẦU TƯ VÀ CÔNG TY QUẢN LÝ QUỸ TRÊN THỊ TRƯỜNG

CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM

3.1. Một số định hướng chung cho sự phát triển của quỹ đầu tư và công

ty quản lý quỹ trên thị trường chứng khoán Việt Nam:

Trên cơ sở các thực trạng tồn tại ảnh hưởng tới sự hình thành các công ty quản

lý quỹ và quỹ đầu tư chứng khoán đã phân tích ở trên, quỹ đầu tư và công ty quản

lý quỹ có thể phát triển theo một số định hướng phù hợp với điều kiện và môi

trường kinh tế Việt Nam, gồm một số nội dung chính sau đây:

Phát triển các quỹ đầu tư từng bước, từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn phù hợp

với quy mô và tiến trình phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam.

Việc phát triển các định chế trên theo quy mô từ nhỏ tới lớn là bước đi phù

hợp vì bản thân quy mô thị trường chứng khoán nói riêng và thị trường tài chính nói

chung còn nhỏ, các công cụ tài chính chưa nhiều và đa dạng. Trong môi trường

pháp lý chưa hoàn thiện như hiện nay, việc phát triển quỹ đầu tư từ quy mô nhỏ sẽ

giúp các cơ quan quản lý kiểm soát được hoạt động của loại định chế đặc biệt này,

bảo vệ được quyền lợi của những người đầu tư tham gia góp tiền vào quỹ. Thông

qua hoạt động thực tế của các định chế này, các cơ quan quản lý nhà nước có cơ sở

để đưa ra các chính sách định hướng về mặt vĩ mô mang tính khả thi cũng như điều

chỉnh khung pháp lý phù hợp với thực tế, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động

của các tổ chức này.

61

Page 62: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

Mở rộng dần phạm vi hoạt động của công ty quản lý quỹ và đa dạng hoá mục

tiêu đầu tư của các quỹ.

Trong thời gian đầu, nếu phạm vi hoạt động của công ty quản lý quỹ chỉ giới

hạn trong lập và quản lý hoạt động đầu tư của các quỹ tập thể sẽ rất khó đảm bảo

hiệu quả hoạt động kinh doanh. Ngoài ra, bản thân một tổ chức đầu tư chuyên

nghiệp, ngoài hoạt động quản lý các quỹ do mình lập ra, có thể tận dụng đội ngũ

chuyên gia phân tích thực hiện quản lý danh mục đầu tư, nhận uỷ thác đầu tư tài sản

của các khách hàng là các tổ chức kinh tế hoặc các cá nhân có nhu cầu. Việc mở

rộng hoạt động kinh doanh cho các công ty quản lý quỹ, từ quản lý các quỹ đầu tư

tập thể tới quản lý tài sản hoặc quản lý danh mục đầu tư cho những nhà đầu tư có

nhu cầu sẽ giúp cho các công ty quản lý quỹ nâng cao hơn hoạt động đầu tư chuyên

nghiệp của mình, đồng thời có thu nhập để trang trải các chi phí hoạt động của công

ty.

Đối với các quỹ đầu tư, việc định hướng chính sách đầu tư cho các quỹ trong

từng giai đoạn cụ thể là việc cần thiết nhằm tạo ra các tiêu chí cho hoạt động đầu tư

của các quỹ, giúp cho người đầu tư định hướng và đưa ra quyết định đầu tư vào các

quỹ khác nhau, tuỳ mức độ rủi ro mà mình có thể chấp nhận được. Trong điều kiện

quy mô của thị trường chứng khoán hiện nay còn chưa lớn, cần thiết hướng các quỹ

đầu tư xây dựng các chính sách đầu tư phù hợp với quy mô và các định hướng phát

triển trên thị trường, chủ yếu tấp trung vào lập các quỹ cổ phiếu hoặc các quỹ cân

đối. Sau đó trên cơ sở thực tiễn hoạt động của các quỹ, cho phép mở rộng việc lập

các quỹ có chính sách đầu tư vào các đối tuợng tài sản và công cụ tài chính khác.

Nghiên cứu việc phát triển quỹ theo mô hình công ty

Thực tế cho thấy bản thân thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời và phát

triển sau rất nhiều so với các nước khác trên thế giới. Vì vậy, chúng ta có thể nghiên

cứu, đánh giá cũng như vận dụng các kinh nghiệm phát triển của các nước để đẩy

nhanh tốc độ phát triển thị trường chứng khoán, góp phần vào việc huy động các

nguồn vốn dài hạn, thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, sớm hoà

nhập vào tiến trình phát triển ngang bằng với các nước trong khu vực.

62

Page 63: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

Qua nhiều nghiên cứu của các nước trong tiến trình áp dụng các mô hình quỹ

đầu tư tập thể vào việc hình thành và phát triển quỹ đầu tư, tại các thị trường đang

phát triển, quỹ đầu tư dạng công ty chỉ được áp dụng sau một thời gian dài khoảng

từ 15 – 20 năm áp dụng mô hình quỹ đầu tư dạng hợp đồgn. Tuy nhiên, chúng ta có

thể nghiên cứu áp dụng mô hình này trong một thời gian ngắn, khoảng 5 – 10 năm,

sau khi đã hình thành và phát triển một số quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ theo

mô hình hợp đồng. Tất nhiên vấn đề cơ bản đối với việc áp dụng mô hình này tại

Việt Nam là hạ tầng pháp lý đầy đủ và đồng bộ cho các tổ chức tham gia vào hoạt

động của quỹ.

3.2. Một số giải pháp nhằm phát triển quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ

tại Việt Nam:

3.2.1. Đề xuất mô hình:

a) Đề xuất mô hình quỹ đầu tư:

Việc lựa chọn mô hình phát triển quỹ đầu tư tuỳ thuộc vào môi trường phát

triển và các điều kiện cụ thể của từng nước. Phải đặt từng mô hình trong những môi

trường kinh tế cụ thể thì mới có thể đánh giá được ưu, nhược điểm của từng mô

hình. Ngoài ra, một hệ thống pháp luật hoàn thiện và đồng bộ cũng là những điều

kiện quyết định việc lựa chọn các mô hình. Vì vậy, việc lựa chọn mô hình quỹ đầu

tư cũng nằm trong những giải pháp định hướng trước mắt cũng như dài hạn.

Các quy định của pháp luật hiện hành cho thấy quỹ đầu tư dạng hợp đồng là

mô hình được lựa chọn cho các quỹ đầu tư tập thể. Sự lựa chọn này dựa trên cơ sở

thực tiễn tham khảo từ các nước có điều kiện phát triển tương tự như Việt Nam, chủ

yếu là các nước trong khu vực. Tuy nhiên, cả hai mô hình (mô hình công ty và mô

hình hợp đồng) đều có thể áp dụng được nếu môi truờng phát triển có đầy đủ hạ

tầng pháp lý cho việc hình thành và hoạt động của các định chế này.

