ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

183
HC VIN CHÍNH TRQUC GIA HCHÍ MINH LÊ CÔNG LƯƠNG ĐỔI MI SLÃNH ĐẠO CA ĐẢNG ĐỐI VI CÔNG TÁC VN ĐỘNG TRÍ THC TRONG GIAI ĐON HIN NAY Chuyên ngành: Xây dng Đảng và chính quyn nhà nước Mã s: 62 31 02 03 LUN ÁN TIN SĨ KHOA HC CHÍNH TRNgười hướng dn khoa hc: 1. PGS. TS Phan Hu Tích 2. TS Hoàng Mnh Đoàn HÀ NI - 2016

Transcript of ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

Page 1: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

LÊ CÔNG LƯƠNG

ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG

ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC

TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Chuyên ngành: Xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước

Mã số : 62 31 02 03

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Người hướng dẫn khoa học:

1. PGS. TS Phan Hữu Tích

2. TS Hoàng Mạnh Đoàn

HÀ NỘI - 2016

Page 2: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu,

kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn

đầy đủ theo quy định.

Tác giả luận án

Page 3: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN

ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 6

1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án 6

1.2. Những giá trị của các công trình luận án cần tham khảo và vấn đề

đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu 21

Chương 2: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG

TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 24

2.1. Trí thức và công tác vận động trí thức ở nước ta 24

2.2. Đảng lãnh đạo công tác vận động trí thức và đổi mới sự lãnh đạo

của Đảng đối với công tác vận động trí thức - khái niệm, nội dung

và phương thức

41

Chương 3: CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC VÀ ĐỔI MỚI SỰ

LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG

TRÍ THỨC - THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ KINH NGHIỆM 60

3.1. Thực trạng đội ngũ trí thức và công tác vận động trí thức ở nước

ta hiện nay 60

3.2. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức -

thực trạng, nguyên nhân, kinh nghiệm 79

Chương 4: NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG, YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP

CHỦ YẾU TIẾP TỤC ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG

ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC ĐẾN NĂM 2025 116

4.1. Những nhân tố tác động và yêu cầu tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo

của Đảng đối với công tác vận động trí thức 116

4.2. Những giải pháp chủ yếu tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng

đối với công tác vận động trí thức giai đoạn hiện nay 125

KẾT LUẬN 154

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN

ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 157

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 158

PHỤ LỤC 169

Page 4: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNXH Chủ nghĩa xã hội

GD&ĐT Giáo dục và Đào tạo

KH&CN Khoa học và công nghệ

KH&KT Khoa học và kỹ thuật

KTTT Kinh tế tri thức

KT-XH Kinh tế - xã hội

LHH Liên Hiệp hội

MTTQ Mặt trận Tổ quốc

UBND Ủy ban nhân dân

XHCN Xã hội chủ nghĩa

Page 5: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài luận án

Trí thức là vốn quý của dân tộc, là lực lượng tiêu biểu, thể hiện trình độ trí

tuệ của một quốc gia và có vai trò quan trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ

Tổ quốc. Lịch sử cho thấy rằng: ở thời nào cũng vậy, sự hưng thịnh của đất nước

tùy thuộc phần lớn vào việc coi trọng và sử dụng đội ngũ trí thức như thế nào. Cách

đây hơn năm thế kỷ, trong bài Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu

Đại Bảo năm thứ 3(1942),Thân Nhân Trung đã nêu bật được tầm quan trọng của

giáo dục nhân tài đối với sự hưng thịnh của đất nước:

Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà

hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế các bậc đế

vương thánh minh không đời nào không coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn

kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc cần thiết [137].

Hiện nay, Việt Nam đang đứng trước thách thức lớn về sự tụt hậu ngày càng

xa so với các nước trong khu vực và quốc tế. Đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa,

hiện đại hóa (CNH, HĐH) để từng bước vượt qua thách thức đó. Đội ngũ trí thức với

đặc thù lao động của mình có vai trò quan trọng, có ý nghĩa rất quan trọng. Không có

đội ngũ trí thức đủ mạnh thì không thể tiến hành CNH, HĐH đất nước, không thể xây

dựng thành công chủ nghĩa xã hội (CNXH).

Trí thức vừa là một bộ phận của nguồn lực con người, vừa là nguồn tiềm năng

khoa học, kỹ thuật, trực tiếp tham gia vào việc nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân

lực cho đất nước. Đánh giá về xu thế phát triển này, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XI đã khẳng định: “Kinh tế tri thức phát triển mạnh, do đó, con người và tri thức

càng trở thành nhân tố quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia” [50, tr.97]. Nối tiếp

truyền thống của dân tộc, vận dụng những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh về trí thức, trong sự nghiệp đổi mới Đảng Cộng sản Việt Nam

luôn quan tâm lãnh đạo công tác vận động đội ngũ trí thức. Đảng đã ban hành nhiều

nghị quyết, chỉ thị để lãnh đạo công tác vận động trí thức, điển hình là Nghị quyết

số 27-NQ/TW, về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HÐH

(2008). Quan điểm, chủ trương đúng đắn của Đảng chậm được cụ thể hóa vào tình

Page 6: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

2

hình thực tế, chưa tạo ra được những chính sách đồng bộ đủ mạnh để gắn kết khoa

học công nghệ với giáo dục đào tạo và sản xuất kinh doanh, phục vụ sự phát triển

của đời sống xã hội. Đảng bộ, chính quyền các cấp có lúc, có nơi chưa thấy hết vai

trò, vị trí của trí thức trong sự phát triển kinh tế - xã hội (KT - XH), đặc biệt trong

phát triển khoa học, công nghệ, giáo dục, văn hóa. Trong công tác quy hoạch đào

tạo, bồi dưỡng sử dụng, đãi ngộ đối với trí thức còn thiếu tính chiến lược, chưa

được xem như là một bộ phận cấu thành của chiến lược con người, chiến lược phát

triển KT - XH nên chưa tạo ra được một đội ngũ trí thức có cơ cấu đồng bộ, hợp lý

đáp ứng yêu cầu phát triển KT - XH. Sự quan tâm chỉ đạo đầu tư xây dựng các tổ

chức của trí thức chưa đúng mức, cả về tổ chức cũng như kinh phí hoạt động…

Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, các thế lực thù địch với chiến lược “diễn

biến hòa bình” đang tăng cường các hoạt động chống phá cách mạng nước ta, phá

hoại khối đoàn kết toàn dân, chia rẽ dân với Đảng, đặc biệt chúng tập trung lôi kéo,

lợi dụng trí thức nhằm hạ thấp, làm lu mờ vai trò lãnh đạo của Đảng. Tình hình đó

đòi hỏi chúng ta phải tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác

dân vận nói chung và công tác vận động trí thức nói riêng. Ngày 03/6/2013, Hội

nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, đã ra Nghị quyết số 25-

NQ/TW về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận

trong tình hình mới”. Nghị quyết đã nhấn mạnh mục tiêu lớn nhất của công tác dân

vận trong tình hình mới, tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công

tác dân vận để củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, tăng cường xây dựng

khối đại đoàn kết dân tộc, phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân, thực hiện thắng

lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vận động trí thức là bộ phận trong công

tác dân vận, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức góp

phần tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong

tình hình mới là yêu cầu bức thiết. Do đó, tiếp tục đổi mới tư duy, đổi mới nội dung,

phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức đang đặt ra

những vấn đề về lý luận và thực tiễn cần được nghiên cứu, làm sang tỏ thêm.

Xuất phát từ cách nhìn nhận, tiếp cận đó; từ yêu cầu nhiệm vụ, thực tiễn

công tác của bản thân, tác giả lựa chọn vấn đề: “Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối

với công tác vận động trí thức trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ

Page 7: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

3

chuyên ngành Xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước, tại Học viện Chính trị

quốc gia Hồ Chí Minh.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

2.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối

với công tác vận động trí thức, đề xuất phương hướng, mục tiêu và giải pháp tiếp tục

đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức đến năm 2025.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án, làm rõ kết quả

nghiên cứu về trí thức và sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức;

- Nghiên cứu cơ sở lý luận về đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác

vận động trí thức;

- Đánh giá thực trạng đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận

động trí thức, nêu nguyên nhân và rút ra những kinh nghiệm;

- Xác định mục tiêu, yêu cầu và đề xuất các giải pháp tiếp tục đổi mới sự

lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức đến năm 2025.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với

công tác vận động trí thức trong giai đoạn hiện nay.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức là một vấn

đề rất rộng và phức tạp. Luận án chỉ tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận về

trí thức và công tác vận động trí thức; nghiên cứu thực trạng đổi mới nội dung,

phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức từ năm 1986 đến

nay, trong đó tập trung chủ yếu vào giai đoạn 2000 đến 2013. Luận án cũng đề cập

đến những nhân tố tác động và những yêu cầu đặt ra đối với đổi mới sự lãnh đạo

của Đảng đối với công tác vận động trí thức, từ đó đề ra những giải pháp để tiếp tục

đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức trong giai đoạn từ

nay đến năm 2025.

Page 8: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

4

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý luận

Luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác -Lênin,

tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam

về trí thức và công tác vận động trí thức.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -Lênin đồng thời sử dụng

các phương pháp nghiên cứu lịch sử - logic, phân tích - tổng hợp, thống kê, so sánh, điều

tra, khảo sát thực tiễn, phương pháp chuyên gia và phương pháp điều tra xã hội học.

5. Những đóng góp mới về mặt khoa học

- Nghiên cứu và đưa ra khái niệm về trí thức và công tác vận động trí thức;

nội dung, phương thức lãnh đạo trí thức và xây dựng luận cứ khoa học khẳng định

tính tất yếu phải đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức

trong giai đoạn hiện nay.

- Đánh giá thực trạng, chỉ ra những hạn chế, nguyên nhân và rút ra những

kinh nghiệm lãnh đạo công tác vận động trí thức làm cơ sở thực tiễn cho việc đổi

mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức.

- Dự báo thuận lợi, khó khăn, từ đó xác định mục tiêu, yêu cầu và đề xuất các

giải pháp tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức

đến năm 2025.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

- Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần tiếp tục nghiên cứu về lý luận và

thực tiễn để tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức

trong tình hình hiện nay. Luận án góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho việc đổi

mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức trong tình hình hiện nay

- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo,

nghiên cứu giảng dạy trong hệ thống trường chính trị, các cơ quan, tổ chức và cá

nhân quan tâm.

7. Kết cấu của luận án

Gồm phần mở đầu, 4 chương với 8 tiết, kết luận, danh mục công trình nghiên

cứu đã công bố của tác giả, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.

Page 9: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

5

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN

ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

LUẬN ÁN

1.1.1. Các công trình nghiên cứu trong nước

Trí thức và công tác vận động trí thức có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự

phát triển của đất nước. Chính vì vậy, ở nước ta đã có nhiều công trình khoa học

nghiên cứu về đội ngũ trí thức và công tác vận động trí thức với nhiều khía cạnh,

quy mô khác nhau, trong đó có một số công trình khoa học đã đề cập đến các nội

dung mà luận án cần nghiên cứu nghiên cứu tham khảo và kế thừa.

1.1.1.1. Sách

- Trí thức Việt Nam thực tiễn và triển vọng, (1995) do Phạm Tất Dong (chủ

biên) [22]: Đây là một công trình nghiên cứu khá công phu, sâu sắc về đội ngũ trí

thức Việt Nam. Từ lý luận đến thực tiễn, tác giả đã đi sâu phân tích quan niệm hiện

đại về “trí thức”, trên cơ sở đó nghiên cứu đội ngũ trí thức Việt Nam qua các thời

kỳ lịch sử của thế kỷ XX. Từ việc nghiên cứu thực trạng về số lượng, cơ cấu… đến

tâm trạng, nguyện vọng của đội ngũ trí thức, tác giả đã đưa ra một số khuyến nghị

nhằm phát triển đội ngũ trí thức nước ta hiện nay.

- Định hướng phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam trong công nghiệp hóa,

hiện đại hóa, do Phạm Tất Dong (chủ biên) [24]: Trên cơ sở nghiên cứu khái quát

tình hình CNH, HĐH đất nước và một số yêu cầu đặt ra về nguồn lực trí tuệ; tác giả

đã khẳng định vai trò của đội ngũ trí thức trong CNH, HĐH, trong phát triển lực

lượng sản xuất, trong sáng tạo văn hóa, phát huy bản sắc dân tộc, trong lãnh đạo,

quản lý và điều hành sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Với thái độ tôn trọng trí thức,

tác giả khẳng định, trong nền kinh tế thị trường, “sản phẩm lao động của trí thức là

một loại hàng hóa đặc biệt, nó có thể mất đi hoặc bị chiếm đoạt mà không ai biết,

song nó cũng có thể được lưu thông và trả giá xứng đáng như bao thứ hàng quý

hiếm khác” [24, tr.330]. Đây chính là khởi nguồn cho sự đổi mới tư duy khi xem

Page 10: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

6

tiền lương và các loại phụ cấp của trí thức như những chính sách đầu tư có lợi nhất

để mua lại “chất xám” - một loại sản phẩm đặc biệt trong nền kinh tế thị trường.

- Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước (1995) của

Đỗ Mười [117]. Tác phẩm tập hợp những bài phát biểu của đồng chí Tổng Bí thư

Đỗ Mười về vị trí, vai trò và nhiệm vụ của đội ngũ trí thức Việt Nam trong sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

- Trí thức trong công cuộc đổi mới đất nước do Nguyễn Quốc Bảo, Đoàn Thị

Lịch (đồng chủ biên) [7]: Tác phẩm đã khái quát tình hình biến đổi của trí thức Việt

Nam trong công cuộc đổi mới, phân tích những hạn chế, ưu điểm của trí thức Việt

Nam, trên cơ sở đó đề ra những giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ trí thức nhằm đáp

ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước.

- Xây dựng đội ngũ trí thức thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

theo tư tưởng Hồ Chí Minh do Nguyễn Khánh Bật, Trần Thị Huyền (đồng chủ

biên), [8]. Đây là công trình nghiên cứu mang tính chuyên sâu về trí thức dưới góc

độ tư tưởng Hồ Chí Minh. Tác giả đã khái quát những nội dung cơ bản trong tư

tưởng Hồ Chí Minh về trí thức, làm rõ sự vận dụng sáng tạo của Đảng và Nhà nước

ta trong công tác xây dựng trí thức; đồng thời đánh giá những đóng góp, hạn chế

của đội ngũ này trong cách mạng Việt Nam, trên có sở đó, đi sâu phân tích, đề xuất

những giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức ở nước ta thời kỳ 2011- 2020 đáp ứng

yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.

- Một số vấn đề về trí thức Việt Nam của Nguyễn Thanh Tuấn [138]. Tác giả

đã đi sâu nghiên cứu về trí thức, vai trò của trí thức nói chung đối với tiến bộ xã hội;

làm rõ những đặc điểm của trí thức Việt Nam trong tiến trình lịch sử và dự báo xu

hướng phát triển của đội ngũ này. Trên cơ sở đó, tác giả đã đề ra những phương

hướng đổi mới công tác quản lý và chính sách KT - XH đối với đội ngũ trí thức

Việt Nam trong giai đoạn mới.

- Trí thức Việt Nam trước yêu cầu phát triển đất nước, của Nguyễn Đắc

Hưng [67]. Trong tác phẩm này, tác giả đã làm rõ quan niệm về trí thức; vị trí, vai

trò của trí thức; những phương hướng chủ yếu để xây dựng và phát triển đội ngũ trí

thức ở nước ta đáp ứng yêu cầu của thời đại. Trên cơ sở khẳng định nội hàm rất

Page 11: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

7

rộng của khái niệm trí thức, tác giả đã chỉ rõ: Trí thức là những người không chỉ có

trình độ học vấn cao mà điều quan trọng nhất là họ thực sự lao động bằng trí tuệ có

tính sáng tạo, có những cống hiến nhất định, hữu ích cho xã hội và phải được xã hội

kiểm định chất lượng thông qua hoạt động thực tiễn. Đây là sự đổi mới tư duy về trí

thức, từ chỗ chỉ coi trọng bằng cấp đến chỗ thừa nhận và đòi hỏi năng lực lao động

thực tế thông qua sự đánh giá khách quan của xã hội.

- Cộng đồng và đội ngũ trí thức người Việt Nam ở một số nước Đông Âu

những năm đầu thế kỷ XXI, do Nguyễn An Hà chủ biên [58]. Cuốn sách gồm ba

phần đã trình bày khái quát thực trạng, những nhân tố tác động và quan điểm chính

sách của Đảng và Nhà nước ta đối với cộng đồng người Việt và đội ngũ trí thức

người Việt ở một số nước Đông Âu những năm đầu thế kỷ XXI.

- Nguồn lực trí tuệ trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, của Bùi Thị Ngọc

Lan [84]. Trong công trình này, trên cơ sở nghiên cứu, phân tích một cách khá công

phu về vị trí, vai trò và thực trạng nguồn lực trí tuệ của đất nước, tác giả đã tập

trung xây dựng hệ thống các giải pháp thiết thực, cấp bách nhằm phát huy có hiệu

quả nguồn lực này trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.

1.1.1.2. Luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ

- Động lực của trí thức trong lao động sáng tạo ở nước ta hiện nay, Luận án

phó tiến sĩ Triết học của Phan Thanh Khôi [81]. Luận án tập trung nghiên cứu

những vấn đề lý luận và thực tiễn lao động sáng tạo của đội ngũ trí thức, từ đó đề ra

phương hướng và giải pháp để phát huy tinh thần lao động sáng tạo của đội ngũ trí

thức trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Tuy nhiên cùng với sự phát triển của đất

nước nhiều vấn đề liên quan đến động lực của trí thức trong lao động sáng tạo cũng

có những biến đổi.

- Vai trò của trí thức thủ đô Hà Nội trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện

đại hóa đất nước, Luận án tiến sĩ Triết học của Nguyễn Xuân Phương [124]. Luận

án đã phân tích thực trạng và vai trò quan trọng của đội ngũ trí thức thủ đô Hà Nội

từ đó đưa ra được những nhiệm vụ và giải pháp để phát huy tiềm năng trí tuệ của

đội ngũ trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.

Page 12: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

8

- Đảng bộ thành phố Hà Nội lãnh đạo xây dựng và phát huy vai trò của đội

ngũ trí thức từ năm 1997 đến năm 2007, Luận án tiến sĩ Lịch sử của Lương Quang

Hiển [63]. Luận án đã đánh giá khái quát công tác xây dựng đội ngũ trí thức của

Đảng bộ thành phố Hà Nội trong 10 năm 1997 - 2007, từ đó xác định phương

hướng, nhiệm vụ và giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức Thủ đô trong thời kỳ CNH,

HĐH đất nước.

- Trí thức người dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong công cuộc đổi mới, Luận

án tiến sĩ Triết học của Trịnh Quang Cảnh [9]. Luận án đã khái quát được thực trạng

đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số (chủ yếu ở các tỉnh phía Bắc), chỉ ra được

những hạn chế của trí thức và công tác xây dựng trí thức người dân tộc thiểu số của

Đảng, từ đó xác định phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp xây dựng đội ngũ trí

thức người dân tộc thiểu số trong giai đoạn đổi mới, xây dựng đất nước.

- Vấn đề phát triển nguồn nhân lực nữ chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay,

Luận án tiến sĩ Triết học của Nguyễn Thị Giáng Hương [69]. Luận án đã làm rõ sự

cần thiết và những điều kiện khách quan, nhân tố chủ quan cơ bản tác động đến việc

phát triển nguồn nhân lực nữ chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay, đánh giá thực

trạng nguồn nhân lực nữ chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay, từ đó đề xuất một số

giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn nhân lực nữ chất lượng cao đáp ứng yêu

cầu của sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay.

- Giáo dục - đào tạo với việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở

Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học của Lương Công Lý [95]. Luận án đã

làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản và thực trạng vai trò của giáo dục - đào tạo với

việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; đề xuất một số phương hướng và

giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của giáo dục - đào tạo với việc phát triển

nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay.

- Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng đội ngũ trí thức từ 1991 đến

2005¸ Luận án tiến sĩ Lịch sử của Nguyễn Thắng Lợi [93]. Luận án đã đánh giá quá

trình lãnh đạo xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam từ khi thành lập Đảng đến nay.

Dưới góc nhìn của lịch sử, tác giả đã phân tích rõ những thành công cùng như

những khuyết điểm, hạn chế của Đảng trong lãnh đạo xây dựng đội ngũ trí thức,

Page 13: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

9

một lực lượng quan trong trong liên minh công - nông - trí. Trên cơ sở phân tích

nguyên nhân và rút ra những bài học kinh nghiệm, tác giả đã đưa ra những giải pháp

để phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng đối với trí thức nhằm phát huy cao nhất tiềm

năng trí tuệ của đội ngũ trí thức trong xây dựng và bảo vệ đất nước.

- Xây dựng đội ngũ tri thức tại Thành phố Hồ Chí Minh trong sự nghiệp

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Luận án tiến sĩ Triết học của Trương Văn

Tuấn [140]. Luận án phân tích, làm rõ khái niệm, đặc điểm và vai trò của trí thức

đối với sự phát triển xã hội; quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về trí thức. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt

Nam về vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức Việt Nam trong sự nghiệp CNH, HĐH;

Tính tất yếu của việc xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức ở Thành phố Hồ Chí

Minh trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; Những thành tựu, hạn chế và

những yếu tố tác động đến trí thức và công tác xây dựng và phát triển đội ngũ trí

thức; Một số vấn đề đặt ra đối với việc xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức

Thành phố Hồ Chí Minh trong sự nghiệp CNH, HĐH. Luận án xác định mục tiêu,

phương hướng và đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm xây dựng và phát triển đội

ngũ trí thức ở Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2020.

- Đảng vận động trí thức trong đấu tranh giải phóng dân tộc từ năm 1930

đến năm 1945, Luận án tiến sĩ Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam của Đặng Thị

Minh Phượng [125]. Luận án đã đề cập đến quá trình chuyển biến, phát triển nhận

thức trong tư duy về vận động trí thức và một số kinh nghiệm có ý nghĩa lý luận,

thực tiễn và cũng là yếu tố tạo nên sự thành công của công tác vận động trí thức của

Đảng từ năm 1930 đến năm 1945. Luận án khẳng định: Đường lối cứu nước đúng

đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của công tác vận động trí thức và

phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

- Trí thức Việt Nam trong phát triển kinh tế tri thức, Luận án tiến sĩ Triết học

của Nguyễn Công Trí [135]. Từ cách tiếp cận tổng hợp, luận án nêu ra những đặc

trưng, tiêu chí cơ bản để xác định trí thức, vai trò của đội ngũ này trong điều kiện

phát triển kinh tế tri thức. Luận án xác định, trí thức là người lao động trí óc và

thường có trình độ học vấn cao, được đào tạo hoặc tự đào tạo. Giá trị quan trọng

Page 14: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

10

nhất của người trí thức chân chính đó là chân lý và lẽ phải; trí thức là người tự tin

và ngay thẳng, có lòng tự trọng, khả năng hành xử đúng mực và thích ứng cao với

các biến đổi của môi trường tự nhiên, xã hội.

- Phát triển đội ngũ trí thức ở Hà Tĩnh trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp

hóa, hiện đại hóa , Luận văn thạc sĩ Triết học của Trần Văn Thành [129]. Luận văn

góp phần làm rõ một số quan điểm của Mác - Lênin, Hồ Chí Minh và Đảng Cộng

sản Việt Nam về trí thức. Luận văn đã cơ bản xây dựng được khái niệm về đội ngũ

trí thức; Đề xuất một số giải pháp cơ bản có tính khả thi để xây dựng và phát triển

đội ngũ trí thức Hà Tĩnh hiện nay; Luận văn góp phần làm luận cứ khoa học cho

việc xây dựng chính sách đối với đội ngũ trí thức ở Hà Tĩnh và làm tài liệu tham

khảo cho những ai quan tâm đến vấn đề này.

- Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, phát huy vai trò của đội ngũ trí thức và

sự vận dụng trong thời kì đổi mới, Luận văn thạc sĩ của Hoàng Thị Thuận [133]. Luận

văn đã làm rõ cơ sở hình thành và nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng,

phát huy vai trò của đội ngũ trí thức: Những giá trị tư tưởng, truyền thống dân tộc;

tinh hoa văn hóa nhân loại; kinh nghiệm cách mạng thực tiễn Việt Nam và thế giới

mà Hồ Chí Minh đã kế thừa, phát triển trong xây dựng tư tưởng của mình; Luận văn

cũng đưa ra một số kiến nghị đối với Đảng, Nhà nước, bản thân đội ngũ trí thức

nhằm nâng cao chất lượng công tác xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí

thức trong thời kì đổi mới.

Các đề tài, công trình nghiên cứu trên đây đã làm rõ cơ sở lý luận, tổng kết

thực tiễn và đề xuất một số kiến nghị giải pháp về xây dựng đội ngũ trí thức ở nhiều

góc độ khác nhau.

1.1.1.3. Đề tài khoa học

- Đề cương báo cáo tình hình đội ngũ trí thức và công tác trí thức của Đảng

của Nguyễn Đình Tứ [142] đã đánh giá một cách tổng quát tình hình đội ngũ trí

thức Việt Nam sau 10 năm đổi mới và trình bày những quan điểm của Đảng ta về trí

thức và những giải pháp để xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ mới.

- Đề tài khoa học cấp nhà nước “Xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam giai

đoạn 2011 -2020”, Mã số KX.04/06-10, do Đàm Đức Vượng làm Chủ nhiệm [146].

Page 15: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

11

Đề tài đã làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về vị trí, vai trò, đặc điểm của đội ngũ trí

thức Việt Nam trong công cuộc đổi mới và trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước,

trong đó, có tham khảo kinh nghiệm xây dựng và sử dụng đội ngũ trí thức ở một số

nước phát triển; Đánh giá đúng thực trạng đội ngũ trí thức Việt Nam và chính sách

của Đảng và Nhà nước đối với đội ngũ trí thức qua hơn 20 năm đổi mới và hiện

nay; Dự báo xu hướng phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam đến năm 2020. Đề xuất

mục tiêu, quan điểm, phương hướng, giải pháp cơ bản xây dựng đội ngũ trí thức

giai đoạn 2011-2020; Kiến nghị những nội dung cụ thể về xây dựng đội ngũ trí thức

Việt Nam đến năm 2020, phục vụ trực tiếp cho việc xây dựng chiến lược phát triển

KT - XH Việt Nam giai đoạn 2011-2020; chiến lược phát triển và trọng dụng nhân

tài quốc gia Việt Nam; trình Trung ương xem xét để bổ sung, phát triển Cương lĩnh

năm 1991 và dự thảo các văn kiện Đại hội XI của Đảng.

- Đề tài cấp bộ “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với trí thức

nước ta hiện nay” do Ngô Huy Tiếp làm Chủ nhiệm đề tài [134]. Nhóm tác giả làm

rõ những vấn đề lý luận về nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng; khái quát

được về thực trạng, mục tiêu, phương hướng và giải pháp đổi mới đối với đội ngũ

trí thức Việt Nam, từ đó làm rõ được một số vấn đề về đổi mới phương thức lãnh

đạo của Đảng đối với đội ngũ trí thức trong giai đoạn hiện nay.

- Đề tài khoa học cấp Nhà nước: “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng

đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội trong điều kiện

mới”, mã số KX. 04-02/11/15 thuộc chương trình khoa học xã hội và công nghệ

trọng điểm cấp Nhà nước “Nghiên cứu khoa học lý luận chính trị giai đoạn 2011-

2015” do PGS, TS Trần Khắc Việt làm chủ nhiệm [144]. Đề tài đã phân tích lý luận

và tổng kết thực tiễn đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước,

Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội trong gần 30 năm thực hiện đường

lối đổi mới. Đề tài đã khẳng định những thành quả đạt được, chỉ ra những hạn chế,

thiếu sót trong phương thức lãnh đạo của Đảng. Trên cơ sở đó, đề tài đã đề xuất hệ

thống quan điểm, giải pháp tiếp tục đổi mới, hoàn thiện phương thức lãnh đạo của

Đảng, bảo đảm giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà

nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội trong điều kiện mới.

Page 16: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

12

1.1.1.4. Các bài viết đăng tạp chí

Trí thức là một đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành, nhiều đối tượng,

nhiều lĩnh vực, vì thế có khá nhiều bài viết , đề tài nghiên cứu về lĩnh vực này.

Trong những năm gần đây ở Việt Nam đã có một số bài viết và đề tài nghiên cứu,

tiêu biểu là:

- Cơ cấu xã hội của giới trí thức Việt Nam thời xưa; Cơ cấu xã hội và sứ

mệnh lịch sử của người trí thức Việt Nam hiện nay của Vũ Khiêu [79,80]. Trong hai

bài viết này đã đề cập đến vai trò, vị trí của trí thức dưới chế độ phong kiến Việt

Nam và vai trò, vị trí của người trí thức hiện nay, từ đó giúp người đọc hiểu thêm về

quá trình hình thành phát triển và sứ mệnh lịch sử của đội ngũ trí thức Việt Nam

xưa và nay.

- Quá trình vận động và biến đổi cơ cấu xã hội tầng lớp trí thức Việt Nam

của Nguyễn Duy Quý [126]. Bài viết đã đề cập đến quá trình vận động và biến đổi

cơ cấu của tầng lớp trí thức dưới góc nhìn của xã hội học, từ đó tác giả đưa ra

những dự báo, khuyến nghị về công tác vận động trí thức

- Đảng,nhà nước và nhân dân tin tưởng, đặt kỳ vọng vào những đóng góp

tích cực,to lớn,hiệu quả của đội ngũ trí thức của Trương Tấn Sang [127]. Bài viết

tiếp tục khẳng định quan điểm của Đảng đối với trí thức, mong muốn trí thức phát

huy hơn nữa tinh thần yêu nước, thi đua lao động sáng tạo, góp phần xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc.

- Mấy vấn đề cần đổi mới tạo động lực và điều kiện để trí thức nước ta phát

huy tài năng trí tuệ (1995) và nhận thức về vấn đề trí thức [2,3] của Nguyễn Đức

Bách. Bài viết đã đề cập đến một số vấn đề lý luận về trí thức, sự cần thiết phải đổi

mới tư duy, tạo điều kiện để trí thức phát huy vai trò của mình trong quá trình CNH,

HĐH, hội nhập, phát triển kinh tế tri thức.

- Trí thức Việt Nam với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của Nguyễn

Văn Khánh [75]. Dưới góc độ sử học, tác giả đã phân tích những cống hiến đóng góp

to lớn của trí thức Việt Nam trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc.

- Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại

hóa của Phùng Hữu Phú [123]. Trong bài viết tác giả đã đưa ra khái niệm chung về trí

Page 17: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

13

thức, đánh giá tình hình đội ngũ trí thức nước ta và công tác xây dựng đội ngũ trí thức

của Đảng và Nhà nước ta. xác định mục tiêu, quan điểm chỉ đạo, nhiệm vụ và các giải

pháp xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

- Xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam ngang tầm với yêu cầu,

nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới của Trường Lưu [94]. Trong bài viết tác giả

đã đề cập đến vai trò vị trí của trí thức trong lịch sử nhân loại; Trí thức Việt Nam và sứ

mệnh của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước;

Thực trạng và một số vấn đề đặt ra đối với đội ngũ trí thức nước ta hiện nay và đề ra

một số nhiệm vụ, giải pháp cơ bản xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam đáp ứng đòi hỏi

cấp thiết của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

- Phạm Tất Dong, Tác động của KTTT và sự phát triển đội ngũ trí thức Việt

Nam [25]. Dưới góc độ của một người nhiều năm làm công tác khoa giáo tác giả đã

thể hiện một tầm nhìn sâu sắc về những tác động, những thuận lợi, thời cơ và thách

thức của kinh tế trí thức, từ đó chỉ ra sự cấp thiết cần phải xây dựng và phát huy vai

trò của trí thức trong thời kỳ hội nhập quốc tế và KTTT.

- Hoàng Tụy, Những bài học về chính sách với trí thức [141]. Tác giả đã

tổng kết, khái quát hóa những bài học, những khuyết điểm, hạn chế trong việc sử

dụng nhân tài, đãi ngộ đối với trí thức, nhất là trí thức bậc cao trong thời kỳ CNH,

HĐH đất nước.

Ngoài các bài viết về công tác vận động trí thức, còn có rất nhiều bài viết đề

cập đến vấn đề đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ

thống chính trị nói chung và đối với Nhà nước, Quốc hội, MTTQ và các đoàn thể…

trong tiến trình đổi mới, CNH, HĐH đất nước, tiêu biểu là:

- Công tác vận động nhân dân của Đảng qua gần 30 năm đổi mới: Những

kết quả chủ yếu, bài học kinh nghiệm và vấn đề đặt ra của Hà Thị Khiết [77]. Tác

giả đã đánh giá kết quả công tác vận động nhân dân của Đảng; rút ra những kinh

nghiệm về công tác vận động nhân dân và những vấn đề đang đặt ra với công tác

vận động nhân dân của Đảng.

- Tiếp tục đổi mới công tác dân vận của Đảng đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo

vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới của Hà Thị Khiết [78]. Với tư cách là Trưởng Ban Dân

Page 18: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

14

vận của Đảng, tác giả khẳng định: Tiếp tục đổi mới công tác dân vận, đáp ứng yêu cầu

của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế là vấn đề có ý

nghĩa đặc biệt quan trọng đối với đất nước ta trong tình hình hiện nay. Thực chất của

công tác dân vận trong thời kỳ mới là xây dựng mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa

Đảng, Nhà nước với nhân dân, tạo sức mạnh tổng hợp, bảo đảm cho các chỉ thị, nghị

quyết của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước đi vào cuộc sống, thực hiện

thắng lợi mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".

- Lê Hữu Nghĩa, Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống

chính trị ở nước ta [120]. Trong bài viết tác giả đã khẳng định để nâng cao hiệu quả

lãnh đạo không chỉ phụ thuộc vào đổi mới nội dung lãnh đạo mà còn phụ thuộc vào

đổi mới phương thức lãnh đạo.Trong những năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam

ngày càng nhận thức sâu sắc vai trò, tầm quan trọng của phương thức lãnh đạo và

yêu cầu phải đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và hệ thống

chính trị về hệ thống những hình thức, biện pháp, cách thức lãnh đạo và đã mang lại

những thành tựu quan trọng, góp phần nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng, đồng

thời phát huy tốt hơn vai trò của Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội. Tác giả

cũng chỉ rõ những thành tựu và hạn chế trong đổi mới phương thức lãnh đạo của

Đảng đối với Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, từ đó đề ra những giải

pháp để tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.

- Lưu Văn An, Đổi mới nội dung, phương thức cầm quyền của Đảng trong

điều kiện hiện nay [1]. Theo tác giả, trong mỗi giai đoạn cách mạng, năng lực cầm

quyền và nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng là vấn đề luôn mới bởi những

điều kiện cụ thể và nhân tố ảnh hưởng luôn có sự thay đổi. Nâng cao năng lực cầm

quyền của Đảng trong giai đoạn hiện nay là yêu cầu khách quan của sự nghiệp đổi

mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế, là giải pháp quan trọng

củng cố vị trí cầm quyền của Đảng, khẳng định sức sống mãnh liệt của CNXH.

- Nhị Lê, Đổi mới và tiếp tục giải quyết những vấn đề đặt ra, không ngừng

hoàn thiện phương thức lãnh đạo trong điều kiện Đảng cầm quyền hiện nay [87].

Tác giả nhận định, thực tiễn phát triển phong phú và phức tạp về quy mô, tốc độ và

chiều sâu sau 70 năm cầm quyền, nhất là gần 30 năm của công cuộc đổi mới cấp

Page 19: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

15

bách đòi hỏi phải không ngừng xây dựng, chỉnh đốn nhằm nâng cao năng lực lãnh

đạo và sức chiến đấu của Đảng ngang tầm nhiệm vụ. Một trong những nhiệm vụ

bảo đảm cho Đảng hoàn thành trọng trách đó là phải tiếp tục đổi mới, từng bước

hoàn thiện phương thức lãnh đạo phù hợp với sự vận động của thực tiễn xây dựng

chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện Đảng cầm quyền. Để thực hiện

thành công những quyết sách mới, nhiều nhiệm vụ rất nặng nề, Đảng phải Đổi mới

và hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng, bảo đảm vừa nâng cao vai trò lãnh

đạo của Đảng, vừa phát huy tính chủ động, sáng tạo, tinh thần trách nhiệm của Nhà

nước, Mặt trận, các đoàn thể nhân dân, và người đứng đầu; khắc phục khuynh

hướng buông lỏng lãnh đạo hoặc bao biện làm thay; phát huy sức mạnh của cả hệ

thống chính trị, thắt chặt mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.

- Trần Ngọc Đường, Nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với

Quốc hội ở nước ta hiện nay [57]. Trong bài viết tác giả khẳng định: Tổ chức và

hoạt động của Quốc hội có những đặc trưng khác so với các cơ quan trong bộ máy

Nhà nước nên nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội có

những nét đặc thù riêng biệt. Không thể rập khuôn, máy móc sử dụng một phương

thức lãnh đạo giống nhau cho các cơ quan Nhà nước khác nhau. Đảng lãnh đạo, chứ

Đảng không chỉ đạo công việc cụ thể của Quốc hội. Đảng lãnh đạo nhưng phải thực

sự tôn trọng Quốc hội với tư cách là cơ quan dân cử, cơ quan quyền lực Nhà nước

cao nhất. Phải thừa nhận về phương diện chính trị và pháp lý rằng, Quốc hội chính

là cơ quan được nhân dân chính thức giao quyền lực Nhà nước và nhân dân thực

hiện quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội. Đổi mới nội dung và phương thức

lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội phải bảo đảm cho nền tảng chính trị - pháp lý

của quốc gia phát triển bền vững, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với

Quốc hội và nhân dân.

- Nguyễn Thế Trung, Đảng cầm quyền và phương thức lãnh đạo của Đảng

đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội [136]. Theo tác

giả: Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó “máu thịt” giữa Đảng - Dân. Ở thời kỳ nào,

công tác vận động và tổ chức quần chúng làm cách mạng cũng có ý nghĩa chiến

lược. Quần chúng được thu hút, tập hợp trong các tổ chức chính trị - xã hội. Các tổ

Page 20: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

16

chức chính trị - xã hội vừa là sợi dây nối liền Đảng với quần chúng, vừa là chỗ dựa

của chính quyền. Vì thế, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với MTTQ và

các tổ chức chính trị - xã hội trong tình hình mới là một đòi hỏi cấp thiết.

- Trương Tấn Sang, Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác

thanh niên thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH [127]. Theo đồng chí Trương Tấn Sang

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh

CNH, HĐH không chỉ là yêu cầu khách quan của tình hình thanh niên và yêu cầu

phát triển của đất nước, mà còn là yêu cầu chủ quan tự thân của Đảng với vai trò là

lực lượng lãnh đạo xã hội; góp phần quan trọng bảo đảm phát huy tốt nhất mọi

nguồn lực và trí tuệ cho việc bồi dưỡng, đào tạo, hình thành thế hệ thanh niên cách

mạng “vừa hồng, vừa chuyên” của Đảng, phục vụ tốt nhất sự nghiệp xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

1.1.2. Các công trình nghiên cứu nước ngoài

1.1.2.1. Sách

- Tôn trọng trí thức, tôn trọng nhân tài kế lớn trăm năm chấn hưng đất nước,

do hai tác giả người Trung Quốc Thẩm Vinh Hoa - Ngô Quốc Diện (chủ biên) [72].

Đây là cuốn sách có ý nghĩa tham khảo đối với Việt Nam trong công cuộc đổi mới,

CNH, HĐH đất nước hiện nay. Nội dung cuốn sách là một công trình phân tích một

cách có hệ thống tư tưởng Đặng Tiểu Bình về trí thức, nhân tài, về tôn trọng và phát

triển nhân tài, về giáo dục - đào tạo phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong

quá trình cải cách, mở cửa. Đặng Tiểu Bình là người đã kết hợp những nguyên lý cơ

bản của chủ nghĩa Mác - Lênin với thực tiễn Trung Quốc, sáng lập ra lý luận xây

dựng mô hình CNXH đặc sắc Trung Quốc.

- Chiến lược quốc gia nhân tài biến đổi thế giới của Vương Huy Diệu [20].

Tác giả đã trình bày chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của Trung

Quốc, phân tích những vấn đề cơ bản về nhân tài, đánh giá tình hình nhân tài Trung

Quốc hiện nay; đề xuất những chủ trương, nội dung, chính sách, đặc biệt là giáo dục

và đào tạo (GD&ĐT) phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước trong

thời kỳ phát triển mới.

Page 21: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

17

- Trí thức, lịch sử và cách mạng - Bút ký về cuộc sống của nước Nga hiện

nay của Vladimir Alexanderovits Mau,do Ngân Xuyên dịch [143]. Trong tác phẩm

này tác giả khẳng định: Giới trí thức đã đưa lại cho đất nước một khối lượng cơ bản

các nhà lý thuyết và thủ lĩnh của cách mạng, chính xác hơn, của các cuộc cách

mạng; Các cuộc tranh luận về trí thức là gì, về sự khác biệt giữa giới có học và giới

trí thức, rất là lý thú, nhưng cũng rất là bất tận. Chúng ta chỉ cần hiểu “trí thức” theo

nghĩa Nga của từ này là đủ: đó là người xuất thân quý tộc có học, tách khỏi giai

tầng hay giai cấp của mình, không có các gốc rễ xã hội, thế nhưng lại có khả năng

và thị hiếu suy luận dài dòng về ý nghĩa cuộc sống và vai trò của mình trong lịch sử

toàn thế giới; Có ba dấu hiệu của giới trí thức về mặt nguyên tắc phân biệt nó với

các nhóm xã hội khác: thái độ đối với sự giàu có, với lịch sử và với nhà nước.

- Khủng hoảng trí tuệ và sứ mệnh tầng lớp trí thức của N. A. Berdaev [118].

Một trong những vấn đề tác giả đặt ra là những người trí thức, những người sáng

tạo văn hóa tinh thần hiện nay cần phải thực hiện các đơn đặt hàng của đời sống,

phải phụng sự các quyền lợi của xã hội.

- Chính trị và kinh tế Nhật Bản của Okuhina Yasuhiro [122] đã nêu rõ những

vấn đề cơ bản về nhân tài; chính sách trong công tác cán bộ, phát triển nhân tài;

phân tích những kinh nghiệm trong việc đánh giá và luân chuyển cán bộ, phát huy

người tài của Nhật Bản trên cơ sở đặc điểm xã hội Nhật Bản; nhấn mạnh việc cố

gắng bảo tồn và phát huy yếu tố truyền thống dân tộc; thực hiện chế độ đào tạo,

quản lý cán bộ, công chức trong các cơ quan công quyền, chú trọng xây dựng các

phẩm chất, đặc biệt là phẩm chất trung thành của cán bộ; bảo đảm chế độ chính

sách và tiền lương cho cán bộ yên tâm cống hiến.

- Tuyển 40 năm chính luận của Lý Quang Diệu [20] đã thể hiện rõ những tư

tưởng của Lý Quang Diệu về trọng dụng nhân tài đất nước, về tầm quan trọng của

nhân tài, vai trò của giáo dục - đào tạo đối với sự phát triển nguồn nhân lực, đào tạo

nhân tài; nhấn mạnh “chế độ Singapore thực hành là chế độ trọng dụng nhân tài”,

coi việc biết đào tạo và dùng người tài là bí quyết thành công của Singapore trong

phát triển nhân lực bậc cao, phát triển nhân tài của Singapore

Page 22: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

18

1.1.2.2. Luận án

- Thực trạng và xu hướng biến đổi của nhóm xã hội trí thức trong quá trình

phát triển kinh tế xã hội ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Luận án tiến sĩ Khoa

học Chính trị của In pon nhôt xa vông [73]. Luận án đã nghiên cứu thực trạng đội

ngũ trí thức nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, chỉ ra được những mặt mạnh.

Mặt tồn tại hạn chế và những đóng góp của nhóm trí thức trong quá trình phát triển

của đất nước Lào, đồng thời đưa ra những dự báo về xu hướng biến đổi và vai trò

của đội ngũ trí thức trong phát triển kinh tế xã hội.

- Đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo của hệ thống chính trị ở Cộng hòa Dân

chủ Nhân dân Lào hiện nay, Luận án tiến sĩ Khoa học Chính trị của Khăm Phăn

Vông Pha Chăn [76]. Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc

đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo trong hệ thống chính trị ở nước Cộng hòa Dân chủ

Nhân dân Lào, luận án xác định quan điểm, phương hướng và đề xuất giải pháp

nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo của hệ thống

chính trị đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân

Lào hiện nay.

1.1.2.3. Bài viết về xây dựng đội ngũ trí thức, đào tạo thu hút nhân tài

Ở các quốc gia có nền kinh tế phát triển cao trên thế giới hiện nay như: Anh,

Pháp, Đức, Hoa Kì, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Singapore... đều khẳng định

vai trò quan trọng của đội ngũ trí thức, nguồn lực trí tuệ đối với sự phát triển KT -

XH và tiến bộ xã hội. Vì thế, khi xây dựng chiến lược phát triển khoa học - công

nghệ, giáo dục - đào tạo, các quốc gia này đều gắn với chiến lược xây dựng, phát

triển nguồn nhân lực tài năng. Nhận thức sâu sắc vai trò của giáo dục - đào tạo là

động lực, là chìa khóa cho sự phát triển KT - XH , các quốc gia nói trên đều rất

quan tâm việc đầu tư trọng điểm vào chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo gắn

với chiến lược trí thức, nhân tài. Sau đây là một số tài liệu nghiên cứu về xây dựng

đội ngũ trí thức, phát triển giáo dục, khoa học và công nghệ (KH&CN) qua các

chuyến đi nghiên cứu thực tế ở nước ngoài.

Page 23: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

19

- “Về tình hình đội ngũ trí thức Trung Quốc và hoạt động của CAST” của

Hiệp Hội Khoa học và Kỹ thuật Trung Quốc tại phiên làm việc với Đoàn Cán bộ

Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, sáng ngày 01-11-2011 [12]. Báo

cáo đã khái quát công tác trí thức của Đảng Cộng sản Trung quốc và quá trình xây

dựng phát triển của CAST. Báo cáo cho biết Đảng và Chính phủ Trung Quốc

thường xuyên coi trọng công tác đội ngũ trí thức, tiến hành nghiên cứu phân tích rất

sâu sắc tình hình biến động qua từng thời kỳ đối với đội ngũ trí thức, phát hiện và

giải quyết những vấn đề như nạn chảy máu chất xám, trí thức quay lưng với chính

trị... Trong công tác trí thức, Trung Quốc chia làm hai loại đối tượng là trí thức

trong Đảng và trí thức ngoài Đảng. Về cơ cấu bộ máy của Đảng, có một Ban của

Đảng là Ban công tác Mặt trận thống nhất (gọi tắt Ban Thống chiến), tương đương

Ban Dân vận của ta làm công tác trí thức, trong đó chủ yếu là đối với trí thức ngoài

Đảng. Công tác trí thức luôn được khẳng định là công tác chung của toàn Đảng,

nhiều bộ, ban, ngành của Đảng và Nhà nước có chức trách trong công tác này. Báo

cáo cho biết Hiệp hội Khoa học và Kỹ thuật Trung Quốc có 198 Hội ngành toàn

quốc, mỗi tỉnh có một hiệp hội khoa học và kỹ thuật (quan hệ giữa Liên hiệp hội

(LHH) trung ương và LHH địa phương chỉ là quan hệ hướng dẫn, định hướng chứ

không phải quan hệ lãnh đạo, độc lập hoàn toàn về kinh phí). Cơ quan trung ương

CAST có 160 người, 14 ban/ phòng (Ban Hợp tác Quốc tế có 18 người, trong đó có

02 người tham gia đi sứ nước ngoài). Khi cao nhất có đến 10.000 người làm việc

trong tổ chức CAST. Hàng năm, kinh phí bình quân, chính phủ Trung Quốc cấp cho

CAST 150 triệu USD.

- “Về chính sách đào tạo và sử dụng trí thức ở Trung Quốc” của Dương Tú

Cầm [10]. Theo báo cáo đến ngày 28-4-2011, tổng số dân của nước này hiện vào

khoảng 1,3 tỉ người, trong đó nguồn nhân lực dành cho ngành khoa học công nghệ

chiếm khoảng 36 triệu người và trở thành đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ với

quy mô hùng hậu đứng đầu thế giới. Trung Quốc chi ra hàng tỷ USD cho nghiên

cứu khoa học, hầu như mỗi bộ ngành của nước này đều có hàng loạt chương trình

nghiên cứu với mong muốn có được thành tựu vượt bậc trong tất cả các lĩnh vực, từ

tên lửa đạn đạo đến y khoa.

Page 24: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

20

1.2. NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA CÁC CÔNG TRÌNH LUẬN ÁN CẦN THAM

KHẢO VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU

1.2.1. Những giá trị của các công trình luận án cần tham khảo

Từ tổng quan tình hình nghiên cứu ở trong nước và quốc tế về trí thức với

nhiều công trình nghiên cứu công phu, cho thấy tính chất đặc biệt quan trọng của vấn

đề này đối với tiến trình phát triển của mỗi quốc gia. Giá trị khoa học của khối lượng

lớn những tài liệu, công trình nghiên cứu lý luận và thực tiễn về trí thức và vận động

trí thức đã tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả luận án nghiên cứu về vấn đề đổi mới sự

lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức ở nước ta hiện nay. Tổng quan

các công trình nghiên cứu đó, tác giả nhận thấy các công trình nghiên cứu của các tác

giả trong nước và nước ngoài đã đề cập đến những vấn đề lý luận và thực tiễn về trí

thức và công tác trí thức của một số quốc gia trên thế giới và Việt Nam, cụ thể là:

Một là, các công trình khoa học kể trên đã đề cập đến những vấn đề về lý

luận, vạch ra một hệ thống các phương pháp tiếp cận về về trí thức và công tác vận

động trí thức. Đáng chú ý là những quan điểm xem trí thức như một lực lượng xã

hội, một nhóm xã hội - nghề nghiệp được nhận diện và phân định bởi phương thức,

tính chất lao động trí óc, sáng tạo và phức tạp. Trong những năm gần đây, các công

trình nghiên cứu khi quan niệm về trí thức thường chú trọng nhấn mạnh tiêu chí

trách nhiệm và hiệu quả đóng góp cho sự phát triển xã hội từ từ đặc thù lao động trí

tuệ, lao động sáng tạo và tư duy phản biện xã hội của trí thức.

Hai là, các công trình khoa học nêu trên đã nghiên cứu về vai trò, đặc điểm,

tầm quan trọng của đội ngũ trí thức trong xây dựng và phát triển đất nước nói chung

và trong công cuộc đổi mới, CNH, HĐH đất nước.

Ba là, một số công trình khoa học đã nghiên cứu thực trạng đội ngũ trí thức

và vấn đề xây dựng, phát huy vai trò của đội ngũ trí thức, đặc biệt là các ngành khoa

học, các chuyên gia đầu ngành trong giai đoạn hiện nay.

Bốn là, một số công trình khoa học cũng đã tập trung nghiên cứu công tác vận

động trí thức của Đảng trong tiến trình cách mạng Việt Nam. Trong khi nghiên cứu

về trí thức và công tác vận động trí thức, các công trình khoa học nêu trên đều khẳng

định vai trò quan trọng của trí thức và công tác vận động trí thức; khẳng định việc xây

dựng đội ngũ trí thức là một nhiệm vụ quan trọng của Đảng và hệ thống chính trị.

Page 25: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

21

Năm là, có một số công trình đề cập chừng mực nhất định về nội dung,

phương thức lãnh đạo của Đảng đối với trí thức và công tác vận động trí thức. Các

công trình này bước đầu đề cập đến nội dung lãnh đạo, phương thức lãnh đạo của

Đảng, đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng đội ngũ trí thức và đổi mới

công tác vận động trí thức. Đây chính là sự bổ sung vào cách tiếp cận mới về trí

thức, nó được thai nghén và dần trở thành hướng nghiên cứu trọng tâm trong quá

trình đổi mới tư duy về trí thức và công tác vận động trí thức, nhất là trong bối cảnh

phát triển kinh tế tri thức, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay

Nhìn chung, những kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học liên quan

đến luận án đều có giá trị tham khảo về phương pháp tiếp cận, cung cấp tư liệu, giải

quyết vấn đề nghiên cứu. Những đề xuất các nhà khoa học về đổi mới sự lãnh đạo

của Đảng trong xây dựng đội ngũ trí thức và đổi mới công tác vận động trí thức đều

có giá trị tham khảo trong quá trình triển khai thực hiện luận án.

1.2.2. Những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu

Các công trình khoa học liên quan đến đề tài luận án có mục tiêu, nhiệm vụ

nghiên cứu và cách thức tiếp cận khác nhau nên những công trình này nghiên cứu,

giải quyết ở góc độ, hay khía cạnh nhất định về lãnh đạo, tập hợp trí thức.. Những

nghiên cứu lý luận về trí thức và công tác vận động trí thức là khá phong phú nhưng

nghiên cứu về đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức

chưa được đề cập nhiều. Một số công trình đã giải quyết được một số vấn đề lý luận

và thực tiễn về trí thức, đặc điểm của trí thức, thực trạng đội ngũ trí thức và công tác

vận động trí thức. Tuy nhiên, các công trình đã công bố đã lâu, nhiều cách tiếp cận

và tư duy chưa cập nhật, các số liệu tiêu chí đánh giá đã cũ, cần được bổ sung. Chưa

có công trình nào trực tiếp đi sâu luận giải sâu về vấn đề đổi mới sự lãnh đạo của

Đảng đối với công tác vận động trí thức trong giai đoạn hiện nay.

