Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

309
Các thành phn cu to ca nền văn học Vit Nam 1. Nn Văn học dân gian ra đời tthi vin cvà tiếp tc phát trin vsau này. Tính nhân dân, tính dân tc ca nó tni dung ti hình thc có tác dng sâu sắc đến shình thành và phát trin ca nn văn học viết. 2. Văn học viết ra đời vào khong thế kth10 (?) gm có 3 bphn: Văn học viết bng chHán, Văn học viết bng chNôm và Văn học viết bng chquc ng. Ba bphận văn hc y ni tiếp, kế tha và phát trin cho thy tinh thn sáng to, ý trí tlp tcường và sc mnh Vit Nam vô cùng to ln. 3. Văn học dân gian là ci ngun ca nền văn học dân tc. Hai thành phần Văn học viết và Văn học dân gian luôn luôn tác động qua li, hi tvà kết tinh những thiên tài văn chương như Nguyễn Trãi, Nguy n Du, HXuân Hương, v.v... Các thi kphát trin Có thchia làm 3 thi kln: 1. Thi ktthế kthX đến thế kXIX: Thơ văn Hán - Nôm. 2. Thi ktthế kthXX đến năm 1945: Thơ văn Hán Nôm - thơ văn quốc ng. 3. Thi ktsau Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay: thơ văn quốc ngmang ni dung cách mng, kháng chiến, yêu nước và tiến b. Mấy nét đặc sc truy n thng của văn học Vit Nam 1. Truy n thống yêu nước và tinh thn thào dân tc 2. Tình nhân ái. 3. Thơ ca có một truy n thống lâu đời phát trin mnh. Có nhiu kiệt tác.Văn xuôi phát trin chm: t1930 trđi mới phát trin nhanh vt, tiến lên hiện đại hoá. Khái niệm văn học dân gian. - Văn học dân gian là mt thành tcủa văn hoá dân gian, tức là phôncơlo (trí tunhân dân). - Văn học dân gian còn gọi là văn học truy n ming hoặc văn học bình dân.

description

 

Transcript of Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Page 1: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Các thành phần cấu tạo của nền văn học Việt Nam

1. Nền Văn học dân gian ra đời từ thời viễn cổ và tiếp tục phát triển về sau này. Tính

nhân dân, tính dân tộc của nó từ nội dung tới hình thức có tác dụng sâu sắc đến sự hình

thành và phát triển của nền văn học viết.

2. Văn học viết ra đời vào khoảng thế kỷ thứ 10 (?) gồm có 3 bộ phận: Văn học viết bằng

chữ Hán, Văn học viết bằng chữ Nôm và Văn học viết bằng chữ quốc ngữ. Ba bộ phận văn

học ấy nối tiếp, kế thừa và phát triển cho thấy tinh

thần sáng tạo, ý trí tự lập tự cường và sức mạnh Việt Nam vô cùng to lớn.

3. Văn học dân gian là cội nguồn của nền văn học dân tộc. Hai thành phần Văn học viết

và Văn học dân gian luôn luôn tác động qua lại, hội tụ và kết tinh ở những thiên tài văn

chương như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, v.v...

Các thời kỳ phát triển

Có thể chia làm 3 thời kỳ lớn:

1. Thời kỳ từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ XIX: Thơ văn Hán - Nôm.

2. Thời kỳ từ thế kỷ thứ XX đến năm 1945: Thơ văn Hán Nôm - thơ văn quốc ngữ.

3. Thời kỳ từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay: thơ văn quốc ngữ mang nội dung

cách mạng, kháng chiến, yêu nước và tiến bộ.

Mấy nét đặc sắc truyền thống của văn học Việt Nam

1. Truyền thống yêu nước và tinh thần tự hào dân tộc

2. Tình nhân ái.

3. Thơ ca có một truyền thống lâu đời phát triển mạnh. Có nhiều kiệt tác.Văn xuôi phát

triển chậm: từ 1930 trở đi mới phát

triển nhanh vọt, tiến lên hiện đại hoá.

Khái niệm văn học dân gian.

- Văn học dân gian là một thành tố của văn hoá dân gian, tức là phôncơlo (trí tuệ nhân

dân).

- Văn học dân gian còn gọi là văn học truyền miệng hoặc văn học bình dân.

Page 2: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

- Văn học dân gian là những sáng tác tập thể truyền miệng của nhân dân, ra đời từ thời

viễn cổ, phát triển qua các thời kì lịch sử, đến cả hiện nay và mai sau. Văn học dân gian có

những đặc trưng riêng so với văn học viết; nó cùng với văn học viết hợp thành nền văn học

dân tộc.

Các thể loại văn học dân gian

1. Thơ ca dân gian: tục ngữ, câu đố, ca dao, hò, vè, truyện thơ.

2. Truyện dân gian: thần thoại, sử thi, truyền thuyết, cổ tích, truyện cười, truyện ngụ

ngôn.

3. Sân khấu dân gian: chèo, tuồng đồ.

Những đặc trưng cơ bản của văn học dân gian

1. Tính tập thể (trong sáng tạo, trong lưu truyền, trong sử dụng và cảm thụ...)

2. Tính truyền miệng.

3. Gắn với sinh hoạt xã hội (đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân lao động...)

Giá trị và vai trò của văn học dân gian trong nền văn học dân tộc

1. Văn học dân gian là kho báu về trí tuệ, tâm hồn và thẩm mĩ cao đẹp của nhân dân.

2. Văn học dân gian là ngọn nguồn, là cơ sở kết tinh của văn học dân tộc.

Định nghĩa

Sử thi là những áng văn tự sự (bằng văn vần hoặc văn xuôi) có quy mô hoành tráng, miêu

tả và ca ngợi những thành tựu có

tính toàn dân và có ý nghĩ trọng đại (sống còn, vinh nhục) đối với cộng đồng, ca ngợi những

anh hùng bộ tộc mang sức mạnh

thần kỳ, tiêu biểu cho phẩm chất và khát vọng của bộ tộc.

Sử thi cổ đại là sản phẩm tinh thần - lễ nghi, nghệ thuật của xã hội thị tộc-bộ lạc, một thể

loại một đi không trở lại, phản

ánh những kì tích của cộng đồng trong công cuộc xây dựng sự phát triển, chinh phục tự

nhiên và chiến đấu chiến thắng mọi kẻ

thù của bộ tộc. Những bộ sử thi của Việt Nam và thế giới

Page 3: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

1. Việt Nam.

"Đẻ đất đẻ nước" của người Mường, bằng thơ. Bản sưu tầm ở Hoà Bình dài 3887 câu

thơ; bản sưu tầm ở Thanh Hóa dài

8503 câu (?)

- "Bài ca Đan Sẵn" của người Ê đê.

- "Xinh Nhã" của nhiều bộ tộc ở Tây Nguyên, chủ yếu của người Ê đê.

- “Y Ban” của nhiều bộ tộc ở Tây Nguyên.

- "Đăm Di" của người Ê đê và Giarai.

- "Xinh Chơ Niếp" của người Ê đê.

- v.v...

2. Thế giới:

- "Ramayana" của Ấn Độ gồm có 24.000 câu thơ đôi.

- "Mahabharata" của Ấn Độ dài 110.000 câu thơ đôi.

- "Ôđixê" của Hi Lạp dài 12.110 câu thơ, tác giả Hômerơ.

- "Iliat" của Hi Lạp, dài 15.683 câu thơ, tác giả Hômerơ.

- v.v...

Những ý kiến về sử thi

1. ..."Thời đại thịnh vượng nhất của giai đoạn cao trong thời đại dã man được diễn tả

trong những bài thơ của Hômerơ,

nhất là tập Iliat.

... Bản anh hùng ca của Hômerơ và toàn bộ thần thoại - đó là những di sản chủ yếu mà

người Hi Lạp đã đem được từ thời

đại dã man sang thời đại văn minh...” (Ăng ghen)

2. ..."Chỉ thông qua sức mạnh phi thường của cộng đồng, người ta mới có thể giải thích

được vẻ đẹp tuyệt vời và sâu sắc

của thần thoạivà anh hùng ca, một vẻ đẹp xây dựng trên sự hoà hợp triệt để giữa nội dung và

Page 4: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

hình thức..." (Gorki)

3. "Sử thi anh hùng bao hàm một bức tranh hoàn chỉnh của cuộc sống nhân dân dưới hình

thức kể truyện anh hùng về quá

khứ. Thế giới sử thi lý tưởng và nhân vật dũng sĩ trong sự thống nhất hài hoà của chúng - đó

là những nhân tố chủ yếu của

một nội dung sử thi anh hùng". (Mêlêtinxki)

Một vài nét về tác phẩm

1. Quy mô

Sử thi "Đẻ đất đẻ nước" có quy mô hoành tráng. Bản sưu tầm ở Thanh Hoá dài tới 8503

câu thơ. Người Mường ở Nghĩ

Lộ, Hoà Bình và miền tây Thanh Hoá còn truyền tụng "Đẻ đất đẻ nước". Các thầy mo (thầy

cúng) vẫn đọc "Đẻ đất đẻ nước"

trong các tang lễ.

2. Tóm tắt

Thuở ấy, khi đất trời còn hỗn mang, bỗng "mưa dầm mưa dãi" nước ngập mênh mông, 50

ngày sau mới rút hết. Tự nhiên

mọc lên một cây xanh có 90 cành, có một cành cao trọc trời, biến thành ông Thu Tha, Bà

Thu Thiên. Hai Thần truyền lệnh

làm ra Đất, Trời và Vạn vật. Sau đó, nắng dữ dội suốt 12 năm liền, mặt đất xơ xác. Thần

Pồng Pêu ao ước một trận mưa lớn.

Tức thì mưa to gió lớn suốt chín, mười ngày đêm; hạt mưa to bằng quả bưởi, nước lại ngập

bao la. Bẩy tháng sau nước rút

cạn, có một cây si khổng lồ mọc lên tua tủa 1919 cành. Trời sai con Sâu Gang khoét ruỗng

ruột cây si. Cây đổ, mỗi cành hoá

ra một bản mường:

..."Một cành đổ về đất Sạp

Nên mường Sạp.

Page 5: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Một cành đổ về đất Giạp

Nên mường Giạp.

Một cành ngã về đất Bi, đất Lỗ.

Nên Mường Bi, Mường Lỗ..."

Có một cành si lại hoá ra Mụ Dạ Dần; mụ đẻ ra hai cái trứng kì dị, nở ra cun Bướm Bạc

và cun Bướm Bờ. Vừa mới nở,

cun Bướm Bạc đã ăn hết 9 chõ cơm; cun Bướm Bờ ăn hết 5 chõ xôi:

"Cun Bướm Bạc và cun Bướm Bờ

Lớn cao hơn đụn chính, đụn mười.

Tiếng cười như tiếng trống cái

Tiếng nói như tiếng sấm vang

Xương vai dài tám mươi lóng

Xương sống dài bẩy mươi gang..."

Vua trời cho mười nàng tiên xuống trần gian du ngoạn. Hai cun cưõi ngựa bạc, vác ná đi

sãn lợn rừng, gặp các nàng tiên

"lưng ong, tóc mượt". Hai nàng tiên quên đường về trời. Họ nên vợ nên chồng . Sau 12 năm

9 tháng, hai nàng tiên sinh được

một bầy con mà "Trống chim Tùng, mái chim tót là con út con yêu". Đôi chim trống mái

sau "9 ngày, 9 đêm, 9 tháng" để ra

1919 chiếc trứng nở ra Thần Chớp, Thần Mây, nở ra chuột, lợn, voi, thú dữ... Đôi chim đẻ

ra lứa thứ hai "được một trứng

đen đen bốn khúc - Trứng bầu dục 4 khuôn - Mặt vuông mặt tròn chín cạnh -Rành rành

mười hai quai"... Mụ Dạ Dần sai

chim chiền chiện ấp, trứng nở ra một bầy con, mỗi đứa nói một thứ tiếng: tiếng Lào, tiếng

Thái, tiếng K inh, tiếng Mọn, tiếng

Mường, tiếng Mán, tiếng Mèo… Trứng cũng nở ra anh em nhà lang: ông Dịt Dáng, ông

Lang Tà Cái, ông Lang Cun Cần, bố

Page 6: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Bướm Khang, ông Sang Si, nàng Vạ Hai Chiếng.... Loài người có từ đấy. Bộ tộc Mường có

từ đấy.

Thần Cuộng Minh Vàng Rậm, nàng ả Sấm Trời "đúc 9 mặt trời, đúc được 12 mặt trăng"

làm chói chang trời đất. Họ nhà

Ngao "thần nỏ" dùng cung tên bắn rụng hết, chỉ để lại một mặt trăng, một mặt trời. Rồi ông

Thu Tha, bà Thu Thiên làm ra

năm, tháng, ngày, đêm, bốn mùa cho người theo đó làm ăn sinh sống.

Người Mường chưa có thủ lĩnh.Mường nước mời ông Dịt Dáng, rồi mời Lang Tá Cái ra

"cầm binh cầm mường”. Cả hai

đều bất tài bị "ma đón đường, thuồng luồng xanh","rồng vàng ngăn ngõ". Mường nước phải

đi mời Lang Cun Cần ra tiễu trừ

ma quỷ, thú dữ.

"Ma chạy từng bầy trốn vào trong núi

Ma rồng sơ Lang Cun Cần trời

Thuồng luồng sợ Lang Cun Cần chặt

Ma Trời, ma Đất cùng chạy nhanh nhanh"...

Lang Cun Cần trở thành thủ lĩnh từ đó. Rùa Thần giúp lang dựng nhà cửa to đẹp. Tà Cắm

Cọt (thần lửa) cho Cun Cần

lửa. Nàng tiên Mái Lúa (thần Trồng Trọt) giúp lang nhiều hạt giống để sản xuất. Lang

Khấm Dậm bày cho cách ủ men chế

rượu cần. Mụ La, mụ Húng, (thần chăn nuôi) dạy cho mường nước nuôi gia súc, gia cầm.

Mường nước có trâu bò cày ruộng

làm nương.

Hai chương 17, 18 gồm 1263 câu thơ kể chuyện Lang Cun Cần lấy vợ. Lang lấy em gái

nàng Vạ Hai Chiếng, bị làng bản

coi khinh, bị vua Trời sai cun Sấm nàng Sét (thiên lôi) xuống trừng phạt, may mà thoát chết.

Lang Cun Cần sai bỏ nàng Vạ

Page 7: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Hai Chiếng vào rừng sâu. Lang sai người đem lễ vật đi khắp nơi tìm "gái đẹp con dòng".

Cun Cần lấy được nhiều vợ: có vợ là

con gái vua Trời, có vợ là thần tiên, có vợ là con gái mường nước. Lang Cun Cần có một

bầy con:

"Nàng Vậm Đầu Đất

Đẻ được cun Tồi, cái Sang

Nàng Vậm Đầu Nước

Đẻ ra cun Tàng, cái Lớn,

Nàng Ả Sao, Ả Sáng,

Ả Rạng nhà ông vua Trời

Đẻ được Lang Cun Khượng

Ả Gái nuôi trong mường

Đẻ ra chàng Toóng Ín..."

Con cái trưởng thành. Lang Cun Cần chia đất cho các con. Anh em bất hoà. Toóng Ín vu

cho Lang Cun Khương làm giặc

để âm mưu cướp đất của anh. Lang Cun Khương chạy lên vua Trời, nhờ ông ngoại che chở.

Trời giáng hoạ, gây ra lũ lụt, ép

anh em nhà Lang phải giết Toóng Ín. Từ đó, Lang Cun Khương trở nên một thủ lĩnh giàu

có, đầy quyền uy.

Tậm Tạch là tôi tớ của lang đã tìm được cây Chu Đồng (cây thần) lấy được "bông thau,

quả thiếc" mà trở nên giàu có.

Anh em Lang Cun Khương lập mưu chuốc rượu cho Tậm Tạch say, lừa lấy được "bông

thau, quả thiếc". Lang đưa cả

mường nước đi chặt cây Chu Đồng kéo về làm nhà chu.Tậm Tạch phản loại bị lang giết

chết. Rùa Thần lại giúp lang làm nhà

chu "sáng cả mường, kinh kì kẻ chợ", "rạng trời rạng đất". Lang giết 10 voi ngà, 30 trâu

mộng, 9 bò, 100 gà sao, nấu 1000 vò

Page 8: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

rượu, để ăn mừng. Lang Cun Cần ban thưởng cho các con nhiều vàng bạc quý giá.

Con của Tậm Tạch lại đốt nhà chu để báo thù cho cha. Hắn lại bị lang giết chết, máu hắn

hoá thành con Moong khổng lồ,

tàn phá bản mường. Lang Cun Cần đưa tất cả mường nước đi săn Moong, vô cùng nguy

hiểm mới giết được. Moong được

ăn thịt; người Lào, người Thái, người Tày, người Mường nhanh chân lấy được da Moong

vằn vện mà học được cách thêu

thùa, dệt vải rất đẹp. Người K inh đến sau lấy được thịt và mỡ Moong, từ đấy biết nấu nhiều

món ăn ngon.Người "Mường

ngoài" (Hoà Bình) đến sau cùng, chẳng được thứ gì , chỉ nhìn thấy đống tro thui Moong,

chẳng may, gió thổi tro bay dính vào

môi, nên môi người "Mường ngoài" bị đen là vì thế!

Tai hoạ còn nhiều. Chó ăn phải phổi Moong mà thành chó điên. Chó điên bị giết, xác bị

quẳng xuống sông, cá ăn phải biến

thành Cá điên. Cá điên bị lang bắt giết, bầy quạ ăn phải hoá ra Quạ điên. Mường nước săn

nùng mãi, cuối cùng Lang Cun

Khương bắn trúng Qụa, cả bày hoảng sợ bay trồn vào rừng sâu. Nhưng rồi hồn Toóng Ín lại

biến thành Ma Ruộng đưa bầy

Rắn "mỏ vàng, mỏ đỏ" đánh nhau với anh em Lang Cun Khương. Quân hai bên đánh nhau

suốt đêm ngày, kịch chiến giữa

ruộng, quần nhau trên đồi gianh, đuổi nhau trong rừng sến, hỗn chiến tại bến sông Rồng,...

Toóng Ín thất thế phải chạy xuống

thuỷ phủ của Long Vương ẩn náu và xin cầu viện. Long Vương biến Toóng Ín thành Ma

May, Ma Lang. Hắn đưa binh mã

gồm thuồng luồng, ba ba, cá ngao... dâng nước làm lũ lụt, dìm chết được Lang Cun Tàng,

Lang Cun Khương cùng mường

nước nổi chiêng cồng đem giáo mác, cung nỏ, lưới... vây các ngả sông đón đánh. Giặc Ma

May, Ma Lang bị đại bại, bỏ lại

Page 9: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

trên bãi chiến trường bao xác loài thuỷ quái, làm thổi cả bản mường.

Từ đó, mường nước yên vui, hoà bình thịnh vượng. Lang Cun Cần đã sống được trên vạn

năm. Trẻ già, trai gái mường

nước nô nức sắm áo quần, lo kiệu lo ngai, rước vua về, "Đồng chì tam quan kẻ chợ"

Giảng văn: Đẻ nước

1. Xuất xứ

Đoạn thơ này trích gần trọn chương "Đẻ nước" trong sử thi "Đẻ đất đẻ nước"; từ câu

268-334 theo sưu tầm của Hoàng

Anh Nhân (Thanh Hoá)

2. Ý chủ đạo

Đoạn thơ nói về trận đại hồng thuỷ thời tiền sử - buổi đầu khai thiên lập địa theo cách

cảm nhận riêng của người Mường xa

xưa.

3. Ông Pồng Pêu

Là Thần Mưa theo cách gọi của ngưòi Mường.

Thiên tai kéo dài "Hạn 9 tháng biền biệt - nắng 12 năm xác đất" làm cho muôn loài đau

khổ: "cây cau úa cả tàu - rừng vàu

không mọc măng", làm cho "chó mực, chó ngao lè lưỡi, rái cá phải chạy lên đồi"...

Ông Pồng Pêu lúc đó đang ngồi "đan chài" và "đan lưới" trong nhà, bình dị như con người

lao động. Ông ngước nhìn khắp trời

đất, rồi gọi gió, gọi "mưa cho mát lòng các loài thú hiền thú dữ, cây lau cây bái". Tức thì

trời mưa to. Pồng Pêu là biểu tượng

cho ý nguyện của muôn loài muôn vật và con người vì sự sống bắt diệt trên trái đất.

4. Cảnh trời mưa

Mưa miêu tả dữ dội chẳng khác nào trận đại hồng thuỷ trong Kinh thánh nói đến. Mây

vàng mây đen đùn lên che kín cả

Page 10: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

bầu trời, gió ùn ùn thổi điên cuồng. Cun Sấm nàng Sét cùng ra oai:

"Lanh lảnh cun Sấm xuống thét

Lăm lăm nàng sét xuống đánh".

Mưa kéo dài "mưa 9 đêm, mưa liền 9 ngày". Hạt mưa " to bằng hột cà" về sau "to bằng

quả bưởi". Nước ngập mênh

mông. Mưa để "rước nàng ngâu về trời" để "đưa chàng ngâu qua sông Ngân". Mưa "ngập

cây", "ngập bụi", mãi "bốn tháng

nước rút - bẩy tháng nước xuôi". Mưa đem đến sự sống cho đàn cua đá, đàn cá, đàn ba ba,

đàn cá chuối, đàn nòng nọc, đàn

cá cơm. Sau khi "đẻ nước" trời "đẻ đất".

Có đất, đất đang xơ xác,

Có nước, nước ùn đục ngầu

Đó vẫn là cảnh thiên địa xơ khai.

Biện pháp lặp và liệt kê được nhà thơ dân gian xưa của tộc Mường, vận dụng tạo nên ấn

tượng "đẻ nước". Thần mưa, thần

Sấm, thần Sét, Chức nữ, Ngưu lang...được nói đến hồn nhiên đầy ý vị. Đoạn sử thi đã giải

thích hiện tượng mưa gió, lũ lụt

qua cảm quan nghệ thuật “vạn vật hữu linh" của người Mường thời viễn cổ.

Xuất xứ

"Bài ca chàng Đam Săn" là sử thi anh hùng của tộc người Ê đê ở Tây Nguyên. Tác phẩm

được nhiều người sưu tầm tuy lời

kể có khác nhau ít nhiều, nhưng cốt truyện đều giống nhau.

Tóm tắt

Theo tục "nối dây", Đam Săn phải lấy hai chị em Hơ Nhí và Hơ Bhí làm vợ. Anh đã

chống lại, nhưng bị trời lấy ống điếu gõ

vào đầu 7 lần "Đam Săn chết lịm, rồi Trời cho sống lại". Cuối cùng Đam Săn phải làm theo

lời Trời. Đam Săn trở thành tù

Page 11: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

trưởng giàu mạnh, danh tiếng vang lừng rừng núi, "đầu đội khăn kép, vai mang túi da". Đam

Săn đã cùng bộ tộc đánh thắng

hai tù trưởng hùng mạnh khác là Mơtao Grứ và Mơtao Mơxây, bắt được nhiều nô lệ, thu

được nhiều tài sản quý báu. Ngang

tàn coi thường thần linh, Đam Săn chặt cây thần. Chặt mãi cây mới đổ. Cây đổ quật chết cả

hai nàng Hơ Nhí và Hơ Bhí. Anh

vác rìu đi lên trời, cầu xin Trời cứu sống vợ anh. Đang sống trong yên vui giàu có, Đam Săn

lại lên đường đi bắt Nữ thần Mặt

Trời để có "hai vợ lẽ... vợ thật đẹp”. Cuộc cầu hôn thất bại, anh trở lại quê nhà, bị chết lún

giữa rừng của bà Sun Y Rít. Đam

Săn chết, cháu Đam Săn ra đời, lại theo tục "nối dây" đi tiếp hành trình của cậu chàng, dấn

thân vào cuộc chiến đấu mới.

Giảng văn

Đi bắt nữ thâng Mặt Trời

1. Xuất xứ và ý tưởng chủ đạo

Đoạn trích "Đam Săn đi bắt nữ thần Mặt Trời" nằm trong chương 7 "Bài ca chàng Đam

Săn"

Đoạn sử thi này nói lên khát vọng và dũng khí, lòng quả cảm của người anh hùng Đam Săn

được bộ tộc ngưỡng mộ.

2. Hình ảnh dũng sĩ Đam Săn

- Khát vọng phi thường. Là một tù trưởng giàu có và hùng mạnh: "Trăm chiêng núp anh

đã có. Trăm chiêng bằng anh đã

có. Trăm con voi anh đã có...". Nhiều nồi đồng, lợn dê đầy sân. "Tiếng tăm anh vang đến

thần núi", ai cũng phải khen anh là

"gan dạ, anh dũng", không hề lùi trước bất cứ địch thủ nào! Đam Săn đi bắt nữ thần Mặt

Trời vì nàng là "người đẹp nhất",

"bắp chân nàng tròn, váy nàng đẹp tuyệt vời". Đi bắt nữ thần Mặt Trời mới thành một tù

trưởng "hết sức giàu mạnh... trên đời

Page 12: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

không ai bì kịp"... Khi đến vương quốc của nữ thần Mặt Trời, Đam Săn đã nói với người

đẹp: "Tôi muốn có hai vợ lẽ, tôi

muốn có một người vợ thật đẹp và tôi hứa với nàng tôi sẽ mang nàng xuống trần lập một gia

đình chung với Hơ Nhí và Hơ

Bhí". N gười tù trưởng phải có khát vọng phi thường như vậy mới tiêu biểu cho phẩm chất

cao đẹp của cộng đồng bộ tộc xa

xưa.

- Dũng khí quả cảm vô song.

Lên đường với con tuấn mã, tay cầm lao, gươm dắt thắt lưng, khoác áo màu đen màu

trắng, mang theo bùa ngải..."sẽ giúp

tôi thắng!". Đừng đi đầy tê giác, hùm thiêng, cọp dữ, đã cắm chông, đã cắm bẫy, nước đầy

đỉa, cây đầy sên, bò cạp giữa

đường, rết trên ngọn cây... xương người và xương trâu đầy rừng!... Nhưng quyết tâm của

Đam Săn không hề nao núng: "Mặc

kệ! để tôi kiếm một nối đi. Tôi sẽ tới chỗ tôi muốn! Gặp hùm tôi sẽ giết hùm".

Đam Săn ra đi từ lúc gà gáy. Chàng vượt qua rừng âm u, núi rậm chân và tay bị cỏ tranh,

mây "cắt nát". Đến ranh giới giữa

trời và đất, Đam Săn đã "chặt một sườn núi ném xuống bùn làm con đường" để vượt qua và

tiến lên. Chàng dũng sĩ vô cùng

ngạc nhiên trước cái nhà của nữ thần: cầu thang nhà là chiếc cầu vồng, cối và chày giã gạo

đều bằng vàng, sân nhà đầy voi,

trong nhà đầy chiêng núp. Tôi tớ trai và gái đi lại đông như mây. Đam Săn thì được người

nhà của nữ thần ngắm nghía như

nhìn một "thần linh danh tiếng". Còn nữ thần Mặt Trời thay hai lần váy mới "nhấp nháy như

chớp sáng". Tóc chải bóng buông

dài. Dáng đi thướt tha "như chim diều bay, như phượng hoàng liệng, như nước chảy êm

đềm". Cổ nàng "đẹp như cổ con

công". Nàng là dòng dõi nhà "Trời và Đất". Với tưởng tượng kì diệu, tác giả sử thi đã miêu

Page 13: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

tả hành trình của Đam Săn và hình

ảnh nữ thần Mặt Trời để ca ngợi dũng khí, lòng quả cảm và khát vọng về công danh, hạnh

phúc của người dũng sĩ lỗi lạc.

Cuộc cầu hôn không thành, Đan Săn lên ngựa trở về. Thần ánh sáng đã làm cho đất nhão

ra. Chàng dũng sĩ đã chết trong

tư thế lẫm liệt. Mặc dù vậy, Đam Săn là tù trưởng duy nhất đi tới được vương quốc nữ thần

Mặt Trời. Người Ê đê xưa và

nay vô cùng tự hào về hành trình của Đam Săn. Cách giải thích hiện tượng tự nhiên, Mặt

Trời và ánh sáng của người Ê đê xa

xưa rất kì diệu.

Đoạn Đam Săn đi bắt nữ thần Mặt Trời là đoạn hay nhất tràng lệ nhất, bi tráng nhất trong

sử thi "Bài ca chàng Đam

Săn". Nghệ thuật phóng đại và so sánh được sử dụng trong miêu tả và chuyện kể rất thần

tình, đầy ấn tượng.

Một vài điều cần biết về chuyện cổ tích

1. Cổ tích là tích cũ, chuyện xa xưa, ra đời khi xã hội có áp bức, bóc lột. Cổ tích kể về

những

truyện mang yếu tố hoang đường, sự tích kì lạ về con người, hoặc thế giới muôn loài, chứa

đựng triết lý nhân sinh sâu sắc.

2. Người ta chia truyện cổ tích thành 3 loại:

- Truyện cổ tích loài vật (Quạ và Công; Con thỏ tinh khôn...)

- Truyện cổ tích thần kỳ (Chử Đồng Tử, Cây khế…)

- Truyện cổ tích sinh hoạt (Chàng ngốc, Cái cân thuỷ tinh...)

3. Cuộc đấu tranh giữa thiện và ác, giàu và nghèo, thống trị và bị thống trị, chính nghĩa

và phi nghĩa... Các bài học về ở

hiền gặp lành, ác giả ác báo, tham thì thâm... rất dễ bắt gặp trong truyện cổ tích. Cổ tích nêu

cao khát vọng về tự do và hạnh

Page 14: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

phúc, công bằng ở đời.

Truyên "Chử Đồng Tử"

1. Tóm tắt.

Ngày xưa ở nàng Chử Xá có hai cha con Chử Cù Vân và Chử Đồng Tử, nghèo khổ, mò

cua bắt ốc, chỉ có một chiếc khố

chung nhau, hễ ai đi đâu thì đóng: Chử Cù Vân ốm sắp chết dặn con cứ táng trần cho cha.

Nhưng khi Chử Cù Vân qua đời

thì Chử Đồng Tử đã lấy khố đóng cho cha rồi mới chôn cất. Ngày ngày Chử Đồng Tử vẫn

xuống sông mò cua bắt cá kiếm

sống. Thuở ấy có nàng Tiên Dung, công chúa của vua Hùng thứ ba, nhan sắc tuyệt trần, đã

17, 18 tuổi mà không chịu lấy

chồng, chỉ thích chèo thuyền đi xem sông núi. Một hôm, thuyền của nàng đến khúc sông

làng Chử Xá, thấy cảnh sông nước

bờ bãi xinh đẹp, nàng bèn ra lệnh cho thị nữ vây màn tứ vi vào một nơi có bóng mát để tắm.

Không ngờ nơi đó Chử Đồng

Tử đang náu mình dưới cát. Tiên Dung giội nước một lúc, nàng giật mình thấy một chàng

trai trồi lên. Nàng hỏi duyên cớ thì

Chử Đồng Tử nói vì không có quần áo, thấy thuyền quan quân thì sợ nên phải vùi mình

xuống cát để ẩn.

Tiên Dung nói với Chử Đồng Tử : "Tôi đã nguyện không lấy chồng, nay duyên trời run

rủi, lại gặp chàng chốn này mới biết

cưỡng không được với trời". Nàng sai thị nữ đem áo quần cho Chử Đồng Tử và sửa soạn

tiệc hoa. "Chử Đồng Tử bối rối

chối từ, Tiên Dung nói: "Thiếp với chàng là tự trời xe duyên, việc gì mà từ chối!". Hai

người nên vợ nên chồng từ đấy.

Vua Hùng được tin giận lắm, ra lệnh cho quân quan, người hầu của Tiên Dung phải về

kinh đô. Nàng sợ cha, đành cùng

chồng ở lại làm ăn. Mấy năm sau, cuộc sống trở nên thịnh vượng. Nàng để chồng ra biển

Page 15: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

tìm vật lạ đem về đổi lấy các thứ

khác. Chử Đồng Tử lên đường. Đến một nơi núi non hữu tình, thấy cái am nhỏ, chàng leo

lên núi, may thay gặp sư Phật

Quang. Thấy Chử Đồng Tử là người chân thật, sư Phật Quang truyền cho phép lạ, hơn một

năm sau thành tài. Chử Đồng Tử

xuống núi trở về nhà, lạy tạ nhà sư và được Phật Quang ban cho một cái gậy, một nón có

phép mầu nhiệm biến hoá. Chử

Đồng Tử đem phép mầu truyền lại cho Tiên Dung rồi hai vợ chồng du ngoạn cảnh sông núi.

Có lần trời tối giữa đường, hai vợ

chồng cắm cái gậy xuống đất, úp nón lên đầu gậy, hai người tựa vào nhau dưới nón mà ngủ.

Nửa đêm tỉnh giấc, hai vợ chồng

thấy mình đang sống trong một cung điện tráng lệ... Tin lạ ấy bay đến tai vua Hùng. Vua cả

giận, ngỡ là Chử Đồng Tử và Tiên

Dung làm phản bèn sai quân quan đi đánh dẹp. Binh mã triều đình chưa qua sông thì trời tối

phải dừng lại. Đêm ấy, Tiên Dung

và Chử Đồng Tử cùng bay lên trời. Mưa to, gió lớn, cung điện cũng biến mất. Về sau, bãi ấy

gọi là bãi Tự Nhiên, đầm ấy gọi

là đầm Nhất Dạ. Nghe nói, thời nước ta bị tàu đô hộ, Chử Đồng Tử đã cưỡi rồng xuống giúp

Triệu Việt Vương một cái vuốt

rồng cắm lên mũ đầu mâu... Nhờ thế mà quân ta phản công, chém được tường giặc Lương là

Dương Sằn, khôi phục lại đất

nước.

2. Ý nghĩa.

- Chử Đồng Tử " là một truyện cổ tích thần kì, có nhiều dị bản đậm sắc thần kỳ"

Nó cũng thuộc đề tài về những kẻ hèn mọn "lấy tiên, lấy công chúa... được kể qua nhiều

truyện cổ tích thần kì. Truyện

"Chử Đồng Tử" cũng vậy. Chử Đồng Tử mò cua, bắt cá, nghèo khổ, một cái khố cũng

không có, nhưng rất hiếu thảo, chân

Page 16: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

thật. Hạnh phúc cầm tay rồi mà chàng vẫn bối rối, muốn chối từ. Với Tiên Dung thì nàng

"gặp" và lấy Chử Đồng Tử là do

"duyên trời run rủi", là " tự trời xe duyên". Qua đó, ta thấy truyện Chử Đồng Tử nói lên

quan niệm của nhân dân ta về vấn đề

hôn nhân là do duyên số, đồng thời thể hiện ước mơ tự do và dân chủ trong tình yêu, trong

xây dựng hạnh phúc lứa đôi. Tiên

Dung đã chủ động kết duyên với Chử Đồng Tử vượt qua lễ giáo và đẳng cấp, vượt qua mọi

thử thách để bảo vệ hạnh phúc.

Tình tiết Chử Đồng Tử cưỡi rồng xuống hạ thế giúp Triệu Việt Vương chiếc vuốt rồng linh

nghiệm... để quân ta chém được

tướng giặc là Dương Sằn, Tổ quốc được giải phóng, đã làm cho truyện cổ tích này thêm vị

truyền thuyết thể hiện sâu sắc lòng

yêu nước của nhân dân ta. Con người Việt Nam dù đi đâu làm đâu cũng nhớ về cội nguồn,

tìm mọi cách để giúp nước. Chử

Đồng Tử và Tiên Dung đã sống và hành động như vậy.

Nhà sư Phật quang, cái nón và chiếc gậy nhiệm màu, cung điện tự mọc lên, tự mất đi,

Chử Đồng Tử và Tiên Dung bay lên

trời, Chử Đồng Tử giúp Triệu Quang Phục cái vuốt rồng.... đó là yếu tố hoang đường, kì

diệu... làm cho truyện cổ tích này vô

cùng hấp dẫn. Các địa danh: làng Chử Xá, bãi Tự Nhiên, đầm Nhất Dạ... nay vẫn còn đó,

làm cho truyện cổ tích "Chử Đồng

Tử" tuy mang màu sắc hư ảo, thần kì mà như thật, có thật. Rất thú vị về những tên người,

tên đất... ấy.

Tóm tắt

Ngày xưa, một nhà quan lang họ Cao sinh được hai người con trai giống nhau như hai

giọt nước, thật khó phân biệt ai là

anh, ai là em. Khi hai anh em đến tuổi 17, 18 thì cha mẹ đều qua đời cả. Anh em lại càng

yêu thương nhau nhiều hơn.

Page 17: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Hai anh em đến xin học ông đạo sĩ họ Lưu. Thấy hai anh em chăm chỉ học hành, lại đứng

đắn nên thầy quý như con. Ông đạo

sĩ có một cô con gái xinh đẹp tươi giòn, tuổi đã 16, 17 sinh lòng yêu mến hai chàng trai,

muốn kết duyên với người anh như

không thể phân biệt được người nào là anh, người nào là em. Sau đó, cô mới nghĩ ra một kế:

dọn 2 bát cháo mà chỉ đặt một

đôi đũa rồi mời hai anh em cung ăn. Người em lễ phép nhường đôi đũa cho người anh ăn

trước. Cô gái xinh đẹp xin phép cha

mẹ cho được lấy người anh làm chồng.

