Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam
-
Upload
thanh-hoa -
Category
Engineering
-
view
2.563 -
download
13
Transcript of Hoạtđộng của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
LỜI MỞ ĐẦU
Thị trường chứng khoán Việt Nam hình thành và chính thức đi vào hoạt động
từ năm 2000. Trong thời gian hoạt động, thị trường chứng khoán Việt Nam đã
chứng tỏ là một kênh tập trung và phân phối các nguồn vốn của nền kinh tế một
cách hiệu quả, tập trung các nguồn tiết kiệm để phân phối lại cho những ai muốn sử
dụng các nguồn tiết kiệm đó theo giá mà người sử dụng sẵn sàng trả và theo phán
đoán của thị trường về khả năng sinh lời từ các dự án của người sử dụng. Để làm
được điều này phải kể tới vai trò của các định chế tài chính trung gian tham gia hoạt
động kinh doanh trên thị trường chứng khoán. Các định chế này có thể là các công
ty môi giới và kinh doanh chứng khoán. Họ giữ vai trò cầu nối trung gian giữa tổ
chức cần vốn và những người cung cấp vốn, tham gia vào việc huy động các nguồn
tài chính từ thị trường tiền tệ và thị trường tài chính để đáp ứng nhu cầu về tài trợ
cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp và các tổ chức phi chính phủ. Các
định chế này cũng có thể là các tổ chức giữ vai trò của người nhận tiền huy động từ
công chúng và thay mặt họ để thực hiện việc đầu tư vào các công cụ tài chính trên
thị trường chứng khoán. Người ta thường biết đến các tổ chức này với tên là các
quỹ đầu tư tập thể.
Các quỹ đầu tư tập thể được hình thành từ cuối thể kỷ 19 tại các thị trường
chứng khoán có lịch sử phát triển lâu đời. Các quỹ này với vai trò là các nhà đầu tư
có tổ chức tham gia đầu tư vào thị trường chứng khoán và góp phần đáng kể vào
việc bình ổn hoạt động của thị trường. Thị trường chứng khoán Việt Nam mặc dù
đã đi vào hoạt động được một thời gian nhưng tham gia đầu tư trên thị trường hiện
nay vẫn chủ yếu là các nhà đầu tư cá nhân. Sự thiếu vắng vai trò của các nhà đầu tư
có tổ chức, đặc biệt là các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp như các quỹ tập thể, một
định chế đầu tư quan trọng và điển hình trên thị trường chứng khoán, bộc lộ qua các
đợt biến động lớn trên thị trường chứng khoán trong thời gian qua cho thấy sự thiếu
ổn định của thị trường chứng khoán Việt Nam.
Nếu thị trường chứng khoán và các công ty chứng khoán là các khái niệm đã
tương đối quen thuộc đối với công chúng đầu tư tại Việt Nam, quỹ đầu tư chứng
1
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
khoán dường như còn là khái niệm mới mẻ với các nhà đầu tư. Vì vậy, đề tài nghiên
cứu này của em nhằm giúp cho mọi người hiểu rõ hơn về sự hình thành và phát
triển của quỹ đầu tư chứng khoán cũng như hoạt động của quỹ trên thị trường
chứng khoán Việt Nam.
Trong đề tài này, em giới hạn phạm vi nghiên cứu đề tài chỉ trong các quỹ đầu
tư tập thể thực hiện việc huy động vốn hình thành quỹ và hoạt động đầu tư tại Việt
Nam, còn được gọi trong đề tài với tên là quỹ đầu tư chứng khoán đối với hình thái
quỹ này tại Việt Nam. Ngoài những vấn đề cơ bản liên quan tới tổ chức và hoạt
động của các quỹ đầu tư tập thể, của công ty quản lý quỹ cũng như mối quan hệ
trong hoạt động của quỹ với công ty quản lý quỹ và các tổ chức giám sát cũng như
bảo quản tài sản của quỹ, đề tài sẽ tập trung vào vào đánh giá sự cần thiết cũng như
các yếu tố tồn tại ảnh hưởng tới việc hình thành các quỹ đầu tư tập thể, làm cơ sở
đưa ra các đề xuất nhằm thúc đẩy sự hình thành quỹ đầu tư chứng khoán cũng như
các công ty quản lý quỹ chuyên nghiệp, góp phần vào sự phát triển của thị trường
chứng khoán Việt Nam.
Nhiệm vụ nghiên cứu của khoán luận là tìm hiểu những vấn đề lý thuyết có
liên quan tới sự hình thành và phát triển của quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ,
phân tích các nhân tố ảnh hưởng và thực trạng hoạt động của quỹ đầu tư và công ty
quản lý quỹ; và cuối cùng là đánh giá và kết luận. Và phương pháp nghiên cứu
được sử dụng trong khoá luận là phương pháp duy vật biện chứng.
Nội dung nghiên cứu đề tài của em có kết cấu chính gồm ba phần:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về tổ chức và hoạt động của quỹ đầu tư và công ty
quản lý quỹ
Chương II: Sự hình thành và phát triển của quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ trên
thị trường chứng khoán Việt Nam
Chương III: Một số định hướng và giải pháp phát triển các quỹ đầu tư và công ty
quản lý quỹ trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
2
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
Do thời gian nghiên cứu không được nhiều và trình độ nhận thức cũng như khả
năng của em có hạn nên bài nghiên cứu của em không tránh khỏi những sai sót và
hạn chế, em rất mong nhận được sự nhận xét và đóng góp ý kiến quý báu của các
thầy cô để khoá luận của em được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của giáo viên TS. Đào Thị Thu
Giang đã giúp em hoàn thành việc nghiên cứu và hoàn thành bài khoá luận này.
3
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
Chương I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA QUỸ ĐẦU TƯ VÀ CÔNG TY QUẢN LÝ QUỸ
1.1. Khái niệm và vai trò của quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ:
1.1.1 Khái niệm về quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ:
Trong các tài liệu khác nhau cũng như trong các văn bản pháp lý của các nước
có ngành quỹ đầu tư phát triển, người ta đưa ra nhiều các định nghĩa về quỹ đầu tư
tập thể với phạm vi khái niệm rộng hẹp cũng như các tiêu chí khác nhau.
Các quỹ đầu tư tại Mỹ được định nghĩa là các tổ chức tài chính phi ngân hàng
thu nhận tiền từ một số lượng lớn các nhà đầu tư và tiến hành đầu tư số vốn đó vào
các tài sản chính có tính thanh khoản dưới dạng tiền tệ và các công cụ của thị
trường tài chính.1
Các quỹ đầu tư tập thể tại Anh được coi là mọi hình thái về tài sản hoặc bất kỳ
loại nào với mục đích là cho phép những người tham gia vào các hình thái đó được
tham gia hoặc thu lợi nhuận phát sinh từ việc mua, giữ, quản lý hoặc xử lý tài sản
hoặc tiền được thanh toán từ lợi nhuân hoặc thu nhập đó.2
Tại Thái Lan, việc quản lý một quỹ đầu tư tập thể có nghĩa là việc quản lý đầu
tư theo một dự án quỹ tập thể bằng cách phát hành các đơn vị đầu tư của mỗi dự án
bán cho công chúng và đầu tư tiền thu được vào chứng khoán hoặc các tài sản khác
hoặc đầu tư thu lợi nhuận bằng các cách khác.3
Các quỹ tín thác theo mô hình của Nhật Bản được coi là một sản phẩm đuợc
hình thành nhằm đầu tư số tiền tập hợp được từ một số nhà đầu tư vào chứng khoán
(cổ phiếu và trái phiếu) chủ yếu tập trung dưới sự quản lý của những người không
1 Tr 139, Chứng khoán nhập môn, NXB Lao động – xã hội, năm 2006, HN2 Tr 56, Chứng khoán - Đầu tư và quản lý, NXB Lao động – xã hội, 2008, HN3 Tr 34, Tìm hiểu về Chứng khoán và Thị trường chứng khoán, NXB Lao động – xã hội, HN, 2007
4
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
phải là người đầu tư và phân phối lợi nhuận thu được cho các nhà đầu tư theo tỷ lệ
vốn mà họ đóng góp vào quỹ.4
Theo định nghĩa của Trung quốc, quỹ đầu tư tập thể là một phương pháp đầu
tư tập thể vào chứng khoán, chủ yếu bằng việc thu hút vốn của người đầu tư thông
qua phát hành các đơn vị quỹ. Vốn được uỷ thác cho các tổ chức giám sát quỹ và
được những người điều hành quỹ quản lý và đầu tư vào các công cụ tài chính như
cổ phiếu và trái phiếu.5
Và Luật chứng khoán Việt Nam cũng nêu rõ: Quỹ đầu tư chứng khoán là quỹ
hình thành từ vốn góp của nhà đầu tư với mục đích kiếm lợi nhuận từ việc đầu tư
vào chứng khoán hoặc các dạng tài sản đầu tư khác, kể cả bất động sản, trong đó
nhà đầu tư không có quyền kiểm soát hàng ngày đối với việc ra quyết định đầu tư
của quỹ. 6
Từ các định nghĩa trên có thể rút ra định nghĩa chung cho quỹ đầu tư như sau:
Quỹ đầu tư được coi là một phương tiện đầu tư tập thể, là một tập hợp tiền của các
nhà đầu tư có cùng mục đích và được uỷ thác cho các nhà quản lý đầu tư chuyên
nghiệp tiến hành đầu tư để đạt được các mục tiêu của những người tham gia góp
vốn.
Có thể thấy rõ là các quỹ đầu tư tập thể tạo vốn bằng cách phát hành rộng rãi
ra công chúng. Những người đầu tư vào các quỹ có thể là các cá nhân hoặc các tổ
chức kinh tế nhưng đa phần là các nhà đầu tư riêng lẻ ít am hiểu về thị trường
chứng khoán. Vì vậy, hoạt động của các quỹ đầu tư mang tính xã hội hoá rất cao.
Các quỹ đầu tư không tự tiến hành hoạt động đầu tư mà uỷ thác số tiền của
mình cho một tổ chức đầu tư chuyên nghiệp hay còn gọi là các công ty quản lý quỹ.
Hình thái và vai trò của công ty quản lý quỹ theo mô hình quỹ đầu tư khác nhau
cũng khác nhau, có thể là các tổ chức tư vấn đầu tư, cũng có thể là các công ty quản
lý tài sản chuyên nghiệp. Công ty quản lý quỹ có thể chỉ tiến hành quản lý đầu tư
4 Tr 339, Giáo trình Những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán, NXB Chính trị quốc gia, HN năm 20025 Tr 139, Chứng khoán nhập môn, NXB Lao động – xã hội, năm 2006, HN6 Điều 6, chương 1 Những quy định chung, Luật chứng khoán Việt Nam năm 2006
5
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
thay cho quỹ nhưng cũng có thể đồng thời đảm nhận cả việc huy động vốn cũng
như quản lý đầu tư của quỹ.
Theo khái niệm về công ty quản lý quỹ đầu tư (Fund management) tại thị
trường chứng khoán Mỹ thì công ty quản lý quỹ là công ty chuyên trách thực hiện
việc quản lý các quỹ đầu tư. Các quỹ đầu tư được tổ chức dưới dạng một công ty,
phát hành cổ phần. Công ty đầu tư sử dụng nhà tư vấn đầu tư, hay người quản lý
đầu tư để quyết định loại chứng khoán nào sẽ đưa vào danh mục đầu tư của quỹ.
Người quản lý quỹ được toàn quyền quản lý danh mục đầu tư, mua bán chứng
khoán phù hợp với các mục tiêu đầu tư của quỹ. 7
Công ty quản lý quỹ được cấu trúc dưới hai dạng: quản lý quỹ đầu tư quỹ dạng
đóng và quỹ dạng mở. Ở Việt Nam, theo Nghị định 144/2003/NĐ-CP ban hành
ngày 28/11/2003 về chứng khoán và thị trường chứng khoán, thì công ty quản lý
quỹ thực hiện việc quản lý quỹ đầu tư chứng khoán.
1.1.2. Lợi thế và vai trò của quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ:
Các quỹ đầu tư thu hút được công chúng đầu tư do rất nhiều lợi thế mà quỹ
mang lại cho họ.
Một lợi thế cơ bản của quỹ đầu tư là sự đa dạng hóa danh mục đầu tư, giảm
thiểu rủi ro. Tiêu chuẩn cho việc đa dạng hoá đầu tư biến đổi rộng, ví dụ như các
loại chứng khoán và các ngành công nghiệp liên quan tới các loại chứng khoán, các
quốc gia và các đồng tiền mà chúng sử dụng. Các quỹ đầu tư, thông qua các tổ chức
quản lý quỹ, tìm kiếm để đa dạng hoá rủi ro, cải thiện tình hình đầu tư và tuân thủ
theo chính sách đầu tư của từng quỹ. Theo thuyết đầu tư hiện đại, rủi ro của toàn bộ
danh mục đầu tư có thể được giảm thiểu bằng việc đa dạng hoá danh mục đầu tư
vào một số lượng lớn cổ phiếu của các ngành công nghiệp khác nhau với mức sinh
lời rủi ro khác nhau. Quỹ đầu tư có thể làm được điều đó. Các quỹ đầu tư có thể tự
do đầu tư nhiều loại sản phẩm tài chính khác nhau vào một danh mục nhiều sản
phẩm tín thác đầu tư khác nhau. Chúng cũng có thể tạo ra các sản phẩm khác như
7 http://www.giaothongvantai.com.vn/Desktop.aspx/News/Cophan-hoa-chungkhoan/SO_TAY_KIEN_THUC-Cong_ty_quan_ly_quy/ , truy cập 20:05 ngày 20/4/2009
6
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
những chứng chỉ tiền gửi ngân hàng vẫn đảm bảo khoản tiền gốc bằng việc giao
dịch tổng hợp các công cụ trên thị trường tiền tệ như chứng chỉ tiền gửi và thương
phiếu. Mặt khác chúng có thể tạo ra những sản phẩm của thị trường giá lên/giá
xuống mà mang lại tình hình đối ngược sự chuyển động của thị trường bằng việc sử
dụng các công cụ phái sinh. Các quỹ đầu tư cũng có thể tạo ra một danh mục đầu tư
chuyên ngành bằng việc đầu tư vốn của quỹ vào các cổ phiếu của nhóm ngành công
nghiệp được nhiều người ưa chuộng. Những người đầu tư với một khoản tiền nhỏ
không thể đa dạng hoá danh mục đầu tư của họ với một số lượng lớn cổ phiếu phát
hành nhưng họ có thể hưởng lợi từ việc đa dạng hoá đầu tư với khoản tiền nhỏ đó
bằng việc đầu tư nó vào một quỹ đầu tư.
Một lợi thế khác phải kể đến, đó là các dịch vụ đầu tư chuyên nghiệp do các tổ
chức quản lý quỹ cung cấp cho các nhà đầu tư. Các tổ chức quản lý quỹ đầu tư có
các chuyên gia thực hiện việc phân tích kinh tế vi mô, vĩ mô, phân tích thị trường và
xây dựng các danh mục đầu tư phù hợp để đạt được mục đích của quỹ đầu tư. Họ
cũng có những người chuyên điều hành việc đầu tư hàng ngày. Xu thế tự do hoá thị
trường tài chính thông qua việc bãi bỏ dần các quy định pháp luật và việc xuất hiện
tràn ngập các sản phẩm mới như các công cụ phái sinh tài chính đòi hỏi các kỹ năng
tài chính và phân tích toán học có tính nguỵ biện cao mà những người không có
chuyên môn sâu không thể hiểu thấu sự phức tạp của thị trường cũng như áp dụng
vào thực tế những cách thức này để đạt được mục tiêu đầu tư của họ. Sự bãi bỏ quy
định mang lại những cơ hội lớn hơn để thực hiện nhiều phương thức đầu tư khác
nhau mà chỉ các chuyên gia mới nắm được. Hơn nữa, đối với các quỹ đầu tư theo
ngành thường đầu tư vào cổ phiếu của các ngành đặc biệt như ngành công nghệ sinh
học, công nghệ thông tin và một số ngành công nghệ cao khác, vai trò của các
chuyên gia hiểu biết về những lĩnh vực này đặc biệt cần thiết để có thể đánh giá xu
hướng phát triển của các ngành này trong tương lai, dự đoán hiệu quả đầu tư vào
các ngành đó.
Chi phí giao dịch thấp cũng được coi là một lợi thế khác của quỹ đầu tư được
người đầu tư quan tâm.. Chi phí cho mỗi lần giao dịch là từ 0,3% tới 0,5% giá trị
7
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
giao dịch đối với những công ty chứng khoán lâu đời và từ 0,15% tới 0,2% đối với
các công ty chứng khoán mới8. Các quỹ đầu tư là định chế đầu tư thường có khối
lượng giao dịch lớn. Vì vậy, các chi phí giao dịch mà quỹ phải chi trả (tính trên đơn
vị mỗi cổ phiếu) thường thấp hơn nhiều so với các cá nhân đầu tư, dù cho các cá
nhân này ký hợp đồng giao dịch với các nhà môi giới có mức hoa hồng môi giới
chiết khấu thấp nhất. Chi phí giao dịch thấp có thể được hiểu như là hoạt động đầu
tư tốt hơn và hiệu quả hơn đáng kể.
Chính vì những lợi thế nêu trên mà các quỹ đầu tư giữ vai trò rất quan trọng
không những đối với thị trường chứng khoán nói riêng mà đối với toàn bộ nền kinh
tế nói chung. Vai trò đó được thể hiện ở các đóng góp của quỹ đầu tư như sau:
Quỹ góp phần huy động vốn cho việc phát triển nền kinh tế nói chung và góp
phần vào sự phát triển của thị trường sơ cấp nói riêng. Các quỹ đầu tư tham gia bảo
lãnh phát hành trái phiếu chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp, cung cấp vốn cho
phát triển kinh tế. Với chức năng này, các quỹ đầu tư giữ vai trò quan trọng trên thị
trường sơ cấp.
Quỹ góp phần vào việc ổn định thị trường thứ cấp. Với vai trò là các tổ chức
đầu tư chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán, các quỹ đầu tư góp phần bình ổn
giá cả giao dịch trên thị trường thứ cấp, góp phần vào sự phát triển của thị trường
này thông qua các hoạt động đầu tư chuyên nghiệp với các phương pháp phân tích
đầu tư khoa học.
Quỹ góp phần tạo ra các phương thức huy động vốn đa dạng qua thị trường
chứng khoán. Khi nền kinh tế phát triển và các tài sản tài chính ngày càng tạo khả
năng sinh lợi hơn, người đầu tư có khuynh hướng muốn có nhiều dạng công cụ tài
chính để đầu tư. Để đáp ứng nhu cầu của người đầu tư, các quỹ đầu tư hình thành
dưới nhiều dạng sản phẩm tài chính khác nhau như thời hạn đáo hạn, khả năng sinh
lời, mức độ rủi ro…
8 http://www.vietime.com/news/index.aspx?n/568/9496 , 04h51’ngày 24/12/2007 truy cập lúc 23h20 ngày 20/4/2009
8
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
Quỹ làm cho các hoạt động đầu tư chứng khoán mang tính xã hội hoá. Quỹ
đầu tư tạo một phương thức đầu tư được ưa thích đối với các nhà đầu tư nhỏ, ít có
sự hiểu biết về chứng khoán. Nó góp phần tăng tiết kiệm của công chúng đầu tư
bằng việc thu hút tiền đầu tư vào quỹ.
Quỹ đầu tư thực sự đã và đang là một loại định chế tài chính rất phát triển tại
thị trường chứng khoán ở nhiều nước trên thế giới cũng như tại thị trường chứng
khoán Việt Nam.
1.2 Tổ chức và hoạt động của quỹ đầu tư:
1.2.1 Các mô hình tổ chức và hoạt động của quỹ đầu tư:
a) Mô hình công ty:
Đặc điểm cơ bản nhất của các quỹ đầu tư trong mô hình này đó là bản thân
quỹ là một pháp nhân đầy đủ, tức là một công ty được hình thành theo quy định của
pháp luật từng nước và cơ quan điều hành cao nhất của quỹ là hội đồng quản trị
quỹ. Các nhà đầu tư góp vốn vào quỹ là các cổ đông và họ có quyền bầu ra các
thành viên hội đồng quản trị.
Các tổ chức tham gia vào cơ cấu hoạt động của quỹ đầu tư dạng công ty là
công quản lý quỹ, ngân hàng bảo quản. Ngoài ra, tuỳ từng nước, còn có sự tham gia
của các đại lý chuyển nhượng và nhà bảo lãnh phát hành chính hay những tổ chức
sáng lập, bảo trợ cho việc thành lập quỹ.
Hội đồng quản trị quỹ đầu tư do các cổ đông bầu ra, có nhiệm vụ chính là quản
lý toàn bộ hoạt động của quỹ, lựa chọn người quản lý quỹ và giám sát hoạt động
đầu tư của quỹ, hàng năm xem xét lại hoặc từ chối các hợp đồng với người quản lý
quỹ nếu nguời đó thực hiện việc đầu tư không đem lại hiệu quả. Hội đồng quản trị
chính là người được các cổ đông của quỹ uỷ thác bảo vệ quyền lợi của những người
tham gia đầu tư vào quỹ.
Người quản lý quỹ có nhiệm vụ phân tích đầu tư, tiến hành hoạt động đầu tư,
mua hoặc bán các chứng khoán trong danh mục đầu tưphù hợp với các mục tiêu do
quỹ đề ra dưới sự giám sát của hội đồng quản trị của quỹ. Trong mô hình này,
9
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
người quản lý quỹ hoạt động như một nhà tư vấn đầu tư do công ty quỹ thuê quản lý
đầu tư và họ được hưởng phí một tỷ lệ phí nhất định từ hoạt động quản lý đầu tư đó.
Người quản lý quỹ ở đây có thể là một cá nhân hoặc một nhóm các cá nhân có kinh
nghiệm và nhiều thành tích trong hoạt động đầu tư chuyên nghiệp được Hội đồng
quản trị của quỹ đại diện cho các cổ đông lựa chọn.
Ngân hàng bảo quản là ngân hàng được quỹ lựa chọn để lưu giữ và bảo quản
các tài sản của quỹ. Ngân hàng bảo quản thường giữ luôn vai trò là đại lý chuyển
nhượng cho quỹ, huỷ các cổ phần cũ và phát hành cổ phần mới. Tổ chức này cũng
giữ danh sách cổ đông để gửi các báo cáo, giấy uỷ quyền hoặc thực hiện phân phối
cho các cổ đông. Khi thực hiện các chức năng này, ngân hàng bảo quản nhận được
phí bảo quản tài sản.
Cơ chế tổ chức hoạt động của các quỹ theo mô hình công ty này (xem phụ lục
1: Sơ đồ cơ chế hoạt động của quỹ đầu tư dạng công ty) tại các thị trường đều có
những nét chung. Tuy nhiên, việc huy động vốn lập quỹ có đôi nét khác biệt. Ví dụ,
tại Mỹ quỹ đầu tư dạng công ty (công ty đầu tư) chỉ được phát hành cổ phiếu
thường. Trong khi ở Anh, ngoài cổ phiếu phổ thông, các quỹ đầu tư được phát hành
quyền. Việc huy động vốn lập công ty quỹ do các tổ chức bảo trợ lập quỹ kiêm luôn
chức năng bảo lãnh phát hành cho quỹ thực hiện. Các tổ chức này lập bản cáo bạch,
đưa ra mục tiêu và chính sách đầu tư của quỹ, các mức chi phí liên quan…Để hỗ trợ
việc chào bán cổ phần của quỹ, tổ chức bảo lãnh phát hành có thể ký hợp đồng với
một số công ty khác lập thành tổ hợp chào bán. Tổ hợp chào bán sẽ giúp tổ chức
bảo lãnh phát hành phân phối cổ phần của quỹ và được tổ chức bảo lãnh chi trả
khoản phí trích từ chi phí chào bán của tổ chức bảo lãnh phát hành.
Ngoài các tổ chức tham gia chính như đã nêu, tuỳ từng nước còn có thể có các
đại lý chuyển nhượng hoặc nhà bảo lãnh phát hành chính tham gia vào các hoạt
động của quỹ đầu tư. Đại lý chuyển nhượng thường được uỷ nhiệm để tiến hành
việc bán hoặc mua lại cổ phần của quỹ (nếu quỹ đó là quỹ dạng mở ). Nhà bảo lãnh
phát hành chính giúp quỹ chào bán và phân phối cổ phần của quỹ cho các nhà đầu
tư.
10
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
Ngoài các tổ chức kể trên liên quan tới hoạt động của quỹ, Hội đồng quản trị
của công ty quỹ có thể thuê thêm một tổ chức chuyên quản trị hành chính. Tổ chức
sẽ cung cấp trụ sở làm việc, các trang thiết bị văn phòng, thiết bị thông tin; uỷ
nhiệm chi trả lương thưởng cho Hội đồng quản trị; giám sát việc lập các báo cáo
định kỳ cho các cổ đông. Tổ chức quản trị hành chính này cũng được nhận một tỷ lệ
phí nhất định khi thực hiện các dịch vụ trên.
Mô hình quỹ đầu tư dạng công ty hiện được áp dụng rộng rãi tại các nước có
thị trường chứng khoán hình thành và phát triển từ lâu đời mà điển hình là thị
trường chứng khoán Mỹ và Anh.
b) Mô hình quỹ đầu tư dạng hợp đồng:
Quỹ đầu tư dạng hợp đồng còn được gọi là mô hình quỹ tín thác đầu tư. Bản
chất hoạt động của các quỹ tín thác đầu tư là dựa trên cơ sở quan hệ tín thác tài sản
và hợp đồng tín thác được coi là một chứng từ pháp lý cơ bản để điều chỉnh hoạt
động của các bên tham gia. Một đặc điểm khác biệt cơ bản với mô hình quỹ đầu tư
dạng công ty là trong mô hình này quỹ đầu tư không phải là một pháp nhân. Quỹ
hoàn toàn chỉ là một lượng tiền nhất định do các nhà đầu tư đóng góp hình thành
nên quỹ. Mô hình này thể hiện rõ vai trò của ba bên tham gia vào hoạt động của
quỹ: công ty quản lý quỹ giữ vai trò là người tín thác, tổ chức bảo quản tài sản cũng
như giám sát hoạt động của quỹ giữ vai trò người nhận tín thác và các nhà đầu tư là
những người hưởng lợi của quỹ.
Khác biệt với mô hình trên, quỹ đầu tư dạng hợp đồng (xem phụ lục 2: Sơ đồ
cơ chế hoạt động của quỹ đầu tư dạng hợp đồng) do chính công ty quản lý quỹ đứng
ra huy động vốn thành lập quỹ. Sau khi quỹ đã hình thành, vốn và tài sản của quỹ
được giao cho tổ chức nhận tin thác bảo quản và thực hiện việc thu chi cho hoạt
động đầu tư. Công ty quản lý quỹ bắt đầu thực hiện việc đầu tư của quỹ theo những
chính sách và mục tiêu đã đề ra trong bản cáo bạch huy động vốn ban đầu cũng như
cam kết trong hợp đồng tín thác.
Người nhận tín thác được lựa chọn thường là các ngân hàng hoặc các tổ chức
có chức năng quản lý tài sản tín thác theo quy định của pháp luật về tín thác tài sản.
