Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

66
ĐỀ CƯƠNG BÀI GING CHUYÊN ĐỀ VĂN BN VÀ SON THO VĂN BN ĐàNng, tháng 01. 2010

description

 

Transcript of Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

Page 1: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG

CHUYÊN ĐỀ VĂN BẢN VÀ

SOẠN THẢO VĂN BẢN

Đà Nẵng, tháng

01.

2010

Page 2: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

VĂN BẢN VÀ

SOẠN THẢO VĂN BẢNI. Khái

niệm và chức năng

của văn bản

Văn bản (VB) là gì?1 Khái

niệm:

- Văn bản

nói

chung

một loại phương

tiện

ghi

tin và truyền

đạt

thông

tin bằng

ngôn

ngữ

(hay một loại kí hiệu)

nhất

định. VB được

hình

thành

trong

nhiều lĩnh

vực của

đời sống

hội. Tùy theo từng

lĩnh

vực cụ

thể

của

đời sống

XH

QLNN (quản

nhhà

nước) mà

VB có

những

nội

dung và

hình

thức thể

hiện

khác

nhau.

- Văn bản là sản phẩm của hoạt

động

giao

tiếp bằng

ngôn ngữ ở dạng

viết. Văn bản thường

tập hợp của

các

câu

tính

trọn vẹn về

nội

dung và

hoàn

chỉnh

về

hình

thức, có tính

liên

kết chặt chẽ

hướng

tới 1 mục tiêu giao tiếp nhất

định.

Page 3: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

VĂN BẢN VÀ

SOẠN THẢO VĂN BẢN2. Văn bản hành chính (VBCH) là gì ?VBHC là

VB của các cơ

quan

NN dùng

để

ghi

chép,

truyền

đạt

các

quyết

định

QL (quản

lý) và

các

thông tin cần thiết

cho

hoạt

động

QL theo

đúng

thể

thức,

thủ

tục, và

thẩm

quyền luật

định. -

Nói

cách

khác, Văn bản HC là phương

tiện

quan

trọng

để

đảm bảo

thông

tin cho

QL và

phản

ánh

kết quả hoạt

động

của QL, đồng

thời nó truyền

đạt

ý chí, mệnh

lệnh

của

các

CQNN (cơ

quan

nhà

nước)

cho

cấp dưới. VBHC là

thông

tin giao

dịch

chính

thức giữa các cơ

quan,

tổ

chức với

nhau

hoặc giữa

NN với tổ

chức và công dân.

Page 4: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

VĂN BẢN VÀ

SOẠN THẢO VĂN BẢNII. Chức năng

của văn bản hành chính

1. Chức năng

thông

tin:Đây

chức năng

bản và tổng

quát

nhất của

VBHC nói

chung:

vì trong trong quá trình QL, điều

hành

trong

các

hoạt

động của

các

CQNN thì

VB là

phương

tiện truyền tải

thông

tin quan

trọng

nhất

để

điều hành bộ

máy

QLNN + Thông

tin về

chủ

trương

đường

lối của

Đảng

Nhà

nước liên

quan

đến mục tiêu và phương

hướng

hoạt

động

lâu

dài

của cơ quan; về

nhiệm vụ, mục tiêu hoạt

động

cụ

thể

của từng

quan

+ Ghi

lại

các

thông

tin quản lý+ Truyền

đạt

thông

tin QL từ

nơi này đến nơi

khác

trong

hệ

thống

QL hay từ

CQQLNN đến quần

chúng

nhân

dân.+ Giúp

cho

các

CQQLNN đánh

giá

các

thông

tin thu

được qua

các

hệ

thống

truyền

đạt

thông

tin khác.

Page 5: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

VĂN BẢN VÀ

SOẠN THẢO VĂN BẢNII. Chức năng

của văn bản

hành

chính

(QL).

2. Chức năng

quản lý-

VBHC là

phương

tiện hữu hiệu

trong

việc

truyền

đạt các quyết

định

QL cho

cấp dưới một cách thuận lợi

chính

xác.

-

VBHC giúp

cho

các

nhà

QL tổ

chức, điều hành tốt công

việc QL của mình và là cơ

sở để theo

dõi,

kiểm

tra, đánh

giá

cấp dưới

theo

quy

trình

quản lý. Nó là cơ

sở

pháp

để

đề

ra

các

quy

định

đảm bảo

tính

pháp

luật.

Page 6: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

VĂN BẢN VÀ

SOẠN THẢO VĂN BẢNII. Chức năng

của văn bản

hành

chính

(QL).

3. Chức năng

pháp

lý-

VBHC là

phương

tiện

để

ghi

chép

truyền

đạt

các

quy

phạm

pháp

luật và để

điều tiết các mối

quan hệ

hội bằng

hệ

thống

luật

pháp

đã

được văn bản

hóa, tạo

điều kiện phổ

biến rộng

rãi, đầy

đủ

chính xác

việc thực

thi

pháp

luật

QLNN, quan

hệ

hội

được

nghiêm

minh, đúng

đắn và thống

nhất. - Nó là cơ

sở

pháp

cho

các

quyết

định

QL và

các

thông

tin QL khác

của

các

CQNN từ

TW đến

địa phương.

Page 7: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

VĂN BẢN VÀ

SOẠN THẢO VĂN BẢNIII. Hệ

thống

VB của nước

CHXHCNVN:

1. Văn bản

quy

phạm

pháp

luật:L, PL, L, NQ, NQLT, NĐ, QĐ, CT, TT, TTLT.

2. Văn bản cá biệt: (Quyết

định, chỉ

thị

thành

văn mang tính áp dụng

pháp

luật do cơ

quan, công

chức

NN có

thẩm quyền

ban hành

theo

trình

tự, thủ

tục

nhất

định..)

3. Văn bản

hành

chính

thông

thường: ( không

đưa

ra

các

quyết

định

quản lý, do đó

không

dùng

để

thay

thể

cho

văn bản

QPPL hoặc văn bản cá

biệt)

4.Văn bản quản lý lĩnh

vực

chuyên

môn: (các

loại hóa đơn, séc, các

loại

văn bằng, chứng

chỉ)

5. Các

loại hợp

đồng: (hợp

đồng

kinh

tế, hợp

đồng

dân

sự, hợp

đồng

lao

động)

6. Các

văn bản

chuyển

đổi: (Nội

quy, quy

chế, quy

định

của từng

quan

đơn

vị

trong

từng

lĩnh

vực QL cụ

thể)

Page 8: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

Các

loại văn bản hành chính (VBHC)* Văn bản cá biệt: (VBCB) là

những

quyết

định

QL

thành

văn mang tính áp dụng

luật, do cơ

quan, công chức NN có thẩm

quyền

ban hành

theo

trình

tự, thủ

tục nhất

định

nhằm

đưa

ra

các

quy

tắc xử

sự

riêng đối với 1 hoặc

1 nhóm

đối tượng

cụ

thể, được chỉ

rõ,

hay nói

cách

khác

để

giải

quyết công việc cụ

thể. (VD: QĐ của GĐ Bưu

điện

khen

thưởng

các

đơn vị,

nhân

thành

tích

cao

trong

công

tác

thi

đua

6 tháng

đầu năm

2008)

Văn bản cá biệt có 2 loại: Quyết

định

biệt và Chỉ thị

biệt.

Page 9: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

Văn bản cá biệt: (VBCB)-Quyết

định

biệt: (QĐ áp

dụng

PL)

VB được ban

hành

để

giải

quyết

các

công

việc cụ

thể đối với

đối tương

cụ

thể. Đó là những

quyết

định

lên

lương,

khen

thưởng, kỷ

luật, bổ

nhiệm, miễn nhiệm, phê duyệt dự

án

…)

- Chỉ

thị

biệt: là

VB được

ban hành

để

vận hành bộ máy

thuộc

quyền QL của

đơn vị

nhằm thực hiện

tốt chức năng, nhiệm vụ

NN giao

cho

đơn vị, có nội

dung chứa

đựng

các

mệnh

lệnh

của cấp trên giao

cho

cấp dưới

trong

việc thực hiện

pháp

luật và các nhiệm vụ

cụ

thể

phát

sinh

trong

quá

trình

QL

Page 10: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

Văn bản

hành

chính

thông

thường: (VBHCTT)- Văn bản

HCTT là

loại văn bản mang tính thông tin, điều

hành

nhằm thực

thi

các

VBQPPL (văn bản

quy

phạm pháp

luật), hoặc

dùng

để

giải quyết

các

công

việc cụ

thể,

phản

ánh

tình

hình, giao

dịch, trao

đổi, ghi

chép

các

công việc trong các cơ

quan

tổ

chức. Nội

dung của

thông

tin

mang

tính

chất

điều hành tác nghiệp hành chính.VBHCTT không

đưa

ra

các

quyết

định

QL do đó

không

được dùng để

thay

thế

cho

VBQPPL hoặc VBCB-

Các

hình

thức

VBHCTT:

+ VBHC không

tên

loại: (công

văn hành chính)+ VBHC có

tên

loại: Điều lệ, quy

chế, quy

định, kế

hoạch,

quy

hoạch, chương

trình, chiến lược, đề

án, thông

báo, báo cáo…

Page 11: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

Văn bản chuyên

môn-kỹ

thuật: (VBCM-KT)- Văn bản

chuyên

môn-kỹ

thuật là loại văn

bản

do một cơ

quan

QLNN trong

một lính vực nhất

định, được

NN ủy

quyền

ban

hành, dùng

để

QL một lĩnh

vực

điều

hành của bộ

máy

NN, loại

VB này

mang

tính

đặc

thù

thuộc thẩm quyền

ban hành

riêng của từng

quan

NN theo

quy

định

của

pháp

luật.(+ Giấy

khai

sinh: do cơ

quan

pháp

ban

hành; Bệnh

án: do Bộ

Y tế

ban hành…)

Page 12: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

Sơ đồ

hệ

thống

VBQLNNSơ đồ hệ

thống

VBQLNN

CQLP (Đ13)

QHHP,Lt, NQ

UBTVQHPL,NQ

HĐNN các

cấpNQ

CQHP (Đ15,16)

CQHP-QLC

CP: NQ,NĐ

CTN: L, QĐ (Đ 14)

TTg: QĐ, CT

Các

Bộ:QĐCTTT

TTLT

CQHP-QLCM

CQTP (Đ17)

TANDTCHĐTPTANDTC

NQ

CA.TANDTCQĐCTTT

VKSNDTC

VTVKSNDTC

QĐCTTT

UBNN các

cấpQĐ. CT

Page 13: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

QUY TRÌNH SOẠN THẢO VÀ

BAN HÀNH VĂN BẢN

Quy

trình

soạn thảo

ban hành

VB là

trình tự

các

bước

được sắp xếp khoa học mà cơ

quan

QLNN nhất thiết phải tiến

hành

trong công

tác

soạn thảo

ban hành

văn bản

theo

đúng

chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và phạm vi hoạt

động

(4 bước)

- Chuẩn bị- Lập

đề

cương, viết bản thảo

-

trình

duyệt, ký

văn bản-

Hoàn

thiện thủ

tục

hành

chính

để

ban hành

VB

Page 14: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

QUY TRÌNH SOẠN THẢO VÀ

BAN HÀNH VĂN BẢN

Bước 1: chuẩn bị-

Phân

công

soạn thảo: cơ

quan

đơn vị

hoặc cá

nhân

soạn thảo-

Xác

định

mục

đích

ban hành

VB, đối tượng

phạm vi áp dụng

của VB-

Xác

định

tên

loại VB

-

Thu thập và xử

thông

tin

Page 15: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

QUY TRÌNH SOẠN THẢO VÀ

BAN HÀNH VĂN BẢNBước 2: lập

đề

cương

viết bản thảo

- Lập

đề

cương:+ Đề

cương

VB là

bản trình bày những

điểm cốt yếu dự định

thể

hiện

nội

dung VB+ Đề

cương

VB được

xây

dựng

trên

sở

những

vấn

đề

được xác

định

trong

mục

đích

giới hạn của VB+ Có

thể

XD đề

cương

chi tiết, hoặc sơ

lược

- Viết bản thảo:+ Dùng

lời văn, câu

chữ để cụ

thể

hóa

những

ý tưởng, những

dự

kiến

được

xác

lập

ở đề cương+ Khi

viết bản thảo, cần phải

bám

sát

đề

cương, phân

chia

dung

lượng

trong

từng

chương, mục, đoạn cho hợp

lý. Sử

dụng

linh hoạt các từ, cụm từ, liên

kết các câu, đoạn

để

VB trở

thành

một

thể

thống

nhất, trọn vẹn về

nội

dung và

hình

thức.+ Kiểm tra, rà

soát

bản thảo: kiểm tra bố

cục nội

dung: đã

lôgic

chưa, đầy

đủ

các

ý cần trình bày chưa, các

ý trình

bày

đã

phù

hợp với mục

đích

ban hành

VB hay chưa, ý trọng

tâm

của VB đã nổi

bật

hay chưa.+ Kiểm tra về

thể

thức VB, về

ngôn

ngữ

diễn

đạt và trình bày

Page 16: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

QUY TRÌNH SOẠN THẢO VÀ

BAN HÀNH VĂN BẢNBước

3: trình

duyệt, ký

văn bản

- Cơ

quan, đơn vị

soạn thảo VB trình hồ

trình

duyệt dự

thảo VB lên

cấp

trên

(tập thể

hoặc

nhân) để

xem

xét

thông

qua.

