Ephata 627

40
E-mail: [email protected] Website: www.trungtammucvudcct.com RANH GIỚI MỎNG MANH CỦA LƯƠNG TÂM… Gần đây, chúng tôi nhận thấy có nhiều phòng khám, nhiều bệnh viện tư ( có cả một bệnh viện ngay tại Sàigòn, do một nhóm người Công Giáo điều hành và đầu tư vốn, lấy danh hiệu của Mẹ Maria ) bắt đầu có thêm dịch vụ phá thai công khai, niêm yết rõ ràng giá cả rất chi tiết trong từng phương cách phá thai rất sớm hay rất muộn. Đáng sợ hơn nữa, các địa chỉ Y Tế ấy bắt đầu nghe ngóng, tìm kiếm về phía các Giáo Xứ, các Dòng Tu Công Giáo, các Nhà Chùa Phật Giáo, rồi cử người đến "thương thuyết", đề nghị "cộng tác" để cả… ba bên đều có lợi ! Các "tay thuyết khách" thường được chọn là phụ nữ đứng tuổi, là y sĩ lâu năm, ăn nói giỏi, biết cách viện dẫn khéo léo những khía cạnh nhạy cảm, rào trước đón sau một hồi rất thân thiện cởi mở, rồi sau đó vào đề, nhẹ nhàng trình bày chi tiết về một… "gói dịch vụ phá thai" có đầy đủ các yếu tố cần thiết để phá thai… an toàn, thuận tiện, kín đáo và trọn vẹn. Các phần vụ phía phòng khám và bệnh viện thì họ bảo đảm các mặt liên quan đến y khoa, còn bên Nhà Thờ ( hoặc Nhà Chùa ) hoặc Nhà Dòng đảm nhận phần vụ cuối cùng là… lo hậu sự tâm linh cho các thai nhi. Có thể nói cái bẫy họ giăng ra rất tinh vi, đó là tính nhân đạo. Họ nói đại để như sau: "Thật ra những người làm nghề y chúng tôi cũng thấy phá thai là không tốt, cũng xót xa vì mức độ phá thai ngày càng tăng. Tuy nhiên xét về khía cạnh của lòng nhân ái, chúng tôi cảm thông với những hoàn cảnh không thể khác được, phải chọn giải pháp chấm dứt thai kỳ. Thôi thì… thay vì để chị em phụ nữ đáng thương có thể phải trả giá quá đắt, hiểu theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, thậm chí mất mạng, khi rơi vào tay những thứ lang băm phá thai chui lủi trong những địa chỉ bất hợp pháp, phòng khám ( hoặc bệnh viện ) chúng tôi thấy cần phải mở ra dịch vụ nhân đạo này, hỗ trợ hết mình và mọi mặt cho chị em trong việc khắc phục hậu quả đáng tiếc, hoặc vỡ kế hoạch, ngoài ý muốn… Chúng tôi được biết là bên Nhà Thờ ( hoặc Nhà Chùa ) lâu nay cũng đã vì nhân đạo, đứng ra lo hậu sự, tiếp nhận và an táng các thai nhi rất ân cần chu đáo, lại đảm nhận luôn các dịch vụ cầu siêu cho các bé và cầu an cho người mẹ, người cha của bé cũng như gia đình họ. Vậy, chúng tôi muốn xin đề nghị với bên Nhà Thờ ( hoặc Nhà Chùa ) cùng cộng tác với bên chúng tôi chặt chẽ hơn nữa, chúng ta gộp chung thành một "gói dịch vụ" có dây chuyền kín kẽ, vừa không để cho kẻ xấu lợi dụng, vừa đáp ứng các mặt thể lý, tâm lý và 1 NĂM THỨ 15 – SỐ 627 – CHÚA NHẬT

Transcript of Ephata 627

Page 1: Ephata 627

E-mail: [email protected] Website: www.trungtammucvudcct.com

RANH GIỚI MỎNG MANH CỦA LƯƠNG TÂM…Gần đây, chúng tôi nhận thấy có nhiều phòng khám, nhiều bệnh viện tư ( có cả một bệnh viện

ngay tại Sàigòn, do một nhóm người Công Giáo điều hành và đầu tư vốn, lấy danh hiệu của Mẹ Maria ) bắt đầu có thêm dịch vụ phá thai công khai, niêm yết rõ ràng giá cả rất chi tiết trong từng phương cách phá thai rất sớm hay rất muộn. Đáng sợ hơn nữa, các địa chỉ Y Tế ấy bắt đầu nghe ngóng, tìm kiếm về phía các Giáo Xứ, các Dòng Tu Công Giáo, các Nhà Chùa Phật Giáo, rồi cử người đến "thương thuyết", đề nghị "cộng tác" để cả… ba bên đều có lợi !

Các "tay thuyết khách" thường được chọn là phụ nữ đứng tuổi, là y sĩ lâu năm, ăn nói giỏi, biết cách viện dẫn khéo léo những khía cạnh nhạy cảm, rào trước đón sau một hồi rất thân thiện cởi mở, rồi sau đó vào đề, nhẹ nhàng trình bày chi tiết về một… "gói dịch vụ phá thai" có đầy đủ các yếu tố cần thiết để phá thai… an toàn, thuận tiện, kín đáo và trọn vẹn. Các phần vụ phía phòng khám và bệnh viện thì họ bảo đảm các mặt liên quan đến y khoa, còn bên Nhà Thờ ( hoặc Nhà Chùa ) hoặc Nhà Dòng đảm nhận phần vụ cuối cùng là… lo hậu sự tâm linh cho các thai nhi.

Có thể nói cái bẫy họ giăng ra rất tinh vi, đó là tính nhân đạo. Họ nói đại để như sau:

"Thật ra những người làm nghề y chúng tôi cũng thấy phá thai là không tốt, cũng xót xa vì mức độ phá thai ngày càng tăng. Tuy nhiên xét về khía cạnh của lòng nhân ái, chúng tôi cảm thông với những hoàn cảnh không thể khác được, phải chọn giải pháp chấm dứt thai kỳ. Thôi thì… thay vì để chị em phụ nữ đáng thương có thể phải trả giá quá đắt, hiểu theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, thậm chí mất mạng, khi rơi vào tay những thứ lang băm phá thai chui lủi trong những địa chỉ bất hợp pháp, phòng khám ( hoặc bệnh viện ) chúng tôi thấy cần phải mở ra dịch vụ nhân đạo này, hỗ trợ hết mình và mọi mặt cho chị em trong việc khắc phục hậu quả đáng tiếc, hoặc vỡ kế hoạch, ngoài ý muốn…

Chúng tôi được biết là bên Nhà Thờ ( hoặc Nhà Chùa ) lâu nay cũng đã vì nhân đạo, đứng ra lo hậu sự, tiếp nhận và an táng các thai nhi rất ân cần chu đáo, lại đảm nhận luôn các dịch vụ cầu siêu cho các bé và cầu an cho người mẹ, người cha của bé cũng như gia đình họ. Vậy, chúng tôi muốn xin đề nghị với bên Nhà Thờ ( hoặc Nhà Chùa ) cùng cộng tác với bên chúng tôi chặt chẽ hơn nữa, chúng ta gộp chung thành một "gói dịch vụ" có dây chuyền kín kẽ, vừa không để cho kẻ xấu lợi dụng, vừa đáp ứng các mặt thể lý, tâm lý và tâm linh cho chị em phụ nữ và gia đình của họ. Các khoản chi phí liên quan đến việc lo hậu sự, bên Nhà Thờ ( hoặc Nhà Chùa ) có thể đưa ra ở mức độ hợp lý, chúng tôi sẽ đặt chung trong tổng chi phí một ca phải xử lý, sau khi khách hàng thanh toán khi ra

viện, chúng tôi sẽ lại chuyển qua tài khoản của Nhà Thờ ( hoặc Nhà Chùa )…

Chúng tôi rất mong quý Linh Mục, Tu Sĩ ( hoặc quý Sư, Thầy ) hiểu tất cả những đề nghị này hoàn toàn dựa trên tính nhân đạo thiêng liêng, của tình người với nhau giữa lúc các tệ nạn xã hội ngày một tăng cao. Chúng ta không thể từ chối không đưa tay cứu giúp những hoàn cảnh đáng thương. Việc phối hợp cộng tác của đôi bên chúng ta lúc này là hết sức khẩn trương và cần thiết. Kính mong quý vị nghiên cứu và chấp thuận, bước kế tiếp chúng ta sẽ bàn đến các khoản mục cụ thể có liên quan như tài chánh, nhân sự, phương thức cùng các quy định hợp đồng chi tiết khác…"

Ở trên chúng tôi có nêu lập luận của họ là việc cộng tác chặt chẽ này sẽ có lợi cho cả… ba bên, nghe phần trình bày của họ xong, chúng tôi mới hiểu tại sao lại bảo là "ba bên đều có lợi": bên người đi

1

NĂM THỨ 15 – SỐ 627 – CHÚA NHẬT 28.9.2014

Page 2: Ephata 627

phá thai, bên phá thai, và bên lo liệu chuyện hậu phá thai. Đúng thật là một "gói dịch vụ" chặt chẽ, kín kẽ và đầy lý lẽ nhân đạo ! Họ chỉ quên mất một điều quan trọng là chính thai nhi là phải gánh chịu thiệt thòi vô cùng, các bé không còn được quyền sống, không còn được cơ hội sinh ra đời như mọi người !

Chúng tôi nghe biết ở một vài nơi, sau khi họ lịch sự cáo từ ra về và hẹn sẽ trở lại sau để biết kết quả, thì phía bên Nhà Thờ ( hoặc Nhà Chùa ) một vài nơi, nội bộ có nổ ra tranh cãi về chuyện quyết định có nên nhận cộng tác với người ta hay không ! Bên chủ trương cộng tác thì mừng thấy rõ, vì từ nay sẽ có thêm "nguồn" thu gom xác thai nhi đem về cho mình một cách hợp pháp, lại có thêm các khoản chi phí để bù đắp nữa chứ, của đáng tội, cha với con trong Giáo Xứ lâu nay phải bỏ tiền túi ra lo, con số tính ra nhiều năm liền cũng đâu có nhỏ. Ngược lại, bên kia dứt khoát từ chối, lập luận rằng, làm như thế không khác gì tiếp tay với người ta trong dịch vụ phá thai, tạo ra một sự yên lòng giả tạo cho người muốn phá thai, khuyến khích họ cứ vô tư phá thai đi, đã có bên tín ngưỡng tâm linh lo liệu chu đáo rồi…

Chúng tôi nhớ lại, bản thân đã có lần trả lời thẳng cho những vị "thuyết khách" tương tự: "Chúng tôi không thể vì một việc nghĩa là lo hậu sự cho các thai nhi để rồi nhắm mắt thỏa hiệp, đồng lõa tiếp tay với quý vị trong tội ác phá thai. Xin đừng ngụy biện với các lý lẽ nhân đạo để che đậy cho một việc tàn nhẫn vô nhân đạo. Nếu quý vị đã nêu cao y đức là nhân đạo cứu giúp mọi người bằng chuyên môn y khoa, xin làm ngay một nghĩa cử, một điều nhân đạo tuyệt vời, đó là dứt khoát không có dịch vụ nạo phá thai tại phòng khám ( hoặc bệnh viện ) của quý vị…"

Lại cũng phải nhắc đến một chuyện cảm động xảy ra năm ngoái, 2013. Có một bệnh viện tư ở Bình Dương, sau một thời gian để ý theo dõi, biết rõ là các y công, y tá của mình đã âm thầm kín đáo chuyển các thai nhi mỗi ngày cho những anh chị tình nguyện từ Sàigòn đi mấy chục cây số, về thêm mấy chục cây số nữa để gom xác các cháu về chôn cất, bà bác sĩ giám đốc quyết định bất ngờ gặp trực tiếp một anh mà họ đoán là người đứng đầu nhóm thiện nguyện BVSS Sàigòn, bà ân cần nói: "Chúng tôi thấy các em đã làm một nghĩa cử khiến chúng tôi bị đánh động, phải suy nghĩ lại công việc chúng tôi đã làm từ trước đến giờ. Và hôm nay, chúng tôi xin báo tin là cơ sở của chúng tôi quyết định vì lương tâm, chấm dứt các dịch vụ liên quan đến nạo phá thai, và vì thế các bạn cũng không còn phải vất vả về đây để nhận xác các thai nhi nữa…"

Chiều tối hôm ấy, một buổi chiều mưa tầm tã, anh bạn trẻ nhóm BVSS chạy Honda về đến Sàigòn, vừa vào phòng của chúng tôi đã khóc mếu máo, reo to: "Mừng quá, bố ơi ! Một bệnh viện tư ở Bình Dương đã thôi không nhận phá thai nữa rồi bố ơi… Con mừng không phải vì từ nay mình không phải lặn lội nắng mưa đi lấy xác nữa, nhưng mừng vì cuối cùng… sự sống đã chiến thắng sự chết !"

Hóa ra, trong cuộc đời, ranh giới giữa sự sống và sự chết thật mong manh, nó hết sức mảnh khảnh, chỉ chút xíu nghiêng bên này, một sinh mạng được cứu, chỉ lệch bên kia một ly, tử thần chộp ngay lấy một em bé vô tội. Thế mà người lớn, lại là những người lớn tự hào mình là rất nhân đạo, tự nhận mình luôn giữ được y đức đâu ra đấy, lại có thể ngụy biện nhiều cách để cố gắng lấp liếm, xóa nhòa cái ranh giới tinh tế ấy của lương tâm…

Lm. Giuse QUANG UY, DCCT, thứ năm 25.9.2014

MỤC LỤC TÌM BÀI:RANH GIỚI MỎNG MANH CỦA LƯƠNG TÂM… ( Lm. Quang Uy ) ...................................................... 01SÁM HỐI LÀ KHỞI ĐIỂM ( Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt ) ..................................................................... 03AI ĐÁP LẠI LỜI CHA ? ( AM. Trần Bình An ) .......................................................................................... 04NHỮNG CÔ GÁI ĐIẾM SẼ VÀO NƯỚC THIÊN CHÚA TRƯỚC ( Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ ) ........... 05NÓI VÀ LÀM ( Lm. Giuse Nguyễn Hữu An ) ........................................................................................... 07KHOA HỌC TÌNH YÊU ( Matthew Hanley – Bản dịch của Trầm Thiên Thu ) ......................................... 09DUY THỨC VÀ CẦU NGUYỆN ( Phùng Văn Hóa ) ................................................................................ 10CÔNG GIÁO VÀ TÔNG TRUYỀN ( Bài Giáo Lý của Đức Phanxicô, bản dịch của Cao Tấn Tĩnh ) ....... 13PHONG CÁCH PHANXICÔ – BÀI 21: HAI NGƯỜI MẸ CỦA TA… ( Nguyễn Trung ) ........................... 146 DẤU CHỈ THỜI CÁNH CHUNG – CHÚA GIÁNG LÂM ( Jeff Kinley, bản dịch của Trầm Thiên Thu ) .......... 17NHẬN ĐỊNH VỀ THẢM HỌA "NHÀ NƯỚC HỒI GIÁO" ( Nguyễn Trung ) .............................................. 18BÌNH LUẬN THÔNG ĐIỆP "HÃY RA ĐI" ( Hà Bắc, báo Calitoday ) ....................................................... 185 THÁNH BỔN MẠNG NHỮNG NGƯỜI MẸ ( Trầm Thiên Thu ) ........................................................... 20NGƯỜI PHỤ NỮ QUAN TRỌNG NHẤT TRONG CUỘC ĐỜI CỦA TÔI… ( Trang Le ) ....................... 21ĐẲNG CẤP CỦA MỘT DÂN TỘC ( Dương Hoài Linh ) .......................................................................... 22TÀN NHẪN ( Bs. Đỗ Hồng Ngọc ) ........................................................................................................... 23CẬY TRÔNG ( Thiên Phúc, Tình yêu mạnh hơn sự chết ) ..................................................................... 25ĐẠO VÀ ĐỜI ( Nguyễn Ninh Thuận ) ...................................................................................................... 26NHỊP CẦU BÁC ÁI PHANXICÔ VÀ VÀ QUỸ MẸ HẰNG CỨU GIÚP ( Trung Tâm Mục Vụ DCCT ) ........... 26

2

Page 3: Ephata 627

SÁM HỐI LÀ KHỞI ĐIỂMNói và làm đó là hai thái độ khác nhau. Có người nói mà

không làm. Có người không nói nhưng lại làm. Đó chính là hai thái độ mà Chúa đề cập đến trong bài dụ ngôn hôm nay. Hạng người nói mà không làm đó là những người Pharisêu và Luật Sĩ. Họ tự cho là mình đạo đức, nhưng khi Chúa Giêsu rao giảng, họ không những không tin mà còn phê phán chỉ trích những người tin Chúa, chỉ trích chính Chúa đã đón tiếp người tội lỗi. Hạng người không nói mà lại làm đó là những người thu thuế và những người tội lỗi. Tuy sống tội lỗi, nhưng khi nghe Chúa rao giảng, họ đã ăn năn sám hối và tin vào Chúa.

Qua dụ ngôn này Chúa muốn dạy ta những bài học sau.

Bài học thứ nhất: Việc làm trọng hơn lời nói

Trong đời sống, chúng ta gặp không ít những người nói hay, nói nhiều, nhưng làm chẳng bao nhiêu. Tục ngữ Việt Nam có câu “Mười voi không được bát nước sáo” là thế. Nhưng trái

lại có những người không nói giỏi, có khi không nói gì cả, nhưng lại làm rất nhiều. Nhất thời ta có thể thích những người nói hay. Nhưng sống càng lâu, ta càng mến những người nói ít làm nhiều.

Trong đời sống thiêng liêng cũng thế. Chúa yêu chuộng những người làm việc hơn là những người chỉ biết nói suông. Có lần Chúa đã vạch rõ những giả dối này: “Không phải những ai nói rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời, nhưng là những kẻ làm theo ý Cha Ta trên trời” ( Mt 7, 21 ). Đức Tin phải biểu lộ bằng việc làm mới là Đức Tin sống động. Như Thánh Giacôbê dạy: “Đức Tin không có việc làm là Đức Tin chết” ( Gc 2, 17 ). Tình yêu cũng phải có việc làm. Việc làm minh chứng tình yêu đích thực. Tin yêu Chúa phải được biểu lộ bằng việc làm.

Bài học thứ hai: Con người có thể thay đổi

Con người còn sống ở trần gian là còn thay đổi. Đó là một điều ta phải cảnh giác. Biết đâu ta đang tốt bỗng trở nên xấu. Cũng như các người Pharisêu và Luật Sĩ tự hào mình tốt, nhưng khi Chúa Giêsu đến, họ đã trở nên xấu vì không tin vào Chúa, không hoán cải đời sống. Con người có thể thay đổi. Đó là điều làm cho chúng ta hy vọng. Vì nếu ta tội lỗi yếu hèn, ta vẫn có cơ hội ăn năn trở lại. Ta không bị kết án trong tội lỗi của ta. Chúa còn cho ta có thời giờ trở lại với Chúa. Miễn là ta nhận biết mình và quyết tâm đổi mới cuộc đời.

Bài học thứ ba: Sám hối là việc cần thiết của mọi người

Đã là người ai cũng có sai lầm. Vì con người yếu đuối bất toàn. Chúa không đòi ta phải hoàn hảo, không bao giờ sai lỗi. Nhưng Chúa đòi ta mỗi khi sai lỗi phải biết sám hối ăn năn. Sám hối thật cần thiết vì có sám hối ta mới được Chúa thứ tha. Chúa yêu thương và sẵn sàng tha thứ cho những tâm hồn sám hối như lời Thánh Vịnh: “Một tấm lòng tan nát dày vò, Chúa sẽ chẳng khinh chê” ( Tv 50 ).

