Giaotrtinh phuongphapnghiencuukhoahoc gdcd
-
Upload
tran-dinh-nhat -
Category
Documents
-
view
221 -
download
0
description
Transcript of Giaotrtinh phuongphapnghiencuukhoahoc gdcd
1
LỜI NÓI ĐẦU
* * * *
Khoa học được coi là sản phẩm của nhận thức. Nó là môt hệ thống các quan
điểm, tri thức, đáp ứng nhu cầu nhận thức và cải tạo thế giới. Vì vậy, nghiên cứu khoa
học là hoạt động trí tuệ phức tạp, có tính sáng tạo cao. Muốn nghiên cứu khoa học có
hiệu quả phải có phương pháp.
Nhằm đáp ứng nhu cầu về việc học tập môn phương pháp nghiên cứu khoa học đối
với sinh viên ngành sư phạm Giáo dục công dân, chúng tôi mạnh dạn biên soạn tài
liệu này. Công trình ra đời là kết quả của việc nghiên cứu, tập hợp rất nhiều tư liệu
khác nhau. Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng chắc không tránh khỏi thiếu sót. Rất
mong được sự đóng góp của bạn đọc.
Cần Thơ, ngày 12 tháng 11 năm 2009
Người biên soạn
Ts.TRẦN VĂN HIẾU
2
MỤC LỤC
* * * *
Trang
Chương 1:Khoa học và nghiên cứu khoa học………………………………………..03
Chương 2: Các phương pháp nghiên cưú khoa học giáo dục………………………..11
Chương3:Các hình thức nghiên cứu khoa học……………………………………….29
Chương 4: Cách thức tiến hành một luận văn, một đề tài nghiên cứu khoa học…….37
Tài liệu tham khảo……………………………..……………………………………49
Phụ lục……………………………………………………………………………….50
3
Chương 1
KHÁI NIỆM KHOA HỌC VÀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
1.1.KHOA HỌC
1.1.1 Khái niệm khoa học:
Khoa học là một khái niệm có nội hàm phức tạp và tùy góc độ khác nhau
có quan niệm khác nhau. Khoa học bắt nguồn từ thực tiễn lao động sản xuất của con
người, do con người tạo ra và phục vụ cho cuộc sống của con người.
Theo Từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học Việt Nam:“Khoa học là những
điều hiểu biết có phương pháp, có hệ thống và được thực nghiệm”.
Theo Từ điển Triết học của Nhà xuất bản Tiến bộ Mátxcơva: “Khoa học là lĩnh
vực nghiên cứu nhằm mục đích sản xuất ra những tri thức mới về tự nhiên, xã hội và
tư duy và bao gồm tất cả những điều kiện và những yếu tố của sự sản xuất nầy.
Còn theo quan điểm của CULILLIER: Khoa học là hệ thống những nhận thức
và nghiên cứu có phương pháp, nhằm mục đích khám phá ra những định luật tổng quát
và hệ thống.
Từ những quan niệm trên, ta có thể rút ra định nghĩa khái quát: “Khoa học
(KH) là hệ thống những trị thức về tự nhiên, xã hội và tư duy, về quy luật phát triển
của tự nhiên, xã hội và tư duy. Hệ thống tri thức này được hình thành trong lịch sử và
không ngừng phát triển trên cơ sở thực tiễn xã hội”.
Xuất phát từ những sự kiện của hiện thực, khoa học giải thích một cách đúng
đắn nguồn gốc của sự phát triển của những sự kiện ấy, phát hiện những mối liên hệ
bản chất của các hiện tượng, trang bị cho con người những tri thức về quy luật khách
quan của thế giới hiện thực để con người áp dụng những quy luật đó trong thực tiễn
sản xuất và đời sống.
Khoa học góp phần nghiên cứu thế giới quan đúng đắn, xem xét sự kiện một
cách biện chứng, giải phóng con người khỏi những mê tín, dị đoan, mù quáng, hoàn
thiện khả năng trí tuệ của con người.
Khoa học còn góp phần làm giảm nhẹ lao động và làm cho đời sống con người
ngày càng dễ dàng hơn, tạo điều kiện để con người có thể nâng cao quyền lực đối với
các lực lượng tự nhiên.
1.1.2. Tri thức kinh nghiệm và tri thức khoa học.
4
- Tri thức kinh nghiệm: là những hiểu biết được tích lũy qua hoạt động sống
hàng ngày trong mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với tự
nhiên. Quá trình này giúp con người hiểu biết sự vật, về cách quản lý thiên nhiên và
hình thành mối quan hệ giữa những con người trong xã hội. Tri thức kinh nghiệm
được con người không ngừng sử dụng và phát triển trong hoạt động thực tế. Tuy
nhiên, tri thức kinh nghiệm chưa đi sâu vào bản chất, chưa thấy được hết các thuộc
tính của sự vật và mối quan hệ bên trong của sự vật và con người. Vì vậy, tri thức
kinh nghiệm chỉ phát triển đến một mức hiểu biết nhất định, nhưng tri thức kinh
nghiệm là cơ sở cho sự hình thành tri thức khoa học.
- Tri thức khoa học: là hiểu biết được tích lũy có hệ thống nhờ hoạt động
nghiên cứu khoa học (NCKH), các hoạt động này có mục tiêu xác định và sử dụng
phương pháp khoa học. Không giống như tri thức kinh nghiệm, tri thức khoa học dựa
trên kết quả quan sát, thu nhập qua những thí nghiệm và qua các sự kiện xảy ra ngẫu
nhiên, trong hoạt động xã hội. Tri thức khoa học được tổ chức trong các ngành và các
môn khoa học như: Triết học, sử học, kinh tế học, toán học, sinh học v.v…
1.1.3. Sự kiện (hiện tượng) và tư duy khoa học.
- Sự kiện: đó là những gì xảy ra trong tự nhiên, xã hội do quá trình vận động
và phát triển của tư duy mà con người nhận thức được hoặc trực tiếp (bằng các giác
quan) hoặc gián tiếp (bằng phương tiện hỗ trợ).
Sự kiện là cơ sở tất yếu của khoa học, là nguồn sống và phát triển của khoa học.
Tuy nhiên, bản thân sự kiện chỉ là một mớ nguyên liệu chứ chưa phải là khoa học.
Nhờ có tư duy lý luận, có sự trừu tượng hóa KH, con người gạt bỏ được những liên hệ
ngẫu nhiên của hiện tượng, đi sâu vào những liên hệ sâu xa, phát hiện những quy luật
khách quan.
Bản thân sự biểu hiện các quan hệ ngẫu nhiên của hiện tượng chưa phải là tri
thức KH mà là vì sự phát triển của hiện tượng được quyết định không phải do ngẫu
nhiên mà do những quy luật khách quan. Tuy nhiên KH không chỉ nghiên cứu cái tất
nhiên, KH còn nghiên cứu cả sự ngẫu nhiên là một trong những hình thức hoặc yếu tố
của biểu hiện cái có quy luật
- Tư duy KH là tư duy biện chứng, là một dạng của lô gích biện chứng, nó đóng
vai trò liên kết giữa tư duy và thực tiễn. Đặc trưng và các nguyên tắc của tư duy KH
là:
5
- Tính khách quan: xuất phát từ bản thân các sự vật, hiện tượng.
- Toàn diện: xem xét đầy đủ các khía cạnh.
- Lịch sử: nhận thức sự vật, hiện tượng trong sự phát triển.
- Thống nhất giữa các mặt đối lập.
Tóm lại, sự kiện không có tư duy lý luận thì không có KH, hoặc xem nhẹ tư duy
lý luận thì sẽ làm cho con người mất đi khả năng đi sâu vào bản chất của tự nhiên và
xã hội. Ngược lại, coi thường hoặc không cần các sự kiện thì tư duy lý luận sẽ trở
thành duy ý chí.
1.2. Nghiên cứu khoa học.
1.2.1. Khái niệm: nghiên cứu khoa học (NCKH) là hoạt động tìm kiếm,
xem xét, điều tra, hoặc thử nghiệm dựa trên số liệu, tài liệu, kiến thức …đạt được từ
các thí nghiệm, NCKH để khám phá để phát hiện ra cái mới về bản chất của sự vật, về
thế giới tự nhiên và xã hội và để sáng tạo phương pháp và phương tiện kĩ thuật mới
cao hơn, giá trị hơn. Vì vậy, hoạt động NCKH là một hoạt động trí tuệ phức tạp, có
tính sáng tạo cao.
Con người muốn làm NCKH phải có kiến thức nhất định về lĩnh vực nghiên
cứu, điều chính yếu là phải rèn luyện cách làm việc tự lực, có phương pháp ngay từ lúc
còn ngồi trên ghế nhà trường. Vì vậy, trong quá trình học tập, sinh viên có thể tập
nghiên cứu những vấn đề có tính chất tập sự và các giáo viên cũng cần đổi mới
phương pháp dạy học theo “kiểu khám phá” để phát triển tư duy cho sinh viên.
1.2.2. Mục đích của nghiên cứu khoa học.
- Thứ nhất, đáp ứng nhu cầu nhận thức của chủ thể. Nó có tác dụng củng cố,
hoàn thiện và nâng cao sự hiểu biết của chủ thể đối với các đối tượng được khảo sát.
- Thứ hai, nhằm phát hiện ra những kiến thức mới về bản chất của đối tượng
được thể hiện dưới dạng các thông tin về quy luật của sự tồn tại, vận động và phát
triển của đối tượng.
- Thứ ba, trên cơ sở những kiến thức mới phát hiện, chủ thể nghiên cứu, sáng
tạo ra những tri thức mới về con đường, cách thức, phương pháp, biện pháp tác động
vào đối tượng phục vụ các nhu cầu vật chất và tinh thần của con người, đồng thời sáng
tạo ra các phương tiện, thiết bị mới …để hiện thực hóa các sáng tạo đó.
Các mục đích trên không tách rời nhau, nhưng có vị trí khác nhau trong từng
cấp độ của từng đề tài, công trình nghiên cứu, nhất là các nhà nghiên cứu trẻ.
6
1.2.3. Chức năng của nghiên cứu khoa học.
1.2.3.1.Chức năng mô tả: người ta bắt đầu bản chất của đối tượng thông qua
các thao tác nhằm mô tả đúng, chính xác và khách quan những diễn biến, những biểu
hiện bề ngoài của đối tượng cần tìm hiểu. Bởi không thể hiện nội dung, bản chất của
đối tượng nếu không tìm hiểu cái hình thức, cái hiện tượng của nó. Một sự mô tả
đúng, đầy đủ những gì quan sát được (trực tiếp hay gián tiếp) đều có thể được coi như
những dữ kiện, những tiền đề thiết yếu cho việc nghiên cứu tiếp theo.
1.2.3.2.Chức năng giải thích: NCKH không thể dừng lại ở mức nắm bắt hình
thức, cái hiện tượng bề ngoài mà trên cơ sở những dữ liệu ban đầu ấy, nhà nghiên cứu
bắt đầu phát hiện những vấn đề, những điểm cần tiếp tục làm sáng tỏ cho các câu hỏi
vì sao? Như thế nào?. Nhà NCKH bắt đầu thực hiện chức năng quan trọng tiếp theo
của mình là giải thích.
Thực hiện chức năng này chính là tìm ra nguyên nhân của những vấn đề được
phát hiện, nhờ đó mà các phán đoán về các mối quan hệ bên trong hợp thành nội dung,
bản chất sự vật dần dần sáng tỏ.
1.2.3.3. Chức năng sáng tạo: NCKH không chỉ dừng lại ở giải thích, ở nhận
thức sự vật, hiện tượng, điều quan trọng hơn là phải nắm bắt được quy luật phát triển
của chúng, tìm kiếm các giải pháp và các phương pháp tác động có hiệu quả lên đối
tượng khảo sát… NCKH do đó có chức năng sáng tạo. Nó thể hiện ở việc thông qua
các phát minh, phát hiện về quy luật. Đó cũng có thể là những dự báo về những xu thế
vận động, biến đổi của chúng và những giải pháp mới và cách thức tác động được đưa
ra để tác động có hiệu quả hơn vào đối tượng.
1.2.4. Đặc trưng cơ bản của nghiên cứu khoa học.
1.2.4.1. Tính mới và kế thừa của nghiên cứu khoa học: Tìm hiểu, phát hiện,
khám phá những thuộc tính mới của sự vật, hiện tượng, từng bước hình thành những
kiến giải khoa học dưới dạng các địa lý, định luật, các học thuyết, các phương pháp
mới …là đặc trưng đầu tiên và quan trọng của NCKH. Chính vì vậy, NCKH được xem
như là một công việc không được lập lại những kiến thức như cũ.
Chính đặc trưng này, đòi hỏi người làm khoa học một sự say mê lao động, sáng
tạo ham hiểu biết và không tự thỏa mãn với những gì đã đạt được, luôn tìm cách làm
đầy đủ hơn, phong phú và chính xác hơn tri thức của mình về đối tượng được khảo sát.
7
Tuy nhiên, cái mới trong NCKH luôn đi đôi với tính kế thừa những tri thức đã
được tích lũy trước đó, đồng thời luôn bắt nguồn từ những đòi hỏi cơ bản, cấp thiết của
thực tiễn. Kết quả là cùng với thời gian, tri thức nhóm thứ nhất luôn luôn được củng
cố, ngày càng hoàn thiện hơn, tri thức nhóm thứ hai và thứ ba sẽ được đổi mới, hoàn
thiện và có thể được thay đổi bằng tri thức hoàn toàn mới.
1.2.4.2. Tính khách quan, tin cậy, trung thực của thông tin trong nghiên cứu
khoa học (tính thông tin ).
Thông tin trong NCKH là nguyên liệu đầu vào cho một quy trình xử lý, chế
biến để rồi sáng tạo ra một lượng thông tin mới về các thuộc tính bản chất của đối
tượng, đáp ứng mục đích nghiên cứu của mỗi đề tài cụ thể.
Thông tin trong NCKH có thể được chuyển tải, được chứa dụng với các vật mang
thông tin hết sức đa dạng và phong phú. Nhưng dù bất kỳ một vật mang thông tin nào,
thông tin khoa học cũng phải bảo đảm tính khách quan, tính tin cậy về nguồn gốc xuất
xứ, cũng như phải được thu thập, xử lý bằng các biện pháp phù hợp. Tôn trọng tính
khách quan của thông tin, bảo đảm tính cập nhật, tin cậy của thông tin, trung thực
trong thu thập, phổ biến thông tin được coi là nguyên tắc hàng đầu của NCKH.
1.2.4.3. Tính mạnh dạn, mạo hiểm trong nghiên cứu khoa học (tính mạo hiểm)
NCKH luôn phải hướng đến sáng tạo ra các giá trị tri thức mới, nên không phải mọi đề
tài đều thành công dễ dàng. Những thất bại, không thành công trong NCKH là điều có
thể xảy ra. Chính đặc trưng này đòi hỏi phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng trong quá trình
nghiên cứu. Không những là trong quá trình phát hiện, thẩm định vấn đề mà còn cả
trong lựa chọn, sử dụng các phương pháp khai thác, xử lý thông tin, trong công bố và
áp dụng các sản phẩm nghiên cứu.
1.2.3.4. Tính kinh tế và phi kinh tế trong nghiên cứu khoa học: NCKH suy cho
cùng là nhằm nhận thức và cải tạo thế giới. Đó là lợi ích, là sứ mệnh cao cả của
NCKH. Lợi ích kinh tế chỉ là một bộ phận cấu thành, dù trong rất nhiều trường hợp, nó
là cơ bản của lợi ích chung đó.
Tuy nhiên cũng không nên xem lợi ích kinh tế hay hiệu quả kinh tế theo nghĩa
hẹp. Ngay cả những đề tài nghiên cứu thuần túy có tính chất kinh tế- kỹ thuật thì việc
áp dụng các kết quả nghiên cứu cũng không chỉ có tác động thuần túy kinh tế - kỹ
thuật. Chính đặc trưng này mà hoạt động KH nói chung và NCKH nói riêng phải được
điều chỉnh bằng hệ thống pháp lý đặc thù, trong đó có lợi ích kinh tế, văn hóa, xã hội
8
nói chung của toàn xã hội, nâng cao trách nhiệm của xã hội, trách nhiệm công dân của
nhà nghiên cứu đối với việc sáng tạo ra và áp dụng các kết quả nghiên cứu.
1.2.3.5.Đặc trưng về tính độc đáo của cá nhân và sự trung thực của người
nghiên cứu trong nghiên cứu khoa học ( tính cá nhân).
Thành công hay thất bại của một công trình nghiên cứu khoa học phụ thuộc rất
lớn vào tài năng, sự kiên trì, say mê, khám phá sáng tạo của một hay một số cá nhân
người nghiên cứu. Sự khám phá, vượt trội của mỗi cá nhân trong mỗi giai đoạn lịch sử,
trong mỗi công trình nghiên cứu là điểm cuốn hút những cá nhân khác trong nghiên
cứu khoa học. Mặc dù đồng nghiệp và tập thể khoa học có vai trò quan trọng trong
phản biện, thẩm định, góp ý đối với các ý tưởng, các hướng nghiên cứu mà cá nhân đi
tiên phong đã vạch ra. Một nhà khoa học giỏi là một nhà khoa học luôn luôn chú ý
lắng nghe. Sẵn sàng tranh luận, biết bảo vệ ý kiến cá nhân, nhạy bén trong nhận dạng
bất đồng trong tranh luận với đồng nghiệp và tập thể để từ đó mà khám phá, sáng tạo
vươn lên khẳng định từng bước uy tín khoa học của mình.
Khoa học luận ngày nay coi uy tín nhà khoa học là một tập hợp các tiêu chí định
tính và định lượng nói lên phẩm chất, năng lực, cống hiến của một nhà khoa học cho
nhân loại. Các tiêu chí đó bao gồm: số lượng và chất lượng các công trình, các đề tài
nghiên cứu đã hoàn thành, được công bố hay áp dụng, số lượng, chất lượng và trình độ
học vấn các học viên do nhà khoa học đào tạo, trình độ chuyên môn được đào tạo,
được thừa nhận, phong tặng thể hiện qua học vị và chức danh khoa học, sức khỏe và
lòng say mê nghiên cứu, ý thức và trách nhiệm của công dân v.v…
1.2.5. Phân loại khoa học và nghiên cứu khoa học.
1.2.5.1.Phân loại khoa học: Tuỳ thuộc vào đối tượng nghiên cứu, có thể
phân khoa học thành nhiều loại khác nhau. Đối với nước ta, cách phân loại phổ biến
được sử dụng đó là cách phân loại của Các Mác và cách phân loại của UNESCO chia
khoa học ra thành 5 nhóm:
- Khoa học tự nhiên và khoa học chính xác.
