NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY HỌC LỊCH SỬ BẰNG SỰ KẾT · PDF fileNÂNG...

16
1 NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY HỌC LỊCH SỬ BẰNG SỰ KẾT HỢP PHƢƠNG PHÁP TRUYỀN THỐNG VỚI CÔNG NGHỆ THÔNG TIN I/ Lý do chọn đề tài: Giáo dục và đào tạo có vị trí quan trọng trong chiến lƣợc đào tạo nguồn nhân lực, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc ta trong giai đoạn Công nghiệp hóa – hiện đại hóa hiện nay. Nghị quyết hội nghị lần II Ban Chấp Hành Trung ƣơng Đảng Khóa VIII nêu rõ : “Thực sự coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”. Nhận thức giáo dục - đào tạo cùng với khoa học – công nghệ là nhân tố quyết định sự tăng trƣởng kinh tế - xã hội, đầu tƣ giáo dục – đào tạo là đầu tƣ cho phát triển Hiện nay, bên cạnh những thành tựu quan trong về kinh tế, văn hóa-xã hội… đời sống của nhân dân ta liên tục đƣợc cải thiện, giáo dục –đào tạo cũng đang phát triển về qui mô và cơ sở vật chất, trình độ dân trí và chất lƣợng nguồn nhân lực đƣợc nhân lên Tuy nhiên trong điều kiện nền kinh tế thị trƣờng đang phát triển, trƣớc tác động ngày càng mạnh của xu thế toàn cầu hóa, chúng ta đang gặp nhiều khó khăn trở ngại do chất lƣợng và hiệu quả giáo dục – đào tạo còn thấp hơn so với yêu cầu. Và hơn thế nữa khi hòa nhập vào nền kinh tế thế giới thì cũng kéo theo đó có nhiều nền văn hóa du nhập vào nƣớc ta, thì hơn bao giờ hết chúng ta hiểu rằng nền móng quốc hồn quốc túy, bản lĩnh dân tộc đang bị lung lay khi bản sắc dân tộc đang dần mất đi. Khi chính những con ngƣời Việt Nam lại quên đi nguồn gốc, lịch sử dân tộc và những năm gần đây khi kết quả thi tốt nghiệp phổ thông và đại học môn lịch sử quá thấp đã đặt ra cho chúng ta một vấn đề: Vì sao lại nhƣ vậy ? Ngay khi giành độc lập , Đảng và Hồ Chủ Tịch đã xác định tầm quan trọng đặc biệt của việc dạy học lịch sử: “Dân ta phải biết sử ta, cho tƣờng gốc tích nƣớc nhà Việt Nam” Lịch sử là môn học tái hiện cho học sinh biết về quá khứ dân tộc qua các thời kì để các thế hệ kế tiếp nối theo, vận dụng những bài học kinh nghiệm của

Transcript of NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY HỌC LỊCH SỬ BẰNG SỰ KẾT · PDF fileNÂNG...

1

NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY HỌC LỊCH SỬ BẰNG SỰ KẾT HỢP

PHƢƠNG PHÁP TRUYỀN THỐNG VỚI CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

I/ Lý do chọn đề tài:

Giáo dục và đào tạo có vị trí quan trọng trong chiến lƣợc đào tạo nguồn

nhân lực, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc ta trong giai đoạn Công

nghiệp hóa – hiện đại hóa hiện nay. Nghị quyết hội nghị lần II Ban Chấp Hành

Trung ƣơng Đảng Khóa VIII nêu rõ : “Thực sự coi giáo dục và đào tạo là quốc

sách hàng đầu”.

Nhận thức giáo dục - đào tạo cùng với khoa học – công nghệ là nhân tố

quyết định sự tăng trƣởng kinh tế - xã hội, đầu tƣ giáo dục – đào tạo là đầu tƣ cho

phát triển

Hiện nay, bên cạnh những thành tựu quan trong về kinh tế, văn hóa-xã hội…

đời sống của nhân dân ta liên tục đƣợc cải thiện, giáo dục –đào tạo cũng đang phát

triển về qui mô và cơ sở vật chất, trình độ dân trí và chất lƣợng nguồn nhân lực

đƣợc nhân lên

Tuy nhiên trong điều kiện nền kinh tế thị trƣờng đang phát triển, trƣớc tác

động ngày càng mạnh của xu thế toàn cầu hóa, chúng ta đang gặp nhiều khó khăn

trở ngại do chất lƣợng và hiệu quả giáo dục – đào tạo còn thấp hơn so với yêu cầu.

Và hơn thế nữa khi hòa nhập vào nền kinh tế thế giới thì cũng kéo theo đó có nhiều

nền văn hóa du nhập vào nƣớc ta, thì hơn bao giờ hết chúng ta hiểu rằng nền móng

quốc hồn quốc túy, bản lĩnh dân tộc đang bị lung lay khi bản sắc dân tộc đang dần

mất đi. Khi chính những con ngƣời Việt Nam lại quên đi nguồn gốc, lịch sử dân

tộc và những năm gần đây khi kết quả thi tốt nghiệp phổ thông và đại học môn lịch

sử quá thấp đã đặt ra cho chúng ta một vấn đề: Vì sao lại nhƣ vậy ?

