ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC DÂN VẬN Ở...

186
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN MẬU LINH ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC DÂN VẬN Ở TÂY NGUYÊN TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010 LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM HÀ NỘI - 2017

Transcript of ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC DÂN VẬN Ở...

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN MẬU LINH

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO

CÔNG TÁC DÂN VẬN Ở TÂY NGUYÊN

TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

HÀ NỘI - 2017

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN MẬU LINH

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO

CÔNG TÁC DÂN VẬN Ở TÂY NGUYÊN

TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Mã số: 62 22 03 15

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. PGS.TS. NGUYỄN MINH ĐỨC

2. PGS.TS. VŨ QUANG VINH

HÀ NỘI - 2017

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của

riêng tôi trên cơ sở sưu tầm, đọc và phân tích các tài liệu. Tất

cả các tài liệu tham khảo, các tư liệu, số liệu thống kê sử dụng

trong Luận án là trung thực, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng và

được trích dẫn đầy đủ theo quy định.

Nghiên cứu sinh

Nguyễn Mậu Linh

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 1

Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 6

1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến luận án 6

1.2. Khái quát kết quả các công trình đã công bố và những vấn đề luận án

tiếp tục giải quyết 24

Chƣơng 2: ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC DÂN VẬN Ở TÂY NGUYÊN

TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2005 27

2.1. Đặc điểm tình hình Tây Nguyên và công tác dân vận ở Tây Nguyên

trước năm 2001 27

2.2. Chủ trương của Đảng về công tác dân vận ở Tây Nguyên từ năm

2001 đến năm 2005 38

2.3. Quá trình chỉ đạo thực hiện công tác dân vận của Đảng ở Tây

Nguyên từ năm 2001 đến năm 2005 48

Chƣơng 3: ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC DÂN VẬN Ở TÂY NGUYÊN

TỪ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2010 73

3.1. Tình hình mới và chủ trương của Đảng về công tác dân vận ở Tây

Nguyên từ năm 2006 đến năm 2010 73

3.2. Quá trình chỉ đạo đẩy mạnh công tác dân vận của Đảng ở Tây

Nguyên từ năm 2006 đến năm 2010 82

Chƣơng 4: MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM 111

4.1. Một số nhận xét 111

4.2. Một số kinh nghiệm 129

KẾT LUẬN 148

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 150

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 151

PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNXH : Chủ nghĩa xã hội

CTDV : Công tác dân vận

CTPĐQC : Công tác phát động quần chúng

CTVĐQC : Công tác vận động quần chúng

DTTS : Dân tộc thiểu số

FULRO : Mặt trận thống nhất đấu tranh của các sắc tộc bị áp bức

HTCT : Hệ thống chính trị

Nxb : Nhà xuất bản

UNESCO : Tổ chức Văn hóa-Khoa học-Giáo dục của Liên hợp quốc

UNHCR : Tổ chức Cao ủy Liên hợp quốc về người tị nạn

XHCN : Xã hội chủ nghĩa

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Công tác dân vận của Đảng là toàn bộ những hoạt động của Đảng và của các tổ

chức khác trong hệ thống chính trị (HTCT) dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm tuyên

truyền, giáo dục, vận động, thuyết phục, hướng dẫn, tập hợp và tổ chức mọi tầng lớp

nhân dân thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của

Nhà nước; chăm lo, bảo vệ lợi ích của nhân dân; phát huy quyền làm chủ, sức mạnh to

lớn của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện thắng lợi mục

tiêu, lý tưởng của Đảng. Trong bài báo Dân vận đăng trên báo Sự thật, ngày 15-10-

1949, Hồ Chí Minh khẳng định: "Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan

trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công"

[72, tr.234].

Trải qua các thời kỳ lịch sử, Đảng luôn xác định công tác dân vận (CTDV) là

một nhiệm vụ quan trọng, có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách

mạng của dân tộc; là điều kiện tiên quyết bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng; góp phần

củng cố, tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Đảng và nhân dân. Đặc biệt, trong

thời kỳ đổi mới, CTDV của Đảng được tăng cường và từng bước đổi mới. Đảng và

Nhà nước đã có nhiều chủ trương, giải pháp tích cực, phù hợp với từng đối tượng,

từng lĩnh vực; đồng thời, thường xuyên đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo,

mở rộng dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân cũng như vai trò của Nhà

nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể quần chúng và lực lượng vũ trang

trong CTDV. Từ đó, tạo ra các phong trào quần chúng rộng lớn, phát huy sức mạnh

của mọi tầng lớp nhân dân, tiến hành sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại

hóa (CNH, HĐH) đất nước, tạo nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đưa

nước ta thoát khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển; từng bước nâng cao đời

sống vật chất và tinh thần của nhân dân; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn

xã hội; củng cố quốc phòng, an ninh; nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường

quốc tế... Bên cạnh những thành công và kết quả đạt được, CTDV của Đảng cũng

còn nhiều hạn chế, yếu kém, chưa đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đổi

mới: Chậm cụ thể hóa cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ;

2

một số nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước chưa được quán

triệt và thực hiện hiệu quả; sự phối hợp giữa các tổ chức trong HTCT chưa chặt

chẽ; một số cơ quan nhà nước chưa nhận thức sâu sắc vị trí, tầm quan trọng của

CTDV; những yếu kém của bộ máy công quyền tạo bức xúc, khiếu kiện trong

nhân dân, là kẽ hở để các thế lực thù địch và bọn cơ hội chính trị lợi dụng xuyên

tạc, kích động quần chúng nhân dân, ảnh hưởng đến khối đại đoàn kết toàn dân

tộc. Trước tình hình đó, việc tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với

CTDV là một yêu cầu cấp thiết nhằm củng cố vững chắc lòng tin của nhân dân đối

với Đảng, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh to lớn

của các tầng lớp nhân dân, tạo ra phong trào quần chúng rộng lớn để xây dựng

một nước Việt Nam: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh .

Tây Nguyên là địa bàn có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế,

chính trị, quốc phòng, an ninh và môi trường sinh thái của đất nước; đây là vùng đất

có nhiều tiềm năng, lợi thế, nhưng cũng tiềm ẩn nhiều nhân tố mất ổn định, nhất là

sự chống phá thường xuyên, quyết liệt của các thế lực thù địch nhằm xóa bỏ vai trò

lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở nước ta. Nhận thức sâu

sắc vị trí, tầm quan trọng của địa bàn chiến lược và việc xây dựng "thế trận lòng

dân" ở Tây Nguyên, trong quá trình lãnh đạo đồng bào các dân tộc xây dựng và bảo

vệ cuộc sống mới ấm no, hạnh phúc, Đảng từng bước đổi mới nội dung và phương

thức lãnh đạo CTDV nhằm động viên, tập hợp mọi tầng lớp nhân dân thực hiện các

nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh; củng cố và tăng cường khối đại

đoàn kết các dân tộc trên địa bàn. Đặc biệt, trong những năm 2001 - 2010, trước

những diễn biến phức tạp của tình hình an ninh chính trị ở Tây Nguyên, Đảng đã

lãnh đạo, chỉ đạo CTDV đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Tuy nhiên, bên

cạnh những kết quả đạt được, công tác này vẫn còn nhiều hạn chế, khuyết điểm

chậm được khắc phục, sửa chữa. Thực tế của ba cuộc biểu tình, bạo loạn (năm

2001, 2004 và 2008) trên địa bàn một số tỉnh Tây Nguyên là minh chứng rõ nét.

Nguyên nhân xảy ra các cuộc bạo loạn này, cần được nhận diện và phân tích một

cách thấu đáo, đa chiều, trong đó có sự hạn chế, yếu kém của Đảng về CTDV. Vì

vậy, nghiên cứu, tổng kết quá trình Đảng lãnh đạo CTDV ở Tây Nguyên trong 10

3

năm đầy biến động này, nhằm khẳng định những thành công, chỉ ra những hạn chế

và bước đầu đúc kết một số kinh nghiệm, góp phần xây dựng và tổ chức thực hiện

có hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về CTDV ở Tây

Nguyên là việc làm cấp thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Với ý nghĩa

đó, nghiên cứu sinh lựa chọn vấn đề "Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác

dân vận ở Tây Nguyên từ năm 2001 đến năm 2010" làm luận án Tiến sĩ lịch sử,

chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghi n cứu

2 1 c đ ch nghiên c u

Làm sáng tỏ quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo CTDV trên địa

bàn Tây Nguyên từ năm 2001 đến năm 2010; qua đó, rút ra một số kinh nghiệm chủ

yếu, góp phần vào việc nâng cao chất lượng và hiệu quả CTDV ở Tây Nguyên trong

giai đoạn hiện nay.

2 2 Nhiệm v nghiên c u

- Nghiên cứu, luận giải, làm rõ những yếu tố tác động đến quá trình lãnh đạo

thực hiện CTDV của Đảng trên địa bàn Tây Nguyên từ năm 2001 đến năm 2010.

- Làm rõ những chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với

CTDV trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên từ năm 2001 đến năm 2010.

- Đánh giá đúng thực trạng CTDV của Đảng với những ưu điểm, hạn chế cũng

như nguyên nhân của nó và rút ra một số kinh nghiệm chủ yếu về quá trình lãnh đạo

CTDV ở Tây Nguyên từ năm 2001 đến năm 2010 của Đảng Cộng sản Việt Nam.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghi n cứu

3 1 Đối tượng nghiên c u

Đối tượng nghiên cứu là hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng Cộng sản

Việt Nam đối với CTDV trên địa bàn Tây Nguyên.

3 2 Phạm vi nghiên c u

- Về nội dung: Công tác dân vận của Đảng có nội hàm phong phú và rộng

lớn. Trong phạm vi của đề tài, luận án tập trung nghiên cứu về việc Đảng đề ra

những quan điểm, chủ trương về CTDV và quá trình chỉ đạo tổ chức thực hiện

CTDV trên địa bàn Tây Nguyên từ năm 2001 đến năm 2010.

4

- Về không gian: Nghiên cứu CTDV của Đảng trên địa bàn Tây Nguyên (gồm

các tỉnh Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum, Lâm Đồng, Đắk Nông).

- Về thời gian: Tập trung nghiên cứu khoảng thời gian 10 năm (2001-2010).

Tuy nhiên, để vấn đề nghiên cứu có tính hệ thống, luận án có đề cập một số nội

dung liên quan trong thời gian trước năm 2001.

4. Cơ sở lý luận, phƣơng pháp nghi n cứu và nguồn tƣ liệu

4 1 Cơ sở lý luận

Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh về vai trò của quần chúng nhân dân và công tác vận động quần chúng của Đảng.

4.2. Phương pháp nghiên c u

Luận án sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp lôgíc và kết hợp hai

phương pháp đó là chủ yếu. Ngoài ra, luận án còn sử dụng các phương pháp nghiên

cứu bổ trợ khác như: Phương pháp đồng đại, lịch đại, phân kỳ, thống kê, phân tích -

tổng hợp, so sánh.

Phương pháp lịch sử, phương pháp lôgíc và kết hợp hai phương pháp đó được

sử dụng ở Chương 2, Chương 3 và Chương 4 của luận án nhằm phục dựng bối cảnh

lịch sử, chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về CTDV ở Tây

Nguyên qua hai giai đoạn 2001-2005 và 2006-2010. Qua đó, tái hiện quá trình Đảng

Cộng sản Việt Nam lãnh đạo CTDV ở Tây Nguyên từ năm 2001-2010.

Ở Chương 4, tác giả luận án sử dụng phương pháp lôgic là chủ yếu, đồng

thời kết hợp với phương pháp lịch sử để đánh giá và đúc rút kinh nghiệm về quá

trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo CTDV ở Tây Nguyên thời kỳ 2001-2010.

Luận án sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp so sánh ở Chương 1,

phần Phụ lục và Danh mục tài liệu tham khảo. Sử dụng phương pháp phân tích, so

sánh để làm rõ sự phát triển trong nhận thức và thực tiễn quá trình lãnh đạo của Đảng

đối với CTDV ở Tây Nguyên giai đoạn 2006-2010 so với giai đoạn 2001-2005.

4.3. Nguồn tư liệu

Nguồn tài liệu chính được sử dụng trong luận án là: Các văn kiện của Đảng

và Nhà nước về CTDV, về Tây Nguyên; các kết luận, báo cáo tổng kết của Ban Chỉ

đạo Tây Nguyên, Ban Dân vận Trung ương về CTDV ở Tây Nguyên; các văn kiện,

báo cáo của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh, Ban Dân vận Tỉnh ủy của 5 tỉnh Tây

Nguyên; những công trình nghiên cứu về Tây Nguyên và CTDV ở Tây Nguyên.

5

5. Đóng góp mới của luận án

- Phân tích làm rõ bước phát triển trong nhận thức và chủ trương cũng như sự

chỉ đạo của Đảng đối với CTDV trên địa bàn Tây Nguyên từ năm 2001 đến năm 2010.

- Đánh giá một cách khách quan, toàn diện những thành công và hạn chế của

Đảng về lãnh đạo, chỉ đạo CTDV ở Tây Nguyên thời kỳ 2001-2010.

- Đúc rút một số kinh nghiệm lịch sử CTDV của Đảng ở Tây Nguyên có giá

trị cho CTDV trong hiện tại và tương lai.

6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án

- Công tác dân vận là một lĩnh vực rất quan trọng trong hoạt động của Đảng,

nghiên cứu quá trình Đảng lãnh đạo CTDV ở Tây Nguyên thời kỳ 2001-2010 sẽ

góp phần tổng kết CTDV của Đảng trong thời kỳ đổi mới.

- Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho

việc hoạch định những chủ trương, giải pháp đúng đắn, phù hợp nhằm tăng cường

CTDV của Đảng trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên trong giai đoạn hiện nay và

những năm tiếp theo.

- Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy

lịch sử CTDV của Đảng nói chung và của Đảng bộ ở các tỉnh Tây Nguyên nói riêng.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận

án gồm 4 chương, 9 tiết.

6

Chƣơng 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

Công tác dân vận của Đảng Cộng sản là vấn đề quan trọng được đề cập trong

nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học trong và ngoài nước. Liên quan

đến đề tài luận án có thể chia thành các nhóm công trình như sau:

Nhóm 1: Các công trình nghiên c u về công tác dân vận nói chung

Sách Tư tưởng Dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh [29] là tập hợp 34 tham

luận tại Hội thảo khoa học về tư tưởng Dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã tập

trung làm rõ quan điểm lý luận chung về CTDV trong lịch sử, trong học thuyết Mác

- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; nội dung, phương thức CTDV trong tư tưởng Hồ

Chí Minh; đồng thời liên hệ, vận dụng vào thực tiễn CTDV trong sự nghiệp đổi

mới. Đáng chú ý là tham luận "Suy ngẫm về định nghĩa dân vận của Bác Hồ", cho

rằng: Công tác dân vận phải đi sâu vào từng con người, khơi dậy và phát huy tính

tích cực, sáng tạo, tính chủ động và tự giác của mỗi người thể hiện ở tài trí, sức lực,

tiền của của mỗi người góp vào công việc chung… Công tác dân vận bao giờ cũng

gắn với nhiệm vụ chính trị. Kết quả của CTDV là tạo được phong trào hành động

cách mạng của quần chúng sôi nổi, rộng khắp thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã

hội, quốc phòng, an ninh, xây dựng Đảng, chính quyền và các đoàn thể vững mạnh

[29, tr.202-204].

Cuốn sách Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ

quốc và các đoàn thể nhân dân trong thời kỳ đổi mới [107] đã khẳng định: Đổi mới

phương thức lãnh đạo đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân

nhằm mục tiêu củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mối liên hệ

giữa Đảng và nhân dân. Trên cơ sở phân tích những ưu điểm và hạn chế về phương

thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng, tác

giả nêu lên một số bài học kinh nghiệm: Đảng phải tiếp tục nâng cao nhận thức và

quan điểm quần chúng, đấu tranh khắc phục bệnh quan liêu, xa rời quần chúng của

cán bộ, đảng viên, loại bỏ những phần tử thoái hóa, biến chất… Củng cố, tăng

7

cường Ban Dân vận các cấp về tổ chức, bộ máy và cán bộ; về phương tiện, điều

kiện làm việc để cho Ban làm tốt chức năng tham mưu, hướng dẫn, kiểm tra, phối

hợp hoạt động, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về CTDV. Tăng cường vai trò tổ chức

đảng và đảng viên trong Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Đồng thời, tác

giả đưa ra 6 giải pháp chung, đó là: Nâng cao chất lượng các định hướng của Đảng

đối với các tổ chức quần chúng về chính trị, tư tưởng, nội dung, phương thức hoạt

động, tổ chức và cán bộ; thể chế hóa kịp thời các chủ trương của Đảng về dân vận,

tăng cường CTDV của chính quyền và sự phối hợp công tác giữa chính quyền với

Mặt trận và các đoàn thể nhân dân; coi trọng lãnh đạo việc tổ chức thực hiện, đôn

đốc kiểm tra, sơ kết, tổng kết kịp thời; củng cố, tăng cường HTCT ở cơ sở vững

mạnh; tăng cường hoạt động của Ban Dân vận các cấp tham mưu giúp Đảng tổng

kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về phương thức lãnh đạo đối với Mặt trận và các

đoàn thể; thực hiện quy chế hóa, chương trình hóa, hiện đại hóa sự lãnh đạo của cấp

ủy đối với hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân. Tuy nhiên, do chủ đề

của sách tập trung vào phương thức lãnh đạo của Đảng đối với một đối tượng cụ

thể, nên chưa bao trùm hết các hoạt động lãnh đạo của Đảng trong CTDV.

Sách Làm tốt công tác quần chúng trong tình hình mới: kinh nghiệm Trung

Quốc, kinh nghiệm Việt Nam [64] là tập hợp các tham luận trong Hội thảo lý luận

lần thứ 7 giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc, tập trung

vào chủ đề: Công tác quần chúng trong tình hình mới, trong đó khẳng định vị trí,

vai trò quan trọng của CTDV trong tình hình mới; sự cần thiết phải tăng cường mối

quan hệ máu thịt giữa Đảng và nhân dân; vai trò của HTCT, đặc biệt là Mặt trận Tổ

quốc và các tổ chức quần chúng trong công tác vận động quần chúng (CTVĐQC).

Các tham luận của học giả Việt Nam đã đúc kết, đề xuất nhiều kinh nghiệm và giải

pháp đổi mới CTDV của Đảng. Tiêu biểu có các bài: "Đảng Cộng sản Việt Nam với

công tác quần chúng - thực tiễn và một số kinh nghiệm" [64, tr.36-60] đã nhấn

mạnh: Công tác quần chúng cần tiếp tục đổi mới, không chỉ để theo kịp, giải quyết

kịp thời những vấn đề mới nảy sinh, mà còn để xác định tầm nhìn có tính chiến lược

và lâu dài… Sự đổi mới đó là một trong những cơ sở lý luận - thực tiễn quan trọng

để Đảng Cộng sản tiếp tục giữ vững vai trò là hạt nhân lãnh đạo, tiếp tục lãnh đạo

8

quần chúng làm nên những thắng lợi lịch sử mới; Bài viết "Lãnh đạo công tác quần

chúng trong giải quyết các điểm nóng ở địa bàn cơ sở - một số kinh nghiệm của

Việt Nam". Trên cơ sở nhận diện những điểm nóng xảy ra ở Việt Nam trong thời

gian qua, tác giả đã nhận định: Với mục tiêu xây dựng vững chắc mối quan hệ giữa

Đảng, Nhà nước với nhân dân, tạo sức mạnh phát triển bền vững, giải quyết điểm

nóng không chỉ nhằm mục tiêu thiết lập sự ổn định và củng cố cơ sở chính trị - xã

hội, mà quan trọng hơn còn tăng cường sức mạnh và hiệu lực của HTCT. Điều đó,

đòi hỏi lãnh đạo phải hiểu sâu sắc nguyện vọng của quần chúng, thu phục được lòng

dân, tạo được niềm tin và sự đồng thuận, đồng tình ủng hộ của nhân dân đối với

Đảng, Nhà nước; huy động được sự tham gia một cách tự nguyện và phát huy cao

nhất ý thức trách nhiệm công dân, sức mạnh của quần chúng vào việc giải quyết dứt

điểm các điểm nóng [64, tr.214].

Sách Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận trong thời kỳ đổi mới ở

nước ta hiện nay [80] là tập hợp các bài nói, bài nghiên cứu tiêu biểu của các đồng

chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các nhà khoa học liên quan đến vấn đề dân vận

trong tư tưởng Hồ Chí Minh và sự vận dụng vào thời kỳ đổi mới ở nước ta hiện nay.

Đây là tập tư liệu quý, gắn nghiên cứu lý luận với vận dụng vào thực tiễn, nhằm

nâng cao chất lượng, hiệu quả CTDV trong tình hình mới.

Sách Học tập và làm theo phong cách "Dân vận khéo" Hồ Chí Minh [85] đã

phân tích làm rõ những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận

khéo; nêu lên những tiêu chí về mô hình và điển hình dân vận khéo ở một số cơ sở;

đề xuất một số nội dung và phương pháp nhằm hiện thực hóa tư tưởng "Dân vận

khéo" của Người trong giai đoạn hiện nay, đó là: thực hành dân chủ, nêu gương; cải

cách thủ tục hành chính; thực hiện kỹ năng "nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân

tin"; đổi mới công tác cán bộ dân vận. Đáng chú ý là nhận định của tác giả: "Dân

vận là công tác khoa học, nhưng cũng là nghệ thuật, nhằm giải quyết mối quan hệ

giữa Đảng và dân. Muốn làm tốt CTDV, cán bộ phải có tâm trong sáng, có trách

nhiệm, có tri thức khoa học, tóm lại phải có tâm và có tài, như vậy mới là "Dân vận

khéo" theo tư tưởng Hồ Chí Minh" [85, tr.80].

Sách Lý luận và kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác dân

9

vận [81], tập hợp hơn 30 bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước; lãnh

đạo các bộ, ban, ngành; các nhà khoa học, đã phân tích làm nổi bật những vấn đề lý

luận và kinh nghiệm thực hiện CTDV trong thời kỳ đổi mới. Qua đó, cho thấy

CTDV của Đảng là một lĩnh vực rộng lớn, nhạy cảm, bao trùm mọi mặt của đời

sống xã hội. Đây là công việc rất quan trọng, phải làm thực chất, không phô trương,

hình thức; đồng thời, công tác này cần phải thường xuyên được đúc kết kinh

nghiệm từ thực tiễn để kịp thời hoạch định chủ trương, chính sách hợp lòng dân,

nhằm phát huy cao nhất sức mạnh của toàn dân tộc trong công cuộc xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc. Tiêu biểu có bài: "Mấy vấn đề về đổi mới nội dung, phương thức

vận động quần chúng của Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại

hóa đất nước" [81, tr.174-183] cho rằng: Ở mỗi giai đoạn lịch sử, có những mục

tiêu, nhiệm vụ, nội dung, phương pháp và đối tượng của cách mạng khác nhau. Vì

vậy, CTDV cũng được thay đổi cho phù hợp với tình hình thực tiễn và nhiệm vụ

của từng giai đoạn. Trong những năm qua, Đảng đã có nhiều đổi mới về nội dung,

phương thức CTDV như: Mục tiêu của CTDV ngày càng rõ hơn; chủ trương, chính

sách, giải pháp CTDV ngày càng phong phú, hoàn chỉnh, đi sâu từng lĩnh vực, từng

đối tượng; các cấp ủy đảng đã tăng cường lãnh đạo CTDV, kiện toàn, củng cố Ban

Dân vận các cấp; phương thức CTDV có sự đổi mới theo hướng trực tiếp với cơ sở,

gần dân, sát dân hơn… Tuy nhiên, CTDV của HTCT còn một số khuyết điểm, đó

là: Cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ chưa được cụ thể

hóa đầy đủ và đồng bộ; tình trạng quan liêu, cửa quyền của một bộ phận cán bộ,

công chức nhà nước chưa được khắc phục; hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể

nhân dân không ít nơi vẫn còn tình trạng hành chính hóa. Từ đó, tác giả đề xuất 7

nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức CTDV.

Trong đó, giải pháp quan trọng hàng đầu là: Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên

truyền, giáo dục, không ngừng nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ, đảng viên,

công chức, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu, trách nhiệm của đội ngũ cán

bộ, công chức chính quyền về CTDV trong tình hình mới.

Sách Lịch sử công tác dân vận của Đảng Cộng sản Việt Nam (1930-2010)

[11]. Công trình đã phản ánh quá trình lịch sử phong phú, sinh động về CTDV của

10

Đảng qua các thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng XHCN; nêu bật

những chủ trương, chính sách, nhiệm vụ và quá trình lãnh đạo thực hiện, khẳng

định những thành tựu đạt được; đồng thời, chỉ rõ những sai lầm, hạn chế trong

CTDV; từ đó, đúc kết những bài học lịch sử cho CTDV của Đảng trong hiện tại và

tương lai.

Cùng với các công trình trên có rất nhiều nghiên cứu đăng tải trên các tạp chí

khoa học. Tiêu biểu là những bài viết: "Một số bài học kinh nghiệm về công tác vận

động quần chúng của Đảng trong những năm đổi mới" [83]. Từ thực tế lãnh đạo

CTVĐQC của Đảng hơn 25 năm đổi mới, tác giả rút ra 6 bài học chủ yếu: Đảng

luôn nhận thức đầy đủ, sâu sắc về vai trò quan trọng của CTVĐQC trong quá trình

lãnh đạo công cuộc đổi mới; lấy độc lập dân tộc và dân giàu, nước mạnh, dân chủ,

công bằng, văn minh làm mục tiêu của CTVĐQC; đoàn kết, thống nhất trong Đảng

là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc;

CTVĐQC phải được thực hiện trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các

thành viên trong xã hội, giữa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể và xã hội; CTVĐQC

phải được dựa trên cơ sở thấm nhuần phương châm "Vì quần chúng nhân dân, do

quần chúng nhân dân"; trong CTVĐQC phải biết phát huy những truyền thống quý

báu của dân tộc, nhất là truyền thống yêu nước.

Bài viết "Quan niệm về chất lượng và hiệu quả công tác dân vận" [39] đã

xác định năm tiêu chí và yêu cầu để đánh giá chất lượng, hiệu quả CTDV trong tình

hình mới, đó là: Sự tin tưởng của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, đồng thuận

với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, làm cho

dân hăng hái, phấn khởi, tự giác thực hiện nhiệm vụ và nghĩa vụ của mình trong xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đây là thước đo chất lượng giáo dục, tuyên truyền, phổ

biến và tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước

trong các tầng lớp nhân dân; phải tăng cường được sự đoàn kết, nhất trí trong các

cộng đồng dân cư ở cơ sở; công tác dân vận phải tập hợp được quần chúng nhân

dân thành lực lượng xã hội rộng lớn và nuôi dưỡng các phong trào thi đua yêu

nước; công tác dân vận phải đảm bảo thực hành dân chủ rộng rãi; chất lượng CTDV

phải được đánh giá bởi chất lượng hoạt động của HTCT các cấp.

11

Luận án Công tác vận động đồng bào Công giáo của Đảng bộ một số tỉnh ở

miền Đông Nam Bộ từ năm 1986 đến năm 2006 [118]. Trên cơ sở phân tích làm rõ

những thành công và hạn chế trong công tác vận động đồng bào Công giáo của

Đảng bộ một số tỉnh miền Đông Nam Bộ, luận án đã rút ra 4 kinh nghiệm về tăng

cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng; về việc tổ chức phối hợp giữa cơ

quan dân vận của Đảng với chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể; về việc

chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào Công giáo và về công tác cán bộ.

Đặc biệt, tác giả nhấn mạnh: Tăng cường sự lãnh đạo, không ngừng đổi mới

phương thức chỉ đạo của cấp ủy là điều kiện quyết định để những quan điểm, chủ

trương đổi mới về chính sách tôn giáo của Đảng được hiện thực hóa có hiệu quả…

Thực chất của việc đổi mới phương thức lãnh đạo CTVĐQC của cấp ủy các tỉnh là

nhằm tăng cường công tác lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền, Mặt trận Tổ

quốc và các đoàn thể trong công tác vận động đồng bào Công giáo trên địa bàn.

Hình thức thể hiện vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động đồng bào

Công giáo là bằng nghị quyết, chỉ thị hay các văn bản chỉ đạo, bằng việc kiểm tra

kết quả thực hiện, phát hiện và điều chỉnh những thiếu sót trong quá trình thực hiện

[118, tr.175-178].

Luận án Công tác vận động đồng bào Khmer của các Đảng bộ xã, phường,

thị trấn ở Tây Nam Bộ trong giai đoạn hiện nay [115]. Đóng góp của tác giả luận án

là làm rõ đặc điểm của đồng bào Khmer, chỉ ra nội dung và phương thức vận động

đồng bào Khmer với tư cách là đối tượng có tính đặc thù trong CTDV của Đảng;

đồng thời, luận án đã rút ra một số kinh nghiệm và đề xuất những giải pháp mang

tính đặc thù để tăng cường công tác vận động đồng bào Khmer của các Đảng bộ xã,

phường, thị trấn ở Tây Nam Bộ.

Bên cạnh các công trình nghiên cứu trong nước là những nghiên cứu ở nước

ngoài. Tiêu biểu có các công trình:

Sách Đổi mới công tác xây dựng Đảng ở nông thôn [58] đã khẳng định công

tác quần chúng nông thôn có làm tốt hay không có liên quan, ảnh hưởng đến đại cục

cải cách, phát triển và ổn định của Trung Quốc. Làm tốt công tác quần chúng trong

thời kỳ mới là nhiệm vụ quan trọng của đội ngũ cán bộ nông thôn. Người cán bộ

12

nông thôn phải tích cực nghiên cứu những chuyển biến mới trong đời sống kinh tế -

xã hội và những đặc điểm mới trong công tác quần chúng nông dân ở Trung Quốc;

thường xuyên đổi mới phương thức làm việc, vận dụng các biện pháp như thuyết

phục, giáo dục, làm thí điểm và cung cấp dịch vụ thì mới có thể giải quyết tốt những

vấn đề và mâu thuẫn nội bộ trước mắt của người dân nông thôn và đoàn kết, dìu dắt

quần chúng nông dân không ngừng phấn đấu, tiến lên để thực hiện mục tiêu xây

dựng xã hội khá giả toàn diện... Cán bộ nông thôn phải bắt được mạch tư tưởng của

quần chúng nông dân, phải hiểu được những khó khăn và tình hình thực tế của họ,

phải tạo ra những cách làm phong phú, có tính khả thi, hợp ý dân mới có thể đạt

hiệu quả cao trong công tác quần chúng [58, tr.485-488].

Bài viết "Thúc đẩy xây dựng chính trị dân chủ cơ sở nông thôn, thực hiện

quản lý của chính quyền cơ sở và tự trị của quần chúng thúc đẩy lẫn nhau một cách

tích cực" [79] cho rằng: Xây dựng chính trị dân chủ cơ sở nông thôn Trung Quốc là

một hành động sáng tạo vĩ đại của đông đảo nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng

Cộng sản Trung Quốc. Thực hiện kết hợp hữu cơ giữa xây dựng chính quyền xã, thị

trấn với phát triển tự trị dân làng trở thành bộ phận cấu thành quan trọng của xây

dựng chính trị dân chủ XHCN của Trung Quốc, phát huy vai trò quan trọng trong

việc củng cố nền tảng cầm quyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc, thúc đẩy kinh tế,

xã hội nông thôn phát triển, tăng cường quản lý xã hội ở cơ sở và thúc đẩy hài hòa

ổn định. Nội dung hạt nhân của tự trị quần chúng cơ sở nông thôn là bầu cử dân

chủ, quyết sách dân chủ, quản lý dân chủ và giám sát dân chủ. Đây là nội dung mà

luận án có thể kế thừa trong trình bày vấn đề xây dựng HTCT cơ sở, xây dựng buôn

làng tự quản ở Tây Nguyên.

Bài viết: "Kiên trì quan điểm nhân dân là tối thượng, thiết thực làm tốt công

tác quần chúng trong tình hình mới" [64] đã nêu rõ những vấn đề trọng tâm trong

công tác quần chúng của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã và đang tập trung hướng

vào: Xây dựng quan điểm quần chúng đúng đắn, thắt chặt sợi dây tình cảm gắn kết

với quần chúng, tạo nền tảng tư tưởng vững chắc để làm tốt công tác quần chúng;

luôn giữ vững lập trường quần chúng, đề cao tôn chỉ phục vụ nhân dân, tập trung

giải quyết những vấn đề liên quan đến lợi ích thiết thân của quần chúng nhân dân;

13

cải tiến và đổi mới phương thức và phương pháp, sử dụng các hình thức và biện

pháp mà quần chúng yêu thích, nỗ lực tăng cường tính hướng đích và tính hiệu quả

của công tác quần chúng; xây dựng và kiện toàn chế độ công tác, nâng cao sức ràng

buộc và thực thi của chế độ, tăng cường mức độ quy phạm hóa và chế độ hóa của

công tác quần chúng [64, tr.19-35]. Việt Nam có nhiều điểm tương đồng với Trung

Quốc, nên những kinh nghiệm quý báu trong CTDV của Trung Quốc có giá trị tham

khảo đối với luận án.

Bài viết "Đảng Cộng sản các nước trên thế giới tận dụng như thế nào sự tham

dự dân chủ để thắt chặt quan hệ giữa Đảng và quần chúng" [68, tr.23-31] cho rằng,

phát huy dân chủ không chỉ là sự tôn trọng đối với người dân, mà còn tạo sức mạnh

của một chính đảng. Các Đảng Cộng sản cầm quyền hay không cầm quyền ở các

nước đều coi trọng mối liên hệ mật thiết với quần chúng và nhấn mạnh mục đích vì

nhân dân phục vụ trong điều lệ, cương lĩnh của đảng. Một số Đảng Cộng sản do mất

dân chủ, không gắn với dân nên suy yếu, thậm chí sụp đổ. Tác giả đã dẫn ra kinh

nghiệm ở các nước như: Đảng Nhân dân Cách mạng Lào lấy công tác cơ sở làm

trọng điểm, lấy dân chúng làm đối tượng phục vụ, thực hiện kế hoạch giúp người

dân nông thôn thoát nghèo, tiến tới giàu có làm mục tiêu; triển khai xây dựng cơ sở

chính trị, xây dựng "Chi bộ đảng cơ sở kiên trì và giỏi lãnh đạo toàn diện"; yêu cầu

bí thư, phó bí thư, đảng ủy viên các cấp mỗi năm phải dành thời gian 1/3 đến nửa

năm xuống cơ sở để tuyên truyền đường lối, chính sách của đảng, lắng nghe ý kiến

của quần chúng, kịp thời nắm bắt và giải quyết các vấn đề mà quần chúng phản ánh.

Đảng Cộng sản Trung Quốc đã dựa vào những thay đổi trong đời sống kinh tế - xã

hội và đặc điểm mới của công tác quần chúng để xác định trọng tâm công tác quần

chúng là giải quyết những điểm nóng và những vấn đề nổi cộm mà quần chúng

quan tâm. Cánh tả liên hợp Tây Ban Nha do Đảng Cộng sản là chủ thể đã triển khai

hoạt động đào tạo cán bộ, đảng viên cơ sở, làm cho mỗi đảng viên đều thấm nhuần

phương châm, chính sách của đảng, nắm vững kỹ năng trao đổi với cử tri để có thể

trả lời một cách kịp thời, chính xác phương châm, chính sách của đảng mình; đồng

thời, phản ánh nhu cầu lợi ích của dân chúng với đảng. Những vấn đề mà bài viết đề

cập có thể dùng trong so sánh, đối chiếu với CTDV của Đảng Cộng sản Việt Nam,

gợi mở cho việc đúc kết những kinh nghiệm trong CTDV của Đảng ở Tây Nguyên.

14

Bài viết "Vận động quần chúng: bối cảnh dẫn đến sự trỗi dậy của phong trào

xã hội cách mạng, động lực, bản chất và tầm quan trọng" [125, tr.99-103] cho thấy:

Chiến lược vận động thường xuyên mang tính dân chủ, được chính phủ Venezuela

vạch ra trên cơ sở nhận thức, cam kết và quyết định của người dân không chỉ trong

các hoạt động bầu cử mà trong cả hành động tổ chức chính trị, để xác định các vấn

đề cơ bản nhất và tìm ra các giải pháp mang tính tập thể về sự tham gia, tổ chức và

gắn kết các nhu cầu xã hội nhằm hỗ trợ Nhà nước đưa ra các giải pháp một cách

hiệu quả. Nhiệm vụ trọng tâm của Đảng là xây dựng mối liên hệ chặt chẽ và quy củ

giữa Đảng và quần chúng. Đây chính là điều kiện, động cơ để nhân dân hướng tới

tập trung và xây dựng ý thức tập thể, nhằm củng cố sức mạnh chính trị và hiện thực

hóa những nhu cầu thiết yếu nhất của mình.

Nhóm 2: Những công trình nghiên c u chung về Tây Nguyên

Địa bàn Tây Nguyên từ trước đến nay luôn là khu vực thu hút sự quan tâm,

nghiên cứu của các nhà khoa học. Đặc biệt, từ sau sự kiện bạo loạn, biểu tình năm

2001, có rất nhiều công trình nghiên cứu về đặc điểm kinh tế - xã hội, những giá trị

truyền thống văn hóa, sự biến đổi về chính trị, xã hội… Tiêu biểu là các công trình,

bài viết:

Sách Tây Nguyên trên đường phát triển bền vững [17], đã đề cập toàn diện

các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, các tiềm năng, thế mạnh của

5 tỉnh Tây Nguyên trong quá trình phát triển và hội nhập.

Sách Tổ chức và hoạt động buôn làng trong phát triển bền vững vùng Tây

Nguyên [53], tập trung làm rõ thực trạng tổ chức và hoạt động của buôn làng Tây

Nguyên trong lịch sử, đặc biệt là từ năm 1975 đến hiện nay, trên các chiều cạnh

không gian sinh tồn tự nhiên, kinh tế, xã hội, văn hóa; bước đầu đề xuất một số giải

pháp góp phần xây dựng buôn làng mới trong phát triển bền vững vùng Tây

Nguyên, đó là: Nâng cao vai trò, vị thế của buôn làng, coi buôn làng Tây Nguyên

như một pháo đài để ổn định và phát triển; tôn trọng và kế thừa những truyền thống

tốt đẹp của buôn làng, trong đó, có phương án phù hợp nhằm kết hợp hài hòa luật

pháp với luật tục và tòa án phong tục ở các buôn làng, cần thực sự tôn trọng, tôn

vinh, tranh thủ và phát huy vai trò của già làng vào xây dựng buôn làng, xây dựng

15

và củng cố HTCT cơ sở buôn làng phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội

để nắm dân, ổn định an ninh chính trị, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ thôn buôn

có đủ trình độ lý luận và quản lý nhà nước… [53, tr.220-221].

Cuốn sách Một số vấn đề cơ bản của xã hội Tây Nguyên trong phát triển bền

vững [55]. Trên cơ sở khái quát xã hội Tây Nguyên truyền thống, công trình này đã

trình bày thực trạng xã hội Tây Nguyên đương đại trên ba chiều cạnh: cơ cấu xã hội,

tổ chức xã hội, giá trị xã hội; từ đó, phân tích và làm sáng tỏ một số vấn đề cơ bản

của xã hội Tây Nguyên hiện nay như áp lực tăng dân số, chất lượng nguồn nhân lực

thấp, đói nghèo và phân hóa đời sống cao, quan hệ dân tộc, tôn giáo và an ninh

chính trị phức tạp, tổ chức xã hội thôn làng đa dạng và chồng chéo, mâu thuẫn quản

lý và sử dụng đất đai, HTCT cơ sở và buôn làng yếu kém, tư duy sản xuất tiểu nông

đậm nét và sự mai một, suy thoái văn hóa truyền thống ở các dân tộc thiểu số

(DTTS) tại chỗ; đồng thời, đề xuất những quan điểm, kiến nghị, giải pháp làm cơ sở

khoa học cho xây dựng chính sách phát triển bền vững xã hội Tây Nguyên những

thập niên tới. Đáng chú ý là những kiến nghị được nêu ra, liên quan trực tiếp đến

CTDV, đó là: Triển khai ở Tây Nguyên một chương trình tuyên truyền, vận động

chính trị mà nội dung là giúp các dân tộc hiểu rõ chủ trương, đường lối và chính

sách dân tộc của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước… Trong những thập

niên qua, chúng ta đã làm được rất nhiều để phát triển kinh tế - xã hội các dân tộc

Tây Nguyên, nhưng tuyên truyền để người dân hiểu được điều này thì chúng ta còn

làm được ít. Trong bối cảnh của Tây Nguyên hiện nay, nếu không thực hiện tốt

công tác tuyên truyền thì tiền của và công sức bỏ ra có lớn đến đâu, an ninh chính

trị vẫn khó ổn định và lòng dân có thể yên nhưng chưa hẳn đã ổn [55, tr.226-227].

Sách Một số điểm nóng chính trị - xã hội điển hình tại các vùng dân tộc ở

miền núi trong những năm gần đây: hiện trạng, vấn đề, các bài học kinh nghiệm

trong xử lý tình huống [86]. Trong nghiên cứu này, tác giả có đề cập, phân tích diễn

biến và những nguyên nhân phát sinh điểm nóng ở các tỉnh Tây Nguyên năm 2001

và năm 2004, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm: Một là, để ổn định và phát

triển bền vững Tây Nguyên cần có giải pháp tổng thể mang ý nghĩa chiến lược: kinh

tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng theo tinh thần Nghị quyết 10 của

16

Bộ Chính trị đã đề cập; Hai là, hết sức cảnh giác với âm mưu "diễn biến hòa bình",

gây bạo loạn, lật đổ của các thế lực thù địch và sử dụng mọi biện pháp làm thất bại

âm mưu ấy. Để ổn định chính trị - xã hội thì phải áp dụng các giải pháp cơ bản là an

dân, "chiến lược lòng dân", quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, sao cho mỗi

người dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc bản địa như là người lính bảo vệ biên cương

của Tổ quốc; Ba là, tạo điều kiện và phương thức sinh sống mới cho đồng bào dân

tộc bản địa, xây dựng sự đồng thuận, đoàn kết, cộng sinh giữa các tộc người là nhân

tố đảm bảo cho sự ổn định và phát triển bền vững; Bốn là, xây dựng HTCT cơ sở

vững mạnh, đặc biệt là ở các buôn làng, là nhân tố trực tiếp quyết định giữ vững ổn

định chính trị - xã hội; Năm là, phát triển giáo dục, đào tạo cán bộ người dân tộc

bản địa để đảm đương công việc của chính họ là nhiệm vụ cấp thiết và lâu dài.

Sách Nhận thức, thái độ, hành vi của cộng đồng các dân tộc thiểu số đối với

chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn hiện nay - thực trạng và

giải pháp [88], đã đưa ra các số liệu điều tra xã hội học đối với 4 vùng có đông

đồng bào DTTS ở miền Bắc, miền Trung, Tây Nguyên, miền Nam. Trong đó, tỷ lệ

đồng bào DTTS Tây Nguyên có nhận thức, thái độ và hành vi đối với chính sách

dân tộc là thấp nhất so với 3 vùng còn lại. Các tác giả đưa ra một số kiến nghị như:

Nâng cao tính tích cực trong nhận thức, thái độ, hành vi của đồng bào DTTS; phát

huy vai trò của cộng đồng, người có uy tín; phối hợp trách nhiệm của cấp ủy, chính

quyền, đoàn thể... Đó là những gợi mở cần thiết cho việc nâng cao chất lượng, hiệu

quả CTDV ở vùng đồng bào DTTS ở Tây Nguyên.

Sách Kết hợp phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng ở Tây Nguyên giai

đoạn 1996 - 2010 [59], đã nghiên cứu, làm sáng tỏ hệ thống quan điểm, chủ trương

của Đảng, chính sách của Nhà nước về kết hợp phát triển kinh tế với bảo đảm quốc

phòng trên địa bàn Tây Nguyên qua hai giai đoạn 1996-2000 và 2001-2010; nêu lên

những thành tựu và hạn chế, rút ra một số kinh nghiệm chủ yếu về giữ vững và tăng

cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, giữ

vững sự ổn định chính trị - xã hội và củng cố khối đại đoàn kết các dân tộc, xây

dựng thế trận lòng dân, đấu tranh chống những hoạt động chống phá của các thế lực

thù địch, phản động. Tuy nhiên, tác giả chưa đề cập sâu về vai trò của CTDV trong

17

kết hợp phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng và vấn đề củng cố, tăng cường

CTDV trên địa bàn Tây Nguyên.

Sách Hướng tới phát triển bền vững Tây Nguyên [69], đã giới thiệu các

thông tin tổng quan về đặc điểm tự nhiên, lịch sử và xã hội vùng Tây Nguyên; đánh

giá những thành quả, hạn chế của quá trình phát triển kinh tế - xã hội trong hơn 30

năm qua, cũng như phân tích tính đặc thù và các cơ hội phát triển của vùng trong

thời gian tới; trên cơ sở đó, nhóm tác giả nêu ra những quan điểm, định hướng và đề

xuất một số giải pháp cơ bản nhằm góp phần phát triển bền vững vùng Tây Nguyên.

Đặc biệt, trong nhóm giải pháp về các vấn đề xã hội và an ninh quốc phòng, các tác

giả đã nhận định: Trong các vấn đề xã hội nổi cộm của Tây Nguyên, đáng chú ý là

sự tụt hậu của nhóm dân tộc tại chỗ so với mặt bằng chung của vùng do thiếu các

điều kiện phát triển thiết yếu, tình trạng nghèo và phân hóa giàu nghèo giữa các

nhóm dân tộc ngày càng gia tăng, kéo theo nguy cơ xung đột, bất ổn xã hội. Một khi

những vấn đề này chưa được giải quyết hoặc cải thiện thì khả năng tạo lập sự ổn

định, đồng thuận, bình đẳng xã hội ở Tây Nguyên sẽ vẫn là một viễn cảnh xa vời.

Do đó, bản chất của nhóm giải pháp cho các vấn đề xã hội của Tây Nguyên là thực

hiện tái phân phối các nguồn lực phát triển một cách hợp lý, công bằng hơn giữa các

nhóm dân tộc, trong đó, vấn đề trọng tâm là hỗ trợ các điều kiện thiết yếu nhằm

đảm bảo sự phát triển ổn định của nhóm dân tộc tại chỗ [69, tr.486].

Sách Tạo nguồn cán bộ, công chức xã người dân tộc thiểu số ở các tỉnh Tây

Nguyên [129]. Trên cơ sở phân tích những ưu điểm, hạn chế của đội ngũ cán bộ

DTTS ở Tây Nguyên, tác giả cho rằng, để xây dựng HTCT, ổn định quốc phòng, an

ninh, thúc đẩy kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên phát triển thì việc xây dựng nguồn

cán bộ, công chức xã người DTTS là nhiệm vụ quan trọng trong công tác cán bộ cơ

sở của các cấp ủy đảng địa phương, nhằm tạo dựng một đội ngũ những người trong

các DTTS ở Tây Nguyên có đủ tiêu chuẩn để bầu cử, tuyển dụng, bổ nhiệm làm cán

bộ, công chức xã. Đó chính là nhân tố quan trọng để lãnh đạo, quản lý, vận động

quần chúng thực hiện các nhiệm vụ chính trị ở địa phương, cơ sở.

Bài viết "Tây Nguyên vững bước đi lên" [46, tr.11-15] đã khẳng định, sau 10

năm thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW của Bộ Chính trị, Tây Nguyên đã đạt được

18

những thành tựu to lớn, toàn diện và có ý nghĩa rất quan trọng, trong đó, thành tựu

lớn nhất là đã nỗ lực xây dựng được khối đại đoàn kết các dân tộc và giữ vững sự

ổn định về chính trị - xã hội. Tác giả cho rằng, để Tây Nguyên phát triển nhanh và

bền vững cần quán triệt sâu sắc và thực hiện đồng bộ, có hiệu quả Nghị quyết số 10-

NQ/TW của Bộ Chính trị, đặc biệt là tăng cường vững chắc khối đại đoàn kết các

dân tộc và giữ vững ổn định chính trị - xã hội là tiền đề quan trọng, có ý nghĩa quyết

định cho phát triển bền vững ở Tây Nguyên.

Bài viết "Phát triển Tây Nguyên toàn diện, bền vững, xứng đáng với vị trí

chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và môi

trường sinh thái của đất nước" [84, tr.12-18]. Từ thực tiễn triển khai thực hiện các

chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với Tây Nguyên, tác giả bài viết đã

rút ra một số kinh nghiệm sau: Một là, sự ổn định và phát triển của Tây Nguyên

phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quan tâm đầu tư tương xứng của Nhà nước.

Hai là, phát triển Tây Nguyên toàn diện, bền vững phải trên nền tảng bảo đảm quốc

phòng, an ninh; giữ vững ổn định chính trị, xã hội; bảo vệ vững chắc chủ quyền, an

ninh biên giới. Ba là, sự ổn định và phát triển vùng DTTS là nhân tố quan trọng bảo

đảm sự ổn định và phát triển của Tây Nguyên. Bốn là, việc thực hiện tốt chính sách

tôn giáo có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự ổn định và phát triển của Tây

Nguyên; Năm là, coi trọng công tác xây dựng Đảng, xây dựng HTCT cơ sở; đào

tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ cán bộ người DTTS.

Kỷ yếu Hội thảo Biến đổi tôn giáo ở Tây Nguyên: thực trạng, chính sách và

giải pháp [126], đã tập hợp 19 bài viết đề cập đến rất nhiều khía cạnh cụ thể của vấn

đề tôn giáo ở Tây Nguyên. Các tác giả đã có những phân tích, lý giải mới về vai trò

của tôn giáo đối với phát triển bền vững Tây Nguyên, trong đó, đáng chú ý là nhận

định: "Vấn đề tôn giáo ở Tây Nguyên gắn bó rất chặt chẽ với vấn đề phát triển bền

vững ở Tây Nguyên. Nếu tôn giáo ở Tây Nguyên diễn biến phức tạp, sẽ khó có được

sự phát triển bền vững ở Tây Nguyên. Do vậy, mọi chiến lược phát triển kinh tế - xã

hội, phát triển bền vững Tây Nguyên phải tính đến yếu tố tôn giáo" [126, tr.183].

Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài "Quan hệ tộc người và chiến

lược xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong phát triển bền vững Tây Nguyên"

19

[60], đã luận giải, làm rõ cơ sở lý luận về quan hệ tộc người và khối đại đoàn kết

dân tộc từ nhiều chiều cạnh và theo quan điểm phát triển bền vững; phân tích thực

trạng các trục quan hệ tộc người và khối đại đoàn kết dân tộc, các chính sách dân

tộc và tác động của chúng đến quan hệ tộc người và khối đại đoàn kết dân tộc ở Tây

Nguyên; rút ra 10 bài học kinh nghiệm trong việc thúc đẩy sự cố kết, hòa hợp dân

tộc, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở Tây Nguyên thời kỳ CNH, HĐH đất nước

và hội nhập.

Luận án Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện chính sách xã hội ở

Tây Nguyên từ năm 1996 đến năm 2006 [62], đã hệ thống, phân tích quá trình lãnh

đạo thực hiện chính sách xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam ở Tây Nguyên từ

năm 1996 đến năm 2006, từ đó rút ra một số kinh nghiệm chủ yếu để vận dụng thực

hiện chính sách xã hội ở khu vực này trong thời gian tới đạt hiệu quả cao hơn.

Nhóm 3: Những công trình nghiên c u về công tác dân vận ở Tây Nguyên

Liên quan đến CTDV ở Tây Nguyên thời kỳ đổi mới, đã có một số công

trình đề cập dưới góc độ thực trạng và giải pháp tăng cường, đổi mới CTDV trên

phạm vi toàn vùng cũng như từng tỉnh ở Tây Nguyên. Tiêu biểu là các công trình,

bài viết:

Sách Nâng cao năng lực hoạt động và khả năng tập hợp quần chúng của

Mặt trận và các đoàn thể ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Gia Lai trong tình

hình mới [28], đã nêu rõ thực trạng về tổ chức và hoạt động của Mặt trận và các

đoàn thể ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Gia Lai; đề xuất những nội dung,

giải pháp trong tình hình mới, đó là: Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc ở

xã, phường, thị trấn trong tình hình mới; đổi mới nội dung, phương pháp tuyên

truyền, giáo dục và tổ chức các phong trào hành động cách mạng của Mặt trận và

các đoàn thể nhân dân ở xã, phường, thị trấn; quan tâm xây dựng, củng cố tổ chức

và tập hợp quần chúng vào tổ chức Mặt trận và các đoàn thể nhân dân ở xã, phường,

thị trấn; đổi mới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng và sự phối hợp của chính quyền

đối với Mặt trận và các đoàn thể cơ sở. Tuy nhiên, đây mới là những nghiên cứu

bước đầu trên địa bàn một tỉnh ở Tây Nguyên nên chưa bao quát hết trên phạm vi

toàn vùng.

20

Sách Xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc ở Tây Nguyên [45], đã

đề cập đến vấn đề dân tộc, đặc điểm kinh tế - xã hội của các DTTS ở Tây Nguyên;

phân tích làm rõ truyền thống đoàn kết các dân tộc Tây Nguyên qua các thời kỳ lịch

sử, quá trình xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết các dân tộc ở Tây Nguyên

trong cách mạng dân tộc dân chủ và xây dựng CNXH, đặc biệt là thời kỳ đổi mới;

đánh giá những kết quả đã đạt được và những hạn chế, yếu kém trong quá trình

thực hiện chính sách của Đảng về đoàn kết các dân tộc Tây Nguyên, từ đó đề xuất

các nhóm giải pháp khá toàn diện, đồng bộ nhằm xây dựng và củng cố khối đại

đoàn kết dân tộc ở Tây Nguyên trong giai đoạn hiện nay. Trong đó, đáng chú ý là

nhóm giải pháp tăng cường CTDV: Cần nhận thức đúng đắn vai trò của CTDV

trong quá trình xây dựng khối đoàn kết dân tộc ở Tây Nguyên; công tác vận động

quần chúng phải thật sự hướng về cơ sở, nội dung, phương pháp vận động phải cụ

thể, thiết thực, phù hợp với trình độ nhận thức và tâm lý của đồng bào; công tác

phát động quần chúng là một trong những biện pháp quan trọng hàng đầu, là

nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên của HTCT các cấp; phát huy vai trò già làng

trong quá trình củng cố và tăng cường khối đoàn kết các DTTS; xây dựng đội ngũ

cán bộ làm CTVĐQC có tâm huyết, biết nghe dân nói, nói dân nghe, làm dân tin

[45, tr.424-432].

Sách Người cao tuổi dân tộc và già làng trong phát triển bền vững Tây

Nguyên [65], đã làm rõ thực trạng đời sống của người cao tuổi dân tộc và già làng

Tây Nguyên; đồng thời, nêu bật vai trò và những đóng góp to lớn của họ trong phát

triển bền vững Tây Nguyên. Điểm nổi bật của sách này là khẳng định người cao

tuổi dân tộc và già làng là những lực lượng nòng cốt trong CTVĐQC ở địa phương,

là cầu nối giữa nhân dân với Đảng và chính quyền. Đảng và Nhà nước cần có chính

sách, chế độ cho họ, để phát huy hơn nữa khả năng của họ vào sự nghiệp phát triển

bền vững Tây Nguyên.

Sách Giải pháp tăng cường đoàn kết, tập hợp thanh niên các dân tộc ở Tây

Nguyên hiện nay [56], đã tập trung phân tích tình hình thanh niên và thực trạng

công tác đoàn kết, tập hợp thanh niên các dân tộc ở Tây Nguyên trong thời gian

qua; nêu lên những ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân và đề ra những giải pháp góp

21

phần nâng cao hiệu quả công tác đoàn kết, tập hợp thanh niên các dân tộc ở Tây

Nguyên trong bối cảnh hiện nay. Trong đó, nổi lên là giải pháp tăng cường công tác

giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo dục pháp luật, giữ gìn bản sắc văn hóa cho thanh

niên các dân tộc ở Tây Nguyên.

Cuốn sách Xây dựng lực lượng nòng cốt làm công tác dân vận trong cộng

đồng các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên hiện nay [111], đã làm rõ cơ sở lý luận, vai

trò của lực lượng nòng cốt; phân tích tình hình xây dựng và hoạt động của lực lượng

nòng cốt ở Tây Nguyên; đưa ra các nhóm giải pháp nhằm xây dựng lực lượng nòng

cốt làm CTDV trong cộng đồng các DTTS ở Tây Nguyên hiện nay. Điểm nổi bật của

công trình này là góp phần làm sáng rõ vai trò, tầm quan trọng của việc xây dựng lực

lượng nòng cốt làm CTDV và xem đây là một trong những nội dung quan trọng của

CTDV, góp phần củng cố mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, nhất là tạo

lập niềm tin của đồng bào DTTS đối với Đảng, chính quyền. Bởi đây là lực lượng

gần dân, hiểu được đặc điểm, tâm tư, nguyện vọng của đồng bào, trực tiếp vận động

đồng bào tích cực tham gia các phong trào của địa phương. Các cấp ủy đảng, chính

quyền, Mặt trận và các đoàn thể trên địa bàn phải có chương trình, kế hoạch, mục tiêu

cụ thể để chăm lo xây dựng lực lượng này thực sự là chỗ dựa tin cậy cho tổ chức

đảng, chính quyền trong công tác vận động đồng bào DTTS [111, tr.35].

Ngoài ra, có rất nhiều bài viết đề cập đến thực trạng và giải pháp tăng cường

CTDV trên địa bàn. Tiêu biểu có các bài viết sau:

Bài viết "Một số kết quả và bài học kinh nghiệm trong công tác dân vận của

Đảng bộ tỉnh Gia Lai" [82, tr.39-41]. Tác giả đã nêu lên những kết quả đạt được

trong lãnh đạo CTDV của Đảng bộ tỉnh thời gian qua, từ đó rút ra một số kinh

nghiệm, đó là: Cần tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, tích cực về nhận thức, trách nhiệm

của các tổ chức trong HTCT về vị trí, vai trò của CTDV; tăng cường vai trò lãnh

đạo, quản lý của các cấp ủy đảng và chính quyền các cấp về CTDV; Mặt trận Tổ

quốc và các đoàn thể phải đổi mới về nội dung, đa dạng hóa các hình thức tập hợp,

vận động quần chúng, chú trọng công tác xây dựng tổ chức vững mạnh; tập trung

xây dựng đội ngũ cán bộ làm CTDV có đủ trình độ, năng lực và phẩm chất để đáp

ứng được yêu cầu, nhiệm vụ; làm tốt công tác quản lý nhà nước về tôn giáo.

22

Bài viết "Những điều rút ra từ thành công trong chỉ đạo công tác dân vận ở

Binh đoàn 15" [67, tr.24-26], đã nêu bật nhiều mô hình, cách làm hay, sáng tạo và

có hiệu quả của Binh đoàn 15 trong việc triển khai thực hiện phong trào thi đua

"Dân vận khéo", trong đó, nổi bật là mô hình "Gắn kết hộ gia đình công nhân

người Kinh với hộ gia đình đồng bào DTTS" (gọi tắt là gắn kết hộ). Tác giả nhận

định: "Gắn kết hộ" là một mô hình mới, có tính sáng tạo, phù hợp với tình hình

thực tiễn ở các đơn vị quân đội làm kinh tế kết hợp với quốc phòng, mang lại lợi

ích trước mắt cũng như lâu dài. Mô hình này cần được nhân rộng ra các đơn vị

quân đội đang làm kinh tế trong toàn quân và các tổng công ty, doanh nghiệp làm

kinh tế trong cả nước.