Từ ngày lấy vợ, người anh hình như dồn tất cả tình yêu cho vợ nên tình cảm anh em

không còn được thắm thiết như trước

nữa. Người em buồn tủi vô cùng. Một lần đi nương về, trời đã tối, cô gái họ Lưu từ buồng ra

gặp người em tưởng là chồng,

vội ôm chầm lấy. Người em vội kêu lên, cả hai đều xấu hổ. Còn người anh thì lại nghi ngờ

chị dâu và em chồng có tình ý gì

nên càng hững hờ với em hơn trước.

Một buổi chiều, ở nhà một mình, trống vắng, buồn tủi, cô đơn, người em đã bỏ nhà ra đi,

đi mãi vào tận khu rừng âm u.

Trời tối mịt, người em vẫn đi. Trăng đã lên. Phía trước là một con suối rộng, sâu, nước xanh

biếc, chẳng lội qua được. Chàng

ngồi bên bờ suối mà khóc, khóc mãi. Sương khuya lạnh thấm vào cõi lòng cô đơn. Chàng

chết mà vẫn trơ trơ, biến thành một

tảng đá.

Thấy em bỏ nhà ra đi mãi chưa về, người anh đi tìm em. Lại ngồi trước con suối, người anh

rầu rĩ than khóc, ngất đi rồi chết

cứng, hoá thành một cây không cành mọc thẳng đứng bên tảng đá. Người vợ lại bỏ ra đi tìm

chồng, tìm em. Lạ thay người lại

đi theo con đường vào rừng xanh, cũng đến bờ suối, ngồi cạnh tảng đá, dưới gốc cây. Nàng

Page 18: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

vô cùng đau khổ khóc than,

mình gầy xác ve, chết tự lúc nào, biến thành một cây leo quấn chặt lấy cái cây không cành

mọc bên tảng đá.

Trong vùng, ai cũng thương tâm. Một lần vua Hùng đi qua con suối ấy, nhân dân đem

truyện ba người kia kể lại cho vua

nghe. Vua bảo thử lấy quả ở cây không cành nghiền với lá cây leo thì một mùi thơm toả ra;

nhai thử thấy thơm ngon đậm đà

và nhổ vào tảng đá, lạ chưa bãi nước biến thành sắc đỏ. Nhân dân đặt tên cây không cành ấy

là cây cau, cây dây leo là cây

trầu, lại lấy tảng đá nung lên cho xốp để ăn với trầu, cau cho thơm miệng, đỏ môi.

Tục ăn trầu của dân ta có từ đấy. Trầu cau không thể thiếu trong lễ hội, trong cưới xin...

Mỗi lần khách đến chơi nhà

"miếng trầu là đầu câu chuyện" làm cho tình nghĩa thêm đẹp và đằm thắm, đậm đà.

Phân tích

1. Ý nghía

Truyện "Trầu cau" là một trong những truyện cổ tích thần kì sớm nhất ở Việt Nam.

Truyện đã giải thích một cách nên thơ,

cảm động, với bao tình tiết đậm đà chất trữ tình tục ăn trầu- một mĩ tục dân gian, biểu hiện

một nét đẹp truyền thống lâu đời

giàu bản sắc của nền văn hoá Việt Nam. Đồng thời truyện còn ca ngợi tình nghĩa thắm thiết,

thuỷ chung của anh em, vợ chồng

trong gia đình.

Cái chết của ba người-hai anh em họ Cao và cô gái họ Lưu- chỉ là một sự hoá thân kì

diệu:cau - trầu - vôi. Cây cau toả

bóng chở che cho hòn đá, cây trầu quấn chặt lấy thân cau. Cũng như trầu với cau ăn với tí

vôi làm cho miệng thơm môi đỏ.

Trầu cau đã gắn bó với lễ hội cổ truyền, trong thù tiếp của cộng đồng người Việt xa xưa.

Page 19: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

2. Lời bình

Dị bản thành văn của truyện "Trầu cau" xuất hiện ở thế kỷ 15 trong "Lĩnh Lam chích

quái" (Truyện Cây Trầu). Nhưng như

thế là rất muộn so với nội dung xã hội được phản ánh trong truyện. Mằc dù các tác giả

"Lĩnh Lam chích quái" có cố gắng tô

điểm lại thêm đôi nét cho thích hợp với quan điểm đạo đức thời phong kiến, dị bản này vẫn

bảo lưu được cái cốt lõi rất cổ

của truyện kể. Đó là một kiểu truyện kể về sự xung đột của hai quan điểm vì hình thái hôn

nhân: một thuộc chế độ quần hôn

(anh em lấy chung một vợ) thời mẫu hệ và một thuộc chế độ hôn nhân và gia đình lứa đôi

thời phụ hệ.

Sự xung đột đó phản ánh một bước tiến xã hội và thể hiện thành tâm trong đau khổ giằng

xé giữa tình anh em và tình yêu

trai gái ở trong từng nhân vật của truyện. Tâm trạng ấy đưa đến cái chết sầu muộn của cả ba

người thật là cảm động. Kiểu

truyện này phổ biến khắp vùng Đông Nam Á.

Nhưng cũng như ở nhiều nơi khác, truyện cổ tích thần kì Việt Nam đã lồng đề tài xã hội

vào đề tài thiên nhiên, đã kết thúc

bằng đồng nhất các quan hệ tình cảm kia với sự hài hoà của thiên nhiên (trầu, cau, vôi) gợi

nên niềm thương cảm gắn bó giữa

những con người chân thành với nhau, cũng là một nội dung văn hoá lành mạnh của tục ăn

trầu ở Việt Nam hàng ngàn năm

qua.

Cao Huy Đỉnh

(Tìm hiểu tiến trình văn hoá dân gian Việt Nam)

Page 20: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Tóm tắt

"Tiễn dặn người yêu" là một truyện thơ dài 1846 câu của người Thái ở Tây Bắc nước ta.

Truyện kể về một mối tình chung

thuỷ của lứa đôi, trải qua nhiều trắc trở đắng cay, cuối cùng cũng đoàn tụ. Cốt truyện như

sau:

Chàng trai nhà nghèo yêu một cô gái. Hai người có bao kỷ niệm đẹp êm đềm và từng gắn

bó thề nguyền:"Sông Đà cạn

bằng chiếc đũa hãy quên". Anh nhờ người mối lái, lo lễ vật đến xin ở rể, nhưng bố mẹ cô

gái chê anh nghèo, không nhận lời.

Cô bị bố mẹ ép gả cho một người con trai giàu có. Cô kêu van chú thím anh chị em trong

nhà, kêu van đến cả chim cu,

nhưng ai cũng không giúp được, "dẫu van xin bố mẹ cũng không buông, không tha".

Người con trai nhà giàu đến ở rể. Người yêu của cô đau khổ, phẫn chí bỏ nhà đi buôn, hy

vọng trở nên giàu có, sẽ trở về

giành lại người yêu.

Trước lúc ra đi, cô trao lại người yêu chiếc đàn môi hẹn ngày tái ngộ. Cô mòn mỏi chờ

trông mà người yêu đi mãi vẫn chưa

về. Năm tháng đã trôi qua, người con trai nhà giàu đã hết hạn "ở rể ngoài" và được làm "rể

trong". Hết hạn ở rể, cô phải về

nhà chồng. Cùng lúc ấy, người yêu trở về, anh tiễn chị đi. Đôi bạn tình bịn rịn, không muốn

rời nhau. Anh tiễn người tình trước

lúc chia tay: " K hông lấy được nhau thời trẻ" thì hãy lấy nhau "khi goá bụa về già".

Mấy năm sau, chị bị nhà chồng đuổi về nhà cha mẹ đẻ vì theo họ, chị không thể nào trở

thành "vợ hiền, dâu thảo". Rồi cha

mẹ chị bán chị cho một nhà quan. Chị đau khổ như điên như dại. Gia đình nhà quan đưa chị

ra chợ bán với giá bán một cuộn

dong. Người mua chị lại chính là người yêu cũ, nay đã trở nên giàu có và đã có vợ. Chị đã

Page 21: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

quá thay đổi, anh chẳng nhận ra chị

được nữa. Chị đem đàn môi ra gảy. Anh chợt nhận ra chị qua tiếng đàn môi não nùng. Anh

thu xếp cho người vợ trước trở về

nhà cha mẹ mình rồi cưới chị làm vợ như lời nguyền ngày trước.

Thân em chỉ bằng thân con bọ ngựa

1. Đoạn thơ ghi lại tâm trạng hoảng hốt, đau khổ của cô gái Thái khi bị cha mẹ ép

duyên.

- Đó là một buổi chiều, cô đang kiếm củi trên nương. Cô vừa hái củi vừa nghĩ đến người

yêu: ".. một bó dành nhen lửa sàn

hoa - Lứa sàn hoa để bạn trai xa hơ áo - Em chỉ đón chờ mồi thuốc anh yêu". Cô mơ ước

"Hỡi vía anh yêu, về nhà theo

nhau". Mặt trời được nhân hoá như đang đối thoại với cô gái, mặt trời "qua sàn người

thương", lúc "sắp lặn", lúc "khuất mây

mờ", mặt trời "không gọi....không chờ", - chẳng khác nào chàng trai - người yêu của cô.

Gánh củi về nhà, cô ngạc nhiên nhìn thấy gói cà, gói xôi, gói thuốc lào... Lúc đầu cô tưởng

là hàng hoá của người Xá mang tới

đổi bán. Khi biết là sính lễ "ràng cuốn tình con", cô luống cuống hoảng sợ, đau khổ "lập cập

chạy ra sân"..."nát ruột gan" nghĩ

về người yêu. Kêu van bác trai, bác gái, chú thím, chị em dâu rể, ai cũng bảo: "K hông giúp

nổi cháu ơi", "không giúp được em

ơi!" N ghe chim cu khuyên giải: "Bố gả chồng cho, đừng chối cô à!".

Như một định mệnh "dầu van xin cha cũng không buông không thả", cô gái tủi thân, tủi

phận, than khóc:

"Ngẫm thân em chỉ bằng thân con bọ ngựa.

Bằng con chẫu chuộc thôi!"

2. Ý nghĩ, giá trị

- Đoạn thơ phản ánh tục lệ ép duyên, lên án lễ giáo phong kiến về hôn nhân đã chà đạp

Page 22: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

lên tình yêu hạnh phúc của người

phụ nữ. (Thái)

- Đoạn thơ có giá trị nhân đạo, thể hiện sự đồng cảm đối với nỗi đau khổ của người con

gái bị ép duyên.

Tóm tắt

"Vượt biển" là một truyện thơ dân gian Tày, Nùng, dài chừng 1.000 câu thơ. Tiếng Tày,

Nùng gọi là "K hảm hải". Truyện

được lưu truyền rộng rãi ở vùng xung quanh hồ ba bể, tỉnh Bắc Cạn. Các thầy cúng xưa nay

vẫn đọc "Vượt biển" trong

những buổi lễ cầu hôn, cầu mát nghe rất não nùng, ai oán. Có thể tóm tắt truyện thơ "Vượt

biển" như sau:

Có hai anh em nhà kia mồ côi, lúc nhỏ rất yêu thương nhau. Sau khi người anh lấy vợ, rồi

giàu có. Người anh trở nên nhạt

nhẽo và bỏ mặc em sống nghèo đói lam lũ, rách rưới. Chị dâu thương tình vá áo cho đứa em

chồng. Lưng áo rách của em đã

in những ngón tay chàm của chị dâu. người anh đi làm về nhìn thấy vết tay chàm trên lưng

áo em, ghen tức.

"Chém đầu em treo ngọn cọ,

Chặt chân em treo ở ngọn vông".

Em chết đau đớn, oan khuất. Linh hồn không nơi lưng tựa, bơ vơ. Rồi bị các quan slay ở

âm phủ bắt làm sa dạ sa đồng -

phu chèo thuyền trên biển ma. Mỗi lần vượt biển là phải trải qua một hải trình dài 12 rán

nước, đay thuỷ quái, mặt biển réo

sôi. Các sa dạ sa đồng lúc thì cất tiếng than hãi hùng, lúc thì hối hả gọi nhau chèo gấp. Lúc

các slay lên bờ kéo vào chợ

Đường Chu (chợ xứ ma của Diêm Vương), sa dạ ngồi trên bờ biển than khóc, khiếp sợ nghĩ

đến cảnh phải vượt biển trở lại

Page 23: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

tiếp theo...

Phân tích đoạn thơ "Chèo thuyền vượt biển"

Ở dương gian, người em trải qua nhiều cái khổ: mồ côi, cô đơn, đói rách, bị anh giết chết

một cách dã man và oan uổng.

Xuống địa ngục lại trở thành sa dạ sa đồng, phải trèo thuyền vượt qua biển dữ, biển ma. Hải

trình là 12 rán nước, mỗi rán

nước là một cửa tử, rùng rợn vô cùng. Phép liệt kê tăng cấp cùng với tiếng than khóc, tiếng

biển sôi, biển réo tạo nên cảnh

chết vô cùng hãi hùng! Rán thứ chín "mặt biển nước sôi gầm réo", rán thứ mười "nước trời

băng băng, làm cho con thuyền

"cánh dầm tung bốn góc". Rán thứ mười một "sóng đuổi sóng xô đi", v.v… Thuỷ quái, nhất

là con "ngọ lồm" - quỷ biển ma -

đón đường cắn xé sa dạ sa đồng. Phu chèo thuyền kinh hãi, cất tiếng khóc than:

"Biển ơi, đừng giết tôi

Nước hỡi, đừng lôi lấy thuyền".

Họ gọi nhau "chèo mau lên, chèo cố" giữa biển ma mịt mù và cái chết nơi cõi âm bủa

vây.

Các slay - quan quân lên bờ, có người "ôm hoa", "ôm hương", có người "cầm nón", "cầm

ô", "xách giầy hoa...giầy đẹp", gánh

gồng bao của quý "đi lễ người". Còn các sa dạ sa đồng, hồn ma của người em bất hạnh ngồi

trên bờ biển càng cảm thấy cô

đơn, nghĩ đường về nhà kinh hãi:

"Chèo thuyền qua lò than, qua biển

Nhìn đường về, nước cuộn ầm rung".

Hết rán nước này qua rán nước khác, chèo thuyền đi rồi lại chèo thuyền về trên biển ma -

kết cấu chuyển dịch nhằm diễn

tả những kiếp người luân hồi đau khổ. "Vượt biển" qua giọng đọc và khấn cầu của thầy

Page 24: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

cúng, ai đã một lần được nghe mới

súc động trước âm điệu thê thiết não nùng, mới cảm thấy cái khủng khiếp của bể trầm luân

và thương sót với những kiếp

người đau khổ, bất hạnh. Truyện thơ "Vượt biển" là tiếng kêu đau thương từ cõi âm vọng về

cõi dương. Đó là nội dung

nhân đạo của nó.

Bài ca người thợ mộc

Anh là thợ mộc Thanh Hoa,

Làm cầu, làm quán, làm nhà... khéo thay!

Lựa cột anh dựng đòn tay,

Bào trơn đóng bén nó ngay một bề.

Bốn cửa anh chạm bốn dê

Bốn con dê đực chầu về tổ tông,

Bốn cửa anh chạm bồn rồng,

Trên thì rồng ấp, dưới thì rồng leo.

Bốn cửa anh chạm bốn mèo,

Con thì bắt chuột, con leo xà nhà.

Bốn cửa anh chạm bồn gà,

Đêm thì nó gáy, ngày ra ăn vườn.

Bốn cửa anh chạm bốn lươn,

Con thì thắt khúc, con trườn bò ra.

Bốn cửa anh chạm bốn hoa,

Trên là hoa sói, dưới là hoa sen.

Bốn cửa anh chạm bốn đèn,

Một đèn dệt cửi, một đèn quay tơ.

Page 25: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Một đèn đọc sách ngâm thơ,

Một đèn anh để đợi chờ nàng đây.

Lời bình

Tục ngữ có câu: "Thợ mộc xứ Thanh ở quanh Kinh kì", hoặc: "Thợ mộc xứ Thanh ở

quanh Thuận Quảng". Thợ mộc dù

giỏi đến đâu cũng chỉ được gọi là phó cả. Thợ mộc làm cung điện vua chúa mới được gọi là

thợ cả. Xây dựng cung điện thời

Lê - Thịnh, thời N guyễn sau này, phần lớn là thợ mộc Thanh Hoá. Câu đầu của bài ca dao

này có dị bản ghi là "Anh làm thợ

mộc Thanh Hoa". Theo ý chúng tôi là “Anh là thợ mộc Thanh Hoa”; một chữ là biết mấy tự

hào khi chàng trai xưng danh với

cô gái. Không phải thợ mộc tầm thường mà là thợ mộc Thanh Hoa xây dựng cung điện đấy

nhé! Hai chữ "khéo thay" cũng là

lời tự khen, khoe tài của anh: "Làm cầu, làm quán, làm nhà ... khéo thay"! Có tài thực mà

khoe khoang thì cũng chẳng hay ho

gì! Ở đây, chàng thợ mộc Thanh Hoa khoe tài là để tỏ tình với cô gái mà anh đang yêu, nên

rất dễ thương, được chúng ta

đồng tình.

Câu 3,4 chỉ theo đà mà nói, chứ có tài cán gì ở cái việc "bào trơn, đóng bén"... Từ câu thứ

năm trở đi, bằng biện pháp liệt

kê, chàng thợ mộc khoe tài chạm trổ của anh. Năm bức chạm con vật: dê, rồng, mèo, gà,

lươn. Hai bức chạm cảnh: hoa và

đèn. Có bức chạm tứ linh: rồng, nhưng đã được cách điệu dân gian hoá, bình dị hoá.

"Trên thì rồng ấp, dưới thì rồng leo"

Con lươn có gì đáng chạm? Với tài nghệ điêu luyện, bức chạm lươn vô cùng sống động,

tuyệt khéo:

"Bốn cửa anh chạm bốn lươn

Page 26: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Con thì thắt khúc, con trườn bò ra".

Nghệ thuật cổ phương Đông lấy cái cân xứng làm thành một tiêu trí của cái đẹp. Hội hoạ,

chạm trổ, kiến trúc, thơ văn...

hay miêu tả cảnh vật qua bộ tứ bình: tùng, cúc, trúc, mai; xuân, hạ, thu, đông; ngư tiều,

canh, mục...nghệ sĩ lấy cái đối xứng,

cái hài hoà làm trọng. Trong bài ca dao này, các tiểu đối đã làm rõ vẻ đẹp bức chạm đầy mĩ

thuật của chàng thợ mộc:

- Trên thì rồng ấp // dưới thì rồng leo.

- Con thì bắt chuột // con leo xà nhà.

- Đêm thì nó gáy // ngày ra ăn vườn.

- Con thì thắt khúc // con trườn bò ra.

- Trên là hoa sói // dưới là hoa sen.

- v.v ...

Cái hồn của bức chạm 5 con vật được thể hiện ở trạng thái động: " Chầu về tổ tông",

"rồng ấp rồng leo", "bắt chuột... leo

xà nhà", "gáy ra ăn vườn", "thắt khúc... trườn bò ra".

Tất cả các bức chạm đều cho thấy anh thợ mộc là con một người rất tài hoa.

Anh còn là một chàng trai đa tình. Làm nghề thợ mộc dù giỏi đến mấy cũng thuộc vị thế

tầm thường qua sự xếp đặt 4 lớp

người trong xã hội phong kiến. Bức chạm hoa - hoa sói , hoa sen - là một ngầm ý: khoe tâm

hồn thanh cao. Chàng trai đang

tỏ tình không phải là loại người vai u thịt bắp đâu nhé! Bức chạm đèn mới thật kì diệu. Hai

ngọn đèn cho người khéo tay hay

lam hay làm - chính là cô gái - để dệt vải, để quay tơ. Đèn thứ ba, để cho ai, "đọc sách ngâm

thơ"? Một con người nho nhã

đang tỏ tình với nàng. Ngọn đèn thứ tư là ngọn đèn hạnh phúc:

"Một đèn anh để đợi chờ nàng đây".

Page 27: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Có thể nói bức chạm đèn rất đẹp, đẹp về mặt mĩ thuật, đẹp ở tâm tình chàng thợ "mộc",

đó là một con người luôn luôn

hướng về một cuộc sống lao động, êm đềm hạnh phúc của lứa đôi trong mỗi gia đình Việt

Nam.

Cấu trúc bài ca dao cân xứng, hài hoà. Giọng điệu hồn nhiên tự tin và chân thành. Chàng

thợ mộc Thanh Hoa là một chàng

trai tài hoa và đa tình: Anh là một con người dễ mến dễ thương.

Tát nước đầu đình

Hôm qua tát nước đầu đình,

Bỏ quên cái áo trên cành hoa sen.

Em được thì cho anh xin,

Hay là em để làm tin trong nhà.

Áo anh sứt chỉ đường tà,

Vợ anh chưa có, mẹ già chưa khâu.

Áo anh sứt chỉ đã lâu,

Mai mượn cô ấy về khâu cho cùng.

Khâu rồi anh sẽ trả công,

Đến khi lấy chồng anh sẽ giúp cho.

Giúp cho một thúng sôi vò,

Một con lợn béo, một vò rượu tăm.

Giúp cho đôi chiếu em nằm,

Đôi chăn em đắp, đôi trằm em đeo.

Giúp cho quan tám tiền cheo,

Quan năm tiền cưới lại đèo buồng cau.

Lời bình

Page 28: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

"Tát nước đầu đình" là bài ca dao tỏ tình của anh trai cày với cô gái thôn nữ. Đã có bài

"Mận hỏi Đào"... Cũng có cảnh thổ

lộ tình yêu một cách mộc mạc:

"Gặp đây anh lắm cổ tay,

Anh hỏi câu này, có lấy anh không?"

Bài ca dao "Tát nước đầu đình" cho thấy, anh trai cày này dễ thương hơn. Gặp cô thôn nữ

chắc anh đã "phải lòng" rồi, anh

lấy cớ "mất áo" để bắt chuyện. Sen làm gì có cành, đó chỉ là cách nói cho đậm đà. Cô gái bị

buộc vào một cảnh ngộ "khó

xử":

"Em được thì cho anh xin

Hay là em để làm tin trong nhà"

Chiếc áo đã trở thành "cái cầu" thương nhớ! Thật là hồn nhiên, tự nhiên. Cô thôn nữ chắc

là đã "Lắng nghe lời nói như ru -

Chiều thu dễ khiến nét thu ngại ngùng" (K iều). Bỏ đi sao đành, khi nghe chàng thổ lộ gia

cảnh:

"Áo anh rứt chỉ đường tà,

Vợ anh chưa có, mẹ già chưa khâu"

Cái áo đã đi trọn một vòng đời khi anh nói: "Mai mượn cô ấy về khâu cho cùng". Anh

đang chăn đơn gối chiếc, thiếu kẻ

sửa túi nâng khăn. Anh chỉ có mẹ già, "mẹ già bằng ba lần cửa", "mẹ già như chuối ba

hương - như xôi nếp mật như đường

mía lau" (ca dao).

Cảnh ngộ ấy, ai nghe mà chẳng động lòng. Từ chỗ gọi bằng "em", chàng trai cày chuyển

sang gọi bóng gió: "cô ấy".

Chàng trai nói về chuyện "trả công", nói về chuyện "giúp cho". Rất hậu hĩnh: "một thúng

xôi vò", "một con lợn béo", "một vò

Page 29: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

rượu tăm". Cũng với lời nói, đến đây, khoé mắt, đôi mày, nụ cười, mái tóc ... như đều biết

nói, cùng tham dự vào cuộc tỏ

tình. Mỗi lúc một hé lộ, cánh cửa tâm tình mở rộng dần ra. Từ "một" đã thành "đôi" rồi:

"Giúp em đôi chiếu em nằm

Đôi chăn em đắp, đôi trằm em đeo"

Bài ca dao, "bức thông điệp của tình yêu" đã thấm sâu vào tâm hồn người thiếu nữ khi

bên tai nàng một tiếng nói chân tình

vang ngân:

"Giúp cho quan tám tiền cheo,

Quan năm tiền cưới, lại đèo buồng cau".

Các điệp từ, điệp ngữ: "giúp cho.... giúp cho..." tạo nên ngữ điệu nồng nàn, ý vị, thiết tha,

thể hiện một cách chân thành

nỗi ước mơ nên vợ nên chồng mà chàng trai cày đang hướng tới.

Cho chim khoe giọng hót. Anh thợ mộc Thanh Hoa khoe tài. Chàng trai cày nói chuyện

bỏ quên cái áo "sứt chỉ đường tà"

v.v… Trai gái làng xưa đã tỏ tình, đã giao duyên... đậm đà như vậy.

Lao động, hạnh phúc lứa đôi, cuộc sống êm đềm hạnh phúc "chồng cày, vợ cấy, con trâu

đi bừa", là ước mong, khát vọng

muôn đời của họ. Chân thành, tế nhị ... của chàng trai trong tỏ tình, trong giao tiếp... là một

nét rất đẹp trong tâm hồn để ta

trân trọng.

Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX tồn tại và phát triển trong lòng xã hội

và văn hoá phong kiến được gọi

là Văn học trung đại Việt Nam.

Page 30: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Các giai đoạn phát triển

1. Giai đoạn từ thế kỷ X đến thế kỷ XV.

- 3 cuộc kháng chiến vĩ đại: thời Lý đánh bại giặc Tống; thời Trần ba lần đánh thắng giặc

Nguyên - Mông; thời Lê đánh

đuổi quân "cuồng Minh" tàn bạo.

- Chịu ảnh hưởng tư tưởng của đạo Phật, đạo Nho và đạo Lão; sâu sắc nhất và bao trùm nhất

là đạo Nho.

- Văn học Hán Nôm thấm nhuần tư tưởng yêu nước và tinh thần dân tộc, ý chí chống

xâm lăng. Tác giả tiêu biểu nhất: Lý

Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông.

2. Giai đoạn từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XVIII.

- Chế độ phong kiến khủng hoảng. Nội chiến Nam - Bắc triều; Trịnh - Nguyễn phân

tranh. Khởi nghĩa nông dân nổi lên

như vũ bão.

- Văn thơ chữ Nôm phát triển mạnh. Cảm hứng nhân đạo dào dạt nói lên nỗi đau thương

của con người, biểu lộ tấm lòng

thương dân lo đời.

Tác giả tiêu biểu nhất là Nguyễn Bỉnh Khiêm, Đào Duy Từ....

3. Giai đoạn từ nửa sau thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX.

Chế độ phong kiến Việt Nam (cả Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài) khủng hoảng trầm trọng

và sụp đổ. Khởi nghĩa nông dân

Tây Sơn quét sạch thù trong giặc ngoài. Gia Long thiết lập triều Nguyễn. Nước ta rơi vào

hiểm hoạ xâm lăng của thực dân

Pháp.

- Thiên chúa giáo được truyền vào nước ta. Chữ quốc ngữ xuất hiện.

- Văn học viết Hán, Nôm phát triển rực rỡ. Chủ nghĩa nhân đạo thấm đẫm văn chương.

Page 31: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

"Chinh phụ ngâm", "Cung oán

ngâm khúc","Truyện kiều"... là những áng thơ kiệt tác. Tên tuổi những nữ sĩ Đoàn Thị

Điểm, Hồ Xuân Hương, Bà Huyện

Thanh Quan sáng chói cùng với N guyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát.....

4. Giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX.

- Thực dân Pháp xâm lăng, rồi thống trị nước ta. Phong trào yêu nước chống Pháp.

- Bắt đầu có văn thơ viết bằng chữ quốc ngữ. Giai đoạn cuối cùng của văn học chữ Nôm.

Nguyễn Đình C hiểu, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương... là những nhà thơ tiểu biểu nhất

giai đoạn này.

Mấy đặc điểm lớn về nội dung

1. Cảm hứng yêu nước.

2. Cảm hứng nhân đạo.Mấy đặc điểm lớn về hình thức

1. Yếu tố Hán và yêu cầu dân tộc hoá hình thức văn học.

2. Tính quy phạm và việc phá vỡ tình quy phạm.

3. Phạm vi và quy mô kết tinh nghệ thuật của văn học.

Ngôn hoài

Không Lộ Thiền sư

Trạch đắc long xà địa khả cư,

Dã tình chung nhật lạc vô dư.

Hữu thì trực thượng cô phong đính,

Trưởng khiếu nhất thanh hàn thái hư.

Tỏ lòng

Kiều đất long xà chọn được nơi

Tình quê nào chán suốt ngày vui.

Có khi đỉnh núi trèo lên thẳng

Page 32: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Một tiếng kêu vang lanh cả trời.

Phan Võ dịch

Tác giả

Không Lộ Thiền sư (?- 1119) là Phật danh, họ Dương, quê ở Nam Định, vùng biển. Đức

trọng tài cao, tên tuổi gắn liền

với nhiều giai thoại nhà chùa và hai bài tứ tuyệt: "Ngôn hoài", "Ngư nhàn".

Chủ đề

"Ngôn hoài"- giãi bày nỗi lòng của vị Thiền sư - thi sĩ - tình yêu đời chan hoà với tình

yêu quê hương, yêu thiên nhiên tạo

vật.

Phân tích

Hai câu đầu nói lên niềm vui dào dạt "suốt ngày vui", đó là "dã tình", là mối tình quê

nhà, đồng ruộng, núi rừng. Vui vì

chọn được "kiểu đất long xà" rất đẹp, rất thích để làm nhà. Niềm vui ấy bình dị như mọi

người. Không Lộ tuy là một vị Thiền

sư nhưng không thoát tục, vui niềm vui bình dị, yêu tình yêu quê hương.

Hai câu 3, 4 thể hiện khí phách và sự chan hoà của nhà thơ giữa thiên nhiên cao rộng,

trèo thẳng lên đỉnh núi cao rồi kêu

lên một tiếng thật to và dài trấn động cả bầu trời, vũ trụ. Chữ dùng thật hay, biểu lộ một chí

khí. Một tâm thế hào hùng, kỳ lạ :

"Hữu thì trực thượng cô phong đính,

Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư"

Page 33: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Đọc thêm

Ngư nhàn

Vạn lý thanh giang, vạn lý thiên.

Nhất thôn tang giá, nhất thôn yên.

Ngư ông thụy trước vô nhân hoán,

Quá ngọ tinh lai tuyết mãn thuyền.

Không Lộ Thiền sư

Cảnh thanh nhàn của ngư ông

Mây xanh nước biếc muôn trùng,

Dâu chen khói toả một vùng thôn quê.

Ô ng chài giấc ngủ đang mê,

Quá trưa tỉnh dậy tuyết che đầy thuyền.

Đinh Văn Chấp dịch

(Tạp chí Nam Phong 1927)

Tụng giá hoàn kinh sư

Trần Quang Khải

Doạt sóc Chương Dương độ

Cầm Hồ Hàm Tử quan

Thái bình tu trí lực

Vạn cổ thử giang sơn

Phò giá về kinh

Chương Dương cướp giáo giặc,

Hàm tử bắt quân thù

Thái Bình nên gắng sức

Page 34: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Non nước ấy nghìn thu

Trần Kim Trọng dịch

(Việt Nam sử lược)

Page 35: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Tác giả

Trần Quang Khải (1241 - 1294) là thượng tướng, có công lớn trong cuộc kháng chiến

(lần thứ 2 và lần thứ 3) đánh thắng

giặc Nguyên – Mông. Học rộng, giỏi thơ văn, có tài thao lược và ngoại giao. Ông có tập

thơ "Lạc đạo", nổi tiếng nhất là bài

thơ "Tụng giá hoàn kinh sư"

Xuất xứ chủ đề

1. Tháng 4/1285, Trần Nhật Duật chém đầu Toạ Đô tại Hàm Tử quan. Tháng 6/1285,

Trần Quang Khải đại phá giặc

Nguyên Mông tại Chương Dương độ, tiến lên giải phóng Thăng Long. Bài thơ "Tụng giá

hoàn kinh sư "được viết sau chiến

thắng Chương Dương độ.

2. Bài thơ biểu lộ niềm tự hào, niềm vui thắng trận và nói lên khát vọng đem tài trí xây

dựng đất nước thanh bình

bền vững muôn đời.

Phân tích

Bài thơ được viết theo thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt. Hai câu đầu bình đối như hai trang kí

sự chiến trường. Vị ngữ "đoạt

sóc" (cướp giáo) và "cầm Hồ" (bắt giặc Mông Cổ) được đặt ở đầu câu, thể hiện hai thế

đánh, hai cú đánh liên tiếp giáng

xuống đầu giặc với sức mạnh "Sát Thát" của tướng sĩ thời Trần. Chương Dương độ và Hàm

Tử quan, hai địa danh, hai chiến

công đã được ghi vào sử sách và thơ ca dân tộc trở nên trường tồn, chói lọi:

"Đoạt sóc Chương Dương độ

Cầm Hồ Hàm Tử quan "

Câu thơ như một bản tin chiến sự, có một sức nén và vang xa, dạt dào tự hào. Phải là

người tham dự, chỉ huy trận đánh

Page 36: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

mới viết hàm súc và đĩnh đạc, hào hùng như vậy.

Hai câu cuối, một ý thơ mới xuất hiện. Trong khói lửa chiến trường, trong niềm vui chiến

thắng giải phóng kinh thành Thăng

Long trên đống tro tàn do lũ giặc gây ra, nhà thơ nghĩ đến nhiệm vụ mới:

"Thái bình tu trí lực

Vạn cổ thử giang san”

Trước mắt mọi người, từ vua tôi, tướng sĩ đến trăm họ, toàn dân, ai ai cũng phải đem tài

trí sức lực, của cải (trí lực) để xây

dựng giang san đất nước bền vững trong thanh bình đến muôn đời. Nhãn quan chính trị của

Trần Quang Khải vô cùng sáng

suốt. Câu thơ trên có ý nghĩa thời sự đối với chúng ta hiện nay.

Tóm lại, "Tụng giá hoàn kinh sư" là bài thơ kiệt tác. Bản dịch của tác giả Trần Trọng

Kim rất đặc sắc.

Thuật hoài

Hoành sóc giang sơn cáp kỉ thu

Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu

Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu.

Phạm Ngũ Lão

Tỏ lòng

Múa giáo non sông trải mấy thâu,

Ba quân hùng khí át sao Ngưu

Công danh nam tử còn vương nợ

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu.

Trần Trọng Kim dịch.

(Việt Nam sử lược)

Page 37: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Tác giả

Phạm Ngũ Lão (1255-1320) quê ở làng Phù Ủng, Hải Dương. Là danh tướng thời Trần

trăm trận trăm thắng, văn võ toàn

tài. Còn lưu lại hai bài thơ "Thuật Hoài" và "Vân thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại

Vương".

Chủ đề

Bài thơ "Thuật Hoài" nói lên chí khí và khát vọng công danh anh hùng của đấng nam nhi

trong thời loạn- khi Tổ

Quốc bị xâm lăng.

Lời bình

Cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ thơ đanh thép hùng hồn. Trong đạo quân mạnh như hổ báo,

chí khí lẫm liệt làm át, làm mờ cả

sao Ngưu trên bầu trời, thì người chiến sĩ thời Trần đã cầm ngang ngọn giáo để bảo vệ giang

sơn. Ngọn giáo ấy mang tầm vóc

kì vĩ đo bằng kích thước non sông. Hình tượng người anh hùng "Sát Thát" được thể hiện

bằng ngôn ngữ tráng lệ, kì vĩ khác

nào người anh hùng thần thoại, người dũng sĩ trong sử thi xa xưa?

Người anh hùng thuở "Bình N guyên" nung nấu trong lòng, cháy bỏng tâm hồn niềm

khao khát: đánh giặc lập công để đền

ơn vua báo nợ nước. Mang nặng nợ công danh cũng là khát vọng anh hùng cao đẹp. Tự tin

và tự hào khi nhà thơ khẳng định.

"Công danh nam tử còn vương nợ

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu"

Bài thơ là khúc tráng ca của người anh hùng Phạm Ngũ Lão trăm trận trăm thắng. Cùng

với "Hịch tướng sĩ " (Trần Quốc

Tuấn), "Tụng giá hoàn kinh sư" (Trần Quang Khải)... bài thơ "Thuật hoài" của Phạm Ngũ

Lão sáng ngời Hào khí Đông - Á.

Page 38: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Tác giả

Trương Hán Siêu (?-1354), tự là Thăng Phủ, quê ở N inh Bình. Vốn là môn khách của

Hưng Đạo Vương. Dưới triều Trần

Anh Tông, Trần Dụ Tông, ông làm quan to trong triều. Lúc mất được truy tặng Thái bảo,

được thờ ở Văn Miếu.

Là bậc danh sĩ tài cao học rộng. Hiện còn để lại 4 bài thơ, 3 bài văn, nổi tiếng nhất là

"Bạch Đằng giang phú".

"Phú" là gì?

"Phú" nghĩa đen là bày tỏ, miêu tả, là thể văn xuôi có vần dùng để tả cảnh vật, phong tục,

tính tình. Phú được chia làm hai

loại:

1. Phú cổ thể gọi là Phú lưu thuỷ, như một bài ca, hoặc một bài văn xuôi dài mà có vần.

2. Phú Đường luật là thể phú được đặt ra từ đời Đường vừa có vần vừa có đối, có luật

bằng trắc nghiêm nhặt.

Bố cục một bài phú gồm có 6 phần: 1, Lung; 2, Biện nguyên; 3, Thích thực; 4, Phu diễn;

5, Nghị luận; 6, Kết.

Cách đặt câu trong một bài phú gồm có các kiểu sau: Câu tứ tự, câu bát tự, câu song quan,

câu cách cú, câu gối hạc.