Thông qua việc khai thác, kế thừa kết quả nghiên cứu từ các công trình khoa

học trong và ngoài nước có liên quan, với phương pháp tiếp cận liên ngành triết học

- chính trị - xã hội - xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước, luận án bổ sung nhận

thức, quan niệm có tính hệ thống về trí thức và công tác vận động trí thức, xây dựng

luận cứ khoa học đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức

Page 26: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

22

trong giai đoạn hiện nay. Luận án làm rõ thực trạng công tác vận động trí thức và

đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức trong giai đoạn

hiện nay để làm cơ sở thực tiễn đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận

động trí thức trong giai đoạn hiện nay, nghiên cứu những cơ hội và thách thức, yêu

cầu và đề xuất những giải pháp tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công

tác vận động trí thức trong giai đoạn hiện nay.

Page 27: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

23

Chương 2

ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI

CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

2.1. TRÍ THỨC VÀ CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC Ở NƯỚC TA

2.1.1. Khái niệm, vai trò và đặc điểm của trí thức

2.1.1.1. Khái niệm trí thức

Mỗi xã hội có sự nhìn nhận về trí thức khác nhau, cho đến nay trong giới

khoa học đang còn nhiều quan niệm khác nhau về trí thức. Theo thống kê, hiện nay

trên thế giới có trên 60 định nghĩa “trí thức”. Tùy góc độ tiếp cận mỗi người có sự

luận giải, quan niệm khác nhau về trí thức, luận án tập trung phân tích một số quan

niệm chủ yếu sau đây:

Thuật ngữ “trí thức” có nguồn gốc từ tiếng La tinh “Intelligentia” nghĩa là sự

hiểu biết, nhận thức, kiến thức. Từ chữ “Intelligens” nghĩa là thông minh, trí tuệ, có

nhận thức hiểu biết, suy nghĩ. Theo một số nhà nghiên cứu, thuật ngữ trí thức được

dùng nhiều vào những năm nửa sau thế kỷ XIX để biểu thị một lực lượng xã hội

gồm những người có học thức.

C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa ra sự nhìn nhận về người trí thức và giới trí

thức: Giới trí thức tham gia các hoạt động xã hội với tư cách là “thuộc tính chung

của những sinh vật có trí tuệ”. Theo C.Mác, người trí thức là người sáng tạo tinh

thần, sản xuất tinh thần, là bộ phận tinh hoa của xã hội. Trí thức là một tầng lớp xã

hội đặc biệt chuyên lao động trí óc phức tạp, có trình độ học vấn, đại diện cho trí tuệ

đương thời mà xã hội đạt được. Họ là những người sáng tạo, phổ biến và vận dụng

tri thức vào đời sống xã hội, thúc đẩy nhanh sự phát triển văn hóa và tiến bộ xã hội.

V.I. Lênin, khi bàn về trí thức đã khẳng định: “Trí thức bao hàm không những chỉ

các nhà trước tác mà thôi, mà còn bao hàm tất cả mọi người có học thức, các đại

biểu của những nghề tự do nói chung, các đại biểu của lao động trí óc”. Chủ tịch Hồ

Chí Minh trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, sau khi đánh giá cao vai trò của

Page 28: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

24

những người trí thức tham gia cách mạng, tham gia kháng chiến, định nghĩa: “Trí

thức là hiểu biết. Trong thế giới chỉ có hai thứ hiểu biết: một là hiểu biết sự tranh

đấu sinh sản. Khoa học tự nhiên do đó mà ra. Hai là hiểu biết tranh đấu dân tộc và

tranh đấu xã hội. Khoa học xã hội do đó mà ra. Ngoài hai cái đó không có trí thức

nào khác...” [104, tr. 235].

Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm trí thức thì phải có tri thức. Tri thức là sự

hiểu biết, có hiểu biết và điều quan trọng là phải đem tri thức đó phục vụ cho nhân

dân, cho xã hội, qua đó góp phần cải tạo thực tiễn và nâng cao đời sống vật chất và

tinh thần của xã hội. Nhìn chung, trong nhiều định nghĩa về trí thức ta thấy có hai

dấu hiệu cơ bản:

- Có trình độ học vấn cao.

- Lao động trí óc có chuyên môn cao.

Ngoài tiêu chuẩn về trình độ học vấn cao, người trí thức cần phải có tinh thần

sáng tạo và tiêu chuẩn đạo đức.

Những người trí thức ban đầu của xã hội, dân tộc có thể hình thành một cách

tự phát, không qua trường lớp. Nhưng để có đội ngũ trí thức thật sự thì nhất thiết

phải có hệ thống đào tạo chính quy với những bằng cấp, học vấn khác nhau đồng

thời cũng không phủ nhận các hình thức đào tạo khác kể cả tự học. Ngày nay trên

thế giới đã có sự thống nhất tương đối về nội dung đào tạo và bằng cấp. Sự xác định

trình độ tối thiểu của trí thức chưa thật giống nhau, nhưng ở nước ta ít nhất cũng

phải tốt nghiệp bậc cao đẳng trở lên. Với trình độ tri thức ban đầu như thế, người trí

thức mới có khả năng tiếp cận với lao động sáng tạo.

Bằng cấp là hình thức thể hiện học vấn, qua các chức danh về học vị, học

hàm nhưng đó mới chỉ là dấu bên ngoài vì đôi khi bằng cấp không tương xứng với

trình độ học vấn. Cá biệt có những người có bằng cấp cao song vẫn không đóng vai

trò của trí thức, trong phân công lao động xã hội. Họ không đáp ứng được yêu cầu

của lao động sáng tạo, hoặc họ từ bỏ lao động sáng tạo và đi vào kiểu lao động giản

đơn, lao động chân tay tay hoặc buôn bán nhỏ, thậm chí, không làm gì, làm những

nghề không lương thiện. Những người này, theo như Chủ tịch Hồ Chí Minh, họ

cũng chỉ được gọi là “người có học” “người đỗ đạt” người làm việc bằng trí óc mà

thôi chứ chưa phải là trí thức đầy đủ.

Page 29: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

25

Bên cạnh đó, có những người bằng cấp không cao nhưng do tư chất thông

minh, lại chịu học hỏi nên có vốn tri thức khá sâu sắc và có nhiều sáng tạo được ghi

nhận trong những lĩnh vực chuyên môn nhất định, có người không được đào tạo

nhiều qua trường lớp nhưng họ tự trang bị kiến thức qua tài liệu và kinh nghiệm

thực tế cuộc sống mà thực hiện được công việc sáng tạo khoa học thì họ vẫn xứng

đáng được gọi là trí thức. Trong thực tế, không ít người trong số đó trở thành những

nhà bác học lớn, những trí thức hàng đầu, những nhà phát minh, sáng chế. Những

nhà phát minh vĩ đại như Ê- đi -xơn, như Bin - Ghết (Hoa Kỳ), những nhà văn hóa

dân gian hay những nhà sáng chế “Hai lúa” ở Việt Nam là những điển hình tiêu

biểu. Do vậy, nhìn nhận và đánh giá trí thức không chỉ trên cơ sở bằng cấp, trên sự

phân công lao động xã hội thuần túy mà chủ yếu ở tính chất lao động của họ. Trí

thức là "người lao động sáng tạo khoa học". Chính kiểu lao động thực sự đó của trí

thức mà làm cho tầng lớp này khác với những bộ phận lao động khác trong xã hội,

nhất là đối với nội bộ nhóm lao động trí óc...

Nói cách khác, người trí thức chân chính phải có tài và có đức. Thực chất hai

nhân tố đức và tài gắn bó với nhau, một con người không có khả năng sáng tạo hoặc

thiếu đạo đức đều không phải là trí thức hoàn toàn. Chủ tịch Hồ Chí Minh khi bàn

về phẩm chất của con người đã đề cập đến “đức” và “tài” trong đó “đức là gốc còn

tài là quan trọng”. Đức và tài là những yếu tố không thể thiếu được trong đội ngũ trí

thức, đặc biệt là những trí thức làm công tác lãnh đạo quản lý. Có tài mà không có

đức thì không chỉ không đem lại lợi ích thích đáng cho xã hội mà còn có thể gây tai

họa cho xã hội, ngược lại nếu có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó thậm

chí làm hỏng việc.

Về phương diện chính trị, trí thức tự bản thân không có hệ tư tưởng độc lập

nhưng lại góp phần quan trọng trong việc tổng kết, hình thành nên hệ thống tư

tưởng, học thuyết lý luận cho các giai cấp. Trong một thể chế chính trị nhất định,

tính giai cấp của đội ngũ trí thức là do tư tưởng của giai cấp thống trị quyết định.

Kế thừa và phát triển quan niệm của Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh

về trí thức, Nghị quyết số 27- NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa X về

“Xây dựng đội ngũ trí thức thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”,

Page 30: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

26

Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra quan niệm về trí thức Việt Nam như sau: “Trí

thức là những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên

môn nhất định, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức,

tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội”.

Quan niệm này thể hiện nhận thức sâu sắc của Đảng về trí thức phù hợp với

điều kiện phát triển của xã hội nói chung cũng như sự biến đổi của cơ cấu xã hội -

giai cấp trong tình hình mới ở Việt Nam nói riêng. Qua đó làm cơ sở để Đảng ta và

toàn xã hội thống nhất trong nhìn nhận một cách đúng đắn, khách quan vị trí, vai trò

của trí thức đối với sự phát triển đất nước.

2.1.1.2. Vai trò của trí thức

Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh đều

đánh giá cao vai trò của trí thức. Theo C.Mác, người trí thức là người sáng tạo tinh

thần, sản xuất tinh thần. Họ là những người sáng tạo, phổ biến và vận dụng tri thức

vào đời sống xã hội, thúc đẩy nhanh sự phát triển văn hóa và tiến bộ xã hội. Trong

bức thư gửi V.IDaxulich, Ph.Ănghen đã nói tới thái độ kiên quyết và lòng nhiệt tình

của những người trí thức dân tộc trong việc “chặt đứt xiềng xích đang giam cầm

họ”, tức là nền quân chủ. Ph. Ănghen khẳng định, “để điều hành bộ máy hành chính

và toàn bộ nền sản xuất xã hội, hoàn toàn không cần những lời nói suông, mà cần

những trí thức vững vàng”[96, tr.432].

Tiếp thu quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin cũng đề cao vai trò

của trí thức trong cách mạng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Người nói: “Sự hợp tác giữa

đại biểu khoa học và công nhân - chỉ có một sự hợp tác như thế mới có thể thủ tiêu

được toàn bộ nạn nghèo khổ, bệnh tật và bẩn thỉu... trước sự liên minh của các đại biểu

khoa học, giai cấp vô sản và giới kỹ thuật, không một thế lực đen tối nào đứng vững

được” [148, tr. 218]. Mặc dù trí thức không phải là giai cấp kinh tế độc lập và vì thế

không phải là lực lượng chính trị độc lập nhưng V.I.Lênin đánh giá cao vai trò của

trí thức. Khi bàn về vai trò của đội ngũ trí thức trong quá trình xây dựng CNXH

hiện thực, V.I.Lênin đã khẳng định: “Không có sự chỉ đạo của các chuyên gia am

hiểu các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật và có kinh nghiệm thì không thể chuyển lên

CNXH được, vì CNXH đòi hỏi một bước tiến có ý thức và có tính chất quần chúng

Page 31: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

27

để đi tới một năng suất lao động cao hơn năng suất của chủ nghĩa tư bản đã đạt

được” [148, tr. 217].

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người kế thừa những giá trị truyền thống của dân tộc

và vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin về trí thức trong sự nghiệp cách

mạng của Việt Nam. Người đã sớm nhận thức chính xác vai trò, vị trí của trí thức trong

xã hội. Người nhận định, trí thức là một bộ phận quan trọng trong lực lượng cách mạng

và là “vốn liếng quý báu của dân tộc. Ngay từ những ngày đầu của chế độ Việt Nam

Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Những người trí thức tham gia

cách mạng, tham gia kháng chiến rất quý báu cho Đảng. Không có những người đó thì

công việc cách mạng khó khăn thêm nhiều” [4, tr. 235, 238].

Từ các quan điểm của C.Mác - Ph.Ăng ghen, V.I.Lênin và Chủ tịch Hồ Chí

Minh, từ chức năng của trí thức trong sự phát triển xã hội nói chung, vai trò của đội

ngũ trí thức được thể hiện trên các mặt sau đây:

Một là, trí thức là vốn quý của đất nước, của nhân dân và dân tộc, có vai trò

quyết định sức sáng tạo và trình độ phát triển của quốc gia.

Trí thức là tầng lớp xã hội đặc biệt, thể hiện trình độ trí tuệ của mỗi quốc gia.

Trí thức là một nguồn lực phát triển của quốc gia. Từ xa xưa cha ông ta đã từng

nâng niu, trân trọng và đánh giá cao vai trò của trí thức. Ngày nay, trí thức hoạt

động trong hầu hết các lĩnh vực đời sống xã hội.

Hai là, đội ngũ trí thức là lực lượng trực tiếp nghiên cứu phát triển lý luận,

tổng kết thực tiễn, cung cấp những luận cứ khoa học phục vụ hoạch định đường lối,

chính sách, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và chế độ.

Đội ngũ trí thức là một tầng lớp xã hội có tính đặc thù, đặc biệt là những cá

nhân tiêu biểu, xuất sắc, họ có mặt trong các giai cấp và trở thành đại biểu cho ý chí

và lợi ích của các giai cấp cơ bản trong xã hội mà trước hết là giai cấp nắm quyền

lãnh đạo. Nhiều vấn đề xã hội bức xúc đang đặt ra đối với đội ngũ trí thức trong tất

cả các ngành khoa học khác nhau: khoa học xã hội, khoa học tự nhiên và khoa học

kỹ thuật. Đội ngũ trí thức tham gia đắc lực vào tổng kết thực tiễn, cung cấp những

luận cứ khoa học, phát triển lý luận của Đảng góp phần xây dựng làm sáng tỏ những

vấn đề về quản lý kinh tế, quản lý xã hội, đấu tranh chống những quan điểm lệch lạc

Page 32: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

28

sai trái, những luận điệu xuyên tạc, bôi nhọ của các thế lực thù địch, bảo vệ nền

tảng tư tưởng của Đảng và chế độ.

Ba là, trí thức là chủ thể của cách mạng khoa học - kỹ thuật là động lực thúc

đẩy phát triển công nghệ hiện đại.

Không có trí thức, không có khoa học thì không thể xây dựng đất nước. Trí

thức sáng tạo ra công nghệ hiện đại. Đội ngũ trí thức là lực lượng lao động trí tuệ, là

chủ thể đi đầu thực hiện những nhiệm vụ khoa học kỹ thuật. Họ có vai trò quan trọng

trong việc nghiên cứu, thiết kế triển khai tổ chức thực hiện sự lựa chọn và áp dụng

các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất, gắn khoa học với sản xuất. Người trí

thức không chỉ có vai trò đào tạo xây dựng đội ngũ làm công tác khoa học mà còn là

người trực tiếp sử dụng và phát huy tiềm năng trí tuệ để giải quyết các vấn đề đặt ra

trong khoa học và thực tiễn. Bằng tài năng trí tuệ của mình, trí thức là người luôn

luôn tìm tòi sáng tạo ra cái mới, cái mà xã hội có nhu cầu. Trí thức có khả năng hợp

tác trong nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, đảm nhiệm vai trò tư vấn, phản biện,

giám định các dự thảo về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, các dự luật,

dự án kinh tế - xã hội, công nghệ ở tầm quốc gia, khu vực và thế giới.

Bốn là, trí thức là lực lượng có vai trò quan trọng, có ý nghĩa quyết định

trong sự nghiệp GD&ĐT, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.

Xét về quá trình đào tạo nguồn lực con người các thế hệ nối tiếp nhau, đội

ngũ trí thức tỏ rõ vai trò chủ lực trong việc giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực cho

xã hội với trình độ ngày càng cao. Trong KTTT hiện nay, vai trò đội ngũ trí thức

ở mọi quốc gia càng thể hiện rõ trong việc trực tiếp đào tạo nguồn nhân lực chất

lượng cao, toàn diện về đức, trí, thể, mỹ và trong vô vàn các lĩnh vực, các ngành

nghề mới, ngày càng đa dạng và phức tạp hơn. Thực tiễn đã chứng minh sự phát

triển nền kinh tế - xã hội hiện đại, thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH

đất nước cần phải có những con người hiện đại. Đội ngũ trí thức có vai trò và

trách nhiệm lớn lao trong việc đẩy mạnh đổi mới sự nghiệp giáo dục - đào tạo

nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo ra

lớp người có năng lực cao và phẩm chất đạo đức tốt đáp ứng cho những nhu cầu

lao động hiện nay.

Page 33: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

29

Năm là, trí thức là lực lượng trực tiếp tham gia giữ gìn và phát triển những giá trị

văn hoá truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa giá trị văn hoá của

nhân loại nhằm làm phong phú đời sống văn hoá, tinh thần của nhân dân và đất nước.

Quá trình sản sinh, giữ gìn, phát huy, kế thừa các truyền thống giá trị văn hóa

của các dân tộc và của nhân loại, đội ngũ trí thức cũng là lực lượng xã hội có vai trò

nổi bật nhất. Mọi thành tựu, giá trị văn hóa, truyền thống và hiện đại của mỗi dân tộc,

của nhân loại đều gắn với những trí thức tiêu biểu, những danh nhân văn hóa. Trong

nền tảng văn hóa do nhân dân tạo ra, trí thức là những người vừa tham gia tạo dựng,

vừa có công khái quát giá trị (lý luận, khoa học, sách báo, di sản...) và hướng dẫn,

truyền bá, thực hiện bảo tồn, duy trì, phát triển... đối với xã hội về những giá trị di sản

văn hóa đó. Do đó, đội ngũ trí thức không chỉ thể hiện trong lĩnh vực sáng tạo ra của

cải vật chất, mà cả trong lĩnh vực sáng tạo những giá trị của đời sống tinh thần. Công

cuộc đổi mới đất nước đã hướng tất cả đội ngũ trí thức phát huy lao động sáng tạo

trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, ra sức khắc phục tình trạng đói nghèo về trí tuệ,

văn hóa, thông tin, mở mang tri thức, giao lưu văn hóa, tiếp thu những tinh hoa văn

hóa nhân loại góp phần làm cho đời sống tinh thần của nhân dân ngày càng phong

phú và trong sáng. Người trí thức trên mặt trận văn hóa phải thực sự là các chiến sĩ

tiên phong chống những tàn dư văn hóa cũ, độc hại, hướng con người đến những giá

trị chân - thiện - mỹ, trực tiếp tham gia phát triển và phổ biến văn hóa. Giữ gìn bản

sắc văn hóa dân tộc đồng thời tiếp thu những tinh hoa văn hóa thế giới.

2.1.1.3. Đặc điểm của trí thức Việt Nam

Trong mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, trí thức Việt Nam là lực lượng đại

diện cho trí tuệ của nhân dân và dân tộc, cho trình độ lao động phức tạp, lao động

sáng tạo và là một trong những động lực quan trọng nhất thúc đẩy sự phát triển, sự

phồn vinh của đất nước và dân tộc. Ngoài các đặc điểm của trí thức nói chung, trí

thức nước ta hiện nay có những đặc điểm cơ bản sau:

Một là, trí thức Việt Nam là những người lao động trí óc có tính sáng tạo,

sản phẩm lao động của họ thường mang đậm dấu ấn cá nhân.

Lao động trí óc của trí thức thường mang tính sáng tạo với những sản phẩm

lao động là các giá trị tinh thần, đòi hỏi họ phải có sự chi phí hàm lượng trí tuệ lớn

Page 34: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

30

trong quá trình lao động và đặc biệt là phải có sự sáng tạo, tức dùng tri thức đã có

để sáng tạo ra tri thức mới, các sản phẩm vật chất và tinh thần mới có giá trị đối với

xã hội. Hay nói cách khác, lao động của trí thức là sự tìm tòi, khám phá, sáng tạo

cái mới, tiến bộ, đòi hỏi phải có tư duy ở mức độ cao, sự hao phí của năng lượng,

hoạt động của bộ não là chủ yếu. Đó có thể là các sáng kiến cải tiến kỹ thuật, giải

pháp hữu ích giúp tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm mà hiệu

quả của nó có thể đo đếm, định lượng được; hoặc nó có thể là những luận điểm.

luận cứ, giải pháp để giúp Đảng, Nhà nước xây dựng đường lối, chủ trương, chính

sách đúng đắn. Trường hợp này, việc đánh giá hiệu quả của nó chỉ có thể bằng

phương pháp định tính mặc dù có những kết quả nghiên cứu khoa học xã hội - nhân

văn có ý nghĩa rất lớn, liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều ngành. Những quan

điểm, chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng ta là một ví dụ tiêu biểu. Mặt khác,

tính sáng tạo trong lao động của trí thức có thể gắn liền với kết quả trong thực tiễn,

ý tưởng sáng tạo gắn liền với việc chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Chính nhờ đặc điểm

này mà trí thức đóng vai trò nhân tố quan trọng thúc đẩy khoa học - công nghệ, văn

hóa - nghệ thuật, kinh tế - xã hội phát triển.

Sản phẩm lao động của trí thức mang đậm dấu ấn cá nhân. Trong thực tế,

không phải không có sản phẩm trí tuệ là kết quả chung của một nhóm người, của

một tập thể các nhà khoa học, của một đơn vị nghiên cứu, giảng dạy. Thế nhưng, dù

là sản phẩm của một cá nhân hoặc là sản phẩm của nhiều người thì tính sáng tạo cá

nhân vẫn thường được thể hiện rõ, nhất là các công trình khoa học của cá nhân.

Hai là, trí thức Việt Nam đã tiếp nối và phát huy được truyền thống văn hiến

của dân tộc, luôn đồng hành với sự nghiệp cách mạng của dân tộc,của Đảng và có

đóng góp đặc biệt xuất sắc cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc.

Sinh ra và lớn lên trong lòng một dân tộc bị thực dân và phong kiến áp bức,

trí thức Việt Nam cũng chịu chung số phận với quần chúng nhân dân lao động. Trí

thức Việt Nam, thế hệ nối tiếp thế hệ, đã phát huy được truyền thống hiếu học của

dân tộc, Trí thức nói chung rất ham học, ham đọc. Nhờ đó mà người trí thức luôn

luôn tiếp cận được cái mới, do đó trình độ lý luận không ngừng được nâng cao. Phát

huy tinh thần cần cù, không ngại gian khó của dân tộc, nhiều trí thức đã từ bỏ vinh

Page 35: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

31

hoa phú quý, từ bỏ chế độ đãi ngộ cao ở nước ngoài, trở về chia ngọt sẻ bùi, chấp

nhận gian khổ cùng nhân dân, phấn đấu cho sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa

xã hội, cho công cuộc đổi mới vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,

văn minh. Đặc điểm này rất đáng trân trọng, nhưng nếu không có ý chí quyết tâm

cao để vượt khó, dễ nảy sinh tư tưởng chấp nhận, an phận thủ thường, thiếu ý chí

vươn lên trong cuộc sống.

Lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam cho thấy quá trình hình thành và

phát triển của Đảng luôn có sự tham gia đắc lực của trí thức. Những trí thức như

Trần Phú, Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong… Đó là thế hệ cán bộ đầu tiên của

Đảng, có công lớn trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam,

góp phần làm nên sự thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Khi nhà

nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới ra đời còn muôn vàn khó khăn, theo lời

kêu gọi của Đảng, của Bác, nhiều trí thức được đào tạo dưới chế độ cũ và ở nước

ngoài, sẵn sàng rời bỏ môi trường làm việc thuận lợi sung sướng, rời bỏ vinh hoa

phú quý, gia nhập vào đoàn quân cách mạng, chấp nhận gian khổ, hy sinh cùng

với quân và dân lập nên bao chiến công anh hùng trong hai cuộc kháng chiến

chống Pháp và chống Mỹ.

Đội ngũ trí thức Việt Nam hiện nay chủ yếu xuất thân là con em nông dân,

công nhân, hoặc được hình thành trong quá trình trí thức hóa giai cấp công nhân

và nông dân, có mối quan hệ mật thiết với hai giai cấp này. Đây là tiền đề quan

trọng để trí thức tham gia và góp phần xây dựng liên minh công nhân, nông dân và

trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. đồng thời gắn bó chặt chẽ với dân tộc. Đây là

một đặc điểm riêng của đội ngũ trí thức Việt Nam so với giới trí thức của nhiều

nước đã trải qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản. Nhìn chung, chỉ có một số

ít được thừa hưởng truyền thống của các gia đình dòng dõi. Đặc điểm đó đã tạo

cho giới trí thức nước ta một ý thức gắn bó sâu sắc với nhân dân lao động, thông

cảm với người lao động vất vả, cực nhọc, với hoàn cảnh nghèo nàn, lạc hậu của

đất nước, thiết tha mong muốn xây dựng nước ta thành một quốc gia dân giàu,

nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, có thể sánh vai với các nước có

nền kinh tế phát triển trên thế giới.

Page 36: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

32

Ba là, trí thức Việt Nam được hình thành từ nhiều nguồn, có sự khác nhau;

qua biến cố của lịch sử nhưng không phản bội Tổ quốc, có những đóng góp về tư

tưởng, văn hoá, khoa học - kỹ thuật, công nghệ.

Đội ngũ trí thức Việt Nam trưởng thành như hiện nay là đã ra đời và phát

triển trải qua những giai đoạn cách mạng do Đảng lãnh đạo. Với tính chất của cuộc

cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, coi trí thức là một bộ phận có khả năng cách

mạng, nên Đảng ta đã tuyên truyền, động viên, thu hút nhiều trí thức yêu nước,

không kể xuất thân từ giai cấp, tầng lớp nào. Trong quá trình xây dựng đội ngũ trí

thức, từ bản chất của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, với thực tế đi lên từ một

nước nông nghiệp lạc hậu và vận dụng quan điểm mác xít, đường lối của Đảng ta là:

sử dụng và cải tạo trí thức cũ, đồng thời đào tạo trí thức mới từ con em nhân dân lao

động, nhất là từ công nhân và nông dân. Do nguồn gốc xuất thân và nguyên nhân

chủ quan, khách quan nên việc xem xét, đánh giá, đối xử với một số trí thức có lúc

chưa đúng mức, thậm chí nặng nề, nhưng không có biểu hiện phản bội Tổ quốc, họ

vẫn âm thầm sống và đóng góp, tiêu biểu như Trần Đức Thảo và một số trí thức

sống ở nước ngoài. Bước vào công cuộc đổi mới đất nước, để đáp ứng yêu cầu của

sự nghiệp CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT, chính sách phát triển GD&ĐT,

KH&CN từng bước đổi mới theo hướng ngày càng tiến bộ, phù hợp với xu thế phát

triển của thời đại. Những chính sách đó mở ra nhiều cơ hội cho trí thức Việt Nam

ngày càng phát triển cả về số lượng, chất lượng. Do đó, thành phần xuất thân của trí

thức đa dạng hơn và cũng phức tạp hơn. Bên cạnh số đông trí thức xuất thân từ giai

cấp công nhân, nông dân thì có một bộ phận không ít trí thức sinh ra trong các gia

đình giàu có, gia đình tư sản, chủ các doanh nghiệp, trang trại lớn... Hơn nữa, đường

lối đối ngoại rộng mở, nhiều trí thức được đào tạo ở nước ngoài theo các hình thức

khác nhau. Đây là một trong những yếu tố thuận lợi để hình thành đội ngũ trí thức

đa dạng, phong phú, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH, phát triển KTTT

hiện nay. Cùng với đội ngũ trí thức hoạt động trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật,

công nghệ; nghiên cứu lý luận chính trị, văn hóa-xã hội khá đông đảo trong các cơ

quan nhà nước, doanh nghiệp nhà nước… là các trí thức xuất thân từ môi trường lao

động trực tiếp sản xuất trên đồng ruộng, doanh nghiệp tư nhân, hoạt động văn hóa,

Page 37: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

33

nghệ thuật. Họ được gọi tên thân thương là “kỹ sư hai lúa, kỹ sư chân đất”, sang chế

được nhiều máy móc đem lại tiện ích và hiệu quả kinh tế cao, sưu tầm, lưu giữ,

truyền bá văn hóa dân gian… họ được gọi là “nghệ sĩ, nhà văn hóa” của làng quê,

bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống.

Bốn là, trí thức Việt Nam được tổ chức thành đội ngũ, chủ yếu hoạt động

trong các tập thể khoa học công lập, do Nhà nước cấp kinh phí hoạt động và một bộ

phận hoạt động trong các tập thể khoa học ngoài công lập.

Hiện nay, lực lượng trí thức làm việc trong khu vực công chiếm tỷ lệ cao trên

(80%), nhất là lĩnh vực giáo dục và y tế. Trước hết, lực lượng này nằm ở các trường

đại học, nơi có đông trí thức đồng thời cũng là nơi đào tạo trí thức chủ yếu cho cả

nước. Thứ hai là các viện nghiên cứu nhà nước. Có một hệ thống các viện đồ sộ

được lập nên gồm các viện của Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Viện Khoa

học xã hội Việt Nam và các viện, trung tâm nghiên cứu thuộc các bộ và các cơ quan

của bộ máy nhà nước, đảng. Chức năng của các viện là nghiên cứu khoa học và

phục vụ cho các yêu cầu của các cơ quan Đảng và Nhà nước. Ngoài các trí thức

hoạt động trong các tập thể khoa học công lập, có khoảng 20% trí thức hoạt động

trong các đơn vị khoa học và công nghệ ngoài nhà nước. Với sự ra đời của Nghị

định số 35/1992 và sau đó là Nghị định số 81/2003, hiện nay là Nghị định số

08/2013, hàng ngàn tổ chức nghiên cứu khoa học độc lập, viện, trung tâm và các tên

gọi khác, tự trang trải ra đời. Các tổ chức này hoạt động rất đa dạng, năng động,

mạnh mẽ, đáp ứng linh hoạt các nhu cầu của xã hội.

Năm là, một số trí thức Việt Nam chịu ảnh hưởng của tàn dư phong kiến,

thiếu sự liên kết chặt chẽ trong sáng tạo khoa học, tinh thần hợp tác chưa cao.

Từ một nước nông nghiệp, hàng ngàn năm nay, nền kinh tế nước ta, sản xuất

nhỏ là phổ biến. Nó để lại hậu quả khá nặng nề trong đời sống văn hóa và tinh thần

của xã hội ta kể cả trí thức. Những mặt tiêu cực và hạn chế của nó đã in rất đậm, rất

sâu trong nếp nghĩ, trong tư tưởng người sản xuất nhỏ biến thành thói quen, lối sống

cố hữu. Nhiều quan điểm về đạo đức bị ràng buộc bởi những khuôn khổ hết sức khắc

nghiệt của lễ giáo phong kiến, như tư tưởng đẳng cấp, tư tưởng xem thường lao động

chân tay, tư tưởng trọng nam khinh nữ, v.v.. người trí thức chịu ảnh hưởng của tư

Page 38: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

34

tưởng sản xuất nhỏ bộc lộ nhiều nhược điểm và còn bị nhiều hạn chế trong phương

pháp tư duy, trong tổ chức và trong quản lý nghiên cứu khoa học. Nếp nghĩ, tầm nhìn

của họ thường chủ quan, một chiều, giản đơn và thiển cận. Tính chất phân tán, tản

mạn, tự do chủ nghĩa, vô tổ chức, vô kỷ luật biểu hiện khá rõ nét. Trong đội ngũ trí

thức, ở chỗ này hay chỗ khác, có những biểu hiện khó đoàn kết, khó hợp tác với đồng

nghiệp. Tính chất cục bộ, bản vị, địa phương chủ nghĩa khá nặng nề, cản trở không ít

việc liên kết phối hợp của đội ngũ trí thức trong nghiên cứu tìm tòi, hợp tác, sáng tạo.

2.1.2. Công tác vận động trí thức - khái niệm, nội dung, hình thức

2.1.2.1. Khái niệm công tác vận động trí thức

Vận động trí thức là một bộ phận không thể tách rời công tác dân vận của

Đảng. Theo Từ điển tiếng Việt, “vận động” có hai nghĩa, nghĩa thứ nhất là hiện

tượng vật thể không ngừng thay đổi vị trí trong quan hệ với các vật thể khác. Nghĩa

thứ hai là tuyên truyền, giải thích, động viên làm cho người khác (hoặc một nhóm

đối tượng) tự nguyện làm việc gì. Hiểu theo nghĩa thứ hai, vận động trí thức là công

việc nhằm tuyên truyền, giải thích, động viên trí thức để họ tự nguyện tham gia xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo Từ điển tiếng Việt, “công tác” là công việc của nhà

nước hoặc của đoàn thể .

Công tác vận động trí thức là một bộ phận quan trọng trong công tác dân

vận; là hoạt động của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-

xã hội các cấp trong xây dựng chủ trương, chính sách và tuyên truyền, thuyết phục,

hướng dẫn, tập hợp, đoàn kết, cổ vũ, động viên, phát huy vai trò, tài năng trí tuệ

của đội ngũ trí thức góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng, xây dựng

và bảo vệ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa

Chủ thể công tác vận động trí thức là Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các

đoàn thể nhân dân, các tổ chức của trí thức. Đảng không những lãnh đạo hệ thống

chính trị tiến hành công tác vận động trí thức, mà còn trực tiếp làm công tác vận

động trí thức. Mọi tổ chức đảng từ Trung ương đến chi bộ, mọi cán bộ, đảng viên

phải làm công tác vận động trí thức theo chức trách của mình, đều là chủ thể công

tác vận động trí thức của Đảng.

Page 39: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

35

Mục tiêu của công tác vận động trí thức nhằm củng cố vững chắc lòng tin

của trí thức đối với Đảng; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ

gắn bó đặc biệt giữa Đảng với trí thức; tập hợp, vận động trí thức thực hiện tốt các

chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát huy vai trò của đội

ngũ trí thức nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đối tượng của công tác vận động trí thức là tất cả trí thức người Việt Nam

trong và ngoài nước đang hoạt động trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Nhiệm vụ của công tác vận động trí thức gồm hai mặt chủ yếu: xây dựng đội

ngũ trí thức và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức.

2.1.2.2. Nội dung công tác vận động trí thức

Công tác vận động trí thức là trách nhiệm của Đảng, của hệ thống chính trị,

và toàn xã hội. Công tác vận động trí thức bao gồm hai nội dung cơ bản sau đây:

Một là, xây dựng đội ngũ trí thức đáp ứng được yêu cầu xây dựng và bảo vệ

Tổ quốc

Xây dựng đội ngũ trí thức là một quá trình lâu dài, đòi hỏi sự tham gia,

chung tay, góp sức của toàn Đảng toàn dân và toàn xã hội. Để có được đội ngũ trí

thức đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ của đất nước phải chú trọng chăm lo đào tạo,

bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ trí thức từ đào tạo mới, đào tạo lại và bồi

dưỡng thường xuyên kiến thức cho đội ngũ trí thức. Muốn làm tốt việc đào tạo đội

ngũ trí thức cần phải xem GD&ĐT là quốc sách hàng đầu, đặc biệt chú trọng giáo

dục đại học và sau đại học.

Để xây dựng đội ngũ trí thức đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ công nghiệp

hóa, hiện đại hóa, Đảng, Nhà nước tiến hành cải cách giáo dục từ cơ cấu hệ thống

đến chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, nâng cao chất lượng và hiệu

quả đào tạo đại học; thực hiện các biện pháp gắn đào tạo với nhu cầu của người học

và nhu cầu của xã hội. Song song với đảm chất lượng đào tạo đại trà, xây dựng cơ

chế, chính sách thực hiện có hiệu quả đào tạo tài năng nhằm nâng cao chất lượng

đội ngũ trí thức và phát triển nhân tài cho đất nước. quan tâm đào tạo, bồi dưỡng trí

thức trẻ, trí thức là những người đã có cống hiến trong hoạt động thực tiễn, trí thức

người dân tộc thiểu số và trí thức nữ. Thực hiện tốt kiểm định chất lượng đào tạo,

Page 40: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

36

tăng cường vai trò của các tổ chức kiểm định độc lập. Tăng cường hoạt động nghiên

cứu khoa học và chuyển giao công nghệ. Gắn đào tạo đại học và sau đại học với

nghiên cứu khoa học, với sản xuất kinh doanh. Xây dựng một số trường đại học

ngang tầm các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới. Tạo điều kiện để các trường

đại học, viện nghiên cứu hàng đầu của các nước phát triển đầu tư mở cơ sở đào tạo,

nghiên cứu, chuyển giao công nghệ tại Việt Nam. Trong xu hướng toàn cầu hóa, để

hội nhập quốc tế, để cần phải chủ động đưa cán bộ, học sinh, sinh viên có đạo đức

và triển vọng đi đào tạo ở nước ngoài, chú trọng các chuyên ngành mà đất nước có

nhu cầu bức thiết, quan tâm bố trí đãi ngộ thu hút trí thức được đào tạo về nước

công tác, hạn chế tình trạng chảy máu chất xám

Xây dựng đội ngũ trí thức là trách nhiệm của toàn xã hội vì vậy phải thực

hiện xã hội hóa giáo dục và đào tạo, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn

đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo, thực hiện đa dạng hóa các loại hình đào

tạo, bồi dưỡng ở trong và ngoài nước, phải xây dựng cho được một xã hội học tập,

tuyên truyền vận động, phát huy vai trò gia đình, dòng họ, các cơ quan đơn vị phải

tích cực tham gia vào các hoạt động khuyến học khuyến tài. Mỗi một cá nhân phải

không ngừng học tập, học tập suốt đời.

Hai là, phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp xây dựng và bảo

vệ Tổ quốc

Để phát huy vai trò của đội ngũ trí thức, cần phải tập hợp, đoàn kết, tập hợp

đội ngũ trí thức trong các ngành, các lĩnh vực, trong nước, ngoài nước, phải đưa họ

vào tổ chức dù nhà nước hay ngoài nhà nước. Đồng thời phải tập trung xây dựng tổ

chức, bộ máy và nâng cao chất lượng hoạt động các tổ chức của trí thức như các

đơn vị nghiên cứu và giảng dạy ở các viện, các trường đại học, cao đẳng, và các hội

trí thức, các tổ chức KH&CN của trí thức ngoài công lập. Phải tuyên truyền, phổ

biến cho trí thức về chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà

nước, cổ vũ, động viên đội ngũ trí thức phát huy nhiệt tình cách mạng, sáng tạo

trong nghiên cứu khoa học, trong lao động, tự giác chấp hành, thực hiện hiện chủ

trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, góp phần xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Page 41: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

37

Thông qua công tác lý luận, công tác tuyên truyền cổ động và công tác văn

hóa văn nghệ của Đảng, của các tổ chức trong hệ thống chính trị góp phần định

hướng chính trị, giáo dục, nâng cao nhận thức của đội ngũ trí thức về chủ nghĩa

Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng của Đảng động viên trí

thức tham gia các hoạt động nghiên cứu lý luận, nghiên cứu khoa học, trao đổi học

thuật, tiến hành phản biện có chất lượng các yêu cầu khoa học và lý luận. Từ đặc

trưng lao động sáng tạo của trí thức, phải tuyên truyền, thuyết phục, cổ vũ động

viên đội ngũ trí thức phát huy tinh thần lao động sáng tạo trong xây dựng và bảo vệ

Tổ quốc; phát huy vai trò của đội ngũ trí thức, khơi dậy và làm cho tiềm năng sáng

tạo của trí thức trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, góp phần

thực hiện các mục tiêu CNH, HĐH đất nước.

Đảng, Nhà nước, các ngành các cấp tạo môi trường và điều kiện thuận lợi

cho hoạt động của trí thức. Thực hiện quy chế dân chủ trong hoạt động khoa học và

công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn hóa và văn nghệ; bổ sung, hoàn thiện các cơ

chế, chính sách, tạo điều kiện để trí thức phát triển, cống hiến.Mở rộng hợp tác và

giao lưu quốc tế về khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn hóa và văn

nghệ. Đảng, Nhà nước và xã hội phải chăm lo bảo đảm chính sách, chế độ đãi ngộ,

lợi ích vật chất, tinh thần của đội ngũ trí thức.Việc đãi ngộ xứng đáng đối với trí

thức là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy tinh thần tích cực trong lao

động sáng tạo. Để có chính sách đúng đắn đối với đội ngũ trí thức, Đảng và Nhà

nước cần phải khuyến khích và tạo thu nhập chính đáng bằng chất xám; Nhà nước

cần đặc biệt quan tâm đến lợi ích tinh thần, tôn vinh các nhà khoa học, các tổ chức,

tập thể trí thức có đóng góp lớn thông qua việc trao tặng các giải thưởng, phong

tặng các danh hiệu cao quý.

2.1.2.3. Hình thức vận động trí thức

Vận động trí thức cũng có những cách thức chung như vận động các tầng lớp

xã hội khác. Tuy nhiên, công tác vận động trí thức cần chú trọng những nét riêng

của tầng lớp xã hội đặc biệt, nhất là đặc điểm và vai trò của họ để có phương pháp,

hình thức vận động phù hợp. Công tác vận động trí thức được thể hiện qua các hình

thức sau đây:

Page 42: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

38

Một là, vận động trí thức thông qua việc đề ra cương lĩnh, chủ trương, đường

lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Muốn vận động trí thức trước hết

Đảng phải xác định mục tiêu, quan điểm, phương hướng làm kim chỉ nam cho mọi

hành động của toàn hệ thống chính trị và toàn xã hội. Trên cơ sở đường lối chủ

trương của Đảng , Nhà nước phải cụ thể hóa thành các văn bản pháp luật của Quốc

hội, chính sách cụ thể của Chính phủ, của các bộ ngành và chính quyền các cấp

trong việc xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức.

Hai là, vận động trí thức bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, đối thoại,

gặp gỡ, giao lưu với trí thức. Đây là những hình thức quan trọng trong công tác tư

tưởng. Thông qua các hình thức này, xây dựng và xác lập kênh thông tin đa chiều

để kết nối giữa những người làm công tác vận động trí thức với trí thức, cho trí thức

hiểu về những quan điểm chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước từ đó họ thực

hiện đúng chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước.

Ba là, vận động trí thức bằng công tác quản lý nhà nước, thông qua việc thực

thi các chính sách, pháp luật của nhà nước. Mọi chủ trương và chính sách sẽ không

đi vào cuộc sống nếu không được triển khai thực hiện đầy đủ kịp thời. Trên cơ sở

các nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước, chính quyền các cấp cụ thể hóa

hơn nữa thành các chiến lược, chương trình, kế hoạch, quyết định… về công tác vận

động trí thức, tạo điều kiện thuận lợi cho trí thức cống hiến, đóng góp sức mình vào

công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Bốn là, vận động trí thức bằng công tác cán bộ,thông qua vai trò tiên phong

gương mẫu trong tư tưởng, lời nói và hành động của đội ngũ cán bộ, đảng viên của

Đảng, những đảng viên trí thức để nêu gương, lôi cuốn, dẫn dắt, thuyết phục và vận

động những trí thức chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp

luật của Nhà nước.

Năm là, vận động trí thức bằng sự phối, kết hợp giữa các tổ chức đảng với

chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị -xã hội, các tổ chức của

trí thức, các tổ chức xã hội, gia đình, dòng họ để tạo ra sức mạnh tổng hợp nhằm

xây dựng và đào tạo, phát huy vai trò lao động sáng tạo, tiềm năng trí tuệ của đội

ngũ trí thức.

Page 43: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

39

2.2. ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC VÀ ĐỔI MỚI

SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC -

KHÁI NIỆM, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG THỨC

2.2.1. Khái niệm, nội dung, phương thức Đảng lãnh đạo công tác vận

động trí thức

2.2.1.1. Khái niệm Đảng lãnh đạo công tác vận động trí thức

Theo Đại từ điển tiếng Việt: “Lãnh đạo” là dẫn dắt, tổ chức phong trào theo

đường lối cụ thể; “ lãnh đạo” còn dùng để chỉ các cơ quan lãnh đạo, gồm những

người có khả năng tổ chức, dẫn dắt phong trào [147, tr. 979 ]. Đảng lãnh đạo là một

khái niệm được các nhà kinh điển Mác - Lênin nêu ra vào những năm cuối của thế

kỷ XIX, đánh dấu sự trưởng thành về mặt tổ chức với sự ra đời các đảng của giai

cấp công nhân, lực lượng tiên phong thực hiện sứ mệnh lịch sử lãnh đạo quần chúng

nhân dân lao động thủ tiêu chế độ bóc lột, xây dựng một xã hội mới tiến bộ vì con

người, không còn bóc lột, áp bức, bất công. Đảng lãnh đạo (hay sự lãnh đạo của

Đảng) là toàn bộ hoạt động đề ra các quyết định; tổ chức các lực lượng thực hiện và

tiến hành kiểm tra, giám sát, nhằm thực hiện thắng lợi các quyết định của Đảng.

Đảng là tổ chức chính trị, chức năng của Đảng là lãnh đạo cách mạng. Sự lãnh đạo

của Đảng là lãnh đạo chính trị, tức là Đảng đề ra đường lối cách mạng, tổ chức thực

hiện và tiến hành công tác kiểm tra, giám sát. Đảng không can thiệp quá sâu, không

bao biện làm thay công việc của các tổ chức thuộc đối tượng lãnh đạo của Đảng.

Thực chất Đảng lãnh đạo công tác vận động trí thức tức là chỉ ra con đường đúng

đắn cho đội ngũ trí thức đi, đồng thời tuyên truyền, vận động, thuyết phục, tập hợp, tổ

chức trí thức đi theo con đường đó nhằm phục vụ tốt nhất cho sự nghiệp cách mạng.

Từ những căn cứ khoa học nêu trên, có thể hiểu: Đảng lãnh đạo công tác vận

động trí thức là toàn bộ hoạt động của Đảng từ việc đề ra đường lối, chủ trương,

chính sách, tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện đường lối, chủ trương,

chính sách vận động trí thức nhằm đoàn kết tập hợp, xây dựng và phát huy vai trò

của đội ngũ trí thức trong xây dựng và bảo vệ bảo vệ Tổ quốc.

Đối tượng lãnh đạo công tác vận động trí thức là các tổ chức đảng, các cơ

quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, các tổ chức xã hội, các tổ chức

Page 44: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

40

của trí thức, các tầng lớp nhân dân, đội ngũ trí thức. Chủ thể lãnh đạo là các cơ quan

Đảng từ Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, tỉnh, thành ủy, quận,

huyện, thị ủy, cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ đảng viên; Mục đích Đảng lãnh đạo

công tác vận động trí thức là nhằm đoàn kết tập hợp đội ngũ trí thức, xây dựng đội

ngũ trí thức, phát huy cao nhất tiềm năng trí tuệ, tinh thần lao động sáng tạo của họ

để góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

2.2.1.2. Nội dung Đảng lãnh đạo công tác vận động trí thức

Đảng lãnh đạo công tác vận động trí thức nhằm xây dựng đội ngũ trí thức và

lãnh đạo phát huy vai trò, tiềm năng của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp xây dựng

và bảo vệ Tổ quốc. Nội dung Đảng lãnh đạo công tác vận động trí thức gồm:

Một là, Đảng xác định, mục tiêu, quan điểm, chủ trương về trí thức và vận

động trí thức

Đại hội Đảng toàn quốc thông qua Cương lĩnh, đường lối, chính sách thể

hiện qua Văn kiện, Nghị quyết Đại hội, Ban Chấp hành Trung ương lãnh đạo thông

qua việc ban hành các nghị quyết, Bộ Chính trị, Ban Bí thư lãnh đạo bằng hình thức

ban hành nghị quyết, kết luận, chỉ thị, thông báo. Tỉnh, thành ủy cụ thể hóa thành

các nghị quyết, chỉ thị, chương trình hành động riêng để thực hiện các chủ trương

đường lối của Đảng về vận động trí thức. Cấp ủy cấp huyện, cấp cơ sở tổ chức thức

hiện các chủ trương đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về vận

động trí thức

Đường lối chính sách của Đảng có thể được điều chỉnh, thay đổi theo từng

thời kỳ, từng giai đoạn lịch sử cho phù hợp với tình hình quốc tế, hoàn cảnh cụ thể

của đất nước nhằm đạt được mục tiêu cao nhất của công tác vận động trí thức.

Hai là, Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa thành chính sách, pháp luật để

thực hiện công tác vận động trí thức.

Đảng không làm thay nhà nước, Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa, cụ thể

hóa các nghị quyết của Đảng thành chính sách, pháp luật về công tác vận động trí

thức và quản lý nhà nước theo pháp luật về công tác vận động trí thức về công tác

vận động trí thức. Với chức năng nhiệm vụ của mình, Nhà nước phải thực hiện chức

năng quản lý nhà nước đối với trí thức và công tác vận động trí thức, quan tâm

Page 45: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

41

chăm lo công tác giáo dục và đào tạo để xây dựng đội ngũ trí thức, xây dựng cơ chế

chính sách để phát huy tiềm năng, trí tuệ của đội ngũ trí thức, tạo điều kiện cho trí

thức tham gia tích cực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.

Ba là, Đảng lãnh đạo công tác tuyên truyền, thuyết phục, cổ vũ, động viên trí

thức thực hiện đường lối chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Đảng lãnh đạo các lực lượng sử dụng và phát huy tốt vai trò của các phương

tiện, công cụ tuyên truyền như: sách, báo, tạp chí, phát thanh, truyền hình, mạng

thông tin nội bộ, internet v.v… để tuyên truyền, phổ biến nền tảng tư tưởng, đường

lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong các tập thể trí

thức, nâng cao chất lượng việc tổ chức học tập quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của

Đảng; tổ chức các cuộc hội thảo, tọa đàm, sinh hoạt khoa học, sinh hoạt chính trị,

báo cáo chuyên đề về tình hình tư tưởng và nhiệm vụ công tác tư tưởng của Đảng.

Bên cạnh việc đề cao vai trò, trách nhiệm của các đồng chí lãnh đạo Đảng, các đồng

chí cán bộ chủ chốt cấp ủy và các cán bộ chuyên trách làm công tác tư tưởng, các

cấp ủy, tổ chức đảng trong các cơ quan khoa học cần chú trọng sử dụng những trí

thức, những nhà khoa học có uy tín tích cực tham gia thực hiện công tác tuyên

truyền, giáo dục chính trị tư tưởng, tránh tình trạng để họ thờ ơ, thụ động, đặc biệt,

tránh để họ chuyển sang trạng thái phản ứng, đối lập với tổ chức đảng.

Bốn là, Đảng lãnh đạo xây dựng tổ chức, cán bộ chuyên trách làm công tác

vận động trí thức.

Các cấp ủy đảng lãnh đạo kiện toàn, đổi mới đội ngũ cán bộ làm công tác

vận động trí thức. Lựa chọn những cán bộ, đảng viên có phẩm chất, năng lực trình

độ, uy tín làm cán bộ chủ chốt trong các tổ chức của trí thức. Đảng giới thiệu những

đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất làm công tác vận động trí thức và

tham gia vào trong các cơ quan lãnh đạo của các tổ chức của trí thức, các cơ quan

khoa học, các học viện, viện nghiên cứu, các trường đại học...Các cấp ủy đảng, nhất

là người đứng đầu phải lắng nghe, tiếp thu những ý kiến góp ý xây dựng Đảng, xây

dựng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng từ đội ngũ trí thức. Đảng lãnh đạo

các tổ chức của trí thức làm công tác vận động trí thức. Đảng lãnh đạo các tổ chức

của trí thức như các liên hiệp, các hội, các tổ chức khoa học công nghệ ngoài nhà

Page 46: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

42

nước, đặc biệt là Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Liên hiệp các

Hội Văn học - Nghệ thuật Việt Nam làm công tác vận động trí thức

Năm là, Đảng lãnh đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng, chăm lo xây dựng và

phát triển đội ngũ trí thức.

Chính sách giáo dục và đào tạo có vai trò to lớn trong việc xây dựng đội ngũ

trí thức. Vì vậy, Đảng lãnh đạo nhà nước tăng ngân sách cho giáo dục và đào tạo

theo quan điểm giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu; Đổi mới cơ cấu đào tạo

các ngành nghề, cấp học; Đa dạng hóa các loại hình đào tạo: chính quy tập trung,

chính quy không tập trung, tại chức, chuyên tu, từ xa; liên kết giữa các trường đại

học trong và ngoài nước… Đổi mới nội dung, chương trình đào tạo, đào tạo lại,

tránh chồng chéo, trùng lặp nội dung ở các cấp đào tạo, sửa đổi, bổ sung nội dung,

chương trình sau đại học, Bên cạnh đó cần mở rộng loại hình đào tạo tại chỗ như

mời chuyên gia đầu ngành của các nước đến làm việc hoặc báo cáo ở các cơ sở đào

tạo trong nước. Đó chính là cơ sở cho việc hình thành đội ngũ trí thức có số lượng

hợp lý, chất lượng cao, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ mới của đất nước hiện nay.

Sáu là, Đảng lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội,

các tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp, tập hợp, đoàn kết trí thức trong khối đại

đoàn kết toàn dân tham gia sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đảng lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội phát huy

vai trò, chức năng, nhiệm vụ của mình để thực hiện công tác vận động trí thức. Trí

thức là một tầng lớp xã hội có mặt trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của đời sống

xã hội, ngày nay được gọi là đội ngũ với lực lượng đông đảo. Để làm tốt công tác

vận động trí thức, cùng với các tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các

đoàn thể chính trị - xã hội phải có trách nhiệm tham gia vào công tác vận động trí

thức. Đảng đề ra chủ trương, đường lối, Nhà nước thể chế hóa, ban hành các chính

sách để phối hợp với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội thực hiện

công tác vận động trí thức.

