Rủi ro hoạt động NHTM

45
Nhóm 2: Nguyễn Thế Anh – NHDK12 Bùi Hoài Linh – NHCK12 Lê Thanh Tài – NHDK12 Tạ Quang Toản – TTQTCK12 Đinh Huy Công – TTQTCK12 PHÂN TÍCH NGUYÊN NHÂN, ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG VÀ ĐỀ RA GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI MỖI NHÓM RỦI RO HOẠT ĐỘNG. A. Khái quát về rủi ro hoạt động 1. Định nghĩa Là những sự kiện phát sinh dó yếu tố con người, do hệ thống, do công nghệ hoặc quy trình kiểm soát nội bộ không phù hợp, hay do những sự kiện khách quan bên ngoài ( Không bao gồm những nguyên nhân gây ra rủi ro thị trường). 2. Nguyên nhân của rủi ro hoạt động.

Transcript of Rủi ro hoạt động NHTM

Page 1: Rủi ro hoạt động NHTM

Nhóm 2:

Nguyễn Thế Anh – NHDK12

Bùi Hoài Linh – NHCK12

Lê Thanh Tài – NHDK12

Tạ Quang Toản – TTQTCK12

Đinh Huy Công – TTQTCK12

PHÂN TÍCH NGUYÊN NHÂN,

ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG VÀ ĐỀ RA GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI

MỖI NHÓM RỦI RO HOẠT ĐỘNG.

A. Khái quát về rủi ro hoạt động

1. Định nghĩa

Là những sự kiện phát sinh dó yếu tố con người, do hệ thống, do công nghệ hoặc quy trình kiểm

soát nội bộ không phù hợp, hay do những sự kiện khách quan bên ngoài ( Không bao gồm

những nguyên nhân gây ra rủi ro thị trường).

2. Nguyên nhân của rủi ro hoạt động.

Không giống như của rủi ro thị trường, trong đó sự tăng giảm của thị giá và gây ra tổn thất cho

ngân hàng và nguyên nhân gây ra rủi ro thị trường thường là các yếu tố khách quan bên ngoài.

Đối với rủi ro hoạt động thì nguyên nhân bao gồm cả các lý do bên trong và bên ngoài.

Bên trong:

Page 2: Rủi ro hoạt động NHTM

+Tổ chức, quy trình

+Yếu tố con người

+Hệ thống công nghệ thông tin

Bên ngoài: Biểu tình, khủng bố, trộm cướp, thiên tai, hỏa hoạn, giao thông tắc nghẽn ….

3. Phân loại rủi ro hoạt động

Căn cứ vào nguyên nhân gây ra rủi ro, có thể phân loại rủi ro hoạt động thành các nhóm sau:

Rủi ro qui trình nội bộ.

o Hồ sơ chất lượng kém, không đầy đủ hoặc sai.

o Thiếu sự kiểm soát.

o Lỗi Marketing

o Rửa tiền

o Báo cáo sai hoặc thiếu

o Lỗi giao dịch

Rủi ro con người.

o Các vấn đề về sức khỏe, an toàn

o Tỷ lệ thay đổi nhân viên cao.

o Gian lận nội bộ.

o Tranh chấp lao động.

o Quản lý kém.

o Đào tạo nhân viên kém.

o Quá phụ thuộc vào nhân viên chủ chốt.

o Hoạt động mua bán lừa đảo.

Rủi ro hệ thống.

o Nhập dữ liệu sai.

o Kiểm soát các thay đổi kém.

o Kiểm soát các dự án kém.

Page 3: Rủi ro hoạt động NHTM

o Lỗi lập trình.

o Ỷ lại vào công nghệ hộp đen.

o Ngắt quãng dịch vụ - lỗi một phần hoặc toàn phần.

o Vấn đề an ninh hệ thống ( Virus, tin tặc…)

o Sự phù hợp của hệ thống.

o Sử dụng công nghệ mới hoặc chưa qua kiểm định.

Rủi ro bên ngoài.

o Các sự kiện của ngân hàng này nhưng có tác động trong ngành

o Gian lận, trộm cắp bên ngoài.

o Hỏa hoạn

o Thiên tai

o Bố trí thuê ngoài không thành công.

o Triển khai các quy định mới.

o Biểu tình dân sự và bạo loạn

o Khủng bố

o Hệ thống giao thông gián đoạn khiến nhân viên không thể đến chỗ làm việc

o Các thiết bị dịch vụ bị hỏng.

Rủi ro pháp lí.

B. Phân tích từng nhóm rủi ro hoạt động.

1. Rủi ro quy trình nội bộ ( Đinh Huy Công)

a. Hồ sơ – Chất lượng kém, ko đầy đủ hoặc sai

- Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ vay:

Đa số các doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng đều có các phương án kinh doanh cụ thể, khả

thi. Số lượng các doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích, cố ý lừa đảo ngân hàng để chiếm

đoạt tài sản không nhiều. Tuy nhiên những vụ việc phát sinh lại hết sức nặng nề, liên quan đến

uy tín của các cán bộ, làm ảnh hưởng xấu đến các doanh nghiệp khác.

Page 4: Rủi ro hoạt động NHTM

- Tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch:

Quy mô tài sản, nguồn vốn nhỏ bé, tỷ lệ nơ so với vốn tự có cao là đặc điểm chung của hầu hết

các doanh nghiệp VN. Ngoài ra, thói quen ghi chép đầy đủ, chính xác, rõ ràng các sổ sách kế

toán vẫn chưa được các doanh nghiệp tuân thủ nghiêm chỉnh và trung thực. Do vậy, sổ sách kế

toán mà các doanh nghiệp cung cấp cho ngân hàng nhiều khi chỉ mang tính chất hình thức hơn

là thực chất. Khi cán bộ ngân hàng lập các bản phân tích tài chính của doanh nghiệp dựa trên số

liệu do các doanh nghiệp cung cấp, thường thiếu tính thực tế và xác thực. Đây cũng là nguyên

nhân vì sao ngân hàng vẫn luôn xem nặng phần tài sản thế chấp như là chỗ dựa cuối cùng để

phòng chống rủi ro tín dụng.

Giải pháp

- Để đảm bảo xây dựng được hệ thống tin hoạt động có hiệu quả Ngân hàng cầnphải

hoàn thiện hệ thống cung cấp thông tin, báo cáo nội bộ, có sự trao đổi thường xuyên

giữa các chi nhánh trong nội bộ ngân hàng. Mạng lưới thông tin phải kết hợp chặt chẽ từ

trung ương đến địa phương. Tất cả những thông tin về tín dụng cần phải được tập trung

về một mối là phòng thông tin tín dụng tại trung ương. Điều này nhằm đảm bảo thông

tinliên quan đến dự án và thẩm định dự án sẽ được cung cấp nhanh chóng kịp thời, đầy

đủ,chính xác khi cần thiết. Tại phòng thông tin tín dụng trung ương các thông tin cũng

nên được phân nhóm theo từng nghành nghề, lĩnh vực, khu vực khác nhau.

- Đối với nguồn thông tin bên ngoài

Nguồn thông tin bên ngoài là nguồn được thu thập từ Phòng thông tin tín dụng của

Ngân hàng Nhà nước, của các Ngân hàng thương mại khác, rồi từ phía bạn hàng, từcác

cơ quan quản lý khác nhau như các Bộ Thương mại, Bộ Đầu tư, từ sách báo, tạp chí,…

Nguồn thông tin này cũng quan trọng không kém nguồn thông tin nội bộ. Tuy nhiên,

nguồn thông tin bên ngoài thường đa dạng hơn nguồn thông tin nội bộ và có độ tin cậy

kém hơn. Vì vậy, Ngân Hàng Ngoại Thương cần có kế hoạch thu thập thông tin từbên

ngoài một cách hợp lý.

Page 5: Rủi ro hoạt động NHTM

- Ngân hàng cần có bộ phận chuyên thu thập thông tin, cần có sự giúp đỡ của các công ty

kiểm toán để kiểm tra tính chính xác và trung thực của các báo cáo tài chính mà doanh

nghiệp xin vay vốn trình lên.

- Ngoài ra, Ngân hàng cũng nên tham khảo ý kiến của các chuyên gia tư vấn kỹ thuật để

trợ giúp trong việc thẩm định khía cạnh kỹ thuật công nghệ của dự án, từ đó xác định

chính xác tổng nhu cầu vốn đầu tư. Trong điều kiện hiện nay, tìm kiếm thông tin trên

mạng thông tin toàn cầu Internet đang rất được phổ biến rộng rãi và cập nhật.

b. Thiếu sự kiểm soát

- Lỏng lẻo trong công tác kiểm tra nội bộ các ngân hàng:

Kiểm tra nội bộ có điểm mạnh hơn thanh tra NHNN ở tính thời gian vì nó nhanh chóng, kịp thời

ngay khi vừa phát sinh vấn đề và tính sâu sát của người kiểm tra viên, do việc kiểm tra được

thực hiện thường xuyên cùng với công việc kinh doanh. Nhưng trong thời gian trước đây, công

việc kiểm tra nội bộ của các ngân hàng hầu như chỉ tồn tại trên hình thức. Kiểm tra nội bộ cần

phải được xem như hệ thống “thắng” của cỗ xe tín dụng. Cỗ xe càng lao đi với vận tốc lớn thì hệ

thống này càng phải an toàn, hiệu quả thì mới tránh cho cỗ xe khỏi đi vào những ngã rẽ rủi ro

vốn luôn luôn tồn tại thường trực trên con đường đi tới.

- Lơi lỏng quá trình kiểm tra, kiểm soát đồng vốn sau khi cho vay

Các ngân hàng thường có thói quen tập trung nhiều công sức cho việc thẩm định trước khi cho

vay mà lơi lỏng quá trình kiểm tra, kiểm soát đồng vốn sau khi cho vay. Khi ngân hàng cho vay

thì khoản cho vay cần phải được quản lý một cách chủ động để đảm bảo sẽ đựơc hoàn trả.