- Khoa học kỹ thuật.
- Khoa học nông nghiệp.
- Khoa học y học.
- Khoa học xã hội và nhân văn.
9
Một số khoa học tự nhiên như: sinh học, hóa học, vật lý v.v… liên quan đến thế
giới vật thể và thế giới vật chất như: đất đai, cây cối, hóa chất, máu, điện v.v…Khoa
học tự nhiên là nền tảng của khoa học công nghệ mới và được quảng bá rộng rãi, công
khai. Khoa học kỹ thuật là những tri thức, biện pháp tác động để cải tạo đối tượng. Đó
là các công nghệ mới, những giải pháp kỹ thuật hữu ích mới trong lao động sản xuất,
và đời sống. Khoa học xã hội như nhân chủng học, chính trị học, tâm lý học, kinh tế
học v.v… liên quan đến nghiên cứu con người, tín ngưỡng, hành vi tương tác của họ
và các định chế ….đôi khi có một số người gọi đây là “khoa học mềm”.v.v…..
1.2.5.2. Phân loại nghiên cứu khoa học.
a. Nghiên cứu cơ bản: (Foundation Reseach ): là những hoạt động nghiên
cứu tìm ra những quy luật chung, hướng đi lớn. Kết quả của nghiên cứu cơ bản thường
là các phát minh, phát hiện (toàn bộ hoặc bổ sung mới). Sản phẩm của nghiên cứu cơ
bản thường được thể hiện dưới dạng các phạm trù, các định luật, công thức sơ đồ
v.v… phản ánh bản chất, các quy luật vận động, biến đổi của các đối tượng được khảo
sát.
Ví dụ: Nghiên cứu về nguồn gốc sự sống, tế bào mầm, nghiên cứu hệ thống giáo
dục quốc dân, nghiên cứu mô hình kinh tế, nghiên cứu vật lý hóa học v.v…
Nghiên cứu cơ bản do đặc tính nói trên đóng vai trò là tiền đề, điểm xuất phát
cho các nghiên cứu tiếp theo. Các kết quả nghiên cứu cơ bản thường tồn tại lâu dài với
thời gian. Chúng được hoàn chỉnh bổ sung suốt một thời gian dài trong khuôn mẫu
trình độ phát hiện mới ra đời, một cuộc cách mạng trong nhận thức diễn ra trong một
ngành hay một hướng nghiên cứu nào đó, những tri thức trước đó cũng chỉ có thể bị,
được coi là vượt qua, nó không thể bị coi là bị lọai bỏ, khi ấy nó trở thành tri thức cơ
bản, phổ thông, nằm trong mặt bằng trình độ dân trí v.v…
Nghiên cứu cơ bản được chia thành hai loại: nghiên cứu cơ bản định hướng và
nghiên cứu cơ bản tự do. Nghiên cứu cơ bản định hướng là nhắm vào một số mục đích
ứng dụng nào đó. Nghiên cứu cơ bản tự do (hay thuần túy) là những nghiên cứu cơ
bản chưa nhằm vào mục đích ứng dụng nào. Cùng với tiến trình lịch sử, số lượng và tỉ
trọng các đề tài thuộc nhóm nghiên cứu cơ bản tự do ngày càng giảm đi đáng kể.
b. Nghiên cứu ứng dụng: (Applied Reseach ):Đây là những nghiên cứu dựa trên
các kết quả nghiên cứu cơ bản nhằm tạo ra các giá trị tri thức mới về các giải pháp tác
10
động, các nguyên lý vận dụng quy luật, các nguyên lý công nghệ, nguyên lý chế tạo
sản phẩm mới v.v…
Công việc này thu hút đông đảo nhất các nhà khoa học với xu hướng là đưa các
kết quả nghiên cứu cơ bản vào phục vụ xã hội lòai người, không có họ mọi nghiên cứu
khoa học đều vô nghĩa. Tuy nhiên, ở đây các kết quả nghiên cứu vẫn còn trong phòng
thí nghiệm, nó còn một khoảng cách khá xa để đến với xã hội bởi vì tính kinh tế, tính
thuận tiện, tính địa phương cũng như khả năng sản xuất hàng lọat chư cho phép.
c. Nghiên cứu khai triển, phát triển: ( Development Reseach ):Nghiên cứu khai
triển, phát triển là những nghiên cứu dựa trên kết quả của nghiên cứu ứng dụng nhằm
sáng tạo những tri thức mới về công nghệ, giải pháp kĩ thuật mới, các quy định cụ thể
về phương pháp, cách thức tác động với đối tượng. Nghiên cứu triển khai được chia
thành 2 giai đoạn: triển khai thí điểm ( sản xuất thử ) và triển khai đại trà. Cả hai loại
này đều có chung mục đích là nhằm chỉnh lý, sửa đổi những thông số kỹ thuật, điều
chỉnh các tiêu chuẩn công nghệ đã được tính toán.
d. Nghiên cứu dự báo: (Forecast Reseach ).Càng ngày càng xuất hiện những
nhà khoa học nghiên cứu, phán đoán những vấn đề trong tương lai thuộc nhiều lĩnh
vực: xã hội, môi trường, dân số, kiến trúc v.v…Những nghiên cứu của họ xuất phát từ
những sự kiện hiện tại, sự tiến triển có lô gích, có hệ thống trong lịch sử, những tính
tóan và suy luận khoa học. Những công trình của họ ý nghĩa quan trọng cho xã hội loài
người, giúp cho con người có cái nhìn rộng hơn, xa hơn định hướng cho sự phát triển
xã hội của ngành mình…cũng như tránh những hiểm họa có thể có do chính con người
gây ra.
Những công trình nghiên cứu dự báo cũng có ý nghĩa đối với sự nghiệp giáo
dục, không chỉ riêng ở quốc gia nào. Bởi trong sự phát triển chung của xã hội, cũng
như trong sự đòi hỏi của chính sự nghiệp giáo dục. Hiện nay có rất nhiều các công
trình nghiên cứu dự báo về nội dung, hình thức tổ chức giáo dục, phương tiện và
phương pháp giáo dục trong tương lai v.v…
Trên đây là những loại hình nghiên cứu chủ yếu mà theo đó người quản lý có
thể phân chia các đề tài công trình do mình quản lý. Tùy theo chức năng năng, nhiệm
vụ của cấp quản lý, người ta có thể coi loại đề tài hay đề tài nào được ưu tiên v.v…
11
Chương 2
CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
GIÁO DỤC
2.1. Những vấn đề lý luận chung về phương pháp nghiên cứu khoa học
giáo dục.
Phương pháp dạy học, phương pháp giáo dục cũng như việc tổ chức dạy học đã
có cách đây hàng nghìn năm. Song những công việc đó trong một thời gian dài chỉ
dừng lại ở những tài năng, kinh nghiệm cá nhân, không thành vấn đề khoa học, cần
được nghiên cứu nghiêm túc. Không rõ nhà trường xuất hiện từ khi nào trên thế giới,
song có lẽ khi đó mới bắt đầu các nhà sư phạm nghiên cứu về công việc của nhà
trường. Lý do là:
- Nhà trường phải đáp ứng yêu cầu của giai cấp thống trị là tạo ra mẫu người phù
hợp cho giai cấp ấy.
- Nhà trường phải luôn luôn phát triển bởi sự phát triển xã hội (về tư tưởng), bởi
sự phát triển của khoa học (về nội dung dạy học), bởi sự phát triển của kỹ thuật (về cơ
sở vật chất, phương tiện dạy học).
- Nhà trường nói chung, các thầy giáo nói riêng, luôn muốn chứng tỏ mình có
khả năng đào tạo tốt nhất.
Nhiều tư tưởng về giáo dục (ở đây chỉ nói thuần túy về việc dạy người) đã được
đề cập từ cổ chí kim, từ tây sang đông, xuất phát từ những kinh nghiệm, cũng như triết
lý con người. Bắt đầu từ thế kỷ XI, việc nghiên cứu giáo dục mới thật sự trở thành
khoa học, được đánh giá từ thời điểm các nhà giáo dục được biết đưa tâm lý vào quá
trình dạy học. Dạy học và phát triển con người là hai mặt của đào tạo con người gắn
bó mật thiết với nhau. “Con người muốn trở thành con người phải có học vấn”
(Comenxki). Ngược lại, dạy học mà không chú ý đến sự phát triển con người thì khó
đạt hiệu quả cao.
Hơn nữa thế kỷ nay, khoa học sư phạm đã khẳng định được mình là một ngành
khoa học có nét đặc thù riêng, không những nó tận dụng mọi thành tựu của các ngành
khoa học xã hội, tự nhiên và kỹ thuật mà còn là nơi nghiên cứu để tạo ra những lớp
người trở lại làm việc, thúc đẩy các ngành khoa học ấy phát triển cho tới ngày hôm
nay.
2.2. Các hướng nghiên cứu của khoa học giáo dục.
12
Nhà trường trên thế giới phát triển rất nhanh, cho nên việc nghiên cứu khoa học
giáo dục ( KHGD) không bó gọn trong trường học nữa mà tự nó cũng thấy được quá
trình giáo dục, quá trình dạy học phải nằm trong một hệ thống nhất của một quốc gia,
chịu sự chỉ đạo trực tiếp của những người quản lý giáo dục. Hay nói cách khác, những
vấn đề vĩ mô của giáo dục phải được nghiên cứu cặn kẽ mang tính chiến lược quốc
gia. Vì vậy có 4 hướng nghiên cứu giáo dục hiện nay:
2.2.1. Nghiên cứu hệ thống giáo dục quốc dân
Trong sự phát triển của xã hội, cũng như sự tăng lên theo cấp số nhân về tri
thức, hệ thống trường, lớp cũng phải thay đổi theo. Nhu cầu của xã hội về số lượng
người được đào tạo, sự phát triển tâm sinh lý của học sinh…cũng làm cho các nhà
KHGD suy nghĩ, tìm tòi các loại hình trường, các dạng đào tạo.v.v…Đó là đề tài cho
hướng nghiên cứu 1.
2.2.2. Nghiên cứu quá trình giáo dục.
Quá trình giáo dục (QTGD) hiểu theo nghĩa hẹp bao gồm các hoạt động của
giáo viên chủ nhiệm cũng như việc tổ chức các phong trào thi đua lớp, trường. Hoặc
có thể hiểu theo nghĩa rộng: các mối liên kết giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong
việc xây dựng hoàn thiện 1 nhà trường (kể cả trong dạy học) song không đi sâu vào
phương pháp dạy học. Đối với giáo viên, việc nghiên cứu giáo dục học sinh cá biệt
(kém giỏi) và tổ chức phong trào của lớp chủ nhiệm là hai mảng đề tài thừơng gặp và
cần thiết nhất. Cơ sở cho các công trình nghiên cứu này là tâm lý học, các nguyên lý
giáo dục, các quan niệm về con người trong xã hội.
2.2.3. Nghiên cứu quá trình dạy học
Hướng này có nội dung phong phú. Quá trình dạy học là quá trình chính yếu
của mọi nhà trường. Các nội dung nghiên cứu sẽ là:
- Nghiên cứu nội dung dạy học.
- Nghiên cứu các phương pháp dạy học.
- Nghiên cứu sử dụng, cải tiến, chế tạo dụng cụ dạy học.
- Nghiên cứu đào tạo học sinh giỏi cũng như nâng kết quả học tập của học
sinh kém.
- Nghiên cứu các hình thức tổ chức dạy học v.v…
2.2.4. Nghiên cứu quản lý giáo dục
13
Hướng nghiên cứu đề tài này cũng mang tầm vĩ mô. Quản lý giáo dục không tốt
sẽ đem đến kết quả theo ý muốn đối với bất cứ nền giáo dục nào. Nội dung nghiên cứu
không những nhằm vào các trường học mà còn vượt ra ngoài chúng, nghĩa là nhằm
vào các cơ quan quản lý giáo dục, cũng như cán bộ quản lý giáo dục các cấp.
Theo sự phân chia trên, các nhà nghiên cứu giáo dục dễ dàng định cho công
việc nghiên cứu cũng như trao đổi thông tin với nhau. Tuy nhiên, mọi sự phân chia
trong khoa học, đặc biệt là khoa học giáo dục đều mang tính tương đối, dù cho cơ sở
phân chia là giống nhau. Có nghĩa là, có những đề tài liên kết hai hoặc nhiều hướng
nghiên cứu với nhau, đặc biệt là chương trình nghiên cứu mang tầm cỡ quốc gia.
Ví dụ: Khi nghiên cứu tìm hệ thống giáo dục phù hợp cho một quốc gia thì
không thể tách rời về cơ sở vật chất trong các trường học, nội dung sách giáo khoa,
cũng như không thể không nói đến đội ngũ quản lý giáo dục.
2.3. Đề tài nghiên cứu khoa học giáo dục:
Thực chất dề tài nghiên cứu khoa học giáo dục (KHGD) là một câu hỏi và tiếp
theo là giải đáp câu hỏi xuất phát từ mâu thuẫn nhận thức, nảy sinh từ lý luận hay thực
tiễn quá trình giáo dục mà trước đây chưa ai trả lời được. Cần chú ý:
Câu hỏi: không phải là câu hỏi thông thường để người trả lời vài ba câu là xong
mà là một tình huống, một vấn đề đòi hỏi phải có thời gian nghiên cứu, quan sát, tìm
hiểu…và cuối cùng là một loạt kết luận được rút ra. Cũng có thể câu hỏi đó đã được
giải quyết ở nơi khác, trong điều kiện khác, nhưng tại địa phương lại nảy sinh những
mâu thuẫn mới cần giải quyết tiếp cho phù hợp với điều kiện thực tiễn.
Nhiệm vụ của đề tài là giải đáp những điều chưa rõ, đem lại cái hoàn thiện hơn,
có thể phát hiện những quy luật hoặc những kết luận mang tính phổ biến, có thể phát
hiện cái mới hoặc cách làm nào đó phù hợp với quy luật hơn.
Tóm lại, một đề tài NCKHGD chỉ được chấp nhận khi nó hướng đúng vào giá
trị lý luận, thực tiễn nhất định và có ý nghĩa với giáo dục.
2.4. Các quan điểm cơ điểm về phương pháp luận nghiên cứu KHGD.
Một đề tài nghiên cứu KHGD muốn được chặt chẽ, mang tính thuyết phục thì
cần phải tuân thủ các mối quan hệ cũng như quy định sau (gọi là các quan điểm).
2.4.1. Quan điểm hệ thống - cấu trúc.
Một vấn đề nảy sinh trong bất cứ lĩnh vực nào, lĩnh vực nào đề được quy định
bởi hoàn cảnh, sự vật, sự việc bao quanh. Hay nói cách khác đi bản chất sự vật là
14
không riêng lẻ mà nó là một bộ phận của toàn thể, ta gọi đó là những chỉnh thể chứa
đựng vấn đề ấy. Điều đó cho thấy không thể “kéo riêng” sự việc, vấn đề ra để nghiên
cứu mà phải nghiên cứu nó trong một mạng lưới với các mối quan hệ ràng buộc, ta gọi
đó là hệ thống vấn đề nghiên cứu.
Khi phân tích sâu hơn, các mối liên hệ, sự phụ thuộc trên dưới (loại, hạng) mối
liên hệ hàng ngang, sự phụ thuộc bản chất, không bản chất...người ta thấy một cấu trúc
rõ ràng của cái gọi là mạng lưới đã được nói ở trên.
Như vậy, hệ thống vấn đề luôn mang tính cấu trúc và ngược lại cấu trúc sự vật
là nhằm thống nhất chúng trong một hệ thống tồn tại khách quan. Quan điểm này
nhằm chỉ đạo người nghiên cứu một sự nhất quán trong tư duy cũng như tôn trọng sự
tồn tại khách quan của vấn đề nghiên cứu. Mối quan hệ thống nhất, biện chứng giữa hệ
thống và cấu trúc còn cần được thể hiện ở cách trình bày vấn đề sau khi đã được giải
quyết (bài viết). Kĩ năng này sẽ được nhắc đến ở phần 3 của chương này.
2.4.2. Quan điểm lịch sử - lô gích.
Ở đây nói đến sự tồn tại tất yếu của mọi sự vật, sự việc trong diễn biến của thời
gian. Đó là lịch sử hình thành sự phát triển của vấn đề. Những thể hiện hiện tại của vấn
đề đều mang đậm dấu ấn của thời gian và môi trường (tự nhiên, xã hội). Lịch sử là
phức tạp là muôn màu, muôn vẻ và nhiều ngẫu nhiên, song vẫn bị chi phối bởi cái tất
nhiên. Cái tất nhiên ấy chính là lô gích khách quan của sự vật, sự việc. Không chú ý
đến tính lịch sử, tức là không tôn trọng sự hình thành, phát triển tất yếu của sự vật, sự
việc trong một quá trình, tức là không tôn trọng quy luật khách quan của tự nhiên và
xã hội. Cho nên, lịch sử chính là lô gích. Như Ăng Ghen đã viết: “Phương pháp lô gích
chẳng qua là phương pháp lịch sử, chỉ có khác là nó đã thoát khỏi những hình thức
lịch sử và những ngẫu nhiên, pha trộn. Lịch sử bắt đầu từ đâu, quá trình tư duy cũng
bắt đầu từ đó”.
2.4.3. Quan điểm thực tiễn.
Nguyên lý giáo dục cơ bản của Đảng ta là: lý thuyết gắn với thực tế. Điều này
có thể hiểu rằng, mọi quá trình nghiên cứu phải xuất phát từ thực tiễn và quan trọng
hơn, chúng phải phục vụ cho thực tiễn. Vì vậy, giá trị của một công trình nghiên cứu
KHGD được thể hiện ở sự kết hợp hài hòa giữa lý luận chung với kinh nghiệm của thế
giới và thực tiễn địa phương.