Bài viết "Chính sách kết nghĩa dân tộc ở tỉnh Đắk Lắk hiện nay" [48, tr.70-

80] đã góp phần làm rõ cơ sở khoa học, cơ sở thực tiễn của chính sách kết nghĩa;

nêu bật những thành tựu và hạn chế trong thực hiện chính sách này ở tỉnh Đắk Lắk.

Tác giả nhận định: Tuy còn một số hạn chế nhất định trong quá trình triển khai

chính sách cần phải khắc phục, nhưng thành công của công tác kết nghĩa là to lớn,

góp phần quan trọng vào việc ổn định đời sống kinh tế - xã hội và an ninh trật tự

vùng DTTS.

Bài viết "Phát huy vai trò công tác dân vận trên địa bàn Tây Nguyên trong

giai đoạn mới" [38, tr.29-30; 39], đã khẳng định CTDV là nội dung cốt lõi, nhân tố

quyết định để ổn định tình hình an ninh chính trị, tạo cơ sở cho kinh tế - xã hội phát

triển ở Tây Nguyên. Trong bối cảnh tình hình Tây Nguyên còn nhiều khó khăn,

thách thức, cần coi trọng CTVĐQC, đặc biệt là phải thực hiện tốt các giải pháp: đẩy

mạnh công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao nhận thức cho quần chúng;

chăm lo phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân;

tập trung củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động của HTCT cơ sở, đặc biệt coi trọng

công tác xây dựng buôn làng theo hướng tự quản, tự chịu trách nhiệm mọi mặt ở địa

bàn dân cư; thường xuyên tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng kết

việc thực hiện CTDV.

Báo cáo tổng quan đề tài Các giải pháp đổi mới hoạt động của hệ thống dân

vận các tỉnh Tây Nguyên ở nước ta hiện nay [110], đã tập trung làm rõ thực trạng

23

hoạt động của hệ thống Dân vận ở địa bàn thuộc các tỉnh Tây Nguyên từ năm 2001

đến năm 2005; nêu lên những ưu điểm và hạn chế; đề xuất các giải pháp nhằm đổi

mới hoạt động của hệ thống Dân vận ở các tỉnh Tây Nguyên: Cần tạo được những

chuyển biến tích cực về nhận thức trong cán bộ, đảng viên về tầm quan trọng của

CTDV đối với sự phát triển bền vững ở Tây Nguyên; phân định rõ chức năng,

nhiệm vụ và xây dựng quy chế phối hợp giữa các tổ chức; đổi mới nội dung hoạt

động và tổ chức các phong trào hành động cách mạng; đổi mới công tác tuyên

truyền, vận động quần chúng; xây dựng, củng cố tổ chức và phát triển đoàn viên,

hội viên. Điểm nổi bật của nghiên cứu này là đã xác định và làm rõ được những vấn

đề về đổi mới hoạt động của hệ thống Dân vận ở Tây Nguyên, đó là: Đổi mới hoạt

động của từng tổ chức trong hệ thống Dân vận và đổi mới hệ thống Dân vận ở mối

cấp, mỗi địa phương, đặc biệt là ở cơ sở. Từng tổ chức, từng cấp có sự đổi mới tích

cực, thường xuyên và đúng hướng mới tạo ra sự đổi mới rõ nét, liên tục và đúng đắn

cho toàn bộ hệ thống. Tuy nhiên, những giải pháp trong nghiên cứu này chỉ đề cập

đến những vấn đề mang tính cơ bản trong hệ thống Dân vận, nên chưa mang tính

tổng thể về sự đổi mới hoạt động của cả HTCT ở Tây Nguyên trong tình hình mới.

Kỷ yếu hội thảo khoa học "Một số vấn đề về công tác tuyên truyền, vận động

quần chúng trong thời kỳ hiện nay" [61], đã tập hợp 20 báo cáo tham luận của các

nhà khoa học, các nhà lãnh đạo, quản lý, cung cấp khá nhiều thông tin về lý luận

cũng như thực tiễn về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng trên địa bàn các

tỉnh Tây Nguyên; nêu những mô hình làm CTDV hiệu quả; chỉ ra những vấn đề mới

đặt ra; đề xuất nhiều giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả CTDV trên địa bàn này.

Đáng chú ý là bài viết "Một số vấn đề về công tác tuyên truyền, vận động nhân dân

ở địa bàn Tây Nguyên giai đoạn hiện nay" [61, tr.74-82]. Từ việc khái quát những

nét đặc thù của Tây Nguyên, tác giả cho rằng, để tăng cường công tác tuyên truyền,

vận động nhân dân trên địa bàn có hiệu quả, cần tập trung vào một số nội dung sau:

Trước hết, cần nhận thức rõ tình hình, tính đặc thù của từng địa bàn để chủ động đối

phó với những tác động tiêu cực đến tâm trạng, lòng tin của nhân dân; đổi mới

phong cách tuyên truyền, vận động nhân dân; tăng cường xây dựng, củng cố HTCT

cơ sở; phối hợp sức mạnh tổng hợp của cả HTCT và các lực lượng xã hội trong

24

tuyên truyền, vận động nhân dân; tăng cường đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, nâng

cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân.

Luận án Đổi mới công tác tư tưởng của Đảng ở Tây Nguyên trong giai đoạn

hiện nay [109], cho rằng: Yêu cầu đổi mới công tác tư tưởng nhằm nâng cao chất

lượng và hiệu quả công tác tư tưởng của Đảng ở Tây Nguyên là một nhu cầu khách

quan, vừa cơ bản, vừa cấp bách. Trên cơ sở phân tích, đánh giá những nét mới của

tình hình tư tưởng và công tác tư tưởng của Đảng ở Tây Nguyên từ năm 2001 đến

năm 2010, tác giả đã nêu ra các nhóm giải pháp về đổi mới công tác tư tưởng của

Đảng đáp ứng yêu cầu ổn định chính trị - xã hội và phát triển bền vững vùng Tây

Nguyên: Nhóm giải pháp về nhận thức đối với việc đổi mới công tác tư tưởng của

Đảng ở Tây Nguyên, về đổi mới nội dung và phương pháp công tác tư tưởng, về

công tác cán bộ làm công tác tư tưởng, về chế độ, chính sách và tăng cường cơ sở

vật chất, trang thiết bị, phương tiện… Đây là các giải pháp đồng bộ và toàn diện, có

tính khả thi về công tác tư tưởng đối với địa bàn đặc thù Tây Nguyên.

1.2. KHÁI QUÁT KẾT QUẢ CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ VÀ

NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN TIẾP TỤC GIẢI QUYẾT

1.2.1. Kết quả nghi n cứu của các công trình đã công bố

- Những công trình, bài viết những vấn đề lý luận chung về CTDV đã đề

cập: khái niệm, mục đích, nội hàm, phương pháp và phương thức tiến hành

CTDV; sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đối

với CTDV qua các thời kỳ lịch sử; khẳng định những thành tựu, chỉ ra những hạn

chế; đồng thời, bước đầu đúc kết một số kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo

CTDV của Đảng. Các tác giả cũng đề cập đến việc đổi mới nội dung và phương

thức lãnh đạo CTDV của Đảng nói chung và đối với từng tổ chức đảng, chính

quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng nói riêng... Những công trình

khoa học trên đã cung cấp những vấn đề lý luận chung và phương pháp nghiên

cứu đề tài; gợi mở những luận điểm khoa học và tài liệu quý cho tác giả trong quá

trình tiến hành viết luận án.

- Các công trình nghiên cứu về Tây Nguyên đã phân tích đặc điểm tự nhiên,

kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội Tây Nguyên, sự tác động của các yếu tố dân tộc,

25

tôn giáo, sự chống phá của các thế lực thù địch... cùng những giải pháp có tính đồng

bộ về tận dụng tiềm năng, lợi thế để phát triển kinh tế - xã hội, phát huy bản sắc văn

hóa các dân tộc, về xây dựng HTCT và đội ngũ cán bộ để đảm bảo Tây Nguyên ổn

định và phát triển. Kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học trên đã cung cấp

cho tác giả cách nhìn toàn diện, đa chiều về Tây nguyên và là nguồn tài liệu quan

trọng trong quá trình nghiên cứu sinh viết luận án.

- Những nghiên cứu thực tế về CTDV gắn với vùng Tây Nguyên và từng địa

phương cụ thể đã làm rõ bức tranh đa dạng về thực trạng CTDV, cùng những mô

hình, kinh nghiệm hay, có thể dùng làm cơ sở để xác định những nội dung trọng

tâm, những vấn đề đặt ra trong CTDV của Đảng trên địa bàn Tây Nguyên. Đây là

nguồn tài liệu quan trọng, đồng thời là những gợi mở cả về lý luận và thực tiễn để

tác giả luận án tham khảo, kế thừa trong quá trình thực hiện đề tài luận án.

1.2.2. Những vấn đề luận án tiếp tục giải quyết

Kết quả khảo cứu các công trình khoa học có liên quan đến đề tài luận án

cho thấy, bên cạnh những vấn đề đã được luận bàn thấu đáo, còn nhiều vấn đề đặt

ra, đòi hỏi luận án cần phải tiếp tục giải quyết:

Thứ nhất, về mặt lý luận, các tác giả chưa đi sâu phân tích làm rõ những chủ

trương, chính sách, giải pháp tăng cường sự lãnh đạo CTDV của Đảng trên địa bàn

Tây Nguyên từ năm 2001 đến năm 2010.

Thứ hai, về mặt thực tiễn, chưa có công trình nghiên cứu nào đi sâu đánh giá

thực trạng CTDV trên địa bàn Tây Nguyên từ năm 2001 đến năm 2010.

Thứ ba, các công trình đã công bố chỉ nêu một số kinh nghiệm và giải pháp

đổi mới CTDV chung trong cả nước, hoặc chỉ đề cập từng thành tố trong CTDV

trên địa bàn Tây Nguyên, chưa đúc kết được kinh nghiệm về lãnh đạo CTDV của

Đảng trên địa bàn Tây Nguyên thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập quốc tế.

Cho đến nay, chưa có công trình nào tái hiện, luận giải một cách cơ bản, có

hệ thống về chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với CTDV

ở Tây Nguyên từ năm 2001 đến năm 2010 dưới góc độ khoa học Lịch sử Đảng. Đây

vẫn là một trong những "khoảng trống" khoa học để tác giả luận án tiếp tục tập

trung làm rõ:

26

Một là, phân tích đặc điểm, tình hình Tây Nguyên về chính trị, kinh tế, văn

hóa, xã hội, xây dựng HTCT, an ninh - quốc phòng. Từ đó, làm rõ những yếu tố tác

động đến CTDV trên địa bàn Tây Nguyên.

Hai là, tiếp tục nghiên cứu, phân tích làm rõ sự phát triển về nhận thức của

Đảng về vị trí, vai trò của CTDV; luận giải có hệ thống chủ trương, chính sách và

sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với CTDV trên địa bàn Tây Nguyên từ

năm 2001 đến năm 2010.

Ba là, đánh giá đúng thực trạng về CTDV của Đảng trên địa bàn Tây

Nguyên những năm 2001 đến năm 2010 với những ưu điểm, hạn chế và nguyên

nhân của nó; từ đó, đúc kết những kinh nghiệm thực tiễn quá trình Đảng lãnh đạo

CTDV, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả lãnh đạo CTDV của Đảng ở Tây

Nguyên trong bối cảnh mới.

27

Chƣơng 2

ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC DÂN VẬN

Ở TÂY NGUYÊN TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2005

2.1. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH TÂY NGUYÊN VÀ CÔNG TÁC DÂN VẬN Ở

TÂY NGUYÊN TRƢỚC NĂM 2001

2.1.1. Đặc điểm tự nhi n, kinh tế, văn hóa, xã hội tác động đến công tác

dân vận ở Tây Nguy n

Về điều kiện tự nhiên

Tây Nguyên có 5 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng

(từ ngày 01-01-2004, tỉnh Đắk Nông được thành lập, bao gồm 6 huyện phía Nam

của tỉnh Đắk Lắk) giới hạn trong tọa độ địa lý từ 11045' đến 15

027' (độ vĩ Bắc) và từ

107012' đến 108

055' (độ kinh Đông). Phía Bắc Tây Nguyên giáp tỉnh Quảng Nam,

phía Đông giáp các tỉnh: Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh

Thuận, Bình Thuận, Đồng Nai; phía Nam giáp tỉnh Bình Phước; phía Tây giáp Lào

và Campuchia (Phụ lục 1). Đường biên giới giáp Lào và Campuchia dài 590 km

(trong đó đường biên giới giáp Campuchia 455 km). Nằm dọc trên toàn tuyến biên

giới có 29 xã, thuộc 12 huyện của 4 tỉnh: Đắk Lắk, Gia Lai, Đắk Nông, Kon Tum.

Các xã biên giới cũng là địa bàn cư trú của nhiều DTTS tại chỗ Tây Nguyên như:

Brâu, Rơ măm, Gia rai, Xơ đăng, Giẻ Triêng, Ê đê, Mnông… Với vị trí đó, trong

cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ

Tổ quốc hiện nay, Tây Nguyên luôn giữ một vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về

quốc phòng và an ninh.

Tây Nguyên có tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng, có tiềm năng

lớn phát triển các ngành lâm nghiệp, cây công nghiệp, chăn nuôi đại gia súc, công

nghiệp chế biến, du lịch… Diện tích tự nhiên của Tây Nguyên là 54.474 km2, chiếm

16,3% diện tích cả nước, trong đó diện tích rừng và đất rừng chiếm tỷ trọng lớn.

"Đến năm 2005, toàn vùng có 3.006.147 ha rừng và đất lâm nghiệp" [17, tr.20].

Mặc dù đã bị khai thác quá mức, nhưng Tây Nguyên vẫn là vùng có trữ lượng gỗ

lớn nhất cả nước (chiếm khoảng 35% tổng trữ lượng gỗ của cả nước). Rừng Tây

28

Nguyên không chỉ lớn về diện tích mà còn có giá trị đặc biệt về chất lượng bởi sinh

khối lớn và sự đa dạng, phong phú của hệ động, thực vật.

Tài nguyên đất Tây Nguyên giàu có là đặc điểm nổi bật so với các vùng lãnh

thổ khác trên cả nước. Cùng với điều kiện khí hậu nhiệt đới điển hình, loại đất đỏ

bazan là điều kiện sinh thái rất thuận lợi cho các loại cây trồng có giá trị kinh tế cao

như cà phê, cao su, hồ tiêu...

Bên cạnh những thuận lợi, thiên nhiên Tây Nguyên cũng rất khắc nghiệt: địa

hình hiểm trở, bị chia cắt bởi núi rừng, sông, suối, giao thông đi lại khó khăn (nhiều

nơi, từ huyện lỵ đến trung tâm xã phải đi hết cả ngày đường và đi lại giữa các thôn,

buôn trong một xã cũng rất khó khăn, đặc biệt là vào mùa mưa), nên ảnh hưởng

nhiều đến CTVĐQC, nhất là ở vùng đồng bào DTTS, vùng sâu, vùng xa.

Về điều kiện kinh tế.

Đặc điểm kinh tế của Tây Nguyên vốn là nền nông nghiệp nương rẫy, sản

xuất mang tính tự nhiên, tự cung tự cấp, trình độ lực lượng sản xuất thấp, công cụ

sản xuất thô sơ, kỹ thuật canh tác lạc hậu, năng suất lao động thấp. Bên cạnh đó,

Tây Nguyên cũng là một địa bàn có sự đan xen nhiều tầng nấc về tính chất và trình

độ sản xuất, sự chênh lệch giữa vùng đồng bào DTTS và vùng người Kinh. Trong

những năm đổi mới, Đảng và Nhà nước đã quan tâm dành nhiều ưu tiên về cơ chế

và các nguồn lực để đầu tư phát triển kinh tế - xã hội. Nhờ vậy, kinh tế trên địa bàn

Tây Nguyên tăng trưởng ở mức khá cao và liên tục, đời sống của người dân từng

bước được cải thiện và nâng cao.

Tuy đã đạt được những kết quả quan trọng trong những năm đầu đổi mới,

nhưng nhìn chung, kinh tế - xã hội Tây Nguyên vẫn chưa có sự chuyển biến cơ bản.

Tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa vững chắc, còn phụ thuộc phần lớn

vào sản xuất nông nghiệp. Công tác quản lý nhà nước về đất đai, tài nguyên, môi

trường có nhiều thiếu sót; nhiều tiềm năng, lợi thế của từng địa phương chưa được

khai thác có hiệu quả để tạo nền tảng cho sự phát triển của Tây Nguyên nói chung

và CTDV trên địa bàn nói riêng. Điều này đặt ra yêu cầu cần phải có một chiến lược

phát triển kinh tế - xã hội, phát huy mọi nguồn lực nhằm cải thiện đời sống vật chất

và tinh thần cho đồng bào các dân tộc trong vùng.

29

Về điều kiện dân cư, văn hóa, xã hội.

Tây Nguyên là vùng đất đầy xáo trộn và biến động về dân số, dân tộc và dân

cư. Đặc biệt từ sau năm 1975, ở Tây Nguyên đã xảy ra tình trạng gia tăng dân số đột

biến do di dân (có kế hoạch và tự do). Đến năm 2009, dân số toàn vùng Tây

Nguyên có 5.107.437 người, chiếm gần 6% dân số cả nước, bao gồm 49 dân tộc có

nguồn gốc và lịch sử cư trú khác nhau. Nếu xét về nguồn gốc, có thể chia thành ba

nhóm: Nhóm các DTTS tại chỗ (gồm 12 dân tộc: Bana, Xêđăng, Brâu, Rơmắm, Gié

triêng, Jarai, Êđê, M'nông, K'ho, Mạ, Churu và X'tiêng), với 1.359.134 người,

chiếm 26,57% dân số toàn vùng; nhóm các DTTS từ miền núi phía Bắc, vùng duyên

hải miền Trung và Đông Nam Bộ đến Tây Nguyên làm ăn sinh sống, với 445.713

người, chiếm 8,71% dân số toàn vùng và nhóm dân tộc Kinh với 3.302.588 người,

chiếm 64,7% tổng dân số (Phụ lục 2).

Việc gia tăng dân số và thay đổi cơ cấu thành phần tộc người ở Tây Nguyên

tạo nên hình thái cư trú xen cư giữa nhóm các DTTS tại chỗ và nhóm các tộc người

mới đến. Đây là một đặc điểm rõ nét và phổ biến không chỉ ở địa bàn cấp tỉnh,

huyện mà xuống tận cấp xã, buôn, làng. Theo kết quả của cuộc Tổng điều tra dân số

và nhà ở toàn quốc năm 1999, hầu như toàn bộ các xã ở Tây Nguyên đều là xã đa

tộc người; xã, phường có một dân tộc chỉ chiếm 1,53%; xã có từ 5 dân tộc trở lên

chiếm tới 55,46% (325/586) số xã, phường trong vùng. Cả Tây Nguyên không có xã

nào chỉ có DTTS tại chỗ, ngược lại có tới 52 xã (8,87%) chỉ gồm các dân tộc từ nơi

khác chuyển cư đến vào những thời gian khác nhau [128] (Phụ lục 2).

Có thể nói, tính đan xen về dân tộc trên địa bàn dân cư ở Tây Nguyên kéo

theo sự đan xen về văn hóa, tâm lý, lối sống… Đó là một trong những đặc điểm nổi

bật vừa có những điều kiện thuận lợi, vừa có những thách thức, khó khăn trong quá

trình xây dựng khối đoàn kết dân tộc ở Tây Nguyên. Vì vậy, CTDV ở Tây Nguyên

cần đặc biệt quan tâm đến việc củng cố và phát triển mối quan hệ tốt đẹp giữa các

dân tộc; đồng thời, phải nhận thức, hiểu rõ bản chất và giải quyết kịp thời những

mâu thuẫn, xung đột trong quan hệ tộc người.

Cộng đồng các DTTS tại chỗ ở Tây Nguyên tuy là bộ phận thiểu số nhưng

vẫn là chủ nhân nền tảng của văn hóa Tây Nguyên, sự ổn định của nhóm DTTS tại

30

chỗ có ảnh hưởng rất lớn đến ổn định và an ninh chính trị của Tây Nguyên. Vì vậy,

đồng bào DTTS tại chỗ ở Tây Nguyên là đối tượng đặc thù cần được quan tâm

trong CTDV của Đảng.

Nét nổi bật của các DTTS tại chỗ là đời sống xã hội mang tính cộng đồng cao.

Đơn vị tổ chức xã hội truyền thống của đồng bào là buôn làng (buôn, bon, plei…);

mỗi buôn làng có một tổ chức tự quản bao gồm: chủ làng, hội đồng già làng, chỉ

huy thanh niên, thầy cúng… có chức năng, nhiệm vụ điều hành, kiểm soát mọi lĩnh

vực trong đời sống xã hội và tâm linh theo luật tục của buôn làng. Ý thức cộng đồng

buôn làng rất mạnh: "Con người Tây Nguyên tự đồng nhất mình với làng, con

người hòa tan trong tế bào cơ bản của xã hội là làng, hình phạt nặng nề nhất, nỗi

nhục nhã, đau khổ lớn nhất là bị đuổi ra khỏi làng" [104, tr.10]. Ngày nay, mặc dù

thiết chế buôn làng cổ truyền ở Tây Nguyên về danh nghĩa không còn chính thức,

trọn vẹn, nhưng ảnh hưởng của nó vẫn còn đậm nét trong các buôn làng có đông

đồng bào DTTS.

Với bản chất thật thà, chất phác, sống thiên về tình cảm và lối tư duy cụ thể,

trực quan, cảm tính, đồng bào DTTS thường có thói quen xem xét, đánh giá mọi sự

việc, hành vi một cách cụ thể bằng quan sát và tiếp xúc trực tiếp; họ dễ tin vào

những việc, những người có hành động cụ thể, gần gũi, đem lại lợi ích thiết thực

cho họ; khi đã tin thì tin hết lòng, ngược lại, khi đã mất niềm tin một lần thì khó tạo

dựng lại niềm tin. "Bản chất của người Tây Nguyên có tính cộng đồng cao, tinh

thần thượng võ, chất phác mà phóng khoáng, bền bỉ và dẻo dai, không lắm lời nhiều

tiếng. Đã vui vui cả làng, đã tin tin tuyệt đối, đã đi đi đến cùng" [104, tr.126].

Mỗi cộng đồng DTTS ở Tây Nguyên đều có những đặc điểm riêng về văn

hóa, phong tục, tập quán, ngôn ngữ và tâm lý xã hội truyền thống. Điều này, cần

phải được nhận diện một cách thấu đáo thì mới xác định được nội dung và biện

pháp tiến hành CTDV phù hợp, hiệu quả.

Những giá trị truyền thống, những phong tục tập quán tốt đẹp, những

thiết chế xã hội cổ truyền, những luật tục và chuẩn mực đạo đức, lối

sống, ngôn ngữ,… đã ăn sâu vào tâm thức người dân, đang trực tiếp ảnh

hưởng đến cuộc sống của họ là những yếu tố không thể bỏ qua mà cần

31

nghiên cứu, nắm vững, kế thừa một cách có chọn lọc để sử dụng một

cách có lợi nhất trong quá trình lãnh đạo, quản lý và xây dựng HTCT ở

Tây Nguyên [57, tr.143].

Về tình hình tôn giáo, tín ngưỡng

Tôn giáo, tín ngưỡng của đồng bào các DTTS Tây Nguyên trước đây chủ

yếu là những hình thức truyền thống như: hồn linh giáo, bái vật giáo, ma thuật, đa

thần giáo… Tuy nhiên, cùng với tiến trình phát triển lịch sử, nhiều tôn giáo lớn:

Công giáo, Phật giáo, Tin lành và Cao đài đã xuất hiện và chiếm ưu thế ở Tây

Nguyên. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê năm 2009, trong tổng số 5.107.437

người dân Tây Nguyên, có 824.992 người theo Công giáo (16,12%), có 454.229

người theo đạo Phật (8,88%), có 362.689 người theo Tin lành (7,09%), 19.989

người theo Cao đài (0,40%) [105]. Như vậy, có khoảng gần 40% dân số Tây

Nguyên theo các tôn giáo khác nhau, trong đó, chiếm tỷ lệ đông nhất là Công giáo,

tiếp đến là Phật giáo, Tin lành và Cao đài. Đáng chú ý là số lượng tín đồ đạo Tin

lành phát triển rất nhanh trong đồng bào DTTS, trong 362.689 người theo Tin lành,

có 324.135 người DTTS (chiếm 89,3%). Cùng với sự mở rộng và phát triển nhanh

chóng về số lượng tín đồ, những hoạt động của tôn giáo, đặc biệt là đạo Tin lành có

những biểu hiện hết sức phức tạp như: Hoạt động truyền đạo trái phép; xây dựng

các cơ sở thờ tự bất hợp pháp; sự lôi kéo, tranh chấp tín đồ... gây nên nhiều khó

khăn cho chính quyền địa phương trong công tác quản lý tôn giáo và vận động quần

chúng tín đồ.

Việc chuyển đổi mạnh mẽ từ tín ngưỡng truyền thống sang các tôn giáo

khác, nhất là đạo Tin lành đã có nhiều ảnh hưởng đa chiều, phức tạp, đã hình

thành nên các cộng đồng dân cư cùng theo một tôn giáo: "Tính cố kết của những

cộng đồng này không chỉ diễn ra trong số tín đồ của một tộc người cư trú trên

cùng một địa bàn như trước đây, mà còn giữa các tộc người tại chỗ, giữa người

mới di cư đến với người đã định cư lâu đời, giữa những người ở Tây Nguyên với

một số vùng trong nước và các quốc gia khác, nơi có đồng tộc và đồng đạo sinh

sống" [60, tr.207].

Quan hệ dân tộc và tôn giáo gắn chặt với nhau, chi phối và tác động lẫn nhau

32

là một trong những nguyên nhân khiến tình hình an ninh chính trị trong vùng đồng

bào DTTS tại chỗ Tây Nguyên trở nên phức tạp. Dưới chiêu bài đòi "tự trị dân tộc",

"tự do tôn giáo", lực lượng phản động FULRO trong và ngoài nước đã và đang âm

mưu lập nên cái gọi là "Nhà nước Đê Ga" và "Tin lành Đê Ga" để tuyên truyền, lôi

kéo một bộ phận đồng bào DTTS chống đối cách mạng. Một bộ phận chức sắc, tín

đồ Tin lành bị bọn phản động FULRO lợi dụng, lôi kéo tham gia hoạt động

FULRO, "Tin lành Đê Ga". Thực chất "Tin lành Đê Ga" là một tổ chức chính trị

phản động, đội lốt tôn giáo, ly khai khỏi Hội thánh Tin lành miền Nam Việt Nam; là

con đẻ của cái gọi là "Nhà nước Đê Ga" trong chiến lược "diễn biến hòa bình"

chống phá cách mạng Việt Nam. "Tin lành Đê Ga" tuy hoạt động ngấm ngầm

nhưng vẫn tồn tại và tiềm ẩn nguy cơ chia rẽ đoàn kết dân tộc, ảnh hưởng tiêu cực

đến an ninh chính trị ở Tây Nguyên nói riêng và cả nước nói chung.

Bên cạnh những đặc điểm cơ bản nói trên, vùng đất Tây Nguyên còn phải

đối mặt với những khó khăn, thách thức sau:

Một là, vấn đề đất đai và phân hóa giàu nghèo diễn ra ngày càng sâu sắc.

Trước năm 1975, Tây Nguyên là một vùng rừng núi xa xôi, đất rộng người

thưa, việc tranh chấp đất đai ít xảy ra. Sau ngày miền Nam giải phóng, việc giao

đất, rừng cho các nông, lâm trường quản lý, sử dụng với diện tích quá lớn, mang

tính chất áp đặt chủ quan, không xuất phát từ tình hình, đặc điểm, tập quán sử dụng

đất của đồng bào DTTS tại chỗ và yêu cầu quản lý nhà nước, nên đã xảy ra một tình

trạng bất hợp lý là trong khi nhiều nông, lâm trường không sử dụng hết đất hoặc sử

dụng kém hiệu quả thì một số hộ DTTS tại chỗ thiếu đất sản xuất, đất ở… dẫn đến

tranh chấp đất đai giữa đồng bào với nông, lâm trường.

Tình trạng dân di cư là một hiện tượng xã hội đặc biệt, diễn ra mạnh mẽ, với

tốc độ lớn khiến dân số Tây Nguyên tăng lên nhanh chóng: "từ năm 1975 đến năm

2000, dân di cư đến Tây Nguyên khoảng 1,5 triệu người, trong đó số dân di cư tự do

lên tới 80 vạn người, chủ yếu từ năm 1976 - 1990" [63]. Bên cạnh một số tác động

tích cực như bổ sung nguồn lao động, truyền bá kiến thức, kinh nghiệm sản xuất

cho đồng bào tại chỗ, tạo thêm nhiều ngành nghề mới, làn sóng dân di cư đã kéo

theo nhiều hệ lụy tiêu cực về kinh tế, xã hội, đặc biệt là tình trạng mua bán, tranh

33

chấp và bao chiếm đất đai giữa một bên là người DTTS tại chỗ với một bên là

người mới đến diễn ra phổ biến: "từ năm 1990 - 1998, ở các tỉnh Tây Nguyên đã có

hơn 2.500 vụ tranh chấp đất đai phải đưa lên các cấp có thẩm quyền giải quyết" [70,

tr.157]. Hệ quả của vấn đề trên, đã làm cho một bộ phận người DTTS tại chỗ lâm

vào cảnh thiếu đất sản xuất và đất ở, cuộc sống đói nghèo, đi làm thuê cho người

mới đến hoặc chấp nhận cuộc sống du canh, du cư vào rừng sâu.

Cùng với vấn đề đất đai, nghèo đói và phân hóa giàu nghèo là vấn đề xã hội

nổi cộm ở Tây Nguyên. Sau gần 20 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, Tây Nguyên

vẫn là một trong những vùng nghèo nhất của cả nước. "Thu nhập bình quân của

20% số hộ có mức thu nhập cao nhất so với 20% số hộ có mức thu nhập thấp nhất

cách nhau 13 lần, trong khi mức chênh lệch này của cả nước là 8,9 lần và của Tây

Bắc là 7,1 lần" [41, tr.5]. Không chỉ nghèo về đời sống kinh tế mà đời sống văn hóa,

tinh thần của đồng bào các DTTS ở Tây Nguyên cũng còn nhiều hạn chế.

Vấn đề đất đai và sự phân hóa giàu nghèo đã làm nảy sinh tư tưởng, so bì và

không bằng lòng trong các DTTS tại chỗ, ảnh hưởng đến quan hệ dân tộc và niềm

tin của đồng bào đối với Đảng, với cách mạng vốn tốt đẹp trong hai cuộc kháng

chiến. Thực tế trên là nguyên cớ để các thế lực phản động tuyên truyền, lôi kéo các

DTTS tại chỗ biểu tình, bạo loạn, ảnh hưởng trực tiếp đến việc xây dựng và phát

triển Tây Nguyên theo hướng bền vững.

Hai là, trình độ dân trí và năng lực của đội ngũ cán bộ DTTS còn hạn chế.

Do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan mà giáo dục ở vùng đồng

bào DTTS Tây Nguyên chậm phát triển. Nhìn chung, đồng bào DTTS có trình độ

học vấn thấp, chủ yếu là học hết cấp 1, cấp 2; một bộ phận còn mù chữ, tái mù chữ,

hoặc không nói được tiếng phổ thông. Trình độ dân trí thấp ảnh hưởng rất lớn đến

khả năng vận dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật trong sản xuất và đời sống,

cũng như việc nhận thức và thực hiện các chủ trương của Đảng; chính sách, pháp

luật của Nhà nước. Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm cho một bộ phận

đồng bào DTTS dễ bị các lực lượng thù địch lợi dụng, kích động, mua chuộc, lừa

bịp và lôi kéo.

Trong đời sống, đồng bào DTTS ở Tây Nguyên còn tồn tại nhiều phong tục,

34

tập quán lạc hậu như: du canh, du cư; tảo hôn, nối dòng, ma lai, thuốc thư… đã ăn

sâu trong tiềm thức của đồng bào nên không dễ xóa bỏ một cách nhanh chóng. Đây

là một khó khăn rất lớn trong công tác vận động đồng bào thay đổi những nếp nghĩ,

cách làm, xóa bỏ những tập tục lạc hậu, xây dựng đời sống mới theo hướng văn

minh, hiện đại.

Đội ngũ cán bộ DTTS trong HTCT các cấp ở Tây Nguyên không đều và

chưa ngang tầm với đòi hỏi của thực tiễn. Một vấn đề có tính quy luật là càng xuống

cấp dưới thì trình độ cán bộ càng thấp hơn, rõ nhất là ở cấp xã, phường, thị trấn. Đội

ngũ cán bộ cơ sở người DTTS nhìn chung còn yếu cả về trình độ chuyên môn và

năng lực công tác; tâm lý tự ti, thụ động trong công việc, ỷ lại vào cấp trên vẫn còn

tồn tại khá phổ biến. Đây chính là những khó khăn và lực cản để đội ngũ cán bộ này

phát huy thế mạnh của mình trong công tác vận động đồng bào thực hiện các chủ

trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Ba là, sự chống phá thường xuyên và quyết liệt của các thế lực thù địch,

phản động.

Tây Nguyên trong quá khứ cũng như hiện tại và tương lai luôn có vị trí chiến

lược về quốc phòng, an ninh đối với cả nước. Đây cũng là nơi các thế lực thù địch

thường xuyên chống phá quyết liệt, âm mưu chia cắt, lôi kéo, chi phối đồng bào các

dân tộc. Thủ đoạn quen thuộc của chúng là lợi dụng những vấn đề dân tộc, tôn giáo,

dân chủ, nhân quyền, đất đai để gây mất ổn định chính trị, chia rẽ khối đại đoàn kết

dân tộc, đặc biệt là giữa dân tộc Kinh và các DTTS; chia rẽ giữa đồng bào các dân

tộc với Đảng và chính quyền; kích động tư tưởng ly khai, tự trị dân tộc để thực hiện

âm mưu "Quốc tế hóa" vấn đề Tây Nguyên, tách Tây Nguyên ra khỏi Việt Nam.

Đặc biệt, từ năm 2001 đến nay, chúng đã gây ra ba cuộc biểu tình, bạo loạn

(2-2001; 4-2004 và 4-2008). Mặc dù, Đảng, Nhà nước và các cấp bộ đảng, chính

quyền địa phương đã tập trung giải quyết hậu quả của các cuộc biểu tình, bạo loạn,

từng bước tạo sự ổn định chính trị, xã hội, nhưng vẫn chưa giải quyết được căn

bản tư tưởng ly khai, tự trị trong một số đối tượng và đồng bào DTTS. Thực tế cho

thấy, sự chống phá của các thế lực thù địch ở Tây Nguyên ngày càng điên cuồng

với những thủ đoạn thâm độc và nham hiểm hơn. Vì vậy, tình hình an ninh ch ính

35

trị trên địa bàn luôn trong trạng thái bất ổn, tác động tiêu cực đến tốc độ phát triển

kinh tế - xã hội, cuộc sống yên bình của nhân dân và khối đại đoàn kết các dân tộc

ở Tây Nguyên.

Thực chất cái gọi là "Nhà nước Đê Ga độc lập" và "Tin lành Đê Ga" là

mưu đồ của các thế lực thù địch nhằm khôi phục lại tổ chức phản động

FULRO, mà nòng cốt là những tên phản động trong tổ chức này trước

đây, nay được móc nối, kích động, ngóc đầu dậy và phát triển lực lượng

để chống phá cách mạng. Đây là âm mưu rất thâm độc, rất lâu dài của các

thế lực thù địch đối với Tây Nguyên, đối với đất nước và chế độ [122].

Tóm lại, các yếu tố tự nhiên, kinh tế, văn hóa, xã hội và con người của vùng

đất Tây Nguyên có những điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội, xây

dựng đời sống văn hóa…, nhưng cũng có nhiều nhân tố ảnh hưởng tiêu cực đến

việc thực hiện CTDV, trong đó, những thách thức đặt ra đối với CTDV ở Tây

Nguyên là:

Thứ nhất, khu vực Tây nguyên còn nghèo, điểm xuất phát thấp, hậu quả

chiến tranh nặng nề, lại xa các trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của đất nước,

nên việc nâng cao đời sống nhân dân gắn với việc tuyên truyền đường lối, chính

sách của Đảng và Nhà nước còn hạn chế.

Thứ hai, do Tây Nguyên có số dân di cư tự do đến rất đông nên dân số tăng

nhanh; địa bàn rộng, phức tạp, giao thông đi lại khó khăn, dân cư lại sống phân tán,

nhất là ở vùng đồng bào DTTS, vùng sâu, vùng xa; tình trạng tranh chấp đất đai,

phân hóa giàu nghèo diễn ra gay gắt… nên việc tuyên truyền, vận động xây dựng

khối đại đoàn kết dân tộc gặp rất nhiều khó khăn.

Thứ ba, địa bàn Tây Nguyên hội đủ ba yếu tố: dân tộc, tôn giáo và biên giới.

Đây là những vấn đề hết sức phức tạp và nhạy cảm mà kẻ thù luôn tìm cách lợi

dụng để chống phá.

Tình hình trên đặt ra yêu cầu cho Đảng cần phải đổi mới CTDV, tăng cường

mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân, đặc biệt là phải có chủ trương, biện pháp đúng

đắn, phù hợp để thúc đẩy các phong trào quần chúng, tạo được sự chuyển biến tích

cực về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh trên địa bàn chiến lược này.

36

2.1.2. Thực trạng công tác dân vận ở Tây Nguy n trƣớc năm 2001

Quán triệt chủ trương của Đảng về đổi mới CTDV qua các kỳ Đại hội VI,

VII, VIII, đặc biệt là: Nghị quyết số 8B-NQ/TW, ngày 27-3-1990 Về đổi mới công

tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân , Đảng

bộ các tỉnh Tây Nguyên đã triển khai thực hiện nhiều biện pháp nhằm tạo sự

chuyển biến trong CTDV, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Quá trình thực

hiện CTDV ở Tây Nguyên trong gần 15 năm đổi mới đã đạt được một số thành

tích cơ bản:

Một là, công tác dân vận ở Tây Nguyên đã bước đầu đổi mới nội dung và

phương thức hoạt động, bám sát nhiệm vụ chính trị để vận động quần chúng tham

gia thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thực

hiện các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn.

Hai là, tổ chức, bộ máy các cấp của Dân vận, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn

thể quần chúng được kiện toàn, củng cố (trong đó sắp xếp các đồng chí Thường vụ

làm Trưởng Ban Dân vận các cấp, chú trọng bố trí các đồng chí có năng lực để lãnh

đạo các đoàn thể).

Ba là, phần lớn hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng

đều đổi mới nội dung và phương thức hoạt động. Do đó, sau một thời kỳ suy giảm

trong điều kiện kinh tế thị trường, số lượng hội viên, đoàn viên trong các tổ chức

đoàn thể có tăng lên, hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể được đánh giá

là thiết thực và có hiệu quả hơn trước. Chẳng hạn, tại tỉnh Đắk Lắk, theo đánh giá

của Ban Dân vận Tỉnh ủy: "năm 1997, ở cấp xã, có 30% tổ chức Mặt trận Tổ quốc

vững mạnh, so với năm 1992, tăng 11,8%; Hội Nông dân vững mạnh là 15,5%, tăng

8,45%; Hội Phụ nữ vững mạnh là 24,6%, tăng 10,2%; Đoàn Thanh niên Cộng sản

Hồ Chí Minh vững mạnh là 16,6%, tăng 5,5%" [36].

Nhờ hoạt động tích cực của Mặt trận và các đoàn thể quần chúng, các chủ

trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, cùng các Chương trình quốc

gia như: Xóa đói, giảm nghèo, tạo việc làm, phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội;

phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống mới ở khu dân cư"; thực hiện

Quy chế dân chủ ở cơ sở, xây dựng nông thôn mới, xây dựng làng văn hóa và gia

37

đình văn hóa, xây dựng quy ước, hương ước… được triển khai rộng khắp, thu hút

đông đảo tầng lớp nhân dân tham gia, tạo được những chuyển biến tích cực trong

đời sống nhân dân toàn vùng.

Bên cạnh những ưu điểm, CTDV ở Tây Nguyên còn tồn tại những hạn chế:

Một là, cấp ủy, chính quyền ở một số nơi chưa thật sự quan tâm đúng mức

đến CTVĐQC, kể cả trong nhận thức và chỉ đạo điều hành. Sự lãnh đạo, chỉ đạo của

cấp ủy đảng đối với CTDV chỉ dừng lại ở những định hướng chung chung, thiếu các

chương trình, kế hoạch và biện pháp cụ thể; thiếu sự phối hợp chặt chẽ, thường

xuyên giữa chính quyền với Mặt trận và các đoàn thể nhân dân; chưa tạo điều kiện

tốt cho hoạt động của các đoàn thể.

Hai là, việc tổ chức thực hiện CTDV chưa đồng bộ, sâu sát, thiết thực; công

tác kiểm tra, đôn đốc chưa thường xuyên; việc sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm,

nhân rộng điển hình còn chậm; việc thực hiện quy chế làm việc còn mang tính hình

thức, hoặc chấp hành không nghiêm túc.

Ba là, HTCT ở cơ sở còn nhiều yếu kém, không đủ sức để giải quyết những

vấn đề bức xúc nảy sinh ở cơ sở. Đặc biệt, ở nhiều nơi còn "trắng" tổ chức đảng và

Đoàn thanh niên. Ví dụ: Tại tỉnh Gia Lai, vào thời điểm đầu năm 2001, "trong tổng

số 1.730 buôn, làng thì có tới 263 buôn, làng không có đảng viên; 140 buôn, làng

chưa xây dựng được tổ chức đoàn. Tỷ lệ đảng viên so với dân số chung của toàn

khu vực Tây Nguyên là 0,21%, thấp nhất so với các khu vực khác trong cả nước (ở

các tỉnh phía Bắc, tỷ lệ này là 0,3%)" [106, tr.546-547]. Đề cập đến những hạn chế

của CTDV ở các tỉnh Tây Nguyên, Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ chỉ rõ:

Nhiều tổ chức đoàn thể nhân dân hoạt động còn nặng về hình thức, hành

chính. Chính quyền cơ sở ở nhiều nơi chưa làm tốt chức năng quản lý,

buông lỏng công tác quản lý đất đai, hộ tịch, hộ khẩu; trình độ, kiến thức,

năng lực lãnh đạo, quản lý, thuyết phục quần chúng còn nhiều mặt hạn

chế. Một số cán bộ cơ sở chỉ lo làm ăn sinh sống, ít lo cho dân; nhiều cán

bộ không nói được tiếng dân tộc, nên tuy ở gần dân nhưng không hiểu

được dân, không nắm bắt được diễn biến tư tưởng, tâm tư, nguyện vọng

chính đáng của nhân dân [37].

38

Công tác đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ người DTTS, nhất là ở

cơ sở chưa được quan tâm đúng mức và thiếu chính sách, giải pháp phù hợp. Việc

xây dựng đội ngũ cán bộ thôn, buôn và lực lượng cốt cán trong đồng bào DTTS, tôn

giáo chưa được chú trọng, vai trò của già làng, trưởng buôn chưa được phát huy

trong CTDV.

Những yếu kém, hạn chế trên của HTCT ở Tây Nguyên đã ảnh hưởng rất lớn

đến chất lượng, hiệu quả của CTDV. Nghị quyết số 10-NQ/TW của Bộ Chính trị

chỉ rõ:

Vụ bạo loạn chính trị đầu năm 2001 đã bộc lộ rõ tình trạng nhiều tổ chức

đảng, chính quyền, đoàn thể cơ sở ở Tây Nguyên yếu kém, không gắn bó

với dân, không được dân tín nhiệm. Lực lượng chuyên trách chưa nắm

chắc các hoạt động của địch. Đội ngũ cán bộ cốt cán các cấp chưa tương

xứng với yêu cầu, nhiệm vụ; một số người yếu kém cả về năng lực và

phẩm chất, không sát nhân dân, nhất là không sát đồng bào các DTTS [3].

2.2. CHỦ TRƢƠNG CỦA ĐẢNG VỀ CÔNG TÁC DÂN VẬN Ở TÂY

NGUYÊN TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2005

Trong những năm đầu thế kỷ XXI, tình hình thế giới và trong nước diễn biến

rất phức tạp, bên cạnh những cơ hội lớn là những khó khăn, thách thức lớn đan xen

với nhau. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực

lượng sản xuất. Toàn cầu hóa kinh tế là xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng

nhiều nước tham gia. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chung của các

quốc gia, dân tộc. Khu vực Đông Nam Á và châu Á - Thái Bình Dương, sau khủng

hoảng tài chính kinh tế, có khả năng phát triển năng động nhưng vẫn tiềm ẩn những

nhân tố gây mất ổn định.

Ở Việt Nam, sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng

và 15 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, tình hình đất nước có nhiều chuyển biến

tích cực: Chính trị tiếp tục ổn định, kinh tế tăng trưởng khá, tạo đà phát triển trong

những năm tiếp theo; văn hoá - xã hội có những tiến bộ, đời sống nhân dân tiếp tục

được cải thiện; quốc phòng, an ninh được tăng cường; quan hệ đối ngoại không

ngừng được mở rộng, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên.

39

Bên cạnh những thuận lợi, nước ta phải đối mặt với những nguy cơ, thách

thức lớn. Bốn nguy cơ mà Đảng đã chỉ ra: tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều

nước trong khu vực và trên thế giới, chệch hướng XHCN, nạn tham nhũng và tệ

quan liêu, "diễn biến hòa bình" vẫn còn tồn tại và diễn biến phức tạp, đan xen tác

động lẫn nhau, không thể xem nhẹ nguy cơ nào. Đặc biệt là tình trạng suy thoái về

chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên

đã gây bất bình và làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, đe dọa vai trò

lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ.

Bước vào thế kỷ XXI, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (2001)

đã kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII và tổng kết 15 năm thực hiện

đường lối đổi mới. Đại hội thông qua Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm

2001- 2010 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2001-

2005) nhằm mục tiêu: "Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt

đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để đến năm 2020

nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại" [50, tr.159].

Đại hội đúc kết bốn bài học chủ yếu sau 15 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới,

trong đó nhấn mạnh bài học: Đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân

dân, phù hợp với thực tiễn, luôn sáng tạo. Về CTDV, Đại hội xác định quan điểm

chỉ đạo: "Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân… là đường lối chiến lược, là

nguồn sức mạnh và động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; xây dựng khối

đại đoàn kết toàn dân là trách nhiệm của cả HTCT và toàn xã hội…" [50, tr.123].

Thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp

hành Trung ương (khóa IX) đã ra ba nghị quyết quan trọng về CTVĐQC, đó là:

Nghị quyết số 23/NQ/TW, ngày 12-3-2003 Về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn

dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; Nghị quyết

số 24/NQ/TW, ngày 12-3-2003 Về công tác dân tộc và Nghị quyết số 25/NQ/TW,

ngày 12-3-2003 Về công tác tôn giáo.

Nghị quyết Đại hội IX (2001) cùng với các Nghị quyết của Hội nghị lần thứ

bảy Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX) nêu trên đã thể hiện rõ những nội dung

cơ bản trong CTDV của Đảng như sau:

40

Một là, vận động, tập hợp nhân dân xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc,

phát huy vai trò làm chủ của nhân dân và sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, giữ

vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH

đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh,

vững bước đi lên CNXH.

Hai là, xây dựng chính sách cụ thể đối với các giai cấp, tầng lớp, các dân tộc,

tôn giáo, bảo đảm công bằng và bình đẳng xã hội, chăm lo lợi ích thiết thực, chính

đáng, hợp pháp của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân… nhằm tạo ra động lực mới

để thúc đẩy các phong trào cách mạng của quần chúng.

Ba là, tập trung xây dựng và hoàn chỉnh cơ chế làm chủ của nhân dân, phát

huy quyền làm chủ của nhân dân tham gia phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện "dân

biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra", tăng cường đoàn kết toàn dân, củng cố sự

nhất trí về chính trị và tinh thần trong xã hội.

Bốn là, tiếp tục đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ

quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội; mở rộng và đa dạng hóa các hình thức tập

hợp nhân dân tham gia các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội, các hội nghề

nghiệp; hướng mạnh các hoạt động về cơ sở, cộng đồng dân cư và từng gia đình;

khắc phục tình trạng hành chính hóa, phô trương, hình thức, quan liêu, xa dân.

Năm là, công tác vận động quần chúng là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn

dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của cả HTCT mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ

chức đảng; thực hiện phương châm: "trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có

trách nhiệm với dân", "nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin".

Bước vào giai đoạn mới, Tây Nguyên đứng trước nhiều khó khăn, thử thách:

Giá các mặt hàng nông sản chủ lực như cà phê, tiêu, điều… giảm mạnh; thiên tai

hạn hán kéo dài, tiếp đến là lũ lớn gây thiệt hại cho nhiều vùng dân cư, làm cho

đồng bào, nhất là đồng bào DTTS lâm vào tình trạng thiếu đói; tình trạng nông dân

thiếu đất hoặc không có đất canh tác do mua bán, sang nhượng trái phép còn nhiều.

Tỷ lệ đói nghèo và trẻ em suy dinh dưỡng cao, trình độ dân trí thấp và chậm được

cải thiện. Nhiều tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể cơ sở yếu kém. Trong khi đó,

tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở nhiều nơi trên địa bàn diễn ra

41

phức tạp. Các thế lực thù địch trong và ngoài nước liên tục thực hiện âm mưu "diễn

biến hòa bình", bạo loạn, lật đổ ở địa bàn Tây Nguyên, đặc biệt chúng tập trung

tuyên truyền, kích động tư tưởng ly khai, chia rẽ khối đoàn kết các dân tộc, phục hồi

tổ chức phản động FULRO, lôi kéo đồng bào DTTS biểu tình, bạo loạn và vượt

biên trái phép.

Nhận thức rõ những hạn chế, yếu kém của các cấp bộ đảng trong việc xây

dựng, bảo vệ địa bàn chiến lược; đồng thời, trước yêu cầu, đòi hỏi bức bách của

vùng Tây Nguyên, Đại hội IX của Đảng (4-2001) chỉ rõ: "Có chiến lược và quy

hoạch xây dựng Tây Nguyên giàu về kinh tế, vững mạnh về quốc phòng, an ninh,

tiến tới thành vùng kinh tế động lực…Thực hiện tốt chính sách dân tộc, thật sự cải

thiện đời sống vật chất và văn hóa của đồng bào dân tộc" [50, tr.186-187].

Cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, ngày 18-01-2002, Bộ Chính trị

(khóa IX) ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW Về phát triển kinh tế - xã hội và bảo

đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên thời kỳ 2001 – 2010, nêu rõ những quan

điểm chỉ đạo, nhiệm vụ và giải pháp để ổn định và phát triển bền vững Tây Nguyên.

Một trong những nhiệm vụ, giải pháp đó là:

Tiếp tục xây dựng và nâng cao chất lượng HTCT, đặc biệt là cấp cơ sở

để có đủ năng lực lãnh đạo, điều hành, quản lý mọi mặt đời sống xã hội,

xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc… Phải coi vấn đề đoàn kết các

dân tộc là vấn đề sống còn, là sức mạnh vô địch để chiến thắng mọi kẻ

thù, chiến thắng đói nghèo và là yếu tố quyết định cho sự ổn định và phát

triển bền vững ở Tây Nguyên [3].

Nghị quyết số 10-NQ/TW của Bộ Chính trị là một văn kiện rất quan trọng,

có ý nghĩa lịch sử đối với vùng đất và con người Tây Nguyên, là sự định hướng

chiến lược về xây dựng vùng Tây Nguyên ổn định toàn diện và phát triển bền vững.

Tiếp đó, ngày 16-7-2004, Bộ Chính trị ra Thông báo Kết luận số 148-TB/TW

Về tình hình, nhiệm vụ và giải pháp phát triển vùng Tây Nguyên toàn diện, bền

vững. Bộ Chính trị chỉ rõ:

Trước hết, phải đặc biệt coi trọng và tiếp tục làm thật tốt công tác giáo

dục chính trị, tư tưởng trong HTCT và tuyên truyền vận động quần

42

chúng… Tăng cường vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng,

chính quyền các tỉnh Tây Nguyên, đặc biệt quan tâm và phát huy tốt vai

trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và HTCT ở cơ sở,

buôn làng, phải xem đây là khâu có ý nghĩa quyết định trong việc đấu

tranh và đảm bảo an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn

Tây Nguyên [7].

Thực hiện Kết luận số 148-TB/TW của Bộ Chính trị, ngày 07-12-2004, Thủ

tướng Chính phủ ra Chỉ thị số 45/2004/CT-TTg Về tăng cường thực hiện các

nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục phát triển vùng Tây Nguyên toàn diện, bền vững ,

trong đó xác định rõ những nhiệm vụ cụ thể của các bộ, ban, ngành Trung ương và

các tỉnh Tây Nguyên trong việc tổ chức thực hiện tốt Nghị quyết số 10-NQ/TW và

Thông báo kết luận số 148-TB/TW của Bộ Chính trị; Chỉ thị số 16/2004/CT-TTg

của Thủ tướng Chính phủ Về đấu tranh xóa bỏ tổ chức phản động FULRO trên địa

bàn Tây Nguyên...

Với vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an

ninh và môi trường sinh thái của đất nước, sự ổn định và phát triển của vùng Tây

Nguyên là nhân tố quan trọng, góp phần bảo đảm sự ổn định và phát triển của đất

nước. Do đó, Đảng và Nhà nước luôn dành sự quan tâm đặc biệt, thể hiện tầm nhìn

chiến lược xây dựng Tây Nguyên phát triển bền vững. Quan điểm của Đảng và Nhà

nước về phát triển toàn diện và bền vững Tây Nguyên nói chung và CTDV nói

riêng được thể hiện ở những điểm cơ bản sau:

Thứ nhất, phát triển vùng Tây Nguyên phải kết hợp đồng bộ cả về kinh tế,

văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và xây dựng HTCT vững mạnh. Tức là, muốn

phát triển toàn diện, bền vững vùng Tây Nguyên phải trên nền tảng bảo đảm khối

đại đoàn kết các dân tộc, giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội; bảo vệ

vững chắc chủ quyền, an ninh quốc gia và sự thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất

nước. Vấn đề cốt yếu đối với Tây Nguyên là phải làm tốt CTDV để xây dựng khối

đại đoàn kết các dân tộc và "thế trận lòng dân" vững chắc. Các cấp ủy đảng, chính

quyền ở Tây Nguyên vừa phải tập trung chăm lo phát triển sản xuất, nâng cao đời

sống cho đồng bào các dân tộc, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa các bộ phận

43

dân cư; vừa phải tập trung chăm lo xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc;

đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao giác ngộ

cho nhân dân. Huy động tối đa nội lực, khơi dậy ý thức đoàn kết, tính tích cực,

chủ động của đồng bào các dân tộc trong việc phát triển sản xuất, xóa đói giảm

nghèo, xây dựng buôn làng, đấu tranh có hiệu quả với các âm mưu, thủ đoạn lợi

dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng của phản động FULRO và các

thế lực thù địch.

Thứ hai, phát triển kinh tế - xã hội ở Tây Nguyên phải trên cơ sở chiến lược

và quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và của cả vùng đến

năm 2010; thực hiện theo quy hoạch, kế hoạch toàn diện, đồng bộ, cụ thể, chi tiết

cho từng vùng, từng địa phương, từng ngành và lĩnh vực, không để tình trạng phát

triển tự phát. Huy động tối đa các nguồn lực, chủ yếu là nguồn lực trong nước,

trước hết là nguồn lực tại chỗ để đầu tư phát triển, khai thác tốt nhất các tiềm năng,

lợi thế của vùng nhằm phát triển kinh tế - xã hội nhanh, hiệu quả và bền vững.

Thứ ba, phải coi sự ổn định và phát triển của vùng đồng bào DTTS là nhân

tố quyết định sự ổn định và phát triển lâu dài của toàn vùng. Trong các chính sách

phát triển Tây Nguyên, phải lấy đồng bào DTTS làm trung tâm. Đảng và chính

quyền các cấp phải dành một nguồn lực thích đáng để đầu tư phát triển toàn diện,

sớm đưa nông thôn vùng DTTS thoát ra khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, đi dần

vào CNH, HĐH.

Thứ tư, tập trung xây dựng, kiện toàn HTCT cơ sở vững mạnh, gần dân, sát

dân, hoạt động ngày càng có hiệu quả, động viên được sức mạnh của quần chúng

nhân dân trong phát triển sản xuất, xây dựng buôn làng, chủ động giải quyết những

vấn đề phát sinh từ cơ sở. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện công tác cán bộ

DTTS. Một mặt, duy trì tỷ lệ thích đáng và bảo đảm cơ cấu cán bộ người DTTS

trong bộ máy đảng, chính quyền, các đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở; mặt khác, phải tập

trung làm tốt công tác quy hoạch, tạo nguồn, chuẩn bị đội ngũ cán bộ người DTTS

cho cả trước mắt và lâu dài. Xác định buôn làng là một bộ phận rất quan trọng và là

địa bàn chủ yếu của cấp cơ sở, từ đó tập trung xây dựng buôn làng vững mạnh.

Nghiên cứu, xây dựng mô hình buôn làng, dòng họ, liên gia tự quản; đề cao vai trò

44

của già làng, trưởng buôn, trưởng các dòng họ, người có uy tín trong đồng bào

DTTS. Vận dụng linh hoạt các quy định của luật tục dân tộc để xây dựng quy ước,

hương ước.

Thực hiện chủ trương Về thành lập Ban Chỉ đạo Tây Nguyên trong Nghị

quyết số 10-NQ/TW của Bộ Chính trị, Ban Chỉ đạo Tây Nguyên được thành lập

theo Quyết định số 46-QĐ/TW, ngày 17-7-2002 của Bộ Chính trị (khóa IX). Ban

Chỉ đạo Tây Nguyên gồm có: Trưởng ban là đồng chí Nguyễn Tấn Dũng, Ủy viên

Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ; Phó Trưởng ban Thường trực

là đồng chí Mai Văn Năm, Ủy viên Trung ương Đảng. Thành viên Ban Chỉ đạo

gồm đại diện lãnh đạo các bộ, ban, ngành: Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại

giao, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ủy ban Dân

tộc và Miền núi, Văn phòng Chính phủ, Ban Dân vận Trung ương, Ban Tư tưởng -

Văn hóa Trung ương, Ban Tổ chức Trung ương; Bí thư Tỉnh ủy các tỉnh: Đắk Lắk,

Gia Lai, Kon Tum và Lâm Đồng. Ngoài ra, khi cần thiết, Thường trực Ban Bí thư,

Thủ tướng Chính phủ đề nghị Bộ Chính trị, Ban Bí thư chỉ định bổ sung một số

đồng chí đại diện lãnh đạo các bộ, ngành Trung ương và địa phương tham gia Ban

Chỉ đạo. Bộ phận Thường trực Ban Chỉ đạo Tây Nguyên gồm một số cán bộ chuyên

trách do đồng chí Phó Trưởng ban Thường trực phụ trách; trụ sở đặt tại thành phố

Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.