Ngay khi giành độc lập , Đảng và Hồ Chủ Tịch đã xác định tầm quan trọng

đặc biệt của việc dạy học lịch sử: “Dân ta phải biết sử ta, cho tƣờng gốc tích nƣớc

nhà Việt Nam”

Lịch sử là môn học tái hiện cho học sinh biết về quá khứ dân tộc qua các

thời kì để các thế hệ kế tiếp nối theo, vận dụng những bài học kinh nghiệm của

2

ngƣời xƣa vào công cuộc đấu tranh, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Môn lịch sử còn

giáo dục những phẩm chất tốt đẹp của dân tộc, giáo dục lòng yêu nƣớc, biết ơn

những ngƣời đã ngã xuống để chúng ta có đƣợc ngày hôm nay. Nhƣng dƣờng nhƣ

học sinh lại không thích học môn lịch sử vì cho rằng đó chỉ là môn phụ, không

quan trọng, nội dung kiến thức quá dài, khó nhớ, nhiều sự kiện. Và ngay cả ngoài

xã hội cũng không xem trọng đối với môn học này.

Vậy thì phải làm sao để thu hút đƣợc học sinh có hứng thú và chuyên tâm

hơn trong môn học lịch sử? Việc dạy và học lịch sử đang thu hút sự quan tâm chú

ý của toàn xã hội. Và từ năm 2006 – 2007, Bộ Giáo Dục – Đào Tạo bắt đầu triển

khai chƣơng trình thay sách lớp 10 bậc THPT và ứng dụng công nghệ thông tin

trong dạy học. Nhƣng khái niệm đổi mới phƣơng pháp dạy học, ứng dụng công

nghệ thông tin thực sự có tác dụng khi một số giáo viên dạy công nghệ thông tin

bằng cách trình bày liên tiếp các slide, đƣa hình ảnh một cách máy móc hay tất cả

đều đƣợc trình chiếu mà quên đi vai trò của ngƣời thầy? Trong quan niệm dạy học

trƣớc kia thì thƣờng gắn liền với ngƣời thầy là viên phấn trắng, bảng đen. Còn

ngày nay đổi mới phƣơng pháp dạy học lại khác. Nên chăng khi ta kết hợp phƣơng

pháp dạy học truyền thống với công nghệ thông tin để tăng thêm sự hứng thú của

học sinh trong học lịch sử ? vừa có những hình ảnh sinh động, những thƣớc phim

tài liệu lịch sử lại không mất đi vai trò của ngƣời thầy.

II/ Thực trạng trƣớc khi thực hiện các giải pháp của đề tài:

1/ Thuận lợi:

Tình hình giảng dạy môn lịch sử ở đơn vị:

Đội ngũ giáo viên nhiệt tình, tận tâm trong giảng dạy. Nhiều giáo viên có thâm

niên cao, nhiều kinh nghiệm nên qua công tác dự giờ, thao giảng đã đóng góp ý

kiến giúp cho bản thân nhiều kinh nghiệm quý báu để vận dụng khi lên lớp. Giáo

viên lịch sử sinh hoạt chung với giáo viên địa lý và giáo dục công dân nên cũng đã

hỗ trợ lẫn nhau về công tác chuyên môn của ngành xã hội và nhân văn

Tình hình trường lớp, học sinh:

- Trƣờng THPT Long Khánh đƣợc chọn là 1 trong 2 trƣờng xây dựng đề

án “ Trƣờng trọng điểm chất lƣợng cao” của tỉnh Đồng Nai.

3

- Chất lƣợng học tập của học sinh khá đồng đều ở bộ môn, kết quả thi học

sinh giỏi và tuyển sinh vào các trƣờng đại học, cao đẳng đạt tỉ lệ khá cao

- Trƣờng cũng là 1 trong những trƣờng có tổ chức kì thi tuyển sinh vào lớp

10 của tỉnh Đồng Nai nên chất lƣợng học tập cao, hoc sinh chăm ngoan,

lễ phép, vâng lời thầy cô. Bên cạnh đó, học sinh cũng đƣợc trang bị đầy

đủ sách giáo khoa, các sách bài tập lịch sử, sách giúp học tốt lịch sử. Và

trƣờng cũng có website để học sinh có thể truy cập vào đó có thể xem và

hỏi các câu hỏi khó.

Ưu điểm khi giảng dạy bằng công nghệ thông tin:

- Giáo viên có thể sử dụng các hình ảnh tƣ liệu, sự kiện lịch sử từ các

nguồn phim ảnh đa dạng từ internet, băng ghi hình, tranh ảnh trong sách

báo mà không phải mang theo đồ dùng dạy học cồng kềnh khi lên lớp.

- Các tƣ liệu lịch sử đƣợc chuyển thể thành phim theo chủ đề bài học đƣợc

các đài truyền hình trong cả nƣớc đƣa lên màn ảnh và phổ biến rộng rãi

trên phƣơng tiện thông tin đại chúng, giáo viên có thể tìm mua ở các

trung tâm dịch vụ truyển hình để phục vụ minh họa cho bài giảng sinh

động hơn.