Có hay chữ (tài giỏi), có tài hoa mới viết được phú. Cần hiểu thi pháp về phú mới cảm

nhận được cái hay của văn

chương, tư tưởng của phú và văn tế

Chủ đề

"Bạch Đằng giang phú" đã ca ngợi sông Bạch Đằng hùng vĩ từng ghi bao chiến công

oanh liệt của tổ tiên, biểu lộ niềm tự

hào về đất nước ta có "đất hiểm" có lắm anh hùng hào kiệt, để đánh giặc ngoại xâm, bảo vệ

nền độc lập thanh bình bền vững.

Page 39: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Những nét lớn cần biết

1. "Bạch Đằng giang phú" được viết theo thể phú lưu thuỷ, có vần, tác giả sử dụng phép

đối nhiều chỗ. "Bài ca cuối bài

phú" là một sự sáng tạo. Nhân vật "khách" là nhân vật trữ tình - chính là nhà thơ.

2. Đoạn tả cảnh sắc Bạch Đằng giang hùng vĩ tráng lệ bằng cảm hứng thiên nhiên chan

hoà với cảm hứng lịch sử là

đoạn hay nhất:

"Bát ngát sóng kình muôn dặm

Thướt tha đuôi trĩ một mầu

Nước trời: một sắc

Phong cảnh: ba thu

Bờ lau san sát

Bến lách đìu hiu

Sông chìm giáo gẫy

Gò đầy xương khô..."

3. Bô lão xuất hiện cuộc đối thoại giữa "khách" và "bô lão" làm cho giọng điệu bài phú

từ cảm xúc trữ tình chuyển thành

anh hùng ca. Nhà thơ tái hiện lại cảnh tượng chiến trường một thời oanh liệt - trận thuỷ

chiến trên sông Bạch Đằng:

"Đây là chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã.

Cũng là bãi đất xưa thuở trước Ngô chúa phá Hoàng Thao.

Đương khi ấy

Thuyền bè muôn đội

Tinh kỳ phấp phới.

Tì hổ ba quân.

Page 40: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Giáo gươm sáng chói

Trận đánh thư hùng chửa phân,

Chiến luỹ Bắc, Nam chống đối.

Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,

Bầu trời đất chừ sắp đổi

(...) Đến nay sông nước tuy chảy hoài

Mà nhục quân thù khôn rửa nổi"

4. Trận thuỷ chiến trên sông Bạch Đằng khác nào trận Xích Bích, trận Hợp Phì trong Bắc

sử. Nhà thơ tự hào khẳng

định và ngợi ca:

"Quả là trời đất cho nơi hiểm trở,

Cũng nhờ nhân tài giữ cuộc điện an...

(...) Kìa trận Bạch Đằng mà đại thắng

Bởi Đại Vương coi thế giặc nhan ..."

5. Bài ca về sông Bạch Đằng

Sông Bạch Đằng hùng vĩ, là mồ chôn quân xâm lược:

"Sông Đằng một giải dài ghê

Sóng hồng cuồn cuộn tuôn về bể Đông."

Bài học giữ nước là bài học "đức cao" đó là lòng yêu nước, tinh thần đại đoàn kết chống

xâm lăng. Ý tưởng sâu sắc, tiến

bộ:

"Giặc tan muôn thuở thanh bình

Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao."

Page 41: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Tổng kết

"Bạch Đằng giang phú" là bài ca yêu nước và tự hào dân tộc. Ngôn ngữ tráng lệ. Dòng

sông hùng vĩ, hiểm trở. Dân tộc anh

hùng có nhiều nhân tài hào kiệt. Nhà thơ thể hiện những tư tưởng sâu sắc tiến bộ về vinh và

nhục, thắng và bại, tiêu vong

và trường tồn, đất hiểm và đức cao... Đó là bài học lịch sử sáng giá đến muôn đời.

Có những câu văn như một châm ngôn khẳng định một chân lí lịch sử.

"Những người bất nghĩa tiêu vong

N ghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh"

Cuộc đời Nguyễn Trãi

Nguyễn Trãi (1380-1442) hiệu là Ức Trai, người ở làng Nhị Khê, Thường Tín, Hà Tây.

Là con của Nguyễn Phi Khanh,

cháu ngoại tướng công Trần Nguyên Đán. Đỗ Thái học sinh năm 1400. Năm 1407 giặc

Minh xâm chiếm nước ta, cha bị giặc

bắt đưa về Trung Quốc, Nguyễn Trãi bị giặc giam lỏng tại thành Đông Quang.

- Nguyễn Trãi biệt Đông Quan, trốn vào Lam Sơn dâng "Bình Ngô sách" lên Lê Lợi, trở

thành vị quân sư "viết thư thảo

hịch tài giỏi hơn hết một thời".

- Năm 1428, ông thay lời Lê Lợi thảo "Bình Ngô Đại Cáo" sau đó được cử làm Chánh

chủ khảo khoa thi tiến sĩ đầu tiên

của triều Lê và viết chiếu cầu hiền. Chẳng bao lâu sau, ông bị bọn nịnh thần chèn ép, gièm

pha. Nguyễn Trãi xin về Côn Sơn.

Năm 1440, ông lại được vua vời ra giúp nước.

- Năm 1442 xẩy ra vụ án Lệ Chi Viên, ông bị kết án "tru di tam tộc". Mãi đến năm 1464,

vua Lê Thánh Tông mới minh

oan cho ông và truy tặng ông tước Tán trù bá.

Page 42: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Nguyễn Trãi là người anh hùng thủa"Bình N gô", văn võ toàn tài.

Sự nghiệp trước tác của Nguyễn Trãi

1. "Quân trung từ mệnh tập".

- "Bình Ngô Đại Cáo"

"Dư địa chí "... "Lam Sơn thực lực"

"Phú núi Chí Linh", "Q uốc âm thi tập", "Ức Trai thi tập",

- v.v...

2. Nội dung thơ văn Nguyễn Trãi.

a) Tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước và thương dân sâu sắc

- Thương dân, trừng phạt kẻ có tội (điếu phạt) tiêu diệt quân tàn bạo hại nước hại dân (trừ

bạo), đem lại yên vui, hạnh

phúc cho nhân dân (yên dân), đó là việc nhân nghĩa:

"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo"

- Sức mạnh nhân nghĩa là sức mạnh Việt Nam để chiến thắng thù trong giặc ngoài. Đó là

"Đại nghĩa" (nghĩa lớn vì nước vì

dân), là lòng "chí nhân" (thương người vô hạn):

"Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,

Lấy chí nhân để thay cường bạo"

- Lòng căm thù giặc sôi sục, quyết không đội trời chung với quân "cuồng M inh":

Ngẫm thù lớn há đội trời chung,

Căm giặc nước thề không cùng sống

- Tư tưởng nhân nghĩa của Ức Trai luôn luôn gắn liền với lòng "trung hiếu" và niềm "ưu

ái" (lo nước, thương dân).

"Bui có một lòng trung lẫn hiếu

Page 43: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen"

(Thuận hứng - 24)

"Bui một tấc lòng ưu ái cũ,

Đêm ngày cuồn cuộn nước triều Đông"

(Thuật hứng - 5)

b) Văn thơ Nguyễn Trãi thể hiện tình yêu thắm thiết đối với thiên nhiên, đối với quê

hương, gia đình.

- Yêu thiên nhiên:

+ Yêu cây cỏ hoa lá, trăng nước mây trời, chim muông ...

"Hái cúc ương lan, hương bén áo

Tìm mai, đạt nguyệt, tuyết xâm khăn"

"Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc

Thuyền chở yên hà nặng vạy then"

"Cò nằm, hạc lẩn nên bầy bạn

Ủ ấp cùng ta làm cái con"

+ Yêu quê hương gia đình:

"...Ngỏ cửa nho, chờ khách đến

Trồng cây đức, để con ăn"

"Nợ cũ chước nào báo bổ

Ơn thầy ơn chúa liễn ơn cha"

"Quê cũ nhà ta thiếu của nào

Rau trong nội, cá trong ao"

+ Yêu danh lam thắng cảnh.

"Muôn hàng giáo ngọc tre gài cửa

Bao dải tua châu đá rủ mành"

Page 44: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

(Đề chùa Hoa yên, núi Yên Tử)

"Một vùng biếc sẫm gương lồng bóng,

Muôn hộc xanh om tóc mượt màu"

(Vân Đồn)

"K ình ngạc băm vằm non mấy khúc

Giáp gươm chìm gẫy bãi bao tầng"

(Cửa biển Bạch Đằng)

c) Một cuộc đời thanh bạch, một tâm hồn thanh cao.

...."Một tầm lòng son ngời lửa luyện.

Mười năm thanh chức ngọc hồ băng"

..."Nước biển non xanh thuyền gối bãi

Đêm thanh nguyệt bạc khách lên lầu".

"Say minh nguyệt, chè ba chén

Thú thanh phong, lều một gian "

"Sách một hai phiên làm bậu bạn.

Rượu năm ba chén đổi công danh"

3. Nghệ thuật

- Văn chính luận như "Bình Ngô Đại Cáo" thì hùng hồn, đanh thép, sắc sảo, đúng là tiếng

nói của một dân tộc chiến

thắng, một đất nước có nền văn hiến lâu đời.

- Thơ chữ Hán hàm súc, tinh luyện, thâm trầm. Thơ chữ Nôm bình dị mà tài hoa, thiết tha

đằm thắm. Thơ thất ngôn xen

lục ngôn là một dấu ấn kì lạ của nền thơ chữ Nôm dân tộc.

Nguyễn Trãi là anh hùng dân tộc, nhà văn hoá vĩ đại, là đại thi hào dân tộc. Nguyễn Trãi

còn là ông tiên ở trong lầu ngọc

Page 45: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

mà tâm hồn lộng gió thời đại. Cuộc đời và thơ văn Nguyễn Trãi là bài ca yêu nước, tự hào

dân tộc.

Xuất xứ

Năm 1407, giặc Minh xâm lăng nước ta. Năm 1417, tại núi rừng Lam Sơn, Thanh Hoá,

Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa xưng là

Bình Định Vương. Trải qua mười năm kháng chiến vô cùng gian lao và anh dũng, nhân

dân ta quét sạch giặc Minh ra khỏi bờ

cõi. Mùa xuân năm 1428 thay lời Lê Lợi, Nguyễn Trãi thảo "Bình Ngô Đại cáo". Nó là một

luận văn chính trị, quân sự,

đồng thời là áng "thiên cổ hùng văn"

Chủ đề

"Bình Ngô đại cáo" khẳng định sức mạnh nhân nghĩa Đại Việt căm thù lên án tội ác ghê

tởm của quân "cuồng Minh", ca

ngợi những chiến công oanh liệt thuở "Bình Ngô", tuyên bố đất nươc Đại Việt bước vào kỷ

nguyên mới độc lập, thái bình bền

vững muôn thuở.

Phân tích

1. Đại Việt là một đất nước có truyền thống nhân nghĩa cao đẹp.

a) Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn nêu cao ngọn cờ nhân nghĩa, đem "quân điếu phạt" để tiêu diệt

quân cường bạo, vì độc lập của

nước, vì sự yên vui hạnh phúc của nhân dân:

"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo"

b) Nguồn gốc của nhân nghĩa Đại Việt là nền văn hiến lâu đời. Đâu phải "N am man" là

"man di mọi rợ". Như bọn

hoàng đế phương Bắc thường láo xược phán truyền. Trái lại, Đại Việt là một quốc gia "vốn

xưng nền văn hiễn đã lâu". Nền

Page 46: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

văn hiến ấp hợp thành bởi các nhân tố:

- Có núi sông bờ cõi "đã chia", đã " định phận tại Thiên thư".

- Có thuần phong mĩ tục.

- Có nền độc lập vững bền: "Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập", "hùng cứ một

phương".

- Lắm nhân tài hào kiệt.

- Có truyền thống anh hùng chống ngoại xâm, có những trang sử vàng chói lọi từng làm

cho "Lưu Cung thất bại", "Triệu

Tiết tiêu vong", "bắt sống Toa Đô", "giết tươi Ô mã".

2. "Bình Ngô đại cáo" là bản cáo trạng đanh thép, đầy căm thù tội ác quân "cuồng

Minh". Tác giả đứng trên

quan điểm nhân nghĩa mà lên án quân xâm lược.

- Giặc Minh tàn sát dã man nhân dân ta:

"Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,

Vùi con đỏ dưới hầm tai vạ"

- Tàn phá môi trường môi sinh, bóc lột vơ vét thậm tệ:

"Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,

Nặng thuế khoá sạch không đầm núi"

- Bắt dân ta xuống bể mò ngọc trai, lên rừng bẫy hươu đen... gây ra bao thảm cảnh. Bọn

thái thú, bọn tướng tá Thiên triều

như một lũ quỷ khát máu vô cùng ghê tởm: "Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no

nê chưa chán!".

Tội ác của giặc Minh chồng chất như núi, đầy mưu mô xảo quyệt "dối trời, lừa dân... gây

binh, kết oán". Một cách nói thâm

xưng đầy căm thù, ám ảnh:

"Dơ bẩn thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,

Page 47: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Độc ác thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!

Lẽ nào trời đất dung tha

Ai bảo thần dân chịu được?"

Từ xưa tới nay, chưa có nhà văn nào viết cụ thể mà khái quát tội ác xâm lược đối với

nhân dân ta như Nguyễn Trãi.

3. Nguồn sức mạnh nhân nghĩa Đại Việt:

a. Lãnh tụ nghĩa quân là một anh hung xuất chúng:

"Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,

Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.

(...) Thế trận xuất kì, lấy yếu chống mạnh,

Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều".

b. Sức mạnh của lòng căm thù giặc và tinh thần đại đoàn kết dân tộc để chiến thắng

quân xâm lược:

- “Ngẫm thù lớn há đội trời chung,

Căm giặc nước thề không cùng sống"

- "Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới,

Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào".

4. Quá trình phản công và toàn thắng:

a. Nguồn gốc của chiến thắng là sức mạnh nhân nghĩa:

"Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,

Lấy trí nhân để thay cường bạo"

b.Trận đầu thắng lớn, giáng sấm sét vào đầu lũ xâm lăng:

"Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,

Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay"

c. Giải phóng miền rộng lớn đất nước:

Page 48: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

"Thừa thắng ruổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,

Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về".

d. Quân ta càng đánh càng thắng to. Giặc Minh bị giáng những đòn chí mạng! Máu giặc

chảy thành sông thây

chết đầy nội.

"N inh K iều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm

Tụy Động thây chết đầy nội, nhơ để ngàn năm".

e. Viện binh giặc bị tiêu diệt: Liễu Thăng "cụt đầu", bá tước Lương Minh "đại bại từ

vong", thượng thư Lý Khánh cùng

kế tự vẫn, Đô đốc "Thôi Tụ" lê gối dâng tờ tạ tội, thượng thư Hoàng Phúc "trói tay để tự xin

hàng". Cánh quân Vân Nam bị

đánh "vỡ mật", quân Mộc Thạnh "xéo lên nhau để chạy thoát thân". Cảnh tượng chiến

trường vô cùng rùng rợn, thảm đạm:

"Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đường,

Xương Giáng, Bình Than máu hôi đỏ

Suối Lãnh Câu máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc,

Thành Đan Xá thây chất đầy núi cỏ nội đầm đìa máu đen"

f. Giặc Minh bị hoàn toàn thất bại thảm hại. Viện binh "hai đạo tan tành"; Quân giặc các

thành "cởi giáp ra hàng”. Lũ

tướng tá Thiên triều và hàng chục vạn giặc bị bắt làm tù binh, hoặc đầu hàng đã bị tha tội

chết, được đối xử nhân đạo:

"Mã Kì, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể mà vẫn hồn bay phách

lạc.

Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa về đến nước mà vẫn tim đập chân run.”

- Quá trình phản công là một quá trình vươn dậy của cả dân tộc với sức mạnh vỡ bờ, bất

khả chiến thắng. Ngôn ngữ tráng

lệ, giọng văn mang âm điệu anh hùng ca:

Page 49: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

" Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,

Voi uống nước, nước sông cũng cạn,

Đánh một trận, sạch không kình ngạc,

Đánh hai trận, tan tác chim muông ..."

5. Lời tuyên bố :

- Ngàn năm, vết nhục nhã sạch làu.

- Trời đất, tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đỡ... là nguyên nhân chiến thắng.

- Sự nghiệp "Bình N gô" là chiến công "oanh liệt ngàn năm"

- Đại Việt bước vào một kỷ nguyên mới: độc lập và thái bình vững chắc:

" Xã tắc từ đây vững bền,

Giang sơn từ đây đổi mới,

... Muôn thưở nền thái bình vững chắc"

Tổng kết

1." Bình Ngô đại cáo" được viết theo thể "cáo" lối liền ngẫu loại chính luận, dùng cho

nhà vua để tuyên bố những vấn đề

trọng đại cho toàn dân biết. " Bình Ngô đại cáo" vừa là một bản tổng kết cuộc kháng chiến

mười năm chống giặc minh vừa là

lời tuyên ngôn độc lập, hoà bình.

2. Lập luận đanh thép, giọng văn hùng hồn, ngôn ngữ tráng lệ. "Bình Ngô đại cáo" dào

dạt tinh thần yêu nước, là áng "thiên

cổ hùng văn" khẳng định sức mạnh nhân nghĩa Đại Việt.

Page 50: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Bảo kính cảnh giới - 43

Nguyễn Trãi

Rồi bóng mát thuở cảnh trường

Hoè lục đùn đùn tán rợp trương

Thạnh lựu hiên còn phun thức đỏ

Hồn liên trì đã tịn mùi hương

Lao xao chợ cá làng ngư phủ,

Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.

Dẽ có Ngu Cầm đàn một tiếng.

Dân giàu đủ khắp đòi phương.

Xuất xứ

"Quốc âm thi tập"của Nguyễn Trãi hiện còn 254 bài thơ Nôm, trong đó có nhiều bài bát

cú, thất ngôn xen lục ngôn. Chùm

thơ "Bảo Kính cảnh giới" gồm có 61 bài trong "Quốc âm thi tập". Đây là bài 43. Nguyễn

Trãi viết bài thơ này khi ông đã về

Côn Sơn ở ẩn.

Chủ đề

Bài thơ nói lên niềm vui trước cảnh mùa hè và nỗi ước mong của bài thơ.

Page 51: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Phân tích

1. Niềm vui trước cảnh mùa hè

Đã thoát khỏi vòng danh lợi về sống giữa làng quê. Niềm vui nhàn hạ được "hóng mát"

được ngắm cảnh sắc mùa hè, thích

thú trước màu "lục" của tán hoè, trước sắc đỏ của hoa thạch lựu ngoài hiên, trước sen hồng

trong ao. Vui với niềm vui của bà

con làng chài, vui vì tiếng ve ngân như tiếng đàn cầm. Vui trong hoà điệu "lao xao" và

"dắng dỏi" của khúc nhạc đồng quê sớm

sớm chiều chiều.

"Lao xao chợ cá làng ngư phủ

Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương"

Nhà thơ giầu tình yêu thiên nhiên, gắn bó với quê hương. Một con người yêu đời và ham

sống. Màu sắc, âm thanh trong

vần thơ cho thấy cái thú vị đồng quê đáng yêy vô cùng.

2. Nỗi ước mong

"Dẽ có Ngư Cầm đàn một tiếng.

Dân giàu dù đủ khắp đòi phương"

Nhờ thơ tâm sự: hãy để cho ta có cây đàn thần của vua Thuấn, ta đàn lên một tiếng thôi,

thì dân khắp mọi miền, mọi nơi sẽ

giàu đủ no ấm, hạnh phúc. Niềm mong ước ấy hướng về nhân dân, lấy sự ấm no của nhân

dân làm niềm vui của mình. Trong

"Bình Ngô đại cáo", Nguyễn Trãi nói đến "yên dân", "để nhân dân nghỉ sức". Trong bài

"Tùng", ông cũng viết "Dành còn để

trợ dân này". Đó là tư tưởng lấy dân làm gốc.

3. Ngôn ngữ thơ thâm trầm, bình dị. Câu 1 câu 8 là câu "lục ngôn" một nét độc đáo của

thơ Nôm Ức Trai.

Page 52: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Cây Chuối

Nguyễn Trãi

Tự bén hơi xuân tốt lại thêm,

Đầy buồng lạ, mầu thâu đêm.

Tình như một bức phong còn kín,

Gió nơi đâu gượng mở xem.

Xuất xứ

Trong " Quốc âm thi tập" có chùm thơ "Môn hoa mộc" hiện còn 34 bài nói về các loài

hoa như sen, mai, cúc, đào, hoè,

nhài... các loại cây như thiên tuế, tùng, trúc, cây đa, cây mía, cây chuối... phần lớn là thơ tứ

tuyệt thất ngôn xen lục ngôn.

Bài "Cây chuối" nằm trong chùm thơ "Môn hoa mộc" ấy.

Phân tích

- Câu 1, 2 (khai, thừa)

Cây chuối, vốn đã xanh tốt, từ buổi "bén hơi xuân", nó "tốt lại thêm". Chữ "bén", ta

thường nói: "bén lửa", "bén

duyên"... (Thiếp bén duyên chàng có thế thôi - Hồ Xuân Hương). Thành ngữ "Quen hơi bén

tiếng". "Bén" nghĩa là "bắt

vào", "nhập vào", "dính vào". Cũng có nghĩa là "biết". Hơi xuân, khí xuân ấm áp đã làm

cho cây chuối thêm tươi tốt. Đó

cũng là xuân sắc, một cách nói đầy chất thơ.

Từ ngày "bén hơi xuân", đêm đêm cây chuối toả ra một hương thơm nồng nàn kì diệu.

Chuối không có hương. Có lẽ đó là

hương xuân, mà nhà thơ cảm nhận được. Câu thứ hai có nhiều cách hiểu. Buồng là buồng

chuối. Buồng chuối trông rất lạ, có

nhiều nải chuối, trái chuối chi chít (đầy). Xuân Diệu hiểu một cách phong tình. Buồng là

Page 53: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

buồng khuê, buồng thiếu nữ, vì thế

mới toả ra hương thanh khiết, nồng nàn thâu đêm.

Có thể nói, 2 câu đầu tả cây chuối, buồng chuối, cũng là để nói về xuân sắc, xuân xức và

xuân hương của cây cỏ, của

tuổi xuân, của sức sống tuổi trẻ. Cách nói của Ức Trai rất non tơ, phong tình. Tả hoa nhài,

ông cũng viết:

"Môi son bén phấn dây dây,

Đêm nguyệt đưa xuân một nguyệt hay..."

- Câu 3,4 (chuyển, hợp):

Câu 3 tả cái đọt chuối qua hình ảnh ẩn dụ "tình thư...". Cái đọt chuối màu xanh cẩm

thạch cuộn tròn (phong còn kín), đang

khẽ đung đưa trước làn gió xuân nhẹ. Gió được nhân hoá như một chàng trai đa tình

"Gượng mở xem" bức thư tình ấy

"Gượng mở" nghĩa là mở ra một cách nhẹ nhàng, trân trọng. Chữ "đâu" trong câu hỏi tu từ

như một lời nhắc nhở, đưa duyên.

Tả cái đọt chuối với cảm hứng xuân tình như vậy quả là thần diệu. Chỉ có thể trước hoặc sau

khi gặp ả bán chiếu gon ở Tây

Hồ, Ức Trai mới viết một phong cách tình như thế:

"Tình thư một bức phong mà kín,

Gió nơi đâu gượng mở xem"

Page 54: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Tổng kết

Câu 2, câu 4 là hai câu lục ngôn. Bài "Cây chuối" là bài tứ tuyệt, thất ngôn xen lục ngôn.

Ngôn ngữ thơ hàm súc cho ta

nhiều liên tưởng thú vị. Các từ ngữ: "bén", "tốt lạ thêm", "đầy buồng lạ", "tình thư", "kín",

"gượng mở xem" kết hợp với nhau

thành một chỉnh thể, một hệ thống ngôn ngữ tạo nên vẻ đẹp ngôn ngữ văn chương và tính

biểu cảm của vần thơ. Tả cây chuối

mùa xuân mà thi sĩ gợi lên trong lòng người đọc cảm xúc và cảm nhận về sắc xuân, sức

xuân, tình xuân của tuổi trẻ.

Chất tài hoa, phong tình của thi sĩ Ức Trai vô cùng kì diệu. Và đó cũng là chất thơ, hồn thơ

đầy quyến rũ viết về hoa cỏ mùa

xuân.

Dục thuý sơn

Nguyễn Trãi

Hải khẩu hữu tiên san,

Tiền niên lũ vãng hoàn.

Liên hoa phù thuỷ thượng,

Tiên cảnh trụy trần gian.

Tháp ảnh trâm thanh ngọc,

Ba quang kính thuý hoàn.

Hữu hoài Trương Thiếu bảo,

Bi khắc tiển hoa ban.

Núi Dục Thuý

Cửa biển có non tiên

Từng qua lại mấy phen.

Cảnh tiên rới cõi tục,

Page 55: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Mặt nước nổi hoa sen

Bóng tháp hình trâm ngọc

Gương sông ánh toác huyền.

Nhớ xưa Trương Thiếu bảo,

Bia khắc dấu rêu hoen.

Khương Hữu Dụng dịch.

Xuất xứ

1. Tên cũ là Băng Sơn, đầu thế kỷ thứ 14, Trương Hán Siêu đổi tên thành Dục Thuý

Sơn. Ngày nay gọi là núi Non Nước.

Dục Thuý Sơn - 600 năm về trước nằm trên cửa biển, nay biển đã lùi xa. Núi Non Nước

nằm bên bờ sông Đáy giữa thị xã

N inh Bình, là một danh lam thắng cảnh được nhiều thi sĩ vịnh cảnh đề thơ.

2. Bài "Dục Thuý Sơn" được Nguyễn Trãi viết bằng thơ ngũ ngôn bát cú, rút trong "Ức

Trai thi tập". Trong bản dịch thơ,

Khương Hữu Dụng vì để hiệp vần nên đã giao hoán hai câu 3, 4. Đó là điều cần biết trước

khi cảm nhận bài thơ.

Chủ đề

Bài thơ miêu tả núi Dục Thuý đẹp như cảnh tiên trên cửa biển, nhà thơ tới thăm núi mà

nhớ tới danh sĩ Trương Hán Siêu đời

Trần. Qua đó, tác giả nói lên lòng tự hào về núi sông mỹ lệ, tưởng nhớ đến công đức của

tiền nhân.

1. Hai câu "đề", Nguyễn Trãi giới thiệu Dục Thuý Sơn đẹp như non tiên nổi lên giữa cửa

biển. Cảnh đẹp quyến rũ nên

nhà thơ đã mấy phen tới thăm thú.

2. Bốn câu tiếp theo trong phần "thực" và "luận" đối nhau từng cặp một. Nhà thơ tạo nên

4 hình ảnh so sánh ẩn dụ để

miêu tả Dục Thuý Sơn là non tiên: N hư đoá sen nổi trên mặt nước. Như cảnh tiên rơi xuống

Page 56: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

cõi trần.

Bóng tháp như chiếc trâm bằng ngọc xanh. Ánh sáng trên sông nước như chiếc gương soi

mái tóc xanh biếc. Trên núi có

chùa, có tháp nên mới tả, mới so sánh với trâm ngọc, với gương soi mái tóc xanh biếc. Trâm

và gương ấy là của tiên nữ nơi

non tiên. Cảnh đẹp thơ mộng, thần tiên. Bút tháp tài hoa lãng mạn. Thơ hàm súc, giàu hình

tượng:

"Liên hoan phù thủy thượng

Tiên cảnh trụy trần gian

Tháp ảnh trâm thanh ngọc,

Ba quang kính thuý hoàn".

Câu 8 có "phù" (nổi) câu 4 đối lại "trụy" (rơi xuống); câu 5 là "trâm thanh ngọc", câu 6

lại có "kính thuý hoàn" thật là tương

ứng, hoà hợp. Yếu tố tưởng tượng tạo nên chất thơ tuyệt đẹp.

3. Hai câu kết thể hiện một tấm lòng đầy tình nghĩa. "Hữu hoài" là nhớ mãi. Chỉ nhắc lại

họ "Trương", tước hiệu "Thái bảo"

- một cách nói đầy kính trọng với Trương Hán Siêu, một danh sĩ thời Trần, người đã đổi tên

núi từ Băng Sơn thành Dục Thuý

Sơn, đã làm bài "Dục Thuý Sơn khắc thạch" và "Dục Thuý Sơn Linh Tế tháp kí". Nhìn bia

đá phủ rêu, Nguyễn Trãi nhớ đến

công đức tiền nhân. Hai câu thơ 10 từ chứa chan cảm xúc và tình nghĩa:

"Hữu hoài Trương Thiếu bảo,

Bi khắc tiển hoa ban"

Tổng kết

"Dục Thuý Sơn" là một trong những bài thơ chữ Hán tuyệt bút của Ức Trai, thuộc đề tài

vịnh phong cảnh núi sông cẩm tú.

Yêu thiên nhiên, yêu đất nước, nhớ công đức người xưa là cảm hứng chủ đạo của Ức Trai.

Page 57: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Bốn câu trong phần thực và luận

là đẹp nhất, hay nhất, thể hiện cốt cách tài hoa của thi sĩ - chất tiên phong đạo cốt của Ức

Trai.

Ngụ hứng ở quán trung tân.

(Trung tân ngụ hứng)

(Nguyễn Bỉnh Khiêm)

Nguyễn Bỉnh Khiêm

Sông ngòi vòng tây bắc

Làng xóm bọc tây nam

Giữa có nửa mẫu vườn

Vườn ở bên Vân Am

Xe ngựa bụi không đến

Hoa, trúc tay tự giồng:

Gậy, dép bén mùi hoa,

Chén, cốc ánh sắc hồng.

Rửa nghiên, cá nuốt mực,

Pha trà, chim lánh khói.

Ngâm thơ thừa tiêu dao.

Uống rượu thêm khoan khoái.

Người xảo thì ta vụng,

Ấy vụng thế mà hay!

Ta vụng người thì xảo

Ấy xảo thế mà gay!

Tính suy lẽ trời đất,

N ghiền ngẫm việc xưa nay:

Page 58: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Đường đời rất gập ghềnh,

Chông gai cần phải cắt.

Lòng người rất hiểm nghèo,

Buông ra nhiều quái quắc.

Quân tử biết răn mình,

C hí thiện làm mẫu mực.

Ngô Lập Chi dịch

Tác giả

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) quê ở làng Trung Am, xã Lý Học, Vĩnh Bảo, Hải

Phòng. Học giỏi, đỗ trạng nguyên.

Ông có câu thơ: "Văn thơ tam thượng tiếu tài sơ", nghĩa là ba lần đỗ đầu vẫn cười mình tài

tầm thường. Làm quan dưới triều

Mạc một thời gian rồi treo ấn từ quan, về quê dựng am Bạch Vân, lấy hiệu là Bạch Vân cư

sĩ, lập quán Trung Tân, xây

Nghinh Phong kiều, mở trường dạy học có nhiều người nổi tiếng như: Phùng Khắc Khoan,

(Trạng Bùng), Nguyễn Dữ.... Ông

đức trọng, tài cao, được người đời kính ái gọi là Tuyết Giang phu tử. Lúc ông mất, vua nhà

Mạc truy phong là Trình Quốc

Công.

Nguyễn Bỉnh K hiêm là nhà triết học vĩ đại để lại nhiều sấm kí linh diệu, là nhà thơ lỗi

lạc của dân tộc trong thế kỷ 16. Thơ

ông hàm súc, hàm chứa chất triết lí, giáo huấn, thương dân, lo đời, ghét chiến tranh. Những

câu thơ viết về thiên nhiên rất tươi

tắn, thú vị. Hiện còn gần 200 bài thơ Nôm trong "Bạch Vân quốc ngữ thi tập" và trên 1.000

bài thơ chữ Hán trong "Bạch

Vân Am tập”.

Page 59: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Lời bình

Năm Nhâm Dần (1548), Nguyễn Bỉnh Khiêm thoái quan về sống giữa xóm làng quê

hương. Mùa thu năm ấy, ông cùng

các bô lão dựng quán Trung Tân làm chỗ ngồi chơi hóng gió và để khách qua đường nghỉ

chân. Trong "Bài bia ở quán Trung

Tân", Nguyễn Bỉnh K hiêm nói rõ:

"Có người hỏi rằng: "Q uán ấy đặt tên "Trung Tân" có nghĩa là gì?". Ta trả lời rằng:

"Trung nghĩa là đứng giữa không

chênh lệch, giữ vẹn được điều thiện là trung, không giữ vẹn được điều thiện thời không phải

là trung vậy; tân có nghĩa là cái

bến, không biết chỗ đáng đậu là bến mê vậy....".

Trạng Trình có chùm thơ 3 bài lấy nhan đề "Trung Tân ngụ hứng"; Bài thơ thứ nhất này

gồm 24 câu thơ theo thể ngũ ngôn

trường thiên, lấy vần trắc (bắc - trắc - thực - sắc,....) làm âm vận chủ đạo. Bài thơ dịch của

Ngô Lập Chi rất hay, vừa giữ

được nguyên điệu thanh thoát, vừa sát nguyên tác, nhất là phép đối.

Hai câu đầu nói lên vị trí quán Trung Tân:

"Sông ngòi vòng tây bắc

Làng xóm bọc tây nam".

Quán ở giữa xóm làng đông vui, có sông ngòi uốn quanh, rất hữu tình. Trong "Bài bia ở

quán Trung Tân" tác giả cho biết

rất cụ thể.... Bến Trung Tân, trông sang phía Đông nhìn Đông Hải, ngoảnh sang phía Tây

nhìn Tây Kinh; bên nam trông sang

Ngư Khê, thì thấy Trung Am, Bích Động, cái kia cái nọ quanh tựa vào nhau; bên bắc cúi

nhìn sông Tuyết Giang, thì thấy chợ

Hàn, bến Nguyệt bao bọc tả hữu; một con đường cái quan chạy dọc ở giữa, biết bao bánh

xe, chân ngựa, từ hàng ngàn dặm

Page 60: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

xa tấp lập đi qua chốn này"....

Ba câu tiếp theo, nói về am Bạch Vân nơi đọc sách và dưỡng nhàn của ông Trạng sau khi

đã thoát vòng danh lợi. Am ở

bên nửa mẫu vườn, một nơi thanh tĩnh mà chủ nhân là một con người thanh bạch. Câu thơ

"Xe ngựa bụi không đến" mang tính

hàm nghĩa sâu sắc.

Tiếp theo, nhà thơ nói đến hoa, trúc, cá, chim, chuyện uống rượu, pha trà. Vừa tả cảnh

vừa tả tình. Cảnh vật được

nhân hoá. Cá, chim như bầu bạn tri kỷ. Một tâm hồn thanh cao, ung dung tự tại, chan hoà

giữa thiên nhiên. Uống trá, uống

rượu, ngâm thơ... lòng càng thêm "tiêu hao, khoan khoái".

Từng cặp câu song hành, đăng đối, ngôn ngữ hài hoà, giọng thơ khoan thai, đủng đỉnh.

Trong nguyên tác, trong bản dịch đều thế:

"Hoa, trúc tự tay giồng

Gậy, dép bén mùi hoa,

Chén, cốc ánh sắc hồng.

Rửa nghiên, cá nuốt mực,

Pha trà, chim lánh khói

Ngâm thơ vừa tiêu dao,

Uống rượu thêm khoan khoái'.

Nguyễn Bỉnh Khiêm có không ít vần thơ dung dị nói lên niềm vui dào dạt của kẻ sĩ thanh

cao sống giữa thiên nhiên. Một

cuộc đời thanh bạch mà sang trọng không phải ở cõi đời này ai cũng dễ có?

- "Ruộng hiềm đất áy, cày chưa chín,

Sách được câu thần dạ những ngong"

(Bài 111)

Page 61: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

- "Trà sen, sáng đãi người đưa khát,

Rượu thánh (ngon), hôm mời khách uống say".

(Bài 140)

- "Vườn rau, sáng dạo, sương đầy dép,

Bến cá đêm trăng, bóng lọt thuyền".

("Ngụ ý"- thơ dịch)

Giọng thơ biến đổi, pha chút hóm hỉnh tự giễu mình khi ông nói về "vụng" và "xảo". Cấu

trúc vần thơ liên hoàn. Thơ mang

nội dung đạo lí với cách nói thâm trầm, thấm thía. K huyên mình hay nhắc khẽ ai?

“Người xảo thì ta vụng

Ấy vụng thế mà hay

Ta vụng thì người xảo

Ấy xảo thế mà gay!”

Vụng là vụng về, chất phác, chân thật. Xảo là xảo quyệt, tham lam, dối trá. Vụng và xảo

là nói về hai loại người trong xã

hội xưa nay. Có bài thơ, ông nói về khôn, dại trong thiên hạ:

"Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ,

Người khôn người đến chốn lao xao..."

Nơi vắng vẻ là sống với ruộng vườn, thoát vòng danh lợi. Chốn lao xao là chốn bon chen,

giành giật. Cũng là hai cách sống

đối lập của hai loại người trong xã hội.

Tám câu còn lại nói về một nguyên lý đạo đức, một tiêu trí về triết lý nhân sinh. Ông

sống giữa thời loạn lạc, vì thế điều ông

nói là cả một sự chiêm nghiệm lịch sử và xã hội. Là bài học về đạo lý và nhân sinh. "Đường

đời rất gập ghềnh,.... Lòng người

rất hiểm nghèo". Ý tưởng không có gì mới lạ, trước đó mấy nghìn năm, mấy trăm năm đã có

Page 62: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

người nói. Cái hay là ở hai câu

cuối bài thơ:

"Quân tử biết răn mình,

C hí thiện làm mẫu mực".