- Hồ

trình

duyệt

bao

gồm các

giấy tờ

sau:+ Tờ

trình

hoặc phiếu trình dự

thảo VB

+ Bản dự

thảo+ VB thẩm

định

(nếu có)

+ Bản tập hợp ý kiến tham gia (nếu có)+ Các

văn bản giấy tờ

khác

liên

quan

(nếu có)

Trường

hợp

không

hồ

trình

duyệt thì phải trực tiếp tường trình

với thủ

trưởng

về

VB

* Đối với

VB thông

qua theo

chế độ tập thể

và QĐ theo

đa số: các thành

viên

dự

họp phải

đúng

thành

phần, có

đủ

cách

thẩm

quyền. VB được

thông

qua khi

đảm bảo số

phiếu

theo

quy

định của PL.

* Đối với VB được

thông

qua theo

chế độ một thủ

trưởng: trên

cơ sở

bàn

bạc, tìm

hiểu, thống

nhất ý kiến với ban lãnh đạo, thủ

trưởng

xem

xét

ban hành

phải chịu

trách

nhiệm pháp lý về VB mình

đã

ký.

Page 17: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

QUY TRÌNH SOẠN THẢO VÀ

BAN HÀNH VĂN BẢNBước

4: hoàn

thiện thủ

tục

hành

chính

để

ban hành

VB (thuộc

nhiệm vụ

của

cán

bộ

văn thư)- Ghi số, ngày

tháng

năm

ban hành

VB

- Vào sổ

VB đi, sổ

lưu VB- Kiểm tra lần cuối về

thể

thức VB

- Nhân VB đủ

số

lượng

ban hành-

Đóng

dấu cơ

quan

-

Bao

gói

chuyển giao VBVới những

VB quan

trọng, ban hành

kèm

theo

phiếu

gửi VB, cần tiếp tục

theo

dõi

sự

phản hồi của cơ quan

nhận VB.

Page 18: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

Phương

pháp

soạn thảo một số

loại VBHC1. Soạn thảo

quyết

định

biệt:

-

Về

thể

thức: gồm

9 thành

phần cơ

bản và một số

thành

phần bổ

sung (tên

người

đánh

máy, số

lượng

ban hành). Trình

bày

theo

quy

định

của

1 VBHC có

tên

loại.-

Về

bố

cục: gồm 2 phần

+ Phần mở đầu: nêu

các

căn cứ để ban hành

quyết

định+ Phần nội

dung: nêu

các

quy

định

(được trình bày dưới dạng

điều: từ

2-5 điều)* Điều 1: quy định

thẳng

vào

vấn

đề

chính

(đã

được nêu ở

phần trích yếu nội

dung, nhưng

cần

được

trình

bày

cụ

thể hơn)

* Điều

2, và

các

điều tiếp theo quy định

những

hệ

quả

pháp lý

nãy

sinh

từ điều 1

* Điều cuối

cùng: quy

định

hiệu lực và các đối tượng

thi hành

quyết

định. (xem

phụ

lục I)

Page 19: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

Phương

pháp

soạn thảo một số

loại VBHC2. Soạn thảo công văna.

Yêu

cầu: -

Mỗi

công

văn chỉ

chứa

đựng

1 chủ đề

chỉ

nêu

một sự

vụ

nhất

định-

Công

văn phải viết ngắn gọn, súc

tích, rõ

ràng, ý

tưởng

phản ánh sát với chủ đề.-

Ngôn

ngữ

sử

dụng

trong

công

văn phải

khoa

học,

lịch

sự, nghiêm

túc, có

tính

thuyết phục- Phải

đúng

với thể

thức

quy

định

của

pháp

luật, đặc

biệt phải có phần trích yếu nội

dung

Page 20: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

Phương

pháp

soạn thảo một số

loại VBHC2. Soạn thảo công văn.b. Bố

cục của

công

văn

- Phải có quốc hiệu và tiêu ngữ-

Tác

giả

ban hành

(tên

quan

chủ

quản và tên cơ

quan

ban

hành

văn bản)- số

hiệu của

công

văn

-

Địa danh và ngày tháng năm

ban hành- Chủ

thể

nhận công văn

- Trích yếu nội

dung của công văn- Nội

dung của công văn

- chữ

đóng

dấu, họ

tên

người

công

văn- Nơi gửi

công

văn

Page 21: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

Phương

pháp

soạn thảo một số

loại VBHCc. Kỹ

thuật soạn thảo nội

dung của công văn

- Viện dẫn (Phần mở đầu): phải

nêu

do tại sao phải ban hành

CV

đó. (Lý

do hoặc cơ

sở để ban hành

CV)

-

Nội

dung chính: Phải nêu sát với chủ đề hoặc những

vấn đề

đã

được nêu trong viện dẫn. Tùy

theo

từng

loại chủ

đề, công

văn có những

cách

viết

cho

phù

hợp. Trước

khi viết phải xin ý kiến của lãnh đạo

để

được hướng

dẫn về

nội

dung công

văn. Sắp xếp ý nào nêu trước, ý nào

nêu sau

để

công

văn thể

hiện tính logic. Văn

phong

phải

phù

hợp với từng

loại công việc và cần phải có lập luận chặt chẽ

các

vấn

đề

đưa ra. (CV cám

ơn: nhẹ

nhàng, chân

tình, CV đề

xuất: phải

nêu

do xác

đáng, CV tiếp

thu

ý kiến: thể

hiện sự

mềm dẻo, khiêm

tốn, CV từ

chối: thẻ

hện sự

lịch

sự, phải có lời

động

viên

an ủi..)

- Kết

thúc: phải ngắn gọn và chủ

yếu

để

nhấn mạnh

chủ đề và

xác

định

trách

nhiệm của người thực hiện và có

những

công

văn lưư

ý cần phải có lời chào lịch

sự

Page 22: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

Phương

pháp

soạn thảo một số

loại VBHC3. Phương

pháp

soạn thảo báo cáo

a. Yêu

cầu: khi

soạn thảo

báo

cáo

phải

đảm bảo tính trung thực

chính

xác, phải phản

ánh

trung

thực

khách

quan.

Nêu

đúng

ưu, khuyết

điểm, những

việc cần giải quyết và những

việc còn tồn

đọng, không

được thiên vị, thêm

bớt,

bóp

méo

sự

thật.- Nội

dung báo

cáo

phải cụ

thể, có

trọng

tâm, trọng

điểm. Yêu

cầu này đặt ra vấn

đề

không

được viết

chung

chung, thu thập và xữ

số

liệu, chọn lọc tư

liệu

đưa

vào

báo

cáo

phải

tuyệt

đối

chính

xác.-

Báo

cáo

phải kịp thời: thể

hiện ý thức tổ

chức kỷ

luật và tôn

trọng

cấp

trên, có

trách

nhiệm với

công

việc, để

lãnh

đạo nắm

được

thông

tin một

cách

kịp thời và đưa ra những

quyết

định

chính

xác.

Page 23: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

3. Phương

pháp

soạn thảo báo cáob. Phương

pháp

* Chuẩn bị: - Phải xác định

mục

đích, yêu

cầu của bản

báo

cáo

đó.

- Phải xây dựng

đề

cương

khách

quan

của

báo

cáo:+ Đánh

giá

tình

hình, mô

tả

sự

việc … đã xẩy ra

+ Phân

tích

nguyên

nhân, đánh

giá

tình

hình, xác

định

những công

việc cần phải

được tiếp tục

+ Đề

ra

phương

hướng

những

biện pháp tổ

chức hoạt

động-

Thu thập số

liệu

để

đưa

vào

báo

cáo

- Xử

liệu và số

liệu- Dự

kiến

đề

xuất

Phương

pháp

soạn thảo một

số

loại VBHC

Page 24: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

Phương

pháp

soạn thảo báo cáob. Phương

pháp

* Xây

dựng

dàn

bài: - Mở đầu: Nêu

điều kiện và hoàn cảnh

ảnh

hưởng

đến việc

thực hiện.-

Nội

dung:

+ Đánh

giá

những

việc làm được và chưa làm được+ Nêu

ra

những

khuyết

điểm

trong

quá

trình

thực hiện

+ Đánh

giá

khái

quát

rút

ra

những

bài

học

kinh

nghiệm-

Kết luận:

+ Phương

hướng

những

mục tiêu phấn

đấu+ Những

nhiệm vụ để khắc phục thiếu

sót, khuyết

điểm

+ Các

biện pháp tổ

chức thực hiện+ Những

ý kiến

đề

xuất

để

kiến

nghị đối với cấp trên

+ Nêu

lên

những

triển vọng

sắp tới

Page 25: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

Phương

pháp

soạn thảo báo cáob. Phương

pháp

* Viết dự

thảo

báo

cáo: -

Nên

dùng

ngôn

ngữ

phổ

thông

- Cần nêu những

sự

kiện

kèm

theo

số

liệu

đánh

giá- Có thể

trình

bày

theo

kiểu mẩu, sơ đồ

-

Hành

văn

trong

báo

cáo

phải mạch

lạc, rõ

ràng, lôgic, chặt chẽ, tránh

hiện tượng

phô

trương

sáo

rỗng. Nếu

báo

cáo

chuyên

đề

phải

kèm

theo

bản phụ

lục. Nếu báo cáo quan trọng

thì

cần phải tổ

chức lấy ý kiến

thông

qua

* Trình

lãnh

đạo thông qua:- Phải có sự

xét

duyệt của lãnh đạo trước khi gửi báo cáo hoặc

trước khi trình bày

Page 26: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

Phương

pháp

soạn thảo một số

loại VBHC4. Soạn thảo biên bảna. Yêu

cầu của biên bản:

- Số

liệu và sự

kiện phải

chính

xác, cụ

thể.- Ghi chép phải

trung

thành, đầy

đủ, không

suy

diễn

chủ

quan. - Ghi chép phải có trọng

tâm, trọng

điểm

-

Thủ

tục phải chặt chẽ, thông

tin có

độ

tin cậy cao, nếu có tang vật hoặc vật chứng

phải

kèm

theo

biên

bản-

Đòi

hỏi trách nhiệm

cao

của người lập biên bản và

những

người ký xác nhận.