Ta hãy xem Chúa Giêsu đã tha thứ cho bà Maria thành Magdala. Nhất là Chúa đã tha thứ cho người trộm lành, để thấy Chúa nhân từ thương xót biết bao. Nhưng Chúa lại chê ghét những tâm hồn kiêu căng cứng cỏi không chịu ăn năn sám hối. Trong Phúc Âm, ta thấy Chúa chỉ mắng nhiếc những người tự xưng mình đạo đức nên kiêu căng khinh miệt người khác và không nghe lời Chúa. Nhưng Chúa luôn nhân từ, khoan dung, tha thứ cho những tội lỗi thật lòng ăn năn.

Sám hối thật cần thiết vì tất cả chúng ta ai cũng có lầm lỗi trước mặt Chúa, cần được Chúa khoan hồng thứ tha. Sám hối thật cần thiết vì đó là khởi điểm để nên tốt, nên thánh thiện. Có sám hối ta mới biết từ bỏ nếp sống cũ. Có sám hối ta mới bắt đầu một nếp sống mới đẹp lòng Chúa.

Như thế, ta đừng chỉ nói suông mà không làm, nhưng hãy biết thực hành điều Chúa dạy. Ta đừng tự hào vì mình tốt lành mà phê bình chỉ trích người khác. Hãy tự xét mình để thấy mình tội lỗi. Và khi biết mình tội lỗi, hãy ăn năn sám hối ngay. Có sám hối ta sẽ được Chúa tha thứ. Có sám hối sẽ được anh chị em yêu thương. Nhất là có sám hối ta mới khởi sự tiến lên trên con đường thánh thiện.

Lạy Chúa xin tha thứ tội con đã phạm đến Chúa và đến anh em. Amen.

Tgm. Giuse NGÔ QUANG KIỆT

3

CÙNG SUY NIỆM

Page 4: Ephata 627

AI ĐÁP LẠI LỜI CHA ?Tháng 7 năm 1951, sau khi lãnh chức phụ Phó Tế, thầy Giuse Đích

Nguyễn Ngọc Oánh được cử đi du học tại Hoa Kỳ. Tiếp tục học Thần Học tại Đại Chủng Viện Saint Meinrad, Indiana, thầy được chịu chức Linh Mục ngày 3.5.1952. Sau đó, cha Giuse Đích Nguyễn Ngọc Oánh, được chuyển đến Đại Học Loyola tại Chicago để học môn Xã Hội Học. Tháng 6 năm 1954, cha tốt nghiệp master về Xã Hội Học. Đang tiếp tục dọn tiến sĩ thì ngài nhận được thư của cha Phêrô Nguyễn Huy Mai chuyển đạt lệnh truyền của Đức Cha Giuse Maria Trịnh Như Khuê như sau: “Xin cha biên thư cho các cha Trương, cha Thông, cha Oánh, báo tin cho các cha ấy biết tôi muốn cho các cha ấy về Bắc. Các cha bỏ đi Nam nhiều, thiếu người làm việc. Tôi muốn mở lại các Chủng Viện. Tôi để tùy ý các cha, nhưng nếu các cha ấy về, thì tôi vui mừng lắm.”

Nhận được thư ấy, ngài lo âu suy nghĩ rất nhiều. Vì đang học dở dang. Vì hoàn cảnh quê nhà đang rối ren và những người thân thiết đều ngăn cản. Nhưng cha Thông nói với ngài: “Bỏ tất cả mà về, thì được Chúa Thánh Thần.” Thế là hai cha cùng nhau quyết định vâng lời Bề Trên trở về Giáo Phận dù rất băn khoăn lo lắng vì biết chắc sẽ gặp nhiều khó khăn.

Tháng 9 năm 1955, về đến nhà, ngài lao ngay vào công việc, vừa làm thư ký cho Đức Cha, vừa dạy học cho Tiểu Chủng Viện Gioan, vừa dạy Giáo Lý cho giới trí thức. Vì lớp Giáo Lý có ảnh hưởng sâu rộng nên chính quyền ra lệnh đình chỉ. Ngài lại lui vào âm thầm, tổ chức đào tạo Giáo Lý Viên trong Tòa Giám Mục. Thấy ảnh hưởng mạnh mẽ của ngài, và vì ngài không ủng hộ Ban Liên Lạc Công Giáo nên chính quyền quyết định bắt ngài cải tạo tại chỗ. Ngày 16.8.1965, ngài bị quản chế tại Chuôn Trung với kỷ luật nghiêm ngặt.

Tuy bị quản chế nghiêm ngặt, hằng ngày phải chịu đựng những thái độ, lời lẽ nghi kỵ, nhục mạ, luôn bị gọi lên thẩm vấn, điều tra, làm kiểm điểm, làm báo cáo liên tục, ngài vẫn luôn vui tươi. Ngài hăng hái làm việc tay chân như cuốc đất trồng rau, đào giếng. Và nhất là dù bị cấm đoán, ngài vẫn dâng Lễ vào lúc 2 giờ sáng để Giáo Dân có thể tham dự Thánh Lễ. Ngài dâng Lễ rất sốt sắng.

Trong suốt 20 năm, ngài thường xuyên liên lạc với Đức Cha Khuê bằng thư từ hoặc nhắn gửi. Đặc biệt trong những ngày lễ ngày tết, không bao giờ ngài quên viết thư chúc mừng Bề Trên Giáo Phận. Nhận được thư của ngài, Đức cha Khuê đều trả lời với lòng quý mến, rất ưu ái. Ngài cũng thường viết thư trao đổi với Đức Cha FX. Nguyễn Văn Thuận đang bị quản chế tại Hà Nội. Để trả lời ngài, Đức Cha Thuận cũng thường viết thư cho “em Oanh Sắc”. ( Đức Ông Giuse Đích Nguyễn Ngọc Oánh, ( 1922-2007, Chân dung Linh Mục, Tổng Giáo Phận Hà Nội )

 Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, Thánh Mátthêu thuật dụ ngôn hai người con được người cha gọi đi làm vườn nho. Người con thứ nhất từ chối, nhưng sau hối hận, đi làm. Người con thứ hai tuy vâng dạ, nhưng lại không đi làm. Đức Ông Giuse Đích Nguyễn Ngọc Oánh xứng danh người con hiếu thảo, đã vâng lệnh Bề Trên, về làm vườn nho, dù biết trước bao gian nan, khó khăn, thách đố đang chờ đón ngài.

Trong cuộc sống đạo, với sự yếu đuối cố hữu, bất kỳ Kitô hữu nào cũng có thể nhập vai cả hai người con, tùy theo lửa mến nhiều hay ít, mà đáp lại lời mời gọi làm vườn của Chúa.

Người con hiếu thảo

Làm vườn nho với tâm hồn khiêm tốn, không tự mãn, không so bì, đố kỵ, mà chân thành ăn năn sám hối tội lỗi đã vấp phạm, người con thảo hiếu còn luôn tập sống xả kỷ vị tha, biết trân trọng, quan tâm và phục vụ tha nhân. Thánh Phaolô căn dặn khi vào làm vườn thì: “Đừng làm chỉ vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác” ( Pl 2, 3 – 4 ).

Muốn thế, người con hiếu thảo luôn tha thiết cầu nguyện, gần gũi, đắm say lửa mến, để mặc lấy tâm tình Thầy Chí Thánh, khiêm nhu, hạ mình, vâng phục Thánh Ý trọn hảo: “Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu, vốn dĩ là Thiên Chúa…” ( Pl 2, 5 – 11 ).

Đồng thời, làm vườn nho là sống trọn vẹn giây phút hiện tại, có nghĩa đoạn tuyệt, quên đi quá khứ huy hoàng, thành quả tốt lành, hoặc giã từ những thất bại ê chề, tội lỗi nhám nhúa, để sám hối, canh tân. "Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Chúa” ( Lc 9, 62 ).

Vì thế, sống giây phút hiện tại cũng là nhật nhật tân, hựu nhật tân, mỗi ngày mỗi đổi mới, mỗi thêm xả kỷ vị tha. Lời Chúa, Thánh Thể, cùng hồng ân hằng ngày của Người Cha thương ban, như lương thực dồi dào, bồi dưỡng tâm hồn, tăng sức đề kháng, tăng cường công lực, sẵn sàng dấn thân, người con thảo mới có thể an tâm lữ hành trên đường hy vọng.

4

Page 5: Ephata 627

Người Cha hằng hiện hữu

Vô thủy vô chung, “Thiên Chúa là Alpha và Omega, là Đầu và Cuối, là Khởi Nguyên và Tận Cùng” ( Kh 22, 13 ). Ngài là Đấng Tạo Hóa hằng hiện hữu vượt ra bên ngoài không gian và thời gian, mà Ngài đã sáng tạo. Trong khi muôn loài thọ tạo thì chịu giới hạn và gắn chặt trong vòng kim cô của thời gian và không gian. Vì thế, tất cả biến cố, sự kiện diễn ra dưới trần thế, lòng vòng xoay vần như đèn cù, vẫn luôn mãi là thời hiện tại qua lăng kính kỳ diệu của Thiên Chúa.

Sau khi chịu phép rửa, Đức Giêsu đang cầu nguyện, thì Trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống trên Người, dưới hình dáng chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng: “Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con” ( Lc 3, 21 – 22 ).

Đức Giêsu cũng luôn dùng thời hiện tại trong rao giảng. Như tại hội đường Nadarét, sau khi đọc xong một đoạn lời Ngôn Sứ Isaia, Người nói với cộng đoàn: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kính Thánh quý vị vừa nghe” ( Lc 4, 21 ). Đức Giêsu dạy Kinh Lạy Cha: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày…” ( Mt 6, 11 ). Khi Người mời gọi người thu thuế: “Này ông Dakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông.” Sau khi ông Dakêu sám hối, ăn năn hứa đền bù tội, Đức Giêsu hân hoan: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này... Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” ( Lc 19, 1 – 10 ).

Người Cha khoan dung hằng hiện hữu không chấp nhất quá khứ con cái, dù bất hiếu, ngỗ nghịch, bỏ đi hoang đàng, như qua lời cầu khẩn trong cơn quẫn bách, Vua Đavít đã tán dương, chúc tụng: “Ngài là Thiên Chúa nhân hậu từ bi, Ngài chậm giận, lại giàu tình thương và lòng thành tín” ( Tv 86, 16 ).

Người Cha khoan dung, rộng lượng quên ngay tội lỗi đứa con hư đốn, ương ngạnh, đanh đá, cá cầy, biếng nhác, chối phắt đi làm. Người lại trở nên rạng rỡ vui vẻ ngay, khi đứa con hôm nay biết ăn năn, hối hận, hoán cải, hiếu đễ, chịu thương chịu khó, hăng hái đi làm vườn. Đó là vì Chúa Giêsu kém trí nhớ ! một trong mười khuyết điểm vô cùng đáng yêu của Đức Giêsu, mà Ðức Tổng Giám Mục FX. Nguyễn Văn Thuận đã chia sẻ lần đầu tiên vào sáng thứ bảy, ngày 12.9.1998, tại Nguyện Đường Dòng Truyền Giáo Ðức Mẹ Vô Nhiễm ( OMI ), Strasbourg, Pháp.

“Con sống giây phút hiện tại cho tràn đầy tình yêu. Chấm này nối tiếp chấm kia, ngàn vạn chấm thành một đường dài. Phút này nối tiếp phút kia, muôn triệu phút thành một đời sống. Chấm mỗi chấm cho đúng, đường sẽ đẹp. Sống mỗi phút cho tốt, đời sẽ thánh. Ðường Hy Vọng do mỗi chấm hy vọng. Ðời Hy Vọng do mỗi phút hy vọng” ( Ðường Hy Vọng số 978 ).

Lạy Chúa Giêsu, xin xóa đi niềm tự cao, tự đại trong tâm hồn chúng con, vì lầm tưởng rằng mình đạo gốc, công chính, đạo đức, dễ ngủ mê trong kiêu căng, tự phụ, đánh mất hết ân nghĩa của Chúa. Cũng xin Chúa xóa đi nỗi mặc cảm của chúng con tự ti, tội lỗi, xấu xa, gớm ghiếc, chua chát thất vọng, để có thể tỉnh ngộ, chân thành sám hối, ăn năn và trông cậy, trở về vòng tay yêu thương của Người Cha Nhân Từ.

Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ luôn nhắc nhủ, giúp đỡ, cầu bầu cho chúng con sống trọn vẹn giây phút hiện tại, với tràn đầy tình yêu Thiên Chúa và tha nhân. Amen.

AM. TRẦN BÌNH AN

NHỮNG CÔ GÁI ĐIẾM SẼ VÀO NƯỚC THIÊN CHÚA TRƯỚC

Chủ đề nổi bật hơn cả của Chúa Nhật 26 thường niên A là sự thống hối ăn năn của con người tội lỗi gặp được lòng nhân lành của Thiên Chúa tình thương. Quả thật, Lịch Sử Cứu Độ của Thiên Chúa đối với con người là một chuỗi dài lịch sử tình thương, tội thì Chúa phạt, hoán cải thì Chúa cứu. Đó là lý do tại sao Thiên Chúa phán: "Ta muốn lòng nhân từ chứ không cần hy lễ" ( Hs 6, 6; Mt 9, 13 ). "Ta không muốn kẻ vô đạo chết, mà ( muốn ) kẻ vô đạo bỏ đường nó theo mà trở lại và được sống" ( Ed 33, 11 ). Cánh cửa trái tim nhân từ của Thiên Chúa luôn luôn rộng mở cho hết những ai chân thành hướng về Thiên Chúa với cả tấm lòng thành, và Ngài sẽ đón nhận họ với niềm vui khôn tả là cả thiên đàng sẽ vui mừng ( x. Lc 15, 10 ).

5

Page 6: Ephata 627

Chỉ có Thiên Chúa không quy kết tội lỗi mà còn thứ tha. Ngài là "Cha đầy tình thương xót" ( 2 Cr 1, 3 ), là Thiên Chúa nhân lành, đầy lòng từ bi, và là Thiên Chúa mọi nguồn an ủi, luôn kiên nhẫn chờ đợi kẻ có tội thống hối ăn năn, luôn muốn điều tốt cho con cái. Hoán cải thực sự là dứt khoát từ bỏ tội lỗi, thống hối vì những tội đã qua và xin Chúa thứ tha. Thiên Chúa thương xót sẵn sàng tha thứ và tuôn đổ Thánh Thần tẩy xóa mọi tội lỗi quá khứ của hối nhân.

Trách nhiệm của con người

Thiên Chúa muốn chúng ta phải chịu trách nhiệm về những việc chúng ta làm, trả lời về những kết quả hành động của chúng ta. Nên chúng ta không được hành động nửa vời: vì nếu nửa vời chúng ta sẽ chết. Ngôn Sứ Edêkien cảnh báo: "Nếu kẻ gian ác bỏ đàng gian ác nó đã đi, và thực thi công bình chính trực, nó sẽ được sống. Nếu nó suy nghĩ và từ bỏ mọi tội ác nó đã phạm, nó sẽ sống chớ không phải chết" ( Ed 18, 28 ).

Chúa Giêsu cảnh báo chúng ta rằng, nói "vâng", "tôi biết", "tôi thực hành giáo lý" mà thôi, chưa đủ, phải hành động, phải lên đường. Chính người con trai đã nói "không" với cha mình, nhưng nó hối cải và đi làm vườn nho, anh ta đã làm theo ý người cha, như thế, anh bước vào giao ước tình thương của cha anh, anh đã yêu mến cha trong hành động và chân lý.

Chúa Giêsu lên án các Thượng Tế và Kỳ Lão là những người biết rõ Kinh Torah, Lời Thiên Chúa, nhưng chỉ biết thôi không làm cho họ nên công chính. Chúa long trọng tuyên bố: "Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông" ( Mt 21, 31 ). Các Thượng Tế và Kỳ Lão hiểu rất rõ sứ điệp trên, nên họ sẽ không dung tha cho Chúa Giêsu: ít ngày sau, chính họ là những kẻ sẽ lên án tử cho Người. Đúng, sự đồi bại của kẻ công chính sẽ dẫn đến cái chết, thậm chí dẫn đến cái chết của những người vô tội, như Hêrôđê dẫn đến cái chết của các Thánh Anh Hài !

Những cô gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chua trước

Lời tuyên bố trên của Chúa Giêsu như một ánh hào quang của Tin Mừng được xây dựng chung quanh hạng nguời đĩ điếm, lý tưởng hoá họ và đối nghịch họ với những kẻ được gọi là công chính là các thượng tế và các kỳ lão, đã gây sốc cho nhiều người. Không có lời nói nào của Chúa Giêsu bị lạm dụng cho bằng lời nói: "Những cô gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước" ( Mt 21, 31 ).. Khi lý tưởng hoá hạng đĩ điếm, người ta cũng lý tưởng hóa luôn cả hạng người thu thuế, luôn đi kèm hạng đi điếm, là những kẻ cho vay nặng lãi, một loại luôn đồng hành loại gái điếm trong Tin Mừng đã gây lên một sự hiểu lầm đáng sợ, khi người ta không nhận thức đủ.

Những người thu thuế, là những nhân viên các cơ quan thâu thuế Rôma, tham dự trong những hành xử bất công của những cơ quan này. Nếu Chúa Giêsu liên kết những gái điếm và những người thu thuế với nhau, Người làm vậy không phải là không có lý do; vì cả hai đều coi tiền bạc là sự quan trọng nhất trong cuộc sống.

Nếu Chúa Giêsu tôn trọng các cô gái điếm và người thu thuế hay kẻ tội lỗi, không phải do kiểu sống của họ, nhưng vì khả năng thay đổi và phục thiện... như Maria thành Magdala, kẻ đã trở lại và đã theo Chúa Giêsu trên tất cả con đường thánh giá, là một gương mẫu cho sự này ( đặt giả thiết bà là một cô gái điếm ), Dakêu ( x. Lc 9, 1 – 10 ), người phụ nữ Samari ( Ga 4, 1 – 42 ), người phụ nữ ngoại tình ( x. Ga 8, 1 – 11 ) và người con trai hoang đàng ( x. Lc 15, 11 và 32 ).

Chúa Giêsu nói rõ lý do sẽ vào Nước Thiên Chúa trước: "Vì Gioan đã đến với các ông trong đường công chính, và các ông không tin ngài; nhưng những người thu thuế và gái điếm đã tin ngài. Còn

các ông, sau khi xem thấy điều đó, các ông cũng không hối hận mà tin ngài" ( Mt 21, 32 ).

Hoán cải không bao giờ là muộn

Chúng ta được yêu cầu từ bỏ thái độ để ý đến mình hơn là tha nhân, thậm trí hơn cả Thiên Chúa nữa. Vì không phải mọi kẻ nói với Ta: "Lạy Chúa, lạy Chúa", là sẽ vào được Nước Trời, nhưng là kẻ thi hành ý Cha Ta, Ðấng ngự trên Trời" ( Mt 7, 21 ).

Những lời tuyên bố trên của Chúa Giêsu giúp chúng ta hiểu rõ hơn về dụ ngôn hai người con trai được cha sai đi làm vườn nho ( x. Mt 21, 32 ). Qua đó, Chúa mở mắt những người Do Thái để họ hiểu rằng khi khép kín lòng mình trong sự bất chính và sai lầm của chính họ là một sự từ chối Nước Trời.

Họ nói "vâng" với Thiên Chúa. Nhưng trong thực tế, họ lại ngoan cố khước từ lời Thiên Chúa, gạt bỏ Nước Trời. Rõ ràng là nói "vâng" nhưng lại không thi hành. Và như một mẫu gương về sự hoán cải, Chúa Giêsu đặt ra những tình huống trái nghịch: những

6

Page 7: Ephata 627

người thu thuế và gái điếm. Ban đầu, họ nói "không" với Nước Trời và Giao Ước vì họ chưa nhận ra các yêu cầu phải thi hành để được vào Nước Trời, nhưng họ có đủ khả năng để thích ứng với dấu hiệu Nước Thiên Chúa. Sau đó, trên hành trình tìm kiếm Nước Trời. Dần dần, họ học cách nói "có", nên Chúa Giêsu tuyên bố: "Bởi đó, tôi nói cho các ông hay: Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi" ( Mt 21, 43 ).

