i b - sacombank.com.vn tin Kinh te... · ụtrưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế, Ngân...
Transcript of i b - sacombank.com.vn tin Kinh te... · ụtrưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế, Ngân...
1
hoav
BẢNG CHỈ SỐ
Chứng khoán (ngày 19/7)
VN - Index 982,34 0,64%
HNX - Index 107,07 0,31%
D.JONES CK Mỹ 27.154,20 0,25%
STOXX CK C.Âu 3.480,18 0,08%
CSI 300 CK TQ 3.807,95 1,05%
Vàng (SJC cập nhật 08h30 ngày 22/7)
SJC Ng.đ/L 39.620 0,95%
Quốc tế USD/Oz 1.425,10 0,07%
Tỷ giá
USD/VND BQ LNH 23.077 0,04%
EUR/USD 1,1218 0,39%
Dầu
WTI USD/th 56,07 0,25%
6
Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế,
Ngân hàng Nhà nước khẳng định, về
nguyên tắc, thẻ tín dụng chỉ để thanh toán
hoặc rút tiền tại ATM. Tuy nhiên, việc rút tiền
mặt không được khuyến khích. Do vậy, việc
một số ngân hàng thương mại mời gọi người
dân mở thẻ tín dụng, phê duyệt hạn mức
cho vay rồi chuyển hạn mức đó vào tài
khoản cá nhân thay thế cho việc phê duyệt
một khoản vay thông thường, làm méo mó
thị trường. "Trước thông tin phản ánh từ báo
chí, Ngân hàng Nhà nước sẽ tiến hành rà
soát, kiểm tra hoạt động của các ngân hàng
thương mại liên quan đến thẻ tín dụng để
chấn chỉnh hình thức cho vay này".
Tin nổi bật
Ngân hàng sắp cạn room tín dụng
Xử lý nợ xấu vẫn còn vướng
Lách luật rút tiền thẻ tín dụng
Còn kịch bản sốc nào cho lạm phát nửa cuối
năm 2019?
Tổng thống Mỹ lên tiếng FED hạ lãi suất
Trung Quốc mở toang "mỏ vàng" 44.000 tỷ
USD để vực dậy nền kinh tế
Thứ Hai, ngày 22/7/2019
BP.NGHIÊN CỨU & PHÁT TRIỂN – PHÒNG KẾ HOẠCH
[a] 266-268 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận 3, TP.HCM
[t] (028) 38 469 516 (1813/1819) – [e] [email protected]
2
Rủi ro thanh toán qua thẻ tại Việt
Nam chỉ bằng 1/3 so với trung
bình thế giới
Theo Tiểu ban QLRR Hội thẻ NH VN (Hội thẻ), tình hình rủi ro (RR) thẻ
thế giới và KV, xu hướng RR thẻ tại VN, qua đó NH thành viên triển khai
thiết bị anti-skimming, phát hành thẻ chip nội địa, tuân thủ quy chuẩn
bảo mật dữ liệu thẻ, thiết bị đầu cuối đảm bảo phòng chống skimmimg;
Tích cực chia sẻ thông tin để hạn chế giảm thiểu RR không chỉ về ATM
skimming mà còn trong hoạt động khác; Áp dụng công nghệ tiên tiến,
tăng cường truyền thông chủ thẻ và đơn vị chấp nhận thẻ (ĐVCNT) các
biện pháp bảo mật dữ liệu thẻ, thẩm định đào tạo ĐVCNT trung gian
thanh toán kiểm soát ĐVCNT có độ RR cao, tăng cường nâng cao KYC
khách hàng/ĐVCNT. VN đang kiểm soát tương đối tốt sv KV và toàn cầu
về hoạt động thanh toán, tình hình RR có dấu hiệu giảm hơn sv các năm
trước. Thành công này phần lớn là do sự chủ động kiểm soát từ NH thành
viên và cả nỗ lực duy trì hoạt động thường xuyên, kịp thời của Tiểu ban
QLRR Hội thẻ … Để hỗ trợ NH trong quá trình chuyển đổi theo chuẩn
VCCS, Napas đã có 1 số chính sách ưu đãi như giảm phí DV cho tổ
chức thành viên Napas hoàn thành chứng thực VCCS, miễn phí kiểm
tra, đánh giá tính đáp ứng Bộ tiêu chuẩn VCCS cho Tổ chức phát hành,
Tổ chức thành toán hoàn thành kiểm tra đánh giá đến hết 2020. Napas
đề xuất NHNN xem xét ban hành quy định về chuyển đổi RR trong quá
trình triển khai VCCS và cam kết đảm bảo nguồn lực, hệ thống, phối hợp
chặt chẽ với các NH trong quá trình triển khai bộ tiêu chuẩn. Ông Nghiêm
Thanh Sơn, Phó Vụ trưởng Vụ Thanh toán cho biết, thời gian qua, NHNN
đã phát hiện các rủi ro và gian lận với phương thức và thủ đoạn mới xuất
hiện tại VN. Tuy nhiên, qua thống kê, đánh giá và so sánh với các nước
trên thế giới có thể thấy rằng hoạt động thanh toán của VN hiện nay vẫn
được đảm bảo an toàn, với số lượng, tỷ lệ sự cố và vụ việc gian lận xảy
ra không nhiều. Tỷ lệ RR qua thanh toán thẻ tại VN cũng khá thấp, chỉ
bằng 1/3 so với tỷ lệ trung bình trên toàn thế giới (theo BC của Visa và
MasterCard). NHNN đang tiếp tục XD và hoàn thiện văn bản pháp lý liên
quan thanh toán không dùng tiền mặt, DV trung gian thanh toán, cơ chế
chia sẻ phí cho các giao dịch thanh toán thẻ nội địa trên ATM/POS, chế
tài xử lý vi phạm trong thanh toán thẻ và trung gian thanh toán...