11
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
Khi tham gia vào hoạt động của quỹ đầu tư, bên cạnh vai trò bảo quản vốn và các
tài sản của quỹ, tổ chức giám sát, bảo quản còn làm nhiệm vụ giám sát hạot động
của công ty quản lý quỹ để đảm bảo việc tuân thủ các mục tiêu và chính sách đầu tư
đã đề ra.
Người đầu tư hay những người thụ hưởng là những người góp vốn vào quỹ và
tín thác việc đầu tư cho công ty quản lý quỹ để đảm bảo khả năng sinh lợi cao nhất
từ khoản vốn đóng góp của họ. Tổng số vốn quỹ dự kiến huy động sẽ được chia
thành các đơn vị tínt hác. Việc góp vốn của các nhà đầu tư được thể hiện bằng việc
hị mua các chứng chỉ đầu tư do công ty quản lý quỹ thay mặt qũy phát hành trong
đó xác nhận số đơn vị tương ứng với số vốn góp của họ. Các nhà đầu tư trong mô
hình này không phải là các cổ đông như mô hình quỹ đầu tư dạng công ty mà chỉ
đơn thuần là những người thụ hưởng kết quả kinh doanh từ hoạt động đầu tư của
quỹ.
Hợp đồng tín thác được ký kết bởi tất cả các bên tham gia vào quỹ: công ty
quản lý quỹ, tổ chức giám sát bảo quản và những người hưởng lợi. Trách nhiệm cảu
tổ chức tín thác cũng như của người được tín thác được phân định rõ ràng và cụ thể
đối với từng hoạt động. Nhưng cả hai đối tượng đó đều có một nghĩa vụ chung nhất
là thực thi công việc một cách mẫn cán và có những hành vi thích hợp để bảo vệ
quyền lợi của những người hưởng lợi là những người nắm giữ chứng chỉ của quỹ.
1.2.2. Hoạt động của quỹ đầu tư:
a) Huy động cấu trúc vốn:
Phương thức hình thành vốn và cách thức chào bán
Các quỹ tập thể hình thành vốn bằng phát hành cổ phiếu hoặc chứng chỉ đầu tư
thu hút vốn từ công chúng
Đối với các quỹ đầu tư dạng công ty, quỹ phát hành cổ phần để huy động vốn
hình thành nên quỹ. Tương tự như các công ty cổ phần, cổ đông của quỹ cũng nhận
được các cổ phiếu xác nhận số cổ phần mình sở hữu tại công ty.
12
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
Đối với các quỹ đầu tư dạng hợp đồng, thông thường lượng vốn dự kiến hình
thành nên quỹ được chia thành các đơn vị (tương tự như các cổ phần như quỹ dạng
công ty). Quỹ sẽ phát hành chứng chỉ đầu tư xác nhận số đơn vị tương ứng với số
vốn người đầu tư góp vào quỹ. Cũng như cổ phiếu phổ thông khác, chứng chỉ đầu
tư có thể phát hành dưới hình thức ghi danh hoặc vô danh và có thể được giao dịch
và chuyển nhượng như cổ phiếu, tuy quyền và nghĩa vụ của người hưởng lợi (nguời
nắm giữ chứng chỉ đầu tư) có một số khác biệt so với các cổ đông trong mô hình
quỹ dạng công ty.
Về cách thức chào bán: cổ phiếu/chứng chỉ đầu tư 9 của các quỹ đầu tư được
chào bán bằng hai hình thức chính là qua các tổ hợp chào bán và do quỹ trực tiếp
tiến hành qua các mạng lưới của mình.
Chào bán qua các tổ hợp
Các tổ hợp chào bán thường bao gồm các nhà bảo lãnh phát hành và các đại lý
chào bán của họ. Các tổ chức bảo lãnh phát hành giữ vai trò là những người bán
buôn hay người phân phối cho các đại lý bán hàng. Các đại lý chào bán có thể là
các ngân hàng thương mại, các công ty chứng khoán hoặc các công ty tài chính. Các
đại lý này, đến lượt mình, sẽ đứng ra chào bán cổ phần tới công chúng thông qua
mạng lưới chi nhánh của họ. Đây là cách thức phổ biến nhất để bán cổ phần của các
quỹ đầu tư theo mô hình công ty. Bản thân các công ty chứng khoán có tên tuổi
hoặc các ngân hàng thương mại có thể là những người sáng lập hoặc những người
bảo lãnh chính cho việc phát hành các quỹ dạng công ty. Các quỹ đầu tư dạng hợp
đồng cũng áp dụng cách thức chào bán này đối với các quỹ có quy mô lớn.
Chào bán trực tiếp từ quỹ hoặc công ty quản lý quỹ
Các quỹ được trực tiếp bán cổ phiếu của mình cho nhà đầu tư không thông qua
một trung gian nào. Các quỹ đầu tư dạng hợp đồng do công ty quản lý quỹ đứng ra
thành lập thường hay chào bán chứng chỉ đầu tư bằng hình thức này thông qua hệ
thống mạng lưới của công ty quản lý quỹ hoặc mạng lưới của tổ chức bảo quản.
9 Do sự khác biệt giữa hai mô hình, thuật ngữ cổ phiếu /chứng chỉ đầu tư được sử dụng đồng thời tại các phần có liên quan để chỉ chung về chứng từ xác nhận quyền sở hữu của những người tham gia góp vốn vào các quỹ thuộc các mô hình.
13
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
Ngoài ra, họ giao dịch với các cổ đông hiện thời và tiềm năng thông qua thư, điện
thoại, mạng lưới ngân hàng hoặc các văn phòng địa phương của họ. Các quỹ này
hấp dẫn nhà đầu tư trước hết thông qua quảng cáo, thư trực tiếp cũng như những bài
diễn văn, các phương tiện quảng cáo hữu hiệu.
Định giá ban đầu và các chi phí liên quan tới phát hành lần đầu
Việc định giá cổ phiếu /chứng chỉ đầu tư phát hành lần đầu của quỹ do các tổ
chức đứng ra thành lập quỹ xác định. Đối với các quỹ theo mô hình công ty, việc
định giá cổ phiếu quỹ do các tổ chức sáng lập (fund sponsor) hoặc các tổ chức bảo
lãnh phát hành xác định giá. Đối với các quỹ đầu tư dạng hợp đồng, công ty quản lý
quỹ sẽ xác định giá chào bán ban đầu các chứng chỉ đầu tư của quỹ.
Các chi phí liên quan tới việc phát hành ra công chúng lần đầu của các quỹ nói
chung thường bao gồm một số loại chính:
Chi phí tiếp thị
Chi phí in ấn bản cáo bạch
Chi phí trả cho các đại lý bán cổ phiếu /chứng chỉ đầu tư
Thông thường, các chi phí trên ước tính trung bình vào khoảng 4 -6% tổng số
tiền huy động được từ nhà đầu tư10. Chỉ phí chào bán lần đầu được khấu trừ từ tổng
giá trị của quỹ huy động được.
Cơ cấu vận động của vốn
Cơ cấu vốn phát hành của các quỹ đầu tư có thể vận động và chu chuyển khác
nhau. Dựa vào tiêu chí này, quỹ đầu tư thuộc các mô hình có thể hình thành vốn
theo hai dạng quỹ đầu tư dạng đóng và quỹ đầu tư dạng mở .
Quỹ đầu tư dạng đóng: Quỹ chỉ phát hành cổ phiếu/chứng chỉ đầu tư ra công
chúng một lần với số lượng nhất định và quỹ không thực hiện việc mua lại cổ
phiếu/chứng chỉ đầu tư khi nhà đầu tư có nhu cầu bán lại. Sau khi phát hành lần đầu
ra công chúng, cổ phiếu/chứng chỉ đầu tư của quỹ được giao dịch như bất kỳ chứng
khoán niêm yết nào trên thị trường chứng khoán tập trung (sở giao dịch chứng 10 http://kinhdoanhgioi.com/index.php?topic=549.0 , 14:47’ ngày 21/4/2009
14
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
khoán). Các nhà đầu tư có thể mua hoặc bán để thu hồi vốn cổ phiếu hoặc chứng chỉ
đầu tư của mình trên thị trường thứ cấp thông qua các nhà môi giới11. Nói tới quỹ
đầu tư dạng đóng, người ta thường đề cập tới một trong những ưu điểm nổi bật của
các quỹ này là cơ cấu vốn rất ổn định do chúng chỉ phát hành duy nhất một lần. Các
nhà điều hành quỹ không phải đương đầu với các luồng tiền lớn ra, vào liên tục
không theo quy luật về chu kỳ thời gian nào. Nếu các nhà đầu tư không muốn tiếp
tục đầu tư vào quỹ, họ có thể bán các cổ phiếu hoặc chứng chỉ đầu tư họ đang nắm
giữ trên thị trường tập trung. Các nhà điều hành quỹ không phải động chạm đến
danh mục đầu tư ngay cả khi các nhà đầu tư bán tống bán tháo cổ phiếu/chứng chỉ
đầu tư của mình. Trong trường hợp đó, quỹ có thể tiến tới một mức chiết khấu cao
hơn trước. Tuy nhiên, mức chiết khấu lớn lại là cơ hội thu hút những người đầu tư
khác tham gia đầu tư.
Cơ cấu vốn của các quỹ dạng đóng đặc biệt thích hợp cho việc kinh doanh các
chứng khoán có mức độ biến động cao và ít được giao dịch ví dụ như cổ phiếu của
các công ty có vốn nhỏ hoặc cổ phiếu giao dịch trên các thị trường mới nổi bởi vì
việc rút tiền của các nhà đầu tư lớn tại những thời điểm được coi là không hợp lý sẽ
không thể thực hiện được với các danh mục đầu tư gồm các chứng khoán có tính
thanh khoản kém trong các lĩnh vực kinh doanh có biến động cao. Các quỹ đầu tư
dạng đóng có thể thành công trong các thị trường giao dịch ít bởi vì các quỹ này
không cần phải nghiên cứu các phương pháp đầu tư thêm để cung cấp cho các
khoản mua mới cũng như không cần phải bán các chứng khoán trong danh mục đầu
tư để trang trải các khoản mua lại.
Tuy nhiên, quỹ đầu tư dạng đóng có một nhược điểm cơ bản là hầu như
thường giao dịch với giá chiết khấu tức là thị giá thấp hơn giá trị tài sản ròng của
quỹ. Có một số nguyên nhân có thể đưa ra xem xét để giúp cho việc giải thích sự
chênh lệch giữa mức chiết khấu và mức trên giá trị giữa các quỹ khác nhau cũng
như của các quỹ trong các điều kiện thị trường khác nhau như quỹ đầu tư dạng đóng
được coi là rủi ro hơn so với quỹ đầu tư dạng mở vì người đầu tư không thể bán lại
11 Tr 343, Giáo trình Những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán, NXB Chính trị Quốc gia, 2002
15
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
cổ phiếu/chứng chỉ đầu tư tại mức giá trị tài sản ròng, quỹ hoạt động kém hiệu quả,
chi phí cao, mức độ đa dạng hoá của các quỹ ít…
Quỹ đầu tư dạng mở: Quỹ liên tục phát hành cổ phiếu/chứng chỉ đầu tư ra
công chúng và thực hiện việc mua lại cổ phiếu/chứng chỉ đầu tư khi người đầu tư có
nhu cầu thu hồi vốn. Đặc điểm quan trọng đối với quỹ đầu tư dạng mở là giá của cổ
phiếu/chứng chỉ đầu tư của quỹ mở luôn gắn trực tiếp với giá trị tài sản thuần của
quỹ. Cổ phiếu/chứng chỉ đầu tư của quỹ dạng mở không giao dịch trên thị trường
thứ cấp mà giao dịch thẳng với quỹ hoặc các đại lý được uỷ quyền của quỹ12. Khác
với quỹ đầu tư dạng đóng, quỹ đầu tư dạng mở có cơ cấu vốn luôn biến động do các
lượng tiền vào ra liên tục từ việc chào bán mới và việc mua lại cổ phiếu/chứng chỉ
đầu tư. Chính vì vậy, các nhà điều hành quỹ luôn phải tạo các danh mục đầu tư với
các sản phẩm đầu tư có tính thanh khoản cao để đối phó với các thay đổi liên tục về
nguồn vốn. Nếu có nhiều nhà đầu tư đổ tiền vào quỹ trong giai đoạn thị trường lên
cao, những nhà điều hành có thể không lấy gì làm hấp dẫn. Điều đó càng đặc biệt
đúng đối với các quỹ có các chính sách đầu tư toàn bộ số tiền thu được tại bất kỳ
thời gian nào. Hoặc các nhà điều hành quỹ đầu tư dạng mở sẽ phải bán tống bán
tháo các khoản đầu tư mình đang nắm giữ khi mà các loại này giảm thảm hại: đó có
thể là thời kỳ mà quỹ phải thực hiện mua lại nhiều hơn là chào bán thêm.
Điểm bất lợi trên đây của quỹ đầu tư dạng mở đối với các nhà điều hành quỹ
chính là ưu điểm của quỹ trong việc thu hút công chúng đầu tư vào quỹ. Đó chính là
tính thanh khoản của các quỹ dạng này. Trong rất nhiều trường hợp, quỹ đầu tư
dạng mở thậm chí còn có tính thanh khoản cao hơn các loại cổ phiếu thường khác.
Một khối lượng tiền lớn có thể được đầu tư hoặc trả cho việc mua lại tại mức giá trị
tài sản ròng tính hàng ngày cộng thêm chi phí bán hoặc giảm trừ chi phí mua lại.
Hơn nữa, đồng tiền có thể được di chuyển linh hoạt và hiệu quả giữa các quỹ có
mục tiêu đầu tư khác nhau với chi phí không đáng kể. Tuy nhiên, tính thanh khoản
của các quỹ dạng mở không phải lúc nào cũng là một ưu thế tuyệt đối. Nói chung,
các quỹ đầu tư dạng mở đều được quy định thời gian tối thiểu để thực hiện việc mua 12 Tr 344, , Giáo trình Những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán, NXB Chính trị Quốc gia, 2002
16
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
lại chứng chỉ theo yêu cầu cảu người đầu tư, thời gian dài ngắn phụ thuộc vào quy
định của các nước khác nhau. Trong điều kiện thị trường có nhiều biến động, thời
gian thực hiện việc mua lại dài, lợi ích của người đầu tư sẽ bị ảnh hưởng.
Định giá chứng chỉ đầu tư /cổ phiếu của các quỹ sau phát hành
Có một chỉ tiêu luôn luôn gắn liền với hoạt động của các quỹ đầu tư tập thể, đó
là giá trị tài sản ròng của quỹ. Đối với các quỹ đầu tư, giá trị tài sản ròng của quỹ là
một trong các chỉ tiêu quan trọng đánh giá hiệu quả hoạt động của các quỹ nói
chung và là cơ sở để định giá chào bán mới cũng như để xác định giá mua lại đối
với các quỹ đầu tư dạng mở.
Giá trị tài sản ròng của một quỹ (được gọi tắt là NAV) được xác định bằng
hiệu số giữa tổng giá trị tài sản và các khoản đầu tư của quỹ với giá trị các khoản nợ
phải trả của quỹ. Giá trị tài sản của quỹ bao gồm tiền mặt, các chứng khoán hoặc
các tài sản khác do quỹ nắm giữ được tính theo giá trị thị trường hoặc được định giá
theo quy định của pháp luật.
Giá trị tài sản ròng của từng cổ phần/chứng chỉ đầu tư của quỹ được xác định
bằng cách chia NAV của quỹ cho tổng số cổ phần /chứng chỉ đầu tư đang lưu hành
của quỹ đầu tư. Đối với các quỹ đầu tư dạng mở, cũng như tổng giá trị tài sản ròng,
số lượng cổ phần /chứng chỉ đầu tư đang lưu hành thay đổi hàng ngày.
Nói chung, đối với cả hai loại hình quỹ dạng đóng và dạng mở, sự biến động
về giá trị tài sản ròng của quỹ là do các thay đổi về giá trị của các chứng khoán nằm
trong danh mục đầu tư của quỹ.
Vay và cho vay vốn của quỹ
Pháp luật ở một số nước thường không cho phép các quỹ đi vay với số lượng
lớn. Thực tế cho thấy một số quỹ ví dụ quỹ cổ phiếu tăng trưởng linh hoạt đôi lúc
lại sử dụng các khoản tiền vay mượn để cố gắng thổi phồng các khoản lãi vốn khi
thị trường đi xuống. Đồng thời với chi phí vay, được phản ánh bằng lãi suất ngắn
hạn duy trì hợp lý làm cho danh mục đầu tư hoạt động vẫn tốt.
17
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
Tuy nhiên, việc vay vốn của quỹ thực sự là một con dao hai lưỡi khi mà nó
thổi phồng các khoản lỗ. Các quỹ có hệ số đòn bẩy cao thường được xếp vào hạng
các quỹ hoạt động kém nhất trong các thị trường đang đi xuống. Việc bán lại cổ
phiếu hay chứng chỉ đầu tư của các quỹ mở có thể làm trầm trọng thêm các vấn đề
thông thường khi giá rớt xuống. Một quỹ hay sử dụng đòn bẩy thường mang theo
các rủi ro lớn hơn. Khi biện pháp đòn bẩy được sử dụng, NAV thường có chiều
hướng lên xuống rất nhanh.
Vì vậy, quỹ thường chỉ được phép vay tiền ngắn hạn từ các ngân hàng. Do
vậy, các danh mục đầu tư đòn bẩy chỉ có thể để đáp ứng nhu cầu về vốn ngắn hạn.
Các quỹ này cũng bị giới hạn về số lượng vay nợ tức là phải khống chế hệ số đòn
bẩy. Nếu giá trị của danh mục đầu tư tăng thì tỷ lệ tài sản trên khoản vay cũng tăng
lên. Nhưng nếu giá trị tài sản giảm, quỹ đó phải ngay lập tức giảm các khoản vay
ngân hàng xuống. Điều này có thể buộc nhà quản lý phải bán cổ phiếu ép giá.
Tất nhiên, quỹ này cũng phải thanh toán lãi suất trên khoản vay bằng tiền rút
từ khoản lợi nhuận của quỹ. Chi phí lãi suất được tính tách biệt trong tổng các chi
phí hoạt động. Hiệu ứng đòn bẩy đặc biệt khó khăn khi tỷ lệ lãi suất tăng lên hoặc
khi giá chứng khoán giảm xuống, mà thường thì hai vấn đề này vẫn xảy ra cùng
nhau. Tuy nhiên, vay đến tận mức giới hạn đối với bất kỳ quỹ nào cũng là điều bất
bình thường. Nhiều quỹ thường chỉ vay các khoản vay nhỏ để giúp các nhà quản lý
thực hiện việc mua lại mà không cần phải bán các cổ phiếu đang sở hữu.
Các tài sản bao gồm cả vốn và các tài sản khác mà quỹ sở hữu hầu như không
được phép đem cho vay.
b) Hoạt động đầu tư:
Hoạt động quan trọng nhất với một quỹ đầu tư là thực hiện và quản lý đầu tư.
Đối với bất kỳ một quỹ đầu tư nào, quy trình đầu tư của quỹ cũng lần lượt qua các
bước (xem phụ lục 3: Sơ đồ các bước của quy trình đầu tư)
Bất kỳ một công ty quản lý tài sản, nhà tư vấn chuyên nghiệp nào cũng có một
bộ phận và các chuyên gia nghiên cứu và phân tích để đưa ra các dự đoán có tác
18
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
động trực tiếp tới các quyết định đầu tư. Nghiên cứu đầu tư tập trung vào việc
nghiên cứu và dự đoán các yếu tố kinh tế vĩ mô ảnh hưởng tới việc đầu tư như lãi
suất, tỷ giá…, dự đoán khuynh hướng biến động của toàn bộ thị trường nói chung
cũng như phân tích và dự đoán sự phát triển hay tăng trưởng của từng ngành, khu
vực kinh doanh cụ thể.
Phân tích rủi ro và lợi nhuận liên quan tới phân tích phương án lập quỹ, dự
đoán thu nhập và đánh giá rủi ro. Hai bước này là coi như các dữ liệu đầu vào để
lập một quỹ đầu tư và cũng là cơ sở để tiến hành hoạt động đầu tư.
Lựa chọn mục tiêu đầu tư của quỹ
Phụ thuộc vào mục đích của đầu tư, người ta hình thành nên các mục tiêu đầu
tư của từng loại quỹ. Thông thường, mục tiêu đầu tư phải cụ thể hoá được tỷ lệ sinh
lời kỳ vọng và rủi ro chấp nhận đối với sản phẩm đầu tư. Khi thiết lập mục tiêu đầu
tư, các đặc trưng liên quan tới người đầu tư phải được cân nhắc tới. Các đặc trưng
này bao hàm nhiều yếu tố trong đó có thể kể đến kỳ vọng của người đầu tư, sự phức
tạp và bản chất khả năng tham gia đầu tư của người đầu tư. Ví dụ đối với những
người đầu tư kỳ vọng vào các khoản thu nhập hoặc lãi vốn trong tương lai dài, tính
chất dài hạn của hoạt động đầu tư sẽ tạo cho quỹ đầu tư có khả năng cơ cấu lại các
tài sản nắm giữ để hướng tới “các tài sản tăng trưởng”, có thể đem lại các khoản
sinh lời cao hơn mang tính dài hạn, phản ánh thu nhập từ biến động của vốn cũng
như thu nhập.
Bất kỳ quỹ nào cũng nhằm đạt được một trong số các mục tiêu ban đầu như
sau:
+ Thu nhập: nhanh chóng có nguồn chi trả cổ tức.
+ Lãi vốn (tăng trưởng): làm tăng giá trị của các nguồn vốn ban đầu thông
qua việc đánh giá các chứng khoản trong danh mục đầu tư của quỹ.
+ Thu nhập và lãi vốn: sự kếp hợp của cả hai yếu tố trên.
Về cơ bản, mỗi một mục tiêu đều có lối thoát của nó và các nhà đầu tư cũng
vậy. Điều này thực sự rất khó để có thể tìm ra được một quỹ cổ phiếu mà cùng một
19
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
lúc đạt được cả hai mục tiêu thu nhập cao và lãi vốn chấp nhận được. Thường thì
các quỹ đặt mục tiêu vào tiềm năng tăng trưởng tối đa sẽ phải từ bỏ mục đích thu
nhập. Một danh mục đầu tư ổn định nhất sẽ chỉ đầu tư vào các trái phiếu chính phủ.
Nhưng nó không có tiềm năng tăng trưởng và kém về mặt cổ tức so với các quỹ đầu
tư các khoản thu nhập rủi ro hơn thường tập trung vào các chứng khoán như trái
phiếu không giá trị.
Người đầu tư sẽ lựa chọn và quyết định đầu tư vào các quỹ theo khả năng và
mức độ chịu rủi ro của mình dựa vào các thông tin về chính sách và mục tiêu đầu tư
của quỹ.
Phân bổ tài sản
Phân bổ tài sản có nghĩa là phân chia tiền của quỹ vào “các rổ” đầu tư, mỗi rổ
nhằm đạt được mục tiêu cụ thể riêng biệt hoặc toàn bộ các yêu cầu sinh lời từ danh
mục đầu tư. Phân bổ tài sản được thực hiện trong từng thời kỳ phù hợp với quan
điểm và phán đoán đầu tư của người quản lý quỹ. Nó liên quan tới quyết định sẽ
đầu tư bao nhiêu vốn của quỹ vào từng loại tài sản - cổ phiếu, trái phiếu, bất động
sản, tiền mặt hoặc từng lĩnh vực đầu tư – ngành công nghiệp, ngành công nghệ
cao…Khi chia số tiền của quỹ vào từng loại tài sản khác nhau, người quản lý đầu tư
có thể tính toán cân đối giữa giá trị của danh mục đầu tư cũng như mức độ sinh lời
của từng loại chứng khoán cấu thành.
Phân bổ tài sản của quỹ, hình thành danh mục đầu tư của quỹ được coi là một
khâu quan trọng trong chiến lược đầu tư của từng quỹ. Việc phân bổ tài sản sẽ góp
phần quan trọng vào tối ưu hoá danh mục đầu tư và tối ưu hoá mức sinh lời từ các
khoản đầu tư và cũng là phương thức cơ bản nhất để kiểm soát rủi ro đầu tư. Công
ty quản lý quỹ là người nắm rất rõ kỹ thuật phân bổ tài sản. Các khoản đầu tư đều
có mức độ rủi ro nhất định. Việc nắm bắt được các rủi ro và quyết định phân bổ tài
sản có thể làm tăng hoặc giảm rủi ro từng khoản đầu tư cũng như toàn bộ danh mục
đầu tư của quỹ. Ví dụ như giá cổ phiếu thường biến động trong thời gian ngắn hạn,
nhưng nếu tính về thu nhập dài hạn thì lại tương đối phù hợp và tương đối cao. Tín
phiếu kho bạc có mức sinh lời tương đối ổn định và phù hợp nhưng lại có rủi ro liên
20
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
quan đến sức mua của đồng tiền sau một thời gian do ảnh hưởng của lạm phát. Khi
đã tiến hành phân bổ tài sản, nhà quản lý đầu tư của quỹ có thể đánh giá các khoản
đầu tư và khả năng sinh lời của chúng.
Đối với các quỹ có mức độ rủi ro cao, việc phân bổ tài sản sẽ được tập trung
vào các loại sản phẩm đầu tư có độ rủi ro cao, chẳng hạn cổ phiếu, để có thể đạt
mức lợi nhuận kỳ vọng cao hơn. Những quỹ với các đối tượng khách hàng là những
người đầu tư bảo thủ sẽ phân bổ một tỷ trọng lớn vốn đầu tư vào trái phiếu hoặc các
công cụ tương đương với tiền.
Lựa chọn chứng khoán
Lựa chọn chứng khoán là bước tiếp theo của việc tiến hành phân bổ tài sản.
Việc lựa chọn chứng khoán cho danh mục đầu tư là việc quyết định sẽ đầu tư thế
nào vào từng loại chứng khoán cụ thể trong từng loại tài sản đã được phân bổ với tỷ
trọng vốn của quỹ là bao nhiêu. Ví dụ, nếu đầu tư vào cổ phiếu thì sẽ chọn loại cổ
phiếu của công ty nào để đầu tư, trong trái phiếu sẽ đầu tư loại trái phiếu cụ thể nào,
trái phiếu chính phủ hoặc trái phiếu công ty nào.
Phân bổ tài sản và lựa chọn chứng khoán trong danh mục đầu tư la hai quyết
định cơ bản trong việc thực hiện mục tiêu đầu tư. Các quyết định này là liên tục, có
nghĩa là chúng không bao giờ kết thúc. Chúng liên quan tới các quy trình đầu tư dẫn
tới việc xây dựng và điều chỉnh một danh mục đầu tư. Đồng thời, quyết định phân
bổ tài sản và quyết định lựa chọn chứng khoán đầu tư thể hiện toàn bộ quy trình
quản lý tài sản của quỹ. Quy trình này quyết định nguồn của các yếu tố tạo nên tổng
thu nhập của danh mục đầu tư. Việc đa dạng hoá thông qua các loại tài sản được
đầu tư khác nhau có thể tăng khả năng chắc chắn để đạt được mức sinh lời đầu tư
đặt ra.
