Tai chinh phai sinh
description
Transcript of Tai chinh phai sinh
http://www.saga.vn/Taichinh/Congcu/Congcuphaisinh/4920.saga
Nghiệp vụ tài chính phái sinh và thực trạng sử dụng tại Việt Nam
( Bình chọn: 5 -- Thảo luận: 5 -- Số lần đọc: 24206)
Các nghiệp vụ tài chính phái sinh là sản phẩm tất yếu của sự phát triển ngày càng sâu, rộng và
đa dạng của thị trường tài chính. Sự biến động khó lường của giá cả hàng hoá, lãi suất, tỷ giá
trên thị trường là những nguyên nhân gây ra rủi ro cho các nhà đầu tư trong các phi vụ mua,
bán. Để hạn chế thấp nhất những rủi ro thua lỗ có thể xẩy ra, các nghiệp vụ tài chính phái sinh
đã được hình thành, đó thực chất là những hợp đồng tài chính mà giá trị cuả nó phụ thuộc vào
một hợp đồng mua bán cơ sở (hay còn gọi là chính phẩm).
Đến nay, trên thị trường tài chính quốc tế nghiệp vụ tài chính phái sinh đã phát triển rất mạnh
với các nghiệp vụ phái sinh rất đa dạng và thị trường phái sinh đóng vai trò quan trọng trong
hệ thống tài chính toàn cầu. Sở dĩ nó phát triển thành công như vậy, là do sử dụng nghiệp vụ
này đem lại lợi ích cho các thành viên thị trường. Trên thị trường có thể phân ra thành 3 loại
thành viên: Người đầu tư, người đầu cơ, người cơ lợi. Sự dụng nghiệp vụ tài chính phái sinh
đều mang lại lợi ích cho 3 loại thành viên này: Người đầu tư phải đối diện với những rủi ro do
biến động giá cả của các sản phẩm chính, họ phải sử dụng nghiệp vụ phái sinh để giảm thiểu
hoặc loại bỏ rủi ro; đối với người đầu cơ lại muốn đánh cuộc trên những biến động giá cả của
sản phẩm chính, họ dùng nghiệp vụ này như một đòn bẩy đặc biệt; đối với người cơ lợi ( thực
hiện lợi nhuận mà không có rủi ro) bằng cách sư dụng chênh lêch giá giữa các thị trường tài
chính khác nhau, họ đã sử dụng rất hiệu quả các nghiệp vụ phái sinh để hưởng chênh lệch giá.
Dưới đây xin đề cập đến một số nghiệp vụ phái sinh chuẩn và không chuẩn hay còn gọi là công
cụ phái sinh độc lập và công cụ phái sinh “được gắn thêm” hiện đang được giao dịch phổ biến
trên thị trường tài chính quốc tế.
1. Một số công cụ phái sinh độc lập:
Hợp đồng mua bán trước(còn gọi là công cụ kỳ hạn): Là một công cụ tài chính phái sinh đơn
giản. Đó là một thoả thuận mua hoặc bán một tài sản ( hàng hoá hoặc các tài sản tài chính) tại
một thời điểm trong tương lai với một giá đã xácđịnh trước.
Đặc điểm của hợp đồng này là:
Thông thường hợp đồng này được thực hiện giữa các tổ chức tài chính (TCTC)với nhau,
hoặc giữa TCTC với các khách hàng là doanh nghiệp phi tài chính (các hợp đồng này
thường được ký kết song phương).
Trong hợp đồng này người mua được gọi là người giữ thế trường vị (long position),
người bán được gọi là người giữ thế đoản vị (short position).
Hợp đồng này chỉ được thực hiện khi đáo hạn: Đến thời điểm đáo hạn người giữ vị thế
đoản vị phải thực hiện bán tài sản cho người giữ vị thề trường vị và nhận một khoản tiền
từ người mua với mức giá cả đã định trước trong hợp đồng, cho dù vào thời điểm đó giá
thị trường của tài sản đó có cao hơn hoặc thấp hơn giá xác định trong hợp đồng. Nếu giá
thị trường cao hơn giá hợp đồng thì người giữ vị thế trường vị sẽ có lãi (có giá trị
dương), còn người giữ vị thế đoạn vị bị giá trị âm; và ngược lại.
Hợp đồng mua bán trong tương lai: là một công cụ tài chính phái sinh, tương tự như hợp
đồng mua bán trước, chỉ khác có một số điểm sau:
Hợp đồng mua bán trong tương lai thường được ký kết và thực hiện hợp đồng thông qua một
môi giới trên thị trường chứng khoán; và người mua và người bán thường không quen biết
nhau, do vậy đơn vị môi giới thường đưa ra một số các tiêu chuẩn cho những hợp đồng này.
Hiện nay, những thị trường chứng khoán mua bán hợp đồng trong tương lai là Hội đồng mậu
dịch Chicago - Chicago Board of Trade( CBOT), Sở thương mai Chicago- Chicago Mercantile
Exchange (CME) và Sở giao dịch các hợp đồng tương lai London. Các loại hàng hoá được
giao dịch trên thị trường chứng khoán mua bán hợp đồng trong tương lai gồm, heo, bò ,đường,
len ...., sản phẩm tài chính gồm, chỉ số chứng khoán, ngoại tệ, trái phiếu công ty, trái phiếu
chính phủ.
Ngày giao hàng không được xác định một cách chính xác như hợp đồng mua- bán trước, mà
được qui định theo tháng và khoảng thời gian của tháng phải giao. Văn phòng thị trường chứng
khoán (người môi giới) xác định khối lượng, chất lượng của hàng hoá giao dịch, cách giao
hàng, giá hợp đồng, và cũng có thể xác định luôn giá trị hợp đồng mua bán tương lai có thể
thay đổi trong một ngày.
Người mua, bán phải trả phí hoa hồng cho người môi giới, và giá rao bán được xác định trên
sàn giao dịch chứng khoán.
Có hai loại thương nhân trên sàn giao dịch: Thứ nhất là những người môi giới ăn hoa hồng, họ
sẽ thực hiện mua bán theo lệnh của nhà đầu tư và tính hoa hồng; thứ 2 là người tự đầu tư.
Để tránh những rủi ro khi thực hiện hợp đồng mua bán trong tương lai, do người mua, hoặc
người bán tháo lui khỏi hợp đồng vì sự biến động giá trên thị trường bất lợi cho mình, hoặc do
đến thời điểm thanh toán, người mua không có khả năng tài chính. Văn phòng chứng khoán
phải đưa ra những qui định về yều cầu dự trữ tối thiểu đối với người ký hợp đồng tương lai với
nhà môi giới. Khoản tiền dự trữ này được giữ tại một tài khoản của người đầu tư mở tại văn
phòng chứng khoán.
Ví dụ: Giả sử vào tháng 3 bạn gọi cho nhà môi giới của bạn tại CBOT, và yêu cầu ông ta mua
cho bạn 100 lượng vàng vào thời điểm tháng 7. Những sự việc gì sẽ xẩy ra sau lệnh của bạn:
- Bước 1, người môi giới sẽ chuyển lệnh của bạn cho một đại diện tại CBOT. ở đây lênh này sẽ
do một người đưa tin chuyển đến cho một thương nhân của bán giao dịch. Người này sẽ cố tìm
giá tốt nhất trên thị trường và ra dầu hiệu bằng tay cho các thương nhân biết rằng có người
muốn mua một hợp đồng vàng tương lai với giá như vậy.
- Bước 2, Nếu có một thương nhân (bên bán) chấp nhận với mức giá và thời gian bán như vậy,
thì là đã kết thúc thương thuyết.Sau đó người ta sẽ thông báo cho bạn biết thông qua người môi
giới của bạn là hợp đồng đã đựoc ký kết.
Kết thúc một hợp đồng tương lai, hiếm khi được diễn ra như ký kết ban đầu, mà thường xảy ra
sự hoàn đổi trong suốt thời gian đáo hạn: Nếu như
một người đầu tư ở thế trường vị đối với một hợp
đồng tương lai mua vàng vào tháng 7, nhưng vào
ngày 6/3, anh ta có thể kết thúc vị trí này vào ngày
20/4 bằng cách chọn vị trí đoản vị đối với hợp đồng
bán vàng vào tháng 7. Vào ngày 6/3 nếu một người ở
vị trí đoản vị đối với hợp đồng tương lai vào tháng 7
anh ta có thể kết thúc hợp đồng này vào ngày 20/4
bằng cách chọn vị trí trường vị vào tháng 7. Trong cả
2 trường hợp tiền lời hay lỗ của người đầu tư phản
ánh những thay đổi của giá cả giữa ngày 6/3 với ngày
20/4.
Trong hoạt động ngân hàng, các ngân hàng đã sử
dụng nhiều nghiệp vụ này trong kinh doanh chứng khoán và quản lý danh mục đầu tư để
phòng chống rủi ro do biến động lãi suất trong tương lai. Để hạn chế rủi ro biến động lãi suất
trong tương lai, nhìn chung đòi hỏi các ngân hàng phải giữ vị thế trên thị trường trong tương
lai đối nghịch với vị thế hiện thời trên thị trường giao ngay. Bởi vậy, một ngân hàng có kế
hoạch mua trái phiếu “ tạo thế trường” trên thị trường giao ngay có thể bảo vệ được giá trị của
những trái phiếu này bằng việc ký hợp đồng bán trái phiếu trên thị trường tương lai tạo vị thế
đoản.nếu ngay sau đó, giá trái phiếu giảm trên thị trường giao ngay, thì sẽ có một khoản lợi
nhuận được bù đắp xuất hiện từ thị trường tương lai và điều này giúp cho ngân hàng tối thiểu
hoá tổn thất gây ra do biến động lãi suất.
Hợp đồng quyền chọn (quyền chọn mua hoặc bán): Là một sản phẩm tài chính phái sinh rất
được ưa chuộng. Hợp đồng quyền chọn cổ phiếu được thực hiện lần đầu tiên tại Mỹ vào năm
1973, từ đó thị trường này phát triển tăng vọt và ngày nay được thực hiện trên khắp thị trường
tài chính thề giới. Hợp đồng quyền chọn được thực hiện với các hoạt động mua, bán: Cổ phiếu,
chỉ số thị trường chứng khoán, ngoại tệ, công cụ nợ, các hợp đồng mua bán tương lai và hàng
hoá.
Có hai loại hợp đồng quyền chọn: Hợp đồng quyền chọn mua (call option)và hợp đồng quyền
chọn bán (put option). Hợp đồng quyền chọn mua là thoả thuận cho phép người cầm hợp đồng
có quyền mua sản phẩm từ một nhà đầu tư khác với mức giá định sẵn vào ngày đáo hạn của
hợp đồng. Còn hợp đồng quyền bán là thoả thuận cho phép người cầm hợp đồng có quyền bán
sản phẩm cho một nhà đầu tư khác với mức giá định sẵn vào ngày đáo hạn của hợp đồng.
Đặc điểm của hợp đồng lựa chọn: Khác với hợp đồng mua bán trước và hợp đồng mua bán
tương lai hợp đồng quyền chọn không bắt buộc các bên phải giao sản phẩm. Hợp đồng chỉ quy
định quyền giao hay nhận, mà không bắt buộc thực hiện nghĩa vụ của mình. Người mua quyền
có thể: Thực hiện quyền, hay bán quyền cho một người mua khác; hay không thực hiện quyền .
Để có quyền này, khi ký hợp đồng, người cầm hợp đồng phải trả quyền phí; giá trong hợp
đồng được gọi là giá thực hiện hay là giá nổ (Strike price); ngày định trong hợp đồng gọi là
ngày đáo hạn hay hày thực hiện.