Tài chính – Ngân hàng
3
Ngân hàng sắp cạn room tín dụng
Theo thống kê của NHNN, tín dụng đã 7,33% trong 6th đầu năm, là
mức tăng trưởng khá trong bối cảnh "quota" tín dụng của toàn hệ thống
2019 chỉ ở mức 14%. TTTD 6th đầu năm 2019 vẫn được đánh giá hiệu
quả, với dư nợ cho vay chủ yếu tập trung vào SXKD và lĩnh vực ưu tiên.
TS. Bùi Quang Tín cho rằng, cần đánh giá chỉ tiêu này trên tổng quan
chung, theo quy luật TTTD chung trên từng năm. Theo đó, những tháng
cuối năm 2019, TTTD sẽ còn tăng thông thường 2%/tháng ở 3th cuối năm
(tức 6%), riêng Q.III thường có mức 3-4%. Có nghĩa theo quy luật thì
room sẽ sớm kịch trần nhưng NHNN sẽ điều chỉnh linh hoạt dựa trên
nhiều biến số khác nhau. Để đạt TTTD khá trong 6th đầu năm, nhiều NH
đã đẩy mạnh cho vay. Do đó, mức tăng trưởng ở nhiều NH đã đạt quá
hạn mức TTTD mà NHNN cho phép. Theo ước tính sơ bộ, 1 số NH trong
nhóm 9 NH đạt chuẩn Basel II đã có mức TTTD khá cao. Trong đó,
Vietcombank cho vay đạt 9% trên room 15%; OCB có mức TTTD tới
18% trên hạn mức 20%. VIB TTTD chủ yếu dựa vào cho vay bán lẻ
(chiếm 78%) đã đạt tăng trưởng dư nợ tới 21%.. Những NH không được
NHNN tăng room tín dụng nhưng nếu tăng được vốn, xử lý NX, hoàn
nhập dự phòng, bán cổ phiếu... thì dư nợ trên vốn tăng tự nhiên sẽ nới
dư địa tăng tín dụng. Trong khi đó, các TCTD đang tái cơ cấu, bị siết
room tín dụng khá chặt để phù hợp với việc đảm bảo tỷ lệ CAR và nguồn
lực cho trích lập DPRR, xử lý NX, đảm bảo hoạt động lành mạnh của
NH… Nhìn chung, những NH hoạt động bình thường có room BQ ngành
14%, đã có TTTD tích cực 6th đầu năm 2019. Tuy nhiên, các tổ chức này
khó có thể đặt kỳ vọng đột phá nhờ ưu tiên tăng room tín dụng cao hơn.
Bởi bản thân họ sẽ phải ưu tiên tất toán trái phiếu VAMC và hướng đến
thu hồi nợ, xử lý TSĐB, hướng đến đạt chuẩn Basel II theo lộ trình. Theo
TS.Bùi Quang Tín, ngoài tính toán về room TTTD linh hoạt, không cố
định cứng nhắc tại 1 con số, NHNN cũng sẽ có định hướng điều hành
CSTT, tín dụng phù hợp để hỗ trợ nền KT tăng trưởng, ổn định lạm phát,
hỗ trợ DN hoạt động KD. "Bản thân các TCTD cũng còn nhiều cửa tăng
nguồn thu như tăng thu hồi xử lý nợ, hoàn nhập dự phòng, tăng thu DV,
thu nhập CK, bán cổ phiếu quỹ… Do đó, bài toán KD của các NH cuối
năm sẽ không phải là bất khả thi ở các mục tiêu cao. Ngoài ra, như đã
phân tích, tổng TTTD trong hệ thống cơ bản vẫn còn room - dù 1 số
TCTD đã gần chạm trần tín dụng. Do đó, DN không lo thiếu vốn, chỉ NH
lo thiếu DN tốt".