Xây dựng danh mục đầu tư
Xây dựng danh mục đầu tư phụ thuộc vào chính sách đầu tư. Chính sách đầu
tư được phân chia thành hai phương thức cơ bản: đầu tư chủ động và đầu tư thụ
21
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
động. Một sự lựa chọn mà bất kỳ tổ chức quản lý quỹ nào cũng phải cân nhắc, đó là
từng danh mục đầu tư sẽ được quản lý thụ động và chủ động ở mức độ nào.
Quản lý danh mục đầu tư thụ động được dựa trên dự đoán tin tưởng rằng giá
chứng khoán luôn gần với mức trung bình trên thị trường. Thay vì dành thời gian và
các nguồn khác nhằm đánh bại thị trường, ví dụ như tìm mua các loại chứng khoán
với giá cả không có mức chuẩn trên thị trường và không có những đặc điểm rủi ro -
khoản sinh lời hấp dẫn, người đầu tư (tổ chức quản lý quỹ) giả thiết rằng họ sẽ có
thể bù đắp với rủi ro mà họ mong muốn và lựa chọn một danh mục đầu tư phù hợp
với mức độ rủi ro họ đưa ra.
Trái ngược với các chiến lược đầu tư thụ động, phương thức quản lý chủ động
đưa ra khả năng của bản thân quỹ có thể khôn hơn các đối thủ cạnh tranh khác trên
thị trường và có thể xác định loại chứng khoán cụ thể nào trong từng loại tài sản
phân bổ có thể sáng giá trong tương lai gần. Việc lựa chọn chứng khoán chủ động
đối với các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp như quỹ đầu tư thường yêu cầu hai lớp:
phân tích chứng khoán và lựa chọn danh mục đầu tư. Phân tích chứng khoán được
tiến hành chuyên sâu theo từng ngành cũng như từng công ty cụ thể và việc chuẩn
bị các đánh giá về các khoản trống của thị trường. Người quản lý danh mục đầu tư
xem xét chọn lọc thông qua báo cáo của nhiều nhà phân tích. Họ sử dụng các dự
đoán về điều kiện thị trường để đưa ra các quyết định phân bổ tài sản và sử dụng
các khuyến nghị của các nhà phân tích chứng khoán để lựa chọn loại chứng khoán
cụ thể trong từng loại tài sản được phân bổ.
c) Công bố thông tin:
Cũng như bất kỳ các công cụ tài chính khác trên thị trường, giá của cổ
phiếu/chứng chỉ đầu tư của quỹ đầu tư phản ánh nhận định và dự đoán của người
đầu tư về giá trị của quỹ phát hành các cổ phiếu/chứng chỉ đầu tư đó.
Đối với quỹ đầu tư, việc công bố thông tin liên quan tới hoạt động của quỹ sẽ
đạt được các mục đích:
22
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
+ Đối với những nhà đầu tư đang đầu tư vào quỹ: cho biết hoạt động và hiệu
quả kinh doanh của quỹ để quyết định tiếp tục đầu tư hay rút vốn khỏi quỹ. Đồng
thời, uy tín của công ty quản lý quỹ và người quản lý đầu tư cũng được nâng cao
khi quỹ hoạt động hiệu quả.
+ Thu hút vốn đầu tư cho quỹ: các thông tin về hoạt động của quỹ sẽ giúp
người đầu tư mới đưa ra quyết định đầu tư.
Các thông tin trên do Hội đồng Quản trị của Quỹ (trong mô hình Công ty)
hoặc Công ty Quản lý quỹ (trong mô hình quỹ dạng hợp đồng) thực hiện việc công
bố.
+ Đối với các quỹ đầu tư dạng công ty: Hội đồng quản trị phải cung cấp cho
các nhà đầu tư báo cáo về tình hình đầu tư cũng như tình hình tài chính của quỹ.
+ Đối với các quỹ đầu tư dạng hợp đồng, các tài liệu công bố định kỳ bao
gồm báo cáo của công ty quản lý quỹ, báo cáo của người thụ uỷ, báo cáo tài chính
bao gồm báo cáo về tài sản và công nợ của quỹ, thu nhập và chi phí, thay đổi giá trị
tài sản ròng và các bản thuyết minh.
Một hình thức công bố thông tin cơ bản và trực tiếp nhất của các quỹ, đó là các
báo cáo của công ty quản lý quỹ hoặc hội đồng quản trị của quỹ gửi cho những
người hưởng lợi hoặc các cổ đông của quỹ với nội dung đã được đề cập. Ngoài ra,
các thông tin còn được công bố tại trụ sở các công ty quản lý quỹ hoặc tại các đại lý
của công ty.
Đối với các nước có quỹ đầu tư phát triển, các thông tin về hoạt động của các
quỹ đầu tư cũng như các thông tin liên quan tới các chứng khoán giao dịch trên thị
trường chứng khoán đều được công bố trên các tạp chí tài chính hoặc các phương
tiện thông tin đại chúng.
1.2.3. Chi phí liên quan tới hoạt động:
Có ba loại chi phí cơ bản liên quan tới hoạt động của các quỹ. Ở đâychỉ kể tới
các khoản chi phí cho hoạt động của quỹ sau khi quỹ đã hình thành và tiến hành
hoạt động đầu tư. Đó là các loại chi phí:
23
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
+ Phí liên quan tới hoạt động đầu tư bao gồm:
- Phí tư vấn đầu tư
- Phí lưu giữ và bảo quản tài sản của quỹ
- Lãi suất trong trường hợp quỹ phải vay ngắn hạn, thuế (nếu có)
- Phí trả cho các tổ chức định giá các khoản đầu tư của quỹ
Các chi phí trả cho các nhà môi giới thường không được tính vào các chi phí
hoạt động của quỹ. Các chi phí này thường được khấu trừ trực tiếp từ giá trị giao
dịch mua hoặc bán với người môi giới và được phản ánh bằng mức độ giảm trực
tiếp trong NAV của quỹ.
+ Chi phí quản lý và điều hành bao gồm phí và thưởng cho người quản lý
cũng như các chi phí khác nhau trong điều hành quỹ, phí giám sát.
- Chi phí điều hành và quản lý hoạt động thường xuyên xuất hiện như
là một phần chủ yếu của tỷ lệ chi phí, là một trong các chỉ tiêu đánh giá hoạt động
của quỹ sẽ được đề cập dưới đây.
- Phí quản lý, một loại phí thông dụng đối với tất cả các danh mục đầu
tư, được các công ty tư vấn thanh toán cho các nhà phân tích chứng khoán và các
chức năng quản lý danh mục đầu tư mà họ thực hiện.
+ Các chi phí quản lý hành chính khác bao gồm:
- Phí lập các báo cáo cho các cổ đông/người hưởng lợi
- Phí duy trì quản lý tài khoản của người đầu tư
- Phí kiểm toán
- Phí trả cho những người điều hành quỹ
- Phí cho các dịch vụ pháp lý
- Phí thay đổi các quy định của hợp đồng tín thác theo yêu cầu của cổ
đông (nếu có)
- Phí tổ chức đại hội đồng cổ đông hoặc đại hội các nhà đầu tư của quỹ.
24
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
1.2.4. Một số tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động của một quỹ đầu tư:
Khi đánh giá hoạt động của một quỹ có hiệu quá hay không, người ta thường
dựa vào một số chỉ tiêu chính là tổng thu nhập mà quỹ mang lại cho các nhà đầu tư,
tỷ lệ chi phí, tỷ lệ doanh thu.
Tổng thu nhập của quỹ
Tổng thu nhập của quỹ là một trong các chỉ tiêu quan trọng đánh giá hoạt động
của một quỹ tốt hay không.
Dưới góc độ đánh giá chung về thu nhập của quỹ mà người điều hành quỹ
mang lại, dù là quỹ dạng đóng hay dạng mở, tổng thu nhập của một quỹ được cấu
thành từ ba khoản chính là:
+ Thu nhập ròng từ các khoản đầu tư: Khoản thu nhập đầu tư bao gồm cổ tức
và lãi suất thu được từ danh mục đầu tư của quỹ khấu trừ đi chi phí.
+ Các khoản thu nhập ròng được thừa nhận chủ yếu là lãi vốn: các khoản thu
nhập ròng được thừa nhận được hiểu là các khoản đầu tư đã quyết toán xong có lãi
(hoặc bị lỗ)
+ Sự tăng (hoặc giảm) ròng trong giá trị tài sản ròng. Sự thay đổi của NAV
phản ánh sự tăng hoặc giảm trong giá trị các khoản đầu tư vào cổ phiếu mà quỹ
đang nắm giữ. Ngoài ra, nó cũng bao gồm các khoản thu nhập ròng được thừa nhận
hoặc thu nhập ròng từ các khoản đầu tư chưa chia cho các nhà đầu tư.
Tổng thu nhập được xác định bằng công thức:
Thu nhập ròng + lãi vốn +giá trị chênh lệch của NAV
TR = ---------------------------------------------------------------------- 13
NAV tại thời điểm đầu kỳ
Tỷ lệ chi phí
Tỷ lệ chi phí là một chỉ tiêu dùng để đánh giá việc kiểm soát các chi phí liên
quan tới hoạt động của một quỹ.13 Tr 237, Giáo trình Phân tích và đâu tư chứng khoán, NXB Chính trị quốc gia, HN - 2002
25
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
Tỷ lệ này được xác định bằng chi phí hoạt động trong năm (các loại chi phí
cho hoạt động đầu tư, chi phí quản lý, chi phí hành chính như đã đề cập ở mục 3.3
trên đây) chia cho giá trị tài sản ròng trung bình của quỹ. Phí môi giới từ các giao
dịch của quỹ không tính trong tỷ lệ chi phí này. Bởi vì tỷ lệ chi phí có thể thay đổi
nên người ta thường tính giá trị bình quân cho khoảng từ 3 đến 5 năm về trước. Tuỳ
theo danh mục đầu tư, tỷ lệ chi phí có thể khác nhau từ 0,5% đến trên 5%. Những tỷ
lệ chi phí thấp nhất thường thấy ở các quỹ chỉ số là các quỹ thực hiện chiến lược
mua và nắm giữ thụ động các loại chứng khoán giống như những chứng khoán có
trong chỉ số bình quân phổ biến nào đó, ví dụ chỉ số S&P 500. Các quỹ nhỏ và tăng
trưởng nhanh có sử dụng hiệu ứng đòn bẩy và chịu chi phí lãi suất cao là các quỹ
phải hoạt động với tỷ lệ chi phí cao nhất. Nói chung, tất cả các tỷ lệ chi phí thấp hơn
1% đều được coi là thấp.
Các quỹ nhỏ có xu hướng chịu tỷ lệ chi phí cao hơn so với các quỹ lớn hơn
vốn là những quỹ thu được lợi ích từ tính kinh tế theo quy mô do chi phí quản lý và
các chi phí khác của chúng được trải rộng cho khối tài sản lớn hơn. Các quỹ đầu tư
trên thị trường quốc tế có xu hướng chịu tỷ lệ chi phí lớn hơn một cách đáng kể so
với các danh mục đầu tư trong thị trường nội địa do chi phí nghiên cứu và các chi
phí khác liên quan đến hoạt động đầu tư quốc tế. Các quỹ cổ phiếu có tỷ lệ chi phí
cao hơn so với các quỹ đầu tư chứng khoán thu nhập cố định.
Tỷ lệ chi phí của một quỹ sẽ có ý nghĩa hơn nếu đem so sánh chúng với số liệu
của các danh mục khác có cùng quy mô.
Tỷ lệ thu nhập đầu tư
Tỷ lệ thu nhập được tính bằng giá trị thu nhập ròng chia cho giá trị tài sản ròng
trung bình. Con số này không có tầm quan trọng như tổng thu nhập đã đề cập ở
trên, bởi vì tổng thu nhập là một thước đo trọn vẹn về hoạt động trong khi đó tỷ lệ
này chỉ tập trung vào thu nhập. Tỷ lệ này cũng tương tự như lợi suất cổ tức khi đánh
giá hiệu quả đầu tư của cổ phiếu thường.
Tỷ lệ doanh thu
26
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
Tỷ lệ này thể hiện tổng giá trị giao dịch (mua và bán) do công ty quản lý quỹ
tiến hành đối với quỹ. Tỷ lệ này được xác định bằng lượng tài sản được bán hoặc
mua chia cho giá trị tài sản ròng của quỹ trong năm. Tỷ lệ doanh thu càng lớn, chi
phí giao dịch càng cao.
Doanh thu luôn biến đổi theo từng loại quỹ và triết lý đầu tư của các nhà quản
lý quỹ. Nhiều nhà quản lý tìm kiếm lợi nhuận nhanh chóng và có xu hướng mua và
bán linh hoạt. Nhiều nhà quản lý khác lại theo mua và nắm giữ dài hạn. Các quỹ mà
tin tưởng vào chiến lược hợp đồng tương lai, hợp đồng lựa chọn và bán khống có
thể mong đợi có một doanh thu và chi phí giao dịch cao hơn.
1.3. Tổ chức và hoạt động của công ty quản lý quỹ:
1.3.1. Hình thái của công ty quản lý quỹ:
Như đã đề cập ở trên, quỹ đầu tư tổ chức và hoạt động theo hai mô hình: quỹ
đầu tư dạng công ty và quỹ đầu tư dạng hợp đồng. Tuỳ theo từng mô hình khác
nhau và theo quy định của pháp luật ở các nước khác nhau, hình thái của tổ chức
quản lý quỹ cũng khác nhau tuy bản chất hoạt động của chúng đều như nhau. Bản
chất việc quản lý đầu tư trong hoạt động quản lý quỹ và hoạt động quản lý tài sản
hoàn toàn giống nhau. Sự khác nhau cơ bản là ở nguồn vốn đầu tư hình thành khác
nhau và nó liên quan tới trách nhiệm khác nhau của tổ chức quản lý đối với từng
nguồn vốn.
Tổ chức quản lý quỹ tồn tại dưới hai hình thái cơ bản là tổ chức tư vấn đầu tư
và tổ chức quản lý tài sản.
Tổ chức quản lý quỹ có thể là các tổ chức tư vấn, chỉ đơn thuần tiến hành hoạt
động đầu tư bao gồm việc lập và quản lý danh mục đầu tư theo cam kết với quỹ mà
không chịu trách nhiệm về các nguồn vốn cũng như việc huy động vốn của quỹ như
đối với các quỹ đầu tư dạng công ty.
Tổ chức quản lý quỹ có thể là một tổ chức chuyên nghiệp về việc lập và quản
lý hoạt động đầu tư của các quỹ đầu tư tập thể do công ty lập ra theo mô hình quỹ
dạng hợp đồng. Bản thân công ty quản lý quỹ đồng thời đảm nhiệm việc huy động
27
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
vốn và tiến hành đầu tư cho quỹ. Hình thái của các công ty quản lý quỹ theo mô
hình này thường mang hình thái rộng hơn dưới góc độ kinh doanh. Đó là hình thái
của các tổ chức quản lý tài sản chuyên nghiệp. Các tổ chức này ngoài việc lập và
quản lý các quỹ, còn đảm nhận việc quản lý tiền hoặc tài sản cho những tổ chức
hoặc cá nhân có nhu cầu uỷ thác cho các tổ chức chuyên nghiệp nhằm tăng khả
năng sinh lời tối đa các tài sản của mình.
1.3.2. Hoạt động của công ty quản lý quỹ:
a) Hoạt động của công ty tư vấn đầu tư: (công ty quản lý các quỹ đầu tư
theo mô hình công ty)
Theo mô hình này, các tổ chức tư vấn hoạt động theo hợp đồng quản lý đầu tư
được ký kết với quỹ đầu tư và hoạt động dưới tư cách là người quản lý quỹ. Các
hợp đồng dạng này nói chung đều quy định trách nhiệm của người quản lý quỹ phải
quản lý các tài sản của quỹ phù hợp với các mục tiêu đầu tư, các chính sách và giới
hạn đầu tư cũng như thực hiện các giao dịch các chứng khoán trong danh mục đầu
tư của quỹ phù hợp với chính sách quy định về tổ chức môi giới quỹ. Thông
thường, hợp đồng của người quản lý đầu tư với quỹ có những kỳ hạn nhất định. Sau
thời hạn đó, tuỳ theo hiệu quả hoạt động của quỹ mà hội đồng quản trị của quỹ sẽ
quyết định có tiếp tục ký hợp đồng đầu tư tiếp với người quản lý quỹ đó không.
Do người quản lý đầu tư theo mô hình này là một tổ chức tư vấn với lượng
khách hàng nhiều và đa dạng. Vì vậy, các quỹ đều có quy định rõ ràng với người
quản lý đầu tư về cung cấp dịch vụ tư vấn cho khác hàng.
Khác với vai trò của công ty quản lý quỹ trong mô hình quỹ dạng hợp đồng (sẽ
trình bày dưới đây), người quản lý đầu tư của quỹ không có bất kỳ trách nhiệm nào
liên quan tới việc lập quỹ, quyền lợi của các cổ đông của quỹ, tính thanh khoản của
quỹ, hoạt động của các tổ chức bảo quản tài sản và các tổ chức khác tham gia vào
hoạt động của quỹ.
28
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
Có một số quỹ, nhà tư vấn đầu tư chỉ đảm nhận trách nhiệm liên quan tới việc
đầu tư, còn việc quản trị hành chính do một tổ chức khác đảm nhận theo hợp đồng
ký kết với quỹ.
b) Hoạt động của công ty quản lý quỹ trong mô hình quỹ dạng hợp
đồng:
Công ty quản lý quỹ trong mô hình hợp đồng thực hiện nhiều chức năng quan
trọng đối với việc hình thành và tổ chức hoạt động của quỹ đầu tư. Công ty quản lý
quỹ trong mô hình này thực hiện cả hai mảng hoạt động chính của quỹ đầu tư: huy
động vốn hình thành quỹ và thay mặt quỹ tiến hành hoạt động đầu tư.
Vai trò của công ty quản lý quỹ là người đứng ra nhận tiền của những người
đầu tư để tiến hành việc đầu tư thay cho người đầu tư, hoạt động kinh doanh hiệu
quả hay không của công ty không những ảnh hưởng đến quyền lợi trực tiếp của
người đầu tư vào quỹ mà còn ảnh hưởng trực tiếp tới uy tín của bản thân công ty
quản lý quỹ. Nhiệm vụ chính của công ty quản lý quỹ là quản lý và quản trị các hoạt
động của quỹ theo phương thức hiệu quả và thích đáng đúng mức, phù hợp với hợp
đồng tín thác của quỹ, các quy định của pháp luật cũng như các tập quán kinh doanh
hiệu quả và được chấp nhận trong ngành tín thác. Công ty quản lý quỹ phải tuân thủ
các tiêu chuẩn cao về giao dịch công bằng và chính trực khi tiến hành quản lý vì lợi
ích duy nhất và tốt nhất cho những người nắm chứng chỉ đầu tư của quỹ. Công ty
quản lý quỹ cũng phải hoạt động mẫn cán, có kỹ năng và sự thận trọng cần thiết khi
tiến hành quản lý quỹ và sử dụng một cách hợp lý các nguồn lực và các thủ tục cần
thiết cho các hoạt động chính đáng của quỹ. Ngoài ra, công ty quản lý quỹ cũng cần
có các quyết định cần thiết để đảm bảo các tài sản của quỹ được bảo vệ đầy đủ và
tách bạch với các tài sản của công ty. Trong trường hợp công ty quản lý quỹ có hoạt
động gây tổn hại đến tài sản của quỹ công ty phải bồi thường thiệt hại cho quỹ do
sơ suất, thiếu thận trọng, các tổn thất do sơ ý hoặc cố ý của mình.
Đối với việc huy động vốn, các hợp đồng tín thác quy định trách nhiệm rõ ràng
của công ty quản lý quỹ trong việc phát hành chứng chỉ, chào bán chứng chỉ cũng
như việc mua lại chứng chỉ trong trường hợp đối với các quỹ đầu tư dạng mở. Các
29
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
quy định liên quan tới phát hành được đề cập rất cụ thể: chứng chỉ hưởng lợi xác
nhận số đơn vị tín thác của quỹ người đầu tư nắm giữ, việc đăng ký mua của đơn vị
tín thác, người hưởng lợi và việc đăng ký tên người hưởng lợi (người nắm giữ
chứng chỉ), việc chuyển nhượng chứng chỉ, việc huỷ bỏ chứng chỉ,…
Đối với các hoạt động đầu tư, các quy định về hội đồng đầu tư và các thành
viên hội đồng đầu tư, các giới hạn đầu tư của riêng quỹ, việc giao dịch các khoản
đầu tư của quỹ.
Cũng giống như người quản lý quỹ trong mô hình quỹ dạng công ty, việc lựa
chọn nhà môi giới trong giao dịch chứng khoán cũng là một yêu cầu đối với công ty
quản lý quỹ nhằm tiết kiệm các chi phí cho hoạt động đầu tư của quỹ đồng thời tăng
hiệu quả kinh doanh cho quỹ. Thông thường, các công ty quản lý quỹ đều có các
tiêu chí cụ thể cho các nhà môi giới của quỹ. Một trong các tiêu chí đối với các nhà
môi giới là sự “mẫn cán tốt nhất”. Sự mẫn cán tốt nhất có thể hiểu dưới góc độ các
dịch vụ mang lại lợi ích tốt nhất cho quỹ. Ngoài ra, việc đưa các tỷ lệ giới hạn về
giá trị giao dịch của từng nhà môi giới cũng như giá trị giao dịch tối đa với một nhà
môi giới đối với từng quỹ cũng là một yêu cầu đối với công ty quản lý quỹ.
Các hoạt động khác mà công ty quản lý quỹ phải làm vì quyền lợi của người đầu tư
bao gồm việc tính toán các khoản lời của quỹ để chi trả cho người đầu tư, việc định
giá các tài sản của quỹ và xác định giá trị tài sản ròng.
c) Quyền lợi của công ty quản lý quỹ:
Dù hoạt động theo mô hình nào , tổ chức quản lý quỹ cũng được chi trả phí
quản lý như đã đề cập ở trên. Ngoài ra các tổ chức quản lý quỹ còn được nhận tiền
thưởng do hoạt động đầu tư có hiệu quả của các quỹ do công ty đảm nhận. Khoản
tiền này có thể được tính theo nhiều dạng khác nhau, có thể là tỷ lệ phần trăm của
mức gia tăng trên tài sản ròng của năm tài chính so với giá trị tài sản ròng của năm
hoạt động trước.
d) Hội đồng đầu tư và quy trình ra quyết định đầu tư tại công ty quản lý
quỹ:
30
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
Thông thường, các tổ chức quản lý quỹ đầu tư có hội đồng đầu tư để phân chia
trách nhiệm trong từng quyết định đầu tư. Hội đồng đầu tư bao gồm các thành viên
trong ban lãnh đạo, các chuyên gia quản lý danh mục đầu tư thâm niên và các
chuyên gia phân tích giàu kinh nghiệm. Hội đồng quyết định các chính sách đầu tư
và kiểm tra những người điều hành quỹ (chuyên gia quản lý danh mục đầu tư) và
các chuyên gia phân tích hoạt động trong giới hạn của các chính sách đầu tư cụ thể.
Một trách nhiệm cụ thể chủ yếu của hội đồng đầu tư là biến các mục tiêu của người
đầu tư thành danh mục các loại hàng hoá sẽ đầu tư hay thông qua danh sách các tài
sản của danh mục đầu tư của từng quỹ. Vì vậy, hội đồng đầu tư có trách nhiệm đối
với việc phân bổ tài sản ở mức độ và phạm vi rộng nhằm xác định đặc trưng rủi ro
của danh mục đầu tư. Nhiệm vụ lựa chọn các chứng khoán cụ thể từ tổng thể các
loại tài sản được phê duyệt thường được uỷ quyền cho những người điều hành quỹ
(xem phụ lục 4: Quy trình ra quyết định đầu tư trong tổ chức quản lý quỹ).
e) Tổ chức giám sát và bảo quản tài sản:
Do tính chất đặc biệt của mình, trong hoạt động của quỹ đầu tư, ngoài vai trò
của tổ chức quản lý quỹ, không thể thiếu vai trò của tổ chức giám sát hoạt động của
quỹ và tổ chức lưu giữ tài sản của quỹ.
Tài sản của quỹ đầu tư, dù quỹ đầu tư thuộc bất kỳ mô hình nào, để được lưu
giữ tại một tổ chức chuyên cung cấp dịch vụ này. Lưu giữ tài sản là hoạt động nhằm
đảm bảo tài sản và vốn của quỹ được an toàn. Hoạt động này thường do các ngân
hàng thương mại là các tổ chức với chức năng bảo quản tài sản chuyên nghiệp của
mình với hệ thống kho két để lưu giữ tài sản cũng như hệ thống mạng lưới chu
chuyển và lưu thông tiền tệ.
Giám sát là nhằm bảo vệ lợi ích của những người tham gia đầu tư vào quỹ. Tổ
chức thực hiện việc giám sát hoạt động của quỹ được coi là người nhận uỷ thác tài
sản (hay còn được gọi là người thụ uỷ) của các nhà đầu tư, giám sát và đảm bảo các
bên tham gia vào hoạt động của quỹ thực hiện tốt các cam kết của mình với người
đầu tư.
31
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
Các hoạt động phụ trợ này ở bất kỳ mô hình nào cũng được giao phó cho các
bên thứ ba tham gia vào hoạt động quỹ. Tuy nhiên, đối với từng mô hình khác nhau,
chức năng này có thể do cùng một tổ chức đảm nhận hay phân chia cho các bên
khác nhau.
Đối với mô hình quỹ đầu tư dạng công ty, người thụ uỷ của quỹ chính là hội
đồng quản trị của quỹ. Hội đồng quản trị của quỹ là do các cổ đông bầu ra. Hội
đồng quản trị đại diện cho các cổ đông và có nghĩa vụ giám sát hoạt động của các tổ
chức tham gia và hoạt động của quỹ: tổ chức tư vấn đầu tư, ngân hàng bảo quản tài
sản, đại lý chuyển nhượng. Nếu các tổ chức tham gia không hoàn thành các nghĩa
vụ của mình, hội đồng quản trị sẽ chuyển giao các hợp đồng dịch vụ liên quan cho
các tổ chức khác. Công ty quản lý quỹ trong mô hình này không có mối liên hệ
trách nhiệm trực tiếp nào với ngân hàng bảo quản.
Hầu hết các nước áp dụng mô hình quỹ đầu tư dạng hợp đồng hay dạng tín
thác đầu tư, bảo quản tài sản và giám sát hoạt động của quỹ thường do cùng một tổ
chức đảm nhận, thường là một ngân hàng thương mại hay một tổ chức nhận tài sản
tín thác chuyên nghiệp. Vai trò của các tổ chức nhận tín thác này thường được quy
định trong pháp luật, đặc biệt là các nước theo hệ thống luật Anh (thông luật) quy
định rất cụ thể và rõ ràng. Bên cạnh việc thực hiện chức năng lưu giữ vốn và tài sản
của quỹ, tổ chức này có nhiệm vụ cơ bản là giám sát các hoạt động đầu tư của công
ty quản lý quỹ, đảm bảo việc tuân thủ với các quy định đã đưa ra đối với từng quỹ
về việc phát hành và chào bán chứng chỉ đầu tư, các loại phí liên quan tới phát
hành, các loại tài sản và chứng khoán cũng như mức giới hạn đối với từng loại mà
quỹ được đầu tư, việc thu chi của quỹ. Trong mô hình này, công ty quản lý quỹ là
người trực tiếp phối hợp với tổ chức giám sát và bảo quản để thực hiện các công
việc kinh doanh của quỹ cũng như lợi ích của người đầu tư.