- Khi soạn giảng giáo án bằng điện tử, giáo viên có thể lƣu lại để giảng dạy

ở nhiều lớp khác nhau, giáo viên có thể sửa đổi hoặc bổ sung giáo án sau

phần rút kinh nghiệm ở các tiết dạy tiếp theo hoặc những năm học sau.

2/ Khó khăn khi thực hiện đề tài:

- Đa số học sinh vẫn còn thói quen học thuộc lòng, học vẹt, không nắm sâu

đƣợc kiến thức vì thế sẽ mau quên kiến thức cũ. Nếu có nhớ thì nhớ

không chính xác là hiện tƣợng không chỉ ở một số học sinh. Chúng ta

không khỏi đau lòng khi biết kết quả cuộc thăm dò, không ít học sinh rất

khó khăn trong việc nhớ lịch sử dân tộc nhƣng lại rất nhạy bén trong việc

nhớ tiểu sử, tính cách, thành tích của một vận động viên, ca sĩ, thần

tƣợng mà các em yêu thích.

4

- Khả năng phân tích, so sánh, tổng hợp…và khả năng tìm hiểu nguyên

nhân, bản chất sự kiện, hiện tƣợng lịch sử….; khả năng xâu chuỗi các sự

kiện lịch sử để tìm ra truyền thống, những bài học còn hạn chế rất nhiều.

Do đó làm hiệu quả giảng dạy và học tập bộ môn lịch sử không cao.

- Mặc dù đã cải cách chƣơng trình giảng dạy nhƣng vẫn còn một số bài

quá dài, kiến thức dàn trải dẫn đến tình trạng “quá tải” kiến thức đối với

cả giáo viên truyền thụ lẫn việc lĩnh hội kiến thức của học sinh.

- Nhận thức không đúng về vị trí, chức năng của lịch sử trong hệ thống các

môn học ở nhà trƣờng hiện nay của một bộ phận không nhỏ giáo viên và

học sinh

- Lối học thực dụng hiện nay khiến cho một số em xem nhẹ việc học bộ

môn này. Thƣờng không có sự chuẩn bị cần thiết cho môn học. Do đó,

khi vào lớp, học sinh rất thụ động, ít tham gia phát biểu ý kiến xây dựng

bài. Một số khác chỉ biết dựa vào kênh chữ nhỏ để trả lời một cách máy

móc, không có tƣ duy sáng tạo. Đồng thời không sƣu tầm thêm sách báo

tham khảo, thậm chí sách giáo khoa cũng không đọc hết.

- Nhiều giáo viên vẫn còn quen với cách dạy học cũ, nặng về thuyết trình

chƣa chú ý khai thác kênh hình hay bản đồ hoặc đƣa thêm những tƣ liệu

lịch sử để minh họa cho nội dung bài học. Do đó ít tạo điều kiện cho hoc

sinh khai thác kiến thức. Từ đó, việc học của học sinh trở nên nặng nề,

nhàm chán nên hiệu quả học tập không cao.

- Thời gian giảng dạy ít, nội dung dài nên giáo viên ít có thời gian khai

thác hình ảnh, tƣ liệu sự kiện lịch sử. Trình độ tin học và sử dụng máy

tính của giáo viên còn nhiều hạn chế, đòi hỏi giáo viên phải thực sự yêu

thích công việc soạn giảng giáo án điện tử vì cần có thời gian và kinh phí

để thực hiện. Vì vậy, dù biết rằng giáo án điện tử phục vụ đắc lực cho

công tác giảng dạy lịch sử nhƣng trên thực tế chƣa đƣợc áp dụng đồng bộ

ở tất cả giáo viên

5

III/ Nội dung đề tài

1/ Cơ sở lí luận:

Nghị quyết Trung Ƣơng VIII đã khẳng định “phải đổi mới phƣơng pháp dạy

học, khắc phục lối dạy một chiều từng bƣớc áp dụng các phƣơng pháp tiên tiến,

phƣơng tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện thời gian tự học, tự

nghiên cứu cho học sinh, phát triển mạnh phong trào tự học, tự đào tạo thƣờng

xuyên suốt đời học sinh”

Trong luật giáo dục của nƣớc CHXHCN Việt Nam cũng đã khẳng định:

“Phƣơng pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác chủ động của học sinh,

phù hợp với đặc điểm của từng lớp, từng môn học, bồi dƣỡng phƣơng pháp tự học,

rèn luyện, vận dụng kiến thức vào thực tiễn tác động đến tình cảm, đem lại niềm

vui, hứng thú trong học tập cho học sinh”

Quá trình dạy học lịch sử ở trƣờng phổ thông là một quá trình dạy học mang

tính đặc thù: Dạy học lịch sử là tái hiện quá khứ và mục tiêu của bộ môn lịch sử là

việc giúp học sinh biết quá khứ, hiểu quá khứ. Đồng thời rút ra những bài học vận

dụng vào cuộc sống hiện tại và tƣơng lai. Hay nói cách khác đó là quá trình giúp

học sinh nắm kiến thức và hình thành kĩ năng, kĩ xảo vận dụng kiến thức, kĩ năng

đó vào giải quyết những vấn đề cuộc sống. Vấn đề khó khăn nhất là việc tái hiện

những sự kiện, hiện tƣợng, nhân vật lịch sử phải chính xác sinh động, tránh hiện

tƣợng hiện đại hoá lịch sử. Nhƣng để làm đựơc điều này là vấn đề không đơn giản.