"Chí thiện" là tiêu chuẩn tuyệt đối về các sự lý ở đời. Biết sống đẹp và hướng thiện cũng

là chí thiện. Là quân tử, là kẻ sĩ

phải là người chân chính. N guyễn Bỉnh Khiêm đã sống và ứng xử như vậy. Vì thế ông mới

được ngợi ca là Ông thầy của cả

một thời đại.

Đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm đến nay còn có bức đại tự sơn son thiếp vàng với 4 chữ:

"Như nhật trung thiên" - như mặt

trời giữa bầu trời. Hồ Chủ Tịch dạy cán bộ, đảng viên: "N gười cách mạng phải có đạo đức

cách mạng", phải "cần, kiệm, liêm,

chính, chí công vô tư". Đó cũng là chí thiện vậy.

Trông bốn bể

1. Trông bến nam bãi tre măt nước,

Cỏ biếc um dâu, mướt màu xanh,

Nhà thôn mấy xóm chông chênh,

Một đàn cò đậu trước ghềnh chiều hôm,

2. Trông đường bắc đôi chòm quan khách,

Rườm rà cây xanh, ngất núi non,

Lúa thành thoi thóp bên cồn,

Nghe thôi ngọc địch véo von trên lầu

3. Non đông thấy lá hầu chất đống,

Trĩ xập xoè, mai cũng bẻ bai

K hói mù nghi ngút ngàn khơi,

Page 63: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Con chim bạt gió, lạc loài kêu sương.

4. Lũng Tây thấy nước dường uốn khúc,

Nhạn liệng không, sóng giục thuyền câu,

Ngàn thông chen chúc khóm lau,

Cánh ghềnh thấp thoáng người đâu đi về,

(Trích bản dịch "Chinh phụ ngâm")Tác giả, dịch giả

1. Tác giả

Đặng Trần Côn sống vào nửa đầu thế kỷ 18 người Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội, là một

danh sĩ hiếu học tài ba.

2. Dịch giả

Hiện có bốn bản dịch Chinh phụ ngâm. Bản dịch lưu truyền rộng rãi lâu nay, được đánh

giá là hay nhất - nhiều ý kiến vẫn

cho là của Đoàn Thị Điểm (?) - Bà sinh năm 1705, mất năm 1748, quê ở Giai Phạm, Hưng

Yên, là một người phụ nữ có

nhan sắc, có học vấn và có tài thơ. Ngoài bản dịch Chinh phụ ngâm, bà còn để lại tập

truyện chữ Hán "Truyền kì tân phả"

và nhiều thơ phú khác.

Tác phẩm

- Đặng trần Côn viết Chinh phụ ngâm bằng chữ Hán theo điệu cổ Nhạc phủ có câu dài 5

từ, 7 từ, lại có câu 8, 9, 10 từ.

- Bản dịch thơ theo điệu ngâm song thất lục bát, dài 40 câu.

Nội dung tác phẩm:

Thế kỷ 18, nội chiến, loạn lạc kéo dài. Chinh phụ ngâm nói lên nỗi niềm nhớ thương, lo

lắng, mong mỏi và khao khát

hạnh phúc của người thiếu phụ trẻ có chồng đi chinh chiến miền xa, và miêu tả cảnh sống cô

đơn, vất vả của nàng ở quê

Page 64: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

hương, cảnh gian khổ hiểm nguy của chồng trên chiến địa.

- Chủ đề:

Chán ghét chiến tranh, niềm khao khát hạnh phúc, sum họp lứa đôi, được sống yên vui

trong cảnh thanh bình là chủ đề của

"Chinh phụ ngâm".

Trích đoạn "Trông bốn bể"

1. Đoạn thơ dài 16 câu nói lên nỗi đợi chờ trông ngóng đến mòn mỏi của nàng chinh phụ

trong những năm dài

chồng đi chinh chiến miền xa. Cứ 4 câu là một cảnh cũng là một nét của nỗi lòng trông

ngóng đợi chờ. Mỗi cảnh là

một phương hướng, trong một mùa. Có nam, bắc, đông, tây. Có xuân, hạ, thu, đông. Bút

pháp miêu tả ước lệ tượng trưng,

cấu trúc cân xứng, qui phạm theo "tứ bình".

a. Mùa xuân đến, người vợ trẻ "trông bến nam", chỉ thấy một màu xanh của "cỏ biếc

um", của "dâu mướt" mà thôi. Thấy

nhà thôn "chông chênh" xa gần mấy xóm, thấy "đàn cò đậu trước ghềnh chiều hôm". Sắc

của cỏ, dâu thì mơn mởn. Cảnh đàn

cò kết bầy kết đôi. Ngoại cảnh ấy gợị lên trong lòng nàng chinh phụ còn trẻ nhiều khao

khát, mong đợi. Tủi cho thân phận cô

đơn.

b. Mùa hè đến nàng "trông đường bắc" nhìn xa chỉ thấy "rườm rà cây ngất núi non", mịt

mù: trông gần chỉ thấy "đôi chòm

quan khách" cũng gợi tả nỗi buồn lẻ loi đơn chiếc. Câu thơ "Lúa thành thoi thóp bên cồn"

cũng mượn ngoại cảnh ngọn lúa

bay rập rờn trước gió bên bờ thành để đặc tả nỗi ám ảnh buồn thương tiêu điều của nàng

chinh phụ. Nàng chợt nghe thấy

tiếng sáo ngọc ngân lên véo von, dồn dập. Cũng là âm thanh gợi nhớ, gợi thương, não nùng

Page 65: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

thê thiết!

"Lúa thành thoi thóp bên cồn

Nghe thôi ngọc địch véo von trên lầu".

c. Mùa thu đến nhìn về phương đông, nàng thấy lá rụng "chất đống" tàn tạ buồn thương.

Trĩ từng đôi "xập xoè", khóm mai

"bẻ bai" uốn lượn. Câu thơ "Trĩ xập xoè, mai cũng bẻ bai" là một nét vẽ tương phản đầy ấn

tượng. Cỏ hoa, chim chóc được

sánh đôi múa lượn còn nàng thì gối chiếc chăn đơn. Nàng càng thêm sầu tủi, cô đơn lẻ loi

hơn bao giờ hết khi nghe tiếng nhạc

lạc bầy kêu lên trong màn sương khói mịt mù:

"K hói mù nghi ngút ngàn khơi,

Con chim bạt gió lạc loài kêu sương".

Ngọn gió thu lạnh thổi bạc cánh nhạc lạc bầy. Và đó cũng là bão táp chiến tranh làm cho

những lứa đôi trở nên lẻ loi, đơn

chiếc, lạnh lùng. N àng chinh phụ còn thổn thức thương mình bao nhiêu lại thương chồng

nơi ải xa trong dãi dầu sương tuyết

bấy nhiêu.

d. Mùa đông đến, nàng lại nhìn về phương tây, nhìn về Lũng Tây bãi chiến trường núi

xương, sông máu... Nàng chỉ nhìn

thấy sông nước mịt mù, ngàn thông, rừng lau trùng điệp. Cánh nhạn và bóng người thấp

thoáng là hai nét vẽ đầy ấn tượng.

Nhìn cánh nhạn, cô phụ ngỡ là cánh nhạn đưa thư. N hìn về phía bên ghềnh, thấy thấp

thoáng "người đâu đi về", chinh phụ

tưởng là người chồng thân yêu từ chiến trường xa trở về.... Nhớ quá, thương nhiều, đợi chờ,

mòn mỏi, nên chinh phụ mới cảm

nhận hư ảo ấy. Hy vọng lắm nên càng thất vọng nhiều. Càng thất vọng lại càng sầu tủi!

"Ngàn thông chen chúc khóm lau,

Page 66: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Cách ghềnh thấp thoáng người đâu đi về".

2. Nét đặc sắc nghệ thuật

a. Màu sắc cổ diển: Cảnh vật mang tính ước lệ tựơng trưng (ngọc địch, mai, trĩ, nhạn,

thuyền câu, thông, lau, Lũng Tây,

bóng người....), cấu trúc cân xứng: Xuân, hạ, thu, đông; nam, bắc, đông, tây. Lối diễn đạt

cũng hài hoà cân xứng:

...Trông bến nam...

...Trông đường bắc...

...Non đông thấy...

...Lũng tây thấy...

b. Tả cảnh ngụ tình đặc sắc, điêu luyện. Thi sĩ mượn ngoại cảnh 4 phương trời, 4 mùa

xuân, hạ, thu, đông; lấy cỏ, dâu,

lúa, thông, lau, bãi, núi, sông, ghềnh; lấy khói mù, sương gió, lấy đàn cò, chim trĩ, chim

nhạn, v.v... bấy nhiêu nét vẽ ngoại

cảnh đều góp phần đặc tả tâm cảnh, khắc hoạ nhữmg biến thái, những rung động trong tâm

hồn, những nhớ mong thương

nhớ, đợi chờ, cô đơn, hy vọmg để rồi thất vọng thêm sầu tủi...

c. Ngôn ngữ thơ giàu hình tượng và biểu cảm. Các từ chỉ màu sắc (cỏ biếc um dâu mướt

màu xanh.... Khói mù nghi

ngút ngàn khơi...), các từ láy tượng thanh tượng hình (chông chênh, rườm rà, thoi thót, véo

von, xập xoè, bẻ bai, nghi

ngút, chen chúc, thấp thoáng) được thi sĩ vận dụng rất thần tình, cho thấy bút pháp điêu

luyện, sự giàu có về từ ngữ sự phong

phú về trí tưởng tượng tuyệt vời. Đến bản dịch "Chinh phụ ngâm", ngôn ngữ dân tộc trở nên

trong sáng, mềm mại, giàu có và

đẹp đẽ vô cùng.

d. Vần điệu, âm điệu, nhạc điệu

Page 67: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Thơ song thất lục bát còn gọi là song thất, một điệu ngâm, một thể thơ dân tộc giàu có về

vần điệu, âm điệu, nhạc điệu.

Trong 4 câu thơ "song thất lục bát" có đến 7 tiếng, để gieo vần, vừa có vần chân, vừa có vần

lưng, vừa có vần bằng, vừa

có vần trắc, tạo nên điệu ngâm du dương, réo rắt, trầm bổng, đọc lên nghe rất thú vị (xem

các từ in nghiêng, đọc đúng trọng

âm các từ gieo vần). Sự phối hợp giữa nhịp lẻ và nhịp chẵn ở câu 7 và câu lục bát làm cho

âm điệu thơ, giai điệu thơ biến hoá

đa thành, phức điệu.

3. Kết luận

Đoạn thơ "Trông bốn bề" giúp ta cảm nhận vẻ đẹp văn chương qua bút pháp tả cảnh ngụ

tình và sử dụng ngôn ngữ dân

tộc. Bút pháp điêu luyện, thơ giàu cảm xúc, giàu hình tượng. Lấy thời gian 4 mùa, lấy

không gian 4 phương trời để tả tâm

trạng nhân vật trữ tình, dịch giả đã làm nổi bật nỗi mong nhớ đợi chờ chồng, nỗi buồn cô

đơn.... của nàng chinh phụ ngâm

trong một thời loạn lạc. Giá trị nhân bản của đoạn thơ lay động mọi tâm hồn người xưa nay.

Nỗi nhớ nhung sầu muộn của người chinh phụ

(Trích bản dịch "Chinh phụ ngâm")

1...Lòng này gửi gió đông có tiện,

N ghìn vàng xin gửi tới non yên,

Non Yên dù chẳng tới miền,

Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời.

2. Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,

Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong,

Cảnh buồn người thiết tha lòng,

Page 68: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Cành cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun.

3. Sương như búa bổ mòn gốc liễu,

Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô.

Giọt sương phủ bụi chim gù

Sâu tường kêu vẳng, chuông chùa nện khơi.

4. Vài tiếng dế, nguyệt soi trước ốc,

Một hàng tiêu, gió thốc ngoài hiên,

Lá màn lay ngọn gió xuyên,

Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm.

5. Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm,

Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông,

Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,

Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đâu...

Đoàn Thị Điểm dịch (?)

Phân tích

Đoạn thơ dài 20 câu. Nhan đề đoạn thơ "Nỗi nhớ nhung sầu muộn của người chinh phụ"

do người soạn sách giáo khoa

Văn 10 đặt ra, đó là ý tưởng chính của 20 câu thơ này.

1. Cũng như Lũng Tây, Bến Phì, non Yên... là cõi chiến trường, phía Tây Bắc Trung

Quốc xa xôi, nơi "xương phơi trắng

đất", nơi "hồn tử sĩ gió ù ù thổi" rùng rợn thê lương.... Trong "Chinh phụ ngâm", các đại

danh ấy chỉ là tượng trưng ước lệ hiện

lên trong tâm tưởng người chinh phụ.

Hai câu đầu, nàng chinh phụ muốn nhờ gió đông (mùa xuân) gửi tới chàng đang chinh

chiến tại non Yên, dù mất "nghìn

vàng", nàng vẫn xin gửi đến bao nỗi nhớ thương tràn ngập trong lòng. Một cách nói thiết tha

Page 69: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

cảm động:

"Lòng này gửi gió đông có tiện

N ghìn vàng xin gửi đến non Yên..."

2. Nỗi nhớ chàng triền miên dằng dặc,dài lê thê, day dứt bồn chồn lo lắng.

Vừa cụ thể vừa trừu tượng, đầy ắp trong lòng suốt đêm ngày. Lúc thì "Nhớ chàng đằng

đẵng đường lên bằng trời". Có lúc

lại là "N ỗi nhớ chàng đau đáu nào xong". Sau vần thơ, sau cái tiếng "đằng đằng", "đau đáu"

là những giọt lệ ứa ra, những tiếng

than thầm, tiếng thở dài ngao ngán cho cảnh ngộ cô đơn, buồn nhớ mà người chinh phụ

đang nếm trải. Cốc nước đắng uống

mãi vẫn đầy ắp!...

3. Cảnh buồn người thiết tha lòng

Cảnh buông lạnh lẽo. Sương tuyết đầy trời. Cái lạnh tê tái lòng người, cái lạnh làm héo

hon, tàn tạ cảnh vật. Liễu và ngô

đồng là hai hình ảnh ẩn dụ nói về nỗi buồn tê tái của người chinh phụ:

"Sương như búa bổ mòn gốc liễu,

Tuyết dường cưa xẻ héo cành ngô".

Đây là hai câu thơ tả cảnh sương, tuyết cực hay, hiếm có trong thơ ca dan tộc.

Chinh phụ thao thức suốt đêm. Tiếng trùng rả rích "phun mưa", tiếng "chim sâu tường

kêu vẳng, chuông chùa nện khơi", âm

thanh xa gần, thương nhớ bồn chồn. tiếng dế râm ran, tiếng gió...nàng trằn trọc lắng nghe để

rồi thương nhớ bồi hồi. Tả nỗi

nhớ trong niềm thao thức cũng thật sâu sắc, não nùng:

"Giọt sương phủ bụi chim gù,

Sâu tường kêu vẳng, chuông chùa nện khơi..."

Từng canh dài trôi qua. Chinh phụ lắng tai nghe rồi nhìn thấy, hàng tiêu, thấy lá màn gió

Page 70: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

thổi bay lên, thấy "Bóng hoa theo

bóng nguyệt lên trước rèm". Đây là bức tranh nói về trăng, hoa mang vẻ cổ điển:

"Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm,

Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông.

Nguyệt hoa hoa nguyệt trùng trùng.

Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đâu..."

"Hoa nguyệt nguyệt hoa"... "Nguyệt lồng hoa"... "Hoa giãi nguyệt"... "Trước hoa dưới

nguyệt"- quấn quýt, tựa vào nhau,

lồng vào nhau mà khoe "thắm" trùng trùng lớp lớp. Sử dụng điệp ngữ và phép liên hoàn,

nhân hoá "nguyệt hoa" để diễn tả vẻ

đẹp của trăng hoa đồng thời gợi tả nỗi lòng rạo rực, khao khát hạnh phúc lứa đôi của những

chinh phụ còn son trẻ

trong những đêm trăng đẹp lạnh lẽo.

Tổng kết

Đoạn thơ tả cảnh ngụ tình tuyệt bút. Có hình ảnh âm thanh, có hình ảnh màu sắc, có hình

ảnh tâm trạng - có cảnh lạnh lẽo,

có cảnh não nùng, lại có cảnh trăng, hoa giao hoà, quấn quýt khêu gợi. Tất cả đều hướng về

sự thể hiện nỗi nhớ nhung, sầu

muộn, nỗi buồn thao thức cô đơn, nỗi rạo rực khao khát yêu thương hạnh phúc lứa đôi một

thời son trẻ. Đó là chất nhân văn

đằm thắm.

Các câu thơ tả "nỗi nhớ chàng", tả sương tuyết, tả nguyệt hoa là hay nhất. Người đọc có

thể tìm thấy dấu ấn của nó trong

bài thơ "Hoàng hôn" (Nhật kí trong tù), trong bài "Cảnh khuya" của nhà thơ Hồ Chí Minh

sau này.

Page 71: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Mời trầu

Hồ Xuân Hương

Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi,

Này của Xuân Hương mới quệt rồi.

Có phải duyên nhau thì thắm lại,

Đừng xanh như lá, bạc như vôi.

Tác giả

Hồ Xuân Hương sống vào cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19. Gốc gác gia đình ở Nghệ An

sống nhiều năm ở phường Khán

Xuân, gần Hồ Tây, thành Thăng Long. Bà có tài thơ Nôm, giàu cá tính, một cuộc đời "bảy...

nổi ba chìm"!

Tác phẩm hiện còn trên dưới 50 bài thơ Nôm Đường luật và tập "Lưu Hương kí" bằng

chữ Hán.

Hồn thơ dân tộc và phong vị đồng quê là bản sắc thơ Hồ Xuân Hương. Trong thơ của nữ

sĩ có tình yêu thương, quí mến

người phụ nữ, có tâm hồn nồng nhiệt với cuộc sống và thiên nhiên, có thái độ phủ định đối

với lễ giáo phong kiến và các thế

lực thồng trị... Một tiếng cười, một tiếng nói trào phúng hóm hỉnh, sâu cay, có lúc trữ tình,

đằm thắm mà chua xót. Thơ lưỡng

ngôn, đa nghĩa rất hàm súc và độc đáo.

Lời bình

Không phải là cau vàng, trầu quế mà chỉ là "Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi". Một cách

nói khiêm nhường, tình tứ. Câu

thứ hai "Này của Xuân Hương mới quệt rồi", cũng chỉ là cách xưng hô thân mật. Chữ "này"

biểu thị một cử chỉ thân mật, vồn

vã, chân thành đối với khách. "Mới quệt rồi" - vừa giới thiệu miếng trầu tươi ngon, vừa biểu

lộ một tấm lòng chân thành, hiếu

Page 72: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

khách. Việc chủ nhân xưng tên "Này của Xuân Hương mới quệt rồi" cho thấy đối tượng

được mời là một văn nhân tài tử từng

có "tình ý" với nữ sĩ . Điều đó cũng cho biết Hồ Xuân Hương viết bài thơ này thời con gái,

vừa duyên dáng, vồn vã trong mời

đón khách đến chơi nhà, vừa biểu lộ một cá tính Xuân Hương, sắc sảo trong ứng xử "có góc

có cạnh".

"Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi,

Này của Xuân Hương mới quệt rồi".

Câu thơ - lời mời trầu - rất hóm hỉnh đã gợi ra trong đối tượng được mời trầu bao liên

tưởng thú vị. Thú vị của mối tình thôn

nữ với chàng thư sinh thuở nào: "Quả cau nho nhỏ - Cái vỏ vân vân - Nay anh học gần -

Mai anh học xa - Lấy anh từ thuở

mười ba - Đến năm mười tám thiếp đã năm con - Ra đường thiếp hãy con son - Về nhà thiếp

đã năm con cùng chàng" - Thú

vị ở sự dao duyên, đưa duyên, ngỏ tình qua miếng trầu chén rượu:

"Có trầu cho miếng đỏ môi,

Có rượu xin chén đẹp môi má hồng".

Thú vị ở sự chân tình "mới quệt rồi" mà lá trầu, quả cau đều là cây nhà lá vườn đậm đà

chân quê:

"Vào vườn hái quả cau xanh,

Bổ ra làm sáu mời anh xơi trầu".

Nói rằng thơ Hồ Xuân Hương mang phong vị hồn quê là như vậy.

Hai câu tiếp theo là một lời nói "ướm thử", một cách thăm dò đối tượng - chàng trai mà

cô gái đang mời trầu:

"Có phải duyên nhau thì thắm lại,

Đừng xanh như lá, bạc như vôi".

Xin cho được là miếng trầu ngon: miệng thơm, môi cắn chỉ quết trầu, cau, trầu, vôi

Page 73: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

"thắm lại" trong cái duyên trầu cau.

Mong miếng trầu này, miếng trầu "chàng" - anh sẽ ăn không nhợt nhạt, vôi đi đằng vôi, lá đi

đằng lá, xin đừng "xanh như lá

bạc như vôi". Câu thơ mang một hàm ý: cô gái mời trầu đã bày tỏ niềm mơ ước thiết tha về

một tình duyên đằm thắm, mặn

nồng, son sắt thuỷ chung. Vừa cầu mong, mơ ước "Có phải duyên nhau thì thắm lại", vừa

như thầm nhắc khẽ "Đừng xanh như

lá, bạc như vôi". Có người cho rằng, qua câu thơ này, cô Xuân Hương đã ngầm răn đe người

khách đang mời trầu - Âu đó

cũng là một cách cảm nhận. Có điều câu thơ đầy ám ảnh như một "dự báo về con đường

tình duyên của nữ chủ nhân mời trầu

này. Câu thơ "Đừng xanh như lá, bạc như vôi" cho ta nhiều ngại ngùng về một điều gì sẽ

xẩy ra, chẳng bao giờ "thắm lại"

được!

Miếng trầu là đầu câu chuyện. Duyên trầu cau cũng là duyên đôi lứa... Qua mời trầu, Hồ

Xuân Hương nói lên một khát

khao, mơ ước về một tình duyên đẹp, thuỷ chung. Một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt, ngôn ngữ

bình dị, mượn miếng trầu để đưa

duyên. Bài thơ mang vị đời và thắm tình người - người con gái làng quê hai trăm năm về

trước.

Tự tình

Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom,

Oán hận trông ra khắp mọi chòm,

Mõ thảm không khua mà cũng cốc,

Chuông chùa chẳng đánh cớ sao om?

Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ,

Sau giận vì duyên để mõm mòm.

Page 74: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Tài tư văn nhận ai đó tá?

Thân này đâu đã chịu già tom!

Hồ Xuân Hương

Xuất xứ, chủ đề

1. Hồ Xuân Hương có chùm thơ 3 bài với nhan đề "Tự tình". Đây là bài thơ thứ hai trong

chùm thơ ấy. Giọng thơ cay đắng,

buồn tủi... điều đó cho thấy nữ sĩ viết bài thơ này trong tâm trạng của người phụ nữ quá lứa

lỡ thì...

2. Bài thơ thể hiện tâm trạng cuả tác giả tủi hận về tình duyên mà vẫn thách thức với

duyên số.

Phân tích

1. Đề

Thao thức cả đêm dài. Lòng bồn chồn nghe tiềng gà gáy văng vẳng trên bom, từ một con

thuyền trên mặt hồ, trên dòng

sông đưa tới. Nữ sĩ ngồi dậy "trông ra khắp mọi chòm", mọi thôn xóm, chỉ thấy mịt mùng

mà lòng thêm "oán hận" - oàn hận

về con đường tình duyên.

2. Thực

Hai câu 3, 4 đăng đối, phủ định để khẳng định tiếng "cốc" của "mõ thảm", tiếng "om" của

"chuông sầu". "Mõ thảm" và

"chuông sầu" là hai hình ảnh ẩn dụ cực tả nỗi đau khổ, sầu tủi của người đàn bà lỡ thì quá

lứa, trắc trở trong tình duyên. Thao

thức trong đêm dài, đau nỗi đau của đời mình như "mõ thảm", chẳng ai khua "mà cũng

cốc"; tủi nỗi tủi của lòng mình như

"chuông sầu", chẳng đánh "cớ sao om"?. Nỗi đau buồn, sầu tủi như thấm sâu vào đáy lòng,

toả rộng trong không gian, kéo

dài theo thời gian như những đêm dài. Đây là hai câu thơ hay nhất tả nỗi "thảm, sầu" trong

Page 75: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

sự trắc trở tình duyên.

"Mõ thảm không khua, mà cũng cốc,

Chuông sầu chẳng đánh, cớ sao om?"

3. Luận

Hai câu 5, 6 đăng đối cũng là để tả tâm trạng "rầu rĩ", tủi giận về con đường tình duyên:

"Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ,

Sau giận vì duyên để mõm mòm".

"Trước nghe những tiếng", là những tiếng gì? - Tiếng gà gáy trên bom? Tiếng "chuông

sầu", "mõ thảm" dội lên từ lòng mình.

Càng nghe càng thêm rầu rĩ, buồn tủi. Càng nghe càng "giận", hờn về tình duyên. Tình

duyên được ví với trái cây, không còn

"non xanh má phấn" nữa mà đã chín "mõm mòm", nghĩa là quá chín, đã nẫu đi. Cũng có

nghĩa là đã quá lứa, đã lỡ thì! Trong

câu thơ có nhiều lệ, nhiều tiếng thở dài, than thân, trách phận, buồn tủi về con đường tình

duyên. Hồ Xuân Hương thương

mình, thương cho những người đàn bà cùng cảnh ngộ.

4. Hai câu kết

Như một sự thách đố với số phận, với duyên số:

"Tài tử văn nhân ai đó ta?

Thân này đâu đã chịu già tom?"

Vừa nghi vấn, vừa cảm thảm, hai câu kết đầy nghịch lí. Nữ sĩ như vẫn tin vào tài năng

của mình có thể xoay đổi được

duyên phận, vẫn hi vọng tìm được bạn đời trăm năm trong đám tài tử văn nhân. Câu 6, nữ sĩ

viết: "Sau giận vì duyên để mõm

mòm", câu 8, bà lại nói:"thân này đâu đã chịu già tom!". "Già tom" nghĩa là rất già, già hẳn.

Một cách "nói cứng", thể hiện

Page 76: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

một bản lĩnh cứng cỏi trước ngang trái cuộc đời. Đọc chùm thơ "Tự tình" cũng như tìm hiểu

cuộc đời của nữ sĩ, về

mặt tình duyên ta thấy hạnh phúc lứa đôi chưa một lần mỉm cười với bà. Người đọc mãi mãi

cảm thông với những

sầu tủi, cay đắng, oán hận của nữ sĩ, của những người phụ nữ duyên ôi phận hẩm, quá lứa

lỡ thì.

Bài thơ gieo vần "om”, 5 vần thơ, vần nào cũng tài tình: "bom - chòm - om - mòm -

tom". Vần nào cũng hóc hiểm, tạo nên

âm điệu như thắt, như nén lại cái "oán", cái "hận", cái "ngang bướng" của một tâm trạng,

một cá tính rất Xuân Hương. Duyên

số và hạnh phúc - đó là vấn đề ám ảnh chúng ta khi đọc thơ "Tự tình" này của Hồ Xuân

Hương.

Tác giả

Phạm Thái (1777 - 1813) hiệu là Chiêu Lì, quê ở Hà Bắc. Công danh lận đận, tình yêu dở

dang. Cuôc đời Phạm Thái đầy

bi kịch. Ông để lại "Sơ kính tân trang", "Văn tế Trương Quỳnh Như", bài "Chiến tụng Tây

Hồ phú" và một số thơ nôm khác.

"Sơ kính tân trang" cho thấy Phạm Thái là nhà thơ của tình yêu lãng mạn, của sự bộc lộ

"cái tôi" trong thơ ca rất mới mẻ,

báo hiệu thời kỳ cận đại.

Tóm tắt

"Sơ kính tân trang" nói về một chuyện tình như sau:

Trương Công quê ở Kiến Xương, Sơn Nam. Phạm Công quê ở Từ Sơn, Kinh Bắc. Một

người là võ quan, một người là

quan văn kết bạn tâm giao. Họ ước hẹn, nếu sau này, một người sinh được con gái, một

người sinh được con trai thì sẽ kết

thành thông gia. Họ Trương trao cho họ Phạm một chiếc gương vàng và được tặng lại một

chiếc lược ngọc, để đính ước. Sau

Page 77: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

đó, Phạm Công sinh con trai đặt tên là Phạm Kim, Trương Công sinh con gái, đặt tên là

Trương Quỳnh Thư.

Xảy ra quốc biến, Phạm Công chết, cơ nghiệp tan nát. Phạm K im lớn lên định nối chí

cha, nhưng mọi sự bất thành, chàng

đi du ngoạn thăm thú các danh lam thắng cảnh. Chàng tới miền Thú Hoa Dương, thấy cảnh

đẹp nên thơ, bèn lưu lại. Chính tại

đây chàng hạnh ngộ Trương Quỳnh Thư đang sống cùng cha mẹ nàng ở kề bên. Và được

Hồng Nương hết lòng giúp đỡ,

Phạm Kim và Trương Quỳnh Thư trao đổi thư từ, thơ phú cho nhau. Mến vì sắc, trọng vì tài

nên hai người yêu nhau. Phạm

Kim có việc, phải trở lại quê nhà, trong khi đó lại có viên đô đốc ở Kinh kì đến hỏi Trương

Quỳnh Thư làm vợ. Nàng vội gửi

thư báo tin cho Phạm Kim biết. Chàng vội đến Thú Hoa Dương gặp người yêu. Cả hai

người đều bế tắc. Họ chia tay trong

nước mắt và hẹn ước sang kiếp sau nên vợ nên chồng - Sau đó Trương Quỳnh Thư tự tử.

Phạm Kim cũng vô cùng đau

buồn, ốm nặng, chán đời, chàng bỏ đi tu.

Trương Công từ quan về quê, lấy vợ lẽ, sinh được một người con gái, đặt tên con là Thụy

Châu. Lớn lên Thụy Châu càng

xinh đẹp và vô cùng phóng khoáng, cải dạng làm trai, tu luyện như một đạo sĩ và hành

hương ngao du khắp mọi miền, thăm

thú cảnh đẹp. Một lần, Thụy Châu đến Kim Sơn thì tình cờ gặp Phạm Kim. Hai người đàm

đạo, xướng hoạ thơ phú. Lúc chia

tay, Phạm Kim cứ đinh ninh Thụy Châu là một cô gái, chàng ngẩn ngơ bỏ cả tu hành. Phạm

Kim trở lại Thú Hoa Dương viếng

mộ Trương Quỳnh Thư, một đêm trăng đẹp nghe tiếng đàn mà chàng nhận ra Thụy Châu.

Hai người tâm sự, cùng đem gương

vàng lược ngọc ra đối chiếu.... Trương Công vui lòng cho hai người lấy nhau và khuyên

Page 78: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Phạm Kim nên gắng sức học hành.

Vui duyên mới, nhưng Phạm Kim vẫn buồn thương Trương Quỳnh Thư. Chàng nói với

Thụy Châu về mối tình cũ. Thụy Châu

liền giơ bàn tay có dấu hai chữ "Quỳnh Thư". Phạm Kim ứa lệ mới biết Thụy Châu là hậu

thân của Trương Quỳnh Thư...

Chủ đề

"Sơ kính tân trang" ca ngợi mối lương duyên của tài tử giai nhân và niềm khát vọng

trong tình yêu son sắc chung

thuỷ.

Phân tích đoạn "Cảnh chùa chiền"

1. Đoạn thơ "Cảnh chùa chiền" tả lại những cảnh đẹp và những con người mà Phạm Kim

đã thăm thú đã gặp trên con

đường mưu đồ đại sự, sau khi Phạm Công - cha chàng đã mất.

2. Đoạn thơ có hai cảnh đầy ấn tượng

a. Cảnh đẹp thiên nhiên hữu tình

- Cảnh đền Hùng:

"Lên Hùng Vương rất non cao,

Mấy dương ngóc ngách, mấy cầu chông chênh"

- Cảnh Yên Tử:

"Vào Yên Tử rất non cùng,

Đàn xô nước suối, phách giong cây rừng".

- Cảnh Kính Chủ (Đông Triều, Quảng N inh):

"Đá sực sực, nước cồn cồn,

Chênh vênh cửa động, chon von mái chùa".

Phạm Thái có một cách viết rất mới lạ, có thể nói, ông tạo ra những câu thơ đảo ngữ, siêu

cú pháp: "Lên Hùng Vương rất

Page 79: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

non cao", hoặc "Vào Yên Tử rất non cùng". Cảnh suối rừng núi non hùng vĩ hiện ra vô cùng

kì thú. Các từ láy tạo nên những

vần thơ đầy hình tượng và giàu âm điệu: "ngóc ngách", "chông chênh", "sực sực", "cồn

cồn", "chênh vênh", "chon von",....

b. Nhà tu hành dưới mái chùa xưa

Phạm Thái miêu tả những nhà tu hành dưới mái chùa xưa vừa bằng nụ cười châm biếm

vừa bằng cái nhìn lãng mạn. Tình

yêu có một mãnh lực, một ma lực ghê gớm có thể làm cho các nhà tu hành phải cởi áo cà sa

để trở về cõi tục, về sống giữa

"vườn trần" đông vui với bao lạc thú:

"Sài Sơn tựa áng phồn hoa,

Sư huynh chải chuốt, vãi già đong đưa.

Ra vào tiểu gái lẳng lơ,

Long lanh mắt liếc say sưa miệng cười..."

Giữa cảnh phồn hoa, từ sư huynh, vãi già đến tiểu gái đã "lột xác" hoàn toàn, họ trở thành

những con người trần tục hoàn

toàn: ham sống và ham yêu.

Có lúc nhà thơ ngẩn ngơ, tiếc nuối cho những giai nhân "lạc lối" vào con đường tu hành.

Đó cũng là cái nhìn lãng mạn:

"Người cung nữ tuổi xuân xanh,

Đem thân bồ liễu, đổi cành đàn na...

Tu hành đấy có sư cô,

Dễ đem nghìn nén mà mua tiếng cười?".

Tóm lại, Phạm Thái là nhà thơ của tình yêu. Mối tình của Phạm Kim với Quỳnh Thư -

Thụy Châu là một thiên diễm tình.

"Sơ kính tân trang" chỉ dài có 1482 câu thơ lục bát, có xen một vài bài thơ xướng hoạ nhưng

đã đóng góp cho nền thơ ca dân

Page 80: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

tộc nhiều đoạn thơ tả cảnh, tả tình tràn đầy màu sắc lãng mạn. Phạm Thái không chỉ phản

ánh cảnh ăn chơi sa đọa của tầng

lớp nhà chùa trong thế kỷ 18, 19 ở nước ta mà còn khẳng định một sự thật ở đời: tình yêu

lứa đôi là chuyện đẹp nhất ở vườn

trần và có một sức mạnh ghê gớm. Đó là cái nhìn lãng mạn, là bút pháp lãng mạn của Phạm

Thái.

Tác giả

Nguyễn Du (1765-1820) tự là Tố Như, hiệu là Thanh Hiện, quê ở Tiên Điền, huyện Nghi

Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông xuất

thân trong một gia đình đại quý tộc thời Lê, có truyền thống văn học. Cha là Nguyễn N

ghiễm, đỗ tiến sĩ làm tể tướng. Anh là

Nguyễn Khản, đỗ tiến sĩ, làm đại quan trong phủ chúa.

Triều Lê - Trịnh sụp đổ, Nguyễn Du trôi giạt về quê vợ ở Thái Bình suốt "mười năm gió

bụi" rồi về sống ở Hà Tĩnh quê

nhà, sống ẩn giật, tự xưng là "Nam Hải điếu đổ", "Hồng Sơn liệp hộ".

Tây Sơn đổ, Gia Long thiết lập triều đại mới. Năm 1802, Gia Long triệu ông ra àm quan

cho nhà Nguyễn. Năm 1813,

Nguyễn Du được cử làm Chánh sứ sang Trung Quốc, có lúc giữ chức Tham tri bộ Lễ, Cần

chánh điện đại học sĩ.

Tác phẩm

1. - Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh).

- Văn chiêu hồn (Văn tế thập loại chúng sinh)

- Thác lời trai phường Nón.

2. Thơ chữ Hán:

- Thanh Hiên thi tập.

- Nam trung tạp ngâm.

- Bắc hành tạp lục.

Page 81: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Truyện Kiều

1. Nguyễn Du dựa vào cốt truyện "Kim Vân Kiều truyện" của Thanh Tâm Tài Nhân, đời

Thanh Trung Quốc để sáng tạo

ra truyện Kiều, dài 3254 câu thơ lục bát, kiệt tác số một, "tập đại thành" của nền thơ ca cổ

điển Việt Nam.

2. Cốt truyện

Về đời Minh, có gia đình Vương Viên ngoại ở Bắc Kinh sinh thành được ba người con:

Thuý K iều, Thuý Vân, Vương

Quan. Hai chị em Kiều nhan sắc tuyệt trần, riêng Kiều còn có tài thi hoạ, ca, ngâm. Nhân

ngày hội Đạp Thanh ba chị em

Kiều đi chơi xuân, gặp một văn nhân tên là Kim Trọng "tình trong như đã mặt ngoài còn e".