32
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
Chương II
SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA QUỸ ĐẦU TƯ VÀ CÔNG
TY QUẢN LÝ QUỸ TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
2.1. Sự cần thiết của việc hình thành quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ
trên thị trường chứng khoán Việt Nam:
Xuất phát từ những đặc điểm riêng biệt của thị trường chứng khoán Việt Nam,
yêu cầu hình thành và phát triển các quỹ đầu tư chứng khoán và công ty quản lý quỹ
đã trở thành cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Sự cấp thiết đó xuất phát từ yêu cầu
thực tiễn của hoạt động trên thị trường chứng khoán nhằm tạo tính ổn định và hiệu
quả của thị trường chứng khoán cũng như đa dạng các loại hàng hoá cho thị trường.
Điều đó có thể được thể hiện qua vai trò không thể phủ nhận được của các quỹ đầu
tư đối với thị trường chứng khoán trong thời gian qua qua các thực tế dưới đây:
Nhiều biến động trên thị trường chứng khoán mà chưa có được giải pháp
bình ổn hiệu quả mà một trong những nguyên nhân là do sự thiếu vắng vai trò tạo
lập thị trường và phân tích đầu tư của các định chế đầu tư có tổ chức chuyên
nghiệp.
Sau gần 18 tháng hoạt động của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Thành phố
Hồ Chi Minh, một thị trường giao dịch chứng khoán tập trung đầu tiên tại Việt
Nam, đã chứng kiến các đợt biến động giá lớn trên thị trường, làm chao đảo các
hoạt động giao dịch, thể hiện rõ rệt sự không ổn định của thị trường. Từ tháng
8/2000 đến tháng 5/2001, giá các loại chứng khoán niêm yết trên thị trường tăng
không ngừng. Sau một thời gian dao động, từ tháng 8 – 10/2001, giá các chứng
khoán niêm yết lại giảm liên tục. Dường như các đợt biến động chưa có những giải
pháp bình ổn hiệu quả mà người ta thường hay đề cập tới. Đó là vai trò tạo lập của
các nhà đầu tư có tổ chức, đặc biệt là các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp.
Các nhà đầu tư có tổ chức chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán phải kể
đến là các công ty bảo hiểm, các quỹ hưu trí và điển hình nhất là các quỹ đầu tư
33
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
chứng khoán. Hoạt động đầu tư của họ đều dựa trên các hiểu biết sâu rộng cũng như
việc nghiên cứu các điều kiện thị trường và tình hình tài chính của doanh nghiệp
của từng công ty cũng như từng loại chứng khoán riêng biệt. Vì vậy, các quyết định
đầu tư của họ không bị ảnh hưỏng bởi các yếu tố tâm lý mua bán theo phong trào
hay là “mua theo, bán theo” mà hoàn toàn dựa vào các dự đoán trong tương lai của
họ.
Sau hơn một năm thị trường chứng khoán Việt Nam đi vào hoạt động, tham
gia vào hoạt động đầu tư tại thị trường chứng khoán tập trung chủ yếu là các nhà
đầu tư cá nhân. Cho đến tháng 11/2001, tổng số các tài khoản giao dịch chứng
khoán mở tại các công ty chứng khoán là trên 8000 tài khoản trong đó số tài khoản
của các tổ chức kinh tế chỉ có 40 tài khoản chiếm tỷ lệ khoảng 0,05% trong tổng số
các nhà đầu tư trên thị trường. Đa phần các nhà đầu tư có tổ chức tham gia đầu tư
trên thị trường đều là tổ chức kinh tế Việt Nam, tận dụng các nguồn vốn tạm thời
nhàn rỗi để đầu tư chứ không phải là các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp. Các tổ chức
đầu tư chuyên nghiệp đầu tư hiện nay chỉ có một số công ty bảo hiểm trong nước và
công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài bắt đầu tham gia đầu tư, tuy nhiên khối
lượng giao dịch còn rất khiêm tốn. Các nhà đầu tư có tổ chức chuyên nghiệp thường
giao dịch mua, bán với khối lượng lớn, do đó có tác động đáng kể tới giá cả trên thị
trường.
Việc hình thành các quỹ đầu tư chứng khoán sẽ góp phần quan trọng tạo cung,
cầu cũng như bình ổn các hoạt động giao dịch cho thị trường chứng khoán Việt
Nam đang bước đầu phát triển và đang chịu tác động mạnh mẽ của yếu tố tâm lý.
Tạo một phương thức đầu tư mới cho các nhà đầu tư muốn đầu tư vào thị
trường chứng khoán, cũng như tạo đa dạng cho hàng hoá mới.
Chứng chỉ đầu tư được coi là một loại chứng khoán, đặc biệt đối với chứng chỉ
đầu tư của các quỹ dạng đóng được niêm yết trên thị trường tập trung sẽ góp phần
tăng lượng hàng hoá giao dịch trên các Trung tâm Giao dịch Chứng khoán. Với đặc
điểm quỹ đầu tư như phần trên đã nói, quỹ đã tạo ra một phương thức đầu tư mới
cho người đầu tư. Nếu như trước kia người đầu tư phải trực tiếp đưa ra quyết định
34
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
mua bán chứng khoán cho mình qua tổ chức trung gian thì nay họ tham gia một
cách gián tiếp vào thị trường chứng khoán bằng cách mua chứng chỉ quỹ đầu tư của
quỹ đầu tư, các quỹ đầu tư sẽ thay mặt họ đảm nhiệm việc đầu tư sao cho có hiệu
quả nhất theo mục đích của quỹ. Ngoài ra, các quỹ đầu tư chứng khoán với các
chính sách và mục tiêu đầu tư khác nhau, với những mức lợi nhuận kỳ vọng và rủi
ro khác nhau, tạo ra nhiều loại sản phẩm đầu tư khác nhau, có thể cung cấp cho
người đầu tư nhiều sự lựa chọn đầu tư theo khả năng tài chính cũng như mức độ
chấp nhận rủi ro của mình.
Có thể nhận thấy vai trò đặc biệt quan trọng và cấp thiết của các quỹ đầu tư
chứng khoán đối với thị trường chứng khoán hiện nay trong việc tạo cung và cầu
cho thị trường, đảm bảo sự ổn định và góp phần phát triển từng bước một thị trường
chứng khoán hiệu quả. Các quỹ đầu tư chứng khoán không chỉ tham gia vào hoạt
động đầu tư tức là tạo cầu cho thị trường mà thông qua việc phát hành chứng chỉ
đầu tư, quỹ góp phần đáng kể vào việc tạo cung cho thị trường.
Có nhiều ý kiến cho rằng sự cấp bách của việc hình thành các quỹ đầu tư
chứng khoán cũng như các công ty quản lý quỹ còn xuất phát từ thực tế là sự hình
thành tự phát trên thị trường một số quỹ tư nhân và coi đây là hình thức manh nha
đầu tiên của các quỹ đầu tư tập thể. Các quỹ tư nhân tự phát trên hình thành khoảng
3 – 4 tháng sau khi thị trường giao dịch tập trung đi vào hoạt động dưới tên các câu
lạc bộ đầu tư. Xuất phát từ sự khan hiếm hàng hoá trên thị trường, giá cả chứng
khoán tăng không ngừng. Tại thời điểm đó, cứ mua được chứng khoán ở phiên giao
dịch trước sẽ có lợi nhuận ngay. Vì vậy, đa số các công ty chứng khoán đã đưa ra
hình thức bắt thăm đặt lệnh. Thứ tự đặt lệnh sẽ theo số thăm bắt được. Một số người
đầu tư cá nhân đã tụ họp với nhau và cùng hùn vốn vào để đầu tư, chủ yếu tận dụng
việc bắt thăm đầu tiên đặt lệnh mua 9900 cổ phiếu (khối lượng giao dịch lô chẵn
lớn nhất được phép đặt lệnh). Những người tham gia câu lạc bộ thường uỷ quyền
cho một số cá nhân có chút kinh nghiệm về đầu tư và đã tham gia đầu tư từ những
ngày đầu của thị trường. Các chứng khoán mua được đứng tên sở hữu của một vài
cá nhân có số vốn góp lớn. Các cá nhân tham gia câu lạc bộ và những người lập quỹ
35
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
đều có các cam kết với nhau để đảm bảo sở hữu đối với các chứng khoán theo số
tiền mình góp. Thực chất, các mối quan hệ uỷ quyền, vay, mượn, chuyển nhượng
giữa những người tham gia vào quỹ thuộc điều chỉnh của Bộ luật Dân sự. Hoạt
động đầu tư của các quỹ do chính những người góp vốn vào quỹ mà chủ yếu là
những người có nhiều tiền và có chút kinh nghịêm về tham gia đầu tư trên thị
trường chứng khoán tự tiến hành đầu tư mà không cần phải thuê một tổ chức đầu tư
chuyên nghiệp nào.
Trong các loại hình kinh doanh của mình, công ty chứng khoán được phép
thực hiện quản lý danh mục đầu tư cho khách hàng. Dưới giác độ đầu tư chuyên
nghiệp, bản chất của hoạt động quản lý danh mục đầu tư cũng tương tự như hoạt
động đầu tư mà công ty quản lý quỹ thực hiện cho các quỹ. Sự khác biệt cơ bản là ở
chỗ vốn uỷ thác quản lý danh mục đầu tư là vốn của một hoặc một số cá nhân riêng
lẻ mà ở một số nước còn được gọi là các quỹ đầu tư tư nhân để phân biệt với các
quỹ đầu tư tập thể là vốn huy động từ công chúng. Sự khác biệt về tính chất của
nguồn vốn huy động dẫn đến sự bảo hộ khác nhau của pháp luật. Với mục đích là
bảo vệ nhà đầu tư, pháp luật các nước đều tập trung chủ yếu vào điều chỉnh các đối
tượng tham gia vào hoạt động của quỹ đầu tư tập thể do việc phát hành ra công
chúng hay tính chất xã hội hoá của các định chế này. Vấn này được đề cập để đưa
ra một thực tế là các quỹ tự phát trên không thực hiện việc huy động vốn mà là sự
đóng góp tự nguyện của những người tham gia. Các quỹ này mang hình thái của
quỹ tư nhân nhưng nó lại rất khác biệt là không uỷ thác hoạt động đầu tư cho một tổ
chức nào mà tự tiến hành đầu tư cho mình. Điều đó có thể lý giải bởi một trong
những hạn chế cơ bản của thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay là tính
chuyên nghiệp của hoạt động đầu tư hầu như chưa cao. Ngay cả đội ngũ những
người hành nghề kinh doanh chứng khoán tại các công ty chứng khoán cũng chưa
có nhiều kinh nghiệm và chuyên môn cao. Từ sự phân tích trên đâycó thể thấy rằng
các quỹ tự phát không có nét tương đồng về bản chất hoạt động với quỹ đầu tư
chứng khoán hay các quỹ đầu tư tập thể là đối tượng nghiên cứu chính trong đề tài.
36
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
2.2. Điều kiện và nhân tố tác động tới việc hình thành và phát triển quỹ
đầu tư và công ty quản lý quỹ ở Việt Nam:
2.2.1 Điều kiện vĩ mô:
a) Môi trường kinh tế:
Sau những năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã có những bước phát triển đáng
kể. Nhịp độ tăng trưởng bình quân hàng năm ổn định từ 8% - 9% trong giai đoạn từ
năm 1992 -1997. Giai đoạn 1998 -1999, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài
chính tại các nước trong khu vực, mức tăng trưởng giảm xuống chỉ còn 4,4%/năm.
Sang năm 2000 lại có dấu hiệu phục hồi với mức tăng trưởng trên 6% . Lạm phát
giảm từ 774,7% năm 1986 xuống còn 67,5% năm 1990, từ năm 1998 xuống dưới
5%. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển đổi theo chiều hướng tích cực, từ năm 1990 bắt
đầu có tích luỹ nội bộ từ nền kinh tế14.
Các chính sách tiền tệ, vấn đề lãi suất, tỷ giá ngoại hối, chỉ số chứng khoán là
những vấn đề nhạy cảm, luôn có tác động đối với thị trường tài chính và thị trường
chứng khoán nói chung cũng như đối với nền kinh tế thị trường nói chung. Về cơ
bản, sự điều hành vĩ mô về các chính sách này ngày càng mang tính thị trường hơn.
Đứng dưới giác độ của người đầu tư, lãi suất tiền gửi cũng như tỷ giá hối đoái là
những yếu tố tác động đến việc di chuyển luồng tiền dùng để đầu tư của công chúng
từ thị trường tiền tệ sang thị trường chứng khoán và ngược lại. Các biến động về lãi
suất cũng như tỷ giá trên thị trường tiền tệ có tác động đáng kể tới thị trường chứng
khoán.
Từ tháng 8/2000, Thống đốc Ngân hàng nhà nước đã thực hiện bước đổi mới
căn bản về điều hành lãi suất, thay cơ chế cũ bằng cơ chế điều hành lãi suất cơ bản
đối với cho vay đồng Việt Nam và cơ chế lãi suất thị trường có sự quản lý đối với
cho vay bằng đồng ngoại tệ. Theo đánh giá chung, với việc thực hiện các giải pháp
đồng bộ, việc thực hiện cơ chế lãi suất cơ bản đã đi vào nề nếp, mặt bằng lãi suất đã
hình thành một cách hợp lý theo xu hướng có lợi cho lãi suất VNĐ, hạn chế được
14 http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=414&idmid=4&ItemID=1337 , truy cập lúc 20:46’ ngày 22/04/2009
37
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
vòng chu chuyển vốn từ VNĐ sang ngoại tệ; lãi suất cho vay được hình thành theo
hướng tích cực, đáp ứng được chủ trương kích cầu của Chính phủ. Hôm
21/10/2007, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đưa lãi suất cơ bản từ mức 14% về
13%. Đây được xem là bước nới lỏng chính sách tiền tệ đầu tiên sau nhiều tháng
thắt chặt. Để chống lạm phát, hôm 1/2/2008, Ngân hàng Nhà nước tăng lãi suất cơ
bản lên 8,75%, sau hơn hai năm duy trì ở mức 8,25%. Tiếp đó, ngày 19/5, lãi suất
cơ bản tăng mạnh lên ngưỡng 12% và chạm đỉnh 14% vào ngày 11/6. Trước diễn
biến của tình hình kinh tế thế giới và trong nước, từ tháng 11/2008, Ngân hàng Nhà
nước tiếp tục giảm mức lãi suất cơ bản từ 13%/năm xuống còn 12%/năm. Đây là
lần cắt giảm lãi suất thứ 2 trong năm 200815. Lãi suất tiền gửi ngoại tệ trong năm
qua của các ngân hàng thương mại đều giảm so với năm trước, mức lãi suất cao
nhất chỉ còn 3,4 – 3,7%/năm so với 6%/năm của cùng kỳ năm trước16.
Môi trường kinh tế ổn định làm cho nhu cầu về vốn cho sản xuất và kinh
doanh tăng lên, các doanh nghiệp có nhu cầu huy động vốn, do đó tạo ra cơ hội cho
việc tham gia của các quỹ đầu tư vào nền kinh tế nói chung.
Theo một kết quả điều tra của Tổng cục thống kê về vốn đầu tư cho phát triển
của toàn xã hội trong hai năm 2007 – 2008, khối lượng vốn đầu tư toàn xã hội thực
hiện năm 2007 theo giá thực tế ước tính đạt 461,9 nghìn tỷ đồng, bằng 40,4% tổng
sản phẩm trong nước (đạt kế hoạch đề ra 40% GDP) và tăng 15,8% so với năm
2006, trong đó vốn khu vực Nhà nước 200 nghìn tỷ đồng, chiếm 43,3% tổng vốn và
tăng 8,1%; vốn khu vực ngoài Nhà nước 187,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 40,7% và tăng
24,8%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 74,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 16% và tăng
17,1%.Trong vốn nhà nước, vốn đầu tư từ ngân sánh nhà nước (gồm vốn dự án và
chương trình mục tiêu) ước tính thực hiện 97 nghìn tỷ đồng, bằng 101,6% kế hoạch
năm, trong đó vốn do địa phương quản lý 64,4 nghìn tỷ đồng, bằng 107,2%, vốn
trung ương quản lý đạt thấp hơn so với dự toán, chỉ bằng 92,2%; vốn tín dụng đầu
tư phát triển của Nhà nước ước tính 40,3 nghìn tỷ đồng, đạt kế hoạch năm và vốn
15 http://www.vnexpress.net/GL/Kinh-doanh/2008/11/3BA08093/ , 15:16 ngày 5/11/2008 truy cập lúc 21:4’ ngày 22/04/200916 http://vietbao.vn/Kinh-te/Lai-suat-tien-gui-tiet-kiem-tiep-tuc-giam/10830393/87/ ngày 28/11/2008 truy cập lúc 21:29’ ngày 22/04/2009
38
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
của các doanh nghiệp nhà nước và các tổ chức nhà nước khác khoảng 62,7 nghìn tỷ.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tiếp tục tăng khá, ước tính năm 2007 đạt 20,3 tỷ
USD, tăng 69,3% so với năm 2006 và vượt 56,3% kế hoạch cả năm, trong đó vốn
cấp phép mới là 17,86 tỷ USD17. Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2008 theo
giá thực tế ước tính đạt 637,3 nghìn tỷ đồng, bằng 43,1% GDP và tăng 22,2% so với
năm 2007, bao gồm vốn khu vực Nhà nước 184,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 28,9% tổng
vốn và giảm 11,4%; khu vực ngoài Nhà nước 263 nghìn tỷ đồng, chiếm 41,3% và
tăng 42,7%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 189,9 nghìn tỷ đồng, chiếm
29,8% và tăng 46,9%. Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài năm nay tiếp tục đạt
kết quả cao. Trong tháng 12/2008, cả nước có 112 dự án đầu tư nước ngoài được
cấp phép mới với tổng số vốn đăng ký 1254 triệu USD, nâng tổng số dự án cấp
phép từ đầu năm đến 19/12/2008 lên 1171 dự án với tổng vốn đăng ký 60,3 tỷ USD,
giảm 24,2% về số dự án nhưng gấp 3,2 lần về vốn đăng ký so với năm 2007. Nếu
tính cả 3,7 tỷ USD vốn đăng ký tăng thêm của 311 dự án được cấp phép từ các năm
trước thì năm 2008 cả nước đã thu hút được 64 tỷ USD vốn đăng ký, gấp gần 3 lần
năm 2007, đạt mức cao nhất từ trước tới nay. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực
hiện năm 2008 đạt 11,5 tỷ USD, tăng 43,2% so với năm 200718.
Số liệu trên cho thấy nhu cầu vốn đầu tư của xã hội rất lớn và nhu cầu đó sẽ
ngày càng tăng cùng với sự phát triển của nền kinh tế. Để tạo điều kiện cho các định
chế tài chính trong đó có thị trường chứng khoán và các quỹ đầu tư chứng khoán
phát triển và hoạt động hiệu quả cũng như người dân có thể an tâm bỏ vốn đầu tư
qua các tổ chức trên, cần tạo ra các cơ chế và chính sách phù hợp như chính sách
phát triển kinh tế một cách hợp lý, đổi mới cơ chế tài chính cho hệ thống tài chính
quốc gia và tài chính doanh nghiệp.
Chính sách đề cập ở đây bao gồm chính sách dài hạn, trung hạn và ngắn hạn.
Chính sách dài hạn, trung hạn phải được xây dựng trên một tầm nhìn chiến lược,
được sử dụng trong một thời gian dài. Vì vậy, nó cần được xây dựng trên cơ sở báo
17 http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=230&ItemID=6900 , 17:38 31/12/2007 truy cập 22:18’ ngày 25/04/200918 http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=507&ItemID=8217 ,14:08 31/12/2008 truy cập 22:30’ ngày 25/04/2009
39
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
cáo tổng hợp, phân tích chuẩn xác, từ đó mới có thể đề ra được một chiến lược đúng
đắn. Chính sách ngắn hạn được xây dựng trên cơ sở chính sách dài hạn, đồng thời
có sự điều chỉnh dựa trên diễn biến tình hình thực tế của từng thời kỳ.
b) Môi trường pháp lý:
Nếu như môi trường kinh tế là nền tảng thì môi trường pháp lý, nếu phù hợp
và đồng bộ, sẽ tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán nói chung và công ty quản
lý quỹ cũng như các quỹ đầu tư hoạt động lành mạnh, có hiệu quả và ngày càng
phát triển. Môi trường pháp lý đồng bộ, ổn định phải đạt được các yêu cầu sau:
+ Có hệ thống văn bản pháp quy mang tính tổng thể quy định cụ thể và rõ
ràng về địa vị pháp lý, phạm vi hoạt động, quyền và trách nhiệm của các bên tham
gia vào hoạt động của các định chế trên nhằm mục đích của pháp luật là bảo vệ
người đầu tư.
+ Tạo ra các cơ chế đầy đủ và đồng bộ cho các hoạt động của các định chế
như cơ chế thuế, ngoại hối,…
Ngành chứng khoán tại Việt Nam hình thành chậm hơn rất nhiều so với các
ngành khác. Vì vậy khái niệm về chứng khoán và thị trường chứng khoán dường
như chưa được đề cập nhiều tới trong các bộ Luật trước đây từ Luật Dân sự đến
Luật Thương mại, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Doanh nghiệp… Riêng công ty
quản lý quỹ và quỹ đầu tư lại là các đối tượng hoàn toàn mới chưa từng được đề cập
đến trong bất lỳ văn bản pháp lý nào trước đây ngoài Nghị định 48/1998/CP – NĐ
về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Vì văn bản điều chỉnh hoạt động của
các đối tượng tham gia vào thị trường chứng khoán nói chung và công ty quản lý
quỹ cũng như quỹ đầu tư chỉ ở cấp độ Nghị định, do đó các đối tượng này đồng thời
phải chịu sự điều chỉnh của các luật liên quan trong khi các luật này lại chưa đưa ra
các quy phạm điều chỉnh cụ thể và đầy đủ. Điều đó dẫn đến nhiều mâu thuẫn, chồng
chéo, không đồng bộ trong hệ thống các văn bản điều chỉnh về các đối tượng tham
gia thị trường chứng khoán. Sự ra đời Luật Chứng khoán năm 2005 đã đảm bảo
hiệu lực pháp lý cao hơn, góp phần ổn định môi trường pháp lý cho hoạt động của
40
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
thị trường chứng khoán cũng như của các định chế tài chính trung gian như quỹ đầu
tư và công ty quản lý quỹ.
2.2.2. Điều kiện vi mô:
Điều kiện vi mô cho sự phát triển của bất kỳ một tổ chức kinh tế nào bao gồm
nhiều yếu tố, tuy nhiên tôi chỉ đề cập ở đây những yếu tố cơ bản và có thể tác động
tới các quỹ đầu tư tập thể cũng như các công ty quản lý quỹ. Đó là triển vọng phát
triển của ngành chứng khoán, khả năng gia nhập ngành hay việc tham gia vào hoạt
động kinh doanh quản lý quỹ của các tổ chức kinh tế, yếu tố tâm lý người đầu tư,
các nhân tố định mức tín nhiệm.
a) Sự phát triển của thị trường chứng khoán:
Triển vọng tăng trưởng của một ngành kinh tế có thể có liên hệ chặt chẽ với
chu kỳ kinh tế. Một ngành có triển vọng tăng trưởng mạnh có thể mang lại cho các
doanh nghiệp trong ngành những cơ hội kinh doanh thuận lợi.
Sự phát triển của thị trường chứng khoán là một trong các yếu tố vi mô ảnh
hưởng lớn tới sự hình thành của các quỹ đầu tư chứng khoán và công ty quản lý quỹ
bởi vì đây chính là môi trường hoạt động kinh doanh chính cho các định chế này.
Sự ra đời thị trường chứng khoán Việt Nam được đánh dấu bằng việc đưa vào
vận hành Trung tâm Giao dịch Chứng khoán tại TP Hồ Chí Minh vào tháng
7/200119. Lúc này thực tế cho thấy quy mô thị trường còn quá nhỏ. Sự đóng góp của
thị trường đối với sự phát triển kinh tế hầu như chưa đáng kể. Tuy thị trường chứng
khoán Việt Nam chưa mang lại hiệu quả thực sự cho nền kinh tế Việt Nam nhưng
bước đầu đã tạo tiền đề cho việc huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế.
Tuy nhiên, cùng với các chính sách định hướng của chính phủ cũng như yêu
cầu của nền kinh tế thị trường để nền kinh tế Việt Nam sớm có thể hoà nhập vào
nền kinh tế thế giới, vai trò của thị trường chứng khoán sẽ ngày càng được thừa
nhận và sẽ thu hút đông đảo công chúng đầu tư. Nhờ đó mà hoạt động kinh doanh
19 http://vietnamnet.vn/60nam/2006/02/538850/ , 16:52' 06/02/2006 truy cập lúc 23:56’ ngày 25/04/2009
41
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
của các định chế tài chính như các quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường cũng
phát triển và có hiệu quả hơn.
Mặc dầu quy mô TTCK Việt Nam vẫn còn khiêm tốn, nhưng triển vọng phát
triển trong tương lai được đánh giá là khá tiềm năng khi mà chính phủ và các doanh
nghiệp đang có những động thái rất tích cực nhằm thúc đẩy hoạt động của thị
trường chứng khoán. Chính phủ đang xúc tiến cổ phần hóa một loạt các tổng công
ty lớn thuộc sở hữu Nhà nước như Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Mobile
phone, Vina phone, v.v... với quy mô vốn từ vài trăm đến vài ngàn tỉ đồng. Chính
phủ chủ trương sau khi cổ phần hóa sẽ nhanh chóng niêm yết cổ phiếu của các tổng
công ty này trên TTGDCK. Các ngân hàng cổ phần tiến hành niêm yết cổ
phiếu.Sacombank đã niêm yết vào đầu tháng 7.2006 và dự kiến tiếp đến sẽ là ACB.
Mỗi ngân hàng có giá trị thị trường hơn 1 tỉ đô la Mỹ. Cổ phần hóa và niêm yết các
công ty đầu tư nước ngoài. Công ty có vốn đầu tư nước ngoài đầu tiên đã cổ phần
hóa thành công là Công ty cáp điện Taya vào tháng 5.2005 với số vốn điều lệ là
182,67 tỉ đồng. Công ty thứ hai là Interfood với số vốn điều lệ 206,3 tỉ đồng. Đây là
một nguồn cung quan trọng cho TTCK.20
b) Khả năng gia nhập ngành :
Khi tham gia vào một ngành kinh doanh nào đó, các doanh nghiệp sẽ phải
đương đầu với áp lực cạnh tranh tiềm tàng để gia nhập ngành đó. Có thể đưa ra ví
dụ về các công ty chứng khoán thực hiện kinh doanh chứng khoán trong một thị
trường với quy mô hẹp và hạn chế như hiện nay đang phải chịu nhiều cạnh tranh về
nhiều lĩnh vực hoạt động và điều đó sẽ tạo nhiều áp lực đối với các công ty có ý
định hoặc mong muốn tham gia hoạt động kinh doanh chứng khoán.
