HỎI VÀ ĐÁP - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../16.HoiVaDapMonTuTuongHoChiMinh.d… · Web...
Transcript of HỎI VÀ ĐÁP - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../16.HoiVaDapMonTuTuongHoChiMinh.d… · Web...
HỎI VÀ ĐÁP MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINHHỎI VÀ ĐÁP
MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Biên soạn:
ThS. LÊ THANH HÀ
ThS. NGUYỄN TRUNG TÍNH
ThS. NGUYỄN THỊ NHU
LỜI NÓI ĐẦU
Cuốn sách "Hỏi & đáp môn Tư tưởng Hồ Chí Minh" mà các bạn đang
tìm hiểu là hệ thống những câu hỏi và đáp về môn Tư tưởng Hồ Chí Minh,
một môn học chính thức được đưa vào giảng dạy và học tập trong các trường
Đại học và Cao đẳng bắt đầu từ năm học 2003 - 2004.
Cuốn sách được biên soạn theo dạng hỏi và đáp với nội dung bảo đảm
tính hệ thống, sát với yêu cầu của chương trình môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
được ban hành tại quyết định Số 35/2003/QĐ-BGD&ĐT của Bộ trưởng bộ
Giáo dục và Đào tạo về việc Ban hành Đề cương môn học Tư tưởng Hồ Chí
Minh trình độ đại học và cao đẳng.
Các câu hỏi và đáp dựa vào các tài liệu chính thức về môn Tư tưởng
Hồ Chí Minh đang lưu hành rộng rãi hiện nay, đặc biệt là Giáo trình tư tưởng
Hồ Chí Minh của Hội đông Trung Ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia
các bộ môn khoa học Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh do Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia xuất bản.
Mặc dù chúng tôi đã hết sức cố gắng trong việc biên soạn, nhưng với
một môn học mới, chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tôi
rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các đồng nghiệp, của bạn
đọc để chúng tôi tiếp tục bổ sung, hoàn thiện cuốn sách này.
NHÓM BIÊN SOẠN
Câu 1. Trình bày khái niệm và hệ thống Tư tưởng Hồ Chí Minha. Khái niệm Tư tưởng Hồ Chí Minh
Khi nghiên cứu về khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh, người thấy có khá
nhiều định nghĩa khác nhau của nhiều tác giả nghiên cứu về Hồ Chí Minh cả
trong lẫn ngoài nước. Để định hướng nghiên cứu về khái niệm này, Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản việt Nam đã nêu:
“Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu
sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của
nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp
thu tinh hoa của văn hóa nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng con người, về độc lập gắn liền với chủ nghĩa xã
hội…
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta
giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta."
Tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là một tập hợp đơn giản những ý
tưởng, những suy nghĩ cụ thể của Hồ Chí Minh trong những hoàn cảnh cụ thể
mà là một hệ thống những quan điểm, quan niệm về con đường cách mạng
Việt Nam, được hình thành trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin vì vậy Tư
tưởng Hồ Chí Minh là một khái niệm khoa học và phải được trình bày cô
đọng, chặt chẽ và mang tính lý luận cao.
Trên cơ sở những nghiên cứu hiện có. Tư tưởng Hồ Chí Minh được
định nghĩa như sau: Tư tưởng Hồ Chi Minh là một hệ thống quan điểm toàn
diện và sau sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; là kết quả
của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện
cụ thể của nước ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ của thời
đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
Như vậy, Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa
yêu nước, truyền thống văn hóa, nhân nghĩa và cách mạng Việt Nam với tinh
hoa văn hóa nhân loại, được nâng lên tầm cao mới dưới ánh sáng của chủ
nghĩa Mác - Lênin.
b. Hệ thống Tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống bao gồm nhiều lĩnh vực. Trong
chương trình bộ môn Tư tưởng Hồ Chí Minh được quy định trong các trường
đại học và cao đẳng hiện nay, Tư tưởng Hồ Chí Minh đề cập đến những vấn
đề cơ bản sau đây:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đê dân tộc và cách mạng giải phóng
dân tộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên
chủ nghĩa xã hội.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì
dân.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
Tư tưởng đạo đức, nhân văn, văn hóa Hồ Chí Minh.
Ngoài ra còn một số nội dung khác của Tư tưởng Hồ Chí Minh có thể
sẽ được đưa vào trong chương trình trong tương lai.
Câu 2. Trình bày đối tượng và phương pháp nghiên cứu bộ môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
a. Đối tượng nghiên cứu của môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
Nghiên cứu, học tập Tư tưởng Hồ Chí Minh là một trong những
phương pháp tốt nhất để nâng cao trình độ lý luận của chúng ta, tránh được
căn bệnh rập khuôn, giáo điều, máy móc và xa rời quần chúng. Đối tượng
nghiên cứu của bộ môn Tư tưởng Hồ Chí Minh gồm các vấn đề sau đây:
Nghiên cứu lịch sử Tư tưởng Hồ Chí Minh có nghĩa là nghiên cứu
nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển của Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nghiên cứu những nội dung cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh trong
tính chỉnh thể, hệ thống và đa diện.
Đối tượng nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh còn được thể hiện ở
việc quán triệt, vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng của Người trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay.
b. Phương pháp nghiên cứu của môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
Nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh cần được những phương pháp luận
và phương pháp sau đây:
Nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh cần phải lấy thế giới quan và
phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm cơ sở để xem
xét mọi vấn đề liên quan đến lịch sử và nội dung Tư tưởng Hồ Chí Mình, và
phải nắm vững phương pháp luận Hồ Chí Minh. Đó là:
+ Lý luận gắn liễn với thực tiễn.
+ Quan điểm thống nhất biện chứng giữa lập trường giai cấp và lập
trường dân tộc, giữa dân tộc và thời đại.
+ Quan điểm phát triển sáng tạo, đổi mới.
+ Quan điểm toàn diện nhưng có trọng tâm, trọng điểm, cụ thể.
+ Quan điểm "dĩ bất biến, ứng vạn biến".
Phương pháp xuyên suốt và tối ưu trong việc nghiên cứu Tư tưởng
Hồ Chí Minh là kết hợp phương pháp lịch sử với phương pháp logic. Phương
pháp lịch sử giúp ta nhận thức về mặt lịch sử quá trình tư duy của Hồ Chí
Minh. Nếu thiếu quá trình đó thì chúng ta không thể nhận thức được logic của
vấn đề. Ngược lại, nếu thiếu phương pháp logic, người nghiên cứu không tìm
ra được cốt lõi của tư duy và phương hướng phát triển mà tư duy đạt tới.
Bên cạnh các phương pháp trên, cần phải vận dụng thêm một số
phương pháp liên ngành: thống kê, tổng hợp, phân tích so sánh, điều tra xã
hội học, tiếp xúc nhân chứng lịch sử để nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh
được tốt hơn.
Câu 3. Trình bày những điều kiện lịch sử - xã hội dẫn đến sự ra đời của Tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành dưới tác động ảnh hưởng của
những điều kiện lịch sử - xã hội cụ thể của dân tộc và thời đại mà Hồ Chí
Minh sống và hoạt động. Thiên tài của Người ở chỗ là đã nắm bắt được chính
xác các xu hướng phát triển của thời đại, để tìm ra con đường cách mạng
đúng đắn cho dân tộc mình. Tư tưởng Hồ Chí Minh ra đời dưới tác động của
các điều kiện lịch sử - xã hội sau đây:
a. Bối cảnh lịch sử xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Cho đến thời điểm thực dân Pháp chính thức xâm lược Việt Nam
(1858), xã hội Việt Nam vẫn là một xã hội phong kiến, nông nghiệp lạc hậu, trì
trệ. Nhà Nguyễn một mặt tăng cường bóc lột, đàn áp ở trong nước và bế
quan toả cảng với thế giới bên ngoài, cự tuyệt mọi cải cách nên đã không tạo
được cơ hội tiếp xúc và bắt nhịp với sự phát triển của thế giới, đặc biệt là Tây
Âu, vì vậy đã không phát huy được những thế mạnh của đất nước và không
đủ sức mạnh để chống lại kẻ thù xâm lược.
Trước ý đồ xâm lược trắng trợn của thực dân Pháp, triều đình nhà
Nguyễn lúc đầu chống cự một cách yếu ớt nhưng rồi lại từng bước nhân
nhượng, cầu hòa, cuối cùng đã phải khuất phục và đầu hàng để có thể bảo vệ
ngai vàng và lợi ích riêng của hoàng tộc. Trong điều kiện đó cuộc kháng chiến
của nhân dân ta lâm vào một hoàn cảnh cực kỳ khó khăn phải cùng lúc chống
“cả Triều lẫn Tây”
Triều đình bạc nhược nhưng phong trào vũ trang kháng chiến chống
Pháp của nhân dân rầm rộ bùng khắp Nam - Trung - Bắc với nhiều phong
trào lớn như của Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Phan Đình Phùng, Hoàng
Hoa Thám, Nguyễn Thiện Thuật… nhưng rồi các phong trào này lần lượt thất
bại. Bởi vì các nhã lãnh đạo phong trào là các sĩ phu mang nặng ý thức hệ
phong kiến, chưa có một đường lối kháng chiến rõ ràng, chưa thật tin vào lực
lượng của nhân dân và vì thế họ cũng không tin vào thắng lợi cuối cùng. Điều
này thể hiện rõ sự bất lực của hệ tư tưởng phong kiến trước nhiệm vụ của
lịch sử.
Sang đầu thế kỷ XX, sau khi tạm thời dập tắt các phong trào đấu tranh
của nhân dân ta, thực dân Pháp bắt tay vào cuộc khai thác thuộc địa lần thứ
nhất, xã hội Việt Nam cũng có sự biến chuyển và phân hóa, tầng lớp tiểu tư
sản và mầm mống giai cấp tư sản bắt đầu xuất hiện. Phong trào yêu nước
chống Pháp của nhân dân Việt Nam chuyển dần sang xu hướng dân chủ tư
sản với các phong trào như Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân, Việt
Nam Quang phục hội… nhưng các phong trào này chỉ phát triển được một
thời gian ngắn và lại bị thực dân Pháp dập tắt. Sự thất bại này một mặt do
phong trào chưa lôi cuốn được đông đảo quần chúng tham gia, mặt khác lãnh
tụ các phong trào này vẫn là các sĩ phu phong kiến cựu học nên không tránh
được hạn chế và thất bại.
b. Ảnh hưởng của quê hương và gia đình Hồ Chí Minh
Nghệ tĩnh - quê hương của Hồ Chi Minh - là mảnh đất giàu truyền
thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm, đây cũng là quê hương của nhiều vị
anh hùng và lãnh tụ nổi tiếng.
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà nho yêu nước.
Thân sinh của Người – cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc - là một nhà nho cấp
tiến có lòng yêu nước, thương dân sâu sắc. Tấm gương lao động cần cù, ý
chí vượt khổ, vượt khó mà đặc biệt là tư tưởng thương dân, chù trương lấy
dân làm hậu thuẫn cho mọi cải cách chính trị - xã hội của cụ Bảng Sắc đã ảnh
hưởng sâu đậm trong việc hình thành nhân cách của Hồ Chí Minh - khi còn là
anh Nguyễn Tất Thành và sau này trở thành đồng chí Nguyễn Ái Quốc - đã
nâng lên thành tư tưởng cốt lõi trong đường lối chính trị của mình trong thời
đại mới.
Ngay từ nhỏ Hồ Chí Minh - lúc đó là cậu bé Nguyễn Sinh Cung - đã vô
cùng đau xót khi phải chứng kiến cuộc sống nghèo khổ, bị đàn áp và bóc lột
đến cùng cực của đồng bào ngay trên mảnh đất quê hương. Lớn lên đi học ở
Huế, Hồ Chí Minh tận mắt nhìn thấy tội ác của bọn thực dân và sự ươn hèn,
bạc nhược của bọn quan lại Nam triều. Tất cả những điều này đã thôi thúc Hồ
Chí Minh ra đi tìm một con đường mới để cứu nước, cứu dân.
c. Ảnh hưởng của thời đại đến việc hình thành Tư tưởng Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh bước lên vũ đài chính trị khi chủ nghĩa tư bản đã chuyển
sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Chủ nghĩa tư bản một mặt xâu xé lẫn nhau
để tranh giành thuộc địa mặt khác lại vào hùa với nhau để cùng nô dịch các
dân tộc thuộc địa và phụ thuộc. Trong điều kiện đó, mỗi thuộc địa trở thành
mắt khâu của hệ thống đế quốc, vì vậy cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của
các nước riêng lẻ không thể giành thắng lợi nếu như không gắn với cuộc đấu
tranh chung của các dân tộc thuộc địa chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa
thực dân, gắn liền với cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản quốc tế.
Hồ Chí Minh đã vượt qua 3 đại dương, 4 châu lục và đặt chân lên
khoảng 30 nước, nhờ đó đã hiểu được bản chất chung của chủ nghĩa đế
quốc và màu sắc riêng của từng đế quốc khác nhau, hiểu được trình độ phát
triển cụ thể về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của nhiều nước thuộc địa
cùng cảnh ngộ. Những năm tháng sống ở nước ngoài, đặc biệt là thời gian
sống và hoạt động ở Pari, thủ đô của nước Pháp (1917), Hồ Chí Minh đã hòa
nhập vào phong trào lao động Pháp, sát cánh cùng với những người Việt
Nam yêu nước và những người cách mạng từ các thuộc địa của Pháp, Hồ
Chí Minh đã đến với phái tả của cách mạng Pháp và không lâu sau đã gia
nhập đảng Xã hội, một chính đảng duy nhất của nước Pháp bấy giờ bênh vực
các dân tộc thuộc địa và Hồ Chí Minh lúc đó đã trở thành một chiến sĩ xã hội
chủ nghĩa.
Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi năm 1917, sau đó vào tháng 3
- 1919, V. I. Lênin thành lập Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản) và nhà nước Xô
viết đã đánh bại cuộc chiến tranh can thiệp của 14 nước đế quốc cùng bọn
Bạch vệ nên từ sau năm 1920, tiếng vang và ảnh hưởng của Cách mạng
Tháng Mười và Quốc tế III lan rộng ra khắp châu Âu cũng như toàn thế giới.
Cuộc khủng hoảng trong phong trào công nhân châu Âu diễn ra từ những
năm trước đến thời điểm này càng trở nên sâu sắc, dẫn đến sự phân biệt
không thể tránh khỏi trong nội bộ các đảng Dân chủ xã hội - Quốc tế II. Sự
phân hóa và đường lối diễn ra trên hầu hết các vấn đế cơ bản: đấu tranh giải
phóng, cách mạng xã hội, chuyên chính vô sản, chủ nghĩa dân tộc và chủ
nghĩa quốc tế... trong đó có vấn đề dân tộc - thuộc địa. Là một đảng viên tích
cực trong đảng Xã hội Pháp, Nguyễn Ái Quốc không thể đứng ngoài cuộc
tranh luận ấy và Nguyễn Ái Quốc đã bắt đầu tìm hiểu lý luận. Tháng 7 năm
1920 Nguyễn Ái Quốc đã đọc được bài Sơ thảo lần thứ nhất những luận
cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I.Lênin và các văn kiện khác
chuẩn bị đưa ra Đại hội lần thứ II Quốc tế cộng sản. Đây có thể coi là một
bước ngoặt trong sự phát triển về nhận thức lý luận của Hồ Chí Minh. Khi đọc
những văn kiện này, mặc dù chưa thực sự hiểu hết các vấn đề mà Lênin đã
viết nhưng Người lập tức nhận ra con đường chân chính để giải phóng của
dân tộc mình. Tại Đại hội Tua (tháng 12 năm 1920), Nguyễn Ái Quốc đã bỏ
phiếu tán thành Quốc tế III, tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và trở
thành một trong những Đảng viên đầu tiên của Đảng Cộng sản Pháp: Đây là
một bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc: từ
chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm thấy con đường giải
phóng dân tộc mình trong sự nghiệp giải phóng các dân tộc.
Câu 4. Phân tích nguồn gốc Tư tưởng Hồ Chí MinhCũng như mọi tư tưởng khác, tư tưởng Hồ Chí Minh có nguồn gốc thực
tiễn của nó. Các nguồn tư tưởng chủ yếu ảnh hưởng đến sự hình thành Tư
tưởng Hồ Chí Minh là:
a. Tư tưởng và văn hóa truyền thống Việt Nam
Lịch sử dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam
đã tạo lập cho dân tộc một nền văn hóa đặc sắc, phong phú và bền vững với
nhiều truyền thống tốt đẹp và cao quý. Những truyền thống tư tưởng và văn
hóa này đã góp phần tạo nên Tư tưởng Hồ Chí Minh, bao gồm:
Chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất khuất đấu tranh để dựng nước vã
giữ nước. Đây là dòng chủ lưu chảy xuyên suốt lịch sử Việt Nam từ cổ đại
đến hiện đại, là chuẩn mực cao nhất, đứng đầu bảng giá trị văn hóa - tinh
thần Việt Nam.
Tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết, tương thân tương ái
trong hoạn nạn khó khăn. Truyền thống này được quy định bởi cuộc đấu
tranh quyết liệt với thiên nhiên và giặc ngoại xâm. Người Việt có thói quen
sống gắn bó, tắt lửa tối đèn có nhau trong tình làng nghĩa xóm. Truyền thống
này rất bền vững trước những sự biến đổi của lịch sử.
Truyền thống lạc quan, yêu đời. Cơ sở của tinh thần lạc quan đó là từ
niềm tin vào bản thân mình, tin vào sự tất thắng của chân lý, chính nghĩa dù
hiện tại còn đầy gian truân khổ ải.
Dân tộc Việt Nam là một dân tộc cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng
tạo trong sản xuất và chiến đấu, là một dân tộc không ngừng học hỏi điều
hay, lẽ phải và không ngừng mở rộng cửa đón nhận tinh hoa văn hóa của
nhân loại. Người Việt Nam không chỉ biết tiếp thu tư tưởng Phật, Lão, Nho…
của phương Đông mà cả những tư tưởng văn hóa hiện đại của phương Tây,
người Việt Nam ngay từ xưa đã rất xa lạ với đầu óc hẹp hòi, thủ cựu, thói bài
ngoại cực đoan. Trên cơ sở giữ vững bản sắc dân tộc, nhân dân ta biết chọn
lọc, tiếp thu, cải biến những cái hay, cái tốt, cái đẹp của người thành những
giá trị của riêng mình.
b. Tinh hoa văn hóa của nhân loại
Hồ Chí Minh xuất thân trong một gia đình khoa bảng, ngay từ nhỏ đã
được hấp thu một nền Quốc học và Hán học khá vững vàng. Trong những
năm ở nước ngoài, Người đã không ngừng làm giàu trí tuệ mình bằng những
tinh hoa văn hóa của nhân loại. Hồ Chí Minh là một con người đặc trưng cho
sự kết hợp hài hòa văn hóa Đông - Tây.
Tư tưởng văn hóa phương Đông:
+ Tư tưởng Nho giáo: Hồ Chi Minh đã nhìn thấy và đã nhiều lần phê
phán, bác bỏ những yếu tố duy tâm, lạc hậu, phản động như tư tưởng đẳng
cấp, coi khinh lao động chân tay, coi thường phụ nữ, khinh thường thực
nghiệp, doanh lợi... của Nho giáo nhưng Người cũng thấy được những yếu tố
tích cực mà nhờ đó Nho giáo có sức sống mãnh liệt trong mấy ngàn năm qua.
Đó là: triết lý hành động, tư tưởng nhập thế, hành đạo giúp đời, đó là lý tưởng
về một xã hội bình trị, an ninh, hòa mục; là triết lý nhân sinh: tu thân dưỡng
tính, mọi người từ vua tới dân, ai cũng phải lấy tu thân làm gốc. Bên cạnh đó
Nho giáo đề cao văn hóa, lễ giáo, tạo ra truyền thống hiếu học. Điểm này là
điểm hơn hẳn của Nho giáo so với các học thuyết cổ đại vì nhiều học thuyết
thời ấy chủ trương ngu dân để dễ cai trị. Hồ Chí Minh đã khai thác Nho giáo
lựa chọn những yếu tố tích cực, phù hợp để phục vụ nhiệm vụ của cách
mạng.
+ Tư tưởng của Phật giáo: Nói Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng của văn
hóa truyền thống là bao hàm cả Phật giáo. Hồ Chí Minh đã nhận thấy bên
cạnh những hạn chế, phật giáo có nhiều mặt tích cực, đó là tư tưởng vị tha,
từ bi bác ái, cứu khổ cứu nạn, thương người như thể thương thân, kêu gọi
nếp sống có đạo đức trong sạch giản dị, chăm lo làm điều thiện, đó là tinh
thần bình đẳng, dân chủ chất phác, chống lại sự phân chia đẳng cấp; ngoài ra
Phật giáo đề cao tinh thần lao động chống lười biếng, chủ trương sống gắn
bó với nhân dân và đất nước.
+ Ngoài tư tưởng của Nho giáo và Phật giáo, ta còn có thể tìm thấy
trong Tư tưởng Hồ Chí Minh những tư tưởng khác của các nhà tư tưởng
phương Đông như Lão tử, Mặc tử, Quản tử,… và sau này là Chủ nghĩa Tam
dân của Tôn Trung Sơn vì “những điều đó thích hợp với điều kiện nước ta".
Hồ Chí Minh là người đã biết khai thác những yếu tố tích cực của tư tưởng và
văn hóa phương Đông để phục vụ cho sự nghiệp cách mạng.
Tư tưởng văn hóa phương Tây
+ Khi học từ Tiểu học đến Trung học, Nguyễn Tất Thành đã làm quen
với nền văn hóa Pháp, đặc biệt Nguyễn Tất Thành rất muốn am hiểu cuộc Đại
cách mạng Pháp 1789.
+ Khi đến nước Mỹ, Hồ Chí Minh được biết bản Tuyên ngôn độc lập
1776 nổi tiếng của nước Mỹ, sau người thường nhắc đến ý chí đấu tranh cho
tự do, độc lập, cho quyền sống của con người đã được ghi trong bản tuyên
ngôn ấy.
+ Sống, làm việc ở Anh, đặc biệt là thời kỳ sống ở thủ đô nước Pháp
(1917) Nguyễn Ái Quốc được tiếp xúc với một trung tâm văn hóa - nghệ thuật
lớn của châu Âu và hiểu được nền văn hóa Pháp. Nước Pháp là quê hương
của tư tưởng Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Nguyễn Ái Quốc được tiếp xúc trực
tiếp với các tác phẩm của các nhà tư tưởng khai sáng, những lý luận gia của
Đại cách mạng Pháp: Vonte, Rútxô, Môngtecxkiơ… Bên cạnh đó Nguyễn Ái
Quốc còn hấp thụ được tư tưởng dân chủ và hình thành phong cách dân chủ
cho mình ngay từ trong cuộc sống thực tiễn, Nguyễn Ái Quốc đã tham gia
đảng phái, hội họp, ra báo, phát biểu ý kiến và trình bày quan điểm của mình
trước dư luận Pháp, viết bài phê phán, lên án bọn quan lại, vua chúa nước
mình, cả bọn thống sứ, toàn quyền đang gây nhiều tội ác đối với nhân dân
Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc còn học được cách làm việc dân chủ ngay trong
cách sinh hoạt khoa học ở các câu lạc bộ và trong sinh hoạt chính trị của
Đảng Xã hội Pháp.