Phần chúng ta, chúng ta cũng phải học cách nói "có"... "Con không đi'. Nhưng sau hối hận và đi làm" ( Mt 21, 29 ).

Lm. Antôn NGUYỄN VĂN ĐỘ

NÓI VÀ LÀMTrang Tin Mừng hôm nay trình bày dụ ngôn hai

người con, họ nhận cùng một lời mời gọi của cha nhưng với hai thái độ khác nhau.

Người con thứ nhất Lúc đầu từ chối, không vâng lời cha. Nhưng sau

đó nghĩ lại, nó đi làm vườn nho cho cha. Đứa con này tượng trưng cho các người thu thuế và tội lỗi. Tuy đã phạm tội, nhưng sau đó đã hồi tâm tin theo Chúa Giêsu mà quay về với Thiên Chúa.

Người con thứ hai

Lúc đầu ngoan ngoãn vâng lời cha. Nhưng thực tế nó lại không đi làm vườn nho theo ý cha. Đứa con này có vẻ công chính, tượng trưng cho các Thượng Tế, Kinh Sư, Pharisêu. Tuy giữ luật Môsê trong từng chi tiết, nhưng họ lại từ chối Gioan Tẩy Giả, người đã đến chỉ đường công chính. “Thưa cha, con đây”: câu trả lời lễ phép của một đứa con ngoan ngoãn hiếu thảo, sẵn sàng vâng nghe lời cha dạy bảo; “Nhưng rồi lại không đi”: đứa con này mới chỉ vâng lời cha bằng môi miệng bề ngoài. Sau đó nó không đi làm vườn nho theo lời cha dạy. Anh ta có thái độ "ngôn hành bất nhất", "nói mà không làm", “nói một đàng mà làm một nẻo”. Một đời sống vụ hình thức bề ngoài. Một thái độ đạo đức giả.

Người con thứ hai ám chỉ những Thượng Tế, Kinh Sư và Pharisêu. Thời ấy, họ là những bậc vị vọng, họ tự xưng mình là đạo đức, công chính, trong sạch. Thực tế họ rất giả hình. Nói rất hay nhưng không thực thi điều mình nói. Họ nói mà không làm.

Giữa lời nói và việc làm thường có một khoảng cách rất lớn. Nói thì dễ nhưng làm thì khó. Con người dễ rơi vào thói nói nhiều làm ít, hoặc chỉ nói suông mà không làm, hoặc còn tệ hơn nữa khi việc làm mâu thuẫn với lời nói.

1. Nói và làm, một tiêu chuẩn để xét định đời sống.

Kể xong dụ ngôn, Chúa Giêsu hỏi: “Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha ?” Họ trả lời: “Người thứ nhất”. Đó là người nói không, nhưng đã hối hận và đi làm việc. Ở đây rõ ràng có hai loại người: nói ít làm nhiều và nói nhiều làm ít.

Nói ít làm nhiều

Nói ít không phải là “ít nói” vốn thường hiểu theo nghĩa tiêu cực bộc lộ một lòng trí tối tăm hay lòng dạ mưu mô. Nói ít cũng chẳng phải là không có gì để nói hay không biết nói gì. Trái lại người nói ít là người biết mình nói gì và cũng là người có khả năng nói nhiều với chính mình bằng ngôn ngữ tư tưởng, với người bằng ngôn ngữ hành động. Chính vì thế họ dễ trở thành những người “làm nhiều”. Những người nói ít làm nhiều thường là những người tốt bụng, nhiệt thành với công việc, chu toàn nhiệm vụ và biết trách nhiệm. Họ không làm phiền người bên cạnh. Họ thích làm tốt cho người khác. Họ không bận tâm đến tiếng chê, chẳng nặng nợ với lời khen. Họ chăm chỉ làm việc và quan tâm tới từng việc làm. Với họ, làm là cách nói tốt nhất.

Nói nhiều làm ít

Có những người nói nhiều mà làm chẳng được bao nhiêu. Họ là những người hay nói. Hay nói chưa chắc nói hay nhưng chắc chắn một điều: hay nói là một cánh cửa luôn rộng mở cho những người thích nói hay nói tốt về mình, để làm điều kiện thuận lợi cho việc dèm pha phê bình người khác. Đây là một nguy cơ của việc nói nhiều. Có biết đâu phê bình người khác lại là một cách bộc lộ lòng dạ mình ra. Mang kính đen thì phê bình sao người khác đen quá, giống như lưỡi đắng có bao giờ thấy canh ngọt. ( x. Làm nụ hoa trắng, trang 90-91, Gm. Vũ Duy Thống ).

7

Page 8: Ephata 627

2. Nói và làm, hai thái độ sống

Sau câu hỏi, Chúa Giêsu xác định một câu nghe thật nhức nhối: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm sẽ vào nước trời trước các ông”. Những Thượng tế, Kinh sư và Pharisêu không chịu nghe lời Chúa, không ăn năn sám hối. Những người thu thuế và gái điếm, khi được mời gọi đã thành tâm sám hối. Có hạng người nói không làm và hạng người làm không nói.

Người nói mà không làm

Họ tự cho là mình đạo đức, nhưng khi Chúa Giêsu rao giảng, họ không những không tin mà còn phê phán chỉ trích những người tin Chúa, chỉ trích chính Chúa đã đón tiếp người tội lỗi.

Người không nói nhưng lại làm

Đó là những người thu thuế và những cô gái điếm. Tuy sống tội lỗi, nhưng khi nghe Chúa rao giảng, họ đã ăn năn sám hối và tin vào Chúa.

3. Những bài học

Qua dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta hai bài học quan trọng:

Việc làm quan trọng hơn lời nói

Chính việc làm minh chứng lời nói. Chính việc làm mới có sức thuyết phục. Lý thuyết dù có hay có đẹp đến đâu nếu không thực hiện được thì cũng vô ích. Trong đời sống, chúng ta gặp không ít những người nói hay, nói nhiều, nhưng làm chẳng bao nhiêu. Nhưng trái lại, có những người nói không hay, có khi không nói gì cả, nhưng lại làm rất nhiều. Nhất thời chúng ta có thể thích những người nói hay. Nhưng sống càng lâu, chúng ta càng mến những người nói ít làm nhiều. Con đường đi từ trái tim đến đôi tay là một con đường dài và gian khổ. Rung động trước nỗi khổ của người khác là điều tốt, giúp cho họ bớt khổ là điều tốt hơn. Thánh Gioan khuyên rằng: “Hỡi anh em, đừng yêu mến bằng lời nói suông, nhưng bằng việc làm thực sự” ( 1 Ga 3, 18 ).

Trong đời sống thiêng liêng cũng vậy. Chúa yêu chuộng những người làm việc hơn là những người chỉ biết nói suông. Những Luật Sĩ, Pharisêu, Kinh Sư bị lên án dữ dội vì họ giả hình. Họ nói mà không làm. Họ đặt gánh nặng lên vai người khác nhưng bản thân lại tránh né. Ngày nay cũng vậy, có những bậc cha mẹ dạy con cái phải giữ đạo, phải cầu nguyện, dự lễ, nhưng chính mình lại biếng nhác, không làm gương sáng cho con cái. Chúa đòi hỏi phải thực hành: “Không phải những ai nói rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời, nhưng là những kẻ làm theo ý Cha Ta trên trời” ( Mt 7, 21 ). Đức Tin phải biểu lộ bằng việc làm mới là Đức Tin sống động. Thánh Giacôbê dạy: “Đức Tin không có việc làm là Đức Tin chết” ( Gc 2, 17 ). Tình yêu cũng phải có việc làm. Việc làm minh chứng tình yêu đích thực. Tin yêu Chúa phải được biểu lộ bằng việc làm.

Hãy làm một cách khiêm tốn

Những người Pharisêu làm gì cũng muốn phô trương. Muốn tỏ ra mình đạo đức, họ đeo lề luật trên trán, trên tay. Ðeo rồi, sợ người khác không nhìn thấy, họ phải "đeo những hộp kinh thật lớn, may những tua áo thật dài" để cho mọi người biết họ yêu mến lề luật, giữ đạo cặn kẽ. Thói phô trương dễ biến thành tự phụ tự mãn, hợm hỉnh. Nên những người Pharisêu "ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là thầy".

Khi phê phán người Pharisêu, Chúa Giêsu muốn cho môn đệ hãy sống đạo trong kín đáo: "Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy… Vậy khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh, khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc anh bố thí được kín đáo… Và khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn đạo đức giả: chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư, cho người ta thấy… Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Ðấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Ðấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh" ( Mt 6, 1 – 6 ). Kín đáo làm việc đạo đức là dấu chỉ lòng mến Chúa chân thực. Lòng mến Chúa chân thực sẽ dẫn đến thái độ khiêm tốn, luôn biết kính trọng người khác và luôn biết phục vụ anh em.

Xin Chúa giúp chúng con biết sống “ngôn hành như nhất” để lời nói và việc làm của chúng con luôn đẹp lòng Chúa và mưu ích cho tha nhân. Amen.

Lm. Giuse NGUYỄN HỮU AN

8

Page 9: Ephata 627

KHOA HỌC TÌNH YÊUMột trong những đoạn trong cuốn “Một Tâm Hồn” của Thánh

Têrêsa Hài Đồng Giêsu khiến tôi ấn tượng nhất chính là lúc Chị kể lại lời Chúa Giêsu từ trên Thánh Giá nói với Thánh Margaret Maria Alacoque: “Ta muốn con đọc cuốn sách cuộc đời, trong đó có KHOA HỌC TÌNH YÊU”. Thánh Têrêsa còn được mệnh danh là Bông Hồng Nhỏ và Tiến sĩ Tình yêu Kitô giáo.

Điều này ảnh hưởng Thánh Têrêsa khá nhiều: “Khoa học Tình yêu, vâng, từ ngữ này âm vang ngọt ngào trong linh hồn tôi, và tôi chỉ muốn loại khoa học này”. Ơn gọi yêu thương của Chị được kết tinh.

Khoa học và tình yêu có vẻ không hợp nhau. Chúng ta muốn kết hợp tình yêu bằng cảm xúc, sự thu hút, và niềm đam mê – không hẳn là “chất” khoa học, nó hợp với lý lẽ, kinh nghiệm và sự phát triển. Nhưng tình yêu giống như khoa học không là phép ẩn dụ thần bí vô căn cứ hoặc lập dị.

Tôi tình cờ gặp được đoạn văn của Thánh Têrêsa ngay sau khi đọc cuốn “Anh Em Nhà Karamazov” ( Brothers Karamazov ), và Dostoevsky – viết vào khoảng thời gian như Thánh Têrêsa ( cuối thập niên 1800 ) – cũng sử dụng công thức này. Trong phần đối thoại đầu cuốn sách, Lm Zossima cố gắng an ủi “người phụ nữ của niềm tin bé nhỏ”, đầu tiên là khuyên phụ nữ này đừng sợ vì tính nhút nhát khi đạt được tình yêu, rồi chỉ ra rằng tình yêu trong hành động khó so sánh với tình yêu trong mơ ước: “Tình yêu tích cực là làm việc và chịu đựng, đối với một số người, có thể đó cũng là một khoa học hoàn hảo”.

Dorothy Day, người sáng lập Phong trào Công Nhân Công Giáo ( JOC ), cũng viết: “Tình yêu là một dạng khoa học, một dạng kiến thức mà chúng ta thiếu”. Đây là lý do chúng ta luôn cần cầu xin Chúa Thánh Thần: “Accende lumen sensibus, infunde amorem cordibus” – xin hãy thắp sáng các giác quan, xin hãy đổ đầy tình yêu vào trong tâm hồn chúng con. Lời nguyện ca thật đẹp đó trong bài thánh ca cổ “Veni Creator Spiritus” ( Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến ). Chính Chúa Thánh Thần làm cho tâm hồn chúng ta đầy tràn tình yêu.

Không lâu trước thời Thánh Têrêsa, khái niệm của Chủ Nghĩa Thực Chứng ( Positivism ) cho rằng không có khoa học hiện hữu trừ những gì nghiên cứu hiện tượng của thế giới tự nhiên, đã bắt đầu được chú ý. Trong cuốn sách viết năm 1874, cuốn “The Crisis of Western Philosophy: Against the Positivists” ( Khủng hoảng của Triết học Tây phương ), triết gia lỗi lạc Vladimir Soloviev ( người Nga ) đã bác bỏ khái niệm của triết gia Auguste Comte ( người Pháp ) cho rằng nhân loại bước vào một kỷ nguyên nhận thức khoa học là cách phù hợp để thay thế mọi dạng hiểu biết khác, chẳng hạn như kiến thức thần học hoặc triết học “thô sơ”. Comte cảm thấy những điều đó đã lỗi thời đối với lịch sử của sự tiến bộ “khoa học”. Phương châm của Comte là “Order and Progress” ( Trật tự và Tiến bộ ) được ghi trên quốc kỳ Brazil. Châm ngôn này dễ dàng làm theo.

Lịch sử không ghi lại điều đó. Nhưng Thánh Têrêsa, lúc 14 tuổi, đã hiểu những điều mà dân trí thức không thể hiểu, mặc dù họ dành cả đời để nghiên cứu, đó chính là KHOA HỌC TÌNH YÊU.

Soloviev cảm thấy rằng sự khủng hoảng triết học Tây phương là do sai lầm khi đề cao kiến thức ( lý lẽ ) hơn thứ khác ( Đức Tin ). Ông cho rằng điều này bắt đầu nổi lên trước thời kỳ Khai Sáng ( thế kỷ 18, đề cao lý trí ). Thời kỳ này cũng củng cố tư tưởng cho rằng khoa học nên thay thế cho luân lý truyền thống hệ thống đạo đức. Cuối cùng, nó bị coi là “phi khoa học”.

Toàn bộ luân lý truyền thống dựa trên những gì Chúa Giêsu xác định là hai giới răn quan trọng nhất: Mến Chúa và yêu người. Chúng ta có thể nói rằng Chúa Giêsu nói “rất khoa học” – đưa ra kiến thức đích thực – chứng thực tính ưu việt của tình yêu. Loại bỏ luân lý truyền thống không giải phóng con người khỏi quy luật, mà lại bao hàm mối nguy có thật là mất tình yêu.

Khoa học phong phú hóa thế giới bằng nhiều cách, nhưng đó không là nền tảng để người Công Giáo hiểu rằng khoa học là phương cách tự bào chữa về “cuộc tranh luận sinh học đạo đức đương đại” ( contemporary bioethical debates ). Soloviev đã nhận thấy điều nguy hiểm khi loại bỏ kiến thức tôn giáo và triết học. Ông không cho phép thông báo các tiến bộ khoa học. Ông nhận xét: “Để có kết thúc hợp lý, nguyên nhân chính của thuyết vị lợi tương đương với sự phủ nhận hoàn toàn đối với luân thường đạo lý”.

9

CÙNG CHIA SẺ

Page 10: Ephata 627

Đức Thánh Cha Benedict XVI nói điều này vẫn như trước đây, ngài nói rằng chỉ có “khoa học tình yêu” mới là “dạng khoa học cao cấp nhất”. Theo Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, “khoa học tình yêu” có thể bảo vệ nhân loại khỏi các hệ lụy xói mòn do thói vị lợi ngày nay, và “chỉ có tình yêu mới có thể ngăn ngừa người này lợi dụng người kia” [ cuốn “Tình yêu và Trách nhiệm” của Đức Giám Mục Karol Wojtyla ( sau là Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II ), năm 1960 ]. Chỉ có tình yêu mới có thể kéo chúng ta ra khỏi sự vô nghĩa mà chủ nghĩa duy vật truyền bá.

Không lâu trước khi qua đời tại Auschwitz, Edith Stein đã viết bài nghiên cứu chi tiết về triết học của tư tưởng theo Thánh Gioan Thánh Giá, với tựa đề là “Khoa học Thánh Giá” ( Science of Cross ). Tài liệu này là đỉnh cao của sự khôn ngoan. Trong đó, bà cho biết rằng bà gọi là “khoa học của các thánh” với “sự thật của các niềm tin” ( không bao giờ trái ngược với khoa học hoặc lý lẽ ).

Tôi nghĩ rằng thuật ngữ này có sức mạnh lôi cuốn cả người tin lẫn người không tin, nó mời gọi chúng ta xem lại những gì chúng ta ngụ ý bằng khoa học – và bằng tình yêu, điều mà Thánh Gioan Phaolô II gọi là “ơn gọi nền tảng và bẩm sinh của mọi người”.

Các Thánh theo đuổi các ơn gọi khác nhau của tình yêu bằng cách theo “phương pháp khoa học” mà Chúa Giêsu khuyên: “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” ( Mt 11, 29 ). Chúng ta còn tìm kiếm gì xứng đáng hơn Thánh Tâm Chúa – “Lò Lửa Tình Yêu” ?

Thánh Tiến Sĩ Têrêsa Hài Đồng Giêsu nhắc chúng ta nhớ tới “Con Đường Bé Nhỏ” mà không khoa học gia nào có thể hiểu nổi. Con đường đó chỉ có thể hiểu được nhờ tình yêu, một thực tế sâu sắc nhất của cuộc sống.

MATTHEW HANLEY, TheCatholicThing.orgBản dịch của TRẦM THIÊN THU

DUY THỨC VÀ CẦU NGUYỆNCầu nguyện là hành vi không thể thiếu trong đời sống tôn giáo. Người gọi là có đạo không cầu

nguyện thì cũng giống như người đi trên đường mà không chịu cất bước. Có đi mới đến, không đi thì không thể đến. Ví cầu nguyện giống như việc cất bước để cho thấy đó là việc vô cùng hệ trọng không thể

không làm. Tuy nhiên trong thời tục hóa này, việc cầu nguyện nếu không nói là đã bị phế bỏ thì cũng chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Thực vậy, tục hóa tức cũng là Giải Thiêng, mà đã Giải Thiêng rồi thì còn cầu nguyện với ai ? Cầu để làm gì ?

Việc cầu nguyện luôn bao gồm hai phần: Một là Cầu, hai là Nguyện. Cầu là cầu xin với Đấng mà mình phụng thờ. Còn Nguyện là nguyện về nơi mình muốn đến. Chính bởi tính chất cầu nguyện là vậy nên trong tất cả các kinh nguyện trước đây đều thể hiện đầy đủ hai ý này. Cầu là cầu xin với Thiên Chúa để nói lên lòng Tin Cậy Mến với Ngài. Còn nguyện là nguyện cho Danh Cha cả sáng, nguyện vâng giữ mọi điều Chúa truyền dạy, mọi điều Hội Thánh truyền… Tất cả những lời cầu ấy đều được kết thúc với việc xin cho được về cõi Thiên Đàng hưởng vinh phúc đời đời.

Còn cầu nguyện thì còn Đức Tin, trái lại không cầu nguyện thì Đức Tin sẽ mất. Cuộc khủng hoảng của Giáo Hội hiện nay trước hết là khủng hoảng Đức Tin vì không còn cầu nguyện cách xứng hợp. Đức cố Hồng Y FX. Nguyễn Văn Thuận đặt câu hỏi và tự trả lời: “Tại sao Hội Thánh khủng hoảng ? Vì đã hạ giá việc cầu nguyện” ( Đường Hy Vọng 132 ).

