vac-sa-va hoàn chỉnh
-
Upload
ryuzaki-nguyen -
Category
Documents
-
view
1.265 -
download
0
Transcript of vac-sa-va hoàn chỉnh
VACSAVA
I. Khái quát về công ước vac-sa-va:
1. Hoàn cảnh ra đời:
Do tính chất quốc tế của hoạt động vận chuyển hàng không, nên từ rất sớm và cho
một thời gian rất dài người ta đã phải tạo ra một hệ thống các quy tắc thống nhất cho vận
chuyển hàng không quốc tế. Hệ thống này bao gồm rất nhiều điều ước quốc tế mà cứ cái
sau lại sửa đổi bổ sung cho cái trước, tập hợp các điều này, đặt trên cơ sở công ước Vac-
sa-va năm 1929, được gọi là hệ thống công ước Vac-sa-va.
Nằm trong hệ thống điều luật quốc tế về luật tư trong lĩnh vực hàng không dân sư,
công ước Vac-sa-va là một văn bản pháp luật quốc tế nhằm thống nhất xung đột điều
chỉnh các quan hệ phát sinh trong vận chuyển hàng không quốc tế.
Ban đầu mới chỉ có 23 quốc gia kết ước, đến nay đã có trên 140 quốc gia và lãnh thổ
ký kết và tham gia Công ước. Công ước chiếm một vị trí rất quan trọng trong việc phát
triển ngành hàng không dân sự quốc tế. Việt Nam đã chính thức gia nhập công ước này
vào ngày 11-10-1982 và ngày 9-01-1983 Công ước đã có hiệu lực đối với Việt Nam.
2. Phạm vi, mục đích áp dụng:
2.1. Phạm vi:
Công ước Vac-sa-va áp dụng cho cả các hợp đồng vận chuyển, có đền bù và
không đền bù. Sự đền bù ở đây được tính cho cả việc trả tiền hoặc trả bằng lợi ích các vật
chất khác trực tiếp cho công việc vận chuyển.
Trong khoản 2, điều 2 Công ước Vac-sa-va có quy định là “Công ước này không
áp dụng đối với việc vận chuyển thực hiện theo những điều khoản bất kỳ Công ước về
bưu điện Quốc tế nào”. Công ước Vac-sa-va chỉ áp dụng cho việc vận chuyển hàng
không quốc tế hành khách, hành lý hoặc hàng hóa hoặc không trả công mà việc vận
chuyển đó do nhà nước hoặc các pháp nhân được thành lập một cách hợp pháp thực hiện
( khoản 1, điều 2 của công ước).
Khoản 2, điều 1 của công ước đã đưa ra định nghĩa vận chuyển quốc tế có nghĩa là
bất kỳ một việc vận chuyển nào mà phụ thuộc vào hợp đồng của các bên, nơi khởi hành
và nơi đến, có hoặc không có gián đoạn trong vận chuyển hoặc chuyển tài được nằm
trong hoặc lãnh thổ của hai quốc gia kết ước hoặc lãnh thổ của một Quốc gia kết ước, nếu
có một nơi dừng thỏa thuận nằm trong lãnh thổ thuộc chủ quyền, quyền thống trị, ủy trị
hoặc sự ủy quyền của chính quyền khác, dù là chính quyền đó không tham gia Công ước.
Việc vận chuyển không có 1 nơi dừng thỏa thuận như vậy giữa những lãnh thổ thuộc chủ
quyền, quyền thống trị, ủy trị hoặc ủy quyền của cùng một quốc gia kết ước không được
coi là có tính chất quốc tế nhằm mục đích của Công ước này.
Không kể đến những bên tham gia hợp đồng vận chuyển hàng không quốc tế có
quốc tịch nước nào, cư trú hoạc có trụ sở kinh doanh chính ở đó, tầu bay được đăng ký ở
Quốc gia nào, hợp đồng được ký kết ở đâu, Công ước chỉ lưu ý đến nơi khởi hành, nơi
đến hoặc nơi dừng thỏa thuận mà căn cứ vào hợp đồng giữa các bên nằm trong lãnh thổ
của các quốc gia khác nhau. Tính chất quốc tế của vận chuyển được biểu hiện ở hai dạng
sau:
1. Nơi đi và nơi đến nằm trong lãnh thổ của hai Quốc gia kết ước.
2. Nơi đi và nơi đến nằm trong lãnh thổ của 1 Quốc gia kết ước, nếu có một
nơi dừng thỏa thuận (an agreed stopping place) nằm trong lãnh thổ chủ quyền, quyền
thống trị, ủy trị hoặc sự ủy quyền của chính khác của cùng một Quốc gia kết ước. Công
ước đã không tính đến việc có tính đến việc có gián đoạn trong vận chuyển hay chuyển
tải.
Công ước Vac-sa-va có thể áp dụng cho một phạm vi rộng hơn nữa của việc vận
chuyển quốc tế theo tinh thần của Công ước, có nghĩa là nếu chúng ta phân tích dạng thứ
hai của vận chuyển quốc tế, chúng ta sẽ thấy như sau: giả định rằng quốc gia A được
quốc gia B ủy quyền trên lãnh thổ của mình theo tinh thần của khoản 2, điều 1 của Công
ước mà quốc gia B không tham gia công ước và nếu hành khách, hành lý hay hàng hóa đi
tầu bay của nước A từ A, có thỏa thuận dừng ở B rồi lại quay về A theo tầu bay của A,
trong trường hợp có xảy ra tổn thất, thì mọi trường hợp Công ước đều được áp dụng để
giải quyết việc bồi thường thiệt hại. Bởi, nếu xét toàn bộ Công ước một cách logic chúng
ta thấy rằng người bị tổn thất (hành khách, người gởi hàng hoặc những người khác) chỉ
được quyền kiện ra toàn án của một trong những Quốc gia kết ước hoặc là nơi người vận
chuyển có nơi thường trú hoặc có trụ sở kinh doanh chính hoặc là nơi kinh doanh mà ký
kết hợp đồng hoặc là nơi đến. Vì vậy việc vận chuyển mà có nơi khởi hành và nơi đến
nằm trên cùng lãnh thổ của một quốc gia kết ước và có nơi dừng thỏa thuận nằm trên lãnh
thổ của một quốc gia khác dù nó không tham gia công ước hoặc nó không thuộc chủ
quyền , quyền thống trị, ủy trị hay quyền hành của Quốc gia kia cũng phải được coi là
vận chuyển Quốc tế. Nghị định thư La Haye đã thay đổi định nghĩa vận chuyển hàng
không quốc tế như sau:
“Nhằm mục đích của công ước này, vận chuyển quốc tế có nghĩa là bất kỳ vận
chuyển nào mà phù hợp với sự thỏa thuận giữa các bên nơi khởi hành và nơi đến, có hoặc
không có gián đoạn trong vận chuyển hoặc chuyển tải nằm trong lãnh thổ hoặc của hai
quốc gia kết ước hoặc của một quốc gia kết ước nếu có một nơi dừng thỏa thuận trong
lãnh thổ của một quốc gia khác, dù là quốc gia đó không phải là một quốc gia kết ước .
Việc vận chuyển giữa hai điểm trong lãnh thổ của một quốc gia kết ước không có một nơi
dừng thỏa thuận trong lãnh thổ của một quốc gia khác thì khổng phải là vận chuyển quốc
tế nhằm mục đích của Công ước này”.
Để làm rõ thêm định nghĩa vận chuyển quốc tế nói trên, người ta thường phân biệt
giữa vận chuyển quốc tế và chuyến bay quốc tế. Có một số người tỏ ra nhầm lẫn cho rằng
nếu tầu bay đang vận chuyển cứ bay qua lãnh thổ của một quốc gia khác thì cũng coi tầu
bay đó thực hiện việc vận chuyển quốc tế. Điều đó chỉ đúng nếu khi sự thỏa thuận giữa
hành khách hoặc người gửi hàng với người vận chuyển là tầu bay có dừng lại tại lãnh thổ
của quốc gia bay qua. Ví dụ một tầu bay của Mỹ bay từ phần chính của lãnh thổ Mỹ đến
Alaska qua Canada nhằm vận chuyển hành khách, hành lý và hàng hóa, tầu bay đó bao
giờ cũng được coi là tầu bay thực hiện chuyến bay quốc tế, nhưng trong việc vận chuyển
thì có hai trường hợp khác nhau:
Một là, nếu theo thỏa thuận của hành khách hay người gửi hàng, không có một nơi
dừng nào trên lãnh thổ Canada, thì việc vận chuyển mà tầu bay đó thực hiện được coi là
vận chuyển nội địa.
Hai là, nếu theo thỏa thuận có một nơi dừng trên lãnh thổ Canada thì việc vận
chuyển đó được coi là vận chuyển quốc tế.