Vận động trí thức không chỉ là trách nhiệm riêng của Đảng và hệ thống chính trị

mà là của toàn xã hội. Đảng lãnh đạo và tạo điều kiện cho các tổ chức xã hội dân sự cùng

tham gia công tác vận động trí thức. Các tổ chức như Hội Khuyến học, Hội Cựu giáo

Page 47: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

43

chức, hội đồng hương, hội sinh viên…, các gia đình, dòng họ và mỗi cá nhân đề có thể

tham gia công tác vận động trí thức bằng các hình thức khuyến học, khuyến tài, tạo lập

môi trường, điều kiện hoạt động khoa học thuận lợi cho trí thức lao động, cống hiến.

2.2.1.3. Phương thức Đảng lãnh đạo công tác vận động trí thức

Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức là tổng

thể các hình thức, phương pháp, cách thức, quy chế, quy trình, phong cách, lề lối

làm việc... mà Đảng sử dụng để lãnh đạo công tác vận động trí thức nhằm thực hiện

thắng lợi Cương lĩnh chính trị, đường lối, các nghị quyết của Đảng, xây dựng thành

công CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đảng lãnh

đạo công tác vận động trí thức bằng các phương thức sau đây:

Một là, Đảng lãnh đạo công tác vận động trí thức bằng Cương lĩnh, đường lối,

nghị quyết và các định hướng chính sách lớn về trí thức và công tác vận động trí thức.

Thực chất Đảng lãnh đạo công tác vận động trí thức tức là chỉ ra con đường

đúng đắn cho đội ngũ trí thức đi, đồng thời định hướng chỉ đạo các tổ chức trong hệ

thống chính trị tuyên truyền, vận động, thuyết phục, tập hợp, tổ chức trí thức đi theo

con đường đó nhằm phục vụ tốt nhất cho sự nghiệp cách mạng. Muốn thực hiện

điều này, Đảng phải căn cứ vào tình hình thực tiến, vận dụng sáng tạo quan điểm

của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để xây dựng ban hành và triển

khai thực hiện chủ trương, đường lối, nghị quyết và các định hướng chính sách lớn

về trí thức và công tác vận động trí thức.

Hai là, Đảng lãnh đạo công tác vận động trí thức thông qua công tác tư

tưởng của Đảng.

Đây là phương thức lãnh đạo có tính bản chất của Đảng. Phương thức lãnh đạo

bằng công tác tư tưởng đòi hỏi toàn Đảng cũng như các cấp bộ đảng, sau khi có chủ

trương, chính sách đúng đắn, phải đi sâu vào các bộ phận, các tổ chức của trí thức để

tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, giác ngộ tư tưởng cho trí thức, làm cho trí thức

hướng theo một cách tự nguyện, tự giác. Người lãnh đạo phải luôn nhận thức rõ rằng,

tiến hành công tác tư tưởng trong trí thức là làm công tác lãnh đạo; muốn lãnh đạo

hiệu quả phải tích cực làm công tác tư tưởng; trách nhiệm làm công tác tư tưởng

trước hết thuộc về người lãnh đạo, nhất là người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng.

Page 48: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

44

Ba là, Đảng lãnh đạo công tác vận động trí thức thông qua các mặt hoạt

động của Nhà nước.

Đảng lãnh đạo Nhà nước tức là phải lãnh đạo tất cả các nhánh quyền lực: lập

pháp, hành pháp, tư pháp và ở mọi cấp, từ trung ương đến địa phương và cơ sở. Đảng

lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa cương lĩnh, đường lối, chính sách của Đảng về công tác

vận động trí thức vào Hiến pháp, pháp luật, cụ thể hóa vào các kế hoạch phát triển kinh

tế - xã hội và tổ chức thực hiện có hiệu quả. Tổ chức đảng và đảng viên công tác trong

cơ quan nhà nước, đoàn thể phải nghiêm chỉnh chấp hành mọi nghị quyết, chỉ thị của

Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước về công tác vận động trí thức.

Bốn là, Đảng lãnh đạo công tác vận động trí thức bằng công tác tổ chức và

cán bộ của Đảng.

Đảng lãnh đạo công tác vận động trí thức bằng tổ chức và công tác cán bộ là

một nội dung quan trọng trong phương thức lãnh đạo của Đảng, vì các cấp ủy đảng

định rõ tiêu chuẩn, điều kiện cần có của người cán bộ làm công tác vận động trí

thức để đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch và giới thiệu cho các cơ quan này bầu chọn

công khai, dân chủ; các cấp ủy đảng không nên hạn chế việc tự ứng cử từ phía các

tổ chức của trí thức. Cần tránh việc áp đặt cán bộ làm việc trong các cơ quan của trí

thức, nhất là trong bầu cử cán bộ lãnh đạo. Các cấp ủy đảng lãnh đạo các cơ quan

của trí thức làm tốt công tác hiệp thương để chọn ra những đại biểu ưu tú đưa vào

danh sách bầu cử hội đồng nhân dân các cấp và đại biểu Quốc hội. Vì vậy, cần

nghiên cứu cơ chế để trí thức thực hiện quyền làm chủ Nhà nước của mình thông

qua các cơ quan của trí thức, không chỉ bằng tư vấn, phản biện, giám định xã hội,

mà còn thực hiện quyền làm chủ Nhà nước thông qua việc đưa những trí thức có tài

năng, năng lực quản lý tham gia trong bộ máy của Đảng và Nhà nước.

Năm là, Đảng lãnh đạo công tác vận động trí thức thông qua công tác kiểm

tra, giám sát của Đảng.

Đảng lãnh đạo bằng công tác kiểm tra, giám sát các tổ chức đảng, hoạt động

của bộ máy nhà nước và các đoàn thể trong việc thực hiện các chủ trương, đường

lối của Đảng về trí thức và công tác vận động trí thức. Đồng thời lãnh đạo, tổ chức,

động viên trí thức giám sát, phản biện hoạt động của cơ quan, công chức nhà nước

Page 49: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

45

về xây dựng, phát huy đội ngũ trí thức nói riêng. Mặt khác Đảng lãnh đạo các tổ

chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tập thể khoa học, các tổ chức và các

hội nghề nghiệp của trí thức trong việc thực hiện điều lệ, nghị quyết và chương

trình, kế hoạch công tác của tổ chức mình.

Sáu là, Đảng lãnh đạo công tác vận động trí thức thông qua vai trò tiền

phong, gương mẫu của các cán bộ, đảng viên là trí thức và các tổ chức đảng hoạt

động trong các tập thể lao động khoa học của trí thức.

Phát huy vai trò tiền phong gương mẫu của đội ngũ đảng viên là trí thức,

hoạt động trong các cơ quan đoàn thể và tổ chức của trí thức. Uy tín và ảnh hưởng

trực tiếp của Đảng đối với đội ngũ trí thức trước hết là thông qua những đảng viên,

những cán bộ của Đảng hoạt động trong đội ngũ trí thức. Thông thường thì những

cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt trong tổ chức của những người trí thức đều là

đảng viên của Đảng. Đảng viên có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, gương mẫu

thực hiện nhiệm vụ đảng viên, thực hiện chức trách và nhiệm vụ trong cơ quan, tổ

chức của trí thức, là hoạt động lãnh đạo có hiệu quả đối với vận động trí thức.

Bảy là, Đảng lãnh đạo công tác vận động trí thức thông qua phát huy vai trò

của Mặt trận Tổ quốc (MTTQ), các đoàn thể chính trị- xã hội và các hội trong tập

hợp, đoàn kết trí thức cống hiến cho đất nước.

MTTQ và các tổ chức chính trị-xã hội là tổ chức tập hợp lực lượng đông đảo

trí thức các ngành, lĩnh vực, các lứa tuổi; bao gồm cả trí thức trong nước và trí thức

Việt Nam ở nước ngoài. Thông qua MTTQ và các tổ chức chính trị-xã hội, dựa vào

MTTQ và các tổ chức chính trị-xã hội để tuyên truyền chủ trương, đường lối của

Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với trí thức. Thực té cho thấy. đây là

“kênh” truyền tải quan trọng và rất có hiệu quả.

2.2.2. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức -

Khái niệm, nguyên tắc, nội dung, phương thức

2.2.2.1. Khái niệm đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận

động trí thức

Theo Đại từ điển Tiếng Việt, “đổi mới” là thay đổi hoặc làm cho thay đổi tốt hơn,

tiến bộ hơn so với trước: Đổi mới cách làm ăn; cuộc sống có đổi mới [147, tr.657].

Page 50: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

46

Đổi mới là trạng thái của mọi vận động và phát triển trong tự nhiên, xã hội

cũng như trong tư duy. Bất kỳ sinh vật nào cũng luôn luôn tự đổi mới để thích nghi

với những sự thay đổi của môi trường sống. Đối với xã hội, đổi mới là một phản

ứng mang tính tự nhiên của xã hội để bảo đảm sự thích nghi của nó trước những

biến đổi môi trường tự nhiên, môi trường quốc tế, để thích ứng với tình thế. Đổi

mới là quá trình vận động tự nhiên của mọi hiện tượng xã hội. “Đổi mới” là một

chương trình cải cách kinh tế và một số mặt xã hội do Đảng Cộng sản Việt

Nam khởi xướng vào thập niên 1980. Chính sách đổi mới được thực hiện từ Đại hội

đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI, năm 1986, khắc phục tình trạng lạc

hậu, trì trệ và đáp ứng yêu cầu của sự phát triển. Đảng ta xác định đổi mới nội

dung, phương thức lãnh đạo xây dựng CNXH, Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vững

quyền lãnh đạo đất nước đi lên CNXH .

Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức trước hết là

đổi mới nội dung sự lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng và phát huy vai trò

của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hai là đổi mới

phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức bằng một hệ

thống các công cụ lãnh đạo: xây dựng Cương lĩnh, chiến lược, hoạch định các chính

sách và chủ trương công tác; tổ chức kiếm tra; nắm tổ chức và cán bộ; giới thiệu cán

bộ cho các cơ quan nhà nước và đoàn thể xã hội. Nói cách khác là đưa các nội dung

đổi mới sự lãnh đạo đối với công tác vận động trí thức vào Cương lĩnh, chiến lược,

chính sách, công tác tổ chức và cán bộ…; đổi mới hệ thống các mối liên hệ, cơ chế

quan hệ giữa Đảng và Nhà nước về công tác vận động trí thức; đổi mới hệ thống về

phương pháp tiếp cận trí thức và phong cách lãnh đạo của Đảng đối với vận động trí

thức. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức trong giai

đoạn hiện nay không có nghĩa là phủ định sạch trơn nội dung, phương thức vận

động trí thức của Đảng đã được xác định và thực hiện có hiệu quả những năm qua.

Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức trong tình hình

hiện nay phải: thay đổi, phát triển, nâng cao hơn những nội dung, phương thức đúng

đắn đã thực hiện trước đây đem lại hiệu quả đến nay vẫn còn phù hợp, loại bỏ

những gì đã lỗi thời.

Page 51: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

47

Từ những phân tích trên có thể hiểu: Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối

với công tác vận động trí thức trong tình hình hiện nay là toàn bộ các hoạt

động của Đảng, trực tiếp là các cấp ủy đảng, của các tổ chức đảng trong bộ

máy nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội và đội ngũ cán

bộ, đảng viên làm thay đổi một phần hoặc thay đổi một số nội dung, phương

thức lãnh đạo công tác vận động trí thức để công tác vận động trí thức ngày

càng đạt hiệu quả cao hơn.

2.2.2.2. Nguyên tắc đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận

động trí thức

Đổi mới muốn thành công đòi hỏi phải có tính nguyên tắc. Đổi mới sự lãnh

đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức phải vận dụng các nguyên tắc cơ

bản mà Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (khóa VI) đã đề ra trong quá trình thực hiện

đổi mới đất nước. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức

cần phải giữ vững các nguyên tắc sau đây:

Một là, Nghị quyết Trung ương 7 (khóa X) đã xác định: Xây dựng đội ngũ trí

thức lớn mạnh, đạt chất lượng cao, số lượng và cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu phát

triển đất nước, từng bước tiến lên ngang tầm với trình độ của trí thức các nước tiên

tiến trong khu vực và thế giới, tạo sự gắn bó vững chắc giữa Ðảng và Nhà nước với

trí thức, giữa trí thức với Ðảng và Nhà nước, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân

tộc trên nền tảng liên minh công - nông - trí. Đổi mới không phải là thay đổi

mục tiêu trên, mà làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả bằng những quan

niệm đúng đắn về trí thức, bằng những hình thức, bước đi và biện pháp phù hợp.

Hai là, Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức

trước hết phải lấy Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư

tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta. Đổi mới là nhằm loại bỏ những

quan niệm sai lầm, khắc phục những biện pháp lạc hậu, lỗi thời về vận động trí

thức, vận dụng sáng tạo và phát triển những nguyên lý của Chủ nghĩa Mác - Lênin,

tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trong

hoàn cảnh mới, chứ không phải xa rời những nguyên lý ấy.

Page 52: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

48

Ba là, Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức là

nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của nhà nước, vai trò

của mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, các tổ chức xã hội…để phát huy tiềm năng, trí

tuệ của trí thức, tạo điều kiện tốt nhất cho đội ngũ trí thức cống hiến và trưởng thành.

Bốn là, Sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng, đối với đội ngũ

trí thức là tất yếu. Những khuynh hướng phủ nhận hoặc hạ thấp sự lãnh đạo của

Đảng đều phải phê phán. Tuy nhiên, bản thân Đảng cũng cần không ngừng hoàn

thiện, nâng cao sức chiến đấu, lắng nghe và tiếp nhận những ý kiến tư vấn, phản

biện của trí thức về những khuyết điểm trong quá trình lãnh đạo cũng như trong

công tác vận động trí thức.

Năm là, phát huy quyền dân chủ, khuyến khích tự do lao động sáng tạo

của trí thức trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội. Dân chủ phải đi đôi

với tập trung, với kỷ cương, với pháp luật và với ý thức trách nhiệm công dân.

Dân chủ phải có sự lãnh đạo thống nhất để phát huy dân chủ đúng hướng. Ngược

lại, lãnh đạo phải bằng phương pháp dân chủ trên cơ sở thực hiện và phát huy

dân chủ. Dân chủ với đội ngũ trí thức, nhưng mặt khác cũng cần nghiêm trị

những kẻ lợi dụng dân chủ để gây rối phá hoại thành quả cách mạng, an ninh trật

tự và an toàn xã hội.

Sáu là, khoa học không phân định ranh giới quốc gia nhưng nhà khoa học

chân chính phải có tổ quốc, phải hướng về tổ quốc. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng

đối với công tác vận động trí thức là nhằm đoàn kết tập hợp đội ngũ trí thức trong

và ngoài nước, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại góp phần thúc

đẩy, đưa đất nước phát triển, hội nhập với khu vực và quốc tế.

2.2.2.3. Đổi mới nội dung lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức

Đổi mới nội dung lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức bao

gồm các vấn đề sau đây:

Một là, tiếp tục đổi mới nhận thức, quan điểm, chủ trương, chính sách của

Đảng về công tác vận động trí thức.

Đổi mới tư duy của Đảng về trí thức và công tác vận động trí thức trong

giai đoạn mới, trước hết là bỏ tư duy cũ, định kiến hẹp hòi với trí thức, coi trí thức

Page 53: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

49

thuộc tầng lớp tiểu tư sản, đặc biệt cần xóa bỏ phân biệt trí thức cũ, trí thức mới,

nhìn nhận, đánh giá khách quan, toàn diện, chân thành với những trí thức dám nói

thẳng, nói thật và những trí thức có ý kiến khác. Tiếp tục nhìn nhận và làm rõ

thêm vai trò vị trí của trí thức với quan điểm hiền tài là “nguyên khí quốc gia” là

lực lượng tiêu biểu cho sáng tạo và truyền bá văn hóa dân tộc. Trí thức là nguồn

lực trí tuệ quan trọng nhất, là lực lượng tiên phong trong sự nghiệp công nghiệp

hóa, hiện đại hóa, xây dựng kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế, chấn hưng đất

nước. Chú trọng xây dựng, phát huy trí thức các lĩnh vực: khoa học xã hội, nhân

văn; khoa học kỹ thuật, công nghệ. Trí thức là nguồn lực trí tuệ quan trọng nhất, là

lực lượng tiên phong trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng

kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế, chấn hưng đất nước. Để thực hiện mục tiêu,

nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước mà trước mắt là phương hướng,

nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020, thì bảo đảm sự lãnh đạo

đúng đắn, sáng tạo của Đảng, phát huy sức mạnh trí tuệ của toàn dân, trong đó

phát huy mạnh mẽ vai trò của đội ngũ trí thức là vấn đề đặc biệt quan trọng. Điều

đó đòi hỏi rất cao ở sự nhận thức sâu sắc của các cấp ủy đảng, đội ngũ cán bộ chủ

chốt các cấp về vai trò của đội ngũ trí thức trong giai đoạn hiện nay. Trên cơ sở

đó, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức, đổi mới

mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng, của các cấp ủy, tổ chức đảng, thích ứng

với tình hình có nhiều biến đổi to lớn hiện nay.

Hai là, đổi mới nội dung lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong xây

dựng chính sách, pháp luật về xây dựng, phát huy đội ngũ trí thức và quản lý nhà

nước theo pháp luật về công tác vận động trí thức.

Trong quá trình đổi mới sự lãnh đạo đối với công tác vận động trí thức, Đảng

ta đã ban hành nhiều chủ trương, nghị quyết chuyên đề về tri thức. Nhà nước thể

chế hóa các chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật và tổ chức thực hiện

các chính sách, pháp luật trên các lĩnh vực (giáo dục - đào tạo, khoa học - công

nghệ, văn hóa - văn nghệ, chính sách đối với trí thức Việt kiều) để tạo động lực cho

trí thức phát huy năng lực sáng tạo, để chủ trương của Đảng vào cuộc sống.

Page 54: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

50

Ba là, đổi mới nội dung lãnh đạo trong xây dựng tổ chức, bộ máy của trí

thức và cán bộ chuyên trách làm công tác vận động trí thức.

Trung ương Đảng, các cấp ủy, tổ chức đảng phân công cán bộ có đủ phẩm

chất, năng lực giữ trọng trách trong các cơ quan khoa học, cơ quan tham mưu xây

dựng chủ trương, chính sách, pháp luật về trí thức; lãnh đạo xây dựng, củng cố cơ

quan, tổ chức của trí thức. Quan tâm xây dựng các cơ quan, tổ chức làm công tác

dân vận, vận động trí thức. Cán bộ làm công tác vận động trí thức phải có tâm, có

tầm, được trí thức “tâm phục khẩu phục”.

Bốn là, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tuyên truyền, thuyết

phục, cổ vũ, động viên trí thức thực hiện đường lối chủ trương của Đảng, chính

sách, pháp luật của Nhà nước.

Đổi mới hình thức thông tin, tiếp cận để gần gũi trí thức, tăng cường gặp gỡ,

đối thoại trực tiếp để có quan hệ mật thiết giữa các cấp lãnh đạo của Đảng và Nhà

nước với trí thức; đồng thời phát huy ảnh hưởng của những trí thức lớn, có uy tín

cao đến bộ phận đông đảo còn lại của đội ngũ trí thức. Do đặc điểm của đội ngũ trí

thức nên trong cách lãnh đạo đội ngũ trí thức, Đảng rất coi trọng hình thức gặp gỡ,

tiếp xúc trực tiếp và thông qua các trí thức lớn, có uy tín cao để tác động đến đội

ngũ trí thức. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu gương sáng về cách sử dụng hình thức

lãnh đạo trí thức này. Trong giai đoạn hiện nay, hình thức này cần được coi trọng và

tăng cường. Người đứng đầu tổ chức Đảng cần có chế độ gặp gỡ, đối thoại với đội

ngũ trí thức, nhất là những trí thức có uy tín cao. Phát huy ảnh hưởng của những

chuyên gia đầu ngành, có uy tín để tác động đến đội ngũ trí thức. Các cấp ủy, tổ

chức đảng, nhất là những người đứng đầu cần thể hiện rõ sự chân thành, cầu thị,

trân trọng sự đóng góp, tâm huyết của trí thức, có cơ chế “đặt hàng” để đội ngũ trí

thức có điều kiện tham gia nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng.

Năm là, đổi mới nội dung lãnh đạo của Đảng trong công tác đào tạo, bồi

dưỡng, chăm lo xây dựng đội ngũ trí thức.

Tiếp tục quán triệt và làm rõ thêm các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải

pháp đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục và đào tạo quốc gia. Coi giáo dục và

đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nhiệm vụ quan trọng để đào tạo xây dựng đội ngũ

Page 55: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

51

trí thức. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước để đổi mới quản

lý của cơ quan, tổ chức giáo dục - đào tạo. Phát huy vai trò của gia đình, cộng đồng

xã hội đối với giáo dục - đào tạo; đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp

giảng dạy các bậc học, ngành học.

Sáu là, đổi mới nội dung lãnh đạo của Đảng đối với việc tạo lập môi trường,

điều kiện hoạt động khoa học thuận lợi cho trí thức lao động, cống hiến.

Một trong những điều kiện quan trọng nhằm phát huy tiềm năng sáng tạo của

đội ngũ trí thức là môi trường làm việc thuận lợi, phát huy quyền tự do sáng tạo của

đội ngũ trí thức, tạo điều kiện để những người làm công tác khoa học và công nghệ

tiếp cận những vấn đề mới của khoa học và công nghệ thế giới, phát huy tài năng,

giải quyết những vấn đề đặt ra của đất nước. Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách

quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học các dự án, các công trình, đề tài nghiên cứu

khoa học, công khai dân chủ, hướng đến sản phẩm cuối cùng. Tạo lập môi trường

cạnh tranh bình đẳng, thúc đẩy việc ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ và tăng

cường nghiên cứu khoa học công nghệ trong các doanh nghiệp, hoàn thiện môi

trường pháp lý, thúc đẩy thị trường khoa học và công nghệ. Hoàn thiện cơ sở pháp

lý và nâng cao hiệu lực thực thi pháp luật về sở hữu trí tuệ. Xử lý nghiêm những

hành vi vi phạm pháp luật về sở hữu trí tuệ; bảo hộ, khuyến khích việc sử dụng

những, sang chế, giải pháp khoa học, công nghệ.

Bảy là, đổi mới nội dung lãnh đạo của Đảng đối với MTTQ và các đoàn thể

chính tri - xã hội trong việc tập hợp, phát huy trí thức tham gia sự nghiệp xây dựng

và bảo vệ Tổ quốc.

Đổi mới nội dung lãnh đạo của Đảng đối với MTTQ và các đoàn thể chính tri

- xã hội để vận động trí thức là xây dựng định hướng chính trị đúng đắn, sát hợp với

vị trí, vai trò của MTTQ và mỗi tổ chức chính trị-xã hội. Đảng tôn trọng đặc điểm,

hình thức tổ chức và phương thức hoạt động của Mặt trận, phát huy vai trò, chức

năng của Mặt trận và các đoàn thể. Khắc phục biểu hiện buông lỏng lãnh đạo,

"khoán trắng" hoặc bao biện, làm thay, lấn sân, áp đặt. Quan tâm, giúp đỡ Mặt trận

và các tổ chức này cụ thể hóa công tác vận động trí thức vào trong các chương trình

hành động, trong nhiệm vụ đoàn kết tập hợp đoàn viên, hội viên là trí thức trong các

Page 56: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

52

hoạt động. Thực hiện tốt nền nếp, chế độ làm việc giữa cấp uỷ đảng với lãnh đạo

Mặt trận và các đoàn thể, định kỳ nghe báo cáo kết quả hoạt động và đưa ra các chủ

trương, góp ý kiến về chương trình hoạt động, phương hướng công tác của Mặt trận

và các đoàn thể, giúp Mặt trận và các đoàn thể tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong

công tác vận động trí thức

2.2.2.4. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận

động trí thức

Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức

thể hiện trên các mặt sau đây:

Một là, đổi mới việc ban hành chủ trương, nghị quyết và các định hướng

chính sách, pháp luật và quản lý nhà nước về trí thức và vận động trí thức

Đổi mới việc ban hành chủ trương, nghị quyết và các định hướng chính sách,

pháp luật và quản lý nhà nước về trí thức và vận động trí thức theo hướng: các cấp

bộ đảng, nhất là người đứng đầu, phải sâu sát cơ sở để nắm được yêu cầu, nguyện

vọng của đa số trí thức, từ đó xây dựng và ban hành các quyết định lãnh đạo công

tác vận động trí thức. Khi xây dựng chủ trương, nghị quyết về trí thức, cần có đề án

nghiên cứu sâu sắc, toàn diện; huy động sự tham gia của trí thức các ngành, lĩnh

vực; lắng nghe ý kiến của đại diện rộng rãi trí thức…Trên cơ sở có được những

thông tin, tư liệu khách quan, khoa học, phản ánh đúng đắn nhu cầu, nguyện vọng

của trí thức, tình hình cụ thể của địa phương, đơn vị, các cấp bộ đảng mới có thể có

quyết sách lãnh đạo đúng đắn. Khắc phục tình trạng nghị quyết ban hành không sát

với yêu cầu, tình hình thực tế của trí thức, phát huy vai trò của trí thức; khắc phục

chính sách của Nhà nước ban hành đã bị dư luận gọi là “chính sách ở trên trời”.

Hai là, đổi mới hình thức tuyên truyền, vận động trí thức theo hướng mở

rộng dân chủ, tôn trọng, lắng nghe trí thức; thẳng thắn, chân thành với trí thức.

Có hình thức tổ chức phù hợp trong tuyên truyền, vận động trí thức. Cách tổ

chức nghiên cứu, quán triệt chủ trương, nghị quyết khác với tổ chức thông tin tình

hình trong nước, quốc tế; tình hình chính trị, kinh tế, xã hội… Xác định rõ đối

tượng tuyên truyền, phổ biến, trao đổi để có nội dung, hình thức phù hợp. Phân

công lãnh đạo Đảng, chính quyền hoặc người có trọng trách trực tiếp triển khai, có

Page 57: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

53

đủ khả năng trao đổi, đối thoại khi cần và bảo đảm tính thuyết phục. Quan tâm quán

triệt quan điểm, đường lối, Cương lĩnh, chiến lược, chủ trương lớn của Đảng, Hiến

pháp, pháp luật, chính sách của Nhà nước đối với trí thức. Mở rộng các hoạt động

thông tin, trao đổi, đối thoại với trí thức về những vấn đề trong nước, quốc tế; về

những vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của đất nước, của mỗi địa phương,

ngành, lĩnh vực đang đặt ra để chuyển tải quan điểm chính thống của Đảng và lắng

nghe, tiếp thu đóng góp của trí thức. Đối với những ý kiến khác, cần thận trọng,

chân thành trao đổi, hướng dẫn. Đồng thời, thẳng thắn tranh luận dân chủ, khách

quan, không truy chụp, thành kiến.

Ba là, phát huy hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, chính quyền các

cấp trong công tác vận động trí thức.

Quá trình đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, phải

phù hợp với Hiến pháp, xác định trách nhiệm của Đảng cầm quyền. Đảng lãnh đạo,

kiểm tra các cơ quan của Nhà nước thể chế hóa đúng quan điểm, chủ trương của

Đảng về xây dựng, phát huy đội ngũ trí thức thành Hiến pháp, pháp luật và các

chính sách để chuyển tải quan điểm, chủ trương của Đảng vào cuộc sống bảo đảm

có hiệu lực, hiệu quả nhất. Đảng lãnh đạo các cơ quan nhà nước, nhất là cơ quan

hành chính và chính quyền các cấp thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước đối với

việc xây dựng đội ngũ và phát huy vai trò của trí thức.

Bốn là, đổi mới công tác tổ chức, cán bộ của Đảng trong vận động trí thức

Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng bằng công tác tổ chức, cán bộ của

Đảng trong các cơ quan quản lý nhà nước, các đơn vị sự nghiệp khoa học, trong các

tổ chức và các hội nghề nghiệp của trí thức nhằm xây dựng một đội ngũ cán bộ có

bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, có năng lực chuyên

môn giỏi, có tinh thần say mê nghiên cứu, có năng lực thể chế hóa, vận dụng đúng

đắn, kịp thời quan điểm, đường lối của Đảng về trí thức và công tác vận động trí

thức; có khả năng quy tụ trí thức. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản

lý đội ngũ cán bộ, đi đôi với phát huy trách nhiệm của tổ chức và người đứng đầu

trong các cơ quan quản lý nhà nước, các đơn vị sự nghiệp khoa học, các tổ chức và

các hội nghề nghiệp của trí thức. Công tác cán bộ thực hiện khách quan, công tâm,

Page 58: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

54

đúng quy trình, phát huy dân chủ, dựa vào tập thể và trí thức để tuyển chọn cán bộ.

Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư chỉ đạo các cấp ủy đảng,

đảng đoàn, ban cán sự đảng, trên cơ sở tiêu chuẩn cán bộ chung, xây dựng tiêu

chuẩn cụ thể cho từng chức danh cán bộ và xác định cơ cấu của đội ngũ cán bộ

trong các cơ quan quản lý nhà nước, các đơn vị sự nghiệp khoa học, các tổ chức và

các hội nghề nghiệp của trí thức làm cơ sở cho công tác quy hoạch, xây dựng đội

ngũ cán bộ. Tiếp tục sửa đổi, bổ sung, đổi mới đồng bộ quy định, quy chế về đánh

giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đề bạt và thực hiện chính sách cán bộ.

Hoàn thiện quy chế bổ nhiệm và chế độ bầu cử, lấy phiếu tín nhiệm theo hướng có

nhiều phương án nhân sự, có số dư để lựa chọn. Có cơ chế phát hiện trí thức có đức

có tài, cả đảng viên và người ngoài Đảng; thực hiện thi tuyển đối với một số chức

danh lãnh đạo chuyên môn trong các đơn vị sự nghiệp khoa học, trong các cơ quan

quản lý nhà nước, các tổ chức và các hội nghề nghiệp của trí thức.

Đổi mới việc phát huy vai trò tiên phong gương mẫu và trách nhiệm của cán

bộ, đảng viên là trí thức hoạt động trong các đơn vị sự nghiệp khoa học, trong các tổ

chức và các hội nghề nghiệp của trí thức. Trong lãnh đạo các hoạt động khoa học,

văn hóa, nghệ thuật, coi trọng phát triển học thuật, bổ sung lý luận có tác dụng thúc

đẩy, phát triển khoa học, nghệ thuật v.v… Đội ngũ trí thức đầu ngành là chỗ dựa,

cần phát huy trong công tác lãnh đạo trí thức của Đảng. Với đặc thù lao động sáng

tạo, có trí tuệ, có khả năng nắm bắt cái mới và sự cập nhật thông tin nhanh nhạy,

trong lãnh đạo công tác vận động đội ngũ trí thức cần chú trong việc phát huy ảnh

hưởng của những chuyên gia, trí thức lớn, có uy tín cao để tác động vào bộ phận

đông đảo còn lại của đội ngũ trí thức. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại những kinh

nghiệm quý báu về cách sử dụng cán bộ và lãnh đạo công tác cán bộ trí thức.

Năm là, đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo đối với Mặt trận Tổ quốc và các

đoàn thể chính trị trong việc phối hợp nâng cao hiệu quả công tác vận động trí thức.

Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc

và các đoàn thể chính trị - xã hội. Nâng cao chất lượng định hướng chính trị, định

hướng nội dung hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội

trong từng thời kỳ. Tôn trọng và phát huy tính năng động, sáng tạo, đa dạng hóa các

Page 59: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

55

hình thức tổ chức và hoạt động, tăng cường công tác tuyên truyền, vận động, thuyết

phục vận động trí thức. Tôn trọng nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong các tổ chức

hội của trí thức. Khắc phục biểu hiện hữu khuynh, buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng

hoặc quan liêu, xơ cứng, máy móc, áp đặt.

Sáu là, đổi mới công tác kiểm tra, giám sát của Đảng trong việc thực hiện các

chủ trương, nghị quyết, chính sách đối với trí thức và công tác vận động trí thức.

Thực hiện kiểm tra giám sát từ khâu tổ chức thực hiện chủ trương, chính

sách. Coi trọng đôn đốc, kiểm tra, sơ kết, tổng kết kịp thời việc thực hiện các nghị

quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng và các chính sách, pháp luật của Nhà nước về trí

thức và vận động trí thức. Cần tổ chức kiểm tra, giám sát chung, tổng thể và kiểm

tra, giám sát chuyên đề để nắm chắc tình hình, có thêm cơ sở đánh giá, sơ kết…

Thông qua kiểm tra, sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm kịp thời để đôn đốc, chỉ đạo,

phê bình những nơi triển khai yếu, kết quả thấp và biểu dương, nhân rộng những

nơi thực hiện đạt hiệu quả cao.

Đảng lãnh đạo đổi mới, nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát bằng

sự lồng ghép, phối hợp sự kiểm tra, giám sát của Đảng với của Nhà nước, Mặt trận

Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân đối với các tổ chức trong hệ thống chính trị và cán

bộ, đảng viên trong việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,

pháp luật của Nhà nước, về xây dựng đội ngũ trí thức và phát huy vai trò của trí

thức trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Tiểu kết chương 2

Công cuộc đổi mới là sự nghiệp vĩ đại, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là

nhân tố quyết định thành công của công cuộc đổi mới, phát triển của đất nước trong

30 năm vừa qua.. Cùng với quá trình đổi mới đất nước, Đảng đã từng bước đổi mới

sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức.

Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức là đòi hỏi

khách quan trong tiến trình đổi mới của đất nước và hội nhập quốc tế. Đổi mới sự

lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức phải vận dụng sáng tạo các

nguyên lý của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thay đổi, bổ sung,

Page 60: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

56

hoàn thiện, phát triển nội dung, phương thức lãnh đạo công tác vận động trí thức để

công tác này đạt kết quả cao hơn. Đổi mới muốn thành công đòi hỏi phải có tính

nguyên tắc. phải bám sát mục tiêu xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, đạt chất

lượng cao, số lượng và cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, ngang

tầm với trình độ của trí thức các nước tiên tiến trên thế giới. Đổi mới sự lãnh đạo

của Đảng đối với công tác vận động trí thức phải xuất phát từ đặc điểm của trí thức

Việt Nam, từ thực tế xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam trong điều kiện mới. Đổi

mới nhằm tạo sự gắn bó vững chắc giữa Ðảng và Nhà nước với trí thức, giữa trí

thức với Ðảng và Nhà nước, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền

tảng liên minh công - nông - trí.

Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức đòi hỏi

phải đổi mới toàn diện và có hệ thống. Trước hết là đổi mới nội dung và phương

thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức. Nói cách khác là đưa các

nội dung đổi mới sự lãnh đạo đối với công tác vận động trí thức vào Cương lĩnh,

chiến lược, chính sách, công tác tổ chức và cán bộ…; đổi mới hệ thống các mối liên

hệ, cơ chế quan hệ giữa Đảng và Nhà nước về công tác vận động trí thức; đổi mới

hệ thống về phương pháp tiếp cận trí thức và phong cách lãnh đạo của Đảng đối với

vận động trí thức.

Page 61: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

57

Chương 3

CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC VÀ ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO

CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC -

THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ KINH NGHIỆM

3.1. THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC VÀ CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ

THỨC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

3.1.1. Thực trạng đội ngũ trí thức

3.1.1.1. Ưu điểm

* Đội ngũ trí thức phát triển nhanh chóng về mặt số lượng

Sự hình thành và phát triển của đội ngũ trí thức Việt Nam trước hết là kết

quả của những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về đào tạo, bồi dưỡng

và sử dụng trí thức trong các giai đoạn cách mạng. Đặc biệt, từ khi đất nước thống

nhất, cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, việc đào tạo trí thức trở

thành nhiệm vụ cấp bách của cách mạng Việt Nam.

Với quy mô giáo dục phát triển nhanh chóng như vậy đã tạo nên sự phát triển

vượt bậc về số lượng đội ngũ trí thức. Theo thống kê của Bộ GD-ĐT, cùng với tốc độ

tăng trưởng quy mô đào tạo, số lượng đội ngũ trí thức cũng tăng lên một cách nhanh

chóng. Nếu như năm 2000, đội ngũ trí thức cả nước chỉ có 1.322.691 người (Từ cao

đẳng trở lên) thì đến năm 2013 con số này đã tăng lên là 6.550.234 (gấp 4,95 lần); số

thạc sỹ từ 10.000 lên 118.653 người (tăng 11,86 lần), còn số tiến sĩ thì tăng từ 12,691

lên đến 24.667 người (tăng 1.94 lần).

* Về cơ cấu đội ngũ trí thức có những chuyển biến hợp lý

Những tiến bộ trong chính sách xây dựng đội ngũ trí thức, xu thế phát triển

đất nước trong thời đại mới đã từng bước tạo cho trí thức nước ta phát triển về mặt

cơ cấu. Điều này được biểu hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau:

Một là, nguồn đào tạo của trí thức Việt Nam ngày càng phong phú, đa dạng.

Ngoài nguồn đào tạo trong nước, quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế tạo ra cơ

hội to lớn để mỗi người có điều kiện tham gia học tập ở nước ngoài theo nhiều hình

thức khác nhau.

Page 62: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

58

Hai là, ngành nghề đào tạo của trí thức ngày càng được mở rộng. Xu thế này

là mang tính khách quan phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước và thời đại trong

giai đoạn mới. Theo đó, trong giai đoạn hiện nay, ngoài những ngành nghề mang

tính “truyền thống”, xuất hiện nhiều loại hình ngành nghề mới như: hành chính

công, chính sách công, công nghệ đa phương tiện

Ba là, hình thức đào tạo ngày càng phong phú và đa dạng. Quan điểm và

chính sách GD&ĐT ở nước ta hiện nay tạo điều kiện cho mọi người có điều kiện

học tập nâng cao trình độ dân trí, chuyên môn nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu ngày

càng cao của xã hội.

Bốn là, cơ cấu đội ngũ trí thức phân theo loại hình đơn vị có sự chuyển biến

rõ rệt theo hướng tích cực. Đó là sự dịch chuyển tăng tỷ lệ trí thức trong khối kinh

tế và giảm tỷ lệ trí thức trong khối hành chính sự nghiệp. Nếu như năm 2002 đội

ngũ trí thức trong khối kinh tế tỷ lệ cơ cấu chỉ có 30,98% (571.114 người), thì đến

năm 2012 tỷ lệ cơ cấu tăng lên 49,64% (3.031.546 người). Ngược lại, khối hành

chính sự nghiệp tỷ lệ cơ cấu từ chỗ chiếm 69,02% (571.114 người ) thì đến năm 2012

tỷ lệ cơ cấu chỉ còn 49,99% (3.031.546 người).

* Đội ngũ trí thức đã có những đóng góp, cống hiến to lớn vào sự phát

triển của đất nước

Đội ngũ trí thức nước ta với tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc

sâu sắc, luôn gắn bó với sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo vì mục tiêu dân

giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Bằng hoạt động sáng tạo, trí

thức nước ta có đóng góp to lớn trên tất cả các lĩnh vực xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.

Một là, đội ngũ trí thức đã xây dựng những luận cứ khoa học góp phần quan

trọng trong việc hoạch định, phản biện và hoàn thiện đường lối, chủ trương của

Đảng, nhà nước các cấp.

Trong những năm qua, đội ngũ trí thức đã trực tiếp tham gia vào việc chuẩn

bị những quyết sách của Đảng và Nhà nước. Trong bầu không khí sinh hoạt dân

chủ, tôn trọng trí thức của Đảng và Nhà nước, hoạt động của đội ngũ trí thức đã có

nhiều đổi mới. khuyến khích việc thảo luận, tranh luận, lấy ý kiến đóng góp… để có

những kiến giải, lý luận và phương án cải biến thực tiễn khả thi, hiệu quả và phù

Page 63: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

59

hợp nhất. Vì vậy, trong việc xây dựng và hoàn thiện chủ trương, đường lối, chính

sách, hoạch định các chiến lược phát triển KT - XH của Đảng và chính quyền các

cấp từ trung ương đến cơ sở đều có sự đóng góp tích cực của đội ngũ trí thức.

Hai là, đội ngũ trí thức đã, góp phần tích cực vào quá trình đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Trước những yêu cầu nhiệm vụ mới của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại

hóa đất nước, đội ngũ các nhà trí thức khoa học, công nghệ đã đóng vai trò động

lực, đi đầu trong việc nghiên cứu, ứng dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ,

tiếp nhận và chuyển giao công nghệ ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong quản lý

sản xuất, họ là người thực hiện đổi mới cơ chế quản lý, góp phần tổ chức lại và

hướng dẫn các lực lượng lao động khác đưa tiến bộ khoa học vào sản xuất để

nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Người làm công tác khoa học

đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp trên các lĩnh vực nghiên cứu, ứng dụng,

triển khai công nghệ tiên tiến và các dịch vụ khoa học, công nghệ khác.

Ba là, đội ngũ trí thức đã có những đóng góp quan trọng, quyết định trong sự

nghiệp GD&ĐT, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.

Đội ngũ trí thức có vai trò và trách nhiệm lớn lao trong việc đẩy mạnh đổi

mới sự nghiệp giáo dục - đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực,

bồi dưỡng nhân tài, đào tạo ra những người có năng lực cao và phẩm chất đạo

đức tốt đáp ứng cho những nhu cầu lao động hiện nay. Không chỉ tham gia quá

trình giáo dục đào tạo trong nước, đội ngũ trí thức Việt Nam còn tham gia giảng

dạy ở các trường đại học quốc tế. rất nhiều giáo sư người Việt đang công tác và

giảng dạy tại các nước phát triển.

Bốn là, đội ngũ trí thức là lực lượng trực tiếp góp phần duy trì và phát triển

những truyền thống văn hóa tốt đẹp của đất nước, tiếp thu nền văn hóa, văn minh

nhân loại.

Vai trò của đội ngũ trí thức tất nhiên không chỉ thể hiện trong lĩnh vực sáng

tạo ra của cải vật chất, mà cả trong lĩnh vực sáng tạo những giá trị của đời sống tinh

thần. Công cuộc đổi mới đất nước đã hướng tất cả đội ngũ trí thức phát huy lao

động sáng tạo trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, ra sức khắc phục tình trạng đói

Page 64: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

60

nghèo về trí tuệ, văn hóa, thông tin… Khoa học, công nghệ, giáo dục, văn hóa, nghệ

thuật trong quần chúng nhân dân lao động trên khắp cả nước, mở mang tri thức,

giao lưu văn hóa, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại góp phần làm cho đời

sống tinh thần của nhân dân ngày càng phong phú và trong sáng.

Năm là, các công trình nghiên cứu, sáng tạo khoa học của trí thức Việt Nam

ngày càng gia tăng cả về số lượng và chất lượng

Thông qua các phong trào thi đua lao động sáng tạo, các giải thưởng, hội thi,

hàng vạn lượt trí thức đã tích cực tham gia vào các hoạt động nghiên cứu, sáng tạo.

Giải thưởng Sáng tạo khoa học công nghệ Việt Nam được tổ chức hàng năm và

được xét trao tặng cho các tác giả có những công trình khoa học công nghệ có giá

trị khoa học - KT - XH lớn, đã được triển khai trong toàn quốc nhằm khuyến khích

nghiên cứu, áp dụng các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến vào sản xuất và đời

sống và nhằm công nhận sự đóng góp nổi bật của các nhà khoa học, công nghệ. Sau

19 năm tổ chức từ 1995 đến 2014 đã có 2.076 công trình tham dự giải và đã có 650

công trình được trao giải.

Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật toàn quốc được tổ chức 2 năm/1 lần, nhằm thúc

đẩy phong trào lao động sáng tạo của toàn dân trong các lĩnh vực KHKT, thúc

đẩy việc áp dụng có hiệu quả các giải pháp kỹ thuật vào sản xuất và đời sống,

góp phần phát triển KT - XH, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Tính từ Hội thi lần thứ 8 đến lần thứ 12 tức là từ năm 2004 - 2013 đã có gần

2.600 giải pháp tham dự và gần 250 giải pháp đoạt giải. các công trình đoạt giải

đã được chuyển giao ứng dụng vào sản xuất và đời sống.

Trên bình diện quốc tế, hoạt động của đội ngũ trí thức Việt Nam ngày càng

mở rộng và có những cống hiến đóng góp tích cực. Các công trình nghiên cứu được

công bố trên các tạp chí, hội nghị khoa học quốc gia và quốc tế ngày càng tăng.

Trong giai đoạn 1996-2011 Việt Nam có 13.172 ấn phẩm khoa học công bố trên các

tập san quốc tế có bình duyệt. Chỉ riêng Viện KH&CN Việt Nam, năm 2010, công

bố 1573 công trình khoa học, trong đó 336 công trình tiêu biểu được công bố trên

các tạp chí uy tín đạt tiêu chuẩn ISI (Institute for Scientific Information), tăng hơn

26% so với năm 2009. Số lượng bài báo đăng tạp chí quốc tế của Đại học Quốc gia

Page 65: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

61

Thành phố Hồ Chí Minh (ĐHQG-HCM) đã tăng gần 4 lần từ năm 2006 đến 2013.

Năm 2006, toàn ĐHQG-HCM có 110 bài báo quốc tế, đến năm 2013 con số này là

412 bài. Số bài ISI trong tổng số bài báo quốc tế chiếm một tỉ lệ lớn, dao động từ

60% đến 78% tùy năm.

3.1.1.2. Khuyết điểm

* Trí thức Việt Nam phân bổ không đồng đều giữa các địa phương, các

vùng lãnh thổ, các loại hình đơn vị và các thành phần kinh tế

Trí thức Việt Nam phân bố không đồng đều giữa các địa phương và các vùng

miền của đất nước, trong đó, chủ yếu là tại vùng đồng bằng Sông Hồng và Miền

Đông Nam bộ. Theo số liều điều tra của Tổng cục Thống kê đến 31/12/2012, cả

nước có 6.107.301 có trình độ cao đẳng trở lên, vùng đồng bằng Sông Hồng đã có

2.102.129 người chiếm 34,4% số lượng trí thức cả nước. Đặc biệt tập trung ở hai

thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Trong khi đó Miền núi và

Trung du phía Bắc chỉ có 583862 trí thức, chiếm 9,56% số lượng trí thức cả nước;

Vùng Tây Nguyên chỉ có 233938 trí thức, chiếm 3,83% số lượng trí thức cả nước

Sự phân bố không đồng đều lực lượng trí thức tạo ra nhiều bất cập cho quá trình

phát triển, ảnh hưởng trực tiếp tới nhiệm vụ xây dựng và củng cố khối liên minh

giữa công nhân với nông dân và trí thức.

Đội ngũ trí thức Việt Nam phân bố không đồng đều giữa các loại hình

đơn vị, chủ yếu là nằm ở khối hành chính sự nghiệp, giáo dục và y tế. Tuy

nhiên trong những năm gần đây xu hướng dịch chuyển cơ cấu từ khối kinh tế

sự nghiệp sang khối kinh tế đã gần ở cân bằng. Nếu như 10 năm trước (2002)

khối kinh tế chỉ có 30,98% trí thức thì đến cuối năm 2012 tỷ lệ này đã tăng lên

49,64%. Khối hành chính sự nghiệp từ 69,02% (2002) thì đến cuối năm 2012 tỷ

lệ này đã giảm còn 49,99%.

Đội ngũ trí thức Việt Nam phân bố không đồng đều giữa các loại hình doanh

nghiệp. Trong những năm gần đây xu hướng dịch chuyển cơ cấu từ khối doanh

nghiệp nhà nước sang khối doanh nghiệp ngoài nhà nước.. Nếu như 10 năm trước

(2002) doanh nghiệp nhà nước có 31,35% trí thức thì đến cuối năm 2012 tỷ lệ này

chỉ còn 9,10% trí thức. Điều này thế hiện sự phát triển mạnh mẽ của khối doanh

Page 66: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

62

nghiệp ngoài nhà nước, mặt khác thể hiện sự yếu kém của khối doanh nghiệp nhà

nước, sự mất dần vai trò chủ đạo trong kinh tế, suy giảm sự thu hút đối với trí thức.

* Trí thức bậc cao vừa thiếu vừa cơ cấu bất hợp lý, trí thức trẻ chất lượng

thấp, thất nghiệp cao

Về số lượng thống kê giáo sư (GS), phó giáo sư (PGS) ở Việt Nam hiện nay,

Theo GS.TSKH Trần Văn Nhung, Tổng thư ký Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà

nước (HĐ CDGSNN), cho biết: Từ năm 1976 cho đến hết năm 2013, sau 37 năm,

tổng số GS,PGS đã công nhận ở Việt Nam là 10.453, trong đó có 1.569 GS và

8.884 PGS, nhiều người đã mất và về hưu. Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà nước

thống kê, trong 5 năm từ 2009 - 2013, Hội đồng CDGSNN đã xét và công nhận đạt

tiêu chuẩn chức danh GS, PGS cho tổng số 2.744 nhà giáo, trong đó 269 GS và

2475 PGS. Như vậy, trong 5 năm gần đây, bình quân mỗi năm có thêm được 54 GS

và 493 PGS, nhưng vẫn chưa bù kịp cho số GS, PGS về hưu hàng năm.

Trong sự phân bố cơ cấu đội ngũ tiến sỹ lại càng bất cập. Theo Bộ Giáo dục -

Đào tạo, tính đến năm 2013 chỉ có 633 tiến sĩ là giảng viên các trường cao đẳng, 8.519

tiến sĩ là giảng viên các trường đại học trong khi đó, Việt Nam có khoảng 24.300 tiến sĩ.

Trong khi đó, theo TS Nguyễn Khắc Hùng, nguyên Chuyên viên Đối ngoại, Học viện

Hành chính Quốc gia nếu tính từ hàm Thứ Trưởng trở lên, số người có trình độ tiến sĩ ở

Việt Nam cao gấp 5 lần Nhật Bản.

Trong khi trí thức bậc cao vừa thiếu vừa cơ cấu bất hợp lý thì số trí thức trẻ ra

trường do chất lượng đào tạo thấp, đào tạo tràn lan nên không tìm được việc làm ngày

một gia tăng nhanh chóng. Theo thống kê mới nhất từ Bộ Lao động - Thương binh và

Xã hội (LĐ-TB&XH), tính đến hết quý 1/2014, cả nước có hơn 1 triệu người trong

độ tuổi lao động bị thất nghiệp, tăng 145,8 nghìn người so với quý 4/2013. Đặc biệt

hiện có 162,4 nghìn người có trình độ từ đại học trở lên đang thất nghiệp; 79,1 nghìn

người có trình độ cao đẳng chưa có việc làm.

* Chất lượng đội ngũ trí thức Việt Nam chưa cao, chưa đáp ứng được yêu

cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chưa tiến kịp với khu vực và quốc tế

Theo thống kê của Bộ Khoa học và Công nghệ, trong giai đoạn 2006 - 2010,

Việt Nam có khoảng 200 bằng sáng chế, giải pháp hữu ích được cấp tại Cục Sở hữu trí

Page 67: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

63

tuệ”. Còn theo 2 tác giả Lê Văn Út và Thái Lâm Toàn thì “từ năm 2006 - 2010, Việt

Nam chỉ có 5 bằng sáng chế được đăng kí tại Hoa Kì. Trong khi đó Nhật Bản là

46.139, Hàn Quốc là 12.262, Singapore là 647, Malaysia là 161, Thái Lan là 53,

Philippin là 27”. Về công bố quốc tế, theo thống kê của Viện Thông tin khoa học (ISI),

trong 15 năm qua (1996 - 2011), Việt Nam chỉ có 13.172 ấn phẩm khoa học công bố

trên các tạp san quốc tế, bằng khoảng 1/5 của Thái Lan (69.637), 1/6 của Malaysia

(75.530), 1/10 của Singapore (126.881)...

Bên cạnh những hạn chế về khả năng sáng tạo, trình độ ngoại ngữ của trí

thức Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của hoạt động chuyên môn. Thực tế

cho thấy, chỉ một bộ phận trí thức được đào tạo ở nước ngoài mới đáp ứng được yêu

cầu về trình độ ngoại ngữ theo tiêu chuẩn quốc tế. Chính hạn chế này đã ảnh hưởng

trực tiếp tới hoạt động sáng tạo của trí thức Việt Nam, bởi lẽ, trong điều kiện hiện

nay, nếu không bảo đảm được yêu cầu về ngoại ngữ thì khó có thể tiếp cận được

kho tri thức phong phú của nhân loại được đăng tải trên Internet; ít có điều kiện để

tham gia các hoạt động hợp tác trong nghiên cứu với các tổ chức ở bên ngoài, các

cuộc hội thảo quốc tế v.v...Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam

hiện nay, một bộ phận trí thức thoái hóa, biến chất, chạy theo đồng tiền mà không

chú ý tới việc thực hiện chức năng của người trí thức chân chính. Đặc biệt, trong

điều kiện nền kinh tế đất nước còn nhiều khó khăn, chế độ đãi ngộ của Đảng và Nhà

nước còn nhiều bất cập, một bộ phận trí thức (nhất là trí thức trẻ) có xu hướng xa

rời hoạt động của trí thức để tham gia vào các lĩnh vực khác có thu nhập cao hơn.