Việc áp dụng mô hình quỹ đầu tư dạng công ty tại Việt Nam hiện nay chưa

mang lại hiệu quả cao vì các lý do sau đây:

63

Page 64: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

Việt Nam chưa có hệ thống luật điều chỉnh loại hình công ty đầu tư nói

chung cũng như chưa có hệ thống các văn bản pháp luật mang tính tổng thể điều

chỉnh hoạt động của các đối tượng tham gia vào hoạt động của quỹ. Luật Doanh

nghiệp hiện nay chỉ bao gồm các quy phạm điều chỉnh chung về các loại hình doanh

nghiệp. Tuy nhiên, quỹ đầu tư dạng công ty là một pháp nhân đặc biệt. Thực chất,

công ty quỹ đầu tư thành lập hoàn toàn không tiến hành bất kỳ loại hình kinh doanh

nào, hoàn toàn chỉ là một “công ty trên giấy tờ” thực hiện việc giám sát thông qua

Hội đồng Quản trị đối với các tổ chức khác (tổ chức tư vấn đầu tư, tổ chức bảo quản

tài sản) thay mặt mình thực hiện việc đầu tư. Ngoài ra, các quỹ đầu tư còn có những

đặc thù cơ cấu vận động vốn như đã đề cập ở trên. Các công ty đầu tư dạng mở

được phát hành liên tục và có nghĩa vụ phải mua lại cổ phần của người đầu tư. Các

công ty đầu tư dạng đóng sau khi phát hành phải niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng

khoán. Vì vậy, các nước theo mô hình này đều phải có luật riêng hoặc các quy

phạm trong luật Công ty điều chỉnh riêng loại hình quỹ này và song hành với nó là

luật điều chỉnh hoạt động của tổ chức quản lý quỹ.

Việc áp dụng mô hình quỹ đầu tư dạng công ty trong điều kiện hiện nay đòi

hỏi việc chỉnh sửa luật Doanh Nghiệp, ban hành các quy định pháp luật điều chỉnh

các tổ chức tư vấn đầu tư, các tổ chức quản lý quỹ hoặc quản lý tài sản ở cấp độ

pháp lý tương đương với Luật Doanh nghiệp để có đủ hiệu lực pháp lý điều chỉnh

các quan hệ tín thác tài sản. Hệ thống pháp luật như vậy đòi hỏi một quá trình hoàn

thành và hoàn thiện một cách đồng bộ trên cơ sở các định hướng phát triển ở tầm vĩ

mô đối với các loại định chế tài chính này.

Các quỹ đầu tư dạng công ty hiện nay hầu như là các công ty đầu tư ở quy

mô nhỏ. Trong điều kiện hoạt động đầu tư chuyên nghiệp chưa phát triển như phân

tích trên, hệ thống pháp luật chưa đồng bộ và phân mảng, thiếu kinh nghiệm quản lý

nhà nước trong lĩnh vực này sẽ dẫn đến sự phát triển ngành quỹ đầu tư không theo

các định hướng vĩ mô, ảnh hưởng tới sự phát triển của thị trường chứng khoán nói

chung.

64

Page 65: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

Ngoài ra, dưới giác độ vi mô, quỹ đầu tư dạng công ty dễ dàng tạo sự thông

đồng giữa Hội đồng quản trị của Quỹ và tổ chức quản lý đầu tư, điều hành hoạt

động kinh doanh của quỹ vì lợi ích của các nhà đầu tư lớn của quỹ. Đứng dưới giác

độ quản trị công ty theo các thông lệ quốc tế tốt nhất, Luật Doanh nghiệp hiện hành

còn một số các quy định chưa đảm bảo quyền lợi của các cổ đông thiểu số. Một

trong các quy định đó là Hội đồng Quản trị của công ty phải có một tỷ lệ nhất định

là các thành viên chuyên trách. Quy định này rất khó thực hiện trong điều kiện cụ

thể tại Việt Nam.

Mô hình quỹ đầu tư dạng hợp đồng, xét trong giai đoạn hiện nay, phù hợp các

điều kiện và môi trường kinh tế tại Việt Nam vì các lý do sau:

Với hệ thống các văn bản pháp lý liên quan tới tổ chức và hoạt động của

các quỹ tuy còn những tồn tại như đã nêu, đặc biệt là sự khác biệt giữa hai nguồn

luật về quan hệ tài sản. Tuy nhiên, các quy định chưa đầy đủ hoặc chưa đủ hiệu lực

pháp lý đó có thể xử lý ở cấp độ Nghị định mà chưa cần có sự điều chỉnh ngay các

luật liên quan. Điều đó sẽ tạo điều kiện đẩy nhanh tiến trình hình thành công ty

quản lý quỹ và quỹ đầu tư ở quy mô từ nhỏ tới lớn làm tiền đề cho sự ra đời của

một ngành kinh doanh mới mang tính chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán.

Mô hình này có sự tách bạch rõ ràng giữa người thực hiện hoạt động đầu

tư và người giám sát các hoạt động đó, quyền lợi người đầu tư được đảm bảo hơn

trong các điều kiện pháp luật chưa hoàn thiện như hiện nay. Đồng thời các cơ quan

quản lý Nhà nước có thể dễ dàng giám sát hoạt động của từng tổ chức từ công ty

quản lý quỹ tới tổ chức giám sát, bảo quản tài sản.

Do không bị chi phối nhiều bởi các luật liên quan, Uỷ ban Chứng khoán

Nhà nước là cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực này có thể chủ động đưa ra

định hướng phát triển của các quỹ đầu tư và công ty quản lý trong định hướng phát

triển tổng thể của toàn bộ thị trường chứng khoán cũng như các giải pháp cụ thể để

hỗ trợ và thúc đẩy sự hình thành của các định chế này góp phần ổn định sự phát

triển của thị trường chứng khoán.

65

Page 66: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

Trong điều kiện trình độ phân tích và thực hiện đầu tư chuyên nghiệp còn

hạn chế, do có định hướng phát triển cho ngành quỹ đầu tư có thể giới hạn việc

thành lập số lượng các công ty quản lý quỹ cũng như các quỹ đầu tư, tránh tình

trạng cạnh tranh không lành mạnh, đảm bảo các định chế ra đời hoạt động an toàn

và hiệu quả, bảo vệ quyên lợi của các nhà đầu tư.

Mô hình quỹ đầu tư dạng hợp đồng này đã và đang có ở các nước có các điều

kiện kinh tế tương tự như Việt Nam. Vì vậy, trong giai đoạn trước mắt, để đáp ứng

yêu cầu cho sự hình thành và phát triển của các quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ,

mô hình thích hợp cho loại hình này là quỹ đầu tư dạng hợp đồng.

b) Đề xuất về cơ cấu tổ chức và hoạt động của công ty quản lý quỹ và

quỹ đầu tư:

Một trong những đặc trưng cơ bản và khác biệt của thị trường chứng khoán

Việt Nam so với đa số các thị trường chứng khoán khác trên thế giới là cơ quan

quản lý nhà nước cũng như khung pháp lý ra đời trước khi có thị trường chứng

khoán. Vì vậy, chức năng quản lý nhà nước đối với hoạt động của thị trường cũng

có những nét khác biệt. Ngoài vai trò đưa ra “luật chơi” cũng như giám sát việc tuân

thủ luật của các tổ chức tham gia thị trường, cơ quan quản lý nhà nước mà cụ thể là

Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước còn có nhiệm vụ hỗ trợ cho việc ra đời của các tổ

chức này. Cũng như các công ty chứng khoán, ngay từ khi hình thành ban đầu,

nhiều công ty còn rất lúng túng trong việc định hình tổ chức cũng như triển khai

hoạt động kinh doanh. Không thể phủ nhận là Uỷ ban Chứng khoán đã đóng góp

vai trò không nhỏ trong việc giúp các công ty chứng khoán hình thành bộ máy tổ

chức và các quy trình thao tác nghiệp vụ.