Công ước Vacsava được áp dụng cho cả việc vận chuyển quốc tế do nhiều người
vận chuyển hàng không liên tiếp đảm nhận, nếu các bên tham gia hợp đồng coi đó là khai
thác đơn hoặc nó được chấp nhận dưới dạng một hợp đồng hoặc một loạt hợp đồng về nó
không mất đi tính chất quốc tế bởi một hợp đồng hay nhiều hợp đồng được thực hiện
hoàn toàn trong lónh thổ của một Quốc gia kết ước.
2.2. Mục đích:
Thừa nhận tầm quan trọng của viẹ c bảo đảm các lợi ích của ngu ời tiêu dùng trong
vạn tải hàng không quốc tế và các yêu cầu cho viẹ c bồi thu ờng thỏa đáng trên co sở
nguyên tắc bồi thu ờng tổn thất.
Khẳng định lại mong muốn đối với sự phát triển có trạ t tự của các hoạt đọ ng vạ n tải hàng
không quốc tế và sự di chuyển thuạ n lợi của hành khách, hành lí và hàng hoá phù hợp với
các nguyên tắc và mục đích của Công u ớc về Hàng không Dân dụng Quốc tế.
Được thuyết phục rằng hành đọ ng tạ p thể của các Quốc gia để hài hoà hoá và nhất thể
hoá ho n nữa các quy định liên quan hoạt đọ ng vạ n tải hàng không quốc tế thông qua mọ t Công u ớc mới là cách thức phù hợp nhất để đạt đu ợc sự cân bằng hợp lí của các lợi ích.
3. Khái quát nội dung Vacsava:
Công ước Warsaw là công ước quốc tế về trách nhiệm bồi thường trong vận tải
quốc tế của hóng hàng khụng đối với con người, hành lý và hàng hóa.
Công ước được ký tại Warsaw, Ba Lan ngày 12 tháng 10 năm 1929;
Năm 1955, công ước được sửa đổi tại Hague, Hà Lan gọi là Nghị định thư Hague
1955;
Năm 1975, công ước được sửa đổi tại Montreal, Canada gọi là Nghị định thư
Montreal 1975.
Ba văn bản này khác nhau về mức giới hạn bồi thường trong đó Công ước Warsaw
có mức thấp nhất (Vietnam Airlines vẫn áp dụng mức này). Các quốc gia, cỏc hóng hàng
không tự lựa chọn giữa 3 văn bản này để đưa vào điều kiện chuyên chở, cung cấp dịch vụ
hàng không.
Công ước Warsaw quy định như sau:
Người chuyên chở phải phát hành vé hành khách.
Người chuyên chở phải phát hành phiếu hành lý cho hành lý ký gửi.
Trách nhiệm bồi thường tối thiểu của người chuyên chở là:
16.600 SDR (Quyền rút vốn đặc biệt) đối với thương tổn về người.
17 SDR/kg hàng lý ký gửi hoặc hàng hóa.
332 SDR đối với hành lý xách tay.
Giới hạn bồi thường này có giá trị trong trường hợp người chuyên chở không đưa
ra mức trách nhiệm được chấp nhận (cao hơn). Những thỏa thuận về mức bồi
thường thấp hơn là không có giá trị và vô hiệu.
Tại thời điểm ngày 1 tháng 4 năm 2007, tỷ giá quy đổi là:
1 SDR = 1,135 EUR = 1,51 USD.
Công ước Montreal 1999 sẽ thay thế hệ thống Công ước Warsaw ngay khi nó
được tất cả các nước phê chuẩn. Song, cho đến nay, vẫn còn sự chắp vá của luật lệ
hàng không quốc tế bởi các quốc gia ủng hộ các công ước, nghị định thư theo từng
nhóm khác nhau và thậm chí có nước không tuân thủ một công ước, nghị định thư
nào.
II. Các điều khoản Công ước Vacsava trong vận chuyển hàng hóa hàng không:
1. Quy định của Công ước Vacsava về vận đơn hàng không:
1.1. Vận đơn hàng không:
Khái niệm: Vận đơn hàng không (Airwaybill-AWB) là chức từ vận chuyển hàng
hoá và bằng chức của việc ký kết hợp đồng và vận chuyển hàng hoá bằng máy
bay, về điều kiện của hợp đồng và việc đã tiếp nhận hàng hoá để vận chuyển
Chức năng:
Là bằng chức của một hợp đòng vận tải đã được ký kết giữa người chuyên
chở và người gửi hàng
Là bằng chứng của việc người chuyên chở hàng không đã nhận hàng
Là giấy chứng nhận bảo hiểm hàng hoá vận chuyển bằng đường hàng
không
Là chứng từ kê khai hải quan của hàng hoá
Là hướng dẫn cho nhân viên hàng không trong quá trình phục vụ chuyên
chở hàng hoá
Phân loại:
Căn cứ vào người phát hành, gồm có: Vận đơn của hãng hàng không và
Vận đơn trung lập
Căn cứ vào việc gom hàng, gồm có: Vận đơn chủ và Vận đơn của người
gom hàng
Nội dung của vận đơn hàng không:
Nội dung mặt trước vận đơn
Mặt trước của vận đơn bao gồm các cột mục để trống để người lập vận đơn
điền những thông tin cần thiết khi lập vận đơn. Theo mẫu tiêu chuẩn của
IATA, những cột mục đó là:
+ Số vận đơn (AWB number)
+ Sân bay xuất phát (Airport of departure)
+ Tên và địa chỉ của người phát hành vận đơn (issuing carrier?s name and
address)
+ Tham chiếu tới các bản gốc ( Reference to originals)
+ Tham chiếu tới các điều kiện của hợp đồng ( Reference to conditions of
contract)
+ Người chủ hàng (Shipper)
+ Người nhận hàng (Consignee)
+ Ðại lý của người chuyên chở (Issuing carrier’s agent)
+ Tuyến đường (Routine)
+ Thông tin thanh toán (Accounting information)
+ Tiền tệ (Currency)
+ Mã thanh toán cước (Charges codes)
+Cước phí và chi phí (Charges)
+ Giá trị kê khai vận chuyển (Declare value for carriage)
+ Giá trị khai báo hải quan (Declare value for customs)
+ Số tiền bảo hiểm (Amount of insurance)
+Thông tin làm hàng (Handing information)
+ Số kiện (Number of pieces)
+ Các chi phí khác (Other charges)
+ Cước và chi phí trả trước (Prepaid)
+ Cước và chi phí trả sau (Collect)
+ Ô ký xác nhận của người gửi hàng ( Shipper of certification box)
+ Ô dành cho người chuyên chở (Carrier of excution box)
+ Ô chỉ dành cho người chuyên chở ở nơi đến (For carrier of use only at
destination)
+ Cước trả sau bằng đồng tiền ở nơi đến, chỉ dùng cho người chuyên chở
(Collect charges in destination currency, for carrier of use only).
Nội dung mặt sau vận đơn
Trong bộ vận đơn gồm nhiều bản, chỉ có ba bản gốc và một số bản copy có
những quy định về vận chuyển ở mặt sau.
Mặt hai của vận đơn hàng không bao gồm hai nội dung chính:
*Thông báo liên quan đến trách nhiệm của người chuyên chở : Tại mục
này, người chuyên chở thông báo số tiền lớn nhất mà họ phải bồi thường
trong trường hợp hàng hoá bị tổn thất trong quá trình chuyên chở, tức là
thông báo giới hạn trách nhiệm của mình. Giới han trách nhiêm của người
chuyên chở được quy định ở đây là giới hạn được quy định trong các công
ước, quy tắc quốc tế hoặc luật quốc gia về hàng không dân dụng.
* Các điều kiện hợp đồng : Nội dung này bao gồm nhiều điều khoản khác
nhau liên quan đến vận chuyển lô hàng được ghi ở mặt trước. Các nội dung
đó thường là:
+ Các định nghĩa, như định nghĩa về người chuyên chở, định nghĩa về công
ước Vac-sa-va 1929, định nghĩa về vận chuyển, điểm dừng thoả thuận...
+ Thời hạn trách nhiệm chuyên chở của người chuyên chở hàng không
+ Cơ sở trách nhiệm của người chuyên chở hàng không
+ Giới hạn trách nhiệm của người chuyên chở hàng không
+ Cước phí của hàng hoá chuyên chở
+ Trọng lượng tính cước của hàng hoá chuyên chở
+Thời hạn thông báo tổn thất
+ Thời hạn khiếu nại người chuyên chở
+ Luật áp dụng.
