LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan, đây là công trình nghiên cứ ận ...
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC DÂN VẬN Ở...
Transcript of ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC DÂN VẬN Ở...
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN MẬU LINH
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO
CÔNG TÁC DÂN VẬN Ở TÂY NGUYÊN
TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
HÀ NỘI - 2017
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN MẬU LINH
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO
CÔNG TÁC DÂN VẬN Ở TÂY NGUYÊN
TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Mã số: 62 22 03 15
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. NGUYỄN MINH ĐỨC
2. PGS.TS. VŨ QUANG VINH
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi trên cơ sở sưu tầm, đọc và phân tích các tài liệu. Tất
cả các tài liệu tham khảo, các tư liệu, số liệu thống kê sử dụng
trong Luận án là trung thực, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng và
được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Nghiên cứu sinh
Nguyễn Mậu Linh
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 6
1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến luận án 6
1.2. Khái quát kết quả các công trình đã công bố và những vấn đề luận án
tiếp tục giải quyết 24
Chƣơng 2: ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC DÂN VẬN Ở TÂY NGUYÊN
TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2005 27
2.1. Đặc điểm tình hình Tây Nguyên và công tác dân vận ở Tây Nguyên
trước năm 2001 27
2.2. Chủ trương của Đảng về công tác dân vận ở Tây Nguyên từ năm
2001 đến năm 2005 38
2.3. Quá trình chỉ đạo thực hiện công tác dân vận của Đảng ở Tây
Nguyên từ năm 2001 đến năm 2005 48
Chƣơng 3: ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC DÂN VẬN Ở TÂY NGUYÊN
TỪ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2010 73
3.1. Tình hình mới và chủ trương của Đảng về công tác dân vận ở Tây
Nguyên từ năm 2006 đến năm 2010 73
3.2. Quá trình chỉ đạo đẩy mạnh công tác dân vận của Đảng ở Tây
Nguyên từ năm 2006 đến năm 2010 82
Chƣơng 4: MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM 111
4.1. Một số nhận xét 111
4.2. Một số kinh nghiệm 129
KẾT LUẬN 148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 150
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 151
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
CTDV : Công tác dân vận
CTPĐQC : Công tác phát động quần chúng
CTVĐQC : Công tác vận động quần chúng
DTTS : Dân tộc thiểu số
FULRO : Mặt trận thống nhất đấu tranh của các sắc tộc bị áp bức
HTCT : Hệ thống chính trị
Nxb : Nhà xuất bản
UNESCO : Tổ chức Văn hóa-Khoa học-Giáo dục của Liên hợp quốc
UNHCR : Tổ chức Cao ủy Liên hợp quốc về người tị nạn
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công tác dân vận của Đảng là toàn bộ những hoạt động của Đảng và của các tổ
chức khác trong hệ thống chính trị (HTCT) dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm tuyên
truyền, giáo dục, vận động, thuyết phục, hướng dẫn, tập hợp và tổ chức mọi tầng lớp
nhân dân thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước; chăm lo, bảo vệ lợi ích của nhân dân; phát huy quyền làm chủ, sức mạnh to
lớn của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện thắng lợi mục
tiêu, lý tưởng của Đảng. Trong bài báo Dân vận đăng trên báo Sự thật, ngày 15-10-
1949, Hồ Chí Minh khẳng định: "Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan
trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công"
[72, tr.234].
Trải qua các thời kỳ lịch sử, Đảng luôn xác định công tác dân vận (CTDV) là
một nhiệm vụ quan trọng, có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách
mạng của dân tộc; là điều kiện tiên quyết bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng; góp phần
củng cố, tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Đảng và nhân dân. Đặc biệt, trong
thời kỳ đổi mới, CTDV của Đảng được tăng cường và từng bước đổi mới. Đảng và
Nhà nước đã có nhiều chủ trương, giải pháp tích cực, phù hợp với từng đối tượng,
từng lĩnh vực; đồng thời, thường xuyên đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo,
mở rộng dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân cũng như vai trò của Nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể quần chúng và lực lượng vũ trang
trong CTDV. Từ đó, tạo ra các phong trào quần chúng rộng lớn, phát huy sức mạnh
của mọi tầng lớp nhân dân, tiến hành sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại
hóa (CNH, HĐH) đất nước, tạo nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đưa
nước ta thoát khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển; từng bước nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn
xã hội; củng cố quốc phòng, an ninh; nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường
quốc tế... Bên cạnh những thành công và kết quả đạt được, CTDV của Đảng cũng
còn nhiều hạn chế, yếu kém, chưa đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đổi
mới: Chậm cụ thể hóa cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ;
2
một số nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước chưa được quán
triệt và thực hiện hiệu quả; sự phối hợp giữa các tổ chức trong HTCT chưa chặt
chẽ; một số cơ quan nhà nước chưa nhận thức sâu sắc vị trí, tầm quan trọng của
CTDV; những yếu kém của bộ máy công quyền tạo bức xúc, khiếu kiện trong
nhân dân, là kẽ hở để các thế lực thù địch và bọn cơ hội chính trị lợi dụng xuyên
tạc, kích động quần chúng nhân dân, ảnh hưởng đến khối đại đoàn kết toàn dân
tộc. Trước tình hình đó, việc tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với
CTDV là một yêu cầu cấp thiết nhằm củng cố vững chắc lòng tin của nhân dân đối
với Đảng, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh to lớn
của các tầng lớp nhân dân, tạo ra phong trào quần chúng rộng lớn để xây dựng
một nước Việt Nam: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh .
Tây Nguyên là địa bàn có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế,
chính trị, quốc phòng, an ninh và môi trường sinh thái của đất nước; đây là vùng đất
có nhiều tiềm năng, lợi thế, nhưng cũng tiềm ẩn nhiều nhân tố mất ổn định, nhất là
sự chống phá thường xuyên, quyết liệt của các thế lực thù địch nhằm xóa bỏ vai trò
lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở nước ta. Nhận thức sâu
sắc vị trí, tầm quan trọng của địa bàn chiến lược và việc xây dựng "thế trận lòng
dân" ở Tây Nguyên, trong quá trình lãnh đạo đồng bào các dân tộc xây dựng và bảo
vệ cuộc sống mới ấm no, hạnh phúc, Đảng từng bước đổi mới nội dung và phương
thức lãnh đạo CTDV nhằm động viên, tập hợp mọi tầng lớp nhân dân thực hiện các
nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh; củng cố và tăng cường khối đại
đoàn kết các dân tộc trên địa bàn. Đặc biệt, trong những năm 2001 - 2010, trước
những diễn biến phức tạp của tình hình an ninh chính trị ở Tây Nguyên, Đảng đã
lãnh đạo, chỉ đạo CTDV đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Tuy nhiên, bên
cạnh những kết quả đạt được, công tác này vẫn còn nhiều hạn chế, khuyết điểm
chậm được khắc phục, sửa chữa. Thực tế của ba cuộc biểu tình, bạo loạn (năm
2001, 2004 và 2008) trên địa bàn một số tỉnh Tây Nguyên là minh chứng rõ nét.
Nguyên nhân xảy ra các cuộc bạo loạn này, cần được nhận diện và phân tích một
cách thấu đáo, đa chiều, trong đó có sự hạn chế, yếu kém của Đảng về CTDV. Vì
vậy, nghiên cứu, tổng kết quá trình Đảng lãnh đạo CTDV ở Tây Nguyên trong 10
3
năm đầy biến động này, nhằm khẳng định những thành công, chỉ ra những hạn chế
và bước đầu đúc kết một số kinh nghiệm, góp phần xây dựng và tổ chức thực hiện
có hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về CTDV ở Tây
Nguyên là việc làm cấp thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Với ý nghĩa
đó, nghiên cứu sinh lựa chọn vấn đề "Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác
dân vận ở Tây Nguyên từ năm 2001 đến năm 2010" làm luận án Tiến sĩ lịch sử,
chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghi n cứu
2 1 c đ ch nghiên c u
Làm sáng tỏ quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo CTDV trên địa
bàn Tây Nguyên từ năm 2001 đến năm 2010; qua đó, rút ra một số kinh nghiệm chủ
yếu, góp phần vào việc nâng cao chất lượng và hiệu quả CTDV ở Tây Nguyên trong
giai đoạn hiện nay.
2 2 Nhiệm v nghiên c u
- Nghiên cứu, luận giải, làm rõ những yếu tố tác động đến quá trình lãnh đạo
thực hiện CTDV của Đảng trên địa bàn Tây Nguyên từ năm 2001 đến năm 2010.
- Làm rõ những chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với
CTDV trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên từ năm 2001 đến năm 2010.
- Đánh giá đúng thực trạng CTDV của Đảng với những ưu điểm, hạn chế cũng
như nguyên nhân của nó và rút ra một số kinh nghiệm chủ yếu về quá trình lãnh đạo
CTDV ở Tây Nguyên từ năm 2001 đến năm 2010 của Đảng Cộng sản Việt Nam.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghi n cứu
3 1 Đối tượng nghiên c u
Đối tượng nghiên cứu là hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam đối với CTDV trên địa bàn Tây Nguyên.
3 2 Phạm vi nghiên c u
- Về nội dung: Công tác dân vận của Đảng có nội hàm phong phú và rộng
lớn. Trong phạm vi của đề tài, luận án tập trung nghiên cứu về việc Đảng đề ra
những quan điểm, chủ trương về CTDV và quá trình chỉ đạo tổ chức thực hiện
CTDV trên địa bàn Tây Nguyên từ năm 2001 đến năm 2010.
4
- Về không gian: Nghiên cứu CTDV của Đảng trên địa bàn Tây Nguyên (gồm
các tỉnh Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum, Lâm Đồng, Đắk Nông).
- Về thời gian: Tập trung nghiên cứu khoảng thời gian 10 năm (2001-2010).
Tuy nhiên, để vấn đề nghiên cứu có tính hệ thống, luận án có đề cập một số nội
dung liên quan trong thời gian trước năm 2001.
4. Cơ sở lý luận, phƣơng pháp nghi n cứu và nguồn tƣ liệu
4 1 Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về vai trò của quần chúng nhân dân và công tác vận động quần chúng của Đảng.
4.2. Phương pháp nghiên c u
Luận án sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp lôgíc và kết hợp hai
phương pháp đó là chủ yếu. Ngoài ra, luận án còn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu bổ trợ khác như: Phương pháp đồng đại, lịch đại, phân kỳ, thống kê, phân tích -
tổng hợp, so sánh.
Phương pháp lịch sử, phương pháp lôgíc và kết hợp hai phương pháp đó được
sử dụng ở Chương 2, Chương 3 và Chương 4 của luận án nhằm phục dựng bối cảnh
lịch sử, chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về CTDV ở Tây
Nguyên qua hai giai đoạn 2001-2005 và 2006-2010. Qua đó, tái hiện quá trình Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo CTDV ở Tây Nguyên từ năm 2001-2010.
Ở Chương 4, tác giả luận án sử dụng phương pháp lôgic là chủ yếu, đồng
thời kết hợp với phương pháp lịch sử để đánh giá và đúc rút kinh nghiệm về quá
trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo CTDV ở Tây Nguyên thời kỳ 2001-2010.
Luận án sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp so sánh ở Chương 1,
phần Phụ lục và Danh mục tài liệu tham khảo. Sử dụng phương pháp phân tích, so
sánh để làm rõ sự phát triển trong nhận thức và thực tiễn quá trình lãnh đạo của Đảng
đối với CTDV ở Tây Nguyên giai đoạn 2006-2010 so với giai đoạn 2001-2005.
4.3. Nguồn tư liệu
Nguồn tài liệu chính được sử dụng trong luận án là: Các văn kiện của Đảng
và Nhà nước về CTDV, về Tây Nguyên; các kết luận, báo cáo tổng kết của Ban Chỉ
đạo Tây Nguyên, Ban Dân vận Trung ương về CTDV ở Tây Nguyên; các văn kiện,
báo cáo của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh, Ban Dân vận Tỉnh ủy của 5 tỉnh Tây
Nguyên; những công trình nghiên cứu về Tây Nguyên và CTDV ở Tây Nguyên.
5
5. Đóng góp mới của luận án
- Phân tích làm rõ bước phát triển trong nhận thức và chủ trương cũng như sự
chỉ đạo của Đảng đối với CTDV trên địa bàn Tây Nguyên từ năm 2001 đến năm 2010.
- Đánh giá một cách khách quan, toàn diện những thành công và hạn chế của
Đảng về lãnh đạo, chỉ đạo CTDV ở Tây Nguyên thời kỳ 2001-2010.
- Đúc rút một số kinh nghiệm lịch sử CTDV của Đảng ở Tây Nguyên có giá
trị cho CTDV trong hiện tại và tương lai.
6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án
- Công tác dân vận là một lĩnh vực rất quan trọng trong hoạt động của Đảng,
nghiên cứu quá trình Đảng lãnh đạo CTDV ở Tây Nguyên thời kỳ 2001-2010 sẽ
góp phần tổng kết CTDV của Đảng trong thời kỳ đổi mới.
- Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho
việc hoạch định những chủ trương, giải pháp đúng đắn, phù hợp nhằm tăng cường
CTDV của Đảng trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên trong giai đoạn hiện nay và
những năm tiếp theo.
- Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy
lịch sử CTDV của Đảng nói chung và của Đảng bộ ở các tỉnh Tây Nguyên nói riêng.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
án gồm 4 chương, 9 tiết.
6
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
Công tác dân vận của Đảng Cộng sản là vấn đề quan trọng được đề cập trong
nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học trong và ngoài nước. Liên quan
đến đề tài luận án có thể chia thành các nhóm công trình như sau:
Nhóm 1: Các công trình nghiên c u về công tác dân vận nói chung
Sách Tư tưởng Dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh [29] là tập hợp 34 tham
luận tại Hội thảo khoa học về tư tưởng Dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã tập
trung làm rõ quan điểm lý luận chung về CTDV trong lịch sử, trong học thuyết Mác
- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; nội dung, phương thức CTDV trong tư tưởng Hồ
Chí Minh; đồng thời liên hệ, vận dụng vào thực tiễn CTDV trong sự nghiệp đổi
mới. Đáng chú ý là tham luận "Suy ngẫm về định nghĩa dân vận của Bác Hồ", cho
rằng: Công tác dân vận phải đi sâu vào từng con người, khơi dậy và phát huy tính
tích cực, sáng tạo, tính chủ động và tự giác của mỗi người thể hiện ở tài trí, sức lực,
tiền của của mỗi người góp vào công việc chung… Công tác dân vận bao giờ cũng
gắn với nhiệm vụ chính trị. Kết quả của CTDV là tạo được phong trào hành động
cách mạng của quần chúng sôi nổi, rộng khắp thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã
hội, quốc phòng, an ninh, xây dựng Đảng, chính quyền và các đoàn thể vững mạnh
[29, tr.202-204].
Cuốn sách Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân trong thời kỳ đổi mới [107] đã khẳng định: Đổi mới
phương thức lãnh đạo đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân
nhằm mục tiêu củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mối liên hệ
giữa Đảng và nhân dân. Trên cơ sở phân tích những ưu điểm và hạn chế về phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng, tác
giả nêu lên một số bài học kinh nghiệm: Đảng phải tiếp tục nâng cao nhận thức và
quan điểm quần chúng, đấu tranh khắc phục bệnh quan liêu, xa rời quần chúng của
cán bộ, đảng viên, loại bỏ những phần tử thoái hóa, biến chất… Củng cố, tăng
7
cường Ban Dân vận các cấp về tổ chức, bộ máy và cán bộ; về phương tiện, điều
kiện làm việc để cho Ban làm tốt chức năng tham mưu, hướng dẫn, kiểm tra, phối
hợp hoạt động, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về CTDV. Tăng cường vai trò tổ chức
đảng và đảng viên trong Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Đồng thời, tác
giả đưa ra 6 giải pháp chung, đó là: Nâng cao chất lượng các định hướng của Đảng
đối với các tổ chức quần chúng về chính trị, tư tưởng, nội dung, phương thức hoạt
động, tổ chức và cán bộ; thể chế hóa kịp thời các chủ trương của Đảng về dân vận,
tăng cường CTDV của chính quyền và sự phối hợp công tác giữa chính quyền với
Mặt trận và các đoàn thể nhân dân; coi trọng lãnh đạo việc tổ chức thực hiện, đôn
đốc kiểm tra, sơ kết, tổng kết kịp thời; củng cố, tăng cường HTCT ở cơ sở vững
mạnh; tăng cường hoạt động của Ban Dân vận các cấp tham mưu giúp Đảng tổng
kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về phương thức lãnh đạo đối với Mặt trận và các
đoàn thể; thực hiện quy chế hóa, chương trình hóa, hiện đại hóa sự lãnh đạo của cấp
ủy đối với hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân. Tuy nhiên, do chủ đề
của sách tập trung vào phương thức lãnh đạo của Đảng đối với một đối tượng cụ
thể, nên chưa bao trùm hết các hoạt động lãnh đạo của Đảng trong CTDV.
Sách Làm tốt công tác quần chúng trong tình hình mới: kinh nghiệm Trung
Quốc, kinh nghiệm Việt Nam [64] là tập hợp các tham luận trong Hội thảo lý luận
lần thứ 7 giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc, tập trung
vào chủ đề: Công tác quần chúng trong tình hình mới, trong đó khẳng định vị trí,
vai trò quan trọng của CTDV trong tình hình mới; sự cần thiết phải tăng cường mối
quan hệ máu thịt giữa Đảng và nhân dân; vai trò của HTCT, đặc biệt là Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức quần chúng trong công tác vận động quần chúng (CTVĐQC).
Các tham luận của học giả Việt Nam đã đúc kết, đề xuất nhiều kinh nghiệm và giải
pháp đổi mới CTDV của Đảng. Tiêu biểu có các bài: "Đảng Cộng sản Việt Nam với
công tác quần chúng - thực tiễn và một số kinh nghiệm" [64, tr.36-60] đã nhấn
mạnh: Công tác quần chúng cần tiếp tục đổi mới, không chỉ để theo kịp, giải quyết
kịp thời những vấn đề mới nảy sinh, mà còn để xác định tầm nhìn có tính chiến lược
và lâu dài… Sự đổi mới đó là một trong những cơ sở lý luận - thực tiễn quan trọng
để Đảng Cộng sản tiếp tục giữ vững vai trò là hạt nhân lãnh đạo, tiếp tục lãnh đạo
8
quần chúng làm nên những thắng lợi lịch sử mới; Bài viết "Lãnh đạo công tác quần
chúng trong giải quyết các điểm nóng ở địa bàn cơ sở - một số kinh nghiệm của
Việt Nam". Trên cơ sở nhận diện những điểm nóng xảy ra ở Việt Nam trong thời
gian qua, tác giả đã nhận định: Với mục tiêu xây dựng vững chắc mối quan hệ giữa
Đảng, Nhà nước với nhân dân, tạo sức mạnh phát triển bền vững, giải quyết điểm
nóng không chỉ nhằm mục tiêu thiết lập sự ổn định và củng cố cơ sở chính trị - xã
hội, mà quan trọng hơn còn tăng cường sức mạnh và hiệu lực của HTCT. Điều đó,
đòi hỏi lãnh đạo phải hiểu sâu sắc nguyện vọng của quần chúng, thu phục được lòng
dân, tạo được niềm tin và sự đồng thuận, đồng tình ủng hộ của nhân dân đối với
Đảng, Nhà nước; huy động được sự tham gia một cách tự nguyện và phát huy cao
nhất ý thức trách nhiệm công dân, sức mạnh của quần chúng vào việc giải quyết dứt
điểm các điểm nóng [64, tr.214].
Sách Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận trong thời kỳ đổi mới ở
nước ta hiện nay [80] là tập hợp các bài nói, bài nghiên cứu tiêu biểu của các đồng
chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các nhà khoa học liên quan đến vấn đề dân vận
trong tư tưởng Hồ Chí Minh và sự vận dụng vào thời kỳ đổi mới ở nước ta hiện nay.
Đây là tập tư liệu quý, gắn nghiên cứu lý luận với vận dụng vào thực tiễn, nhằm
nâng cao chất lượng, hiệu quả CTDV trong tình hình mới.
Sách Học tập và làm theo phong cách "Dân vận khéo" Hồ Chí Minh [85] đã
phân tích làm rõ những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận
khéo; nêu lên những tiêu chí về mô hình và điển hình dân vận khéo ở một số cơ sở;
đề xuất một số nội dung và phương pháp nhằm hiện thực hóa tư tưởng "Dân vận
khéo" của Người trong giai đoạn hiện nay, đó là: thực hành dân chủ, nêu gương; cải
cách thủ tục hành chính; thực hiện kỹ năng "nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân
tin"; đổi mới công tác cán bộ dân vận. Đáng chú ý là nhận định của tác giả: "Dân
vận là công tác khoa học, nhưng cũng là nghệ thuật, nhằm giải quyết mối quan hệ
giữa Đảng và dân. Muốn làm tốt CTDV, cán bộ phải có tâm trong sáng, có trách
nhiệm, có tri thức khoa học, tóm lại phải có tâm và có tài, như vậy mới là "Dân vận
khéo" theo tư tưởng Hồ Chí Minh" [85, tr.80].
Sách Lý luận và kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác dân
9
vận [81], tập hợp hơn 30 bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước; lãnh
đạo các bộ, ban, ngành; các nhà khoa học, đã phân tích làm nổi bật những vấn đề lý
luận và kinh nghiệm thực hiện CTDV trong thời kỳ đổi mới. Qua đó, cho thấy
CTDV của Đảng là một lĩnh vực rộng lớn, nhạy cảm, bao trùm mọi mặt của đời
sống xã hội. Đây là công việc rất quan trọng, phải làm thực chất, không phô trương,
hình thức; đồng thời, công tác này cần phải thường xuyên được đúc kết kinh
nghiệm từ thực tiễn để kịp thời hoạch định chủ trương, chính sách hợp lòng dân,
nhằm phát huy cao nhất sức mạnh của toàn dân tộc trong công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Tiêu biểu có bài: "Mấy vấn đề về đổi mới nội dung, phương thức
vận động quần chúng của Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước" [81, tr.174-183] cho rằng: Ở mỗi giai đoạn lịch sử, có những mục
tiêu, nhiệm vụ, nội dung, phương pháp và đối tượng của cách mạng khác nhau. Vì
vậy, CTDV cũng được thay đổi cho phù hợp với tình hình thực tiễn và nhiệm vụ
của từng giai đoạn. Trong những năm qua, Đảng đã có nhiều đổi mới về nội dung,
phương thức CTDV như: Mục tiêu của CTDV ngày càng rõ hơn; chủ trương, chính
sách, giải pháp CTDV ngày càng phong phú, hoàn chỉnh, đi sâu từng lĩnh vực, từng
đối tượng; các cấp ủy đảng đã tăng cường lãnh đạo CTDV, kiện toàn, củng cố Ban
Dân vận các cấp; phương thức CTDV có sự đổi mới theo hướng trực tiếp với cơ sở,
gần dân, sát dân hơn… Tuy nhiên, CTDV của HTCT còn một số khuyết điểm, đó
là: Cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ chưa được cụ thể
hóa đầy đủ và đồng bộ; tình trạng quan liêu, cửa quyền của một bộ phận cán bộ,
công chức nhà nước chưa được khắc phục; hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể
nhân dân không ít nơi vẫn còn tình trạng hành chính hóa. Từ đó, tác giả đề xuất 7
nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức CTDV.
Trong đó, giải pháp quan trọng hàng đầu là: Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, giáo dục, không ngừng nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ, đảng viên,
công chức, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu, trách nhiệm của đội ngũ cán
bộ, công chức chính quyền về CTDV trong tình hình mới.
Sách Lịch sử công tác dân vận của Đảng Cộng sản Việt Nam (1930-2010)
[11]. Công trình đã phản ánh quá trình lịch sử phong phú, sinh động về CTDV của
10
Đảng qua các thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng XHCN; nêu bật
những chủ trương, chính sách, nhiệm vụ và quá trình lãnh đạo thực hiện, khẳng
định những thành tựu đạt được; đồng thời, chỉ rõ những sai lầm, hạn chế trong
CTDV; từ đó, đúc kết những bài học lịch sử cho CTDV của Đảng trong hiện tại và
tương lai.
Cùng với các công trình trên có rất nhiều nghiên cứu đăng tải trên các tạp chí
khoa học. Tiêu biểu là những bài viết: "Một số bài học kinh nghiệm về công tác vận
động quần chúng của Đảng trong những năm đổi mới" [83]. Từ thực tế lãnh đạo
CTVĐQC của Đảng hơn 25 năm đổi mới, tác giả rút ra 6 bài học chủ yếu: Đảng
luôn nhận thức đầy đủ, sâu sắc về vai trò quan trọng của CTVĐQC trong quá trình
lãnh đạo công cuộc đổi mới; lấy độc lập dân tộc và dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh làm mục tiêu của CTVĐQC; đoàn kết, thống nhất trong Đảng
là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc;
CTVĐQC phải được thực hiện trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các
thành viên trong xã hội, giữa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể và xã hội; CTVĐQC
phải được dựa trên cơ sở thấm nhuần phương châm "Vì quần chúng nhân dân, do
quần chúng nhân dân"; trong CTVĐQC phải biết phát huy những truyền thống quý
báu của dân tộc, nhất là truyền thống yêu nước.
Bài viết "Quan niệm về chất lượng và hiệu quả công tác dân vận" [39] đã
xác định năm tiêu chí và yêu cầu để đánh giá chất lượng, hiệu quả CTDV trong tình
hình mới, đó là: Sự tin tưởng của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, đồng thuận
với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, làm cho
dân hăng hái, phấn khởi, tự giác thực hiện nhiệm vụ và nghĩa vụ của mình trong xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đây là thước đo chất lượng giáo dục, tuyên truyền, phổ
biến và tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
trong các tầng lớp nhân dân; phải tăng cường được sự đoàn kết, nhất trí trong các
cộng đồng dân cư ở cơ sở; công tác dân vận phải tập hợp được quần chúng nhân
dân thành lực lượng xã hội rộng lớn và nuôi dưỡng các phong trào thi đua yêu
nước; công tác dân vận phải đảm bảo thực hành dân chủ rộng rãi; chất lượng CTDV
phải được đánh giá bởi chất lượng hoạt động của HTCT các cấp.
11
Luận án Công tác vận động đồng bào Công giáo của Đảng bộ một số tỉnh ở
miền Đông Nam Bộ từ năm 1986 đến năm 2006 [118]. Trên cơ sở phân tích làm rõ
những thành công và hạn chế trong công tác vận động đồng bào Công giáo của
Đảng bộ một số tỉnh miền Đông Nam Bộ, luận án đã rút ra 4 kinh nghiệm về tăng
cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng; về việc tổ chức phối hợp giữa cơ
quan dân vận của Đảng với chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể; về việc
chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào Công giáo và về công tác cán bộ.
Đặc biệt, tác giả nhấn mạnh: Tăng cường sự lãnh đạo, không ngừng đổi mới
phương thức chỉ đạo của cấp ủy là điều kiện quyết định để những quan điểm, chủ
trương đổi mới về chính sách tôn giáo của Đảng được hiện thực hóa có hiệu quả…
Thực chất của việc đổi mới phương thức lãnh đạo CTVĐQC của cấp ủy các tỉnh là
nhằm tăng cường công tác lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền, Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể trong công tác vận động đồng bào Công giáo trên địa bàn.
Hình thức thể hiện vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động đồng bào
Công giáo là bằng nghị quyết, chỉ thị hay các văn bản chỉ đạo, bằng việc kiểm tra
kết quả thực hiện, phát hiện và điều chỉnh những thiếu sót trong quá trình thực hiện
[118, tr.175-178].
Luận án Công tác vận động đồng bào Khmer của các Đảng bộ xã, phường,
thị trấn ở Tây Nam Bộ trong giai đoạn hiện nay [115]. Đóng góp của tác giả luận án
là làm rõ đặc điểm của đồng bào Khmer, chỉ ra nội dung và phương thức vận động
đồng bào Khmer với tư cách là đối tượng có tính đặc thù trong CTDV của Đảng;
đồng thời, luận án đã rút ra một số kinh nghiệm và đề xuất những giải pháp mang
tính đặc thù để tăng cường công tác vận động đồng bào Khmer của các Đảng bộ xã,
phường, thị trấn ở Tây Nam Bộ.
Bên cạnh các công trình nghiên cứu trong nước là những nghiên cứu ở nước
ngoài. Tiêu biểu có các công trình:
Sách Đổi mới công tác xây dựng Đảng ở nông thôn [58] đã khẳng định công
tác quần chúng nông thôn có làm tốt hay không có liên quan, ảnh hưởng đến đại cục
cải cách, phát triển và ổn định của Trung Quốc. Làm tốt công tác quần chúng trong
thời kỳ mới là nhiệm vụ quan trọng của đội ngũ cán bộ nông thôn. Người cán bộ
12
nông thôn phải tích cực nghiên cứu những chuyển biến mới trong đời sống kinh tế -
xã hội và những đặc điểm mới trong công tác quần chúng nông dân ở Trung Quốc;
thường xuyên đổi mới phương thức làm việc, vận dụng các biện pháp như thuyết
phục, giáo dục, làm thí điểm và cung cấp dịch vụ thì mới có thể giải quyết tốt những
vấn đề và mâu thuẫn nội bộ trước mắt của người dân nông thôn và đoàn kết, dìu dắt
quần chúng nông dân không ngừng phấn đấu, tiến lên để thực hiện mục tiêu xây
dựng xã hội khá giả toàn diện... Cán bộ nông thôn phải bắt được mạch tư tưởng của
quần chúng nông dân, phải hiểu được những khó khăn và tình hình thực tế của họ,
phải tạo ra những cách làm phong phú, có tính khả thi, hợp ý dân mới có thể đạt
hiệu quả cao trong công tác quần chúng [58, tr.485-488].
Bài viết "Thúc đẩy xây dựng chính trị dân chủ cơ sở nông thôn, thực hiện
quản lý của chính quyền cơ sở và tự trị của quần chúng thúc đẩy lẫn nhau một cách
tích cực" [79] cho rằng: Xây dựng chính trị dân chủ cơ sở nông thôn Trung Quốc là
một hành động sáng tạo vĩ đại của đông đảo nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Trung Quốc. Thực hiện kết hợp hữu cơ giữa xây dựng chính quyền xã, thị
trấn với phát triển tự trị dân làng trở thành bộ phận cấu thành quan trọng của xây
dựng chính trị dân chủ XHCN của Trung Quốc, phát huy vai trò quan trọng trong
việc củng cố nền tảng cầm quyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc, thúc đẩy kinh tế,
xã hội nông thôn phát triển, tăng cường quản lý xã hội ở cơ sở và thúc đẩy hài hòa
ổn định. Nội dung hạt nhân của tự trị quần chúng cơ sở nông thôn là bầu cử dân
chủ, quyết sách dân chủ, quản lý dân chủ và giám sát dân chủ. Đây là nội dung mà
luận án có thể kế thừa trong trình bày vấn đề xây dựng HTCT cơ sở, xây dựng buôn
làng tự quản ở Tây Nguyên.
Bài viết: "Kiên trì quan điểm nhân dân là tối thượng, thiết thực làm tốt công
tác quần chúng trong tình hình mới" [64] đã nêu rõ những vấn đề trọng tâm trong
công tác quần chúng của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã và đang tập trung hướng
vào: Xây dựng quan điểm quần chúng đúng đắn, thắt chặt sợi dây tình cảm gắn kết
với quần chúng, tạo nền tảng tư tưởng vững chắc để làm tốt công tác quần chúng;
luôn giữ vững lập trường quần chúng, đề cao tôn chỉ phục vụ nhân dân, tập trung
giải quyết những vấn đề liên quan đến lợi ích thiết thân của quần chúng nhân dân;
13
cải tiến và đổi mới phương thức và phương pháp, sử dụng các hình thức và biện
pháp mà quần chúng yêu thích, nỗ lực tăng cường tính hướng đích và tính hiệu quả
của công tác quần chúng; xây dựng và kiện toàn chế độ công tác, nâng cao sức ràng
buộc và thực thi của chế độ, tăng cường mức độ quy phạm hóa và chế độ hóa của
công tác quần chúng [64, tr.19-35]. Việt Nam có nhiều điểm tương đồng với Trung
Quốc, nên những kinh nghiệm quý báu trong CTDV của Trung Quốc có giá trị tham
khảo đối với luận án.
Bài viết "Đảng Cộng sản các nước trên thế giới tận dụng như thế nào sự tham
dự dân chủ để thắt chặt quan hệ giữa Đảng và quần chúng" [68, tr.23-31] cho rằng,
phát huy dân chủ không chỉ là sự tôn trọng đối với người dân, mà còn tạo sức mạnh
của một chính đảng. Các Đảng Cộng sản cầm quyền hay không cầm quyền ở các
nước đều coi trọng mối liên hệ mật thiết với quần chúng và nhấn mạnh mục đích vì
nhân dân phục vụ trong điều lệ, cương lĩnh của đảng. Một số Đảng Cộng sản do mất
dân chủ, không gắn với dân nên suy yếu, thậm chí sụp đổ. Tác giả đã dẫn ra kinh
nghiệm ở các nước như: Đảng Nhân dân Cách mạng Lào lấy công tác cơ sở làm
trọng điểm, lấy dân chúng làm đối tượng phục vụ, thực hiện kế hoạch giúp người
dân nông thôn thoát nghèo, tiến tới giàu có làm mục tiêu; triển khai xây dựng cơ sở
chính trị, xây dựng "Chi bộ đảng cơ sở kiên trì và giỏi lãnh đạo toàn diện"; yêu cầu
bí thư, phó bí thư, đảng ủy viên các cấp mỗi năm phải dành thời gian 1/3 đến nửa
năm xuống cơ sở để tuyên truyền đường lối, chính sách của đảng, lắng nghe ý kiến
của quần chúng, kịp thời nắm bắt và giải quyết các vấn đề mà quần chúng phản ánh.
Đảng Cộng sản Trung Quốc đã dựa vào những thay đổi trong đời sống kinh tế - xã
hội và đặc điểm mới của công tác quần chúng để xác định trọng tâm công tác quần
chúng là giải quyết những điểm nóng và những vấn đề nổi cộm mà quần chúng
quan tâm. Cánh tả liên hợp Tây Ban Nha do Đảng Cộng sản là chủ thể đã triển khai
hoạt động đào tạo cán bộ, đảng viên cơ sở, làm cho mỗi đảng viên đều thấm nhuần
phương châm, chính sách của đảng, nắm vững kỹ năng trao đổi với cử tri để có thể
trả lời một cách kịp thời, chính xác phương châm, chính sách của đảng mình; đồng
thời, phản ánh nhu cầu lợi ích của dân chúng với đảng. Những vấn đề mà bài viết đề
cập có thể dùng trong so sánh, đối chiếu với CTDV của Đảng Cộng sản Việt Nam,
gợi mở cho việc đúc kết những kinh nghiệm trong CTDV của Đảng ở Tây Nguyên.
14
Bài viết "Vận động quần chúng: bối cảnh dẫn đến sự trỗi dậy của phong trào
xã hội cách mạng, động lực, bản chất và tầm quan trọng" [125, tr.99-103] cho thấy:
Chiến lược vận động thường xuyên mang tính dân chủ, được chính phủ Venezuela
vạch ra trên cơ sở nhận thức, cam kết và quyết định của người dân không chỉ trong
các hoạt động bầu cử mà trong cả hành động tổ chức chính trị, để xác định các vấn
đề cơ bản nhất và tìm ra các giải pháp mang tính tập thể về sự tham gia, tổ chức và
gắn kết các nhu cầu xã hội nhằm hỗ trợ Nhà nước đưa ra các giải pháp một cách
hiệu quả. Nhiệm vụ trọng tâm của Đảng là xây dựng mối liên hệ chặt chẽ và quy củ
giữa Đảng và quần chúng. Đây chính là điều kiện, động cơ để nhân dân hướng tới
tập trung và xây dựng ý thức tập thể, nhằm củng cố sức mạnh chính trị và hiện thực
hóa những nhu cầu thiết yếu nhất của mình.
Nhóm 2: Những công trình nghiên c u chung về Tây Nguyên
Địa bàn Tây Nguyên từ trước đến nay luôn là khu vực thu hút sự quan tâm,
nghiên cứu của các nhà khoa học. Đặc biệt, từ sau sự kiện bạo loạn, biểu tình năm
2001, có rất nhiều công trình nghiên cứu về đặc điểm kinh tế - xã hội, những giá trị
truyền thống văn hóa, sự biến đổi về chính trị, xã hội… Tiêu biểu là các công trình,
bài viết:
Sách Tây Nguyên trên đường phát triển bền vững [17], đã đề cập toàn diện
các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, các tiềm năng, thế mạnh của
5 tỉnh Tây Nguyên trong quá trình phát triển và hội nhập.
Sách Tổ chức và hoạt động buôn làng trong phát triển bền vững vùng Tây
Nguyên [53], tập trung làm rõ thực trạng tổ chức và hoạt động của buôn làng Tây
Nguyên trong lịch sử, đặc biệt là từ năm 1975 đến hiện nay, trên các chiều cạnh
không gian sinh tồn tự nhiên, kinh tế, xã hội, văn hóa; bước đầu đề xuất một số giải
pháp góp phần xây dựng buôn làng mới trong phát triển bền vững vùng Tây
Nguyên, đó là: Nâng cao vai trò, vị thế của buôn làng, coi buôn làng Tây Nguyên
như một pháo đài để ổn định và phát triển; tôn trọng và kế thừa những truyền thống
tốt đẹp của buôn làng, trong đó, có phương án phù hợp nhằm kết hợp hài hòa luật
pháp với luật tục và tòa án phong tục ở các buôn làng, cần thực sự tôn trọng, tôn
vinh, tranh thủ và phát huy vai trò của già làng vào xây dựng buôn làng, xây dựng
15
và củng cố HTCT cơ sở buôn làng phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội
để nắm dân, ổn định an ninh chính trị, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ thôn buôn
có đủ trình độ lý luận và quản lý nhà nước… [53, tr.220-221].
Cuốn sách Một số vấn đề cơ bản của xã hội Tây Nguyên trong phát triển bền
vững [55]. Trên cơ sở khái quát xã hội Tây Nguyên truyền thống, công trình này đã
trình bày thực trạng xã hội Tây Nguyên đương đại trên ba chiều cạnh: cơ cấu xã hội,
tổ chức xã hội, giá trị xã hội; từ đó, phân tích và làm sáng tỏ một số vấn đề cơ bản
của xã hội Tây Nguyên hiện nay như áp lực tăng dân số, chất lượng nguồn nhân lực
thấp, đói nghèo và phân hóa đời sống cao, quan hệ dân tộc, tôn giáo và an ninh
chính trị phức tạp, tổ chức xã hội thôn làng đa dạng và chồng chéo, mâu thuẫn quản
lý và sử dụng đất đai, HTCT cơ sở và buôn làng yếu kém, tư duy sản xuất tiểu nông
đậm nét và sự mai một, suy thoái văn hóa truyền thống ở các dân tộc thiểu số
(DTTS) tại chỗ; đồng thời, đề xuất những quan điểm, kiến nghị, giải pháp làm cơ sở
khoa học cho xây dựng chính sách phát triển bền vững xã hội Tây Nguyên những
thập niên tới. Đáng chú ý là những kiến nghị được nêu ra, liên quan trực tiếp đến
CTDV, đó là: Triển khai ở Tây Nguyên một chương trình tuyên truyền, vận động
chính trị mà nội dung là giúp các dân tộc hiểu rõ chủ trương, đường lối và chính
sách dân tộc của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước… Trong những thập
niên qua, chúng ta đã làm được rất nhiều để phát triển kinh tế - xã hội các dân tộc
Tây Nguyên, nhưng tuyên truyền để người dân hiểu được điều này thì chúng ta còn
làm được ít. Trong bối cảnh của Tây Nguyên hiện nay, nếu không thực hiện tốt
công tác tuyên truyền thì tiền của và công sức bỏ ra có lớn đến đâu, an ninh chính
trị vẫn khó ổn định và lòng dân có thể yên nhưng chưa hẳn đã ổn [55, tr.226-227].
Sách Một số điểm nóng chính trị - xã hội điển hình tại các vùng dân tộc ở
miền núi trong những năm gần đây: hiện trạng, vấn đề, các bài học kinh nghiệm
trong xử lý tình huống [86]. Trong nghiên cứu này, tác giả có đề cập, phân tích diễn
biến và những nguyên nhân phát sinh điểm nóng ở các tỉnh Tây Nguyên năm 2001
và năm 2004, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm: Một là, để ổn định và phát
triển bền vững Tây Nguyên cần có giải pháp tổng thể mang ý nghĩa chiến lược: kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng theo tinh thần Nghị quyết 10 của
16
Bộ Chính trị đã đề cập; Hai là, hết sức cảnh giác với âm mưu "diễn biến hòa bình",
gây bạo loạn, lật đổ của các thế lực thù địch và sử dụng mọi biện pháp làm thất bại
âm mưu ấy. Để ổn định chính trị - xã hội thì phải áp dụng các giải pháp cơ bản là an
dân, "chiến lược lòng dân", quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, sao cho mỗi
người dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc bản địa như là người lính bảo vệ biên cương
của Tổ quốc; Ba là, tạo điều kiện và phương thức sinh sống mới cho đồng bào dân
tộc bản địa, xây dựng sự đồng thuận, đoàn kết, cộng sinh giữa các tộc người là nhân
tố đảm bảo cho sự ổn định và phát triển bền vững; Bốn là, xây dựng HTCT cơ sở
vững mạnh, đặc biệt là ở các buôn làng, là nhân tố trực tiếp quyết định giữ vững ổn
định chính trị - xã hội; Năm là, phát triển giáo dục, đào tạo cán bộ người dân tộc
bản địa để đảm đương công việc của chính họ là nhiệm vụ cấp thiết và lâu dài.
Sách Nhận thức, thái độ, hành vi của cộng đồng các dân tộc thiểu số đối với
chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn hiện nay - thực trạng và
giải pháp [88], đã đưa ra các số liệu điều tra xã hội học đối với 4 vùng có đông
đồng bào DTTS ở miền Bắc, miền Trung, Tây Nguyên, miền Nam. Trong đó, tỷ lệ
đồng bào DTTS Tây Nguyên có nhận thức, thái độ và hành vi đối với chính sách
dân tộc là thấp nhất so với 3 vùng còn lại. Các tác giả đưa ra một số kiến nghị như:
Nâng cao tính tích cực trong nhận thức, thái độ, hành vi của đồng bào DTTS; phát
huy vai trò của cộng đồng, người có uy tín; phối hợp trách nhiệm của cấp ủy, chính
quyền, đoàn thể... Đó là những gợi mở cần thiết cho việc nâng cao chất lượng, hiệu
quả CTDV ở vùng đồng bào DTTS ở Tây Nguyên.
Sách Kết hợp phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng ở Tây Nguyên giai
đoạn 1996 - 2010 [59], đã nghiên cứu, làm sáng tỏ hệ thống quan điểm, chủ trương
của Đảng, chính sách của Nhà nước về kết hợp phát triển kinh tế với bảo đảm quốc
phòng trên địa bàn Tây Nguyên qua hai giai đoạn 1996-2000 và 2001-2010; nêu lên
những thành tựu và hạn chế, rút ra một số kinh nghiệm chủ yếu về giữ vững và tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, giữ
vững sự ổn định chính trị - xã hội và củng cố khối đại đoàn kết các dân tộc, xây
dựng thế trận lòng dân, đấu tranh chống những hoạt động chống phá của các thế lực
thù địch, phản động. Tuy nhiên, tác giả chưa đề cập sâu về vai trò của CTDV trong
17
kết hợp phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng và vấn đề củng cố, tăng cường
CTDV trên địa bàn Tây Nguyên.
Sách Hướng tới phát triển bền vững Tây Nguyên [69], đã giới thiệu các
thông tin tổng quan về đặc điểm tự nhiên, lịch sử và xã hội vùng Tây Nguyên; đánh
giá những thành quả, hạn chế của quá trình phát triển kinh tế - xã hội trong hơn 30
năm qua, cũng như phân tích tính đặc thù và các cơ hội phát triển của vùng trong
thời gian tới; trên cơ sở đó, nhóm tác giả nêu ra những quan điểm, định hướng và đề
xuất một số giải pháp cơ bản nhằm góp phần phát triển bền vững vùng Tây Nguyên.
Đặc biệt, trong nhóm giải pháp về các vấn đề xã hội và an ninh quốc phòng, các tác
giả đã nhận định: Trong các vấn đề xã hội nổi cộm của Tây Nguyên, đáng chú ý là
sự tụt hậu của nhóm dân tộc tại chỗ so với mặt bằng chung của vùng do thiếu các
điều kiện phát triển thiết yếu, tình trạng nghèo và phân hóa giàu nghèo giữa các
nhóm dân tộc ngày càng gia tăng, kéo theo nguy cơ xung đột, bất ổn xã hội. Một khi
những vấn đề này chưa được giải quyết hoặc cải thiện thì khả năng tạo lập sự ổn
định, đồng thuận, bình đẳng xã hội ở Tây Nguyên sẽ vẫn là một viễn cảnh xa vời.
Do đó, bản chất của nhóm giải pháp cho các vấn đề xã hội của Tây Nguyên là thực
hiện tái phân phối các nguồn lực phát triển một cách hợp lý, công bằng hơn giữa các
nhóm dân tộc, trong đó, vấn đề trọng tâm là hỗ trợ các điều kiện thiết yếu nhằm
đảm bảo sự phát triển ổn định của nhóm dân tộc tại chỗ [69, tr.486].
Sách Tạo nguồn cán bộ, công chức xã người dân tộc thiểu số ở các tỉnh Tây
Nguyên [129]. Trên cơ sở phân tích những ưu điểm, hạn chế của đội ngũ cán bộ
DTTS ở Tây Nguyên, tác giả cho rằng, để xây dựng HTCT, ổn định quốc phòng, an
ninh, thúc đẩy kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên phát triển thì việc xây dựng nguồn
cán bộ, công chức xã người DTTS là nhiệm vụ quan trọng trong công tác cán bộ cơ
sở của các cấp ủy đảng địa phương, nhằm tạo dựng một đội ngũ những người trong
các DTTS ở Tây Nguyên có đủ tiêu chuẩn để bầu cử, tuyển dụng, bổ nhiệm làm cán
bộ, công chức xã. Đó chính là nhân tố quan trọng để lãnh đạo, quản lý, vận động
quần chúng thực hiện các nhiệm vụ chính trị ở địa phương, cơ sở.
Bài viết "Tây Nguyên vững bước đi lên" [46, tr.11-15] đã khẳng định, sau 10
năm thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW của Bộ Chính trị, Tây Nguyên đã đạt được
18
những thành tựu to lớn, toàn diện và có ý nghĩa rất quan trọng, trong đó, thành tựu
lớn nhất là đã nỗ lực xây dựng được khối đại đoàn kết các dân tộc và giữ vững sự
ổn định về chính trị - xã hội. Tác giả cho rằng, để Tây Nguyên phát triển nhanh và
bền vững cần quán triệt sâu sắc và thực hiện đồng bộ, có hiệu quả Nghị quyết số 10-
NQ/TW của Bộ Chính trị, đặc biệt là tăng cường vững chắc khối đại đoàn kết các
dân tộc và giữ vững ổn định chính trị - xã hội là tiền đề quan trọng, có ý nghĩa quyết
định cho phát triển bền vững ở Tây Nguyên.
Bài viết "Phát triển Tây Nguyên toàn diện, bền vững, xứng đáng với vị trí
chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và môi
trường sinh thái của đất nước" [84, tr.12-18]. Từ thực tiễn triển khai thực hiện các
chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với Tây Nguyên, tác giả bài viết đã
rút ra một số kinh nghiệm sau: Một là, sự ổn định và phát triển của Tây Nguyên
phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quan tâm đầu tư tương xứng của Nhà nước.
Hai là, phát triển Tây Nguyên toàn diện, bền vững phải trên nền tảng bảo đảm quốc
phòng, an ninh; giữ vững ổn định chính trị, xã hội; bảo vệ vững chắc chủ quyền, an
ninh biên giới. Ba là, sự ổn định và phát triển vùng DTTS là nhân tố quan trọng bảo
đảm sự ổn định và phát triển của Tây Nguyên. Bốn là, việc thực hiện tốt chính sách
tôn giáo có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự ổn định và phát triển của Tây
Nguyên; Năm là, coi trọng công tác xây dựng Đảng, xây dựng HTCT cơ sở; đào
tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ cán bộ người DTTS.
Kỷ yếu Hội thảo Biến đổi tôn giáo ở Tây Nguyên: thực trạng, chính sách và
giải pháp [126], đã tập hợp 19 bài viết đề cập đến rất nhiều khía cạnh cụ thể của vấn
đề tôn giáo ở Tây Nguyên. Các tác giả đã có những phân tích, lý giải mới về vai trò
của tôn giáo đối với phát triển bền vững Tây Nguyên, trong đó, đáng chú ý là nhận
định: "Vấn đề tôn giáo ở Tây Nguyên gắn bó rất chặt chẽ với vấn đề phát triển bền
vững ở Tây Nguyên. Nếu tôn giáo ở Tây Nguyên diễn biến phức tạp, sẽ khó có được
sự phát triển bền vững ở Tây Nguyên. Do vậy, mọi chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội, phát triển bền vững Tây Nguyên phải tính đến yếu tố tôn giáo" [126, tr.183].
Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài "Quan hệ tộc người và chiến
lược xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong phát triển bền vững Tây Nguyên"
19
[60], đã luận giải, làm rõ cơ sở lý luận về quan hệ tộc người và khối đại đoàn kết
dân tộc từ nhiều chiều cạnh và theo quan điểm phát triển bền vững; phân tích thực
trạng các trục quan hệ tộc người và khối đại đoàn kết dân tộc, các chính sách dân
tộc và tác động của chúng đến quan hệ tộc người và khối đại đoàn kết dân tộc ở Tây
Nguyên; rút ra 10 bài học kinh nghiệm trong việc thúc đẩy sự cố kết, hòa hợp dân
tộc, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở Tây Nguyên thời kỳ CNH, HĐH đất nước
và hội nhập.
Luận án Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện chính sách xã hội ở
Tây Nguyên từ năm 1996 đến năm 2006 [62], đã hệ thống, phân tích quá trình lãnh
đạo thực hiện chính sách xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam ở Tây Nguyên từ
năm 1996 đến năm 2006, từ đó rút ra một số kinh nghiệm chủ yếu để vận dụng thực
hiện chính sách xã hội ở khu vực này trong thời gian tới đạt hiệu quả cao hơn.
Nhóm 3: Những công trình nghiên c u về công tác dân vận ở Tây Nguyên
Liên quan đến CTDV ở Tây Nguyên thời kỳ đổi mới, đã có một số công
trình đề cập dưới góc độ thực trạng và giải pháp tăng cường, đổi mới CTDV trên
phạm vi toàn vùng cũng như từng tỉnh ở Tây Nguyên. Tiêu biểu là các công trình,
bài viết:
Sách Nâng cao năng lực hoạt động và khả năng tập hợp quần chúng của
Mặt trận và các đoàn thể ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Gia Lai trong tình
hình mới [28], đã nêu rõ thực trạng về tổ chức và hoạt động của Mặt trận và các
đoàn thể ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Gia Lai; đề xuất những nội dung,
giải pháp trong tình hình mới, đó là: Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc ở
xã, phường, thị trấn trong tình hình mới; đổi mới nội dung, phương pháp tuyên
truyền, giáo dục và tổ chức các phong trào hành động cách mạng của Mặt trận và
các đoàn thể nhân dân ở xã, phường, thị trấn; quan tâm xây dựng, củng cố tổ chức
và tập hợp quần chúng vào tổ chức Mặt trận và các đoàn thể nhân dân ở xã, phường,
thị trấn; đổi mới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng và sự phối hợp của chính quyền
đối với Mặt trận và các đoàn thể cơ sở. Tuy nhiên, đây mới là những nghiên cứu
bước đầu trên địa bàn một tỉnh ở Tây Nguyên nên chưa bao quát hết trên phạm vi
toàn vùng.
20
Sách Xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc ở Tây Nguyên [45], đã
đề cập đến vấn đề dân tộc, đặc điểm kinh tế - xã hội của các DTTS ở Tây Nguyên;
phân tích làm rõ truyền thống đoàn kết các dân tộc Tây Nguyên qua các thời kỳ lịch
sử, quá trình xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết các dân tộc ở Tây Nguyên
trong cách mạng dân tộc dân chủ và xây dựng CNXH, đặc biệt là thời kỳ đổi mới;
đánh giá những kết quả đã đạt được và những hạn chế, yếu kém trong quá trình
thực hiện chính sách của Đảng về đoàn kết các dân tộc Tây Nguyên, từ đó đề xuất
các nhóm giải pháp khá toàn diện, đồng bộ nhằm xây dựng và củng cố khối đại
đoàn kết dân tộc ở Tây Nguyên trong giai đoạn hiện nay. Trong đó, đáng chú ý là
nhóm giải pháp tăng cường CTDV: Cần nhận thức đúng đắn vai trò của CTDV
trong quá trình xây dựng khối đoàn kết dân tộc ở Tây Nguyên; công tác vận động
quần chúng phải thật sự hướng về cơ sở, nội dung, phương pháp vận động phải cụ
thể, thiết thực, phù hợp với trình độ nhận thức và tâm lý của đồng bào; công tác
phát động quần chúng là một trong những biện pháp quan trọng hàng đầu, là
nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên của HTCT các cấp; phát huy vai trò già làng
trong quá trình củng cố và tăng cường khối đoàn kết các DTTS; xây dựng đội ngũ
cán bộ làm CTVĐQC có tâm huyết, biết nghe dân nói, nói dân nghe, làm dân tin
[45, tr.424-432].
Sách Người cao tuổi dân tộc và già làng trong phát triển bền vững Tây
Nguyên [65], đã làm rõ thực trạng đời sống của người cao tuổi dân tộc và già làng
Tây Nguyên; đồng thời, nêu bật vai trò và những đóng góp to lớn của họ trong phát
triển bền vững Tây Nguyên. Điểm nổi bật của sách này là khẳng định người cao
tuổi dân tộc và già làng là những lực lượng nòng cốt trong CTVĐQC ở địa phương,
là cầu nối giữa nhân dân với Đảng và chính quyền. Đảng và Nhà nước cần có chính
sách, chế độ cho họ, để phát huy hơn nữa khả năng của họ vào sự nghiệp phát triển
bền vững Tây Nguyên.
Sách Giải pháp tăng cường đoàn kết, tập hợp thanh niên các dân tộc ở Tây
Nguyên hiện nay [56], đã tập trung phân tích tình hình thanh niên và thực trạng
công tác đoàn kết, tập hợp thanh niên các dân tộc ở Tây Nguyên trong thời gian
qua; nêu lên những ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân và đề ra những giải pháp góp
21
phần nâng cao hiệu quả công tác đoàn kết, tập hợp thanh niên các dân tộc ở Tây
Nguyên trong bối cảnh hiện nay. Trong đó, nổi lên là giải pháp tăng cường công tác
giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo dục pháp luật, giữ gìn bản sắc văn hóa cho thanh
niên các dân tộc ở Tây Nguyên.
Cuốn sách Xây dựng lực lượng nòng cốt làm công tác dân vận trong cộng
đồng các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên hiện nay [111], đã làm rõ cơ sở lý luận, vai
trò của lực lượng nòng cốt; phân tích tình hình xây dựng và hoạt động của lực lượng
nòng cốt ở Tây Nguyên; đưa ra các nhóm giải pháp nhằm xây dựng lực lượng nòng
cốt làm CTDV trong cộng đồng các DTTS ở Tây Nguyên hiện nay. Điểm nổi bật của
công trình này là góp phần làm sáng rõ vai trò, tầm quan trọng của việc xây dựng lực
lượng nòng cốt làm CTDV và xem đây là một trong những nội dung quan trọng của
CTDV, góp phần củng cố mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, nhất là tạo
lập niềm tin của đồng bào DTTS đối với Đảng, chính quyền. Bởi đây là lực lượng
gần dân, hiểu được đặc điểm, tâm tư, nguyện vọng của đồng bào, trực tiếp vận động
đồng bào tích cực tham gia các phong trào của địa phương. Các cấp ủy đảng, chính
quyền, Mặt trận và các đoàn thể trên địa bàn phải có chương trình, kế hoạch, mục tiêu
cụ thể để chăm lo xây dựng lực lượng này thực sự là chỗ dựa tin cậy cho tổ chức
đảng, chính quyền trong công tác vận động đồng bào DTTS [111, tr.35].
Ngoài ra, có rất nhiều bài viết đề cập đến thực trạng và giải pháp tăng cường
CTDV trên địa bàn. Tiêu biểu có các bài viết sau:
Bài viết "Một số kết quả và bài học kinh nghiệm trong công tác dân vận của
Đảng bộ tỉnh Gia Lai" [82, tr.39-41]. Tác giả đã nêu lên những kết quả đạt được
trong lãnh đạo CTDV của Đảng bộ tỉnh thời gian qua, từ đó rút ra một số kinh
nghiệm, đó là: Cần tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, tích cực về nhận thức, trách nhiệm
của các tổ chức trong HTCT về vị trí, vai trò của CTDV; tăng cường vai trò lãnh
đạo, quản lý của các cấp ủy đảng và chính quyền các cấp về CTDV; Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể phải đổi mới về nội dung, đa dạng hóa các hình thức tập hợp,
vận động quần chúng, chú trọng công tác xây dựng tổ chức vững mạnh; tập trung
xây dựng đội ngũ cán bộ làm CTDV có đủ trình độ, năng lực và phẩm chất để đáp
ứng được yêu cầu, nhiệm vụ; làm tốt công tác quản lý nhà nước về tôn giáo.
22
Bài viết "Những điều rút ra từ thành công trong chỉ đạo công tác dân vận ở
Binh đoàn 15" [67, tr.24-26], đã nêu bật nhiều mô hình, cách làm hay, sáng tạo và
có hiệu quả của Binh đoàn 15 trong việc triển khai thực hiện phong trào thi đua
"Dân vận khéo", trong đó, nổi bật là mô hình "Gắn kết hộ gia đình công nhân
người Kinh với hộ gia đình đồng bào DTTS" (gọi tắt là gắn kết hộ). Tác giả nhận
định: "Gắn kết hộ" là một mô hình mới, có tính sáng tạo, phù hợp với tình hình
thực tiễn ở các đơn vị quân đội làm kinh tế kết hợp với quốc phòng, mang lại lợi
ích trước mắt cũng như lâu dài. Mô hình này cần được nhân rộng ra các đơn vị
quân đội đang làm kinh tế trong toàn quân và các tổng công ty, doanh nghiệp làm
kinh tế trong cả nước.
Bài viết "Chính sách kết nghĩa dân tộc ở tỉnh Đắk Lắk hiện nay" [48, tr.70-
80] đã góp phần làm rõ cơ sở khoa học, cơ sở thực tiễn của chính sách kết nghĩa;
nêu bật những thành tựu và hạn chế trong thực hiện chính sách này ở tỉnh Đắk Lắk.