Bên cạnh đó, một bộ phận trí thức, trong đó, có những người có trình độ học vấn và

chuyên môn cao, còn thiếu tự tin, e ngại, né tránh những vấn đề nhạy cảm. Hay nói

cách khác, hoạt động phản biện của trí thức Việt Nam đối với những vấn đề hệ

trọng của đất nước vẫn còn yếu, chưa tương xứng với tiềm năng của họ. Đánh giá

về những hạn chế này, trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung

ương khóa X về "xây dựng đội ngũ trí thức thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện

đại hóa đất nước", Đảng ta khẳng định: “Một bộ phận trí thức, kể cả người có trình

độ học vấn cao, còn thiếu tự tin, e ngại, sợ bị qui kết về quan điểm, né tránh những

vấn đề có liên quan đến chính trị. Một số giảm sút đạo đức nghề nghiệp, thiếu ý

Page 68: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

64

thức trách nhiệm và lòng tự trọng, có biểu hiện chạy theo bằng cấp, thiếu trung thực

và tinh thần hợp tác. Một số trí thức không thường xuyên học hỏi, tìm tòi, trau dồi

chuyên môn nghiệp vụ, thiếu ý chí và hoài bão. Nhiều trí thức trẻ có tâm trạng thiếu

phấn khởi, chạy theo lợi ích trước mắt, thiếu ý chí phấn đấu vươn lên về chuyên

môn” [49, tr. 86].

3.1.2. Thực trạng công tác vận động trí thức

3.1.2.1. Ưu điểm trong công tác vận động trí thức

a) Về nội dung công tác vận động trí thức

* Đảng đã ban hành nghị quyết, xác định nhiều chủ trương, chính sách về

công tác vận động trí thức

Ngay từ những ngày đầu thành lập, Đảng đã xác định: đối với trí thức nhằm lôi

kéo họ về với cách mạng và không được đẩy họ về phía khác. Tuy nhiên, trong suốt

một thời kỳ dài, Đảng vẫn xếp trí thức tiểu tư sản vào hàng ngũ của giai cấp tư sản dân

tộc cải lương, chưa đặt họ vào hàng ngũ công - nông . Tới trước năm 1951, Đảng ta

vẫn xếp hai động lực chính (hai lực lượng chính) của cách mạng Đông Dương là thợ

thuyền và nông dân. Mãi đến Đại hội II của Đảng (tháng 2-1951), Đảng mới xác nhận

tầng lớp trí thức “là bạn đồng minh có thể tin cậy”. Văn kiện Đại hội III (năm 1960)

của Đảng xác định: “Cần kết hợp cả ba mặt chính trị, vǎn hóa và kỹ thuật, nghiệp vụ,

lấy chính trị làm gốc, nhằm xây dựng một đội ngũ trí thức trung thành với CNXH, có

trình độ kỹ thuật, nghiệp vụ ngày càng được nâng cao”. Sau khi đất nước thống nhất,

tại Nghị quyết Đại hội IV (năm 1976) Đảng ta ngoài việc chú trọng xây dựng một đội

ngũ trí thức đông đảo, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và CNXH, đủ sức làm chủ và

vận dụng sáng tạo những thành tựu văn hóa, khoa học, kỹ thuật hiện đại để giải quyết

những vấn đề cụ thể của đất nước, đã quan tâm đến điều kiện vật chất, phương tiện làm

việc cho trí thức đặc biệt đã quan tâm đến việc sử dụng trí thức dưới chế độ cũ, chú ý

đến tập hợp vận động trí thức Việt kiều. Bố trí, sử dụng trí thức một cách hợp lý, tạo

cho trí thức những điều kiện vật chất và tinh thần thuận lợi, trước hết là phương tiện

làm việc, phương tiện nghiên cứu. Sử dụng tốt những cán bộ khoa học, kỹ thuật đã làm

việc dưới chế độ cũ ở miền Nam, giúp anh chị em đó mau chóng trở thành những

người trí thức xã hội chủ nghĩa.

Page 69: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

65

Cùng với quá trình đổi mới đất nước, Đảng đã từng bước đổi mới sự lãnh đạo

của Đảng đối với công tác vận động trí thức. Điều đó thể hiện quan Văn kiện Đại hội

Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VII, IX, X, XI, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước

trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991( bổ sung, phát triển năm 2011 ) và

trong các nghị quyết, kết luận chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Đại hội lần thứ VI (1986)) của Đảng Cộng sản Việt Nam được coi là “cột

mốc lịch sử quan trọng trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa của nhân dân

ta”. Vấn đề trí thức và KHKT được thực sự mở ra với những luận điểm mới, lần

đầu tiên Văn kiện Đại hội Đảng khẳng định: “Khoa học, kỹ thuật là một động lực

thúc đẩy phát triển kinh tế và xã hội.”và “Đối với trí thức, điều quan trọng nhất là

đánh giá đúng năng lực và tạo điều kiện cho các khả năng sáng tạo được sử dụng

đúng và phát triển”.

Ngày 27-3-1990, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI đã kịp thời ban

hành Nghị quyết số 8B-NQ/TW về “Đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng

cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân”. Đối với trí thức, Nghị quyết số 8B-

NQ/TW nêu rõ “Các đoàn thể quần chúng cùng với các cấp ủy đảng, các cơ quan

nhà nước phải sâu sát tình hình các trường đại học, các cơ quan khoa học, các hội

văn học - nghệ thuật, giúp đỡ giải quyết những yêu cầu chính đáng, tạo điều kiện cho

trí thức phát huy tài năng”.

Đến Đại hội VII (Năm 1996), vấn đề trí thức và sự lãnh đạo của Đảng đối

với công tác vận động trí thức ngày càng được chú trọng. Nghị quyết Đại hội đại

biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng: Thông qua “Cương lĩnh xây dựng đất nước

trong thời kỳ quá độ lên CNXH “, ngày 27-6-1996, cùng với công nhân và nông

dân, trí thức được xem là nền tảng, là một lượng lượng quan trọng trong liên minh

Công nhân, nông dân và trí thức. Đảng khẳng định cần phải “Đào tạo, bồi dưỡng và

phát huy mọi tiềm năng của đội ngũ trí thức để tạo nguồn lực trí tuệ và nhân tài cho

đất nước”.

Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa X của Đảng

ta nêu quan điểm chủ đạo mang ý nghĩa phương hướng lớn cho công tác vận động

trí thức:

Page 70: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

66

Đối với trí thức, phát huy trí tuệ và năng lực, mở rộng thông tin, phát huy

dân chủ, trọng dụng nhân tài. Khuyến khích các trí thức, các nhà khoa học

phát minh, sáng tạo. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đãi ngộ xứng đáng những

cống hiến của trí thức cho công cuộc phát triển đất nước. Coi trọng vai trò tư

vấn, phản biện của các hội KHKT, khoa học xã hội và văn học, nghệ thuật

đối với các dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội [45, tr. 119].

Đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương

khóa X về “Xây dựng đội ngũ trí thức thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại

hóa đất nước”. Đây là lần đầu tiên Đảng ta ban hành một nghị quyết riêng về trí

thức. Nghị quyết là cơ sở để Đảng ta và toàn xã hội thống nhất trong nhìn nhận một

cách đúng đắn, khách quan vị trí, vai trò của trí thức đối với sự phát triển đất nước.

Để xây dựng đội ngũ trí thức, Đảng luôn quan tâm đến phát triển GD&ĐT.

Đổi mới GD&ĐT là đường lối xuyên suốt của Đảng. Đã có nhiều Nghị quyết, chỉ

thị về GD&ĐT quan trọng được ban hành và đi vào cuộc sống. Nghị quyết Trung

ương 2 khóa VIII (12-1996) của Đảng khẳng định “Nhận thức sâu sắc giáo dục và

đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là nhân tố quyết định tăng cường kinh tế

và phát triển xã hội. Đầu tư cho giáo dục - đào tạo là đầu tư cho phát triển”. Thông

báo Kết luận số 242 của Bộ Chính trị (khóa X) ngày 15/9/2009. Đảng đã khẳng định:

GD&ĐT là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển; Giáo dục là sự

nghiệp của Đảng, của Nhà nước và toàn dân; mục tiêu của giáo dục là nâng cao dân trí,

đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài; giáo dục phải gắn liền với sự phát triển KT - XH,

những tiến bộ khoa học - công nghệ; đa dạng hóa các loại hình giáo dục; học đi đôi với

hành, giáo dục nhà trường gắn liền với giáo dục gia đình, xã hội; thực hiện công bằng

trong giáo dục…

Sau gần 30 năm đổi mới, giáo dục của chúng ta đã đạt được những kết quả

quan trọng, rất có ý nghĩa trong việc thực hiện sứ mệnh nâng cao dân trí, đào tạo

nhân lực và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Tuy nhiên, GD&ĐT còn những bất

cập, yếu kém. Căn cứ vào tình hình quốc tế, trong nước, yêu cầu phát triển giáo dục,

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã khẳng định: “Đổi

mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa,

Page 71: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

67

xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế” [50]. Cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội

XI, ngày 4/11/2013, Hội nghị Trung ương 8 đã thông qua Nghị quyết 29-NQ/TW về

đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT. Đây là những nghị quyết hết sức quan trọng

góp phần đưa giáo dục đào tạo phát triển nhằm thúc đẩy việc nâng cao dân trí, đào

tạo nhân lực, nhân tài nói chung và đặc biệt góp phần tạo nên nền tảng vững chắc

cho việc đặt nền móng để xây dựng đội ngũ trí thức đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ

mới của thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước.

Đảng đã đổi mới tư duy, đổi mới quan điểm về khoa học và công nghệ để

phát huy vai trò của đội ngũ trí thức. Đảng đã ban hành nhiều văn bản về KH&CN

như Nghị quyết số 26 NQ/TU ngày 30-3-1991 của Bộ chính trị (khóa VI) về "Khoa

học và công nghệ trong sự nghiệp đổi mới". Nghị quyết đã xác định rõ chủ trương,

chính sách, phương hướng, nhiệm vụ và các biện pháp lớn thúc đẩy hoạt động

KHCN, trong đó khẳng định: Kiện toàn Ủy ban Khoa học Nhà nước đủ sức thực

hiện tốt chức năng quản lý Nhà nước các hoạt động khoa học và công nghệ trong

phạm vi cả nước.Tiếp theo đó Đảng đã ban hành các Nghị quyết 01 của Bộ Chính

trị và Nghị quyết Trung ương 7 (khóa VII). NQTW 2 (Khóa VIII) về định hướng

chiến lược phát triển KH&CN và những nhiệm vụ đến năm 2000.Việc thực hiện các

nghị quyết này đã bước đầu nâng cao tiềm lực KH&CN của đất nước, thúc đẩy việc

đưa các tiến bộ KH&CN vào sản xuất và đời sống, góp phần đưa nước ta ra khỏi

tình trạng khủng hoảng KT - XH, tạo ra những tiền đề cần thiết để bước vào thời kỳ

đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên, sau nhiều năm đổi mới, hoạt

động KH&CN vẫn bộc lộ nhiều tồn tại hạn chế: hoạt động KH&CN nhìn chung còn

trầm lắng, chưa thực sự trở thành động lực phát triển KT - XH . Việc huy động

nguồn lực của xã hội vào hoạt động KH&CN chưa được chú trọng; đầu tư cho

KH&CN còn thấp, hiệu quả sử dụng chưa cao; Việc đào tạo, trọng dụng, đãi ngộ

cán bộ KH&CN còn nhiều bất cập. Cơ chế quản lý hoạt động KH&CN chậm được

đổi mới. Công tác quy hoạch, kế hoạch phát triển khoa học công nghệ chưa gắn với

yêu cầu phát triển KT - XH ; cơ chế tài chính còn chưa hợp lý. Chính vì vậy, Hội

nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) đã Nghị quyết về phát triển

KH&CN phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

Page 72: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

68

* Công tác đoàn kết, tập hợp và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trong

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc được chú trọng

Trong công tác vận động trí thức, Đảng, Nhà nước và các đoàn thể đã chú

trọng công tác đoàn kết, tập hợp đội ngũ trí thức. Ngoài số trí thức trong các tổ chức

công lập như các viện nghiên cứu, các trường học, Đảng, Nhà nước và các tổ chức

xã hội đã tiến hành nhiều hoạt động để thu hút, tập hợp trí thức vào trong các tổ

chức của trí thức ngoài công lập. Cho đến nay đã có hàng trăm tổ chức Hội trí thức

với hàng ngàn chi hội thành viên. Trong số đó, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ

thuật Việt Nam có 140 Hội thành viên (77 Hội ngành toàn quốc và 63 Liên hiệp Hội

các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương) và Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật có

73 Hội thành viên (10 Hội ngành toàn quốc và 63 Liên hiệp Hội Liên hiệp các tỉnh,

thành phố trực thuộc trung ương). Ngoài ra để tập hợp phát huy vai trò của đội ngũ

trí thức hoạt động riêng lẻ, Đảng và Nhà nước đã chủ trương cho thành lập các tổ

chức khoa học và công nghệ ngoài nhà nước (Thành lập theo Nghị định số 81/NĐ-

CP, nay là Nghị định số 08/NĐ-CP). Đến nay cả nước có gần 2000 tổ chức khoa

học và công nghệ (Trong đó Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam có

hơn 800 đơn vị). Song song với việc đoàn kết tập hợp trí thức trong nước, Đảng và

Nhà nước cũng quan tâm chú trọng công tác đoàn kết tập hợp thu hút trí thức Việt

Nam ở nước ngoài tham gia xây dựng quê hương.

b) Về hình thức vận động trí thức

Một là, công tác vận động trí thức đã được thể hiện trong Cương lĩnh, chủ

trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Công tác vận động trí thức luôn dựa trên cơ sở chủ trương, đường lối của

Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Công tác vận động nhân dân đã gắn

với công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Chính

vì vậy, từ Đại hội VI đến Đại hội XI, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị,

Ban Bí thư đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị lãnh đạo, chỉ đạo công tác vận

động trí thức. Cương lĩnh năm 1991 đã đề cập tinh thần mới về trí thức, đặc biệt

Nghị quyết số 27- NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa X về “Xây

dựng đội ngũ trí thức thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”

Page 73: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

69

đã thể hiện nhận thức sâu sắc của Đảng về trí thức phù hợp với điều kiện phát

triển của xã hội nói chung cũng như sự biến đổi của cơ cấu xã hội - giai cấp

trong tình hình mới ở Việt Nam nói riêng.

Thể chế hóa chủ trương đường lối của Đảng, Quốc hội đã ban hành nhiều

văn bản pháp luật quan trong như Luật Giáo dục, Luật Khoa học và Công Nghệ,

Luật Sở hữu trí tuệ…Chính phủ và các Bộ, các cấp chính quyền đã ban hành nhiều

chính sách khuyến học, khuyến tài, thực thi đường lối vận động trí thức của Đảng.

Hai là, công tác tuyên truyền, thu hút, tập hợp trí thức với nhiều hình thức

(gặp gỡ, giao lưu, đối thoại, trao đổi …) được chú trọng.

Công tác vận động trí thức được tiến hành bằng nhiều hình thức đa dạng

phong phú như tuyên truyền, thuyết phục, đối thoại gặp gỡ, giao lưu với trí thức.

Khắc phục thông tin một chiều nặng về phổ biến truyền đạt theo kiểu áp đặt, công

tác tuyên truyền đã chuyển sang thông tin hai chiều, đã thực hiện chủ động tiếp

nhận thông tin, đối thoại, trao đổi, giải quyết những vấn đề đặt ra để tạo sự nhất trí

cao. Hoạt động tuyên truyền phù hợp với từng đối tượng, chú trọng đối tượng có

tính đặc thù. Việc phổ biến, quán triệt nghị quyết của Đảng được đổi mới theo

hướng xác định phương pháp, cách thức tuyên truyền; học tập, lựa chọn nội dung cơ

bản, thiết thực, sát hợp với từng đối tượng trí thức. Các tổ chức của trí thức và

những trí thức có uy tín được bố trí tham gia đấu tranh chống các thông tin, quan

điểm sai trái, thù địch, đa dạng hóa hình thức đấu tranh nhất là đối với những trí

thức có quan điểm sai trái, lệch lạc.

Ba là, Nhà nước đã xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện nhiều văn bản

pháp luật, chính sách liên quan đến công tác vận động trí thức.

Nhà nước đã quan tâm, tập trung xây dựng hệ thống pháp luật, chế độ chính

sách về các quyền và nghĩa vụ liên quan đến trí thức. Nhiều chủ trương, chính sách

và quy định của cơ quan nhà nước trước khi ban hành đã có sự tham gia đóng góp ý

kiến của trí thức nhất là từ khi có Quyết định số 22-2002/QĐ-TTg (đã được thay thế

bằng QĐ-TTg 14/2014/QĐ-TTg ngày 14/02/2014 ) của Thủ tướng Chính phủ về

hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội của Liên hiệp các Hội Khoa học

và Kỹ thuật Việt Nam.

Page 74: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

70

Trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, của lãnh đạo các cơ quan đơn vị đối

với trí thức được nâng lên. Lãnh đạo Đảng, chính quyền các cấp (Kể cả Ban Bí thư,

Thủ tướng Chính phủ) hằng năm đã xây dựng chương trình, kế hoạch đi cơ sở, gặp

gỡ các tổ chức của trí thức, đối thoại trực tiếp với trí thức, lắng nghe ý kiến, nguyện

vọng của trí thức; quan hệ giao tiếp, thái độ ứng xử với trí thức có chuyển biến tích

cực. Tiến trình cải cách hành chính được đẩy nhanh, bảo đảm định hướng dân chủ,

công khai, minh bạch, dễ hiểu, dễ thực hiện; góp phần làm trong sạch bộ máy, tăng

cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước; hạn chế cơ chế “xin,

cho” trong hoạt động nghiên cứu khoa học.

Các bộ, ngành và chính quyền các cấp đã quan tâm đến việc ban hành các

quy định liên quan đến các tổ chức của trí thức và công tác vận động trí thức nhằm

củng cố, kiện toàn nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động. Nhiều cơ quan, đơn vị đã

chỉ đạo và tổ chức rà soát, bổ sung hoặc ban hành mới quy chế đào tạo bồi dưỡng,

bố trí, đề bạt trí thức. Các cơ quan chính quyền các cấp điều hành công việc theo

chức năng quản lý nhà nước, đồng thời làm tốt công tác vận động trí thức tạo điều

kiện để trí thức tham gia xây dựng, củng cố chính quyền.

Bốn là, vai trò tiên phong gương mẫu trong tư tưởng, lời nói và hành động của

đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng trong công tác vận động trí thức có chuyển biến.

Đảng thực hiện công tác vận động trí thức thông qua vai trò tiên phong

gương mẫu trong tư tưởng, lời nói và hành động của đội ngũ cán bộ, đảng viên

của Đảng, nhất là những người đứng đầu trong các cơ quan, tổ chức giáo dục,

đào tạo, cơ quan, tổ chức của trí thức, những đảng viên trí thức có uy tín. Nhằm

tăng cường công tác vận động trí thức, trong những năm qua, Đảng đã cử

những cán bộ, đảng viên có đủ phẩm chất, năng lực để làm công tác vận động

trí thức, giới thiệu cán bộ đủ tiêu chuẩn để ứng cử hoặc bổ nhiệm vào cơ quan

có đông trí thức như các trường đại học, các viện nghiên cứu khoa học, các tổ

chức của trí thức…. Đảng xác định các quan điểm, nguyên tắc về việc thành

lập, sắp xếp các tổ chức, tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt, về đào

tạo và sử dụng cán bộ. Đảng quyết định việc đảng viên giữ các chức vụ quan

trọng trong các trường đại học, các viện nghiên cứu khoa học, các tổ chức của

Page 75: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

71

trí thức, rồi giới thiệu và lãnh đạo để các cơ quan đó tổ chức bầu cử hoặc bổ

nhiệm theo quy trình, thủ tục của Nhà nước, theo Điều lệ và cách thức của các

đoàn thể. Đưa cán bộ giỏi, có uy tín của Đảng vào bộ máy các trường đại học,

các viện nghiên cứu khoa học, các tổ chức của trí thức để bảo đảm sự lãnh đạo

của Đảng là vấn đề hệ trọng, nhưng phải lựa chọn và bố trí đúng những cán bộ

vừa có năng lực lãnh đạo chính trị, vừa có năng lực chuyên môn, nhất là những

cơ quan khoa học. Không lấy tiêu chuẩn cán bộ, đảng viên của Đảng để chuyển

sang và bố trí cán bộ làm công tác vận động trí thức. Không quan niệm đã là

cấp ủy thì đương nhiên có đủ trình độ, năng lực làm thủ trưởng cơ quan khoa

học, cơ quan của trí thức. Đảng có nhiệm vụ lãnh đạo, xây dựng đội ngũ cán bộ

làm công tác vận động trí thức có phẩm chất chính trị tốt và có trình độ chuyên

môn cao, làm việc chuyên sâu, thành thạo nghiệp vụ, tránh tình trạng áp đặt.

Năm là, vai trò của MTTQ và các đoàn thể chính trị -xã hội, các tổ chức của

trí thức, các tổ chức xã hội được phát huy, đã có sự phối hợp để tạo ra sức mạnh

tổng hợp trong việc đoàn kết, tập hợp và phát huy vai trò lao động sáng tạo, tiềm

năng trí tuệ của đội ngũ trí thức.

MTTQ và các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội với các hình thức vận

động trí thức ngày càng đa dạng, phong phú, thu hút đông đảo các đối tượng trí

thức tham gia các hội, tổ chức, các câu lạc bộ theo sở thích, ngành nghề, theo

giới, lứa tuổi... Đảng, Nhà nước có nhiều chủ trương, chính sách nhằm tập hợp,

quy tụ các trí thức tiêu biểu trong các dân tộc, tôn giáo, doanh nghiệp... tham gia

đại biểu Quốc hội, hội đồng nhân dân, MTTQ, các đoàn thể nhân dân. Thành

phần, cơ cấu ban lãnh đạo của các tổ chức được mở rộng với sự tham gia ngày

càng đông của đội ngũ trí thức. Thực hiện chức năng giám sát, MTTQ, các tổ

chức chính trị - xã hội tiến hành giám sát các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước,

đại biểu dân cử, cán bộ, đảng viên, công chức trong việc thực hiện các chính

sách liên quan đến trí thức và vận động trí thức như KH&CN, GD&ĐT... Sự

phối kết hợp chặt chẽ toàn diện của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội đã góp

phần xây dựng và đào tạo, phát huy vai trò lao động sáng tạo, tiềm năng trí tuệ

của đội ngũ trí thức trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Page 76: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

72

3.1.2.2. Những hạn chế, khuyết điểm trong công tác vận động trí thức

a) Về nội dung công tác vận động trí thức

Một là, công tác tư tưởng đối với trí thức vẫn còn nhiều hạn chế.

Nhiều cấp ủy, tổ chức đảng trong các cơ quan khoa học, đơn vị sự nghiệp

như các học viện, nhà trường, bệnh viện… chưa quan tâm, coi trọng đúng mức công

tác tư tưởng, thậm chí một số nơi buông lỏng công tác này. Nhìn chung, nội dung,

hình thức công tác tư tưởng của Đảng đối với các tập thể, trí thức còn chung chung,

chưa phong phú, đa dạng, thông tin một chiều và thiếu tính nhạy bén, sâu sắc hạn

chế thay đổi chậm. Nhiều cấp ủy, tổ chức đảng chưa đi sâu, đi sát từng đối tượng để

có nội dung, hình thức tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng phù hợp, nên chưa

thỏa mãn nhu cầu thông tin tư tưởng của một bộ phận những nhà trí thức, những

nhà khoa học có trình độ cao.Việc định hướng chính trị tư tưởng, nhận thức, động

cơ, trách nhiệm cho trí thức, nhất là trí thức trẻ còn chậm, thiếu sinh động. Đây là

một hạn chế của cả nhà trường, gia đình và xã hội.

Hai là, việc tập hợp, đoàn kết đội ngũ trí thức chưa cao, việc thu hút trí thức

Việt kiều về tham gia xây dựng đất nước còn hạn chế.

Công tác đoàn kết tập hợp trí thức vào các tổ chức chưa tốt, tỷ lệ trí thức

đứng ngoài các tổ chức Đảng, Đoàn, Hội còn cao. Ngay cả những tổ chức như Liên

hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật cũng chỉ mới tập hợp được khoảng 30% trí thức

vào tổ chức Hội. Công tác tập hợp, đoàn kết, thu hút trí thức người Việt Nam ở

nước ngoài còn hạn chế. Hiện nay có gần 300.000 chuyên gia, trí thức người Việt

Nam ở nước ngoài, bao gồm người có trình độ từ đại học trở lên và các chuyên gia

có kỹ thuật, tay nghề cao, tập trung chủ yếu ở các nước phương Tây. Tuy nhiên,

hằng năm mới có khoảng 300 lượt chuyên gia, trí thức người Việt Nam ở nước

ngoài về nước tham gia giảng dạy, hợp tác với trong nước.

Ba là, công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ trí thức còn

bộc lộ nhiều yếu kém.

Cùng với những yếu kém của ngành giáo dục và đào tạo, việc xây dựng đội

ngũ trí thức còn nhiều yếu kém. Đội ngũ trí thức tuy đông về số lượng nhưng yếu về

chất lượng. Nhiều trí thức không được bố trí lao động theo đúng ngành nghề của

Page 77: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

73

mình, số trí thức trẻ thất nghiệp nhiều. Trí thức khoa học công nghệ có trình độ cao

còn ít, song chưa được sử dụng một cách có hiệu quả, đang bị lão hóa, ít có điều

kiện cập nhật kiến thức mới, sự hẫng hụt về trí thức đầu ngành là nghiêm trọng,

nhất là trong lĩnh vực khoa học cơ bản. Một số trí thức chưa say mê nghiên cứu

khoa học, thiếu hoài bão lớn, chưa phát huy được năng lực nội sinh, tinh thần chủ

động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám thức trách nhiệm. Điều đó cho thấy, trước

yêu cầu của sự nghiệp cách mạng hiện nay, công tác xây dựng đội ngũ trí thức vừa

có trí, có tâm, vừa có tầm là một nhiệm vụ, đòi hỏi ngày càng cấp bách.

Bốn là, việc chăm lo bảo đảm chính sách, chế độ đãi ngộ, lợi ích vật chất,

tinh thần của đội ngũ trí thức còn thiếu đồng bộ chưa đáp ứng được yêu cầu chính

đáng của trí thức.

Trước hết nói về việc làm, hiện nay tình trạng trí thức ra trường không có

việc làm, làm việc không đúng ngành nghề còn phổ biến. Một mặt đây là yếu kém

của ngành giáo dục và đào tạo, mặt khác thể hiện các chủ trương, chính sách của

Đảng và Nhà nước chưa đi vào cuộc sống, tâm lý chỉ tìm đường vào đại học nhưng

không xác định rõ về hướng nghiệp trong xã hội còn phổ biến. Chế độ, chính sách

tiền lương chưa phù hợp, sinh viên tốt nghiệp đại học mức lương hiện nay chưa đủ

nuôi sống bản thân, chưa thể phụ giúp gia đình. Điều này một phần lý giải tại sao trí

thức Việt kiều, sinh viên du học không về nước công tác.

Việc tôn vinh trí thức cũng còn nặng về hình thức, thiếu thực chất, thiếu thực

tế với những đòi hỏi khắt khe. Điều này làm cho một số trí thức, văn nghệ sỹ không

muốn tham gia vào việc vinh danh, xét thưởng.

b) Về hình thức công tác vận động trí thức

Một là, hình thức tuyên truyền thuyết phục trí thức đổi mới chậm, chưa sát

với đặc thù của trí thức.

Nhìn chung, hình thức tuyên truyền, thuyết phục trí thức vẫn đi theo lối cũ,

sáo mòn, chậm được đổi mới. Hình thức đối thoại, diễn đàn khoa học chuyên

nghiệp còn ít được sử dụng, chưa tạo môi trường bày tỏ quan điểm của trí thức và

chưa phát huy được vai trò của trí thức trong tư vấn phản biện chủ trương chính

sách. Đặc biệt đối với trí thức là những người có trình độ, có khả năng tiếp cận

Page 78: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

74

thông tin cao, nhanh nhạy trong nắm bắt thông tin, nếu đội ngũ báo cáo viên trình

độ không ngang tầm, nên hiệu quả tuyên truyền, thuyết phục thấp. Việc đổi mới,

mở rộng hình thức tuyên truyền, đoàn kết tập hợp trí thức Việt kiều cũng còn đơn

điệu, thiếu những kênh truyền hình phủ sóng quốc tế để tuyên truyền, cổ vũ kêu gọi

họ hướng về Tổ quốc, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Hai là, vận động trí thức thông qua chủ trương, đường lối của Đảng, chính

sách, pháp luật của Nhà nước đôi lúc còn thiếu kịp thời, thiếu sự nhất quán, thiếu

thực tế.

Việc tổ chức triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về trí thức

đôi lúc chưa kịp thời; chưa dự báo, nắm bắt được những diễn biến, tâm tư, nguyện

vọng của các đối tượng để có biện pháp xử lý phù hợp. Việc thể chế hóa chủ trương,

quan điểm của Đảng về vận động trí thức còn chậm. Một số chủ trương chính sách

như Đề án đào tạo giảng viên có trình độ tiến sỹ cho các trường đại học, cao đẳng giai

đoạn 2010-2020, được Thủ tướng phê duyệt với chỉ tiêu là đến năm 2020 Việt Nam

sẽ đào tạo bổ sung ít nhất 20.000 tiến sỹ, hay “Chiến lược cán bộ, công chức khối

chính quyền thành phố” của Thành phố Hà Nội, đến năm 2020, Hà Nội phấn đấu có

100% cán bộ diện Thành ủy quản lý có trình độ tiến sĩ… thể hiện thiếu thực tế, chạy

theo bằng cấp. Nhiều chính sách đối với cán bộ khoa học và công nghệ (tiền lương,

chế độ thưởng, phụ cấp, bảo vệ quyền sáng chế, trẻ hóa đội ngũ, quy chế dân chủ,

phát huy quyền tự do sáng tạo trong nghiên cứu…) chưa được thay đổi. Chưa tạo ra

được một không khí hoạt động khoa học và công nghệ sôi động.

Ba là, việc vận động trí thức bằng công tác cán bộ, thông qua vai trò tiên

phong gương mẫu trong tư tưởng, lời nói và hành động của đội ngũ cán bộ, đảng

viên chưa có sức thuyết phục trí thức.

Lãnh đạo trí thức, vận động trí thức đòi hỏi người cán bộ phải có tâm có đức,

song, điều không kém phần quan trọng là các cấp ủy, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, nhất

là cán bộ chủ chốt phải có trình độ trí tuệ đến mức cần thiết. Bởi vì, thông thường

trí thức thường không dễ chấp nhận người lãnh đạo mình lại quá non kém về trình

độ trí tuệ. Và nếu như thế thì cán bộ lãnh đạo khó tuyên truyền một cách thuyết

phục đường lối, quan điểm của Đảng cho đội ngũ trí thức và càng khó định hướng

Page 79: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

75

hoạt động của trí thức theo đúng đường lối, quan điểm của Đảng, cũng như không

thể khơi dậy, phát huy tốt tính sáng tạo của trí tuệ cống hiến cho sự nghiệp cách

mạng. Trong bối cảnh hiện nay, một số cán bộ, đảng viên thoái hóa, hư hỏng, biến

chất, tham ô, tham nhũng, nói không đi đôi với làm đang là những tấm gương xấu

cho trí thức, làm mất lòng tin của trí thức với Đảng chứ chưa nói đến việc trở thành

những tấm gương sáng cho trí thức noi theo.

Bốn là, việc vận động trí thức bằng sự phối, kết hợp giữa các tổ chức đảng

với chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị -xã hội, các tổ chức xã

hội thiếu sự liên kết đồng bộ.

Công tác vận động trí thức là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, Đảng

lãnh đạo, chính quyền tổ chức thực hiện, MTTQ, đoàn thể làm nòng cốt, tham mưu

về công tác vận động, tập hợp trí thức thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng, xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc.. Tuy nhiên sự phối hợp giữa MTTQ, các tổ chức chính trị

- xã hội với chính quyền các cấp trong vận động nhân dân chưa được triển khai

đồng bộ. Tình trạng “hành chính hóa”, làm theo phong trào, thiếu cụ thể, thiếu thực

tiễn còn phổ biến. Nhiều chương trình phối hợp được ký kết rất long trọng nhưng

triển khai thực hiện kém, thiếu sự sơ kết tổng kết dẫn hiệu quả không cao. Nội

dung, phương thức hoạt động của Mặt trận và các Đoàn thể, các Hội của trí thức

chậm được đổi mới, chưa đủ sức thu hút tập hợp trí thức.

3.2. ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN

ĐỘNG TRÍ THỨC - THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN, KINH NGHIỆM

3.2.1. Thực trạng đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận

động trí thức

3.2.1.1. Những ưu điểm

* Những ưu điểm trong đổi mới nội dung lãnh đạo của Đảng

Một là, đã có những đổi mới trong nhận thức, quan điểm, chủ trương, chính

sách của Đảng về công tác vận động trí thức và đổi mới việc tổ chức thực hiện các

chủ trương, chính sách đó

Cùng với quá trình đổi mới đất nước, Đảng đã từng bước đổi mới nhận thức,

quan điểm, chủ trương … của Đảng đối với công tác vận động trí thức. Điều đó thể

Page 80: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

76

hiện quan Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII,VIII,IX, X, XI, trong

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991

(bổ sung, phát triển năm 2011) và trong các nghị quyết, kết luận, chỉ thị của Ban

Chấp hành Trung ương Đảng.

Đại hội lần thứ VI (1986)) của Đảng Cộng sản Việt Nam được coi là “cột

mốc lịch sử quan trọng trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa của nhân dân

ta”. Đại hội lần thứ VI của Đảng ta đã chính thức thông qua đường lối đổi mới toàn

diện nền kinh tế - chính trị của xã hội. Vấn đề trí thức và khoa học kỹ thuật KHKT

được thực sự mở ra với những luận điểm mới. Lần đầu tiên Văn kiện Đại hội VI

khẳng định: “Khoa học, kỹ thuật là một động lực thúc đẩy phát triển kinh tế và xã

hội.”và “Đối với trí thức, điều quan trọng nhất là đánh giá đúng năng lực”.

Ngày 27-3-1990, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI đã kịp thời ban

hành Nghị quyết số 8B-NQ/TW về “Đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng

cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân”. Nghị quyết đã xác định rõ bốn quan

điểm và những giải pháp chủ yếu, nhằm đổi mới sự lãnh đạo của Đảng về công tác

dân vận (vận động nhân dân) phù hợp với yêu cầu của công cuộc đổi mới toàn diện

đất nước. Đối với trí thức, Nghị quyết số 8B-NQ/TW nêu rõ “Các đoàn thể quần

chúng cùng với các cấp ủy đảng, các cơ quan nhà nước phải sâu sát tình hình các

trường đại học, các cơ quan khoa học, các hội văn học - nghệ thuật, giúp đỡ giải

quyết những yêu cầu chính đáng, tạo điều kiện cho trí thức phát huy tài năng”

Đến Đại hội VII (năm 1991), vấn đề trí thức và sự lãnh đạo của Đảng đối với

công tác vận động trí thức ngày càng được chú trọng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VII của Đảng thông qua “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ

lên CNXH”, cùng với công nhân và nông dân, trí thức được xem là nền tảng, là một

lượng lượng quan trọng trong liên minh công nhân, nông dân và trí thức “xây dựng

Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, lấy

liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền

tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo”. Đảng khẳng định cần phải “Đào tạo, bồi

dưỡng và phát huy mọi tiềm năng của đội ngũ trí thức để tạo nguồn lực trí tuệ và

nhân tài cho đất nước”.

Page 81: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

77

Tại Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa X của Đảng ta nêu

quan điểm, định hướng lớn cho công tác vận động trí thức: “Đối với trí thức, phát huy

trí tuệ và năng lực, mở rộng thông tin, phát huy dân chủ, trọng dụng nhân tài. Khuyến

khích các trí thức, các nhà khoa học phát minh, sáng tạo. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ,

đãi ngộ xứng đáng những cống hiến của trí thức cho công cuộc phát triển đất nước. Coi

trọng vai trò tư vấn, phản biện của các hội KHKT, khoa học xã hội và văn học, nghệ

thuật đối với các dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội” [47, tr. 119].

Đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương

khóa X về “Xây dựng đội ngũ trí thức thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại

hóa đất nước”. Đây là lần đầu tiên Đảng ta ban hành một nghị quyết riêng về trí

thức. Nghị quyết là cơ sở để Đảng ta và toàn xã hội thống nhất trong nhìn nhận một

cách đúng đắn, khách quan vị trí, vai trò của trí thức đối với sự phát triển đất nước.

Đảng đã đổi mới tư duy, đổi mới quan điểm về khoa học và công nghệ để

phát huy vai trò của đội ngũ trí thức. Để phát triển khoa học công nghệ và phát huy

tiềm năng trí tuệ của đội ngũ trí thức trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, Đảng ta

đã ban hành nhiều văn bản về KH&CN như Nghị quyết số 26 NQ/TU ngày 30-3-

1991 của Bộ Chính trị (khóa VI) về “Khoa học và công nghệ trong sự nghiệp đổi

mới”. Nghị quyết đã xác định rõ chủ trương, chính sách, phương hướng, nhiệm vụ

và các biện pháp lớn thúc đẩy hoạt động KHCN, trong đó khẳng định: Kiện toàn Ủy

ban Khoa học Nhà nước đủ sức thực hiện tốt chức năng quản lý Nhà nước các hoạt

động khoa học và công nghệ trong phạm vi cả nước.Tiếp theo đó Đảng đã ban hành

các Nghị quyết số 01 của Bộ Chính trị và Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ

7 (khóa VII). Nghị quyết Trung ương 2 (Khóa VIII) về định hướng chiến lược phát

triển KH&CN và những nhiệm vụ đến năm 2000.Việc thực hiện các nghị quyết này

đã bước đầu nâng cao tiềm lực KH&CN của đất nước, thúc đẩy việc đưa các tiến bộ

KH&CN vào sản xuất và đời sống, góp phần đưa nước ta ra khỏi tình trạng khủng

hoảng KT - XH, tạo ra những tiền đề cần thiết để bước vào thời kỳ đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên, sau nhiều năm đổi mới, hoạt động KH&CN

vẫn bộc lộ nhiều tồn tại hạn chế: hoạt động KH&CN nhìn chung còn trầm lắng,

chưa thực sự trở thành động lực phát triển KT - XH. Việc huy động nguồn lực của

Page 82: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

78

xã hội vào hoạt động KH&CN chưa được chú trọng; đầu tư cho KH&CN còn thấp,

hiệu quả sử dụng chưa cao; Việc đào tạo, trọng dụng, đãi ngộ cán bộ KH&CN còn

nhiều bất cập. Cơ chế quản lý hoạt động KH&CN chậm được đổi mới. Công tác

quy hoạch, kế hoạch phát triển khoa học công nghệ chưa gắn với yêu cầu phát triển

KT - XH ; cơ chế tài chính còn chưa hợp lý. Chính vì vậy, Hội nghị lần thứ 6 Ban

Chấp hành Trung ương (khóa XI) đã ra Nghị quyết về phát triển KH&CN phục vụ

sự nghiệp CNH-HĐH trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

Hai là, đã có những đổi mới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với Nhà

nước trong quá trình xây dựng chính sách, pháp luật về công tác vận động trí thức

và quản lý nhà nước theo pháp luật về công tác vận động trí thức

Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là tất yếu khách quan, là tiền đề và

điều kiện để Nhà nước giữ vững tính chất xã hội chủ nghĩa, bản chất của nhân dân,

do nhân dân, vì nhân dân của mình. Trong những năm đổi mới, Đảng luôn củng cố,

giữ vững vai trò lãnh đạo đối với Nhà nước, nắm chắc vai trò cầm quyền của mình -

cầm quyền vì lợi ích của nhân dân. Nội dung chủ yếu sự lãnh đạo của Đảng đối với

Nhà nước trong công tác xây dựng đội ngũ trí thức là Đảng đề ra đường lối, chủ

trương đúng đắn để xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức. Đảng lãnh

đạo các nhánh quyền lực của Nhà nước như Quốc hội, Chính phủ thể chế hóa đường

lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật của Nhà nước về vận động trí

thức và tổ chức thực hiện các chính sách, pháp luật đó; tăng cường quản lý cán bộ,

đảng viên trong bộ máy nhà nước; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch,

vững mạnh; tăng cường kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên trong cơ quan quản lý

nhà nước, các tổ chức sự nghiệp, đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân, doanh

nghiệp nhà nước trong việc thực hiện các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà

nước về công tác vận động trí thức.

Ba là, đã có những đổi mới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng trong xây dựng tổ

chức, bộ máy, cán bộ chuyên trách làm công tác vận động trí thức.

Do đặc thù của đội ngũ trí thức khác với các giai tầng xã hội khác, họ là những

người có học vấn cao, vì vậy Đảng chủ trương từ Trung ương đến địa phương, cơ sở

Page 83: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

79

phải đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng một đội ngũ cán bộ chủ chốt chuyên trách và bán

chuyên trách giúp Trung ương nghiên cứu, soạn thảo ra các “vấn đề vĩ mô”, các chủ

trương, đường lối và giúp các địa phương, cơ sở vận dụng, triển khai một cách đúng

đắn, sáng tạo, có hiệu quả tốt công tác vận động trí thức ở các cấp.

Nhìn chung, trình độ học vấn và trí tuệ của các cán bộ chủ chốt ở các cấp chí

ít cần bằng hoặc trội hơn, nhất là về lý luận chính trị, các khoa học lãnh đạo, quản lý

so với trình độ chung của bộ phận trí thức mà họ được trực tiếp phân công đảm

nhiệm trong công tác vận động trí thức. Đó vừa là nhận thức, vừa là kinh nghiệm

thực tiễn rất cần chú trọng trong công tác này. Hơn thế, đội ngũ cán bộ làm công tác

vận động trí thức còn phải được học tập, tích lũy các nghệ thuật tổng hợp trong

công tác vận động trí thức, ví dụ: nghệ thuật giao tiếp; nghệ thuật ứng xử; nghệ

thuật tuyên truyền, thuyết phục; nghệ thuật “phản biện” hay đấu tranh; nghệ thuật

biểu dương, khen thưởng về tinh thần và vật chất… Rất nhiều trí thức coi trọng

động lực tinh thần, dù không coi thường các động lực vật chất. Vì vậy, cán bộ làm

công tác vận động trí thức phải đạt yêu cầu: được đa số trí thức mà mình tiếp xúc

“khẩu phục, tâm phục”, thì công tác này mới có kết quả tốt.

Bốn là, đã có những đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư

tưởng, công tác tuyên truyền, thuyết phục, cổ vũ, động viên trí thức thực hiện đường

lối chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước

Quá trình đổi mới công tác tư tưởng của Đảng thể hiện qua các Nghị quyết số

07-NQ/TW, ngày 24 - 8 - 1989 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI “Một

số vấn đề cấp bách về công tác tư tưởng trước tình hình trong nước và quốc tế hiện

nay”, Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa IX số 16-

NQ/TW, ngày 18 - 3 - 2002 “về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong

tình hình mới” và một số nghị quyết của Bộ Chính trị về công tác tư tưởng, công tác lý

luận đã thể hiện sự đổi mới, chú trọng công tác tư tưởng đối với trí thức.

Từ khi thực hiện đường lối đổi mới đến nay, các cấp ủy Đảng đã tổ chức và

hướng dẫn các bộ phận khác nhau của tầng lớp trí thức học tập, nghiên cứu một

cách cơ bản và có hệ thống học thuyết Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ở những

mức độ, yêu cầu, nội dung, hình thức và phương pháp khác nhau, phù hợp mỗi đối

Page 84: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

80

tượng; Tổ chức và hướng dẫn trí thức nghiên cứu, quán triệt quan điểm, đường lối

cách mạng, Cương lĩnh, Chiến lược, chủ trương lớn… của Đảng ta, Hiến pháp,

pháp luật, chính sách… của Nhà nước ta và một số nội dung cơ bản hoạt động của

cả hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn hiện nay. Ngoài việc học tập lý luận

chính trị, việc học tập, rèn luyện đạo đức cách mạng, vận động, yêu cầu và tạo điều

kiện để trí thức nhận thức và thực hiện đúng Hiến pháp, pháp luật, chính sách của

Nhà nước, vận động trí thức tự giác và tích cực tham gia các hoạt động xã hội để

hợp tác với nhau, góp phần tăng cường sức mạnh đồng thuận của khối đại đoàn kết

toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta; Vận động và tạo

điều kiện cho trí thức Việt Nam mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế trong giai đoạn

hiện nay cũng đã được chú trọng. Nếu như trước đây, công tác chính trị, tư tưởng

đối với trí thức chỉ chú trọng vào việc tuyên truyền vận động thì trong những năm

gần đây, hình thức gặp gỡ, đối thoại trực tiếp để đối thoại giữa các cấp lãnh đạo của

Đảng và Nhà nước với trí thức, giữa cấp ủy chính quyền địa phương được chú

trọng; đồng thời phát huy ảnh hưởng của những trí thức lớn, có uy tín cao đến bộ

phận đông đảo còn lại của đội ngũ trí thức. Ngoài ra các hoạt động tôn vinh trí thức

như các giải thưởng sáng tạo khoa học công nghệ, giải thưởng Hồ Chí Minh… được

tổ chức định kỳ cũng góp phần động viên tinh thần đối với trí thức.

Năm là, đã có những đổi mới sự lãnh đạo của Đảng trong công tác đào tạo,

bồi dưỡng, chăm lo xây dựng đội ngũ trí thức

Đảng đã đổi mới tư duy về giáo dục và đào tạo để xây dựng đội ngũ trí thức.

Đổi mới GD&ĐT là đường lối xuyên suốt của Đảng. Đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị

về GD&ĐT quan trọng được ban hành và đi vào cuộc sống. Từ năm 1986, yêu cầu

của đổi mới đất nước là công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển khoa học

và công nghệ, song giáo dục và đào tạo phải trở thành điều kiện tiên quyết để hiện

thực hóa những mục tiêu của khoa học và công nghệ. Như vậy, để có đội ngũ trí

thức có trình độ kỹ thuật cao thì phải coi giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu,

bên cạnh đó Đảng ta cũng khẳng định: “giáo dục và đào tạo là chìa khóa để mở cửa

tiến vào tương lai”. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 2 khóa VIII (12-1996)

của Đảng khẳng định “Nhận thức sâu sắc giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và

Page 85: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

81

công nghệ là nhân tố quyết định tăng cường kinh tế và phát triển xã hội. Đầu tư cho

giáo dục - đào tạo là đầu tư cho phát triển”. Với mục tiêu đầu tư cho giáo dục,

trong những năm đầu đổi mới chúng ta chú trọng vào giáo dục Đại học, các trường

đại học là ngành đào tạo chính đội ngũ trí thức trẻ bổ sung cho lực lượng cán bộ

khoa học - công nghệ và chuyên gia trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa

khác. Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước cũng chủ trương mở rộng đào tạo cán bộ

khoa học ở nước ngoài, nhằm vào các ngành khoa học và công nghệ mũi nhọn mà

ta đang có nhu cầu cấp bách. Một trong những vấn đề mà Đảng ta quan tâm trong

công tác xây dựng đội ngũ trí thức là việc “trẻ hóa” đội ngũ trí thức. Trước đây số

cán bộ trẻ trong các trường đại học rất ít và hầu như trí thức trẻ không ai được

phong học hàm giáo sư, phó giáo sư, nhưng những năm gần đây, nhờ có nhiều

chính sách như tuyển chọn sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, các chính sách đãi ngộ

khác, nhiều trường đại học đã thu hút được đông đảo số lượng cán bộ trẻ, đa dạng

hóa các loại hình đào tạo.

Sau gần 30 năm đổi mới, giáo dục của chúng ta đã đạt được những kết quả

quan trọng, rất có ý nghĩa trong việc thực hiện sứ mệnh nâng cao dân trí, đào tạo

nhân lực và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Tuy nhiên, GD&ĐT còn những bất

cập, yếu kém. GD&ĐT vẫn chưa thực sự là quốc sách hàng đầu, chưa là động lực

quan trọng nhất cho phát triển. Chất lượng giáo dục nhìn chung thấp, chưa đáp ứng

yêu cầu phát triển KT - XH, chưa theo kịp sự chuyển biến của đất nước trong thời

kỳ hội nhập quốc tế. Căn cứ vào tình hình quốc tế, trong nước, yêu cầu phát

triển giáo dục, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã khẳng

định: “Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa,

hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế” [47]. Cụ thể hóa Nghị

quyết Đại hội XI của Đảng, ngày 4-11-2013, Hội nghị Trung ương 8 đã thông qua

Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT. Đây là những

nghị quyết hết sức quan trọng góp phần đưa giáo dục đào tạo phát triển nhằm thúc

đẩy việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, nhân tài nói chung và đặc biệt góp phần

tạo nên nền tảng vững chắc cho việc đặt nền móng để xây dựng đội ngũ trí thức đáp

ứng được yêu cầu nhiệm vụ mới của thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước.

Page 86: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

82

Sáu là, đã có những đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và các

lực lượng xã hội trong việc tạo lập môi trường, điều kiện hoạt động khoa học thuận

lợi cho các tập thể trí thức lao động, cống hiến

Việc Đảng xác định một trong những phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu phát

triển đất nước là phát triển KTTT, tiếp tục đổi mới phát triển GD&ĐT, khoa học và

công nghệ. Đây thực chất là tạo môi trường phát huy trí tuệ cho trí thức Việt

Nam. Đại hội XI của Đảng nêu rõ:

Phát triển kinh tế thị trường trên cơ sở phát triển giáo dục, đào tạo, khoa học,

công nghệ; xây dựng đồng bộ cơ sở hạ tầng khoa học, công nghệ, trước hết

là công nghệ thông tin, truyền thông, công nghệ tự động, nâng cao năng lực

nghiên cứu - ứng dụng gắn với phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.

Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ

công nghệ cao, có giá trị gia tăng cao, dựa nhiều vào tri thức. Phát huy và sử

dụng có hiệu quả nhất nguồn tri thức của con người Việt Nam và khai thác

nhiều nhất tri thức của nhân loại. Xây dựng và triển khai lộ trình phát triển

kinh tế thị trường đến năm 2020 [51, tr. 220-221].

Với môi trường này, con người Việt Nam nói chung và trí thức Việt Nam nói

riêng trở thành trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển,

được tôn trọng và phát huy vai trò của mình. Sống trong môi trường trí tuệ thuận lợi,

con người Việt Nam, nhất là người trí thức phải học tập suốt đời, được đào tạo và đào

tạo lại thường xuyên, bằng trường lớp và tự học hỏi để có năng lực chuyên môn

tương xứng, lao động giỏi, đáp ứng được đòi hỏi cao về năng suất, chất lượng của

KTTT. Với đường lối đối ngoại ngày càng đổi mới sẽ mở ra môi trường quốc tế rộng

lớn cho sự phát triển của trí thức Việt Nam. Đường lối đối ngoại chủ động và tích cực

hội nhập quốc tế tạo điều kiện đa dạng hóa các nguồn lực và địa chỉ đào tạo trí thức

nước ta từ các quốc gia khác nhau. Hợp tác quốc tế về khoa học được mở rộng tạo

khả năng để trí thức nước ta giao lưu, trao đổi thông tin, tiếp cận những tri thức mới.

Trí thức người Việt Nam định cư ở nước ngoài có cơ hội nhiều hơn hướng về Tổ

quốc, đóng góp trí lực và vật lực nhiều hơn vào xây dựng quê hương, đất nước...

Page 87: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

83

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tạo khả năng nhiều cơ

hội và việc làm cho trí thức. Người trí thức có mặt ở mọi thành phần kinh tế, có cơ

hội lựa chọn những nơi làm việc phù hợp để được cống hiến nhiều nhất và hưởng

thụ xứng đáng, hơn nữa có khả năng vươn lên làm giàu chính đáng. Hoàn thiện thể

chế nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn là phát triển đồng bộ

các yếu tố thị trường và các loại thị trường, trong đó có thị trường khoa học và

công nghệ, thị trường lao động…. tác động trực tiếp đến người trí thức. Bởi vì,

như Đại hội Đảng lần thứ XI nêu rõ: “Phát triển mạnh kinh tế thị trường, KH&CN

gắn với việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; có hình thức thông tin giới thiệu các

hoạt động và sản phẩm khoa học, công nghệ; hoàn thiện các định chế và mua bán

các sản phẩm khoa học, công nghệ trên thị trường” và “Đẩy mạnh phát triển thị

trường lao động. Tiền lương, tiền công phải được gọi là giá cả sức lao động, được

hình thành theo cơ chế thị trường” [51, tr.213]. Như vậy, hoàn thiện thể chế kinh

tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đem lại môi trường thuận lợi, bình

đẳng, và tạo nên động lực kinh tế mạnh mẽ cho trí thức nước ta trong lao động

sáng tạo khoa học. Thế nhưng trong nền kinh tế thị trường, người trí thức cũng

phải chịu sức ép cạnh tranh, phải không ngừng học tập, bồi dưỡng để giữ vững

“thương hiệu” cho sản phẩm khoa học và giá trị “chất xám” của mình. Nhất là,

người trí thức phải biết giữ mình, không bị tha hóa trước những “cám dỗ” và tiêm

nhiễm những tiêu cực của mặt trái nền kinh tế thị trường…

Bảy là, đã có những đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với MTTQ và các

đoàn thể chính tri - xã hội trong việc tập hợp, đoàn kết trí thức trong khối đại đoàn

kết toàn dân tham gia sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc

Đảng đổi mới lãnh đạo Đảng đoàn MTTQ Việt Nam và các đoàn thể chính

trị - xã hội quán triệt sâu sắc, nắm vững và gương mẫu thực hiện các nghị quyết, chỉ

thị của Đảng về công tác vận động trí thức theo chức năng, nhiệm vụ của bộ, ngành,

mặt trận và các đoàn thể bằng chương trình, kế hoạch, giải pháp cụ thể; Chỉ đạo và

kiểm tra, giám sát việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước liên

quan đến công tác dân vận và nhiệm vụ công tác vận động trí thức của bộ, ngành,

Mặt trận và các đoàn thể; Có biện pháp thực hiện tốt công tác vận động trí thức, ổn

Page 88: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

84

định tư tưởng trí thức theo đặc thù, phạm vi của cơ quan, tổ chức mình. Từ sự lãnh

đạo của Đảng, MTTQ đã có nhiều hoạt động như vận động, kêu gọi trí thức Việt

kiều hướng về Tổ quốc, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc bằng những hoạt

động thiết thực. Đoàn Thanh niên với các chương trình, đề án Trí thức trẻ đã tạo cơ

hội cho trí thức trẻ cống hiến và trưởng thành, góp sức vào sự nghiệp xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc. Phụ nữ với dự án “Nữ trí thức Việt Nam với hoạt động sáng tạo”

nhằm tạo điều kiện để hỗ trợ thương mại hóa các đề tài nghiên cứu của nhà khoa

học nữ, tạo ra giá trị đích thực cho xã hội...

