Ephata 602

47
E-mail: [email protected] Website: www. trungtammucvudcct .com HAI KHUNG TRỜI… Sáng nay Chúa Nhật 16.3.2014, cầm tờ báo Tuổi Trẻ trên tay mà lòng buồn vời vợi. Ngay trang nhất, hình ảnh cây cầu treo lơ lửng trong sương mù, chiếc cầu treo mong manh với những sợi dây cáp mảnh khảnh, và một đàn em bé đi học vội vã qua cầu, dòng chữ “Ám ảnh cầu treo” được viết với khổ lớn như muốn mạnh mẽ giới thiệu về một biến cố không thể vui của thời sự. Vào trang trong, trang 8 và 9, báo đã dành cả hai trang để giới thiệu những bức hình về một số cầu treo miền Tây Bắc. Những chiếc cầu không hề có một chút gì là bảo đảm sự an toàn cho người di chuyển, nhưng không thể làm gì khác hơn là chấp nhận, chấp nhận những cái cầu như vậy như là một trong những cái mất an toàn của cuộc sống. Vâng, không có cách nào khác ngoài chấp nhận ! Cách đây mấy ngày, 5 em học sinh chết thảm vùi xác trong một bãi cát, chưa có công bố nào từ phía an ninh về nguyên nhân cái chết của các em, thông tin chỉ vỏn vẹn về những đứa trẻ xấu số, nhà rất xa, trên dưới 30 cây số, không thể trở về nhà sau mỗi buổi học vì không có tiền đi xe bus, các em che tạm một cái “lều” tồi tàn, sống lây lất gần trường học, không ai coi ngó giúp đỡ các em, không ai giám sát cuộc sống của các em, người ta chỉ tìm được những cái xác chết đã sình thối phân hủy khi nhiều ngày qua không thấy các em đến lớp ( Bài: 5 học sinh chết thảm dưới hố cát, Tuổi Trẻ thứ sáu 14.3.2014 ). Mấy ngày nay tôi có dịp tiếp xúc với các cha ở một miền truyền giáo cho người dân tộc. Nhiều năm qua, anh em đi dâng Lễ cho một Giáo Điểm cách xa nơi anh em cư trú khoảng 7 cây số ( lưu ý là đường đất, đá, băng rừng ), nay anh em mua được một mảnh đất khoảng 3.000 mét vuông, làm thủ tục chuyển nhượng xong, lại phải làm thủ tục hiến đất cho Nhà Nước để được Nhà Nước cấp lại theo nhu cầu tôn giáo. Luật lệ ở Việt Nam là tôn giáo không có quyền mua bán đất, khi có nhu cầu tôn giáo thì làm đơn kèm dự án, Nhà Nước xét thấy “nhu 1 NĂM THỨ 14 – SỐ 602 – CHÚA NHẬT

description

Trân trọng giới thiệu Tuần báo điện tử EPHATA của Trung Tâm Mục Vụ Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam

Transcript of Ephata 602

Page 1: Ephata 602

E-mail: [email protected] Website: www. trungtammucvudcct .com

HAI KHUNG TRỜI…Sáng nay Chúa Nhật 16.3.2014, cầm tờ báo Tuổi Trẻ trên tay mà lòng buồn vời vợi. Ngay trang

nhất, hình ảnh cây cầu treo lơ lửng trong sương mù, chiếc cầu treo mong manh với những sợi dây cáp mảnh khảnh, và một đàn em bé đi học vội vã qua cầu, dòng chữ “Ám ảnh cầu treo” được viết với khổ lớn như muốn mạnh mẽ giới thiệu về một biến cố không thể vui của thời sự.

Vào trang trong, trang 8 và 9, báo đã dành cả hai trang để giới thiệu những bức hình về một số cầu treo miền Tây Bắc. Những chiếc cầu không hề có một chút gì là bảo đảm sự an toàn cho người di chuyển, nhưng không thể làm gì khác hơn là chấp nhận, chấp nhận những cái cầu như vậy như là một trong những cái mất an toàn của cuộc sống. Vâng, không có cách nào khác ngoài chấp nhận !

Cách đây mấy ngày, 5 em học sinh chết thảm vùi xác trong một bãi cát, chưa có công bố nào từ phía an ninh về nguyên nhân cái chết của các em, thông tin chỉ vỏn vẹn về những đứa trẻ xấu số, nhà rất xa, trên dưới 30 cây số, không thể trở về nhà sau mỗi buổi học vì không có tiền đi xe bus, các em che tạm một cái “lều” tồi tàn, sống lây lất gần trường học, không ai coi ngó giúp đỡ các em, không ai giám sát cuộc sống của các em, người ta chỉ tìm được những cái xác chết đã sình thối phân hủy khi nhiều ngày qua không thấy các em đến lớp ( Bài: 5 học sinh chết thảm dưới hố cát, Tuổi Trẻ thứ sáu 14.3.2014 ).

Mấy ngày nay tôi có dịp tiếp xúc với các cha ở một miền truyền giáo cho người dân tộc. Nhiều năm qua, anh em đi dâng Lễ cho một Giáo Điểm cách xa nơi anh em cư trú khoảng 7 cây số ( lưu ý là đường đất, đá, băng rừng ), nay anh em mua được một mảnh đất khoảng 3.000 mét vuông, làm thủ tục chuyển nhượng xong, lại phải làm thủ tục hiến đất cho Nhà Nước để được Nhà Nước cấp lại theo nhu cầu tôn giáo. Luật lệ ở Việt Nam là tôn giáo không có quyền mua bán đất, khi có nhu cầu tôn giáo thì làm đơn kèm dự án, Nhà Nước xét thấy “nhu cầu chính đáng” thì cấp đất cho, thế là đất mình mua thì phải hiến, đất nếu được dùng là do Nhà Nước “chiếu cố” cấp !

Vậy mà bây giờ thủ tục đất cát đã xong, giấy tờ cũng xong, đủ thứ thủ tục về chuyển đổi sở hữu, chuyển đổi mục đích, giấy phép xây dựng, … mọi cái đều xong, nhưng cái dự án Nhà Nguyện 300 chỗ vẫn là… “dự án ma” vì không có tiển để làm xây dựng. Anh em bàn với nhau cứ làm, nhưng làm hết diện tích có phép 500 mét vuông, chỉ cần cái nền, và cái mái, cung thánh cũng phải đáng hoàng một tí, nghĩa là có tường cuối, có ảnh tượng và có bàn thờ. Khi nào có tiền thì xây bao che, làm trần… Kinh phí 1 tỷ đồng Việt Nam, chưa biết chạy đâu ra !

Cách đây mấy ngày khi có dịp đến một tỉnh nhỏ nọ, khi rời máy bay ra phòng ngoài, có ba cô bé xinh đẹp, rất trẻ, ăn mặc đồng phục, tay cầm ba bó hoa đứng chờ đón khách. Khi đứng đợi xe bus của phi trường vào thành phố, tôi thấy ba vị quan chức Việt Nam, mặc áo vest tươi cười nhận ba bó hoa từ ba cô bé, thân mật quàng vai ba cô bước lên mỗi người một chiếc xe hơi đời mới, ba anh thanh niên tay dắt vali, tay khiêng trên vai bộ đồ chơi golf của khách, cánh cửa xe hơi đóng mạnh, tất cả lao vút đi…

Đó là xã hội, nhưng còn nhà Đạo ? Không biết Lời của Chúa và ý nghĩa Mùa Chay Thánh có làm cho những công trình sa hoa, lãng phí, đua đòi thế gian lên đến hàng chục, hàng trăm tỷ phải chùn chân

1

NĂM THỨ 14 – SỐ 602 – CHÚA NHẬT 16.3.2014

Page 2: Ephata 602

ngại ngùng không ? Những hình ảnh khổ đau thiếu thốn có làm cho các vị có trách nhiệm chùn tay trước những lễ hội, tiệc tùng, hội nghị,… tốn kém không ?

Tuần qua, trong một bài giảng, Đức Thánh Cha Phanxicô có nói các Giáo Sĩ phải lưu ý về việc sử dụng điện thoại và xe hơi, không nên tiêu xài hoang phí cho những thứ đắt tiền. Bao giờ tinh thần Phanxicô thấm vào hành động của chúng ta ? Câu chuyện anh nhà nghèo có tên là Ladarô và người phú hộ “quần áo lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình” có còn chất vấn chúng ta không ?

Lm. VĨNH SANG, DCCT, 16.3.2014

MỤC LỤC TÌM BÀI:HAI KHUNG TRỜI… ( Lm. Vĩnh Sang ) .................................................................................................. 01TÔNG HUẤN NIỀM VUI CỦA TIN MỪNG – Chương 4 ( ĐTC. Phanxicô – Bản dịch Joseph C. Pham ) ... 02 ĐỨC PHANXICÔ – 1 NĂM TRÊN NGÔI GIÁO HOÀNG ( PHT, báo của Ban Tôn Giáo Chính Phủ ) . . 08RỰC RỠ ÁNH SÁNG CÔNG CHÍNH ( AM. Trần Bình An ) .................................................................... 10NGHE LỜI NGƯỜI ( Lm. Giuse Nguyễn Hữu An ) ................................................................................. 12"TRỖI DẬY ĐI, ĐỪNG SỢ !" ( M. Hoàng Thị Thuỳ Trang ) .................................................................... 14THÁNH GIUSE, GƯƠNG MẪU CHO NGƯỜI TRƯỞNG GIA ( Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ ) ............... 15KHÁT ! ( Trầm Thiên Thu ) ...................................................................................................................... 16NHÂN LỄ TẤN PHONG CÁC HỒNG Y MỚI – Phần 2 ( Lm. Vũ Khởi Phụng ) ...................................... 18PHONG CÁCH PHANXICÔ – Bài 7: NHÀ THỜ VÀ HỘI THÁNH LÀ ĐỨC KITÔ ( Nguyễn Trung ) ....... 21CHAY TỊNH MANG LẠI SỰ BIẾN ĐỔI ( Joseph C. Phạm ) .................................................................... 25ƠN CỨU CHUỘC NƠI NGƯỜI CHAN CHỨA – Kỳ 4 ( Lm. Kevin O’Shea, bản dịch Mai Tá ) .............. 26CỨ BÁC SĨ GIÊSU VÀ Y TÁ MARIA LÀ ĐỦ RỒI ! ( Đa Minh Phan Văn Dũng ) .................................... 28PHÉP LÀNH TÂY NGUYÊN ( Nguyễn Trọng Tường ) ............................................................................ 31

TÔNG HUẤN CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ – Kỳ 13

"NIỀM VUI CỦA TIN MỪNG – EVANGELII GAUDIUM"CHƯƠNG IV – CHIỀU KÍCH XÃ HỘI CỦA VIỆC PHÚC ÂM HOÁ

III. Thiện ích chung và nền hoà bình trong xã hội

217. Chúng ta đã nói nhiều về niềm vui và tình yêu, nhưng Lời Chúa còn nói về hoa trái của bình an ( x. Gl 5, 22 ). 

218. Nền hoà bình trong xã hội không thể được hiểu là sự bình định hoặc là một sự vắng mặt bạo lực thuần tuý vốn là kết quả của sự thống trị của một phần xã hội lên trên những người khác. Nền hoà bình đích thực cũng không phải là một cái cớ để biện minh cho một kết cấu xã hội bịt miệng và xoa dịu người nghèo, để càng có nhiều sự giàu có có thể yên ổn phục vụ cho lối sống của họ trong khi mặc kệ những người khác đang phải nỗ lực kiếm sống. Những đòi hỏi liên quan đến sự phân bố của cải, sự quan tâm đến người nghèo và nhân quyền không thể bị bóp nghẹt dưới dáng vẻ bình dị của việc tạo nên một sự đồng thuận trên giấy bút hoặc là hoặc một nền hoà bình chóng qua cho thiểu số được thoả mãn. Phẩm giá của con người và của thiện ích chung thì cao hơn là sự yên ổn của những kẻ từ chối khước từ những đặc quyền của họ. Khi những giá trị này bị đe doạ, thì một tiếng nói có tính tiên tri cần phải được thốt lên.

219. Nền hoà bình cũng không phải "đơn giản là sự vắng bóng của chiến tranh, dựa trên sự cân bằng về quyền lực có tính tạm thời; nó phải được xây dựng bởi những nỗ lực từng ngày hướng hướng đến thiết lập một một hoàn vũ có trật tự theo ý muốn của Thiên Chúa, với một nền công lý hoàn hảo hơn đặt giữa con người". Sau cùng, nền hoà bình không phải là kết quả của một sự phát triển toàn diện sẽ bị diệt vong; nền hoà bình này sẽ luôn luôn phát sinh ra những mâu thuẫn mới và các hình thức khác nhau của bạo lực.

220. Con người ở mọi quốc gia gia tăng chiều kích xã hội của đời sống bằng việc hành động như những người công dân có cam kết và có trách nhiệm, chứ không phải như một nhóm côn đồ bị lèo lái bời quyền lực như bản chất của nó vốn là. Chúng ta đừng quên rằng "trách nhiệm công dân là một nhân đức,

2

CÙNG ĐÓN NHẬN

Page 3: Ephata 602

và sự tham gia vào đời sống chính trị là một nghĩa vụ đạo đức". Nhưng việc trở thành một dân tộc thì lại đòi hỏi một điều gì đó hơn nhiều. Nó là một tiến trình liên tục mà ở trong đó mỗi thế hệ mới cần phải dự phần vào: một nỗ lực chậm rãi và cam go mời gọi một lòng khao khát cho sự tương tác và một sự sẵn sàng để đạt tới điều này thông qua sự phát triển của một nền văn hoá gặp gỡ hoà bình và đa diện.

221. Tiến trình xây dựng một dân tộc trong hoà bình, công lý, và huynh đệ dựa trên bốn nguyên tắc có liên hệ đến những căn thẳng trường kỳ hiện diện trong mọi thực tại xã hội. Những nguyên tắc này trích ra từ những trụ cột của học thuyết xã hội của Giáo Hội, vốn đóng vai trò "như những tham chiếu chính yếu và nền tảng cho việc giải thích và đánh giá các hiện tượng xã hội". Dưới ánh sáng của những nguyên tắc này giờ đây tôi muốn đưa ra bốn nguyên tắc cụ thể có thể hướng dẫn sự phát triển đời sống trong xã hội và xây dựng một dân tộc nơi mà mọi sự khác biệt sẽ hoà hợp trong cùng một sự theo đuổi chung. Tôi làm như vậy với một sự xác tín rằng sự áp dụng chúng có thể là một lộ trình khôn ngoan dẫn đến hoà bình trong mỗi quốc gia và trên toàn thế giới.

Thời gian thì lớn lao hơn không gian

222. Có một sự căng thẳng thường trực tồn tại giữa sự thành toàn và sự giới hạn. Sự thành toàn mở ra lòng khao khát cho một sự sỡ hữu toàn vẹn, trong khi sự giới hạn lại mở ra một bức tường trước mắt chúng ta. Nói rộng ra thì, "thời gian" phải liên hệ với sự thành toàn như là một sự diễn tả một chân trời luôn luôn mở ra phía trước chúng ta, trong khi đó mỗi phút giây riêng biệt lại có liên hệ với một sự diễn tả của một không gian giới hạn. Con người sống trong sự quân bình giữa những phút giây riêng biệt và chân trời rộng mở hơn và rạng rỡ hơn về một tương lai xã hội như thể là nguyên lý cánh chung có sức cuốn hút chúng ta. Ở đây chúng ta thấy được một nguyên tắc đầu tiên cho tiến trình xây dựng một dân tộc: thời gian thì lớn lao hơn không gian. 

223. Nguyên tắc này giúp chúng ta làm việc chậm mà chắc, không bị ám ảnh bởi những kết quả tức thì. Nó giúp chúng ta biết kiên nhẫn để chịu đựng những hoàn cảnh khó khăn và nguy hiểm, hoặc những thay đổi không thể tránh được trong những kế hoạch của chúng ta. Nó mời gọi chúng ta chấp nhận sự căng thẳng giữa sự thành toàn và giới hạn, và mang lại cho chúng ta một sự ưu tiên cho thời gian.

Một trong những lỗi phạm mà chúng ta thi thoảng gặp thấy trong các hoạt động chính trị xã hội là không gian và quyền lực thì được xem trọng hơn là không gian và tiến trình. Dành ưu tiên cho không gian có nghĩa là nỗ lực cách điên dại để nắm giữ mọi sự trong hiện tại, cố gắng sở hữu tất cả mọi không gian của quyền lực và của sự khẳng định bản thân; Đó là việc tạo nên những tiến trình và sự ngầm định để giới hạn tất cả. Dành ưu tiên cho thời gian nghĩa là quan tâm về việc khởi xướng các tiến trình hơn là sở hữu các không gian. Thời gian điều khiển không gian, soi sáng chúng và làm cho chúng có liên hệ đến một mắt xích luôn mở ra, mà không có cơ hội quay trở lại.

Kế đến, điều chúng ta cần là dành ưu tiên cho các hành động tạo nên những tiến trình mới trong xã hội và cuốn hút những người và nhóm người khác vốn có khả năng phát triển những tiến trình này đến một mức độ mà chúng có thể sinh hoa trái trong các sự kiện lịch sử có ý nghĩa. Không có bất cứ một sự lo lắng nào cả, nhưng là những xác tín rõ ràng và sự kiên trì.

224. Đôi khi tôi tự hỏi liệu có còn những con người trong thế giới hôm nay đang thật sự quan tâm đến việc tạo ra những tiến trình của việc xây dựng một dân tộc, đi ngược lại với việc đạt được những kết quả tức thì vốn mang đến những lợi ích chính trị dễ dàng, nhanh chóng và ngắn hạn, nhưng lại không mang lại sự gia tăng sự thành toàn của nhân loại. Có lẽ lịch sử sẽ phán xét thế hệ sau này bằng tiêu chuẩn được lập ra bởi Romano Guardini: "Khuôn mẫu duy nhất để đánh giá cách đúng đắn một thời đại là điều tra xem liệu thời đại ấy có nuôi dưỡng sự phát triển và sự đạt tới sự hiện hữu toàn diện và chân thực của con người, phù hợp với tính cách đặc biệt và những khả năng của thời đại ấy hay không".

225. Tiêu chí này cũng áp dụng cho việc Phúc Âm Hoá, vốn mời gọi sự chú tâm đến bức tranh lớn hơn, sự mở lòng ra cho những tiến trình phù hợp và sự quan tâm trong dài hạn. Chính Thiên Chúa, trong suốt hành trình dương thế của mình, cũng thường cảnh báo các môn đệ của Ngài rằng có những thứ mà họ chưa hiểu và họ phải chờ đợi Thần Khí ( x. Ga 16, 12 – 13 ). Dụ ngôn cỏ lùng ở trong lúa ( x. Mt 13, 24 – 30 ) minh hoạ cách giàu hình ảnh một khía cạnh đặc biệt của việc Phúc Âm Hoá: kẻ thù có thể len lỏi vào vương quốc và gieo sự làm hại, nhưng cuối cùng thì nó cũng bị đánh bại bởi sự tốt lành của lúa mì.

Hiệp nhất thắng thế xung đột 

226. Xung đột không thể bị phớt lờ hoặc che giấu. Nó cần phải được đối diện. Nếu chúng ta cứ ở lì trong sự xung đột, chúng ta sẽ đánh mất quan điểm của chúng ta, những chân trời của chúng ta sẽ

3

Page 4: Ephata 602

thu hẹp lại và tự bản thân thực tại sẽ bắt đầu sụp đổ. Ngay trong sự xung đột, chúng ta đánh mất cảm thức về sự hiệp nhất sâu xa về thực tại.

227. Khi xung đột nổ ra, một vài người chỉ biết nhìn vào đó và đi theo con đường của riêng mình như thể chẳng có chuyện gì xảy ra; họ đã rửa sạch đôi bàn tay của họ về nó và tiếp tục sống cuộc sống của mình. Những người khác thì ôm thấy nó như thể họ là những tù nhân của nó; họ đánh mất phương hướng của mình, phóng chiếu lên những tổ chức khác chính sự bối rối và sự bất mãn của họ và do đó biến sự hiệp nhất thành không thể. Nhưng cũng có con đường thứ ba, đó là con đường tốt nhất để giải quyết xung đột. Đó chính là sự sẵn sàng đối diện với sự xung đột đang diễn ra, phục hồi nó và làm cho nó trở thành một sự kết nối trong mắt xích của một tiến trình mới. "Phúc cho ai xây dựng hoà bình !" ( Mt 5, 9 ).

228. Theo cách thế này chúng ta có thể xây dựng sự hiệp thông ngay giữa những bất đồng, nhưng điều này chỉ có thể đạt được bởi những con người vĩ đại sẵn sàng vượt ra khỏi bề mặt của sự xung đột và nhìn người khác từ trong phẩm giá sâu xa nhất của họ. Điều này đòi hỏi việc nhận biết nguyên tắc không thể thiếu để xây dựng tình bằng hữu trong xã hội: điều đó có nghĩa là, hiệp nhất thì lớn lao hơn sự xung đột. Sự đoàn kết, theo nghĩa sâu xa nhất và thử thách nhất của nó, có nghĩa là trở thành một cách thế để làm cho lịch sử trong bối cảnh cuộc sống nơi mà những xung đột, những căng thẳng, những đối nghịch có thể đạt tới một sự hiệp nhất có tính đa dạng và mang lại sự sống. Đây không phải là một chọn lựa dành cho một kiểu chủ nghĩa hổ lốn, hoặc cho sự thu hút của bên này vào với bên kia, nhưng là cho một sự phân giải diễn ra ở cấp độ cao hơn và bảo tồn những gì có giá trị và hữu ích cho cả hai bên. 

229. Nguyên tắc này, rút ra từ Phúc Âm, nhắc nhớ chúng ta rằng Đức Kitô đã làm cho mọi sự nên một trong Ngài: trời và đất, Thiên Chúa và con người, thời gian và vĩnh cửu, xác thịt và tinh thần, con người và xã hội. Dấu chỉ của sự hiệp nhất và hoà giải này của tất cả mọi sự nơi Ngài chính là hoà bình. Đức Kitô "là bình an của chúng ta" ( Ep 2, 14 ). Thông điệp Phúc Âm luôn luôn bắt đầu bằng một lời chào chúc bình an, và bình an ở mọi thời đại mặc lấy và minh xác những mối liên hệ giữa các môn đệ. Bình an trở nên khả thể là bởi vì Thiên Chúa đã vượt thắng thế gian và sự xung đột liên lỉ của nó "nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đem lại bình an" ( Cl 1, 20 ).

Nhưng nếu chúng ta xem xét kỹ càng hơn các bản văn Kinh Thánh, chúng ta sẽ thấy rằng vị trí đặc biệt của sự hoà giải này của tất cả mọi sự khác biệt hệ tại ở ngay trong chính bản thân chúng ta, nơi chính cuộc sống riêng của chúng ta, hằng bị đe doạ như chúng là bởi sự phân mảnh và đổ vỡ. Nếu mọi tâm hồn bị vỡ tan ra thành hàng ngàn mảnh, thì thật khó để xây dựng nền hoà bình trong xã hội. 

230. Sứ điệp của hoà bình không phải là sự điều đình đã qua thương thuyết nhưng là sự xác tín rằng sự hiệp nhất được mang đến bởi Thần Khí có thể làm hoà hợp mọi sự đa dạng. Nó vượt thắng mọi sự xung đột bằng việc tạo ra một tổng hợp mới và đầy hứa hẹn. Sự đa dạng là một điều tốt đẹp khi nó luôn luôn đi vào trong một tiến trình hoà giải và gắn kết một giao ước văn hoá được sinh ra trong một "sự đa dạng đã được hoà giải". Như Hội Đồng Giám Mục Congo đã đề ra: "Sự đa dạng về đạo đức của chúng ta là sự giàu có của chúng ta... Chỉ ở trong sự hiệp nhất, thông qua sự hoán cải của các tâm hồn và sự hoà giải, mà chúng ta có thể giúp đất nước của chúng ta phát triển trên mọi lãnh vực".

Các thực tại thì quan trọng hơn các ý tưởng

231. Cũng luôn tồn tại một sự căng thẳng thường trực giữa các ý tưởng và các thực tại. Các thực tại đơn giản là, nơi các ý tưởng được thực hiện. Vẫn cần phải có sự đối thoại liên tục giữa cả hai, đừng để các ý tưởng tách ra khỏi những thực tại. Thật là nguy hiểm để chỉ ở lại trong cõi của ngôn từ, của những hình ảnh và thuật hùng biện. Vì thế mà nguyên tắc thứ ba được sử dụng: các thực tại thì lớn lao hơn các ý tưởng. Nguyên tắc này mời gọi việc khước từ hình thức khác nhau của việc che đậy thực tại: các hình thức trong sạch như thiên thần, sự độc tài của chủ thuyết tương đối, những lời hùng biện sáo rỗng, những mục tiêu mà thuần lý tưởng hơn là thực tế, các nhánh của chủ thuyết nền tảng phi lịch sử, các hệ thống đạo đức bị tước mất sự nhân hậu, tri thức bị tước mất sự khôn ngoan.