Tóm lại: nhờ quá trình được rèn luyện trong phong trào công nhân,
được sự cổ vũ dìu dắt trực tiếp của nhiều nhà cách mạng và trí thức tiến bộ
Nguyễn Ái Quốc đã từng bước trưởng thành trong hành trình tìm đường cứu
nước, Hồ Chí Minh đã biết làm giàu trí tuệ của mình bằng vốn trí tuệ của thời
đại, Đông và Tây, vừa thu nhận, vữa chắt lọc để có thể từ tầm cao của tri
thức nhân loại mà suy nghĩ, hành động, vận dụng sáng tạo vào cách mạng
Việt Nam.
c. Chủ nghĩa Mác - Lênin: cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của Tư tưởng Hồ Chí Minh
Nhờ có thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
Nguyễn Ái Quốc mới có thể hấp thụ và chuyển hóa được những nhân tố tích
cực và tiến bộ của truyền thống dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại để tạo
nên hệ thống tư tưởng của mình. Hồ Chí Minh tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa
Mác - Lênin có những điểm chú ý sau:
Hồ Chí Minh khi hấp thụ, vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin đã không
rơi vào sự sao chép, giáo điều, rập khuôn, biết tiếp thu và vận dụng có chọn
lọc những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin phù hợp với hoàn cảnh và
điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Nếu như nhiều nhà trí thức phương Tây đến với chủ nghĩa Mác -
Lênin như đến với một học thuyết, nhằm giải quyết những vấn đề của tư duy
nhiều hơn là của hành động thì Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin là
để tìm kim chỉ nam cho sự nghiệp cứu nước giải phóng dân tộc, tức là từ nhu
cầu thực tiễn của cách mạng Việt Nam.
Nguyễn Ái Quốc tiếp thu lý luận Mác - Lênin theo Phương pháp nhận
thức mácxit, đồng thời theo lối "đắc ý, vong ngôn” của phương Đông, cốt nắm
lấy cái tinh thần, bản chất chứ không bị trói buộc vào ngôn từ. Người vận
dụng lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để
tự tìm ra những chủ trương, giải pháp, đối sách phù hợp với những hoàn
cảnh, thời kỳ cụ thể của cách mạng Việt Nam chứ không đi tìm những kết
luận có sẵn trong sách vở kinh điển.
d. Những nhân tố chủ quan thuộc về phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh
Nhân tố chủ quan là một nhân tố quan trọng trong việc hình thành Tư
tưởng Hồ Chí Minh. Cùng thời có biết bao đảng viên đảng Xã hội Pháp người
Việt cùng đọc luận cương của V.I.Lênin nhưng chỉ có Nguyễn Ái Quốc sớm
nhìn ra con đường chân chính cho sự nghiệp cứu nước và giải phóng các
dân tộc thuộc địa. Những nhân tố chủ quan đó là:
Khả năng tư duy độc lập, tự chủ sáng tạo cùng với đầu óc phê phán
tinh tường, sáng suốt trong việc nghiên cứu, tìm hiểu các cuộc cách mạng tư
sản hiện đại.
Sự khổ công học tập nhằm chiếm lĩnh vốn tri thức phong phú của
nhân loại, vốn kinh nghiệm đấu tranh của phong trào giải phóng dân tộc,
phong trào công nhân quốc tế để tiếp cận với chủ nghĩa Mác - Lênin với tư
cách là khoa học về cách mạng của giai cấp vô sản.
Tâm hồn của một nhà yêu nước, một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành
cách mạng, một trái tim yêu nước, thương dân, thương yêu những người
cùng khổ, sẵn sàng chịu đựng những hy sinh cao nhất vì độc lập của Tổ
quốc, vì tự do, hạnh phúc của đồng bào.
Câu 5. Trình bày quá trình hình thành và phát triển của Tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm của Người về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng đó không thể hình
thành ngay một lúc mà đã trải qua một quá trình tìm tòi, xác lập, phát triển và
hoàn thiện, gắn với quá trình lớn mạnh của Đảng Cộng sản và cách mạng
Việt Nam. Có thể chia các giai đoạn hình thành Tư tưởng Hồ Chí Minh thành
các giai đoạn sau:
a. Từ 1890 đến 1911
Đây là giai đoạn hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cách
mạng của Hồ Chí Minh là thời kỳ tiếp nhận truyền thống yêu nước và nhân
nghĩa của dân tộc, hấp thụ vốn Quốc học, Hán học và bước đầu tiếp xúc với
văn hóa phương Tây, chứng kiến cảnh sống khốn cùng, điêu đứng của nhân
dân và tinh thần đấu tranh bất khuất của cha anh nên từng bước hình thành
hoài bão cứu dân, cứu nước. Nhờ đó, Hồ Chí Minh đã xác định được hướng
đi đúng cho con đường cách mạng của mình.
b. Từ 1911 đến 1920
Đây là giai đoạn tìm tòi, khảo nghiệm. Giai đoạn này Hồ Chí Minh bôn
ba khắp các châu lục để tìm hiểu các cuộc cách mạng lớn trên thế giới và
khảo sát cuộc sống của nhân dân của các dân tộc bị áp bức. Năm 1920,
được tiếp xúc với Luận cương của V. I. Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa,
Hồ Chí Minh đã thấy được con đường chân chính cho sự nghiệp cứu nước,
giải phóng dân tộc. Hồ Chí Minh đã biểu quyết tán thành Quốc tế III, gia nhập
Đảng Công sản Pháp. Đó là những sự kiện đánh dấu sự chuyển biến về chất
trong tư tưởng Hồ Chí Minh, từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Lênin
và trở thành người cộng sản.
c. Từ 1921 đến 1930
Giai đoạn này hình thành về cơ bản tư tưởng về con đường cách mạng
Việt Nam. Đây là thời kỳ hoạt động thực tiễn và lý luận cự kỳ sôi nổi và phong
phú của Hồ Chí Minh dước cái tên Nguyễn Ái Quốc để tiến tới thành lập chính
đảng ở Việt Nam. Hồ Chí Minh đã làm được rất nhiều việc: Ở nước Pháp,
Nguyễn Ái Quốc hoạt động tích cực trong Ban nghiên cứu thuộc địa của Đảng
Cộng sản Pháp, tham gia sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa, xuất bản báo Le
Paria nhằm tuyên truyền chủ nghĩa Mác- Lênin vào các nước thuộc địa, năm
1923, Nguyễn Ái Quốc sang Mátxcơva dự Hội nghị quốc ta Nông dân, sau đó
Người tiếp thục tham dự Đại hội Quốc tế Thanh niên, Quốc tế cứu tế đỏ,
Quốc tế Công hội đỏ,… cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu
(Trung Quốc) tổ chức ra Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, ra báo Thanh
niên mở các lớp huấn luyện chính trị, đào tạo cán bộ, đưa họ về nước hoạt
động. Tháng 2 - 1930, Người chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản
trong nước, sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam và trực tiếp thảo ra các văn
kiện: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình và Điều lệ vắn
tắt của Đảng.
d. Từ 1930 đến 1941
Đây là giai đoạn Hồ Chí Minh phải vượt qua thử thách, kiên trì con
đường đã xác định cho cách mạng Việt Nam. Thời kỳ này Quốc tế Cộng sản
bị chi phối bởi quan điểm "tả" khuynh nên đã chỉ trích, phê phán đường lối
của Nguyễn Ái Quốc đã vạch ra trong Hội nghị hợp nhất. Hội nghị Trung
ương tháng 10 năm 1930 của Đảng ta, theo chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản
cũng ra nghị quyết thủ tiêu Chánh cương và Sách lược vắn tắt do Nguyễn Ái
Quốc đề ra (3/2/1930) đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản
Đông Dương. Khi nguy cơ của chủ nghĩa phát xít và chiến tranh thế giới đang
đến gần. Đại hội và Quốc tế Cộng sản đã tự phê bình về khuynh hướng "tả",
cô độc, biệt phái, bỏ rơi mất ngọn cờ dân tộc và dân chủ, để cho các đảng tư
sản, tiểu tư sản và phát xít nắm lấy mà chống phá cách mạng. Đại hội đã chủ
trương thành lập Mặt trận dân chủ chống phát xít. Năm 1936, trên thực tế
Đảng ta đã trở lại với Chánh cương, Sách lược vắn tắt của Nguyễn Ái Quốc.
e. Từ 1941 đến 1969
Đây là giai đoạn phát triển và thắng lợi của Tư tường Hồ Chí Minh. Đầu
năm 1941, Hồ Chí Minh về nước để trực tiếp chỉ đạo cách mạng nước ta và
đưa đến thắng lợi của Cách mạng tháng Tám. Đó là thắng lợi đầu tiên của
việc vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh. Sau khi giành được chính quyền. Đảng
và nhân ta phải tiến hành hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, vừa xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa đấu tranh giải phóng miền Nam. Đây
là thời kỳ Tư tưởng Hồ Chí Minh được bổ sung, hoàn thiện trên một loạt vấn
đề cơ bản của cách mạng Việt Nam: về đường lối chiến tranh nhân dân: "toàn
dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính"; về xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở một nước vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, quá độ lên chủ
nghĩa xã hội không trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa trong điều kiện đất nước
bị chia cắt và có chiến tranh, về xây dựng Đảng với tư cách là Đảng cầm
quyền; về xây dựng nhà nước kiểu mới - nhà nước của dân, do dân, vì dân,
về sự đoàn kết nhất trí trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế…
Di chúc thiêng liêng của chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết sâu sắc
những bài học đấu tranh và thắng lợi của cách mạng Việt Nam, đồng thời
cũng vạch ra như định hướng mang tính cương lĩnh cho sự phát triển của đất
nước và dân tộc khi thống nhất mà ngày nay chúng ta vẫn tiếp tục làm theo.
Câu 6. Ý nghĩa việc học tập, nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minha. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ
nghĩa Mác - Lênin ở Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành và phát triển trên cơ sở nền
tảng thế giới quan và phương pháp luận của chủ phía Mác - Lênin, thuộc hệ
tư tưởng Mác - Lênin. Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển chủ
nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, phù hợp với lịch sử và
văn hóa Việt Nam, xuất phát từ đất nước con người Việt Nam là sự giải đáp
những yêu cầu lý luận và thực tiễn của cách mạng Việt Nam.
Cách mạng Việt Nam có được những thắng lợi to lớn như ngày nay là
nhờ có chủ nghĩa Mác - Lênin nhưng đồng thời cũng là nhờ có Tư tưởng Hồ
Chí Minh, vì vậy nghiên cứu, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ
Chí Minh là việc làm không thể thiếu được trong việc nâng cao nhận thức lý
luận của toàn Đảng toàn dân. Học tập, nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh là
để kiên định mục tiêu, nâng cao nhận thức, tư tưởng, cải tiến phương pháp
và phong cách cộng tác của chúng ta, góp phần đưa công cuộc đổi mới đi tới
những thắng lợi ngày càng to lớn hơn nữa.
b. Cốt lõi của Tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
Trong suốt cuộc đời hoạt động, Hồ Chí Minh luôn nhất quán và kiên trì
đi theo con đường đã lựa chọn, đó là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội. Dưới ngọn cờ Tư tưởng Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam đã vững
bước tiến lên giành những thắng lợi lịch sử mang tầm vóc của thời đại.
Hiện nay đổi mới, mở cửa, hội nhập, hợp tác… là một xu thế tất yếu,
trong đó các đối tác vừa hợp tác, vừa cạnh tranh gay gắt với nhau, các thế
lực phản động thù địch không từ bỏ âm mưu "diễn biến hòa bình" nhằm xóa
bỏ chủ nghĩa xã hội ở nước ta qua kinh tế thị trường và trao đổi, giao lưu văn
hóa. Do đó mở cửa, hợp tác… để phát triển kinh tế nhưng vẫn phải giữ được
độc lập chủ quyền của dân tộc, không chệch mục tiêu, bản chất của chủ
nghĩa xã hội. Để làm được điều đó chúng ta phải nắm được cốt lõi của Tư
tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội thì chúng
ta mới có thể đổi mới, hội nhập một cách chủ động và tự tin.
c. Tư tưởng Hồ Chí Minh là mẫu mực của tinh thần độc lập, tự chủ, đổi mới và sáng tạo
Hồ Chí Minh là người đã nêu tấm gương sáng chói về tinh thần độc
lập, tự chủ, đổi mới và sáng tạo, trong suốt cuộc đời Hồ Chí Minh luôn xuất
phát từ thực tế, hết sức tránh lặp lại những lối cũ, đường mòn, luôn tìm ra
những câu trả lời mới cho thực tiễn không ngừng biến đổi.
Ngày nay trong xu thế khu vực hóa, toàn cầu hóa giữa các quốc gia
vừa có mối quan hệ độc lập và phụ thuộc lẫn nhau trên nhiều phương diện,
khái niệm độc lập, chủ quyền cũng mang những sắc thái mới. Quan niệm về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội cũng có một số vấn đề
khác với lý luận trước đây, vì vậy chúng ta phải luôn ghi nhớ lời dạy của Chủ
tịch Hồ Chí Minh: “Học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là học tập tinh thần cách
mạng, khoa học, cái tinh thần biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, để giải
quyết cho tốt những vấn đề đang đặt ra trong thực tiễn đổi mới hiện nay”.
Câu 7. Trình bày cơ sở lý luận của Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc dựa trên cơ sở lý luận về vấn
đề dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, dân tộc là sản phẩm của quá trình
phát triển lâu dài của lịch sử. Trước dân tộc là các hình thức cộng đồng tiền
dân tộc như thị tộc, bộ lạc, bộ tộc. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã dẫn
tới sự ra đời và phát triển của các nhà nước dân tộc tư bản chủ nghĩa. Khi
chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, các đế quốc thực
hiện chính sách vũ trang xâm lược, cướp bóc, nô dịch các nước nhược tiểu,
vấn đề dân tộc trở nên gay gắt và từ đó xuất hiện vấn đề dân tộc và thuộc địa.
Sau Cách mạng tháng Mười Nga và sự ra đời hệ thống xã hội chủ nghĩa thế
giới, phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh, dẫn tới sự tan rã của hệ
thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc và xuất hiện nhiều quốc gia dân tộc
độc lập trẻ tuổi.
C. Mác và F. Ăngghen đã nêu ra những luận điểm có tính chất
phương pháp luận để nhận thức và giải quyết những vấn đề về nguồn gốc,
bản chất của vấn đề dân tộc, quan hệ cơ bản của dân tộc và thái độ của giai
cấp công nhân và chính đảng của giai cấp công nhân đối với vấn đề dân tộc.
Các ông cho rằng vấn đề dân tộc trong lịch sử luôn được nhận thức và giải
quyết trên lập trường, quan điểm của một giai cấp nhất định. Tuy nhiên, chỉ có
thể đứng trên lập trường của giai cấp vô sản và cách mạng vô sản mới giải
quyết được đúng đắn vấn đề dân tộc. Theo C. Mác và F. Ăngghen trong thời
đại ngày nay, chỉ cỏ giai cấp vô sản mới thống nhất được lợi ích của giai cấp
mình với nhân dân lao động và toàn dân tộc trên cơ sở xóa bỏ triệt để chế độ
bóc lột. Tuy nhiên hai ông không đi sâu giải quyết vấn đề dân tộc vì vấn đề
dân tộc ở Tây Âu đã được giải quyết trong cách mạng tư sản và cũng chưa
có điều kiện bàn nhiều về vấn đề dân tộc thuộc địa. V. I. Lênin sau này đã
nhận xét: đối với C Mác. so với vấn đề giai cấp vô sản thì vấn đề dân tộc chỉ
là một vấn đề thứ yếu thôi!
Trên cơ sở những quan điểm này, V. I. Lênin đã phát triển lên thành
một hệ thống lý luận toàn diện, sâu sắc về vấn đề dân tộc, làm cơ sở cho
cương lĩnh, đường lối, danh sách của các Đảng Cộng sản kiểu mới về vấn đề
dân tộc trong thời đại chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ
nghĩa, cách mạng giải phóng dân tộc đã trở thành một bộ phận của cách
mạng vô sản. V. I. Lênin đã có cơ sở thực tiễn để phát triển vấn đề dân tộc
thuộc địa thành một hệ thống lý luận, được coi là học thuyết về cách mạng
thuộc địa. Theo Lênin cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở chính quốc sẽ
không giành được thắng lợi nếu nó không biết liên minh với cuộc đấu tranh
của các dân tộc bị áp bức ở thuộc địa. Lênin đã bổ sung khẩu hiệu của C.
Mác thành "Vô sản toàn thế giới và dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại". Nguyễn
Ái Quốc đã khẳng định: "Lênin đã đặt tiền đề cho một thời đại mới, thật sự
cách mạng trong các nước thuộc địa".
Khi đề cập đến sự phát triển của các dân tộc, V. I. Lênin đã nêu lên
hai xu hướng phát triển của vấn đề dân tộc trong điều kiện của chủ nghĩa tư
bản.
+ Xu hướng thứ nhất là sự thức tỉnh của ý thức dân tộc, của phong trào
đấu tranh chống áp bức, bóc lột từ đó dẫn đến việc hình thành các quốc gia
dân tộc độc lập.
+ Xu hướng thứ hai là việc các dân tộc tăng cường và phát triển các
mối quan hệ dẫn đến việc phá vỡ hàng rào ngăn cách dân tộc, thiết lập sự
thống nhất quốc tế của chủ nghĩa tư bản, của đời sống xã hội nói chung.
Trong hai xu hướng thì xu hướng thứ nhất chiếm ưu thế trong thời kỳ
chủ nghĩa tư bản mới phát triển, xu hướng thứ hai là đặc trưng của chủ nghĩa
đế quốc, cả hai xu hướng đều phát triển trong điều kiện đối kháng giai cấp
gay gắt, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa dân tộc tư sản không chỉ không thể
giải quyết được vấn đề dân tộc mà còn làm cho sự xung đột dân tộc ngày
càng tăng. Chỉ có cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa - cuộc cách mạng thủ tiêu
áp bức giai cấp và áp bức dân tộc - mới có thể tạo điều kiện cho sự bình
đẳng và xây dựng tình hữu nghị giữa các dân tộc làm cho các dân tộc ngày
càng xích lại gần nhau. Lênin đã yêu cầu các Đảng Cộng sản phải kiên quyết
đấu tranh với mọi biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc tư sản và chủ nghĩa
sôvanh, giành thắng lợi cho chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Câu 8. Vấn đề dân tộc trong Tư tưởng Hồ Chí Minh được hiểu như thế nào?
Vấn đề dân tộc trong Tư tưởng Hồ Chí Minh được nghiên cứu ở đây
không phải là vấn đề dân tộc nói chung. Khi chủ nghĩa đế quốc tiến hành xâm
chiếm thuộc địa để mở rộng thị trường, thực hiện áp bức về chính trị, bóc lột
về kinh tế, nô dịch về văn hóa thì vấn đề dân tộc thực chất là vấn đề dân tộc
thuộc địa.
Vấn đề dân tộc thuộc địa thực chất là vấn đề dân tộc giải phóng của
các dân tộc thuộc địa nhằm thủ tiêu sự thống trị của người nước ngoài, giành
độc lập dân tộc, xóa bỏ ách áp bức, bóc lột thực dân, thực hiện quyền dân tộc
tự quyết, thành lập nhà nước dân tộc độc lập.
Ở thời đại mà chủ nghĩa đế quốc đã trở thành hệ thống thế giới, cách
mạng giải phóng dân tộc đã trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản,
việc nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc như thế nào có quan hệ đến toàn
bộ đường lối, chiến lược, sách lược của cách mạng giải phóng dân tộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc thể hiện ở những luận điểm
cơ bản sau:
Độc lập tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các
dân tộc.
Ở các nước đang đấu tranh giành độc lập, chủ nghĩa dân tộc chân
chính vẫn là một động lực lớn.
Kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế độc lập cho dân tộc
mình đồng thời độc lập cho tất cả các dân tộc.
Câu 9. Phân tích luận điểm: Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc trong Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Lịch sử Việt Nam là lịch sử không ngừng đấu tranh chống giặc ngoại
xâm do đó tinh thần yêu nước luôn luôn đứng hàng đầu của bảng giá trị tinh
thần truyền thống Việt Nam. Đối với một người dân mất nước, cái quý nhất là
độc lập của Tổ quốc, tự do của nhân dân. Trên con đường tiếp cận chân lý
cứu nước, Hồ Chí Minh đã am hiểu Tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ,
Tuyên ngôn nhân quyền và dân duyên 1791 của cách mạng Pháp và tiếp
nhận những nhân tố có giá trị trong hai bản tuyên ngôn này. Từ đó Người đã
khái quát nên chân lý về quyền cơ bản của các dân tộc: tất cả các dân tộc
trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền
sung sướng và quyền tự do.
Năm 1919, vận dụng các nguyên tắc dân tộc tự quyết thiêng liêng đã
được các nước đồng minh thắng trận trong chiến tranh thế giới I thừa nhận,
dưới cái tên Nguyễn Ái Quốc, Người đã thay mặt những người Việt Nam yêu
nước gửi đến Hội nghị hòa bình Vêcxây bản Yêu sách của nhân dân An Nam
gồm 8 điểm. Bản Yêu sách bao gồm hai nội dung chủ yếu:
+ Đòi quyền bình đẳng về chế độ pháp lý cho người bản xứ Đông
Dương như đối với người châu Âu là phải xóa bỏ các tòa án đặc biệt dùng
làm công cụ khủng bố, đàn áp những người yêu nước và phải xóa bỏ chế độ
cai trị bằng sắc lệnh và thay vào đó bằng chế độ ra các đạo luật.
+ Đòi các quyền tự do dân chủ tối thiểu cho nhân dân, đó là các quyền
tự do ngôn luận, báo chí, tự do lập hội, hội họp, tự do cư trú…
Đây có thể coi là hình thức thử nghiệm đầu tiên của Hồ Chí Minh về sử
dụng pháp lý tư sản trong đấu tranh bằng biện pháp hòa bình. Tuy nhiên bản
Yêu sách đã không đạt được kết quả các đế quốc đã không hề chú ý đến. Sự
thật ấy giúp Nguyễn Ái Quốc rút ra bài học: Muốn được giải phóng, các dân
tộc chỉ có thể trong cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình.
Trong Chánh cương vắn tắt cũng như Lời kêu gọi sau khi thành lập
Đảng. Hồ Chí Minh đã xác định mục tiêu chính trị của Đảng là:
+ Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến.
+ Làm cho đất nước Việt Nam hoàn toàn độc lập.
Khi về nước trực tiếp chủ trì Hội nghị Trung ương VIII (1941), Hồ Chí
Minh chỉ rõ: "Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy". Hồ
Chí Minh đã đúc kết ý chí đấu tranh cho độc lập, tự do của nhân dân ta trong
quyết tâm sắt đá: “Dù có đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết
giành cho được độc lập!”…
Hồ Chí Minh đã khẳng định: Quyền tự do, độc lập là quyền bất khả
xâm phạm của các dân tộc. "Tuyên ngôn độc lập" long trọng khẳng định trước
quốc dân đồng bào và thế giới rằng: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do,
độc lập và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt
Nam sẽ quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ
vững quyền tự do, độc lập ấy".
Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, quyết tâm bảo vệ độc lập và chủ
quyền dân tộc của Hồ Chí Minh thể hiện bằng lời khẳng định: Chúng ta thà hy
sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô
lệ". Khi đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh, mở rộng chiến tranh phá hoại ra
miền Bắc, Hồ Chí Minh lại đưa ra một chân lý bất hủ: "Không có gì quý hơn
độc lập tự do".
Tóm lại, "Không có gì quý hơn độc lập tự do" không chỉ là tư tưởng mà
còn là lẽ sống là học thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh. Đó là lý do chiến
đấu là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng của sự nghiệp đấu tranh vì độc
lập, tự do của cả dân tộc Việt Nam đồng thời là nguồn động viên với các dân
tộc bị áp bức trên toàn thế giới.
Câu 10. Phân tích luận điểm: Ở các nước đang đấu tranh giành độc lập, chủ nghĩa dân tộc chân chính vẫn là một động lực lớn trong Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ngay từ năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định: Ở các nước thuộc
địa, "chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước". Chủ nghĩa dân tộc
mà Nguyễn Ái Quốc đề cập ở đây là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc
chân chính của nhân dân Việt Nam, đã được hun đúc qua hàng nghìn năm
lịch sử vốn là một động lực tinh thần vô giá trong các cuộc đấu tranh chống
giặc ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân tộc. Nó khác về bản chất so với chủ nghĩa
dân tộc sôvanh, vị kỷ của giai cấp tư sản mà đã từng bị lịch sử lên án.