Trách nhiệm lập vận đơn: Theo điều 5 và 6 công ước Vacsava thì người gửi
hàng có trách nhiệm lập vận đơn
Phân phối vận đơn:
Khi phát hành vận đơn cho một lô hàng, người ta phát hành vận đơn gồm nhiều
bản khác nhau. Bộ vận đơn có thể gồm từ 8 đến 14 bản, thông thường là 9 bản,
trong đó bao giờ cũng gồm ba bản gốc, hay còn gọi là các bản chính (orginal),
còn lại là các bản phụ (copy), được đánh số từ 4 đến 14. Vận đơn được phân
phối như sau:
Bản gốc số 3 dành cho người gửi hàng, dùng để làm bằng chứng của việc người
chuyên chở đã nhận hàng để chở và làm bằng chứng của hợp đồng chuyên chở.
Bản này có chữ ký của cả người chuyên chở và người gửi hàng.
Bản số 9, dành đại lý, bản này được người đại lý hay người chuyên chở phát
hành giữ lại.
Bản gốc số 1, dành cho người chuyên chở, màu xanh lá cây, được người chuyên
chở phát hành vận đơn giữ lại nhằm mục đích thanh toán và để dùng làm bằng
chứng của hợp đồng vận chuyển. Bản này có chữ ký của người gửi hàng.
Bản gốc số 2, dành cho người nhận hàg, màu hồng, được gửi cùng lô hàng tới
nơi đến cuối cùng và giao cho người nhận khi giao hàng.
Bản số 4, là biên lai giao hàng, có sẵn ở nơi đến cuối cùng. Bản này có chữ ký
của người nhận hàng và được người chuyên chở cuối cùng giữ lại để làm biên lai
giao hàng và làm bằng chứng là người chuyên chở đã hoàn thành hợp đồng chuyên
chở.
Bản số 5, dành cho sân bay đến, có sẵn ở sân bay đến.
Bản số 6, dành cho người chuyên chở thứ 3, dùng khi hàng được chuyên chở tại
sân bay thứ 3.
Bản số 7, dành cho người chuyên chở thứ 2, dùng khi hàng được chuyển tải tại
sân bay thứ 2.
Bản số 8, dành cho người chuyên chở thứ 1, được bộ phận chuyển hàng hoá của
người chuyên chở đầu tiên giữ lại khi làm hàng.
Bản số 10 đến 14, là những bản chỉ dùng cho chuyên chở khi cần thiết
1.2. Quy định của công ước Vacsava về vận đơn hàng không:
Theo công ước Vacsava 1929, các quy định về vận đơn hàng không bao gồm 12
điều, từ điều 5 đến điều 16:
Điều 5.
1. Mỗi người vận chuyển hàng hóa có quyền yêu cầu người gửi hàng lập và giao cho
mình một chứng từ gọi là “không vận đơn”; mỗi người gửi hàng có quyền yêu cầu người
vận chuyển chấp nhận chứng từ này.
2. Việc thiếu, không hợp quy cách và mất không vận đơn không ảnh hưởng đến sự tồn
tại, hoặc giá trị của hợp đồng vận chuyển phụ thuộc vào các quy định của Điều 9, tuy
nhiên còn bị các quy tắc của Công ước này điều chỉnh.
Điều 6.
1. Người gửi hàng phải lập ba bộ không vận đơn và giao không vận đơn cùng với hàng
hóa.
2. Bộ thứ nhất ghi “giành cho người vận chuyển” và do người gửi hành lý. Bộ thứ hai ghi
“giành cho người nhận hàng” do người gửi hàng và người vận chuyển cùng ký và gửi
kèm theo hàng hóa. Bộ thứ ba do người vận chuyển ký và người vận chuyển trao cho
người gửi hàng sau khi nhận hàng.
3. Người vận chuyển ký vào lúc nhận hàng.
4. Chữ ký của người vận chuyển có thể được đóng dấu; chữ ký của người gửi hàng có thể
đánh máy hoặc đóng dấu.
5. Theo yêu cầu của người gửi hàng, nếu người vận chuyển lập không vận đơn, thì người
vận chuyển được coi là đã thay mặt người gửi hàng làm như vậy, trừ khi có chứng minh
ngược lại.
Điều 7.
Người vận chuyển hàng hóa có quyền yêu cầu người gửi hàng lập không vận đơn riêng
khi có hai kiện hàng trở lên.
Điều 8.
Không vận đơn bao gồm những chi tiết sau:
a. Nơi và ngày lập;
b. Nơi đi và nơi đến;
c. Các nơi dùng thỏa thuận, với điều kiện người vận chuyển có thể bảo lưu quyền thay
đổi các nơi dùng trong trường hợp cần thiết và nếu người vận chuyển thực hiện quyền đó,
thì việc thay đổi nơi dừng không ảnh hưởng đến việc tước bỏ tính chất quốc tế của vận
chuyển;
d. Tên và địa chỉ của người gửi hàng;
e. Tên và địa chỉ của người vận chuyển thứ nhất;
f. Tên và địa chỉ của người nhận hàng nếu có yêu cầu như vậy;
g. Bản chất của hàng hóa;
h. Số lượng và phương thức đóng gói và ký mã hiệu chi tiết hoặc số của các kiện hàng;
i. Trọng lượng, số lượng và khối lượng hoặc kích thước hàng hóa;
j. Điều kiện bên ngoài của hàng hóa và hình thức đóng gói;
k. Nếu đã thoả thuận, thì cước phí, ngày và nơi thanh toán và người thanh toán;
l. Nếu hàng được gửi thanh toán vào lúc giao hàng, thì giá hàng và nếu trường hợp có yêu
cầu chi phí phải trả.
m. Giá trị kê khai theo Điều 22 (2);
n. Số bộ không vận đơn;
o. Các chứng từ đưa cho người vận chuyển kèm theo không vận đơn;
p. Thời gian ấn định hoàn thành việc vận chuyển và tóm tắt hành trình nếu vấn đề này đã
được thỏa thuận;
q. Lời tuyên bố rằng việc vận chuyển thường lệ thuộc vào những quy tắc liên quan tới
trách nhiệm mà Công ước này lập nên.
Điều 9.
Nếu người vận chuyển nhận hàng không có không vận đơn đã được lập hoặc nếu không
vận đơn không ghi mọi chi tiết nêu từ điểm (a) đến (i) và (p) của Điều 8 thì người vận
chuyển sẽ không được quyền vận dụng những quy định này của Công ước này để loại bỏ
hoặc hạn chế trách nhiệm của mình.
Điều 10.
1. Người gửi hàng chịu trách nhiệm về sự chính xác của các chi tiết và các lời khai liên
quan đến hàng hóa mà người đó điền vào vận đơn.
2. Người gửi hàng phải chịu trách nhiệm về mọi thiệt hại mà người vận chuyển hoặc bất
kỳ người nào khác phải gánh chịu do khai không hợp quy cách, sai hoặc không đầy đủ
mọi chi tiết và các lời khai.
Điều 11.
1. Vận đơn hàng không là bằng chứng hiển nhiên của việc ký kết hợp đồng về việc tiếp
nhận hàng hóa và các điều kiện vận chuyển.
2. Những lời khai trong không vận đơn liên quan đến trọng lượng, kích thước và bao gói
hàng hóa, cũng như chi tiết liên quan tới số kiện là bằng chứng hiển nhiên của các sự thật
đã kê khai; những chi tiết liên quan đến số lượng, khối lượng và điều kiện hàng hóa
không tạo nên bằng chứng để kiện người vận chuyển trừ khi những chi tiết trên đã được
ghi trong không vận đơn và đã được người vận chuyển với sự chứng kiến của người gửi
hàng kiểm tra hoặc các chi tiết đó liên quan đến điều kiện rõ ràng của hàng hóa.
Điều 12.
1. Phụ thuộc vào trách nhiệm của mình thực hiện mọi nghĩa vụ theo hợp đồng vận
chuyển, người gửi hàng có quyền định đoạt hàng hóa bằng cách lấy hàng lại tại cảng
hàng không đi hoặc đến, hoặc yêu cầu giao tại nơi đến hoặc trong hành trình cho một
người khác người nhận có tên trong vận đơn, hoặc bằng cách yêu cầu vận chuyển chở lại
cảng hàng không khởi hành. Người gửi hàng không được quyền định đoạt hàng hóa theo
cách trên khi gây tổn hại tới người vận chuyển hoặc người gửi hàng khác và người gửi
hàng phải thanh toán mọi chi phí khi thực hiện quyền này.
2. Nếu không thể thực hiện các mệnh lệnh trên của người gửi hàng, thì người vận chuyển
phải thông báo ngay lập tức cho người gửi hàng biết.
3. Nếu người vận chuyển tuân theo lệnh của người gửi hàng định đoạt hàng hóa mà
không yêu cầu xuất trình bộ không vận đơn đã trao cho người gửi hàng, thì người vận
chuyển phải chịu trách nhiệm về mọi thiệt hại có thể xảy ra trong khi thi hành mệnh lệnh
đối với bất kỳ người nào có quyền sở hữu hợp pháp bộ không vận đơn đó, điều này
không tổn hại đến quyền đòi lại từ người gửi hàng.