232. Các ý tưởng – những hình thức ý niệm – phục vụ cho việc thông truyền, hiểu, và thực hành. Các ý tưởng tách biệt khỏi các thực tại sẽ tạo nên những hình thức vô ích của chủ nghĩa lý tưởng và chủ nghĩa duy danh, có khả năng phân loại và định danh tốt nhất, song chắc chắn không bao giờ thôi thúc đến hành động. Điều mời gọi chúng ta hành động là những thực tại được soi sáng bởi lý trí. Chủ nghĩa duy danh hình thức cần phải nhường chỗ cho sự khách quan có tính hoà hợp. Bằng không, sự thật sẽ bị bóp méo, các hình thức thẩm mỹ sẽ thay thế sự chăm sóc đích thực cho cơ thể của chúng ta.

4

Page 5: Ephata 602

Chúng ta có các chính trị gia – và thậm chí các nhà lãnh đạo tôn giáo – những người tự hỏi vì sao con người lại không hiểu và đi theo họ, mặc dù những đề xuất của họ là quá rõ ràng và hợp lý. Có lẽ đó là bởi vì họ đã bị kẹt cứng trong cõi của những ý tưởng thuần tuý và và kết cục bằng việc làm hạ giá chính trị hoặc Đức Tin xuống thành những lời hùng biện. Những người khác lại bỏ lại phía sau sự đơn giản và thêm vào một thứ lý luận hoàn toàn xa lạ đối với hầu hết mọi người.

233. Thực tại thì lớn lao hơn các ý tưởng. Nguyên tắc này có liên hệ đến việc nhập thể của Lời và thực thể của Lời trong thực tế: "Căn cứ vào điều này, anh em nhận ra thần khí của Thiên Chúa: thần khí nào tuyên xưng Ðức Giêsu Kitô là Ðấng đã đến và trở nên người phàm, thì thần khí ấy bởi Thiên Chúa" ( 1 Ga 4, 2 ). Nguyên tắc của thực tại, của Ngôi Lời đã mặc lấy xác phàm và luôn luôn tìm cách mặc lấy một xác phàm mới, là điều thiết yếu đối với việc Phúc Âm Hoá. Nguyên tắc này giúp chúng ta thấy được rằng lịch sử Giáo Hội là một lịch sử của Ơn Cứu Độ, giúp chúng ta nhớ đến các thánh là những vị đã hội nhập văn hoá Phúc Âm vào trong đời sống của các dân tộc và gặt về những hoa trái của của truyền thống phong phú hai ngàn năm của Giáo Hội, mà không giả vờ để đưa ra một hệ thống tư tưởng tách rời khỏi kho tàng này, như thể chúng ta muốn tái sáng tạo Phúc Âm. Đồng thời, nguyên tắc này còn thôi thúc chúng ta thực hành Lời, thực hiện những công việc của công lý và bác ái vốn làm cho thế giới thêm phong phú. Không thực hành Lời, không làm cho Lời thành thực tại, là xây nhà trên cát, là ở lì trong cõi của những ý tưởng thuần tuý và để kết thúc trong một sự quy ngã và duy trì chủ nghĩa không có sự sống và không sinh hoa trái.

Toàn thể thì lớn lao hơn một phần

234. Một sự căng thẳng cố hữu cũng tồn tại giữa toàn cầu hoá và địa phương hoá. Chúng ta cần phải chú ý đến tính toàn cầu để tránh sự hạn hẹp và sự tầm thường. Nhưng chúng ta cũng cần phải nhìn đến tính địa phương, vốn giúp chúng ta đứng vững. Hợp lại với nhau, cả hai ngăn ngừa chúng ta rơi vào một trong hai thái cực. Ở thái cực thứ nhất, người ta bị dính chặt vào một địa cầu trừu tượng và toàn cầu hoá, rơi tỏm về phía sau người khác, tôn sùng những hào nhoáng chóng qua nơi thế giới của người khác, miệng há hốc và vỗ tay tán thành trong mọi thời điểm đúng. Ở thái cực khác, họ trở thành một viện bảo tàng của những tập tục địa phương, một thế giới xa cách, chìm ngập vào làm cùng một việc lặp đi lặp lại, và mất khả năng để được thử thách bởi điều mới lạ hoặc trân trọng vẻ đẹp mà Thiên Chúa ban vượt quá những ranh giới của họ.

235. Toàn thể thì lớn hơn một phần, nhưng cũng còn lớn hơn cả các phần của toàn thể ấy hợp lại. Vì thế, không cần thiết phải bị quá ám ảnh về những vấn đề giới hạn và đặc thù. Chúng ta cần phải liên tục mở rộng những chân trời của chúng ta và nhìn thấy được những điều tốt lớn lao hơn mang lại lợi ích cho tất cả chúng ta. Nhưng điều này chỉ được thực hiện mà không có sự né tránh hoặc mất gốc. Chúng ta cần phải bén rễ của chúng ta sâu hơn nữa xuống mảnh đất màu mỡ và lịch sử của nơi bản xứ của chúng ta, vốn là một quà tặng của Thiên Chúa. Chúng ta có thể làm việc ở quy mô nhỏ, trong cộng đồng của chúng ta, nhưng bằng một quan điểm tiếp cận rộng lớn hơn. Cũng thế, không phải là người ta đi vào cuộc sống của một cộng đồng bằng tất cả trái tim thì cần phải đánh mất đặc tính cá nhân của họ hoặc phải che giấu căn tính của họ; thay vào đó, họ sẽ đón nhận những động lực mới cho sự phát triển cá nhân. Tính toàn cầu không nhất thiết làm cho ngột ngạt, cũng như tính đặc thù cũng không cần thể hiện sự cằn cỗi.

236. Khuôn mẫu của chúng ta ở đây không phải là một hình cầu, vốn lại không thể lớn hơn các phần của nó, nơi mà mọi điểm là khoảng cách bằng nhau tính từ trọng tâm, và không có sự khác biệt nào giữa chúng. Thay vào đó, đó là một khối đa diện, phản chiếu sự đồng qui của tất cả các phần của nó, mỗi phần duy trì khoảng cách của riêng nó. Hoạt động mục vụ và chính trị cũng giống nhau là tìm kiếm nhau trong khối đa diện này phần nào là tốt nhất của mỗi bên. Có chỗ cho người nghèo và văn hoá của họ, những khát vọng của họ và tiềm năng của họ. Ngay cả những người có thể bị coi là mập mờ đối với những sai lỗi của họ thì vẫn có gì đó để trao ban mà không được phép coi thường. Đó chính là điểm đồng qui của tất cả các dân tộc, trong trật tự của hoàn vũ, vẫn duy trì đặc tính cá nhân của dân tộc họ; đó là tổng thể của những con người trong một xã hội vốn đang theo đuổi những thiện ích chung, thực sự có chỗ dành cho mọi người.

237. Đối với các Kitô hữu, nguyên tắc này còn khơi dậy tính tổng thể hoặc tính nhất quán của Phúc Âm mà Giáo Hội đã truyền lại cho chúng ta và sai chúng ta

5

Page 6: Ephata 602

đi loan báo. Sự tròn đầy và phong phú của Phúc Âm ôm lấy các học giả và các công nhân, các thương gia và các nghệ sỹ, tắt một lời, hết mọi người. Sự thông thái của mỗi dân tộc tiếp nhận toàn bộ Phúc Âm theo cách riêng của mình và mặc lấy xác phàm cho Phúc Âm ngang qua những hình thức diễn tả của cầu nguyện, tình huynh đệ, công lý, sự đấu tranh và việc cử hành.

Tin Mừng là niềm vui của Chúa Cha Đấng khao khát rằng không một ai trong những kẻ bé mọn của Ngài bị hư mất, niềm vui của Vị Mục Tử Nhân Lành tìm thất con chiên lạc và mang nó về với đàn chiên. Phúc Âm là căn nguyên làm cho khối bột dậy men và làm cho cả thành phố trên núi mà ánh sáng của thành phố ấy chiếu sáng cho hết mọi dân tộc. Phúc Âm có một nguyên tắc tự nhiên về tính tổng thể: Tin Mừng vẫn cứ luôn luôn là tin mừng cho đến khi nó được loan báo cho hết mọi dân tộc, cho đến khi nó chữa lành và tăng sức mạnh cho hết mọi khía cạnh của nhân loại, cho đến khi nó mang hết tất cả những người đàn ông và phụ nữ vào cùng ngồi một bàn tiệc trong Vương Quốc của Thiên Chúa. Tổng thể thì lớn lao hơn một phần.

Việc Phúc Âm Hoá cũng liên quan đến con đường đối thoại. Đối với Giáo Hội ngày nay, có ba lãnh vực đối thoại đặc biệt mà Giáo Hội cần có mặt để cổ võ sự phát triển con người toàn diện và để theo đuổi thiện ích chung

IV. Đối thoại xã hội như là một đóng góp cho hoà bình

238. Việc Phúc Âm Hoá cũng liên quan đến con đường đối thoại. Đối với Giáo Hội ngày nay, có ba lãnh vực đối thoại đặc biệt mà Giáo Hội cần có mặt để cổ võ sự phát triển con người toàn diện và để theo đuổi thiện ích chung: đối thoại với các nhà nước, đối thoại với xã hội – bao gồm cả việc đối thoại với các nền văn hoá và các ngành khoa học – và đối thoại với những người mang niềm tin tôn giáo khác không thuộc về Giáo Hội. Trong mỗi trường hợp, "Giáo Hội nói từ ánh sáng mà Đức Tin soi dẫn", đóng góp kinh nghiệm hai ngàn năm của mình và luôn giữ gìn trong tâm thức sự sống và những nỗi thống khổ của con người. Ánh sáng này trổi vượt hơn lý luận của con người, nhưng nó cũng mang lại ý nghĩa và sự phong phú cho những ai chưa tin và nó thôi thúc lý trí mở rộng các cách tiếp cận của nó. 

239. Giáo Hội loan báo "Tin Mừng của bình an" ( Ep 6, 15 ) và Giáo Hội khao khát để hợp tác với tất cả những nhà cầm quyền ở tầm quốc gia và quốc tế trong việc bảo vệ tài sản vô biên mang tính toàn cầu này. Bằng việc rao giảng về Đức Giêsu Kitô, Đấng chính ngài là bình an ( x. Ep 2, 14 ), công cuộc tân Phúc Âm Hoá mời gọi tất cả mọi người đã chịu phép rửa trở thành người kiến tạo hoà bình và một chứng tá đáng tin cậy cho một đời sống hoà giải. Trong một nền văn hoá vốn trao đặc quyền cho việc đối thoại như là một hình thức của việc gặp gỡ, thì giờ đây là lúc thích hợp để đưa ra những cách thế để xây dựng một sự đồng thuận và sự thoả

thuận trong khi vẫn tìm kiếm mục tiêu cho một xã hội công bằng, thích ứng và không loại trừ.

Tác giả chính, chủ thể của lịch sử, là một dân tộc như một tổng thể và văn hoá của họ, chứ không phải là một giai tầng đơn độc, một thiểu số, một nhóm hoặc một số người ưu tú. Chúng ta không cần những kế hoạch được vẽ ra bởi một số người và cho một số người, hoặc một thiểu số được khai sáng hoặc một thiểu số có tiếng nói đại diện cho tiếng nói của mọi người. Kế hoạch ấy là về việc đồng thuận để sống với nhau, một hiệp ước xã hội và văn hoá.

240. Đó là trách nhiệm của Nhà Nước để bảo vệ và thăng tiến thiện ích chung của xã hội. Dựa trên những nguyên tắc bổ trợ và đoàn kết, và cam kết trọn vẹn cho việc đối thoại chính trị và xây dựng sự đồng thuận, nó đóng vai trò nền tảng, một vai trò không thể chuyển giao, trong khi nỗ lực cho sự phát triển toàn vẹn cho toàn thể. Vai trò này, ngay tại lúc này, mời gọi một sự khiêm hạ xã hội sâu sắc.

241. Trong công cuộc đối thoại của mình với Nhà Nước và xã hội, Giáo Hội không có những giải pháp cho mọi vấn đề cụ thể. Cùng với các lãnh vực khác nhau của xã hội, Giáo Hội hỗ trợ những chương trình đáp ứng tốt nhất phẩm giá của mỗi con người và của thiện ích chung. Trong khi thực hiện điều này, Giáo Hội đề ra một cách rõ ràng những giá trị nền tảng về sự sống con người và những xác tín sau đó có thể tìm thấy được sự thể hiện trong các hoạt động chính trị.

Đối thoại giữa Đức Tin lý trí và khoa học

242. Công cuộc đối thoại giữa Khoa Học và Đức Tin cũng thuộc về công việc của việc Phúc Âm Hoá phục vụ cho nền hoà bình. Trong khi chủ nghĩa thực nghiệm và chủ nghĩa khoa học "khước từ

6

Page 7: Ephata 602

công nhận giá trị của các hình thức tri thức khác hơn là của những nền khoa học chứng nghiệm", thì Giáo Hội đề ra một con đường khác, con đường mời gọi một sự tổng hợp giữa việc sử dụng có trách nhiệm các phương pháp thích hợp đối với các ngành khoa học thực nghiệm và các lãnh vực khác của tri thức như là triết học, thần học, cũng như là bản thân Đức Tin, vốn nâng chúng ta lên tới mầu nhiệm làm trổi vượt sự thông minh mang tính tự nhiên và con người. Đức Tin không sợ lý trí; trái lại, Đức Tin tìm kiếm và tin tưởng lý trí, bởi vì "ánh sáng của lý trí và ánh sáng của Đức Tin đều đến từ Thiên Chúa" và không thể mâu thuẫn với nhau.

Việc Phúc Âm Hoá chú ý đến những tiến bộ khoa học và khao khát chiếu trên những tiến bộ này ánh sáng của Đức Tin và luật tự nhiên để chúng vẫn tôn trọng giá trị trọng tâm và ưu việt của con người ở mọi giai đoạn sống. Tất cả xã hội có thể được trở nên phong phú nhờ vào cuộc đối thoại này, cuộc đối thoại mở ra những chân trời mới cho tư tưởng và mở ra những khả năng cho lý trí. Đây cũng là con đường của hoà hợp và hoà bình.

243. Giáo Hội không có mong muốn giữ lại tiến trình phát triển tuyệt vời của khoa học. Trái lại, Giáo Hội vui mừng và thậm chí hân hoan trong việc nhận biết những tiềm năng lớn lao mà Thiên Chúa đã ban tặng cho tâm trí con người. Bất cứ khi nào các ngành khoa học – một cách chặt chẽ tập trung vào lãnh vực nghiên cứu cụ thể của chúng – thì sẽ đi đến một kết luận mà lý trí không thể biện luận, Đức Tin không mâu thuẫn với lý trí. Các tín hữu cũng không thể tuyên bố rằng một quan điểm khoa học hấp dẫn nhưng chưa được minh xác đủ thì có cùng trọng lượng như là một giáo lý của Đức Tin. Đôi khi một số nhà khoa học đi quá những giới hạn của khả năng khoa học bằng việc đưa ra những lời nhận định hoặc tuyên bố nhất định. Nhưng ở đây vấn đề không phải là với bản thân lý trí, nhưng là với việc cổ võ một dạng ý thức hệ đặc biệt làm ngáng trở con đường để đi đến sự đối thoại chân thực, bình thản, và sinh hoa trái.

Đối thoại đại kết

244. Cam kết dấn thân cho công cuộc đại kết đáp trả lời cầu nguyện của Chúa Giêsu "để tất cả nên một" ( Ga 17, 21 ). Sự đáng tin cậy của thông điệp Kitô Giáo có lẽ còn lớn lao hơn nữa nếu các Kitô hữu có thể vượt thắng được những phân rẽ và Giáo Hội có thể nhận ra được "sự thành toàn của tính Công Giáo thích hợp với Giáo Hội ở nơi những người con của Giáo Hội, thông qua việc cho họ dự phần vào bằng phép rửa, nhưng đang phải bị tách lìa khỏi sự hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội". Chúng ta phải không bao giờ được quên rằng chúng ta là những người hành hương trên con đường lữ hành cùng nhau.

Điều này có nghĩa là chúng ta phải có một sự tin tưởng chân thành vào những người bạn hành hương của chúng ta, bỏ qua một bên những đố kỵ hoặc sự không tin tưởng, và hướng tầm nhìn của chúng ta đến điều mà tất cả chúng ta đều đang tìm kiếm: sự bình an chiếu toả của dung nhan Thiên Chúa. Tin tưởng lẫn nhau là một nghệ thuật và bình an là một nghệ thuật. Chúa Giêsu dạy chúng ta: "Phúc cho những ai xây dựng hoà bình" ( Mt 5, 9 ). Bằng việc mang lấy nhiệm vụ này, cũng như ở giữa bản thân chúng ta, chúng ta hoàn thành lời tiên tri xưa: "Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày" ( Is 2, 4 ).

245. Trên quan điểm này, công cuộc đại kết có thể được nhìn nhận như là một sự đóng góp cho sự hiệp nhất của gia đình nhân loại. Tại Thượng Hội Đồng Giám Mục, sự hiện diện của Đức Thượng Phụ Constantinople, Đức Bartholomew I và Tổng Giám Mục Canterbury, Đức Rowan Douglas Williams, đã là một quà tặng thực sự đến từ Thiên Chúa và là một chứng nhân Kitô Giáo quý giá.

246. Với mức độ nghiêm trọng được đưa ra về chứng cứ đối nghịch của sự chia rẽ giữa các Kitô hữu, đặc biệt ở Châu Á và Châu Phi, thì việc tìm kiếm con đường để đi đến sự hiệp nhất càng trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Các nhà truyền giáo ở các châu lục này thường đề cập đến những lời chỉ trích, những lời than phiền, và sự nhạo báng vì đó mà các vụ bê bối do bởi những chia rẽ nơi các Kitô hữu xảy ra. Nếu chúng ta tập trung vào những xác tín mà chúng ta cùng nhau chia sẻ, và nếu chúng ta luôn nhớ đến nguyên tắc về phẩm trật của những chân lý, chúng ta sẽ có thể tiến bước một cách dứt khoát về những diễn tả chung của việc loan báo, phục vụ và làm chứng. Con số bao la về những người chưa đón nhận Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô không cho phép chúng ta thờ ơ.

Do đó, việc cam kết dấn thân cho sự hiệp nhất vốn sẽ giúp họ đón nhận Đức Giêsu Kitô không còn là một vấn đề thuần ngoại giao hoặc một sự đạt được bằng vũ lực, nhưng là một con đường không thể thiếu cho công cuộc Phúc Âm Hoá. Các dấu chỉ về việc chia rẽ giữa các Kitô hữu ở các quốc gia đã

7

Page 8: Ephata 602

bị tàn phá bởi bạo lực làm gia tăng thêm nữa những nguyên nhân của sự xung đột ở nơi những con người lẽ ra phải trở thành những nắm men của hoà bình.

Còn biết bao nhiêu điều quan trọng nữa làm cho chúng ta hiệp nhất ! Nếu chúng ta thật sự tin vào công việc tự do và phong phú của Chúa Thánh Thần, chúng ta có thể học được rất nhiều từ nhau ! Đó không phải chỉ là việc được biết tốt hơn nữa về những người khác, mà là về việc gặt hái những gì mà Thần Khí đã gieo ở nơi họ, đó cũng có nghĩa là một quà tặng dành cho chúng ta. Đơn cử một ví dụ, trong công cuộc đối thoại với anh chị em Chính Thống của chúng ta, chúng ta là những người Công Giáo có cơ hội học hỏi nhiều hơn nữa về ý nghĩa của giám mục đoàn và kinh nghiệm của họ về thượng hội đồng giám mục. Thông qua những món quà trao đổi qua lại, Thần Khí có thể dẫn chúng ta một cách trọn vẹn hơn bao giờ hết đi vào chân lý và sự tốt lành.

ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ, bản dịch của JOSEPH C. PHẠM ( còn tiếp nhiều kỳ )

BÁO CỦA NHÀ NƯỚC CỘNG SẢN VIẾT VỀ ĐỨC GIÁO HOÀNG

ĐỨC PHANXICÔ – 1 NĂM TRÊN NGAI GIÁO HOÀNGNăm 2013 đánh dấu một sự kiện lớn hiếm có của Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ là việc Giáo

Hoàng Bênêđictô XVI từ nhiệm tháng 2 năm 2013, và sau đó mật nghị Hồng Y đã bầu ra Giáo Hoàng kế nhiệm thứ 266 của Giáo Hội Công Giáo.

Đó là Hồng Y Jorge Mario Bergoglio của Argentina với tước hiệu Phanxicô. Tân Giáo Hoàng 76 tuổi, đã từng bị cắt một thùy phổi năm 21 tuổi. Kể từ ngày đăng quang 13.3.2013 đến nay đã tròn 1 năm, Giáo Hoàng Phanxicô cai quản Giáo Hội Công Giáo với 1,2 tỷ tín đồ trên cương vị Giáo Hoàng.

Ấn tượng đầu tiên của Giáo Hoàng Phanxicô đối với thế giới mà tờ Le Figaro gọi là “ fenomena” ( hiện tượng phi thường ) đó là phong cách gần gũi giản dị, dễ gần dân chúng của vị tân Giáo Hoàng. Báo chí đã dành nhiều bài để nói về Giáo Hoàng Phanxicô không đi xe Limousine mới, biển ưu tiên của Vatican mà vẫn đi chiếc xe cũ, vẫn ở căn nhà trọ Santa Matta và trực tiếp trả tiền trọ chứ không phải ở biệt thự cao cấp dành cho Giáo Hoàng trong Tòa Thánh Vatican.

Như vậy Giáo Hoàng Phanxicô vẫn giữ phong cách sống đạm bạc như hồi còn làm Tổng Giám Mục Buenos Aires ở Argentina, ngài vẫn ở trong khu nhà chung cư 2 phòng, tự đốt lò sưởi trong mùa đông chứ không dùng điều hòa, không ở biệt thự của Tổng Giám Mục, vẫn đi xe bus hàng ngày và vẫn tự nấu ăn lấy.

Tại Buenos Aires có khu ổ chuột, ngài vẫn đến đây với họ nên khi ngài lên ngôi Giáo Hoàng, họ gọi ngài là “Papa Villero” ( Giáo Hoàng ổ chuột ). Ngài trực tiếp gọi điện thoại cho người đặt báo ở quê xin cắt báo hàng ngày hay gọi điện cho Trung Tâm Trẻ Mồ Côi ở Argentina rằng lễ Noel năm nay không thể về vui chung với các trẻ em như thường lệ vì bận việc ở Vatican. Ngài cũng gọi điện báo cho bạn bè và gia đình ở Argentina là không nên đi Italia để dự lễ tấn phong của mình, để tiền đó mà ủng hộ các trẻ em khuyết tật…

Ngày lễ tấn phong Giáo Hoàng, ngài từ chối đội vương miện, đeo nhẫn vàng, đi giày đỏ như các vị tiền nhiệm mà vẫn dùng trang phục cũ, chỉ khác chiếc khăn choàng trắng trên vai. Lễ Rửa Chân năm 2013, ngài quỳ gối hôn chân cho 12 trẻ em ở nhà tù Casal del Marmo, Italia hay ôm hôn người bị u bướu gây xúc động cho báo giới. Khi dự Ngày Giới Trẻ ở Rio Janeiro, Brazil, ngài cũng không ngồi xe chống đạn làm an ninh lo lắng, để có cơ hội được bắt tay với nhiều người. Ngài ủng hộ 3,6 triệu euro tiền thiếu hụt khi Ban Tổ Chức Ngày Giới Trẻ ở Brazil báo lại.

Dư luận cũng lo lắng, sẽ có khó xử giữa Giáo Hoàng đương nhiệm và vị đã nghỉ hưu, nhưng xem chừng điều đó đã không xảy ra. Hai vị vẫn tôn trọng và yêu quý lẫn nhau. Khi chưa đăng quang, Hồng Y Brazil, Clausisco Hummes, bạn ngài đã nói: Đừng quên người nghèo nhé và ngài đã nhớ ngay vị Thánh nghèo khó nên nhận danh hiệu Giáo Hoàng là Phanxicô.  

Sinh nhật lần thứ 77 của ngài, ngài chọn cách dùng bữa tối với một số người vô gia cư ở Rôma. Nhưng chính sự gần gũi, giản đơn của ngài đã ghi điểm trong dân chúng. Tạp chí Esquire, chuyên về

8

CÙNG THÔNG TIN

Page 9: Ephata 602

thời trang đã chọn ngài làm nhân vật thời trang nhất trong năm 2013. Ngài đã vượt lên trên cả các nghệ sĩ điện ảnh Holywood lấp lánh thời trang hàng hiệu.