Đảng cũng đã ban hành nhiều văn bản quan trọng như: Chỉ thị 35-CT/TW

ngày 11-4-1988, của Ban Bí thư Trung ương Đảng về củng cố tổ chức và đẩy mạnh

hoạt động của Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam, trong đó nêu rõ

“Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam được tổ chức và hoạt động theo

cơ cấu và quy chế của một đoàn thể quần chúng cấp trung ương”; Ngày 20-11-

1992, Ban Bí thư trung ương Đảng ra Thông báo số 37-TB/TW về tổ chức và hoạt

động của Liên hiệp hội Việt Nam, trong đó đề ra yêu cầu “cần thể chế hóa chức

năng tư vấn, phản biện và giám định xã hội về khoa học và kỹ thuật của các hội”;

Ngày 11-11- 1998, Bộ Chính trị (khóa VIII) ra Chỉ thị số 45-CT/TW về đẩy mạnh

hoạt động của Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam, trong đó nêu rõ: “Liên hiệp hội

là một tổ chức chính trị - xã hội của trí thức KH&CN Việt Nam, cùng với các đoàn

thể chính trị - xã hội khác tạo thành lực lượng nòng cốt trong công cuộc công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”; Ngày 16-4-2010, Bộ Chính trị (khóa X) ra Chỉ

thị số 42-CT/TW về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của

Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chỉ thị nêu rõ: Liên hiệp các Hội Khoa học và

Kỹ thuật Việt Nam có hệ thống từ Trung ương đến các tỉnh, thành phố trực thuộc

Trung ương là tổ chức chính trị - xã hội do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo [50].

Nhằm phát huy vai trò, sứ mệnh cao quý của văn học, nghệ thuật và của đội

ngũ văn nghệ sĩ, ngày 16-6-2008, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết về tiếp tục xây

dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới. Nghị quyết nêu rõ: Xây

dựng, phát triển đội ngũ văn nghệ sĩ Việt Nam một cách toàn diện cả về số lượng,

Page 89: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

85

chất lượng và cơ cấu loại hình, có các thế hệ nối tiếp nhau vững chắc, có tình yêu

Tổ quốc nồng nàn, gắn bó sâu sắc với nhân dân, với sự nghiệp đổi mới do Đảng

lãnh đạo, có năng lực sáng tạo phong phú, đa dạng, đoàn kết, gắn bó cùng phát triển

trong cộng đồng các dân tộc anh em trên đất nước ta.

Ngoài những nghị quyết nêu trên Đảng còn ban hành nhiều nghị quyết khác

nhằm tăng cường sự lãnh đạo đối với công tác vận động trí thức như Nghị quyết số

36- NQ/TW của Bộ Chính trị (khoá IX) về công tác đối với người Việt Nam ở nước

ngoài; Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 5 (khóa VIII) Về xây dựng và phát

triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức của trí thức, Đảng

còn thành lập các Đảng đoàn của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật, Hội Liên

hiệp Văn học, Nghệ thuật, Hội Luật gia, Hội nhà Báo… Đây cũng là một sự đổi mới

phương thức lãnh đạo của Đảng. Các đảng đoàn tổ chức quán triệt các chỉ thị, nghị

quyết của Đảng, phát huy tinh thần dân chủ, tham gia tư vấn, phản biện về những vấn

đề hệ trọng liên quan đến quốc kế, dân sinh, cũng như mạnh dạn đề đạt ý kiến của

mình trong việc xây dựng và thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước.

* Những ưu điểm trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng

Một là, đã có những đổi mới việc ban hành chủ trương, nghị quyết và các

định hướng chính sách lớn về trí thức và công tác vận động trí thức

Khác với trước đây, việc ban hành nghị quyết được đưa vào chương trình kế

hoạch toàn khóa của các kỳ Đại hội Đảng và được chuẩn bị kỹ càng, chu đáo, chứ

không phải theo từng vụ việc, từng vấn đề như trước. Ví dụ như khi ban hành Nghị

quyết số 27 - NQ/TW, theo chương trình toàn khóa của Ban Chấp hành Trung

ương, Hội nghị Trung ương 7 sẽ bàn và ra Nghị quyết về ''Phát triển giáo dục và

đào tạo, khoa học và công nghệ gắn với đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh

CNH, HĐH đất nước, hội nhập quốc tế”. Trong quá trình chuẩn bị đề án, thấy rằng

về vấn đề giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, Đảng ta đã có những nghị

quyết chuyên sâu: Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VII) về giáo dục và đào tạo, về

khoa học và công nghệ, v.v. Sau đó có rất nhiều nghị quyết và chỉ thị của Bộ Chính

trị liên quan đến vấn đề này. Nhưng về trí thức, dù đã được đề cập ở khía cạnh này,

Page 90: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

86

khía cạnh khác trong các nghị quyết chuyên đề, về mặt chính thức chúng ta chưa

bàn tổng thể về xây dựng và phát huy đội ngũ trí thức, trong khi đó thực tiễn xung

quanh vấn đề trí thức đang đặt ra nhiều vấn đề rất mới, rất quan trọng. Nhận thức rõ

tầm quan trọng của đội ngũ trí thức và xây dựng đội ngũ trí thức, Bộ Chính trị đã

cân nhắc, đề nghị và được Trung ương nhất trí điều chỉnh tiêu đề của Đề án thành

“Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đổi mới CNH, HĐH đất nước, hội nhập

kinh tế quốc tế”. Sau đó tại Hội nghị Trung ương thống nhất bỏ cụm từ “ hội nhập

kinh tế quốc tế”. Trước khi ban hành Nghị quyết, Bộ Chính trị, Ban Bí thư khóa X

đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo để lấy ý kiến các đại biểu trí thức, thể hiện bầu

không khí sinh hoạt dân chủ đối với trí thức tham gia vào công việc có liên quan

đến vận mệnh của chính mình. Trong quá trình hội thảo, thảo luận, đã có khoảng

200 lượt ý kiến của trí thức phát biểu xoay quanh vấn đề trí thức Việt Nam. Khi bản

dự thảo Nghị quyết này đưa ra thảo luận tại Hội nghị Trung ương 7, khóa X, trong

hai ngày 10 và 11-7-2008, Trung ương đã thảo luận rất sôi nổi, nhiều ý kiến tâm

huyết và sâu sắc. Đã có 108 lượt ý kiến phát biểu. Trong quá trình chỉ đạo chuẩn bị

Đề án, Bộ Chính trị đề xuất đổi tên đề án đã ghi trong Chương trình toàn khóa là

“Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ gắn với đội ngũ trí thức

trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế”,

thành tên mới: “Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước”. Tên gọi mới này của Nghị quyết đã được đa số các ủy viên

Trung ương nhất trí và trở thành tên gọi chính thức

Việc triển khai, tổ chức thực hiện Nghị quyết về trí thức có sự lãnh đạo, chỉ

đạo chặt chẽ và thể hiện quyết tâm chính trị cao của Ban Chấp hành Trung ương,

Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp ủy Đảng. Trong nghị quyết có giao trách nhiệm

cụ thể cho các ban của Đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung

ương Đảng, các tỉnh ủy, thành ủy…. tổ chức nghiên cứu, quán triệt nghị quyết tới

cán bộ, đảng viên; đẩy mạnh tuyên truyền trong nhân dân; xây dựng chương trình

hành động để đưa nghị quyết vào cuộc sống.

Công tác kiểm tra, giám sát việc triển khai, tổ chức thực hiện Nghị quyết về trí

thức có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ và thể hiện quyết tâm chính trị cao thông qua việc

Page 91: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

87

tổ chức sơ kết tổng kết và có kết luận, đánh giá ưu, khuyết điểm, phê bình, nhắc nhở,

chấn chỉnh kịp thời đối với các tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên, các ban của

Đảng, đồng thời lãnh đạo, tổ chức, động viên quần chúng nhân dân kiểm tra, giám sát,

phản biện công việc và hoạt động của cơ quan nhà nước, của cán bộ trong bộ máy công

quyền, phát hiện mặt tích cực để phát huy, mặt yếu kém để uốn nắn, khắc phục.

Hai là, đã có những đổi mới hoạt động của Đảng trong chỉ đạo xây dựng

chính sách, pháp luật và quản lý nhà nước về công tác vận động trí thức.

Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là tất yếu khách quan, là tiền đề và

điều kiện để Nhà nước giữ vững tính chất xã hội chủ nghĩa, bản chất của nhân dân,

do nhân dân, vì nhân dân của mình. Nội dung chủ yếu sự lãnh đạo của Đảng đối với

Nhà nước trong công tác xây dựng đội ngũ trí thức là Đảng đề ra đường lối, chủ

trương đúng đắn để xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức. Trung ương

Đảng và Bộ Chính trị thông qua Đảng đoàn Quốc hội và các đảng viên là đại biểu

Quốc hội để lãnh đạo hoạt động của Quốc hội . Đảng đoàn Quốc hội chịu trách

nhiệm trước Bộ Chính trị, Ban Bí thư, lãnh đạo Quốc hội thực hiện chức năng lập

hiến, lập pháp, đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước; thực hiện đúng đắn

đường lối, chủ trương của Đảng, quyết định những vấn đề về công tác vận động trí

thức, về GD&ĐT, KH&CN. Kiểm tra, giám sát tối cao việc thực hiện đường lối,

chủ trương, nghị quyết của Đảng trong hoạt động của Quốc hội về công tác vận

động trí thức, về GD&ĐT, KH&CN.

Trong quá trình đổi mới, Đảng đã có đổi mới quan trọng về phương thức

lãnh đạo của Đảng đối với Chính phủ trong công tác vận động trí thức. Với tư cách

là người lãnh đạo chính trị, Đảng chỉ quyết định những vấn đề về quan điểm, tư

tưởng, chủ trương lớn để chỉ đạo, định hướng về công tác vận động trí thức về

GD&ĐT, KH&CN cho Chính phủ tổ chức thực hiện. Đảng không quyết định những

chủ trương cụ thể thuộc phạm vi quản lý của Chính phủ. Đảng không làm thay

chính quyền. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị xem xét, quyết định những

phương hướng, chủ trương, chính sách lớn về vận động trí thức, về văn hóa, xã hội,

giáo dục, khoa học, y tế ... còn Chính phủ có nhiệm vụ xây dựng và ban hành chiến

lược, chương trình, kế hoạch, quyết định cụ thể, Các bộ, ngành, đoàn thể cụ thể hóa

Page 92: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

88

thêm một bước thành nghị quyết, thông tư, quyết định…cho từng nhiệm vụ, từng

giai đoạn và tổ chức thực hiện. Như vậy, việc lựa chọn đúng vấn đề quan trọng liên

quan tới hoạt động của Chính phủ mà Đảng cần bàn và ra quyết định là rất cần thiết

để tránh được sự lẫn lộn giữa chức năng lãnh đạo của Đảng với chức năng quản lý

của Chính phủ trong những vấn đề liên quan đến vận động trí thức.

Ba là, đã có những đổi mới công tác tư tưởng của Đảng trong tuyên truyền,

thuyết phục, cổ vũ, động viên trí thức thực hiện đường lối của Đảng, chính sách,

pháp luật của Nhà nước

Công tác tư tưởng góp phần trực tiếp và thiết thực trong việc tuyên truyền các

chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, tạo sự đồng

thuận trong toàn xã hội và đội ngũ trí thức để mang lại hiệu quả thiết thực trong việc

thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại... Trí

thức vừa là đối tượng vừa là chủ thể có điều kiện, ưu thế để làm công tác tư tưởng.

Đảng đã chú trọng hoạt động giáo dục lý luận chính trị trong hệ thống các trường đào

tạo cán bộ (của Trung ương, tỉnh, thành phố, quận, huyện), các trường đại học, cao

đẳng, và hệ thống giáo dục phổ thông. Đây là hình thức, biện pháp cơ bản để không

ngừng nâng cao trình độ lý luận, giác ngộ chính trị cho trí thức trẻ, cho cán bộ, đảng

viên và đội ngũ trí thức. Thông qua hệ thống truyền thông đại chúng như báo chí,

phát thanh, truyền hình và các thiết chế, ấn phẩm khác. Ngày nay, với những thành

tựu mới của khoa học - công nghệ, hệ thống truyền thông đại chúng đã trở thành một

loại “vũ khí” toàn diện và mạnh mẽ nhất trên mặt trận tư tưởng và là nhân tố thường

xuyên tác động tới đời sống tinh thần của đội ngũ trí thức và toàn xã hội. Hình thức

giáo dục chính trị tư tưởng thông qua sinh hoạt và hoạt động của các tổ chức đảng

(cấp ủy các cấp, chi bộ), các đoàn thể chính trị - xã hội, các cơ quan, đơn vị, các tổ

chức hiệp hội, các câu lạc bộ trí thức được chú trọng. Hình thức, biện pháp này nhằm

phát huy vai trò tự giáo dục trong từng tổ chức, từng cơ sở, là hình thức để trí thức tự

giáo dục trí thức. Đây là biện pháp quan trọng bảo đảm cho công tác tư tưởng sát với

đặc điểm từng đối tượng trí thức, với điền kiện, hoàn cảnh của từng nơi và thiết thực

phục vụ cho hoàn thành nhiệm vụ chính trị của từng địa phương, cơ sở.

Ngoài các hình thức trên, các hoạt động văn hóa, văn nghệ, hoạt động biểu

diễn nghệ thuật, điện ảnh, các hoạt động văn hóa, văn nghệ quần chúng, tuyên

Page 93: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

89

truyền, giáo dục của cán bộ, đảng viên và hành động gương mẫu của họ trong công

tác và lối sống... mà giáo dục nâng cao nhận thức, bồi dưỡng tình cảm, đạo đức, lối

sống lành mạnh cho đội ngũ trí thức. Nét đặc trưng của hình thức, biện pháp này là

giáo dục thông qua con đường tình cảm; hiệu lực của nó là để lại những dấu ấn sâu

sắc, bền vững trong nhận thức, tư tưởng, tâm khảm trí thức.

Bốn là, đã có những đổi mới công tác tổ chức và cán bộ của Đảng trong các

cơ quan quản lý nhà nước về công tác vận động trí thức, trongcác tập thể lao động

khoa học, trong các đơn vị sự nghiệp khoa học công lập.

Sự lãnh đạo tập trung, thống nhất về công tác cán bộ trong toàn bộ hệ thống

chính trị là một trong những nhiệm vụ lãnh đạo chủ yếu của Đảng. Nhằm tăng

cường sự lãnh đạo của Đảng đối với trí thức và công tác vận động trí thức, trong

những năm qua, Đảng đã cử những cán bộ, đảng viên có đủ phẩm chất, năng lực để

làm công tác vận động trí thức, giới thiệu cán bộ đủ tiêu chuẩn để ứng cử hoặc bổ

nhiệm vào cơ quan có đông trí thức như các trường đại học, các viện nghiên cứu

khoa học, các tổ chức của trí thức… Đảng xác định các quan điểm, nguyên tắc về

việc thành lập, sắp xếp các tổ chức, tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt, về

đào tạo và sử dụng cán bộ. Đảng quyết định việc đảng viên giữ các chức vụ quan

trọng trong các trường đại học, các viện nghiên cứu khoa học, các tổ chức của trí

thức, rồi giới thiệu và lãnh đạo để các cơ quan đó tổ chức bầu cử hoặc bổ nhiệm

theo quy trình, thủ tục của Nhà nước, theo Điều lệ và cách thức của các đoàn thể.

Năm là, đã có những đổi mới công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đối với

các tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tập thể khoa học, các tổ chức và

các hội nghề nghiệp của trí thức

Ðảng ta đã khẳng định trong Ðiều lệ Ðảng: “Ðảng Cộng sản Việt Nam là

đảng cầm quyền, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự giám

sát của nhân dân; dựa vào nhân dân để xây dựng Ðảng; đoàn kết và lãnh đạo nhân

dân tiến hành sự nghiệp cách mạng”.

Nhận thức đầy đủ, đúng đắn mối liên hệ mật thiết giữa Ðảng với trí thức, khi

trí thức cùng với nhân dân thực hiện tốt được vai trò giám sát, tham gia góp ý xây

Page 94: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

90

dựng Ðảng thì khi đó tạo nên mối quan hệ gần gũi, gắn bó giữa trí thức và nhân dân

với cán bộ, đảng viên. Đảng chỉ đạo công tác kiểm tra, giám sát các tổ chức đảng và

đảng viên hoạt động trong các tập thể khoa học, các tổ chức và các hội nghề nghiệp

của trí thức trong việc triển khai thực hiện, sơ kết, tổng kết các chủ trương, nghị

quyết, chính sách về trí thức và vận động trí thức. Đảng chỉ đạo công tác kiểm tra,

giám sát các tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tập thể khoa học, các tổ

chức và các hội nghề nghiệp của trí thức trong việc chấp hành Điều lệ Đảng, Điều lệ

của tổ chức, thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, kiên quyết đấu tranh và xử lý

những cán bộ, đảng viên hoặc tổ chức đảng, cơ quan có hành vi cản trở hay đối phó

với sự giám sát, phản ánh của trí thức đối với những sai phạm, tham nhũng.

Sáu là, đã có những đổi mới trong đề cao vai trò tiền phong, gương mẫu và

trách nhiệm của cán bộ, đảng viên là trí thức hoạt động trong các tập thể lao động

khoa học; đổi mới phong cách, tác phong công tác của cán bộ, đảng viên là trí thức.

Trong vận động trí thức đặc biệt trong công tác giáo dục chính trị tư tưởng

Đảng yêu cầu tất cả cán bộ, đảng viên là trí thức hoạt động trong các tập thể lao động

khoa học, nhất là những người đứng đầu cần nêu cao tinh thần trách nhiệm, chống

mọi biểu hiện tiêu cực, chủ nghĩa cá nhân, gương mẫu đi đầu trong công tác và cuộc

sống, nghiêm túc chấp hành và thực hiện tốt các nghị quyết, chỉ thị, quy định của

Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước; ra sức phấn đấu, rèn luyện bản lĩnh chính

trị vững vàng, đổi mới phong cách, tác phong công tác, trau dồi đạo đức lối sống

trong sạch theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn

đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, gắn với việc thực hiện Chỉ thị số 03-

CT/TW của Bộ Chính trị về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương

đạo đức Hồ Chí Minh”, xây dựng tổ chức đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh.

Bảy là, đã có những đổi mới công tác Mặt trận và các đoàn thể theo hướng

phát huy vai trò của trí thức tham gia giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ

quốc đối với hoạt động của bộ máy Nhà nước; đoàn kết tập hợp trí thức công hiến

cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Trong công tác vận động trí thức, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị -

xã hội giữ vai trò rất quan trọng. Trong quá trình đổi mới, Đảng rất coi trọng việc

Page 95: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

91

tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với

Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong đoàn kết tập hợp phát huy vai

trò đội ngũ trí thức. Đảng tôn trọng tính tự chủ, ủng hộ mọi hoạt động tự nguyện, tích

cực, sáng tạo và chân thành lắng nghe ý kiến đóng góp của Mặt trận và các đoàn thể;

Đảng, Nhà nước có cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để Mặt trận và các đoàn thể

chính trị - xã hội vận động trí thức có hiệu quả. Đảng lãnh đạo Quốc hội thể chế hóa

vai trò, chức năng, thẩm quyền và trách nhiệm của các tổ chức chính trị - xã hội thành

các đạo luật: Luật Mặt trận Tổ quốc, Luật Công đoàn, Luật Đoàn Thanh niên Cộng

sản Hồ Chí Minh; Luật Hội Nông dân, Luật Hội Liên hiệp phụ nữ và Pháp lệnh Hội

Cựu chiến binh. Đảng lãnh đạo Chính phủ và chính quyền các cấp thể chế hóa chủ

trương nghị quyết về vận động trí thức thành các chương trình, kế hoạch cụ thể. Đảng

thành lập, kiện toàn Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc và đảng đoàn các đoàn thể chính trị

- xã hội trực thuộc Ban Bí thư. Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của đảng đoàn, quy

định quan hệ lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư đối với Đảng đoàn Mặt

trận và đảng đoàn các đoàn thể; quan hệ công tác giữa Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc

với Đảng đoàn Quốc hội, với Ban Cán sự đảng Chính phủ và Ban Cán sự đảng các

bộ, ngành trung ương và với cấp ủy địa phương; quan hệ giữa Đảng đoàn Mặt trận Tổ

quốc với đảng đoàn các tổ chức thành viên của Mặt trận từ đó tạo sự liên kết phối hợp

chặt chẽ trong việc vận động trí thức.

3.2.1.2. Những khuyết điểm

* Trong đổi mới nội dung lãnh đạo

Một là, việc xây dựng và triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của

Đảng về công tác vận động trí thức; việc lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với Nhà

nước trong quá trình xây dựng chính sách, pháp luật về công tác vận động trí thức

còn chưa kịp thời, kém hiệu quả

Việc xây dựng và triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về

công tác vận động trí thức còn chưa kịp thời, hiệu quả thấp; chưa đánh giá và dự

báo chính xác những diễn biến, thay đổi cơ cấu, tâm tư, nguyện vọng của trí thức...

để có chủ trương, chính sách phù hợp. Còn biểu hiện lúng túng trong đổi mới

phương thức lãnh đạo để chuyển từ nghị quyết, kết luận của Ban Chấp hành Trung

Page 96: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

92

ương Đảng, của Bộ Chính trị thành luật, nghị quyết của Quốc hội. Nhận thức về

mối quan hệ giữa thẩm quyền của Quốc hội với tư cách là cơ quan quyền lực nhà

nước cao nhất trong việc quyết định những chính sách cơ bản về trí thức và vận

động trí thức, về KH&CN, GD&ĐT với quyền quyết định của Đảng với tư cách là

đảng lãnh đạo chính quyền còn nhiều điểm chưa rõ. Việc cụ thể hóa các nghị quyết

của Đảng thành các Luật chưa kịp thời. Chất lượng nhiều dự thảo luật còn thấp,

năng lực làm luật còn nhiều hạn chế, khiến cho một số quy định pháp luật không

mang tính khả thi hoặc thiếu chặt chẽ nên phải điều chỉnh, bổ sung nhiều lần; việc

chuẩn bị một số dự án luật còn kéo dài. Một số luật chưa ra được như Luật về Hội,

sau hơn 2 nhiệm kỳ của Quốc hội vẫn chưa ban hành được. Việc lãnh đạo Quốc hội

thực hiện chức năng giám sát còn lúng túng, hiệu quả chưa cao. Nhất là việc giám

sát thực hiện Luật Khoa học và Công nghệ, Luật Giáo dục.

Về sự lãnh đạo của Đảng đối với Chính phủ, chưa thật làm rõ chức năng,

nhiệm vụ của Ban Cán sự đảng, mối quan hệ giữa Ban Cán sự đảng Chính phủ với

Ban Cán sự đảng của bộ, ngành, quan hệ giữa Ban Cán sự đảng Chính phủ với với

Chính phủ. Từ đó chưa phát huy hết vai trò trách nhiệm của Ban Cán sự Đảng trong

việc thể chế hóa các chủ trương, chính sách thành các quy định của Nhà nước; việc

tổ chức thực hiện không kịp thời, thiếu kiên quyết nên đạt hiệu quả thấp. Ví dụ như

triển khai các đề án thực hiện Nghị quyết số 27- NQ/TW của Ban Chấp hành Trung

ương khóa X về “Xây dựng đội ngũ trí thức thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước”; Nghị quyết số 29-NQ/TW “Về đổi mới căn bản, toàn diện

giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” còn quá chậm,

thậm chí một số đề án không được xây dựng triển khai, hoặc triển khai nửa vời,

hiệu quả thấp.

Hai là, việc đổi mới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng trong xây dựng tổ chức,

bộ máy, cán bộ chuyên trách làm công tác vận động trí thức còn mang nặng tính

quan liêu, hình thức thậm chí hữu khuynh

Chưa xây dựng được đồng bộ những quy định cụ thể về phương thức lãnh

đạo của Đảng trong các tổ chức của trí thức về công tác cán bộ trong các cơ quan

Page 97: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

93

công lập như trường, viện... Chính vì vậy, đôi lúc, đôi nơi còn có những hạn chế,

khuyết điểm trong việc đề bạt, bổ nhiệm. Việt thi tuyển để chọn hiệu trưởng,

viện trưởng mặc dù đã làm nhưng còn ít, chưa phổ biến. Việc phát huy trách

nhiệm cá nhân người đứng đầu cơ quan, tổ chức chưa tốt, có tình trạng dựa dẫm,

ỷ lại tập thể. Thành tích thì nhận về cá nhân, còn khuyết điểm thì đổ cho tập thể.

Đối với việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác cán bộ của Đảng trong các tổ chức chính

trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp còn thể hiện sự buông lỏng, hữu khuynh Việc

thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ vẫn còn những biểu

hiện vừa thiếu dân chủ, vừa thiếu kỷ cương, tập trung quan liêu, dân chủ hình

thức, kỷ luật lỏng lẻo và hầu như không có quy hoạch. Chính vì vậy, một số đại

hội gần đây của Hội Nhà Văn, Hội Nhà Báo, Đoàn Luật sư... công tác nhân sự

còn nảy sinh một số vấn đề.

Ba là, việc đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư tưởng, tuyên

truyền, thuyết phục, cổ vũ, động viên trí thức thực hiện đường lối chủ trương của

Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước còn chậm, tính thuyết phục không cao.

Công tác tư tưởng chưa được chú trọng đúng mức. Nội dung tuyên truyền

chưa phong phú, hình thức tuyên truyền thiếu sức hấp dẫn, chưa đáp ứng được nhu

cầu thông tin của đội ngũ trí thức. Trình độ của đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên

truyền chưa theo kịp, chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác tuyên truyền trong

tình hình mới, đặc biệt là trong điều kiện phát triển của công nghệ thông tin, mạng

xã hội, internet. Năng lực tổng hợp, dự báo, nắm bắt tình hình tư tưởng, phát hiện,

tham mưu giải quyết các vấn đề trong thực tiễn chưa cao. Công tác tuyên truyền đấu

tranh phản bác các quan điểm sai trái, chống âm mưu “diễn biến hòa bình” của các

thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa còn thụ động, thiếu sắc bén. Tuyên

truyền điển hình, nhân tố mới, gương người tốt, việc tốt chưa đủ sức mạnh lôi cuốn,

cổ vũ trí thức thực hiện đường lối chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của

Nhà nước. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức lối sống trong một

bộ phận cán bộ đảng viên và suy thoái đạo đức xã hội chưa được ngăn chặn, chưa

được đẩy lùi làm giảm lòng tin của trí thức; Việc gặp gỡ với một số trí thức có quan

điểm trái ngược với đường lối của Đảng, về Hiến pháp chưa được tổ chức đối thoại

Page 98: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

94

công khai, thiếu sự phân công nghiên cứu để phản bác vì vậy tạo ra những ảnh

hưởng không tốt trong Đảng, trong nhân dân.

Bốn là, việc đổi mới sự lãnh đạo của Đảng trong công tác đào tạo, bồi

dưỡng, chăm lo xây dựng và bảo vệ đội ngũ trí thức chưa có chuyển biến đáng kể

Cùng với những khuyết điểm, hạn chế của ngành giáo dục và đào tạo,

công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí thức thiếu một chiến lược và quy hoạch

cơ bản và dài hơi. Cùng với hạn chế về chiến lược chung trong xây dựng, phát

triển đội ngũ trí thức là những hạn chế về các chính sách cụ thể trong từng lĩnh

vực như: chưa có chính sách đồng bộ và hợp lý về phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng

và sử dụng nhân tài, lúng túng và thiếu đồng bộ trong chính sách lựa chọn, cử

cán bộ trẻ, sinh viên ưu tú đi đào tạo ở nước ngoài và sử dụng họ sau khi đào tạo;

các trường đại học trong nước có chất lượng thấp về đào tạo, nghiên cứu khoa

học, chưa đạt chuẩn quốc tế; tỷ lệ sinh viên xuất thân công - nông giảm dần

trong các trường đại học và cao đẳng v.v…

Vì vậy, đội ngũ trí thức tuy có tăng về số lượng song chất lượng chưa cao; số

trí thức sáng tạo, chuyên gia đầu ngành, nhà khoa học có trình độ cao còn ít, đội ngũ

trí thức kế cận hẫng hụt. Hoạt động chuyên môn (nghiên cứu, sáng tác...) của trí

thức chưa gắn kết, phù hợp với cơ chế thị trường và cũng chưa đáp ứng được yêu

cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Cơ chế hành chính

quan liêu và tình trạng trì trệ, hình thức, hiệu quả hoạt động thấp trong các tổ chức

nghiên cứu khoa học, các hội trí thức chậm được khắc phục. Chính sách đãi ngộ đối

với trí thức và những người tài chưa thật rõ ràng, đồng bộ, không hợp lý và không

đủ để đáp ứng các yêu cầu về điều kiện làm việc. Bởi vậy, nhiều người có tài lại

thường vươn lên rất khó khăn, dẫn đến một bộ phận thoái chí, ít hy vọng thay đổi

hoàn cảnh. Một bộ phận trí thức có trình độ chuyên môn cao đã lựa chọn việc phục

vụ các cơ quan nghiên cứu khoa học, công nghệ nước ngoài để phát huy tối đa năng

lực công tác. Việc đầu tư kinh phí cho nghiên cứu khoa học vừa ít, vừa chia sẻ

manh mún, phương thức quản lý lạc hậu, bất cập, quá câu nệ vào những thủ tục rối

rắm, không chú ý khuyến khích hiệu quả. Những chính sách và cơ chế quản lý hoạt

động khoa học, kỹ thuật và công nghệ cũng đã lạc hậu, chậm đổi mới …

Page 99: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

95

Năm là, việc đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và các lực

lượng xã hội trong việc tạo lập môi trường, điều kiện hoạt động khoa học thuận lợi

cho các tập thể trí thức lao động, cống hiến chưa được như mong muốn

Việc tạo lập môi trường hoạt động của trí thức vẫn chưa thật sự dân chủ,

thoải mái trong nghiên cứu và sáng tạo. Thiếu chính sách và cơ chế tạo điều kiện

thuận lợi cho trí thức chuyên tâm cống hiến, phát triển và được xã hội tôn vinh

bằng chính những kết quả hoạt động chuyên môn, nghề nghiệp. Sự động viên

khuyến khích đối với những trí thức có thành tích cao trong hoạt động sáng tạo

chưa được chú trọng đúng mức, còn nặng về hình thức. Chính sách của Đảng và

Nhà nước đối với việc đề bạt, cất nhắc trí thức thành cán bộ lãnh đạo, quản lý

còn hẹp hòi, làm cho nhiều trí thức có năng lực quản lý mà chưa được xếp đặt

vào cương vị phù hợp.

Quan tâm về bảo đảm vật chất, chế độ đãi ngộ trí thức chưa thỏa đáng. Họ

làm việc quá nhiều mà lương lại thấp, ảnh hưởng rất nhiều đến việc nghiên cứu và

giảng dạy. Điều kiện và phương tiện làm việc của trí thức Việt Nam hiện nay còn

rất kém so với các nước trong khu vực tới 7 - 8 lần và còn kém so với các nước phát

triển tới 10 - 15 lần. Việc bảo hộ bản quyền, sở hữu trí tuệ còn hạn chế.

* Trong đổi mới phương thức lãnh đạo

Một là, việc đổi mới sự lãnh đạo bằng công tác tư tưởng chưa thực sự mang

lại hiệu quả mong muốn.

Sự lãnh đạo bằng công tác tư tưởng của Đảng đối với đội ngũ trí thức chậm

được đổi mới, hình thức còn xơ cứng, thiếu những cuộc đối thoại trực tiếp, nhất là

đối với những trí thức bất đồng quan điểm, chính kiến. Về công tác lý luận chưa đi

sâu, đi sát cuộc sống, chưa khắc phục tình trạng lạc hậu, chưa đáp ứng những đòi

hỏi của thực tiễn đổi mới, chưa phục vụ tốt việc cụ thể hóa và phát triển đường lối,

hoạch định các chính sách. Việc đổi mới nội dung giảng dạy của nhiều bộ môn khoa

học xã hội còn chậm,việc triển khai cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng - lý luận

còn nhiều hạn chế. Đội ngũ cán bộ lý luận chưa đồng bộ và nói chung trình độ chưa

ngang tầm đòi hỏi của sự nghiệp cách mạng, chưa thu hút được nhiều trí thức tham

gia trên lĩnh vực này.

Page 100: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

96

Công tác tuyên truyền chủ yếu tập trung vào những vấn đề thời sự, chưa thực

sự chú trọng những vấn đề cơ bản, chiến lược, chưa lý giải thấu đáo một số tâm

trạng xã hội cũng như những khuynh hướng tư tưởng mới nảy sinh. Việc đấu tranh,

phản bác thông tin, quan điểm sai trái, thù địch còn thụ động, chưa đủ sức thuyết

phục, chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp của hệ thống công tác tư tưởng, lý

luận nghiên cứu khoa học. Chất lượng nội dung tuyên truyền miệng chưa đáp ứng

nhu cầu và trình độ ngày cao của trí thức; chủ yếu tuyên truyền một chiều từ trên

xuống, thiếu chủ động lắng nghe, đối thoại; tính định hướng, thuyết phục chưa cao,

còn có những biểu hiện né tránh những vấn đề bức xúc mà dư luận và trí thức quan

tâm. Hoạt động tuyên truyền chưa có sự kết hợp tốt với hoạt động trao đổi, đối thoại

nhằm tạo nên sự đồng thuận, hấp dẫn với trí thức.

Hai là, phương thức lãnh đạo bằng công tác tổ chức - cán bộ còn bộc lộ

nhiều khuyết điểm, hạn chế

Việc đổi mới công tác tổ chức và cán bộ của Đảng trong các cơ quan quản lý

Nhà nước về công tác vận động trí thức, trong các tập thể lao động khoa học, trong

các đơn vị sự nghiệp khoa học công lập còn mang tính hình thức, chưa chọn được

cán bộ thực sự tiêu biểu, có năng lực, trình độ. Việc chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng đội

ngũ cán bộ làm công tác vận động trí thức chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong

tình hình mới hiện nay. Việc đề cao vai trò tiền phong, gương mẫu và trách nhiệm

của cán bộ, đảng viên là trí thức hoạt động trong các tập thể lao động khoa học; đổi

mới phong cách, tác phong công tác của cán bộ, đảng viên là trí thức chưa thực sự

có tác dụng lan tỏa, ảnh hưởng sâu rộng trong tập thể trí thức. Một bộ phận không

nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cán bộ lãnh đạo, quản lý còn thiếu gương mẫu,

suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham ô, tham nhũng, xa dân, vô

cảm, gây bức xúc mất lòng tin của trí thức.

Tổ chức bộ máy các cơ quan của trí thức có sự chồng chéo, trùng lặp về chức

năng, nhiệm vụ; chưa bảo đảm tính đồng bộ về tổ chức giữa các tổ chức trong từng

lĩnh vực hoạt động. Các tổ chức Đảng chưa thật sự chăm lo công tác xây dựng tổ

chức và đội ngũ cán bộ trong các tổ chức của trí thức. Tình trạng cán bộ cán bộ yếu

Page 101: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

97

kém được điều chuyển sang làm công tác vận động trí thức còn khá nhiều. Tình

trạng tham quyền cố vị, thậm chí làm lãnh đạo chủ chốt 3-4 nhiệm kỳ trong các hội

của trí thức không còn là cá biệt.

Ba là, việc đổi mới sự lãnh đạo bằng công tác kiểm tra, giám sát của Đảng

đối với các tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tập thể khoa học, các tổ

chức và các hội nghề nghiệp của trí thức mới chỉ dừng ở quan điểm, chủ trương

Nhiều cấp ủy, tổ chức đảng chưa làm tốt công tác kiểm tra, giám sát, chất

lượng và hiệu quả kiểm tra, giám sát chưa cao; chưa coi trọng việc kiểm tra, giám

sát thực hiện đường lối, chủ trương, chỉ thị, nghị quyết liên quan đến trí thức. Mặc

dù các chỉ thị nghị quyết của Đảng về vận động trí thức, đặc biệt là Nghị quyết số

27- NQ/TW (Khóa X) được xây dựng hết sức công phu, thể hiện khá đầy đủ tư

tưởng chỉ đạo của Đảng. Tuy nhiên việc triển khai ở một số nơi còn hình thức, chưa

đạt yêu cầu, chưa có sự phê bình, nhắc nhở đôn đốc kịp thời nên kết quả đạt được

còn hạn chế. Ví dụ như sau năm năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 27-

NQ/TW, trong số 7 đề án chỉ mới thực hiện được 3 đề án. Việc biểu dương các đơn

vị làm tốt, phê bình nhắc nhở các đơn vị yếu kém chưa kịp thời, quyết liệt nên các

chỉ thị, nghị quyết chậm đi vào cuộc sống.

Bốn là, việc đổi mới sự lãnh đạo bằng hình thức nêu gương của đảng viên,

gương người tốt việc tốt chưa đạt yêu cầu.

Việc vận động trí thức thông qua đề cao vai trò tiền phong, gương mẫu và

trách nhiệm của cán bộ, đảng viên là trí thức hoạt động trong các tập thể lao động

khoa học; đổi mới phong cách, tác phong công tác của cán bộ, đảng viên là trí thức

chưa thực sự có tác dụng lan toả, ảnh hưởng sâu rộng trong tập thể trí thức. Một số

trí thức là lãnh đạo cũng sa vào những tiêu cực, bị tác động của mặt trái kinh kinh tế

thị trường, thoái hóa biến chất suy thoái đạo đức, gian trá trong nghiên cứu khoa

học, trong mua bán bằng cấp, chức tước… Điều này không những họ làm xấu hình

ảnh của họ mà còn nêu gương xấu cho trí thức trẻ, không đủ sức đoàn kết tập hợp trí

thức, làm hại đến uy tín của Đảng và Nhà nước.

Page 102: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

98

3.2.2. Nguyên nhân và một số kinh nghiệm

3.2.2.1. Nguyên nhân

* Nguyên nhân của ưu điểm

Một là, Đảng nhận thức rõ và đánh giá cao vai trò của trí thức và sự cần

thiết phải đổi mới để tăng cường công tác vận động trí thức.

Đường lối đổi mới của Đảng tạo tiền đề cho đổi mới công tác vận động trí

thức. Nghị quyết số 27-NQ/TW, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương

khóa X về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện

đại hóa đất nước khẳng định: “Trong mọi thời đại, tri thức luôn là nền tảng tiến bộ

xã hội, đội ngũ trí thức là lực lượng nòng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức. Ngày

nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa học và công nghệ hiện

đại, đội ngũ trí thức trở thành nguồn lực đặc biệt quan trọng, tạo nên sức mạnh của

mỗi quốc gia trong chiến lược phát triển.” Đảng xác định công tác vận động trí thức

là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ hệ thống công tác vận động nhân dân (dân

vận) của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị nước ta. Trong đó, điều quan

trọng hàng đầu có tính nguyên tắc chính trị là vai trò lãnh đạo của Đảng ta, vai trò

quản lý của Nhà nước ta nhằm định hướng, tạo điều kiện để các đoàn thể chính trị -

xã hội của nhân dân hoạt động rộng rãi và có hiệu quả tốt trong việc đào tạo, phát

triển và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức nước ta trong sự nghiệp bảo vệ Tổ

quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vận động trí thức là một trong những công tác

cực kỳ quan trọng trong suốt quá trình cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng ta và

Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo.

Từ việc đổi mới nhận thức, đổi mới tư duy, Đảng đã đổi mới nội dung và phương

thức lãnh đạo công tác vận động trí thức trong Đảng và cả hệ thống chính trị, huy động

được sức mạnh của toàn Đảng toàn quân, toàn dân tham gia vận động trí thức.

Hai là, thành tựu đạt được của công cuộc đổi mới, sự phát triển kinh tế xã

hội của đất nước đã góp phần mang lại những kết quả trong quá trình đổi mới sự

lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức.

Những thành tựu đạt được trong thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay do Đảng ta

khởi xướng và lãnh đạo không chỉ làm cho chúng ta vững tin đi tiếp chặng đường

Page 103: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

99

đã lựa chọn, mà còn khẳng định sự phát triển mới của Đảng ta trong việc khơi dậy

và phát huy tiềm năng, sức sáng tạo to lớn của đội ngũ trí thức đối với sự nghiệp

cách mạng của Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước. Với một hệ thống văn bản pháp luật ngày càng hoàn thiện, đặc biệt là các văn

bản liên quan đến công tác vận động trí thức như Luật Giáo dục, Luật Khoa học và

Công nghệ…đã tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho công tác vận động trí thức. Việc

xây dựng và hoàn thiện thể chế nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

còn là phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường, trong đó có thị

trường khoa học và công nghệ, thị trường chất xám…. tác động trực tiếp đến người

trí thức. Như Đại hội XI nêu rõ: “Phát triển mạnh kinh tế thị trường, KH&CN gắn

với việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; có hình thức thông tin giới thiệu các hoạt động

và sản phẩm khoa học, công nghệ; hoàn thiện các định chế và mua bán các sản

phẩm khoa học, công nghệ trên thị trường” và “Đẩy mạnh phát triển thị trường lao

động. Tiền lương, tiền công phải được gọi là giá cả sức lao động, được hình thành

theo cơ chế thị trường” [51, tr.213]. Như vậy, hoàn thiện thể chế nền kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đem lại môi trường thuận lợi, bình đẳng, và

tạo nên động lực kinh tế mạnh mẽ cho trí thức nước ta trong lao động sáng tạo khoa

học. Công cuộc đổi mới ở nước ta từng bước đạt những thành tựu to lớn, đất nước

có sự thay đổi ngày một cơ bản và toàn diện; kinh tế - xã hội phát triển, nhất là

trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng để có được

một đội ngũ trí thức với số lượng và chất lượng đáp ứng được yêu cầu của sự

nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, mới có điều kiện chăm lo đời sống

vật chất tinh thần cho đội ngũ trí thức.

Ba là, năng lực trình độ của đội ngũ trí thức và cán bộ làm công tác vận

động trí thức có sự phát triển mới, tạo tiền đề cho công tác vận động trí thức.

Nhìn chung, trình độ học vấn và trí tuệ của các cán bộ chủ chốt ở các cấp chí

ít cũng bằng hoặc trội hơn, nhất là về lý luận chính trị, các khoa học lãnh đạo, quản

lý so với trình độ chung của bộ phận trí thức mà họ được trực tiếp phân công đảm

nhiệm trong công tác vận động trí thức. Vì vậy, họ vừa có nhận thức, vừa có kinh

nghiệm thực tiễn trong công tác vận động trí thức Ngoài ra, đội ngũ cán bộ làm

Page 104: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

100

công tác vận động trí thức còn được học tập, tích lũy các nghệ thuật tổng hợp trong

công tác vận động trí thức, ví dụ: nghệ thuật giao tiếp; nghệ thuật ứng xử; nghệ

thuật tuyên truyền, thuyết phục; nghệ thuật “phản biện” hay đấu tranh; nghệ thuật

biểu dương, khen thưởng về tinh thần và vật chất… Rất nhiều trí thức coi trọng

động lực tinh thần, dù không coi thường các động lực vật chất. Vì vậy, cán bộ làm

công tác vận động trí thức phải đạt yêu cầu: được đa số trí thức mà mình tiếp xúc

“khẩu phục, tâm phục”, thì công tác này mới có kết quả tốt.

Bốn là, xu thế hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa cùng với sự phát triển mạnh

mẽ của khoa học và công nghệ thế giới đem lại nhiều cơ hội, điều kiện thuận lợi cho

trí thức trong hội nhập và phát triển.

Với đường lối đối ngoại ngày càng đổi mới sẽ mở ra môi trường quốc tế rộng

lớn cho sự phát triển của trí thức Việt Nam. Bước vào công cuộc đổi mới đất nước,

Đảng ta đã chú ý đến mở rộng quan hệ đối ngoại nhưng trước hết là hội nhập kinh

tế quốc tế. Đường lối đối ngoại chủ động và tích cực hội nhập quốc tế đã tạo điều

kiện đa dạng hóa các nguồn lực và địa chỉ đào tạo trí thức nước ta từ các quốc gia

khác nhau. Hợp tác quốc tế về khoa học được mở rộng tạo khả năng để trí thức

nước ta giao lưu, trao đổi thông tin, tiếp cận những tri thức mới. Trí thức người Việt

Nam định cư ở nước ngoài có cơ hội nhiều hơn hướng về

Năm là, hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc mà nòng cốt là

liên minh Công nhân - Nông dân và Trí thức được củng cố và tăng cường cũng là

một điều kiện thuận lợi để huy động sức mạnh tổng hợp thực hiện công tác vận

động trí thức.

Trong công cuộc đổi mới, hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân được

củng cố, công tác vận động trí thức đã được cả hệ thống chính trị và toàn xã hội quan

tâm. Đảng lãnh đạo Nhà nước cụ thể hóa, thể chế hóa nghị quyết, chủ trương của Đảng

thành chính sách, pháp luật, chương trình đối với trí thức và công tác vận động trí thức.

Trong công tác vận động trí thức, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là liên minh chính trị

rộng rãi nhất, có điều kiện thực thi thường xuyên việc tập hợp, tuyên truyền, giáo dục,

mở rộng ý kiến để đội ngũ trí thức thể hiện vai trò và năng lực của mình. Trí thức Việt

Nam tham gia nhiều tổ chức xã hội thuộc thành viên Mặt trận Tổ quốc Việt Nam như

Page 105: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

101

Công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội

Cựu chiến binh, Hội Cựu giáo chức, Hội Khuyến học… Thông qua các tổ chức xã hội

đó, trí thức có điều kiện về tổ chức để đóng góp trí tuệ, sức lực và tâm huyết cho sự

nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng ta và dân tộc ta, tích cực thực hiện giám

sát và phản biện xã hội. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể với chức năng, nhiệm vụ của

mình đã quan tâm đến từng đối tượng trí thức cụ thể, từ trí thức trẻ, nữ trí thức, trí thức

trong nước, trí thức nước ngoài… đều có những chính sách, hình thức, biện pháp cụ thể

để đoàn kết tập hợp và phát huy tiềm năng trí tuệ của họ.

* Nguyên nhân của khuyết điểm

Một là, nhận thức, trách nhiệm của một số cấp ủy đảng về trí thức và

công tác vận động trí thức vẫn còn nhiều hạn chế, khuyết điểm.

Một số cấp ủy đảng, chính quyền chưa thấy hết vai trò, vị trí của trí thức

trong sự phát triển đất nước, phát triển khoa học, công nghệ, giáo dục và văn hóa,

trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; chưa nhận thức một cách sâu sắc

rằng, nếu không xây dựng được đội ngũ trí thức vững vàng về tư tưởng, gắn bó với

giai cấp công nhân và nông dân, có tài năng, có trình độ khoa học, công nghệ và văn

hóa cao thì dân tộc sẽ tụt hậu về mặt trí tuệ, không thể tiến hành thắng lợi sự nghiệp

công nghiệp hóa, hiện đại hóa, không thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Do

quan điểm chưa rõ ràng nên nhiều chủ trương trong các nghị quyết của Đảng chậm

được thể chế hóa về mặt Nhà nước để đưa vào cuộc sống nhằm đào tạo, bồi dưỡng

và sử dụng tốt đội ngũ trí thức. Một số cán bộ đảng và chính quyền chưa nhận thức

đúng về vai trò, vị trí của trí thức; đánh giá, sử dụng trí thức không đúng năng lực

và trình độ, ngay cả với những trí thức đầu ngành, dẫn đến tâm tư nặng nề trong đội

ngũ trí thức. Nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng về công tác vận động trí

thức chậm được đổi mới, chưa theo kịp sự phát triển nhanh chóng của thực tiễn.

Phương pháp vận động, tập hợp trí thức chưa phù hợp với từng đối tượng trí thức,

văn nghệ sĩ, trí thức trẻ, trí thức Việt kiều.

Hai là, việc thể chế hóa các chủ trương đường lối của Đảng về vận động trí

thức của Nhà nước còn chậm, chưa đầy đủ, có nơi, có lúc thực hiện thiếu nghiêm túc.

Đường lối, nghị quyết của Đảng chưa được triển khai, cụ thể hóa và thực hiện

tốt. Chúng ta còn thiếu một chiến lược và quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí

Page 106: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

102

thức cơ bản và dài hơi. Chiến lược đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí thức phải được coi

là một bộ phận cấu thành quan trọng của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, gắn bó

hữu cơ và trở thành điều kiện của chiến lược cán bộ. Chiến lược ấy phải bao gồm đầy

đủ các phương diện từ đầu tư phát triển hệ thống giáo dục; đào tạo, bồi dưỡng đại học

và sau đại học ngang tầm với khu vực, thế giới; phát hiện, bồi dưỡng, thu hút và sử

dụng nhân tài; hệ thống nhất quán các chính sách về lựa chọn, bồi dưỡng, sử dụng đội

ngũ trí thức; phát triển khoa học, kỹ thuật và công nghệ gắn với thu hút và phát huy

tiềm năng đội ngũ trí thức; chính sách đãi ngộ đối với trí thức, v.v.. Cùng với hạn chế

về chiến lược chung trong xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức là những hạn chế về

các chính sách cụ thể trong từng lĩnh vực như: chưa có chính sách đồng bộ và hợp

lý về phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nhân tài, lúng túng và thiếu đồng bộ

trong chính sách lựa chọn, cử cán bộ trẻ, sinh viên ưu tú đi đào tạo ở nước ngoài và

sử dụng họ sau khi đào tạo; các trường đại học trong nước có chất lượng thấp về

đào tạo, nghiên cứu khoa học, chưa đạt chuẩn quốc tế; tỷ lệ sinh viên xuất thân công

- nông giảm dần trong các trường đại học và cao đẳng v.v.. Chính sách đãi ngộ đối

với trí thức và những người tài chưa thật rõ ràng, đồng bộ, không hợp lý và không

đủ để đáp ứng các yêu cầu về điều kiện làm việc. Bởi vậy, nhiều người có tài lại

thường vươn lên rất khó khăn, dẫn đến một bộ phận thoái chí, ít hy vọng thay đổi

hoàn cảnh. Một bộ phận trí thức có trình độ chuyên môn cao đã lựa chọn việc phục

vụ các cơ quan nghiên cứu khoa học, công nghệ nước ngoài để phát huy tối đa năng

lực công tác. Việc đầu tư kinh phí cho nghiên cứu khoa học vừa ít, vừa chia sẻ manh

mún, phương thức quản lý lạc hậu, bất cập, quá câu nệ vào những thủ tục rối rắm,

không chú ý khuyến khích hiệu quả. Những chính sách và cơ chế quản lý hoạt động

khoa học, kỹ thuật và công nghệ cũng đã lạc hậu, chậm đổi mới v.v.. Những hạn chế

về chính sách đãi ngộ, sử dụng trí thức dẫn đến: nhiều sinh viên được đào tạo ở nước

ngoài sau khi tốt nghiệp không về nước làm việc, sinh viên tốt nghiệp các trường đại

học trong nước không muốn trở về phục vụ tại quê hương. Một số người có trình độ

chuyên môn cao, có khả năng sử dụng ngoại ngữ đã bỏ việc tại các cơ quan nhà nước

để đi tìm việc làm tại các cơ sở nước ngoài hoặc tư nhân, có thu nhập cao và phương

thức quản lý hiện đại. Nhiều trí thức làm việc trái ngành nghề đào tạo. Nhiều hoạt

Page 107: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

103

động của các viện nghiên cứu xa rời thực tế, ít gắn bó với yêu cầu cụ thể của kinh tế,

xã hội và các yêu cầu thực chất của đời sống... Một số chính sách quản lý hoạt động

nghiên cứu khoa học quá lạc hậu, chậm được sửa đổi, ban hành.

Ba là, chưa tạo được không khí dân chủ, môi trường thuận lợi cho hoạt động

của trí thức.