Công ty quản lý quỹ:

Hình thức pháp lý

Theo quy định hiện hành, công ty quản lý quỹ là công ty cổ phần hoặc công ty

trách nhiệm hữu hạn được thành lập theo pháp luật Việt Nam. Các tổ chức kinh

doanh chứng khoán nước ngoài muốn hoạt động phải được sự cho phép của Uỷ ban

66

Page 67: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

Chứng khoán nhà nước. Như vậy, công ty quản lý quỹ vốn trong nước 100% và

công ty quản lý quỹ có vốn đầu tư nước ngoài đều được phép thành lập. Tẩt cả các

hình thức pháp lý đều có những ưu nhược điểm riêng, tuy nhiên nó đều phù hợp đối

với một công ty hoạt động quản lý quỹ.

Cơ cấu sở hữu (cổ đông/thành viên sáng lập):

Công ty quản lý quỹ phải có cơ cấu sở hữu bao gồm các tổ chức có tiềm lực tài

chính như các ngân hàng thương mại, các công ty tài chính, các công ty bảo hiểm,

các công ty chứng khoán là quy định rất cần thiểt. Đối với các quỹ đầu tư nói

chung, niềm tin của công chúng đối với tổ chức đứng ra huy động vốn thành lập

quỹ là yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của việc huy động vốn ban đầu

để thành lập một quỹ đầu tư chứng khoán. Trong mô hình quỹ đầu tư hợp đồng,

công ty quản lý quỹ chính là tổ chức đứng ra lập quỹ. Vì vậy bản thân tiềm lực tài

chính, uy tín cũng như kinh nghiệm của các cổ đông hay thành viên sáng lập ra

công ty quản lý quỹ sẽ tạo ra uy tín cho chính bản thân công ty quản lý quỹ đối với

công chúng đầu tư và một trong các tiêu chí người đầu tư quan tâm đầu tiên khi đưa

ra quyết định đầu tư vào các quỹ do công ty quản lý quỹ đó lập ra.

Vốn điều lệ của công ty quản lý quỹ

Ngoài cơ cấu cổ đông, công ty quản lý quỹ cũng cần có mức vốn điều lệ thể

hiện tiềm lực tài chính của tổ chức đứng ra huy động vốn. Một tổ chức quản lý với

số vốn điều lệ thấp đứng ra lập các quỹ với số vốn huy động cao hơn vốn điều lệ vài

lần thậm chí đối với các quỹ quy mô lớn, có thể là tới hàng chục lần sẽ khiến công

chúng đầu tư thiếu tin tưởng. vì vậy khi áp dụng mô hình quỹ đầu tư dạng hợp đồng

cần có quy định mức vốn pháp định tối thiểu tương đối lớn đối với các công ty quản

lý quỹ.

Cơ cấu tổ chức của công ty quản lý quỹ:

Trong giai đoạn đầu, các công ty quản lý quỹ nên được tổ chức theo một cơ

cấu đơn giản, gọn nhẹ và hiệu quả. Cụ thể, công ty quản lý quỹ có thể tổ chức thành

67

Page 68: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

ba bộ phận theo đúng các chức năng chính của công ty: bộ phận marketing và dịch

vụ khách hàng, bộ phận quản lý đầu tư và bộ phận quản trị hành chính.

Hoạt động của bộ phận marketing và dịch vụ khách hàng gồm:

+Nghiên cứu thị trường

+Đề xuất và dự thảo các phương án lập các quỹ mới

+Xúc tiến việc thăm dò chào bán các chứng chỉ đầu tư của các quỹ cho

các nhà đầu tư tiềm năng

+Chào bán chứng chỉ quỹ cho các nhà đầu tư

+Thông tin cho các nhà đầu tư

+Giới thiệu các quỹ do công ty quản lý quỹ lập với công chúng đầu tư và

chính sách đầu tư đa dạng của các quỹ khác nhau.

+Quan hệ với các đại lý chào bán

68

Page 69: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

Sơ đồ 3.1: Cơ cấu tổ chức của công ty quản lý quỹ

Hoạt động của bộ phận quản lý quỹ bao gồm:

+Nghiên cứu: môi trường kinh tế nói chung và thị trường tài chính nói

riêng để đánh giá và dự đoán các yếu tố liên quan ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động

của các quỹ đầu tư do công ty quản lý quỹ lập.

+Xác định mục tiêu đầu tư (nhằm vào giá trị hay sự tăng trưởng) cũng

như phương thức đầu tư (chủ động hay thụ động)

+Phân tích đầu tư và khảo sát các tổ chức phát hành chứng khoán mà quỹ

đầu tư vào.

Giám đốc công ty

Marketing và dịch vụ khách

hàng

Phân phối chào bán chứng chỉ

Phát triểnkinh doanh

Dịch vụ khách hàng

Quản lý đầu tư Quản trị hành chính

Theo dõitài khoản

khách hàng

Kế toán

Định giá tài sản và định giá chứng chỉ

Hội đồngđầu tư

Phòng nghiên cứu

Quản lý Quỹ đầu tư A

Quản lý Quỹ đầu tư B

69

Page 70: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

+Lựa chọn ngành, lĩnh vực đầu tư cũng như xác định loại chứng khoán

của tổ chức nào trong ngành đó mà các quỹ sẽ đầu tư vào.

+Quản lý danh mục đầu tư và định giá

+Cân đối lại danh mục đầu tư khi cần thiết

Hoạt động của bộ phận hành chính bao gồm:

+Phục vụ những người đầu tư của các quỹ do công ty quản lý:

oQuản lý các nguồn tiền ra và vào của một quỹ

oGhi bút toán tất cả các khoản thanh toán cho và từ người đầu tư

oMở và theo dõi tài khoản của từng người đầu tư

oTheo dõi việc đăng ký và chuyển quyền sở hữu các chứng chỉ đầu

tư của quỹ.

+Quản trị tài chính quỹ và kế toán:

oĐánh giá các tài sản của quỹ và định giá chứng chỉ quỹ

oPhân phối các khoản thu nhập cho những người đầu tư

oGhi bút toán các khoản đầu tư các quỹ nắm giữ và giao dịch của

các danh mục đầu tư.

oTư vấn và thông báo cho những người điều hành và các quỹ đầu tư

về số tiền hiện có (hoặc không còn) cho việc đầu tư và các giới hạn đầu tư của các

quỹ do họ điều hành.

oHạch toán kế toán cho từng quỹ

oLiên hệ với người thụ uỷ và tổ chức kiểm toán.

Quỹ đầu tư:

Cơ cấu vốn của quỹ: Công ty quản lý quỹ nên lập các quỹ đầu tư dạng

đóng vì quỹ đầu tư dạng đóng có cơ cấu vốn cố định. Khi trình độ đầu tư chuyên

nghiệp còn giới hạn ở một mức độ khiêm tốn, công ty quản lý quỹ sẽ không phải lo

70

Page 71: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

lắng về việc rút vốn của người đầu tư mà chỉ chuyên tâm vào các kỹ năng đầu tư,

nâng cao hiệu quả đầu tư. Đồng thời, quỹ đầu tư dạng đóng sẽ đảm bảo các danh

mục đầu tư có tính ổn định tương đối dài hạn. Vì vậy, việc lựa chọn phát triển các

quỹ đầu tư dạng đóng sẽ là bước đi thích hợp.

Về quy mô vốn huy động tối thiểu: theo quy định hiện hành, mức vốn tối thiểu

để thành lập và tiến hành hoạt động đối với một quỹ đầu tư là 50 tỷ VND34. Quy mô

vốn như vậy là hợp lý đối với các quỹ đầu tư dạng mở. Vì những quỹ này cần lượng

vốn lớn để đảm bảo đầu tư vào các dự án mang tính chất dài hạn, đồng thời đảm

bảo sự đa dạng hoá danh mục đầu tư là một ưu thế đối với các quỹ. Lượng tiền của

quỹ càng lớn, khả năng đa dạng hoá các khoản đầu tư càng cao. Còn đối với những

quỹ dạng đóng, quy mô vốn tối thiểu như vậy là hơi lớn, sẽ khó huy động khi thành

lập quỹ cũng như những nguời điều hành quỹ trong việc tiến hành đầu tư toàn bộ số

tiền của quỹ.