2.5. Các phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục.
15
2.5.1. Phương pháp quan sát.
2.5.1.1. Khái niệm: Phương pháp quan sát ( PPQS ) được dùng cho mọi
lĩnh vực nghiên cứu KHXH, kể cả một số lĩnh vực của khoa học tự nhiên, khoa học kỹ
thuật v.v…
- Trong KHXH: quan sát động tác lao động của người công nhân, quan sát
không khí học tập, quan sát các nút giao thông, quan sát tiếp thị v.v…
- Khoa học tự nhiên: quan sát sự phát triển của các loại cây, quan sát diễn biến
và kết quả thí nghiệm v.v…
- Khoa học kỹ thuật: quan sát kết quả xử lý ở các ruộng lúa, vườn quả, quan sát
vận hành máy móc v.v…
Trong khoa học sư phạm, PPQS tỏ ra có hiệu quả rõ rệt vì những ý đồ sư phạm,
hiệu quả sư phạm được biểu hiện rất rõ rệt trong nhà trường. Hơn nữa, việc tổ chức
quan sát không gặp nhiều khó khăn, mỗi trường hợp bản thân đã là môi trường sẵn có
cho người làm công tác giáo dục đến làm việc.
Vậy quan sát sư phạm là phương pháp thu nhập thông tin về quá trình giáo dục
trên cơ sở tri giác trực tiếp các hoạt động sư phạm cho ta những tài liệu sống về thực
tiễn giáo dục để có thể khái quát nên những quy luật nhằm chỉ đạo tổ chức quá trình
giáo dục tốt hơn. Phương tiện để quan sát chủ yếu là tri giác trực tiếp. Nó có khả năng
có thể dùng các phương tiện kỹ thuật hỗ trợ để tài liệu quan sát để được xem kỹ hơn
máy chụp hình, quay phim, thu âm v.v…
2.5.1.2. Chức năng của phương pháp quan sát sư phạm.
- Thu nhận thông tin, phát hiện vấn đề từ trong thực tiễn quá trình giáo dục.
- Kiểm chứng các lý thuyết về giáo dục loại kết quả của phương pháp thực
nghiệm sư phạm.
- Mở đầu cho một phương pháp NCKHSP khác.
2.5.1.3. Các công việc của quan sát sư phạm.
a. Xác định rõ mục đích quan sát: Việc xác định mục đích rõ ràng sẽ làm
cho người lập phiếu quan sát tập trung hơn vào nội dung quan sát, nghĩa là cần trả lời
câu hỏi quan sát để làm gì?
Ví dụ: Cùng một công việc là sự học tập của một lớp học sinh, nếu với mục
đích là quan sát sự chú ý của các học sinh trong lớp thì các quan sát sẽ tập trung sự chú
ý vào học sinh. Nhưng nếu với mục đích là quan sát phương pháp giảng dạy của thầy
16
sao cho thu hút sự chú ý học sinh thì các dữ liệu quan sát chủ yếu là ở người thầy, các
dữ liệu của học sinh ( ánh mắt, nét mặt…) là để chứng minh cho việc ghi chép hoạt
động của thầy nhằm thu hút sự chú ý của học sinh.
b. Xác định nội dung quan sát và phương pháp quan sát: Câu trả lời tiếp câu
hỏi: Quan sát cái gì, quan sát như thế nào và bằng cách gì? Nếu mục đích quan sát rõ
ràng thì nội dung quan sát sẽ dễ dàng được ấn định. Nội dung quan sát được thể hiện
qua việc lựa chọn đối tượng quan sát (mẫu quan sát), số lượng mẫu, định điểm thời
gian quan sát. Căn cứ quy mô đề tài và độ phức tạp của mẫu mã mà quyết định phương
pháp, phương tiện quan sát.
c. Chuẩn bị người đi quan sát.
d. Lập phiếu quan sát: Để được quan sát được chủ động và thống nhất giữa các
lần quan sát hoặc giữa những cộng tác viên quan sát, chủ đề tài phải thiết kế bảng yêu
cầu các nội dung cụ thể đi quan sát. Bảng này gọi là phiếu quan sát. Phiếu quan sát
được cấu trúc gồm 3 phần:
- Phần thủ tục: đối tượng, địa chỉ, ngày giờ, người quan sát v.v…
- Phần nội dung: đây là phần quan trọng nhất của phương pháp, nó quyết định
sự thành công của đề tài nhiên cứu. Có thể gọi đây là phần yêu cầu ghi chép, thu hình
cụ thể khi đi làm việc. Vì vậy các yêu cầu phải thật cụ thể, sao cho người đi quan sát
có thể đo, đếm ghi được bằng chữ, bằng số, “có” hoặc “không” (không mang tính chất
nhận định cá nhân ).
Ví dụ: - Có bao nhiêu người qua lại….?
- Bao nhiêu học sinh phát biểu ý kiến ?
- Thầy có thực hiện bước mở bài không ?
Tránh những câu hỏi không đếm được như:
- Học sinh có chú ý nghe bài giảng không ?
- Thầy giảng có nhiệt tình không ?
- Phần bổ sung bằng câu hỏi phỏng vấn: Phần này do chủ đề tài quyết định để
có thể xác định để có thể xác minh làm rõ hơn một số thông tin có thể chưa được rõ
khi quan sát. Ví dụ khi quan sát 1 giờ giảng, để biết được học sinh có ghi đầy đủ ý
thầy giảng trên bảng không có thể hỏi thêm: Em có nhìn rõ chữ trên bảng không ? Em
nghe thầy giảng có rõ không ? (về lời nói, ngữ điệu).
17
Mọi câu hỏi đều phải được ghi trước và yêu cầu người quan sát chỉ hỏi theo các
câu hỏi đã chuẩn bị trước.
e. Kiểm tra phương tiện quan sát.
f. Tập huấn cộng tác viên: Phương pháp và nội dung.
- Tiến hành quan sát: Khi tập huấn xong, người quan sát chỉ cần làm theo
mọi yêu cầu trong phiếu quan sát. Chú ý ghi nhận đầy đủ, trung thực.
- Xử lý: Tập hợp các phiếu quan sát, sắp xếp số liệu, phân tích để đi đến
một nhận định khoa học.
2.5.1.4. Hai kiểu quan sát.
- Quan sát kiểu “chụp hình”: là ghi nhận đầy đủ thông tin các hoạt động của đối
tượng theo thứ tự thời gian.
- Quan sát kiểu tổng hợp: ghi nhận có trọng tâm các hoạt động của đối tượng. Ở
kiểu này người quan sát cũng ghi các hoạt động theo thời gian nhưng có thể tổng kết
một số hoạt động cùng loại để tính bằng số sau khi kết thúc buổi quan sát.
2.5.1.5. Đặc điểm của phương pháp quan sát.
- Các hoạt động sư phạm là rất phức tạp, nên người quan sát phải hết sức tập
trung và trung thành với phiếu quan sát.
- Kết quả quan sát có thể bị chi phối bởi chủ thể như : tình trạng, sức khỏe, tình
cảm, tính chủ quan hoặc những ảo giác về tâm lý khi làm việc căng thẳng.
* Những điểm cần chú ý :
- Khi quan sát đối tượng được quan sát có thể được báo trước hoặc không, tùy
người chủ trì đề tài và nội dung quan sát.
- Tuyệt đối không ghi nhận những ý kiến có tính chất cá nhân vào phiếu quan
sát.
BÀI TẬP
Hãy lập phiếu quan sát cho các đề tài nghiên cứu, sau khi các đề tài đó xác định
được mục đích như dưới đây :
1) Quan sát sân trường để đánh giá chủ trương của nhà trường và ý thức của học
sinh về vệ sinh môi trường giáo dục.
2) Quan sát thầy ( cô ) giảng trong 1 tiết học để nhận xét các cách mà thầy ( cô )
thể hiện nhằm tập trung sự chú ý của học sinh vào bài học.
18
3) Quan sát một lớp học để có nhận xét về bầu không khí học tập của lớp ấy.
4) Quan sát để đánh giá sơ bộ chất lượng một buổi tự học của bạn mình ( hoặc em
mình, anh mình ) ở ký túc xá hoặc ở nhà.
5) Quan sát một buổi học của sinh viên một lớp nào đó ( hoặc lớp mình ) để sơ bộ
đánh giá kỹ cương học tập của lớp.
6) Quan sát việc học của sinh viên tại phòng của thư viện để nhận xét về thư viện,
về tình hình sinh viên sử dụng thư viện.
Chú ý : Cần tập trung vào nội dung của phiếu quan sát ( tức là yêu cầu người quan
sát cái gì ). Mỗi đề tài quan sát với mục đích trên, viết ích nhất 4 yêu cầu dưới dạng
câu hỏi.
2.5.2. Phương pháp điều tra trong giáo dục.
2.5.2.1.Khái niệm: Cũng như trong nghiên cứu KHXH, phương pháp điều
tra trong giáo dục cũng như tiến hành thường xuyên. Khác với phương pháp quan sát,
phương pháp này thể hiện qua việc tác động trực tiếp của người nghiên cứu vào đối
tượng nghiên cứu thông qua câu hỏi để có thông tin cần thiết cho công việc của mình.
Tùy theo tính chất quan trọng hoặc tính quy mô của đề tài nghiên cứu có thể hỏi trực
tiếp hoặc gián tiếp qua điện thoại, bưu điện hoặc bằng một vài câu hỏi, hoặc một bảng
câu hỏi.
2.5.2.2. Mục đích của phương pháp : phương pháp này nhằm mục đích thu
nhận số liệu, sự suy nghĩ, quan điểm v.v…trên một số lượng lớn đối tượng nào đó để
từ đó có thể phán đoán, tìm ra nguyên nhân, tính phổ biến, hoặc một biện pháp giải
quyết vấn đề trong giáo dục.
2.5.2.3. Hai đặc điểm chính của phương pháp điều tra trong giáo dục.
- Phương pháp được thực hiện trên số lượng lớn đối tượng.
- Tuy số lượng lớn đối tượng mang tính thống kê, nhưng kết quả chưa phải là
chân lý.Có hai yếu tố ảnh hưởng đến kết quả : chủ quan người trả lời và chủ quan
người nhận định của người nghiên cứu. Vì vậy trước tiên người nghiên cứu phải có
một số kĩ năng và kinh nghiệm cần thiết, đặt biệt là kĩ năng hỏi và óc suy luận thì mới
hạn chế được các nhược điểm ấy. Đôi khi đối với những vấn đề quan trọng cần phải tổ
chức thực nghiệm để kiểm chứng.
2.5.2.4. Hai loại điều tra.
19
- Điều tra cơ bản trong giáo dục : Học vấn chung, kết quả học tập, chỉ số thông
minh ở học sinh, quan điểm của giáo viên (về nhiều vấn đề), ý thức học sinh đối với
một số vấn đề trong xã hội v.v…Điều tra cơ bản thường được thực hiện bằng hệ thống
các câu hỏi.
- Trưng cầu ý kiến về một quan điểm, một cách làm trong giáo dục. Loại này
thường điều tra bằng phỏng vấn trực tiếp.
2.5.2.5. Các hình thức điều tra trong giáo dục.
- Phỏng vấn có chuẩn bị trước (bằng câu hỏi): Theo phương pháp này, nhà
nghiên cứu in sẵn bảng câu hỏi rồi giao cho đối tượng ( giao trực tiếp, giao qua cộng
tác viên, giao qua điện thoại ). Tất nhiên nhà nghiên cứu phải làm sao để đối tượng
hiểu được mục đích câu hỏi mà trả lời cho đúng và đúng sự thật.
- Phỏng vấn không, chuẩn bị trước: theo cách này, người nghiên cứu phải có
sẳn chủ đề để phỏng vấn để khi làm việc không hỏi lan man. Người phỏng vấn phải là
nhà nghiên cứu lão luyện để có thể ứng phó, tự điều chỉnh hướng trao đổi và đặc biệt
là có thể có ngay những câu hỏi sắc bén, khéo léo tế nhị. Phương cách này có thể thực
hiện cả bằng điện thoại.
- Nhóm trọng điểm (phương pháp não công – Brain storming). Đó là một kiểu
điều tra đặc biệt nhằm tìm kiếm những ý tưởng sáng tạo trong công việc. Tiến trình
của phương pháp làm này như sau : để giải quyết một khó khăn nào đó đang bị bế tắc,
nhà nghiên cứu tổ chức một cuộc trao đổi một nhóm các nhà chuyên môn (không nhất
thiết phải giống nhau). Những người này rất giàu trí tưởng tượng, họ được quyền đề
xuất bất kì lời giải nào, thậm chí những đề xuất ấy có vẻ như ngô nghê, không nghiêm
túc. Không ai được bình luận phê phán. Có 2 thư ký ghi trọn vẹn các cuộc trao đổi
(kéo dài vài giờ). Nhà nghiên cứu lấy các đề xuất ấy và tổ chức một cuộc trao đổi khác
trong nhóm các chuyên gia hỏi bình luận và nhận xét. Lại một lần nữa nhà nghiên cứu
lắng nghe họ nói để lọc lựa ý tưởng hay từ nhóm này.
Đối với cách này, nhà nghiên cứu phải đặt vấn đề thật giản dị dễ hiểu (ở nhóm
trước), biết lắng nghe, ít nói, đồng thời biết gợi ý, hướng các cuộc trao đổi đúng hướng
và đặc biệt là tìm các chuyên gia cho các nhóm khác nhau.
2.5.2.6. Các bước đi trong điều tra giáo dục.
20
a. Chọn mẫu điều tra : Mẫu điều tra là số lượng cá thể hoặc đơn vị được
chọn để trả lời câu hỏi nhà nghiên cứu. Vì yêu cầu của nhà nghiên cứu là phải khách
quan, bảo đảm tin cậy nên mẫu phải thỏa mãn:
- Chọn phần tử phải thật khách quan.
- Kích thước mẫu ( số phần tử trong mẫu ) phải đủ lớn.
Một số khái niệm cần biết về mẫu :
- Mẫu tổng: Tất cả mọi đối tượng mà nhà nghiên cứu hướng tới. Ví dụ :
trong một cuộc điều tra chất lượng sinh viên của trường Đại học Cần Thơ, thì mọi sinh
viên đều nằm trong mẫu tổng.
- Mẫu đặc trưng : mẫu bao gồm mọi phần tử có nét đặc trưng cần nghiên
cứu.
Việc chọn các thành viên nghiên cứu gọi là lấy mẫu.
* Lấy mẫu phi xác suất : thực chất bảng lấy mẫu này chỉ là để thử bảng câu
hỏi, nghiên cứu sơ bộ nên việc chọn mẫu vẫn mang tính ngẫu nhiên, số phần tử không
nhiều. Có các hình thức như :
* Lấy mẫu thuận tiện : không chú ý đến tính chất đại diện, chỉ cần thuận tiện
( dễ, gần, nhanh ) cho nhà nghiên cứu.
* Lấy mẫu tích lũy nhanh : chọn một số phần tử ban đầu, từ các phần tử ấy nhân
ra phần tử (thứ cấp). Ví dụ chọn 10 học sinh trong lớp, yêu cầu 10 học sinh đó mỗi em
chọn 3 em khác…Tùy theo số phần tử định nghiên cứu, có thể số phần tử « thứ cấp »
ấy lại tiếp tục chọn thêm nữa để đủ số lượng phần tử của mẫu.
* . Lấy mẫu xác suất : Lấy mẫu ngẫu nhiên thông thường.
Bằng cách rút thăm.
Bằng cách ngẫu nhiên.
Ngày nay, máy tính dễ dàng cho phép ta chọn mẫu ngẫu nhiên này.
*. Lấy mẫu hệ thống : Trường hợp này dành cho các đối tượng điều tra giống
nhau. Ví dụ : điều tra dân số có đối tượng là mọi người dân. Điều tra về học sinh một
trường có đối tượng là một học sinh đang học. Các bước tiến hành như sau :
+ Lập danh sách tất cả các phần tử hiện có.
+ Tùy theo kích thước mà chon bước nhảy k (tức là cách mấy số lấy một
số ).
21
+ Lấy các phần tử theo bước nhảy k với phần tử xuất phát là tùy ý cho đề
khi đã đủ kích thước mẫu.
* Lấy mẫu theo nhóm ngẫu nhiên :
Đôi khi cần điều tra trên diện rộng và nhiều địa bàn khác nhau, ta có thể chọn
mẫu theo kiểu này. Ví dụ điều tra về học vấn của mọi người dân của một tỉnh (mẫu
tổng thể (MTT), ta không thể phỏng vấn tất cả người dân trong tỉnh đó mà chỉ cho mẫu
ngẫu nhiên (mẫu nghiên cứu – MNC). Nếu chọn như các kiểu trên thì rất bất tiện. Ta
có cách chọn khác: giả sử tỉnh có 3 huyện, các huyện có số xã khác nhau (sơ đồ). Nếu
3 huyện có điều kiện tương đương nhau thì chúng ta có thể chọn 2 hoặc 1 huyện làm
MNC. Tuy nhiên không thể lấy tất cả các xã ra nghiên cứu. Vậy phải chọn ngẫu nhiên
các xã. Ở mỗi xã cũng chọn ngẫu nhiên ấp, rồi chọn ngẫu nhiên gia đình v.v…
Hình 1 : Lấy mẫu ngẫu nhiên theo sơ đồ hành chính
- Thiết kế bảng câu hỏi : Bảng câu hỏi là một hệ thống câu hỏi đưa ra để các
cá nhân, đơn vị trả lời. Kết quả trả lời sẽ được xử lý để có thể nhận định cho mục tiêu
đã được đề ra của đề tài nghiên cứu. Vì vậy vấn đề chính ở đây là các câu hỏi.
Hai loại câu hỏi thường dùng:
+ Câu hỏi đóng : là loại câu hỏi yêu cầu người trả lời chỉ đánh dấu vào khả
năng cho trước. Có nhiều câu hỏi đóng.