Chỉ 9 tháng ở ngôi Giáo Hoàng, Đức Phanxicô đã được tạp chí Time bình chọn là nhân vật xuất sắc của năm 2013. Ông Nancy Gibis, Tổng Biên Tập tạp chí Time cho biết, đây là vị Giáo Hoàng thứ ba được Time bình chọn kể từ năm 1927. Trước đó đã có Giáo Hoàng Gioan XXIII, người đã khởi xướng Công Đồng Vatican 2 với tinh thần canh tân đổi mới, và Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 đã góp phần xóa bỏ thế giới lưỡng cực. Còn Giáo Hoàng Phanxicô là một Giáo Hoàng Perestroika ( cải tổ ).

Quả thật, Giáo Hoàng Phanxicô đã bắt tay cải tổ Giáo Hội. Trước hết là từ bộ máy nặng nề ở Vatican. Ngài bổ nhiệm Tổng Giám Mục Pietro Parolin làm Quốc Vụ Khanh thay cho Hồng Y T. Bertone. Ngài chọn 8 Hồng Y từ 5 châu lục để lập Ban Cố Vấn giúp ngài quản trị Giáo Triều. Ban Cố Vấn đã họp 2 phiên và sẽ trình phương án cải tổ giáo triều trong năm 2014. Quốc Vụ Khanh trước đây được coi như Thủ Tướng Vatican, nay chỉ là văn phòng của Giáo Hoàng.

Vấn đề tài chính của Tòa Thánh, trước đây khá tai tiếng. Ngài thay đổi người quản trị. Rồi ngài chọn 8 chuyên gia là Giáo Dân giúp điều hành. Ngài đã chọn 19 Hồng Y đầu tiên dưới triều đại của mình nhưng không có người Hoa Kỳ như trước mà thay bằng đại diện các nước nghèo hay vùng đất của Hồi Giáo như Haiiti, Mindanao… Trong thư gửi các Hồng Y trước ngày tấn phong, ngài viết: “Tước vị Hồng Y không có nghĩa là thăng chức, cũng không phải là một vinh dự hay một sự tô điểm, đơn giản chỉ là một đòi hỏi quý vị phải mở rộng tâm hồn và trái tim của mình”.

Ngài phê bình nặng lời lối sống sa hoa, lãng phí của hàng Giáo Sĩ. Ngài nói, ôtô, điện thoại chỉ là phương tiện để làm việc nên Giáo Sĩ không nên sắm những thứ đắt tiền và khi mua sắm nên nghĩ đến người nghèo. Sau lời cảnh báo này, không ít Linh Mục phải đổi xe cũ hơn, rẻ tiền hơn. Ngài cũng cách chức Giám Mục Giáo Phận Limburg, Đức vì tội hay sắm sửa và xây dựng hoang phí, cách chức Tổng Giám Mục J. Wesolowski đang là sứ thần Dominica vì cáo buộc lạm dụng tình dục. Hồng Y bảo thủ người Hoa Kỳ là Raymond Burke và Hồng Y Mauro Piacenza cũng không được bổ nhiệm lại.

Ngài chỉ trích nặng lời cách ứng xử của hàng Giáo Sĩ quan liêu khi người phụ nữ ngoại tình đưa con đi rửa tội đã bị từ chối. Ngài nói, đứa trẻ gia nhập Giáo Hội đâu cần khai lý lịch. Đó là thứ “mục vụ dịch vụ” và Giáo Hội không chấp nhận thứ dịch vụ ấy. Ngài tố cáo những tệ nạn xấu hổ trong hàng Giáo Sĩ nhất là nạn ấu dâm. Ngài nói: “Thật là ô nhục cho Giáo Hội. Chúng ta xấu hổ vì những scandal, những chiến bại của các Linh Mục, Giám Mục, Giáo Dân. Lời Chúa trong các scandal ấy thật khó thấy. Họ có quan hệ với Thiên Chúa. Họ có một địa vị trong Giáo Hội, có quyền lực thoải mái, nhưng Lời Chúa thì không có”.

Ngài bãi bỏ tước hiệu Đức Ông. Trước đây, tước hiệu này có tới 16 cấp, đời Đức Phaolô VI chỉ còn 3 cấp, nay ngài chỉ còn giữ 1 cấp nhưng cũng không ban cho các Linh Mục tuổi quá 65.

Khi chiến tranh ở Syria cận kề, ngài kêu gọi thế giới hãy chặn đứng cuộc chiến này, Giáo Hội Công Giáo lấy ngày 7.9.2013 là ngày ăn chay, cầu nguyện cho hòa bình ở đất nước đã quá đau khổ vì nội chiến dai dẳng làm 100 ngàn người thiệt mạng và 10 triệu dân nước này phải trốn chạy, tha hương.

Thông điệp đầu tay của ngài có tên Evangelii Gaudium ( Niềm vui Phúc Âm ) dài 5.000 chữ nhưng mang đầy tinh thần cải cách hiếm có như Hiến Chế Gaudium et Spes ( Vui mừng và Hy vọng ) của Công Đồng Vatican 2 cách đây 50 năm. Tinh thần đi với người nghèo và hội nhập văn hóa của Thông Điệp rất rõ ràng: “Một Giáo hội có đôi bàn tay lấm láp vì giúp đỡ người nghèo và người bị áp bức… Chúng ta không thể đòi hỏi những người ở mỗi lục địa trong việc diễn tả Đức Tin Kitô Giáo của họ bằng việc bắt chước các hình thức diễn tả mà các nước Châu Âu đã phát triển tại một thời điểm nào đó”. Chính vì vậy, ngài cũng bị soi mói, chỉ trích. Ông Ruch Limbaugh – một nhà bình luận chính trị Italia viết: “Thật đáng buồn về vị Giáo Hoàng này làm cho chúng ta thấy rõ ràng rằng, ông ta không biết gì về những điều khi ông ta nói đến chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Đây là chủ nghĩa Mácxít tinh ròng thoát ra từ miệng Giáo Hoàng”.

Giáo Hoàng Phanxicô có cách tiếp cận giới truyền thông gần gũi hơn. Ngày ra mắt báo chí đầu tiên trong cương vị Giáo Hoàng, ngày 15.3.2013, ngài gặp 5.000 nhà báo mà không dùng diễn văn soạn sẵn mà trò chuyện với họ. Đi dự Ngày Giới Trẻ ở Brazil về, ngài họp báo ngay trên máy bay. Có những vấn đề nhạy cảm như kết hôn đồng tính hay ly hôn, phá thai… Các nhà báo hỏi thái độ của ngài ? Ngài bảo: “Nếu ai đó là người đồng tính, nhưng biết tìm kiếm Chúa và có thiện chí, thì tôi là ai mà dám phê

9

Page 10: Ephata 602

phán”. Đã có 907 tờ báo trích câu nói này nhưng chỉ có 305 tờ là trích đầy đủ còn lại là cắt xén chỉ có câu cuối gây tranh cãi trên dư luận.

Ngài lập tài khoản Tweeter của mình và thường xuyên có 11 triệu người theo dõi, đông gấp 4 lần vị tiền nhiệm. Một nhà truyền thông ở Vatican nhận xét, mỗi một tweet ( tin nhắn ) của ngài ảnh hưởng tới 60 triệu người. Bưu điện quốc gia nhỏ xíu Vatican, mỗi ngày tiếp nhận 2.000 lá thư gửi đích danh Giáo Hoàng Phanxicô, đấy là chưa kể email. Nhiều người ghi cả số điện thoại riêng, hy vọng sẽ có ngày được Giáo Hoàng trực tiếp gọi điện thoại tới. Ngày Lễ Tình Nhân 14.2.2014, ngài đã gặp gỡ 30.000 bạn trẻ ở quảng trường Thánh Phêrô và trả lời các câu hỏi của các cặp hôn nhân với cách trả lời hóm hỉnh, trẻ trung.

Tờ Wall Street Journal và kênh truyền hình NBC đã thăm dò ý kiến dư luận hôm 11.12.2013, cho biết, có 88% người Hoa Kỳ có ấn tượng tích cực với Giáo Hoàng Phanxicô. Tờ Washington Post và hãng truyền hình CNN cũng cho biết, hiện nay có 64 % người ủng hộ Công Giáo. Từ trước tới nay, số liệu cao nhất chỉ là 62%. Từ khi Giáo Hoàng Phanxicô đăng quang, lượng người đổ về Vatican cũng đông hơn. Những buổi tiếp kiến chung thứ tư hàng tuần có từ 60 – 100 ngàn người tham dự, đông gấp 4 lần trước đây. Cơ quan du lịch Vatican cho biết, lượng khách hành hương tăng gấp 3 lần tức 6,6 triệu lượt người, bất chấp kinh tế thế giới khó khăn.

Đặc biệt, có sự thức tỉnh trở lại của nhiều Giáo hội địa phương trước đây có tiếng là khô khan, nguội lạnh như Tây Ban Nha, Argentina, Anh. Tờ Le Figaro gọi đó là “hiện tượng Phanxicô”. Số Giáo Dân quay trở lại Nhà Thờ tăng 20% và số gia nhập đạo tăng 12%. Rất nhiều trẻ em ở Châu Âu được sinh ra trong năm 2013 đã được đặt tên là Phanxicô. Giám Mục Giovanni d’Ericle cho rằng: chính nhiệt huyết của Giáo Hoàng Phanxicô đã lôi kéo Giáo Dân quay lại Nhà Thờ.

Nếu gõ từ khóa “Pope Francis” ( Giáo Hoàng Phanxicô ) thì nhận được 1,2 tỷ kết quả trên Facebook. Bà Thủ Tướng Đức Angela Merkel, có bố là Mục Sư Tin Lành nhưng cũng tuyên bố mình là “fan” của Giáo Hoàng Phanxicô. Ngoại trưởng Hoa Kỳ Kerry vừa có cuộc gặp với Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh Parolin để chuẩn bị cho cuộc yết kiến của Tổng Thống B. Obama với Giáo Hoàng Phanxicô sắp tới. Dù có hàng 100.000 lá thư gửi đến khuyên ngài đừng gặp Tổng Thống Pháp F. Hollande vì tai tiếng tình ái nhưng ngài vẫn gặp gỡ chứ không tránh né.

Ủy Ban Truyền Thông Châu Âu ngày 13.12.2013 cũng trao giải Truyền Thông 2013 cho Giáo Hoàng Phanxicô. Tạp chí Forbes đã xếp Giáo Hoàng Phanxicô là nhân vật quyền lực nhất thế giới năm 2013 sau nguyên thủ Nga, Mỹ và Trung Quốc.

Tất nhiên, Giáo Hoàng Phanxicô vẫn phải trung thành với những nguyên tắc của Giáo Hội Công Giáo nên nhiều vấn đề chưa thể giải quyết như vấn đề phong chức Linh Mục cho phụ nữ, vấn đề quyền bính Giáo Hoàng… Đúng như Hồng Y Walter Kasper, người Đức, nói: “Một vị tân Giáo Hoàng có thể cải tổ Giáo Hội nhưng ngài không thể sản sinh ra Giáo Hội mới”.

PHT, Hà Nội, Mùa Chay năm 2014Website của Ban Tôn Giáo Chính Phủ, http://btgcp.gov.vn

( Ghi chú: Ephata có sửa khá nhiều lỗi chính tả và thêm ảnh chụp lấy từ Google )

RỰC RỠ ÁNH SÁNG CÔNG CHÍNHĐức Chúa phán với ông Môsê: "Hãy ghi chép những lời này, vì dựa trên chính những lời này mà

Ta đã lập giao ước với ngươi và với Ítraen." Ông ở đó với Đức Chúa bốn mươi ngày bốn mươi đêm, không ăn không uống, và ông viết trên những bia các điều khoản của giao ước, tức là Mười Điều Răn.

Ông Môsê từ trên núi Sinai xuống, tay cầm hai tấm bia Chứng Ước, khi xuống núi, ông Môsê không biết rằng da mặt ông sáng chói bởi đã đàm đạo với Thiên Chúa. Khi ông Aharon và toàn thể con cái Ítraen thấy ông Môsê, thì này đây da mặt ông sáng chói, nên họ sợ không dám lại gần ông. Ông Môsê gọi họ. Ông Aharon và các đầu mục của cộng đồng trở lại với ông, và ông nói chuyện với họ. Sau đó, toàn thể con cái Ítraen lại gần ông, và ông truyền cho họ tất cả những điều Đức Chúa đã phán với ông trên núi Sinai. 

Nói với họ xong, ông lấy khăn che mặt đi. Khi vào trước nhan Đức Chúa để đàm đạo với Người, thì ông bỏ khăn cho đến lúc trở ra; ông trở ra và nói lại với con cái Ítraen những mệnh lệnh ông đã nhận

10

CÙNG SUY NIỆM

Page 11: Ephata 602

được. Con cái Ítraen nhìn mặt ông Môsê thấy da mặt ông sáng chói; ông Môsê lại lấy khăn che mặt, cho đến khi vào đàm đạo với Thiên Chúa ( Xh 34, 27 – 34 ).

Ông Môsê sau khi gặp Thiên Chúa, đã biến hình đổi dạng, qua khuôn mặt chói sáng. Trình thuật Tin Mừng hôm nay, Thánh Mátthêu trình bày Đức Giêsu biến hình sáng láng huy hoàng trên núi cao, trước mặt ba vị tông đồ thân cận, ông Phêrô, Giacôbê và Gioan.

Đức Giêsu đã mặc khải cho ba môn đệ biết Thiên tính của Người qua sự kiện biến hình trên núi. Người muốn trao ban ánh sáng Sự Sống cho các Tông Đồ, Môn Đệ, con chiên và cho mọi người trần.

Ánh sáng Sự Sống “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi

mọi người” ( Ga 1, 9 ).

Đức Giêsu xuống trần đem ánh sáng sự sống đến cứu loài người thoát khỏi tăm tối sự chết. Trong suốt cuộc rao giảng ba năm, Người không ngừng công khai khẳng định quyết liệt điều đó, khiến cho các thế lực sự dữ không ngừng chống báng, toan dập tắt đi ánh sáng cứu rỗi, ánh sáng sự sống cao quý siêu việt đó.

“Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” ( Ga 8, 12 ).

Ánh sáng sự sống, ánh sáng công chính siêu phàm của Đức Giêsu xua đuổi tà thần, tội lỗi, gian manh, dối trá, thói chuộng hình thức, tệ nạn háo danh, háo của, bóc lột,

Với ánh sáng sự sống, Đức Giêsu kịch liệt lên án thói giả hình, qua lời Ngôn Sứ Isaia: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” ( Mc 7, 6 ).

Với ánh sáng sự thật, Đức Giêsu không ngại nêu đích danh, chỉ tận mặt những bộ mặt đạo mạo lệch lạc, háo danh, tham lam, bất công, bất chính: “Anh em phải coi chừng những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc. Họ nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Những người ấy sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn” ( Mc 12, 38 – 40 ).

Ánh sáng chứng nhân

Sau khi đàm đạo với Thiên Chúa, da mặt ông Môsê trở nên sáng chói, khiến dân chúng kinh hãi. Thiên Chúa đã cảm biến, thánh hóa ông Môsê trở nên phát ngôn viên chánh thức, rao truyền Lề Luật. Sau này, những môn đệ, tông đồ của Đức Giêsu, và tất cả Kitô hữu cũng đều được vinh hạnh nhận nhiệm vụ ngôn sứ, một khi đã thấm nhuần Tin Mừng:

“Chính anh em là ánh sáng cho trần gian… Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên Trời” ( Mt 5, 14 ).

Từ chốn lao tù, Thánh Phaolô đã giải thích minh bạch về bóng tối thế gian và ánh sáng vĩnh cửu: “Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ trong Chúa, anh em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng; mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật” ( Ep 5, 8 – 9 ).

Với ánh sáng chứng nhân, Đức Giêsu muốn người Kitô hữu phản ảnh, chiếu giãi ánh sáng công chính, hầu mọi người được ơn cứu rỗi. Ánh sáng trung thực, rực rỡ, không thể mờ ảo, hay nhiễm sắc xanh đỏ tím vàng, xu thời, mỵ dân.

“Anh em đừng mang một ách với những kẻ không tin. Thật thế, làm sao sự công chính lại liên kết được với sự bất chính ? Làm sao ánh sáng lại dung hòa với bóng tối ?” ( 2 Cr 6, 14 ).

“Sự ly dị giữa cuộc sống đạo ở Nhà Thờ và ngoài xã hội, là gương xấu tai hại nhất trong thời đại chúng ta. ( Đường Hy Vọng, số 622 ).

Lạy Chúa Giêsu, kính xin Người canh tân, cải hóa, đổi mới, biến hình tâm hồn, tư tưởng, tình cảm chúng con trở nên trong sáng, tẩy xóa đi những lỗi lầm đen đúa, lem nhem, tì ố, những thiếu sót bổn phận, trách nhiệm, để có thể thành ánh sáng chứng nhân cho Người.

Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ giúp đỡ, cầu bầu chúng con biến cải, sám hối, ăn năn, hãm mình chay tịnh, chuyên tâm cầu nguyện, thực hành Lời Chúa, hầu chúng con có thể sẵn sàng đón nhận ánh sáng cứu độ, cùng phản chiếu lại tha nhân. Amen.

AM. TRẦN BÌNH AN

11

Page 12: Ephata 602

NGHE LỜI NGƯỜISau khi được tiên báo về cuộc Thương Khó Chúa Giêsu sắp phải trải qua, các môn đệ đã xuống

tinh thần trầm trọng, thậm chí các ông còn ngần ngại đồng hành với Chúa lên Giêrusalem.

Tin Mừng Nhất Lãm tường thuật lời loan báo về cuộc khổ nạn. Chúa Giêsu đưa Nhóm Mười Hai đi lên Giêrusalem, dọc đường, Người nói với các ông: “Này chúng ta lên Giêrusalem, và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ kết án xử tử Người, sẽ nộp Người cho dân ngoại nhạo báng, đánh đòn và đóng đinh vào thập giá và ngày thứ ba, Người sẽ trỗi dậy” ( Mt, 17 – 19 ).

Trong bản Tin Mừng theo Thánh Luca và theo Thánh Maccô, các môn đệ không hiểu và sợ hãi khi nghe Thầy loan báo về cuộc thương khó. “Nhưng các ông không hiểu gì cả; đối với các ông, lời ấy còn bí ẩn, nên các ông không rõ những điều Người nói” ( Lc 18, 34 ); “Người dẫn đầu các ông. Các ông kinh hoàng, còn những kẻ theo sau cũng sợ hãi. Người lại kéo riêng Nhóm Mười Hai ra, và bắt đầu nói với các ông về những điều sắp xảy đến cho mình” ( Mc 10, 32 ).

Vì không hiểu nên sợ. Sợ nên không muốn đi. Phêrô kéo riêng Chúa ra mà ngăn cản và trách móc. Chúa trách mắng Phêrô, nhưng để giúp Phêrô cần có sự can thiệp của Chúa Cha. Vì thế, biến cố Biến Hình đã xảy ra ( Mt 17, 1 – 9 ). Chúa đưa ba môn đệ lên núi Tabor. Biến Hình rực rỡ nhằm củng cố tinh thần cho các môn đệ sau khi Chúa loan báo cuộc khổ nạn.

1.Núi Tabor

Tôi được diễm phúc lên Núi Tabor. Từ khách sạn ở Nazareth xe đi qua những thung lũng với nhiều vườn cây ôliu, vườn chuối, vườn cam xanh tươi ngút mắt. Tabor là ngọn núi rất đẹp, nó đưa mình lên êm ả từ một cánh đồng cỏ xanh. Xe buýt chỉ đến chân núi, sau đó phải đổi xe chuyên leo núi. Lên dốc cao, đường ngoằn ngoèo theo vòng xoáy trôn ốc như đường Đèo Ngoạn Mục. Trời thật lạnh khoảng 4 độ, gió thổi rét buốt trên đỉnh có độ cao 600m làm ai nấy run lên vì lạnh.

Núi Tabor có một ngoại hình rất cân đối. Núi mọc lên giữa cánh đồng như một bàn thờ giữa trời đất, giống như lễ đàn của các bộ lạc để tế thần minh. Lúc Chúa Giêsu đem ba môn đệ yêu quý lên đây, không gian phải rất im vắng. Chỉ có gió vi vu và mây nắng với rừng cây thắm một màu xanh hùng vĩ.

Núi tiêu biểu cho quyền năng và vinh quang của Thiên Chúa. Núi là nơi mặc khải những điều trọng đại như khi xưa Thiên Chúa hiển linh trên núi Sinai với Môsê, núi Khoreb với Êlia, núi Tabor với ba môn đệ. Từ đỉnh núi, nhìn về hướng nam là làng Naim, một thành cổ hiện tại người Ả Rập sinh sống, nơi đây Chúa cho con trai bà goá sống lại. Nazareth, một thị trấn sầm uất về hướng tây và Biển Hồ Galilê mênh mang phía đông. Tabor, ngọn núi thiêng tạo thành một tam giác đều. Cả ba nơi đều gắn liền với cuộc đời Chúa Giêsu: lớn lên, truyền đạo và hiển dung. Bên ngoài, phía trái Nhà thờ vẫn còn dấu vết tường đá Tu Viện các cha Dòng Bênêđitô một thời Trung Cổ huy hoàng.

Theo sử gia Josephus thì nhóm Nhiệt Thành ( Zelot ) đã chiến đấu với quân Roma tại đây vào năm 66 trước Công Nguyên. Năm 1634, các thầy Phanxicô mới dành lại được ngọn núi này từ tay quân Thổ. Nhưng mãi gần 300 năm sau mới xây được Nhà Thờ.

Nhà Thờ Hiển Dung xây dựng từ năm 1925 do các cha Dòng Phanxicô phụ trách. Mặt tiền Nhà Thờ lối kiến trúc nổi bật với hai ngọn tháp vuông cao vút. Bên trong hai ngọn tháp này là hai Nguyện Đường nhỏ kính Tổ Phụ Môsê và Êlia. Một bức tranh tuyệt đẹp theo nghệ thuật mosaic phía trên bàn thờ vòm cung thánh. Chúa biến hình trong hào quang rực sáng. Hai bên có Môsê trên núi Sinai và Êlia trên núi Carmel. Phía dưới là ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê.

2. Biến hình

Tường thuật biến cố biến hình, cả ba sách Tin Mừng đều nhấn mạnh đến thái độ hoảng sợ của các môn đệ. “Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông hoảng sợ” ( Mc 9, 6 ); “Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ” ( Lc 9, 34 ); “Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng ngã sấp mặt xuống đất” ( Mt 17, 6 ). Và khi Phêrô “ngã sấp mặt xuống đất” thì Chúa đến chạm vào ông và bảo: “Trỗi dậy đi, đừng sợ !”

Các môn đệ không thể hiểu được hành trình của Đấng Cứu Thế sao lại lắm gian nan; kẻ theo Ngài làm sao không ngại ngùng sợ hãi cho được ! ( x. Mt 17, 13 – 14; Mc 8, 34; Mt 8, 18; Mc 13, 9; Lc 9, 26 ).

12

Page 13: Ephata 602

Nếu người ta làm an toàn những viên thuốc đắng bằng vỏ bọc kẹo ngọt, thì Chúa Giêsu hoá giải tin về cuộc khổ nạn bằng cuộc Biến Hình rực rỡ. Bọc kẹo chứ không bọc thuốc ngủ. Hoá giải chứ không gây mê. Chúa cho các môn đệ thấy trước một thoáng Phục Sinh trước Phục Sinh. Chúa cho cảm nếm một chút Thiên Đàng. Các ông đã tưởng là Thiên Đàng nên Phêrô xin làm ba cái lều để an nhàn trên núi cao, ngủ yên trong hào quang, quên đi các bạn và các cuộc truyền giáo dưới chân núi. Các ông không biết rằng Thầy Giêsu chỉ lên đỉnh Tabor trong chốt lát rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá bước vào cuộc thương khó. Hai đỉnh núi Tabor và Calvariô không xa nhau lắm về mặt địa lý, nhưng lại là con đường vạn lý. Chúa Giêsu đã nối kết hai đỉnh núi bằng con đường tình yêu cứu độ.

Biến cố Chúa biến hình trên núi Tabor là một trong những biến cố đặc biệt. Nó trở nên như một ngôi sao sáng cho các môn đệ trong đêm tối của những gian nan thử thách. Biến cố ấy vẫn luôn ghi đậm trong ký ức của các môn đệ. Nó là một điểm tựa, là một trợ lực cho Đức Tin của các ngài trong suốt tiến trình theo Chúa Giêsu.