4. Quyền giành cho người gửi hàng bị đình chỉ vào lúc quyền của người nhận hàng bắt
đầu theo Điều 13 dưới đây. Tuy nhiên, nếu người nhận hàng từ chối nhận không vận đơn
hoặc hàng hóa, nếu người vận chuyển không thể liên lạc được với người nhận hàng, thì
người gửi hàng tiếp tục quyền định đoạt hàng hóa.
Điều 13.
1. Trừ những trường hợp nói tại Điều trên, khi hàng hóa tới địa điểm đến, người nhận
hàng được quyền yêu cầu người vận chuyển trao cho mình không vận đơn và hàng hóa,
đồng thời thanh toán các khoản lệ phí và tuân theo các điều kiện vận chuyển ghi trong
vận đơn.
2. Trừ khi có thỏa thuận khác, người vận chuyển có nhiệm vụ thông báo cho người nhận
hàng ngay sau khi hàng tới.
3. Nếu người vận chuyển thừa nhận mất hàng hoặc nếu hàng hóa không tới sau bảy ngày
kể từ ngày lẽ ra hàng phải tới thì người nhận hàng được quyền khởi kiện người vận
chuyển theo hợp đồng vận chuyển.
Điều 14.
Người gửi hàng và người nhận hàng có thể thực hiện tương ứng tất cả các quyền nêu tại
các Điều 12 và 13 bằng tên của chính mình hoặc hành động cho quyền lợi của chính
mình hoặc cho quyền lợi của người khác, miễn là thực hiện nghĩa vụ mà hợp đồng đã xác
định.
Điều 15.
1. Các Điều 12, 13 và 14 không ảnh hưởng đến quan hệ của người gửi hàng và người
nhận hàng với nhau hoặc những quan hệ với người thứ ba mà quyền lợi của họ bắt nguồn
hoặc từ người gửi hàng hoặc từ người nhận hàng.
2. Những quy định của các Điều 12, 13 và 14 chỉ có thể thay đổi bằng cách quy định
trong không vận đơn.
Điều 16.
1. Người gửi hàng phải cung cấp tin tức và gửi kèm theo không vận đơn những chứng từ
cần thiết để đáp ứng các thủ tục hải quan, thuế nhập cảnh hoặc cảnh sát trước khi hàng có
thể được giao cho người nhận hàng. Người gửi hàng phải chịu trách nhiệm với người vận
chuyển về mọi thiệt hại do việc thiếu, không đầy đủ hoặc không hợp quy cách của bất kỳ
thông tin hoặc chứng từ nào trừ khi thiệt hại là do lỗi của người vận chuyển và đại lý của
họ.
2. Người vận chuyển không có nghĩa vụ thẩm tra việc đúng hoặc đủ các thông tin hoặc
chứng từ như vậy.
2. Trách nhiệm của người chuyên chở hàng không đối với hàng hóa theo công
ước Vacsava 1929:
Theo công ước Vacsava, trách nhiệm của người chuyên chở hàng hóa được quy
định từ điều 17 đến điều 30:
Điều 17.
Người vận chuyển phải chịu trách nhiệm về thiệt hại xảy ra trong trường hợp hành khách
chết và bị thương hoặc bất kỳ thương tích về thân thể nào của hành khách, nếu tai nạn
gây ra thiệt hại ở trên tầu bay hoặc trong quá trình hoạt động xếp tải và dỡ tải.
Điều 18.
1. Người vận chuyển phải chịu trách nhiệm về thiệt hại xảy ra trong trường hợp mất mát,
thiếu hụt, hư hỏng hành lý hoặc hàng hóa ký gửi, nếu sự việc gây thiệt hại xảy ra trong
quá trình vận chuyển bằng tầu bay.
2. Việc vận chuyển bằng tầu bay trong phạm vi nghĩa vụ của khoản trên bao gồm giai
đoạn mà hành lý hoặc hàng hóa nằm trong sự bảo quản của người vận chuyển cho dù ở
trong cảng hàng không hoặc là ở trong tầu bay, hoặc trong trường hợp hạ cánh ngoài cảng
hàng không, sân bay, thì ở bất kể nơi nào.
3. Giai đoạn vận chuyển bằng tầu bay không mở rộng tới bất kỳ việc vận chuyển nào
bằng đường bộ, đường biển hoặc đường sông tiến hành ngoài cảnh hàng không. Tuy
nhiên, nếu việc vận chuyển như vậy xảy ra trong khi thực hiện hợp đồng vận chuyển
bằng tầu bay nhằm mục đích lấy hàng, giao hàng hoặc chuyển tải, thiệt hại được coi là
kết quả của sự kiện xảy ra trong quá trình vận chuyển bằng tầu bay, trừ khi có chứng
minh ngược lại.
Điều 19.
Người vận chuyển chịu trách nhiệm về thiệt hại do sự chậm trễ xảy ra trong quá trình vận
chuyển hành khách, hành lý và hàng hóa.
Điều 20.
1. Người vận chuyển không chịu trách nhiệm, nếu phía vận chuyển chứng minh được
rằng mình và đại lý của mình đã áp dụng mọi biện pháp để tránh thiệt hại hoặc đã không
thể áp dụng các biện pháp như vậy.
2. Trong vận chuyển hàng hóa và hành lý, người vận chuyển không chịu trách nhiệm, nếu
chứng minh được rằng thiệt hại xảy ra do lỗi trong việc lái tầu bay trong việc chỉ huy tầu
bay hoặc trong không vận và trong mọi phương diện khác mà phía vận chuyển và đại lý
của họ đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết để tránh thiệt hại.
Điều 21.
Nếu người vận chuyển chứng minh được rằng thiệt hại do lỗi của người bị tổn thương
gây ra hoặc góp phần gây ra thì toà án có thể miễn cho người vận chuyển toàn bộ hoặc
một phần trách nhiệm, phù hợp với những quy định của luật toà án.
Điều 22.
1. Trong vận chuyển hành khách trách nhiệm của người vận chuyển đối với mỗi hành
khách được giới hạn một khoản 125.000 Franc phù hợp với luật toà án mà vụ kiện được
thụ lý, thiệt hại được quyết định thanh toán bằng hình thức trả theo định kỳ, giá trị tiền
tương ứng của việc thanh toán nêu trên không được vượt quá 125.000 Franc. Tuy nhiên,
do hợp đồng đặc biệt, người vận chuyển và hành khách có thể thỏa thuận giới hạn trách
nhiệm cao hơn.
2. Trong việc vận chuyển hành lý ký gửi và hàng hóa, trách nhiệm của người vận chuyển
được giới hạn ở một khoản 250 Franc cho mỗi một kilôgam, trừ khi người gửi hàng công
bố giá trị vào lúc giao hàng cho người vận chuyển và trả một khoản tiền bổ sung nếu có
yêu cầu như vậy. Trong trường hợp đó, người vận chuyển phải chịu trách nhiệm trả một
khoản tiền không vượt quá giá trị đã công bố, trừ khi người vận chuyển chứng minh được
rằng khoản tiền bồi thường đó lớn hơn giá trị thực tế của hành lý người gửi giao hàng.
3. Đối với các đồ vật mà hành khách tự bảo quản, thì trách nhiệm của người vận chuyển
được giới hạn 5000 Franc cho mỗi hành khách.
4. Các khoản tiền đề cập ở trên được coi là đồng Franc Pháp chứa 62 miligram vàng
900/1000. Những khoản tiền này có thể được chuyển ra bất kỳ tiền tệ quốc gia nào và
làm tròn số.
Điều 23.
Bất kỳ quy định nào nhằm giảm bớt trách nhiệm của người vận chuyển hoặc ấn định thấp
hơn trách nhiệm mà đã quy định trong Công ước này đều vô hiệu và không có giá trị,
nhưng việc vô hiệu của bất kỳ quy định nào như vậy không kéo theo sự vô hiệu của toàn
bộ hợp đồng mà vẫn còn phụ thuộc vào những quy định của Công ước này.
Điều 24.
1. Trong những trường hợp quy định trong các Điều 18 và 19, bất kỳ việc kiện nào về
thiệt hại, dù căn cứ vào đâu, chỉ có thể đưa ra toà phụ thuộc vào những điều kiện và giới
hạn quy định trong Công ước này.
2. Trong những trường hợp Điều 17 xác định, những quy định của khoản trên cũng được
áp dụng, không phương hại tới vấn đề ai là người có quyền kiện và những quyền tương
ứng của họ là gì.
Điều 25.
1. Người vận chuyển không được vận dụng những quy định của Công ước này mà loại bỏ
hoặc hạn chế trách nhiệm của mình. Nếu thiệt hại bị gây ra do lỗi cố ý hoặc do sơ suất
của người vận chuyển mà theo luật toà án thụ lý vụ kiện này sơ suất đó được coi như
tương đương với lỗi cố ý.