Theo dõi nợ là một trong những trách nhiệm quan trọng nhất của cán bộ tín dụng nói riêng và

của ngân hàng nói chung. Việc theo dõi hoạt động của khách hàng vay nhằm tuân thủ các điều

khoản đề ra trong hợp đồng tín dụng giữa khách hàng và ngân hàng nhằm tìm ra những cơ hội

kinh doanh mới và mở rộng cơ hội kinh doanh. Tuy nhiên trong thời gian qua các NHTM chưa

thực hiện tốt công tác này. Điều này một phần do yếu tố tâm lý ngại gây phiền hà cho khách

hàng của cán bộ ngân hàng, một phần do hệ thống thông tin quản lý phục vụ kinh doanh tại các

Page 6: Rủi ro hoạt động NHTM

doanh nghiệp quá lạc hậu, không cung cấp được kịp thời, đầy đủ các thông tin mà NHTM yêu

cầu.

c. Lỗi marketing

- Marketing ngân hàng tại Việt Nam vẫn còn bộc lộ một số hạn chế nhất định.

Ta có thể thấy rằng ở Việt Nam chưa có nhiều trường lớp đào tạo chính quy chuyên ngành

Marketing. Nhìn chung, nguồn nhân lực về Marketing còn non trẻ và khan hiếm. Bên cạnh đó,

các ngân hàng vẫn chưa thực sự quan tâm đúng mức tới công tác đào tạo đội ngũ cán bộ

nghiệp vụ chuyên sâu về Marketing. Chính điều này đã làm cho nội dung Marketing của một số

Chi nhánh NHTM nghèo nàn, kém tính hấp dẫn, không có tính chuyên nghiệp, chưa thực sự

mang tính hiện đại và hội nhập.

Cũng cần phải nói tới những chi phí mà một NHTM được phép chi cho hoạt động Marketing. Chi

phí của các NHTM cho hoạt động Marketing phải nằm trong giới hạn chi phí tiếp thị do Bộ Tài

chính quy định. Thực tế tỷ lệ này là quá thấp so với thông lệ quốc tế. Trong khi đó hoạt động chi

quảng cáo của một số NHTM vẫn còn mang tính chất là quan hệ với cơ quan báo chí chứ chưa

hoàn toàn vì mục tiêu kinh doanh đạt hiệu quả.

Một thực trạng tồn tại đó là sự chồng chéo, trùng lắp trong hoạt động Marketing giữa Hội sở

chính với các chi nhánh, và các NHTM với nhau. Chính sự chồng chéo này đôi khi không những

làm giảm đáng kể hiệu quả của các hoạt động Marketing ngân hàng mà còn có sự phản tác dụng

không mong muốn.

- Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động Marketing.

Trên cơ sở học hỏi những kinh nghiệm từ các ngân hàng hiện đại trên thế giới, các NHTM Việt

Nam tiến hành hoàn thiện, điều chỉnh phù hợp với hoạt động Marketing của ngân hàng mình,

với tình hình thực tế của nền kinh tế đất nước và hệ thống ngân hàng Việt Nam.

Các NHTM phải xác định con người là nhân tố quan trọng nhất trong việc thực hiện mục tiêu

phát triển các sản phẩm ngân hàng nói chung và phát triển các hoạt động Marketing nói riêng.

Page 7: Rủi ro hoạt động NHTM

Do đó các NHTM cần mở rộng và nâng cao công tác đào tạo chuyên viên về Marketing ngân

hàng. Các ngân hàng có thể liên kết với các trường đại học khối kinh tế đưa nội dung Marketing

ngân hàng vào giảng dạy sâu hơn. Cùng với đó, các ngân hàng có thể tổ chức các buổi hội thảo,

trao đổi kinh nghiệm trong nội bộ ngân hàng, mời các chuyên gia Marketing giỏi về giảng dạy,

cử các bộ có kinh nghiệm về Marketing theo học những khóa đào tạo chuyên ngành Marketing

ngân hàng ở nước ngoài.

Ngoài ra các NHTM cần xác định rõ vai trò của hoạt động Marketing đối với hiệu quả hoạt động

kinh doanh của ngân hàng, từ đó chủ động trong việc chi cho hoạt động Marketing, tránh tình

trạng trùng lắp hay chồng chéo giữa các chi nhánh NHTM.

d. Rửa tiền

- Nhận diện hoạt động kinh tế có khả năng là công cụ rửa tiền ở Việt Nam.

Những năm gần đây, thị trường bất động sản và thị trường chứng khoán Việt Nam là hai thị

trường có tốc độ phát triển rất khó dự đoán, dễ đi từ trạng thái phát triển nóng chuyển sang

đóng băng. Không đi sâu vào diễn biến của hai thị trường này, nhưng nhìn chung, chỉ số VN -

Index của thị trường chứng khoán liên tục tăng cao trong năm 2007 và đầu năm 2008. Tương

tự, thị trường bất động sản cũng tăng cao trong nửa cuối năm 2007, nổi bật với hình ảnh những

vụ chen lấn nhau mua căn hộ cao cấp tại thành phố Hồ Chí Minh, từ căn hộ The Manor, Phú Mỹ

Hưng, The Mansio(3), sau đó là The Vista đến Sky Garden 3 (4), với giá bán được đẩy từ 1.600

USD lên đến 2.800 USD /m2 chỉ trong vài ngày (5). Điều này cho thấy, có một luồng tiền rất lớn,

mà việc kiểm tra nguồn gốc không được quan tâm đúng mức, đã đổ vào thị trường này.

Ngay trong tháng 3/2007, ông Phùng Khắc Kế - Phó Thống đốc Ngân hàng nhà nước (NHNN) -

đã có cảnh báo rửa tiền tham nhũng qua thị trường chứng khoán: “Nói đến nguồn trong nước,

tôi cũng phải nói thêm một điều mà lâu nay báo chí và các chuyên gia kinh tế chưa nói đến là có

một lượng tiền hình thành từ tiền thất thoát hay là tham nhũng cũng vậy. Chúng ta biết rằng,

Page 8: Rủi ro hoạt động NHTM

nguồn vốn xây dựng cơ bản và nguồn vốn đầu tư nói chung là rất lớn; chỉ với con số thanh tra

nêu là 10% thất thoát vào túi các cá nhân trong các lĩnh vực này thì cũng đã là một con số rất

lớn. Ví dụ, một năm đầu từ 200 ngàn tỷ thì 10% thì con số này là 20 ngàn tỷ; số vốn này nếu

chuyển qua đầu tư chứng khoán cũng là một yếu tố thúc đẩy sự nóng lên của thị trường trong

thời gian qua” (6) . Ngoài ra, nguồn vốn của các quỹ đầu tư nước ngoài đang hoạt động tại Việt

Nam cũng chưa kiểm tra, giám sát được, mặc dù số lượng các quỹ không nhiều. Đối với thị

trường bất động sản, giao dịch đa số đều thanh toán bằng tiền mặt, nhưng hoạt động điều tra,

phân tích các giao dịch này chưa được thực hiện.

- Giải pháp phòng chống rửa tiền ở Việt Nam

Nhận thức được tầm quan trọng của công tác PCRT, khẳng định quyết tâm của Việt Nam chống

tội phạm nói chung và tội phạm rửa tiền nói riêng, Việt Nam đã không ngừng nỗ lực xây dựng

khung pháp lý, tổ chức bộ máy quản lý hiệu quả, đồng thời, sát cánh với các quốc gia trên thế

giới trong cuộc chiến chống rửa tiền. Để nâng cao toàn diện chất lượng công tác PCRT, hướng

tới đáp ứng các chuẩn mực quốc tế trong lĩnh vực này, một trong những nhiệm vụ cấp bách cần

được triển khai ngay chính là việc hoàn thiện khung pháp lý về PCRT. Khung pháp lý này cần tập

trung vào một số lĩnh vực như: Triển khai các biện pháp ngăn chặn có hiệu lực; tăng cường yêu

cầu về thu thập và quản lý thông tin khách hàng; gia tăng hiệu lực của các báo cáo về giao dịch

đáng ngờ; quản lý và giám sát. Để có thể đảm bảo công tác PCRT trong hệ thống ngân hàng có

hiệu quả, giảm thiểu rủi ro cũng như bảo vệ lợi ích cổ đông, các ngân hàng cần xây dựng chính

sách, quy trình hướng dẫn cách thức thực hiện công tác PCRT tại các khâu: Mở và sử dụng tài

khoản; quy định về nhận biết khách hàng, nhận biết khách hàng giản đơn và tăng cường.

Phương pháp phân loại rủi ro rửa tiền dựa trên ma trận rủi ro: Ma trận rủi ro rửa tiền được xây

dựng để đánh giá rủi ro, kiểm soát các rủi ro đã được xác định, đánh giá tần suất xảy ra và mức

độ ảnh hưởng và xếp hạng rủi ro. Các ngân hàng thường phân theo các mức độ rủi ro rửa tiền:

Mức độ rủi ro thấp; mức độ rủi ro trung bình; mức độ rủi ro cao. Các ngân hàng cần xác định rủi

ro, các dấu hiệu rửa tiền trong từng sản phẩm dịch vụ, từng hoạt động kinh doanh, giao dịch

như: Trong hoạt động kế toán giao dịch; hoạt động tín dụng; hoạt động tài trợ thương mại;

hoạt động chứng khoán; hoạt động thẻ. Hoàn thiện mô hình tổ chức toàn diện từ hội sở chính,

Page 9: Rủi ro hoạt động NHTM

chi nhánh đến các công ty trực thuộc trong hệ thống NHTM Việt Nam là điều kiện vô cùng quan

trọng trong việc thực hiện PCRT có hiệu quả. Tại hội sở chính, phải có được bộ phận phụ trách

PCRT chuyên trách, chuyên xử lý phân tích các báo cáo, thu thập dữ liệu giao dịch, khách hàng.