Loại có 2 khả năng trả lời: Bảng câu hỏi chỉ yêu cầu trả lời có hoặc không
Ví dụ: Bạn có đồng ý với nhận xét : « … » Đồng ý Không đồng ý
Bạn thành lập gia đình chưa ? Đã Chưa
Chú ý: Câu hỏi này phải đặt người trả lời vào hoàn cảnh rõ ràng (một trong hai
khả năng). Tránh các câu hỏi như: Bạn có thường … ( khó xác định chữ « thường » là
TỈNH (mẫu tổng thể )
Huyện 2 Huyện 3 Huyện 1
Xã a Xã b Xã y Xã z Xã e Xã f
22
khoảng nào để trả lời có hoặc không). Đôi khi câu hỏi nhận định người ta thêm khả
năng thứ 3 là không biết.
Loại có nhiều khả năng trả lời : Câu hỏi này dùng trong trường hợp người trả
lời phải đánh giá một vấn đề nào đó mà người nghiên cứu cần biết chính xác hơn 2 khả
năng là « tốt » hoặc « xấu ». Người trả lời gặp câu hỏi này sẽ thoải mái hơn khi trả lời.
Ví dụ: Theo bạn hình thức trình bày của cuốn SGK là :
Xấu Tạm được Đẹp Rất đẹp
Bạn đánh giá kỷ cương học tập trong trường bạn thế nào ?
Rất kém Trung bình Khá Tốt Rất tốt
Bạn cảm thấy an toàn thế nào nơi làm việc của bạn. Hãy khoanh tròn vào trong
những số dưới đây, chiều tăng là tốt.
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
+ Câu hỏi mở: Đây là loại câu hỏi mà người trả lời có thể nói (viết) vài câu để
giải trình một vấn đề nào đó. Mục đích của câu hỏi này là bổ sung cho các câu hỏi
đóng hoặc nhà nghiên cứu cần hiểu sâu hơn về tâm tư, tình cảm, thái độ của người trả
lời đối với vấn đề đang nghiên cứu.
Chú ý : Yêu cầu người trả lời không (nói) viết dài. Nếu là bảng câu hỏi chừa
chổ viết cho người trả lời sao cho đủ chứa khoảng 5 câu viết dài tối đa.
Ví dụ : Sau khi dùng câu hỏi đóng về vấn đề học tập của một lớp học mà giáo
viên chủ nhiệm là người trả lời, có thể hỏi thêm vài câu gợi mở :
- Bạn có biết thêm về thực trạng tình hình phức tạp của lớp.
- Truyền thống của lớp này (về học tập) từ năm học trước tới giờ như thế
nào.
- Các giáo viên chuyên môn đánh giá về lớp này thế nào.
* Những chú ý về đặt câu hỏi :
- Câu hỏi phải đơn giản, thích hợp với mục đích nghiên cứu, dễ trả lời. Tránh
đặt câu hỏi không cần thiết, câu hỏi hình tượng.
Ví dụ: + Bạn tốt nghiệp đại học năm nào (tốt) ?
+ Trường này có nhiều giáo viên lâu năm, có kinh nghiệm. Bạn có cho
rằng bạn thuộc giáo viên đó chăng ? (dài dòng không cần thiết)
+ Mọi người cho rằng bạn là cây đa, cây đề của trường, bạn có đồng ý
không (hình tượng không cần thiết) ?
23
Không dùng những từ ngữ, khái niệm khó hiểu, vượt quá khả năng người trả
lời, từ ngữ nước ngoài…
Ví dụ :
+ Bạn thấy bằng Diploma (hoặc master) khi nào ?
+ Hình như thí nghiệm của bạn là thí nghiệm mô phỏng ?
Câu hỏi phải đơn trị (chỉ có 1 cách trả lời).
Ví dụ:
+ Bạn có nâng cao trình độ, lấy bằng Thạc sĩ không ? (Nâng cao trình độ
không đồng nghĩa với lấy bằng Thạc sĩ. Đây là câu đa trị).
Không cần thiết đi vào đời tư của người trả lời, làm người ta khó nói.
Ví dụ :
+ Tránh hỏi phụ nữ về tuổi tác, đời tư.
+ Tránh hỏi trực tiếp (khi không cần thiết) về trình độ, thái độ bản thân,
khả năng v.v…như : Anh dạy có giỏi không ? Anh có yêu nghề không ?
Trong trường hợp cần thiết để biết những vấn đề ấy, cần chuẩn bị một số câu
hỏi « cầu vòng » làm cơ sở phán đoán.
+ Tránh hỏi những câu hỏi mà ta biết chắc câu trả lời.
+ Đồng lương giáo viên của anh có đủ sống không ? ( chắc chắn là không ).
+ Anh đi dạy có soạn giáo án không ? ( chắc chắn là có ).
Cấu trúc bảng câu hỏi.
Thông thường bảng câu hỏi có hàng chục câu hỏi. Bên cạnh các câu hỏi còn có
những lời giải thích để làm người ta hiểu rõ nội dung và các cách trả lời. Vì vậy, mỗi
bảng hỏi gồm nhiều trang. Nếu bảng câu hỏi không sạch, không sáng sủa thì nó sẽ làm
người ta lúng túng, đôi khi bực bội, điều đó ảnh hưởng nhiều đến kết quả điều tra.
Ngoài ra cần chú ý đến bảng cấu trúc của câu hỏi. Nó gồm 3 phần.
- Phần đầu : Gồm những vấn đề chung với nội dung tìm hiểu đối tượng (
tên, năm sinh, nơi ở v.v…). Ngoài ra phần mở đầu cũng nhằm mục đích khởi động cho
cuộc giao tiếp, định hướng cho giao tiếp.
- Phần chính : Những câu hỏi phục vụ mục đích điều tra.
- Phần kiểm chứng : Phần này có thể bao gồm 2 loại câu hỏi ngằm mục
đích làm rõ thêm cho phần chính hoặc đôi khi kiểm chứng lại vấn đề nào đó để xác
định đối tượng trả lời thật hay không thật.
24
b. Xử lý số liệu.
BÀI TẬP
1. Bạn muốn điều tra về tình hình giảng dạy của giáo viên. Một mục nhỏ
trong bảng điều tra là bạn muốn biết người trả lời là giáo viên giỏi hay không và
không thể hỏi trực tiếp. Bạn hãy đặt hệ thống câu hỏi (ít nhất là 3 câu) để sau khi họ
trả lời bạn có thể đạt được mục đích của mình và tại sao bạn phán đoán được ?
2. Cũng như nhiệm vụ trên nhưng nội dung khác, bạn hãy đặt hệ thống câu
hỏi để biết cô giáo trẻ đã lập gia đình hay chưa (bạn không thể hỏi thẳng cô có chồng
chưa ?)
2.5.3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm ( PPTNSP ).
2.5.3.1.Khái niệm : Thực nghiệm sư phạm là phương pháp thu nhận thông
tin về sự thay đổi số lượng, chất lượng trong nhận thức và hành vi của đối tượng giáo
dục do nhà khoa học tác động đến chúng bằng một số tác nhân điều khiển và được
kiểm tra.
PPTNSP được dùng khi đã có kết quả điều tra, quan sát các hiện tượng giáo
dục, cần khẳng định lại cho chắc chắn các kết luận đã được rút ra. PPTNSP cũng là
phương pháp được dùng khi nhà khoa học sư phạm, nhà nghiên cứu đề ra một phương
pháp giáo dục, một phương pháp dạy học mới, một nội dung giáo dục hay dạy học
mới, một cách tổ chức dạy học mới, một phương tiện dạy học mới v.v…
TNSP là so sánh kết quả tác động của nhà khoa học lên một nhóm lớp, gọi là
nhóm thực nghiệm, với một nhóm tương đương không được tác động (dạy, giáo dục
theo cách bình thường vẫn được giáo viên phổ thông sử dụng) gọi là nhóm đối chứng.
Để có kết quả thuyết phục hơn, sau một đợt nghiên cứu có thể đổi vai trò của hai lớp
cho nhau, nghĩa là nhóm thực nghiệm trở thành nhóm đối chứng và ngược lại. Vì là
thực nghiệm trên con người nên từ việc tổ chức đến cách thực hiện phương pháp và
lấy kết quả đều mang tính phức tạp của nó.
2.5.3.2. Đặc điểm của PPTNSP.
Xuất phát của phương pháp này là các giả thuyết (từ thực tế), các phán đoán,
(bằng tư duy, bằng việc đưa ra phương pháp dạy học mới, bằng việc sử dụng phương
25
tiện dạy học mới… ) để khẳng định, hoặc bác bỏ chúng. Điều này, các giả thuyết, giả
định hoặc phán đoán ) bắt buộc phải có trong bài viết ( xem phần, mục 5.3.0. )
Kết quả TNSP có thể là khẳng định (hoặc phủ định) cái mới, tìm ra lý thuyết
mới, quy luật mới hoặc một sự phát triển mới trong giáo dục. Vì đối tượng là con
người, là số đông nên số đo hoặc các mã hóa kết quả không hoàn toàn chính xác nên
cần được xử lý bằng thống kê. Vai trò của phương pháp quan sát và điều tra vẫn còn
được tiếp tục sử dụng ở đây, nếu nhà nghiên cứu cần một số liệu bổ sung hoặc kiểm
tra lần cuối sau khi PPTNSP đã có kết quả.
2.5.3.3. Tổ chức thực nghiệm sư phạm.
Các nội dung cần TNSP:
a. Nội dung nghiên cứu rút ra rừ các kết luận của quan sát sư phạm, của
điều tra.
Ví dụ:
- Khi quan sát một lớp học, nhà khoa học có nhận định rằng: học sinh lớp này
có nhiều vấn đề chưa tốt như mất đoàn kết, khó tổ chức sinh hoạt tập thể, không chăm
học …Tuy nhiên, ông cũng nhận thấy đa số học sinh rất hiếu động, một số học sinh có
khả năng về môn thể thao, nhà nghiên cứu nhận định: Nếu tổ chức cho em chơi thể
thao ngoài giờ (cả trong giờ giải lao), có chú ý vận động những em giỏi từng môn thể
thao làm người phụ trách thì có thể tập hợp học sinh này dễ hơn, dễ giáo dục hơn (đó
cũng là một giả thuyết).
- Khi điều tra về mức sống của gia đình học sinh ở thành phố, tất cả một trong
số câu trả lời cho biết 90% gia đình học sinh có đầu máy video và tivi. Nhà khoa học
phán đoán rằng có thể tận dụng phương tiện này để tổ chức cho học sinh học tập ở nhà
môn sinh vật, nâng cao kết quả học tập môn này. (Bằng các chương trình thường lệ
của đài truyền hình trung ương, bằng những cuốn băng học tập tự tạo… ).
b. Các ý đồ vận dụng phương pháp mới, phương tiện dạy học mới, các hình
thức tổ chức học tập mới.
Ví dụ:
Một thầy giáo sáng chế ra dụng cụ thí nghiệm mới, muốn khẳng định
rằng dùng nó có thể nâng cao chất lượng các vấn đề có liên quan đến sử dụng các dụng
cụ ấy.
Nhà phương pháp, muốn vận dụng một phương pháp dạy học mới.
26
c. Nhà nghiên cứu muốn khẳng định nội dung dạy học mới.
Ví dụ :
Một hệ thống sách tham khảo cho học sinh.
Thay đổi cấu trúc nội dung một bài học, một chương.
2.5.3.4. Các công việc củaTNSP :
a. Các công việc chuẩn bị thực nghiệm : Khi đã có giả thuyết cho đề tài
nghiên cứu, ví dụ : đề tài về việc sử dụng một phương pháp dạy học mới, ta tiến hành
hoạch định công việc và các bước tiến hành.
- Chọn nội dung, nơi thực nghiệm.
Sẽ thực hiện những bài nào, chương nào ?
Một trường hay nhiều trường, bao nhiêu lớp ?
Liên hệ với trường được chọn, thống nhất kế hoạch làm việc.
Giáo viên sở tại dạy theo giáo án nhà khoa học soạn ( nếu vậy phải thảo
luận, tập huấn việc thực hiện giáo án ) hay bản thân nhà khoa học sẽ trực tiếp dạy.
- Sọan giáo án và chuẩn bị phương tiện.
- Dự kiến phương án và chuẩn bị phương tiện.
- Dự kiến phương án đánh giá và phương pháp đánh giá cụ thể ( bao nhiêu
lần kiểm tra, hình thức và nội dung kiểm tra, lựa chọn cách tính toán…).
- Chọn lớp thực nghiệm và lớp đối chứng.
Trong điều kiện lý tưởng, nhà khoa học có cơ sở thực nghiệm riêng. Các lớp cơ
sở thực nghiệm đã được sắp xếp sẵn hoặc xin phép sở giáo dục đào tạo và trường phổ
thông, một số học sinh đủ (để thực nghiệm sư phạm) về cơ sở mình để tổ chức các lớp
thực nghiệm ( ngoài giờ học chính ở Trường phổ thông ) sự tương đương của 2 nhóm
được nhìn nhận ở các yếu tố sau :
- Số học sinh ( nam, nữ ).
- Học lực.
- Tinh thần học tập.
Ở điều kiện hiện nay, đòi hỏi điều kiện chuẩn như trên là phi thực tế. Ta phải tổ
chức thực nghiệm trên trường và lớp có sẵn, vì vậy các yếu tố trên được xem xét một
cách tương đối. Việc chọn 2 nhóm lớp diễn ra tương đối đơn giản, chủ yếu là trình độ
giữa 2 nhóm lớp không khác biệt nhau nhiều. Có thể chọn một số lớp trong khối có
27
học lực tương đương để chọn ra lớp thực nghiệm (vài lớp). Cũng cách chọn ấy, áp
dụng cho trường khác ( nếu cần TNSP nhiều trường ).
b . Tiến hành thực nghiệm ở lớp thực nghiệm và đánh giá : (theo kế hoạch đề ra
ở bước a ).
c. Xử lý kết quả bằng thống kê.
d. Viết bài.
2.5.3.5. Những yếu tố tác động lên kết quả của PPTNSP.
a. Nguồn nghiên cứu.
Ở đây muốn nói đến xuất phát điểm cho việc nghiên cứu bằng TNSP. Những sự
quan sát không khách quan, điều tra không chính xác, hoặc các nguồn tài liệu không
đáng tin cậy sẽ làm ta có những giả thuyết thiếu cơ sở. Đôi khi những nhận định chủ
quan về một sự kiện, một tình huống sư phạm cũng sẽ ảnh hưởng đến kết quả cuối
cùng.
b. Việc chọn nhóm nghiên cứu.
- Tri thức nhà nghiên cứu cũng là nguồn nghiên cứu, do vậy có thể nhà nghiên
cứu đặt giả thuyết không đúng hướng.
- Nhà nghiên cứu nhận định sau thống kê là chưa hợp lý, chưa khái quát.
2.5.4. Phương pháp tổng kết, rút kinh nghiệm.
Trong quá trình phát triển của nền giáo dục nước ta, các phong trào thi đua xây
dựng nhà trường thành trường tiên tiến, sự phấn đấu của giáo viên để trở thành giáo
viên giỏi luôn được nối tiếp. Nhiều công trình nghiên cứu viết về các trường tiên tiến
và giáo viên giỏi…đã được thực hiện nhằm phổ biến sâu rộng trong nước, nhân các
nhân tố ấy lên nhiều hơn. Nói cách khác, các đơn vị giáo dục, các cá nhân giáo viên có
thể học tập kinh nghiệm lẫn nhau, cách làm của các đơn vị cá nhân điển hình thông
qua các công trình nghiên cứu ấy. Phương pháp này gọi là phương pháp tổng kết kinh
nghiệm ( PPTKKN ).
Mục đích của PPTKKN là tìm hiểu bản thân, nguyên chất, nguyên nhân và cách
giải quyết tình huống giáo dục ở một đơn vị giáo dục, nghiên cứu con đường đi có
hiệu quả, tổng kết sáng kiến, kinh nghiệm dạy giỏi, tìm nguyên nhân thất bại của một
đơn vị giáo dục v.v…
Phương pháp này thường được thực hiện theo các bước sau đây:
- Chọn đối tượng tốt ( kém ) để nghiên cứu.
28
- Sưu tầm tài liệu : văn bản báo cáo, các bài viết về đối tượng nghiên cứu
(nếu có), phỏng vấn.
- Xây dựng mô hình lý thuyết (cấu trúc đơn vị, phân loại thành tích… )
- Phân loại, hệ thống để rút ra bài học kinh nghiệm, quy luật giáo dục …
- Viết bài.
Ví dụ : « Bài nghiên cứu về một giáo viên dạy giỏi. »
a. Xác định đối tượng nghiên cứu.
- Qua sự giới thiệu của Sở giáo dục và đào tạo.
- Qua sự giới thiệu của ban giám hiệu.
- Tìm hiểu sơ bộ qua một số giáo viên và học sinh.
b. Sưu tầm tài liệu.
- Lấy tài liệu qua tọa đàm với ban giám hiệu, tổ chuyên môn.
- Các bản báo cáo thi đua của cá nhân.
- Dư giờ, trắc nghiệm học sinh.
- Xem các thiết kế chế tạo đồ dùng dạy học và sản phẩm.
c. Mô hình một giáo viên dạy giỏi.
- Khả năng giảng dạy.
- Kết quả giảng dạy.
- Nâng cao trình độ.
- Số lượng sáng kiến.
d. Phân tích và rút ra kết luận.
e. Viết bài.
29
Chương 3
CÁC HÌNH THỨC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Viết bài là công việc mà bất kì nhà nghiên cứu nào cũng phải làm và càng
nghiên cứu nhiều thì càng phải viết nhiều. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để người đọc
có thể hiểu được nội dung, tư tưởng tác giả là điều không kém phần quan trọng như
việc nghiên cứu. Tuy nhiên không phải ai cũng viết tốt, viết đúng ngay mà phải luyện
tập. Chính vì vậy công việc nghiên cứu khoa học cũng phải được rèn luyện ( kể cả
nghiên cứu và viết ) từ đơn giản đến phức tạp, từ dễ đến khó. Thông thường có các
hình thức NCKH sau :
1. Tóm tắt khoa học.
2. Tổng luận khoa học.
3. Nhận xét khoa học.
4. Bài báo khoa học.
5. Báo cáo khoa học.
6. Luận văn, luận án.
7. Tài liệu giáo khoa, sách giáo khoa.
8. Tác phẩm khoa học ( công trình khoa học ).
Ở đây chúng ta chỉ tập trung vào nghiên cứu loại 1,2,4,5,6 và đây cũng là những
loại NCKH gần gũi, thực tế với người học. Riêng phần 5,6 sẽ được trình bày riêng ở
chương 4.