Ban Chỉ đạo Tây Nguyên chịu trách nhiệm trước Bộ Chính trị, Ban Bí thư

và Thủ tướng Chính phủ trong việc chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ sau:

- Kiểm tra, đôn đốc các bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện các

nghị quyết, quyết định, chỉ thị của Đảng và Nhà nước về phát triển

kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên.

- Nghiên cứu, đề xuất với Đảng, Chính phủ về cơ chế, chính sách, giải

pháp để thực hiện có hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm

quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên.

- Chỉ đạo và tổ chức phối hợp với các lực lượng, các cơ quan chức năng

của Trung ương và địa phương để đấu tranh xóa bỏ tổ chức phản

động FULRO, xử lý những vấn đề đột xuất về an ninh chính trị và

trật tự an toàn xã hội trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên [4].

45

Thực hiện nhiệm vụ được giao, Ban Chỉ đạo Tây Nguyên đã chỉ đạo, chủ trì

phối hợp với các bộ, ban, ngành Trung ương và các tỉnh Tây Nguyên tổ chức thực

hiện các nghị quyết, quyết định, chỉ thị của Đảng và Nhà nước đối với vùng Tây

Nguyên. Thông qua các Hội nghị của Ban Chỉ đạo Tây Nguyên được tổ chức theo

chuyên đề và thường niên, Trưởng Ban Chỉ đạo Tây Nguyên đã có những Kết luận

rất quan trọng, chỉ đạo kịp thời các cơ quan chức năng, các lực lượng và các tỉnh

Tây Nguyên trong việc giải quyết những vấn đề vừa cơ bản, vừa cấp bách đặt ra

trên địa bàn. Đặc biệt, tại Hội nghị sơ kết một năm thực hiện Nghị quyết số 10 của

Bộ Chính trị và Quyết định số 168 của Thủ tướng Chính phủ về kinh tế - xã hội,

bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên, Trưởng Ban Chỉ đạo Tây Nguyên

đã kết luận:

Thứ nhất, phải chăm lo phát triển kinh tế, giải quyết đất sản xuất, đất ở,

nhà ở, phát triển y tế, chăm sóc sức khỏe cho đồng bào các DTTS tại chỗ.

Thứ hai, tập trung làm tốt hơn công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, vận

động quần chúng... Đây là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên, hàng đầu của

các cấp, các ngành, là khâu có ý nghĩa quyết định cả trước mắt và lâu dài.

Thứ ba, tiếp tục xây dựng, củng cố, kiện toàn HTCT cơ sở... Việc đưa

đội công tác và tăng cường cán bộ xuống cơ sở phải tính toán các yêu

cầu cần thiết của từng nơi và phải có chế độ, chính sách phù hợp; phải

tập huấn kỹ về chuyên môn, nghiệp vụ CTVĐQC.

Thứ tư, công tác đấu tranh xóa bỏ tổ chức phản động "Nhà nước Đê Ga"

và "Tin lành Đê Ga", ngăn chặn người DTTS vượt biên trái phép phải đặt

dưới sự lãnh đạo chặt chẽ, toàn diện của các cấp ủy đảng và chính quyền

địa phương, lực lượng Công an làm nòng cốt... [122].

Với chức năng là cơ quan tham mưu của Ban Chấp hành Trung ương, trực

tiếp và thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư về chủ trương, chính sách và giải

pháp lớn về CTDV, Ban Dân vận Trung ương đã tăng cường các hoạt động hướng

về địa bàn Tây Nguyên, đặc biệt là tổ chức nhiều hội nghị; ban hành các kế hoạch,

chương trình, đề án về CTDV ở Tây Nguyên.

Tháng 5-2001, tại thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, Ban Dân vận

46

Trung ương đã tổ chức Hội nghị CTDV bốn tỉnh Tây Nguyên nhằm triển khai thực

hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, đánh giá thực trạng CTDV ở các tỉnh Tây

Nguyên, nhất là sau cuộc bạo loạn chính trị tháng 2-2001 và đề ra phương hướng,

biện pháp CTDV trong thời gian tới. Hội nghị chỉ rõ những vấn đề cần phải tập

trung giải quyết: "Củng cố, xây dựng và phát triển vững chắc HTCT ở cơ sở; nâng

cao nhận thức và thống nhất cách giải quyết các vấn đề tôn giáo; vấn đề tiếng dân

tộc và học tiếng dân tộc; vấn đề ngăn chặn đồng bào vượt biên trái phép; cần có sự

chỉ huy thống nhất và phối hợp các lực lượng làm CTDV trên địa bàn Tây Nguyên"

[75, tr.5-6].

Tiếp đó, ngày 18-01-2002, Ban Dân vận Trung ương ra Kế hoạch số 23-

KH/BDV Triển khai thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về Tây Nguyên trong hệ

thống dân vận. Kế hoạch nêu lên 4 nhiệm vụ và 6 biện pháp cụ thể trong CTDV

trên địa bàn Tây Nguyên, trong đó nhấn mạnh:

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động... Coi đây là giải pháp xuyên

suốt trong phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm

quốc phòng, an ninh ở Tây Nguyên. Trong quá trình vận động quần chúng

cần thực hiện phương châm "Nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin".

Cần giải thích, phân tích rõ cả những khuyết điểm, yếu kém và biện pháp

khắc phục của các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể

nhân dân trong công tác vận động và chăm lo đời sống quần chúng [30].

Xuất phát từ tình hình thực tế của miền Trung và Tây Nguyên, tháng 5-2002,

Ban Dân vận Trung ương Quyết định thành lập Bộ phận công tác tại Đà Nẵng (nay

là Cơ quan Thường trực tại Đà Nẵng) để trực tiếp theo dõi, đôn đốc và phối hợp với

Ban Dân vận các tỉnh, thành ở miền Trung và Tây Nguyên trong việc triển khai

thực hiện các nhiệm vụ CTDV trên địa bàn.

Ngày 16-12-2002, Ban Dân vận Trung ương ban hành Đề án Công tác vận

động nhân dân xây dựng cơ sở chính trị thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã

hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh ở vùng Tây Nguyên thời kỳ 2001-2010. Mục

tiêu của Đề án: Xây dựng chương trình, kế hoạch một cách cơ bản và lâu dài, xác

định rõ nội dung tuyên truyền, phương pháp CTVĐQC trong từng thời gian cụ thể

47

để chống lại luận điệu tuyên truyền của các thế lực phản động, thù địch ở Tây

Nguyên. Có chương trình công tác cụ thể phối hợp thường xuyên, chặt chẽ giữa Mặt

trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân để xây dựng, củng cố tổ chức các đoàn thể

chính trị ở cơ sở, xây dựng lực lượng cốt cán làm nòng cốt, chỗ dựa vững chắc cho

nhân dân đấu tranh với địch.

Tháng 01-2003, tại thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, Ban Dân vận

Trung ương phối hợp với Ban Chỉ đạo Tây Nguyên và các tỉnh Tây Nguyên tổ chức

Hội nghị CTDV các tỉnh trên địa bàn Tây Nguyên, nhằm kiểm điểm và rút kinh

nghiệm về thực hiện CTDV thời gian qua; đồng thời, đề ra nhiệm vụ CTDV trên địa

bàn trong thời gian tới. Hội nghị xác định nhiệm vụ cấp bách trước mắt là tập trung

sức mạnh của HTCT các cấp thực hiện các mục tiêu:

6 không (không để nông dân không có đất ở, đất sản xuất; không để dân

đói, mặc rét, nhà dột; không để dân du canh du cư, phá rừng; không để

bọn xấu truyền đạo bất hợp pháp; không để dân biểu tình, bạo loạn, vượt

biên trái phép; không để thôn, buôn không có đảng viên và tổ chức đoàn

thể); 5 bảo đảm (bảo đảm sự gắn bó giữa Đảng với dân và đoàn kết nhân

dân các dân tộc; củng cố tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của

Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể; nắm được tâm tư, nguyện vọng và tình

hình nhân dân; ổn định chính trị, xã hội và an ninh quốc phòng); 4 cùng

(cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng nói tiếng dân tộc); 3 thi đua (thi đua

chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xóa đói giảm nghèo, làm giàu hợp pháp; xây

dựng đời sống văn hóa cộng đồng buôn, làng; xây dựng địa bàn trật tự,

an toàn chính trị - xã hội) [31].

Ngày 21-6-2004, tại Thành phố Hồ Chí Minh, Ban Dân vận Trung ương tổ

chức Hội nghị Trưởng Ban Dân vận các tỉnh Tây Nguyên và tỉnh Bình Phước để

kiểm điểm tình hình thực hiện CTDV; nêu rõ những việc làm được, chưa làm được,

chỉ rõ nguyên nhân và đề ra giải pháp nhằm tiếp tục thực hiện tốt Nghị quyết số 10

và Kết luận số 148 của Bộ Chính trị về Tây Nguyên. Hội nghị đề ra Chương trình

hành động Về công tác vận động quần chúng tại các tỉnh Tây Nguyên, với các mục

tiêu, nhiệm vụ cụ thể:

48

Một là, tập trung tuyên truyền, giáo dục, vận động đồng bào các dân tộc

Tây Nguyên nâng cao nhận thức, cảnh giác... Quyết tâm không để xảy ra

bạo loạn chính trị.

Hai là, tập trung mọi nỗ lực, cố gắng của Trung ương, địa phương và cơ

sở giải quyết kịp thời những nguyện vọng chính đáng của đồng bào các

dân tộc...

Ba là, tăng cường củng cố, kiện toàn HTCT cơ sở, đặc biệt là hệ thống

Dân vận, Mặt trận, đoàn thể cơ sở, phát triển hội viên, xây dựng lực

lượng nòng cốt.

Bốn là, chủ động làm tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử

dụng và chế độ chính sách đối với cán bộ cốt cán và con em đồng bào

các dân tộc tại chỗ... Đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên trong vùng

đồng bào DTTS.

Năm là, tiếp tục tăng cường cán bộ các cấp, các ngành và các lực lượng

vũ trang xuống cơ sở [32].

Ngày 20-8-2005, Ban Dân vận Trung ương phối hợp với Ban Chỉ đạo Tây

Nguyên tổ chức Hội nghị CTDV các tỉnh Tây Nguyên và tỉnh Bình Phước. Hội nghị

đã kiểm điểm CTDV các tỉnh Tây Nguyên và tỉnh Bình Phước từ năm 2003 đến

năm 2005; đồng thời, đề ra mục tiêu, phương châm, nhiệm vụ và giải pháp để thúc

đẩy CTDV, góp phần thực hiện có kết quả Nghị quyết số 10-NQ/TW của Bộ Chính

trị Về phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên

thời kỳ 2001-2010.

2.3. QUÁ TRÌNH CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA

ĐẢNG Ở TÂY NGUYÊN TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2005

Quán triệt quan điểm, chủ trương của Đảng, việc thực hiện CTDV trên địa bàn

Tây Nguyên từ năm 2001 đến năm 2005 được triển khai trên các lĩnh vực chủ yếu:

2.3.1. Vận động nhân dân thực hiện các chƣơng trình phát triển kinh tế -

xã hội, từng bƣớc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các

dân tộc

Từ năm 2001 trở đi, thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương Đảng

49

và Chính phủ, các bộ, ban, ngành và các tỉnh trên địa bàn Tây Nguyên tập trung vào

những vấn đề trọng tâm cấp bách, bám sát cơ sở để nắm bắt tình hình; nhanh chóng

xử lý, tháo gỡ những khó khăn vướng mắc; đẩy mạnh các phong trào cách mạng,

đặc biệt là phong trào định canh định cư, xóa đói giảm nghèo, giúp nhau phát triển

kinh tế, xây dựng đời sống văn hóa mới.

Lâm Đồng là tỉnh có đông đồng bào DTTS và chủ yếu phân bố ở vùng sâu,

vùng xa, nơi có nhiều khó khăn về kinh tế - xã hội. Trước tình hình đó, Đảng bộ

tỉnh đã sớm xác định việc đầu tư phát triển toàn diện vùng đồng bào dân tộc vừa là

nhiệm vụ cấp bách, vừa là tình cảm đền ơn đáp nghĩa của các cấp ủy đảng, chính

quyền, đoàn thể và nhân dân trong tỉnh. Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Quyết

định số 52-QĐ/TU, ngày 06-4-2001 Về việc thành lập ban Chỉ đạo xây dựng vùng

đồng bào dân tộc tỉnh Lâm Đồng; tiếp theo, ngày 19-6-2001, Ban Thường vụ Tỉnh

ủy ra Quyết định số 83-QĐ/TU Về việc thành lập các tổ công tác xây dựng vùng

đồng bào dân tộc tỉnh Lâm Đồng. Với sự quan tâm đầu tư xây dựng, phát triển vùng

đồng bào DTTS, cùng với sự đóng góp tích cực của các tổ công tác xây dựng vùng

đồng bào dân tộc, nên trong bối cảnh một số tỉnh Tây Nguyên có những diễn biến

phức tạp, nhưng tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội vùng đồng bào

DTTS ở Lâm Đồng cơ bản giữ vững ổn định, không để xảy ra các "điểm nóng", đời

sống của đồng bào từng bước được cải thiện. Trên cơ sở những kinh nghiệm từ thực

tiễn hoạt động của các tổ công tác xây dựng vùng đồng bào dân tộc, ngày 20-11-

2001, Tỉnh ủy Lâm Đồng ra Nghị quyết số 02-NQ/TU Về tiếp tục đầu tư phát triển

vùng đồng bào dân tộc thời kỳ 2001-2005. Nghị quyết nêu rõ mục tiêu tổng quát:

Làm chuyển biến mạnh mẽ và đồng bộ về tư tưởng, nhận thức, nâng cao

dân trí, ý thức tự lực, tự cường của đồng bào dân tộc, phát triển kinh tế - xã

hội; xóa cơ bản nạn đói, giảm tới mức thấp nhất hộ nghèo, từng bước ổn

định và cải thiện đời sống, tăng số hộ giàu; xây dựng thực lực chính trị vững

mạnh, giữ vững ổn định chính trị, quốc phòng, an ninh [101].

Qua 5 năm thực hiện, tình hình kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh vùng

DTTS trên địa bàn tỉnh đã có nhiều chuyển biến tích cực; đời sống vật chất và tinh

thần của đồng bào DTTS ngày càng được cải thiện: "Đến cuối năm 2005 đã cơ bản

xóa hộ đói, giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 27% (năm 2001) xuống còn 20%; nhận thức của

50

đồng bào từng bước được nâng cao, đại bộ phận đồng bào ổn định được chỗ ở, ổn

định sản xuất và đời sống" [102].

Trên toàn vùng Tây Nguyên, công tác định canh, định cư cho đồng bào

DTTS đạt kết quả tích cực. Trong 5 năm (2000-2004), ngân sách nhà nước đã đầu

tư hơn 195 tỷ đồng để thực hiện các dự án định canh định cư vùng đồng bào DTTS

tại chỗ Tây Nguyên. Trong đó, nguồn vốn Trung ương là 42 tỷ đồng phục vụ xây

dựng cơ sở hạ tầng thuộc các dự án định canh định cư, còn lại là nguồn vốn của các

tỉnh. Đến năm 2004, toàn vùng Tây Nguyên đã có 160.440 hộ với 913.185 nhân

khẩu đã cơ bản hoàn thành định canh, định cư, chiếm 82,7% số hộ đồng bào DTTS

tại chỗ thuộc diện định canh, định cư (chiếm 71,3% tổng số hộ DTTS tại chỗ).

Trong đó, tỉnh Kon Tum đạt 83% số hộ đồng bào dân tộc định canh, định cư; Gia

Lai đạt 85%; Đắk Lắk đạt 76,8%; Lâm Đồng đã cơ bản hoàn thành công tác định

canh, định cư [121, tr.49].

Chương trình quốc gia về xóa đói giảm nghèo đã được các tỉnh Tây Nguyên

tập trung chỉ đạo, triển khai thực hiện đồng bộ với nhiều hình thức, biện pháp thích

hợp. Hầu hết các tỉnh đã chỉ đạo lồng ghép nhiều nguồn vốn của các chương trình,

dự án đầu tư cho hạ tầng kỹ thuật, hỗ trợ sản xuất, phát triển ngành nghề, đào tạo

cán bộ khuyến nông, khuyến lâm, cán bộ làm công tác xóa đói giảm nghèo ở cơ sở.

Trong 5 năm (2000-2004), ngân sách Trung ương đã đầu tư 350 tỷ đồng cho

chương trình xóa đói giảm nghèo; các tỉnh Tây Nguyên đầu tư từ ngân sách địa

phương 210 tỷ đồng; bố trí lồng ghép từ các chương trình, dự án huy động cộng

đồng 120 tỷ. Nguồn vốn tín dụng đã huy động thêm khoảng 300 tỷ đồng tập trung

cho công tác xóa đói giảm nghèo vùng sâu, vùng xa, vùng DTTS tại chỗ. Hàng

năm, Trung ương cân đối từ 40-45 tỷ đồng để thực hiện chính sách trợ giá, trợ cước

vận chuyển một số mặt hàng thiết yếu như: giống cây trồng, phân bón, muối iốt, dầu

lửa và thu mua hàng nông sản. Hỗ trợ đời sống trung bình 500.000 đồng/hộ, cho

vay sản xuất trung bình một triệu đồng/hộ. Nhờ đó, đã có 1,05 triệu lượt hộ được

cấp các mặt hàng cho không (vải, dầu hỏa, thuốc chữa bệnh, sách, vở, tiền điện);

853.000 lượt hộ được hỗ trợ khuyến nông và được cấp giống sản xuất [121, tr.50].

Thông qua công tác vận động xóa đói giảm nghèo, ý thức vươn lên thoát

khỏi đói nghèo của đồng bào các DTTS được nâng lên. Nhiều mô hình xóa đói

51

giảm nghèo với những giải pháp thiết thực đã được tổ chức thực hiện góp phần làm

cho tốc độ giảm nghèo khá nhanh: "Giai đoạn 2001-2005, đã giảm tỷ lệ hộ nghèo từ

21,83% xuống còn 8,67% (theo chuẩn năm 2000), bình quân giảm 2,6%/năm" [24].

Giải quyết vấn đề xóa đói giảm nghèo ở Tây Nguyên không chỉ có ý nghĩa kinh tế -

xã hội mà còn là vấn đề chính trị, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà

nước; qua đó, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc trên địa bàn.

Thực hiện Quyết định số 132/2002/QĐ-TTg, ngày 8-10-2002 của Thủ tướng

Chính phủ Về việc giải quyết đất sản xuất và đất ở cho đồng bào DTTS tại chỗ ở

Tây Nguyên; Quyết định số 134/2004/QĐ-TTg, ngày 20-7-2004 của Thủ tướng

Chính phủ Về một số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt

cho hộ đồng bào DTTS nghèo, đời sống khó khăn, các tỉnh Tây Nguyên đã tiến

hành tổ chức quán triệt trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận, các đoàn thể

và trong nhân dân; tập trung chỉ đạo, chủ động phối hợp với các bộ, ngành liên

quan: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Tổng công ty Cao su Việt Nam,

Tổng công ty Cà phê Việt Nam đề ra nhiều giải pháp để tạo quỹ đất như tổ chức

khai hoang, đầu tư xây dựng các công trình thủy lợi vừa và nhỏ, thu hồi đất từ các

nông, lâm trường… để giải quyết đất cho đồng bào. Theo báo cáo của Ban Chỉ đạo

Tây Nguyên: "Đến năm 2005, toàn vùng giao thêm 7.623 ha đất ở và đất sản xuất

cho 14.586 hộ. Từ năm 2003 đến năm 2005, đã giao 27.352 ha cho 53.023 hộ DTTS

thiếu đất" [14]. Tiến độ xóa nhà tạm, nhà dột nát và hỗ trợ nước sinh hoạt cho đồng

bào theo Quyết định số 134 được các tỉnh Tây Nguyên thực hiện khá tốt. Toàn vùng

đã làm mới, sửa chữa xong 11.150 căn nhà với mức chi trung bình từ 6 đến 8 triệu

đồng cho một căn nhà, giải quyết nước sạch cho 37.000 hộ. Một số địa phương đã

vận dụng linh hoạt phương châm "nhân dân tự làm, cộng đồng giúp đỡ, Nhà nước

hỗ trợ", tổ chức được phong trào xóa nhà tạm, nhà dột nát có sự tham gia của Mặt

trận, đoàn thể cùng với chính quyền các cấp.

Thông qua Chương trình 135 và một số chương trình lồng ghép khác, Đảng và

Nhà nước đã đầu tư cho 163 xã và hàng trăm buôn đặc biệt khó khăn ở Tây Nguyên,

với tổng kinh phí 750 tỷ đồng; tính trung bình đạt 2,5 tỷ đồng cho một xã, giúp các xã

này xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, thủy lợi, điện, trường học, trung tâm cụm xã,

52

khuyến nông, khuyến lâm… đã tạo nên sự thay đổi diện mạo ở những vùng DTTS,

vùng sâu, vùng xa. Tổng kết chương trình 135, nhiều tỉnh đạt mục tiêu cơ bản cả về

tổng mức đầu tư và số lượng các công trình, hạng mục, góp phần cải thiện cơ sở hạ

tầng ở các xã vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. "Đến cuối năm 2005, có

71/244 xã (chiếm 29,1%) đề nghị đưa ra khỏi diện đặc biệt khó khăn" [14].

Lĩnh vực văn hóa - xã hội có nhiều mặt tiến bộ rõ nét: Các tỉnh Tây Nguyên

đã thực hiện các dự án phát triển văn hóa vùng đồng bào DTTS, phục hồi di sản

cồng chiêng, văn học dân gian, xây dựng hàng trăm nhà rông, nhà sinh hoạt văn hóa

cộng đồng; thường xuyên tổ chức các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, lễ hội thể thao

dân tộc cấp khu vực, cấp tỉnh, tạo môi trường sinh hoạt văn hóa, văn nghệ lành

mạnh; tỷ lệ thôn buôn và hộ dân được dùng điện, có báo chí, được xem truyền hình,

nghe đài phát thanh tăng lên, nhất là thời lượng phát thanh, truyền hình bằng tiếng

dân tộc; cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân

cư" được tiếp tục đẩy mạnh, đã khơi dậy tinh thần tương thần tương ái, giúp nhau

phát triển sản xuất, xóa đói giảm nghèo, phát huy sức mạnh của cộng đồng buôn

làng, góp phần quan trọng vào việc nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần cho đồng

bào các dân tộc.

Đến năm 2005, đã có 3.120/6.782 thôn, buôn vùng Tây Nguyên phát

động xây dựng đời sống văn hóa mới; khoảng 45% trong tổng số 2.489

buôn, làng đồng bào DTTS phấn đấu thành buôn làng văn hóa; 96% đã

xây dựng được quy ước, hương ước thôn, buôn nhằm phát huy thuần

phong mỹ tục, xây dựng các mối quan hệ và chuẩn mực đạo đức phù hợp

với đời sống cộng đồng; hàng vạn gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn

hóa [71, tr.94].

Những kết quả trên đã thể hiện rõ sự quan tâm của Đảng và Nhà nước bằng

những chủ trương, chính sách đúng đắn, kịp thời, phù hợp với tình hình thực tiễn ở

Tây Nguyên, góp phần giải quyết những vấn đề bức xúc về kinh tế - xã hội, nâng

cao đời sống cho nhân dân, đặc biệt là đồng bào DTTS.

Tuy nhiên, kinh tế - xã hội ở Tây Nguyên nhìn chung tăng trưởng chưa vững

53

chắc, nhiều tiềm năng, lợi thế của từng địa phương chưa được phát huy có hiệu quả;

đặc biệt là ở vùng DTTS, việc triển khai thực hiện một số chủ trương, chính sách

của Đảng, Nhà nước còn chậm, thiếu đồng bộ và chưa thật sự phù hợp với trình độ

nhận thức và tập quán của đồng bào, nên chưa tạo ra bước đột phá trong việc thúc

đẩy sản xuất phát triển và nâng cao đời sống cho đồng bào. Nhiều vấn đề bức xúc,

nhất là những vấn đề liên quan đến đất đai, tổ chức lại sản xuất và đời sống vùng

đồng bào DTTS tại chỗ chưa được giải quyết kịp thời, hiệu quả. Công tác định canh

định cư kết quả đạt được chưa thật sự vững chắc, số hộ đồng bào DTTS chưa định

canh định cư còn lớn. Tỷ lệ hộ đói nghèo trong đồng bào DTTS còn cao (chiếm

58%); đặc biệt, ở tỉnh Kon Tum, "đến tháng 7-2005, có 37,84% số hộ toàn tỉnh

thuộc diện đói nghèo, trong đó có tới 62,56% số hộ đồng bào DTTS" [120]; khoảng

cách giàu nghèo giữa đồng bào nơi khác đến, chủ yếu là đồng bào Kinh với đồng

bào DTTS tại chỗ có xu hướng ngày càng tăng.

2.3.2. Vận động nhân dân từng bƣớc làm thất bại âm mƣu "diễn biến

hòa bình" của các thế lực thù địch, giữ vững an ninh chính trị

Thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình" ở Tây Nguyên, các thế lực thù địch

và bọn phản động FULRO đã gây ra cuộc bạo loạn chính trị năm 2001 và năm

2004, lôi kéo hàng nghìn người tham gia, trong đó đa số là đồng bào các DTTS.

Cuộc bạo loạn tháng 2-2001 xảy ra tại 3 tỉnh Gia Lai, Đắk Lắk và Kon Tum.

Ngày 2-2-2001, tại tỉnh Gia Lai, có khoảng 8.000 người từ 8 huyện và thành phố

Pleiku đã tụ tập kéo về thành phố Pleiku và khoảng 7.000 người đã vào được thành

phố. Nhiều người đã mang theo gậy, gạch, đá, cuốc, xẻng để tấn công vào lực lượng

thi hành công vụ nếu bị ngăn cản và hô các khẩu hiệu chống chế độ, đòi thả những

tên bị bắt. Tại tỉnh Đắk Lắk, trong ngày 3 và 4-2-2001, chúng đã lôi kéo, kích động

được 1.093 người của 5 huyện (Ea Hleo, Ea Súp, Krông Buk, Krông Năng, Buôn

Đôn) và một số buôn của thành phố Buôn Ma Thuột tham gia bạo loạn và có

khoảng hơn 300 người đã kéo vào thành phố Buôn Ma Thuột đưa đơn nêu nội dung

đòi lập "Nhà nước Đê Ga"; đặc biệt, một số đối tượng đã có những hành động quá

khích như: đánh, ném đá vào cảnh sát 113, cảnh sát cơ động, ném đá vào xe chữa

54

cháy và trung tâm phát thanh - truyền hình tỉnh… Tại tỉnh Kon Tum, số lượng

người tham gia biểu tình không nhiều, chủ yếu là ở thị xã Kon Tum. Bọn phản động

ở Kon Tum đã bàn kế hoạch tổ chức biểu tình, thành lập chính quyền "Nhà nước Đê

Ga" trên địa bàn tỉnh.

Về cơ bản, các cuộc biểu tình, bạo loạn đã được ngăn chặn và giải tán trong

các ngày 2 đến ngày 6-2, nhưng nó vẫn diễn ra âm ỉ, kéo dài ở nhiều nơi cho đến

giữa tháng 2 mới chấm dứt. Sự kiện trên đã để lại những hậu quả nặng nề, tác động

xấu đến tất cả các mặt của đời sống xã hội, ảnh hưởng tới khối đại đoàn kết các dân

tộc trên địa bàn, gây tâm lý lo lắng trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân

dân. Sau vụ bạo loạn tháng 2-2001, bọn phản động và các thế lực thù địch vẫn tiếp

tục tập trung chống phá quyết liệt:

Chúng kích động gần 200 tên lẩn trốn ra rừng hình thành tổ chức hoạt

động bất hợp pháp; chỉ đạo phát triển lực lượng, xây dựng hình thành

hàng trăm tổ chức ngầm hoạt động bất hợp pháp; kích động tư tưởng ly

khai tự trị; lôi kéo gần 2.200 người DTTS Tây Nguyên vượt biên ồ ạt

sang Campuchia hình thành các "trại tỵ nạn"; lôi kéo hơn 20.000 người

DTTS theo "Tin lành Đê Ga" làm chỗ dựa cho hoạt động FULRO. Hàng

trăm Ban chấp sự Tin lành trái phép lợi dụng cơ hội chuyển ra hoạt động

công khai ở buôn làng, làm cho tình hình rất phức tạp [10].

Cuộc bạo loạn tháng 4-2004 diễn ra ở một số địa phương của 3 tỉnh: Gia Lai,

Đắk Lắk và Đắk Nông. Trong hai ngày (10 và 11-4-2004), bọn phản động đã huy

động được khoảng hơn 9.000 người tham gia biểu tình, bạo loạn (Đắk Lắk 4.800,

Gia Lai 4.000, Đắk Nông 300). So với cuộc bạo loạn năm 2001, cuộc bạo loạn lần

này có số người tham gia đông hơn và có tính chất nghiêm trọng, manh động hơn.

Những người tham gia biểu tình đã hô khẩu hiệu đòi độc lập, đòi người Kinh phải

trả lại đất cho người dân tộc, đòi tự do tôn giáo, đòi thả hết những người bị bắt và

kêu gọi quốc tế ủng hộ "Nhà nước Đê Ga"; một số phần tử đã có những hành động

quá khích như gây rối trật tự công cộng, chống người thi hành công vụ, phá hoại

công trình công cộng và tài sản nhà nước… Sau biểu tình, bạo loạn, tình hình an

ninh chính trị trên địa bàn Tây Nguyên tiếp tục diễn biến phức tạp, đặc biệt là bọn

55

FULRO tiếp tục lừa phỉnh, lôi kéo đồng bào DTTS vượt biên ồ ạt sang Campuchia

để lập các "trại tỵ nạn" nhằm thực hiện âm mưu "quốc tế hóa" vấn đề người DTTS

ở Tây Nguyên, tạo cớ để bên ngoài can thiệp.

Trước tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn có nhiều

diễn biến hết sức phức tạp, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ

đạo các bộ, ban, ngành Trung ương và các tỉnh Tây Nguyên tăng cường công tác

bảo đảm an ninh chính trị, đấu tranh chống "diễn biến hòa bình", bạo loạn, lật đổ

của các thế lực thù địch và bọn phản động FULRO trên địa bàn.

Được sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Thủ tướng Chính

phủ, các Đảng bộ, chính quyền các tỉnh Tây Nguyên đã xác định công tác phòng

chống biểu tình, bạo loạn và vượt biên trái phép là một nhiệm vụ trọng tâm, thường

xuyên. Các tỉnh xảy ra biểu tình, bạo loạn đã kịp thời ban hành các chỉ thị, nghị

quyết về công tác này: Ban Thường vụ Tỉnh ủy Gia Lai ra Chỉ thị số 01-CT/TU,

ngày 07-02-2001 Về phòng và chống bạo loạn; Nghị quyết số 11-NQ/TU, ngày 07-

10-2002 Về việc lãnh đạo địa phương sang tình trạng khẩn cấp và chống bạo loạn

lật đổ; Ban Thường vụ Tỉnh ủy Đắk Lắk ra Chỉ thị số 01-CT/TU, ngày 27-02-2001

Về tăng cường công tác đảm bảo an ninh - trật tự; Chỉ thị số 05-CT/TU, ngày 16-5-

2001 Về tăng cường công tác vận động quần chúng và nhiệm vụ bảo vệ biên giới

trong tình hình mới; Chỉ thị số 12-CT/TU, ngày 26-08-2002 Về việc đẩy mạnh công

tác phát động quần chúng và đấu tranh ngăn chặn, chống biểu tình, bạo loạn, vượt

biên… Các tỉnh không xảy ra biểu tình, bạo loạn cũng đã kịp thời xác định chủ

trương phải phát hiện, ngăn chặn và đập tan mọi âm mưu nhen nhóm, tụ tập biểu

tình, bạo loạn từ cơ sở; thành lập các tổ, đội đi về cơ sở, làm tốt CTVĐQC, củng cố

chính quyền và ổn định tình hình ở cơ sở.

Thực hiện các chỉ thị, nghị quyết trên, công tác phát động quần chúng

(CTPĐQC) ở các tỉnh Tây Nguyên được thực hiện thường xuyên với nhiều nội

dung và hình thức phong phú: "Các tỉnh đều tổ chức duy trì các tổ, đội làm

CTVĐQC ở cấp tỉnh và một số xã vùng đồng bào DTTS. Tỉnh Đắk Lắk có 110 tổ,

đội ở cơ sở với 727 cán bộ và 1 đội ở cấp tỉnh gồm 22 cán bộ; tỉnh Đắk Nông 41 tổ,

đội ở cơ sở với 217 cán bộ; tỉnh Lâm Đồng có 32 tổ, đội với 213 cán bộ; tỉnh Kon

Tum có 1 đội ở cấp tỉnh với 20 cán bộ" [33]. Các lực lượng làm CTVĐQC trên địa

56

bàn thực hiện tốt phương châm "bám làng, bám dân, bám đối tượng", "cùng ăn,

cùng ở, cùng làm, cùng nói tiếng dân tộc" và "đến tận ngõ, gõ tận nhà, rà từng đối

tượng", tổ chức họp dân, đưa các đối tượng ra công khai trước đồng bào trong buôn

làng, để chính đồng bào đấu tranh trực diện, phê phán hành vi sai trái của kẻ xấu và

cô lập chúng; vận động nhân dân vạch trần, đấu tranh quyết liệt với âm mưu, thủ

đoạn của các thế lực thù địch và bọn phản động FULRO, góp phần ổn định tình

hình an ninh chính trị.

Nội dung CTPĐQC ở các tỉnh Tây Nguyên tập trung vào việc tuyên truyền

Nghị quyết Trung ương 7 (khóa IX) của Đảng Về phát huy sức mạnh đại đoàn kết

toàn dân tộc, về công tác dân tộc, về công tác tôn giáo; Quyết định số 168, 154, 134

của Thủ tướng Chính phủ; tuyên truyền những thành tựu đổi mới của đất nước, của

địa phương và việc đầu tư của Đảng, Nhà nước đối với vùng đồng bào DTTS,

khẳng định chỉ có chế độ XHCN mới mang lại cuộc sống ấm no cho đồng bào mà

trước đây chưa có chế độ nào làm được. Đồng thời, tuyên truyền cho đồng bào hiểu

rõ hơn về âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch.

Thông qua CTVĐQC, các cấp ủy đảng và chính quyền đã phát động quần

chúng tích cực tham gia phong trào "Quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc", nêu cao

tinh thần cảnh giác, không nghe, không tin, không làm theo những luận điệu xuyên

tạc, lôi kéo của kẻ xấu. Hầu hết đồng bào đã thấy rõ âm mưu của bọn phản động

FULRO và các thế lực thù địch; chăm lo phát triển sản xuất, ổn định cuộc sống,

cam kết không tham gia biểu tình, bạo loạn. Công tác phát động quần chúng đã góp

phần bóc gỡ, vô hiệu hóa các hoạt động của mạng lưới cơ sở ngầm bên trong của

bọn phản động FULRO. "Tính đến 7-2005, riêng tỉnh Đắk Lắk đã vận động được

210 đối tượng hoạt động FULRO ra tự thú; đấu tranh vô hiệu hóa 613 đối tượng.

Lực lượng quần chúng ở cơ sở đã phối hợp với các ngành chức năng bóc gỡ 48 cơ

sở ngầm của FULRO với 61 đối tượng" [110, tr.37]. Đồng thời, "đã đấu tranh giải

tán được 208 ban chấp sự Tin lành hình thành trái phép, 1005 chấp sự viên hoạt

động bất hợp pháp, kiểm điểm 151 ban chấp sự, 598 chấp sự viên. Qua vận động,

giải thích, một số mục sư có uy tín cùng với số chức sắc tôn giáo khác ra "Bức tâm

thư" tẩy chay "Tin lành Đê Ga". Có 5.558 tín đồ Tin lành là đồng bào dân tộc tự

nguyện thôi không sinh hoạt đạo trái pháp luật" [1, tr.353].

57

Trong điều kiện an ninh chính trị, trật tự xã hội phức tạp trên địa bàn Tây

Nguyên thì việc thành lập các Đội CTPĐQC tại các xã, buôn, thôn có đông đồng

bào DTTS là một chủ trương đúng đắn và kịp thời, thực sự góp phần thực hiện tốt

CTVĐQC, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng trọng điểm. Kết quả trên toàn vùng

Tây Nguyên:

Cùng với CTVĐQC, xây dựng thế trận lòng dân và bằng nhiều hoạt động

tổng hợp của các lực lượng (vận động, giáo dục, truy quét, thuyết phục,

cảm hóa, xử lý bằng pháp luật...) đã đấu tranh bắt, gọi hàng, giải quyết cơ

bản số FULRO lẩn trốn hoạt động bất hợp pháp với hàng trăm tên; phát

hiện và xóa hàng trăm khung tổ chức từ cấp tỉnh đến cơ sở; bóc gỡ, giáo

dục, cảm hóa hàng nghìn đối tượng có liên quan đến hoạt động FULRO;

đưa ra truy tố, xử lý bằng pháp luật hàng chục tên cầm đầu tổ chức biểu

tình, vượt biên, gây rối, chống người thi hành công vụ [67, tr.34].

Về công tác đấu tranh, truy bắt và vô hiệu hóa các phần tử phản động: Thực

hiện Chỉ thị số 16/CT-TTg, ngày 01-5-2004 của Thủ tướng Chính phủ Về đấu tranh

xóa bỏ tổ chức phản động FULRO trên địa bàn Tây Nguyên, các bộ, ngành chức

năng phối hợp với các tỉnh Tây Nguyên tăng cường, bố trí lại lực lượng, lập các tổ

chuyên trách phòng, chống FULRO. Quán triệt phương châm "chủ động tấn công,

đánh địch từ xa", các lực lượng đã phát hiện âm mưu, ý đồ, phương thức, thủ đoạn

của bọn phản động từ bên ngoài, giúp cho việc nắm tình hình, tổ chức đấu tranh

ngăn chặn, phòng chống ngày càng chủ động hơn. Vấn đề FULRO được giải quyết

cơ bản theo 4 yêu cầu: đánh bật FULRO ra khỏi địa bàn, gọi hết người trong buôn

làng theo FULRO trở về, bóc hết cơ sở ngầm của chúng, xây dựng lực lượng đủ

mạnh để phòng chống FULRO. Công tác đấu tranh, truy bắt và vô hiệu hóa số cầm

đầu cốt cán lẩn trốn được tập trung chỉ đạo quyết liệt. "Từ năm 2001 đến tháng 3-

2004, bằng nhiều biện pháp kết hợp truy quét bọn FULRO lẩn trốn với phát động

quần chúng, ta đã bóc gỡ, vô hiệu hóa, bắt tạm giữ, xét xử theo pháp luật, kiểm

điểm trước dân, giao cho các buôn làng quản lý, giáo dục trên 2.800 đối tượng, làm

tan rã nhiều tổ chức FULRO từ tỉnh đến cơ sở" [13].

Tính đến tháng 8-2005, đã truy bắt, gọi hàng 206 tên FULRO, vận động

58

tự thú 177 đối tượng, gọi hỏi đấu tranh 835 đối tượng, bóc gỡ 688 cơ sở

ngầm, xóa 33 khung ngầm. Trong đó, tỉnh Đắk Lắk giải quyết dứt điểm 7

tên, hiện không có tên nào lẩn trốn; Gia Lai bắt 17 tên lẩn trốn, hiện còn

11 tên lén lút hoạt động ở khu vực huyện Ayun Pa, Chư Sê, Đắk Đoa;

tỉnh Đắk Nông phát hiện bóc gỡ một số đối tượng hoạt động ngầm ở 32

buôn của 3 huyện Đắk Mil, Đắk Song, Đắk R’Lấp. Với những kết quả

đó, ta đã làm cho tổ chức của chúng tan rã, lực lượng bị tổn thất nặng;

ngăn chặn được âm mưu tổ chức biểu tình, bạo loạn, vượt biên ồ ạt vào

các thời điểm nhạy cảm [14].

Công tác đấu tranh phòng, chống người DTTS vượt biên được triển khai bằng

nhiều biện pháp và hình thức thích hợp như: tuyên truyền, vận động quần chúng;

theo dõi, quản lý chặt chẽ đối tượng tại buôn làng; sử dụng những người có tư

tưởng tiến bộ trong hàng ngũ chức sắc tôn giáo cùng với chính quyền, Mặt trận, các

đoàn thể sang Campuchia vận động người vượt biên trở về; tổ chức đấu tranh bóc

gỡ, triệt phá các tổ chức đường dây đưa, đón người vượt biên; tăng cường công tác

tuần tra biên giới và chủ động phối hợp với Campuchia ngăn chặn vượt biên, xây

dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị; đấu tranh ngoại giao kiên quyết buộc tổ

chức Cao ủy Liên hợp quốc về người tỵ nạn (UNHCR) xóa 2 "trại tỵ nạn" ở

Monđunkiri và Rattanakiri (năm 2002), tiến hành đàm phán và ký kết Bản ghi nhớ

ba bên giữa Việt Nam - Campuchia - UNHCR (MOU), ngày 25-1-2005, làm cơ sở

cho việc giải quyết toàn diện vấn đề người DTTS vượt biên. Những hoạt động trên

đã góp phần vào việc đấu tranh chống âm mưu kích động đồng bào vượt biên ồ ạt

của các thế lực thù địch. Đến năm 2005, "đã ngăn chặn trên 2.000 lượt người vượt

biên trái phép; đón nhận và giải quyết ổn định cuộc sống cho trên 500 người vượt

biên trở về hòa nhập với cộng đồng [76, tr.34].

Mặc dù đã đạt được những kết quả quan trọng trong công tác phòng chống

biểu tình, bạo loạn và vượt biên trái phép; tình hình an ninh chính trị trên địa bàn cơ

bản giữ được ổn định, nhưng vẫn còn tiềm ẩn nhiều nhân tố phức tạp, khó lường:

Vấn đề FULRO chưa được giải quyết triệt để ở các buôn làng nên chúng vẫn có

điều kiện để tồn tại, hoạt động; phương pháp xử lý những vấn đề an ninh chính trị,

59

an ninh nông thôn có lúc, có nơi còn chủ quan, nóng vội, chưa kiên trì phương

châm lấy việc vận động, giáo dục, thuyết phục là chính, mà còn nặng về biện pháp

hành chính, tạo sơ hở để bọn phản động kích động chống phá; vẫn có những biểu

hiện chủ quan, mất cảnh giác trước âm mưu của kẻ thù; thế trận lòng dân và an ninh

nhân dân chưa được xây dựng một cách vững chắc. Bộ Chính trị chỉ rõ: "... để xảy

ra biểu tình với quy mô lớn và tính chất nghiêm trọng như vừa qua là một khuyết

điểm lớn, không thực hiện được mục tiêu nêu trong Nghị quyết của Bộ Chính trị là

không để xảy ra biểu tình, bạo loạn" [7].

2.3.3. Xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh toàn diện

Thực hiện Nghị quyết 10-NQ/TW của Bộ Chính trị; Nghị quyết Hội nghị lần

thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) Về đổi mới và nâng cao chất

lượng HTCT ở cơ sở xã, phường, thị trấn; Quyết định số 253/QĐ-TTg, ngày 05-3-

2003 của Thủ tướng Chính phủ Về việc phê duyệt đề án: Một số giải pháp củng cố,

kiện toàn chính quyền cơ sở vùng Tây Nguyên giai đoạn 2002-2010, Tỉnh ủy các

tỉnh Tây Nguyên đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, chương trình hành động về

xây dựng, củng cố HTCT cơ sở (xã, buôn, làng); tập trung chỉ đạo việc đổi mới,

kiện toàn, nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng, chính quyền và các đoàn thể cơ

sở; tích cực thu hẹp thôn buôn chưa có đảng viên và tổ chức đảng; tăng cường lãnh

đạo công tác quy hoạch, tạo nguồn, sử dụng đội ngũ cán bộ người DTTS; chuyển

trọng tâm chỉ đạo, hoạt động của HTCT xuống địa bàn dân cư. Tỉnh ủy Gia Lai đã

ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TU, ngày 12-09-2002 Về công tác cán bộ của hệ

thống chính trị cấp xã, phường, thị trấn; Quyết định số 749-QĐ/TU và Quy định

số 748-QĐ/TU, ngày 30-6-2004 Về việc phân công phụ trách các xã trọng điểm về

an ninh chính trị và HTCT cơ sở yếu kém. Tỉnh ủy Đắk Lắk ra Chương trình số

04-CT/TU, ngày 15-01-2002 Về kiện toàn, củng cố tổ chức dân vận, Mặt trận và

các đoàn thể quần chúng giai đoạn 2001-2005; Nghị quyết số 04-NQ/TU, ngày

10-07-2002 Về tăng cường cán bộ cho xã, phường, thị trấn; Chỉ thị số 14-CT/TU,

ngày 19-9-2002 Về một số nhiệm vụ cấp bách nhằm tăng cường sự lãnh đạo của

Đảng ở thôn, buôn, khối phố; Nghị quyết số 07-NQ/TU, ngày 03-03-2003 Về tăng

cường sự lãnh đạo của Đảng ở thôn, buôn, tổ dân phố. Tỉnh ủy Kon Tum ra Chỉ

60

thị số 08-CT/TU, ngày 04-5-2004 Về tiếp tục đẩy mạnh xây dựng thôn, làng vững

mạnh. Tỉnh ủy Đắk Nông ra Nghị quyết số 02-NQ/TU, ngày 13-5-2004 Về đổi

mới và nâng cao chất lượng HTCT gắn với xây dựng thôn, buôn, bon, tổ dân phố

vững mạnh toàn diện…

Tại tỉnh Gia Lai, thực hiện chủ trương về việc phân công phụ trách các xã

trọng điểm (Phụ lục 4), tỉnh đã phân công 47 cơ quan cấp tỉnh phụ trách 47 xã,

phường trọng điểm; 429 cơ quan cấp huyện phụ trách các buôn, làng có khả năng

xảy ra điểm nóng; 98 doanh nghiệp phụ trách, giúp đỡ các xã khó khăn phát triển

kinh tế - xã hội. Các cơ quan, đơn vị được phân công giúp các xã, phường trọng

điểm có trách nhiệm giúp các địa phương phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời

sống nhân dân; củng cố, xây dựng HTCT cơ sở ở xã, thôn, làng vững mạnh; giữ

vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Các sở, ban, ngành, Mặt trận và các

đoàn thể tỉnh đã phân công cán bộ xuống cùng với cấp ủy xã tiến hành khảo sát,

đánh giá thực trạng tình hình, phân tích mặt mạnh, mặt yếu để xây dựng kế hoạch,

quy chế phối hợp hoạt động; tiến hành ký kết những nội dung cần phối hợp với cấp

ủy, chính quyền các xã. Thông qua công tác phụ trách xã trọng điểm, đội ngũ cán

bộ, công chức, viên chức của tỉnh, huyện đã có nhiều chuyển biến tích cực về nhận

thức và trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ CTDV; công tác nắm dân, nắm

cơ sở có nhiều tiến bộ; đã phát hiện và tham gia giải quyết có hiệu quả nhiều vụ

tranh chấp, mâu thuẫn trong nhân dân, góp phần đấu tranh làm thất bại âm mưu của

bọn phản động FULRO, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa

bàn các xã trọng điểm.

Nằm ở phía Bắc của huyện Đắk Đoa (Gia Lai), xã Hà Bầu là một trong

những nơi có tình hình an ninh chính trị phức tạp sau vụ biểu tình, bạo loạn năm

2001. Trước tình hình đó, thực hiện Quyết định số 748 và Quy định số 749 của Tỉnh

ủy Về việc phân công các sở, ban, ngành của tỉnh phụ trách, giúp đỡ các xã trọng

điểm, Công an tỉnh trực tiếp phụ trách xã, cùng với 5 ban, ngành của huyện phụ

trách 5 làng trọng điểm. Nhờ đó, "tình hình an ninh chính trị trên địa bàn đã nhanh

chóng được ổn định... Bên cạnh đó, được sự giúp đỡ của Công an tỉnh và 5 ban,

ngành của huyện nên vai trò điều hành của chính quyền xã đã có bước chuyển biến

tích cực và dần dần đi vào nền nếp" [108].

61

Tại tỉnh Đắk Nông, ngay sau khi thành lập (2004), Tỉnh ủy đã chỉ đạo cho

các Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện tăng cường cán bộ cho những xã ở vùng sâu,

địa bàn rộng, có nhiều đồng bào DTTS sinh sống, trình độ quản lý của cán bộ xã

còn hạn chế, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội còn phức tạp. Hầu hết

các cán bộ được tăng cường đều giữ những chức danh chủ chốt như Bí thư, Chủ tịch

Ủy ban nhân dân xã… là những người có năng lực công tác, được đào tạo cơ bản,

có kinh nghiệm thực tế. Do đó, đã giúp cơ sở cải tiến lề lối làm việc, nâng cao hiệu

quả quản lý, thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, phát triển kinh tế - xã hội, đảm

bảo an ninh, quốc phòng; củng cố lòng tin của nhân dân đối với chính quyền cơ sở.

Đối với các cơ quan cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông đã ban hành Quyết

định số 484/QĐ-UB, ngày 24-5-2004 Về việc giao cho các cơ quan, đơn vị cấp tỉnh

kết nghĩa với các buôn, bon. Đến cuối năm 2005, toàn tỉnh có 63 cơ quan, đơn vị

cấp tỉnh đã làm lễ kết nghĩa với 63 buôn, bon. Số buôn, bon còn lại giao cho các cơ

quan, đơn vị cấp huyện tổ chức kết nghĩa. Việc tổ chức kết nghĩa giữa các cơ quan,

đơn vị cấp tỉnh với các buôn, bon đã tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ sâu sát dân

hơn, nắm bắt được tình hình ở từng buôn, bon; giúp đỡ đồng bào sản xuất, xây dựng

đời sống văn hóa, xây dựng và củng cố chính quyền cấp xã.

Thực hiện chủ trương "Cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân, Công an nhân dân

phải thực sự là những cán bộ dân vận để vận động đồng bào tham gia các phong trào

phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng ở địa phương" [3], các lực

lượng vũ trang (Quân đội, Công an, Biên phòng) của Bộ, các Quân khu, Quân đoàn,

Binh đoàn đóng trên địa bàn Tây Nguyên và lực lượng vũ trang của địa phương đã có

nhiều hình thức triển khai lực lượng về cơ sở làm CTDV và xây dựng HTCT.

Quân khu V, Quân khu VII và Quân đoàn III đã thành lập 93 tổ, đội công

tác gồm 900 cán bộ, chiến sĩ về các xã biên giới, vùng sâu, vùng xa, cùng

ăn, cùng ở, cùng làm với nhân dân; vận động, hướng dẫn nhân dân phát

triển sản xuất, xây dựng đời sống văn hóa, giữ gìn an ninh trật tự. Từ

năm 2003 đến năm 2005, các đơn vị của Quân khu V và bộ đội địa

phương của 4 tỉnh (Đắk Nông, Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum) đã tổ chức

cho 13.963 lượt cán bộ, chiến sĩ hành quân dã ngoại về 335 xã, phường,

thị trấn giúp đỡ nhân dân... Ngoài ra, các đơn vị còn tổ chức kết nghĩa

62

giúp đỡ 55 xã, phường và 12 thôn, buôn đồng bào DTTS. Lực lượng

Công an và Bộ đội Biên phòng thường xuyên tăng cường cán bộ, chiến sĩ

phụ trách các địa bàn xung yếu, các xã biên giới, phối hợp cùng cơ sở

tuyên truyền, vận động nhân dân gìn giữ an ninh chính trị [33].

Việc tăng cường cán bộ các ngành, đoàn thể và lực lượng vũ trang xuống cơ

sở là một chủ trương đúng đắn, cấp bách, phù hợp với tình hình và đáp ứng yêu cầu

của từng địa phương, nhằm tham gia làm CTDV, giúp cấp ủy và chính quyền cơ sở

thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, góp

phần xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh toàn diện; phòng ngừa và khắc phục điểm

nóng về an ninh chính trị, giữ vững ổn định chính trị.

Do có sự quan tâm chỉ đạo quyết liệt với nhiều hình thức và biện pháp phù

hợp nên công tác xây dựng Đảng ở cơ sở vùng Tây Nguyên có những chuyển biến

tích cực cả về số lượng và chất lượng.

Số thôn, buôn trắng đảng viên giảm dần, từ 634 thôn buôn (9,4%) cuối

năm 2003, giảm còn 475 (7,4%) cuối năm 2004 và còn 449 (6,6%) quý I

năm 2005 (trong đó, Đắk Lắk còn 140/2.188 = 6,39%; Đắk Nông còn

37/617 = 5,99%; Gia Lai còn 153/1.881 = 8,13%; Kon Tum còn 78/780

= 10%; Lâm Đồng còn 41/1.260 = 3,25%). Số lượng đảng bộ, chi bộ cơ

sở xã, phường và số lượng đảng viên cũng tăng lên. Đến cuối năm 2004,

số đảng viên sinh hoạt tại cơ sở xã, phường là 51.408 người, chiếm

56,33% tổng số đảng viên toàn vùng [121].

Bên cạnh công tác phát triển đảng viên và tổ chức cơ sở đảng, các tỉnh Tây

Nguyên đều tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ DTTS trong HTCT, nhất là HTCT

cơ sở. Nhờ vậy, đội ngũ cán bộ người DTTS ngày càng tăng về số lượng và chất

lượng. Theo Văn phòng Ban Chỉ đạo Tây Nguyên:

Đến năm 2004, toàn vùng Tây Nguyên có 14.400 người cán bộ DTTS từ

cấp xã đến thôn, buôn, chiếm 35,07% tổng số cán bộ, công chức cấp xã

và trưởng thôn, buôn của toàn vùng… Cán bộ thôn, buôn khoảng 6.700

người, già làng 3.050 người (Đắk Lắk 539 người, Đắk Nông 194 người,

Kon Tum 777 người, Gia Lai 880 người, Lâm Đồng 668 người). Như

63

vậy, xét về mặt số lượng, đội ngũ cán bộ DTTS ở cơ sở thuộc các chức

danh đều tăng trung bình so với năm 2002 là 1,4%; tỷ lệ cán bộ DTTS

trong tổng số cán bộ cơ sở có xu hướng tăng từ 31,23% năm 2002 lên

35,07% năm 2004 [121].

Nhìn chung, HTCT cơ sở ở Tây Nguyên từng bước được củng cố và kiện

toàn, số cơ sở "trắng" đảng viên và tổ chức đảng được thu hẹp, đội ngũ cán bộ

DTTS ngày càng trưởng thành, từ đó có sự chuyển biến tích cực trong hoạt động

lãnh đạo, quản lý, điều hành của cấp ủy, chính quyền cơ sở trên các lĩnh vực, trong

đó có CTDV. Tuy nhiên, HTCT cơ sở nhiều nơi vẫn chưa đủ sức, đủ tầm để nắm tình

hình, nắm dân và tự giải quyết, xử lý những vấn đề phức tạp xảy ra trên địa bàn. Việc

thực hiện chủ trương nhanh chóng xóa tình trạng buôn làng chưa có đảng viên và tổ

chức đảng gặp nhiều khó khăn, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào DTTS và

đồng bào có đạo. "Đến tháng 12-2005, còn 371/6.842 thôn buôn chưa có đảng viên

(chiếm 5,4%); 1.602 thôn buôn chưa có tổ chức đảng (chiếm 23,4%). Tỷ lệ đảng viên

là người DTTS chỉ chiếm 16,5% và người có đạo là 1,3% trong tổng số đảng viên

toàn vùng" [15]. Một số địa phương giải quyết tình thế bằng cách điều động đảng

viên đến nơi chưa có tổ chức đảng để lập chi bộ, nhưng hiệu quả lãnh đạo không cao.

Việc thực hiện chủ trương củng cố tổ chức đảng và HTCT xã, huyện trọng điểm còn

chậm; công tác tạo nguồn, quy hoạch, đào tạo và sử dụng cán bộ người DTTS còn

lúng túng, hẫng hụt, chưa đáp ứng được yêu cầu; chưa tập trung đúng mức cho việc

xây dựng HTCT ở thôn buôn đồng bào DTTS và đồng bào có đạo.

2.3.4. Thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở

Thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW, ngày 18-2-1998 của Bộ Chính trị và các

Nghị định của Chính phủ Về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; Chỉ

thị số 10-CT/TW, ngày 28-3-2002 của Ban Bí thư Trung ương Đảng Về tiếp tục đẩy

mạnh việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, các tỉnh Tây Nguyên đã

triển khai tổ chức quán triệt các chỉ thị, nghị định của Đảng và Chính phủ đến toàn

thể cán bộ, đảng viên từ tỉnh đến cơ sở; thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện Quy chế

dân chủ các cấp và xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện; tiến hành sơ kết, tăng

cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.

64

Chính quyền các tỉnh Tây Nguyên đã gắn triển khai Quy chế dân chủ với

việc thực hiện cải cách hành chính; phân công, phân cấp quản lý, xóa bỏ những thủ

tục hành chính phiền hà, tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác tiếp dân, giải

quyết kịp thời đơn thư, khiếu kiện của nhân dân; hướng dẫn xây dựng và thực hiện

quy chế dân chủ trong các cơ quan, doanh nghiệp và hương ước, quy ước trong

cộng đồng dân cư ở thôn, buôn.

Đến năm 2005, gần 100% các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước đã xây

dựng Quy chế dân chủ; phần lớn thôn, buôn đã xây dựng hương ước, quy

ước và các cam kết cộng đồng. Cấp ủy đảng, chính quyền xã, phường, thị

trấn tổ chức cho nhân dân bầu cử trưởng thôn, buôn, tổ dân phố; công

khai cho nhân dân biết những chủ trương, chính sách liên quan trực tiếp

đến quyền và nghĩa vụ của nhân dân, nhất là chính sách đối với đồng bào

DTTS như: đất ở, đất sản xuất, nhà ở... Phần lớn các xã đã thành lập Ban

thanh tra nhân dân và nhiều nơi hoạt động có hiệu quả; tăng cường vai

trò giám sát của Mặt trận, đoàn thể trong việc thực hiện dân chủ và phát

hiện, đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực, nhũng nhiễu của cán bộ

xã, thôn [33].

Thông qua Quy chế dân chủ ở cơ sở với phương châm "Dân biết, dân bàn,

dân làm, dân kiểm tra" các địa phương, đơn vị đã áp dụng, thực hiện Quy chế dân

chủ dưới nhiều hình thức đa dạng, phong phú.

Những việc cần thông báo cho nhân dân biết được các xã, phường, thị trấn

thực hiện khá tốt như: chế độ ưu đãi đối với người có công với cách mạng, Luật

Dân sự, Luật hình sự, Luật đất đai, Thuế nhà đất, các quy định về khuyến nông,

khuyến lâm, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi; các văn bản, quy định về thủ tục

hành chính; lịch tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân; dự

toán, quyết toán ngân sách hàng năm...

Những việc nhân dân bàn, tham gia ý kiến, chính quyền xã quyết định đã

được triển khai thực hiện có hiệu quả và được nhân dân nhất trí, đồng tình ủng hộ

như: dự thảo Nghị quyết Hội đồng nhân dân xã; dự thảo kế hoạch phát triển kinh tế

ở địa phương; quy hoạch sử dụng đất đai và quy hoạch khu dân cư; giải tỏa đền bù

và tái định cư cho nhân dân; dự án huy động và sử dụng các khoản đóng góp của

65

nhân dân để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng; giải quyết việc làm cho người lao

động; xây dựng quy ước, hương ước thôn, buôn.