Tại chi nhánh và các công ty trực thuộc mỗi một đơn vị cũng cần phải có bộ phận xử lý PCRT

chuyên trách và liên hệ làm việc trực tiếp, nhận hỗ trợ từ bộ phận phụ trách PCRT chuyên trách

tại hội sở chính.

Việc hỗ trợ và nhận thức rủi ro về PCRT từ ban lãnh đạo cũng là một điều kiện tiên quyết cho

một hệ thống PCRT thành công, do vậy, mỗi NHTM cần có một lãnh đạo phụ trách về PCRT.

Ngoài ra, kiểm soát tuân thủ thực hiện PCRT không thể thiếu bộ phận kiểm tra, kiểm soát tính

tuân thủ, thực hiện đúng chức năng nhiệm vụ, quy định về PCRT.

Giải pháp về hệ thống công nghệ hỗ trợ: Hệ thống PCRT cần phải có 2 module thiết yếu là

Filtering: ngăn chặn tức thời và Profiling dành cho phân tích sau:

Đối với Profiling: Các ví dụ về kịch bản rửa tiền đưa ra nhằm cài đặt vào trong hệ thống, và kiểm

nghiệm kết quả từ các kịch bản đang được xây dựng; thu thập tất cả các giao dịch nghi ngờ

phục vụ cho việc profiling; quy tắc với các tham số xác định các thành phần của kịch bản (ví dụ:

các tài khoản có giao dịch lớn hơn 200,000 triệu...; các khách hàng có nhiều hơn 5 tài khoản tại

ngân hàng; danh sách các khách hàng đen, các nước, quốc gia không hợp tác về rửa tiền do các

tổ chức có uy tín cung cấp hàng năm…

Đối với Filtering: Quy trình cảnh báo trong Filtering; hỗ trợ KYC, CDD, enhanced CDD; xếp hạng

rủi ro dựa trên ma trận rủi ro, ma trận rủi ro phải được xây dựng dựa trên: sản phẩm dịch vụ

của ngân hàng mà khách hàng sử dụng, quốc gia khách hàng cư trú...

e. Báo cáo sai hoặc thiếu & lỗi giao dịch

Ngày nay, những việc gian lận trương mục ngân hàng đi xa hơn là sự giả mạo checks. Các tiến

bộ của kỹ thuật điện tử đã cho phép những tên trộm có óc sáng tạo, ăn cắp tiền từ những

Page 10: Rủi ro hoạt động NHTM

trương mục của người khác bằng nhiều phương cách mà trong một vài năm trước đây, không

một ai tưởng tượng ra được.

Trong một trường hợp điển hình mới đây, mấy tên đạo chích nhà nghề này đã dùng những mẫu

đơn giả mạo và quan hệ thư từ giữa ngân hàng và khách của họ để lấy những thông tin cá nhân

của khách hàng. Các mẫu đơn được gởi đến khách hàng có dấu hiệu (logo) hẳn hoi của ngân

hàng cũng như các thư từ đều có in tên của ngân hàng ở trên, mang nội dung cho biết là có một

cuộc điều tra đang tiến hành bởi bộ phận kiểm soát sự gian lận ngân hàng.

Những tên tội phạm cho biết là trương mục ngân hàng của khách đã được minh bạch nhưng để

hoàn tất cuộc điều tra, chúng yêu cầu khách hàng cung cấp những tin tức rất riêng tư về tài

chánh của họ. Một bao thơ có dán tem sẵn và một số điện thoại miễn phí (toll free number)

được gởi kèm để khách hàng gởi cho kẻ gian những tin tức mà chúng cần.

Khi bạn nhận được một loại giấy tờ như thế qua bưu điện, tốt nhất là bạn nên đến thẳng nhà

băng để hỏi xem là họ có gởi những loại thư từ không bình thường như thế hay không.

Cộng tác làm việc với cơ quan công lực cũng như các cơ quan liên hệ, ngân hàng của bạn có thể

cung cấp một “danh sách kiểm soát' (checklist) để chận đứng sự gian lận và bảo vệ tiền bạc khỏi

thất thoát bởi kẻ gian.

- Checklist để đề phòng sự gian lận

+ Bảo vệ số trương mục ngân hàng của bạn

Page 11: Rủi ro hoạt động NHTM

Không bao giờ cung cấp số trương mục ngân hàng cho một người lạ, cho dù người đó tự giới

thiệu là làm việc cho ngân hàng của bạn. Trong tay của các tên tội phạm, số trương mục ngân

hàng của bạn sẽ là cái hộc được mở rộng cho họ lấy tiền ra.

+ Báo cáo cho ngân hàng biết ngay nếu cuốn sổ ký checks ngân hàng của bạn bị đánh mất hay bị

đánh cắp. Nhà băng sẽ ngưng ngay việc trả tiền cho những tờ checks ấy nếu có ai sử dụng giả

mạo.

+ Cất giữ những cái cancelled check (đã được dùng rồi), cũng như để ý đến những cái checks

mới một cách cẩn thận.

+ Báo tin cho nhà băng biết sau khi nhận được những cú điện thoại đòi hỏi tin tức một cách

khả nghi. Chẳng hạn như nói rằng nếu bạn đưa số trương mục ngân hàng thì bạn sẽ nhận được

một món quà, hay để xác nhận một hồ sơ giấy tờ của cuộc điều tra gian lận.

+ Phải luôn giữ riêng một cách kỹ lưỡng và không cho ai biết mã số thẻ ATM (thẻ rút tiền từ

máy) của mình vì nếu kẻ gian biết được họ sẽ ăn cắp tiền của bạn từ trương mục ngân hàng

một cách dễ dàng.

+ Luôn luôn kiểm soát số tiền còn lại trong ngân hàng một cách thường xuyên. Nếu biết dùng

computer, bạn có thể kiểm soát hay theo dõi những thay đổi của trương mục ngân hàng trên

máy điện toán một cách thuận tiện.

+ Học hỏi cách thức làm sao để giảm thiểu việc sử dụng hồ sơ, giấy tờ. Nếu có thể, bạn thử

dùng lối trả tiền bills qua hệ thống điện tử vì nhà băng nào cũng có phương pháp này.

2. Rủi ro con người ( Bùi Hoài Linh)

Ngân hàng là ngành kinh doanh đặc biệt, nhạy cảm, gắn chặt với tiền, và luôn đối mặt với nhiều

rủi ro. Trong các vấn đề rủi ro, dường như rủi ro con người đang là một nguy cơ ngày càng lớn

đối với các ngân hàng.

Rủi ro con người được xác định như là 1 loại rủi ro liên quan đến nhân viên của ngân hàng.

Ngân hàng thường tuyên bố nhân viên là tài sản quí nhất, tuy nhiên chính nhân viên của ngân

Page 12: Rủi ro hoạt động NHTM

hàng lại thường là nguồn cung cấp chủ yếu của các sự kiện rủi ro vận hành. Sự kiện rủi ro con

người thậm chí có thể xảy ra trong bộ phận quản lí rủi ro. Ông Đặng Văn Thành, chủ tịch tập

đoàn Sacombank nhấn mạnh: tài sản quý giá nhất của một tổ chức chính là con người, nhưng

rủi ro lớn nhất cũng là ở con người. “Đôi khi, rủi ro trong kinh doanh vẫn mang lại lợi nhuận nếu

khẩu vị rủi ro tốt. Nhưng, nếu chúng ta có được mô hình tốt, chiến lược phát triển tốt mà công

tác quản trị nhân sự yếu kém thì khó thành công. Bởi khi đó, rủi ro nằm trong lòng tổ chức, rủi

ro của mọi rủi ro là con người”.

Các lĩnh vực thường hay dẫn đến rủi ro con người là:

Các vấn đề sức khỏe và an toàn

Tỷ lệ thay đổi nhân viên cao

Gian lận nội bộ

Tranh chấp lao động

Quản lí kém

Đào tạo nhân viên kém

Quá phụ thuộc vào các nhân viên chủ chốt

Hoạt động mua bán lừa đảo

Ví dụ về rủi ro con người:

Gần đây, khi vụ án ở Công ty ALC II thuộc (Agribank) bị phanh phui. Bên cạnh con số

thiệt hại lên đến hơn 500 tỷ đồng thì điều làm mọi người bất ngờ nhất là các quan chức

ở DN này đã thể hiện “tài năng đặc biệt” trong nâng khống giá tài sản lên đến cả ngàn

lần khi định giá và cho vay.

Trước đó, cũng tại Agribank Hà Nội, tháng 5/2012, cơ quan công an cũng đã khởi tố, bắt

giam nguyên Giám đốc, Trưởng, Phó Phòng Tín dụng Chi nhánh Hồng Hà Đỗ Đức Hưng

khi lợi dụng chức vụ, quyền hạn ký khống 8 bảo lãnh không hồ sơ, không hạch toán,

không thu phí bảo lãnh cho 1 số công ty, với tổng số tiền hơn 345 tỷ đồng.

Chiều 15/8/2012, Viện KSND tỉnh Bình Định cho biết, cơ quan này vừa mới phê chuẩn

quyết định khởi tố bị can đối với các đối tượng gồm: ông Đoàn Văn Quang, nguyên Giám

đốc, ông Đoàn Hồng Sơn, nguyên Trưởng phòng Tín dụng, Nguyễn Văn Tạo, Phó Phòng

Page 13: Rủi ro hoạt động NHTM

Tín dụng; Lê Văn Sơn, cán bộ hậu kiểm của Chi nhánh Ngân hàng Agribank Tuy Phước,

huyện Tuy Phước (Bình Định).

Các bị can đều bị khởi tố về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng theo Điều

285 Bộ Luật Hình sự vì đã có hành vi buông lỏng quản lý trong hoạt động tín dụng tại

Ngân hàng, làm sai quy định, thiếu kiểm tra, kiểm soát hồ sơ, chứng từ cho vay… tạo sơ

hở để Huỳnh Chí Trung, nguyên là nhân viên tín dụng thuộc Agribank chi nhánh huyện

Tuy Phước Bình Định, lợi dụng chiếm đoạt tiền của Agribank Tuy Phước gần 20 tỉ đồng.