Nguyễn Ái Quốc cho rằng, do kinh tế còn lạc hậu và chưa phát triển,
sự phân hóa giai cấp ở Đông Dương là chưa triệt để Trong Báo cáo và Bắc
kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ gửi Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã nhận định
ở phương Đông "Cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như ở phương
Tây", xã hội Đông Dương, Ấn Độ hay Trung Quốc, xét "về mặt cấu trúc kinh
tế, không giống các xã hội phương Tây thời Trung cổ, cũng như thời cận đại,
và ở đó đấu tranh giai cấp không quyết liệt như ở đây", bởi vì “Nếu như nông
dân gần như chẳng có gì thì địa chủ cũng không có vốn liếng gì lớn…, nếu
thợ thuyền không biết mình bị bóc lột bao nhiêu thì chủ lại không hề biết công
cụ để bóc lột của họ là máy móc, người thì chẳng có công đoàn, kẻ thì không
có tờrớt... Sự xung đột về quyền lợi của họ được giảm thiểu. Điều đó không
thể chối cãi được". Không những thế, Nguyễn Ái Quốc còn thấy ở giữa họ
còn có một sự tương đồng rất lớn: dù là địa chủ hay nông dân, họ đều là nô lệ
mất nước. Từ những phát hiện này, Nguyễn Ái Quốc khẳng định "Chủ nghĩa
dân tộc là một động lực lớn của đất nước". Theo Người, trong cách mạng giải
phóng dân tộc, "người ta sẽ không thể làm gì được cho người An Nam nếu
như không dựa trên các động lực vĩ đại và duy nhất của đời sống xã hội của
họ”. Từ luận điểm này, Nguyễn Ái Quốc kiến nghị về Cương lĩnh hành động
của Quốc tế Cộng sản: "Phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh
Quốc tế Cộng sản… Khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi… nhất định chủ
nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế.
Như vậy xuất phát từ vị trí của người dân thuộc địa mất nước, từ truyền
thống của dân tộc Việt Nam, Nguyền Ái Quốc đã đánh giá cao sức mạnh của
chủ nghĩa dân tộc nghĩa là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân
chính, coi đó là một động lực lớn mà những người cộng sản phải biết nắm lấy
và phát huy, không để ngọn cờ dân tộc rơi vào bất cứ giai cấp nào khác.
Câu 11. Trình bày sự kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế, độc lập cho dân tộc mình đồng thời độc lập cho tất cả các dân tộc trong Tư tưởng Hồ Chí Minh
Chứng kiến và hiểu được nguyên nhân thất bại của Phong trào yêu
nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã giải quyết vấn
đề dân tộc và giải phóng dân tộc dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin,
giành độc lập dân tộc để tiến lên chủ nghĩa xã hội lúc này mối quan hệ giữa
dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế mới được đặt
ra cho cách mạng Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã viết: “Sự nghiệp của người dân bản xứ gắn mật thiết
với sự nghiệp cách mạng vô sản toàn thế giới; mỗi khi chủ nghĩa cộng sản
giành được chút ít thắng lợi trong một nước nào đó… thì đó càng là thắng lợi
cả cho người An Nam, điều đó có nghĩa là Hồ Chí Minh đã nhận thức rất rõ
về mối quan hệ mật thiết giữa dân tộc và giai cấp trong cách mạng giải phóng
dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, tuy nhiên khác với C. Mác và F.
Ăngghen - đặc biệt nhấn mạnh hơn về đấu tranh giai cấp và cách mạng vô
sản - Hồ Chí Minh đã cho rằng: vấn đề đặt ra trước mắt cho các dân tộc thuộc
địa Phương Đông không phải là làm ngay một cuộc cách mạng vô sản, mà
trước hết là phải đấu tranh giành lại độc lập cho dân tộc có độc lập rồi mới có
địa bàn để tiến lên làm cám mạng xã hội chủ nghĩa. Hơn nữa yêu cầu bức
thiết của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc không cho phép ỷ lại ngồi
chờ thắng lợi của cách mạng vô sản ở Châu Âu để được trả lại nền độc lập
cho các dân tộc thuộc địa. Từ nhận thức này, Hồ Chí Minh đã phê phán quan
điểm sai trái của một số Đảng Cộng sản Tây âu trong cách nhìn nhận đánh
giá vê vai trò, vị trí cũng như tương lai của cách mạng thuộc địa và đi đến
luận điểm: Các dân tộc phải dựa vào sức của chính minh. Đồng thời phải biết
tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của giai cấp vô sản và nhân dân lao động thế
giới để trước hết phải đấu tranh giành lại độc lập cho dân tộc, rồi từ thắng lợi
của cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa
và đóng góp thiết thực vào sự nghiệp cách mạng vô sản thế giới.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là quan điểm nhất quán
của Hồ Chí Minh kề từ khi tiếp cận được với chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong
Chánh cương, Sách lược vắn tắt. Hồ Chí Minh xác định: làm tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng (tức là cách mạng dân tộc - dân chủ)
để đi tới xã hội cộng sản (tức cách mạng xã hội chủ nghĩa). Năm 1960, Hồ
Chí Minh lại khẳng định rõ hơn: "Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản
mới giải phóng được các dân tộc bi áp bức và những người lao động trên thế
giới khỏi ách nô lệ". Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự gắn bó thống nhất giữa độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội vừa phản ánh quy luật khách quan của sự
nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối
quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng
giai cấp và giải phóng con người."
Là một chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh
cho độc lập của dân tộc mình mà còn đấu tranh cho độc lập của tất cả các
dân tộc bị áp bức. Ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước chân chính luôn luôn
thống nhất với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Khi chủ trì hợp nhất các tổ chức
cộng sản vào năm 1930, Hồ Chí Minh đề nghị đặt tên Đảng là Đảng Cộng sản
Việt Nam. Theo Người, mỗi Đảng Cộng sản thuộc về một dân tộc, trước hết
phải chịu trách nhiệm trước dân tộc mình, bởi vì chủ nghĩa Mác - Lênin. đã
chủ trương dân tộc tự quyết thì cách mạng ở mỗi nước không thể do Đảng
Cộng sản của nước khác làm thay. Tuy nêu cao tinh thần dân tộc tự quyết Hồ
Chí Minh vẫn không quên nghĩa vụ quốc tế của mình trong việc giúp đỡ thành
lập các Đảng Cộng sản anh em ở một số nước Đông Nam Á. Người nhiệt liệt
ủng hộ cuộc kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung Quốc và cuộc
kháng chiến chống Pháp của nhân dân Lào và Campuchia, Người đề ra khẩu
hiệu "giúp bạn là tự giúp mình" và chủ trương phải bằng thắng lợi của cách
mạng mỗi nước mà đóng góp vào thắng lợi chung của cách mạng thế giới.
Câu 12. Vì sao Hồ Chí Minh khẳng định: cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải theo con đường cách mạng vô sản?
Sinh ra trong hoàn cảnh nước mất, nhà tan, nhân dân ta sống đói khổ
lầm tham, chứng kiến các phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX, Hồ Chí Minh tuy rất khâm phục lòng yêu nước nhiệt huyết của các vị cách
mạng tiền bối như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Hoàng Hoa Thám…
nhưng không tán thành cách làm của họ. Người quyết tâm ra đi tìm con
đường cứu nước mới. Ra nước ngoài chứng kiến cuộc sống của nhân dân
lao động sau các cuộc cách mạng tư sản như cách mạng tư sản Pháp, cách
mạng tư sản Mỹ tuy đã giành thắng lợi hơn 150 năm nay mà nhân dân vẫn
khổ, họ vẫn mưu làm cách mạng lần nữa. Cách mạng tư sản chỉ thay thế chế
độ bóc lột người này bằng chế độ bóc lột người khác tinh vi hơn. chứ không
xóa bỏ nguồn gốc chế độ người áp bức bóc lột người không nhằm mục tiêu
giải phóng cho nhân dân lao động. Người thấy rằng các cuộc cách mạng đó
không triệt để. Vì thế cứu nước theo ngọn cờ của giai cấp tư sản không phải
là lối thoát cho dân tộc.
Trong khi đó, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga (1917)
do Lênin lãnh đạo có tiếng vang to lớn đối với quần chúng lớn lao trên thế
giới. Tiếp đến là việc thành lập Quốc tế III (1919) và đặc biệt V. I. Lênin công
bố bản "Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc
địa" mà Hồ Chí Minh đọc được trên báo Nhân đạo (7/1920). Người đã tìm
thấy ở chủ nghĩa Mác - Lênin con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc, đặt
cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam theo quỹ đạo cách mạng vô sán.
Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và cách mạng tháng Mười, Người chỉ ra
rằng: trong thế giới bây giờ chỉ có cách mạng Nga là thành công đến nơi,
nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật. Cách
mạng Nga đã xóa bỏ được chế độ phong kiến và ách bóc lột tư bản chủ nghĩa
ở nước Nga; sau đó lại hết sức giúp đỡ các dân tộc thuộc địa trên thế giới
làm cách mạng nhằm thoát khỏi ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc.
Từ đó người rút ra kết luận: Cách mạng tháng Mười Nga dạy cho
chúng ta rằng muốn cách mạng thành công thì phải lấy công nông làm gốc,
phải có Đảng Cộng sản. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mác – Lênin hay
phải theo con đường cách mạng vô sản.
Như vậy, từ thực tiễn phong trào dân tộc ở Việt Nam cuối thế kỉ XIX
đầu thế kỉ XX và từ ba cuộc cách mạng điển hình trên thế giới là cách mạng
tư sản Mỹ, cách mạng tư sản Pháp và cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa
tháng Mười Nga. Hồ Chí Minh khẳng định, muốn cứu nước và giải phóng dân
tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản.
Câu 13. Phân tích luận điểm sau đây của Tư tưởng Hồ Chí Minh: Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.
Các lãnh tụ yêu nước tiền bối như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh…
cũng bước đầu nhận thức được tầm quan trọng và vai trò của chính Đảng
cách mạng. Phan Chu Trinh nói: ngày nay, muốn độc lập, tự do, phải có đoàn
thể. Phan Bội Châu đã tổ chức ra Đảng Việt Nam Quang phục hội… nhưng
các ông đều chưa thực hiện được, tuy nhiên dù có thành lập được hay không
thì các Đảng kiểu như vậy cũng không thể lãnh đạo cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc đi đến thành công vì thiếu đường lối chính trị đúng đắn và một
đường lối tổ chức chặt chẽ, lại không có cơ sở rộng rãi trong nhân dân.
Nguyễn Ái Quốc khẳng định: Muốn giải phóng dân tộc thành công
"trước hết phải có Đảng cách mệnh… Đảng có vững cách mệnh mới thành
công… Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa làm cốt. Bây giờ học thuyết
nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất,
cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin". Như vậy, Hồ Chí Minh đã khẳng định từ
rất sớm: cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đặt dưới sự lãnh
đạo của Đảng của giai cấp công nhân, Đảng đó phải được xây dựng theo các
nguyên tắc Đảng kiểu mới của Lênin, được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác -
Lênin.
Câu 14. Phân tích luận điểm: Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân trên cơ sở liên minh công nông trong Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh luôn khẳng định cách mạng giải phóng dân tộc là sự
nghiệp của cả dân chúng vì vậy phải đoàn kết toàn dân "sĩ, nông, công,
thương đều nhất trí chống lại cường quyền" nhưng trong sự tập hợp rộng rãi
đó, Người luôn nhắc nhở không được quên cốt lõi của nó là công - nông. Phải
nhớ: "Công nông là người của cách mệnh… Công nông là gốc cách mệnh".
Trong phạm vi của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mà đối tượng
đánh đổ trước hết là bọn đế quốc và đại địa chủ, phong kiến tay sai, Hồ Chí
Minh chủ trương tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân Việt Nam đang bị
làm nô lệ trong một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi nhằm huy động sức
mạnh toàn dân tộc đấu tranh giành độc lập, tự do. Trong Sách lược vắn tắt,
Người chủ trương “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung
nông, Thanh niên, Tân Việt. v.v…, để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn
đối với bọn phú nông/ trung tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt
phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập: Bộ
phận nào ra mặt phản cách mạng thì cần phải đánh đổ".
Do bị chi phối bởi quan điểm "tả" khuynh đang tồn tại trong Quốc tế
Cộng sản lúc bấy giờ, có một số ý kiến cho rằng Nguyễn Ái Quốc quá chú
trọng vấn đề dân tộc. "chỉ nghĩ đến Phản đế mà quên mất lợi ích giai cấp đấu
tranh". Thực ra trong khi chủ trương đoàn kết, tập hợp rộng rãi các lực lượng
dân tộc chống đế quốc, Hồ Chí Minh vẫn nhắc nhở phải quán triệt quan điểm
giai cấp: "Công nông là gốc của cách mệnh, học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ
từng bị tư sản áp bức, song không cực khổ bằng công nồng, ba hạng ấy chỉ
bầu bạn của cách mệnh của công nông thôi" và "Trong khi liên lạc với các giai
cấp, phải cẩn thận, không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công nông
mà đi vào thỏa hiệp".
Như vậy Hồ Chí Minh chưa bao giờ vì vấn đề dân tộc mà quên đi hoặc
coi nhẹ vấn đề giai cấp. Ngược lại Người luôn luôn thấy mối quan hệ khắng
khít giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Tuy nhiên để có thể tập hợp lực
lượng thì phải đoàn kết tất cả những người Việt Nam yêu nước để cùng đánh
đổ kẻ thù chung của cả dân tộc trong đó nòng cốt là liên minh công nông.
Câu 15. Phân tích luận điểm: Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc trong Tư tưởng Hồ Chí Minh
Đây là một luận điểm mới mẻ, sáng tạo và có giá trị lý luận và thực tiễn
to lớn, một cống hiến quan trọng vào kho tàng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin
của Hồ Chí Minh. Bởi vì trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã
từng tồn tại quan điểm cho rằng thắng lợi của cách mạng thuộc địa phụ thuộc
trực tiếp vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc Trong Tuyên ngôn
thành lập Quốc tế Cộng sản vào năm 1919, có đoạn viết: "Công nhân và nông
dân không những ở An Nam, Angiêri, Bengan, mà cả Nam Tư hay Ácmênia
chỉ có thể giành độc lập khi mà công nhân các nước Anh và nước Pháp lật đổ
được Lôiit Gioócgiơ và Clêmăngxô giành chính quyền nhà nước vào tay
mình". Trong Những luận cương về phong trào cách mạng trong các nước
thuộc địa và nửa thuộc địa được thông qua tại Đại hội VI Quốc tế Cộng sản,
ngày 1-9-1928 viết: "Chỉ có thể thực hiện hoàn toàn công cuộc giải phóng ở
các nước thuộc địa khi giai cấp vô sản giành được thắng lợi ở các nước tư
bản tiên tiến". Quan điểm này vô hình trung đã làm giảm tính chủ động, sáng
tạo của các phong trào cách mạng ở thuộc địa.
Tại Đại hội V Quốc tế Cộng sản (6-1924), Nguyễn Ái Quốc đã phân tích
và đi đến kết luận rằng vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là
vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với
vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các nước thuộc địa, nọc độc và sức sống
của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các nước thuộc địa và
nếu khinh thường cách mạng thuộc địa là "muốn đánh chết rắn đằng đuôi.
Vận dụng quan điểm của C. Mác: “Sự giải phóng của giai cấp công nhân phải
là sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân", Nguyễn Ái Quốc đã đi tới kết
luận: "Công cuộc giải phóng anh em (tức nhân dân thuộc địa chỉ có thể thực
hiện bằng sự nỗ lực của bản thân anh em".
Do nhận thức thuộc địa là một khâu yếu trong hệ thống của thủ nghĩa
đế quốc, do đánh giá đúng đắn sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh
thần dân tộc, Nguyền Ái Quốc đã sớm kết luận: cách mạng thuộc địa không
những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà có thể giành
thắng lợi trước" và "trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của
chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh
em minh ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn".
Thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam đã chứng
minh luận điểm này của Hồ Chí Minh là hoàn toàn đúng đắn.
Câu 16. Trình bày luận điểm: Cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con
đường bạo lực, kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng và lực lượng vũ trang của nhân dân trong Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ngay từ đầu năm 1924, trong Báo cáo Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ,
Nguyễn Ái Quốc đã đề cập đến khả năng một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở
Đông Dương. Để có thể giành được thắng lợi, cuộc khởi nghĩa vũ trang đó
cần phải có một số đặc điểm sau:
Phải có tính chất một cuộc khởi nghĩa quần chúng chứ không phải là
một cuộc nổi loạn, phải được chuẩn bị trong quần chúng, nổ ra trong thành
phố. theo kiểu các cuộc cách mạng ở Châu Âu.
Phải được nước Nga ủng hộ.
Phải trùng hợp với cuộc cách mạng vô sản Pháp.
Phải gắn mật thiết với sự nghiệp của vô sản thế giới.
Thẳng 5-1911 Hội nghi lần thứ VIII Ban chấp hàn Trưng ương khóa 1
do Người chủ trì đã đưa ra nhận định: cuộc cách mạng Đông Dương kết liễu
bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang, mở đầu có thể là một cuộc khởi nghĩa
từng phần trong từng địa Phương… mà mở đường cho một cuộc tổng khởi
nghĩa to lớn.
Để chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa vũ trang. Hồ Chí Minh cùng với Trung
ương Đảng chỉ đạo xây dựng căn cứ địa cách mạng, đào tạo huấn luyện cán
bộ, xây dựng các tổ chức chính trị của quần chúng, lập ra các đội du kích vũ
trang, chủ động chớp thời cơ phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền
cả nước chỉ trong 101 ngày.
Tóm lại: Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết
của Lênin về cách mạng thuộc địa thành một hệ thống luận điểm mới mẻ, bao
gồm cả đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp tiến hành cách
mạng ở thuộc địa. Thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám và hai cuộc
kháng chiến chống Pháp và Mỹ đã chứng minh hùng hồn tính khoa học và
cách mạng sáng tạo của Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng
giải phóng dân tộc ở Việt Nam.
Câu 17. Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc trong công cuộc đổi mới hiện nay như thế nào?
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta đã khắng định rằng
chúng ta cần phải nghiên cứu, vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan
hệ giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội nhằm tạo ra những nguồn lực mới, đưa sự nghiệp đổi mới vững bước
đi lên. Sự vận dụng ấy được thể hiện như sau:
a. Khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước là tinh thần dân tộc - Nguồn động lực mạnh mẽ để xây dựng và bảo vệ đất nước
Đảng cộng sản Việt Nam xác định cần phải phát huy tối đa các nguồn
nội lực. Nội lực hiểu một cách toàn diện bao gồm con người, trí tuệ, truyền
thống dân tộc, truyền thống cách mạng, đất đai, tài nguyên vốn liếng… nhưng
yếu tố quan trọng và quyết định nhất vẫn là nguồn lực con người.
Con người Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước, gắn kết cộng đồng,
ý chí kiên cường bất khuất, không chịu làm nô lệ không cam phận nghèo
hèn… Trong hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, dưới sự lãnh đạo
của Đảng và Bác Hồ, tinh thần yêu nước ấy đã được phát huy cao độ, biến
thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng vô song và làm nên chiến thắng Điện
Biên Phủ 1954 và Đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước. Trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
hiện nay, truyền thống quý báu ấy đang được khơi dậy mạnh mẽ, trở thành
nguồn lực vô tận để vượt qua mọi khó khăn, thử thách, hoàn thành sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
b. Nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc trên quan điểm giai cấp
Trong phong trào cách mạng thế giới có lúc có những khuynh hướng
nhấn mạnh một chiều quan điểm giai cấp, coi nhẹ vấn đề dân tộc. Gần đây lại
chuyển sang một cực đoan khác: chỉ nhấn mạnh yếu tố dân tộc, yếu tố nhân
loại, coi nhẹ hoặc vứt bỏ yếu tố giai cấp, từ bỏ đấu tranh cách mạng, từ bỏ
chủ nghĩa quốc tế vô sản. Khi xã hội còn đấu tranh giai cấp mà từ bỏ quan
điểm giai cấp, chỉ nhấn mạnh bảo vệ lợi ích, sự sống còn của nhân loại… thì
sẽ làm suy yếu phong trào cách mạng thế giới, khuynh hướng chỉ nhấn mạnh
lợi ích dân tộc, từ bỏ chủ nghĩa quốc tế chân chính dẫn đến phát triển chủ
nghĩa dân tộc sôvanh, để kẻ thù lợi dụng, kích động gây mất ổn định ở nhiều
quốc gia, khu vực trên thế giới.
Ở Việt Nam, quan điểm xem xét vấn đề dân tộc tách rời vấn đề giai cấp
cũng bộc lộ dưới nhiều hình thức. Chẳng hạn: cho rằng đi theo con đường,
chế độ nào cũng được, miễn là có cuộc sống sung sướng, tự do… Mặt khác
cũng phải khắc phục những quan điểm giáo điều trong việc nhìn nhận vấn đề
giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, thoát ly bối cảnh
và điều kiện lịch sử cụ thể của dân tộc. Cần phải thấy rằng, hiện nay nước ta
quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhằm mục tiêu "dân giàu nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh", nhân dân ấm no, hạnh phúc… Mục tiêu đó không
chỉ là vấn đề giai cấp mà vừa là giai cấp, vừa là dân tộc.
c. Chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, giải quyết tốt mối quan hệ giữa các dân tộc anh em trong cộng đồng dân tộc Việt Nam
Hiện nay, Đảng ta tiếp tục giương cao ngọn cờ đại đoàn kết dân tộc
của Hồ Chí Minh, củng cố, tăng cường và mở rộng khối đoàn kết toàn dân,
lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm
nền tảng. Lấy mục tiêu độc lập thống nhất và tiến lên dân giàu nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh làm mục tiêu chung đồng thời chấp nhận
người điểm khác nhau những không trái với lợi ích chung của dân tộc… Chủ
trương đó hiện nay đã đi vào cuộc sống và đang phát huy tác dụng tích cực.
Đại đoàn kết các dân tộc anh em trên toàn lãnh thổ Việt Nam là nhân tố
quyết định thắng lợi của sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Lịch sử đã ghi
nhận những công lao đóng góp to lớn của các dân tộc thiểu số trong việc
đánh thắng quân xâm lược. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ,
nhiều khu vực cư trú chủ yếu của đồng bào các dân tộc thiểu số trở thành căn
cứ địa vững chắc của cách mạng như Viết Bắc, Đông Nam bộ và Tây
Nguyên… Đảng ta luôn đặc biệt chú ý đến việc củng cố khối đại đoàn kết dân
tộc và chăm lo giải quyết tốt các mối quan hệ giữa các dân tộc anh em trong
đại gia đình các dân tộc Việt Nam.
Hiện nay mối quan hệ giữa các dân tộc anh em ở nước ta rất tốt đẹp.
Tuy nhiên không phải là không có những cơ sở để cho các thế lực thù địch
khai thác, lợi dụng để gây ra tình trạng căng thẳng trong mối quan hệ giữa
các dân tộc. Những yếu tố đó một phần do lịch sử đề lại, một phần do kẻ thù
gây ra trước đây nhưng cũng có một số vấn đế đo sai lầm của cán bộ ta trong
việc thi hành chính sách dân tộc của Đảng và nhà nước. Để loại trừ những
nguyên nhân này, chúng ta phải thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã lặt ta đối với các
vùng miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa và phải đặc biệt quan tâm đến
đồng bào các dân tộc đang ở vùng gặp nhiều khó khăn, vùng trước đây là
căn cứ cách mạng và phải tiếp tục thực hiện chính sách ưu tiên đào tạo bồi
dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số, chống sự kỳ thị, chia rẽ dân tộc…
Câu 18. Quá trình tiếp xúc của Hồ Chí Minh với học thuyết Mác – Lênin về chủ nghĩa xã hội như thế nào?
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội có nguồn gốc sâu xa từ
chủ nghĩa yêu nước, truyền thống nhân ái và tinh thần cộng đồng làng xã Việt
Nam, được hình thành từ lâu đời gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước
của dân tộc.
Trước khi tiếp cận với chủ nghĩa xã hội khoa học của chủ nghĩa Mác -
Lênin, Hồ Chi Minh đã từng biết đến tư tưởng xã hội chủ nghĩa sơ khai ở
phương Đông qua "thuyết đại đồng" của Nho giáo với các mệnh đề “thiên hạ
vi công", "dân vi quý"… và tổ chức kinh tế với chế độ công điền, tỉnh điền
từng tồn tại hàng ngàn năm ở phương Đông.