Mục tiêu tăng trưởng tín dụng của một số
ngân hàng năm 2019
4
Xử lý nợ xấu vẫn còn vướng
NHNN mới đây nhận định KQ xử lý NX ngày càng được cải thiện. Số liệu
LK từ tháng 8/2017 (thời điểm Nghị quyết 42 của Quốc hội về xử lý NX đã có
hiệu lực thi hành) đến cuối tháng 6/2019, ước tính các TCTD đã xử lý được
264.000 tỷ đồng nợ xấu theo NQ 42. Theo Thống đốc Lê Minh Hưng, NX
toàn hệ thống hiện đã về mức 5,3-5,4%, phấn đấu đến 2020 đưa về mức
<3%. Việc này đòi hỏi các TCTD tập trung xử lý trong thời gian tới. Tuy
nhiên, quá trình thu giữ TSĐB, xử lý NX theo quy định của NQ 42 vẫn
còn không ít rào cản. TGĐ 1 NHTM ở Tp.HCM cho biết, NQ 42 cho phép
NH thu giữ tài sản NX khi hợp đồng bảo đảm có thỏa thuận người nợ
giao quyền thu giữ tài sản cho NH. Tuy vậy, đối chiếu các hợp đồng bảo
đảm đã ký trước thời điểm NQ 42 ra đời, hầu hết đều không có nội dung
thỏa thuận quyền thu giữ tài sản. "Do đó, nếu muốn đủ điều kiện áp dụng
quyền thu giữ tài sản theo quy định của NQ 42, các NH phải đàm phán
với người nợ, ký lại hợp đồng để bổ sung thỏa thuận thu giữ tài sản là
không đơn giản". Mặt khác, Thông tư 24/2014 của Bộ TN&MT chưa quy
định đăng ký biến động thông tin đối với tài sản là nhà đất mà NH thu
giữ theo quy định NQ 42. Từ đó, nhiều văn phòng đăng ký đất đai không
chấp nhận biên bản thu giữ tài sản và từ chối đăng ký biến động thông
tin cho người mua tài sản thế chấp khiến tiến trình xử lý nợ khựng lại.
Theo NQ 42, chính quyền địa phương có trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ
NH thu giữ tài sản NX. Tuy nhiên, tại 1 số địa phương, các cấp chính
quyền có phần thờ ơ.… TS.Cấn Văn Lực đánh giá những vấn đề nêu
trên là rào cản trong quá trình xử lý NX. Do đó, chính quyền địa phương,
CQQL cần nhanh chóng tháo gỡ vướng mắc để NH sớm giải quyết NX,
tạo ra dòng vốn mới với LS hợp lý cho nền KT. Nhằm đẩy nhanh tiến
trình xử lý NX, Chủ tịch VAMC kiến nghị Chính phủ đánh giá lại 2 năm
triển khai NQ 42 để tính đến luật hóa việc xử lý NX. "VAMC đã tập hợp
mọi vướng mắc trong quá trình triển khai NQ 42 để BC Thủ tướng".