Về dân làm, nhờ phát huy dân chủ ở cơ sở, tận dụng sự hỗ trợ tích cực của

Trung ương, nhiều tiềm năng to lớn trong cộng đồng được khơi dậy và phát huy. Đã

xuất hiện nhiều cách làm ăn mới, nhiều sáng kiến hay từ cơ sở, tinh thần tự quản và

trách nhiệm cộng đồng được nâng cao; có nhiều công trình thực hiện theo phương

châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm" như: điện, đường, trường, trạm, thủy lợi...

được nhân dân hưởng ứng tích cực và mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Về dân kiểm tra, đồng bào được tham gia giám sát, kiểm tra các hoạt động

của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân; tham gia việc giải quyết khiếu nại, tố cáo

của công dân; việc thu, chi, nghiệm thu và quyết toán các công trình do nhân dân

đóng góp; việc thực hiện các chế độ, chính sách... Qua kiểm tra, giám sát, đồng bào

đã phản ánh kịp thời những biểu hiện sai trái trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ của

các đơn vị được giao, giúp cho các cấp ủy, chính quyền có những biện pháp chấn

chỉnh kịp thời và xử lý nghiêm những cán bộ vi phạm.

Nhìn tổng quát, việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đã tạo sự chuyển

biến tích cực trong nhận thức và hành động của cán bộ và nhân dân Tây Nguyên về

dân chủ, làm cho mọi người quan tâm đến trách nhiệm và quyền hạn của mình trong

việc thực hiện phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra", tác động

tích cực trong củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của HTCT ở cơ sở theo

hướng "gần dân, trọng dân, có trách nhiệm với dân", tạo sự đồng thuận trong xã hội,

góp phần quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng,

an ninh trên địa bàn. Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở

một số nơi chưa thật sự đi vào chiều sâu, còn mang tính hình thức, quyền làm chủ

của nhân dân chưa được tôn trọng và phát huy.

2.3.5. Chú trọng công tác vận động đồng bào có đạo

Nhận thức rõ vị trí, tầm quan trọng của công tác vận động đồng bào tôn giáo

trong quá trình thực hiện CTDV, Đảng khẳng định: "Nội dung công tác tôn giáo là

công tác vận động quần chúng... Công tác quản lý nhà nước đối với các tôn giáo và

đấu tranh chống việc lợi dụng tôn giáo để chống đối chế độ chỉ thành công nếu làm

tốt công tác vận động quần chúng" [6].

66

Trước diễn biến phức tạp của vấn đề tôn giáo, đặc biệt là vấn đề Tin lành ở

Tây Nguyên, trong Thông báo Kết luận số 148-TB/TW, ngày 16-7-2004 Về tình

hình, nhiệm vụ và giải pháp để tiếp tục phát triển vùng Tây Nguyên toàn diện, bền

vững, Bộ Chính trị nêu rõ:

Đối với những người theo đạo Tin lành có nhu cầu sinh hoạt tôn giáo thuần

túy, cần cho phép họ đăng ký hoạt động tu hành bình thường, giúp đỡ họ

xây dựng cơ sở thờ tự theo đúng pháp luật. Giáo dục đồng bào không theo

"Tin lành Đê Ga", đồng thời vạch mặt và nghiêm trị những tên FULRO đội

lốt Tin lành để khống chế quần chúng, chống phá đất nước [7].

Tháng 11-2004, tại Hà Nội, Ban Bí thư Trung ương Đảng tổ chức Hội nghị sơ

kết 5 năm thực hiện Thông báo số 184-TB/TW, ngày 30-11-1998 của Thường trực

Bộ Chính trị và Thông báo số 255-TB/TW, ngày 7-10-1999 của Bộ Chính trị (khóa

VIII) Về chủ trương công tác đối với đạo Tin lành trong tình hình mới. Trên cơ sở

tình hình thực tế, các báo cáo và ý kiến phát biểu tại Hội nghị, Ban Bí thư kết luận:

Đối với vấn đề Tin lành ở vùng đồng bào các dân tộc Tây Nguyên... thì

thực hiện theo Thông báo số 148-TB/TW, ngày 16-7-2004 của Bộ Chính

trị Về tình hình, nhiệm vụ và giải pháp để tiếp tục phát triển vùng Tây

Nguyên toàn diện, bền vững... Đối với các chi hội cơ sở chưa được công

nhận tư cách pháp nhân của Tổng Liên hội hội thánh Tin lành Việt Nam

(miền Nam), từng bước xem xét, nơi nào hội đủ những điều kiện theo

quy định của pháp luật thì công nhận và cho sinh hoạt bình thường, tạo

điều kiện thuận lợi về nhà nguyện, đào tạo chức sắc... theo đúng quy

định của pháp luật... [8].

Cụ thể hóa Thông báo 160-TB/TW của Ban Bí thư, ngày 04-02-2005 Thủ

tướng Chính phủ ra Chỉ thị số 01/2005/CT-TTg Về một số công tác đối với đạo Tin

lành, nêu rõ nhiệm vụ:

Tăng cường công tác tuyên truyền, vận động và tạo điều kiện thuận lợi

để các chức sắc, tín đồ Tin lành thực hiện tốt chính sách của Đảng và

pháp luật của Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo, đưa sinh hoạt tôn giáo

của đạo Tin lành đi vào nền nếp, phù hợp với pháp luật... Kiên quyết đấu

67

tranh với những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng tôn

giáo, đội lốt đạo Tin lành để kích động, lôi kéo đồng bào gây chia rẽ dân

tộc, chống phá đất nước [112].

Chủ trương bình thường hóa vấn đề Tin lành của Đảng và Nhà nước có tác

động tích cực, mang tính đột phá trong việc thực hiện chính sách tôn giáo ở Tây

Nguyên. Trước khi có Thông báo số 160-TB/TW của Ban Bí thư và Chỉ thị

01/2005/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, các tỉnh Tây Nguyên đã quán triệt

Thông báo số 184-TB/TW và Kết luận số 255-TB/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII),

đề ra các nghị quyết, chỉ thị, kế hoạch cụ thể để triển khai thực hiện và đã thu được

một số kết quả trong việc giải quyết vấn đề Tin lành ở Tây Nguyên: Chủ động cho

phép thành lập các Ban đại diện Tin lành cấp tỉnh, làm thí điểm cho đăng ký và hội

đồng ở một số chi hội; từ đó, rút kinh nghiệm, đề xuất chủ trương, chính sách, bước

đi cụ thể; tạo sự chuyển biến trong nhận thức và chỉ đạo thực hiện, từng bước khai

thông lộ trình "bình thường hóa", đưa hoạt động của đạo Tin lành vào quản lý; đồng

thời, tổ chức gặp gỡ, tiếp xúc với các chức sắc, tạo mối qua hệ thân thiện, hiểu biết

lẫn nhau; hướng dẫn, sử dụng một số chức sắc tham gia cùng làm công tác vận động

số người vượt biên trở về, tuyên truyền vạch trần âm mưu, thủ đoạn chống phá cách

mạng của bọn FULRO, vận động những đối tượng đang lẩn trốn ra đầu thú...

Trước những diễn biến phức tạp sau sự kiện tháng 2-2001, ngày 22-6-2001,

Tỉnh ủy Đắk Lắk ban hành Kế hoạch số 01/KH-TU Về đấu tranh xóa bỏ "Tin lành

Đê Ga" và tiếp tục thực hiện chủ trương đối với đạo Tin lành trong tình hình mới,

trong đó nêu rõ:

Việc đấu tranh xóa bỏ "Tin lành Đê Ga" phải được coi là một bộ phận

trong việc đấu tranh chống bọn FULRO phản động. Phải kết hợp nhiều

biện pháp đấu tranh, trong đó, tăng cường CTPĐQC là phương thức cơ

bản, xuyên suốt; chú ý việc vận động Hội thánh Tin lành Việt Nam

(miền Nam) và các chức sắc tiến bộ theo phương châm "dùng đạo giải

quyết việc đạo", từng bước công nhận hợp pháp các chi hội, hội thánh

Tin lành Việt Nam (miền Nam) ở những nơi đủ điều kiện. Dùng Hội

thánh Tin lành hợp pháp để đấu tranh với "Tin lành Đê Ga" [89].

68

Ngày 05-6-2003, Ban Chỉ đạo Tây Nguyên tổ chức Hội nghị Về công tác Tin

lành. Hội nghị khẳng định những kết quả đạt được trong việc giải quyết vấn đề Tin

lành ở Tây Nguyên; đồng thời, đề ra phương hướng giải quyết vấn đề này trong thời

gian tới: "Tăng cường công tác giáo dục, vận động quần chúng, đặc biệt là tín đồ

theo đạo Tin lành nâng cao sự hiểu biết, củng cố lòng tin vào đường lối, chính sách

của Đảng và Nhà nước (chủ trương, chính sách tôn giáo); không để bọn xấu lôi kéo

quần chúng theo đạo và lợi dụng đạo Tin lành để chống phá cách mạng, gây mất ổn

định chính trị" [12].

Thực hiện chủ trương đó, ngày 8-4-2005, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Gia Lai ra

Chỉ thị số 22-CT/TU Về một số công tác đối với đạo Tin lành, nêu rõ:

Tăng cường công tác tuyên truyền, vận động quần chúng tín đồ và chức

sắc đạo Tin lành thực hiện tốt chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước

về tín ngưỡng, tôn giáo; từng bước đưa sinh hoạt của đạo Tin lành vào nề

nếp, phù hợp với pháp luật; vận động chức sắc, tín đồ Tin lành sống "tốt

đời đẹp đạo", "phụng sự Thiên chúa, phục vụ Tổ quốc và dân tộc";

không khuyến khích phát triển đạo Tin lành, nhưng không cấm đồng bào

theo đạo và không phân biệt đối xử với những người có tín ngưỡng, tôn

giáo; chủ động ngăn chặn hoạt động tôn giáo trái pháp luật [94].

Quán triệt chủ trương của Trung ương đối với đạo Tin lành trong tình hình

mới, đến năm 2005, Đảng bộ, chính quyền ở các tỉnh Tây Nguyên đều ban hành chỉ

thị, kế hoạch nhằm cụ thể hóa Thông báo số 160 của Ban Bí thư và Chỉ thị số 01

của Thủ tướng Chính phủ; tổ chức khảo sát, đánh giá lại hiện trạng đạo Tin lành.

Trên cơ sở đó, đẩy nhanh việc công nhận chi hội đủ điều kiện và cho đăng ký sinh

hoạt điểm, nhóm tại buôn làng, khắc phục dần tình trạng lén lút nhóm họp ở buôn,

làng, nương rẫy; quan tâm giải quyết nơi thờ tự để tín đồ có nơi sinh hoạt tôn giáo

ổn định; tạo điều kiện phong chức, phục chức, đào tạo mục sư một cách hợp lý; cho

phép mở các khóa bồi dưỡng hàm thụ thần học để giải quyết vấn đề chức sắc cho

các hội thánh cơ sở. Các cấp ủy đảng, chính quyền đã quan tâm đẩy mạnh CTPĐQC

ở vùng có đạo; lựa chọn, bồi dưỡng, xây dựng lực lượng cốt cán; vận động các chức

sắc, tín đồ tôn giáo tích cực hưởng ứng các phong trào thi đua yêu nước và các cuộc

69

vận động do Mặt trận Tổ quốc phát động, xây dựng cuộc sống "tốt đời đẹp đạo",

tham gia các hoạt động từ thiện, nhân đạo; hạn chế những hoạt động tôn giáo trái

phép, đấu tranh loại bỏ tổ chức phản động FULRO và "Tin lành Đê Ga", góp phần

làm thất bại âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, giữ vững an

ninh chính trị trên địa bàn.

Nhìn tổng quát, chủ trương "bình thường hóa" hoạt động đối với đạo Tin

lành đã tác động rất lớn đến nhận thức, tư tưởng của đông đảo quần chúng tín đồ,

chức sắc tôn giáo; giải tỏa tâm lý của chức sắc, tín đồ cho rằng Nhà nước cấm đạo

Tin lành ở Tây Nguyên; củng cố lòng tin trong quần chúng có đạo. Ở những nơi, chi

hội đạo Tin lành được công nhận hợp pháp, sinh hoạt tôn giáo đi vào ổn định, quần

chúng tín đồ chấp hành các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà

nước; chính quyền nắm và quản lý được các hoạt động của giáo sĩ. Nhiều mục sư,

truyền đạo đã tích cực hợp tác với chính quyền, cam kết hoạt động tôn giáo theo

đường hướng của Hội thánh "Sống Phúc âm, phụng sự Thiên Chúa, phục vụ Tổ

quốc", kiên quyết bác bỏ "Tin lành Đê Ga". Tuy nhiên, công tác tôn giáo trong giai

đoạn (2001-2005) đạt kết quả không cao, vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế: Một số cấp

ủy, chính quyền, cán bộ, đảng viên chưa quán triệt nghiêm túc và thực hiện đúng

những quan điểm chỉ đạo của Đảng về công tác tôn giáo nói chung và đối với đạo

Tin lành nói riêng. Có tư tưởng coi Tin lành là phản động, là lực lượng của FULRO

nên tìm cách ngăn cản, cấm đoán bằng biện pháp hành chính. Điều này đã làm cho

đồng bào có đạo mặc cảm, xa lánh chính quyền, tiến hành sinh hoạt đạo lén lút; tạo

cơ hội cho bọn phản động vu cáo chính quyền, lôi kéo, kích động, khống chế đồng

bào; đồng thời, gây nên những khó khăn trong quan hệ quốc tế. Do nhận thức của

cán bộ, đảng viên đối với Tin lành chưa thống nhất nên việc tiến hành rà soát, đánh

giá, phân loại, đăng ký sinh hoạt, giải quyết các nhu cầu chính đáng đối với đạo Tin

lành còn chậm trễ và đạt hiệu quả chưa cao; công tác tuyên truyền, vận động quần

chúng tín đồ, tranh thủ các chức sắc, chức việc, xây dựng lực lượng cốt cán trong

tôn giáo chưa được quan tâm đúng mức; một bộ phận đồng bào còn ngộ nhận, chưa

phân biệt được đạo Tin lành chính thống với "Tin lành Đê Ga", cho rằng "Tin lành

Đê Ga" là tôn giáo riêng của người DTTS Tây Nguyên, để kẻ xấu lợi dụng, lôi kéo

tham gia "Tin lành Đê Ga".

70

2.3.6. Xây dựng lực lƣợng nòng cốt làm công tác dân vận

Lực lượng nòng cốt là "tai, mắt" của cấp ủy, chính quyền trong việc cung cấp

thông tin để giúp cho sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền sát với tình hình

thực tiễn, nắm được thực chất tâm tư, nguyện vọng của đồng bào, đưa ra những

quyết sách chính xác, kịp thời. Chính lực lượng nòng cốt ở cơ sở thôn, buôn là

những người gần dân, hiểu dân nhất nên khả năng vận động, thuyết phục quần

chúng rất có hiệu quả.

Nhận thức đúng vai trò quan trọng của lực lượng nòng cốt làm CTDV trong

tình hình mới, cấp ủy, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể ở các tỉnh Tây Nguyên

đã coi trọng việc xây dựng lực lượng nòng cốt, nhất là nòng cốt trong đồng bào

DTTS và đồng bào có đạo. Xem đây là một nhiệm vụ trọng tâm và cấp bách, là

trách nhiệm của cả HTCT, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả CTDV ở địa

phương, cơ sở. Hầu hết các tỉnh Tây Nguyên đều có nghị quyết, kế hoạch xây dựng

lực lượng nòng cốt trong hệ thống Ban Dân vận, Mặt trận và các đoàn thể.

Thực hiện chủ trương của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Đắk Lắk tại Hội nghị

tổng kết CTPĐQC 03 năm (2001-2004), ngày 24-9-2004 Về xây dựng lực lượng cốt

cán làm CTDV, Ban Dân vận Tỉnh ủy đã ra Kế hoạch số 622-KH/DVTU, ngày 14-

3-2005 Về xây dựng lực lượng cốt cán trong hệ thống Ban Dân vận, Mặt trận Tổ

quốc và các đoàn thể quần chúng các cấp ở khu dân cư. Kế hoạch nêu rõ mục đích,

yêu cầu, tiêu chuẩn, nhiệm vụ của cốt cán; đồng thời, đề ra biện pháp, cách thức tổ

chức thực hiện. Kế hoạch đã xác định rõ yêu cầu trọng tâm xây dựng lực lượng cốt

cán trong quần chúng nhân dân, đó là:

Già làng và người tiêu biểu ở thôn, buôn, trong đoàn viên, hội viên của

hệ thống Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể. Phương châm xây dựng lực

lượng cốt cán là: nòng cốt, gương mẫu, năng động, tin cậy, trách nhiệm.

Thời gian tiến hành xây dựng lực lượng cốt cán: bước 1, phấn đấu từ nay

đến hết quý II/2005 mỗi huyện, thành phố chọn 2-3 thôn, buôn, tổ dân

phố, nhất là buôn đồng bào DTTS xây dựng từ 1-2 cá nhân cốt cán trong

quần chúng nhân dân; bước 2, sơ kết, rút kinh nghiệm, triển khai thực

hiện trong toàn địa bàn xong trong quý IV/2005 [25].

71

Tại tỉnh Gia Lai, các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể đều

có sự chuyển biến tích cực về nhận thức và trách nhiệm trong công tác xây dựng lực

lượng cốt cán ở cơ sở.

So với trước năm 2001, công tác xây dựng lực lượng nòng cốt chưa được

quan tâm, thì nay đã được quan tâm xây dựng và phát triển với tỷ lệ bình

quân hàng năm tăng 17,45%. Công tác tranh thủ chức sắc các tôn giáo,

vận động các già làng, trưởng thôn, những người tiêu biểu có uy tín trong

cộng đồng dân cư có nhiều tiến bộ. Tỷ lệ cơ cấu nòng cốt là người

DTTS, người có đạo không ngừng được tăng lên (người DTTS là

39,33%, người có đạo 9,54%) [28, tr.100-101].

Nhìn chung, các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể trên địa

bàn Tây Nguyên đã có sự chuyển biến về nhận thức và hành động trong việc xây

dựng lực lượng nòng cốt làm CTDV từ cấp tỉnh cho đến các buôn, làng. Do đó, lực

lượng này có sự phát triển về số lượng và chất lượng. Số lượng nòng cốt có xu

hướng tăng lên, năm sau cao hơn năm trước. Về chất lượng, đa số nòng cốt đã phát

huy được vai trò tiêu biểu, gương mẫu, luôn đi đầu hưởng ứng các phong trào cách

mạng ở các địa phương, cơ sở. Trên lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội, lực lượng

nòng cốt là những người đi đầu, tích cực vận động các tầng lớp nhân dân tham gia

phát triển sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa; xóa

đói giảm nghèo; thực hiện cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống

văn hóa ở khu dân cư"; tham gia các hoạt động từ thiện, nhân đạo. Trên lĩnh vực an

ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, lực lượng nòng cốt đã tích cực phối hợp với

các tổ chức trong HTCT để nắm bắt tình hình, tâm tư, nguyện vọng nhân dân, vận

động nhân dân nâng cao cảnh giác, tham gia truy quét, bóc gỡ các tổ chức phản

động FULRO, kêu gọi những người bị lầm lỗi trở về đoàn tụ với gia đình; đấu tranh

với các hoạt động móc nối, lôi kéo, kích động đồng bào tham gia biểu tình, bạo loạn

và vượt biên trái phép.

Tuy nhiên, công tác xây dựng lực lượng nòng cốt làm CTDV còn những hạn

chế, yếu kém: Lực lượng nòng cốt có số lượng ngày càng tăng, nhưng chất lượng và

hiệu quả chưa cao, chủ yếu mới dừng lại ở góc độ tuyên truyền, vận động và gương

72

mẫu đi đầu trong các phong trào ở địa phương, còn ở góc độ thu thập thông tin, nắm

bắt tình hình báo cáo cho tổ chức và trực tiếp tham gia giải quyết những vụ việc

phức tạp ở cơ sở còn nhiều hạn chế, có nơi chưa làm được. Công tác xây dựng nòng

cốt trong vùng đồng bào DTTS, đồng bào có đạo chưa được quan tâm đúng mức, có

nơi còn cho rằng nòng cốt ở vùng đồng bào DTTS và đồng bào có đạo chủ yếu là

những cán bộ Mặt trận và các đoàn thể là chính, nên tỷ lệ nòng cốt là người DTTS

và người có đạo còn ít, chưa đáp ứng được yêu cầu.

Tiểu kết chƣơng 2

Từ năm 2001 đến năm 2005, trước những diễn biến phức tạp tại Tây

Nguyên, Đảng đã kịp thời đề ra những chủ trương, giải pháp đúng đắn, phù hợp

nhằm tạo sự ổn định và phát triển bền vững vùng Tây Nguyên. Đặc biệt, sự ra đời

Nghị quyết số 10-NQ/TW của Bộ Chính trị và Ban Chỉ đạo Tây Nguyên đã đáp ứng

được nhu cầu của thực tiễn, đánh dấu một bước ngoặt phát triển mới đối với vùng

Tây Nguyên trên các mặt, trong đó có CTDV của Đảng. Quán triệt chủ trương và sự

chỉ đạo của Đảng về CTDV trong tình hình mới, các cấp, các ngành và các tỉnh Tây

Nguyên đã tập trung lãnh đạo cả HTCT hướng về cơ sở làm CTDV, từng bước tạo

chuyển biến trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, quá trình triển khai

thực hiện CTDV trên địa bàn cũng bộc lộ những hạn chế, khuyết điểm: Công tác

dân vận chưa được triển khai một cách thường xuyên, liên tục, còn nặng về hình

thức; nội dung còn thiếu cụ thể, chưa sát hợp với từng đối tượng, nhiều chủ trương,

chính sách chưa đến được với dân, nên việc phát huy tính chủ động, sáng tạo, tự

giác của nhân dân tham gia các phong trào cách mạng còn hạn chế; lực lượng tham

gia CTDV đông nhưng nắm dân, nắm tình hình vẫn chưa chắc nên còn bị động đối

phó khi có tình huống phức tạp xảy ra, sự phối hợp giữa các lực lượng chưa chặt

chẽ nên hiệu quả CTDV không cao.

Những kết quả đạt được cùng với những hạn chế, yếu kém trong CTDV của

Đảng ở Tây Nguyên giai đoạn 2001-2005, đã tạo ra những điều kiện, tiền đề cho

Tây Nguyên phát triển; đồng thời, để lại những kinh nghiệm quý báu cho các cấp bộ

đảng tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo CTDV trong giai đoạn tiếp theo.

73

Chƣơng 3

ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC DÂN VẬN

Ở TÂY NGUYÊN TỪ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2010

3.1. TÌNH HÌNH MỚI VÀ CHỦ TRƢƠNG CỦA ĐẢNG VỀ CÔNG TÁC

DÂN VẬN Ở TÂY NGUYÊN TỪ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2010

3.1.1. Tình hình mới tác động đến công tác dân vận ở Tây Nguy n

Tình hình thế giới

Trong những năm 2006-2010, tình hình thế giới diễn biến hết sức phức tạp,

khó lường; thời cơ và nguy cơ đan xen với nhau. Hòa bình và hợp tác là xu thế

chung của tất cả các quốc gia, dân tộc nhưng chủ nghĩa dân tộc cực đoan, xung đột

sắc tộc, dân tộc, tôn giáo, hoạt động khủng bố, can thiệp, lật đổ, ly khai tiếp tục gia

tăng. Kinh tế thế giới tiếp tục phục hồi và phát triển nhưng vẫn tiềm ẩn những yếu

tố bất trắc khó lường. Toàn cầu hóa về kinh tế và cách mạng khoa học - công nghệ

tiếp tục có những bước đột phá, nhảy vọt vừa tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng

chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng đối với các nước đang phát triển, khoảng

cách chênh lệch giữa các nhóm nước giàu và nước nghèo ngày càng lớn; tình trạng

khan hiếm nguồn năng lượng, cạn kiệt nguồn tài nguyên, môi trường tự nhiên bị

hủy hoại, khí hậu diễn biến ngày càng xấu, kèm theo những thiên tai khủng khiếp

và các dịch bệnh lớn. Đó là những yếu tố vừa tạo ra cơ hội để tiến lên, vừa là thách

thức gây mất ổn định, đe dọa sự phát triển bền vững.

Tình hình trong nước

Những thành tựu đạt được sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần

thứ IX và sau 20 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới đã tạo cơ hội để nước ta phát

triển kinh tế với nhịp độ nhanh và chất lượng cao hơn. Tuy nhiên, đất nước cũng

phải đối mặt với nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực

và thế giới. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ

phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn liền với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí

vẫn diễn ra nghiêm trọng, chưa được ngăn chặn có hiệu quả. Các thế lực thù địch

vẫn đang ráo riết thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình", gây bạo loạn, lật đổ, sử

74

dụng các chiêu bài "dân chủ", "nhân quyền", "dân tộc", "tôn giáo" hòng làm thay

đổi chế độ chính trị ở nước ta.

Tình hình ở Tây Nguyên

Đảng, Nhà nước tiếp tục quan tâm đầu tư và có những chính sách phát triển

kinh tế - xã hội mang tính đặc thù, tạo cơ sở cho kinh tế - xã hội ở Tây Nguyên phát

triển năng động, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào các

dân tộc trên địa bàn. Các cấp, các ngành và các địa phương trên địa bàn đã tích lũy

được kinh nghiệm và tích cực, chủ động hơn trong lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực

hiện các nhiệm vụ chính trị, nhất là đối với vùng DTTS, nên an ninh chính trị vùng

Tây Nguyên cơ bản giữ vững ổn định. Tuy nhiên, tình hình Tây Nguyên vẫn tiềm

ẩn nguy cơ phức tạp về nhiều mặt: Tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn

chậm và chưa vững chắc; cơ sở hạ tầng thiếu đồng bộ, chưa tương xứng với lợi thế,

tiềm năng; việc thực hiện chính sách dân tộc còn nhiều thiếu sót, chưa tạo được cơ

sở và niềm tin giúp đồng bào phát huy ý chí tự lực, tự cường vươn lên. Các mặt sản

xuất và đời sống trong vùng đồng bào DTTS tuy có chuyển biến nhưng chưa đáp

ứng yêu cầu, nguồn lực đầu tư cho vùng DTTS tăng nhưng còn phân tán, chủ yếu là

cứu đói và giải quyết tiêu dùng trước mắt, chưa sử dụng có hiệu quả tiền, vốn hỗ trợ

của Nhà nước để vươn lên thoát nghèo một cách căn bản và có phần tạo nên tâm lý

ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước, không cố gắng vươn lên thoát nghèo;

còn chậm trễ và thiếu quyết tâm trong thực hiện các chủ trương, chính sách đối với

vùng DTTS như giải quyết đất sản xuất, đất ở; giao đất giao rừng, tổ chức nghề

rừng, giải quyết việc làm, thu hút lao động người DTTS vào nông, lâm trường.

Bên cạnh đó, các thế lực thù địch và bọn phản động FULRO lưu vong tiếp

tục thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình", lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo,

dân chủ, nhân quyền để chống phá. Bọn FULRO lưu vong ráo riết tìm phương thức

mới đấu tranh đòi thành lập "Nhà nước Đê Ga", kích động biểu tình, bạo loạn, tạo

cớ để bên ngoài can thiệp, âm mưu "quốc tế hóa" vấn đề Tây Nguyên. Ở bên trong,

mặc dù bị trấn áp, truy quét và tiêu hao về lực lượng, nhưng số lẩn trốn và cơ sở

ngầm của FULRO chưa bị triệt phá hết, chúng vẫn tiếp tục móc nối xây dựng lực

lượng, phục hồi tổ chức, khi có điều kiện, thời cơ thì tổ chức biểu tình, bạo loạn và

75

vượt biên trái phép; công tác quản lý, cải tạo, giáo dục các đối tượng FULRO ở

buôn làng chưa hiệu quả nên có nguy cơ tái hoạt động trở lại; tư tưởng ly khai, tự

trị, tâm lý dân tộc hẹp hòi vẫn còn tồn tại trong một bộ phận đồng bào DTTS. Đây

chính là những điều kiện để FULRO tiếp tục tồn tại và hoạt động trong vùng DTTS,

tiềm ẩn nhiều nguy cơ phức tạp không thể xem thường. Theo Báo cáo của Ban Chỉ

đạo Tây Nguyên: "Đến năm 2006, ở 4 tỉnh Tây Nguyên (trừ Lâm Đồng) có khoảng

145 làng thuộc 80 xã, thị trấn của 27 huyện, thành phố có dấu hiệu phức tạp về an

ninh chính trị; có 64 làng, 24 xã, 7 huyện (6 huyện ở Gia Lai, 1 huyện ở Đắk Lắk)

có dấu hiệu phục hồi "Tin lành Đê Ga" [18].

Tình hình đồng bào DTTS vượt biên trái phép tuy đã giảm dần, nhưng vẫn

diễn biến phức tạp trên địa bàn. Do chưa triệt phá hết các đường dây móc nối, đưa

đón bên trong; do tiền, hàng từ nước ngoài gửi về đã tác động đến tâm lý của một

bộ phận đồng bào DTTS muốn vượt biên; mặt khác, ở biên giới Campuchia, một số

tổ chức nước ngoài vẫn tiếp tục tìm, đón, nuôi giấu người vượt biên, nên đã tác

động trực tiếp đến việc vượt biên trái phép.

Tình hình an ninh nông thôn vẫn diễn biến phức tạp, liên tục xảy ra các vụ

việc tụ tập đông người tham gia, liên quan đến tranh chấp, khiếu kiện, đòi đất đai,

chống người thi hành công vụ, xô xát giữa thanh niên người Kinh với thanh niên

người DTTS, giữa đồng bào DTTS với một số nông, lâm trường và cơ quan nhà

nước. Một số vụ việc đối tượng tham gia có hành vi quá khích, manh động dẫn đến

hành hung, xô xát tập thể.

Những khó khăn về kinh tế, đời sống cộng với việc tuyên truyền xuyên tạc,

kích động của các thế lực thù địch đã tác động vào tâm lý và tình cảm của đồng bào

DTTS, làm cho một bộ phận đồng bào có tư tưởng tự ti, mặc cảm, ly khai, tự trị,

phân biệt Kinh - Thượng, ảnh hưởng không nhỏ đến khối đại đoàn kết các dân tộc

trên địa bàn. Đây là những thách thức lớn đối với sự phát triển ổn định của vùng

Tây Nguyên, nhất là đối với CTDV trên địa bàn này.

3.1.2. Chủ trương của Đảng về đẩy mạnh công tác dân vận ở Tây Nguyên

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (4-2006) đã kiểm điểm tình hình thực hiện

Nghị quyết Đại hội IX của Đảng và đề ra phương hướng, nhiệm vụ 5 năm 2006-

76

2010 là: "Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức

mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt

mọi nguồn lực cho CNH, HĐH đất nước…" [51, tr.76].

Từ thực tiễn xây dựng Đảng trong những năm đổi mới, Đại hội X của Đảng

đã đúc kết nhiều bài học kinh nghiệm, trong đó có bài học về CTDV:

Đảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm

chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Phải xây dựng

các thiết chế mở rộng và phát huy dân chủ, bảo đảm các chủ trương, chính

sách của Đảng và Nhà nước đều có sự tham gia xây dựng của nhân dân,

phản ánh ý chí, lợi ích của nhân dân, của quốc gia, dân tộc. Cán bộ, đảng

viên và công chức phải thực sự là công bộc của nhân dân [51, tr.277].

Trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế, nhằm phát huy

sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, Đại hội khẳng định:

Đại đoàn kết toàn dân tộc… dưới sự lãnh đạo của Đảng, là đường lối

chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ

yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của

sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Lấy mục tiêu giữ vững độc lập,

thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân

chủ, văn minh làm điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các dân tộc, các

tôn giáo, các tầng lớp nhân dân ở trong nước và người Việt Nam định cư

ở nước ngoài [51, tr.116].

Thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng, nhằm phát huy sức mạnh toàn

dân tộc thực hiện mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công

nghiệp theo hướng hiện đại, Đảng đặc biệt chú trọng đến CTDV. Trong 5 năm

(2006-2010), Trung ương Đảng và Bộ Chính trị đã liên tiếp ra các Nghị quyết quan

trọng về CTVĐQC, đó là: Nghị quyết số 11-NQ/TW, ngày 27-4-2007 Về công tác

phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Nghị quyết số

20-NQ/TW, ngày 28-1-2008 Về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời

kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Nghị quyết số 25-NQ/TW,

ngày 25-7-2008 Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên

thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày

77

5-8-2008 Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 6-

8-2008 Về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện

đại hóa đất nước.

Ngày 08-12-2009, Bộ Chính trị ra Kết luận số 62-KL/TW Về tiếp tục đổi mới

nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể

chính trị - xã hội, đề ra 6 nhiệm vụ và giải pháp tiếp tục đổi mới nội dung, phương

thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị- xã hội

trong tình hình mới.

Nhằm nâng cao trách nhiệm lãnh đạo và thực hiện CTDV của các cấp ủy

đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, của mọi cán bộ, đảng viên,

đoàn viên, hội viên; đồng thời, xác định rõ cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, tổ

chức trong thực hiện CTDV, ngày 25-2-2010, Bộ Chính trị ra Quyết định số 290-

QĐ/TW Về việc ban hành Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị. Đây là

cơ sở rất quan trọng cho việc nâng cao hiệu quả CTDV trong toàn bộ HTCT, phát

huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong

tình hình mới.

Như vậy, trong những năm 2006-2010, chủ trương, quan điểm về CTDV của

Đảng được bổ sung và phát triển ngày càng sâu sắc và toàn diện hơn. Điều đó được

thể hiện ở những điểm chủ yếu sau:

Thứ nhất, Dân vận và CTDV là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với toàn

bộ sự nghiệp cách mạng nước ta, là điều kiện quan trọng bảo đảm cho sự lãnh đạo

của Đảng và củng cố, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với

nhân dân. Vì vậy, Đảng cần phải tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo CTDV nhằm giữ

vững ổn định chính trị - xã hội, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện

thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thứ hai, CTDV là nhiệm vụ của cả HTCT mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ

chức đảng, được thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức. Trong đó "các chủ

trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng

đầu" [51, tr.117]; "Mọi đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước

đều vì lợi ích của nhân dân, có sự tham gia ý kiến của nhân dân" [51, tr.125].

Thứ ba, các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể

nhân dân phải thường xuyên quan tâm làm tốt CTDV theo chức năng, nhiệm vụ

78

được giao. "Tổ chức và động viên nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu

nước, làm kinh tế giỏi, phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa - xã hội…

Chăm lo và bảo vệ lợi ích của các tầng lớp nhân dân, bảo đảm công bằng xã hội.

Tôn trọng và phát huy vai trò gương mẫu, dẫn dắt của những người tiêu biểu, có uy

tín trong cộng đồng dân cư, các dân tộc, các tôn giáo…" [51, tr.117]; "Các cấp ủy

đảng và chính quyền có chế độ tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với nhân dân; thường

xuyên lắng nghe ý kiến của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân phản ánh với Đảng,

Nhà nước những vấn đề mà nhân dân quan tâm, tham gia xây dựng chủ trương,

chính sách, pháp luật" [51, tr.124].

Thứ tư, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc đổi mới nội dung,

phương thức hoạt động của Mặt trận, các đoàn thể nhân dân và các hội quần chúng,

khắc phục tình trạng hành chính hóa, phô trương, hình thức của các tổ chức này;

làm tốt CTDV theo phong cách trọng dân, gần dân và có trách nhiệm với dân.

Thứ năm, thực hiện cơ chế phối hợp chặt chẽ, đồng bộ, thống nhất và có hiệu

quả giữa các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của

CTDV trong các tầng lớp nhân dân.

Quan điểm, chủ trương của Đảng về đẩy mạnh CTDV nêu trên, cùng với

những quan điểm chỉ đạo, nhiệm vụ, giải pháp mà Nghị quyết số 10-NQ/TW và Kết

luận số 148 của Bộ Chính trị (khóa IX) đã nêu, có giá trị định hướng chỉ đạo CTDV

trên địa bàn Tây Nguyên, góp phần đắc lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội và bảo

đảm quốc phòng, an ninh của vùng.

Để tăng cường hơn nữa vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của các Ban Chỉ đạo:

Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ, ngày 03-10-2007, Bộ Chính trị ban hành

Quy định số 89-QĐ/TW Về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức, bộ máy, địa

bàn hoạt động, quan hệ công tác, chế độ, chính sách cán bộ của các Ban Chỉ đạo:

Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ. Trong đó, xác định rõ 4 nhiệm vụ, quyền hạn

của các Ban Chỉ đạo:

- Chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc các bộ, ngành, địa phương triển khai thực

hiện nghị quyết, chỉ thị, quyết định của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Thủ

79

tướng Chính phủ về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc

phòng, công tác dân tộc, tôn giáo, xây dựng HTCT trên địa bàn.

- Nghiên cứu, tham mưu, đề xuất với Đảng và Chính phủ về cơ chế,

chính sách cùng các giải pháp cần chỉ đạo để thực hiện có hiệu quả

nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, công

tác dân tộc, tôn giáo, xây dựng HTCT trên địa bàn.

- Chỉ đạo và tổ chức phối hợp các lực lượng, cơ quan chức năng của

Trung ương và các địa phương đấu tranh ngăn chặn mọi âm mưu, hoạt

động chống phá của các thế lực thù địch; xử lý kịp thời những tình huống

đột xuất về an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, giữ vững ổn định

chính trị, xã hội trên địa bàn.

- Tổ chức sơ kết, tổng kết và định kỳ báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Thủ

tướng Chính phủ về thực hiện các nhiệm vụ công tác của Ban Chỉ đạo [9].

Về tổ chức bộ máy của các Ban Chỉ đạo: Bộ Chính trị phân công một đồng chí Ủy

viên Bộ Chính trị làm Trưởng Ban. Bộ phận chuyên trách Ban Chỉ đạo gồm Cơ quan

Thường trực và Văn phòng Ban Chỉ đạo. Trong đó, Cơ quan Thường trực Ban Chỉ đạo

gồm: Một đồng chí Ủy viên Trương ương Đảng làm Phó trưởng ban Thường trực; một số

đồng chí Phó trưởng ban chuyên trách và ủy viên chuyên trách. Cơ quan Thường trực có 4

Vụ tham mưu, giúp việc: Vụ Kinh tế - Xã hội, Vụ An ninh - Quốc phòng, Vụ Dân tộc -Tôn

giáo và Vụ Xây dựng HTCT.

Bộ phận kiêm nhiệm Ban Chỉ đạo gồm: Các đồng chí Bí thư Tỉnh ủy, Thành ủy hoặc

Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Tư lệnh Quân khu, Quân

đoàn trên địa bàn và đại diện lãnh đạo một số ban, bộ, ngành Trung ương: Bộ Công an, Bộ

Quốc phòng, Bộ Ngoại giao, Bộ Nội vụ (Ban Tôn giáo Chính phủ), Bộ Kế hoạch và Đầu tư,

Bộ Tài chính, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Giáo dục

và Đào tạo, Bộ Y tế, Ủy ban Dân tộc, Văn phòng Chính phủ, Ủy ban Kiểm tra Trung ương,

Ban Tổ chức Trung ương, Ban Dân vận Trung ương, Ban Tuyên giáo Trung ương. Khi cần

thiết, Ban Bí thư chỉ định bổ sung đại diện lãnh đạo một số bộ, ban, ngành Trung ương, địa

phương tham gia Ban Chỉ đạo. Các Ban Chỉ đạo chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chính trị,

Ban Bí thư, Thủ tướng Chính phủ; Ban Chỉ đạo làm việc theo nguyên tắc tập thể thảo luận,

80

Trưởng Ban kết luận và chỉ đạo thực hiện; Ban Chỉ đạo họp 6 tháng một lần và họp bất

thường khi cần thiết.

Về địa bàn hoạt động, theo Quy định: Ban Chỉ đạo Tây Nguyên hoạt động trên địa

bàn các tỉnh: Gia Lai, Kon Tum, Đắk Lắk, Lâm Đồng, Đắk Nông và các huyện miền núi của

các tỉnh: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Phước.

Để tham mưu, giúp việc cho Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, Cơ quan Thường trực Ban

Chỉ đạo không ngừng được kiện toàn, củng cố về tổ chức, bộ máy, cán bộ; từng bước đổi

mới cơ chế hoạt động; tích cực, chủ động xây dựng và triển khai các chương trình, kế hoạch

công tác hàng năm; từng bước chuyển công việc trọng tâm từ nắm tình hình là chính sang

nghiên cứu, đề xuất, tham mưu theo lĩnh vực, chuyên đề. Đặc biệt, sau khi có Quy định số

89-QĐ/TW của Bộ Chính trị, chức năng, nhiệm vụ, quan hệ phối hợp và địa bàn công tác

của Ban Chỉ đạo được xác định rõ hơn; tổ chức, bộ máy tiếp tục được tăng cường củng cố

đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.

Nhằm tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW của Bộ Chính trị trong

giai đoạn mới, ngày 05-02-2008, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số

25/2008/QĐ-TTg Về việc ban hành một số cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển kinh

tế - xã hội đối với các tỉnh vùng Tây Nguyên đến năm 2010. Quyết định nêu rõ:

Nhiệm vụ trọng tâm hiện nay của các tỉnh Tây Nguyên là củng cố chính

quyền cơ sở. Các tỉnh cần củng cố, kiện toàn hệ thống chính trị từ buôn,

làng theo hướng tự quản. Đổi mới nội dung, nâng cao chất lượng hoạt

động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp xã. Kết hợp chặt

chẽ việc xây dựng, củng cố chính quyền cơ sở với cải cách hành chính,

thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Đổi mới nội dung và phương thức

hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội cho sát dân hơn [114].

Với những chủ trương, quan điểm chỉ đạo nói trên, CTDV của Đảng ở Tây

Nguyên cần được đẩy mạnh theo hướng:

- Mục tiêu công tác dân vận của Đảng ở Tây Nguyên: Tiếp tục giữ vững ổn

định chính trị - xã hội; phát triển kinh tế - xã hội, không ngừng nâng cao đời sống

cho nhân dân, củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc; chủ động đập

tan mọi âm mưu nhen nhóm, phục hồi tổ chức FULRO bên trong, ngăn chặn có hiệu

81

quả âm mưu của các thế lực thù địch và bọn phản động bên ngoài, không để xảy ra

biểu tình, bạo loạn và vượt biên trái phép; không ngừng xây dựng HTCT cơ sở

vững mạnh, đủ sức tổ chức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của địa phương.

- Phương châm công tác dân vận: Không ngừng đổi mới nội dung, phương

thức, nâng cao chất lượng và hiệu quả của CTDV sát với yêu cầu của thực tế.

Hướng mạnh về cơ sở, lấy thôn, buôn, khu dân cư và hộ gia đình làm địa bàn vận

động; phát triển đảng viên, đoàn viên, hội viên và những người có uy tín trong cộng

đồng làm nòng cốt để đoàn kết, tập hợp quần chúng; đặc biệt phải chú ý vận động

lực lượng phụ nữ, thanh niên, đồng bào DTTS tại chỗ, đồng bào các tôn giáo. Khẩu

hiệu hành động là "gần dân, hiểu dân, nghe dân nói, nói dân hiểu và làm dân tin,

giúp cho dân vươn lên no ấm và tiến bộ".

- Nhiệm vụ và giải pháp đẩy mạnh công tác dân vận:

Thứ nhất, tăng cường công tác chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra, sơ kết, tổng kết

của các ban, bộ, ngành Trung ương và các tỉnh Tây Nguyên để thúc đẩy thực hiện

tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với vùng Tây Nguyên,

trong đó có chủ trương về CTDV. Các ngành, các cấp cần đẩy mạnh công tác tuyên

truyền, vận động đồng bào các dân tộc tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chủ

trương, chính sách về phát triển kinh tế - xã hội, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về tổ

chức sản xuất, giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, phát triển giáo dục, y tế,

văn hóa cho các buôn, làng vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào DTTS.

Thứ hai, công tác dân vận trên địa bàn Tây Nguyên trong tình hình mới phải

bám sát các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước;

đồng thời, đề ra được những nội dung, hình thức, phương pháp CTDV một cách

linh hoạt, sáng tạo và phù hợp với thực tế Tây Nguyên.

Thứ ba, thực hiện đồng bộ các biện pháp bảo đảm an ninh chính trị, nắm

chắc tình hình an ninh, tôn giáo, dân tộc; tăng cường tuyên truyền, giáo dục chính

trị, tư tưởng và pháp luật cho đồng bào; chủ động phát hiện, xử lý kịp thời các hoạt

động nhen nhóm, hình thành tổ chức, móc nối hoạt động của bọn FULRO; kiên

quyết không để xảy ra biểu tình, bạo loạn, vượt biên ồ ạt, không để bị động, bất

ngờ; tập trung chỉ đạo giải quyết kịp thời các khiếu kiện, mâu thuẫn giữa đồng bào

DTTS với các nông, lâm trường... không để xảy ra xung đột, điểm nóng.

82

Thứ tư, tiếp tục quán triệt Thông báo 160-TB/TW của Ban Bí thư và Chỉ thị

số 01/2005/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ Về một số chủ trương công tác đối

với đạo Tin lành, làm cho cả HTCT nhận thức đầy đủ hơn việc giải quyết, tạo điều

kiện thuận lợi cho các tôn giáo nói chung và đạo Tin lành nói riêng hoạt động đúng

tôn chỉ và mục đích của tôn giáo. Tập trung giải quyết những vấn đề liên quan đến

hoạt động tôn giáo sau đăng ký; làm tốt công tác vận động chức sắc, tín đồ; giải

quyết các tranh chấp, khiếu nại liên quan đến tôn giáo; kiên quyết xử lý số đối

tượng lợi dụng tôn giáo hoạt động trái pháp luật, xâm phạm an ninh quốc gia.

Thứ năm, tập trung chỉ đạo củng cố HTCT cơ sở, nhất là xây dựng tổ chức

đảng và phát triển đảng viên; phấn đấu khắc phục tình trạng buôn, thôn "trắng"

đảng viên và tổ chức cơ sở đảng; tiếp tục tăng cường cán bộ về cơ sở; chú trọng

việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cơ sở, nhất là cán bộ người DTTS.

Thứ sáu, nâng cao trách nhiệm, tổ chức phối hợp chặt chẽ, đồng bộ và thống

nhất giữa các ban, bộ, ngành Trung ương và các tỉnh Tây Nguyên trong việc thực

hiện các nhiệm vụ CTDV trên địa bàn. Xây dựng cơ chế phối hợp thực hiện CTDV

giữa các bộ, ban, ngành ở Trung ương và địa phương; cơ chế phối hợp giữa Mặt

trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội với chính quyền và lực lượng vũ trang

trên địa bàn với những nội dung cụ thể, thiết thực, hiệu quả.

Tổng quát lại, chủ trương và quan điểm chỉ đạo của Đảng nêu trên là cơ sở

thúc đẩy CTDV ở Tây Nguyên có những bước phát triển trong giai đoạn mới.

3.2. QUÁ TRÌNH CHỈ ĐẠO ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA

ĐẢNG Ở TÂY NGUYÊN TỪ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2010

Quán triệt quan điểm, chủ trương của Đảng về đẩy mạnh CTDV trên địa bàn

Tây Nguyên trong tình hình mới, việc triển khai thực hiện CTDV ở Tây Nguyên từ

năm 2006 đến năm 2010 được thể hiện trên những lĩnh vực chủ yếu sau:

3.2.1. Vận động nhân dân đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội

Trong giai đoạn 2006-2010, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ tiếp tục ban

hành các nghị quyết, quyết định về phát triển kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc, miền

núi nói chung và vùng Tây Nguyên nói riêng, đó là: Quyết định số 07/2006/QĐ-

TTg, ngày 10-1-2006 của Thủ tướng Chính phủ Về phê duyệt Chương trình Phát

triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi

83

giai đoạn 2006-2010; Quyết định số 30/2007/QĐ-TTg, ngày 05-3-2007 của Thủ

tướng Chính phủ Về ban hành Danh mục các đơn vị hành chính thuộc vùng khó

khăn; Quyết định số 166/QĐ-TTg, ngày 30-10-2007 của Thủ tướng Chính phủ Về

việc ban hành chính sách hỗ trợ đầu tư và hưởng lợi đối với hộ gia đình, cộng đồng

dân cư thôn và các tổ chức tham gia dự án "Phát triển lâm nghiệp để cải thiện đời

sống vùng Tây Nguyên"; Quyết định số 25/2008/QĐ-TTg, ngày 05-2-2008 của Thủ

tướng Chính phủ Về việc ban hành một số cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển kinh

tế - xã hội đối với các tỉnh vùng Tây Nguyên đến năm 2010; Quyết định số

69/2008/QĐ-TTg, ngày 28-5-2008 của Thủ tướng Chính phủ Về việc phê duyệt bổ

sung danh sách xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu vào diện đầu tư

Chương trình 135 giai đoạn II và danh sách xã ra khỏi diện đầu tư của Chương

trình 135 giai đoạn II. Đối với 5 tỉnh Tây Nguyên, có 19 huyện, 27 xã nằm trong

chương trình (Phụ lục 9); Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP, ngày 27-12-2008 của

Chính phủ Về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện

nghèo. Đối với Tây Nguyên, hai tỉnh Kon Tum, Lâm Đồng (gồm có 03 huyện) nằm

trong chương trình (Phụ lục 8).

Quán triệt chủ trương của Trung ương, cấp ủy, chính quyền các tỉnh Tây

Nguyên đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách, giải pháp đặc thù để phát triển kinh

tế - xã hội vùng đồng bào DTTS; huy động nguồn lực từ các dự án, chương trình

mục tiêu quốc gia để đầu tư phát triển sản xuất, xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời

sống cho đồng bào. Tỉnh ủy Kon Tum ra Chỉ thị số 03-CT/TU, ngày 22-9-2006 Về

tăng cường chỉ đạo công tác vận động quần chúng tham gia bảo vệ an ninh biên

giới và phát triển kinh tế - xã hội ở các huyện, các xã biên giới; Nghị quyết số 04-

NQ/TU, ngày 14-06-2007 Về đẩy mạnh xây dựng các xã đặc biệt khó khăn; Tỉnh ủy

Lâm Đồng ra Nghị quyết số 09-NQ/TU, ngày 31-10-2006 Về tập trung nguồn lực

tiếp tục đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh vùng dân

tộc thiểu số giai đoạn 2006-2010; Tỉnh ủy Đắk Lắk ban hành Chương trình số 09-

CTr/TU, ngày 07-11-2006 Về giảm nghèo giai đoạn 2006-2010; Tỉnh ủy Gia Lai ra

Nghị quyết số 08-NQ/TU, ngày 8-3-2007 Về việc tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động

xóa đói, giảm nghèo, định canh định cư giai đoạn 2007-2010 và định hướng đến

84

năm 2020; Tỉnh ủy Đắk Nông ra Nghị quyết số 13-NQ/TU, ngày 5-7-2007 Về giảm

nghèo giai đoạn 2007- 2010 và phương hướng, nhiệm vụ 2011-2015…

Thực hiện các chỉ thị, nghị quyết trên, các tỉnh Tây Nguyên đã tập trung các

nguồn lực đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội ở các xã, buôn làng vùng sâu, vùng

xa, vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào DTTS nhằm nhanh chóng xóa bỏ những

nghèo nàn, lạc hậu; không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân ở những nơi này.

Tại tỉnh Kom Tum, thực hiện chủ trương: "Tập trung xây dựng các xã, thôn,

làng đặc biệt khó khăn thành cộng đồng phát triển kinh tế bền vững, đoàn kết, có

cuộc sống no đủ, vững mạnh, an toàn; sớm giảm khoảng cách chênh lệch phát triển

giữa các xã đặc biệt khó khăn với vùng thị trấn, thị xã" [98], Ban Thường vụ Tỉnh

ủy đã củng cố, kiện toàn Ban Chỉ đạo thực hiện Nghị quyết số 04-NQ/TU Về đẩy

mạnh xây dựng các xã đặc biệt khó khăn, theo hướng chuyên sâu, thực hiện tốt việc

nghiên cứu, đề xuất, tham mưu cho Ban Thường vụ Tỉnh ủy trong chỉ đạo, hướng

dẫn, kiểm tra việc tổ chức thực hiện các chủ trương, cơ chế, chính sách đối với các

xã đặc biệt khó khăn trên địa bàn tỉnh; đã rà soát, phân công lại 67 cơ quan, đơn vị

kết nghĩa với 52 xã (trong đó 12/14 xã trọng điểm đặc biệt khó khăn được phân

công mỗi xã 2 cơ quan, đơn vị kết nghĩa); thành lập đoàn kiểm tra, giám sát ở 3 xã,

3 huyện và 4 cấp ủy, chi bộ; tổ chức tập huấn cho 120 cán bộ của các cơ quan, đơn

vị kết nghĩa xây dựng xã về các chương trình, dự án, chính sách của Chính phủ, của

tỉnh đối với các xã đặc biệt khó khăn. Các cơ quan, đơn vị của tỉnh được phân công

kết nghĩa, xây dựng xã đã kiện toàn các tổ, đội công tác giúp xã; chủ động xây dựng

chương trình, kế hoạch tổ chức triển khai thực hiện; có 41 cơ quan, đơn vị bố trí cán

bộ chuyên trách để giúp xã, thôn. Các cơ quan, đơn vị đã bám sát các chỉ tiêu, kế

hoạch của huyện giao và tình hình thực tế của xã để giúp xã xây dựng kế hoạch và

tổ chức thực hiện; giúp xã thực hiện việc lồng ghép các chương trình, dự án, chính

sách đối với đồng bào DTTS như: Chương trình 135 giai đoạn II, dự án giảm nghèo

Miền Trung, dự án vay vốn, hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi cho các hộ phát triển

sản xuất… Kết quả, "đến năm 2009, có 90 thôn, làng được công nhận đạt chuẩn no

đủ, vững mạnh, an toàn; trong đó, các cơ quan, đơn vị đã giúp xã xây dựng 65 thôn,

làng ở 50 xã" [99].

85

Tại tỉnh Đắk Lắk, thực hiện Nghị quyết số 04-NQ/TU, ngày 17-11-2004 của

Tỉnh ủy Về phát triển kinh tế - xã hội buôn, thôn đồng bào dân tộc thiểu số đến năm

2010, tỉnh đã triển khai thực hiện thí điểm tại 13 buôn của 13 huyện, thành phố, với

tổng số vốn đầu tư 6,5 tỷ đồng (mỗi buôn 500 triệu đồng) để xây dựng mô hình chăn

nuôi bò theo hộ hoặc nhóm hộ, nuôi cá, trồng cỏ chăn nuôi, trồng cây công nghiệp,

cây ăn quả giống mới, cải tạo vườn tạp… Đồng thời, cử cán bộ hướng dẫn kỹ thuật

trồng trọt, chăn nuôi cho các hộ gia đình nhằm đảm bảo các mô hình mang lại hiệu

quả kinh tế. Ngoài ra, việc đầu tư giải quyết đất ở, nhà ở, đất sản xuất và nước sinh

hoạt cho đồng bào DTTS theo Quyết định số 134/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ

được tỉnh triển khai tích cực và có hiệu quả, tạo cơ sở ổn định cuộc sống cho đồng

bào DTTS tại chỗ, góp phần quan trọng vào công tác xóa đói giảm nghèo, đảm bảo

an ninh trật tự buôn, thôn; củng cố lòng tin của đồng bào DTTS đối với Đảng và Nhà

nước. "Tổng kinh phí được huy động là 385,5 tỷ đồng, trong đó ngân sách Trung

ương hỗ trợ 124 tỷ đồng, ngân sách tỉnh 252,4 tỷ đồng, các nguồn vốn khác 9,1 tỷ

đồng. Kết quả thực hiện đến năm 2010 đã hoàn thành 100% kế hoạch đề ra" [92].

Ở tỉnh Đắk Nông, ngoài các chính sách chung của Trung ương, tỉnh còn có

các chủ trương và giải pháp đặc biệt để hỗ trợ phát triển vùng đồng bào DTTS như:

Chương trình phát triển bền vững 12 bon, buôn; chương trình kết nghĩa giữa các cơ

quan, đơn vị với bon, buôn; chính sách hỗ trợ kinh phí cho học sinh, sinh viên

người DTTS… Bằng nhiều nguồn vốn, "tỉnh đã đầu tư trên 550 tỷ đồng để giải

quyết các vấn đề kinh tế - xã hội ở vùng đồng bào DTTS" [49, tr.30]. Qua đó, tinh

thần đoàn kết các dân tộc ngày càng cao trong việc giúp nhau xóa đói giảm nghèo,

góp phần giữ vững ổn định chính trị và phát triển kinh tế; đời sống vật chất và tinh

thần của đồng bào DTTS tại chỗ từng bước nâng cao, hạn chế tình trạng du canh, du

cư, phá rừng làm nương rẫy.

Công tác xóa đói giảm nghèo trên địa bàn được triển khai rộng khắp, huy

động có hiệu quả sức mạnh tổng hợp của cả HTCT và các nguồn lực vì mục tiêu

giảm nghèo. Đã xuất hiện nhiều mô hình, cách làm hay, đem lại hiệu quả thiết thực

trong công tác xóa đói giảm nghèo. Tiêu biểu là mô hình "Phân công giúp hộ

nghèo" ở huyện Đắk Đoa, tỉnh Gia Lai; cụ thể là: Sau khi tiến hành khảo sát, tìm ra

86

nguyên nhân nghèo, nhu cầu chính đáng và thiết thực của các hộ nghèo, Ban

Thường vụ Huyện ủy Đắk Đoa triển khai thực hiện kế hoạch, phân công trách

nhiệm cho từng cá nhân giúp hộ nghèo theo tinh thần mỗi huyện ủy viên, trưởng các

phòng, ban, ngành, đoàn thể cấp huyện và thủ trưởng các cơ quan, đơn vị đóng trên

địa bàn huyện đăng ký giúp 5 hộ nghèo; mỗi cấp ủy tổ chức cơ sở đảng đăng ký

giúp 10 hộ nghèo. Đến năm 2010, có 52 cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện và 44

cấp ủy tổ chức cơ sở đảng đăng ký giúp đỡ 648 hộ nghèo (trong đó có 556 hộ

đồng bào DTTS, chiếm 85,8% số hộ được giúp đỡ). Với phương châm ba cùng:

"cùng ăn, cùng ở, cùng làm" và tinh thần "gần dân, trọng dân, tin dân, có trách

nhiệm với dân", các cán bộ được phân công đã tiếp cận hộ nghèo và có những biện

pháp hỗ trợ thiết thực, có hiệu quả như: Tư vấn cho các hộ nghèo về cách thức sản

xuất phù hợp, chuyển đổi cây trồng, vật nuôi, áp dụng khoa học - kỹ thuật trong

sản xuất và cuộc sống; hướng dẫn, tư vấn vay vốn đầu tư sản xuất và tiếp cận với

các dự án hỗ trợ của Chính phủ; góp ý về chi tiêu trong gia đình một cách hợp lý,

tiết kiệm để đầu tư mở rộng sản xuất; vận động đồng bào ăn chín, uống sôi, ốm

đau phải đến trạm y tế xã và thực hiện nếp sống văn hóa mới… Kết quả, đến năm

2010, có 378 hộ đã thật sự thoát nghèo, đạt 58,3% tổng số hộ được khảo sát vào

đầu năm 2009. Sau khi đã thoát nghèo, Huyện ủy tiếp tục chỉ đạo các tổ chức cơ

sở đảng, các cá nhân được phân công có kế hoạch giúp các hộ thoát nghèo bền

vững, tránh tái nghèo.