Tác giả nhận định: Tuy còn một số hạn chế nhất định trong quá trình triển khai
chính sách cần phải khắc phục, nhưng thành công của công tác kết nghĩa là to lớn,
góp phần quan trọng vào việc ổn định đời sống kinh tế - xã hội và an ninh trật tự
vùng DTTS.
Bài viết "Phát huy vai trò công tác dân vận trên địa bàn Tây Nguyên trong
giai đoạn mới" [38, tr.29-30; 39], đã khẳng định CTDV là nội dung cốt lõi, nhân tố
quyết định để ổn định tình hình an ninh chính trị, tạo cơ sở cho kinh tế - xã hội phát
triển ở Tây Nguyên. Trong bối cảnh tình hình Tây Nguyên còn nhiều khó khăn,
thách thức, cần coi trọng CTVĐQC, đặc biệt là phải thực hiện tốt các giải pháp: đẩy
mạnh công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao nhận thức cho quần chúng;
chăm lo phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân;
tập trung củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động của HTCT cơ sở, đặc biệt coi trọng
công tác xây dựng buôn làng theo hướng tự quản, tự chịu trách nhiệm mọi mặt ở địa
bàn dân cư; thường xuyên tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng kết
việc thực hiện CTDV.
Báo cáo tổng quan đề tài Các giải pháp đổi mới hoạt động của hệ thống dân
vận các tỉnh Tây Nguyên ở nước ta hiện nay [110], đã tập trung làm rõ thực trạng
23
hoạt động của hệ thống Dân vận ở địa bàn thuộc các tỉnh Tây Nguyên từ năm 2001
đến năm 2005; nêu lên những ưu điểm và hạn chế; đề xuất các giải pháp nhằm đổi
mới hoạt động của hệ thống Dân vận ở các tỉnh Tây Nguyên: Cần tạo được những
chuyển biến tích cực về nhận thức trong cán bộ, đảng viên về tầm quan trọng của
CTDV đối với sự phát triển bền vững ở Tây Nguyên; phân định rõ chức năng,
nhiệm vụ và xây dựng quy chế phối hợp giữa các tổ chức; đổi mới nội dung hoạt
động và tổ chức các phong trào hành động cách mạng; đổi mới công tác tuyên
truyền, vận động quần chúng; xây dựng, củng cố tổ chức và phát triển đoàn viên,
hội viên. Điểm nổi bật của nghiên cứu này là đã xác định và làm rõ được những vấn
đề về đổi mới hoạt động của hệ thống Dân vận ở Tây Nguyên, đó là: Đổi mới hoạt
động của từng tổ chức trong hệ thống Dân vận và đổi mới hệ thống Dân vận ở mối
cấp, mỗi địa phương, đặc biệt là ở cơ sở. Từng tổ chức, từng cấp có sự đổi mới tích
cực, thường xuyên và đúng hướng mới tạo ra sự đổi mới rõ nét, liên tục và đúng đắn
cho toàn bộ hệ thống. Tuy nhiên, những giải pháp trong nghiên cứu này chỉ đề cập
đến những vấn đề mang tính cơ bản trong hệ thống Dân vận, nên chưa mang tính
tổng thể về sự đổi mới hoạt động của cả HTCT ở Tây Nguyên trong tình hình mới.
Kỷ yếu hội thảo khoa học "Một số vấn đề về công tác tuyên truyền, vận động
quần chúng trong thời kỳ hiện nay" [61], đã tập hợp 20 báo cáo tham luận của các
nhà khoa học, các nhà lãnh đạo, quản lý, cung cấp khá nhiều thông tin về lý luận
cũng như thực tiễn về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng trên địa bàn các
tỉnh Tây Nguyên; nêu những mô hình làm CTDV hiệu quả; chỉ ra những vấn đề mới
đặt ra; đề xuất nhiều giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả CTDV trên địa bàn này.
Đáng chú ý là bài viết "Một số vấn đề về công tác tuyên truyền, vận động nhân dân
ở địa bàn Tây Nguyên giai đoạn hiện nay" [61, tr.74-82]. Từ việc khái quát những
nét đặc thù của Tây Nguyên, tác giả cho rằng, để tăng cường công tác tuyên truyền,
vận động nhân dân trên địa bàn có hiệu quả, cần tập trung vào một số nội dung sau:
Trước hết, cần nhận thức rõ tình hình, tính đặc thù của từng địa bàn để chủ động đối
phó với những tác động tiêu cực đến tâm trạng, lòng tin của nhân dân; đổi mới
phong cách tuyên truyền, vận động nhân dân; tăng cường xây dựng, củng cố HTCT
cơ sở; phối hợp sức mạnh tổng hợp của cả HTCT và các lực lượng xã hội trong
24
tuyên truyền, vận động nhân dân; tăng cường đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân.
Luận án Đổi mới công tác tư tưởng của Đảng ở Tây Nguyên trong giai đoạn
hiện nay [109], cho rằng: Yêu cầu đổi mới công tác tư tưởng nhằm nâng cao chất
lượng và hiệu quả công tác tư tưởng của Đảng ở Tây Nguyên là một nhu cầu khách
quan, vừa cơ bản, vừa cấp bách. Trên cơ sở phân tích, đánh giá những nét mới của
tình hình tư tưởng và công tác tư tưởng của Đảng ở Tây Nguyên từ năm 2001 đến
năm 2010, tác giả đã nêu ra các nhóm giải pháp về đổi mới công tác tư tưởng của
Đảng đáp ứng yêu cầu ổn định chính trị - xã hội và phát triển bền vững vùng Tây
Nguyên: Nhóm giải pháp về nhận thức đối với việc đổi mới công tác tư tưởng của
Đảng ở Tây Nguyên, về đổi mới nội dung và phương pháp công tác tư tưởng, về
công tác cán bộ làm công tác tư tưởng, về chế độ, chính sách và tăng cường cơ sở
vật chất, trang thiết bị, phương tiện… Đây là các giải pháp đồng bộ và toàn diện, có
tính khả thi về công tác tư tưởng đối với địa bàn đặc thù Tây Nguyên.
1.2. KHÁI QUÁT KẾT QUẢ CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN TIẾP TỤC GIẢI QUYẾT
1.2.1. Kết quả nghi n cứu của các công trình đã công bố
- Những công trình, bài viết những vấn đề lý luận chung về CTDV đã đề
cập: khái niệm, mục đích, nội hàm, phương pháp và phương thức tiến hành
CTDV; sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đối
với CTDV qua các thời kỳ lịch sử; khẳng định những thành tựu, chỉ ra những hạn
chế; đồng thời, bước đầu đúc kết một số kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo
CTDV của Đảng. Các tác giả cũng đề cập đến việc đổi mới nội dung và phương
thức lãnh đạo CTDV của Đảng nói chung và đối với từng tổ chức đảng, chính
quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng nói riêng... Những công trình
khoa học trên đã cung cấp những vấn đề lý luận chung và phương pháp nghiên
cứu đề tài; gợi mở những luận điểm khoa học và tài liệu quý cho tác giả trong quá
trình tiến hành viết luận án.
- Các công trình nghiên cứu về Tây Nguyên đã phân tích đặc điểm tự nhiên,
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội Tây Nguyên, sự tác động của các yếu tố dân tộc,
25
tôn giáo, sự chống phá của các thế lực thù địch... cùng những giải pháp có tính đồng
bộ về tận dụng tiềm năng, lợi thế để phát triển kinh tế - xã hội, phát huy bản sắc văn
hóa các dân tộc, về xây dựng HTCT và đội ngũ cán bộ để đảm bảo Tây Nguyên ổn
định và phát triển. Kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học trên đã cung cấp
cho tác giả cách nhìn toàn diện, đa chiều về Tây nguyên và là nguồn tài liệu quan
trọng trong quá trình nghiên cứu sinh viết luận án.
- Những nghiên cứu thực tế về CTDV gắn với vùng Tây Nguyên và từng địa
phương cụ thể đã làm rõ bức tranh đa dạng về thực trạng CTDV, cùng những mô
hình, kinh nghiệm hay, có thể dùng làm cơ sở để xác định những nội dung trọng
tâm, những vấn đề đặt ra trong CTDV của Đảng trên địa bàn Tây Nguyên. Đây là
nguồn tài liệu quan trọng, đồng thời là những gợi mở cả về lý luận và thực tiễn để
tác giả luận án tham khảo, kế thừa trong quá trình thực hiện đề tài luận án.
1.2.2. Những vấn đề luận án tiếp tục giải quyết
Kết quả khảo cứu các công trình khoa học có liên quan đến đề tài luận án
cho thấy, bên cạnh những vấn đề đã được luận bàn thấu đáo, còn nhiều vấn đề đặt
ra, đòi hỏi luận án cần phải tiếp tục giải quyết:
Thứ nhất, về mặt lý luận, các tác giả chưa đi sâu phân tích làm rõ những chủ
trương, chính sách, giải pháp tăng cường sự lãnh đạo CTDV của Đảng trên địa bàn
Tây Nguyên từ năm 2001 đến năm 2010.
Thứ hai, về mặt thực tiễn, chưa có công trình nghiên cứu nào đi sâu đánh giá
thực trạng CTDV trên địa bàn Tây Nguyên từ năm 2001 đến năm 2010.
Thứ ba, các công trình đã công bố chỉ nêu một số kinh nghiệm và giải pháp
đổi mới CTDV chung trong cả nước, hoặc chỉ đề cập từng thành tố trong CTDV
trên địa bàn Tây Nguyên, chưa đúc kết được kinh nghiệm về lãnh đạo CTDV của
Đảng trên địa bàn Tây Nguyên thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập quốc tế.
Cho đến nay, chưa có công trình nào tái hiện, luận giải một cách cơ bản, có
hệ thống về chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với CTDV
ở Tây Nguyên từ năm 2001 đến năm 2010 dưới góc độ khoa học Lịch sử Đảng. Đây
vẫn là một trong những "khoảng trống" khoa học để tác giả luận án tiếp tục tập
trung làm rõ:
26
Một là, phân tích đặc điểm, tình hình Tây Nguyên về chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội, xây dựng HTCT, an ninh - quốc phòng. Từ đó, làm rõ những yếu tố tác
động đến CTDV trên địa bàn Tây Nguyên.
Hai là, tiếp tục nghiên cứu, phân tích làm rõ sự phát triển về nhận thức của
Đảng về vị trí, vai trò của CTDV; luận giải có hệ thống chủ trương, chính sách và
sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với CTDV trên địa bàn Tây Nguyên từ
năm 2001 đến năm 2010.
Ba là, đánh giá đúng thực trạng về CTDV của Đảng trên địa bàn Tây
Nguyên những năm 2001 đến năm 2010 với những ưu điểm, hạn chế và nguyên
nhân của nó; từ đó, đúc kết những kinh nghiệm thực tiễn quá trình Đảng lãnh đạo
CTDV, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả lãnh đạo CTDV của Đảng ở Tây
Nguyên trong bối cảnh mới.
27
Chƣơng 2
ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC DÂN VẬN
Ở TÂY NGUYÊN TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2005
2.1. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH TÂY NGUYÊN VÀ CÔNG TÁC DÂN VẬN Ở
TÂY NGUYÊN TRƢỚC NĂM 2001
2.1.1. Đặc điểm tự nhi n, kinh tế, văn hóa, xã hội tác động đến công tác
dân vận ở Tây Nguy n
Về điều kiện tự nhiên
Tây Nguyên có 5 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng
(từ ngày 01-01-2004, tỉnh Đắk Nông được thành lập, bao gồm 6 huyện phía Nam
của tỉnh Đắk Lắk) giới hạn trong tọa độ địa lý từ 11045' đến 15
027' (độ vĩ Bắc) và từ
107012' đến 108
055' (độ kinh Đông). Phía Bắc Tây Nguyên giáp tỉnh Quảng Nam,
phía Đông giáp các tỉnh: Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh
Thuận, Bình Thuận, Đồng Nai; phía Nam giáp tỉnh Bình Phước; phía Tây giáp Lào
và Campuchia (Phụ lục 1). Đường biên giới giáp Lào và Campuchia dài 590 km
(trong đó đường biên giới giáp Campuchia 455 km). Nằm dọc trên toàn tuyến biên
giới có 29 xã, thuộc 12 huyện của 4 tỉnh: Đắk Lắk, Gia Lai, Đắk Nông, Kon Tum.
Các xã biên giới cũng là địa bàn cư trú của nhiều DTTS tại chỗ Tây Nguyên như:
Brâu, Rơ măm, Gia rai, Xơ đăng, Giẻ Triêng, Ê đê, Mnông… Với vị trí đó, trong
cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc hiện nay, Tây Nguyên luôn giữ một vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về
quốc phòng và an ninh.
Tây Nguyên có tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng, có tiềm năng
lớn phát triển các ngành lâm nghiệp, cây công nghiệp, chăn nuôi đại gia súc, công
nghiệp chế biến, du lịch… Diện tích tự nhiên của Tây Nguyên là 54.474 km2, chiếm
16,3% diện tích cả nước, trong đó diện tích rừng và đất rừng chiếm tỷ trọng lớn.
"Đến năm 2005, toàn vùng có 3.006.147 ha rừng và đất lâm nghiệp" [17, tr.20].
Mặc dù đã bị khai thác quá mức, nhưng Tây Nguyên vẫn là vùng có trữ lượng gỗ
lớn nhất cả nước (chiếm khoảng 35% tổng trữ lượng gỗ của cả nước). Rừng Tây
28
Nguyên không chỉ lớn về diện tích mà còn có giá trị đặc biệt về chất lượng bởi sinh
khối lớn và sự đa dạng, phong phú của hệ động, thực vật.
Tài nguyên đất Tây Nguyên giàu có là đặc điểm nổi bật so với các vùng lãnh
thổ khác trên cả nước. Cùng với điều kiện khí hậu nhiệt đới điển hình, loại đất đỏ
bazan là điều kiện sinh thái rất thuận lợi cho các loại cây trồng có giá trị kinh tế cao
như cà phê, cao su, hồ tiêu...
Bên cạnh những thuận lợi, thiên nhiên Tây Nguyên cũng rất khắc nghiệt: địa
hình hiểm trở, bị chia cắt bởi núi rừng, sông, suối, giao thông đi lại khó khăn (nhiều
nơi, từ huyện lỵ đến trung tâm xã phải đi hết cả ngày đường và đi lại giữa các thôn,
buôn trong một xã cũng rất khó khăn, đặc biệt là vào mùa mưa), nên ảnh hưởng
nhiều đến CTVĐQC, nhất là ở vùng đồng bào DTTS, vùng sâu, vùng xa.
Về điều kiện kinh tế.
Đặc điểm kinh tế của Tây Nguyên vốn là nền nông nghiệp nương rẫy, sản
xuất mang tính tự nhiên, tự cung tự cấp, trình độ lực lượng sản xuất thấp, công cụ
sản xuất thô sơ, kỹ thuật canh tác lạc hậu, năng suất lao động thấp. Bên cạnh đó,
Tây Nguyên cũng là một địa bàn có sự đan xen nhiều tầng nấc về tính chất và trình
độ sản xuất, sự chênh lệch giữa vùng đồng bào DTTS và vùng người Kinh. Trong
những năm đổi mới, Đảng và Nhà nước đã quan tâm dành nhiều ưu tiên về cơ chế
và các nguồn lực để đầu tư phát triển kinh tế - xã hội. Nhờ vậy, kinh tế trên địa bàn
Tây Nguyên tăng trưởng ở mức khá cao và liên tục, đời sống của người dân từng
bước được cải thiện và nâng cao.
Tuy đã đạt được những kết quả quan trọng trong những năm đầu đổi mới,
nhưng nhìn chung, kinh tế - xã hội Tây Nguyên vẫn chưa có sự chuyển biến cơ bản.
Tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa vững chắc, còn phụ thuộc phần lớn
vào sản xuất nông nghiệp. Công tác quản lý nhà nước về đất đai, tài nguyên, môi
trường có nhiều thiếu sót; nhiều tiềm năng, lợi thế của từng địa phương chưa được
khai thác có hiệu quả để tạo nền tảng cho sự phát triển của Tây Nguyên nói chung
và CTDV trên địa bàn nói riêng. Điều này đặt ra yêu cầu cần phải có một chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội, phát huy mọi nguồn lực nhằm cải thiện đời sống vật chất
và tinh thần cho đồng bào các dân tộc trong vùng.
29
Về điều kiện dân cư, văn hóa, xã hội.
Tây Nguyên là vùng đất đầy xáo trộn và biến động về dân số, dân tộc và dân
cư. Đặc biệt từ sau năm 1975, ở Tây Nguyên đã xảy ra tình trạng gia tăng dân số đột
biến do di dân (có kế hoạch và tự do). Đến năm 2009, dân số toàn vùng Tây
Nguyên có 5.107.437 người, chiếm gần 6% dân số cả nước, bao gồm 49 dân tộc có
nguồn gốc và lịch sử cư trú khác nhau. Nếu xét về nguồn gốc, có thể chia thành ba
nhóm: Nhóm các DTTS tại chỗ (gồm 12 dân tộc: Bana, Xêđăng, Brâu, Rơmắm, Gié
triêng, Jarai, Êđê, M'nông, K'ho, Mạ, Churu và X'tiêng), với 1.359.134 người,
chiếm 26,57% dân số toàn vùng; nhóm các DTTS từ miền núi phía Bắc, vùng duyên
hải miền Trung và Đông Nam Bộ đến Tây Nguyên làm ăn sinh sống, với 445.713
người, chiếm 8,71% dân số toàn vùng và nhóm dân tộc Kinh với 3.302.588 người,
chiếm 64,7% tổng dân số (Phụ lục 2).
Việc gia tăng dân số và thay đổi cơ cấu thành phần tộc người ở Tây Nguyên
tạo nên hình thái cư trú xen cư giữa nhóm các DTTS tại chỗ và nhóm các tộc người
mới đến. Đây là một đặc điểm rõ nét và phổ biến không chỉ ở địa bàn cấp tỉnh,
huyện mà xuống tận cấp xã, buôn, làng. Theo kết quả của cuộc Tổng điều tra dân số
và nhà ở toàn quốc năm 1999, hầu như toàn bộ các xã ở Tây Nguyên đều là xã đa
tộc người; xã, phường có một dân tộc chỉ chiếm 1,53%; xã có từ 5 dân tộc trở lên
chiếm tới 55,46% (325/586) số xã, phường trong vùng. Cả Tây Nguyên không có xã
nào chỉ có DTTS tại chỗ, ngược lại có tới 52 xã (8,87%) chỉ gồm các dân tộc từ nơi
khác chuyển cư đến vào những thời gian khác nhau [128] (Phụ lục 2).
Có thể nói, tính đan xen về dân tộc trên địa bàn dân cư ở Tây Nguyên kéo
theo sự đan xen về văn hóa, tâm lý, lối sống… Đó là một trong những đặc điểm nổi
bật vừa có những điều kiện thuận lợi, vừa có những thách thức, khó khăn trong quá
trình xây dựng khối đoàn kết dân tộc ở Tây Nguyên. Vì vậy, CTDV ở Tây Nguyên
cần đặc biệt quan tâm đến việc củng cố và phát triển mối quan hệ tốt đẹp giữa các
dân tộc; đồng thời, phải nhận thức, hiểu rõ bản chất và giải quyết kịp thời những
mâu thuẫn, xung đột trong quan hệ tộc người.
Cộng đồng các DTTS tại chỗ ở Tây Nguyên tuy là bộ phận thiểu số nhưng
vẫn là chủ nhân nền tảng của văn hóa Tây Nguyên, sự ổn định của nhóm DTTS tại
30
chỗ có ảnh hưởng rất lớn đến ổn định và an ninh chính trị của Tây Nguyên. Vì vậy,
đồng bào DTTS tại chỗ ở Tây Nguyên là đối tượng đặc thù cần được quan tâm
trong CTDV của Đảng.
Nét nổi bật của các DTTS tại chỗ là đời sống xã hội mang tính cộng đồng cao.
Đơn vị tổ chức xã hội truyền thống của đồng bào là buôn làng (buôn, bon, plei…);
mỗi buôn làng có một tổ chức tự quản bao gồm: chủ làng, hội đồng già làng, chỉ
huy thanh niên, thầy cúng… có chức năng, nhiệm vụ điều hành, kiểm soát mọi lĩnh
vực trong đời sống xã hội và tâm linh theo luật tục của buôn làng. Ý thức cộng đồng
buôn làng rất mạnh: "Con người Tây Nguyên tự đồng nhất mình với làng, con
người hòa tan trong tế bào cơ bản của xã hội là làng, hình phạt nặng nề nhất, nỗi
nhục nhã, đau khổ lớn nhất là bị đuổi ra khỏi làng" [104, tr.10]. Ngày nay, mặc dù
thiết chế buôn làng cổ truyền ở Tây Nguyên về danh nghĩa không còn chính thức,
trọn vẹn, nhưng ảnh hưởng của nó vẫn còn đậm nét trong các buôn làng có đông
đồng bào DTTS.
Với bản chất thật thà, chất phác, sống thiên về tình cảm và lối tư duy cụ thể,
trực quan, cảm tính, đồng bào DTTS thường có thói quen xem xét, đánh giá mọi sự
việc, hành vi một cách cụ thể bằng quan sát và tiếp xúc trực tiếp; họ dễ tin vào
những việc, những người có hành động cụ thể, gần gũi, đem lại lợi ích thiết thực
cho họ; khi đã tin thì tin hết lòng, ngược lại, khi đã mất niềm tin một lần thì khó tạo
dựng lại niềm tin. "Bản chất của người Tây Nguyên có tính cộng đồng cao, tinh
thần thượng võ, chất phác mà phóng khoáng, bền bỉ và dẻo dai, không lắm lời nhiều
tiếng. Đã vui vui cả làng, đã tin tin tuyệt đối, đã đi đi đến cùng" [104, tr.126].
Mỗi cộng đồng DTTS ở Tây Nguyên đều có những đặc điểm riêng về văn
hóa, phong tục, tập quán, ngôn ngữ và tâm lý xã hội truyền thống. Điều này, cần
phải được nhận diện một cách thấu đáo thì mới xác định được nội dung và biện
pháp tiến hành CTDV phù hợp, hiệu quả.
Những giá trị truyền thống, những phong tục tập quán tốt đẹp, những
thiết chế xã hội cổ truyền, những luật tục và chuẩn mực đạo đức, lối
sống, ngôn ngữ,… đã ăn sâu vào tâm thức người dân, đang trực tiếp ảnh
hưởng đến cuộc sống của họ là những yếu tố không thể bỏ qua mà cần
31
nghiên cứu, nắm vững, kế thừa một cách có chọn lọc để sử dụng một
cách có lợi nhất trong quá trình lãnh đạo, quản lý và xây dựng HTCT ở
Tây Nguyên [57, tr.143].
Về tình hình tôn giáo, tín ngưỡng
Tôn giáo, tín ngưỡng của đồng bào các DTTS Tây Nguyên trước đây chủ
yếu là những hình thức truyền thống như: hồn linh giáo, bái vật giáo, ma thuật, đa
thần giáo… Tuy nhiên, cùng với tiến trình phát triển lịch sử, nhiều tôn giáo lớn:
Công giáo, Phật giáo, Tin lành và Cao đài đã xuất hiện và chiếm ưu thế ở Tây
Nguyên. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê năm 2009, trong tổng số 5.107.437
người dân Tây Nguyên, có 824.992 người theo Công giáo (16,12%), có 454.229
người theo đạo Phật (8,88%), có 362.689 người theo Tin lành (7,09%), 19.989
người theo Cao đài (0,40%) [105]. Như vậy, có khoảng gần 40% dân số Tây
Nguyên theo các tôn giáo khác nhau, trong đó, chiếm tỷ lệ đông nhất là Công giáo,
tiếp đến là Phật giáo, Tin lành và Cao đài. Đáng chú ý là số lượng tín đồ đạo Tin
lành phát triển rất nhanh trong đồng bào DTTS, trong 362.689 người theo Tin lành,
có 324.135 người DTTS (chiếm 89,3%). Cùng với sự mở rộng và phát triển nhanh
chóng về số lượng tín đồ, những hoạt động của tôn giáo, đặc biệt là đạo Tin lành có
những biểu hiện hết sức phức tạp như: Hoạt động truyền đạo trái phép; xây dựng
các cơ sở thờ tự bất hợp pháp; sự lôi kéo, tranh chấp tín đồ... gây nên nhiều khó
khăn cho chính quyền địa phương trong công tác quản lý tôn giáo và vận động quần
chúng tín đồ.
Việc chuyển đổi mạnh mẽ từ tín ngưỡng truyền thống sang các tôn giáo
khác, nhất là đạo Tin lành đã có nhiều ảnh hưởng đa chiều, phức tạp, đã hình
thành nên các cộng đồng dân cư cùng theo một tôn giáo: "Tính cố kết của những
cộng đồng này không chỉ diễn ra trong số tín đồ của một tộc người cư trú trên
cùng một địa bàn như trước đây, mà còn giữa các tộc người tại chỗ, giữa người
mới di cư đến với người đã định cư lâu đời, giữa những người ở Tây Nguyên với
một số vùng trong nước và các quốc gia khác, nơi có đồng tộc và đồng đạo sinh
sống" [60, tr.207].
Quan hệ dân tộc và tôn giáo gắn chặt với nhau, chi phối và tác động lẫn nhau
32
là một trong những nguyên nhân khiến tình hình an ninh chính trị trong vùng đồng
bào DTTS tại chỗ Tây Nguyên trở nên phức tạp. Dưới chiêu bài đòi "tự trị dân tộc",
"tự do tôn giáo", lực lượng phản động FULRO trong và ngoài nước đã và đang âm
mưu lập nên cái gọi là "Nhà nước Đê Ga" và "Tin lành Đê Ga" để tuyên truyền, lôi
kéo một bộ phận đồng bào DTTS chống đối cách mạng. Một bộ phận chức sắc, tín
đồ Tin lành bị bọn phản động FULRO lợi dụng, lôi kéo tham gia hoạt động
FULRO, "Tin lành Đê Ga". Thực chất "Tin lành Đê Ga" là một tổ chức chính trị
phản động, đội lốt tôn giáo, ly khai khỏi Hội thánh Tin lành miền Nam Việt Nam; là
con đẻ của cái gọi là "Nhà nước Đê Ga" trong chiến lược "diễn biến hòa bình"
chống phá cách mạng Việt Nam. "Tin lành Đê Ga" tuy hoạt động ngấm ngầm
nhưng vẫn tồn tại và tiềm ẩn nguy cơ chia rẽ đoàn kết dân tộc, ảnh hưởng tiêu cực
đến an ninh chính trị ở Tây Nguyên nói riêng và cả nước nói chung.
Bên cạnh những đặc điểm cơ bản nói trên, vùng đất Tây Nguyên còn phải
đối mặt với những khó khăn, thách thức sau:
Một là, vấn đề đất đai và phân hóa giàu nghèo diễn ra ngày càng sâu sắc.
Trước năm 1975, Tây Nguyên là một vùng rừng núi xa xôi, đất rộng người
thưa, việc tranh chấp đất đai ít xảy ra. Sau ngày miền Nam giải phóng, việc giao
đất, rừng cho các nông, lâm trường quản lý, sử dụng với diện tích quá lớn, mang
tính chất áp đặt chủ quan, không xuất phát từ tình hình, đặc điểm, tập quán sử dụng
đất của đồng bào DTTS tại chỗ và yêu cầu quản lý nhà nước, nên đã xảy ra một tình
trạng bất hợp lý là trong khi nhiều nông, lâm trường không sử dụng hết đất hoặc sử
dụng kém hiệu quả thì một số hộ DTTS tại chỗ thiếu đất sản xuất, đất ở… dẫn đến
tranh chấp đất đai giữa đồng bào với nông, lâm trường.
Tình trạng dân di cư là một hiện tượng xã hội đặc biệt, diễn ra mạnh mẽ, với
tốc độ lớn khiến dân số Tây Nguyên tăng lên nhanh chóng: "từ năm 1975 đến năm
2000, dân di cư đến Tây Nguyên khoảng 1,5 triệu người, trong đó số dân di cư tự do
lên tới 80 vạn người, chủ yếu từ năm 1976 - 1990" [63]. Bên cạnh một số tác động
tích cực như bổ sung nguồn lao động, truyền bá kiến thức, kinh nghiệm sản xuất
cho đồng bào tại chỗ, tạo thêm nhiều ngành nghề mới, làn sóng dân di cư đã kéo
theo nhiều hệ lụy tiêu cực về kinh tế, xã hội, đặc biệt là tình trạng mua bán, tranh
33
chấp và bao chiếm đất đai giữa một bên là người DTTS tại chỗ với một bên là
người mới đến diễn ra phổ biến: "từ năm 1990 - 1998, ở các tỉnh Tây Nguyên đã có
hơn 2.500 vụ tranh chấp đất đai phải đưa lên các cấp có thẩm quyền giải quyết" [70,
tr.157]. Hệ quả của vấn đề trên, đã làm cho một bộ phận người DTTS tại chỗ lâm
vào cảnh thiếu đất sản xuất và đất ở, cuộc sống đói nghèo, đi làm thuê cho người
mới đến hoặc chấp nhận cuộc sống du canh, du cư vào rừng sâu.
Cùng với vấn đề đất đai, nghèo đói và phân hóa giàu nghèo là vấn đề xã hội
nổi cộm ở Tây Nguyên. Sau gần 20 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, Tây Nguyên
vẫn là một trong những vùng nghèo nhất của cả nước. "Thu nhập bình quân của
20% số hộ có mức thu nhập cao nhất so với 20% số hộ có mức thu nhập thấp nhất
cách nhau 13 lần, trong khi mức chênh lệch này của cả nước là 8,9 lần và của Tây
Bắc là 7,1 lần" [41, tr.5]. Không chỉ nghèo về đời sống kinh tế mà đời sống văn hóa,
tinh thần của đồng bào các DTTS ở Tây Nguyên cũng còn nhiều hạn chế.
Vấn đề đất đai và sự phân hóa giàu nghèo đã làm nảy sinh tư tưởng, so bì và
không bằng lòng trong các DTTS tại chỗ, ảnh hưởng đến quan hệ dân tộc và niềm
tin của đồng bào đối với Đảng, với cách mạng vốn tốt đẹp trong hai cuộc kháng
chiến. Thực tế trên là nguyên cớ để các thế lực phản động tuyên truyền, lôi kéo các
DTTS tại chỗ biểu tình, bạo loạn, ảnh hưởng trực tiếp đến việc xây dựng và phát
triển Tây Nguyên theo hướng bền vững.
Hai là, trình độ dân trí và năng lực của đội ngũ cán bộ DTTS còn hạn chế.
Do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan mà giáo dục ở vùng đồng
bào DTTS Tây Nguyên chậm phát triển. Nhìn chung, đồng bào DTTS có trình độ
học vấn thấp, chủ yếu là học hết cấp 1, cấp 2; một bộ phận còn mù chữ, tái mù chữ,
hoặc không nói được tiếng phổ thông. Trình độ dân trí thấp ảnh hưởng rất lớn đến
khả năng vận dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật trong sản xuất và đời sống,
cũng như việc nhận thức và thực hiện các chủ trương của Đảng; chính sách, pháp
luật của Nhà nước. Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm cho một bộ phận
đồng bào DTTS dễ bị các lực lượng thù địch lợi dụng, kích động, mua chuộc, lừa
bịp và lôi kéo.
Trong đời sống, đồng bào DTTS ở Tây Nguyên còn tồn tại nhiều phong tục,
34
tập quán lạc hậu như: du canh, du cư; tảo hôn, nối dòng, ma lai, thuốc thư… đã ăn
sâu trong tiềm thức của đồng bào nên không dễ xóa bỏ một cách nhanh chóng. Đây
là một khó khăn rất lớn trong công tác vận động đồng bào thay đổi những nếp nghĩ,
cách làm, xóa bỏ những tập tục lạc hậu, xây dựng đời sống mới theo hướng văn
minh, hiện đại.
Đội ngũ cán bộ DTTS trong HTCT các cấp ở Tây Nguyên không đều và
chưa ngang tầm với đòi hỏi của thực tiễn. Một vấn đề có tính quy luật là càng xuống
cấp dưới thì trình độ cán bộ càng thấp hơn, rõ nhất là ở cấp xã, phường, thị trấn. Đội
ngũ cán bộ cơ sở người DTTS nhìn chung còn yếu cả về trình độ chuyên môn và
năng lực công tác; tâm lý tự ti, thụ động trong công việc, ỷ lại vào cấp trên vẫn còn
tồn tại khá phổ biến. Đây chính là những khó khăn và lực cản để đội ngũ cán bộ này
phát huy thế mạnh của mình trong công tác vận động đồng bào thực hiện các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Ba là, sự chống phá thường xuyên và quyết liệt của các thế lực thù địch,
phản động.
Tây Nguyên trong quá khứ cũng như hiện tại và tương lai luôn có vị trí chiến
lược về quốc phòng, an ninh đối với cả nước. Đây cũng là nơi các thế lực thù địch
thường xuyên chống phá quyết liệt, âm mưu chia cắt, lôi kéo, chi phối đồng bào các
dân tộc. Thủ đoạn quen thuộc của chúng là lợi dụng những vấn đề dân tộc, tôn giáo,
dân chủ, nhân quyền, đất đai để gây mất ổn định chính trị, chia rẽ khối đại đoàn kết
dân tộc, đặc biệt là giữa dân tộc Kinh và các DTTS; chia rẽ giữa đồng bào các dân
tộc với Đảng và chính quyền; kích động tư tưởng ly khai, tự trị dân tộc để thực hiện
âm mưu "Quốc tế hóa" vấn đề Tây Nguyên, tách Tây Nguyên ra khỏi Việt Nam.
Đặc biệt, từ năm 2001 đến nay, chúng đã gây ra ba cuộc biểu tình, bạo loạn
(2-2001; 4-2004 và 4-2008). Mặc dù, Đảng, Nhà nước và các cấp bộ đảng, chính
quyền địa phương đã tập trung giải quyết hậu quả của các cuộc biểu tình, bạo loạn,
từng bước tạo sự ổn định chính trị, xã hội, nhưng vẫn chưa giải quyết được căn
bản tư tưởng ly khai, tự trị trong một số đối tượng và đồng bào DTTS. Thực tế cho
thấy, sự chống phá của các thế lực thù địch ở Tây Nguyên ngày càng điên cuồng
với những thủ đoạn thâm độc và nham hiểm hơn. Vì vậy, tình hình an ninh ch ính
35
trị trên địa bàn luôn trong trạng thái bất ổn, tác động tiêu cực đến tốc độ phát triển
kinh tế - xã hội, cuộc sống yên bình của nhân dân và khối đại đoàn kết các dân tộc
ở Tây Nguyên.
Thực chất cái gọi là "Nhà nước Đê Ga độc lập" và "Tin lành Đê Ga" là
mưu đồ của các thế lực thù địch nhằm khôi phục lại tổ chức phản động
FULRO, mà nòng cốt là những tên phản động trong tổ chức này trước
đây, nay được móc nối, kích động, ngóc đầu dậy và phát triển lực lượng
để chống phá cách mạng. Đây là âm mưu rất thâm độc, rất lâu dài của các
thế lực thù địch đối với Tây Nguyên, đối với đất nước và chế độ [122].
Tóm lại, các yếu tố tự nhiên, kinh tế, văn hóa, xã hội và con người của vùng
đất Tây Nguyên có những điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội, xây
dựng đời sống văn hóa…, nhưng cũng có nhiều nhân tố ảnh hưởng tiêu cực đến
việc thực hiện CTDV, trong đó, những thách thức đặt ra đối với CTDV ở Tây
Nguyên là:
Thứ nhất, khu vực Tây nguyên còn nghèo, điểm xuất phát thấp, hậu quả
chiến tranh nặng nề, lại xa các trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của đất nước,
nên việc nâng cao đời sống nhân dân gắn với việc tuyên truyền đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước còn hạn chế.
Thứ hai, do Tây Nguyên có số dân di cư tự do đến rất đông nên dân số tăng
nhanh; địa bàn rộng, phức tạp, giao thông đi lại khó khăn, dân cư lại sống phân tán,
nhất là ở vùng đồng bào DTTS, vùng sâu, vùng xa; tình trạng tranh chấp đất đai,
phân hóa giàu nghèo diễn ra gay gắt… nên việc tuyên truyền, vận động xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc gặp rất nhiều khó khăn.
Thứ ba, địa bàn Tây Nguyên hội đủ ba yếu tố: dân tộc, tôn giáo và biên giới.
Đây là những vấn đề hết sức phức tạp và nhạy cảm mà kẻ thù luôn tìm cách lợi
dụng để chống phá.
Tình hình trên đặt ra yêu cầu cho Đảng cần phải đổi mới CTDV, tăng cường
mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân, đặc biệt là phải có chủ trương, biện pháp đúng
đắn, phù hợp để thúc đẩy các phong trào quần chúng, tạo được sự chuyển biến tích
cực về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh trên địa bàn chiến lược này.
36
2.1.2. Thực trạng công tác dân vận ở Tây Nguy n trƣớc năm 2001
Quán triệt chủ trương của Đảng về đổi mới CTDV qua các kỳ Đại hội VI,
VII, VIII, đặc biệt là: Nghị quyết số 8B-NQ/TW, ngày 27-3-1990 Về đổi mới công
tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân , Đảng
bộ các tỉnh Tây Nguyên đã triển khai thực hiện nhiều biện pháp nhằm tạo sự
chuyển biến trong CTDV, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Quá trình thực
hiện CTDV ở Tây Nguyên trong gần 15 năm đổi mới đã đạt được một số thành
tích cơ bản:
Một là, công tác dân vận ở Tây Nguyên đã bước đầu đổi mới nội dung và
phương thức hoạt động, bám sát nhiệm vụ chính trị để vận động quần chúng tham
gia thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thực
hiện các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn.
Hai là, tổ chức, bộ máy các cấp của Dân vận, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể quần chúng được kiện toàn, củng cố (trong đó sắp xếp các đồng chí Thường vụ
làm Trưởng Ban Dân vận các cấp, chú trọng bố trí các đồng chí có năng lực để lãnh
đạo các đoàn thể).
Ba là, phần lớn hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng
đều đổi mới nội dung và phương thức hoạt động. Do đó, sau một thời kỳ suy giảm
trong điều kiện kinh tế thị trường, số lượng hội viên, đoàn viên trong các tổ chức
đoàn thể có tăng lên, hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể được đánh giá
là thiết thực và có hiệu quả hơn trước. Chẳng hạn, tại tỉnh Đắk Lắk, theo đánh giá
của Ban Dân vận Tỉnh ủy: "năm 1997, ở cấp xã, có 30% tổ chức Mặt trận Tổ quốc
vững mạnh, so với năm 1992, tăng 11,8%; Hội Nông dân vững mạnh là 15,5%, tăng
8,45%; Hội Phụ nữ vững mạnh là 24,6%, tăng 10,2%; Đoàn Thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh vững mạnh là 16,6%, tăng 5,5%" [36].
Nhờ hoạt động tích cực của Mặt trận và các đoàn thể quần chúng, các chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, cùng các Chương trình quốc
gia như: Xóa đói, giảm nghèo, tạo việc làm, phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội;
phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống mới ở khu dân cư"; thực hiện
Quy chế dân chủ ở cơ sở, xây dựng nông thôn mới, xây dựng làng văn hóa và gia
37
đình văn hóa, xây dựng quy ước, hương ước… được triển khai rộng khắp, thu hút
đông đảo tầng lớp nhân dân tham gia, tạo được những chuyển biến tích cực trong
đời sống nhân dân toàn vùng.
Bên cạnh những ưu điểm, CTDV ở Tây Nguyên còn tồn tại những hạn chế:
Một là, cấp ủy, chính quyền ở một số nơi chưa thật sự quan tâm đúng mức
đến CTVĐQC, kể cả trong nhận thức và chỉ đạo điều hành. Sự lãnh đạo, chỉ đạo của
cấp ủy đảng đối với CTDV chỉ dừng lại ở những định hướng chung chung, thiếu các
chương trình, kế hoạch và biện pháp cụ thể; thiếu sự phối hợp chặt chẽ, thường
xuyên giữa chính quyền với Mặt trận và các đoàn thể nhân dân; chưa tạo điều kiện
tốt cho hoạt động của các đoàn thể.
Hai là, việc tổ chức thực hiện CTDV chưa đồng bộ, sâu sát, thiết thực; công
tác kiểm tra, đôn đốc chưa thường xuyên; việc sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm,
nhân rộng điển hình còn chậm; việc thực hiện quy chế làm việc còn mang tính hình
thức, hoặc chấp hành không nghiêm túc.
Ba là, HTCT ở cơ sở còn nhiều yếu kém, không đủ sức để giải quyết những
vấn đề bức xúc nảy sinh ở cơ sở. Đặc biệt, ở nhiều nơi còn "trắng" tổ chức đảng và
Đoàn thanh niên. Ví dụ: Tại tỉnh Gia Lai, vào thời điểm đầu năm 2001, "trong tổng
số 1.730 buôn, làng thì có tới 263 buôn, làng không có đảng viên; 140 buôn, làng
chưa xây dựng được tổ chức đoàn. Tỷ lệ đảng viên so với dân số chung của toàn
khu vực Tây Nguyên là 0,21%, thấp nhất so với các khu vực khác trong cả nước (ở
các tỉnh phía Bắc, tỷ lệ này là 0,3%)" [106, tr.546-547]. Đề cập đến những hạn chế
của CTDV ở các tỉnh Tây Nguyên, Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ chỉ rõ:
Nhiều tổ chức đoàn thể nhân dân hoạt động còn nặng về hình thức, hành
chính. Chính quyền cơ sở ở nhiều nơi chưa làm tốt chức năng quản lý,
buông lỏng công tác quản lý đất đai, hộ tịch, hộ khẩu; trình độ, kiến thức,
năng lực lãnh đạo, quản lý, thuyết phục quần chúng còn nhiều mặt hạn
chế. Một số cán bộ cơ sở chỉ lo làm ăn sinh sống, ít lo cho dân; nhiều cán
bộ không nói được tiếng dân tộc, nên tuy ở gần dân nhưng không hiểu
được dân, không nắm bắt được diễn biến tư tưởng, tâm tư, nguyện vọng
chính đáng của nhân dân [37].
38
Công tác đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ người DTTS, nhất là ở
cơ sở chưa được quan tâm đúng mức và thiếu chính sách, giải pháp phù hợp. Việc
xây dựng đội ngũ cán bộ thôn, buôn và lực lượng cốt cán trong đồng bào DTTS, tôn
giáo chưa được chú trọng, vai trò của già làng, trưởng buôn chưa được phát huy
trong CTDV.
Những yếu kém, hạn chế trên của HTCT ở Tây Nguyên đã ảnh hưởng rất lớn
đến chất lượng, hiệu quả của CTDV. Nghị quyết số 10-NQ/TW của Bộ Chính trị
chỉ rõ:
Vụ bạo loạn chính trị đầu năm 2001 đã bộc lộ rõ tình trạng nhiều tổ chức
đảng, chính quyền, đoàn thể cơ sở ở Tây Nguyên yếu kém, không gắn bó
với dân, không được dân tín nhiệm. Lực lượng chuyên trách chưa nắm
chắc các hoạt động của địch. Đội ngũ cán bộ cốt cán các cấp chưa tương
xứng với yêu cầu, nhiệm vụ; một số người yếu kém cả về năng lực và
phẩm chất, không sát nhân dân, nhất là không sát đồng bào các DTTS [3].
2.2. CHỦ TRƢƠNG CỦA ĐẢNG VỀ CÔNG TÁC DÂN VẬN Ở TÂY
NGUYÊN TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2005
Trong những năm đầu thế kỷ XXI, tình hình thế giới và trong nước diễn biến
rất phức tạp, bên cạnh những cơ hội lớn là những khó khăn, thách thức lớn đan xen
với nhau. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực
lượng sản xuất. Toàn cầu hóa kinh tế là xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng
nhiều nước tham gia. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chung của các
quốc gia, dân tộc. Khu vực Đông Nam Á và châu Á - Thái Bình Dương, sau khủng
hoảng tài chính kinh tế, có khả năng phát triển năng động nhưng vẫn tiềm ẩn những
nhân tố gây mất ổn định.
Ở Việt Nam, sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng
và 15 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, tình hình đất nước có nhiều chuyển biến
tích cực: Chính trị tiếp tục ổn định, kinh tế tăng trưởng khá, tạo đà phát triển trong
những năm tiếp theo; văn hoá - xã hội có những tiến bộ, đời sống nhân dân tiếp tục
được cải thiện; quốc phòng, an ninh được tăng cường; quan hệ đối ngoại không
ngừng được mở rộng, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên.
39
Bên cạnh những thuận lợi, nước ta phải đối mặt với những nguy cơ, thách
thức lớn. Bốn nguy cơ mà Đảng đã chỉ ra: tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều
nước trong khu vực và trên thế giới, chệch hướng XHCN, nạn tham nhũng và tệ
quan liêu, "diễn biến hòa bình" vẫn còn tồn tại và diễn biến phức tạp, đan xen tác
động lẫn nhau, không thể xem nhẹ nguy cơ nào. Đặc biệt là tình trạng suy thoái về
chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên
đã gây bất bình và làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, đe dọa vai trò
lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ.
Bước vào thế kỷ XXI, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (2001)
đã kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII và tổng kết 15 năm thực hiện
đường lối đổi mới. Đại hội thông qua Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm
2001- 2010 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2001-
2005) nhằm mục tiêu: "Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt
đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để đến năm 2020
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại" [50, tr.159].
Đại hội đúc kết bốn bài học chủ yếu sau 15 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới,
trong đó nhấn mạnh bài học: Đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân
dân, phù hợp với thực tiễn, luôn sáng tạo. Về CTDV, Đại hội xác định quan điểm
chỉ đạo: "Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân… là đường lối chiến lược, là
nguồn sức mạnh và động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; xây dựng khối
đại đoàn kết toàn dân là trách nhiệm của cả HTCT và toàn xã hội…" [50, tr.123].
Thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp
hành Trung ương (khóa IX) đã ra ba nghị quyết quan trọng về CTVĐQC, đó là:
Nghị quyết số 23/NQ/TW, ngày 12-3-2003 Về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; Nghị quyết
số 24/NQ/TW, ngày 12-3-2003 Về công tác dân tộc và Nghị quyết số 25/NQ/TW,
ngày 12-3-2003 Về công tác tôn giáo.
Nghị quyết Đại hội IX (2001) cùng với các Nghị quyết của Hội nghị lần thứ
bảy Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX) nêu trên đã thể hiện rõ những nội dung
cơ bản trong CTDV của Đảng như sau:
40
Một là, vận động, tập hợp nhân dân xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
phát huy vai trò làm chủ của nhân dân và sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, giữ
vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH
đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh,
vững bước đi lên CNXH.
Hai là, xây dựng chính sách cụ thể đối với các giai cấp, tầng lớp, các dân tộc,
tôn giáo, bảo đảm công bằng và bình đẳng xã hội, chăm lo lợi ích thiết thực, chính
đáng, hợp pháp của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân… nhằm tạo ra động lực mới
để thúc đẩy các phong trào cách mạng của quần chúng.
Ba là, tập trung xây dựng và hoàn chỉnh cơ chế làm chủ của nhân dân, phát
huy quyền làm chủ của nhân dân tham gia phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện "dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra", tăng cường đoàn kết toàn dân, củng cố sự
nhất trí về chính trị và tinh thần trong xã hội.
Bốn là, tiếp tục đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội; mở rộng và đa dạng hóa các hình thức tập
hợp nhân dân tham gia các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội, các hội nghề
nghiệp; hướng mạnh các hoạt động về cơ sở, cộng đồng dân cư và từng gia đình;
khắc phục tình trạng hành chính hóa, phô trương, hình thức, quan liêu, xa dân.
Năm là, công tác vận động quần chúng là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của cả HTCT mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ
chức đảng; thực hiện phương châm: "trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có
trách nhiệm với dân", "nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin".
Bước vào giai đoạn mới, Tây Nguyên đứng trước nhiều khó khăn, thử thách:
Giá các mặt hàng nông sản chủ lực như cà phê, tiêu, điều… giảm mạnh; thiên tai
hạn hán kéo dài, tiếp đến là lũ lớn gây thiệt hại cho nhiều vùng dân cư, làm cho
đồng bào, nhất là đồng bào DTTS lâm vào tình trạng thiếu đói; tình trạng nông dân
thiếu đất hoặc không có đất canh tác do mua bán, sang nhượng trái phép còn nhiều.
Tỷ lệ đói nghèo và trẻ em suy dinh dưỡng cao, trình độ dân trí thấp và chậm được
cải thiện. Nhiều tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể cơ sở yếu kém. Trong khi đó,
tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở nhiều nơi trên địa bàn diễn ra
41
phức tạp. Các thế lực thù địch trong và ngoài nước liên tục thực hiện âm mưu "diễn
biến hòa bình", bạo loạn, lật đổ ở địa bàn Tây Nguyên, đặc biệt chúng tập trung
tuyên truyền, kích động tư tưởng ly khai, chia rẽ khối đoàn kết các dân tộc, phục hồi
tổ chức phản động FULRO, lôi kéo đồng bào DTTS biểu tình, bạo loạn và vượt
biên trái phép.
Nhận thức rõ những hạn chế, yếu kém của các cấp bộ đảng trong việc xây
dựng, bảo vệ địa bàn chiến lược; đồng thời, trước yêu cầu, đòi hỏi bức bách của
vùng Tây Nguyên, Đại hội IX của Đảng (4-2001) chỉ rõ: "Có chiến lược và quy
hoạch xây dựng Tây Nguyên giàu về kinh tế, vững mạnh về quốc phòng, an ninh,
tiến tới thành vùng kinh tế động lực…Thực hiện tốt chính sách dân tộc, thật sự cải
thiện đời sống vật chất và văn hóa của đồng bào dân tộc" [50, tr.186-187].
Cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, ngày 18-01-2002, Bộ Chính trị
(khóa IX) ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW Về phát triển kinh tế - xã hội và bảo
đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên thời kỳ 2001 – 2010, nêu rõ những quan
điểm chỉ đạo, nhiệm vụ và giải pháp để ổn định và phát triển bền vững Tây Nguyên.
Một trong những nhiệm vụ, giải pháp đó là:
Tiếp tục xây dựng và nâng cao chất lượng HTCT, đặc biệt là cấp cơ sở
để có đủ năng lực lãnh đạo, điều hành, quản lý mọi mặt đời sống xã hội,
xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc… Phải coi vấn đề đoàn kết các
dân tộc là vấn đề sống còn, là sức mạnh vô địch để chiến thắng mọi kẻ
thù, chiến thắng đói nghèo và là yếu tố quyết định cho sự ổn định và phát
triển bền vững ở Tây Nguyên [3].
Nghị quyết số 10-NQ/TW của Bộ Chính trị là một văn kiện rất quan trọng,
có ý nghĩa lịch sử đối với vùng đất và con người Tây Nguyên, là sự định hướng
chiến lược về xây dựng vùng Tây Nguyên ổn định toàn diện và phát triển bền vững.
Tiếp đó, ngày 16-7-2004, Bộ Chính trị ra Thông báo Kết luận số 148-TB/TW
Về tình hình, nhiệm vụ và giải pháp phát triển vùng Tây Nguyên toàn diện, bền
vững. Bộ Chính trị chỉ rõ:
Trước hết, phải đặc biệt coi trọng và tiếp tục làm thật tốt công tác giáo
dục chính trị, tư tưởng trong HTCT và tuyên truyền vận động quần
42
chúng… Tăng cường vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng,
chính quyền các tỉnh Tây Nguyên, đặc biệt quan tâm và phát huy tốt vai
trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và HTCT ở cơ sở,
buôn làng, phải xem đây là khâu có ý nghĩa quyết định trong việc đấu
tranh và đảm bảo an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn
Tây Nguyên [7].
Thực hiện Kết luận số 148-TB/TW của Bộ Chính trị, ngày 07-12-2004, Thủ
tướng Chính phủ ra Chỉ thị số 45/2004/CT-TTg Về tăng cường thực hiện các
nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục phát triển vùng Tây Nguyên toàn diện, bền vững ,
trong đó xác định rõ những nhiệm vụ cụ thể của các bộ, ban, ngành Trung ương và
các tỉnh Tây Nguyên trong việc tổ chức thực hiện tốt Nghị quyết số 10-NQ/TW và
Thông báo kết luận số 148-TB/TW của Bộ Chính trị; Chỉ thị số 16/2004/CT-TTg
của Thủ tướng Chính phủ Về đấu tranh xóa bỏ tổ chức phản động FULRO trên địa
bàn Tây Nguyên...
Với vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an
ninh và môi trường sinh thái của đất nước, sự ổn định và phát triển của vùng Tây
Nguyên là nhân tố quan trọng, góp phần bảo đảm sự ổn định và phát triển của đất
nước. Do đó, Đảng và Nhà nước luôn dành sự quan tâm đặc biệt, thể hiện tầm nhìn
chiến lược xây dựng Tây Nguyên phát triển bền vững. Quan điểm của Đảng và Nhà
nước về phát triển toàn diện và bền vững Tây Nguyên nói chung và CTDV nói
riêng được thể hiện ở những điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, phát triển vùng Tây Nguyên phải kết hợp đồng bộ cả về kinh tế,
văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và xây dựng HTCT vững mạnh. Tức là, muốn
phát triển toàn diện, bền vững vùng Tây Nguyên phải trên nền tảng bảo đảm khối
đại đoàn kết các dân tộc, giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội; bảo vệ
vững chắc chủ quyền, an ninh quốc gia và sự thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất
nước. Vấn đề cốt yếu đối với Tây Nguyên là phải làm tốt CTDV để xây dựng khối
đại đoàn kết các dân tộc và "thế trận lòng dân" vững chắc. Các cấp ủy đảng, chính
quyền ở Tây Nguyên vừa phải tập trung chăm lo phát triển sản xuất, nâng cao đời
sống cho đồng bào các dân tộc, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa các bộ phận
43
dân cư; vừa phải tập trung chăm lo xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc;
đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao giác ngộ
cho nhân dân. Huy động tối đa nội lực, khơi dậy ý thức đoàn kết, tính tích cực,
chủ động của đồng bào các dân tộc trong việc phát triển sản xuất, xóa đói giảm
nghèo, xây dựng buôn làng, đấu tranh có hiệu quả với các âm mưu, thủ đoạn lợi
dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng của phản động FULRO và các
thế lực thù địch.
Thứ hai, phát triển kinh tế - xã hội ở Tây Nguyên phải trên cơ sở chiến lược
và quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và của cả vùng đến
năm 2010; thực hiện theo quy hoạch, kế hoạch toàn diện, đồng bộ, cụ thể, chi tiết
cho từng vùng, từng địa phương, từng ngành và lĩnh vực, không để tình trạng phát
triển tự phát. Huy động tối đa các nguồn lực, chủ yếu là nguồn lực trong nước,
trước hết là nguồn lực tại chỗ để đầu tư phát triển, khai thác tốt nhất các tiềm năng,
lợi thế của vùng nhằm phát triển kinh tế - xã hội nhanh, hiệu quả và bền vững.
Thứ ba, phải coi sự ổn định và phát triển của vùng đồng bào DTTS là nhân
tố quyết định sự ổn định và phát triển lâu dài của toàn vùng. Trong các chính sách
phát triển Tây Nguyên, phải lấy đồng bào DTTS làm trung tâm. Đảng và chính
quyền các cấp phải dành một nguồn lực thích đáng để đầu tư phát triển toàn diện,
sớm đưa nông thôn vùng DTTS thoát ra khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, đi dần
vào CNH, HĐH.
Thứ tư, tập trung xây dựng, kiện toàn HTCT cơ sở vững mạnh, gần dân, sát
dân, hoạt động ngày càng có hiệu quả, động viên được sức mạnh của quần chúng
nhân dân trong phát triển sản xuất, xây dựng buôn làng, chủ động giải quyết những
vấn đề phát sinh từ cơ sở. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện công tác cán bộ
DTTS. Một mặt, duy trì tỷ lệ thích đáng và bảo đảm cơ cấu cán bộ người DTTS
trong bộ máy đảng, chính quyền, các đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở; mặt khác, phải tập
trung làm tốt công tác quy hoạch, tạo nguồn, chuẩn bị đội ngũ cán bộ người DTTS
cho cả trước mắt và lâu dài. Xác định buôn làng là một bộ phận rất quan trọng và là
địa bàn chủ yếu của cấp cơ sở, từ đó tập trung xây dựng buôn làng vững mạnh.
Nghiên cứu, xây dựng mô hình buôn làng, dòng họ, liên gia tự quản; đề cao vai trò
44
của già làng, trưởng buôn, trưởng các dòng họ, người có uy tín trong đồng bào
DTTS. Vận dụng linh hoạt các quy định của luật tục dân tộc để xây dựng quy ước,
hương ước.
Thực hiện chủ trương Về thành lập Ban Chỉ đạo Tây Nguyên trong Nghị
quyết số 10-NQ/TW của Bộ Chính trị, Ban Chỉ đạo Tây Nguyên được thành lập
theo Quyết định số 46-QĐ/TW, ngày 17-7-2002 của Bộ Chính trị (khóa IX). Ban
Chỉ đạo Tây Nguyên gồm có: Trưởng ban là đồng chí Nguyễn Tấn Dũng, Ủy viên
Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ; Phó Trưởng ban Thường trực
là đồng chí Mai Văn Năm, Ủy viên Trung ương Đảng. Thành viên Ban Chỉ đạo
gồm đại diện lãnh đạo các bộ, ban, ngành: Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại
giao, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ủy ban Dân
tộc và Miền núi, Văn phòng Chính phủ, Ban Dân vận Trung ương, Ban Tư tưởng -
Văn hóa Trung ương, Ban Tổ chức Trung ương; Bí thư Tỉnh ủy các tỉnh: Đắk Lắk,
Gia Lai, Kon Tum và Lâm Đồng. Ngoài ra, khi cần thiết, Thường trực Ban Bí thư,
Thủ tướng Chính phủ đề nghị Bộ Chính trị, Ban Bí thư chỉ định bổ sung một số
đồng chí đại diện lãnh đạo các bộ, ngành Trung ương và địa phương tham gia Ban
Chỉ đạo. Bộ phận Thường trực Ban Chỉ đạo Tây Nguyên gồm một số cán bộ chuyên
trách do đồng chí Phó Trưởng ban Thường trực phụ trách; trụ sở đặt tại thành phố
Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
Ban Chỉ đạo Tây Nguyên chịu trách nhiệm trước Bộ Chính trị, Ban Bí thư
và Thủ tướng Chính phủ trong việc chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Kiểm tra, đôn đốc các bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện các
nghị quyết, quyết định, chỉ thị của Đảng và Nhà nước về phát triển
kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên.
- Nghiên cứu, đề xuất với Đảng, Chính phủ về cơ chế, chính sách, giải
pháp để thực hiện có hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm
quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên.
- Chỉ đạo và tổ chức phối hợp với các lực lượng, các cơ quan chức năng
của Trung ương và địa phương để đấu tranh xóa bỏ tổ chức phản
động FULRO, xử lý những vấn đề đột xuất về an ninh chính trị và
trật tự an toàn xã hội trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên [4].