Hiện nay giáo viên chủ yếu dựa vào thủ pháp trình bày miệng, tƣờng thuật

tích cực hơn là có sự kết hợp với một số phƣơng tiện nhƣ tranh ảnh, bản đồ hoặc

đã có nhiều tiết công nghệ thông tin nhƣng dƣờng nhƣ giáo viên chƣa đem lại hiệu

quả cao

Theo quan niệm cổ truyền, quá trình dạy học là tập hợp những hành động

liên tiếp, thâm nhập vào nhau của giáo viên và của học sinh dƣới sự hƣớng dẫn của

giáo viên, nhằm làm cho học sinh tự giác nắm vững hệ thống những cơ sở khoa

học và trong quá trình đó, phát triển những năng lực nhận thức và năng lực hành

động, hình thành thế giới quan và nhân sinh quan. Nhƣ vậy quá trình dạy học đƣợc

6

hiểu là một tập hợp những hoạt động của thầy và trò, dƣới sự hƣớng dẫn chủ đạo

của giáo viên nhằm giúp trò phát huy đƣợc nhân cách và nhờ đó mà đạt tới mục

đích dạy học

Theo quan niệm hiện nay, quá trình dạy học là một quá trình tƣơng tác ( hợp

tác) giữa thầy và trò, trong đó thầy chủ đạo nhờ các hoạt động, tổ chức, lãnh đạo,

điều chỉnh hoạt động nhận thức của học sinh, còn trò tự giác tích cực, chủ động

thông qua việc tổ chức, tự điều chỉnh hoạt động nhận thức của bản thân nhằm đạt

tới mục đích dạy học. Khái niệm nêu trên về quá trình dạy học sẽ đƣợc phân tích kĩ

nhờ những cách tiếp cận mới để vạch rõ bản chất của khái niệm

Vậy tại sao ta không kết hợp giữa phƣơng pháp truyền thống với công nghệ

thông tin để vừa không làm mất đi vai trò của ngƣời thầy, lại có thể tái hiện những

hình ảnh sinh động, những thƣớc phim tƣ liệu để giúp học sinh có thể tiếp thu một

cách nhanh chóng và đi sâu vào tri thức học sinh hơn?

2/ Nội dung – biện pháp thực hiện các giải pháp đề tài:

a/ Nội dung:

Theo các nhà lí luận, dạy học, phƣơng pháp học là cách thức, là con đƣờng

đi tới nhận thức sự vật, hiện tƣợng khách quan hay là sự tập hợp các phƣơng tiện

để đạt đến mục đích đề ra. Cũng có ý kiến cho rằng “phƣơng pháp dạy học là tổ

hợp các cách thức phối hợp hoạt động thống nhất của giáo viên nhằm thực hiện tốt

các nhiệm vụ dạy học”. Nhƣ vậy, khi bàn đến phƣơng pháp dạy học tuy có nhiều

cách hiểu khác nhau song tất cả đều hƣớng đến mục tiêu của quá trình dạy học và

vai trò của giáo viên và học sinh. Bên cạnh đó, một yếu tố không thể thiếu đảm

nhiệm vai trò trung gian của quá trình dạy học đó chính là phƣơng tiện dạy học.

Dạy học là quá trình truyền thống nhiều chiều, trong đó học sinh là đối

tƣợng trung tâm, là chủ thể; và giáo viên đóng vai trò chủ đạo để quá trình truyền

thống đạt hiệu quả.

Trƣớc kia ngƣời ta thuần tuý những quan niệm thiết bị dạy học môn lịch sử

chỉ nhằm minh hoạ làm kiến thức trở nên sinh động. Ngày nay, ngoài chức năng,

tác dụng đó, ngƣời ta còn đặc biệt nhấn mạnh đó là một trong những nguồn nhận

7

thức quan trọng trong việc truyền bá và nhận thức lịch sử. Khai thác triệt để chức

năng này sẽ tạo điều kiện để giáo viên thực hiện tốt việc đổi mới phƣơng pháp

soạn giảng. Học sinh có điều kiện chủ động, tích cực tham gia vào quá trình nhận

thức lịch sử một cách tốt nhất.

Dạy học lịch sử có sứ mạng về mặt giáo dục, nghiên cứu và phục vụ với

những mối liên hệ của giáo dục lịch sử với thế giới lao động, với những tác động

qua lại giữa giáo dục lịch sử với các môn học khác với những chờ đợi của nền kinh

tế hiện đại ở học sinh tất yếu THPT. Đó là những ngƣời có khả năng thƣờng xuyên

cập nhật đƣợc kiến thức của mình, chiếm lĩnh đƣợc những kiến thức cơ bản của

trƣờng THPT cung cấp có thể tiếp tục học chuyên ngành ở bậc đại học, cao đẳng,

trung học chuyên nghiệp, dạy nghề… để có khả năng tạo ra đƣợc việc làm trong

nền kinh tế thị trƣờng đầy biến động.