2. Tương tự như vậy, người vận chuyển không được quyền vận dụng những quy định nói
trên, nếu thiệt hại gây ra trong cùng trường hợp do bất kỳ đại lý nào của người vận
chuyển hành động trong phạm vi nhiệm vụ của anh ta.
Điều 26.
1. Việc người được quyền giao hành lý hoặc hàng hóa nhận hàng mà không khiếu nại gì
sẽ là bằng chứng rõ ràng rằng hàng hóa hoặc hành lý đã được giao trong điều kiện tốt và
phù hợp với chứng từ vận chuyển.
2. Trong trường hợp thiệt hại, người được quyền nhận hàng phải khiếu nại với người vận
chuyển ngay sau khi đã phát hiện ra thiệt hại và muộn nhất trong vòng ba ngày kể từ ngày
nhận đối với hành lý và bảy ngày kể từ ngày nhận đối với hàng hóa. Trong trường hợp
chậm trễ đơn khiếu nại phải làm muộn nhất là trong vòng mười bốn ngày kể từ ngày mà
hành lý hoặc hàng hóa lẽ ra phải được đặt dưới sự định đoạt của người nhận.
3. Mỗi đơn khiếu nại phải được lập thành văn bản đúng với chứng từ vận chuyển hoặc
bằng thông báo riêng bằng văn bản gửi trong thời gian nói trên.
4. Nếu không khiếu nại vào những thời gian nêu trên, thì không khởi kiện nào đối với
người vận chuyển được coi là hợp pháp, trừ trường hợp người vận chuyển gian lận.
Điều 27.
Trong trường hợp người có trách nhiệm bồi thường chết, thì việc khởi kiện đòi bồi
thường thiệt hại được pháp luật chấp nhận theo những điều kiện của Công ước này chống
lại những người đại diện hợp pháp tài sản của người đó.
Điều 28.
1. Theo sự lựa chọn của nguyên đơn, việc khởi kiện về thiệt hại phải được tiến hành tại
lãnh thổ của một trong các bên ký kết hoặc là trước tòa án có nơi ở cố định của người vận
chuyển, hoặc nơi có trụ sở kinh doanh chính của người vận chuyển đó hoặc nơi người
vận chuyển có cơ sở kinh doanh mà hợp đồng được ký kết hoặc trước toà án nơi đến.
2. Những vấn đề về thủ tục tố tụng do luật toà án thụ lý vụ kiện điều chỉnh.
Điều 29.
1. Quyền về thiệt hại bị hủy bỏ, nếu việc khởi kiện không được thực hiện trong vòng hai
năm kể từ ngày tầu bay đến điểm đến hoặc từ ngày mà lẽ ra tầu bay phải đến hoặc kể từ
ngày việc vận chuyển chấm dứt.
2. Phương pháp tính thời gian giới hạn được xác định theo luật toà án mà thụ lý vụ kiện.
Điều 30.
1. Trong trường hợp việc vận chuyển do nhiều người vận chuyển khác nhau liên tiếp đảm
nhận và không nằm trong phạm vi định nghĩa nói tại khoản 3, Điều 1, thì mỗi người vận
chuyển nhận hành khách, hành lý hoặc hàng hóa phải theo những quy tắc được thiết lập
trong Công ước này và được coi là một trong các bên của hợp đồng vận chuyển trong
chừng mực hợp đồng có quan hệ tới chặng vận chuyển được thực hiện dưới sự giám sát
của mình.
2. Trong trường hợp vận chuyển theo cách này, hành khách hoặc người đại diện của họ
chỉ có thể khởi kiện người vận chuyển thực hiện việc vận chuyển mà tai nạn hoặc chậm
trễ xảy ra, trừ trường hợp mà, bởi sự thỏa thuận rõ ràng, người vận chuyển thứ nhất đảm
nhận trách nhiệm cho toàn bộ hành trình.
3. Đối với hành lý hoặc hàng hóa, hành khách hoặc người gửi hàng có quyền khởi kiện
nhà vận chuyển thứ nhất, và khởi kiện người vận chuyển cuối cùng, hơn nữa mỗi người
có thể khởi kiện người vận chuyển đã thực hiện việc vận chuyển mà mất mát, thiếu hụt,
hư hỏng hoặc chậm trễ xảy ra. Những người vận chuyển này phải liên đới chịu trách
nhiệm đối với hành khách hoặc người gửi hàng hoặc người nhận hàng.
2.1. Thời hạn trách nhiệm:
Thời hạn trách nhiệm là điều khoản quy định trách nhiệm của người chuyên chở
về mặt thời gian và không gian đối với hàng hoá .Theo công ước Vác-sa-va, người
chuyên chở phải chịu trách nhiệm đối với hàng hoá trong quá trình vận chuyển bằng máy
bay.
Vận chuyển bằng máy bay bao gồm giai đoạn mà hàng hoá nằm trong sự bảo quản
của người chuyên chở hàng không ở cảng hàng không, ở trong máy bay, hoặc ở bất cứ
nơi nào nếu máy bay phải hạ cánh ngoài cảng hàng không .
Vận chuyển bằng máy bay không mở rộng tới bất kỳ việc vận chuyển nào bằng
đường bộ, đường biển hoặc đường sông tiến hành ngoài cảng hàng không. Tuy nhiên ,
nếu việc vận chuyển như vậy xảy ra trong khi thực hiện hợp đồng vận chuyển bằng máy
bay nhằm mục đích lấy hàng , giao hoặc chuyển tải hàng thì thiệt hại được coi là kết quả
của sự kiện xảy ra trong quá trình vận chuyển bằng máy bay.
2.2. Cơ sở trách nhiệm:
Theo công ước Vac-sa-va 1929 , người chuyên chở phải chịu trách nhiệm về thiệt hại
trong trường hợp mất mát, thiếu hụt, hư hỏng hàng hoá trong quá trình vận chuyển hàng
không. Người chuyên chở cũng phải chịu trách nhiệm về thiệt hại xảy ra do chậm trong
quá trình vận chuyển hàng hoá bằng máy bay .
Tuy nhiên , người chuyên chở không phải chịu trách nhiệm nếu anh ta chứng minh
được rằng anh ta và đại lý của anh ta đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết để tránh thiệt hại
hoặc đã không thể áp dụng được những biện pháp như vậy trong khả năng của mình.
Người chuyên chở cũng không phải chịu trách nhiệm bồi thường nếu anh ta chứng minh
được rằng thiệt hại xảy ra do lỗi trong việc hoa tiêu, chỉ huy hoặc vận hành máy bay hoặc
trong mọi phương tiện khác mà anh ta và đại lý của anh ta đã áp dụng mọi biện pháp cần
thiết nhưng thiệt hại vẫn xảy ra .
Như vậy theo công ước Vác-sa-va , người chuyên chở hàng không phải chịu trách
nhiệm bồi thường trong hai trường hợp sau : hàng hoá bị mất mát hư hại và hàng hoá bị
giao chậm trong thời hạn trách nhiệm của người chuyên chở .
Nhưng, theo công ước thì người chuyên chở được hưởng miễn trách nhiệm không
phải bồi thường khi tổn thất của hàng hoá là do lỗi trong việc hoa tiêu , chỉ huy vận hành
máy bay hoặc trong trường hợp người chuyên chở hay người thay mặt họ cố gắng hết sức
trong khả năng có thể nhưng tổn thất về hàng hoá vẫn xảy ra.
2.3. Giới hạn trách nhiệm:
Giới hạn trách nhiệm của người chuyên chở là điều khoản quy định số tiền lớn
nhất mà người chuyên chở phải bồi thường cho một đơn vị hàng hoá trong trường hợp
tính chất và trị giá không được kê khai trên vận đơn hàng không.
Theo công ước Vác-sa-va 1929, trách nhiệm của người chuyên chở được giới hạn
ở một khoản 250 Franc/kg trừ phi người gửi hàng đã có tờ kê khai đặc biệt trị giá ở nơi
giao hàng, vào lúc hàng hoá được giao cho người chuyên chở và một khoản phí bổ sung
nếu người chuyên chở yêu cầu.
Trong trường hợp trị giá hàng hoá đã được kê khai trên vận đơn thì giới hạn trách
nhiệm của người chuyên chở là trị giá kê khai trên vận đơn .
Nếu trị giá hàng hoá mà người gửi hàng kê khai trên vận đơn lớn hơn giá trị thực
tế của hàng hoá lúc giao hàng thì người chuyên chở chỉ phải bồi thường tới giá trị của
hàng hoá lúc giao hàng nếu họ chứng minh được như vậy .
Ðồng Franc nói ở đây là đồng Franc Pháp có hàm lượng vàng là 65,5 mg vàng, độ
tinh khiết 900/1000 Khoản tiền này có thể đổi ra bất kỳ đồng tiền quốc gia nào theo số
tròn .