Mô hình không những giúp các hộ nghèo xóa bỏ tự ti, mặc cảm, tư tưởng

trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước, sự hỗ trợ của xã hội để vươn lên thoát

nghèo và làm giàu chính đáng, mà còn giúp cán bộ, đảng viên gần dân,

hiểu dân hơn, nắm rõ tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân,

đặc biệt là tầng lớp lao động nghèo, phát huy tính tự lực tự cường của

nhân dân… tạo được sự đồng thuận cao trong xã hội, nhân dân phấn

khởi, hăng hái thi đua lao động sản xuất [35, tr.23].

Kết quả, trên toàn vùng Tây Nguyên, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh: "Giai đoạn

2006-2010, xóa gần 111 nghìn hộ nghèo, giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 22,85% xuống

10,34%, bình quân giảm 3,16%/năm (theo chuẩn năm 2005); riêng vùng DTTS

giảm từ 47,8% xuống 19,9% và cơ bản giải quyết được tình trạng thiếu đói" [24];

87

(Phụ lục 7). Riêng tỉnh Đắk Lắk, trong 5 năm (2005-2010) đã giảm được 50.747 hộ

nghèo, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 27,55% năm 2005 xuống còn dưới 10% cuối năm

2010, bình quân mỗi năm giảm trên 10.149 hộ nghèo, tỷ lệ hộ nghèo giảm

3,5%/năm, thu nhập của nhóm hộ nghèo từ 154.600 đồng/người/tháng năm 2005

tăng lên 388.200 đồng/người/tháng năm 2010 (tăng 2,51 lần), tỷ lệ hộ nghèo DTTS

giảm từ 48,26% năm 2005 xuống còn 21% năm 2010 [119].

Công tác định canh định cư tiếp tục được triển khai gắn với việc tổ chức lại

sản xuất và ổn định dân cư trong vùng đồng bào DTTS.

Đến năm 2010, có trên 87% số hộ đã định canh định cư. Chương trình

132, 134 về giải quyết đất ở, đất sản xuất, nhà ở, nước sinh hoạt cho

đồng bào DTTS được triển khai thực hiện quyết liệt, đã giải quyết được

639 ha đất ở cho 15.470 hộ và 29.200 ha đất sản xuất cho hơn 56.000 hộ.

Riêng chương trình 134 đã làm mới, sửa chữa 58.249 căn nhà, cấp nước

sinh hoạt cho 78.000 hộ, giải quyết 5.726 ha đất sản xuất cho 16.934 hộ.

Đã thí điểm giao khoán 116.470 ha rừng cho 7.320 hộ thiếu đất sản xuất

[24] (Phụ lục 10).

Công tác xây dựng đời sống văn hóa, phát huy giá trị văn hóa truyền thống,

loại bỏ hủ tục, hình thành nếp sống văn minh, gia đình văn hóa được các cấp, các

ngành quan tâm chỉ đạo thực hiện. Đến năm 2010, các tỉnh Tây Nguyên đã xây dựng

1.353 nhà sinh hoạt văn hóa cộng đồng, 733 nhà rông văn hóa. Nhà nước đã đầu tư

hàng chục tỷ đồng nghiên cứu, sưu tầm văn học dân gian; phục hồi di sản văn hóa

cồng chiêng, tổ chức biên soạn luật tục của các dân tộc; khuyến khích bảo tồn các

buôn làng cổ truyền, phát triển nghề thủ công và khôi phục các lễ hội văn hóa.

Tuy đã đạt được những thành tựu quan trọng, nhưng kinh tế - xã hội trong

vùng DTTS Tây Nguyên vẫn còn nhiều vấn đề nan giải: Việc tổ chức lại sản xuất

còn trong tình trạng manh mún, chuyển đổi tập quán từ tự túc tự cấp sang sản xuất

hàng hóa chậm, chưa thực hiện có kết quả chính sách giao đất, giao rừng cho cộng

đồng DTTS tại chỗ; kết quả giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo chưa vững

chắc, tình trạng tái nghèo, cận nghèo còn cao. Đến năm 2010, "số hộ nghèo toàn

vùng là 262.880 hộ, chiếm tỷ lệ 22,48%; tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào DTTS là

45% và tỷ lệ hộ cận nghèo 7,51%" [24].

88

3.2.2. Vận động quần chúng giải quyết vấn đề FULRO

Những năm 2006 - 2010, tình hình an ninh chính trị ở Tây nguyên vẫn diễn

biến phức tạp, tiềm ẩn những nguy cơ không thể xem thường và thực tế đã xảy ra

cuộc biểu tình, gây rối vào tháng 4-2008 trên một số địa bàn ở 3 tỉnh Gia Lai, Đắk

Lắk, Phú Yên. Cuộc bạo loạn xảy ra từ ngày 11 đến ngày 14-4-2008, đã lôi kéo

1.028 người DTTS ở 35 buôn làng của 19 xã thuộc 9 huyện tham gia (Gia Lai: 8 vụ,

có 880 người tham gia ở 28 làng của 15 xã, 6 huyện; Đắk Lắk: 2 vụ, có 103 người

tham gia ở 6 làng, 3 xã, 2 huyện; Phú Yên: 01 vụ với 45 người tham gia ở 01 làng).

Các cuộc biểu tình, gây rối đều có sự chỉ đạo trực tiếp của bọn FULRO lưu vong

đối với các đối tượng cốt cán FULRO bên trong, kích động thân nhân của những

người bị bắt hoặc đang thi hành án ở từng buôn làng tham gia biểu tình. Phần lớn

các vụ biểu tình lần này diễn ra dưới hình thức bất bạo động với quy mô nhỏ lẻ ở

phạm vi từng buôn làng; nhiều vụ có sự chỉ đạo, tổ chức, chuẩn bị trước về lực

lượng, cách thức tiến hành, băng rôn, truyền đơn, khẩu hiệu. Khẩu hiệu và yêu sách

của những người biểu tình mang nội dung chính trị rõ nét: Đòi thả những người

DTTS đang bị tù, bị bắt; đòi trả lại đất đai của người "Đê Ga"; đòi tự do, bình đẳng

cho người "Đê Ga" và người dân tộc có tôn giáo riêng…

So với các cuộc bạo loạn năm 2001, 2004, lần này các lực lượng chức năng

đã phát hiện sớm ý đồ chỉ đạo biểu tình của FULRO lưu vong và có kế hoạch chủ

động phòng, chống ở những địa bàn trọng điểm. Tuy nhiên, vẫn để xảy ra biểu tình

ở nhiều địa bàn, lôi kéo trên 1.000 người DTTS tham gia. Sở dĩ còn tình hình trên là

do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, nhưng nguyên nhân chủ yếu là do:

Vấn đề FULRO ở Tây Nguyên chưa được giải quyết một cách triệt để; trong khi đó,

HTCT cơ sở nhiều nơi năng lực hoạt động còn yếu, chưa nắm chắc dân, nắm chắc

tình hình ở từng buôn làng để chủ động giải quyết kịp thời những vấn đề xảy ra ở cơ

sở, nhất là đấu tranh ngăn chặn, xử lý ngay từ đầu những âm mưu, hoạt động của

bọn FULRO.

Trước tình hình đó, ngày 12-5-2008, tại thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai,

Thường trực Ban Chỉ đạo Tây Nguyên đã tổ chức Hội nghị rút kinh nghiệm về giải

quyết các vụ biểu tình đã xảy ra. Hội nghị nêu rõ quan điểm chỉ đạo: "Vấn đề

89

FULRO ở Tây Nguyên là vấn đề chính trị, gắn với quần chúng dân tộc. Do đó, cần

coi trọng CTVĐQC, nâng cao nhận thức về chính trị, tư tưởng, chống âm mưu chia

rẽ Kinh - Thượng, Lương - Giáo nhằm xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc;

đồng thời, gắn với việc răn đe, xử lý bằng pháp luật những đối tượng gây chia rẽ

làm mất ổn định" [19]. Trên cơ sở đó, Hội nghị đề ra 5 nhiệm vụ cấp bách để giải

quyết vấn đề FULRO ở Tây Nguyên:

- Nâng cao hiệu quả của công tác nắm tình hình, tổ chức phòng, chống

biểu tình, bạo loạn, vượt biên và đấu tranh xóa bỏ FULRO.

- Tập trung chỉ đạo một cách tích cực, quyết liệt và có hiệu quả để phát

triển sản xuất, cải thiện đời sống vùng đồng bào DTTS.

- Tiếp tục thực hiện tốt chính sách tôn giáo và công tác tôn giáo, gắn với

đấu tranh xóa bỏ hoàn toàn "Tin lành Đê Ga".

- Kiện toàn, củng cố lại thực lực và HTCT cơ sở, nhất là ở những địa bàn

trọng điểm.

- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền đối ngoại, làm cho các nước hiểu đầy

đủ về tình hình Tây Nguyên [19].

Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại văn bản số

835/VPCP-NC (22-8-2008), ngày 13-10-2008, tại thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh

Đắk Lắk, Thường trực Ban Chỉ đạo Tây Nguyên đã chủ trì phối hợp với Ban Dân

vận Trung ương, Ban Tổ chức Trung ương, Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức

Hội nghị bàn về công tác tư tưởng, vận động quần chúng, nâng cao năng lực của

HTCT cơ sở nhằm chủ động giải quyết vấn đề FULRO vùng Tây Nguyên. Hội nghị

đã kết luận một số vấn đề cần tập trung chỉ đạo về nội dung tuyên truyền, vận động

quần chúng và nâng cao năng lực hoạt động của HTCT cơ sở nhằm giải quyết một

cách căn bản vấn đề FULRO ở Tây Nguyên:

Thứ nhất, nâng cao nhận thức của quần chúng trên cơ sở xây dựng nội

dung tuyên truyền sát với từng đối tượng về âm mưu, thủ đoạn của bọn

FULRO; về đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước…

Thứ hai, tăng cường hơn nữa CTVĐQC, đáp ứng yêu cầu của tình hình

mới theo hướng sâu sát cơ sở, sát quần chúng với phương châm: "Nghe

90

dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin"; "Đảng tin dân, dân tin Đảng"…Tăng

cường các hoạt động kết nghĩa, giúp đỡ giữa các cơ quan, đơn vị với các

buôn, làng đồng bào DTTS một cách thực chất và có hiệu quả hơn.

Thứ ba, tập trung chỉ đạo kiện toàn và nâng cao chất lượng, hiệu quả

hoạt động của HTCT cơ sở… Tăng cường phối hợp các lực lượng trên

địa bàn, thống nhất lãnh đạo, chỉ đạo gắn với phân công trách nhiệm cụ

thể, tạo sức mạnh tổng hợp để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ [21].

Tiếp theo, ngày 24-6-2009, tại thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, Ban

Chỉ đạo Tây Nguyên phối hợp với Tổng cục An ninh (Bộ Công an) tổ chức Hội

nghị công tác quần chúng giải quyết vấn đề FULRO, trong đó, tập trung bàn về

công tác quản lý, giáo dục, cảm hóa đối tượng liên quan đến hoạt động FULRO tại

cộng đồng và đấu tranh giải quyết "Tin lành Đê Ga". Hội nghị kết luận:

Cốt lõi của công tác quản lý, giáo dục, cảm hóa đối tượng và đấu tranh

giải quyết "Tin lành Đê Ga" là công tác quần chúng... Đây vừa là nhiệm

vụ cấp bách, vừa cơ bản, lâu dài, có ý nghĩa quan trọng trong việc phát

huy vai trò, sức mạnh của quần chúng nhân dân tham gia giải quyết vấn

đề FULRO ở Tây Nguyên. Đẩy mạnh công tác giáo dục, vận động cá

biệt, giáo dục tập trung; chú trọng mô hình tổ chức quản lý, giáo dục

đối tượng theo gia đình, dòng họ. Phát huy vai trò của già làng, chức

sắc, người có uy tín trong đồng bào DTTS; dựa vào phong tục tập quán

của đồng bào để quản lý, giáo dục đối tượng, giúp họ hòa nhập cộng

đồng [22].

Để thực hiện các chủ trương, giải pháp nêu trên, cấp ủy, Ban Tuyên giáo các

cấp đã chỉ đạo các lực lượng làm công tác tư tưởng, nhất là các phương tiện thông

tin đại chúng, tuyên truyền miệng làm tốt công tác đấu tranh tư tưởng, phản bác các

luận điệu xuyên tạc lịch sử, sự thật về quan hệ giữa các dân tộc ở Tây Nguyên.

Ban Tuyên giáo các tỉnh ở Tây Nguyên đã biên soạn tài liệu tuyên

truyền, phản bác cái gọi là "Nhà nước Đê Ga" và một số tài liệu khác,

cung cấp, bồi dưỡng cho các đoàn công tác để tuyên truyền, giải thích

cho đồng bào, đấu tranh bác bỏ các luận điệu phản động của địch. Thực

91

hiện "xây" đi đôi với "chống", trong đó lấy "xây" làm chính. Thường

xuyên đẩy mạnh tuyên truyền, quảng bá những thành tựu đổi mới ở Tây

Nguyên… Làm nổi bật hình ảnh Tây Nguyên tươi đẹp, giàu tiềm năng,

lợi thế, các dân tộc đoàn kết phấn đấu xây dựng Tây Nguyên giàu mạnh

[109, tr.117-118].

Ban Dân vận Tỉnh ủy các tỉnh Tây Nguyên đẩy mạnh tổ chức nhiều đợt phát

động quần chúng, vận động các tầng lớp nhân dân đoàn kết phát triển kinh tế - xã

hội, xóa đói giảm nghèo, vận động đồng bào không nghe theo luận điệu tuyên

truyền của kẻ xấu, đẩy lùi âm mưu "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch.

Tại tỉnh Gia Lai, thực hiện Thông báo số 768-TB/TU, ngày 11-8-2008 của Bí thư

Tỉnh ủy Về công tác phòng chống biểu tình, bạo loạn, Ban Dân vận Tỉnh ủy đã phối

hợp với các ban, ngành liên quan làm tốt công tác nắm tình hình, phân tích thông

tin, nhận định, đánh giá tính chất, quy mô, âm mưu, thủ đoạn của địch, nắm nguyện

vọng quần chúng nhân dân để tham mưu Tỉnh ủy có chủ trương, giải pháp phù hợp.

Đồng thời, tiếp tục thực hiện chủ trương phân công các sở, ngành phụ trách xã, thôn

buôn trọng điểm, tăng cường bám dân, phát động quần chúng ở các địa bàn khó

khăn, phức tạp.

Tỉnh ủy Gia Lai đã ban hành Quyết định số 184-QĐ/TU, thành lập 7 Đội

CTVĐQC với thành phần từ cấp Phó các sở, ban, ngành cấp tỉnh xuống

các địa bàn phức tạp để kịp thời giúp cơ sở củng cố thực lực chính trị,

tham gia trực tiếp phòng chống biểu tình, bạo loạn và xây dựng khu vực

phòng thủ ở cơ sở. Đồng thời, ra công văn hướng dẫn hệ thống dân vận

các huyện, thị, thành ủy và các lực lượng làm CTDV tăng cường lực

lượng xuống cơ sở, nắm diễn biến tình hình, tham mưu cấp ủy, chính

quyền đẩy mạnh CTVĐQC góp phần đảm bảo an ninh chính trị, trật tự

xã hội trên địa bàn [2, tr.386-387].

Tại tỉnh Đắk Lắk, Đội CTPĐQC chuyên trách được tiếp tục duy trì, thường

xuyên củng cố và tăng cường từ tỉnh đến cơ sở. Hoạt động của các Đội công tác

ngày càng gắn với cơ sở, cùng với tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận, đoàn thể

xã, thôn buôn thực hiện CTDV, mang lại những hiệu quả thiết thực. "Đến năm

92

2010, toàn tỉnh có 115 Đội CTPĐQC chuyên trách cơ sở hoạt động tại 115/184 xã,

phường, thị trấn; 15 Đội CTPĐQC chuyên trách cấp huyện, thị, thành phố và 01

Đội CTPĐQC của tỉnh được kiện toàn đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng và

hoạt động có hiệu quả" [90].

Từ năm 2005 đến năm 2009, hệ thống Dân vận, Đội công tác của huyện,

cơ sở đã tổ chức phát động quần chúng trên 9.000 buổi ở tất cả các thôn,

buôn, với 1.230.000 lượt người tham dự. Qua công tác bám buôn, nắm

tình hình, Đội công tác các cấp đã nắm được 450 nguồn tin, trong đó có

nhiều nguồn tin có giá trị, giúp cho các cơ quan chức năng kịp thời đấu

tranh ngăn chặn hoạt động phá hoại của FULRO và bọn phản động.

Đồng thời, Đội công tác đã tham gia đấu tranh bóc gỡ 65 cơ sở ngầm của

FULRO trong buôn; cảm hóa, giáo dục trên 150 đối tượng có quá khứ

lầm lỡ trở thành người tốt; Đội công tác chuyên trách các cấp đã phối

hợp với cấp ủy, chính quyền, Mặt trận, các đoàn thể và các ngành chức

năng tổ chức đưa 110 đối tượng vượt biên không thành ra kiểm điểm

trước dân [26].

Tại tỉnh Đắk Nông, nhằm đáp ứng yêu cầu CTVĐQC trong giai đoạn mới,

tháng 5-2007, Ban Dân vận Tỉnh ủy đã xây dựng Đề án 233-ĐA/BDV Về việc

thành lập Đội công tác vận động quần chúng xây dựng cơ sở giai đoạn 2007-2010;

đồng thời, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Quyết định số 465-QĐ/TU, ngày

28-9-2007 Về việc phê duyệt Đề án thành lập Đội CTVĐQC xây dựng cơ sở. Thực

hiện Quyết định trên, tỉnh Đắk Nông "đã thành lập được 22 Đội CTVĐQC xây

dựng cơ sở với tổng số 97 thành viên (49 thành viên là đảng viên, chiếm 50,5%; 78

thành viên là người DTTS, chiếm 80,04%), ở 22 xã, phường, thị trấn, thuộc 8

huyện, thị xã" [27]. Đội trưởng các Đội công tác là Phó Bí thư Đảng ủy xã, phường,

thị trấn; thành viên Đội công tác gồm: cán bộ chính quyền, đoàn thể cơ sở, già làng,

trưởng thôn, buôn và những người có uy tín trong vùng đồng bào DTTS, vùng tôn

giáo. Với phương thức hoạt động bám dân, bám địa bàn, các Đội công tác đã thực

hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao, tích cực phối hợp với các ban, ngành, Mặt

trận, các đoàn thể và các lực lượng vũ trang tập trung tuyên truyền chủ trương,

93

chính sách của Đảng và Nhà nước đến các tầng lớp nhân dân, nhất là chính sách dân

tộc, chính sách tôn giáo; phát hiện và đấu tranh với những phần tử phản động lôi

kéo, kích động đồng bào chống phá cách mạng; tham gia củng cố, xây dựng HTCT

cơ sở; góp phần thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh

quốc phòng, củng cố khối đại đoàn kết các dân tộc trên địa bàn.

Công tác quản lý, giáo dục, cảm hóa đối tượng liên quan đến FULRO đang

sống tại cộng đồng được các địa phương, các lực lượng trên địa bàn Tây Nguyên

chú trọng và đạt được những kết quả tích cực: Từng bước có sự chuyển biến trong

nhận thức và hành động của cấp ủy, chính quyền, Mặt trận, đoàn thể các cấp; tranh

thủ được sự đồng tình, ủng hộ của đông đảo quần chúng, kết hợp chặt chẽ giữa biện

pháp nghiệp vụ của Công an với công tác quần chúng và công tác chính trị tư tưởng

trong việc tham gia quản lý, giáo dục, cảm hóa đối tượng. Công tác này đã được

tiến hành với nhiều hình thức, biện pháp phong phú và linh hoạt; đóng vai trò quan

trọng trong việc phân hóa lực lượng, đấu tranh bóc gỡ FULRO, "Tin lành Đê Ga",

làm thất bại âm mưu lôi kéo quần chúng, kích động biểu tình, bạo loạn của bọn

phản động, góp phần giữ vững an ninh chính trị vùng Tây Nguyên.

Các cơ quan chức năng, Đội công tác, chính quyền địa phương đã vận động

những người có uy tín trong đồng bào DTTS, nhất là trí thức, già làng, trưởng các

dòng họ, các chức sắc tôn giáo tiến bộ, Việt kiều là người DTTS định cư ở Mỹ về

thăm thân và kể cả một số đối tượng lầm lỗi đã hối cải tiến bộ làm nòng cốt trong

việc tuyên truyền, vận động, dùng "người thật, việc thật" để tác động đến từng đối

tượng, giúp họ nhận thức được việc làm sai trái, cam kết trước cộng đồng và gia

đình không tái phạm; ngoài ra, thông qua hình thức họp dân, đưa hàng trăm đối

tượng sai phạm ra công khai kiểm điểm. Ở một số nơi Hội đồng già làng đã áp dụng

luật tục để xử lý các đối tượng liên quan đến hoạt động FULRO, "Tin lành Đê Ga",

vượt biên trái phép. Công tác quản lý, giáo dục, cảm hóa đối tượng FULRO được

thực hiện có hiệu quả ở nhiều nơi, xuất hiện nhiều mô hình tốt. Tiêu biểu là ở xã Hà

Bầu, huyện Đắk Đoa, tỉnh Gia Lai do Công an tỉnh chỉ đạo. Mô hình này được triển

khai theo hướng: Tập trung kiểm điểm, giáo dục cá biệt, huy động lực lượng của

nhiều cấp, nhiều ngành, phát huy tối đa vai trò của chính quyền thôn, già làng,

94

người có uy tín, chức sắc tôn giáo, các cơ quan đoàn thể từ huyện xuống thôn,

làng cùng tham gia vào công tác quản lý, giáo dục đối tượng. Do đó, đã phát huy

được sức mạnh của cả HTCT tham gia vào công tác quản lý, giáo dục đối tượng

tại cộng đồng, tạo điều kiện cho số đối tượng tiến bộ tái hòa nhập cộng đồng, ổn

định cuộc sống.

Các tỉnh (Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông) có đường biên giới giáp

Lào và Campuchia đã phối hợp với bộ đội Biên phòng đẩy mạnh việc xây dựng mô

hình quần chúng tham gia tự quản đường biên, giữ gìn an ninh trật tự thôn, làng và

nhóm hộ tự quản trong đồng bào có đạo để mỗi hộ gia đình có đạo tự giác và vận

động con em của mình chấp hành nghiêm các chủ trương, chính sách của Đảng và

Nhà nước, không nghe theo lời xúi giục, lừa phỉnh, kích động của bọn phản động để

phục hồi "Tin lành Đê Ga", vượt biên trái phép.

Cùng với những hoạt động trên, công tác ngoại giao đã có những bước đi

thích hợp, biện pháp phù hợp; thông qua nhiều kênh khác nhau, có sự phối hợp

đồng bộ ở bên trong và bên ngoài, giữa các bộ, ngành Trung ương và các địa

phương để đấu tranh vạch trần âm mưu, thủ đoạn của bọn phản động FULRO và

các thế lực thù địch trước cộng đồng quốc tế; cung cấp đầy đủ các bằng chứng cho

quốc tế hiểu rõ những chủ trương, chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước đối

với Tây Nguyên nói chung, đối với đồng bào DTTS và đối với tôn giáo nói riêng;

những thành tựu đạt được trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội và đảm bảo tự do tín

ngưỡng tại Tây Nguyên. Đồng thời, có nhiều hoạt động tiếp xúc, tuyên truyền đối

ngoại và tác động đến một số cá nhân trong Quốc hội Mỹ, Nghị viện Châu Âu và

các tổ chức quốc tế để tranh thủ sự ủng hộ, làm giảm sức ép về vấn đề "dân chủ,

nhân quyền, dân tộc, tôn giáo" từ bên ngoài, hạn chế sự trợ giúp cho các tổ chức

phản động và can thiệp vào các vấn đề ở Tây Nguyên. Các tỉnh Tây Nguyên đã chủ

động thu xếp cho hàng trăm đoàn ngoại giao, báo chí, tổ chức quốc tế đến Tây

Nguyên và đi xuống tận cơ sở để tìm hiểu tình hình kinh tế - xã hội, vấn đề dân tộc,

tôn giáo và người DTTS vượt biên hồi hương vào những thời điểm khác nhau. Đáng

chú ý, việc thực hiện thỏa thuận MOU đạt được kết quả tích cực, đã góp phần hạn

chế từng bước và cuối cùng đi đến giải quyết dứt điểm vấn đề người DTTS vượt

95

biên trái phép sang Campuchia. Đây là thắng lợi rất quan trọng, làm thất bại âm

mưu "quốc tế hóa" vấn đề người DTTS vượt biên và duy trì các "trại tỵ nạn" nhằm

lôi kéo người DTTS tiếp tục vượt biên, gây phức tạp tình hình an ninh chính trị và

trật tự an toàn xã hội trên địa bàn Tây Nguyên.

Nhìn chung, tình hình an ninh chính trị trên địa bàn ngày càng ổn định, nguy

cơ biểu tình, bạo loạn và vượt biên trái phép từng bước bị đẩy lùi; thế trận quốc

phòng toàn dân và an ninh nhân dân không ngừng được củng cố. Tuy nhiên, những

mầm mống, yếu tố để FULRO tồn tại và tái phục hồi hoạt động vẫn còn. Do đó, vẫn

còn tiềm ẩn nguy cơ biểu tình, bạo loạn. Thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh

nhân dân, nhất là thế trận lòng dân chưa thực sự vững chắc: Vẫn còn một bộ phận

đồng bào bị tác động bởi tâm lý dân tộc hẹp hòi, nghi kỵ, ngờ vực về sự bình đẳng

dân tộc, tin và nghe theo những luận điệu tuyên truyền của kẻ xấu; các lực lượng và

HTCT nắm tình hình, nắm dân chưa chắc nên vẫn còn bị động đối phó với nhiều

tình huống về an ninh chính trị.

3.2.3. Tăng cƣờng xây dựng, củng cố hệ thống chính trị cơ sở

Nhằm tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW và Thông báo Kết luận số

148-TB/TW của Bộ Chính trị… các tỉnh Tây Nguyên đã tiến hành sơ kết đánh giá

việc xây dựng, kiện toàn HTCT ở cơ sở và đề ra nghị quyết, kế hoạch tiếp tục triển

khai thực hiện nhiệm vụ này. Ban Thường vụ Tỉnh ủy Kon Tum ra Quyết định số

138-QĐ/TU, ngày 12-4-2006 Về việc ban hành Đề án xóa thôn, làng chưa có đảng

viên đến năm 2010, tiến tới xóa thôn, làng chưa có tổ chức Đảng; Quyết định số

381-QĐ/TU, ngày 09-2-2007 Về việc ban hành Đề án nâng cao chất lượng đội ngũ

cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn đến năm 2010; Chỉ thị số 10-CT/TU, ngày 04-

9-2008 Về đẩy mạnh công tác phân công đảng viên phụ trách hộ, nhóm hộ; Ban Tổ

chức Tỉnh ủy Kon Tum có Kế hoạch số 26-KH/BTCTU, ngày 21-8-2008 Về củng

cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng, phấn đấu đến năm 2010

không có tổ chức cơ sở đảng yếu kém; Tỉnh ủy Gia Lai ban hành Đề án số 02-

ĐA/TU, ngày 17-4-2009 Về đổi mới và nâng cao chất lượng HTCT xã, phường, thị

trấn giai đoạn 2009-2015; Tỉnh ủy Đắk Lắk ra Nghị quyết số 07-NQ/TU, ngày 05-

5-2008 Về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của HTCT ở cơ sở xã,

96

phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh đến năm 2010 và định hướng đến năm 2015; Tỉnh

ủy Đắk Nông ra Nghị quyết số 07-NQ/TU, ngày 24-7-2006 Về công tác cán bộ

DTTS giai đoạn 2006-2010 và định hướng đến năm 2020… Theo đó, các Tỉnh ủy ở

Tây Nguyên đã chỉ đạo các Huyện ủy, Thị ủy, Thành ủy tập trung củng cố, kiện

toàn các tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể xã, buôn làng vững

mạnh. Nhờ vậy, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng và

chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên ngày càng được nâng lên; nhiều cấp ủy, chi bộ

thể hiện rõ vai trò hạt nhân lãnh đạo thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã

hội, giữ vững an ninh, quốc phòng ở địa phương. Nhiều tổ chức đảng được thành

lập và đi vào hoạt động ở các địa bàn thôn buôn có chất lượng, làm nòng cốt, chỗ

dựa cho hoạt động của các Ban tự quản và các chi hội đoàn thể ở thôn, buôn.

Tại tỉnh Kon Tum, thực hiện chủ trương Về phân công đảng viên phụ trách

hộ, nhóm hộ, các cấp ủy đảng đã xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện, xem đây

là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công tác xây dựng Đảng, gắn công tác

này với việc đẩy mạnh xóa thôn, làng trắng đảng viên và tổ chức đảng, với

CTVĐQC thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm, bức xúc của địa phương; xem kết quả

thực hiện nhiệm vụ là một căn cứ để đánh giá, phân loại tổ chức đảng và đảng viên

hàng năm. Theo đó, các cấp ủy đảng đã tiến hành đánh giá, rà soát, điều chỉnh, phân

công lại đảng viên phụ trách hộ, nhóm hộ phù hợp với trình độ, năng lực, sở trường,

sức khỏe của từng đảng viên và đặc điểm của từng hộ, nhóm hộ. Kết quả, đến cuối

năm 2010 "đã có 7.678/10.487 đảng viên đang công tác, sinh hoạt tại xã, phường,

thị trấn (chiếm 73,21%) được phân công phụ trách 87.548/103.733 hộ, chiếm 84,4%

tổng số hộ" [100] . Đa số đảng viên được phụ trách hộ, nhóm hộ đã gương mẫu thực

hiện và tích cực tuyên truyền, vận động, hướng dẫn hộ, nhóm hộ thực hiện chủ

trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; chuyển dịch cơ

cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa, ứng dụng khoa học - công

nghệ vào sản xuất; lựa chọn và phát triển ngành nghề phù hợp, xóa đói giảm nghèo

và vươn lên làm giàu chính đáng, xây dựng gia đình văn hóa; giữ vững an ninh

chính trị, trật tự an toàn xã hội ở thôn, làng, tổ dân phố; nắm bắt và phản ánh kịp

thời với chi bộ về tâm tư, nguyện vọng của hộ, nhóm hộ mình phụ trách, tạo mối

97

quan hệ đoàn kết, gắn bó với nhân dân ở khu dân cư; qua đó, phát hiện, bồi dưỡng

và giới thiệu những quần chúng ưu tú để chi bộ xem xét kết nạp Đảng.

Công tác phát triển đảng viên được các Đảng bộ các tỉnh Tây Nguyên quan

tâm chỉ đạo, hàng năm cấp ủy các tỉnh đều có nghị quyết về xây dựng Đảng, giao

chỉ tiêu xây dựng tổ chức cơ sở đảng và kết nạp đảng viên cho các đảng bộ trực

thuộc. Bình quân mỗi năm, các tỉnh Tây Nguyên kết nạp được 8.000 đảng viên.

Công tác phát triển đảng viên trong vùng đồng bào DTTS, vùng đồng bào có đạo

được các cấp ủy quan tâm và có những chuyển biến tích cực. Số lượng đảng viên

được kết nạp không ngừng được tăng lên. Đặc biệt, sau khi có Quy định số 123-

QĐ/TW, ngày 28-9-2004 của Bộ Chính trị và Hướng dẫn số 40-HD/BTCTW Về

một số điểm về kết nạp đảng viên đối với người có đạo và đảng viên có đạo tham

gia sinh hoạt tôn giáo, các cấp ủy đảng đã nhận thức được việc phát triển đảng viên

người có đạo là yêu cầu cần thiết, bảo đảm việc lãnh đạo, chỉ đạo, xây dựng và củng

cố khối đại đoàn kết toàn dân; góp phần thu hẹp các buôn làng có đông đồng bào

theo tôn giáo chưa có đảng viên, tổ chức đảng. Số lượng người có đạo được kết nạp

vào Đảng không ngừng tăng lên. "Đến tháng 6-2006, toàn vùng Tây Nguyên có

1.730 đảng viên là người có đạo, đến tháng 6-2009, toàn vùng có 2.954 đảng viên

có đạo và cuối năm 2009 là 3.245 đảng viên có đạo, bình quân mỗi năm kết nạp gần

300 đảng viên có đạo" [23]. Để đảng viên là người có đạo vừa hoàn thành nhiệm vụ

của người đảng viên, vừa tham gia sinh hoạt tôn giáo, nhiều cấp ủy đảng đã tăng

cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng đảng viên là

người có đạo; thường xuyên theo dõi, kiểm tra, giám sát đảng viên để uốn nắn kịp

thời những biểu hiện lệch lạc, sai trái trong nhận thức và hành động; đồng thời, tạo

điều kiện nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ giúp đảng viên

có đạo hoàn thành nhiệm vụ được giao, làm nòng cốt trong các phong trào quần

chúng vùng có đạo.

Công tác phát triển đảng viên trong vùng DTTS được chú trọng, nên có

nhiều chuyển biến tích cực:

Năm 2006, toàn vùng kết nạp được 4.264 đảng viên, trong đó có 789

đảng viên là người DTTS, chiếm 20,63%; năm 2009, kết nạp 10.506

98

đảng viên (trong đó có 2.084 người DTTS, chiếm 19,83%), nâng tổng số

đảng viên là người DTTS toàn vùng lên 23.693 (trong đó người DTTS

tại chỗ là 17.735, chiếm 74,85% đảng viên người DTTS). Với những kết

quả trên, đến cuối năm 2009, toàn vùng Tây Nguyên có 6.398 thôn,

buôn, tổ dân phố có chi bộ trong tổng số 7.337 thôn, buôn, tổ dân phố; số

thôn, buôn, tổ dân phố chưa có chi bộ là 968, chiếm 13,19%, chưa có

đảng viên là 150, chiếm 2,04%; nâng tổng số đảng viên ở tổ chức cơ sở

đảng xã, phường, thị trấn từ 51.408 (chiếm 56,33% năm 2004) lên

82.459 đảng viên (chiếm 60,48% vào cuối năm 2009) [23].

Thực hiện Quyết định số 253/QĐ-TTg, ngày 05-3-2003 của Thủ tướng

Chính phủ, chính quyền cơ sở vùng Tây Nguyên cơ bản được kiện toàn, củng cố;

đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã được kiện toàn, bổ sung thêm một số chức danh

sát với yêu cầu, nhiệm vụ chính trị. "Đến tháng 10-2010, các tỉnh Tây Nguyên có

13.361 cán bộ chuyên trách và công chức xã, phường, thị trấn, trong đó, cán bộ,

công chức người DTTS có 3.584 người, chiếm 26,8%" [42].

Công tác quy hoạch, đào tạo, bố trí, sử dụng đội ngũ cán bộ người DTTS đã

được quan tâm thực hiện ngày càng tốt hơn: "Thực hiện chiến lược cán bộ trong

thời kỳ CNH, HĐH, các tỉnh Tây Nguyên đã quy hoạch trên 11.000 lượt cán bộ cơ

sở (có 2.600 cán bộ người DTTS)" [24]. Các tỉnh đã có các chế độ, chính sách hợp

lý nhằm ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị cho

cán bộ người DTTS. Nhờ vậy, số lượng và chất lượng của đội ngũ cán bộ cơ sở

người DTTS có những chuyển biến quan trọng; đa số có lập trường chính trị vững

vàng, gần gũi với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm.

Về xây dựng buôn làng theo hướng tự quản, các tỉnh Tây Nguyên đã xác

định nhiệm vụ trọng tâm là: xây dựng tổ chức đảng, Ban Tự quản, Ban Công tác

Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội ở thôn, buôn vững mạnh; thu hẹp số thôn,

buôn chưa có đảng viên, chưa có tổ chức đảng và các đoàn thể chính trị - xã hội.

Xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, phát huy tính cộng đồng của đồng bào

DTTS trong việc đấu tranh với những âm mưu, thủ đoạn dụ dỗ, mua chuộc của kẻ

xấu, bảo đảm sự ổn định và phát triển của buôn làng, thu hẹp địa bàn yếu kém,

99

chậm phát triển, trọng điểm, phức tạp về an ninh chính trị; giảm tỷ lệ hộ đói nghèo,

từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào DTTS. Thực tế cho

thấy, mô hình thiết chế tự quản ở buôn, làng vùng đồng bào DTTS Tây Nguyên rất

đa dạng và phong phú. Những nơi nào Chi bộ và Ban Tự quản biết kế thừa, phát

huy được những giá trị thiết chế truyền thống, xây dựng quy ước, hương ước và tổ

chức phong trào tự quản về an ninh trật tự, đề cao vai trò của già làng, trưởng buôn

và những người có uy tín trong công tác giáo dục, vận động quần chúng, thì nơi đó

đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào được không ngừng cải thiện và nâng

cao; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở buôn làng được giữ vững.

Các lực lượng vũ trang đóng quân trên địa bàn Tây Nguyên đã tích cực cử

cán bộ tăng cường cho cơ sở. Nhiều cán bộ, sĩ quan Quân đội được phân công làm

Bí thư Đảng bộ, Chi bộ, Chủ tịch, Phó Chủ tịch xã, phường, thị trấn. Thành lập

nhiều tổ, đội công tác tham mưu, giúp việc cho HTCT cơ sở, hướng dẫn nhân dân

phát triển sản xuất, thực hiện các chương trình xóa đói giảm nghèo, xóa nạn mù

chữ, chống tái mù chữ và phổ cập tiểu học. Các đơn vị bộ đội địa phương đã tích

cực tham mưu, giúp việc có hiệu quả trong xây dựng và hoạt động của HTCT cơ sở.

Hàng năm, các cơ quan quân sự địa phương đều tổ chức ký kết và thực hiện các

chương trình liên tịch, liên ngành với các ban, ngành, đoàn thể ở địa phương.

Công tác kết nghĩa với các buôn đồng bào DTTS được các lực lượng và các

tỉnh Tây Nguyên tổ chức đánh giá, rút kinh nghiệm nhằm nâng cao hiệu quả việc

phân công các ngành, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp kết nghĩa giúp đỡ các buôn

đồng bào DTTS. Trên cơ sở đó, tiếp tục chủ trương đẩy mạnh phong trào kết

nghĩa, giúp đỡ đồng bào DTTS trên địa bàn. Do đó, công tác này được quan tâm

triển khai rộng khắp, với nhiều nội dung và hình thức phong phú, đem lại hiệu quả

về nhiều mặt.

Tỉnh Đắk Lắk tiếp tục duy trì và thực hiện có hiệu quả công tác kết nghĩa

giữa các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp cấp tỉnh, huyện với các buôn đồng bào

DTTS; giữa thôn, tổ dân phố, các tổ chức đoàn thể vùng đồng bào Kinh với các

buôn, các tổ chức đoàn thể vùng đồng bào DTTS; giữa hộ gia đình người Kinh với

hộ gia đình đồng bào DTTS.

100

Đến năm 2010, toàn tỉnh có 161 cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp cấp tỉnh

được phân công kết nghĩa với các buôn đồng bào DTTS, chiếm 23,41%

tổng số buôn trong tỉnh; có 1.005 cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, trường

học cấp huyện, thị, thành phố kết nghĩa với 463 buôn đồng bào DTTS.

Tổng cộng các cơ quan, đơn vị của tỉnh và huyện đã được phân công tổ

chức kết nghĩa là 1.166/1.169 cơ quan, đơn vị, đạt 99,7%; có 2.185 tổ

chức đoàn thể thôn xóm, tổ dân phố người Kinh kết nghĩa với 1.767 tổ

chức đoàn thể buôn đồng bào DTTS, chiếm tỷ lệ 82,5% tổng số các tổ

chức đoàn thể buôn đồng bào DTTS; có 11.232 hộ gia đình người Kinh

kết nghĩa với 8.009 hộ gia đình đồng bào DTTS [91].

Thông qua công tác kết nghĩa, các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh đã có sự

giúp đỡ quan trọng cả về vật chất và tinh thần để đồng bào vươn lên xóa đói giảm

nghèo, xây dựng gia đình, buôn làng văn hóa.

Từ năm 2005 đến năm 2010, các cơ quan, đơn vị đã tặng quà, hỗ trợ vật

tư phục vụ sản xuất và đời sống cho các buôn, thôn đồng bào DTTS có

trị giá khoảng 38 tỷ đồng; quyên góp xây tặng 2 nhà sinh hoạt cộng

đồng, 5 nhà mẫu giáo, 42 nhà vệ sinh, cải tạo 265 giếng nước, 306 nhà

tình nghĩa… Ngoài ra, các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp còn cử cán bộ

về buôn để vận động, hướng dẫn cho nhân dân chuyển đổi cơ cấu cây

trồng, vật nuôi, xây dựng mô hình điểm về chăn nuôi, trồng trọt, cải tạo

vườn tạp; xây dựng buôn và gia đình văn hóa [92].

Binh đoàn 15 (Bộ Quốc phòng) cũng là một điểm sáng trong công tác kết

nghĩa. Được thành lập ngày 20-02-1985, Binh đoàn được Chính phủ, Bộ Quốc

phòng giao nhiệm vụ: Phát triển kinh tế - xã hội gắn với quốc phòng, an ninh; xây

dựng dân cư - xã hội trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên và làm nhiệm vụ quốc tế

tại Lào, Campuchia; các đơn vị của Binh đoàn đóng trên địa bàn của 7 huyện và 1

thành phố, thuộc 2 tỉnh Gia Lai và Kon Tum; dọc biên giới tiếp giáp với hai nước

Lào và Campuchia. Xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ chính trị, từ tấm lòng, trách

nhiệm với dân, Binh đoàn đã đề ra phương châm "Binh đoàn gắn với tỉnh, huyện;

công ty gắn với huyện, xã; đội sản xuất gắn với buôn, làng; hộ gia đình người Kinh

101

gắn kết với hộ gia đình người DTTS ở địa phương". Trong quá trình hoạt động kết

nghĩa đã xuất hiện nhiều mô hình, cách làm hay, sáng tạo, hiệu quả, nổi bật là mô

hình "Gắn kết hộ gia đình công nhân người Kinh với hộ gia đình đồng bào DTTS

địa phương" (gọi tắt là gắn kết hộ).

Đến cuối năm 2010, Binh đoàn đã có 1.985 cặp hộ với trên 4.000 lao

động trong tổng số 4.312 hộ với trên 6.000 lao động là đồng bào DTTS

đang làm việc ở các công ty, đơn vị của Binh đoàn được tổ chức gắn kết.

Nội dung "gắn kết hộ" thể hiện: Hộ công nhân người Kinh giúp hộ đồng

bào DTTS áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, chăm sóc, thu hoạch

cây cao su, cà phê, trồng lúa nước, chăn nuôi gia súc, gia cầm; tổ chức

cuộc sống gia đình theo hướng văn minh, hiện đại… Hộ đồng bào DTTS

giúp đỡ hộ công nhân người Kinh về lao động cũng như tạo mối quan hệ

thân thiết với họ hàng và cộng đồng dân cư ở địa phương…[67].

Hoạt động "Gắn kết hộ" đã mang lại hiệu quả thiết thực nhiều mặt về chính

trị, kinh tế, xã hội và quốc phòng - an ninh. Các cặp hộ gắn kết không những giúp

nhau trong thực hiện nhiệm vụ sản xuất được đơn vị giao, mà còn giúp nhau phát

triển kinh tế hộ gia đình. Thông qua "Gắn kết hộ", nhiều hộ đồng bào DTTS không

những đã thoát nghèo mà còn vươn lên làm giàu; các tập tục lạc hậu từng bước

được đẩy lùi, thay bằng nếp sống văn hóa mới. Đáng chú ý là thông qua giao tiếp

hằng ngày, hộ gia đình người Kinh đã chuyển tải những chủ trương, chính sách của

Đảng, Nhà nước, các quy định của địa phương đến với hộ đồng bào DTTS, nâng

cao nhận thức, xây dựng lòng tin của đồng bào vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản

lý của Nhà nước và chính quyền địa phương. Đồng thời, giúp đồng bào nhận rõ

những âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, không ngừng nâng cao

tinh thần cảnh giác, không tin, không nghe và không làm theo lời xúi giục, kích

động của kẻ xấu. Vì vậy, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa

bàn của Binh đoàn luôn ổn định, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân,

xây dựng "thế trận lòng dân" ngày càng vững chắc, làm thất bại mọi âm mưu, thủ

đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động. Đây là sự thành công rõ nét

nhất về CTVĐQC, nhất là mô hình "gắn kết hộ" của Binh đoàn.

Mặc dù đã có nhiều chuyển biến tích cực trong tổ chức và hoạt động, nhưng

102

nhìn chung HTCT cơ sở, nhất là trong vùng DTTS vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu,

nhiệm vụ trong tình hình mới. Công tác xây dựng tổ chức đảng, phát triển đảng viên

tại chỗ ở một số địa bàn vùng DTTS, vùng đồng bào có đạo còn bất cập. Vai trò,

trách nhiệm lãnh đạo, điều hành của cấp ủy, chính quyền có nơi còn yếu, chưa đủ

sức tự đảm đương được nhiệm vụ; vẫn còn tình trạng trông chờ, ỷ lại cấp trên, quan

liêu, xa dân, chưa thực sự chăm lo đời sống của đồng bào; trình độ, năng lực của

một bộ phận cán bộ DTTS còn thấp, bản lĩnh chính trị chưa thực sự vững vàng.

3.2.4. Đẩy mạnh thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở

Việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo

của Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Thường vụ Tỉnh ủy và

sự đôn đốc, kiểm tra của Ban Chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ của các tỉnh. Do

đó, đã đạt được những kết quả thiết thực, góp phần quan trọng vào việc củng cố,

kiện toàn, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của chính quyền cơ sở cũng như

phát huy tính sáng tạo, hăng hái của các tầng lớp nhân dân.

Để tiếp tục triển khai thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở theo tinh thần Chỉ

thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII), ngày 10-10-2006, Ban Thường vụ

Tỉnh ủy Kon Tum ra Chỉ thị số 04-CT/TU Về đẩy mạnh triển khai thực hiện Quy

chế dân chủ ở cơ sở. Chỉ thị nêu rõ:

Việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở là một trong những

nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, là trách nhiệm của cả HTCT và toàn

xã hội; thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở phải đi đôi với thực hiện tốt

nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, tập trung xóa

đói giảm nghèo, nâng cao dân trí và đời sống vật chất, tinh thần của các

tầng lớp nhân dân; gắn với củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt

động của HTCT cơ sở, xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ năng lực chuyên

môn, phẩm chất, thực sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân... Các

cấp ủy đảng phải có chương trình, kế hoạch và phân công cấp ủy viên

phụ trách Ban chỉ đạo xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.

Đồng thời, tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn việc thực

hiện, chấn chỉnh kịp thời những sai sót [97].

103

Ngày 29-4-2008, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Gia Lai đã ban hành Chỉ thị số 07-

CT/TU Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Quy

chế dân chủ cơ sở trong tình hình mới. Thực hiện Chỉ thị của Tỉnh ủy, các cấp ủy

đảng đã củng cố, kiện toàn Ban Chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Hầu hết

các Ban Chỉ đạo đã xây dựng cơ chế để cán bộ, công chức và nhân dân phát huy

quyền làm chủ, giám sát các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Đến năm 2010, tỉnh Gia Lai có 85% thôn, làng, tổ dân phố đã xây dựng

được hương ước, quy ước; 100% số xã, phường, thị trấn đã thành lập ban

thanh tra nhân dân; 81,5% số xã, phường, thị trấn và 75% số thôn, làng,

tổ dân phố tổ chức lấy phiếu tín nhiệm các chức vụ chủ chốt do Hội đồng

nhân dân xã bầu và chức vụ trưởng thôn [2, tr.397].

Nhìn chung, trên toàn vùng Tây Nguyên, việc thực hiện "dân biết, dân bàn,

dân làm, dân kiểm tra" tập trung vào những vấn đề bức xúc, gắn liền với thực tế

cuộc sống của nhân dân ở địa bàn dân cư. Các lĩnh vực liên quan đến đời sống nhân

dân như chuyển đổi cây trồng, vật nuôi, xây dựng công trình phúc lợi tại địa phương

đều được nhân dân bàn bạc, góp ý trước khi chính quyền quyết định và triển khai

thực hiện. Do vậy, nhiều công trình phúc lợi đã được nhân dân tích cực tham gia

đóng góp tiền của, ngày công lao động theo phương châm "Nhà nước và nhân dân

cùng làm" mang lại hiệu quả thiết thực. Nhiều địa phương đã biết kết hợp chặt chẽ

việc triển khai thực hiện Quy chế dân chủ với các phong trào thi đua yêu nước, nhất

là cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư",

phòng chống tệ nạn xã hội, phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc, giữ gìn trật tự an

toàn xã hội. Đến năm 2010, toàn vùng Tây Nguyên có trên 95% thôn, buôn, tổ dân

phố đã xây dựng hương ước, quy ước. Qua đó, góp phần phát huy thuần phong mỹ

tục tốt đẹp và hỗ trợ tích cực cho quản lý nhà nước bằng pháp luật, phát huy quyền

làm chủ của nhân dân. Toàn vùng có khoảng 95% xã, phường, thị trấn triển khai

thực hiện cải cách hành chính theo cơ chế "một cửa", tạo điều kiện cho người dân

thực hiện giao dịch với chính quyền một cách thuận tiện; đồng thời, xây dựng tác

phong, lề lối làm việc của đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở theo hướng gần dân,

sát dân và phục vụ nhân dân tốt hơn. Hàng năm, các tỉnh đều chỉ đạo tổ chức lấy

104

phiếu tín nhiệm đối với chức danh Chủ tịch Hội đồng nhân dân và Chủ tịch Ủy

ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Qua đó, giúp cho cấp ủy đảng có cơ sở đánh giá

năng lực, phẩm chất, tín nhiệm đối với lãnh đạo chính quyền cấp cơ sở. Kết quả

việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đã góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế -

xã hội, thực hiện xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới; đổi mới phương

thức lãnh đạo của các cấp ủy đảng, công tác quản lý, điều hành, lề lối làm việc của

chính quyền và đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở theo hướng dân chủ, công khai,

sát dân; công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư tố cáo, khiếu nại của nhân dân được

quan tâm giải quyết.

Tuy nhiên, việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở có lúc, có nơi hiệu quả

chưa cao, tình trạng mất dân chủ, thiếu tôn trọng nhân dân chậm được khắc phục;

việc tổ chức cho nhân dân tham gia giám sát, góp ý kiến vào các chủ trương, chính

sách của Đảng, Nhà nước và của địa phương, cho cán bộ, đảng viên; góp ý xây

dựng Đảng, chính quyền còn hạn chế; cấp ủy một số địa phương, đơn vị thiếu quan

tâm chỉ đạo, kiểm tra, giám sát chính quyền thực hiện Quy chế dân chủ, nhất là ở

vùng sâu, vùng xa.

3.2.5. Thực hiện tốt công tác tôn giáo

Cấp ủy, chính quyền các cấp đã có chuyển biến tích cực về quan điểm,

nhận thức; quán triệt và tổ chức thực hiện Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và các

nghị quyết, chỉ thị của Đảng và Nhà nước; chủ động xử lý vấn đề tôn giáo trên địa

bàn, đưa hoạt động tôn giáo vào quản lý bằng pháp luật; giải quyết cơ bản nhu cầu

chính đáng, hợp pháp của đồng bào có đạo; động viên được đông đảo chức sắc, tín

đồ tham gia các hoạt động xã hội; đồng thời, đấu tranh làm thất bại âm mưu lợi

dụng tôn giáo của các thế lực thù địch. Đặc biệt, các tỉnh Tây Nguyên tiếp tục

quán triệt Thông báo số 160 của Ban Bí thư và Chỉ thị số 01/2005/CT-TTg của

Thủ tướng Chính phủ Về một số công tác đối với đạo Tin lành, đã đưa hoạt động

của các hệ phái Tin lành vào quản lý thống nhất bằng pháp luật. Trong đó, đẩy

nhanh việc cho đăng ký sinh hoạt điểm nhóm ở buôn làng đi đôi với tăng cường

quản lý, theo dõi, hướng dẫn, giúp đỡ các điểm nhóm tôn giáo hoạt động thuận

lợi, đúng pháp luật, đảm bảo ngày càng ổn định. Đồng thời, tăng cường đấu tranh

105

xóa bỏ "Tin lành Đê Ga", không để FULRO lợi dụng sinh hoạt tôn giáo để lôi kéo

quần chúng, tập hợp lực lượng. Phương châm đấu tranh là: Kiên quyết trấn áp số

cầm đầu, cốt cán để vô hiệu hóa vai trò hoạt động của chúng; tranh thủ sự đồng

tình ủng hộ của các chức sắc Tin lành; kiên trì vận động, giáo dục số đồng bào

theo "Tin lành Đê Ga" để họ thấy rõ đây là tổ chức phản động gắn với FULRO,

tạo điều kiện giúp đỡ họ xóa bỏ mặc cảm và tham gia sinh hoạt với các hệ phái

Tin lành hợp pháp.

Theo Báo cáo của Tỉnh ủy Gia Lai:

Đến tháng 5-2009, toàn tỉnh có 44 chi hội đã tổ chức hội đồng ở 14/16

huyện, thị xã, thành phố, với tổng số là 50.870 tín đồ và 363 Chấp sự.

Ngoài ra, có 190 điểm nhóm với 21.477 tín đồ sinh hoạt ổn định nhưng

chưa đủ điều kiện để tổ chức hội đồng chi hội đã cho đăng ký sinh hoạt

điểm nhóm. Có 14 chi hội đã và đang xây dựng nhà thờ kiên cố, bán kiên

cố, bảo đảm cho tín đồ có nơi sinh hoạt tôn giáo; 21 chi hội đã có quỹ đất

đang chuẩn bị xây dựng. Đã phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm cho 28

mục sư, mục sư nhiệm chức; cho phép Viện Thánh kinh thần học phối

hợp với Ban Đại diện Tin lành tỉnh mở 2 lớp bổ túc Thần học tại chức tại

tỉnh với 58 học viên [95].

Qua việc triển khai công tác đối với đạo Tin lành, các cơ quan chức năng đã

kết hợp triển khai nhiều biện pháp đấu tranh xóa bỏ tổ chức FULRO và "Tin lành

Đê Ga". Hầu hết số đối tượng đội lốt Tin lành để hoạt động FULRO và các khung

ngầm của chúng đã bị bóc gỡ, số đối tượng cầm đầu đã bị xử lý theo quy định của

pháp luật; đồng bào DTTS đã phân biệt được sinh hoạt tôn giáo thuần túy với hoạt

động đội lốt tôn giáo của bọn phản động FULRO, "có khoảng 11.900 người đã từ

bỏ "Tin lành Đê Ga" về sinh hoạt với Tin lành Việt Nam (miền Nam)" [95]. Các cấp

ủy đảng, chính quyền thường xuyên coi trọng CTVĐQC đối với tín đồ và chức sắc

của đạo Tin lành, nhất là việc tuyên truyền, vận động đồng bào theo đạo thực hiện

các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Thường xuyên thăm

hỏi, tranh thủ các chức sắc Tin lành, "đã giới thiệu 23 chức sắc tham gia các tổ chức

xã hội, 156 tín đồ là cán bộ từ cấp xã trở lên, có 32 tín đồ đạo Tin lành là đảng viên,

1.043 tín đồ là đoàn viên" [95].

106

Theo Báo cáo của Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, đến năm 2010, trên toàn vùng

Tây Nguyên, công tác đối với đạo Tin lành đã đạt kết quả:

10 hệ phái Tin lành có số lượng tín đồ đông nhất đã đăng ký hoạt động

hợp pháp; 170 chi hội với gần 142.000 tín đồ được công nhận chính

thức. Toàn vùng đã cho đăng ký sinh hoạt 915/1174 điểm nhóm của

nhiều hệ phái. Số tín đồ sinh hoạt trong các chi hội và điểm nhóm chiếm

91%. Đối với các điểm nhóm sinh hoạt nhỏ lẻ tại tư gia thuộc các hệ phái

chưa được cấp đăng ký hoạt động, các địa phương vẫn chủ động xem xét

cho đăng ký, tạo điều kiện để đồng bào sinh hoạt tôn giáo ổn định. Có

49/170 chi hội đã và đang xây dựng nhà thờ, 31 chi hội có quỹ đất để xây

dựng, trong đó 28 chi hội đã được hợp pháp hóa về đất đai. Các nhu cầu

bình thường khác được giải quyết thỏa đáng [24]; (Phụ lục 12).

Có thể nói, việc thực hiện chủ trương công tác đối với đạo Tin lành đã giúp

cho cấp ủy, chính quyền các tỉnh nắm được quần chúng, củng cố lòng tin, tranh thủ

được sự đồng tình, ủng hộ của đông đảo tín đồ, chức sắc tôn giáo; quản lý được

hoạt động của đạo Tin lành; làm thất bại âm mưu lôi kéo, lợi dụng đạo Tin lành của

các thế lực thù địch và bọn phản động FULRO; giải tỏa những nghi vấn và sức ép

của cộng đồng quốc tế về vấn đề "tôn giáo, nhân quyền" ở Tây Nguyên.

Thực tế chứng minh việc giải quyết vấn đề đạo Tin lành ở Tây Nguyên là

một chủ trương đúng đắn, kịp thời, đã từng bước đưa đạo Tin lành vào

quản lý bằng pháp luật; góp phần ổn định tình hình chính trị - xã hội

vùng đồng bào DTTS và củng cố khối đoàn kết dân tộc; góp phần vào

công tác đối ngoại, làm thất bại âm mưu lợi dụng tôn giáo gắn với vấn đề

dân tộc để kích động biểu tình, bạo loạn, gây mất ổn định chính trị của

các thế lực thù địch và bọn phản động FULRO [10].

Tuy nhiên, quá trình thực hiện chủ trương công tác đối với đạo Tin lành có

nơi, có lúc còn lúng túng, thiếu nhất quán trong nhận thức và hành động, còn có

chỗ để bọn phản động lợi dụng chống phá; công tác vận động tín đồ, tranh thủ

chức sắc, xây dựng cốt cán và tổ chức các phong trào trong vùng đồng bào có đạo

còn yếu; công tác đấu tranh giải quyết vấn đề "Tin lành Đê Ga" vẫn chưa triệt để,

107

bọn phản động FULRO lợi dụng điều này để tiếp tục tập hợp quần chúng, chống

phá Tây Nguyên.

3.2.6. Tăng cƣờng xây dựng lực lƣợng nòng cốt làm công tác dân vận

Ngày 01-2-2008, Thủ tướng Chính phủ ra Chỉ thị 06/2008/CT-TTg Về phát

huy vai trò người có uy tín trong đồng bào DTTS trong sự nghiệp xây dựng và bảo

vệ Tổ quốc. Chỉ thị khẳng định:

Vận động và phát huy vai trò của người có uy tín là một nội dung quan

trọng trong chính sách đại đoàn kết của Đảng và Nhà nước, do đó, cấp ủy

đảng và chính quyền các cấp cần… tiến hành thường xuyên, liên tục

công tác vận động người có uy tín, phát huy mạnh mẽ mặt tích cực của

họ, thông qua đó vận động đồng bào DTTS hiểu rõ và chấp hành tốt các

chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tích cực tham

gia phát triển kinh tế - xã hội, phòng chống tội phạm, giữ gìn an ninh trật

tự; thực hiện tốt cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống

văn hóa ở khu dân cư" tại vùng đồng bào DTTS, vùng sâu, vùng xa,

vùng biên giới [113].