Có hai kiểu thực hiện hợp đồng quyền chọn, đó là thực hiện hợp đồng quyền chọn theo kiểu
Mỹ và theo kiểu châu Âu. Theo kiểu Mỹ là thực hiện quyền chọn vào bất kỳ thời điểm nào
trước ngày đáo hạn. Theo kiểu châu Âu là thực hiện quyền chọn chỉ trong ngày đáo hạn. Hiện
nay trên các thị trường chứng khoán hầu hết thực hiện theo kiểu Mỹ.
Ví dụ: Một người đầu tư mua 100 cổ phiếu IBM dưới hình thức hợp đồng lựa chọn kiểu châu
Âu với giá định trước là 100 USD/1 cổ phiếu (Strike price), ngày đáo hạn là 2 tháng và quyền
phí là 5 USD/cổ phiếu. Giả sử đến ngày đáo hạn giá cổ phiếu cổ phiếu thấp hơn 100 USD, thì
nhà đầu tư có thể sẽ từ chối không mua và chịu mất 500 USD quyền phí (5x100). Trong trường
hợp giá cao hơn nhà đầu tư sẽ thực hiện hợp đồng.
Một điểm đáng chú ý là: trong khi người mua hợp đồng lựa chọn call mong muốn giá của sản
phẩm hợp sẽ tăng lên trong ngày đáo hạn thì người mua hợp đồng lựa chọn Put lại hy vọng giá
xuống. Nếu cao hơn giá định trước họ sẽ từ chối quyền bán và chịu mất quyền phí. Tất nhiên
sự từ chối hay không từ chối quyền khi giá ngày đáo hạn cao (hay thấp) hơn giá nổ sẽ được các
nhà đầu tư tính toán trên cơ sở mức độ chênh lệch giữa giá định trước với giá ngày đáo hạn và
quyền phí.
Các hợp đồng quyền chọn thường được giao dịch trên thị trường chứng khoán hoặc thị trường
phi chính thức. Hiện nay, chủ yếu các hợp đồng quyền chọn được mua bán rộng rãi tại văn
phòng thị trường chứng khoán (Chicago board Option Exchange–CBOE, Philadelphia
Exchange–PHLX, The American Stock Exchange–AMEX, The Pacific Stock Exchange–PSE,
The New York Stock Exchange–NYSE...). Việc mua bán dưới hình thức hợp đồng chọn tại các
văn phòng thị trường chứng khoán có nhiều khía cạnh giống như mua bán hợp đồng tương lai.
Văn phòng thị trường chứng khoán phải xác định rõ các điều kiện, mức độ, thời gian đáo hạn
và ấn định giá của hợp đồng quyền chọn được mua bán trên thị trường của họ.Và để giảm rủi
ro của việc thực hiện hợp đồng, lúc mua sản phẩm (cổ phiếu chẳng hạn), người đầu tư mở tài
khoản dự trữ bắt buộc với người môi giới của họ, mức độ dự trữ tuỳ thuộc vào loại hàng hoá
được giao dịch và tuỳ vào từng tình huống cụ thể. Đồng thời, cũng có những quy định để kiểm
soát thị trường hợp đồng quyền chọn, như những qui định kiểm soát ứng xử của thương nhân,
của những người tạo lập thị trường.
Nghiệp vụ hoán đổi: là một hợp đồng trong đó hai bên thoả thuận trao đổi nghĩa vụ thanh
toán. Thông thường giao dịch này bao gồm các thanh toán lãi, và
trong một số trường hợp là thanh toán nợ gốc. Giao dịch hoán
đổi lãi suất và hoán đổi ngoại tệ là sản phẩm của thị trường phi
tập trung (OTC) được kết hợp trực tiếp giữa hai ngân hàng, hoặc
giữa ngân hàng với khách hàng. Theo đó không có mẫu chuẩn
của hợp đồng giao dịch hoán đổi và các hợp đồng kiểu này sẽ
khác nhau về một số nội dung.
Trước khi các giao dịch hoán đổi xuất hiện, bên vay và bên cho
vay thường bị giới hạn ở lãi suất cố định hoặc lãi suất thả nổi,
cấp vốn hoặc cho vay trên cơ sở tiền mặt. Nhà đầu tư hoặc ngân hàng sẽ gặp phải sự không
ương xứng về lãi suất giữa tài sản có và tài sản nợ. Ví dụ công ty vay lãi suát cố định, nhưng
lại đầu tư vào thị trường lãi suất thả nổi, chắc chắn sẽ bị lỗ khi lãi suất giảm do không có
khoản tăng thu nhập từ tài sản có lãi suất thả nổi.
Giao dịch hoán đổi được tạo ra để xử lý những sự không tương xứng này, tạo cho ngân hàng,
doanh nghiệp kiểm soát tốt hơn các dòng lưu chuyển tiền tệ của mình. Khi mới xuất hiện công
cụ này vào đầu thập kỷ 1980, các ngân hàng dàn xếp các giao dịch hoán đổi cho các bên cụ thể
có nhu cầu cần bổ sung cho nhau. Các ngân hàng thu được phí do làm đại diện trong các giao
dịch này. Thị trường càng phát triển, ngân hàng tham gia với vai trò chủ chốt, thực hiện những
bù trừ tất cả các trạng thái với các bên ngang nhau và đối nghịch. Thu nhập được tạo ra từ sự
chênh lệch giữa lãi suất hoán đổi thanh toán và nhận được, hoặc phí trả trước để giàn xếp.
2. Các công cụ phái sinh không chuẩn (được gắn thêm):
Những năm gần đây, trên thị trường tài chính đã suất hiện nhiều công cụ tài chính phái sinh
khác được thiết kế dựa trên những nguyên lý cơ bản của các công cụ tài chính quyền chọn
(call, put) và hợp đồng mua bán tương lai, gọi là hợp đồng lựa chọn Exotics, hay còn gọi là
những công cụ phái sinh không chuẩn. Các ví dụ sau cso thể minh hoạ phần nào về công cụ
phái sinh không chuẩn:
Ví dụ 1: Về trái phiếu của Standard Oils
Năm 1986 công ty Standard Oils phát hành loại trái phiếu mà người mua không nhận được lãi
suất, nhưng đến ngày đáo hạn người mua 1000 USD trái phiếu sẽ nhận được một số tiền phụ
trội dựa trên giá của xăng dầu lúc đó. Số tiền phụ trội này bằng tích số của 170 với mức giá
dầu tăng vượt mức 25 USD/thùng, tuy nhiên mức giá vượt lên không quá 40 USD/thùng. Tức
lợi tức nhận được tối đa là 2.250 USD với 1000 USD trái phiếu. Trường hợp giá dầu không
tăng thì người mua chỉ nhận được gốc trái phiếu khi đến ngày đáo hạn.
Ví dụ 2:Trái phiếu ICON
Năm 1985, tổ chức ngân hàng Banker Trust đã phát hành một loại trái phiếu mang tên ICONs
(Index currency notes). Lợi tức thu được từ trái phiếu này phụ thuộc vào tỷ giá với ngoại tệ.
Ngân hàng thỏa thuận trước với người mua trái phiếu 2 mức tỷ giá X1 và X2 (X1>X2). Nếu
đến ngày đáo hạn, tỷ giá lớn hơn X1 thì người mua trái phiếu sẽ nhận được toàn bộ số tiền như
đã thoả thuận trước, nếu tỷ giá nhỏ hơn X2 người chủ trái phiếu không nhận được một đồng
nào ngoài tiền gốc. Nếu tỷ giá trong khoảng X1 và X2 sẽ nhận được một phần nhỏ lợi tức nào
đó.
Ví dụ 3: Hợp đồng lựa chọn trước trong một khoảng định
Hợp đồng loại này thường được sử dụng trong mua bán ngoại tệ. Một hợp đồng mua bán trước
khoảng định là quyền chọn mua ( hoặc bán) trong giới hạn dao động tỷ giá định trước. Giả sử
ngày 8/5/2005 một công ty Hoa kỳ sẽ cần đồng bảng anh trong vòng 90 ngày nữa. Công ty này
có thể ký một hợp đồng mua trước khoảng định bảng anh quanh mức tỷ giá 1,6056 trong 90
ngày nữa. Theo hợp đồng này, tỷ giá được đặt dao động quanh mức 1,6056 (từ mức 1,5700
đến 1,6400). Nếu đến ngày đáo hạn tỷ giá nhỏ hơn 1,570 công ty sẽ trả theo mức tỷ giá 1,5700;
nếu giá nằm trong khoảng 1,570-1,6400, công ty sẽ trả theo thời giá; nếu thời giá lớn hơn
1,6400 công ty sẽ trả bằng mức 1,6400.
Hiện nay trên thị trường tài chính xuất hiện rất nhiều các loại công cụ phái sinh không chuẩn,
như hợp đồng lựa chọn bắt đầu trong tương lai, là loại hợp đồng ta phải trả ngay, nhưng chỉ bắt
đầu tại thời điểm nào đó trong tương lai; hợp đồng lựa chọn hỗn hợp là hợp đồng lựa chọn dựa
trên các hợp đồng lựa chọn. Có 4 loại hợp đồng hỗn hợp chính: Call dựa trên Call, Put đựa trên
Call, Put dựa trên Put, Call dựa trên Put; hợp đồng lựa chọn có dào; giao dịch hoán đổi lãi suất
chéo Cross Currency Swap - CCS là loại nghiệp vụ phái sinh cơ bản giúp cho khách hàng có
khả năng phòng ngừa rủi ro tỷ giá và lãi suất. Có thể mô tả qui trình đó như sau:
Bên A và bên B ký hợp đồng CCS với nội dung như sau:
+ Số tiền 10 triệu USD,
+ Tỷ giá 1 USD = 15.800 VND.
+ Ngày hiệu lực 1/6/2005;
+ Ngày đáo hạn 1/6/2010
+ Lịch trình dòng tiền: 3 tháng một lần, chia đều suốt thời hạn 5 năm
+ Lãi suất: Bên A trả 8% trên 158 tỷ VND, Bên B trả Libor 3 tháng trên 10 triệu USD. Định kỳ
trả lãi 3 tháng một lần.
Hợp đồng CCS có thể có hoặc không có trao đổi ban đầu, nhưng nhất thiết phải có trao đổi
cuối cùng, hai bên có thể thoả thuận trả lãi suất cố định hay thả nổi tuy theo yêu cầu.
Sơ đồ dòng tiền.
(1) Trao đổi ban đầu ( tỷ giá 1 USD = 15.800 VND) vào ngày 1/6/2005. Bên A chuyển cho NH
( bên B) 10 triệu USD, Bên B chuyển cho Bên A 158 tỷ VND.
(2) Sự trao đổi cuối cùng (tỷ giá 1 USD = 15.800 VND) bắt đầu ngày 1/9/2005 cứ 3 tháng 1
lần cho đến 1/6/2010. Tổng cộng có 20 lần trao đổi.
- Bên A chuyển cho bên B 7,9 tỷ VND, Bên B chuyển cho bên A 0,5 triệu USD;
- Lãi suất Bên A trả cho Bên B là 8%/năm, Bên B trả cho bên A lai suất Libor 3 tháng.
Trên thực tế ở các nước trong khu vực, hợp đồng CCS như dạng trên rất phổ biến và giúp cho
khách hàng phòng ngừa rủi ro tỷ giá và lãi suất.