3.1. Tóm tắt khoa học ( TTKH ).
TTKH là nghiên cứu khoa học đơn giản nhất, trong đó tác giả viết ngắn gọn lại
nội dung một bài báo khoa học, một báo cáo khoa học hay một cuốn sách. Mục đích
của TTKH là tác giả muốn giới thiệu lại một công trình, bài viết hoặc báo cáo (gọi
chung là công trình ) của một người nào đó cho những người chưa đọc hoặc chưa nghe
nội dung ấy. Vì vậy, bài viết phải nói lên hết được nội dung chính của công trình
nhưng không dài dòng. Đặc biệt tóm tắt phải có đánh giá và kết luận về công trình
đó. Đây cũng chính là tính khoa học của bài tóm tắt, nó thể hiện trình độ chuyên môn
của tác giả làm TTKH.
Cần phân biệt TTKH một công trình với việc đi tìm « mục đích » của công
trình ấy. Như trên đã trình bày, trong TTKH các nội dung chính phải được nêu ra, kể
30
cả phần mở đầu của công trình và nhận xét của người viết tóm tắt. Mục đích của công
trình là sự khái quát toàn bộ công trình và có thể trả lời cho câu hỏi : tác giả thực hiện
công trình ấy để làm gì ? Khi viết mục đích phải tóm gọn trong 1 hoặc 2 câu. Vì vậy
bài tóm tắt phải thỏa mãn yêu cầu sau:
3.1.1.TTKH phải ngắn gọn nhưng đủ ý chính của công trình
Yêu cầu ngắn gọn ở đây không có nghĩa chỉ vài câu, song cũng không nên viết
dài. Tùy bài viết có thể tóm tắt 5 đến 10 câu. Tóm tắt 1 cuốn sách có thể viết dài hơn.
Cần chú ý khi làm TTKH :
- Phần nội dung các đoạn trong bài cần tóm tắt phải được rút ngắn lại sao cho
mỗi đoạn thành một câu giản đơn hoặc một câu phức tạp.
- Không đề cập đến các chi tiết vụn vặt trong bài viết. Nếu cần dẫn chứng cho
rõ câu tóm tắt thì chỉ ví dụ một vài chi tiết.
- Chắp nối các câu lại thành một bài viết có các ý liên tục.
3.1.2. Câu kết luận hoặc nhận xét của bài tóm tắt phải sắc bén và chắc chắn
về chuyên môn. Nó trả lời cho câu hỏi: Cái gì là mới ? Cái gì được tập trung vào thảo
luận nhiều ( nếu là một bài báo cáo khoa học) ? Cái gì sẽ còn tiếp tục nghiên cứu ?
3.1.3. Hình thức của một bài tóm tắt khoa học :
Tóm tắt : Bài : « ………………….. »
Tác giả :…………………..
( Tạp chí « ……… » ngày, tháng năm ; hoặc hội thảo ngày, tháng năm)
3.1.4. Nếu là tóm tắt bài viết của mình ( tự tóm tắt) thì phải nêu bật được cái
mới, đặt biệt nhất của bài viết ( mới, quan trọng, tự tìm ra ….)
3.1.5. Tóm tắt công trình, luận văn : đây là loại tóm tắt khác với bài báo.
Thông thường một người làm luận văn, tiểu luận, cần phải tóm tắt công trình của mình
(sau khi hoàn thành bản luận văn) để gởi đi nhận xét hoặc trao cho hội đồng bảo vệ
luận văn. Như vậy, bản tóm tắt luận văn phải là một bản luận văn thu gọn nhiều lần.
Những điều cần nói trong đó là : Lý do chọn đề tài, giả thuyết khoa học, những ý rất
cơ bản, rất vắn tắt của việc nghiên cứu lý thuyết ( công thức, phương trình …) phục vụ
cho thực nghiệm ( nếu là công trình có thực nghiệm) hoặc phục vụ điều tra…những
kết quả đạt được, những nhận xét, kết luận, đề xuất…
Nếu là luận văn tốt nghiệp cử nhân thì bản tóm tắt chừng 4-7 trang, các luận
văn thạc sĩ, tiến sĩ thì dài hơn, nhưng không quá 20 trang.
31
3.2.Tổng luận khoa học ( TLKH).
Đây cũng là dạng tóm tắt khoa học, nhưng nội dung đa dạng hơn : tóm tắt nội
dung hội nghị khoa học, một tập san khoa học v.v…Có 2 cách làm :
- Tổng luận theo bài viết : là thâu tóm các bản tóm tắt khoa học cho từng bài
trong tập san, hoặc từng báo cáo trong hội nghị khoa học. Tuy nhiên không phải bài
nào cũng tóm tắt như nhau. Để ngắn gọn và mang tính khoa học, tác giả có thể giới
thiệu vắn tắt những bài mà mình cho là không có gì đặc sắc, thậm chí chỉ ghi tên bài
và tác giả, còn những bài quan trọng, nội dung mới hoặc nội dung đáng quan tâm hoặc
đang bàn cãi….có thể tóm tắt đầy đủ như một tóm tắt khoa học ( mục 3.1.1).
- Tổng luận theo chủ đề : Theo kiểu này, người viết tổng luận có thể gom các
bài viết cùng một chủ đề để tóm như một TTKH. Mỗi chủ đề tóm tắt thành một bài,
các nội dung của các chủ đề được tiếp nối một cách hệ thống, trong đó ý của tác giả
nào viết tên của tác giả đó, các ý mới còn tranh luận cũng được đưa ra chắn chắc và
sắc bén.
Hình thức một tổng luận :
Tổng luận : Tập san hội nghị « ………… »
( Số), ngày tháng năm……
( Nội dung)
3.3. Bài báo khoa học.
3.3.1. Nội dung bài báo khoa học.
Bài báo khoa học là hình thức bài viết nhằm thông báo về một kết quả
nghiên cứu ( quan sát, điều tra, một kết quả thực nghiệm, một sáng kiến…..)
Có 2 yêu cầu đặt ra cho một bài báo khoa học là :
- Bài báo phải mang tính thuyết phục cao.
- Độ dài ngắn của một bài báo khoa học tùy thuộc vào nội dung công việc,
song nói chung không nên quá dài. Thông thường nơi xuất bản luôn yêu cầu một sự
ngắn gọn của bài báo khoa học, chủ yếu là mang tính thông tin.
Để đạt hai yêu cầu trên, trước khi chấp bút, tác giả nên lập sơ đồ cấu trúc bài
báo ( hoặc dàn bài). Mỗi bài báo luôn có 3 phần chính :
a. Phần mở đầu : ( Trong bài báo có thể viết phần mở đầu hoặc không, nhưng
đoạn viết đầu tiên luôn là phần mở đầu). Nội dung của phần này nêu lên mục đích của
bài viết, nó phải trả lời cho câu hỏi : Tại sao tôi viết bài này ? Đoạn mở đầu không nên
32
dài lê thê, chủ yếu là nhằm thu hút người đọc, gây tâm lý tò mò để tiếp tục đọc bài viết
của mình.
b. Luận chứng : Đây là đoạn quan trọng của bài báo khoa học. Luận chứng
gồm nhiều luận cứ. Vấn đề có thuyết phục hay không là nhờ các luận cứ. Cho nên
trong các luận chứng cần trình bày rõ ràng từng luận cứ ( sự kiện, hiện tượng, lần làm
thí nghiệm và kết quả v.v…)
Những chú ý khi viết luận chứng :
- Một bài báo dù là viết một vấn đề đơn giản cũng cần ít nhất ba luận cứ cho
một kết luận.
- Các luận cứ cho một kết luận cần được làm rõ, tập trung vào một tiêu điểm để
đủ khái quát cho kết luận ấy một cách vững chắc.
- Bài báo dài hay ngắn cũng do các luận cứ nhiều hay ít. Nếu nhiều luận cứ,
nhiều biểu bảng thì cần chọn lọc hoặc rút ngắn một cách hợp lý, đủ để thỏa mãn yêu
cầu về tính thuyết phục.
- Nếu một bài báo đưa ra nhiều kết luận quan trọng thì cần gom các luận cứ cho
một kết luận thành một đoạn.Có thể phân chia đề mục rõ ràng và dễ nhận thức (sơ đồ
c)
c. Kết luận chung của bài báo : Đoạn này mang hai ý nghĩa, thâu tóm kết luận
và đề xuất ý kiến nào đó và phải nói lên được tư tưởng của tác giả.
Ví dụ : Bài « Một số vấn đề phát triển bền vững trong sản xuất nông nghiệp
ở ĐBSCL ».( xem phụ lục)
Qua bài viết, người đọc có thể hiểu tác giả muốn nhấn mạnh yêu cầu phát triển
bền vững nói chung, cũng như phát triển bền vững trong sản xuất nông nghiệp ở
ĐBSCL nói riêng. Nếu phát triển mà không chú ý đến vấn đề bảo vệ môi trường, cân
bằng sinh thái thì sau này chúng ta phải trả giá cho sự phát triển đó. Để phát triển bền
vững trong sản xuất nông nghiệp ĐBSCL tác giả cũng đề xuất một số giải pháp mang
tính khoa học như: Giáo dục cho người nông dân ý thức bảo vệ môi trường trong sản
xuất nông gnhiệp, xử phạt thật nặng những hành vi xâm phạm môi trường, thành lập
lực lượng cán bộ chuyên trách để bảo vệ môi trường v.v…
3.3.2. Sơ đồ cấu trúc nội dung ( SĐCTND) một bài báo khoa học.
Có thể có các sơ đồ cấu trúc nội dung các bài báo đơn giản như sau :
- Bài báo điều tra đơn giản.
33
- Bài báo về kết quả thí nghiệm.
* Chú ý chung :
- Muốn viết một bài báo khoa học cần luyện tập như sau : đọc và phân tích nội
dung bài báo của một tác giả khác, lập SĐCT cho nó ( theo các sơ đồ trên). Trong mỗi
ô, tập tóm tắt các luận cứ, các mở đầu và kết luận cũng phải tóm tắt và ghi vào các ô
của nó. Với sơ đồ như vậy, ta có thể nhìn bao quát một bài báo khoa học. Ta có thể
nhận xét hình thức và nội dung của nó. Khi đã quen, việc viết một bài báo không còn
khó nữa, nếu đã có nội dung. Ta chỉ việc lập sơ đồ cho bài báo khoa học mà mình
muốn viết để quan sát khái quát tòan bài sắp viết, sửa các vấn đề lớn cũng trên sơ đồ
ấy và chấp bút.
- Những bài đăng tập san, hoặc kỷ yếu cần có bảng tóm tắt bằng tiếng Anh ( hoặc
ngoại ngữ cho phép) và tài liệu tham khảo ( xem mục 6).
BÀI TẬP
a. Lập sơ đồ cấu trúc bài báo khoa học ở phụ lục.
b. Thử tưởng tượng mình viết một bài báo KH về một vấn đề nào đó
và lập SĐCT cho nó.
Hướng dẫn : - Viết tên bài báo đó.
- Viết mục đích bài báo đó.
- Lập SĐCT bài báo đó.
Mở đầu
Luận cứ 1
Luận cứ 2
Luận cứ 3
Kết luận
Kết luận chung
Mở đầu
TN1 TN2 TN3 TN4
Kết luận chung
Mở đầu
1
2
3
KL1
1
2
3
KL tổng quát
Kết luận
chung
34
3. 3. Báo cáo khoa học.
Nếu so sánh bài báo KH với báo cáo khoa học ( BCKH) cùng một nội dung thì
chúng giống nhau ở cấu trúc, song khác nhau ở một bên thì nói, một bên thì viết. viết
thì giới hạn ở số trang, còn nói thì giới hạn bởi thời gian. Thông thường 01 BCKH
được dành cho khỏang thời gian 10 đến 15 phút. tạm phân biệt 2 lọai BCKH như sau :
- Báo cáo khoa học trong hội nghị, hội thảo KH.
- Báo cáo nghiệm thu công trình KH hoặc luận văn.
3.3.1. BCKH trong hội nghị, hội thảo khoa học.
Đây có thể coi là lọai hình trình bày lại BBKH của mình. Tuy nhiên nó không
phải là đọc lại bài viết mà nói trước hội nghị. Có 2 lẽ : Bài viết thì có cấu trúc rõ ràng,
nêu lên được ý chính của công việc, nhưng lại không có dịp đưa ra nhiều ví dụ, hoặc
giải thích cặn kẽ, chi tiết, còn bài BCKH có thể làm được điều đó. Nội dung bài báo
cáo gồm :
- Phần mở đầu : có thể lấy hoặc không lấy mở đầu trong bài viết, tùy hoàn
cảnh của bài báo cáo. Ví dụ trước đó đã có người trình bày một vấn đề nào đó có liên
quan đến nội dung của mình, có thể nói vài câu về bài báo đó rồi tiếp.
Tuy nhiên, chúng tôi lại có suy nghĩ theo hướng hơi khác một chút, chúng tôi
xin tham gia trao đổi cùng các đồng nghiệp trong hội thảo này v.v…Điều đáng chú ý
là phần mở đầu không dài nhưng thu hút cử tọa.
- Phần chính của báo cáo : Cũng như bài viết, tư tưởng của tác giả có thuyết
phục được hay không là ở phần này. Các luận cứ không nhất thiết phải được thể hiện
hết ở đây. Có thể có những luận cứ trình bày lướt qua, nhưng cũng có những luận cứ
phải trình bày rõ hơn bài viết. Ví dụ : các bảng số liệu, các câu hỏi điều tra quan trọng,
các đồ thị, các kết quả thí nghiệm v.v…bằng cách sử dụng đèn chiếu, Vidéo hay
Projetor.v.v…
- Phần kết luận : Nói một vài nhận định, triển vọng của vấn đề, vài kiến nghị
v.v…nếu bài viết mang tính thảo luận thì cần kết thúc khiêm tốn.
Ví dụ : báo cáo ……………
3.3.2. Báo cáo nghiệm thu luận văn, công trình nghiên cứu khoa học.
Về bài viết luận văn ( LV) chúng ta sẽ bàn ở mục 6. Tuy nhiên báo cáo luận văn
và công trình nghiên cứu KH ( gọi chung là báo cáo luận văn) có thể trình bày trước để
bạn đọc tham khảo.
35
Báo cáo luận văn dĩ nhiên không phải là đọc lại bản tóm tắt luận văn đã có và
cũng không giống như BCKH như đã trình bày ở trên. Một luận văn, một công trình
nghiên cứu KH cần giới thiệu không chỉ kết quả công việc mà còn nhiều vấn đề khác
liên quan, thậm chí mang tính thủ tục. Tính thủ tục là nhất thiết phải có ở một BCLV.
Dù sao đi nữa đây là một nội dung đào tạo đối với tác giả. Thời gian dành cho mỗi
BCLV chỉ 15 đến 20 phút ( không kể thời gian trao đổi, chất vấn). Vì vậy chọn cái gì
nói là điều quan trọng đối với tác giả, đôi khi có ảnh hưởng trực tiếp đến đánh giá đề
tài, cho dù bài viết và kết quả luận văn có thể được đánh giá cao thế nào đi chăng nữa.
Trình tự của một BCLV như sau :
- Mở đầu : Dùng đèn chiếu giới thiệu tên đề tài, người hướng dẫn và phản
biện.
- Đặt vấn đề : Tại sao nghiên cứu vấn đề này ( có thể nói tự do hoặc đọc
nguyên văn trong bảng tóm tắt để bảo đảm thời gian). Giả thuyết của đề tài là gì ? Các
bước làm đề tài, các phương pháp nghiên cứu v.v…
- Nội dung chính : Những công việc nghiên cứu và kết quả.
- Một số lý thuyết đã nghiên cứu làm cơ sở chính của đề tài.
- Nếu là đề tài quan sát, điều tra thì giới thiệu mẫu quan sát, điều tra, bảng
hỏi, kết quả công việc, nhận xét v.v….
- Nếu là công trình lý thuyết ( Văn học, lịch sử , Triết học, Kinh tế chính
trị học v.v…) thì trình bày các luận cứ, các công đoạn tính toán, các suy luận v.v…
- Nếu là công trình thực nghiệm thì trình bày việc chọn mẫu thực nghiệm
( TNSP), bảng số liệu, hình ảnh ( vẽ, chụp) phương pháp xử lý số liệu, suy luận v.v…
- Kết luận :
- Nhắc lại những giả thuyết ( dùng đèn chiếu) và khẳng định các giả
thuyết đó.
- Những khó khăn, sai số và biện pháp khắc phục.
- Kiến nghị ( nếu có) hứa hẹn tiếp tục nghiên cứu.
* Chú ý :
- Tất cả những nội dung báo cáo phải chuẩn bị trên giấy trong ( transpancy) hay
chiếu Projetor để tiết kiệm thời gian. Những bảng giấy trong hay thiết kế Powerpoint
này cần được chuẩn bị riêng. Nếu là văn bản thì cần chú ý tóm tắt nội dung cần trình
bày và cỡ chữ phù hợp chứ tuyệt nhiên không phải là bảng sao chụp các trang viết.
36
Những bảng số liệu, đồ thị có thể chụp nguyên trong luận văn, hoặc những hình ảnh
thêm bên ngoài cho bài báo cáo thêm sinh động, phong phú.
- Một BCKH, đặc biệt là BCLV luôn có chất vấn của Hội đồng nghiệm thu (
Hay hội đồng chấm luận văn) hoặc trao đổi giữa các tác giả và cử tọa. Vì vậy khi trình
bày, tác giả không cần nói tỉ mỉ mọi chuyện mình đã làm, cũng như không cần dừng
lại lâu ở trình chiếu, sơ đồ, biểu bảng. Khi trao đổi, người nào cần chỗ nào, ta chiếu lại
cho rõ để lý giải thêm.