Ngày 16-3-2009, Bộ Công an ban hành Hướng dẫn số 04/HD-BCA Về thực

hiện Chỉ thị 06/2008/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phát huy vai trò người có

uy tín trong đồng bào DTTS trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đây là cơ

sở, điều kiện thuận lợi cho các tỉnh Tây Nguyên tiếp tục củng cố, phát triển công tác

xây dựng lực lượng cốt cán trong vùng đồng bào DTTS và vùng đồng bào có đạo.

Quán triệt Chỉ thị số 06/2008/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Ban Chỉ

đạo Tây Nguyên yêu cầu các tỉnh Tây Nguyên:

Cần tập trung chỉ đạo việc xây dựng nòng cốt, cốt cán trong quần chúng

vùng tôn giáo, vùng đồng bào DTTS, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm, cấp

thiết của CTDV trong tình hình mới. Quy định có tính bắt buộc các tổ

chức đảng, chính quyền, đoàn thể, các đội công tác ở xã, buôn làng và

đội ngũ cán bộ chủ chốt phải xây dựng cơ sở nòng cốt, cốt cán trong dân;

thông qua cốt cán để nắm dân, nắm thông tin, tình hình, diễn biến ở buôn

làng, để chủ động xử lý trong mọi tình huống… Tập trung nắm, tranh

108

thủ, bồi dưỡng ý thức chính trị cho các nhân sĩ, trí thức, chức sắc tôn

giáo, người có uy tín trong đồng bào DTTS, xây dựng họ thành lực

lượng tin cậy, tích cực đóng góp vào việc xây dựng buôn làng ổn định về

chính trị, xã hội [20].

Nhận thức được vai trò quan trọng của những người có uy tín trong đồng bào

DTTS trong CTDV, cấp ủy, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể xã hội trên địa

bàn đã coi trọng việc xây dựng lực lượng nòng cốt của mình, nhất là nòng cốt trong

đồng bào DTTS và đồng bào có đạo.

Ngày 18-3-2008, Tỉnh ủy Đắk Lắk ban hành Công văn số 964-CV/TU Về

việc phát huy vai trò người có uy tín trong đồng bào DTTS. Tiếp đó, ngày 22-6-

2009, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Kế hoạch số 2787/KH-UBND, nêu rõ mục

tiêu, yêu cầu, tiêu chuẩn, nội dung, biện pháp công tác vận động, phát huy vai trò

người có uy tín; chế độ, chính sách đối với người có uy tín và kinh phí phục vụ

công tác vận động. Căn cứ Kế hoạch trên, Sở Công an tỉnh đã chủ trì phối hợp với

Ban Thường vụ Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh và các sở, ban, ngành liên

quan tổ chức rà soát, lập danh sách người có uy tín trong đồng bào DTTS (theo

Hướng dẫn số 04/HD-BCA của Bộ Công an) đưa vào diện tranh thủ và thực hiện

chính sách có 2.746 người (trong đó các cơ quan, đơn vị cấp tỉnh tiến hành vận

động 502 người; cấp huyện và phân cấp cho cấp xã vận động 2.244 người).

Ở tỉnh Gia Lai, công tác xây dựng thực lực chính trị và cốt cán trong quần

chúng có đạo đã có nhiều chuyển biến. "Đến năm 2010, thông qua các phong trào,

các cấp, các ngành trên địa bàn tỉnh đã xây dựng được 7.735 cốt cán trong các tôn

giáo" [2, tr.403].

Trong những người có uy tín trong đồng bào DTTS ở Tây Nguyên, già làng

có vai trò hết sức quan trọng. Đội ngũ này đã tham gia tích cực trong phong trào

vận động đồng bào xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc; thực hiện tốt phương

châm: "già làng nói, dân làng nghe; già làng hô, dân làng hưởng ứng; già làng

làm, dân làng làm theo". Nhằm hợp lý hóa và phát huy vai trò của già làng, các địa

phương Tây Nguyên đã có sáng kiến: "đưa già làng vào tổ hòa giải thôn buôn, làm

nhiệm vụ hòa giải các vụ việc theo mục tiêu kép là duy trì phong tục tập quán dân tộc

109

và hướng người dân sống theo pháp luật" [55, tr.154]. Để tôn vinh và phát huy vai trò

già làng Tây Nguyên trong phong trào thi đua: "Tuổi cao, gương sáng, hiến kế, hiến

công, xây dựng quê hương, đất nước", tháng 3-2009, tại tỉnh Gia Lai, Trung ương Hội

Người cao tuổi Việt Nam phối hợp với các bộ, ngành, cơ quan Trung ương và các địa

phương tổ chức Hội nghị già làng tiêu biểu khu vực Tây Nguyên. Về dự hội nghị, có

241 già làng tiêu biểu đại diện cho hàng nghìn già làng các DTTS của 5 tỉnh Tây

Nguyên và 6 tỉnh phụ cận. Thông qua hội nghị, các đại biểu già làng đã phát biểu về

những đóng góp nổi bật của mình trên các lĩnh vực phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa,

quốc phòng, an ninh; đồng thời, nêu lên những suy nghĩ, tâm tư, nguyện vọng chính

đáng để xây dựng và phát triển bền vững Tây Nguyên.

Nhìn chung, lực lượng cốt cán trong đồng bào DTTS và đồng bào có đạo

đã phát huy được vai trò nòng cốt trong công tác tuyên truyền, vận động nhân dân

thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, tích cực

tham gia các phong trào cách mạng tại địa phương; gương mẫu trong cuộc sống

gia đình; tích cực, tự giác tham gia công tác xã hội. Đồng thời, vận động nhân dân

nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, không tin, không nghe và làm theo lời xúi

giục của kẻ xấu, góp phần làm thất bại âm mưu chống phá của các thế lực thù

địch, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Công tác tập

huấn, bồi dưỡng kiến thức, thông tin cũng như thực hiện chế độ, chính sách cho

những người có uy tín đã được cấp ủy, chính quyền quan tâm như: Tổ chức hội

nghị tôn vinh người có uy tín tiêu biểu trong đồng bào DTTS; thường xuyên tổ

chức thăm hỏi, động viên cốt cán lúc ốm đau, giúp đỡ khi gặp khó khăn trong

cuộc sống, tạo điều kiện phát triển sản xuất, xóa đói giảm nghèo, ổn định cuộc

sống, vươn lên làm giàu; tổ chức cho các già làng và người có uy tín tiêu biểu đi

tham quan, học hỏi một số địa phương trong nước; nhân dịp những ngày lễ trọng

của các tôn giáo, đã tổ chức thăm hỏi, tặng quà thể hiện sự quan tâm của Đảng và

Nhà nước; đồng thời, biểu dương, khen thưởng kịp thời những cốt cán có thành

tích cao trong các phong trào. Một số tỉnh đã phát huy tốt vai trò của già làng và

người có uy tín trong đồng bào DTTS tại chỗ như: Hội đồng bào tự quản ở huyện

Đơn Dương; Ban đại diện già làng ở huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng; Hội đồng già

làng ở tỉnh Kon Tum.

110

Mặc dù đã quan tâm, chú ý đến việc xây dựng và phát huy vai trò của

người có uy tín làm CTDV trong đồng bào DTTS, nhưng nhìn chung lực lượng

này còn mỏng và hiệu quả hoạt động chưa cao: Chủ yếu mới dừng lại ở việc

tuyên truyền, vận động quần chúng thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng,

Nhà nước; còn việc đi sâu vận động các đối tượng cá biệt, thu thập thông tin,

nắm bắt tình hình báo cáo cho cấp ủy và trực tiếp tham gia giải quyết những diễn

biến phức tạp ở cơ sở vẫn còn hạn chế. Một số cơ quan, đơn vị chưa thật sự quan

tâm đúng mức đến việc xây dựng và bồi dưỡng lực lượng cốt cán và người có uy

tín trong đồng bào DTTS.

Tiểu kết chƣơng 3

Những năm 2006-2010, trước bối cảnh tình hình mới, Đảng đã đẩy mạnh

lãnh đạo, chỉ đạo CTDV trên địa bàn Tây Nguyên; nhận thức về các quan điểm, chủ

trương, giải pháp đẩy mạnh CTDV trong toàn HTCT ngày càng đầy đủ và sâu sắc

hơn, tạo được sự đồng thuận của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong thực hiện

nhiệm vụ xây dựng Tây Nguyên giàu về kinh tế, ổn định về chính trị, xã hội, vững

mạnh về quốc phòng, an ninh. Với những chủ trương và giải pháp phù hợp, CTDV

trên địa bàn Tây Nguyên giai đoạn (2006-2010) được các cấp, các ngành và các lực

lượng triển khai một cách khá đồng bộ, có chiều sâu, với nhiều nội dung, hình thức phong

phú, mang lại hiệu quả thiết thực về nhiều mặt như: Hoạt động của các Đội CTPĐQC

chuyên trách, công tác kết nghĩa với buôn đồng bào DTTS, xây dựng lực lượng

nòng cốt làm CTDV… Qua đó, nâng cao trách nhiệm của cả HTCT trong việc đổi

mới nội dung, phương thức CTDV; đoàn kết, tập hợp, vận động nhân dân đẩy mạnh

các phong trào thi đua yêu nước, góp phần tạo nên những thành tựu quan trọng trên

các lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và giải quyết các lợi ích, nguyện

vọng của nhân dân; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được

nâng cao; khối đại đoàn kết dân tộc tiếp tục được giữ vững, dân chủ xã hội được

phát huy, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân được củng cố; HTCT cơ

sở từng bước vượt qua những hạn chế, yếu kém, vươn lên đáp ứng yêu cầu nhiệm

vụ mới; các tầng lớp nhân dân ngày càng thể hiện rõ hơn tính năng động, sáng tạo

trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.

111

Chƣơng 4

MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM

4.1. MỘT SỐ NHẬN XÉT

4.1.1. Ƣu điểm và nguy n nhân

4 1 1 1 Ưu điểm

Một là, Đảng luôn bám sát tình hình thực tế, kịp thời hoạch định chủ trương,

biện pháp để lãnh đạo công tác dân vận ở Tây Nguyên.

Trong bối cảnh tình hình Tây Nguyên diễn biến hết sức phức tạp và khó

khăn gay gắt, Bộ Chính trị đã kịp thời ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW; Thủ

tướng Chính phủ ra Quyết định số 168 và xây dựng nhiều chương trình, đề án quan

trọng nhằm tăng cường nguồn lực, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm

quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên. Đặc biệt, Nghị quyết số 10-NQ/TW của Bộ

Chính trị đã đề ra hệ quan điểm và giải pháp chiến lược đối với vùng Tây Nguyên

trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng; bảo đảm

yêu cầu phát triển Tây Nguyên toàn diện, bền vững. Trên cơ sở đó, CTDV của

Đảng được chú trọng tăng cường, xem đây là giải pháp cấp thiết, cơ bản, lâu dài

nhằm xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết các dân tộc, xây dựng "thế trận lòng

dân", bảo đảm cho sự ổn định và phát triển bền vững vùng Tây Nguyên.

Với những chủ trương đúng đắn, kịp thời; sự chỉ đạo sát sao của Trung ương

Đảng, Chính phủ và sự phối hợp, hỗ trợ kịp thời của các bộ, ban, ngành Trung

ương, các tỉnh và các lực lượng trên địa bàn Tây Nguyên đã tập trung chỉ đạo và tổ

chức thực hiện CTDV một cách quyết liệt, có trọng tâm, trọng điểm để vừa giải

quyết những vấn đề bức xúc trước mắt, vừa bảo đảm sự phát triển ổn định lâu dài;

nhất là đã tập trung chăm lo xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc; hết sức

coi trọng nhiệm vụ giữ vững ổn định chính trị, chăm lo sản xuất, đời sống cho đồng

bào vùng DTTS. Đồng thời, không ngừng đổi mới nhận thức, thực hiện tốt chính

sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước. Đặc biệt, các cấp ủy đảng

đã có những chủ trương, giải pháp kịp thời, cụ thể trong việc tăng cường công tác

tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng và xây dựng thực lực chính trị cơ sở; huy

112

động nhiều lực lượng của Trung ương và địa phương trong công tác tuyên truyền,

giáo dục, nâng cao nhận thức của quần chúng bằng nhiều hình thức với nội dung sát

hợp với từng đối tượng để xây dựng thế trận lòng dân; đồng thời, tập trung xây

dựng HTCT ở cơ sở, buôn làng và đội ngũ cán bộ DTTS từng bước đáp ứng yêu

cầu trong tình hình mới.

Cấp ủy đảng các tỉnh Tây Nguyên đã cụ thể hóa Nghị quyết số 10-NQ/TW

của Bộ Chính trị thành các kế hoạch, chương trình hành động: "Từ năm 2002 -

2007, các cấp ủy đảng đã ban hành gần 90 văn bản cụ thể hóa Nghị quyết số 10 trên

các lĩnh vực: phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng HTCT, củng cố quốc phòng, an

ninh mà trọng tâm là vùng đồng bào DTTS" [10]. Trong đó có những nghị quyết, kế

hoạch chuyên đề về CTVĐQC như: Tỉnh ủy Kon Tum ra Nghị quyết số 06-NQ/TU,

ngày 20-8-2002 Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động

quần chúng trong tình hình mới; Kế hoạch số 25-KH/TU, ngày 11-11-2002 Về vận

động quần chúng tăng cường đoàn kết, giữ vững ổn định, tương trợ sản xuất, xây

dựng thôn làng vững mạnh. Tỉnh ủy Gia Lai ra Nghị quyết số 06-NQ/TU, ngày 20-

4-2002 Về công tác dân vận trong tình hình mới…

Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW của Bộ Chính trị, Tỉnh

ủy Gia Lai khẳng định:

Cùng với việc thực hiện các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của địa

phương, tỉnh đã có nhiều chủ trương, giải pháp để đẩy mạnh CTVĐQC

trong vùng đồng bào DTTS với mục tiêu: ổn định an ninh chính trị,

không để xảy ra gây rối, bạo loạn, ngăn chặn vượt biên trái phép; giải

quyết có hiệu quả những bức xúc trong nội bộ nhân dân và phối hợp

chăm lo xây dựng HTCT, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội [96].

Hai là, thành lập và từng bước kiện toàn bộ phận chỉ đạo công tác dân vận

của Đảng ở Tây Nguyên

Là một cơ quan được thành lập trong bối cảnh vùng Tây Nguyên đứng trước

nhiều khó khăn gay gắt sau các cuộc biểu tình, bạo loạn đầu tháng 2-2001; cơ cấu tổ

chức, bộ máy Ban Chỉ đạo Tây Nguyên lúc đầu chưa hoàn chỉnh; chức năng, nhiệm

vụ, cơ chế hoạt động còn lúng túng; hầu hết các thành viên Ban Chỉ đạo hoạt động

113

theo chế độ kiêm nhiệm và ở xa địa bàn Tây Nguyên, nhưng với sự chỉ đạo kịp thời,

sâu sát của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Thủ tướng Chính phủ, Ban Chỉ đạo Tây

Nguyên từng bước được kiện toàn, phát huy vai trò của mình và đã có những đóng

góp tích cực vào sự ổn định, phát triển của vùng Tây Nguyên. Sự ra đời của Ban

Chỉ đạo Tây Nguyên đã tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, kịp thời của

Trung ương Đảng và Chính phủ đối với địa bàn Tây Nguyên.

Ban Chỉ đạo Tây Nguyên đã chủ động triển khai các hoạt động theo chức

năng, nhiệm vụ được giao: Thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc triển khai thực

hiện các nghị quyết, quyết định, chỉ thị của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, của Chính phủ

và Thủ tướng Chính phủ; trọng tâm là thực hiện Nghị quyết số 10 của Bộ Chính trị

và Quyết định số 168 của Thủ tướng Chính phủ, đã cùng với các các bộ, ban, ngành

liên quan và các tỉnh Tây Nguyên từng bước tháo gỡ khó khăn, giải quyết kịp thời

một số bức xúc về sản xuất, đời sống vùng đồng bào DTTS. Đặc biệt là kịp thời đề

xuất với Thủ tướng Chính phủ ban hành các quyết định về giải quyết đất ở, đất sản

xuất, nhà ở, nước sinh hoạt cho đồng bào nghèo; giao khoán rừng đến hộ gia đình

và cộng đồng; giải quyết việc làm, thu hút lao động DTTS vào nông, lâm trường;

thực hiện việc cho vay vốn sản xuất; kiên cố hóa trường học và thực hiện các chính

sách ưu đãi đối với học sinh, sinh viên DTTS,... góp phần cải thiện đời sống vật

chất và tinh thần của đồng bào DTTS.

Ban Chỉ đạo Tây Nguyên đã nghiên cứu, chỉ đạo, triển khai thí điểm việc

đăng ký điểm, nhóm để đưa đạo Tin lành vào quản lý và chống hoạt động tôn giáo

trái phép. Trên cơ sở đó đề xuất với Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Thông báo số

160-TB/TW, ngày 15-11-2004 và Thủ tướng Chính phủ ra Chỉ thị 01/2005/CT-

TTg, ngày 04-2-2005 Về một số công tác đối với đạo Tin lành, tạo bước chuyển

quan trọng về quan điểm, nhận thức, biện pháp giải quyết vấn đề đạo Tin lành ở

Tây Nguyên và đấu tranh xóa bỏ "Tin lành Đê Ga".

Ban Chỉ đạo Tây Nguyên đã tổ chức tốt công tác phối hợp nắm tình hình,

tham mưu với Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Thủ tướng Chính phủ về tình hình an

ninh chính trị ở Tây Nguyên. Phối hợp với các lực lượng kịp thời phát hiện, ngăn

chặn âm mưu tổ chức biểu tình, vượt biên nhiều nơi, nhiều lần, góp phần giữ vững

114

ổn định chính trị vùng Tây Nguyên. Đồng thời, tiến hành tổ chức khảo sát, nghiên

cứu các chuyên đề về an ninh chính trị, làm cơ sở để tham mưu, đề xuất với Trung

ương Đảng, các bộ, ngành xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân

dân ở biên giới và nội địa; tiến hành kiện toàn lực lượng chuyên trách chống

FULRO; hình thành các đội công tác, tăng cường phát động quần chúng đấu tranh

truy bắt, gọi hàng, bóc gỡ FULRO và xử lý những vấn đề an ninh nông thôn.

Ngoài ra, Ban Chỉ đạo Tây Nguyên còn nghiên cứu, đề xuất với Trung ương

Đảng, Thủ tướng Chính phủ về chủ trương xây dựng buôn, làng; phát triển đảng

viên trong vùng có đạo và vùng DTTS; củng cố, kiện toàn HTCT cơ sở; quy hoạch,

đào tạo, bố trí, sử dụng đội ngũ cán bộ người DTTS. Nghiên cứu, đề xuất thiết lập

cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành và các tỉnh biên giới hai nước Lào và

Campuchia trong việc phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh biên giới; đấu

tranh chống lại các luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc làm sai lệch tình hình Tây

Nguyên.

Báo cáo của Đoàn kiểm tra thực hiện Nghị quyết số 10 của Bộ Chính trị đã

đánh giá:

Ban Chỉ đạo Tây Nguyên đã chủ động triển khai các mặt công tác theo

chức năng, nhiệm vụ được giao, thường xuyên kiểm tra đôn đốc, tích cực

phối hợp với các bộ, ngành, địa phương nghiên cứu, đề xuất chủ trương,

giải pháp về công tác đấu tranh chống FULRO, bảo đảm quốc phòng, an

ninh, phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo;

xây dựng, kiện toàn HTCT cơ sở; đã có những đóng góp nhất định vào

sự ổn định và phát triển của vùng Tây Nguyên [10].

Thực tế cho thấy, Ban Chỉ đạo Tây Nguyên thực sự là đầu mối chỉ đạo và

phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan Trung ương với các tỉnh Tây Nguyên trong

việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 10 của Bộ Chính trị cũng như các chủ

trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần vào sự ổn định và phát triển

của Tây Nguyên.

Ba là, từng bước chỉ đạo đổi mới nội dung và phương thức công tác dân vận

của Đảng ở Tây Nguyên

115

Thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, Ban Chỉ đạo Tây Nguyên chủ trì

phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương, Ban Dân vận Trung ương, Ban Tổ chức

Trung ương đề ra những chủ trương, giải pháp kịp thời, cụ thể trong việc tăng

cường công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng và xây dựng, củng cố

HTCT và thực lực chính trị cơ sở vùng Tây Nguyên trong tình hình mới; đã chỉ đạo

Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân các tỉnh Tây Nguyên tăng cường công tác nắm dân, nắm

tình hình, giáo dục chính trị, tư tưởng cho quần chúng; xây dựng thực lực và HTCT

vững mạnh để chủ động xử lý các vấn đề an ninh ở cơ sở. Đồng thời, khẩn trương

củng cố, chấn chỉnh việc tổ chức thực hiện chính sách và công tác dân tộc ở cấp

huyện và cơ sở; tập trung chỉ đạo tháo gỡ khó khăn để triển khai các Quyết định của

Thủ tướng Chính phủ về phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo vùng đồng

bào DTTS; phối hợp giải quyết kịp thời những vấn đề bức xúc về đất đai, việc

làm, sản xuất và đời sống của đồng bào DTTS, tạo sự ổn định chính trị, xã hội ở

các buôn, làng. Đặc biệt là đã huy động nhiều lực lượng của Trung ương và địa

phương trong công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức chính trị, tư

tưởng của quần chúng bằng nhiều hình thức, nội dung sát hợp với từng đối tượng

để xây dựng thế trận lòng dân, củng cố niềm tin của đồng bào đối với Đảng, Nhà

nước; đồng thời, tập trung xây dựng thực lực HTCT ở cơ sở, nhất là ở các buôn,

làng và đội ngũ cán bộ DTTS.

Nội dung, phương thức tuyên truyền, vận động quần chúng từng bước được

đổi mới. Các cấp ủy đảng đã thông qua chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội

đi sâu, đi sát cơ sở, tổ chức tuyên truyền, vận động quần chúng thực hiện các chủ

trương, chính sách, xây dựng các phong trào hành động của quần chúng thực hiện

các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của địa phương. Các lực lượng

làm CTDV trên địa bàn đã có những nội dung tuyên truyền, vận động rõ ràng, thiết

thực gắn với yêu cầu thiết thực của đồng bào như: Xóa đói giảm nghèo, ổn định sản

xuất, đời sống ở vùng khó khăn, chú trọng đến vận động trọng điểm, đối tượng cá

biệt, chú ý phát huy vai trò của già làng, trưởng buôn, trưởng các dòng họ, các chức

sắc tôn giáo…

Với phương châm "Tỉnh bám xã, huyện bám buôn làng, xã bám hộ dân",

116

Ban Thường vụ Tỉnh ủy Gia Lai đã ban hành quyết định phân công 59

sở, ban, ngành, Mặt trận, các đoàn thể phụ trách và làm công tác vận

động quần chúng tại các xã trọng điểm về an ninh... Ban Thường vụ Tỉnh

ủy Đắk Lắk có quyết định thành lập đội công tác vận động quần chúng

chuyên trách ở 3 cấp (cấp tỉnh 01 đội, với 29 thành viên; cấp huyện 15

đội, với 83 thành viên; cấp xã 126 đội, với 601 thành viên)… Ban

Thường vụ Tỉnh ủy Đắk Nông có đề án thành lập 20 đội công tác vận

động quần chúng - xây dựng cơ sở [34].

Bên cạnh việc đẩy mạnh CTPĐQC, các tỉnh Tây Nguyên đều chủ trương chỉ

đạo phân công các cơ quan của tỉnh, huyện, các doanh nghiệp và đơn vị lực lượng

vũ trang đứng chân trên địa bàn kết nghĩa giúp đỡ các buôn đồng bào DTTS. Đây là

một phương thức mới trong CTDV ở Tây Nguyên và nó đã trở thành một phong

trào sâu rộng, được các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị tích cực hưởng ứng,

triển khai thực hiện với nhiều hình thức phong phú, đem lại hiệu quả về nhiều mặt.

Hàng nghìn cơ quan, đoàn thể, doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và cán bộ, nhân

dân vùng đồng bào Kinh đã đóng góp công sức, tiền của giúp đỡ các buôn làng

DTTS tại chỗ phát triển sản xuất, ổn định đời sống, góp phần thiết thực tăng cường

tình đoàn kết giữa đồng bào Kinh với đồng bào DTTS, chống âm mưu chia rẽ của

bọn phản động FULRO; đồng thời, góp phần chống quan liêu, xa dân trong đội ngũ

cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức các cơ quan Đảng và Nhà nước.

Cùng với các hình thức trên, các tỉnh Tây Nguyên đều thực hiện chủ trương

tăng cường cán bộ của tỉnh, huyện về cơ sở, đặc biệt trong những thời điểm phức

tạp về an ninh chính trị, đã huy động, tăng cường hàng ngàn cán bộ, kể cả cán bộ

hưu trí có uy tín, có kinh nghiệm về cơ sở, buôn làng để trực tiếp làm công tác

tuyên truyền, vận động quần chúng chống biểu tình, bạo loạn và vượt biên trái phép.

"Lúc cao điểm đã huy động trên 12 nghìn cán bộ xuống cơ sở làm công tác tuyên

truyền, giáo dục, vận động quần chúng dưới nhiều hình thức" [24]; "Chỉ riêng tỉnh

Đắk Lắk trong đợt 25-12-2004 đã huy động 1.581 cán bộ các ngành của tỉnh tăng

cường xuống cơ sở" [33].

Các lực lượng vũ trang (Quân đội, Công an, Biên phòng) trên địa bàn đều

117

tích cực tham gia làm CTDV với nhiều hình thức phong phú. Ngoài hình thức kết

nghĩa với các địa phương, cơ sở; ký kết chương trình phối hợp hoạt động với Mặt

trận và các đoàn thể, lực lượng quân đội của Bộ Quốc phòng, của Quân khu V đứng

chân trên địa bàn và bộ đội địa phương các tỉnh Tây Nguyên đã tổ chức nhiều cuộc

hành quân dã ngoại giúp dân, làm CTDV theo phương châm "4 cùng" đó là: cùng

ăn, cùng ở, cùng làm, cùng nói tiếng dân tộc và "4 bám" đó là: bám cấp ủy, chính

quyền địa phương; bám địa bàn; bám nhân dân và bám các đối tượng phản động.

Thực hiện Chỉ thị số 123 của Bộ Quốc phòng, Bộ Tư lệnh Quân khu V

đã thành lập 70 đội công tác, với gần 700 cán bộ, chiến sĩ phân công về

các xã vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, phối hợp với địa phương vận

động quần chúng. Bộ đội Biên phòng trên địa bàn cũng phân công 22 cán

bộ, sĩ quan về tham gia cấp ủy, chính quyền các xã vùng biên. Bộ Công

an có chủ trương tăng cường sĩ quan, cán bộ cho địa bàn Tây Nguyên,

nhất là các xã trọng điểm về an ninh chính trị để phối hợp và giúp cấp

ủy, chính quyền đẩy mạnh "Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ

quốc", xây dựng thế trận an ninh nhân dân [34].

Các tỉnh và các lực lượng trên địa bàn Tây Nguyên đã quan tâm xây dựng

những quy chế, quy định, phương thức phối hợp, tổng kết rút kinh nghiệm trong quá

trình tổ chức thực hiện CTDV; đã có những cam kết giữa các tổ chức trong HTCT

để làm CTDV, gắn nội dung CTDV với cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng;

cải cách hành chính và những nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.

Bốn là, sự lãnh đạo sát sao của Đảng đã từng bước nâng cao hiệu quả công

tác dân vận ở Tây Nguyên.

Thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, CTDV của

Đảng ngày càng khẳng định được vị trí, vai trò quan trọng, bảo đảm cho Tây

Nguyên cơ bản giữ vững an ninh chính trị và phát triển bền vững. Chất lượng, hiệu

quả CTDV của Đảng được thể hiện trên các lĩnh vực:

Công tác dân vận đã góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội ở Tây Nguyên

phát triển.

Cùng với chính sách phát triển miền núi chung trong cả nước, Đảng và

118

Chính phủ đã có nhiều chính sách đặc thù đối với vùng DTTS Tây Nguyên nhằm

đẩy mạnh thực hiện chính sách dân tộc, tập trung giải quyết những vấn đề cấp bách

về đất đai, nhà ở, giao rừng, giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời

sống của đồng bào các dân tộc.

Giá trị tổng sản phẩm (GDP) năm 2010 tăng 2,8 lần so với năm 2001.

Thu nhập bình quân đầu người năm 2010 tăng lên 15,5 triệu đồng (bằng

67% mức bình quân của cả nước). Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng

hướng: tỷ trọng nông - lâm nghiệp trong GDP giảm từ 71,4% năm 2001

xuống còn 46,8% năm 2010; tỷ trọng công nghiệp - xây dựng tăng từ

10,8% năm 2001 lên 25,6% năm 2010 và dịch vụ tăng từ 17,8% năm

2001 lên 27,6% năm 2010. Tổng thu ngân sách năm 2010 tăng 7 lần so

với năm 2001… Kết cấu hạ tầng nông thôn có bước phát triển khá: 91%

số xã có đường ô tô đến trung tâm đi được cả hai mùa (24,2% được nhựa

hóa), 98% số thôn buôn có điện lưới quốc gia, 92% số hộ được dùng

điện, 68% hộ được dùng nước sạch, 100% số xã đã có trường tiểu học,

trường mẫu giáo, trạm xá, được phủ sóng phát thanh truyền hình và nối

mạng thông tin viễn thông, 95% số xã có báo viết đến trong ngày [24];

(Phụ lục 5,6).

Cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân

cư" gắn với xây dựng buôn làng văn hóa và xây dựng nông thôn mới được các tỉnh

Tây Nguyên triển khai khá đồng bộ, đạt được nhiều kết quả thiết thực, có sức lan

tỏa sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân, tạo môi trường văn hóa lành mạnh trong

mỗi gia đình và toàn xã hội. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các cấp đã tăng cường tuyên

truyền, quán triệt 5 nội dung của cuộc vận động đến từng khu dân cư và hộ gia đình.

Ban Chỉ đạo Cuộc vận động từ tỉnh đến cơ sở được chú trọng kiện toàn, từng bước

nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động. Khối đại đoàn kết các dân tộc trên địa bàn

Tây Nguyên được củng cố và tăng cường. Thành công của Đại hội Đại đoàn kết các

dân tộc Tây Nguyên nhân kỷ niệm 60 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Đại

hội các DTTS miền Nam và Lễ đón nhận Bằng công nhận di sản "Không gian văn

hóa cồng chiêng Tây Nguyên" (3-2006); Ngày Hội đại đoàn kết tuổi trẻ các dân tộc

119

Tây Nguyên lần thứ nhất (1-2007); Hội nghị biểu dương Già làng tiêu biểu khu vực

Tây Nguyên (3-2009) và Đại hội đại biểu các DTTS lần thứ nhất (ở cấp huyện và

cấp tỉnh năm 2009) là minh chứng thể hiện niềm tin và ý chí của đồng bào các dân

tộc Tây Nguyên trong việc chung sức, chung lòng giữ vững ổn định chính trị - xã

hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, xây dựng Tây Nguyên phát triển toàn diện, bền

vững. Đây là nền tảng quan trọng, góp phần đấu tranh làm thất bại âm mưu xuyên

tạc, kích động, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc của các thế lực thù địch.

Công tác dân vận góp phần giải quyết vấn đề FULRO, giữ vững an ninh

chính trị.

Để bảo đảm quốc phòng, an ninh và đấu tranh giải quyết vấn đề FULRO,

nhiệm vụ trung tâm và thường xuyên đặt ra đối với Trung ương Đảng và Đảng bộ

các tỉnh Tây Nguyên là huy động các lực lượng và cả HTCT dồn sức cho công tác

bám dân, bám cơ sở, tăng cường CTVĐQC, giáo dục chính trị tư tưởng, tạo ra

chuyển biến tích cực trong nhận thức của đồng bào các dân tộc. Các tỉnh Tây

Nguyên đã thực hiện chủ trương tăng cường cán bộ xuống cơ sở giúp HTCT cơ sở

nắm tình hình, xử lý vấn đề an ninh; phân công các cơ quan, đơn vị giúp đỡ, kết

nghĩa với các xã, buôn làng vùng DTTS; thành lập các đội công tác chuyên trách

phát động quần chúng, không để trống lực lượng ở những địa bàn trọng điểm, khó

khăn phức tạp.

Công tác đấu tranh bóc gỡ FULRO và phòng, chống biểu tình, bạo loạn được

tập trung chỉ đạo thường xuyên, kịp thời và có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ,

ngành chức năng với các tỉnh Tây Nguyên. Nhờ vậy, đã phát hiện âm mưu, ý đồ,

phương thức, thủ đoạn của bọn phản động, giúp cho việc nắm tình hình, tổ chức đấu

tranh ngăn chặn, phòng chống ngày càng chủ động hơn.

Từ năm 2001 đến năm 2010, bọn phản động FULRO đã chỉ đạo, kích

động trên 130 đợt biểu tình, bạo loạn nhưng hầu hết đã bị phát hiện, ngăn

chặn, vô hiệu hóa. Lực lượng chức năng đã lập nhiều chuyên án, liên tục

tổ chức truy bắt, vận động, gọi hàng. Đến giữa năm 2009 đã giải quyết

xong số FULRO lẩn trốn ra rừng (gần 400 tên); ngăn chặn ý đồ hình

thành lực lượng vũ trang, gây nổ, khủng bố. Phát hiện, đấu tranh xóa 395

120

khung tổ chức FULRO và 299 khung tổ chức "Tin lành Đê Ga" các cấp;

bóc gỡ, xử lý gần 14.200 đối tượng tham gia hoạt động FULRO (khoảng

3.100 đối tượng cốt cán, cầm đầu) [24].

Với quan điểm đấu tranh giải quyết vấn đề FULRO, trước hết là giải quyết

vấn đề chính trị, các cấp, các ngành đã thực hiện tốt phương châm: Trấn áp mạnh số

cầm đầu để vô hiệu hóa vai trò, hoạt động của chúng; đồng thời lấy biện pháp kiên

trì vận động, giáo dục, thuyết phục số người bị lôi kéo, lừa mị là chính để họ thấy rõ

âm mưu, ý đồ của bọn phản động và từ bỏ những việc làm sai trái.

Công tác giáo dục, cảm hóa đối tượng liên quan đến FULRO đang sinh sống

tại cộng đồng được chú ý, tổ chức ngày càng tốt hơn; phát huy được trách nhiệm

của cấp ủy, chính quyền các cấp và vai trò nòng cốt của lực lượng Công an. Nhiều

địa phương, cơ sở đã có những chủ trương, chỉ đạo cụ thể, cách làm hay, kinh

nghiệm tốt trong việc mở lớp giáo dục tập trung; tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của

các chức sắc tôn giáo, người có uy tín trong việc giáo dục cảm hóa đối tượng, giúp

họ hòa nhập với cộng đồng. Nhiều đối tượng đã từ bỏ hoạt động FULRO, tự nguyện

tham gia công tác tuyên truyền, vận động quần chúng, phản bác âm mưu của bọn

phản động.

Công tác đấu tranh phòng, chống vượt biên trái phép đạt được những kết quả

cơ bản. Bằng công tác vận động, giáo dục, quản lý địa bàn, triệt phá các đường dây

câu móc, các lực lượng trên địa bàn "đã ngăn ngừa tại chỗ gần 3.200 trường hợp

chuẩn bị vượt biên trái phép, phối hợp với Campuchia ngăn chặn 1.600 người vượt

biên. Đến cuối năm 2010, vấn đề người DTTS vượt biên không còn là điểm nóng về

an ninh chính trị ở Tây Nguyên" [24].

Công tác bảo đảm an ninh nông thôn được tăng cường, trong đó chú trọng

tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc về đời sống của đồng bào DTTS. "Từ

năm 2001 đến năm 2010, toàn vùng Tây Nguyên đã xảy ra gần 2.500 vụ việc có liên

quan đến đồng bào DTTS, trong đó chủ yếu là tranh chấp, khiếu kiện về đất đai

giữa dân với các đơn vị, doanh nghiệp, cơ quan nhà nước; tranh chấp, mâu thuẫn

trong nội bộ dân cư" [24]. Hầu hết các vụ việc đã được tập trung chỉ đạo, giải quyết

kịp thời; nhiều tỉnh đã thành lập Ban Chỉ đạo trực thuộc cấp ủy để chủ động rà soát,

121

xử lý tranh chấp, khiếu kiện, trực tiếp đối thoại với dân, kết hợp xử lý số quá khích

với công tác tuyên truyền giáo dục, vận động quần chúng, không để bọn phản động

kích động gây phức tạp tình hình.

Góp phần xây dựng hệ thống chính trị cơ sở, trọng điểm là vùng dân tộc

thiểu số.

Trong những năm 2001-2010, Trung ương Đảng và Đảng bộ các tỉnh ở Tây

Nguyên đã có nhiều chủ trương, giải pháp tập trung xây dựng, củng cố, kiện toàn bộ

máy đảng, chính quyền, Mặt trận, đoàn thể ở xã, buôn làng và chuyển trọng tâm

hoạt động của toàn bộ HTCT xuống địa bàn dân cư; điều động hàng trăm cán bộ về

các xã trọng điểm, khó khăn phức tạp giữ cương vị chủ chốt. Thực hiện chủ trương

của Bộ Chính trị: "Các tỉnh và các huyện, xã trọng điểm ở vùng Tây Nguyên được

bổ sung một đồng chí Phó Bí thư cấp ủy chuyên trách để chỉ đạo việc xây dựng

HTCT cơ sở, bảo đảm an ninh, quốc phòng và chăm lo thực hiện các chính sách đối

với đồng bào DTTS tại chỗ" [7] và Hướng dẫn số 32-HD/BTCTW, ngày 13-10-

2004 của Ban Tổ chức Trung ương Về việc bổ sung Phó Bí thư các huyện, xã trọng

điểm vùng Tây Nguyên, toàn vùng đã "bổ sung 26 Phó Bí thư cấp ủy huyện, 128

Phó Bí thư cấp ủy xã chuyên trách xây dựng HTCT ở các địa bàn trọng điểm; huy

động hàng nghìn cán bộ các ngành, các cấp và lực lượng vũ trang hình thành các

đội công tác tham gia làm CTDV; xây dựng, kiện toàn, củng cố cơ sở, giúp cơ sở

nắm dân, nắm tình hình, vận động quần chúng" [24]. "Từ năm 2003 đến năm 2010,

các tỉnh Tây Nguyên đã tăng cường 334 cán bộ từ tỉnh, huyện về cơ sở" [42]. Bên

cạnh đó, các tỉnh tập trung công tác phát triển đảng viên kết hợp với điều động đảng

viên đến vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào DTTS, vùng đồng bào có đạo để giải

quyết tình trạng "trắng" đảng viên và tổ chức đảng. Kết quả, "trong 10 năm (2001-

2010) đã thu hẹp số thôn, buôn "trắng" đảng viên từ 13,81% xuống còn 1,25%. Đã

phát triển 59.000 đảng viên mới (trong đó 20,6% là người DTTS; 4,52% là người có

đạo) với gần 51% sinh hoạt tại cơ sở, đưa tổng số đảng viên lên 145.000 người, tăng

1,9 lần so với năm 2001" [24] (Phụ lục 11).

Công tác quy hoạch, tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng đội ngũ cán

bộ người DTTS đã được các tỉnh Tây Nguyên quan tâm.

122

Toàn vùng, đã quy hoạch trên 11.000 lượt cán bộ cơ sở (có 2.600 người

DTTS). Trong Hội đồng nhân dân cấp xã, đại biểu người DTTS có

6.576/17.488 người, chiếm 37,6%; trong cơ cấu đảng, chính quyền, Mặt

trận và đoàn thể cấp xã có 6.989 cán bộ, công chức là người DTTS,

chiếm 29,06% tổng số cán bộ, công chức cấp xã. Đội ngũ cán bộ chủ

chốt người DTTS ở thôn, buôn là 10.366 người, chiếm 28,32% [24].

Công tác dân vận góp phần giải quyết vấn đề đạo Tin lành, thực hiện chính

sách tôn giáo.

Quán triệt các chủ trương của Đảng và pháp luật nhà nước về tôn giáo, các

tỉnh Tây Nguyên đã tập trung chỉ đạo thực hiện tốt chính sách tôn giáo, góp phần

tích cực vào sự ổn định chính trị trên địa bàn. Đặc biệt, đối với đạo Tin lành, đã có

những chủ trương, giải pháp phù hợp với tình hình thực tế, từng bước giải quyết

nhu cầu sinh hoạt bình thường của đồng bào có đạo theo quy định của pháp luật;

đồng thời kiên quyết đấu tranh xóa bỏ "Tin lành Đê Ga".

Nhờ sự chỉ đạo quyết liệt của Trung ương, các cấp ủy, chính quyền các tỉnh

Tây Nguyên đã có những chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và thái độ đối với

đạo Tin lành: Đã coi việc tin và theo đạo Tin lành là nhu cầu tín ngưỡng của một bộ

phận quần chúng, nhất là một bộ phận không nhỏ đồng bào DTTS; từ đó, đẩy nhanh

việc công nhận, đăng ký sinh hoạt điểm nhóm và tăng cường công tác quản lý nhà

nước đối với đạo Tin lành. Đây là việc làm rất cần thiết, để tranh thủ sự đồng tình,

ủng hộ của đông đảo tín đồ, chức sắc tôn giáo; làm thất bại âm mưu lôi kéo, lợi

dụng đạo Tin lành của các thế lực thù địch; từng bước giải tỏa được những nghi vấn

và sức ép của cộng đồng quốc tế về vấn đề "tôn giáo, nhân quyền" ở Tây Nguyên.

Ban Chỉ đạo Tây Nguyên đã khẳng định: "Việc thực hiện chủ trương bình thường

hóa đối với đạo Tin lành đã giải quyết được một trong những vấn đề phức tạp và

gay cấn nhất ở Tây Nguyên, là một trong những khâu đột phá có ý nghĩa quan trọng

trong việc góp phần ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự xã hội ở vùng đồng

bào DTTS" [24].

Những thành công và kết quả trên đã thể hiện rõ sự đúng đắn về chủ trương,

chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc chăm lo đời sống của nhân dân; đấu

123

tranh chống các âm mưu, thủ đoạn phá hoại của bọn phản động FULRO và các thế

lực thù địch; chú trọng việc xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc; phát triển toàn

diện và bền vững vùng Tây Nguyên.

4 1 1 2 Nguyên nhân của ưu điểm

Thứ nhất, những kết quả đạt được gắn liền với sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời,

sâu sát của Đảng và Nhà nước, được thể hiện ở những chủ trương, chính sách đúng

đắn, kịp thời, phù hợp với đặc thù của cộng đồng dân cư và sát với tình hình thực tế

ở Tây Nguyên; đã tập trung mọi nguồn lực để giải quyết đồng bộ cả về chính trị, tư

tưởng, kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và xây dựng HTCT. Về kinh tế - xã hội,

cùng với việc đầu tư để có sự phát triển chung của vùng, Đảng và Nhà nước đã có

những chủ trương, chính sách cụ thể tập trung đầu tư chăm lo đến sản xuất và đời

sống của đồng bào DTTS tại chỗ; về an ninh chính trị đã coi trọng việc giáo dục

nâng cao nhận thức tư tưởng, chính trị của quần chúng, thực hiện chính sách khoan

dung với những người lầm đường bị lừa mị, mua chuộc là chính; đồng thời, xử lý

nghiêm những tên cầm đầu ngoan cố theo pháp luật...; mặt khác, chăm lo kiện toàn,

xây dựng các buôn làng, nâng cao vai trò tự quản và quyền làm chủ của quần chúng

gắn với xây dựng đội ngũ cán bộ DTTS.

Thứ hai, các tỉnh và các lực lượng trên địa bàn Tây Nguyên đã quán triệt

quan điểm chỉ đạo của Trung ương; nâng cao nhận thức về vai trò, tầm quan trọng

của CTDV; tập trung lãnh đạo, chỉ đạo đúng mức CTDV tham gia tích cực, chủ

động vào việc giải quyết những vấn đề vừa cơ bản, vừa cấp bách mang tính đột phá

như: cấp đất sản xuất, đất ở, hỗ trợ về nhà ở cho đồng bào DTTS thiếu đất và nhà ở

dột nát; tạo công ăn việc làm, xóa đói giảm nghèo cho đồng bào DTTS, thực hiện

chủ trương công tác đối với đạo Tin lành, xây dựng HTCT cơ sở, xây dựng và củng

cố khối đoàn kết dân tộc, phát huy sức mạnh của quần chúng nhân dân thực hiện

nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ an ninh Tổ quốc.

Thứ ba, trong quá trình tổ chức thực hiện CTDV, đã có sự chỉ đạo phối hợp

chặt chẽ giữa các bộ, ban, ngành Trung ương với các địa phương và các lực lượng

trên địa bàn Tây Nguyên trong việc giải quyết kịp thời những vấn đề bức xúc về

kinh tế - xã hội, những vấn đề liên quan đến dân tộc, tôn giáo; xử lý đúng đắn tình

124

hình an ninh chính trị ở những địa bàn trọng điểm với phương châm, phương pháp

phù hợp với từng đối tượng trong từng trường hợp cụ thể... tạo nên sự đồng thuận

trong xã hội và sự đoàn kết giữa các cộng đồng dân tộc trên địa bàn.

4.1.2. Hạn chế và nguy n nhân

4 1 2 1 Hạn chế

Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình lãnh đạo, tổ chức thực hiện

CTDV của Đảng trên địa bàn Tây Nguyên còn một số hạn chế, khuyết điểm:

Một là, một số cấp ủy đảng lãnh đạo, chỉ đạo công tác nắm dân, nắm tình

hình, xử lý tình huống ở cơ sở chưa kịp thời, chủ động, nhạy bén.

Một số cấp ủy đảng còn buông lỏng và xem nhẹ CTDV, chưa nắm chắc được

dân, nắm chắc được tình hình. Vì thế, vẫn còn một bộ phận đồng bào DTTS mơ hồ,

cả tin vào những lời dụ dỗ của kẻ xấu, nuôi dưỡng và che giấu những kẻ phản động,

tham gia vào tổ chức FULRO. Trước năm 2001, ở Tây Nguyên nhiều nơi, cấp ủy,

chính quyền chủ quan, mất cảnh giác trước những âm mưu, thủ đoạn chống phá của

kẻ địch, nên bị bất ngờ khi địch tổ chức biểu tình, bạo loạn (2-2001); ba năm sau (4-

2004), kẻ địch lại kích động, lôi kéo tổ chức biểu tình, bạo loạn với quy mô lớn hơn

và tính chất chính trị phản động, phức tạp hơn; mặc dù lần này không bị bất ngờ

nhưng không ít địa phương, cơ sở vẫn chưa nhận thức đầy đủ về âm mưu, thủ đoạn

của địch, vẫn để chúng tuyên truyền, lôi kéo đồng bào DTTS tham gia biểu tình ở

nhiều buôn, làng. Thực tế trên cho thấy, việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác nắm dân,

nắm tình hình chưa chắc, không xử lý được tình huống ngay từ cơ sở, để lây lan và

gây nên hậu quả nghiêm trọng, kéo dài. Công tác dân vận ở Tây Nguyên chưa được

triển khai một cách thường xuyên, liên tục; vẫn còn tình trạng làm theo kiểu "thời

vụ" vào các thời điểm nhạy cảm, tập trung ở những địa bàn xuất hiện "điểm nóng",

nên còn bị động đối phó, chạy theo sự vụ, giải quyết tình thế.

Việc tổ chức thực hiện các chính sách về đất đai, nhà ở, việc làm, chuyển

đổi tập quán sản xuất ở nhiều địa bàn nông thôn đồng bào DTTS còn chậm và lúng

túng, nên chưa thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu.

Mục tiêu phát triển sản xuất, xây dựng buôn làng, sớm đưa nông thôn

vùng DTTS thoát ra khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu chưa hoàn thành.

125

Vẫn còn hàng trăm buôn làng chưa có điện, thiếu đường giao thông, thủy

lợi, trường mẫu giáo và nhiều cơ sở hạ tầng thiết yếu khác. Việc tổ chức

lại sản xuất còn trong tình trạng manh mún; chuyển đổi tập quán từ tự

túc tự cấp sang sản xuất hàng hóa chậm; chưa thực hiện có kết quả chính

sách giao rừng cho cộng đồng DTTS tại chỗ. Kết quả giải quyết việc

làm, xóa đói giảm nghèo chưa vững chắc; chưa lường được sự phức tạp

trong việc giải quyết đất đai ở vùng DTTS tại chỗ… hiện vẫn còn 11

nghìn hộ đồng bào DTTS thiếu đất sản xuất nhưng không có quỹ đất dự

phòng để giải quyết [24].

Hai là, nội dung, phương pháp công tác dân vận chưa theo kịp diễn biến của

tình hình, còn đơn giản một chiều, chưa phù hợp với từng đối tượng.

Trong khi kẻ địch hàng ngày, hàng giờ len lỏi vào từng gia đình, từng người

dân rỉ rả, tuyên truyền chia rẽ khối đoàn kết các dân tộc; xuyên tạc đường lối, chủ

trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, gây tâm lý hoài nghi, chống đối trong

nhân dân, thì CTDV của HTCT chưa được triển khai thực hiện thường xuyên, nội

dung còn thiếu cụ thể, linh hoạt và sát hợp với từng đối tượng. Theo kết quả điều tra

xã hội học của tác giả Trương Minh Tuấn: Khi trả lời câu hỏi vấn đề đáp ứng nhu

cầu tiếp nhận thông tin của đồng bào DTTS, với nội dung tuyên truyền về chủ

trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước của công tác tuyên

truyền thời gian qua như thế nào, thì chỉ có: "42,4% số người được hỏi trả lời đã

đáp ứng được nhu cầu tiếp nhận thông tin của cá nhân mình; 44,9% trả lời đáp ứng

được một phần; 6,2% trả lời chưa đáp ứng được và 6,4% có ý kiến khó trả lời" [109,

phụ lục 1, tr.iv]. Vì vậy, nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước chưa

đến được với dân; việc phát huy tính chủ động, sáng tạo, tự giác tham gia các phong

trào cách mạng của nhân dân còn hạn chế; đặc biệt, trong cán bộ, đảng viên và nhân

dân vẫn có tư tưởng chủ quan, mất cảnh giác trước những âm mưu, thủ đoạn của kẻ

thù; một bộ phận đồng bào DTTS vẫn còn tư tưởng ly khai, mặc cảm và kỳ thị dân

tộc, ngộ nhận về FULRO và theo “Tin lành Đê Ga”. "Thế trận lòng dân chưa vững

chắc; chưa tập trung đúng mức cho công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư

tưởng để bồi dưỡng, nâng cao nhận thức, giác ngộ chính trị cho các tầng lớp nhân

dân" [125].

126

Công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của quần chúng

chưa thường xuyên, nội dung chưa sắc bén và chưa sát với từng đối

tượng, hình thức còn xơ cứng, chưa theo kịp diễn biến tình hình tư tưởng

của quần chúng. Đội ngũ cán bộ công tác quần chúng, trực tiếp là HTCT

cơ sở chưa được quan tâm bồi dưỡng về nội dung và phương pháp nên

còn bất cập trong việc giải quyết những băn khoăn, vướng mắc, bức xúc

của nhân dân, chưa tạo ra "sức đề kháng" để chủ động chống lại sự tuyên

truyền và tác động của bọn FULRO [21].

Công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng đối với đồng bào DTTS ngày

càng khó khăn, lúng túng, chưa thật phù hợp với nhận thức chung của đồng bào;

việc tổ chức bám dân, phát động quần chúng còn thiếu sức hấp dẫn, lôi cuốn, chưa

làm cho đồng bào hiểu rõ sự chăm lo của Đảng, Nhà nước và âm mưu xuyên tạc,

chống phá của các thế lực thù địch. Bên cạnh đó, việc lãnh đạo, giáo dục cho cán

bộ, đảng viên và đồng bào Kinh tôn trọng, bảo đảm quyền lợi, tập quán của đồng

bào DTTS chưa tốt, vẫn xảy ra nhiều trường hợp vi phạm lợi ích, tập quán của đồng

bào như: Tranh chấp đất đai, chặt phá rừng; giải quyết đền bù, tái định cư cho đồng

bào ở các vùng ngập lòng hồ thủy điện, thủy lợi; giải quyết mâu thuẫn trong nội bộ

dân cư chưa chú trọng đến tâm lý, tập tục và nhận thức của đồng bào, gây bức xúc,

dễ bị kẻ xấu kích động biến thành mâu thuẫn, thù hằn dân tộc hết sức nguy hiểm.

Ba là, hệ thống chính trị cơ sở, nhất là trong vùng dân tộc thiểu số, vùng tôn

giáo chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.

Mặc dù đã được quan tâm củng cố, kiện toàn nhưng HTCT cơ sở nhiều nơi

năng lực hoạt động còn yếu, chưa nắm chắc dân, nắm chắc tình hình ở từng buôn

làng để chủ động giải quyết kịp thời những vấn đề đặt ra ở cơ sở và những bức xúc

về kinh tế - xã hội của quần chúng, nhất là chưa kịp thời đấu tranh ngăn chặn âm

mưu hoạt động của bọn FULRO. Vai trò, trách nhiệm lãnh đạo, quản lý của cấp ủy,

chính quyền có nơi còn yếu kém, chưa đảm đương được nhiệm vụ lãnh đạo phát

triển kinh tế - xã hội; phát hiện, xử lý những vấn đề phát sinh; vẫn còn tình trạng

quan liêu, xa dân, chưa thực sự chăm lo đến sản xuất và đời sống của đồng bào

DTTS. Trình độ, năng lực của một bộ phận cán bộ còn thấp, bản lĩnh chính trị chưa

127

thực sự vững vàng. Công tác quy hoạch, tạo nguồn, đào tạo và sử dụng đội ngũ cán

bộ người DTTS các cấp, nhất là ở cơ sở chưa được quan tâm đúng mức, chưa đáp

ứng yêu cầu trước mắt và chuẩn bị đội ngũ kế cận; công tác xây dựng tổ chức đảng,

phát triển đảng viên ở vùng DTTS, vùng đồng bào có đạo còn bất cập; vấn đề xây

dựng buôn làng tự quản chưa được quan tâm đúng mức; chế độ, chính sách đối với

cán bộ cơ sở, nhất là ở những địa bàn khó khăn, phức tạp còn bất cập nên chưa thu

hút, động viên cán bộ yên tâm công tác, bám buôn làng.

Hệ thống chính trị bộc lộ nhiều yếu kém, nhất là ở cơ sở; công tác

giáo dục chính trị, tư tưởng chưa được chú trọng đúng mức; tình trạng

quan liêu, xa dân, chưa nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân dân và

những diễn biến ở cơ sở còn phổ biến; năng lực quản lý, điều hành của

cấp ủy, chính quyền chưa đủ mạnh để giải quyết các bức xúc phát sinh

từ cơ sở [96].

Đặc biệt, qua các vụ biểu tình, bạo loạn xảy ra trên địa bàn cho thấy rõ: Hệ

thống chính trị ở cơ sở, nhất là ở vùng DTTS, vùng tôn giáo còn nhiều hạn chế,

không đủ sức nắm dân, nắm tình hình, ngăn chặn và xử lý biểu tình, khiếu kiện tại

chỗ, nên vẫn có nguy cơ xảy ra biểu tình trên phạm vi hẹp, nhỏ lẻ. Nếu xảy ra biểu

tình, khiếu kiện đồng loạt ở một số buôn làng trong một xã; một vài xã trong một

huyện thì lực lượng của xã, huyện không đủ sức tự giải quyết.

Công tác lãnh đạo củng cố, kiện toàn tổ chức Mặt trận, các đoàn thể, hội

quần chúng ở cơ sở tuy đã được quan tâm nhưng chưa tạo được sự chuyển biến

mang tính đột phá; hiệu quả hoạt động của một số hội, đoàn thể quần chúng ở cơ sở,

thôn, buôn còn nặng về hình thức và có xu hướng "hành chính hóa"; một số hội,

đoàn thể chưa quan tâm phát triển đoàn viên, hội viên; tổ chức đoàn, hội ở cơ sở

thôn, buôn nhiều nơi không thu hút, tập hợp được đoàn viên, hội viên. Đặc biệt,

công tác tập hợp, thu hút thanh niên, tuyên truyền giáo dục chính trị, tư tưởng và

giải quyết công ăn việc làm cho thanh niên DTTS còn yếu, không có những mô

hình thực sự hấp dẫn và thiết thực để thu hút nên phần lớn thanh niên DTTS đứng

ngoài tổ chức, bị tôn giáo và các phần tử xấu lôi kéo.

Công tác bám dân, bám cơ sở, tuyên truyền, vận động quần chúng chưa

128

thực sự đi vào chiều sâu để tập trung xây dựng cốt cán, thực lực chính trị

và nắm chắc tâm tư nguyện vọng của đồng bào. Hoạt động của Mặt trận

Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể nhiều nơi còn mang tính hình thức, chưa

đáp ứng yêu cầu, nhất là công tác tập hợp, thu hút thanh niên. Việc tuyên

truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng cho thanh niên DTTS còn rất hạn

chế. Hiệu quả hoạt động của các đội công tác và các sở, ngành, cơ quan

phụ trách xã trọng điểm còn thấp [10].

Bốn là, lãnh đạo phối hợp giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị và các

lực lượng trên địa bàn làm công tác dân vận chưa thật chặt chẽ, cụ thể và đồng bộ.

Việc chỉ đạo tổ chức thực hiện CTDV có lúc, có nơi thiếu chặt chẽ; chưa

phát huy hết vai trò, trách nhiệm và sự phối hợp hành động của các cấp, các ngành,

các tổ chức đoàn thể và mọi cán bộ, đảng viên trong CTDV; việc thực hiện Quy chế

phối hợp trong CTDV chưa kịp thời, một số nơi làm chậm, chưa thường xuyên, chặt

chẽ. Đặc biệt là chưa phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ban, ngành Trung ương với địa

phương để giải quyết, xử lý những vấn đề bức xúc, nhất là những vấn đề liên quan

đến đất đai, tổ chức lại sản xuất và đời sống ở vùng đồng bào DTTS tại chỗ. Ban

Chỉ đạo Tây Nguyên đánh giá: "Sự phối kết hợp chỉ đạo giữa cấp ủy đảng, chính

quyền, đoàn thể đối với các lực lượng làm nhiệm vụ trên địa bàn còn thiếu đồng bộ,

chưa có sự phân công, phối hợp cụ thể nên hoạt động kém hiệu quả, không nắm

được tình hình cơ sở" [20].

4 1 2 2 Nguyên nhân của hạn chế

Thứ nhất, do sự tuyên truyền, chống phá thường xuyên, quyết liệt của bọn phản

động FULRO và các thế lực thù địch đối với địa bàn Tây Nguyên. Chúng luôn gieo rắc tư

tưởng, tâm lý chia rẽ Kinh - Thượng, Lương - Giáo, ly khai, tự trị; lừa mị, kích

động đồng bào biểu tình, bạo loạn đòi lập "Nhà nước Đê Ga", "Tin lành Đê Ga" và

vượt biên trái phép để thực hiện ý đồ "Quốc tế hóa" vấn đề Tây Nguyên. Về nguy

cơ này, Bộ Chính trị đã kết luận: "Âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch và sự

phục hồi, ráo riết hoạt động chống phá của bọn phản động FULRO trên địa bàn các

tỉnh Tây Nguyên là rất nghiêm trọng…" [7]. Bên cạnh đó, Tây Nguyên là địa bàn có

rất nhiều khó khăn do lịch sử để lại như: Trình độ dân trí thấp, sự chênh lệch về

129

điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi dân tộc, điểm xuất phát thấp… nên cần phải có

thời gian để khắc phục. Đây là những nguyên nhân khách quan "thường trực" ảnh

hưởng đến chất lượng, hiệu quả CTDV trên địa bàn.