45
Thực hiện nhiệm vụ được giao, Ban Chỉ đạo Tây Nguyên đã chỉ đạo, chủ trì
phối hợp với các bộ, ban, ngành Trung ương và các tỉnh Tây Nguyên tổ chức thực
hiện các nghị quyết, quyết định, chỉ thị của Đảng và Nhà nước đối với vùng Tây
Nguyên. Thông qua các Hội nghị của Ban Chỉ đạo Tây Nguyên được tổ chức theo
chuyên đề và thường niên, Trưởng Ban Chỉ đạo Tây Nguyên đã có những Kết luận
rất quan trọng, chỉ đạo kịp thời các cơ quan chức năng, các lực lượng và các tỉnh
Tây Nguyên trong việc giải quyết những vấn đề vừa cơ bản, vừa cấp bách đặt ra
trên địa bàn. Đặc biệt, tại Hội nghị sơ kết một năm thực hiện Nghị quyết số 10 của
Bộ Chính trị và Quyết định số 168 của Thủ tướng Chính phủ về kinh tế - xã hội,
bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên, Trưởng Ban Chỉ đạo Tây Nguyên
đã kết luận:
Thứ nhất, phải chăm lo phát triển kinh tế, giải quyết đất sản xuất, đất ở,
nhà ở, phát triển y tế, chăm sóc sức khỏe cho đồng bào các DTTS tại chỗ.
Thứ hai, tập trung làm tốt hơn công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, vận
động quần chúng... Đây là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên, hàng đầu của
các cấp, các ngành, là khâu có ý nghĩa quyết định cả trước mắt và lâu dài.
Thứ ba, tiếp tục xây dựng, củng cố, kiện toàn HTCT cơ sở... Việc đưa
đội công tác và tăng cường cán bộ xuống cơ sở phải tính toán các yêu
cầu cần thiết của từng nơi và phải có chế độ, chính sách phù hợp; phải
tập huấn kỹ về chuyên môn, nghiệp vụ CTVĐQC.
Thứ tư, công tác đấu tranh xóa bỏ tổ chức phản động "Nhà nước Đê Ga"
và "Tin lành Đê Ga", ngăn chặn người DTTS vượt biên trái phép phải đặt
dưới sự lãnh đạo chặt chẽ, toàn diện của các cấp ủy đảng và chính quyền
địa phương, lực lượng Công an làm nòng cốt... [122].
Với chức năng là cơ quan tham mưu của Ban Chấp hành Trung ương, trực
tiếp và thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư về chủ trương, chính sách và giải
pháp lớn về CTDV, Ban Dân vận Trung ương đã tăng cường các hoạt động hướng
về địa bàn Tây Nguyên, đặc biệt là tổ chức nhiều hội nghị; ban hành các kế hoạch,
chương trình, đề án về CTDV ở Tây Nguyên.
Tháng 5-2001, tại thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, Ban Dân vận
46
Trung ương đã tổ chức Hội nghị CTDV bốn tỉnh Tây Nguyên nhằm triển khai thực
hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, đánh giá thực trạng CTDV ở các tỉnh Tây
Nguyên, nhất là sau cuộc bạo loạn chính trị tháng 2-2001 và đề ra phương hướng,
biện pháp CTDV trong thời gian tới. Hội nghị chỉ rõ những vấn đề cần phải tập
trung giải quyết: "Củng cố, xây dựng và phát triển vững chắc HTCT ở cơ sở; nâng
cao nhận thức và thống nhất cách giải quyết các vấn đề tôn giáo; vấn đề tiếng dân
tộc và học tiếng dân tộc; vấn đề ngăn chặn đồng bào vượt biên trái phép; cần có sự
chỉ huy thống nhất và phối hợp các lực lượng làm CTDV trên địa bàn Tây Nguyên"
[75, tr.5-6].
Tiếp đó, ngày 18-01-2002, Ban Dân vận Trung ương ra Kế hoạch số 23-
KH/BDV Triển khai thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về Tây Nguyên trong hệ
thống dân vận. Kế hoạch nêu lên 4 nhiệm vụ và 6 biện pháp cụ thể trong CTDV
trên địa bàn Tây Nguyên, trong đó nhấn mạnh:
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động... Coi đây là giải pháp xuyên
suốt trong phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm
quốc phòng, an ninh ở Tây Nguyên. Trong quá trình vận động quần chúng
cần thực hiện phương châm "Nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin".
Cần giải thích, phân tích rõ cả những khuyết điểm, yếu kém và biện pháp
khắc phục của các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể
nhân dân trong công tác vận động và chăm lo đời sống quần chúng [30].
Xuất phát từ tình hình thực tế của miền Trung và Tây Nguyên, tháng 5-2002,
Ban Dân vận Trung ương Quyết định thành lập Bộ phận công tác tại Đà Nẵng (nay
là Cơ quan Thường trực tại Đà Nẵng) để trực tiếp theo dõi, đôn đốc và phối hợp với
Ban Dân vận các tỉnh, thành ở miền Trung và Tây Nguyên trong việc triển khai
thực hiện các nhiệm vụ CTDV trên địa bàn.
Ngày 16-12-2002, Ban Dân vận Trung ương ban hành Đề án Công tác vận
động nhân dân xây dựng cơ sở chính trị thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã
hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh ở vùng Tây Nguyên thời kỳ 2001-2010. Mục
tiêu của Đề án: Xây dựng chương trình, kế hoạch một cách cơ bản và lâu dài, xác
định rõ nội dung tuyên truyền, phương pháp CTVĐQC trong từng thời gian cụ thể
47
để chống lại luận điệu tuyên truyền của các thế lực phản động, thù địch ở Tây
Nguyên. Có chương trình công tác cụ thể phối hợp thường xuyên, chặt chẽ giữa Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân để xây dựng, củng cố tổ chức các đoàn thể
chính trị ở cơ sở, xây dựng lực lượng cốt cán làm nòng cốt, chỗ dựa vững chắc cho
nhân dân đấu tranh với địch.
Tháng 01-2003, tại thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, Ban Dân vận
Trung ương phối hợp với Ban Chỉ đạo Tây Nguyên và các tỉnh Tây Nguyên tổ chức
Hội nghị CTDV các tỉnh trên địa bàn Tây Nguyên, nhằm kiểm điểm và rút kinh
nghiệm về thực hiện CTDV thời gian qua; đồng thời, đề ra nhiệm vụ CTDV trên địa
bàn trong thời gian tới. Hội nghị xác định nhiệm vụ cấp bách trước mắt là tập trung
sức mạnh của HTCT các cấp thực hiện các mục tiêu:
6 không (không để nông dân không có đất ở, đất sản xuất; không để dân
đói, mặc rét, nhà dột; không để dân du canh du cư, phá rừng; không để
bọn xấu truyền đạo bất hợp pháp; không để dân biểu tình, bạo loạn, vượt
biên trái phép; không để thôn, buôn không có đảng viên và tổ chức đoàn
thể); 5 bảo đảm (bảo đảm sự gắn bó giữa Đảng với dân và đoàn kết nhân
dân các dân tộc; củng cố tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể; nắm được tâm tư, nguyện vọng và tình
hình nhân dân; ổn định chính trị, xã hội và an ninh quốc phòng); 4 cùng
(cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng nói tiếng dân tộc); 3 thi đua (thi đua
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xóa đói giảm nghèo, làm giàu hợp pháp; xây
dựng đời sống văn hóa cộng đồng buôn, làng; xây dựng địa bàn trật tự,
an toàn chính trị - xã hội) [31].
Ngày 21-6-2004, tại Thành phố Hồ Chí Minh, Ban Dân vận Trung ương tổ
chức Hội nghị Trưởng Ban Dân vận các tỉnh Tây Nguyên và tỉnh Bình Phước để
kiểm điểm tình hình thực hiện CTDV; nêu rõ những việc làm được, chưa làm được,
chỉ rõ nguyên nhân và đề ra giải pháp nhằm tiếp tục thực hiện tốt Nghị quyết số 10
và Kết luận số 148 của Bộ Chính trị về Tây Nguyên. Hội nghị đề ra Chương trình
hành động Về công tác vận động quần chúng tại các tỉnh Tây Nguyên, với các mục
tiêu, nhiệm vụ cụ thể:
48
Một là, tập trung tuyên truyền, giáo dục, vận động đồng bào các dân tộc
Tây Nguyên nâng cao nhận thức, cảnh giác... Quyết tâm không để xảy ra
bạo loạn chính trị.
Hai là, tập trung mọi nỗ lực, cố gắng của Trung ương, địa phương và cơ
sở giải quyết kịp thời những nguyện vọng chính đáng của đồng bào các
dân tộc...
Ba là, tăng cường củng cố, kiện toàn HTCT cơ sở, đặc biệt là hệ thống
Dân vận, Mặt trận, đoàn thể cơ sở, phát triển hội viên, xây dựng lực
lượng nòng cốt.
Bốn là, chủ động làm tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử
dụng và chế độ chính sách đối với cán bộ cốt cán và con em đồng bào
các dân tộc tại chỗ... Đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên trong vùng
đồng bào DTTS.
Năm là, tiếp tục tăng cường cán bộ các cấp, các ngành và các lực lượng
vũ trang xuống cơ sở [32].
Ngày 20-8-2005, Ban Dân vận Trung ương phối hợp với Ban Chỉ đạo Tây
Nguyên tổ chức Hội nghị CTDV các tỉnh Tây Nguyên và tỉnh Bình Phước. Hội nghị
đã kiểm điểm CTDV các tỉnh Tây Nguyên và tỉnh Bình Phước từ năm 2003 đến
năm 2005; đồng thời, đề ra mục tiêu, phương châm, nhiệm vụ và giải pháp để thúc
đẩy CTDV, góp phần thực hiện có kết quả Nghị quyết số 10-NQ/TW của Bộ Chính
trị Về phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên
thời kỳ 2001-2010.
2.3. QUÁ TRÌNH CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA
ĐẢNG Ở TÂY NGUYÊN TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2005
Quán triệt quan điểm, chủ trương của Đảng, việc thực hiện CTDV trên địa bàn
Tây Nguyên từ năm 2001 đến năm 2005 được triển khai trên các lĩnh vực chủ yếu:
2.3.1. Vận động nhân dân thực hiện các chƣơng trình phát triển kinh tế -
xã hội, từng bƣớc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các
dân tộc
Từ năm 2001 trở đi, thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương Đảng
49
và Chính phủ, các bộ, ban, ngành và các tỉnh trên địa bàn Tây Nguyên tập trung vào
những vấn đề trọng tâm cấp bách, bám sát cơ sở để nắm bắt tình hình; nhanh chóng
xử lý, tháo gỡ những khó khăn vướng mắc; đẩy mạnh các phong trào cách mạng,
đặc biệt là phong trào định canh định cư, xóa đói giảm nghèo, giúp nhau phát triển
kinh tế, xây dựng đời sống văn hóa mới.
Lâm Đồng là tỉnh có đông đồng bào DTTS và chủ yếu phân bố ở vùng sâu,
vùng xa, nơi có nhiều khó khăn về kinh tế - xã hội. Trước tình hình đó, Đảng bộ
tỉnh đã sớm xác định việc đầu tư phát triển toàn diện vùng đồng bào dân tộc vừa là
nhiệm vụ cấp bách, vừa là tình cảm đền ơn đáp nghĩa của các cấp ủy đảng, chính
quyền, đoàn thể và nhân dân trong tỉnh. Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Quyết
định số 52-QĐ/TU, ngày 06-4-2001 Về việc thành lập ban Chỉ đạo xây dựng vùng
đồng bào dân tộc tỉnh Lâm Đồng; tiếp theo, ngày 19-6-2001, Ban Thường vụ Tỉnh
ủy ra Quyết định số 83-QĐ/TU Về việc thành lập các tổ công tác xây dựng vùng
đồng bào dân tộc tỉnh Lâm Đồng. Với sự quan tâm đầu tư xây dựng, phát triển vùng
đồng bào DTTS, cùng với sự đóng góp tích cực của các tổ công tác xây dựng vùng
đồng bào dân tộc, nên trong bối cảnh một số tỉnh Tây Nguyên có những diễn biến
phức tạp, nhưng tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội vùng đồng bào
DTTS ở Lâm Đồng cơ bản giữ vững ổn định, không để xảy ra các "điểm nóng", đời
sống của đồng bào từng bước được cải thiện. Trên cơ sở những kinh nghiệm từ thực
tiễn hoạt động của các tổ công tác xây dựng vùng đồng bào dân tộc, ngày 20-11-
2001, Tỉnh ủy Lâm Đồng ra Nghị quyết số 02-NQ/TU Về tiếp tục đầu tư phát triển
vùng đồng bào dân tộc thời kỳ 2001-2005. Nghị quyết nêu rõ mục tiêu tổng quát:
Làm chuyển biến mạnh mẽ và đồng bộ về tư tưởng, nhận thức, nâng cao
dân trí, ý thức tự lực, tự cường của đồng bào dân tộc, phát triển kinh tế - xã
hội; xóa cơ bản nạn đói, giảm tới mức thấp nhất hộ nghèo, từng bước ổn
định và cải thiện đời sống, tăng số hộ giàu; xây dựng thực lực chính trị vững
mạnh, giữ vững ổn định chính trị, quốc phòng, an ninh [101].
Qua 5 năm thực hiện, tình hình kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh vùng
DTTS trên địa bàn tỉnh đã có nhiều chuyển biến tích cực; đời sống vật chất và tinh
thần của đồng bào DTTS ngày càng được cải thiện: "Đến cuối năm 2005 đã cơ bản
xóa hộ đói, giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 27% (năm 2001) xuống còn 20%; nhận thức của
50
đồng bào từng bước được nâng cao, đại bộ phận đồng bào ổn định được chỗ ở, ổn
định sản xuất và đời sống" [102].
Trên toàn vùng Tây Nguyên, công tác định canh, định cư cho đồng bào
DTTS đạt kết quả tích cực. Trong 5 năm (2000-2004), ngân sách nhà nước đã đầu
tư hơn 195 tỷ đồng để thực hiện các dự án định canh định cư vùng đồng bào DTTS
tại chỗ Tây Nguyên. Trong đó, nguồn vốn Trung ương là 42 tỷ đồng phục vụ xây
dựng cơ sở hạ tầng thuộc các dự án định canh định cư, còn lại là nguồn vốn của các
tỉnh. Đến năm 2004, toàn vùng Tây Nguyên đã có 160.440 hộ với 913.185 nhân
khẩu đã cơ bản hoàn thành định canh, định cư, chiếm 82,7% số hộ đồng bào DTTS
tại chỗ thuộc diện định canh, định cư (chiếm 71,3% tổng số hộ DTTS tại chỗ).
Trong đó, tỉnh Kon Tum đạt 83% số hộ đồng bào dân tộc định canh, định cư; Gia
Lai đạt 85%; Đắk Lắk đạt 76,8%; Lâm Đồng đã cơ bản hoàn thành công tác định
canh, định cư [121, tr.49].
Chương trình quốc gia về xóa đói giảm nghèo đã được các tỉnh Tây Nguyên
tập trung chỉ đạo, triển khai thực hiện đồng bộ với nhiều hình thức, biện pháp thích
hợp. Hầu hết các tỉnh đã chỉ đạo lồng ghép nhiều nguồn vốn của các chương trình,
dự án đầu tư cho hạ tầng kỹ thuật, hỗ trợ sản xuất, phát triển ngành nghề, đào tạo
cán bộ khuyến nông, khuyến lâm, cán bộ làm công tác xóa đói giảm nghèo ở cơ sở.
Trong 5 năm (2000-2004), ngân sách Trung ương đã đầu tư 350 tỷ đồng cho
chương trình xóa đói giảm nghèo; các tỉnh Tây Nguyên đầu tư từ ngân sách địa
phương 210 tỷ đồng; bố trí lồng ghép từ các chương trình, dự án huy động cộng
đồng 120 tỷ. Nguồn vốn tín dụng đã huy động thêm khoảng 300 tỷ đồng tập trung
cho công tác xóa đói giảm nghèo vùng sâu, vùng xa, vùng DTTS tại chỗ. Hàng
năm, Trung ương cân đối từ 40-45 tỷ đồng để thực hiện chính sách trợ giá, trợ cước
vận chuyển một số mặt hàng thiết yếu như: giống cây trồng, phân bón, muối iốt, dầu
lửa và thu mua hàng nông sản. Hỗ trợ đời sống trung bình 500.000 đồng/hộ, cho
vay sản xuất trung bình một triệu đồng/hộ. Nhờ đó, đã có 1,05 triệu lượt hộ được
cấp các mặt hàng cho không (vải, dầu hỏa, thuốc chữa bệnh, sách, vở, tiền điện);
853.000 lượt hộ được hỗ trợ khuyến nông và được cấp giống sản xuất [121, tr.50].
Thông qua công tác vận động xóa đói giảm nghèo, ý thức vươn lên thoát
khỏi đói nghèo của đồng bào các DTTS được nâng lên. Nhiều mô hình xóa đói
51
giảm nghèo với những giải pháp thiết thực đã được tổ chức thực hiện góp phần làm
cho tốc độ giảm nghèo khá nhanh: "Giai đoạn 2001-2005, đã giảm tỷ lệ hộ nghèo từ
21,83% xuống còn 8,67% (theo chuẩn năm 2000), bình quân giảm 2,6%/năm" [24].
Giải quyết vấn đề xóa đói giảm nghèo ở Tây Nguyên không chỉ có ý nghĩa kinh tế -
xã hội mà còn là vấn đề chính trị, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà
nước; qua đó, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc trên địa bàn.
Thực hiện Quyết định số 132/2002/QĐ-TTg, ngày 8-10-2002 của Thủ tướng
Chính phủ Về việc giải quyết đất sản xuất và đất ở cho đồng bào DTTS tại chỗ ở
Tây Nguyên; Quyết định số 134/2004/QĐ-TTg, ngày 20-7-2004 của Thủ tướng
Chính phủ Về một số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt
cho hộ đồng bào DTTS nghèo, đời sống khó khăn, các tỉnh Tây Nguyên đã tiến
hành tổ chức quán triệt trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận, các đoàn thể
và trong nhân dân; tập trung chỉ đạo, chủ động phối hợp với các bộ, ngành liên
quan: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Tổng công ty Cao su Việt Nam,
Tổng công ty Cà phê Việt Nam đề ra nhiều giải pháp để tạo quỹ đất như tổ chức
khai hoang, đầu tư xây dựng các công trình thủy lợi vừa và nhỏ, thu hồi đất từ các
nông, lâm trường… để giải quyết đất cho đồng bào. Theo báo cáo của Ban Chỉ đạo
Tây Nguyên: "Đến năm 2005, toàn vùng giao thêm 7.623 ha đất ở và đất sản xuất
cho 14.586 hộ. Từ năm 2003 đến năm 2005, đã giao 27.352 ha cho 53.023 hộ DTTS
thiếu đất" [14]. Tiến độ xóa nhà tạm, nhà dột nát và hỗ trợ nước sinh hoạt cho đồng
bào theo Quyết định số 134 được các tỉnh Tây Nguyên thực hiện khá tốt. Toàn vùng
đã làm mới, sửa chữa xong 11.150 căn nhà với mức chi trung bình từ 6 đến 8 triệu
đồng cho một căn nhà, giải quyết nước sạch cho 37.000 hộ. Một số địa phương đã
vận dụng linh hoạt phương châm "nhân dân tự làm, cộng đồng giúp đỡ, Nhà nước
hỗ trợ", tổ chức được phong trào xóa nhà tạm, nhà dột nát có sự tham gia của Mặt
trận, đoàn thể cùng với chính quyền các cấp.
Thông qua Chương trình 135 và một số chương trình lồng ghép khác, Đảng và
Nhà nước đã đầu tư cho 163 xã và hàng trăm buôn đặc biệt khó khăn ở Tây Nguyên,
với tổng kinh phí 750 tỷ đồng; tính trung bình đạt 2,5 tỷ đồng cho một xã, giúp các xã
này xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, thủy lợi, điện, trường học, trung tâm cụm xã,
52
khuyến nông, khuyến lâm… đã tạo nên sự thay đổi diện mạo ở những vùng DTTS,
vùng sâu, vùng xa. Tổng kết chương trình 135, nhiều tỉnh đạt mục tiêu cơ bản cả về
tổng mức đầu tư và số lượng các công trình, hạng mục, góp phần cải thiện cơ sở hạ
tầng ở các xã vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. "Đến cuối năm 2005, có
71/244 xã (chiếm 29,1%) đề nghị đưa ra khỏi diện đặc biệt khó khăn" [14].
Lĩnh vực văn hóa - xã hội có nhiều mặt tiến bộ rõ nét: Các tỉnh Tây Nguyên
đã thực hiện các dự án phát triển văn hóa vùng đồng bào DTTS, phục hồi di sản
cồng chiêng, văn học dân gian, xây dựng hàng trăm nhà rông, nhà sinh hoạt văn hóa
cộng đồng; thường xuyên tổ chức các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, lễ hội thể thao
dân tộc cấp khu vực, cấp tỉnh, tạo môi trường sinh hoạt văn hóa, văn nghệ lành
mạnh; tỷ lệ thôn buôn và hộ dân được dùng điện, có báo chí, được xem truyền hình,
nghe đài phát thanh tăng lên, nhất là thời lượng phát thanh, truyền hình bằng tiếng
dân tộc; cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân
cư" được tiếp tục đẩy mạnh, đã khơi dậy tinh thần tương thần tương ái, giúp nhau
phát triển sản xuất, xóa đói giảm nghèo, phát huy sức mạnh của cộng đồng buôn
làng, góp phần quan trọng vào việc nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần cho đồng
bào các dân tộc.
Đến năm 2005, đã có 3.120/6.782 thôn, buôn vùng Tây Nguyên phát
động xây dựng đời sống văn hóa mới; khoảng 45% trong tổng số 2.489
buôn, làng đồng bào DTTS phấn đấu thành buôn làng văn hóa; 96% đã
xây dựng được quy ước, hương ước thôn, buôn nhằm phát huy thuần
phong mỹ tục, xây dựng các mối quan hệ và chuẩn mực đạo đức phù hợp
với đời sống cộng đồng; hàng vạn gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn
hóa [71, tr.94].
Những kết quả trên đã thể hiện rõ sự quan tâm của Đảng và Nhà nước bằng
những chủ trương, chính sách đúng đắn, kịp thời, phù hợp với tình hình thực tiễn ở
Tây Nguyên, góp phần giải quyết những vấn đề bức xúc về kinh tế - xã hội, nâng
cao đời sống cho nhân dân, đặc biệt là đồng bào DTTS.
Tuy nhiên, kinh tế - xã hội ở Tây Nguyên nhìn chung tăng trưởng chưa vững
53
chắc, nhiều tiềm năng, lợi thế của từng địa phương chưa được phát huy có hiệu quả;
đặc biệt là ở vùng DTTS, việc triển khai thực hiện một số chủ trương, chính sách
của Đảng, Nhà nước còn chậm, thiếu đồng bộ và chưa thật sự phù hợp với trình độ
nhận thức và tập quán của đồng bào, nên chưa tạo ra bước đột phá trong việc thúc
đẩy sản xuất phát triển và nâng cao đời sống cho đồng bào. Nhiều vấn đề bức xúc,
nhất là những vấn đề liên quan đến đất đai, tổ chức lại sản xuất và đời sống vùng
đồng bào DTTS tại chỗ chưa được giải quyết kịp thời, hiệu quả. Công tác định canh
định cư kết quả đạt được chưa thật sự vững chắc, số hộ đồng bào DTTS chưa định
canh định cư còn lớn. Tỷ lệ hộ đói nghèo trong đồng bào DTTS còn cao (chiếm
58%); đặc biệt, ở tỉnh Kon Tum, "đến tháng 7-2005, có 37,84% số hộ toàn tỉnh
thuộc diện đói nghèo, trong đó có tới 62,56% số hộ đồng bào DTTS" [120]; khoảng
cách giàu nghèo giữa đồng bào nơi khác đến, chủ yếu là đồng bào Kinh với đồng
bào DTTS tại chỗ có xu hướng ngày càng tăng.
2.3.2. Vận động nhân dân từng bƣớc làm thất bại âm mƣu "diễn biến
hòa bình" của các thế lực thù địch, giữ vững an ninh chính trị
Thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình" ở Tây Nguyên, các thế lực thù địch
và bọn phản động FULRO đã gây ra cuộc bạo loạn chính trị năm 2001 và năm
2004, lôi kéo hàng nghìn người tham gia, trong đó đa số là đồng bào các DTTS.
Cuộc bạo loạn tháng 2-2001 xảy ra tại 3 tỉnh Gia Lai, Đắk Lắk và Kon Tum.
Ngày 2-2-2001, tại tỉnh Gia Lai, có khoảng 8.000 người từ 8 huyện và thành phố
Pleiku đã tụ tập kéo về thành phố Pleiku và khoảng 7.000 người đã vào được thành
phố. Nhiều người đã mang theo gậy, gạch, đá, cuốc, xẻng để tấn công vào lực lượng
thi hành công vụ nếu bị ngăn cản và hô các khẩu hiệu chống chế độ, đòi thả những
tên bị bắt. Tại tỉnh Đắk Lắk, trong ngày 3 và 4-2-2001, chúng đã lôi kéo, kích động
được 1.093 người của 5 huyện (Ea Hleo, Ea Súp, Krông Buk, Krông Năng, Buôn
Đôn) và một số buôn của thành phố Buôn Ma Thuột tham gia bạo loạn và có
khoảng hơn 300 người đã kéo vào thành phố Buôn Ma Thuột đưa đơn nêu nội dung
đòi lập "Nhà nước Đê Ga"; đặc biệt, một số đối tượng đã có những hành động quá
khích như: đánh, ném đá vào cảnh sát 113, cảnh sát cơ động, ném đá vào xe chữa
54
cháy và trung tâm phát thanh - truyền hình tỉnh… Tại tỉnh Kon Tum, số lượng
người tham gia biểu tình không nhiều, chủ yếu là ở thị xã Kon Tum. Bọn phản động
ở Kon Tum đã bàn kế hoạch tổ chức biểu tình, thành lập chính quyền "Nhà nước Đê
Ga" trên địa bàn tỉnh.
Về cơ bản, các cuộc biểu tình, bạo loạn đã được ngăn chặn và giải tán trong
các ngày 2 đến ngày 6-2, nhưng nó vẫn diễn ra âm ỉ, kéo dài ở nhiều nơi cho đến
giữa tháng 2 mới chấm dứt. Sự kiện trên đã để lại những hậu quả nặng nề, tác động
xấu đến tất cả các mặt của đời sống xã hội, ảnh hưởng tới khối đại đoàn kết các dân
tộc trên địa bàn, gây tâm lý lo lắng trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân
dân. Sau vụ bạo loạn tháng 2-2001, bọn phản động và các thế lực thù địch vẫn tiếp
tục tập trung chống phá quyết liệt:
Chúng kích động gần 200 tên lẩn trốn ra rừng hình thành tổ chức hoạt
động bất hợp pháp; chỉ đạo phát triển lực lượng, xây dựng hình thành
hàng trăm tổ chức ngầm hoạt động bất hợp pháp; kích động tư tưởng ly
khai tự trị; lôi kéo gần 2.200 người DTTS Tây Nguyên vượt biên ồ ạt
sang Campuchia hình thành các "trại tỵ nạn"; lôi kéo hơn 20.000 người
DTTS theo "Tin lành Đê Ga" làm chỗ dựa cho hoạt động FULRO. Hàng
trăm Ban chấp sự Tin lành trái phép lợi dụng cơ hội chuyển ra hoạt động
công khai ở buôn làng, làm cho tình hình rất phức tạp [10].
Cuộc bạo loạn tháng 4-2004 diễn ra ở một số địa phương của 3 tỉnh: Gia Lai,
Đắk Lắk và Đắk Nông. Trong hai ngày (10 và 11-4-2004), bọn phản động đã huy
động được khoảng hơn 9.000 người tham gia biểu tình, bạo loạn (Đắk Lắk 4.800,
Gia Lai 4.000, Đắk Nông 300). So với cuộc bạo loạn năm 2001, cuộc bạo loạn lần
này có số người tham gia đông hơn và có tính chất nghiêm trọng, manh động hơn.
Những người tham gia biểu tình đã hô khẩu hiệu đòi độc lập, đòi người Kinh phải
trả lại đất cho người dân tộc, đòi tự do tôn giáo, đòi thả hết những người bị bắt và
kêu gọi quốc tế ủng hộ "Nhà nước Đê Ga"; một số phần tử đã có những hành động
quá khích như gây rối trật tự công cộng, chống người thi hành công vụ, phá hoại
công trình công cộng và tài sản nhà nước… Sau biểu tình, bạo loạn, tình hình an
ninh chính trị trên địa bàn Tây Nguyên tiếp tục diễn biến phức tạp, đặc biệt là bọn
55
FULRO tiếp tục lừa phỉnh, lôi kéo đồng bào DTTS vượt biên ồ ạt sang Campuchia
để lập các "trại tỵ nạn" nhằm thực hiện âm mưu "quốc tế hóa" vấn đề người DTTS
ở Tây Nguyên, tạo cớ để bên ngoài can thiệp.
Trước tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn có nhiều
diễn biến hết sức phức tạp, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ
đạo các bộ, ban, ngành Trung ương và các tỉnh Tây Nguyên tăng cường công tác
bảo đảm an ninh chính trị, đấu tranh chống "diễn biến hòa bình", bạo loạn, lật đổ
của các thế lực thù địch và bọn phản động FULRO trên địa bàn.
Được sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Thủ tướng Chính
phủ, các Đảng bộ, chính quyền các tỉnh Tây Nguyên đã xác định công tác phòng
chống biểu tình, bạo loạn và vượt biên trái phép là một nhiệm vụ trọng tâm, thường
xuyên. Các tỉnh xảy ra biểu tình, bạo loạn đã kịp thời ban hành các chỉ thị, nghị
quyết về công tác này: Ban Thường vụ Tỉnh ủy Gia Lai ra Chỉ thị số 01-CT/TU,
ngày 07-02-2001 Về phòng và chống bạo loạn; Nghị quyết số 11-NQ/TU, ngày 07-
10-2002 Về việc lãnh đạo địa phương sang tình trạng khẩn cấp và chống bạo loạn
lật đổ; Ban Thường vụ Tỉnh ủy Đắk Lắk ra Chỉ thị số 01-CT/TU, ngày 27-02-2001
Về tăng cường công tác đảm bảo an ninh - trật tự; Chỉ thị số 05-CT/TU, ngày 16-5-
2001 Về tăng cường công tác vận động quần chúng và nhiệm vụ bảo vệ biên giới
trong tình hình mới; Chỉ thị số 12-CT/TU, ngày 26-08-2002 Về việc đẩy mạnh công
tác phát động quần chúng và đấu tranh ngăn chặn, chống biểu tình, bạo loạn, vượt
biên… Các tỉnh không xảy ra biểu tình, bạo loạn cũng đã kịp thời xác định chủ
trương phải phát hiện, ngăn chặn và đập tan mọi âm mưu nhen nhóm, tụ tập biểu
tình, bạo loạn từ cơ sở; thành lập các tổ, đội đi về cơ sở, làm tốt CTVĐQC, củng cố
chính quyền và ổn định tình hình ở cơ sở.
Thực hiện các chỉ thị, nghị quyết trên, công tác phát động quần chúng
(CTPĐQC) ở các tỉnh Tây Nguyên được thực hiện thường xuyên với nhiều nội
dung và hình thức phong phú: "Các tỉnh đều tổ chức duy trì các tổ, đội làm
CTVĐQC ở cấp tỉnh và một số xã vùng đồng bào DTTS. Tỉnh Đắk Lắk có 110 tổ,
đội ở cơ sở với 727 cán bộ và 1 đội ở cấp tỉnh gồm 22 cán bộ; tỉnh Đắk Nông 41 tổ,
đội ở cơ sở với 217 cán bộ; tỉnh Lâm Đồng có 32 tổ, đội với 213 cán bộ; tỉnh Kon
Tum có 1 đội ở cấp tỉnh với 20 cán bộ" [33]. Các lực lượng làm CTVĐQC trên địa
56
bàn thực hiện tốt phương châm "bám làng, bám dân, bám đối tượng", "cùng ăn,
cùng ở, cùng làm, cùng nói tiếng dân tộc" và "đến tận ngõ, gõ tận nhà, rà từng đối
tượng", tổ chức họp dân, đưa các đối tượng ra công khai trước đồng bào trong buôn
làng, để chính đồng bào đấu tranh trực diện, phê phán hành vi sai trái của kẻ xấu và
cô lập chúng; vận động nhân dân vạch trần, đấu tranh quyết liệt với âm mưu, thủ
đoạn của các thế lực thù địch và bọn phản động FULRO, góp phần ổn định tình
hình an ninh chính trị.
Nội dung CTPĐQC ở các tỉnh Tây Nguyên tập trung vào việc tuyên truyền
Nghị quyết Trung ương 7 (khóa IX) của Đảng Về phát huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc, về công tác dân tộc, về công tác tôn giáo; Quyết định số 168, 154, 134
của Thủ tướng Chính phủ; tuyên truyền những thành tựu đổi mới của đất nước, của
địa phương và việc đầu tư của Đảng, Nhà nước đối với vùng đồng bào DTTS,
khẳng định chỉ có chế độ XHCN mới mang lại cuộc sống ấm no cho đồng bào mà
trước đây chưa có chế độ nào làm được. Đồng thời, tuyên truyền cho đồng bào hiểu
rõ hơn về âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch.
Thông qua CTVĐQC, các cấp ủy đảng và chính quyền đã phát động quần
chúng tích cực tham gia phong trào "Quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc", nêu cao
tinh thần cảnh giác, không nghe, không tin, không làm theo những luận điệu xuyên
tạc, lôi kéo của kẻ xấu. Hầu hết đồng bào đã thấy rõ âm mưu của bọn phản động
FULRO và các thế lực thù địch; chăm lo phát triển sản xuất, ổn định cuộc sống,
cam kết không tham gia biểu tình, bạo loạn. Công tác phát động quần chúng đã góp
phần bóc gỡ, vô hiệu hóa các hoạt động của mạng lưới cơ sở ngầm bên trong của
bọn phản động FULRO. "Tính đến 7-2005, riêng tỉnh Đắk Lắk đã vận động được
210 đối tượng hoạt động FULRO ra tự thú; đấu tranh vô hiệu hóa 613 đối tượng.
Lực lượng quần chúng ở cơ sở đã phối hợp với các ngành chức năng bóc gỡ 48 cơ
sở ngầm của FULRO với 61 đối tượng" [110, tr.37]. Đồng thời, "đã đấu tranh giải
tán được 208 ban chấp sự Tin lành hình thành trái phép, 1005 chấp sự viên hoạt
động bất hợp pháp, kiểm điểm 151 ban chấp sự, 598 chấp sự viên. Qua vận động,
giải thích, một số mục sư có uy tín cùng với số chức sắc tôn giáo khác ra "Bức tâm
thư" tẩy chay "Tin lành Đê Ga". Có 5.558 tín đồ Tin lành là đồng bào dân tộc tự
nguyện thôi không sinh hoạt đạo trái pháp luật" [1, tr.353].
57
Trong điều kiện an ninh chính trị, trật tự xã hội phức tạp trên địa bàn Tây
Nguyên thì việc thành lập các Đội CTPĐQC tại các xã, buôn, thôn có đông đồng
bào DTTS là một chủ trương đúng đắn và kịp thời, thực sự góp phần thực hiện tốt
CTVĐQC, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng trọng điểm. Kết quả trên toàn vùng
Tây Nguyên:
Cùng với CTVĐQC, xây dựng thế trận lòng dân và bằng nhiều hoạt động
tổng hợp của các lực lượng (vận động, giáo dục, truy quét, thuyết phục,
cảm hóa, xử lý bằng pháp luật...) đã đấu tranh bắt, gọi hàng, giải quyết cơ
bản số FULRO lẩn trốn hoạt động bất hợp pháp với hàng trăm tên; phát
hiện và xóa hàng trăm khung tổ chức từ cấp tỉnh đến cơ sở; bóc gỡ, giáo
dục, cảm hóa hàng nghìn đối tượng có liên quan đến hoạt động FULRO;
đưa ra truy tố, xử lý bằng pháp luật hàng chục tên cầm đầu tổ chức biểu
tình, vượt biên, gây rối, chống người thi hành công vụ [67, tr.34].
Về công tác đấu tranh, truy bắt và vô hiệu hóa các phần tử phản động: Thực
hiện Chỉ thị số 16/CT-TTg, ngày 01-5-2004 của Thủ tướng Chính phủ Về đấu tranh
xóa bỏ tổ chức phản động FULRO trên địa bàn Tây Nguyên, các bộ, ngành chức
năng phối hợp với các tỉnh Tây Nguyên tăng cường, bố trí lại lực lượng, lập các tổ
chuyên trách phòng, chống FULRO. Quán triệt phương châm "chủ động tấn công,
đánh địch từ xa", các lực lượng đã phát hiện âm mưu, ý đồ, phương thức, thủ đoạn
của bọn phản động từ bên ngoài, giúp cho việc nắm tình hình, tổ chức đấu tranh
ngăn chặn, phòng chống ngày càng chủ động hơn. Vấn đề FULRO được giải quyết
cơ bản theo 4 yêu cầu: đánh bật FULRO ra khỏi địa bàn, gọi hết người trong buôn
làng theo FULRO trở về, bóc hết cơ sở ngầm của chúng, xây dựng lực lượng đủ
mạnh để phòng chống FULRO. Công tác đấu tranh, truy bắt và vô hiệu hóa số cầm
đầu cốt cán lẩn trốn được tập trung chỉ đạo quyết liệt. "Từ năm 2001 đến tháng 3-
2004, bằng nhiều biện pháp kết hợp truy quét bọn FULRO lẩn trốn với phát động
quần chúng, ta đã bóc gỡ, vô hiệu hóa, bắt tạm giữ, xét xử theo pháp luật, kiểm
điểm trước dân, giao cho các buôn làng quản lý, giáo dục trên 2.800 đối tượng, làm
tan rã nhiều tổ chức FULRO từ tỉnh đến cơ sở" [13].
Tính đến tháng 8-2005, đã truy bắt, gọi hàng 206 tên FULRO, vận động
58
tự thú 177 đối tượng, gọi hỏi đấu tranh 835 đối tượng, bóc gỡ 688 cơ sở
ngầm, xóa 33 khung ngầm. Trong đó, tỉnh Đắk Lắk giải quyết dứt điểm 7
tên, hiện không có tên nào lẩn trốn; Gia Lai bắt 17 tên lẩn trốn, hiện còn
11 tên lén lút hoạt động ở khu vực huyện Ayun Pa, Chư Sê, Đắk Đoa;
tỉnh Đắk Nông phát hiện bóc gỡ một số đối tượng hoạt động ngầm ở 32
buôn của 3 huyện Đắk Mil, Đắk Song, Đắk R’Lấp. Với những kết quả
đó, ta đã làm cho tổ chức của chúng tan rã, lực lượng bị tổn thất nặng;
ngăn chặn được âm mưu tổ chức biểu tình, bạo loạn, vượt biên ồ ạt vào
các thời điểm nhạy cảm [14].
Công tác đấu tranh phòng, chống người DTTS vượt biên được triển khai bằng
nhiều biện pháp và hình thức thích hợp như: tuyên truyền, vận động quần chúng;
theo dõi, quản lý chặt chẽ đối tượng tại buôn làng; sử dụng những người có tư
tưởng tiến bộ trong hàng ngũ chức sắc tôn giáo cùng với chính quyền, Mặt trận, các
đoàn thể sang Campuchia vận động người vượt biên trở về; tổ chức đấu tranh bóc
gỡ, triệt phá các tổ chức đường dây đưa, đón người vượt biên; tăng cường công tác
tuần tra biên giới và chủ động phối hợp với Campuchia ngăn chặn vượt biên, xây
dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị; đấu tranh ngoại giao kiên quyết buộc tổ
chức Cao ủy Liên hợp quốc về người tỵ nạn (UNHCR) xóa 2 "trại tỵ nạn" ở
Monđunkiri và Rattanakiri (năm 2002), tiến hành đàm phán và ký kết Bản ghi nhớ
ba bên giữa Việt Nam - Campuchia - UNHCR (MOU), ngày 25-1-2005, làm cơ sở
cho việc giải quyết toàn diện vấn đề người DTTS vượt biên. Những hoạt động trên
đã góp phần vào việc đấu tranh chống âm mưu kích động đồng bào vượt biên ồ ạt
của các thế lực thù địch. Đến năm 2005, "đã ngăn chặn trên 2.000 lượt người vượt
biên trái phép; đón nhận và giải quyết ổn định cuộc sống cho trên 500 người vượt
biên trở về hòa nhập với cộng đồng [76, tr.34].
Mặc dù đã đạt được những kết quả quan trọng trong công tác phòng chống
biểu tình, bạo loạn và vượt biên trái phép; tình hình an ninh chính trị trên địa bàn cơ
bản giữ được ổn định, nhưng vẫn còn tiềm ẩn nhiều nhân tố phức tạp, khó lường:
Vấn đề FULRO chưa được giải quyết triệt để ở các buôn làng nên chúng vẫn có
điều kiện để tồn tại, hoạt động; phương pháp xử lý những vấn đề an ninh chính trị,
59
an ninh nông thôn có lúc, có nơi còn chủ quan, nóng vội, chưa kiên trì phương
châm lấy việc vận động, giáo dục, thuyết phục là chính, mà còn nặng về biện pháp
hành chính, tạo sơ hở để bọn phản động kích động chống phá; vẫn có những biểu
hiện chủ quan, mất cảnh giác trước âm mưu của kẻ thù; thế trận lòng dân và an ninh
nhân dân chưa được xây dựng một cách vững chắc. Bộ Chính trị chỉ rõ: "... để xảy
ra biểu tình với quy mô lớn và tính chất nghiêm trọng như vừa qua là một khuyết
điểm lớn, không thực hiện được mục tiêu nêu trong Nghị quyết của Bộ Chính trị là
không để xảy ra biểu tình, bạo loạn" [7].
2.3.3. Xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh toàn diện
Thực hiện Nghị quyết 10-NQ/TW của Bộ Chính trị; Nghị quyết Hội nghị lần
thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) Về đổi mới và nâng cao chất
lượng HTCT ở cơ sở xã, phường, thị trấn; Quyết định số 253/QĐ-TTg, ngày 05-3-
2003 của Thủ tướng Chính phủ Về việc phê duyệt đề án: Một số giải pháp củng cố,
kiện toàn chính quyền cơ sở vùng Tây Nguyên giai đoạn 2002-2010, Tỉnh ủy các
tỉnh Tây Nguyên đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, chương trình hành động về
xây dựng, củng cố HTCT cơ sở (xã, buôn, làng); tập trung chỉ đạo việc đổi mới,
kiện toàn, nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng, chính quyền và các đoàn thể cơ
sở; tích cực thu hẹp thôn buôn chưa có đảng viên và tổ chức đảng; tăng cường lãnh
đạo công tác quy hoạch, tạo nguồn, sử dụng đội ngũ cán bộ người DTTS; chuyển
trọng tâm chỉ đạo, hoạt động của HTCT xuống địa bàn dân cư. Tỉnh ủy Gia Lai đã
ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TU, ngày 12-09-2002 Về công tác cán bộ của hệ
thống chính trị cấp xã, phường, thị trấn; Quyết định số 749-QĐ/TU và Quy định
số 748-QĐ/TU, ngày 30-6-2004 Về việc phân công phụ trách các xã trọng điểm về
an ninh chính trị và HTCT cơ sở yếu kém. Tỉnh ủy Đắk Lắk ra Chương trình số
04-CT/TU, ngày 15-01-2002 Về kiện toàn, củng cố tổ chức dân vận, Mặt trận và
các đoàn thể quần chúng giai đoạn 2001-2005; Nghị quyết số 04-NQ/TU, ngày
10-07-2002 Về tăng cường cán bộ cho xã, phường, thị trấn; Chỉ thị số 14-CT/TU,
ngày 19-9-2002 Về một số nhiệm vụ cấp bách nhằm tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng ở thôn, buôn, khối phố; Nghị quyết số 07-NQ/TU, ngày 03-03-2003 Về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng ở thôn, buôn, tổ dân phố. Tỉnh ủy Kon Tum ra Chỉ
60
thị số 08-CT/TU, ngày 04-5-2004 Về tiếp tục đẩy mạnh xây dựng thôn, làng vững
mạnh. Tỉnh ủy Đắk Nông ra Nghị quyết số 02-NQ/TU, ngày 13-5-2004 Về đổi
mới và nâng cao chất lượng HTCT gắn với xây dựng thôn, buôn, bon, tổ dân phố
vững mạnh toàn diện…
Tại tỉnh Gia Lai, thực hiện chủ trương về việc phân công phụ trách các xã
trọng điểm (Phụ lục 4), tỉnh đã phân công 47 cơ quan cấp tỉnh phụ trách 47 xã,
phường trọng điểm; 429 cơ quan cấp huyện phụ trách các buôn, làng có khả năng
xảy ra điểm nóng; 98 doanh nghiệp phụ trách, giúp đỡ các xã khó khăn phát triển
kinh tế - xã hội. Các cơ quan, đơn vị được phân công giúp các xã, phường trọng
điểm có trách nhiệm giúp các địa phương phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời
sống nhân dân; củng cố, xây dựng HTCT cơ sở ở xã, thôn, làng vững mạnh; giữ
vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Các sở, ban, ngành, Mặt trận và các
đoàn thể tỉnh đã phân công cán bộ xuống cùng với cấp ủy xã tiến hành khảo sát,
đánh giá thực trạng tình hình, phân tích mặt mạnh, mặt yếu để xây dựng kế hoạch,
quy chế phối hợp hoạt động; tiến hành ký kết những nội dung cần phối hợp với cấp
ủy, chính quyền các xã. Thông qua công tác phụ trách xã trọng điểm, đội ngũ cán
bộ, công chức, viên chức của tỉnh, huyện đã có nhiều chuyển biến tích cực về nhận
thức và trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ CTDV; công tác nắm dân, nắm
cơ sở có nhiều tiến bộ; đã phát hiện và tham gia giải quyết có hiệu quả nhiều vụ
tranh chấp, mâu thuẫn trong nhân dân, góp phần đấu tranh làm thất bại âm mưu của
bọn phản động FULRO, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa
bàn các xã trọng điểm.
Nằm ở phía Bắc của huyện Đắk Đoa (Gia Lai), xã Hà Bầu là một trong
những nơi có tình hình an ninh chính trị phức tạp sau vụ biểu tình, bạo loạn năm
2001. Trước tình hình đó, thực hiện Quyết định số 748 và Quy định số 749 của Tỉnh
ủy Về việc phân công các sở, ban, ngành của tỉnh phụ trách, giúp đỡ các xã trọng
điểm, Công an tỉnh trực tiếp phụ trách xã, cùng với 5 ban, ngành của huyện phụ
trách 5 làng trọng điểm. Nhờ đó, "tình hình an ninh chính trị trên địa bàn đã nhanh
chóng được ổn định... Bên cạnh đó, được sự giúp đỡ của Công an tỉnh và 5 ban,
ngành của huyện nên vai trò điều hành của chính quyền xã đã có bước chuyển biến
tích cực và dần dần đi vào nền nếp" [108].
61
Tại tỉnh Đắk Nông, ngay sau khi thành lập (2004), Tỉnh ủy đã chỉ đạo cho
các Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện tăng cường cán bộ cho những xã ở vùng sâu,
địa bàn rộng, có nhiều đồng bào DTTS sinh sống, trình độ quản lý của cán bộ xã
còn hạn chế, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội còn phức tạp. Hầu hết
các cán bộ được tăng cường đều giữ những chức danh chủ chốt như Bí thư, Chủ tịch
Ủy ban nhân dân xã… là những người có năng lực công tác, được đào tạo cơ bản,
có kinh nghiệm thực tế. Do đó, đã giúp cơ sở cải tiến lề lối làm việc, nâng cao hiệu
quả quản lý, thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, phát triển kinh tế - xã hội, đảm
bảo an ninh, quốc phòng; củng cố lòng tin của nhân dân đối với chính quyền cơ sở.
Đối với các cơ quan cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông đã ban hành Quyết
định số 484/QĐ-UB, ngày 24-5-2004 Về việc giao cho các cơ quan, đơn vị cấp tỉnh
kết nghĩa với các buôn, bon. Đến cuối năm 2005, toàn tỉnh có 63 cơ quan, đơn vị
cấp tỉnh đã làm lễ kết nghĩa với 63 buôn, bon. Số buôn, bon còn lại giao cho các cơ
quan, đơn vị cấp huyện tổ chức kết nghĩa. Việc tổ chức kết nghĩa giữa các cơ quan,
đơn vị cấp tỉnh với các buôn, bon đã tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ sâu sát dân
hơn, nắm bắt được tình hình ở từng buôn, bon; giúp đỡ đồng bào sản xuất, xây dựng
đời sống văn hóa, xây dựng và củng cố chính quyền cấp xã.
Thực hiện chủ trương "Cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân, Công an nhân dân
phải thực sự là những cán bộ dân vận để vận động đồng bào tham gia các phong trào
phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng ở địa phương" [3], các lực
lượng vũ trang (Quân đội, Công an, Biên phòng) của Bộ, các Quân khu, Quân đoàn,
Binh đoàn đóng trên địa bàn Tây Nguyên và lực lượng vũ trang của địa phương đã có
nhiều hình thức triển khai lực lượng về cơ sở làm CTDV và xây dựng HTCT.
Quân khu V, Quân khu VII và Quân đoàn III đã thành lập 93 tổ, đội công
tác gồm 900 cán bộ, chiến sĩ về các xã biên giới, vùng sâu, vùng xa, cùng
ăn, cùng ở, cùng làm với nhân dân; vận động, hướng dẫn nhân dân phát
triển sản xuất, xây dựng đời sống văn hóa, giữ gìn an ninh trật tự. Từ
năm 2003 đến năm 2005, các đơn vị của Quân khu V và bộ đội địa
phương của 4 tỉnh (Đắk Nông, Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum) đã tổ chức
cho 13.963 lượt cán bộ, chiến sĩ hành quân dã ngoại về 335 xã, phường,
thị trấn giúp đỡ nhân dân... Ngoài ra, các đơn vị còn tổ chức kết nghĩa
62
giúp đỡ 55 xã, phường và 12 thôn, buôn đồng bào DTTS. Lực lượng
Công an và Bộ đội Biên phòng thường xuyên tăng cường cán bộ, chiến sĩ
phụ trách các địa bàn xung yếu, các xã biên giới, phối hợp cùng cơ sở
tuyên truyền, vận động nhân dân gìn giữ an ninh chính trị [33].
Việc tăng cường cán bộ các ngành, đoàn thể và lực lượng vũ trang xuống cơ
sở là một chủ trương đúng đắn, cấp bách, phù hợp với tình hình và đáp ứng yêu cầu
của từng địa phương, nhằm tham gia làm CTDV, giúp cấp ủy và chính quyền cơ sở
thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, góp
phần xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh toàn diện; phòng ngừa và khắc phục điểm
nóng về an ninh chính trị, giữ vững ổn định chính trị.
Do có sự quan tâm chỉ đạo quyết liệt với nhiều hình thức và biện pháp phù
hợp nên công tác xây dựng Đảng ở cơ sở vùng Tây Nguyên có những chuyển biến
tích cực cả về số lượng và chất lượng.
Số thôn, buôn trắng đảng viên giảm dần, từ 634 thôn buôn (9,4%) cuối
năm 2003, giảm còn 475 (7,4%) cuối năm 2004 và còn 449 (6,6%) quý I
năm 2005 (trong đó, Đắk Lắk còn 140/2.188 = 6,39%; Đắk Nông còn
37/617 = 5,99%; Gia Lai còn 153/1.881 = 8,13%; Kon Tum còn 78/780
= 10%; Lâm Đồng còn 41/1.260 = 3,25%). Số lượng đảng bộ, chi bộ cơ
sở xã, phường và số lượng đảng viên cũng tăng lên. Đến cuối năm 2004,
số đảng viên sinh hoạt tại cơ sở xã, phường là 51.408 người, chiếm
56,33% tổng số đảng viên toàn vùng [121].
Bên cạnh công tác phát triển đảng viên và tổ chức cơ sở đảng, các tỉnh Tây
Nguyên đều tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ DTTS trong HTCT, nhất là HTCT
cơ sở. Nhờ vậy, đội ngũ cán bộ người DTTS ngày càng tăng về số lượng và chất
lượng. Theo Văn phòng Ban Chỉ đạo Tây Nguyên:
Đến năm 2004, toàn vùng Tây Nguyên có 14.400 người cán bộ DTTS từ
cấp xã đến thôn, buôn, chiếm 35,07% tổng số cán bộ, công chức cấp xã
và trưởng thôn, buôn của toàn vùng… Cán bộ thôn, buôn khoảng 6.700
người, già làng 3.050 người (Đắk Lắk 539 người, Đắk Nông 194 người,
Kon Tum 777 người, Gia Lai 880 người, Lâm Đồng 668 người). Như
63
vậy, xét về mặt số lượng, đội ngũ cán bộ DTTS ở cơ sở thuộc các chức
danh đều tăng trung bình so với năm 2002 là 1,4%; tỷ lệ cán bộ DTTS
trong tổng số cán bộ cơ sở có xu hướng tăng từ 31,23% năm 2002 lên
35,07% năm 2004 [121].
Nhìn chung, HTCT cơ sở ở Tây Nguyên từng bước được củng cố và kiện
toàn, số cơ sở "trắng" đảng viên và tổ chức đảng được thu hẹp, đội ngũ cán bộ
DTTS ngày càng trưởng thành, từ đó có sự chuyển biến tích cực trong hoạt động
lãnh đạo, quản lý, điều hành của cấp ủy, chính quyền cơ sở trên các lĩnh vực, trong
đó có CTDV. Tuy nhiên, HTCT cơ sở nhiều nơi vẫn chưa đủ sức, đủ tầm để nắm tình
hình, nắm dân và tự giải quyết, xử lý những vấn đề phức tạp xảy ra trên địa bàn. Việc
thực hiện chủ trương nhanh chóng xóa tình trạng buôn làng chưa có đảng viên và tổ
chức đảng gặp nhiều khó khăn, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào DTTS và
đồng bào có đạo. "Đến tháng 12-2005, còn 371/6.842 thôn buôn chưa có đảng viên
(chiếm 5,4%); 1.602 thôn buôn chưa có tổ chức đảng (chiếm 23,4%). Tỷ lệ đảng viên
là người DTTS chỉ chiếm 16,5% và người có đạo là 1,3% trong tổng số đảng viên
toàn vùng" [15]. Một số địa phương giải quyết tình thế bằng cách điều động đảng
viên đến nơi chưa có tổ chức đảng để lập chi bộ, nhưng hiệu quả lãnh đạo không cao.
Việc thực hiện chủ trương củng cố tổ chức đảng và HTCT xã, huyện trọng điểm còn
chậm; công tác tạo nguồn, quy hoạch, đào tạo và sử dụng cán bộ người DTTS còn
lúng túng, hẫng hụt, chưa đáp ứng được yêu cầu; chưa tập trung đúng mức cho việc
xây dựng HTCT ở thôn buôn đồng bào DTTS và đồng bào có đạo.
2.3.4. Thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở
Thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW, ngày 18-2-1998 của Bộ Chính trị và các
Nghị định của Chính phủ Về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; Chỉ
thị số 10-CT/TW, ngày 28-3-2002 của Ban Bí thư Trung ương Đảng Về tiếp tục đẩy
mạnh việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, các tỉnh Tây Nguyên đã
triển khai tổ chức quán triệt các chỉ thị, nghị định của Đảng và Chính phủ đến toàn
thể cán bộ, đảng viên từ tỉnh đến cơ sở; thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện Quy chế
dân chủ các cấp và xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện; tiến hành sơ kết, tăng
cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.
64
Chính quyền các tỉnh Tây Nguyên đã gắn triển khai Quy chế dân chủ với
việc thực hiện cải cách hành chính; phân công, phân cấp quản lý, xóa bỏ những thủ
tục hành chính phiền hà, tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác tiếp dân, giải
quyết kịp thời đơn thư, khiếu kiện của nhân dân; hướng dẫn xây dựng và thực hiện
quy chế dân chủ trong các cơ quan, doanh nghiệp và hương ước, quy ước trong
cộng đồng dân cư ở thôn, buôn.
Đến năm 2005, gần 100% các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước đã xây
dựng Quy chế dân chủ; phần lớn thôn, buôn đã xây dựng hương ước, quy
ước và các cam kết cộng đồng. Cấp ủy đảng, chính quyền xã, phường, thị
trấn tổ chức cho nhân dân bầu cử trưởng thôn, buôn, tổ dân phố; công
khai cho nhân dân biết những chủ trương, chính sách liên quan trực tiếp
đến quyền và nghĩa vụ của nhân dân, nhất là chính sách đối với đồng bào
DTTS như: đất ở, đất sản xuất, nhà ở... Phần lớn các xã đã thành lập Ban
thanh tra nhân dân và nhiều nơi hoạt động có hiệu quả; tăng cường vai
trò giám sát của Mặt trận, đoàn thể trong việc thực hiện dân chủ và phát
hiện, đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực, nhũng nhiễu của cán bộ
xã, thôn [33].
Thông qua Quy chế dân chủ ở cơ sở với phương châm "Dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra" các địa phương, đơn vị đã áp dụng, thực hiện Quy chế dân
chủ dưới nhiều hình thức đa dạng, phong phú.
Những việc cần thông báo cho nhân dân biết được các xã, phường, thị trấn
thực hiện khá tốt như: chế độ ưu đãi đối với người có công với cách mạng, Luật
Dân sự, Luật hình sự, Luật đất đai, Thuế nhà đất, các quy định về khuyến nông,
khuyến lâm, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi; các văn bản, quy định về thủ tục
hành chính; lịch tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân; dự
toán, quyết toán ngân sách hàng năm...
Những việc nhân dân bàn, tham gia ý kiến, chính quyền xã quyết định đã
được triển khai thực hiện có hiệu quả và được nhân dân nhất trí, đồng tình ủng hộ
như: dự thảo Nghị quyết Hội đồng nhân dân xã; dự thảo kế hoạch phát triển kinh tế
ở địa phương; quy hoạch sử dụng đất đai và quy hoạch khu dân cư; giải tỏa đền bù
và tái định cư cho nhân dân; dự án huy động và sử dụng các khoản đóng góp của
65
nhân dân để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng; giải quyết việc làm cho người lao
động; xây dựng quy ước, hương ước thôn, buôn.
Về dân làm, nhờ phát huy dân chủ ở cơ sở, tận dụng sự hỗ trợ tích cực của
Trung ương, nhiều tiềm năng to lớn trong cộng đồng được khơi dậy và phát huy. Đã
xuất hiện nhiều cách làm ăn mới, nhiều sáng kiến hay từ cơ sở, tinh thần tự quản và
trách nhiệm cộng đồng được nâng cao; có nhiều công trình thực hiện theo phương
châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm" như: điện, đường, trường, trạm, thủy lợi...