Phát hành chào bán chứng chỉ (bảo lãnh phát hành, những tổ chức làm

đại lý chào bán: ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán)

Để việc huy động vốn thành lập các quỹ đầu tư chứng khoán thành công, ngoài

bộ phận chào bán tại công ty quản lý quỹ như mô hình trên thì việc hình thành

mạng lưới chào bán các chứng chỉ quỹ đầu tư là cần thiết. Công ty quản lý quỹ có

thể lập mạng lưới chào bán của riêng mình. Tuy nhiên, để hình thành được một hệ

thống các chi nhánh bán hàng như vậy là điều không đơn giản. Vấn đề cơ bản đứng

dưới giác độ hiệu quản hoạt động của một doanh nghiệp. Công ty quản lý quỹ sẽ

không có đủ chi phí cũng như đội ngũ nhân sự cần thiết cho hoạt động của các đơn

vị này. Vấn đề này thực tế đã chứng minh qua hoạt động của các công ty chứng

khoán trong thời gian hoạt động vừa qua. Mặc dù các quy định hiện hành cho phép

các công ty chứng khoán được mở chi nhánh, phòng đại diện và cả ký hợp đồng đại

lý nhận lệnh với các pháp nhân ở các địa phương nơi không có trụ sở và chi nhánh

của mình nhưng mạng lưới hoạt động của đa số các công ty chứng khoán còn hạn

hẹp, chủ yếu tập trung tại hai thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.

34 Điều 3 khoản 3, Quyết định 45/2007/QĐ - BTC

71

Page 72: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

Vì vậy, các ngân hàng thương mại, các công ty tài chính, các công ty chứng

khoán có thể làm đại lý chào bán chứng chỉ đầu tư cho quỹ thông qua các hợp đồng

đại lý.

Không ai có thể phủ nhận vai trò của các ngân hàng thương mại đối với các

mạng lưới chi nhánh ở khắp các tỉnh và thành phố sẽ giúp cho các công ty quản lý

quỹ chào bán chứng chỉ quỹ đầu tư cho những người đầu tư quan tâm. Các công ty

tài chính cũng là những đơn vị có thể đảm nhận chức năng đại lý chào bán chứng

chỉ đầu tư cho các quỹ đầu tư chứng khoán thông qua hệ thống các đơn vị thực hiện

huy động vốn của mình.

Các công ty chứng khoán mặc dù có mạng lưới hoạt động còn khiêm tốn

nhưng các công ty chứng khoán có lượng khách hàng tham gia đầu tư chứng khoán

rất lớn. Có thể nói những người đầu tư cần và biết đầu tư vào thị trường chứng

khoán chủ yếu qua các công ty chứng khoán. Vì vậy, các công ty chứng khoán sẽ

tạo thành kênh phân phối gián tiếp cho người đầu tư tiếp cận và tham gia đầu tư vào

thị trường chứng khoán gián tiếp qua các quỹ đầu tư.

Ngoài ra, đối với các quỹ có quy mô lớn, vai trò của các tổ chức bảo lãnh phát

hành sẽ giúp cho việc huy động vốn cho các quỹ dễ thành công hơn. Vì vậy, cần có

tổ chức bảo lãnh phát hành chứng chỉ đầu tư đối với các quỹ có lượng vốn lớn. Để

khuyến khích các tổ chức tín dụng cũng như các định chế tài chính trung gian tham

gia bảo lãnh phát hành chứng chỉ đầu tư hình thành vốn cho các quỹ đầu tư chứng

khoán cần có các quy định thông thoáng hơn đối với các phương thức bảo lãnh phát

hành, tạo ra nhiều phương thức lựa chọn cho tổ chức bảo lãnh, đồng thời đảm bảo

lợi ích của các tổ chức bảo lãnh phát hành tương đương với rủi ro mà họ gánh chịu.

Bảo lãnh phát hành chứng chỉ đầu tư có thể thực hiện dưới hai phương thức: bảo

lãnh cam kết chắc chắn và bảo lãnh cố gắng tối đa.

Chính sách đầu tư của các quỹ:

Mục tiêu và chính sách đầu tư quỹ là do công ty quản lý quỹ chọn cho từng

quỹ. Tuy nhiên các quỹ nên có chính sách hướng hoạt động đầu tư của quỹ vào một

số các công cụ tài chính hoặc tài sản nhất định. Các quỹ đầu tư cổ phiếu sẽ thu hút

72

Page 73: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

được sự quan tâm của người đầu tư kỳ vọng ở mức lợi nhuận cao nên sẵn sàng chấp

nhận mức rủi ro cao. Còn những quỹ đầu tư cân đối, 50% đầu tư vào các công cụ có

thu nhập cố định như trái phiếu và 50% đầu tư vào cổ phiếu sẽ thích hợp với những

người đầu tư có quan điểm đầu tư bảo thủ. Ngoài ra, quỹ đầu tư cũng cần được

khuyến khích đầu tư vào các dự án, các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng.

3.2.2. Các giải pháp cụ thể:

a) Chỉnh sửa và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý:

Các quy định pháp luật hiện nay cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng tới

sự hình thành của các công ty quản lý quỹ cũng như các quỹ đầu tư chứng khoán.

Vì vậy giải pháp nhằm thúc đẩy sự hình thành và phát triển của công ty quản lý quỹ

và quỹ đầu tư chứng khoán hiện nay là chỉnh sửa và bổ sung các văn bản pháp luật

hiện hành điều chỉnh hoạt động của các tổ chức này. Có nhiều ý kiến cho rằng hiện

nay những yếu tố cần thiết được coi là cơ sở để kiểm nghiệm, bổ sung hoặc sửa đổi

những văn bản pháp lý được xây dựng trên cơ sở lý thuyết.

Phương huớng là sửa đổi, bổ sung và nâng cấp các quy định pháp lý, tạo hành

lang ban đầu cho việc hình thành công ty quản lý quỹ và quỹ đầu tư chứng khoán.

Việc bổ sung có thể thực hiện bằng việc nâng cấp một số quy định trong Quy chế tổ

chức và hoạt động của quỹ đầu tư chứng khoán do Chủ tịch Uỷ ban Chứng khoán

nhà nước ký ban hành, nhằm nâng cao hiệu lực pháp lý của một số quy phạm pháp

luật, đồng thời bổ sung một số quy định chưa được đầy đủ. Trên cơ sở các quy định

bổ sung trong Nghị định chính phủ, rà soát và cụ thể hóa các quy định bằng văn bản

hướng dẫn của Uỷ ban. Chẳng hạn:

Về công ty quản lý quỹ: Việc cho phép các công ty quản lý quỹ được đầu

tư một phần vốn và tài sản của mình vào các quỹ như phần chung vốn vào quỹ với

người đầu tư là rất cần thiết đặc biệt trong giai đoạn đầu. Việc công ty quản lý quỹ

tham gia góp vốn hình thành nên quỹ sẽ góp phần tăng niềm tin cho công chúng đầu

tư vì chính bản thân công ty góp vốn vào quỹ nghĩa là công ty sẽ cùng gánh chịu rủi

ro với các nhà đầu tư vào quỹ, đồng thời trách nhiệm trong hoạt động kinh doanh

của bản thân công ty quản lý quỹ đối với quỹ cũng tăng lên. Tuy nhiên, để tránh

73

Page 74: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

mâu thuẫn về lợi ích giữa công ty quản lý quỹ và các quỹ đầu tư, cần nhất thiết phải

có quy định cụ thể về tiêu chuẩn về đạo đức kinh doanh đối với những người điều

hành các quỹ cũng như những người lãnh đạo của công ty quản lý quỹ nói chung.