Lách luật rút tiền thẻ tín dụng
Giữa tháng 7, nhiều chủ thẻ tín dụng được nhân viên của 1 NHTM gọi
điện tư vấn cho vay tiêu dùng với LS 1,69%/tháng (20,28%/năm). Tiền
vay được chuyển từ thẻ tín dụng sang tài khoản thông thường nên khách
hàng dễ dàng rút ra tiêu dùng mà không mất phí. Theo ông Diệp Bảo
Châu, PTGĐ SCB, thẻ tín dụng là 1 trong những loại hình cho vay tiêu
dùng. NH thường cấp cho chủ thẻ hạn mức cho vay từ vài chục triệu đến
vài trăm triệu đồng nhưng chủ thẻ không được chuyển tiền từ thẻ tín
dụng đến bất kỳ tài khoản nào khác. Khi khách hàng mua hàng hóa, DV
5
bằng thẻ tín dụng tức là NH đã cho chủ thẻ vay tiền, đồng thời người vay
đã thể hiện được mục đích sử dụng vốn. Các NH không khuyến khích
khách hàng dùng thẻ để rút tiền mặt nên áp dụng mức phí đến 4%, là
mức rất cao. Lãnh đạo của Trung tâm Thẻ Eximbank thừa nhận gần đây,
có việc 1 số NH tăng LS và phí rút tiền mặt từ thẻ tín dụng lên cao, rồi
tư vấn giải ngân khoản vay từ thẻ tín dụng vào tài khoản cá nhân với
những chủ thẻ cần gấp tiền mặt. Bằng cách này, chủ thẻ tín dụng vẫn
rút được tiền mặt nhưng không bị tính phí như rút ở ATM, đồng thời không
bị áp lực trả nợ trong 45 ngày vì số tiền vay được phân bổ trong nhiều
tháng. Còn NH phát hành thẻ thì giải ngân được 1 khoản vay tiêu dùng
với LS khá cao (trên 20%/năm). Thực tế cho thấy, người cần vay tiêu dùng
tín chấp thường phải chứng minh việc làm, thu nhập ổn định, năng lực
tài chính trả góp hằng tháng… mới được NH chấp nhận cho vay. Tuy
nhiên, phần lớn người vay không đáp ứng đủ điều kiện này nên vài năm
gần đây, họ lách luật bằng cách mở thẻ tín dụng, sau đó thanh toán
khống số tiền mua hàng hóa, DV… nhưng thực chất là rút tiền mặt từ
các cửa hàng để tiêu xài rồi trả lại cho NH sau 45 ngày theo quy định.
Tuy nhiên, gần đây NH Nhà nước siết chặt hoạt động này nên 1 số NH
mới lách luật, tư vấn chuyển tiền từ thẻ tín dụng vào tài khoản cá nhân,
vừa đáp ứng được nhu cầu tiền mặt của chủ thẻ, còn NH giải ngân được
khoản vay với LS cao, đóng góp vào TTTD của NH… Vụ trưởng Vụ Tín
dụng các ngành KT NHNN, khẳng định việc NHTM chuyển tiền từ thẻ
tín dụng vào tài khoản cá nhân là không đúng với quy định hiện nay. Vì
về nguyên tắc, thẻ tín dụng chỉ để thanh toán hoặc rút tiền tại ATM. Tuy
nhiên, việc rút tiền mặt không được khuyến khích. Việc 1 số NHTM mời
gọi người dân mở thẻ tín dụng, phê duyệt hạn mức cho vay rồi chuyển
hạn mức đó vào tài khoản cá nhân thay thế cho việc phê duyệt 1 khoản
vay thông thường, làm méo mó thị trường. "Trước thông tin phản ánh từ
báo chí, NHNN sẽ tiến hành rà soát, kiểm tra hoạt động của các NHTM
liên quan đến thẻ tín dụng để chấn chỉnh hình thức cho vay này".
6
"Các chính sách kinh tế định
hướng thị trường và hướng ngoại
mở rộng đã giúp Việt Nam đạt
được tăng trưởng kinh tế bền
vững và bao trùm"
Theo IMF: "Các chính sách KT định hướng thị trường và hướng ngoại
mở rộng đã giúp VN đạt được tăng trưởng KT bền vững và bao trùm".
Để duy trì và nâng cao chất lượng tăng trưởng, VN cần hiện đại hóa các
thể chế KT, đặc biệt là về quản lý tài chính và tiền tệ, và tiếp tục cải cách
theo hướng thị trường và hướng ngoại. Trên thực tế, VN có thể tiếp tục
thắt chặt chính sách tín dụng, phát triển thị trường vốn và XD CSHT thị
trường hiện đại. Đồng thời với sự kết hợp của các công cụ đầy đủ cho
người giám sát và điều tiết hệ thống tài chính, sẽ giúp tăng cường khả
năng của ngành tài chính để hỗ trợ tăng trưởng bền vững. Những năm
gần đây, VN đã cố gắng ngăn chặn sự gia tăng nợ công và cải cách tài
chính. Chính quyền có thể sử dụng các công cụ tài chính để giảm thiểu
rủi ro. Nếu tăng trưởng cao, nợ hiện tại có thể được trả với tốc độ nhanh
hơn. Tái cấp vốn của NHTMNN nên là ưu tiên hàng đầu. VN đã đảo
ngược thành công sự gia tăng nhanh chóng của nợ công. Nợ công đã
giảm xuống 55,6% GDP vào cuối 2018. Chính phủ hạn chế nghiêm ngặt
việc phát hành bảo lãnh của chính phủ, giúp ổn định thâm hụt ngân sách
Nhà nước xuống #4,6% GDP trong 2017-2018, giảm từ 5,5% trong 2014.