Có hai hình thức hạ giá: Một là đánh đồng việc cầu nguyện với suy luận thần học. Hai là cho đó chỉ là một thứ hình thức đạo đức bình dân ( đọc kinh ). Đang khi đó cầu nguyện đích thực là hành vi tâm linh đòi hỏi cần phải xoay cái Tâm trở vào bên trong: “Còn ngươi khi cầu nguyện hãy vào phòng kín, đóng cửa lại rồi cầu nguyện với Cha ngươi là Đấng ở nơi ẩn mật và Cha ngươi là Đấng thấy trong chỗ ẩn mật sẽ báo đáp cho ngươi” ( Mt 6, 6).

Cầu nguyện với Cha ngươi là Đấng ở nơi ẩn mật. Vậy nơi ẩn mật đó có thể là nơi nào nếu đó không phải là cõi lòng thâm sâu của mỗi người ? Cõi lòng thâm sâu ấy Đức Kitô có khi xưng tụng là Cha

10

CÙNG TÌM HIỂU

Page 11: Ephata 627

có khi gọi là Nước Trời. Chúa dạy chúng ta cầu nguyện bằng cách vào phòng kín đóng cửa lại có nghĩa phải xoay cái Tâm trở vào bên trong bằng cách đóng cửa giác quan ( mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý ) đừng để cho nó phóng túng ra bên ngoài nơi thế giới ngoại vật. Chỉ khi nào cầu nguyện bằng cách hướng tâm như thế mới được Chúa báo đáp, có nghĩa được ban cho ơn sủng dồi dào.

Để có thể kín múc ơn sủng bằng cách xoay tâm trở vào bên trong như thế, đòi hỏi cần phải có phương pháp cùng với sự kiên trì trong thực hành. Phương pháp và lòng kiên trì luôn bổ túc cho nhau. Phương pháp giúp ta kiên trì, ngược lại, kiên trì cho ta càng đi sâu vào phương pháp. Phương pháp được đề cập tới ở đây là môn Duy Thức, một pháp môn Đại Thừa Phật Giáo do Bồ tát Thiên Thân ( Vasubandhu ) thế kỷ thứ 5 tạo lập.

Duy Thức học là một môn rất khó tiếp thu bởi có rất nhiều danh từ chuyên môn ( Bách Pháp ) đồng thời cách phân tích lại chi li cho tới ngọn ngành. Tuy nhiên đó lại là môn vô cùng cần thiết cho tất cả những ai muốn đi sâu tìm hiểu về Tâm và về thế giới. Riêng trong lãnh vực tôn giáo, Duy Thức Học giúp cho ta một cơ sở thực hành hết sức quý giá. Ngược lại, không hiểu Duy Thức, thì như cư sĩ Đường Đại Viên tác giả biên soạn Duy Thức Học nói: “Người học Phật vì không hiểu Duy Thức nên Phật Pháp suy đồi. Kẻ thế tục vì không học Duy Thức nên khinh báng Phật. Quốc gia vì không hiểu Duy Thức nên rối loạn. Nhân loại vì không học Duy Thức nên mới đảo điên”.

Bởi đâu không hiểu Duy Thức thì Phật Pháp suy đồi, nhân loại đảo điên ? Lý do là vì không biết muôn sự muôn vật đều không thật có chỉ là do Thức biến. Phàm phu ai cũng thấy cái nhà là… nhà, nhưng theo Duy Thức Học thuần túy, đó chỉ là cái tên suông hoàn toàn không có thực chất. Sao nói không thực chất ? Bởi vì cái gọi là nhà ấy nếu phân tích ra thì gồm bởi nào là gạch, ngói, ximăng, sắt, thép, gỗ, kính v.v… Tiếp tục đi sâu phân tích cho đến tận cùng bằng khoa vật lý sẽ thấy tất cả những cái gọi là gạch, ngói, ximăng, sắt, kính… đó chỉ là những nguyên tử.

Theo thuyết vật lý cổ điển Newton thì nguyên tử là đơn vị nhỏ nhất và rắn chắc không thể phân chia. Thế nhưng với vật lý hiện đại thì nguyên tử chưa phải đơn vị nhỏ nhất bởi nó có thể bị phá vỡ. Thật sự thì trong không gian vật lý, không hề có cái gọi là đơn vị biệt lập dù là nguyên tử, mà chỉ là một thứ dạng năng lượng, tức sóng và hạt. Nhà bác học Albert Einstein đưa ra định nghĩa về vật chất bằng công thức E=MC2, trong đó C là vận tốc ánh sáng. E là năng lượng và M là khối lượng của vật. Công thức này cho thấy vật chất sẽ biến thành năng lượng khi nó đạt tới vận tốc ánh sáng. Ngược lại, năng lượng cô đọng lại tối đa sẽ biến thành vật chất.

Phân tích như thế để cho thấy có sự khác biệt sâu xa giữa cái gọi là nhà của thường nghiệm và nhà của khoa học. Người đời chỉ thấy cái nhà là… nhà, để rồi từ đó khởi lên những ý niệm khen chê tốt xấu, mong cầu ghét bỏ này nọ. Đang khi ấy cái nhà theo vật lý học chỉ là một thứ khối lượng và nó sẽ biến đổi thành năng lượng khi gặp điều kiện, chẳng hạn cháy nhà, nước lụt, chiến tranh tàn phá v.v…

Với khoa học thì vậy còn với Duy Thức thì nhà chỉ là cái tên suông. Mặc dầu chỉ là cái tên suông, nhưng để nhà có thể là nhà, một nơi chốn cư ngụ thì nó không thể chỉ gồm bởi gạch, ngói, ximăng, sắt, thép… mà cần phải có các ông kiến trúc sư, các ông thợ xây, thợ hồ v.v… Không có kiến trúc sư, thợ xây, thợ hồ, thì gạch, ngói, ximăng… vẫn mỗi thứ mỗi nơi làm sao có thể thành ra cái gọi là nhà được ?

Cần có kiến trúc sư, thợ xây, thợ hồ… để làm ra cái nhà. Việc làm ra ấy triết Phật gọi nó là Duyên Khởi. Gạch phải Duyên với ximăng qua bàn tay người thợ xây mới làm nên bức tường. Kính phải Duyên với khung cửa mới thành ra cánh cửa, v.v. và v.v… Tính chất Duyên Khởi là trùng trùng bất tận, bởi đó cho nên không thể có bất cứ một đơn vị nào biệt lập dù nhỏ như nguyên tử. Muôn sự muôn vật tồn tại là do Duyên Khởi và tính Duyên Khởi ấy thể hiện trong lãnh vực tâm linh chính là việc Huân Tập.

Huân Tập nghĩa của nó là chứa nhóm. Hễ chứa nhóm cái gì thì sẽ có cái ấy, anh cứ tơ tưởng về quân bài quân bạc thì thế nào cũng sà vào sòng bài để ăn thua đủ. Anh cứ suốt ngày xem phim con heo, phim bạo lực đánh đấm súng nổ thì sẽ có ngày không phạm tội hiếp dâm thì cũng lạm dụng tình dục cách này cách khác. Trái lại, nếu siêng năng đọc kinh, làm việc lành phúc đức, tham dự Thánh Lễ hàng ngày thì tất sẽ có được cuộc sống an vui hạnh phúc đời này đời sau v.v… Chứa nhóm cái gì sẽ có cái đó và sự chứa nhóm ấy chính là huân tập các chủng tử.

Có ba loại chủng tử hay còn gọi là chủng tánh chính yếu:

1. Vô chủng tánh: Đây là hạng người chỉ hay phát tâm làm những việc thiện ở thế gian như bắc

11

Page 12: Ephata 627

cầu, làm đường, làm việc từ thiện cứu tế v.v… để hưởng phước báu thế gian. Hạng người này chỉ tạo nghiệp hữu lậu, không có chủng tử vô lậu, nên gọi là vô chủng tánh.

2. Đại Thừa chủng tánh: Đây là hạng phát tâm Phật, rộng tu Lục Độ ( Bố thí, Trì giới, Tinh tấn, Nhẫn nhục, Thiền định, Trí huệ ). Đoạn trừ cả ngã chấp và pháp chấp quyết định thành Phật, nên gọi là Phật chủng tánh.

3. Bất định chủng tánh. Đây là hạng người sẵn có cả chủng tử hữu lậu và vô lậu. Nếu gặp được Đại Thừa giáo hóa thì thành Phật. Còn gặp Nhị thừa giáo hóa thì thành Thinh Văn hoặc Duyên giác. Vì Tánh bất định như thế, nên gọi là bất định chủng tánh.

Duy Thức Học đưa ra thuyết chủng tử huân tập mục đích cũng là để nói lên tính chất nhân quả trong việc tạo nghiệp. Nhân nào thì quả ấy. Chủng tử loại nào thì tạo ra nghiệp loại đó, chủng tử hữu lậu thì tạo nghiệp hữu lậu. Chủng tử vô lậu thì tạo nghiệp vô lậu. Tôn giáo suy cho cùng chỉ là vấn đề tạo Nhân tối thượng để hưởng Quả lành tối thượng.

Cái Nhân tối thượng của Đạo Phật là thành Phật. Còn của Đạo Chúa là nhận biết mình là Hình Ảnh Thiên Chúa, là Con Thiên Chúa. Nhận biết mình là Con Thiên Chúa cũng là nhận biết Sự Thật và chỉ khi nào nhận biết Sự Thật thì con người mới được giải thoát: “Nếu các ngươi cứ ở trong đạo của Ta thì thật là môn đệ Ta. Các ngươi sẽ nhận biết Sự Thật và Sự Thật sẽ giải thoát các ngươi” ( Ga 8, 31 – 32 ).

Nhận biết Sự Thật Con Thiên Chúa ở nơi mình là con đường tạo lập Nhân lành tối thượng và con đường ấy chỉ dành cho những người có Tâm xuất thế tức hạng người có chủng tánh Đại Thừa. Đức Kitô đòi hỏi những ai muốn theo Ngài thì phải có Tâm xuất thế. Ngược lại không có Tâm ấy thì không thể theo.

Chúng ta nhớ lại câu chuyện chàng thanh niên giàu có cũng muốn theo Chúa Giêsu để thực hiện con đường trọn lành, khi nghe Ngài nói phải về bán hết nhà cửa ruộng vườn thì anh ta bèn thối lui. Sau khi anh ta đi khỏi, Chúa nói với các môn đệ: “Ta nói cùng các ngươi, con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Đức Chúa Trời." Các môn đệ nghe lời ấy thì kinh ngạc quá đỗi mà thưa rằng: "Thế thì ai có thể được cứu ?" Chúa Giêsu đáp: "Đối với loài người thì việc ấy bất năng nhưng với Đức Chúa Trời thì mọi sự đều khả năng” ( Mt 19, 16 – 26 ).

Đối với Thiên Chúa mọi sự đều khả năng, vậy khả năng ấy là gì ? Xin thưa đó là cầu nguyện cùng với Đức Tin và lòng kiên trì: “Vậy bất cứ mọi điều gì các ngươi xin trong khi cầu nguyện, hễ tin thì chắc chắn nhận được” ( Mt 21, 22 ).

Có tin mới cầu, không tin thì không cầu. Tuy nhiên trong việc cầu xin này chẳng phải khi nào cũng được Chúa nhậm lời. Bệnh hoạn ốm đau mà cầu xin mãi có được đâu ? Làm lụng vất vả quanh năm suốt tháng, cầu xin cho khỏi nghèo đói mà có được đâu ? Lời Chúa là lời chân lý không hề dối. Vấn đề ở chỗ chúng ta cần có Đức Tin như thế nào trong khi cầu nguyện. Cầu nguyện và Đức Tin luôn phải đi đôi với nhau. Thế nhưng Đức Tin chỉ có thể nảy nở và trưởng thành nếu chúng ta có sự kiên trì trong cầu nguyện. Đức Kitô trong Vườn Cây Dầu nói với Phêrô: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn kẻo sa chước cám dỗ. Tâm linh thì sẵn sàng còn xác thịt thì yếu đuối” ( Mt 26, 41 ).

Tỉnh thức nghĩa của nó là Nhớ, trái với Tỉnh là Mê. Chúa nói tỉnh thức và cầu nguyện, điều ấy có nghĩa cốt yếu việc cầu nguyện là để cho ta được nhớ đến Chúa ở nơi chính mình. Nếu hiểu cầu nguyện mục đích để cho ta nhớ Chúa thì có thể chẳng cần nhiều lời. Đức cố Hồng Y FX. Nguyễn Văn Thuận trong “Năm chiếc bánh và hai con cá” có kể một mẩu chuyện rất ý vị về cầu nguyện: Có ông lão tên Jim hàng ngày cứ đúng 12 giờ trưa vào trong Nhà Thờ không quá hai phút rồi đi ra. Người trông coi Nhà Thờ thắc mắc hỏi vào Nhà Thờ làm gì mà lại ra nhanh thế. Ông nói: "Vừa già vừa dốt, tôi đọc kinh theo kiểu của tôi. Giêsu, có Jim đây !”

Cái ông già Jim ấy chẳng biết có dốt thật không, nhưng chắc một điều là ông ta tin và hết lòng yêu mến Chúa Giesu. Mặc dầu vậy, đối với phần đông chúng ta không có được lòng tin yêu như ông, nhưng cũng có thể nhớ Chúa bằng cách kiên trì trong việc đọc kinh lần chuỗi Mân Côi trong gia đình, nơi Thánh Đường cùng với cộng đoàn hoặc bất cứ nơi nào, khi đợi xe, khi rảnh rỗi v.v…

Làm sao để có thể kiên trì trong cầu nguyện, đó là việc khó trong mọi việc khó. Lý do như Chúa nói “bởi vì tâm linh thì sẵn sàng còn xác thịt thì yếu đuối”. Con người do bởi Tội Nguyên Tổ là tội phân biệt nên luôn xu hướng ra bên ngoài nơi thế giới ngoại vật ( sắc, thanh, hương, vị, xú,c pháp ). Đọc kinh thì cứ chia lòng chia trí chuyện này việc kia đến nỗi chán nản bỏ cả đọc kinh. Thế nhưng nếu bỏ đọc kinh, lần hạt thì cũng chẳng còn phương thế nào để nhớ Chúa nữa.

Sở dĩ việc đọc kinh làm cho ta được nhớ đến Chúa là bởi Kinh là Lời Chúa. Đọc kinh tức là huân tập Lời Chúa ghi khắc vào trong Tâm. Tâm là cái kho chứa ( Tạng Tâm ) nó có thể chứa đến vô tận đủ loại chủng tử kể cả vô lậu hữu lậu. Lời Chúa mang giác tánh, tức cái biết sáng suốt chân thật, Thánh

12

Page 13: Ephata 627

Phaolô ví Lời Chúa như gươm bén: “Vì lời Đức Chúa Trời à lời sống, linh động sắc hơn mọi gươm hai lưỡi, đâm thấu đến nỗi chia hồn linh khớp tủy biện biệt tư tưởng và ý định của lòng người” ( Dt 4, 12 ).

Cầu nguyện với sự kiên tâm bền chí tức là huân tập Lời Chúa để cho ta có thể Nhớ Chúa trong hết cả mọi thời mọi nơi. Có nhớ Chúa được như thế thì Chúa mới nhớ đến ta. Có đồng thanh mới tương ứng, có đồng khí mới tương cầu.

PHÙNG VĂN HÓA

CÔNG GIÁO VÀ TÔNG TRUYỀNBài Giáo Lý về Giáo Hội của Đức Thánh Cha Phanxicô

Anh chị em thân mến,

Khi chúng ta tuyên xưng Đức Tin của chúng ta, chúng ta xác tín rằng Giáo Hội "Công Giáo" và "Tông Truyền". Thế nhưng ý nghĩa của hai chữ này, hai đặc tính quá quen thuộc này của Giáo Hội thực sự là gì ? Và những chữ này có giá trị ra sao đối với cộng đồng Kitô hữu cũng như đối với mỗi một người chúng ta ?

1. Công Giáo có nghĩa là phổ quát

"Chúng ta có được một định nghĩa đầy đủ và rõ ràng từ một trong những vị Giáo Phụ của Giáo Hội là Thánh Cyrilô thành Giêrusalem qua câu phát biểu:

 "Thực sự Giáo Hội được tuyên xưng là Công Giáo, tức là phổ quát, ở chỗ Giáo Hội lan tràn khắp nơi từ chân trời đến góc biển của trái đất này; và theo tính chất phổ quát cũng như không lầm lạc Giáo Hội giảng dạy tất cả mọi chân lý mà con người cần phải nhận biết liên quan đến những sự trên trời hay dưới thế" ( 18th Catechesis, 23 ).

Một dấu hiệu rõ ràng về tính chất Công Giáo của Giáo Hội đó là việc Giáo Hội nói bằng tất cả mọi ngôn ngữ. Điều này là hoa trái của biến cố Hiện Xuống ( xem sách Công Vụ 2, 1 – 13 ). Thật vậy, chính Thánh Linh giúp cho các Tông Đồ và toàn thể Giáo Hội âm vang cho đến tận cùng trái đất tất cả Tin Mừng cứu độ và tình yêu của Thiên Chúa.

Giáo Hội bẩm sinh là Công Giáo, từ gốc đã là những gì "hợp tấu" và không thể là gì khác ngoài Công Giáo, hướng tới việc truyền bá phúc âm hóa và gặp gỡ tất cả mọi người. Ngày nay Lời Chúa được đọc bằng tất cả mọi thứ ngôn ngữ, hết mọi người đều có Phúc Âm để đọc theo ngôn ngữ của mình.

Tôi xin lập lại là bao giờ cũng nên mang theo mình một cuốn Phúc Âm nhỏ, trong túi đựng hay trong túi xách mà đọc một đoạn trong ngày. Đó là điều thiện ích cho chúng ta. Phúc Âm đã lan tràn nơi tất cả mọi ngôn ngữ vì Giáo Hội, tác nhân loan truyền Chúa Giêsu Kitô Đấng Cứu Chuộc, ở trên toàn thế giới. Vì lý do đó chúng ta gọi Giáo Hội là Công Giáo vì Giáo Hội thì phổ quát. 

2. Nếu Giáo Hội bẩm sinh là Công Giáo thì có nghĩa là Giáo Hội xuất thân "lên đường", truyền giáo

Nếu các vị Tông Đồ cứ ở trên Căn Thượng Lầu, không ra đi để nguyện cầu Phúc Âm, thì Giáo Hội chỉ là Giáo Hội của những con người ấy, của thành phố ấy, của nhà tiệc ly ấy. Thế nhưng, tất cả đều đã đi vào thế giới, từ giây phút Giáo Hội được hạ sinh, từ giây phút Thánh Thần hiện xuống.

Thế nên Giáo Hội bẩm sinh là xuất thân "lên đường", là truyền giáo. Đó là những gì chúng ta diễn tả khi nhận định Giáo Hội là Tông Truyền. Chữ này nhắc nhở chúng ta rằng Giáo Hội, trên nền tảng các Tông Đồ, và tiếp tục với các vị được mời gọi để mang đến cho tất cả mọi người việc loan truyền Phúc Âm, kèm theo những dấu dịu dàng và quyền năng của Thiên Chúa. Điều này cũng xuất phát từ biến cố Hiện Xuống: thật vậy, chính vì Thánh Linh mà thắng vượt hết mọi đối chọi, thắng vượt khuynh hướng khép mình lại, trong một số ít tuyển chọn, và coi mình là thành phần lãnh nhận viên duy nhất của phúc lành Chúa ban...

13

CÙNG HỌC HỎI

Page 14: Ephata 627

Nếu có một nhóm Kitô hữu nào như thế, "Chúng tôi là thành phẩn tuyển chọn, chỉ duy một mình chúng tôi thôi", thì cuối cùng họ sẽ chết.

Họ chết, trước hết trong linh hồn của họ rồi đến thân xác của họ, vì họ không có sự sống, họ không có khả năng sản sinh sự sống cho người khác, cho những người khác.