37
Chương 4
CÁCH THỨC TIẾN HÀNH MỘT LUẬN VĂN, MỘT ĐỀ TÀI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
4.1. Khái niệm về luận văn, đề tài nghiên cứu khoa học.
4.1.1. Luận văn : là một hình thức NCKH, báo cáo đề tài nghiên cứu của
mình khi tác giả kết thúc cấp học. nếu nói về hình thức trình bày thì các khái niệm :
Luận văn cử nhân, luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ là như nhau. Nhưng nếu phân biệt
về nội dung thì có sự khác nhau nhiều giữa 03 hình thức trên về chất.
- Luận văn cử nhân: ( LVCN) là bài nghiên cứu của sinh viên năm cuối cùng
của khóa học. Mục đích của luận văn là tạo điều kiện cho sinh viên làm quen công tác
nghiên cứu KH ở cấp độ tổng hợp lý thuyết, vận dụng lý thuyết đã học vào một công
việc cụ thể, thao tác nhiều trong phòng thí nghiệm, hoặc có thể cho ra một sản phẩm
nhỏ ( bằng ngôn ngữ : sưu tầm có hệ thống lý thuyết đã học, những phát hiện từ thực
tế bằng vật chất, bằng chế tạo, lắp ráp thí nghiệm, sưu tầm mẫu vật cây, con …) Để
hoàn thành luận văn, sinh viên cần tự lực nhiều, nhưng luôn có sự giúp đỡ của Thầy
hướng dẫn, cách làm, cách tìm tài liệu v.v…
- Luận văn thạc sĩ ( LVThS) : là bài nghiên cứu của học viên tốt nghiệp cao
học. Nội dung luận văn thạc sĩ mang tính chất nghiên cứu nhiều hơn, tự lực nhiều hơn,
năng lực tìm kiếm, sử dụng thiết bị tốt hơn so với LVTNĐH.
- Luận án tiến sĩ ( LÁTS) : có thể coi là một công trình khoa học độc lập, gần
như tác giả tự lực hoàn toàn, thực hiện theo hướng mà thầy đã vạch ra. LÁTS đánh
dấu bước ngoặt của người làm NCKH, nó chứng tỏ tác giả có khả năng làm khoa học
độc lập. Không những thế, tác giả còn có khả năng hướng dẫn hoặc chủ trì một công
việc khoa học quan trọng sau này.
Các luận văn trên có khác nhau nhiều về giá trị khoa học, mức tự lực …nhưng về
hình thức trình bày thì không khác nhau.
4.1.2. Công trình khoa học ( CTKH)
Thực tế công trình khoa học được đánh giá từ một bài báo trở lên, kể cả các lọai
luận văn. Song ở đây, chúng ta tạm phân biệt CTKH với các lọai luận văn để so sánh
về mặt ý nghĩa và hình thức trình bày. Công trình khoa học xuất phát từ ý tưởng của
tác giả, hoặc từ một sự « đặt hàng » nào đó. CTKH xuất phát từ thực tế và thực sự
38
phục vụ thực tế, giải quyết một vấn đề khó khăn trong thực tế. Cho nên CTKH không
còn là một sự tập dượt nữa.
Chính vì vậy, một số nhà khoa học trình bày CTKH chỉ chú ý vào một công
việc cụ thể, ít trình bày lý thuyết và đôi khi họ cũng ít quan tâm đến hình thức trình
bày. Nói như vậy, để dưới đây, chúng ta trình bày một luận văn nói chung, song cũng
không có nghĩa là một CTKH thì không cần để ý đến hình thức trình bày. Dù sao một
luận văn là một bài học nên hình thức vẫn được coi trọng.
4.2. Quá trình thực hiện một luận văn.
4.2.1. Chọn đề tài: Luận văn tốt nghiệp đại học là công trình đầu tay của
sinh viên và nó có xu hướng chuyên sâu hơn trong quá trình học tập ở đại học. Luận
văn thạc sĩ và tiến sĩ càng đi sâu hơn. Vì vậy, chất lượng luận văn phụ htuộc nhiều vào
khả năng, sở trường, lòng say mê cũng như nhiều yếu tố khác. Do đó khâu chọn đề tài
rất quan trọng.
Để chọn đề tài, người làm luận văn phải trả lời 10 câu hỏi sau :
1. Đề tài có mới mẻ không ? « mới » ở đây là mới so với bậc học của mình : Vấn
đề mới, hướng đi mới, khám phá mới ( LÁTS) chẳng hạn.
2. Mình có thích đề tài này không ? Đề tài dù rất hay, song nếu không phù hợp
với sở trường của mình, mình không thích nên chọn đề tài khác.
3. Khả năng có đủ làm đề tài này không ? Đôi khi câu hỏi 2 và 3 cần phải nhân
nhượng, dung hòa nhau. Mình thích mà không có khả năng thì cũng khó thành công.
4. Lợi ích của đề tài ? Nếu là luận văn cử nhân thì nên xem lợi ích cho bản thân
là chính, đó là trị thức và cách làm việc. Các lọai luận văn khác, đặc biệt là luận án tiến
sĩ cần xem xét thêm ở lợi ích kinh tế, tính thực tiễn.
5. Có tài liệu tham khảo không ? Sách, báo, tạp chí, thực tiễn địa phương v.v…
6. Thời gian có đủ để làm đề tài không ? Điều này phải hiểu ngược lại, với thời
gian cho phép, nội dung nghiên cứu có quá nhiều không, cần giới hạn thế nào ?
7. Giới hạn đề tài thế nào .
8. Dùng phương tiện nghiên cứu có đủ không ?
9. Dùng phương pháp nghiên cứu nào ?
10. Ai hướng dẫn ? Đối với luận án TS thì câu hỏi 10 vô cùng quan trọng. Trình
độ, phong cách của thầy có tác dụng đến nghiên cứu sinh.
39
Chú ý : Nói rằng đề tài không có nghĩa là tên luận văn. Đề tài là một ý tưởng,
một hướng đi cho công việc nghiên cứu khoa học. Cũng có khi tên đề tài ( chính xác)
cũng là đề luận văn mà thầy giao cho. Tuy nhiên, thông thường người ta làm xong đề
tài mới cấu trúc chính xác tên của nó.
4.2.2. Sắp xếp công việc.( lập kế họach)
Khi đã có ý niệm đề tài, việc lập lịch công việc là tất yếu đối với người nghiên
cứu. Đặc biệt luận văn tốt nghiệp lại có rất ít thời gian nghiên cứu ( 1 năm học), cho
nên cần sắp xếp lịch chi tiết theo từng tháng. Để có lịch công việc tốt và chính xác, cần
đi các bước phụ sau :
- Quyết định đề tài ( hướng đi cụ thể ).
- Xác định cho được các mục tiêu mà mình phải đạt được.
- Biến các mục tiêu thành giả thuyết ( xem 6.3).
- Xác định và định nghĩa ( hoặc giới hạn) các thuật ngữ chủ yếu dùng
trong đề tài ( trong quá trình làm có thể bổ sung các thuật ngữ khác).
- Lập danh sách các tài liệu tham khảo.
- Dự kiến quan sát, làm thí nghiệm ( làm gì ? làm thế nào ? cần dữ kiện
nào ? Ghi chép thế nào ? Phân tích thế nào ?)
- Sắp xếp lịch làm việc.
4.2.3. Sưu tầm tài liệu và chuẩn bị thiết bị, phương tiện nghiên cứu.
4.2.4. Khai thác tài liệu, lập phiếu nghiên cứu.
4.2.4.1. Đọc tài liệu.
- Không phải sách nào cũng phải đọc hết cuốn. Hãy tìm mục lục đọc hết những
vấn đề cần thiết cho việc nghiên cứu.
- Đọc lướt để lấy nội dung ghi vào phiếu, sau này sẽ đọc lại.
- Một số nội dung liên quan trực tiếp, hoặc làm phương tiện trực tiếp cho công
việc nghiên cứu thì đọc kỹ, ghi phiếu chi tiết hơn.
4.2.4.2. Phiếu nghiên cứu: là những giấy tờ nhỏ, giống nhau đủ để ghi tóm
tắt nội dung vấn đề đã đọc, địa chỉ ( trang nào ? tài liệu nào). Có thể phân lọai các
phiếu ấy theo ý đồ của mình để vào ô riêng hoặc phong bì riêng. Sau này khi cần có
thể nghiên cứu kỹ hơn ( đọc lại) hoặc đưa các nội dung ấy vào bài viết ( có chú thích
tác giả và mục lục tài liệu tham khảo).
40
* Ví dụ : Đề tài : « Tổ chức dạy học khám phá môn Giáo dục công dân ở
trường trung học phổ thông ».
Các ô, phiếu có thể xếp lọai như :
- Tâm lý : Tư duy - Tích cực hóa - Trực quan hóa – Tâm lý học sinh.
- Dạy học : hoạt động – khám phá - dạy học nêu vấn đề - câu hỏi ….
- Tổ chức dạy học : trao đổi - Thảo luận nhóm.
- Giáo dục công dân : bài tập - vấn đề - nội dung.
Ví dụ : ô phiếu ( ô vấn đề).
Việc ghi phiếu như trên chủ yếu nghiên cứu lý thuyết, sau này sẽ tìm lại khi
viết luận văn. Cũng có thể lập phiếu ghi số liệu, mẫu vật.v..v..Lọai phiếu này có nội
dung nhiều hơn nên kích thước sẽ lớn hơn và sẽ ghi trong quá trình thực hiện đề tài.
4.2.5. Thực hiện đề tài.
Các bước đã vạch ra ở mục 4.2. bây giờ mới được tiến hành từng công đoạn.
Trong quá trình làm việc, có thể điều chỉnh do kết họach phát sinh. Thậm chí có thể
thay đổi hẳn kế họach theo hướng mới. Tuy nhiên, mọi sự thay đổi đều phải cân nhắc
theo thời hạn làm đề tài. Điều chính yếu là phải nghiêm túc thực hiện hoàn thành công
việc theo kế họach.
4.2.6. Trình bày luận văn ( sẽ trình bày chi tiết ở mục 4.4)
4.2.7. Viết tóm tắt luận văn ( xem phần 3.1 chương 3)
Những tóm tắt này sẽ gởi đi nơi nào tham khảo ý kiến các thầy cùng ngành.
Khi bảo vệ phát các bản tóm tắt cho mọi người trong cử tọa bởi vì không có điều kiện
đọc công trình của mình. Đặc biệt đối với LÁTS, bản tóm tắt phải đóng thành tập gởi
các giáo sư đầu ngành để xin nhận xét trước khi bảo vệ
4.2.8. Bảo vệ luận văn.
4. 3. Giả thuyết khoa học.
Nêu vấn đề Khái niệm ( Sách…….trang..) ( Bài….Tạp chí…) ( Tác giả….) ( Nhà xuất bản, năm…..)
Nêu vấn đề Cơ sở dạy học nêu vấn đề ( Sách…….trang..) ( Tác giả….) ( Nhà xuất bản, năm…..)
Nêu vấn đề Kích thích tư duy ( Bài….Tập san…) ( Tác giả….) ( Nhà xuất bản, năm…..)
41
4.3.1. Khái niệm : Trước đây các nhà bác học, tìm kiếm để khám phá một
điều mới mẻ đều xuất phát từ một ý định, một tiên đoán mạnh mẽ và nhất là có mục
đích rõ ràng cho công việc. Đôi khi cũng bằng phương pháp « thử » và « sai ». trừ
trường hợp ngẫu nhiên, tất cả đều có nghi vấn khi bắt đầu công việc. Chính những
nghi vấn đó đã thúc đẩy họ, cùng với niềm tin và năng lực của họ, họ đã thành công
trong công việc nghiên cứu của mình.
Ngày nay, lượng tri thức của con người đã vô cùng sâu và rộng đã là cơ sở
vững chắc cho nhiều giả định, cũng như giải quyết được những giả định ấy. Có thể nói
rằng « giả định » là nghi vấn, là đoán trước một kết quả, là mở đầu cho sự thành công.
Giả thuyết khoa học chính là một cấu trúc hoàn chỉnh về mặt ngôn ngữ cho một giả
định.
Một đề tài khoa học mà không có những giả định khoa học thì công trình
nghiên cứu chẳng qua là sự tích lũy những thông tin rời rạc, không mang ý nghĩa khoa
học. Nhà NCKH trước khi bắt đầu công việc mà không có giả thuyết thì chẳng khác
nào một người mò mẫm trong đêm không có mục đích, may ra là nắm một cái gì đó và
cũng chẳng biết nó quý giá hay thứ bỏ đi.
Vậy, một đề tài NCKH luôn phải xuất phát từ một hoặc vài giả thuyết khoa học.
Giả thuyết khoa học là một quan niệm chưa được chứng minh trong khoa học, có
thể bổ khuyết những thiếu sót hoặc thay thế những cái lỗi thời trong hệ thống khoa
học, là giai đoạn trước của sự nhận thức, hay một hình thức phát triển của khoa
học và có thể trở thành những lý luận khi được xác nhận đầy đủ trong thực tiễn.
4.3.2. Phương pháp cấu trúc giả thuyết.
Mỗi đề tài đều có mục đích rõ ràng. Mục đích là cái phải đạt được ở cuối đề tài.
Có thể mục đích đề tài được thực hiện từ một giả giả thuyết, nhưng cũng có những đề
tài được thực hiện bởi nhiều giả thuyết, nghĩa là hợp bởi nhiều « cái tiêu » phải đến.
Trong trường hợp đó, mục đích của đề tài chỉ có thể đạt được khi tác giả đã tới các tiêu
ấy.
Vì vậy, muốn cấu trúc giả thuyết khoa học, trước tiên phải xác định mục tiêu
của đề tài. Nhà nghiên cứu có thể thấy trước được rằng : « Nếu tôi có những điều kiện
nhất định thì tôi sẽ đạt đến đích, tức là đạt được mục tiêu đề ra ». Điều giả định ấy
sẽ thành giả thuyết.
42
Ví dụ : « Nghiên cứu, thử nghiệm phương pháp dạy học khám phá trong giảng
dạy môn Giáo dục công dân ở trường trung học phổ thông ».
* Đề tài nhằm chứng minh rằng có thể đưa phương pháp dạy học khám phá vào
dạy môn Giáo dục công dân ( GDCD) ở trường trung học phổ thông. Vấn đề đặt ra cho
đề tài này là : phương pháp dạy học mới đã được sử dụng ở các môn khoa học khác,
liệu có thể áp dụng cho môn GDCD không ? Nhà nghiên cứu tiên đoán : Có thể thay
đổi một vài cách thức, lựa chọn nội dung phù hợp và đặc biệt là chú ý nguyên tắc « từ
dễ đến khó, từ ít đến nhiều… » để phù hợp với học sinh từng vùng thì sẽ vận dụng
được phương pháp này vào giảng dạy môn GDCD ở trường THPT.
* Giả thuyết khoa học : Phương pháp dạy học khám phá là khá hiệu quả đối với
các môn khoa học khác. Nếu đưa nó vào thực hiện đối với môn GDCD ở những nội
dung phù hợp, thay đổi cách tổ chức lớp học sao cho phù hợp với hoàn cảnh nhà
trường Việt Nam và đặc biệt là mức độ vận dụng theo nguyên tắc kết hợp giữa truyền
thống và hiện đại v.v..thì có thể áp dụng đối với môn GDCD ở trường THPT.
Như vậy, nhà nghiên cứu cần tìm kiếm từ lý thuyết và thực tiễn những điều kiện
trên rồi tổ chức thực nghiệm để chứng minh điều tiên đoán trên ( giả thuyết) đúng.
Tuy nhiên, nhà nghiên cứu muốn thực hiện đại trà ở trường THPT, cần một số
điều kiện khác nữa như : khả năng tập huấn giáo viên, khả năng biên sọan tài liệu tham
khảo về nội dung và phương pháp, khả năng được ủng hộ ở trường THPT ở các địa
phương v.v…đó là « cái tiêu » để đi đến mục đích cuối cùng thì có thể biến các điều
kiện giả định đó thành những giả thuyết khoa học. Như thế trước tiên nhà nghiên cứu
chứng minh rằng có thể thực hiện những giả định đó. Kế đến là tổ chức thực nghiệm
sư phạm để chứng minh cho giả thuyết cuối cùng ( đạt mục đích của đề tài).
4.4. Hình thức trình bày một luận văn.
4.4.1. Ý nghĩa của một luận văn : làm luận văn là một trong những nội
dung quan trọng trong chương trình mà tác giả đang học và bản luận văn là kết quả
của nội dung đào tạo đó. Nó luyện tập cho người học không những chỉ tìm kiếm nội
dung khoa học mới mà cả về nghệ thuật trình bày để trong tương lai tác giả có thể tự
mình bắt tay vào NCKH và viết công trình của mình.
Luận văn không chỉ là một đề tài NCKH khám phá cái mới của tác giả mà còn
là một công trình để người khác ( trong chuyên môn) có thể đọc và hiểu toàn bộ suy
nghĩ quá trình làm việc cũng như kết quả của tác giả. Nó đánh dấu mốc trưởng thành
43
về mặt chuyên môn của tác giả, kể cả cách lập luận, sử dụng ngôn ngữ v.v…Do đó
hình thức trình bày cũng để lại ấn tượng tốt đối với người đọc mà trước hết là người
hướng dẫn và phản biện.
4.4.2. Trình bày luận văn.
4.4.2.1. Cấu trúc chung : Luận văn gồm 3 phần chính : Mở đầu, trình bày
công việc nghiên cứu và kết luận. Gọi là « phần » vì trong mỗi phần có ý nghĩa riêng
về mặt lô gích chứ không có nghĩa là dung lượng của chúng là tương đương. Mỗi phần
có thể có nhiều mục, chương, đặc biệt là phần hai của luận văn.
Ngoài ra người viết luận văn đừng bao giờ quên những phần phụ như : lời cảm
tạ ( ở đầu luận văn), danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục ( nếu có) và mục lục.