Page 27: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

Phương

pháp

soạn thảo biên bảnb. Cách

xây

dựng

bố

cục của biên bản:

- Tuân theo thể

thức của một văn bản

hành

chính. (không

số

hiệu)

-

Tên

của biên bản và trích yếu nội

dung-

Ngày

tháng

năm, giờ

phút

-

Địa

điểm-

Thành

phần tham dự

- Nội

dung: ghi

đầy

đủ

theo

trình

tự- Phần kết

thúc: ghi

ngày, giờ

kết

thúc, chữ

của

người ghi (lập) biên

bản và chữ

của người xác nhận (nhân chứng: ký

nếu có)

Page 28: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

THỂ

THỨC VĂN BẢN1. Quốc hiệuQuốc hiệu ghi trên văn bản

bao

gồm 2 dòng chữ: “Cộng

hoà

hội

chủ

nghĩa Việt Nam” và “Độc lập - Tự

do -

Hạnh

phúc”.2. Tên

quan, tổ

chức

ban hành

văn bản (VB)

Tên

quan, tổ

chức

ban hành

VB bao

gồm tên của cơ

quan, tổ chức

ban hành

VB và

tên

của cơ

quan, tổ

chức chủ

quản cấp trên

trực tiếp (nếu

có) căn cứ

quy

định

của pháp luật hoặc căn cứ

văn bản thành lập, quy

định

tổ

chức bộ

máy

của cơ

quan, tổ

chức có

thẩm quyền, trừ

trường

hợp

đối với các Bộ, cơ

quan

ngang

Bộ, cơ

quan

thuộc

Chính

phủ, Văn

phòng

Quốc hội, Hội

đồng

dân

tộc và các Ủy Ban của

Quốc hội. Tên

của cơ

quan, tổ

chức

ban hành

văn bản

được ghi đầy

đủ

theo

tên

gọi chính thức căn cứ

VB thành

lập, quy

định

tổ

chức bộ

máy, phê

chuẩn, cấp giấy

phép

hoạt

động

hoặc

công

nhận tư

cách

pháp

nhân

của cơ

quan, tổ

chức có thẩm quyền; tên

của cơ

quan, tổ chức chủ

quản cấp trên trực tiếp có thể

viết tắt những

cụm từ

thông

dụng

như: uỷ

ban nhân

dân

(UBND), Hội

đồng

nhân

dân (HĐND).

Page 29: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

3. Số, ký

hiệu của văn bảna. Số, ký

hiệu của văn bản

quy

phạm

pháp

luật

Số, ký

hiệu của văn bản

quy

phạm

pháp

luật

do Quốc hội, Uỷ

ban thường

vụ

Quốc hội và các cơ

quan

nhà

nước có thẩm

quyền khác ở

Trung

ương

ban hành được thực hiện

theo

quy

định

tại

Điều 3 của Nghị

định

số

101/CP ngày

23 tháng

9 năm

1997 của Chính

phủ

quy

định

chi tiết

thi

hành

một số điều của

Luật

Ban hành

văn bản quy phạm

pháp

luật và hướng

dẫn tại

Thông

này, cụ

thể

như

sau:

Page 30: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

- Số

của văn bản quy phạm

pháp

luật bao gồm số

thứ

tự đăng ký

được

đánh theo từng

loại văn bản

do cơ

quan

ban hành

trong

một năm và năm ban hành văn bản

đó. Số được ghi bằng

chữ

số ả - rập, bắt

đầu từ

số

01 vào

ngày

đầu năm và

kết

thúc

vào

ngày

31 tháng

12 hàng

năm; năm ban hành phải ghi đầy

đủ

các

số, ví

dụ: 2004, 2005,

- Ký hiệu của văn bản quy phạm

pháp

luật bao gồm chữ

viết tắt tên loại văn bản theo Bảng

chữ

viết tắt tên loại văn bản

bản

sao

kèm

theo

Thông

này

(Phụ

lục

I) và

chữ

viết tắt tên cơ

quan

hoặc chức danh nhà nước (Chủ

tịch

nước,

Thủ

tướng

Chính

phủ) ban hành

văn bản.- Số, ký

hiệu của văn bản

quy

phạm

pháp

luật do Hội

đồng

nhân

dân, Uỷ

ban nhân

dân

ban hành

được thực hiện theo quy

định

tại

Điều 7 của Luật Ban hành văn bản

quy

phạm

pháp

luật của Hội

đồng

nhân

dân, Uỷ

ban nhân

dân

số 31/2004/QH11 ngày

03 tháng

12 năm

2004.

Page 31: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

b. Số, ký

hiệu của văn bản hành chính* Số

của văn bản hành chính là số

thứ

tự đăng

văn bản do

quan, tổ

chức

ban hành

trong

một năm. Tuỳ

theo

tổng số

văn bản và số

lượng

mỗi loại văn bản hành chính được

ban hành, các

quan, tổ

chức quy định

cụ

thể

việc

đăng ký

đánh

số

văn bản. Số

của văn bản

được ghi bằng

chữ

số ả - rập, bắt

đầu từ

số

01 vào

ngày

đầu năm và kết thúc vào

ngày

31 tháng

12 hàng

năm.

* Ký

hiệu của văn bản hành chính- Ký hiệu của quyết

định

(cá

biệt), chỉ

thị

(cá

biệt) và

của các

hình

thức văn bản có tên loại khác bao gồm chữ

viết tắt tên

loại văn bản theo Bảng

chữ

viết tắt tên loại văn bản và

bản

sao

kèm

theo

Thông

này

(phụ

lục

I) và

chữ

viết tắt tên

quan, tổ

chức hoặc chức danh nhà nước

ban hành

văn bản. Ví dụ:

Quyết

định (QĐ), Chỉ

thị

(CT)…

Page 32: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

- Ký hiệu của công văn bao gồm chữ

viết tắt tên cơ

quan, tổ chức hoặc chức danh nhà nước

ban hành

công

văn và chữ

viết tắt tên đơn vị

soạn thảo hoặc chủ

trì

soạn thảo

công

văn đó (nếu

có), ví

dụ:

Công

văn của

Chính

phủ

do Vụ

Hành

chính

Văn

phòng

Chính phủ

soạn thảo: Số:.../CP –

HC;

Công

văn của Thủ

tướng

Chính

phủ

do Vụ

Văn xã Văn

phòng Chính

phủ

soạn thảo: Số:.../TTg

VX;

Công

văn của Bộ

Xây

dựng

do Cục quản lý nhà Bộ

Xây

dựng soạn thảo: Số:.../BXD –

QLN;

Công

văn của

UBND tỉnh...do tổ

chuyên

viên

(hoặc thư

ký) theo

dõi

lĩnh

vực văn hoá – xã hội soạn thảo: Số:.../ UBND

VX;Công

văn của Sở

Công

nghiệp tỉnh...do Văn

phòng

Sở

soạn

thảo: Số:.../SCN –

VP.Chữ

viết tắt tên cơ

quan, tổ

chức ban hành văn bản và chữ

viết

tắt tên các đơn vị

trong

mỗi cơ

quan, tổ

chức phải

được quy định

cụ

thể, bảo

đảm ngắn ngọn, dễ

hiểu.

Page 33: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

4. Địa

danh

ngày, tháng, năm ban hành

văn bảna. Địa danh ghi trên văn bản là tên gọi

chính

thức của

đơn vị

hành

chính

(tên

riêng

của tỉnh, thành

phố

trực thuộc

Trung

ương, huyện, quận, thị

xã, thành

phố

thuộc tỉnh, xã, phường, thị

trấn) nơi cơ

quan, tổ

chức đóng

trụ

sở, đối với những

đơn vị

hành

chính

được

đặt

tên

theo

tên

người hoặc bằng

chữ

số

thì

phải

ghi tên

gọi

đầy

đủ

của

đơn vị

hành

chính

đó, cụ

thể

như

sau:-

Địa danh ghi trên văn bản của các cơ

quan, tổ

chức

Trung

ương

tên

của tỉnh, thành

phố

trực thuộc Trung

ương

hoặc tên của

thành

phố

thuộc tỉnh

(nếu

có) nơi cơ

quan, tổ

chức

đóng

trụ

sở.

Page 34: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

-

Địa

danh

ghi

trên

văn bản của

các

quan, tổ

chức cấp tỉnh:+ Đối với

các

thành

phố

trực thuộc Trung ương; là

tên

của

thành

phố

trực thuộc Trung ương, ví

dụVăn bản của

UBND thành

phố

Nội và của các sở, ban,

ngành

thuộc

thành

phố: Hà

Nội,...; của

UBND thành

phố Hồ

Chí

Minh

của các sở, ban ngành

thuộc

thành

phố:

Thành

phố

Hồ

Chí

Minh

…,+ Đối với các tỉnh: là

tên

của thị

xã, thành

phố

thuộc tỉnh

hoặc

của huyện nơi cơ

quan, tổ

chức

đóng

trụ, sở-

Địa danh ghi trên văn bản của các cơ

quan, tổ

chức cấp

huyện

tên

huyện, quận, thị

xã, thành

phố

thuộc tỉnh-

Địa

danh

ghi

trên

văn bản của HĐND, UBND và

của các tổ

chức cấp xã là tên của xã, phường, thị

trấn

đó-

Ngày, tháng, năm ban hành văn bản

quy

phạm

pháp

luật

khác

văn bản

hành

chính

ngày, tháng, năm văn bản được ký ban hành.

Page 35: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

5. Tên

loại và trích yếu nội

dung của văn bảna. Tên

loại văn bản là tên của từng

loại văn bản

do cơ

quan, tổ

chức

ban hành. Khi

ban hành

văn bản quy phạm

pháp

luật và văn bản

hành

chính, đều phải

ghi

tên

loại, trừ

công

văn.b. Trích

yếu nội

dung của văn bản là một

câu

ngắn

gọn hoặc một cụm từ, phản

ánh

khái

quát

nội

dung chủ

yếu của văn bản

Page 36: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

6. Nội

dung văn bảna. Nội

dung văn bản

Nội

dung văn bản

thành

phần chủ

yếu của một văn bản, trong

đó, các

quy

phạm

pháp

luật (đối với văn bản quy

phạm

pháp

luật), các

quy

định

được

đặt

ra; các

vấn

đề, sự việc

được

trình

bày

Nội

dung văn bản phải bảo

đảm những

yêu

cầu cơ

bản sau:- Phù hợp với

đường

lối, chủ

trương, chính

sách

của

Đảng

phù

hợp với qui định

của pháp luật- Các qui phạm

pháp

luật, các

qui định

hay các

vấn

đề, sự

vciệc phải

được trình bày ngắn gọn, rõ

ràng, chính

xác;- Sử

dụnh

ngôn

ngữ

viết, cách

diễn

đạt

đơn giản dễ

hiểu;

-

Dùng

từ

ngữ

phổ

thông; không

dùng

từ

ngữ địa phương

từ ngữ

nước ngoài nếu

không

thực sự

cần thiết. Đối với thuật

ngữ

chuyên

môn

cần xác định

nội

dung thì

phải

được giải thích

trong

văn bản;

Page 37: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

b. Bố

cục của văn bảnTuỳ

theo

thể

loại và nội

dung, văn bản có thể

phần

căn cứ

pháp

để

ban hành, phần mở đầu và có thể được bố

cục theo phần, chương, mục, điều, khoản,

điểm hoặc

được phần

chia

thành

các

phần, mục từ lớn

đến nhỏ

theo

một trình tự

nhất

định.