Câu chuyện Chúa Biến hình trên núi Tabor được đặt làm sườn cho cả văn kiện “Tông Huấn Vita Consecrata” ( đời sống thánh hiến ). Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ban hành ngày 25.3.1996, đúc kết những thành quả của Thượng Hội Đồng Giám Mục tháng 10 năm 1994. Tông Huấn trình bày vẻ đẹp của đời tu. Con đường tu đức được ví như một cuộc đi tìm cái đẹp ( số 19 ), hướng tới sự chiêm ngưỡng nhan Chúa, chân phúc dành cho các tâm hồn trong trắng. Các Tu Sĩ đã bị thu hút bởi vẻ đẹp của Chúa; họ mê say chiêm ngưỡng Chúa, để rồi phản chiếu khuôn mặt rạng rỡ của Ngài ( số 27 ); sau khi lên núi chiêm ngắm Chúa Biến Hình, các môn đệ được mời hãy đi xuống núi để phục vụ ( số 75 ); họ còn phải trèo lên một núi khác đó là núi Calvariô ( số 14; 40 ). Nhiều năm huấn luyện

trong Nhà Dòng, người thanh niên nam nữ nhiều khi phải “sinh” ra bốn năm lần mới biến hình nên một Tu Sĩ: từ ứng sinh, thỉnh sinh, tiền tập sinh, tập sinh, khấn sinh, nhiều năm sau mới khấn trọn đời và vẫn tiếp tục hành trình biến đổi đời mình nhờ gặp gỡ Chúa Kitô.

3.Nghe Lời Người

Người sống đời tận hiến cũng như người tín hữu, muốn được “biến hình” trong đời sống cũng như muốn được trở nên “con yêu dấu” của Thiên Chúa cần phải “vâng nghe Lời Người”. Không chỉ nghe bằng tai bằng mắt mà còn nghe bằng hết tâm hồn cũng như bằng cả cuộc đời quy chiếu sống theo Đức Kitô.

Cả ba sách Tin Mừng đều tường trình tiếng nói từ trời cao. Lời Chúa Cha như giới thiệu, chuẩn nhận Chúa Con và là lệnh truyền cho chúng ta: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” ( Mt 17, 5 ); “Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” ( Mc 9, 6 ); “Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người” ( Lc 9, 35 ).

“Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Đó là lệnh truyền của Chúa Cha, là điệp khúc kết luận của tiếng nói từ trời cao. Điệp khúc quan trọng vì cả ba sách Tin Mừng đều nói đến. Lời của Chúa Kitô chính là chuẩn mực, là lề luật tuyệt đối mang lại Ơn Cứu Độ cho nhân loại. Lời của Chúa Kitô là Lời Giao Ước vĩnh cửu cho con người được tham dự vào sự sống thần linh của Thiên Chúa Ba Ngôi.

“Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”, một phán quyết long trọng và công khai của Chúa Cha. Từ nay, vâng nghe Lời Chúa Kitô, chúng ta sẽ được biến hình với Chúa Kitô, cùng được hưởng vinh quang Phục Sinh với Chúa Kitô.

Chẳng ai gặp Thiên Chúa thực sự mà lại không biến hình. Ðời sống kết hiệp thực sự với Thiên Chúa làm cho người Kitô hữu tỏa sáng rực rỡ. Biến hình không phải là trở thành cái gì khác mình, như Tôn Ngộ Không với các trò biến hoá. Biến hình là trở lại với cái tôi sâu thẳm của mình, tôi là con yêu dấu của Thiên Chúa. Từ khi chịu phép Thánh Tẩy, chúng ta đã bước vào một cuộc biến hình, từ từ và liên tục.

Một nhà giáo dục nổi tiếng người Pháp đã tâm sự về cuộc đời của ông: Khi còn trẻ, tôi có tinh thần cách mạng và mỗi khi cầu nguyện, tôi luôn cầu xin Chúa một điều là: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi thế giới này. Khi đã lớn tuổi và nhận thấy gần quá nửa đời người trôi qua mà tôi không thay đổi được một người nào hết, nên tôi đã thay đổi lời cầu nguyện của tôi như sau: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi những người trong gia đình của con. Giờ đây tôi đã già nua và những ngày còn lại chỉ đếm được trên đầu ngón tay, nên lời cầu nguyện của tôi lại được thay đổi một

13

Page 14: Ephata 602

lần nữa như sau: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi chính mình con. Và ông kết luận: Nếu tôi biết cầu nguyện như thế này từ ngày còn trẻ thì tôi đã không uổng phí cả cuộc đời.

Mùa Chay Thánh là mùa chiến đấu thiêng liêng, giúp mỗi người sống sống chay tịnh và hy sinh, cầu nguyện và tập nhân đức, chế ngự và làm chủ bản thân. Đây là thời gian thánh giúp từng người sám hối canh tân bản thân dưới ánh sáng Lời Chúa và thực hành ăn chay cầu nguyện theo lời dạy của Chúa Giêsu.

Lạy Chúa, Chúa đã dạy chúng con phải vâng nghe Con yêu dấu của Chúa; xin lấy lời hằng sống nuôi dưỡng Đức Tin của chúng con, nhờ vậy cặp mắt tâm hồn chúng con sẽ trong sáng để nhìn thấy vinh quang Chúa tỏ hiện trong cuộc đời chúng con. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen. ( Lời nguyện Nhập Lễ, Chúa Nhật 2 Mùa Chay ).

Lm. Giuse NGUYỄN HỮU AN

TRỖI DẬY ĐI, ĐỪNG SỢ !Tin mừng hôm nay thuật lại cuộc biến hình của

Đức Giêsu khi Ngài đem bốn môn đệ thân tín đi theo mình lên núi. Tại đây Ngài biến đổi hoàn toàn khác lạ: “Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng. Và kìa các ông thấy ông Môsê và ông Êlia hiện ra đàm đạo với Người” ( Mt 17, 2 – 3 ). Biến cố biến hình hôm nay chính là để khẳng định danh phận Con Thiên Chúa với những quyền năng và sức mạnh của Đức Giêsu. Còn có cả ông Môsê và ông Êlia hiện ra đàm đạo với Người, một bằng chứng về các nhân vật thời Cựu Ước nhằm củng cố, nâng đỡ Đức Tin cho các Tông Đồ.

Chứng kiến cảnh tượng huy hoàng và hạnh phúc ấy, ông Phêrô đã vội vàng thốt lên: “Lạy Ngài, chúng con ở đây thật là hay ! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, Ngài một cái, ông Môsê một cái, và ông Êlia một cái.” ( Mt 17, 4 ). Tính từ “hay” được thốt lên ở đây chính là điều hay đẹp, điều tốt, điều hoàn hảo, điều hạnh phúc. Cái hạnh phúc ấy chắc chắn phải rất lớn để ông Phêrô có thể mạnh dạn muốn xin cho được dựng lều ở lại. Nhưng không phải cho mình, mà cho Đức Giêsu, Môsê và Êlia.

Khi ông Phêrô chưa dứt lời thì tiếng Thiên Chúa Cha tuyên phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người !” ( Mt 17, 5 ). Vừa nghe tuyên sấm, các môn đệ đã kinh hãi ngã sấp xuống đất. Còn hơn cả những gì trước đây các ông vừa chiêm ngắm, tiếng sấm của Thiên Chúa Cha tuyên phán và khẳng định quyền thế của Đức Giêsu. Các môn đệ đã được mắt thấy tai nghe tất cả sự thật về thân thế và vinh quang của Ngài. Không còn gì có thể nghi ngờ nữa. Các môn đệ như không dám tin ở chính mắt mình.

Như các môn đệ, mỗi người chúng ta cũng non kém Đức Tin như vậy, và không ít lần thèm khát được chính mắt chiêm ngắm dung mạo Con Thiên Chúa để được tin. Thật ra, hằng ngày chúng ta vẫn tận mắt chiêm ngắm biết bao nhiêu công trình mầu nhiệm của Ngài trong cuộc sống. Từ hơi thở, bước đi cho đến sự sống, ếu như không có sự bàn tay quan phòng thương yêu chăm sóc của Thiên Chúa, làm sao sự sống này được tồn tại ? Vậy mà thế giới vẫn chẳng chịu tin. Con người vẫn thử thách Thiên Chúa, đòi hỏi Ngài phải đáp ứng đòi hỏi của mình thay vì phải tìm hiểu để tin.

Mỗi ngày trên bàn thánh Chúa Giêsu vẫn biến đổi chính mình Ngài để trở nên lương thực nuôi sống linh hồn chúng ta. Điều quan trọng không phải Thiên Chúa đang ở đâu, đang làm gì mà chính là mỗi người tự nhận ra chân dung Ngài trong cuộc sống. Ngài có ở đâu xa, ngay trong chính ngôi nhà của ta, nơi người chồng, nơi người vợ, nơi cha mẹ, nơi con cái, trong gia đình, ngoài xã hội… bất kỳ nơi đâu, trên thế giới này, Thiên Chúa vẫn đang sống và hiện diện trong mỗi chúng ta.

Lạy Chúa, đã biết bao lần con cầu xin cho được một lần chiêm ngắm dung nhan Ngài, một sự cầu xin ngạo ngược, đầy hoài nghi và tham vọng. Nếu như con hiểu rằng ngày nào mà Chúa chẳng đang biến đổi dung mạo trước mắt con qua anh chị em nghèo khổ sống chung quanh, có lẽ con đã sống khác hơn rất nhiều.

Xin giúp con, biết mở rông đôi mắt tâm linh để có thể nhận biết sự hiện diện của Thiên Chúa trong chính cuộc sống mình. Thay vì chỉ một mực khao khát được chiêm ngắm dung nhan Chúa, con hãy biết khát khao biến đổi chính mình. Xin giúp con luôn đặt niềm tin tưởng tuyệt đối vào Chúa và bước đi theo Ngài, cho dù có tam phen tứ bận ngã lên té xuống vì cuộc sống, cũng vững vàng can đảm “trỗi dậy bước đi và đừng sợ !” ( Mt 17, 7 ).

14

Page 15: Ephata 602

M. HOÀNG THỊ THÙY TRANG

THANH GIUSE, GƯƠNG MẪU CHO NGƯỜI TRƯỞNG GIANgày 19 tháng 3, Hội Thánh hoàn vũ hân hoan mừng kính

Thánh Giuse, bạn trăm năm của Ðức Trinh Nữ Maria, cha nuôi Chúa Giêsu, vị quan thầy khả kính của mình cách trọng thể. Truyền thống bình dân Kitô Giáo dành trọn Tháng Ba cho Thánh Giuse người của Thiên Chúa và đem lòng sùng kính ngài cách đặc biệt.

Trong chương trình của Thiên Chúa tình thương, Thánh Giuse đã được mời gọi trở nên người cha trên trần gian của Ngôi Lời Nhập Thể, nơi ngài phản chiếu một cách đặc biệt tình phụ tử của Thiên Chúa. Nên khi chúng ta tôn kính Thánh nhân là chúng ta ca khen chúc tụng Thiên Chúa: “Trong ngày lễ kính Thánh Giuse chúng con cùng tung hô, chúc tụng và ca ngợi Cha” ( Kinh Tiền Tụng Thánh Giuse ). Đây là điều đẹp lòng Thiên Chúa, lời nguyện khác có đoạn: “Vào lúc bình minh của thời đại mới, Chúa đã trao cho Thánh Giuse bảo vệ các Mầu Nhiệm Cứu Độ, xin cho Hội Thánh Chúa luôn luôn nhớ lời cầu bầu của Thánh nhân…” Chính Đức Giáo Hoàng Pio IX đã công bố sắc lệnh Quemadmodum Deus ( 8.12.1870 ), nhận Thánh Giuse làm

Quan Thầy cả Hội Thánh, hàng năm dành riêng hai lễ kính ngài vào ngày 19 tháng 3 và mùng 1 tháng 5.

1. Bạn hiền của Trinh Nữ

Tin Mừng ghi lại: “Giuse, bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kính đáo” ( Mt 1, 19 ). Ðây là câu chuyện duy nhất trong Tân Ước diễn tả trực tiếp về con người của Thánh Giuse, một vị hôn phu không những là người đã giữ đức công bình mà còn trung thành chu toàn mọi bổn phận của một người chồng, người chủ gia đình.

Lần giở lại những trang Tin Mừng có liên quan đến Thánh Giuse, chúng ta có thể khám phá ngay tính cao thượng trượng phu của ngài. Khi hay tin Maria mang thai, Thánh Giuse không bối rối cũng không ẩn trốn. Nhưng ngài chỉ mới toan tính bỏ bà Maria cách kín đáo. Tuy nhiên, ngài không thực hiện ý định đó. Bởi sau khi được sứ thần Thiên Chúa đến mặc khải cho ngài qua giấc mộng: “Maria mang thai là bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần” ( Mt 1, 20 ), ngài đã không còn “bán tín bán nghi” nữa. Trái lại, tín thác hoàn toàn vào lời của sứ thần, sẵn sàng đón Đức Maria về nhà làm bạn mình và phục vụ với lòng kính trọng, mến yêu.

Những biến cố xảy ra trong cuộc đời Thánh Giuse như: Mầu Nhiệm Chúa Giêsu Nhập Thể, cuộc trốn chạy sang Ai Cập trước ý định tìm giết Chúa Giêsu của vua Hêrôđê, việc lạc mất Chúa Giêsu, cũng như những tháng năm sống đời ẩn dật tại Nadarét, Giuse, bậc trượng phu đã đứng mũi chịu sào trong mọi tình huống: cùng bạn mình “đem Hài Nhi lên Giêrusalem tiến dâng cho Chúa” ( Lc 2, 22 ); “đem Hài Nhi và mẹ Ngài ban đêm mà trốn qua Ai Cập” ( Mt 2, 14 ); “đem Hài Nhi và Mẹ Ngài về đất Israel” ( Mt 2, 20 ); cùng với bạn đời sống âm thầm nơi thôn làng Nadarét, hàng năm cùng với Đức Maria đưa Chúa Giêsu lên Đền Thờ chầu lễ ( x. Lc 2, 41 – 43 ). Ngài thật xứng đáng là bạn hiền của Đức Nữ Trinh.

Như thế, từ khi kết hôn với Mẹ Maria cho đến biến cố Chúa Giêsu 12 tuổi tại Ðền Thờ Giêrusalem, ngài ân cần yêu thương đồng hành trong mọi lúc. Ngài ở cạnh Maria hiền thê của ngài trong những lúc thanh thản cũng như trong những lúc khó khăn của cuộc sống, trong hành trình đi Bêlem để kiểm tra dân số, và trong những giờ hồi hộp và vui mừng của cuộc sinh hạ; trong lúc bi thảm tị nạn sang Ai Cập và trong cuộc vất vả tìm con tại Ðền Thờ; và rồi trong cuộc sống hằng ngày tại nhà Nadarét, trong phòng làm việc nơi Thánh nhân đã dạy nghề cho Chúa Giêsu.

Thánh Giuse đã sống ơn gọi làm chồng của Đức Maria trong thinh lặng, kiên trì và trung tín hoàn toàn, cả khi ngài không hiểu. Ngài biết lắng nghe Thiên Chúa, để cho thánh ý Chúa hướng dẫn, và chính vì thế Thánh nhân trở thành người chồng mẫu mực của Đức Maria và người cha tận tụy đối với Chúa Giêsu, như Chân Phước Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh: “Thánh Giuse, vì yêu thương chăm sóc Mẹ Maria và vui mừng tận tụy giáo dục Ðức Giêsu Kitô, như thế Ngài cũng giữ gìn và bảo vệ nhiệm thể của Ngài là Hội Thánh, mà Ðức Thánh Trinh Nữ là hình ảnh và gương mẫu” ( Trích Tông Huấn Redemptoris Custos, 1 ).

2. Cha nuôi Hài Đồng Giêsu

Thánh Giuse là vị hôn phu của Ðức Maria, đấng đã cưu mang Chúa Giêsu, mà vẫn còn đồng trinh, do bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần. Nhưng con trẻ Giêsu cũng là con của Thánh Giuse, vị

15

Page 16: Ephata 602

hôn phu hợp pháp của Mẹ Maria. Vì thế, trong Tin Mừng, cả hai đều được gọi là song thân của Chúa Giêsu ( x. Lc 2, 27.41 ).

Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và Mẹ Người mà Thánh Luca mô tả: Đức Maria nói “Này cha con và mẹ phải đau khổ tìm con !” Nhưng Ngài đáp lại: “Thì tại sao tìm con ? Lại còn không biết là con phải ở lại nơi Nhà Cha con sao ?” ( Lc 2, 48 – 49 ). Những lời của Chúa Giêsu giúp chúng ta hiểu được thiên chức “làm cha ” của Thánh Giuse. Khi gợi lên cho cha mẹ trần gian về việc của Đấng mà Ngài gọi là “Cha con”, Chúa Giêsu tiết lộ sự thật về vai trò của Đức Maria và Thánh Giuse. Thánh Giuse thực sự là “chồng” của Đức Maria và là “cha” của Chúa Giêsu, như Đức Maria nói: “Cha con và mẹ phải đau khổ tìm con”. Nhưng Thánh Giuse là chồng và là cha theo ý Thiên Chúa, vì chính Thiên Chúa mời gọi Giuse cống hiến đời mình phục vụ người Con duy nhất của Chúa Cha và Đức Trinh Nữ Maria. Thánh nhân đã đảm nhận thánh ý Chúa với lòng trung thành và ngưỡng mộ.

3. Gưỡng mẫu cho người trưởng gia

Ngày hôm nay có biết bao người đang vui mừng làm ông nội, ông ngoại, làm bố, và đang hồi hộp chờ đợi đứa con đầu lòng, tức là sắp được làm bố, với bao trách nhiệm gia đình phải gánh vác. Họ không biết làm ông, làm bố thế nào cho phải cho nên. Xem ra họ phải chấp nhận mọi hy sinh vì điều thiện hảo cho gia đình của họ. Họ mong ước được người vợ và con cái chia sẻ tình thương để bù lại cho những mệt nhọc phải chịu. Thánh Giuse chính là mẫu gương sống động cho chính họ học đòi bắt chước, trong vai trò làm chồng cách quảng đại, làm cha gương mẫu và làm chủ gia đình cách tận tụy sáng suốt.

Kính xin Thánh Giuse từ Trời cao phù hộ cho tất cả các người cha và bảo vệ những người làm cha trong gia đình. Ước chi mỗi người trong họ có thể phản chiếu tình thương dự phòng và trung tín của Thiên Chúa trong khi thi hành những trách nhiệm là chồng, làm cha và làm chủ gia đình.

Nguyện xin Thánh Giuse và Mẹ Maria rất Thánh, Nữ Vương các gia đình và là Mẹ của Giáo Hội, xin hai Ðấng cầu cùng Chúa cho chúng con được hồng ân chúng con xin. Amen.

Lm. Antôn NGUYỄN VĂN ĐỘ

KHÁT !Khát là tiếng kêu thảm thiết nhất. Khát có thể là khát nước, cũng có thể là khát vọng. Nhưng

“khát nước” cấp bách hơn “khát vọng”. Có hết “khát nước” thì mới có thể tiếp tục “khát vọng”. Quả thật, nước rất cần thiết trong sinh hoạt hằng ngày. Cơ thể con người đa phần là nước. Người ta có thể nhịn đói được lâu, nhưng khát thì sẽ mau chết lắm, như cá lên bờ thì mau chết và chết chắc !

Trình thuật Ga 4, 5 – 42 cho biết rằng…

Một hôm, Chúa Giêsu đến một thành xứ Samari tên là Xykha, gần thửa đất ông Giacóp đã cho con là ông Giuse, và ở đấy có giếng của ông Giacóp. Ngài đi đường mỏi mệt nên ngồi ngay xuống bờ giếng, còn các môn đệ vào thành để mua thức ăn. Lúc đó khoảng mười hai giờ trưa, giờ cao độ của cái nắng, của sức nóng.

Ngay lúc đó có một phụ nữ Samari đến lấy nước. Ngài bắt chuyện: “Chị cho tôi xin chút nước uống !”. Ngài không có gàu để múc nước từ dưới giếng nên mới xin như vậy. Chị liền nói: “Ông là người Do Thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống

sao ?” Đó là điều “không bình thường”, vì người Do Thái không được giao thiệp với người Samari. Nhưng Ngài vẫn thản nhiên: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: ‘Cho tôi chút nước uống’, thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho chị nước hằng sống”. Chị tròn mắt, vừa cười vừa nói: “Ông ơi là ông, ông đùa đấy à ! Ông không có gàu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống chứ ? Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Giacóp, người đã cho chúng tôi giếng này ? Chính Người đã uống nước giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy đấy”.

Dĩ nhiên chị làm sao hiểu được thâm ý của Đức Giêsu, nếu chúng ta là chị ấy thì chúng ta cũng chỉ biết “gãi đầu” mà thôi ! Tất nhiên Ngài biết thừa, và Ngài bảo: “Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại Sự Sống đời đời”. Lại càng bí ẩn hơn, chúng ta lại tiếp tục “ngớ nhẩn”, chả hiểu ất giáp gì ráo trọi !

Thế mà thật lạ, người phụ nữ nói với Đức Giêsu: “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước”. Chị ấy thông minh đột xuất chăng ? Ngài bảo: “Chị hãy gọi chồng chị,

16

Page 17: Ephata 602

rồi trở lại đây”. Chị đáp: “Tôi không có chồng”. Đức Giêsu bảo: “Chị nói ‘tôi không có chồng’ là phải, vì chị đã năm đời chồng rồi, và người hiện đang sống với chị không phải là chồng chị. Chị đã nói đúng”.

Mèng ơi ! Sao đoán đúng vậy ta ? Chị thấy tâm phục khẩu phục nên nói: “Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ. Cha ông chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên núi này; còn các ông lại bảo: Giêrusalem mới chính là nơi phải thờ phượng Thiên Chúa”. Đức Giêsu cười rất hiền: “Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem. Các người thờ Đấng các người không biết; còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do Thái. Nhưng giờ đã đến, và chính là lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế. Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật”.

Chị thấy lạ và thấy đúng lắm, chị thưa: “Tôi biết Đấng Mêsia, gọi là Đức Kitô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự”. Đức Giêsu nói: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây”. Chu choa ! Chắc hẳn chị ấy rất bất ngờ, nhưng cũng vô cùng hạnh phúc vì được diện kiến Đáng mà bao người mơ cũng không thấy, đặc biệt là chị không còn phải khát nữa, vì chị được uống NƯỚC TRƯỜNG SINH !

Tuyệt vời biết bao ! Chuyện xảy ra như một thước-phim-đẹp-như-cổ-tích-mà-rất-thật. Tiếc là lúc đó không có ống kính nào thu lại, mà cũng chẳng có được máy quay thời đó. Nhưng đọc văn phong của Thánh Gioan, chúng ta cảm thấy như xem một đoạn phim thú vị, với những lời đối thoại mạch lạc, thú vị.

Đọc lại đoạn văn này trong Mùa Chay, chúng ta nhớ tới lời kêu của Chúa Giêsu vang vọng từ trên Thập Giá: “Tôi khát !” ( Ga 19, 28 ). Ra máu nhiều vì thương tích đầy mình, lại phải chịu khát cả ngày rồi, Chúa Giêsu khát đến cháy cổ. Thế nhưng người ta vẫn tàn nhẫn với một người sắp chết, không cho uống nước mà lại cho nếm giấm chua. Thật tồi tệ, nhưng đời là thế đấy ! Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng qua câu nói thì thào: “Thế là đã hoàn tất !” ( Ga 19, 30 ).

Đất trời rúng động, mây đen kéo tới, động đất dữ dội, bức màn trướng trong Đền Thờ xé ra làm hai từ trên xuống dưới, đá vỡ toang, mồ mả bật tung, các thi hài trỗi dậy ( Mt 27, 51 – 52 ). Cảnh tượng thật hãi hùng như tận thế đến nơi, ai cũng run rẩy sợ hãi. Thấy vậy, viên đội trưởng và đám lâu la phải công nhận: “Quả thật ông này là Con Thiên Chúa, người này đích thực là người công chính !” ( Mt 27, 54; Lc 23, 47 ).

Ngày xưa Chúa Giêsu kêu khát mà không ai lưu ý. Ngày nay Ngài cũng vẫn kêu khát mà vẫn bị làm ngơ !

Ở Phi Châu có những trẻ em đang chờ chết từng giờ vì đói, vì khát, và còn biết bao người nghèo khổ khác trên thế giới, thậm chí họ ở ngay bên chúng ta: Người ăn xin, người già nua neo đơn, trẻ mồ côi, người sa cơ lỡ vận, người kém may mắn, người hàm oan, người bệnh hoạn, người tật nguyền, người vô gia cư, người nghèo khó phải chạy ăn từng bữa... Thế nhưng có thể chúng ta vẫn dửng dưng như xem thời sự trên tivi, qua báo chí, nghe qua radio, tất cả đều qua đi như nghe một điệu nhạc buồn rồi thôi, không chút động lòng thương cảm, không hề cầu nguyện cho họ, không hề chia sẻ với họ. Cùng lắm cũng chỉ nói: “Tội nghiệp !” Chỉ thế thôi. Chính những con người khốn khổ đó là tiếng vọng thảm thương cấp bách của Chúa Giêsu từ trên Thập Giá giữa nắng chiều gay gắt trên đỉnh đồi Canvê ngày nào ! Chúng ta có cảm thấy mình mắc lỗi đức ái ?