Ngay từ năm 1920, lần đầu tiên tiếp xúc với chủ nghĩa Mác - Lênin,
Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đường giải phóng dân tộc của dân tộc Việt
Nam thoát khỏi ách nô lệ và xác định cách mạng Việt Nam phải đi theo con
đường của cách mạng vô sản. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
là mục tiêu của cách mạng Việt Nam đồng thời cũng là cốt lõi của Tư tưởng
Hồ Chí Minh.
Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy trong học thuyết Mác lý tưởng về một xã
hội nhân đạo, trong đó “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện tự do
cho tất cả mọi người" và tìm thấy trong chủ nghĩa xã hội của C. Mác con
đường thực hiện ước mơ giải phóng của các dân tộc bị áp bức khỏi ách nô lệ.
Đến giữa năm 1923, khi đến Liên Xô, được chứng kiến những thành
tựu bước đầu của của nhân dân Xô viết trên con đường xây dựng một chế độ
mới, đồng thời Hồ Chí Minh cũng đã biết đến Chính sách kinh tế mới của
Lênin và hiệu quả tích cực của chính sách này khiến Người càng kiên định
mục tiêu chủ nghĩa xã hội cho cách mạng nước ta.
Câu 19. Hồ Chí Minh tiếp cận các vấn đề lý luận của chủ nghĩa xã hội như thế nào?
Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội khoa học từ quan điểm duy vật
lịch sử của C. Mác, nghĩa là từ học thuyết hình thái kinh tế - xã hội và từ sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh từ chủ nghĩa
yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Người đã tiếp cận chủ nghĩa xã hội
từ chủ nghĩa yêu nước và truyền thống văn hóa dân tộc, vì vậy Người cũng
bổ sung những nét riêng của mình về bản chất và mục tiêu của Chủ nghĩa xã
hội. Thể hiện ở những điểm sau:
a. Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ lập trường yêu nước và khát vọng giải phóng dân tộc
Người đã tìm thấy trong học thuyết khoa học và cách mạng của C. Mác
con đường chân chính để giải phóng dân tộc giải phóng xã hội và giải phóng
con người. Hồ Chí Minh viết: "chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản
mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân toàn thế
giới". Như vậy, với Hồ Chi Minh, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới thực sự đem lại
độc lập tự do, bình đẳng cho các dân tộc.
b. Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ phương diện đạo đức
Chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội được xây dựng trên cơ sở chế
độ công hữu tư liệu sản xuất, chế độ này đảm bảo cho sự phát triển hài hòa
giữa cá nhân và xã hội. Giai cấp công nhân chẳng những đấu tranh đề tự giải
phóng mà còn để giải phóng cho cả loài người khỏi áp bức, bóc lột. Lợi ích
của giai cấp công nhân và lợi ích của nhân dân là thống nhất. Vì vậy Hồ Chí
Minh cho rằng chủ nghĩa xã hội xa lạ và đối lập với chủ nghĩa cá nhân, cho
nên thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không, thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu
tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân.
Lên án mạnh mẽ chủ nghĩa cá nhân nhưng Hồ Chí Minh không hề
phủ nhận cá nhân mà thậm chí còn rất chăm lo đến nhu cầu và lợi ích của cá
nhân đồng thời đề cao năng lực và phẩm chất của mỗi cá nhân. Hồ Chí Minh
khẳng định: "không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những
lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thoả mãn bằng chế độ xã
hội chủ nghĩa. Như vậy đối với Hồ Chí Minh, đạo đức cao cả nhất là đạo đức
cách mạng, đạo đức giải phóng dân tộc, giải phóng loài người: Chủ nghĩa xã
hội vì vậy cũng là giai đoạn phát triển mới của đạo đức.
c. Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội truyền thống lịch sử, văn hóa và con người Việt Nam
Việt Nam là một nước nông nghiệp. Chế độ công diễn và công cuộc tri
thủy sớm gắn kết con người Việt Nam lại với nhau. Đây là nhân tố quan trọng
hình thành nên tinh thần cố kết cộng đồng của dân tộc Việt Nam - một nhân tố
thuận lợi để đi vào chủ nghĩa xã hội.
Văn hóa Việt Nam lấy nhân nghĩa làm gốc, có truyền thống trọng dân,
khoan dung, hòa mục đề hòa đồng. Văn hóa Việt Nam là văn hóa trọng trí
thức hiền tài.
Con người Việt Nam có tâm hồn trong sáng, giàu lòng vị tha yêu
thương đồng loại, kết hợp được cái chung với cái riêng, gia đình với Tổ quốc,
dân tộc và nhân loại… chính những truyền thống này đã dẫn dắt Hồ Chí Mình
đến với chủ nghĩa xã hội.
Tóm lại: Quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội là sự thống
nhất biện chứng giữa các nhân tố kinh tế, chính trị, xã hội với các nhân tố
nhân văn, đạo đức, văn hóa.
Câu 20. Trình bày Tư tưởng Hồ Chí Minh về những đặc trưng, bản chất của chủ nghĩa xã hội
Thống nhất với tư tưởng của các bậc thầy của giai cấp vô sản thế giới
về những đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội so với chủ nghĩa tư bản,
Hồ Chí Minh trong thực tiễn chỉ đạo công cuộc cải tạo và xây đựng chủ nghĩa
xã hội trên miền Bắc nước ta, ở những thời điểm khác nhau, đã nêu lên quan
niệm của mình về những đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội.
Từ cách diễn đạt ngắn gọn, giản dị, mộc mạc của Người về các mặt
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và con người trong chủ nghĩa xã hội, chúng
ta có thề khái quát lên những đặc trưng bản chất sau đây của chủ nghĩa xã
hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chủ nghĩa xã hội là một chế độ do nhân dân làm chủ, nhà nước phải
phát huy quyền làm chủ của nhân dân để huy động được tính tích cực và
sáng tạo của nhân dân vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu, nhằm
không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, trước hết
là nhân dân lao động.
Chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức,
trong đó người với người là bè bạn, là đồng chí, là anh em, con người được
giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, có cuộc sống vật chất và tinh thần phong phú,
được tạo điều kiện để phát triển hết mọi khả năng sẵn có của mình.
Chủ nghĩa xã hội là một xã hội công bằng và hợp lý: làm nhiều thì
hưởng nhiều, lãm ít hưởng ít, không làm không hưởng; các dân tộc đều bình
đẳng, miền núi được giúp đỡ để tiến kịp miền xuôi.
Chủ nghĩa xã hội là công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân tự
xây dựng lấy dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Tóm lại, quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội là một quan
niệm khoa học, hoàn chỉnh, hệ thống, dựa trên học thuyết hình thái kinh tế -xã
hội của Mác, đồng thời được bổ sung thêm một số đặc trưng khác, phản ảnh
truyền thống đặc điểm của Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là
một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, đạo đức và văn minh,
một chế độ xã hội ưu việt nhất trong lịch sử, một xã hội tự do và nhân đạo,
phán ánh được khát vọng tha thiết của loài người, Người nói: "Chúng ta tranh
được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét thì tự do, độc lập cũng
không làm gì.” Vì vậy, để giữ vững độc lập, tự do, để đảm bảo cho nhân dân
một cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc, chúng ta không còn con đường nào
khác là phải tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã thông qua cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong đó
trình bày rõ quan niệm của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội với sáu đặc trưng của
xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng và sáu đặc trưng này lại
được khẳng định trong Đại hội đại biểu toàn quốc lẩn thứ VIII, IX. Đó cũng là
kết quả của quá trình đổi mới tư duy và nhận thức lại một cách đúng đắn
quan niệm về chủ nghĩa xã hội của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin
và Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Câu 21. Trình bày những quan điểm của Hồ Chí Minh về những mục tiêu cơ bản của chủ nghĩa xã hội
Bản chất và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội có quan hệ chặt chẽ với
nhau. Những đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội theo Tư tưởng Hồ Chí
Minh sau khi được nhận thức đều trở thành những mục tiêu cơ bản cần đạt
tới trong quá trình xây dựng và hoàn thiện chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Những mục tiêu đó là:
a. Về chế độ chính trị
Chế độ chính trị mà chúng ta xây dựng là chế độ do nhân dân làm
chủ. Hồ Chí Minh xác định: "Nhà nước của ta là Nhà nước dân chủ nhân dân
dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo".
Trong Nhà nước đó mọi công dân đều có quyền bầu cử và ứng cử vào cơ
quan nhà nước, có quyền kiểm soát đối với đại biểu của mình. Nhân dân thực
hiện quyền làm chủ của mình chủ yếu bằng Nhà nước dưới sự lãnh đạo của
Đảng, do đó Người đòi hỏi: “Nhà nước ta phải phát triển quyền dân chủ và
sinh hoạt chính trị của toàn dân, để phát huy tính tích cực và sức sáng tạo
của nhân dân, làm cho mọi người công dân Việt Nam thực sự tham gia quản
lý công việc Nhà nước, ra sức xây dựng chủ nghĩa xã hội".
Trong quan hệ giữa chính phủ và nhân dân, Hồ Chí Minh xác định:
“Dân là chủ thì chính phủ phải là đày tớ… Nếu chính phụ làm hại dân thì dân
có quyến đuổi chính phủ. Vì vậy Hồ Chí Minh đòi hỏi người cầm quyền,
những cán bộ công chức nhà nước phải không ngừng tu dưỡng, rèn luyện
đạo đức cách mạng, thực hiện cần kiệm liêm chính, chí công vô tư phải "sửa
đổi lối làm việc", chống tham ô lãng phi, quan liêu…
Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh mối quan hệ giữa quyền
làm chủ với nghĩa vụ và tính năng động của người làm chủ: "Đã là người chủ
Nhà nước thì phải chăm lo việc nước như chăm lo việc nhà… Đã là người
chủ thì phải biết tự mình lo toan, gánh vác, không ỷ lại, không ngồi chờ". Mọi
công dân trong xã hội đều có nghĩa vụ lao động, nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc tôn
trọng và chấp hành pháp luật, tôn trọng và bảo vệ của công, đồng thời có
nghĩa vụ học tập để nâng cao trình độ về mọi mặt để "xứng đáng vai trò của
người chủ.
b. Về xây dựng nền kinh tế mới
Nền kinh tế mà chúng ta xây dựng theo Hồ Chí Minh là “một nền kinh
tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ
thuật tiên tiến” và “… trên cơ sở kinh tế xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển,
cách bóc lột theo chủ nghĩa tư bản được xóa bỏ dần, đời sống vật chất và
văn hóa của nhân dân ngày càng được cải thiện".
Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa phải được tạo lập trên cơ sở chế độ sở
hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Trong thời kỳ quá độ, nền kinh tế còn tồn
tại 4 hình thức sở hữu chính:
+ "Sở hữu Nhà nước tức là của toàn dân.
+ Sở hữu hợp tác xã tức là sở hữu tập thể của nhân dân lao động.
+ Sở hữu của người lao động riêng lẻ.
Một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản” trong đó “kinh tế
quốc doanh là hình thức sở hữu của toàn dân nó lãnh đạo nên kinh tế quốc
dân và Nhà nước phải đảm bảo cho nó phát triển ưu tiên”.
Chủ nghĩa xã hội chỉ có thể thắng chủ nghĩa tư bản khi nó tạo ra được
một nền kinh tế phát triển cao hơn, gắn với sự phát triển của sức sản xuất,
của khoa học và công nghệ, do đó nếu không có nền công nghiệp hiện đại thì
không thể có chủ nghĩa xã hội. Đối với các nước lạc hậu, chưa trải qua chế
độ tư bản thì công nghiệp hoá, hiện đại hóa là một quy luật tất yếu và phổ
biến. Điều này hiện nay hoàn toàn đúng với điều kiện của nước ta dù rằng
ngày nay có thể được thực hiện bằng nhiều con đường khác nhau.
c. Về xây dựng nền văn hóa mới
Hồ Chí Minh rất coi trong văn hóa, đạo đức, lối sống… Hồ Chí Minh
cho rằng văn hóa - tư tưởng không phụ thuộc một cách máy móc vào điều
kiện sinh hoạt vật chất, vào mức sống và có khi cách mạng tư tưởng văn hóa
phải đi trước một bước để dọn đường cho cách mạng công nghiệp.
Nền văn hóa mà Đảng ta và Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng là một
nền văn hóa "lấy hạnh phúc của đồng bào, của dân tộc làm cơ sở”, “văn hóa
phải sửa đổi được tham nhũng, lười biếng, phù hoa xa xỉ", “phải làm cho ai
cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do". Nói cách khác "văn hóa phải soi
đường cho quốc dân đi”. Tóm lại, "để phục vụ sự nghiệp cách mạng xã hội
chủ nghĩa thì văn hóa phải xã hội chủ nghĩa về nội dung và dân tộc về hình
thức", kết hợp với tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại.
d. Về quan hệ xã hội và xây dựng con người xã hội chủ nghĩa
Xã hội mà chúng ta xây dựng là một xã hội công bằng, dân chủ, có
quan hệ tốt đẹp giữa người với người; các chính sách xã hội được quan tâm
thực hiện; đạo đức - lối sống xã hội phát triển lành mạnh.
Hồ Chí Minh quan niệm chủ nghĩa xã hội là công trình tập thể của
nhân dân, do nhân dân xây dựng lấy. Nếu không có những con người thiết
tha với lý tưởng xã hội chủ nghĩa thì không thì không thể có chủ nghĩa xã hội.
Người khẳng định: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những
con người xã hội chủ nghĩa”. Vì vậy, Hồ Chí Minh đặt lên hàng đầu mục tiêu
xây dựng con người.
Con người xã hội chủ nghĩa theo quan điểm của Hồ Chí Minh phải là
con người có tinh thần và năng lực làm chủ có đạo đức cần kiệm liêm chính,
chí công vô tư, có kiến thức khoa học - kỹ thuật, nhạy bén với cái mới, có tinh
thần sáng tạo, dám nghĩ, dám làm. Đó là nguồn lực quan trọng để xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội.
Để giải phóng mọi tiềm năng sẵn có của con người trong việc xây
dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng cần phải giải phóng
người phụ nữ. Hồ Chí Minh đánh giá cao vai trò và lực lượng của phụ nữ
trong đấu tranh cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người nói: "Nói phụ
nữ là nói phân nửa xã hội. Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng
một nửa loài người.
Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một
nửa".
Có thể nói rằng các mục tiêu kinh tế - xã hội mà Đảng Cộng sản Việt
Nam nêu ra trong thời gian qua là sự quán triệt sâu sắc những quan điểm của
Tư tưởng Hồ Chí Minh và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Câu 22. Tư tưởng Hồ Chí Minh về các động lực của chủ nghĩa xã hội
Để hoàn thành được những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí
Minh cho rằng cần phải vận sức, vận dụng và phát huy được tất cả các động
lực của chủ nghĩa xã hội. Động lực ở đây được hiểu là những nhân tố góp
phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội thông qua hoạt động của con
người. Bên cạnh việc phát huy các động lực phải biết triệt tiêu những trở lực.
a. Hệ thống các động lực của chủ nghĩa xã hội
Hệ thống các động lực của chủ nghĩa xã hội trong Tư tưởng Hồ Chí
Minh rất phong phú nhưng suy đến cùng, các động lực muốn phát huy tác
dụng đều phải thông qua con người, do đó bao trùm lên vẫn là động lực con
người trên cả hai bình diện cộng đồng và cá nhân. Đó là:
Phát huy sức mạnh của đoàn kết của cả cộng đồng dân tộc - Động
lực chủ yếu để xây đất nước
Con người trên bình diện cộng đồng bao gồm tất cả các tầng lớp nhân
dân: công nhân, nông dân, trí thức… các tổ chức đoàn thể, các dân tộc và tôn
giáo, đồng bào trong nước và kiều bào ở nước ngoài… Người cũng không
quên nhắc: giai cấp tư sản dân tộc cũng là một lực lượng tham gia xây dựng
chủ nghĩa xã hội, vì giai cấp tư sản dân tộc ở ta "có xu hướng chống đế quốc,
có xu hướng yêu nước". Hồ Chí Minh luôn xác định muốn xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội thì phải phát huy được khối đại đoàn kết dân tộc bởi vì
đây không phải là sự nghiệp của riêng công nông mà là sự nghiệp chung của
toàn dân tộc. Chỉ có xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội mới tăng cường
được sức mạnh của dân tộc, mới giữ vững được độc lập dân tộc.
Phát huy sức mạnh của con người với tư cách là cá nhân người lao
động
Sức mạnh cộng đồng được hình thành từ sức mạnh của từng cá nhân
và thông qua sức mạnh của từng cá nhân vì thế cần phải có những biện pháp
khơi dậy, phát huy động lực của mỗi cá nhân. Hồ Chí Minh đã chỉ ra một hệ
thống nội dung, biện pháp vật chất và tinh thần nhằm tác động vào đó, tạo ra
sức mạnh thúc đẩy hoạt động của con người cho chủ nghĩa xã hội. Bao gồm:
+ Tác động vào nhu cầu và lợi ích của con người. Bởi vì, vào chủ nghĩa
xã hội là đi vào một trận tuyến mới, do đó Hồ Chí Minh cho rằng cần phải biết
kích thích những động lực mới, đó là những lợi ích cá nhân chính đáng của
người lao động. Hồ Chí Minh phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa cá nhân hơn ai
hết nhưng Người rất quan tâm đến việc khuyến khích lợi ích cá nhân chính
đáng, coi trọng động lực cá nhân tạo ra sự kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá
nhân và xã hội.
+ Tác động vào các động lực chính trị tinh thần trên cơ sở coi trọng các
đòn bẩy kinh tế nhưng Hồ Chí Minh cũng thấy rằng đó là phương thuốc chữa
bách bệnh có thể giải quyết được tất cả. Có những lĩnh vực hoạt động xã hội
- tinh thần đòi hỏi những hi sinh thiệt thòi mà không có lợi ích vật chất nào có
thể bù đáp được. Trong những hoàn cảnh khó khăn của cách mạng và kháng
chiến, khi các điều kiện vật chất còn thiếu, Hồ Chí Minh đã đề lên hàng đầu
việc phát huy các động lực chính trị - tinh thần của nhân dân ta như phát huy
quyền làm chủ và ý thức làm chủ của người lao động, thực hiện công bằng xã
hội, sử dụng vai trò điều chỉnh của các nhân tố tinh thần khác như chính trị,
văn hoá đạo đức, pháp luật.
b. Khắc phục các trở lực kìm hãm sự phát triển của chủ nghĩa xã hội
Muốn khai thông những động lực phát triền của chủ nghĩa xã hội đồng
thời phải nhận diện để khắc phục những lực cản trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Bước vào chế độ xã hội mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra
những căn bệnh có thể dẫn đến nguy cơ thoái hóa, biến chất của một Đảng
cầm quyền, đến an nguy của chế độ xã hội thủ nghĩa. Do đó, Người yêu cầu:
Phải đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, căn bệnh mẹ đẻ ra trăm thứ
bệnh nguy hiểm.
Phải đấu tranh chống tham ô, lãng phí, quan liêu, "bạn đồng minh của
thực dân phong kiến", vì "nó làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí khắc khổ
của cán bộ ta. Nó phá hoại đạo đức cách mạng của ta là "cần kiệm liêm
chính".
Phải chống chia rẽ, bè phái, mất đoàn kết, vô kỷ luật vì những hành
động ấy "làm giảm sút uy tín và ngăn trở sự nghiệp của Đảng, ngăn trở bước
tiến của cách mạng".
Phải chống chủ quan, bảo thủ, giáo điều, lười biếng, không chịu học
tập cái mới… Đó cũng là những trở lực đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội..
Câu 23. Trình bày cơ sở lý luận của Tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Tư tưởng Hồ Chí Minh và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội dựa trên
hệ thống quan điểm của C. Mác, F. Ăngghen, V. I. Lênin về vấn đề này.
Trong tác phẩm Phê phán cương lĩnh Gôta, C. Mác viết: “Giữa xã hội
tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách
mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá
độ chỉnh trị và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền
chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản". Đó là C. Mác nói đến con
đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển
cao, cơ sở vật chất và kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội đã được chủ nghĩa tư
bản chuẩn bị tương đối đầy đủ.
Khi tìm hiểu về lịch sử phát triển của nước Nga. C. Mác đã tán thành ý
kiến của các nhà dân chủ cách mạng Nga rằng "nước Nga… có thể không
cần phải trải qua những đau khổ của chế độ đó (tức là chế độ tư bản chủ
nghĩa) mà vẫn chiếm đoạt được mọi thành quả của chế độ ấy".
Thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Mười Nga đã làm cho lý luận về
thời kỳ quá độ có sự phát triển mới. Cái mới là ở chỗ cách mạng xã hội chủ
nghĩa nổ ra trước tiên ở Nga một nước tư bản chủ nghĩa phát triển trung bình.
Nước Nga bước vào thời kỳ quá độ từ điểm xuất phát thấp hơn: các nước tư
bản Tây âu về kinh tế và văn hóa, giai cấp công nhân chiếm tỷ lệ còn thấp
trong dân cư và nước Nga cách mạng còn đang phải vận động cho một biển
những người tiểu nông. Do đó, theo Lênin bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở Nga là một thời kỳ lịch sử tương đối dài. Nó cần thiết phải thực hiện những
bước quá độ nhỏ, những nhị cầu, những hình thức kinh tế trung gian để dần
dần lôi cuốn nhân dân Nga, mà đa số là tiểu nông, đi lên chủ nghĩa xã hội. V.
I. Lênin viết: "Nếu phân tích tình hình chính trị hiện nay, chúng ta có thể nói
rằng chúng ta đang ở vào một thời kỳ quá độ trong thời kỳ quá độ".
Cũng xuất phát từ đặc thù của nước Nga, V. I. Lênin đã nêu lên tư
tưởng về sự phát triển bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa đi lên chủ nghĩa xã
hội ở những nước mà đa số dân cư là nông dân với nền sản xuất nhỏ, tiền tư
bản chủ nghĩa. Lênin viết: “Với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản các nước tiên
tiến, các nước lạc hậu có thể tiến tới chế độ Xô - viết, và qua những giai đoạn
phát triển nhất định, tiến tới chủ nghĩa cộng sản, không phải trải qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa".
Như vậy, theo quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin
có hai con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội: một con đường quá độ trực
tiếp lên chủ nghĩa xã hội từ những nước ra bản chủ nghĩa phát triển cao, và
một con đường phát triền ở những nước tiền tư bản chủ nghĩa, quá độ gián
tiếp lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản. Ở trưởng hợp sau, các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã vạch rõ, nó chỉ có thể thực hiện được
với điều kiện có sự giúp đỡ của một nước công nghiệp tiên tiến đã làm cách
mạng xã hội chủ nghĩa thành công và phải có sự lãnh đạo của một chính
đảng vô sản kiên trì đưa đất nước đi theo con đường của chủ nghĩa xã hội.
Câu 24. Hồ Chí Minh đã quan niệm về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam như thế nào?
Quan niệm của Hồ Chi Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội xuất
phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và không thể tách rời quan
niệm đang ngự trị trong hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới lúc bấy giờ. Tuy
nhiên Người cũng đã có nhiều điểm sáng tạo, phát triển lý luận chủ nghĩa
Mác - Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội xuất phát từ tình hình, điều
kiện cụ thể của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc sau năm
1954.
Trước hết, Hồ Chí Minh đã lưu ý chúng ta cần nhận thức rõ tính quy
luật chung và đặc điểm lịch sử cụ thể của mỗi nước khi bước vào xây dựng
chủ nghĩa xã hội "… tùy hoàn cảnh mà các dân tộc phát triển theo con đường
khác nhau… Có nước thì thẳng đến chủ nghĩa xã hội,… có nước thi phái kinh
qua chế độ dân chủ mới, rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội". Nói cách khác, Hồ Chí
Minh đã chỉ ra hai phương thức quá độ chủ yếu: phương thức quá độ trực
tiếp (từ chủ nghĩa tư bản phát triển lên chủ nghĩa xã hội) và phương thức quá
độ gián tiếp (từ nghèo nàn lạc hậu, tiền tư bản chủ nghĩa, qua dân chủ nhân
dân đi lên chủ nghĩa xã hội).