Hướng dẫn cụ thể cho phép công ty quản lý quỹ chỉ được dùng vốn điều lệ đầu tư

vào các công cụ tài chính có thu nhập cố định, ví dụ trái phiếu chính phủ, các công

cụ của thị trường tiền tệ như tín phiếu kho bạc, các loại thương phiếu, chứng chỉ

tiền gửi. Đồng thời, để tránh tình trạng các công ty quản lý quỹ thao túng hoạt động

của các quỹ, cần thiết phải đưa ra tỷ lệ hoặc giá trị tài sản tối đa công ty quản lý quỹ

được đầu tư vào các quỹ do mình quản lý cũng như quy định cho phép công ty quản

lý quỹ chỉ được mua chứng chỉ đầu tư của các quỹ khi phát hành lần đầu.

Về Ngân hàng giám sát: Vai trò của tổ chức giám sát là đặc biệt quan trọng

đối với các quỹ đầu tư dù theo mô hình nào. Tổ chức giám sát chính là người được

các nhà đầu tư uỷ thác giám sát hoạt động các bên tham gia vào hoạt động của quỹ

nhằm bảo đảm quyền lợi cho họ. Vai trò giám sát cần phải có các quy định cụ thể

hơn về trách nhiệm của người thụ uỷ đi đôi với quyền lợi họ được hưởng.

Vì vậy, chức năng bảo quản tài sản và giám sát hoạt động đầu tư nếu do cùng

một tổ chức đảm nhiệm cần phải tách bạch. Mối quan hệ tín thác theo nghĩa đầy đủ

thường xuyên được thực hiện tại bộ phận tách biệt của cùng một ngân hàng để cô

lập việc xung đột lợi ích có thể nảy sinh khi thực hiện hoạt động tín thác và lưu ký

đối với cùng một khách hàng. Ngân hàng giám sát có thể cùng đảm nhận chức năng

bảo quản và giám sát nhưng phải tổ chức thành hai bộ phận bảo quản tài sản và

giám sát tách biệt nhau. Bộ phận giám sát phải đảm nhận chức năng hoàn toàn độc

lập, được hưởng quyền lợi riêng và chịu trách nhiệm giám sát hoạt động quỹ thay

mặt các quyền lợi của những người đầu tư vào quỹ. Vì vậy, bộ phận giám sát được

Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước chấp thuận trên cơ sở một số tiêu chí và chịu trách

nhiệm báo cáo với các cơ quan quản lý Nhà nước về các hoạt động liên quan tới

quỹ. Cũng tương tự như đối với các tổ chức kiểm toán, Uỷ ban Chứng khoán Nhà

nước có thể lựa chọn và ra chấp thuận cho một số ngân hàng làm chức năng giám

74

Page 75: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

sát. Các công ty quản lý quỹ được lựa chọn ngân hàng giám sát từng quỹ do mình

quản lý trong số các ngân hàng được chấp thuận.

Do đó, nhà nước cần bổ sung và làm rõ các quy định liên quan tới trách nhiệm

và quyền lợi của tổ chức giám sát:

+Quy định các tiêu chí về vốn, tình hình tài chính cũng như tiềm năng đối

với các ngân hàng đồng thời đảm nhận chức năng bảo quản và giám sát.

+Quy định việc tách bạch về tổ chức giữa hoạt động giám sát và hoạt động

bảo quản tài sản của quỹ cũng như tách bạch giữa chi phí cho việc giám sát và chi

phí bảo quản tài sản của quỹ. Chi phí bảo quản tài sản có thể thấp nhưng chi phí

giám sát có thể ở mức cao hơn rất nhiều để tương đương với trách nhiệm của người

giám sát.

+Tổ chức giám sát phải thực hiện chế độ báo cáo với Uỷ ban Chứng khoán

Nhà nước về hoạt động của các quỹ mà mình giữ vai trò thụ uỷ.

+Các thông tin mà tổ chức giám sát được tiếp cận trực tiếp để thực hiện

chức năng của mình.

+Khi một công ty quản lý quỹ muốn thay đổi người giám sát, công ty phải

tuyên bố rõ với cơ quan quản lý Nhà nước là Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước các lý

do chính đáng trong việc thay đổi tổ chức giám sát.

Bổ sung các quy định về trách nhiệm bồi thường vật chất: Các tổ chức

tham gia hoạt động của quỹ, công ty quản lý quỹ và ngân hàng giám sát phải chịu

trách nhiệm bằng tài sản của mình với các sai sót và hành vi gây thiệt hại đến quyền

lợi của người đầu tư của mình. Các quy định này sẽ đưa hoạt động của công ty quản

lý quỹ và tổ chức giám sát/bảo quản vào cùng với nhau nhưng phân định trách

nhiệm riêng rẽ với các nhà đầu tư của quỹ đối với các hành động bất chính có thể

gây thiệt hại đến quyền lợi của nhà đầu tư. Điều này sẽ tạo cơ hội cho cả hai bên

trong việc áp dụng chính sách đối với từng bên và vận hành quỹ một cách hợp lý.

Hiện nay các quyền liên quan đến người thụ hưởng (người hưởng lợi của

quỹ hay người đầu tư trong các văn bản hiện hành) đều chưa được đề cập đầy đủ

75

Page 76: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

trong các văn bản liên quan. Vì vậy, cần có quy định cụ thể về việc tham gia vào ký

kết hợp đồng tín thác của người thụ hưởng, quyền truy đòi đối với tổ chức giám sát

nếu quyền lợi của họ bị thiệt hại do sự tắc trách đối với tài sản tín thác của tổ chức

trên.

Quy định thống nhất phương thức định giá các tài sản của quỹ: Các quy

định này sẽ là cơ sở để xác định giá trị tài sản ròng của quỹ. Các bên tham gia vào

định giá tài sản của quỹ có một phương thức thống nhất khi thực thi công việc,

tránh việc định giá quá cao hoặc quá thấp so với giá trị thực của tài sản, dẫn đến giá

trị tài sản ròng không được phản ánh đúng hiệu quả đầu tư thực của quỹ. Đặc biệt

đối với một số loại tài sản như chứng khoán không niêm yết hoặc bất động sản cần

đưa ra nguyên tắc chung rất cụ thể, có thể là một số tiêu chuẩn hoặc tiêu chí cụ thể

về cách thức định giá các loại tài sản này để tránh sự bất đồng trong việc định giá

tài sản, đồng thời, các tổ chức giám sát cũng như tổ chức kiểm toán độc lập có căn

cứ pháp lý giám sát hoặc xác nhận việc định giá tài sản. Ngoài ra, các quy định về

nguyên tắc của pháp luật cũng tránh được tình trạng cùng một loại chứng khoán

nhưng được định giá khác nhau giữa các quỹ thuộc các công ty quản lý khác nhau

với sự xác nhận của tổ chức giám sát và kiểm toán khác nhau.