Họ không phải là tông truyền. Chính Thần Linh dẫn chúng ta đến chỗ gặp gỡ anh chị em chúng ta, bao gồm cả những ai xa cách nhất ở hết mọi ý nghĩa của nó, nhờ đó họ có thể chia sẻ với chúng ta tình yêu thương, sự bình an và niềm vui là những tặng ân được Chúa Phục Sinh lưu lại cho chúng ta. 

3. Đối với các cộng đồng của chung ta cũng như đối với mỗi người chung ta thì trong việc thuộc về một Giáo Hội Công Giáo và Tông Truyền bao gồm những gì ?

Trước hết, có nghĩa là ôm ấp lấy Ơn Cứu Độ của toàn thể nhân loại, đừng cảm thấy dửng dưng hay xa lạ trước số phận của rất nhiều anh chị em của chúng ta, song hướng về và liên kết với họ.

Hơn nữa, nghĩa là có cái cảm quan trọn vẹn, hoàn toàn và hòa hợp của đời sống Kitô hữu, luôn loại trừ đi những chủ trương bán phần, riêng lẻ là những gì khép kín chúng ta lại. 

Việc thuộc về Giáo Hội Tông Truyền nghĩa là nhận thức rằng Đức Tin của chúng ta được gắn liền với việc loan truyền và làm chứng của chính các vị tông đồ của Chúa Giêsu, và vì thế, bao giờ cũng cảm thấy mình được sai đi, trong mối hiệp thông với chư vị thừa kế các Tông Đồ, để loan truyền, bằng một tấm lòng tràn đầy hân hoan, Chúa Kitô và tình yêu của Người cho toàn thể nhân loại. 

Đến đây tôi xin gợi nhớ những đời sống anh hùng của nhiều thật nhiều các nhà truyền giáo đã lìa bỏ quê hương của mình để ra đi rao giảng Phúc Âm ở các xứ sở khác, ở các châu lục khác. Một vị Hồng Y Brazil đã từng làm việc ở Amazon có lần đã nói với tôi rằng khi ngài đến một địa điểm, một thành phố ở miền Amazon, thì bao giờ ngài cũng đến nghĩa trang để viếng thăm các ngôi mộ của những nhà Truyền Giáo, các vị Linh Mục, các Tu Sĩ nam nữ đã đến đó rao giảng Phúc Âm, các vị Tông Đồ.

Và ngài nghĩ rằng giờ đây có thể phong Thánh cho tất cả những vị này, vì họ đã từ bỏ tất cả để công bố Chúa Giêsu Kitô.

Chúng ta hãy tạ ơn Chúa vì Giáo Hội của chúng ta đang có nhiều nhà truyền giáo, đã có nhiều vị thừa sai, nhưng dù sao vẫn cần nhiều hơn nữa ! Chúng con tạ ơn Chúa vì điều ấy. Có lẽ trong số nhiều giới trẻ, những em trai cũng như em gái đang có mặt ở đây, có người mong muốn trở thành một nhà truyền giáo: Các con cứ việc nhé ! Thật là một điều tuyệt vời được loan truyền Phúc Âm của Chúa Giêsu. Hãy hiên ngang và dũng cảm !

Giờ đây chúng ta hãy xin Chúa tái tấu trong chúng ta tặng ân Thần Linh của Người, nhờ đó hết mọi cộng đồng Kitô hữu và hết mọi người đã lãnh nhận phép rửa đều phản ảnh Mẹ Thánh Giáo Hội Công Giáo và Tông Truyền. 

Bản dịch của Đaminh Maria CAO TẤN TĨNH, BVL, http://www.zenit.org/en/articles/pope-s-general-audience-the-church-was-born-catholic-and-apostolic

PHONG CÁCH PHANXICÔBài 21. Hai Người Mẹ của ta trên đường Giêsu

Mỗi khi muốn viết về Mẹ Maria tôi lại liên tưởng đến Thomas Merton ( 1915-1968 ) Tu Sĩ OCSO. ( Ordo Cisterciensis Strictioris Observantiae ), thường được gọi là Dòng Trap, theo tên Tu Viện La Grande Trappe, một nhánh của Biển Đức. Dù viết ra đến 70 cuốn sách đào sâu chiêm niệm, cha Merton chỉ dám viết một chương ngắn trong tác phẩm New Seeds of Comtemplation - Tân Hạt Giống Chiêm Niệm – có tựa đề Người Phụ Nữ Mặc Áo Mặt Trời để nói về Mẹ Maria. Vào trước 1975, cha Merton thường viết lời giới thiệu cho những tác phẩm của mình do Thanh Bằng chuyển ngữ sang tiếng Việt.

( Trích ) "Tất cả những gì đã được viết ra về Đức Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa chứng minh cho tôi một điều là sự thánh thiện của Mẹ vô cùng chìm khuất. Những gì người ta có thể tưởng tượng ra để nói về Mẹ nhiều khi lại nói về chính họ hơn là về Mẹ. Vì Thiên Chúa mặc khải ra vô cùng ít về Mẹ, cho nên những người không biết một chút gì về con người và tính cách của

14

CÙNG NHẬN ĐỊNH

Page 15: Ephata 627

Mẹ thường có khuynh hướng nói về chính mình khi cố tâm thêm thắt điều gì đó vào những gì Thiên Chúa đã bộc lộ ra về Mẹ".

( All that has been written about the Virgin Mother of God proves to me that hers is the most hidden of sanctities. What people find to say about her sometimes tells us more about their own selves than it does about Our Lady. For since God has revealed very little to us about her, men who know nothing of who and what she was tend to reveal themselves when they try to add something to what God has told us about her ).

"Trong khi sự thánh thiện của Thiên Chúa vượt xa khỏi tầm hiểu biết của ta, sự thánh thiện của Đức Trinh Nữ còn chìm khuất hơn sự thánh thiện của Thiên Chúa. Bởi vì Thiên Chúa ít ra cũng đã nói cho ta đôi chút về Người tuy ngôn ngữ nhân loại chỉ diến tả được một phần rất nhỏ. Nhưng về Mẹ Maria, Người chỉ cho biết rất ít những gì quan trọng. Tuy vậy, ta cũng có thể nhận ra Mẹ nếu ta cũng trở nên chìm khuất trong Thiên Chúa nơi mà Mẹ đang chìm khuất. Chia sẻ sự khiêm tốn, chìm khuất, khó nghèo, ẩn mình và cô tịnh của Mẹ là cách tốt nhất để biết về Mẹ. Biết về Mẹ như thế là tìm thấy sự khôn ngoan".

( But the sanctity of God is only darkness in our minds. Yet the sanctity of the Blessed Virgin is in a way more hidden than the sanctity of God: because he has at least told us something about himself that is objectively valid when it is put into human language. But about our lady he has told us only a few important things. And yet I can find her if I too become hidden in God where she is hidden. To share her humility and hiddeness and poverty, her concealment and solitude is the best way to know her: but to know her thus is to find wisdom ( hết trích ).

Ngoài mục đích chung là cổ động vinh danh Chúa, Dòng Đồng Công còn có mục đích riêng là nhờ vào việc hiến toàn thân cho Mẹ Maria, đào tạo những Linh Mục và Tu Sĩ thánh thiện hoàn hảo (Nguồn http://www.dongcong.net/DongDongCong/LuocSuDong/MucDich.htm ). Trong chuyên mục Mẹ Maria, website của Dòng sử dụng và phổ biến tác phẩm Cuộc Đời Mẹ Maria của Maria Agrêđa ( 1602-1666 ), in tại Địa Phận Tây Đàng Ngoài, Lái Thiêu, tháng 5 năm 1882, được coi như một nguồn học hỏi chính sử về Mẹ Maria.

( Trích ) "Đến ngày 8 tháng 9, bà Anna biết mình sắp sinh ái nữ, bà sấp mình cầu xin Chúa chúc lành cho mình. Bà được ơn gìn giữ khỏi những cơn đau thông thường nơi các bà mẹ sinh con, nên bà dâng lời cảm tạ Thiên Chúa. Các Thiên Thần hầu cận Mẹ hát lên những khúc ca thiên đàng. Mẹ xinh đẹp nằm gọn trên tay thân mẫu mình. Mẹ xin các Thiên Thần ca tụng Chúa với Mẹ và nhân danh Mẹ.

Tổng Thần Gabriel được sai đến ngục Tổ Tông, để báo cho các Thánh tin Mẹ Chúa Cứu Thế đã sinh ra, một tin mừng làm cho các ngài hoan hỷ và tri ân vô ngần. Thiên Chúa lại sai các Thiên Thần rước Mẹ về Trời, trước ngai uy linh Thiên Chúa, Mẹ sấp mình thờ lạy Thiên Chúa Ba Ngôi. Ngôi Lời nâng Mẹ dạy và đặt ngồi bên hữu mình. Mẹ lãnh nhận nhiều mạc khải mới và lòng Mẹ bừng lên niềm vinh quang. Mẹ xin Chúa mau thi hành ơn nhập thể để cứu độ trần gian. Thiên Chúa đoan quyết với Mẹ là sắp được thực hiện. Thiên Chúa còn cho các Thiên Thần biết, Chúa rất hài lòng về danh hiệu Maria và Giêsu mà từ ngàn đời Ngài đã thỏa lòng".

( Nguồn: http://www.dongc o ng.net/MeMaria/CuocDoiMeMaria/02.htm )

Có thể đọc tác phẩm này bằng tiếng Anh tại http://www.themostholyrosary.com/mystical-city.htm trong đó có lời bình luận: Đơn thỉnh cầu phong Thánh cho bà Maria Agrêđa ( Sister Mary of Jesus of Agreda ) được đệ trình ngày 21.11.1671... Hy vọng rằng khi Hội Thánh Chân Thật vượt thoát được Màn Đêm Của Quỷ đang bao trùm trên mình, Bà Đáng Kính Maria Agređa sẽ nhận được vinh quang, mà hiện nay chưa được nhìn nhận đúng mức, để bước lên hàng Chân Phước và, một ngày nào đó trở thành Hiển Thánh của Công Giáo Rôma. ( The petition for her canonization was offered November 21, 1671 A.D… Hopefully when the True Church overcomes the Evil Eclipse now upon it, Venerable Mary of Agreda will receive the rare and seldom seen, honor of beatification and then hopefully someday canonization ( i.e. to be named a Roman Catholic Saint ).

Đa số Kitô Hữu đều có lòng yêu mến Mẹ Maria, nhưng cần thể hiện như thế nào mới đúng là con thảo hiếu của Mẹ ? Đi hành hương thiên lý hay tin vào những tác phẩm có nội dung như trên có thiết yếu cho hành trình Lòng Tin của ta không ? ( Trích ) "Nhớ lại chuyến đi Pleiku của một số anh chị em chúng ta cách đây mới hơn hai tháng. Tại Trung Tâm Hành Hương Đức Mẹ Mang Đen, khi thấy một nhóm khách có người đến từ khá xa như Đồng Nai, Đức Cha Hoàng Đức Oanh, Giám Mục Kontum đã nói: Thay vì chi một số tiền khá lớn cho một chuyến đi xa, nên chăng để dành tiền đó mua sách Kinh Thánh giúp cho những tín hữu nghèo không có tiền mua". ( Nguồn: 14.7.2014, Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh, OFM. http://kinhthanhchomoinguoi.org/entrydetail/135 ).

Cứ theo lời khuyên của Giám Mục Hoàng Đức Oanh, ta nên đặt việc học hỏi và quảng bá Lời Chúa cho người nghèo bên trên việc đi hành hương. Trước đây Linh Mục Chân Tín cũng từng lên tiếng

15

Page 16: Ephata 627

phê bình phái đoàn Giáo Phận Sàigòn đi hành hương Đất Thánh, cha cho rằng nên dùng thời gian và tiền bạc tiêu tốn vào chuyến đi để phục vụ người nghèo tại Việt Nam.

( Trích ) Sau khi đứng trên đỉnh núi ngắm toàn cảnh Nadarét, mọi người vào Nhà Thờ viếng Chúa, rồi quây quần bên nhau tại ngôi lều bên cạnh Nhà Thờ, cùng nhau suy niệm sự kiện Biến Hình, lần hạt Mân Côi và lắng nghe huấn từ của Đức Hồng Y. Đức Hồng Y gợi ý về Tabo như một trong những đỉnh cao của Tình Yêu Giêsu. Hãy cho Chúa và cho nhau những đỉnh cao yêu thương như thế. ( Nguồn trích và hình chụp phái đoàn Việt Nam hành hương tại Đất Thánh: http://tgpsaigon.net/baiviet-tintuc/20120525/16345 )

Theo Radio Vatican, vào ngày Lễ kính Mẹ Sầu Bi 15.9.2014 vừa qua, khi đến dâng Thánh Lễ tại Casa Santa Marta, Papa Phanxicô đã giảng:

"Đây là hy vọng của ta. Ta không phải là những đứa trẻ mồ côi. Mẹ Maria là Mẹ ta, nhưng Nhà Thờ ( Hội Thánh ) cũng là Mẹ. Mẹ Nhà Thờ được xức dầu hiến thánh khi bước đi theo cùng con đường của

Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Đó là đường vâng phục, đường đau khổ, và khi Mẹ kiên tr ì học hỏi con đường của Chúa. Mẹ Maria và Mẹ Nhà Thờ mang lại cho ta niềm hy vọng đó là Đức Kitô. Mẹ ban cho ta Đức Kitô, làm cho Đức Kitô được lớn lên nơi ta. Không có Mẹ Maria thì đã không có Đức Kitô. Không có Mẹ Nhà Thờ, ta không thể tiến lên ( trên Đường Giêsu ) được.

( And this is our hope. We are not orphans, we have Mothers: Mother Mary. But the Church is Mother and the Mother Church is anointed when it takes the same path of Jesus and Mary: the path of obedience, the path of suffering, and when she has that attitude of continually learning the path of the Lord. These two women - Mary and the Church - carry on the hope that is Christ, they give us Christ, they bring forth Christ in us. Without Mary, there would be no Jesus Christ; without the Church, we cannot go forward.

( http://en.radiovaticana.va/news/2014/09/15/pope_at_santa_marta_learning_from_our_lady_of_sorrows )

Những lời này của Papa Phanxicô đã lập tức bị chỉ trích mạnh mẽ bởi một số người cho rằng như thế là đặt Mẹ Maria và Nhà Thờ bên trên Đức Kitô. Geoffrey Grider còn lấy tiêu đề rất giật gân cho bài công kích là Papa Phanxicô chuẩn bị công bố tín điều mới: Đức Nữ Trinh là thành phần thứ tư trong Ba Ngôi Thiên Chúa. Is Pope Francis preparing to declare the ‘Virgin’ Mary to be 4th part of the trinity ( http://www.nowtheendbegins.com/blog/?p=24994 )

Tỉnh táo và khiêm tốn một tí thì có lẽ ông Grider và nhiều người khác phải nhận ra dù rất bất toàn và phải trải qua muôn vàn sóng gió, Nhà Thờ vẫn luôn là Thân Thể của Đức Kitô và chỉ nhờ ân sủng của Người mà vẫn tồn tại trong hai ngàn năm qua. Nhờ Nhà Thờ, Thánh Kinh mới được bảo tồn nguyên vẹn trong hàng ngàn năm trước khi có phong trào ly giáo vào năm 1517. Ngay cả đến Thiên Chúa cũng phải mời gọi sự cộng tác của Mẹ Maria để Con Một Thiên Chúa mới có thể trở thành con người. Nói rằng không có Mẹ Maria thì không có Đức Kitô và

không có Mẹ Nhà Thờ, ta không thể tiến lên trên đường Giêsu, cũng rất chính xác.

Trong khi cuộc đời mỗi cá nhân lại quá vắn vỏi, Mẹ Nhà Thờ lại có cả hai ngàn năm đào sâu và đúc kết hoa trái chiêm niệm về Mẹ Maria được cô đọng nơi Tín Điều Mẹ Hồn Xác Lên Trời công bố bởi Papa Piô XII vào Lễ Các Thánh 1.11.1950. Các Nhà Thờ Chính Thống và Anh Giáo cũng nhìn nhận Mẹ

16

Page 17: Ephata 627

Hồn Xác Lên Trời tuy không coi đây là một Tín Điều buộc phải tin. Đặc ân vô cùng lớn lao này của Mẹ Maria cũng chính là điều Thiên Chúa sẽ ban cho tất cả Dân Thánh của Người.

NGUYỄN TRUNG ( còn tiếp nhiều kỳ )

THẦN HỌC GIA JEFF KINLEY:

6 DẤU CHỈ THỜI CÁNH CHUNG – CHÚA GIÁNG LÂMChúng ta nghe nói nhiều tới thời cánh chung, tận thế hoặc Chúa Giêsu giáng lâm. Nhưng

rồi nghe mãi hóa nhàm nên chúng ta lại cho là bình thường. Đó là động thái nguy hại cho chính cuộc đời chúng ta. Hãy cảnh giác ! Và liệu Kinh Thánh có cảnh báo chúng ta ?

Thần học gia Jeff Kinley, tác giả cuốn “As It Was In The Days of Noah: Warnings from Bible Prophecy About the Coming Global Storm” cũng nghĩ vậy. Kinley nói: “Kinh Thánh cho biết rằng Thiên Chúa sẽ có lúc tái lâm để xét xử nhân loại. Nhưng khác với Đại Hồng Thủy, ngày đó sẽ là một sự kiện đơn giản, có thể là một loạt sự kiện xảy ra trên khắp thế giới. Đại Hồng Thủy cho thấy rằng Thiên Chúa kiên nhẫn, nhưng Ngài đặt ra giới hạn chịu đựng. Mặc dù hình phạt hủy hoại dữ dội, nhưng Ngài vẫn xét xử công bình và cho nơi trú ẩn”.

Đối với những người nghi ngờ tính hữu hiệu của Kinh Thánh hoặc không muốn nhìn nhận văn hóa ngày nay, Kinley chia sẻ 6 dấu chỉ và những gợi ý cho thấy thế giới đang đi đến ngày phán xét…

1. KHỦNG HOẢNG KINH TẾ

Qua các phương tiện truyền thông, chúng ta biết nhiều về vấn đề này. Đó là chủ đề nóng về tình trạng kinh tế. Trái khoản quốc gia Hoa Kỳ tiếp tục tăng vọt. Trên khắp thế giới, các nước lớn và nhỏ đều không thỏa mãn nhu cầu nên lún sâu vào hố nợ nần. Cũng như thời ông Nôê, người ta phải nhờ vào các nước khác để sinh tồn, và họ phải trở về với Thiên Chúa. Kinh Thánh cho biết: “Nếu dân Ta, dân vốn kêu cầu Danh Ta, mà biết hạ mình xuống khẩn nguyện và tìm kiếm Nhan Ta, từ bỏ những con đường xấu xa mà trở lại, thì Ta, từ trời, Ta sẽ nghe và thứ tha tội lỗi nó và sẽ phục hưng xứ sở của nó” ( 2 Sb 7, 14 ).

2. BẠO LỰC và ÁN MẠNG

Kinley nói rằng có một bệnh dịch không thể kiểm soát là thù hận và bạo lực trong thế giới chúng ta, đó là điều hiển nhiên trong các loại tội phạm khủng bố vì thù hận, trong các nhóm tôn giáo, giết người có động lực thúc đẩy, giết những người vô tội và trẻ em trên khắp thế giới – điển hình là những người bị tàn sát dã man tại Irắc trong những ngày vừa qua ( tháng 8 năm 2014 ). Năm 2011, hơn 1, 2 triệu vụ phạm pháp dữ tợn đã xảy ra tại Hoa Kỳ – mỗi năm có 15.000 vụ giết người. Chúa Giêsu đã nói trước: “Thời ông Nôê thế nào thì ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy” ( Mt 24, 37 ). Thời ông Nôê dầy bạo lực và sự xét xử của Thiên Chúa. Còn hơn là khuyến khích sợ hãi và lo lắng, Kinley động viên các Kitô hữu tìm hiểu các cách thể hiện tiên tri ngày nay và sống Đức Tin viên mãn là chia sẻ Đức Giêsu Kitô với người khác.