4.4.2.2. Mục đích và nội dung các phần chính :
a. Phần mở đầu : Phần mở đầu không có ý nghĩa lớn về mặt khoa học,
nó mang nhiều tính lô gích và thủ tục. Song « phần mở đầu » không thể thiếu được,
bởi vì về phía tác giả nó thể hiện được ý thức làm việc khoa học của tác giả, cũng như
sự tôn trọng tác giả đối với người đọc. Về phía người đọc nó làm cho họ hiểu được
mục đích của công trình đó, ý đồ của tác giả, cách làm việc của tác giả và những nội
dung chính, « cái tiêu » của công trình. Nội dung phần mở đầu tối thiểu bao gồm :
- Lý do chọn đề tài : thể hiện mục đích của công trình.
- Lịch sử nghiên cứu vấn đề : trình bày khái quát các kết quả đã được nghiên
cứu ( theo hướng công trình) trong và ngòai nước. Mục này yêu cầu rất nặng đối với
luận văn thạc sĩ và tiến sĩ, nó chứng tỏ sự hiểu biết nhiều và sâu của tác giả trong lĩnh
vực này.
- Những giả thuyết : cấu trúc từng giả thuyết, có giải thích sơ lược.
- Các bước nghiên cứu ( thời gian, nội dung, phạm vi, đối tượng).
- Các phương pháp và phương tiện nghiên cứu.
- Những khái niệm chính dùng trong công trình : Mục này rất cần thiết cho
nhằm làm cho người đọc, nhằm làm cho người đọc hiểu được những khái niệm « lạ »
nhưng mang nội dung chính yếu ở phần nghiên cứu của đề tài. Các khái niệm « lạ » ấy
có thể là khái niệm mới mà tác giả mới đưa vào, có thể là khái niệm đã biết, nhưng
chưa được dùng chỉ giới hạn trong công trình. Mỗi khái niệm « lạ » cần được định
nghĩa, giải thích rõ.
44
Chú ý : Bắt đầu phần mở đầu là bắt đầu phần nghiên cứu, không được viết ở
đây lời cám ơn, nhắn nhủ hay tâm huyết gì đó.
b. Trình bày các công việc nghiên cứu.
Đây là nội dung khoa học của công trình. Phần này có thể tách ra thành nhiều
mục lớn, hoặc chương, tùy theo mức độ nhiều hay ít, đơn giản hay phức tạp của công
việc. Nội dung chính của phần này gồm :
- Những nghiên cứu lý thuyết và thực tế phục vụ cho việc nghiên cứu mới của
tác giả.
- Phương pháp chung chỉ đạo việc nghiên cứu : phương pháp chọn mẫu,
phương pháp xây dựng mẫu điều tra, phương pháp thực nghiệm, phương pháp lấy kết
quả và đánh giá kết quả ( thống kê, đồ thị v.v…)
- Công việc nghiên cứu mới.
* Chọn mẫu, xây dựng bảng câu hỏi, chia lớp thực nghiệm, xây dựng giáo án
thực nghiệm…
* Tổ chức điều tra thực nghiệm.
* Lấy kết quả, biểu bảng thống kê, số liệu, hình ảnh.
* Các phép tính ( nếu có).
* Đánh giá kết quả : cần tập trung vào việc chứng minh cho các giả thuyết
đặt ra, không trình bày những điều lan man có tính chất phô trương tri thức.
Chú ý
- Những vấn đề lý thuyết cần trình bày ngắn gọn và phải thể hiện rõ ràng nhằm
phục vụ cho việc nghiên cứu sau. Không nên nói quá dài những vấn đề đơn giản, hoặc
những vấn đề hầu như không liên quan trực tiếp đến đề tài. Nếu vấn đề lý thuyết thấy
phải chia nhiều mục thì sau mỗi mục, mỗi chương, nên có tóm tắt kết quả chương đó.
Ví dụ, ý chính của chương này là gì, nó phục vụ cho việc thực hiện mục tiêu nào.
- Những biểu mẫu, hình ảnh, đồ thị…để chứng minh cho rõ thêm mà không
dùng trực tiếp cho đoạn viết thì để ở phụ lục, đánh số nó để tiện chú dẫn trong bài viết.
Khi viết cần chú ý để người đọc xem thêm, nếu họ cần. Như vậy, nội dung sẽ tập trung
hơn, không bị ngắt quảng bởi quá nhiều biểu, bảng, tranh , ảnh v.v…
c. Phần kết luận.
45
Đây cũng là phần thủ tục làm cho bài viết có hậu. Tuy nhiên, nếu không có
phần này, người đọc cũng sẽ không hiểu hết mục đích của công trình và đặc biệt là ý
nghĩa sâu xa không thể nói bằng con số hoặc những suy luận có được ở cuối luận văn
( những kết quả). Vì vậy phần kết luận có những nội dung sau :
- Nhắc lại ngắn gọn quá trình làm việc, những kết quả đã khẳng định sự suy
nghĩ của tác giả thông qua các giả thuyết khoa học và những sai số ảnh hưởng đến kết
quả.
- Ý nghĩa các kết quả đã đạt được đến thực tiễn, các lĩnh vực khác ( nếu có).
- Những kiến nghị ( khuyếch trương hay bãi bỏ).
- Hứa hẹn tiếp tục nghiên cứu để vận dụng kết quả hoặc mở rộng sự nghiên cứu
hoặc đi sâu hơn nữa trong lĩnh vực này.
4.4.2.3. Các phần phụ của công trình.
- Mục lục.
Đặt trước công trình hoặc trước tài liệu tham khảo. Trong mục lục, các đề
mục nhỏ tới đâu là tùy tác giả, thông thường tối đa không quá 4 chữ số, song phải đánh
số trang rõ ràng để người đọc dễ tìm kiếm nội dung.
- Tài liệu tham khảo.
- Vị trí : đặt sau cùng của bài luận văn, sau mục lục ( nếu không để mục lục
trên cùng của bài luận văn).
- Nội dung : tất cả những tài liệu đã đọc, tham khảo cho công trình.
- Hình thức : Sắp xếp và đánh số theo thư mục quy định chung của thư viện.
Những tài liệu có tên tác giả thì xếp thứ tự chữ cái đầu tiên trong tên tác giả theo mẫu
tự A, B, C ( in đậm). Những tài liệu tên tác giả là người nước ngòai thì xếp theo tên gia
đình - họ. Những tài liệu của nhiều tác giả thì ghi tên tác giả đầu tiên rồi đến các tác
giả khác nhau theo như tài liệu đã trình bày. Sau đó là tên tài liệu ( in nghiêng nhạt),
nơi xuất bản, năm xuất bản. tạp chí thì ghi số mấy, năm nào .
Ví dụ : TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Dũng, ( 1997), « Phương pháp luận sáng tạo khoa học-kỹ thuật », Sở
khoa học- kỹ thuật, thành phố HCM.
2. Vũ Cao Đàm, ( 1996), « Phương pháp luận nghiên cứu khoa học »,
NXBKH-KT, HN.
46
3. Lê Phước Lộc, ( 1994), « Phân tích chương trình vật lý phổ thông », Đại
học Cần Thơ.
4. Nghị quyết Đại hội đại biểu tòan quốc lần thứ X……..NXB Sự Thật, HN,
năm 2005.
5. Dương Thiệu Tống, ( 2002), Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục và
tâm lý », tập 1, NXB Đại học quốc gia TPHCM.
6. Từ điển triết học ( Tiếng Việt), ( 1988), NXB Sự Thật, Mátxcơva.
( Xem thêm tài liệu tham khảo ở phần cuối)
- Phụ lục.
- Vị trí : đặt sau cùng trong luận văn. Nếu có nhiều phụ lục có thể tách
chúng ra thành một tập riêng.
- Nội dung : Biểu, bảng, tranh, ảnh, bảng câu hỏi, đồ thị, những bài viết, bài
nói về công việc của mình, các chương trình máy tính tự viết, thư điện tử v.v….của
người khác có liên quan đến công trình trên.
- Hình thức : cần đánh số các bài, bảng …để trong bài viết, có những chỉ dẫn
đúng địa chỉ.
* Một số điều cần chú ý trong cách viết.
1) Nội dung viết không quá vắn tắt, nhưng không dài lê thê. Cần tập trung
vào côngviệc nghiên cứu. Hết sức tránh những đoạn vô bổ, những câu sáo rỗng ( ví
dụ : luôn viết là rất đẹp, rất hay, rất tốt, cần phải …mà không có nội dung cụ thể).
Muốn vậy, sau khi viết một chương, cần xem lại để bổ sung, cắt bớt những chỗ
không cần. Sau khi hoàn thành bài viết, xem lại toàn thể, vừa sửa lỗi chính tả, vừa điều
chỉnh câu viết cho chính xác và nếu cần cắt bớt hoặc bổ sung lần nữa để bài viết được
đầy đủ, sáng sủa, lô gích…
2) Những chỉ dẫn trong bài viết là rất có lợi, nó làm cho bài viết không lập
lại, hoặc làm cho bài viết trở nên thuyết phục hơn. Có 2 trường hợp.
- Chỉ dẫn trong bài : Khi cần nhắc lại nội dung đã viết hoặc nội dung phía sau,
mở ngoặc đơn (….) và chỉ số trang. Ví dụ : ( xem trang) hoặc ( mục lục)
- Để thuyết phục và chứng tỏ sự trung thực của tác giả, đôi khi cần trích dẫn
những kết luận, những nguyên tắc hay ý tưởng của các tác giả khác, các nhà kinh
điển.v..v…để làm cho bài viết mình có « trọng lượng » hơn. Trong trường hợp nếu
47
trích nguyên văn thì để trong ngoặc kép « ….. ». Nếu không trích nguyên văn thì cũng
chú thích số thứ tự tài liệu tham khảo để trong ngoặc vuông [….]
Ví dụ : Khi nói đến tư duy, ta có thể trích câu nói của Einstein nhưng lại nằm
trong tài liệu số 3 của tài liệu tham khảo ta viết :
Einstein có nói : « Suy nghĩ vẩn vơ…không phải là tư duy…[3].
4.2.2.4. Việc sử dụng chữ số trong bài viết :
- Những chữ số bình thường, số thứ tự nên viết bằng chữ. Ví dụ : Sau hai lần thí
nghiệm…..Cuộc điều tra kéo dài đến lần thứ ba…
- Những số ngày, tháng , năm, những con số lớn thì viết chữ số. Ví dụ : Cuộc
điều tra kéo dài từ 1 tháng 12 năm 2005 đến hai tuần sau đó đã lấy ý kiến của 4117
học sinh …..
4. 2.2.5. Cách trình bày các đề mục.
a) Đánh số đề mục : Có nhiều cách đánh số đề mục cốt sao cho việc làm
ấy được nhất quán để dễ theo dõi. Cách đánh số thông dụng hiện nay là đánh số theo
cấp ( Chúng ta có thể theo dõi cách đánh số trong bài giảng này). Kiểu này có thể đánh
số theo vần hoặc trong chương. Ví dụ :
Phần 1 : MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài :
1.1. Thực trạng vấn đề.
1.2. Sự cần thiết phải đổi mới phương pháp dạy học.
2. Các giả thuyết khoa học.
2.1. Giả thuyết 1.
2.2. Giả thuyết 2
v.v....
Phần II : NHỮNG NGHIÊN CỨU VÀ KẾT QUẢ
2.1. Nghiên cứu lý thuyết.
2.1.1.Lý thuyết dạy học.
2.1.1.1.Những yếu tố về tâm lý lứa tuổi.
2.1.1.2. Các phương pháp dạy học truyền thống và phương pháp.
2.1.2. Các định hướng trong qua 1trình dạy học.
2.1.2.1.................................
2.2. Nghiên cứu thực tiễn.
48
v.v..................
b) Nội dung đề mục.
Việc thống nhất cách viết một công trình còn thể hiện ở phân bố nội dung đề
mục và hình thức viết của chúng.
- Phân bố nội dung đề mục phải có dung lượng tương đương, hoặc có ý nghĩa
tầm quan trọng tương đương giữa các đề mục có cùng cấp. Ví dụ: các đề tài, mục
mang số 1,2,3.......là cùng cấp. Các đề mục mang số 1.2, .1.3, 1.4......là cùng cấp.
Những nội dung của đề mục cấp lớn phải bao trùm các nội dung đề mục cấp nhỏ hơn
thuộc nó.
- Về hình thức trình bày: ngày nay có máy tính cho phép ta làm điều này nhanh
chóng và tiện lợi. Các đề mục lớn chữ phải lớn và ngược lại. Các đề mục cùng cấp
phải có cỡ chữ, kiểu chữ như nhau.
49
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Cành ( 2004), “ Phương pháp và phương pháp nghiên cứu khoa
học kinh tế”, NXB Đại học quốc gia, TPHCM.
2. Phan Dũng, ( 2007), “ Phương pháp luận sáng tạo khoa học kỹ thuật”
NXBKH-KT, HN.
3. Vũ Cao Đàm, ( 1996) “ Phương pháp luận nghiên cứu khoa học”, NXB KH-
KT, HN.
4. Nguyễn Tiến Đức, ( 2006), “ Phương pháp luận nghiên cứu khoa học”, NXB
Thống Kê, HN.
5. Lê Phước Lộc, (1994) “ Phân tích chương trình vật lý phổ thông”, Đại học Cần
Thơ.
6. Ngô Đình Quả, ( 2005) “ Giáo trình phương pháp nghiên cứu khoa học giáo
dục”, NXB TPHCM.
7. Nghị quyết đại hội đại biểu tòan quốc lần thứ X......NXB Sự Thật, năm 2005.
8. Lê Quang Sơn ( 2005) “ Dạy học theo phương pháp nghiên cứu khoa học,
phương pháp thích hợp với đào tạo đại học”, Tạp chí Đại học sư phạm Đà
Nẳng, tháng 5.
9. Dương Thiệu Tống, ( 2002), “ Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục và
tâm lý”, tập 1, NXB Đại học QG, TPHCM.
10. Đỗ Công Tuấn, ( 2004), “ Lý luận và phương pháp nghiên cứu khoa học” ,
NXB chính trị QG, HN.
11. Từ Điển Triết học ( Tiếng Việt), ( 1998), NXB Sự Thật Mát xcơ va.
50
PHỤ LỤC
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP Ở ĐBSCL
TS. Trần Văn Hiếu
ABSTRACT Sustainable development is the common tendency of the world in the present
time. To develop subtainably the agricultural production in the Mekong Delta, we
need to combine multipurposes to get the balance on the benifits in economy, society
and environment. The development serves the demands of the present generation and
will not cause any bad effects for the ones in the future. In the past years, the
argricutural production in the Mekong Delta has gained many important
acchivements, espectially in culturing and cultivating. However, the rapid and
unplanned development had caused serious impacts which has destroyed the
environment, ruined the balance of ecosystems and influenced the sustainable
development.
To solve this problem, the author says that we have to plan the argricultural
production and aquatic culture in the Mekong Delta, popularize the consciousness of
environmental protection in farmer household, carry out the Law of environmental
protection and the Law of biodiversity better....
Key words: Sutainable development – Agriculture production – Mekong Delta
–The balance of ecosystem – biodiversity – the conciousness of environmental
protection.Keywords:
Title: Some problems about stainable development in argricultural production in the
Mekong Delta.TÓM TẮT
Phát triển bền vững là khuynh hướng chung của thế giới trong thời đại ngày
nay. Để phát triển một cách bền vững sản xuất nông nghiệp ở ĐBSCL, chúng ta cần
kết hợp đa mục tiêu để đạt đến sự cân bằng về lợi ích: kinh tế, xã hội và môi trường.
Sự phát triển đó nhằm phục vụ nhu cầu của thế hệ hiện tại và sẽ không gây ra bất kỳ
ảnh hưởng xấu nào tới các thế hệ tương lai. Trong những năm qua, sản xuất nông
nghiệp ở ĐBSCL đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đặc biệt là trong lĩnh vực
trồng trọt và nuôi trồng thủy sản. Tuy nhiên, do sự phát triển nhanh chóng và không có
kế hoạch đã gây ra những tác động nghiêm trọng làm hủy hoại môi trường , phá hủy
môi trường sinh thái, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững. Để giải quyết vấn đề này,
51
tác giả cho rằng chúng ta cần hoạch định lại sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy
sản ở ĐBSCL, tuyên truyền, phổ biến cho hộ nông dân ý thức bảo vệ môi trường, thực
hiện tốt Luật bảo vệ môi trường và Luật đa dạng sinh học v.v...
Từ khóa: Phát triển bền vững - sản xuất nông nghiệp - Đồng bằng sông Cửu Long
– Cân bằng sinh thái – đa dạng sinh học – Ý thức bảo vệ môi trường.
1. PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG, XU THẾ CHUNG CỦA THẾ GIỚI NGÀY
NAY
Gần đây khái niệm phát triển bền vững ( Sustainable Developement ) được đề
cập nhiều trên các sách báo kinh tế. Nói đến khái niệm phát triển kinh tế và phát triển
xã hội, phát triển quốc gia hay phát triển địa phương, phát triển tòan cầu hay phát triển
khu vực, phát triển đều theo nghĩa phát triển bền vững. Nghị quyết đại hội lần thứ IX
Đảng cộng sản Việt Nam khi đề ra đường lối phát triển kinh tế cũng nhấn mạnh vấn đề
phải gắn việc phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường, thực hiện phát triển bền vững.
Thuật ngữ “phát triển bền vững” ra đời năm 1987 trong Báo cáo của Ủy ban
quốc tế về môi trường và phát triển. GH. Bruntland là người đầu tiên nêu lên khái
niệm này. Ngày nay, mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau, song có thể hiểu: Phát
triển bền vững là sự phát triển đòi hỏi phải kết hợp đa mục tiêu để đạt tới sự cân bằng
về lợi ích, kinh tế, xã hội và môi trường. Tiêu điểm của sự phát triển bền vững là bảo
vệ được môi trường sinh thái, sự phát triển mà thỏa mãn được các nhu cầu hiện tại
nhưng không làm tổn hại đến các thê hệ tương lai trong việc thỏa mãn nhu cầu của
họ.[1]
Tư duy phát triển mới này xuất phát từ tình hình vào những năm 70 của thế kỷ
XX, các quốc gia trên thế giới muốn đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế đã có những
phương thức huy động tối đa mọi tiềm năng, mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển. Với
xu thế kinh tế thế giới như vậy, xã hội loài người sẽ đương đầu với nhiều nguy cơ và
hiểm họa trong tương lai gần, đó là ô nhiễm môi trường sống, cạn kiệt tài nguyên thiên
nhiên, đào sâu hố ngăn cách giữa nhóm người giàu và nhóm người nghèo v.v...