Trong trường hợp người chuyên chở cố ý gây tổn thất cho hàng hoá thì họ không
được hưởng giới hạn trách nhiệm nói trên.
3. Những sửa đổi, bổ sung Công ước Vacsava về trách nhiệm của người chuyên
chở:
Nghị định thư Hague 1955:
Theo nghị định thư Hague 1955 thì người chuyên chở không được miễn trách đối
với những tổn thất về hàng hoá do lỗi trong việc hoa tiêu , chỉ huy và điều hành máy bay.
Nhưng theo Hague thì người chuyên chở được miễn tránh nhiệm khi mất mát, hư hại
hàng hoá là do kết quả của nội tỳ, ẩn tỳ và phẩm chất của hàng hoá chuyên chở (Mục
XII , nghị định thư Hague).
Công ước Guadalazara 1961: Công ước Guadalazara 1961 đã đề cập đến trách
nhiệm của người chuyên chở theo hợp đồng và người chuyên chở thực sự mà
Công ước Vác-sa-va chưa đề cập tới:
- Theo Công ước Guadalazara thì người chuyên chở theo hợp đồng là người ký
một hợp đồng vận chuyển được điều chỉnh bằng Công ước Vac-sa-va 1929 với
người gửi hàng hay với người thay mặt người gửi hàng (mục I , khoản b ).
- Người chuyên chở thực sự là một người khác, không phải là người chuyên chở
theo hợp đồng, thực hiện toàn bộ hay một phần hợp đồng vận chuyển (mục I
khoản c ).
- Công ước Guadalazara quy định rằng, cả người chuyên chở thực sự và người
chuyên chở theo hợp đồng đều phải chịu trách nhiệm thực hiện hợp đồng.
Nhưng khi bao gồm cả vận chuyển kế tiếp thì người chuyên chở theo hợp đồng
có trách nhiệm đối với toàn bộ quá trình vận tải, người chuyên chở thực sự chỉ
có trách nhiệm đối với phần thực hiện của anh ta.
- Khi khiếu nại , người nhận hàng có thể lựa chọn khiếu nại từng người chuyên
chở thực sự hoặc khiếu nại người chuyên chở theo hợp đồng.
Nghị định thư Guatemala 1971: Nghị định thư Guatemala 1971 đã quy dịnh chi
tiết hơn cách tính trọng lượng hàng hoá để xét bồi thường:
- Theo nghị định thư Guatemala, trong trường hợp hàng hoá bị mất mát, hư hại
hoặc giao chậm một phần thì trọng lượng được xem xét để tính số tiền mà
người chuyên chở phải chịu trách nhiệm bồi thường là trọng lượng của một hay
nhiều kiện bị tổn thất.
- Nhưng nếu phần hàng hoá bị mất mát, hư hại hay giao chậm lại ảnh hưởng đến
giá trị của kiện khác ghi trong cùng một vận đơn hàng không thì toàn bộ trọng
lượng của một kiện hay nhiều kiện khác ấy cùng dược xem xét và giới hạn
trách nhiệm của người chuyên chở (mục VIII, khoản 2b). Ðiều này không được
quy định trong Công ước Vác-sa-va cũng như nghị định thư và công ước trước
nghị định thư Guatemala.
Các nghị định thư Montreal 1975, số 1,2,3,4 : Các nghị định thư Montreal 1975,
số 1,2,3,4 quy định một số điểm khác sau đây:
- Giới hạn trách nhiệm được thể hiện bằng đồng SDR chứ không phải đồng
Franc như công ước Vác-sa-va 1929. Giới hạn trách nhiệm của người chuyên
chở theo nghị định thư số 1 đối với hàng hoá là 17SDR/kg.
- Với những nước không phải thành viên của Quỹ tiền tệ quốc tế thì có thể đổi
đồng SDR ra tiền tệ quốc gia khi bồi thường. Néu luật quốc gia không cho
phép như vậy thì có thể sử dụng giới hạn trách nhiệm là 250 Făng vàng/kg như
đã nói ở trên.
- Tăng thêm những miễn trách sau đây cho người chuyên chở hàng không khi
hàng hoá mất mát, hư hại do:
+ Thiếu sót trong đóng gói hàng hoá do người chuyên chở, người phục vụ
hay người đại lý của họ thực hiện.
+ Hành động chiến tranh hoặc xung đột vũ trang.
+ Hành động do chính quyền nhân dân thực hiện có liên quan đến xuất
nhập khẩu quá cảnh.
4. Khiếu nại và kiện tụng người chuyên chở hàng không:
4.1. Khiếu nại:
Khiếu nại là việc làm cần thiết và quan trọng của người đi nhận hàng khi hàng hoá
bị tổn thất và giao chậm trong quá trình vận chuyển. Khiếu nại mở đường cho việc kiện
tụng sau này.
Muốn khiếu nại có hiệu quả thì việc khiếu nại phải tiến hành đúng thủ tục và thời hạn.
Ðiều 26, công ước Vác-sa-va quy định như sau "Việc nhận hàng mà không có
khiếu nại gì của người nhận hàng là bằng chứng đầu tiên rằng hàng hoá và hành lý đã
được giao trong điều kiện tốt và phù hợp với chứng từ vận chuyển".
Trong trường hợp thiệt hại, người được quyền nhận hàng phải khiếu nại người vận
chuyển ngay lập tức sau khi đã phát hiện ra thiệt hại và chậm nhất là 7 ngày sau ngày
nhận hàng.
Trường hợp chậm chễ đơn khiếu nại phải chậm nhất trong vòng 7 ngày kể từ ngày
nhận hàng hoặc phải làm chậm nhất trong vòng 14 ngày kể từ ngày hàng hoá lẽ ra phải
đặt dưới quyền định đoạt của người nhận hàng.
Mỗi đơn khiếu nại phải được lập thành văn bản đúng với chứng từ vận chuyển
hoặc bằng thông báo riêng gửi trong thời gian nói trên.
Không khiếu nại vào trong thời gian nói trên thì không việc khởi kiện nào được
coi là hợp pháp chống lại người vận chuyển trừ khi họ gian lận.
Theo nghị định thư Hague 1955, thời gian khiếu nại người chuyên chở về tổn thất
hàng hoá và giao chậm theo Công ước Vac-sa-va 1929 là 7 ngày và 14 ngày được nâng
lên là 14 đến 21 ngày kể từ ngày nhận hàng.
4.2. Thời hạn khiếu nại:
Theo công ước Vac-sa-va, quyền đòi thiệt hại bị huỷ bỏ, nếu việc khởi kiện không
được thực hiện trong vòng 2 năm kể từ ngày máy bay đến địa điểm đến hoặc kể từ ngày
lẽ ra máy bay phải đến hoặc kể tù ngày vận chuyển chấm dứt (điều 29, khoản 1, công ước
Vac-xa-va 1929).
4.3. Đối tượng khiếu nại:
Hành trình hàng không có thể có nhiều người chuyên chở khác nhau, trong trường hợp
này, người nhận hàng, người gửi hàng có khiếu nại những người chuyên chở sau đây:
Người chuyên chở đầu tiên
Người chuyên chở cuối cùng
Người chuyên chở mà đoạn chuyển chở của họ hàng hoá bị tổn thất.
4.4. Nơi kiện tụng:
Do tính quốc tế của vận tải hàng không, người đi kiện và bị kiện có thể ở những
nước khác nhau. Vì vậy khi đi kiện phải xác định nơi kiện phù hợp.
Theo công ước Vac-sa-va 1929 thì tuỳ sự lựa chon của nguyên đơn, thì việc khởi
kiện có thể được tiến hành tại:
Toà án của một trong các bên ký công ước, hoặc
Toà án, nơi ở cố định của người vận chuyển, hoặc
Nơi có trụ sở kinh doanh chính của người vận chuyển, hoặc
Nơi người vận chuyển có trụ sở mà hợp đồng được ký, hoặc toà án có thẩm quyền
tại nơi hàng đến.
Những vấn đề về thủ tục tố tụng do toà án thụ lý vụ kiện điều chỉnh.
III. Liên hệ trách nhiệm của người chuyên chở hàng không Việt Nam.
1. Thời hạn trách nhiệm.
Điều 160. Bồi thường thiệt hại đối với hành khách
Người vận chuyển có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp hành khách
chết hoặc bị thương do tai nạn xảy ra trong tàu bay, trong thời gian người vận chuyển đưa
hành khách lên tàu bay hoặc rời tàu bay.
2. Cơ sở trách nhiệm:
Trách nhiệm:
+ Chịu trách nhiệm đối với mất mát, thiếu hụt, hư hỏng hàng hoá, hành lý ký gửi trong
qúa trình chuyên chở hàng hoá.
+ Chịu trách nhiệm đối với tổn thất thiệt hại do chậm giao.