- Hợp đồng quyền chọn lãi suất chặn trên và chặn hai đầu
+ Quyền chọn lãi suất chặn trên tối đa : được áp dụng
khi khách hàng vay vốn theo lãi suất thả nổi nhưng
không phải trả vượt quá một mức lãi suất được xác định
trước. Đến thời điểm đáo hạn nếu lãi suất thực tế vượt
mức lãi suất xác định trước, khách hàng chỉ phải trả lãi
suất theo mức đã xác định trước trong hợp đồng. Trường hợp lãi suất hiện thời thấp hơn lãi
suất xác định trước khách hàng trả theo lãi suất hiện thời. Để có quyền này, khách hàng phải
trả một mức phí nhất định theo thoả thuận.
+ Quyền chọn chặn hai đầu, được áp dụng khi khách hàng vay lãi suất thả nổi với mong muốn
phải trả lãi suất trong một khung xác định trước.
- Nghiệp vụ tiền gửi kết hợp quyền chọn tiền tệ- Dual currency Deposit. Nghiệp vụ này có
thể được mô tả như sau:
+ Khách hàng và TCTD thoả thuận với nhau về một giao dịch tiền gửi thông thường kèm theo
một hợp đồng quyền chọn, theo đó đến ngày đáo hạn, nếu tỷ giá đồng tiền thấp hơn (hoặc cao
hơn) tỷ giá thoả thuận ban đầu thì người gửi tiền sẽ nhận được tiền gốc và tiền lãi bằng đồng
tiền đã gửi ban đầu; nếu tỷ giá lớn hơn (hoặc thấp hơn) mức tỷ giá thoả thuận ban đầu thì
người gửi tiền sẽ nhận tiền gốc và tiền lãi bằng đồng tiền khác theo tỷ giá và loại đồng tiền do
khách hàng và TCTD thoả thuận ban đầu.
+ Có kỳ hạn cố định và thường là ngắn hạn;
+ Lãi suất của loại tiền gửi này có thể cao hơn lãi suất tiền gửi thông thường cùng kỳ hạn và
gắn với quyền chọn tiền tệ có thể phát sinh rủi ro
Trên thị trường tài chính ở Việt nam, các nghiệp vụ phái sinh bắt đầu xuất hiện khoảng 5 năm
trước đây và đến nay xuất hiện nhiều loại công cụ phái sinh chuẩn và không chuẩn đang được
thực hiện.Tuy nhiên, cơ sở pháp lý các các nghiệp vụ phái sinh còn mang tính thí điểm và đơn
lẻ, ngoại trừ giao dịch hoán đổi lãi suất đã có qui chế của NHNN ( Quyết định sso
1133/2003/QĐ - NHNN, ngày 30/9/2003 ban hành kèm theo qui chế). Đồng thời số lượng các
giao dịch còn ít khoảng gần 15 hợp đồng hoán đổi lãi suất và một số ít hợp đồng phái sinh
không chuẩn khác đã được cho phép thực hiện( trong số đó có một số giao dịch đã chưa phát
sinh giao dịch). Có thể liệt kê một số TCTD đã được Ngân hàng nhà nước cho phép thực hiện:
- Ngân hàng Citibank thực hiện thí điểm hoán đổi lãi suất giữa 2 đồng tiền từ ngày 1/3/2005
đến 2/2006.
- Ngân hàng Standard Chartered chi nhánh tại Việt Nam thực hiện hoán đổi lãi suất chéo giữa
2 đồng tiền chéo (Cross Currency Swap- CCS) đối với khoản vay ngoại tệ của khách hàng sau
khi khách hàng vay ngoại tệ;thực hiện cung cấp sản phẩm gắn với rủi ro tín dụng- lãi suất cơ
cấu cho tiền gửi và giấy tờ có giá, theo đó lãi suất của khách hàng được hưởng sẽ không cố
định mà nằm trong một khoảng giao động nhất định và phụ thuộc vào sự biến động của một số
yếu tố thị trường , như tỷ giá, lãi suất, giá sản phẩm hàng hóa nào đó...
- Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, thực hiện thí điểm giao dịch quyền chọn lãi suất
đối với các khoản cho vay hoặc đi vay trung hạn bằng USD hoặc euro. Đối tác thực hiện giao
dịch quyền chọn lãi suất là các doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam, các NHTM hoạt động tại
VN được NHNN cho phép thực hiện thí điểm giao dịch quyền chọn lãi suất và các NH nước
ngoài. Số gốc của hợp đồng quyền chọn lãi suất tối đa bằng 15% vốn tự có của NHĐT&PT.
Tổng số là hợp đồng trong thời gian thí điểm không vượt quá 50% mức vốn tự có của NH. thời
hạn hợp đồng không quá 5 năm; thực hiện nghiệp vụ tiền gửi kết hợp quyền chọn tiền tệ- Dual
currency Deposit; thực hiện hoán đổi tiền tệ chéo. Đó là việc trao đổi các dòng tiền trong
tương lai bằng các đồng tiền khác nhau. Trong các giao dịch hoán đổi chéo thường có việc
hoán đổi thanh toán lãi (cố định hoặc thả nổi) bằng một đồng tiền sang thanh toán lãi (cố định
hoặc thả nổi) bằng một đồng tiền khác. Số tiền gốc trong giao dịch có thể được hoán đổi vào
kỳ đầu (nếu có) và kỳ cuối, hoặc nhiều kỳ trong thời gian hiệu lực của giao dịch
- NHNT thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất kèm theo điều kiện quyền chọn với các đối tác là
TCTD hoạt động tại Việt Nam và các pháp nhân khác hoạt động ở trong nước và nước ngoài,
phù hợp với các qui định của pháp luật. Quyền chọn thuộc về NHNT là quyền kết thúc trước
hạn hợp đồng Swap đối với các khoản vay của BTC.
- NH HSBC thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất cộng dồn – Daily range accrual, thời hạn của
hợp đồng tối đa 5 năm. Theo thoả thuận
hoán đổi này, khách hàng vay cuả HSBC
sẽ trả Sibor cộng với phần chênh lệch và
tổng lãi suất phải trả này không vượt quá
mức lãi suất cao nhất đã được định trước.
Đổi lại HSBC sẽ trả Sibor cộng với phần
chênh lệch cho những ngày lãi suất Sibor
giao động trong một khoảng được định
trước. Cụ thể, hợp đồng này thoả thuận giữa khách hàng vay vốn với thời hạn 6 năm lãi suất
thả nổi. Nếu đến ngày đáo hạn lãi suất Sibor không vượt quá mức lãi suất xác định trước
(4,5%/năm ) thì HSBC sẽ trả lãi suất cho khách hàng với mức lãi suất (Sibor + 1,1% ). Trường
hợp vượt mức lãi suất định trước, thì HSBC không phải trả mức lãi suất này. Đổi lại, khách
hàng sẽ trả cho HSBC mức lãi suất (Sibor + 0,6%), nhưng tối đa không vượt quá 5,1%/ năm;
thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất giữa 2 đồng tiền
- Thực hiện nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ (Option ngoại tệ/ VND): Đã cho phép thực hiện thí
điểm NHTMCP Quốc tế,), ngân hàng NT (8/2005); NHTM cổ phần Á Châu, NHĐT&PT,
NHTMCP Kỹ thương, NHTMCP Quân đội (12/2005).
- NH Calyon, citibank, ABN-AMRO thực hiện nghiệp vụ hoán đổi lãi suất bắt đầu thực hiện
trong tương lai (Forward Start Swap) là thoả thuận để tham gia giao dịch hoán đổi lãi suất vào
một ngày cụ thể trong tương lai theo một mức lãi suất đã được định trước.
- Cho phép NH TMCP kỹ thương thực hiện giao dich hợp đồng tương lai trên thị trương hàng
hoá (9/2004);Vinasin thực hiện giao dịch hoán đổi ngoại tệ...
Qua thống kê trên cho thấy, thị trường các công cụ tài chính phái sinh đã hình thành ở Việt
Nam, tuy nhiên còn rất nhỏ bé và chưa phổ biến. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là do
mức độ phát triển của thị trường tiền tệ, thị trường vốn còn thấp, trên thị trường cón thiếu vắng
các nhà đầu tư am hiểu kỹ về lợi ích cũng như kỹ thuật tính toán lợi nhuận từ các loại nghiệp
vụ này. bên cạnh đó các nhà môi giới, các nhà cơ lợi còn quá ít trên thị trường tiền tệ, thị
trường chứng khoán để thúc đẩy các nhà đầu tư tham gia mạnh mẽ thị trường này. Sự kém phát
triển của thị trường phái sinh là một thách thức không nhỏ trong quá trình hội nhập và mở cửa
thị trường tài chính ở Việt Nam. Khi mà rủi ro luôn là bạn đường của các nhà đầu tư và ngày
càng gia tăng trong quá trình hội nhập, thì phát triển thị trường các nghiệp vụ phái sinh được
xem như là là chắn quan trọng để hạn chế rui ro cuả thị trường đối với những nhà đầu tư. Vì
vậy phát triển thị trường phái sinh là rất cần thiết hiện nay.
http://www.saga.vn/Taichinh/Congcu/Congcuphaisinh/6334.saga
Công cụ tài chính phái sinh ở Việt Nam-mới hay cũ
( Bình chọn: 5 -- Thảo luận: 1 -- Số lần đọc: 25915)
Phát triển các công cụ tài chính mới được xem là một trong năm bài học rút ra từ sự tăng
trưởng ổn định của nền kinh tế Mỹ suốt 5 năm qua (2000-2005). Theo kiến nghị của các
chuyên gia, các công cụ tài chính mới đặc biệt là công cụ tài chính phái sinh không chỉ cho
phép các ngân hàng phòng ngừa rủi ro mà còn là một trong những dịch vụ có tỉ lệ sinh lời cao
nhất. Vậy tại sao những công cụ này lại chưa được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam?
1. Một số nhận xét về Công cụ tài chính phái sinh
Công cụ tài chính phái sinh được hiểu là những công cụ được phát hành trên cơ sở những công
cụ tài chính đã có nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như phân tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc
tạo ra lợi nhuận. Giá trị của công cụ phái sinh bắt nguồn từ một số công cụ cơ sở khác như tỉ
giá, trị giá cổ phiếu, trái phiếu, chỉ số chứng khoán, lãi suất….Công cụ tài chính phái sinh xuất
hiện lần đầu tiên nhằm giảm thiểu hoặc loại bỏ hoàn toàn rủi ro, trong đó thường được sử dụng
cao nhất là hợp đồng kỳ hạn (forward contracts), hợp đồng tương lai (future contracts). Những
công cụ trên còn có thể kết hợp với nhau, với những khoản vay hoặc những chứng khoán
truyền thống để tạo nên các công cụ lai tạo.
Mặc dù, xuất hiện lần đầu tiên với tư cách là 1 công cụ phòng chống rủi ro nhưng cùng với sự
lớn mạnh và phức tạp của thị trường tài chính, các công cụ tài chính phái sinh cũng được sử
dụng nhiều hơn để tìm kiến lợi nhuận và thực hiện các hoạt động đầu cơ. Chính vì những biến
thái như nên không phải lúc nào sử dụng công cụ tài chính phái sinh để phòng ngừa rủi ro cũng
có hiệu quả. Các công cụ phái sinh ngày càng tinh vi và mang theo 1 số rủi ro gây gián đoạn
lớn hơn độ rủi ro thông thường. Sự sụp đổ của thị trường tài chính cổ phiếu Mỹ năm 1987
chính được đẩy nhanh nhờ sử dụng rộng rãi kỹ thuật tự bảo hiểm Delta, được mua bán các hợp
đồng bảo hiểm danh mục đầu tư. Những người bảo hiểm này đã đầu tư, mạnh hơn vào thị
trường mà nếu như không có kỹ thuật này thì có thể họ đã không làm như vậy. Khi sự sụt giảm
của thị trường kích hoạt bảo hiểm, khối lượng bán đột ngột gây ra một gián đoạn và thị trường
sụp đổ. Hay như Great Britain’s Bearing, một trong những ngân hàng lâu đời nhất thế giới đã
phá sản năm 1995 khi đầu cơ các hợp đồng tương lai trong một thương vụ ở Singapore. Tuy
vậy, các công cụ tài chính phái sinh vẫn phát triển mạnh mẽ và được sử dụng rộng rãi tại các
thị trường tài chính lớn của thế giới. Nguyên nhân không nằm ngoài việc đó là phương thức
duy nhất để các chủ thể trên thị trường phòng chống rủi ro. Theo điều tra đối với 500 công ty
lớn nhất thế giới tai 26 quốc gia khác nhau thì có tới 92 % các công ty trả lời rằng họ thường
xuyên sử dụng công cụ tài chính phái sinh để phòng ngừa và quản lí rủi ro.