Văn bản hành chính có thể được bố

cục như

sau:- Quyết

định

(cá

biệt); theo

điều, khoản, điểm; các

quy

chế( quy

định) ban hànhkèm

theo

quyết

định; theo chương, mục, điều, khoản, điểm;

- Chỉ

thị( cá

biệt); theo

khoản, điểm;-

Các

hình

thức văn bản

hành

chính

khác; theo

phần,

mục, khoản, điểm

Page 38: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

7. Chúc

vụ: họ

tên

chữ

của người có thẩm quyềna/ Việc

ghi

quyền hạn của người ký được thực hiện như

sau:- Trường

hợp ký thay mặt tập thể

thì

phải ghi chữ

viết tắt

"TM" (thay

mặt) vào

trước tên tập thể

lãnh

đạo hoặc tên cơ

quan, tổ

chức;- Trường

hợp ký thay người

đứng

đầu cơ

quan, tổchức

thì

phải ghi chữ

viết tắt

"KT" (ký

thay) vào

trước chức vụ

của người

đứng

đầu.- Trường

hợp ký thừa lệnh

thì

phải ghi chữ

viết tắt

"TL" (thừa lệnh) vào

trước

chức vụ

của người

đứng

đầu cơ

quan, tổ

chức;-

Trường

hợp ký thừa uỷ

quyền

thì

phải ghi chữ

viết tắt

"TUQ" (thừa uỷ

quyền) vào

trước chứuc

vụ

của người

đúng

đầu cơ

quan, tổ

chứcb. Chức vụ

của người kýChức vụ

ghi

trên

văn bản là chức danh lãnh đạo

chính

thức của người ký văn

bản trong cơ

quan, tổ

chức; chỉ

ghi

chức danh như

Bộ

trường

(Bộ

trưởng, Chủ

nhiệm), Thứ

trưởng, Chủ

tịch, Phó

Chủ

tịch, Giám

đốc, Phó

Giám

đốc

vv.. không

ghi

lại tên cơ

quan, tổ

chức, ban hành; văn bản ký thừa lệnh, thừa uỷ

quyền và những

trường

hợp cần thiết khác do các cơ

quan, tổ

chức

quy

định

cụ

thể.

c. Họ

tên

gồm họ, tên

đệm (nếu

có) và

tên

của người ký văn bản. Đối với văn

bản

quy

phạm pháp

luật và văn bản

hành

chính, trước họ

tên

của người ký, không

ghi

học hàm, học vụ

các

danh

hiệu danh dự

khác, trừ

văn bản của các

tổ

chức sự

nghiệp giáo dục, y tế, nghiên

cứu khoa học, trong

những

trường

hợp

cần thiết, có

thể

ghi

thêm

học hàm, học vị

Page 39: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

8. Dấu của cơ

quan, tổ

chứcViệc

đóng

dấu trên văn bản

được thực hiện

theo

quy

định

tại Nghị

định

số 110/2004/NĐ-CP ngày

08 tháng

4 năm

2004 của Chính phủ

về

công

tác

văn thư

quy

định

của pháp luật có liên quan

9. Nơi nhậnNơi nhận xác định

những

quan, tổ

chức, đơn vị

nhân

văn

bản với mục

đích

trach

snhiệm cụ

thể

như để kiểm tra, giám sát; để

xem

xét, giải quyết; để

thi

hành; để

trao

đổi

công

việc; để

biết và để

lưuNơi nhận phải

được xác định

cụ

thể

trong

văn bản. Căn cứ

quy

định

của pháp luật; căn cứ

chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan; căn cứ

yêu

cầu giải quyết công việc, đơn vị

hoặc cá nhân

soạn thảo hoặc chủ

trì

soạn thảo

trách

nhiệm để

xuất những

cơ quan, tổ

chức, đơn vị

nhân

nhận văn bản trình người ký văn

bản quyết

định.Đối với văn bản chỉ

gửi cho một số đối tượng

cụ

thể

thì

phải ghi tên

từng

quan, tổ

chức, cá

nhân

nhận văn bản; đối với văn bản được gửi cho một hoặc một số

nhóm

đối tượng

nhất

định

thì

nơi

nhận

được

ghi

chung

Page 40: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

10. Dấu chỉ

mức

độ

khẩn, mậta. Dấu chỉ

mức

độ

khẩn, mật

Việc xác định

mức

độ

khẩn của văn bản

được thực hiện như sau:

- Tuỳ

theo

mức

độ

cần

được

chuyển

phát

nhanh, văn bản

được xác

định

độ

khẩn theo ba mức sau: hoả

tốc, thượng

khẩn

hoặc khẩn;- Khi soạn thảo văn bản có tính chất khẩn, đơn vị

hoặc cá nhân

soạn thảo văn bản

đề

xuất mức

độ

khẩn trình người ký văn bản quyết

định

Dấu

độ

khẩn phải

được khắc sẵn theo hướng

dẫn tại

điểm k khoản 2 Mục

III của

Thông

này. Mực

dùng

để

đóng

dấu

độ

khẩn dùng mực màu đỏ

tươi.b. Dấu chỉ

mức

độ

mật

Việc xác định

đóng

dấu

độ

mật (tuyệt mật, tối mật hoặc mật), dấu thu hồi

đối với văn bản có nội

dung bí

mật nhà

nước

được thực hiện theo quy định

của pháp luật về

bảo vệ bí

mật nhà nước.

Page 41: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

11. Các

thành

phần thể

thức

khácCác

thành

phần thể

thức khác của văn bản

bao

gồm:

a, Địa chỉ

quan, tổ

chức; địa chỉ

E -

Mail; địa chỉ

trên

mạng (Website); số điện thoại, số

Telex, số

Fax đối với công văn, công

điện, giấy giới thiệu, giấy mời, phiếu gữi, phiếu chuyển

để

tạo

điều kiện thuận lợi cho việc liên hệ.

b, Các

chỉ

dẫn về

phạm vi lưu hành như

"Trả

lại

sau

khi

họp (hội nghị)", "xem

xong

trả

lại", "lưu hành nội bộ" đối với những

văn

bản có phạm vi, đối tượng

phổ

biến, sử

dụng

hạn chế

hoặc chỉ

dẫn về

sự

thảo văn bản như

"dự

thảo" hay "dự

thảo lần...". Các

chỉ

dẫn trên có thể được

đánh

máy

hoặc

dùng

con dấu khắc sẵn

để đóng

lên

văn bản hoặc dự

thảo văn bản;

c, ký

hiệu người

đánh

máy

số

lượng

bản phát hành đối với những bản cần

được quản lý chặt chẽ

về

số

lượng

bản

phát

hành;

d, Trường

hợp văn bản có phụ

lục

kèm

theo

thì

trong

văn bản phải có

chỉ

dẫn về

phụ

lục

đó. Phụ

lục văn bản phải có tiêu đề, văn bản

phải có từ

hai

phụ

lục trở

lên

thì

các

phụ

lục phải

được

đánh

số thứ

tự

bằng

số

La Mã;

đ. Số

trang: văn bản và phụ

lục văn bản gồm nhiều trang thì từ trang

thứ

hai

trở đi phải

được

đánh

số

thứ

tự

bằng

chữ

số ả-rập;

số

trang

củ

phụ

lục văn bản

được

đánh

riêng

theo

từng

phụ

lục.

Page 42: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

KỸ

THUẬT TRÌNH BÀY1. Khổ

giấy, kiểu

trình

bày

định

lề

trang

văn bản.

a. Khổ

giấyVăn bản quy phạm pháp luật và văn bản hành chính được

trình

bày

trên

giấy khổ

A4 (210 mm x 297 mm).Các

loại văn bản như

giấy giới thiệu, giấy biên nhận hồ

sơ,

phiếu gửi, phiếu chuyển có thể được

trình

bày

trên

khổ

A5 (148 mm x 210 mm) hoặc trên giấy mẫu in sẵn.b. Kiểu trình bàyVăn bản quy phạm pháp luật và văn bản hành chính được

trình

bày

theo

chiều dài của

trang

giấy khổ

A4 (định

hướng bản in theo chiều dài).

Trường

hợp nội

dung văn bản có các bảng, biểu nhưng không

được

làm

thành

các

phụ

lục riêng thì văn bản có thể

được

trình

bày

theo

chiều rộng

của trang giấy (định

hướng bản in theo chiều rộng).

Page 43: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

KỸ

THUẬT TRÌNH BÀY

c. Định

lề

trang

văn bản (đối với khổ

giấy A4)- Trang mặt trước:Lề

trên: cách

mép

trên

từ

20-25 mm;

Lề

dưới: cách

méo

dưới từ

20-25 mm;Lề

trái: cách

mép

trái

từ

30-35 mm;

Lề

phải: cách

mép

phải từ

15-20mm;- Trang mặt sau:Lề

trên: cách

mép

trên

từ

20-25 mm;

Lề

dưới

: cách

mép

dưới từ

20-25 mm;Lề

trái

: cách

mép

trái

từ

15-20 mm;

Lề

phải

: cách

mép

phải từ

30-35 mm;

Page 44: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

2. Kỹ

thuật trình bày các thành phần thể

thức văn bản.Vị

trí

trình

bày

các

thành

phần thể

thức văn bản trên một

trang

giấy khổ

A4 được thực hiện theo sơ đồ bố

trí

các thành

phần thwr thức văn bản

kèm

theo

Thông

này

(Phụ

lục

II). Vị

trí trình bày các thành phần thể

thức văn bản trên một trang giấy khổ

A5 được áp dụng

tương

tự

theo

sơ đồ

trên.Các

thành

phần thể

thức văn bản

được trình bày như

sau

:

a. Quốc hiệuQuốc hiệu

được trình bày tại ô số

1.

Dòng

chữ

trên

: "Cộng

hoà

hội chủ

nghĩa Việt

Nam" được

trình

bày

bằng

chữ

in hoa, cỡ

chữ

từ

12 đến

13, kiểu

chữ đứng, đậm.Dòng

chữ

dưới : "Độc lập - Tự

do -

Hạnh

phúc" được

trình

bày

bằng

chữ

in thường, cỡ

chư

từ

12 đến

13, kiểu chữ đứng, đậm; chữ

cái

đầu của các cụm từ được viết

hoa, giữa

các

cụm từ

gạch

ngang

nhỏ; phía

dưới có dòng kẻ

ngang, nét

liền, có

độ

dài

bằng

độ

dài

của

dòng

chữ.

Page 45: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

b. Tên

quan, tổ

chức

ban hành

văn bản.Tên

quan, tổ

chức ban hành văn bản

được

trình

bày

tại ô

số

2.Tên

quan, tổ

chức chủ

quản cấp trên trực tiếp

được trình

bày

bằng

chữ

in hoa, cỡ

chữ

từ

12 đến

13, kiểu chữ đứng.Tên

quan, tổ

chức ban hành văn bản

được

trình

bày

bằng

chữ

in hoa, cỡ

chữ

từ

12 đến

13, kiểu chữ đứng, đậm; phía dưới có đường

kẻ

ngang, nét

kiền, có

độ

dài

bằng

từ

1/3 đến

½

độ

dài

của

dòng

chữ

đặt cân đối so với

dòng

chữ.c. Số, ký

hiệu của văn bản.

Số, ký

hiệu của văn bản dược trình bày ở

ô số

3.Từ

"số" được trình bày bằng

chữ

in thường, ký

hiệu bằng

chữ

in hoa, cỡ

chữ

13, kiểu chữ đứng; sau

từ

"số" có

dấu hai chấm; giữa số, năm

ban hành

hiệu văn bản có dâu

gạch

chéo

(/); giữa

các

nhóm

chữ

viết tắt

trong

hiệu văn bản có dấu gạch

nối

không

cách

chữ

(-), ví

dụ

:

Số: 33/2002/NĐ-CP; Số: 15/QĐ-UBND; Số: 23/BC-BNV; Số: 234/SCN-VP.

Page 46: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

d. Địa

danh

ngày, tháng, năm

ban hành

văn bản.Địa

danh

ngày, tháng, năm ban hành

văn bản

được

trình

bày

ô só

4, bằng

chữ

in thường, cỡ

chữ

từ

13 đến

14, kiểu chữ nghiêng

; sau

địa danh có dấu phẩy.

dụ: Hà

Nội, ngày

05 tháng

02 năm 2008đ. Tên

loại

trích

yếu nội

dung văn bản.