Thâm hụt ngân sách chung của chính phủ trung bình 2,7% GDP trong
2017-2018. Bội chi ngân sách dự báo sẽ giảm xuống còn 4,2% vào 2020
(2,6%, khi gồm các quỹ ngoại biên). Cam kết của chính phủ đối với KV tư
nhân đã giúp cải thiện môi trường KD rất lớn. Chất lượng các chính sách
điều tiết và điều kiện KD nói chung được cải thiện qua nhiều năm, phản
ánh sự cân bằng giữa KV tư nhân và Nhà nước. Tuy nhiên, các vấn đề
cơ cấu trong thị trường đất đai và tín dụng và KV DNNN vẫn còn lớn vẫn
là trở ngại đối với KV tư nhân. Trong những năm gần đây, VN đã tăng
cường quản trị và chống tham nhũng. Việc liên kết cơ sở dữ liệu về thuế,
chống rửa tiền, hải quan và giao dịch đất đai sẽ tạo điều kiện cho việc
xác minh tài sản. Tuy nhiên, cần có các biện pháp bổ sung để đảm bảo
sự độc lập của Thanh tra Chính phủ VN. Dân số VN sẽ già đi nhanh
chóng trong những thập kỷ tới, cải cách hệ thống lương hưu trở thành ưu
tiên hàng đầu. Tại VN, tỷ lệ phụ thuộc tuổi già, chênh lệch số người từ
60 tuổi trở lên sv 15-59 tuổi, dự kiến sẽ tăng gấp đôi trong 25 năm tới.
Kinh tế Việt Nam
7
Tâm lý nhà đầu tư cải thiện khi
CPTPP và EVFTA được ký kết
Theo Chuyên gia trưởng Bộ phận Tài chính của World Bank tại VN, dự
báo của WB về tăng trưởng KT toàn cầu 2019 ở mức 2,6%, đến 2020 -
2021 tốc độ tăng vẫn <3%, #2,7% cho 2 năm tiếp theo. Điều này cho
thấy môi trường KT toàn cầu đang trở nên thách thức hơn với tốc độ tăng
trưởng chậm lại và gia tăng rủi ro. Trong đó, các nước phát triển có tốc
độ tăng trưởng KT 2019-2021 dưới <2%. Các thị trường mới nổi và đang
phát triển lại có sự khởi sắc với tốc độ tăng trưởng KQ BQ #5%, tuỳ từng
thị trường. Điều này cũng thể hiện trong vấn đề XK hàng hoá, vận chuyển
và đơn hàng XK mới đang chậm lại… Đối với VN, tốc độ tăng trưởng KT
có sự chậm lại trong thời gian qua. Điều này thể hiện ở việc vốn đầu tư
toàn XH/GDP đã chững lại khi mức này 2018 là 33,5% GDP, 6th đầu năm
2019 là 33,1% GDP. Tuy nhiên, dấu hiệu cải thiện là tăng trưởng bán lẻ
và DV 6th đầu năm cao hơn sv cùng kỳ 2018, do phân khúc khách hàng
có thu nhập đầu người cao đang tăng lên, đẩy nhu cầu tiêu dùng nội địa
tăng. TTTD của VN đang chùng xuống trong trong bối cảnh lạm phát
thấp. Cụ thể, TTTD 6th đầu năm ở mức 7,33%, mức tăng này xấp xỉ mức
tăng của 2018. Trong khi đó, CPI 6th/2019 1,41% sv tháng 12/2018 và
2,16% sv cùng kỳ 2018. Nền KT VN vẫn có dấu hiệu tích cực trong
cân đối ngân sách và nợ công. Năm 2019, nợ công dự kiến bằng 2018
và ở mức 58,3% sv mức trần 65% GDP. Nhưng điều VN cần chú ý là
sức cầu bên ngoài đang không cao sẽ tác động tới XK. Điều này thể hiện
ở XK hàng hoá 1 số nước trong đó có VN giảm trong Q.I/2019. Mặc dù,
VN tăng trưởng XK dương 5,3% trong Q.I cùng với TQ tăng trưởng XK
dương thì Indonesia lại 10%, Malaysia 5%, Thái Lan và Philippines
đều giảm. Với tác động từ cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung đã tạo ra
sự thay đổi XK hàng hoá của TQ sang Mỹ. Do đó, VN trở thành quốc gia