Điều 161. Bồi thường thiệt hại đối với hàng hoá, hành lý
1. Người vận chuyển có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do mất mát, thiếu hụt, hư hỏng
hàng hoá, hành lý ký gửi do sự kiện xảy ra từ thời điểm người gửi hàng, hành khách giao
hàng hoá, hành lý ký gửi cho người vận chuyển đến thời điểm người vận chuyển trả hàng
hoá, hành lý ký gửi cho người có quyền nhận; đối với vận chuyển hàng hoá, thời gian
trên không bao gồm quá trình vận chuyển bằng đường biển, đường bộ, đường sắt hoặc
đường thuỷ nội địa được thực hiện ngoài cảng hàng không, sân bay.
2. Trường hợp xảy ra mất mát, thiếu hụt hoặc hư hỏng hành lý xách tay, người vận
chuyển chỉ chịu trách nhiệm bồi thường nếu người vận chuyển có lỗi gây ra thiệt hại.
Trường hợp hàng hoá, hành lý đã được bồi thường nhưng sau đó hàng hoá, hành lý lại
đến địa điểm đến thì người nhận hàng, hành khách vẫn có quyền nhận số hàng hoá, hành
lý đó và hoàn trả số tiền bồi thường đã nhận cho người vận chuyển.
3. Trường hợp hàng hoá đã được người vận chuyển hàng không tiếp nhận thì bất kỳ thiệt
hại nào cũng được coi là kết quả của sự kiện xảy ra khi vận chuyển bằng đường hàng
không mà không phụ thuộc vào phương thức vận chuyển thực tế, trừ trường hợp người
vận chuyển chứng minh được thiệt hại xảy ra trong giai đoạn vận chuyển bằng đường
biển, đường bộ, đường sắt hoặc đường thủy nội địa. Trường hợp người vận chuyển thay
thế một phần hoặc toàn bộ việc vận chuyển bằng đường hàng không bằng phương thức
vận chuyển khác mà không được sự đồng ý của người gửi hàng thì việc vận chuyển bằng
phương thức khác đó được coi là vận chuyển bằng đường hàng không.
4. Người vận chuyển phải hoàn trả cho người gửi hàng, hành khách cước phí vận chuyển
đối với số hàng hoá, hành lý ký gửi bị thiệt hại
Điều 162. Mức bồi thường thiệt hại hàng hoá, hành lý
1. Mức bồi thường của người vận chuyển đối với mất mát, thiếu hụt, hư hỏng hàng hoá,
hành lý được tính như sau:
a) Theo thoả thuận giữa các bên, nhưng không vượt quá giá trị thiệt hại thực tế;
b) Theo mức giá trị đã kê khai của việc nhận hàng hoá, hành lý ký gửi tại địa điểm đến.
Trường hợp người vận chuyển chứng minh được giá trị đã kê khai cao hơn giá trị thực tế
thì mức bồi thường được tính theo giá trị thiệt hại thực tế;
c) Theo giá trị thiệt hại thực tế đối với hàng hoá, hành lý ký gửi không kê khai giá trị;
d) Theo giá trị thiệt hại thực tế đối với hành lý xách tay.
2. Trong trường hợp hàng hoá, hành lý ký gửi không kê khai giá trị mà bị mất mát, thiếu
hụt, hư hỏng và không xác định được giá trị thiệt hại thực tế thì mức bồi thường của
người vận chuyển được tính đến mức giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại quy định
tại Điều 166 của Luật này.
Điều 164. Bồi thường thiệt hại do vận chuyển chậm
1. Người vận chuyển có trách nhiệm bồi thường thiệt hại xảy ra do vận chuyển chậm, trừ
trường hợp chứng minh được mình, nhân viên và đại lý của mình không thể áp dụng hoặc
đã áp dụng mọi biện pháp để tránh thiệt hại nhưng thiệt hại vẫn xảy ra.
2. Việc bồi thường thiệt hại do vận chuyển chậm không vượt quá mức giới hạn trách
nhiệm bồi thường thiệt hại quy định tại Điều 166 của Luật này.
Miễn, giảm trách nhiệm:
Do bản chất tự nhiên, khuyết tật vốn có (nội tì, ẩn tì của hàng hoá)
Do hành động bắt giữ, cưỡng chế của cơ quan Nhà nước/toà án .
Do xung đột vũ trang hay chiến tranh.
Do lỗi của người gửi hàng, người nhận hàng, người áp tải hàng.
Điều 165. Miễn, giảm trách nhiệm bồi thường thiệt hại
1. Trong trường hợp chứng minh được thiệt hại xảy ra do lỗi của bên có quyền yêu cầu
bồi thường thiệt hại, người vận chuyển được miễn một phần hoặc toàn bộ trách nhiệm bồi
thường thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của bên có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại.
2. Trong trường hợp chứng minh được thiệt hại đối với tính mạng, sức khoẻ của hành
khách xảy ra do lỗi của hành khách, người vận chuyển được miễn một phần hoặc toàn bộ
trách nhiệm bồi thường thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của hành khách; người vận
chuyển không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với tính mạng, sức khoẻ của
hành khách nếu thiệt hại đó hoàn toàn do tình trạng sức khoẻ của hành khách gây ra.
3. Người vận chuyển được miễn một phần hoặc toàn bộ trách nhiệm bồi thường đối với
hàng hoá, hành lý ký gửi bị thiệt hại một cách tương ứng trong các trường hợp sau đây:
a) Do đặc tính tự nhiên hoặc khuyết tật vốn có của hàng hoá, hành lý ký gửi;
b) Do quyết định của Tòa án hoặc của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với hàng hoá,
hành lý ký gửi;
c) Do xảy ra chiến tranh hoặc xung đột vũ trang;
d) Do lỗi của người gửi, người nhận hàng hóa, hành lý ký gửi hoặc do lỗi của người áp
tải được người gửi hàng hoặc người nhận hàng cử đi kèm hàng hoá.
3. Giới hạn trách nhiệm
Đối với việc vận chuyển không áp dụng Công ước Vác sa va hoặc Công ước
Montreal, giới hạn trách nhiệm của người vận chuyển sẽ không thấp hơn giới hạn bằng
tiền trên một kg hàng hoá trong bảng giá hoặc điều kiện vận chuyển của người vận
chuyển đối với hàng hóa mất mát, hư hại hoặc chậm trễ, với điều kiện không áp dụng
giới hạn trách nhiệm thấp hơn 17 SDR một kilôgram đối với việc vận chuyển đi/đến Mỹ
Khoản tiền lớn nhất người chuyên chở phải bồi thường cho chủ hàng trên 1 kg hàng
hoá bị mất mát, hư hỏng.
Nếu hàng hoá có kê khai giá trị trên vận đơn (Declared value): bồi thường theo giá trị
kê khai
Nếu người chuyên chở chứng minh được rằng giá trị thực tế nhỏ hơn giá trị kê khai:
bồi thường theo giá trị thực tế
Nếu hàng hoá không kê khai giá trị trên vận đơn (Non declared value): sử dụng giới
hạn trách nhiệm của người vận chuyển
Nếu không xác định được giá trị thiệt hại thực tế: sử dụng giới hạn trách nhiệm của
người vận chuyển
Mức bồi thường thiệt hại không vượt quá giới hạn trách nhiệm dân sự
Đối với việc vận chuyển không áp dụng Công ước Vác sa va hoặc Công ước
Montreal, theo các quy định trong điều kiện vận chuyển chung và giá cước áp dụng,
người vận chuyển phải cho phép người gửi tăng giới hạn trách nhiệm bằng cách kê khai
giá trị vận chuyển cao hơn và trả thêm cước phí nếu được yêu cầu.
Trong trường hợp mất mát, hư hại hoặc chậm trễ một phần của lô hàng, trọng lượng
xác định giới hạn trách nhiệm của người vận chuyển chỉ là trọng lượng của kiện hàng
hoặc những kiện hàng liên quan.
Bất kể những điều khoản khác, đối với “việc vận chuyển hàng không quốc tế” như
định nghĩa trong Luật Hàng không dân dụng Mỹ:
Trong trường hợp mất mát, hư hại hoặc chậm trễ của lô hàng, trọng lượng được sử
dụng để xác định giới hạn trách nhiệm của người vận chuyển là trọng lượng được sử
dụng để xác định cước vận chuyển cho lô hàng đó.(1)
Trong trường hợp mất mát, hư hại hoặc chậm trễ một phần của lô hàng, trọng lượng lô
hàng nêu ở (1) sẽ được chia theo tỷ lệ của các kiện hàng cùng vận đơn hàng không mà giá
trị bị ảnh hưởng bởi mất mát, hư hại hoặc chậm trễ. Trọng lượng áp dụng trong trường
hợp mất mát hoặc hư hại của một hoặc nhiều hơn các vật phẩm trong một kiện hàng sẽ là
trọng lượng của cả kiện hàng đó.