Chất lƣợng đổi mới dạy học lịch sử đòi hỏi:

- Đổi mới việc dạy và học lịch sử: Đổi mới chƣơng trình nhằm thể hiện sự

phát triển những năng lực trí tuệ của học sinh, tăng cƣờng nội dung giáo dục

liên môn của việc học tập và sử dụng những phƣơng pháp học tập, phƣơng

pháp kiểm tra đánh giá nhằm đạt đƣợc trình độ cao nhất và những tiến bộ

nhanh chóng của công nghệ thông tin lƣu thông hiện nay trên toàn cầu

- Chất lƣợng đổi mới của dạy học lịch sử phụ thuộc vào: chất lƣợng đội ngũ

cán bộ quản lý, chƣơng trình, giáo viên, học sinh và cũng phụ thuộc vào hạ

tầng, môi trƣờng sƣ phạm. Vì vậy quá trình đánh giá và kiểm tra chất lƣợng

dạy học lịch sử phải áp dụng trƣớc hết vào đội ngũ giảng dạy, nghiên cứu,

những đầu tƣ cơ bản vào lịch sử, hạ tầng của nhà trƣờng nhƣ thƣ viện

,phòng máy tính có kết nối Internet… Tuy nhiên, phải tạo không khí học tập,

nghiên cứu và đƣa vào sử dụng có hiệu quả để đáp ứng việc đổi mới việc

dạy học lịch sử hiện nay

- Từ những yêu cầu về đổi mới dạy học lịch sử, chƣơng trình, nội dung và

phƣơng pháp cần phải có một sự chuyển đổi mạnh về quan niệm. Đó là

chuẩn bị cho học sinh thái độ, khả năng đặt vấn đề ngay trong quá trình học

8

tập tại lớp, trên cơ sở lựa chọn những vấn đề, chủ đề cụ thể trong một

khoảng thời gian nhất định. Giáo viên đóng vai trò chủ đạo trong việc hƣớng

dẫn để học sinh phát huy khả năng tích cực của mình. Bên cạnh đó, nếu kết

hợp với công nghệ thông tin sẽ nâng cao hiệu quả hơn

Truyền thông đa phƣơng tiện là một khái niệm mới xuất hiện trong những năm

gần đây. Xung quanh khái niệm này vẫn còn nhiều cách hiểu nhƣng tất cả đều

cho rằng : truyền thông đa phƣơng tiện chính là quá trình chuyển tải thông tin

bằng những âm thanh, hình ảnh hay sự kết hợp của âm thanh và hình ảnh (có

thể là kênh chữ, kênh hình). Theo báo cáo của trung tâm nghiên cứu kĩ thuật

máy tính của Mĩ vào năm 1993 (tạm dịch): “ Con ngƣời lƣu lại trong bộ nhớ

đƣợc khoảng 20% những gì họ thấy và khoảng 30% những gì họ nghe. Nhƣng

họ nhớ 50% những gì họ thấy và nghe. Và con số này có thể lên đến 80% nếu

họ thấy và nghe sự vật, hiện tƣợng một cách đồng thời”. Trên lịch sử của

những số liệu này và quá trình giảng dạy thực tế ở trƣờng phổ thông có thể thấy

việc dạy học lịch sử chỉ với những phƣơng tiện truyền thông nhƣ bảng đen, lời

nói của thầy cô giáo và một ít phƣơng tiện dạy hoc mang tính tĩnh (nhƣ bản đồ,

tranh ảnh, sơ đồ…) chắc chắn mức độ ghi nhớ sẽ không cao, mức độ ghi nhớ

của học sinh cũng thấp và nhanh quên. Trong khi đó nếu học sinh đƣợc xem

phim tƣ liệu, bản đồ, sơ đồ động (đƣợc thực tế theo lôgíc sự kiện) tranh ảnh với

màu sắc sinh động, kết hợp với lời nói giáo viên thì khả năng ghi nhớ của các

em sẽ tăng lên. Không những thế, nếu làm đƣợc điều này chúng ta sẽ tạo nên

đƣợc bầu không khí học tập sinh động, khơi gợi hứng thú học tập cho các em,

đồng thời khắc sâu những kiến thức mà các em tiếp thu đƣợc. Rõ ràng sự kết

hợp phƣơng pháp truyền thống với công nghệ thông tin sẽ giúp cho hoc sinh

tiếp thu thông tin nhanh, chính xác và nhớ lâu hơn

Phƣơng pháp dạy học tích cực không có nghĩa là gạt bỏ những phƣơng pháp

dạy học truyền thống, mà là kế thừa, phát triển những mặt tích cực của hệ thống

phƣơng pháp dạy học truyền thống, đồng thời cần phải học hỏi và vận dụng

những phƣơng pháp dạy học mới theo hƣớng tích cực, khắc phục những vấn đề

mà phƣơng pháp dạy học cũ còn nhiều vấn đề chƣa phù hợp. Cụ thể, theo

9

phƣơng pháp dạy học tích cực, giáo viên dạy học lịch sử phải là ngƣời tổ chức,

hƣớng dẫn các hoạt động học tập của học sinh, học sinh chủ động tiếp nhận

kiến thức và chủ động tìm tòi những kiến thức chƣa biết. Phƣơng pháp dạy học

tích cực yêu cầu ngƣời thầy giáo phải biết kết hợp hài hòa nhiều vấn đề. Giáo

viên đặt ra những câu hỏi để học sinh trả lời hoặc tự tranh luận với nhau hoặc

với cả lớp. Qua đó học sinh tự rút ra kết luận cần thiết, lĩnh hội nội dung bài

học.