Thực tế, việc định giá các tài sản nói chung, nhất là đối với chứng khoán

không niêm yết gây nảy sinh nhiều vấn đề và vướng mắc khi áp dụng vào thực tế,

ngay cả các thị trường có tính thanh khoản cao, mặc dù các quy định về mặt lý

thuyết tương đối hoàn hảo. Đặc biệt, đối với thị truờng Việt Nam, thị trường giao

dịch cũng như thông tin về các chứng khoán không niêm yết bao gồm cổ phiếu của

các công ty cổ phần và các công ty chuyển hình thức sở hữu từ doanh nghiệp Nhà

nước sang hình thức công ty cổ phần, một trong các sản phẩm đầu tư mà các quỹ sẽ

đầu tư, còn hạn hẹp và khiêm tốn.

Ngoài ra, vai trò của tổ chức kiểm toán độc lập cần được quy định cụ thể trong

các văn bản hướng dẫn. Tổ chức kiểm toán không chỉ tham gia vào đánh giá các

báo cáo tài chính của bản thân công ty quản lý quỹ cũng như từng quỹ, mà còn tham

76

Page 77: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

gia vào thẩm định việc định giá tài sản của quỹ, một tác nghiệp quan trọng xác định

hiệu quả hoạt động của các quỹ đầu tư chứng khoán.

Khi nền kinh tế đã phát triển ở một mức độ nhất định, đời sống của công

chúng được ổn định và có tích luỹ, nhu cầu đầu tư trong dân chúng cũng tăng lên.

Đồng thời với nhu cầu đó là việc phát triển các hoạt động uỷ thác đầu tư hoặc uỷ

thác quản lý tài sản cho các tổ chức chuyên nghiệp để đảm bảo khả năng sinh lời

cao nhất của đồng tiền. Dưới giác độ vĩ mô, các tổ chức quản lý tài sản sẽ góp phần

làm cho các nguồn vốn được huy động dưới các phương thức khác nhau được chu

chuyển nhanh chóng và linh hoạt giữa các khu vực kinh tế. Lúc đó, vai trò của các

tổ chức quản lý tài sản đã được Nhà nước, các tổ chức kinh tế cũng như công chúng

đầu tư thừa nhận, quy định pháp luật đối với hoạt động của các công ty quản lý quỹ

hay các tổ chức quản lý tài sản chuyên nghiệp và các quỹ đầu tư có thể nâng cấp

thành một bộ luật riêng. Bên cạnh Luật Chứng khoán nhằm phát huy hiệu quả hoạt

động của tổ chức này đối với nền kinh tế.

Đảm bảo tính ổn định của các văn bản pháp luật cũng như tạo sự an tâm về

mặt tâm lý đối với các đối tượng tham gia vào hoạt động của quỹ.

Tạo sự thông thoáng về thủ tục hành chính nhằm rút ngắn thời gian cấp

phép hoạt động cho các công ty quản lý quỹ.

b) Xây dựng hệ thống kế toán, cơ chế quản lý tài chính:

Cũng như hoạt động kinh doanh chứng khoán, hoạt động quản lý quỹ là loại

hình kinh doanh mới tại Việt Nam. Về cơ bản loại hình kinh doanh này khác biệt rất

nhiều so với công ty chứng khoán. Thực chất, công ty chứng khoán cũng là một loại

hình doanh nghiệp như bất kỳ một doanh nghiệp nào khác, chỉ khác biệt ở hàng hoá

kinh doanh là các công cụ tài chính và chứng chỉ có giá. Đối với công ty quản lý

quỹ, ngoài việc hạch toán kinh doanh cho bản thân công ty, còn phải hạch toán hoạt

động đầu tư của từng quỹ do công ty quản lý và các quỹ này không phải là một

pháp nhân độc lập. Ngoài ra, hiện nay vẫn chưa có một hệ thống chuẩn mực đầy đủ

về kế toán, kiểm toán, báo cáo tài chính và yêu cầu công bố thông tin của các quỹ

đầu tư và công ty quản lý quỹ. Có những sự khác nhau đáng chú ý trong các khoản

77

Page 78: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

dự phòng cho nợ quá hạn, cách làm báo cáo tài chính hợp nhất, cách đánh giá tài

sản, tính toán khấu hao…Vì vậy, đồng thời với các giải pháp liên quan tới khung

pháp lý cũng như đào tạo nhân sự là việc sớm nghiên cứu để đưa ra chế độ kế toán

cũng như chế độ quản lý tài chính của công ty quản lý quỹ. Chế độ kế toán của công

ty quản lý quỹ cần có sự tham khảo chế độ kế toán của các nước khác trong cùng

khu vực như Thái Lan, Trung Quốc,… hiện đang áp dụng mô hình tín thác như Việt

Nam.

c) Đào tạo các nhà phân tích và quản lý đầu tư chuyên nghiệp:

Một trong các giải pháp trước mắt và mang tính cấp thiết nhất theo tôi đó là

đào tạo nhân sự cho các công ty quản lý quỹ. Kinh nghiệm từ hoạt động của các tổ

chức kinh tế nói chung cũng như các công ty chứng khoán là những định chế tài

chính trung gian tham gia hoạt động đầu tiên trên thị trường chứng khoán, yếu tố

“con người” được coi là một trong những nhân tố quan trọng, góp phần không nhỏ

vào thành công trong hoạt động kinh doanh của công ty. Đặc biệt đối với các công

ty quản lý quỹ, yếu tố con người mà cụ thể là đội ngũ những người điều hành quỹ là

một nhân tố cơ bản quyết định sự thành công của bản thân công ty quản lý quỹ cũng

như hiệu quả hoạt động kinh doanh của các quỹ. Vấn đề này đã và đang được các tổ

chức tham gia kinh doanh chứng khoán nói chung và các tổ chức có dự kiến thành

lập công ty quản lý quỹ nhận thức và đặt lên vị trí quan trọng hàng đầu trong các

công việc xúc tiến chuẩn bị cho loại hình kinh doanh mới.

Tuy nhiên, dưới giác độ của cơ quan quản lý nhà nước với vai trò hỗ trợ cho

việc hình thành các tổ chức trung gian trên thị trường chứng khoán, các cơ quan này

cần có phương hướng trước mắt cũng như các định hướng dài hạn cho công tác đào

tạo để có được đội ngũ nhân sự chất lượng cao cho thị trường chứng khoán nói

chung và công ty quản lý quỹ nói riêng. Trung tâm đào tạo và nghiên cứu nghiệp vụ

chứng khoán trực thuộc Uỷ ban Chứng khoán nhà nước là nơi thực hiện việc đào

tạo đội ngũ cán bộ cho thị trường chứng khoán Việt Nam. Trung tâm chính thức đi

vào hoạt động từ tháng 3 năm 1998, đến nay đã tiến hành đào tạo được một khối

lượng đội ngũ nhân sự đáng kể cho thị trường. Tuy nhiên, hiện ở Trung tâm chỉ mới

78

Page 79: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

có 3 khoá đào tạo: Cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán, Luật chứng

khoán, Phân tích và đầu tư chứng khoán. Những khoá học này mới chỉ cung cấp cho

học viên những kiến thức tổng quan nhất về thị trường chứng khoán chứ chưa có

những kiến thức chuyên sâu cho từng lĩnh vực và từng hoạt động kinh doanh trên

thị trường chứng khoán. Vì vậy, Trung tâm cần thực hiện một số giải pháp để nâng

cao chất lượng đào tạo như:

Cần gấp rút soạn thảo các chương trình đào tạo chuyên sâu dành riêng

cho những người điều hành quỹ.

Củng cố và nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, đặc biệt chú trọng

mời các chuyên gia, trong và ngoài nước, đã tham gia hoạt động thực tiễn trên thị

trường chứng khoán tham gia giảng dạy.