Bất kỳ một sự loại trừ hoặc giới hạn trách nhiệm áp dụng cho người vận chuyển sẽ áp
dụng cho các đại lý, nhân viên, đại diện của người vận chuyển và bất kỳ ai mà tầu bay
hoặc trang thiết bị của họ được người vận chuyển sử dụng để vận chuyển và đại lý, nhân
viên và đại diện của họ.
Điều 166. Mức giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người vận chuyển đối
với hàng hóa
1. Người vận chuyển được hưởng mức giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại như sau:
c) Đối với vận chuyển hành lý, bao gồm cả hành lý ký gửi và hành lý xách tay, mức giới
hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do mất mát, thiếu hụt, hư hỏng hoặc do vận chuyển
chậm là một nghìn đơn vị tính toán cho mỗi hành khách; trường hợp hành khách có kê
khai giá trị của việc nhận hành lý ký gửi tại địa điểm đến và trả một khoản phí bổ sung thì
người vận chuyển phải bồi thường theo mức giá trị đã được kê khai, trừ trường hợp người
vận chuyển chứng minh được rằng giá trị đã kê khai lớn hơn giá trị thực tế;
d) Đối với vận chuyển hàng hoá, mức giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do mất
mát, thiếu hụt, hư hỏng hoặc do vận chuyển chậm là mười bảy đơn vị tính toán cho mỗi
kilôgam hàng hoá; trường hợp người gửi hàng có kê khai giá trị của việc nhận hàng hoá
tại nơi đến và trả một khoản phí bổ sung thì người vận chuyển phải bồi thường theo mức
giá trị đã được kê khai, trừ trường hợp người vận chuyển chứng minh được rằng giá trị đã
kê khai lớn hơn giá trị thực tế.
2. Đơn vị tính toán là đơn vị tiền tệ do Quỹ tiền tệ quốc tế xác định và được quy ước là
Quyền rút vốn đặc biệt. Đơn vị tính toán được chuyển đổi sang Đồng Việt Nam theo tỷ
giá chính thức do Ngân hàng nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm thanh toán.
3. Trọng lượng của kiện hàng hóa bị mất mát, thiếu hụt, hư hỏng hoặc bị vận chuyển
chậm được sử dụng để xác định giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người vận
chuyển trong trường hợp vận chuyển hàng hoá. Trường hợp phần hàng hoá bị mất mát,
thiếu hụt, hư hỏng hoặc vận chuyển chậm làm ảnh hưởng đến giá trị của các kiện hàng
hoá khác trong cùng một vận đơn hàng không hoặc biên lai hàng hóa thì trọng lượng của
toàn bộ các kiện hàng hoá được sử dụng để xác định giới hạn trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của người vận chuyển.
4. Người vận chuyển chỉ được hưởng mức giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại quy
định tại điểm a khoản 1 Điều này trong trường hợp người vận chuyển chứng minh được
rằng thiệt hại xảy ra không phải do lỗi của mình hoặc hoàn toàn do lỗi của bên thứ ba.
5. Người vận chuyển không được hưởng mức giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại
quy định tại các điểm b, c và d khoản 1 Điều này trong trường hợp người vận chuyển,
nhân viên hoặc đại lý của người vận chuyển thực hiện hành vi gây thiệt hại một cách cố ý
hoặc do sự cẩu thả nhưng với nhận thức rằng thiệt hại có thể xảy ra. Trong trường hợp
hành vi đó do nhân viên hoặc đại lý thực hiện thì phải chứng minh được rằng nhân viên
hoặc đại lý đó đã hành động khi thực hiện nhiệm vụ của mình.
6. Trong trường hợp cần thiết, Chính phủ quyết định tăng mức giới hạn trách nhiệm bồi
thường thiệt hại quy định tại khoản 1 Điều này
4. Khiếu nại và kiện tụng:
Điều 170. Khiếu nại và khởi kiện người vận chuyển
1. Hành khách, người gửi hàng, người nhận hàng hoặc người đại diện hợp pháp của họ có
quyền khiếu nại, khởi kiện người vận chuyển để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp khi bị
xâm hại.
2. Trước khi khởi kiện về mất mát, thiếu hụt, hư hỏng, vận chuyển chậm hàng hoá, hành
lý ký gửi, người có quyền khởi kiện quy định tại khoản 1 Điều này phải khiếu nại bằng
văn bản đến người vận chuyển trong thời hạn sau đây:
a) Bảy ngày, kể từ ngày nhận hành lý trong trường hợp mất mát, thiếu hụt, hư hỏng hành
lý;
b) Mười bốn ngày, kể từ ngày nhận hàng trong trường hợp thiếu hụt, hư hỏng hàng hoá;
hai mươi mốt ngày, kể từ ngày phải trả hàng trong trường hợp mất mát hàng hoá;
c) Hai mươi mốt ngày, kể từ ngày người có quyền nhận đã nhận được hành lý hoặc hàng
hoá trong trường hợp vận chuyển chậm.
3. Người vận chuyển phải thông báo cho người khiếu nại biết việc chấp nhận hoặc không
chấp nhận khiếu nại trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại.
Trường hợp khiếu nại không được chấp nhận hoặc quá thời hạn trên mà không nhận được
thông báo trả lời thì người khiếu nại có quyền khởi kiện.
4. Việc khởi kiện về trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với người vận chuyển chỉ được
thực hiện theo các điều kiện và mức giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại quy định
tại Luật này.
5. Trường hợp việc khiếu nại không được thực hiện trong thời hạn quy định tại khoản 2
Điều này thì việc khởi kiện không có giá trị, trừ trường hợp có sự lừa dối từ phía người
vận chuyển hoặc người có quyền khiếu nại có lý do chính đáng.
IV. KẾT LUẬN:
Mặc dù công ước đã đóng vai trò rất lớn trong việc phát triển vận tải hàng không
quốc tế, nhưng nó đã ra đời từ thuở mà ngành hàng không còn non trẻ và trong một bối
cảnh lịch sử cũ nên nó không tránh khỏi những hạn chế nhất định.
Công ước đã đưa ra quá nhiều chi tiết bắt buộc phải ghi vào chứng từ vận chuyển
mà đôi khi người ta thấy nó đã quá cụ thể đi vào nghiệp vụ vận chuyển. Và hơn nữa Công
ước đã buộc phải tách rời vé hành khách và vé hành lý một cách không cần thiết mà trong
khi người ta có thể giải quyết bằng cách khác đơn giản hơn.
Công ước đã tách riêng người vận chuyển ra khỏi phi công lái tàu bay và người
phục vụ giao thông hàng không. Đây có thể là một sai lầm mà người vận chuyển có thể sẽ
dễ dàng loại bỏ trách nhiệm của mình đối với những thiệt hại xảy ra trong quá trình vận
chuyển. Theo khoản 2 điều 20 của công ước thì người vận chuyển bao giờ cũng chỉ cần
chứng minh lỗi do lái tàu bay hay điều hành tàu bay là bao giờ anh ta có thể thoát khỏi
trách nhiệm. Vận chuyển là một trong những mục đích hoạt động của giao thông hàng
không. Vậy trong giao thông hàng không phải được đảm bảo an toàn để thực hiện tốt mục
đích vận tải.
Các quốc gia kết ước đều phải thông qua thủ tục phê chuẩn. Công ước có hiệu lực
vào thứ 90 sau khi vặn kiện phê chuẩn thứ 5 được gửi tới ICAO. Sau khi công ước có
hiệu lực, các quốc gia kết ước gửi hết văn kiện phê chuẩn tới thì công ước sẽ có hiệu lực
đối với các quốc gia dó vào ngày thứ 90 sau khi gửi. Công ước được mở ra cho tất cả các
quốc gia không ký kết hoặc gia nhập. Văn kiện gia nhập được gửi tới ICAO và công ước
có hiệu lực đối với các quốc gia đó vào ngày thứ 90 sau khi gửi.
Các quốc gia đều có quyền từ bỏ công ước bằng cách gửi thông báo cho ICAO
biết, và có hiệu lực sau 6 tháng, kể từ ngày nhận được thông báo.
Do trình độ phát triển hàng không quốc tế có nhiều thay đổi nên điều đó là những
tất yêu không thể tránh khỏi. Các vấn đề còn nhiều tranh luận như trách nhiệm của người
vận chuyển đối với trường hợp thiệt hại về thể chất và tinh thần của khách hàng, trách
nhiệm về vận chuyển chậm trễ, mức giới hạn trách nhiệm của người vận chuyển, lỗi hỗn
hợp, thẩm quyền xét xử, luật áp dụng để tính thiệt hại, quan hệ giữa người vận chuyển
thực tế và người vận chuyển kí kết hợp đồng.
Vì vậy cần tạo ra một công ước có tính chất thống nhất như vậy có nhiều phức tạp
song có lẽ trong một khoảng thời gian không dài công ước này có thể được các quốc gia
đồng ý ký kết.