Ngày 4/10/2012, Cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an đã tống đạt quyết định khởi tố bị

can và thực hiện lệnh bắt tạm giam đối với Hồ Đăng Trung, Hồ Văn Long, nguyên giám

đốc và trưởng phòng tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam

(Agribank) chi nhánh 6, về hành vi “cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý

kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”.

Hay mới đây nhất, chính là việc ở ACB khi có hành vi cố ý làm trái của một số cá nhân

nguyên là lãnh đạo NH này ra chủ trương để ACB ủy thác cho nhân viên gửi tiền VNĐ và

USD vào 29 ngân hàng để hưởng lãi suất cao hơn trần lãi suất do Ngân hàng nhà nước

quy định gây thiệt hại hơn 700 tỷ đồng.

Và không dừng lại đó, những rủi ro dạng này tiếp tục được nhắc đến trong báo cáo mới

nhất của Ủy ban kinh tế Quốc hội đó chính là những nguy cơ từ sở hữu chéo và việc cho

vay lòng vòng đối với các DN "sân sau" của các ông chủ NH. Đã có những ví dụ được dẫn

ra để cảnh báo về việc các ông chủ NH, những người liên quan sử dụng các "chiêu trò tài

chính" để huy động vốn, chuyển tiền qua lại nhằm tạo lợi nhuận một cách bất hợp pháp.

Có vẻ như trong tất cả mọi sự kiện đáng tiếc đã diễn ra thì vụ án ông Nguyễn Đức Kiên

đang được điều tra là một ví dụ cho thấy tính chất phức tạp, mức độ và quy mô của

những rủi ro này trên thị trường tài chính Việt Nam đang tăng lên và trở thành một vấn

đề báo động.

Nguyên nhân phát sinh rủi ro con người trong hoạt động ngân hàng

Page 14: Rủi ro hoạt động NHTM

Thứ nhất, rủi ro con người tồn tại do chính sự nới lỏng kiểm soát, thiếu các chính sách

cho vay, thiếu các tiêu chuẩn rõ ràng, thiếu sự kiểm soát chặt chẽ, khoa học từ phía ngân

hàng.

Thứ hai, rủi ro con người trong hoạt động kinh doanh ngân hàng xuất phát từ chính sự

thiếu hiểu biết của nhà quản trị ngân hàng.

Với thị trường tài chính ngày càng phát triển, nhiều sản phẩm tài chính mới phức tạp và

đa dạng ra đời như các sản phẩm phái sinh, chứng khoán hóa… đòi hỏi ban điều hành

các ngân hàng phải kịp thời nắm bắt và hiểu rõ bản chất và mức độ rủi ro của các sản

phẩm tài chính, đồng thời có những chính sách quản trị rủi ro cũng như đủ nguồn lực về

tài chính và nhân lực nhằm kiểm soát được mức độ rủi ro của sản phẩm tài chính được

áp dụng. Tuy nhiên, thực tế các cuộc khủng hoảng tài chính cho thấy nhiều ban lãnh đạo

ngân hàng thậm chí không hiểu rõ các sản phẩm tài chính phức tạp, không đưa ra được

các chính sách quản lý và kiểm soát phù hợp và cốt lõi là họ vẫn thực hiện đầu tư các

sản phẩm tài chính đó với cách thức kiểm soát không phù hợp. Ngoài ra, việc áp dụng

những sản phẩm phái sinh tại một số ngân hàng trên thế giới cũng nhằm mục đích che

giấu những khoản nợ xấu.

Thứ ba là do sự thiếu giám sát từ phía cơ quan chính phủ, cổ đông và người gửi tiền.

Người gửi tiền thường tin tưởng vào mức độ tín nhiệm của các NHTM và khả năng hoàn

trả các khoản tiền gửi; đồng thời tin tưởng vào khả năng thực hiện bảo hiểm của các

công ty bảo hiểm tiền gửi. Từ góc độ ngân hàng, danh tiếng và vị trí trong xã hội được

coi là những tiêu chí cơ bản nhằm xây dựng hình ảnh của ngân hàng trong mắt người

gửi tiền. Các cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở thế kỷ 19, đầu thế kỉ 20 và 21 đã minh

chứng rằng thậm chí đối với các ngân hàng có mức độ thanh khoản tốt cũng không thể

thoát khỏi ảnh hưởng của các cuộc khủng hoảng tài chính làm cho người gửi tiền rút

tiền ồ ạt. Thực tế cho thấy hàng loạt các NHTM mất khả năng thanh toán mặc dù có

tham gia bảo hiểm tiền gửi. Như vậy, những hệ thống tài chính được giám sát chặt chẽ

sẽ giúp giảm mức độ thiệt hai cho ngân hàng, cũng như giúp cho cơ quan quản lý dự

Page 15: Rủi ro hoạt động NHTM

đoán hoặc ngăn chặn được trước những sự cố xảy ra.

Tác hại của rủi ro con người

Đối với ngân hàng, khi rủi ro con người xảy ra đối với hoạt động tín dụng, ngân hàng

không thu được vốn tín dụng đã cấp và lãi cho vay, nhưng ngân hàng phải trả vốn và lãi

cho khoản tiền huy động khi đến hạn, điều này sẽ làm cho ngân hàng mất cân đối trong

việc thu chi, vòng quay vốn tín dụng giảm làm cho ngân hàng kinh doanh không hiệu

quả, chi phí của ngân hàng tăng lên so với dự kiến. Nếu một khoản vay bị mất khả năng

thu hồi thì ngân hàng phải sử dụng các nguồn vốn của mình để trả cho người gửi tiền,

đến một chừng mực nào đó, ngân hàng không có đủ nguồn vốn để trả cho người gửi

tiền thì ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán, có thể dẫn đến nguy

cơ gặp rủi ro thanh khoản. Và kết quả là làm thu hẹp quy mô kinh doanh, năng lực tài

chính giảm sút, uy tín, sức cạnh tranh giảm không những trong thị trường nội địa mà

còn lan rộng ra các nước, kết quả kinh doanh của ngân hàng ngày càng xấu có thể dẫn

ngân hàng đến thua lỗ hoặc đưa đến bờ vực phá sản nếu không có biện pháp xử lý, khắc

phục kịp thời. Bên cạnh đó, khi các ngân hàng đã bên bờ vực phá sản, vũng lầy của rủi ro

ngày càng chìm sâu vì khi đó các ngân hàng hầu như không còn gì để mất nên sẵn sàng

thực hiện các hoạt động đầu tư cực kì mạo hiểm và rủi ro nhằm cứu vãn tình thế.

Đối với nền kinh tế, bắt nguồn từ bản chất và chức năng của ngân hàng là một tổ chức

trung gian tài chính chuyên huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để cho các tổ chức,

các doanh nghiệp và cá nhân có nhu cầu vay lại. Do đó, thực chất quyền sở hữu những

khoản cho vay là quyền sở hữu của người đã gửi tiền vào ngân hàng. Bởi vậy, khi rủi ro

tín dụng xảy ra thì không những ngân hàng chịu thiệt hại mà quyền lợi của người gửi

tiền cũng bị ảnh hưởng.

Khi một ngân hàng gặp phải rủi ro tín dụng hay bị phá sản thì người gửi tiền ở các ngân hàng

Page 16: Rủi ro hoạt động NHTM

khác hoang mang lo sợ và kéo nhau ồ ạt đến rút tiền ở các ngân hàng khác, làm cho toàn bộ hệ

thống ngân hàng gặp phải khó khăn.

Ngân hàng phá sản sẽ ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, không

có tiền trả lương dẫn đến đời sống công nhân gặp khó khăn. Hơn nữa, sự hoảng loạn của các

ngân hàng ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ nền kinh tế. Nó làm cho nền kinh tế bị suy thoái, giá

cả biến động, sức mua giảm, thất nghiệp tăng, xã hội mất ổn định.

Trên thực tế, khi định chế tài chính, NHTM sụp đổ, chính phủ thường đưa ra các gói cứu trợ.

Đây không phải là sự ưu ái, mà chỉ để tránh một sự sụp đổ lớn hơn đối với cả một hệ thống,

một nền kinh tế. Chính câu chuyện này cũng dẫn đến một số định chế tài chính, NHTM có thể

"làm ăn liều", bởi họ cho rằng, kiểu gì chính phủ cũng phải cứu khi họ có vấn đề, bởi nếu không

cả hệ thống sẽ sụp đổ.

Giải pháp hạn chế rủi ro con người

Thắt chặt kiểm soát, qui định chặt chẽ các tiêu chuẩn, các chính sách cho vay.

Lựa chọn, bố trí sử dụng cán bộ hợp lí. Đánh giá đúng năng lực cũng như phẩm chất, tư

cách đạo đức nghề nghiệp của cán bộ NH.

Ban điều hành các ngân hàng phải kịp thời nắm bắt và hiểu rõ bản chất và mức độ rủi ro

của các sản phẩm tài chính, đồng thời có những chính sách quản trị rủi ro cũng như đủ

nguồn lực về tài chính và nhân lực nhằm kiểm soát được mức độ rủi ro của sản phẩm tài

chính được áp dụng.

Hệ thống tài chính phải được giám sát chặt chẽ bởi cơ quan chính phủ, cổ đông và người

gửi tiền để dự đoán hoặc ngăn chặn trước những sự cố xảy ra.

3. Rủi ro hệ thống ( Tạ Quang Toản)

a. Nhập dữ liệu sai:

Page 17: Rủi ro hoạt động NHTM

Với thị trường ngân hàng ngày càng phát triển, việc ghi nhận dữ liệu sai gây hậu quả khôn

lường trong hoạt động của ngân hàng. Việc sai dữ liệu có thể do xử lý sai dữ liệu (dữ liệu bị sai

như việc phân loại sai, tính toán sai do chương trình xử lý không chính xác). Cung cấp thông tin

không đầy đủ, tin cậy, chính xác, báo cáo có thể chuyển giao không đúng người nhận.