Thứ hai, một số cấp ủy đảng, chính quyền chưa nhận thức sâu sắc và quán

triệt đầy đủ vai trò, tầm quan trọng của CTDV trong tình hình mới, nên thiếu sự

quan tâm chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết việc thực hiện

CTDV trên địa bàn. Một bộ phận cán bộ các cấp, các ngành và lực lượng chức

năng còn biểu hiện thỏa mãn, chủ quan, mất cảnh giác, quan liêu, xa dân; chưa

thấy hết những khó khăn, phức tạp và yêu cầu nhiệm vụ chiến lược của CTDV ở

Tây Nguyên.

Thứ ba, chưa dồn sức xây dựng HTCT ở cơ sở thật sự vững mạnh toàn diện;

việc nâng cao chất lượng hoạt động của buôn làng theo hướng tự quản và phát huy

quyền làm chủ của nhân dân còn lúng túng, bất cập; công tác tạo nguồn, quy hoạch,

đào tạo, bồi dưỡng, bố trí và sử dụng đội ngũ cán bộ người DTTS tại chỗ còn hạn

chế; năng lực, bản lĩnh chính trị và khả năng làm CTDV của đội ngũ cán bộ cơ sở

chưa đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới. Đặc biệt là tình trạng cán bộ làm CTDV

không am hiểu phong tục tập quán, tiếng nói của đồng bào DTTS vẫn kéo dài, chậm

được khắc phục.

4.2. MỘT SỐ KINH NGHIỆM

Từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo CTDV của Đảng trên địa bàn Tây Nguyên từ

năm 2001 đến năm 2010, có thể rút ra một số kinh nghiệm:

4.2.1. Thƣờng xuy n làm tốt công tác tuy n truyền, giáo dục nâng cao

nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể và xã hội về công tác

dân vận tr n địa bàn Tây Nguy n

Thực tiễn tình hình phức tạp và thường xuyên biến động ở Tây Nguyên cho

thấy: Công tác dân vận đóng vai trò to lớn trong việc củng cố và phát huy sức mạnh

khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực sự là phương thức rất quan trọng trong việc xây

dựng Đảng, xây dựng "thế trận lòng dân", giữ vững ổn định chính trị, tạo cơ sở, nền

tảng để ổn định và phát triển bền vững Tây Nguyên. Nếu không tạo được một sự

chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành động của toàn bộ HTCT về CTDV

130

thì không thể giữ vững "thế trận lòng dân" và vai trò lãnh đạo của Đảng. "Trong bối

cảnh của Tây Nguyên hiện nay, nếu không thực hiện tốt công tác tuyên truyền thì

tiền của và công sức bỏ ra có lớn đến đâu, an ninh chính trị vẫn khó ổn định và lòng

dân có thể yên nhưng chưa hẳn đã ổn" [54, tr.280]. Vì vậy, phải quán triệt sâu sắc

quan điểm "lấy dân làm gốc", làm cho mỗi cán bộ, đảng viên, các cấp ủy đảng,

chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể nhận thức đúng đắn về vai trò đặc biệt quan

trọng và yêu cầu bức xúc của CTDV trong tình hình mới; từ đó toàn tâm, toàn ý và

thực sự chú trọng đến CTDV nhằm củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, bảo đảm cho

Tây Nguyên ổn định và phát triển. Phải nhận thức rõ, CTDV là trách nhiệm chung

của cả HTCT, của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên các

đoàn thể nhân dân, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang. Trong đó, Đảng lãnh đạo,

chính quyền tổ chức thực hiện, Mặt trận, đoàn thể tham mưu, làm nòng cốt. Không

nên coi CTDV là nhiệm vụ của riêng Ban Dân vận, Mặt trận và các đoàn thể. Có

như vậy, mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về CTDV mới được

triển khai thực hiện có hiệu quả. Các cấp ủy đảng, chính quyền và đoàn thể ở Tây

Nguyên cần nâng cao trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo CTDV, xác định công tác vận

động và chăm lo lợi ích của nhân dân là một trong những nội dung chủ yếu trong

hoạt động của mình; CTDV không chỉ đi trước, mà còn đi cùng và đi sau mỗi một

sự kiện, trở thành yếu tố quan trọng tham gia vào các quá trình phát triển kinh tế -

xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh trên địa bàn; đây là một công tác thường

xuyên, liên tục, không thể lơ là hoặc buông lỏng trong bối cảnh kẻ thù đang hàng

ngày, hàng giờ triệt để lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, đất đai để chống phá Tây

Nguyên. Công tác dân vận ở Tây Nguyên là cuộc đấu tranh chống "diễn biến hòa

bình", giành dân quyết liệt đối với địch, chứ không phải là một công tác bình

thường. Cuộc đấu tranh này còn lâu dài, cam go, vô cùng phức tạp để giành dân, giữ

dân và an dân. Bởi lẽ, "Công tác vận động quần chúng lúc bình thường đã khó,

trong bối cảnh mặt trái kinh tế thị trường tác động, các lực lượng thù địch chưa từ

bỏ âm mưu chống phá Tây Nguyên thì công tác này lại càng khó khăn hơn và phải

thật sự được coi trọng" [111, tr.188]. Vấn đề cốt lõi và xuyên suốt trong CTDV của

Đảng ở Tây Nguyên 10 năm qua là thực hiện đúng quan điểm lấy công tác tuyên

131

truyền, vận động làm chính trong giải quyết những vấn đề phát sinh ở cơ sở; kiên

trì, thường xuyên tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho đồng bào các dân

tộc, phát huy vai trò làm chủ của quần chúng trong việc giữ gìn an ninh chính trị và

chăm lo giải quyết đời sống của đồng bào. Cùng với công tác tuyên truyền, giáo dục

nói chung, các cấp ủy đảng, chính quyền luôn coi trọng công tác giáo dục, vận động

cá biệt đối với những người có liên quan đến hoạt động FULRO, để giúp họ hòa

nhập với cộng đồng, xây dựng khối đoàn kết dân tộc. Thực tế cho thấy, trừ một số ít

ngoan cố cầm đầu theo bọn phản động FULRO buộc phải xử lý theo pháp luật, còn

đại đa số các đối tượng được vận động, giáo dục, thuyết phục, khoan hồng đã thấy

rõ bộ mặt thật, sự lừa phỉnh của FULRO để quay trở về hòa nhập với cộng đồng,

yên tâm làm ăn sinh sống. "Bài học kinh nghiệm đầu tiên của vấn đề bảo đảm an

ninh chính trị ở Tây Nguyên là bài học dựa vào quần chúng. Phải chính đồng bào

DTTS nói lên tiếng nói của mình để đấu tranh, phản bác lại những luận điệu tuyên

truyền sai trái và phê phán số người bị xúi giục tham gia biểu tình, gây rối, che giấu,

tiếp tế cho FULRO" [77, tr.35].

Bài học sâu sắc của tình hình Tây Nguyên cũng chính là bài học về công

tác tư tưởng và CTDV, không chỉ dừng chủ yếu ở quân sự và an ninh mà

cơ bản vẫn là trận địa lòng dân, là văn hóa, là tư tưởng, là dân vận có

hiệu quả. Ở đâu, cấp nào, thôn bản nào làm tốt công tác tư tưởng và

CTDV thì ở đó có lực lượng của dân, giữ được thành quả cách mạng. Ở

đâu không làm được như vậy thì bàn tay của các thế lực thù địch chế độ

sẽ vươn tới phá hoại [87, tr.121].

Để CTDV thực sự là công tác của cả HTCT, đòi hỏi cấp ủy đảng, chính

quyền và đoàn thể các cấp, trước hết là Bí thư cấp ủy, người đứng đầu chính quyền

và đoàn thể các cấp ở Tây Nguyên phải nhận thức đúng để có sự chỉ đạo sâu sát về

lĩnh vực này: Xây dựng nghị quyết, chương trình, kế hoạch thực hiện CTDV một

cách cụ thể; xác định rõ nội dung trọng tâm, trọng điểm để tập trung chỉ đạo thực

hiện; thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, giám sát việc thực hiện các chủ trương về

CTDV; định kỳ tiến hành sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm, đề ra phương hướng,

nhiệm vụ và giải pháp CTDV kịp thời trong từng thời gian; động viên, khen thưởng

132

kịp thời đối với những tập thể, cá nhân có thành tích trong CTDV; chú trọng xây

dựng và phổ biến những mô hình, điển hình "Dân vận khéo"; đồng thời, có biện

pháp xử lý nghiêm các tổ chức và cá nhân có sai phạm nhằm không ngừng củng cố

niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Thông qua kiểm tra, đôn đốc, sơ

kết, tổng kết, làm rõ những vấn đề đặt ra đối với CTDV; đồng thời, giúp cho các

cấp ủy đảng nâng cao nhận thức, không ngừng bổ sung, hoàn thiện những chủ

trương, giải pháp tăng cường CTDV đúng hướng và đạt hiệu quả cao.

Thực tế các vụ biểu tình, bạo loạn diễn ra năm 2001, 2004 và 2008, đã bộc lộ

rõ hạn chế, khuyết điểm lớn của các cấp ủy đảng, chính quyền là chủ quan, mất

cảnh giác, chưa xây dựng được "thế trận lòng dân" một cách vững chắc. Vì vậy, vấn

đề có ý nghĩa chiến lược là tập trung xây dựng cho được "thế trận lòng dân" vững

chắc, thông qua việc tăng cường và đổi mới nội dung, phương pháp CTDV, đáp ứng

nhiều loại đối tượng và trở thành một công cụ sắc bén ở cơ sở để xây dựng, củng cố

khối đoàn kết các dân tộc, nâng cao đời sống cho đồng bào, xóa bỏ tư tưởng ly khai,

tự trị, góp phần giải quyết vấn đề FULRO ở Tây Nguyên cả trước mắt và lâu dài.

Theo đó, các cấp, các ngành cần tăng cường chỉ đạo công tác tuyên truyền, giáo dục

chính trị, tư tưởng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là đồng bào các DTTS

tại chỗ, làm cho đồng bào hiểu về Đảng, gắn bó với Đảng, hiểu đất nước, hiểu dân

tộc, hiểu được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong khối đoàn kết

đó, đoàn kết giữa đồng bào Kinh với đồng bào các DTTS; đoàn kết giữa người có

đạo và người không theo đạo là rất quan trọng; thường xuyên giáo dục nhân dân

nâng cao nhận thức về vai trò, sức mạnh của khối đại đoàn kết các dân tộc trên địa

bàn; đồng thời, đề cao cảnh giác trước âm mưu, thủ đoạn thâm độc nhằm chia rẽ

dân tộc của bọn phản động FULRO và các thế lực thù địch; kiên quyết đấu tranh

phản bác, xóa bỏ tư tưởng ly khai, tự trị còn tồn tại trong một bộ phận đồng bào

DTTS; quán triệt sâu sắc chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, làm rõ

những thành tựu đạt được để phát huy cũng như nêu rõ những hạn chế, yếu kém để

cùng nhau khắc phục; xây dựng tinh thần đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ nhau, tự giác

làm chủ bản thân, gia đình, buôn làng; củng cố lòng tin vào Đảng và chế độ; khơi

dậy ý thức tự lực, tự cường, tự vươn lên trong đồng bào DTTS; khắc phục tư tưởng

trông chờ, ỷ lại trong một bộ phận đồng bào DTTS.

133

4.2.2. Kết hợp chặt chẽ giữa công tác dân vận với phát triển kinh tế - xã

hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và tăng cƣờng khối đại đoàn kết các dân tộc

ở Tây Nguy n

Quá trình thực hiện CTDV của Đảng trên địa bàn Tây Nguyên thống nhất

trong mục tiêu tạo môi trường hòa bình, ổn định về mọi mặt để Tây Nguyên ổn định

và phát triển bền vững. Trước sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch và

bọn phản động FULRO, những nguy cơ mất ổn định về chính trị - xã hội, tính chất

phức tạp của vấn đề dân tộc, tôn giáo, đất đai, biên giới…, đòi hỏi CTDV của Đảng

ở Tây Nguyên phải biết kết hợp giải quyết đồng bộ cả về chính trị, tư tưởng, kinh

tế, xã hội, an ninh, quốc phòng. Nói một cách khác, CTDV phải được xác định là

một trong những giải pháp quan trọng hàng đầu thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển,

đảm bảo quốc phòng, an ninh và tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc trên địa

bàn. Bởi vì, suy cho cùng, các nhiệm vụ kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, xây

dựng HTCT… đều là mục đích, nội dung của CTDV; kinh tế - xã hội phát triển,

quốc phòng, an ninh đảm bảo, khối đoàn kết dân tộc không ngừng củng cố sẽ hỗ trợ

đắc lực và tác động tích cực trở lại đối với CTDV, làm cho CTDV thiết thực, khả

thi. Phải lấy hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và

tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc trên địa bàn làm thước đo đánh giá hiệu

quả CTDV của mỗi cấp, mỗi ngành và mỗi địa phương, đơn vị. Do đó, trong việc

định hướng và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chính trị ở Tây Nguyên, các cấp, các

ngành cần gắn với mục tiêu, nhiệm vụ của CTDV; căn cứ vào đặc điểm tình hình,

yêu cầu nhiệm vụ từng nơi, từng lúc để xây dựng nội dung và hình thức CTDV phù

hợp; biết gắn kết nội dung các đợt vận động quần chúng ở cơ sở với yêu cầu, nhiệm

vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội, xây

dựng HTCT cơ sở và đảm bảo quyền lợi thiết thực của đồng bào.

Nhiệm vụ trọng tâm của CTDV ở Tây Nguyên là: Thúc đẩy kinh tế - xã hội

phát triển, củng cố quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn

xã hội trên địa bàn. Quá trình triển khai thực hiện CTDV ở đây cần phải chú ý xem

xét đầy đủ yếu tố văn hóa, xã hội truyền thống của đồng bào các dân tộc Tây

Nguyên, vận dụng linh hoạt, sáng tạo chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước

134

để đề xuất những nội dung, biện pháp CTDV phù hợp với vùng đất và con người

Tây Nguyên thì mới có thể đem lại hiệu quả thiết thực. Thực tế cho thấy, sự ổn

định, no ấm của đồng bào DTTS là nhân tố quan trọng bảo đảm sự ổn định và phát

triển vùng Tây Nguyên, là cơ sở để xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc

trên địa bàn chiến lược này. Vì vậy, Đảng và Nhà nước phải quan tâm đầu tư phát

triển sản xuất, nâng cao đời sống của đồng bào các DTTS; tổ chức thực hiện tốt

chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo; đồng thời, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn

mọi âm mưu, ý đồ lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo gây mất ổn định chính trị - xã

hội của các thế lực thù địch. Các tỉnh Tây Nguyên cần tiếp tục thực hiện tốt các chủ

trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với đồng bào DTTS về đất ở, đất sản

xuất, nhà ở, giao rừng, khoán bảo vệ rừng; xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm;

phát triển giáo dục, y tế, văn hóa… Đặc biệt, cần có những chính sách tác động

mạnh và phù hợp hơn đối với đồng bào DTTS để giúp họ sớm thoát cảnh đói nghèo,

lạc hậu, từng bước vươn lên có cuộc sống no ấm, văn minh. Tập trung rà soát và xử

lý kịp thời các vấn đề đang gây bức xúc trong nhân dân, nhất là vấn đề đất đai, chế

độ chính sách đối với đồng bào DTTS, những vụ việc phức tạp liên quan đến tôn

giáo, dân tộc… không để dây dưa, kéo dài làm giảm sút lòng tin của đồng bào và

tạo cớ cho kẻ xấu kích động, chống phá. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát

việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với đồng bào

DTTS nhằm kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc; đồng thời, uốn nắn và

chấn chỉnh những sơ hở, yếu kém trong quá trình tổ chức thực hiện để người dân

thực sự được hưởng lợi từ các chính sách đó.

Công tác dân vận của Đảng ở Tây Nguyên phải tập trung hướng về đồng

bào các DTTS tại chỗ, làm cho đồng bào hiểu đúng và tự giác thực hiện tốt các chủ

trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; nhạy bén nắm bắt kịp thời những bức

xúc, tâm tư, nguyện vọng của đồng bào; giải quyết tốt những vấn đề thực tiễn đặt ra

phù hợp với đặc điểm của từng dân tộc, từng địa phương, tránh tư tưởng chủ quan,

áp đặt, máy móc, hình thức và cách làm không phù hợp. Theo đó, phải coi trọng

việc đổi mới nội dung và phương thức CTDV ở vùng đồng bào DTTS. Nội dung

CTDV trong vùng đồng bào DTTS chủ yếu là: Tuyên truyền, vận động đồng bào

135

thực hiện đúng chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước; hăng

say lao động sản xuất, phát triển kinh tế để thoát cảnh đói nghèo và vươn lên giàu

có; xóa bỏ những tập tục lạc hậu, xây dựng đời sống văn hóa, xây dựng gia đình,

cộng đồng ấm no, hạnh phúc; tham gia phản ánh và giải quyết kịp thời những bức

xúc của nhân dân có liên quan đến vấn đề đất đai, dân tộc, tôn giáo trên địa bàn.

Quán triệt phương châm CTDV: "chân thành, tích cực, thận trọng, kiên trì, tế nhị,

vững chắc; sử dụng nhiều phương thức phù hợp với đặc thù của từng dân tộc, từng

địa phương" [5]. Việc chuyển tải các nội dung của CTDV đến với đồng bào DTTS

cần ngắn gọn, thiết thực, hấp dẫn, kịp thời, có trọng tâm, trọng điểm để đồng bào có

thể nắm được cốt lõi của vấn đề và định hướng tư tưởng. Phải biết cụ thể hóa các

chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và tình hình

kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng… thành những thông tin ngắn gọn, dễ nhớ, dễ

hiểu, có sức thuyết phục và phù hợp với đối tượng. Công tác dân vận ở vùng DTTS

phải được tiến hành một cách rất công phu, mềm dẻo, kiên trì theo kiểu "mưa dầm,

thấm lâu" và nhiều lúc phải biết chờ đợi, tránh nôn nóng, chủ quan. Vì đa số đồng

bào DTTS là những người có trình độ học vấn thấp, đời sống kinh tế gặp nhiều khó

khăn nên việc tiếp thu đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước còn

chậm, dễ bị hiểu sai. Đồng bào các DTTS vốn có tính thật thà, cả tin. Vậy nên, nói

phải đi đôi với làm và làm phải có hiệu quả thiết thực; không được nói suông, hứa

suông làm cho đồng bào nghi ngờ, mất lòng tin. Mỗi khi đã làm mất lòng tin của

đồng bào thì rất khó thuyết thục, vận động họ. Cách tốt nhất và có hiệu quả nhất là

phương pháp tuyên truyền miệng, giao tiếp, trò chuyện "tỉ tê" với đồng bào một

cách cởi mở, tự nhiên. Hết sức tránh lối diễn thuyết dài dòng, trừu tượng, xa thực tế,

xa với cách nghĩ, cách hiểu thông thường của họ. Việc giáo dục tư tưởng, chính trị,

vận động quần chúng nên lồng ghép vào các chương trình, dự án phát triển kinh tế -

xã hội, các hoạt động và phong trào văn nghệ, thể dục thể thao, giao lưu văn hóa,

các lễ hội truyền thống của đồng bào. Thực tế cho thấy, phong trào tương trợ, kết

nghĩa của các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, tổ chức xã hội, cán bộ, nhân dân vùng

đồng bào Kinh với các buôn làng đồng bào DTTS là một phương thức CTDV phù

hợp, thiết thực và có hiệu quả. Vì vậy, cần tiếp tục duy trì và phát triển phong trào

136

này một cách rộng khắp, trở thành việc làm tự giác và có hiệu quả thiết thực. Mô

hình "gắn kết hộ" ở Binh đoàn 15 và ở tỉnh Đắk Lắk là những điểm sáng về CTDV

ở Tây Nguyên cần được nhân rộng.

Đối với Tây Nguyên, xác định việc vận động và chăm lo lợi ích cho đồng

bào các DTTS tại chỗ làm đối tượng chính, trọng tâm trong CTDV là đúng hướng

và cấp bách, bảo đảm cho sự ổn định bền vững ở nơi này. Song, bên cạnh đó, vẫn

rất cần chú ý đến đối tượng là đồng bào Kinh và đồng bào DTTS nơi khác đến. Có

như vậy mới thực hiện được đại đoàn kết các dân tộc cùng cư trú trên cùng một địa

bàn, tránh những mâu thuẫn, xung đột có thể xảy ra. Các cấp ủy đảng, chính quyền

địa phương cần lãnh đạo, giáo dục cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân tôn

trọng và bảo đảm quyền lợi, tập quán của đồng bào DTTS; khi xử lý các tranh chấp,

khiếu kiện đất đai, giải quyết mâu thuẫn trong nội bộ dân cư cần chú trọng đến tập

quán của đồng bào DTTS tại chỗ.

4.2.3. Thường xuyên bám sát cơ sở, đáp ứng nhu cầu thực tế của địa phương

Trong điều kiện đặc thù của một vùng miền núi, biên giới, địa bàn rộng, có

nhiều dân tộc, tôn giáo, cơ sở hạ tầng còn thấp kém, điều kiện đi lại còn khó khăn

thì buôn, làng có một vai trò rất quan trọng trong tổ chức đời sống của cộng đồng

các DTTS Tây Nguyên. Tập trung xây dựng buôn làng vững mạnh phải được coi là

giải pháp quan trọng nhằm thúc đẩy sự ổn định và phát triển vùng Tây Nguyên. Vì

vậy, CTDV của Đảng ở Tây Nguyên phải xác định buôn làng là địa bàn rất quan

trọng trong hoạt động của mình, xem đây là cấp cơ sở, cấp tận cùng và trực tiếp với

người dân. Trận địa của CTDV ở Tây Nguyên là buôn làng. Nơi nào bỏ trống trận

địa cơ sở buôn làng, nơi đó không có CTDV. Cần phải hướng mạnh về buôn làng,

thực hiện tốt phương châm: "Tất cả đều phải từ làng buôn và tất cả đều phải đến

buôn làng", "Tỉnh phải nắm xã, huyện phải nắm thôn buôn và xã phải nắm hộ, nắm

dân"; xác định địa bàn bám trụ là tại buôn làng; đối tượng vận động là từng hộ gia

đình, từng con người cụ thể; yêu cầu là xây dựng được lực lượng nòng cốt ở trong

dân và làm chủ được trận địa tư tưởng ở từng buôn, làng; dân tin ai, nghe theo ai và

hành động cách mạng ra sao là kết quả cuối cùng mà CTDV phải nhắm tới; thực

hiện đúng lời căn dặn của Hồ Chí Minh: "Bám lấy dân là làm sao cho được lòng

137

dân, dân tin, dân mến, dân yêu… Phải vận động nhân dân, để dân tự nguyện, tự

giác, nếu bắt buộc thì chỉ có thể có kết quả ngay lúc đó thôi, còn sau thì không

thấm" [73, tr.448]. Hướng về cơ sở cũng có nghĩa là phải chống tư tưởng chủ quan,

mất cảnh giác, quan liêu, coi thường cơ sở, coi thường nhân dân; đồng thời, nêu cao

tính chủ động, sáng tạo, tự tin của cơ sở trong thực hiện các nhiệm vụ chính trị.

Việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ CTDV phải sâu sát cơ sở, nắm được tâm tư,

nguyện vọng của nhân dân; phát hiện những vấn đề nhân dân quan tâm, những khó

khăn, bức xúc để đề xuất, tham mưu với cấp ủy, chính quyền cách giải quyết.

Thường xuyên duy trì lực lượng bám sát cơ sở, không để trống địa bàn, nhất là ở

những nơi cơ sở chính trị còn yếu kém, đảm bảo nắm chắc tình hình, nắm chắc

được dân, tạo sự chuyển biến từ cơ sở, chống lại âm mưu phá hoại của kẻ địch từ

buôn làng. Kinh nghiệm của các tỉnh Tây Nguyên trong thời gian qua cho thấy:

Việc thành lập các tổ, đội CTVĐQC chuyên trách; phân công các cơ quan, đơn vị

cấp tỉnh, huyện và các lực lượng vũ trang giúp đỡ, kết nghĩa với các xã, buôn làng

đồng bào DTTS; tăng cường cán bộ về cơ sở, xây dựng lực lượng nòng cốt… đều

hướng về buôn, làng. Do đó, đã từng bước khắc phục tình trạng quan liêu, xa dân;

chủ động nắm bắt tình hình cơ sở, nắm được dân, giải quyết kịp thời những nguyện

vọng chính đáng của đồng bào, không để kẻ xấu có cơ hội kích động gây bất ổn về

an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội tại cơ sở.

Cần đổi mới sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp trên đối với cơ sở theo hướng tăng

cường hướng dẫn, giúp đỡ cơ sở chủ động giải quyết các công việc cụ thể nhưng

không bao biện làm thay; việc hướng dẫn, giúp đỡ cho cơ sở cần phải thiết thực, dễ

hiểu, dễ nhớ, dễ làm; đồng thời, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát nhằm kịp

thời phát hiện, uốn nắn những khuyết điểm, sai phạm phát sinh; mỗi cơ quan tỉnh,

huyện phải có quy định cụ thể về thời gian cán bộ làm việc tại cơ sở, tiếp xúc với

dân, giảm bớt sự chỉ đạo bằng giấy tờ và triệu tập cán bộ cơ sở lên huyện, tỉnh họp.

Việc tăng cường cán bộ các ngành, đoàn thể và lực lượng vũ trang xuống cơ sở là

một chủ trương đúng đắn, cấp bách, phù hợp với tình hình và đáp ứng yêu cầu ở

từng địa phương, nhằm tham gia giúp cấp ủy, chính quyền cơ sở thực hiện tốt

nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, góp phần xây

138

dựng cơ sở vững mạnh toàn diện, phòng ngừa và khắc phục các điểm nóng về an

ninh chính trị. Cần thường xuyên chấn chỉnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt

động của các tổ, đội CTPĐQC ở cơ sở, đảm bảo sự linh hoạt về hình thức và

phương pháp, có ý nghĩa thiết thực, sâu sắc về nội dung, hợp lý về thời gian, thành

phần, đối tượng tham dự. Thực tiễn cho thấy, phát triển sản xuất, xóa đói giảm

nghèo là từ các buôn làng; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội cũng

chính từ các buôn làng là kinh nghiệm và bài học quan trọng để xây dựng "thế trận

lòng dân" trên địa bàn Tây Nguyên. Cần xây dựng và nhân rộng các mô hình, cách

làm hiệu quả như "Buôn, làng không có người theo kẻ xấu hoạt động tôn giáo trái

phép", "Làng thanh niên văn hóa", "Buôn, làng không có người vượt biên trái

phép"…; xây dựng và thực hiện mô hình buôn làng, dòng họ, liên gia tự quản, trước

hết là tự quản về an ninh trật tự; vận dụng linh hoạt các quy định có giá trị của luật

tục để xây dựng quy ước, hương ước của buôn làng trong tình hình mới.

4.2.4. Chăm lo xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh, phát huy

vai trò của những ngƣời có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số và đồng bào

có đạo

Những thành công và hạn chế của Đảng về lãnh đạo CTDV ở Tây Nguyên

trong thời kỳ 2001-2010 liên quan rất chặt chẽ với sự vững mạnh hay yếu kém của

HTCT, nhất là HTCT ở cơ sở. Vì vậy, để thực hiện hiệu quả CTDV, đáp ứng yêu

cầu nắm dân, nắm tình hình, chủ động giải quyết những vấn đề phát sinh từ cơ sở

thì việc xây dựng, kiện toàn, củng cố HTCT cơ sở thực sự vững mạnh là vấn đề có

ý nghĩa then chốt.

Những điểm nóng về chính trị - xã hội và những sự kiện có tính bạo loạn

ở Tây Nguyên thời gian vừa qua cho thấy vai trò của HTCT cơ sở là rất

quan trọng. Ở những nơi nào HTCT cơ sở vững mạnh, cán bộ nắm được

tình hình, báo cáo lên trên và có phương án giải quyết sớm, thì tình hình

sẽ được kiểm soát, những vấn đề nổi cộm sẽ được khoanh lại giải quyết,

không để bùng nổ thành điểm nóng. Những điểm nóng thường bùng phát

ở những nơi HTCT cơ sở yếu kém, hành chính hóa và quan liêu hóa,

phẩm chất đạo đức và bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ bị suy

giảm [57, tr.115-116].

139

Vấn đề đặt ra cho các tỉnh Tây Nguyên là phải tăng cường nhiều biện pháp

xây dựng, kiện toàn HTCT cơ sở vững mạnh, gần dân, sát dân, hoạt động ngày càng

hiệu quả, động viên được sức mạnh của nhân dân trong phát triển sản xuất, xây

dựng buôn làng, chủ động giải quyết những vấn đề phát sinh từ cơ sở. Cần tập trung

xây dựng chi bộ, tổ đảng ở buôn làng; đẩy mạnh công tác tạo nguồn và phát triển

đảng viên là người DTTS tại chỗ và người có đạo. Củng cố, nâng cao hiệu lực quản

lý, điều hành của bộ máy chính quyền bảo đảm đủ năng lực giải quyết những công

việc cụ thể ở địa phương. Tăng cường củng cố và đẩy mạnh hoạt động của Mặt trận

Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân để làm tốt công tác tuyên truyền, vận động quần

chúng thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trên địa bàn; tập

trung đổi mới nội dung, phương thức tuyên truyền, vận động, tập hợp quần chúng

theo hướng gần dân, sát dân, quan tâm giải quyết các nhu cầu, lợi ích chính đáng

của nhân dân; thực hiện có hiệu quả phong trào xóa đói giảm nghèo và cuộc vận

động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư", "Toàn dân

tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc"; đa dạng hóa các hình thức vận động và nâng cao

chất lượng hoạt động, tập hợp quần chúng vào các tổ chức thích hợp. Các cấp ủy

đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể cấp trên phải có trách nhiệm thường

xuyên chăm lo xây dựng, củng cố tổ chức của mình ở cơ sở, khắc phục bệnh quan

liêu, xa dân, xa cơ sở; thường xuyên kiểm tra việc thực hiện chính sách dân tộc, tôn

giáo, chính sách đất đai, xây dựng cơ sở hạ tầng, công tác xóa đói giảm nghèo, giáo

dục, y tế và an ninh quốc phòng ở cơ sở.

Đội ngũ cán bộ, đảng viên chuyên trách CTDV, Mặt trận, đoàn thể (bao gồm

cả cán bộ làm công tác tôn giáo, dân tộc, người Hoa) là nhân tố quyết định trong

CTDV. Sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng đối với CTDV, Mặt trận, đoàn thể

có hiệu quả đến đâu phụ thuộc rất lớn vào chất lượng của đội ngũ này. Do đó, phải

tăng cường xây dựng, củng cố đội ngũ cán bộ chuyên trách làm CTDV thật sự đủ

mạnh. Cán bộ công tác ở vùng đồng bào DTTS phải thấm nhuần sâu sắc phong

cách: "Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân", "nghe dân

nói, nói dân hiểu, làm dân tin"; thường xuyên đi công tác cơ sở; thực hiện "4 cùng"

(cùng ăn, cùng ở, cùng làm và cùng nói tiếng dân tộc). Bởi vì, "Muốn thật sự gần

140

gũi quần chúng thì phải cùng ăn, cùng ở, cùng làm, mới biết sinh hoạt của quần

chúng như thế nào, mới biết khó khăn, biết chí khí của quần chúng như thế nào, mới

biết nguyện vọng của quần chúng như thế nào…" [74, tr.560]. Đồng bào các DTTS

Tây Nguyên chỉ tin vào những điều mà họ thấy, vì vậy, muốn nói cho họ nghe thì

cán bộ dân vận phải là người gương mẫu, nói phải đi đôi với làm và làm phải có

hiệu quả cụ thể, thiết thực; làm sao để đồng bào "vừa no cái bụng, vừa no cái tai",

tránh tình trạng "no cái tai, đói cái bụng", hoặc "no cái bụng, đói cái tai", "cán bộ ở

trên cây" theo như cách nói của đồng bào. Đặc biệt, cán bộ dân vận phải biết tiếng

nói của đồng bào; am hiểu tâm tư nguyện vọng, các phong tục tập quán của đồng

bào, biết kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa pháp luật của Nhà nước với luật tục

của đồng bào, am hiểu sâu sắc vấn đề dân tộc, tôn giáo, có khả năng nắm bắt kịp

thời những vấn đề chính trị, xã hội phức tạp, để vừa giải quyết kịp thời có hiệu quả,

đúng nguyên tắc nhưng lại hết sức mềm dẻo trong chỉ đạo và xử lý những vấn đề cụ

thể. Thực tế ở Tây Nguyên có một bộ phận cán bộ là người DTTS không nói được

tiếng của dân tộc mình và đa số cán bộ người Kinh ở vùng dân tộc không nói được

tiếng của đồng bào DTTS. Điều này đã ảnh hưởng trực tiếp đến các mặt CTDV. Vì

vậy, cần thực hiện nghiêm túc chủ trương học tiếng của đồng bào DTTS tại chỗ,

xem đây là một tiêu chuẩn bắt buộc đối với cán bộ công tác ở vùng DTTS. Có làm

được như vậy mới thực hiện đúng phương châm "trực tiếp nghe đồng bào nói, trực

tiếp nói cho đồng bào nghe và trực tiếp làm để đồng bào tin", nâng cao hiệu quả

CTDV trong vùng đồng bào DTTS. Bài học về vận động đồng bào DTTS làm cách

mạng và kháng chiến trước đây đến nay vẫn giữ nguyên giá trị:

Khi nhân dân các dân tộc đã hiểu cách mạng, hiểu Đảng thì họ một lòng

một dạ gắn bó với Đảng và đứng lên hành động cách mạng, không sợ

khó khăn, gian khổ, hy sinh. Họ hiểu cách mạng, hiểu Đảng chủ yếu là

thông qua cán bộ bám dân, qua tuyên truyền miệng, qua lời nói, việc

làm, tư cách đạo đức, khí tiết của cán bộ… Người dân gắn bó với Đảng

mật thiết hay không tùy thuộc phần lớn vào cán bộ" [44, tr.170-171].

Trong cơ cấu đội ngũ cán bộ làm CTDV ở Tây Nguyên, cán bộ là người các

DTTS tại chỗ giữ vị trí rất quan trọng. Họ là những người gắn bó với quê hương,

141

am hiểu ngôn ngữ, phong tục, tập quán của đồng bào. Đây là một thuận lợi trong

việc tuyên truyền, vận động đồng bào thực hiện các chủ trương, chính sách của

Đảng và Nhà nước. Chính họ là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với đồng bào các

DTTS và là trụ cột để giữ vững ổn định chính trị, củng cố khối đoàn kết dân tộc ở

địa bàn chiến lược này. Vì vậy, việc tạo nguồn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố

trí và sử dụng hợp lý đội ngũ cán bộ người DTTS, đặc biệt là các DTTS tại chỗ

nhằm phát huy vai trò tích cực của đội ngũ này trong CTDV là một yêu cầu hết sức

quan trọng và cấp bách. Bên cạnh sự quan tâm, giúp đỡ không thể thiếu của cán bộ

người Kinh, phải tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để đội ngũ cán bộ DTTS đủ sức

đảm đương mọi nhiệm vụ và có bản lĩnh chính trị vững vàng để vượt qua mọi khó

khăn, thử thách.

Với điều kiện đặc thù miền núi, biên giới, có nhiều dân tộc, tôn giáo; tình

hình an ninh chính trị diễn biến phức tạp, kẻ thù luôn tìm mọi cách lợi dụng vấn đề

dân tộc, tôn giáo để chống phá cách mạng thì việc xây dựng lực lượng nòng cốt làm

CTDV ở cơ sở, đặc biệt là ở vùng đồng bào DTTS, đồng bào có đạo là hết sức cần

thiết và cấp bách. Lực lượng nòng cốt, những người có uy tín là đội ngũ gần dân

nhất, kịp thời nắm bắt, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của nhân dân; đây là đội ngũ

gương mẫu, tuyên truyền, vận động trực tiếp đến với người dân; đồng thời, chính họ

là chỗ dựa đáng tin cậy của các tổ chức trong HTCT ở cơ sở. Có xây dựng được lực

lượng này đủ mạnh thì mới thực hiện được phương châm: "dùng quần chúng giáo

dục, thuyết phục quần chúng", "dùng đạo để giải quyết việc đạo". Thông qua lực

lượng nòng cốt ở cơ sở, thôn buôn để nắm chắc tình hình, từ đó có biện pháp giải

quyết kịp thời những vấn đề phát sinh ở cơ sở. "Bám dân, trước hết là bám cốt cán,

xây dựng cốt cán cho vững, cốt cán thành cái rễ của ta bám vào dân như rễ cây bám

vào lòng đất" [43, tr.52].

Cần thường xuyên xây dựng, rà soát, bổ sung tiêu chuẩn, nhiệm vụ của lực

lượng nòng cốt, người có uy tín; quan tâm đến việc thông tin, bồi dưỡng kiến thức,

kỹ năng về CTDV; có chính sách đãi ngộ thích đáng đối với lực lượng này, để họ

phát huy tốt vai trò của mình trên các lĩnh vực, nhất là phát triển kinh tế, xóa đói

giảm nghèo, xây dựng cơ sở hạ tầng, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã

142

hội trên địa bàn. "Đối với vùng người Thượng, vận động quần chúng luôn là khâu

công tác có ý nghĩa tiên quyết, mà thu phục được các già làng chính là điểm mấu

chốt có thể bảo đảm cho việc dân vận thành công" [66, tr.123-124]; uy tín và tiếng

nói của già làng đã trở thành tiềm thức, thấm vào máu thịt của đồng bào: "Ý kiến

của già làng rất quan trọng…" [53, tr.134-135]. Vì vậy, việc sử dụng và phát huy

vai trò của các già làng trong công tác vận động đồng bào, củng cố trận địa lòng dân

ở từng buôn làng là vấn đề hết sức cấp thiết và lâu dài ở Tây Nguyên. Nhằm hợp lý

hóa và phát huy vai trò của già làng, các tỉnh Tây Nguyên đã có sáng kiến đưa già

làng vào tổ hòa giải thôn buôn, làm nhiệm vụ hòa giải các vụ việc theo mục tiêu kép

là duy trì phong tục tập quán dân tộc và hướng người dân sống theo pháp luật. "Ví

như các già làng ở huyện Ea Sup (tỉnh Đắk Lắk), hoặc ở A Yun pa (Gia Lai) đã

từng sử dụng tục "cầm vòng" để những thanh niên đã theo kẻ xấu gây chuyện, hoặc

rủ rê người vượt biên, thề trước cả buôn sẽ không vi phạm nữa, và họ đã gìn giữ

được lời thề đó trước sức mạnh và lòng tin chân thành của cộng đồng" [78, tr.118-

119]. Ở tỉnh Đắk Nông, chính quyền, đoàn thể đã mời các già làng đi cùng gia đình

có người vượt biên sang Campuchia để thăm hỏi, khuyên giải, tuyên truyền, vận

động họ trở về an tâm sản xuất, ổn định cuộc sống… Thực tế ở các địa phương đã

phát huy tốt vai trò của già làng cho thấy:

Nơi nào cấp ủy, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể nhận thức đúng vị

trí, vai trò của già làng, tạo môi trường thuận lợi, giúp đỡ cho các già

làng có điều kiện hoạt động như: mời các già làng tham gia các cuộc họp

giao ban, sơ kết, tổng kết công tác, chú ý lắng nghe những điều già làng

phát biểu, thực hiện tốt những kế hay già làng đã hiến; hàng năm tổ chức

hội nghị già làng để rút kinh nghiệm hoạt động đã qua và bàn những việc

làm sắp tới, thì phát huy được vai trò của già làng trong việc xây dựng,

bảo vệ quê hương, xây dựng buôn làng vững mạnh [117].

Cần đặc biệt coi trọng công tác tranh thủ các chức sắc tôn giáo, nhất là

người đứng đầu giáo hội. Vì đây là hàng ngũ có vai trò "rường cột" của tôn giáo,

có uy tín và ảnh hưởng rất lớn trong quần chúng tín đồ. Khẳng định chức sắc

cũng là công dân, nhưng là những "công dân đặc biệt", do hoàn cảnh lịch sử, họ

143

có nhận thức khác nhau, thậm chí có người còn định kiến, mặc cảm với chính

quyền. Vì vậy, cần phải kiên trì, khôn khéo vận động, giáo dục, kéo nắm các

chức sắc tôn giáo theo phương châm "gần - hiểu - cảm hóa" để giúp họ có nhận

thức và hành động đúng. Công tác đối với chức sắc tôn giáo phải có tác dụng cổ

vũ, phát huy đối với người tiến bộ, lôi kéo thúc đẩy người còn lưng chừng và hạn

chế, thu hẹp ảnh hưởng của người có tư tưởng cực đoan, bảo thủ. Làm tốt công

tác tranh thủ, vận động chức sắc tôn giáo sẽ vận động được tín đồ thực hiện tốt

chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tham gia tích cực các

hoạt động xã hội; đồng thời, chủ động đấu tranh làm thất bại âm mưu lợi dụng

tôn giáo của các thế lực thù địch. Kinh nghiệm ở huyện Chư Sê (Gia Lai) là bài

học thành công về vấn đề này:

Trong vụ bạo loạn tháng 2-2001 ở Tây Nguyên, Ama Thái (Siu Huêh) là

thư ký Hội thánh "Tin lành Đê Ga", đến tháng 3-2001, sau thất bại trong

vụ tổ chức biểu tình ở Tây Nguyên, khi Ama Chăm (đứng đầu Hội thánh

Tin lành Đê Ga) tỉnh Gia Lai vượt biên sang Mỹ thì Ama Thái được giao

quyền "lãnh đạo" Hội thánh "Tin lành Đê Ga" tỉnh Gia Lai, phụ trách 8

khu vực. Sau một thời gian được các cơ quan chức năng, Mặt trận, các

đoàn thể tuyên truyền, vận động, Ama Thái đã nhận ra âm mưu thâm độc

của bọn phản động lợi dụng dân tộc, tôn giáo để chia rẽ khối đoàn kết

toàn dân tộc và tự thấy việc làm của mình là sai, nên đã từ bỏ "Tin lành

Đê Ga". Ama Thái được tiếp nhận vào làm việc tại Ủy ban Mặt trận Tổ

quốc huyện Chư Sê, đã thường xuyên đi đến các làng đồng bào DTTS

trong tỉnh để tuyên truyền cho đồng bào âm mưu của FULRO rất có hiệu

quả [47, tr.47].

Cần coi trọng việc xã hội hóa công tác tuyên truyền, vận động ở cơ sở; tăng

cường huy động, sử dụng các lực lượng: Các nhà doanh nghiệp, chủ đầu tư, chủ các

công trình, dự án, đội ngũ giáo viên, cán bộ y tế, lực lượng phụ nữ, thanh niên…

tham gia làm công tác tuyên truyền, vận động ở địa phương, cơ sở. Có như vậy mới

nắm được dân, phát động được các phong trào cách mạng một cách thiết thực và có

chiều sâu, tạo sự lan tỏa, sức sống của CTDV trong tình hình mới. Thực tế cho thấy:

144

"Uy tín giáo viên rất cao, nên rất có hiệu quả nếu sử dụng họ vào công tác tuyên

truyền, giáo dục, vận động quần chúng và họ có khả năng tác động lớn đến các thế

hệ kế cận" [103, tr.64]. Các cấp ủy đảng, chính quyền cần thường xuyên thông tin

về tình hình nhân dân, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, những

chủ trương của Đảng và cấp ủy địa phương để các lực lượng tham gia làm CTDV

nắm bắt đúng đắn, kịp thời, trên cơ sở đó xây dựng các chương trình, kế hoạch tham

gia CTDV phù hợp. Tổ chức các lớp tập huấn, trao đổi tình hình CTDV, công tác

dân tộc, công tác tôn giáo cho các lực lượng này. Đồng thời, định kỳ kiểm tra, đánh

giá, khen thưởng các lực lượng tham gia làm tốt CTDV trên địa bàn.

4.2.5. Lãnh đạo phối hợp chặt chẽ, phát huy sức mạnh tổng hợp của các

lực lƣợng tham gia công tác dân vận tr n địa bàn

Thực tiễn ở Tây Nguyên cho thấy, khi có tình hình phức tạp về an ninh

chính trị, có nhiều chủ thể cùng làm CTDV ở địa phương, nhưng do thiếu sự phối

hợp và phân công nhiệm vụ cụ thể, nên xảy ra tình trạng hoặc là "lấn sân", "trống

đánh xuôi, kèn thổi ngược", "vận mà không động, động mà không theo một

hướng" hoặc bỏ trống trận địa dẫn đến hiệu quả CTDV bị hạn chế, thậm chí là

phản tác dụng. Vì vậy, các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn

thể và các lực lượng trên địa bàn cần nghiêm túc thực hiện Quy chế CTDV của

HTCT: "Công tác dân vận là trách nhiệm của tất cả các tổ chức trong HTCT, của

mọi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên các đoàn thể

nhân dân, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, các tổ

chức trong HTCT phối hợp chặt chẽ thực hiện đồng bộ, thống nhất, hiệu quả

CTDV" [52]. Theo đó, cần phân định rõ chức năng, nhiệm vụ cụ thể của các cấp

ủy, chính quyền, đoàn thể, tổ chức làm CTDV ở Tây Nguyên. Trong đó, cấp ủy

đảng phải lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp các đơn vị, cá nhân làm CTDV; chỉ đạo thực

hiện các nội dung CTDV cụ thể, chủ động yêu cầu phối hợp giữa các tổ chức, đơn

vị tiến hành CTDV mọi lúc, mọi nơi; kết hợp lãnh đạo tư tưởng, tổ chức với chỉ

đạo triển khai CTDV là biện pháp tích cực làm cho CTDV của Đảng trở thành

hiện thực. Các cấp ủy đảng cần thường xuyên tiến hành rà soát, điều chỉnh, bổ

sung quy chế CTDV phù hợp với thực tiễn địa phương, đơn vị; phân công trách

145

nhiệm cụ thể, thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc tổ chức thực hiện chức năng,

nhiệm vụ CTDV được giao. Thực hiện CTDV cần cụ thể hóa thành các chương

trình, kế hoạch, quy chế, quy định cụ thể, gắn với nhiệm vụ chính trị của địa

phương, đơn vị; trong từng thời điểm cần xác định trọng tâm, trọng điểm để tập

trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện. Thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả

các quy chế phối hợp, ký kết liên tịch, chương trình phối hợp công tác giữa Ban

Dân vận với chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội các

cấp trong CTDV.

Cần tăng cường sự phối hợp đồng bộ và thống nhất giữa các bộ, ban, ngành

ở Trung ương và địa phương trong việc triển khai thực hiện các chủ trương, chính

sách của Đảng và Nhà nước về CTDV trên địa bàn. Kinh nghiệm trong xử lý các

vụ biểu tình tháng 4-2008 cho thấy: Nhờ phát hiện sớm được ý đồ chỉ đạo biểu

tình của bọn FULRO lưu vong, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng Chính

phủ, Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, Bộ Công an… các lực lượng chức năng và các tỉnh

Tây Nguyên đã chủ động phối hợp bám cơ sở, nắm tình hình, tăng cường công tác

tuyên truyền, vận động quần chúng; đồng thời, tiến hành rà soát, giải quyết ngay

tại chỗ những bức xúc, vướng mắc, nhất là những tranh chấp, khiếu kiện trong

vùng đồng bào DTTS. Các lực lượng (Công an, Quân đội, Biên phòng) phối hợp

chặt chẽ trong theo dõi nắm chắc tình hình và rà soát các phương án phòng chống

biểu tình, bạo loạn, vượt biên trái phép; kiên quyết ngăn chặn không để tụ tập biểu

tình, gây rối an ninh trật tự tại cơ sở; đồng thời, phối hợp với chính quyền địa

phương đẩy mạnh việc giáo dục, cảm hóa, quản lý, răn đe với những đối tượng

liên quan đến hoạt động FULRO, nên số tái hoạt động không nhiều, tác hại bị hạn

chế. Những thành công và kết quả đạt được trong CTDV ở Tây Nguyên thời gian

qua còn cho thấy: Trong quá trình chỉ đạo và triển khai thực hiện CTDV trên địa

bàn, Ban Chỉ đạo Tây Nguyên đã chủ trì phối hợp với Ban Dân vận Trung ương,

Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Ban Tổ chức Trung ương… tổ chức nhiều

Hội nghị chuyên đề về CTVĐQC, đặc biệt là Hội nghị năm 2003, 2005 và 2008,

với sự tham gia của các bộ, ngành, đoàn thể ở Trung ương và lãnh đạo các tỉnh ở

Tây Nguyên. Ngoài ra, Ban Dân vận Trung ương còn thường xuyên tổ chức Hội

146

nghị giao ban CTDV định kỳ giữa các tỉnh Tây Nguyên. Thông qua các Hội nghị

trên đã tổng kết được nhiều kinh nghiệm thực tiễn, những mô hình "Dân vận

khéo" để phổ biến và nhân rộng; đồng thời, tăng cường nâng cao nhận thức, trách

nhiệm về CTDV đối với các cấp, các ngành ở Trung ương và địa phương.

Với chức năng, nhiệm vụ được giao, Ban Chỉ đạo Tây Nguyên cần tăng

cường và phát huy hơn nữa vai trò của mình trong chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra, tổ

chức phối hợp các lực lượng, cơ quan chức năng của Trung ương và địa phương

để thực hiện tốt những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với vùng

Tây Nguyên. Trong đó, nhiệm vụ trọng tâm và thường xuyên là xây dựng thế trận

quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; nắm chắc tình hình, kịp thời phát hiện,

ngăn chặn mọi âm mưu, ý đồ của bọn phản động FULRO và các thế lực thù địch;

nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, vận động quần chúng; xây dựng và củng

cố khối đoàn kết các dân tộc; giữ vững an ninh chính trị vùng Tây Nguyên.

Trên một địa bàn cụ thể, các lực lượng được phân công về làm CTDV và lực

lượng tại chỗ phải có sự phối hợp chặt chẽ với nhau, theo một kế hoạch thống nhất,

dưới sự lãnh đạo, điều hành, phân công cụ thể của cấp ủy đảng cơ sở. Tránh tình

trạng trên địa bàn cơ sở cùng một lúc có rất đông lực lượng (chính quyền, đoàn thể,

Công an, Đội công tác của địa phương và Quân đội, các đơn vị kết nghĩa, lực lượng

dân quân tự vệ) nhưng việc chỉ đạo phối hợp công tác chưa tốt, nên hiệu quả thấp.

Cần thường xuyên tổ chức giao ban CTDV để nắm tình hình, phổ biến kinh nghiệm,

định hướng nội dung và phương pháp hoạt động. Thực tế cho thấy, thông qua công

tác kết nghĩa, CTPĐQC… các ngành, các cấp, các cơ quan, đơn vị, các lực lượng vũ

trang đã có sự phối hợp khá tốt để bám địa bàn, bám dân, nắm tình hình, đẩy mạnh

CTVĐQC, phát huy truyền thống đoàn kết dân tộc, giữ vững ổn định chính trị, trật

tự an toàn xã hội; đồng thời, động viên được các tầng lớp nhân dân tích cực tham

gia phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, xây dựng đời sống mới.

Tiểu kết chƣơng 4

Thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW của Bộ Chính trị, các tổ chức đảng từ

Trung ương đến địa phương đã đề ra nhiều chủ trương, giải pháp cụ thể, tập trung

lãnh đạo, chỉ đạo HTCT các cấp, phối hợp các lực lượng trên địa bàn, hướng về cơ

147

sở và địa bàn dân cư để làm CTDV. Theo đó, nội dung và phương thức CTDV từng

bước được đổi mới theo hướng cụ thể, thiết thực, phù hợp và có hiệu quả. Nét nổi

bật trong CTDV của Đảng ở Tây Nguyên thời kỳ này: Các cấp, các ngành, các địa

phương và các lực lượng đều tập trung hướng về cơ sở, đẩy mạnh CTVĐQC trong vùng

đồng bào DTTS; công tác kết nghĩa giữa các cơ quan, đơn vị của tỉnh, huyện, các

doanh nghiệp và lực lượng vũ trang với các buôn đồng bào DTTS; tăng cường cán

bộ của tỉnh, huyện về cơ sở làm CTDV và xây dựng HTCT cơ sở… Với những chủ

trương và giải pháp phù hợp, CTDV đã góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát

triển, giữ vững an ninh chính trị, xây dựng HTCT cơ sở vững mạnh, củng cố và

tăng cường khối đoàn kết các dân tộc, đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của

bọn phản động FULRO và các thế lực thù địch. Tuy nhiên, CTDV của Đảng ở Tây

Nguyên cũng bộc lộ một số hạn chế, khuyết điểm: Nhận thức của một số cấp ủy

đảng, chính quyền về vai trò, nhiệm vụ CTDV chưa thật sâu sắc, nên trong lãnh

đạo, chỉ đạo còn xem nhẹ và buông lỏng CTDV, chưa nắm chắc dân, nắm chắc tình

hình; nội dung và phương pháp CTDV chậm đổi mới, hiệu quả chưa cao; lãnh đạo

phối hợp và phân công trách nhiệm CTDV cho các tổ chức trong HTCT và các lực

lượng đóng trên địa bàn chưa thật chặt chẽ, cụ thể.

148

KẾT LUẬN

Tây Nguyên là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng của cả nước. Đặc điểm

tự nhiên, kinh tế - xã hội đặc trưng của Tây Nguyên là cơ sở rất quan trọng để Đảng

và Nhà nước đề ra những chủ trương, chính sách đúng đắn, phù hợp nhằm phát triển

kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên. Trong những chủ

trương chung đó, có chủ trương tăng cường CTDV của Đảng ở Tây Nguyên.

Trước năm 2001, thực hiện Nghị quyết số 8B của Ban Chấp hành Trung

ương Đảng Về đổi mới công tác quần chúng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và

nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ các tỉnh ở Tây Nguyên, CTDV trên địa

bàn đã bước đầu đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, bám sát nhiệm vụ

chính trị để vận động quần chúng tham gia thực hiện các chủ trương, chính sách của

Đảng, pháp luật của Nhà nước, thực hiện các chương trình, kế hoạch phát triển kinh

tế - xã hội ở địa phương. Tuy nhiên, công tác vận động đồng bào các dân tộc ở Tây

Nguyên còn nhiều hạn chế, chưa thật sự tạo ra chuyển biến đáng kể ở vùng đồng

bào DTTS, thậm chí có phần lúng túng, bế tắc trong việc giải quyết các vấn đề xã

hội bức xúc, nổi cộm.

Trong những năm 2001-2010, thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng và

các Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX), các nghị quyết,

quyết định của Bộ Chính trị và Thủ tướng Chính phủ, đặc biệt Nghị quyết số 10-

NQ/TW Về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây

Nguyên thời kỳ 2001-2010 của Bộ Chính trị (khóa IX)… và các Kết luận của Ban

Chỉ đạo Tây Nguyên, các cấp bộ đảng luôn tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo HTCT

hướng về cơ sở, tập trung tuyên truyền và vận động các tầng lớp nhân dân khắc

phục khó khăn, yên tâm lao động sản xuất, ổn định và nâng cao đời sống; đề cao

tinh thần cảnh giác, góp phần đấu tranh làm thất bại âm mưu chống phá của các thế

lực thù địch; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, từng bước tạo chuyển

biến trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Ban Chỉ đạo Tây Nguyên ra đời là cầu nối tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo

trực tiếp, kịp thời của Trung ương Đảng và Chính phủ đối với vùng Tây Nguyên.

Với chức năng, nhiệm vụ được giao, Ban Chỉ đạo Tây Nguyên đã chủ động triển

khai các mặt công tác và có những đóng góp quan trọng cho sự ổn định và phát triển

149

của vùng. Thực hiện tốt chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo; tăng cường

CTPĐQC, công tác kết nghĩa và tăng cường cán bộ cho cơ sở… là những chủ

trương, giải pháp lớn của Đảng và Nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả CTDV ở Tây

Nguyên, nhất là ở vùng đồng bào DTTS. Việc đẩy mạnh CTDV đã góp phần tích

cực vào phát triển kinh tế - xã hội; tham gia giải quyết vấn đề FULRO, giữ vững an

ninh chính trị; xây dựng HTCT cơ sở, trọng điểm là vùng DTTS; tập trung giải

quyết vấn đề đạo Tin lành, thực hiện chính sách tôn giáo; góp phần xây dựng, củng

cố khối đại đoàn kết các dân tộc, xây dựng "thế trận lòng dân", bảo đảm cho Tây

Nguyên từng bước ổn định và phát triển. Tuy đã có nhiều đổi mới, nhưng CTDV

của Đảng ở Tây Nguyên vẫn bộc lộ nhiều hạn chế: Một số cấp ủy đảng, chính

quyền lãnh đạo, chỉ đạo công tác nắm dân, nắm tình hình chưa chắc; xử lý tình

huống ở cơ sở thiếu chủ động, kịp thời, nhạy bén; nội dung, phương pháp CTDV

chưa theo kịp diễn biến tình hình, còn đơn giản một chiều, chưa phù hợp với từng

đối tượng; HTCT cơ sở, nhất là trong vùng DTTS chưa đáp ứng được yêu cầu,

nhiệm vụ trong tình hình mới; lãnh đạo phối hợp giữa các tổ chức trong HTCT và

các đơn vị đứng chân trên địa bàn làm CTDV chưa thật chặt chẽ, cụ thể và đồng bộ.

Những thành công và kết quả đạt được cũng như những hạn chế, yếu kém

trong quá trình Đảng lãnh đạo, chỉ đạo CTDV trên địa bàn Tây Nguyên thời kỳ

(2001-2010) đã cung cấp những kinh nghiệm quý, những bài học quan trọng để

không ngừng tăng cường và đổi mới CTDV của Đảng, góp phần phát triển bền

vững Tây Nguyên, đó là: Thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục

nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể và xã hội về

CTDV trên địa bàn Tây Nguyên; kết hợp chặt chẽ giữa CTDV với phát triển kinh

tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh và tăng cường khối đại đoàn kết các dân

tộc ở Tây Nguyên; thường xuyên bám sát cơ sở, đáp ứng nhu cầu thực tế của địa

phương; chăm lo xây dựng HTCT cơ sở vững mạnh, phát huy vai trò của những

người có uy tín trong đồng bào DTTS và đồng bào có đạo; lãnh đạo phối hợp chặt

chẽ, phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng tham gia CTDV trên địa bàn.

Để Tây Nguyên ổn định và phát triển bền vững cùng với sự phát triển chung của

cả nước, đòi hỏi Đảng phải tăng cường đổi mới sự lãnh đạo, chỉ đạo CTDV, góp

phần xứng đáng giữ vững vị trí đặc biệt quan trọng về địa chính trị, địa kinh tế và

quốc phòng của Tây Nguyên.

150

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA

TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Nguyễn Mậu Linh (2013), "Đắk Lắk với việc phát huy vai trò người có uy tín

trong đồng bào dân tộc thiểu số", Tạp chí Sinh hoạt lý luận, (4), tr.68-72.