Đối với các công ty quản lý quỹ và quỹ đầu tư, hiện các áp lực cạnh tranh để
gia nhập ngành này dường như chưa lớn. Do ngành chỉ mới được hình thành trong
vài năm gần đây nên hiện còn rất tiềm năng và số lượng các quỹ và công ty quản lý
quỹ trên thị trường cũng chưa nhiều. Vì vậy áp lực gia nhập ngành chủ yếu chỉ là
các chính sách vĩ mô từ phía các cơ quan quản lý nhà nước nhằm đảm bảo sự vận 20 http://vietbao.vn/Kinh-te/Bai-6-Thi-truong-chung-khoan-va-quy-dau-tu-o-Viet-Nam/45201257/87/ , 00:02 ngày 14/07/2006, truy cập lúc 00:27’ ngày 26/04/2009
42
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
hành suôn sẻ ngay từ ban đầu của các định chế tài chính mới xuất hiện trong thời
gian gần đây tại Việt Nam. Sau khi các quỹ đầu tư và các công ty quản lý quỹ đã
phát triển tới một mức độ nhất định, các chính sách vĩ mô chắc chắn sẽ mang tính
thị trường hơn và sẽ không tác động nhiều tới việc gia nhập ngành quỹ đầu tư của
các tổ chức kinh tế nếu họ đáp ứng đủ các tiêu chí theo yêu cầu của pháp luật.
c) Yếu tố tâm lý người đầu tư:
Yếu tố tâm lý tồn tại tại bất kỳ thị trường chứng khoán nào, dù đó là một thị
trường phát triển. Đặc biệt trong các thị trường còn sơ khai như thị trường chứng
khoán Việt Nam, yếu tố tâm lý có tác động chi phối đáng kể các hoạt động giao
dịch trên thị trường.
Ngay từ những ngày đầu mở cửa Trung tâm Giao dịch Chứng khoán thành phố
Hồ Chí Minh, thị trường chứng khoán đã thu hút công chúng đầu tư, mặc dù thị
trường chỉ có ít loại cổ phiếu được niêm yết và hoạt động giao dịch ở quy mô nhỏ
bé. Giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường có nét đặc biệt là sự gia tăng giá liên
tục của các loại cổ phiếu niêm yết, nguyên nhân chính là do sự chênh lệch cung cầu
trên thị trường chứng khoán và tâm lý của người đầu tư. Người đang nắm giữ cổ
phiếu hầu như không muốn bán ra, chờ hưởng chênh lệch giá. Việc lao vào mua cổ
phiếu với kỳ vọng thu lãi lớn từ việc tăng giá, hoàn toàn không quan tâm đến kết
quả kinh doanh thực tế của công ty niêm yết đã liên tục đẩy giá cổ phiếu liên tục
chạm trần. Điều này làm cho giá của các loại cổ phiếu tăng giá gấp nhiều lần so với
giá tham chiếu ban đầu khi bắt đầu đưa vào giao dịch. Để tránh biến động lớn cho
thị trường do có sự chênh lệch lớn về khối lượng đặt mua và khối lượng chào bán,
Trung tâm Giao dịch Chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh đã áp dụng một số biện
pháp mang tính hành chính (thay đổi biên độ dao động, khối lượng tối đa mà người
đầu tư được phép đặt mua). Việc làm này có một số tác động nhất định làm bình ổn
thị trường. Nhưng đến giai đoạn bắt đầu từ tháng 8 đến tháng 10/2001, giá lại liên
tục hạ. Người đầu tư tranh nhau “bán tống, bán tháo” các chứng khoán mình nắm
giữ làm cho giá cả liên tục hạ dẫn đến tình trạng không thể kiểm soát được.
43
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
Việc đầu tư theo phong trào dẫn đến các hiệu ứng “đàn cừu” là một trong các
yếu tố tồn tại của thị trường chứng khoán Việt Nam. Có thể thấy một thực tế sẽ
không tránh khỏi là yếu tố tâm lý chi phối các quỹ đầu tư từ việc thu hút vốn tới
việc giao dịch các chứng chỉ quỹ đầu tư trên thị trường thứ cấp. Ngoài ra, yếu tố
tâm lý của người đầu tư sẽ tác động dưới giác độ khác do đặc điểm riêng biệt khi
đầu tư vào quỹ. Khi người đầu tư quyết định đầu tư vào quỹ, vấn đề họ sẽ quan tâm
trước tiên là quỹ đầu tư có mang lại thu nhập cao hơn tiền gửi tiết kiệm hay không?
Người đầu tư sẽ cân nhắc giữa việc gửi tiền tiết kiệm và đầu tư vào quỹ. Khi gửi
tiền tiết kiệm, người đầu tư chắc chắn sẽ nhận được một khoản tiền lãi định kỳ và số
tiền gốc mình gửi không hề bị hao hụt (trừ trường hợp hao hụt hữu hình khi tính giá
trị của đồng tiền theo thời gian). Ngược lại, các quỹ đầu tư không cam kết bất cứ
khoản lợi nhuận kỳ vọng nào cho những người đầu tư vào quỹ. Người đầu tư chỉ
dựa vào uy tín của công ty quản lý quỹ mà quyết định việc đầu tư của mình. Vì vậy,
khả năng thành công trong lần phát hành đầu tiên của các quỹ là vấn đề đáng quan
tâm. Ngoài ra, nếu quỹ hình thành đầu tiên dưới dạng các quỹ đóng, việc giá chứng
chỉ quỹ đầu tư giao dịch với giá chiết khấu cũng sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ đến tâm lý
của người đầu tư, có thể dẫn đến hiện tượng bán theo phong trào như đã kể trên.
d) Các tổ chức định mức tín nhiệm:
Việc định mức tín nhiệm quỹ đầu tư chứng khoán ở các thị trường có ngành
quỹ đầu tư phát triển có một vai trò quan trọng. Bởi vì một số công trình nghiên cứu
khoa học trên thế giới cho thấy những quỹ được xếp hạng càng cao thì càng thu hút
nhiều hơn các luồng tiền của người đầu tư. Nếu như việc định mức tín nhiệm trái
phiếu dựa trên cơ sở là mức trả gốc và lãi của một trái phiếu, việc định mức tín
nhiệm quỹ đầu tư chứng khoán được thực hiện bằng cách phân loại các kiểu quỹ
theo mục đích đầu tư. Sau đó, việc định mức được dựa trên việc tổng hợp thu nhập
có tính rủi ro trong khoảng thời gian 3 năm, 5 năm và 10 năm đối với những quỹ có
thời gian hoạt động từ 10 năm trở lên, trong khoảng thời gian 3 năm, 5 năm đối với
những quỹ có thời gian hoạt động từ 5 năm đến 10 năm và trong khoảng 3 năm đối
với các quỹ có thời gian hoạt động ít hơn 5 năm. Và nếu như biểu tượng của định
44
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
mức tín nhiệm trái phiếu là các chữ cái in hoa A, B, C thì biểu tượng mức tín nhiệm
của quỹ đầu tư chứng khoán là dấu sao.
Việc định mức tín nhiệm quỹ đầu tư chứng khoán do một tổ chức chuyên
ngành thực hiện. Đây là một tổ chức độc lập hoàn toàn, không chịu ảnh hưởng của
các áp lực về chính trị cũng như sự tác động của các tổ chức mà nó đang thực hiện
việc xếp hạng.
Thực trạng tại Việt Nam cho thấy tới nay có rất ít tổ chức định mức tín nhiệm
được hình thành và hoạt động. Thực tế, việc vắng bóng các tổ chức định mức tín
nhiệm không phải là một tồn tại đáng kể đối với việc hình thành các quỹ đầu tư
chứng khoán và công ty quản lý quỹ. Tuy nhiên, người đầu tư sẽ an tâm hơn khi
tiếp cận được một số thông tin từ các tổ chức đánh giá có uy tín, giúp họ dự đoán,
phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở, nền tảng cho các quỹ đầu tư chứng khoán hoạt động
lành mạnh.
2.3. Thực trạng hoạt động của quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ tại VN:
2.3.1. Giới thiệu về các quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ tại VN:
Ngành quản lý quỹ đầu tư tại Việt Nam chỉ mới hình thành từ cuối năm 2003,
và đến nay cũng chỉ đang trong những bước đi ban đầu. Tháng 6.2006, trên thị
trường có 7 công ty quản lý quỹ được cấp giấy phép21. Cho tới cuối năm 2008 trên
thị trường số công ty quản lý quỹ đã tăng lên 46 quỹ được cấp phép hoạt động22. Có
được điều này là do sự thông thoáng trong các quy định pháp lý của Uỷ ban Chứng
khoán nhà nước. Trước đây các quỹ đầu tư và các công ty quản lý quỹ nước ngoài
muốn tham gia đầu tư vào thị trường chứng khoán Việt Nam phải tiến hành liên
doanh với một doanh nghiệp Việt Nam chứ không được phép thành lập và đầu tư
trực tiếp vào thị trường. Nhưng hiện nay theo các quy định mới nhất của pháp luật
Việt Nam về đầu tư cũng như chứng khoán như Nghị định số 14/NĐ/2007, Quyết
định 35/2007/QĐ – BTC về Công ty quản lý quỹ, Quyết định 45/2007/QĐ – BTC
21 http://vietbao.vn/Kinh-te/Bai-6-Thi-truong-chung-khoan-va-quy-dau-tu-o-Viet-Nam/45201257/87/ ,00:02 ngày 14/07/2006, truy cập lúc 00:27’ ngày 26/04/200922 http://www.ssc.gov.vn/portal/page/portal/ubck/csdlcty/1321016?p_page=1 ,truy cập ngày 26/04/2009 14:30
45
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
về Quỹ đầu tư…các công ty quản lý quỹ và quỹ đầu tư nước ngoài đã có thể đuợc
hình thành và tham gia đầu tư trực tiếp trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Điều
này sẽ làm cho ngành quản lý quỹ tại Việt Nam phát triển sôi động và nhanh chóng
bắt kịp với sự phát triển của thế giới.
Trong các công ty quản lý quỹ được hình thành và đang hoạt động trên thị
trường hiện nay phải kể tới hoạt động của hai công ty chứng khoán tiêu biểu đánh
dấu cho sự phát triển của lĩnh vực quản lý quỹ tại Việt Nam, đó là Công ty quản lý
Quỹ đầu tư chứng khoán Việt Nam (VFM) và Công ty Quản lý quỹ Prudential Việt
Nam. Công ty Quản lý Quỹ đầu tư chứng khoán Việt Nam (VFM) là công ty đầu
tiên được hình thành, đánh dấu cho sự ra đời của ngành quản lý quỹ đầu tư tại Việt
Nam với sự ra đời của Qũy đầu tư VF1. Công ty hiện đang là công ty quản lý quỹ
Việt Nam hàng đầu trên thị trường. Trong các công ty quản lý quỹ nước ngoài đang
hoạt động trên thị trường hiện nay, Công ty quản lý quỹ Prudential Việt Nam, một
trong những công ty quản lý quỹ nước ngoài đầu tiên đuợc cấp phép thành lập và
hoạt động tại Việt Nam, được đánh giá là một trong những công ty nước ngoài hàng
đầu trong lĩnh vực quản lý quỹ với số lượng nhà đầu tư lớn nhất tại Việt Nam.
a) Công ty quản lý Quỹ đầu tư chứng khoán Việt Nam (VFM) và quỹ
đầu tư Chứng khoán Việt Nam VF1:
Công ty Quản lý Quỹ đầu tư Chứng khoán Việt Nam (VFM)23: là đơn vị tiên
phong trong lĩnh vực quản lý quỹ đầu tư tại Việt Nam. Thành công liên tiếp của
công ty VFM dựa trên nền tảng đoàn kết, liêm chính, sáng tạo và luôn đặt lợi ích
nhà đầu tư lên hàng đầu.
Công ty Quản lý quỹ được thành lập từ sự liên doanh hợp tác của hai đối tác
tài chính lớn là Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn thương tín (Sacombank) và
công ty tài chính Dragon Capital. Hoạt động chính của công ty là quản lý các quỹ
đầu tư và quản lý danh mục đầu tư. Hiện công ty đang quản lý 4 quỹ đầu tư dạng
đóng gồm VF1, VF2, VF3 và VF4 với tổng tài sản lên đến 300 triệu USD.
23 http://www.vinafund.com/VFVN/index.php?l1=357&l2=361 , truy cập 24h:00 ngày 27/04/2009
46
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
Quỹ đầu tư chứng khoán Việt Nam (VF1)24: là quỹ công chúng dạng đóng đầu
tiên của Việt Nam được lập năm 2004 bởi Vietfund, được huy động nguồn vốn từ
cá nhân, pháp nhân trong và ngoài nước với quy mô vốn ban đầu 300 tỷ đồng trong
vòng 10 ngày vào tháng 4/2004. Quỹ đầu tư VF1 được niêm yết tại Sở Giao dịch
Chứng khoán Tp. HCM (trước đây là Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Tp. HCM)
từ tháng 11/2004.
Mục tiêu mà Quỹ đầu tư VF1 nhắm đến là xây dựng được một danh mục đầu
tư cân đối và đa dạng nhằm tối ưu hóa lợi nhuận, tối thiểu hóa các rủi ro cho nguồn
vốn đầu tư của quỹ. Phần lớn các thương vụ đầu tư sẽ được tập trung vào các loại
chứng khoán đang và sẽ niêm yết trên TTCK Việt Nam. Chứng khoán này bao gồm
chứng khoán của các công ty đang niêm yết trên thị trường, các loại trái phiếu
Chính phủ, trái phiếu công ty, cổ phiếu của các công ty cổ phần. Ngoài ra, mục tiêu
của quỹ còn nhắm đến trong quá trình đầu tư là giúp các đơn vị tái cơ cấu về mặt tài
chính, phát triển hệ thống quản trị, nâng cao năng lực cạnh tranh… nhằm làm gia
tăng giá trị của chính các công ty này và vì thế gia tăng về mặt giá trị các khoản đầu
tư của Quỹ đầu tư VF1.
Các cột mốc chính:
Năm 2004: khởi đầu với số vốn điều lệ 300 tỷ đồng
Năm 2006: Tăng vốn điều lệ lên 500 tỷ đồng
Năm 2006: Trở thành quỹ hoạt động hiệu quả nhất trong nhóm các thị
trường mới nổi (LCF Rothschild Country Fund Research – Daily Pairty Sheet 8 Jan
2007)
Năm 2007: Tăng vốn điều lệ lên 1.000 tỷ đồng
31/12/2007: Tổng giá trị tài sản ròng là 3.837,1 tỷ đồng
Với những thành quả mà Quỹ đầu tư VF1 đạt được, Quỹ đầu tư VF1 đã trở
thành quỹ đầu tư lớn nhất và thành công nhất tại Việt Nam (xem phụ lục: Thông tin
chi tiết về Quỹ đầu tư VF1).
24 http://www.vinafund.com/VFVN/index.php?l1=358&l2=366 truy cập ngày 28/04/2009 15:40
47
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
Hoạt động của quỹ: Kết thúc năm 2008, tổng tài sản ròng (NAV) của quỹ đầu
tư VF1 đạt 1.697 tỷ đồng, tương đương 16.970 đồng/chứng chỉ quỹ. So với đầu
năm, NAV của Quỹ đầu tư VF1 ghi nhận mức giảm 52,6% bằng 79,8% mức giảm
của VN-Index và bằng 78% mức giảm của HASTC-Index. Sự sụt giảm NAV của
Quỹ đầu tư VF1 năm 2008 thấp hơn mức giảm của thị trường nhờ vào cơ cấu tài
sản của Quỹ đầu tư VF1 được phân bổ cân bằng và linh hoạt theo từng giai đoạn
diễn biến của thị trường. Giai đoạn từ tháng 1 đến tháng 4/2008, tỷ lệ trái phiếu, tiền
và tài sản khác trong danh mục tuy ở mức thấp nhưng cũng duy trì từ 20% đến
27,8%; trong khi đó tỷ lệ cổ phiếu dao động quanh mức 72,2% đến 80%. Trong giai
đoạn từ tháng 5 đến tháng 12/2008, khi VN-Index luôn ở mức thấp nhất trong vòng
2 năm trở lại đây và nền kinh tế thế giới đang bước vào thời kỳ suy thoái, Quỹ đầu
tư VF1 nhanh chóng tái cơ cấu lại tài sản trong danh mục đầu tư nhằm giảm thiểu
mức độ ảnh hưởng của thị trường đối với danh mục, tỷ lệ trái phiếu, tiền và tài sản
khác luôn duy trì từ mức 32% đến 46%, tỷ lệ cổ phiếu dao động quanh mức 54%
đến 68%. Luỹ kế từ khi hoạt động, tăng trưởng NAV VF1 đạt 69,7% (sau khi trừ cổ
tức đã chia từ khi thành lập tới nay), gấp hơn 3 lần mức tăng trưởng 20,7% của VN-
Index trong cùng kỳ.25( xem phụ lục 5: Danh mục đầu tư của quỹ)
Bảng 1.1: Cơ cấu phân bổ tài sản của quỹ VF1
4 Ứn g trướ c cho
các
kho
ản
4,8
5 Tiề
n -
phải
thu
khá c
18,4
b) Công ty quản lý quỹ Prudential Việt Nam và quỹ đầu tư chứng khoán
PRUBF 1:
Công ty quản lý quỹ Prudential Việt Nam26: chính thức hoạt động từ đầu
tháng 6/2005, là công ty quản lý quốc tế hàng đầu với số lượng nhà đầu tư lớn nhất
tại Việt Nam. PVFMC áp dụng nguyên tắc đầu tư theo định hướng giá trị trong dài
hạn đối với các quỹ và danh mục đầu tư cho các nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư tổ
25 Báo cáo thường niên năm 2008 của VF1, http://www.vinafund.com/VFVN/index.php?l1=359&l2=371&l3=413&year=2008 truy cập ngày 28/04/2009 14:36’26 http://prudentialfund.com.vn/vn/company_profile.php , truy cập ngày 29/04/2009 13:30
48
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
chức trong và ngoài nước, với tổng tài sản hiện đang quản lý trị giá trên 1,4 tỉ đô la
Mỹ (tính đến 31/12/2007).
Từ năm 1999, PVFMC đã xây dựng đội ngũ chuyên gia đầu tư (gồm 25
chuyên gia đầu tư) ngay tại Việt Nam, với thành tích quản lý đầu tư trái phiếu, cổ
phiếu niêm yết và chưa niêm yết, đầu tư trực tiếp /đầu tư thỏa thuận và bất động sản
trong vùng Đông Dương, hoạt động trên cùng một nền tảng đầu tư toàn cầu mà
PCA đang áp dụng tại 13 thị trường tại châu Á, bao gồm: Trung Quốc, Hồng Kông,
Ấn Độ, Indonesia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mã Lai, Philippines, Singapore, Đài Loan,
Thái Lan, Việt Nam và Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất.
Quỹ đầu tư cân bằng Prudential (PRUBF1)27: Đây là quỹ đầu tư cân bằng đầu
tiên được thành lập của Công ty quản lý quỹ Prudential Việt Nam. Hiện đang là một
trong những quỹ đầu tư nước ngoài hàng đầu tại Việt Nam. Các thông tin cơ bản về
quỹ được trình bày tại bảng 1.2.
Hoạt động của quỹ: Chiến lược đầu tư là đầu tư vào một danh mục đầu tư
cân bằng bao gồm các công cụ nợ (trái phiếu từ trung đến dài hạn) và cổ phiếu
công chúng của các công ty đang hoạt động tại Việt Nam trong các ngành và
lĩnh vực có tiềm năng cao. Ban đại diện quỹ được uỷ quyền để xác định mức
phân bổ tài sản với mục đích đặt ra tỷ suất lợi nhuận nhằm xác định hiệu quả
hoạt động của quỹ theo tỷ suất cơ bản. Ban đại diện Quỹ đã đặt ra mức phân
bổ tài sản chuẩn là 30% vào cổ phiếu (gắn liền với chỉ số VN-Index) và 70%
vào công cụ nợ cố định (gắn liền với Trái phiếu Nhà nước kỳ hạn 5 năm) cho
giai đoạn đầu tư từ ngày 01/01/2009 đến 31/12/2009. Tháng 2/2009 chỉ số Vn –
Index giảm 0,5%. Tính đến thời điểm ngày 28/02/2009, Quỹ đầu tư 79% vào
trái phiếu và 10% vào cổ phiếu. Quỹ cũng đang nắm giữ 11% giá trị danh mục
bằng tiền mặt và tiền gửi ngắn hạn. Bảng 1.2: Giới thiệu chung về quỹ
PRUBF1
Ngà
y
được
cấp
phép
5/10
/
2006
27 http://staging.prudentialfund.com.vn/file/PRUBF1/PRUBF1%2028%20Feb%202009%20V.pdf , truy cập ngày 29/04/2009 14:35
49
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
Côn
g
ty
quản
lý
quỹ
Côn
g
ty
quản
lý
quỹ
đầu tư
Prud
e
ntia
l
Việ
t
Nam
Thời
gian
hoạt
động
7 nă
m từ
ngày
cấp
phép
Trong tháng 02/2009, Quỹ tiếp tục đầu tư ưu tiên vào trái phiếu hơn là cổ
phiếu. Danh mục cổ phiếu bao gồm 17 công ty niêm yết chiếm 5% giá trị tài sản
ròng (NAV), và 9 công ty đại chúng chưa niêm yết (OTC) chiếm 4% NAV. Trong
suốt tháng 02/2009, danh mục cổ phiếu đã được tái cấu trúc lại bao gồm giảm tỷ lệ
các cổ phiếu nhỏ đã không còn phù hợp với tiêu chí đầu tư của quỹ. Tỷ suất lợi
nhuận của danh mục cổ phiếu cao hơn Vn – Index 4,3%. Danh mục trái phiếu
chiếm 79% tổng tài sản của quỹ. Trong suốt tháng 02/2009, lãi suất của thị trường
trái phiếu giảm nhẹ giúp cải thiện danh mục đầu tư của quỹ. Đến cuối tháng
02/2009, NAV/chứng chỉ của PRUBF1 là 7.701. Chứng chỉ quỹ đang giao dịch ở
mức 44% thấp hơn NAV của PRUBF1 tại thời điểm 20/02/2009 (xem phụ lục 6)
Bảng 1.3: Cơ cấu phân bổ tài sản của quỹ PRUBF1
STT
Loạ
i
tài
sản
%
NA
V
đầu
tư
1 Cổ
phiế
u
niêm
yết 5
2 Cổ
phiế
u
OTC 4
3 Cổ
phần
hoá 1
4 Trái
phiế
u
79
5
Tiền
gửi c
ó
kỳ
hạn
11
Với những lợi ích tiềm tàng có thể mang lại cho các nhà đầu tư cá nhân và tổ
chức, cũng như khả năng đóng góp vào sự phát triển của TTCK, quỹ đầu tư thật sự
đang đứng trước một cơ hội phát triển to lớn.
2.3.2. Đánh giá chung :
50
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
a) Các quy định của pháp luật về Quỹ đầu tư chứng khoán và công ty
quản lý quỹ chưa đầy đủ và chặt chẽ:
Do quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ là những định chế mới được thành lập
trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong vài năm gần đây nên hệ thống pháp
luật điều chỉnh việc thành lập và hoạt động của các định chế này vẫn chưa được
hoàn thiện và còn tồn tại nhiều bất cập. Điều này khiến cho việc vận hành các công
ty quản lý quỹ và quỹ đầu tư tại Việt Nam hiện nay đang gặp nhiều khó khăn.
Các quy định hiện hành liên quan tới các quỹ đầu tư dạng tín thác tại Việt Nam
còn chưa chặt chẽ và đầy đủ để điều chỉnh quyền hạn, trách nhiệm của người tín
thác và đặc biệt là người thụ uỷ trong hoạt động của quỹ cũng như các quyền của
người hưởng lợi trong trường hợp tài sản của họ bị xâm phạm. Điều đó thể hiện ở
các điểm sau:
Về hợp đồng quản lý giám sát: Bản chất của hợp đồng quản lý giám sát
chính là hợp đồng tín thác. Hợp đồng tín thác là hợp đồng ký kết giữa ba bên, giữa
người đầu tư (người hưởng lợi), người tín thác và người thụ uỷ. Nhưng người
hưởng lợi cũng như quyền của họ đều chưa được đề cập tới trong hợp đồng quản lý
giám sát. Họ là người thụ hưởng chính trong quan hệ tín thác đó nhưng các quy
định pháp luật chưa đưa ra các quy định về việc tham gia của họ vào ký kết hợp
đồng tín thác.
Trách nhiệm của người giám sát: Theo quy định hiện nay, các ngân hàng
sẽ đảm nhận luôn chức năng giám sát hoạt động của quỹ. Có thể thấy rõ nghĩa vụ
của tổ chức giám sát hoạt động là những người phải chịu trách nhiệm đối với các tài
sản uỷ thác, tức là tiền góp vào quỹ, của người đầu tư uỷ thác cho họ, những vấn đề
này dường nhưu chưa được quy định cụ thể. Liên quan tới quyền lợi của người
giám sát, theo quy định ngân hàng giám sát được hưởng các phí quy định trong
Điều lệ quỹ mà chứng từ này do công ty quản lý quỹ lập. Nếu trường hợp công ty
quản lý quỹ và ngân hàng giám sát không thoả thuận được mức phí giám sát bảo
quản hoặc mức này quá thấp thì liệu tổ chức thụ uỷ có đảm nhận được vai trò của
mình không khi quyền lợi và nghĩa vụ không tương đương. Việc công ty quản lý
51
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
quỹ được tự lựa chọn ngân hàng giám sát cho các qũy do mình quản lý sẽ có thể
dẫn đến những hoạt động không khách quan. Sự lựa chọn nhiều khi không phải dựa
vào năng lực cũng như chất lượng dịch vụ của bản thân ngân hàng được lựa chọn.
Ngoài ra, do trả chi phí thấp nên vai trò giám sát đối với hoạt động của quỹ của tổ
chức bảo quản không cao. Như vậy, họ không phải chịu bất kỳ trách nhiệm vật chất
nào nếu quyền lợi của người đầu tư bị phương hại do hoạt động của quỹ không hiệu
quả.
Quyền truy đòi của người hưởng lợi trong trường hợp người thụ uỷ
không làm tròn trách nhiệm của mình, gây thiệt hại cho người đầu tư chưa được đề
cấp đến cũng như chưa có quy định rõ các trường hợp ngân hàng giám sát có quyền
ntruy đòi công ty quản lý qũy khi công ty này không tuân thủ Điều lệ của quỹ đầu
tư chứng khoán hoặc các quy định của pháp luật.