Hậu quả của việc nhập sai dữ liệu tác động trực tiếp đến ngân hàng. Làm cho, các thông tin

cũng như những đánh giá của ngân hàng trở nên sai lệch, ảnh hưởng trực tiếp tới việc kinh

doanh của ngân hàng. Ví dụ: việc nhập thông tin về lãi suất sai, sẽ dẫn tới những dự báo về lãi

suất trở nên sai lệch, ảnh hưởng tới quá trình điều trỉnh của ngân hàng.

b. Kiểm soát các thay đổi kém:

Trong hoạt động của ngân hàng các thay đổi và điều chỉnh của ngân hàng luôn luôn là việc

mà ngân hàng phải làm để hướng tới các kết quả hoạt động kinh doanh tốt hơn trong tương lai.

Tuy nhiên trong tình hình kinh tế thị trường luôn luôn có những diễn biến rất khó lường, những

thay đổi đó có thể tốt khi mới được đưa ra có thể trở nên là những thay đổi yếu kém trong

thời gian sau đó.

Việc kiểm soát thay đổi này, đòi hỏi nhiều hệ thống của ngân hàng. Nhằm bù đắp các yếu

kém do sự thay đổi gây ra. Kiểm soát chặt chẽ để hậu quả không mở rộng và trở nên khó kiểm

soát và khó lường. Ví dụ: việc cho vay không kiểm soát chặt của HBB nhằm mở rộng nhanh

chóng lượng khách hàng trong thời gian qua, đã dẫn tới việc ngân hàng này trong nguy cơ phá

sản và phải sát nhập vào SHB, đây là minh chứng cho việc kiểm sốát kém các thay đổi kém. Điều

này dẫn tới nhiều hậu quả, với một ngân hàng nhỏ có thể việc này không mấy tác động cho thị

trường, nhưng với những ngân hàng lớn hoặc với những thay đổi tỏ ra tích cực trong thời gian

đầu và sẽ có nhiều NH áp dụng và tỏ ra bất cập trong thời gian tới, sẽ dẫn tới sự sụp đổ hệ

thống.

Vời chức năng cung cấp thông tin chính xác và đánh giá kịp thời, hệ thống công nghệ của

các ngân hàng phải tích cực dự đoán những thay đổi và những mặt tiêu cực của chính sách đối

với sự phát triển của ngân hàng.

Page 18: Rủi ro hoạt động NHTM

c. Kiểm soát các dự án kém:

Việc cho vay của ngân hàng chủ yếu nhằm tài trợ cho các dự án. Tuy nhiên trong quá trình

tài trợ cho các dự án, những rủi ro đối với ngân hàng rất lớn. Những rủi ro này do thông tin bất

cân xứng hoặc do sự lừa dối (rủi ro đạo đức) của chủ dự án nhằm đầu tư tiền vay vào những dự

án mạo hiểm. Khi việc kiểm soát của ngân hàng để cho chủ dự án thực hiện đúng như quy trình

dự án, sẽ dẫn đến việc đầu tự dự án không hiệu quả, trở thành các dự án yếu kém, có khả năng

gây cho ngân hàng nguy cơ mất vốn.

Việc kiểm soát của hệ thống phải được thực hiện ngay từ đầu của dự án, nhằm tránh việc

xử dụng vốn sai mục đích. Tuy nhiên, với sự cố ý lừa dối của chủ dự án, khi có sự cố xảy ra, ngân

hàng phải tiến hành kiểm soát dự án nhằm đưa dự án đi đúng hướng với những gì chủ đầu tư

trình bày ban đầu. Tuy nhiêu, khi dự án phá sản phải tiến hành đòi nợ, siết nợ. Với những việc

này, việc có sự tham gia của hệ thống công nghệ cao sẽ trở nên thuận tiện, nhanh chóng.

d. Lỗi lập trình:

Ngày nay, gần như tất cả các ngân hàng đều sử dụng mạng máy tính để xử lý tính toán,

cung cấp thông tin về khách hàng. Các giao dịch, số liệu, sổ sách, đều được nhập vào máy tính.

Nên tầm quan trọng của máy tính cũng như hệ thống phần mềm là vô cùng quan trọng.

Việc bị lỗi trong phần mềm sẽ trở nên rất tai hại trong hoạt động của ngân hàng. Ví dụ: số

liệu chuyển tiền của ngân hàng, nếu chỉ cần thêm 1-2 con số 0 sẽ để lại những hậu quả rất lớn.

Việc này đòi hỏi ngân hàng phải tiến hành quản lý phần mềm tốt, đòi hỏi đội ngũ lập trình

viên của ngân hàng, cũng như công ty cung cấp phần mềm cho ngân hàng phải là nơi có uy tín,

phần mềm đã được lập trình và kiểm nghiệm kỹ càng. Điều này cũng chỉ làm cho dịch vụ của

ngân hàng ngày càng hoàn thiện tránh rủi ro cho cả ngân hàng và khách hàng.

e. Ỷ vào công nghệ hộp đen

Page 19: Rủi ro hoạt động NHTM

Hộp đen là thiết bị lưu trữ thông tin. Công nghệ hộp đen ở đây ta có thể hiểu là công nghệ

lưu trữ thông tin của các ngân hàng. Dù sao tuy có nhiều thông tin nhưng ngân hàng cũng phải

tiến hành kiểm tra giám sát.

f. Ngắt quãng dịch vụ

Việc xử lý thông tin và số liệu của ngân hàng ngày càng được sử dụng hệ thống công nghệ

hiện đại, cũng như việc thanh toán không dùng tiền mặt đang ngày càng trở nên phổ biến. Đòi

hỏi tốc độ xử lý thông tin cao, dịch vụ cung cấp kịp thời với tình hình sản xuất kinh doanh của

khách hàng.

Tuy nhiên, trong hệ thống xử lý của ngân hàng có thể xảy ra lỗi của máy tính hay hệ thống

phần mềm, làm cho việc thanh toán của khách hàng trở nên khó khăn. Đây là một rủi ro của

ngân hàng, có thể dẫn tới việc mất uy tín của ngân hàng trong mắt khách hàng. Ví dụ: khi khách

hàng muốn chuyển tiền qua ngân hàng cho một dự án, nhưng do lỗi của hệ thống máy tính mà

việc chuyển tiền không thể diễn ra được, điều này ảnh hưởng tới dự định của khách hàng, kết

quả kinh doanh của khách hành, tạo ra mất uy tín của ngân hàng.

g. Vấn đề an ninh hệ thống

Khi tiến hành sử dụng hệ thống thông tin vào trong quản lý điều hành ngân hàng, các

ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ cao về tội phạm mạng và các phần mềm độc hại tấn công

hệ thống.

Mỗi năm thế giới ước tính thiệt hại hàng trăm tỷ USD, vì sự tấn công của tội phạm công

nghệ cao, cũng như các mã độc hại xâm nhập. Chúng cố ý xâm nhập đánh cắp các tài khoản của

khách hàng nhằm chuộc lợi cho cá nhân, không những thế còn có những tội phạm công nghệ

cao tấn công làm tê liệt hệ thống của các ngân hàng, điều này gây thiệt hại lớn vì có thể gây mất

hoàn toàn thông tin khách hàng, gây thiệt hại lớn cho ngân hàng.

Tích cực bảo vệ nâng cao khả năng chống đỡ cũng như mua những phần mềm hiện đại

nhất để chống sự xâm nhập của các mã độc hại là điều cần làm. Dù bị tấn công hay chưa xảy ra

Page 20: Rủi ro hoạt động NHTM

tấn công cũng nên lập hệ thống tường lửa và các công cụ ngăn chặn tiếp cận hệ thống máy chủ

cũng như tài khoản khách hàng.

h. Sự phù hợp của hệ thống

Việc hoạt động của ngân hàng phải được một hệ thống phù hợp nhằm đảm bảo hệ thống

đó vận hành hiệu quả hết công xuất nhằm đảm bào hoạt động của ngân hàng trơn tru. Việc hệ

thống của ngân hàng khôgn phù hợp với chức năng của ngân hàng sẽ gây khó khăn trong hoạt

động cũng như những sai xót trong việc xử lý thông tin, dữ liệu của ngân hàng và khách hàng.

i. Sử dụng công nghệ mới hoặc chưa qua kiểm định

Việc áp dụng công nghệ mới là điều vô cùng cần thiết trong hoạt động ngân hàng, nhằm

tăng tốc độ xử lý thông tin và dữ liệu của ngân hàng. Điều đó cũng tạo cho ngân hàng những lợi

thế cạnh tranh lớn trên thị trường.

Tuy nhiên, việc vội vàng áp dụng những tiến bộ công nghệ có thể gây ra hậu quả khó

lường. Với các công nghệ mới, phỉa qua tiến hành kiểm định kiểm tra kỹ lưỡng trước khi đưa

vào sử dụng. Nhưng có thể có ngân hàng mới thấy mặt tích cực của công nghệ mới này đã vội

vàng sử dụng sau đó các lỗi về công nghệ bắt đầu xảy ra gây rất nhiều khó khăn trong sử dụng

và khắc phục.

Để tranh điều này, tuy rằng biết chắc chắn rằng công nghệ mới có thể tạo lợi thế cạnh

tranh cho ngân hàng, nhưng ngân hàng phải đợi các kết quả thử nghiệm cũng như tiến hành

thử nghiệm quy mô nhỏ, trước khi áp dụng cho toàn hệ thống của mình.

4. Rủi ro bên ngoài ( Nguyễn Thế Anh)

Những rủi ro bên ngoài xảy ra:

a. Sự kiện của ngân hàng này nhưng có tác động rộng rãi đên hệ thống ngân hàng.