Chắc hẳn ai cũng muốn hoàn thiện như Cha trên trời theo lời khuyến cáo của Chúa Giêsu ( x. Mt 5, 48 ). Nhưng hoàn thiện thì phải thực thi Ý Chúa, mà Ý Chúa là “yêu người như chính mình”. Thánh Phaolô phân tích: “Đức Tin, Đức Cậy, Đức Mến, cả ba đều tồn tại. Nhưng Đức Mến là quan trọng nhất” ( 1 Cr 13, 13 ). Còn Thánh Giacôbê so sánh: “Đức Tin không có việc làm là đức tin chết” ( Gc 2, 17 và 26 ). Chúa muốn chúng ta sống thật, không nói suông, không ảo tưởng.

Triết gia kiêm nhà luân lý Jean de La Bruyère ( 1645 – 1696 ) nói: “Ân huệ không bởi việc CHO THẬT NHIỀU mà là CHO ĐÚNG LÚC”. Trong bốn Phúc Âm, chỉ có Thánh Mátthêu đề cập “chén nước lã” ( Mt 10, 42). Chúa không đòi buộc chúng ta làm đại sự, làm việc phi thường, mà Ngài chỉ bảo chúng ta làm những điều “nho nhỏ” thôi. Thật vậy, dù chúng ta chỉ vì động lòng thương xót mà cho người khác “một chén nước lã” để giải khát thì Ngài cũng “chấm công” cho chúng ta.

Kinh Thương Xác Bảy Mối nói rõ: “Thứ nhất cho kẻ đói ăn, thứ hai cho kẻ khát uống”, và một trong Bát Phúc: “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương” ( Mt 5, 7 ).

17

Page 18: Ephata 602

Người ta cần cá thì không thể lấy rắn cho họ, hoặc người ta cần trứng lại lấy bò cạp cho họ ( x. Lc 11, 11 – 12 ). Điều đó có nghĩa là phải thể hiện lòng yêu thương bằng hành động chứ không “lẻo mép”. Trước khi hóa bánh ra nhiều, Chúa Giêsu đã nói thẳng với các môn đệ: “Chính anh em phải cho họ ăn” ( Mt 14, 16 ). Chúa rất thực tế, chẳng bóng gió chi cả. Có thể chúng ta chỉ nghe cho vui tai, chứ rất… ngại hiểu, sợ “đụng chạm” lắm !

Nhưng vẫn có những con người thực sự hiểu và hành động. Họ bị thế gian coi là “khùng”, giống như người ta đã bảo Chúa Giêsu “điên” vậy. Bạn còn nhớ Chân Phước Nữ Tu Teresa Calcutta chứ ? Bà tên thật là Agnes Gonxha Bojakhiu, sinh ngày 28.8.1919 và qua đời ngày 5.9.1997. Năm 1952, Mẹ thấy một phụ nữ hấp hối bị kiến và chuột gặm tả tơi, Mẹ đã mủi lòng và thành lập Nhà Nirmal Hriday ( Tấm lòng Thanh khiết ) cho những người hấp hối. Mẹ áp dụng đúng nguyên tắc sống của dòng Bác Ái Truyền Giáo: “Yêu là cho đi đến khi cảm thấy đau”. Mẹ đã hùng hồn tuyên bố: “Theo máu huyết, tôi là người Albania. Theo quốc tịch, tôi là người Ấn Độ. Theo Đức Tin, tôi là Nữ Tu Công Giáo. Theo ơn gọi, tôi thuộc trần gian này. Còn theo tâm hồn tôi, tôi hoàn toàn thuộc về Thánh Tâm Chúa Giêsu”. Một con người nhỏ bé về thể lý nhưng lại có trái tim vĩ đại đáng khâm phục !

Trẻ em là tương lai của đất nước, xã hội, thế giới và Giáo Hội. Hãy làm cho những trẻ em đang chết dần mòn kia được sống. Thật vậy, Chúa Giêsu nói rõ: “Tôi đến để cho con người được sống và được sống dồi dào” ( Ga 10, 10 ). Chúa muốn mọi người được sống đầy đủ và hạnh phúc, Ngài không hề muốn ai phải chết. Thực thi Ý Chúa như vậy là sống đạo ( chứ không chỉ giữ đạo ), sống đạo tích cực, và “vui với người vui, buồn với người buồn” ( x. Rm 12, 14 – 18 ). Mà Chúa Giêsu lại rất yêu quý trẻ em. Chúng ta đừng quên là cứ mỗi giây lại có một trẻ chết vì đói khát: “Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” ( Lc 6, 38 ).

Trước khi vứt bỏ các thức ăn còn sót lại trong chén của bạn, xin bạn hãy nghĩ tới những người đang lâm cảnh đói khát, thèm những thứ dư thừa của người khác mà không có. Cuộc đời có những điều nghịch-lý-thuận: Cái mà với người này là dư thừa, là đồ bỏ, là rác rưởi, nhưng với người khác rất có thể là vật cần thiết nhất cho sự sống còn !

Kho tàng ở đâu thì lòng ta ở đó ( x. Mt 6, 19 – 21 ), và người giàu khó vào Nước Trời còn hơn lạc đà chui qua lỗ kim ( x. Mt 19, 23 – 24 ). Giàu ở đây không hẳn là giàu vật chất, cái nghèo cũng vậy. Ca dao Việt Nam cũng xác định: “Nghèo tiền nghèo bạc chẳng lo, nghèo nhân nghèo nghĩa mới lo mình nghèo”.

Ước gì, trong suốt cuộc đời, nhất là cơ hội ngàn vàng là Mùa Chay này ( x. 2 Cr 6, 2 ), mỗi chúng ta đều thực sự KHÁT CHÚA như tác giả Thánh Vịnh thân thưa: “Lạy Thiên Chúa, Ngài là Chúa con thờ, ngay từ rạng đông con tìm kiếm Chúa. Linh hồn con đã khát khao Ngài, tấm thân này mòn mỏi đợi trông, như mảnh đất hoang khô cằn, không giọt nước” ( Tv 63, 2 ).

Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con vì con là kẻ có tội ( Lc 18, 9 – 14 ). Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài ( Dt 10, 7 và 9 ). Xin hoán cải chúng con để chúng con dám vỗ ngực xưng tên là luôn có Đức Kitô thực sự sống trong lòng ( x. Gl 2, 20 ). Vâng, lạy Chúa, xin thêm đức tin và đức mến cho chúng con ( x. Lc 17, 5 ). Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU, Mùa Sám Hối – 2014

NHÂN LỄ TẤN PHONG CÁC HỒNG Y MỚI – Phần 2

Như chúng tôi đã nói trong bài trước, những nhu cầu đa dạng của Giáo Hội ngày nay khiến cho thành phần các vị Hồng Y và các Tòa Hồng Y có một vài nét mới. Danh sách các vị Hồng Y kỳ này có thể nói phản ảnh quan niệm thường được Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhấn mạnh là: việc mục vụ trực tiếp của Giáo Hội khắp nơi trong hoàn vũ quan trọng hơn là công việc quản trị thuần túy. Vì thế, trong số 16 vị Hồng Y còn đang hoạt động thì đã có 12 vị Giám Mục coi sóc các Giáo Đoàn địa phương và chỉ 4 vị thuộc Giáo Triều.

Đương nhiên có những chức vụ ở Giáo Triều, phải do các vị Hồng Y đảm nhận. Do đó, đứng đầu danh sách các Hồng Y mới kỳ này là Đức Hồng Y Piero Parollin, Quốc Vụ Khanh mới của Tòa Thánh, tức là nhân vật số 2 ở Vatican, sau Đức Thánh Cha. Ngoài ra, người đứng đầu Bộ Giáo Lý Đức Tin trước đây được Đức Benêđitô XVI bổ nhiệm là vị Giám Mục người Đức Gerhard Ludwig Muller và vị Tổng Trưởng Bộ Giáo Sĩ là Đức Cha Beniaminô Stella là hai vị tân Hồng Y khác trong Giáo Triều. Một vị khác không chính thức thuộc Giáo Triều nhưng giữ một chức vụ có quan hệ với Giáo Hội hoàn vũ là

18

CÙNG BÌNH LUẬN

Page 19: Ephata 602

Đức tân Hồng Y Lorenzo Baldisseri, Tổng Thư Ký của Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới. Cơ chế này được thiết lập sau Công Đồng Vatican II nói lên tính hợp nhất đồng trách nhiệm của Giám Mục Đoàn thế giới. Đây là một phương diện rất được Đức Thánh Cha Phanxicô coi trọng.

Cha Lomdbardi, phát ngôn viên Tòa Thánh nói rằng Đức Giáo Hoàng không bị trói buộc bởi những tục lệ cũ. Chính vì điều này mà theo thông lệ một số Tòa Giám Mục ở Ý trước đây kể như đương nhiên do một vị Hồng Y cai quản, thì lần này lại không có Hồng Y. Cụ thể như Tòa Tổng Giám Mục Torino và Tòa Thượng Phụ Venizia ( Venice ). Đây là một nơi nổi tiếng vì trong quá khứ đã từng là Tòa Thượng Phụ của Thánh Giáo Hoàng Piô X khi ngài còn là Hồng Y Sarto và của Đức Chân Phước Gioan XXIII khi ngài còn là Hồng Y Roncalli. Cũng thế, kỳ này hai Giáo Hội lớn là Pháp và Hoa Kỳ không có Hồng Y mới; thực ra thì hai Giáo Hội này cũng không tổn hại gì vì đã có nhiều Hồng Y rồi: Pháp có 4 vị và Hoa Kỳ 11 vị. Nhưng một số Giáo Hội ở những nước Châu Âu khác, như Bỉ và Ái Nhĩ Lan cũng không có Hồng Y.

Bù lại, có những Hồng Y mới đến từ những Tòa không nhất thiết có Hồng Y. Ở Ý người ta đặc biệt chú ý đến Đức Hồng Y Bassetti, Tổng Giám Mục Peruggia. Tòa này đã 160 năm nay không có Hồng Y, nhưng đây là một Tòa danh tiếng. Lần cuối cùng Tòa Peruggia có Hồng Y là vào năm 1853 với Đức Hồng Y Gioacchino Pecci. Vị Hồng Y này trong một thời gian dài có vẻ như bị loại ra không được tham gia vào các công tác của Giáo Triều. Nhưng chính ngài lại trở nên một vị Giáo Hoàng vĩ đại.

Năm 1878, ngài được bầu lên kế vị Đức Chân Phúc Piô IX, dưới danh hiệu Lêô XIII. Chính Đức Giáo Hoàng Lêô XIII là người đã đưa Giáo Hội Công Giáo vào thời hiện đại khi mà tuyệt đại đa số Giáo Hội như còn trầm kha luyến tiếc thời quân chủ phong kiến. Đức Lêô XIII là người đã mở đường cho những giáo huấn xã hội Công Giáo để đáp ứng nhu cầu công bình xã hội trong cuộc cách mạng công nghiệp đang phát triển vũ bão với những vấn đề nghiêm trọng như vấn đề đấu tranh nghiệp đoàn, vấn đề chủ nghĩa xã hội. Chính nhờ ngài, người Công Giáo đã thức tỉnh trước những đòi hỏi của xã hội và đã tích cực góp phần tạo ra những tiến bộ cho giới công nhân nghèo. Đức Lêô XIII còn mở đường đưa người Công Giáo đến chỗ chấp nhận những luật chơi của chế độ dân chủ đại nghị đang thành hình ở hầu hết các nước Âu Mỹ. Ngài cũng chấn chỉnh và canh tân, mở rộng sự học và các công trình nghiên cứu vào một thời mà Giáo Hội có phần bê trễ trong lãnh vực này. Chính nhờ thế, Giáo Hội Công Giáo đang có khuynh hướng lụn bại trong các lãnh vực tư tưởng, chính trị, khoa học, xã hội, văn hóa đã phục hồi uy tín một cách rạng rỡ. Từ đó, các đời Giáo Hoàng, với những nét đậm nhẹ khác nhau đã duy trì được uy tín lớn đó. Đức Lêô XIII là một vị Giáo Hoàng thiên tài.

Tất nhiên không phải chỉ vì ký ức lớn về Giáo Hoàng Lêô XIII mà 160 năm sau người kế vị của ngài là Đức Cha Bassetti đã nhận Hồng Y. Ngài là một vị Giám Mục có phong cách đơn sơ giống như Đức Thánh Cha Phanxicô, sống rất gần với mọi người, luôn bênh vực người nghèo, thường đi đến với các công nhân và các bệnh nhân. Ngài chủ chương như Đức Giáo Hoàng rằng: Các mục tử phải nhiễm mùi của đàn chiên.

Lần này, đa số các vị Hồng Y đến từ những nước nghèo. Đặc biệt phải kể đến một đất nước lần đầu tiên có Hồng Y là Haiti, ở vùng biển Caribê, Trung Mỹ. Haiti là một trong số những nước nghèo nhất trên thế giới, chính trị hỗn độn, xã hội rối loạn, lại liên tiếp bị thiên tai ( trong cuộc động đất khủng khiếp năm 2010, Đức Tổng Giám Mục thủ đô đã chết khi Nhà Thờ Chính Tòa sụp đổ ) và sau đó là những cơn đại dịch. Quốc tế đã phải xô vào cứu trợ vì Haiti không thể tự mình đứng lên được. Haiti là một nước dân số 10.500.000, trong đó 80% là Công Giáo, và Công Giáo cũng là quốc giáo. Năm 1983, khi Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II viếng thăm nước này, ngài đã lên tiếng chỉ trích chế độ độc tài là bất công. Người ta coi bài diễn văn của Đức Gioan Phaolô II như một nhân tố dẫn đến vụ lật đổ chế độ độc tài của Tổng Thống Duvalier. Lần này, Đức Cha Langlois được phong Hồng Y có ngụ ý nói lên Giáo Hội đồng hành với những dân tộc đớn đau nghèo khổ, chậm tiến trên con đường phát triển khó khăn cả về tinh thần lẫn vật chất.

Hai vị Hồng Y của Tây Phi cũng được nhiều người chú ý. Vị thứ nhất là Đức Hồng Y Jean-Pierre Kutwa đứng đầu Giáo Phận Abidjan nước Bờ Biển Ngà ( Côte d’Ivoire ). Ngài được Đức Giáo Hoàng Benêđitô XVI bổ nhiệm vào năm 2006. Khi đó, đất nước Bờ Biển Ngà đang còn tan hoang sau những biến loạn, thậm chí nội chiến kéo dài 10 năm. Đức Hồng Y Kutwa là một người nhấn mạnh rất nhiều vào những cuộc đối thoại đại kết giữa các Giáo Hội Kitô giáo và đối thoại liên tôn giữa các tôn giáo với nhau. Sự hiện diện của các Giáo Sĩ lãnh đạo Hồi Giáo Bờ Biển Ngà trong lễ tấn phong Hồng Y vừa qua là một hình ảnh đẹp và có ý nghĩa. Bờ Biển Ngà là một đất nước mà 32,5% dân số theo đạo Kitô ( 19% là Công Giáo ) và 38,6% theo Hồi Giáo, 11,9% theo những tôn giáo bản địa cổ truyền; dân số là 23 triệu. Trong lễ tấn phong

19

Page 20: Ephata 602

vừa qua, Đức Hồng Y Kutwa là người ngồi xe lăn vào cuối nghi lễ được Đức Thánh Cha xuống tận nơi trao mũ và ôm hôn, ngài mới bị một tai nạn giao thông nên không thể tự bước đi được.

Bên cạnh Bờ Biển Ngà là nước láng giềng Burkina Faso cũng có Hồng Y mới là Đức Tổng Giám Mục Philippe Ouédraogo, đứng đầu Giáo Phận Ouagadougou. Đây cũng là một đất nước nghèo, với dân số 16 triệu, trong đó hơn 60% theo Hồi Giáo và 23% theo Kitô Giáo. Rất may mắn là cuộc sống chung giữa các tôn giáo ở đây hài hòa, không có những thế lực chính trị lợi dụng những khác biệt tôn giáo để tranh chấp nhau. Đức tân Hồng Y Phillipe Ouédraogo là người đấu tranh mạnh chống lại tình trạng nghèo khó và tham nhũng. Trong một thư mục vụ gần đây, ngài đã nhắc đến một cuộc khủng hoảng các giá trị đưa đến những thảm cảnh cho đất nước. Nhìn chung thì Giáo Hội ở Burkina Faso đã đi đầu trong cuộc tranh đấu vì quyền con người, thậm chí khi cần còn đương đầu cả với Tổng Thống Compaoré. Khi vị Tổng Thống này muốn lập một thượng nghị viện để giúp ông cải tổ Hiến Pháp hòng tiếp tục ra tranh cử một nhiệm kỳ nữa, thì các Giám Mục ở đây đã ra một thư chung nói rằng, trong một đất nước nghèo khó, các nhu cầu căn bản của con người về y tế, giáo dục, việc làm, nhà ở, lương thực thực phẩm còn chưa giải quyết được thì làm sao lại phải mở thêm một thượng nghị viện. Chống lại ý kiến lập thượng viện cũng là một cách các Giám Mục khước từ đặc ân chế độ muốn dành cho mình, vì trong kế hoạch của Tổng Thống sẽ có những ghế thượng nghị sĩ dành cho các vị lãnh đạo tôn giáo.

Nay quay sang Á Đông chúng ta, thì có hai vị Hồng Y mới. Vị thứ nhất là Đức Giám Mục Andrew Yeom Soo Jung của Seoul ( Hàn Quốc ). Ngài là dòng dõi các Thánh Tử Đạo. Tổ tiên 4 đời của ngài thuộc thế hệ các Kitô hữu đầu tiên của Hàn Quốc. Giáo Hội Hàn Quốc có lịch sử phát triển rất đặc biệt, bởi vì những người đầu tiên truyền đạo vào đất nước không phải là những Thừa Sai nước ngoài, mà chính là những sĩ phu Hàn Quốc. Họ đã đọc được sách vở về đạo bằng chữ Hán phổ biến ở Trung Quốc và đem lòng mộ mến rồi tự thành lập cộng đoàn Kitô Giáo với nhau trước khi các vị Thừa Sai đến. Trong số những tín hữu đầu tiên này, có nhiều người đã tử vì đạo, trong đó có hai vị là tổ tiên của Đức tân Hồng Y hiện nay.

Đức Giám Mục Andrew Yeom Soo Jung đã tốt nghiệp đại học Công Giáo Hàn Quốc. Đặc biệt ngài thúc đẩy Giáo Hội phải có mặt trong các lãnh vực truyền thông, từ đó đã lập ra các cơ quan truyền thông, truyền hình Công Giáo của Hàn Quốc. Các kênh

truyền thanh và truyền hình này cổ võ cho hòa bình, hòa giải, nhân phẩm, nhân quyền và bênh vực sự sống. Nói đến lãnh vực bảo vệ sự sống thì hiện nay trong nhiều trung tâm khoa học ở Hàn Quốc, người ta đang dùng thai người để làm các cuộc thí nghiệm.

Giáo Hội Hàn Quốc trong những năm gần đây đã phát triển rất mạnh và đã gửi các Thừa Sai đi các nước khác, ưu tiên cho các nước Châu Á. Về phương diện này, một nét đặc biệt nữa của Đức Hồng Y Andrew Yeom Soo Jung là ngài kiêm nhiệm chức Tổng Giám Mục Seoul của Hàn Quốc với chức vụ Giám Quản Tông Tòa Giáo Phận Bình Nhưỡng ( Bắc Triều Tiên ). Từ khi cuộc chiến tranh Triều Tiên nổ ra vào năm 1950 và kết thúc năm 1953 thì Giáo Hội ở Miền Bắc Triều Tiên đã hoàn toàn sống trong thầm lặng với một số rất ít Giáo Dân. Với một chế độ đóng kín vào bậc nhất thế giới như ở Bắc Triều Tiên thì không ai hiểu được số mệnh của Giáo Hội nhỏ bé đó ra sao. Chỉ trong thời gian gần đây, quan hệ giữa Bắc và Nam Triều Tiên đã có một số đột phá bước đầu thì người ta mới tìm cách móc nối lại. Trong bối cảnh mà thế giới đang đặc biệt chú ý tới Bắc Triều Tiên với một chế độ bí hiểm và hết sức hà khắc, nhưng cũng để lộ những khả năng biến chuyển thì vị thế của Đức Hồng Y Yeom Soo Jung có tầm quan trọng của một tiền đồn Giáo Hội trước một thế giới mới còn nhiều ẩn số đang chờ đợi công cuộc loan báo Tin Mừng.

Vị Hồng Y thứ hai của Á Đông là Đức Hồng Y Quevedo, Giáo Phận Cotabato, Philippines. Philippines là một đất nước đại đa số dân chúng theo Công Giáo, vì thế từ trước tới nay đã có nhiều Hồng Y. Nhưng đây là lần đầu tiên, đảo Mindanao ở Miền Nam có Hồng Y. Những hòn đảo phía Nam này được kể là những vùng nghèo nhất của Philippines, lại có một tỉ lệ khá cao dân số theo Hồi Giáo. Ngay trong Giáo Phận Cotabato của Đức Hồng Y Quevedo cũng chỉ có khoảng 50% dân số là người Công Giáo. Tình trạng nghèo khó, bất công và dị biệt tôn giáo đã từng gây những biến động lớn trong xã hội, với sự xuất hiện của Mặt Trận Giải Phóng Hồi Giáo Moro, gây ra một cuộc nội chiến âm ỉ chỉ mới tạm nguôi ngoai gần đây.

Đức Hồng Y Quevedo được coi là một người xuất sắc. Hồi thập niên 1970, ngài được bầu là một trong 10 người trẻ xuất sắc nhất của Philippines. Ngài còn được coi như “kiến trúc sư mục vụ cho các Giáo Hội Châu Á”, vì ngài đã nhiều năm làm Tổng Thư Ký Liên Hiệp các Hội Đồng Giám Mục Á

20

Page 21: Ephata 602

Châu ( FABC ). Chính ngài là một tay thợ cả thảo các văn kiện của Liên Hiệp các Đức Giám Mục. Với kinh nghiệm và uy tín như vậy, ngài đã đắc cử với số phiếu cao nhất vào Đoàn Thư Ký của Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới năm 1994.

Đức Hồng Y Quevedo chủ trương: “Hội Thánh ở Châu Á phải nỗ lực hòa đồng trong nền văn hóa Châu Á, phải bám rễ sâu vào Châu Á, phải nhập thể giữa Châu Á. Đồng thời Hội Thánh phải coi nhiệm vụ đối thoại liên tôn như một đòi hỏi cấp bách trong hành trình chung của nhân dân Châu Á tiến về Nước Chúa. Giáo Hội phải là tôi tá khiêm tốn của nhân dân Châu Á. Đây là lục địa mà đại chúng còn nghèo khổ, nên Hội Thánh phải đối thoại với người nghèo, phải là Giáo Hội của người nghèo thì tiếng nói mới đáng tin và mới hiệu nghiệm”.

Sau hết, còn một vị tân Hồng Y hiện nay là người lớn tuổi nhất trong Hồng Y đoàn, đó là Đức Hồng Y Loris Capovilla, năm nay 98 tuổi. Với tuổi tác ấy, ngài không còn tiêu chuẩn để dự Mật Hội bầu Giáo Hoàng, nếu có. Ngài cũng không thể về Rôma để lãnh áo đỏ, nhưng áo mũ sẽ được đưa đến tận nơi ngài đang hưu dưỡng. Sự kiện Đức Hồng Y mới này lại là người cao tuổi nhất trong Hồng Y Đoàn là một điều rất có ý nghĩa. Đức Hồng Y Capovilla là thư ký riêng của Đức Chân Phúc Gioan XXIII, suốt từ khi ngài còn làm Thương Phụ ở Toàn Venizia cho đến khi ngài lên ngôi Giáo Hoàng. Suốt thời gian đó, Đức Cha Capovilla đã luôn ở bên Đức Gioan XXIII. Sau khi Đức Chân Phước Giáo Hoàng, Đấng khai sáng Công Đồng Vatican II qua đời, thì Đức Cha Capovilla đã thừa kế rất nhiều tài liệu, giấy tờ của Đức cố Giáo Hoàng. Và trong suốt 50 năm nay, ngài luôn gìn giữ, sưu tập thêm và xuất bản các tài liệu này. Hiện nay ngài được coi như truyền nhân của Đức Gioan XXIII. Những ai viết sách báo về Đức cố Giáo Hoàng đều coi Đức Hồng Y Capovilla như một từ điển sống về các biến cố và tư tưởng của Đức Chân Phúc. Hiện Đức Hồng Y Capovilla đang giữ gìn bảo tàng về Đức Gioan XXIII tại quê hương của Đức cố Giáo Hoàng ở Sotto in Monte.