Đối với việc thành lập các công ty quản lý quỹ, các quy định hiện hành không
tạo ra một rào cản đáng kể nào ngoài trình tự cũng như thủ tục thành lập. Hiện nay
các thủ tục để tiến hành thành lập công ty quản lý quỹ còn rườm rà. Thời gian để có
đuợc cấp giấy phép hoạt động còn dài. Và các điều kiện để thành lập được các công
ty quản lý quỹ còn tương đối khắt khe. Vì vậy để đáp ứng đầy đủ tất cả các điều
kiện thành lập theo quy định của pháp luật là một điều khá khó khăn đối với các
công ty quản lý quỹ và đòi hỏi một thời gian chuẩn bị tương đối dài. Đặc biệt là đối
với các công ty quản lý quỹ nước ngoài, việc có được giấy phép hoạt động trên thị
trường Việt Nam là một vấn đề khá khó khăn khi họ phải chịu nhiều quy định
chồng chéo của nhiều bộ luật khác nhau như Luật đầu tư, Luật Doanh nghiệp,…
cũng như các quy định của nhiều cơ quan quản lý khác nhau. Nhiều khi những bộ
luật và các quy định của các cơ quan khác nhau không có sự thống nhất khiến các
công ty quản lý quỹ nuớc ngoài muốn thành lập và hoạt động tại Việt Nam không
biết phải tuân thủ theo nhưncg quy định nào và xin phép cơ quan quản lý nào. Điều
này khiến cho số lượng công ty quản lý quỹ được cấp phép hoạt động trên thị
trường Việt Nam hiện nay còn ít.
b) Chưa có hệ thống kế toán và cơ chế quản lý tài chính thống nhất:
52
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
Cũng như hoạt động kinh doanh chứng khoán, hoạt động quản lý quỹ là loại
hình kinh doanh mới tại Việt Nam. Loại hình kinh doanh này khác biệt khá nhiều so
với các loại hình kinh doanh khác. Đối với công ty quản lý quỹ, ngoài việc hạch
toán kinh doanh cho bản thân công ty còn phải hạch toán hoạt động đầu tư của từng
quỹ đầu tư do công ty quản lý và các quỹ này không phải là một pháp nhân độc lập.
Tuy nhiên hiện nay chưa có một hệ thống chuẩn mực kế toán cho các công ty quảng
lý quỹ về kế toán, kiểm toán, về báo cáo tài chính và công bố thông tin của quỹ đầu
tư và công ty quản lý quỹ. Vì vậy, các công ty quản lý quỹ hiện nay thực hiện việc
kế toán, kiểm toán, hợp nhất báo cáo tài chính, tính giá trị tài sản,... theo những
phương thức và chuẩn mực khác nhau. Có rất nhiều điểm khác nhau trong cách tính
các khoản dự phòng, đánh giá giá trị tài sản, tính toán khấu hao,... của các công ty
quán lý quỹ. Điều này khiến cho các nhà đầu tư khó có thể đánh giá tình hình kinh
doanh của các quỹ và các công ty quản lý quỹ khác nhau trên thị trường. Đồng thời
cũng khiến cho các cơ quan quản lý nhà nước gặp khó khăn trong việc kiểm soát
hoạt động của các công ty quản lý quỹ.
c) Trình độ đầu tư chuyên nghiệp còn thấp:
Sự thiếu tính chuyên nghiệp đầu tư được coi là một hạn chế cơ bản của thị
trường chứng khoán Việt Nam. Đó cũng chính là một nguyên nhân quan trọng chủ
yếu tác động tới việc hình thành các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp như quỹ đầu tư
và công ty quản lý quỹ.
Có thể minh chứng điều đó qua đôi nét về thực trạng về đội ngũ chuyên gia
đầu tư tài chính hiện nay. Thực tế hoạt động của các công ty quản lý quỹ và quỹ đầu
tư đã cho thấy sự thiếu hụt cả về số lượng lẫn chất lượng những người phân tích và
đầu tư chuyên nghiệp. Hiện nay, số nhân viên kinh doanh của các công ty quản lý
quỹ và qũy đầu tư chứng khoán được cấp giấy phép hành nghề còn chưa nhiều,
phần lớn chỉ chiếm 2/3 tổng số nhân viên để đáp ứng các yêu cầu về pháp lý trong
việc hình thành công ty, trong đó phần lớn được tuyển chọn từ những người đã từng
công tác trong lĩnh vực ngân hàng, tài chính, bảo hiểm. Mặc dù hoạt động đầu tư
trong ngành chứng khoán có những nét tương đồng với hoạt động đầu tư của các
53
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
ngân hàng, các công ty bảo hiểm, nhưng tính chuyên nghiệp trong hoạt động đầu tư
trên thị trường chứng khoán đòi hỏi sự nhạy bén linh hoạt cũng như áp lực hơn rất
nhiều so với các ngành khác. Đa số các nhân viên này mới chỉ đáp ứng những yêu
cầu nghiệp vụ tối thiểu như tư vấn tài chính, nghiên cứu thị trường, phân tích cơ bản
giá trị tài chính, đánh giá thị trường dựa trên các chỉ số tài chính cơ bản nhất,… Và
họ thường không được đào tạo bài bản về lĩnh vực quản lý quỹ cũng như quản lý
danh mục đầu tư. Bản thân nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư là một nghiệp vụ
mang bóng dáng của quản lý đầu tư chuyên nghiệp đòi hỏi nhân viên cần phải có
các tiêu chí về học vấn cũng như kinh nghiệm cao hơn đặc biệt là những người điều
hành quỹ.
Ngoài các yếu tố về con người, trình độ đầu tư chuyên nghiệp có thể đem lại
hiệu quả kinh doanh cao còn phụ thuộc vào các nguồn thông tin cũng như việc sử
dụng chúng trong phân tích đầu tư. Đây cũng là một vấn đề đáng quan tâm tại Việt
Nam nơi mà việc công bố thông tin về hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp
dường như còn là vấn đề rất mới mẻ. Các nguồn thông tin được sử dụng để phân
tích rất thiếu và chưa đảm bảo chất lượng.
Như những phần trên đã phân tích, quỹ đầu tư chứng khoán là một loại hình
đầu tư chuyên nghiệp, đòi hỏi rất cao ở trình độ chuyên môn cũng như kinh nghiệm
đầu tư của các nhân viên tác nghiệp cũng như những người điều hành quỹ. Đội ngũ
các nhân viên phân tích và đầu tư chứng khoán, quản lý đầu tư còn quá ít ỏi như
hiện nay là một trở ngại lớn đối với việc thành lập và hoạt động của các công ty
quản lý quỹ cũng như quỹ đầu tư chứng khoán.
Tồn tại trên chủ yếu xuất phát từ những nguyên nhân dưới đây:
Hoạt động đầu tư chuyên nghiệp nhất là đầu tư vào thị trường chứng khoán
chỉ mới hình thành ở nước ta trong một vài năm gần đây. Do đó, khó có thể đòi hỏi
ngay sự tồn tại của một đội ngũ lớn những người đầu tư chuyên nghiệp có đủ trình
độ cũng như kinh nghiệm hoạt động đầu tư.
Công tác đào tạo cơ bản về phân tích đầu tư chứng khoán chưa được tiến
hành một cách bài bản và quy củ.
54
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
Điều đó được thể hiện ở thực tế cho đến nay chưa có chương trình đào tạo
chuyên sâu về kỹ năng phân tích và đầu tư chuyên nghiệp trong hệ thống đào tạo
của Việt Nam. Việc đào tạo về thị truờng chứng khoán và phân tích đầu tư mới đây
đã được các trường đại học khối kinh tế như trường đại học Kinh tế quốc dân,
trường đại học Tài chính, trường đại học Ngoại thương, Học viện ngân hàng,…đưa
vào chương trình giảng dạy. Hầu như các chương trình đó mới chỉ dừng lại ở các lý
thuyết cơ bản chủ yếu tham khảo từ tài liệu nước ngoài mà học viên chưa có điều
kiện tiếp cận và thực hành trong thực tế. Các chương trình đào tạo mang tính chất
chuyên sâu và thực tế hơn là các khoá học do Trung tâm Nghiên cứu khoa học và
Bồi dưỡng nghiệp vụ chứng khoán và thị trường chứng khoán trực thuộc Uỷ ban
Chứng khoán Nhà nước thực hiện. Các chương trình này chủ yếu mới dừng lại ở
việc cung cấp các kiến thức cơ bản nhất cho những người sẽ xin giấy phép hành
nghề kinh doanh chứng khoán để làm việc tại các công ty chứng khoán. Các chương
trình chuyên sâu dành cho những người điều hành quỹ vẫn chưa được xây dựng.
Hiện nay cũng có những chương trình đào tạo chuyên sâu nước ngoài về các
kỹ năng trong lĩnh vực tài chính tại Việt Nam. Chẳng hạn như chương trình đào tạo
CFA về phân tích tài chính, CPA hay ACCA… Tuy nhiên những khoá học như vậy
thường có chi phí rất lớn (chi phí cho một khoá học CFA gồm 3 level sẽ khoảng
hơn 5000$) mà với thu nhập và điều kiện kinh tế của người Việt Nam hiện nay
không phải ai cũng có thể có điều kiện theo học. Ngoài ra những khoá học như vậy
cũng đòi hỏi người học phải có những trình độ nhất định về tiếng anh cũng như
những kiến thức về chuyên ngành nhất định.
d) Số lượng quỹ và công ty quản lý quỹ chưa nhiều, quy mô nhỏ và hàng
hoá chưa đa dạng:
Ngành quản lý quỹ đầu tư tại Việt Nam chỉ mới hình thành từ cuối năm 2003,
và đến nay cũng chỉ đang trong những bước đi ban đầu. Tháng 6/2006, trên thị
trường có 7 công ty quản lý quỹ được cấp giấy phép. Tới đầu năm 2009, hiện có 46
công ty quản lý quỹ được cấp giấy phép hoạt động. Tuy so với năm 2006, số lượng
công ty quản lý quỹ đã tăng gấp 5 lần nhưng so với toàn bộ thị trường tiềm năng
55
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
của ngành quản lý quỹ đầu tư hiện đang phát triển tại Việt Nam thì vẫn chưa phải là
một con số đáng kể. Nhờ tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình khá cao (đạt
8%/năm, chỉ sau Trung Quốc), Việt Nam còn có nguồn dầu mỏ và đặc biệt là sự ổn
định về chính trị, đó chính là những lý do khiến thị trường VN hấp dẫn các công ty
quản lý quỹ nước ngoài. Vì vậy, hiện nay số lượng các công ty quản lý quỹ và quỹ
đầu tư có nhiều hơn do sự tham gia của các quỹ đầu tư nước ngoài. Các quỹ này
thường có tiềm lực vốn đáng kể. Song do những rào cản và sự thiếu hoàn thiện về
khung pháp lý nên số lượng quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ đầu tư nước ngoài
được cấp giấy phép kinh doanh tại thị trường chứng khoán Việt Nam còn hạn chế
(hiện nay các công ty quản lý quỹ nước ngoài chỉ chiếm khoảng 16% trên tổng số
các công ty quản lý quỹ hiện đang hoạt động trên thị trường chứng khoán Việt
Nam).
Những công ty quản lý quỹ hiện đang hoạt động trên thị trường thường có quy mô
không lớn do hoạt động kinh doanh chưa được đa dạng, hoạt động chủ yếu là quản
lý đầu tư những quỹ do mình đứng ra huy động vốn. Ngoài ra, yếu tố tâm lý và trình
độ của nhà đầu tư còn chưa chuyên nghiệp khiến việc huy động vốn nhằm tăng vốn
để mở rộng quy mô của các quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ cũng gặp khó khăn.
Nhất là trong thời gian này khi mà cả thế giới đang trải qua cuộc khủng hoảng tài
chính và thị trường chứng khoán thì đang có chiều hướng bất ổn, lúc lên lúc xuống
thất thường nên nhiều nhà đầu tư đã rút chân ra khỏi thị trường. Vì vậy việc huy
động vốn để mở rộng quy mô trong thời gian này lại càng khó khăn hơn đối với các
quỹ đầu tư.
Một trong những lợi thế mà quỹ đầu tư có thể thu hút các nhà đầu tư, đó là khả
năng đa dạng hoá danh mục đầu tư, giảm thiểu rủi ro. Các quỹ sẽ chỉ phát huy ưu
thế của mình trong một thị trường chứng khoán với nhiều chủng loại hàng hoá đa
dạng khác nhau. Tình trạng khan hiếm hàng hoá niêm yết trên thị trường là yếu tố
tác động đáng kể tới sự hình thành của các quỹ đầu tư chứng khoán. Đến thời điểm
hiện nay, tình hình hàng hoá đã được cải thiện rất nhiều.
Thực trạng chứng khoán niêm yết:
56
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
Về cổ phiếu: Trong phiên giao dịch đầu tiên ngày 28/07/2000 chỉ có hai
loại cổ phiếu được niêm yết trên Trung tâm Giao dịch chứng khoán (TTGDCK)
thành phố Hồ Chí Minh là cổ phiếu của Công ty cơ điện lạnh (REE) và Công ty cổ
phần Cáp và vật liệu viễn thông (SACOM) với tổng giá trị phát hành là 270 tỷ
đồng. Đến phiên giao dịch ngày 4/08/2000 có thêm hai cổ phiếu của Công ty cổ
phần giấy Hải Phòng (HAPACO) và công ty Kho vận giao nhận ngoại thương thành
phố Hồ Chí Minh (TRANSIMEX) được niêm yết với tổng giá trị phát hành là 32,08
tỷ đồng. Cuối năm 2000, cổ phiếu Công ty cổ phần chế biến hàng xuất khẩu Long
An (LAFOCO) được cấp phép niêm yết với tổng giá trị phát hành là trên 19 tỷ
đồng. Và đến tháng 6/2001 có thêm cổ phiếu của công ty cổ phần Khách sạn Sài
Gòn được cấp phép niêm yết với tổng giá trị phát hàng trên 17 tỷ đồng. Như vậy,
sau một năm hoạt động của thị trường chứng khoán, chỉ có 06 loại cổ phiếu niêm
yết với tổng giá trị phát hành của các cổ phiếu niêm yết là 338,8 tỷ đồng. 8 năm sau
đó, đến nay, số cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán đã gấp 100 lần (trên
300 loại cổ phiếu niêm yết), số tài khoản của nhà đầu tư cũng đã gấp trên 1.000 lần
(430.000 tài khoản)28.
Về trái phiếu:
+ Trái phiếu Chính phủ: Tháng 06/2001, TTGDCK thành phố Hồ Chí
Minh đã tổ chức được 7 đợt đấu thầu trái phiếu Chính phủ. Hai đợt đấu thầu đầu
tiên đã thành công với tổng giá trị trúng thầu mỗi đợt là 300 tỷ đồng, kỳ hạn 5 năm,
lãi suất trúng thầu tương ứng mỗi đợt là 6,5%/năm và 6,6%/năm. Năm đợt đấu thầu
tiếp theo không thành công, do lãi suất chỉ đạo quy định thấp hơn lãi suất đặt thầu
và kết quả là không có đơn vị nào tham gia đấu thầu. Nhằm đa dạng hoá phương
thức phát hành trái phiếu chính phủ trên thị trường sơ cấp, tháng 9/2000, Bộ tài
chính đã phát hành 500 tỷ đồng trái phiếu kho bạc kỳ hạn 5 năm với lãi suất 6,6%
theo phương thức bảo lãnh phát hành. Đến ngày 14/11/2008, có 507 mã trái phiếu
niêm yết trên HASTC, trị giá theo mệnh giá gần 154.702 tỷ đồng, đạt trên 11%
28 http://vmfc.vn/content/view/1013/31/ ,truy cập 17:05’ ngày 29/04/2009
57
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
GDP, cho thấy TPCP là một trong những kênh huy động vốn hữu hiệu cho nền kinh
tế29.
+ Trái phiếu doanh nghiệp: Trước năm 2006, việc phát hành trái phiếu
doanh nghiệp chỉ tập trung ở các tổ chức tín dụng, số doanh nghiệp phát hành trái
phiếu rất ít và đa số quy mô phát hành nhỏ. Trong số đó, có thể kể đến một số đợt
phát hành trái phiếu doanh nghiệp đầu tiên như của REE năm 1996 thu về 5 triệu
USD; EIS năm 1998 với 10 tỷ đồng; Tổng công ty Dầu khí phát hành 3.400 tỷ đồng
năm 2003 và sau đó là Tổng công ty Xi măng với 200 tỷ đồng và tổng công ty Điện
lực 300 tỷ đồng. Sang đến năm 2006, Việt Nam chứng kiến sự phát triển đột biến
trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp khi hàng loạt doanh nghiệp phát hành trái
phiếu với quy mô lớn. Tổng giá trị phát hành năm 2006 lên đến 7.000 tỷ đồng.
Trong đó, riêng EVN phát hành 5.000 tỷ đồng; Vinashin 800 tỷ đồng và Sông Đà
300 tỷ đồng. Năm 2007, xu hướng phát hành trái phiếu doanh nghiệp liên tục gia
tăng, chỉ tính 7 tháng đầu năm tổng giá trị phát hành đã lên tới gần 7.000 tỷ đồng.
Trong đó Vinashin phát hành 3.000 tỷ đồng; Lilama 1.500 tỷ đồng; Vinaconex
1.000 tỷ đồng; Tổng công ty thép 400 tỷ đồng và Vilexim 5 tỷ đống. Tuy phát triển
nhanh nhưng đến nay quy mô của thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam vẫn
cón khá nhỏ với tổng giá trị khoảng 16 ngàn tỷ đồng, tương đương với 1,5% GDP,
chưa tương xứng với nhu cầu vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp.30
Tình hình giao dịch chứng khoán niêm yết
Sau tám năm hoạt động, tính đến ngày 02/04/2009, kết thúc phiên giao dịch,
chỉ số VN-Index đóng cửa ở 297,3 điểm tăng 7,78 điểm (tương đương tăng 2,69%).
Tổng khối lượng giao dịch khớp lệnh đạt 28.935.590 đơn vị, tăng 41,26% so với
phiên trước. Tổng giá trị giao dịch khớp lệnh đạt 629,222 tỷ đồng, tăng 48,22% so
với phiên trước. Tổng giao dịch thoả thuận cổ phiếu và trái phiếu thành công đạt
483.200 đơn vị với tổng giá trị giao dịch đạt hơn 26,12 tỷ đồng. Như vậy, tổng khối
29 http://cafef.vn/2008112502187257CA31/tri-gia-trai-phieu-niem-yet-da-chiem-11-gdp.chn ,Thứ 3, ngày 25/11/2008, 14:20; thời gian truy cập: 23:30 ngày 29/04/200930 http://www2.vietnamnet.vn/kinhte/2007/08/729726/ , 18:44’ ngày 14/08/2007 thời gian truy cập 23:40 ngày 29/04/2009
58
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
lượng giao dịch toàn phiên đạt 29.418.790 đơn vị (tăng 32,61% so với phiên trước)
và tổng giá trị giao dịch đạt 655,342 tỷ đồng (tăng 45,67%)31.
Thực trạng Chứng khoán không niêm yết:
Ngoài các cổ phiếu của các công ty cổ phần đang niêm yết trên thị trường
chứng khoán, còn có nhiều loại cổ phiếu của công ty cổ phần được thành lập theo
Luật Doanh Nghiệp, các công ty cổ phần được chuyển đổi hình thức sở hữu từ
doanh nghiệp Nhà nước được cổ phần hoá chưa đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn niêm
yết trên TTGDCK hoặc chưa sẵn sàng tham gia niêm yết. Các loại cổ phiếu này
được gọi dưới cái tên là các chứng khoán không niêm yết.
Tính đến thời điểm cuối năm 2008, đã có hơn 4.500 doanh nghiệp nhà nước
thực hiện cổ phần hoá32 và rất nhiều công ty cổ phần được thành lập mới theo Luật
Doanh nghiệp. Trong số đó mới chỉ có khoảng gần 320 doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn
niêm yết và có ý định niêm yết trên thị trường33.
Thực trạng giao dịch chứng khoán không niêm yết:
Trước khi thị trường chứng khoán tập trung chính thức đi vào hoạt động, đã
lưu hành nhiều loại cổ phiếu của một số công ty cổ phần hoặc tổ chức tín dụng,
nhưng những chứng chỉ vốn này ít được lưu thông, chuyển nhượng. Một phần là vì
chưa có cơ chế cho hoạt động này, một phần vì người dân còn rất mơ hồ về khái
niệm cổ phần, cổ phiếu, cổ đông, thị trường chứng khoán. Hoạt động của TTGDCK
thành phố Hồ Chí Minh đã có tác động kích hoạt việc lưu thông cổ phiếu chưa niêm
yết theo một phương thức riêng và hoàn toàn tự phát. Việc tự do chuyển nhượng cổ
phiếu đã được sự thừa nhận của pháp luật mà cụ thể là Luật Doanh Nghiệp và Luật
chứng khoán 2005.
Việc giao dịch các chứng khoán chưa niêm yết đã và đang diễn ra khá sôi động
với những diễn biến phức tạp trong một thị trường mà người ta thường quen gọi là
31 http://www.hpsc.com.vn/news/news2detail.aspx?newsid=6003&grpid=2 , 14:38:14 Thứ năm ngày 2/4/2009, thời gian truy cập 23:50 ngày 29/04/2009 32 http://www.hids.hochiminhcity.gov.vn/xemtin.asp?idcha=1677&cap=3&id=3852 , theo Vnexpress tháng 11/2008, thời gian truy cập: 00:05, ngày 30/4/200933 http://vietbao.vn/Kinh-te/Nhieu-DN-chua-co-y-dinh-niem-yet/45142712/91/ , 14/11/2008, thời gian truy cập: 00:45 ngày 30/4/2009
59
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
“thị trường ngầm”. Có những thời điểm hoạt động của thị trường này đã thu hút
nhiều người đầu tư hơn thị trường chính thức bởi tính “tự do” và “dễ dãi” của nó,
đặc biệt hơn là nó hứa hẹn một khoản lợi nhuận được dự báo trước. Hoạt động giao
dịch này có tác dụng thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư. Tuy nhiên, hoạt
động mua bán tự do này đã bộc lộ tính rủi ro cao xuất phát từ tình trạng thiếu thông
tin trong giao dịch, dễ xảy ra tình trạng ép giá, lừa gạt và tạo môi trường cho một số
kẻ đầu cơ trục lợi.
Thực trạng trên cho thấy hàng hoá trên thị trường chứng khoán tập trung còn
chưa nhiều cũng như chưa đa dạng về chủng loại, một trong các yếu tố góp phần
hình thành các quỹ đầu tư. Bản thân hàng hoá ít cũng làm cho các quỹ, nếu đã hình
thành, cũng khó có thể thiết lập các danh mục đầu tư tối ưu.
Đối với các chứng khoán không niêm yết, nếu giả định là các công ty quản lý
quỹ có thể tiếp cận được nhiều nguồn thông tin chất lượng liên quan tới hoạt động
của các công ty cổ phần hơn là những người đầu tư cá thể, việc giới hạn phạm vi
đầu tư quá hẹp của các quỹ đầu tư chứng khoán trong định nghĩa về quỹ đã nêu trên
cũng sẽ ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động đầu tư của quỹ.
60
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
Chương III
MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CÁC QUỸ
ĐẦU TƯ VÀ CÔNG TY QUẢN LÝ QUỸ TRÊN THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
3.1. Một số định hướng chung cho sự phát triển của quỹ đầu tư và công
ty quản lý quỹ trên thị trường chứng khoán Việt Nam:
Trên cơ sở các thực trạng tồn tại ảnh hưởng tới sự hình thành các công ty quản
lý quỹ và quỹ đầu tư chứng khoán đã phân tích ở trên, quỹ đầu tư và công ty quản
lý quỹ có thể phát triển theo một số định hướng phù hợp với điều kiện và môi
trường kinh tế Việt Nam, gồm một số nội dung chính sau đây:
Phát triển các quỹ đầu tư từng bước, từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn phù hợp
với quy mô và tiến trình phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam.
Việc phát triển các định chế trên theo quy mô từ nhỏ tới lớn là bước đi phù
hợp vì bản thân quy mô thị trường chứng khoán nói riêng và thị trường tài chính nói
chung còn nhỏ, các công cụ tài chính chưa nhiều và đa dạng. Trong môi trường
pháp lý chưa hoàn thiện như hiện nay, việc phát triển quỹ đầu tư từ quy mô nhỏ sẽ
giúp các cơ quan quản lý kiểm soát được hoạt động của loại định chế đặc biệt này,
bảo vệ được quyền lợi của những người đầu tư tham gia góp tiền vào quỹ. Thông
qua hoạt động thực tế của các định chế này, các cơ quan quản lý nhà nước có cơ sở
để đưa ra các chính sách định hướng về mặt vĩ mô mang tính khả thi cũng như điều
chỉnh khung pháp lý phù hợp với thực tế, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động
của các tổ chức này.
61
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
Mở rộng dần phạm vi hoạt động của công ty quản lý quỹ và đa dạng hoá mục
tiêu đầu tư của các quỹ.
Trong thời gian đầu, nếu phạm vi hoạt động của công ty quản lý quỹ chỉ giới
hạn trong lập và quản lý hoạt động đầu tư của các quỹ tập thể sẽ rất khó đảm bảo
hiệu quả hoạt động kinh doanh. Ngoài ra, bản thân một tổ chức đầu tư chuyên
nghiệp, ngoài hoạt động quản lý các quỹ do mình lập ra, có thể tận dụng đội ngũ
chuyên gia phân tích thực hiện quản lý danh mục đầu tư, nhận uỷ thác đầu tư tài sản
của các khách hàng là các tổ chức kinh tế hoặc các cá nhân có nhu cầu. Việc mở
rộng hoạt động kinh doanh cho các công ty quản lý quỹ, từ quản lý các quỹ đầu tư
tập thể tới quản lý tài sản hoặc quản lý danh mục đầu tư cho những nhà đầu tư có
nhu cầu sẽ giúp cho các công ty quản lý quỹ nâng cao hơn hoạt động đầu tư chuyên
nghiệp của mình, đồng thời có thu nhập để trang trải các chi phí hoạt động của công
ty.
Đối với các quỹ đầu tư, việc định hướng chính sách đầu tư cho các quỹ trong
từng giai đoạn cụ thể là việc cần thiết nhằm tạo ra các tiêu chí cho hoạt động đầu tư
của các quỹ, giúp cho người đầu tư định hướng và đưa ra quyết định đầu tư vào các
quỹ khác nhau, tuỳ mức độ rủi ro mà mình có thể chấp nhận được. Trong điều kiện
quy mô của thị trường chứng khoán hiện nay còn chưa lớn, cần thiết hướng các quỹ
đầu tư xây dựng các chính sách đầu tư phù hợp với quy mô và các định hướng phát
triển trên thị trường, chủ yếu tấp trung vào lập các quỹ cổ phiếu hoặc các quỹ cân
đối. Sau đó trên cơ sở thực tiễn hoạt động của các quỹ, cho phép mở rộng việc lập
các quỹ có chính sách đầu tư vào các đối tuợng tài sản và công cụ tài chính khác.
Nghiên cứu việc phát triển quỹ theo mô hình công ty
Thực tế cho thấy bản thân thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời và phát
triển sau rất nhiều so với các nước khác trên thế giới. Vì vậy, chúng ta có thể nghiên
cứu, đánh giá cũng như vận dụng các kinh nghiệm phát triển của các nước để đẩy
nhanh tốc độ phát triển thị trường chứng khoán, góp phần vào việc huy động các
nguồn vốn dài hạn, thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, sớm hoà
nhập vào tiến trình phát triển ngang bằng với các nước trong khu vực.