C. Mác và F. Ăngghen chủ yếu đề cập phương thức quá độ trực tiếp
từ chủ nghĩa tư bản đã phát triển cao lên chủ nghĩa xã hội. V. I. Lênin đã đề
cập cả hai loại hình quá độ nhưng ở loại hình thứ hai, Lênin cũng chỉ mới:
nêu lên ở dạng khái quát mang tính định hướng lý luận chung; còn Hồ Chí
Minh đã căn cứ vào thực tiễn cụ thể của Việt Nam để xây dựng quan niệm và
lý giải những vấn đề của phương thức quá độ gián tiếp ở một nước chậm
phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội và những tìm tòi lý luận của Người gắn liền
với loại hình quá độ này của Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã chỉ ra những đặc điểm và mâu thuẫn của thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Sau năm 1954, miền Bắc nước ta bước
vào thời kỳ quá độ trong bối cảnh quốc tế tương đối thuận lợi. Về tình hình
trong nước ta phải tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược, vừa có hòa
bình, vừa có chiến tranh,… nhưng bao trùm lên to nhất là đặc điểm "Từ một
nước nông nghiệp lạc hậu tiến thắng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa". Đặc điểm này thâu tóm đầy đủ
những mâu thuẫn, khó khăn, phức tạp, chi phối toàn bộ tiến trình quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nó đặt ra hàng loạt vấn đề lý luận và thực tiễn
mà chúng ta cần nhận thức và giải đáp một cách đúng đắn để tìm ra con
đường với những hình thức, bước đi và cách làm chủ nghĩa xã hội phù hợp
với đặc điểm Việt Nam.
Dựa theo công thức của Lênin, Hồ Chí Minh cũng nói "tiến thẳng lên
chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa".
Cách nói này có phần chỉ hướng vế mặt thuận lợi nghĩa là nhằm tránh được
cho nhân dân ta không phải trải qua một chế độ đầy bùn và máu là chế độ tư
bản chủ nghĩa đã bị lịch sử lên án và bác bỏ.
Nhưng từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá, bỏ
qua chế độ tư bản, quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội, đã đặt ra biết bao
nhiêu khó khăn, phức tạp khiến chúng ta không thể chủ quan, nóng vội đốt
cháy giai đoạn, rơi vào phiêu lưu, duy ý chí.
Do đó, mặc dầu nói "tiến thẳng", nhưng Hồ Chí Minh nhiều lần đã chỉnh
lại: "Tiến lên chủ nghĩa xã hội, không thể một sớm, một chiều. Đó là cả công
tác tổ chức và giáo dục". Hồ Chí Minh cho rằng Việt Nam là một nước nông
nghiệp lạc hậu, công cuộc đổi xã hội cũ thành xã hội mới gian nan, phức tạp
hơn việc đánh giặc vì vậy chủ nghĩa xã hội không thể làm mau được mà phải
dần dần".
Về độ dài của thời kỳ quá độ. lúc đầu dựa theo kinh nghiệm của Liên
Xô và Trung Quốc, Hồ Chí Minh cũng dự đoán "Chắc sẽ đòi hỏi ba, bốn kế
hoạch dài hạn, nếu nhân dân ta cố gắng thì có thể rút ngắn hơn". Nhưng
quan niệm này, chỉ sau đó ít lâu đã được Hồ Chí Minh điều chỉnh lại. Người
nói: "Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp,
gian khổ và lâu dài". Vì sao? Vì mâu thuẫn của thời kỳ quá độ của nước ta là
mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển lên xây dựng một chế độ mới có nền kinh
tế công nghiệp, nông nghiệp hiện đại, có văn hóa, khoa học tiên tiến với tình
trạng lạc hậu, kém phát triển, lại phải đối phó với bao thế lực cản trở phá hoại
mục tiêu của chúng ta. Người nói: "Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là một
cuộc biến đổi khó khăn nhất, và sâu sắc nhất bởi vì "Chúng ta phải xây dựng
một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trọng lịch sự dân tộc ta.
Chúng ta phải thay đổi triệt để những nếp sống thói quen ý nghĩ và thành kiến
có gốc rễ sâu xa hàng ngàn năm. Chúng ta phải thay đổi quan hệ sản xuất cũ,
xóa bỏ giai cấp bóc lột, xây dựng quan hệ sản xuất mới… phải dần dần biến
nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp. Vì
vậy, Hồ Chí Minh đã khẳng định lại: thời kỳ quá độ là một thời kỳ lịch sử lâu
dài, đầy khó khăn.
Về nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ, Người chỉ rõ: "… Phải xây
dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa miền Bắc tiến
dần lên chủ nghĩa xã hội, có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa
và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta
phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nên kinh tế mới, mà xây dựng là
nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài". Từ đó, Hồ Chí Minh đã chỉ ra những nhiệm vụ
cụ thể cho từng lĩnh vực của xã hội ở thời kỳ quá độ: về chính trị, kinh tế, văn
hóa - xã hội.
Về những nhân tố bảo đảm thực hiện thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam, Hồ Chí Minh chỉ rõ:
+ Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng.
+ Nâng cao vai trò quản lý của nhà nước.
+ Phát huy tính tích cực, chủ động của các tổ chức chính trị xã hội…
+ Xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức và tài, đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Câu 25. Trình bày Tư tưởng Hồ Chí Minh về bước đi, phương thức và biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ
Chủ nghĩa xã hội có mục tiêu, nguyên lý chung giống nhau, nhưng mỗi
nước có đặc điểm lịch sử cụ thể khác nhau, nên phương thức, biện pháp,
bước đi, cách làm… chủ nghĩa xã hội không giống nhau. Vì vậy, Hồ Chí Minh
nhắc nhở: phải học tập kinh nghiệm dồi dào của các nước anh em, nhưng
không để áp dụng những kinh nghiệm ấy một cách máy móc, bởi vì nước ta
có những đặc điểm riêng của ta. Từ đó, Người yêu cầu phải nêu cao tác
phong độc lập suy nghĩ, điều tra nghiên cứu, thông thuộc lịch sử, địa lý và con
người Việt Nam… "Ta không thể giống Liên Xô,… ta có thể đi con đường
khác để tiến lên chủ nghĩa xã hội”.
a. Về bước đi của thời kỳ quá độ
Do vấn đế còn quá mới, Hồ Chí Minh chưa có điều kiện làm rõ sẽ gồm
mấy chặng đường với những nội dung cho từng chặng, nhưng qua thực tế
một số năm Người đã chỉ rõ: Ta xây dựng chủ nghĩa xã hội từ hai bàn tay
trắng đi lên thì khó khăn còn nhiều và lâu dài". do đó cần phải làm dần dần,
"không thể một sớm một chiều", ai nói dễ là chủ quan và sẽ thất bại.
Thấm nhuần những chỉ dẫn của Lênin "phải kiên nhẫn bắc những nhịp
cầu nhỏ, vừa tầm, lựa chọn những giải pháp trung gian, quá độ ", tư tưởng
chỉ đạo của Hồ Chí Minh về bước đi của thời kỳ quá độ ở Việt Nam là phải
qua nhiều bước, bước ngắn, bước dài, tùy theo hoàn cảnh", nhưng chớ hàm
làm mau, ham rầm rộ… Đi bước nào vững chắc bước ấy, cứ tiến dần dần". Ví
dụ, về bước đi trong cải tạo nông nghiệp, Người nói: "…lúc đầu là cải cách
ruộng đất, sau tiến lên một bước là tổ chức tổ đổi công sao cho tốt, cho khắp,
lại tiến lên hình thức hợp tác xã dễ dàng, rồi tiến lên hợp tác xã cao hơn… Về
bước đi trong phát triển công nghiệp, Người sớm để phòng bệnh duy ý chí:
Mấy năm kháng chiến, ta chỉ có nông thôn, bây giờ mới có thành thị… nếu
muốn công nghiệp hóa gấp là chủ quan. Ta có nông nghiệp là quan trọng và
ưu tiên, rồi đến tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp nhẹ, sau mới đến công
nghiệp nặng, làm trái với Liên Xô cũng là mácxít".
b. Về phương pháp, biện pháp, cách thức xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Về phương pháp, biện pháp, cách thức tiến hành xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam, Người luôn luôn nhắc nhở phải nêu cao tinh thần độc lập,
tự chủ, sáng tạo, chống giáo điều, rập khuôn kinh nghiệm nước ngoài, phải
suy nghi, tìm tòi, sáng tạo ra cách làm phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Cụ
thể:
Trong bước đi và cách tiến hành chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, phải
thể hiện được sự kết hợp giữa hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt
Nam: "xây dựng miền Bắc, chiếu cố miền Nam".
Khi giặc Mỹ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, ta có khẩu hiệu”vừa
sản xuất, vừa chiến đấu", "vừa chống Mỹ cứu nước, vừa xây dựng chủ nghĩa
xã hội" và được thế giới coi là một kinh nghiệm sáng tạo của Việt Nam.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bị chiến
tranh tàn phá… phải kết hợp cải tạo và xây dựng trên tất cả các lĩnh vực, mà
xây dựng là chủ chốt và lâu dài.
Hồ Chí Minh quan điểm chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của dân, do
dân, vì dân, vì vậy cách làm là "đem tài dân, sức dân của dân để làm lợi cho
dân" đó là "chủ nghĩa xã hội nhân dân", không phải là "chủ nghĩa xã hội nhà
nước", được ban phát từ trên xuống.
Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh vai trò của tổ chức thực hiện, Người
nhắc nhở: chỉ tiêu một, biện pháp mười, quyết tâm hai mươi… có như thế kế
hoạch mới hoàn thành tốt được.
Những tư tưởng của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, về quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, bước đi và phương thức tiến hành chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam đang được Đảng ta kế thừa, vận dụng và phát triển trong công cuộc đổi
mới hiện nay.
Câu 26. Đảng ta đã vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội vào cuông cuộc đổi mới hiện nay như thế nào?
Những luận điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường
quá độ lên chủ nghĩa xã hội vẫn là những cơ sở lý luận và phương pháp luận
chỉ đạo chúng ta tiếp tục suy nghĩ sáng tạo đề tìm ra những hình thức, bước
đi, cách làm trong tình hình đất nước đổi mới theo con đường công nghiệp
hóa, hiện đại hoá. Đó là:
a. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu mà nhân dân ta đã
kiên trì phấn đấu hy sinh, theo đuổi hơn 70 năm qua dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Dưới ách nô dịch ngót trăm năm của chế độ thực dân, dân ta bị đày
đọa trong vòng nghèo đói lạc hậu… Muốn thay đổi được tình hình đó, sau khi
giành được độc lập dân tộc chúng ta không có con đường nào khác là phải
tiến lên chủ nghĩa xã hội. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới thực hiện được "ham
muốn tột bậc” của Bác Hồ và cũng là mong muốn ngàn đời của nhân dân ta.
Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc.
Công cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta nhằm mục tiêu "dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" cũng chính là để hoàn thành
mục tiêu, lý tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và cũng là của nhân dân ta trong
hoàn cảnh lịch sử mới. Lợi dụng sự khủng hoảng đổ vỡ mô hình chủ nghĩa xã
hội ở Liên Xô và Đông Âu, các thế lực thù địch ở bên ngoài và một số người
dao động ở trong nước đã lên giọng phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam. Bài học đặt giá của nước Nga và các nước Đông Âu cho thấy
muốn dân tộc độc lập nhân dân được hưởng cuộc sống tự do hạnh phúc thì
phải kiên định mục tiêu chủ nghĩa xã hội.
Chúng ta cần phải thấy rằng xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ quả chế độ
tư bản chủ nghĩa là một quá trình phức tạp. Kinh tế thị trường, mở cửa, hội
nhập… có mặt tích cực là kích thích sản xuất phát triển đời sống kinh tế và
con người trở nên năng động, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả;
những yếu tố lạc hậu, bảo thủ, thụ động bị đào thái… bên cạnh đó cũng có
mặt tiêu cực là hàng ngày, hàng giờ nó đẻ ra các tệ nạn tham nhũng, lừa đảo;
chạy theo đồng tiền và nhiều tệ nạn xã hội khác… và tình trạng phân hóa giàu
nghèo ngày càng tăng, tình trạng thất nghiệp, thất học, đói nghèo, bị bóc lột
đang trở lại với một bộ phận nhân dân lao động; một bộ phận cán bộ có chức
có quyền bị tha hóa, biến chất biến họ trở thành những kẻ phá hoại từ bên
trong. Làm thế nào để phát huy những tích cực và ngăn ngừa những tiêu
cực? Câu hỏi không có sẵn trong Tư tưởng Hồ Chi Minh nhưng Người đã chỉ
cho ta phương hướng và phương pháp để tìm ra biện pháp hữu hiệu mà
không đi chệch bản chất, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
b. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Khơi dậy mạnh mẽ tất cả các nguồn lực, trước hết là nguồn lực nội sinh để thực htiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một yêu cầu có tính tất yếu đối với
những nước nông nghiệp lạc hậu quá độ lên chủ nghĩa xã hội chưa qua giai
đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản. Để công nghiệp hóa, hiện đại hóa thành
công chúng ta cần phát huy tất cả các nguồn lực bên trong và bên ngoài
nhưng phải lấy nguồn lực bên trong làm gốc, có phát huy mạnh mẽ nguồn lực
trong nước mới sử dụng tốt, có hiệu quả nguồn lực bên ngoài. Chúng ta phải
luôn quán triệt sâu sắc quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: chủ nghĩa xã hội
là công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng lấy dưới sự lãnh
đạo của Đảng, phải "đem tài dân, sức dân của dân làm lợi cho dân”.
Với dân số hơn 80 triệu, tiềm lực và sức lực của cải trí tuệ tài năng
thật là to lớn. Để khơi dậy được nguồn lực này đòi hỏi chúng ta cần phải biết
phát huy cao độ quyền làm chủ của người dân trên cơ sở nâng cao dân trí và
thực hiện cơ chế: "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, tạo điều kiện
cho người dân có điều kiện tham gia giám sát công việc của nhà nước.
c. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại
Sự nghiệp đổi mới của nước ta diễn ra trong điều kiện cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ đang phát triển mạnh mẽ, xu thế khu vực hoá,
toàn cầu hóa đang ảnh hưởng đến nhịp độ phát triển và cuộc sống của các
dân tộc. Chúng ta cần phải biết tranh thủ tối đa mọi cơ hội tốt do xu thế tạo ra,
phát huy hiệu lực và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế. Phải có cơ chế và
chính sách tốt đề thực hiện kết hợp sức mạnh dân tộc và thời đại theo Tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Ngày nay, chúng ta phải biết tranh thủ sự hợp tác quốc tế nhưng phải
đi đôi với việc thường xuyên khơi dậy chủ nghĩa yêu nước, tinh thần độc lập
dân tộc, kêu gọi toàn dân sẵn sàng đem nhân lực, vật lực, tài lực để tăng
cường sức mạnh quốc gia. Không nên hy vọng hão huyền vào những khoản
viện trợ to lớn vì không cs sự viện trợ lớn nào mà lại vô tư, chúng luôn đi kèm
với những điều kiện mà nhiều khi không thể chấp nhận được.
Giao lưu hội nhập đồng thời phải không ngừng trau dồi bản lĩnh và
bản sắc văn hóa dân tộc. Chỉ có bản lĩnh và bản sắc dân tộc sâu sắc, mạnh
mẽ mới tạo ra bộ lọc tốt để tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại đồng thời có
sức đề kháng tốt để chống lại mọi yếu tố phản văn hóa, độc hại từ bên ngoài
vào.
d. Chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy nhà nước, đẩy mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, thực hiện cầm kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội
Để phát huy được quyền làm chủ của người dân, trước hết cán bộ
Đảng và Nhà nước, những người thừa hành công vụ phải trong sạch, liêm
khiết, phải thực sự là người đầy tớ trung thành và tận tụy của dân như Bác
Hồ đã dặn. Dù Đảng và Nhà nước có đường lối, chính sách đúng đắn nhưng
đội ngũ cán bộ thừa hành không tận tụy mẫn cán và hay sách nhiễu, tham
nhũng, cửa quyền… thì họ chẳng những làm cho đường lối chính sách đó
không đi vào người dân mà có khi họ còn gây ra sự mất lòng tin của nhân dân
vào đường là chính sách của Đảng và nhà nước.
Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở chúng ta phải không ngừng chăm lo tăng
cường mối liên hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân. Muốn vậy phải làm trong
sạch bộ máy Nhà nước, loại trừ các phần tử thoái hoá biến chất, làm cho Nhà
nước ta thực sự là của dân, do dân và vì dân.
Tóm lại, Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thực sự là kim chỉ nam cho sự nghiệp đổi
mới hiện nay ở nước ta. Chỉ có bằng hiệu quả thực tế trong đổi mới kinh tế là
chính trị đem lại sự cải thiện vật chất và tinh thần cho nhân dân chúng ta mới
củng cố được lòng tin trong nhân dân đối với chủ nghĩa xã hội.
Câu 27. Trình bày phẩm chất đạo đức “Trung với nước, hiếu với dân” trong Tư tưởng Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh cho rằng phẩm chất đạo đức quan trọng và bao trùm nhất
của con người Việt Nam là trung với nước, hiếu với dân.
Trong tư tưởng đạo đức truyển thống Việt Nam và phương Đông, trung
và hiếu là những khái niệm quen thuộc, giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh
thần của cá nhân. Trong thời đại Hồ Chí Minh, Người đưa vào những nội
dung mới:
Theo quan niệm truyền thống, trung là trung quân, là trung thành với
vua mà trung thành với vua là trung thành với nước. Ở đây vua với nước là
một. Hiếu có nghĩa con cái hiếu thảo với cha mẹ, chữ hiếu chỉ thu hẹp trong
phạm vi gia đình. Tư tưởng trung với nước, hiếu với dân của Hồ Chí Minh
không chỉ đã kế thừa được những giá trị của chủ nghĩa yêu nước truyền
thống của dân tộc mà còn vượt qua được hạn chế của truyền thống đó. Trung
với nước là trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Nước ở đây
là nước của nhân dân, nhân dân là người chủ của đất nước. Hồ Chí Minh
luôn xác định "bao nhiêu quyền hạn đều của dân", "bao nhiêu lợi ích đều vì
dân". Đảng và Chính phủ là "đày tớ của nhân dân" chứ không phải là quan
nhân dân để đè đầu cưỡi cổ nhân dân! Như vậy, quan niệm về nước và dân
trong Tư tưởng Hồ Chí Minh đã hoàn toàn khác so với trước. Điều này đã làm
cho tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vượt xa lên phía trước.
Hồ Chí Minh mong muốn mỗi người Việt Nam phải trung vớỉ nước,
hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ
nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ
thù nào cũng đánh thắng. Đây là một lời kêu gọi hành động, vừa là định
hướng chính trị - đạo đức cho mỗi con người Việt Nam không chỉ trong cuộc
đấu tranh cách mạng của nhân dân ta từ trước đến mà còn lâu dài về sau.
Đối với cán bộ, đảng viên. Hồ Chí Minh cho rằng "điều chủ chốt nhất"
của đạo đức cách mạng là “tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân", là
"trung với nước, hiếu với dân", hơn nữa phải là "tận trung, tận hiếu" thì mới
xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ thật trung thành của nhân
dân. Tư tưởng hiếu với dân không còn dừng lại ở chỗ thương dân mà còn
phải phục vụ hết lòng. Vì vậy phải gần dân, gắn bó với dân, kính trọng và học
tập dân dựa hẳn vào dân, lấy dân làm gốc. Đối với cán bộ lãnh đạo phải nắm
vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, phải thường xuyên quan tâm đến việc cải
thiện dân sinh, nâng cao dân trí để dân hiểu được quyền và trách nhiệm của
người chủ đất nước. Có như vậy người lãnh đạo sẽ được dân tin yêu, quý
mến, kính trọng.
Câu 28. Trình bày phẩm chất yêu thương con người trong Tư tưởng Hồ Chí Minh
Kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa
nhân đạo cộng sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loại qua nhiều thế kỷ
cùng với việc thề nghiệm của chính bản thân mình qua hoạt động cách mạng
thực tiễn, Hồ Chí Minh đã xác định: yêu thương con người là một trong những
phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất.
Yêu thương con người là một tình cảm rộng lớn, trước hết là dành
cho người cùng khổ, những người lao động bị áp bức bóc lột. Tình yêu
thương đó thể hiện ham muốn tột bậc của Hồ Chí Minh là: làm cho đất nướcc
được độc lập, nhân dân được tự do, ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng
được học hành.
Tình yêu thương con người còn thể hiện trong mối quan hệ bạn bè,
đồng chí, với mọi người trong sinh hoạt thường ngày. Tình cảm này đòi hỏi
mỗi người phải luôn chặt chẽ, nghiêm khắc với mình, độ lượng với người
khác, phải có thái độ tôn trọng con người.
Tình yêu thương con người trong Tư tưởng Hồ Chi Minh còn được
thể hiện đối với những người có sai lầm khuyết điểm nhưng đã nhận rõ
khuyết điểm sai lầm và cố gắng sửa chữa, kể cả những người lầm đường, lạc
lối đã hối cải, kể cả đối với kẻ thù đã bị thương, bị bắt hoặc đã quy hàng.
Trong Di chúc thiêng liêng, Người căn dặn Đảng phải có tình đồng chí
thương yêu lẫn nhau. Đây chính là điều nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải luôn
chú ý đến phẩm chất yêu thương con người. Đây là tình yêu thương trên
nguyên tắc tự phê bình và phê bình một cách chân thành, nghiêm túc giữa
những người cùng lý tưởng, cùng phấn đấu cho một sự nghiệp chung. Nó
hoàn toàn xa lạ với thái độ "dĩ hòa vi quy”, bao che sai lầm khuyết điểm cho
nhau, càng xa lạ với thái độ yêu ghét chủ quan cảm tính, các hiện tượng bè
cánh, phường hội có thể đưa đến những tổn thất lớn cho Đảng, cho cách
mạng.
Câu 29. Hồ Chí Minh giải thích như thế nào về phẩm chất “Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”
Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư là phẩm chất đạo đức cần phải có
của một người cách mạng. Vì lẽ đó, Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc đến
phẩm chất này, từ Đường Kách mệnh cho đến bản Di chúc cuối cùng.
Những khái niệm cần kiệm liêm chính, chí công vô tư của đạo đức
phương Đông và đạo đức truyền thống Việt Nam đã được Hồ Chí Minh giữ lại
những yếu tố tốt đẹp của quá khứ, lọc bỏ những gì không phù hợp và đưa
vào những nội dung mới do sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất
nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội đặt ra.
Hồ Chí Minh giải thích về cần kiệm liêm chính, chí công vô tư như sau:
Cần tức là lao động cần cù, siêng năng, lao động có kế hoạch, sáng
tạo, có năng suất cao, lao động với tinh thần tự lực cánh sinh. không lười
biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ "lao động” là nghĩa vụ thiêng
liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta".
Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của
của dân, của nước, của bản thân mình, phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ,
nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to, "không xa xỉ, không hoang phí, không bừa
bãi", không phô trương hình thức.
Liêm tức là "luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân"; phải
"trong sạch, không tham lam", “Không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không
tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình…” và “Chỉ có một thứ
ham là ham học; ham làm, ham tiến bộ".
Chính "Nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn”. Trong các mối quan
hệ phải:
Đối với mình - không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập, cầu tiến bộ,
luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình.
Đối với người - không nịnh hót người trên. không xem khinh người
dưới, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết thật thuế không dối trá.
lừa lọc.
Đối với việc - để công việc lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. Đã phụ
trách việc gì thì quyết làm cho kỳ được, cho đến nơi đến chố,n. không sợ khó
khăn, nguy hiểm; việc thiện thì nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì nhỏ mấy cũng
tránh. Mỗi ngày cố làm một việc có lợi cho nước cho dân.
Về Chí công vô tư, Hồ Chí Minh nói "Đem lòng chí công vô tư mà đối
với người, với việc". “Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước,
khi hưởng thụ thì mình nên đi sau"; “phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ".