được nhân dân hưởng ứng tích cực và mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Về dân kiểm tra, đồng bào được tham gia giám sát, kiểm tra các hoạt động
của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân; tham gia việc giải quyết khiếu nại, tố cáo
của công dân; việc thu, chi, nghiệm thu và quyết toán các công trình do nhân dân
đóng góp; việc thực hiện các chế độ, chính sách... Qua kiểm tra, giám sát, đồng bào
đã phản ánh kịp thời những biểu hiện sai trái trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ của
các đơn vị được giao, giúp cho các cấp ủy, chính quyền có những biện pháp chấn
chỉnh kịp thời và xử lý nghiêm những cán bộ vi phạm.
Nhìn tổng quát, việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đã tạo sự chuyển
biến tích cực trong nhận thức và hành động của cán bộ và nhân dân Tây Nguyên về
dân chủ, làm cho mọi người quan tâm đến trách nhiệm và quyền hạn của mình trong
việc thực hiện phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra", tác động
tích cực trong củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của HTCT ở cơ sở theo
hướng "gần dân, trọng dân, có trách nhiệm với dân", tạo sự đồng thuận trong xã hội,
góp phần quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng,
an ninh trên địa bàn. Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở
một số nơi chưa thật sự đi vào chiều sâu, còn mang tính hình thức, quyền làm chủ
của nhân dân chưa được tôn trọng và phát huy.
2.3.5. Chú trọng công tác vận động đồng bào có đạo
Nhận thức rõ vị trí, tầm quan trọng của công tác vận động đồng bào tôn giáo
trong quá trình thực hiện CTDV, Đảng khẳng định: "Nội dung công tác tôn giáo là
công tác vận động quần chúng... Công tác quản lý nhà nước đối với các tôn giáo và
đấu tranh chống việc lợi dụng tôn giáo để chống đối chế độ chỉ thành công nếu làm
tốt công tác vận động quần chúng" [6].
66
Trước diễn biến phức tạp của vấn đề tôn giáo, đặc biệt là vấn đề Tin lành ở
Tây Nguyên, trong Thông báo Kết luận số 148-TB/TW, ngày 16-7-2004 Về tình
hình, nhiệm vụ và giải pháp để tiếp tục phát triển vùng Tây Nguyên toàn diện, bền
vững, Bộ Chính trị nêu rõ:
Đối với những người theo đạo Tin lành có nhu cầu sinh hoạt tôn giáo thuần
túy, cần cho phép họ đăng ký hoạt động tu hành bình thường, giúp đỡ họ
xây dựng cơ sở thờ tự theo đúng pháp luật. Giáo dục đồng bào không theo
"Tin lành Đê Ga", đồng thời vạch mặt và nghiêm trị những tên FULRO đội
lốt Tin lành để khống chế quần chúng, chống phá đất nước [7].
Tháng 11-2004, tại Hà Nội, Ban Bí thư Trung ương Đảng tổ chức Hội nghị sơ
kết 5 năm thực hiện Thông báo số 184-TB/TW, ngày 30-11-1998 của Thường trực
Bộ Chính trị và Thông báo số 255-TB/TW, ngày 7-10-1999 của Bộ Chính trị (khóa
VIII) Về chủ trương công tác đối với đạo Tin lành trong tình hình mới. Trên cơ sở
tình hình thực tế, các báo cáo và ý kiến phát biểu tại Hội nghị, Ban Bí thư kết luận:
Đối với vấn đề Tin lành ở vùng đồng bào các dân tộc Tây Nguyên... thì
thực hiện theo Thông báo số 148-TB/TW, ngày 16-7-2004 của Bộ Chính
trị Về tình hình, nhiệm vụ và giải pháp để tiếp tục phát triển vùng Tây
Nguyên toàn diện, bền vững... Đối với các chi hội cơ sở chưa được công
nhận tư cách pháp nhân của Tổng Liên hội hội thánh Tin lành Việt Nam
(miền Nam), từng bước xem xét, nơi nào hội đủ những điều kiện theo
quy định của pháp luật thì công nhận và cho sinh hoạt bình thường, tạo
điều kiện thuận lợi về nhà nguyện, đào tạo chức sắc... theo đúng quy
định của pháp luật... [8].
Cụ thể hóa Thông báo 160-TB/TW của Ban Bí thư, ngày 04-02-2005 Thủ
tướng Chính phủ ra Chỉ thị số 01/2005/CT-TTg Về một số công tác đối với đạo Tin
lành, nêu rõ nhiệm vụ:
Tăng cường công tác tuyên truyền, vận động và tạo điều kiện thuận lợi
để các chức sắc, tín đồ Tin lành thực hiện tốt chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo, đưa sinh hoạt tôn giáo
của đạo Tin lành đi vào nền nếp, phù hợp với pháp luật... Kiên quyết đấu
67
tranh với những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng tôn
giáo, đội lốt đạo Tin lành để kích động, lôi kéo đồng bào gây chia rẽ dân
tộc, chống phá đất nước [112].
Chủ trương bình thường hóa vấn đề Tin lành của Đảng và Nhà nước có tác
động tích cực, mang tính đột phá trong việc thực hiện chính sách tôn giáo ở Tây
Nguyên. Trước khi có Thông báo số 160-TB/TW của Ban Bí thư và Chỉ thị
01/2005/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, các tỉnh Tây Nguyên đã quán triệt
Thông báo số 184-TB/TW và Kết luận số 255-TB/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII),
đề ra các nghị quyết, chỉ thị, kế hoạch cụ thể để triển khai thực hiện và đã thu được
một số kết quả trong việc giải quyết vấn đề Tin lành ở Tây Nguyên: Chủ động cho
phép thành lập các Ban đại diện Tin lành cấp tỉnh, làm thí điểm cho đăng ký và hội
đồng ở một số chi hội; từ đó, rút kinh nghiệm, đề xuất chủ trương, chính sách, bước
đi cụ thể; tạo sự chuyển biến trong nhận thức và chỉ đạo thực hiện, từng bước khai
thông lộ trình "bình thường hóa", đưa hoạt động của đạo Tin lành vào quản lý; đồng
thời, tổ chức gặp gỡ, tiếp xúc với các chức sắc, tạo mối qua hệ thân thiện, hiểu biết
lẫn nhau; hướng dẫn, sử dụng một số chức sắc tham gia cùng làm công tác vận động
số người vượt biên trở về, tuyên truyền vạch trần âm mưu, thủ đoạn chống phá cách
mạng của bọn FULRO, vận động những đối tượng đang lẩn trốn ra đầu thú...
Trước những diễn biến phức tạp sau sự kiện tháng 2-2001, ngày 22-6-2001,
Tỉnh ủy Đắk Lắk ban hành Kế hoạch số 01/KH-TU Về đấu tranh xóa bỏ "Tin lành
Đê Ga" và tiếp tục thực hiện chủ trương đối với đạo Tin lành trong tình hình mới,
trong đó nêu rõ:
Việc đấu tranh xóa bỏ "Tin lành Đê Ga" phải được coi là một bộ phận
trong việc đấu tranh chống bọn FULRO phản động. Phải kết hợp nhiều
biện pháp đấu tranh, trong đó, tăng cường CTPĐQC là phương thức cơ
bản, xuyên suốt; chú ý việc vận động Hội thánh Tin lành Việt Nam
(miền Nam) và các chức sắc tiến bộ theo phương châm "dùng đạo giải
quyết việc đạo", từng bước công nhận hợp pháp các chi hội, hội thánh
Tin lành Việt Nam (miền Nam) ở những nơi đủ điều kiện. Dùng Hội
thánh Tin lành hợp pháp để đấu tranh với "Tin lành Đê Ga" [89].
68
Ngày 05-6-2003, Ban Chỉ đạo Tây Nguyên tổ chức Hội nghị Về công tác Tin
lành. Hội nghị khẳng định những kết quả đạt được trong việc giải quyết vấn đề Tin
lành ở Tây Nguyên; đồng thời, đề ra phương hướng giải quyết vấn đề này trong thời
gian tới: "Tăng cường công tác giáo dục, vận động quần chúng, đặc biệt là tín đồ
theo đạo Tin lành nâng cao sự hiểu biết, củng cố lòng tin vào đường lối, chính sách
của Đảng và Nhà nước (chủ trương, chính sách tôn giáo); không để bọn xấu lôi kéo
quần chúng theo đạo và lợi dụng đạo Tin lành để chống phá cách mạng, gây mất ổn
định chính trị" [12].
Thực hiện chủ trương đó, ngày 8-4-2005, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Gia Lai ra
Chỉ thị số 22-CT/TU Về một số công tác đối với đạo Tin lành, nêu rõ:
Tăng cường công tác tuyên truyền, vận động quần chúng tín đồ và chức
sắc đạo Tin lành thực hiện tốt chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước
về tín ngưỡng, tôn giáo; từng bước đưa sinh hoạt của đạo Tin lành vào nề
nếp, phù hợp với pháp luật; vận động chức sắc, tín đồ Tin lành sống "tốt
đời đẹp đạo", "phụng sự Thiên chúa, phục vụ Tổ quốc và dân tộc";
không khuyến khích phát triển đạo Tin lành, nhưng không cấm đồng bào
theo đạo và không phân biệt đối xử với những người có tín ngưỡng, tôn
giáo; chủ động ngăn chặn hoạt động tôn giáo trái pháp luật [94].
Quán triệt chủ trương của Trung ương đối với đạo Tin lành trong tình hình
mới, đến năm 2005, Đảng bộ, chính quyền ở các tỉnh Tây Nguyên đều ban hành chỉ
thị, kế hoạch nhằm cụ thể hóa Thông báo số 160 của Ban Bí thư và Chỉ thị số 01
của Thủ tướng Chính phủ; tổ chức khảo sát, đánh giá lại hiện trạng đạo Tin lành.
Trên cơ sở đó, đẩy nhanh việc công nhận chi hội đủ điều kiện và cho đăng ký sinh
hoạt điểm, nhóm tại buôn làng, khắc phục dần tình trạng lén lút nhóm họp ở buôn,
làng, nương rẫy; quan tâm giải quyết nơi thờ tự để tín đồ có nơi sinh hoạt tôn giáo
ổn định; tạo điều kiện phong chức, phục chức, đào tạo mục sư một cách hợp lý; cho
phép mở các khóa bồi dưỡng hàm thụ thần học để giải quyết vấn đề chức sắc cho
các hội thánh cơ sở. Các cấp ủy đảng, chính quyền đã quan tâm đẩy mạnh CTPĐQC
ở vùng có đạo; lựa chọn, bồi dưỡng, xây dựng lực lượng cốt cán; vận động các chức
sắc, tín đồ tôn giáo tích cực hưởng ứng các phong trào thi đua yêu nước và các cuộc
69
vận động do Mặt trận Tổ quốc phát động, xây dựng cuộc sống "tốt đời đẹp đạo",
tham gia các hoạt động từ thiện, nhân đạo; hạn chế những hoạt động tôn giáo trái
phép, đấu tranh loại bỏ tổ chức phản động FULRO và "Tin lành Đê Ga", góp phần
làm thất bại âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, giữ vững an
ninh chính trị trên địa bàn.
Nhìn tổng quát, chủ trương "bình thường hóa" hoạt động đối với đạo Tin
lành đã tác động rất lớn đến nhận thức, tư tưởng của đông đảo quần chúng tín đồ,
chức sắc tôn giáo; giải tỏa tâm lý của chức sắc, tín đồ cho rằng Nhà nước cấm đạo
Tin lành ở Tây Nguyên; củng cố lòng tin trong quần chúng có đạo. Ở những nơi, chi
hội đạo Tin lành được công nhận hợp pháp, sinh hoạt tôn giáo đi vào ổn định, quần
chúng tín đồ chấp hành các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước; chính quyền nắm và quản lý được các hoạt động của giáo sĩ. Nhiều mục sư,
truyền đạo đã tích cực hợp tác với chính quyền, cam kết hoạt động tôn giáo theo
đường hướng của Hội thánh "Sống Phúc âm, phụng sự Thiên Chúa, phục vụ Tổ
quốc", kiên quyết bác bỏ "Tin lành Đê Ga". Tuy nhiên, công tác tôn giáo trong giai
đoạn (2001-2005) đạt kết quả không cao, vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế: Một số cấp
ủy, chính quyền, cán bộ, đảng viên chưa quán triệt nghiêm túc và thực hiện đúng
những quan điểm chỉ đạo của Đảng về công tác tôn giáo nói chung và đối với đạo
Tin lành nói riêng. Có tư tưởng coi Tin lành là phản động, là lực lượng của FULRO
nên tìm cách ngăn cản, cấm đoán bằng biện pháp hành chính. Điều này đã làm cho
đồng bào có đạo mặc cảm, xa lánh chính quyền, tiến hành sinh hoạt đạo lén lút; tạo
cơ hội cho bọn phản động vu cáo chính quyền, lôi kéo, kích động, khống chế đồng
bào; đồng thời, gây nên những khó khăn trong quan hệ quốc tế. Do nhận thức của
cán bộ, đảng viên đối với Tin lành chưa thống nhất nên việc tiến hành rà soát, đánh
giá, phân loại, đăng ký sinh hoạt, giải quyết các nhu cầu chính đáng đối với đạo Tin
lành còn chậm trễ và đạt hiệu quả chưa cao; công tác tuyên truyền, vận động quần
chúng tín đồ, tranh thủ các chức sắc, chức việc, xây dựng lực lượng cốt cán trong
tôn giáo chưa được quan tâm đúng mức; một bộ phận đồng bào còn ngộ nhận, chưa
phân biệt được đạo Tin lành chính thống với "Tin lành Đê Ga", cho rằng "Tin lành
Đê Ga" là tôn giáo riêng của người DTTS Tây Nguyên, để kẻ xấu lợi dụng, lôi kéo
tham gia "Tin lành Đê Ga".
70
2.3.6. Xây dựng lực lƣợng nòng cốt làm công tác dân vận
Lực lượng nòng cốt là "tai, mắt" của cấp ủy, chính quyền trong việc cung cấp
thông tin để giúp cho sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền sát với tình hình
thực tiễn, nắm được thực chất tâm tư, nguyện vọng của đồng bào, đưa ra những
quyết sách chính xác, kịp thời. Chính lực lượng nòng cốt ở cơ sở thôn, buôn là
những người gần dân, hiểu dân nhất nên khả năng vận động, thuyết phục quần
chúng rất có hiệu quả.
Nhận thức đúng vai trò quan trọng của lực lượng nòng cốt làm CTDV trong
tình hình mới, cấp ủy, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể ở các tỉnh Tây Nguyên
đã coi trọng việc xây dựng lực lượng nòng cốt, nhất là nòng cốt trong đồng bào
DTTS và đồng bào có đạo. Xem đây là một nhiệm vụ trọng tâm và cấp bách, là
trách nhiệm của cả HTCT, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả CTDV ở địa
phương, cơ sở. Hầu hết các tỉnh Tây Nguyên đều có nghị quyết, kế hoạch xây dựng
lực lượng nòng cốt trong hệ thống Ban Dân vận, Mặt trận và các đoàn thể.
Thực hiện chủ trương của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Đắk Lắk tại Hội nghị
tổng kết CTPĐQC 03 năm (2001-2004), ngày 24-9-2004 Về xây dựng lực lượng cốt
cán làm CTDV, Ban Dân vận Tỉnh ủy đã ra Kế hoạch số 622-KH/DVTU, ngày 14-
3-2005 Về xây dựng lực lượng cốt cán trong hệ thống Ban Dân vận, Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể quần chúng các cấp ở khu dân cư. Kế hoạch nêu rõ mục đích,
yêu cầu, tiêu chuẩn, nhiệm vụ của cốt cán; đồng thời, đề ra biện pháp, cách thức tổ
chức thực hiện. Kế hoạch đã xác định rõ yêu cầu trọng tâm xây dựng lực lượng cốt
cán trong quần chúng nhân dân, đó là:
Già làng và người tiêu biểu ở thôn, buôn, trong đoàn viên, hội viên của
hệ thống Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể. Phương châm xây dựng lực
lượng cốt cán là: nòng cốt, gương mẫu, năng động, tin cậy, trách nhiệm.
Thời gian tiến hành xây dựng lực lượng cốt cán: bước 1, phấn đấu từ nay
đến hết quý II/2005 mỗi huyện, thành phố chọn 2-3 thôn, buôn, tổ dân
phố, nhất là buôn đồng bào DTTS xây dựng từ 1-2 cá nhân cốt cán trong
quần chúng nhân dân; bước 2, sơ kết, rút kinh nghiệm, triển khai thực
hiện trong toàn địa bàn xong trong quý IV/2005 [25].
71
Tại tỉnh Gia Lai, các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể đều
có sự chuyển biến tích cực về nhận thức và trách nhiệm trong công tác xây dựng lực
lượng cốt cán ở cơ sở.
So với trước năm 2001, công tác xây dựng lực lượng nòng cốt chưa được
quan tâm, thì nay đã được quan tâm xây dựng và phát triển với tỷ lệ bình
quân hàng năm tăng 17,45%. Công tác tranh thủ chức sắc các tôn giáo,
vận động các già làng, trưởng thôn, những người tiêu biểu có uy tín trong
cộng đồng dân cư có nhiều tiến bộ. Tỷ lệ cơ cấu nòng cốt là người
DTTS, người có đạo không ngừng được tăng lên (người DTTS là
39,33%, người có đạo 9,54%) [28, tr.100-101].
Nhìn chung, các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể trên địa
bàn Tây Nguyên đã có sự chuyển biến về nhận thức và hành động trong việc xây
dựng lực lượng nòng cốt làm CTDV từ cấp tỉnh cho đến các buôn, làng. Do đó, lực
lượng này có sự phát triển về số lượng và chất lượng. Số lượng nòng cốt có xu
hướng tăng lên, năm sau cao hơn năm trước. Về chất lượng, đa số nòng cốt đã phát
huy được vai trò tiêu biểu, gương mẫu, luôn đi đầu hưởng ứng các phong trào cách
mạng ở các địa phương, cơ sở. Trên lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội, lực lượng
nòng cốt là những người đi đầu, tích cực vận động các tầng lớp nhân dân tham gia
phát triển sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa; xóa
đói giảm nghèo; thực hiện cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa ở khu dân cư"; tham gia các hoạt động từ thiện, nhân đạo. Trên lĩnh vực an
ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, lực lượng nòng cốt đã tích cực phối hợp với
các tổ chức trong HTCT để nắm bắt tình hình, tâm tư, nguyện vọng nhân dân, vận
động nhân dân nâng cao cảnh giác, tham gia truy quét, bóc gỡ các tổ chức phản
động FULRO, kêu gọi những người bị lầm lỗi trở về đoàn tụ với gia đình; đấu tranh
với các hoạt động móc nối, lôi kéo, kích động đồng bào tham gia biểu tình, bạo loạn
và vượt biên trái phép.
Tuy nhiên, công tác xây dựng lực lượng nòng cốt làm CTDV còn những hạn
chế, yếu kém: Lực lượng nòng cốt có số lượng ngày càng tăng, nhưng chất lượng và
hiệu quả chưa cao, chủ yếu mới dừng lại ở góc độ tuyên truyền, vận động và gương
72
mẫu đi đầu trong các phong trào ở địa phương, còn ở góc độ thu thập thông tin, nắm
bắt tình hình báo cáo cho tổ chức và trực tiếp tham gia giải quyết những vụ việc
phức tạp ở cơ sở còn nhiều hạn chế, có nơi chưa làm được. Công tác xây dựng nòng
cốt trong vùng đồng bào DTTS, đồng bào có đạo chưa được quan tâm đúng mức, có
nơi còn cho rằng nòng cốt ở vùng đồng bào DTTS và đồng bào có đạo chủ yếu là
những cán bộ Mặt trận và các đoàn thể là chính, nên tỷ lệ nòng cốt là người DTTS
và người có đạo còn ít, chưa đáp ứng được yêu cầu.
Tiểu kết chƣơng 2
Từ năm 2001 đến năm 2005, trước những diễn biến phức tạp tại Tây
Nguyên, Đảng đã kịp thời đề ra những chủ trương, giải pháp đúng đắn, phù hợp
nhằm tạo sự ổn định và phát triển bền vững vùng Tây Nguyên. Đặc biệt, sự ra đời
Nghị quyết số 10-NQ/TW của Bộ Chính trị và Ban Chỉ đạo Tây Nguyên đã đáp ứng
được nhu cầu của thực tiễn, đánh dấu một bước ngoặt phát triển mới đối với vùng
Tây Nguyên trên các mặt, trong đó có CTDV của Đảng. Quán triệt chủ trương và sự
chỉ đạo của Đảng về CTDV trong tình hình mới, các cấp, các ngành và các tỉnh Tây
Nguyên đã tập trung lãnh đạo cả HTCT hướng về cơ sở làm CTDV, từng bước tạo
chuyển biến trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, quá trình triển khai
thực hiện CTDV trên địa bàn cũng bộc lộ những hạn chế, khuyết điểm: Công tác
dân vận chưa được triển khai một cách thường xuyên, liên tục, còn nặng về hình
thức; nội dung còn thiếu cụ thể, chưa sát hợp với từng đối tượng, nhiều chủ trương,
chính sách chưa đến được với dân, nên việc phát huy tính chủ động, sáng tạo, tự
giác của nhân dân tham gia các phong trào cách mạng còn hạn chế; lực lượng tham
gia CTDV đông nhưng nắm dân, nắm tình hình vẫn chưa chắc nên còn bị động đối
phó khi có tình huống phức tạp xảy ra, sự phối hợp giữa các lực lượng chưa chặt
chẽ nên hiệu quả CTDV không cao.
Những kết quả đạt được cùng với những hạn chế, yếu kém trong CTDV của
Đảng ở Tây Nguyên giai đoạn 2001-2005, đã tạo ra những điều kiện, tiền đề cho
Tây Nguyên phát triển; đồng thời, để lại những kinh nghiệm quý báu cho các cấp bộ
đảng tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo CTDV trong giai đoạn tiếp theo.
73
Chƣơng 3
ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC DÂN VẬN
Ở TÂY NGUYÊN TỪ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2010
3.1. TÌNH HÌNH MỚI VÀ CHỦ TRƢƠNG CỦA ĐẢNG VỀ CÔNG TÁC
DÂN VẬN Ở TÂY NGUYÊN TỪ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2010
3.1.1. Tình hình mới tác động đến công tác dân vận ở Tây Nguy n
Tình hình thế giới
Trong những năm 2006-2010, tình hình thế giới diễn biến hết sức phức tạp,
khó lường; thời cơ và nguy cơ đan xen với nhau. Hòa bình và hợp tác là xu thế
chung của tất cả các quốc gia, dân tộc nhưng chủ nghĩa dân tộc cực đoan, xung đột
sắc tộc, dân tộc, tôn giáo, hoạt động khủng bố, can thiệp, lật đổ, ly khai tiếp tục gia
tăng. Kinh tế thế giới tiếp tục phục hồi và phát triển nhưng vẫn tiềm ẩn những yếu
tố bất trắc khó lường. Toàn cầu hóa về kinh tế và cách mạng khoa học - công nghệ
tiếp tục có những bước đột phá, nhảy vọt vừa tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng
chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng đối với các nước đang phát triển, khoảng
cách chênh lệch giữa các nhóm nước giàu và nước nghèo ngày càng lớn; tình trạng
khan hiếm nguồn năng lượng, cạn kiệt nguồn tài nguyên, môi trường tự nhiên bị
hủy hoại, khí hậu diễn biến ngày càng xấu, kèm theo những thiên tai khủng khiếp
và các dịch bệnh lớn. Đó là những yếu tố vừa tạo ra cơ hội để tiến lên, vừa là thách
thức gây mất ổn định, đe dọa sự phát triển bền vững.
Tình hình trong nước
Những thành tựu đạt được sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần
thứ IX và sau 20 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới đã tạo cơ hội để nước ta phát
triển kinh tế với nhịp độ nhanh và chất lượng cao hơn. Tuy nhiên, đất nước cũng
phải đối mặt với nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực
và thế giới. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn liền với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí
vẫn diễn ra nghiêm trọng, chưa được ngăn chặn có hiệu quả. Các thế lực thù địch
vẫn đang ráo riết thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình", gây bạo loạn, lật đổ, sử
74
dụng các chiêu bài "dân chủ", "nhân quyền", "dân tộc", "tôn giáo" hòng làm thay
đổi chế độ chính trị ở nước ta.
Tình hình ở Tây Nguyên
Đảng, Nhà nước tiếp tục quan tâm đầu tư và có những chính sách phát triển
kinh tế - xã hội mang tính đặc thù, tạo cơ sở cho kinh tế - xã hội ở Tây Nguyên phát
triển năng động, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào các
dân tộc trên địa bàn. Các cấp, các ngành và các địa phương trên địa bàn đã tích lũy
được kinh nghiệm và tích cực, chủ động hơn trong lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực
hiện các nhiệm vụ chính trị, nhất là đối với vùng DTTS, nên an ninh chính trị vùng
Tây Nguyên cơ bản giữ vững ổn định. Tuy nhiên, tình hình Tây Nguyên vẫn tiềm
ẩn nguy cơ phức tạp về nhiều mặt: Tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn
chậm và chưa vững chắc; cơ sở hạ tầng thiếu đồng bộ, chưa tương xứng với lợi thế,
tiềm năng; việc thực hiện chính sách dân tộc còn nhiều thiếu sót, chưa tạo được cơ
sở và niềm tin giúp đồng bào phát huy ý chí tự lực, tự cường vươn lên. Các mặt sản
xuất và đời sống trong vùng đồng bào DTTS tuy có chuyển biến nhưng chưa đáp
ứng yêu cầu, nguồn lực đầu tư cho vùng DTTS tăng nhưng còn phân tán, chủ yếu là
cứu đói và giải quyết tiêu dùng trước mắt, chưa sử dụng có hiệu quả tiền, vốn hỗ trợ
của Nhà nước để vươn lên thoát nghèo một cách căn bản và có phần tạo nên tâm lý
ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước, không cố gắng vươn lên thoát nghèo;
còn chậm trễ và thiếu quyết tâm trong thực hiện các chủ trương, chính sách đối với
vùng DTTS như giải quyết đất sản xuất, đất ở; giao đất giao rừng, tổ chức nghề
rừng, giải quyết việc làm, thu hút lao động người DTTS vào nông, lâm trường.
Bên cạnh đó, các thế lực thù địch và bọn phản động FULRO lưu vong tiếp
tục thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình", lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo,
dân chủ, nhân quyền để chống phá. Bọn FULRO lưu vong ráo riết tìm phương thức
mới đấu tranh đòi thành lập "Nhà nước Đê Ga", kích động biểu tình, bạo loạn, tạo
cớ để bên ngoài can thiệp, âm mưu "quốc tế hóa" vấn đề Tây Nguyên. Ở bên trong,
mặc dù bị trấn áp, truy quét và tiêu hao về lực lượng, nhưng số lẩn trốn và cơ sở
ngầm của FULRO chưa bị triệt phá hết, chúng vẫn tiếp tục móc nối xây dựng lực
lượng, phục hồi tổ chức, khi có điều kiện, thời cơ thì tổ chức biểu tình, bạo loạn và
75
vượt biên trái phép; công tác quản lý, cải tạo, giáo dục các đối tượng FULRO ở
buôn làng chưa hiệu quả nên có nguy cơ tái hoạt động trở lại; tư tưởng ly khai, tự
trị, tâm lý dân tộc hẹp hòi vẫn còn tồn tại trong một bộ phận đồng bào DTTS. Đây
chính là những điều kiện để FULRO tiếp tục tồn tại và hoạt động trong vùng DTTS,
tiềm ẩn nhiều nguy cơ phức tạp không thể xem thường. Theo Báo cáo của Ban Chỉ
đạo Tây Nguyên: "Đến năm 2006, ở 4 tỉnh Tây Nguyên (trừ Lâm Đồng) có khoảng
145 làng thuộc 80 xã, thị trấn của 27 huyện, thành phố có dấu hiệu phức tạp về an
ninh chính trị; có 64 làng, 24 xã, 7 huyện (6 huyện ở Gia Lai, 1 huyện ở Đắk Lắk)
có dấu hiệu phục hồi "Tin lành Đê Ga" [18].
Tình hình đồng bào DTTS vượt biên trái phép tuy đã giảm dần, nhưng vẫn
diễn biến phức tạp trên địa bàn. Do chưa triệt phá hết các đường dây móc nối, đưa
đón bên trong; do tiền, hàng từ nước ngoài gửi về đã tác động đến tâm lý của một
bộ phận đồng bào DTTS muốn vượt biên; mặt khác, ở biên giới Campuchia, một số
tổ chức nước ngoài vẫn tiếp tục tìm, đón, nuôi giấu người vượt biên, nên đã tác
động trực tiếp đến việc vượt biên trái phép.
Tình hình an ninh nông thôn vẫn diễn biến phức tạp, liên tục xảy ra các vụ
việc tụ tập đông người tham gia, liên quan đến tranh chấp, khiếu kiện, đòi đất đai,
chống người thi hành công vụ, xô xát giữa thanh niên người Kinh với thanh niên
người DTTS, giữa đồng bào DTTS với một số nông, lâm trường và cơ quan nhà
nước. Một số vụ việc đối tượng tham gia có hành vi quá khích, manh động dẫn đến
hành hung, xô xát tập thể.
Những khó khăn về kinh tế, đời sống cộng với việc tuyên truyền xuyên tạc,
kích động của các thế lực thù địch đã tác động vào tâm lý và tình cảm của đồng bào
DTTS, làm cho một bộ phận đồng bào có tư tưởng tự ti, mặc cảm, ly khai, tự trị,
phân biệt Kinh - Thượng, ảnh hưởng không nhỏ đến khối đại đoàn kết các dân tộc
trên địa bàn. Đây là những thách thức lớn đối với sự phát triển ổn định của vùng
Tây Nguyên, nhất là đối với CTDV trên địa bàn này.
3.1.2. Chủ trương của Đảng về đẩy mạnh công tác dân vận ở Tây Nguyên
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (4-2006) đã kiểm điểm tình hình thực hiện
Nghị quyết Đại hội IX của Đảng và đề ra phương hướng, nhiệm vụ 5 năm 2006-
76
2010 là: "Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức
mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt
mọi nguồn lực cho CNH, HĐH đất nước…" [51, tr.76].
Từ thực tiễn xây dựng Đảng trong những năm đổi mới, Đại hội X của Đảng
đã đúc kết nhiều bài học kinh nghiệm, trong đó có bài học về CTDV:
Đảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm
chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Phải xây dựng
các thiết chế mở rộng và phát huy dân chủ, bảo đảm các chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước đều có sự tham gia xây dựng của nhân dân,
phản ánh ý chí, lợi ích của nhân dân, của quốc gia, dân tộc. Cán bộ, đảng
viên và công chức phải thực sự là công bộc của nhân dân [51, tr.277].
Trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế, nhằm phát huy
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, Đại hội khẳng định:
Đại đoàn kết toàn dân tộc… dưới sự lãnh đạo của Đảng, là đường lối
chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ
yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Lấy mục tiêu giữ vững độc lập,
thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh làm điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các dân tộc, các
tôn giáo, các tầng lớp nhân dân ở trong nước và người Việt Nam định cư
ở nước ngoài [51, tr.116].
Thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng, nhằm phát huy sức mạnh toàn
dân tộc thực hiện mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại, Đảng đặc biệt chú trọng đến CTDV. Trong 5 năm
(2006-2010), Trung ương Đảng và Bộ Chính trị đã liên tiếp ra các Nghị quyết quan
trọng về CTVĐQC, đó là: Nghị quyết số 11-NQ/TW, ngày 27-4-2007 Về công tác
phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Nghị quyết số
20-NQ/TW, ngày 28-1-2008 Về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Nghị quyết số 25-NQ/TW,
ngày 25-7-2008 Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày
77
5-8-2008 Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 6-
8-2008 Về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
Ngày 08-12-2009, Bộ Chính trị ra Kết luận số 62-KL/TW Về tiếp tục đổi mới
nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể
chính trị - xã hội, đề ra 6 nhiệm vụ và giải pháp tiếp tục đổi mới nội dung, phương
thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị- xã hội
trong tình hình mới.
Nhằm nâng cao trách nhiệm lãnh đạo và thực hiện CTDV của các cấp ủy
đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, của mọi cán bộ, đảng viên,
đoàn viên, hội viên; đồng thời, xác định rõ cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, tổ
chức trong thực hiện CTDV, ngày 25-2-2010, Bộ Chính trị ra Quyết định số 290-
QĐ/TW Về việc ban hành Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị. Đây là
cơ sở rất quan trọng cho việc nâng cao hiệu quả CTDV trong toàn bộ HTCT, phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong
tình hình mới.
Như vậy, trong những năm 2006-2010, chủ trương, quan điểm về CTDV của
Đảng được bổ sung và phát triển ngày càng sâu sắc và toàn diện hơn. Điều đó được
thể hiện ở những điểm chủ yếu sau:
Thứ nhất, Dân vận và CTDV là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với toàn
bộ sự nghiệp cách mạng nước ta, là điều kiện quan trọng bảo đảm cho sự lãnh đạo
của Đảng và củng cố, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với
nhân dân. Vì vậy, Đảng cần phải tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo CTDV nhằm giữ
vững ổn định chính trị - xã hội, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện
thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ hai, CTDV là nhiệm vụ của cả HTCT mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ
chức đảng, được thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức. Trong đó "các chủ
trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng
đầu" [51, tr.117]; "Mọi đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước
đều vì lợi ích của nhân dân, có sự tham gia ý kiến của nhân dân" [51, tr.125].
Thứ ba, các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân phải thường xuyên quan tâm làm tốt CTDV theo chức năng, nhiệm vụ
78
được giao. "Tổ chức và động viên nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu
nước, làm kinh tế giỏi, phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa - xã hội…
Chăm lo và bảo vệ lợi ích của các tầng lớp nhân dân, bảo đảm công bằng xã hội.
Tôn trọng và phát huy vai trò gương mẫu, dẫn dắt của những người tiêu biểu, có uy
tín trong cộng đồng dân cư, các dân tộc, các tôn giáo…" [51, tr.117]; "Các cấp ủy
đảng và chính quyền có chế độ tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với nhân dân; thường
xuyên lắng nghe ý kiến của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân phản ánh với Đảng,
Nhà nước những vấn đề mà nhân dân quan tâm, tham gia xây dựng chủ trương,
chính sách, pháp luật" [51, tr.124].
Thứ tư, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc đổi mới nội dung,
phương thức hoạt động của Mặt trận, các đoàn thể nhân dân và các hội quần chúng,
khắc phục tình trạng hành chính hóa, phô trương, hình thức của các tổ chức này;
làm tốt CTDV theo phong cách trọng dân, gần dân và có trách nhiệm với dân.
Thứ năm, thực hiện cơ chế phối hợp chặt chẽ, đồng bộ, thống nhất và có hiệu
quả giữa các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của
CTDV trong các tầng lớp nhân dân.
Quan điểm, chủ trương của Đảng về đẩy mạnh CTDV nêu trên, cùng với
những quan điểm chỉ đạo, nhiệm vụ, giải pháp mà Nghị quyết số 10-NQ/TW và Kết
luận số 148 của Bộ Chính trị (khóa IX) đã nêu, có giá trị định hướng chỉ đạo CTDV
trên địa bàn Tây Nguyên, góp phần đắc lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội và bảo
đảm quốc phòng, an ninh của vùng.
Để tăng cường hơn nữa vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của các Ban Chỉ đạo:
Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ, ngày 03-10-2007, Bộ Chính trị ban hành
Quy định số 89-QĐ/TW Về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức, bộ máy, địa
bàn hoạt động, quan hệ công tác, chế độ, chính sách cán bộ của các Ban Chỉ đạo:
Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ. Trong đó, xác định rõ 4 nhiệm vụ, quyền hạn
của các Ban Chỉ đạo:
- Chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc các bộ, ngành, địa phương triển khai thực
hiện nghị quyết, chỉ thị, quyết định của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Thủ
79
tướng Chính phủ về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc
phòng, công tác dân tộc, tôn giáo, xây dựng HTCT trên địa bàn.
- Nghiên cứu, tham mưu, đề xuất với Đảng và Chính phủ về cơ chế,
chính sách cùng các giải pháp cần chỉ đạo để thực hiện có hiệu quả
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, công
tác dân tộc, tôn giáo, xây dựng HTCT trên địa bàn.
- Chỉ đạo và tổ chức phối hợp các lực lượng, cơ quan chức năng của
Trung ương và các địa phương đấu tranh ngăn chặn mọi âm mưu, hoạt
động chống phá của các thế lực thù địch; xử lý kịp thời những tình huống
đột xuất về an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, giữ vững ổn định
chính trị, xã hội trên địa bàn.
- Tổ chức sơ kết, tổng kết và định kỳ báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Thủ
tướng Chính phủ về thực hiện các nhiệm vụ công tác của Ban Chỉ đạo [9].
Về tổ chức bộ máy của các Ban Chỉ đạo: Bộ Chính trị phân công một đồng chí Ủy
viên Bộ Chính trị làm Trưởng Ban. Bộ phận chuyên trách Ban Chỉ đạo gồm Cơ quan
Thường trực và Văn phòng Ban Chỉ đạo. Trong đó, Cơ quan Thường trực Ban Chỉ đạo
gồm: Một đồng chí Ủy viên Trương ương Đảng làm Phó trưởng ban Thường trực; một số
đồng chí Phó trưởng ban chuyên trách và ủy viên chuyên trách. Cơ quan Thường trực có 4
Vụ tham mưu, giúp việc: Vụ Kinh tế - Xã hội, Vụ An ninh - Quốc phòng, Vụ Dân tộc -Tôn
giáo và Vụ Xây dựng HTCT.
Bộ phận kiêm nhiệm Ban Chỉ đạo gồm: Các đồng chí Bí thư Tỉnh ủy, Thành ủy hoặc
Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Tư lệnh Quân khu, Quân
đoàn trên địa bàn và đại diện lãnh đạo một số ban, bộ, ngành Trung ương: Bộ Công an, Bộ
Quốc phòng, Bộ Ngoại giao, Bộ Nội vụ (Ban Tôn giáo Chính phủ), Bộ Kế hoạch và Đầu tư,
Bộ Tài chính, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Giáo dục
và Đào tạo, Bộ Y tế, Ủy ban Dân tộc, Văn phòng Chính phủ, Ủy ban Kiểm tra Trung ương,
Ban Tổ chức Trung ương, Ban Dân vận Trung ương, Ban Tuyên giáo Trung ương. Khi cần
thiết, Ban Bí thư chỉ định bổ sung đại diện lãnh đạo một số bộ, ban, ngành Trung ương, địa
phương tham gia Ban Chỉ đạo. Các Ban Chỉ đạo chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chính trị,
Ban Bí thư, Thủ tướng Chính phủ; Ban Chỉ đạo làm việc theo nguyên tắc tập thể thảo luận,
80
Trưởng Ban kết luận và chỉ đạo thực hiện; Ban Chỉ đạo họp 6 tháng một lần và họp bất
thường khi cần thiết.
Về địa bàn hoạt động, theo Quy định: Ban Chỉ đạo Tây Nguyên hoạt động trên địa
bàn các tỉnh: Gia Lai, Kon Tum, Đắk Lắk, Lâm Đồng, Đắk Nông và các huyện miền núi của
các tỉnh: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Phước.
Để tham mưu, giúp việc cho Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, Cơ quan Thường trực Ban
Chỉ đạo không ngừng được kiện toàn, củng cố về tổ chức, bộ máy, cán bộ; từng bước đổi
mới cơ chế hoạt động; tích cực, chủ động xây dựng và triển khai các chương trình, kế hoạch
công tác hàng năm; từng bước chuyển công việc trọng tâm từ nắm tình hình là chính sang
nghiên cứu, đề xuất, tham mưu theo lĩnh vực, chuyên đề. Đặc biệt, sau khi có Quy định số
89-QĐ/TW của Bộ Chính trị, chức năng, nhiệm vụ, quan hệ phối hợp và địa bàn công tác
của Ban Chỉ đạo được xác định rõ hơn; tổ chức, bộ máy tiếp tục được tăng cường củng cố
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
Nhằm tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW của Bộ Chính trị trong
giai đoạn mới, ngày 05-02-2008, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số
25/2008/QĐ-TTg Về việc ban hành một số cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển kinh
tế - xã hội đối với các tỉnh vùng Tây Nguyên đến năm 2010. Quyết định nêu rõ:
Nhiệm vụ trọng tâm hiện nay của các tỉnh Tây Nguyên là củng cố chính
quyền cơ sở. Các tỉnh cần củng cố, kiện toàn hệ thống chính trị từ buôn,
làng theo hướng tự quản. Đổi mới nội dung, nâng cao chất lượng hoạt
động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp xã. Kết hợp chặt
chẽ việc xây dựng, củng cố chính quyền cơ sở với cải cách hành chính,
thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Đổi mới nội dung và phương thức
hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội cho sát dân hơn [114].
Với những chủ trương, quan điểm chỉ đạo nói trên, CTDV của Đảng ở Tây
Nguyên cần được đẩy mạnh theo hướng:
- Mục tiêu công tác dân vận của Đảng ở Tây Nguyên: Tiếp tục giữ vững ổn
định chính trị - xã hội; phát triển kinh tế - xã hội, không ngừng nâng cao đời sống
cho nhân dân, củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc; chủ động đập
tan mọi âm mưu nhen nhóm, phục hồi tổ chức FULRO bên trong, ngăn chặn có hiệu
81
quả âm mưu của các thế lực thù địch và bọn phản động bên ngoài, không để xảy ra
biểu tình, bạo loạn và vượt biên trái phép; không ngừng xây dựng HTCT cơ sở
vững mạnh, đủ sức tổ chức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của địa phương.
- Phương châm công tác dân vận: Không ngừng đổi mới nội dung, phương
thức, nâng cao chất lượng và hiệu quả của CTDV sát với yêu cầu của thực tế.
Hướng mạnh về cơ sở, lấy thôn, buôn, khu dân cư và hộ gia đình làm địa bàn vận
động; phát triển đảng viên, đoàn viên, hội viên và những người có uy tín trong cộng
đồng làm nòng cốt để đoàn kết, tập hợp quần chúng; đặc biệt phải chú ý vận động
lực lượng phụ nữ, thanh niên, đồng bào DTTS tại chỗ, đồng bào các tôn giáo. Khẩu
hiệu hành động là "gần dân, hiểu dân, nghe dân nói, nói dân hiểu và làm dân tin,
giúp cho dân vươn lên no ấm và tiến bộ".
- Nhiệm vụ và giải pháp đẩy mạnh công tác dân vận:
Thứ nhất, tăng cường công tác chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra, sơ kết, tổng kết
của các ban, bộ, ngành Trung ương và các tỉnh Tây Nguyên để thúc đẩy thực hiện
tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với vùng Tây Nguyên,
trong đó có chủ trương về CTDV. Các ngành, các cấp cần đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, vận động đồng bào các dân tộc tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chủ
trương, chính sách về phát triển kinh tế - xã hội, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về tổ
chức sản xuất, giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, phát triển giáo dục, y tế,
văn hóa cho các buôn, làng vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào DTTS.
Thứ hai, công tác dân vận trên địa bàn Tây Nguyên trong tình hình mới phải
bám sát các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước;
đồng thời, đề ra được những nội dung, hình thức, phương pháp CTDV một cách
linh hoạt, sáng tạo và phù hợp với thực tế Tây Nguyên.
Thứ ba, thực hiện đồng bộ các biện pháp bảo đảm an ninh chính trị, nắm
chắc tình hình an ninh, tôn giáo, dân tộc; tăng cường tuyên truyền, giáo dục chính
trị, tư tưởng và pháp luật cho đồng bào; chủ động phát hiện, xử lý kịp thời các hoạt
động nhen nhóm, hình thành tổ chức, móc nối hoạt động của bọn FULRO; kiên
quyết không để xảy ra biểu tình, bạo loạn, vượt biên ồ ạt, không để bị động, bất
ngờ; tập trung chỉ đạo giải quyết kịp thời các khiếu kiện, mâu thuẫn giữa đồng bào
DTTS với các nông, lâm trường... không để xảy ra xung đột, điểm nóng.
82
Thứ tư, tiếp tục quán triệt Thông báo 160-TB/TW của Ban Bí thư và Chỉ thị
số 01/2005/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ Về một số chủ trương công tác đối
với đạo Tin lành, làm cho cả HTCT nhận thức đầy đủ hơn việc giải quyết, tạo điều
kiện thuận lợi cho các tôn giáo nói chung và đạo Tin lành nói riêng hoạt động đúng
tôn chỉ và mục đích của tôn giáo. Tập trung giải quyết những vấn đề liên quan đến
hoạt động tôn giáo sau đăng ký; làm tốt công tác vận động chức sắc, tín đồ; giải
quyết các tranh chấp, khiếu nại liên quan đến tôn giáo; kiên quyết xử lý số đối
tượng lợi dụng tôn giáo hoạt động trái pháp luật, xâm phạm an ninh quốc gia.
Thứ năm, tập trung chỉ đạo củng cố HTCT cơ sở, nhất là xây dựng tổ chức
đảng và phát triển đảng viên; phấn đấu khắc phục tình trạng buôn, thôn "trắng"
đảng viên và tổ chức cơ sở đảng; tiếp tục tăng cường cán bộ về cơ sở; chú trọng
việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cơ sở, nhất là cán bộ người DTTS.
Thứ sáu, nâng cao trách nhiệm, tổ chức phối hợp chặt chẽ, đồng bộ và thống
nhất giữa các ban, bộ, ngành Trung ương và các tỉnh Tây Nguyên trong việc thực
hiện các nhiệm vụ CTDV trên địa bàn. Xây dựng cơ chế phối hợp thực hiện CTDV
giữa các bộ, ban, ngành ở Trung ương và địa phương; cơ chế phối hợp giữa Mặt
trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội với chính quyền và lực lượng vũ trang
trên địa bàn với những nội dung cụ thể, thiết thực, hiệu quả.
Tổng quát lại, chủ trương và quan điểm chỉ đạo của Đảng nêu trên là cơ sở
thúc đẩy CTDV ở Tây Nguyên có những bước phát triển trong giai đoạn mới.
3.2. QUÁ TRÌNH CHỈ ĐẠO ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA
ĐẢNG Ở TÂY NGUYÊN TỪ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2010
Quán triệt quan điểm, chủ trương của Đảng về đẩy mạnh CTDV trên địa bàn
Tây Nguyên trong tình hình mới, việc triển khai thực hiện CTDV ở Tây Nguyên từ
năm 2006 đến năm 2010 được thể hiện trên những lĩnh vực chủ yếu sau:
3.2.1. Vận động nhân dân đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội
Trong giai đoạn 2006-2010, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ tiếp tục ban
hành các nghị quyết, quyết định về phát triển kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc, miền
núi nói chung và vùng Tây Nguyên nói riêng, đó là: Quyết định số 07/2006/QĐ-
TTg, ngày 10-1-2006 của Thủ tướng Chính phủ Về phê duyệt Chương trình Phát
triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi
83
giai đoạn 2006-2010; Quyết định số 30/2007/QĐ-TTg, ngày 05-3-2007 của Thủ
tướng Chính phủ Về ban hành Danh mục các đơn vị hành chính thuộc vùng khó
khăn; Quyết định số 166/QĐ-TTg, ngày 30-10-2007 của Thủ tướng Chính phủ Về
việc ban hành chính sách hỗ trợ đầu tư và hưởng lợi đối với hộ gia đình, cộng đồng
dân cư thôn và các tổ chức tham gia dự án "Phát triển lâm nghiệp để cải thiện đời
sống vùng Tây Nguyên"; Quyết định số 25/2008/QĐ-TTg, ngày 05-2-2008 của Thủ
tướng Chính phủ Về việc ban hành một số cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển kinh
tế - xã hội đối với các tỉnh vùng Tây Nguyên đến năm 2010; Quyết định số
69/2008/QĐ-TTg, ngày 28-5-2008 của Thủ tướng Chính phủ Về việc phê duyệt bổ
sung danh sách xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu vào diện đầu tư
Chương trình 135 giai đoạn II và danh sách xã ra khỏi diện đầu tư của Chương
trình 135 giai đoạn II. Đối với 5 tỉnh Tây Nguyên, có 19 huyện, 27 xã nằm trong
chương trình (Phụ lục 9); Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP, ngày 27-12-2008 của
Chính phủ Về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện
nghèo. Đối với Tây Nguyên, hai tỉnh Kon Tum, Lâm Đồng (gồm có 03 huyện) nằm
trong chương trình (Phụ lục 8).
Quán triệt chủ trương của Trung ương, cấp ủy, chính quyền các tỉnh Tây
Nguyên đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách, giải pháp đặc thù để phát triển kinh
tế - xã hội vùng đồng bào DTTS; huy động nguồn lực từ các dự án, chương trình
mục tiêu quốc gia để đầu tư phát triển sản xuất, xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời
sống cho đồng bào. Tỉnh ủy Kon Tum ra Chỉ thị số 03-CT/TU, ngày 22-9-2006 Về
tăng cường chỉ đạo công tác vận động quần chúng tham gia bảo vệ an ninh biên
giới và phát triển kinh tế - xã hội ở các huyện, các xã biên giới; Nghị quyết số 04-
NQ/TU, ngày 14-06-2007 Về đẩy mạnh xây dựng các xã đặc biệt khó khăn; Tỉnh ủy
Lâm Đồng ra Nghị quyết số 09-NQ/TU, ngày 31-10-2006 Về tập trung nguồn lực
tiếp tục đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh vùng dân
tộc thiểu số giai đoạn 2006-2010; Tỉnh ủy Đắk Lắk ban hành Chương trình số 09-
CTr/TU, ngày 07-11-2006 Về giảm nghèo giai đoạn 2006-2010; Tỉnh ủy Gia Lai ra
Nghị quyết số 08-NQ/TU, ngày 8-3-2007 Về việc tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động
xóa đói, giảm nghèo, định canh định cư giai đoạn 2007-2010 và định hướng đến
84
năm 2020; Tỉnh ủy Đắk Nông ra Nghị quyết số 13-NQ/TU, ngày 5-7-2007 Về giảm
nghèo giai đoạn 2007- 2010 và phương hướng, nhiệm vụ 2011-2015…
Thực hiện các chỉ thị, nghị quyết trên, các tỉnh Tây Nguyên đã tập trung các
nguồn lực đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội ở các xã, buôn làng vùng sâu, vùng
xa, vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào DTTS nhằm nhanh chóng xóa bỏ những
nghèo nàn, lạc hậu; không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân ở những nơi này.
Tại tỉnh Kom Tum, thực hiện chủ trương: "Tập trung xây dựng các xã, thôn,
làng đặc biệt khó khăn thành cộng đồng phát triển kinh tế bền vững, đoàn kết, có
cuộc sống no đủ, vững mạnh, an toàn; sớm giảm khoảng cách chênh lệch phát triển
giữa các xã đặc biệt khó khăn với vùng thị trấn, thị xã" [98], Ban Thường vụ Tỉnh
ủy đã củng cố, kiện toàn Ban Chỉ đạo thực hiện Nghị quyết số 04-NQ/TU Về đẩy
mạnh xây dựng các xã đặc biệt khó khăn, theo hướng chuyên sâu, thực hiện tốt việc
nghiên cứu, đề xuất, tham mưu cho Ban Thường vụ Tỉnh ủy trong chỉ đạo, hướng
dẫn, kiểm tra việc tổ chức thực hiện các chủ trương, cơ chế, chính sách đối với các
xã đặc biệt khó khăn trên địa bàn tỉnh; đã rà soát, phân công lại 67 cơ quan, đơn vị
kết nghĩa với 52 xã (trong đó 12/14 xã trọng điểm đặc biệt khó khăn được phân
công mỗi xã 2 cơ quan, đơn vị kết nghĩa); thành lập đoàn kiểm tra, giám sát ở 3 xã,
3 huyện và 4 cấp ủy, chi bộ; tổ chức tập huấn cho 120 cán bộ của các cơ quan, đơn
vị kết nghĩa xây dựng xã về các chương trình, dự án, chính sách của Chính phủ, của
tỉnh đối với các xã đặc biệt khó khăn. Các cơ quan, đơn vị của tỉnh được phân công
kết nghĩa, xây dựng xã đã kiện toàn các tổ, đội công tác giúp xã; chủ động xây dựng
chương trình, kế hoạch tổ chức triển khai thực hiện; có 41 cơ quan, đơn vị bố trí cán
bộ chuyên trách để giúp xã, thôn. Các cơ quan, đơn vị đã bám sát các chỉ tiêu, kế
hoạch của huyện giao và tình hình thực tế của xã để giúp xã xây dựng kế hoạch và
tổ chức thực hiện; giúp xã thực hiện việc lồng ghép các chương trình, dự án, chính
sách đối với đồng bào DTTS như: Chương trình 135 giai đoạn II, dự án giảm nghèo
Miền Trung, dự án vay vốn, hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi cho các hộ phát triển
sản xuất… Kết quả, "đến năm 2009, có 90 thôn, làng được công nhận đạt chuẩn no
đủ, vững mạnh, an toàn; trong đó, các cơ quan, đơn vị đã giúp xã xây dựng 65 thôn,
làng ở 50 xã" [99].
85
Tại tỉnh Đắk Lắk, thực hiện Nghị quyết số 04-NQ/TU, ngày 17-11-2004 của
Tỉnh ủy Về phát triển kinh tế - xã hội buôn, thôn đồng bào dân tộc thiểu số đến năm
2010, tỉnh đã triển khai thực hiện thí điểm tại 13 buôn của 13 huyện, thành phố, với
tổng số vốn đầu tư 6,5 tỷ đồng (mỗi buôn 500 triệu đồng) để xây dựng mô hình chăn
nuôi bò theo hộ hoặc nhóm hộ, nuôi cá, trồng cỏ chăn nuôi, trồng cây công nghiệp,
cây ăn quả giống mới, cải tạo vườn tạp… Đồng thời, cử cán bộ hướng dẫn kỹ thuật
trồng trọt, chăn nuôi cho các hộ gia đình nhằm đảm bảo các mô hình mang lại hiệu
quả kinh tế. Ngoài ra, việc đầu tư giải quyết đất ở, nhà ở, đất sản xuất và nước sinh
hoạt cho đồng bào DTTS theo Quyết định số 134/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ
được tỉnh triển khai tích cực và có hiệu quả, tạo cơ sở ổn định cuộc sống cho đồng
bào DTTS tại chỗ, góp phần quan trọng vào công tác xóa đói giảm nghèo, đảm bảo
an ninh trật tự buôn, thôn; củng cố lòng tin của đồng bào DTTS đối với Đảng và Nhà
nước. "Tổng kinh phí được huy động là 385,5 tỷ đồng, trong đó ngân sách Trung
ương hỗ trợ 124 tỷ đồng, ngân sách tỉnh 252,4 tỷ đồng, các nguồn vốn khác 9,1 tỷ
đồng. Kết quả thực hiện đến năm 2010 đã hoàn thành 100% kế hoạch đề ra" [92].
Ở tỉnh Đắk Nông, ngoài các chính sách chung của Trung ương, tỉnh còn có
các chủ trương và giải pháp đặc biệt để hỗ trợ phát triển vùng đồng bào DTTS như:
Chương trình phát triển bền vững 12 bon, buôn; chương trình kết nghĩa giữa các cơ
quan, đơn vị với bon, buôn; chính sách hỗ trợ kinh phí cho học sinh, sinh viên
người DTTS… Bằng nhiều nguồn vốn, "tỉnh đã đầu tư trên 550 tỷ đồng để giải
quyết các vấn đề kinh tế - xã hội ở vùng đồng bào DTTS" [49, tr.30]. Qua đó, tinh
thần đoàn kết các dân tộc ngày càng cao trong việc giúp nhau xóa đói giảm nghèo,
góp phần giữ vững ổn định chính trị và phát triển kinh tế; đời sống vật chất và tinh
thần của đồng bào DTTS tại chỗ từng bước nâng cao, hạn chế tình trạng du canh, du
cư, phá rừng làm nương rẫy.
Công tác xóa đói giảm nghèo trên địa bàn được triển khai rộng khắp, huy
động có hiệu quả sức mạnh tổng hợp của cả HTCT và các nguồn lực vì mục tiêu
giảm nghèo. Đã xuất hiện nhiều mô hình, cách làm hay, đem lại hiệu quả thiết thực
trong công tác xóa đói giảm nghèo. Tiêu biểu là mô hình "Phân công giúp hộ
nghèo" ở huyện Đắk Đoa, tỉnh Gia Lai; cụ thể là: Sau khi tiến hành khảo sát, tìm ra
86
nguyên nhân nghèo, nhu cầu chính đáng và thiết thực của các hộ nghèo, Ban
Thường vụ Huyện ủy Đắk Đoa triển khai thực hiện kế hoạch, phân công trách
nhiệm cho từng cá nhân giúp hộ nghèo theo tinh thần mỗi huyện ủy viên, trưởng các
phòng, ban, ngành, đoàn thể cấp huyện và thủ trưởng các cơ quan, đơn vị đóng trên
địa bàn huyện đăng ký giúp 5 hộ nghèo; mỗi cấp ủy tổ chức cơ sở đảng đăng ký
giúp 10 hộ nghèo. Đến năm 2010, có 52 cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện và 44
cấp ủy tổ chức cơ sở đảng đăng ký giúp đỡ 648 hộ nghèo (trong đó có 556 hộ
đồng bào DTTS, chiếm 85,8% số hộ được giúp đỡ). Với phương châm ba cùng:
"cùng ăn, cùng ở, cùng làm" và tinh thần "gần dân, trọng dân, tin dân, có trách
nhiệm với dân", các cán bộ được phân công đã tiếp cận hộ nghèo và có những biện
pháp hỗ trợ thiết thực, có hiệu quả như: Tư vấn cho các hộ nghèo về cách thức sản
xuất phù hợp, chuyển đổi cây trồng, vật nuôi, áp dụng khoa học - kỹ thuật trong
sản xuất và cuộc sống; hướng dẫn, tư vấn vay vốn đầu tư sản xuất và tiếp cận với
các dự án hỗ trợ của Chính phủ; góp ý về chi tiêu trong gia đình một cách hợp lý,
tiết kiệm để đầu tư mở rộng sản xuất; vận động đồng bào ăn chín, uống sôi, ốm
đau phải đến trạm y tế xã và thực hiện nếp sống văn hóa mới… Kết quả, đến năm
2010, có 378 hộ đã thật sự thoát nghèo, đạt 58,3% tổng số hộ được khảo sát vào
đầu năm 2009. Sau khi đã thoát nghèo, Huyện ủy tiếp tục chỉ đạo các tổ chức cơ
sở đảng, các cá nhân được phân công có kế hoạch giúp các hộ thoát nghèo bền
vững, tránh tái nghèo.