3. TRỘM CƯỚP

Ngày nay, thông tin cá nhân và tài chính không còn an toàn vì các hacker ( kẻ cắp dữ liệu ). Mối quan ngại này bao gồm cả mật khẩu của điện thư ( Email passwords ), hình ảnh webcam và điện đàm. Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng kẻ trộm cắp không làm gì khác hơn là giết người và cướp của. Chúng ta hiểu thời đại chúng ta theo nghĩa đen, nhưng qua con mắt của Kinh Thánh, kẻ thù đang cố gắng ăn cắp tính đồng nhất hoặc sự nhân dạng của chúng ta ( giống như trộm cướp thẻ căn cước ). Kinley khuyên các Kitô hữu “sống khôn ngoan và cứu lấy thời đại của chúng ta”.

4. VÔ LUÂN

Thế hệ này mê tình dục quá độ và coi thường tâm linh. Biên độ luân lý hầu như không còn trong văn hóa tự do tình dục, thoải mái chia sẻ các hình ảnh “đen”, kể cả âm thanh và văn bản. Các phương tiện di động ( điện thoại, ipod, ipad, iphone, … ) và mạng lưới xã hội ( facebook, twitter, youtube, … ) đầy những thứ độc hại. Kinley nhận xét: “Như trong thời ông Nôê, thời đại chúng ta là thế giới ưa tình dục, và ngày nay người ta dùng để bán đủ thứ – từ chiếc kẹo cao-su tới xe hói. Tình dục xuất hiện khắp nơi”.

17

CÙNG CẢNH BÁO

Page 18: Ephata 627

5. BÁCH HẠI KITÔ GIÁO

Năm 2011, gần 100 triệu Kitô hữu bị bách hại trên khắp thế giới. Năm 2012, con số này tăng gần gấp đôi. Kinley shares that the Bible reaffirms this as Chúa Giêsu nói: “Bấy giờ, người ta sẽ nộp anh em, khiến anh em phải khốn quẫn, và người ta sẽ giết anh em; anh em sẽ bị mọi dân tộc thù ghét vì danh Thầy. Bấy giờ sẽ có nhiều người vấp ngã. Người ta sẽ nộp nhauvà thù ghét nhau. Sẽ có nhiều ngôn sứ giả xuất hiện và lừa gạt được nhiều người. Vì tội ác gia tăng, nên lòng yêu mến của nhiều người sẽ nguội đi. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát” ( Mt 24, 9 – 13 ).

6. ĐỨC TIN GIẢM SÚT

Thánh Phaolô nói: “Vào những thời cuối cùng, một số người sẽ bỏ Đức Tin mà theo những thần khí lừa dối và những giáo huấn của ma quỷ; đó là vì trò giả hình của những tên nói dối mà lương tâm như bị thích dấu sắt nung” ( 1 Tm 4, 1 – 2 ). Thời đại chúng ta có nhiều niềm tin sai lạc, các triết lý thời đại mới, và các bậc thầy tâm linh. Khi đến ngày tận thế, sẽ có nhiều các tiên tri giả, họ tự xưng là Đức Kitô. Kinley tin rằng việc phục hưng trong Giáo Hội là cách mới và không được đề cập trong Kinh Thánh.

VĨ NGÔN: “ĐỪNG SỢ, THIÊN CHÚA LUÔN CHE CHỞ BẠN”

Tác giả Kinley nhắc nhở chúng ta rằng trong thời ông Nôê cũng như ngày nay, sự công chính và thánh thiện của Thiên Chúa luôn đứn vững. Khi các Kitô hữu biết trước sự trở lại của Đức Kitô, thì họ cũng phải như ông Nôê là biết sống sao cho người khác thấy mà trở về với ơn cứu độ. Hãy sẵn sàng chiến đấu và can đảm như lời Chúa nói với Ápram trước khi trở thành Tổ phụ Ápraham: “Ta là Thiên Chúa Toàn Năng. Ngươi hãy bước đi trước mặt Ta và hãy sống hoàn hảo. Ta sẽ đặt giao ước của Ta giữa Ta với ngươi, và Ta sẽ cho ngươi trở nên đông, thật đông. Ông Ápram cúi rạp xuống” ( St 17, 1 – 2 ).

JANA DUCKETT, Bản dịch của TRẦM THIÊN THU từ Beliefnet.com

NHẬN ĐỊNH VỀ THẢM HỌA "NHÀ NƯỚC HỒI GIÁO"Trên chuyến phi cơ từ Hàn Quốc trở về sau năm ngày thăm viếng, Papa Phanxicô được báo chí

hỏi Ngài có ủng hộ hành động không tập của Hoa Kỳ tấn công lực lượng Hồi Giáo cực đoan mệnh danh là “Nhà nước Hồi Giáo” đang bao vây tàn sát người thiểu số Yazidi hay không, Ngài trả lời, nguyên văn là: “Trong những trường hợp đó, ở nơi nào có sự gây hấn, xâm lược bất công, tôi chỉ có thể nói hành động chặn đứng những kẻ xâm lược sai trái là hành động chính đáng”. Giới truyền thông quốc tế nhận định có một sự thay đổi trong lập trường của Vatican thường vẫn phản đối việc sử dụng lực lượng quân sự. Báo Express đặt câu hỏi ở trang bìa: Hawkish Pope ? Giáo Hoàng diều hâu ?

Cần nói rõ Papa Phanxicô không nói “đánh bom” hay “gây chiến”, chỉ nói “chặn đứng” mà thôi. Những phương tiện có thể được sủ dụng để chặn đứng kẻ xâm lược phải được lượng định. Vị chủ chăn của người Công Giáo nói tiếp: “Can thiệp như vậy không nên do một quốc gia quyết định đơn phương; rất nhiều lần nhiều quốc gia đã dùng cớ ngăn chặn kẻ xâm lược để tung ra một cuộc chiến tranh nhằm mục đích xâm chiếm”. Suy xét câu trả lời đó, ta thấy không hẳn ngài ủng hộ chiến tranh hay việc sử dụng quân đội. ( Nguồn http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/vatican-ratifies-military-actions-against-genocide-does-nt-it-08212014142948.html )

NGUYỄN TRUNG

BÌNH LUẬN THÔNG ĐIỆP “HÃY RA ĐI”Ngày 3.9.2014, cựu Thủ Tướng Úc Julia Gillard gởi một thông điệp đến cộng đồng Hồi Giáo với

nội dung “Hãy Ra Đi”.

18

Page 19: Ephata 627

Hàng trăm tín đồ Hồi Giáo quốc tịch Úc đến Syria và Iraq “thánh chiến” trong ISIS ( Quốc Gia Hồi Giáo ). Một người trẻ tuổi đã post lên Internet hình ảnh một người của ISIS đang cười khoái trá giơ cao thủ cấp một nạn nhân còn bê bết máu.

Nền văn hóa Úc phát triển qua hai thế kỷ bởi hàng triệu người mưu cầu tự do. Đại đa số dân Úc tin vào Thiên Chúa. Đây không phải là những người cánh hữu cực đoan. Chính nền tảng Kitô đã lập nên quốc gia này. Nếu quý vị chống lại Thiên Chúa của chúng tôi thì hãy tìm một nơi khác để nương náu, bởi vì Thiên Chúa là một phần của văn hóa của chúng tôi !

Chúng tôi công nhận tín ngưỡng của quý vị mà không đặt nghi vấn nào. Chúng tôi yêu cầu quý vị chấp nhận chúng tôi, sống hài hòa và vui hưởng thanh bình cùng chúng tôi.

Đây là XỨ SỞ CỦA CHÚNG TÔI, ĐẤT ĐAI CỦA CHÚNG TÔI và LỐI SỐNG CỦA CHÚNG TÔI. Chúng tôi cống hiến mọi cơ hội cho quý vị để hưởng thụ mọi thứ đó. Nhưng nếu quý vị bất mãn về Quốc Kỳ, Lời Tuyên Thệ và Thiên Chúa Giáo của chúng tôi cũng như lối sống của chúng tôi, thì hãy tận dụng quyền tự do lớn nhất của người Úc là “Hãy ra đi”.

Chúng tôi không ép các quý vị đến đây. Chính quý vị đã xin được đến đây ! Vậy thì hãy chấp nhận

quê hương đã dung nạp quý vị. Sự lố bịch của kẻ ăn xin được chủ cho vào nhà trú ngụ vì lòng nhân đạo và tinh thần bác ái Thiên Chúa giáo, Sau khi đã no cơm ấm áo, lại buộc chủ nhà phải tuân theo luật lệ “Shiara” quái gở đem đến từ địa ngục quê hương của hắn. Một Hồi Giáo Úc từng sỉ nhục ca sĩ Lady Gaga, sau đó đã miễn cưỡng phải xin lỗi; có lẽ vì sợ bị cúp welfare, đồng tiền mồ hôi mà người Úc đã góp đóng thuế để nuôi ông !

Các giáo sĩ Hồi Giáo luôn đòi jihad ( thánh chiến ) trên bục giảng mỗi thứ sáu bởi vì nỗi hậm hực thua kém nhân loại về mọi mặt nhưng không nhận ra lỗi tại mình. Đó là chính sách đa thê và ngăn cấm phụ nữ – lực lượng đông đảo hơn một nửa dân số nhân loại – lao động sản xuất. Lợi tức của một người đàn ông Hồi Giáo không đủ nuôi vợ con. Huống hồ năm bảy vợ đều bị cấm đi làm cộng thêm mấy chục đứa con thì nghèo là lẽ tất nhiên ! Trách ai bây giờ ? Tại Do Thái ? Tại Thiên Chúa Giáo ? Tại người Âu ? Tại người Mỹ ?

Farrukh Saleem, tín đồ Hồi Giáo Sunni, giám đốc điều hành Center for Research and Security Studies tại Pakistan mô tả chân thực về thực trạng yếu kém tự phát của xã hội Hồi Giáo:

“Cả thế giới chỉ có 14 triệu người Do Thái, chỉ bằng 1% người Hồi Giáo. Thế mà họ có các nhà khoa học thiên tài Albert Einstein, Sigmund Freud... nhà kỹ nghệ Stanley Mezor, Leo Szilard… nhà tài chính Ralph Lauren, Lewis Strauss... viện trưởng đại học Richard Levin, Alan Greenspan… chính trị gia Henry Kissinger, Karl Marx... nhà truyền thông Wolf Blitzer, Barbara Walters... nhà từ thiện George Soros, Walter Annenberg... nhà thể thao Mark Spitz, Boris Becker... đạo diễn Steven Spielberg Oliver Stone… tài tử Harrison Ford, Tony Curtis, Charles Bronson, Sandra Bullock, Woody Allen, Paul Newman, Peter Sellers, Dustin Hoffman, Michael Douglas, Ben Kingsley, Cary Grant, William Shatner… và vô số người nổi bật trong các ngành nghề khác.

Trong 105 năm qua, 14 triệu người Do Thái đã đoạt 180 giải Nobel so với chỉ có 3 người trong tổng số 1,5 tỷ tín đồ Hồi Giáo, tức 20% dân số thế giới. Người Hồi Giáo đông gấp đôi người Ấn Giáo, gấp đôi Phật Giáo, gấp 100 lần Do Thái Giáo. 57 quốc gia Hồi Giáo chỉ có 500 trường đại học; tức là 3 triệu người mới có 1 trường. Thế mà riêng nước Mỹ có 5.758 trường, Ấn Độ có 8.407 trường. Bảng xếp hạng Top 500 trường đại học vào năm 2004 của Shanghai Jiao-tong University đã không có một trường nào tại các nước Hồi Giáo. 90% dân số theo Thiên Chúa Giáo biết chữ. Tại các xứ theo Hồi Giáo, cứ 1 triệu dân mới có 230 khoa học gia. Riêng Mỹ mỗi triệu dân có 4.000 khoa học gia, Nhật có 5.000. Singapore có 360 nhật báo so với 23 ở Pakistan là một nước Hồi Giáo tiến bộ nhất.

Farrukh Saleem kết luận: Dân Hồi Giáo thiếu giáo dục hay đúng hơn là giáo dục sai. Trường học chỉ lo dạy kinh Koran ( các nước XHCN thì lo dạy ý thức hệ Mác-Lê ), Đền Thánh chỉ chứa súng đạn, Giáo Sĩ chỉ hò hét jihad và xúi bẩy tín đồ cuồng tín “tử đạo” để được phần thưởng 72 trinh nữ trên thiên đường, công nhân ngừng làm việc ngày 5 lần hướng về Mecca; đình chỉ sản xuất để cầu nguyện cho sự tiêu vong của Mỹ, Âu Châu, Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo, để cho có “hòa bình” Hồi Giáo, trong đó phụ nữ bị nhốt trong nhà không được ra ngoài xã hội; đàn ông đa thê nên không nuôi gia đình đông đảo và ngay chính bản thân mình !

Tất cả những nhược điểm trên đã tạo nên yếu kém về kinh tế để rồi kết án và đổ thừa tất cả cho Do Thái, Mỹ và Thiên Chúa Giáo ! Kinh Koran, một phó bản sao từ Kinh Thánh Thiên Chúa Giáo đã lập

19

Page 20: Ephata 627

lại 99 lần danh xưng Allah không một chút từ bi nhân hậu như hình ảnh Đức Chúa Trời trong bản gốc viết trước đó hơn 500 năm !

Koran ( 2:256 ) dạy Allah chỉ chấp nhận một tôn giáo duy nhất là Hồi Giáo ! Koran ( 4:34 ) cho phép đa thê và đánh đập các bà vợ nếu họ không tuân phục. Cô bé Mosammet Hena 14 tuổi ở Shariatpur, Bangladesh bị bốn Giáo Sĩ toan cưỡng hiếp nhưng bất thành, đã dùng quyền “cảnh sát tôn giáo” trừng phạt cô 100 roi. Họ đánh đến roi thứ 70 thì cô đã tắt thở ! Aisha 18 tuổi ở Afghanistan bị Taliban xẻo đứt mũi về tội bỏ nhà ( ảnh đăng trên bìa báo TIME ).

Hàng triệu phụ nữ khác phải sống tù ngục vì nhân danh Mohammad mà không có báo chí nào đưa tin ! ISIS cắt đầu ký giả James Foley ( Công Giáo ), ký giả Steven Sotloff ( Do Thái Giáo ) và ký giả David Haines ( Tin Lành ) đã vẽ lên bức tranh Koran lý tưởng “Hãy dùng gươm để đối xử với bọn ngoại giáo không tin theo ta” ( Mohammad ) !

Đạo CHÁNH hay TÀ là ở chỗ hiếu sinh hay hiếu sát, hiếu hòa hay hiếu chiến, vị tha hay vị kỷ, thứ tha hay trừng trị, thương yêu hay hận thù, cho đi hay tước đoạt, giải thoát hay nô lệ. Dân tộc văn minh hay man di mọi rợ là ở chỗ dân tộc ấy đối xử với trẻ em và phụ nữ như thế nào ( giết thai nhi có phải là văn minh không ? ). Hãy nhìn phụ nữ Hồi Giáo bị trùm mền buqa từ đầu tới chân; bị cấm ra khỏi nhà một mình, không có âm nhạc; chỉ có bốn cái loa phát ra tụng kinh Koran suốt ngày đinh tai nhức óc; trong khi các nữ nhạc công xinh đẹp tươi cười ngồi ngang hàng với các bạn nam trong dàn nhạc giao hưởng ở thành Vienna trình diễn tấu khúc Chopin, Beethoven... Man di mọi rợ là thế, văn minh là thế đấy.

Thế giới ngày càng tỉnh thức, thông điệp của Julia Gillard đã là hồi chuông cảnh báo để nhân loại về nền “hòa bình Hồi Giáo” mưu toan áp đặt luật Shiara trên toàn địa cầu – ngõ hầu kết thúc trận thánh chiến thứ năm.

Ta không thể có chọn lựa nào khác.

HÀ BẮC, tham khảo các tài liệu của NY Times, TIME, Christian & Science Monitor và Internet,

đăng trên http://www.baocalitoday.com/vn/tin-tuc/binh-luan/

5 THÁNH BỔN MẠNG NHỮNG NGƯỜI MẸNgười Công Giáo tôn kính các Thánh là những anh

hùng Đức Tin. Chúng ta noi gương các Thánh sống thánh thiện, và cầu xin họ nguyện giúp cầu thay, tin tưởng họ chuyển lời cầu của chúng ta lên Thiên Chúa. Mỗi người Công Giáo đều có một hoặc hai vị Thánh Bổn Mạng ( kể cả các Kitô hữu Tin Lành Lutheran ).

Mỗi ngành nghề cũng có vị Thánh Bổn Mạng: Thánh Tu Sĩ Paschal ( 1540-1592 ), Bổn Mạng các Đại Hội Thánh Thể, Thánh Lm. Vinh Sơn Phaolô ( 1580-1660 ) là Bổn Mạng các hội từ thiện, Thánh Lm. Gioan Lasan ( 1651-1719 ) là Bổn Mạng các giáo viên, Thánh Lm. Tiến Sĩ Giêrônimô ( 345-420 ) là Bổn Mạng các dịch giả, Thánh nữ Louise Marillac ( † 1660 ) là Bổn Mạng những người hoạt động xã hội, Thánh Lm.

Giêrônimô Êmilianô ( 1481-1537 ) là Bổn Mạng trẻ mồ côi và trẻ bị bỏ rơi, Thánh Giuse Arimathêa là Bổn Mạng những người mai táng, Thánh Giles ( † 710 ) là Bổn Mạng người nghèo và người khuyết tật, Thánh Gm. Tiến Sĩ Isiđôrô Seville ( 560-636 ) là Bổn Mạng Internet, Thánh Lm. Vincentê Ferriô ( 1350-1419 ) là Bổn Mạng những người hòa giải, Thánh Matt Talbot ( 1856-1925 ) là Bổn Mạng thợ xây và người cai nghiện rượu, Thánh Giáo Hoàng Tiến Sĩ Albertô Cả ( 1206-1280 ) là Bổn Mạng các khoa học gia và triết gia, Thánh Tử đạo Catarina Alexandria ( † 310 ) là Bổn Mạng học sinh, sinh viên, giáo viên, quản thủ thư viện và luật sư, Chân Phước Lm. Gioan Fiesole ( 1400-1455 ) là Bổn Mạng các họa sĩ,

20

CÙNG HIỆP THÔNG

Page 21: Ephata 627

Chân Phước Sêbastianô Apariciô ( 1502-1600 ) là Bổn Mạng ngành du lịch, Chân Phước Phêrô Gonzalez ( † 1246 ) là Bổn Mạng các thủy thủ và ngư dân…

Riêng các người mẹ có 5 vị Thánh Bổn Mạng. Mỗi vị Thánh nổi bật về một phương diện của thiên chức làm mẹ. Vị thánh nào cũng nuôi con cái sống nhân đức và thánh thiện.

THÁNH MẪU MARIA – NHÂN ĐỨC

Đức Maria cho chúng ta mẫu gương hoàn hảo về nhân đức, vì Đức Mẹ là “nữ tỳ đầy ân phúc”. Ý Mẹ luôn là xin vâng Thánh Ý Chúa, Mẹ khiêm nhường đón nhận Ý Chúa khi được chọn làm Thân Mẫu của Đấng Cứu Thế. Nhưng cuộc đời Mẹ cũng đầy gian nan thử thách. Mẹ sống trong cảnh nghèo và phải bôn ba đến đất khách quê người ( Ai Cập ), xa gia đình và bạn bè, khi là người mẹ trẻ. Mẹ cũng phải chăm sóc Chúa Con từng chút, luôn ở bên Con, và lo lắng khi lạc mất Con.

Trong năm có nhiều lễ kính nhớ Đức Mẹ, nhưng đặc biệt nhất là lễ Mẹ Thiên Chúa, ngày 1 tháng 1.