Môi trường dân chủ và đồng thuận xã hội là động lực cho phát triển đất

nước. Người trí thức với đặc thù lao động trí óc lại càng cần đến tự do tư tưởng để

sáng tạo, cần đến bầu không khí đồng tình, đồng chí để nâng cao cảm xúc sáng tạo

đưa lại những tác phẩm, công trình có chất lượng cao. Đại hội XI yêu cầu: “Thực

hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu,

sáng tạo của trí thức vì sự phát triển đất nước” [51, tr.134]. Tuy nhiên, vẫn còn hiện

tượng ngại tiếp xúc, đối thoại, không thực sự lắng nghe, thậm chí quy chụp, nhất là

khi trí thức phản biện những chủ trương, chính sách, những đề án, dự án do các cơ

quan lãnh đạo và quản lý đưa ra. Tất nhiên, dân chủ luôn gắn liền với kỷ luật, kỷ

cương. Trí thức được tự do tư tưởng, nhưng trên cơ sở tuân thủ pháp luật, tôn trọng

những quy định chung của đơn vị, cộng đồng xã hội. Trí thức đoàn kết với các tầng

lớp nhân dân, đồng nghiệp, đối tác... trên tinh thần hợp tác lành mạnh, liên kết chính

đáng, thẳng thắn phê và tự phê bình, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Chủ trương xây

dựng quy chế dân chủ trong nghiên cứu khoa học, khuyến khích sáng tạo, “bảo

hiểm” cho những nghiên cứu về khoa học xã hội chậm được thực hiện. Chưa thực

sự xóa bỏ ám ảnh về “vùng cấm” trong nghiên cứu những vấn đề về xã hội, chưa

tạo ra diễn đàn thảo luận, tranh luận thẳng thắn, cởi mở, thực sự dân chủ.

Bốn là, vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên còn hạn chế

chưa thực sự là tấm gương để trí thức học tập và noi theo.

Trí thức là những người nhạy cảm, và có sự suy tư, trăn trở trước các hiện

tượng tiêu cực của xã hội, nhất là đối với những người lãnh đạo. Trí thức mong muốn

đội ngũ cán bộ lãnh đạo của Đảng, Nhà nước - bộ phận trí thức chủ chốt trong Đảng,

Nhà nước ta phải là những người đáp ứng được yêu cầu về trình độ trí tuệ mọi mặt

lẫn về bản lĩnh chính trị, nhân cách, đạo đức cách mạng và tác phong…xứng đáng là

những tấm gương để đội ngũ trí thức Việt Nam noi theo. Bộ phận trí thức trong Đảng

ta mà không đủ uy tín mọi mặt, tạo niềm tin yêu và tấm gương cho đại đa số trí thức

Page 108: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

104

nước ta, thì vai trò lãnh đạo của Đảng đối với trí thức sẽ bị giảm sút trực tiếp nhất,

hiệu quả sẽ kém. Tuy nhiên hiện nay, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên,

trong đó có cán bộ lãnh đạo, quản lý còn thiếu gương mẫu, suy thoái về tư tưởng

chính trị, đạo đức, lối sống, tham ô, tham nhũng, không những không làm gương cho

trí thức mà ngược lại còn làm suy giảm lòng tin của trí thức đối với Đảng.

Năm là, về khách quan, nền kinh tế nước ta vẫn trong tình trạng lạc hậu,

trình độ khoa học và công nghệ còn thấp; giáo dục và đào tạo còn nhiều hạn chế,

yếu kém tác động tiêu cực đến công tác vận động trí thức

Đảng đã xác định, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách

hàng đầu. Tuy nhiên, đối với khoa học và công nghệ, sự đầu tư chưa thảo đáng, việc

áp dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất và đời sống chưa cao; thị trường khoa

học và công nghệ, văn hóa và văn nghệ đang trong quá trình hình thành, chưa có đầy

đủ điều kiện để phát huy hết năng lực sáng tạo của trí thức. Đối với giáo dục, đào tạo,

lĩnh vực có ý nghĩa quyết định trong việc nâng cao dân trí cho toàn dân, tạo điều kiện

đầu tiên và quyết định cho việc hình thành đội ngũ trí thức, nơi thu hút một bộ phận

lớn trí thức có trình độ cao làm việc. Tuy nhiên, hiện nay nền giáo dục của chúng ta

đang có nhiều vấn đề, chưa đáp ứng yêu cầu của đất nước và kỳ vọng của nhân dân. ở

khu vực giáo dục phổ thông, chương trình nặng nề, chưa chú ý quan tâm đầy đủ đến

các nội dung bồi dưỡng, giáo dục về đạo đức, lối sống, ý thức công dân, tình cảm đối

với quê hương đất nước. Phương pháp đào tạo trong giáo dục phổ thông chậm đổi

mới, chủ yếu là phương thức truyền thụ một chiều từ giáo viên, làm cho học sinh thụ

động, ỷ lại, thiếu tính sáng tạo. Đối với hệ đào tạo đại học, tình trạng cũng không khả

quan hơn. Khung chương trình còn xơ cứng, không phát huy được trình độ và khả

năng đặc thù của từng trường. Không ít môn học trùng lặp nhiều về tri thức ở cấp phổ

thông. Các môn học lý luận Mác - Lênin chậm đổi mới về nội dung, phương pháp

giảng dạy nên không tạo được sự quan tâm, hứng thú của người học. Hoạt động

nghiên cứu khoa học nghèo nàn, chưa thực sự xuất phát từ yêu cầu thực tế. Phương

pháp quản lý mang nặng tính bao cấp, quan liêu, không phát huy được sự tự chủ,

trách nhiệm và sự sáng tạo của từng nhà trường, từng người thầy, chưa quan tâm

thích đáng đến việc kiểm tra, đánh giá chất lượng đầu ra. Chính sách đãi ngộ đối với

Page 109: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

105

giáo dục, nhất là với giáo viên không nhất quán, chưa đủ mức cần thiết để động viên,

khuyến khích đội ngũ giáo viên nâng cao năng lực, đổi mới phương pháp giảng dạy, v.v..

3.2.2.2. Một số kinh nghiệm

Qua quá trình đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí

thức từ Đại hội VI đến nay chúng ta có thể rút ra một số kinh nghiệm sau đây:

Một là, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức

phải dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về trí

thức và vận động trí thức.

Để làm tốt công tác đoàn kết, tập hợp, xây dựng và phát huy vai trò của đội

ngũ trí thức trong tiến trình đổi mới, CNH, HĐH đất nước, việc nghiên cứu quan

điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để đổi mới công tác vận

động trí thức là rất cần thiết. Phải quán triệt quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen

để có nhìn nhận đúng đắn về người trí thức và đội ngũ trí thức, nếu người trí thức

không được giác ngộ sẽ là trở ngại đối với vận động cách mạng. Phải quán triệt

quan điểm của V.I.Lênin trong vấn đề liên minh công- nông trí thức cách mạng. Sự

liên kết này có ý nghĩa cả về kinh tế chính trị, văn hóa. Từ những quan điểm của

V.I.Lênin về tri thức chúng ta có thể rút ra được những bài học cho việc đổi mới sự

lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức. Đặc biệt đổi mới sự lãnh đạo

của Đảng đối với công tác vận động trí thức cần phải tiếp tục học tập, vận dụng tư

tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò, vị trí của sức mạnh trí thức đối với sự

nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, về việc phát hiện, tập hợp bồi dưỡng trí

thức, đào tạo, phát hiện cảm hóa đưa họ vào hàng ngũ cách mạng. Trong đổi mới sự

lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động vận động trí thức phải biết tin tưởng,

tôn trọng và dùng trí thức đúng việc. Qua đó tạo niềm tin cho người trí thức vào sự

nghiệp cách mạng của đất nước và tương lai của mình, khơi dậy ý thức làm chủ,

trách nhiệm công dân của người trí thức trong xã hội.

Hai là, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức cần phải

gắn chặt với công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh.

Công tác vận động trí thức là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ hệ thống

công tác dân vận của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị nước ta. Trong đó,

Page 110: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

106

điều quan trọng hàng đầu có tính nguyên tắc chính trị là vai trò lãnh đạo của Đảng

ta, vai trò quản lý của Nhà nước ta nhằm định hướng, tạo điều kiện để các đoàn thể

chính trị - xã hội của nhân dân hoạt động rộng rãi và có hiệu quả tốt trong việc đào

tạo, phát triển và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức nước ta trong sự nghiệp bảo

vệ Tổ quốc và xây dựng CNXH.

Do đó đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức cần

phải gắn chặt với công tác xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Đây

vừa là yêu cầu bức thiết của thực tiễn tiến trình xây dựng và bảo vệ chế độ, bảo vệ

đất nước, đồng thời là đòi hỏi cấp bách đặt ra trong quá trình phát triển và hội nhập.

Muốn đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức phải xây

dựng Đảng vững mạnh về chính trị; tiếp tục đổi mới công tác tư tưởng, lý luận, đưa

ra những quan điểm, tư duy đổi mới đủ sức thuyết phục đối với trí thức; tiếp tục đổi

mới công tác tổ chức và công tác cán bộ, nâng cao chất lượng đảng viên để cán bộ

đảng viên thực sự là tấm gương sáng để trí thức học tập, noi theo; đổi mới và nâng

cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng; đổi mới, nâng cao

hiệu quả công tác vận động trí thức, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với trí thức;

đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; đổi mới phương thức lãnh

đạo, phương thức cầm quyền của Đảng.

Bên cạnh xây dựng Đảng, phải chú trọng xây dựng Nhà nước trong sạch,

vững mạnh. Mọi chủ trương nghị quyết của Đảng về vận động trí thức sẽ không

được phát huy nếu Nhà nước không thể chế hóa bằng những các văn bản pháp luật,

các chiến lược, chương trình, đề án cụ thể về khoa học và công nghệ, về giáo dục và

đạo tạo, về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức. Một nhà nước yếu

kém, tham nhũng sẽ không thể đoàn kết, tập hợp, phát huy vai trò đội ngũ trí thức.

Ba là, trong đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí

thức cần chú trọng những đặc điểm của đội ngũ trí thức - tầng lớp xã hội đặc biệt;

mọi chủ trương, chính sách phải xuất phát từ lợi ích của trí thức.

Đội ngũ trí là tầng lớp xã hội có học vấn cao, trình độ chuyên môn sâu,

chuyên lao động trí óc có tính sáng tạo. Từ phương thức lao động và vai trò của

Page 111: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

107

trí thức, sự lãnh đạo của Đảng đối với trí thức không thể áp dụng như đối với

các giai cấp và tầng lớp xã hội khác. Trong đội ngũ trí thức cũng có những bộ

phận trí thức cụ thể khác nhau, mỗi bộ phận trí thức cụ thể đó đều có những

“cái chung” của cả tầng lớp trí thức lẫn “cái riêng”. Do đó, muốn lãnh đạo trí

thức có hiệu quả thì không phải chỉ cần quan điểm, đường lối, chủ trương đúng

mà còn phải có cách thức lãnh đạo thích hợp, khéo léo, phải cụ thể hóa thành

các nội dung, phương pháp, hình thức phù hợp với đối tượng mới có kết quả.

Bỏ qua những đặc thù của đội ngũ trí thức, áp đặt những phương cách lãnh đạo

chung chung thì kết quả lãnh đạo sẽ bị hạn chế, thậm chí còn gây phản ứng tiêu

cực từ đối tượng lãnh đạo.

Thúc đẩy hơn nữa phát huy dân chủ bảo đảm lợi ích, quyền lợi của người

dân thông qua lắng nghe, thu thập các ý kiến, nguyện vọng chính đáng của

nhân dân, tạo điều kiện cho người dân được cống hiến và hưởng thụ một cách

công bằng. Cấp ủy các cấp cần quán triệt hơn trong thực hiện phương châm

“dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” để việc phát huy dân chủ ngày càng

đi vào chiều sâu và huy động hiệu quả sự thống nhất, đồng thuận của nhân dân.

Thực hiện nghiêm công tác kiểm tra, giám sát, khen thưởng, kỷ luật… nhằm

tạo sự minh bạch, đồng thuận trong hoạt động tăng cường công tác xây dựng

đảng, góp phần đẩy lùi và hạn chế tình trạng suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối

sống, nạn tham nhũng, lãng phí…

Trong đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức, bên

cạnh lợi ích chung của dân tộc, các chủ trương, chính sách phải xuất phát từ lợi ích

của trí thức. Về vấn đề này, lý luận chủ nghĩa Mác Lênin đã chỉ rõ rằng: Lợi ích

luôn gắn với hoạt động của con người, lợi ích là động lực để phát triển sản xuất,

thúc đẩy đấu tranh giai cấp, là động lực để phát triển xã hội. Vì vậy, phải luôn quan

tâm chăm lo đời sống của trí thức, phải giải quyết vấn đề lợi ích cho những nhà

khoa học có nhiều sản phẩm, công trình có giá trị. Mọi cống hiến hiện nay cũng đều

quy về lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần. Giữa lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần,

thì lợi ích vật chất vẫn là cơ bản, có tính quyết định.

Page 112: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

108

Bốn là, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức là

phải phát huy vai trò, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.

Công tác vận động trí thức là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn

xã hội. Đảng lãnh đạo bằng việc đề ra chủ trương nghị quyết về vận động trí thức,

bằng công tác tư tưởng, bằng công tác tổ chức, cán bộ của Đảng, Nhà nước tổ

chức thực hiện công tác vận động trí thức bằng việc cụ thể hóa chủ trương nghị

quyết của Đảng thành các chính sách cụ thể để chính quyền các cấp tổ chức thực

hiện có hiệu quả. MTTQ và các đoàn thể theo chức năng, nhiệm vụ của tổ chức

mình,làm nòng cốt, tham mưu về công tác vận động, tập hợp trí thức thực hiện

nhiệm vụ chính trị của Đảng, thi đua lao động sáng tạo góp phần xây dựng và bảo

vệ Tổ quốc. Gia đình và các tổ chức xã hội quan tâm chăm lo sự nghiệp giáo dục,

khuyến học, khuyến tài cũng là góp phần thực hiện công tác vận động trí thức

dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Năm là, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức là

quá trình phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy tính tích cực, độc lập và

năng động sáng tạo và giác ngộ của trí thức

Dân chủ là yêu cầu và nguyên tắc tổ chức xã hội: dân chủ chung đối với xã hội

và dân chủ với mỗi cá nhân; dân chủ trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn

hóa, xã hội. Dân chủ phản ánh một bước chuyển từ thể chế chính trị dựa trên áp lực,

tuân thủ mệnh lệnh sang thể chế hợp tác, đồng thuận đầy trách nhiệm. Đối với trí thức

việc lãnh đạo bằng mệnh lệnh, áp đặt sẽ thất bại. Đối với lao động của trí thức, đối

với hoạt động khoa học kỹ thuật, văn hóa nghệ thuật rất cần môi trường dân chủ, vì

nó phát huy tính tích cực, chủ động, tự giác, giải phóng năng lực sáng tạo của con

người. Lãnh đạo công tác vận động trí thức cũng chính là quá trình phát huy dân chủ

xã hội chủ nghĩa, phát huy tính tích cực, độc lập và năng động sáng tạo và giác ngộ

của trí thức trong nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ; trong

GD&ĐT, văn học và nghệ thuật, y tế và thể dục thể thao… gắn với việc đẩy mạnh

công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, hình thành và phát triển kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển KTTT, góp phần thực hiện mục tiêu

xây dựng nước Việt Nam "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Page 113: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

109

Tiểu kết chương 3

Sau gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, nước ta đạt được những thành

tựu to lớn, toàn diện trên các lĩnh vực. Trong đó, quá trình đổi mới sự lãnh đạo của

Đảng đối với đội ngũ trí thức đã đạt được nhiều kết quả tích cực trong công tác vận

động trí thức. Ðảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách để đội ngũ trí

thức phát triển nhanh về số lượng và nâng lên về chất lượng, phát huy vai trò trên

mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Ðảng đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, đặc biệt

là các nghị quyết chuyên đề về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa

và văn nghệ, chính sách đối với người Việt Nam ở nước ngoài... để tạo động lực

thúc đẩy sự sáng tạo, cống hiến của đội ngũ trí thức. Nhà nước đã thực hiện các

chính sách xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống đào tạo, nghiên cứu; đổi mới

cơ chế quản lý, tăng cường đầu tư cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo, khoa học và

công nghệ, văn hóa và văn nghệ; các chính sách sử dụng và tạo môi trường phát huy

vai trò của trí thức; chính sách đãi ngộ, tôn vinh trí thức, lập các giải thưởng quốc

gia, phong tặng các chức danh khoa học và các danh hiệu cao quý; thu hút trí thức

người Việt Nam ở nước ngoài...

Đội ngũ trí thức đã tăng nhanh về số lượng, nâng lên về chất lượng; góp phần

trực tiếp cùng toàn dân đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, từng bước

xóa đói, giảm nghèo, phát triển đất nước, nâng cao chất lượng cuộc sống. Ðội ngũ trí

thức đã đóng góp tích cực vào xây dựng những luận cứ khoa học cho việc hoạch định

đường lối, chủ trương, chính sách của Ðảng và Nhà nước, góp phần làm sáng tỏ con

đường phát triển của đất nước và giải đáp những vấn đề mới phát sinh trong sự

nghiệp đổi mới; trực tiếp đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao dân trí và bồi dưỡng nhân

tài; sáng tạo những công trình có giá trị về tư tưởng và nghệ thuật, nhiều sản phẩm

chất lượng cao, có sức cạnh tranh; từng bước nâng cao trình độ khoa học và công

nghệ của đất nước, vươn lên tiếp cận với trình độ của khu vực và thế giới.

Những kết quả đạt được, những hạn chế, nguyên nhân và kinh nghiệm về đổi

mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức trong những năm qua

là những bài học kinh nghiệm quý báu cho sự lãnh đạo của đảng đối với công tác

vận động trí thức trong những năm tới.

Page 114: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

110

Chương 4

NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG, YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU

TIẾP TỤC ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI

CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC ĐẾN NĂM 2025

4.1. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG VÀ YÊU CẦU TIẾP TỤC ĐỔI MỚI SỰ

LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC

4.1.1. Những yếu tố tác động đến đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với

công tác vận động trí thức

4.1.1.1. Thuận lợi

Một là, sự phát triển khoa học công nghệ và kinh tế tri thức.

Cuộc cách mạng về khoa học công nghệ đã và đang diễn ra mạnh mẽ, tác

động đến mọi quốc gia, dân tộc, hàng ngày hàng giờ thay đổi tư duy nhân loại. Với

những thành tựu về công nghệ thông tin, phát thanh, truyền hình, internet, văn hóa

nhân loại được lan tỏa khắp hành tinh hết sức nhanh chóng. Tốc độ phát minh khoa

học ngày càng gia tăng. Khoảng cách từ phát minh đến ứng dụng rút ngắn. Sự cạnh

tranh về công nghệ cao diễn ra quyết liệt. Truyền thông về khoa học - công nghệ

diễn ra sôi động. Nhiều tri thức và công nghệ khoa học mới liên tục ra đời và đang

được các quốc gia đón nhận. Khoa học Việt Nam đang đứng trước cơ hội thuận lợi

chưa từng có với sự hỗ trợ từ các chủ trương và chính sách của Đảng, Nhà nước.

Chiến lược phát triển KH&CN giai đoạn 2011 - 2020 của Đảng đã xác định rõ quan

điểm, mục tiêu, định hướng nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu phát triển khoa học và

công nghệ. Sự phát triển của KTTT là tất yếu, phản ánh xu thế khách quan của lực

lượng sản xuất trong điều kiện mới. Trong KTTT, tri thức, KH&CN chuyển thành

một bộ phận hữu cơ của cả hệ thống KT - XH. Tri thức, KH&CN là yêu cầu hàng

đầu với người lao động. Chính vì vậy phát triển KTTT đòi hỏi phải có nguồn nhân

lực trình độ cao, đó chính là đội ngũ trí thức. Bởi vì, trí thức vừa là một bộ phận của

nguồn lực con người, vừa là nguồn tiềm năng khoa học, kỹ thuật, trực tiếp góp phần

vào việc nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước. Đánh giá về xu thế

phát triển này, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta khẳng định: "Kinh

Page 115: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

111

tế tri thức phát triển mạnh, do đó, con người và tri thức càng trở thành nhân tố quyết

định sự phát triển của mỗi quốc gia" [51, tr 97].

Hai là, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế

Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu lớn của thế giới hay nói

cách khác con đường phát triển không thể nào khác đối với các nước trong thời đại

toàn cầu hóa là tham gia hội nhập quốc tế. Sự lựa chọn tất yếu này còn được quyết

định bởi rất nhiều lợi ích mà hội nhập quốc tế tạo ra cho các nước. Đối với nước ta,

toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế là cơ hội giúp nâng cao trình độ của nguồn nhân lực

và nền khoa học công nghệ quốc gia, nhờ hợp tác giáo dục-đào tạo và nghiên cứu

khoa học với các nước và tiếp thu công nghệ mới thông qua đầu tư trực tiếp nước

ngoài và chuyển giao công nghệ từ các nước tiên tiến. Đây cũng là thời cơ để đội ngũ

trí thức giao lưu, học tập nâng cao trình độ, tiếp cận với công nghệ mới, tìm kiếm

việc làm nâng cao thu nhập. Đây cũng là cơ hội tạo động lực và điều kiện để các nhà

hoạch định chính sách nắm bắt tốt hơn tình hình và xu thế phát triển của thế giới, từ

đó có thể đề ra chính sách phát triển đất nước, nhất là lĩnh vực GD&ĐT, KH&CN,

thu hút đội ngũ trí thức nhất là trí thức Việt kiều về tham gia xây dựng đất nước.

Ba là, những thành tựu 30 năm đổi mới, xu hướng phát triển của đất nước

trong những năm tới tạo điều kiện thuận lợi cho công tác vận động trí thức

Những thành tựu, kinh nghiệm của 30 năm đổi mới đã tạo ra cho đất nước thế

và lực, sức mạnh tổng hợp lớn hơn nhiều so với trước: Kinh tế nước ta đang lấy lại đà

tăng trưởng, nhiều hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương đang được

triển khai; Dân chủ xã hội chủ nghĩa có tiến bộ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc

được củng cố; Mặt bằng dân trí được nâng cao. Đảng và Nhà nước tiếp tục đề ra

nhiều chủ trương, chính sách nhằm phát huy hơn nữa tiềm năng trí tuệ, sức sáng tạo

của đội ngũ trí thức. Đặc biệt, sau hơn 7 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 7

(khóa X) về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện

đại hóa đất nước đã tạo được chuyển biến tích cực về nhận thức và hành động của cả

hệ thống chính trị. Kết luận số 90-KL/TW ngày 04-3-2014 của Bộ Chính trị về việc

tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa X về Xây dựng đội ngũ trí thức

trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã nhận định:

Page 116: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

112

Việc quán triệt và thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 đã tạo được chuyển

biến tích cực về nhận thức và hành động của cả hệ thống chính trị; việc cụ

thể hóa, thể chế hóa Nghị quyết đã đạt được một số kết quả bước đầu. Hoạt

động của các hội trí thức tiếp tục có tiến bộ, nhất là trong việc tập hợp và

phát huy trí tuệ của đội ngũ trí thức. Đội ngũ trí thức tiếp tục được tăng

cường, có những đóng góp tích cực, quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc [49].

Bốn là, truyền thống hiếu học và sự phát triển của GD&ĐT, nhất là giáo dục

đại học là tiền đề quan trọng để xây dựng đội ngũ trí thức

Nhân dân Việt Nam vốn có truyền thống hiếu học, trí thức Việt Nam chịu

khó, say mê nghiên cứu sáng tạo. Khuyến học, khuyến tài, xã hội hóa giáo dục đã

trở thành phong trào râu rộng, thu hút được các ngành, các cấp và toàn xã hội tham

gia. Thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII và các chủ trương của Đảng,

Nhà nước về định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ

CNH, HĐH, lĩnh vực GD&ĐT nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng,

góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hệ thống GD&ĐT

tương đối hoàn chỉnh từ mầm non đến đại học. Cơ sở vật chất, thiết bị giáo dục, đào

tạo được cải thiện rõ rệt và từng bước hiện đại hóa. Số lượng học sinh, sinh viên

tăng nhanh, nhất là ở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp. Chất lượng

GD&ĐT có tiến bộ. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục phát triển cả về số

lượng và chất lượng, với cơ cấu ngày càng hợp lý. Chi ngân sách cho GD&ĐT đạt

mức 20% tổng chi ngân sách nhà nước. Xã hội hóa giáo dục được đẩy mạnh; hệ

thống GD&ĐT ngoài công lập góp phần đáng kể vào phát triển GD&ĐT chung của

toàn xã hội. Đây chính là tiền đề quan trọng để chúng ta xây dựng và phát triển đội

ngũ trí thức trong những năm tới.

4.1.1.2. Khó khăn

Một là, những tác động mặt trái của toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế

Bên cạnh cơ hội thuận lợi, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế cũng làm gia

tăng tình trạng chảy máu chất xám tại các quốc gia nghèo như nước ta. Khoảng 70%

những sinh viên mới tốt nghiệp ở nước ngoài không quay trở về sau khi đã nhận

Page 117: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

113

bằng. Lý do chính là vì họ không có những cơ hội phát triển tương tự ở trong nước.

Việc các nhà khoa học sang làm việc cho nước ngoài cũng tác động xấu đến người

dân và các giới tri thức khác trong nước. Nguồn chất xám bị chảy máu khiến kinh

phí đào tạo của quốc gia không ngừng thất thoát, đồng thời phải bỏ ra một nguồn

kinh phí lớn để trả lương cho các chuyên gia nước ngoài. Bên cạnh đó, nhiều công

trình nghiên cứu khoa học ở trong nước thiếu nhân lực thực hiện, thành tựu khoa

học kỹ thuật không được phổ biến và ứng dụng. Đây là một sự lãng phí lớn về tài

sản quốc gia, làm chậm tốc độ phát triển nền kinh tế, đồng thời còn tác động, ảnh

hưởng lớn đến tâm lý và sự phấn đấu của trí thức.

Vấn đề đặt ra đối với đội ngũ trí thức là làm thế nào để hội nhập, tồn tại và

phát triển? Nếu không nâng cao trình độ, trí thức Việt Nam sẽ thua trên sân nhà, cơ

hội tìm kiếm việc làm nhất là những việc làm đòi hỏi trình độ cao sẽ vô cùng khó

khăn vì không thể cạnh tranh với trí thức, lao động chất lượng cao của nước ngoài.

Đối với công tác vận động trí thức, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế cũng đặt ra

nhiều vấn đề phải giải quyết như: làm thế nào để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng,

nhất là lãnh đạo trí thức và công tác vận động trí thức; Ngăn chặn sự chảy máu chất

xám; làm thế nào để hội nhập và phát triển kinh tế trí thức…

Hai là, chiến lược diễn biến hòa bình và sự chống phá trên mặt trận tư

tưởng, lý luận của các thế lực thù địch vẫn đang tiếp diễn

Với chiến lược diễn biến hòa bình, thời gian qua, các thế lực thù địch đã ra

sức tấn công về tư tưởng, lý luận, nhằm mục đích “đa nguyên, đa đảng”, xóa bỏ vai

trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội. Đối tượng

lôi kéo, tấn công của chúng không từ một thành phần, giai cấp nào, đặc biệt là đối

với trí thức. Nhằm mục tiêu “chuyển hóa” niềm tin của nhân dân, của trí thức chúng

thường xuyên theo dõi, bám nắm mọi diễn biến đời sống chính trị, kinh tế và xã hội

của nước ta. Chúng tập hợp những ý kiến, phát biểu của những trí thức có “uy tín”,

“vị thế”, nhưng có quan điểm, chính kiến trung dung, thậm chí trái với đường lối,

quan điểm của Đảng, chủ trương, luật pháp của Nhà nước; kết hợp với sự tích hợp,

dẫn dắt những quan điểm, tư tưởng đối lập, sai lầm về chính trị từ những kẻ tạo

dựng là “nhà khoa học”, “nhân sĩ, trí thức yêu nước”, giả danh “chủ bút” báo này,

Page 118: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

114

tạp chí nọ… để tuyên truyền các quan điểm, tư tưởng thù địch chế độ ta. Chúng

luôn đan cài những tư tưởng, quan điểm giả danh mácxít, đúng - sai lẫn lộn, làm

cho người đọc mất phương hướng, không phân biệt được ngay - gian, chính - tà.

Trong cuộc đấu tranh này trí thức vừa là một đối tượng bị lôi kéo đồng thời cũng là

lực lượng quan trong để đấu tranh làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch.

Ba là, những khuyết điểm yếu kém của giáo dục và đào tạo, nhất là giáo dục

đại học đang là lực cản trong xây dựng đội ngũ trí thức

Những năm qua, GD&ĐT nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng,

góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, chất lượng,

hiệu quả GD&ĐT còn thấp so với yêu cầu, nhất là giáo dục đại học, giáo dục nghề

nghiệp. Quản lý GD&ĐT còn nhiều yếu kém. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý

giáo dục bất cập về chất lượng, số lượng và cơ cấu; một bộ phận chưa theo kịp yêu

cầu đổi mới và phát triển giáo dục, thiếu tâm huyết, thậm chí vi phạm đạo đức nghề

nghiệp. Đầu tư cho GD&ĐT chưa hiệu quả. Chính sách, cơ chế tài chính cho

GD&ĐT chưa phù hợp. Hệ thống đào tạo chạy theo thành tích, bằng cấp, hư danh,

mà không quan tâm đúng mức đến chất lượng. Chính nhận thức sai đó đã dẫn đến

chất lượng không cao; có bằng cấp nhưng không có kiến thức thực sự. Nhiều sinh

viên ra trường nhưng không tìm được việc làm, do không đáp ứng được yêu cầu của

nhà tuyển dụng, phải làm những việc trái với chuyên môn, ngành nghề đào tạo.

Hàng năm, có thêm rất nhiều cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ, nhưng trong thực tế, họ không

được xem là nguồn nhân lực cao cấp, là lao động chất xám, bởi họ không có những

kiến thức tương xứng với những văn bằng đã được cấp. Theo nghiên cứu của một tổ

chức quốc tế thì Việt Nam thuộc nước đứng đầu trong khu vực về tỷ lệ giáo sư, tiến

sĩ... nhưng lại đứng thấp nhất về trình độ ngoại ngữ, khoa học và công nghệ.

Bốn là, những hạn chế, bất cập về lý luận, sự thoái hóa biến chất của một bộ

phận cán bộ, đảng viên tác động xấu đến đội ngũ trí thức, gây khó khăn cho việc

tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức

Về mặt lý luận, mô hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam;

thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; vấn đề Đảng cầm quyền và

xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.. chưa thật sáng tỏ. Về thực tiễn,

Page 119: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

115

sự nghiệp đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội đi vào chiều sâu đang bộc lộ những

yếu kém, hạn chế về năng lực quản lý, điều hành của bộ máy nhà nước các cấp, từ

đó gây bức xúc và giảm sút niềm tin của nhân dân đối với năng lực cầm quyền của

Đảng. Tình trạng thoái hóa, biến chất về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của

một bộ phận cán bộ, đảng viên tác động xấu đến đội ngũ trí thức, gây khó khăn cho

việc tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức. Hội

nghị Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng đã chỉ rõ:

Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên

giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư

tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự

phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng,

chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí,

tùy tiện, vô nguyên tắc,…[52, tr.22].

Năm là, những hạn chế, yếu kém của một bộ phận trí thức

Điều đáng lo ngại ở đây là sự sa sút về niềm tin, phai nhạt lý tưởng trong một

bộ phận trí thức ảnh hưởng tới chất lượng nghiên cứu, phát triển và vận dụng lý

luận vào thực tiễn. Về vấn đề này, đề tài cấp nhà nước “Xây dựng đội ngũ trí thức

Việt Nam giai đoạn 2011-2020” đánh giá là:

Một bộ phận trí thức trong lĩnh vực tư tưởng có biểu hiện phai nhạt lý

tưởng, dao động, giảm sút niềm tin, nhận thức không sâu, tư duy mòn, cũ,

nặng về nghiên cứu công thức, nhẹ về nghiên cứu phát triển chủ nghĩa

Mác - Lênin và CNXH khoa học; có dấu hiệu thiếu tính chiến đấu và tinh

thần bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của

Nhà nước [146, tr. 123].

Thời cơ và thách thức, thuận lợi và khó khăn đan xen nhau. Làm thế nào để

tranh thủ thời cơ, thuận lợi, vượt qua thách thức, khó khăn để thực hiện thành công

sự nghiệp CNH, HĐH, đưa Việt Nam hội nhập và phát triển đang đòi hỏi sự nỗ lực

của toàn Đảng, toàn dân, đặc biệt là đội ngũ trí thức. Đây cũng là những nhân tố tác

động đến đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức trong

giai đoạn hiện nay.

Page 120: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

116

4.1.2. Mục tiêu và yêu cầu tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với

công tác vận động trí thức đến năm 2025

4.1.2.1. Mục tiêu

Cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội XI, các nghị quyết Trung ương bảy khóa X,

XI của Đảng, mục tiêu đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí

thức trong giai đoạn hiện nay là: Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng đối với hệ

thống chính trị và toàn xã hội trong việc xây dựng đội ngũ trí thức có số lượng, chất

lượng và cơ cấu hợp lý, từng bước tiến lên ngang tầm với trình độ của trí thức các

nước tiên tiến trong khu vực và thế giới; phát huy tiềm năng trí tuệ, tinh thần lao

động sáng tạo của đội ngũ trí thức, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, dựa trên

nền tảng liên minh công nhân - nông dân và trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng,

góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

4.1.2.2. Những yêu cầu tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công

tác vận động trí thức đến năm 2025

Để đạt được mục tiêu trên, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác

vận động trí thức trong giai đoạn hiện nay phải đáp ứng được những yêu cầu sau:

Một là, phải đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng đối với trí thức, tạo sự gắn bó

vững chắc giữa Ðảng và Nhà nước với trí thức, giữa trí thức với Ðảng và Nhà nước,

tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh công - nông - trí.

Để nâng cao chất lượng lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí

thức cần phải thực hiện nghiêm túc Kết luận số 90-KL/TW ngày 04-03-2014 của Bộ

Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa X về Xây dựng

đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cụ

thể là: Nâng cao tinh thần, ý thức trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền các cấp, tiếp

tục quán triệt, tổ chức thực hiện Nghị quyết ngày càng tốt hơn; Đổi mới việc ban

hành, triển khai và kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết.. về công

tác vận động trí thức; phải bảo đảm tăng cường sự lãnh đạo chính trị và định hướng

tư tưởng của Đảng đối với hoạt động của đội ngũ trí thức. Đồng thời tăng cường sự

lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức của trí thức, đặc biệt là Liên hiệp các Hội

Page 121: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

117

Khoa học và Kỹ thuật và Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật và các tổ chức khoa

học công nghệ ngoài nhà nước. Củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động

của các tổ chức đảng trong các cơ quan nghiên cứu, ứng dụng khoa học và các cơ sở

giáo dục - đào tạo.

Hai là, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức

nhằm xây dựng đội ngũ trí thức đáp ứng được yêu cầu về số lượng, chất lượng, bản

lĩnh chính trị.

Tiếp tục quán triệt quan điểm của Nghị quyết số 27-NQ/TW, khóa X: Xây

dựng đội ngũ trí thức là trách nhiệm chung của toàn xã hội, của cả hệ thống

chính trị, trong đó trách nhiệm của Ðảng và Nhà nước giữ vai trò quyết định. Để

xây dựng đội ngũ trí thức cần phải tổ chức thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương

8, khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Song song với đào

tạo phổ thông cần tập trung đạo tạo đại học và sau đại học, tập trung đào tạo

nhân lực trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài, phát triển phẩm chất và năng lực tự

học, tự làm giàu tri thức, sáng tạo của người học. Hoàn thiện mạng lưới các cơ

sở giáo dục đại học, cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo phù hợp với quy

hoạch phát triển nhân lực quốc gia; trong đó, có một số trường và ngành đào tạo

ngang tầm khu vực và quốc tế. Đa dạng hóa các cơ sở đào tạo phù hợp với nhu

cầu phát triển công nghệ và các lĩnh vực, ngành nghề; yêu cầu xây dựng, bảo vệ

Tổ quốc và hội nhập quốc tế. Phấn đầu xây dựng đội ngũ trí thức ngang bằng với

khu vực và quốc tế.

Ba là, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức phải

bảo đảm cho đội ngũ trí thức Việt Nam phát huy vai trò lao động sáng tạo, đóng

góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Để phát huy vai trò của đội ngũ trí thức phải gắn với phát triển và ứng

dụng khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực

quan trọng nhất để phát triển KT - XH và bảo vệ Tổ quốc; là một nội dung cần

được ưu tiên tập trung đầu tư trước một bước trong hoạt động của các ngành, các

cấp. Để khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, cần tổ chức thực

hiện tốt Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa

Page 122: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

118

XI về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện

đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội

nhập quốc tế.

Bốn là, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức

phải huy động được sức mạnh của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội thực hiện

công tác vận động trí thức.

Phải xác định công tác vận động trí thức là một bộ phận quan trọng của

công tác dân vận của Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị. Ngoài sự lãnh đạo

của Đảng, Ban cán sự đảng Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, ngành, Ðảng đoàn Mặt

trận Tổ quốc Việt Nam, các Đoàn thể, Ðảng đoàn Liên hiệp các Hội Khoa học và

kỹ thuật Việt Nam, Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học, nghệ thuật Việt

Nam và các doanh nghiệp, tập đoàn, tổng công ty…phải có chương trình hành

động cụ thể để thực hiện công tác vận động đội ngũ trí thức. Mỗi tổ chức trong hệ

thống chính trị, các tổ chức xã hội, gia đình, dòng họ, mỗi một cán bộ, đảng viên, ...

phải tham gia làm tốt công tác tuyên truyền, vận động, thuyết phục, đoàn kết, tập

hợp đội ngũ trí thức xây dựng đội ngũ trí thức có trình độ cao, trung thành với sự

nghiệp cách mạng, phát huy vai trò lao động sáng tạo của đội ngũ trí thức, đáp ứng

yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh,

dân chủ, công bằng, văn minh”.

Năm là, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức

nhằm phát huy dân chủ, tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo của

trí thức đi đôi với bảo đảm tuân thủ pháp luật, kỷ cương, kỷ luật.

Để đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức, phải

xác định những giải pháp trọng tâm có ý nghĩa đột phá trong công tác trí thức: Thực

hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu,

sáng tạo của trí thức vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,

văn minh. Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động nghề nghiệp của trí

thức. Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả

cống hiến; có chính sách đặc biệt đối với nhân tài của đất nước. Đây chính là hoàn

thiện môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động của trí thức và trí thức đích

Page 123: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

119

thực thì cái cần nhất là môi trường dân chủ, tự do sáng tạo, để thể hiện được những

ý tưởng mà mình ấp ủ, vì mục tiêu, vì đại nghĩa của dân tộc. Mặt khác, đổi mới sự

lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức nhằm tuyên truyền, vận động

đội ngũ trí thức tuân thủ pháp luật, kỷ cương, kỷ luật, tự tu dưỡng, rèn luyện, say

mê, tâm huyết với nghề nghiệp, nêu cao ý thức trách nhiệm công dân.

4.2. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TIẾP TỤC ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO

CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

4.2.1. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của của các cấp uỷ, tổ chức đảng

về đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức

Một là, các cấp ủy, các tổ chức đảng từ trung ương đến cơ sở tiếp tục đổi

mới nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí của đội ngũ trí thức và công tác vận động

trí thức.

Đây là giải pháp có tầm quan trọng đặc biệt, quyết định thành công của

việc đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức. Điều 4, Hiến

pháp năm 2013 ghi rõ: Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp

công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc

Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao

động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh

làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Với vai trò, vị

trí của một đảng cầm quyền, lãnh đạo hệ thống chính trị và toàn xã hội. Đảng

phải tiên phong đi đầu trong công tác vận động trí thức. Đổi mới phương thức

lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức trong giai đoạn hiện nay đòi

hỏi các cấp ủy, tổ chức đảng phải nắm vững quan điểm, chủ trương, đường lối,

chính sách của Đảng, nhà nước đối với trí thức và công tác vận động trí thức, đánh

giá đúng thực trạng đội ngũ trí thức và yêu cầu nhiệm vụ của ngành mình, cấp

mình, đơn vị mình trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để từ đó

xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và phát huy vai trò của trí thức đội ngũ trí

thức. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức

đòi hỏi phải đổi mới nhận thức và nâng tầm trí tuệ của các cơ quan lãnh đạo, của

người lãnh đạo về tri thức, nhận thức, năng lực tổ chức; trình độ áp dụng các tiến bộ

Page 124: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

120

khoa học vào công việc lãnh đạo. Vì thế đổi mới phương thức lãnh đạo đối với công

tác vận động trí thức không tách rời việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đảng mạnh về

chính trị, tư tưởng và tổ chức, về đội ngũ cán bộ là nhân tố quyết định kết quả đổi

mới phương thức lãnh đạo của Đảng nói chung và sự lãnh đạo của Đảng đối với

công tác vận động trí thức nói riêng.

Hai là, đổi mới quan điểm về lập trường chính trị, về vấn đề giai cấp trong

vận động trí thức, phải coi trí thức là lực lượng quan trọng trong liên minh công

nhân - nông dân và trí thức.

Đội ngũ trí thức hiện nay đội ngũ trí thức đang ngày càng trở nên đa dạng về

thành phần xuất thân, nguồn gốc đào tạo, nơi làm việc, vị trí xã hội, lợi ích…Bên

cạnh số được đào tạo trong nước cũng nhiều người được đào tạo từ nước ngoài về,

đặc biệt trong những năm gần đây, một số lượng lớn trí thức được đào tạo từ các

nước tư bản, một bộ phận trí thức làm việc trong các thành phần kinh tế ngoài quốc

doanh, các tổ chức nước ngoài ngày càng tăng nhanh. Đây là kết quả tất yếu của

chính sách đổi mới, mở cửa, hội nhập. Điều cần chú ý nhất trong sự lãnh đạo của

Đảng đối với trí thức là, cùng với sự biến đổi đó, thế giới quan, nhân sinh quan, xu

hướng chính trị của một bộ phận trí thức cũng sẽ có những biến đổi theo, tính đồng

nhất về thế giới quan, nhân sinh quan, quan điểm chính trị trong đội ngũ trí thức

trước đây có xu hướng bị phá vỡ nếu thiếu sự định hướng kịp thời. Chính vì vậy cần

phải đổi mới tư duy, phương pháp lãnh đạo để phù hợp với các đối tượng trí thức.

Khắc phục nhận thức lệch lạc, coi trí thức là tầng lớp tiểu tư sản với lập trường

chính trị bấp bênh, thiếu kiên định dẽ bị các thế lực thù địch lôi kéo, lợi dụng. Hiểu

đúng để phát huy vai trò trí thức là động lực, là lực lượng xung kích trên mặt trận

khoa học, công nghệ, văn hóa, là lực lượng quan trọng trong liên minh công nhân-

nông dân và trí thức góp phần cùng với toàn Đảng, toàn dân tiến hành công cuộc

đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Ba là, trong lãnh đạo công tác vận động trí thức phải chú trọng đến đặc

điểm, đặc thù của trí thức.

Khác với những giai cấp khác, trí thức là những người có học vấn cao, trình độ

chuyên môn sâu, chuyên lao động trí óc có tính sáng tạo. Họ có tính độc lập, tự trọng

Page 125: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

121

cao, nhưng dễ tự cao, tự đại; Ưa thích không khí tự do, dân chủ, công bằng. Đặc biệt,

niềm tin, tình cảm thường được xây dựng trên cơ sở nhận thức khoa học, không chấp

nhận sự áp đặt về tư tưởng, niềm tin; Tư duy sâu nhưng tầm nhìn thường hẹp theo

góc nhìn chuyên môn, dễ phiến diện; Nhạy cảm với cái mới, không thích những cái

sáo mòn, lạc hậu, trì trệ, nhưng cũng dễ cực đoan, thái quá… Các cấp ủy đảng phải

nhận thức đúng đắn và đề ra những giải pháp phù hợp nhằm phát huy nguồn lực trí

tuệ to lớn của đất nước: bảo đảm quyền tự do sáng tạo. phát huy trí tuệ và năng lực,

mở rộng thông tin, phát huy dân chủ, trọng dụng nhân tài; Khuyến khích các trí thức,

các nhà khoa học phát minh, sáng tạo. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đãi ngộ xứng

đáng những cống hiến của trí thức cho công cuộc phát triển đất nước. Coi trọng vai

trò tư vấn, phản biện của các hội khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội và văn học, nghệ

thuật đối với các dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.

Với những đặc điểm, đặc thù nêu trên, muốn lãnh đạo trí thức có hiệu quả thì

không phải chỉ cần quan điểm, đường lối, chủ trương đúng mà còn phải có cách

thức lãnh đạo thích hợp, khéo léo. Không chú trọng đặc điểm, đặc thù của đội ngũ

trí thức, áp đặt những phương cách lãnh đạo thô thiển thì kết quả lãnh đạo sẽ bị hạn

chế, thậm chí còn gây phản ứng tiêu cực, chống đối.

Bốn là, quán triệt quan điểm của Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh

trong đánh giá, bố trí, sử dụng đội ngũ trí thức

Các cấp ủy Đảng và chính quyền phải quán triệt quan điểm của Mác - Lênin

và tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tổ chức nghiên cứu đánh giá đúng năng lực,

trình độ, chất lượng của trí thức, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của họ để từ đó có

cơ sở cho việc đào tạo và sử dụng. Việc đánh giá chất lượng của đội ngũ này phải

hết sức khách quan, khoa học.

Khi đã đánh giá đúng chất lượng của đội ngũ trí thức thì việc sử dụng phải

trên cơ sở tôn trọng, coi trọng năng lực chuyên môn, sử dụng đúng người, đúng

việc. Giao nhiệm vụ phù hợp, tương xứng với khả năng, trình độ. Đồng thời, Đảng

và Nhà nước cần tạo môi trường làm việc thuận lợi và có chế độ ưu đãi về vật chất

và tinh thần xứng đáng.

Page 126: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

122

Việc sử dụng đội ngũ trí thức cần vận dụng bài học dùng trí thức của Chủ

tịch Hồ Chí Minh, đó là phải tin tưởng và trọng dụng trí thức. Không nên quá khắt

khe về nguồn gốc xuất thân, quá khứ... để mất, lãng phí nhân tài. Đảng và Nhà nước

cần phải có chính sách mạnh dạn tin dùng, giao nhiệm vụ ngang tầm với vị trí, vai

trò cũng như khả năng đáp ứng của đội ngũ trí thức.

4.2.2. Đổi mới việc xây dựng và triển khai, tổ chức thực hiện các nghị

quyết của Đảng về trí thức và công tác vận động trí thức

Một là, tiếp tục đổi mới việc xây dựng các nghị quyết của Đảng liên quan

đến trí thức và vận động trí thức .

Bất kỳ một hệ thống chính sách nào cũng cần phải mang tính đồng bộ và

toàn diện. Do vậy, trong quá trình hoạch định xác định chiến lược xây dựng đội ngũ

trí thức gắn với chiến lược phát triển KT - XH của đất nước. Báo cáo Chính trị của

Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X trình bày tại Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XI khẳng định:

Xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu

phát triển đất nước. Tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động

nghiên cứu, sáng tạo. Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm

chất, năng lực và kết quả cống hiến. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đãi ngộ

xứng đáng những cống hiến của trí thức. Có chính sách đãi ngộ đặc biệt

đối với nhân tài của đất nước. Coi trọng vai trò tư vấn, phản biện, giám

định xã hội của các cơ quan nghiên cứu khoa học trong việc hoạch định

đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và các dự án phát triển kinh tế,

văn hóa, xã hội [51, tr.241-242].

Từ quan điểm này, việc xây dựng các nghị quyết, chính sách đối với công tác

vận động trí thức, phải bám sát các nội dung vận động trí thức. Ban Tuyên giáo

Trung ương cần chủ động và tích cực thực hiện chức năng tham mưu cho Ban Chấp

hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư ban hành các nghị quyết, chỉ thị, kết

luận… về trí thức và công tác vận động trí thức. Phối hợp với các ban, bộ, ngành

Trung ương tích cực triển khai, tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn về trí thức

và công tác vận động trí thức, về GD&ĐT và KH&CN.

Page 127: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

123

Hai là, đổi mới việc triển khai thực hiện các nghị quyết của Đảng liên quan

đến trí thức và vận động trí thức .

Các cấp ủy đảng, đặc biệt là ngành Tuyên giáo cần chủ động trong công tác

hướng dẫn và kiểm tra, đôn đốc việc nghiên cứu, quán triệt, triển khai các nghị

quyết một cách sâu rộng, tới từng tổ chức đảng, đến mỗi cán bộ, đảng viên; đồng

thời bằng các hình thức thích hợp để tuyên truyền, phổ biến sâu rộng những nội

dung cơ bản của nghị quyết đến các tầng lớp nhân dân, nhằm tạo sự thống nhất cao

về nhận thức và hành động trong toàn Đảng, toàn dân. Việc tổ chức nghiên cứu,

quán triệt, triển khai nghị quyết cần phải được đổi mới mạnh mẽ hơn, thiết thực

hơn; gắn việc quán triệt, triển khai nghị quyết của cấp ủy với việc triển khai các

chương trình, đề án và cơ chế, chính sách của chính quyền, đoàn thể để thực hiện

nghị quyết. Việc xây dựng chương trình hành động của các cấp ủy phải sát thực tế

của địa phương, đơn vị; các cơ quan tham mưu khi xây dựng kế hoạch hành động

phải phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của ngành, của đơn vị; phải chỉ rõ được các

chỉ tiêu, nhiệm vụ cụ thể của địa phương, đơn vị, ngành để góp phần thực hiện nghị

quyết và thời gian hoàn thành.

Các đồng chí bí thư cấp ủy, người đứng đầu cơ quan, đơn vị phải trực tiếp

lãnh đạo, chỉ đạo và chịu trách nhiệm về kết quả công tác triển khai thực hiện nghị

quyết liên quan đến công tác vận động trí thức của địa phương, đơn vị, ngành mình;

chỉ đạo Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến nghị

quyết đến từng địa bàn dân cư, từng đoàn viên, hội viên, tổ chức các phong trào thi

đua yêu nước trong các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là trí thức để thực hiện nghị

quyết; chú trọng tuyên truyền, giới thiệu những cách làm mới, sáng tạo; những mô

hình, điển hình tiên tiến trong việc triển khai thực hiện nghị quyết. Việc tiếp tục tổ

chức thực hiện Nghị quyết Trung ương 7, khóa X cần được gắn kết chặt chẽ với

việc tổ chức thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 khóa XI về phát triển khoa học

công nghệ và Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo

dục và đào tạo. Đẩy nhanh việc cụ thể hóa, thể chế hóa Nghị quyết Trung ương 7,

tạo môi trường làm việc thực sự phát huy dân chủ và khuyến khích trí thức tự do

sáng tạo trong nghiên cứu, sáng tác, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng. Tăng cường

Page 128: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

124

thực hiện cơ chế đặt hàng kết hợp với cơ chế trí thức tự đề xuất trong hoạt động

nghiên cứu, sáng tác. Khẩn trương hoàn thành các đề án còn lại về thể chế hóa, cụ

thể hóa Nghị quyết Trung ương 7 để trình Bộ Chính trị cho ý kiến: Đề án “Quy chế

tạm thời về dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị”; Đề án “Phát triển đội ngũ

trí thức đến năm 2020 phục vụ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và

hội nhập quốc tế”.

Ba là, đổi mới công tác kiểm tra giám sát thực hiện các nghị quyết của

Đảng, chính sách của Nhà nước về công tác vận động trí thức.

Nâng cao nhận thức của toàn Ðảng, của mọi tổ chức đảng và đảng viên về vị

trí, ý nghĩa công tác kiểm tra, giám sát của Ðảng việc thực hiện các nghị quyết, chỉ

thị, kết luận của Đảng và các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước về trí thức

và vận động trí thức. tạo sự thống nhất về nhận thức và hành động nhằm làm cho

công tác kiểm tra, giám sát thật sự có vai trò thúc đẩy và tăng cường sự lãnh đạo

của Đảng với công tác vận động trí thức.

Tiếp tục đổi mới và tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác kiểm

tra, giám sát của các cấp ủy đảng; đổi mới hoạt động của công tác kiểm tra, giám

sát việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng và các văn bản quy

phạm pháp luật của Nhà nước về trí thức và vận động trí thức. Cần đổi mới

phương thức lãnh đạo của các cấp ủy đảng, chú trọng từ việc hoàn thiện, bổ sung

các quy định, xây dựng ban hành nghị quyết đến việc tổ chức thực hiện công tác

kiểm tra, giám sát.

Tăng cường sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong công tác

kiểm tra, giám sát của Ðảng trong việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, kết luận

của Đảng và các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước về trí thức và vận động

trí thức. Ðảng đoàn Quốc hội chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các

luật liên quan đến trí thức như Luật Khoa học và Công nghệ, Luật Giáo dục, Luật

Sở hữu trí tuệ… các chương trình nghị quyết của Chính phủ liên quan đến công tác

vận động trí thức. Các bộ, ngành việc kiểm tra việc thực hiện các chính sách của

ngành mình liên quan việc xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức.Mặt

trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội, các tổ chức của trí thức kiểm tra giám

Page 129: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

125

sát việc thực hiện các chủ trương chính sách như Nghị quyết số 36/NQ-TW ngày

26-3-2004 của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài và

Chương trình hành động của chính phủ về công tác với người Việt Nam ở nước

ngoài, Chỉ thị số 42-CT/TW về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt

động của Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 23-

NQ/TW về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới.