Page 21: Rủi ro hoạt động NHTM

Nguyên nhân do các ngân hàng là một hệ thống có quan hệ chặt chẽ về vốn, uy tín. Ví dụ điển

hình là cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ 2007-2008 có nguyên nhân trực tiếp là sự xụp đổ của hệ

thống ngân hàng, bắt đầu từ việc phá sản của ngân hàng Lehman Brothers từng là ngân hàng

đầu tư lớn thứ 4 của Mỹ, và được coi là vụ phá sản lớn nhất trong lịch sử Mỹ với tổng nợ 613 tỷ

USD. Sự xụp đổ của Lehman Brothers gây ảnh hưởng sâu sắc với các không chỉ các ngân hàng ở

Mỹ mà còn với các ngân hàng trên toàn thế giới, tình trạng thanh khoản đối với các ngân hàng

Mỹ trở nên cực kỳ báo động.

Sự ảnh hưởng lẫn nhau của các ngân hàng trong cùng một hệ thống là điều tất nhiên, chính vì

vậy rủi ro xảy ra do tác động qua lại của các sự kiện xảy ra với các ngân hàng là điều tất nhiên.

Để hạn chế phần nào đó rủi ro thì đòi hỏi bản thân ngân hàng nắm bắt thông tin kịp thời từ đó

đưa ra giải pháp nhanh chóng để không bị ảnh hưởng quá nhiều từ các sự kiện xảy ra với các

ngân hàng khác.

b. Gian lận và trộm cắp bên ngoài

Tại Việt Nam nhìn chung thiệt hại gây ra do gian lận và trộm cắp bên ngoài không lớn lắm,

nguyên nhân vì loại hình tội phạm này tại nước ta chưa phát triển hơn nữa cũng vì tình trạng an

ninh trong hệ thống ngân hàng là tương đối tốt. Hồi tháng 11/2010 tại đường Lê Trọng Tấn,

thành phố Hồ Chí Minh đã xảy ra vụ cắt trộm buồng ATM chiếm đoạt gần 1.3 tỷ đồng.

Để khắc phục những thiệt hại loại này các ngân hàng cần củng cố hệ thống bảo vệ, phối hợp

hơn nữa với cơ quan chức năng nhằm tăng cường an ninh của ngành ngân hàng nói riêng và cả

cả xã hội nói chung.

3. Hỏa hoạn:

Hỏa hoạn xảy ra thường là do nguyên nhân con người, chủ quan hay khách quan. Hậu quả do

hỏa hoạn gây ra là cực kỳ lớn.

Để hạn chế hỏa hoạn cũng như giảm thiệt hại do hỏa hoạn gây ra cần nâng cấp hệ thống phòng

cháy chữa cháy, tiền mặt và các giấy tờ quan trọng cần được trữ tại tủ chứa đặc biệt, phổ biến

công tác phòng chống hỏa hoạn cho công nhân viên.

Page 22: Rủi ro hoạt động NHTM

Tại Việt Nam những vụ hỏa hoạn xảy ra đối với hệ thống ngân hàng hiếm khi xảy ra. Tuy nhiên

gần đây có sự việc hàng loạt cây ATM bị bốc cháy trong đêm, sự việc này mang tính hình sự và

biện pháp để khắc phục nó cũng giống như biện pháp phòng chống gian lận, trộm cắp.

c. Thiên tai:

Đối với thiên tai thì hiện tại vẫn chưa có biện pháp để ngăn chặn được nó, chúng ta vẫn chỉ có

thể dự báo trước và sử dụng các biện pháp để hạn chế thiệt hại do nó gây ra.

Giải pháp:

+ Nắm bắt thông tin kịp thời từ đó đề ra biện pháp kịp thời khi dự báo có thiên tai xảy ra, hạn

chế tối đa hậu quả về người và tài sản.

+ Ngân hàng cần nắm rõ tình hình địa lý, khí tượng của mỗi địa điểm trước khi quyết định đặt

hội sở cũng như các chi nhánh. Tránh những nơi thường xuyên xảy ra thiên tai.

+ Phối hợp với các cơ quan chức năng trong công cuộc phòng chống hậu quả do thiên tai gây ra.

5. Triển khai các quy định mới

Sự triển khai các quy định mới có ảnh hưởng trực tiếp đến sự vận hành riêng lẻ của các ngân

hàng và đối với cả hệ thống.

Trong mỗi giai đoạn ngân hàng nhà nước thực hiện các chính sách vĩ mô khác nhau, các ngân

hàng thương mại là trung gian truyền tác động đến nền kinh tế, và trong mỗi giai đoạn khác

nhau đó ngân hàng nhà nước có ban hành một số quy định về trần, sàn lãi suất, hạn mức tín

dụng, quy định về nhóm cho vay được ưu tiên hay hạn chế…. Mỗi quy định như vậy sẽ trực tiếp

tác động đến doanh thu, chi phí và lợi nhuận của ngân hàng

Cuối năm 2011 vừa rồi, quy đinh về tăng vốn điều lệ chính thứ có hiệu lực và đã gây ra ảnh

hưởng lớn đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam, sự sáp nhập của các ngân hàng nhỏ sẽ mang

lại nhiều hiệu quả tích cực: tạo lòng tin cho dân chúng, tránh được sự đổ vỡ mang tính hệ thống

của hệ thống ngân hàng.

Page 23: Rủi ro hoạt động NHTM

Hệ thống ngân hàng là cầu nối vốn cho nền kinh tế, sự các quy định tốt có thể sẽ không

có lợi cho bản thân mỗi ngân hàng nhưng xét trên toàn bộ hệ thống ngân hàng hay toàn

bộ nên kinh tế thì sẽ có nhưng hiệu ứng tích cực, về lâu về dài sẽ tác động ngược trở lại

và mang lại lợi ích cho các ngân hàng.

Giải pháp:

+ Các ngân hàng cần chủ động nắm bắt tình hình, đưa ra những dự báo và đưa ra các biện pháp

nhằm đối phó trước với những dự báo về sự đổi mới của quy định.

+ Nghiêm chỉnh chấp hành theo quy đinh của cơ quan chức năng.

6. Biểu tình dân sự, bạo loạn, khủng bố.

Biểu tình dân sự, bạo loạn, khủng bố sẽ ngăn cản những hoạt động bình thường của ngân hàng

thậm chí khiến các ngân hàng phải tạm đóng của. Thiệt hại ro các sự việc trên gây ra có thể là

không đáng kể cũng có thể là rất lớn. Nguyên nhân của các sự việc trên là do yếu tố con người:

chính trị bất ổn, xung đột tôn giáo hay chiến tranh, mẫu thuẫn giữa người lão động với tư sản…

Nhìn chung cách hạn chế thiệt hại do những nguyên nhân trên gây ra là củng cố hệ thống an

ninh, phối hợp kịp thời cùng với các cơ quan chức năng.

7. Hệ thống giao thông gián đoạn khiến nhân viên không thể đến chỗ làm việc.

Hệ thống giao thông không đáp ứng được lưu lượng phương tiện di chuyển vào giờ cao điểm

hiện đang là vấn đề nhức nhối tại Việt Nam. Các vụ tai nạn hay một sự việc khác nhiều khi gây

ra gián đoạn giao thông ảnh hưởng đến công việc của nhiều nhân viên.

Thiệt hại của ngân hàng vì lý do giao thông nhìn chung là nhỏ, vì tần suất của nó thấp cùng với

việc thiệt hại khi xảy ra gián đoạn giao thông thường là không lớn. Đối với tình trạng giao thông

ùn tắc vào giờ cao điểm như ở Việt Nam hiện nay thì người lao động chỉ có cách khắc phục là cố

gắng đi làm sớm để có thể đến kịp giờ. Hệ quả là thiệt hại đối với ngân hàng là không lớn nhưng

thiệt hại với người lao động là không hề nhỏ. Theo ước tính thì ùn tắc giao thông gây thiệt hại

gần 27 tỉ đồng mỗi ngày

Page 24: Rủi ro hoạt động NHTM

Giải pháp cho ngân hàng:

+ Xây dựng hội sở chính và các chi nhánh tại những địa điểm có tình trạng giao thông tốt, ít xảy

ra ùn tắc, gián đoạn.

+ Các ngân hàng cũng có thể cân nhắc điều chỉnh giờ làm hợp lý tránh giờ cao điểm.

+ Tạo điều kiện để công nhân viên có thể có chỗ ở gần nơi làm việc.

8. Các thiết bị dịch vụ hỏng hóc

Việc hỏng hóc các thiết bị gây ra hậu quả đối với ngân hàng theo nhiều hướng:

Thứ nhất là làm tổn thất tài sản của ngân hàng;

Thứ 2 là ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ của ngân hàng, từ đó ảnh hưởng xấu đến uy tín và

khả năng thu hút khách hàng sử dụng dịch vụ.

Việc hỏng hóc các thiết bị dịch vụ của ngân hàng có nguyên nhân rất đa dạng có thể là chủ quan

hay khách quan, do con người hay phi con người. Các ngân hàng thường phải bỏ ra một khoản

chi phí tương đối lớn để mua sắm và bảo trì các thiết bị này. Mặc dù đã trích khấu hao ( Tức là

trích chi phí dự đoán được) nhưng vẫn còn có những khoản chi phí khác không dự đoán được

xảy ra do những sự kiện đột xuất, gần đây nhất là sự việc hàng loạt cây ATM bị đốt trong đêm .

Giải pháp:

+ Tăng cường an ninh tại những địa điểm đặt các thiết bị dịch vụ của ngân hàng ( Gắn camera,

thuê bảo vệ...)