Tổ chức các khoá học thực hành tại các công ty quản lý quỹ để giúp các

học viên có điều kiện thực hành các kiến thức đã được giảng dạy trong thực tế.

Liên kết đào tạo với các tổ chức đào tạo nước ngoài nhằm tạo điều kiện

cho học viên có cơ hội tiếp thu những kinh nghiệm cũng như những chương trình

đào tạo tiên tiến và cập nhật trên thế giới. Đồng thời tiến hành cấp chứng chỉ quốc

tế cho học viên.

d) Có các chính sách nhằm đa dạng hoá hàng hoá trên thị trường chứng

khoán Việt Nam:

Các cơ quan nhà nước cần nhanh chóng thúc đẩy việc niêm yết chứng khoán

của các công ty cổ phần hoá đủ tiêu chuẩn niêm yết trên thị trường chứng khoán,

gắn việc cổ phần hoá với việc niêm yết trên thị trường chứng khoán, đa dạng hoá và

nâng cao tỷ trọng của công ty lớn niêm yết. Bên cạnh đó, Chính phủ, các doanh

nghiệp và các quỹ đầu tư cũng cần đẩy mạnh việc phát hành các trái phiếu Chính

phủ, trái phiếu Doanh nghiệp và các chứng chỉ Quỹ đầu tư. Điều này nhằm làm tăng

khối lượng hàng hoá được giao dịch trên thị trường, tạo điều kiện để các quỹ đầu tư

và công ty quản lý quỹ thực hiện tốt việc đa dạng hoá danh mục đầu tư của mình.

79

Page 80: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

Thị trường OTC là cơ hội tốt để tăng cung chứng khoán cho các nhà đầu tư,

tạo điều kiện cho các công ty chưa đủ điều kiện niêm yết có cơ hội tiếp cận với thị

trường chứng khoán. Vì vậy việc phát triển thị trường OTC sẽ giúp hàng hoá trên

thị trường chứng khoán đa dạng hơn cũng như giúp tăng cung hàng hoá trên thị

trường, tạo ra nhiều sự lựa chọn hơn cho các nhà đầu tư trên thị trường. Việc phát

triển thị trường OTC đồng thời cũng giúp nâng cao kinh nghiệm của các thành viên

tham gia thị trường, mức độ quan tâm và nhận thức của công chúng. Điều này giúp

tăng trình độ đầu tư của các nhà đầu tư, tăng cầu hàng hoá trên thị trường góp phần

giúp các quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ dễ dàng hơn trong việc huy động vốn và

mở rộng quy mô hoạt động.

Uỷ ban chứng khoán cần có các quy định thông thoáng tạo môi trường pháp lý

tốt hơn cho việc ra đời và phát triển của các công cụ tài chính mới như chứng khoán

chuyển đổi, các chứng khoán phái sinh,… góp phần làm đa dạng hoá sản phẩm trên

thị trường chứng khoán, thu hút nhiều hơn sự quan tâm của các nhà đầu tư. Với việc

ra đời và phát triển của các công cụ tài chính mới trên thị trường chứng khoán như

vậy sẽ giúp các công ty quản lý quỹ và quỹ đầu tư thực hiện tốt hơn việc đa dạng

hoá danh mục đầu tư, giảm thiểu rùi ro và hoạt động hiệu quả hơn.

Uỷ ban chứng khoán cũng cần có các quy định và sự kiểm soát chặt chẽ đối

với việc công bố thông tin trên thị trường chứng khoán, đảm bảo tính minh bạch của

các thông tin. Đặc biệt trong giai đoạn thị trường chứng khoán đang biến động thất

thường như hiện nay, các nhà đầu tư đang rút vốn ra khỏi thị trường để đầu tư vào

các cơ hội chắc chắn hơn. Việc đảm bảo tính minh bạch của các thông tin sẽ đảm

bảo quyền lợi và tạo tâm lý an tâm cho các nhà đầu tư trên thị trường cũng như thu

hút thêm các nhà đầu tư mới tham gia thị trường. Điều này sẽ giúp các quỹ đầu tư

và công ty quản lý quỹ bớt khó khăn trong việc huy động vốn, phát hành chứng chỉ

quỹ và mở rộng quy mô vốn và quy mô hoạt động.

e) Có chính sách ưu đãi cụ thể cho các đối tượng tham gia hoạt động

quản lý quỹ:

80

Page 81: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

Nhà nước cần ban hành các chính sách ưu đãi về thuế để khuyến khích và thúc

đẩy ngành quỹ đầu tư phát triển. Cụ thể:

Có chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế VAT đối với công

ty quản lý quỹ và bản thân từng quỹ đầu tư.

Không đánh thuế thu nhập đối với những người đầu tư tham gia đầu tư

thông qua việc mua các chứng chỉ đầu tư của quỹ.

Có cơ chế ưu đãi thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài đối với người đầu tư

nước ngoài.

KẾT LUẬN

Việc phát triển một thị trường chứng khoán ổn định, lành mạnh và hoạt động

hiệu quả không thể thiếu được sự tham gia hoạt động của các tổ chức tài chính

trung gian tham gia trên thị trường, đặc biệt là các quỹ đầu tư tập thể thông qua các

tổ chức quản lý đầu tư là các công ty quản lý quỹ. Với vai trò song hành, vừa là tổ

chức phát hành, vừa là nhà đầu tư có tổ chức, các quỹ đầu tư chứng khoán sẽ đóng

góp không nhỏ vào việc kích hoạt giao dịch trên cả thị trường sơ cấp cũng như thị

trường thứ cấp.

81

Page 82: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

Thị trường chứng khoán tại Việt Nam qua hơn 8 năm hoạt động với nhiều biến

động đã cho thấy sự thiếu vắng vai trò bình ổn của các nhà tạo lập thị trường hay

các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp mà điển hình là các quỹ đầu tư. Vì vậy, sự hình

thành và phát triển của quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ trên thị trường chứng

khoán Việt Nam đóng vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của thị trường

chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn tới.

Những nội dung cơ bản về tổ chức và hoạt động của các quỹ đầu tư và các

công ty quản lý quỹ mang tính lý thuyết đã được tổng hợp trong đề tài. Đề tài cũng

đã chỉ ra một số nhân tố cơ bản về vĩ mô và vi mô ảnh hưởng tới việc hình thành và

phát triển của quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ trên thị trường chứng khoán Việt

Nam như: môi trường kinh tế và môi trường pháp lý; sự phát triển của thị trường

chứng khoán, khả năng gia nhập ngành, yếu tố tâm lý người đầu tư, các tổ chức

định mức tín nhiệm. Ngoài ra, qua thực trạng hoạt động của các công ty quản lý quỹ

và quỹ đầu tư trên thị trường chứng khoán cũng cho thấy nhiều hạn chế, đòi hỏi

phải có các biện pháp nhằm khắc phục để tạo điều kiện thuận lợi cho sự hình thành

và phát triển của các quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ trong thời gian tới.

Dựa trên sự đánh giá về các tồn tại ảnh hưởng tới việc hình thành và phát triển

quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ trên thị trường chứng khoán Việt Nam cũng như

những hạn chế rút ra được qua thực trạng hoạt động của các công ty quản lý quỹ và

quỹ đầu tư chứng khoán thời gian qua, khoá luận đã đề xuất một số giải pháp đối

với nhà nước và các quỹ đầu tư cũng như công ty quản lý quỹ nhằm thúc đẩy sự

hình thành và phát triển của các quỹ đầu tư trong tương lai như: đề xuất về mô hình,

về hệ thống pháp lý, về việc đào tạo nhân sự, về hệ thống kế toán và các chính sách

ưu đãi khác mà nhà nước nên tiến hành.