Các đại biểu của Quốc hội, các đại biểu Hội đồng nhân dân có thể kiểm tra, chất

vấn các tổ chức, cá nhân người đứng đầu các cấp việc thực hiện các nghị quyết, chỉ

thị, kết luận của Đảng và các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước về trí thức

và vận động trí thức.

Ủy ban Kiểm tra và Ban Tuyên giáo các cấp cần chủ động tham mưu cho cấp

ủy có kế hoạch tăng cường kiểm tra giám sát việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị,

kết luận của Đảng và các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước về trí thức và

vận động trí thức đặc biệt là Nghị quyết 27 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng

(khóa X), Nghị quyết Đại hội XI của Đảng và Nghị quyết Trung ương 7 (khóa X),

Nghị quyết Trung ương 6 khóa XI về phát triển khoa học công nghệ và Nghị quyết

Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT, định kỳ báo cáo với

lãnh đạo cấp ủy để có sự chấn chỉnh, phê bình nhắc nhở kịp việc thực hiện các nghị

quyết, tạo môi trường làm việc thực sự phát huy dân chủ và khuyến khích trí thức tự

do sáng tạo trong nghiên cứu, sáng tác, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng.

4.2.3. Tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong

công tác vận động trí thức

Một là, tiếp tục đổi mới việc lãnh đạo, chỉ đạo Đảng đoàn Quốc hội trong

các hoạt động lập pháp, giám sát tối cao việc thực hiện các nghị quyết của Đảng về

trí thức và công tác vận động trí thức.

Với tư cách là người lãnh đạo chính trị, Đảng chỉ quyết định những vấn đề

về quan điểm, tư tưởng, chủ trương lớn về vận động trí thức để chỉ đạo, định

hướng cho Chính phủ tổ chức thực hiện. Đảng không quyết định những chủ

trương cụ thể thuộc phạm vi quản lý của Nhà nước. Đảng không làm thay chính

Page 130: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

126

quyền. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị cần tập trung chỉ đạo Ban Cán

sự đảng của Chính phủ, các bộ ngành tập trung thực hiện chức năng đề xuất dự

án luật, xây dựng, ban hành thể chế, kế hoạch, quy hoạch, chính sách quản lý vĩ

mô liên quan đến vận động trí thức, KH&CN, GD&ĐT. Chính phủ chỉ đạo và

kiểm tra việc thực hiện các chính sách, kế hoạch… liên quan đến trí thức và công

tác vận động trí thức.

Bộ Chính trị chỉ đạo Đảng đoàn Quốc hội lãnh đạo việc chuẩn bị, trình Quốc

hội những nội dung thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội liên quan đến trí

thức và công tác vận động trí thức; Lãnh đạo việc dự kiến nhân sự của trí thức tham

gia Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội; Lãnh đạo việc xây dựng và thực hiện

chế độ, chính sách cụ thể và việc bảo đảm các điều kiện hoạt động của trí thức và

các cơ quan của trí thức. Trên thực tế, hiện nay những văn bản đề cập đến trí thức

và vận động trí thức chưa được nhiều. Quốc hội mới chỉ ban hành được “Luật Sở

hữu trí tuệ” nhưng luật này cũng mới chỉ quy định về quyền tác giả, quyền liên quan

đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng với

việc bảo hộ các quyền đó, còn vấn đề trí thức chưa được đề cập trong luật này. Luật

Khoa học và công nghệ, Luật Giáo dục, Luật Báo chí, Pháp lệnh Cán bộ, công

chức,... cũng rất ít đề cập vấn đề trí thức. Do vậy, Quốc hội cần ban hành Luật Trí

thức. Luật Trí thức phải được làm rõ những khái niệm về tri thức, trí thức và người

trí thức; quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi của người trí thức Việt Nam;

làm rõ vai trò và trách nhiệm của Nhà nước đốỉ với người trí thức; làm rõ chính

sách của Nhà nước đối với người trí thức; làm rõ nội dung quản lý nhà nước đối với

người trí thức; làm rõ vấn đề khai thác, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng trí thức, trọng

dụng nhân tài; làm rõ vấn đề thưởng, phạt đối với việc nhà khoa học, trí thức thực

thi các công trình, đề tài, đề án, dự án của Nhà nước; làm rõ mối quan hệ giữa Nhà

nước và trí thức; làm rõ quyền sở hữu trí tuệ của tác giả; làm rõ những việc người

trí thức được làm và không được làm; làm rõ chính sách bầu cử, tuyển dụng, sử

dụng trí thức; làm rõ chính sách đối với những trí thức trong các tổ chức ngoài công

lập. Một khi Luật Trí thức ra đời, người trí thức sẽ được sống trong luật pháp và

được bảo đảm bằng chính pháp luật.

Page 131: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

127

Mặt khác, hiện nay khoảng 50% trí thức đang hoạt động trong các Hội nghề

nghiệp, trong đó riêng Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã có tới

140 hội thành viên với trên 3000 chi hội trực thuộc. Tuy nhiên, Việt Nam chưa có

luật về hội. Việc điều chỉnh, quản lý nhà nước về tổ chức và hoạt động hội chỉ được

điều chỉnh qua các văn bản quy phạm Pháp luật như Nghị định số 45/2010/NQ-CP

về tổ chức hoạt động và quản lý Hội; Liên đoàn Luật sư được điều chỉnh bàng Luật

Luật sư; Nghị định số 08/1998/NĐ-CP về ban hành quy chế thành lập Hiệp hội

doanh nghiệp nước ngoài. Rõ ràng, việc ban hành Luật Hội là cần thiết nhưng hơn

10 năm, hàng chục lần góp ý, soạn thảo đi, soạn thảo lại nâng lên, đặt xuống khá

nhiều lần và đến lần này thì đưa ra Quốc hội để thảo luận nhưng theo ông Dương

Trung Quốc, đại biểu Quốc hội 3 khóa liền (Khóa XI- XIII). "Tôi muốn lưu ý rằng

những kỳ họp cuối cùng khóa 13 này chỉ thảo luận thôi, chứ còn việc quyết định thì

theo quy trình của nó, nó phải thêm một kỳ họp nữa, tức là nó có thể phải sang

nhiệm kỳ tới của Quốc hội khóa XIV…". Đã đến lúc việc ban hành Luật về Hội,

không thể trì hoãn được nữa.

Hai là, tiếp tục đổi mới việc lãnh đạo Chính phủ cụ thể hóa đường lối, nghị

quyết của Đảng thành các văn bản quy phạm pháp luật, ban hành cơ chế, chính

sách, các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch về trí thức và công tác vận động trí thức

của Chính phủ.

Sự quản lý của Nhà nước đóng một vai trò quan trọng đối với đời sống của

người trí thức trên cả hai phương diện vật chất và tinh thần, cả hai mặt này phải

được thể hiện bằng các chính sách cụ thể của Chính phủ. Mặc dù đã có nhiều cố

gắng nhưng trong những năm qua, đặc biệt từ sau khi Ban Chấp hành Trung ương

Đảng khóa X ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW “Về xây dựng đội ngũ trí thức

trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”các chính sách của

Nhà nước về vấn đề trí thức mới chỉ được thể hiện ở các văn bản chung và có thể

nói là chưa cụ thể. Chính phủ chưa thể hiện rõ vai trò của mình đối với trí thức, nhất

là việc quan tâm, quản lý đội ngũ trí thức. Vì vậy, Chính phủ cần có sự nghiên cứu

sâu sắc về chính sách đối với trí thức và cần ra các văn bản quy phạm pháp luật để

tiếp tục thực hiện Nghị quyết này.

Page 132: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

128

Chính phủ cần phải rà soát lại toàn bộ chính sách về khai thác, đào tạo, bồi

dưỡng, sử dụng nguồn nhân lực trí thức và chính sách trọng dụng nhân tài, xem xét

đến những điều kiện lịch sử cụ thể, đến hoàn cảnh của đội ngũ trí thức để đào tạo,

bồi dưỡng, sử dụng, khuyến khích họ đóng góp nhiều cho sự nghiệp chấn hưng đất

nước. Nhà nước XHCN phải trọng dụng trí thức vượt trội hơn nhà nước tư bản chủ

nghĩa. Nhà nước XHCN, trước hết phải là nhà nước dân chủ, thể hiện ở việc tạo

điều kiện thuận lợi nhất cho trí thức tham gia hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế,

chính trị, xã hội, văn hóa, đối ngoại, xây dựng và bảo vệ đất nước và tham gia vào

việc soạn thảo các văn bản có tính pháp quy.

Cơ sở để định ra các chính sách của Nhà nước đối với trí thức chính là giải

quyết hài hòa giữa các lợi ích vật chất và tinh thần của người trí thức. Mấu chốt của

vấn đề là nhà nước quan tâm đến đội ngũ trí thức chính là ban hành chính sách và chỉ

đạo tổ chức thực hiện chính sách đối với trí thức. Những năm qua, Chính phủ đã chỉ

thị cho các bộ, ngành rà soát lại chính sách đã ban hành, chỉnh sửa, thay thế được khá

nhiều chính sách khi xét thấy nó không còn phù hợp. Tuy nhiên, vẫn còn không ít

chính sách lỗi thời, nhưng vẫn chưa được điều chỉnh. Nhận xét chung về các chính

sách tài chính và khoa học và công nghệ còn nặng về quản lý tài chính, mà còn xem

nhẹ chất lượng nội dung và kết quả nghiên cứu của các đề tài, đề án, dự án cấp nhà

nước. Vì vậy, vấn đề đặt ra là làm sao cơ quan chức năng của Chính phủ thu về chất

lượng công trình tốt hơn và giảm thiểu các thủ tục thanh quyết toán đồng thời vẫn

đảm bảo được sự nghiêm minh, chặt chẽ trong chi tiêu ngân sách. Về phương pháp

định chính sách, những vấn đề nào mang tính bao quát chung, thì của Chính phủ, còn

những vấn đề nào mang tính chuyên ngành, thì để cho bộ chủ quản định ra.

Ba là, tiếp tục đổi mới tăng cường sự lãnh của Đảng đối với các bộ, ngành,

các cơ quan KH&CN,GD&ĐT, các đơn vị kinh tế… trong công tác vận động trí thức

Đảng lãnh đạo công tác vận động trí thức là lãnh đạo hệ thống chính trị và

toàn xã hội quan tâm chăm lo xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức

trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đội ngũ trí thức có mặt trong mọi ngành, mọi

lĩnh vực của đời sống xã hội. Hoạt động trong tổ chức nào thì trí thức chịu sự tác

động trực tiếp của tổ chức đó. Sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động đội

Page 133: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

129

ngũ trí thức không thể tách rời một cách riêng rẽ mà phải gắn với sự lãnh đạo các tổ

chức tổ chức Đảng, các ngành, các lĩnh vực và toàn xã hội. Do vậy, muốn tiếp tục

đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức cũng phải gắn với

đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với tất cả các lĩnh vực, các tổ chức, đối với toàn

xã hội, trong thực hiện quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng đối với trí thức,

tạo nên văn hóa xã hội tôn vinh và tạo điều kiện tốt nhất cho đội ngũ trí thức. Các tổ

chức Đảng trong bộ, ngành, địa phương, các cơ quan KH&CN,GD&ĐT, các đơn vị

kinh tế.., xây dựng quy hoạch dài hạn phát triển nguồn nhân lực, dự báo nhu cầu về

số lượng, chất lượng nhân lực, cơ cấu ngành nghề, trình độ. Trên cơ sở đó, đặt hàng

và phối hợp với các cơ sở giáo dục, đào tạo đội ngũ trí thức, nguồn nhân lực có chất

lượng cao, lựa chọn, sử dụng, đãi ngộ, tạo môi trường thuận lợi cho đội ngũ trí thức

phát huy vai trò vị trí của mình, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của cơ quan đơn vị, của

các bộ, các ngành và của đất nước.

4.2.4. Tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với giáo dục và đào tạo,

khoa học và công nghệ để xây dựng đội ngũ trí thức và tạo môi trường thuận

lợi cho trí thức sáng tạo, cống hiến

4.2.4.1. Đảng lãnh đạo đổi mới toàn diện, triệt để giáo dục đào tạo, nhất là

giáo dục đại học tạo tiền đề cho việc xây dựng đội ngũ trí thức

Giáo dục và đào tạo có vai trò to lớn trong việc xây dựng đội ngũ trí thức

Việt Nam. Trong quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng luôn quan tâm đến GD&ĐT.

Đổi mới giáo dục là đường lối xuyên suốt của Đảng. Đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị

về GD&ĐT quan trọng được ban hành và đi vào cuộc sống. Đáng chú ý là Nghị

quyết Trung ương 4 (NQTW) (khóa VII), NQTW 2 (khóa VII), Thông báo Kết luận

số 242 của Bộ Chính trị (khóa X) ngày 15-9-2009,.

Sau gần 30 năm đổi mới, giáo dục của chúng ta đã đạt được những kết quả

quan trọng, rất có ý nghĩa trong việc thực hiện sứ mệnh nâng cao dân trí, đào tạo

nhân lực và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Tuy nhiên, GD&ĐT còn những bất

cập, yếu kém. Giáo dục và đào tạo vẫn chưa thực sự là quốc sách hàng đầu, chưa là

động lực quan trọng nhất cho phát triển. Chất lượng giáo dục nhìn chung thấp, chưa

đáp ứng yêu cầu phát triển KT - XH, chưa theo kịp sự chuyển biến của đất nước

Page 134: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

130

trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Căn cứ vào tình hình quốc tế, trong nước, thực trạng

và yêu cầu phát triển giáo dục, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của

Đảng đã khẳng định: “Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo

hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế”[47].

Cụ thể hóa đường lối của Đảng, ngày 4-11-2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI đã

ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.

Để tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với giáo dục và đào tạo, cần

tập trung giải quyết những nội dung sau đây:

Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với

đổi mới giáo dục và đào tạo

Các cấp ủy Đảng phải tiếp tục quán triệt sâu sắc và cụ thể hóa các quan

điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục và đào

tạo trong hệ thống chính trị, ngành giáo dục và đào tạo và toàn xã hội, tạo sự đồng

thuận cao coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu; Coi trọng công tác phát

triển đảng, công tác chính trị, tư tưởng trong các trường học, trước hết là trong đội

ngũ giáo viên. Bảo đảm các trường học có chi bộ; các trường đại học có đảng bộ.

Cấp ủy trong các cơ sở giáo dục - đào tạo phải thực sự đi đầu đổi mới, gương mẫu

thực hiện và chịu trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân về việc tổ chức thực hiện

thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục, đào tạo. Lãnh đạo kiện toàn bộ máy

tham mưu và bộ máy quản lý giáo dục và đào tạo; thường xuyên kiểm tra việc thực

hiện, đặc biệt là kiểm tra công tác chính trị, tư tưởng và việc xây dựng nền nếp, kỷ

cương trong các trường học, phát hiện và giải quyết dứt điểm các biểu hiện tiêu cực

trong giáo dục và đào tạo. Đảng đoàn Quốc hội lãnh đạo việc sửa đổi, bổ sung, hoàn

thiện, ban hành mới hệ thống pháp luật về giáo dục và đào tạo, các luật, nghị quyết

của Quốc hội, tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện Nghị quyết và giám sát việc thực

hiện. Ban cán sự đảng Chính phủ lãnh đạo việc sửa đổi, bổ sung và ban hành mới

các văn bản dưới luật; Lãnh đạo nhà trường phát huy dân chủ, dựa vào đội ngũ giáo

viên, viên chức và học sinh, phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể và nhân dân

địa phương để xây dựng nhà trường. Nâng cao nhận thức về vai trò quyết định chất

lượng giáo dục và đào tạo của đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Nâng

Page 135: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

131

cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ, đặc biệt là

khoa học giáo dục và khoa học quản lý. Nghiên cứu sáp nhập một số tổ chức nghiên

cứu khoa học và triển khai công nghệ với các trường đại học công lập. Xây dựng

chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao gắn với kinh tế tri thức cho đất

nước nói chung và cho từng ngành, từng lĩnh vực nói riêng, với những giải pháp

đồng bộ, trong đó tập trung cho giải pháp đào tạo, đào tạo lại đội ngũ trí thức. Các

bộ, ngành, địa phương xây dựng quy hoạch dài hạn phát triển nguồn nhân lực, dự

báo nhu cầu về số lượng, chất lượng nhân lực, cơ cấu ngành nghề, trình độ. Trên cơ

sở đó, đặt hàng và phối hợp với các cơ sở giáo dục, đào tạo tổ chức thực hiện. Phát

huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, giải quyết dứt điểm các hiện

tượng tiêu cực kéo dài, gây bức xúc trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, chấm dứt

tình trạng, đào tạo chạy theo số lượng, coi nhẹ chất lượng, phát triển giáo dục đại

học quá mức như hiện nay.

Hai là, Đảng lãnh đạo Nhà nước tăng ngân sách cho giáo dục và đào tạo,

đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động sự tham gia đóng góp của toàn xã

hội; nâng cao hiệu quả đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo, đặt nền móng

vững chắc cho việc xây dựng đội ngũ trí thức.

Mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư

khôn ngoan nhất, phấn đấu ngân sách nhà nước chi cho giáo dục và đào tạo tối thiểu

ở mức 20% tổng chi ngân sách; chú trọng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân

sách. Từng bước bảo đảm đủ kinh phí hoạt động chuyên môn cho các cơ sở giáo

dục, đào tạo công lập. Hoàn thiện chính sách học phí.Đối với giáo dục mầm non và

phổ thông, Nhà nước ưu tiên tập trung đầu tư xây dựng, phát triển các cơ sở giáo

dục công lập và có cơ chế hỗ trợ để bảo đảm từng bước hoàn thành mục tiêu phổ

cập theo luật định. Khuyến khích phát triển các loại hình trường ngoài công lập đáp

ứng nhu cầu xã hội về giáo dục chất lượng cao ở khu vực đô thị.

Đẩy mạnh xã hội hóa, trước hết đối với giáo dục nghề nghiệp và giáo dục

đại học; khuyến khích liên kết với các cơ sở đào tạo nước ngoài có uy tín. Tiếp tục

hoàn thiện chính sách hỗ trợ đối với các đối tượng chính sách, đồng bào dân tộc

thiểu số và cơ chế tín dụng cho học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn được

Page 136: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

132

vay để học. Khuyến khích hình thành các quỹ học bổng, khuyến học, khuyến tài,

giúp học sinh, sinh viên nghèo học giỏi. Tôn vinh, khen thưởng xứng đáng các cá

nhân, tập thể có thành tích xuất sắc và đóng góp nổi bật cho sự nghiệp giáo dục và

đào tạo. Khuyến khích các doanh nghiệp, cá nhân sử dụng lao động tham gia hỗ

trợ hoạt động đào tạo. Xây dựng cơ chế, chính sách tài chính phù hợp đối với các

loại hình trường. Có cơ chế ưu đãi tín dụng cho các cơ sở giáo dục, đào tạo. Thực

hiện định kỳ kiểm toán các cơ sở giáo dục - đào tạo. Giám sát chặt chẽ, công khai,

minh bạch việc sử dụng kinh phí.

Ba là, Đảng lãnh đạo các tổ chức đảng trong ngành giáo dục và đào tạo chỉ

đạo tốt việc đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục đại học và sau đại học, đa

dạng hóa các loại hình đào tạo để nâng cao chất lượng, đảm bảo cơ cấu đội ngũ trí

thức hợp lý, đáp ứng yêu cầu xây dựng kinh tế tri thức, CNH,HĐH đất nước.

Nội dung giáo dục từ bậc đại học trở lên ở nước ta hiện nay còn nặng về lý

thuyết, thời gian cho thực hành rất ít, chương trình đào tạo nhìn chung còn lạc hậu, xa

rời thực tiễn, không thích ứng kịp với sự phát triển của KH&CN thế giới, nên phần lớn

những sinh viên sau khi tốt nghiệp rất khó thích ứng với công việc thực tế.. Do đó, đổi

mới nội dung giáo dục đại học và sau đại học là yêu cầu bức thiết hiện nay. Việc đổi

mới hệ thống giáo dục và đào tạo ở nước ta cần theo hướng hiện đại và toàn diện.

Phương pháp giáo dục - đào tạo có ảnh hưởng rất lớn đến việc tiếp thu tri thức

của người học. Cho nên, đổi mới phương pháp đào tạo là một trong những khâu quan

trọng nhất của việc cải cách giáo dục - đào tạo ở nước ta hiện nay. Đối với giáo dục

đại học và sau đại học, đòi hỏi phải có sự đổi mới về phương pháp giảng dạy và

nghiên cứu. Đối tượng giảng dạy ở bậc này đã có nền tảng kiến thức cơ bản cho nên

nhiệm vụ đào tạo chủ yếu nhằm xây dựng phương pháp tiếp cận và tiếp nhận thông

tin một cách khoa học và hiệu quả. Hình thành cho người học năng lực nghiên cứu

độc lập, tư duy sáng tạo sát với thực tiễn cuộc sống. Đối với các ngành đào tạo thuộc

lĩnh vực khoa học - kỹ thuật cần chú trọng hơn đến phương pháp trực quan và các

hoạt động thực hành nhằm giúp người học gắn lý thuyết với thực tiễn.

Bên cạnh đó, cần phải đầu tư trang thiết bị cho dạy và học, đổi mới phương

pháp giảng dạy phải gắn với hiện đại hóa trang thiết bị giáo dục. Đa dạng hóa các

Page 137: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

133

loại hình đào tạo: chính quy tập trung, chính quy không tập trung, tại chức, chuyên

tu, từ xa; liên kết giữa các trường đại học trong và ngoài nước… Việc đào tạo ở

nước ngoài do nguồn ngân sách nhà nước cần phải được quản lý chặt chẽ và hướng

vào các ngành mà ta đang có nhu cầu cấp bách công nghệ sinh học, dầu khí, điện tử

viễn thông… Mở rộng loại hình đào tạo tại chỗ như mời chuyên gia đầu ngành của

các nước đến làm việc hoặc báo cáo ở các cơ sở đào tạo trong nước. Đó chính là cơ

sở cho việc hình thành đội ngũ trí thức có chất lượng đạt tiêu chuẩn quốc tế.

Đổi mới cơ cấu đào tạo các ngành nghề, cấp học. Đào tạo nhiều cử nhân,

thạc sĩ là cần thiết nhưng trong điều kiện hiện nay, nước ta đang cần rất nhiều công

nhân lành nghề. Vì vậy, cần tăng chỉ tiêu đào tạo nghề hàng năm, đồng thời tổ chức

định hướng phân luồng cho học sinh trước khi tốt nghiệp lớp 12. Làm tốt được nội

dung này, chúng ta có thể tiết kiệm được kinh phí để đào tạo được nhiều chuyên

gia, nhiều trí thức giỏi ở bậc học cao hơn.

Bốn là, Đảng lãnh đạo các ngành, các cấp chăm lo xây dựng đội ngũ nhà

giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo.

Đội ngũ giáo viên, giảng viên có tầm quan trọng đặc biệt, thực sự là máy cái

để tạo nên các thế hệ trí thức không chỉ giỏi chuyên môn, nghiệp vụ mà còn phải là

những người có phẩm chất chính trị tốt, trung thành với Tổ quốc, với dân tộc. Đẩy

mạnh đào tạo đội ngũ giáo viên, giảng viên cho các cấp học từ tiểu học đến sau đại

học, đặc biệt là giảng viên của các trường đại học, viện nghiên cứu trọng điểm quốc

gia. Do đó, hàng năm, các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền và các nhà

trường cần xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, đào tạo lại cho đội ngũ giảng

viên, giáo viên của từng đơn vị, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của xã hội.

Đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục, đào tạo, bảo đảm dân chủ, thống nhất;

Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và

đào tạo. Thực hiện chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo theo từng cấp học và trình độ đào

tạo. Có chế độ ưu đãi đối với nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Việc tuyển dụng,

sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục phải trên cơ sở đánh

giá năng lực, đạo đức nghề nghiệp và hiệu quả công tác. Có chế độ ưu đãi và quy

định tuổi nghỉ hưu hợp lý đối với nhà giáo có trình độ cao; có cơ chế miễn nhiệm,

Page 138: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

134

bố trí công việc khác hoặc kiên quyết đưa ra khỏi ngành đối với những người không

đủ phẩm chất, năng lực, không đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ . Lương của nhà giáo

được ưu tiên xếp cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp và

có thêm phụ cấp tùy theo tính chất công việc, theo vùng.

4.2.4.2. Đảng lãnh đạo đổi mới cơ chế, chính sách quản lý khoa học và

công nghệ tạo môi trường thuận lợi cho trí thức sáng tạo, cống hiến

Trên cơ sở quán triệt Nghị quyết số 20-NQ/TW về phát triển khoa học và

công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế

thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, để tiếp tục đổi mới cơ

chế, chính sách quản lý KH&CN tạo môi trường thuận lợi cho trí thức sáng tạo,

cống hiến, cần tập trung thực hiện những giải pháp sau đây:

Một là, Đảng lãnh đạo đổi mới hệ thống tổ chức, cơ chế hoạt động của các

tổ chức khoa học và công nghệ.

Mặc dù trong những năm gần đây, việc quy hoạch, sắp xếp lại hệ thống tổ

chức khoa học và công nghệ đã được chú trọng, tuy nhiên kết quả đạt được chưa

cao. Thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW và Luật Khoa học và Công nghệ năm

2013, cần phải tiếp tục việc quy hoạch, sắp xếp lại hệ thống tổ chức khoa học và

công nghệ, các trường đại học bảo đảm hoạt động có hiệu quả, phù hợp với các mục

tiêu và định hướng nhiệm vụ phát triển khoa học và công nghệ. Xây dựng các trung

tâm nghiên cứu hiện đại, làm hạt nhân cho việc nghiên cứu, phát triển và ứng dụng

khoa học và công nghệ ở các lĩnh vực được ưu tiên. Phát triển, nâng cao năng lực hệ

thống các tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ, đáp ứng yêu cầu phát triển thị

trường khoa học và công nghệ. Phấn đấu đến năm 2020, khoa học và công nghệ

Việt Nam đạt trình độ phát triển của nhóm các nước dẫn đầu ASEAN; đến năm

2030, có một số lĩnh vực đạt trình độ tiên tiến thế giới.

Tổ chức thực hiện tốt cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức

khoa học, công nghệ và nhà khoa học theo tinh thần Nghị định số 115/2005/NĐ-

CP, ngày 5-9-2005 của Chính phủ. Giao quyển tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho thủ

trưởng các cơ quan, doanh nghiệp khoa học và công nghệ công lập, điều này có

Page 139: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

135

nghĩa là họ có quyền tự quyết những vấn đề có tính chiến lược phát triển khoa học

công nghệ cho cơ quan, đơn vị mình, cũng như có toàn quyền tuyển dụng và sa

thải công chức, viên chức, tạo điều kiện thương mại hóa các kết quả nghiên cứu

khoa học ra thị trường. Người nhận làm đề tài, đề án, dự án được toàn quyền sử

dụng kinh phí và nếu không làm được, phải chịu trách nhiệm bồi thường. Triển

khai thực hiện Thông tư liên tịch số 55/2015/TTLT-BTC-BKHCN (gọi tắt Thông

tư 55) hướng dẫn định mức xây dựng, phân bổ dự toán và quyết toán kinh phí đối

với nhiệm vụ khoa học và công nghệ có sử dụng ngân sách nhà nước. Tiếp tục đổi

mới mạnh mẽ, đồng bộ cơ chế quản lý, tổ chức, hoạt động khoa học và công nghệ,

nhất là cơ chế quản lý, phương thức đầu tư và cơ chế tài chính. Quy hoạch, sắp

xếp lại hệ thống tổ chức khoa học và công nghệ; xây dựng một số trung tâm

nghiên cứu hiện đại. Phát triển, nâng cao năng lực hệ thống các tổ chức dịch vụ

khoa học và công nghệ, phát triển thị trường khoa học và công nghệ.Thực hiện cơ

chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học và công nghệ công lập. Tăng

cường liên kết giữa tổ chức khoa học và công nghệ với doanh nghiệp, gắn nghiên

cứu khoa học với sản xuất và đời sống

Hai là, Đảng lãnh đạo Nhà nước tạo môi trường thuận lợi cho trí thức sáng

tạo, cống hiến

Hoàn thiện môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động của trí thức

trong việc bảo đảm quyền tự do sáng tạo. Trước hết, cần có một nghị định mới của

Chính phủ về chính sách tiền lương và thu nhập của cán bộ, công chức, người lao

động theo tinh thần cải cách tiền lương triệt để. Tiền lương đang là vấn đề gay cấn

nhất, nhạy cảm nhất hiện nay. Nếu không đổi mới triệt để thì đất nước sẽ không thu

hút được nhân tài, không có năng suất lao động và chất lượng sản phẩm cao. Đây

cũng là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng chảy máu chất xám hiện nay.

Chính phủ cần sớm có một nghị định ban hành quy chế dân chủ trong hoạt

động khoa học, văn hóa, văn nghệ. Nội dung quy chế thể hiện được tính tự do sáng

tạo, tính tự chịu trách nhiệm, tính độc lập trong sáng tạo khoa học, tính thoát khỏi sự

ràng buộc của tổ chức, nhưng vẫn nằm trong ý thức hệ; làm rõ trách nhiệm của Nhà

Page 140: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

136

nước trong phát huy dân chủ sáng tạo; trong việc tạo điều kiện về tinh thần, tư tưởng,

tư duy mới, trong đầu tư các điều kiện phương tiện nghiên cứu, phát triển, trong vấn

đề công bằng hưởng thụ các thành quả khoa học giữa cá nhân, tổ chức, nhà nước,

doanh nghiệp. Chính phủ cần chỉ đạo các cơ quan liên quan thực hiện Quyết định

501/QĐ-TTg , ngày 15 - 04 - 2015 của Thủ tướng Chính phủ về việc thí điểm tổ chức

Diễn đàn khoa học chuyên nghiệp của trí thức tại Việt Nam để tư vấn, phản biện và

giám định xã hội các chủ trương, chính sách, dự án phát triển kinh tế - xã hội, trên cơ

sở đó có sự tổng kết điều chỉnh để nhân rộng các diễn đàn khoa học, bảo đảm các

quyền và trách nhiệm cao của trí thức vào quá trình quản lý phát triển đất nước.

Tạo môi trường thuận lợi, điều kiện vật chất để cán bộ khoa học và công

nghệ phát triển bằng tài năng và hưởng lợi ích xứng đáng với giá trị lao động

sáng tạo của mình. Nhà nước cần thực hiện nghiêm quyền sở hữu trí tuệ, quyền

sở hữu công nghiệp và tác giả, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của tác giả

các công trình khoa học và công nghệ; có chính sách đãi ngộ, khen thưởng đối

với tác giả các công trình được công bố quốc tế, các sáng chế được bảo hộ trong

và ngoài nước, nhanh chóng xây dựng thị trường KH&CN. Thông qua thị trường

này, các kết quả nghiên cứu khoa học, những phát minh, sáng chế được thực hiện

trao đổi ngang giá, giúp cho trí thức có thêm thu nhập chính đáng từ lao động

của mình. Có chính sách trọng dụng đặc biệt đối với cán bộ khoa học và công

nghệ đầu ngành, cán bộ khoa học và công nghệ được giao chủ trì nhiệm vụ quan

trọng của quốc gia, cán bộ khoa học và công nghệ trẻ tài năng. Tiếp tục điều

chỉnh chính sách động viên, sử dụng về chuyên môn, nghiệp vụ, tri thức và kinh

nghiệm đối với những trí thức có trình độ cao, có năng lực và sức khỏe tuy đã

hết tuổi lao động, không bình quân chủ nghĩa về tuổi tác. Cần làm rõ các đối

tượng, các lĩnh vực mà trí thức chuyên gia cần được tiếp tục sử dụng trong Quyết

định số 67/2007/TTg của Thủ tướng Chính phủ.

Đổi mới các chính sách khen thưởng - tôn vinh các trí thức khoa học và công

nghệ, các nhà quản lý giỏi, tập trung vào các danh hiệu khen thưởng nhà nước, các

danh hiệu ưu tú, nhân dân, nghệ nhân, bàn tay vàng, các giải thưởng nhà nước với

Page 141: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

137

các mức thưởng có giá trị cao tương xứng với cống hiến, với các công trình, sản

phẩm khoa học, công nghệ có giá trị. Đủ để bù đắp các hao phí sức lực, tiền của, có

thể tái đầu tư cho nghiên cứu phát triển.

Xây dựng cơ chế phát hiện người có tài, có đức để quy hoạch, đào tạo, bồi

dưỡng, bổ nhiệm. Hoàn thiện hệ thống chức danh, chức vụ khoa học và công nghệ.

Cải tiến hệ thống giải thưởng khoa học và công nghệ, danh hiệu vinh dự Nhà nước

cho cán bộ khoa học và công nghệ.

4.2.5. Đảng lãnh đạo phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức

chính trị - xã hội, xã hội nghề nghiệp, cán bộ, đảng viên và nhân dân trong

công tác vận động trí thức

MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội là những bộ phận quan

trọng của hệ thống chính trị, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, là cầu nối

giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, có vai trò rất quan trọng trong trong công tác

vận động trí thức. Vì vậy, trong những năm tới, Đảng cần coi trọng việc đổi mới,

tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối

với MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội trong công tác vận động trí thức, thể

hiện qua các vấn đề sau đây:

Một là, các cấp ủy Đảng cần tiếp tục quán triệt và nâng cao nhận thức của

đội ngũ cán bộ Mặt trận, đoàn thể chính trị - xã hội và các tầng lớp nhân dân về vai

trò, vị trí của trí thức và công tác vận động trí thức trong giai đoạn hiện nay.

Đổi mới và nâng cao chất lượng tuyên truyền, giáo dục, làm cho cán bộ,

đảng viên và nhân dân nắm vững quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng

của Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về trí thức và công tác vận động trí

thức. Tiếp nối truyền thống của dân tộc coi “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”,

đặc biệt tiếp tục khẳng định quan điểm Nghị quyết Trung ương 7 khóa X về xây

dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước. Làm tốt công tác vận động trí thức trong giai đoạn hiện nay là góp phần phát

huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, củng cố mối

quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với trí thức, tạo động lực để trí thức phát

huy vai trò lao động sáng tạo, tiềm năng trí tuệ, đóng góp tích cực vào phát triển

kinh tế - xã hội của đất nước.

Page 142: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

138

Hai là, Đảng tôn trọng tính tự chủ, tạo điều kiện để Mặt trận và các đoàn thể

chính trị - xã hội trong công tác đoàn kết tập hợp trí thức trong và ngoài nước, phát

huy cao nhất vai trò, tinh thần lao động sáng tạo của đội ngũ trí thức trong tổ chức

mình để góp phần xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Kiện toàn Đảng đoàn MTTQ và đảng đoàn các đoàn thể chính trị - xã hội trực

thuộc Ban Bí thư. Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của Đảng đoàn Mặt trận và đảng

đoàn các đoàn thể trong công tác vận động trí thức của tổ chức mình. Thường xuyên

nâng cao nhận thức về vai trò, trách nhiệm của Đảng, chính quyền đối với MTTQ

Việt Nam và các đoàn thể nhân dân. Xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, giải quyết

đúng đắn mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và vai trò làm chủ của

trí thức thông qua MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội, hội quần chúng. Nâng

cao chất lượng các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước của trí thức trên

các lĩnh vực của đời sống xã hội; cổ vũ các mô hình, điển hình tiên tiến; phát huy vai

trò trí thức tiêu biểu trong cộng đồng dân cư; chăm lo và bảo vệ lợi ích hợp pháp,

chính đáng của đoàn viên, hội viên là trí thức. Phát huy quyền chủ động của MTTQ,

các đoàn thể trong vận động trí thức; các hình thức tập hợp trí thức phải đa dạng, phù

hợp với đặc thù cử trí thức. Quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác sơ kết, tổng kết về

nội dung và phương thức vận động trí thức của MTTQ Việt Nam và các đoàn thể

nhân dân. Định kỳ, cấp ủy đảng các cấp làm việc, nghe báo cáo tình hình và định

hướng công tác vận động trí thức của MTTQ Việt Nam và các đoàn thể nhân dân;

tăng cường kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc tổ chức thực hiện các chỉ thị, nghị quyết

của Đảng về công tác vận động trí thức. Tiếp tục đưa nội dung vận động trí thức của

MTTQ Việt Nam và các đoàn thể nhân dân thành một trong những tiêu chuẩn đánh

giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của tổ chức đảng các cấp. MTTQ Việt Nam, các

đoàn thể chính trị - xã hội làm nòng cốt trong việc phát huy dân chủ, năng lực trí tuệ,

ý thức trách nhiệm của trí thức trong thực hiện giám sát, phản biện xã hội và góp ý

xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Đảng và các đoàn thể chính trị - xã hội lựa

chọn, cử những người có tín nhiệm vào hoạt động trong các tổ chức của trí thức; cán

bộ của làm công tác vận động trí thức phải được lựa chọn từ những người ưu tú trong

phong trào, có năng lực và có uy tín đối với trí thức.

Page 143: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

139

Mặt trận Tổ quốc, Việt Nam và các đoàn thể chính trị, các tổ chức kinh tế, xã

hội, nghề nghiệp trên cơ sở chức năng nhiệm vụ của mình, đổi mới nội dung và

phương thức hoạt động để làm tốt công tác vận động trí thức trong tổ chức mình,

quan tâm chăm lo đào tạo bồi dưỡng, tuyên truyền, vận động trí là người dân tộc ít

người, trí thức tôn giáo, trí thức doanh nhân, trí thức trẻ, nữ trí thức và trí thức

người Việt Nam ở nước ngoài góp công, góp sức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Ba là, Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa vai trò, chức năng, thẩm quyền

và trách nhiệm của MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội trong công tác vận động

trí thức bằng các chính sách, kế hoạch chương trình cụ thể phù hợp với từng đối

tượng trí thức.

Đối với Mặt trận Tổ quốc, Nhà nước cần thể chế hóa chức năng nhiệm vụ

của Mặt trận trong công tác đoàn kết tập hợp và phát huy vai trò của đội ngũ trí

thức. Nhà nước cần thể chế hóa vai trò liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của

tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu

biểu để từ đó phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức đó trong việc đoàn kết

toàn dân tộc nói chung và đoàn kết tập hợp trí thức nói riêng. Sẽ không có một tổ

chức nào làm tốt hơn, nếu MTTQ chỉ đạo các tổ chức thành viên trong việc đoàn

kết tập hợp trí thức tôn giáo, trí thức cao tuổi, trí thức là người Việt Nam ở nước

ngoài. Chỉnh phủ cần tạo điều kiện cho MTTQ thực hiện Kết luận số 65-KL/TW

ngày 04-02-2010 của Ban Bí Thư Trung ương Đảng về việc tiếp tục thực hiện Chỉ

thị 30-CT/TW về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở do Ban Bí thư ban

hành và Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 ngày 20-4-2007 của Ủy Ban

Thường Vụ Quốc Hội Khóa 11 về việc thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn;

Nghị định 60/2013/NĐ-CP ngày 19-6-2013 của Chính phủ về việc hướng dẫn Bộ

luật Lao động về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc. Đây chính là

tiền đề để tạo môi trường dân chủ cho các hoạt động của trí thức, đặc biệt giúp trí

thức góp phần cùng với MTTQ thực hiện các hoạt động giám sát, phản biện xã hội

theo Quyết định số 218-QĐ/TW ngày 12 -12 - 2013 của của Bộ Chính trị ban hành

“Quy định về việc MTTQ Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân

tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền” và Quyết định số 217-

Page 144: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

140

QĐ/TW ngày 12 - 12 - 2013 về việc ban hành “Quy chế giám sát và phản biện xã

hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội”.

Đối với các đoàn thể chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp của

trí thức. Chính phủ cần tiếp tục quan tâm, tạo điều kiện về cơ chế hỗ trợ kinh phí

cho các tổ chức như Đoàn Thanh niên với các chương trình, đề án Trí thức trẻ đã

tạo cơ hội cho trí thức trẻ cống hiến và trưởng thành, góp sức vào sự nghiệp xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phụ nữ với dự án “Nữ trí thức Việt Nam với hoạt động

sáng tạo”, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam với các hoạt động tư

vấn, phản biện, diễn đàn khoa học chuyên nghiệp… để phát huy vai trò của trí thức

trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đối với các hội nghề nghiệp của trí thức, trong

khi chờ đợi ban hành Luật về Hội, Chính phủ cần sửa đổi Nghị định số 45/NĐ-CP

về Tổ chức hoạt động và quản lý hội để tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động

của trí thức, nhất là các trí thức đã nghỉ hưu để họ tiếp tục cống hiến cho đất nước.

Đối với đối với các tổ chức của trí thức ngoài công lập, Đảng, Nhà nước cần

có sự đánh giá công tâm về các tổ chức khoa học công nghệ ngoài công lập, phải

gạt bỏ mọi nghi ngờ đối với các tổ chức này (hội, viện, trung tâm,...), trên cơ sở đó

mà có chính sách đúng đắn cho nó và tạo mọi điều kiện để nó phát triển. Chính phủ

cần quan tâm, tạo điều kiện cho các tổ chức này hoạt động theo Nghị định số

08/2014/NĐ-CP ngày 27- 01 - 2014 của Chính phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn

thi hành một số điều của Luật Khoa học và công nghệ. Đây là một lực lượng trí

thức trẻ trung, năng động, dám nghĩ, dám làm , dám chịu trách nhiệm, hoạt động tự

chủ tự quản về tổ chức và tài chính, không dựa vào ngân sách nhà nước nhưng lại

rất năng động hiệu quả, góp phần không nhỏ vào quá trình xã hội hóa GD&ĐT,

KH&CN, xóa đói giảm nghèo, phát triển cộng đồng.

Bốn là, phát huy vai trò tiền phong gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên

và các tầng lớp nhân dân trong công tác vận động trí thức.

Đây là một trong những phương thức lãnh đạo cơ bản của Đảng trong công tác

vận động trí thức. Uy tín và ảnh hưởng trực tiếp của Đảng đối với đội ngũ trí thức

trước hết là thông qua những đảng viên, những cán bộ của Đảng hoạt động trong đội

ngũ trí thức. Thông thường thì những cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt trong tổ chức

Page 145: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

141

của những người trí thức đều là đảng viên của Đảng. Nếu những cán bộ này mẫu mực

về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, có tác phong gương mẫu, năng lực phù hợp

với chức trách thì sức ảnh hưởng của Đảng, sự cảm hóa trí thức từ những con người

cụ thể của Đảng hàng ngày gần gũi với họ trong tập thể cơ quan, đơn vị sẽ hết sức

lớn. Còn ngược lại thì niềm tin của trí thức vào Đảng cũng sẽ suy giảm rất nhanh.

Để giữ vững vị trí và vai trò lãnh đạo cách mạng của mình, để tiếp tục đổi

mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức, Đảng phải thường

xuyên được xây dựng và chỉnh đốn, phòng và chống nguy cơ thoái hóa, biến chất

trong đội ngũ. Mỗi đảng viên phải không ngừng trau dồi đạo đức cách mạng, tăng

cường mối quan hệ máu thịt với nhân dân, với trí thức. Đảng cần xây dựng đội ngũ

cán bộ, đảng viên gương mẫu về mọi mặt vì gương mẫu là "mệnh lệnh không lời".

"đảng viên đi trước, làng nước theo sau", "một tấm gương sống còn có giá trị hơn

một trăm bài diễn văn tuyên truyền", "lấy gương người tốt, việc tốt để hàng ngày

giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các

tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới". Trong Đảng, mọi cán

bộ, đảng viên đều gương mẫu thì sẽ góp phần quan trọng củng cố lòng tin của nhân

dân đối với Đảng, góp phần xây dựng, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng

với nhân dân, với trí thức.

Để nâng cao chất lượng và phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu của cán

bộ, đảng viên trong công tác vận động trí thức phải kiên quyết, kiên trì thực hiện tốt

Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng

hiện nay”, xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh; thực hiện nghiêm túc nguyên tắc

tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng; ngăn chặn, đẩy lùi

tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên,

trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Tăng cường công tác phòng, chống

tham nhũng, lãng phí, kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét

xử nghiêm những vụ án tham nhũng, trước hết là những vụ nghiêm trọng, phức tạp,

để củng cố niềm tin của trí thức và của nhân dân đối với Đảng.

Đảng phải xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp

trung ương, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội

Page 146: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

142

nhập quốc tế. Xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính

quyền trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, cơ quan, đơn vị, trong công tác vận

động trí thức. Mọi cán bộ, đảng viên phải không ngừng rèn luyện đạo đức cách

mạng, kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, xây dựng

lối sống lành mạnh, tham gia thực hiện cuộc vận động chính trị “Học tập và làm

theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” với quyết tâm cao nhất là ngăn chặn và đẩy

lùi sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và tham nhũng trong cán bộ,

đảng viên, nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ, tính chiến đấu của toàn Đảng

và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các

cấp, cán bộ trực tiếp làm công tác vận động trí thức để phát huy vai trò lãnh đạo của

Đảng trong lãnh đạo công tác vận động trí thức.

Ngoài trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên, Đảng phải đổi mới sự lãnh

đạo để động viên các gia đình, dòng họ và mỗi công dân trách nhiệm tham gia vào

vào công tác vận động trí thức. Tham gia tích cực vào việc khuyến học, khuyến tài,

trao quỹ khuyến học, khuyến tài, vinh danh con cháu đạt thành tích cao trong học

tập chính là những hành động cụ thể để xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí

thức. Bản thân đội ngũ trí thức

Đảng cũng cần phải đổi mới sự lãnh đạo để động viên đội ngũ trí thức không

ngừng học tập, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, phẩm chất, trình độ mọi mặt để đóng

góp tích cực vào xây dựng những luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối,

chủ trương, chính sách của Ðảng và Nhà nước, góp phần làm sáng tỏ con đường

phát triển của đất nước và giải đáp những vấn đề mới phát sinh trong sự nghiệp đổi

mới; trực tiếp đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao dân trí và bồi dưỡng nhân tài; sáng

tạo những công trình có giá trị về tư tưởng và nghệ thuật, nhiều sản phẩm chất

lượng cao, có sức cạnh tranh; từng bước nâng cao trình độ khoa học và công nghệ

của đất nước, vươn lên tiếp cận với trình độ của khu vực và thế giới.

4.2.6. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức của trí thức

Cùng với cấp ủy đảng, chính quyền đoàn thể các cấp, các tổ chức của trí thức

đóng một vai trò rất quan trọng trong công tác vận động trí thức. Để tiếp tục đổi

mới sự lãnh đạo của Đảng đối với trí thức cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện

tốt một số nội dung sau:

Page 147: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

143

Một là, Đảng tiếp tục lãnh đạo củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt

động của các tổ chức đảng trong các cơ quan nghiên cứu, ứng dụng khoa học và

các cơ sở giáo dục - đào tạo để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác

vận động trí thức.

Đảng đoàn, Ban Cán sự Đảng và các cấp ủy cần quan tâm chỉ đạo củng cố,

nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức đảng trong các cơ quan nghiên cứu,

ứng dụng khoa học và các cơ sở giáo dục - đào tạo để các tổ chức đảng thực sự là

hạt nhân chính trị lãnh đạo các hoạt động ở các cơ quan đó và lãnh đạo đội ngũ trí

thức, phát huy vai trò của họ trong công cuộc đổi mới. Thực hiện tốt quy định của

Trung ương về chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức đảng trong các cơ quan đó.

Cần nghiên cứu và chỉ đạo việc xây dựng, củng cố hợp lý các cơ quan nghiên cứu

và triển khai khoa học, công nghệ. Làm tốt công tác quy hoạch đối với các chức

danh cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt của các đơn vị nghiên cứu và giảng dạy ở

các viện, các trường đại học trọng điểm…, trên cơ sở xuất phát từ nhiệm vụ chính

trị, nhiệm vụ tổ chức của các đơn vị đó; đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ khoa

học hiện có; dự kiến nhu cầu và khả năng phát triển của đội ngũ cán bộ lãnh đạo,

quản lý để chủ động có phương hướng đào tạo, bồi dưỡng. Đặc biệt chú trọng tạo

được nguồn cán bộ dồi dào, đủ tiêu chuẩn để kịp thời đáp ứng yêu cầu. Đồng thời,

các cấp ủy đảng phải định kỳ kiểm tra, điều chỉnh quy hoạch cán bộ của đơn vị

mình cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế của cơ quan và yêu cầu nhiệm

vụ chính trị trong từng giai đoạn. Mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt trong lĩnh

vực khoa học - công nghệ phải tích cực chuẩn bị người thay thế mình. Mỗi chức

danh phấn đấu có từ 2 đến 3 người dự bị và phải do tập thể lựa chọn và bồi dưỡng.

Khi cán bộ lãnh đạo cũ sắp kết thúc nhiệm vụ của mình, giao ngày càng nhiều công

việc lãnh đạo cho người cán bộ dự bị có khả năng nhất đảm nhiệm, không để xảy ra

tình trạng người mới thay bị bỡ ngỡ trong công việc.

Hai là, Đảng tiếp tục lãnh đạo củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt

động của các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp của trí thức.

Trong giai đoạn hiện nay, các thế lực thù địch đang ra sức tìm cách phá hoại

sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, với những thành quả và tác động của cuộc

Page 148: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

144

cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, chúng lợi dụng các phương tiện thông tin

đại chúng để tuyên truyền tư tưởng phản động, đi ngược lại đường lối, chủ trương

của Đảng, đặc biệt là chia rẽ, làm mất lòng tin của trí thức với Đảng. Do đó, tăng

cường sự lãnh đạo của Đảng đối với trí thức là nhiệm vụ cấp thiết. Điều này không

có nghĩa là Đảng sẽ quản lý, can thiệp trực tiếp vào các hoạt động của các tổ chức

hội, mà thông qua các tổ chức Đảng để lãnh đạo củng cố, kiện toàn, nâng cao chất

lượng hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp của trí thức.

Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, trước hết cần củng cố, kiện toàn, nâng

cao chất lượng hoạt động của các tổ chức đảng như Đảng đoàn, Đảng ủy, Chi ủy

trong các tổ chức hội để các tổ chức đảng thực sự là hạt nhân chính trị lãnh đạo các

hoạt động ở các cơ quan đó và lãnh đạo đội ngũ trí thức, phát huy vai trò của họ

trong công cuộc đổi mới. Thực hiện tốt quy định của Trung ương về chức năng,

nhiệm vụ của các tổ chức đảng trong các cơ quan đó.Cần nghiên cứu và chỉ đạo

việc xây dựng, củng cố hợp lý tổ chức bộ máy các hội phù hợp với điều lệ của các

tổ chức theo hướng tinh gọn, thiết thực hiệu quả. Chú trọng công tác cán bộ từ quy

hoạch, cơ cấu, bầu cử tại các đại hội, đề bạt, bổ nhiệm, bố trí sử dụng. Khắc phục

những yếu kém khuyết điểm trong công tác cán bộ, tình trạng hữu khuynh, tình

trạng vô tổ chức trong công tác cán bộ của một số hội trí thức trong thời gian qua.

Đảng Đoàn, các tổ chức đảng trong các hội của trí thức phải tổ chức quán triệt

sâu rộng và triển khai thực hiện các Nghị quyết của Đảng về trí thức và vận động trí

thức, đặc biệt là về KH&CN, GD&ĐT. Bên cạnh đó, cần nâng cao công tác phát triển

Đảng trong các hội ngành từ Trung ương đến địa phương. Thông qua các chi bộ,

đảng viên, thực hiện sự lãnh đạo đối với đội ngũ trí thức thuộc các tổ chức hội.

Cùng với việc củng cố, tổ chức bộ máy và công tác cán bộ, cần phải chủ

động đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của các tổ chức hội từ Trung ương

đến địa phương, tạo môi trường lành mạnh để phát huy năng lực sáng tạo và nâng

cao phẩm chất đạo đức của đội ngũ trí thức. Đổi mới cách thức tập hợp lực lượng

nhằm thu hút đông đảo các thành phần trí thức tham gia vào tổ chức hội. Trong giai

đoạn hiện nay, cần nghiên cứu để thành lập các loại hình tổ chức phù hợp theo qui

định của pháp luật để thu hút trí thức KH&CN người Việt Nam ở nước ngoài, trí

Page 149: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

145

thức có trình độ chuyên môn cao, trí thức trẻ tài năng tham gia xây dựng đất nước

trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tạo điều kiện để các hội trí thức thực

hiện các dịch vụ công, tham gia cấp chứng chỉ hành nghề, giám sát hoạt động nghề

nghiệp, thực hiện tự chủ về tài chính. Việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn phải

trên cơ sở đề cao tính hiệu quả, chất lượng, tránh tình trạng “công chức hóa” “hành

chính hóa” hoạt động của hội. Xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa hội với các

tổ chức của Đảng và Nhà nước, giữa các hội thành viên; giữa Trung ương và địa

phương. Đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động và phát huy vai trò của tổ chức

hội ở địa phương trên cơ sở gắn với chiến lược phát triển KT - XH ở địa phương.

Hoàn thiện cơ chế hoạt động của Hội và các hội thành viên trong tư vấn, phản biện,

giám định xã hội nhằm tập hợp, thu hút trí tuệ của đội ngũ trí thức đóng góp ý kiến

vào các dự thảo văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước; tham mưu, đề xuất với

Đảng, Nhà nước những vấn đề lớn trong quá trình xây dựng đường lối, chủ trương,

chính sách phát triển đất nước; phản biện, giám định các chương trình, dự án, đề án

lớn về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.