THÁNH GIANNA – HY SINH

Thánh Gianna là Thánh của thời đại chúng ta. Bà là một người mẹ và là bác sĩ khoa nhi. Bà hoạt động không mệt mỏi để giúp đỡ cộng đồng. Bà hy sinh bằng cách chấp nhận chết để đứa con được sống. Khi mang thai đứa con thứ tư, bà được chẩn đoán bị ung thư tử cung, nhưng bà cương quyết không phá thai, không cắt tử cung, chịu đựng đau đớn để thai nhi được sống. Bà qua đời ngay sau khi sinh con. Người con này ngày nay còn sống và rất tích cực trong việc bảo vệ sự sống.

Lễ Thánh Gianna ngày 28 tháng 4.

THÁNH MONICA – KIÊN TRÌ

Thánh Monica là mẹ của Thánh Augustinô, bà chịu đựng đau khổ nhiều vì con trai. Hồi trẻ, Thánh Augustinô sống buông thả và tội lỗi, làm ngơ mọi lời khuyên dạy của mẹ. Thánh Monica cương quyết kiên trì cầu nguyện cho con trở lại, bà theo con đi tới bất cứ nơi nào. Cuối cùng, bà được Thiên Chúa bù đắp là cho Augustinô trở lại, trở thành Linh Mục, rồi làm Giám Mục. Các sách của Thánh Augustinô có ảnh hưởng mạnh cho tới ngày nay.

Lễ Thánh Monica ngày 27 tháng 8.

THÁNH ELIZABETH ANN SETON – CHỊU ĐỰNG

Thánh Elizabeth là vị Thánh đầu tiên của Hoa Kỳ. Bà được nuôi dạy theo Tân Giáo ( Episcopal church ), kết hôn với một thương gia giàu có và có 5 người con. Buồn thay, việc kinh doanh của chồng bị phá sản, rồi chồng bà mất vì bệnh lao phổi. Bà trở thành góa bụa, rồi bà gia nhập Công Giáo và mở trường học để nuôi con. Khổ chồng lên khổ, 2 con gái của bà theo nhau qua đời, nhưng bà vẫn tin tưởng và hy vọng. Cũng như chồng, bà bị lao phổi và qua đời ở tuổi 46.

Lễ Thánh Elizabeth Ann Seton ngày 4 tháng 1 ( Ảnh họa chân dung Thánh nữ )

THÁNH JUDITH – GIẢN DỊ

Thánh Judith sinh trưởng trong một gia đình giàu có ở Đức Quốc. Bà kết hôn với một người quý tộc và có 7 người con. Chồng bà sống hoang phí, nhưng bà vẫn nhẹ nhàng và khéo léo khuyên nhủ chồng sống giản dị để có dư tiền cho người nghèo. Bà dạy các con sống giản dị và quan tâm những người bất hạnh. Sau khi chồng qua đời, và các con đã trưởng thành, bà bán hết tài sản rồi vào Dòng tu, dành hết phần đời còn lại để giúp đỡ những người nghèo và các bệnh nhân.

Lễ Thánh Judith ngày 5 tháng 5.

TRẦM THIÊN THU

NGƯỜI PHỤ NỮ QUAN TRỌNG NHẤT TRONG CUỘC ĐỜI CỦA TÔI KHÔNG PHẢI MẸ, MÀ CHÍNH LÀ BÀ NỘI...

21

CÙNG CẢM NHẬN

Page 22: Ephata 627

Bà Nội không được ăn học nhiều, mới lớp 2 đã phải nghỉ giữa chừng để tần tảo mưu sinh, kiếm tiền phụ giúp gia đình.

Bà làm bạn với gánh mì từ rất sớm. Nghe kể rằng, ngày xưa mì Quảng bà Sáu Tuyển ngon nổi tiếng ở Đà Nẵng, lại rẻ nữa. Bà Nội hay gánh đến bán trước cổng viện Thần Học, là nơi chuyên đào tạo các Mục Sư, tại chốn được mệnh danh là "cái nôi của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam", nên đa số các mục sư sau này đều biết đến Bà...

Bà Nội chỉ có một người em trai duy nhất, kém Bà đến 12 tuổi là cố Mục Sư Nguyễn Văn Vạn. Tuy không được học hành đàng hoàng, nhưng Bà Nội cố gắng lo cho em mình rất chu đáo. Ông cậu hồi đó tốt nghiệp xuất sắc, biết nói nhiều thứ tiếng, và được đi đến nhiều quốc gia trên thế giới theo lời mời.

Ông được vinh dự dùng chung những buổi tiệc sang trọng với các vị lãnh đạo... Tuy nhiên, do căn bệnh đau dạ dày hành hạ, nên ông chỉ có thể ăn được bánh mì khô, là thứ duy nhất ông vẫn luônmang theo bên mình.

Ông cậu của tôi cũng chính là người đã soạn lời Việt cho bản thánh ca bất hủ "Tiệc Thánh" – một nhạc phẩm được lưu truyền trong sách Thánh Ca của Tin Lành , thường được xướng lên giữa hội chúng vào mỗi đầu tháng của bữa tiệc ly.

Với Bà Nội, lúc nào ông cậu cũng thể hiện lòng biết ơn, kính trọng tuyệt đối. Ông mất trước Bà tôi khoảng một năm tại Mỹ, hưởng thọ 85 tuổi.

Bà Nội thương hai chị em tôi nhất trong đám con cháu, có lẽ do chúng tôi không có mẹ. Đến giờ, tôi vẫn còn nhớ như in hình ảnh Bà ngồi, một tay quạt cho tôi ngủ, tay kia đưa nôi à ơi ru thằng em kế... Hễ có đồng nào cũng đều chắt chiu, cắc củm, dấm dúi nuôi các cháu ăn học...

Cứ thế, chúng tôi lớn dần lên trong tình yêu thương và sự chăm sóc của Bà và Ba. Riết rồi, cũng chẳng thèm bận tâm, vì sao mình không có mẹ nữa...

Bà Nội tôi làm thơ rất hay, dù không biết chữ, nhất là thể loại châm biếm. Đứa nào bị Bà làm thơ trêu thì vừa tức, vừa buồn cười, nhưng đều nói nhỏ với nhau rằng: "Công nhận Bà mình giỏi thật ! Nếu ngày xưa mà được ăn học đàng hoàng, chắc có khi cũng chẳng thua gì Hồ Xuân Hương hay Bà Huyện Thanh Quan đâu !"

Lúc nào trong lòng bà, chúng tôi cũng là những đứa giỏi giang, xinh đẹp và đáng tự hào nhất. Bà không ngần ngại bộc lộ điều đó với những đứa cháu khác. Chính vì vậy mà chị em tôi bị chúng nó ganh tỵ, ghét bỏ, thậm chí tẩy chay...

Bà Nội mất năm 97 tuổi. Di nguyện tha thiết nhất trong đời là được nằm sát bên mộ ông Nội đã được thực hiện ( Ông tôi mất trước đó rất lâu, trước cả khi chúng tôi chào đời ). Tang lễ Bà được cử hành trọng thể ở Hội Thánh Tin Lành Đà Nẵng, là nơi mà Bà đã gắn bó , và có rất nhiều kỷ niệm. Nhiều người tôi chưa bao giờ gặp đã đến nhìn Bà lần cuối cùng. Họ oà khóc tiếc thương... Những câu chuyện, tôi chưa bao giờ nghe, được các vị Mục Sư thay phiên nhau đọc trong phần kể về tiểu sử – cũng như cuộc đời yêu mến và tin kính Chúa vô đối của Bà...

Bà Nội của tôi, tuy không giàu, nhưng Bà đã ký thác lại cho chúng tôi một tài sản quý giá, đủ để tôi sử dụng hết trong những năm tháng sống còn lại trên đất của mình. Đó chính là: tình yêu thương và Đức Tin cậy, vâng lời...

Tôi đã không khóc nhiều sau khi Bà qua đời. Bởi vì tôi biết, Bà tôi đang ở một nơi rất vinh hiển và đẹp đẽ...

TRANG LE, 30.7.2014

ĐẲNG CẤP CỦA MỘT DÂN TỘCLâu nay chúng ta hay nói đến lòng tự hào dân tộc mà quên rằng một dân tộc còn có "đẳng cấp".

Trong một trận đấu bóng đá, bình luận viên hay nói "cầu thủ ấy ở một đẳng cấp khác" nhưng trong cuộc sống hàng ngày ta ít khi suy nghĩ đến điều này. 

Chẳng hạn hành động ở lại lượm rác của khán giả Nhật sau một trận đấu ở World Cup đã chứng tỏ họ ở một đẳng cấp khác. Việc 200 người lính cứu hỏa Mỹ hy sinh khi làm nhiệm vụ trong ngày 11/9 và mới đây là việc bác sĩ Brantley bị nhiễm Ebola cũng chứng tỏ họ ở một đẳng cấp khác. Tuy vậy đẳng cấp dân tộc không chỉ đến từ những hành động đặc biệt mà còn xuất phát từ những việc rất đời thường.

22

CÙNG BÌNH LUẬN

Page 23: Ephata 627

Chế độ CS Việt Nam lâu nay đã ru ngủ thế hệ trẻ Việt Nam vào những niềm tự hào giả tạo. Theo Huy Đức năm 1991, khi thăm chính thức Thái Lan, ông Võ Văn Kiệt nói: "Chúng tôi tự hào đã đánh thắng hai đế quốc to". Thủ tướng Thái Lan đáp lời: "Chúng tôi tự hào vì không phải đánh nhau với đế quốc to nào cả". Chỉ một câu nói đã đánh giá được tầm vóc của hai nhà lãnh đạo của hai nước. 

Chính niềm tự hào này đã đẻ ra những con người cuồng trí, mang lá cờ đỏ đi khoe khắp thế giới. Trong khi ở một góc độ khách quan, một người bạn Hàn Quốc đã nói với tôi: "Tao không nghĩ nước mày đã đánh thắng mấy đế quốc to, tao nghĩ nước mày đã đuổi đi những nền văn minh của nhân loại".

Hóa ra niềm tự hào giành độc lập của Việt Nam trong con mắt người nước ngoài chẳng đáng giá lấy một xu. Bởi vì thực tế là giá con gái Việt Nam ở Hàn Quốc được niêm yết công khai thành nhiều loại cho đàn ông Hàn chọn lựa. Và hình ảnh mấy chục cô gái Việt khỏa thân để bọn buôn người định giá vẫn là một vết nhục khó chối cãi. Vậy thì khoe sự hiếu chiến của mình ra để làm gì ?

Như vậy đẳng cấp của dân tộc đến từ sự văn minh trong quan hệ đối xử giữa người với người. Đây là giá trị có tính trường tồn. Đây là điều mà Nguyễn Trường Tộ và sau đó là Phan Châu Trinh đã nhận ra được. Các cụ đã đặt nền móng và khuyến khích một phong trào Tây Du. Bởi các cụ hiểu một anh nông dân không thể thoáng chốc lột phèn để trở thành nhà quý tộc. Sự cao quý chỉ đến từ việc học. Nhưng phải bắt đầu từ việc khai phá ý thức.

Đáng tiếc là chế độ CS luôn ca ngợi giai cấp công nông và đả phá quý tộc, tư sản. Đây là một hành động kéo lùi lại đẳng cấp dân tộc. Bởi khi họ ra giữa thế giới họ mới nhận thấy người nước ngoài nhìn mình với cặp mắt như thế nào. Có những việc tưởng như đơn giản nhưng một anh nông dân không thể làm nổi.

Đó là việc dùng xong một tờ giấy gói phải cuốn lại bỏ vào túi áo, quần chờ gặp thùng rác mới vứt bỏ. Đó là việc thấy người ta đi trước một bước chân phải dừng lại nhường đường. Đó là việc luôn nói "cám ơn", "xin lỗi" ngay cả khi mình không có lỗi… Đó là việc giữ im lặng ở nơi công cộng, xếp hàng ở những nơi cần xếp hàng. Bởi lẽ khi ra ngoài trên trán anh không có khắc mấy chữ là anh vừa đánh thắng mấy đế quốc to, người ta chỉ biết là anh ăn to, nói to, khạc nhổ to... mà thôi. Đừng phê phán sự kỳ thị bởi chính mình làm cho người khác kỳ thị.

Thế nhưng đây là một loại văn hóa từ lâu bị bỏ quên. Quên lâu đến nỗi mà khi có một dân tộc khác chỉ làm cái việc đơn giản là cúi đầu nhặt rác thôi thì cả dân tộc mình đã ồ lên khen ngợi, ngưỡng mộ cho rằng còn lâu mình mới làm nổi. 

Quên, chỉ vì cả dân tộc chỉ thích làm anh nông dân vô học hơn là làm ông quý tộc cao quý. Quên, chỉ vì không thèm đếm xỉa đến những việc bình thường khiến cả xã hội là một bãi rác, nhà nhà là những đống rác và mỗi người là một chiếc thùng rác di động. Quên, vì chỉ luôn nghĩ đến lý tưởng độc lập, tự do, dân chủ, giàu mạnh còn phần còn lại chỉ là đồ... rác !

Có thể có người nói rằng "đẳng cấp" không thể sinh ra từ nghèo đói. Một thể chế chính trị bất công không thể tạo ra một dân tộc có đẳng cấp. Phải phá trước mới xây sau. Nhưng họ lại quên rằng nếu xây cái mới trên những vật liệu cũ thì cũng như không. Căn nhà lại sụp nữa. Cho nên phải vừa phá vừa xây.

Nhưng phải thừa nhận một điều rằng, hơn 80 năm qua nếu không có các cuộc cách mạng của giai cấp công nông, với phong trào Tây học và chí cầu tiến, đẳng cấp của dân tộc Việt không xuống đến mức thấp như thế. Khi tấm hộ chiếu Việt luôn bị săm soi khi qua cửa hải quan các nước. Khi các tấm bảng "coi chừng người Việt ăn cắp" vẫn còn đầy trên thế giới. Khi những ngài "Giăng giăc ê rô", "Việt Nam, Cuba thay nhau canh giữ thế giới", các sứ thần "Chân dép lốp mà lên tàu vũ trụ" ngày một nhiều, ngày một hạ thấp bảng tín dụng đẳng cấp của dân tộc. Có lẽ cốt khỉ vẫn hoàn cốt khỉ, chừng nào khỉ vẫn còn chưa muốn đứng thẳng trên hai chân để làm người.

DƯƠNG HOÀI LINH

TÀN NHẪN

23

Page 24: Ephata 627

Tôi không có dịp đi nước ngoài nhiều, nên không biết ở ngoài người ta có hệ thống chăm sóc sức khỏe cho lãnh đạo hay không. Nhưng nhìn từ góc độ y đức tôi thấy chuyện dành ra một tài khoản và ban bệ chỉ đểlo chuyện sức khỏe cho lãnh đạo thật là vô minh.

Thời còn làm trong bệnh viện nhà nước tôi chứng kiến nhiều cảnh đau lòng. Thường dân không có thuốc phải nằm chờ chết. Cán bộ cao cấp thì được lệnh mua thuốc ngoại, giá bao nhiêu cũng được duyệt.Thường dân nằm la liệt hành lang bệnh viện. Cán bộ nằm phòng có máy lạnh. Đó là thời 79-85. Nhưng thời nay cũng chẳng có gì khác. Cũng như giữa giàu và nghèo, khoảng cách giữa dân và quan càng ngày càng lớn. Quan thì giàu, dân thì nghèo.

Người ta nói một chuyện làm một chuyện khác. Nói xóa bỏ giai cấp, nhưng lại tạo nên một giai cấp ăn trên ngồi trước. Nói là đầy tờ nhân dân, nhưng trong thực tế là cha mẹ nhân dân. Ngôn ngữ dưới thời XHCNVN không còn ý nghĩa thật của nó nữa.

Sài Gòn có bệnh viện Thống Nhất dành cho lãnh đạo. Nhưng ít ai biết rằng bất cứ tỉnh nào cũng có một khu trong bệnh viện chỉ dành cho lãnh đạo. Phải bao nhiêu tuổi đảng mới được nằm ở các khu đặc trị đó. Tôi không có vinh dự điều trị cho các vị lãnh đạo vì tôi đoán lý lịch của mình không “sạch” mấy ( do học y thời trước 75 ). Nhưng tôi được biết đồng nghiệp điều trị cho các lãnh đạo than trời lắm. Họ nói các vị lãnh đạo coi bác sĩ chẳng ra gì, đối xử với bác sĩ như là cấp trên và cấp dưới. Chán lắm. Bực tức lắm. Nhưng nhiệm vụ và y đức thì phải làm, chứ chẳng ai ham làm trong các khu đặc trị cho lãnh đạo cả.

Thật ra, mấy khu đặc trị là những khu nguy hiểm trong bệnh viện. Dù trang bị tốt hơn các khu khác, nhưng tử vong vẫn cao trong mấy khu đặc trị. Lý do đơn giản là bác sĩ chẳng dám quyết định gì cả. Cái gì cũng hỏi cấp trên. Có lẽ nhiều người không biết, nhưng có ca phải hỏi ý kiến… cấp ủy. Không có hệ thống y khoa nước nào quái đản như nước ta, bác sĩ xin ý kiến cấp ủy để điều trị! Có cụ bị để nằm cho đến chết vì chẳng ai dám quyết định, ai cũng sợ trách nhiệm. Có lần tôi tham dự hội chẩn về một trường hợp và bị ám ảnh lâu dài về hệ thống y tế dưới thời XHCN. Ông cụ không phải là cán bộ cao cấp, nhưng là bố của một ông thứ trưởng, nên cũng được nằm khu dành cho lãnh đạo. Ông cụ bị cao huyết áp và tiểu đường, bệnh rất hay gặp. Người ta hội chẩn mãi, xin ý kiến mãi, thậm chí ông thứ trưởng bay vào Sàigòn thăm bố. Chẳng ai dám làm gì ! Ba tuần sau, ông cụ qua đời. Chính cái hệ thống phân biệt đối xử và giai cấp làm cho ông cụ chết.

Chính cái hệ thống đó đang giết người dân nữa. Đọc blog thấy có tin Thanh Hóa “đầu tư xây dựng trụ sở Ban Bảo vệ – Chăm sóc sức khỏe cán bộ tỉnh Thanh Hóa“. Có cái gì ghê tởm ở đây. Chúng ta biết rằng người dân Thanh Hóa đang đói. Gần 250.000 người đói. Vậy mà người ta thản nhiên xây tập trung tiền bạc vào việc chăm sóc sức khỏe cán bộ!

Thử nhìn qua hai hình dưới đây để thấy bản chất của chế độ:

Đâu chỉ Thanh Hóa mới lo chăm sóc sức khỏe cán bộ. Trung Ương cũng thế. Chẳng những huy động, mà còn huy động toàn hệ thống. Thử đọc bản tin Huy động sức mạnh của toàn hệ thống trong công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cán bộ thì biết người ta muốn gì. Đọc bản tin đó gần chục lần tôi vẫn không giải thích được tại sao người ta lại vô cảm, ngạo mạn, ngang nhiên, trắng trợn như thế.

Trong khi bệnh viện các cấp quá tải, trong khi hai ba bệnh nhân phải nằm chung giường, trong khi bệnh nhân nằm ghế bố la liệt ngoài hành lang, mà có một giai cấp ngang nhiên huy động toàn hệ thống để chăm sóc cho một nhúm cán bộ đảng viên. Họ xem bệnh viện, bác sĩ, y tá,

24

Page 25: Ephata 627

chuyên gia như là tài sản của riêng họ, muốn làm gì thì làm. Không hiểu trong lịch sử nước nhà, đã có một giai cấp thống trị nào chẳng những bất tài mà còn tàn nhẫn với người dân như hiện nay.  Tìm hoài trong cổ sử mà chưa thấy. Tạm thời có thể nói đảng viên là giai cấp tàn nhẫn nhất với người dân trong lịch sử Việt Nam ?