+ Bảo vệ thiết bị nhằm hạn chế hỏng hóc do thời thiết (Nắng, mưa, độ ẩm cao…). Gia cố để

chống lại những đối tượng có ý đồ phá hoại và trộm cắp. Vào tháng 11/2011 có một vụ phá

hoại máy ATM với ý đồ trộm tiền, theo đó hung thủ đã Sơn đen camera, phá máy rút tiền ATM

5. Rủi ro pháp lý ( Lê Thanh Tài)

a. Luật điều chỉnh hợp đồng

Page 25: Rủi ro hoạt động NHTM

Khi xác lập giao dịch mua bán hàng hoá, dịch vụ với thương nhân nước ngoài, ngân hàng Việt

Nam và thương nhân nước ngoài có quyền thỏa thuận lựa chọn luật nước ngoài làm luật điều

chỉnh hợp đồng. Trường hợp pháp luật Việt Nam hoặc điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành

viên dẫn chiếu đến việc áp dụng pháp luật nước ngoài thì pháp luật nước đó được áp dụng, nếu

việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật

Việt Nam; trường hợp pháp luật nước đó dẫn chiếu trở lại pháp luật Việt Nam thì áp dụng pháp

luật Việt Nam. Nếu ngân hàng Việt Nam và thương nhân nước ngoài không thỏa thuận cụ thể

luật điều chỉnh hợp đồng, thì pháp luật Việt Nam vẫn được áp dụng trong những trường hợp

sau: hợp đồng liên quan đến bất động sản ở Việt Nam; hợp đồng được giao kết tại Việt Nam

và thực hiện hoàn toàn tại Việt Nam; hợp đồng được thực hiện ở Việt Nam nhưng hợp đồng

không ghi rõ nơi thực hiện và doanh nghiệp Việt Nam là bên đưa ra đề nghị giao kết hợp

đồng.

Trong hoạt động mua bán hàng hoá, dịch vụ quốc tế, khi đàm phán hợp đồng, mỗi bên đều

muốn chọn luật của nước mình làm luật điều chỉnh hợp đồng. Do đó, nếu nguyên tắc “bình

đẳng và cùng có lợi” không được các bên tôn trọng, thì quan hệ mua bán hàng hoá, dịch vụ giữa

các bên khó có thể thực hiện được và hợp đồng sẽ không được xác lập. Cho nên, để dung hoà

lợi ích giữa các bên và bảo đảm tính khách quan, các bên lựa chọn luật của nước thứ ba làm

luật điều chỉnh hợp đồng. Do việc lựa chọn một hệ thống pháp luật khác có thể không được

phép hoặc bị hạn chế theo pháp luật của quốc gia nơi thực hiện hợp đồng, nên các bên thường

chọn một hệ thống pháp luật phát triển minh bạch (như hệ thống pháp luật của vương quốc

Anh) hoặc hệ thống pháp luật đã được áp dụng phổ biến trong thực tiễn thương mại quốc tế

đối với một số giao dịch chuyên biệt.

Thực tế, có một số giao dịch thương mại quốc tế, ngân hàng Việt Nam không quan tâm đến

luật điều chỉnh hợp đồng mà chỉ quan tâm đến lợi ích thu được từ giao dịch đó với mong

muốn, hy vọng không có tranh chấp xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng. Cho nên,

ngân hàng Việt Nam đã chấp nhận luật điều chỉnh là luật của nước nơi có trụ sở của bên đối

tác nước ngoài, trong khi ngân hàng Việt Nam hầu như không biết pháp luật của nước được

chọn làm luật điều chỉnh hợp đồng. Chỉ cho đến khi có tranh chấp xảy ra hoặc bên nước ngoài

Page 26: Rủi ro hoạt động NHTM

không tuân thủ đúng những cam kết, thỏa thuận trong hợp đồng, ngân hàng Việt Nam mới

hiểu được mục đích, ý nghĩa của việc lựa chọn luật điều chỉnh hợp đồng. Do vậy, ngân hàng

Việt Nam đã không chủ động khởi kiện bên nước ngoài để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp

của mình hoặc bị thua kiện trong vụ tranh chấp liên quan đến giao dịch thương mại đó vì đối

chiếu với luật điều chỉnh hợp đồng, thì có một số điều khoản của hợp đồng có lợi cho bên

Việt Nam và bất lợi cho bên nước ngoài bị vô hiệu.

b. Bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm hợp đồng

Để phòng ngừa một bên vi phạm hợp đồng gây thiệt hại cho bên kia, các bên thường thỏa

thuận trong trường hợp một bên vi phạm hợp đồng gây thiệt hại cho bên kia, thì bên vi phạm

phải bồi thường thiệt hại cho bên bị vi phạm. Pháp luật Việt Nam quy định giá trị bồi thường

thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm

gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi

phạm. Căn cứ để bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm bồi thường thiệt hại là: có hành vi vi

phạm hợp đồng; có thiệt hại thực tế; hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra

thiệt hại.

Tuy nhiên, gần đây một số ngân hàng nước ngoài cung cấp dịch vụ tư vấn tài chính cho ngân

hàng Việt Nam đã yêu cầu đưa vào hợp đồng quy định bên Việt Nam có nghĩa vụ bồi hoàn cho

bên nước ngoài tất cả các thiệt hại phát sinh từ/hoặc liên quan hợp đồng trong trường hợp bên

Việt Nam vi phạm hợp đồng dẫn đến gây thiệt hại cho bên nước ngoài và trường hợp bên nước

ngoài phải bồi thường cho bên thứ ba trong thời gian ngân hàng nước ngoài cung cấp dịch vụ

tư vấn tài chính cho ngân hàng Việt Nam theo hợp đồng nói trên.

Đối chiếu với quy định nêu trên của pháp luật Việt Nam, thì quy định trong dự thảo hợp đồng

do bên nước ngoài đưa ra là không có lợi cho bên Việt Nam. Bởi vì, theo yêu cầu của ngân

hàng nước ngoài, ngoài phí tư vấn theo thỏa thuận trong hợp đồng, bên Việt Nam phải trả

cho bên tư vấn nước ngoài cả những thiệt hại trực tiếp và thiệt hại gián tiếp liên quan đến

hợp đồng cung cấp dịch vụ tư vấn tài chính. Việc ngân hàng Việt Nam phải bồi hoàn cho bên tư

vấn nước ngoài thiệt hại trực tiếp là có thể chấp nhận được vì thỏa thuận này phù hợp với quy

Page 27: Rủi ro hoạt động NHTM

định của pháp luật Việt Nam. Nhưng đối với những thiệt hại gián tiếp (như trường hợp bên tư

vấn nước ngoài bị mất cắp hoặc gây thiệt hại cho người thứ ba), bên Việt Nam khó có thể

kiểm soát được và không có nghĩa vụ bồi hoàn cho bên nước ngoài theo quy định của pháp

luật Việt Nam. Hơn nữa, trong trường hợp có thiệt hại gián tiếp, bên tư vấn nước ngoài có

thể có lỗi khi gây thiệt hại cho bên thứ ba. Do vậy, lợi ích mà bên Việt Nam nhận được từ hợp

đồng đó mang lại có thể không đủ bù đắp chi phí bồi hoàn phát sinh từ / hoặc liên quan đến

hợp đồng cung cấp dịch vụ tư vấn tài chính trong trường hợp có rủi ro xảy ra và bên Việt

Nam phải bồi hoàn cho bên nước ngoài theo thỏa thuận trong hợp đồng (bao gồm cả thiệt hại

trực tiếp và thiệt hại gián tiếp).

Chính vì những lẽ trên, ngay từ khi đàm phán hợp đồng, bên Việt Nam cần có thái độ kiên quyết

đề nghị sửa đổi điều khoản nói trên theo hướng bên Việt Nam chỉ bồi thường cho bên nước

ngoài thiệt hại trực tiếp và thực tế phát sinh từ/hoặc liên quan đến hợp đồng vì yêu cầu của

bên nước ngoài trong dự thảo hợp đồng không phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam.

Ngoài ra, đối với dịch vụ tư vấn tài chính, thông tin mà ngân hàng Việt Nam cung cấp cho bên tư

vấn nước ngoài và thời hạn hoàn thành công việc theo đúng thỏa thuận trong hợp đồng là rất

quan trọng, nên bên Việt Nam cần chủ động đưa vào hợp đồng điều khoản phạt vi phạm hợp

đồng với mức tối đa bằng 8% giá trị nghĩa vụ bị vi phạm vì phạt vi phạm là một điều khoản tuỳ

nghi do các bên tự thỏa thuận; trường hợp các bên không có thỏa thuận phạt vi phạm, thì bên

bị vi phạm chỉ có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại.

c. Cơ quan giải quyết tranh chấp và nơi giải quyết tranh chấp

Trong những năm qua, một số doanh nghiệp Việt Nam, khi tham gia quan hệ mua bán hàng

hoá, dịch vụ với thương nhân nước ngoài, đã khởi kiện bên nước ngoài tại cơ quan giải quyết

tranh chấp vì bên nước ngoài vi phạm hợp đồng.

Chẳng hạn như trong hợp đồng, các bên thỏa thuận cơ quan giải quyết tranh chấp phát sinh

từ/hoặc liên quan đến hợp đồng là trung tâm trọng tài quốc tế tại Singapore nhưng điều khoản

về bồi thường thiệt hại lại thỏa thuận bên nước ngoài chỉ phải bồi thường thiệt hại cho bên Việt

Nam khi bên nước ngoài có lỗi, vi phạm hợp đồng, gây thiệt hại cho bên Việt Nam và có bản án,

Page 28: Rủi ro hoạt động NHTM

quyết định có hiệu lực của tòa án. Rõ ràng với thỏa thuận này, bên Việt Nam không thể yêu cầu

bên nước ngoài bồi thường thiệt hại được vì để được bồi thường, bên Việt Nam phải khởi

kiện bên nước ngoài ra tòa án, trong khi các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng cơ quan giải

quyết tranh chấp là trung tâm trọng tài quốc tế tại Singapore. Cho nên, căn cứ thỏa thuận của

các bên trong hợp đồng, tòa án sẽ không có cơ sở để thụ lý đơn khởi kiện yêu cầu đòi bồi

thường thiệt hại của bên Việt Nam (các bên chưa thỏa thuận chọn tòa án là cơ quan giải quyết

tranh chấp). Vì vậy, phần thỏa thuận trong hợp đồng về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của

bên nước ngoài đối với bên Việt Nam nói trên sẽ bị vô hiệu (hợp đồng bị vô hiệu từng phần).