Đối lập với "chí công vô tư” là "dĩ công vi tư”, đó là điều mà đạo đức
mới đòi hỏi phải chống lại.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư có quan hệ mật thiết với nhau.
Có khi Người coi cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính của con người, thiếu
một đức thì không thành người.
Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công vô tư, ngược lại đã chí
công vô tư một lòng vì nước, vi dân, vì Đảng, thì nhất định sẽ thực hiện cần,
kiệm, liêm, chính và có được nhiều đức tính tốt khác, theo Hồ Chí Minh
những đức tính tốt ấy gồm có năm điều: "nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm".
Bồi dưỡng phẩm chất cần kiệm liêm chính, chí công vô tư sẽ làm cho
con người vững vàng trước mọi thử thách: “Giàu sang không thể quyến rũ,
nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thề khôi phục".
Câu 30. Trình bày về tinh thần quốc tế trong sáng trong Tư tưởng Hồ Chí Minh
Tinh thần quốc tế trong sáng trong Tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm:
+ Tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản mà Hồ Chí Minh đã nêu bằng
mệnh đề "Bốn phương vô sản đều là anh em".
+ Tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động
các nước trên thế giới.
+ Tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với tất cả những người
tiến bộ trên thế giới vì hòa bình, công lý và tiến bộ xã hội.
Tinh thần quốc tế trong sáng hướng đến những mục tiêu lớn của thời
đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, là độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, là hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước, các dân tộc.
Tinh thần quốc tế ấy vẫn được gọi là chủ nghĩa quốc tế vô sản hay chủ nghĩa
quốc tế của giai cấp công nhân.
Hồ Chí Minh luôn cho rằng chủ nghĩa quốc tế vô sản gắn liền với chủ
nghĩa yêu nước. Nếu tinh thần yêu nước không chân chính, chủ nghĩa quốc
tế không trong sáng thì có thể dẫn tới chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, sô vanh, biệt
lập, kỳ thị chủng tộc, hoặc chủ nghĩa bành trướng bá quyền. Những quan
điểm sai lệch này có thể dẫn tới chỗ phá vỡ sự ổn định và thống nhất của các
quốc gia, phá vỡ tình đoàn kết trong cuộc đấu tranh chung, thậm chí có thể
đưa tới tình trạng đối đầu, đối địch.
Tinh thần quốc tế trong sáng là phẩm chất đạo đức, là yêu cầu đạo đức
nhằm vào mối quan hệ rộng lớn, vượt qua khuôn khổ quốc gia dân tộc. Trong
hoạt động thực tiễn cần phải tăng cường giáo dục tình thần quốc tế vô sản
trong sáng trên cơ sở những định hướng của đường lối chính trị của Đảng và
những chủ trương, chính sách cụ thể của Nhà nước và việc rèn luyện của cá
nhân về tinh thần quốc tế.
Câu 31. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc, phương pháp xây dựng và giáo dục đạo đức mới
Theo Tư tưởng Hồ Chí Minh, nguyên tắc rèn luyện đạo đức là phải
thường xuyên, phải tu dưỡng đạo đức suốt đời bởi vì: "đạo đức cách mạng
không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày
mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng
luyện càng trong.
Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức cho người khác học tập,
noi theo. Người chỉ rõ: trước mắt quần chúng không phải ta cứ viết lên trán
chữ “cộng sản” mà được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người
có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước
cho người ta bắt chước.
Xây đi đối với chống. Phải xây dựng, rèn luyện và giáo dục nhân dân
những phẩm chất, chuẩn mực đạo nức mới, đồng thời phải đi đôi với việc loại
bỏ cái xấu, sai,vô đạo đức. Phải kịp thời ngăn chặn cái xấu, không để nó xảy
ra. Các phong trào chống tham ô lãng phí, quan tâm, thực hành tiết kiệm… do
Hồ Chí Minh phát động đã thể hiện nguyên tắc xây dựng và rèn luyện dạo
đức cám mạng của Người.
Phương pháp xây dựng và rèn luyện đạo đức mới của Hồ Chí Minh là
"Giáo dục phải liên hệ chặt chẽ với cuộc đấu tranh của xã hội". Nghĩa là muốn
giáo dục đạo đức mới cho nhân dân có hiệu quả thì không thể chỉ bằng lý
thuyết đơn thuần mà phải kết hợp chặt chẽ với việc rèn luyện thông qua hành
động gắn liền với thực tiễn cách mạng trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
Đây không phải chỉ là một phương thức giáo dục mà còn là một nguyên lý cơ
bản của sự nghiệp giáo dục đào tạo con người mới. Cố rèn luyện trong thực
tiễn trải qua khó khăn, gian khổ, thử thách mới tự rèn luyện mình bản lĩnh
kiên cường. Những phẩm chất cách mạng "Nhân, nghĩa, trí, dũng” sẽ được
nâng cao, những tri thức được tiếp thu qua thực tiễn sẽ được củng cố.
Khi đã có một định hướng đúng, đã có một nội dung về đạo đức cách
mạng với đầy đủ những chuẩn mực cơ bản như Hồ Chí Minh đã chỉ ra thì kết
quả của việc xây dựng, rèn luyện giáo dục đạo đức mới đó lại tùy thuộc vào
sự chủ động, coi trọng thực hành đạo đức của mỗi người và việc tổ chức, chỉ
đạo các phong trào hành động của các tổ chức, đoàn thể các cấp nhà trường
và xã hội.
Câu 32. Trình bày Tư tưởng Hồ Chí Minh về chức năng của văn hóaNghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, ta thấy chức năng của
văn hóa mới có thể qui vào ba chức năng chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp.
Trong đời sống tinh thần của con người, tư tưởng và tình cảm là vấn đề
thủ yếu nhất, quan trọng nhất. Tư tưởng có thể đúng đắn hoặc sai lầm, tình
cảm có thể thấp hèn hoặc cao đẹp. Theo Hồ Chí Minh, văn hóa có chức năng
là phải bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và cao đẹp cho nhân dân, loại bỏ những
sai lầm và thấp hèn có thể có trong tư tưởng tình cảm của mỗi người. Chức
năng cao quý ấy phải được tiến hành thường xuyên. Và phải làm thế nào cho
văn hóa đi sâu vào tâm lý quốc dân để xây dựng những tình cảm lớn như
lòng yêu nước, tình yêu thương con người, yêu cái chân, cái thiện, cái mỹ;
yêu tính trung thực, chân thành, thủy chung, ghét những thói hư tật xấu
những thoái hóa biến chất. Hơn nữa chính những tư tưởng đúng đắn lại tiếp
nhận không chỉ bằng lý trí mà còn bằng anh cảm lớn tạo nên sự bền vững
trong mỗi con người. Mà điều đó văn hóa lại có khả năng nhất.
Thứ hai, nâng cao dân trí.
Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám 1945 thắng lợi, đất nước độc lập,
Hồ Chí Minh đã chỉ đạo: Một trong những công việc phải thực hiện cấp tốc lúc
này là nâng cao dân trí.
Muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm cho dân mạnh nước giàu, mọi
người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, phải có kiến thức mới để
có thể tham gia vào công việc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết đọc,
biết viết chữ quốc ngữ.
Khi miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên thủ nghĩa xã hội. Hồ Chí
Minh nói: chúng ta phải biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn
hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc.
Thứ ba, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, những phong cách lành
mạnh luôn hướng con người tới cái chân, cái thiện, cái mỹ để không ngừng
hoàn thiện bản thân mình.
Căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, Hồ Chí Minh đã đề ra những
phẩm chất và phong cách cần thiết để mỗi người tu dưỡng rèn luyện. Đó là
những phẩm chất đạo đức cách mạng, những phong cách trong lao động,
sinh hoạt và trong quan hệ xã hội.
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: phải làm cho văn hóa vào sâu trong tâm lý quốc
dân, nghĩa là văn hóa phải sửa đổi được những tham nhũng, lười biếng, phù
hoa, xa xỉ. Người đã nêu ra một luận điểm khái quát: văn hóa phải soi đường
cho quốc dân di.
Hồ Chí Minh coi đội ngũ những người làm công tác văn hóa, những văn
nghệ sĩ là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp to lớn này. Người khẳng định:
văn hóa nghệ thuật là một mặt trận, anh chị em là chiến sĩ trên mật trận ấy.
"Văn hóa giáo dục là một mặt trận quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà".
Câu 33. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Hồ Chí Mình rất coi
trọng xây dựng và phát triển văn hóa, coi đó là sự nghiệp của toàn dân. Toàn
dân tham gia sáng tạo văn hóa, toàn dân làm nghĩa vụ và đóng góp cho sự
phát triển văn hóa, toàn dân tham gia xây dựng và tự quản đời sống văn hóa
của mình và toàn dân được quyền hưởng thụ tiếp nhận, lưu giữ và truyền bá
văn hóa tốt đẹp, lành mạnh.
Theo Hồ Chi Mình, chỉ khi nào được mọi người dân, mọi tầng lớp nhân
dân, mọi tổ chức chính trị, xã hội, các đoàn thể, dân tộc, tôn giáo… tham gia
tự nguyện thường xuyên chủ động vào công tác văn hóa thì lúc đó văn hóa
mới phát triền bền vững và mạnh mẽ. Đồng thời, Người yêu cầu làm cho văn
hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống, vào mọi lĩnh vực, mọi quan hệ của con
người, lúc đó văn hóa mới hoàn thành được chức năng, nhiệm vụ của mình,
trở thành động lực và sức mạnh nội sinh của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Văn hóa Việt Nam là nền văn hóa đa dạng và phong phú của cộng
đồng các dân tộc anh em sống trên đất nước ta. Vì vậy phát triển văn hóa
Việt Nam chính là phát triển tính đa dạng, bản sắc dân tộc phong phú, đặc
sắc của các dân tộc, đồng thời là sự chung sức xây dựng nền văn hóa chung
thống nhất trong đa dạng đó. Hồ Chí Minh luôn căn dặn: muốn phát triển văn
hóa các dân tộc, phải tẩy trừ những thành kiến, phải thương yêu, đoàn kết,
tôn trọng và giúp đỡ lẫn nhau như anh em một nhà.
Văn hóa là sự nghiệp của toàn dân, vì thế, trong suốt cuộc đời mình,
đặc biệt từ sau khi Cách mạng tháng Tám thành công (8 - 1945) cho đến lúc
qua đời (9 - 1969) Hồ Chí Minh thường xuyên cổ vũ một cách kiên trì, đầy
sáng tạo cho nhiệm vụ xây dựng "đời sống mới” bao gồm đạo đức mới, nếp
sống mới, lối sống mới… Cuộc vận động độc đáo này của Hồ Chí Minh suốt
hơn 50 năm qua đã tạo nên những chuyển biến to lớn, sâu sắc trong đời
sống văn hóa của nhân dân ta.
Câu 34. Trình bày nội dung tư tưởng nhân văn Hồ Chí MinhTư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh có nội dung rất phong phú thể hiện ở
các khía cạnh chủ yếu sau:
Một là, Lòng yêu thương vô hạn đối với con người.
Hồ Chí Minh có một lòng yêu thương con người vô hạn nhất là đối với
những người lao động bị áp bức, bóc lột, bị đầy đọa, đau khổ. Chính vì lòng
yêu thương con người, yêu nước, thương dân sâu sắc mà Hồ Chí Minh đã
bôn ba khắp bốn phương trời để tìm đường cứu nước. Vì mục đích giải
phóng đất nước, mang lại tự do và hạnh phúc cho đồng bào mà Người không
sợ tù tội, dám xông pha sự hiểm nghèo chịu đựng gian khổ hi sinh, nhẫn
nhục, cố gắng. Trong quá trình ấy, Người có một sự đồng cảm sâu sắc với
những người cùng cảnh ngộ, những người dân mất nước, nô lệ lầm than ở
các nước thuộc địa. Không những thế, Người còn có tình thương yêu với
những người lao động trong các nước tư bản chủ nghĩa, kể cả các nước đế
quốc đang xâm lược nước ta. Đó là tình thương yêu đối với giai cấp công
nhân, nhân dân lao động còn bị áp bức, bóc lột. Bởi vì chính họ làm ra cho
những người ăn bám, lũ người đi khai hóa và những bọn khác hưởng. Mà
bản thân họ thì lại phải sống cùng khổ trong khi những tên đao phủ của họ
sống rất thừa thãi. Càng yêu thương nhân dân bi áp bức, bóc lột Hồ Chí Minh
càng căm ghét và tố cáo mạnh mẽ tội ác tày trời của chủ nghĩa thực dân, chủ
nghĩa tư bản đối với các dân tộc thuộc địa và với giai cấp vô sản chính quốc.
Tình yêu thương con người Hồ Chí Minh đã vượt ra khỏi giới hạn màu
da, chủng tộc, biên giới. Tình yêu thương dân tộc trong Hồ Chí Minh đã
quyện chặt với tình yêu thương nhân loại bị áp bức, bóc lột.
Hai là, kính trọng, tin tưởng vào sức mạnh và chí sáng tạo to lớn của
con người, của nhân dân.
Quan điểm kính trọng, tin tưởng vào sức mạnh và trí tuệ sáng tạo của
nhân dân ở Hồ Chí Minh hết sức rõ ràng, phong phú. Người thường xuyên
giáo dục cán bộ đảng viên, phải luôn ghi nhớ, quán triệt quan điểm đó. Người
khắng định: "Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới
không gì mạnh bằng sức mạnh đoàn kết của nhân dân" và "nước lấy dân lâm
gốc…
Gốc có vững cây mới bền
Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”
Hồ Chí Minh tin tưởng rằng sự nghiệp đấu tranh để giải phóng nhân
dân lao động chỉ có thể thực hiện được bằng chính sự nỗ lực quyết tâm, đoàn
kết của nhân dân. Khi nước nhà giành được độc lập, Người khẳng định nước
ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích. quyền lực đều thuộc về nhân dân. Tiến
hành kháng chiến hay xây dựng, đổi mới đều phải dựa vào dân. Từ chỗ tin
vào sức mạnh và trí tuệ sáng tạo của nhân dân Hồ Chí Minh xác định trách
nhiệm của Đảng, Nhà nước là phụng sự nhân dân. Cán bộ Đảng viên vừa là
người lãnh đạo vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Ba là, lòng khoan dung và độ lượng.
Hồ Chí Minh là người có lòng khoan dung cao cả và độ lượng vĩ đại.
Cho nên, Người có thể tập hợp, đoàn kết được cả dân tộc, tranh thủ được sự
đồng tình ủng hộ của giai cấp vô sản và nhân dân tiến bộ trên thế giới đối với
cách mạng Việt Nam.
Lòng khoan dung độ lượng của Hồ Chí Minh được xây dựng trên một
nền tảng triết học vững chắc. Đó là quan niệm coi cả thế giới là một chỉnh thể
thống nhất trong đa dạng. Trong đó, Việt Nam là một bộ phận không thể tách
rời của thế giới. Mỗi người là một bộ phận không thể tách rời của dân tộc và
nhân loại cho nên mỗi người biết mình, biết người thì đối với người phải
khoan thứ. Nhất là người cán bộ Đảng viên cần phải có lòng khoan dung độ
lượng thì mới có thể đối với người, với việc một cách chí công vô tư, không
có thành kiến, mới có thể thật sự tôn trọng thương yêu con người thương yêu
nhân dân.
Tư tưởng nhân ái bao dung của Hồ Chí Minh là sự kết hợp và phát
triển tư tưởng dân chủ, tự do, bình đẳng, bác ái của Phương Tây với triết lý
nhân sinh của phương Đông và của dân tộc ta. Đó là: cái gì mình không
muốn thì không đối xử với người khác không bài xích cái khác lạ, khác mình
mà tìm cái chung để hòa đồng cùng phát triển.
Với tấm lòng bao dung, Hồ Chí Minh còn có chính sách khoan hồng đối
với kẻ thù khi chúng đã bị đánh bại và với kè lầm dường lạc lối: Người chủ
trương giáo dục cải tạo những nạn nhân của chế độ cũ, những người vi phạm
chuẩn mực xã hội, giúp họ trở nên những người lương thiện có ích cho xã
hội.
Câu 35. Những cơ sở hình thành tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh được hình thành trên
những cơ sở chủ yếu sau:
a. Cơ sở lý luận
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh được xây dựng trên cơ
sở kế thừa, phát triển những giá trị nhân bản quan trọng của truyền thống văn
hóa, dân tộc và nhân loại đặc biệt là những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là sự kế thừa và phát
triển ở một trình độ mới của chủ nghĩa yêu nước và truyền thống nhân nghĩa
của dân tộc Việt Nam. Tinh thần yêu nước gắn liễn với ý thức cộng đồng, ý
thức cố kết dân tộc đã được hình thành và củng cố trong mấy nghìn năm lịch
sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc. Tinh thần ấy đã tạo nên
sức mạnh của cả dân tộc để chiến thắng mọi thiên tai địch họa làm cho đất
nước được trường tồn, bản sắc dân tộc được giữ vững. Đối với mỗi người
Việt Nam, yêu nước - nhân nghĩa - đoàn kết đã trở thành một tình cảm tự
nhiên, lẽ sống, và tư duy chính trị. Truyền thống trên được Hồ Chí Minh tiếp
thu và phát huy trong giai đoạn cách mạng mới của dân tộc, giai đoạn đấu
tranh giành độc lập dân tộc và từng bước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh đã tiếp thu và chuyển
hóa những mặt tích cực, những giá trị nhân bản của văn hóa phương Đông,
tiêu biểu là:
+ Tư tưởng đại đồng của Nho giáo.
+ Tư tưởng tích cực của Phật giáo.
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh được xây dựng trên
cơ sở tiếp thu có chọn lọc những tư tưởng "tự do - bình đẳng - bác ái" của
các trào lưu dân chủ phương Tây.
Cơ sở lý luận đặc biệt quan trọng hình thành nên tư tưởng đại đoàn
kết dân tộc của Hồ Chí Minh chính là những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin trong đó có những quan điểm cốt lõi: cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng; nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử và những khẩu hiệu chiến
lược: "Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại", "Vô sản tất cả các nước và các dân
tộc bị áp bức, đoàn kết lại"… Động lực thúc đẩy Hồ Chí Minh tin theo Lênin,
đến với chủ nghĩa Mác - Lênin chính là chủ nghĩa Mác - Lênin đã giúp Người
nhận được sự cần thiết phải tập hợp, đoàn kết lực lượng dân tộc đoàn kết
quốc tế để đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc.
b. Cơ sở thực tiễn
Tư tưởng đại đòan kết dân tộc của Hồ Chí Minh được hình thành trên
sự tổng kết những kinh nghiệm của phong trào cách mạng Việt Nam và
phong trào cách mạng ở nhiều nước trên thế giới, nhất là phong trào giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam: Những năm cuối thể kỷ XIX đầu thế
kỷ XX ở nước ta có biết bao phong trào đấu tranh của nhân dân ta đứng lên
chống Pháp với các khuynh hướng khác nhau như phong trào Cần vương,
phong trào Đông du, Đông kinh nghĩa thục, Duy tân… Nhưng tất cả các
phong trào đó đều bị thất bại. Thực trạng bế tắc khủng hoảng của phong trào
yêu nước chống Pháp, đối với Hồ Chí Minh, mặc dù chưa có đủ khả năng để
lý giải thấu đáo nguyên nhân thất bại của phong trào yêu nước cuối thế kỷ
XIX đầu thể kỷ XX. Song bằng cả tấm lòng yêu nước thương dân sâu sắc và
sự nhạy cảm đặc biệt về chính trị. Người đã nhận thấy những nhà cách mạng
tiền bối còn có lầm lẫn, mơ hồ trong việc phân biệt bạn thù, trong việc tập hợp
lực lượng… Vì vậy, đây chính là điểm xuất phát để Hồ Chí Minh xác định: Tôi
muốn đi ra ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem họ làm
như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta.
Thực tiễn phong trào cách mạng thế giới:
Từ năm 1911 đến năm 1941 Hồ Chí Minh đã đi hầu hết khắp các châu
lục. Cuộc khảo nghiệm thực tiễn rộng lớn và công phu đó đã giúp Người nhận
thức một sự thật:
Các dân tộc thuộc địa tiềm ẩn một sức mạnh vĩ đại, song cuộc đấu
tranh của họ chưa đi đến thắng lợi bởi vì các dân tộc bị áp bức chưa biết tập
họp lại, chưa có sự liên kết chặt chẽ với giai cấp công nhân ở các nước tư
bản đế quốc, chưa có tổ chức và chưa biết tổ chức…
Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 cùng với Lênin, người lãnh đạo
thắng lợi cách mạng đó, đã đưa Hồ Chí Minh đến bước ngoặt quyết định
trong việc lên đường cứu nước. Có cảm tình với Cam mạng tháng Mười, tin
theo Lênin. Hồ Chí Minh đã nghiên cứu tìm hiểu một cách thấu đáo con
đường của Cách mạng tháng Mười và những bãi học kinh nghiệm quí báu mà
cuộc cách mạng này đã đem lại cho phong trào cách mạng thế giới, đặc biệt
là bài học về huy động, tập hợp, đoàn kết lực lượng quần chúng, công nông
đông đảo đề giành và giữ chính quyền cách mạng. Từ đó, Hồ Chí Minh đã
làm tất cả từ tuyên truyền đến vận động, tổ chức nhằm xây dựng một chiến
lược đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế để chống chủ nghĩa đế quốc, chủ
nghĩa thực dân.
Câu 36. Trình bày quá trình hình thành, phát triển của tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc được hình thành phát
triển trong một quá trình lịch sử lâu dài có thể đưa ra các giai đoạn sau:
a. Giai đoạn 1: trước khi Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước
(1911). Đây chính là giai đoạn Hồ Chí Minh học tập, tìm tòi tích lũy những tri
thức ban đâu chuẩn bị hành trang cho lộ trình cách mạng lâu dài về sau. Giai
đoạn này Hồ Chỉ Minh tiếp thu một cách trực tiếp những giá trị truyền thống
dân tộc và tiếp thu một cách gián tiếp những giá trị nhân bản của văn hóa
nhân loại.
b. Giai đoạn 2: Từ năm 1911 dấn năm 1930. Đây là giai đoạn từng
bước hình thành những luận điểm đại đoàn kết tiến tới hình thành một cách
hoàn chỉnh về xây dựng, tập hợp lực lượng cách mạng. Giai đoạn này có thể
chia làm hai giai đoạn nhỏ:
Từ năm 1911 đến năm 1924: đây là giai đoạn Hồ Chí Minh tiếp tục
quá trình tích lũy, tìm tòi, kiểm nghiệm những cơ sở lý luận và thực tiễn trên
phạm vi rộng lớn để dân dần xây dựng những luận điểm đầu tiên về đại đoàn
kết. Đó là những luận điểm về sự cần thiết phải kết hợp cách mạng thuộc địa
với cách mạng chính quốc, về sự cần thiết phải có một chính đảng của giai
cấp công nhân để đoàn kết các lực lượng yêu nước, cách mạng ở thuộc địa
vào cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân; về vai trò của liên minh công
nông do giai cấp công nhân lãnh đạo… Những luận điểm này được phản ảnh
trong các bài viết của Người in trên các báo: Người cùng khổ, Nhân đạo, Đời
sống công nhân, trong các bài tham luận của Người tại Đại hội Quốc tế nông
dân (1923), Đại hội Quốc tế cộng sản lần V (1924).
Từ năm 1925 đến 1930: đây là giai đoạn Hồ Chí Minh đã hệ thống
hóa những luận điểm về đại đoàn kết, đưa tư tưởng đại đoàn kết vào đường
lối cứu nước, vào chương trình đào tạo bồi dưỡng một đội ngũ cán bộ cách
mạng mới, chuẩn bi thiết thực cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hệ thống các luận điểm về đại đoàn kết của Hồ Chí Minh được thể hiện tập
trung trong tác phẩm "Đường Cách mạng". Tác phẩm này đã nêu bật được
mục đích, nội dung, phương pháp đại đoàn kết.
c. Giai đoạn 3: Từ năm 1930 đến năm 1969. Đây là giai đoạn đưa tư
tưởng đại đoàn kết vào chiến lược cách mạng và kiểm nghiệm, không ngừng
hoàn thiện tư tưởng đại đoàn kết phù hợp với sự vận động của thực tiễn cách
mạng. Giai đoạn này có thể chia làm ba giai đoạn nhỏ:
Từ năm 1930 đến năm 1940: Hồ Chí Minh hoạt động ở nước ngoài.