Page 150: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

146

KẾT LUẬN

Trí thức là vốn quý của dân tộc, là lực lượng tiêu biểu, thể hiện trình độ trí

tuệ của một quốc gia. Dù ở thời đại nào, chế độ chính trị nào, các quốc gia đều phải

chăm lo xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trong xây dựng và bảo vệ

Tổ quốc.

Trong thời đại ngày nay, nhân loại đang chứng kiến sự phát triển như vũ bão

của cuộc cách mạng KH&CN Sự phát triển ấy đang đưa nền kinh tế của một số

nước trên thế giới chuyển sang giai đoạn mới - KTTT. Trong giai đoạn này, tri thức,

KH&CN không chỉ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, là động lực quan trọng

hàng đầu, mà còn là nguồn tài nguyên quý giá hơn nhiều so với các nguồn tài

nguyên khác. Vì thế, xây dựng đội ngũ trí thức, phát triển nguồn nhân lực chất

lượng cao đang là một trong những vấn đề chiến lược, có tính ưu tiên hàng đầu đối

với tất cả các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển. Để thực

hiến tốt chiến lược này, các quốc gia phải quan tâm tới việc phát huy vai trò của trí

thức trong quá trình phát triển đất nước. Bởi vì, trí thức vừa là một bộ phận của

nguồn lực con người, vừa là nguồn tiềm năng khoa học, kỹ thuật, trực tiếp góp phần

vào việc nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước. Trí thức ngày càng

giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển của các quốc gia, dân tộc.

Đối với Việt Nam để thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH xây

dựng và phát triển kinh tế tri thức cần phải xây dựng một đội ngũ trí thức với số

lượng hợp lý chất lượng cao. Muốn đạt được điều đó, cần phải đổi mới sự lãnh đạo

của Đảng đối với công tác vận động trí thức. Đây là vấn đề có tính chiến lược, lâu

dài, đòi hỏi sự nỗ lực cố gắng của Đảng và hệ thống chính trị, của các ngành, các cấp

và toàn xã hội. Qua nghiên cứu, tác giả luận án rút ra một số nhận định khái quát sau:

1. Trí thức là những người lao động trí óc, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri

thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội, là lực

lượng nòng cốt trong sự nghiệp CNH, HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bên cạnh

những mặt mạnh, những ưu điểm, đội ngũ trí thức cũng còn bộc lộ nhiều hạn chế,

khuyết điểm cần được khắc phục kịp thời thì mới đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ

mới của đất nước.

Page 151: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

147

2. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đánh giá

cao vai trò vị trí của đội ngũ trí thức, luôn quan tâm chăm lo đoàn kết, tập hợp và

phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

3. Công tác vận động trí thức là một nhiệm vụ quan trọng trong công tác

dân vận và là nhiệm vụ, trách nhiệm của Đảng, của hệ thống chính trị và toàn xã

hội. Để làm tốt công tác vận động trí thức cần phải nắm vững quan điểm của chủ

nghĩa Mác - Lênin. Tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức và vận động trí thức, phải

nắm được vai trò đặc điểm của trí thức để xác định nội dung phương thức vận

động phù hợp.

4. Cùng với quá trình đổi mới đất nước, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng nói

chung, Đảng cũng đã đổi mới nội dung, phương thức Đảng lãnh đạo công tác vận

động trí thức. Quá trình đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động

trí thức đã huy động được sức mạnh tổng hợp của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ

quốc, các đoàn thể chính trị, các tổ chức xã hội tham gia công tác vận động trí

thức, góp phần xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, góp phần thực

hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy

nhiên, sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức cũng còn bộc lộ

nhiều tồn tại, yếu kém cần khắc phục.

5. Hiện nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế, phát triển

kinh tế tri thức,đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, việc xây dựng và phát huy vai

trò của đội ngũ trí thức càng có ý nghĩa quyết định. Bằng tài năng, trí tuệ, sự

cống hiến của mình, trí thức Việt Nam đang tích cực, chủ động tham gia vào các

ngành, các lĩnh vực của đời sống xã hội. Để xây dựng và phát huy hơn nữa vai

trò của trí thức, việc tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận

động trí thức là một tất yếu khách quan trước những thời cơ, thách thức do thời

đại và thời cuộc đặt ra. Việc đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận

động trí thức đòi hỏi phải tiến hành đồng bộ cả nội dung và phương thức lãnh

đạo, phải đổi mới sự lãnh đạo từ các tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc,

các đoàn thể chính trị và toàn xã hội.

Page 152: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

148

Để tiếp tục làm sáng tỏ vấn đề đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với

công tác vận động trí thức trong những năm tới, còn nhiều vấn đề tác giả luận án

sẽ tập trung nghiên cứu, luận giải trong thời gian tới như: Nắm bắt, quán triệt các

quan điểm, đường lối của Đảng trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ

XII sắp tới, tiếp tục nghiên cứu về thời cơ, thách thức đối với việc đổi mới sự

lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức Việt Nam trong bối cảnh

toàn cầu hóa và phát triển kinh tế tri thức, bổ sung và hoàn thiện các kiến nghị

giải pháp mà mình đã đưa ra. Đó là những vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn

đang đặt ra trong tiến trình đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận

động trí thức trong những năm tới./.

Page 153: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

149

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. “Hà Tĩnh với công tác xây dựng đội ngũ trí thức”, Tạp chí Cộng sản, số 16/2008.

2. “Thực hiện tốt Chỉ thị số 42-CT/TW của Bộ Chính trị (khoá X) về đẩy

mạnh công tác đoàn kết, tập hợp trí thức”, Tạp chí Cộng sản Điện tử [truy

cập ngày 23/5/2012].

3. ”Một số kinh nghiệm về công tác trí thức của Trung Quốc”, Tạp chí Cộng

sản Điện tử [truy cập ngày 31/5/2012].

4. “Kinh nghiệm từ Hiệp Hội Khoa học và Kỹ thuật Trung Quốc”, Tạp chí

Khoa học và Tổ quốc, số 5/2012.

5. “Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Bắc Giang làm tốt công tác tư

vấn, phản biện và giám định xã hội”, Tạp chí Cộng sản Điện tử [truy cập

ngày 4/9/2014].

6. “Trí thức Hà Tĩnh: xưa và nay”, Tạp chí Cộng sản Điện tử. [truy cập ngày

4/6/2014].

7. “Vài suy nghĩ về phản biện xã hội”, Tạp chí Trí thức và Phát triển, số 7/2014.

Page 154: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

150

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lưu Văn An (2014), “Đổi mới nội dung, phương thức cầm quyền của Đảng

trong điều kiện hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị (2).

2. Nguyễn Đức Bách (1995), “Mấy vấn đề cần đổi mới tạo động lực và điều kiện

để trí thức nước ta phất huy tài năng trí tuệ”, Công tác khoa giáo, (4).

3. Nguyễn Đức Bách (2008), “Suy ngẫm và nhận thức về vấn đề trí thức”, Tạp chí

Lý luận chính trị, (9).

4. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2007), Một số lời dạy và mẩu chuyện về

tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh, (5), Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

5. Hoàng Chí Bảo (2008), Dân chủ trong nghiên cứu khoa học xã hội - nhân văn,

một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

6. Nguyễn Quốc Bảo (1998), Trí thức trong công cuộc đổi mới đất nước, Nxb Lao

động, Hà Nội.

7. Nguyễn Quốc Bảo, Đoàn Thị Lịch (đồng chủ biên), (1998), Trí thức trong công

cuộc đổi mới đất nước, Nxb Lao động, Hà Nội.

8. Nguyễn Khánh Bật, Trần Thị Huyền (đồng chủ biên) (2013), Xây dựng đội ngũ

trí thức thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

9. Trịnh Quang Cảnh (2001), Trí thức người dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong

công cuộc đổi mới, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia

Hồ Chí Minh, Hà Nội.

10. Dương Tú Cầm (2011), Báo cáo “Về Chính sách đào tạo và sử dụng trí thức ở

Trung Quốc”, Tổng Thư kí Quỹ học bổng Quốc gia Trung quốc (CSC).

11. Center for Public Integrity (2010), Báo cáo của Trung tâm Minh bạch công ích,

và một số tổ chức khoa học ngoài nhà nước của Hoa Kỳ (USNGOs).

12. China Association of Science Technology - CAST (Hiệp Hội Khoa học và Kỹ

thuật Trung Quốc) (2011), Báo cáo “về tình hình đội ngũ trí thức Trung

Quốc và hoạt động của CAST”.

13. Chính phủ (2000), Chỉ thị số 14/2000/CT-TTg ngày 01/8 của Thủ tướng Chính

phủ về việc triển khai thực hiện các biện pháp nhằm đẩy mạnh và nâng

cao hiệu quả hoạt động của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt

Nam, Hà Nội.

Page 155: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

151

14. Chính phủ (2002), Quyết định số 22/2002/QĐ-TTg ngày 30/01 của Thủ tướng

Chính phủ về hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội của Liên

hiệp các Hội khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Hà Nội.

15. Chính phủ (2003), Nghị định số 88/2003/NĐ-CP ngày 30/7 của Chính phủ quy

định về tổ chức, hoạt động và quản lý Hội, Hà Nội.

16. Chính phủ (2010), Nghị định số 45/2010/NĐ-CP của Chính phủ quy định về tổ

chức, hoạt động và quản lý Hội, Hà Nội.

17. Chính phủ (2012), Quyết định 418/QĐ-TTg, Phê duyệt Chiến lược phát triển

Khoa học và Công nghệ giai đoạn 2011-2020.

18. Chính phủ (2012), Quyết định 711/QĐ-TTg, Phê duyệt Chiến lược phát triển

Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011-2020.

19. Chính phủ (2014), Quyết định số 14/2014/QĐ-TTg ngày 14/02 của Thủ tướng

Chính phủ về hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội của Liên

hiệp các Hội khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Hà Nội.

20. Lý Quang Diệu (1994), Tuyển 40 năm chính luận, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

21. Vương Huy Diệu (2010), Chiến lược quốc gia nhân tài biến đổi thế giới, Nxb

Nhân dân, Hà Nội.

22. Phạm Tất Dong (chủ biên) (1995), Trí thức Việt Nam thực tiễn và triển vọng,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

23. Phạm Tất Dong (1999), “Chính sách của Đảng đối với trí thức”, Tạp chí Kinh

tế và phát triển, (30-31).

24. Phạm Tất Dong (chủ biên) (2001), Định hướng phát triển đội ngũ trí thức

Việt Nam trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

25. Phạm Tất Dong (2003), Tác động của kinh tế thị trường và sự phát triển đội

ngũ trí thức Việt Nam, Tạp chí Khoa giáo (4).

26. Phan Xuân Dũng (Chủ biên) (2008), Công nghệ tiên tiến và công nghệ cao với

tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

27. Phan Viết Dũng (1998), Vị trí, vai trò của tầng lớp trí thức trong thời kỳ quá độ

lên CNXH ở Việt Nam, Luận án Phó tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị

quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

Page 156: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

152

28. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ

quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội.

29. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.

30. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ

quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội.

31. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Nghị quyết số 26-NQ/BCT của Bộ Chính trị

ngày 30/3 về chính sách phát triển khoa học và công nghệ trong sự

nghiệp đổi mới, Hà Nội.

32. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.

33. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp

hành Trung ương khóa VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.

34. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp

hành Trung ương khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

35. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

36. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành

Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

37. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành

Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

38. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Chỉ thị số 45 - CT/TW ngày 11-11 về đẩy

mạnh hoạt động của Ban Chấp hành Trung ương Liên hiệp các Hội Khoa

học và Kỹ thuật Việt Nam, Hà Nội.

39. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp

hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

40. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp

hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

41. Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), Báo cáo một số vấn đề xây dựng và phát huy

vai trò của đội ngũ trí thức và việc xây dựng, phát huy vai trò của trí thức

trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Hà Nội.

Page 157: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

153

42. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

43. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp

hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

44. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp

hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

45. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Thông báo Kết luận số 145-TB/TW ngày 09-

7 của Ban Bí thư về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chỉ thị số 45-CT/TW

đối với Liên hiệp các Hội khoa học và Kỹ thuật Việt Nam trong giai đoạn

từ nay đến năm 2010, Hà Nội.

46. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

47. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành

Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

48. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Nghị quyết số: 23-NQ/TW, ngày 16-6 -2008

của Bộ Chính trị về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học nghệ thuật

trong thời kỳ mới.

49. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp

hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

50. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Chỉ thị số 42-CT/TW ngày 16-4-2010 của Bộ

Chính trị về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động

của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam trong thời kỳ đẩy

mạnh CNH, HĐH đất nước.

51. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

52. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành

Trung ương Đảng khóa XI về Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng

hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

53. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp

hành Trung ương Đảng khóa XI về Phát triển khoa học và công nghệ

phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế

thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; Hà Nội.

Page 158: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

154

54. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Văn kiện Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành

Trung ương khóa XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

55. Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Kết luận số 90-KL/TW ngày 4-3-2014 của

Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa X.

56. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

57. Trần Ngọc Đường (2015), “Nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối

với Quốc hội ở nước ta hiện nay”, http://quochoi.vn, ngày 15-10.

58. Nguyễn An Hà (chủ biên), Cộng đồng và đội ngũ trí thức người Việt Nam

ở một số nước Đông Âu những năm đầu thế kỷ XXI.

59. Phạm Minh Hạc (1999), Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

60. Nguyễn Hoàng Hải (2002), “Để trí thức trẻ tiến vào kinh tế tri thức”, Tạp chí

Cộng sản, (17).

61. Vũ Ngọc Hải, Đặng Ứng Vận, Đào Thái Lai (2010), Kinh nghiệm của một số

nước về phát triển giáo dục và đào tạo khoa học và công nghệ gắn với

xây dựng đội ngũ trí thức, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

62. Trần Ngọc Hiên (2008), “Mục tiêu chiến lược của Đảng trong giai đoạn mới và

tính cấp bách xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh”, Tạp chí Cộng sản, (789).

63. Lương Quang Hiển (2012), Đảng bộ thành phố Hà Nội lãnh đạo xây dựng và

phát huy vai trò của đội ngũ trí thức từ năm 1997 đến năm 2007, Luận án

tiến sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

64. Lưu Chấn Hoa (2010), Bàn về công tác xây dựng năng lực cầm quyền của

Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia.

65. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Thông tin khoa học (2004),

“Kinh tế tri thức - cơ hội và thách thức đối với Việt Nam”, Thông tin

chuyên đề, (3).

66. Lưu Tôn Hồng (2004), Nghiên cứu quy luật cầm quyền của Đảng Cộng sản

Trung Quốc.

67. Nguyễn Đắc Hưng (2005), Trí thức Việt Nam trước yêu cầu phát triển đất

nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Page 159: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

155

68. Nguyễn Đắc Hưng (2008), Trí thức Việt Nam tiến cùng thời đại, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

69. Nguyễn Thị Giáng Hương (2013), Vấn đề phát triển nguồn nhân lực nữ chất

lượng cao ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học Học viện Chính

trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

70. Đặng Hữu (2000), Kinh tế tri thức với chiến lược phát triển của Việt Nam, Kỷ

yếu hội thảo khoa học: Kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra với Việt

Nam, Hà Nội.

71. Đặng Hữu (2004), Kinh tế tri thức - Thời cơ và thách thức đối với sự phát triển

của Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

72. Thẩm Vinh Hoa, Ngô Quốc Diệu (Chủ biên) (2008), Tôn trọng trí thức, tôn

trọng nhân tài, kế lớn trăm năm chấn hưng đất nước, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

73. In pon Nhôt xa vông (1998), Thực trạng và xu hướng biến đổi của nhóm xã hội

trí thức trong quá trình phát triển kinh tế xã hội ở Cộng hòa dân chủ

nhân dân Lào, Luận án tiến sĩ Khoa học Chính trị, Học viện Chính trị

Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

74. Nguyễn Văn Khánh (2002), “Trí thức Việt Nam với sự nghiệp đấu tranh giải

phóng dân tộc”, Nghiên cứu lịch sử.

75. Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Quốc Bảo (2001), Một số vấn đề về trí thức Việt

Nam, Nxb Lao động, Hà Nội.

76. Khăm Phăn Vông Pha Chăn (2014), Đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo của hệ

thống chính trị ở Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay, Luận án tiến sĩ

Khoa học Chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

77. Hà Thị Khiết (2014), “Công tác vận động nhân dân của Đảng qua gần 30 năm

đổi mới: Những kết quả chủ yếu, bài học kinh nghiệm và vấn đề đặt ra”,

http://tinhuytthue.vn, ngày 10-4.

78. Hà Thị Khiết (2014), “Tiếp tục đổi mới công tác dân vận của Đảng đáp ứng

yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới”,

http://dangcongsan.vn , ngày 15-4.

79. Vũ Khiêu (1986), “Cơ cấu xã hội của giới trí thức Việt Nam thời xưa”, Xã hội

học, (4).

Page 160: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

156

80. Vũ Khiêu (1986), “Cơ cấu xã hội và sứ mệnh lịch sử của người trí thức Việt

Nam hiện nay”, Xã hội học, (4).

81. Phan Thanh Khôi (1992), Động lực của trí thức trong lao động sáng tạo ở

nước ta hiện nay, Luận án phó tiến sĩ Triết học, Hà Nội.

82. Phan Thanh Khôi (2008), “Đóng góp của đội ngũ trí thức vào chủ trương,

đường lối hội nhập kinh tế quốc tế”, Lý luận chính trị, (3).

83. Phan Thanh Khôi, Nguyễn Văn Sơn (2011), “Các Văn kiện của Đảng tiếp tục

những quan điểm đổi mới đối với trí thức”, Tạp chí Lý luận chính trị, (6).

84. Bùi Thị Ngọc Lan (2000), Phát huy nguồn lực trí tuệ trong công cuộc đổi mới

ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia

Hồ Chí Minh, Hà Nội.

85. Vũ Trọng Lâm (2004), Kinh tế tri thức ở Việt Nam: quan điểm và giải pháp

phát triển, Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.

86. Đặng Mộng Lân (2001), Kinh tế tri thức - Những khái niệm và vấn đề cơ bản,

Nxb Thanh niên, Hà Nội.

87. Nhị Lê (2015), “Đổi mới và tiếp tục giải quyết những vấn đề đặt ra, không

ngừng hoàn thiện phương thức lãnh đạo trong điều kiện Đảng cầm quyền

hiện nay”, http:// tapchicongsan.org.vn, ngày 22-12.

88. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, (8), Nxb Tiến Bộ, Mátxcơva.

89. V.I.Lênin (2005), Toàn tập, (10), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

90. Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị

Hội đồng Trung ương lần thứ tư, nhiệm kỳ IV, Hà Nội.

91. Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (2004), Văn kiện Hội nghị

Hội đồng Trung ương lần thứ tư, nhiệm kỳ V, Hà Nội.

92. Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (2010), Văn kiện Đại hội

Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, nhiệm kỳ 2010-2015, Hà Nội.

93. Nguyễn Thắng Lợi (2009), Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng đội

ngũ trí thức từ 1991 đến 2005, Luận án tiến sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị

quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

94. Trường Lưu (2008), “Xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam ngang tầm với

yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới”, Tạp chí Cộng sản, (791).

Page 161: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

157

95. Lương Công Lý (2014), Giáo dục - đào tạo với việc phát triển nguồn nhân lực

chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện

Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

96. C.Mác - Ph.Ănghen (1994), Toàn tập, (2), Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

97. C.Mác và Ph.Ăng-ghen (1995), Toàn tập, (4), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

98. C.Mác và Ph.Ăng-ghen (1995), Toàn tập, (22), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

99. Meridian International Center (2010), Báo cáo của Trung tâm Quốc tế

Meridian, Hoa Kỳ.

100. Hồ Chí Minh (1976), Về vấn đề trí thức và cách mạng, Nxb Sự thật, Hà Nội.

101. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, (1), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

102. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, (3), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

103. Hồ Chí Minh (1984), Toàn tập, (4), Nxb Sự thật, Hà Nội.

104. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, (5), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

105. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, (8), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

106. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, (10), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

107. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, (7), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

108. Hồ Chí Minh (2001), Toàn tập, (12), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

109. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, (4), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

110. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, (4), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

111. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, (5), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

112. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, (6), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

113. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, (9), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

114. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, (10), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

115. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, (11), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

116. Hồ Chí Minh (2009), Toàn tập, (4), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

117. Đỗ Mười (1995), Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất

nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

118. N. A. Berdaev (2009), Khủng hoảng trí tuệ và sứ mệnh tầng lớp trí thức, Phạm

Nguyên Trường dịch

119. Nguyễn An Ninh (2008), Phát huy tiềm năng trí thức khoa học xã hội Việt

Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Page 162: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

158

120. Lê Hữu Nghĩa (2015), “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống

chính trị ở nước ta”, http://www.tapchicongsan.org.vn, ngày 30.12.

121. Trần Đình Nghiêm chủ biên (2002), Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

122. Okuhina Yasuhiro (1994), Chính trị và kinh tế Nhật Bản, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

123. Phùng Hữu Phú (2008), “Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công

nghiệp hoá, hiện đại hoá”, http://www.cpv.org.vn/, ngày 30.4.

124. Nguyễn Xuân Phương (2004), Vai trò của trí thức thủ đô Hà Nội trong sự

nghiệp CNH, HĐH đất nước, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính

trị quốc gia Hồ Chí Minh Hà Nội.

125. Đặng Thị Minh Phượng (2015), Đảng vận động trí thức trong đấu tranh giải

phóng dân tộc từ năm 1930 đến năm 1945, Luận án tiến sĩ Lịch sử Đảng

Cộng sản Việt Nam, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

126. Nguyễn Duy Quý (1989), “Quá trình vận động và biến đổi cơ cấu xã hội tầng

lớp trí thức Việt Nam”, Xã hội học, (4).

127. Trương Tấn Sang (2008), “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác

thanh niên thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH “, Tạp chí Cộng sản, (8).

128. Trương Tấn Sang (2008), “Đảng, Nhà nước và nhân dân tin tưởng, đặt kỳ vọng vào

những đóng góp tích cực, to lớn, hiệu quả của đội ngũ trí thức”, Nhân dân.

129. Trần Văn Thành (2010), Phát triển đội ngũ trí thức ở Hà Tĩnh trong thời kỳ

đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Luận văn thạc sĩ Triết học, Đại

học Huế.

130. Hồ Bá Thâm, Nguyễn Tôn Thị Tường Vân (Đồng chủ biên) (2010), Phản biện

xã hội và phát huy dân chủ pháp quyền, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

131. The National Science Foundation, National Academy of Science (2010), Báo

cáo của Quỹ khoa học Quốc gia và Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia

Hoa Kỳ.

132. Lê Khả Thọ (2007), “Phát huy vai trò của trí thức Việt Nam trong hội nhập

kinh tế quốc tế”, Cộng sản, (777).

Page 163: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

159

133. Hoàng Thị Thuận (2008), Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, phát huy vai trò

của đội ngũ trí thức và sự vận dụng trong thời kì đổi mới, Luận văn thạc

sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

134. Ngô Huy Tiếp (2008), Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với trí

thức nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

135. Nguyễn Công Trí (2011), Trí thức Việt Nam trong phát triển kinh tế tri thức,

Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

136. Nguyễn Thế Trung (2015), “Đảng cầm quyền và phương thức lãnh đạo của

Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị -

xã hội”, Tạp chí Cộng sản (3).

137. Thân Nhân Trung (1442), “Văn bia đề danh Tiến sỹ khoa Nhâm Tuất, niên

hiệu Đại Bảo năm thứ 3 (1942)”, http://www.hannom.vass.gov.vn/

noidung/vankhac, ngày 10/4/2013.

138. Nguyễn Thanh Tuấn (1998), Một số vấn đề về trí thức Việt Nam, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

139. Trịnh Quốc Tuấn (1995), “Quan điểm và chính sách của V.I. Lênin đối với trí

thức trong cách mạng xã hội chủ nghĩa”, Nghiên cứu lý luận, (4).

140. Trương Văn Tuấn (2015), Xây dựng đội ngũ tri thức tại Thành phố Hồ Chí

Minh trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Luận án

tiến sĩ Triết học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học

Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh.

141. Hoàng Tụy (2008), “Những bài học về chính sách với trí thức”, Tia sáng.

142. Nguyễn Đình Tứ (1996), Đề cương báo cáo tình hình đội ngũ trí thức và công

tác trí thức của Đảng, Hà Nội.

143. Vladimir Alexanderovits Mau, Trí thức, lịch sử và cách mạng - Bút ký về cuộc

sống của nước Nga hiện nay, Ngân Xuyên dịch.

144. Trần Khắc Việt (chủ nhiệm), (2015), Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng

đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội trong

điều kiện mới, mã số KX. 04-02/11/15 thuộc chương trình khoa học xã

hôi và công nghệ trọng điểm cấp Nhà nước

Page 164: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

160

145. Viện Xây dựng Đảng - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2006), Đổi

mới phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với trí thức

nước ta hiện nay, Hà Nội.

146. Đàm Đức Vượng (2010), Xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam giai đoạn 2011-

2020, Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu Đề tài cấp nhà nước, Hà Nội.

147. Nguyễn Như Ý (chủ biên), (1998), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa -

Thông tin, Hà Nội.

Page 165: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

161

PHỤ LỤC

Phụ lục 1

PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC

CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Với mục tiêu đưa ra những đánh giá thực trạng, phương hướng và giải pháp đổi mới

sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức, chúng tôi tiến hành thu

thập thông tin đánh giá từ ông/bà về công tác vận động trí thức của Đảng Cộng sản

Việt Nam(CSVN) trong giai đoạn hiện nay. Ông/Bà đồng ý với phương án nào xin

đánh dấu X vào ô vuông cùng dòng. Không đồng ý xin để trống ô vuông .

Xin chân thành cảm ơn sự cộng tác của Ông/Bà!

I. THÔNG TIN CÁ NHÂN

1. Tuổi: Xin Ông/Bà cho biết độ tuổi của bản thân:

< 35 tuổi 1 35-45 tuổi 2

46-55 tuổi 3 56- 60 tuổi 4

> 60 tuổi 5

2. Giới tính:

Nam 1 Nữ 2

3. Trình độ học vấn:

Cao đẳng 1 Đại học 2

Thạc sĩ 3 Tiến sĩ 4

4. Học hàm:

Giáo sư 1 Phó Giáo sư 2

5. Trình độ lý luận:

Sơ cấp 1 Trung cấp 2 Cao cấp 3

6. Trình độ ngoại ngữ:

Trình độ ngoại ngữ: A B C

+ Tiếng Anh 1 2 3

+ Tiếng Nga 1 2 3

+ Tiếng Đức 1 2 3

+ Tiếng Trung Quốc 1 2 3

+ Ngoại ngữ khác 1 2 3

Page 166: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

162

7. Loại hình tổ chức đang công tác:

+ Tổ chức hành chính Đảng/HĐND/Quốc hội 1

+ Tổ chức hành chính Chính quyền 2

+ Tổ chức chính trị-xã hội, xã hội-nghề nghiệp 3

+ Doanh nghiệp Nhà nước 4

+ Doanh nghiệp tư nhân 5

+ Tổ chức Phi chính phủ 6

+ Đơn vị sự nghiệp (trường học, bệnh viện, viện nghiên cứu...) 7

+ Khác (ghi rõ)

8. Cấp độ của loại hình tổ chức đang công tác

Cấp Trung ương 1

Cấp Tỉnh/Thành phố 2

Cấp Quận/Huyện 3

Cấp Xã/Phường 4

9. Hiện nay Ông/Bà có phải là Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam không ?

Có 1 Không 2

II. KHẢO SÁT VỀ CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC CỦA ĐẢNG

Câu 1. Theo Ông/Bà , từ khi thành lập đến nay Đảng CSVN đánh giá thế

nào về vai trò của trí thức trong: cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng

xã hội chủ nghĩa ?

Vai trò Cách mạng dân

tộc dân chủ

Cách mạng xã

hội chủ nghĩa

Thời kỳ đổi mới

hiện nay

1. Rất quan trọng 1 2 3

2. Quan trọng 1 2 3

3. Bình thường 1 2 3

4. Ít quan trọng 1 2 3

5. Khó đánh giá 1 2 3

Page 167: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

163

Câu 2. Ông/Bà đánh giá thế nào về mức tuyên truyền vận động của Đảng

CSVN với trí thức trong Đảng CSVN ?

Mức độ tuyên

truyền

Cách mạng dân

tộc dân chủ

Cách mạng xã hội

chủ nghĩa

Thời kỳ đổi mới

hiện nay

1. Rất tích cực 1 2 3

2. Tích cực 1 2 3

3. Bình thường 1 2 3

4. Chưa tích cực 1 2 3

5. Khó đánh giá 1 2 3

Câu 3. Ông/Bà đã tiếp nhận sự tuyên truyền vận động của Đảng CSVN đối

với những hình thức nào sau đây:

1. Phổ biến chỉ thị, nghị quyết của Đảng về trí thức 1

2. Phổ biến chính sách và các văn bản pháp luật liên quan đến trí thức 2

3. Học tập những tấm gương tốt của trí thức 3

4. Cán bộ đảng đến tuyên truyền và vận động 4

5. Tuyên truyền qua gương đảng viên/ quần chúng tốt 5

6. Cách khác ( ghi rõ):

Câu 4. Theo Ông/Bà cách thức tuyên truyền nào là hiệu quả ? (Chọn 3

phương án và đánh số thứ tự từ 1-3 theo mức độ hiệu quả của các phương án:

1-Hiệu quả nhất; 2-Hiệu quả thứ hai; 3-Hiệu quả thứ ba)

1. Phổ biến chỉ thị, nghị quyết của Đảng về trí thức 1

2. Phổ biến chính sách và các văn bản pháp luật liên quan đến trí thức 2

3. Học tập những tấm gương tốt của trí thức 3

4. Cán bộ đảng đến tuyên truyền và vận động 4

5. Tuyên truyền qua gương đảng viên/quần chúng tốt 5

6. Cách khác (ghi rõ)

Page 168: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

164

Câu 5. Mức tiếp thu những nội dung tuyên truyền nào sau đây của Đảng đối với Ông/Bà thế nào?

Nội dung tuyên truyền: Rất tốt

Tốt Bình

thường Chưa

tốt Khó

đánh giá1. Đường lối, quan điểm của Đảng 1 2 3 4 5 2. Chính sách, pháp luật của Nhà nước 1 2 3 4 5 3. Đại đoàn kết dân tộc 1 2 3 4 5 4. Đường lối đối ngoại 1 2 3 4 5 5. Vai trò của trí thức Việt Nam 1 2 3 4 5 6. Vận động trí thức vào Đảng 1 2 3 4 5 7. Vai trò của liên minh công nhân-nông dân-trí thức

1 2 3 4 5

8. Khác 1 2 3 4 5 Câu 6. Theo Ông/Bà, mức độ thực hiện các chính sách khuyến khích trí thức của nhà nước hiện nay thế nào?

Rất tốt

Tốt Bình

thường Chưa

tốt Khó

đánh giá1. Đảm bảo các điều kiện làm việc + Phòng làm việc 1 2 3 4 5 + Trang thiết bị 1 2 3 4 5 + Cơ chế/ chính sách 1 2 3 4 5 2. Đảm bảo điều kiện sống + Nhà ở 1 2 3 4 5 + Lương 1 2 3 4 5 + Tiền thưởng/phụ cấp 1 2 3 4 5 + Điều kiện đi lại 1 2 3 4 5 + Khác 1 2 3 4 5 3. Giáo dục, đào tạo + Đào tạo chính thức 1 2 3 4 5 + Đào tạo phi chính thức 1 2 3 4 5 + Đào tạo lại 1 2 3 4 5 4. Động viên về tinh thần + Vinh danh trí thức giỏi 1 2 3 4 5 + Tôn trọng trí thức 1 2 3 4 5 + Lãnh đạo Đảng/Nhà nước thăm hỏi, động viên 1 2 3 4 5 + Khác 1 2 3 4 5 5. Có chính sách quản lý, sử dụng trí thức phù hợp

+ Chính sách tự do sáng tạo 1 2 3 4 5 + Phát huy quyền dân chủ 1 2 3 4 5 + Kết hợp 4 nhà (nhà khoa học, nhà quản lý, nhà sản xuất và người lao động...)

1 2 3 4 5

Page 169: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

165

Câu 7. Theo ông/bà, trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức và toàn cầu

hóa hiện nay, Đảng và Nhà nước cần thiết phải đổi mới chính sách với trí

thức ở mức độ nào?

Rất cần thiết 1 Cần thiết 2

Bình thường 3 Chưa cần thiết 4

Câu 8. Theo Ông/Bà nếu rất cần thiết và cần thiết phải đổi mới chính sách

với trí thức thì đổi mới như thế nào?

8. 1. Coi trí thức là nhóm xã hội có vai trò đặc biệt quan trọng trong

phát triển đất nước

1

8.2. Đưa thêm trí thức vào Đảng 2

8.3. Tranh thủ ý kiến của trí thức trong hoạch định đường lối chính

sách

3

8.4. Đưa trí thức vào các cương vị lãnh đạo hệ thống chính trị 4

8.5. Gắn trí thức với quá trình phát triển kinh tế-xã hội thống qua cơ

chế liên kết 4 nhà.

5

8.6. Tạo điều kiện cho trí thức học tập, nâng cao trình độ ở các cơ sở

giáo dục trong và ngoài nước

6

8.7. Chống tiêu cực trong sử dụng, cất nhắc, đề bạt trí thức 7

Các khuyến nghị khác (ghi rõ): ................................................................................................................................. ................................................................................................................................. ................................................................................................................................. ................................................................................................................................. .................................................................................................................................

................................................................................................................................. Xin chân thành cảm ơn Ông/Bà !

Page 170: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

166

Phụ lục 2

TỔNG HỢP KẾT QUẢ PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN

Để phục vụ cho việc viết luận án tiến sĩ, đề tài “Đổi mới sự lãnh đạo của

Đảng đối với công tác vận động trí thức trong giai đoạn hiện nay”, trong quý

I/2015, tác giả luận án đã tiến hành khảo sát trưng cầu ý kiến về công tác vận động

trí thức của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Đối tượng khảo sát

chủ yếu tập trung trong các trí thức có học vấn từ trình độ cao đẳng trở lên đang công tác

trong các cơ quan Liên hiệp các Hội Khoa học các Kỹ thuật Việt Nam và Liên hiệp các Hội

Khoa học các Kỹ thuật tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, các Hội Khoa học và Kỹ thuật

chuyên ngành, các đơn vị khoa học và công nghệ ngoài công lập (Viện, Trung tậm, Liên

hiệp…). Địa bàn khảo sát gồm các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong cả nước.

Tổng số phiếu phát ra là 600 phiếu, tổng số phiếu thu về là 500 phiếu, đạt tỷ lệ 83,6 %. Kết

quả thu được như sau:

I. THÔNG TIN CÁ NHÂN

1. Tuổi: Xin Ông/Bà cho biết độ tuổi của bản thân:

Độ tuổi Tỷ lệ < 35 tuổi 30,6

35-45 tuổi 22,6 46-55 tuổi 14,0 56- 60 tuổi 7,4 > 60 tuổi 25,4

2. Giới tính:

Giới tính Tỷ lệ Nam 60,5 Nữ 39,5

3. Trình độ học vấn:

Trình độ học vấn Tỷ lệ Cao đẳng 3,2 Đại học 56,3 Thạc sĩ 25,9 Tiến sĩ 14,6

4. Học hàm:

Học hàm Tỷ lệ Giáo sư 3,6

Phó Giáo sư 5,6

Page 171: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

167

5. Trình độ lý luận: Trình độ lý luận Tỷ lệ

Sơ cấp 22,2 Trung cấp 22,8 Cao cấp 37,8

6. Trình độ ngoại ngữ:

Trình độ Ngoại ngữ A B C

+ Tiếng Anh 14,6 36,2 36,8 + Tiếng Nga 3,6 6,8 11,0 + Tiếng Đức 0,6 0,6 1,0 + Tiếng Trung Quốc 2,6 1,8 1,2 + Ngoại ngữ khác 1,8 1,2 7,0

7. Loại hình tổ chức đang công tác:

Cơ quan công tác Tỷ lệ + Tổ chức hành chính Đảng/HĐND/Quốc hội 4,4 + Tổ chức hành chính Chính quyền 16,6 + Tổ chức chính trị-xã hội, xã hội-nghề nghiệp 51 + Doanh nghiệp Nhà nước 5,2 + Doanh nghiệp tư nhân 1,0 + Tổ chức Phi chính phủ 7,6 + Đơn vị sự nghiệp (trường học, bệnh viện, viện nghiên cứu...) 11,2 + Khác (ghi rõ) 3,0

8. Cấp độ của loại hình tổ chức đang công tác

Cấp Tỷ lệ Cấp Trung ương 46,4 Cấp Tỉnh/Thành phố 45,4 Cấp Quận/Huyện 2,8 Cấp Xã/Phường 0,2

9. Hiện nay Ông/Bà có phải là Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam không ?

Người trả lời Tỷ lệ Đảng viên 76,2

Không là đảng viên 18,8

Page 172: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

168

II. KHẢO SÁT VỀ CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC CỦA ĐẢNG

Câu 1. Theo Ông/Bà , từ khi thành lập đến nay Đảng CSVN đánh giá thế nào về vai

trò của trí thức trong: cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa ?

Vai trò Cách mạng dân

tộc dân chủ

Cách mạng xã hội

chủ nghĩa

Thời kỳ đổi mới

hiện nay

1. Rất quan trọng 51,2 43,6 54,4

2. Quan trọng 30,6 36,4 27,2

3. Bình thường 9,2 11,8 10,0

4. Ít quan trọng 2,6 1,0 1,8

5. Khó đánh giá 2,0 1,8 2,0

Câu 2. Ông/Bà đánh giá thế nào về mức tuyên truyền vận động của Đảng CSVN với

trí thức trong Đảng CSVN ?

Mức độ

tuyên truyền

Cách mạng dân

tộc dân chủ

Cách mạng xã hội

chủ nghĩa

Thời kỳ đổi mới hiện

nay

1. Rất tích cực 36 23,6 28,6

2. Tích cực 39,6 50,2 40,4

3. Bình thường 14,6 19,2 22,2

4. Chưa tích cực 3,4 1,2 4,0

5. Khó đánh giá 1,6 1,0 1,8

Câu 3. Ông/Bà đã tiếp nhận sự tuyên truyền vận động của Đảng CSVN đối với những

hình thức nào sau đây:

Phương thức tuyên truyền vận động Tỷ lệ

1. Phổ biến chỉ thị, nghị quyết của Đảng về trí thức 78,2

2. Phổ biến chính sách và các văn bản pháp luật liên quan đến trí thức 64,0

3. Học tập những tấm gương tốt của trí thức 43,6

4. Cán bộ đảng đến tuyên truyền và vận động 16,6

5. Tuyên truyền qua gương đảng viên/ quần chúng tốt 33,0

6. Cách khác ( ghi rõ): 1111,0

Page 173: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

169

Câu 4. Theo Ông/Bà cách thức tuyên truyền nào là hiệu quả ? (Chọn 3 phương án và

đánh số thứ tự từ 1-3 theo mức độ hiệu quả của các phương án: 1-Hiệu quả nhất; 2-Hiệu

quả thứ hai; 3-Hiệu quả thứ ba)

Cách thức tuyên truyền Hiệu quả

nhất

Hiệu quả

thứ hai

Hiệu quả

thứ ba

Không

lựa chọn

1. Phổ biến chỉ thị, nghị quyết của Đảng về trí

thức

33,4 10,4 25,6 29,2

2. Phổ biến chính sách và các văn bản pháp lu

liên quan đến trí thức

20,6 40,4 19,0 18,8

3. Học tập những tấm gương tốt của trí thức 26,2 27 21,6 24,0

4. Cán bộ đảng đến tuyên truyền và vận động 5,0 7,2 8,8 77,8

5. Tuyên truyền qua gương đảng viên/quần

chúng tốt

13,0 11,8 19,8 54,4

6. Cách khác (ghi rõ) 1,2 0,8 0,8 93,6

Câu 5. Mức tiếp thu những nội dung tuyên truyền nào sau đây của Đảng đối với

Ông/Bà thế nào?

Nội dung tuyên truyền: Rất

tốt Tốt

Bình

thường Chưa tốt

Khó

đánh

giá

1. Đường lối, quan điểm của Đảng 26,6 48,6 18,0 2,4 1,2

2. Chính sách, pháp luật của Nhà nước 21,8 45,8 22,8 4,2 0,6

3. Đại đoàn kết dân tộc 15,4 41,8 28,6 4,0 1,8

4. Đường lối đối ngoại 9,6 36,0 34,4 5,0 3,0

5. Vai trò của trí thức Việt Nam 13,8 38,8 29,8 5,8 2,2

6. Vận động trí thức vào Đảng 11,4 29,8 34,0 10,0 1,2

7. Vai trò của liên minh công nhân-nông dân-

trí thức 10,8 30,0 30,8 12,2 5,2

8. Khác 1,0 5,6 13,2 1,6 1,8

Page 174: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

170

Câu 6. Theo Ông/Bà, mức độ thực hiện các chính sách khuyến khích trí thức của nhà

nước hiện nay thế nào?

Rất

tốt Tốt

Bình

thường

Chưa

tốt

Khó

đánh

giá

1. Đảm bảo các điều kiện làm việc

+ Phòng làm việc 6,4 20,0 51,2 17,2 1,2

+ Trang thiết bị 5,8 17,6 50,4 18,8 1,4

+ Cơ chế/ chính sách 2,8 14,4 38,4 33,0 3,8

2. Đảm bảo điều kiện sống

+ Nhà ở 2,2 3,6 40,8 42,0 5,0

+ Lương 1,2 3,6 36,8 50,8 2,8

+ Tiền thưởng/phụ cấp 1,0 4,2 32,2 49,0 4,2

+ Điều kiện đi lại 1,2 4,8 39,0 41,0 4,0

+ Khác 1,0 2,8 18,8 7,2 4,6

3. Giáo dục, đào tạo

+ Đào tạo chính thức 4,8 31,2 43,4 10,4 3,4

+ Đào tạo phi chính thức 3,0 13,8 46,0 21,8 5,0

+ Đào tạo lại 1,8 11,8 40,6 27,2 5,2

4. Động viên về tinh thần

+ Vinh danh trí thức giỏi 6,6 28,8 44,0 13,6 1,6

+ Tôn trọng trí thức 4,8 24,0 40,8 21,8 1,6

+ Lãnh đạo Đảng/Nhà nước thăm hỏi, động viên 4,4 18,6 43,2 20,4 6,0

+ Khác 0,8 2,8 17,6 4,6 4,2

5. Có chính sách quản lý, sử dụng trí thức phù hợp

+ Chính sách tự do sáng tạo 4,0 18,4 46,8 22,2 3,6

+ Phát huy quyền dân chủ 4,2 19,6 43,6 24,8 3,0

+ Kết hợp 4 nhà (nhà khoa học, nhà quản lý, nhà sản

xuất và người lao động...) 3,2 11,0 40,0 35,0 3,6

Page 175: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

171

Câu 7. Theo ông/bà, trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức và toàn cầu hóa hiện

nay, Đảng và Nhà nước cần thiết phải đổi mới chính sách với trí thức ở mức độ nào?

Mức độ cần đổi mới chính sách đối

với trí thức Tỷ lệ

Rất cần thiết 84,8

Cần thiết 13,6

Bình thường 0,4

Chưa cần thiết 0,0

Câu 8. Theo Ông/Bà nếu rất cần thiết và cần thiết phải đổi mới chính sách với trí

thức thì đổi mới như thế nào?

8. 1. Coi trí thức là nhóm xã hội có vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển

đất nước

86,4

8.2. Đưa thêm trí thức vào Đảng 44,0

8.3. Tranh thủ ý kiến của trí thức trong hoạch định đường lối chính sách 70,4

8.4. Đưa trí thức vào các cương vị lãnh đạo hệ thống chính trị 51,0

8.5. Gắn trí thức với quá trình phát triển kinh tế-xã hội thống qua cơ chế liên

kết 4 nhà.

59,8

8.6. Tạo điều kiện cho trí thức học tập, nâng cao trình độ ở các cơ sở giáo dục

trong và ngoài nước

64,6

8.7. Chống tiêu cực trong sử dụng, cất nhắc, đề bạt trí thức 63,4

Page 176: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

172

Phụ lục 3

Biểu 1. ĐỘI NGŨ TRI THỨC ĐANG LÀM VIỆC TRONG NỀN KINH TẾ

(2002-2012)

(Chỉ tính những cán bộ có trình độ từ cao đẳng trở lên)

Số người đang làm việc 2002 2007 2012

A B C 1 2 3

1 Cả nước Tổng số ( CĐ, ĐH, trên ĐH) 1.843.485 3.197.633 6.107.301

Chia ra:

- Cao đẳng 415.045 700.828 1.112.482

- Đại học 1.032.983 1.848.143 4.063.967

- Trên Đại học 395.457 648.662 930.852

Trong đó:

+ Thạc sĩ 30.078 78.425 101.284

+ Tiến sĩ 13.178 17.996 24.341

CƠ CẤU (%)

Tổng số ( CĐ, ĐH, trên ĐH) 100 100 100

- Cao đẳng 22,51 21,92 18,22

- Đại học 56,03 57,80 66,54

- Trên Đại học 21,45 20,29 15,24

Trong đó:

+ Thạc sĩ 1,63 2,45 1,66

+ Tiến sĩ 0,71 0,56 0,40

Nguồn: Tổng cục Thống kê.

Page 177: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

173

Biểu 2. ĐỘI NGŨ TRI THỨC ĐANG LÀM VIỆC PHÂN THEO VÙNG KINH TẾ

(Chỉ tính những cán bộ có trình độ từ cao đẳng trở lên)

Số người đang làm việc 2002 2007 2012

A B C 1 2 3

2 Cả nước Tổng số 1.843.485 3.197.633 6.107.301

Chia ra:

Đồng bằng Sông Hồng 579.393 1.006.280 2.102.129

Miền núi và Trung du phía Bắc 211.571 350.981 583.862

Bắc Trung bộ và Duyên hải miền

Trung 312.2 86 526.149 986.344

Tây Nguyên 71.196 123.632 233.938

Đông Nam Bộ 34.823 759.017 1.410.912

Đồng bằng Sông Cửu Long 174.806 307.302 643.858

Không phân vùng 458.410 124.2 72 146.258

Cơ cấu (%)

Cả nước 100 100 100

Đồng bằng Sông Hồng 31,43 31,47 34,42

Miền núi và Trung du phía Bắc 11,48 10,98 9,56

Bắc Trung bộ và Duyên hải miền

Trung 16,99 16,45 16,15

Tây Nguyên 3,86 3,87 3,83

Đông Nam Bộ 1,89 23,74 23,10

Đồng bằng Sông Cửu Long 9,48 9,61 10,54

Không phân vùng 24,87 3,89 2,39

Nguồn: Tổng cục Thống kê

Page 178: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

174

Biểu 3. ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC ĐANG LÀM VIỆC PHÂN THEO LOẠI HÌNH ĐƠN VỊ

Đơn vị: Người

Số người đang làm việc 2002 2007 2012

A B C 1 2 3

26 Cả nước Tổng số (CĐ, ĐH, trên ĐH) 1.843.485 3.197.633 6.107.301

Chia ra:

1. Đơn vị kinh tế

Tổng số 571.114 1.267.479 3.031.546

Chia ra

- Cao đẳng 83.952 273.623 904.021

- Đại học 467.397 938.630 2.032.604

- Trên Đại học 19.765 55.226 94.921

Trong đó:

+ Thạc sĩ 6.829 20.839 29.105

+ Tiến sĩ 2.545 3.082 3.354

2. Đơn vị hành chính sự nghiệp

Tổng số 1.272.371 1.920.073 3.052.890

Chia ra

- Cao đẳng 331.093 424.320 194.430

- Đại học 565.586 903.419 2.080.741

- Trên Đại học 375.692 592.334 777.719

Trong đó:

+ Thạc sĩ 22.2 49 57.370 71.602

+ Tiến sĩ 10.633 14.834 20.772

3. Cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng

Tổng số 10.081 22.865

Chia ra

- Cao đẳng - 2.885 14.031

- Đại học - 6.094 2.598

- Trên Đại học - 1.102 6.236

Nguồn: Tổng cục Thống kê và Bộ GD&ĐT.

Page 179: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

175

Biểu 4. ĐỘI NGŨ TRI THỨC PHÂN THEO LOẠI HÌNH ĐƠN VỊ

Đơn vị: %

Số người đang làm việc 2002 2007 2012

A B C 1 2 3

27 Cả nước Tổng số (CĐ, ĐH, trên ĐH)* 100 100 100

Chia ra:

1. Đơn vị kinh tế 571.114 1.267.479

3.031.546

2. Đơn vị hành chính sự nghiệp 1.272.371 1.920.073

3.052.890

3. Cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng - 10.081 22.865

Cơ cấu(%)

1. Đơn vị kinh tế 30,98 39,64 49,64

2. Đơn vị hành chính sự nghiệp 69,02 60,05 49,99

3. Cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng - 0,32 0,37

* Năm 2007 không bao gồm cơ sở tôn giáo tính ngưỡng

Nguồn: Tổng cục Thống kê.

Page 180: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

176

Biểu 6

ĐỘI NGŨ CÁN BỘ NGHIÊN CỨU PHÂN THEO LĨNH VỰC

KHOA HỌC CÔNG NGHỆ

(Không bao gồm số cán bộ nghiên cứu làm việc trong các doanh nghiệp. Số liệu năm 2011)

Đơn vị: Người

Khu vực hoạt động

Lĩnh vực chuyên môn Tổng số Viện ,

Trung tâm

Trường

Đại học

Cơ quan

hành

chính

Đơn vị

sự

nghiệp

Ngoài

Nhà

nước

A 1 2 3 4 5 6

Cán bộ nghiên cứu 90.240 15.942 52.997 9.941 10.165 1.195

Chia ra:

Khoa học tự nhiên 12.257 2.2 08 7.933 558 396 162

Khoa học kỹ thuật và công nghệ 23.1 09 5.000 14.460 3.191 1.121 337

Khoa học y, dược 11.598 1.569 3.628 451 5.822 128

Khoa học nông nghiệp 11.633 3.731 3.865 2.035 1.860 142

Khoa học xã hội 24.613 2.133 18.114 2.2 34 834 298

Khoa học nhân văn 6.030 301 4.997 472 132 128

Nguồn: Tổng cục Thống kê.

Page 181: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

177

Phụ lục 5

ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN VÀ GIẢNG VIÊN TRƯỜNG TRUNG CẤP,

CAO ĐẲNG VÀ ĐẠI HỌC NĂM HỌC 2012 - 2013

Các chỉ tiêu

Tổng số

Số giảng

viên có

học hàm

GS-PGS

Số giảng

viên có

trình độ

TSKH-TS

Số giảng

viên có

trình độ

Thạc sĩ

Số giảng

viên có

trình độ Đại

học và khác

Cộng cả nước 105.459

1. Trung cấp

chuyên nghiệp

18.299 0 393 4.010 13.896

Tỷ lệ % so với

tổng số giáoviên

TCCN

0% 2.15% 21.9% 75.9%

2. Cao đẳng 25.874 129 678 9.573 15.494

Tỷ lệ % so với

tổng số giáoviên

0.5% 2.62% 37% 59.9%

3. Đại học 61.286 3.800 9.193 38.610 8.683

Tỷ lệ % so với

tổng số giáoviên

ĐH

6.2% 15% 63% 15.8%

Nguồn: Tổng cục Thống kê và Bộ GD&ĐT.

Page 182: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

178

Phụ lục 6

SỐ LIỆU ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC CẢ NƯỚC 31/12/2000

VÀ ĐẾN HẾT 31/1/2/2013

Số trí thức đang làm

việc 2000 2013 Tỷ lệ tăng(%)

Tổng số (CĐ, ĐH,

trên ĐH) 1.322.691 6.550.234

4.95

Chia ra:

- Cao đẳng 381.482 1.289.399 3.37

- Đại học 918.518 4.312.258 4.49

- Trên Đại học 22.691 948.577 41.80

Trong đó:

+ Thạc sĩ 10.000 118.653 11.86

+ Tiến sĩ 12,691 24.667 1.94

Nguồn: Tổng cục Thống kê và Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Phụ lục 7

SỐ LƯỢNG SINH VIÊN ĐÀO TẠO Ở NƯỚC NGOÀI TỪ NĂM 2000

ĐẾN NĂM 2010

Trình độ

đào tạo

Số lượng

chương

trình

Số học viên

đã tuyển

Số học viên

đang theo

học

Số học viên

đã tốt

nghiệp

Số học

viên thôi

học

Đại học 221 27.651 13.963 9.877 3.811

Thạc sĩ 130 24.477 9.146 12.285 3.046

Tiến sĩ 13 321 284 32 5

Tổng cộng 364 52.449 23.393 22.194 6.862

Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Page 183: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ...

179

Phụ lục 8

CÔNG CHỨC HÀNH CHÍNH TRONG TOÀN QUỐC NĂM 2013, PHÂN THEO CẤP ĐỘ ĐÀO TẠO

Cấp hành chính

TT

Trình độ

chuyên môn Cấp Bộ Cấp cơ sở

của Bộ Cấp tỉnh Cấp huyện

Tổng số

Tổng cộng 15.423 66.872 61.988 51.139 195.422

1 Sơ cấp 831 3.580 3.771 2.582 10.764

2 Trung cấp 853 26.222 10.823 12.135 50.033

3 Cao đẳng 341 3.054 2.266 2.949 8.610

4 Đại học 10.405 33.685 43.006 33.044 120.140

5 Thạc sĩ 2.167 301 1.897 410 4.775

6 Tiến sĩ 792 26 210 16 1.044

7 Tiến sĩ khoa học 34 4 15 3 56

Nguồn: Bộ Nội vụ