Tên

loại

trích

yếu nội

dung của các loại văn bản có ghi tên loại được

trình

bày

tại ô số

5a; tên

loại văn bản (nghị định, nghị

quyết,

kế

hoạch, báo

cáo, tờ

trình

các

loại văn bản

khác) được

đặt canh

giữa (cân đối

giữa

dòng) bằng

chữ

in hoa, cỡ

chữ

từ

14 đến

15, kiểu chữ đứng, đậm; trích

yếu nội

dung văn bản

được

đặt canh

gữa, ngay

dưới tên loại văn bản, bằng

chữ

in thường, cỡ

chữ

14, kiểu chữ đứng, đậm; bên

dưới trích yếu có đường

kẻ

ngang, nét

liền, có

độ

dài

bằng

từ

1/3 đến 1/2 độ

dài

của dòng chữ

đặt

cân

đối với dòng chữ.Trích

yếu nội

dung công

văn

được

trình

bày

tại

ô só

5b, sau

chữ

viết tắt

"V/v" (Về

việc) bằng

chữ

in thường, cỡ

chữ

từ

12 đến

13, kiểu chữ đứng.

Page 47: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

e. Nội

dung văn bản.Nội

dung văn bản

được trình bày tại ô số

6.

- Phần nội

dung (văn bản) được trình bày bằng

chữ

in thường, cõ

chữ

từ

13 đến

14; khi

xuống

dòng, chữ đầu

dòng

thể

lùi

vào

từ

1 cách

mạng

đến 1,27 cách mạng

(1default tab); khoảng

cách

giữa các đoạn văn

(paragraph) đặt tối

thiểu

6pt; khoảng

cách

giữa

các

dòng

hay hay

cách

dòng (line spacing) chọn tối thiểu từ

cách

dòng

đơn

(single line

spacing) hoặc từ

15pt (exactly line spacing) trở

lên.-

Đối với những

văn bản

qui phạm

pháp

luật và văn bản hành

chính

phần căn cứ

pháp

để

ban hành

thì

sau

mỗi căn cứ

phải xuống

dòng

dấu chấm phẩy, riêng

căn cứ

cuỗi

cùng

kết thúc bằng

dấu phẩy.

Page 48: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

g. Chức vụ, họ

tên và

chữ

ký của người có

thẩm quyền- Quyền hạn, chức vụ

của người ký được

trình

bày

tại

ô số

7a; Chức vụ

khác

của người ký được

trình

bày tại ô số

7b; các

chữ

viết tắt

"TM"; "KT"; "TL",

"TUQ" hoặc

"Q" (quyền), quyền hạn và chức vụ

của người ký được

trình

bày

bằng

chữ

in hoa, cỡ

chữ

từ

13 đến

14, kiễu chữ đứng, đậm.- Họ

tên

của người ký văn bản và học làm, học vị

(nếu có) được

trình

bày

tại ô số

7b; bằng

chữ

in thường, cỡ

chữ

từ

13 đến

14, kiễu chữ đứng, đậm.

- Chữ

của người có thẩm

quyền

được

trình

bày

tại ô số

7c.

Page 49: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

h, Dấu của cơ

quan, tổ

chứcDấu của cơ

quan

tổ

chức

được trình bày tại ô số

8

I, Nơi nhậnNơi nhận

được

trình

bày

tại ô số

9a và

9b.

Phân

nơi nhận tại ô số

9 a (chỉ

áp

dụng

đối với văn bản hành chính) được

trình

bày

như

sau:

- Từ

"kính

gữi' và

tên

các

quan, tổ

chức hoặc cá nhân nhận văn bản

được trình bày bằng

chữ

in thường, cỡ

chữ

14, kiểu

chữ đứng;- Sau từ" kính

gửi" có

dấu

hai

chấm; nếu công văn gửi cho

một cơ

quan, tổ

chức hoặc một

nhân

thì

từ

"kính

gửi" và tên

quan, tổ

chức hoặc cá nhân được

trình

bày

trên

cùng

một

dòng; trường

hợp

công

văn gửi cho hai cơ

quan, tổ chức hoặc cá nhân trở

lên

thì

tên

mỗi cơ

quan, tổ

chức, cá

nhân

hoặc mỗi

nhóm

quan, tổ

chức, cá

nhân

được trình bày trên một

dòng

riêng, đầu dòng có gạch

ngang, cuối

dòng

dấu chấm phẩy, cuối

dòng

cuối cùng có dấu chấm.

Page 50: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

Phần nơi nhận tại ô số

9b (áp

dụng

chung

đối với công văn hành

chính

các

loại văn bản khác) được

trình

bày

như

sau:- Từ

"nơi nhận" được

trình

bày

trên

một

dòng

riêng, sau

đó có

dấu hai chấm, bằng

chữ

in thường, cỡ

chữ

12, kiểu chữ nghiêng, đậm;

- Phần liệt kê các cơ

quan, tổ

chức, đơn vị

nhân

nhận văn bản

được trình bày bằng

chữ

in thường, cỡ

chữ

11, kiểu chữ

đứng; tên

mỗi cơ

quan, tổ

chức, đơn vị

nhân

hoặc mỗi nhóm

quan, tổ

chức, đơn vịnhận văn bản

được trình bày

trên

một

dòng

riêng, đầu dòng có gạch

ngang, cuối

dòng

có dấu chấm phẩy; riêng

dòng

cuối cùng bao gồm chữ

"lưu"

sau

đó có dấu hai chấm, tiếp theo là chữ

viết tắt "VT"( văn thư

quan, tổ

chức), chữ

viết tắt tên đơn vị

(hoặc bộ

phận)

soạn thảo văn bản và số

lượng

bản lưu (chỉ

trong

những trường

hợp cần thiết) được

đặt

trong

ngoặc

đơn, cuối cùng

dấu chấm.

Page 51: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

k. Dấu chỉ

mức

độ

khẩn, mậtMẫu dấu

độ

mật (tuyệt mật, tối mật hoặc mật) và

dấu

thi

hồi

đối với văn bản có nội

dung bí

mật

nhà

nước được thực hiện

theo

quy

định

của

pháp

luật về

bảo

vệ

mật

nhà

nước. Dấu

độ

mật

được

đóng

vào

ô số 10a, dấu thu hồi

được

đóng

vào

ô số

11. dấu

độ

khẩu

được

đóng

vào

ô số

10b. Con dấu các độ

khẩn có hình

chữ

nhật, trên

đó, các

từ

"hoả

tốc“,

"thượng

khẩn" hoặc "khẩn" được

trình

bày

bằng

chữ in hoa, cỡ

chữ

từ

13 đến

14, kiểu chữ đứng, đậm và

được

đặt

cân

đối

trong

khung

chữ

nhật viền

đơn, có kích

thước tương

ứng

30mmx8mm, 40mmx8mm

20mm x 8mm

Page 52: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

3. Các

thành

phần thể

thức

khácCác

thành

phần thể

thức khác được trình bày như

sau:

- Các chỉ

dẫn về

phạm vi lưu hành được

trình

bày

tại ô số

11; các cụm từ

"trả

lại

sau

khi

họp (hội nghị)", "xem

xong

trả

lại" , “lưu

hành

nội bộ" được trình bày cân đối trong một

khung

hình

chữ nhật viền

đơn, bằng

chữ

in hoa, cỡ

chữ

từ

13 đến

14, kiểu chữ

đứng, đậm- Chỉ

dẫn về

dự

thảo văn bản

được

trình

bày

tại ô số

12; từ

"dự

thảo" hoặc cụm từ

"dự

thảo lần…”

được

trình

bày

trong

một khung

hình

chữ

nhật viền

đơn, bằng

chữ

in hoa, cỡ

chữ

từ

13 đến

14, kiểu chữ đứng, đậm;- Ký hiệu người

đánh

máy

số

lượng

bản phát hành được trình

bày

tại ô số

13; ký

hiệu bằng

chữ

in hoa, số

lượng

bản bằng

chữ

số ả

- rập, cỡ

chữ

11, kiểu chữ đứng;

-

Địa chỉ

quan, tổ

chức; địa chỉ

E-Mail; địa chỉ

trên

mạng (Website); số địên

thoại, số

Telex, số

Fax được

trình

bày

trên

trang

đầu của văn bản, tại ô số

14, bằng

chữ

in thường, cỡ

chữ

từ 11 đến

12, kiểu chữ đứng, dưới một

đường

kẻ

nét

liền kéo dài hết

bề

ngang

của vùng trình bày văn bản;

Page 53: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

- Phụ

lục văn bản: phụ

lục kèm theo văn bản

được trình bày trên

các

trang

giấy

riêng; từ

"phụ

lục" và

số

thứ

tự

của phụ

lục (trường

hợp có từ

hai

phụ

lục trở

lên) được

trình

bày trên

một

dòng

riêng, canh

giữa, bằng

chữ

in thường, cỡ

chữ

14, kiểu chữ đứng

đậm, tiêu

đề

(tên) của phục lục

được trình bày canh giữa, bừng

chữ

in hoa, cỡ

chữ

từ

13 đến 14, kiểu

chữ đứng, đậm;-

Số

trang

của văn bản: được trình bày tại

chính

giữa trên đầu

trang

giấy (phần

heaher) hoặc tại góc phải, ở

cuối

trang

giấy (phần

footer) bằng

chữ

số ả - rập, cỡ

chữ

bằng

cỡ

chữ

của

phần lời văn

(13-14), kiểu chữ đứng-

Mẫu chữ

chi tiết

trình

bày

các

thành

phần thể

thức văn

bản

được minh hoạ

tại Phụ

lục IV- Mẫu chữ

chi tiết trình bày

thể

thức văn bản và thể

thức bản

sao

keo

theo

-

Phông

chữ: VnTime

đối với chữ

in thường

VnTimeH

đối với chữ

in hoa. (hoặc

Times New Roman)

Page 54: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

1

ĐỀ CƯƠNG GIỚI THIỆU

LUẬT BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT

I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT

Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2002 là công cụ trực tiếp xác lập trật tự, kỷ cương trong hoạt động lập pháp nhờ đó, công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam ngày càng có nhiều tiến bộ, cải thiện hệ thống pháp luật cả về số lượng các văn bản quy phạm pháp luật và chất lượng của hệ thống pháp luật. Việc triển khai thực hiện các luật này, một mặt, đã giúp đẩy nhanh quá trình xây dựng hệ thống pháp luật và mặt khác, đã tạo sự chuyển biến một bước về chất trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật nói chung và trong hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật nói riêng; cơ bản đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân theo đường lối, chính sách của Đảng.

Bên cạnh những thành tựu nêu trên, trong công tác xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật hiện nay vẫn còn những tồn tại, hạn chế lớn như sau:

Thứ nhất, về việc lập chương trình xây dựng luật, pháp lệnh

Về nguyên tắc, việc lập chương trình xây dựng luật, pháp lệnh là giai đoạn hết sức quan trọng, cần có sự nghiên cứu kỹ lưỡng, nhằm xác định nhu cầu xã hội, chính sách pháp luật phù hợp để giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội phát sinh, cũng như để điều chỉnh công tác quản lý của Nhà nước. Tuy nhiên, hiện nay việc lập chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhìn chung còn chưa thực sự khoa học, thiếu những định hướng chính sách pháp luật, làm cho quá trình soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật ít nhiều gặp khó khăn, lúng túng, ảnh hưởng đến tiến độ và chất lượng soạn thảo văn bản. Một số luật, pháp lệnh được ban hành thiếu tính khả thi hoặc chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ quản lý nhà nước và phát triển kinh tế - xã hội, gây lãng phí các nguồn lực.

Mặt khác, việc lập chương trình xây dựng luật, pháp lệnh cũng chưa quan tâm đúng mức đến việc xác định thứ tự ưu tiên của văn bản, dẫn đến trên thực tế có văn bản thực sự cần thiết lại chưa được ban hành hoặc có văn bản cần ban hành trước, nhưng lại được ban hành sau.