Người gián tiếp chỉ đạo quá trình xây dựng lực lượng và đấu tranh cách mạng
của Đảng và nhân dân ta.
Từ năm 1941 đến năm 1954: là thời đoạn Hồ Chí Minh về nước trực
tiếp cùng Ban Chấp hành Trung ương Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh giành và
bảo vệ chính quyền, xây dựng chế độ mới. Thời đoạn này tư tưởng đại đoàn
kết dân tộc của Hồ Chí Minh được đưa thẳng vào cuộc sống và được thực
hiện hết sức hiệu quả dẫn đến thắng lợi của Cách mạng tháng Tám - 1945 và
thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân pháp xâm lược (1946-1954).
Từ năm 1954 đến năm 1969. Đây là thời đoạn tư tưởng đại đoàn kết
Hồ Chí Minh được bổ sung những nội dung mới. Trong một hoàn cánh hết
sức đặc biệt tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh đã được phát triển lên một
tầm cao mới, góp phần tạo ra sức mạnh tổng hợp giúp Đảng ta, dân tộc ta
từng bước đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược tàn bạo của đế quốc Mỹ và
tay sai, bảo vệ vững chắc miễn Bắc xã hội chủ nghĩa.
Câu 37. Trình bày những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
Tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh thể hiện tập trung
trên những quan điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, đại đoàn kết dân tộc là động lực chủ yếu, là sức mạnh vĩ đại
quyết định sự thành công của cách mạng.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng Hồ Chí Minh luôn quan tâm
đặc biệt đến đại đoàn kết dân tộc. Trong các bài viết, bài nói Người đã sử
dụng khoảng 2.000 lần cụm từ “đoàn kết", "đại đoàn kết". Người luôn luôn
nhận thức đại đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề sống còn, quyết định thành
công của cách mạng. Người thường khắng định "Đoàn kết là sức mạnh, đoàn
kết là thắng lợi", "Đoàn kết là điểm mẹ. Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra
con cháu đều tốt".
Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công!"
Thứ hai, đại đoàn kết dân tộc là một mục tiêu, một nhiệm vụ hàng đầu
của cách mạng.
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc phải được quán triệt trong mọi đường
lối, chủ trương chính sách của Đảng. Năm 1951 Hồ Chí Minh thay mặt Đảng
tuyên bố trước toàn thể dân tộc nhân buổi ra mắt Đảng Lao động Việt Nam:.
"Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm 8 chữ là "Đoàn kết toàn
dân, phụng sự Tổ quốc".
Đại đoàn kết dân tộc không phải chỉ là mục đích, nhiệm vụ hàng đầu
của Đảng mà còn là mục đích nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc. Đại đoàn
kết dân tộc chính là đòi hỏi khách quan của bản thân quần chúng nhân dân
trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh tập hợp,
hướng dẫn, chuyển những đòi hỏi khách quan, tự phát của quần chúng thành
sức mạnh vô địch trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng con
người.
Thứ ba, đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân.
Dân tộc Việt Nam được hiểu là tất cả mọi người dân Việt Nam đang
sinh sống và làm ăn ở cả trong và ngoài nước, không phân biệt dân tộc tôn
giáo, già trẻ, giàu nghèo… Đại đoàn kết dân tộc có nghĩa là phải tập hợp
được mọi người dân vào một mục tiêu chung.
Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân rộng rãi nhưng phải trên nền tảng
liên minh công nông trí thức.
Thứ tư, đại đoàn kết dân tộc, phảii biến thành sức mạnh vật chất có tổ
chức là Mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Tổ chức thể hiện khối đoàn kết dân tộc chính là Mặt trận dân tộc chính
là Mặt trận dân tộc thống nhất. Mặt trận là nơi qui tụ mọi tổ chức và cá nhân
yêu nước, tập hợp mọi người dân nước Việt phấn đấu vì mục tiêu chung là
độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc và tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Tùy theo từng giai đoạn cách mạng. Đảng chủ trương thành lập Mặt
trận dân tộc thống nhất có tên gọi khác nhau.Đảng lãnh đạo Mặt trận trước
hết bằng việc xác định chính sách Mặt trận đúng đắn cho nên đã phát huy
được truyền thống đoàn kết và yêu nước của dân tộc ta. Muốn lãnh đạo Mặt
trận, lãnh đạo xây dựng khối đọàn kết dân tộc, mong Đảng phải thực sự đoàn
kết nhất trí. Sự đoàn kết của Đảng là cơ sở vững chắc để xây dựng sự đoàn
kết của toàn dân.
Thứ năm, đại đoàn kết dân tộc phái gắn liền với đoàn kết quốc tế.
Hồ Chí Minh khẳng định yêu nước chân chính phải gắn liền với chủ
nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân. Người luôn luôn không
định: cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, cách
mạng Việt Nam chỉ giành được thắng lợi khi đoàn kết chặt chẽ với phong trào
cách mạng thế giới.
Câu 38. Trình bày những nội dung cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại
Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là một nhân tố có ý
nghĩa quyết định đối với thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí
Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại bao gồm những nội
dung cơ bản sau:
Một là, đặt cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam trong sự gắn bó với
cách mạng vô sản trên thế giới:
Nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin, tin theo quốc tế III, Hồ Chí Mình đã
chỉ ra rằng công cuộc giải phóng của các dân tộc bị áp bức là một bộ phận
khăng khít của cách mạng vô sản, cho nên phải có sự liên minh chiến đấu
chặt chẽ giữa các dân tộc thuộc địa với giai cấp vô sản của các nước đế quốc
để thắng kẻ thù chung. Từ nhận thức trên, khi nói về cách mạng Việt Nam.
Người đã khẳng định: cách mạng Việt Nam là một bộ phận trong cách mạng
thế giới, ai làm cách mạng trong thế giới đều là đồng chí của nhân dân Việt
Nam. Vì thế Hồ Chí Minh đã kiến nghị với ban phương Đông Quốc tế Cộng
sản là làm tho các dân tộc thuộc địa hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt
cơ sở cho một liên minh phương Đông tương lai. Khối liên minh này sẽ là một
trong những cái cánh của cách mạng vô sản.
Hai là, kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Trong sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, Hồ Chí Minh cho rằng
chủ nghĩa yêu nước triệt để không thể nào tách rời với chủ nghĩa quốc tế vô
sản. Người luôn khẳng định tinh thần yêu nước chân chính khác hẳn với tinh
thần "vị quốc" của bọn đế quốc phản động, chủ nghĩa yêu nước là một bộ
phận của chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Hồ
Chí Minh luôn giáo dục nhân dân ta phân biệt rõ sự khác nhau giữa bọn thực
dân, để quốc với nhân dân lao động, yêu công lý và hòa bình ở các nước đế
quốc.
Hồ Chí Minh đánh giá cao vai trò đoàn kết quốc tế, đoàn kết giữa các
nước xã hội chủ nghĩa. Người luôn chăm lo bảo vệ sự đoàn kết thống nhất
giữa các nước xã hội chủ nghĩa, giữa các Đảng Cộng sản anh em.
Ba là, dựa vào sức mạnh là chính, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước
xã hội chủ nghĩa và nhân loại tiến bộ đồng thời không quên nghĩa vụ quốc tế
cao cả của mình.
Trong mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại Hồ
Chí Minh coi nguồn lực bên trong giữ vai trò quyết định, nguồn lực bên ngoài
là quan trọng, nó chỉ phát huy sức mạnh thông qua nguồn lực bên trong.
Người nêu cao khẩu hiệu "tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính, muốn
người ta giúp cho thì trước hết mình phải tự giúp lấy mình đã".
Muốn tranh thủ sức mạnh của thời đại phải có đường lối đúng đắn, kết
hợp chặt chẽ mục tiêu đấu tranh cho độc lập thống nhất của dân tộc mình với
mục tiêu của thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã
hội.
Kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế trong Tư tưởng Hồ
Chí Minh còn là tích cực thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình "giúp
bạn là tự giúp mình".
Bốn là, mở rộng tối đa quan hệ hữu nghị hợp tác, sẵn sàng làm bạn với
tất cả các nước dân chủ.
Trên con đường đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã đặt nền móng
cho tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân và cách mạng Việt Nam với nhân
dân và cách mạng thế giới.
Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, nước nhà giành được độc
lập, Người đã nhiều lần khẳng định: chính sách ngoại giao của Việt Nam thì
chỉ có một điều là thân thiện với tất cả các nước dân chủ trên thế giới để giữ
gìn hòa bình.
Hồ Chí Minh coi trọng thiết lập mối quan hệ với các nước láng giềng
như Lào, Campuchia, Trung Quốc và quan tâm xây dựng mối quan hệ hữu
nghị với các nước trên thế giới có chế độ chính trị khác nhau trên cơ sở tôn
trọng độc lập chủ quyền giúp đỡ nhau cùng phát triển.
Câu 39. Vì sao Hồ Chí Minh khẳng định Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định hàng đầu để đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi.
Đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh không chỉ nhận thức sáng
rõ thêm về vai trò, sức mạnh của quần chúng nhân dân là người sáng tạo nên
lịch sử, động lực của các cuộc cách mạng mà còn phát hiện rằng sức mạnh
của quần chúng chỉ có thể phát huy đầy đủ đúng đắn khi có sự lãnh đạo của
một đảng cách mạng chân chính. Từ đó Người khẳng định muốn làm cách
mạng thì trước hết phải “có đảng cách mạng để trong thì vận động và tổ chức
dân chúng, ngoài thi liên lạc với dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản mọi nơi.
Đảng có vững cách mạng mới thành công cũng như người cầm lái có vững
thuyền mới chạy". Luận điểm nêu trên của Hồ Chí Minh chỉ ra rằng:
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhưng nó không phải là tổng
số quần chúng gộp lại một cách cơ học mà là khối đại đoàn kết toàn dân
được giáo dục, được giác ngộ, có tổ chức, được dẫn dắt bởi đường lối đúng
đắn của một chính đảng vô sản.
Đảng Cộng sản có trách nhiệm vận động và tổ chức dân chúng, đồng
thời liên hệ với phong trào cách mạng các nước. Vai trò, sứ mệnh của Đảng
được xem như "người cầm lái", người dẫn đường. Đảng có trách nhiệm
hoạch định đường lối đúng đắn và đưa đường lối đó vào quần chúng để giác
ngộ, tập hợp, tổ chức nhân dân đấu tranh thực hiện giải phóng dân tộc và xây
dựng xã hội mới. Với ý nghĩa đó sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố
quyết định nhất bảo đảm mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Đây là nhận thức hoàn toàn mới, vào đầu thế kỷ XX ở nước ta, chưa có
nhà hoạt động cách mạng nào trước Hồ Chí Minh đạt được. Những tổ chức
cách mạng ra đời trước Đảng Cộng sản Việt Nam, từ Việt Nam Quang phục
hội đến Việt Nam Quốc dân đảng. Không nhũng hạn chế về hệ tư tưởng (tiểu
tư sản và tư sản) mà cách thức tổ chức cũng chưa đủ tầm vóc của một đảng
chính trị đích thực. Do đó các tổ chức này thiếu kỷ luật chặt chẽ không đủ sức
hoạch định được đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn để lãnh
đạo quần chúng tiến hành cách mạng. Những thiếu sót ấy chỉ được khắc
phục khi Hồ Chí Minh thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam trên 73 năm qua đã chứng minh hùng
hồn rằng Đảng Cộng sản là nhân tố hàng đầu để đưa cách mạng Việt Nam đi
từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Luận điềm nêu trên của Hồ Chí Minh đến
nay vẫn còn nguyên giá trị. Nếu không có sự lãnh đạo của Đảng thì không thể
thực hiện được mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Nếu
mơ hồ, nhận thức lệch lạc về vai trò lãnh đạo của Đảng sẽ dễ rơi vào âm
mưu của các thế lực cơ hội, thù địch hòng xuyên tạc, kích động, lợi dụng làm
hạn chế, suy yếu sức mạnh của Đảng, của cách mạng. Mặt khác, cần thấy rõ
lãnh đạo là chức năng gốc của Đảng, nếu buông lỏng sự lãnh đạo sẽ đánh
mất niềm tin của quần chúng, cách mạng sẽ đi chệch hướng, gặp khó khăn,
thậm chí thất bại. Vì thế, đổi mới, chỉnh đốn Đảng không phải là từ bỏ vai trò
lãnh đạo của Đảng mà là tìm ra các hình thức, phương pháp lãnh đạo đạt
hiệu quả cao hơn trong tình hình mới.
Câu 40. Vì sao Hồ Chí Minh cho rằng Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước
Khi nghiên cứu tình hình ở các nước tư bản, V.I.Lênin đã nêu ra luận
điểm: Đảng Cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác với phong
trào công nhân. Hiểu rõ đặc điểm tình hình Việt Nam là một nước thuộc địa
nửa phong kiến, kinh tế nông nghiệp lạc hậu, Hồ Chí Minh cho rằng nếu kết
hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân thì chưa đủ, vì giai cấp
công nhân còn nhỏ bé, phong trào công nhân còn non yếu. Trong khi đó
phong trào yêu nước rất manh liệt của nhân dân được hình thành qua mấy
nghìn năm dựng nước và giữ nước, vì vậy phải kết hợp với phong trào yêu
nước của đông đảo quần chúng. Mặt khác bản thân phong trào công nhân
cũng không thể phát triển, không thể xứng đáng với vai trò lãnh đạo nếu
không "tự mình trở thành dân tộc". Sau này, tổng kết lịch sử Đảng. Người đã
khái quát: chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong
trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu
năm 1930. Thực tiễn phong trào cách mạng Việt Nam cũng như phong trào
cách mạng thế giới đã kiểm nghiệm và chứng minh luận điểm trên của Hồ Chí
Minh là hoàn toàn đúng đắn.
Câu 41. Phân tích luận điểm: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân đồng thời là Đảng của dân tộc Việt Nam
Vận dụng những quan điểm của chủ nghĩa Mác -Lênin về công tác xây
dựng Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, Hồ Chí Minh đã tích cực chuẩn
bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo
Đảng Hồ Chí Minh đã bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác -Lênin và công tác
xây dựng Đảng. Người nêu ra luận điểm quan trọng là Đảng Cộng sản Việt
Nam là Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là Đảng của dân tộc Việt
Nam. Tại Đại hội của Đảng, Hồ Chí Minh khẳng định. Trong giai đoạn này
quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của cả dân tộc là
một. Chính vì Đảng lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam.
Luận điểm nêu trên đã chỉ đạo cách thức tổ chức và hoạt động của
Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ thể hiện bản chất giai cấp công nhân, mà
còn gắn bó máu thịt với dân tộc. Mọi hoạt động của Đảng không có lợi ích
nào khác ngoài phụng sự giai cấp, phụng sự nhân dân. Chính vì vậy Đảng
Cộng sản Việt Nam được nhân dân thừa nhận và gọi một cách trìu mến, gần
gũi là "Đảng ta". Đó là một cội nguồn sức mạnh của Đảng.
Nói Đảng của giai cấp, đồng thời là của dân tộc song không có nghĩa là
"Đảng toàn dân" không mang bản chất giai cấp mà đó là Đảng mang bản chất
giai cấp công nhân. Sở dĩ có đặc trưng đó là vì khác hẳn các chính đảng của
giai cấp bóc lột giai cấp công nhân có lợi ích thống nhất với lợi ích của các
tầng lớp cần lao và lợi ích của toàn dân tộc Theo Hồ Chí Minh, bản chất giai
cấp công nhân không chỉ ở số lượng đảng viên xuất thân từ công nhân, mà
cơ bản là nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác-Lênin. Mục tiêu,
đường lối của Đảng thực sự vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã
hội, giải phóng con người. Đảng không chỉ kết nạp cả những người ưu tú
trong giai cấp công nhân, mà còn kết nạp cả những người ưu tú trong giai cấp
nông dân, trong đội ngũ trí thức và các thành phần khắc đã được giác ngộ, tự
giác đứng trên lập trường của giai cấp công nhân.
Câu 42. Vì sao Đảng Cộng sản Việt Nam phải lấy chủ nghĩa Mác – Lênin “làm cốt”?
Trong tác phẩm Đường Kách mệnh (1927) Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Đảng
muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm nóng cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu,
ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa như người
không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ
nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chấn nhất, cách mạng
nhất là chủ nghĩa Lê nin.
Theo Hồ Chí Minh, nếu không có lý luận dẫn đường, Đảng chỉ là một
tập hợp ngẫu nhiên, rời rạc, thiếu thống nhất và không có sức mạnh. Chủ
nghĩa Mác - Lênin chính là học thuyết khoa học "chân chính nhất, cách mạng
nhất" vì nó chỉ ra cho Đảng mục tiêu. Con đường thực hiện sứ mệnh giải
phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và giải phóng dân tộc, xóa bỏ
áp bức bất công, xây dựng một chế độ xã hội mới tốt đẹp.
Lấy chủ nghĩa Mác - Lênin "lấm cốt" theo Hồ Chí Minh không có nghĩa
là giáo điều, máy móc theo từng câu, từng chữ mà chính là nắm vững tinh
thần của chủ nghĩa Mác - Lênin, nắm vững lập trường, quan điểm và phương
pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồng thời phải biết thâu thái những tinh hoa
của văn hóa dân tộc và nhân loại, tham khảo kinh nghiệm của các đảng anh
em, vận dụng sáng tạo và điều kiện cụ thể của Việt Nam để hoạch định
đường lối đúng đắn đưa cách mạng đi tới thắng lợi.
Câu 43. Phân tích luận điểm: Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân
Bất kỳ đảng phái nào muốn thực hiện được ý đồ chính trị của mình thì
cũng đều phải huy động, tập hợp nhân dân. Nhưng sự khác nhau căn bản
giữa phương pháp của Đảng Cộng sản so với các Đảng tư sản là việc tập
hợp quần chúng nhân dân nhằm thực hiện những công việc vì chính bản thân
quần chúng. Đảng Cộng sản không có mục đích tự thân mà Đảng ra đời
nhằm phục vụ nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, sự lãnh đạo là nhằm "lấy tài dân,
sức dân để làm những công việc có lợi cho dân", chứ không phải vì lợi ích
của người lãnh đạo. Mục tiêu lãnh đạo của Đảng chính là vì độc lập và tự do
của dân tộc hạnh phúc và dân chủ của nhân dân. Với ý nghĩa đó, sự lãnh đạo
của Đảng đồng nghĩa là "đầy tớ" của nhân dân. Khi trở thành Đảng cầm
quyền thì Đảng càng phải ý thức đầy đủ sâu sắc chức trách xã hội của mình.
Nếu không thật sự là đầy tớ của nhân dân, thiếu gắn bó mật thiết với nhân
dân, Đảng sẽ rơi vào trạng thái quan liêu do đó sẽ mất đi sức sống vốn có
của nó. Dựa vào dân, gắn bó mật thiết với nhân dân là điêu kiện tồn tại và
phát triển của Đảng. Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên phải thường
xuyên đi vào đời sống quần chúng nhân dân, tổng kết, đúc kết ý kiến của
quần chúng biến thành chủ trương của người lãnh đạo để quay trở lại chỉ đạo
quần chúng. Người cũng lưu ý: người lãnh đạo phải biết tôn trọng và lắng
nghe ý kiến của nhân dân, nhưng tuyệt đối không theo đuổi quần chúng.
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, do có dường đối đúng đắn và
có sự gắn bó máu thịt với nhân dân. Đảng đã được nhân dân thừa nhận là
Đảng duy nhất có vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam và trong suốt tiến
trình đi lên của cách mạng Việt Nam Đảng ta hoan toàn xứng đáng với sự tin
cậy ấy.
Hiện nay, đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, luận điểm Đảng vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ
thật trung thành của nhân dân, của Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị.
Câu 44. Thế nào là một Nhà nước của dân, do dân, vì dân?Sau Cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nước cách mạng ra đời,
Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì
dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ
Trung ương do dân cử ra… Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi
dân". Đó là điểm khác nhau và bản chất giữa Nhà nước dân chủ nhân dân với
các nhà nước của giai cấp bóc lột trong lịch sử.
a. Thế nào là Nhà nước của dân?
Hồ Chí Minh khắng định rõ ràng và ngay từ đầu là:
“Tất cả quyến bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam,
không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp tôn giáo.”
Hiến pháp năm 1946 qui định: những việc quan hệ đến vận mệnh quốc
gia sẽ đưa ra nhân phán quyết. Sau khi giành được chính quyền, nhân dân ủy
quyền cho các đại diện do mình bầu ra. Đồng thời nhân dân có quyền bãi
miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy
tỏ ra không xứng đáng với tín nhiệm của nhân dân.
Trong Nhà nước của dân thì dân là chủ, người dân được hưởng mọi
quyền dân chủ, nghĩa là có quyền làm bất cứ việc gì mà pháp luật không cấm
và có nghĩa vụ tuân theo pháp luật. Nhà nước của dân phải bằng mọi nỗ lực,
hình thành được các thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ của người
dân. Cũng với ý nghĩa đó, các vị đại diện của dân, do dân cử ra, chỉ là thừa
ủy quyền của dân, chỉ là "công bộc" của dân.
b. Thế nào là Nhà nước do dân?
Đó là Nhà nước do dân lựa chọn, bầu ra những đại biểu của mình. Nhà
nước đó do dân ủng hộ, giúp đỡ đóng thuế để Nhà nước chi tiêu, hoạt động;
Nhà nước đó lại do dân phê bình, xây dựng, giúp đỡ. Do đó, Người yêu cầu
tất cả các cơ quan Nhà nước phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với
nhân dân lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân.
c. Thế nào là Nhà nước vì dân?
Theo Tư tưởng Hồ Chí Minh, chỉ có một Nhà nước thực sự của dân, do
dân tổ chức, xây dựng và kiểm soát trên thực tế mới có thể là Nhà nước vì
dân được. Đó là Nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân,
không có đặc quyền đặc lợi, thực sự trong sạch, cần kiệm liêm chính.
Người yêu cầu:
"Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm.
Việc gì hại cho dân, ta phải hết sức tránh"
Cán bộ Nhà nước phải là đầy tớ của nhân dân, đồng thời là người lãnh
đạo hướng dẫn nhân dân. Đầy tớ thì phải trung thành, tận tụy, lo trước thiên
hạ, vui sau thiên hạ. Người lãnh đạo phải trí tuệ hơn người, minh mẫn, sáng
suốt, nhìn xa trông rộng, gần gũi nhân dân, trọng dụng hiền tài. Như vậy, để
làm người thay mặt dân phải gồm đủ cả đức và tài, phải vừa hiền lại vừa
minh.
Câu 45. Phân tích sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc của Nhà nước trong Tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự thống nhất giữa dân tộc và giai cấp, chủ
nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Sự thống nhất đó cũng được thể hiện rõ trong Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà
nước trên các vấn đề sau:
Một là, Nhà nước là thành tố cơ bản nhất của hệ thống chính trị luôn
mang bản chất giai cấp.
Bản chất giai cấp của Nhà nước ta là bản chất giai cấp công nhân và
được biểu hiện ở những nội dung:
Do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.
Định hướng đưa đất nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội "bằng cách
phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội, biến nền kinh
tế lạc hậu thành nên kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp
hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến.”
Nguyên tắc tổ chức cơ bản của Nhà nước là nguyên tắc tập trung dân
chủ.
Hai là, sự thống nhất hài hòa giữa bản chất giai cấp công nhân với tính
nhân dân, tính dân tộc trong Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước.
Hồ Chí Minh khẳng định: giai cấp công nhân không có lợi ích nào
khác ngoài lợi ích của dân tộc và chỉ có giải phóng dân tộc mới giải phóng
được giai cấp công nhân một cách triệt để.
Sự thống nhất này được thể hiện ở chỗ:
Nhà nước dân chủ mới của ta ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu
dài, gian khổ với sự hy sinh xương máu của bao thế hệ cách mạng.