Mô hình không những giúp các hộ nghèo xóa bỏ tự ti, mặc cảm, tư tưởng
trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước, sự hỗ trợ của xã hội để vươn lên thoát
nghèo và làm giàu chính đáng, mà còn giúp cán bộ, đảng viên gần dân,
hiểu dân hơn, nắm rõ tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân,
đặc biệt là tầng lớp lao động nghèo, phát huy tính tự lực tự cường của
nhân dân… tạo được sự đồng thuận cao trong xã hội, nhân dân phấn
khởi, hăng hái thi đua lao động sản xuất [35, tr.23].
Kết quả, trên toàn vùng Tây Nguyên, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh: "Giai đoạn
2006-2010, xóa gần 111 nghìn hộ nghèo, giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 22,85% xuống
10,34%, bình quân giảm 3,16%/năm (theo chuẩn năm 2005); riêng vùng DTTS
giảm từ 47,8% xuống 19,9% và cơ bản giải quyết được tình trạng thiếu đói" [24];
87
(Phụ lục 7). Riêng tỉnh Đắk Lắk, trong 5 năm (2005-2010) đã giảm được 50.747 hộ
nghèo, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 27,55% năm 2005 xuống còn dưới 10% cuối năm
2010, bình quân mỗi năm giảm trên 10.149 hộ nghèo, tỷ lệ hộ nghèo giảm
3,5%/năm, thu nhập của nhóm hộ nghèo từ 154.600 đồng/người/tháng năm 2005
tăng lên 388.200 đồng/người/tháng năm 2010 (tăng 2,51 lần), tỷ lệ hộ nghèo DTTS
giảm từ 48,26% năm 2005 xuống còn 21% năm 2010 [119].
Công tác định canh định cư tiếp tục được triển khai gắn với việc tổ chức lại
sản xuất và ổn định dân cư trong vùng đồng bào DTTS.
Đến năm 2010, có trên 87% số hộ đã định canh định cư. Chương trình
132, 134 về giải quyết đất ở, đất sản xuất, nhà ở, nước sinh hoạt cho
đồng bào DTTS được triển khai thực hiện quyết liệt, đã giải quyết được
639 ha đất ở cho 15.470 hộ và 29.200 ha đất sản xuất cho hơn 56.000 hộ.
Riêng chương trình 134 đã làm mới, sửa chữa 58.249 căn nhà, cấp nước
sinh hoạt cho 78.000 hộ, giải quyết 5.726 ha đất sản xuất cho 16.934 hộ.
Đã thí điểm giao khoán 116.470 ha rừng cho 7.320 hộ thiếu đất sản xuất
[24] (Phụ lục 10).
Công tác xây dựng đời sống văn hóa, phát huy giá trị văn hóa truyền thống,
loại bỏ hủ tục, hình thành nếp sống văn minh, gia đình văn hóa được các cấp, các
ngành quan tâm chỉ đạo thực hiện. Đến năm 2010, các tỉnh Tây Nguyên đã xây dựng
1.353 nhà sinh hoạt văn hóa cộng đồng, 733 nhà rông văn hóa. Nhà nước đã đầu tư
hàng chục tỷ đồng nghiên cứu, sưu tầm văn học dân gian; phục hồi di sản văn hóa
cồng chiêng, tổ chức biên soạn luật tục của các dân tộc; khuyến khích bảo tồn các
buôn làng cổ truyền, phát triển nghề thủ công và khôi phục các lễ hội văn hóa.
Tuy đã đạt được những thành tựu quan trọng, nhưng kinh tế - xã hội trong
vùng DTTS Tây Nguyên vẫn còn nhiều vấn đề nan giải: Việc tổ chức lại sản xuất
còn trong tình trạng manh mún, chuyển đổi tập quán từ tự túc tự cấp sang sản xuất
hàng hóa chậm, chưa thực hiện có kết quả chính sách giao đất, giao rừng cho cộng
đồng DTTS tại chỗ; kết quả giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo chưa vững
chắc, tình trạng tái nghèo, cận nghèo còn cao. Đến năm 2010, "số hộ nghèo toàn
vùng là 262.880 hộ, chiếm tỷ lệ 22,48%; tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào DTTS là
45% và tỷ lệ hộ cận nghèo 7,51%" [24].
88
3.2.2. Vận động quần chúng giải quyết vấn đề FULRO
Những năm 2006 - 2010, tình hình an ninh chính trị ở Tây nguyên vẫn diễn
biến phức tạp, tiềm ẩn những nguy cơ không thể xem thường và thực tế đã xảy ra
cuộc biểu tình, gây rối vào tháng 4-2008 trên một số địa bàn ở 3 tỉnh Gia Lai, Đắk
Lắk, Phú Yên. Cuộc bạo loạn xảy ra từ ngày 11 đến ngày 14-4-2008, đã lôi kéo
1.028 người DTTS ở 35 buôn làng của 19 xã thuộc 9 huyện tham gia (Gia Lai: 8 vụ,
có 880 người tham gia ở 28 làng của 15 xã, 6 huyện; Đắk Lắk: 2 vụ, có 103 người
tham gia ở 6 làng, 3 xã, 2 huyện; Phú Yên: 01 vụ với 45 người tham gia ở 01 làng).
Các cuộc biểu tình, gây rối đều có sự chỉ đạo trực tiếp của bọn FULRO lưu vong
đối với các đối tượng cốt cán FULRO bên trong, kích động thân nhân của những
người bị bắt hoặc đang thi hành án ở từng buôn làng tham gia biểu tình. Phần lớn
các vụ biểu tình lần này diễn ra dưới hình thức bất bạo động với quy mô nhỏ lẻ ở
phạm vi từng buôn làng; nhiều vụ có sự chỉ đạo, tổ chức, chuẩn bị trước về lực
lượng, cách thức tiến hành, băng rôn, truyền đơn, khẩu hiệu. Khẩu hiệu và yêu sách
của những người biểu tình mang nội dung chính trị rõ nét: Đòi thả những người
DTTS đang bị tù, bị bắt; đòi trả lại đất đai của người "Đê Ga"; đòi tự do, bình đẳng
cho người "Đê Ga" và người dân tộc có tôn giáo riêng…
So với các cuộc bạo loạn năm 2001, 2004, lần này các lực lượng chức năng
đã phát hiện sớm ý đồ chỉ đạo biểu tình của FULRO lưu vong và có kế hoạch chủ
động phòng, chống ở những địa bàn trọng điểm. Tuy nhiên, vẫn để xảy ra biểu tình
ở nhiều địa bàn, lôi kéo trên 1.000 người DTTS tham gia. Sở dĩ còn tình hình trên là
do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, nhưng nguyên nhân chủ yếu là do:
Vấn đề FULRO ở Tây Nguyên chưa được giải quyết một cách triệt để; trong khi đó,
HTCT cơ sở nhiều nơi năng lực hoạt động còn yếu, chưa nắm chắc dân, nắm chắc
tình hình ở từng buôn làng để chủ động giải quyết kịp thời những vấn đề xảy ra ở cơ
sở, nhất là đấu tranh ngăn chặn, xử lý ngay từ đầu những âm mưu, hoạt động của
bọn FULRO.
Trước tình hình đó, ngày 12-5-2008, tại thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai,
Thường trực Ban Chỉ đạo Tây Nguyên đã tổ chức Hội nghị rút kinh nghiệm về giải
quyết các vụ biểu tình đã xảy ra. Hội nghị nêu rõ quan điểm chỉ đạo: "Vấn đề
89
FULRO ở Tây Nguyên là vấn đề chính trị, gắn với quần chúng dân tộc. Do đó, cần
coi trọng CTVĐQC, nâng cao nhận thức về chính trị, tư tưởng, chống âm mưu chia
rẽ Kinh - Thượng, Lương - Giáo nhằm xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc;
đồng thời, gắn với việc răn đe, xử lý bằng pháp luật những đối tượng gây chia rẽ
làm mất ổn định" [19]. Trên cơ sở đó, Hội nghị đề ra 5 nhiệm vụ cấp bách để giải
quyết vấn đề FULRO ở Tây Nguyên:
- Nâng cao hiệu quả của công tác nắm tình hình, tổ chức phòng, chống
biểu tình, bạo loạn, vượt biên và đấu tranh xóa bỏ FULRO.
- Tập trung chỉ đạo một cách tích cực, quyết liệt và có hiệu quả để phát
triển sản xuất, cải thiện đời sống vùng đồng bào DTTS.
- Tiếp tục thực hiện tốt chính sách tôn giáo và công tác tôn giáo, gắn với
đấu tranh xóa bỏ hoàn toàn "Tin lành Đê Ga".
- Kiện toàn, củng cố lại thực lực và HTCT cơ sở, nhất là ở những địa bàn
trọng điểm.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền đối ngoại, làm cho các nước hiểu đầy
đủ về tình hình Tây Nguyên [19].
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại văn bản số
835/VPCP-NC (22-8-2008), ngày 13-10-2008, tại thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh
Đắk Lắk, Thường trực Ban Chỉ đạo Tây Nguyên đã chủ trì phối hợp với Ban Dân
vận Trung ương, Ban Tổ chức Trung ương, Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức
Hội nghị bàn về công tác tư tưởng, vận động quần chúng, nâng cao năng lực của
HTCT cơ sở nhằm chủ động giải quyết vấn đề FULRO vùng Tây Nguyên. Hội nghị
đã kết luận một số vấn đề cần tập trung chỉ đạo về nội dung tuyên truyền, vận động
quần chúng và nâng cao năng lực hoạt động của HTCT cơ sở nhằm giải quyết một
cách căn bản vấn đề FULRO ở Tây Nguyên:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức của quần chúng trên cơ sở xây dựng nội
dung tuyên truyền sát với từng đối tượng về âm mưu, thủ đoạn của bọn
FULRO; về đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước…
Thứ hai, tăng cường hơn nữa CTVĐQC, đáp ứng yêu cầu của tình hình
mới theo hướng sâu sát cơ sở, sát quần chúng với phương châm: "Nghe
90
dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin"; "Đảng tin dân, dân tin Đảng"…Tăng
cường các hoạt động kết nghĩa, giúp đỡ giữa các cơ quan, đơn vị với các
buôn, làng đồng bào DTTS một cách thực chất và có hiệu quả hơn.
Thứ ba, tập trung chỉ đạo kiện toàn và nâng cao chất lượng, hiệu quả
hoạt động của HTCT cơ sở… Tăng cường phối hợp các lực lượng trên
địa bàn, thống nhất lãnh đạo, chỉ đạo gắn với phân công trách nhiệm cụ
thể, tạo sức mạnh tổng hợp để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ [21].
Tiếp theo, ngày 24-6-2009, tại thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, Ban
Chỉ đạo Tây Nguyên phối hợp với Tổng cục An ninh (Bộ Công an) tổ chức Hội
nghị công tác quần chúng giải quyết vấn đề FULRO, trong đó, tập trung bàn về
công tác quản lý, giáo dục, cảm hóa đối tượng liên quan đến hoạt động FULRO tại
cộng đồng và đấu tranh giải quyết "Tin lành Đê Ga". Hội nghị kết luận:
Cốt lõi của công tác quản lý, giáo dục, cảm hóa đối tượng và đấu tranh
giải quyết "Tin lành Đê Ga" là công tác quần chúng... Đây vừa là nhiệm
vụ cấp bách, vừa cơ bản, lâu dài, có ý nghĩa quan trọng trong việc phát
huy vai trò, sức mạnh của quần chúng nhân dân tham gia giải quyết vấn
đề FULRO ở Tây Nguyên. Đẩy mạnh công tác giáo dục, vận động cá
biệt, giáo dục tập trung; chú trọng mô hình tổ chức quản lý, giáo dục
đối tượng theo gia đình, dòng họ. Phát huy vai trò của già làng, chức
sắc, người có uy tín trong đồng bào DTTS; dựa vào phong tục tập quán
của đồng bào để quản lý, giáo dục đối tượng, giúp họ hòa nhập cộng
đồng [22].
Để thực hiện các chủ trương, giải pháp nêu trên, cấp ủy, Ban Tuyên giáo các
cấp đã chỉ đạo các lực lượng làm công tác tư tưởng, nhất là các phương tiện thông
tin đại chúng, tuyên truyền miệng làm tốt công tác đấu tranh tư tưởng, phản bác các
luận điệu xuyên tạc lịch sử, sự thật về quan hệ giữa các dân tộc ở Tây Nguyên.
Ban Tuyên giáo các tỉnh ở Tây Nguyên đã biên soạn tài liệu tuyên
truyền, phản bác cái gọi là "Nhà nước Đê Ga" và một số tài liệu khác,
cung cấp, bồi dưỡng cho các đoàn công tác để tuyên truyền, giải thích
cho đồng bào, đấu tranh bác bỏ các luận điệu phản động của địch. Thực
91
hiện "xây" đi đôi với "chống", trong đó lấy "xây" làm chính. Thường
xuyên đẩy mạnh tuyên truyền, quảng bá những thành tựu đổi mới ở Tây
Nguyên… Làm nổi bật hình ảnh Tây Nguyên tươi đẹp, giàu tiềm năng,
lợi thế, các dân tộc đoàn kết phấn đấu xây dựng Tây Nguyên giàu mạnh
[109, tr.117-118].
Ban Dân vận Tỉnh ủy các tỉnh Tây Nguyên đẩy mạnh tổ chức nhiều đợt phát
động quần chúng, vận động các tầng lớp nhân dân đoàn kết phát triển kinh tế - xã
hội, xóa đói giảm nghèo, vận động đồng bào không nghe theo luận điệu tuyên
truyền của kẻ xấu, đẩy lùi âm mưu "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch.
Tại tỉnh Gia Lai, thực hiện Thông báo số 768-TB/TU, ngày 11-8-2008 của Bí thư
Tỉnh ủy Về công tác phòng chống biểu tình, bạo loạn, Ban Dân vận Tỉnh ủy đã phối
hợp với các ban, ngành liên quan làm tốt công tác nắm tình hình, phân tích thông
tin, nhận định, đánh giá tính chất, quy mô, âm mưu, thủ đoạn của địch, nắm nguyện
vọng quần chúng nhân dân để tham mưu Tỉnh ủy có chủ trương, giải pháp phù hợp.
Đồng thời, tiếp tục thực hiện chủ trương phân công các sở, ngành phụ trách xã, thôn
buôn trọng điểm, tăng cường bám dân, phát động quần chúng ở các địa bàn khó
khăn, phức tạp.
Tỉnh ủy Gia Lai đã ban hành Quyết định số 184-QĐ/TU, thành lập 7 Đội
CTVĐQC với thành phần từ cấp Phó các sở, ban, ngành cấp tỉnh xuống
các địa bàn phức tạp để kịp thời giúp cơ sở củng cố thực lực chính trị,
tham gia trực tiếp phòng chống biểu tình, bạo loạn và xây dựng khu vực
phòng thủ ở cơ sở. Đồng thời, ra công văn hướng dẫn hệ thống dân vận
các huyện, thị, thành ủy và các lực lượng làm CTDV tăng cường lực
lượng xuống cơ sở, nắm diễn biến tình hình, tham mưu cấp ủy, chính
quyền đẩy mạnh CTVĐQC góp phần đảm bảo an ninh chính trị, trật tự
xã hội trên địa bàn [2, tr.386-387].
Tại tỉnh Đắk Lắk, Đội CTPĐQC chuyên trách được tiếp tục duy trì, thường
xuyên củng cố và tăng cường từ tỉnh đến cơ sở. Hoạt động của các Đội công tác
ngày càng gắn với cơ sở, cùng với tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận, đoàn thể
xã, thôn buôn thực hiện CTDV, mang lại những hiệu quả thiết thực. "Đến năm
92
2010, toàn tỉnh có 115 Đội CTPĐQC chuyên trách cơ sở hoạt động tại 115/184 xã,
phường, thị trấn; 15 Đội CTPĐQC chuyên trách cấp huyện, thị, thành phố và 01
Đội CTPĐQC của tỉnh được kiện toàn đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng và
hoạt động có hiệu quả" [90].
Từ năm 2005 đến năm 2009, hệ thống Dân vận, Đội công tác của huyện,
cơ sở đã tổ chức phát động quần chúng trên 9.000 buổi ở tất cả các thôn,
buôn, với 1.230.000 lượt người tham dự. Qua công tác bám buôn, nắm
tình hình, Đội công tác các cấp đã nắm được 450 nguồn tin, trong đó có
nhiều nguồn tin có giá trị, giúp cho các cơ quan chức năng kịp thời đấu
tranh ngăn chặn hoạt động phá hoại của FULRO và bọn phản động.
Đồng thời, Đội công tác đã tham gia đấu tranh bóc gỡ 65 cơ sở ngầm của
FULRO trong buôn; cảm hóa, giáo dục trên 150 đối tượng có quá khứ
lầm lỡ trở thành người tốt; Đội công tác chuyên trách các cấp đã phối
hợp với cấp ủy, chính quyền, Mặt trận, các đoàn thể và các ngành chức
năng tổ chức đưa 110 đối tượng vượt biên không thành ra kiểm điểm
trước dân [26].
Tại tỉnh Đắk Nông, nhằm đáp ứng yêu cầu CTVĐQC trong giai đoạn mới,
tháng 5-2007, Ban Dân vận Tỉnh ủy đã xây dựng Đề án 233-ĐA/BDV Về việc
thành lập Đội công tác vận động quần chúng xây dựng cơ sở giai đoạn 2007-2010;
đồng thời, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Quyết định số 465-QĐ/TU, ngày
28-9-2007 Về việc phê duyệt Đề án thành lập Đội CTVĐQC xây dựng cơ sở. Thực
hiện Quyết định trên, tỉnh Đắk Nông "đã thành lập được 22 Đội CTVĐQC xây
dựng cơ sở với tổng số 97 thành viên (49 thành viên là đảng viên, chiếm 50,5%; 78
thành viên là người DTTS, chiếm 80,04%), ở 22 xã, phường, thị trấn, thuộc 8
huyện, thị xã" [27]. Đội trưởng các Đội công tác là Phó Bí thư Đảng ủy xã, phường,
thị trấn; thành viên Đội công tác gồm: cán bộ chính quyền, đoàn thể cơ sở, già làng,
trưởng thôn, buôn và những người có uy tín trong vùng đồng bào DTTS, vùng tôn
giáo. Với phương thức hoạt động bám dân, bám địa bàn, các Đội công tác đã thực
hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao, tích cực phối hợp với các ban, ngành, Mặt
trận, các đoàn thể và các lực lượng vũ trang tập trung tuyên truyền chủ trương,
93
chính sách của Đảng và Nhà nước đến các tầng lớp nhân dân, nhất là chính sách dân
tộc, chính sách tôn giáo; phát hiện và đấu tranh với những phần tử phản động lôi
kéo, kích động đồng bào chống phá cách mạng; tham gia củng cố, xây dựng HTCT
cơ sở; góp phần thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh
quốc phòng, củng cố khối đại đoàn kết các dân tộc trên địa bàn.
Công tác quản lý, giáo dục, cảm hóa đối tượng liên quan đến FULRO đang
sống tại cộng đồng được các địa phương, các lực lượng trên địa bàn Tây Nguyên
chú trọng và đạt được những kết quả tích cực: Từng bước có sự chuyển biến trong
nhận thức và hành động của cấp ủy, chính quyền, Mặt trận, đoàn thể các cấp; tranh
thủ được sự đồng tình, ủng hộ của đông đảo quần chúng, kết hợp chặt chẽ giữa biện
pháp nghiệp vụ của Công an với công tác quần chúng và công tác chính trị tư tưởng
trong việc tham gia quản lý, giáo dục, cảm hóa đối tượng. Công tác này đã được
tiến hành với nhiều hình thức, biện pháp phong phú và linh hoạt; đóng vai trò quan
trọng trong việc phân hóa lực lượng, đấu tranh bóc gỡ FULRO, "Tin lành Đê Ga",
làm thất bại âm mưu lôi kéo quần chúng, kích động biểu tình, bạo loạn của bọn
phản động, góp phần giữ vững an ninh chính trị vùng Tây Nguyên.
Các cơ quan chức năng, Đội công tác, chính quyền địa phương đã vận động
những người có uy tín trong đồng bào DTTS, nhất là trí thức, già làng, trưởng các
dòng họ, các chức sắc tôn giáo tiến bộ, Việt kiều là người DTTS định cư ở Mỹ về
thăm thân và kể cả một số đối tượng lầm lỗi đã hối cải tiến bộ làm nòng cốt trong
việc tuyên truyền, vận động, dùng "người thật, việc thật" để tác động đến từng đối
tượng, giúp họ nhận thức được việc làm sai trái, cam kết trước cộng đồng và gia
đình không tái phạm; ngoài ra, thông qua hình thức họp dân, đưa hàng trăm đối
tượng sai phạm ra công khai kiểm điểm. Ở một số nơi Hội đồng già làng đã áp dụng
luật tục để xử lý các đối tượng liên quan đến hoạt động FULRO, "Tin lành Đê Ga",
vượt biên trái phép. Công tác quản lý, giáo dục, cảm hóa đối tượng FULRO được
thực hiện có hiệu quả ở nhiều nơi, xuất hiện nhiều mô hình tốt. Tiêu biểu là ở xã Hà
Bầu, huyện Đắk Đoa, tỉnh Gia Lai do Công an tỉnh chỉ đạo. Mô hình này được triển
khai theo hướng: Tập trung kiểm điểm, giáo dục cá biệt, huy động lực lượng của
nhiều cấp, nhiều ngành, phát huy tối đa vai trò của chính quyền thôn, già làng,
94
người có uy tín, chức sắc tôn giáo, các cơ quan đoàn thể từ huyện xuống thôn,
làng cùng tham gia vào công tác quản lý, giáo dục đối tượng. Do đó, đã phát huy
được sức mạnh của cả HTCT tham gia vào công tác quản lý, giáo dục đối tượng
tại cộng đồng, tạo điều kiện cho số đối tượng tiến bộ tái hòa nhập cộng đồng, ổn
định cuộc sống.
Các tỉnh (Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông) có đường biên giới giáp
Lào và Campuchia đã phối hợp với bộ đội Biên phòng đẩy mạnh việc xây dựng mô
hình quần chúng tham gia tự quản đường biên, giữ gìn an ninh trật tự thôn, làng và
nhóm hộ tự quản trong đồng bào có đạo để mỗi hộ gia đình có đạo tự giác và vận
động con em của mình chấp hành nghiêm các chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước, không nghe theo lời xúi giục, lừa phỉnh, kích động của bọn phản động để
phục hồi "Tin lành Đê Ga", vượt biên trái phép.
Cùng với những hoạt động trên, công tác ngoại giao đã có những bước đi
thích hợp, biện pháp phù hợp; thông qua nhiều kênh khác nhau, có sự phối hợp
đồng bộ ở bên trong và bên ngoài, giữa các bộ, ngành Trung ương và các địa
phương để đấu tranh vạch trần âm mưu, thủ đoạn của bọn phản động FULRO và
các thế lực thù địch trước cộng đồng quốc tế; cung cấp đầy đủ các bằng chứng cho
quốc tế hiểu rõ những chủ trương, chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước đối
với Tây Nguyên nói chung, đối với đồng bào DTTS và đối với tôn giáo nói riêng;
những thành tựu đạt được trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội và đảm bảo tự do tín
ngưỡng tại Tây Nguyên. Đồng thời, có nhiều hoạt động tiếp xúc, tuyên truyền đối
ngoại và tác động đến một số cá nhân trong Quốc hội Mỹ, Nghị viện Châu Âu và
các tổ chức quốc tế để tranh thủ sự ủng hộ, làm giảm sức ép về vấn đề "dân chủ,
nhân quyền, dân tộc, tôn giáo" từ bên ngoài, hạn chế sự trợ giúp cho các tổ chức
phản động và can thiệp vào các vấn đề ở Tây Nguyên. Các tỉnh Tây Nguyên đã chủ
động thu xếp cho hàng trăm đoàn ngoại giao, báo chí, tổ chức quốc tế đến Tây
Nguyên và đi xuống tận cơ sở để tìm hiểu tình hình kinh tế - xã hội, vấn đề dân tộc,
tôn giáo và người DTTS vượt biên hồi hương vào những thời điểm khác nhau. Đáng
chú ý, việc thực hiện thỏa thuận MOU đạt được kết quả tích cực, đã góp phần hạn
chế từng bước và cuối cùng đi đến giải quyết dứt điểm vấn đề người DTTS vượt
95
biên trái phép sang Campuchia. Đây là thắng lợi rất quan trọng, làm thất bại âm
mưu "quốc tế hóa" vấn đề người DTTS vượt biên và duy trì các "trại tỵ nạn" nhằm
lôi kéo người DTTS tiếp tục vượt biên, gây phức tạp tình hình an ninh chính trị và
trật tự an toàn xã hội trên địa bàn Tây Nguyên.
Nhìn chung, tình hình an ninh chính trị trên địa bàn ngày càng ổn định, nguy
cơ biểu tình, bạo loạn và vượt biên trái phép từng bước bị đẩy lùi; thế trận quốc
phòng toàn dân và an ninh nhân dân không ngừng được củng cố. Tuy nhiên, những
mầm mống, yếu tố để FULRO tồn tại và tái phục hồi hoạt động vẫn còn. Do đó, vẫn
còn tiềm ẩn nguy cơ biểu tình, bạo loạn. Thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh
nhân dân, nhất là thế trận lòng dân chưa thực sự vững chắc: Vẫn còn một bộ phận
đồng bào bị tác động bởi tâm lý dân tộc hẹp hòi, nghi kỵ, ngờ vực về sự bình đẳng
dân tộc, tin và nghe theo những luận điệu tuyên truyền của kẻ xấu; các lực lượng và
HTCT nắm tình hình, nắm dân chưa chắc nên vẫn còn bị động đối phó với nhiều
tình huống về an ninh chính trị.
3.2.3. Tăng cƣờng xây dựng, củng cố hệ thống chính trị cơ sở
Nhằm tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW và Thông báo Kết luận số
148-TB/TW của Bộ Chính trị… các tỉnh Tây Nguyên đã tiến hành sơ kết đánh giá
việc xây dựng, kiện toàn HTCT ở cơ sở và đề ra nghị quyết, kế hoạch tiếp tục triển
khai thực hiện nhiệm vụ này. Ban Thường vụ Tỉnh ủy Kon Tum ra Quyết định số
138-QĐ/TU, ngày 12-4-2006 Về việc ban hành Đề án xóa thôn, làng chưa có đảng
viên đến năm 2010, tiến tới xóa thôn, làng chưa có tổ chức Đảng; Quyết định số
381-QĐ/TU, ngày 09-2-2007 Về việc ban hành Đề án nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn đến năm 2010; Chỉ thị số 10-CT/TU, ngày 04-
9-2008 Về đẩy mạnh công tác phân công đảng viên phụ trách hộ, nhóm hộ; Ban Tổ
chức Tỉnh ủy Kon Tum có Kế hoạch số 26-KH/BTCTU, ngày 21-8-2008 Về củng
cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng, phấn đấu đến năm 2010
không có tổ chức cơ sở đảng yếu kém; Tỉnh ủy Gia Lai ban hành Đề án số 02-
ĐA/TU, ngày 17-4-2009 Về đổi mới và nâng cao chất lượng HTCT xã, phường, thị
trấn giai đoạn 2009-2015; Tỉnh ủy Đắk Lắk ra Nghị quyết số 07-NQ/TU, ngày 05-
5-2008 Về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của HTCT ở cơ sở xã,
96
phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh đến năm 2010 và định hướng đến năm 2015; Tỉnh
ủy Đắk Nông ra Nghị quyết số 07-NQ/TU, ngày 24-7-2006 Về công tác cán bộ
DTTS giai đoạn 2006-2010 và định hướng đến năm 2020… Theo đó, các Tỉnh ủy ở
Tây Nguyên đã chỉ đạo các Huyện ủy, Thị ủy, Thành ủy tập trung củng cố, kiện
toàn các tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể xã, buôn làng vững
mạnh. Nhờ vậy, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng và
chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên ngày càng được nâng lên; nhiều cấp ủy, chi bộ
thể hiện rõ vai trò hạt nhân lãnh đạo thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã
hội, giữ vững an ninh, quốc phòng ở địa phương. Nhiều tổ chức đảng được thành
lập và đi vào hoạt động ở các địa bàn thôn buôn có chất lượng, làm nòng cốt, chỗ
dựa cho hoạt động của các Ban tự quản và các chi hội đoàn thể ở thôn, buôn.
Tại tỉnh Kon Tum, thực hiện chủ trương Về phân công đảng viên phụ trách
hộ, nhóm hộ, các cấp ủy đảng đã xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện, xem đây
là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công tác xây dựng Đảng, gắn công tác
này với việc đẩy mạnh xóa thôn, làng trắng đảng viên và tổ chức đảng, với
CTVĐQC thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm, bức xúc của địa phương; xem kết quả
thực hiện nhiệm vụ là một căn cứ để đánh giá, phân loại tổ chức đảng và đảng viên
hàng năm. Theo đó, các cấp ủy đảng đã tiến hành đánh giá, rà soát, điều chỉnh, phân
công lại đảng viên phụ trách hộ, nhóm hộ phù hợp với trình độ, năng lực, sở trường,
sức khỏe của từng đảng viên và đặc điểm của từng hộ, nhóm hộ. Kết quả, đến cuối
năm 2010 "đã có 7.678/10.487 đảng viên đang công tác, sinh hoạt tại xã, phường,
thị trấn (chiếm 73,21%) được phân công phụ trách 87.548/103.733 hộ, chiếm 84,4%
tổng số hộ" [100] . Đa số đảng viên được phụ trách hộ, nhóm hộ đã gương mẫu thực
hiện và tích cực tuyên truyền, vận động, hướng dẫn hộ, nhóm hộ thực hiện chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; chuyển dịch cơ
cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa, ứng dụng khoa học - công
nghệ vào sản xuất; lựa chọn và phát triển ngành nghề phù hợp, xóa đói giảm nghèo
và vươn lên làm giàu chính đáng, xây dựng gia đình văn hóa; giữ vững an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội ở thôn, làng, tổ dân phố; nắm bắt và phản ánh kịp
thời với chi bộ về tâm tư, nguyện vọng của hộ, nhóm hộ mình phụ trách, tạo mối
97
quan hệ đoàn kết, gắn bó với nhân dân ở khu dân cư; qua đó, phát hiện, bồi dưỡng
và giới thiệu những quần chúng ưu tú để chi bộ xem xét kết nạp Đảng.
Công tác phát triển đảng viên được các Đảng bộ các tỉnh Tây Nguyên quan
tâm chỉ đạo, hàng năm cấp ủy các tỉnh đều có nghị quyết về xây dựng Đảng, giao
chỉ tiêu xây dựng tổ chức cơ sở đảng và kết nạp đảng viên cho các đảng bộ trực
thuộc. Bình quân mỗi năm, các tỉnh Tây Nguyên kết nạp được 8.000 đảng viên.
Công tác phát triển đảng viên trong vùng đồng bào DTTS, vùng đồng bào có đạo
được các cấp ủy quan tâm và có những chuyển biến tích cực. Số lượng đảng viên
được kết nạp không ngừng được tăng lên. Đặc biệt, sau khi có Quy định số 123-
QĐ/TW, ngày 28-9-2004 của Bộ Chính trị và Hướng dẫn số 40-HD/BTCTW Về
một số điểm về kết nạp đảng viên đối với người có đạo và đảng viên có đạo tham
gia sinh hoạt tôn giáo, các cấp ủy đảng đã nhận thức được việc phát triển đảng viên
người có đạo là yêu cầu cần thiết, bảo đảm việc lãnh đạo, chỉ đạo, xây dựng và củng
cố khối đại đoàn kết toàn dân; góp phần thu hẹp các buôn làng có đông đồng bào
theo tôn giáo chưa có đảng viên, tổ chức đảng. Số lượng người có đạo được kết nạp
vào Đảng không ngừng tăng lên. "Đến tháng 6-2006, toàn vùng Tây Nguyên có
1.730 đảng viên là người có đạo, đến tháng 6-2009, toàn vùng có 2.954 đảng viên
có đạo và cuối năm 2009 là 3.245 đảng viên có đạo, bình quân mỗi năm kết nạp gần
300 đảng viên có đạo" [23]. Để đảng viên là người có đạo vừa hoàn thành nhiệm vụ
của người đảng viên, vừa tham gia sinh hoạt tôn giáo, nhiều cấp ủy đảng đã tăng
cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng đảng viên là
người có đạo; thường xuyên theo dõi, kiểm tra, giám sát đảng viên để uốn nắn kịp
thời những biểu hiện lệch lạc, sai trái trong nhận thức và hành động; đồng thời, tạo
điều kiện nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ giúp đảng viên
có đạo hoàn thành nhiệm vụ được giao, làm nòng cốt trong các phong trào quần
chúng vùng có đạo.
Công tác phát triển đảng viên trong vùng DTTS được chú trọng, nên có
nhiều chuyển biến tích cực:
Năm 2006, toàn vùng kết nạp được 4.264 đảng viên, trong đó có 789
đảng viên là người DTTS, chiếm 20,63%; năm 2009, kết nạp 10.506
98
đảng viên (trong đó có 2.084 người DTTS, chiếm 19,83%), nâng tổng số
đảng viên là người DTTS toàn vùng lên 23.693 (trong đó người DTTS
tại chỗ là 17.735, chiếm 74,85% đảng viên người DTTS). Với những kết
quả trên, đến cuối năm 2009, toàn vùng Tây Nguyên có 6.398 thôn,
buôn, tổ dân phố có chi bộ trong tổng số 7.337 thôn, buôn, tổ dân phố; số
thôn, buôn, tổ dân phố chưa có chi bộ là 968, chiếm 13,19%, chưa có
đảng viên là 150, chiếm 2,04%; nâng tổng số đảng viên ở tổ chức cơ sở
đảng xã, phường, thị trấn từ 51.408 (chiếm 56,33% năm 2004) lên
82.459 đảng viên (chiếm 60,48% vào cuối năm 2009) [23].
Thực hiện Quyết định số 253/QĐ-TTg, ngày 05-3-2003 của Thủ tướng
Chính phủ, chính quyền cơ sở vùng Tây Nguyên cơ bản được kiện toàn, củng cố;
đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã được kiện toàn, bổ sung thêm một số chức danh
sát với yêu cầu, nhiệm vụ chính trị. "Đến tháng 10-2010, các tỉnh Tây Nguyên có
13.361 cán bộ chuyên trách và công chức xã, phường, thị trấn, trong đó, cán bộ,
công chức người DTTS có 3.584 người, chiếm 26,8%" [42].
Công tác quy hoạch, đào tạo, bố trí, sử dụng đội ngũ cán bộ người DTTS đã
được quan tâm thực hiện ngày càng tốt hơn: "Thực hiện chiến lược cán bộ trong
thời kỳ CNH, HĐH, các tỉnh Tây Nguyên đã quy hoạch trên 11.000 lượt cán bộ cơ
sở (có 2.600 cán bộ người DTTS)" [24]. Các tỉnh đã có các chế độ, chính sách hợp
lý nhằm ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị cho
cán bộ người DTTS. Nhờ vậy, số lượng và chất lượng của đội ngũ cán bộ cơ sở
người DTTS có những chuyển biến quan trọng; đa số có lập trường chính trị vững
vàng, gần gũi với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm.
Về xây dựng buôn làng theo hướng tự quản, các tỉnh Tây Nguyên đã xác
định nhiệm vụ trọng tâm là: xây dựng tổ chức đảng, Ban Tự quản, Ban Công tác
Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội ở thôn, buôn vững mạnh; thu hẹp số thôn,
buôn chưa có đảng viên, chưa có tổ chức đảng và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, phát huy tính cộng đồng của đồng bào
DTTS trong việc đấu tranh với những âm mưu, thủ đoạn dụ dỗ, mua chuộc của kẻ
xấu, bảo đảm sự ổn định và phát triển của buôn làng, thu hẹp địa bàn yếu kém,
99
chậm phát triển, trọng điểm, phức tạp về an ninh chính trị; giảm tỷ lệ hộ đói nghèo,
từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào DTTS. Thực tế cho
thấy, mô hình thiết chế tự quản ở buôn, làng vùng đồng bào DTTS Tây Nguyên rất
đa dạng và phong phú. Những nơi nào Chi bộ và Ban Tự quản biết kế thừa, phát
huy được những giá trị thiết chế truyền thống, xây dựng quy ước, hương ước và tổ
chức phong trào tự quản về an ninh trật tự, đề cao vai trò của già làng, trưởng buôn
và những người có uy tín trong công tác giáo dục, vận động quần chúng, thì nơi đó
đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào được không ngừng cải thiện và nâng
cao; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở buôn làng được giữ vững.
Các lực lượng vũ trang đóng quân trên địa bàn Tây Nguyên đã tích cực cử
cán bộ tăng cường cho cơ sở. Nhiều cán bộ, sĩ quan Quân đội được phân công làm
Bí thư Đảng bộ, Chi bộ, Chủ tịch, Phó Chủ tịch xã, phường, thị trấn. Thành lập
nhiều tổ, đội công tác tham mưu, giúp việc cho HTCT cơ sở, hướng dẫn nhân dân
phát triển sản xuất, thực hiện các chương trình xóa đói giảm nghèo, xóa nạn mù
chữ, chống tái mù chữ và phổ cập tiểu học. Các đơn vị bộ đội địa phương đã tích
cực tham mưu, giúp việc có hiệu quả trong xây dựng và hoạt động của HTCT cơ sở.
Hàng năm, các cơ quan quân sự địa phương đều tổ chức ký kết và thực hiện các
chương trình liên tịch, liên ngành với các ban, ngành, đoàn thể ở địa phương.
Công tác kết nghĩa với các buôn đồng bào DTTS được các lực lượng và các
tỉnh Tây Nguyên tổ chức đánh giá, rút kinh nghiệm nhằm nâng cao hiệu quả việc
phân công các ngành, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp kết nghĩa giúp đỡ các buôn
đồng bào DTTS. Trên cơ sở đó, tiếp tục chủ trương đẩy mạnh phong trào kết
nghĩa, giúp đỡ đồng bào DTTS trên địa bàn. Do đó, công tác này được quan tâm
triển khai rộng khắp, với nhiều nội dung và hình thức phong phú, đem lại hiệu quả
về nhiều mặt.
Tỉnh Đắk Lắk tiếp tục duy trì và thực hiện có hiệu quả công tác kết nghĩa
giữa các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp cấp tỉnh, huyện với các buôn đồng bào
DTTS; giữa thôn, tổ dân phố, các tổ chức đoàn thể vùng đồng bào Kinh với các
buôn, các tổ chức đoàn thể vùng đồng bào DTTS; giữa hộ gia đình người Kinh với
hộ gia đình đồng bào DTTS.
100
Đến năm 2010, toàn tỉnh có 161 cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp cấp tỉnh
được phân công kết nghĩa với các buôn đồng bào DTTS, chiếm 23,41%
tổng số buôn trong tỉnh; có 1.005 cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, trường
học cấp huyện, thị, thành phố kết nghĩa với 463 buôn đồng bào DTTS.
Tổng cộng các cơ quan, đơn vị của tỉnh và huyện đã được phân công tổ
chức kết nghĩa là 1.166/1.169 cơ quan, đơn vị, đạt 99,7%; có 2.185 tổ
chức đoàn thể thôn xóm, tổ dân phố người Kinh kết nghĩa với 1.767 tổ
chức đoàn thể buôn đồng bào DTTS, chiếm tỷ lệ 82,5% tổng số các tổ
chức đoàn thể buôn đồng bào DTTS; có 11.232 hộ gia đình người Kinh
kết nghĩa với 8.009 hộ gia đình đồng bào DTTS [91].
Thông qua công tác kết nghĩa, các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh đã có sự
giúp đỡ quan trọng cả về vật chất và tinh thần để đồng bào vươn lên xóa đói giảm
nghèo, xây dựng gia đình, buôn làng văn hóa.
Từ năm 2005 đến năm 2010, các cơ quan, đơn vị đã tặng quà, hỗ trợ vật
tư phục vụ sản xuất và đời sống cho các buôn, thôn đồng bào DTTS có
trị giá khoảng 38 tỷ đồng; quyên góp xây tặng 2 nhà sinh hoạt cộng
đồng, 5 nhà mẫu giáo, 42 nhà vệ sinh, cải tạo 265 giếng nước, 306 nhà
tình nghĩa… Ngoài ra, các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp còn cử cán bộ
về buôn để vận động, hướng dẫn cho nhân dân chuyển đổi cơ cấu cây
trồng, vật nuôi, xây dựng mô hình điểm về chăn nuôi, trồng trọt, cải tạo
vườn tạp; xây dựng buôn và gia đình văn hóa [92].
Binh đoàn 15 (Bộ Quốc phòng) cũng là một điểm sáng trong công tác kết
nghĩa. Được thành lập ngày 20-02-1985, Binh đoàn được Chính phủ, Bộ Quốc
phòng giao nhiệm vụ: Phát triển kinh tế - xã hội gắn với quốc phòng, an ninh; xây
dựng dân cư - xã hội trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên và làm nhiệm vụ quốc tế
tại Lào, Campuchia; các đơn vị của Binh đoàn đóng trên địa bàn của 7 huyện và 1
thành phố, thuộc 2 tỉnh Gia Lai và Kon Tum; dọc biên giới tiếp giáp với hai nước
Lào và Campuchia. Xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ chính trị, từ tấm lòng, trách
nhiệm với dân, Binh đoàn đã đề ra phương châm "Binh đoàn gắn với tỉnh, huyện;
công ty gắn với huyện, xã; đội sản xuất gắn với buôn, làng; hộ gia đình người Kinh
101
gắn kết với hộ gia đình người DTTS ở địa phương". Trong quá trình hoạt động kết
nghĩa đã xuất hiện nhiều mô hình, cách làm hay, sáng tạo, hiệu quả, nổi bật là mô
hình "Gắn kết hộ gia đình công nhân người Kinh với hộ gia đình đồng bào DTTS
địa phương" (gọi tắt là gắn kết hộ).
Đến cuối năm 2010, Binh đoàn đã có 1.985 cặp hộ với trên 4.000 lao
động trong tổng số 4.312 hộ với trên 6.000 lao động là đồng bào DTTS
đang làm việc ở các công ty, đơn vị của Binh đoàn được tổ chức gắn kết.
Nội dung "gắn kết hộ" thể hiện: Hộ công nhân người Kinh giúp hộ đồng
bào DTTS áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, chăm sóc, thu hoạch
cây cao su, cà phê, trồng lúa nước, chăn nuôi gia súc, gia cầm; tổ chức
cuộc sống gia đình theo hướng văn minh, hiện đại… Hộ đồng bào DTTS
giúp đỡ hộ công nhân người Kinh về lao động cũng như tạo mối quan hệ
thân thiết với họ hàng và cộng đồng dân cư ở địa phương…[67].
Hoạt động "Gắn kết hộ" đã mang lại hiệu quả thiết thực nhiều mặt về chính
trị, kinh tế, xã hội và quốc phòng - an ninh. Các cặp hộ gắn kết không những giúp
nhau trong thực hiện nhiệm vụ sản xuất được đơn vị giao, mà còn giúp nhau phát
triển kinh tế hộ gia đình. Thông qua "Gắn kết hộ", nhiều hộ đồng bào DTTS không
những đã thoát nghèo mà còn vươn lên làm giàu; các tập tục lạc hậu từng bước
được đẩy lùi, thay bằng nếp sống văn hóa mới. Đáng chú ý là thông qua giao tiếp
hằng ngày, hộ gia đình người Kinh đã chuyển tải những chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước, các quy định của địa phương đến với hộ đồng bào DTTS, nâng
cao nhận thức, xây dựng lòng tin của đồng bào vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản
lý của Nhà nước và chính quyền địa phương. Đồng thời, giúp đồng bào nhận rõ
những âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, không ngừng nâng cao
tinh thần cảnh giác, không tin, không nghe và không làm theo lời xúi giục, kích
động của kẻ xấu. Vì vậy, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa
bàn của Binh đoàn luôn ổn định, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân,
xây dựng "thế trận lòng dân" ngày càng vững chắc, làm thất bại mọi âm mưu, thủ
đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động. Đây là sự thành công rõ nét
nhất về CTVĐQC, nhất là mô hình "gắn kết hộ" của Binh đoàn.
Mặc dù đã có nhiều chuyển biến tích cực trong tổ chức và hoạt động, nhưng
102
nhìn chung HTCT cơ sở, nhất là trong vùng DTTS vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu,
nhiệm vụ trong tình hình mới. Công tác xây dựng tổ chức đảng, phát triển đảng viên
tại chỗ ở một số địa bàn vùng DTTS, vùng đồng bào có đạo còn bất cập. Vai trò,
trách nhiệm lãnh đạo, điều hành của cấp ủy, chính quyền có nơi còn yếu, chưa đủ
sức tự đảm đương được nhiệm vụ; vẫn còn tình trạng trông chờ, ỷ lại cấp trên, quan
liêu, xa dân, chưa thực sự chăm lo đời sống của đồng bào; trình độ, năng lực của
một bộ phận cán bộ DTTS còn thấp, bản lĩnh chính trị chưa thực sự vững vàng.
3.2.4. Đẩy mạnh thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở
Việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo
của Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Thường vụ Tỉnh ủy và
sự đôn đốc, kiểm tra của Ban Chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ của các tỉnh. Do
đó, đã đạt được những kết quả thiết thực, góp phần quan trọng vào việc củng cố,
kiện toàn, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của chính quyền cơ sở cũng như
phát huy tính sáng tạo, hăng hái của các tầng lớp nhân dân.
Để tiếp tục triển khai thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở theo tinh thần Chỉ
thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII), ngày 10-10-2006, Ban Thường vụ
Tỉnh ủy Kon Tum ra Chỉ thị số 04-CT/TU Về đẩy mạnh triển khai thực hiện Quy
chế dân chủ ở cơ sở. Chỉ thị nêu rõ:
Việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở là một trong những
nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, là trách nhiệm của cả HTCT và toàn
xã hội; thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở phải đi đôi với thực hiện tốt
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, tập trung xóa
đói giảm nghèo, nâng cao dân trí và đời sống vật chất, tinh thần của các
tầng lớp nhân dân; gắn với củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt
động của HTCT cơ sở, xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ năng lực chuyên
môn, phẩm chất, thực sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân... Các
cấp ủy đảng phải có chương trình, kế hoạch và phân công cấp ủy viên
phụ trách Ban chỉ đạo xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.
Đồng thời, tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn việc thực
hiện, chấn chỉnh kịp thời những sai sót [97].
103
Ngày 29-4-2008, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Gia Lai đã ban hành Chỉ thị số 07-
CT/TU Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Quy
chế dân chủ cơ sở trong tình hình mới. Thực hiện Chỉ thị của Tỉnh ủy, các cấp ủy
đảng đã củng cố, kiện toàn Ban Chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Hầu hết
các Ban Chỉ đạo đã xây dựng cơ chế để cán bộ, công chức và nhân dân phát huy
quyền làm chủ, giám sát các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Đến năm 2010, tỉnh Gia Lai có 85% thôn, làng, tổ dân phố đã xây dựng
được hương ước, quy ước; 100% số xã, phường, thị trấn đã thành lập ban
thanh tra nhân dân; 81,5% số xã, phường, thị trấn và 75% số thôn, làng,
tổ dân phố tổ chức lấy phiếu tín nhiệm các chức vụ chủ chốt do Hội đồng
nhân dân xã bầu và chức vụ trưởng thôn [2, tr.397].
Nhìn chung, trên toàn vùng Tây Nguyên, việc thực hiện "dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra" tập trung vào những vấn đề bức xúc, gắn liền với thực tế
cuộc sống của nhân dân ở địa bàn dân cư. Các lĩnh vực liên quan đến đời sống nhân
dân như chuyển đổi cây trồng, vật nuôi, xây dựng công trình phúc lợi tại địa phương
đều được nhân dân bàn bạc, góp ý trước khi chính quyền quyết định và triển khai
thực hiện. Do vậy, nhiều công trình phúc lợi đã được nhân dân tích cực tham gia
đóng góp tiền của, ngày công lao động theo phương châm "Nhà nước và nhân dân
cùng làm" mang lại hiệu quả thiết thực. Nhiều địa phương đã biết kết hợp chặt chẽ
việc triển khai thực hiện Quy chế dân chủ với các phong trào thi đua yêu nước, nhất
là cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư",
phòng chống tệ nạn xã hội, phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc, giữ gìn trật tự an
toàn xã hội. Đến năm 2010, toàn vùng Tây Nguyên có trên 95% thôn, buôn, tổ dân
phố đã xây dựng hương ước, quy ước. Qua đó, góp phần phát huy thuần phong mỹ
tục tốt đẹp và hỗ trợ tích cực cho quản lý nhà nước bằng pháp luật, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân. Toàn vùng có khoảng 95% xã, phường, thị trấn triển khai
thực hiện cải cách hành chính theo cơ chế "một cửa", tạo điều kiện cho người dân
thực hiện giao dịch với chính quyền một cách thuận tiện; đồng thời, xây dựng tác
phong, lề lối làm việc của đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở theo hướng gần dân,
sát dân và phục vụ nhân dân tốt hơn. Hàng năm, các tỉnh đều chỉ đạo tổ chức lấy
104
phiếu tín nhiệm đối với chức danh Chủ tịch Hội đồng nhân dân và Chủ tịch Ủy
ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Qua đó, giúp cho cấp ủy đảng có cơ sở đánh giá
năng lực, phẩm chất, tín nhiệm đối với lãnh đạo chính quyền cấp cơ sở. Kết quả
việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đã góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế -
xã hội, thực hiện xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới; đổi mới phương
thức lãnh đạo của các cấp ủy đảng, công tác quản lý, điều hành, lề lối làm việc của
chính quyền và đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở theo hướng dân chủ, công khai,
sát dân; công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư tố cáo, khiếu nại của nhân dân được
quan tâm giải quyết.
Tuy nhiên, việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở có lúc, có nơi hiệu quả
chưa cao, tình trạng mất dân chủ, thiếu tôn trọng nhân dân chậm được khắc phục;
việc tổ chức cho nhân dân tham gia giám sát, góp ý kiến vào các chủ trương, chính
sách của Đảng, Nhà nước và của địa phương, cho cán bộ, đảng viên; góp ý xây
dựng Đảng, chính quyền còn hạn chế; cấp ủy một số địa phương, đơn vị thiếu quan
tâm chỉ đạo, kiểm tra, giám sát chính quyền thực hiện Quy chế dân chủ, nhất là ở
vùng sâu, vùng xa.
3.2.5. Thực hiện tốt công tác tôn giáo
Cấp ủy, chính quyền các cấp đã có chuyển biến tích cực về quan điểm,
nhận thức; quán triệt và tổ chức thực hiện Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và các
nghị quyết, chỉ thị của Đảng và Nhà nước; chủ động xử lý vấn đề tôn giáo trên địa
bàn, đưa hoạt động tôn giáo vào quản lý bằng pháp luật; giải quyết cơ bản nhu cầu
chính đáng, hợp pháp của đồng bào có đạo; động viên được đông đảo chức sắc, tín
đồ tham gia các hoạt động xã hội; đồng thời, đấu tranh làm thất bại âm mưu lợi
dụng tôn giáo của các thế lực thù địch. Đặc biệt, các tỉnh Tây Nguyên tiếp tục
quán triệt Thông báo số 160 của Ban Bí thư và Chỉ thị số 01/2005/CT-TTg của
Thủ tướng Chính phủ Về một số công tác đối với đạo Tin lành, đã đưa hoạt động
của các hệ phái Tin lành vào quản lý thống nhất bằng pháp luật. Trong đó, đẩy
nhanh việc cho đăng ký sinh hoạt điểm nhóm ở buôn làng đi đôi với tăng cường
quản lý, theo dõi, hướng dẫn, giúp đỡ các điểm nhóm tôn giáo hoạt động thuận
lợi, đúng pháp luật, đảm bảo ngày càng ổn định. Đồng thời, tăng cường đấu tranh
105
xóa bỏ "Tin lành Đê Ga", không để FULRO lợi dụng sinh hoạt tôn giáo để lôi kéo
quần chúng, tập hợp lực lượng. Phương châm đấu tranh là: Kiên quyết trấn áp số
cầm đầu, cốt cán để vô hiệu hóa vai trò hoạt động của chúng; tranh thủ sự đồng
tình ủng hộ của các chức sắc Tin lành; kiên trì vận động, giáo dục số đồng bào
theo "Tin lành Đê Ga" để họ thấy rõ đây là tổ chức phản động gắn với FULRO,
tạo điều kiện giúp đỡ họ xóa bỏ mặc cảm và tham gia sinh hoạt với các hệ phái
Tin lành hợp pháp.
Theo Báo cáo của Tỉnh ủy Gia Lai:
Đến tháng 5-2009, toàn tỉnh có 44 chi hội đã tổ chức hội đồng ở 14/16
huyện, thị xã, thành phố, với tổng số là 50.870 tín đồ và 363 Chấp sự.
Ngoài ra, có 190 điểm nhóm với 21.477 tín đồ sinh hoạt ổn định nhưng
chưa đủ điều kiện để tổ chức hội đồng chi hội đã cho đăng ký sinh hoạt
điểm nhóm. Có 14 chi hội đã và đang xây dựng nhà thờ kiên cố, bán kiên
cố, bảo đảm cho tín đồ có nơi sinh hoạt tôn giáo; 21 chi hội đã có quỹ đất
đang chuẩn bị xây dựng. Đã phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm cho 28
mục sư, mục sư nhiệm chức; cho phép Viện Thánh kinh thần học phối
hợp với Ban Đại diện Tin lành tỉnh mở 2 lớp bổ túc Thần học tại chức tại
tỉnh với 58 học viên [95].
Qua việc triển khai công tác đối với đạo Tin lành, các cơ quan chức năng đã
kết hợp triển khai nhiều biện pháp đấu tranh xóa bỏ tổ chức FULRO và "Tin lành
Đê Ga". Hầu hết số đối tượng đội lốt Tin lành để hoạt động FULRO và các khung
ngầm của chúng đã bị bóc gỡ, số đối tượng cầm đầu đã bị xử lý theo quy định của
pháp luật; đồng bào DTTS đã phân biệt được sinh hoạt tôn giáo thuần túy với hoạt
động đội lốt tôn giáo của bọn phản động FULRO, "có khoảng 11.900 người đã từ
bỏ "Tin lành Đê Ga" về sinh hoạt với Tin lành Việt Nam (miền Nam)" [95]. Các cấp
ủy đảng, chính quyền thường xuyên coi trọng CTVĐQC đối với tín đồ và chức sắc
của đạo Tin lành, nhất là việc tuyên truyền, vận động đồng bào theo đạo thực hiện
các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Thường xuyên thăm
hỏi, tranh thủ các chức sắc Tin lành, "đã giới thiệu 23 chức sắc tham gia các tổ chức
xã hội, 156 tín đồ là cán bộ từ cấp xã trở lên, có 32 tín đồ đạo Tin lành là đảng viên,
1.043 tín đồ là đoàn viên" [95].
106
Theo Báo cáo của Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, đến năm 2010, trên toàn vùng
Tây Nguyên, công tác đối với đạo Tin lành đã đạt kết quả:
10 hệ phái Tin lành có số lượng tín đồ đông nhất đã đăng ký hoạt động
hợp pháp; 170 chi hội với gần 142.000 tín đồ được công nhận chính
thức. Toàn vùng đã cho đăng ký sinh hoạt 915/1174 điểm nhóm của
nhiều hệ phái. Số tín đồ sinh hoạt trong các chi hội và điểm nhóm chiếm
91%. Đối với các điểm nhóm sinh hoạt nhỏ lẻ tại tư gia thuộc các hệ phái
chưa được cấp đăng ký hoạt động, các địa phương vẫn chủ động xem xét
cho đăng ký, tạo điều kiện để đồng bào sinh hoạt tôn giáo ổn định. Có
49/170 chi hội đã và đang xây dựng nhà thờ, 31 chi hội có quỹ đất để xây
dựng, trong đó 28 chi hội đã được hợp pháp hóa về đất đai. Các nhu cầu
bình thường khác được giải quyết thỏa đáng [24]; (Phụ lục 12).
Có thể nói, việc thực hiện chủ trương công tác đối với đạo Tin lành đã giúp
cho cấp ủy, chính quyền các tỉnh nắm được quần chúng, củng cố lòng tin, tranh thủ
được sự đồng tình, ủng hộ của đông đảo tín đồ, chức sắc tôn giáo; quản lý được
hoạt động của đạo Tin lành; làm thất bại âm mưu lôi kéo, lợi dụng đạo Tin lành của
các thế lực thù địch và bọn phản động FULRO; giải tỏa những nghi vấn và sức ép
của cộng đồng quốc tế về vấn đề "tôn giáo, nhân quyền" ở Tây Nguyên.
Thực tế chứng minh việc giải quyết vấn đề đạo Tin lành ở Tây Nguyên là
một chủ trương đúng đắn, kịp thời, đã từng bước đưa đạo Tin lành vào
quản lý bằng pháp luật; góp phần ổn định tình hình chính trị - xã hội
vùng đồng bào DTTS và củng cố khối đoàn kết dân tộc; góp phần vào
công tác đối ngoại, làm thất bại âm mưu lợi dụng tôn giáo gắn với vấn đề
dân tộc để kích động biểu tình, bạo loạn, gây mất ổn định chính trị của
các thế lực thù địch và bọn phản động FULRO [10].
Tuy nhiên, quá trình thực hiện chủ trương công tác đối với đạo Tin lành có
nơi, có lúc còn lúng túng, thiếu nhất quán trong nhận thức và hành động, còn có
chỗ để bọn phản động lợi dụng chống phá; công tác vận động tín đồ, tranh thủ
chức sắc, xây dựng cốt cán và tổ chức các phong trào trong vùng đồng bào có đạo
còn yếu; công tác đấu tranh giải quyết vấn đề "Tin lành Đê Ga" vẫn chưa triệt để,
107
bọn phản động FULRO lợi dụng điều này để tiếp tục tập hợp quần chúng, chống
phá Tây Nguyên.
3.2.6. Tăng cƣờng xây dựng lực lƣợng nòng cốt làm công tác dân vận
Ngày 01-2-2008, Thủ tướng Chính phủ ra Chỉ thị 06/2008/CT-TTg Về phát
huy vai trò người có uy tín trong đồng bào DTTS trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Chỉ thị khẳng định:
Vận động và phát huy vai trò của người có uy tín là một nội dung quan
trọng trong chính sách đại đoàn kết của Đảng và Nhà nước, do đó, cấp ủy
đảng và chính quyền các cấp cần… tiến hành thường xuyên, liên tục
công tác vận động người có uy tín, phát huy mạnh mẽ mặt tích cực của
họ, thông qua đó vận động đồng bào DTTS hiểu rõ và chấp hành tốt các
chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tích cực tham
gia phát triển kinh tế - xã hội, phòng chống tội phạm, giữ gìn an ninh trật
tự; thực hiện tốt cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa ở khu dân cư" tại vùng đồng bào DTTS, vùng sâu, vùng xa,
vùng biên giới [113].
Ngày 16-3-2009, Bộ Công an ban hành Hướng dẫn số 04/HD-BCA Về thực
hiện Chỉ thị 06/2008/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phát huy vai trò người có
uy tín trong đồng bào DTTS trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đây là cơ
sở, điều kiện thuận lợi cho các tỉnh Tây Nguyên tiếp tục củng cố, phát triển công tác
xây dựng lực lượng cốt cán trong vùng đồng bào DTTS và vùng đồng bào có đạo.