Những cảnh báo nghiêm túc của các nhà khoa học làm cho các quốc gia dần
dần ý thức được mối quan hệ nhân quả giữa lối sống của loài người với môi trường
sinh thái, giữa phát triển kinh tế với bảo tồn tài nguyên thiên nhiên. Phát triển bền
52
vững là sự phát triển nhằm thỏa mãn các nhu cầu hiện tại nhưng không làm tổn hại đến
khả năng các thế hệ tương lai trong việc đáp ứng nhu cầu của họ.
Có 3 nội dung cơ bản về phát triển bền vững mà hiện nay các quốc gia đang
theo đuổi:
- Một là, bảo đảm phát triển kinh tế nhanh và duy trì tốc độ ấy trong thời gian
dài. Sự tăng trưởng kinh tế nhanh thường đi liền với việc đầu tư lớn, khai thác tài
nguyên thiên nhiên nhiều khi không giới hạn, chinh phục thị trường bằng mọi cách để
tăng sản lượng, tăng doanh thu, tăng lợi nhuận. Điều đó thường mâu thuẫn với phát
triển bền vững, khó duy trì sự tăng trưởng dài lâu và chắc chắn làm ảnh hưởng đến thế
hệ tương lai.
- Hai là, môi trường sinh thái được bảo vệ tốt nhất. Vì vậy phải sử dụng các
nguồn tài nguyên một cách tốt nhất, làm cho hệ sinh thái được tái sinh thường xuyên.
Nghĩa là, nhịp độ sử dụng tài nguyên có khả năng tái sinh phải thấp hơn tốc độ tái
sinh. Mức độ phát thải ô nhiễm phải thấp hơn khả năng xử lý của môi trường tự nhiên
thông qua quá trình làm sạch và lọc khí tự nhiên (như rừng, cây xanh...). Các hoạt
động kinh tế và mưu sinh của con người phải được coi là một bộ phận cấu thành của
hệ sinh thái và do đó phát triển kinh tế phải bảo toàn sự cân bằng của hệ sinh thái.
- Ba là, đời sống xã hội được bảo đảm. Muốn vậy thì trong sự phát triển phải
tạo ra một xã hội hài hòa. Bền vững xã hội có nghĩa là không thể để một tầng lớp
người hay nhóm người bị gạt ra ngoài tiến trình phát triển của một quốc gia, phân cực
giàu nghèo quá mức, dân chủ, bình đẳng xã hội không được bảo đảm ...
Như vậy, ý tưởng về phát triển bền vững biểu thị sự hài hòa, đồng tiến hóa và
cộng sinh giữa con người, xã hội và giới tự nhiên. Trong mối quan hệ này, con người
là trung tâm. Phát triển bền vững được hiểu là sự tương tác hài hòa giữa xã hội của con
người và thiên nhiên nhằm bảo vệ sinh quyển mà con người đang sống trong đó và bảo
đảm sự phát triển lâu dài vô hạn của con người. Mục đích của sự phát triển bền vững
chủ yếu là giải quyết mâu thuẩn giữa nền văn minh và sinh quyển, cái mâu thuẫn có
thể dẫn đến sự diệt vong của cả hai, nếu không được khắc phục kịp thời.
Những nội dung chung nhất ấy đang được hiểu và thực thi trong những mô hình
kinh tế và thể chế chính trị rất khác nhau và vì vậy kết quả đem lại cũng không giống
nhau. Hiện nay, nước ta đang trong quá trình chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa sang
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN.
53
Phát triển kinh tế thị trường là biện pháp, là phương tiện để đạt mục đích phát triển
kinh tế nhanh, hiệu quả. Tuy vậy, những hạn chế, những mặt trái của cơ chế thị
trường, bản thân nó không thể bảo đảm cho sự phát triển bền vững. Vì vậy, tư tưởng
chiến lược của Đảng ta là: Phát triển kinh tế nhanh, có hiệu quả và bền vững, tăng
trưởng kinh tế đi liền với tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường.
Từ Đại hội lần thứ VII, Đảng ta đã nhận thấy một trong bốn nguy cơ đối với
nền kinh tế nước ta đối với thế giới là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế. Nhưng
không vì nguy cơ tụt hậu mà lại muốn đi nhanh, không tính đến sự bền vững của nó.
Cũng như không vì thiếu vốn đầu tư trước mắt mà khai thác các nguồn tài nguyên đất
nước không cân nhắc, sử dụng một cách phung phí, khai thác tài nguyên thô, phải có
kế hoạch dài hạn cái gì hôm nay cần sử dụng, cái gì để dành cho con cháu mai sau.
Ngày nay, Việt Nam đang hội nhập sâu vào kinh tế thế giới, đẩy nhanh sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, ta càng phải khắc phục chủ nghĩa thành tích, khuyếch trương
về số lượng, không nên xem nhẹ yếu tố về chất, trình độ công nghệ nhập của các dự án
đầu tư; nếu không gánh nặng nợ nần không những sẽ trút lên vai các thế hệ mai sau mà
còn biến Việt Nam thành bãi thải công nghệ.
2. ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG VỚI VIỆC XÂY DỰNG VÀ PHÁT
TRIỂN MỘT NỀN NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG
Phát triển kinh tế bền vững cũng như phát triển nền nông nghiệp bền vững là
một trong những nội dung quan trọng trong sự phát triển của kinh tế nước ta. và của
ĐBSCL. Trong những năm qua, dưới tác động của những chính sách của Đảng và nhà
nước trong nông nghiệp, nông thôn, sản xuất nông nghiệp ĐBSCL đã có những bước
tiến vượt bậc. Có thể nói hai lĩnh vực phát triển mạnh nhất trong sản xuất nông nghiệp
ở ĐBSCL là trồng lúa và nuôi trồng thủy sản.
2.1. Năng suất, sản lượng lúa không ngừng gia tăng
Trong những năm qua, ĐBSCL chẳng những giải quyết tốt vấn đề lương thực
của địa phương mà còn góp phần quan trọng gia tăng sản lượng lúa hàng hóa xuất
khẩu trên phạm vi cả nước. Nếu so sánh riêng về diện tích gieo trồng, năm 1976, diện
tích toàn vùng chỉ đạt 2 triệu 062 nghìn ha, với sản lượng 4 triệu 665 nghìn tấn, năng
suất bình quân 20ta/ha, đến năm 1999 với các chỉ tiêu tương ứng là 3 triệu 986 nghìn
ha, với sản lượng 16 triệu 281 nghìn tấn và năng suất 40,8ta/ha. Năm 2004, với diện
tích toàn vùng 4 triệu 243 nghìn ha, sản lượng đạt hơn 18 triệu tấn quy thóc, năng suất
54
ước đạt 5,5 tấn ha. Năm 2007, sản lượng lúa tòan vùng ước đạt trên 18,45 triệu tấn quy
thóc, tăng 210.000 tấn so với năm 2006. Tốc độ tăng sản lượng lúa toàn vùng 30 năm
qua bình quân đạt 11%, bỏ xa tốc độ tăng bình quân cả nước (7,8 %) cũng như đồng
bằng sông Hồng (5, 35% ) trong thời gian tương ứng. ĐBSCL ngày nay đã trở thành
vựa lúa lớn nhất của Việt Nam và các nước Đông Nam Á.
Bảng 1: Sản lượng lương thực ĐBSCL so sánh với Đồng bằng sông Hồng và cả
nước
Năm Sản lượng
lương thực cả
nước
( 1000 tấn )
Sản lượng
lương thực
ĐBSCL
( 1000 tấn )
Sản lượng
lương thực
ĐBS Hồng
( 1000 tấn )
Sản lượng lương thực
ĐBSCL so với
ĐBS Hồng Cả
nước
( Lần ) ( % )
2000 34538,9 16754,7 6867,9 2,43 48,50
2001 34272,9 16093,0 6648,1 2,42 46,95
2002 36960,7 17821,6 6999,0 2,54 48,21
2003 37706,9 17678,0 6789,0 2,60 46,88
2004 39322,9 18691,0 7052,3 2,65 47,53
2006 39.621.6 19488.2 6517.9 2,98 49,18
2007 39.648.0 18385.3 6853.8 2,68 46,37
Nguồn: Tổng cục thống kê, Niên giám thống kê 2007, tr139. [2 ]
2.2. Về thủy sản
Về thủy sản cũng có mức tăng trưởng khá.. Các hoạt động nuôi trồng, đánh bắt
thủy sản trong những năm qua có nhiều tiến bộ. Phong trào nuôi tôm, nuôi cá nước
ngọt, cá ruộng cá ao, cá lồng, cá bè v.v..phát triển mạnh ở nhiều địa phương, tạo thêm
công ăn, việc làm cho người lao động và nguồn thực phẩm cho xã hội. Diện tích nuôi
trồng thủy sản các loại tăng từ 309.399 ha năm 1995 lên 322.551 ha năm 1997,
351.137 ha năm 1999, năm 2004 lên hơn 750.000ha, năm 2007 hơn 800.000ha. Nhờ
vậy sản lượng thủy sản đã đạt gần 1 triệu tấn/năm. Vị thế của ngành thủy sản trong cơ
cấu nông nghiệp ĐBSCL đã được khẳng định rất quan trọng và đang có xu hướng tăng
dần, từ chỗ chỉ chiếm 19% giá trị toàn ngành năm 1995, lên 21% năm 1997 và 39%
năm 2004 là 51,61%, năm 2007 là 54,56%.
55
Tuy nhiên việc phát triển nhanh sản lượng lương thực và nuôi trồng thuỷ sản ở
ĐBSCL một cách nhanh chóng, ồ ạt cũng đã để lại những vấn đề về môi trường đáng
báo động, phá vỡ sự phát triển bền vững trong sản xuất nông nghiệp ĐBSCL. Để tăng
năng suất, sản lượng các loại cây trồng, nhiều hộ nông dân đã sử dụng các loại phân
bón, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, kể cả những loại hợp chất lân, hữu cơ, cacbonat,
những loại thuốc bị cấm như: Wolatox, Monitor, DDT v.v..Điều đó, chẳng những làm
cho độ mầu mỡ đất đai thêm xấu đi độ PH trong nước thấp, đất bị chua hóa mà còn
làm cho môi trường bị ô nhiễm, suy giảm mật độ và thành phần các loại cá sông, mất
các rừng ngập mặn, bảo đảm duy trì sự đa dạng sinh học biển. Việc phun, xịt thuốc trừ
sâu bừa bãi làm giảm bất cứ loại côn trùng nào kể cả những loài có ích đồng thời gây
tổn hại cho động thực vật, vi sinh vật, dẫn đến mất cân bằng sinh thái .v.v..[4 ].
Trong những năm gần đây việc nuôi trồng thủy sản phát triển nhanh chóng,
đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng của ngành, nhưng cũng đã tác động bất lợi đối
với nguồn lợi và môi trường sống của các loài thủy sinh vật, khai thác giống tự nhiên
để nuôi đã làm giảm khả năng khôi phục, tái tạo quần thể của nhiều giống loài thủy
sản. Việc xây dựng các hệ thống thoát nước làm thay đổi các lớp trầm tích bề mặt, sử
dụng nguồn nước ngầm gây lún, lở, xâm nhập nước mặn, thải ra môi trường tự nhiên
thức ăn dư thừa, thuốc phòng trị bệnh vật nuôi, hóa chất xử lý môi trường, các chất bài
tiết của động vật..làm giảm chất lượng môi trường nước. Nước bị ô nhiễm đã làm ảnh
hưởng chất lượng cuộc sống của người dân như: mắc nhiều chứng bệnh về da, mắt,
bệnh phụ khoa, tả, thương hàn...Từ đó, ảnh hưởng đến chất lượng dân số và sự phát
triển chung của quốc gia.
Theo tính toán sơ bộ của Bộ thủy sản cho thấy, mỗi ha nuôi tôm đã thải ra xấp
xỉ 8 tấn chất thải rắn cùng với hàng nghìn khối nước thải trong 1 vụ nuôi. Cả ĐBSCL
với hơn 500.000ha diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản thì mỗi năm sẽ thải ra bao
nhiêu chất nước thải [5 ]. Nếu theo chỉ đạo của Chính phủ, mục tiêu đến năm 2010,
sản lượng ngành thủy sản phải đạt 3,5 triệu tấn ( trong đó tỷ lệ nuôi trồng đạt 2 triệu
tấn ) để đạt kim ngạch xuất khẩu đạt 4 tỷ USD và 2020 đạt kim ngạch xuất khẩu 8 tỷ
USD mà không có kế hoạch thì hậu quả đối với môi trường sẽ như thế nào ?[6 ]
Nuôi trồng thủy sản phát triển nhanh đã bộc lộ nhiều mặt yếu kém. Tình trạng
tự phát, thiếu quy hoạch diễn ra ở nhiều địa phương. Ở những vùng tăng nhanh diện
tích nuôi trồng thủy sản như: Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, An Giang, Đồng Tháp
56
v.v...cơ sở hạ tầng chưa hoàn chỉnh, luôn tiềm ẩn rủi ro lớn, kể cả vấn đề về vệ sinh
thú y thủy sản. Những mặt hạn chế trên đã ảnh hưởng đến môi trường sinh thái và sự
phát triển bền vững trong nuôi trồng thủy sản. Đó chính là nguyên nhân dẫn đến thực
trạng hàng ngàn ha tôm chết hàng loạt ở những vùng nuôi trồng thủy sản của ĐBSCL
ở Bạc Liêu, Cà Mau, Sóc Trăng v.v....thời gian qua [7 ].
Vấn đề này không chỉ gây dịch bệnh và làm ô nhiệm môi trường trong nuôi
trồng thủy sản, chất thải tích tụ trong môi trường nước còn có nguy cơ làm bùng phát
các lọai dịch bệnh trên người như: bệnh đường tiêu hóa, sốt xuất huyết, sốt rét, bệnh
giun sán, ký sinh trùng, bệnh suy dinh dưỡng trẻ em và cả ngộ độc thực phẩm hay hóa
chất v.v…trong vùng đất ngập nước nuôi trồng thủy sản.
3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP
Để hướng tới sự phát triển bền vững trong sản xuất nông nghiệp ở ĐBSCL,
phải tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp, dưới đây là những giải pháp chủ yếu:
- Thực hiện tốt Nghị quyết số 41/NQ –TW ngày 15/11/2004 của Bộ chính trị và
Quyết định số 34/2005/ QĐ – TTg của Chính phủ về bảo vệ môi trường trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mục tiêu là nhằm ngăn ngừa, hạn chế, khắc phục ô
nhiễm, suy thoái, sự cố môi trường, kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ
môi trường.
- Tăng cường công tác quản lý về bảo vệ môi trường, sớm đưa Luật bảo vệ môi
trường vào thực hiện trong thực tế, tuyên truyền, phổ biến Luật đa dạng sinh học và
các văn bản hướng dẫn thi hành.
- Nâng cao năng lực về quản lý môi trường ở các địa phương, chú trọng ở cấp
quận, huyện, phường, xã, tăng cường bảo vệ môi trường tại các khu vực sản xuất, kinh
doanh và dịch vụ ở nông thôn.
- Tiến hành rà soát quy hoạch lâu dài, đồng bộ sự phát triển sản xuất và nuôi
trồng thủy sản ĐBSCL, hạn chế tính tự phát, phát triển không kế hoạch dẫn đến tác
động xấu với môi trường.
- Tuyên truyền, giáo dục người dân nâng cao ý thức bảo vệ mội trường, tạo
thói quen sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, tái sử dụng, tái chế chất thải, sử
dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật hợp lý.
- Có kế hoạch phục hồi, tái tạo và bảo vệ nguồn lợi thủy sản, bảo vệ, bảo tồn đa
dạng thủy sinh vật, tổ chức khai thác hợp lý nguồn lợi thủy sản, tăng cường nguồn lực
57
tài chính cho mục chi bảo vệ môi trường và bảo đảm tăng dần hàng năm theo tốc độ
tăng trưởng kinh tế.
Tóm lại, vấn đề bảo vệ môi trường trong nông nghiệp nông thôn hướng tới phát
triển một nền nông nghiệp bền vững ở ĐBSCL đã và đang là thách thức không dễ giải
quyết. Trong tiến trình phát triển kinh tế- xã hội thì vấn đề trên cần có sự quan tâm của
mọi người dân, nhất là người dân ở vùng nông thôn. Sự tham gia tích cực của người
dân vào các chương trình, dự án bảo vệ môi trường đã và đang triển khai sẽ là một
nhân tố có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của dự án, góp phần cải thiện môi
trường và nâng cao chất lượng cuộc sống của cộng đồng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Xuân Đỉnh “Phát triển bền vững trong định hướng XHCN nền kinh tế thị
trường”, Tạp chí cộng sản tháng 3 năm 2005, tr 87.
2. Tổng cục thống kê, “Niên giám thống kê”, năm 2007, tr 139,232.
3. Đức Nguyên, “Bảo vệ và khai thác nguồn lợi thủy sản”, Thời báo kinh tế
Việt Nam, ngày 27 tháng 8, năm 2004.
4. Website: http//w.w.w.vneconomy. com. vn ngày 9/27/2005 “Phát triển bền
vững : ngành thủy sản nhìn xa trông rộng.”, ngày 27 tháng 9 năm 2007.
5. Website: http// cpv.com vn Ngày 21/2/2005: “Tổ chức lại sản xuất thủy sản
ĐBSCL”.ngày 21 tháng 2 năm 2005.
6. Bộ thủy sản, “Hoạt động khoa học công nghệ vì sự phát triển ĐBSCL”, Tài
liệu hội thảo vì sự phát triển ĐBSCL tháng 11 năm 2004, Q2, tr 1.
7. Website: htttp//.qdnd.vn, “ Cấp thiết quy họach nuôi trồng thủy sản vùng
đồng bằng sông Cửu Long”, ngày 21 tháng 6 năm 2007.