Nhà nước ta vừa mang bản chất giai cấp công nhân, vừa có tính nhân
dân và tính dân tộc vì nó bảo vệ lợi ích của nhân dân, lấy lợi ích dân tộc làm
nền tảng. Chính phủ do Hồ Chí Minh đứng đầu luôn là chính phủ đại đoàn kết
dân tộc.
Nhà nước mới của ta vừa ra đời đã phải đảm nhận nhiệm vụ lịch sử là
tổ chức kháng chiến toàn dân, toàn diện của dân tộc để bảo vệ thành quả
cách mạng.
Câu 46. Trình bày Tư tưởng Hồ Chí Minh về một Nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ
a. Một Nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ, trước hết phải là một Nhà nước hợp hiến
Tuyên ngôn độc lập do Hồ Chí Minh viết và tuyên đọc tại vườn hoa Ba
Đình Hà Nội ngày 2/9/1945 đã khai sinh ra nước Việt Nam mới, đồng thời
đảm bảo địa vị hợp pháp của chính Phủ lâm thời.
Ngày 3/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra với Chính Phủ một trong
sáu nhiệm vụ cấp bách là “Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ. Tôi đề
nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ
phổ thông đầu phiếu" để sớm có một nhà nước hợp hiến do nhân dân bầu ra.
Cuộc Tổng tuyển cử trong cả nước đã được thực hiện 4 tháng sau
ngày độc lập ngày 2/3/1946 Quốc hội họp phiên đầu tiên và bầu Hố Chí Minh
làm Chủ tịch Chính phủ liên hiệp kháng chiến. Đây là Chính phủ hợp hiến đầu
tiên do đại biểu của nhân dân bầu ra, có đầy đủ tư cách và hiệu lực trong việc
giải quyết mọi vấn đề của Nhà nước Việt Nam mới.
b. Một Nhà nước pháp quyền có hiệu lực mạnh là Nhà nước quản lý đất nước bằng pháp luật và phải làm cho pháp luật có hiệu lực trong thực tế
Nhà nước dân chủ thì dân chủ và pháp luật phải luôn đi đôi với nhau,
nương tựa vào nhau mới bảo đảm cho chính quyền trở nên mạnh mẽ. Không
có dân chủ ngoài pháp luật. Mọi quyền dân chủ của người dân phải được thể
chế hóa bằng pháp luật. Xây dựng nột nền pháp chế xã hội chủ nghĩa đảm
bảo được việc thực hiện quyền lực của nhân dân là mối quan tâm suốt đời
của Hồ Chí Minh. Thể hiện:
Trong bản Yêu sách 8 điểm, Nguyễn Ái Quốc đòi thực dân pháp phải
cải cách nền pháp lý ở Đông dương, phải bãi bỏ chế độ cai trị bằng các sắc
lệnh và thay thế bằng các đạo luật.
Ở cương vị chủ tịch, Hồ Chí Minh đã hai lần đứng đầu ủy ban soạn
thảo Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959 và đã ký nhiều văn bản pháp luật
khác.
Hồ Chí Minh hết sức chăm lo đưa pháp luật vào đời sống, tạo ra cơ
chế bảo đảm cho pháp luật được thi hành, cơ chế kiểm tra, giám sát việc thi
hành đó trong các cơ quan Nhà nước và trong nhân dân, trong đó, Hồ Chí
Minh rất coi trọng việc nâng cao dân trí bồi dưỡng ý thức làm chủ, khuyến
khích nhân dân tham gia vào các công việc của Nhà nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn nêu gương trong việc khuyến khích
nhân dân phê bình, giám sát công việc của Chính phủ đồng thời thường
xuyên nhắc nhở cán bộ các cấp, các ngành phải gương mẫu tuân thủ pháp
luật, trước hết là các cán bộ thuộc ngành hành pháp và tư pháp.
c. Phải nhanh chóng đào tạo, bồi dưỡng nhằm hình thành một đội ngũ cán bộ, viên chức có trình độ văn hóa, am hiểu pháp luật, thành thạo nghiệp vụ hành chính và nhất là phải có đạo đức cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư
Hồ Chí Minh luôn đặt yêu cầu cán bộ Nhà nước phải biết quản lý nhà
nước, để có cán bộ thì phải đào tạo. Hồ Chí Minh đã mở Trường huấn luyện
cán bộ Việt nam đã ký sắc lệnh số 197 thành lập khoa Pháp lý học tại Trường
Đại học Việt Nam, mạnh dạn sử dụng quan lại viên chức thành thạo nghiệp
vụ, kĩ thuật trong chế độ cũ, đăng báo "tìm người tài đức" đề phục vụ nước
nhà.
Trong việc dùng cán bộ, Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở phải tẩy sạch
đầu óc bè phái, ban hành quy chế công chức. Các công chức theo chế độ
chức nghiệp, phải qua một kỳ thi tuyển để bổ nhiệm vào các ngạch, bậc hành
chính.
Đối với cán bộ quản lý nhà nước, Hồ Chí Minh luôn đòi hỏi đó phải là
những người có phẩm chất đạo đức và tinh thần phục vụ nhân dân, phục vụ
Tổ quốc. Thiếu điều này thì dù tài đến đâu cũng không sử dụng được.
Câu 47. Trình bày Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả
Trước hết, theo Hồ Chí Minh muốn xây dựng Nhà nước trong sạch,
vững mạnh, hiệu quả, cần tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục
đạo đức.
Nước ta là một nước có nền kinh tế tiểu nông muốn xây dựng Nhà
nước pháp quyền, trước hết phải nhấn mạnh vai trò của pháp luật, khẩn
trương xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật, đẩy mạnh việc tuyên truyền
giáo dục pháp luật trong nhân dân, đồng thời phải đặc biệt coi trọng vấn đề
giáo đục đạo đức. Hai hình thái ý thức xã hội này có thể kết hợp, bổ sung cho
nhau trong thực tế trị nước. Trong suốt 24 năm ở cương vi đứng đầu Nhà
nước, Bác Hồ là một mẫu mực của sự kết hợp đạo đức và pháp luật, Người
luôn luôn chú trọng giáo dục đạo đức nhưng cũng không ngừng nâng cao vai
trò, sức mạnh của pháp luật. Để đưa luật vào cuộc sống, Hồ Chí Minh kêu gọi
nhân dân hãy tham gia giám sát công việc của chính phủ. Đồng thời Người
đòi hỏi "pháp luật của ta phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ
ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì".
Thứ hai, kiên quyết chống ba thứ “giặc nội xâm" là tham ô, lãng phí,
quan liêu.
Theo Hồ Chí Minh, sức mạnh, hiệu quả của Nhà nước là dựa vào tính
nghiêm minh của việc thi hành pháp luật và sự gương mẫu, trong sạch về đạo
đức của người cầm quyền. Người đòi hỏi cán bộ phải thực hành chữ liêm
trước để làm kiểu mẫu cho dân.
Hồ Chí Minh đã sớm chỉ ra ba thứ "giặc nội xâm". Người nói: tham ô,
lãng phí và bệnh quan liêu, dù cố ý hay không cũng là bạn đồng mình của
thực dân phong kiến. Nó phá hoại đạo đức cách mạng của ta là cần kiệm,
liêm chính… Tội lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi việt gian, mật thám.
Theo Hồ Chí Minh, chống tham ô lãng phí, quan liêu cũng cần kíp như
việc đánh giặc trên mặt trận. Người còn chỉ ra nguyên nhân quan trọng của tệ
tham ô, lãng phí là bệnh quan liêu. Bởi vì những người và những cơ quan
lãnh đạo từ cấp trên đến cấp dưới không sát công việc thực tế, không theo
dõi và giáo dục cán bộ, không gần gũi quần chúng. Đối với công việc thì trọng
hình thức mà không xem xét khắp mọi mặt, không vào sâu vấn đề. Chỉ biết
khai hội, viết chỉ thị, xem báo cáo trên giấy chứ không kiểm tra đến nơi, đến
chốn… thành thử có mắt mà không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có
chế độ mà không giữ đúng, có kỷ luật mà không nắm vững… Thế là bệnh
quan liêu đã ấp ủ, dung túng, che chở cho nạn tham ô, lãng phí. Vì vậy, muốn
trừ sạch nạn tham ô, lãng phí thì trước mặt tẩy sạch bệnh quan liêu.
Câu 48. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, để hoàn thành nhiệm vụ lãnh đạo cách mạng đi đến thắng lợi thì Đảng Cộng sản Việt Nam phải có những yếu tố nào?
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội trên phong của giai cấp công nhân Việt
Nam, đại diện cho quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả
dân tộc. Đảng là người tập hợp, dìu dắt, lãnh đạo toàn thể nhân dân Việt Nam
trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng một xã hội mới do nhân
dân lao động làm chủ. Để hoàn thành được sứ mệnh lớn lao ấy. Theo Hồ Chí
Minh Đảng Cộng sản Việt Nam phải bảo đảm mấy yếu tố sau đây:
Một là, phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng và kim chỉ nam cho
hành động.
Ngay từ năm 1927 trong cuốn "Đường Cách mạng” Hồ Chí Minh đã
trích dẫn luận điểm của Lênin: "Không có lý luận cách mạng thì không có
phong trào cách mạng. Chỉ có theo lý luận cách mạng tiền phong"; Đảng cách
mạng mới làm nổi trách nhiệm cách mạng tiên phong". Lý luận cách mạng ở
thế kỷ XX, theo Hồ Chí Minh là học thuyết Mác - Lênin. Người coi chủ nghĩa
Mác - Lênin như "trí khôn" như “bàn chỉ nam" của Đảng Cộng sản Việt Nam
của cách mạng Việt Nam.
Hai là, phải tuân thủ các nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới của
Lênin, vận dụng sáng tạo cho phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam ở từng thời
kỳ.
Trong quá trình xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh
thường đề cập các nguyên tắc sau:
Nguyên tắc tập trung dân chủ.
Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
Nguyên tắc tự phê bình và phê hình.
Nguyên tắc kỷ luật nghiêm minh và tự giác.
Nguyên tắc đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Thực hiện tốt các nguyên tắc trên Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ thực sự
trở thành một Đảng trong sạch, vững mạnh.
Ba là, Đảng phải chú trọng xây dựng đội ngũ đảng viên có đầy đủ phẩm
chất và năng lực cần thiết.
Hồ Chí Minh luôn chú ý đến vấn đề tư cách của đảng viên. Người
thường nhắc nhở đảng viên phải luôn phấn đấu, rèn luyện để trở thành
những người:
Suốt đời phấn đấu hy sinh cho Đảng, cho Tổ quốc.
Đặt quyền lợi của Đảng, của Tổ quốc lên trên hết, trước hết.
Có đời tư trong sáng.
Bốn là, Đảng phải chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ.
Trong Tư tưởng Hồ Chí Minh "cán bộ là gốc của mọi công việc" "công
việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém" cho nên "huấn
luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng". Đảng phải xây dựng được đội ngũ
cán bộ, vừa có đạo đức cách mạng vừa giỏi về chuyên môn nghiệp vụ. Phải
có chính sách đào tạo và sử dụng cán bộ một cách hợp lý.
Năm là, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và dân.
Không có Đảng thì dân không có người lãnh đạo và ngược lại không có
dân, không dược dân tin, dân theo thì Đảng cũng không thể trở thành người
lãnh đạo, không thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Đảng do dân xây
dựng, do dân bảo vệ do vậy Đảng luôn vì dân mà phục vụ. Đảng phải gắn bó
mật thiết với dân, phải luôn lắng nghe ý kiến của dân, học hỏi ở dân, phải vận
động nhân dân tham gia xây dựng Đảng, phải không ngừng nâng cao dân trí,
phải quán triệt tư tưởng "lấy dân làm gốc" cho toàn thể cán bộ, đảng viên.
Đảng phải thực sự xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung
thành của nhân dân.
Câu 49. Vì sao Hồ Chí Minh cho rằng: Đảng phải thường xuyên chăm lo xây dựng, chỉnh đốn Đảng?
Để xứng đáng với một Đảng cách mạng chân chính lãnh đạo sự nghiệp
cách mạng của giai cấp và dân tộc Đảng phải thường xuyên chăm lo xây
dựng, chỉnh đốn làm cho Đảng thật sự vững mạnh trên tất cả các mặt chính
trị, tư tưởng và tổ chức, làm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên không ngừng
nâng cao phẩm chất và năng lực trước những yêu cầu và nhiệm vụ cách
mạng.
Phải thường xuyên chăm lo xây dựng, chỉnh đốn Đảng, bởi vì theo Hồ
Chí Minh, bên cạnh số đông Đảng viên xứng đáng với danh hiệu của mình thì
vẫn có một số thấp kém về tinh thần và đạo đức cách mạng… Họ tự cho mình
có quyền sống xa hoa hưởng lạc. Từ đó mà đi đến tham ô, trụy lạc, thậm chí
sa vào tội lỗi". Người đã nêu lên một luận điểm quan trọng: "Một dân tộc, một
Đảng và mỗi con người ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không
nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu
lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân. Vì vậy phải
chỉnh đốn để tẩy rửa tất cả những lỗi lầm, sai trái ấy.
Đối với toàn Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên đều chịu ảnh hưởng của xã
hội, cả cái tốt và cái xấu, cái hay và cái dở. Chỉ có thể phát huy được cái tốt,
cái hay, lọc bỏ được cái xấu, cái dở bằng việc rèn luyện thường xuyên của
mỗi cán bộ, đảng viên, thường xuyên chú ý đến việc chỉnh đốn Đảng.
Trong điều kiện Đảng trở thành Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh coi việc
xây dựng, chỉnh đốn Đảng là công việc thường xuyên của Đảng. Người ta
thấy rõ hai mặt của quyền lực: một mặt, quyền lực có sức mạnh rất to lớn để
cải tạo cái cũ và xây dựng cái mới trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội nếu biết sử dụng đúng quyền lực, mặt khác, nó cũng có sức phá hoại rất
ghê gớm vì con người nắm quyền lực có thể thoái hóa, biến chất rất nhanh
chóng nếu đi vào con đường tham muốn quyền lực, và khi đã có quyền lực thì
lợi dụng quyền lực, lạm quyền, lộng quyền, đặc quyền, đặc lợi… Vì vậy, trong
điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền, Đảng phải đặc biệt quan tâm đến việc
chỉnh đốn và đổi mới Đảng để hạn chế, ngăn chặn, đẩy lùi và tẩy trừ mọi tệ
nạn do thoái hóa biến chất gây ra. Trước lúc đi xa trong Di chúc Người đã căn
dặn: "Việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng
viên mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đến ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó
cho mình, toàn tâm toàn ý phu tâm toàn ý phục vụ nhân dân".
Trong giai đoạn hiện nay, đất nước ta đang đứng trước thời cơ, vận hội
mới, song cũng đứng trước không ít nguy cơ thách thức. Đòi hỏi vai trò lãnh
đạo của Đảng phải không ngừng được tăng cường. Để bảo đảm sứ mệnh
lãnh đạo trong thời kỳ lịch sử mới. Đảng phải tiếp tục được xây dựng, chỉnh
đốn thật sự trong sạch, vững mạnh, làm cho Đảng ta xứng đáng là "đạo đức
văn minh" như Hồ Chí Minh đã khẳng định.
Câu 50. Đảng ta đã vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong sự nghiệp đổi mới như thế nào?
Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại là nền tảng chính trị trong đường lối đổi mới của Đảng ta. Thấm nhuần Tư
tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện của Đảng trong những năm đổi mới đều
khẳng định sự cần thiết phải vận dụng sáng tạo tư tưởng kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại do Người nêu lên. Nghị quyết Đại hội VII của
Đảng (1991) khẳng định. Trong điều kiện mới Đảng phải coi trọng vận dụng
bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong
nước với sức mạnh quốc tế, yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại để phục
vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Trong những năm đổi mới, quan điểm “Làm bạn với các nước dân chủ
và không gây thù oán với một ai" của Hồ Chí Minh được Đảng và Nhà nước
ta rất quan tâm và vận dụng sáng tạo. Văn kiện Đại hội IX của Đảng đã khẳng
định: Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng
đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển.
Trước nguy cơ “diễn biến hòa bình", trước việc một số thế lực phản
động lợi dụng vai trò giúp đỡ, viện trợ, đặt nhân quyền cao hơn chủ quyền để
can thiệp vào công việc nội bộ các nước, hiện nay, hơn lúc nào hết chúng ta
cần quán triệt lời dạy của Hồ Chí Minh: Mỗi một người phải nhớ rằng có độc
lập mới có tự lập, có tự cường mới có tự do. Người còn chỉ rõ: Cố nhiên sự
giúp đỡ của các nước là quan trọng nhưng không được ỷ lại không được
mong chờ người khác. Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ
dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập. Vận dụng tư tưởng
trên đây của Hồ Chí Minh phù hợp với xu thế toàn cầu hóa và thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Nghị quyết Đại hội Đảng lần
thứ IX khẳng định: chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh
thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc
lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh
quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường.
Thực tiễn công cuộc đổi mới vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh" ở nước ta trong gần 20 năm qua đã chứng
minh rằng: Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại luôn dược Đảng ta quán triệt, vận dụng một cách sáng tạo và
đưa lại những thành tựu to lắm tạo thế và lực cho dân tộc ta vững bước vào
thế kỷ XXI.
MỤC LỤCCâu 1. Trình bày khái niệm và hệ thống Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Câu 2. Trình bày đối tượng và phương pháp nghiên cứu bộ môn Tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Câu 3. Trình bày những điều kiện lịch sử - xã hội dẫn đến sự ra đời của
Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Câu 4. Phân tích nguồn gốc Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Câu 5. Trình bày quá trình hình thành và phát triển của Tư tường Hồ
Chí Minh.
Câu 6. Ý nghĩa việc học tập, nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Câu 7. Trình bày cơ sờ lý luận của Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề
dân tộc.
Câu 8. Vấn đề dân tộc trong Tư tưởng Hồ Chí Minh được hiểu như thế
nào?
Câu 9. Phân tích luận điểm: Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng bất
khả xâm phạm của tất cả các dân tộc trong Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Câu 10. Phân tích luậnn điểm: Ở các nước đang đấu tranh giành độc
lập, chủ nghĩa dân tộc chân chính vẫn là một động lực lớn trong Tư tưởng Hồ
Chí Minh.
Câu 11. Trình bày sự kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế,
độc lập cho dân tộc mình đồng thời độc lập cho tất cả các dân tộc trong tư
tưởng Hồ Chí Minh?
Câu 12. Vì sao Hồ Chí Minh khẳng định: cách mạng giải phóng dân tộc
muốn thắng lợi phải theo con đướng cách mạng vô sản?
Câu 13. Phân ích luận điểm sau đây của Tư tưởng Hồ Chí Minh: Cách
mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng của giai cấp công nhân
lãnh đạo.
Câu 14. Phân tích luận điểm: Cách mạng giải phóng dân tộc là sự
nghiệp đòan kết của tòan dân trên cơ sở liên minh công nông trong Tư tưởng
Hồ Chí Minh.
Câu 15. Phân tích luận điểm: Cách mạng giải phóng dân lộc cần được
tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách
mạng vô sản ở chính quốc trong Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Câu 16. Trình bày luận điểm: Cách mạng giải phóng dân tộc phải được
thực hiện bằng con đường bạo lực, kết hợp lực lượng chính trị của quần
chúng và lực lượng vũ trang của nhân dân trong Tư tưởg Hồ Chí Minh.
Câu 17. Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh
về vấn đề dân tộc trong công cuộc đổi mới hiện nay như thế nào?
Câu 18. Qúa trình tiếp xúc của Hồ Chí Minh với học thuyết Mác - Lênin
về chủ nghĩa xã hội như thế nào?
Câu 19. Hồ Chí Minh tiếp cận các vấn đề lý luận của chủ nghĩa xã hội
như thế nào?
Câu 20. Trình bày Tư tưởng Hồ Chí Minh về những đặc trưng, bản chất
của chủ nghĩa xã hội.
Câu 21. Trình bày những quan niệm của Hồ Chí Minh về những mục
tiêu cơ bản của chủ nghĩa xã hội.
Câu 22. Tư tưởng Hồ Chí Minh về các động lực của chủ nghĩa xã hội.
Câu 23. Trình bày cơ sở lý luận của Tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Câu 24. Hồ Chí Minh đã quan niệm của về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam như thế nào?
Câu 25. Trình bày Tư tưởng Hồ Chí Minh về bước đi, phương thức và
biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ.
Câu 26. Đảng ta đã vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Mlnh về chủ nghĩa xã
hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội vào công cuộc đổi mới hiện
nay như thế nào?
Câu 27. Trình bày phẩm chất đạo đức "Trung với nước, hiếu với dân"
trong Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Câu 28. Trình bảy phẩm chất yêu thương con người trong Tư tưởng Hồ
Chí Minh.
Câu 29. Hồ Chí Minh giải thích như thế nào về phẩm chất “Cần kiệm
liêm chính, chí công vô tư".
Câu 30. Trình bày về tinh thần quốc tế trong sáng trong Tư tưởng Hồ
Chí Minh.
Câu 31. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc, phương pháp xây dựng
và giáo dục đạo đức mới.
Câu 32. Trình bày Tư tưởng Hồ Chí Minh về chức năng của văn hóa.
Câu 33. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dụng và phát triển văn hóa là sự
nghiệp của toàn dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng?
Câu 34. Trình bày nội dung tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.
Câu 35. Những cơ sở hình thành tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ
Chí Minh?
Câu 36. Trình bày quá trình hình thành, phát triển của tư tưởng đại
đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh.
Câu 37. Trình bày những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại
đoàn kết dân tộc.
Câu 38. Trình bày những nội dung cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh
về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại.
Câu 39. Vì sao Hồ Chí Minh khẳng định Đảng Cộng sản là nhân tố
quyết định hàng đầu để đưa cách mạng Vệt Nam đến thắng lợi?
Câu 40. Vì sao Hồ Chí Minh cho rằng Đảng Cộng sản Việt Nam lả sản
phẩm của sự kết hợp cho nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và
phong trào yêu nước?
Câu 41. Phân tích luận điểm: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của
giai cấp công nhân đồng thời là Đảng của dân tộc Việt Nam.
Câu 42. Vì sao Đảng Cộng sản Việt Nam phải lấy chủ nghĩa Mác -
Lênin “làm cốt”?
Câu 43. Phân tích luận điểm: Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là
người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Câu 44. Thế nào là một Nhà nước của dân, do dân, vì dân?
Câu 45. Phân tích sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với
tính nhân dân và tính dân tộc của Nhà nước trong Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Câu 46. Trình bày Tư tưởng Hồ Chí Minh về một Nhà nước pháp
quyền có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ.
Câu 47. Trình bày Tu tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước trong
sạch, vững mạnh, hiệu quả.
Câu 48. Theo Tư tưởng Hồ Chí Minh, để hoàn thành nhiệm vụ lãnh đạo
cách mạng đi đến thắng lợl thì Đảng Cộng sản Việt Nam phải có những yếu
tố nào?
Câu 49. Vì sao Hồ Chí Minh cho rằng: Đảng phải thườg xuyên chăm lo
xây dựng, chỉnh đốn Đảng?
Câu 50. Đảng ta đã vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thờl đại trong sự nghiệp đổi mới như thế nào?
---//---
HỎI VÀ ĐÁPMÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Biên soạn:
ThS. LÊ THANH HÀ - ThS. NGUYỄN TRUNG TÍNH
ThS. NGUYỄN THỊ NHU
Chịu trách nhiệm xuất bản: TS. QUÁCH THU NGUYỆT
Biên tập: ÁNH TUYẾT
Bìa: BÙI NAM
Sữa bản in: HOÀNG MAI
Kỹ thuật vi tính: THU HÀ
NHÀ XUẤT BẢN TRẺ
161B. Lý Chính Thắng – Quận 3 - TP. Hồ Chí Minh
ĐT: 9316289 - 9316211 - 8465596 – 9350973 - Fax: 08.8437450
E-mail: [email protected] - Website: http://www.nxbtre.com.vn
CHI NHÁNH NHÀ XUẤT BẢN TRẺ TẠI HÀ NỘI
Số 20 ngõ 91 Nguyễn Chí Thanh – Quận Đống Đa – Hà Nội
ĐT: (04) 7734544 - Fax: (04) 7734544
E-mal: [email protected]