Thứ hai, về việc soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật

- Chưa có sự phân công thật rành mạch và hợp lý giữa các cơ quan trong quá trình soạn thảo, chưa có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan liên quan trong quá trình đó, dẫn đến tình trạng chờ đợi, dựa dẫm nhau, làm chậm tiến độ soạn thảo và giảm chất lượng của văn bản (ví dụ: chưa quy định hợp lý trách nhiệm của cơ quan trình, cơ quan chủ trì soạn thảo, ban soạn thảo, ...).

Page 55: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

2

- Còn thiếu các quy định bảo đảm việc soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật phải dựa trên những nghiên cứu, đánh giá khoa học, đánh giá ảnh hưởng dự kiến của những chính sách pháp luật hoặc những quy định của pháp luật sẽ được ban hành; các kết quả nghiên cứu, đánh giá đã có cũng chưa được công bố rộng rãi hoặc cung cấp đầy đủ cho các cơ quan có thẩm quyền như Chính phủ, Quốc hội khi xem xét, thảo luận, thông qua văn bản.

- Quy trình soạn thảo văn bản chưa phát huy triệt để sự tham gia của các tổ chức, cá nhân liên quan. Việc lấy ý kiến của nhân dân, của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản còn hình thức; thiếu cơ chế đề cao trách nhiệm của cơ quan soạn thảo trong việc nghiên cứu, tiếp thu để chỉnh lý dự thảo.

- Chưa có cơ chế giải quyết tốt mối quan hệ giữa luật, pháp lệnh với việc soạn thảo các văn bản quy định chi tiết thi hành theo hướng bảo đảm cho luật, pháp lệnh đi vào cuộc sống đúng vào thời điểm có hiệu lực.

Thứ ba, về quy trình thảo luận, xem xét, thông qua dự thảo văn bản của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội

Vai trò của cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự thảo luật, pháp lệnh chưa được quy định đúng mức, đầy đủ trong việc bảo vệ, giải trình trước Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội về dự thảo, nhất là trong trường hợp dự thảo luật, pháp lệnh được xem xét, thông qua tại hai kỳ họp, hai phiên họp, dẫn đến việc hướng dẫn thi hành và triển khai thi hành một số văn bản gặp khó khăn nhất định và trong một số trường hợp dẫn đến sự không rõ ràng về trách nhiệm trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Thứ tư, về vấn đề áp dụng văn bản quy phạm pháp luật

Quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành còn nhiều chồng chéo, trùng lắp, mâu thuẫn do hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đang rất phức tạp, nhiều tầng nấc, nhiều chủ thể có thẩm quyền ban hành với nhiều hình thức văn bản quy phạm pháp luật khác nhau; thiếu quy định ràng buộc trách nhiệm của các cơ quan trong việc hợp nhất, pháp điển hoá văn bản quy phạm pháp luật, càng làm cho việc tra cứu, áp dụng pháp luật gặp khó khăn hơn. Mặt khác, việc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật trên thực tế cũng chưa thống nhất, bởi thiếu một số quy định có tính nguyên tắc về áp dụng pháp luật, dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau về áp dụng văn bản.

Do những tồn tại, hạn chế lớn nêu trên, năm 2002, đồng thời với việc phải khẩn trương sửa đổi, bổ sung Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996, tập trung vào đổi mới quy trình thông qua luật, pháp lệnh và việc minh bạch hoá quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, Quốc hội đã giao Chính phủ tiếp tục nghiên cứu để trình Quốc hội xem xét sửa đổi Luật này một cách toàn diện hơn. Do vậy, việc tiếp tục sửa đổi Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật lần này là cần thiết, nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế và vướng mắc phát sinh trong thực tiễn thi hành Luật, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật theo Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005

Page 56: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

3

của Bộ Chính trị và các cam kết của nước ta khi gia nhập WTO.

Ngày 02 tháng 6 năm 2008 tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 thay thế Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2002.

II. NHỮNG QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VIỆC XÂY DỰNG, BAN HÀNH LUẬT BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT

Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 được xây dựng, ban hành dựa trên các quan điểm chỉ đạo sau đây:

- Thể chế hoá các quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về đổi mới quy trình lập pháp, lập quy, về hội nhập kinh tế quốc tế, bảo đảm tăng cường dân chủ, công khai, minh bạch trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật;

- Bảo đảm sự phù hợp của Luật với Hiến pháp và tính thống nhất của Luật trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật;

- Bảo đảm tính kế thừa, luật hoá một số quy định của các văn bản dưới luật liên quan đến hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã được thực tiễn kiểm nghiệm; giải quyết những vướng mắc phát sinh trong quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật;

- Thể hiện tinh thần cải cách hành chính thông qua việc phân định rõ hơn trách nhiệm của các cơ quan tham gia vào quá trình xây dựng, ban hành văn bản, đơn giản hoá các hình thức văn bản quy phạm pháp luật;

- Tiếp tục đổi mới quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, nhằm đẩy nhanh tiến độ soạn thảo, ban hành văn bản, nhưng vẫn phải bảo đảm chất lượng của văn bản; tăng cường trách nhiệm của các cơ quan tham mưu trong việc bảo đảm chất lượng của dự thảo, cũng như kỹ thuật soạn thảo văn bản để Chính phủ, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Quốc hội dành nhiều thời gian tập trung vào thảo luận, biểu quyết những chính sách lớn, những vấn đề lớn của dự thảo văn bản.

III. BỐ CỤC CỦA LUẬT

Luật gồm 12 chương, 95 điều được bố cục như sau:

Chương I - Những quy định chung (từ Điều 1 đến Điều 10), gồm các quy định về khái niệm văn bản quy phạm pháp luật; hệ thống văn bản quy phạm pháp luật; các nguyên tắc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật và một số quy định chung khác.

Chương II - Nội dung văn bản quy phạm pháp luật (từ Điều 11 đến Điều 21) quy định về nội dung điều chỉnh của mỗi hình thức văn bản quy phạm pháp luật, gồm nội dung của Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; nội dung của pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội;...

Chương III - Quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp

Page 57: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

4

Với mục đích nâng cao hiệu quả của công tác xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội, tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế và nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước, Luật đã

luật của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội (từ Điều 22 đến Điều 57).

Chương này gồm 6 mục: Mục 1 - Lập chương trình xây dựng luật, pháp lệnh. Mục 2 - Soạn thảo luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Mục 3 - Thẩm tra dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết. Mục 4 - Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét, cho ý kiến về dự án luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội. Mục 5 - Thảo luận, tiếp thu, chỉnh lý và thông qua dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết. Mục 6 - Công bố văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Chương IV, V, VI và VII từ Điều 58 đến Điều 74 quy định quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước và văn bản quy phạm pháp luật liên tịch.

Chương VIII - Xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo quy trình rút gọn (từ Điều 74 đến Điều 77), quy định các trường hợp xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo trình tự, thủ tục rút gọn; hồ sơ trình dự án, dự thảo và việc xem xét, thông qua dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật theo trình tự, thủ tục rút gọn.

Chương IX - Hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật và nguyên tắc áp dụng, công khai văn bản quy phạm pháp luật (từ Điều 78 đến Điều 84) trong đó quy định cụ thể thời điểm có hiệu lực và việc đăng Công báo văn bản quy phạm pháp luật, vấn đề hiệu lực trở về trước, ngưng hiệu lực, những trường hợp văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực, hiệu lực về không gian và đối tượng áp dụng và việc đăng tải, đưa tin văn bản quy phạm pháp luật.

Chương X - Giải thích văn bản quy phạm pháp luật (Điều 85 và Điều 86) gồm các quy định về thẩm quyền giải thích luật, pháp lệnh; xây dựng, ban hành dự thảo nghị quyết giải thích luật, pháp lệnh.

Chương XI - Giám sát, kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật, hợp nhất văn bản và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật (từ Điều 87 đến Điều 93), quy định việc kiểm tra, giám sát, nội dung kiểm tra, giám sát văn bản quy phạm pháp luật, xử lý và thẩm quyền xử lý văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái pháp luật, việc hợp nhất, rà soát, hệ thống hóa, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật.

Chương XII - Điều khoản thi hành (Điều 94 và Điều 95) quy định thời điểm có hiệu lực thi hành của Luật, kinh phí xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.

IV. MỘT SỐ ĐIỂM MỚI CỦA LUẬT BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT

Page 58: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

5

sửa đổi một cách toàn diện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật từ khâu lập dự kiến chương trình, soạn thảo, thẩm định, thẩm tra và thông qua văn bản theo hướng tăng cường trách nhiệm của các cơ quan tham mưu trong việc soạn thảo, thẩm định, thẩm tra, chỉnh lý dự thảo, cơ quan ban hành chỉ tập trung vào việc thảo luận và quyết định chính sách. Bên cạnh đó, Luật cũng bổ sung các quy định nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm hệ thống pháp luật có chất lượng, công khai, minh bạch, dễ tiếp cận và có tính khả thi cao.

Sau đây là một số điểm mới quan trọng của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật :

1. Thu gọn các loại văn bản quy phạm pháp luật

Theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của nước ta bao gồm hơn 20 loại văn bản, do nhiều cơ quan có thẩm quyền khác nhau ban hành; mỗi cơ quan ban hành từ 2 đến 3 loại văn bản. Điều này làm cho hệ thống văn bản quy phạm pháp luật rất phức tạp, việc theo dõi, áp dụng và xác định thứ bậc hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật gặp không ít khó khăn, đặc biệt là khó xác định được khi nào, về vấn đề gì thì cần ban hành văn bản quy phạm pháp luật dưới hình thức nào.

Nhằm khắc phục tình trạng nêu trên, đơn giản hóa hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, Điều 2 của Luật quy định một số cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản chỉ ban hành văn bản quy phạm pháp luật dưới một hình thức văn bản. Theo đó, Chính phủ chỉ ban hành văn bản quy phạm pháp luật dưới hình thức nghị định, thay vì nghị quyết và nghị định; Thủ tướng Chính phủ chỉ ban hành văn bản quy phạm pháp luật dưới hình thức quyết định, thay vì chỉ thị và quyết định; Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Toà án nhân dân tối cao chỉ ban hành văn bản quy phạm pháp luật dưới hình thức thông tư, thay vì quyết định, chỉ thị, thông tư như trước đây.

Tuy nhiên, để phù hợp với quy định của Luật Kiểm toán, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 bổ sung thẩm quyền của Tổng Kiểm toán Nhà nước trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật dưới hình thức quyết định.

2. Văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành phải được ban hành để có hiệu lực cùng thời điểm có hiệu lực của văn bản, điều, khoản, điểm được quy định chi tiết

Để khắc phục tình trạng luật, pháp lệnh chờ nghị định, nghị định chờ thông tư…, cũng như tình trạng hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh một cách tràn lan, thậm chí sao chép lại các quy định của luật, pháp lệnh, các quy định của Luật đặt ra các yêu cầu cụ thể:

- Văn bản quy phạm pháp luật phải quy định trực tiếp nội dung cần điều chỉnh, không quy định chung chung (khoản 2 Điều 5 của Luật).

Page 59: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

6

- Văn bản quy phạm pháp luật phải được quy định cụ thể để khi văn bản đó có hiệu lực thì thi hành được ngay, chỉ trường hợp văn bản có nội dung liên quan đến quy trình, quy chuẩn kỹ thuật, những vấn đề chưa có tính ổn định cao thì có thể giao cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định chi tiết. Cơ quan được giao ban hành văn bản quy định chi tiết không được uỷ quyền tiếp (khoản 1 Điều 8 của Luật).