2. Thị trường công cụ tài chính phái sinh?
Trong các thị trường tài sản, việc mua bán hòi hỏi hàng hoá hoặc chứng khoán phải được giao
nhận hoặc là ngay lập tức hoặc là chỉ ít lâu sau đó. Việc thanh toán cũng thường được thực
hiện tức thời mặc dù thỉnh thoảng cũng có trường hợp sử dụng 1 số thoả thuận tín dụng. Do
đặc điểm như vậy nên chúng ta thường gọi là thị trường tiền mặt hoặc là thị trường giao ngay
(spot market). Doanh số được thực hiện, khoản thanh toán được hoàn trả và hàng hoá, chứng
khoán được giao nhận. Trong tình huống khác, hàng hoá hay chứng khoán vẫn được giao nhận
vào một ngày sau đó, nhưng có các thoả thuận giúp cho ngưòi bán hoặc người mua được chọn
là có thực hiện bán hay không các loại thoả thuận này, và nghiệp vụ này được thực hiện trong
thị trường phái sinh.
Thị trường phái sinh là thị trường dành cho các công cụ tài chính phái sinh, những công cụ
mang tính hợp đồng, mà thành quả của chúng được xác định trên 1 hoặc 1 số công cụ tài sản
khác. Chúng ta xem các công cụ phái sinh như là các hợp đồng, và giống như tất cả hợp đồng,
chúng được thoả thuận giữa hai bên, người mua và người bán, trong đó mỗi bên sẽ thực hiện
nghĩa vụ gì đó cho bên kia. Các hợp đồng này có giá cả và người mua sẽ cố gắng mua với giả
rẻ và người bán cố gắng bán với giá cao nhất. Các loại công cụ phái sinh khác nhau bao gồm:
Hợp đồng kỳ hạn, Hợp đồng giao sau, quyền chọn, hoán đổi và chứng khoán lai tạp.
Hợp đồng kỳ hạn là công cụ lâu đời nhất, và có lẽ vì lí do đó mà nó ít phức tạp nhất. Hợp
đồng kỳ hạn là hợp đồng giữa 2 bên. Người mua và người bán, để mua hoặc bán tài sản vào
một ngày trong tương lai với giá đã thoả thuận ngày
hôm nay. Nếu vào ngày đáo hạn, giá thực tế cao hơn giá
thực tế thì người sở hữu hợp đồng sẽ kiếm được lợi
nhuận; nếu ngược lại thì người sở hữu hợp đồng sẽ chịu
một khoản lỗ. Bản thân hợp đồng kỳ hạn mang trong
mình 3 loại rủi ro. Thứ 1: nếu giá thực tế vào ngày đáo
hạn hợp đồng cao hơn giá mong đợi, rủi ro vốn có của công ty sẽ làm giảm giá trị công ty
nhưng sự sụt giảm này sẽ được đền bù bằng lợi nhuận của hợp đồng kỳ hạn. Vì vậy, hợp đồng
kỳ hạn cung cấp một cách phòng ngừa rủi ro hoàn hảo.
Thứ 2, rủi ro tín dụng hay rủi ro không có khả năng chi trả của hợp đồng. Rủi ro này có hai
chiều, người sở hữu hợp đồng hoặc là người nhận được hoặc là người chi trả, phụ thuộc vào
biến động giá cả thực tế của tài sản cơ sở.
Thứ 3, giá trị của hợp đồng kỳ hạn chỉ được giao nhận vào ngày nào đáo hạn của hợp đồng,
không có khoản chi trả nào được thực hiện vào ngày ký kết hoặc trong thời hạn của hợp đồng.
Vậy nên, bản thân những hợp đồng kỳ hạn có chứa nhiều rủi ro nhất trong các công cụ phái
sinh.
Hợp đồng giao sau cũng là một hợp đồng giữa hai bên, người mua và người bán, để mua bán
tài sản vào một ngày trong tương lai với giá đã thoả thuận ngày hôm nay. Hợp đồng giao sau
tiến triển từ hợp đồng kỳ hạn nên có những điểm giống với hợp đồng kỳ hạn. Về bản chất,
chúng giống tính thanh khoản của hợp đồng kỳ hạn. Tuy vậy, khác với hợp đồng kỳ hạn, hợp
đồng giao sau được giao dịch trên thị trường có tổ chức, được gọi là sàn giao dịch giao sau.
Người mua hợp đồng giao sau là người có nghĩa vụ mua hàng vào một ngày trong tương lai, có
thể mua lại hợp đồng giao sau trên thị trường giao sau. Điều này làm cho họ thoát khỏi nghĩa
vụ mua hàng. Và tương tự đối với người bán hợp đồng giao sau, là người có nghĩa vụ bán hàng
vào một ngày trong tương lai, có thể mua lại hợp đồng trên thị trường giao sau, và điều này
cũng làm cho họ thoát khỏi nghĩa vụ bán hàng. Đặc trưng này giúp những người tham gia mua
bán công cụ tài chính phái sinh tránh được những thiệt hại kinh tế đáng kể nếu trong thời hạn
hợp đồng giá cả của tài sản cơ sở có sự biến động không có lợi cho mỗi bên.
Giống như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng giao sau cũng có rủi ro hai chiều, rủi ro tín dụng, tức
người sở hữu hợp đồng hoặc là người được nhận hoặc là người phải chi trả. Nhưng khác biệt
rõ nhất với thị trường kỳ hạn là thị trường giao sau sử dụng 2 công cụ để loại bỏ rủi ro này.
Thứ nhất, thay vì giao nhận giá trị hợp đồng vào 1 ngày thông qua mua bán đơn thuần vào
ngày đáo hạn, thay đổi trong giá trị hợp đồng giao sau được thực hiện thanh toán vào cuối
ngày giao dịch. Điều này có nghĩa hợp đồng giao sau có tính chất thanh toán tiền mặt hay điều
chỉnh theo ngày, tức thời hạn giao sau được rút ngắn lại. Nhờ thế mà rủi ro trong thanh toán
được giảm đi. Thứ 2, hợp đồng giao sau yêu cầu tất cả các
thành viên tham gia thị trường, người bán và người mua đều
như nhau, phải thực hiện một khoản ký gửi gọi là ký quỹ.
Nếu hợp đồng giao sau của bạn tăng giá trị trong ngày giao
dịch, mức tăng này sẽ được công vào tài khoản ký quỹ của
bạn vào cuối ngày. Ngược lại, nếu hợp đồng của bạn giảm
giá trị, thua lỗ sẽ được trừ ra.Và nếu số dư tài khoản ký quỹ
của bạn giảm xuống mức tối thiểu đã thoả thuận trước đó, bạn sẽ bị yêu cầu nộp một khoản ký
gửi bổ sung, tài khoản ký quỹ của bạn phải được bổ sung như cũ hoặc là vị thế của bạn sẽ bị
đóng.
Hợp đồng giao sau rất giống với một danh mục các hợp đồng kỳ hạn. Tuy nhiên, hợp đồng
giao sau và một danh mục các hợp đồng kỳ hạn chỉ giống nhau khi lãi suất là có thể xác định
trước, tức là biết được một cách chắc chắn. Vào lúc đóng cửa mỗi ngày, các hợp đồng giao sau
mang tính kỳ hạn đang tồn tại sẽ được thanh toán cũng như 1 hợp đồng mới được ký kết. Tính
chất thanh toán hàng ngày kết hợp với yêu cầu ký quỹ cho phép hợp đồng giao sau giảm thiểu
đáng kể rủi ro tín dụng vốn có của hợp đồng kỳ hạn .
Quyền chọn: Là hợp đồng giữa hai bên, người mua và người bán, trong đó cho người mua
quyền nhưng không phải nghĩa vụ, để mua hoặc bán một tài sản nào đó vào ngày trong tương
lai với giá đã đồng ý vào ngày hôm nay. Người mua quyền chọn trả cho người bán một số tiền
gọi là phí quyền chọn. Người bán quyền chọn sẵn sàng bán hoặc tiếp tục nắm giữ tài sản theo
điều khoản của hợp đồng nếu người mua muốn thế. Một quyền chọn để mua tài sản gọi là
quyền chọn mua (call), một quỳên chọn bán một tài sản gọi là quyền chọn bán (put). Mặc dù
các quyền chọn được giao dịch trong một thị trường có tổ chức nhưng phần lớn các giao dịch
quyền chọn được quản lý riêng rẽ giữa hai bên. Những người này tự tìm đến với nhau, loại thị
trường này gọi là thị trường OTC, đây chính là loại thị trường quyền chọn xuất hiện đầu tiên.
Hầu hết các quyền chọn chúng ta quan tâm là mua bán các loại tài sản tài chính chẳng hạn như
cổ phiếu, trái phiếu… Mặc dù vậy, chúng ta cũng thấy xuất hiện loại thoả thuận tài chính khác
như hạn mức tín dụng, đảm bảo khoản vay, và bảo hiểm cũng là một hình thức khác của quyền
chọn. Ngoài ra, bản thân cổ phiếu cũng là quyền chọn trên tài sản công ty. Quyền chọn cũng có
những nét giống với một hợp đồng kỳ hạn nhưng quyền chọn không bắt buộc phải thực hiện
giao dịch còn người sở hữu hợp đồng kỳ hạn bắt buộc phải thực hiện giao dịch. Hai bên trong
hợp đồng kỳ hạn có nghĩa vụ phải mua và bán hàng hoá, nhưng người nắm giữ quyền chọn có
thể quyết định mua hoặc bán tài sản với giá cố định nếu giá tri của nó thay đổi.
Hoán đổi là một hợp đồng trong đó hai bên đồng ý hoán đổi dòng tiền, một giao dịch mà cả
hai bên đồng ý thanh toán cho bên còn lại một chuỗi các dòng tiền trong một khoảng thời gian
xác định. Ví dụ, một bên đối tác đang nhận được một dòng tiền từ một khoản đầu tư, nhưng
lại thích một loại đầu tư khác với dòng tiền mà mình đang thị hưởng. Bên đối tác này sẽ liên
lạc với một dealer hoán đổi, thường là một công ty hoạt động trên OTC, và họ sẽ thực hiện vị
thế đối nghịch trong giao dịch. Tuỳ thuộc vào lãi suất hay giá sau đó thay đổi như thế nào mà 1
bên sẽ thu được lợi nhuận hay là bị lỗ. Lãi của bên này chính là lỗ của bên kia. Có 4 loại hoán
đôỉ là hoán đổi tiền tệ, hoán đổi lãi suất, hoán đổi chứng khoán và hoán đổi hàng hoá. Và cũng
giống như hợp đồng kỳ hạn, các hoán đổi cũng gánh chịu những rủi ro nếu một bên bị vỡ nợ.