Kim Trọng tìm cách gặp gỡ Kiều,

nhờ cành kim thoa mà hai người ước hẹn, thề nguyền dưới trăng "trăm năm tạc mộ chữ

đồng đến xương". K im Trọng phải về

Liễu Dương hộ táng chú. Gia đình K iều gặp tai biến, Kiều phải bán mình cho Mã Giám

Sinh để lấy tiền chuộc cha. Nàng trao

duyên cho Thuý Vân rồi theo họ Mã về Lâm Trụy. Kiều mắc lận Sở Khanh, bị Tú Bà làm

nhục. Kiều vào lầu xanh lần thứ

nhất. Kiều được Thúc Sinh chuộc ra lấy làm vợ lẽ. Hoạn Thư đánh ghen. Kiều bỏ trốn khỏi

nhà Hoạn Thư, lại rơi vào tay

Bạc Bà, Bạc Hạnh. Kiều vào lầu xanh lần thứ hai tại Châu Thai. Kiều được Từ Hải chuộc,

lấy từ Hải trở thành mệnh phụ phu

nhân. Kiều báo ân báo oán. Kiều và Từ Hải mắc lừa Hồ Tôn Hiến. Từ Hải bị giết chết, Kiều

bị ép lấy viên thổ quan, nàng

nhảy xuống sông Tiền Đường tự tử nhưng được cứu thoat rồi đi tu.

Kim Trọng trở lại vườn Thuý, kết duyên với Thuý Vân. Kim Trọng và Vương Quan thi

đỗ được bổ đi làm quan. Cả gia

Page 82: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

đình qua sông Tiền Đường may mắn gặp vãi Giác Duyên, tìm đến ngôi chùa Kiều đi tu.

Kiều gặp lại cha mẹ, hai em và chàng

Kim sau 15 năm trời lưu biệt...

3. Giá trị nội dung

a. Giá trị tố cáo hiện thức: lên án xã hội phong kiến thối nát, những thế lực hắc ám tàn

bạo, dã man đã chà đạp lên quyền

sống và hạnh phúc con người như bọn quan lại tham ô thối nát, bọn buôn thịt bán người,

bọn ma cô lưu manh tàn ác; lên án

mặt trái của đồng tiền hôi tanh...

b. Giá trị nhân đạo: xót thương cho nỗi đau khổ của con người, tài sắc bị dập vùi, nói lên

ước mơ về hạnh phúc, tự do và

công bằng, đề cao quyền sống của con người, v.v...

4. Giá trị nghệ thuật

a. Nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc, tạo ra những mẫu người với những tính cách

tiêu biểu cho cái đẹp, cái xấu,

cái thiện, cái ác... trong xã hội phong kiến suy tàn, thối nát.

b. Nghệ thuật tự sự, hấp dẫn, cảm động, tạo ra những tình huống, những bi kịch. Lúc

miêu tả, lúc tả cảnh ngụ tình, lúc

đối thoại, câu truyện về nàng Kiều diễn biến qua trên ba nghìn câu thơ liền mạch.

c. Ngôn ngữ thi ca: N guyễn Du đã kết hợp tài tình giữa ngôn ngữ bác học, sử dụng điển

tích, thi liệu văn học cổ Trung

Hoa với ca dao, tục ngữ, thành ngữ... nâng lên thành một ngôn ngữ văn chương trong sáng,

trau chuốt, mượt mà, mẫu mực.

Cho đến nay chưa có nhà thơ Việt Nam nào viết thơ lục bát trên ba nghìn câu hay bằng

Nguyễn Du. "Truyện Kiều" xứng

đáng là "tiếng thương như tiếng mẹ du những ngày" (Tố Hữu).

Page 83: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Những ý kiến, những lời thơ hay và đẹp nói về "Truyện Kiều"

1… "Tố Hữu tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu

không phải có cái mắt trông thấu

cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời, thi tài nào có cái bút lực ấy..."

(Mộng Liên Đường)

2... "Ngọc diện khởi ưng mai thuỷ quốc Băng tâm tự khả đối K im Lang..."

(Phạm Q uí Thích)

"Mặt ngọc nỡ sao vùi đáy nước,

Lòng trinh không thẹn với K im Lang"

(Nguyễn Quảng Tuân dịch)

3… Mười năm qua, nay trở lại hoà bình.

Trăng ly biệt lại đoàn viên trước cửa.

Cảo thơm đặt trước đèn, tôi giở

Mỗi trang Kiều rung một bóng trăng thanh.

Chạnh thương cô Kiều như đời dân tộc

Sắc tài sao mà lại lắm truân chuyên

Cành xuân phải trao tay khi nước mất

Cỏ bên trời xanh một sắc Đạm Tiên.

Bỗng quý cô Kiều như đời dân tộc

Chữ kiên trinh vượt trăm sóng Tiền Đường

Chàng Kim đã đến tìm, lau giọt khóc

Và lò trầm đêm ấy toả bay hương...

("Đọc Kiều"- Chế Lan Viên)

4... Trải qua một cuộc bể dâu

Câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình

Page 84: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Nỗi chìm kiếp sống lênh đênh

Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều...

("Bài ca mùa xuân 1961"- Tố Hữu).

5... Tiếng thơ ai động đất trời

Nghe như non nước vọng lời ngàn thu

Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du,

Tiếng thương như tiếng mẹ ru mhững ngày.

Hỡi Người xưa của ta nay,

K húc vui xin lại so đây cùng Người!

("Kính gửi cụ Nguyễn Du"- Tố Hữu)

Trao duyên

(Trích "Truyện Kiều")

Cậy em, em có chịu lời,

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.

Giữa đường đứt gánh tương tư,

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.

Kể từ khi gặp chàng Kim ,

Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.

Sự đâu sòng gió bất kỳ,

Hiều tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?

Ngày xuân em hãy còn dài,

Xót tình máu mủ, thay lời nước non.

Chị dù thịt nát xương mòn,

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.

Chiếc thoa với bức tờ mây

Page 85: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Duyên này thì giữ, vật này của chung.

Dù em nên vợ nên chồng,

Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên!

Mất người còn chút của tin,

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.

Mai sau dù có bao giờ,

Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.

Trông ra ngọn cỏ gió cây,

Thấy hiu hiu gió, thì hay chị về.

Hồn còn mang nặng lời thề,

Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.

Dạ đài cách mặt, khuất lời,

Rảy xin chén nước cho người thác oan.

Bây giờ trâm gãy bình tan,

Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!

Trăm nghìn gửi lạy tình quân

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.

Phân sao phận bạc như vôi?

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.

Ôi Kim Lang! Hỡi K im lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!

Page 86: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Xuất xứ

Đoạn thơ dài 34 câu, từ câu 732 đến câu 756 trong Truyện Kiều, khởi đầu bi kịch cho

quãng đời 15 năm trời lưu lạc của

Thuý K iều.

Đại ý

Kiều trao duyên cho Thuý Vân, gửi lại em gái những kỉ vật của mối tình chung. N àng

đau khổ khóc than cho mối tình đầu

tan vỡ, cay đắng cảm thấy mình là con người phụ bạc.

Phân tích

1. Kiều cầu khẩn, van lạy em gái, cậy nhờ em gái "chịu lời", nhận lời chịu uỷ thác một

việc hệ trọng. Em gái đã trở thành ân

nhân của chị gái. Kiều đã lấy "lễ" đối xử với em: "N gồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa". "Lạy

rồi sẽ thưa" - cử chỉ trang trọng,

trang nghiêm.

Kiều thổ lộ với em mối tình đẹp với chàng K im: "Chén thề": chén rượu hai người cùng

uống dưới trăng đêm tình tự thề

nguyền: "Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương". "Q uạt ước": chiếc quạt mà Thuý Kiều

đã tặng Kim Trọng. Đó là một mối

tình đã thề nguyền thuỷ chung và đẹp.

Trước gia biến "sóng gió bất kỳ", giữa tình và hiếu "khôn lẽ hai bề vẹn hai". Chị phải đặt

chữ hiếu lên chữ tình. Chị phải

trao duyên cho em bởi lẽ em là "tình máu mủ" của chị, hơn nữa cuộc đời em còn trẻ còn

chứa chan hạnh phúc:

"Ngày xuân em hãy còn dài,

Xót tình máu mủ thay lời nước non".

"Lời nước non" là lời thề chỉ non thề biển; son sắc thuỷ chung. "Thay lời nước non"

nghĩa là thay chị, em lấy chàng Kim trả

Page 87: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

nghĩa cho chàng.

Nửa năm sau, chàng Kim trở lại vườn Thuý..., tìm đến nơi "di trú" của gia đình người

yêu. Vương Ông khóc than nhắc lại

lời K iều trước lúc ra đi:

"Dùng dằng khi bước chân ra

Cực trăm nghìn nỗi, dặn ba bốn lần.

Trót lời nặng với lang quân,

Mượn con em nó Thuý Vân thay lời.

Gọi là trả chút nghĩa người

Sầu này dằng dặc muôn đời chưa quên..."

Qua đó, ta thấy tấm lòng quý hoá thơm thảo của Thuý Kiều. Nàng bán mình để chuộc

cha, để cứu gia đình. Tình yêu dù

tan vỡ nhưng nàng vẫn giữ lấy cái "nghĩa" với chàng Kim, "cậy em"... "thay lời nước non".

Chị có trải qua nhiều đau khổ "thịt

nát xương mòn..." vẫn thơm lây về nghĩa cử chỉ của em.

2. Kiều trao lại kỉ vật thiêng liêng cho em. Trao duyên rồi vẫn còn vấn vương, đó là bi

kịch tình yêu khi K iều nói:

"C hiếc thoa với bức tờ mây,

Duyên này thì giữ, vật này của chung."

Đã trao duyên rồi, sao lại nói "vật này của chung?" Đó là quy luật của tình yêu, là nỗi

đau của Kiều "con tằm đến thác vẫn

còn vương tơ".

3. Lời than của Kiều não nùng thê thiết như lời trăng trối. Kiều nói đến "hồn", đến "dạ

đài", nói đến một ngày mai bi thảm

từ cõi âm trở về:

"Mai sau dù có bao giờ

Page 88: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Đốt lò hương ấy so tơ phím này

Trông ra ngọn cỏ lá cây,

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.

Hồn còn mang nặng lời thề,

Nát thân bồ liễu đến nghì trúc mai.

Dạ đài cách mặt khuất lời

Rảy xin chén nước cho người thác oan".

Tình yêu tan vỡ, Kiều xem như mình đã "chết", chết trong đau khổ. Lời than của Kiều

thấm đầy lệ.

4. Kiều thầm nhắn gửi người yêu: Tình yêu đã tan vỡ, đã "trâm gãy bình tan". Đau đớn

khôn xiết kể cho "tơ duyên ngắn

ngủi", cho "phận bạc"... Kiều gửi lạy tình quân.... Kiều cất tiếng gọi người yêu rồi ngất đi:

"Ôi Kim Lang! Hỡi K im Lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!"...

Trao duyên cho em để rồi ra đi mặc cho sỗ phận "nước chảy hoa trôi lỡ làng". K iều ngỡ

rằng trả được nghĩa chàng Kim sẽ

bớt phần đau khổ. Trái lại, trao duyên cho em rồi, Kiều lại càng vô cùng đau khổ. Nguyễn

Du với trái tim nhân đạo mênh

mông, ông đã ghi lại những biến thái tinh tế trong tâm hồn Kiều, những đau đớn ứa máu của

người con gái khi mối tình đầu tan

vỡ. Ta cảm thấy ông là người chứng kiến lễ trao duyên. Đây là một trong những đoạn thơ

xúc động nhất trong "Truyện

Kiều", gồm những "câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình".

Thúc Sinh từ biệt Thuý Kiều

(1519) Người lên ngựa, kẻ chia bào,

Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.

Page 89: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Dặm hồng, bụi cuồn chinh an,

Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh.

Người về chiếc bóng năm canh,

Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi,

Vầng trăng ai xẻ làm đôi,

(1526) Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường.

Xuất xứ

Đoạn thơ 8 câu, từ câu 1519-1526 ghi lại cảnh Thúc Sinh từ biệt Thuý Kiều đi về Vô

Tích thăm vợ cả Hoạn Thư và thu

xếp chuyện "vườn mới thêm hoa".

Đại ý

Đoạn thơ ghi lại cảnh biệt ly giữa Thuý Sinh và Thuý Kiều và nói lên nỗi buồn thương

nhớ, cô đơn của đôi lứa...

Phân tích

1. Hai câu đầu ghi lại khoảnh khắc chia ly, chia lìa. Hai vế tiểu đối, hai hành động như

một nét cắt đau lòng:

Người lên ngựa // kẻ chia bào.

Cả một "rừng phong thu" bao la đỏ ối "đã nhuốm màu quan san", nơi xa xôi cách biệt.

"Màu quan san" ấy gợi cho ta cảnh

ly biệt vẫn thường diễn ra vào mùa thu. Nỗi nhớ thương của đôi lứa trẻ trung, từ lòng người

như thấm sâu vào cảnh vật, vào

không gian bao la, vào sắc lá của "rừng phong thu".

2. Hai câu 3, 4 tả cái đứng lặng và dõi theo của nàng Kiều. Con đường đỏ bụi (dặm

hồng), bụi cuốn lấy yên ngựa của

người đi xa (bụi cuồn chinh an). Kiều trông theo bóng hình Thúc Sinh, người chồng, vị ân

nhân của nàng, nhìn mãi, nhìn hoài

Page 90: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

cho đến lúc chỉ thấy màu xanh của ngàn dâu mờ xa cuối chân trời. Chữ "trông" và chữ

"khuất" diễn tả tình lưu luyến khôn

nguôi:

"Dặm hồng bụi cuốn chinh an,

Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh".

Từ màu đỏ của "rừng phong thu" đến màu "hồng" của bụi cuốn, màu "xanh" của ngàn

dâu, đó là màu của tâm tưởng, màu

của biệt li, màu của thương nhớ:

"Ngàn dâu xanh ngắt một màu,

Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?"

(Chinh phụ ngâm)

3. Nỗi buồn cô đơn của Kiều. Nàng thương mình lẻ loi, cô đơn "chiếc bóng năm canh",

thao thức, thương nhớ, chờ đợi....

Nàng thương Thúc Sinh đi xa "muôn dặm" vất vả, cô đơn "một mình", và một ngày một "xa

xôi" thêm:

"Người về chiếc bóng năm canh,

Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi".

"Người về"với "kẻ đi" ở hai phía chân trời. "C hiếc bóng" và "một mình" đều lẻ loi, cô

đơn. Đêm "năm canh" đợi chờ như dài

ra. "Muôn dặm" với bao thương nhớ như "xa xôi" vô tận.

4. Đêm đêm nàng Kiều thao thức, chỉ có vầng trăng với nàng. Xưa là vầng trăng thề

nguyền, chứa chan hạnh phúc,

"Đêm nay" chỉ có vầng trăng li biệt, "vầng trăng ai xẻ làm đôi", biết bao đau buồn thương

nhớ!

"Vầng trăng ai xẻ làm đôi

Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm đường"

Page 91: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Vầng trăng chẳng còn tròn vành vạnh nữa mà đã bị cắt, bị "xẻ làm đôi", như một ám ảnh,

một dự báo cuộc từ biệt lần này

cũng là cuộc vĩnh biệt tình duyên giữa Thúc Sinh với nàng K iều. Đoạn thơ "Thúc Sinh từ

biệt Thuý Kiều" là một đoạn thơ tả

cảnh ngụ tình đặc sắc, "ngang giá một thiên phú biệt li" như Vũ Trinh đời N guyễn đã bình.

Nó chứa chan tình người, gợi lên

nỗi đau buồn, thương nhớ cho những lứa đôi nặng tình mà li biệt ...

Kim trọng trở lại vườn thuý

(2741) Từ ngày muôn dặm phù tang,

Nửa năm ở đất Liêu Dương lại nhà.

Vội xang vườn Thuý dò la,

Nhìn xem phong cảnh, nay đà khác xưa.

Đầy vườn cỏ mọc lau thưa

Song trăng quạnh quẽ, vách mưa rã rời...

Trước sau nào thấy bóng người,

Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.

Xập xoè én liệng rường không,

Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giày.

Cuối tường gai góc mọc đầy,

Đi về này những lối này năm xưa!

Chung quanh nặng khắt như tờ,

(2754) - Nỗi niềm tâm sự bây giờ hỏi ai?

Page 92: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Xuất xứ

Sau nửa năm về Liêu Dương hộ tang chú, Kim Trọng vội trở lại vương Thuý "dò la"...

Đoạn thơ dài 14 câu, từ câu 2741

đến câu 2754.

Đại ý

Đoạn thơ tả nỗi buồn ngao ngán của Kim Trọng trước cảnh tiêu điều, hoang vắng của

vườn Thúy.

Phân tích

1. Bốn câu đầu giới thiệu Kim Trọng về Liêu Dương "phù tang" chú đã sáu tháng rồi,

nay mới trở lại nhà ở Bắc Kinh. Xa

cách người yêu đã trong một thời gian dài "nửa năm", trên một không gian "muôn dặm"

cách trở, với bao thương nhớ:

"Ngoài nghìn dặm, chốc ba đông,

Mối sầu ghi gỡ cho xong còn chầy"

Hai chữ "vội sang" trong câu thơ "Vội sang vương Thuý dò la" diễn tả niềm thương nhớ

bồn chồn, sự khát khao được

gặp mặt người yêu đã nửa năm xa cách. Câu thơ "Nhìn xem phong cảnh nay đà khác xưa"

không chỉ gợi tả khái quát sự đổi

thay của vườn Thuý, của gia đình người đẹp mà còn thể hiện một cái nhìn ngơ ngác, băn

khoăn của chàng Kim.

2. Mười câu thơ còn lại tả cảnh tiêu điều hoang vắng của vườn Thuý và nỗi niềm tâm sự

của Kim Trọng. Vườn xưa có

"Lơ thơ tơ liễu buông mành", có "đầy thềm hoa rụng"... có "song hồ nửa khép cánh mây",

có "tường gấm"... Nay đã thay đổi

hoàn toàn, "nay đã khác xưa". Vườn xưa, nay đã "cỏ mọc lau thưa". Sân xưa, nay đã "Cỏ lan

mặt đất rêu phong dấu giày".

Với K im Trọng, "dấu giày" của người đẹp, của người yêu như đã được "rêu phong" lại, giữ

Page 93: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

lại cho chàng, để lòng chàng ngẩn

ngơ thương nhớ! Nhà cửa hoang vắng đổ nát tiêu điều: "Song trăng quạnh quẽ vách mưa rã

rời". Xưa kia vườn Thuý có "con

oanh học nói..." thì nay chỉ trông thấy cảnh "Xập xoè én liệng rường không", lòng chàng K

im lại càng ngổn ngang đau đớn.

Câu thơ "Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông" tuy khơi gợi từ một tứ thơ Đường của Thôi

Hộ nhưng đầy sáng tạo làm hiện

lên một khung cảnh buồn thương vắng bóng giai nhân, cỏ hoa như thấm đau nỗi buồn

thương nhớ li b iệt của chàng Kim. Biết

bao bơ vơ, sầu tủi tràn ngập lòng người... Cây đào ấy như một chứng minh về kỷ niệm

không bao giờ quên đối với chàng

Kim đa tình: "Dưới đào dường có bóng người thướt tha... Trên đào nhác thấy một cành kim

thoa".

Đây là hai câu thơ hay nhất trong đoạn :

"Cuối tường gai góc mọc đầy

Đi về này những lối này năm xưa".

Sáu tháng trước, Kim Trọng đa tình đã từng "Tường đông, ghé mắt ngày ngày hằng

trông", đã biết bao phen "lần theo

tường gấm dạo quanh".... Và có bao giờ quên được cái giây phút thần tiên "Thang mây rón

bước ngọn tường" để tỏ tình với

người đẹp từng "thầm trông trộm nhớ...". Cũng như bức "tường gấm" ấy, "lối này"… cũng

đầy ắp kỷ niệm với "kẻ thiên tài":

"Xắn tay mở khoá động đào

Rẽ mây trông tỏ lối vào Thiên Thai".

Làm sao quên được cái đêm tự tình ấy, nàng Kiều đã "xăm xăm băng lối vườn khuya một

mình". Câu thơ "Đi về này những

lối này năm xưa" như làm hiện lên trong tâm hồn Kim Trọng bao kỷ niệm đẹp về nàng

Page 94: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Kiều mà thời gian không thể xoá nhoà.

Chàng Kim như chết nặng đi trong cô đơn, trong thương nhớ, biết ngỏ tâm sự cùng ai. Một

câu hỏi đầy bồi hồi, ám ảnh, ngổn

ngang thương nhớ:

"Chung quanh lặng ngắt như tờ

Nỗi niềm tâm sự bây giờ hỏi ai?"

3. Đoạn thơ "Kim Trọng trở lại vườn Thuý" cũng là một trong những đoạn thơ tả cảnh

ngụ tình tuyệt bút của thi hào

Nguyễn Du. Nét đặc sắc ở đoạn thơ ở chỗ: Kim Trọng nhìn cảnh vương Thuý tiêu điều

hoang vắng mà mang tâm sự ngổn

ngang trong lòng. Người yêu, người đẹp bây giờ đi đâu về đâu?...Cảnh vật nào bao giờ cũng

mang theo bao kỷ niệm của

người yêu từng nặng tình thề nguyền... Cảnh cũ vườn xưa từ "song trăng" đến "hoa đào", từ

cánh én đến cỏ lau, từ "tường

gấm" đến "lối này" như mang nặng tình người, đang đối diện và tâm sự cùng chàng Kim.

Thuý kiều chắc đang ở Lâm Truy,

nàng có nghe thấu "Xa xôi ai có thấu tình chăng ai?"...

Anh hùng tiếng đã gọi rằng

2419- Nàng từ ân oán rạch ròi

Bể oan dường đã vơi vơi cạnh lòng.

Tạ ân lạy trước Từ công:

"Chút thân bồ liễu mà mong có rày!

Trộm nhờ sấm sét ra tay.

Tấc riêng như cất gánh đầy đổ đi!

Khắc xương ghi dạ xiết chi,

Dễ đem gan góc đền nghì trời mây."

Page 95: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Từ rằng: "Q uốc sĩ xưa nay,

Chọn người tri kỷ một ngày được chăng?

Anh hùng tiếng đã gọi rằng

Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha

Huống chi việc cũng việc nhà,

Lọ là thâm tạ mới là tri ân!

Xót nàng còn chút song thân,

Bấy nay kẻ Việt người Tần cách xa

Sao cho muôn dặm một nhà,

Cho người thấy mặt là ta cam lòng".

Vội truyền sửa tiệc quan trung

Muôn binh nghìn tướng hội đồng tẩy oan.

Thừa cơ trúc chẻ ngói tan,

Binh uy từ ấy sấm ran trong ngoài.

Triều đình riêng một góc trời

Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà.

Đòi phen gió quét mưa sa,

Huyện thành đạp đổ năm toà cõi nam.

Phong trần mài một lưỡi gươm,

Những phường giá áo, túi cơm sá gì!

Nghênh ngang một cõi biên thuỳ,

Thiếu gì cô quả, thiếu gì bá vương.

Trước cờ ai dám tranh cường?

2450- Năm năm hùng cứ một phương hải tần!

Page 96: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Xuất xứ

Đoạn thơ "Anh hùng tiếng đã gọi rằng", dài 32 câu, trích trong "Truyện kiều" từ câu

2419 đến câu 2450. Đoạn thơ này

tiếp sau cảnh Kiều báo ân báo oán.

Ý tưởng đoạn thơ

Đoạn thơ ca ngợi Từ Hải là một anh hùng đích thực giàu nghĩa khí qua đó nêu bật và

khẳng định cảm hứng nhân văn, nói

lên khát vọng tự do của con người thời đại.

Phân tích

1. Mười tám câu đầu là cuộc trò chuyện giữa Từ Hải với K iều. Kiều tạ ơn Từ Hải đã

giúp mình báo ân báo oán. Có nhờ

được "sấm sét ra tay" thì "bể oan" mới được vơi đi, "tấc riêng" mới được gột rửa, được xoá

bỏ, được "đổ đi", mới thanh thản

nhẹ nhàng. Ơn nghĩa ấy vô cùng to lớn (trời mây) khắc vào xương, ghi sâu vào dạ, chẳng

bao giờ quên:

"Khắc xương ghi dạ xiết chi

Dễ đem gan óc đền nghì trời mây".

Kiều nói chân thành, nhỏ nhẹ, khiêm nhường (thân bồ liễu, tấc riêng, gan óc...) đầy tình

nghĩa. Từ Hải tự coi mình là "quốc

sĩ", xem Kiều là "tri kỉ". Từ hải giúp K iều báo ân, báo oán là một việc làm đầy nghĩa khí

như các anh hùng hảo hán xưa nay

vẫn coi trọng: "Lộ kiến bất bình, bạt đạo tương trợ". Với Từ Hải, không thể dung tha mọi

"bất bằng" tội ác ở đời:

"Anh hùng tiếng đã gọi rằng

Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha"

Câu nói của Từ vang lên đĩnh đạc hào hùng thể hiện một lý tưởng anh hùng tuyệt đẹp,

như một lời tuyên chiến với mọi cái

Page 97: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

ác, cái bất công ở đời.

Từ Hải xem hành động ra oai "sấm sét" của mình giúp K iều báo ân báo oán là "việc

nhà", là chuyện gia đình... cũng là để

Kiều sớm gặp lại gia đình, gặp lại song thân. Từ Hải là một con người chí tình chí nghĩa,

thấu hiểu được nỗi đau riêng và ước

mong của Kiều:

"Xót nàng còn chút song thân,

Bấy nay kẻ Việt người Tần cách xa.

Sao cho muông dặm một nhà,

Cho người thấy mặt là ta cam lòng"

2. Từ Hải là một anh hùng đích thực.

Tiến quân như vũ bão "trúc chẻ ngói tan". Binh uy chấn động "sấm ran trong ngoài". Từ Hải

dựng lên một triều đình đối địch

làm chủ "một góc trời", có tổ chức quy củ: "Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà". Từ Hải xuất

quân đánh đâu thắng đấy:

"Đòi phen gió quét mưa sa,

Huyện thành đạp đổ năm toà cõi nam".

Dưới con mắt của Từ Hải, bọn vua quan triều đình chỉ là "phường giá áo túi cơm" mà

thôi. Từ đã có một giang sơn riêng,

một cõi biên thuỳ riêng ngang nhiên thách thức:

"Trước cờ ai dám tranh cường

Năm năm hùng cứ một phương hải tần'.

Nguyễn Du miêu tả Từ Hải oai phong lẫm liệt như một anh hung thần thoại, một dũng sĩ

trong sử thi, hiện lên trong hào

quang chiến trận, lừng lẫy trong chiến công. Những động từ mạnh, những hình ảnh kì vĩ

được vận dụng sáng tạo, đoạn thơ

Page 98: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

vang lên hào hùng mang âm điệu anh hùng ca:

"Gió quét mưa sa", "đạp đổ năm toà cõi nam", " sấm ran trong ngoài"... Các từ Hán Việt

góp phần miêu tả cốt

cách phi thường của Từ Hải: quân trung, hội đồng tẩy oan, binh uy, triều đình, văn võ, sơn

hà, phong trần, biên thuỳ,

cô quả, bá vương, hùng cứ, hải tần....

Đoạn thơ góp phần hoàn thiện chân dung anh hùng Từ Hải : một con người chí tình chí

nghĩa, sống và chiến đấu vì lý

tưởngvà khát vọng tự do, lẽ công bằng. "Đoạn thơ thể hiện sâu sắc cảm hứng nhân văn

trong "Truyện Kiều". Màu sắc

sử thi, hình tượng kì vĩ, âm điệu anh hùng ca là nét đặc sắc về nghệ thuật của đoạn thơ này.

Nhân vật Từ Hải là một khám phá

đầy sáng tạo của Nguyễn Du: từ một hảo hán trong "Kim Vân Kiều truyện" trở thành một

anh hùng đích thực trong

"Truyện Kiều".

Độc Tiểu Thanh kí

Nguyễn Du

Tây hồ hoa uyển tân thành khư

Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.

Chi phấn hữu thần liên tử hậu,

Văn chương vô mệnh lụy phần dư.

Cổ kim hận sự thiên nan vấn,

Phong vận kì oan ngã tự cư,

Bất tri tam bách dư niên hậu,

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như.

Đọc tập tiểu thanh ký

Page 99: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Hồ Tây cảnh đẹp hoá gò hoang,

Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.

Son phấn có thần chôn vẫn hận,

Văn chương không mệnh đốt cờn vương.

Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,

Cái án phong lưu khách tự mang.

Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,

Người đời ai khóc Tố Như chăng?

Vũ Tam Tập dịch

Xuất xứ

1. "Độc tiểu thanh kí" - bài thơ rút trong "Bắc hành tạp lục", tập thơ đi sứ của Nguyễn Du

(năm 1813 - 1814).

2. Tiểu Thanh là một tên cô gài tài sắc ở đầu thời Minh, Trung Quốc. Nàng họ Phùng lấy

làm lẽ một người cũng tên là

Phùng. Vợ cả ghen hành hạ, nàng đau khổ chết năm 18 tuổi. Nàng có một tập thơ "Độc tiểu

thanh kí" bị vợ cả đốt đi còn sót

lại vài bài. Nay ở Cô Sơn (Chiết Giang), cạnh Tây Hồ còn mộ Tiểu Thanh. Nguyễn Du đã

đọc phần dư cảo của "Tiểu Thanh

kí" khi ông đi sứ mà viết bài thơ này.

Chủ đề

Bài thơ "Độc Tiểu Thanh kí" nói lên lòng xót thương đối với những người phụ nữ tài sắc

bị dập vùi đau khổ, chết

trong oan ức, đồng thời tác giả tự cảm thương cho thân phận mình.

Phân tích

1. Đề

Cảnh vật tang thương. Vườn hoa ở Tây Hồ đã thành gò hoang hết cả. Thương một đời

Page 100: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

dâu bể, nhà thơ thương người đàn

bà bạc mệnh. Nhà thơ đọc "mảnh giấy tàn" (nhất chỉ thư) đứng lặng trước cửa sổ điếu nàng

Tiểu Thanh.

"Tây Hồ cảnh đẹp hoá gò hoang

Thổn thức bến song mảnh giấy tàn"

2. Thực

Nhan sắc (son phấn) và tài năng (văn chương) đều bị vùi dập. Son phấn có thần, sau khi

chết người ta còn xót thương tiếc

nuối. Văn chương còn có số mệnh gì mà người ta còn bận lòng về những bài thơ sót lại sau

khi bị đốt? Nhà thơ thương xót

cho nhan sắc và tài năng của Tiểu Thanh bị hãm hại, chôn vùi:

"Chi phấn hữu thần liên tử hậu,

Văn chương vô mệnh lụy phần dư".

Hai câu thơ đối nhau làm nổi bật nhan sắc và tài năng bị vùi dập, thể hiện tình thương

của nhà thơ. Đúng là "Câu thơ còn

đọng nỗi đau nhân tình" (Tố Hữu).

3. Luận

Nhà thơ suy ngẫm về "hận sự" và "kì oan" trong xã hội. Mối hận xưa nay hỏi trời mà vẫn

khó. Cái oan lạ vì nết phong nhã,

tự mình ta lại buộc lấy mình. Ta như kẻ cùng hội cùng thuyền với kẻ mắc nỗi oan lạ vì nết

phong nhã ấy. Nỗi đau thương và

bế tắc dày vò nhà thơ và đó cũng là nỗi đau và bế tắc của đời người:

"Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,

Cái án phong lưu khách tự mang"

Phải hỏi trời vì hỏi người mãi mà chẳng được. Hỏi trời lại càng rất khó, thế thì "hận sự"

không thể nào kể xiết. Bế tắc là vô

Page 101: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

hạn! Phong lưu, phong nhã là vẻ đẹp, là cốt cách sang trọng sao lại là kì oan? Nguyễn Du đã

từng trải qua "10 năm gió bụi"

trong cảnh tha phương, ốm đau không có thuốc, trôi giạt lênh đênh, tóc sớm bạc có lúc ông

tự nhận mình thời trai trẻ cũng là

kẻ có tài (tráng niên ngã diệc vi tài giả). Vì thế ông mới tự xếp mình vào "cùng hội cùng

thuyền", là khách phong lưu như Tiểu

Thanh nên mới mang cái oan lạ như nàng. Thật là chua chát!

4. Kết

Hai câu kết ẩn chứa bao tâm sự. Tố Như hỏi hậu thế:

"Bất tri tam bách dư niên hậu,

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?"

Sau 300 năm nàng Tiểu Thanh chết, đến điếu và khóc nàng. Liệu sau khi ta mất hơn300

năm, người đời ai khóc tố Như?

Đó là lời tự thương đầy lệ. Nhà thơ tự thấy mình cô đơn bơ vơ, sầu tủi...

"Độc Tiểu Thanh kí" bài thơ mang cảm hứng nhân đạo sâu sắc. Nguyễn Du đã khóc một

Đạm Tiên, một Thuý Kiều....

Ông đã dành cho nàng Tiểu Thanh bao niềm thương xót. Đến Tây Hồ trên đường đi sứ, cái

tâm của ông lại hướng về nỗi đau

khổ oan trái của một giai nhân bị dập vùi với bao "những điều trông thấy mà đau đớn lòng".

Hai câu kết bài thơ phản ánh "nỗi

đoạn trường" của nhà thơ để dân tộc ta "Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du”... như Tố Hữu đã

nói.

Thăng Long thành hoài cổ

Bà Huyện Thanh Quan

Tạo hoá gây chi cuộc hí trường,

Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương.

Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,

Page 102: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.

Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,

Nước còn cau mặt với tang thương.

Ngàn năm gương cũ soi kim cổ

Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.

Xuất xứ

Tên thật là Nguyễn Thị Hinh, người làng Nghi Tàm, cạnh Hồ Tây. Bà là vợ của ông Lưu

N ghi, làm tri huyện Thanh Quan,

tỉnh Thái Bình, nên được người đời ái kính gọi là Bà huyện Thanh Quan. Bà từng được vua

Minh Mệnh vời vào Phú Xuân

nhận nữ chức quan "Cung trung giáo tập"

Bà còn để lại 6 bài thơ Nôm, đều viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật: "Qua đèo

ngang", "Chiều hôm nhớ nhà",

"Thăng Long thành hoài cổ", "Chùa Trấn Bắc", "Chơi đài Khán Xuân Trấn Võ", "Tức cảnh

chiều thu".

Ngôn ngữ thơ trang nhã, điêu luyện, âm điệu du dương réo rắt, giọng thơ buồn mác, hoài

cổ... là nét đặc sắc trong thơ Bà

Huyện Thanh Quan.

Chủ đề

Bài thơ nói lên nỗi nhớ xưa thành Thăng Long và nỗi đau buồn về cuộc đời tang

thương.Phân tích

1. Đề

Như một lời than, nhẹ trách tạo hoá. Hí trường: sân khấu. Tinh sương: Tinh là sao, sương

là sương giá. Mấy tinh sương là

mấy năm. Ông trời gây chi thế, làm cho cuộc đời luôn biến đổi chẳng khác gì các lớp kịch,

lớp này tiếp sang lớp khác trên sân

khấu. Cho đến nay, đã mấy năm thấm thoắt trôi nhanh qua. Ý thơ sâu nắng buồn man mác

Page 103: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

về dòng chảy thời gian:

"Tạo hoá gây chi cuộc hí trường

Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương".

2. Thực

Kinh thành xưa - thuở vàng son nay còn đâu nữa! Chỉ còn lại vẻ hoang tàn:

"Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,

Nền cũ lâu đài bóng tịch dương".

Đường bàn cờ dọc ngang, xưa kia xe ngựa của ông hoàng bà chúa đi lại rầm rập... nay

chỉ còn lại "hồn thu thảo" - hồn cỏ

thu tàn tạ. Lâu đài xưa đã đổ nát, đã hoang tàn chỉ còn lại cái "nền cũ", vẻ tang thương hiện

lên dưới "bóng tịch dương" - bóng

mặt trời chiều tối. Hai câu thơ đối nhau làm nổi bật cái hoang phế, tàn tạ, thương tâm. "Lối

xưa" với "nền cũ", "xe ngựa" với

"lâu đài", "hồn thu thảo" với "bóng tịch dương" đăng đối, hoà hợp; nỗi đau buồn tang

thương từ cảnh vật đã và đang thấm sâu

vào lòng người. Đó là nỗi buồn hoài cổ về kinh thành xưa.

3. Luận

Nỗi đau về cuộc đời tang thương biến đổi như chất chứa dồn nén cảnh vật:

"Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,

Nước còn cau mặt với tang thương".

Đá và nước đã được nhân hoá, như hai chứng nhân lịch sử, như thách thức (trơ gan) cùng

năm tháng (tuế nguyệt). Như

đau đớn giận hờn (cau mặt) với sự đổi thay, với dâu bể (tang thương). Nghệ thuật chọn từ,

phối thanh (bằng trắc), phép đối -

được nữ sĩ vận dụng rất điêu luyện. Các triều đại đã nối tiếp hưng phế. K inh thành xưa, đế

đô nghìn năm xưa nay xuống cấp

Page 104: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

trở thành một tỉnh dưới triều Nguyễn. Với nữ sĩ, ông cha đã mấy đời ăn lộc triều Lê, Thăng

Long lại còn chốn cũ quê nhà thì

nỗi đau buồn không thể nào kể xiết. Đá và nước được nói đến trong phần luận chính là nỗi

lòng nhà thơ.