- Xác định trách nhiệm của cơ quan ban hành khi ban hành văn bản quy phạm pháp luật mới phải đồng thời sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ, bãi bỏ văn bản, điều, khoản, điểm của văn bản quy phạm pháp luật do mình đã ban hành trái với quy định của văn bản mới (dù là văn bản luật, pháp lệnh hay là văn bản quy định chi tiết); có trách nhiệm sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ, bãi bỏ văn bản, điều, khoản, điểm của văn bản đã ban hành trái với quy định của văn bản quy phạm pháp luật mới trước khi văn bản, điều, khoản, điểm mới đó có hiệu lực (khoản 2 Điều 9 của Luật).

- Văn bản quy định chi tiết phải quy định cụ thể, không lặp lại nội dung của văn bản được quy định chi tiết và phải được ban hành để có hiệu lực cùng thời điểm có hiệu lực của văn bản hoặc điều, khoản, điểm được quy định chi tiết (khoản 2 Điều 8 của Luật).

- Trong trường hợp một cơ quan được giao ban hành quy định chi tiết về nhiều nội dung của một văn bản quy phạm pháp luật thì có thể ban hành một văn bản để quy định chi tiết nhiều nội dung của một văn bản hoặc các nội dung của nhiều văn bản khác nhau (khoản 3 Điều 8 của Luật)

- Quy định cơ quan chủ trì soạn thảo dự án luật, pháp lệnh có trách nhiệm kiến nghị việc phân công cơ quan soạn thảo văn bản quy định chi tiết thi hành các điều, khoản, điểm của dự thảo (khoản 8 Điều 33 của Luật).

- Áp dụng kỹ thuật "một văn bản sửa nhiều văn bản", theo đó, một văn bản quy phạm pháp luật có thể được ban hành để sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ, bãi bỏ nhiều văn bản do cùng một cơ quan ban hành...(khoản 3 Điều 9 của Luật)

Như vậy, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 đặt ra yêu cầu văn bản quy phạm pháp luật phải được quy định chi tiết, cụ thể, rõ ràng để khi có hiệu lực thì thi hành được ngay, hạn chế tình trạng giao Chính phủ ban hành quá nhiều văn bản hướng dẫn chi tiết và bỏ quy định giao Chính phủ ban hành nghị định để hướng dẫn toàn bộ nội dung của luật, pháp lệnh một cách chung chung. Các nội dung cần được quy định chi tiết phải được giới hạn cụ thể hơn và việc uỷ quyền ban hành văn bản quy định chi tiết phải tuân theo nguyên tắc cơ quan đã được giao ban hành văn bản quy định chi tiết phải ban hành văn bản, không được phép uỷ quyền tiếp cho cơ quan khác ban hành văn bản quy định chi tiết. Đồng thời, với yêu cầu việc ban hành văn bản quy định chi tiết phải được thực hiện trước khi văn bản, điều, khoản, điểm được quy định chi tiết có hiệu lực để có hiệu lực cùng thời điểm có hiệu lực của văn bản hoặc điều, khoản, điểm được quy định chi tiết, sẽ hạn chế được tình trạng văn bản quy định

Page 60: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

7

chi tiết được ban hành chậm, việc soạn thảo kéo dài làm ảnh hưởng đến hiệu lực của văn bản được hướng dẫn.

Ngoài ra, nhằm hạn chế tình trạng một cơ quan được giao nhiệm vụ quy định chi tiết nhiều nội dung của một văn bản quy phạm pháp luật phải ban hành nhiều văn bản để quy định chi tiết các nội dung đó, Luật quy định theo hướng trừ trường hợp cần phải quy định trong nhiều văn bản khác nhau, cơ quan được giao quy định chi tiết soạn thảo, ban hành một văn bản để quy định chi tiết các nội dung cần hướng dẫn thi hành. Trong trường hợp một cơ quan được giao quy định chi tiết các nội dung ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau thì có thể ban hành một văn bản để quy định chi tiết (khoản 3 Điều 8).

3. Áp dụng kỹ thuật “một văn bản sửa nhiều văn bản”

Quy trình lập pháp, lập quy chặt chẽ, nhiều công đoạn là nhằm mục đích bảo đảm có sự tham gia của nhiều cơ quan, tổ chức, công dân, bảo đảm trách nhiệm của các cơ quan đối với chất lượng của dự án, dự thảo. Do vậy, việc cắt bỏ một khâu nào trong quy trình này khi xây dựng một văn bản sửa đổi, bổ sung một văn bản đều khó thuyết phục mặc dù giữa việc soạn thảo một văn bản hoàn toàn mới với việc sửa đổi một vài điều hoặc chỉ rất ít điều, thậm chí 1 hoặc 2 điều là có sự khác nhau. Với trình tự soạn thảo, ban hành văn bản được quy định chặt chẽ, khi soạn thảo văn bản, mỗi Ban soạn thảo hoặc cơ quan chủ trì soạn thảo chỉ quan tâm đến việc soạn thảo hoặc sửa đổi, bổ sung một dự án, dự thảo. Việc sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật thường áp dụng theo trình tự xây dựng, ban hành văn bản mới.

Việc nghiên cứu, sửa đổi đồng thời một lúc nhiều văn bản cho phép tuân thủ các bước tối thiểu của quy trình xây dựng, ban hành văn bản mà vẫn bảo đảm đúng chức năng, thẩm quyền của các cơ quan, đồng thời khắc phục được sự mâu thuẫn của hệ thống pháp luật, khắc phục được sự lãng phí về thời gian nghiên cứu, thời gian tổ chức soạn thảo, thông qua văn bản cũng như tiết kiệm kinh phí nghiên cứu, soạn thảo, ban hành văn bản.

Chính vì lý do trên, Khoản 3 Điều 9 của Luật quy định “Một văn bản quy phạm pháp luật có thể được ban hành để đồng thời sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ, bãi bỏ nội dung trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật do cùng một cơ quan ban hành”. Như vậy, trong trường hợp có nhiều văn bản cần phải sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ, bãi bỏ do cùng một cơ quan ban hành, cơ quan đó chỉ cần ban hành một văn bản để sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ, bãi bỏ tất cả các nội dung đó mà không cần phải ban hành nhiều văn bản để sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ, bãi bỏ từng văn bản.

4. Trách nhiệm xây dựng báo cáo đánh giá tác động

Nhằm tiết kiệm thời gian, công sức, kinh phí và tăng cường hiệu quả của việc xây dựng và thực hiện chương trình xây dựng luật, pháp lệnh và chương trình xây dựng nghị định, tránh tình trạng đưa vào chương trình cả những văn bản mà tính thực tế, tính khả thi và tính hợp lý còn thấp, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 quy định đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh, nghị

Page 61: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

8

định phải được gửi kèm báo cáo đánh giá tác động sơ bộ của văn bản (Khoản 1 Điều 23, Khoản 1 Điều 59 của Luật).

Để cung cấp thêm thông tin cho cơ quan có thẩm quyền cũng như các đối tượng liên quan trong việc xem xét, thảo luận, thông qua văn bản, đồng thời, nhằm nâng cao trách nhiệm của cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo phải bảo đảm chất lượng của dự thảo, Luật quy định cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo văn bản có trách nhiệm xây dựng báo cáo đánh giá tác động của văn bản. Nội dung báo cáo phải nêu rõ được các vấn đề cần giải quyết và các giải pháp đối với từng vấn đề đó, chi phí, lợi ích của các giải pháp, so sánh chi phí- lợi ích của các giải pháp (Khoản 2 Điều 33 và Khoản 2 Điều 61 của Luật).

Đánh giá tác động pháp luật (viết tắt Tiếng Anh là RIA)1 là một tập hợp các bước lôgíc hỗ trợ cho việc chuẩn bị các đề xuất chính sách. Nó bao gồm việc nghiên cứu sâu các hoạt động đi kèm với quá trình xây dựng chính sách và chính thức hóa các kết quả nghiên cứu bằng một bản báo cáo độc lập. Tiến hành RIA bao gồm việc trả lời một số câu hỏi chủ yếu sau: Đâu là bản chất, mức độ và sự phát triển của vấn đề? Đâu là các mục tiêu mà quốc gia theo đuổi? Đâu là các tác động về môi trường, xã hội và kinh tế của các lựa chọn chính sách? Đâu là ưu và nhược điểm của các lựa chọn chính sách chính? Việc giám sát và đánh giá về sau được tổ chức như thế nào?

Thực hiện RIA là bảo đảm, thu hút sự tham gia của công chúng vào quá trình hoạch định chính sách. Quá trình thực hiện RIA giúp cơ quan soạn thảo có cái nhìn tổng thể, toàn diện về vấn đề sẽ được giải quyết trong văn bản, trong đó bao gồm những đánh giá mặt được và mặt hạn chế của các phương án đưa ra; từ đó tham mưu cho cơ quan có thẩm quyền hướng giải quyết đúng và sát thực hơn. Về phía cơ quan ban hành, RIA chính là nguồn cung cấp thông tin đầy đủ, toàn diện về các phương án lựa chọn, không lựa chọn – làm cơ sở để các thành viên Chính phủ, đại biểu Quốc hội, thảo luận, quyết định phương án giải quyết vấn đề một cách phù hợp, hiệu quả và kinh tế.

Đứng về mặt ban hành chính sách mang tính vĩ mô, RIA mang lại những kết quả sau đây:

Thứ nhất: giảm bớt rủi ro các lỗi về chính sách, vì các cơ quan có thẩm quyền đã:

- Xác định được mục tiêu của việc ban hành văn bản;

- Đánh giá tác động đầy đủ sự thay đổi dự kiến;

- Xác định và đánh giá các phương án lựa chọn để đạt được mục tiêu;

- Đảm bảo tính hài hoà, thống nhất với các phương án đang sử dụng;

- Biết trước là liệu lợi ích có lớn hơn chi phí hay không;

- Đảm bảo quá trình xây dựng chính sách có sự tham gia của người dân và đảm bảo tính minh bạch của việc xây dựng chính sách;

1 (Regulatory Impact Assesment )

Page 62: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

9

Vì vậy, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 quy định trong quá trình soạn thảo, toàn văn dự thảo văn bản quy phạm pháp luật phải được đăng tải trên Trang thông tin điện tử của Chính phủ hoặc của cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo trong thời gian ít nhất là 60 ngày để cơ quan, tổ chức, cá nhân có thời gian tiếp cận, chủ động nghiên cứu, tham gia ý kiến (khoản 1 Điều 35, khoản 2 Điều 61, khoản 1 Điều 62, khoản 2 Điều 67, khoản 2 Điều 68, khoản 2 Điều 69, khoản 2 Điều 70, khoản 2 Điều 71, khoản 2 Điều 72, khoản 3 Điều 73 và khoản 3 Điều 74 của Luật); cơ quan tổ chức lấy ý kiến có trách nhiệm nghiên cứu các ý kiến góp ý để tiếp thu, chỉnh lý dự thảo văn bản. Ngoài ra, Luật cũng quy định rõ thời điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật phải được quy định ngay trong văn bản nhưng không sớm hơn 45 ngày, kể từ ngày công bố hoặc ngày ban hành để các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thời gian

- Tính đến bảo đảm tuân thủ các thoả thuận quốc tế.

Thứ hai: cải thiện tình hình lạm phát về văn bản quy phạm pháp luật, vì văn bản chỉ được ban hành sau khi đã cân nhắc tương đối đầy đủ các tác động kinh tế - xã hội và thấy lợi ích của việc thi hành lớn hơn chi phí.

Về nguyên tắc, cơ quan nào đề xuất các biện pháp thực hiện thì cơ quan đó chịu trách nhiệm thực hiện RIA. Điều này không hạn chế quyền thuê các chủ thể khác đánh giá ở một số công đoạn nhất định, nhưng cơ quan đề xuất phải là người chịu trách nhiệm về nội dung đánh giá.