Quán triệt Chỉ thị số 06/2008/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Ban Chỉ
đạo Tây Nguyên yêu cầu các tỉnh Tây Nguyên:
Cần tập trung chỉ đạo việc xây dựng nòng cốt, cốt cán trong quần chúng
vùng tôn giáo, vùng đồng bào DTTS, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm, cấp
thiết của CTDV trong tình hình mới. Quy định có tính bắt buộc các tổ
chức đảng, chính quyền, đoàn thể, các đội công tác ở xã, buôn làng và
đội ngũ cán bộ chủ chốt phải xây dựng cơ sở nòng cốt, cốt cán trong dân;
thông qua cốt cán để nắm dân, nắm thông tin, tình hình, diễn biến ở buôn
làng, để chủ động xử lý trong mọi tình huống… Tập trung nắm, tranh
108
thủ, bồi dưỡng ý thức chính trị cho các nhân sĩ, trí thức, chức sắc tôn
giáo, người có uy tín trong đồng bào DTTS, xây dựng họ thành lực
lượng tin cậy, tích cực đóng góp vào việc xây dựng buôn làng ổn định về
chính trị, xã hội [20].
Nhận thức được vai trò quan trọng của những người có uy tín trong đồng bào
DTTS trong CTDV, cấp ủy, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể xã hội trên địa
bàn đã coi trọng việc xây dựng lực lượng nòng cốt của mình, nhất là nòng cốt trong
đồng bào DTTS và đồng bào có đạo.
Ngày 18-3-2008, Tỉnh ủy Đắk Lắk ban hành Công văn số 964-CV/TU Về
việc phát huy vai trò người có uy tín trong đồng bào DTTS. Tiếp đó, ngày 22-6-
2009, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Kế hoạch số 2787/KH-UBND, nêu rõ mục
tiêu, yêu cầu, tiêu chuẩn, nội dung, biện pháp công tác vận động, phát huy vai trò
người có uy tín; chế độ, chính sách đối với người có uy tín và kinh phí phục vụ
công tác vận động. Căn cứ Kế hoạch trên, Sở Công an tỉnh đã chủ trì phối hợp với
Ban Thường vụ Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh và các sở, ban, ngành liên
quan tổ chức rà soát, lập danh sách người có uy tín trong đồng bào DTTS (theo
Hướng dẫn số 04/HD-BCA của Bộ Công an) đưa vào diện tranh thủ và thực hiện
chính sách có 2.746 người (trong đó các cơ quan, đơn vị cấp tỉnh tiến hành vận
động 502 người; cấp huyện và phân cấp cho cấp xã vận động 2.244 người).
Ở tỉnh Gia Lai, công tác xây dựng thực lực chính trị và cốt cán trong quần
chúng có đạo đã có nhiều chuyển biến. "Đến năm 2010, thông qua các phong trào,
các cấp, các ngành trên địa bàn tỉnh đã xây dựng được 7.735 cốt cán trong các tôn
giáo" [2, tr.403].
Trong những người có uy tín trong đồng bào DTTS ở Tây Nguyên, già làng
có vai trò hết sức quan trọng. Đội ngũ này đã tham gia tích cực trong phong trào
vận động đồng bào xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc; thực hiện tốt phương
châm: "già làng nói, dân làng nghe; già làng hô, dân làng hưởng ứng; già làng
làm, dân làng làm theo". Nhằm hợp lý hóa và phát huy vai trò của già làng, các địa
phương Tây Nguyên đã có sáng kiến: "đưa già làng vào tổ hòa giải thôn buôn, làm
nhiệm vụ hòa giải các vụ việc theo mục tiêu kép là duy trì phong tục tập quán dân tộc
109
và hướng người dân sống theo pháp luật" [55, tr.154]. Để tôn vinh và phát huy vai trò
già làng Tây Nguyên trong phong trào thi đua: "Tuổi cao, gương sáng, hiến kế, hiến
công, xây dựng quê hương, đất nước", tháng 3-2009, tại tỉnh Gia Lai, Trung ương Hội
Người cao tuổi Việt Nam phối hợp với các bộ, ngành, cơ quan Trung ương và các địa
phương tổ chức Hội nghị già làng tiêu biểu khu vực Tây Nguyên. Về dự hội nghị, có
241 già làng tiêu biểu đại diện cho hàng nghìn già làng các DTTS của 5 tỉnh Tây
Nguyên và 6 tỉnh phụ cận. Thông qua hội nghị, các đại biểu già làng đã phát biểu về
những đóng góp nổi bật của mình trên các lĩnh vực phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa,
quốc phòng, an ninh; đồng thời, nêu lên những suy nghĩ, tâm tư, nguyện vọng chính
đáng để xây dựng và phát triển bền vững Tây Nguyên.
Nhìn chung, lực lượng cốt cán trong đồng bào DTTS và đồng bào có đạo
đã phát huy được vai trò nòng cốt trong công tác tuyên truyền, vận động nhân dân
thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, tích cực
tham gia các phong trào cách mạng tại địa phương; gương mẫu trong cuộc sống
gia đình; tích cực, tự giác tham gia công tác xã hội. Đồng thời, vận động nhân dân
nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, không tin, không nghe và làm theo lời xúi
giục của kẻ xấu, góp phần làm thất bại âm mưu chống phá của các thế lực thù
địch, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Công tác tập
huấn, bồi dưỡng kiến thức, thông tin cũng như thực hiện chế độ, chính sách cho
những người có uy tín đã được cấp ủy, chính quyền quan tâm như: Tổ chức hội
nghị tôn vinh người có uy tín tiêu biểu trong đồng bào DTTS; thường xuyên tổ
chức thăm hỏi, động viên cốt cán lúc ốm đau, giúp đỡ khi gặp khó khăn trong
cuộc sống, tạo điều kiện phát triển sản xuất, xóa đói giảm nghèo, ổn định cuộc
sống, vươn lên làm giàu; tổ chức cho các già làng và người có uy tín tiêu biểu đi
tham quan, học hỏi một số địa phương trong nước; nhân dịp những ngày lễ trọng
của các tôn giáo, đã tổ chức thăm hỏi, tặng quà thể hiện sự quan tâm của Đảng và
Nhà nước; đồng thời, biểu dương, khen thưởng kịp thời những cốt cán có thành
tích cao trong các phong trào. Một số tỉnh đã phát huy tốt vai trò của già làng và
người có uy tín trong đồng bào DTTS tại chỗ như: Hội đồng bào tự quản ở huyện
Đơn Dương; Ban đại diện già làng ở huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng; Hội đồng già
làng ở tỉnh Kon Tum.
110
Mặc dù đã quan tâm, chú ý đến việc xây dựng và phát huy vai trò của
người có uy tín làm CTDV trong đồng bào DTTS, nhưng nhìn chung lực lượng
này còn mỏng và hiệu quả hoạt động chưa cao: Chủ yếu mới dừng lại ở việc
tuyên truyền, vận động quần chúng thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng,
Nhà nước; còn việc đi sâu vận động các đối tượng cá biệt, thu thập thông tin,
nắm bắt tình hình báo cáo cho cấp ủy và trực tiếp tham gia giải quyết những diễn
biến phức tạp ở cơ sở vẫn còn hạn chế. Một số cơ quan, đơn vị chưa thật sự quan
tâm đúng mức đến việc xây dựng và bồi dưỡng lực lượng cốt cán và người có uy
tín trong đồng bào DTTS.
Tiểu kết chƣơng 3
Những năm 2006-2010, trước bối cảnh tình hình mới, Đảng đã đẩy mạnh
lãnh đạo, chỉ đạo CTDV trên địa bàn Tây Nguyên; nhận thức về các quan điểm, chủ
trương, giải pháp đẩy mạnh CTDV trong toàn HTCT ngày càng đầy đủ và sâu sắc
hơn, tạo được sự đồng thuận của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong thực hiện
nhiệm vụ xây dựng Tây Nguyên giàu về kinh tế, ổn định về chính trị, xã hội, vững
mạnh về quốc phòng, an ninh. Với những chủ trương và giải pháp phù hợp, CTDV
trên địa bàn Tây Nguyên giai đoạn (2006-2010) được các cấp, các ngành và các lực
lượng triển khai một cách khá đồng bộ, có chiều sâu, với nhiều nội dung, hình thức phong
phú, mang lại hiệu quả thiết thực về nhiều mặt như: Hoạt động của các Đội CTPĐQC
chuyên trách, công tác kết nghĩa với buôn đồng bào DTTS, xây dựng lực lượng
nòng cốt làm CTDV… Qua đó, nâng cao trách nhiệm của cả HTCT trong việc đổi
mới nội dung, phương thức CTDV; đoàn kết, tập hợp, vận động nhân dân đẩy mạnh
các phong trào thi đua yêu nước, góp phần tạo nên những thành tựu quan trọng trên
các lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và giải quyết các lợi ích, nguyện
vọng của nhân dân; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được
nâng cao; khối đại đoàn kết dân tộc tiếp tục được giữ vững, dân chủ xã hội được
phát huy, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân được củng cố; HTCT cơ
sở từng bước vượt qua những hạn chế, yếu kém, vươn lên đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ mới; các tầng lớp nhân dân ngày càng thể hiện rõ hơn tính năng động, sáng tạo
trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
111
Chƣơng 4
MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM
4.1. MỘT SỐ NHẬN XÉT
4.1.1. Ƣu điểm và nguy n nhân
4 1 1 1 Ưu điểm
Một là, Đảng luôn bám sát tình hình thực tế, kịp thời hoạch định chủ trương,
biện pháp để lãnh đạo công tác dân vận ở Tây Nguyên.
Trong bối cảnh tình hình Tây Nguyên diễn biến hết sức phức tạp và khó
khăn gay gắt, Bộ Chính trị đã kịp thời ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW; Thủ
tướng Chính phủ ra Quyết định số 168 và xây dựng nhiều chương trình, đề án quan
trọng nhằm tăng cường nguồn lực, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm
quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên. Đặc biệt, Nghị quyết số 10-NQ/TW của Bộ
Chính trị đã đề ra hệ quan điểm và giải pháp chiến lược đối với vùng Tây Nguyên
trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng; bảo đảm
yêu cầu phát triển Tây Nguyên toàn diện, bền vững. Trên cơ sở đó, CTDV của
Đảng được chú trọng tăng cường, xem đây là giải pháp cấp thiết, cơ bản, lâu dài
nhằm xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết các dân tộc, xây dựng "thế trận lòng
dân", bảo đảm cho sự ổn định và phát triển bền vững vùng Tây Nguyên.
Với những chủ trương đúng đắn, kịp thời; sự chỉ đạo sát sao của Trung ương
Đảng, Chính phủ và sự phối hợp, hỗ trợ kịp thời của các bộ, ban, ngành Trung
ương, các tỉnh và các lực lượng trên địa bàn Tây Nguyên đã tập trung chỉ đạo và tổ
chức thực hiện CTDV một cách quyết liệt, có trọng tâm, trọng điểm để vừa giải
quyết những vấn đề bức xúc trước mắt, vừa bảo đảm sự phát triển ổn định lâu dài;
nhất là đã tập trung chăm lo xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc; hết sức
coi trọng nhiệm vụ giữ vững ổn định chính trị, chăm lo sản xuất, đời sống cho đồng
bào vùng DTTS. Đồng thời, không ngừng đổi mới nhận thức, thực hiện tốt chính
sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước. Đặc biệt, các cấp ủy đảng
đã có những chủ trương, giải pháp kịp thời, cụ thể trong việc tăng cường công tác
tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng và xây dựng thực lực chính trị cơ sở; huy
112
động nhiều lực lượng của Trung ương và địa phương trong công tác tuyên truyền,
giáo dục, nâng cao nhận thức của quần chúng bằng nhiều hình thức với nội dung sát
hợp với từng đối tượng để xây dựng thế trận lòng dân; đồng thời, tập trung xây
dựng HTCT ở cơ sở, buôn làng và đội ngũ cán bộ DTTS từng bước đáp ứng yêu
cầu trong tình hình mới.
Cấp ủy đảng các tỉnh Tây Nguyên đã cụ thể hóa Nghị quyết số 10-NQ/TW
của Bộ Chính trị thành các kế hoạch, chương trình hành động: "Từ năm 2002 -
2007, các cấp ủy đảng đã ban hành gần 90 văn bản cụ thể hóa Nghị quyết số 10 trên
các lĩnh vực: phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng HTCT, củng cố quốc phòng, an
ninh mà trọng tâm là vùng đồng bào DTTS" [10]. Trong đó có những nghị quyết, kế
hoạch chuyên đề về CTVĐQC như: Tỉnh ủy Kon Tum ra Nghị quyết số 06-NQ/TU,
ngày 20-8-2002 Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động
quần chúng trong tình hình mới; Kế hoạch số 25-KH/TU, ngày 11-11-2002 Về vận
động quần chúng tăng cường đoàn kết, giữ vững ổn định, tương trợ sản xuất, xây
dựng thôn làng vững mạnh. Tỉnh ủy Gia Lai ra Nghị quyết số 06-NQ/TU, ngày 20-
4-2002 Về công tác dân vận trong tình hình mới…
Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW của Bộ Chính trị, Tỉnh
ủy Gia Lai khẳng định:
Cùng với việc thực hiện các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương, tỉnh đã có nhiều chủ trương, giải pháp để đẩy mạnh CTVĐQC
trong vùng đồng bào DTTS với mục tiêu: ổn định an ninh chính trị,
không để xảy ra gây rối, bạo loạn, ngăn chặn vượt biên trái phép; giải
quyết có hiệu quả những bức xúc trong nội bộ nhân dân và phối hợp
chăm lo xây dựng HTCT, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội [96].
Hai là, thành lập và từng bước kiện toàn bộ phận chỉ đạo công tác dân vận
của Đảng ở Tây Nguyên
Là một cơ quan được thành lập trong bối cảnh vùng Tây Nguyên đứng trước
nhiều khó khăn gay gắt sau các cuộc biểu tình, bạo loạn đầu tháng 2-2001; cơ cấu tổ
chức, bộ máy Ban Chỉ đạo Tây Nguyên lúc đầu chưa hoàn chỉnh; chức năng, nhiệm
vụ, cơ chế hoạt động còn lúng túng; hầu hết các thành viên Ban Chỉ đạo hoạt động
113
theo chế độ kiêm nhiệm và ở xa địa bàn Tây Nguyên, nhưng với sự chỉ đạo kịp thời,
sâu sát của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Thủ tướng Chính phủ, Ban Chỉ đạo Tây
Nguyên từng bước được kiện toàn, phát huy vai trò của mình và đã có những đóng
góp tích cực vào sự ổn định, phát triển của vùng Tây Nguyên. Sự ra đời của Ban
Chỉ đạo Tây Nguyên đã tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, kịp thời của
Trung ương Đảng và Chính phủ đối với địa bàn Tây Nguyên.
Ban Chỉ đạo Tây Nguyên đã chủ động triển khai các hoạt động theo chức
năng, nhiệm vụ được giao: Thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc triển khai thực
hiện các nghị quyết, quyết định, chỉ thị của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, của Chính phủ
và Thủ tướng Chính phủ; trọng tâm là thực hiện Nghị quyết số 10 của Bộ Chính trị
và Quyết định số 168 của Thủ tướng Chính phủ, đã cùng với các các bộ, ban, ngành
liên quan và các tỉnh Tây Nguyên từng bước tháo gỡ khó khăn, giải quyết kịp thời
một số bức xúc về sản xuất, đời sống vùng đồng bào DTTS. Đặc biệt là kịp thời đề
xuất với Thủ tướng Chính phủ ban hành các quyết định về giải quyết đất ở, đất sản
xuất, nhà ở, nước sinh hoạt cho đồng bào nghèo; giao khoán rừng đến hộ gia đình
và cộng đồng; giải quyết việc làm, thu hút lao động DTTS vào nông, lâm trường;
thực hiện việc cho vay vốn sản xuất; kiên cố hóa trường học và thực hiện các chính
sách ưu đãi đối với học sinh, sinh viên DTTS,... góp phần cải thiện đời sống vật
chất và tinh thần của đồng bào DTTS.
Ban Chỉ đạo Tây Nguyên đã nghiên cứu, chỉ đạo, triển khai thí điểm việc
đăng ký điểm, nhóm để đưa đạo Tin lành vào quản lý và chống hoạt động tôn giáo
trái phép. Trên cơ sở đó đề xuất với Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Thông báo số
160-TB/TW, ngày 15-11-2004 và Thủ tướng Chính phủ ra Chỉ thị 01/2005/CT-
TTg, ngày 04-2-2005 Về một số công tác đối với đạo Tin lành, tạo bước chuyển
quan trọng về quan điểm, nhận thức, biện pháp giải quyết vấn đề đạo Tin lành ở
Tây Nguyên và đấu tranh xóa bỏ "Tin lành Đê Ga".
Ban Chỉ đạo Tây Nguyên đã tổ chức tốt công tác phối hợp nắm tình hình,
tham mưu với Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Thủ tướng Chính phủ về tình hình an
ninh chính trị ở Tây Nguyên. Phối hợp với các lực lượng kịp thời phát hiện, ngăn
chặn âm mưu tổ chức biểu tình, vượt biên nhiều nơi, nhiều lần, góp phần giữ vững
114
ổn định chính trị vùng Tây Nguyên. Đồng thời, tiến hành tổ chức khảo sát, nghiên
cứu các chuyên đề về an ninh chính trị, làm cơ sở để tham mưu, đề xuất với Trung
ương Đảng, các bộ, ngành xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân
dân ở biên giới và nội địa; tiến hành kiện toàn lực lượng chuyên trách chống
FULRO; hình thành các đội công tác, tăng cường phát động quần chúng đấu tranh
truy bắt, gọi hàng, bóc gỡ FULRO và xử lý những vấn đề an ninh nông thôn.
Ngoài ra, Ban Chỉ đạo Tây Nguyên còn nghiên cứu, đề xuất với Trung ương
Đảng, Thủ tướng Chính phủ về chủ trương xây dựng buôn, làng; phát triển đảng
viên trong vùng có đạo và vùng DTTS; củng cố, kiện toàn HTCT cơ sở; quy hoạch,
đào tạo, bố trí, sử dụng đội ngũ cán bộ người DTTS. Nghiên cứu, đề xuất thiết lập
cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành và các tỉnh biên giới hai nước Lào và
Campuchia trong việc phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh biên giới; đấu
tranh chống lại các luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc làm sai lệch tình hình Tây
Nguyên.
Báo cáo của Đoàn kiểm tra thực hiện Nghị quyết số 10 của Bộ Chính trị đã
đánh giá:
Ban Chỉ đạo Tây Nguyên đã chủ động triển khai các mặt công tác theo
chức năng, nhiệm vụ được giao, thường xuyên kiểm tra đôn đốc, tích cực
phối hợp với các bộ, ngành, địa phương nghiên cứu, đề xuất chủ trương,
giải pháp về công tác đấu tranh chống FULRO, bảo đảm quốc phòng, an
ninh, phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo;
xây dựng, kiện toàn HTCT cơ sở; đã có những đóng góp nhất định vào
sự ổn định và phát triển của vùng Tây Nguyên [10].
Thực tế cho thấy, Ban Chỉ đạo Tây Nguyên thực sự là đầu mối chỉ đạo và
phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan Trung ương với các tỉnh Tây Nguyên trong
việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 10 của Bộ Chính trị cũng như các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần vào sự ổn định và phát triển
của Tây Nguyên.
Ba là, từng bước chỉ đạo đổi mới nội dung và phương thức công tác dân vận
của Đảng ở Tây Nguyên
115
Thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, Ban Chỉ đạo Tây Nguyên chủ trì
phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương, Ban Dân vận Trung ương, Ban Tổ chức
Trung ương đề ra những chủ trương, giải pháp kịp thời, cụ thể trong việc tăng
cường công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng và xây dựng, củng cố
HTCT và thực lực chính trị cơ sở vùng Tây Nguyên trong tình hình mới; đã chỉ đạo
Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân các tỉnh Tây Nguyên tăng cường công tác nắm dân, nắm
tình hình, giáo dục chính trị, tư tưởng cho quần chúng; xây dựng thực lực và HTCT
vững mạnh để chủ động xử lý các vấn đề an ninh ở cơ sở. Đồng thời, khẩn trương
củng cố, chấn chỉnh việc tổ chức thực hiện chính sách và công tác dân tộc ở cấp
huyện và cơ sở; tập trung chỉ đạo tháo gỡ khó khăn để triển khai các Quyết định của
Thủ tướng Chính phủ về phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo vùng đồng
bào DTTS; phối hợp giải quyết kịp thời những vấn đề bức xúc về đất đai, việc
làm, sản xuất và đời sống của đồng bào DTTS, tạo sự ổn định chính trị, xã hội ở
các buôn, làng. Đặc biệt là đã huy động nhiều lực lượng của Trung ương và địa
phương trong công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức chính trị, tư
tưởng của quần chúng bằng nhiều hình thức, nội dung sát hợp với từng đối tượng
để xây dựng thế trận lòng dân, củng cố niềm tin của đồng bào đối với Đảng, Nhà
nước; đồng thời, tập trung xây dựng thực lực HTCT ở cơ sở, nhất là ở các buôn,
làng và đội ngũ cán bộ DTTS.
Nội dung, phương thức tuyên truyền, vận động quần chúng từng bước được
đổi mới. Các cấp ủy đảng đã thông qua chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội
đi sâu, đi sát cơ sở, tổ chức tuyên truyền, vận động quần chúng thực hiện các chủ
trương, chính sách, xây dựng các phong trào hành động của quần chúng thực hiện
các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của địa phương. Các lực lượng
làm CTDV trên địa bàn đã có những nội dung tuyên truyền, vận động rõ ràng, thiết
thực gắn với yêu cầu thiết thực của đồng bào như: Xóa đói giảm nghèo, ổn định sản
xuất, đời sống ở vùng khó khăn, chú trọng đến vận động trọng điểm, đối tượng cá
biệt, chú ý phát huy vai trò của già làng, trưởng buôn, trưởng các dòng họ, các chức
sắc tôn giáo…
Với phương châm "Tỉnh bám xã, huyện bám buôn làng, xã bám hộ dân",
116
Ban Thường vụ Tỉnh ủy Gia Lai đã ban hành quyết định phân công 59
sở, ban, ngành, Mặt trận, các đoàn thể phụ trách và làm công tác vận
động quần chúng tại các xã trọng điểm về an ninh... Ban Thường vụ Tỉnh
ủy Đắk Lắk có quyết định thành lập đội công tác vận động quần chúng
chuyên trách ở 3 cấp (cấp tỉnh 01 đội, với 29 thành viên; cấp huyện 15
đội, với 83 thành viên; cấp xã 126 đội, với 601 thành viên)… Ban
Thường vụ Tỉnh ủy Đắk Nông có đề án thành lập 20 đội công tác vận
động quần chúng - xây dựng cơ sở [34].
Bên cạnh việc đẩy mạnh CTPĐQC, các tỉnh Tây Nguyên đều chủ trương chỉ
đạo phân công các cơ quan của tỉnh, huyện, các doanh nghiệp và đơn vị lực lượng
vũ trang đứng chân trên địa bàn kết nghĩa giúp đỡ các buôn đồng bào DTTS. Đây là
một phương thức mới trong CTDV ở Tây Nguyên và nó đã trở thành một phong
trào sâu rộng, được các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị tích cực hưởng ứng,
triển khai thực hiện với nhiều hình thức phong phú, đem lại hiệu quả về nhiều mặt.
Hàng nghìn cơ quan, đoàn thể, doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và cán bộ, nhân
dân vùng đồng bào Kinh đã đóng góp công sức, tiền của giúp đỡ các buôn làng
DTTS tại chỗ phát triển sản xuất, ổn định đời sống, góp phần thiết thực tăng cường
tình đoàn kết giữa đồng bào Kinh với đồng bào DTTS, chống âm mưu chia rẽ của
bọn phản động FULRO; đồng thời, góp phần chống quan liêu, xa dân trong đội ngũ
cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức các cơ quan Đảng và Nhà nước.
Cùng với các hình thức trên, các tỉnh Tây Nguyên đều thực hiện chủ trương
tăng cường cán bộ của tỉnh, huyện về cơ sở, đặc biệt trong những thời điểm phức
tạp về an ninh chính trị, đã huy động, tăng cường hàng ngàn cán bộ, kể cả cán bộ
hưu trí có uy tín, có kinh nghiệm về cơ sở, buôn làng để trực tiếp làm công tác
tuyên truyền, vận động quần chúng chống biểu tình, bạo loạn và vượt biên trái phép.
"Lúc cao điểm đã huy động trên 12 nghìn cán bộ xuống cơ sở làm công tác tuyên
truyền, giáo dục, vận động quần chúng dưới nhiều hình thức" [24]; "Chỉ riêng tỉnh
Đắk Lắk trong đợt 25-12-2004 đã huy động 1.581 cán bộ các ngành của tỉnh tăng
cường xuống cơ sở" [33].
Các lực lượng vũ trang (Quân đội, Công an, Biên phòng) trên địa bàn đều
117
tích cực tham gia làm CTDV với nhiều hình thức phong phú. Ngoài hình thức kết
nghĩa với các địa phương, cơ sở; ký kết chương trình phối hợp hoạt động với Mặt
trận và các đoàn thể, lực lượng quân đội của Bộ Quốc phòng, của Quân khu V đứng
chân trên địa bàn và bộ đội địa phương các tỉnh Tây Nguyên đã tổ chức nhiều cuộc
hành quân dã ngoại giúp dân, làm CTDV theo phương châm "4 cùng" đó là: cùng
ăn, cùng ở, cùng làm, cùng nói tiếng dân tộc và "4 bám" đó là: bám cấp ủy, chính
quyền địa phương; bám địa bàn; bám nhân dân và bám các đối tượng phản động.
Thực hiện Chỉ thị số 123 của Bộ Quốc phòng, Bộ Tư lệnh Quân khu V
đã thành lập 70 đội công tác, với gần 700 cán bộ, chiến sĩ phân công về
các xã vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, phối hợp với địa phương vận
động quần chúng. Bộ đội Biên phòng trên địa bàn cũng phân công 22 cán
bộ, sĩ quan về tham gia cấp ủy, chính quyền các xã vùng biên. Bộ Công
an có chủ trương tăng cường sĩ quan, cán bộ cho địa bàn Tây Nguyên,
nhất là các xã trọng điểm về an ninh chính trị để phối hợp và giúp cấp
ủy, chính quyền đẩy mạnh "Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ
quốc", xây dựng thế trận an ninh nhân dân [34].
Các tỉnh và các lực lượng trên địa bàn Tây Nguyên đã quan tâm xây dựng
những quy chế, quy định, phương thức phối hợp, tổng kết rút kinh nghiệm trong quá
trình tổ chức thực hiện CTDV; đã có những cam kết giữa các tổ chức trong HTCT
để làm CTDV, gắn nội dung CTDV với cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng;
cải cách hành chính và những nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
Bốn là, sự lãnh đạo sát sao của Đảng đã từng bước nâng cao hiệu quả công
tác dân vận ở Tây Nguyên.
Thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, CTDV của
Đảng ngày càng khẳng định được vị trí, vai trò quan trọng, bảo đảm cho Tây
Nguyên cơ bản giữ vững an ninh chính trị và phát triển bền vững. Chất lượng, hiệu
quả CTDV của Đảng được thể hiện trên các lĩnh vực:
Công tác dân vận đã góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội ở Tây Nguyên
phát triển.
Cùng với chính sách phát triển miền núi chung trong cả nước, Đảng và
118
Chính phủ đã có nhiều chính sách đặc thù đối với vùng DTTS Tây Nguyên nhằm
đẩy mạnh thực hiện chính sách dân tộc, tập trung giải quyết những vấn đề cấp bách
về đất đai, nhà ở, giao rừng, giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời
sống của đồng bào các dân tộc.
Giá trị tổng sản phẩm (GDP) năm 2010 tăng 2,8 lần so với năm 2001.
Thu nhập bình quân đầu người năm 2010 tăng lên 15,5 triệu đồng (bằng
67% mức bình quân của cả nước). Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng
hướng: tỷ trọng nông - lâm nghiệp trong GDP giảm từ 71,4% năm 2001
xuống còn 46,8% năm 2010; tỷ trọng công nghiệp - xây dựng tăng từ
10,8% năm 2001 lên 25,6% năm 2010 và dịch vụ tăng từ 17,8% năm
2001 lên 27,6% năm 2010. Tổng thu ngân sách năm 2010 tăng 7 lần so
với năm 2001… Kết cấu hạ tầng nông thôn có bước phát triển khá: 91%
số xã có đường ô tô đến trung tâm đi được cả hai mùa (24,2% được nhựa
hóa), 98% số thôn buôn có điện lưới quốc gia, 92% số hộ được dùng
điện, 68% hộ được dùng nước sạch, 100% số xã đã có trường tiểu học,
trường mẫu giáo, trạm xá, được phủ sóng phát thanh truyền hình và nối
mạng thông tin viễn thông, 95% số xã có báo viết đến trong ngày [24];
(Phụ lục 5,6).
Cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân
cư" gắn với xây dựng buôn làng văn hóa và xây dựng nông thôn mới được các tỉnh
Tây Nguyên triển khai khá đồng bộ, đạt được nhiều kết quả thiết thực, có sức lan
tỏa sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân, tạo môi trường văn hóa lành mạnh trong
mỗi gia đình và toàn xã hội. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các cấp đã tăng cường tuyên
truyền, quán triệt 5 nội dung của cuộc vận động đến từng khu dân cư và hộ gia đình.
Ban Chỉ đạo Cuộc vận động từ tỉnh đến cơ sở được chú trọng kiện toàn, từng bước
nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động. Khối đại đoàn kết các dân tộc trên địa bàn
Tây Nguyên được củng cố và tăng cường. Thành công của Đại hội Đại đoàn kết các
dân tộc Tây Nguyên nhân kỷ niệm 60 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Đại
hội các DTTS miền Nam và Lễ đón nhận Bằng công nhận di sản "Không gian văn
hóa cồng chiêng Tây Nguyên" (3-2006); Ngày Hội đại đoàn kết tuổi trẻ các dân tộc
119
Tây Nguyên lần thứ nhất (1-2007); Hội nghị biểu dương Già làng tiêu biểu khu vực
Tây Nguyên (3-2009) và Đại hội đại biểu các DTTS lần thứ nhất (ở cấp huyện và
cấp tỉnh năm 2009) là minh chứng thể hiện niềm tin và ý chí của đồng bào các dân
tộc Tây Nguyên trong việc chung sức, chung lòng giữ vững ổn định chính trị - xã
hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, xây dựng Tây Nguyên phát triển toàn diện, bền
vững. Đây là nền tảng quan trọng, góp phần đấu tranh làm thất bại âm mưu xuyên
tạc, kích động, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc của các thế lực thù địch.
Công tác dân vận góp phần giải quyết vấn đề FULRO, giữ vững an ninh
chính trị.
Để bảo đảm quốc phòng, an ninh và đấu tranh giải quyết vấn đề FULRO,
nhiệm vụ trung tâm và thường xuyên đặt ra đối với Trung ương Đảng và Đảng bộ
các tỉnh Tây Nguyên là huy động các lực lượng và cả HTCT dồn sức cho công tác
bám dân, bám cơ sở, tăng cường CTVĐQC, giáo dục chính trị tư tưởng, tạo ra
chuyển biến tích cực trong nhận thức của đồng bào các dân tộc. Các tỉnh Tây
Nguyên đã thực hiện chủ trương tăng cường cán bộ xuống cơ sở giúp HTCT cơ sở
nắm tình hình, xử lý vấn đề an ninh; phân công các cơ quan, đơn vị giúp đỡ, kết
nghĩa với các xã, buôn làng vùng DTTS; thành lập các đội công tác chuyên trách
phát động quần chúng, không để trống lực lượng ở những địa bàn trọng điểm, khó
khăn phức tạp.
Công tác đấu tranh bóc gỡ FULRO và phòng, chống biểu tình, bạo loạn được
tập trung chỉ đạo thường xuyên, kịp thời và có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ,
ngành chức năng với các tỉnh Tây Nguyên. Nhờ vậy, đã phát hiện âm mưu, ý đồ,
phương thức, thủ đoạn của bọn phản động, giúp cho việc nắm tình hình, tổ chức đấu
tranh ngăn chặn, phòng chống ngày càng chủ động hơn.
Từ năm 2001 đến năm 2010, bọn phản động FULRO đã chỉ đạo, kích
động trên 130 đợt biểu tình, bạo loạn nhưng hầu hết đã bị phát hiện, ngăn
chặn, vô hiệu hóa. Lực lượng chức năng đã lập nhiều chuyên án, liên tục
tổ chức truy bắt, vận động, gọi hàng. Đến giữa năm 2009 đã giải quyết
xong số FULRO lẩn trốn ra rừng (gần 400 tên); ngăn chặn ý đồ hình
thành lực lượng vũ trang, gây nổ, khủng bố. Phát hiện, đấu tranh xóa 395
120
khung tổ chức FULRO và 299 khung tổ chức "Tin lành Đê Ga" các cấp;
bóc gỡ, xử lý gần 14.200 đối tượng tham gia hoạt động FULRO (khoảng
3.100 đối tượng cốt cán, cầm đầu) [24].
Với quan điểm đấu tranh giải quyết vấn đề FULRO, trước hết là giải quyết
vấn đề chính trị, các cấp, các ngành đã thực hiện tốt phương châm: Trấn áp mạnh số
cầm đầu để vô hiệu hóa vai trò, hoạt động của chúng; đồng thời lấy biện pháp kiên
trì vận động, giáo dục, thuyết phục số người bị lôi kéo, lừa mị là chính để họ thấy rõ
âm mưu, ý đồ của bọn phản động và từ bỏ những việc làm sai trái.
Công tác giáo dục, cảm hóa đối tượng liên quan đến FULRO đang sinh sống
tại cộng đồng được chú ý, tổ chức ngày càng tốt hơn; phát huy được trách nhiệm
của cấp ủy, chính quyền các cấp và vai trò nòng cốt của lực lượng Công an. Nhiều
địa phương, cơ sở đã có những chủ trương, chỉ đạo cụ thể, cách làm hay, kinh
nghiệm tốt trong việc mở lớp giáo dục tập trung; tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của
các chức sắc tôn giáo, người có uy tín trong việc giáo dục cảm hóa đối tượng, giúp
họ hòa nhập với cộng đồng. Nhiều đối tượng đã từ bỏ hoạt động FULRO, tự nguyện
tham gia công tác tuyên truyền, vận động quần chúng, phản bác âm mưu của bọn
phản động.
Công tác đấu tranh phòng, chống vượt biên trái phép đạt được những kết quả
cơ bản. Bằng công tác vận động, giáo dục, quản lý địa bàn, triệt phá các đường dây
câu móc, các lực lượng trên địa bàn "đã ngăn ngừa tại chỗ gần 3.200 trường hợp
chuẩn bị vượt biên trái phép, phối hợp với Campuchia ngăn chặn 1.600 người vượt
biên. Đến cuối năm 2010, vấn đề người DTTS vượt biên không còn là điểm nóng về
an ninh chính trị ở Tây Nguyên" [24].
Công tác bảo đảm an ninh nông thôn được tăng cường, trong đó chú trọng
tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc về đời sống của đồng bào DTTS. "Từ
năm 2001 đến năm 2010, toàn vùng Tây Nguyên đã xảy ra gần 2.500 vụ việc có liên
quan đến đồng bào DTTS, trong đó chủ yếu là tranh chấp, khiếu kiện về đất đai
giữa dân với các đơn vị, doanh nghiệp, cơ quan nhà nước; tranh chấp, mâu thuẫn
trong nội bộ dân cư" [24]. Hầu hết các vụ việc đã được tập trung chỉ đạo, giải quyết
kịp thời; nhiều tỉnh đã thành lập Ban Chỉ đạo trực thuộc cấp ủy để chủ động rà soát,
121
xử lý tranh chấp, khiếu kiện, trực tiếp đối thoại với dân, kết hợp xử lý số quá khích
với công tác tuyên truyền giáo dục, vận động quần chúng, không để bọn phản động
kích động gây phức tạp tình hình.
Góp phần xây dựng hệ thống chính trị cơ sở, trọng điểm là vùng dân tộc
thiểu số.
Trong những năm 2001-2010, Trung ương Đảng và Đảng bộ các tỉnh ở Tây
Nguyên đã có nhiều chủ trương, giải pháp tập trung xây dựng, củng cố, kiện toàn bộ
máy đảng, chính quyền, Mặt trận, đoàn thể ở xã, buôn làng và chuyển trọng tâm
hoạt động của toàn bộ HTCT xuống địa bàn dân cư; điều động hàng trăm cán bộ về
các xã trọng điểm, khó khăn phức tạp giữ cương vị chủ chốt. Thực hiện chủ trương
của Bộ Chính trị: "Các tỉnh và các huyện, xã trọng điểm ở vùng Tây Nguyên được
bổ sung một đồng chí Phó Bí thư cấp ủy chuyên trách để chỉ đạo việc xây dựng
HTCT cơ sở, bảo đảm an ninh, quốc phòng và chăm lo thực hiện các chính sách đối
với đồng bào DTTS tại chỗ" [7] và Hướng dẫn số 32-HD/BTCTW, ngày 13-10-
2004 của Ban Tổ chức Trung ương Về việc bổ sung Phó Bí thư các huyện, xã trọng
điểm vùng Tây Nguyên, toàn vùng đã "bổ sung 26 Phó Bí thư cấp ủy huyện, 128
Phó Bí thư cấp ủy xã chuyên trách xây dựng HTCT ở các địa bàn trọng điểm; huy
động hàng nghìn cán bộ các ngành, các cấp và lực lượng vũ trang hình thành các
đội công tác tham gia làm CTDV; xây dựng, kiện toàn, củng cố cơ sở, giúp cơ sở
nắm dân, nắm tình hình, vận động quần chúng" [24]. "Từ năm 2003 đến năm 2010,
các tỉnh Tây Nguyên đã tăng cường 334 cán bộ từ tỉnh, huyện về cơ sở" [42]. Bên
cạnh đó, các tỉnh tập trung công tác phát triển đảng viên kết hợp với điều động đảng
viên đến vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào DTTS, vùng đồng bào có đạo để giải
quyết tình trạng "trắng" đảng viên và tổ chức đảng. Kết quả, "trong 10 năm (2001-
2010) đã thu hẹp số thôn, buôn "trắng" đảng viên từ 13,81% xuống còn 1,25%. Đã
phát triển 59.000 đảng viên mới (trong đó 20,6% là người DTTS; 4,52% là người có
đạo) với gần 51% sinh hoạt tại cơ sở, đưa tổng số đảng viên lên 145.000 người, tăng
1,9 lần so với năm 2001" [24] (Phụ lục 11).
Công tác quy hoạch, tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng đội ngũ cán
bộ người DTTS đã được các tỉnh Tây Nguyên quan tâm.
122
Toàn vùng, đã quy hoạch trên 11.000 lượt cán bộ cơ sở (có 2.600 người
DTTS). Trong Hội đồng nhân dân cấp xã, đại biểu người DTTS có
6.576/17.488 người, chiếm 37,6%; trong cơ cấu đảng, chính quyền, Mặt
trận và đoàn thể cấp xã có 6.989 cán bộ, công chức là người DTTS,
chiếm 29,06% tổng số cán bộ, công chức cấp xã. Đội ngũ cán bộ chủ
chốt người DTTS ở thôn, buôn là 10.366 người, chiếm 28,32% [24].
Công tác dân vận góp phần giải quyết vấn đề đạo Tin lành, thực hiện chính
sách tôn giáo.
Quán triệt các chủ trương của Đảng và pháp luật nhà nước về tôn giáo, các
tỉnh Tây Nguyên đã tập trung chỉ đạo thực hiện tốt chính sách tôn giáo, góp phần
tích cực vào sự ổn định chính trị trên địa bàn. Đặc biệt, đối với đạo Tin lành, đã có
những chủ trương, giải pháp phù hợp với tình hình thực tế, từng bước giải quyết
nhu cầu sinh hoạt bình thường của đồng bào có đạo theo quy định của pháp luật;
đồng thời kiên quyết đấu tranh xóa bỏ "Tin lành Đê Ga".
Nhờ sự chỉ đạo quyết liệt của Trung ương, các cấp ủy, chính quyền các tỉnh
Tây Nguyên đã có những chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và thái độ đối với
đạo Tin lành: Đã coi việc tin và theo đạo Tin lành là nhu cầu tín ngưỡng của một bộ
phận quần chúng, nhất là một bộ phận không nhỏ đồng bào DTTS; từ đó, đẩy nhanh
việc công nhận, đăng ký sinh hoạt điểm nhóm và tăng cường công tác quản lý nhà
nước đối với đạo Tin lành. Đây là việc làm rất cần thiết, để tranh thủ sự đồng tình,
ủng hộ của đông đảo tín đồ, chức sắc tôn giáo; làm thất bại âm mưu lôi kéo, lợi
dụng đạo Tin lành của các thế lực thù địch; từng bước giải tỏa được những nghi vấn
và sức ép của cộng đồng quốc tế về vấn đề "tôn giáo, nhân quyền" ở Tây Nguyên.
Ban Chỉ đạo Tây Nguyên đã khẳng định: "Việc thực hiện chủ trương bình thường
hóa đối với đạo Tin lành đã giải quyết được một trong những vấn đề phức tạp và
gay cấn nhất ở Tây Nguyên, là một trong những khâu đột phá có ý nghĩa quan trọng
trong việc góp phần ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự xã hội ở vùng đồng
bào DTTS" [24].
Những thành công và kết quả trên đã thể hiện rõ sự đúng đắn về chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc chăm lo đời sống của nhân dân; đấu
123
tranh chống các âm mưu, thủ đoạn phá hoại của bọn phản động FULRO và các thế
lực thù địch; chú trọng việc xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc; phát triển toàn
diện và bền vững vùng Tây Nguyên.
4 1 1 2 Nguyên nhân của ưu điểm
Thứ nhất, những kết quả đạt được gắn liền với sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời,
sâu sát của Đảng và Nhà nước, được thể hiện ở những chủ trương, chính sách đúng
đắn, kịp thời, phù hợp với đặc thù của cộng đồng dân cư và sát với tình hình thực tế
ở Tây Nguyên; đã tập trung mọi nguồn lực để giải quyết đồng bộ cả về chính trị, tư
tưởng, kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và xây dựng HTCT. Về kinh tế - xã hội,
cùng với việc đầu tư để có sự phát triển chung của vùng, Đảng và Nhà nước đã có
những chủ trương, chính sách cụ thể tập trung đầu tư chăm lo đến sản xuất và đời
sống của đồng bào DTTS tại chỗ; về an ninh chính trị đã coi trọng việc giáo dục
nâng cao nhận thức tư tưởng, chính trị của quần chúng, thực hiện chính sách khoan
dung với những người lầm đường bị lừa mị, mua chuộc là chính; đồng thời, xử lý
nghiêm những tên cầm đầu ngoan cố theo pháp luật...; mặt khác, chăm lo kiện toàn,
xây dựng các buôn làng, nâng cao vai trò tự quản và quyền làm chủ của quần chúng
gắn với xây dựng đội ngũ cán bộ DTTS.
Thứ hai, các tỉnh và các lực lượng trên địa bàn Tây Nguyên đã quán triệt
quan điểm chỉ đạo của Trung ương; nâng cao nhận thức về vai trò, tầm quan trọng
của CTDV; tập trung lãnh đạo, chỉ đạo đúng mức CTDV tham gia tích cực, chủ
động vào việc giải quyết những vấn đề vừa cơ bản, vừa cấp bách mang tính đột phá
như: cấp đất sản xuất, đất ở, hỗ trợ về nhà ở cho đồng bào DTTS thiếu đất và nhà ở
dột nát; tạo công ăn việc làm, xóa đói giảm nghèo cho đồng bào DTTS, thực hiện
chủ trương công tác đối với đạo Tin lành, xây dựng HTCT cơ sở, xây dựng và củng
cố khối đoàn kết dân tộc, phát huy sức mạnh của quần chúng nhân dân thực hiện
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ an ninh Tổ quốc.
Thứ ba, trong quá trình tổ chức thực hiện CTDV, đã có sự chỉ đạo phối hợp
chặt chẽ giữa các bộ, ban, ngành Trung ương với các địa phương và các lực lượng
trên địa bàn Tây Nguyên trong việc giải quyết kịp thời những vấn đề bức xúc về
kinh tế - xã hội, những vấn đề liên quan đến dân tộc, tôn giáo; xử lý đúng đắn tình
124
hình an ninh chính trị ở những địa bàn trọng điểm với phương châm, phương pháp
phù hợp với từng đối tượng trong từng trường hợp cụ thể... tạo nên sự đồng thuận
trong xã hội và sự đoàn kết giữa các cộng đồng dân tộc trên địa bàn.
4.1.2. Hạn chế và nguy n nhân
4 1 2 1 Hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình lãnh đạo, tổ chức thực hiện
CTDV của Đảng trên địa bàn Tây Nguyên còn một số hạn chế, khuyết điểm:
Một là, một số cấp ủy đảng lãnh đạo, chỉ đạo công tác nắm dân, nắm tình
hình, xử lý tình huống ở cơ sở chưa kịp thời, chủ động, nhạy bén.
Một số cấp ủy đảng còn buông lỏng và xem nhẹ CTDV, chưa nắm chắc được
dân, nắm chắc được tình hình. Vì thế, vẫn còn một bộ phận đồng bào DTTS mơ hồ,
cả tin vào những lời dụ dỗ của kẻ xấu, nuôi dưỡng và che giấu những kẻ phản động,
tham gia vào tổ chức FULRO. Trước năm 2001, ở Tây Nguyên nhiều nơi, cấp ủy,
chính quyền chủ quan, mất cảnh giác trước những âm mưu, thủ đoạn chống phá của
kẻ địch, nên bị bất ngờ khi địch tổ chức biểu tình, bạo loạn (2-2001); ba năm sau (4-
2004), kẻ địch lại kích động, lôi kéo tổ chức biểu tình, bạo loạn với quy mô lớn hơn
và tính chất chính trị phản động, phức tạp hơn; mặc dù lần này không bị bất ngờ
nhưng không ít địa phương, cơ sở vẫn chưa nhận thức đầy đủ về âm mưu, thủ đoạn
của địch, vẫn để chúng tuyên truyền, lôi kéo đồng bào DTTS tham gia biểu tình ở
nhiều buôn, làng. Thực tế trên cho thấy, việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác nắm dân,
nắm tình hình chưa chắc, không xử lý được tình huống ngay từ cơ sở, để lây lan và
gây nên hậu quả nghiêm trọng, kéo dài. Công tác dân vận ở Tây Nguyên chưa được
triển khai một cách thường xuyên, liên tục; vẫn còn tình trạng làm theo kiểu "thời
vụ" vào các thời điểm nhạy cảm, tập trung ở những địa bàn xuất hiện "điểm nóng",
nên còn bị động đối phó, chạy theo sự vụ, giải quyết tình thế.
Việc tổ chức thực hiện các chính sách về đất đai, nhà ở, việc làm, chuyển
đổi tập quán sản xuất ở nhiều địa bàn nông thôn đồng bào DTTS còn chậm và lúng
túng, nên chưa thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu.
Mục tiêu phát triển sản xuất, xây dựng buôn làng, sớm đưa nông thôn
vùng DTTS thoát ra khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu chưa hoàn thành.
125
Vẫn còn hàng trăm buôn làng chưa có điện, thiếu đường giao thông, thủy
lợi, trường mẫu giáo và nhiều cơ sở hạ tầng thiết yếu khác. Việc tổ chức
lại sản xuất còn trong tình trạng manh mún; chuyển đổi tập quán từ tự
túc tự cấp sang sản xuất hàng hóa chậm; chưa thực hiện có kết quả chính
sách giao rừng cho cộng đồng DTTS tại chỗ. Kết quả giải quyết việc
làm, xóa đói giảm nghèo chưa vững chắc; chưa lường được sự phức tạp
trong việc giải quyết đất đai ở vùng DTTS tại chỗ… hiện vẫn còn 11
nghìn hộ đồng bào DTTS thiếu đất sản xuất nhưng không có quỹ đất dự
phòng để giải quyết [24].
Hai là, nội dung, phương pháp công tác dân vận chưa theo kịp diễn biến của
tình hình, còn đơn giản một chiều, chưa phù hợp với từng đối tượng.
Trong khi kẻ địch hàng ngày, hàng giờ len lỏi vào từng gia đình, từng người
dân rỉ rả, tuyên truyền chia rẽ khối đoàn kết các dân tộc; xuyên tạc đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, gây tâm lý hoài nghi, chống đối trong
nhân dân, thì CTDV của HTCT chưa được triển khai thực hiện thường xuyên, nội
dung còn thiếu cụ thể, linh hoạt và sát hợp với từng đối tượng. Theo kết quả điều tra
xã hội học của tác giả Trương Minh Tuấn: Khi trả lời câu hỏi vấn đề đáp ứng nhu
cầu tiếp nhận thông tin của đồng bào DTTS, với nội dung tuyên truyền về chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước của công tác tuyên
truyền thời gian qua như thế nào, thì chỉ có: "42,4% số người được hỏi trả lời đã
đáp ứng được nhu cầu tiếp nhận thông tin của cá nhân mình; 44,9% trả lời đáp ứng
được một phần; 6,2% trả lời chưa đáp ứng được và 6,4% có ý kiến khó trả lời" [109,
phụ lục 1, tr.iv]. Vì vậy, nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước chưa
đến được với dân; việc phát huy tính chủ động, sáng tạo, tự giác tham gia các phong
trào cách mạng của nhân dân còn hạn chế; đặc biệt, trong cán bộ, đảng viên và nhân
dân vẫn có tư tưởng chủ quan, mất cảnh giác trước những âm mưu, thủ đoạn của kẻ
thù; một bộ phận đồng bào DTTS vẫn còn tư tưởng ly khai, mặc cảm và kỳ thị dân
tộc, ngộ nhận về FULRO và theo “Tin lành Đê Ga”. "Thế trận lòng dân chưa vững
chắc; chưa tập trung đúng mức cho công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư
tưởng để bồi dưỡng, nâng cao nhận thức, giác ngộ chính trị cho các tầng lớp nhân
dân" [125].
126
Công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của quần chúng
chưa thường xuyên, nội dung chưa sắc bén và chưa sát với từng đối
tượng, hình thức còn xơ cứng, chưa theo kịp diễn biến tình hình tư tưởng
của quần chúng. Đội ngũ cán bộ công tác quần chúng, trực tiếp là HTCT
cơ sở chưa được quan tâm bồi dưỡng về nội dung và phương pháp nên
còn bất cập trong việc giải quyết những băn khoăn, vướng mắc, bức xúc
của nhân dân, chưa tạo ra "sức đề kháng" để chủ động chống lại sự tuyên
truyền và tác động của bọn FULRO [21].
Công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng đối với đồng bào DTTS ngày
càng khó khăn, lúng túng, chưa thật phù hợp với nhận thức chung của đồng bào;
việc tổ chức bám dân, phát động quần chúng còn thiếu sức hấp dẫn, lôi cuốn, chưa
làm cho đồng bào hiểu rõ sự chăm lo của Đảng, Nhà nước và âm mưu xuyên tạc,
chống phá của các thế lực thù địch. Bên cạnh đó, việc lãnh đạo, giáo dục cho cán
bộ, đảng viên và đồng bào Kinh tôn trọng, bảo đảm quyền lợi, tập quán của đồng
bào DTTS chưa tốt, vẫn xảy ra nhiều trường hợp vi phạm lợi ích, tập quán của đồng
bào như: Tranh chấp đất đai, chặt phá rừng; giải quyết đền bù, tái định cư cho đồng
bào ở các vùng ngập lòng hồ thủy điện, thủy lợi; giải quyết mâu thuẫn trong nội bộ
dân cư chưa chú trọng đến tâm lý, tập tục và nhận thức của đồng bào, gây bức xúc,
dễ bị kẻ xấu kích động biến thành mâu thuẫn, thù hằn dân tộc hết sức nguy hiểm.
Ba là, hệ thống chính trị cơ sở, nhất là trong vùng dân tộc thiểu số, vùng tôn
giáo chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
Mặc dù đã được quan tâm củng cố, kiện toàn nhưng HTCT cơ sở nhiều nơi
năng lực hoạt động còn yếu, chưa nắm chắc dân, nắm chắc tình hình ở từng buôn
làng để chủ động giải quyết kịp thời những vấn đề đặt ra ở cơ sở và những bức xúc
về kinh tế - xã hội của quần chúng, nhất là chưa kịp thời đấu tranh ngăn chặn âm
mưu hoạt động của bọn FULRO. Vai trò, trách nhiệm lãnh đạo, quản lý của cấp ủy,
chính quyền có nơi còn yếu kém, chưa đảm đương được nhiệm vụ lãnh đạo phát
triển kinh tế - xã hội; phát hiện, xử lý những vấn đề phát sinh; vẫn còn tình trạng
quan liêu, xa dân, chưa thực sự chăm lo đến sản xuất và đời sống của đồng bào
DTTS. Trình độ, năng lực của một bộ phận cán bộ còn thấp, bản lĩnh chính trị chưa
127
thực sự vững vàng. Công tác quy hoạch, tạo nguồn, đào tạo và sử dụng đội ngũ cán
bộ người DTTS các cấp, nhất là ở cơ sở chưa được quan tâm đúng mức, chưa đáp
ứng yêu cầu trước mắt và chuẩn bị đội ngũ kế cận; công tác xây dựng tổ chức đảng,
phát triển đảng viên ở vùng DTTS, vùng đồng bào có đạo còn bất cập; vấn đề xây
dựng buôn làng tự quản chưa được quan tâm đúng mức; chế độ, chính sách đối với
cán bộ cơ sở, nhất là ở những địa bàn khó khăn, phức tạp còn bất cập nên chưa thu
hút, động viên cán bộ yên tâm công tác, bám buôn làng.
Hệ thống chính trị bộc lộ nhiều yếu kém, nhất là ở cơ sở; công tác
giáo dục chính trị, tư tưởng chưa được chú trọng đúng mức; tình trạng
quan liêu, xa dân, chưa nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân dân và
những diễn biến ở cơ sở còn phổ biến; năng lực quản lý, điều hành của
cấp ủy, chính quyền chưa đủ mạnh để giải quyết các bức xúc phát sinh
từ cơ sở [96].
Đặc biệt, qua các vụ biểu tình, bạo loạn xảy ra trên địa bàn cho thấy rõ: Hệ
thống chính trị ở cơ sở, nhất là ở vùng DTTS, vùng tôn giáo còn nhiều hạn chế,
không đủ sức nắm dân, nắm tình hình, ngăn chặn và xử lý biểu tình, khiếu kiện tại
chỗ, nên vẫn có nguy cơ xảy ra biểu tình trên phạm vi hẹp, nhỏ lẻ. Nếu xảy ra biểu
tình, khiếu kiện đồng loạt ở một số buôn làng trong một xã; một vài xã trong một
huyện thì lực lượng của xã, huyện không đủ sức tự giải quyết.
Công tác lãnh đạo củng cố, kiện toàn tổ chức Mặt trận, các đoàn thể, hội
quần chúng ở cơ sở tuy đã được quan tâm nhưng chưa tạo được sự chuyển biến
mang tính đột phá; hiệu quả hoạt động của một số hội, đoàn thể quần chúng ở cơ sở,
thôn, buôn còn nặng về hình thức và có xu hướng "hành chính hóa"; một số hội,
đoàn thể chưa quan tâm phát triển đoàn viên, hội viên; tổ chức đoàn, hội ở cơ sở
thôn, buôn nhiều nơi không thu hút, tập hợp được đoàn viên, hội viên. Đặc biệt,
công tác tập hợp, thu hút thanh niên, tuyên truyền giáo dục chính trị, tư tưởng và
giải quyết công ăn việc làm cho thanh niên DTTS còn yếu, không có những mô
hình thực sự hấp dẫn và thiết thực để thu hút nên phần lớn thanh niên DTTS đứng
ngoài tổ chức, bị tôn giáo và các phần tử xấu lôi kéo.
Công tác bám dân, bám cơ sở, tuyên truyền, vận động quần chúng chưa
128
thực sự đi vào chiều sâu để tập trung xây dựng cốt cán, thực lực chính trị
và nắm chắc tâm tư nguyện vọng của đồng bào. Hoạt động của Mặt trận
Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể nhiều nơi còn mang tính hình thức, chưa
đáp ứng yêu cầu, nhất là công tác tập hợp, thu hút thanh niên. Việc tuyên
truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng cho thanh niên DTTS còn rất hạn
chế. Hiệu quả hoạt động của các đội công tác và các sở, ngành, cơ quan
phụ trách xã trọng điểm còn thấp [10].
Bốn là, lãnh đạo phối hợp giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị và các
lực lượng trên địa bàn làm công tác dân vận chưa thật chặt chẽ, cụ thể và đồng bộ.
Việc chỉ đạo tổ chức thực hiện CTDV có lúc, có nơi thiếu chặt chẽ; chưa
phát huy hết vai trò, trách nhiệm và sự phối hợp hành động của các cấp, các ngành,
các tổ chức đoàn thể và mọi cán bộ, đảng viên trong CTDV; việc thực hiện Quy chế
phối hợp trong CTDV chưa kịp thời, một số nơi làm chậm, chưa thường xuyên, chặt
chẽ. Đặc biệt là chưa phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ban, ngành Trung ương với địa
phương để giải quyết, xử lý những vấn đề bức xúc, nhất là những vấn đề liên quan
đến đất đai, tổ chức lại sản xuất và đời sống ở vùng đồng bào DTTS tại chỗ. Ban
Chỉ đạo Tây Nguyên đánh giá: "Sự phối kết hợp chỉ đạo giữa cấp ủy đảng, chính
quyền, đoàn thể đối với các lực lượng làm nhiệm vụ trên địa bàn còn thiếu đồng bộ,
chưa có sự phân công, phối hợp cụ thể nên hoạt động kém hiệu quả, không nắm
được tình hình cơ sở" [20].
4 1 2 2 Nguyên nhân của hạn chế
Thứ nhất, do sự tuyên truyền, chống phá thường xuyên, quyết liệt của bọn phản
động FULRO và các thế lực thù địch đối với địa bàn Tây Nguyên. Chúng luôn gieo rắc tư
tưởng, tâm lý chia rẽ Kinh - Thượng, Lương - Giáo, ly khai, tự trị; lừa mị, kích
động đồng bào biểu tình, bạo loạn đòi lập "Nhà nước Đê Ga", "Tin lành Đê Ga" và
vượt biên trái phép để thực hiện ý đồ "Quốc tế hóa" vấn đề Tây Nguyên. Về nguy
cơ này, Bộ Chính trị đã kết luận: "Âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch và sự
phục hồi, ráo riết hoạt động chống phá của bọn phản động FULRO trên địa bàn các
tỉnh Tây Nguyên là rất nghiêm trọng…" [7]. Bên cạnh đó, Tây Nguyên là địa bàn có
rất nhiều khó khăn do lịch sử để lại như: Trình độ dân trí thấp, sự chênh lệch về
129
điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi dân tộc, điểm xuất phát thấp… nên cần phải có
thời gian để khắc phục. Đây là những nguyên nhân khách quan "thường trực" ảnh
hưởng đến chất lượng, hiệu quả CTDV trên địa bàn.