4. Kết

Hai câu kết nói về dòng chảy thời gian và nỗi đoạn trường của Bà Huyện Thanh quan -

nỗi buồn hoài cổ:

"Ngàn năm gương cũ soi kim cổ,

Cảnh đấy người đây luống đoạn trường."

Gương cũ nghĩa bóng là lịch sử, là trang đời. Kim cổ là hiện tại và quá khứ. Chuyện lịch

sử qua hàng năm như soi vào quá

khứ và hiện tại. Nhìn "Cảnh đấy" - cảnh Thăng Long tang thương, cảnh "sóng lớp phế

hưng" mà "người đây" (nữ sĩ) đau đớn

tưởng đứt ruột (luống đoạn trường). Đó là nỗi đau của một con người, cũng là nỗi buồn của

một lớp người khi nhớ về kinh

thành xưa một thời vang son, hoa lệ.

Tổng kết

"Thăng Long thành hoài cổ" được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Bài thơ tả

cảnh ngụ tình. Cảnh thì tang

thương. Tình thì hoài cổ với nỗi đau đoạn trường. Có hồn thu thảo, bóng tịch dương, đá và

nước... như chứng nhân lịch sử,

chia xẻ nỗi đoạn trường với thi nhân.

Thi liệu và từ ngữ chọn lọc tinh tế. Một gam màu nhạt của bóng tịch dương phủ mờ bài

thơ. Âm điệu du dương, réo rắt

như một tiếng than mà ta cảm nhận được. Các từ Hán Việt (chữ in nghiêng) tạo nên cốt cách

trang trọng, cổ kim. Điêu luyện

nhất là phép đối, nghệ thuật phối thanh và nhân hoá. Bài thơ mang vẻ đẹp trang nhã và một

Page 105: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

nỗi buồn hoài cổ thấm thía.

"Thăng Long thành hoài cổ"- bài thơ để ta yêu, để ta nhớ mãi...

Một vài nét về văn học Hi Lạp cổ đại

- Văn học Hi Lạp cổ đại là "mảnh đất nuôi dưỡng" nghệ thuật. Hi Lạp sau này. Nó hình

thành và phát triển trong bảy tám

thế kỷ từ khoảng thế kỷ thứ 9 đến thế kỷ thứ 1 trước Công nguyên.

- Nó gồm có Thần thoại Hi Lạp, sử thi Hi Lạp, bi kịch và hài kịch Hi Lạp.

Là nguồn thơ không bao giờ vơi cạn, văn học Hi Lạp cổ đại đã ca ngợi tự do, công lí dân

chủ, tình yêu, đạo lí, nhân đạo,

đề cao lí tưởng anh hùng, chiến thắng số mệnh... Nó đã xây dựng nên những hình tượng kì

vĩ tráng lệ, huyền diệu và chữ tình

đằm thắm, vô cùng cao cả và đẹp đẽ. Nó mãi mãi là dấu ấn chói ngời của nền văn minh Tây

Âu thuở bình minh nhân loại.

Tác giả Hômerơ

Theo truyền thuyết Hômerơ là nhà thơ mù ở Tiểu Á, vào thế kỷ thứ 9 trước Công nguyên

đi lang thang khắp các thành

bang kể truyện thơ của mình. Ông được coi là tác giả 2 cuốn sử thi Iliat và Ô đixê.

Tác phẩm "Ôđixê"

1. Nguồn gốc đề tài

Iliat là bài ca về thành Iliông (còn gọi là Tơroa) gồm 15.683 câu thơ nói về cuộc chiến

tranh 10 năm ở thành Tơroa.

"Ôđixê" là sự nối tiếp sử thi Iliat gồm 12.110 câu thơ, chia thành 24 khúc ca. Ôđixê kể lại

cuộc hành trình về quê hương của

Uylitxơ sau chiến thắng chiếm đánh thành Tơroa; một hành trình kéo dài 10 năm.

2. Tóm tắt "Ôđixê"

Sau khi chiến thắng ở Tơroa, quân Hi Lạp lần lượt kéo về xứ sở. Uylitxơ cùng đoàn dũng

sĩ của mình vượt qua chặng

Page 106: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

đường dài dằng dặc vô cùng nguy hiểm trên biển cả mênh mông. Đoàn chiến thuyền của

Uylitxơ gặp bão dạt từ đảo này sang

đảo khác, trôi đến bờ biển châu Phi, xứ sở của những người trồng "quả lú", rồi lại trôi đến

phía tây Địa Trung Hải. Chàng

cùng các chiến hữu lọt vào đảo những tên khổng lồ "một mắt" Pôliphem, lần sang mảnh đất

của bọn khổng lồ "to như trái núi",

vào nhà mụ phù thuỷ Xiếc-xê, xuống "thế giới những linh hồn", lách qua eo biển của hai

con quái vật Caripđơ và Xkila trấn

giữ, bước lên đảo thần Mặt trời Hêliôt... Quá đói khát, các bạn đồng hành của Uylitxơ ăn

mất mấy con bò trong đàn bò của

thần nên đã bị thần Dớt gây ra một trận bão lớn để trừng phạt. Sau bao nhiêu tai hoạ dồn

dập, bạn bè của Uylitxơ dần dần

chết hết. Uylitxơ trôi giạt đến đảo của nàng tiên Calipxô xinh đẹp. Nàng tiên mê đắm

Uylitxơ, dâng thần đơn linh dược cho

chàng trở thành bất tử để cùng chàng kết bạn trăm năm. Sau 7 năm trời bị Calipxô lưu giữ,

Uylitxơ mới được thần linh giải

thoát, chàng tiếp tục vượt biển đến ngày thứ 18, thì bạn bè Uylitxơ bị thần Pôêdiđông gây

bão tố đánh chìm để trả thù cho

con trai là gã khổng lồ Pôliphem đã bị chàng chọc mù mắt. Uylitxơ trôi giạt vào vương quốc

Phêaxi, được công chúa Nôdica

cứu giúp, và nhà vua Anxinôôx tiếp đãi ân cần cấp cho thuyền nhẹ bay như cánh chim để

chàng về quê hương. Trong bữa

tiệc tiễn đưa, nghe nghệ nhân hát ca ngợi về chiến công con ngựa gỗ thành Tơroa, Uylitxơ

xúc động rơi lệ. Nhà vua gạn hỏi

mới biết tên tuổi thật của chàng. Nhà vua ngỏ ý muốn chàng thuật lại hành trình từ khi rời

khỏi Tơroa. Nghe chàng kể những

gian truân, nguy hiểm đã qua, nhà vua và triều thần vô cùng cảm động.

Uylitxơ đến Itacơ quê hương sau 20 năm trời chinh chiến. Chàng giả dạng người hành

Page 107: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

khất đến gặp người chăn lợn cũ

Ơmê, sau đó chàng bí mật gặp lại con trai Têlêmac. Hai cha con bàn mưu giết bọn cầu hôn.

Sau 10 năm trì hoãn, cuồi cùng

Pênêlốp, vợ chàng phải ra điều kiện, ai bắn trúng một phát xuyên qua 12 vòng trong của 12

cái rìu thì nàng sẽ lấy người đó.

Uylitxơ vào cung điện của vợ mình trong vai hành khất. Nhũ mẫu Ơriclê theo phong tục đã

rửa chân cho chàng, phát hiện ra

Uylitxơ qua vết sẹo bị lợn lòi húc ở chân. Chàng đã ra hiệu cho Ơriclê giữ bí mật. Cuộc tỉ

thí bắt đầu.108 vị cầu hôn đều thất

bại, chỉ có người hành khất đã bắn xuyên 12 chiếc rìu. Hai cha con Uylitxơ đã trừng trị bọn

cầu hôn và lũ người nhà phản bội.

Nhưng Pênêlốp vẫn không chịu nhận chàng. Chỉ đến lúc Uylitxơ chỉ ra cái dấu riêng của

chiếc chân giường là một cái gốc

cây, Pênêlốp mới chịu nhận ra chồng nàng. Cuộc dàn xếp với thân nhân bọn cầu hôn bị giết

diễn ra những ngày sau đó.

3. Giá trị của tác phẩm

a. Sử thi Ôđixê ca ngợi chí tuệ, dũng khí và nghị lực của con người với khát vọng chinh

phục thế giới chung quanh và niềm

mơ ước về một cuộc sống hoà bình, yên vui, hạnh phúc. Nó còn ca ngợi tình yêu quê hương,

tình vợ chồng, cha con, tình bạn

cao cả, thuỷ chung.

b. Sử thi Ôđixê có cốt truỵên chặt chẽ, hấp dẫn và li kì. Ngôn ngữ tráng lệ. Nhân vật

Uylitxơ là một anh hùng mà trí tuệ,

mưu trí "sánh ngang với thần linh". C hất bi kịch, màu sắc thơ mộng huyền ảo như muôn

ngàn sợi chỉ màu óng ánh dệt nên sử

thi này, thể hiện một vẻ đẹp riêng không thể nào bắt chước nổi.

Page 108: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Xuất xứ

Sau 20 năm trời chinh chiến, Uylitxơ mới về đến quê hương. Hai cha con đã lập mưu giết

chết 108 vị cầu hôn. Pênêlốp vẫn

không tin chồng mình trở về. Đoạn này trích khúc 23 - "Ôđixê", nói lên quá trình Pênêlốp

nhận ra Uylitxơ chồng nàng. Hai

người vô cùng cảm động.

Phân tích

1. Pênêlốp

Là một người vợ thuỷ chung, kiên trinh đợi chờ chồng suốt 20 năm trời khi chồng đi

chinh chiến. Nàng đã tìm đủ mọi cách

để trì hoãn (chuyện dệt bức thảm, chuyện nêu điều kiện bắn xuyên 12 vòng tròn trên 12 lưỡi

rìu) để khước từ bọn cầu hôn.

- Gặp lại Uylitxơ tại cung điện của mình sau sự kiện "người hành khất" đã bắn xuyên 12

lưỡi rìu và giết chết 108 vị cầu hôn.

Nói với nhũ mẫu, nàng thận trọng cho rằng người vừa bắn xuyên 12 lỗ rìu là "một vị thần"

còn "Uylitxơ đã chết rồi". N hũ mẫu

nói về "cái sẹo" do lợn lòi húc ở chân Uylitxơ thì nàng vẫn thận trọng cho đó là "ý định

huyền bí của thần linh bất tử".

Sau khi xuống lầu, Pênêlốp băn khoăn "không biết nên đứng xa xa hỏi chuyện...." hay

nên lại gần, ôm lấy đầu, cầm lấy tay

người mà hôn, khi thì nàng lại "đăm đăm nhìn chồng", khi lại không nhận ra chồng dưới bộ

quần áo rách mướt.

- Khi bị con trai trách mẹ là "tàn nhẫn", "độc ác quá chừng", "lòng dạ mẹ rắn hơn cả đá"

thì Pênêlốp "kinh ngạc quá chừng"

và tin rằng, nàng và Uylitxơ sẽ nhận ra nhau qua "những dấu hiệu riêng" chỉ có hai người

biết còn người ngoài không ai biết

hết. Thật là thận trọng, thông minh và giàu niềm tin.

Page 109: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

- Uylitxơ trách "nàng thật là người kì lạ", các thần đã ban cho nàng "một trái tim sắt

đá"... Lúc bấy giờ Uylitxơ vừa tắm và

thay quần áo xong "đẹp như một vị thần". Nàng ra lệnh cho nhũ mẫu "K hiêng giường ra

khỏi gian phòng vách tường kiên cố...

"để thử chồng"... K hi nghe Uylitxơ nói lên chân giường là một gốc cây cảm lảm không thể

nào di chuyển được thì Pênêlốp

"bủn rủn cả chân tay",... "chạy ngay lại, nước mắt chan hoà, ôm lấy cổ chồng, hôn lên trán

chồng". Hai mươi năm ấy biết bao

nhiêu tình! Pênêlốp nhìn chàng không chán mắt và hai tay trắng muốt của nàng cứ ôm lấy

cổ chồng không lỡ buông rời".

Tóm lại, Pênêlốp là một người vợ thuỷ chung rất thận trọng như nàng nói "vì đời chẳng

thiếu gì người xảo quyệt, chỉ làm

điều tai ác". Pênêlốp rất thông minh, kín đáo và bình tĩnh làm chủ cảnh ngộ. Nàng là một

phụ nữ, một người vợ rất giàu tình

cảm khi nhận ra Uylitxơ đích thực là chồng mình.

2. Uylitxơ

- Với kì mưu "con người gỗ thành Tơroa" chàng là một người trần mà mưu trí "sánh

ngang thần linh". M ười năm trời lênh

đênh biển cả, trải qua bao gian nguy, Uylitxơ là hiện thân của lòng dũng cảm, mưu trí và có

nghị lực phi thường.

- Là một con người giàu lòng yêu quê hương, gia đình, vợ con.

- Lập mưu giết bọn cầu hôn chứng tỏ "cha vẫn là người nổi tiếng khôn ngoan, không một

kẻ phàm trần nào sánh kịp" như

Têlêmác đã nói.

- Bình tĩnh, rất giàu tình cảm. Sự thật vốn không ưa trang trí, hãy kiên nhẫn đợi chờ để sự

thật nói lên sự thật! Uylitxơ để

cho "cái chân giường nói lên sự thật". Và khi Pênêlốp nhận ra chàng đích thực là chồng

nàng thì Uylitxơ "ôm lấy vợ xiết bao

Page 110: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

thân yêu, người bạn đời chung thuỷ của mình, mà khóc dầm dề".

Uylitxơ là hình ảnh lý tưởng về người anh hùng, về một người chồng, một người cha

dũng cảm, mưu trí, độ lượng, thuỷ

chung.

3. Nét đặc sắc nghệ thuật

- Tạo ra nhiều tình huống hấp dẫn, cảm động.

- Cử chỉ, ngôn ngữ, tâm lí nhân vật được miêu tả sâu sắc làm nổi bật những tính cách với

bao cá tính đầy ấn tượng.

Một vài nét về sử thi Ấn Độ

- Thần thoại Vêđa tiếp theo là sử thi tạo nên nền tảng vĩ đại của nền văn học cổ đại Ấn

Độ hình thành hơn 1.000 năm

trước công nguyên.

- Nền văn minh sông Hằng và cuộc chiến tranh giữa các vương quốc trên nước Ấn Độ cổ

đại là điều kiện cho các bộ sử

thi ra đời.

- Sử thi Ấn Độ là bức tranh hiện thực rộng lớn của xã hội Ấn Độ xa xưa, là bài ca vĩ đại

ca ngợi chiến công và khí phách

của những anh hùng thần thoại, mẫu người lí tưởng cao cả và thiêng liêng.

- Sử thi Ấn Độ vô cùng tráng lệ, hùng kiện, là bầu vú sữa luôn nuôi dưỡng nghệ thuật

(múa, kiến trúc...) Ấn Độ phát triển

độc đáo, rực rỡ.

Ramayana Mahabharata, Krixna-Rađa... là những bộ sử thi vô cùng đồ sộ của Ấn Độ

làm thế giới kinh ngạc.

Sử thi Ramayana

1. Nguồn gốc và ảnh hưởng

- Ramayana bắt nguồn từ truyền thuyết về hoàng tử Rama, được lưu truyền trong dân

gian mấy ngàn năm về trước.

Page 111: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

- Vào khoảng thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên, Vanmiki- một đạo sĩ Bà Lamôn đã ghi lại

bằng văn vần.

Sử thi Ramayana có độ dài 24.000 câu đôi chia ra thành 7 khúc ca. Nó có ảnh hưởng sâu

sắc nhất tới ca múa (vũ điệu

Xita) kiến trúc, hội hoạ... trong việc khơi ngợi đề tài và nguồn cảm hứng.

2. Tóm tắt

- Khúc ca I: dòng dõi và tuổi trẻ của hoàng tử Rama.

- Khúc ca II: 13 năm lưu đầy trong rừng sâu.

- Khúc ca III: nàng Xita bị quỷ vương Ravana bắt mất đưa về đảo Lanka.

- Khúc ca IV: Rama tiêu điều vua khỉ Valin giành lại ngôi báu cho vua khỉ Xugriva.

Cuộc liên minh thần thánh.

- Khúc ca V: tướng khỉ Hanuman do thám đến đảo Lanka.

- Khúc ca VI: Cuộc chiến đấu dữ dội, ác liệt giữa Rama và Ravana. Ravana bị tiêu diệt.

Nàng Xita được cứu thoát.

- Khúc ca VII: Rama nổi cơn ghen.Xita nhảy vào dàn lửa. Thần Anhi soi sáng lòng kiên

trinh thuỷ chung cho nàng. Rama

cùng vợ là Xita trở về quốc vương Kôsala lên ngôi vua.

3. Giá trị tác phẩm

a. Về mặt nội dung, sử thi Ramayana:

- Là bức tranh rộng lớn về xã hội Ấn Độ cổ đại.

- Ca ngợi chiến công và đạo đức của người anh hùng.

- Biểu dương tấm lòng thuỷ chung, kiên trinh son sắt của người phụ nữ.

b. Về mặt nghệ thuật Ramayana:

- Bút pháp miêu tả thiên nhiên và tâm trạng nhân vật tài tình tạo nên màu sắc trần thế và

thần linh hoà quỵên.

- Kể chuyện bi hùng, đậm đà màu sắc thần thoại kì diệu.

Page 112: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

- Rama và Xita là 2 hình tượng điển hình chói sáng nhất, hấp dẫn nhất.

- Quy mô kì vĩ, hoành tráng mang tầm vóc vũ trụ.

Xuất xứ và ý nghĩa

Đoạn kể "Rama buộc tội" trích trong ca khúc thứ 6, chương 79 sử thi Ramayana.

- 78 chương trước kể lại dòng dõi, cuộc đời của Rama, hơn 13 năm đi đày và cuộc chiến

đánh thắng quỷ vương Ravana

để cứu nàng Xita xinh đẹp. Lúc giải phóng đảo Lanka, Rama cùng đoàn quân ca khúc khải

hoàn thì hạn đi đày 14 năm gần

kết thúc. Bỗng Rama nổi cơn ghen tuông dữ dội. Chương 79, Rama dùng những lời nặng

nề, gay gắt buộc tội Xita, nghi ngờ

nàng về sự trong trắng thuỷ chung. Xita bước vào giàn lửa thần Anhi đã minh chứng cho

nàng... Rama hồi hận, cảm động, tự

hào đón lấy nàng. Hạn đi đày 14 năm cũng kết thúc. Rama chia tay các chiến hữu, chàng

cùng em trai và vợ dùng chiếc thiên

xa bay về kinh đô Kôsala...

- Chương 79 khắc hoạ thêm một nét đẹp về con người Thiện của đẳng cấp Kơxatrya

(vương công, quý tộc, võ sĩ) và đức

tính trung hậu, đoan trang của người phụ nữ cao quý.

Phân tích

1. Rama ghen tuông - nổi giận

- Khi Xita đã khiêm nhường đứng trước Rama, chàng nói với nàng một cách mỉa mai:

"Hỡi phu nhân cao quý". Quan hệ

vợ chồng hầu như không còn nữa.

- Cuộc giao tranh đã kết thúc, theo Rama đó là nghĩa vụ và tài năng đã hoàn thành: "ta đã

gỡ cho nàng khỏi điều vu

khống nghĩa là nàng đã bị Ravana bắt cóc chứ không phải đi theo hắn; "cơn giận ta đã hả, ta

đã trả thù kẻ năng nhục ta".

Page 113: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Rama đã sống vì một nguyên lí đạo đức của đẳng cấp Kơxatrya của mình: "K ẻ nào bị quân

thù lăng nhục mà không đem tài

nghệ của riêng mình ra để trả thù, kẻ đó là một gã tầm thường". Rama cũng dành những lời

nói tốt đẹp nhất để ca ngợi

Hanuman và Viphisana - hai chiến hữu tài ba, cao cả của mình.

Trước nhan sắc của Xita: "khuôn mặt bông sen", "những cuộn tóc cuộn sóng" và những

giọt lệ của nàng, lòng Rama "đau

như dao cắt", nghĩa là chàng vẫn say đắm Xita. Nhưng danh dự là trên hết, là tất cả, bởi lẽ

người anh hùng "sợ tai tiếng".

Phải kết thúc chiến tranh là vì nhân phẩm, là để "xoá bỏ vết ô nhục vì uy tín và danh dự của

dòng họ lừng lẫy tiếng tăm của

mình".

Rama không thể "nhận nàng về", "không ưng có nàng nữa" vì "nàng đã lưu lại tại nhà một

kẻ xa lạ", vì Ravana với "đôi mắt tội

lỗi... hau háu nhìn khắp người nàng", nghĩa là nàng đã thất thân với hắn, cho nên Rama phải

nghĩ tới "gia đình cao quý" đã

sinh ra mình.

Tóm lại, Rama vẫn còn yêu Xita xinh đẹp, nhưng vì danh dự, nhân phẩm của người anh

hùng, của dòng họ cao quý mà

chẳng phải buộc tội Xita, chấm dứt quan hệ vợ chồng với nàng: "Vậy ta nói cho nàng hay,

nàng muốn đi đâu tuỳ nàng, ta

không ưng có nàng nữa" Rama cảm thấy xấu hổ bị xúc phạm khi trông thấy Xita thì

"không chịu nổi", "chẳng khác ánh sáng

đối với người bị đau mắt". Rama ghen tuông, buộc tội không phải vì mù quáng mà trái lại,

ghen tuông và buộc tội vì nhân

phẩm, danh dự, một nét tính cách của con người Thiện của đẳng cấp Kơxatrya cao quý.

2. Nàng Xita

Page 114: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Xita được miêu tả trong chiều sâu của bi kịch về tình yêu và danh dự.

Nàng đau khổ vì bị oan, bị xúc phạm. Nàng "đau đớn đến nghẹn thở". Nàng "xấu hổ cho

số kiếp của nàng", nàng muốn

chết ngay "muốn tự chôn vùi cả cái hình hài của mình". Nàng vô cùng đau đớn trước những

lời buộc tội của Rama, nàng cảm

thấy như muôn nghìn mũi tên "xuyên vào trái tim nàng". Nàng khóc "nước mắt nàng đổ ra

như suối"- buộc tội Rama. Nàng

khẳng định: "trái tim thiếp đây thuộc về chàng". Chàng chưa hiểu được thiếp qua tình yêu

và tâm hồn thiếp. Tại sao khi

Hanuman trinh sát tới đảo Lanka, chàng không nhắn nhủ lời "tử bỏ thiếp để thiếp sớm tự kết

liễu đời mình". N ếu chàng tự hào

dòng dõi cao quý thì thiếp có kém gì: "Đất là mẹ của thiếp". Nếu Rama mỉa mai, gọi Xita là

"Hỡi phu nhân cao quý" thì Xita

cũng đàng hoàng đáp lại "Hỡi đức vua" (và trách) "cớ sao hồi còn thanh niên chàng đã cưới

thiếp?".

- Xita nhảy vào giàn hoả thiêu là một cảnh vô cùng bi tráng. Ai đã từng mục kích điệu

múa "Nàng Xita"? Rama "khủng

khiếp như Thần Chết". Các thánh thần thì tự hào nhìn Xita nhảy vào lửa "chẳng khác nào

một đồ cúng trong lễ tế

sinh". Đông đảo phụ nữ thì "kêu khóc thảm thương". Loài ma quỷ như Vanara, Raksaxa

cũng "kêu khóc váng trời".

- Hình ảnh Xita đàng hoàng tự tin. N àng "lượn quanh" Rama như để chào vĩnh biệt.

Nàng lạy chư thần cao quý thiêng

liêng. Nàng cất lời nguyền với Thần Anhi: khẳng định mình bị oan, một phụ nữ trinh tiết bị

coi như một kẻ gian dối; tự hào về

lòng trong trắng thuỷ chung trong tình yêu cúi xin thần "bảo vệ con", "phù hộ cho con".

Ta hãy nghe lời cấu nguyện của nàng Xita:

"Nếu con trước sau một lòng một dạ với Rama thì cúi xin Thần hãy tìm hết cách bảo vệ

Page 115: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

con. Rama đã coi một người phụ

nữ trinh tiết như một kẻ gian dối: nhưng nếu con trong trắng, xin Thần Anhi phù hộ cho

con."

Đọc "sử thi Ramayana" như ta biết, ngọn lửa sáng rực như mặt trời, nàng Xita lộng lẫy

kiều diễm trong ngọn lửa. Thần lửa

Anhi đã chứng minh và cứu sống nàng. Rama dang đôi tay đón Xita, nước mắt chan hoà

sung sướng vừa ân hận, vừa tự hào.

3. Một cài nhìn khái quát về sử thi đã học

- Đan Săn, Uylitxơ và Rama mang dòng máu cao quý thần linh. Đan Săn gọi Trời bằng

cậu, lên gặp Trời được bước qua

một cái thang bằng vàng. Uylitxơ thuộc dòng dõi thần linh, có mưu trí "sánh ngang thần

linh". Rama là một hoàng tử mang sức

mạnh thiên thần.

- Chiến công của 3 anh hùng đều mang tầm vóc vũ trụ, có thần linh che chở và trợ giúp

để chiến thắng. Tình yêu, tình bạn,

tình cộng đồng... đẹp đẽ thuỷ chung...

- Qui mô có khác, "Đam Săn" là chuyện hát nhiều đem. "Ôđixê" là chuyện kể nhiều

tháng, còn "Ramayana" là một cuốn

sách "triết lí trường cửu" đọc và kể trong nhiều năm ròng...

Thành tựu và nguyên nhân phát triển

1. Thành tựu

Thơ Đường là một trong những thành tựu rực rỡ về thi ca của nền văn học Trung Quốc,

là một trong những thành tựu chói

lọi của nền văn minh nhân loại. Thơ Đường hiện còn khoảng 48000 bài trên 2300 thi sĩ,

trong đó có Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch

Cư Dị và hàng trăm tên tuổi khác đã bất tử với thời gian, được người đời ngưỡng mộ.

2. Nguyên nhân phát triển

Page 116: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

- Triều đại nhà Đường kéo dài ngót 300 năm (618-907), tuy có luc thăng trầm, nhưng xã

hội Trung Quốc và chế độ phong

kiến Trung Hoa phát triển mạnh. Đời sống vật chất và tinh thần thay đổi lớn lao.

- Kinh tế nông nghiệp, thủ công nghiệp, hàng hải, thương nghiệp mở mang, phát triển.

Nghệ thuật như kiến trúc, hội hoạ,

âm nhạc đạt đến trình độ cao, chói sáng.

Chế độ thi cử chọn người làm quan, kẻ sĩ được đề cao, việc học thịnh đạt. Các tao nhân

mặc khách được trọng vọng.

- Đó là những nguyên nhân tạo nên bước phát triển kỳ diệu của thơ Đường.

Một số đặc điểm về nội dung và hình thức nghệ thuật thơ Đường

1. Nội dung

- Cảm hứng thiên nhiên trữ tình: ca ngợi phong cảnh hùng vĩ tráng lệ, miêu tả vẻ đẹp bốn

mùa, với hoa lá cây cỏ, trăng,

tuyết gió mây.... thể hiện tình yêu thiên nhiên tạo vật, yêu quê hương đất nước (Lư Sơn bộc

bố, Tuyệt cú...)

- Cảm hứng nhân đạo: nói lên nỗi khổ của nhân dân vì cơ hàn, vì chiến tranh loạn lạc,

lòng khao khát hạnh phúc, hoà

bình, ca ngợi tình vợ chồng, tình bạn (Thạch Hào lại, Nguyệt dạ, Hoàng Hạc lâu Tống

Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng...)

- Có những vần thơ siêu thoát ca ngợi cuộc sống ẩn dật ở chốn điền viên, lâm tuyền. Có

những vần thơ nói về sinh hoạt

thôn dã, đồng nội; thú vui cầm, kỳ, thi tửu của mặc khách tao nhân. Tài tử giai nhân là một

đề tài có nhiều tuyệt bút. Nội

dung thơ Đường rất phong phú và đa dạng, là một bức tranh rộng lớn xã hội Trung Quốc

thời Đường trong 300 năm.

2. Nghệ thuật

a. Thể thơ: từ, cổ phong, Đường luật.

Page 117: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

b. Luật thơ:

- Vần thơ (vần chân và vần cách, vần trắc và vần bằng).

- Bằng, trắc.

- Niêm (dính).

- Đối.

- Cấu trúc bài thơ rất chặt chẽ, nhất là Đường luật.

+ Thơ tứ tuyệt: khai, thừa, chuyển, hợp.

+ Thơ bát cú: đề, thực, luận, kết.

c. Ngôn ngữ thơ: tinh luyện, hàm xúc, Thi trung hữu hoạ. Thi trung hữu cầm. Coi trọng

lời thơ: thanh, nhã (trong sáng,

trang nhã...) ước lệ tượng trưng....

d. Tứ thơ: phong phú, đa dạng, biến hoá, khơi gợi...

Tóm lại, làm thơ Đường phải giỏi, phải có tay nghề cao và giàu tâm hồn thi sĩ . Học và

cảm thụ thơ Đường phải hiểu đặc

điểm nội dung và nghệ thuật thơ Đường.

Hoàng hạc lâu tống mạnh hạo nhiên chi quảng lăng

Lý Bạch

Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu,

Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu

Cô phàm viễn ảnh bích không tận.

Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu.

Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng.

Bạn từ lầu Hạc lên đường,

Giữa mùa hoa khói, châu Dương xuôi dòng...

Bóng buồm đã khuất bầu không,

Page 118: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời.

Ngô Tất Tố dịch

Tác giả và chủ đề

Lý Bạch (701-762) là một trong ba nhà thơ cự phách đời Đường. Ông được người đời ca

ngợi là "Thi tiên", để lại hơn một

nghìn bài thơ tuyệt tác. Là một kiếm khách - thi sĩ, ông coi thường danh lợi, thích ngao du

sơn thuỷ, cầu tiên phỏng đạo.

Trăng, rượu, hoa, cảnh núi sông tráng lệ, tình bằng hữu, tình quê hương lòng khao khát tự

do... chứa chan trong những vần

thơ lãng mạn tràn đầy hùng tâm tráng chí. Ông có làm quan khoảng 3 năm ở kinh đô Tràng

An nhưng đã vứt bỏ áo mũ, với

thanh gươm túi thơ lại lên đường... "Vọng Lư Sơn bộc bố", "Hành lộ nan", "Tĩnh dạ tư",

"Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo

Nhiên chi Quảng Lăng", "Tảo phát Bạch Đế thành"... là những bài thơ nổi tiếng của "Thi

tiên" cho thấy một hồn thơ tuyệt đẹp.

Chủ đề

Bài thơ "Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng" ghi lại một kỷ niệm sâu

sắc tại lầu Hoàng Hạc, Lí Bạch

tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi về Quảng Lăng, qua đó nói lên tình lưu luyến, thương nhớ bạn.

hân tích

1. Cách đưa tiễn

Nơi Lý Bạch đưa tiễn bạn lên đường đi xa về phía tây là lầu Hoàng Hạc, một thắng cảnh

thuộc Vũ Xương, tỉnh Hồ Bắc.

Lầu Hoàng Hạc gắn liền với huyền thoại Phí Văn Vi đắc đạo thành tiên, thường cưỡi hạc

vàng bay về đây. Bạn là Mạnh Hạo

Nhiên (689-740) một nhà thơ nổi tiếng, bạn vong niên của Lý Bạch; một kẻ sĩ hào hiệp hào

hoa, phóng khoáng, ưa ngao du,

Page 119: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

rất tâm đầu ý hợp với Lý Bạch. Hai chữ "Cố nhân" (bạn cũ, người xưa) trong câu đầu nói

lên mối quan hệ sâu sắc, lâu bền về

tình bạn đẹp giữa hai nhà thơ. Đó là bạn tao nhân mặc khách:

"Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu"

(Bạn từ lầu Hoàng Hạc lên đường)

Câu thơ dịch rất hay và thanh thoát, nhưng chữ "tây" chưa dịch được để nói lên hướng đi

của bạn. Chữ "bạn" chưa lột tả

hết ý và cảm xúc của từ "cố nhân". Trong thơ cổ, mỗi lần từ "cố nhân" xuất hiện, gợi tả bao

tình nghĩa làm rung động hồn

người:

"Dạng chu tầm thuỷ tiện

Nhân phỏng cố nhân cư"

(Mạnh Hạo Nhiên)

(Thuật dòng đủng đỉnh thuyền bơi

Cố nhân gần đó, qua chơi thăm nhà)

- "Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân"

(câu 2330- "Truyện Kiều")

Câu hai phát triển và hoàn thiện câu thơ thứ nhất, nói rõ thời gian bạn lên đường và nơi

bạn sẽ đến. Mạnh Hạo Nhiên lên

đường vào một ngày tháng ba (tam nguyệt) mùa hoa khói (yên hoa), xuôi về nơi phồn hoa

đô hội, Dương Châu - một trong

những đô thị đẹp nổi tiếng thời Đường:

"Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu"

(Giữa mùa hoa khói Châu Dương xuôi dòng )

Chữ "há" có bản phiên âm là "hạ", được Ngô Tất Tố dịch thành "xuôi dòng", thật là sáng

tạo. "Yên hoa" là một thi liệu, một

Page 120: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

ẩn dụ giàu chất thơ mà ta gặp nhiều trong Đường thi. Câu thơ không chỉ xác định thời gian

và không gian đi, đến mà còn diễn

tả nỗi niềm của kẻ ở người đi. Lầu Hoàng Hạc và Dương Châu cách xa hàng nghìn dặm như

hiện lên qua vần thơ. Đằng sau

hai địa danh mà nhà thơ nói đến là cả một nỗi niềm, một không gian trống vắng vô bờ, một

trời thương nhớ biệt ly của đôi bạn

tri âm. Có một bản dịch khác đọc lên nghe rất thú vị:

"Bạn từ lầu Hạc ra đi

Dương Châu Hoa khói giữa kỳ tháng ba"

(Nhữ Thành)

Có thể nói trong hai câu "Khai thừa", yếu tố tự sự chỉ là bề nổi của câu chữ: nỗi niềm của

một tâm sự thầm kín mới là tầng

sâu hàm ẩn. Nơi "thi hội tao nhân" cũng là nơi ly biệt, đó là Hoàng Hạc Lâu. Lý Bạch đứng

trên lầu cao hay trên một cao

điểm nào đó trên bến sông, dõi theo chiếc thuyền đưa Mạnh Hạo Nhiên đến chân trời xa?

Cấu trúc không gian hai điểm mút

"cận - viễn" là một thủ pháp trong hội hoạ, ta thường bắt gặp trong Đường thi, trong các bức

hoạ cổ Trung Hoa. Lý Bạch đã

vận dụng thành công thủ pháp ấy tạo nên điểm nối giữa câu 1, 2 với câu 3, 4 thành một

chỉnh thể nghệ thuật hoàn hảo.

2. Tình lưu luyến mến thương

Hai câu cuối là linh hồn của bài thơ, giãi bày những tình cảm sâu sắc, đẹp đẽ, cảm động

của Lý Bạch đối với Mạnh Hạo

Nhiên. ẩn hiện sau ba hình ảnh được miêu tả trực tiếp: dòng sông, cánh buồm, bầu trời là

hình ảnh của Lý Bạch đứng mãi nhìn

hoài con thuyền đưa bạn cũ đi xa...

Cánh buồm đơn côi, lẻ loi (cô phàm) xa dần, mờ dần (viễn ảnh) rồi mất hút vào trời xanh,

Page 121: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

vào cuối chân trời xa (bích

không tận). Hay tầm lòng "Thi tiên" với bao ái ngại, lưu luyến, nhớ thương... như những

con sóng gối lên nhau, đưa tiễn

con thuyền của bạn, mất hút dần, mờ dần trên dòng sông Trường Giang?

"Con sông sẽ trở nên rộng bao la khi cái hữu hạn của nó đồng nhất với cái vô hạn của

bầu trời. Chiếc thuyền buồm lẻ loi

chở Mạnh Hạo Nhiên đã tan biến trong dòng sông bao la đó mang đi tình bạn của Lý Bạch.

Dòng sông càng rộng, chiếc

thuyền buồm càng nhỏ mất hút vào khoảng không gian vô tận. Rõ ràng, sau khi tiễn bạn lên

đường, Lí Bạch dừng lại khá lâu

dõi mắt nhìn theo chiếc thuyền buồm lẻ loi đến tận chân trời xa tít. Lí Bạch mượn cái khung

cảnh thiên nhiên sau buổi tiễn đưa

để nói lên tình cảm nhớ bạn da diết....

Lí Bạch tả về cái buồn của sự li b iệt, nhưng vẫn giữ được phong cách phóng khoáng khi

ông miêu tả cái hùng vĩ của thiên

nhiên". (Trần Xuân Đề)

"Cô phàm viễn ảnh bích không tận

Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu"

(Bóng buồm đã khuất bầu không

Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời).

Cái tiêu điểm đầy ám ảnh của bài thơ là "cô phàm viễn ảnh". Cái tâm cảnh của Lí Bạch

được diễn tả bằng hai chữ "duy

kiến" - chỉ nhìn thấy. Ta đã biết Lí Bạch sống trong thời Thịnh Đường. Lúc bấy giờ kinh tế

phát triển mạnh, thương nghiệp mở

mang, nhiều đô thị sầm uất mọc lên: Tràng An, Dương Châu, Thành Đô v..v... Trên con

sông Trường Giang suốt đêm ngày

thuyền bè ngược xuôi như mắc cửi. Thế mà trong muôn ngàn cánh buồm ở trên sông, Lý

Page 122: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Bạch "duy kiến" chiếc "cô phàm"

của bạn, nhìn mãi cho đến lúc nó mất hút trong "bầu trời xanh biết". Chỉ sống với một tình

bạn tri âm, thắm thiết thì mới có cái

nhìn "duy kiến" ấy.