Trong tháng Tư tới đây, Đức Chân Phúc Gioan XXIII sẽ được tôn phong Hiển Thánh cùng với Đức Chân Phúc Gioan Phaolô II. Việc trao tặng Hồng Y cho vị thư ký 98 tuổi của ngài vừa là một sự nhìn nhận công nghiệp của bản thân Đức tân Hồng Y và cũng là một sự tôn vinh với Đức Chân Phước. Đó là một cách để nói rằng, con đường Đức Gioan XXIII đã mở với Công Đồng Vatican II, cùng với sự nối tiếp của Đức Gioan Phaolô II là những biến cố có tầm thời đại cho Hội Thánh trong lịch sử. Đương nhiên Đức Hồng Y Capovilla sẽ vô cùng hạnh phúc trong ngày Hội Thánh tôn phong người cha tinh thần của mình, cũng là cha tinh thần của cả một kỷ nguyên trong Hội Thánh Công Giáo.

Lm. Matthêu VŨ KHỞI PHỤNG, DCCT ( Hết )

PHONG CÁCH PHANXICÔBÀI 7. NHÀ THỜ VÀ HỘI THÁNH CHỈ LÀ MỘT VÀ LÀ ĐỨC KITÔ

Ta thường nghe một kiểu nói xã giao, tỏ ra tôn trọng sự khác biệt, bao dung và hiểu biết: Đạo nào cũng là đạo, cũng tốt như nhau, vì cũng chỉ dạy người ta ăn ngay ở lành, làm lành lánh dữ, thấu suốt rằng những gì ta làm ( nhân ) trong đời này sẽ dẫn tới một kết cục tương ứng ( quả ) sau khi ta qua đời. Chỉ có Cộng Sản duy vật vô thần, vì phủ nhận đời sau trong lý thuyết ( thực tế thì lại làm ngược lại ), mới dám lấy cứu cánh ( thế giới đại đồng hoang tưởng ) biện minh cho phương tiện ( vô sản chuyên chính ), thẳng tay tàn sát đến 100 triệu người vô tội trong giai đoạn quá độ ( vô độ và vô tận ). Người Cộng Sản lại dựng lên lăng mộ hoành tráng ( hoang phí ) cho các lãnh tụ và nhào nặn họ một loại thần linh mới. Một số quan chức còn được lập các đền thờ riêng nữa.

Tuy nhiên, không hề có chức sắc tôn giáo chân chính nào lại dám cho rằng đạo nào cũng giống nhau. Ai cũng nhất mực cho rằng đạo mình mới là chân lý, nếu không thì đã chẳng tu đạo làm gì. ( Trích ). Với Phật Giáo, triết lý của đạo này là một triết lý sống, bởi vì là một chân lý giải thoát mà chỉ có ai thực hành mới đạt được, hiểu được trọn vẹn. Phật tử phải tự mình tu tập để tiến tới giải thoát. Đức Phật chỉ là người dẫn đường. Ngài chỉ dạy cho chúng ta con đường tạo ra nhân quả. Số phận của ta nằm trong tay ta. Với Kitô Giáo, vì là một tôn giáo cứu rỗi, con người chỉ cần đặt tất cả vào một niềm tin duy nhất ở một đấng siêu nhiên để mong

21

CÙNG KHÂM PHỤC

Page 22: Ephata 602

cầu giải thoát: “Thiên Chúa quá thương yêu thế gian đến nỗi ban con duy nhất của Ngài, để những ai tin vào Người sẽ không bị luận phạt, nhưng được sống đời đời.” ( Nguồn: Tâm Diệu http://thuvienhoasen.org/D_1-2_2-94_4-19317/dao-nao-cung-la-dao.html )

Nếu tin rằng chỉ có mình mới tự giải thoát được cho mình mà không phải cậy dựa vào năng quyền của một đấng siêu việt nào, tại sao trong Phật Giáo vẫn có những nghi thức cầu an và cầu siêu ? Cầu với ai và ai có quyền năng và lòng thương xót để đoái hoài đến mình ? Tại sao những Phật Tử bình thường ít dám tự mình chủ trì lễ cầu an và cầu siêu mà thường do các tăng ni thực hiện ? ( Trích ) Sáng 16.3.2007, Thiền sư Nhất Hạnh chủ trì lễ cầu siêu “Đại trai đàn bình đẳng chẩn tế” tại chùa Vĩnh Nghiêm. Khoảng 9.000 tăng ni Phật Tử và bà con đã làm lễ cầu siêu cho những vong nhân, người tử nạn trong chiến tranh và cầu mong hòa bình, an lành, hạnh phúc cho đất nước, thế giới. ( nguồn http://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/thien-su-thich-nhat-hanh-cau-sieu-tai-tp-hcm-2079142.html ) Tôi có tìm cầu tuệ giác băn khoăn này nơi một bài pháp và tăng ni, nhưng vẫn chưa hiểu thấu được.

Vì Công Giáo thường được xếp vào hàng ngũ các tôn giáo, nên Chúa Giêsu cũng được coi như một đấng lập đạo tương tự Đức Phật lập nên Phật Giáo, Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc lập nên Cao Đài Giáo, Đức Tiên Tri Muhammad sáng lập ra Hồi Giáo. Nhưng thật ra, Hội Thánh Công Giáo với cơ sở vật chất và cơ cấu phẩm trật nhân sự như đang có hiện nay, tuy do Chúa Giêsu lập nên, không là gì khác hơn ngoài chính Chúa Giêsu, Đền Thờ Thiên Chúa Duy Nhất. Chính vì lý do này mà Đức Kitô là một Con Đường và Kitô Giáo không phải là một tôn giáo theo cách hiểu thông thường. Rất khó lĩnh hội được điều này nếu chưa xác định và hiểu được đúng tên Hội Thánh.

Hội Thánh Việt Nam khá lúng túng trong một số ngôn từ trong Đạo vì phải đã quen dựa vào tiếng Hoa. Điều này dễ hiểu thôi. Ngôn ngữ và văn hóa Việt qua hàng ngàn năm Bắc Thuộc đã chịu ảnh hưởng sâu đậm của Trung Hoa. Có đến 60% từ vựng trong tiếng Việt có nguồn gốc trực tiếp từ tiếng Hoa. Không những các từ riêng lẻ mà rất nhiều cụm từ dùng hàng ngày có nguồn gốc tiếng Hoa. Thí dụ, “nỗ lực học tập” mà một đứa bé Việt Nam đi nhà trẻ cũng hiểu ngay, nghe qua

tưởng là tiếng Việt vì phát âm theo lối Hán Việt, vẫn là tiếng Hoa từng chữ một và cả câu. 努 nǔ ( nỗ ) 力 lì ( lực ) 學 xué ( học ) 習 xí ( tập ). Thí dụ khác: 尊 zūn ( tôn ) 師 shī ( sư ) 重 zhòng ( trọng ) 道 dào ( đạo ). Vì có sự gần gũi như vậy, nói lên ai cũng hiểu cả, nên nhiều khi cứ để nguyên âm Hán Việt mà dùng cho tiện và thanh cao, đổi sang tiếng Việt thuần túy ( tiếng Nôm ) nghe không trịnh trọng và hay lắm.

Thuở nhỏ tôi thường nghe mẹ nói: Đi ra nhà dây thép ( bưu điện ) gọi dây nói ( điện thoại ) cho bác Hai. Bây giờ không nghe ai nói như thế nữa. Ông bà ta cho rằng “Nôm na là cha mách qué” để chỉ lối diễn đạt thô lỗ tầm thường của những người chỉ biết dùng chữ Nôm trong trường hợp cần phải dùng chữ Hán. Nếu không sử dụng từ Hán Việt thì chỉ có thể nói ra ( một cách rất tục tĩu ) các bộ phận sinh dục và các sinh hoạt tình dục ( dùng để chửi tục ), không ai dám viết ra trên giấy. Có một dạo sau 1975, không biết do sự chỉ đạo của “đỉnh cao trí tuệ” nào mà Bệnh Viện Từ Dũ được trương bảng hiệu thành Xưởng Đẻ Từ Dũ. Trong trường hợp này, đúng là mách qué thật.

Không lạ gì, trước một sự vật hay khái niệm mới chưa có sẵn trong ngôn ngữ, không những người Việt thời trước, khi mà đa số kẻ sĩ đều thông thạo chữ Hán, mà ngay cả bây giờ, đều có khuynh hướng dùng luôn một từ Hán Việt. Thí dụ: hỏa tiễn, phi thuyền, phi hành gia, phi cơ phản lực, trực thăng, thủy quân lục chiến, hải quân hoàng gia, vô tuyến truyền thanh, vô tuyến điện, điện thoại, vi tính, địa lý, y khoa, tâm lý học, lượng giác, đại số, siêu vi, tam quyền phân lập, tối cao pháp viện…

Nhưng tiếng Việt khác tiếng Hoa đặc biệt ở chỗ ta đã ta bỏ hẳn cách viết bằng chữ Nôm theo lối tượng hình Hán Tự, mà dùng luôn các mẫu tự Latin tượng thanh ( Quốc Ngữ ) để viết tiếng Việt vì chính xác và tiện lợi hơn nhiều. Người Tầu phiên âm tên của nhà tư tưởng Pháp có ảnh hưởng rất lớn đến Cuộc Cách Mạng Pháp là Montesquieu ( 1689 – 1755 ) thành 孟 Mạnh 德 Đức 斯 Tư 鳩 Cưu. Trước đây cứ thế mà dịch nguyên con thành Mạnh Đức Tư Cưu trong các sách giáo khoa. Nay đã phải đổi thành Mông-tét-xki-ơ hay viết hẳn Montesquieu. Bây giờ không còn mấy người nhớ nổi Mạnh Đức Tư Cưu là ai nữa. Đọc sách cũ mà gặp cái tên này có khi dám cho rằng ông ta là thân sinh của nàng Mạnh Lệ Quân hay là một Võ Lâm Ngũ Bá trong truyện kiếm hiệp của Kim Dung. Người ta cũng không còn gọi vị thừa sai Dòng Tên có công lớn nhất sáng tạo ra chữ Quốc Ngữ là A Lịch Sơn Đắc Lộ nữa, mà cứ để nguyên tên ngài là Alexandre de Rhodes. Bây giờ, các ngôi sao Hàn Quốc cũng được gọi tên theo kiểu phiên âm trực tiếp, chứ không cần theo lối Tầu nữa. Ta gọi nam tài tử tài hoa đẹp trai của bộ phim ăn khách “Ông Vua Truyền Hình” là Choi Si-won ( Hàn tự: 최시원; Hán tự: 崔 Thôi 始 Thủy 源 Nguyên ), nếu cứ theo Tầu mà gọi là Thôi Thủy Nguyên thì rất là kỳ quặc.

22

Page 23: Ephata 602

Ta đã bỏ dần các từ ngữ như Gia Nã Đại, Tân Gia Ba, Ý Đại Lợi, Úc Đại Lợi, Bảo Gia Lợi, Hung Gia Lợi, Lục Xâm Bảo, Mễ Tây Cơ, Á Căn Đình, Ba Tây, Ba Lê, Hoa Thịnh Đốn, Mặc Tư Khoa, Nã Phá Luân, tây ban cầm, dương cầm, đại phong cầm, vô tuyến truyền hình, phi công, minh tinh màn bạc… Bây giờ mà còn nói như thế thì quá lẩm cẩm rồi. Người ta đã đổi sang Canada, Singapore, Italia, Australia, Bulgaria, Hungary, Luxembourg, Mexico, Argentina, Brasil, Paris, Washington, Moscow, Napoleon, guitar, piano, organ, tivi, pilot… ai cũng hiểu ngay, không còn bị lên án là vọng ngoại nữa. Ở Việt Nam nói đi xe Honda là ai cũng hiểu là xe gắn máy có hai bánh, dù lắm khi đang ngồi trên xe Yamaha, Suzuki, Kawasaki. Các bạn trẻ bây giờ ít nói “điện thoại di động” mà cứ gọi là “mobile phone”, hay đơn giản hơn là “mô-bai”.

Trong khi người đời đã bỏ đi nhiều cách phiên âm theo lối tiếng Hoa các từ ngữ nước ngoài, tại sao ta cứ rập khuôn một cách máy móc đó trong khi ta đang dùng mẫu tự Latin, có thể viết thẳng nguyên ngữ được ? Đáng tiếc thay, sự thay đổi hết sức cần thiết này ở trong Hội Thánh diễn ra rất chậm, hầu như không có. “Con cái đời này khôn ngoan hơn con cái sự sáng” ( Lc 16, 8 )

Khi Tin Mừng mới được loan báo đến Việt Nam, vào lúc đó chữ Quốc Ngữ viết bằng mẫu tự Latin chưa phổ biến, tổ tiên ta phải nhờ đến tiếng Hoa để có được một số từ ngữ trong đạo. Nhưng đã gần 400 năm kể từ khi các vị Thừa Sai đầu tiên đặt chân đến nước ta, tôi cho rằng đã đến lúc ta phải mổ xẻ một số từ cốt yếu trong Đạo, tuy không dễ dàng gì và có khi còn nhức nhối khó chịu nữa. Cứ áp dụng một cách máy móc mà không nắm rõ ý nghĩa của từ ngữ, ta dễ đi đến chỗ hiểu sai nội dung.

Tiếng Hoa không viết ra được chữ Papa nên họ phải dịch thành 教 皇 ( jiào huáng ) Giáo Hoàng ( hoàng đế Công Giáo ). Tại sao ta phải cứ theo họ mà gọi các ngài một cách oan ức như thế ? Papa chắc chắn không phải là một ông vua trong Công Giáo. Ngài chỉ là người cha đáng kính và thân thiết nhất của ta trong Lòng Tin vào Đức Kitô.

Từ quan trọng vào hàng bậc nhất ở trong Công Giáo là Ecclesia, tiếng Latin vừa có nghĩa là Giáo Hội khi viết hoa, vừa có nghĩa là nhà thờ khi viết thường. Tất cả các ngôn ngữ Âu Châu cũng chỉ dùng một từ cho hai khái niệm này vì thực chất chỉ là một thực thể mà thôi. Nhưng khi dịch, người Hoa đã tách thành hai từ khác nhau, phân biệt rõ ràng thành 教會 jiào huì ( Giáo Hội ) và 教堂 jiào táng ( giáo đường ). Ta cứ thế trong 400 năm theo Tầu mà chia cách Đức Kitô ra làm hai thực thể phân biệt là Giáo Hội và Giáo Đường. Nhiều khi còn ngộ nhận đó là hai lãnh vực hoàn toàn khác nhau. ( Phần sau sẽ bàn về danh xưng Công Giáo ).

Như đã đề cập ở Bài 4, sự phân biệt trong từ ngữ giữa Hội Thánh và Nhà Thờ, như đang thịnh hành ở Việt Nam không hề có trong Hội Thánh toàn cầu trong 2.000 năm qua. Trong ngôn ngữ của Hội Thánh tiên khởi và của tất cả nước Âu Châu mà từ đó Tin Mừng được loan báo đến Việt Nam, đâu có sự phân biệt này. Sự tách đôi như thế có thể khiến cho Kitô hữu Việt Nam gặp lúng túng hơn khi lĩnh hội nòng cốt của Tin Mừng: Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa Vô Hình, trở thành Con Người Hữu Hình nhưng vẫn là Thiên Chúa. Qua khổ nạn và phục sinh Người trở thành Đền Thờ Duy Nhất, cũng là chính Hội Thánh tại thế, mà người tin phải bước vào để thờ phượng Thiên Chúa trong Thần Khí và sự thật ( x. Ga 4, 22 ). Hội Thánh, Đền Thờ Hữu Hình, dù có bất toàn đến đâu, dù có bị đàn áp, giết chóc, bị chính quyền lên quy hoạch phá bỏ, chính là Chúa Giêsu Khổ Nạn và Phục Sinh, là Ơn Cứu Độ của ta đó. Nói cách khác, Đền Thờ, Hội Thánh và Chúa Giêsu chỉ là một, và chỉ là Chúa Giêsu mà thôi.

Ta có thể khẳng định rằng việc trở lại của Phaolô không hề mang ý nghĩa cải đạo; ông không hề chuyển đổi từ Do Thái giáo qua Kitô giáo. Với anh em đồng đạo, ông không ngừng khẳng định và tự hào rằng mình vẫn là một Do Thái chính hiệu, trong tất cả nội dung xã hội chính trị và tôn giáo của nó ( Rm 11, 1; 1 Cr 9, 20 ) ( x. Linh Mục Nguyễn Văn Ty, báo Ephata 596 ).

Nếu hiểu như thế thì cũng có thể hiểu rằng, đến như một nhân vật cực kỳ quan trọng như Phaolô mà vẫn đâu có cần phải cải đạo từ Do Thái giáo qua Kitô giáo, vì đi theo Chúa Giêsu đâu có phải là gia nhập một một tôn giáo như các tín đồ trong các tôn giáo khác. Đi theo Chúa Giêsu, tức là đi theo Con Đường Giêsu, là tháp nhập vào Con Người Giêsu, Đền Thờ Thiên Chúa.

Trong bài chia sẻ cho Thứ Tư Lễ Tro 2014, Linh Mục Nguyễn Văn Ty còn có một định nghĩa theo dạng công thức toán học: Đức Kitô = Hội Thánh. ( Trích ) Nếu Giôen kêu gọi dân chúng chay tịnh để hy vọng được Thiên Chúa xót thương, thì Đức Kitô ( = Hội Thánh ) kêu gọi chay tịnh là để các tín hữu có dịp vào sâu hơn trong lòng xót thương cứu độ đó.

23

Page 24: Ephata 602

Các tín hữu thường nghĩ rằng họ theo đạo Công Giáo chứ không phải theo Do Thái Giáo. Mẹ Maria, Thánh Giuse, các Tông Đồ và Kitô Hữu tiên khởi, vẫn hoàn toàn là những người Do Thái chính hiệu. Tin Mừng còn đề cao việc Maria và Giuse dâng con trẻ Giêsu vào Đền Thờ với của lễ là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non theo Luật Do Thái ( x. Lc 2, 22 ).

Cũng không nên cho rằng Giao Ước Cũ đã chấm dứt kể từ lúc Chúa Giêsu nhập thể. Hiểu như thế thì công trình dẫn dắt lịch sử Dân Do Thái trong gần 2.000 năm ( Abraham sinh ra vào khoảng năm 1800 trước Công Nguyên ) của Đức Chúa đã thành vô ích. Nếu cho rằng Cựu Ước chỉ có giá trị để chuẩn bị cho sự xuất hiện của Chúa Giêsu trong Tân Ước thì cũng chưa hẳn là đúng. Chuẩn bị mà làm gì khi người Do Thái không những phủ nhận vai trò Đấng Thiên Sai của Chúa Giêsu mà còn tạo áp lực buộc người Rôma đóng đinh Người vào thập giá. Công trình mấy ngàn năm can thiệp vào lịch sử Dân Riêng Thiên Chúa của Giavê đâu có thất bại thê thảm như thế. Trái lại, công trình đó đã thành công rực rỡ, đạt được tột đỉnh và trở thành cốt lõi cho Lòng Tin của ta.

Qua thập giá và phục sinh, Đức Kitô trở thành Đền Thờ Thiên Chúa Duy Nhất ngự giữa nhân loại. Thân thể Đức Kitô bị đập nát ra để cho Người trở thành Đền Thờ mà Chúa Cha đẹp lòng mọi đàng, nơi mà nước hằng sống được tuôn chảy ra như những dòng sông. Đức Kitô đâu phải là một cái hội có tính cách tôn giáo ( Giáo Hội ) hay có tích cách thánh thiện ( Hội Thánh ). Người là Đền Thờ Chân Chính, làm thành toàn Đền Thờ Giêrusalem, Nhà Thiên Chúa ngự giữa loài người. Trở thành Kitô hữu đâu phải là gia nhập một cái hội tôn giáo thánh thiện, nhưng là đi vào Đền Thờ Kitô.

Lênin thường được cho rằng đã sáng lập nên Đảng Cộng Sản Liên Xô từ đảng Bolshevik sau khi nắm quyền ở Nga sau Cách Mạng Tháng Mười 1917. Nhưng Đảng Cộng Sản chỉ là một cái hội do Lênin lập nên mà không phải là Lênin. Sau khi ông chết vào năm 1924 thì Đảng vẫn còn tồn tại đến năm 1991 trước khi chết theo. Nói cách khác, Lênin và Đảng hoàn toàn là hai thực thể riêng biệt, tuy có liên quan nhưng hoàn toàn độc lập với nhau.

Nhưng Chúa Giêsu, qua khổ nạn và phục sinh, lại trở thành Đền Thờ Thiên Chúa Duy Nhất hiện diện tại thế mà người tin phải bước vào để thờ phượng Thiên Chúa. Đền Thờ và Chúa Giêsu chỉ là một thực thể duy nhất không thể chia cắt được. Lý do duy nhất để cho Nhà Thờ có mặt cho đến tận ngày nay, và sẽ tiếp tục tồn tại cho đến tận thế dù có phải trải qua mọi loại phong ba bão táp dữ dội đến đâu đi chăng nữa, là vì Chúa Giêsu vẫn đang sống và là chính Nhà Thờ.

Và tôi thấy Thành Thánh là Giêrusalem mới, từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, sẵn sàng như tân nương trang điểm để đón tân lang. Rồi tôi nghe từ phía ngai có tiếng hô to: “Đây là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại, Người sẽ cư ngụ cùng với họ. Họ sẽ là dân của Người, còn chính Người sẽ là Thiên-Chúa-ở-cùng-họ. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” ( Kh 21, 2 – 4 ).

Đức Giêsu phán: “Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem. Các người thờ Đấng các người không biết; còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì Ơn Cứu Độ phát xuất từ dân Do Thái. Nhưng giờ đã đến – và chính là lúc này đây – giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế. Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật” ( Ga 4, 21 – 24 ).

Do đó, tôi cho rằng Hội Thánh Việt Nam nên quay về cách mà Nhà Thờ Toàn Cầu từ hai ngàn năm nay chỉ luôn tự gọi mình bằng một từ duy nhất là Nhà Thờ. Dù có thể đây là những một ngôi Nhà Thờ vật chất cụ thể như Nhà Thờ Kỳ Đồng, hay là toàn thể

phẩm trật nhân sự và tổ chức, tất cả đều chỉ là một Thân Thể Đức Kitô mà thôi. Nhà Thờ Việt Nam nghe chưa quen rất là lạ tai nhưng lại là cốt lõi của Lòng Tin của ta. Ta đâu có ở trong một cái hội dù mang nặng tính cách tôn giáo hay có tính cách thánh thiện đến đâu đi chăng nữa. Làm gì có khái niệm này trong Nhà Thờ Toàn Cầu. Ta đang ở trong Đức Kitô, Nhà Thờ Thiên Chúa, để thờ phượng trong tinh thần và chân lý. Tại sao ta không dám gọi mình bằng đúng tên của mình ?

Trong cuộc đời Phanxicô ( cũng như cuộc đời của mỗi Kitô Hữu ) không có gì quan trọng hơn việc xây lại Đền Thờ Thiên Chúa. Đặc điểm của Phanxicô là rất đơn sơ, nghe sao hiểu vậy. Khi đi cầu nguyện tại Nhà Thờ Thánh Damiano đổ nát, anh nghe tiếng Chúa phán: “Hãy đi sửa lại ngôi nhà của Ta”. Thế là

24

Page 25: Ephata 602

anh hăng say dựng lại ngôi Nhà Thờ này. Qua thời gian, anh hiểu rằng Nhà Thờ chính là Hội Thánh. Rồi, còn phải đi xa hơn tới tận cùng, Nhà Thiên Chúa chính là Đức Kitô sống nơi mỗi người theo như lời Thánh Phaolô: "Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi" ( Gl 2, 20 ).

NGUYỄN TRUNG ( Còn tiếp nhiều kỳ )

CHAY TỊNH MANG LẠI SỰ BIẾN ĐỔIHầu hết mọi tôn giáo trên thế giới đều khuyến khích người tin thực hành việc chay tịnh, nghĩa là

tiết chế việc ăn uống xuống tới mức tối giản nhất để từ đó có thể, trước hết là giảm thiểu những xung năng của cơ thể, và sau đó gia tăng sức mạnh cho đời sống tinh thần ngang qua việc cầu nguyện và hy sinh hãm mình. Thế nhưng, việc ăn chay về phương diện thực phẩm mà thôi thì chưa đủ để có thể giúp người ta phát triển đời sống tinh thần, nếu việc chay tịnh ấy không hướng đến một sự hoán cải, thay đổi bản thân và thay đổi cuộc sống của anh chị em xung quanh mình. 

Mục đích đúng đắn của việc chay tịnh

Bất luận là ta đang theo niềm tin tôn giáo nào, song việc ăn chay nếu chỉ dừng lại ở những mục đích mang lại những lợi ích riêng cho bản thân, thì xem chừng đó chỉ thuần là việc ăn kiêng, chứ không mang lại một hiệu quả tinh thần nào cả. Chẳng hạn như có nhiều người cảm thấy chán ăn, ngán thịt, mập quá, hoặc để tiết kiệm tiền dùng cho mục đích khác của bạn thân… nên quyết định ăn chay thì đó không phải là mục đích đúng đắn mang lại sự biến đổi và phát triển về mặt tinh thần. Hay có nhiều người lại ăn chay vì cảm thấy trong lòng bứt rứt, khó chịu, mặc cảm tội lỗi nên muốn ăn chay để cho lòng thanh thản hơn… hoặc thậm chí ăn chay chỉ vì chạy theo phong trào…

Tắt một lời, ăn chay mà thiếu một nội dung bác ái chân thành hướng đến tha nhân, thì đó không gọi là ăn chay, dù bạn có kham khổ, nghiêm ngặt, hay trường kỳ thì cũng không mang lại bất kỳ một sự biến đổi tâm hồn và cuộc sống toàn vẹn, và nếu có, thì đó chắc hẳn là sự hao gầy đi cùng với những căng thẳng biểu hiện rõ ra bên ngoài. 