đứng thứ 2 XK vào Mỹ. Đây là cơ hội tốt cho XK của VN. VN cần: Chuẩn
bị nhằm điều chỉnh linh hoạt và chủ động chính sách vĩ mô nếu các rủi
ro bất lợi gia tăng. Tăng cường cải cách cơ cấu vẫn là hết sức cần thiết
để hỗ trợ tiềm năng tăng trưởng trong trung hạn. Một điểm tích cực cho
nền KT VN đó là tâm lý NĐT được cải thiện nhờ CPTPP và EVFTA , lợi
ích từ chuyển dịch thương mại giúp cho cán cân thương mại và FDI đạt
kỷ lục từng tháng, cao nhất trong tháng 5/2019; Chuẩn bị linh hoạt điều
chỉnh chính sách vĩ mô nhằm hỗ trợ các hoạt động KT trong trường hợp
rủi ro gia tăng; đẩy nhanh cải cách cơ cấu nhằm khơi dậy niềm tin NĐT
trong ngắn hạn và tiềm năng tăng trưởng trung dài hạn; đổi mới quản lý
Tăng trưởng kinh tế toàn cầu (biểu cột, đơn vị: %) có tốc độ chậm
lại, trong khi các thị trường mới nổi và đang phát triển (đường trên)
vẫn có sự khởi sắc
Đến quý 1/2019, tăng trưởng xuất khẩu của Trung Quốc tăng nhẹ,
Việt Nam (cột đỏ) vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng xuất khẩu dương
khá cao, trong khi một số nước trong khu vực đã giảm
8
để giảm chi phí KD; cải cách DNNN gồm CPH thực chất và quản trị DN;
Tiếp tục cải cách NH để đẩy nhanh xử lý NX và đảm bảo đủ đệm vốn
nhằm giảm thiểu rủi ro hệ thống và nâng cao hiệu quả cho các tổ chức
tài chính. Theo đó, 2019, WB dự báo tăng trưởng KT VN ở mức 6,6%,
2020&2021 đều có mức tăng trưởng 6,5%; CPI của 2019 sẽ ở mức 3,7%,
2020&2021 là 3,8%; cán cân vãng lai 2019 là 2% GDP, 2020&2021 là
1,4% GDP; cán cân tài khoá 2019 là âm 2,5%, 2020 là âm 2,3%, năm
2021 là âm 2,2%; Nợ công dự báo trong mức 58,3% GDP cho 2019 và
ở mức 58% GDP năm 2020, giảm còn 57,6% vào 2021.
Bức tranh xuất nhập khẩu 6th đầu
năm 2019: 11 mặt hàng góp tên
trong câu lạc bộ xuất khẩu tỷ USD
Kết thúc ½ chặng đường 2019, tổng kim ngạch XNK hàng hóa đạt 243,48
tỷ USD, 8,0% (# 18,1 tỷ USD) sv cùng kỳ 2018. Trong đó trị giá hàng
hóa XK đạt 122,53 tỷ USD, 7,2% và NK đạt 120,94 tỷ USD, 8,9%.
Còn kịch bản sốc nào cho lạm
phát nửa cuối năm 2019?
Theo Tổng cục Thống kê, CPI nửa đầu năm chỉ 2,64% sv cùng kỳ
2018 - mức thấp nhất 3 năm gần đây và không quá chênh lệch sv mức
1,87% của lạm phát cơ bản. Đây là dấu hiệu tích cực để thực hiện mục
tiêu ổn định KTVM, kiềm chế lạm phát. Ban Chỉ đạo điều hành giá của
Chính phủ dự báo 2 kịch bản lạm phát BQ 2019 đều nằm trong khoảng
3,17-3,41%, đây là dư địa để xem xét tiếp tục điều chỉnh các mặt hàng,
DV công do Nhà nước còn quản lý. Theo TS.Nguyễn Bá Minh, những
tháng tới, dự báo giá các mặt hàng thực phẩm tiếp tục tăng, đặc biệt là
giá thịt lợn có khả năng sẽ tăng mạnh do ảnh hưởng của dịch tả lợn châu
Dự báo tăng trưởng kinh tế của Việt Nam tới năm 2021 -
Nguồn: World Bank
9
Phi. Giá nhiều loại nguyên, nhiên vật liệu trên thị trường thế giới sẽ tăng
trở lại. Từ 1/7/2019 mức lương cơ sở được điều chỉnh tăng từ 1,39 triệu
đồng lên 1,49 triệu đồng cũng gây áp lực làm tăng CPI... “Ngoài ra, 6th