Mặc dầu chưa dịch được hai chữ "cô" (cô phàm), "bích" (bích không tận) nhưng Ngô Tất

Tố đã lột tả được "điệu Đường",

"hồn Đường" của nguyên tác, đọc lên rất thấm thía về nỗi buồn thương, lưu luyến bạn của

nhà thơ Lý bạch.

Tổng kết

1. Bài thơ "Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng" là một trong những

tuyệt tác về thơ thất ngôn tứ

tuỵêt của Lý Bạch. Vừa cụ thể vừa phổ quát cho muôn đời về nỗi buồn tống biệt và ức hữu.

Cấu trúc không gian xa - gần

(cận - viễn), lấy ngoại cảnh để biểu hiện nội tâm, ngôn ngữ, trang nhã, gợi cảm, hàm súc...

đó là những yếu tố nghệ thuật tạo

nên vẻ đẹp văn chương và cốt cách của bài thơ này.

2. Bài thơ đã phản ánh một tâm hồn đẹp, một tình bạn đẹp của Lý Bạch, cũng là của

những tao nhân mặc khách đời

Đường.

3. Ngô Tất Tố dịch giả bài thơ này đã tấm tắc khen: "Tất cả có 28 chữ, đủ cả chỗ ở, nơi

đi, ngày đi, cảnh đi và tấm

lòng quyến luyến bè bạn. Thật là kiệt tác".

Thu hứng

Đỗ Phủ

Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,

Vu Sơn, Vu Giáp, khí tiêu sâm.

Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,

Page 123: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Tái thượng phong vân tiếp địa âm

Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,

Cô chu nhất hệ cố viên tâm.

Hàn y xứ xứ thôi đao xích,

Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.

Cảm xúc mùa thu

Lác đác rừng phong hạt móc sa,

Ngàn non hiu hắt, khí thu loà.

Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm,

Mặt đất mây đùn cửa ải xa.

Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,

Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.

Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,

Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.

Nguyễn Công Trứ dịch

Tác giả và "tung hứng"

1. "Giáo sư Phan Ngọc đã viết một công trình trên một nghìn trang sách với nhan đề "Đỗ

Phủ nhà thơ dân đen". "Đỗ Phủ

(712-770) là nhà thơ hiện thực lớn nhất đời Đường, được ngợi ca là "Thi thánh" để lại

khoảng 1400 bài thơ mang phong cách

nghệ thuật độc đáo.

Thi hào dân tộc Nguyễn Du rất ngưỡng mộ Đỗ Phủ:

"Thiên cổ văn chương, thiên cổ sư

Bình sinh bội phục vị thường li"

(Mộ Đỗ Thiếu Lăng ở Lỗi Dương)

Page 124: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Câu thơ trên nghĩa là: Văn chương lưu truyền muôn đời, là bậc thầy muôn đời. Bình sinh

ta khâm phục, chưa từng xa rời

ông. Qua đó ta thấy Đỗ Phủ vô cùng vĩ đại.

2. Thơ Đường cũng như thơ Đỗ Phủ nói về đề tài mùa thu vừa nhiều vừa hay. Bài thơ

"Thu hứng" này nằm trong

chùm thơ 8 bài. Bản dịch của Nguyễn Công Trứ đã được lưu truyền gần hai thế kỷ nay,

được xem là một bản dịch xuất sắc.

3. Bố cục bài thơ

- 4 câu đầu: Cảnh thu.

- 4 câu sau: Tình thu (nỗi lòng nhà thơ).

4. Chủ thể

Nỗi lòng của thi nhân - kẻ tha hương trước cảnh sắc trời thu.

Phân tích

1. Cảnh thu

"Ngọc lộ" móc ngọc, hình ảnh ẩn dụ nói về hạt móc long lanh như hạt ngọc. "Ngọc lộ"

đã làm héo hon, điêu tàn cả một

rừng phong bao la. Hình ảnh rừng phong gợi lên một vẻ thu, một sắc thu tiêu điều, buồn bã.

Rừng phong là một biểu tượng

của mùa thu phương Bắc, là một thi liệu được nói đến nhiều trong thơ cổ, tuy mang tính ước

lệ, nhưng rất gợi cảm thi vị:

"Mãn mục giai tình sắc"

(Tương âm dạ)

(Đâu đâu mắt cũng thấy sắc thu)

- " Thu mãn phong lâm sương diệp hồng"

(Nhiếp khẩu đạo trung)

(Giữa thu sương xuống trên rùng phong là đỏ)

Page 125: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

- Rừng thu từng biếc chen hồng"

(Câu 1520- Truyện Kiều)

Núi Vu, kẽm Vu ở Quỳ Châu mịt mờ khí thu (khí tiêu sâm). Cũng là một nét thu hiu hắt

buồn.

Hai câu đầu, hình ảnh ẩn dụ và nhân hoá với 2 cặp từ gợi tả (điêu thương, tiêu sâm). Đỗ

Phủ đã làm hiện lên một không

gian núi rừng mang một màu sắc buồn thương tàn tạ, hiu hắt. nguyễn Công Trứ đã thay vu

Sơn, Vu Giáp bằng 2 chữ "ngàn

non" cũng là một sự sáng tạo:

"Lác đác rừng phong hạt móc sa,

Ngàn non hiu hắt, khí thu loà"

"Kẽm" là khoảng không gian giữa 2 vách núi kề nhau. "Từ điển phổ thông tiếng Việt Văn

Tân chủ biên giải thích: "K ẽm là

khe núi có sườn dốc đi được". Sách văn 10 giáo viên có gợi ý: "C âu thứ 3 tả riêng cảnh

kẽm Vu, và câu thứ tư tả riêng cảnh

núi vu. Căn cứ vào chữ "kẽm" như đã trình bày, chúng tôi không nghĩ phần "thực" bài thơ

"Thu hứng" này là như thế.

- Câu 3, 4 vẽ tiếp cảnh thu bằng hai hình ảnh vừa dữ dội vừa hoành tráng: Trên dòng

sông thu, những đợt sóng cuồn cuộn

vọt lên, vỗ lên tận lưng trời. Khắp cửa ải, mây từng lớp từng lớp đùn lên, sa sầm giáp mặt

đất. Hình tượng thơ kỳ vĩ, sóng và

mây đối nhau, cái hướng về trời cao, cái sa xuống đất để lại nhiều ấn tượng mạnh mẽ. Một

bức tranh thu nói về dòng sông và

con sóng, về cửa ải và mây, mang tầm vóc vũ trụ, hoành tráng.

"Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,

Tái thương phong vân tiếp địa âm"

(Lưng trời sóng rợn, lòng sông thẳm,

Page 126: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Mặt đất mây đùn cửa ải ra).

Hai câu thơ này đã thể hiện sâu sắc những nét cơ bản trong phong cách thơ Đỗ Phủ ở giai

đoạn cuối đời: "trầm uất và bi

tráng".

Tóm lại, phần đầu bài thơ, cảnh thu từ rừng phong đến Vu Sơn, Vu Giáp, từ dòng sông

sóng vỗ, đến cửa ải mây đùn - tất

cả đã gợi lên nỗi niềm, bao cảm xúc đối với kẻ tha hương.

2. Nỗi lòng thi nhân

Như ta đã biết, năm 759, Đỗ Phủ từ đời quan, dời nhà đến Tân Châu. Ông phải trải qua 7

năm trời lưu lạc (759-766).

Chùm "Thu hứng" 8 bài được viết vào mùa thu năm 766, tại Quỳ Châu. Ngày thu đến, đối

cảnh sinh tình, vừa thương đời,

vừa thương vợ con, thương mình gian truân, chìm nổi. Phần 2 bài "Thu hứng" này là nỗi

lòng u ẩn của tác giả.

Cúc, dòng lệ, con thuyền lẻ loi (cô chu), vườn cũ, dao thước, tiếng chày đập vải vừa mang

tính hiện thực, vừa mang màu sắc

ước lệ tượng trưng, rất giàu chất chữ tình. Mùa thu trước, Đỗ Phủ ở Vân An, màu thu này,

ông ở Quỳ Châu. Hai mùa thu trôi

qua, hai lần nhìn hoa cúc nở, cả hai đều rơi nước mắt: "Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ". Đã

bao lần nhà thơ gửi gắm hi vọng

được về quê bằng một chiếc thuyền, những chiếc thuyền vẫn bị buộc chặt ở bến sông, nơi

đất khách quê người: "Cô chu nhật

hệ cố viên tâm". Nói về nỗi nhớ quê nhà, nỗi buồn li hương thì đó là hai câu thơ tuyệt cú.

Lời thơ đẫm lệ:

"Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ

Con thuyền buộc chặt mối tình nhà"

Trời thu phương Bắc càng về chiều càng rét, nhất là những người luống tuổi, đang ốm

Page 127: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

đau và phải sống xa quê như Đỗ Phủ

những năm cuối đời. Nghĩ đến chuyện may áo rét mà lòng thêm sầu thương. Hai chữ "dao

thước" (đao xích) trong câu 7 tả ít

mà gợi nhiều. Lúc hoàng hôn nơi thành cao Bạch Dế, tiếng chày đập vả dồn dập vang lên

(cấp mộ châm) nỗi lòng kẻ li hương

càng thêm thổn thức. Tiếng vọng của âm thanh đời thường đã rung lên trong lòng nhà thơ

bao cảm xúc bùi ngùi:

"Hàn y xứ xứ thôi đao xích

Bạch Đế thành cao cấp mộ châm"

(" Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,

Thành Bạch chày vang bóng ác tà").

Kim Thánh Thán nhà phê bình văn học kiệt xuất đời Thanh viết: "K ẻ không biết thì bảo

"lưỡng khai" (nở hai lần) ấy là "tùng

cúc" (tùng: khóm, bụi cúc, hoa cúc) đâu biết rằng "lưỡng khai" ấy đều là "tha nhật lệ" (nước

mắt ngay sau). Kẻ không biết thì

bảo "cô chu" (chiếc thuyền lẻ loi) hà tất phải "nhật lệ" ấy chỉ là "cố viên tâm" (lòng nhớ

vườn xưa). Trên chữ "lệ" đặt chữ "tha

nhật", tuyệt diệu! Chỉ có chính mình ở cảnh đó thì mới biết được. Câu 7 nói "xứ xứ" (nơi

nơi) chính là tiên sinh "buộc lòng" (hệ

tâm) vào một nơi (nhất xứ). Bạch Đế Thành ở phía đông Quì Phủ; đây là nói gần để chỉ xa

vậy. Trong bụng nghĩ đến "dao

thước" (đao xích) trong nhà mà trong tai thì chỉ nghe thấy tiếng "châm" thành Bạch Đế,

khách xa nhà vì thế mà rất mực thê

lương.

Dưới "châm" mà hạ chữ "thành cao" liền thấy được là tai xa nghe, mắt xa trông nỗi khổ

của khách xa nhà vì đó mà rât mực

thê lương"

Page 128: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Tóm lại, nỗi lòng nhớ quê được biểu hiện một cách rất tinh tế, sâu sắc, cảm động bằng

nhiều thủ pháp nghệ thuật điêu

luyện. Cảnh và tình, hiện tại và quá khứ, sự vật và con người, âm thanh và nỗi lòng, gần và

xa.... các chi tiết nghệ thuật đã đan

chéo vào nhau, hoà nhập vào nhau, để lại nhiều dư ba, chấn động trong lòng người đọc trên

một nghìn năm nay, nhất là đối

với những kẻ đã trải qua những năm dài li hương, nếm trải nhiều cay đắng.

Kết luận

1. Đỗ Phủ từng nói: "Làm người tính thích câu văn đẹp - Đọc chẳng kinh người chẳng

chịu thôi" Đọc bài "Thu hứng" này, ta

cảm nhận cái hay của áng thơ thất ngôn bát cú, mà mỗi câu, mỗi chữ đều mang cái "thần"

của nó, phô diễn cảnh và tình bằng

nhiều hình tượng cảm động. Rừng phong phương Bắc trong khí thu mờ, con thuyền lẻ loi

vườn xưa với những hàng lệ của kẻ

xa quê... làm ta thổn thức và nhớ mãi.

2. Nỗi nhớ quê nhà, ước mơ được trở về vườn cũ, thăm ngôi nhà xưa nơi chôn rau cắt

rốn.... không chỉ là tình cảm riêng,

ước mơ riêng của Đỗ Phủ mà còn là tình cảm và ước mơ chung của hàng triệu con người

trong loạn lạc chiến tranh, xưa và

nay... Vì thế, "Thu hứng"chan chứa tình đời có giá trị nhân văn tuyệt đẹp.

Hoàng lạc lâu

Thôi Hiệu

Tích nhân dĩ thừa Hoàng Hạc khứ

Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu.

Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản,

Bạch vân thiên tải không du du.

Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,

Page 129: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.

Nhật mộ hương quan hà xứ thị?

Yên ba giang thượng sử nhân sầu.

Lầu Hoàng Hạc

Hạc vàng ai cưỡi đi đâu,

Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ.

Hạc vàng đi mất từ xưa,

N ghìn năm mây trắng bây giờ còn bay.

Hán Dương sông tạnh cây bày.

Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non.

Quê hương khuất bóng hoàng hôn,

Trên sông khói sóng cho buông lòng ai?

Tản Đà dịch

Tác giả và dịch giả

1. Thôi Hiệu (704-752) đỗ tiến sĩ, nổi tiếng là tài hoa, để lại khoảng 40 bài thơ, hay nhất

vẫn là những bài thơ vịnh cảnh.

"Hoàng Hạc lâu" là bài thơ kiệt tác của Thôi Hiệu. Tương truyền, thi tiên Lý Bạch đến vãn

cảnh Hoàng Hạc lâu, thấy thơ Thôi

Hiệu đề lên vách, ông tấm tắc khen và viết:

"N hãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc

Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu"

(Trước mắt có cảnh đẹp, nhưng nói không được

Vì đã có thơ của Thôi Hiệu đề ở trên đầu)

2. Tản Đà (1889-1939) là nhà thơ nổi tiếng nhất những năm hai mươi của thế kỷ này, với

vốn Hán học uyên thâm, với hồn

Page 130: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

thơ lãng mạn bay bổng, về phương diện dịch thơ Đường, ông vẫn là cây bút vô địch. Những

bài thơ Đường do Tản Đà dịch

đều đăng tải trên tạp chí Ngày nay và Tiểu thuyết thứ bảy. Tất cả có 84 bài, phần lớn dịch

thành thơ lục bát 70/84 bài. Ông

đã dịch: 38 bài của bạch Cư Dị, 14 bài của Lí Bạch: 4 bài của Đỗ Phủ, 28 bài của các nhà

thơ khác. Bài "Hoàng Hạc lâu"

của Thôi Hiệu qua bản dịch thơ lục bát của Tản Đà, là bản dịch thơ hay nhất, thể hiện đẹp

nhất cái hồn Đường, điệu Đường kì

diệu.

Chủ đề

Bài thơ nói lên cảm xúc của thi nhân khi ngắm nhìn lầu Hoàng Hạc mà bâng khuâng về

huyền thoại, mà man mác buồn

nhớ quê hương.

Phân tích

1. Đề

Câu 1, 2 đối nhau xưa và nay, mất và còn, Hạc vàng đi đâu mất cùng tiên, nay chỉ còn lại

lầu Hoàng Hạc trơ trọi. Cảm

hứng huyền thọai dâng đầy, nỗi lòng thi nhân nhiều xúc động bâng khuâng:

"Hạc vàng ai cưỡi đi đâu

Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ"

Nhà thơ vừa ngắm lầu Hạc Vàng, vừa tự hỏi mình. Có gì đó cứ xao xuyến, ngơ ngác bồi

hồi khi nhớ đến "tích nhân", nhớ

đến Phí Văn Vi trong huyền thoại.

2. Thực

Câu 3, 4 đối nhau giữa quá khứ và hiện tại, giữa cái mất đi và cái đang còn hiển hiện,

giữa màu sắc của "Hoàng Hạc",

"bạch vân" giữa cái hữu hạn và cái vô hạn:

Page 131: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

"Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản

Bạch Vân thiên tải không du du"

Về bằng trắc, thanh điệu có một sự phá cách độc đáo. Câu 3 có 6 thanh trắc như thắt lại,

nén lại, câu 4 có 3 tiếng "không

du du" - phù bình thanh, gợi tả âm điệu chơi vơi, tiếc nuối, ngẩn ngơ. Câu thứ 4, Khương

Hữu Dụng dịch rất hay:

"Mây trắng nghìn năm bay chơi vơi"

3. Luận

Cảnh đẹp được tả ở một điểm nhìn xa và rộng. Có dòng sông và bãi sông. Có Hán Dương

và Anh Vũ. Có hàng cây và bãi

cỏ. Có màu ánh sáng trên dòng sông, có màu xanh và hương thơm của bãi cỏ. Nhà thơ say

mê đứng lặng trên lầu cao ngắm

nhìn:

"Hán Dương sông tạnh cây bày,

Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non"

Hai câu trong phần "luận" cho ta biết Thôi Hiệu đến chơi lầu Hoàng Hạc vào một chiều

xuân đẹp, thanh bình. Cảm hứng

huyền thoại chan hoà với cảnh hứng thiên nhiên trữ tình tạo nên những vần thơ đẹp, phản

ánh một hồn thơ đẹp. Thi nhân như

đang dẫn hồn mình vào cõi mộng. Cảnh đẹp và vô cùng vắng lặng, mênh mang.

4. Kết

Bóng hoàng hôn phủ mờ dần cảnh vật. Nhà thơ tự hỏi đâu là quê hương? Chỉ nhìn thấy

khói sóng trên dòng sông xa, nỗi

buồn nhớ dâng lên man mác trong lòng khách li hương:

"Quê hương khuất bóng hoàng hôn

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?"

Page 132: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Thi liệu đẹp, mang màu sắc cổ điển thi vị: "Mộ", "hương quan", "yên ba giang thượng",

"sử nhân sầu". Đây là những vần thơ

tả nỗi buồn nhớ quê qua trên một ngàn năm rồi vẫn làm cho chúng ta rơi lệ:

"Nhật mộ hương quan hà xứ thị?

Yên ba giang thượng sử nhân sầu?"

"Hương quan" là cái cổng làng; chỉ quê nhà. giấc hương quan : giấc mơ về nhà; Nguyễn

du đã viết trong Truyện Kiều:

Mối tình đòi đoạn vò tơ,

Giấc hương quan luống lần mơ cảnh dài.

Song sa vò võ phường trời,

Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng"

(1265-1268)

Tác giả và xuất xứ bài thơ

1. Bạch Cư Dị (772 – 846) đậu tiến sĩ năm 28 tuổi, làm qua đời Đường tại kinh đô

Tràng An. Có một thời gian bị giáng

chức xuống làm Tư mã ở quận Cửu Giang. Ông là một trong những nhà thơ lớn nhất đời

Đường, để lại trên 3000 bài thơ. Thơ

ông chứa chan tinh thần nhân đạo.

2. “Tì bà hành” là bài hành nói về tiếng đàn tì bà của một giai nhân bạc mệnh trên bến

Tầm Dương một đêm trăng thu.

Năm 816, Bạch Cư Dị bị giáng chức xuống làm quan Tư Mã, quân Cửu Giang. Một đêm

trăng thu đẹp mà buồn, ông được

nghe người ca nữ gảy đàn tì bà và kể về cuộc đời nhiều bất hạnh của nàng, Bạch Cư Dị cám

cảnh “Cùng một lứa bên trời lận

đận…” đã khóc “sướt mướt” trong bữa tiệc hoa sau khi ca nữ ngừng đàn.

Bài thơ dai 88 câu thất ngôn gồm có (7x88) – 616 tiếng. Bản dịch thành thơ song thất

lục bát, cũng 616 từ. Bản dịch thơ

Page 133: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

này, lâu nay nói là của Phan Huy Vịnh, gần đây có ý kiến là của Phan Huy Thực, thân sinh

của Phan Huy Vịnh. Hầu như

không có một nghệ nhên hát ca trù nào lại không thuộc và hát hay “Tì Bà Hành”

Chủ đề

Bài thơ tả tiếng đàn tì bà huyền diệu của một ca nữ trên bến Tầm Dương trong một đêm

trăng thu hiu hắt, qua đó nói lên

cuộc tương ngộ và sự đồng cảm cho số phận cay đắng giữa giai nhân và tài tử.

Bố cục bài thơ

1. Câu 1 – 8: cuộc đưa tiễn bạn buồn lưu luyến giữa một đêm trăng thu hiu hắt trên bến

Tầm Dương.

2. Câu 9 – 38: Gặp ca nữ và nghe nàng đàn.

3. Câu 39 – 62: Ca nữ ngậm ngùi nói về cuộc đời nhiều bất hạnh của mình.

4. Câu 63 – 82: Nhà thơ thương người rồi tự thương mình lận đận.

5. Câu 83 – 88: Ca nữ đàn lần thứ hai. Tiệc hoa đầy lệ

Phân tích đoạn thơ tả tiếng đàn tì bà

13… Mời mọc mãi, thấy người bỡ ngỡ,

Tay ôm đàn che nửa mặt hoa

Vặn đàn mấy tiếng dạo qua

Dẫu chưa nên khúc tình đà thoảng hay

Nghe não một mất dây buồn bực

Dường than niềm tấm tức bấu lâu

Mày chau tau gảy khúc sầu,

Dãi bày hết nỗi trước sau muôn vàn.

Ngón buông bắt khoan khoan dìu dặt

Trước Nghê Thường sau thoắt Lục Yêu,

Page 134: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Dây to đường đổ mưa rào,

Nỉ non dây nhỏ khác nào chuyện riêng.

Tiếng cao thấp lựa chen lần gẩy

Mâm ngọc đâu bổng nẩy hạt châu

Trong hoa oanh ríu rít nhau

Nước tuôn róc rách chảy mau xuống ghềnh

Nước suối lạnh, dây mành ngừng đứt

Ngừng đứt nên phút bặt tiếng tơ,

Ôm sầu mang giận ngẩn ngơ

Tiếng tơ lặng ngắt, bây giờ càng hay.

Bình bạc vỡ tuôn đầy dòng nước,

Ngựa sắt giong xô xát tiếng đao;

Cung đàn trọn khúc thanh tao:

Tiếng buông xé lụa, lựa vào bốn dây

Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt,

Một vầng trăng trong vắt lòng sông…

Phân tích

Thành tựu nổi bật nhất trong “Tì bà hành” là nghệ thuật miêu tả tiếng đàn. Trong bữa

tiệc hoa trên bến Tầm Dương giữa

trăng thu hiu hắt, thính giả của ca nữ là một tài tử văn nhân rất sành nhạc, đặc biệt hơn nữa

ông còn có một cuộc đời, một nỗi

niềm cay đắng, trải qua nhiều thăng trầm, trôi nổi lận đận…

Lần thứ nhất, tả từ xa, tiếng đàn mơ hồ sương khói Tầm Dương.

Câu thứ hai, tiếng đàn được tả trong mọi cung bậc, giai điệu và cảm xúc, nỗi niềm của

tâm hồn đa tài, đa cảm.

Page 135: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Ngón tay ca nữ “buông, bắt” lướt trên phím đàn. Hai khúc nhạc cung đình ngân vang

thánh thót. Câu thơ làm hiện lên một

nghệ sĩ bì bà hành lỗi lạc:

“Ngón buông bắt khoan khoan dìu dặt

Trước Nghê Thường sau thoắt Lục Yêu”

Mười bốn câu tiếp theo, Bạch Cư Dị sử dụng một chuỗi 9 ẩn dụ so sánh để cực tả tiếng

đàn tì bà của nàng ca nữ.

Tiếng đàn biến hóa kì ảo, lúc thì ào ào như mưa rào, lúc thì nỉ non, thủ thỉ như lời tâm tình:

“Dây to đường đổ mưa rào,

Nỉ non dây nhỏ khác nào chuyện riêng.”

Tiếng đàn lanh lảnh reo ngân như hạt châu nẩy trên mâm ngọc, như tiếng chim oanh ríu

rít trong ngàn hoa:

“Tiếng cao thấp lựa chen lần gảy

Mâm ngọc đâu bổng nẩy hạt châu

Trong hoa oanh ríu rít nhau…”

Tiếng tì bà đang như “nước tuôn róc rách chảy mau xuống ghềnh” thì bỗng đột ngột

“ngừng đứt”. Nàng ca nữ diễn tấu

“dấu lặng” trong bản đàn một cách tài tình. Người dự tiệc hoa và ngồi thưởng thức ca nữ

đàn đều “ngẩn ngơ” trước sự

huyền diệu của suối âm thành:

“Nước suối lạnh, dây mành ngừng đứt

Ngừng đứt nên phút bặt tiếng tơ,

Ôm sầu mang giận ngẩn ngơ

Tiếng tơ lặng ngắt, bây giờ càng hay.”

Tiếng đàn như sầu thương, như giận dữ, làm mê say, đắm đuối rung động hồn người.

Tiếng đàn như thể hiện nỗi lòng và

Page 136: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

tâm tình một cuộc đời nhiều nước mắt, nhiều cay đắng, đã trải qua những tháng ngày “ôm

sầu mang giận ngẩn ngơ”. Người dự

tiệc và nghe đàn như đang bị cuốn hút trước giai điệu buồn thương của tiếng đàn, hoặc tấm

tắc trầm trồ, hoặc rơi lệ…

Bốn ẩn dụ tiếp theo tả biến thái của giai điệu tiếng đàn tì bà. Lúc thì như nước trào ra

khỏi bình bạc vỡ. Lúc thì rầm rập

như đoàn quân thiết kỵ xung trận, như ngựa hí đao khua trên chiến địa. Có lúc như tiếng lụa

xé kề tai… Hình ảnh nào cũng

thần tình. Câu thơ nào cũng đẹp. Ngôn ngữ thơ tràn ngập âm thanh. Đây là đoạn thơ tả âm

thanh tiếng đàn tì bà nhanh, dồn

dập, trầm hùng, mạnh mẽ:

“Bình bạc vỡ tuôn đầy dòng nước,

Ngựa sắt giong xô xát tiếng đao;

Cung đàn trọn khúc thanh tao:

Tiếng buông xé lụa, lựa vào bốn dây”

Trong suối âm thanh tì bà vang lên giữa đêm thu, cảnh vật như nín thở cùng lắng nghe

đàn với quan Tư Mã Giang Châu.

Dòng sông, con thuyền, bầu trời, vầng trăng thu như ru hồn trong mộng tưởng, say đắm,

bâng khuâng, tất cả đều “lặng ngắt”

tận hưởng dư âm tì bà. Khung cảnh hiện lên qua một nét vẽ đầy chất thơ. Sông như thêm

mông mênh hơn. Ánh trăng thu

trong xanh hơn. Con thuyền như đắm chìm trong giấc một đêm thu:

“Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt,

Một vầng trăng trong vắt lòng sông”

Lấy ngoại cảnh để biểu cảm âm thanh tiếng đàn tì bà là một thủ pháp nghệ thuật tinh tế,

điêu luyện của Bạch Cư Dị. Các

nhà thơ Việt Nam đã kế thừa sáng tạo. Có tiếng đàn cầm của nàng Kiều gảy cho Kim Trọng

Page 137: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

nghe sau ngày tái hợp. Nguyễn

Du cũng ví với tiếng ngọc:

“Trong sao châu nhỏ duềnh quyên,

Ấm sao hạt ngọc Lam Điền mới đông”

(3203–3204)

Lấy ngoại cảnh tả tiếng đàn: “Ngọn đèn khi tỏ khi mờ…” (485). Trong bài: “Tiếng sáo

Thiên Thai”, Thế Lữ cũng viết:

“Mây hồng ngừng lại sau đèo,

Mình cây nắng nhuộm, bóng chiều không đi”

Tóm lại, đọc “Tì bà hành” qua bản dịch thơ của Phan Huy Vịnh (?), ta vô cùng thú vị

trước những vần thơ song thất lục bát

réo rắt du dương, trầm bổng, u hoài. Giữa nàng ca nữ và thi nhân không chỉ có tấm lòng biệt

nhỡn liên tài, mà còn là đôi

bạn tri âm, đồng điệu. “Cũng một lứa bên trời lận đận – Gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau”…

Bao nhiêu âm thanh là bấy nhiêu

tấc lòng, bấy nhiêu tình đời cay đắng u uất. Tài tử gian nan, hồng nhan bạc mệnh… tiếng

đàn tì bà và cuộc đời nàng ca nữ

bước đường công danh lận đận của ông quan Tư mã Giang Châu cho ta nhiều ám ảnh:

“Lệ ai chan chứa hơn người

Giang Châu Tư mã đượm mùi áo xanh”

Nguồn gốc

1. Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc là một thành tựu kì diệu của nền văn học Trung Hoa.

Nó hình thành và phát triển rực

rỡ từ thời Minh (1308–1644) và thời Thanh (1644–1911). Từ những thoại bản, những sự

kiện lịch sử được các nhà văn

lỗi lạc sáng tạo nên những bộ tiểu thuyết đồ sộ mấy nghìn trang, mấy trăm nhân vật, kết cấu

chương hồi phát triển theo dòng

Page 138: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

chảy thời gian và lịch sử.

2. Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc có những bộ tiêu biểu nhất

- Tây Du kí: 100 hồi

- Thủy Hử truyện: 120 hồi

- Tam quốc diễn nghĩa: 120 hồi

- Hồng lâu mộng: 120 hồi

Một vài nét về Tam Quốc diễn nghĩa

1. Tác giả

La Quán Trung sống vào đầu thời Minh đã dựa vào các chuyện kể dân gian, các truyền

thuyết và sử sách để viết nên bộ

“Tam Quốc diễn nghĩa”, tác phẩm hay nhất trong toàn bộ các tác phẩm tiểu thuyết cổ điển

Trung Quốc.

2. Tóm tắt

Tam Quốc diễn nghĩa kể lại cuộc phân tranh trong vòng 87 năm giữa 3 tập đoàn phong

kiến: Ngụy, (Tào Tháo), Thục,

(Lưu Bị) và Ngô (Tôn Quyền).

- Từ hồi 1 đến hồi 14 (năm 184–190) cuộc khởi nghĩa nông dân khăn vàng. Đổng Trác

thâu tóm quyền hành. Vương

Doãn dùng mĩ nhân kế diệu Trác.

- Từ hồi 15 đến hồi 50 (năm 190–208) Viện Thiệu xưng hùng rồi đại bại. Tào Tháo tiêu

diệt sạch các tập đoàn phương

Bắc, làm chủ trung nguyên Lưu Bị đã có binh hùng tướng mạnh nhưng chưa có đất. Tào

Tháo đại bại ở Xích Bích. Lưu Bị

được đất Kinh Châu: Thế chân vạc Ngụy–Thục–Ngô hình thành.

- Từ hồi 51 đến hết (208–280) Tào Tháo có binh hùng tướng mạnh, lúc đánh Ngô, lúc

tiến công Thục, thế trận giằng co,

Page 139: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

thì Táo Tháo chết. Con là Tào Phi lên thay, phế vua Hán, lập ra nước Ngụy, quyền hành rơi

dần vào tay thừa tướng Tư Mã

Ý.

Lưu bị có mưu sĩ Khổng Minh, có ngũ hổ tướng, thế lực ngày một mạnh. Lưu Bị lên ngôi

vua. Quan Vũ bị Đông Ngô giết.

Trương Phi cất quân đánh báo thù cho anh mà bị hại. Lưu Bị thảm bại về trận hoả công của

Đông Ngô rồi ốm chết. Con là

Lưu Thiện nối ngôi. Khổng Minh “thất cầm Mạnh Hoạch”, “Lục xuất Kỳ Sơn”, sự nghiệp

đang dở dang thì ốm chết. Thục

suy vong dần. Năm 263, tướng Ngụy là Đặng Ngải, diệt Thục, Lưu Thiện đầu hàng. Nhà

Ngô có địa thế Giang Đông hiểm

yếu, có binh hùng tướng mạnh, lấy thủ, làm công, nhiều lần đánh bại Ngụy, Thục. Sau khi

Tôn Quyền chết, Tôn Hạo lên thay,

thế yếu dần. Năm 279 Tư Mã Viêm (cháu Tư Mã Ý), kéo đại binh đánh Đông Ngô, Tấn

Hạo đầu hàng. Tư Mã Ý phế

Ngụy, lập ra nhà Tôn thống nhất Trung Quốc.

3. Giá trị của “Tam Quốc diễn nghĩa”

- Ca ngợi những tấm gương anh hùng nghĩa sĩ, trung dũng, có tài thao lược một thời loạn

lạc.

- Nêu lên khát vọng của nhân dân về một bậc minh quân, về hòa bình ổn định.

- Xây dựng được những điển hình như Ngũ hổ tướng, (Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Tử

Long, Hoàng Trung, Mã Siêu),

“Ngũ tuyệt” như Tuyệt nhân (Lưu Bị), Tuyệt trí (Khổng Minh), Tuyệt nghĩa (Quan Vũ),

Tuyệt gian (Tào Tháo), Tuyệt dũng

(nhiều tướng lĩnh của ba phe).

- Kể chuyện dùng mưu, tường thuật các trận đánh hào hùng, đầy kịch tính, hấp dẫn….

“Hoa Dung lộ”, “Quá Ngũ quan

Page 140: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

trảm lục tướng”, “Hồi trống Cổ Thành”, “Thất cầm Mạnh Hoạch” v.v… Đọc “Tam Quốc

diễn nghĩa” không ai là không

nhớ…

- “Tam Quốc diễn nghĩa” từ lâu đã đi vào tuồng, gần đây đã đi vào Truyền hình làm chấn

động 5 châu, 4 biển.

Phân tích “Hồi trống Cổ Thành”

1. Tóm tắt

Biết tin anh là Lưu Bị ở Hà Bắc trên đất Viên Thiệu, Quan Vũ đưa hai chị (vợ của Lưu

Bị) đi tìm anh. Tào Tháo tránh

không tiếp Quan Vũ đến từ biệt vì muốn lưu giữ Quan Vũ để dùng. Tháo không cấp giấy

qua ải, nhưng cũng không cho

tướng đuổi bắt. Các tướng giữ ải vẫn không cho Quan Vũ qua ải, Quan Vũ phải mở đường

máu mà đi.

- Qua ải Đông lĩnh chém Khổng Tú

- Đến ải Lạc Dương chém Hán Phúc và Mạnh Thầu

- Qua Nghi Thuỷ giết Biện Hỷ

- Vượt ải Huỳnh Dương chém Vương Thực

- Đến bờ Hoàng Hà, giết Tần Kỳ

- Đến Cổ Thành, Quan Vũ ngỡ là gặp được em xiết bao vui mừng, ai ngờ Trương Phi

“mắt trợn tròn xoe” râu hùm vểnh

ngược, hò thét như sấm, múa xà mâu chạy lại đâm Quan Công”. Bất ngờ Sái Dương lại kéo

quân đến bắt Quan Vũ. Phi càng

nghi ngờ… Chỉ đến lúc đầu Sài Dương bị Quan Vũ chém đứt, Phi mới đánh một hồi trống,

Phi mới nguôi giận dần. Và chỉ sau

khi nghe tên lính kể đầu đuôi mọi chuyện,… Phi mới tin, “rỏ nước mắt, thụp lạy Vân

Trường”.

2. Hình ảnh Trương Phi

Page 141: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Người anh hùng trong thời loạn đề cao trung nghĩa: “Trung thần thà chịu chết không chịu

nhục. Có lẽ đâu đại trượng phu lại

thờ hai chủ?”. Trong suy nghĩ của Trương Phi thì Quan Công đã hàng Tào, “được phong

hầu tử tước”, đã “bội nghĩa” đến Cổ

Thành là để lập mưu bắt Phi! Nên phải đâm chết: “Phen này tao quyết liều sống chết với

mày”. “Xin hai chị thong thả, để tôi

giết thằng phụ nghĩa này đã…”.

- Trung thực, nóng nảy, quyết liệt. Nghe Tôn Cào vào báo tin hai chị và Quan Vũ đến,

mời Trương Phi ra đón, Phi “chẳng

nói chẳng rằng lập tức mặc áo giáp vác xà mâu lên ngựa, dẫn một nghìn quân đi tắt qua Cửa

Bắc”. Hành động dữ dội, sôi

sục “mắt trợn tròn xoe, râu hùm vểnh ngược, hò thét như sấm, múa xà mâu chạy lại đâm

Quan Công”. Mạt sát Quan Công:

“mày đã bội nghĩa còn mặt nào đến gặp tao nữa”.

- Ai phân trần khuyên bảo cũng không nghe. Chỉ có một điều kiện “xong 3 hồi trống phải

chém đầu tướng Tào” để làm tin.

Đầu Sái Dương rụng, tên lính nói rõ mọi chuyện thì Phi mới tin: “rỏ nước mắt, thụp lạy Vân

Trường”. Phục thiện và biết điều.

Tóm lại, tác giả miêu tả Trương Phi rất sống động: cương trực, thẳng thắn, quyết liệt, trong

sáng và trung nghĩa.

3. Quan Vũ – đó là một võ tướng: tuyệt nghĩa. Vượt qua nguy hiểm để đi tìm anh, quá

ngũ quan trảm lục tướng.