62
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
Qua nhiều nghiên cứu của các nước trong tiến trình áp dụng các mô hình quỹ
đầu tư tập thể vào việc hình thành và phát triển quỹ đầu tư, tại các thị trường đang
phát triển, quỹ đầu tư dạng công ty chỉ được áp dụng sau một thời gian dài khoảng
từ 15 – 20 năm áp dụng mô hình quỹ đầu tư dạng hợp đồgn. Tuy nhiên, chúng ta có
thể nghiên cứu áp dụng mô hình này trong một thời gian ngắn, khoảng 5 – 10 năm,
sau khi đã hình thành và phát triển một số quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ theo
mô hình hợp đồng. Tất nhiên vấn đề cơ bản đối với việc áp dụng mô hình này tại
Việt Nam là hạ tầng pháp lý đầy đủ và đồng bộ cho các tổ chức tham gia vào hoạt
động của quỹ.
3.2. Một số giải pháp nhằm phát triển quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ
tại Việt Nam:
3.2.1. Đề xuất mô hình:
a) Đề xuất mô hình quỹ đầu tư:
Việc lựa chọn mô hình phát triển quỹ đầu tư tuỳ thuộc vào môi trường phát
triển và các điều kiện cụ thể của từng nước. Phải đặt từng mô hình trong những môi
trường kinh tế cụ thể thì mới có thể đánh giá được ưu, nhược điểm của từng mô
hình. Ngoài ra, một hệ thống pháp luật hoàn thiện và đồng bộ cũng là những điều
kiện quyết định việc lựa chọn các mô hình. Vì vậy, việc lựa chọn mô hình quỹ đầu
tư cũng nằm trong những giải pháp định hướng trước mắt cũng như dài hạn.
Các quy định của pháp luật hiện hành cho thấy quỹ đầu tư dạng hợp đồng là
mô hình được lựa chọn cho các quỹ đầu tư tập thể. Sự lựa chọn này dựa trên cơ sở
thực tiễn tham khảo từ các nước có điều kiện phát triển tương tự như Việt Nam, chủ
yếu là các nước trong khu vực. Tuy nhiên, cả hai mô hình (mô hình công ty và mô
hình hợp đồng) đều có thể áp dụng được nếu môi truờng phát triển có đầy đủ hạ
tầng pháp lý cho việc hình thành và hoạt động của các định chế này.
Việc áp dụng mô hình quỹ đầu tư dạng công ty tại Việt Nam hiện nay chưa
mang lại hiệu quả cao vì các lý do sau đây:
63
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
Việt Nam chưa có hệ thống luật điều chỉnh loại hình công ty đầu tư nói
chung cũng như chưa có hệ thống các văn bản pháp luật mang tính tổng thể điều
chỉnh hoạt động của các đối tượng tham gia vào hoạt động của quỹ. Luật Doanh
nghiệp hiện nay chỉ bao gồm các quy phạm điều chỉnh chung về các loại hình doanh
nghiệp. Tuy nhiên, quỹ đầu tư dạng công ty là một pháp nhân đặc biệt. Thực chất,
công ty quỹ đầu tư thành lập hoàn toàn không tiến hành bất kỳ loại hình kinh doanh
nào, hoàn toàn chỉ là một “công ty trên giấy tờ” thực hiện việc giám sát thông qua
Hội đồng Quản trị đối với các tổ chức khác (tổ chức tư vấn đầu tư, tổ chức bảo quản
tài sản) thay mặt mình thực hiện việc đầu tư. Ngoài ra, các quỹ đầu tư còn có những
đặc thù cơ cấu vận động vốn như đã đề cập ở trên. Các công ty đầu tư dạng mở
được phát hành liên tục và có nghĩa vụ phải mua lại cổ phần của người đầu tư. Các
công ty đầu tư dạng đóng sau khi phát hành phải niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng
khoán. Vì vậy, các nước theo mô hình này đều phải có luật riêng hoặc các quy
phạm trong luật Công ty điều chỉnh riêng loại hình quỹ này và song hành với nó là
luật điều chỉnh hoạt động của tổ chức quản lý quỹ.
Việc áp dụng mô hình quỹ đầu tư dạng công ty trong điều kiện hiện nay đòi
hỏi việc chỉnh sửa luật Doanh Nghiệp, ban hành các quy định pháp luật điều chỉnh
các tổ chức tư vấn đầu tư, các tổ chức quản lý quỹ hoặc quản lý tài sản ở cấp độ
pháp lý tương đương với Luật Doanh nghiệp để có đủ hiệu lực pháp lý điều chỉnh
các quan hệ tín thác tài sản. Hệ thống pháp luật như vậy đòi hỏi một quá trình hoàn
thành và hoàn thiện một cách đồng bộ trên cơ sở các định hướng phát triển ở tầm vĩ
mô đối với các loại định chế tài chính này.
Các quỹ đầu tư dạng công ty hiện nay hầu như là các công ty đầu tư ở quy
mô nhỏ. Trong điều kiện hoạt động đầu tư chuyên nghiệp chưa phát triển như phân
tích trên, hệ thống pháp luật chưa đồng bộ và phân mảng, thiếu kinh nghiệm quản lý
nhà nước trong lĩnh vực này sẽ dẫn đến sự phát triển ngành quỹ đầu tư không theo
các định hướng vĩ mô, ảnh hưởng tới sự phát triển của thị trường chứng khoán nói
chung.
64
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
Ngoài ra, dưới giác độ vi mô, quỹ đầu tư dạng công ty dễ dàng tạo sự thông
đồng giữa Hội đồng quản trị của Quỹ và tổ chức quản lý đầu tư, điều hành hoạt
động kinh doanh của quỹ vì lợi ích của các nhà đầu tư lớn của quỹ. Đứng dưới giác
độ quản trị công ty theo các thông lệ quốc tế tốt nhất, Luật Doanh nghiệp hiện hành
còn một số các quy định chưa đảm bảo quyền lợi của các cổ đông thiểu số. Một
trong các quy định đó là Hội đồng Quản trị của công ty phải có một tỷ lệ nhất định
là các thành viên chuyên trách. Quy định này rất khó thực hiện trong điều kiện cụ
thể tại Việt Nam.
Mô hình quỹ đầu tư dạng hợp đồng, xét trong giai đoạn hiện nay, phù hợp các
điều kiện và môi trường kinh tế tại Việt Nam vì các lý do sau:
Với hệ thống các văn bản pháp lý liên quan tới tổ chức và hoạt động của
các quỹ tuy còn những tồn tại như đã nêu, đặc biệt là sự khác biệt giữa hai nguồn
luật về quan hệ tài sản. Tuy nhiên, các quy định chưa đầy đủ hoặc chưa đủ hiệu lực
pháp lý đó có thể xử lý ở cấp độ Nghị định mà chưa cần có sự điều chỉnh ngay các
luật liên quan. Điều đó sẽ tạo điều kiện đẩy nhanh tiến trình hình thành công ty
quản lý quỹ và quỹ đầu tư ở quy mô từ nhỏ tới lớn làm tiền đề cho sự ra đời của
một ngành kinh doanh mới mang tính chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán.
Mô hình này có sự tách bạch rõ ràng giữa người thực hiện hoạt động đầu
tư và người giám sát các hoạt động đó, quyền lợi người đầu tư được đảm bảo hơn
trong các điều kiện pháp luật chưa hoàn thiện như hiện nay. Đồng thời các cơ quan
quản lý Nhà nước có thể dễ dàng giám sát hoạt động của từng tổ chức từ công ty
quản lý quỹ tới tổ chức giám sát, bảo quản tài sản.
Do không bị chi phối nhiều bởi các luật liên quan, Uỷ ban Chứng khoán
Nhà nước là cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực này có thể chủ động đưa ra
định hướng phát triển của các quỹ đầu tư và công ty quản lý trong định hướng phát
triển tổng thể của toàn bộ thị trường chứng khoán cũng như các giải pháp cụ thể để
hỗ trợ và thúc đẩy sự hình thành của các định chế này góp phần ổn định sự phát
triển của thị trường chứng khoán.
65
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
Trong điều kiện trình độ phân tích và thực hiện đầu tư chuyên nghiệp còn
hạn chế, do có định hướng phát triển cho ngành quỹ đầu tư có thể giới hạn việc
thành lập số lượng các công ty quản lý quỹ cũng như các quỹ đầu tư, tránh tình
trạng cạnh tranh không lành mạnh, đảm bảo các định chế ra đời hoạt động an toàn
và hiệu quả, bảo vệ quyên lợi của các nhà đầu tư.
Mô hình quỹ đầu tư dạng hợp đồng này đã và đang có ở các nước có các điều
kiện kinh tế tương tự như Việt Nam. Vì vậy, trong giai đoạn trước mắt, để đáp ứng
yêu cầu cho sự hình thành và phát triển của các quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ,
mô hình thích hợp cho loại hình này là quỹ đầu tư dạng hợp đồng.
b) Đề xuất về cơ cấu tổ chức và hoạt động của công ty quản lý quỹ và
quỹ đầu tư:
Một trong những đặc trưng cơ bản và khác biệt của thị trường chứng khoán
Việt Nam so với đa số các thị trường chứng khoán khác trên thế giới là cơ quan
quản lý nhà nước cũng như khung pháp lý ra đời trước khi có thị trường chứng
khoán. Vì vậy, chức năng quản lý nhà nước đối với hoạt động của thị trường cũng
có những nét khác biệt. Ngoài vai trò đưa ra “luật chơi” cũng như giám sát việc tuân
thủ luật của các tổ chức tham gia thị trường, cơ quan quản lý nhà nước mà cụ thể là
Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước còn có nhiệm vụ hỗ trợ cho việc ra đời của các tổ
chức này. Cũng như các công ty chứng khoán, ngay từ khi hình thành ban đầu,
nhiều công ty còn rất lúng túng trong việc định hình tổ chức cũng như triển khai
hoạt động kinh doanh. Không thể phủ nhận là Uỷ ban Chứng khoán đã đóng góp
vai trò không nhỏ trong việc giúp các công ty chứng khoán hình thành bộ máy tổ
chức và các quy trình thao tác nghiệp vụ.
Công ty quản lý quỹ:
Hình thức pháp lý
Theo quy định hiện hành, công ty quản lý quỹ là công ty cổ phần hoặc công ty
trách nhiệm hữu hạn được thành lập theo pháp luật Việt Nam. Các tổ chức kinh
doanh chứng khoán nước ngoài muốn hoạt động phải được sự cho phép của Uỷ ban
66
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
Chứng khoán nhà nước. Như vậy, công ty quản lý quỹ vốn trong nước 100% và
công ty quản lý quỹ có vốn đầu tư nước ngoài đều được phép thành lập. Tẩt cả các
hình thức pháp lý đều có những ưu nhược điểm riêng, tuy nhiên nó đều phù hợp đối
với một công ty hoạt động quản lý quỹ.
Cơ cấu sở hữu (cổ đông/thành viên sáng lập):
Công ty quản lý quỹ phải có cơ cấu sở hữu bao gồm các tổ chức có tiềm lực tài
chính như các ngân hàng thương mại, các công ty tài chính, các công ty bảo hiểm,
các công ty chứng khoán là quy định rất cần thiểt. Đối với các quỹ đầu tư nói
chung, niềm tin của công chúng đối với tổ chức đứng ra huy động vốn thành lập
quỹ là yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của việc huy động vốn ban đầu
để thành lập một quỹ đầu tư chứng khoán. Trong mô hình quỹ đầu tư hợp đồng,
công ty quản lý quỹ chính là tổ chức đứng ra lập quỹ. Vì vậy bản thân tiềm lực tài
chính, uy tín cũng như kinh nghiệm của các cổ đông hay thành viên sáng lập ra
công ty quản lý quỹ sẽ tạo ra uy tín cho chính bản thân công ty quản lý quỹ đối với
công chúng đầu tư và một trong các tiêu chí người đầu tư quan tâm đầu tiên khi đưa
ra quyết định đầu tư vào các quỹ do công ty quản lý quỹ đó lập ra.
Vốn điều lệ của công ty quản lý quỹ
Ngoài cơ cấu cổ đông, công ty quản lý quỹ cũng cần có mức vốn điều lệ thể
hiện tiềm lực tài chính của tổ chức đứng ra huy động vốn. Một tổ chức quản lý với
số vốn điều lệ thấp đứng ra lập các quỹ với số vốn huy động cao hơn vốn điều lệ vài
lần thậm chí đối với các quỹ quy mô lớn, có thể là tới hàng chục lần sẽ khiến công
chúng đầu tư thiếu tin tưởng. vì vậy khi áp dụng mô hình quỹ đầu tư dạng hợp đồng
cần có quy định mức vốn pháp định tối thiểu tương đối lớn đối với các công ty quản
lý quỹ.
Cơ cấu tổ chức của công ty quản lý quỹ:
Trong giai đoạn đầu, các công ty quản lý quỹ nên được tổ chức theo một cơ
cấu đơn giản, gọn nhẹ và hiệu quả. Cụ thể, công ty quản lý quỹ có thể tổ chức thành
67
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
ba bộ phận theo đúng các chức năng chính của công ty: bộ phận marketing và dịch
vụ khách hàng, bộ phận quản lý đầu tư và bộ phận quản trị hành chính.
Hoạt động của bộ phận marketing và dịch vụ khách hàng gồm:
+Nghiên cứu thị trường
+Đề xuất và dự thảo các phương án lập các quỹ mới
+Xúc tiến việc thăm dò chào bán các chứng chỉ đầu tư của các quỹ cho
các nhà đầu tư tiềm năng
+Chào bán chứng chỉ quỹ cho các nhà đầu tư
+Thông tin cho các nhà đầu tư
+Giới thiệu các quỹ do công ty quản lý quỹ lập với công chúng đầu tư và
chính sách đầu tư đa dạng của các quỹ khác nhau.
+Quan hệ với các đại lý chào bán
68
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
Sơ đồ 3.1: Cơ cấu tổ chức của công ty quản lý quỹ
Hoạt động của bộ phận quản lý quỹ bao gồm:
+Nghiên cứu: môi trường kinh tế nói chung và thị trường tài chính nói
riêng để đánh giá và dự đoán các yếu tố liên quan ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động
của các quỹ đầu tư do công ty quản lý quỹ lập.
+Xác định mục tiêu đầu tư (nhằm vào giá trị hay sự tăng trưởng) cũng
như phương thức đầu tư (chủ động hay thụ động)
+Phân tích đầu tư và khảo sát các tổ chức phát hành chứng khoán mà quỹ
đầu tư vào.
Giám đốc công ty
Marketing và dịch vụ khách
hàng
Phân phối chào bán chứng chỉ
Phát triểnkinh doanh
Dịch vụ khách hàng
Quản lý đầu tư Quản trị hành chính
Theo dõitài khoản
khách hàng
Kế toán
Định giá tài sản và định giá chứng chỉ
Hội đồngđầu tư
Phòng nghiên cứu
Quản lý Quỹ đầu tư A
Quản lý Quỹ đầu tư B
69
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
+Lựa chọn ngành, lĩnh vực đầu tư cũng như xác định loại chứng khoán
của tổ chức nào trong ngành đó mà các quỹ sẽ đầu tư vào.
+Quản lý danh mục đầu tư và định giá
+Cân đối lại danh mục đầu tư khi cần thiết
Hoạt động của bộ phận hành chính bao gồm:
+Phục vụ những người đầu tư của các quỹ do công ty quản lý:
oQuản lý các nguồn tiền ra và vào của một quỹ
oGhi bút toán tất cả các khoản thanh toán cho và từ người đầu tư
oMở và theo dõi tài khoản của từng người đầu tư
oTheo dõi việc đăng ký và chuyển quyền sở hữu các chứng chỉ đầu
tư của quỹ.
+Quản trị tài chính quỹ và kế toán:
oĐánh giá các tài sản của quỹ và định giá chứng chỉ quỹ
oPhân phối các khoản thu nhập cho những người đầu tư
oGhi bút toán các khoản đầu tư các quỹ nắm giữ và giao dịch của
các danh mục đầu tư.
oTư vấn và thông báo cho những người điều hành và các quỹ đầu tư
về số tiền hiện có (hoặc không còn) cho việc đầu tư và các giới hạn đầu tư của các
quỹ do họ điều hành.
oHạch toán kế toán cho từng quỹ
oLiên hệ với người thụ uỷ và tổ chức kiểm toán.
Quỹ đầu tư:
Cơ cấu vốn của quỹ: Công ty quản lý quỹ nên lập các quỹ đầu tư dạng
đóng vì quỹ đầu tư dạng đóng có cơ cấu vốn cố định. Khi trình độ đầu tư chuyên
nghiệp còn giới hạn ở một mức độ khiêm tốn, công ty quản lý quỹ sẽ không phải lo
70
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
lắng về việc rút vốn của người đầu tư mà chỉ chuyên tâm vào các kỹ năng đầu tư,
nâng cao hiệu quả đầu tư. Đồng thời, quỹ đầu tư dạng đóng sẽ đảm bảo các danh
mục đầu tư có tính ổn định tương đối dài hạn. Vì vậy, việc lựa chọn phát triển các
quỹ đầu tư dạng đóng sẽ là bước đi thích hợp.
Về quy mô vốn huy động tối thiểu: theo quy định hiện hành, mức vốn tối thiểu
để thành lập và tiến hành hoạt động đối với một quỹ đầu tư là 50 tỷ VND34. Quy mô
vốn như vậy là hợp lý đối với các quỹ đầu tư dạng mở. Vì những quỹ này cần lượng
vốn lớn để đảm bảo đầu tư vào các dự án mang tính chất dài hạn, đồng thời đảm
bảo sự đa dạng hoá danh mục đầu tư là một ưu thế đối với các quỹ. Lượng tiền của
quỹ càng lớn, khả năng đa dạng hoá các khoản đầu tư càng cao. Còn đối với những
quỹ dạng đóng, quy mô vốn tối thiểu như vậy là hơi lớn, sẽ khó huy động khi thành
lập quỹ cũng như những nguời điều hành quỹ trong việc tiến hành đầu tư toàn bộ số
tiền của quỹ.
Phát hành chào bán chứng chỉ (bảo lãnh phát hành, những tổ chức làm
đại lý chào bán: ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán)
Để việc huy động vốn thành lập các quỹ đầu tư chứng khoán thành công, ngoài
bộ phận chào bán tại công ty quản lý quỹ như mô hình trên thì việc hình thành
mạng lưới chào bán các chứng chỉ quỹ đầu tư là cần thiết. Công ty quản lý quỹ có
thể lập mạng lưới chào bán của riêng mình. Tuy nhiên, để hình thành được một hệ
thống các chi nhánh bán hàng như vậy là điều không đơn giản. Vấn đề cơ bản đứng
dưới giác độ hiệu quản hoạt động của một doanh nghiệp. Công ty quản lý quỹ sẽ
không có đủ chi phí cũng như đội ngũ nhân sự cần thiết cho hoạt động của các đơn
vị này. Vấn đề này thực tế đã chứng minh qua hoạt động của các công ty chứng
khoán trong thời gian hoạt động vừa qua. Mặc dù các quy định hiện hành cho phép
các công ty chứng khoán được mở chi nhánh, phòng đại diện và cả ký hợp đồng đại
lý nhận lệnh với các pháp nhân ở các địa phương nơi không có trụ sở và chi nhánh
của mình nhưng mạng lưới hoạt động của đa số các công ty chứng khoán còn hạn
hẹp, chủ yếu tập trung tại hai thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
34 Điều 3 khoản 3, Quyết định 45/2007/QĐ - BTC
71
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
Vì vậy, các ngân hàng thương mại, các công ty tài chính, các công ty chứng
khoán có thể làm đại lý chào bán chứng chỉ đầu tư cho quỹ thông qua các hợp đồng
đại lý.
Không ai có thể phủ nhận vai trò của các ngân hàng thương mại đối với các
mạng lưới chi nhánh ở khắp các tỉnh và thành phố sẽ giúp cho các công ty quản lý
quỹ chào bán chứng chỉ quỹ đầu tư cho những người đầu tư quan tâm. Các công ty
tài chính cũng là những đơn vị có thể đảm nhận chức năng đại lý chào bán chứng
chỉ đầu tư cho các quỹ đầu tư chứng khoán thông qua hệ thống các đơn vị thực hiện
huy động vốn của mình.
Các công ty chứng khoán mặc dù có mạng lưới hoạt động còn khiêm tốn
nhưng các công ty chứng khoán có lượng khách hàng tham gia đầu tư chứng khoán
rất lớn. Có thể nói những người đầu tư cần và biết đầu tư vào thị trường chứng
khoán chủ yếu qua các công ty chứng khoán. Vì vậy, các công ty chứng khoán sẽ
tạo thành kênh phân phối gián tiếp cho người đầu tư tiếp cận và tham gia đầu tư vào
thị trường chứng khoán gián tiếp qua các quỹ đầu tư.
Ngoài ra, đối với các quỹ có quy mô lớn, vai trò của các tổ chức bảo lãnh phát
hành sẽ giúp cho việc huy động vốn cho các quỹ dễ thành công hơn. Vì vậy, cần có
tổ chức bảo lãnh phát hành chứng chỉ đầu tư đối với các quỹ có lượng vốn lớn. Để
khuyến khích các tổ chức tín dụng cũng như các định chế tài chính trung gian tham
gia bảo lãnh phát hành chứng chỉ đầu tư hình thành vốn cho các quỹ đầu tư chứng
khoán cần có các quy định thông thoáng hơn đối với các phương thức bảo lãnh phát
hành, tạo ra nhiều phương thức lựa chọn cho tổ chức bảo lãnh, đồng thời đảm bảo
lợi ích của các tổ chức bảo lãnh phát hành tương đương với rủi ro mà họ gánh chịu.
Bảo lãnh phát hành chứng chỉ đầu tư có thể thực hiện dưới hai phương thức: bảo
lãnh cam kết chắc chắn và bảo lãnh cố gắng tối đa.
Chính sách đầu tư của các quỹ:
Mục tiêu và chính sách đầu tư quỹ là do công ty quản lý quỹ chọn cho từng
quỹ. Tuy nhiên các quỹ nên có chính sách hướng hoạt động đầu tư của quỹ vào một
số các công cụ tài chính hoặc tài sản nhất định. Các quỹ đầu tư cổ phiếu sẽ thu hút
72
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
được sự quan tâm của người đầu tư kỳ vọng ở mức lợi nhuận cao nên sẵn sàng chấp
nhận mức rủi ro cao. Còn những quỹ đầu tư cân đối, 50% đầu tư vào các công cụ có
thu nhập cố định như trái phiếu và 50% đầu tư vào cổ phiếu sẽ thích hợp với những
người đầu tư có quan điểm đầu tư bảo thủ. Ngoài ra, quỹ đầu tư cũng cần được
khuyến khích đầu tư vào các dự án, các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng.
3.2.2. Các giải pháp cụ thể:
a) Chỉnh sửa và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý:
Các quy định pháp luật hiện nay cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng tới
sự hình thành của các công ty quản lý quỹ cũng như các quỹ đầu tư chứng khoán.
Vì vậy giải pháp nhằm thúc đẩy sự hình thành và phát triển của công ty quản lý quỹ
và quỹ đầu tư chứng khoán hiện nay là chỉnh sửa và bổ sung các văn bản pháp luật
hiện hành điều chỉnh hoạt động của các tổ chức này. Có nhiều ý kiến cho rằng hiện
nay những yếu tố cần thiết được coi là cơ sở để kiểm nghiệm, bổ sung hoặc sửa đổi
những văn bản pháp lý được xây dựng trên cơ sở lý thuyết.
Phương huớng là sửa đổi, bổ sung và nâng cấp các quy định pháp lý, tạo hành
lang ban đầu cho việc hình thành công ty quản lý quỹ và quỹ đầu tư chứng khoán.
Việc bổ sung có thể thực hiện bằng việc nâng cấp một số quy định trong Quy chế tổ
chức và hoạt động của quỹ đầu tư chứng khoán do Chủ tịch Uỷ ban Chứng khoán
nhà nước ký ban hành, nhằm nâng cao hiệu lực pháp lý của một số quy phạm pháp
luật, đồng thời bổ sung một số quy định chưa được đầy đủ. Trên cơ sở các quy định
bổ sung trong Nghị định chính phủ, rà soát và cụ thể hóa các quy định bằng văn bản
hướng dẫn của Uỷ ban. Chẳng hạn:
Về công ty quản lý quỹ: Việc cho phép các công ty quản lý quỹ được đầu
tư một phần vốn và tài sản của mình vào các quỹ như phần chung vốn vào quỹ với
người đầu tư là rất cần thiết đặc biệt trong giai đoạn đầu. Việc công ty quản lý quỹ
tham gia góp vốn hình thành nên quỹ sẽ góp phần tăng niềm tin cho công chúng đầu
tư vì chính bản thân công ty góp vốn vào quỹ nghĩa là công ty sẽ cùng gánh chịu rủi
ro với các nhà đầu tư vào quỹ, đồng thời trách nhiệm trong hoạt động kinh doanh
của bản thân công ty quản lý quỹ đối với quỹ cũng tăng lên. Tuy nhiên, để tránh
73
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
mâu thuẫn về lợi ích giữa công ty quản lý quỹ và các quỹ đầu tư, cần nhất thiết phải
có quy định cụ thể về tiêu chuẩn về đạo đức kinh doanh đối với những người điều
hành các quỹ cũng như những người lãnh đạo của công ty quản lý quỹ nói chung.
Hướng dẫn cụ thể cho phép công ty quản lý quỹ chỉ được dùng vốn điều lệ đầu tư
vào các công cụ tài chính có thu nhập cố định, ví dụ trái phiếu chính phủ, các công
cụ của thị trường tiền tệ như tín phiếu kho bạc, các loại thương phiếu, chứng chỉ
tiền gửi. Đồng thời, để tránh tình trạng các công ty quản lý quỹ thao túng hoạt động
của các quỹ, cần thiết phải đưa ra tỷ lệ hoặc giá trị tài sản tối đa công ty quản lý quỹ
được đầu tư vào các quỹ do mình quản lý cũng như quy định cho phép công ty quản
lý quỹ chỉ được mua chứng chỉ đầu tư của các quỹ khi phát hành lần đầu.
Về Ngân hàng giám sát: Vai trò của tổ chức giám sát là đặc biệt quan trọng
đối với các quỹ đầu tư dù theo mô hình nào. Tổ chức giám sát chính là người được
các nhà đầu tư uỷ thác giám sát hoạt động các bên tham gia vào hoạt động của quỹ
nhằm bảo đảm quyền lợi cho họ. Vai trò giám sát cần phải có các quy định cụ thể
hơn về trách nhiệm của người thụ uỷ đi đôi với quyền lợi họ được hưởng.