Bs. ĐỖ HỒNG NGỌC

CẬY TRÔNGNăm 1981, nhạc sĩ vĩ cầm người Anh, Peter Cropper được mời đến Phần Lan trình diễn một

buổi hòa nhạc đặc biệt của Peter, Viện Hàn Lâm nhạc hoàng gia đã tặng ông chiếc vĩ cầm vô giá tên là Stradivarius được chế tạo cách đó 285 năm, để ông sử dụng trong các buổi hòa nhạc. Nhạc cụ quý hiếm này mang tên nhà chế tạo vĩ cầm người Ý Antonio Stradivivari. Nó được cấu tạo bằng 80 phiến gỗ đặc biệt với 30 lớp sơn bóng cũng đặc biệt. Âm thanh phát ra hết sức rõ ràng, du dương.

Nhưng khi Peter Cropper đến Phần Lan, một cơn ác mộng kinh khiếp không thể tin được đã xảy ra. Vì khi bước lên sân khấu trình diễn, Peter bỗng trượt chân ngã xuống làm chiếc vĩ cầm vỡ tan ra từng mảnh. Thế là Peter trở về Luân Đôn mà tâm trí khủng hoảng cực độ.

Một người chuyên sửa đàn dày dạn kinh nghiệm tên là Charles Beare tình nguyện cố gắng hết sức phục hồi đàn cho Peter. Chàng miệt mài làm việc ngày đêm với chiếc đàn vỡ. Thế rồi cuối cùng ông đã lắp được toàn bộ các mảnh vỡ lại để làm thành chiếc đàn nguyên vẹn như trước.

Giây phút thử nghiệm hồi hộp đã đến, mọi người đều nín thở chờ xem âm thanh tiếng đàn phát ra. Beare trao chiếc vĩ cầm cho Peter. Người nhạc sĩ vô cùng hồi hộp cầm chiếc đàn lên, bắt đầu chơi nhạc. Mọi người có mặt ở đấy không dám tin vào tai mình nữa, bởi vì chẳng những âm thanh của chiếc vĩ cầm vẫn tuyệt hảo như xưa mà xem ra hiện giờ còn xuất sắc hơn trước khi nó bị vỡ.

Những tháng sau đó, Cropper đã mang chiếc vĩ cầm đi trình diễn vòng quanh thế giới. Hằng đêm, chiếc vĩ cầm mà mọi người nghĩ rằng sẽ vĩnh viễn bị hư phế đã mang lại cho Cropper biết bao lời hoan hô nồng nhiệt từ phía thính giả hâm mộ. 

Trong cuộc đời của mỗi người chúng ta, thường xuyên xảy ra những biến cố đau thương, những bất hạnh liên tiếp chụp lên đầu chúng ta, khiến lòng chúng ta đau khổ, tâm hồn chúng ta tan nát.

Người ta thường nói: “Họa vô đơn chí, phúc bất trùng lai”. Giống như Peter khi đánh vỡ chiếc vĩ cầm quý giá, chúng ta cũng bị rơi vào tâm trạng khủng hoảng tuyệt vọng.

Chính trong những lúc sóng gió nổi lên trong cuộc đời như vậy, hãy hết lòng tin tưởng vào Quyền Năng vô biên của Chúa, hãy vững lòng Cậy Trông như Thánh Phêrô ngày xưa: “Lạy Thầy xin cứu con”.

Không có hoàn cảnh nào khủng khiếp đến mức chúng ta không thể vượt qua. Không có một tai họa nào tàn khốc đến nỗi không thể phục hồi. Hãy nhặt lên những mảnh vụn của mọi biến cố đau lòng, và trao lại cho Chúa trong Niềm Tin kiên vững, Người sẽ kiến tạo lại còn tốt đẹp hơn lòng ta mong đợi.

Kinh nghiệm này Thánh Phêrô đã trải qua và Ngài tiết lộ cho các tín hữu: “Chúa biết cứu những người đạo đức khỏi cơn thử thách” ( 2 Pr 2, 9 ).

Vậy chúng ta không còn lý do nào để buông xuôi thất vọng, nhưng Tin Tưởng vào Chúa như lời Tiên Tri Isaia: “Ai Trông Cậy Chúa sẽ được tăng sức. Họ sẽ bay cao với đôi cánh phượng hoàng. Họ sẽ chạy không kiệt sức, sẽ đi không biết mệt mỏi” ( Is 40, 31 ).

Lạy Chúa, như người sửa đàn tài ba đã phục hồi chiếc vĩ cầm bể nát kia, xin Chúa cũng hãy chữa lành cuộc đời tan vỡ của con.

25

CÙNG NGHIỆM SINH

Page 26: Ephata 627

Xin hãy giúp con biết chạy đến với Chúa trong những lúc hiểm nguy, rủi ro, đau buồn của cuộc đời. Xin cho con cảm nghiệm được sự hiện diện Cứu Độ của Chúa trong suốt cuộc đời con. Amen. 

THIÊN PHÚCTrích từ sách "Tình yêu mạnh hơn sự chết"

ĐẠO VÀ ĐỜICó người sống cả đời chỉ để làm một việc lợi ích thôi, như Lão Tử, đến và đi không tung tích, để

lại độc nhất một quyển Đạo Đức Kinh giá trị vô cùng, há không phải là một đại thiền sư hay sao ?

Một vị sư thuyết pháp đã đặt câu hỏi… Có bao giờ trong cuộc sống bon chen vội vả hằng ngày, ta dừng lại vài phút và tự hỏi mình sinh ra đời để làm gì ? Phải chăng là để chạy theo sau đồng tiền, danh lợi, địa vị, tình yêu, sắc đẹp, của cải v.v... ? Để lập gia đình, sinh con đẻ cái nối dõi tông đường ? Để gây dựng một sự nghiệp ? Để tranh đấu cho một lý tưởng chính trị, kinh tế, xã hội v.v... ? Hay là chỉ để đơn giản đi làm kiếm ăn sống qua ngày như bao nhiêu người khác ? Để rồi một ngày kia nằm xuống và ra đi với hai bàn tay trắng ?

- Chúng ta hãy dừng lại vài phút để tự hỏi hay tự kiểm lại xem cuộc đời mình đang sống đây có ý nghĩa gì không ? Mình có hài lòng với những gì mình đang có và đang sống không ? Những cái đó có đem lại cho mình hạnh phúc hay không ? Hay mình chỉ làm một kẻ nô lệ, một người máy rô bốt, mặc cho xã hội vật chất lôi kéo và điều khiển ?

Ở đây không bàn đến những người vô thần vô đạo, chủ trương duy vật, sống chỉ để hưởng thụ, chết là hết. Ngay trong Phật Giáo, đa số cho rằng sinh ra ở đời là để tạo nghiệp và trả nghiệp, vay trả trả vay mãi mãi không ngừng. Quan niệm này đúng chứ không sai, đứng trên luật nhân quả thì mỗi khi ta cử động, nói năng hay suy nghĩ một chút, dù chỉ vài giây thôi cũng là tạo nghiệp, và như vậy thì đương nhiên sẽ gặp quả báo, tránh sao cho khỏi. Nhưng quan niệm này nếu không khéo thì có thể khiến cho người ta trở nên thụ động, gặp việc gì cũng đổ thừa tại nghiệp rồi ngồi yên chịu trận.

Cuộc đời đã lắm khổ đau, sao ta không tìm những quan niệm khác giúp ta lạc quan hơn trong cuộc sống ?

- Ta lấy vợ lấy chồng không phải để thỏa mãn tình cảm nhục dục hay lấp vá cô đơn, mà là để học sự thương yêu và sống chung hòa hợp.

- Ta sinh con đẻ cái không phải để tiếp nối giòng dõi hay để nhờ vả khi về già, mà là để chính ta tập học làm cha làm mẹ, tập thương yêu dạy dỗ giúp đỡ con cái.

- Ta làm quan không phải để ăn trên ngồi trốc, bóc lột của dân, mà là để học thương dân trị nước.

- Ta làm bác sĩ, nha sĩ, dược sĩ ( những nghề được người Việt tại Hoa Kỳ đề cao nhất ) không phải để có nhiều tiền hay danh vọng, mà là để học cách giúp đỡ thương yêu bệnh nhân.

- Ta làm bác học, kỹ sư không phải để chế ra những vũ khí máy móc sát nhân hay nô lệ hóa con người, mà là để đóng góp xây dựng cho cuộc đời bớt khổ về vật chất.

- Ta có thể tiếp tục nói về từng nghề, nhưng tóm lại thì tất cả nghề nghiệp trong đời, từ cùng đinh hạ tiện cho đến quý phái sang trọng, không có nghề nào thực sự hơn nghề nào, vì nghề nào cũng có giá trị và cùng đóng góp cho sự tiến hóa của nhân loại, nếu như ta đứng trên quan niệm đời là một trường học tiến hóa.

NGUYỄN NINH THUẬN

CHƯƠNG TRÌNH NHỊP CẦU BÁC ÁI PHANXICÔ

TRỢ GIÚP ÔNG QUÁCH CÔNG XUÂN Ở NINH BÌNH, BỊ TAI BIẾN

26

CÙNG TƯƠNG TRỢ

Page 27: Ephata 627

Nữ tu Maria Gioan Berchmans Quách Thị Sen, Đan viện Xitô Thánh Mẫu Vĩnh Phước, điện thoại: 0613.984.644, giới thiệu ông PHANXICÔ XAVIÊ QUÁCH CÔNG XUÂN, sinh năm 1950, vợ là bà Têrêsa Bùi Thị Bột, hiện ngụ tại đội 12, xã Thạch Bình, huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình. Gia đình làm ruộng, ông bà có 6 người con. Ông Xuân bị tai biến, liệt nửa người bên trái, đã điều trị ở Bệnh Viện 700 giường ở Ninh Bình, hiện tại gai đình đã đưa ông vào Nam để điều trị tại Phòng chẩn trị Y Học Cổ Truyền Thiên AN ở Đồng Nai. Thời gian điều trị khỏng 6 tháng, mỗi tháng hết khoảng 2 triệu. Chúng tôi xin trợ giúp 500.000 VND, số tiền được trích từ Chương Trình Nhịp Cầu Bác Ái Phanxicô ( có 4 biên lai ).

TRỢ GIÚP BÀ LÊ THỊ BAN Ở TIỀN GIANG, BỊ UNG THƯ VÚ

Lm. Tôma Nguyễn Văn Phong, Giáo Xứ Cái Thia, Giáo Phận Mỹ Tho, điện thoại: 0909.307.970, giới thiệu bà LÊ THỊ BAN, sinh 1959, hiện ngụ tại xã Xuân Đông, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang, điện thoại: 01225.995.388. Bà Ban có gia đình và có 2 người, nhưng chồng bà tâm trí không bình thường, nhà không có đất canh tác, chỉ có khoảng 10 cây dừa. Bà Ban bị ung thư vu, đã được mổ tại Bệnh Viện Ung Bướu Sài

gòn, hiện tại phải vô hóa chất từ 4 - 6 toa. Chúng tôi xin trợ giúp 2.500.000 VND, số tiền được trích từ Chương Trình Nhịp Cầu Bác Ái Phanxicô ( có 4 biên lai ).

TRỢ GIÚP BÀ NGUYỄN THỊ HƯỜNG Ở NINH THUẬN, BỊ TAI NẠN

Lm. Giuse Nguyễn Thành Khải, Giáo Xứ Thạch Hà, Giáo Phận Nha Trang, điện thoại: 0984.390.889, giới thiệu bà Maria NGUYỄN THỊ HƯỜNG, 52 tuổi, hiện ngụ tại đội 15, thôn Thạch Hà 1, xã Quảng Sơn, huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận, điện thoại: 01885.613.038. Gia đình bà Hường làm rẫy trồng mì, mía và đi làm thuê. Ông bà có 2 người con đang đi học. Trong lúc đi đi làm rẫy, bà Hường bị vấp đá, té dập xương và đứt dây chằng phải cấp cứu tại Bệnh Viện địa phương và được chuyển vào Bệnh Viện Chấn Thương Chỉnh Hình Sàigòn để điều trị. Chúng tôi xin trợ giúp 10.000.000 VND, số tiền được trích từ Chương Trình Nhịp Cầu Bác Ái Phanxicô ( có 2 biên lai ).

TRỢ GIÚP BÀ VÕ THỊ KIM HƯỜNG Ở SÀI GÒN, BỊ SUY THẬN MÃN

Lm. Giuse Lê Quang Uy, Trung Tâm Mục Vụ DCCT, giới thiệu bà VÕ THỊ HƯỜNG, sinh năm 1955, hộ khẩu thường trú 239/63/6 Trần Văn Đang, P. 11, Q. 3, Sàigòn, hiện tại bà không có nhà, không có tiền thuê nhà trọ nên sống lang thang, bà có 1 con gái đang làm thuê ở quán phở. Bà Hường bị suy thận mãn, phát bệnh năm 2010, nhưng không có tiền mua thuốc nên chỉ điều trị qua loa, nay bệnh trở nặng, mỗi tuần bà phải chạy thận 3 lần tại Bệnh Viện Chợ Rẫy, bà con lối xóm cũng có giúp đỡ nhưng chi phí mỗi tháng hơn 3 triệu nên bà phải đi xin khắp nơi để có tiền chạy thận. Chúng tôi xin trợ giúp 2.800.000 VND, số tiền được trích từ Chương Trình Nhịp Cầu Bác Ái Phanxicô ( có 12 biên lai ).

516. QUỸ MẸ HẰNG CỨU GIÚP ĐIỀU TRỊ SUY TIM CHO EM VÕ LÊ CHÍ BẢO Ở HUYỆN NHÀ BÈ

Lm. Giuse Đinh Hữu Thoại, DCCT, giới thiệu em VÕ LÊ CHÍ BẢO, sinh năm 1993, con trai của ông Võ Vương Nghĩa, 61 tuổi, và bà Lê Thị Ngọc Lan, 52 tuổi, hiện ngụ tại số 456/20/20 Huỳnh Tấn Phát, thị trấn Nhà Bè, huyện Nhà Bè, Sàigòn. Hoàn cảnh gia đình lao động nghèo, chỉ có người cha và một anh trai đi làm, trong nhà em còn có một người anh khác bị bệnh thần kinh phân liệt, phải uống thuốc mỗi ngày, tiền thuốc đặc trị hằng tháng 800.000 đồng. Điện thoại liên hệ với người anh trai tên Tín số 0906.993.278.

Bản thân em Chí Bảo bị Hội Chứng Down, lại bị bại liệt cả hai chân. Mới đây, em bị suy tim, suy phổi và thiếu canxi, vào cấp cứu Bệnh Viện 115, rồi

27

Page 28: Ephata 627

chuyển sang phòng Hồi Sức Tim Mạch từ hôm 26.7.2014, chi phí điều trị mỗi ngày hết khoảng 200.000 đồng, đã phải đóng tạm ứng cho bệnh viện tới ngày 5.9.2014 là 15.650.000 đồng.

Ngày 20.9.2014, chúng tôi xin mở Quỹ Trợ Giup điều trị suy tim cho em Võ Lê Chí Bảo với số tiền là 20.000.000 VND. Mọi liên hệ trợ giúp xin gửi về cho Lm. Giuse Lê Quang Uy, TTMV DCCT, 38 Kỳ Đồng, P. 9, Q. 3, Sàigòn. Email: [email protected]

Danh sách các ân nhân gần xa:

Hội Bác Ái Phanxicô ( Hoa Kỳ ): 4.000.000 VNDCô Maria Têrêsa ( Sàigòn ): 6.000.000 VND Bạn Fiat Ngô Khắc Quyền ( Sàigòn ): 200.000 VNDMột người qua PK. An Phong ( Sàigòn ): 2.000.000 VNDBà Nguyễn Thị Lĩnh ( Vũng Tàu ): 5.000.000 VNDGia đình Fiat Như Thảo ( Sàigòn ): 200.000 VNDMột ân nhân ẩn danh ( Bình Định ): 600.000 VNDTrích chia sẻ của anh chị Anh Oanh ( Sàigòn ): 2.000.000 VND

Tổng kết đến 22g khuya thứ hai 22.9.2014: 20.000.000 VND

Như vậy sau 3 ngày quyên góp, chung ta đã có được 20 triệu đồng giup em Võ Lê Chí Bảo. Xin tạ ơn Chua, biết ơn Mẹ và cám ơn quý ân nhân gần xa.

517. QUỸ MẸ HẰNG CỨU GIÚP MỔ TIM CHO CHỊ ĐĂNG THỊ DIỄM Ở HẬU GIANG

Cô Isave Nguyễn Thị Nỡ, cộng tác viên Trung Tâm Mục Vụ DCCT, giới thiệu chị ĐĂNG THỊ DIỄM, sinh năm 1976, quê quán ở xã Phú An, huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang. Chị Diễm có chồng và hai con, con lớn sinh năm 1994, con nhỏ sinh năm 2005. Chồng cô Diễm làm nghề đặt lợp bắt tép, mỗi ngày trung bình được 60 ngàn đồng, chỉ đủ ăn. Từ lúc chị mang thai bé thứ hai được ba tháng thì phát bệnh và phải nhập viện thường xuyên, bác sĩ bảo phải bỏ em bé, nhưng vợ chồng chị đã cố gắng bằng mọi giá giữ lại thai nhi cho đến khi được 8 tháng thì sinh mổ, và sau khi sinh chị vẫn tiếp tục phải thường xuyên nhập viện.

Các bác sĩ Bệnh Viện Nhân Dân Gia Định chẩn đoán chị Diễm bị chứng tim hẹp van 2 lá, hơ van động mạch chủ nhẹ, hơ van 3 lá, tăng áp động mạch phổi năng, cần phải mổ gấp, nhưng vì hoàn cảnh gia đình quá khó khăn, chị cứ uống thuốc cho qua cơn đau, nay thì buộc phải mổ nếu để chậm có thể sẽ bị tử vong. Chi phí ca mổ hết 115.000.000 VND, BHYT chi trả được 53.000.000 VND, còn lại phải lo vay mượn thêm 62.000.000 VND.

Ngày 22.9.2014, chúng tôi xin mở Quỹ Trợ Giup mổ tim cho chị Đăng Thị Diễm với số tiền là 30.000.000 VND. Mọi liên hệ trợ giúp xin gửi về cho Lm. Giuse Lê Quang Uy, TTMV DCCT, 38 Kỳ Đồng, phường 9, quận 3, Sàigòn. Email: [email protected]

Danh sách các ân nhân gần xa:

Hội Bác Ái Phanxicô ( Hoa Kỳ ): 4.000.000 VNDMột ân nhân ở Georgia ( Hoa Kỳ ): 300 USDGia đình bé Như Quỳnh ( Sàigòn ): 200.000 VNDMột người ẩn danh ( Long An ): 100.000 VNDGia đình bạn Fiat Loan Phương ( Sàigòn ): 500.000 VNDCác bạn Nhóm Fiat ( các tỉnh ): 200.000 VNDCô Mai, quận Phú Nhuận ( Sàigòn ): 10.000.000 VNDMột gia đình ẩn danh ( Sàigòn ): 700.000 VNDNhóm GĐAP và Nhóm Nhớ Bạn Nghèo ( Úc ): 500 AUD

Tổng kết đến 15g30 thứ năm 25.9.2014: 15.700.000 VND + 300 USD + 500 AUD = 31.450.000 VND

Như vậy sau 4 ngày quyên góp, chung ta đã có được 30 triệu đồng giup chị Đăng Thị Diễm. Số tiền 1.450.000 VND dôi ra xin chuyển sang cho trường hợp ngăt nghèo kế tiếp là em Lê Minh Hoàng ơ Khánh Hòa bị u não. Xin tạ ơn Chua, biết ơn Mẹ và cám ơn quý ân nhân gần xa.  

28