Hoán đổi được xem như là kết hợp giữa các hợp đồng kỳ hạn. Nó là cải tiến tài chính mới nhất
nhưng về thực chất không phức tạp hơn một danh mục các hợp đồng kỳ hạn và rủi ro tín dụng
hiện diện trong hoán đổi cũng có phần thấp hơn so với rủi ro tín dụng của hợp đồng kỳ hạn có
cùng kỳ hạn.
3.Vai trò của các công cụ tài chính phái sinh
Quản trị rủi ro
Thị trường sản phẩm phái sinh cho phép những người muốn làm giảm rủi ro của mình chuyển
giao rủi ro cho những người sẵn sàng chấp nhận nó, đó là những nhà đầu cơ. Vì vậy, thị trường
này rất có hiệu quả trong việc phân phối lại rủi ro giữa các nhà đầu tư, không có ai cần phải
chấp nhận một mức rủi ro không phù hợp với bản thân mình. Và cũng vì thế mà họ sẵn sàng
cung cấp nhiều vốn hơn cho thị trường tài chính, điều này tạo điều kiện cho nền kinh tế phát
triển, phát huy khả năng huy động vốn và giảm chi phí sử dụng vốn. Bên cạnh đó, thị trường
các sản phẩm phái sinh cũng là một công cụ hiệu quả cho hoạt động đầu cơ. Bởi ngưòi muốn
phòng ngừa rủi ro phải tìm được một người khác có nhu cầu đối lập hoàn toàn với mình, tức là
rủi ro của người muốn phòng ngừa rủi ro phải được hấp thụ bởi các nhà đầu cơ. Tại sao các
giao dịch này lại có thể được thực hiện, khi mà thực tế rõ ràng là khi một bên có lợi thì tất yếu
bên còn lại sẽ không thể tránh khỏi những thiệt hại? Bởi mỗi nhà đầu tư có một “khẩu vị rủi
ro” khác nhau, khả năng chấp nhận rủi ro cũng khác nhau. Tuy nhiên, ai cũng có mong muốn
là giữ cho các khoản đầu tư của mình ở một mức rủi ro có thể chấp nhận được. Và thế là họ
gặp nhau và tiến hành việc chuyển giao một phần rủi ro của mình cho đối tác.
Và cũng không giống như người ta thường nghĩ, thị trường phái sinh không dẫn vốn trong nền
kinh tế vào những âm mưu đầu cơ khủng khiếp. Những nhà đầu cơ không phải là những tay cờ
bạc. Chỉ đơn giản là thay vì giao dịch cổ phiếu, họ giao dịch các sản phẩm phái sinh và chính
việc đầu tư vào công cụ tài chính phái sinh lại tạo điều kiện cho việc phòng ngừa các rủi ro ít
tốn kém hơn và hiệu quả hơn. Bởi cần khẳng định chắc chắn rằng, thị trường phái sinh không
hề tạo ra mà cũng chẳng thể phá huỷ được tài sản, chúng chỉ là những phương tiện chuyển giao
rủi ro trên thị trường, những rủi ro sẵn có cuả thị trường tài sản, chuyển những khoản rủi ro đó
từ những không đủ khả năng chấp nhận nó sang những người sẵn sàng tiếp nhận nó, chính là
những nhà đầu cơ. Không có thêm bất kỳ một rủi ro nào được sinh ra trên thị trường này. Và
lợi ích từ thị trường không chỉ bó hẹp trong lợi ích của những nhà đầu cơ mà nó lan toả ra toàn
xã hội.
Thông tin hiệu quả hình thành giá
Các thị trường kỳ hạn và tương lai là nguồn thông tin quan trọng đối với giá cả. Đặc biệt, thị
trường tương lai được xem là một công cụ chủ yếu để xác định giá giao ngay của tài sản. Điều
này không hề bất bình thường, bởi có rất nhiều hàng hoá được giao dịch trên thị trường tương
lai nhưng thị trường giao ngay của nó rất rộng lớn và phân tán nên rất khó có thể xác định
được giá giao ngay của chúng. Ở đây, thường giá tương lai của những giao dịch sớm nhất sẽ
được xác định là giá giao ngay. Thêm nữa, thị trường giao sau, trên thế giới thường nhộn nhịp
hơn nên các thông tin do nó cung cấp có tính tin cậy cao hơn. Những thông tin được cung cấp
trên thị trường phái sinh dù trực tiếp hay gián tiếp đều góp phần hình thành giá giao ngay
trong tương lai một cách có hiệu quả mà những người tham gia thị trường có thể chốt lại trong
giới hạn chấp nhận của mình.
Các lợi thế về hoạt động và tính hiệu quả.
Thứ nhất, chi phí giao dịch thấp hơn. Điều này làm cho việc chuyển hướng từ các giao dịch
giao ngay sang phái sinh ngày càng dễ dàng và hấp dẫn hơn.
Thứ 2, tính thanh khoản cao hơn hẳn so với thị trường giao ngay. Trước hết đó là yêu cầu một
mức vốn để tham gia thị trường là tương đối thấp. Thêm nữa, tỷ suất sinh lời và rủi ro có thể
được điều chỉnh ở bất cứ mức độ nào như mong muốn.
Thứ 3, Các giao dịch bán khống được thực hiện dễ dàng hơn. Ngoài ra, các nhà đầu tư có thể
tìm kiếm được những khoản lợi nhuận đáng kể từ chênh lệch giá, chênh lệch lãi suất. Tất cả
các chủ thể tham gia thị trường đều có thể tìm thấy lợi nhuận.
Thị trường phái sinh giúp các tín hiệu thị trường khó bị bóp méo. Vì thế, các nhà đầu cơ với ý
định thao túng thị trường cũng có những khó khăn nhất định. Chính vì thế, đặt bên cạnh thị
trường giao ngay, sự hiệu quả của thị trường phái sinh giúp nâng cao tính lành mạnh cho thị
trường đó.
Như vậy công cụ tài chính phái sinh là sản phẩm của nền kinh tế hiện đại. Kỹ thuật tài chính
này đòi hỏi một trình độ hiểu hiết và phát triển nhất đinh của bất kỳ nền kinh tế nào. Việt Nam
đã gia nhập WTO, hòa chung vào hơi thở chung của nền kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, mức độ
và điều kiện áp dụng ở Việt Nam còn có những hạn chế nhất định. Điều đó đòi hỏi chúng ta
cần có một hệ thống giải pháp tích cực để triển khai thành công kỹ thuật này trên thị trường tài
chính.
4. Mức độ áp dụng các công cụ phái sinh ở Việt Nam
Giao dịch tài chính tiền tệ là lĩnh vực chưa có sự xuất hiện của các nhà bảo hiểm bởi tính biến
động khôn lường của nó. Các chủ thể tham gia không còn cách nào khác ngoài việc tự bảo
hiểm cho mình bằng việc chuyển hẳn hoặc san sẻ 1 phần rủi ro cho thị trường bằng các Công
cụ tài chính phái sinh. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng quát, mức độ áp dụng các Công cụ phái
sinh ở Việt Nam còn rất hạn chế. Nhiều ý kiến cho rằng, xuất phát điểm nền kinh tế lạc hậu
chưa cho phép chúng áp dụng các kỹ thuật tài chính hiện đại. Nói cách khác, thói quen và tập
quán kinh doanh là những cản trở lớn đối với quá trình phổ biến các Công cụ tài chính phái
sinh ở Việt Nam.
Giao dịch kỳ hạn xuất hiện với tư cách là công cụ tài chính phái sinh đầu tiên ở Việt Nam theo
quyết định số 65/1999/QĐ-NHNN7 ngày 25/2/1999. Các giao dịch kỳ hạn được thực hiện
trong hợp đồng mua bán USD và VND giữa ngân hàng thương mại với doanh nghiệp xuất
nhập khẩu hoặc với các ngân hàng thương mại khác được phép của ngân hàng nhà nước. Tuy
nhiên, Hợp đồng kỳ hạn ít được sử dụng, một phần là do thị trường liên ngân hàng ở VN chưa
phát triển, một phần do những hạn chế vốn có của nó trong việc phòng chống rủi ro tỉ giá và
những hạn chế của NHNN. Vì thế, các giao dịch kỳ hạn chỉ chiếm khoảng 5-7% khối lượng
giao dịch của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng.
Giao dịch hoán đổi cũng xuất hiện khá sớm theo quyết định số 430/QĐ-NHNN13 ngày
24/12/1997 và sau này là quyết định số 893/2001/QĐ-NHNN ngày 17/7/2001 của thống đốc
NHNN. Tuy nhiên đây chỉ là những giao dịch hoán đổi thuận chiều giữa NHNN và NHTM.
Nó chỉ được sử dụng trong trường hợp các NHTM dư thừa ngoại tệ và khan hiếm VND.
Các công cụ phái sinh lãi suất và tỷ giá ngoại tệ tiếp tục xuất hiện ở VN và được các ngân hàng
sử dụng do nhu cầu nội tại của các NHTM nhằm theo kịp chuẩn mực hoạt động ngân hàng
quốc tế. NHNN đã cho phép các NHTM thực hiện một số nghiệp vụ phái sinh nhằm phòng
ngừa rủi ro lãi suất và rủi ro tỷ giá. Theo quyết định số 1133/QĐ- NHNN ngày 30/09/2003 về
quy chế thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất cho phép mở rộng danh mục các NHTM và các
TCTD, các DN được sử dụng công cụ hoán đổi lãi suất. Hoán đổi lãi suất được thực hiện đối
với cả VND và ngoại tệ giữa các ngân hàng với DN vay vốn tại NH; giữa NH với những DN
vay vốn tại các tổ chức tín dụng (TCTD) khác, kể cả vay vốn nước ngoài; giữa các NH trong
nước với nhau và giữa các ngân hàng thương mại trong nước với các TCTD nước ngoài. Trên
cơ sở nới lỏng quản lý của NHNN, nhiều NHTM đã triển khai cung cấp Hợp đồng hoán đổi lãi
suất cho các doanh nghiệp (DN), tìm kiếm đối tác là các TCTD nước ngoài để ký kết hợp tác.
Tuy nhiên, giao dịch phái sinh trong đó có hoán đổi lãi suất được coi là hoạt động ngoại bảng
của NH do đó hướng dẫn hạch toán từ phía NHNN đối với các nghiệp vụ này đang được xem
là điều kiện đủ để các NHTM đẩy mạnh cung cấp dịch vụ này cho khách hàng.
Từ khi NHNN cho phép thực hiện nghiệp vụ hoán đổi lãi suất trên thị trường Việt Nam (từ
1/2003), đã có một só ngân hàng như ABN, Citibank thực hiện hoán đổi lãi suất trong phạm vi
đồng USD từ ngày 1/3/2005 tới 2/2006. Tuy nhiên, giao dịch hoán đổi lãi suất giữa 2 đồng tiền
USD và VND (hoán đổi lãi suất chéo) đã được thực hiện, từ trước khi có quy định chính thức
của ngân hàng nhà nước. Cho tới lần đầu tiên, khi được NHNN cho phép, HSBC đã cung cấp
gói Swaps tiền Đồng cho một công ty đa quốc gia với số vốn lên tới 15 triệu USD trên tại
trường Việt Nam. Theo đó, HSBC sẽ đưa VND và nhận USD từ khách hàng, tới tháng
12/2007, HSBC sẽ đưa USD và nhận lại VND từ khách hàng. Với giao dịch này, khách đã đạt
được mức lãi suất cạnh tranh nhất trên thị trường nội địa cho việc vay vốn tiền Đồng kỳ hạn 3
năm mà không chịu bất cứ một rủi ro nào về tỷ giá USD/VND.