Thứ hai, một số cấp ủy đảng, chính quyền chưa nhận thức sâu sắc và quán
triệt đầy đủ vai trò, tầm quan trọng của CTDV trong tình hình mới, nên thiếu sự
quan tâm chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết việc thực hiện
CTDV trên địa bàn. Một bộ phận cán bộ các cấp, các ngành và lực lượng chức
năng còn biểu hiện thỏa mãn, chủ quan, mất cảnh giác, quan liêu, xa dân; chưa
thấy hết những khó khăn, phức tạp và yêu cầu nhiệm vụ chiến lược của CTDV ở
Tây Nguyên.
Thứ ba, chưa dồn sức xây dựng HTCT ở cơ sở thật sự vững mạnh toàn diện;
việc nâng cao chất lượng hoạt động của buôn làng theo hướng tự quản và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân còn lúng túng, bất cập; công tác tạo nguồn, quy hoạch,
đào tạo, bồi dưỡng, bố trí và sử dụng đội ngũ cán bộ người DTTS tại chỗ còn hạn
chế; năng lực, bản lĩnh chính trị và khả năng làm CTDV của đội ngũ cán bộ cơ sở
chưa đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới. Đặc biệt là tình trạng cán bộ làm CTDV
không am hiểu phong tục tập quán, tiếng nói của đồng bào DTTS vẫn kéo dài, chậm
được khắc phục.
4.2. MỘT SỐ KINH NGHIỆM
Từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo CTDV của Đảng trên địa bàn Tây Nguyên từ
năm 2001 đến năm 2010, có thể rút ra một số kinh nghiệm:
4.2.1. Thƣờng xuy n làm tốt công tác tuy n truyền, giáo dục nâng cao
nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể và xã hội về công tác
dân vận tr n địa bàn Tây Nguy n
Thực tiễn tình hình phức tạp và thường xuyên biến động ở Tây Nguyên cho
thấy: Công tác dân vận đóng vai trò to lớn trong việc củng cố và phát huy sức mạnh
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực sự là phương thức rất quan trọng trong việc xây
dựng Đảng, xây dựng "thế trận lòng dân", giữ vững ổn định chính trị, tạo cơ sở, nền
tảng để ổn định và phát triển bền vững Tây Nguyên. Nếu không tạo được một sự
chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành động của toàn bộ HTCT về CTDV
130
thì không thể giữ vững "thế trận lòng dân" và vai trò lãnh đạo của Đảng. "Trong bối
cảnh của Tây Nguyên hiện nay, nếu không thực hiện tốt công tác tuyên truyền thì
tiền của và công sức bỏ ra có lớn đến đâu, an ninh chính trị vẫn khó ổn định và lòng
dân có thể yên nhưng chưa hẳn đã ổn" [54, tr.280]. Vì vậy, phải quán triệt sâu sắc
quan điểm "lấy dân làm gốc", làm cho mỗi cán bộ, đảng viên, các cấp ủy đảng,
chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể nhận thức đúng đắn về vai trò đặc biệt quan
trọng và yêu cầu bức xúc của CTDV trong tình hình mới; từ đó toàn tâm, toàn ý và
thực sự chú trọng đến CTDV nhằm củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, bảo đảm cho
Tây Nguyên ổn định và phát triển. Phải nhận thức rõ, CTDV là trách nhiệm chung
của cả HTCT, của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên các
đoàn thể nhân dân, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang. Trong đó, Đảng lãnh đạo,
chính quyền tổ chức thực hiện, Mặt trận, đoàn thể tham mưu, làm nòng cốt. Không
nên coi CTDV là nhiệm vụ của riêng Ban Dân vận, Mặt trận và các đoàn thể. Có
như vậy, mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về CTDV mới được
triển khai thực hiện có hiệu quả. Các cấp ủy đảng, chính quyền và đoàn thể ở Tây
Nguyên cần nâng cao trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo CTDV, xác định công tác vận
động và chăm lo lợi ích của nhân dân là một trong những nội dung chủ yếu trong
hoạt động của mình; CTDV không chỉ đi trước, mà còn đi cùng và đi sau mỗi một
sự kiện, trở thành yếu tố quan trọng tham gia vào các quá trình phát triển kinh tế -
xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh trên địa bàn; đây là một công tác thường
xuyên, liên tục, không thể lơ là hoặc buông lỏng trong bối cảnh kẻ thù đang hàng
ngày, hàng giờ triệt để lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, đất đai để chống phá Tây
Nguyên. Công tác dân vận ở Tây Nguyên là cuộc đấu tranh chống "diễn biến hòa
bình", giành dân quyết liệt đối với địch, chứ không phải là một công tác bình
thường. Cuộc đấu tranh này còn lâu dài, cam go, vô cùng phức tạp để giành dân, giữ
dân và an dân. Bởi lẽ, "Công tác vận động quần chúng lúc bình thường đã khó,
trong bối cảnh mặt trái kinh tế thị trường tác động, các lực lượng thù địch chưa từ
bỏ âm mưu chống phá Tây Nguyên thì công tác này lại càng khó khăn hơn và phải
thật sự được coi trọng" [111, tr.188]. Vấn đề cốt lõi và xuyên suốt trong CTDV của
Đảng ở Tây Nguyên 10 năm qua là thực hiện đúng quan điểm lấy công tác tuyên
131
truyền, vận động làm chính trong giải quyết những vấn đề phát sinh ở cơ sở; kiên
trì, thường xuyên tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho đồng bào các dân
tộc, phát huy vai trò làm chủ của quần chúng trong việc giữ gìn an ninh chính trị và
chăm lo giải quyết đời sống của đồng bào. Cùng với công tác tuyên truyền, giáo dục
nói chung, các cấp ủy đảng, chính quyền luôn coi trọng công tác giáo dục, vận động
cá biệt đối với những người có liên quan đến hoạt động FULRO, để giúp họ hòa
nhập với cộng đồng, xây dựng khối đoàn kết dân tộc. Thực tế cho thấy, trừ một số ít
ngoan cố cầm đầu theo bọn phản động FULRO buộc phải xử lý theo pháp luật, còn
đại đa số các đối tượng được vận động, giáo dục, thuyết phục, khoan hồng đã thấy
rõ bộ mặt thật, sự lừa phỉnh của FULRO để quay trở về hòa nhập với cộng đồng,
yên tâm làm ăn sinh sống. "Bài học kinh nghiệm đầu tiên của vấn đề bảo đảm an
ninh chính trị ở Tây Nguyên là bài học dựa vào quần chúng. Phải chính đồng bào
DTTS nói lên tiếng nói của mình để đấu tranh, phản bác lại những luận điệu tuyên
truyền sai trái và phê phán số người bị xúi giục tham gia biểu tình, gây rối, che giấu,
tiếp tế cho FULRO" [77, tr.35].
Bài học sâu sắc của tình hình Tây Nguyên cũng chính là bài học về công
tác tư tưởng và CTDV, không chỉ dừng chủ yếu ở quân sự và an ninh mà
cơ bản vẫn là trận địa lòng dân, là văn hóa, là tư tưởng, là dân vận có
hiệu quả. Ở đâu, cấp nào, thôn bản nào làm tốt công tác tư tưởng và
CTDV thì ở đó có lực lượng của dân, giữ được thành quả cách mạng. Ở
đâu không làm được như vậy thì bàn tay của các thế lực thù địch chế độ
sẽ vươn tới phá hoại [87, tr.121].
Để CTDV thực sự là công tác của cả HTCT, đòi hỏi cấp ủy đảng, chính
quyền và đoàn thể các cấp, trước hết là Bí thư cấp ủy, người đứng đầu chính quyền
và đoàn thể các cấp ở Tây Nguyên phải nhận thức đúng để có sự chỉ đạo sâu sát về
lĩnh vực này: Xây dựng nghị quyết, chương trình, kế hoạch thực hiện CTDV một
cách cụ thể; xác định rõ nội dung trọng tâm, trọng điểm để tập trung chỉ đạo thực
hiện; thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, giám sát việc thực hiện các chủ trương về
CTDV; định kỳ tiến hành sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm, đề ra phương hướng,
nhiệm vụ và giải pháp CTDV kịp thời trong từng thời gian; động viên, khen thưởng
132
kịp thời đối với những tập thể, cá nhân có thành tích trong CTDV; chú trọng xây
dựng và phổ biến những mô hình, điển hình "Dân vận khéo"; đồng thời, có biện
pháp xử lý nghiêm các tổ chức và cá nhân có sai phạm nhằm không ngừng củng cố
niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Thông qua kiểm tra, đôn đốc, sơ
kết, tổng kết, làm rõ những vấn đề đặt ra đối với CTDV; đồng thời, giúp cho các
cấp ủy đảng nâng cao nhận thức, không ngừng bổ sung, hoàn thiện những chủ
trương, giải pháp tăng cường CTDV đúng hướng và đạt hiệu quả cao.
Thực tế các vụ biểu tình, bạo loạn diễn ra năm 2001, 2004 và 2008, đã bộc lộ
rõ hạn chế, khuyết điểm lớn của các cấp ủy đảng, chính quyền là chủ quan, mất
cảnh giác, chưa xây dựng được "thế trận lòng dân" một cách vững chắc. Vì vậy, vấn
đề có ý nghĩa chiến lược là tập trung xây dựng cho được "thế trận lòng dân" vững
chắc, thông qua việc tăng cường và đổi mới nội dung, phương pháp CTDV, đáp ứng
nhiều loại đối tượng và trở thành một công cụ sắc bén ở cơ sở để xây dựng, củng cố
khối đoàn kết các dân tộc, nâng cao đời sống cho đồng bào, xóa bỏ tư tưởng ly khai,
tự trị, góp phần giải quyết vấn đề FULRO ở Tây Nguyên cả trước mắt và lâu dài.
Theo đó, các cấp, các ngành cần tăng cường chỉ đạo công tác tuyên truyền, giáo dục
chính trị, tư tưởng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là đồng bào các DTTS
tại chỗ, làm cho đồng bào hiểu về Đảng, gắn bó với Đảng, hiểu đất nước, hiểu dân
tộc, hiểu được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong khối đoàn kết
đó, đoàn kết giữa đồng bào Kinh với đồng bào các DTTS; đoàn kết giữa người có
đạo và người không theo đạo là rất quan trọng; thường xuyên giáo dục nhân dân
nâng cao nhận thức về vai trò, sức mạnh của khối đại đoàn kết các dân tộc trên địa
bàn; đồng thời, đề cao cảnh giác trước âm mưu, thủ đoạn thâm độc nhằm chia rẽ
dân tộc của bọn phản động FULRO và các thế lực thù địch; kiên quyết đấu tranh
phản bác, xóa bỏ tư tưởng ly khai, tự trị còn tồn tại trong một bộ phận đồng bào
DTTS; quán triệt sâu sắc chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, làm rõ
những thành tựu đạt được để phát huy cũng như nêu rõ những hạn chế, yếu kém để
cùng nhau khắc phục; xây dựng tinh thần đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ nhau, tự giác
làm chủ bản thân, gia đình, buôn làng; củng cố lòng tin vào Đảng và chế độ; khơi
dậy ý thức tự lực, tự cường, tự vươn lên trong đồng bào DTTS; khắc phục tư tưởng
trông chờ, ỷ lại trong một bộ phận đồng bào DTTS.
133
4.2.2. Kết hợp chặt chẽ giữa công tác dân vận với phát triển kinh tế - xã
hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và tăng cƣờng khối đại đoàn kết các dân tộc
ở Tây Nguy n
Quá trình thực hiện CTDV của Đảng trên địa bàn Tây Nguyên thống nhất
trong mục tiêu tạo môi trường hòa bình, ổn định về mọi mặt để Tây Nguyên ổn định
và phát triển bền vững. Trước sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch và
bọn phản động FULRO, những nguy cơ mất ổn định về chính trị - xã hội, tính chất
phức tạp của vấn đề dân tộc, tôn giáo, đất đai, biên giới…, đòi hỏi CTDV của Đảng
ở Tây Nguyên phải biết kết hợp giải quyết đồng bộ cả về chính trị, tư tưởng, kinh
tế, xã hội, an ninh, quốc phòng. Nói một cách khác, CTDV phải được xác định là
một trong những giải pháp quan trọng hàng đầu thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển,
đảm bảo quốc phòng, an ninh và tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc trên địa
bàn. Bởi vì, suy cho cùng, các nhiệm vụ kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, xây
dựng HTCT… đều là mục đích, nội dung của CTDV; kinh tế - xã hội phát triển,
quốc phòng, an ninh đảm bảo, khối đoàn kết dân tộc không ngừng củng cố sẽ hỗ trợ
đắc lực và tác động tích cực trở lại đối với CTDV, làm cho CTDV thiết thực, khả
thi. Phải lấy hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và
tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc trên địa bàn làm thước đo đánh giá hiệu
quả CTDV của mỗi cấp, mỗi ngành và mỗi địa phương, đơn vị. Do đó, trong việc
định hướng và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chính trị ở Tây Nguyên, các cấp, các
ngành cần gắn với mục tiêu, nhiệm vụ của CTDV; căn cứ vào đặc điểm tình hình,
yêu cầu nhiệm vụ từng nơi, từng lúc để xây dựng nội dung và hình thức CTDV phù
hợp; biết gắn kết nội dung các đợt vận động quần chúng ở cơ sở với yêu cầu, nhiệm
vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội, xây
dựng HTCT cơ sở và đảm bảo quyền lợi thiết thực của đồng bào.
Nhiệm vụ trọng tâm của CTDV ở Tây Nguyên là: Thúc đẩy kinh tế - xã hội
phát triển, củng cố quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn
xã hội trên địa bàn. Quá trình triển khai thực hiện CTDV ở đây cần phải chú ý xem
xét đầy đủ yếu tố văn hóa, xã hội truyền thống của đồng bào các dân tộc Tây
Nguyên, vận dụng linh hoạt, sáng tạo chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước
134
để đề xuất những nội dung, biện pháp CTDV phù hợp với vùng đất và con người
Tây Nguyên thì mới có thể đem lại hiệu quả thiết thực. Thực tế cho thấy, sự ổn
định, no ấm của đồng bào DTTS là nhân tố quan trọng bảo đảm sự ổn định và phát
triển vùng Tây Nguyên, là cơ sở để xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc
trên địa bàn chiến lược này. Vì vậy, Đảng và Nhà nước phải quan tâm đầu tư phát
triển sản xuất, nâng cao đời sống của đồng bào các DTTS; tổ chức thực hiện tốt
chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo; đồng thời, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn
mọi âm mưu, ý đồ lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo gây mất ổn định chính trị - xã
hội của các thế lực thù địch. Các tỉnh Tây Nguyên cần tiếp tục thực hiện tốt các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với đồng bào DTTS về đất ở, đất sản
xuất, nhà ở, giao rừng, khoán bảo vệ rừng; xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm;
phát triển giáo dục, y tế, văn hóa… Đặc biệt, cần có những chính sách tác động
mạnh và phù hợp hơn đối với đồng bào DTTS để giúp họ sớm thoát cảnh đói nghèo,
lạc hậu, từng bước vươn lên có cuộc sống no ấm, văn minh. Tập trung rà soát và xử
lý kịp thời các vấn đề đang gây bức xúc trong nhân dân, nhất là vấn đề đất đai, chế
độ chính sách đối với đồng bào DTTS, những vụ việc phức tạp liên quan đến tôn
giáo, dân tộc… không để dây dưa, kéo dài làm giảm sút lòng tin của đồng bào và
tạo cớ cho kẻ xấu kích động, chống phá. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát
việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với đồng bào
DTTS nhằm kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc; đồng thời, uốn nắn và
chấn chỉnh những sơ hở, yếu kém trong quá trình tổ chức thực hiện để người dân
thực sự được hưởng lợi từ các chính sách đó.
Công tác dân vận của Đảng ở Tây Nguyên phải tập trung hướng về đồng
bào các DTTS tại chỗ, làm cho đồng bào hiểu đúng và tự giác thực hiện tốt các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; nhạy bén nắm bắt kịp thời những bức
xúc, tâm tư, nguyện vọng của đồng bào; giải quyết tốt những vấn đề thực tiễn đặt ra
phù hợp với đặc điểm của từng dân tộc, từng địa phương, tránh tư tưởng chủ quan,
áp đặt, máy móc, hình thức và cách làm không phù hợp. Theo đó, phải coi trọng
việc đổi mới nội dung và phương thức CTDV ở vùng đồng bào DTTS. Nội dung
CTDV trong vùng đồng bào DTTS chủ yếu là: Tuyên truyền, vận động đồng bào
135
thực hiện đúng chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước; hăng
say lao động sản xuất, phát triển kinh tế để thoát cảnh đói nghèo và vươn lên giàu
có; xóa bỏ những tập tục lạc hậu, xây dựng đời sống văn hóa, xây dựng gia đình,
cộng đồng ấm no, hạnh phúc; tham gia phản ánh và giải quyết kịp thời những bức
xúc của nhân dân có liên quan đến vấn đề đất đai, dân tộc, tôn giáo trên địa bàn.
Quán triệt phương châm CTDV: "chân thành, tích cực, thận trọng, kiên trì, tế nhị,
vững chắc; sử dụng nhiều phương thức phù hợp với đặc thù của từng dân tộc, từng
địa phương" [5]. Việc chuyển tải các nội dung của CTDV đến với đồng bào DTTS
cần ngắn gọn, thiết thực, hấp dẫn, kịp thời, có trọng tâm, trọng điểm để đồng bào có
thể nắm được cốt lõi của vấn đề và định hướng tư tưởng. Phải biết cụ thể hóa các
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và tình hình
kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng… thành những thông tin ngắn gọn, dễ nhớ, dễ
hiểu, có sức thuyết phục và phù hợp với đối tượng. Công tác dân vận ở vùng DTTS
phải được tiến hành một cách rất công phu, mềm dẻo, kiên trì theo kiểu "mưa dầm,
thấm lâu" và nhiều lúc phải biết chờ đợi, tránh nôn nóng, chủ quan. Vì đa số đồng
bào DTTS là những người có trình độ học vấn thấp, đời sống kinh tế gặp nhiều khó
khăn nên việc tiếp thu đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước còn
chậm, dễ bị hiểu sai. Đồng bào các DTTS vốn có tính thật thà, cả tin. Vậy nên, nói
phải đi đôi với làm và làm phải có hiệu quả thiết thực; không được nói suông, hứa
suông làm cho đồng bào nghi ngờ, mất lòng tin. Mỗi khi đã làm mất lòng tin của
đồng bào thì rất khó thuyết thục, vận động họ. Cách tốt nhất và có hiệu quả nhất là
phương pháp tuyên truyền miệng, giao tiếp, trò chuyện "tỉ tê" với đồng bào một
cách cởi mở, tự nhiên. Hết sức tránh lối diễn thuyết dài dòng, trừu tượng, xa thực tế,
xa với cách nghĩ, cách hiểu thông thường của họ. Việc giáo dục tư tưởng, chính trị,
vận động quần chúng nên lồng ghép vào các chương trình, dự án phát triển kinh tế -
xã hội, các hoạt động và phong trào văn nghệ, thể dục thể thao, giao lưu văn hóa,
các lễ hội truyền thống của đồng bào. Thực tế cho thấy, phong trào tương trợ, kết
nghĩa của các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, tổ chức xã hội, cán bộ, nhân dân vùng
đồng bào Kinh với các buôn làng đồng bào DTTS là một phương thức CTDV phù
hợp, thiết thực và có hiệu quả. Vì vậy, cần tiếp tục duy trì và phát triển phong trào
136
này một cách rộng khắp, trở thành việc làm tự giác và có hiệu quả thiết thực. Mô
hình "gắn kết hộ" ở Binh đoàn 15 và ở tỉnh Đắk Lắk là những điểm sáng về CTDV
ở Tây Nguyên cần được nhân rộng.
Đối với Tây Nguyên, xác định việc vận động và chăm lo lợi ích cho đồng
bào các DTTS tại chỗ làm đối tượng chính, trọng tâm trong CTDV là đúng hướng
và cấp bách, bảo đảm cho sự ổn định bền vững ở nơi này. Song, bên cạnh đó, vẫn
rất cần chú ý đến đối tượng là đồng bào Kinh và đồng bào DTTS nơi khác đến. Có
như vậy mới thực hiện được đại đoàn kết các dân tộc cùng cư trú trên cùng một địa
bàn, tránh những mâu thuẫn, xung đột có thể xảy ra. Các cấp ủy đảng, chính quyền
địa phương cần lãnh đạo, giáo dục cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân tôn
trọng và bảo đảm quyền lợi, tập quán của đồng bào DTTS; khi xử lý các tranh chấp,
khiếu kiện đất đai, giải quyết mâu thuẫn trong nội bộ dân cư cần chú trọng đến tập
quán của đồng bào DTTS tại chỗ.
4.2.3. Thường xuyên bám sát cơ sở, đáp ứng nhu cầu thực tế của địa phương
Trong điều kiện đặc thù của một vùng miền núi, biên giới, địa bàn rộng, có
nhiều dân tộc, tôn giáo, cơ sở hạ tầng còn thấp kém, điều kiện đi lại còn khó khăn
thì buôn, làng có một vai trò rất quan trọng trong tổ chức đời sống của cộng đồng
các DTTS Tây Nguyên. Tập trung xây dựng buôn làng vững mạnh phải được coi là
giải pháp quan trọng nhằm thúc đẩy sự ổn định và phát triển vùng Tây Nguyên. Vì
vậy, CTDV của Đảng ở Tây Nguyên phải xác định buôn làng là địa bàn rất quan
trọng trong hoạt động của mình, xem đây là cấp cơ sở, cấp tận cùng và trực tiếp với
người dân. Trận địa của CTDV ở Tây Nguyên là buôn làng. Nơi nào bỏ trống trận
địa cơ sở buôn làng, nơi đó không có CTDV. Cần phải hướng mạnh về buôn làng,
thực hiện tốt phương châm: "Tất cả đều phải từ làng buôn và tất cả đều phải đến
buôn làng", "Tỉnh phải nắm xã, huyện phải nắm thôn buôn và xã phải nắm hộ, nắm
dân"; xác định địa bàn bám trụ là tại buôn làng; đối tượng vận động là từng hộ gia
đình, từng con người cụ thể; yêu cầu là xây dựng được lực lượng nòng cốt ở trong
dân và làm chủ được trận địa tư tưởng ở từng buôn, làng; dân tin ai, nghe theo ai và
hành động cách mạng ra sao là kết quả cuối cùng mà CTDV phải nhắm tới; thực
hiện đúng lời căn dặn của Hồ Chí Minh: "Bám lấy dân là làm sao cho được lòng
137
dân, dân tin, dân mến, dân yêu… Phải vận động nhân dân, để dân tự nguyện, tự
giác, nếu bắt buộc thì chỉ có thể có kết quả ngay lúc đó thôi, còn sau thì không
thấm" [73, tr.448]. Hướng về cơ sở cũng có nghĩa là phải chống tư tưởng chủ quan,
mất cảnh giác, quan liêu, coi thường cơ sở, coi thường nhân dân; đồng thời, nêu cao
tính chủ động, sáng tạo, tự tin của cơ sở trong thực hiện các nhiệm vụ chính trị.
Việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ CTDV phải sâu sát cơ sở, nắm được tâm tư,
nguyện vọng của nhân dân; phát hiện những vấn đề nhân dân quan tâm, những khó
khăn, bức xúc để đề xuất, tham mưu với cấp ủy, chính quyền cách giải quyết.
Thường xuyên duy trì lực lượng bám sát cơ sở, không để trống địa bàn, nhất là ở
những nơi cơ sở chính trị còn yếu kém, đảm bảo nắm chắc tình hình, nắm chắc
được dân, tạo sự chuyển biến từ cơ sở, chống lại âm mưu phá hoại của kẻ địch từ
buôn làng. Kinh nghiệm của các tỉnh Tây Nguyên trong thời gian qua cho thấy:
Việc thành lập các tổ, đội CTVĐQC chuyên trách; phân công các cơ quan, đơn vị
cấp tỉnh, huyện và các lực lượng vũ trang giúp đỡ, kết nghĩa với các xã, buôn làng
đồng bào DTTS; tăng cường cán bộ về cơ sở, xây dựng lực lượng nòng cốt… đều
hướng về buôn, làng. Do đó, đã từng bước khắc phục tình trạng quan liêu, xa dân;
chủ động nắm bắt tình hình cơ sở, nắm được dân, giải quyết kịp thời những nguyện
vọng chính đáng của đồng bào, không để kẻ xấu có cơ hội kích động gây bất ổn về
an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội tại cơ sở.
Cần đổi mới sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp trên đối với cơ sở theo hướng tăng
cường hướng dẫn, giúp đỡ cơ sở chủ động giải quyết các công việc cụ thể nhưng
không bao biện làm thay; việc hướng dẫn, giúp đỡ cho cơ sở cần phải thiết thực, dễ
hiểu, dễ nhớ, dễ làm; đồng thời, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát nhằm kịp
thời phát hiện, uốn nắn những khuyết điểm, sai phạm phát sinh; mỗi cơ quan tỉnh,
huyện phải có quy định cụ thể về thời gian cán bộ làm việc tại cơ sở, tiếp xúc với
dân, giảm bớt sự chỉ đạo bằng giấy tờ và triệu tập cán bộ cơ sở lên huyện, tỉnh họp.
Việc tăng cường cán bộ các ngành, đoàn thể và lực lượng vũ trang xuống cơ sở là
một chủ trương đúng đắn, cấp bách, phù hợp với tình hình và đáp ứng yêu cầu ở
từng địa phương, nhằm tham gia giúp cấp ủy, chính quyền cơ sở thực hiện tốt
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, góp phần xây
138
dựng cơ sở vững mạnh toàn diện, phòng ngừa và khắc phục các điểm nóng về an
ninh chính trị. Cần thường xuyên chấn chỉnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động của các tổ, đội CTPĐQC ở cơ sở, đảm bảo sự linh hoạt về hình thức và
phương pháp, có ý nghĩa thiết thực, sâu sắc về nội dung, hợp lý về thời gian, thành
phần, đối tượng tham dự. Thực tiễn cho thấy, phát triển sản xuất, xóa đói giảm
nghèo là từ các buôn làng; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội cũng
chính từ các buôn làng là kinh nghiệm và bài học quan trọng để xây dựng "thế trận
lòng dân" trên địa bàn Tây Nguyên. Cần xây dựng và nhân rộng các mô hình, cách
làm hiệu quả như "Buôn, làng không có người theo kẻ xấu hoạt động tôn giáo trái
phép", "Làng thanh niên văn hóa", "Buôn, làng không có người vượt biên trái
phép"…; xây dựng và thực hiện mô hình buôn làng, dòng họ, liên gia tự quản, trước
hết là tự quản về an ninh trật tự; vận dụng linh hoạt các quy định có giá trị của luật
tục để xây dựng quy ước, hương ước của buôn làng trong tình hình mới.
4.2.4. Chăm lo xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh, phát huy
vai trò của những ngƣời có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số và đồng bào
có đạo
Những thành công và hạn chế của Đảng về lãnh đạo CTDV ở Tây Nguyên
trong thời kỳ 2001-2010 liên quan rất chặt chẽ với sự vững mạnh hay yếu kém của
HTCT, nhất là HTCT ở cơ sở. Vì vậy, để thực hiện hiệu quả CTDV, đáp ứng yêu
cầu nắm dân, nắm tình hình, chủ động giải quyết những vấn đề phát sinh từ cơ sở
thì việc xây dựng, kiện toàn, củng cố HTCT cơ sở thực sự vững mạnh là vấn đề có
ý nghĩa then chốt.
Những điểm nóng về chính trị - xã hội và những sự kiện có tính bạo loạn
ở Tây Nguyên thời gian vừa qua cho thấy vai trò của HTCT cơ sở là rất
quan trọng. Ở những nơi nào HTCT cơ sở vững mạnh, cán bộ nắm được
tình hình, báo cáo lên trên và có phương án giải quyết sớm, thì tình hình
sẽ được kiểm soát, những vấn đề nổi cộm sẽ được khoanh lại giải quyết,
không để bùng nổ thành điểm nóng. Những điểm nóng thường bùng phát
ở những nơi HTCT cơ sở yếu kém, hành chính hóa và quan liêu hóa,
phẩm chất đạo đức và bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ bị suy
giảm [57, tr.115-116].
139
Vấn đề đặt ra cho các tỉnh Tây Nguyên là phải tăng cường nhiều biện pháp
xây dựng, kiện toàn HTCT cơ sở vững mạnh, gần dân, sát dân, hoạt động ngày càng
hiệu quả, động viên được sức mạnh của nhân dân trong phát triển sản xuất, xây
dựng buôn làng, chủ động giải quyết những vấn đề phát sinh từ cơ sở. Cần tập trung
xây dựng chi bộ, tổ đảng ở buôn làng; đẩy mạnh công tác tạo nguồn và phát triển
đảng viên là người DTTS tại chỗ và người có đạo. Củng cố, nâng cao hiệu lực quản
lý, điều hành của bộ máy chính quyền bảo đảm đủ năng lực giải quyết những công
việc cụ thể ở địa phương. Tăng cường củng cố và đẩy mạnh hoạt động của Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân để làm tốt công tác tuyên truyền, vận động quần
chúng thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trên địa bàn; tập
trung đổi mới nội dung, phương thức tuyên truyền, vận động, tập hợp quần chúng
theo hướng gần dân, sát dân, quan tâm giải quyết các nhu cầu, lợi ích chính đáng
của nhân dân; thực hiện có hiệu quả phong trào xóa đói giảm nghèo và cuộc vận
động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư", "Toàn dân
tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc"; đa dạng hóa các hình thức vận động và nâng cao
chất lượng hoạt động, tập hợp quần chúng vào các tổ chức thích hợp. Các cấp ủy
đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể cấp trên phải có trách nhiệm thường
xuyên chăm lo xây dựng, củng cố tổ chức của mình ở cơ sở, khắc phục bệnh quan
liêu, xa dân, xa cơ sở; thường xuyên kiểm tra việc thực hiện chính sách dân tộc, tôn
giáo, chính sách đất đai, xây dựng cơ sở hạ tầng, công tác xóa đói giảm nghèo, giáo
dục, y tế và an ninh quốc phòng ở cơ sở.
Đội ngũ cán bộ, đảng viên chuyên trách CTDV, Mặt trận, đoàn thể (bao gồm
cả cán bộ làm công tác tôn giáo, dân tộc, người Hoa) là nhân tố quyết định trong
CTDV. Sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng đối với CTDV, Mặt trận, đoàn thể
có hiệu quả đến đâu phụ thuộc rất lớn vào chất lượng của đội ngũ này. Do đó, phải
tăng cường xây dựng, củng cố đội ngũ cán bộ chuyên trách làm CTDV thật sự đủ
mạnh. Cán bộ công tác ở vùng đồng bào DTTS phải thấm nhuần sâu sắc phong
cách: "Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân", "nghe dân
nói, nói dân hiểu, làm dân tin"; thường xuyên đi công tác cơ sở; thực hiện "4 cùng"
(cùng ăn, cùng ở, cùng làm và cùng nói tiếng dân tộc). Bởi vì, "Muốn thật sự gần
140
gũi quần chúng thì phải cùng ăn, cùng ở, cùng làm, mới biết sinh hoạt của quần
chúng như thế nào, mới biết khó khăn, biết chí khí của quần chúng như thế nào, mới
biết nguyện vọng của quần chúng như thế nào…" [74, tr.560]. Đồng bào các DTTS
Tây Nguyên chỉ tin vào những điều mà họ thấy, vì vậy, muốn nói cho họ nghe thì
cán bộ dân vận phải là người gương mẫu, nói phải đi đôi với làm và làm phải có
hiệu quả cụ thể, thiết thực; làm sao để đồng bào "vừa no cái bụng, vừa no cái tai",
tránh tình trạng "no cái tai, đói cái bụng", hoặc "no cái bụng, đói cái tai", "cán bộ ở
trên cây" theo như cách nói của đồng bào. Đặc biệt, cán bộ dân vận phải biết tiếng
nói của đồng bào; am hiểu tâm tư nguyện vọng, các phong tục tập quán của đồng
bào, biết kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa pháp luật của Nhà nước với luật tục
của đồng bào, am hiểu sâu sắc vấn đề dân tộc, tôn giáo, có khả năng nắm bắt kịp
thời những vấn đề chính trị, xã hội phức tạp, để vừa giải quyết kịp thời có hiệu quả,
đúng nguyên tắc nhưng lại hết sức mềm dẻo trong chỉ đạo và xử lý những vấn đề cụ
thể. Thực tế ở Tây Nguyên có một bộ phận cán bộ là người DTTS không nói được
tiếng của dân tộc mình và đa số cán bộ người Kinh ở vùng dân tộc không nói được
tiếng của đồng bào DTTS. Điều này đã ảnh hưởng trực tiếp đến các mặt CTDV. Vì
vậy, cần thực hiện nghiêm túc chủ trương học tiếng của đồng bào DTTS tại chỗ,
xem đây là một tiêu chuẩn bắt buộc đối với cán bộ công tác ở vùng DTTS. Có làm
được như vậy mới thực hiện đúng phương châm "trực tiếp nghe đồng bào nói, trực
tiếp nói cho đồng bào nghe và trực tiếp làm để đồng bào tin", nâng cao hiệu quả
CTDV trong vùng đồng bào DTTS. Bài học về vận động đồng bào DTTS làm cách
mạng và kháng chiến trước đây đến nay vẫn giữ nguyên giá trị:
Khi nhân dân các dân tộc đã hiểu cách mạng, hiểu Đảng thì họ một lòng
một dạ gắn bó với Đảng và đứng lên hành động cách mạng, không sợ
khó khăn, gian khổ, hy sinh. Họ hiểu cách mạng, hiểu Đảng chủ yếu là
thông qua cán bộ bám dân, qua tuyên truyền miệng, qua lời nói, việc
làm, tư cách đạo đức, khí tiết của cán bộ… Người dân gắn bó với Đảng
mật thiết hay không tùy thuộc phần lớn vào cán bộ" [44, tr.170-171].
Trong cơ cấu đội ngũ cán bộ làm CTDV ở Tây Nguyên, cán bộ là người các
DTTS tại chỗ giữ vị trí rất quan trọng. Họ là những người gắn bó với quê hương,
141
am hiểu ngôn ngữ, phong tục, tập quán của đồng bào. Đây là một thuận lợi trong
việc tuyên truyền, vận động đồng bào thực hiện các chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước. Chính họ là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với đồng bào các
DTTS và là trụ cột để giữ vững ổn định chính trị, củng cố khối đoàn kết dân tộc ở
địa bàn chiến lược này. Vì vậy, việc tạo nguồn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố
trí và sử dụng hợp lý đội ngũ cán bộ người DTTS, đặc biệt là các DTTS tại chỗ
nhằm phát huy vai trò tích cực của đội ngũ này trong CTDV là một yêu cầu hết sức
quan trọng và cấp bách. Bên cạnh sự quan tâm, giúp đỡ không thể thiếu của cán bộ
người Kinh, phải tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để đội ngũ cán bộ DTTS đủ sức
đảm đương mọi nhiệm vụ và có bản lĩnh chính trị vững vàng để vượt qua mọi khó
khăn, thử thách.
Với điều kiện đặc thù miền núi, biên giới, có nhiều dân tộc, tôn giáo; tình
hình an ninh chính trị diễn biến phức tạp, kẻ thù luôn tìm mọi cách lợi dụng vấn đề
dân tộc, tôn giáo để chống phá cách mạng thì việc xây dựng lực lượng nòng cốt làm
CTDV ở cơ sở, đặc biệt là ở vùng đồng bào DTTS, đồng bào có đạo là hết sức cần
thiết và cấp bách. Lực lượng nòng cốt, những người có uy tín là đội ngũ gần dân
nhất, kịp thời nắm bắt, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của nhân dân; đây là đội ngũ
gương mẫu, tuyên truyền, vận động trực tiếp đến với người dân; đồng thời, chính họ
là chỗ dựa đáng tin cậy của các tổ chức trong HTCT ở cơ sở. Có xây dựng được lực
lượng này đủ mạnh thì mới thực hiện được phương châm: "dùng quần chúng giáo
dục, thuyết phục quần chúng", "dùng đạo để giải quyết việc đạo". Thông qua lực
lượng nòng cốt ở cơ sở, thôn buôn để nắm chắc tình hình, từ đó có biện pháp giải
quyết kịp thời những vấn đề phát sinh ở cơ sở. "Bám dân, trước hết là bám cốt cán,
xây dựng cốt cán cho vững, cốt cán thành cái rễ của ta bám vào dân như rễ cây bám
vào lòng đất" [43, tr.52].
Cần thường xuyên xây dựng, rà soát, bổ sung tiêu chuẩn, nhiệm vụ của lực
lượng nòng cốt, người có uy tín; quan tâm đến việc thông tin, bồi dưỡng kiến thức,
kỹ năng về CTDV; có chính sách đãi ngộ thích đáng đối với lực lượng này, để họ
phát huy tốt vai trò của mình trên các lĩnh vực, nhất là phát triển kinh tế, xóa đói
giảm nghèo, xây dựng cơ sở hạ tầng, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
142
hội trên địa bàn. "Đối với vùng người Thượng, vận động quần chúng luôn là khâu
công tác có ý nghĩa tiên quyết, mà thu phục được các già làng chính là điểm mấu
chốt có thể bảo đảm cho việc dân vận thành công" [66, tr.123-124]; uy tín và tiếng
nói của già làng đã trở thành tiềm thức, thấm vào máu thịt của đồng bào: "Ý kiến
của già làng rất quan trọng…" [53, tr.134-135]. Vì vậy, việc sử dụng và phát huy
vai trò của các già làng trong công tác vận động đồng bào, củng cố trận địa lòng dân
ở từng buôn làng là vấn đề hết sức cấp thiết và lâu dài ở Tây Nguyên. Nhằm hợp lý
hóa và phát huy vai trò của già làng, các tỉnh Tây Nguyên đã có sáng kiến đưa già
làng vào tổ hòa giải thôn buôn, làm nhiệm vụ hòa giải các vụ việc theo mục tiêu kép
là duy trì phong tục tập quán dân tộc và hướng người dân sống theo pháp luật. "Ví
như các già làng ở huyện Ea Sup (tỉnh Đắk Lắk), hoặc ở A Yun pa (Gia Lai) đã
từng sử dụng tục "cầm vòng" để những thanh niên đã theo kẻ xấu gây chuyện, hoặc
rủ rê người vượt biên, thề trước cả buôn sẽ không vi phạm nữa, và họ đã gìn giữ
được lời thề đó trước sức mạnh và lòng tin chân thành của cộng đồng" [78, tr.118-
119]. Ở tỉnh Đắk Nông, chính quyền, đoàn thể đã mời các già làng đi cùng gia đình
có người vượt biên sang Campuchia để thăm hỏi, khuyên giải, tuyên truyền, vận
động họ trở về an tâm sản xuất, ổn định cuộc sống… Thực tế ở các địa phương đã
phát huy tốt vai trò của già làng cho thấy:
Nơi nào cấp ủy, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể nhận thức đúng vị
trí, vai trò của già làng, tạo môi trường thuận lợi, giúp đỡ cho các già
làng có điều kiện hoạt động như: mời các già làng tham gia các cuộc họp
giao ban, sơ kết, tổng kết công tác, chú ý lắng nghe những điều già làng
phát biểu, thực hiện tốt những kế hay già làng đã hiến; hàng năm tổ chức
hội nghị già làng để rút kinh nghiệm hoạt động đã qua và bàn những việc
làm sắp tới, thì phát huy được vai trò của già làng trong việc xây dựng,
bảo vệ quê hương, xây dựng buôn làng vững mạnh [117].
Cần đặc biệt coi trọng công tác tranh thủ các chức sắc tôn giáo, nhất là
người đứng đầu giáo hội. Vì đây là hàng ngũ có vai trò "rường cột" của tôn giáo,
có uy tín và ảnh hưởng rất lớn trong quần chúng tín đồ. Khẳng định chức sắc
cũng là công dân, nhưng là những "công dân đặc biệt", do hoàn cảnh lịch sử, họ
143
có nhận thức khác nhau, thậm chí có người còn định kiến, mặc cảm với chính
quyền. Vì vậy, cần phải kiên trì, khôn khéo vận động, giáo dục, kéo nắm các
chức sắc tôn giáo theo phương châm "gần - hiểu - cảm hóa" để giúp họ có nhận
thức và hành động đúng. Công tác đối với chức sắc tôn giáo phải có tác dụng cổ
vũ, phát huy đối với người tiến bộ, lôi kéo thúc đẩy người còn lưng chừng và hạn
chế, thu hẹp ảnh hưởng của người có tư tưởng cực đoan, bảo thủ. Làm tốt công
tác tranh thủ, vận động chức sắc tôn giáo sẽ vận động được tín đồ thực hiện tốt
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tham gia tích cực các
hoạt động xã hội; đồng thời, chủ động đấu tranh làm thất bại âm mưu lợi dụng
tôn giáo của các thế lực thù địch. Kinh nghiệm ở huyện Chư Sê (Gia Lai) là bài
học thành công về vấn đề này:
Trong vụ bạo loạn tháng 2-2001 ở Tây Nguyên, Ama Thái (Siu Huêh) là
thư ký Hội thánh "Tin lành Đê Ga", đến tháng 3-2001, sau thất bại trong
vụ tổ chức biểu tình ở Tây Nguyên, khi Ama Chăm (đứng đầu Hội thánh
Tin lành Đê Ga) tỉnh Gia Lai vượt biên sang Mỹ thì Ama Thái được giao
quyền "lãnh đạo" Hội thánh "Tin lành Đê Ga" tỉnh Gia Lai, phụ trách 8
khu vực. Sau một thời gian được các cơ quan chức năng, Mặt trận, các
đoàn thể tuyên truyền, vận động, Ama Thái đã nhận ra âm mưu thâm độc
của bọn phản động lợi dụng dân tộc, tôn giáo để chia rẽ khối đoàn kết
toàn dân tộc và tự thấy việc làm của mình là sai, nên đã từ bỏ "Tin lành
Đê Ga". Ama Thái được tiếp nhận vào làm việc tại Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc huyện Chư Sê, đã thường xuyên đi đến các làng đồng bào DTTS
trong tỉnh để tuyên truyền cho đồng bào âm mưu của FULRO rất có hiệu
quả [47, tr.47].
Cần coi trọng việc xã hội hóa công tác tuyên truyền, vận động ở cơ sở; tăng
cường huy động, sử dụng các lực lượng: Các nhà doanh nghiệp, chủ đầu tư, chủ các
công trình, dự án, đội ngũ giáo viên, cán bộ y tế, lực lượng phụ nữ, thanh niên…
tham gia làm công tác tuyên truyền, vận động ở địa phương, cơ sở. Có như vậy mới
nắm được dân, phát động được các phong trào cách mạng một cách thiết thực và có
chiều sâu, tạo sự lan tỏa, sức sống của CTDV trong tình hình mới. Thực tế cho thấy:
144
"Uy tín giáo viên rất cao, nên rất có hiệu quả nếu sử dụng họ vào công tác tuyên
truyền, giáo dục, vận động quần chúng và họ có khả năng tác động lớn đến các thế
hệ kế cận" [103, tr.64]. Các cấp ủy đảng, chính quyền cần thường xuyên thông tin
về tình hình nhân dân, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, những
chủ trương của Đảng và cấp ủy địa phương để các lực lượng tham gia làm CTDV
nắm bắt đúng đắn, kịp thời, trên cơ sở đó xây dựng các chương trình, kế hoạch tham
gia CTDV phù hợp. Tổ chức các lớp tập huấn, trao đổi tình hình CTDV, công tác
dân tộc, công tác tôn giáo cho các lực lượng này. Đồng thời, định kỳ kiểm tra, đánh
giá, khen thưởng các lực lượng tham gia làm tốt CTDV trên địa bàn.
4.2.5. Lãnh đạo phối hợp chặt chẽ, phát huy sức mạnh tổng hợp của các
lực lƣợng tham gia công tác dân vận tr n địa bàn
Thực tiễn ở Tây Nguyên cho thấy, khi có tình hình phức tạp về an ninh
chính trị, có nhiều chủ thể cùng làm CTDV ở địa phương, nhưng do thiếu sự phối
hợp và phân công nhiệm vụ cụ thể, nên xảy ra tình trạng hoặc là "lấn sân", "trống
đánh xuôi, kèn thổi ngược", "vận mà không động, động mà không theo một
hướng" hoặc bỏ trống trận địa dẫn đến hiệu quả CTDV bị hạn chế, thậm chí là
phản tác dụng. Vì vậy, các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn
thể và các lực lượng trên địa bàn cần nghiêm túc thực hiện Quy chế CTDV của
HTCT: "Công tác dân vận là trách nhiệm của tất cả các tổ chức trong HTCT, của
mọi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên các đoàn thể
nhân dân, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, các tổ
chức trong HTCT phối hợp chặt chẽ thực hiện đồng bộ, thống nhất, hiệu quả
CTDV" [52]. Theo đó, cần phân định rõ chức năng, nhiệm vụ cụ thể của các cấp
ủy, chính quyền, đoàn thể, tổ chức làm CTDV ở Tây Nguyên. Trong đó, cấp ủy
đảng phải lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp các đơn vị, cá nhân làm CTDV; chỉ đạo thực
hiện các nội dung CTDV cụ thể, chủ động yêu cầu phối hợp giữa các tổ chức, đơn
vị tiến hành CTDV mọi lúc, mọi nơi; kết hợp lãnh đạo tư tưởng, tổ chức với chỉ
đạo triển khai CTDV là biện pháp tích cực làm cho CTDV của Đảng trở thành
hiện thực. Các cấp ủy đảng cần thường xuyên tiến hành rà soát, điều chỉnh, bổ
sung quy chế CTDV phù hợp với thực tiễn địa phương, đơn vị; phân công trách
145
nhiệm cụ thể, thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc tổ chức thực hiện chức năng,
nhiệm vụ CTDV được giao. Thực hiện CTDV cần cụ thể hóa thành các chương
trình, kế hoạch, quy chế, quy định cụ thể, gắn với nhiệm vụ chính trị của địa
phương, đơn vị; trong từng thời điểm cần xác định trọng tâm, trọng điểm để tập
trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện. Thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả
các quy chế phối hợp, ký kết liên tịch, chương trình phối hợp công tác giữa Ban
Dân vận với chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội các
cấp trong CTDV.
Cần tăng cường sự phối hợp đồng bộ và thống nhất giữa các bộ, ban, ngành
ở Trung ương và địa phương trong việc triển khai thực hiện các chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước về CTDV trên địa bàn. Kinh nghiệm trong xử lý các
vụ biểu tình tháng 4-2008 cho thấy: Nhờ phát hiện sớm được ý đồ chỉ đạo biểu
tình của bọn FULRO lưu vong, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng Chính
phủ, Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, Bộ Công an… các lực lượng chức năng và các tỉnh
Tây Nguyên đã chủ động phối hợp bám cơ sở, nắm tình hình, tăng cường công tác
tuyên truyền, vận động quần chúng; đồng thời, tiến hành rà soát, giải quyết ngay
tại chỗ những bức xúc, vướng mắc, nhất là những tranh chấp, khiếu kiện trong
vùng đồng bào DTTS. Các lực lượng (Công an, Quân đội, Biên phòng) phối hợp
chặt chẽ trong theo dõi nắm chắc tình hình và rà soát các phương án phòng chống
biểu tình, bạo loạn, vượt biên trái phép; kiên quyết ngăn chặn không để tụ tập biểu
tình, gây rối an ninh trật tự tại cơ sở; đồng thời, phối hợp với chính quyền địa
phương đẩy mạnh việc giáo dục, cảm hóa, quản lý, răn đe với những đối tượng
liên quan đến hoạt động FULRO, nên số tái hoạt động không nhiều, tác hại bị hạn
chế. Những thành công và kết quả đạt được trong CTDV ở Tây Nguyên thời gian
qua còn cho thấy: Trong quá trình chỉ đạo và triển khai thực hiện CTDV trên địa
bàn, Ban Chỉ đạo Tây Nguyên đã chủ trì phối hợp với Ban Dân vận Trung ương,
Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Ban Tổ chức Trung ương… tổ chức nhiều
Hội nghị chuyên đề về CTVĐQC, đặc biệt là Hội nghị năm 2003, 2005 và 2008,
với sự tham gia của các bộ, ngành, đoàn thể ở Trung ương và lãnh đạo các tỉnh ở
Tây Nguyên. Ngoài ra, Ban Dân vận Trung ương còn thường xuyên tổ chức Hội
146
nghị giao ban CTDV định kỳ giữa các tỉnh Tây Nguyên. Thông qua các Hội nghị
trên đã tổng kết được nhiều kinh nghiệm thực tiễn, những mô hình "Dân vận
khéo" để phổ biến và nhân rộng; đồng thời, tăng cường nâng cao nhận thức, trách
nhiệm về CTDV đối với các cấp, các ngành ở Trung ương và địa phương.
Với chức năng, nhiệm vụ được giao, Ban Chỉ đạo Tây Nguyên cần tăng
cường và phát huy hơn nữa vai trò của mình trong chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra, tổ
chức phối hợp các lực lượng, cơ quan chức năng của Trung ương và địa phương
để thực hiện tốt những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với vùng
Tây Nguyên. Trong đó, nhiệm vụ trọng tâm và thường xuyên là xây dựng thế trận
quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; nắm chắc tình hình, kịp thời phát hiện,
ngăn chặn mọi âm mưu, ý đồ của bọn phản động FULRO và các thế lực thù địch;
nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, vận động quần chúng; xây dựng và củng
cố khối đoàn kết các dân tộc; giữ vững an ninh chính trị vùng Tây Nguyên.
Trên một địa bàn cụ thể, các lực lượng được phân công về làm CTDV và lực
lượng tại chỗ phải có sự phối hợp chặt chẽ với nhau, theo một kế hoạch thống nhất,
dưới sự lãnh đạo, điều hành, phân công cụ thể của cấp ủy đảng cơ sở. Tránh tình
trạng trên địa bàn cơ sở cùng một lúc có rất đông lực lượng (chính quyền, đoàn thể,
Công an, Đội công tác của địa phương và Quân đội, các đơn vị kết nghĩa, lực lượng
dân quân tự vệ) nhưng việc chỉ đạo phối hợp công tác chưa tốt, nên hiệu quả thấp.
Cần thường xuyên tổ chức giao ban CTDV để nắm tình hình, phổ biến kinh nghiệm,
định hướng nội dung và phương pháp hoạt động. Thực tế cho thấy, thông qua công
tác kết nghĩa, CTPĐQC… các ngành, các cấp, các cơ quan, đơn vị, các lực lượng vũ
trang đã có sự phối hợp khá tốt để bám địa bàn, bám dân, nắm tình hình, đẩy mạnh
CTVĐQC, phát huy truyền thống đoàn kết dân tộc, giữ vững ổn định chính trị, trật
tự an toàn xã hội; đồng thời, động viên được các tầng lớp nhân dân tích cực tham
gia phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, xây dựng đời sống mới.
Tiểu kết chƣơng 4
Thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW của Bộ Chính trị, các tổ chức đảng từ
Trung ương đến địa phương đã đề ra nhiều chủ trương, giải pháp cụ thể, tập trung
lãnh đạo, chỉ đạo HTCT các cấp, phối hợp các lực lượng trên địa bàn, hướng về cơ
147
sở và địa bàn dân cư để làm CTDV. Theo đó, nội dung và phương thức CTDV từng
bước được đổi mới theo hướng cụ thể, thiết thực, phù hợp và có hiệu quả. Nét nổi
bật trong CTDV của Đảng ở Tây Nguyên thời kỳ này: Các cấp, các ngành, các địa
phương và các lực lượng đều tập trung hướng về cơ sở, đẩy mạnh CTVĐQC trong vùng
đồng bào DTTS; công tác kết nghĩa giữa các cơ quan, đơn vị của tỉnh, huyện, các
doanh nghiệp và lực lượng vũ trang với các buôn đồng bào DTTS; tăng cường cán
bộ của tỉnh, huyện về cơ sở làm CTDV và xây dựng HTCT cơ sở… Với những chủ
trương và giải pháp phù hợp, CTDV đã góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát
triển, giữ vững an ninh chính trị, xây dựng HTCT cơ sở vững mạnh, củng cố và
tăng cường khối đoàn kết các dân tộc, đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của
bọn phản động FULRO và các thế lực thù địch. Tuy nhiên, CTDV của Đảng ở Tây
Nguyên cũng bộc lộ một số hạn chế, khuyết điểm: Nhận thức của một số cấp ủy
đảng, chính quyền về vai trò, nhiệm vụ CTDV chưa thật sâu sắc, nên trong lãnh
đạo, chỉ đạo còn xem nhẹ và buông lỏng CTDV, chưa nắm chắc dân, nắm chắc tình
hình; nội dung và phương pháp CTDV chậm đổi mới, hiệu quả chưa cao; lãnh đạo
phối hợp và phân công trách nhiệm CTDV cho các tổ chức trong HTCT và các lực
lượng đóng trên địa bàn chưa thật chặt chẽ, cụ thể.
148
KẾT LUẬN
Tây Nguyên là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng của cả nước. Đặc điểm
tự nhiên, kinh tế - xã hội đặc trưng của Tây Nguyên là cơ sở rất quan trọng để Đảng
và Nhà nước đề ra những chủ trương, chính sách đúng đắn, phù hợp nhằm phát triển
kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên. Trong những chủ
trương chung đó, có chủ trương tăng cường CTDV của Đảng ở Tây Nguyên.
Trước năm 2001, thực hiện Nghị quyết số 8B của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Về đổi mới công tác quần chúng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và
nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ các tỉnh ở Tây Nguyên, CTDV trên địa
bàn đã bước đầu đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, bám sát nhiệm vụ
chính trị để vận động quần chúng tham gia thực hiện các chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, thực hiện các chương trình, kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội ở địa phương. Tuy nhiên, công tác vận động đồng bào các dân tộc ở Tây
Nguyên còn nhiều hạn chế, chưa thật sự tạo ra chuyển biến đáng kể ở vùng đồng
bào DTTS, thậm chí có phần lúng túng, bế tắc trong việc giải quyết các vấn đề xã
hội bức xúc, nổi cộm.
Trong những năm 2001-2010, thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng và
các Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX), các nghị quyết,
quyết định của Bộ Chính trị và Thủ tướng Chính phủ, đặc biệt Nghị quyết số 10-
NQ/TW Về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây
Nguyên thời kỳ 2001-2010 của Bộ Chính trị (khóa IX)… và các Kết luận của Ban
Chỉ đạo Tây Nguyên, các cấp bộ đảng luôn tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo HTCT
hướng về cơ sở, tập trung tuyên truyền và vận động các tầng lớp nhân dân khắc
phục khó khăn, yên tâm lao động sản xuất, ổn định và nâng cao đời sống; đề cao
tinh thần cảnh giác, góp phần đấu tranh làm thất bại âm mưu chống phá của các thế
lực thù địch; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, từng bước tạo chuyển
biến trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Ban Chỉ đạo Tây Nguyên ra đời là cầu nối tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo
trực tiếp, kịp thời của Trung ương Đảng và Chính phủ đối với vùng Tây Nguyên.
Với chức năng, nhiệm vụ được giao, Ban Chỉ đạo Tây Nguyên đã chủ động triển
khai các mặt công tác và có những đóng góp quan trọng cho sự ổn định và phát triển
149
của vùng. Thực hiện tốt chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo; tăng cường
CTPĐQC, công tác kết nghĩa và tăng cường cán bộ cho cơ sở… là những chủ
trương, giải pháp lớn của Đảng và Nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả CTDV ở Tây
Nguyên, nhất là ở vùng đồng bào DTTS. Việc đẩy mạnh CTDV đã góp phần tích
cực vào phát triển kinh tế - xã hội; tham gia giải quyết vấn đề FULRO, giữ vững an
ninh chính trị; xây dựng HTCT cơ sở, trọng điểm là vùng DTTS; tập trung giải
quyết vấn đề đạo Tin lành, thực hiện chính sách tôn giáo; góp phần xây dựng, củng
cố khối đại đoàn kết các dân tộc, xây dựng "thế trận lòng dân", bảo đảm cho Tây
Nguyên từng bước ổn định và phát triển. Tuy đã có nhiều đổi mới, nhưng CTDV
của Đảng ở Tây Nguyên vẫn bộc lộ nhiều hạn chế: Một số cấp ủy đảng, chính
quyền lãnh đạo, chỉ đạo công tác nắm dân, nắm tình hình chưa chắc; xử lý tình
huống ở cơ sở thiếu chủ động, kịp thời, nhạy bén; nội dung, phương pháp CTDV
chưa theo kịp diễn biến tình hình, còn đơn giản một chiều, chưa phù hợp với từng
đối tượng; HTCT cơ sở, nhất là trong vùng DTTS chưa đáp ứng được yêu cầu,
nhiệm vụ trong tình hình mới; lãnh đạo phối hợp giữa các tổ chức trong HTCT và
các đơn vị đứng chân trên địa bàn làm CTDV chưa thật chặt chẽ, cụ thể và đồng bộ.
Những thành công và kết quả đạt được cũng như những hạn chế, yếu kém
trong quá trình Đảng lãnh đạo, chỉ đạo CTDV trên địa bàn Tây Nguyên thời kỳ
(2001-2010) đã cung cấp những kinh nghiệm quý, những bài học quan trọng để
không ngừng tăng cường và đổi mới CTDV của Đảng, góp phần phát triển bền
vững Tây Nguyên, đó là: Thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục
nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể và xã hội về
CTDV trên địa bàn Tây Nguyên; kết hợp chặt chẽ giữa CTDV với phát triển kinh
tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh và tăng cường khối đại đoàn kết các dân
tộc ở Tây Nguyên; thường xuyên bám sát cơ sở, đáp ứng nhu cầu thực tế của địa
phương; chăm lo xây dựng HTCT cơ sở vững mạnh, phát huy vai trò của những
người có uy tín trong đồng bào DTTS và đồng bào có đạo; lãnh đạo phối hợp chặt
chẽ, phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng tham gia CTDV trên địa bàn.
Để Tây Nguyên ổn định và phát triển bền vững cùng với sự phát triển chung của
cả nước, đòi hỏi Đảng phải tăng cường đổi mới sự lãnh đạo, chỉ đạo CTDV, góp
phần xứng đáng giữ vững vị trí đặc biệt quan trọng về địa chính trị, địa kinh tế và
quốc phòng của Tây Nguyên.
150
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA
TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nguyễn Mậu Linh (2013), "Đắk Lắk với việc phát huy vai trò người có uy tín
trong đồng bào dân tộc thiểu số", Tạp chí Sinh hoạt lý luận, (4), tr.68-72.