cuối năm 2019 cũng có những nhân tố góp phần kiềm chế tốc độ tăng
CPI như việc XK nông sản gặp khó khiến nông sản trong nước khó tiêu
thụ; Hệ quả là giá nông sản tiếp tục giảm, sức mua của người nông dân
sẽ suy yếu. Đồng thời, cả hệ thống chính trị cũng chủ động, tích cực triển
khai các biện pháp bình ổn giá cả thị trường, điều hành CSTT kiên định
mục tiêu giữ ổn định vĩ mô và kiểm soát lạm phát... Đây là những nhân
tố góp phần kiềm chế tốc độ tăng CPI”. Để đảm bảo mục tiêu kiểm soát
CPI BQ 2019, hỗ trợ cho tăng trưởng, ổn định KTVM, cần đẩy mạnh
thông tin, tuyên truyền về điều hành giá nhất là mặt hàng Nhà nước còn
định giá, mặt hàng nhạy cảm đến người dân, công khai minh bạch thông
tin về giá để kiểm soát lạm phát kỳ vọng… PGS.TS Ngô Trí Long cho
rằng, thời gian tới, các yếu tố có thể ảnh hưởng đến CPI giá thực phẩm
dự báo vẫn cao, lương tăng, vào mùa năm học mới... Thiên tai cũng là
yếu tố tiềm ẩn tác động đến CPI 6th cuối năm và cũng là yếu tố tiềm ẩn
ảnh hưởng đến lạm phát. Để giữ mức CPI BQ 2019 <4%, cần tiếp tục
tăng cường kiểm soát lạm phát, bảo đảm mục tiêu ổn định KTVM, điều
hành CPI phải bám sát và hỗ trợ cho mục tiêu tăng trưởng, tránh tạo ra
lạm phát kỳ vọng hay tạo ra “độ trễ” của lạm phát trong những năm sau.
10
Tổng thống Mỹ lên tiếng yêu cầu
FED hạ lãi suất
Trên mạng Twitter ngày 19/7, Tổng thống Mỹ đã lên tiếng phản đối FED,
y/c NH này đảo ngược lộ trình và cắt giảm LS. Ông kêu gọi FED điều
chỉnh hành động bởi nếu việc FED không hạ LS quá nhanh và quá
nhiều, KT Mỹ sẽ còn tốt hơn hiện nay và cho rằng đây là cơ hội để có
được sự thành công chưa từng có về tăng trưởng của nền KT. FED đã
nâng LS 4 lần trong 2018 nhưng khả năng cao là sẽ quyết định cắt giảm
LS lần đầu tiên trong một thập niên qua tại cuộc họp vào ngày 30-31/7
tới. Những phát biểu gần đây của các quan chức FED có thể xác nhận
tín hiệu rằng các nhà hoạch định chính sách đã chuẩn bị hành động để
duy trì đà tăng trưởng của KT Mỹ khi đối mặt với sự giảm tốc của KT
toàn cầu và căng thẳng thương mại với TQ chưa được giải quyết.
Trung Quốc mở toang "mỏ vàng"
44.000 tỷ USD để vực dậy nền
kinh tế
Theo thông báo từ Hội đồng Nhà nước TQ, đó sẽ là kết hợp của cả các
biện pháp ngắn và dài hạn, tác động đến cả các yếu tố vĩ mô và vi mô
để thúc đẩy lực cầu và tạo ra các động lực tăng trưởng mới. Đặc biệt,
đáng chú ý nhất là TQ sẽ mở cửa KV tài chính cho dòng vốn đầu tư
nước ngoài. NĐTNN có thể mua cổ phần hoặc kiểm soát các định chế
tài chính gồm bộ phận quản lý tài sản của các NHTM, các quỹ hưu trí
và các công ty môi giới tiền tệ. Với quy mô lên đến 44.000 tỷ USD và
vẫn còn khá khép kín với thế giới bên ngoài, thị trường tài chính TQ rất
hấp dẫn đối với NĐTNN bởi chỉ cần chiếm được 1 phần nhỏ thị phần ở
đây là có thể thu được mức LS khổng lồ. Tuy nhiên, hiện tại các công
ty quốc tế buộc phải thích nghi với 1 môi trường pháp lý mơ hồ và đối
mặt với các đối thủ được hậu thuẫn bởi Chính phủ TQ.