Chính hành động của HSBC, tạo ra nền tảng phát triển cho các giao dịch hoán đổi sau này.
Ngân hàng Standard Chartered chi nhánh tại Việt Nam thực hiện hoán đổi lãi suất chéo giữa
hai đồng tiền chéo đối với các khoản vay ngoại tệ của khách hàng sử khi khách hàng vay ngoại
tệ. Và trong tương lai, Standard Chartered sẽ còn cung cấp nhiều sản phẩm phái sinh nữa trên
thị trường Việt Nam, hứa hẹn tương lai phát triển thị trường.
Ở một mức cao hơn, các công cụ lai tạp có nguồn gốc từ hoán đổi như hoán đổi lãi suất cộng
dồn, hoán đổi lãi suất kèm theo điều kiện quyền chọn, hoán đổi
lãi suất bắt đầu thực hiện trong tương lai …cũng đã xuất hiện và
triển khai trên thị trường ngoại hối trong thời gian gần đây. Điều
đặc biệt là các hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng đã được thí điểm
áp dụng tại Việt Nam theo công văn 3324/NHNN-CSTT, tháng
4/2006 cho phép HSBC chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh thực
hiện. Mặc dù là một loại hoán đổi nhưng hoán đổi rủi ro tín dụng thực sự lại giống một chính
sách bảo hiểm hơn. Tức một bên nắm giữ trái phiếu hoặc các khoản vay, định kỳ sẽ thanh toán
cho bên kia. Trường hợp trái phiếu bị đánh giá thấp hay các khoản vay trên bị vỡ nợ, bên bảo
hiểm ở đây là HSBC sẽ trả cho bên đối tác, khách hàng các khoản bù trừ lỗ.
Sản phẩm hoán đổi rủi ro tín dụng của HSBC Việt Nam chỉ gắn với rủi ro tín dụng của các loại
trái phiếu do chính phủ hoặc các DN Việt Nam phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế, các
khoản vay dài hạn của DN Việt nam tại các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam. Khách
hàng chuyển nhượng rủi ro tín dụng cho HSBC là các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam
và bên nhận chuyển nhượng là các chi nhánh HSBC ở nứơc ngoài. Thời hạn của giao dịch
không quá 5 năm. Khách hàng mua loại công cụ này cũng giống như thực hiện một khoản đầu
tư gián tiếp. Việc tiếp cận với các công cụ này cho phép nhà đầu tư có cơ hội tìm kiếm những
mức lợi nhuận cao hơn so với hoạt động tín dụng tiền gửi bình thường, nâng cao hiệu quả sử
dụng nguồn vốn của các TCTD. Hơn nữa, việc sử dụng các công cụ mới này còn góp phần
nâng cao mức độ tín nhiệm của chính phủ và các DN Việt Nam khi phát hành trái phiếu ra thị
trường quốc tế.
Quyền chọn ngoại tệ, lãi suất và vàng dường như là những công cụ phái sinh được thị trường
hoan nghênh và đón nhận nhiều nhất do những ưu điểm vốn có của nó trong bối cảnh lãi suất
và tỷ giá và giá vàng luôn ở trạng thái tăng liên tục. Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
(BIDV) là ngân hàng đầu tiên được phép thực hiện giao dịch quyền chọn lãi suất. Các giao
dịch quyền chọn lãi suất được phép thực hiện đối với những khoản cho vay và đi vay trung hạn
(dưới 5 năm) bằng USD hoặc bằng EURO và chỉ được thực hiện đối với các DN hoạt động tại
VN, các NHTM hoạt động ở VN được NHNN cho phép và các NH ở nước ngoài. Sau BIDV là
hàng loạt các NHTM khác, bao gồm cả NHTM cổ phần cũng được cho phép thực hiện nghiệp
vụ này.
Bên cạnh quyền chọn lãi suất, quyền chọn ngoại tệ cũng được nhiều ngân hàng cung cấp, điển
hình là BIDV, Eximbank, ACB, Techcombank, Agribank, Citibank, Vietcombank, ICB, và
ngân hàng Hồng Kông bank chi nhánh thành phố HCM. Nguyên tắc chính của loại quyền chọn
này là các DN và cá nhân được quyền đặt mua hay đặt bán USD với VNĐ thông qua một tỷ
giá do khách hàng tự chọn, được gọi là tỷ giá thực hiện. Đặc biệt, quyền chọn USD và VNĐ
đáp ứng cho cả nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu trong đó quyền chọn mua áp dụng cho nhà
nhập khẩu và quyền chọn bán áp dụng cho nhà xuất khẩu. Sau khi NHNN cho phép ACB,
Sacombank và Agribank thực hiện quyền chọn mua bán vàng, ngày 10/12/2004 ACB là ngân
hàng đầu tiên công bố triển khai dịch vụ này. Dịch vụ này được tung ra trong bối cảnh trong
nước và quốc tế giá vàng liên tục tăng, tuy nhiên cũng cần có thời gian để đo lường mức độ
đón nhận của thị trường đối với công cụ. Tới nay, đã có rất nhiều ngân hàng được phép của
Ngân hàng nhà nước cho phép thực hiện các nghiệp vụ Option. Đặc biệt, Ngân hàng nhà nước
cũng đã cho phép thực hiện các Options tiền Đồng tại BIDV, ngân hàng thương mại cổ phần Á
Châu, ngân hàng cổ phần thương mại quốc tế. Với nghiệp vụ này, chắc chắn tương lai sẽ được
mở rộng bởi khi đó VND sẽ có cơ hội tiếp cận với thị trường tài chính thế giới. Vị thế của
VND và Việt Nam cũng qua đó mà tăng lên. Tuy nhiên, vì đang trong giai đoạn thí điểm nên
các ngân hàng này bị giới hạn bởi thời gian thực hiện. Nhìn chung, hoạt động này đang đem lại
một cơ cấu sản phẩm hiện đại cho các ngân hàng trong điều kiện hội nhập. Hơn nữa, nhu cầu
của khách hàng đối với các giao dịch Options đang có xu hướng tăng, do vậy ngân hàng nhà
nước đã tiến hành gia hạn thí điểm hợp đồng các nghiệp vụ này.
Quyền chọn USD và VNĐ đáp ứng cho cả nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu trong đó quyền
chọn mua áp dụng cho nhà nhập khẩu và quyền chọn bán áp dụng
cho nhà xuất khẩu. Sau khi NHNN cho phép ACB, Sacombank và
Agribank thực hiện quyền chọn mua bán vàng, ngày 10/12/2004
ACB là ngân hàng đầu tiên công bố triển khai dịch vụ này. Dịch vụ
này được tung ra trong bối cảnh trong nước và quốc tế giá vàng liên
tục tăng, tuy nhiên cũng cần có thời gian để đo lường mức độ đón
nhận của thị trường đối với công cụ này.
Điểm lại nhưng mốc chính xuất hiện của các công cụ phái sinh ở VN, dễ nhận thấy rằng nó
chưa được thị trường đón nhận như là công cụ không thể thiếu trong phòng ngừa rủi ro. Thực
trạng đó đặt ra nhiều câu hỏi. Phải chăng các DN chưa thực sự có nhu cầu phòng chống rủi ro?
Phải chăng khoảng cách giữa mong muốn phòng ngừa rủi ro của các DN và các công cụ phái
sinh còn quá lớn? Phải chăng sự hiểu biết của các DN đối với các Công cụ phái sinh, từ đó là
những chính sách sử dụng nó còn yếu kém? Phải chăng điều kiện kinh tế, đặc biệt là sự phát
triển ở VN còn hạn chế? Phải chăng là việc hạch toán những nghiệp vụ ngoại bảng này còn
nhiều bất cập khiến các ngân hàng còn nhiều lúng túng trong việc triển khai các dịch vụ phái
sinh ? Phải chăng những quy định pháp lý hiện nay còn hạn chế sự hoạt động của các công cụ
phái sinh?.....
5. Một số giải pháp vĩ mô
Nếu sử dụng sai mục đích và không được giám sát chặt chẽ, các công cụ phái sinh, từ chỗ là
công cụ phòng chống rủi ro sẽ mang đến những mầm hoạ khôn lường cho nền kinh tế. Do vậy,
để tránh điều đó, chúng ta cần xây dựng những trụ cột cơ bản đảm bảo việc triển khai các công
cụ tài chính phái sinh được bền vững.
Thứ nhất : Quy định về giới hạn và giá mua
Quy định này nhằm khống chế các nhà đầu tư đưa ra những mức giá quá cao hay quá thấp làm
cho thị trường bị xáo trộn hay bị bóp méo. Nói cách khác, đây là những quy định nhằm kiểm
soát (không ngăn cấm) các nhà đầu cơ tác động lên giá cả. Việc kết hợp các chiến lược phòng
ngừa rủi ro trong các quyền chọn tiền tệ là rất phong phú, nó cho phép các DN Việt Nam kết
hợp vừa phòng ngừa (tỷ giá) vừa tiến công khi có cơ hội (đặc biệt đối với các định chế muốn
tìm kiếm lợi nhuận). Dĩ nhiện là mặt trái của quyền chọn là đầu cơ rất cao. Các nhà đầu cơ có
thể đầu cơ giá lên hoặc đầu cơ giá xuống bằng các quyền chọn mua và bán.
Việc đầu cơ giá trên hợp đồng quyền chọn tiền tệ có thể làm cho tỷ giá biến động vượt ra khỏi
biên độ dự kiến và do đó làm mất niềm tin của các DN và các nhà đầu tư vào hệ thống tỷ giá
mà chúng ta đã hoạch định. Mặc dù vậy, vẫn chưa có những chứng cứ nào cho thấy việc đầu
cơ vào các hợp đồng quyền chọn tiền tệ dẫn tới sự sụp đổ hoặc khủng hoảng tỷ giá ở các nước
trên thế giới. Chế độ tỷ giá phụ thuộc chủ yếu vàọ sự ổn định vĩ mô của nền kinh tế quốc gia.
Trong những năm qua, Việt Nam được đánh giá rất cao về chỉ số ổn
định kinh tế vĩ mô. Do đó, nỗi lo về tính bất ổn của tỷ giá khi mở rộng
biên độ sẽ giảm đi rất nhiều. Chính vì thế, chúng ta có thể triển khai
các quyền chọn có điều kiện phù hợp với điều kiện các nước như Việt
Nam đã từng áp dụng và thành công.
Quyền chọn có điều kiện là một dạng quyền chọn lai tạp giữa các
quyền chọn phức tạp ở các nước phát triển nhưng nó làm giảm nhẹ đi tính đầu cơ để tránh thua
lỗ tối đa cho các nhà đầu tư và thậm chí các nhà đầu cơ có ham muốn sử dụng quyền chọn tiền
tệ như một công cụ kiếm lời. Các quyền chọn tiền tệ có điều kiện đưa ra những quy định về
các mức tỷ giá trần (tối đa) và sàn (tối thiểu). Nếu tỷ giá vượt quá các mức giá này thì quyền
chọn sẽ không còn có giá trị. Những rào cản này sẽ làm nản lòng các nhà đầu cơ và do đó giảm
đi đáng kể tính bất ổn do NHNN mở rộng biên độ dao động tỷ giá. Các khống chế nêu trên có
thể áp dụng cho toàn bộ các hàng hoá và tài sản trên thị trường Việt Nam.