2. Nguyễn Mậu Linh (2013), "Một số kết quả và kinh nghiệm trong công tác dân
vận của Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk", Tạp chí Lịch sử Đảng, (6), tr.56-62.
3. Nguyễn Mậu Linh (2015), "Những nhân tố ảnh hưởng đến công tác dân vận ở
Tây Nguyên hiện nay", Tạp chí Dân vận, (12), tr.39-40.
4. Nguyễn Mậu Linh (2016), "Đắk Lắk thực hiện công tác kết nghĩa các buôn đồng
bào dân tộc thiểu số", Tạp chí Sinh hoạt lý luận, (1), tr.86-89.
5. Nguyễn Mậu Linh (2016), "Công tác dân vận của Đảng ở Tây Nguyên - Một số kết
quả và kinh nghiệm (2004-2012)", Tạp chí Lịch sử Đảng, (1), tr.72-75.
6. Nguyễn Mậu Linh (2016), "Xây dựng buôn làng tự quản trong cộng đồng các dân
tộc thiểu số tại chỗ ở Tây Nguyên hiện nay", Tạp chí Tổ chức Nhà nước,
(3), tr.40-43.
7. Nguyễn Mậu Linh (2016), "Công tác dân vận của Đảng bộ tỉnh Gia Lai: Một số
kết quả và kinh nghiệm", Tạp chí Sinh hoạt lý luận, (8), tr.57-61.
151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk (2010), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk
1975-2005, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Gia Lai, Ban Dân vận Tỉnh ủy (2015), Lịch sử
công tác dân vận Đảng bộ tỉnh Gia Lai (1945-2015), Nxb Thông tin và
Truyền thông, Hà Nội.
3. Ban Chấp hành Trung ương (2002), Nghị quyết số 10-NQ/TW của Bộ Chính trị
Về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây
Nguyên thời kỳ 2001-2010, ngày 18-01-2002, Hà Nội.
4. Ban Chấp hành Trung ương (2002), Quyết định số 46-QĐ/TW Về thành lập
Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, ngày 17-7-2002, Hà Nội.
5. Ban Chấp hành Trung ương (2003), Nghị quyết số 24-NQ/TW Về công tác dân
tộc, ngày 12-3-2003, Hà Nội.
6. Ban Chấp hành Trung ương (2003), Nghị quyết số 25-NQ/TW Về công tác tôn
giáo, ngày 12-3-2003, Hà Nội.
7. Ban Chấp hành Trung ương (2004), Thông báo Kết luận số 148-TB/TW Về tình
hình, nhiệm vụ và giải pháp để tiếp tục phát triển vùng Tây Nguyên toàn
diện, bền vững, ngày 16-7-2004, Hà Nội.
8. Ban Chấp hành Trung ương (2004), Thông báo số 160-TB/TW Ý kiến kết luận
của Ban Bí thư tại Hội nghị sơ kết 5 năm thực hiện Thông báo 184-
TB/TW và 255-TB/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) về chủ trương công
tác đối với đạo Tin lành, ngày 15-11-2004, Hà Nội.
9. Ban Chấp hành Trung ương (2007), Quy định số 89-QĐ/TW, ngày 03-10-2007
Về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức, bộ máy, địa bàn hoạt động,
quan hệ công tác, chế độ, chính sách cán bộ của các Ban Chỉ đạo: Tây
Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, Hà Nội.
10. Ban Chấp hành Trung ương, Đoàn kiểm tra Nghị quyết 10-NQ/TW (2007), Báo
cáo số 07-BC/ĐKT Kết quả kiểm tra thực hiện Nghị quyết 10-NQ/TW
ngày 18-01-2002 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo
đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên thời kỳ 2001-2010, ngày 10-
12-2007, Hà Nội.
152
11. Ban Chấp hành Trung ương, Ban Dân vận (2015), Lịch sử công tác dân vận
của Đảng Cộng sản Việt Nam (1930-2010), Nxb Chính trị quốc gia - Sự
thật, Hà Nội.
12. Ban Chỉ đạo Tây Nguyên (2003), Kết luận số 20-BC/BCĐTN Hội nghị về Tin
lành Tây Nguyên, ngày 10-6-2003.
13. Ban Chỉ đạo Tây Nguyên (2004), Báo cáo số 47-BC/BCĐTN Về tình hình thực
hiện Nghị quyết 10-NQ/TW, ngày 18-01-2002 của Bộ Chính trị về phát
triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên
thời kỳ 2001-2010.
14. Ban Chỉ đạo Tây Nguyên (2006), Báo cáo số 119-BC/BCĐTN Tình hình Tây
Nguyên năm 2005, ngày 11-01-2006.
15. Ban Chỉ đạo Tây Nguyên (2006), Báo cáo số 120-BC/BCĐTN Về công tác xây
dựng Đảng và hệ thống chính trị ở cơ sở năm 2005 và nhiệm vụ trọng
tâm năm 2006, ngày 11-01-2006.
16. Ban Chỉ đạo Tây Nguyên (2006), Báo cáo số 125-BC/BCĐTN Tình hình Tây
Nguyên năm 2005 và Chương trình công tác năm 2006, ngày 7-02-2006.
17. Ban Chỉ đạo Tây Nguyên (2006), Tây Nguyên trên đường phát triển bền vững,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Ban Chỉ đạo Tây Nguyên (2007), Báo cáo số 19-BC/BCĐTN Tình hình Tây
Nguyên năm 2006, ngày 15-01-2007, Buôn Ma Thuột.
19. Ban Chỉ đạo Tây Nguyên (2008), Thông báo số 32-TB/BCĐTN Kết quả Hội
nghị rút kinh nghiệm giải quyết các vụ biểu tình, khiếu kiện, gây rối xảy
ra từ ngày 11 đến 14-4-2008 ở một số huyện của ba tỉnh Gia Lai, Đắk
Lắk, Phú Yên, ngày 27-5-2008, Buôn Ma Thuột.
20. Ban Chỉ đạo Tây Nguyên (2008), Báo cáo số 64-BC/BCĐTN Về tình hình và
một số vấn đề trọng tâm về công tác tư tưởng, vận động quần chúng và
xây dựng hệ thống chính trị cơ sở nhằm giải quyết vấn đề FULRO ở Tây
Nguyên, ngày 22-10-2008, Buôn Ma Thuột.
21. Ban Chỉ đạo Tây Nguyên (2008), Thông báo số 45-TB/BCĐTN Kết luận Hội
nghị bàn về công tác tư tưởng, dân vận và xây dựng hệ thống chính trị
cơ sở nhằm giải quyết vấn đề FULRO ở vùng Tây Nguyên, ngày 23-10-
2008, Buôn Ma Thuột.
153
22. Ban Chỉ đạo Tây Nguyên (2009), Thông báo số 56-TB/BCĐTN Kết luận của
Thường trực Ban Chỉ đạo Tây Nguyên tại Hội nghị công tác quần chúng
giải quyết vấn đề FULRO, ngày 29-6-2009, Buôn Ma Thuột.
23. Ban Chỉ đạo Tây Nguyên (2010), Báo cáo chuyên đề xây dựng hệ thống chính
trị cơ sở vùng Tây Nguyên: thực trạng, kinh nghiệm và giải pháp, Buôn
Ma Thuột.
24. Ban Chỉ đạo Tây Nguyên (2011), Báo cáo số 07-BC/BCĐTN Tổng kết Nghị
quyết 10-NQ/TW ngày 18-01-2002 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế
- xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên thời kỳ 2001-
2010, ngày 20-4-2011, Buôn Ma Thuột.
25. Ban Dân vận Tỉnh ủy Đắk Lắk (2005), Kế hoạch số 622-KH/DVTU Xây dựng
lực lượng cốt cán trong hệ thống Ban Dân vận, Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể quần chúng các cấp ở khu dân cư, ngày 14-3-2005, Đắk Lắk.
26. Ban Dân vận Tỉnh ủy Đắk Lắk (2010), Báo cáo số 562-BC/DVTU Kết quả 5
năm thực hiện Nghị quyết XIV của Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2005-2010 và
phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ 2010-2015, ngày 20-1-2010, Đắk Lắk
27. Ban Dân vận Tỉnh ủy Đắk Nông (2012), Báo cáo số 75-BC/BDV Tổng kết hoạt
động Đội công tác vận động quần chúng xây dựng cơ sở giai đoạn 2007-
2011, ngày 10-01-2012, Đắk Nông.
28. Ban Dân vận Tỉnh ủy Gia Lai (2007), Nâng cao năng lực hoạt động và khả
năng tập hợp quần chúng của Mặt trận và các đoàn thể ở xã, phường, thị
trấn trên địa bàn tỉnh Gia Lai trong tình hình mới, Nxb Đà Nẵng.
29. Ban Dân vận Trung ương (1995),Tư tưởng Dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Ban Dân vận Trung ương (2002), Kế hoạch số 23-KH/BDV Triển khai thực
hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về Tây Nguyên trong hệ thống dân vận,
ngày 18-01-2002, Hà Nội.
31. Ban Dân vận Trung ương (2003), Báo cáo số 01-BC/BDV Về công tác dân vận
ở các tỉnh Tây Nguyên năm 2002, ngày 14-1-2003, Hà Nội.
32. Ban Dân vận Trung ương (2004), Chương trình hành động số 242-CT/DV Về
công tác vận động quần chúng tại các tỉnh Tây Nguyên, ngày 20-8-2004,
Hà Nội.
154
33. Ban Dân vận Trung ương (2005), Báo cáo số 42-BC/BDVTW Công tác dân vận
các tỉnh Tây Nguyên và tỉnh Bình Phước từ đầu năm 2003 đến nay, ngày
24-8-2005, Hà Nội.
34. Ban Dân vận Trung ương (2010), Báo cáo số 64-BC/BDVTW Về công tác dân
vận thực hiện Nghị quyết X của Bộ Chính trị trên địa bàn các tỉnh Tây
Nguyên từ năm 2002 đến nay, ngày 5-8-2010, Hà Nội.
35. Ban Dân vận Trung ương (2010), Điển hình Dân vận khéo, Hà Nội.
36. Ban Tổ chức Tỉnh ủy Đắk Lắk (2000), Báo cáo thực trạng hệ thống chính trị
các cấp và công tác cán bộ, ngày 6-6-2000, Đắk Lắk.
37. Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ (2001), Báo cáo về xây dựng chính quyền cơ
sở ở các tỉnh vùng Tây Nguyên, Tài liệu Hội nghị xây dựng chính quyền
cơ sở ở các tỉnh vùng Tây Nguyên, Gia Lai, ngày 18-19/7/2001, Hà Nội.
38. Nguyễn Bạn (2012), "Phát huy vai trò công tác dân vận trên địa bàn Tây
Nguyên trong giai đoạn mới", Tạp chí Dân vận, (7), tr.29-30; 39.
39. Hoàng Chí Bảo (2013), "Quan niệm về chất lượng và hiệu quả công tác dân
vận", Tạp chí Lịch sử Đảng (2), tr.47-52.
40. Ngọc Biên (2012), "FULRO - công cụ phục vụ âm mưu can thiệp của nước
ngoài", Hồ sơ sự kiện, chuyên san Tạp chí Cộng sản, (3).
41. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2001), Báo cáo tóm tắt phương hướng phát triển kinh
tế - xã hội vùng Tây Nguyên thời kỳ 2001-2010, Hà Nội.
42. Bộ Nội vụ (2012), Báo cáo tổng kết 07 năm thực hiện Quyết định số 253/QĐ-
TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án "Một số giải pháp củng
cố, kiện toàn chính quyền cơ sở vùng Tây Nguyên giai đoạn 2002-2010",
Hà Nội.
43. Trần Thanh Dân (2014), Mãi mãi không quên (Hồi ký), Kon Tum.
44. Trần Thanh Dân (2015), Đứng lên từ cộng đồng làng, Nxb Thông tin và Truyền
thông, Hà Nội.
45. Trương Minh Dục (2008), Xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc ở
Tây Nguyên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
46. Nguyễn Tấn Dũng (2012), "Tây Nguyên vững bước đi lên", Tạp chí Cộng sản,
(7), tr.11-15.
155
47. Nguyễn Mậu Dựng (2013), "Những nhân tố ảnh hưởng đến việc xây dựng lực
lượng nòng cốt ở Tây Nguyên", Tạp chí Sinh hoạt lý luận, (4), tr.43-47.
48. Phạm Ngọc Đại (2015), "Chính sách kết nghĩa dân tộc ở tỉnh Đắk Lắk hiện
nay", Tạp chí Khoa học Xã hội Tây Nguyên (2), tr.70-80.
49. Đảng bộ tỉnh Đắk Nông (2010), Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Đắk Nông
nhiệm kỳ 2010-2015, Đắk Nông.
50. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
51. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
52. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Quyết định số 290-QĐ/TW của Bộ Chính trị
Về việc ban hành Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị, ngày
25-2-2010.
53. Bùi Minh Đạo (2010), Tổ chức và hoạt động buôn làng trong phát triển bền
vững vùng Tây Nguyên, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
54. Bùi Minh Đạo (2010), Thực trạng phát triển Tây Nguyên và một số vấn đề phát
triển bền vững, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
55. Bùi Minh Đạo (2012), Một số vấn đề cơ bản của xã hội Tây Nguyên trong phát
triển bền vững, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
56. Lê Văn Đính (2009), Giải pháp tăng cường đoàn kết, tập hợp thanh niên các
dân tộc ở Tây Nguyên hiện nay, Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.
57. Phạm Hảo (2003), "Hệ thống chính trị ở các tỉnh Tây Nguyên - thực trạng và
giải pháp", trong Phạm Hảo, Trương Minh Dục, đồng chủ biên, Một số
vấn đề về xây dựng hệ thống chính trị ở Tây Nguyên, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, tr.107-149.
58. Chu Chí Hòa (2010), Đổi mới công tác xây dựng Đảng ở nông thôn, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
59. Lê Nhị Hòa (2013), Kết hợp phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng ở Tây
Nguyên giai đoạn 1996 - 2010, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
60. Phạm Quang Hoan (2014), Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài "Quan
hệ tộc người và chiến lược xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong
phát triển bền vững Tây Nguyên", mã số TN3/X05, Hà Nội.
156
61. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Tỉnh ủy Đắk Nông
(2013), Kỷ yếu hội thảo khoa học "Một số vấn đề về công tác tuyên
truyền, vận động quần chúng trong thời kỳ hiện nay", Đắk Nông.
62. Phạm Văn Hồ (2012), Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện chính sách
xã hội ở Tây Nguyên từ năm 1996 đến năm 2006, Luận án Tiến sĩ Lịch
sử, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
63. Hội đồng dân tộc, Quốc hội khóa X (2001), Báo cáo thực trạng và những giải
pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế - xã hội gắn với bảo đảm an ninh
chính trị và quốc phòng ở Tây Nguyên trong tình hình mới, ngày 25-7-2001,
Hà Nội.
64. Hội đồng Lý luận Trung ương (2012), Làm tốt công tác quần chúng trong tình
hình mới: kinh nghiệm Trung Quốc, kinh nghiệm Việt Nam, Nxb Chính
trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
65. Nguyễn Thế Huệ (2008), Người cao tuổi dân tộc và già làng trong phát triển
bền vững Tây Nguyên, Nxb Thông tấn, Hà Nội.
66. Lưu Hùng (2002), "Góp bàn về làng người Thượng ở Tây Nguyên qua biến đổi
và phát triển (nhìn từ góc độ dân tộc học)", trong Một số vấn đề phát
triển kinh tế - xã hội buôn làng các dân tộc Tây Nguyên, Nxb Khoa học
Xã hội, Hà Nội, tr.98-126.
67. Nguyễn Mạnh Hùng (2011), "Những điều rút ra từ thành công trong chỉ đạo
công tác dân vận ở Binh đoàn 15", Tạp chí Dân vận, (3), tr.24-26.
68. Thái Thượng Kim (2015), "Đảng Cộng sản các nước trên thế giới tận dụng như
thế nào sự tham dự dân chủ để thắt chặt quan hệ giữa Đảng và quần
chúng", Thông tin những vấn đề lý luận (Phục vụ lãnh đạo), (5), tr.23-31.
69. Lê Văn Khoa, Phạm Quang Tú (2014), Hướng tới phát triển bền vững Tây
Nguyên, Nxb Tri thức, Hà Nội.
70. Vũ Đình Lợi, Bùi Minh Đạo và Vũ Thị Hồng (2000), Sở hữu và sử dụng đất
đai ở các tỉnh Tây Nguyên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
71. Yly Niê Kđăm (2006), "Nâng cao đời sống văn hóa và tinh thần đồng bào dân
tộc thiểu số", trong Tây Nguyên trên đường phát triển bền vững, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.92-95.
157
72. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
73. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
74. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
75. Thành Nam (2001), "Hội nghị công tác dân vận bốn tỉnh Tây Nguyên", Tạp chí
Dân vận, (6), tr.13-16.
76. Mai Văn Năm (2006), "Tây Nguyên quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết
10", trong Tây Nguyên trên đường phát triển bền vững, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, tr.32-37.
77. Nguyễn Văn Nên (2012), "Tây Nguyên - bài học về sức mạnh lòng dân", trong
Ban Chỉ đạo Tây Nguyên 10 năm hình thành và phát triển (2002-2012)",
Buôn Ma Thuột, tr.32-37.
78. Linh Nga Niê Kdam (2010), "Văn hóa truyền thống các dân tộc Tây Nguyên
trong sự ổn định và phát triển", trong Dương Thị Hưởng, Đỗ Đình Hãng
và Đậu Tuấn Nam, đồng chủ biên, Một số vấn đề về văn hóa - xã hội các
dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
tr.107-121.
79. Vương Tề Ngạn (2009), "Thúc đẩy xây dựng chính trị dân chủ cơ sở nông thôn,
thực hiện quản lý của chính quyền cơ sở và tự trị của quần chúng thúc
đẩy lẫn nhau một cách tích cực", trong Vấn đề nông nghiệp, nông dân,
nông thôn: kinh nghiệm Việt Nam, kinh nghiệm Trung Quốc, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, tr.438-450.
80. Nhà xuất bản Lao động - Xã hội (2013), Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác
dân vận trong thời kỳ đổi mới ở nước ta hiện nay, Hà Nội.
81. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2014), Lý luận và kinh nghiệm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về công tác dân vận, Hà Nội.
82. Hà Sơn Nhim (2011), "Một số kết quả và bài học kinh nghiệm trong công tác
dân vận của Đảng bộ tỉnh Gia Lai", Tạp chí Dân vận, (1), tr.39-41.
83. Trần Văn Phòng (2012), "Một số bài học kinh nghiệm về công tác vận động
quần chúng của Đảng trong những năm đổi mới", Tạp chí Lý luận chính
trị,(8), tr.33-38.
158
84. Trần Đại Quang (2012), "Phát triển Tây Nguyên toàn diện, bền vững, xứng
đáng với vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế - xã hội, quốc
phòng, an ninh và môi trường sinh thái của đất nước", Tạp chí Cộng sản,
(6), tr.12-18.
85. Nguyễn Bá Quang (2013), Học tập và làm theo phong cách "Dân vận khéo" Hồ
Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
86. Lưu Văn Sùng (2010), Một số điểm nóng chính trị - xã hội điển hình tại các
vùng dân tộc ở miền núi trong những năm gần đây: hiện trạng, vấn đề,
các bài học kinh nghiệm trong xử lý tình huống, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
87. Đỗ Khánh Tặng (2012), Nghiên cứu lý luận phục vụ công tác tuyên giáo, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
88. Nguyễn Đình Tấn, Trần Thị Bích Hằng (2010), Nhận thức, thái độ, hành vi của
cộng đồng các dân tộc thiểu số đối với chính sách dân tộc của Đảng và
Nhà nước trong giai đoạn hiện nay - thực trạng và giải pháp, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
89. Tỉnh ủy Đắk Lắk (2001), Kế hoạch số 01/KH-TU Về đấu tranh xóa bỏ "Tin
lành Đê Ga" và tiếp tục thực hiện chủ trương đối với đạo Tin lành trong
tình hình mới, ngày 22-6-2001, Đắk Lắk.
90. Tỉnh ủy Đắk Lắk (2010), Báo cáo số 381-BC/TU Tổng kết 10 năm thực hiện
Nghị quyết số 10-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội,
bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên thời kỳ 2001-2010, ngày
20-9-2010, Đắk Lắk.
91. Tỉnh ủy Đắk Lắk (2011), Báo cáo kết quả 6 năm thực hiện công tác kết nghĩa với
các buôn đồng bào dân tộc thiểu số (2004-2010), tháng 2-2011, Đắk Lắk.
92. Tỉnh ủy Đắk Lắk (2011), Báo cáo số 72-BC/TU Tổng kết 6 năm thực hiện Nghị
quyết số 04-NQ/TU của Tỉnh ủy (khóa XIII) về phát triển kinh tế - xã hội
buôn, thôn đồng bào dân tộc thiểu số, ngày 27-7-2011, Đắk Lắk.
93. Tỉnh ủy Đắk Nông (2010), Báo cáo số 21-BC/TU Tổng kết tình hình thực hiện
Nghị quyết 10-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và
đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên thời kỳ 2001-2010, ngày
22-12-2010, Đắk Nông.
159
94. Tỉnh ủy Gia Lai (2005), Chỉ thị số 22-CT/TU Về một số công tác đối với đạo
Tin lành, ngày 8-4-2005, Gia Lai.
95. Tỉnh ủy Gia Lai (2009), Báo cáo số 242-BC/TU Tổng kết 5 năm thực hiện
Thông báo 160-TB/TW của Ban Bí thư (khóa IX) về chủ trương công tác
đối với đạo Tin lành, ngày 7-5-2009, Gia Lai.
96. Tỉnh ủy Gia Lai (2010), Báo cáo số 04-BC/TU Tổng kết tình hình thực hiện
Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 18-01-2002 của Bộ Chính trị về phát
triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên
thời kỳ 2001-2010 , ngày 09-11-2010, Gia Lai.
97. Tỉnh ủy Kon Tum (2006), Chỉ thị số 04-CT/TU Về đẩy mạnh triển khai thực
hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, ngày 10-10-2006, Kon Tum.
98. Tỉnh ủy Kon Tum (2007), Nghị quyết số 04-NQ/TU Về đẩy mạnh xây dựng các
xã đặc biệt khó khăn, ngày 14-6-2007, Kon Tum.
99. Tỉnh ủy Kon Tum (2009), Báo cáo sơ kết 2 năm thực hiện Nghị quyết 04-
NQ/TU của Tỉnh ủy (khóa XIII) về đẩy mạnh xây dựng các xã đặc biệt
khó khăn, Kon Tum.
100. Tỉnh ủy Kon Tum, Ban Tổ chức Tỉnh ủy (2011), Báo cáo số 81-BC/BTCTU
Sơ kết 3 năm thực hiện Chỉ thị số 10-CT/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy
về đẩy mạnh công tác phân công đảng viên phụ trách hộ, nhóm hộ, ngày
05-10-2011, Kon Tum.
101. Tỉnh ủy Lâm Đồng (2001), Nghị quyết số 02-NQ/TU, ngày 20-11-2001 Về tiếp tục
đầu tư phát triển vùng đồng bào dân tộc thời kỳ 2001-2005, Lâm Đồng.
102. Tỉnh ủy Lâm Đồng (2006), Nghị quyết số 09-NQ/TU Về tập trung nguồn lực tiếp
tục đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng
dân tộc thiểu số giai đoạn 2006-2010, ngày 31-10-2006, Lâm Đồng.
103. Nguyễn Văn Toàn (2002), "Khả năng sử dụng giáo viên tuyến cơ sở vào hoạt
động chính trị ở các xã vùng sâu, vùng xa Tây Nguyên", Tạp chí Sinh
hoạt lý luận (2), tr.63-64.
104. Tổng cục Chính trị, Cục dân vận và tuyên truyền đặc biệt (2005), Vì một Tây
Nguyên giàu đẹp, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
160
105. Tổng cục Thống kê, Vụ Thống kê Dân số và Lao động (2010), Kết quả điều
tra dân số và nhà ở 1.4.2009, Hà Nội.
106. Đỗ Quang Tuấn (2003), "Củng cố cơ sở, thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ ở Tây nguyên", trong Tô Huy Rứa,
Nguyễn Cúc và Trần Khắc Việt, đồng chủ biên, Giải pháp đổi mới hoạt
động của hệ thống chính trị ở các tỉnh miền núi nước ta hiện nay, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.540-559.
107. Đỗ Quang Tuấn (2006), Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong thời kỳ đổi mới, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
108. Đặng Công Tuấn (2007), "Đặc điểm tình hình và một số giải pháp ổn định
chính trị trên địa bàn xã Hà Bầu, huyện Đắk Đoa, tỉnh Gia Lai thời gian
qua", trong Phạm Hảo, chủ biên, Một số giải pháp góp phần ổn định và
phát triển ở Tây Nguyên hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
tr.580-586.
109. Trương Minh Tuấn (2011), Đổi mới công tác tư tưởng của Đảng ở Tây
Nguyên trong giai đoạn hiện nay, Luận án Tiến sĩ Chính trị học, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
110. Nguyễn Thanh Tuyền (2007), Báo cáo tổng quan đề tài "Các giải pháp đổi
mới hoạt động của hệ thống dân vận các tỉnh Tây Nguyên ở nước ta hiện
nay", Mã số KHBĐ (2005)-33, Hà Nội.
111. Nguyễn Thế Tư (2014), Xây dựng lực lượng nòng cốt làm công tác dân vận
trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên hiện nay, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
112. Thủ tướng Chính phủ (2005), Chỉ thị số 01/2005/CT-TTg Về một số công tác
đối với đạo Tin lành, ngày 04-2-2005, Hà Nội.
113. Thủ tướng Chính phủ (2008), Chỉ thị số 06/2008/CT-TTg Về phát huy vai trò
người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, ngày 01-2-2008, Hà Nội.
161
114. Thủ tướng Chính phủ (2008), Quyết định số 25/2008/QĐ-TTg Về việc ban
hành một số cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội đối với
các tỉnh vùng Tây Nguyên đến năm 2010, ngày 05-02-2008, Hà Nội.
115. Đặng Trí Thủ (2012), Công tác vận động đồng bào Khmer của các Đảng bộ
xã, phường, thị trấn ở Tây Nam Bộ trong giai đoạn hiện nay, Luận án
Tiến sĩ Khoa học Chính trị, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội.
116. Thường vụ Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu V (1999), Tổng kết công tác
binh vận chiến trường khu V trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước (1954-1975), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
117. Trung ương Hội người cao tuổi Việt Nam (2009), Kỷ yếu Hội nghị biểu
dương già làng tiêu biểu khu vực Tây Nguyên, Hà Nội.
118. Đặng Mạnh Trung (2011), Công tác vận động đồng bào Công giáo của
Đảng bộ một số tỉnh ở miền Đông Nam Bộ từ năm 1986 đến năm 2006,
Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội.
119. Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk, Ban Chỉ đạo chương trình mục tiêu giảm
nghèo (2006), Báo cáo kết quả thực hiện Nghị quyết số 57/2006/NQ-
HĐND ngày 14-12-2006 của Hội đồng nhân dân tỉnh về chương trình
mục tiêu giảm nghèo giai đoạn 2006-2010, Đắk Lắk.
120. Ủy ban nhân dân tỉnh Kon Tum (2005), Báo cáo kết quả khảo sát xác định
hộ nghèo theo chuẩn mới áp dụng giai đoạn 2006-2010 trên địa bàn tỉnh
Kon Tum, tháng 8-2005, Kon Tum.
121. Văn phòng cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo Tây Nguyên (2005), Tư liệu về
tự nhiên, kinh tế, văn hóa, xã hội và một số vấn đề liên quan đến vùng
đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên.
122. Văn phòng Chính phủ (2002), Thông báo số 178/TB-VPCP Kết luận của Phó
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Trưởng Ban Chỉ đạo Tây Nguyên tại Hội
nghị sơ kết một năm thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị và Quyết
định 168 của Thủ tướng Chính phủ về phát triển kinh tế - xã hội, bảo
đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên, ngày 14-11-2002, Hà Nội.
162
123. Văn phòng Chính phủ (2004), Thông báo số 78a/TB-VPCP Ý kiến chỉ đạo
của Phó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng về xử lý tình hình phức tạp ở Tây
Nguyên, ngày 23-4-2004, Hà Nội.
124. Văn phòng Chính phủ (2008), Thông báo số 11/TB-VPCP Kết luận của đồng
chí Lê Hồng Anh tại Hội nghị tổng kết công tác năm 2007, bàn phương
hướng, nhiệm vụ công tác năm 2008 của Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, ngày
22-01-2008, Hà Nội.
125. Văn phòng Chính phủ (2008), Thông báo số 270/TB-VPCP Kết luận của
đồng chí Lê Hồng Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an,
Trưởng ban Chỉ đạo Tây Nguyên tại Hội nghị Ban Chỉ đạo Tây Nguyên,
ngày 24-9-2008, Hà Nội.
126. Dario ViVas (2015), "Vận động quần chúng: bối cảnh dẫn đến sự trỗi dậy
của phong trào xã hội cách mạng, động lực, bản chất và tầm quan trọng",
Tạp chí Lý luận chính trị, (4), tr.99-103.
127. Viện Nghiên cứu tôn giáo, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Ban Chỉ
đạo Tây Nguyên (2013), Kỷ yếu Hội thảo khoa học Biến đổi tôn giáo ở
Tây Nguyên: Thực trạng, chính sách và giải pháp, Buôn Ma Thuột.
128. Viện Tư vấn phát triển (2010), Khai thác bauxite và phát triển bền vững Tây
Nguyên, Nxb Tri thức, Hà Nội.
129. Trương Thị Bạch Yến (2015), Tạo nguồn cán bộ, công chức xã người dân
tộc thiểu số ở các tỉnh Tây Nguyên, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
163
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH VÙNG TÂY NGUYÊN
Nguồn: http://ptit.edu.vn/wps/portal/nongthonvn.
164
Phụ lục 2
CƠ CẤU DÂN SỐ CÁC TỘC NGƢỜI Ở TÂY NGUYÊN
TT
Tộc người
Năm 1989 Năm 1999 Năm 2009
Số lượng
(người)
Tỉ lệ
(%)
Số lượng
(người)
Tỉ lệ
(%)
Số lượng
(người)
Tỉ lệ
(%)
Tổng dân số 2.486.060 100 4.059.883 100 5.107.437 100
I Kinh (Việt) 1.607.555 64,66 2.710.621 66,77 3.302.588 64,70
II Các dân tộc tại chỗ 792.884 31,89 1.061.643 26,15 1.359.134 26,57
1 Gia rai 240.264 9,66 314.908 7,76 379.589 7,56
2 Ê đê 179.279 7,21 249.543 6,15 305.045 6,07
3 Ba na 120.820 4,86 155.397 3,38 185.657 3,70
4 Xơ đăng 66.664 2,68 85.012 2,09 103.251 2,06
5 Cơ ho 83.072 3,34 113.027 2,78 129.759 2,58
6 M' nông 50.332 2,02 71.060 1,75 89.980 1,79
7 Raglei 992 0,04 1.090 0,03 1.210 0,02
8 Giẻ-Triêng 20.807 0,84 25.589 0,63 32.024 0,64
9 Mạ 19.792 0,80 30.773 0,76 36.119 0,72
10 Chu ru 10.407 0,42 14.608 0,36 16.863 0,34
11 Brâu 215 0,01 298 0,01 347 0,01
12 Rơ măm 222 0,01 338 0,01 357 0,01
III các dân tộc nơi
khác đến 85.138 3,42 286.294 7,04 445.713 8,71
1 Tày 19.657 0,79 80.489 1,98 98.348 1,96
2 Thái 7.829 0,31 25.604 0,63 28.514 0,57
3 Hoa 14.853 0,60 21.165 0,52 22.972 0,46
4 Khơ me 706 0,03 1.056 0,03 1.073 0,02
5 Mường 5.822 0,23 20.216 0,50 23.589 0,47
6 Nùng 29.146 1,17 93.441 2,30 114.962 2,29
7 H'mông 219 1,01 12.392 0,31 41.713 0,83
8 Dao 1.677 0,07 18.543 0,46 26.304 0,52
9 Sán Chay 652 0,03 3.636 0,09 4.289 0,09
10 Chăm 222 0,01 543 0,01 593 0,01
165
11 Sán Dìu 57 0,00 1.079 0,03 1.401 0,03
12 Hrê 1.244 0,05 2.268 0,06 2.899 0,06
13 Xtiêng 136 0,01 285 0,01 326 0,01
14 Bru-Vân Kiều 1.701 0,07 2.810 0,07 3.435 0,07
15 Thổ 804 0,03 1.262 0,03 1.787 0,04
16 Giáy 100 0,00 97 0,00 103 -
17 Cơ tu 14 0,00 43 0,00 456 0,01
18 Khơ mú 3 0,00 10 0,00 28
19 Co 67 0,00 107 0,00 219
20 Tà ôi 38 0,00 18 0,00 48
21 Chơ ro 10 0,00 75 0,00 73
22 Kháng 1 0,00 0 - 0 -
23 Lào 176 0,01 250 0,01 287 0,01
24 La Chí 1 0,00 0 - 330 0,01
25 La Hú 3 0,00 6 0,00 6
26 Ngái 0 - 216 0,01 181
27 Hà Nhì 0 - 4 0,00 19
28 Lự 0 - 433 0,01 449 0,01
29 Lô Lô 0 - 1 0,00 0 -
30 Chứt 0 - 170 0,00 230
31 Mảng 0 - 15 0,00 30
32 Pà Thẻn 0 - 18 0,00 125
33 Phù Lá 0 - 22 0,00 11
34 Cống 0 - 1 0,00 1
35 Si La 0 - 17 0,00 22
36 Pu Péo 0 - 2 0,00 2
IV Chưa xác định 483 0,02 1.325 0,03 2.871 0,06
Nguồn: Ban Chỉ đạo Tây Nguyên [24].
166
Phụ lục 3
TÌNH HÌNH CƢ TRÚ CỦA CÁC DÂN TỘC Ở CẤP XÃ
Tỉnh Tổng số
xã
Xã 1
dân tộc
Xã 2
dân tộc
Xã 3
dân tộc
Xã 4
dân tộc
Xã 5
dân tộc
Xã chỉ có dân
tộc tại chỗ
Xã không
có dân tộc
tại chỗ
Toàn vùng 586 9 104 74 74 325 0 52
Kon Tum 78 0 24 10 10 34 0 1
Gia Lai 169 0 54 35 23 57 0 1
Đắk Lắk 204 5 10 15 20 154 0 25
Lâm Đồng 135 4 16 14 21 80 0 25
Nguồn: Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 1999 [69, tr.227].
167
Phụ lục 4
DANH SÁCH CÁC HUYỆN, XÃ TRỌNG ĐIỂM VÙNG TÂY NGUYÊN
Tỉnh Huyện trọng điểm Xã, thị trấn trọng điểm Ghi chú
Kon Tum
Công văn số 6925-
CV/VPTW ngày 07-4-
2004 của Văn phòng
Trung ương thông báo ý
kiến của Ban Bí thư về
việc bổ sung phó bí thư
cấp ủy chuyên trách xây
dựng HTCT cơ sở đối
với các huyện và xã
trọng điểm vùng Tây
Nguyên
Thông báo số 1053-
TB/TCTW ngày 09-4-
2005 của Ban Tổ chức
Trung ương về việc bố
ung phó bí thư cấp ủy
chuyên trách xây dựng
HTCT ở cơ sở đối với
các huyện và xã trọng
điểm của tỉnh Kon Tum.
4 33
1. Đắk Glei Huyện Đắk Glei:
1. Đắk Long
2. Đắk Nhoong
3. Ngọc Linh
4. Đắk Blô
5. Xốp
6. Mường Hoong
Huyện Ngọc Hồi:
1. Sa Loong
2. Đắk Ang
Huyện Đắk Tô:
1. Ngọc Lây
2. Văn Xuôi
3. Tu Mơ Rông
4. Tê Xăng
5. Măng Ri
6. Đắk Na
7. Ngọc Yêu
Huyện Đắc Hà:
1. Đắk Pờ Xi
2. Ngọc Réo
2. Kon Plong Huyện Kon Plong:
1. Măng Bút
2. Ngọc Tem
3. Đắk Tăng
4. Đắk Nên
5. Đắk Ring
6. Măng Cành
Huyện Kon Rẫy:
1. Đắk Pne
2. Đắk Kôi
3. Sa Thầy Huyện Sa Thầy:
1. Mô Rai
2. Rờ Kơi
3. Ya Xier
4. Sa Bình
5. Yătng
6. Ya Ly
4. Thị xã Kon Tum Thị xã Kon Tum:
1. Ya Chim
2. Ngọc Bay
168
Tỉnh Huyện trọng điểm Xã, thị trấn trọng điểm Ghi chú
Gia Lai
Thông báo số 1053-
TB/TCTW ngày 09-4-
2005 của Ban Tổ chức
Trung ương về việc bố
ung phó bí thư cấp ủy
chuyên trách xây dựng
HTCT ở cơ sở đối với
các huyện và xã trọng
điểm của tỉnh Kon Tum.
9 57
1. Đắk Đoa Huyện Đắk Đoa:
1. KrDang
2. Glair
3. Đắk Sơ Mei
4. Đắk Krong
5. Kon Gang
6. Hà Bầu
7. Ia Băng
8. ADơk
9. Ia Pết
2. Krông Pa Huyện Krông Pa:
1. Phú Cần
2. Ia Srai
3. Krông Năng
4. Chư R'Căm
5. Ia Rmok
6. Chư Đrăng
7. Ia Siơm
8. Đất Bằng
3. Đức Cơ Huyện Đức Cơ
1. Ia Pnôn
2. Ia Lang
3. Ia Nan
4. Ia Dom
5. Ia Kla
4. Ia Pa Huyện Ia Pa:
1. Ama Rơn
2. Ia Trôk
3. Ia Broăi
4. Chư Mố
Huyện Chư Pah:
1. Ia Khươl
2. Ia Mơ Nông
3. Ia Ka
4. Chư Đang Ya
5. Ayun Pa Huyện Ayun Pa:
1. Ia Hiao
2. Ia Ke
3. Ia Piar
4. Chư A Thai
5. Ia Rbol
6. Ia Grai Huyện Ia Grai:
1. Ia O
2. Ia Chia
3. Ia Tô
4. Ia Grăng
169
Tỉnh Huyện trọng điểm Xã, thị trấn trọng điểm Ghi chú
5. Ia Der
7. Chƣ S Huyện Chư Sê:
1. Ia Le
2. Ia Ko
3. Ia Hla
4. H'Bông
5. Ia Phang
6. Ia Tiêm
7. Chư Pơng
9. Dun
9. Nhơn Hòa
10. Bờ Ngoong
11. Bar Măih
12. Al Bá
13. Ia H'rú
14. A Yun
8. Chƣ Prông Huyện Chư Prông:
1. Ia Mơ
2. Ia Púch
3. Ia Piơr
9. Thành phố PLeiku
Đắk Lắk Thông báo số 1051-
TB/TCTW ngày 09-4-
2005 của Ban Tổ chức
Trung ương về việc bổ
sung phó bí thư cấp ủy
chuyên trách xây dựng
HTCT ở cơ sở đối với
cac huyện và xã trọng
điểm của tỉnh Đắk Lắk
6 46
1. TP Buôn Ma Thuột TP Buôn Ma Thuột:
1. Chư Ebua
2. Ea Kao
2. Ea H'leo Huyện Ea H'leo:
1. Ea H'leo
2. Ea Soil
3. Ea Hiao
4. Đlê Yang
3. Ea Soup Huyện Ea Soup:
1. Ea Rốk
Huyện Krông Năng:
1. Đliê Ya
2. Ea Hồ
Huyện Krông Buk:
1. Chư Né
2. Ea Drông
3. Chư Bao
4. Pơ Drang
4. Buôn Đôn Huyện Buôn Đôn:
1. Krông Na
2. Ea Bar
3. Ea Nhuôl
4. Ea Wer
Huyện Ea Kar:
1. Chư Huê
170
Tỉnh Huyện trọng điểm Xã, thị trấn trọng điểm Ghi chú
2. Ea Sô
3. Thị trấn Ea Kar
5. Chƣ M'gar Huyện Chư M'gar:
1. Ea Kiết
2. H'Đinh
3. Ea Tul
4. Chư Suê
5. Thị trấn Ea Pốk
Huyện M'Drăk:
1. Krông Jing
2. Ea Trang
3. Chư Prao
4. Chư M'ta
Huyện Krông Pach:
1. Ea Kênh
2. Ea K'Nuêch
3. Hòa Đông
4. Ea Yông
5. Krông Búk
Huyện Krông Bông:
1. Yang Reh
2. Ea Trul
3. Chư Pui
4. Chư Drăm
Huyện Lăk:
1. Yang Tao
2. Bông Krang
3. Ea R'Bin
Đắk Nông
Thông báo số 1052-
TB/TCTW ngày 09-4-
2005 của Ban Tổ chức
Trung ương về việc bổ
sung phó bí thư cấp ủy
chuyên trách xây dựng
HTCT ở cơ sở đối với
cac huyện và xã trọng
điểm của tỉnh Đắk
Nông.
4 23
1. Đắk Mil Huyện Đắk Mil:
1. Thuận An
2. Đắk Lao
3. Đắk Gằn
4. Đắk R'la
2. Đắk R'lấp Huyện Đắk R'lấp:
1. Quảng Trực
2. Đắk Buk So
3. Đắk R'Tih
4. Quảng Tân
5. Quảng Tín
6. Đắk Ru
Nay thuộc
huyện Tuy
Đức
3. Đắk Song Huyện Đăk Song:
1. Đắk Mol
2. Trường Xuân
3. Đắk Rung
Nay chia
thành 2 xã
Đắk
N'Djung và
Nâm N'Jang
4. Chƣ Jút Huyện Chư Jut:
171
Tỉnh Huyện trọng điểm Xã, thị trấn trọng điểm Ghi chú
1. Tâm Thắng
2. Đắk Drông
3. Đắk Wil
Huyện Krông Nô:
1. Đắk Rồ
2. Nâm Nung
3. Buôn Choal
Huyện Đắk Glong:
1. Quảng Sơn
2. Đắk P'lao
3. Đắk R'Măng
4. Đắk Som
Lâm Đồng
Thông báo số 1054-
TB/TCTW ngày 09-4-
2005 của Ban Tổ chức
Trung ương về việc bổ
sung phó bí thư cấp ủy
chuyên trách xây dựng
HTCT ở cơ sở đối với
cac huyện và xã trọng
điểm của tỉnh Lâm Đồng
5 40
1. Đam Rông Huyện Đam Rông:
1. Đạ M'Rong
2. Đạ Tông
3. Đạ Long
4. Đạ Rsal
5. Liêng Srônh
6. Phi Liêng
7. Đạ K'Nàng
2. Lạc Dƣơng Huyện Lạc Dương:
1. Đưng K'Nớ
2. Đạ Nhim
3. Đạ Sar
4. Huyện Đạ Huoai:
1. Đạ Ploa
2. Đoàn Kết
3. Di Linh Huyện Di Linh:
1. Tân Thượng
2. Đinh Trang Hòa
3. Sơn Điền
4. Bảo Thuận
5 Đinh Lạc
6. Gia Bắc
Huyện Cát Tiên:
1. Phước Cát 2
2. Đồng Nai Thượng
4. Đơn Dƣơng Huyện Đơn Dương:
1. Đạ Ròn
2. Ka Đơn
3. Tu Tra
4. Pró
5. Lạc Xuân
5. Bảo Lâm Huyện Bảo Lâm:
1. Lộc Bắc
2. Lộc Bảo
172
Tỉnh Huyện trọng điểm Xã, thị trấn trọng điểm Ghi chú
3. Lộc Lâm
4. Lộc Phú
5. Lộc Nam
6. Lộc Tân
7. Blá
Huyện Lâm Hà:
1. Liên Hà
2. Đạ Đờn
3. Phi Tô
Huyện Đức Trọng:
1. Tà Năng
2. Tà Hine
3. Phú Hội
4. N' Thôn Hạ
Huyện Đạ Tẻh:
1. Đạ Pal
Nguồn: Cơ quan Thường trực Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, Tập văn bản về phát
triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên, tập I, tr.418-424.
173
Phụ lục 5
GIÁ TRỊ VÀ TỐC ĐỘ TĂNG TRƢỞNG
GDP VÙNG TÂY NGUYÊN THỜI KỲ 2001-2010
(Theo giá so sánh 1994)
Năm
Tổng sản phẩm
(GDP) Trong đó
Giá trị
(Tỉ đồng)
Mức
tăng
(%)
Khu vực nông-
lâm-thủy sản
Khu vực công
nghiệp - xây dựng Khu vực dịch vụ
Giá trị
(Tỉ đồng)
Mức
tăng
(%)
Giá trị
(Tỉ đồng)
Mức
tăng
(%)
Giá trị
(Tỉ đồng)
Mức
tăng
(%)
2001 13.547 6,79 9.673 5,32 1.466 8,56 2.407 10,24
2002 13.937 9,21 9.574 15,55 1.636 2,45 2.727 -5,38
2003 15.804 13,27 10.716 11,58 1.947 17,70 3.138 16,50
2004 17.830 12,52 11.738 9,53 2.399 20,71 3.693 17,51
2005 20.051 13,33 12.306 4,73 3.425 47,20 4.320 18,67
GĐ 2001-
2005 81.139 10,05 54.007 7,04 10.873 20,91 16.259 14,72
2006 22.838 13,31 13.011 5,95 4.510 29,34 5.317 21,74
2007 26.437 15,31 14.438 10.86 5.587 22,30 6.412 20,18
2008 29.887 13,05 15.644 7,47 6.778 21,95 7.465 18,03
2009 33.875 13,36 16.587 4,60 8.532 22,50 8.756 18,00
2010 38.194 13,24 17.888 7,84 9.782 19,73 10.533 18,33
GĐ 2006-
2010 151.231 13,70 77.568 7,34 35.189 23,16 38.483 19,25
TK 2001-
2010 232.370 11,87 131.575 7,19 46.062 22,03 54.742 16,98
Nguồn: Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, ngành thống kê và báo cáo của các tỉnh [24].
174
Phụ lục 6
CƠ CẤU GDP CỦA VÙNG TÂY NGUYÊN 2001-2005-2010
(Theo giá so sánh 1994)
Đơn vị tính: %
Kon
Tum
Gia
Lai
Đắk
Lắk
Đắk
Nông
Lâm
Đồng
Tây
Nguyên
Năm 2001
Nông-lâm-thủy sản 51.83 59.28 77.32 83.51 70.47 71.4
Công nghiệp xây dựng 16.96 15.52 7.48 4.82 13.26 10.82
Dịch vụ 31.21 25.2 15.2 11.67 16.27 17.78
Năm 2005
Nông-lâm-thủy sản 49.36 50.44 65.94 71.27 61.47 61.37
Công nghiệp xây dựng 18.34 22.83 12.96 11.98 20.13 17.08
Dịch vụ 32.3 26.73 21.1 16.75 18.4 21.55
Năm 2010
Nông-lâm-thủy sản 34.77 36.89 49.93 50.82 50.28 46.81
Công nghiệp-xây dựng 28.83 34.71 17.38 31.15 26.68 25.61
Dịch vụ 36.4 28.4 32.69 18.24 22.04 27.58
Nguồn: Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, ngành thống kê và báo cáo của các tỉnh [24].
175
Phụ lục 7
KẾT QUẢ GIẢM NGHÈO VÙNG TÂY NGUYÊN 2001-2006-2010
Kon
Tum Gia Lai
Đắk
Lắk
Đắk
Nông
Lâm
Đồng Toàn vùng
Năm 2001
Tổng số hộ 66.989 192.506 309.896 79.856 187.779 837.035
- Trong đó: Hộ DTTS 34.682 78.535 76.531 27.639 36.841 254.228
Tổng số hộ nghèo (tiêu chí cũ) 18.933 42.544 78.217 18.881 24.167 182.742
- Trong đó: Hộ DTTS 16.326 33.251 34.408 13.361 10.551 107.857
Tỉ lệ hộ nghèo chung (%) 28,26 22,11 25,24 23,61 11,63 21,83
Tỉ lệ hộ nghèo DTTS (%) 47,07 42,34 44,96 48,52 28,53 42,25
Năm 2006
Tổng số hộ 88.339 263.492 340.927 86.625 222.169 1.001.552
- Trong đó: Hộ DTTS 45.735 99.830 91.316 23.871 47.391 308.143
Tổng số hộ nghèo (tiêu chí mới) 25.520 60.337 79.716 23.676 40.701 228.950
- Trong đó: Hộ DTTS 22.738 50.210 42.569 10.538 20.260 146.315
Tỉ lệ hộ nghèo chung (%) 31,38 27,22 23,28 27,33 18,32 22,85
Tỉ lệ hộ nghèo DTTS (%) 53,97 57,79 49,82 44,14 42,75 47,48
Năm 2010
Tổng số hộ 102.954 289.631 386.726 114.275 274.988 1.168.574
- Trong đó: Hộ DTTS 51.468 130.772 118.820 32.906 34.954 368.92
Tổng số hộ nghèo (tiêu chí mới) 16.967 31.430 38.827 17.214 15.054 119.492
- Trong đó: Hộ DTTS 15.190 30.460 20.698 8.146 5.523 80.017
Tỉ lệ hộ nghèo chung (%) 16,48 10,82 10,04 13,39 5,08 10,23
Tỉ lệ hộ nghèo DTTS (%) 29,34 23,33 17,42 24,89 15,81 21,69
Tốc độ giảm nghèo 2006-2010 (%) 15,36 16,40 13,24 13,94 13,24 12,67
Giảm bình quân mỗi năm (%) 3,84 4,1 3,31 3,48 3,31 3,16
Nguồn: Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, ngành thống kê và báo cáo của các tỉnh [24].
176
Phụ lục 8
DANH SÁCH 62 HUYỆN NGHÈO NHẤT TRÊN CẢ NƢỚC
THEO NGHỊ QUYẾT 30a 2008/NQ-CP
Tỉnh Số huyện
nghèo Tên huyện
Hà Giang 6 Đồng Văn, Mèo Vạc, Yên Minh, Quản Bạ, Hoàng Su Phì, Xín Mần
Cao Bằng 5 Bảo Lâm, Bảo Lạc, Thông Nông, Hà Quảng, Hạ Lang
Lào Cai 3 Si Ma Cai, Mường Khương, Bắc Hà
Yên Bái 2 Mù Cang Chải, Trạm Tấu
Bắc Kạn 2 Ba Bể, Pác Nặm
Bắc Giang 1 Sơn Đông
Phú Thọ 1 Tân Sơn
Sơn La 5 Sốp Cộp, Phù Yên, Bắc Yên, Mường La, Quỳnh Nhai
Lai Châu 5 Mường Tè, Phong Thổ, Sìn Hồ, Tân Yêu, Than Uyên
Điện Biên 4 Điện Biên Đông, Mường Nhé, Tủa Chùa, Mường Ảng
Thanh Hóa 7 Lang Chánh, Thường Xuân, Quan Hóa, Quan Sơn, Mường Lát,
Như Xuân, Bá Thước
Nghệ An 3 Kỳ Sơn, Tương Dương, Quế Phong
Quảng Bình 1 Minh Hóa
Quảng Trị 1 Đa Krông
Quảng Ngãi 6 Sơn Hà, Trà Bồng, Sơn Tây, Minh Long, Tây Trà, Ba Tơ
Quảng Nam 3 Nam Trà My, Tây Giang, Phước Sơn
Bình Định 3 An Lão, Vĩnh Thanh, Vân Canh
Ninh Thuận 1 Bác Ái
Kon Tum 2 Tu Mơ Nông, Kon Plông
Lâm Đồng 1 Đam Rông
Nguồn: Uỷ ban Dân tộc [trực tuyến]. Địa chỉ: http://cema.gov.vn/modules.
php?name=Doc&op=detaildoc&pid=1181#ixzz2mTD7RaMW.
177
Phụ lục 9
DANH SÁCH CÁC XÃ BỔ SUNG VÀO DIỆN ĐẦU TƢ
CỦA CHƢƠNG TRÌNH 135 GIAI ĐOẠN 2006 - 2010
(Ban hành kèm theo Quyết định số 69/2008/QĐ-TTg ngày 28 tháng 5 năm 2008
của Thủ tướng Chính phủ)
TT
Tỉnh/ Huyện
Tên xã
Phân loại ngân sách
Ghi chú Trung ương hỗ
trợ đầu tư
Địa
phương
Tổng số 152 135 17
21 Kon Tum 3 3 0
1. Sa Thầy Hơ Moong x
2. Đắk Tô Đắk Rơ Nga x
Đắk Trăm x
22 Gia Lai 6 6 0
1. K'Bang Đak Smar x
2. Mang Yang Lơ Pang x
3. Đắk Đoa Hnol x
4. Ia Grai Ia Krăi x
5. Kông Ch'ro Đắk Pơ Pho x
Đắk Kơ Ninh x
23 Đắk Lắk 5 5 0
1. Krông Păc Vụ Bổn x
2. Krông Bông Ea Trul x
3. Krông Năng Cư Klông x
Ea Tam x
4. Ma D'răk Ea Trang x
24 Đắk Nông 6 6 0
1. Đắk Mil Đắk N'Drót x
Long Sơn x
2. Đắk Song Đắk Hòa x
178
Trường Xuân x
3. Đắk R'lấp Đạo Nghĩa x
4. Tuy Đức Quảng Tâm x
25 Lâm Đồng 7 7 0
1. Bảo Lộc B'lá x
Tân Lạc x
2. Đạ Tẻh Quảng Trị x
Quốc Oai x
Đạ Pal x
3. Di Linh Gia Bắc x
4. Lạc Dương Đạ Nhim x
Nguồn: Cơ quan Thường trực Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, Tập văn bản về phát
triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên, tập II, tr.170-171.
179
Phụ lục 10
KẾT QUẢ GIẢI QUYẾT ĐẤT Ở, ĐẤT SẢN XUẤT, NHÀ Ở THEO CÁC
QUYẾT ĐỊNH: 132 VÀ 134 CỦA THỦ TƢỚNG CHÍNH PHỦ
Địa
phƣơng
Đất ở Đất sản xuất Nhà ở
Diện tích Số hộ Diện tích Số hộ
Căn
Tỉ lệ so
với kế
hoạch
Đã giải
quyết
(ha)
Tỉ lệ
(%)
Đã giải
quyết
(hộ)
Tỉ lệ
(%)
Đã giải
quyết
(ha)
Tỉ lệ
(%)
Đã giải
quyết
(hộ)
Tỉ lệ
(%)
Kon Tum 137 53,95 3.272 48,7 6.429 61,2 14.672 58,7 7.632 97,0
Gia Lai 62 100 1.278 100 4.966 74,1 14.408 75,4 19.342 99,29
Đắk Lắk 353 89,74 8.545 95,58 7.130 89,0 14.857 85,2 15.429 99,06
Đắk Nông 87 100 2.382 100 2.162 100 2.981 100 5.235 99,64
Lâm Đồng 8.516 86,3 9.530 80,2 10.620 100
Toàn vùng 639 80,66 15.477 82,29 29.204 78,0 56.448 75,3 58.249 99,08
Nguồn: Ban Chỉ đạo Tây Nguyên và Bộ Kế hoạch - Đầu tư [24].
180
Phụ lục 11
TÌNH HÌNH TỔ CHỨC ĐẢNG VÀ ĐẢNG VIÊN (đến tháng 6 2010)
Nội dung
Tỉnh
Kon
Tum Gia Lai
Đắk
Lắk
Đắk
Nông
Lâm
Đồng Toàn
vùng
1. Tổ chức đảng
a) Tổng số tổ chức cơ sở đảng 631 916 919 442 805 3.713
Trong đó: - Đảng bộ cơ sở 153 324 334 126 252 1.189
- Chi bộ cơ sở 478 592 585 316 553 2.524
b) Tổ chức cơ sở đảng xã,
phƣờng, thị trấn 97 222 184 71 148 722
Trong đó: - Xã 81 186 152 61 118 598
- Phường 10 24 20 5 18 77
- Thị trấn 6 12 12 5 12 47
c) Tình hình thôn, buôn
- Tổng số thôn buôn 831 2.132 2.417 740 1.271 7.391
- Thôn buôn có chi bộ 740 1.710 2.066 740 1.110 6.366
- Thôn buôn chưa có chi bộ 91 422 351 0 161 1.025
Tỉ lệ (%) 10,95 19,79 14,52 0 12,67 13,87
- Thôn buôn chưa có đảng viên 21 42 26 0 4 93
Tỉ lệ (%) 2,53 1,97 1,08 0 0,31 1,26
2. Đảng vi n
a) Tổng số đảng vi n toàn vùng 17.004 33.458 46.321 14.809 28.694 140.286
Trong đó: - Nữ 4.855 9.086 13.691 3.926 8.436 40.024
- Dân tộc thiểu số 5.180 7.930 6.433 2.128 2.678 24.349
- Người có đạo 425 226 272 305 2.173 3.401
b) Đảng vi n có đạo
- Công giáo 295 80 167 196 687 1.425
- Tin lành 10 65 18 51 246 390
- Phật giáo 117 81 84 58 1.181 1.521
- Cao Đài 2 0 3 0 45 50
- Tôn giáo khác 1 0 0 0 14 15
c) ĐV sinh hoạt ở xã phƣờng 9.624 20.636 29.531 8.018 17.103 84.912
Nguồn: Ban Chỉ đạo Tây Nguyên [24].
181
Phụ lục 12
KẾT QUẢ THỰC HIỆN CHỦ TRƢƠNG
ĐỐI VỚI ĐẠO TIN LÀNH (ĐẾN 2010)
Kon
Tum
Gia
Lai
Đắk
Lắk
Đắk
Nông
Lâm
Đồng
Toàn
vùng
Tổng số tín đồ 14.304 96.896 147.672 42.789 80.244 381.905
Phân ra: - Kinh 945 1.633 2.102 1.486 4.652 10.818
- Dân tộc thiểu số 13.359 95.263 145.570 41.303 75.592 371.087
Tổng số chức sắc chức việc 22 101 86 29 89 327
Phân ra: - Mục sư, mục sư nhiệm chức 2 28 41 19 55 145
- Truyền đạo 20 73 45 10 34 182
Số chi hội đã công nhận 3 52 31 18 66 170
Phân ra: - Tin lành Việt Nam (miền Nam) 3 51 31 18 63 166
- Hệ phái khác 0 1 0 0 3 4
Tổng số điểm nhóm 89 238 407 135 305 1.174
Đã đăng ký 82 194 243 135 261 915
Phân ra: - Tin lành Việt Nam (miền Nam) 6 183 235 83 118 625
- Hệ phái khác 76 11 8 52 143 290
Chưa đăng ký 7 44 164 0 44 259
Phân ra: - Tin lành Việt Nam (miền Nam) 0 18 52 0 0 70
- Hệ phái khác 7 26 112 0 44 189
Địa điểm sinh hoạt 92 273 434 148 368 1.315
- Nhà thờ, nhà nguyện 1 20 7 6 18 52
- Nhà riêng tín đồ 91 253 427 142 350 1.263
Nguồn: Ban Chỉ đạo Tây Nguyên [24].