Việc sử dụng công nghệ thông tin để có đƣợc những hình ảnh sinh động hay

những thƣớc phim tƣ liệu với nhân vật thật cũng vậy. Giáo viên không đơn giản

nhƣ cung cấp nguồn kiến thức mà phải hƣớng dẫn, yêu cầu học sinh từ những

nội dung đó rút ra nhận xét để làm rõ kiến thức cơ bản trong sách giáo khoa.

Việc kiểm tra đánh giá hoc sinh không dừng lại chỉ là đanh giá đơn tuyến của

giáo viên mà cần huy động học sinh mà cần huy động học sinh tham gia đánh

giá lẫn nhau và tự đánh giá mình.

Đổi mới nội dung và phƣơng pháp giảng dạy lịch sử ở trƣờng THPT là giáo

viên thay phƣơng pháp giảng dạy truyển thống bảng đen phấn trắng, thầy đọc

trò chép học thuộc lòng. Giáo viên phải biết vận dụng nhiều phƣơng pháp dạy

học vào tiết dạy.

Đặc biệt, phƣơng pháp sử dụng giáo án điện tử trong một tiết dạy lịch sử

nhằm mục đích hƣớng hoạt động học vào học sinh. Mặc khác, việc chèn âm

thanh, hình ảnh, tƣ liệu liên quan đến bài học sẽ làm cho tiết dạy sinh động hơn,

học sinh đƣơc tiếp cận với khoa học công nghệ thông tin hiện đại để tạo thói

quen làm việc trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

b/Biện pháp thực hiện:

Ví dụ:

Ở bài 4: Các quốc gia cổ đại phƣơng Tây- Hy Lạp và RôMa

(chƣơng trình lớp 10 ban cơ bản)

Tiến trình tổ chức dạy và học

Ổn định lớp

Kiểm tra bài cũ

10

Giới thiệu bài mới: Ra đời sau phƣơng Đông nhƣng các quốc

gia cổ đại phƣơng Tây – Hy lạp và Rôma cũng đã để lại dấu ấn

đặc sắc trong lịch sử văn minh nhân loại. Trong sự phát triển

kinh tế, những tổ chức, các định chế quốc gia…ở phƣơng Tây

có nhiều điểm độc đáo, khác với các quốc gia cổ đại phƣơng

Đông

Hoạt động dạy và học

Hoạt động của giáo viên Nội dung bài học

Giáo viên mở bài: Nhà nƣớc cổ đại

Địa Trung Hải ra đời muộn hơn

phƣơng Đông 2000 năm nên có điều

kiện học hỏi cái hay, cái lạ của

Phƣơng Đông để phát huy nền kinh

tế công thƣơng nghiệp và thể chế dân

chủ cổ đại cũng tạo điều kiện cho

văn hóa phát triển. Vì vậy họ đã xây

dựng một nền văn minh rực rỡ nhất

mà cả nhân loại đều phải cúi đâu

khâm phục.

Hoạt động 1: Giáo viên nêu

vấn đề và gợi ý cho hoc sinh trả

lời: Quan niệm về vũ trụ và cơ sở

tính thời gian của phƣơng Đông

(Âm Lịch) có gì khác so với

phƣơng Tây (dƣơng lịch) – Học

sinh liên hệ bài cũ, suy nghĩ trả lời

Giáo viên dẫn dắt, tạo không

khí tranh luận trong lớp

Giáo viên nêu câu hỏi: Vì sao

ngƣời Hy Lạp và Rôma lại có sự

hiểu biết chính xác nhƣ vậy?

- Do có nền kinh tế là thƣơng

nghiệp nên ngừơi Hy Lạp và

Rôma đi nhiều nơi, hiểu biết

chính xác hơn về trái đất và

mặt trời.

Giáo viên nêu câu hỏi: Về

cách tính lịch thì Hy Lạp và Rôma

tính chính xác hơn, còn về chữ viết

thì có gì khác hơn so với phƣơng

Đông?

3/ Văn hóa cổ đại Hy lạp và Rôma

a/ Lịch và chữ viết:(viết bảng)

*Lịch: Cách tính lịch gần với hiểu biết ngày

nay. Một năm có 365 ngày và ¼ ngày (gần

chính xác)

* Chữ viết: phát minh hệ thống chữ cái

A,B,C….

Hình thành hệ thống chữ số La

Mã: I,II,III….

11

Giáo viên cho hs xem các

chữ viết cổ Hy Lạp và chữ cái La

Tinh

Giáo viên nêu câu hỏi: Giá trị

của việc sáng tạo ra chữ viết và

cách tính lịch của Hy Lạp và

Rôma?