Vì vậy, chức năng bảo quản tài sản và giám sát hoạt động đầu tư nếu do cùng
một tổ chức đảm nhiệm cần phải tách bạch. Mối quan hệ tín thác theo nghĩa đầy đủ
thường xuyên được thực hiện tại bộ phận tách biệt của cùng một ngân hàng để cô
lập việc xung đột lợi ích có thể nảy sinh khi thực hiện hoạt động tín thác và lưu ký
đối với cùng một khách hàng. Ngân hàng giám sát có thể cùng đảm nhận chức năng
bảo quản và giám sát nhưng phải tổ chức thành hai bộ phận bảo quản tài sản và
giám sát tách biệt nhau. Bộ phận giám sát phải đảm nhận chức năng hoàn toàn độc
lập, được hưởng quyền lợi riêng và chịu trách nhiệm giám sát hoạt động quỹ thay
mặt các quyền lợi của những người đầu tư vào quỹ. Vì vậy, bộ phận giám sát được
Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước chấp thuận trên cơ sở một số tiêu chí và chịu trách
nhiệm báo cáo với các cơ quan quản lý Nhà nước về các hoạt động liên quan tới
quỹ. Cũng tương tự như đối với các tổ chức kiểm toán, Uỷ ban Chứng khoán Nhà
nước có thể lựa chọn và ra chấp thuận cho một số ngân hàng làm chức năng giám
74
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
sát. Các công ty quản lý quỹ được lựa chọn ngân hàng giám sát từng quỹ do mình
quản lý trong số các ngân hàng được chấp thuận.
Do đó, nhà nước cần bổ sung và làm rõ các quy định liên quan tới trách nhiệm
và quyền lợi của tổ chức giám sát:
+Quy định các tiêu chí về vốn, tình hình tài chính cũng như tiềm năng đối
với các ngân hàng đồng thời đảm nhận chức năng bảo quản và giám sát.
+Quy định việc tách bạch về tổ chức giữa hoạt động giám sát và hoạt động
bảo quản tài sản của quỹ cũng như tách bạch giữa chi phí cho việc giám sát và chi
phí bảo quản tài sản của quỹ. Chi phí bảo quản tài sản có thể thấp nhưng chi phí
giám sát có thể ở mức cao hơn rất nhiều để tương đương với trách nhiệm của người
giám sát.
+Tổ chức giám sát phải thực hiện chế độ báo cáo với Uỷ ban Chứng khoán
Nhà nước về hoạt động của các quỹ mà mình giữ vai trò thụ uỷ.
+Các thông tin mà tổ chức giám sát được tiếp cận trực tiếp để thực hiện
chức năng của mình.
+Khi một công ty quản lý quỹ muốn thay đổi người giám sát, công ty phải
tuyên bố rõ với cơ quan quản lý Nhà nước là Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước các lý
do chính đáng trong việc thay đổi tổ chức giám sát.
Bổ sung các quy định về trách nhiệm bồi thường vật chất: Các tổ chức
tham gia hoạt động của quỹ, công ty quản lý quỹ và ngân hàng giám sát phải chịu
trách nhiệm bằng tài sản của mình với các sai sót và hành vi gây thiệt hại đến quyền
lợi của người đầu tư của mình. Các quy định này sẽ đưa hoạt động của công ty quản
lý quỹ và tổ chức giám sát/bảo quản vào cùng với nhau nhưng phân định trách
nhiệm riêng rẽ với các nhà đầu tư của quỹ đối với các hành động bất chính có thể
gây thiệt hại đến quyền lợi của nhà đầu tư. Điều này sẽ tạo cơ hội cho cả hai bên
trong việc áp dụng chính sách đối với từng bên và vận hành quỹ một cách hợp lý.
Hiện nay các quyền liên quan đến người thụ hưởng (người hưởng lợi của
quỹ hay người đầu tư trong các văn bản hiện hành) đều chưa được đề cập đầy đủ
75
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
trong các văn bản liên quan. Vì vậy, cần có quy định cụ thể về việc tham gia vào ký
kết hợp đồng tín thác của người thụ hưởng, quyền truy đòi đối với tổ chức giám sát
nếu quyền lợi của họ bị thiệt hại do sự tắc trách đối với tài sản tín thác của tổ chức
trên.
Quy định thống nhất phương thức định giá các tài sản của quỹ: Các quy
định này sẽ là cơ sở để xác định giá trị tài sản ròng của quỹ. Các bên tham gia vào
định giá tài sản của quỹ có một phương thức thống nhất khi thực thi công việc,
tránh việc định giá quá cao hoặc quá thấp so với giá trị thực của tài sản, dẫn đến giá
trị tài sản ròng không được phản ánh đúng hiệu quả đầu tư thực của quỹ. Đặc biệt
đối với một số loại tài sản như chứng khoán không niêm yết hoặc bất động sản cần
đưa ra nguyên tắc chung rất cụ thể, có thể là một số tiêu chuẩn hoặc tiêu chí cụ thể
về cách thức định giá các loại tài sản này để tránh sự bất đồng trong việc định giá
tài sản, đồng thời, các tổ chức giám sát cũng như tổ chức kiểm toán độc lập có căn
cứ pháp lý giám sát hoặc xác nhận việc định giá tài sản. Ngoài ra, các quy định về
nguyên tắc của pháp luật cũng tránh được tình trạng cùng một loại chứng khoán
nhưng được định giá khác nhau giữa các quỹ thuộc các công ty quản lý khác nhau
với sự xác nhận của tổ chức giám sát và kiểm toán khác nhau.
Thực tế, việc định giá các tài sản nói chung, nhất là đối với chứng khoán
không niêm yết gây nảy sinh nhiều vấn đề và vướng mắc khi áp dụng vào thực tế,
ngay cả các thị trường có tính thanh khoản cao, mặc dù các quy định về mặt lý
thuyết tương đối hoàn hảo. Đặc biệt, đối với thị truờng Việt Nam, thị trường giao
dịch cũng như thông tin về các chứng khoán không niêm yết bao gồm cổ phiếu của
các công ty cổ phần và các công ty chuyển hình thức sở hữu từ doanh nghiệp Nhà
nước sang hình thức công ty cổ phần, một trong các sản phẩm đầu tư mà các quỹ sẽ
đầu tư, còn hạn hẹp và khiêm tốn.
Ngoài ra, vai trò của tổ chức kiểm toán độc lập cần được quy định cụ thể trong
các văn bản hướng dẫn. Tổ chức kiểm toán không chỉ tham gia vào đánh giá các
báo cáo tài chính của bản thân công ty quản lý quỹ cũng như từng quỹ, mà còn tham
76
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
gia vào thẩm định việc định giá tài sản của quỹ, một tác nghiệp quan trọng xác định
hiệu quả hoạt động của các quỹ đầu tư chứng khoán.
Khi nền kinh tế đã phát triển ở một mức độ nhất định, đời sống của công
chúng được ổn định và có tích luỹ, nhu cầu đầu tư trong dân chúng cũng tăng lên.
Đồng thời với nhu cầu đó là việc phát triển các hoạt động uỷ thác đầu tư hoặc uỷ
thác quản lý tài sản cho các tổ chức chuyên nghiệp để đảm bảo khả năng sinh lời
cao nhất của đồng tiền. Dưới giác độ vĩ mô, các tổ chức quản lý tài sản sẽ góp phần
làm cho các nguồn vốn được huy động dưới các phương thức khác nhau được chu
chuyển nhanh chóng và linh hoạt giữa các khu vực kinh tế. Lúc đó, vai trò của các
tổ chức quản lý tài sản đã được Nhà nước, các tổ chức kinh tế cũng như công chúng
đầu tư thừa nhận, quy định pháp luật đối với hoạt động của các công ty quản lý quỹ
hay các tổ chức quản lý tài sản chuyên nghiệp và các quỹ đầu tư có thể nâng cấp
thành một bộ luật riêng. Bên cạnh Luật Chứng khoán nhằm phát huy hiệu quả hoạt
động của tổ chức này đối với nền kinh tế.
Đảm bảo tính ổn định của các văn bản pháp luật cũng như tạo sự an tâm về
mặt tâm lý đối với các đối tượng tham gia vào hoạt động của quỹ.
Tạo sự thông thoáng về thủ tục hành chính nhằm rút ngắn thời gian cấp
phép hoạt động cho các công ty quản lý quỹ.
b) Xây dựng hệ thống kế toán, cơ chế quản lý tài chính:
Cũng như hoạt động kinh doanh chứng khoán, hoạt động quản lý quỹ là loại
hình kinh doanh mới tại Việt Nam. Về cơ bản loại hình kinh doanh này khác biệt rất
nhiều so với công ty chứng khoán. Thực chất, công ty chứng khoán cũng là một loại
hình doanh nghiệp như bất kỳ một doanh nghiệp nào khác, chỉ khác biệt ở hàng hoá
kinh doanh là các công cụ tài chính và chứng chỉ có giá. Đối với công ty quản lý
quỹ, ngoài việc hạch toán kinh doanh cho bản thân công ty, còn phải hạch toán hoạt
động đầu tư của từng quỹ do công ty quản lý và các quỹ này không phải là một
pháp nhân độc lập. Ngoài ra, hiện nay vẫn chưa có một hệ thống chuẩn mực đầy đủ
về kế toán, kiểm toán, báo cáo tài chính và yêu cầu công bố thông tin của các quỹ
đầu tư và công ty quản lý quỹ. Có những sự khác nhau đáng chú ý trong các khoản
77
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
dự phòng cho nợ quá hạn, cách làm báo cáo tài chính hợp nhất, cách đánh giá tài
sản, tính toán khấu hao…Vì vậy, đồng thời với các giải pháp liên quan tới khung
pháp lý cũng như đào tạo nhân sự là việc sớm nghiên cứu để đưa ra chế độ kế toán
cũng như chế độ quản lý tài chính của công ty quản lý quỹ. Chế độ kế toán của công
ty quản lý quỹ cần có sự tham khảo chế độ kế toán của các nước khác trong cùng
khu vực như Thái Lan, Trung Quốc,… hiện đang áp dụng mô hình tín thác như Việt
Nam.
c) Đào tạo các nhà phân tích và quản lý đầu tư chuyên nghiệp:
Một trong các giải pháp trước mắt và mang tính cấp thiết nhất theo tôi đó là
đào tạo nhân sự cho các công ty quản lý quỹ. Kinh nghiệm từ hoạt động của các tổ
chức kinh tế nói chung cũng như các công ty chứng khoán là những định chế tài
chính trung gian tham gia hoạt động đầu tiên trên thị trường chứng khoán, yếu tố
“con người” được coi là một trong những nhân tố quan trọng, góp phần không nhỏ
vào thành công trong hoạt động kinh doanh của công ty. Đặc biệt đối với các công
ty quản lý quỹ, yếu tố con người mà cụ thể là đội ngũ những người điều hành quỹ là
một nhân tố cơ bản quyết định sự thành công của bản thân công ty quản lý quỹ cũng
như hiệu quả hoạt động kinh doanh của các quỹ. Vấn đề này đã và đang được các tổ
chức tham gia kinh doanh chứng khoán nói chung và các tổ chức có dự kiến thành
lập công ty quản lý quỹ nhận thức và đặt lên vị trí quan trọng hàng đầu trong các
công việc xúc tiến chuẩn bị cho loại hình kinh doanh mới.
Tuy nhiên, dưới giác độ của cơ quan quản lý nhà nước với vai trò hỗ trợ cho
việc hình thành các tổ chức trung gian trên thị trường chứng khoán, các cơ quan này
cần có phương hướng trước mắt cũng như các định hướng dài hạn cho công tác đào
tạo để có được đội ngũ nhân sự chất lượng cao cho thị trường chứng khoán nói
chung và công ty quản lý quỹ nói riêng. Trung tâm đào tạo và nghiên cứu nghiệp vụ
chứng khoán trực thuộc Uỷ ban Chứng khoán nhà nước là nơi thực hiện việc đào
tạo đội ngũ cán bộ cho thị trường chứng khoán Việt Nam. Trung tâm chính thức đi
vào hoạt động từ tháng 3 năm 1998, đến nay đã tiến hành đào tạo được một khối
lượng đội ngũ nhân sự đáng kể cho thị trường. Tuy nhiên, hiện ở Trung tâm chỉ mới
78
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
có 3 khoá đào tạo: Cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán, Luật chứng
khoán, Phân tích và đầu tư chứng khoán. Những khoá học này mới chỉ cung cấp cho
học viên những kiến thức tổng quan nhất về thị trường chứng khoán chứ chưa có
những kiến thức chuyên sâu cho từng lĩnh vực và từng hoạt động kinh doanh trên
thị trường chứng khoán. Vì vậy, Trung tâm cần thực hiện một số giải pháp để nâng
cao chất lượng đào tạo như:
Cần gấp rút soạn thảo các chương trình đào tạo chuyên sâu dành riêng
cho những người điều hành quỹ.
Củng cố và nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, đặc biệt chú trọng
mời các chuyên gia, trong và ngoài nước, đã tham gia hoạt động thực tiễn trên thị
trường chứng khoán tham gia giảng dạy.
Tổ chức các khoá học thực hành tại các công ty quản lý quỹ để giúp các
học viên có điều kiện thực hành các kiến thức đã được giảng dạy trong thực tế.
Liên kết đào tạo với các tổ chức đào tạo nước ngoài nhằm tạo điều kiện
cho học viên có cơ hội tiếp thu những kinh nghiệm cũng như những chương trình
đào tạo tiên tiến và cập nhật trên thế giới. Đồng thời tiến hành cấp chứng chỉ quốc
tế cho học viên.
d) Có các chính sách nhằm đa dạng hoá hàng hoá trên thị trường chứng
khoán Việt Nam:
Các cơ quan nhà nước cần nhanh chóng thúc đẩy việc niêm yết chứng khoán
của các công ty cổ phần hoá đủ tiêu chuẩn niêm yết trên thị trường chứng khoán,
gắn việc cổ phần hoá với việc niêm yết trên thị trường chứng khoán, đa dạng hoá và
nâng cao tỷ trọng của công ty lớn niêm yết. Bên cạnh đó, Chính phủ, các doanh
nghiệp và các quỹ đầu tư cũng cần đẩy mạnh việc phát hành các trái phiếu Chính
phủ, trái phiếu Doanh nghiệp và các chứng chỉ Quỹ đầu tư. Điều này nhằm làm tăng
khối lượng hàng hoá được giao dịch trên thị trường, tạo điều kiện để các quỹ đầu tư
và công ty quản lý quỹ thực hiện tốt việc đa dạng hoá danh mục đầu tư của mình.
79
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
Thị trường OTC là cơ hội tốt để tăng cung chứng khoán cho các nhà đầu tư,
tạo điều kiện cho các công ty chưa đủ điều kiện niêm yết có cơ hội tiếp cận với thị
trường chứng khoán. Vì vậy việc phát triển thị trường OTC sẽ giúp hàng hoá trên
thị trường chứng khoán đa dạng hơn cũng như giúp tăng cung hàng hoá trên thị
trường, tạo ra nhiều sự lựa chọn hơn cho các nhà đầu tư trên thị trường. Việc phát
triển thị trường OTC đồng thời cũng giúp nâng cao kinh nghiệm của các thành viên
tham gia thị trường, mức độ quan tâm và nhận thức của công chúng. Điều này giúp
tăng trình độ đầu tư của các nhà đầu tư, tăng cầu hàng hoá trên thị trường góp phần
giúp các quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ dễ dàng hơn trong việc huy động vốn và
mở rộng quy mô hoạt động.
Uỷ ban chứng khoán cần có các quy định thông thoáng tạo môi trường pháp lý
tốt hơn cho việc ra đời và phát triển của các công cụ tài chính mới như chứng khoán
chuyển đổi, các chứng khoán phái sinh,… góp phần làm đa dạng hoá sản phẩm trên
thị trường chứng khoán, thu hút nhiều hơn sự quan tâm của các nhà đầu tư. Với việc
ra đời và phát triển của các công cụ tài chính mới trên thị trường chứng khoán như
vậy sẽ giúp các công ty quản lý quỹ và quỹ đầu tư thực hiện tốt hơn việc đa dạng
hoá danh mục đầu tư, giảm thiểu rùi ro và hoạt động hiệu quả hơn.
Uỷ ban chứng khoán cũng cần có các quy định và sự kiểm soát chặt chẽ đối
với việc công bố thông tin trên thị trường chứng khoán, đảm bảo tính minh bạch của
các thông tin. Đặc biệt trong giai đoạn thị trường chứng khoán đang biến động thất
thường như hiện nay, các nhà đầu tư đang rút vốn ra khỏi thị trường để đầu tư vào
các cơ hội chắc chắn hơn. Việc đảm bảo tính minh bạch của các thông tin sẽ đảm
bảo quyền lợi và tạo tâm lý an tâm cho các nhà đầu tư trên thị trường cũng như thu
hút thêm các nhà đầu tư mới tham gia thị trường. Điều này sẽ giúp các quỹ đầu tư
và công ty quản lý quỹ bớt khó khăn trong việc huy động vốn, phát hành chứng chỉ
quỹ và mở rộng quy mô vốn và quy mô hoạt động.
e) Có chính sách ưu đãi cụ thể cho các đối tượng tham gia hoạt động
quản lý quỹ:
80
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
Nhà nước cần ban hành các chính sách ưu đãi về thuế để khuyến khích và thúc
đẩy ngành quỹ đầu tư phát triển. Cụ thể:
Có chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế VAT đối với công
ty quản lý quỹ và bản thân từng quỹ đầu tư.
Không đánh thuế thu nhập đối với những người đầu tư tham gia đầu tư
thông qua việc mua các chứng chỉ đầu tư của quỹ.
Có cơ chế ưu đãi thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài đối với người đầu tư
nước ngoài.
KẾT LUẬN
Việc phát triển một thị trường chứng khoán ổn định, lành mạnh và hoạt động
hiệu quả không thể thiếu được sự tham gia hoạt động của các tổ chức tài chính
trung gian tham gia trên thị trường, đặc biệt là các quỹ đầu tư tập thể thông qua các
tổ chức quản lý đầu tư là các công ty quản lý quỹ. Với vai trò song hành, vừa là tổ
chức phát hành, vừa là nhà đầu tư có tổ chức, các quỹ đầu tư chứng khoán sẽ đóng
góp không nhỏ vào việc kích hoạt giao dịch trên cả thị trường sơ cấp cũng như thị
trường thứ cấp.
81
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
Thị trường chứng khoán tại Việt Nam qua hơn 8 năm hoạt động với nhiều biến
động đã cho thấy sự thiếu vắng vai trò bình ổn của các nhà tạo lập thị trường hay
các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp mà điển hình là các quỹ đầu tư. Vì vậy, sự hình
thành và phát triển của quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ trên thị trường chứng
khoán Việt Nam đóng vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của thị trường
chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn tới.
Những nội dung cơ bản về tổ chức và hoạt động của các quỹ đầu tư và các
công ty quản lý quỹ mang tính lý thuyết đã được tổng hợp trong đề tài. Đề tài cũng
đã chỉ ra một số nhân tố cơ bản về vĩ mô và vi mô ảnh hưởng tới việc hình thành và
phát triển của quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ trên thị trường chứng khoán Việt
Nam như: môi trường kinh tế và môi trường pháp lý; sự phát triển của thị trường
chứng khoán, khả năng gia nhập ngành, yếu tố tâm lý người đầu tư, các tổ chức
định mức tín nhiệm. Ngoài ra, qua thực trạng hoạt động của các công ty quản lý quỹ
và quỹ đầu tư trên thị trường chứng khoán cũng cho thấy nhiều hạn chế, đòi hỏi
phải có các biện pháp nhằm khắc phục để tạo điều kiện thuận lợi cho sự hình thành
và phát triển của các quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ trong thời gian tới.
Dựa trên sự đánh giá về các tồn tại ảnh hưởng tới việc hình thành và phát triển
quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ trên thị trường chứng khoán Việt Nam cũng như
những hạn chế rút ra được qua thực trạng hoạt động của các công ty quản lý quỹ và
quỹ đầu tư chứng khoán thời gian qua, khoá luận đã đề xuất một số giải pháp đối
với nhà nước và các quỹ đầu tư cũng như công ty quản lý quỹ nhằm thúc đẩy sự
hình thành và phát triển của các quỹ đầu tư trong tương lai như: đề xuất về mô hình,
về hệ thống pháp lý, về việc đào tạo nhân sự, về hệ thống kế toán và các chính sách
ưu đãi khác mà nhà nước nên tiến hành.
Với các kết luận rút ra trên đây, khoá luận về “Sự hình thành và phát triển của
quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ trên thị trường chứng khoán Việt Nam” hi vọng
có thể góp một phần nhỏ nhằm thúc đẩy sự hình thành và phát triển của quỹ đầu tư
và công ty quản lý quỹ chứng khoán trong tương lai.
82
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
Tài liệu tham khảo
1. Đào Lê Minh (2002), Giáo trình Những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị
trường chứng khoán, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội
2. Hoàng Minh (2006), Chứng khoán nhập môn, Nhà xuất bản Lao động – xã hội,
Hà Nội
3. Lê Thị Mai Linh (2003), Giáo trình Phân tích và đầu tư chứng khoán, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, Hà Nội
83
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
4. Lê Văn Tư (2005), Thị trường chứng khoán, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội
5. Lý Vinh Quang (2003), Chứng khoán và phân tích đầu tư chứng khoán, Nhà
xuất bản Thống kê, Hà Nội
6. Luật Chứng khoán Việt Nam năm 2006
7. Nguyễn Đỗ (2008), Chứng khoán - Đầu tư và quản lý, Nhà xuất bản Lao động –
xã hội, Hà Nội
8. Nguyễn Minh (2007), Tìm hiểu về Chứng khoán và thị trường chứng khoán,
Nhà xuất bản Lao động – xã hội, Hà Nội
9. Nghị định 144/2003/NĐ-CP ban hành ngày 28/11/2003 về Chứng khoán và thị
trường chứng khoán.
10. Quyết định 35/2007/ QĐ – BTC về Công ty quản lý quỹ
11. Quyết định 45/2007/ QĐ – BTC về Quỹ đầu tư
12. Thanh Lâm (2007), Đầu tư chứng khoán hiểu biết để thành công, Nhà xuất bản
Văn hoá – thông tin, Hà Nội
13. Trần Quốc Tuấn (2006), Cẩm nang đầu tư chứng khoán, Nhà xuất bản Tài
chính, Hà Nội
14. http://www.giaothongvantai.com.vn/Desktop.aspx/News/Cophan-hoa-
chungkhoan/SO_TAY_KIEN_THUC-Cong_ty_quan_ly_quy/
15. http://www.vietime.com/news/index.aspx?n/568/9496
16. http://kinhdoanhgioi.com/index.php?topic=549.0
17. http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=414&idmid=4&ItemID=1337
18. http://www.vnexpress.net/GL/Kinh-doanh/2008/11/3BA08093/
19. http://vietbao.vn/Kinh-te/Lai-suat-tien-gui-tiet-kiem-tiep-tuc-giam/
10830393/87/
20. http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=230&ItemID=6900
84
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
21. http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=507&ItemID=8217
22. http://vietnamnet.vn/60nam/2006/02/538850/
23. http://vietbao.vn/Kinh-te/Bai-6-Thi-truong-chung-khoan-va-quy-dau-tu-o-Viet-
Nam/45201257/87/
24. http://www.vinafund.com/VFVN/index.php?l1=357&l2=361
25. http://www.vinafund.com/VFVN/index.php?l1=358&l2=366
26. Báo cáo thường niên năm 2008 của VF1,
http://www.vinafund.com/VFVN/index.php?l1=359&l2=371&l3=413&year=2008
27. http://prudentialfund.com.vn/vn/company_profile.php
28. http://staging.prudentialfund.com.vn/file/PRUBF1/PRUBF1%2028%20Feb
%202009%20V.pdf
29. http://vmfc.vn/content/view/1013/31/
30. http://cafef.vn/2008112502187257CA31/tri-gia-trai-phieu-niem-yet-da-chiem-
11-gdp.chn
31. http://www2.vietnamnet.vn/kinhte/2007/08/729726/
32. http://www.hpsc.com.vn/news/news2detail.aspx?newsid=6003&grpid=2
33. http://www.hids.hochiminhcity.gov.vn/xemtin.asp?
idcha=1677&cap=3&id=3852
34. http://vietbao.vn/Kinh-te/Nhieu-DN-chua-co-y-dinh-niem-yet/45142712/91/
Phụ lục1
85
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
Sơ đồ 1: Cơ chế hoạt động của quỹ đầu tư dạng công ty
Phụ lục 2
Ngân hàng bảo quản tài sản
Tổ chức quản lý đầu tư
Hội đồng quản
trị
Đại hội
đồng cổ
đôngCơ quan quản trị hành chính
Công ty bán
Các cổ đông (người đầu tư)
Những người sáng lập
Công ty đầu tư chứng khoán
Uỷ quyền lưu ký tài sản cho công ty khác
Uỷ quyền việc quản lý tài sản
đầu tư cho công ty
khác
Giao việc hành chính quản trị cho
công ty khác
Cổ tức và tiền mua lại chứng chỉ hưởng lợi
Tiền được trả theo khoản đóng góp
Thanh toán cổ tức và tiền mua lại chứng chỉ
Đóng góp tiền
86
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
Sơ đồ 2: Cơ chế hoạt động của quỹ đầu tư dạng hợp đồng
Người được tín thác(ngân hàng tín thác)
Người tín thác(công ty quản lý)
Công ty bánNgười thu hưởng(người đầu tư)
Hợp đồng tín thác
Khoản tiền đặt mua
Phân bố lợi nhuận và thanh toán các khoản tiền mua lại
Phân bố lợi nhuân và thanh toán các khoản mua lại chững chỉ đầu tư
Phân bố lợi nhuân và thanh toán các khoản tiền mua lại chứng chỉ đầu tư
Uỷ quyền phân bố lợi nhuân và thanh toán các khoản tiền mua lại chứng chỉ đầu tư
Chỉ dẫn đầu tư
Giao lợi nhuận được chia và các khoản tiền mua lại chứng chỉ đầu tư
Khoản tiền đặt mua(trong trường hợp bán thẳng)
87
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
Phụ lục 3
Sơ đồ 3: Các bước của quy trình đầu tư
Nghiên cứu đầu tư
Phân tích rủi ro /lợi nhuận
Mục tiêu đầu tư
Phân bổ tài sản
Lựa chọn chứng khoán
Xây dựngdanh mục đầu tư
Đầu ra
Đầu vào
88
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
Phụ lục 4
Sơ đồ 4: Quy trình ra quyết định đầu tư trong tổ chức quản lý quỹ.
Mục tiêu đầu tư của quỹ
Hội đồng đầu tư ra quyết định chiến lược đầu tư
Người điều hành quỹ phác thảo danh mục đầu tư
Danh mục đầu tư
Thị trường chứng khoán
Thông tin điều tra thị trường
Thông tin từ phòng nghiên
cứu
89
Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương
Phụ lục 5
Thông tin chi tiết về Quỹ đầu tư VF1:
Phụ lục 6
Cơ cấu danh mục đầu tư của quỹ VF1 năm 2008:
(Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2008 của Quỹ đầu tư VF1)
Phụ lục 7
Phân bổ tài sản theo ngành:
Danh mục đầu tư 5 cổ phiếu có tỷ lệ cao nhất:
( Nguồn: Thông tin quỹ PRUBF 1 tháng 2/2009)
90