2. Nguyễn Mậu Linh (2013), "Một số kết quả và kinh nghiệm trong công tác dân

vận của Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk", Tạp chí Lịch sử Đảng, (6), tr.56-62.

3. Nguyễn Mậu Linh (2015), "Những nhân tố ảnh hưởng đến công tác dân vận ở

Tây Nguyên hiện nay", Tạp chí Dân vận, (12), tr.39-40.

4. Nguyễn Mậu Linh (2016), "Đắk Lắk thực hiện công tác kết nghĩa các buôn đồng

bào dân tộc thiểu số", Tạp chí Sinh hoạt lý luận, (1), tr.86-89.

5. Nguyễn Mậu Linh (2016), "Công tác dân vận của Đảng ở Tây Nguyên - Một số kết

quả và kinh nghiệm (2004-2012)", Tạp chí Lịch sử Đảng, (1), tr.72-75.

6. Nguyễn Mậu Linh (2016), "Xây dựng buôn làng tự quản trong cộng đồng các dân

tộc thiểu số tại chỗ ở Tây Nguyên hiện nay", Tạp chí Tổ chức Nhà nước,

(3), tr.40-43.

7. Nguyễn Mậu Linh (2016), "Công tác dân vận của Đảng bộ tỉnh Gia Lai: Một số

kết quả và kinh nghiệm", Tạp chí Sinh hoạt lý luận, (8), tr.57-61.

151

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk (2010), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk

1975-2005, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

2. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Gia Lai, Ban Dân vận Tỉnh ủy (2015), Lịch sử

công tác dân vận Đảng bộ tỉnh Gia Lai (1945-2015), Nxb Thông tin và

Truyền thông, Hà Nội.

3. Ban Chấp hành Trung ương (2002), Nghị quyết số 10-NQ/TW của Bộ Chính trị

Về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây

Nguyên thời kỳ 2001-2010, ngày 18-01-2002, Hà Nội.

4. Ban Chấp hành Trung ương (2002), Quyết định số 46-QĐ/TW Về thành lập

Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, ngày 17-7-2002, Hà Nội.

5. Ban Chấp hành Trung ương (2003), Nghị quyết số 24-NQ/TW Về công tác dân

tộc, ngày 12-3-2003, Hà Nội.

6. Ban Chấp hành Trung ương (2003), Nghị quyết số 25-NQ/TW Về công tác tôn

giáo, ngày 12-3-2003, Hà Nội.

7. Ban Chấp hành Trung ương (2004), Thông báo Kết luận số 148-TB/TW Về tình

hình, nhiệm vụ và giải pháp để tiếp tục phát triển vùng Tây Nguyên toàn

diện, bền vững, ngày 16-7-2004, Hà Nội.

8. Ban Chấp hành Trung ương (2004), Thông báo số 160-TB/TW Ý kiến kết luận

của Ban Bí thư tại Hội nghị sơ kết 5 năm thực hiện Thông báo 184-

TB/TW và 255-TB/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) về chủ trương công

tác đối với đạo Tin lành, ngày 15-11-2004, Hà Nội.

9. Ban Chấp hành Trung ương (2007), Quy định số 89-QĐ/TW, ngày 03-10-2007

Về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức, bộ máy, địa bàn hoạt động,

quan hệ công tác, chế độ, chính sách cán bộ của các Ban Chỉ đạo: Tây

Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, Hà Nội.

10. Ban Chấp hành Trung ương, Đoàn kiểm tra Nghị quyết 10-NQ/TW (2007), Báo

cáo số 07-BC/ĐKT Kết quả kiểm tra thực hiện Nghị quyết 10-NQ/TW

ngày 18-01-2002 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo

đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên thời kỳ 2001-2010, ngày 10-

12-2007, Hà Nội.

152

11. Ban Chấp hành Trung ương, Ban Dân vận (2015), Lịch sử công tác dân vận

của Đảng Cộng sản Việt Nam (1930-2010), Nxb Chính trị quốc gia - Sự

thật, Hà Nội.

12. Ban Chỉ đạo Tây Nguyên (2003), Kết luận số 20-BC/BCĐTN Hội nghị về Tin

lành Tây Nguyên, ngày 10-6-2003.

13. Ban Chỉ đạo Tây Nguyên (2004), Báo cáo số 47-BC/BCĐTN Về tình hình thực

hiện Nghị quyết 10-NQ/TW, ngày 18-01-2002 của Bộ Chính trị về phát

triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên

thời kỳ 2001-2010.

14. Ban Chỉ đạo Tây Nguyên (2006), Báo cáo số 119-BC/BCĐTN Tình hình Tây

Nguyên năm 2005, ngày 11-01-2006.

15. Ban Chỉ đạo Tây Nguyên (2006), Báo cáo số 120-BC/BCĐTN Về công tác xây

dựng Đảng và hệ thống chính trị ở cơ sở năm 2005 và nhiệm vụ trọng

tâm năm 2006, ngày 11-01-2006.

16. Ban Chỉ đạo Tây Nguyên (2006), Báo cáo số 125-BC/BCĐTN Tình hình Tây

Nguyên năm 2005 và Chương trình công tác năm 2006, ngày 7-02-2006.

17. Ban Chỉ đạo Tây Nguyên (2006), Tây Nguyên trên đường phát triển bền vững,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

18. Ban Chỉ đạo Tây Nguyên (2007), Báo cáo số 19-BC/BCĐTN Tình hình Tây

Nguyên năm 2006, ngày 15-01-2007, Buôn Ma Thuột.

19. Ban Chỉ đạo Tây Nguyên (2008), Thông báo số 32-TB/BCĐTN Kết quả Hội

nghị rút kinh nghiệm giải quyết các vụ biểu tình, khiếu kiện, gây rối xảy

ra từ ngày 11 đến 14-4-2008 ở một số huyện của ba tỉnh Gia Lai, Đắk

Lắk, Phú Yên, ngày 27-5-2008, Buôn Ma Thuột.

20. Ban Chỉ đạo Tây Nguyên (2008), Báo cáo số 64-BC/BCĐTN Về tình hình và

một số vấn đề trọng tâm về công tác tư tưởng, vận động quần chúng và

xây dựng hệ thống chính trị cơ sở nhằm giải quyết vấn đề FULRO ở Tây

Nguyên, ngày 22-10-2008, Buôn Ma Thuột.

21. Ban Chỉ đạo Tây Nguyên (2008), Thông báo số 45-TB/BCĐTN Kết luận Hội

nghị bàn về công tác tư tưởng, dân vận và xây dựng hệ thống chính trị

cơ sở nhằm giải quyết vấn đề FULRO ở vùng Tây Nguyên, ngày 23-10-

2008, Buôn Ma Thuột.

153

22. Ban Chỉ đạo Tây Nguyên (2009), Thông báo số 56-TB/BCĐTN Kết luận của

Thường trực Ban Chỉ đạo Tây Nguyên tại Hội nghị công tác quần chúng

giải quyết vấn đề FULRO, ngày 29-6-2009, Buôn Ma Thuột.

23. Ban Chỉ đạo Tây Nguyên (2010), Báo cáo chuyên đề xây dựng hệ thống chính

trị cơ sở vùng Tây Nguyên: thực trạng, kinh nghiệm và giải pháp, Buôn

Ma Thuột.

24. Ban Chỉ đạo Tây Nguyên (2011), Báo cáo số 07-BC/BCĐTN Tổng kết Nghị

quyết 10-NQ/TW ngày 18-01-2002 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế

- xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên thời kỳ 2001-

2010, ngày 20-4-2011, Buôn Ma Thuột.

25. Ban Dân vận Tỉnh ủy Đắk Lắk (2005), Kế hoạch số 622-KH/DVTU Xây dựng

lực lượng cốt cán trong hệ thống Ban Dân vận, Mặt trận Tổ quốc và các

đoàn thể quần chúng các cấp ở khu dân cư, ngày 14-3-2005, Đắk Lắk.

26. Ban Dân vận Tỉnh ủy Đắk Lắk (2010), Báo cáo số 562-BC/DVTU Kết quả 5

năm thực hiện Nghị quyết XIV của Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2005-2010 và

phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ 2010-2015, ngày 20-1-2010, Đắk Lắk

27. Ban Dân vận Tỉnh ủy Đắk Nông (2012), Báo cáo số 75-BC/BDV Tổng kết hoạt

động Đội công tác vận động quần chúng xây dựng cơ sở giai đoạn 2007-

2011, ngày 10-01-2012, Đắk Nông.

28. Ban Dân vận Tỉnh ủy Gia Lai (2007), Nâng cao năng lực hoạt động và khả

năng tập hợp quần chúng của Mặt trận và các đoàn thể ở xã, phường, thị

trấn trên địa bàn tỉnh Gia Lai trong tình hình mới, Nxb Đà Nẵng.

29. Ban Dân vận Trung ương (1995),Tư tưởng Dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

30. Ban Dân vận Trung ương (2002), Kế hoạch số 23-KH/BDV Triển khai thực

hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về Tây Nguyên trong hệ thống dân vận,

ngày 18-01-2002, Hà Nội.

31. Ban Dân vận Trung ương (2003), Báo cáo số 01-BC/BDV Về công tác dân vận

ở các tỉnh Tây Nguyên năm 2002, ngày 14-1-2003, Hà Nội.

32. Ban Dân vận Trung ương (2004), Chương trình hành động số 242-CT/DV Về

công tác vận động quần chúng tại các tỉnh Tây Nguyên, ngày 20-8-2004,

Hà Nội.

154

33. Ban Dân vận Trung ương (2005), Báo cáo số 42-BC/BDVTW Công tác dân vận

các tỉnh Tây Nguyên và tỉnh Bình Phước từ đầu năm 2003 đến nay, ngày

24-8-2005, Hà Nội.

34. Ban Dân vận Trung ương (2010), Báo cáo số 64-BC/BDVTW Về công tác dân

vận thực hiện Nghị quyết X của Bộ Chính trị trên địa bàn các tỉnh Tây

Nguyên từ năm 2002 đến nay, ngày 5-8-2010, Hà Nội.

35. Ban Dân vận Trung ương (2010), Điển hình Dân vận khéo, Hà Nội.

36. Ban Tổ chức Tỉnh ủy Đắk Lắk (2000), Báo cáo thực trạng hệ thống chính trị

các cấp và công tác cán bộ, ngày 6-6-2000, Đắk Lắk.

37. Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ (2001), Báo cáo về xây dựng chính quyền cơ

sở ở các tỉnh vùng Tây Nguyên, Tài liệu Hội nghị xây dựng chính quyền

cơ sở ở các tỉnh vùng Tây Nguyên, Gia Lai, ngày 18-19/7/2001, Hà Nội.

38. Nguyễn Bạn (2012), "Phát huy vai trò công tác dân vận trên địa bàn Tây

Nguyên trong giai đoạn mới", Tạp chí Dân vận, (7), tr.29-30; 39.

39. Hoàng Chí Bảo (2013), "Quan niệm về chất lượng và hiệu quả công tác dân

vận", Tạp chí Lịch sử Đảng (2), tr.47-52.

40. Ngọc Biên (2012), "FULRO - công cụ phục vụ âm mưu can thiệp của nước

ngoài", Hồ sơ sự kiện, chuyên san Tạp chí Cộng sản, (3).

41. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2001), Báo cáo tóm tắt phương hướng phát triển kinh

tế - xã hội vùng Tây Nguyên thời kỳ 2001-2010, Hà Nội.

42. Bộ Nội vụ (2012), Báo cáo tổng kết 07 năm thực hiện Quyết định số 253/QĐ-

TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án "Một số giải pháp củng

cố, kiện toàn chính quyền cơ sở vùng Tây Nguyên giai đoạn 2002-2010",

Hà Nội.

43. Trần Thanh Dân (2014), Mãi mãi không quên (Hồi ký), Kon Tum.

44. Trần Thanh Dân (2015), Đứng lên từ cộng đồng làng, Nxb Thông tin và Truyền

thông, Hà Nội.

45. Trương Minh Dục (2008), Xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc ở

Tây Nguyên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

46. Nguyễn Tấn Dũng (2012), "Tây Nguyên vững bước đi lên", Tạp chí Cộng sản,

(7), tr.11-15.

155

47. Nguyễn Mậu Dựng (2013), "Những nhân tố ảnh hưởng đến việc xây dựng lực

lượng nòng cốt ở Tây Nguyên", Tạp chí Sinh hoạt lý luận, (4), tr.43-47.

48. Phạm Ngọc Đại (2015), "Chính sách kết nghĩa dân tộc ở tỉnh Đắk Lắk hiện

nay", Tạp chí Khoa học Xã hội Tây Nguyên (2), tr.70-80.

49. Đảng bộ tỉnh Đắk Nông (2010), Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Đắk Nông

nhiệm kỳ 2010-2015, Đắk Nông.

50. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

51. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

52. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Quyết định số 290-QĐ/TW của Bộ Chính trị

Về việc ban hành Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị, ngày

25-2-2010.

53. Bùi Minh Đạo (2010), Tổ chức và hoạt động buôn làng trong phát triển bền

vững vùng Tây Nguyên, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

54. Bùi Minh Đạo (2010), Thực trạng phát triển Tây Nguyên và một số vấn đề phát

triển bền vững, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

55. Bùi Minh Đạo (2012), Một số vấn đề cơ bản của xã hội Tây Nguyên trong phát

triển bền vững, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

56. Lê Văn Đính (2009), Giải pháp tăng cường đoàn kết, tập hợp thanh niên các

dân tộc ở Tây Nguyên hiện nay, Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.

57. Phạm Hảo (2003), "Hệ thống chính trị ở các tỉnh Tây Nguyên - thực trạng và

giải pháp", trong Phạm Hảo, Trương Minh Dục, đồng chủ biên, Một số

vấn đề về xây dựng hệ thống chính trị ở Tây Nguyên, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội, tr.107-149.

58. Chu Chí Hòa (2010), Đổi mới công tác xây dựng Đảng ở nông thôn, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

59. Lê Nhị Hòa (2013), Kết hợp phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng ở Tây

Nguyên giai đoạn 1996 - 2010, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

60. Phạm Quang Hoan (2014), Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài "Quan

hệ tộc người và chiến lược xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong

phát triển bền vững Tây Nguyên", mã số TN3/X05, Hà Nội.

156

61. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Tỉnh ủy Đắk Nông

(2013), Kỷ yếu hội thảo khoa học "Một số vấn đề về công tác tuyên

truyền, vận động quần chúng trong thời kỳ hiện nay", Đắk Nông.

62. Phạm Văn Hồ (2012), Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện chính sách

xã hội ở Tây Nguyên từ năm 1996 đến năm 2006, Luận án Tiến sĩ Lịch

sử, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

63. Hội đồng dân tộc, Quốc hội khóa X (2001), Báo cáo thực trạng và những giải

pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế - xã hội gắn với bảo đảm an ninh

chính trị và quốc phòng ở Tây Nguyên trong tình hình mới, ngày 25-7-2001,

Hà Nội.

64. Hội đồng Lý luận Trung ương (2012), Làm tốt công tác quần chúng trong tình

hình mới: kinh nghiệm Trung Quốc, kinh nghiệm Việt Nam, Nxb Chính

trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

65. Nguyễn Thế Huệ (2008), Người cao tuổi dân tộc và già làng trong phát triển

bền vững Tây Nguyên, Nxb Thông tấn, Hà Nội.

66. Lưu Hùng (2002), "Góp bàn về làng người Thượng ở Tây Nguyên qua biến đổi

và phát triển (nhìn từ góc độ dân tộc học)", trong Một số vấn đề phát

triển kinh tế - xã hội buôn làng các dân tộc Tây Nguyên, Nxb Khoa học

Xã hội, Hà Nội, tr.98-126.

67. Nguyễn Mạnh Hùng (2011), "Những điều rút ra từ thành công trong chỉ đạo

công tác dân vận ở Binh đoàn 15", Tạp chí Dân vận, (3), tr.24-26.

68. Thái Thượng Kim (2015), "Đảng Cộng sản các nước trên thế giới tận dụng như

thế nào sự tham dự dân chủ để thắt chặt quan hệ giữa Đảng và quần

chúng", Thông tin những vấn đề lý luận (Phục vụ lãnh đạo), (5), tr.23-31.

69. Lê Văn Khoa, Phạm Quang Tú (2014), Hướng tới phát triển bền vững Tây

Nguyên, Nxb Tri thức, Hà Nội.

70. Vũ Đình Lợi, Bùi Minh Đạo và Vũ Thị Hồng (2000), Sở hữu và sử dụng đất

đai ở các tỉnh Tây Nguyên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

71. Yly Niê Kđăm (2006), "Nâng cao đời sống văn hóa và tinh thần đồng bào dân

tộc thiểu số", trong Tây Nguyên trên đường phát triển bền vững, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.92-95.

157

72. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

73. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

74. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

75. Thành Nam (2001), "Hội nghị công tác dân vận bốn tỉnh Tây Nguyên", Tạp chí

Dân vận, (6), tr.13-16.

76. Mai Văn Năm (2006), "Tây Nguyên quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết

10", trong Tây Nguyên trên đường phát triển bền vững, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội, tr.32-37.

77. Nguyễn Văn Nên (2012), "Tây Nguyên - bài học về sức mạnh lòng dân", trong

Ban Chỉ đạo Tây Nguyên 10 năm hình thành và phát triển (2002-2012)",

Buôn Ma Thuột, tr.32-37.

78. Linh Nga Niê Kdam (2010), "Văn hóa truyền thống các dân tộc Tây Nguyên

trong sự ổn định và phát triển", trong Dương Thị Hưởng, Đỗ Đình Hãng

và Đậu Tuấn Nam, đồng chủ biên, Một số vấn đề về văn hóa - xã hội các

dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,

tr.107-121.

79. Vương Tề Ngạn (2009), "Thúc đẩy xây dựng chính trị dân chủ cơ sở nông thôn,

thực hiện quản lý của chính quyền cơ sở và tự trị của quần chúng thúc

đẩy lẫn nhau một cách tích cực", trong Vấn đề nông nghiệp, nông dân,

nông thôn: kinh nghiệm Việt Nam, kinh nghiệm Trung Quốc, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội, tr.438-450.

80. Nhà xuất bản Lao động - Xã hội (2013), Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác

dân vận trong thời kỳ đổi mới ở nước ta hiện nay, Hà Nội.

81. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2014), Lý luận và kinh nghiệm của Đảng

Cộng sản Việt Nam về công tác dân vận, Hà Nội.

82. Hà Sơn Nhim (2011), "Một số kết quả và bài học kinh nghiệm trong công tác

dân vận của Đảng bộ tỉnh Gia Lai", Tạp chí Dân vận, (1), tr.39-41.

83. Trần Văn Phòng (2012), "Một số bài học kinh nghiệm về công tác vận động

quần chúng của Đảng trong những năm đổi mới", Tạp chí Lý luận chính

trị,(8), tr.33-38.

158

84. Trần Đại Quang (2012), "Phát triển Tây Nguyên toàn diện, bền vững, xứng

đáng với vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế - xã hội, quốc

phòng, an ninh và môi trường sinh thái của đất nước", Tạp chí Cộng sản,

(6), tr.12-18.

85. Nguyễn Bá Quang (2013), Học tập và làm theo phong cách "Dân vận khéo" Hồ

Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

86. Lưu Văn Sùng (2010), Một số điểm nóng chính trị - xã hội điển hình tại các

vùng dân tộc ở miền núi trong những năm gần đây: hiện trạng, vấn đề,

các bài học kinh nghiệm trong xử lý tình huống, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

87. Đỗ Khánh Tặng (2012), Nghiên cứu lý luận phục vụ công tác tuyên giáo, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

88. Nguyễn Đình Tấn, Trần Thị Bích Hằng (2010), Nhận thức, thái độ, hành vi của

cộng đồng các dân tộc thiểu số đối với chính sách dân tộc của Đảng và

Nhà nước trong giai đoạn hiện nay - thực trạng và giải pháp, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

89. Tỉnh ủy Đắk Lắk (2001), Kế hoạch số 01/KH-TU Về đấu tranh xóa bỏ "Tin

lành Đê Ga" và tiếp tục thực hiện chủ trương đối với đạo Tin lành trong

tình hình mới, ngày 22-6-2001, Đắk Lắk.

90. Tỉnh ủy Đắk Lắk (2010), Báo cáo số 381-BC/TU Tổng kết 10 năm thực hiện

Nghị quyết số 10-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội,

bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên thời kỳ 2001-2010, ngày

20-9-2010, Đắk Lắk.

91. Tỉnh ủy Đắk Lắk (2011), Báo cáo kết quả 6 năm thực hiện công tác kết nghĩa với

các buôn đồng bào dân tộc thiểu số (2004-2010), tháng 2-2011, Đắk Lắk.

92. Tỉnh ủy Đắk Lắk (2011), Báo cáo số 72-BC/TU Tổng kết 6 năm thực hiện Nghị

quyết số 04-NQ/TU của Tỉnh ủy (khóa XIII) về phát triển kinh tế - xã hội

buôn, thôn đồng bào dân tộc thiểu số, ngày 27-7-2011, Đắk Lắk.

93. Tỉnh ủy Đắk Nông (2010), Báo cáo số 21-BC/TU Tổng kết tình hình thực hiện

Nghị quyết 10-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và

đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên thời kỳ 2001-2010, ngày

22-12-2010, Đắk Nông.

159

94. Tỉnh ủy Gia Lai (2005), Chỉ thị số 22-CT/TU Về một số công tác đối với đạo

Tin lành, ngày 8-4-2005, Gia Lai.

95. Tỉnh ủy Gia Lai (2009), Báo cáo số 242-BC/TU Tổng kết 5 năm thực hiện

Thông báo 160-TB/TW của Ban Bí thư (khóa IX) về chủ trương công tác

đối với đạo Tin lành, ngày 7-5-2009, Gia Lai.

96. Tỉnh ủy Gia Lai (2010), Báo cáo số 04-BC/TU Tổng kết tình hình thực hiện

Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 18-01-2002 của Bộ Chính trị về phát

triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên

thời kỳ 2001-2010 , ngày 09-11-2010, Gia Lai.

97. Tỉnh ủy Kon Tum (2006), Chỉ thị số 04-CT/TU Về đẩy mạnh triển khai thực

hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, ngày 10-10-2006, Kon Tum.

98. Tỉnh ủy Kon Tum (2007), Nghị quyết số 04-NQ/TU Về đẩy mạnh xây dựng các

xã đặc biệt khó khăn, ngày 14-6-2007, Kon Tum.

99. Tỉnh ủy Kon Tum (2009), Báo cáo sơ kết 2 năm thực hiện Nghị quyết 04-

NQ/TU của Tỉnh ủy (khóa XIII) về đẩy mạnh xây dựng các xã đặc biệt

khó khăn, Kon Tum.

100. Tỉnh ủy Kon Tum, Ban Tổ chức Tỉnh ủy (2011), Báo cáo số 81-BC/BTCTU

Sơ kết 3 năm thực hiện Chỉ thị số 10-CT/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy

về đẩy mạnh công tác phân công đảng viên phụ trách hộ, nhóm hộ, ngày

05-10-2011, Kon Tum.

101. Tỉnh ủy Lâm Đồng (2001), Nghị quyết số 02-NQ/TU, ngày 20-11-2001 Về tiếp tục

đầu tư phát triển vùng đồng bào dân tộc thời kỳ 2001-2005, Lâm Đồng.

102. Tỉnh ủy Lâm Đồng (2006), Nghị quyết số 09-NQ/TU Về tập trung nguồn lực tiếp

tục đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng

dân tộc thiểu số giai đoạn 2006-2010, ngày 31-10-2006, Lâm Đồng.

103. Nguyễn Văn Toàn (2002), "Khả năng sử dụng giáo viên tuyến cơ sở vào hoạt

động chính trị ở các xã vùng sâu, vùng xa Tây Nguyên", Tạp chí Sinh

hoạt lý luận (2), tr.63-64.

104. Tổng cục Chính trị, Cục dân vận và tuyên truyền đặc biệt (2005), Vì một Tây

Nguyên giàu đẹp, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

160

105. Tổng cục Thống kê, Vụ Thống kê Dân số và Lao động (2010), Kết quả điều

tra dân số và nhà ở 1.4.2009, Hà Nội.

106. Đỗ Quang Tuấn (2003), "Củng cố cơ sở, thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo,

Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ ở Tây nguyên", trong Tô Huy Rứa,

Nguyễn Cúc và Trần Khắc Việt, đồng chủ biên, Giải pháp đổi mới hoạt

động của hệ thống chính trị ở các tỉnh miền núi nước ta hiện nay, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.540-559.

107. Đỗ Quang Tuấn (2006), Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với

Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong thời kỳ đổi mới, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

108. Đặng Công Tuấn (2007), "Đặc điểm tình hình và một số giải pháp ổn định

chính trị trên địa bàn xã Hà Bầu, huyện Đắk Đoa, tỉnh Gia Lai thời gian

qua", trong Phạm Hảo, chủ biên, Một số giải pháp góp phần ổn định và

phát triển ở Tây Nguyên hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,

tr.580-586.

109. Trương Minh Tuấn (2011), Đổi mới công tác tư tưởng của Đảng ở Tây

Nguyên trong giai đoạn hiện nay, Luận án Tiến sĩ Chính trị học, Học

viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

110. Nguyễn Thanh Tuyền (2007), Báo cáo tổng quan đề tài "Các giải pháp đổi

mới hoạt động của hệ thống dân vận các tỉnh Tây Nguyên ở nước ta hiện

nay", Mã số KHBĐ (2005)-33, Hà Nội.

111. Nguyễn Thế Tư (2014), Xây dựng lực lượng nòng cốt làm công tác dân vận

trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên hiện nay, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

112. Thủ tướng Chính phủ (2005), Chỉ thị số 01/2005/CT-TTg Về một số công tác

đối với đạo Tin lành, ngày 04-2-2005, Hà Nội.

113. Thủ tướng Chính phủ (2008), Chỉ thị số 06/2008/CT-TTg Về phát huy vai trò

người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số trong sự nghiệp xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc, ngày 01-2-2008, Hà Nội.

161

114. Thủ tướng Chính phủ (2008), Quyết định số 25/2008/QĐ-TTg Về việc ban

hành một số cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội đối với

các tỉnh vùng Tây Nguyên đến năm 2010, ngày 05-02-2008, Hà Nội.

115. Đặng Trí Thủ (2012), Công tác vận động đồng bào Khmer của các Đảng bộ

xã, phường, thị trấn ở Tây Nam Bộ trong giai đoạn hiện nay, Luận án

Tiến sĩ Khoa học Chính trị, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ

Chí Minh, Hà Nội.

116. Thường vụ Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu V (1999), Tổng kết công tác

binh vận chiến trường khu V trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu

nước (1954-1975), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

117. Trung ương Hội người cao tuổi Việt Nam (2009), Kỷ yếu Hội nghị biểu

dương già làng tiêu biểu khu vực Tây Nguyên, Hà Nội.

118. Đặng Mạnh Trung (2011), Công tác vận động đồng bào Công giáo của

Đảng bộ một số tỉnh ở miền Đông Nam Bộ từ năm 1986 đến năm 2006,

Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ

Chí Minh, Hà Nội.

119. Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk, Ban Chỉ đạo chương trình mục tiêu giảm

nghèo (2006), Báo cáo kết quả thực hiện Nghị quyết số 57/2006/NQ-

HĐND ngày 14-12-2006 của Hội đồng nhân dân tỉnh về chương trình

mục tiêu giảm nghèo giai đoạn 2006-2010, Đắk Lắk.

120. Ủy ban nhân dân tỉnh Kon Tum (2005), Báo cáo kết quả khảo sát xác định

hộ nghèo theo chuẩn mới áp dụng giai đoạn 2006-2010 trên địa bàn tỉnh

Kon Tum, tháng 8-2005, Kon Tum.

121. Văn phòng cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo Tây Nguyên (2005), Tư liệu về

tự nhiên, kinh tế, văn hóa, xã hội và một số vấn đề liên quan đến vùng

đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên.

122. Văn phòng Chính phủ (2002), Thông báo số 178/TB-VPCP Kết luận của Phó

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Trưởng Ban Chỉ đạo Tây Nguyên tại Hội

nghị sơ kết một năm thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị và Quyết

định 168 của Thủ tướng Chính phủ về phát triển kinh tế - xã hội, bảo

đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên, ngày 14-11-2002, Hà Nội.

162

123. Văn phòng Chính phủ (2004), Thông báo số 78a/TB-VPCP Ý kiến chỉ đạo

của Phó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng về xử lý tình hình phức tạp ở Tây

Nguyên, ngày 23-4-2004, Hà Nội.

124. Văn phòng Chính phủ (2008), Thông báo số 11/TB-VPCP Kết luận của đồng

chí Lê Hồng Anh tại Hội nghị tổng kết công tác năm 2007, bàn phương

hướng, nhiệm vụ công tác năm 2008 của Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, ngày

22-01-2008, Hà Nội.

125. Văn phòng Chính phủ (2008), Thông báo số 270/TB-VPCP Kết luận của

đồng chí Lê Hồng Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an,

Trưởng ban Chỉ đạo Tây Nguyên tại Hội nghị Ban Chỉ đạo Tây Nguyên,

ngày 24-9-2008, Hà Nội.

126. Dario ViVas (2015), "Vận động quần chúng: bối cảnh dẫn đến sự trỗi dậy

của phong trào xã hội cách mạng, động lực, bản chất và tầm quan trọng",

Tạp chí Lý luận chính trị, (4), tr.99-103.

127. Viện Nghiên cứu tôn giáo, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Ban Chỉ

đạo Tây Nguyên (2013), Kỷ yếu Hội thảo khoa học Biến đổi tôn giáo ở

Tây Nguyên: Thực trạng, chính sách và giải pháp, Buôn Ma Thuột.

128. Viện Tư vấn phát triển (2010), Khai thác bauxite và phát triển bền vững Tây

Nguyên, Nxb Tri thức, Hà Nội.

129. Trương Thị Bạch Yến (2015), Tạo nguồn cán bộ, công chức xã người dân

tộc thiểu số ở các tỉnh Tây Nguyên, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

163

PHỤ LỤC

Phụ lục 1

BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH VÙNG TÂY NGUYÊN

Nguồn: http://ptit.edu.vn/wps/portal/nongthonvn.

164

Phụ lục 2

CƠ CẤU DÂN SỐ CÁC TỘC NGƢỜI Ở TÂY NGUYÊN

TT

Tộc người

Năm 1989 Năm 1999 Năm 2009

Số lượng

(người)

Tỉ lệ

(%)

Số lượng

(người)

Tỉ lệ

(%)

Số lượng

(người)

Tỉ lệ

(%)

Tổng dân số 2.486.060 100 4.059.883 100 5.107.437 100

I Kinh (Việt) 1.607.555 64,66 2.710.621 66,77 3.302.588 64,70

II Các dân tộc tại chỗ 792.884 31,89 1.061.643 26,15 1.359.134 26,57

1 Gia rai 240.264 9,66 314.908 7,76 379.589 7,56

2 Ê đê 179.279 7,21 249.543 6,15 305.045 6,07

3 Ba na 120.820 4,86 155.397 3,38 185.657 3,70

4 Xơ đăng 66.664 2,68 85.012 2,09 103.251 2,06

5 Cơ ho 83.072 3,34 113.027 2,78 129.759 2,58

6 M' nông 50.332 2,02 71.060 1,75 89.980 1,79

7 Raglei 992 0,04 1.090 0,03 1.210 0,02

8 Giẻ-Triêng 20.807 0,84 25.589 0,63 32.024 0,64

9 Mạ 19.792 0,80 30.773 0,76 36.119 0,72

10 Chu ru 10.407 0,42 14.608 0,36 16.863 0,34

11 Brâu 215 0,01 298 0,01 347 0,01

12 Rơ măm 222 0,01 338 0,01 357 0,01

III các dân tộc nơi

khác đến 85.138 3,42 286.294 7,04 445.713 8,71

1 Tày 19.657 0,79 80.489 1,98 98.348 1,96

2 Thái 7.829 0,31 25.604 0,63 28.514 0,57

3 Hoa 14.853 0,60 21.165 0,52 22.972 0,46

4 Khơ me 706 0,03 1.056 0,03 1.073 0,02

5 Mường 5.822 0,23 20.216 0,50 23.589 0,47

6 Nùng 29.146 1,17 93.441 2,30 114.962 2,29

7 H'mông 219 1,01 12.392 0,31 41.713 0,83

8 Dao 1.677 0,07 18.543 0,46 26.304 0,52

9 Sán Chay 652 0,03 3.636 0,09 4.289 0,09

10 Chăm 222 0,01 543 0,01 593 0,01

165

11 Sán Dìu 57 0,00 1.079 0,03 1.401 0,03

12 Hrê 1.244 0,05 2.268 0,06 2.899 0,06

13 Xtiêng 136 0,01 285 0,01 326 0,01

14 Bru-Vân Kiều 1.701 0,07 2.810 0,07 3.435 0,07

15 Thổ 804 0,03 1.262 0,03 1.787 0,04

16 Giáy 100 0,00 97 0,00 103 -

17 Cơ tu 14 0,00 43 0,00 456 0,01

18 Khơ mú 3 0,00 10 0,00 28

19 Co 67 0,00 107 0,00 219

20 Tà ôi 38 0,00 18 0,00 48

21 Chơ ro 10 0,00 75 0,00 73

22 Kháng 1 0,00 0 - 0 -

23 Lào 176 0,01 250 0,01 287 0,01

24 La Chí 1 0,00 0 - 330 0,01

25 La Hú 3 0,00 6 0,00 6

26 Ngái 0 - 216 0,01 181

27 Hà Nhì 0 - 4 0,00 19

28 Lự 0 - 433 0,01 449 0,01

29 Lô Lô 0 - 1 0,00 0 -

30 Chứt 0 - 170 0,00 230

31 Mảng 0 - 15 0,00 30

32 Pà Thẻn 0 - 18 0,00 125

33 Phù Lá 0 - 22 0,00 11

34 Cống 0 - 1 0,00 1

35 Si La 0 - 17 0,00 22

36 Pu Péo 0 - 2 0,00 2

IV Chưa xác định 483 0,02 1.325 0,03 2.871 0,06

Nguồn: Ban Chỉ đạo Tây Nguyên [24].

166

Phụ lục 3

TÌNH HÌNH CƢ TRÚ CỦA CÁC DÂN TỘC Ở CẤP XÃ

Tỉnh Tổng số

Xã 1

dân tộc

Xã 2

dân tộc

Xã 3

dân tộc

Xã 4

dân tộc

Xã 5

dân tộc

Xã chỉ có dân

tộc tại chỗ

Xã không

có dân tộc

tại chỗ

Toàn vùng 586 9 104 74 74 325 0 52

Kon Tum 78 0 24 10 10 34 0 1

Gia Lai 169 0 54 35 23 57 0 1

Đắk Lắk 204 5 10 15 20 154 0 25

Lâm Đồng 135 4 16 14 21 80 0 25

Nguồn: Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 1999 [69, tr.227].

167

Phụ lục 4

DANH SÁCH CÁC HUYỆN, XÃ TRỌNG ĐIỂM VÙNG TÂY NGUYÊN

Tỉnh Huyện trọng điểm Xã, thị trấn trọng điểm Ghi chú

Kon Tum

Công văn số 6925-

CV/VPTW ngày 07-4-

2004 của Văn phòng

Trung ương thông báo ý

kiến của Ban Bí thư về

việc bổ sung phó bí thư

cấp ủy chuyên trách xây

dựng HTCT cơ sở đối

với các huyện và xã

trọng điểm vùng Tây

Nguyên

Thông báo số 1053-

TB/TCTW ngày 09-4-

2005 của Ban Tổ chức

Trung ương về việc bố

ung phó bí thư cấp ủy

chuyên trách xây dựng

HTCT ở cơ sở đối với

các huyện và xã trọng

điểm của tỉnh Kon Tum.

4 33

1. Đắk Glei Huyện Đắk Glei:

1. Đắk Long

2. Đắk Nhoong

3. Ngọc Linh

4. Đắk Blô

5. Xốp

6. Mường Hoong

Huyện Ngọc Hồi:

1. Sa Loong

2. Đắk Ang

Huyện Đắk Tô:

1. Ngọc Lây

2. Văn Xuôi

3. Tu Mơ Rông

4. Tê Xăng

5. Măng Ri

6. Đắk Na

7. Ngọc Yêu

Huyện Đắc Hà:

1. Đắk Pờ Xi

2. Ngọc Réo

2. Kon Plong Huyện Kon Plong:

1. Măng Bút

2. Ngọc Tem

3. Đắk Tăng

4. Đắk Nên

5. Đắk Ring

6. Măng Cành

Huyện Kon Rẫy:

1. Đắk Pne

2. Đắk Kôi

3. Sa Thầy Huyện Sa Thầy:

1. Mô Rai

2. Rờ Kơi

3. Ya Xier

4. Sa Bình

5. Yătng

6. Ya Ly

4. Thị xã Kon Tum Thị xã Kon Tum:

1. Ya Chim

2. Ngọc Bay

168

Tỉnh Huyện trọng điểm Xã, thị trấn trọng điểm Ghi chú

Gia Lai

Thông báo số 1053-

TB/TCTW ngày 09-4-

2005 của Ban Tổ chức

Trung ương về việc bố

ung phó bí thư cấp ủy

chuyên trách xây dựng

HTCT ở cơ sở đối với

các huyện và xã trọng

điểm của tỉnh Kon Tum.

9 57

1. Đắk Đoa Huyện Đắk Đoa:

1. KrDang

2. Glair

3. Đắk Sơ Mei

4. Đắk Krong

5. Kon Gang

6. Hà Bầu

7. Ia Băng

8. ADơk

9. Ia Pết

2. Krông Pa Huyện Krông Pa:

1. Phú Cần

2. Ia Srai

3. Krông Năng

4. Chư R'Căm

5. Ia Rmok

6. Chư Đrăng

7. Ia Siơm

8. Đất Bằng

3. Đức Cơ Huyện Đức Cơ

1. Ia Pnôn

2. Ia Lang

3. Ia Nan

4. Ia Dom

5. Ia Kla

4. Ia Pa Huyện Ia Pa:

1. Ama Rơn

2. Ia Trôk

3. Ia Broăi

4. Chư Mố

Huyện Chư Pah:

1. Ia Khươl

2. Ia Mơ Nông

3. Ia Ka

4. Chư Đang Ya

5. Ayun Pa Huyện Ayun Pa:

1. Ia Hiao

2. Ia Ke

3. Ia Piar

4. Chư A Thai

5. Ia Rbol

6. Ia Grai Huyện Ia Grai:

1. Ia O

2. Ia Chia

3. Ia Tô

4. Ia Grăng

169

Tỉnh Huyện trọng điểm Xã, thị trấn trọng điểm Ghi chú

5. Ia Der

7. Chƣ S Huyện Chư Sê:

1. Ia Le

2. Ia Ko

3. Ia Hla

4. H'Bông

5. Ia Phang

6. Ia Tiêm

7. Chư Pơng

9. Dun

9. Nhơn Hòa

10. Bờ Ngoong

11. Bar Măih

12. Al Bá

13. Ia H'rú

14. A Yun

8. Chƣ Prông Huyện Chư Prông:

1. Ia Mơ

2. Ia Púch

3. Ia Piơr

9. Thành phố PLeiku

Đắk Lắk Thông báo số 1051-

TB/TCTW ngày 09-4-

2005 của Ban Tổ chức

Trung ương về việc bổ

sung phó bí thư cấp ủy

chuyên trách xây dựng

HTCT ở cơ sở đối với

cac huyện và xã trọng

điểm của tỉnh Đắk Lắk

6 46

1. TP Buôn Ma Thuột TP Buôn Ma Thuột:

1. Chư Ebua

2. Ea Kao

2. Ea H'leo Huyện Ea H'leo:

1. Ea H'leo

2. Ea Soil

3. Ea Hiao

4. Đlê Yang

3. Ea Soup Huyện Ea Soup:

1. Ea Rốk

Huyện Krông Năng:

1. Đliê Ya

2. Ea Hồ

Huyện Krông Buk:

1. Chư Né

2. Ea Drông

3. Chư Bao

4. Pơ Drang

4. Buôn Đôn Huyện Buôn Đôn:

1. Krông Na

2. Ea Bar

3. Ea Nhuôl

4. Ea Wer

Huyện Ea Kar:

1. Chư Huê

170

Tỉnh Huyện trọng điểm Xã, thị trấn trọng điểm Ghi chú

2. Ea Sô

3. Thị trấn Ea Kar

5. Chƣ M'gar Huyện Chư M'gar:

1. Ea Kiết

2. H'Đinh

3. Ea Tul

4. Chư Suê

5. Thị trấn Ea Pốk

Huyện M'Drăk:

1. Krông Jing

2. Ea Trang

3. Chư Prao

4. Chư M'ta

Huyện Krông Pach:

1. Ea Kênh

2. Ea K'Nuêch

3. Hòa Đông

4. Ea Yông

5. Krông Búk

Huyện Krông Bông:

1. Yang Reh

2. Ea Trul

3. Chư Pui

4. Chư Drăm

Huyện Lăk:

1. Yang Tao

2. Bông Krang

3. Ea R'Bin

Đắk Nông

Thông báo số 1052-

TB/TCTW ngày 09-4-

2005 của Ban Tổ chức

Trung ương về việc bổ

sung phó bí thư cấp ủy

chuyên trách xây dựng

HTCT ở cơ sở đối với

cac huyện và xã trọng

điểm của tỉnh Đắk

Nông.

4 23

1. Đắk Mil Huyện Đắk Mil:

1. Thuận An

2. Đắk Lao

3. Đắk Gằn

4. Đắk R'la

2. Đắk R'lấp Huyện Đắk R'lấp:

1. Quảng Trực

2. Đắk Buk So

3. Đắk R'Tih

4. Quảng Tân

5. Quảng Tín

6. Đắk Ru

Nay thuộc

huyện Tuy

Đức

3. Đắk Song Huyện Đăk Song:

1. Đắk Mol

2. Trường Xuân

3. Đắk Rung

Nay chia

thành 2 xã

Đắk

N'Djung và

Nâm N'Jang

4. Chƣ Jút Huyện Chư Jut:

171

Tỉnh Huyện trọng điểm Xã, thị trấn trọng điểm Ghi chú

1. Tâm Thắng

2. Đắk Drông

3. Đắk Wil

Huyện Krông Nô:

1. Đắk Rồ

2. Nâm Nung

3. Buôn Choal

Huyện Đắk Glong:

1. Quảng Sơn

2. Đắk P'lao

3. Đắk R'Măng

4. Đắk Som

Lâm Đồng

Thông báo số 1054-

TB/TCTW ngày 09-4-

2005 của Ban Tổ chức

Trung ương về việc bổ

sung phó bí thư cấp ủy

chuyên trách xây dựng

HTCT ở cơ sở đối với

cac huyện và xã trọng

điểm của tỉnh Lâm Đồng

5 40

1. Đam Rông Huyện Đam Rông:

1. Đạ M'Rong

2. Đạ Tông

3. Đạ Long

4. Đạ Rsal

5. Liêng Srônh

6. Phi Liêng

7. Đạ K'Nàng

2. Lạc Dƣơng Huyện Lạc Dương:

1. Đưng K'Nớ

2. Đạ Nhim

3. Đạ Sar

4. Huyện Đạ Huoai:

1. Đạ Ploa

2. Đoàn Kết

3. Di Linh Huyện Di Linh:

1. Tân Thượng

2. Đinh Trang Hòa

3. Sơn Điền

4. Bảo Thuận

5 Đinh Lạc

6. Gia Bắc

Huyện Cát Tiên:

1. Phước Cát 2

2. Đồng Nai Thượng

4. Đơn Dƣơng Huyện Đơn Dương:

1. Đạ Ròn

2. Ka Đơn

3. Tu Tra

4. Pró

5. Lạc Xuân

5. Bảo Lâm Huyện Bảo Lâm:

1. Lộc Bắc

2. Lộc Bảo

172

Tỉnh Huyện trọng điểm Xã, thị trấn trọng điểm Ghi chú

3. Lộc Lâm

4. Lộc Phú

5. Lộc Nam

6. Lộc Tân

7. Blá

Huyện Lâm Hà:

1. Liên Hà

2. Đạ Đờn

3. Phi Tô

Huyện Đức Trọng:

1. Tà Năng

2. Tà Hine

3. Phú Hội

4. N' Thôn Hạ

Huyện Đạ Tẻh:

1. Đạ Pal

Nguồn: Cơ quan Thường trực Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, Tập văn bản về phát

triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên, tập I, tr.418-424.

173

Phụ lục 5

GIÁ TRỊ VÀ TỐC ĐỘ TĂNG TRƢỞNG

GDP VÙNG TÂY NGUYÊN THỜI KỲ 2001-2010

(Theo giá so sánh 1994)

Năm

Tổng sản phẩm

(GDP) Trong đó

Giá trị

(Tỉ đồng)

Mức

tăng

(%)

Khu vực nông-

lâm-thủy sản

Khu vực công

nghiệp - xây dựng Khu vực dịch vụ

Giá trị

(Tỉ đồng)

Mức

tăng

(%)

Giá trị

(Tỉ đồng)

Mức

tăng

(%)

Giá trị

(Tỉ đồng)

Mức

tăng

(%)

2001 13.547 6,79 9.673 5,32 1.466 8,56 2.407 10,24

2002 13.937 9,21 9.574 15,55 1.636 2,45 2.727 -5,38

2003 15.804 13,27 10.716 11,58 1.947 17,70 3.138 16,50

2004 17.830 12,52 11.738 9,53 2.399 20,71 3.693 17,51

2005 20.051 13,33 12.306 4,73 3.425 47,20 4.320 18,67

GĐ 2001-

2005 81.139 10,05 54.007 7,04 10.873 20,91 16.259 14,72

2006 22.838 13,31 13.011 5,95 4.510 29,34 5.317 21,74

2007 26.437 15,31 14.438 10.86 5.587 22,30 6.412 20,18

2008 29.887 13,05 15.644 7,47 6.778 21,95 7.465 18,03

2009 33.875 13,36 16.587 4,60 8.532 22,50 8.756 18,00

2010 38.194 13,24 17.888 7,84 9.782 19,73 10.533 18,33

GĐ 2006-

2010 151.231 13,70 77.568 7,34 35.189 23,16 38.483 19,25

TK 2001-

2010 232.370 11,87 131.575 7,19 46.062 22,03 54.742 16,98

Nguồn: Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, ngành thống kê và báo cáo của các tỉnh [24].

174

Phụ lục 6

CƠ CẤU GDP CỦA VÙNG TÂY NGUYÊN 2001-2005-2010

(Theo giá so sánh 1994)

Đơn vị tính: %

Kon

Tum

Gia

Lai

Đắk

Lắk

Đắk

Nông

Lâm

Đồng

Tây

Nguyên

Năm 2001

Nông-lâm-thủy sản 51.83 59.28 77.32 83.51 70.47 71.4

Công nghiệp xây dựng 16.96 15.52 7.48 4.82 13.26 10.82

Dịch vụ 31.21 25.2 15.2 11.67 16.27 17.78

Năm 2005

Nông-lâm-thủy sản 49.36 50.44 65.94 71.27 61.47 61.37

Công nghiệp xây dựng 18.34 22.83 12.96 11.98 20.13 17.08

Dịch vụ 32.3 26.73 21.1 16.75 18.4 21.55

Năm 2010

Nông-lâm-thủy sản 34.77 36.89 49.93 50.82 50.28 46.81

Công nghiệp-xây dựng 28.83 34.71 17.38 31.15 26.68 25.61

Dịch vụ 36.4 28.4 32.69 18.24 22.04 27.58

Nguồn: Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, ngành thống kê và báo cáo của các tỉnh [24].

175

Phụ lục 7

KẾT QUẢ GIẢM NGHÈO VÙNG TÂY NGUYÊN 2001-2006-2010

Kon

Tum Gia Lai

Đắk

Lắk

Đắk

Nông

Lâm

Đồng Toàn vùng

Năm 2001

Tổng số hộ 66.989 192.506 309.896 79.856 187.779 837.035

- Trong đó: Hộ DTTS 34.682 78.535 76.531 27.639 36.841 254.228

Tổng số hộ nghèo (tiêu chí cũ) 18.933 42.544 78.217 18.881 24.167 182.742

- Trong đó: Hộ DTTS 16.326 33.251 34.408 13.361 10.551 107.857

Tỉ lệ hộ nghèo chung (%) 28,26 22,11 25,24 23,61 11,63 21,83

Tỉ lệ hộ nghèo DTTS (%) 47,07 42,34 44,96 48,52 28,53 42,25

Năm 2006

Tổng số hộ 88.339 263.492 340.927 86.625 222.169 1.001.552

- Trong đó: Hộ DTTS 45.735 99.830 91.316 23.871 47.391 308.143

Tổng số hộ nghèo (tiêu chí mới) 25.520 60.337 79.716 23.676 40.701 228.950

- Trong đó: Hộ DTTS 22.738 50.210 42.569 10.538 20.260 146.315

Tỉ lệ hộ nghèo chung (%) 31,38 27,22 23,28 27,33 18,32 22,85

Tỉ lệ hộ nghèo DTTS (%) 53,97 57,79 49,82 44,14 42,75 47,48

Năm 2010

Tổng số hộ 102.954 289.631 386.726 114.275 274.988 1.168.574

- Trong đó: Hộ DTTS 51.468 130.772 118.820 32.906 34.954 368.92

Tổng số hộ nghèo (tiêu chí mới) 16.967 31.430 38.827 17.214 15.054 119.492

- Trong đó: Hộ DTTS 15.190 30.460 20.698 8.146 5.523 80.017

Tỉ lệ hộ nghèo chung (%) 16,48 10,82 10,04 13,39 5,08 10,23

Tỉ lệ hộ nghèo DTTS (%) 29,34 23,33 17,42 24,89 15,81 21,69

Tốc độ giảm nghèo 2006-2010 (%) 15,36 16,40 13,24 13,94 13,24 12,67

Giảm bình quân mỗi năm (%) 3,84 4,1 3,31 3,48 3,31 3,16

Nguồn: Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, ngành thống kê và báo cáo của các tỉnh [24].

176

Phụ lục 8

DANH SÁCH 62 HUYỆN NGHÈO NHẤT TRÊN CẢ NƢỚC

THEO NGHỊ QUYẾT 30a 2008/NQ-CP

Tỉnh Số huyện

nghèo Tên huyện

Hà Giang 6 Đồng Văn, Mèo Vạc, Yên Minh, Quản Bạ, Hoàng Su Phì, Xín Mần

Cao Bằng 5 Bảo Lâm, Bảo Lạc, Thông Nông, Hà Quảng, Hạ Lang

Lào Cai 3 Si Ma Cai, Mường Khương, Bắc Hà

Yên Bái 2 Mù Cang Chải, Trạm Tấu

Bắc Kạn 2 Ba Bể, Pác Nặm

Bắc Giang 1 Sơn Đông

Phú Thọ 1 Tân Sơn

Sơn La 5 Sốp Cộp, Phù Yên, Bắc Yên, Mường La, Quỳnh Nhai

Lai Châu 5 Mường Tè, Phong Thổ, Sìn Hồ, Tân Yêu, Than Uyên

Điện Biên 4 Điện Biên Đông, Mường Nhé, Tủa Chùa, Mường Ảng

Thanh Hóa 7 Lang Chánh, Thường Xuân, Quan Hóa, Quan Sơn, Mường Lát,

Như Xuân, Bá Thước

Nghệ An 3 Kỳ Sơn, Tương Dương, Quế Phong

Quảng Bình 1 Minh Hóa

Quảng Trị 1 Đa Krông

Quảng Ngãi 6 Sơn Hà, Trà Bồng, Sơn Tây, Minh Long, Tây Trà, Ba Tơ

Quảng Nam 3 Nam Trà My, Tây Giang, Phước Sơn

Bình Định 3 An Lão, Vĩnh Thanh, Vân Canh

Ninh Thuận 1 Bác Ái

Kon Tum 2 Tu Mơ Nông, Kon Plông

Lâm Đồng 1 Đam Rông

Nguồn: Uỷ ban Dân tộc [trực tuyến]. Địa chỉ: http://cema.gov.vn/modules.

php?name=Doc&op=detaildoc&pid=1181#ixzz2mTD7RaMW.

177

Phụ lục 9

DANH SÁCH CÁC XÃ BỔ SUNG VÀO DIỆN ĐẦU TƢ

CỦA CHƢƠNG TRÌNH 135 GIAI ĐOẠN 2006 - 2010

(Ban hành kèm theo Quyết định số 69/2008/QĐ-TTg ngày 28 tháng 5 năm 2008

của Thủ tướng Chính phủ)

TT

Tỉnh/ Huyện

Tên xã

Phân loại ngân sách

Ghi chú Trung ương hỗ

trợ đầu tư

Địa

phương

Tổng số 152 135 17

21 Kon Tum 3 3 0

1. Sa Thầy Hơ Moong x

2. Đắk Tô Đắk Rơ Nga x

Đắk Trăm x

22 Gia Lai 6 6 0

1. K'Bang Đak Smar x

2. Mang Yang Lơ Pang x

3. Đắk Đoa Hnol x

4. Ia Grai Ia Krăi x

5. Kông Ch'ro Đắk Pơ Pho x

Đắk Kơ Ninh x

23 Đắk Lắk 5 5 0

1. Krông Păc Vụ Bổn x

2. Krông Bông Ea Trul x

3. Krông Năng Cư Klông x

Ea Tam x

4. Ma D'răk Ea Trang x

24 Đắk Nông 6 6 0

1. Đắk Mil Đắk N'Drót x

Long Sơn x

2. Đắk Song Đắk Hòa x

178

Trường Xuân x

3. Đắk R'lấp Đạo Nghĩa x

4. Tuy Đức Quảng Tâm x

25 Lâm Đồng 7 7 0

1. Bảo Lộc B'lá x

Tân Lạc x

2. Đạ Tẻh Quảng Trị x

Quốc Oai x

Đạ Pal x

3. Di Linh Gia Bắc x

4. Lạc Dương Đạ Nhim x

Nguồn: Cơ quan Thường trực Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, Tập văn bản về phát

triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên, tập II, tr.170-171.

179

Phụ lục 10

KẾT QUẢ GIẢI QUYẾT ĐẤT Ở, ĐẤT SẢN XUẤT, NHÀ Ở THEO CÁC

QUYẾT ĐỊNH: 132 VÀ 134 CỦA THỦ TƢỚNG CHÍNH PHỦ

Địa

phƣơng

Đất ở Đất sản xuất Nhà ở

Diện tích Số hộ Diện tích Số hộ

Căn

Tỉ lệ so

với kế

hoạch

Đã giải

quyết

(ha)

Tỉ lệ

(%)

Đã giải

quyết

(hộ)

Tỉ lệ

(%)

Đã giải

quyết

(ha)

Tỉ lệ

(%)

Đã giải

quyết

(hộ)

Tỉ lệ

(%)

Kon Tum 137 53,95 3.272 48,7 6.429 61,2 14.672 58,7 7.632 97,0

Gia Lai 62 100 1.278 100 4.966 74,1 14.408 75,4 19.342 99,29

Đắk Lắk 353 89,74 8.545 95,58 7.130 89,0 14.857 85,2 15.429 99,06

Đắk Nông 87 100 2.382 100 2.162 100 2.981 100 5.235 99,64

Lâm Đồng 8.516 86,3 9.530 80,2 10.620 100

Toàn vùng 639 80,66 15.477 82,29 29.204 78,0 56.448 75,3 58.249 99,08

Nguồn: Ban Chỉ đạo Tây Nguyên và Bộ Kế hoạch - Đầu tư [24].

180

Phụ lục 11

TÌNH HÌNH TỔ CHỨC ĐẢNG VÀ ĐẢNG VIÊN (đến tháng 6 2010)

Nội dung

Tỉnh

Kon

Tum Gia Lai

Đắk

Lắk

Đắk

Nông

Lâm

Đồng Toàn

vùng

1. Tổ chức đảng

a) Tổng số tổ chức cơ sở đảng 631 916 919 442 805 3.713

Trong đó: - Đảng bộ cơ sở 153 324 334 126 252 1.189

- Chi bộ cơ sở 478 592 585 316 553 2.524

b) Tổ chức cơ sở đảng xã,

phƣờng, thị trấn 97 222 184 71 148 722

Trong đó: - Xã 81 186 152 61 118 598

- Phường 10 24 20 5 18 77

- Thị trấn 6 12 12 5 12 47

c) Tình hình thôn, buôn

- Tổng số thôn buôn 831 2.132 2.417 740 1.271 7.391

- Thôn buôn có chi bộ 740 1.710 2.066 740 1.110 6.366

- Thôn buôn chưa có chi bộ 91 422 351 0 161 1.025

Tỉ lệ (%) 10,95 19,79 14,52 0 12,67 13,87

- Thôn buôn chưa có đảng viên 21 42 26 0 4 93

Tỉ lệ (%) 2,53 1,97 1,08 0 0,31 1,26

2. Đảng vi n

a) Tổng số đảng vi n toàn vùng 17.004 33.458 46.321 14.809 28.694 140.286

Trong đó: - Nữ 4.855 9.086 13.691 3.926 8.436 40.024

- Dân tộc thiểu số 5.180 7.930 6.433 2.128 2.678 24.349

- Người có đạo 425 226 272 305 2.173 3.401

b) Đảng vi n có đạo

- Công giáo 295 80 167 196 687 1.425

- Tin lành 10 65 18 51 246 390

- Phật giáo 117 81 84 58 1.181 1.521

- Cao Đài 2 0 3 0 45 50

- Tôn giáo khác 1 0 0 0 14 15

c) ĐV sinh hoạt ở xã phƣờng 9.624 20.636 29.531 8.018 17.103 84.912

Nguồn: Ban Chỉ đạo Tây Nguyên [24].

181

Phụ lục 12

KẾT QUẢ THỰC HIỆN CHỦ TRƢƠNG

ĐỐI VỚI ĐẠO TIN LÀNH (ĐẾN 2010)

Kon

Tum

Gia

Lai

Đắk

Lắk

Đắk

Nông

Lâm

Đồng

Toàn

vùng

Tổng số tín đồ 14.304 96.896 147.672 42.789 80.244 381.905

Phân ra: - Kinh 945 1.633 2.102 1.486 4.652 10.818

- Dân tộc thiểu số 13.359 95.263 145.570 41.303 75.592 371.087

Tổng số chức sắc chức việc 22 101 86 29 89 327

Phân ra: - Mục sư, mục sư nhiệm chức 2 28 41 19 55 145

- Truyền đạo 20 73 45 10 34 182

Số chi hội đã công nhận 3 52 31 18 66 170

Phân ra: - Tin lành Việt Nam (miền Nam) 3 51 31 18 63 166

- Hệ phái khác 0 1 0 0 3 4

Tổng số điểm nhóm 89 238 407 135 305 1.174

Đã đăng ký 82 194 243 135 261 915

Phân ra: - Tin lành Việt Nam (miền Nam) 6 183 235 83 118 625

- Hệ phái khác 76 11 8 52 143 290

Chưa đăng ký 7 44 164 0 44 259

Phân ra: - Tin lành Việt Nam (miền Nam) 0 18 52 0 0 70

- Hệ phái khác 7 26 112 0 44 189

Địa điểm sinh hoạt 92 273 434 148 368 1.315

- Nhà thờ, nhà nguyện 1 20 7 6 18 52

- Nhà riêng tín đồ 91 253 427 142 350 1.263

Nguồn: Ban Chỉ đạo Tây Nguyên [24].