- Là cơ sở tính lịch hiện đại và

là nền tảng chữ viết của nhiều

quốc gia trên thế giới hiện nay

Hoạt động 2: Làm việc

theo nhóm

- Giáo viên: Những thành tựu

của Hy Lạp và Rôma đã để lại

cho đến ngày nay với những

nhà khoa học có tên tuổi.

Nhiệm vụ của từng nhóm phải

tìm hiểu là:

+ Nhóm 1: kể tên và nêu những

thành tựu chủ yếu của một số nhà

khoa học cổ Hy Lạp và Rôma

+ Nhóm 2: kể một số câu chuyện mà

các em đã đƣợc phân công sƣu tập

trƣớc ở nhà liên quan đến các nhà

khoa học cổ Hy Lạp và Rôma

+ Học sinh từng nhóm đọc Sách giáo

khoa, tìm ý trả lời, thảo luận, thống

nhất ý kiến

+ Đại diện nhóm trình bày ý kiến của

nhóm, nếu chƣa đủ thì cho nhóm

khác bổ sung

+ Sau đó giáo viên cho hoc sinh

xem ảnh và kể đôi nét về Talét,

Pitago, Ơclít, Ácsimét.

cho hs phát biều định lý Pitago,tiên

đề Ơclít

- Giáo viên nêu câu hỏi: “Tại

sao những hiểu biết khoa học

đến giai đọan này mới thực sự

trở thành khoa học?”

+ có độ chính xác

+ khái quát thành những định

lý,định đề có giá trị.

b/ Sự ra đời của khoa học:(viết bảng)

Chủ yếu trên các lĩnh vực: toán học, lịch

sử, địa lý, vật lý…

- Toán học: Pytago, Talét, Ơclit

- Vật lý: Acsimet

- Lịch sử: Taxit, Hêrôdôt

12

Hoạt động 3:

- Giáo viên đề nghị học sinh kể

tên một số tác phẩm văn học,

ca kịch nổi tiếng.

Giáo dục cho học sinh tính

nhân đạo, nhân văn sâu sắc thể

hiện qua các tác phẩm

Hoạt động 4: Giáo viên đặt

câu hỏi “Kiến trúc phƣơng

Tây khác phƣơng Đông

nhƣ thế nào”?

- Học sinh đọc sách giáo khoa,

xem tranh ảnh, nêu nhận xét

- Giáo viên cho học sinh xem

hình ảnh thần Zeus, nữ thần

Atêna, thần Venus, lực sĩ

ném đĩa, …

- Nghệ thuật tạc tƣợng đạt đến

trình độ tuyệt mĩ với chất liệu

thạch cao và cẩm thạch trắng.

- Kiến trúc phát triển do truyền

thống có nhiều lễ hội, xây

nhiều đền đài thờ thần thánh.

Hiểu biết đến đây mới thực sự trở

thành khoa học

c/ Văn học: (viết bảng)

- Văn học viết phát triển cao,hình thành

các thể loại văn học: tiểu thuyết, thơ trữ

tình,bi kịch, hài kịch….

- Tác phẩm : Iliát và Ôđixe của Homer,

Xaphơ “nàng thơ thứ mƣời”, Et-xin, Xô-

phốc-lơ….

d/ Nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc và hội

họa : (viết bảng)

- Điêu khắc: Tƣợng lực sĩ ném đĩa, Nữ

thần Atêna, tƣợng thần Dớt, tƣợng

thần Vệ nữ Mi-lô…..

13

- Cho học sinh xem đền

Pactênông, đấu trƣờng

Rôma, Đấu trƣờng

Coloseum ở Rôma, Khải

Hoàn môn La mã

GV giới thiệu thêm về nguồn gốc

của ĐH Olimpic,chạy Maraton....

CH: Vì sao văn hóa phƣơng Tây

phát trine hơn văn hóa phƣơng

Đông?

Hs dựa vào SGK, suy nghĩ trả lời

GV nhận xét,kết luận

Hiện thực sinh động, thanh khiết,đạt

tới trình độ tuyệt mĩ

- Kiến trúc: Đền Pactênông, đấu trƣờng

Côlidê.

Đồ sộ

Đền Páctênông

Đấu trƣờng ở RoMa

e)Văn hóa Hy Lạp và RoMa phát triển

hơn phƣơng Đông:

- Do sự phát triển cao của nền kinh

tếcông thƣơng

- Bóc lột sức lao động của nô lệ

- Do giao lƣu và tiếp thu thành tựu văn

hóa phƣơng Đông

14

Kết luận: Các quốc gia cổ đại phƣơng Tây đã để lại cho nhân loại di sản văn

hóa khổng lồ, là cơ sở cho văn minh phƣơng Tây phát triển nhƣ Engels nhận

định “ Nếu không có Hy Lạp và Rôma cổ đại thì không có Châu Âu hiện

đại”

Củng cố bài:

Giáo viên kiểm tra hoạt động nhận thức của học sinh với việc yêu cầu học sinh

trả lời câu hỏi trắc nghiệm khách quan ở các slide để củng cố

+ So sánh sự khác nhau về điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị, xã hội của

các quốc gia cổ đại phƣơng Tây và cổ đại phƣơng Đông

Dặn dò

+ Học sinh trả lời câu hỏi sách giáo khoa

+ Đọc trƣớc bài 5 : “Trung Quốc phong kiến”

IV. Kết quả đạt đƣợc và kinh nghiệm rút ra đƣợc từ sáng kiến kinh nghiệm:

Kết quả đạt được:

- Qua tiết dạy “Các quốc gia cổ đại Hy Lạp và Rôma” bằng phƣơng pháp dạy

truyền thống kết hợp với công nghệ thông tin để nâng cao chất lƣợng dạy

học lịch sử ở trƣờng THPT. So sánh với kết quả dạy học truyền thống trong

những năm học trƣớc đây, việc tiếp thu bài học đạt kết quả cao hơn, tạo

không khí hứng thú trong học tập, có sự hoạt động đồng bộ giữa thầy và trò.