RIA là một quá trình gồm nhiều giai đoạn, từ lúc đề xuất xây dựng chương trình cho đến khi ban hành văn bản. Tuy nhiên, ở giai đoạn đề xuất đưa vào chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (tức là giai đoạn đánh giá để giúp xác định liệu có đưa vào chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật không), thì việc đánh giá chỉ dừng ở mức độ sơ bộ.

Trong quá trình soạn thảo văn bản, cơ quan được giao soạn thảo chịu trách nhiệm thực hiện RIA tổng thể (đánh giá tổng thể). Nội dung của bản đánh giá phải luôn luôn được bổ sung cùng với quá trình chỉnh lý dự thảo. Đặc biệt là sau giai đoạn thẩm định, giai đoạn trình, giai đoạn thẩm tra.

5. Công khai, minh bạch trong xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật và công bố, công khai văn bản quy phạm pháp luật

Công khai, minh bạch của hệ thống pháp luật nói chung cũng như trong xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật là vấn đề được đặc biệt quan tâm trong việc sửa đổi Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật lần này. Việc công khai, minh bạch từ khâu soạn thảo cho đến khâu ban hành không những giúp cho người dân sớm biết được định hướng chính sách, pháp luật trong tương lai để chuẩn bị các điều kiện cho việc thực hiện mà còn là một trong những kênh để người dân có thể tham gia vào hoạt động xây dựng thể chế, làm cho pháp luật phản ánh được sát hơn ý chí, nguyện vọng của nhân dân... Đây cũng là một nội dung quan trọng nhằm thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đã được đề ra trong nhiều Nghị quyết của Đảng. Đồng thời, cũng là để thực hiện các cam kết của Việt Nam khi gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO).

Page 63: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

01

Quy trình soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2002) là rất chặt chẽ, phải qua nhiều bước để bảo đảm chất lượng của văn bản. Tuy nhiên, quy trình này, nếu áp dụng cho tất cả các văn bản, thì sẽ

chuẩn bị các điều kiện cần thiết để thực hiện (đoạn 1 khoản 1 Điều 78 của Luật); văn bản quy phạm pháp luật không đăng Công báo thì không có hiệu lực, trừ trường hợp văn bản có nội dung thuộc bí mật nhà nước và văn bản ban hành trong tình trạng khẩn cấp, văn bản được ban hành để kịp thời đáp ứng yêu cầu phòng chống thiên tai, dịch bệnh; văn bản quy phạm pháp luật đăng trên Công báo là văn bản chính thức và có giá trị như văn bản gốc (khoản 2 Điều 78 của Luật).

Bên cạnh đó, Luật quy định trách nhiệm của cơ quan ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong thời hạn chậm nhất là hai ngày làm việc, kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành, phải gửi văn bản đến cơ quan Công báo để đăng Công báo; trách nhiệm của cơ quan Công báo phải đăng toàn văn văn bản quy phạm pháp luật trên Công báo chậm nhất là mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được văn bản (khoản 2 Điều 78 của Luật).

6. Quy định trách nhiệm của các Bộ, cơ quan, tổ chức hữu quan trong việc phát biểu ý kiến về những vấn đề của dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết liên quan đến ngành, lĩnh vực do mình phụ trách

Nhằm nâng cao chất lượng dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết và tạo điều kiện cho các cơ quan có thẩm quyền có thêm cơ sở thuyết phục khi xem xét, đánh giá các quy định của dự án, dự thảo, Luật quy định các cơ quan, tổ chức hữu quan có trách nhiệm góp ý kiến bằng văn bản về dự án, dự thảo, trong đó, Bộ Tài chính có trách nhiệm góp ý kiến về nguồn tài chính, Bộ Nội vụ có trách nhiệm góp ý về nguồn nhân lực, Bộ Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm góp ý kiến về tác động đối với môi truờng, Bộ Ngoại giao có trách nhiệm góp ý kiến về sự tương thích với điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên (Khoản 3 Điều 35 của Luật).

Cũng với mục đích nâng cao chất lượng của dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, Luật bổ sung quy định về chỉnh lý, hoàn thiện dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và dự thảo nghị định của Chính phủ trước khi trình Chính phủ. Theo đó, trong trường hợp còn có ý kiến khác nhau giữa các bộ, cơ quan ngang bộ về những vấn đề lớn thuộc nội dung của dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết, nghị định thì Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ triệu tập cuộc họp gồm đại diện lãnh đạo cơ quan chủ trì soạn thảo, Bộ Tư pháp, các bộ, cơ quan ngang bộ có liên quan để giải quyết trước khi trình Chính phủ xem xét, quyết định. Căn cứ vào ý kiến tại cuộc họp này, cơ quan chủ trì soạn thảo phối hợp với các cơ quan có liên quan tiếp tục chỉnh lý, hoàn thiện dự án, dự thảo để trình Chính phủ (Điều 38 và Điều 65 của Luật).

7. Xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo trình tự, thủ tục rút gọn

Page 64: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

11

cứng nhắc và thiếu hiệu quả, vì trên thực tế có những văn bản có nội dung sửa đổi, bổ sung đơn giản, là do hệ quả, tác động của các văn bản quy phạm pháp luật khác nhằm bảo đảm thống nhất với nội dung của các văn bản đã được ban hành trước đó; hoặc có những văn bản cần được ban hành trong trường hợp khẩn cấp, nhằm đáp ứng kịp thời yêu cầu quản lý nhà nước, bảo đảm lợi ích chung.

Vì vậy, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 đã bổ sung một chương (Chương VIII, từ Điều 75 đến Điều 77 của Luật) quy định về xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo trình tự, thủ tục rút gọn. Theo đó, việc áp dụng trình tự, thủ tục rút gọn chỉ được thực hiện trong trường hợp khẩn cấp hoặc cần sửa đổi ngay cho phù hợp với văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành. Đồng thời, thủ tục rút gọn cũng chỉ áp dụng đối với việc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Thẩm quyền quyết định áp dụng thủ tục rút gọn được quy định như sau: Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định việc áp dụng trình tự, thủ tục rút gọn trong xây dựng, ban hành pháp lệnh, nghị quyết của mình và trình Quốc hội xem xét quyết định việc áp dụng trình tự, thủ tục rút gọn trong xây dựng, ban hành luật, nghị quyết của Quốc hội; Chủ tịch nước quyết định việc áp dụng trình tự, thủ tục rút gọn trong xây dựng, ban hành lệnh, quyết định của Chủ tịch nước; Thủ tướng Chính phủ quyết định việc áp dụng trình tự, thủ tục rút gọn trong xây dựng, ban hành nghị định của Chính phủ và quyết định của mình. Bên cạnh đó, quy định rõ các bước, các khâu có thể được rút gọn khi áp dụng trình tự, thủ tục này (Điều 76 và Điều 77 của Luật). Tuy nhiên, để bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất, khả thi của văn bản, dù là soạn thảo theo quy trình rút gọn thì vẫn phải tiến hành thẩm định, thẩm tra dự thảo trước khi trình cơ quan có thẩm quyền.

8. Hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật

Trong thực tế, có nhiều văn bản được sửa đổi, bổ sung nhiều lần hoặc có những văn bản được sửa đổi, bổ sung khá nhiều nội dung so với văn bản gốc. Điều này gây khó khăn cho quá trình thực hiện khi cùng một lúc phải có sự so sánh, đối chiếu trên nhiều văn bản để áp dụng cho một vấn đề.

Do vậy, để tạo điều kiện cho việc áp dụng, tra cứu văn bản được thuận lợi, tăng thêm tính minh bạch của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, tính rõ ràng của pháp luật, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 bổ sung quy định về hợp nhất văn bản (Điều 92 của Luật). Hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật là việc đưa các nội dung của văn bản quy phạm pháp luật sửa đổi, bổ sung vào văn bản quy phạm pháp luật được sửa đổi, bổ sung nhằm bảo đảm sự toàn vẹn về hình thức và nội dung của văn bản sau khi được sửa đổi, bổ sung. Việc hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật sau khi sửa đổi, bổ sung không được làm ảnh hưởng đến nội dung và hiệu lực của các văn bản quy phạm pháp luật được hợp nhất. Như vậy, việc hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật sau khi sửa đổi, bổ sung là một hoạt động thuần tuý có tính kỹ thuật, không tạo ra quy phạm pháp luật mới và cũng không tạo ra văn bản quy phạm pháp luật mới.

Page 65: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

12

Theo quy định tại Điều 92 của Luật, văn bản sửa đổi, bổ sung một số điều của văn bản quy phạm pháp luật phải được hợp nhất về mặt kỹ thuật với văn bản được sửa đổi, bổ sung. Những vấn đề cụ thể của việc hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật, Luật giao cho Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định.

9. Pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật

Ở nước ta, có nhiều cơ quan được ban hành văn bản quy phạm pháp luật, và trên thực tế, các văn bản hướng dẫn thường được quan tâm hơn là văn bản được hướng dẫn vì các văn bản hướng dẫn thường gắn với thẩm quyền quản lý của một cơ quan hoặc hệ thống cơ quan cụ thể cũng như quy định những nội dung cụ thể mà các đối tượng thi hành văn bản phải tuân thủ. Trong khi đó, hệ thống quy phạm pháp luật hiện nay chưa được tập hợp theo từng chủ đề nên gây rất nhiều khó khăn cho công tác tra cứu và áp dụng, nhất là khó có thể biết được quy phạm pháp luật có còn hiệu lực hay không. Việc pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật không những tạo điều kiện thuận lợi cho người dân dễ tra cứu, thực hiện pháp luật mà còn giúp cho cán bộ, công chức trong thực thi nhiệm vụ, áp dụng được chính xác các quy định của pháp luật; đồng thời, qua đó cũng phát hiện ra được các quy định của pháp luật còn chồng chéo để đề xuất tiến hành sửa đổi, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Kinh nghiệm thế giới cho thấy, với mục đích là tạo thuận lợi cho mọi đối tượng trong việc tra cứu, trích dẫn và áp dụng pháp luật, việc pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật theo chủ đề thành những bộ pháp điển đã và đang được nhiều nước áp dụng.

Tuy nhiên, do đây là vấn đề mới, Việt Nam lại chưa có nhiều kinh nghiệm nên trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 chỉ quy định một số nguyên tắc tạo cơ sở pháp lý cho công tác pháp điển hoá và giao Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định cụ thể việc pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật (khoản 2 Điều 93 của Luật).

V. TỔ CHỨC THỰC HIỆN

Luật có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2009. Để các quy định của Luật có thể đi ngay vào cuộc sống khi Luật có hiệu lực, các cơ quan có liên quan đã và đang triển khai các hoạt động sau đây:

- Xây dựng văn bản quy định chi tiết thi hành Luật. Theo quy định của Luật, Uỷ ban thường vụ Quốc hội được giao ban hành văn bản để quy định về việc hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật và pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật (Điều 92 và Điều 93 của Luật); Chính phủ cần khẩn trương ban hành văn bản quy định chi tiết một số điều của Luật.

Bên cạnh đó, các Bộ, cơ quan ngang Bộ cần căn cứ vào những nguyên tắc đã được Luật quy định để ban hành quyết định quy định cụ thể và đầy đủ cơ chế xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền cũng như xây dựng các văn bản được giao chuẩn bị để trình cơ quan nhà nước cấp trên.

- Tổ chức tập huấn, giới thiệu các quy định của Luật đến các cơ quan, tổ chức và nhân dân: đây là công việc quan trọng, thiết thực nhằm đưa các quy định của Luật đi vào cuộc sống, nâng cao ý thức, trách nhiệm của từng người

Page 66: Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản

dân cũng như các cơ quan, tổ chức trong việc thực hiện các quy định của Luật, tham gia tích cực và có hiệu quả vào việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

- Củng cố tổ chức, lực lượng cán bộ, công chức tham gia xây dựng văn bản.

- Cần bảo đảm tốt hơn các điều kiện về kinh phí, cơ sở vật chất bảo đảm cho công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.

13