Thứ hai: Yêu cầu về vốn và thế chấp trong giao dịch công cụ tài chính phái sinh
Kể từ vụ sụp đổ của công ty Enron, các nhà kinh tế đã bắt đầu thảo luận để đặt ra những qui
định về thế chấp tài sản trên các hợp đồng phái sinh. Khi một công ty có những khó khăn về
mặt tài chính hoặc thậm chí đang còn hoạt động rất tốt vẫn phải đưa ra những khoản thế chấp
hay các mức duy trì đặt cọc cao để chắc chắn công công ty sẽ tuân thủ hợp đồng mỗi khi có
những biến động cao trong giá. Mức duy trì có thể là một khoản tối thiểu mà khi tài khoản ký
quỹ giảm xuống một mức nào đó, thì cách tham gia hợp đồng bổ sung vào.
Trong điều kiện Việt Nam, mức tài khoản ký quỹ và mức duy trì ắt phải là rất cao, có thể lên
tới 30% hợp đồng (so với mức 5% trên các thị trường thế giới). Đối với các nhà môi giới trên
các hợp đồng phái sinh yêu cầu đầu tiên là phải có đủ vốn, mặc dù họ chỉ là những ngân hàng
hoặc các công ty không trực tiếp tham gia vào các giao dịch phái sinh. Yêu cầu về vốn rất quan
trọng, vì chúng giúp cho hệ thống các ngân hàng Việt Nam giảm bớt những nguy cơ về động
cơ sẵn sàng chấp nhận rủi ro để tránh tình trạng mất khả năng thanh toán của nhà môi giới.
Thứ ba : Yêu cầu bắt buộc về tái phòng ngừa rủi ro trên các thị trường quốc tế
Yêu cầu này nhằm khống chế và bắt buộc hệ thống ngân hàng thương mại trong nước không
được gánh chịu những rủi ro từ người mua các hợp đồng
quyền chọn hoặc kỳ hạn. Các ngân hàng chỉ là trung gian,
đứng ra thu phí giữa người mua trong nước và sau đó đem
bán lại trên thị trường thế giới. Quy định này được áp dụng
trong hầu hết các nứơc phát triển, nhưng trong điều kiện Việt
Nam chúng ta bắt buộc các ngân hàng về các giao dịch này
còn hạn chế nhiều, đó là chưa kể đến những yếu kém về vốn
trong hệ thống ngân hàng thương mại.
Ngoài ra, Việt Nam cần xem xét và khẩn trương tham gia vào các thoả thuận giao dịch hoán
đổi theo quy định quốc tế thì mới có đủ điều kiện có thể tham gia ký các hợp đồng tái bảo hiểm
từ các giao dịch phái sinh trong nước.
Thứ tư : Yêu cầu mở cửa thị trường tự do cho tất cả các định chế triển khai các hợp đồng
phái sinh
Mở cửa thị trường các công cụ tài chính phái sinh, để tránh tình trạng phổ biến hiện nay là
chính phủ chỉ cho phép một số ngân hàng làm thí điểm. Có thể nói “thí điểm” hiện nay là một
căn bệnh của các cơ quan hoạch định chính sách. Trong những trường hợp như thế, giá trị hợp
lý của các hợp đồng phái sinh sẽ chỉ là độc quyền của một số ngân hàng, và chắc chắn sẽ cao
hơn trên thị trường thế giới. Tất cả những bóp méo giá trị các hợp đồng phái sinh sẽ đẩy sang
phía người mua gánh chịu. Tác dụng ngược của các độc quyền là hoặc sẽ không tồn tại công
cụ phòng ngừa rủi ro trên thực tế, do giá phí quá cao làm nản lòng các nhà đầu tư, hoặc là các
nhà đầu tư sẽ càng chấp nhận mạo hiểm cùng tham gia canh bạc với cái giá phải trả rất cao với
hy vọng gỡ gặc lại bằng cách hy vọng đầu cơ trên những thị trường bất đầu cơ trên không khí
bất ổn của giá cả thị trường. Chính vì thế mà cần xem xét để tạo ra một thị trường tự do, để các
định chế tài chính có đủ các điều kiện có thể cung cấp các sản phẩm phái sinh. Và dĩ nhiên đi
liền với đó là thiết lập khung quản lý chung cho các định chế này.
Thứ năm: Yêu cầu về đăng ký và lập các Báo cáo tài chính
Đây là một chuẩn mực bắt buộc nhằm làm tăng tính minh bạch cho
tất cả thành viên tham gia thị trường. Tất cả các thành viên tham gia
thị trường phái sinh phải hiểu hết về nhau trước khi tiến hành các
giao dịch với nhau Chẳng hạn như một ngân hàng Việt nam đồng ý
thực hiện một hợp đồng tương lai 1000 lượng vàng với người mua
tương lai. Trong trường hợp này người mua tương lai cần phải có
những thông tin rằng hiện nay ngân hàng Việt Nam hiện đang ký quỹ là bao nhiêu tại một ngân
hàng nước ngoài để mua vàng thế giới bán lại cho ngươi từ trong nước. Nói cách khác, trong
cuộc chơi này trong cuộc chơi này ai cũng phải có thông tin lẫn nhau, để cuộc chơi tăng thêm
phần minh bạch và có lợi cho thị trường giao dịch.
Thứ 6: Hoàn thiện những quy định tài chính kế toán liên quan, nâng cao tính thanh khoản
của sản phẩm phái sinh
Hiện nay, các công cụ phái sinh chưa có thị trường giao dịch chính. Các hợp đồng kỳ hạn và
tương lai phải giao dịch trên có sàn nước ngoài như London hay NewYork. Còn lại là giao
dịch qua quầy, nhiều bất lợi đối với tính thanh khoản cũng như các loại rủi ro tín dụng. Các
hợp đồng quyền chọn và hoán đổi được giao dịch trên thị trường ngoại hối và thị trường tiền
tệ. Nói chung, hiện tại chúng vẫn còn thiếu nhiều cơ chế tạo ra các hành lang đảm bảo các hoạt
động được trôi chảy. Tuy nhiên, đi đôi với việc phát triển thị trường là việc nâng cao chất
lượng hàng hoá cho thị trường. Hàng hoá ở đây chính là các công cụ tài chính phái sinh, từ các
công cụ thuần nhất tới các công cụ lai tạp. Và vấn đề không chỉ nằm ở chỗ đa dạng hoá các sản
phẩm, đáp ứng các nhu cầu của thị trường. Cần chú ý tới chất lượng hàng hoá. Ở đây, chính là
tính hợp pháp, tính thanh khoản, khả năng thích ứng với các loại rủi ro của các công cụ tài
chính phái sinh. Do vậy cần hoàn thiện các đặc trưng kỹ thuật của các công cụ tài chính phái
sinh, đáp ứng nhu cầu và mức độ phát triển của thị trường.
Đối với quyền chọn, các ngân hàng thương mại nên xác lập trong nội dung hợp đồng quyền
chọn quyền được mua ngoại tệ khi DN không thực hiện quyền lựa chọn, do đối với các DN
nhập khẩu của Việt Nam khi thực hiện hợp đồng quyền chọn ngoài ý nghĩa về phòng ngừa rủi
ro tỷ giá hối đoái còn có nhu cầu cần đảm bảo có đủ số lượng ngoại tệ để thanh toán các hợp
đồng nhập khẩu đến hạn.
Nhà nước nên hoàn chỉnh khung pháp lý xác định rõ ràng nghiệp vụ giao dịch hợp đồng
Options là một nghiệp vụ kinh doanh tài chính mang tính
chất phòng ngừa rủi ro hối đoái của các DN không thuộc
các tổ chức tài chính tín dụng, bảo hiểm, kinh doanh.
Trên cơ sở này, Bộ tài chính xác định phí giao dịch
quyền chọn là một khoản chi phí hợp lý, hợp lệ được
tính vào chi phí khi tính vào chi phí khi xác định thu
nhập chịu thuế.
Ngoài ra, đối với các Options chứng khoán, hiện nay chưa được áp dụng triển khai thì đây là
thời điểm chín muồi để triển khai Options chứng khoán vì tốc độ phát triển thời gian qua khá
nhanh, giá tăng – giảm đột biến, do đó nhu cầu về Options càng trở nên cấp bách. Nếu có công
cụ Options, nhà đầu tư không bị hoảng loạn vì gần như họ đã mua “bảo hiểm” về giá cho các
chứng khoán của mình.
Song song với việc triển khai các công cụ tài chính phái sinh thuần nhất, nên có những tiếp
cận đối với các sản phẩm lai tạp. Các sản phẩm quản trị rủi ro lãi suất, tỷ giá, giá cả và cả rủi
ro tín dụng đã xuất hiện trên thị trường Việt Nam. Thời gian tới sẽ vẫn tiếp tục nâng cao hơn
nữa chất lượng của thị trường tài sản cơ cở . Từ đó, sẽ là cơ sở có thể định giá các sản phẩm
phái sinh hiệu quả nhất.
Trên đây là một số giải pháp mang tính vĩ mô,. Đó là những công việc mà nhà nước, chính phủ
và các cơ quan liên quan cần có kế hoạch triển khai. Tuy nhiên, để thị tr ư ờng ngày càng phát
triển bền vững, an toàn và hiệu quả thì cần những nỗ lực của tất cả các chủ thể kinh tế, các DN,
các tổ chức tín dụng ngân hàng, những chủ thể cung cấp và sử dụng sản phẩm phái sinh. Và
vấn đề cốt lõi chính là nhận thức của chính các chủ thể tham gia trực tiếp chứ không phải là
các chủ thể quản lý.
http://www.asset.vn/Taichinh/Congcu/Congcuphaisinh/1260.saga
Khái niệm và các loại công cụ phái sinh
( Bình chọn: 4 -- Thảo luận: 1 -- Số lần đọc: 14690)
I. Khái niệm:
Công cụ phái sinh là những công cụ được phát hành trên cơ sở những công cụ đă có như cổ
phiếu, trái phiếu nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như phân tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc
tạo lợi nhuận.
II. Các loại công cụ phái sinh:
1. Quyền lựa chọn (Option)
a. Khái niệm: Quyền lựa chọn là một công cụ cho phép người nắm giữ nó được mua (nếu là
quyền chọn mua) hoặc bán (nếu là quyền chọn bán) một khối lượng nhất định hàng hoá với
một mức giá xác định, và trong một thời gian nhất định.
Các hàng hoá cơ sở này có thể là cổ phiếu, chỉ số cổ phiếu, trái phiếu, chỉ số trái phiếu, thương
phẩm, đồng tiền hay hợp đồng tương lai.
b. Những yếu tố cấu thành một quyền lựa chọn
- Tên của hàng hoá cơ sở và khối lượng được mua theo quyền.
- Loại quyền (chọn mua hay chọn bán).
- Thời hạn của quyền.
- Mức giá thực hiện theo quyền.
c. Những mức giá liên quan tới một quyền lựa chọn:
- Giá thị trường hiện hành của loại hàng hoá cơ sở.
- Giá hàng hoá cơ sở thực hiện theo quyền.
- Giá quyền lựa chọn.
Đối với quyền chọn mua, nếu giá thực hiện thấp hơn giá hiện hành của chứng khoán cơ sở, thì
quyền đó được gọi là đang được tiền (in the money), tức là người có quyền có thể có lợi từ
việc thực hiện quyền. Nếu giá thực hiện bằng với giá thị trường, quyền đang ở trạng thái hoà
vốn (at the money), và nếu cao hơn, gọi là đang mất tiền (out of money).
Đối với quyền chọn bán thì ngược lại, người thực hiện quyền sẽ có lợi nếu giá bán thực hiện
quyền cao hơn giá thị trường của hàng hoá cơ sở và sẽ bị mất tiền nếu giá thực hiện quyền thấp
hơn giá thị trường của hàng hoá cơ sở.