Vậy nên, ta cần hiểu rõ rằng, mục đích của việc chay tịnh thật sự không hệ tại ở những quy tắc nghiêm ngặt ta đặt ra cho bản thân, vì điều đó chỉ mang lại sự căng thẳng như một vị thầy về tinh thần đã khẳng định, mà hệ tại ở lòng bác ái của chúng ta dành cho những anh em nghèo đang cần ta giúp đỡ hoặc những người bị loại trừ, những người bên lề xã hội, những người đau yếu bệnh tật, và thậm chí cả kẻ thù của ta nữa. Như thế, hành vi ăn chay của ta, sẽ là cắt bớt đi những xa hoa, những khẩu vị ưa thích, những điều tốn kém như mua sắm, ăn chơi vô độ… để dành số tiền ấy mà đem bố thí cách âm thầm cho những người đang cần, đó là việc “không để tay trái biết việc tay phải làm” ( x. Mt 6, 3 – 4 ), và như thế đó là một việc ăn chay trọn hảo và đem lại hoa trái thiêng liêng, cũng như sự biến đổi toàn diện cho mỗi người chúng ta. 

Các hình thức chay tịnh mang lại sự biến đổi tâm hồn và cuộc sống

Thật là quá hạn hẹp khi ta chỉ hiểu ăn chay là dẹp bớt đi khẩu phần ăn, bỏ bớt đi hương vị ngon thơm của thực phẩm, không ăn thịt các loại, hay nhịn ăn. Đó là nghĩa quá hẹp của hai từ “ăn chay”, hay còn gọi là nghĩa hình thức của nó. Vì nếu chỉ dừng ở đây thì việc ăn chay quả là quá dễ dàng và dễ để cho người ta lạm dụng và tự mãn về khả năng chay tịnh của mình. Trong khi đó, chay tịnh phải được hiểu theo cả nghĩa vật chất lẫn nghĩa tinh thần, nghĩa là, ta phải vừa giảm bớt đi những điều theo thói quen ta ưa thích về bất cứ điều gì thuộc vật chất: ăn uống, những hưởng thụ, những thú vui ám muội, vui chơi, giải trí, sở thích… mà ngay cả những điều có vẻ rất trong sáng và ngay lành, bên cạnh đó ta phải thực hành việc chay lòng đi kèm: dẹp bỏ một thói hư tật xấu, dẹp đi một tính khí không hay ho gì, bỏ đi lòng tham, bỏ đi lòng ích kỷ, nói hành nói xấu, bỏ đi lòng hận thù, thay đổi nếp nghĩ, mở rộng tâm hồn ra trước những điều cao đẹp… Và chay về tinh thần là điều khó khăn nhất mà người ta có thể thực hiện được, song chắc chắn nếu được kết hợp cùng với chay về thể lý thì chắc chắn ta sẽ được thay đổi toàn diện con người. 

Hai chiều kích của việc chay tịnh này bổ túc cho nhau, mặc dù việc chay về tinh thần thì quan trọng và mang tính quyết định hơn. Chúng ta không thể ăn chay mà lòng vẫn mang đầy sự hận thù, sự ghen tương, sự khinh miệt, cay đắng, buồn phiền, và những ham muốn khác. Và ngược lại, chúng ta

25

CÙNG TÌM HIỂU

Page 26: Ephata 602

không thể vừa muốn dẹp bỏ đi một tính xấu, song đồng thời lại tạo dịp cho nó đến và quấy nhiễu mình bằng những hình thức vật chất này hay thú vui nào khác. Vậy nên, để việc chay tịnh mang lại sức mạnh biến đổi cuộc sống và tâm hồn của chúng ta, thì mỗi người nên tốt nhất thực hiện cùng lúc hai hình thức của việc chay tịnh: thể lý và tinh thần. 

Khi quyết định thực hiện việc ăn chay, dù là theo định kỳ tuỳ mỗi người, hay chay trường, thì chúng ta phải chân thành với lòng mình để trả lời câu hỏi: “Tôi ăn chay để làm gì ?” ( Mục đích ) và “Lãnh vực nào, điều gì, tính cách nào, thói tật nào nơi tôi cần phải điều chỉnh đi kèm cùng với việc chay tịnh này ?” Và khi đã trả lời xong hai câu hỏi quan trọng này, thì ta cần tiếp tục hỏi câu hỏi tiếp theo, “tôi có thật tâm muốn ngang qua việc chay tịnh này thì bản thân tôi và anh em đồng loại của tôi cũng được biến đổi ít nhất là một phương diện nào đó trong cuộc sống không ?”

Điều cần nhớ, nếu ăn chay mà khiến bạn bỗng dưng trở nên căng thẳng, mệt mỏi, chán nản, nặng nề, hay thấy mình hơn hẳn người khác…thì tốt nhất bạn nên dừng lại để xác định lại mục đích và ý nghĩa của việc mình làm để tránh hoài công vô ích sau đó. Bởi đó chính là dấu hiệu cho thấy mục đích ăn chay của bạn đang thiếu ý ngay lành, tính nghiêm túc, sự đúng đắn, và mang đầy tính kiêu ngạo của cái tôi nơi bản thân, chứ đó không phải là lòng thật muốn thay đổi tận căn cuộc sống của bản thân và anh chị em đang cần sự gúp đỡ. Thêm vào đó, ngoài cách biện phân này, bạn có trả lời các câu hỏi dưới đây của Đức Giáo Hoàng Francis về việc ăn chay và bác ái của mình:

“Khi tôi làm việc bác ái, tôi có thả đồng xu mà không đụng chạm gì đến tay của người nghèo, người hành khất ? Và nếu vì tình cờ mà tôi chạm phải, tôi có lập tức trút bỏ nó chăng ? Khi tôi làm việc bác ái, tôi có nhìn vào đôi mắt của anh em, chị em tôi chăng ? Khi tôi biết một người đau bệnh, tôi có đi thăm viếng người ấy ? Tôi có chào người ấy bằng tất cả lòng trìu mến không ?

Có một dấu chỉ có thể giúp chúng ta, đó là một câu hỏi: Tôi có khả năng trao ban một cử chỉ âu yếm hoặc ôm chặt lấy người bệnh tật, người già yếu, trẻ em, hay tôi lại đánh mất cái nhìn có ý nghĩa của một sự âu yếm ? Những kẻ giả hình này đã không thể trao ban một cử chỉ âu yếm. Họ đã lãng quên cách để thực hiện điều ấy…

Đừng xấu hổ vì nhục thể của anh em chúng ta, đó chính là nhục thể của chúng ta ! Chúng ta sẽ bị xét xử theo cách thế mà chúng ta đối xử với người anh em này, với người chị em này”.

Joseph C. PHAM 

ƠN CỨU CHUỘC NƠI NGÀI CHAN CHỨA ! – Kỳ 4

Chương 1: ĐẶT VẤN ĐỀ CỨU CHUỘC

Phần 5: Ơn cứu chuộc và vấn đề tội lỗiTại Louvain la Neuve, anh em trong Đạo có tổ chức một buổi hội

thoại về thần học tín lý có tựa đề như thể: “Dân con Đạo Chúa đã sáng chế ra cái gọi là tội lỗi” kéo dài từ mồng 3 đến mồng 4 tháng 11 năm 2005. Động từ “sáng chế ra” nghe thật ngộ nghĩnh.

Thông thường, thì: truyền thống trong Đạo Chúa cũng như Đạo Do Thái vẫn hay bị cáo buộc là đã sáng chế ra và còn khai thác “ý nghĩa của tội lệ” cũng rất buồn. Quả là ý nghĩa về tội vẫn dai dẳng kéo dài nhiều năm tháng, vượt truyền thống rất Đạo để rồi chui vào xã hội đời thường ở thế giới của Tây phương. Ý nghĩa này, còn nối kết với ý kiến cá nhân có liên quan đến việc thực hiện nét đẹp và mọi thành tựu.

Thành thử, nhiều người cứ thấy ái ngại rồi chùng bước mỗi khi có chuyện liên quan đến các luật đạo vẫn thấy có trong đời thường. Điều này lại cũng lại nối kết với ý kiến liên quan đến việc giáo dục con trẻ, như thể hỏi: “Tôi có làm những điều đáng ra phải làm cho con cháu của tôi hay không ? Ý tưởng này cũng kết hợp cả với ý nghĩa của khổ

đau cũng như mọi rối bời nơi ta, và cả thế giới nữa. Ý nghĩa về tội như thế thật ra chẳng mang tính đặc biệt nào của Đạo Chúa cũng như Đạo của người Do Thái hết.

Nói theo nghĩa nền tảng, thì tính chất lầm lạc và lỗi phạm xem ra vẫn như cũ chẳng đổi thay mảy may nào nơi người phàm là những người từng kiến tạo nên sự kiên định về nhân chủng học. Ở đây nữa, lại thấy nảy sinh một loại hình mới trong nền văn hoá nhân bản rất đáng kể và vào các thời kỳ sôi

26

CÙNG NHẬN ĐỊNH

Page 27: Ephata 602

động của nền văn hoá ấy. Chính vì thế mà ta cũng không nên bỏ qua điều này một cách quá nhanh như thứ gì đó cần gột sạch rồi vứt bỏ, bởi cảm giác phạm phải lỗi lầm được xem như thứ gì đó khiến ta phải thực thi cho có phẩm hạnh đích thực, tức danh giá con người. Đây lại là tuyên ngôn mang tính nghịch thường, nghịch lý nhưng lịch sử nhân loại vẫn phải đeo mang nó suốt đời mà thôi. Bởi nó dính dự vào khả năng của người có trách nhiệm cả về lời nói đến tự do. Cuối cùng thì các vấn đề về sự sống và nỗi chết đang diễn tiến ở nơi đây, lúc này.

Thực tế mà nói, ngay khi đó cũng có một thực thể văn hoá mang tính người phàm về “tội lệ” khá quan trọng để ta có thể dễ bị luột mất. Kitô Giáo vẫn thường được coi như gốc nguồn tạo lỗi phạm cho con người, vì con người. Thật sự, mọi người đều nhận ra sự nghịch thường khi thấy Đạo Chúa từng sáng chế ra ngôn từ cổ xưa và giải thoát con người khỏi “tội lệ”; thế nên, Đạo Chúa cũng biết cách trừ khử nó. Nói theo ngôn ngữ tích cực thì: do bởi Đạo của mình đã “sáng chế” ra ý niệm “tội lỗi” ấy, nên các vị thức giả trong Đạo tuy rất chân phương nhưng lại biện luận nhiều về “lỗi tội” ra như thế. Các nhóm Giáo Hội này khác lại chẳng bàn luận điều gì theo kiểu ấy cả.

Ý niệm chủ chốt mà tín hữu Đạo Chúa thường viện dẫn gồm hai mặt rõ rệt: một mặt về nhân chủng học còn một mặt kia là về thần học.

Tội và lỗi có tính nhân chủng

Truyện kể thời xa xưa, rút từ sách Khởi Nguyên cũng tựa hồ như các đoạn khác ở Cựu Ước từng dạy ta rằng: ác thần, sự dữ luôn duy trì nhiều tình tiết rất khó hiểu. Các tình tiết này, vượt trội sự hiểu biết của con người và Thiên Chúa. Tình và tiết, như thế, vẫn dạy rằng: tội và lỗi, theo nghĩa ác thần, sự dữ mà con người từng chịu trách nhiệm về các hành xử của mình lại là một loại hình đặc biệt của dữ thần nhưng tác động của nó lại không phải là tất cả các động tác của sự dữ với ác thần, trên thế gian. Tội lỗi, do đặc tính cũng khó hiểu của nó, vẫn chỉ là tội mà thôi. Nó chỉ mang tính cách thần dữ khi con người đồng thuận hợp tác với nó, chứ không phải là toàn thể thần dữ cũng như sự bất hạnh trong vũ trụ, hết cả đâu.

“Bản thân chúng ta, chắc chắn không xấu xa tệ lậu, mà chỉ là kẻ phạm phải lỗi lầm, mà thôi” ( A. Gesche ). Con người không có trọng trách cứ phải đeo mang mọi thứ sự dữ như nỗi bất hạnh của thế gian vốn rất bất nhân, mù loà đầy chết choc; nói chung, cũng thảm não. Con người có khả năng khống chế một cách chắc chắn lên mọi sự dữ, hoặc ít ra cũng lên trên bất cứ loại hình nào của thần dữ.

Một trong các thuyết trình viên trại buổi hội luận hôm ấy là Philippe van Meerbeeck có nói đến những sự việc mà ta là con người thường làm cũng tốt đẹp đến độ sự dữ tự nó cũng thấy rằng chúng mắc phải đdủ mọi thứ lỗi và tội.

Nói khác đi thì: trong viễn cảnh của Đạo Chúa lẫn Do Thái Giáo, tội hoặc lỗi luôn được coi như có liên hệ đến Thiên Chúa, tức là: nó đương nhiên là hành xử của con người hiện thực, nhưng lại là hành xử mang tính của dữ thần do con người làm trước mặt Thiên Chúa. Thánh Vịnh 50 cũng từng viết: “Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa, dám làm điều dữ trái mắt Ngài.”

Xem thế thì, tội và lỗi không chỉ là sự dữ mang tính người phàm nhưng còn là thứ gì đó có tính tương tác ảnh hưởng lên cùng nhau, trên nhau. Thiên Chúa cũng như người phàm, đều không chỉ là nhân chứng của những sự việc như thế ấy mà thôi; nhưng cũng lại bị sự việc ấy tác hại lên mình. Đương nhiên, lỗi và tội chia cách mọi sự, nhưng trước nhất, chúng vẫn mang tính quan hệ và nối kết. Con người, từ khởi thủy, chẳng bao giờ một mình sống đơn độc với thứ đạo nghĩa hoàn toàn riêng tư, hết. Xem thế thì có thứ gì đó mang tính tích cực đến độ khiến ta sững sờ khi được dạy bảo về con người phàm tục theo “tầm nhìn” của tội lỗi...

Có vị giảng sư đại học nọ tên là Natalie Frogneux từng đặt tên cho lý tưởng riêng tư của cái “tôi vị kỷ” là một thứ mạo danh hoặc áp đặt lên con người.

Lỗi và tội, theo nghĩa thần học

Tôi vẫn thường tự hỏi: không biết anh em mình có nên đề cập đến “Tin Vui An Bình” về tội và lỗi hay không ? Bởi trên đời này, ta vẫn chỉ có mỗi khía cạnh tương ứng với sự tốt lành hạnh đạo, sự sống, thứ tha và cứu vớt tuyệt vời lúc nào cũng cao cả hơn cả sự tội và lỗi phạm; tức: nếu so ra, nó vẫn luôn dồi dào và siêu đẳng hơn lỗi và tội. Nói rõ hơn, ta thường gọi đó là “Tội hồng phúc” tức: thứ lỗi phạm khá phúc hạnh ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Phúc và hạnh, là vì nó khiến ta có được Đấng Cứu Thế cao cả là thế. “Tội hồng phúc” mở ra cho ta tính khả thi cho đường lối mới đối với người phàm, tức: nó không

27

Page 28: Ephata 602

cùng một biện pháp chung giống như cung cách có từ thuở ban đầu mà chỉ mình nó mới khiến cho “ân huệ của Chúa” trở thành hiện thực được.

Ở đây ta thấy được điều gì đó có tính tích cực khiến ta sững sờ khi được dạy về Thiên Chúa theo “nhãn giới” rất lỗi tội. Cũng hệt như thế, sùng bái thần tượng, là động thái coi Chúa không phải là Thiên Chúa như bản chất cốt yếu của bất cứ tội lệ nào rất có thật ở trên đời.

Lại cũng có vị giảng sư nọ có tên là Jean Claude Guillebaud, từng đứng bục giảng dạy ở đại học về sự thử thách với những người vẫn cho rằng mình là kẻ vô tội; xem thế thì hỏi rằng: những điều như thế có làm giảm suy tính khả thi ở nơi ta để trở thành người phàm không thế ?

Là người phàm, có nhất thiết phải là hữu thể mang tính tha hoá mà trạng thái sống tự nhiên của con người là để sống cho người khác, giống nòi khác ? Xét về khía cạnh tiến hoá về đạo nghĩa cùng luân lý lại hay đề xuất những thay thế theo kiểu thứ ba ở trên, tức bảo rằng: tự bản chất, người phàm chúng ta đều là những bản thể quyết phấn đấu giải thoát con người mình. Và kiểu cách tích hợp cho công việc này đều không là tính tha hoá hoặc vị kỷ nằm nơi người phàm, nhưng đúng hơn, phải nói đó là khả năng tự làm cho mình trở nên tốt lành hạnh đạo ngõ hầu thẩm định được môi trường xã hội và biến các quyết định đã đưa ra được minh xác về cung cách mình sống tha hoá hoặc vị kỷ như thế nào ? Sống ra sao ? Ta thường có khuynh hướng lập ra quyết định như thể đặt căn bản trên hai chiều hướng chính yếu: một, là tạo tiền lệ cho các hành xử khả dĩ gây tăm tiếng này khác và thiết lập các nhóm hội ở đời có được sự ổn định hầu gia nhập.

Thêm vào đó, người phàm chúng ta thường hay gọi tính đạo nghĩa như một tổ chức từng kết hợp các khuynh hướng cũng như khả năng mà một số đã có từ triệu triệu năm trước và số khác lại chỉ mới có chừng vài ngàn năm đây thôi. Đời con người vẫn có nhiều thứ và nhiều sự trong đó có cả những qui định về luân lý đạo đức rất khó cho con người để tuân thủ; bởi hầu hết đó là những luật định về văn hoá ngõ hầu thích nghi với từng thời kỳ, từng thế hệ cả khi môi trường xã hội của ta vẫn trên đà đổi thay quá nhanh chóng khiến ta khó lòng mà theo kịp, hiểu theo nghĩa mầm gien giống như quan năng.

Đến đây, tưởng cũng nên đề nghị anh em mình nên xem thêm bản tóm kết ý kiến do David Lvingstone Smith vốn là tác giả cuốn sách có tựa đề là: “Tại sao ta nói dối”. Đây là bài nói chuyện của David Lahti về chủ đề nêu ra những là: “The Better Angels of our Nature: evolution and morality”.

Lm. KEVIN O’SHEA, DCCT, bản dịch của MAI TÁ ( Còn tiếp )

CỨ BÁC SĨ GIÊSU VÀ Y TÁ MARIA LÀ ĐỦ RỒI !Xin tóm tắt ngay câu chuyện còn nóng hổi của chính gia đình tôi…

Vợ tôi có thai cháu thứ ba giờ đã được 5 tháng. Hai cháu đầu chúng tôi đều được một chị bác sĩ Công Giáo tại Biên Hòa chăm sóc từ lúc cấn thai cho đến khi sanh. Cháu thứ ba này cũng khởi sự như thế, tuy nhiên, lần này bác sĩ yêu cầu xét nghiệm máu tại một phòng mạch tư ở Tân Mai. Vì đã đặt hết tin tưởng vào lời giới thiệu của người quen, tôi an tâm đưa vợ đi xét nghiệm tại địa chỉ trên, không hề biết rằng đây là phòng mạch của một bác sĩ Bệnh Viện TD. của thành phố Sàigòn, một bệnh viện phá thai hàng đầu trong cả nước, suy ra top ten trên toàn thế giới nữa !

Một tuần sau, vị bác sĩ xét nghiệm ấy gọi điện cho vợ tôi quát mắng um sùm rằng: vợ chồng đã lớn tuổi nên con có nguy cơ bị Down, phải lên Sàigòn, đến Bệnh Viện TD. để chọc dò ối ngay, cần thiết là phải loại bỏ thai nhi dị tật luôn. Lời nói gắt gỏng lắm, chỉ có la mắng mà không hề có một lời hỏi han cho đàng hoàng, thậm chí vợ tôi hỏi về kết quả xét nghiệm máu cũng không cho, cứ viện rằng vợ chồng chúng tôi đã lớn tuổi.

Lúc ấy, tôi phải trấn an vợ tôi ngay rằng: không nên lo lắng hốt hoảng thế, chả cần đi đâu làm gì, nếu muốn cho chắc ăn, tôi sẽ đưa đi khám với một bác sĩ BVSS, một địa chỉ đáng tin cậy của Dòng Chúa Cứu Thế hẳn hoi. Sau đó, để vợ an tâm hơn, tôi điện thoại ngay cho bác sĩ Nguyễn Lan Hải nhờ chị tư vấn, bật loa điện thoại thật to cho vợ nghe. Quả thực, với chất

28

CÙNG XÁC TÍN

Page 29: Ephata 602

giọng của một bác sĩ đầy tình người, chị đã cho chúng tôi biết chọc dò ối nguy hiểm cho thai nhi thế nào, tỷ lệ Down ra sao, tỷ lệ sai sót trong kết quả xét nghiệm hiện nay, thậm chí nhẹ nhàng tế nhị lưu ý cho chúng tôi biết vì sao bệnh viện Phụ Sản lại yêu cầu chúng tôi chọc dò ối mà thực chất có thể chỉ là vì mối lợi… tiền bạc mà thôi. Cuối cùng chị còn sốt sắng giới thiệu thêm cho tôi địa chỉ các bác sĩ BVSS khác nữa. Thật mang ơn chị vô cùng, nhờ đó, nghe xong điện thoại là vợ tôi thấy bình an hẳn, không còn hốt hoảng lo lắng nữa.

Sau đó, cha Lê Quang Uy cũng gửi mail trấn an chúng tôi, lại còn viện dẫn chính kinh nghiệm bản thân mình đã từng là nạn nhân của máy siêu âm second hand tệ hại như thế nào khi cha phải nằm cấp cứu ở một bệnh viện cấp tỉnh cách đây mấy năm. Cha cũng bảo Hội Chứng Down thường chỉ xảy ra với đôi vợ chồng lớn tuổi có thai lần đầu thôi, chứ trường hợp chúng tôi đã có hai con rồi, đây là đứa thứ ba, làm gì mà còn nguy cơ Down ?!? Cha Uy bảo nếu cứ đúng là bị Down khi lớn tuổi mới mang thai thì bà cụ sinh ra cha Uy là người con thứ bảy lúc bà đã 44 tuổi, ắt cha phải bị Down 100% rồi chứ ! Cuối cùng để trấn an chúng tôi, cha viết ngắn gọn thế này: chả cần phải đi bác sĩ nào cả, cứ theo sát Bác Sĩ Giêsu và bám chắc Y Tá Maria là quá đủ rồi !

Chuyện thì nóng hổi thế nhưng nội dung lại cũ mèm, chắc chẳng có gì hấp dẫn độc giả. Nhưng có mấy điều cần nói ra thế này. Cũng cần lược lại diễn biến tâm lý của người trong cuộc, rất mong sau này chúng ta sẽ thông cảm hơn với những người mẹ đã phá thai hay đang có ý định phá thai.

Tôi đã có gần 8 năm viết nhiều bài về BVSS, thực tế cũng gặp rất nhiều các trường hợp bác sĩ phán thế này thế nọ nhưng kết quả hoàn toàn khác, chứng kiến nhiều cái chết rất oan uổng của thai nhi do phán xét ác ý của bác sĩ, đã từng gặp gỡ nhiều nhân chứng sống động về BVSS. Thế nên việc phá thai theo lời xúi giục của bác sĩ thì không bao giờ dám nghĩ đến rồi. Tôi đã viết rất mạnh và quyết tâm cũng rất mạnh, thế nhưng ấy là chuyện của người ta, còn lần này, bây giờ, mọi sự như thể đổ ụp xuống cả gia đình chúng tôi không khác gì một thách đố sinh tử !

Thấy cái cách hốt hoảng của chính bà xã mình sau khi nghe điện thoại của vị bác sĩ xét nghiệm, thấy cái cách lo âu rồi rấm rứt khóc cả mấy đêm liền của một người đàn bà ngay trong gia đình mình, mới biết rằng quyền lực từ lời tư vấn của một bác sĩ nó mạnh mẽ thế nào, nó tác động kinh khủng đến người mẹ ra sao, nó đem lại biết bao âu lo, sợ hãi cho cả gia đình nhà người ta như thế nào.