- Việc kết hợp phƣơng pháp truyền thống với công nghệ thông tin ở một số

bài khác trong chƣơng trình học kỳ I lớp 10 đã đem lại hiệu quả cao. Kết quả

học kì I có 100% học sinh đạt trên trung bình, học sinh có kết quả học tập

tốt, không còn tâm trạng lƣời học, chán học lịch sử nhƣ những năm trƣớc

đây

- Nhờ sƣu tầm những hình ảnh, những thƣớc phim tƣ liệu trên mạng Internet

và bằng phƣơng pháp dạy bằng giáo án điện tử kết hợp với phƣơng pháp

truyền thống đã giúp học sinh học tập, tiếp thu nội dung bài học vững chắc

hơn, nhớ bài lâu hơn do đƣợc tiếp cận với những hình ảnh sinh động.

Kinh nghiệm rút ra được từ sáng kiến kinh nghiệm:

- “ Lịch sử đâu phải là một chuỗi sự kiện để ngƣời viết sử ghi lại, ngƣời học

sử lại học thuộc lòng” – Cố thủ tƣớng Phạm Văn Đồng ( trích trong “ Mấy

vấn đề về văn hóa – giáo dục” – NXB Sự Thật Hà Nội, 1986, trang 158).

15

Việc đổi mới phƣơng pháp dạy học phải tiến hành “một cuộc cách mạng”,

khắc phục thói quen cũ “đọc chép”, phải bỏ nhiều công sức mới thực hiện

đƣợc bài học có kết quả.

- Việc sử dụng tranh ảnh, lƣợc đồ hoặc thƣớc phim tƣ liệu cũng phải có chọn

lọc, không ôm đồn quá nhiều hình ảnh hoặc hình ảnh không cần thiết để có

thể cô động đƣợc nội dung bài học, học sinh dễ nhớ hơn. Qua quá trình áp

dụng vào thực tế vào các tiết dạy cho thấy các tiết học kết hợp công nghệ

thông tin với phƣơng pháp truyền thống đã đem lại hiệu quả cao, tiết học

sinh động hơn, gây đƣợc sự tập trung hứng thú cho học sinh và học sinh ghi

nhớ rất lâu.

- Giáo viên có thể tìm nguồn tƣ liệu từ sách báo, thƣ viện, internet, đài truyền

hình hoặc từ đồng nghiệp.

- Đồng thời cũng phải chuẩn bị thay thế tiết dạy trên lớp khi phòng máy cúp

điện hoặc có giáo viên khác đăng kí dạy.

V/ Kết luận:

- Mặc dù hiện nay đang có sự thay đổi hết sức lớn lao trong việc đổi mới

phƣơng pháp dạy học lịch sử qua một tiết dạy bằng giáo án điện tử, do sự áp

dụng những công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin. Tuy nhiên,

quá trình giáo dục con ngƣời không thể “công nghệ hóa” hoàn toàn đƣợc, có

nhiều mặt giáo dục không thể quy trình hóa, “máy tính hóa” đƣợc nhƣ việc

giáo dục nhân văn, đạo đức, thẩm mỹ, lòng yêu nƣớc, yêu quê hƣơng, tổ

quốc… Vai trò của giáo viên đối với học sinh, nhà trƣờng, gia đình, xã

hội… đều vẫn hết sức quan trọng, và nếu có sự hỗ trợ của những công nghệ

tiên tiến thì chất lƣợng dạy học sẽ cao hơn.

- Ngày nay, khi đất nƣớc hòa nhập vào nền kinh tế thế giới thì nhiều nền văn

hóa đƣợc du nhập vào nƣớc ta, thì bản sắc dân tộc cần phải đƣợc gìn giữ

hơn. Đặc biệt là qua những tiết học lịch sử phải giáo dục đƣợc lòng yêu quê

hƣơng đất nƣớc, giữ gìn quốc hồn, tiếp nối những truyền thống tốt đẹp của

cha ông ta.

16

- Việc sử dụng công nghệ thông tin góp phần nâng cao chất lƣợng giảng dạy

lịch sử nhƣng cũng phải có sự dẫn dắt hƣớng dẫn của ngƣời thầy để từ đó

kết quả đạt đƣợc ngày càng cao hơn.

- Hy vọng với phƣơng pháp truyền thống kết hợp công nghệ thông tin giúp

tiết học lịch sử sinh động hơn. Rất mong đƣợc ý kiến đóng góp của quý thầy

cô.