Giá trị mà người nắm giữ quyền lựa chọn sẽ nhận được bằng cách thực hiện quyền được gọi là
giá trị nội tại (intrinsic value). Nếu quyền ở trạng thái bị mất tiền, giá trị nội tại bằng 0. Giá thị
trường của một quyền thường ít nhất là bằng giá trị nội tại. Giá bán quyền được gọi là phần
phụ trội, chênh lệch giữa giá bán quyền với giá trị nội tại (trong trường hợp quyền đang được
tiền) được gọi là phần phụ trội giá trị theo thời gian.
Nói cách khác, khi đó:
Giá trị theo thời gian của quyền chọn mua = Giá quyền - (giá thị trường - giá thực hiện).
Ví dụ 1: Giá của một quyền chọn mua XYZ là 400.000 đồng, giá thị trường của XYZ là 42.000
đồng. Người giữ quyền có thể chiếm lấy 200.000 đ ngay tức thì bằng cách thực hiện quyền, tức
là mua 100 cổ phần (mức giá được quyền ấn định) với tổng chi phí 4.000.000 đồng, cũng theo
mức giá thực hiện theo quyền là 40.000 đ một cổ phần; sau đó bán ngay với giá thị trường, thu
về 4.200.000 đ. Giá trị nội tại của quyền là 200.000 đ.
Mức phụ trội giá trị theo thời gian = giá quyền – giá trị nội tại = 400.000 đ - 200.000 đ =
200.000 đ
Người mua vẫn sẵn sàng trả phần phụ trội cho các quyền lựa chọn và họ nhận được nhiều lợi
ích từ một quyền lựa chọn.
d. Ứng dụng của quyền lựa chọn:
Quyền lựa chọn cho phép nhà đầu tư thu được tỷ lệ % lợi tức trên vốn đầu tư cao nhất.
Ví dụ 2: Giả sử thị trường hiện nay của cổ phiếu XYZ là 42.000 VND/cổ phần, và bạn dự đoán
sau nửa năm nữa, giá cổ phiếu XYZ sẽ tăng mạnh, lên tới 50.000 VND. Giả sử các quyền lựa
chọn có liên quan đến giao dịch cổ phiếu XYZ được niêm yết, bạn có thể mua một quyền chọn
mua cổ phiếu XYZ với giá 40.000 VND/cổ phần.
Trong vòng 6 tháng giá cổ phiếu XYZ tăng lên 50.000 VND/cổ phần. Bạn có thể buộc người
bán giao 100 cổ phần XYZ cho bạn với giá 40.000 VND/cổ phần, sau đó bán chúng ra thị
trường với giá 50.000 đồng.
Như vậy bạn đă tạo ra một lợi nhuận đáng kể. Trên thực tế bạn đă thu được lợi nhuận 60.000
đồng trên khoản đầu tư 40.000 đồng, vậy lợi suất là 150%, trong khoảng thời gian là 6 tháng.
Quyền lựa chọn được sử dụng để bảo vệ lợi nhuận
Ví dụ 3: Với XYZ đang có giá thị trường là 44.000 đồng, người sở hữu 100 cổ phần XYZ bán
một quyền chọn mua XYZ 44.000 với giá quyền là 400.000 đồng.
Nếu giá thị trường của XYZ giảm xuống 40.000 đồng, người bán sẽ được bảo vệ trước khoản
thua lỗ nhờ có 40.000 đồng nhận được từ việc bán quyền chọn. Nếu XYZ tiếp tục giảm giá thì
đương nhiên người bán sẽ mất tiền. Như vậy khoản thu 40.000 đồng từ việc bán quyền lựa
chọn tạo ra một sự bảo vệ cục bộ đối với tình trạng sụt giá.
Nếu trong 6 tháng tới giá XYZ vẫn giữ nguyên, quyền sẽ không được thực hiện. Khoản thu
phụ trội 40.000 đồng là một thu nhập bổ sung trên tổng đầu tư.
2. Quyền mua trước (right)
Quyền mua trước là một quyền lựa chọn mua có thời hạn rất ngắn, có khi chỉ vài tuần. Quyền
này được phát hành khi các công ty tăng vốn bằng cách phát hành thêm các cổ phiếu thường.
Quyền cho phép một cổ đông mua cổ phiếu mới phát hành với mức giá đã ấn định trong một
khoảng thời gian xác định.
Loại quyền này thường được phát hành theo từng đợt, mỗi cổ phiếu đang lưu hành được kèm
theo một quyền. Số quyền cần để mua một cổ phiếu mới được quy định tuỳ theo từng đợt phát
hành mới.
Giá cổ phiếu ghi trên quyền thường là thấp hơn giá hiện hành của cổ phiếu. Giá của quyền tính
bằng chênh lệch giữa giá thị trường hiện hành của cổ phần đang lưu hành và giá mua cổ phần
mới theo quyền, chia cho số lượng quyền cần có để mua một cổ phần mới.
Ví dụ: cổ phiếu bán theo quyền (giá thực hiện) là 800.000 đồng/cổ phần, nhưng có giá thị
trường là 1.000.000 đồng, nếu cứ 10 quyền được mua một cổ phần mới thì giá của quyền được
xác định theo công thức:
Vr = P0 - Pn/r
Trong đó: Vr là giá trị của một quyền, P0 là giá thị trường của cổ phiếu đang lưu hành, Pn là giá
thực hiện cổ phiếu mới và r là số quyền cần có để mua một cổ phiếu mới.
Vậy, giá quyền ở đây là Vr = (1.000.000 – 800.000)/10 = 20.000 đồng.
Nếu không muốn thực hiện quyền, cổ đông thường có thể bán quyền trên thị trường trong thời
gian quyền chưa hết hạn. Giá quyền có thể lên xuống trong khoảng thời gian chào bán, tuỳ
thuộc biến động giá thị trường của cổ phiếu.
3. Chứng quyền (warrants)
Chứng quyền là quyền cho phép mua một số cổ phần xác định của một cổ phiếu, với một giá
xác định, trong một thời hạn nhất định. Quyền này được phát hành khi tiến hành tổ chức lại các
công ty, hoặc khi công ty muốn khuyến khích các nhà đầu tư tiềm năng mua những trái phiếu
hay cổ phiếu ưu đăi nhưng có những điều kiện kém thuận lợi. Để chấp nhận những điều kiện
đó, nhà đầu tư có được một lựa chọn đối với sự lên giá có thể xảy ra của cổ phiếu thường.
Đặc điểm:
Khác với quyền mua trước, chứng quyền có thời hạn dài hơn, do công ty đã phát hành công cụ
cơ sở phát hành đồng thời với công cụ cơ sở. Khác với quyền lựa chọn (option), khi chứng
quyền được thực hiện, nó tạo thành dòng tiền vào cho công ty và tăng thêm lượng cổ phiếu lưu
hành trên thị trường.
Chứng quyền có thể được giao dịch tách rời với trái phiếu hay cổ phiếu mà nó đi kèm.
Các điều kiện của chứng quyền được ghi rõ trên tờ chứng chỉ: số cổ phiếu được mua theo mỗi
chứng quyền (thường là 1:1); giá thực hiện cho mỗi cổ phiếu; tại thời điểm chứng quyền được
phát hành, giá này bao giờ cũng cao hơn giá thị trường của cổ phiếu cơ sở, và giá đó có thể cố
định, có thể được tăng lên định kỳ; và thời hạn của quyền, đa số trường hợp là 5 đến 10 năm.
4.Hợp đồng kỳ hạn
Hợp dồng kỳ hạn là một thoả thuận trong đó một người mua và một người bán chấp thuận thực
hiện một giao dịch hàng hoá với khối lượng xác định, tại một thời điểm xác định trong tương
lai với một mức giá được ấn định vào ngày hôm nay.
Hàng hoá ở đây có thể là bất kỳ thứ hàng hoá nào; từ nông sản, các đồng tiền, cho tới các
chứng khoán.
Theo hợp đồng này thì chỉ có hai bên tham gia vào việc ký kết, giá cả do hai bên tự thoả thuận
với nhau, dựa theo những ước tính mang tính các nhân. Giá hàng hoá đó trên thị trường giao
ngay vào thời điểm giao nhận hàng hoá có thể thay đôỉ, tăng lên hoặc giảm xuống so với mức
giá đă kư kết trong hợp đồng. Khi đó, một trong hai bên mua và bán sẽ bị thiệt hại do đă cam
kết một mức giá thấp hơn (bên bán) hoặc cao hơn (bên mua) theo giá thị trường.
Như vậy bằng việc tham gia vào một hợp đồng kỳ hạn, cả hai bên đều giới hạn được rủi ro
tiềm năng cũng như hạn chế lợi nhuận tiềm năng của mình. Và chỉ có hai bên tham gia vào hợp
đồng, cho nên mỗi bên đều phụ thuộc duy nhất vào bên kia trong việc thực hiện hợp đồng. Khi
có thay đổi giá cả trên thị trường giao ngay, rủi ro thanh toán sẽ tăng lên khi một trong hai bên
không thực hiện hợp đồng. Ngoài ra, với mức giá đặt ra mang tính cá nhân và chủ quan nên rất
có thể không chính xác.
5. Hợp đồng tương lai
Hợp đồng tương lai, nhờ đặc tính linh hoạt của nó, đã khắc phục được những nhược điểm của
hợp đồng kỳ hạn, và thường được xem là một cách thức tốt hơn để phòng ngừa rủi ro trong
kinh doanh.
Những điểm khác biệt căn bản của hợp đồng tương lai so với hợp đồng kỳ hạn là:
1. Niêm yết trên sở giao dịch. Một giao dịch hợp đồng tương lai nói chung được xử lý trên một
Sở giao dịch. Điểm này cho phép giá cả được hình thành hợp lý hơn, do các bên mua bán được
cung cấp thông tin đầy đủ và công khai.
2. Xoá bỏ rủi ro tín dụng. Trong các giao dịch hợp đồng tương lai được niêm yết trên sở giao
dịch, cả hai bên bán và mua đều không bao giờ biết về đối tác giao dịch của mình. Công ty
thanh toán bù trừ sẽ phục vụ như một trung gian trong tất cả các giao dịch. Người bán bán cho
công ty thanh toán bù trừ, và người mua cũng mua qua công ty thanh toán bù trừ. Nếu một
trong hai bên không thực hiện được hợp đồng thì vẫn không ảnh hưởng đến bên kia.
3.Tiêu chuẩn hoá. Các hợp đồng kỳ hạn có thể được thảo ra với một hàng hoá bất kỳ, khối
lượng, chất lượng, thời gian giao hàng bất kỳ, theo thoả thuận chung giữa hai bên bán, mua.
Tuy nhiên, các hợp đồng tương lai niêm yết trên sở giao dịch đòi hỏi việc giao nhận một khối
lượng cụ thể của một hàng hoá cụ thể đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng tối thiểu, theo một
thời hạn được ấn định trước.
4. Điều chỉnh việc đánh giá theo mức giá thị trường (Marking to market) . Trong các hợp đồng
kỳ hạn, các khoản lỗ, lãi chỉ được trả khi hợp đồng đến hạn. Với một hợp đồng tương lai, bất
kỳ món lợi nào cũng được giao nhận hàng ngày. Cụ thể là nếu giá của hàng hoá cơ sở biến
động khác với giá đã thoả thuận (giá thực hiện hợp đồng) thì bên bị thiệt hại do sự thay đổi giá
này phải trả tiền cho bên được lợi từ sự thay đổi giá đó. Trên thực tế, và không bên nào biết về
đối tác của mình trong giao dịch, nên những người thua đều trả tiền cho công ty thanh toán bù
trừ, và công ty này sẽ trả tiền cho những người thắng.