Kinh tế Quốc tế
11
Tài liệu tham khảo:
Bảng chỉ số https://www.hsx.vn/Modules/Cms/Web/ViewArticle/b6d10da6-7c26-40d8-b720-20e298a4ed06
https://hnx.vn/
https://www.bloomberg.com/markets/stocks
http://www.sjc.com.vn/
https://goldprice.org/vi/index.html
https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/rm/tg?_afrLoop=515501331129000
Tin Tài chính - NH http://cafef.vn/ngan-hang-nha-nuoc-rui-ro-thanh-toan-qua-the-tai-viet-nam-chi-bang-1-3-so-voi-
trung-binh-the-gioi-20190720114502531.chn
http://cafef.vn/ngan-hang-sap-can-room-tin-dung-20190721144602625.chn
https://vietstock.vn/2019/07/xu-ly-no-xau-van-con-vuong-757-692037.htm
https://vietstock.vn/2019/07/lach-luat-rut-tien-the-tin-dung-757-692038.htm
Tin KT vĩ mô http://cafef.vn/imf-cac-chinh-sach-kinh-te-dinh-huong-thi-truong-va-huong-ngoai-mo-rong-da-giup-
viet-nam-dat-duoc-tang-truong-kinh-te-ben-vung-va-bao-trum-2019072008510025.chn
http://cafef.vn/wb-tam-ly-nha-dau-tu-cai-thien-khi-cptpp-va-evfta-duoc-ky-ket-
20190720212928125.chn
http://cafef.vn/buc-tranh-xuat-nhap-khau-6-thang-dau-nam-2019-11-mat-hang-gop-ten-trong-cau-
lac-bo-xuat-khau-ty-usd-20190721205206421.chn
http://cafef.vn/con-kich-ban-soc-nao-cho-lam-phat-nua-cuoi-nam-2019-20190722070339218.chn
Tin KT Quốc tế http://cafef.vn/tong-thong-my-len-tieng-yeu-cau-fed-ha-lai-suat-20190720203939109.chn
http://cafef.vn/trung-quoc-mo-toang-mo-vang-44000-ty-usd-de-vuc-day-nen-kinh-te-
20190720162044296.chn
12
Danh mục viết tắt
Bảo hiểm tiền gửi BHTG LS LS
Bảo hiểm y tế BHYT Liên ngân hàng LNH
Bảo hiểm thất nghiệp BHTN Lợi nhuận trước thuế LNTT
Bảo hiểm xã hội BHXH Lợi nhuận sau thuế LNST
Bảo hiểm nhân thọ BHNT Mua bán, sáp nhập M&A
Bất động sản BĐS Ngân hàng NH
Chi nhánh/phòng giao dịch CN/PGD Ngân hàng trung ương NHTW
Chỉ số giá tiêu dùng CPI Ngân hàng Nhà nước NHNN
Chính sách tiền tệ CSTT Ngân hàng thương mại cổ phần NHTM CP
Cơ sở hạ tầng CSHT Ngân hàng thương mại Nhà nước NHTM NN
Doanh nghiệp nhà nước DNNN Ngân hàng nước ngoài NHNNg
Doanh nghiệp tư nhân/ Doanh nghiệp DNTN/ DN Ngân sách nhà nước NSNN
Doanh nghiệp vừa và nhỏ DNVVN Ngân sách trung ương NSTW
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài DN FDI Tài chính - ngân hàng TC-NH
Khách hàng doanh nghiệp KHDN Tài sản bảo đảm/ Tài sản đảm bảo TSBĐ/ TSĐB
Khách hàng cá nhân KHCN Tăng trưởng TD TTTD
Dự trữ bắt buộc DTBB Tổ chức TD TCTD
Nhả đầu tư nước ngoài/ Nhà đầu tư NĐTNN/ NĐT Tổng tài sản TTS
Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI Tổng sản phẩm quốc nội GDP
Giấy chứng nhận GCN Việt Nam VN
Giá trị gia tăng GTGT Trung Quốc TQ
Thu nhập cá nhân/ Thu nhập doanh nghiệp TNCN/ TNDN Trái phiếu Chính phủ TPCP
Kinh tế vĩ mô KTVM Trái phiếu doanh nghiệp TPDN
Kinh tế KT Thị trường chứng khoán/ Chứng khoán TTCK/ CK
Xã hội XH Vốn điều lệ VĐL
Khu vực KV Vốn tự có VTC
Thế giới TG Xuất nhập khẩu/ Xuất khẩu/ Nhập khẩu XNK/ XK/ NK
Kho bạc Nhà nước KBNN Sản xuất kinh doanh SXKD
Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia UBGSTCQT Dịch vụ DV
Cục dự trữ liên bang Mỹ FED Hiệp hội Chế biến và XK thuỷ sản VN VASEP
Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF Hiệp hội Lương thực VN VFA
Ngân hàng Thế giới (World Bank) WB Hiệp hội Cà phê - Ca cao VN VICOFA
Ngân hàng Phát triển châu Á ADB Hiệp hội Thép VN VSA
Ngân hàng trung ương châu Âu ECB Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội HNX
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN Sở Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM HOSE
Khu vực sử dụng đồng Euro EUROZONE Tổ chức Nông Lương Liên Hợp Quốc FAO
Liên minh châu Âu EU Tổng cục thống kê GSO (TCTK)