Với các kết luận rút ra trên đây, khoá luận về “Sự hình thành và phát triển của

quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ trên thị trường chứng khoán Việt Nam” hi vọng

có thể góp một phần nhỏ nhằm thúc đẩy sự hình thành và phát triển của quỹ đầu tư

và công ty quản lý quỹ chứng khoán trong tương lai.

82

Page 83: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

Tài liệu tham khảo

1. Đào Lê Minh (2002), Giáo trình Những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị

trường chứng khoán, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội

2. Hoàng Minh (2006), Chứng khoán nhập môn, Nhà xuất bản Lao động – xã hội,

Hà Nội

3. Lê Thị Mai Linh (2003), Giáo trình Phân tích và đầu tư chứng khoán, Nhà xuất

bản Chính trị quốc gia, Hà Nội

83

Page 84: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

4. Lê Văn Tư (2005), Thị trường chứng khoán, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội

5. Lý Vinh Quang (2003), Chứng khoán và phân tích đầu tư chứng khoán, Nhà

xuất bản Thống kê, Hà Nội

6. Luật Chứng khoán Việt Nam năm 2006

7. Nguyễn Đỗ (2008), Chứng khoán - Đầu tư và quản lý, Nhà xuất bản Lao động –

xã hội, Hà Nội

8. Nguyễn Minh (2007), Tìm hiểu về Chứng khoán và thị trường chứng khoán,

Nhà xuất bản Lao động – xã hội, Hà Nội

9. Nghị định 144/2003/NĐ-CP ban hành ngày 28/11/2003 về Chứng khoán và thị

trường chứng khoán.

10. Quyết định 35/2007/ QĐ – BTC về Công ty quản lý quỹ

11. Quyết định 45/2007/ QĐ – BTC về Quỹ đầu tư

12. Thanh Lâm (2007), Đầu tư chứng khoán hiểu biết để thành công, Nhà xuất bản

Văn hoá – thông tin, Hà Nội

13. Trần Quốc Tuấn (2006), Cẩm nang đầu tư chứng khoán, Nhà xuất bản Tài

chính, Hà Nội

14. http://www.giaothongvantai.com.vn/Desktop.aspx/News/Cophan-hoa-

chungkhoan/SO_TAY_KIEN_THUC-Cong_ty_quan_ly_quy/

15. http://www.vietime.com/news/index.aspx?n/568/9496

16. http://kinhdoanhgioi.com/index.php?topic=549.0

17. http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=414&idmid=4&ItemID=1337

18. http://www.vnexpress.net/GL/Kinh-doanh/2008/11/3BA08093/

19. http://vietbao.vn/Kinh-te/Lai-suat-tien-gui-tiet-kiem-tiep-tuc-giam/

10830393/87/

20. http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=230&ItemID=6900

84

Page 85: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

21. http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=507&ItemID=8217

22. http://vietnamnet.vn/60nam/2006/02/538850/

23. http://vietbao.vn/Kinh-te/Bai-6-Thi-truong-chung-khoan-va-quy-dau-tu-o-Viet-

Nam/45201257/87/

24. http://www.vinafund.com/VFVN/index.php?l1=357&l2=361

25. http://www.vinafund.com/VFVN/index.php?l1=358&l2=366

26. Báo cáo thường niên năm 2008 của VF1,

http://www.vinafund.com/VFVN/index.php?l1=359&l2=371&l3=413&year=2008

27. http://prudentialfund.com.vn/vn/company_profile.php

28. http://staging.prudentialfund.com.vn/file/PRUBF1/PRUBF1%2028%20Feb

%202009%20V.pdf

29. http://vmfc.vn/content/view/1013/31/

30. http://cafef.vn/2008112502187257CA31/tri-gia-trai-phieu-niem-yet-da-chiem-

11-gdp.chn

31. http://www2.vietnamnet.vn/kinhte/2007/08/729726/

32. http://www.hpsc.com.vn/news/news2detail.aspx?newsid=6003&grpid=2

33. http://www.hids.hochiminhcity.gov.vn/xemtin.asp?

idcha=1677&cap=3&id=3852

34. http://vietbao.vn/Kinh-te/Nhieu-DN-chua-co-y-dinh-niem-yet/45142712/91/

Phụ lục1

85

Page 86: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

Sơ đồ 1: Cơ chế hoạt động của quỹ đầu tư dạng công ty

Phụ lục 2

Ngân hàng bảo quản tài sản

Tổ chức quản lý đầu tư

Hội đồng quản

trị

Đại hội

đồng cổ

đôngCơ quan quản trị hành chính

Công ty bán

Các cổ đông (người đầu tư)

Những người sáng lập

Công ty đầu tư chứng khoán

Uỷ quyền lưu ký tài sản cho công ty khác

Uỷ quyền việc quản lý tài sản

đầu tư cho công ty

khác

Giao việc hành chính quản trị cho

công ty khác

Cổ tức và tiền mua lại chứng chỉ hưởng lợi

Tiền được trả theo khoản đóng góp

Thanh toán cổ tức và tiền mua lại chứng chỉ

Đóng góp tiền

86

Page 87: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

Sơ đồ 2: Cơ chế hoạt động của quỹ đầu tư dạng hợp đồng

Người được tín thác(ngân hàng tín thác)

Người tín thác(công ty quản lý)

Công ty bánNgười thu hưởng(người đầu tư)

Hợp đồng tín thác

Khoản tiền đặt mua

Phân bố lợi nhuận và thanh toán các khoản tiền mua lại

Phân bố lợi nhuân và thanh toán các khoản mua lại chững chỉ đầu tư

Phân bố lợi nhuân và thanh toán các khoản tiền mua lại chứng chỉ đầu tư

Uỷ quyền phân bố lợi nhuân và thanh toán các khoản tiền mua lại chứng chỉ đầu tư

Chỉ dẫn đầu tư

Giao lợi nhuận được chia và các khoản tiền mua lại chứng chỉ đầu tư

Khoản tiền đặt mua(trong trường hợp bán thẳng)

87

Page 88: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

Phụ lục 3

Sơ đồ 3: Các bước của quy trình đầu tư

Nghiên cứu đầu tư

Phân tích rủi ro /lợi nhuận

Mục tiêu đầu tư

Phân bổ tài sản

Lựa chọn chứng khoán

Xây dựngdanh mục đầu tư

Đầu ra

Đầu vào

88

Page 89: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

Phụ lục 4

Sơ đồ 4: Quy trình ra quyết định đầu tư trong tổ chức quản lý quỹ.

Mục tiêu đầu tư của quỹ

Hội đồng đầu tư ra quyết định chiến lược đầu tư

Người điều hành quỹ phác thảo danh mục đầu tư

Danh mục đầu tư

Thị trường chứng khoán

Thông tin điều tra thị trường

Thông tin từ phòng nghiên

cứu

89

Page 90: Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương

Phụ lục 5

Thông tin chi tiết về Quỹ đầu tư VF1:

Phụ lục 6

Cơ cấu danh mục đầu tư của quỹ VF1 năm 2008:

(Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2008 của Quỹ đầu tư VF1)

Phụ lục 7

Phân bổ tài sản theo ngành:

Danh mục đầu tư 5 cổ phiếu có tỷ lệ cao nhất:

( Nguồn: Thông tin quỹ PRUBF 1 tháng 2/2009)

90