Ngay chính bản thân tôi, trấn an vợ là một lẽ, nhưng đêm đầu tiên thấy lòng cũng có chút hoang mang dao động, cũng lo lắng trăn trở, và cả sợ hãi nữa. Nguyện kinh mấy lần mới thấy lòng mình tạm lắng xuống. Tôi nói với bà xã rằng: "Thôi em ạ, cứ an tâm theo Thánh ý Chúa, dẫu thế nào đi nữa, đứa bé này sẽ là một nhân chứng sống động về BVSS cho Chúa thì tốt đẹp biết bao !" Sau đó được thêm lời tư vấn và phân giải của các sĩ Lan Hải và của cha Quang Uy, chúng tôi không còn lo lắng nữa.

Với thử thách lần này, tôi cảm thấy mình được Chúa thương nhiều hơn, trước đây, vợ tôi cũng rất bàng quan với chuyện làm BVSS của chồng, nay phải công nhận sự khác biệt giữa các "bác sĩ sự chết" khác xa với lương tâm trách nhiệm của các bác sĩ BVSS thế nào. Cảm nhận ra điều ấy, tôi lại thấy vui hơn, từ lâu rồi, tôi vẫn mong mỏi cả nhà nhà mình cùng hoạt động BVSS. Chắc chắn rằng, sau biến cố này, đều ấy sẽ trở thành sự thật, được vậy thì tốt đẹp biết bao !

Giờ bình tâm suy nghĩ lại, ngồi viết những dòng bộc bạch này, tôi mới thấy rất nhiều những bà mẹ khác cùng với chồng của mình, không có được cái may mắn như mình là từng biết đến BVSS, khi nghe lời tư vấn của các bác sĩ thiếu lương tâm và trình độ yếu kém thì còn hốt hoảng kinh hoàng ra sao. Nhớ lại cái cách bác sĩ xét nghiệm nói chuyện gây xốc và đầy những lời quát mắng hăm dọa như thế mới hiểu con người ta lắm kẻ thật là ác độc, làm cho thai phụ hoang mang lo sợ, và như thế ảnh hưởng rất nhiều đến sự phát triển của thai nhi.

Trong thực tế, nhiều đôi vợ chồng nghe tư vấn như thế đã nhắm mắt đưa chân, liều mạng mang mạng sống con mình để thế chấp cho tội ác của các bác sĩ vô lương này. Chắn chắn rằng họ sẽ đau khổ lắm, dằn vặt lắm, và sẽ hối hận dằn vặt vô cùng nếu như họ biết được sự thật mình đã bị lừa phải phá thai. Họ thật đáng thương hơn đáng trách.

Trời ơi, lương tâm các bác sĩ bây giờ ở đâu hết rồi trước mãnh lực của đồng tiền, của danh vọng, họ có thể lạnh lùng phán hết điều nọ đến điều kia chỉ với một mục đích là sát hại các thai nhi, đạt chỉ tiêu của chính sách, lại thu được lợi nhuận rất cao và nhanh chóng, đặc biệt là đối với các cặp vợ chồng đã hơi lớn tuổi hoặc các cặp vợ chồng sinh con thứ ba trở lên. Họ lợi dụng sự độc tôn độc quyền

29

Page 30: Ephata 602

trong chuyên môn để làm điều ấy mà không cần biết đến tính mạng người khác ra sao. Ôi, con người sao ngày càng lắm tội ác thế này !

Để đối phó với các "bác sĩ sự chết" này, đúng như lời chúng tôi đã được tư vấn, chỉ Bác Sĩ Giêsu và Y Tá Maria là quá đủ rồi, chẳng phải chạy đi đâu cả, cứ yên tâm nuôi dưỡng thai nhi trong tâm tình phó thác, cứ đón nhận và yêu thương con cái là quà tặng của Thiên Chúa, tất cả sẽ giúp cho lòng ta thanh thản nhẹ nhàng, chẳng còn có gì phải lăn tăn suy nghĩ !

Đaminh PHAN VĂN DŨNG, Biên Hòa, ngày 14.3.2014

PHÉP LÀNH TÂY NGUYÊNChuyến đi miền Bắc vừa qua chủ yếu là công việc, lần này đến ba tỉnh Tây Nguyên là những

cuộc viếng thăm, hành hương và đôi chút nghỉ ngơi. Chặng đầu Saigon – Buôn Ma Thuột thăm một khách hàng cũ có ba con đi du học Úc, mỗi năm chi phí cho các cháu cả 100 ngàn USD. Từ khách hàng trở thành bạn, khi anh sa cơ mất hết sự nghiệp lẫn gia đình, giao mọi thứ cho người vợ, anh đã phải bỏ phố lên núi tay không, đến Buôn Ma Thuột tìm sống bằng ngón đàn guitare ngày cũ. Khi gia đình, bạn bè ruồng bỏ, anh tìm đến tôi, nơi cuối cùng anh không bị xa lánh.

Buôn Ma Thuột cũng là nơi hơn 10 năm trước, tôi đã đến thăm nhà nuôi trẻ khuyết tật của các sơ Saint Paul de Chartres, lúc đó mới được nhà nước cho phép giới hạn lập nhà chăm sóc trẻ. Sau đó, các sơ đã giao tôi một cháu gái bẩm sinh không có hậu môn, cháu đã được giải phẫu và làm liệu pháp thành công tại Bệnh Viện Nhi Đồng 2 Sàigòn. Tôi có nhiều duyên phận với các sơ Saint Paul de Chartres từ Buôn Ma Thuột đến nhà trẻ mồ côi ở Đà Nẵng, rồi cả ở Úc, khi tôi đại diện một trường quốc tế của các sơ gốc Tỉnh Dòng Hongkong ở gần Sydney.

Đi thăm anh ở Buôn Ma Thuột tôi mang theo sự bùi ngùi thương cảm, ưu tư cho đời sống anh, thấm thoát đã hơn hai năm từ ngày anh mất tất cả, phải nương tựa một người quen ở đó, mỗi tuần vài đêm chơi nhạc cho một phòng trà cà phê tỉnh lẻ để kiếm sống. Không ngờ khi đón tôi ở phi trường, anh hồng hào, đầy đặn và tươi vui gấp bội ngày cũ, chỉ có mái tóc chớm vào tuổi sáu mươi đã thưa thớt phía trước và để dài hơn phía sau. Hai năm lăn lóc từ quán này sang quán khác với cây guitare mỗi tuần chỉ kiếm được vài ba trăm ngàn đồng, cộng vào tiền lương hưu bộ đội giới hạn, anh vẫn vui sống trong căn nhà trọ nhỏ ở ngoại thành.

Từ một ông chủ chễm chệ trên xe hơi, hai năm qua anh không có được chiếc xe gắn máy, đi làm phải dùng xe ôm, trong nhà cũng không tivi, mùa đông không nước nóng, chỉ một chiếc bếp ga nhỏ loại các nhà hàng hay dùng nấu lẩu tại bàn cho khách dùng để tự nấu nướng, nhưng căn phòng khách nhỏ của anh sáng lên trang trọng hai tấm hình Chúa Cứu Thế không có khung chỉ được dán trên tường, nơi đây anh cũng đôi khi kèm dạy guitare cho các em học sinh. Anh từ một người bỏ Đạo suốt hơn 20 năm đi bộ đội, nay thường xuyên tham gia ca đoàn Giáo Xứ địa phương và giữ đạo nghiêm cẩn.

Chính anh đã cho tôi niềm vui thật lớn từ sự an nhiên và Đức Tin phó thác mạnh mẽ nơi anh, những mất mát lớn lao đã không đánh gục anh mà chỉ giúp anh tìm ra được nguyên do của đau khổ và những thiếu sót của chính mình. Đức Tin đó đã sưởi ấm anh trong cô quạnh và thiếu thốn, tuyệt đối anh không hề có chút cay đắng, mặc cảm nào. Các con anh từ Úc về, đã đến Buôn Ma Thuột thăm anh dịp Tết. Các bạn bất kể nghèo giầu của anh, tiếp đón tôi rất niềm nở, cùng nhau vui hát tại phòng trà anh làm việc. Ngày hôm sau, Lễ Tro tôi vẫn giữ chay, nhưng xin Chúa cho anh em tôi được dùng bữa tối đoàn tụ với các món chay tôm cá thịnh soạn hơn thường lệ, thưa với Chúa tôi có thể tìm gặp Ngài mỗi ngày trong kinh nguyện nhưng bạn tôi đã xa cách đến hai năm và sẽ còn lâu mới gặp lại, vì thế dù ăn chay không thịt chúng tôi thêm vào mấy lon bia cho đêm Tây Nguyên bớt lạnh.

Hai đêm, ba ngày ở Buôn Ma Thuột, anh đã cho tôi sự an nhiên khó tìm thấy trong đời sống thị thành. Hai anh em lang thang trên phố xá chắc chỉ bằng một quận lớn của Sàigòn, rồi rong ruổi cưỡi xe máy cả mấy chục cây số đi đến một thác nước chỉ để thấy tấm bảng: “Thác tạm nghỉ không mở cửa”. Đầu tóc đỏ bụi, lưng mỏi nhừ mà vẫn nhìn nhau cười vui. Loanh quanh như thế mà vui, không nói chuyện chính trị, kinh tế, triết lý, hiểu rằng tìm gặp nhau là sự chia sẻ bình đẳng quý báu cho cả hai.

30

CÙNG CHIA SẺ

Page 31: Ephata 602

Rời Buôn Ma Thuột từ sáng sớm bằng xe đò, qua 200 cây số đến Pleiku, bốn giờ căng thẳng ngồi ghế trước bên tài xế lái xe lao vùn vụt giữa đồi dốc, ổ gà tung bụi mịt mù và xuôi ngược xe cộ đủ loại. Bỏ lại phố núi gió nhẹ mêng mang, sương rừng lành lạnh buổi sớm tối mà ngày thì tràn ngập nắng hạ, thành phố thủ phủ Tây Nguyên mỗi góc đường là một quán cà phê với những ly nhỏ xíu mà đậm quánh. Xứ Tây Nguyên thời bình không còn nét buồn muôn thuở của mây ngàn gió bụi thời chiến chinh mà giờ đây chỉ là phố núi thật bình yên êm ả. Loáng thoáng trở về trong tâm tưởng hình ảnh cuộc di tản khủng khiếp trên Quốc Lộ 13, dòng người bỏ Tây Nguyên xuôi về Nha Trang, như lần tôi tham dự cuộc di tản trên Quốc Lộ Kinh Hoàng Quảng Trị năm 1972.

Tôi hỏi anh sống một mình có buồn không ? Anh nói cũng có vài chị cảm thông cảnh ngộ, có tình cảm với anh, nhưng anh bằng lòng với sự an bình đạm bạc hiện tại, chuyện tương lai xin giao cho Chúa. Trả lại anh cho Buôn Ma Thuột những đêm réo rắt tiếng guitare buồn khi sương đêm rơi trên phố núi. Cầu chúc anh luôn mãi an bình để được chia với anh "Phép Lành Tây Nguyên" đó.

NGUYỄN TRỌNG TƯỜNG

CHƯƠNG TRÌNH NHỊP CẦU BÁC ÁI PHANXICÔTRỢ GIÚP LẦN HAI CHO ÔNG GIUSE VÕ ĐỨC HÀO Ở SÀI GÒN, BỊ NHIỄM TRÙNG MÁU

Cô Isave Nguyễn Thị Nỡ, cộng tác viên Trung Tâm Mục Vụ DCCT, giới thiệu ông GIUSE VÕ ĐỨC HÀO, sinh 1947, ngụ tại 61/24/6 đường số 2, P. Bình Hưng Hoà, Q. Bình Tân, Sàigòn. Ông Hào có 4 người con, 3 người đã lập gia đình ở xa, cuộc sống khó khăn, hiện tại ông đang sống với con trai út. Ông Hào bị nhiễm trùng máu, sức khoẻ yếu nên gần 10 năm nay ông không làm gì được, phải sống nhờ người con út. Ngày 3.2.2014, ông phải nhập viện, chi phí hết gần 10 triệu đồng, chưa tính tiền mua máu ở ngoài, gia đình không có tiền để điều

trị nên xin bác sĩ cho về. đến ngày 12.2.2014, ông lại phải nhập viện cấp cứu, lần này bác sĩ không cho về, nên gia đình phải chạy vay khắp nơi để mượn tiền lo cho ông. Chúng tôi xin trợ giúp 5.000.000 VND, số tiền được trích từ Chương Trình Nhịp Cầu Bác Ái Phanxicô ( có 1 biên lai ).

TRỢ GIÚP EM ANÊ TRẦN THỊ DIỄM LY Ở KHÁNH HOÀ, BỊ U TRUNG THẤT

Lm. Phaolô Trương Đức Thắng, Giáo Xứ Vinh Trang, Giáo Phận Nha Trang, giới thiệu em Anê TRẦN THỊ DIỄM LY, sinh 1992, ngụ tại đội 1, khu 5, thôn Vĩnh Trung, Xã Cam An Bắc, huyện Cam Lâm, tỉnh Khánh Hoà. Gia đình làm nông nuôi 4 người con. Bản thân em Ly tốt nghiệp kế toán nhưng lại làm tiếp thị sữa tại Nha Trang. Em Ly bị u trung thất từ nhỏ, nhưng gần đây mới phát hiện, do cục u lớn nên em được chuyển từ Bệnh Viện 87 ở Nha Trang vào Bệnh Viện Chợ Rẫy, Sàigòn, để tiếp tục điều trị. Chúng tôi xin trợ giúp 5.000.000 VND, số tiền được trích từ Chương Trình Nhịp Cầu Bác Ái Phanxicô ( có 1 biên lai ).

451. HOÀN TẤT QUỸ MẸ HẰNG CỨU GIÚP ĐIỀU TRỊ CHẤN THƯƠNG SỌ NÃO

CHO EM PHẠM ANH BẢO CƯỜNG Ở KONTUMLm. Aloisio Nguyễn Hùng Vị, Giáo Xứ Phương Nghĩa, Giáo Phận Kon Tum, giới thiệu em

Calisto PHẠM ANH BẢO CƯỜNG, sinh 1993, ngụ tại số 72 Lê Lợi, P. Quyết Thắng, TP. Kon Tum, con ông PX. Phạm Anh Tuấn, 42 tuổi, làm nghề rửa xe và bà Lucia Trần Thị Tịnh Tâm, 41 tuổi, giáo viên Mầm Non, gia đình thuộc hộ nghèo, có hai con, nuôi thêm bà mẹ già 90 tuổi bị tai biến mạch máu não.

Trong ngày 29 Tết vừa qua, em Bảo Cường đang phụ ba rửa xe cho khách, thì bị tai nạn, một chiếc xe nhỏ de vào chỗ rửa xe đã vô ý đụng vào em rất mạnh, em bị ngã đầu đập vào thành ximăng của cầu rửa xe gây chấn thương sọ não, máu ra nhiều, hôn mê hoàn toàn. Cháu được đưa vào cấp cứu tại Bệnh Viện 211 của Quân Đội. Em đã được các bác sĩ mở hộp sọ, hút máu bầm và điều trị

31

CÙNG TƯƠNG TRỢ

Page 32: Ephata 602

tích cực. Chi phí chung đến nay là 30 triệu đồng, Quỹ Caritas Giáo Xứ chỉ giúp 2 triệu đồng, gia đình vay mượn khắp nơi được thêm 13 triệu đồng. Như vậy vẫn con thiếu 15 triệu đồng nữa.

Ngày 5.3.2014, chúng tôi xin mở Quỹ Trợ Giúp điều trị chấn thương sọ não cho em Phạm Anh Bảo Cường với số tiền là 15.000.000 VND. Mọi liên hệ trợ giúp xin gửi về cho Lm. Lê Quang Uy, TTMV DCCT, 38 Kỳ Đồng, P. 9, Q. 3, Sàigòn. Email: [email protected]

Danh sách các ân nhân gần xa:

Chuyển từ Quỹ giúp em Xuân Quang: 550.000 VNDHội Bác Ái Phanxicô ( Hoa Kỳ ): 4.000.000 VNDGia đình anh Tân ( Hoa Kỳ ): 2.200.000 VNDCô Liêu Nguyễn Thuý Thu Thảo ( Sàigòn ): 1.000.000 VNDÔng Phạm Công Danh ( Sàigòn ): 1.000.000 VNDCụ Phạm Phi Hoành, Thủ Đức ( Sàigòn ): 2.000.000 VNDCô Vũ Thị Phương Thuý ( Hoa Kỳ ): 2.000.000 VNDÂn nhân ghi là Van Vu ( Hoa Kỳ ): 100 USD

Tổng kết đến 17g10 chiều thứ sáu 7.3.2014: 13.250.000 VND + 100 USD = 15.350.000 VND

Như vậy sau 3 ngày quyên góp, chúng ta đã có được 15 triệu đồng giúp em Phạm Anh Bảo Cường. Số tiền 350.000 VND dôi ra xin chuyển cho trường hợp ngặt nghèo kế tiếp. Xin tạ ơn Chúa, biết ơn Mẹ và cám ơn quý ân nhân gần xa.  

449. HOÀN TẤT QUỸ MẸ HẰNG GIÚP ĐIỀU TRỊ XUẤT HUYẾT NÃO

CHO ANH ĐẶNG ĐÌNH TOAN Ở HÀ TÂYLm. Giuse Lê Quang Uy, DCCT, giới thiệu anh Giuse ĐẶNG ĐÌNH TOAN, sinh năm 1970, hiện

ngụ tại thôn Đại Ơn, xã Ngọc Hòa, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây, nay là thành phố Hà Nội 2, thuộc Giáo Xứ Đại Ơn, Giáo Phận Hà Nội. Anh Toan làm ruộng và mổ lợn ở chợ quê, có vợ và bốn con nhỏ, con nhỏ nhất mới một tuổi.

Sau Tết 2014, anh Toan bị chứng xuất huyết não, phải đưa đi cấp cứu ở Bệnh Viện Bạch Mai, Hà Nội, sau đó vì quá nguy cấp, phải chuyển vào Bệnh Viện Việt-Pháp, Hà Nội, để được mổ não ngay. Sau khi mổ đến nay anh bị liệt tứ chi, toàn thân bất toại, không nói được, ăn uống phải có người giúp, còn phải tiếp tục điều trị lâu dài rất tốn kém. Chi phí cho ca mổ cộng với tiền thuốc đến nay đã hết 150 triệu đồng, gia đình đã phải vay mượn số tiền 70 triệu đồng, vẫn còn phải khất nợ rất nhiều.

Ngày 7.3.2014, chúng tôi xin mở Quỹ Trợ Giúp điều trị xuất huyết não cho anh Đặng Đình Toan với số tiền là 35.000.000 VND. Mọi liên hệ trợ giúp xin gửi về cho Lm. Lê Quang Uy, Trung Tâm Mục Vụ DCCT, 38 Kỳ Đồng, P. 9, Q. 3, Sàigòn. Email: [email protected]

Danh sách các ân nhân gần xa:

Chuyển từ Quỹ giúp em Bảo Cường ( Kontum ): 350.000 VNDHội Bác Ái Phanxicô ( Hoa Kỳ ): 4.000.000 VND Ân nhân ghi là Van Vu ( Hoa Kỳ ): 200 USDHoàng Thạch – Bội Cơ, Agape 33 ( Sàigòn ): 6.000.000 VNDCô Lã Thị Kim Loan ( Hoa Kỳ ): 5.000.000 VNDBà Đỗ Thị Tâm, Legio Cali ( Hoa Kỳ ): 2.000.000 VNDMột ân nhân ở Gx. Tân Việt ( Sàigòn ): 3.000.000 VNDCô Hồ Mỹ Linh ( Sàigòn ): 500.000 VNDCác ân nhân đi Lễ Xa Quê DCCT ( Sàigòn ): 1.650.000 VNDMột ân nhân ở Gx. Thánh Khang ( Sàigòn ): 500.000 VNDAnh Khang ( Hoa Kỳ ): 100 USDCác bạn Nhóm Fiat ( các tỉnh ): 800.000 VNDAnh Võ Văn Bình, Gx. An Phú ( Sàigòn ): 1.000.000 VNDCụ Nhời, Nhà Bếp DCCT ( Sàigòn ): 500.000 VNDCô Đinh Ngọc Quỳnh Nga, Q. 3 ( Sàigòn ): 1.500.000 VNDTrích chia sẻ của ông bà Khanh – Nhung ( Hoa Kỳ ): 2.000.000 VNDAnh Ngô Văn Quảng ( Sàigòn ): 500.000 VND

Tổng kết đến 18g chiều thứ ba 11.3.2014: 28.800.000 VND + 300 USD = 35.950.000 VND

32

Page 33: Ephata 602

Như vậy sau 5 ngày quyên góp, chúng ta đã có được 35 triệu đồng giúp anh Đặng Đình Toan. Số tiền 950.000 VND dôi ra xin chuyển cho trường hợp ngặt nghèo kế tiếp là em Nguyễn Văn Cường ở Vĩnh Phúc. Xin tạ ơn Chúa, biết ơn Mẹ và cám ơn quý ân nhân gần xa.  

448. ĐANG QUYÊN GÓP QUỸ MẸ HẰNG CỨU GIÚP ĐIỀU TRỊ U NÃO CHO EM NGUYỄN VĂN CƯỜNG Ở VĨNH PHÚC

Nữ Tu Anna Nguyễn Thị Hạnh, Dòng Đa Minh Bắc Ninh, giới thiệu em Phêrô NGUYỄN VĂN CƯỜNG, sinh năm 1987, là một trong 4 người con của vợ chồng bà Anna Nguyễn Thị Nguyên, làm ruộng, hiện ngụ tại xã Tam Hợp, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc, thuộc Giáo Xứ Hữu Bằng, Giáo Phận Bắc Ninh, điện thoại: 0983.727.290. Trong nhà, người cha mắc chứng mỡ đông trong máu, một em gái mắc bệnh tâm thần phân lập, hoàn cảnh gia đình hết sức khó khăn.

Em Cường đang tìm hiểu ơn gọi đi tu, khi khám sức khỏe để gia nhập cộng đoàn thì phát hiện bị u não, đưa về phẫu thuật cắt khối u ở Bệnh Viện Hà Nội. vì em Cường thiếu nhiều máu, sức khỏe quá yếu. gia đình chưa lo được bảo hiểm y tế nên tiền trả các xét nghiệm, chi phí ca mổ rất tốn kém, cộng thêm viện phí lên đến hơn 50 triệu đồng. Cha giáo trong cộng đoàn tu cùng với anh em họ hàng chỉ giúp được 10 triệu đồng, phần còn lại gia đình phải đi vay nóng mới thanh toán được đợt một. Hiện nay, em Cường đã xin chuyển về Bệnh viện Đa Khoa Phúc Yên để tiếp tục điều trị đợt hai, và gia đình rơi vào tình trạng sức cùng lực kiệt khi phải vay nóng thêm 30 triệu đồng nữa, tổng cộng món nợ phải trả là 70 triệu đồng.

Ngày 11.3.2014, chúng tôi xin mở Quỹ Trợ Giúp điều trị chứng u não cho em Nguyễn Văn Cường với số tiền là 35.000.000 VND. Mọi liên hệ trợ giúp xin gửi về cho Lm. Lê Quang Uy, Trung Tâm Mục Vụ DCCT, 38 Kỳ Đồng, P. 9, Q. 3, Sàigòn. Email: [email protected]

Danh sách các ân nhân gần xa:

Chuyển từ Quỹ giúp anh Đặng Đình Toan: 950.000 VNDHội Bác Ái Phanxicô ( Hoa Kỳ ): 4.000.000 VNDTrích chia sẻ của ông bà Khanh – Nhung ( Hoa Kỳ ): 3.000.000 VNDGia đình hai bé Nho – Na ( Sàigòn ): 1.500.000 VNDMột chị ẩn danh ( Sàigòn ): 1.000.000 VNDAnh chị Hách – Phương ( Sàigòn ): 500.000 VNDChị Maria Mỹ Lệ ( Sàigòn ): 100.000 VNDCác ân nhân Xóm 3, Giáo Xứ ĐMHCG ( Sàigòn ): 1.000.000 VNDGia đình bạn Fiat Ngọc Thạch ( Đồng Nai ): 150.000 VNDCô Phuong To ( Hoa Kỳ ): 100 USDAnh Nguyễn Văn Phương, Q. Bình Thạnh ( Sàigòn ): 500.000 VNDGia đình bé Hiếu Hiền ( Sàigòn ): 100.000 VNDMột gia đình ( Phú Yên ): 500.000 VNDCô Chung, Giáo Xứ Tân Phú ( Sàigòn ): 100 CADGia đình bé Phương Hải ( Sàigòn ): 200.000 VNDCô Hồ Mỹ Linh ( Sàigòn ): 500.000 VNDMột Giáo Dân Thừa Sai DCCT ( Canada ): 100 CADHai người dự Lễ Xa Quê DCCT ( Sàigòn ): 800.000 VNDCa đoàn lễ Xa Quê DCCT ( Sàigòn ): 1.500.000 VNDCô Hoàng Mai ( Sàigòn ): 2.000.000 VND

Sơ kết đến 21g30 tối Chúa Nhật 16.3.2014: 18.500.000 VND + 100 USD + 200 CAD

33