Mặt khác, nơi giải quyết tranh chấp cũng là nội dung mà các bên rất quan tâm khi thương lượng

và đàm phán hợp đồng. Lý do là ở chỗ nếu nơi giải quyết tranh chấp là nước nơi bên nước

ngoài có trụ sở giao dịch hoặc nước có lệ thuộc về kinh tế với nước nơi bên nước ngoài được

thành lập, hoạt động, thì e rằng bản án, quyết định của tòa án hoặc quyết định của trọng tài sẽ

không bảo đảm tính khách quan. Hơn nữa, khi tham gia giải quyết tranh chấp tại những địa

điểm này, bên Việt Nam phải chịu nhiều chi phí phát sinh hơn bên nước ngoài, như: chi phí ăn

ở, đi lại trong quá trình tham gia tố tụng…

Vì vậy, khi đàm phán và thỏa thuận về điều khoản giải quyết tranh chấp trong hợp đồng (cơ

quan giải quyết tranh chấp và nơi giải quyết tranh chấp), các doanh nghiệp Việt Nam cần đánh

giá các cơ sở không công nhận bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài hoặc quyết

định của trọng tài nước ngoài tại Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam cũng như tiên

liệu các rủi ro theo quy định của pháp luật liên quan (pháp luật Việt Nam, pháp luật của nước

nơi tiến hành hoạt động xét xử hoặc pháp luật điều chỉnh hợp đồng). Trường hợp không biết

hoặc chưa hiểu, thì ngân hàng Việt Nam cần có chuyên gia pháp luật có năng lực và kinh

nghiệm hỗ trợ, giúp đỡ.

d. Ngôn ngữ của hợp đồng

Thực tế, các hợp đồng mua bán hàng hoá, dịch vụ mà bên nước ngoài là bên bán hàng và/hoặc

cung ứng dịch vụ, thì hợp đồng thường chỉ lập bằng tiếng nước ngoài. Nhưng đối với hợp đồng

mua bán hàng hoá, dịch vụ giữa ngân hàng Việt Nam với bên nước ngoài mà hợp đồng được

thực hiện ở Việt Nam, thì hợp đồng mua bán hàng hoá, dịch vụ được lập bằng tiếng Việt và

tiếng nước ngoài (tiếng Anh). Cho nên, khi đàm phán về ngôn ngữ của hợp đồng, bên Việt Nam

Page 29: Rủi ro hoạt động NHTM

thường đề xuất đưa vào hợp đồng quy định trường hợp có sự không nhất quán giữa bản hợp

đồng bằng tiếng Việt với bản hợp đồng bằng tiếng nước ngoài, thì bản tiếng Việt sẽ được ưu

tiên áp dụng. Đề xuất này của bên Việt Nam chỉ có thể được bên nước ngoài chấp nhận nếu

pháp luật Việt Nam có quy định hoặc hợp đồng phải được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam

chấp thuận và được thực hiện tại Việt Nam hoặc bên nước ngoài mong muốn được tham gia

giao dịch thương mại đó. Ngôn ngữ của hợp đồng theo đề xuất trên đây, có thể không còn là lợi

thế của bên Việt Nam nếu bên nước ngoài đề nghị và được bên Việt Nam chấp thuận: ngôn

ngữ giải quyết tranh chấp phát sinh từ/hoặc liên quan đến hợp đồng là tiếng nước ngoài

(tiếng Anh). Vì vậy, bên Việt Nam cần tổng hợp, đánh giá các điều khoản liên quan khác của

hợp đồng trước khi đồng ý với bên nước ngoài về chọn ngôn ngữ của hợp đồng.

Trường hợp bên nước ngoài không chấp nhận đề xuất nêu trên, bên Việt Nam có thể thỏa

thuận với bên nước ngoài như sau: hợp đồng được lập bằng tiếng Việt và tiếng Anh có giá trị

pháp lý ngang nhau; nếu có sự không nhất quán giữa bản tiếng Anh với bản tiếng Việt, thì cơ

quan được lựa chọn giải quyết tranh chấp trong hợp đồng này có quyền quyết định bản hợp

đồng nào có giá trị pháp lý sau cùng căn cứ quy định của pháp luật được lựa chọn làm luật điều

chỉnh hợp đồng hoặc pháp luật của nước điều chỉnh hoạt động tố tụng của cơ quan giải quyết

tranh chấp.

Kiến ng hị giải pháp

Để hạn chế rủi ro và thiệt hại cho các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia mua bán hàng hoá,

dịch vụ với thương nhân nước ngoài trong điều kiện hội nhập quốc tế, ngoài một số đề xuất tại

phần I nêu trên, chúng tôi xin có thêm một số kiến nghị như sau:

Thứ nhất: Ngân hàng Việt Nam cần tìm hiểu thương nhân nước ngoài trước khi xác lập giao

dịch thương mại mua bán hàng hoá, dịch vụ với thương nhân đó. Có nhiều cách để làm công

việc này, như: kiểm tra đối tác thông qua các phương tiện truyền thông quốc tế (kể cả báo điện

tử), cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài nơi có trụ sở của đối tác đó, các cơ sở của các tổ

chức kinh tế Việt Nam tại nước nơi có trụ sở của đối tác nước ngoài hoặc thông qua các tổ chức

tư vấn quốc tế có mặt tại Việt Nam… Tùy theo điều kiện cụ thể của từng doanh nghiệp và tính

Page 30: Rủi ro hoạt động NHTM

chất của quan hệ mua bán mà bên Việt Nam có sự lựa chọn hình thức kiểm tra, xác minh cho

phù hợp.

Thứ hai: Ngân hàng Việt Nam cần làm quen với công việc thuê luật sư độc lập bên ngoài hoặc

sử dụng chuyên gia pháp luật nội bộ có năng lực, kinh nghiệm để soạn thảo hợp đồng hoặc rà

soát, góp ý dự thảo hợp đồng do bên nước ngoài cung cấp. Thông qua công việc này của luật sư

hoặc chuyên gia pháp luật nội bộ, ngân hàng Việt Nam có thể phát hiện ra những điểm bất lợi

cho mình để đề nghị bên nước ngoài sửa đổi, bổ sung hợp đồng theo hướng bảo đảm nguyên

tắc “bình đẳng, khách quan và cùng có lợi” khi tham gia giao dịch thương mại đó. Trong quá

trình đàm phán hợp đồng với bên nước ngoài, ngân hàng Việt Nam cũng cần có luật sư hoặc

chuyên gia pháp luật nội bộ tham gia để bảo đảm tính hợp pháp của hợp đồng theo quy định

của pháp luật Việt Nam.

Thứ ba: Hiện nay, hầu hết các ngân hàng thương mại Việt Nam đều có bộ phận pháp chế

(phòng pháp chế độc lập hoặc thuộc phòng chuyên môn khác) với những cán bộ chuyên trách

được đào tạo chính quy tại các trường đại học có uy tín trong nước và quốc tế. Cho nên, các

ngân hàng cần xây dựng quy định/quy chế nội bộ hướng dẫn thủ tục phối hợp giữa các phòng

nghiệp vụ kinh doanh với bộ phận pháp chế trong quá trình xử lý công việc để nâng cao trách

nhiệm của từng bộ phận, tiết kiệm thời gian và tận dụng các cơ hội kinh doanh sẵn có: bộ phận

pháp chế đảm nhận thẩm định tính pháp lý của hợp đồng, còn bộ phận nghiệp vụ kinh doanh có

trách nhiệm thẩm định tính hiệu quả, khả thi của hợp đồng đó.

Thứ tư: Trong điều kiện hội nhập, ngân hàng Việt Nam cần có đội ngũ cán bộ giỏi về ngoại ngữ

(nhất là tiếng Anh) và hiểu biết về tập quán thương mại quốc tế. ở nước ta hiện nay, có rất

nhiều cơ sở đào tạo ngoại ngữ và kinh doanh quốc tế. Do đó, các doanh nghiệp cần có kế

hoạch, chiến lược về con người để thu xếp, tạo điều kiện cho cán bộ của mình tham dự các

khoá đào tạo nói trên. Trong thời gian chưa kịp đào tạo và đào tạo lại cán bộ sẵn có của mình,

ngân hàng có thể tuyển người giỏi về ngoại ngữ và có kinh nghiệm về thương mại quốc tế hoặc

Page 31: Rủi ro hoạt động NHTM

thuê chuyên gia tư vấn để đàm phán, thương lượng hợp đồng mua bán hàng hoá, dịch vụ với

thương nhân nước ngoài.

Thứ năm: Để tránh hợp đồng bị vô hiệu hoặc không được công nhận và cho thi hành tại nước

nơi có trụ sở của bên nước ngoài, trước khi ký kết hợp đồng, bên Việt Nam cần kiểm tra thẩm

quyền của đại diện bên nước ngoài ký kết hợp đồng mua bán hàng hoá, dịch vụ với mình cũng

như kiểm tra tính hợp pháp của hợp đồng theo quy định của pháp luật của nước nơi bên nước

ngoài được thành lập, hoạt động. Bên Việt Nam có thể yêu cầu bên nước ngoài cam kết trong

hợp đồng và cung cấp ý kiến pháp lý của văn phòng luật sư độc lập có thẩm quyền theo quy

định của pháp luật nước nơi bên nước ngoài được thành lập và hoạt động đối với những vấn đề

nêu trên.

Thứ sáu: Đối với ngành Ngân hàng, hằng năm hoặc sáu tháng một lần, Hiệp hội Ngân hàng Việt

Nam cần tổng kết thực tiễn thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá, dịch vụ giữa ngân hàng với

thương nhân nước ngoài để rút kinh nghiệm. Qua đó, các ngân hàng thương mại có thể rút ra

những bài học quý báu để hạn chế hoặc tránh được những rủi ro, tổn thất mà một số ngân

hàng đã gặp phải; đồng thời, kế thừa, phát huy những ưu điểm mà trước đó một số ngân hàng

đã thực hiện thành công giao dịch thương mại với thương nhân nước ngoài.

Page 32: Rủi ro hoạt động NHTM