4. Nghệ thuật: “Hồi trống Cổ Thành” hấp dẫn bởi tình huống và kịch tính.

Tình huống1: Trương Phi ngỡ là Quan Công đến lừa bắt mình nộp Tào Tháo. Phi phải

giết Quan Công. Tình huống 2: Sái

Dương mang quân đến hỏi tội Quan Công… Phi ngỡ là âm mưu của Quan Công. Tình

huống 3: Trương Phi đánh ba hồi trồng

thì Quan Công phải chém chết Tào. Đầu Sái Dương bị Quan Công chém lăn dưới đất,

Page 142: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Trương Phi vừa đánh xong một hồi

trống. Mâu thuẫn được giải quyết, Phi khóc, thụp lạy Vân Trường.

Nhân vật được miêu tả bằng hành động các tình tiết diễn biến nhanh, đẩy xung đột nên

căng thẳng và hấp dẫn.

Tóm lại, “Tiếng trống Cổ Thành” vang lên là đầu giặc bị chém rụng xuống đất để người

anh hùng minh oan bằng tài năng.

Đó là tiếng trống hội ngộ của tình nghĩa, của lòng trung thực, của khí phách anh hùng. Cũng

là tiếng trống thúc quân, tiếng

trống thắng trận tưng bừng giòn giã.

Thời đại Phục hưng và Văn hóa Phục hưng

1. Sau đêm trường trung cổ, Tây Âu bước sang một thời đại mới là Thời đại Phục hưng

trong thế kỷ 15-16. Phương Tây

bàng hoàng và kinh ngạc phát hiện ra trong những di sản của nền văn học nghệ thuật Hi

Lạp, La Mã vô cùng xán lạn, đã bị

chôn vùi qua hàng ngàn năm từng bị nhà thờ và chế độ phong kiến xuyên tạc, bóp méo. Con

người phương Tây khao khát,

hăm hở làm sống lại tinh hoa nền văn hoá đó để xây dựng một nền văn minh mới vì tự do và

hạnh phúc của con người. Lịch

sử gọi là Thời đại Phục hưng.

2. Cùng với sự phát triển của kinh tế, khoa học, kỹ thuật, phong trào văn hóa Phục hưng

nở rộ khắp các nước Tây

Âu. Trào lưu tư tưởng này lấy chủ nghĩa Nhân văn làm nòng cốt đề cao trí tuệ con người, vì

hạnh phúc, tự do của con

người mà kiên quyết chống lại những thế lực hắc ám, tàn bạo trong xã hội, để con người

được phát triển tự do, tự nhiên, hài

hoà, đẹp đẽ.

Tác giả Sêcxpia

Page 143: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Sêcxpia (1564–1616) là một nhà thơ, nhà soạn kịch thiên tài của nước Anh, “một trong

những ngọn đuốc chói lọi”

của Văn hóa Phục hưng. Thị trấn Xtratpho on Âyvơn là quê hương ông. Ông bước vào kịch

trường Anh quốc, lúc đầu là

chân giữ ngựa và nhắc vở ở rạp hát, dần dần được là diễn viên, đạo diễn, tài năng phát triển,

trở thành kịch tác gia.

Ông để lại 37 vở kịch, có hài kịch, có bi kịch, có kịch lịch sử. Cấu trúc hoành tráng, ngôn

ngữ đối thoại vừa bóng bẩy vừa

hùng tráng, phản tích tâm lí sâu sắc… Kịch Sêcxpia là tiếng nói của lương tri, của chính

nghĩa, của tự do, hạnh phúc và

niềm tin vào con người, vào thế hệ trẻ trong tương lai. Kịch Sêcxpia sáng bừng chủ nghĩa

nhân văn cao đẹp.

Rômêô và Ju liet, Hamlet, Ôtenlô, Người lái buôn thành Vơnidơ… là những vở kịch -

kiệt tác của Sêcxpia gần gũi, quen

thuộc với hàng trăm triệu, nghìn triệu con người trên hành tinh chúng ta

Tóm tắt vở kịch “Người lái buôn thành Vơnidơ”

Baxaniô một quý tộc trẻ, có học. Bạn thân là Antôniô, một thương gia giàu có ở Vơnidơ.

Baxaniô cần tiền cưới vợ - công

nương Porxia xinh đẹp. Antôniô không sẵn tiền vì tất cả tài sản của chàng đang lênh đênh

trên 3 chiếc thuyền buôn chưa về.

Antôniô phải đến vay của tên Sailốc, một lái buôn Do Thái số tiền 3000 đuyca với điều kiện

ghi vào văn khế: nếu sau 3 tháng

không trả được nợ thì Sailốc có quyền xẻo một cân thịt trên thân thể người vay nợ.

Tuy yêu Baxaniô, nhưng công nương Porxia phải thực hiện đúng chúc thư của bố, người

cầu hôn phải chọn đúng cái hòm

trong đựng chân dung nàng mới được kết duyên cùng nàng. Ông hoàng Marốc chọn cái hòm

vàng, mở ra chỉ thấy cái đầu lâu

và một tờ thư châm biếm. Ông hoàng xứ Aragông chọn cái hòm bạc, trong chỉ có chân dung

Page 144: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

thằng ngốc với một bài thơ hài

hước. Baxaniô chọn hòm chì, mở ra… và hạnh phúc đã thuộc về chàng.

Hạn nợ đã đến. Sailốc kiện ra toà. Baxaniô và Graxianô (chồng nàng Nêrixa hầu gái của

công nương Porxia phải cấp tốc

về Vơnidơ. Được ông anh họ là quan toà viết thư ủy nhiệm, Porxia cải trang thành tiến sĩ

luật khoa, nàng Nêrixa cải trang

thành viên thư ký. Hai nàng đã được thống lĩnh mời vào ghế quan tòa. Porxia tuyên bố cho

Sailốc thực hiện đúng văn khế và

lưu ý phải cắt đúng 1 cân thịt không hơn không kém trên thân thể Antôniô và không làm

chảy ra một giọt máu nào. Sailốc bị

thua kiện, bị ghép vào tội âm mưu hãm hại một công dân thành Vơnidơ, bị toà tuyên bố tịch

thu toàn bộ tài sản.

Kết thúc phiên toà, hai vị “quan toà và thư ký” khéo léo xin được nhẫn của Baxanioo và

Graxianô. Trở lại đời thường, hai

nàng hỏi đức lang quân về nhẫn đính hôn đâu rồi và tỏ ý giận dỗi. Cuối cùng Porxia đưa thư

ủy nhiệm của ông anh họ thì

Baxaniô mới biết rõ sự thật, bàng hoàng khâm phục người yêu.

Cùng lúc đó, tin ba thuyền buôn của Antôniô cập cảng, thuyền đầy ắp hàng hóa.

Giá trị của tác phẩm

1. Về nội dung: Vở kịch “Người lái buôn thành Vônidơ” đã ca ngợi tình bạn, tình yêu

thủy chung cao cả, đề cao trí tuệ và

công lý, lên án sự độc ác tham lam. Vẻ đẹp và sự thông tuệ, sắc sảo của người phụ nữ trẻ

được khẳng định và ngưỡng mộ.

2. Về nghệ thuật: Hành động kịch phong phú. Mâu thuẫn tạo nên xung đột và kịch tính

(văn khế – cảnh xử kiện – chiếc

nhẫn).

Ngôn ngữ rất bóng bẩy. Chất hài qua màn kịch chọn hòm vàng, hòm bạc, hòm chì…

Page 145: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Tóm lại, với “Người lái buôn thành Vônidơ” tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật hài

kịch của Sêcxpia. Tính triết lý trong

màn cầu hôn rất đặc sắc.

Sự lựa chọn của Baxaniô

(Trích hồi II, cảnh 2 – “Người lái buôn thành Vônidơ”)

Công nương Porxia yêu Baxaniô tha thiết nhưng nàng vẫn phải tuân thủ di chúc của

người cha thân yêu. Nàng không chỉ

diễm kiều mà còn đang được thừa kế một gia tài lớn ở Belmônt. Cuộc cầu hôn của nàng rất

đặc biệt Baxaniô cũng như mọi

người, đến cầu hôn khắc phải qua một thử thách về tài trí, về đức độ và cả sự may mắn nữa.

Porxia đưa Baxaniô đến trước chiếc hòm, nghe chàng nói mà lòng “kinh hãi” và tin

tưởng: “Nếu chàng yêu em thì chàng sẽ

phát hiện thấy em trong đó”. Tuân thủ di chúc của cha là đặt nghĩa vụ lên trên hết, tin người

yêu với tình yêu chung thủy sẽ

tìm ra chân dung nàng để đi tới một hôn nhân. Nàng khẳng định sức mạnh của tình yêu.

Ngắm nhìn 3 chiếc hòm, Baxaniô nói với mình. Một cách nói văn hoa của giới quý tộc

trẻ trong thế kỉ 16. Chàng châm

biếm thiên hạ luôn luôn “bị đánh lừa bởi ngoại hình trang sức”; chàng chế giễu những kẻ

giả danh anh hùng mà “bộ gan

trắng bệch như sữa”. Chàng chỉ ra những con người bên ngoài rất đẹp “vành tóc xoăn óng

ánh sắc vàng…”, nhưng tâm

hồn lại trống rỗng “nằm yên trong mồ”, có lúc “một trang sức rất đẹp mắt” chỉ là “một bến

lừa người của một biển

khơi nguy hiểm”. Suy nghĩ ấy cho thấy Baxaniô là một con người thông minh, sáng suốt

trong nhìn nhận bản chất bên

trong tốt đẹp của sự vật. Chàng vừa có đức vừa có tài.

Vì thế chàng không chọn hòm vàng bởi lẽ chàng cho là “rắn quá!”. Chàng không chọn

Page 146: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

hòm bạc vì chất bạc theo ý

chàng chỉ là “kẻ nô lệ trắng bệch và tầm thường”. Baxaniô đã chọn hòm chì “nghèo nàn”

vì nó đã làm cho chàng cảm

động bởi “sắc xanh xám xuềnh xoàng”.

Porxia hồi hộp, động viên người yêu phải sáng suốt, bình tĩnh, hãy “bớt sôi nổi”, hãy dẹp

bớt “cơn bồng bột nồng nàn”.

Kịch tính căng lên như dây đàn khi Baxaniô mở hòm chì. Chàng reo lên sung sướng: “Chân

dung nàng Porxia tuyệt sắc!”

Chàng hỏi với tất cả niềm kiêu hãnh tự hào: “Có vị á thần nào đã gần hoá công được đến thế

này?”. Đó là cách nói của người

phương Tây về giai nhân cũng như ở phương Đông gọi người đẹp là “cành thiên hương”

vậy.

Hạnh phúc cầm tay, ngắm chân dung người yêu, Baxaniô sung sướng đến tột độ. Chàng

ca ngợi nhan sắc công nương

Porxia bằng những lời đẹp nhất, đầy chất thơ:

- “Đôi môi hé mở… hơi thở ngọt ngào như mật ong…”

- “mái tóc… như con nhện chăng tơ…”

- “Đôi mắt của nàng… tưởng chừng như cứ vẽ xong một con mắt thôi cũng đủ làm cho

họa sĩ mù cả đôi mắt mình và bỏ

dở dang tác phẩm”.

Chưa hả hê thỏa mãn, Baxaniô đọc to bài thơ:

“Hỡi chàng, vốn không tin ở những bề ngoài

Chàng đã chọn trúng và may mắn lớn

Hạnh phúc đó đã đến với chàng

Thì chàng nên mãn nguyện và đừng tìm gì khác nữa

Nếu chàng thấy mệnh vận đã chiều chàng,

Page 147: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Thì hãy quay về phía giai nhân,

Và đòi tình yêu của nàng bằng một cái hôn đính ước tình vợ chồng - nụ hôn “ban

cho” và “tiếp nhận”.

Ngôn ngữ kịch trau truốt, đầy chất thơ, mượt mà. Ca ngợi tình yêu và hạnh phúc lứa đôi

là một biểu hiện sâu sắc, đẹp đẽ

của chủ nghĩa nhân văn thời Phục hưng và Văn hóa Phục hưng. Và đó là chất thơ trong hài

kịch Sêcxpia.

- Sau nụ hôn là niềm tự hào của công nương Porxia. Nàng trân trọng nói: “Thưa quý

công tử Baxaniô…”. Nàng chỉ muốn

từ nay trở đi, tài đức của nàng “hai chục lần làm tăng gấp ba”, sắc đẹp của nàng đẹp “gấp

lên nghìn lần, giàu lên vạn lần…”.

Nàng sung sướng tuyên bố: “ngay từ bây giờ ngôi nhà này, những kẻ hầu hạ kia và bản thân

em, chúng em là của chàng, hỡi

chúa của em…”. Và nàng đã trao nhẫn…

Cũng là tiếng nói hạnh phúc và ca ngợi tình yêu.

Tóm lại, chất hài và chất thơ kết hợp hài hòa. Suy nghĩa của Baxaniô về hòm vàng, hòm

bạc, hòm chì còn mang một ý vị

triết lý về sự hào nhoáng giả dối và cái đẹp chân chính, cái đẹp thực chất trong cuộc đời.

Con người phải thông tuệ, có đức

tài để nhận diện và khám phá. Đoạn kịch đã ca ngợi tình yêu, hạnh phúc và đức tài của tuổi

trẻ. Đó là tính nhân văn mà ta cần

biết để trân trọng vẻ đẹp.

Page 148: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Văn học là một môn nghệ thuật

1. Văn học nhận thức, phản ánh đời sống con người

Cũng như hội họa, ca nhạc, điêu khắc… văn học là một môn nghệ thuật. Đối tượng của

văn học là con người – con người

trong học tập, lao động, chiến đấu, con người trong tình yêu và những mối quan hệ xã hội

khác, con người trong không gian

thời gian với thiên nhiên, vũ trụ. Nói văn học là nhân học, đúng thế. Văn học không chỉ

phản ánh đời sống con người mà còn

phải nhận thức con người và đời sống con người, nói lên những ước mơ, khát vọng, những

tâm tư, tình cảm của con người

trong chiều sâu tâm hồn với sự đa dạng, phong phú.

Chỉ đến lúc nào đó văn học mới là văn học đích thực khi văn học thể hiện được sự khám

phá và sáng tạo, có những kiến

giải hay và đẹp về con người và đời sống con người.

“Ramayana” có 24.000 câu thơ đôi, “Tam quốc diễn nghĩa” với hàng triệu chữ, bài thơ

“Cây chuối” của Nguyễn Trãi, bài

thơ tình của Xuân Diệu… đó là văn học.

2. Văn học là sự thể hiện tinh tế tư tưởng và tình cảm, ước mơ và khát vọng, quan điểm

và lý tưởng thẩm mĩ của

nhà văn đối với con người và cuộc sống. Mỗi trang văn, mỗi bài thơ (đích thực) dù nói về

gì, đề tài gì rộng lớn hay bé nhỏ

đều thể hiện lòng yêu, sự ghét của tác giả, thể hiện một quan điểm nhân sinh hoặc lên án cái

ác, hoặc ca ngợi tình yêu, đưa tới

sự hướng thiện, cái cao cả, cái đẹp của thiên nhiên và con người. Văn học mang tính khuynh

hướng rõ rệt.

“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,

Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi

Page 149: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Lẽ nào trời đất dung tha

Ai bảo thần dân chịu được

(Nguyễn Trãi)

“Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh

Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần.

Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm,

Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân…

(Nguyệt Cầm – Xuân Diệu)

“Yêu biết mấy, những con người đi tới

Hai cánh tay như hai cánh bay lên

Ngực dám đón những phong ba dữ dội

Chân đạp bùn không sợ các loài sên”

(“Mùa thu tới” – Tố Hữu)

3. Văn học nhận thức và thể hiện bằng hình tượng nghệ thuật

Văn thơ hàm chứa tư tưởng tình cảm. Nhưng văn chương không nói ý một cách khô

khan. Vì sao mà có thơ nồi đồng, con

cóc? Văn chương đích thực là hoa quí nên mới có hương sắc. Văn chương thấm vào lòng

người, bất tử với thời gian, không

có biên giới bởi lẽ văn học nhận thức và thể hiện bằng hình tượng nghệ thuật.

Hình tượng nghệ thuật do nhiều yếu tố, chi tiết nghệ thuật hợp thành. Đọc tác phẩm văn

học phải phát hiện ra và cảm nhận

các chi tiết nghệ thuật, có thế mới khám phá được cái hay, cái đẹp của hình tượng nghệ

thuật.

Vậy hình tượng nghệ thuật là gì?

- Trong thơ văn, hình tượng nghệ thuật có thể là một bông hoa, một vầng trăng, một nàng

Kiều, một Trương Phi – cũng

Page 150: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

có thể là một nét của tâm trạng, tình cảm như “Tương tư” của Nguyễn Bính, v.v…

- Vậy, hình tượng là bức vẽ về con người, về cuộc đời, về thiên nhiên cụ thể được nhà

văn sáng tạo nên qua liên tưởng,

tưởng tượng để thể hiện tư tưởng, tình cảm và khái quát hiện thực một cách thẩm mĩ

- Có cảm nhận được hình tượng mới thấy được cái hay, cái ý vị của văn chương.

Văn học là nghệ thuật của ngôn từ

1. Ngôn từ là chất liệu xây dựng hình tượng của văn học

Hội họa dùng màu sắc, đường nét… âm nhạc diễn tả bằng âm thanh, tiết tấu… điêu khắc

dùng chất liệu (kim loại, đá,

gỗ...) tạo nên hình khối, đường nét v.v… Còn văn học phải diễn tả bằng ngôn từ. Mỗi tác

phẩm văn học phải được gắn liền

với một thứ ngôn ngữ và văn tự (gốc) nhất định. Ngôn ngữ, văn tự là công cụ của nhà văn.

Nhà văn Nguyễn Tuân được ca

ngợi là bậc thầy về ngôn ngữ. Văn của ông là tờ hoa, là trang văn. Hồ C hí Minh viết văn

làm thơ bằng tiếng mẹ đẻ, bằng tiếng

Pháp, bằng chữ Hán. Thật là kì tài.

2. Những đặc điểm của ngôn từ văn học

Nhà văn nhà thơ phải sử dụng ngôn từ và trau chuốt nó, tạo thành một thứ ngôn ngữ văn

chương giàu có, sang trọng, đẹp

đẽ. Ngôn ngữ văn học có những đặc điểm sau:

- Tính hệ thống

- Tính chính xác

- Tính truyền cảm

- Tính hình tượng

- Tính hàm súc, đa nghĩa

- Tính cá thể hoá

Page 151: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Trong đó, tính chính xác, tính truyền cảm, tính hình tượng là cực kỳ quan trọng. Nói rằng

“Văn hoa dã chất chi đối”, “Lời

lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu” là như vậy. Kim Trọng khen Kiều khi nàng làm một bài

thơ viết lên bức tranh Kim Trọng

mới vẽ:

“Khen tài nhả ngọc phun châu,

Nàng Ban, ả Tạ cũng đâu thế này!”

Nhà văn sử dụng ngôn từ để xây dựng hình tượng văn học. Vì thế đọc sách hoặc phân

tích thơ văn không được thoát li văn

bản và ngôn từ

3. Tính chất “phi vật thể” của chất liệu ngôn từ và khả năng diễn tả đặc biệt phong phú

của nghệ thuật ngôn từ

- Xem tranh xem ti vi… đã thấy được cụ thể cảnh vật, sự việc biểu hiện. Đọc văn, ta phải

tưởng tượng, liên tưởng, suy

luận, cảm xúc với tất cả mọi giác quan và tâm hồn, mới hình dung được cảnh vật, sự việc.

Điều đó nói lên rằng, ngôn từ mang

tính chất “phi vật thể”. Con chứ đấy, câu thơ đấy nhưng không phải ai cũng hiểu và cảm

như nhau.

- Ngôn từ có sức mạnh vạn năng, có thể diễn tả sự việc theo dòng chảy lịch sử qua hàng

trăm năm, hàng vạn năm trên một

không gian hữu hạn hoặc rộng lớn vô hạn.

- Ngôn từ còn có khả năng diễn tả những rung động biến thái của tâm hồn con người.

Thật là kỳ diệu khi Nguyễn Trãi viết:

“Ngư ca tam xướng yên hồ khoát,

Mục đích nhất thanh thiên nguyệt cao!”

(Ức Trai thi tập)

Nếu không hiểu được ngôn từ sao có thể cảm được cái hay của hai câu thơ trên?

Page 152: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Vai trò của nhà văn với đời sống văn học

Không có ong mật thì chẳng có mật ong. Và không có hoa thì ong cũng chẳng thể làm ra

mật. Không có nhà văn thì không

có tác phẩm, tất nhiên cũng không thể có đời sống văn học. Lại còn phải có hiện thực phong

phú tạo nguồn sáng tạo cho nhà

văn thì mới có thơ văn. Từ muốn mặn, phù sa, hương sắc cuộc đời… nhà văn sống hết mình

với hiện thực phong phú ấy may

ra mới có tác phẩm văn học.

Viết về mối quan hệ giữa nhà văn và đời sống hiện thực, Chế Lan Viên nói:

“Bài thơ anh, anh làm một nửa mà thôi,

Còn một nửa cho mùa thu làm lấy.

Cái xào xạc, hồn anh chính là xào xạc lá

Nó không là anh, nhưng nó là mùa…”

(“Sổ tay thơ – Đối thoại mới)

Nhà văn phải khám phá và sáng tạo, không theo đuổi người. Không tô hồng cũng không

bôi đen hoặc sao chép hiện thực.

Nhà văn cũng không được lặp lại mình. “Văn chương quý bất tùy nhân hậu” (Hoàng Đình K

iên đời Tống”.

Những nhân tố cần có đối với một nhà văn

Một vạn học sinh đỗ tú tài, sau 5, 6 năm học tập ở đại học có thể đào tạo thành những kĩ

sư, bác sĩ… nhưng rất ít hoặc

không thể đào tạo thành nhà văn. Có một hiện tượng kỳ lạ là trong xã hội ta ngày nay sao

mà nhiều “nhà thơ” thế. Thật ra đó

là những “thi sĩ – vè”, “thi sĩ – con cóc”,… Lênin từng nói: “Trong lĩnh vực nghệ thuật,

không có chỗ đứng cho kẻ trung

bình”. Vậy nhà văn cần những nhân tố gì?

Page 153: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

– Phải có năng khiếu, có tài.

– Phải có cái tâm đẹp. (chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” – Kiều)

– Phải có vốn văn hóa rộng rãi (có học). Học vấn thấp hạn chế chẳng khác nào đất ít mầu

mỡ, cây kém xanh tươi, hoa

trái chẳng ra gì.

– Phải có vốn sống như con ong giữa rừng hoa. Phải sống hết mình.

– Phải có một lí tưởng thẩm mĩ cao đẹp: sống và viết vì chủ nghĩa nhân văn.

– Phải có tay nghề cao. Xuân Diệu gọi đó là “bếp núc làm thơ”.

– Ngoài ra còn có một điều kiện khách quan ấy là môi trường sáng tác. Nhà văn phải được

sống trong tự do, dân chủ,

phải có vật chất tạm đủ (cơm áo không đùa với khách thơ) …

– Với nhà văn, kiêng kị nhất là thói kiêu ngạo, xu nịnh bợ đỡ… Vì thế văn chương có ngôi

thứ: kẻ làm thơ, nhà thơ, thi

nhân, thi sĩ, thi hào, đại thi hào. Còn có loại “đẽo câu đục vần” được ngồi một chiếu riêng.

Loại bồi bút thì bị độc giả khinh bỉ.

Trong tập “Văn 10” tập 2 có viết:

“Nhà văn phải có năng khiếu, có vốn văn hóa rộng rãi và có tư tưởng nghệ thuật độc đáo.

Nói như thế là đúng nhưng chưa đủ.

Quá trình sáng tạo

Lao động nghệ thuật của nhà văn là một thứ lạo động đặc biệt. Phải có hứng, nếu không

có hoặc chưa có cảm hứng thì

chưa thể sáng tác. Mỗi nhà văn có một cách sáng tác riêng. Xuân Diệu làm thơ được “thiết

kế” công phu chặt chẽ. Tố Hữu

thì “câu thơ trước gọi câu thơ sau”. Hoàng Cầm làm thơ, có thể như có ai đọc chính tả cho

chép lại. Ông sáng tác bài: “Lá

Diêu Bông” vào quá nửa đêm mùa rét 1959. Khi cả nhà đang ngủ say, ông tỉnh giấc “chợt

bên tai vẳng lên một giọng nữ rất

Page 154: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

nhỏ nhẹ mà rành rọt, đọc chậm rãi, có tiết điệu, nghe như từ thời nào, xa xưa vẳng đến, có lẽ

từ tiền kiếp vọng về:

“Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng…”

(“Về Kinh Bắc”, trang 160 – 161)

Nhà thơ Chế Lan Viên qua đời còn để lại một núi “Phác thảo thơ – di bút”. Đọc hồi kí

các nhà văn, nhà thơ danh tiếng,

ta ngạc nhiên và vô cùng khâm phục về lao động sáng tạo của họ. Có câu thơ được viết hàng

tháng.

Có bài thơ hình thành nhiều năm. Có cuốn tiểu thuyết được sáng tác trong 1/10, 1/5 thế

kỷ.

Để có những “thiên cổ hùng văn”, “thiên cổ kì bút”, “Sách gối đầu giường cho thiên hạ”

phải là những bậc thiên tài mới

sáng tạo nên.

Yêu văn học ta càng yêu kính và biết ơn nhà văn, nhà thơ. Tác phẩm của họ đã làm tâm

hồn ta thêm giàu có. Văn chương

là cái đẹp muôn đời. Văn chương, văn hiến, văn hóa là niềm tự hào của mỗi quốc gia.

SỔ TAY VĂN HỌC 10 - PHỔ THÔNG TRUNG HỌC

Bài số 1. Nhìn chung nền văn học Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử

Phần thứ nhất. VĂN HỌC DÂN GIAN

Bài số 2. Đại cương về văn học dân gian

Bài số 3. Sử thi

Bài số 4. Đẻ đất đẻ nước

Bài số 5. Bài ca chàng Đam Săn

Bài số 6. Chử Đồng Tử

Page 155: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Bài số 7. Trầu cau

Bài số 8. Tiễn dặn người yêu

Bài số 9. Vượt biển

Bài số 10. Bài ca người thợ mộc

Bài số 11. Tát nước đầu đình

Phần thứ hai. VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ THẾ KỶ X ĐẾN THẾ KỶ XIX

Bài số 12. Khái quát về văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX

Bài số 13. Ngôn hoài

Bài số 14. Tụng giá hoàn kinh sư

Bài số 15. Thuật Hoài

Bài số 16. Bạch Đằng giang phú

Bài số 17. Thơ văn Nguyễn Trãi

Bài số 18. Bình Ngô đại cáo

Bài số 19. Bảo kích cảnh giới - 43

Bài số 20. Cây chuối

Bài số 21. Dục Thúy sơn

Bài số 22. Ngụ hứng ở quán Trung Tân

Bài số 23. Trông bốn bề

Bài số 24. Nỗi nhớ nhung sầu muộn của người chinh phụ

Bài số 25. Mời trầu

Bài số 26. Tự tình

Bài số 27. Cảnh chùa chiền

Bài số 28. Nguyễn Du và Truyện Kiều

Bài số 29. Trao duyên

Page 156: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Bài số 30. Thúc Sinh từ biệt Thúy Kiều

Bài số 31. Kim Trọng trở lại vườn Thúy

Bài số 32. Anh hùng tiếng đã gọi rằng

Bài số 33. Độc Tiểu Thanh kí

Bài số 34. Thăng Long thành hoài cổ

Phần thứ ba. VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI - LÝ LUẬN VĂN HỌC

Bài số 35. Sử thi Hi Lạp

Bài số 36. Uylitxơ trở về

Bài số 37. Sử thi Ấn Độ

Bài số 38. Rama buộc tội

Bài số 39. Thơ Đường

Bài số 40. Hoàng Hạc lâu Tống mạnh hạo nhiên chi quảng lăng

Bài số 41. Thu hứng

Bài số 42. Hoàng lạc Lâu

Bài số 43. Tì Bà Hành

Bài số 44. Tam quốc diễn nghĩa

Bài số 45. Người lái buôn thành Vơnidơ

Bài số 46. Văn học là gì

Bài số 47. Nhà văn và quá trình sáng tạo

Page 157: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Bài ca người thợ mộc

Anh là thợ mộc Thanh Hoa,

Làm cầu, làm quán, làm nhà... khéo thay!

Lựa cột anh dựng đòn tay,

Bào trơn đóng bén nó ngay một bề.

Bốn cửa anh chạm bốn dê

Bốn con dê đực chầu về tổ tông,

Bốn cửa anh chạm bồn rồng,

Trên thì rồng ấp, dưới thì rồng leo.

Bốn cửa anh chạm bốn mèo,

Con thì bắt chuột, con leo xà nhà.

Bốn cửa anh chạm bồn gà,

Đêm thì nó gáy, ngày ra ăn vườn.

Bốn cửa anh chạm bốn lươn,

Con thì thắt khúc, con trườn bò ra.

Bốn cửa anh chạm bốn hoa,

Trên là hoa sói, dưới là hoa sen.

Bốn cửa anh chạm bốn đèn,

Một đèn dệt cửi, một đèn quay tơ.

Một đèn đọc sách ngâm thơ,

Một đèn anh để đợi chờ nàng đây.

Lời bình

Tục ngữ có câu: "Thợ mộc xứ Thanh ở quanh Kinh kì", hoặc: "Thợ mộc xứ Thanh ở

quanh Thuận Quảng". Thợ mộc dù

giỏi đến đâu cũng chỉ được gọi là phó cả. Thợ mộc làm cung điện vua chúa mới được gọi là

Page 158: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

thợ cả. Xây dựng cung điện thời

Lê - Thịnh, thời N guyễn sau này, phần lớn là thợ mộc Thanh Hoá. Câu đầu của bài ca dao

này có dị bản ghi là "Anh làm thợ

mộc Thanh Hoa". Theo ý chúng tôi là “Anh là thợ mộc Thanh Hoa”; một chữ là biết mấy tự

hào khi chàng trai xưng danh với

cô gái. Không phải thợ mộc tầm thường mà là thợ mộc Thanh Hoa xây dựng cung điện đấy

nhé! Hai chữ "khéo thay" cũng là

lời tự khen, khoe tài của anh: "Làm cầu, làm quán, làm nhà ... khéo thay"! Có tài thực mà

khoe khoang thì cũng chẳng hay ho

gì! Ở đây, chàng thợ mộc Thanh Hoa khoe tài là để tỏ tình với cô gái mà anh đang yêu, nên

rất dễ thương, được chúng ta

đồng tình.

Câu 3,4 chỉ theo đà mà nói, chứ có tài cán gì ở cái việc "bào trơn, đóng bén"... Từ câu thứ

năm trở đi, bằng biện pháp liệt

kê, chàng thợ mộc khoe tài chạm trổ của anh. Năm bức chạm con vật: dê, rồng, mèo, gà,

lươn. Hai bức chạm cảnh: hoa và

đèn. Có bức chạm tứ linh: rồng, nhưng đã được cách điệu dân gian hoá, bình dị hoá.

"Trên thì rồng ấp, dưới thì rồng leo"

Con lươn có gì đáng chạm? Với tài nghệ điêu luyện, bức chạm lươn vô cùng sống động,

tuyệt khéo:

"Bốn cửa anh chạm bốn lươn

Con thì thắt khúc, con trườn bò ra".

Nghệ thuật cổ phương Đông lấy cái cân xứng làm thành một tiêu trí của cái đẹp. Hội hoạ,

chạm trổ, kiến trúc, thơ văn...

hay miêu tả cảnh vật qua bộ tứ bình: tùng, cúc, trúc, mai; xuân, hạ, thu, đông; ngư tiều,

canh, mục...nghệ sĩ lấy cái đối xứng,

cái hài hoà làm trọng. Trong bài ca dao này, các tiểu đối đã làm rõ vẻ đẹp bức chạm đầy mĩ

Page 159: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

thuật của chàng thợ mộc:

- Trên thì rồng ấp // dưới thì rồng leo.

- Con thì bắt chuột // con leo xà nhà.

- Đêm thì nó gáy // ngày ra ăn vườn.

- Con thì thắt khúc // con trườn bò ra.

- Trên là hoa sói // dưới là hoa sen.

- v.v ...

Cái hồn của bức chạm 5 con vật được thể hiện ở trạng thái động: " Chầu về tổ tông",

"rồng ấp rồng leo", "bắt chuột... leo

xà nhà", "gáy ra ăn vườn", "thắt khúc... trườn bò ra".

Tất cả các bức chạm đều cho thấy anh thợ mộc là con một người rất tài hoa.

Anh còn là một chàng trai đa tình. Làm nghề thợ mộc dù giỏi đến mấy cũng thuộc vị thế

tầm thường qua sự xếp đặt 4 lớp

người trong xã hội phong kiến. Bức chạm hoa - hoa sói , hoa sen - là một ngầm ý: khoe tâm

hồn thanh cao. Chàng trai đang

tỏ tình không phải là loại người vai u thịt bắp đâu nhé! Bức chạm đèn mới thật kì diệu. Hai

ngọn đèn cho người khéo tay hay

lam hay làm - chính là cô gái - để dệt vải, để quay tơ. Đèn thứ ba, để cho ai, "đọc sách ngâm

thơ"? Một con người nho nhã

đang tỏ tình với nàng. Ngọn đèn thứ tư là ngọn đèn hạnh phúc:

"Một đèn anh để đợi chờ nàng đây".

Có thể nói bức chạm đèn rất đẹp, đẹp về mặt mĩ thuật, đẹp ở tâm tình chàng thợ "mộc",

đó là một con người luôn luôn

Page 160: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

hướng về một cuộc sống lao động, êm đềm hạnh phúc của lứa đôi trong mỗi gia đình Việt

Nam.

Cấu trúc bài ca dao cân xứng, hài hoà. Giọng điệu hồn nhiên tự tin và chân thành. Chàng

thợ mộc Thanh Hoa là một chàng

trai tài hoa và đa tình: Anh là một con người dễ mến dễ thương.

Tát nước đầu đình

Hôm qua tát nước đầu đình,

Bỏ quên cái áo trên cành hoa sen.

Em được thì cho anh xin,

Hay là em để làm tin trong nhà.

Áo anh sứt chỉ đường tà,

Vợ anh chưa có, mẹ già chưa khâu.

Áo anh sứt chỉ đã lâu,

Mai mượn cô ấy về khâu cho cùng.

Khâu rồi anh sẽ trả công,

Đến khi lấy chồng anh sẽ giúp cho.

Giúp cho một thúng sôi vò,

Một con lợn béo, một vò rượu tăm.

Giúp cho đôi chiếu em nằm,

Đôi chăn em đắp, đôi trằm em đeo.

Giúp cho quan tám tiền cheo,

Quan năm tiền cưới lại đèo buồng cau.

Lời bình

"Tát nước đầu đình" là bài ca dao tỏ tình của anh trai cày với cô gái thôn nữ. Đã có bài

"Mận hỏi Đào"... Cũng có cảnh thổ

Page 161: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

lộ tình yêu một cách mộc mạc:

"Gặp đây anh lắm cổ tay,

Anh hỏi câu này, có lấy anh không?"

Bài ca dao "Tát nước đầu đình" cho thấy, anh trai cày này dễ thương hơn. Gặp cô thôn nữ

chắc anh đã "phải lòng" rồi, anh

lấy cớ "mất áo" để bắt chuyện. Sen làm gì có cành, đó chỉ là cách nói cho đậm đà. Cô gái bị

buộc vào một cảnh ngộ "khó

xử":

"Em được thì cho anh xin

Hay là em để làm tin trong nhà"

Chiếc áo đã trở thành "cái cầu" thương nhớ! Thật là hồn nhiên, tự nhiên. Cô thôn nữ chắc

là đã "Lắng nghe lời nói như ru -

Chiều thu dễ khiến nét thu ngại ngùng" (K iều). Bỏ đi sao đành, khi nghe chàng thổ lộ gia

cảnh:

"Áo anh rứt chỉ đường tà,

Vợ anh chưa có, mẹ già chưa khâu"

Cái áo đã đi trọn một vòng đời khi anh nói: "Mai mượn cô ấy về khâu cho cùng". Anh

đang chăn đơn gối chiếc, thiếu kẻ

sửa túi nâng khăn. Anh chỉ có mẹ già, "mẹ già bằng ba lần cửa", "mẹ già như chuối ba

hương - như xôi nếp mật như đường

mía lau" (ca dao).

Cảnh ngộ ấy, ai nghe mà chẳng động lòng. Từ chỗ gọi bằng "em", chàng trai cày chuyển

sang gọi bóng gió: "cô ấy".

Chàng trai nói về chuyện "trả công", nói về chuyện "giúp cho". Rất hậu hĩnh: "một thúng

xôi vò", "một con lợn béo", "một vò

rượu tăm". Cũng với lời nói, đến đây, khoé mắt, đôi mày, nụ cười, mái tóc ... như đều biết

nói, cùng tham dự vào cuộc tỏ

Page 162: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

tình. Mỗi lúc một hé lộ, cánh cửa tâm tình mở rộng dần ra. Từ "một" đã thành "đôi" rồi:

"Giúp em đôi chiếu em nằm

Đôi chăn em đắp, đôi trằm em đeo"

Bài ca dao, "bức thông điệp của tình yêu" đã thấm sâu vào tâm hồn người thiếu nữ khi

bên tai nàng một tiếng nói chân tình

vang ngân:

"Giúp cho quan tám tiền cheo,

Quan năm tiền cưới, lại đèo buồng cau".

Các điệp từ, điệp ngữ: "giúp cho.... giúp cho..." tạo nên ngữ điệu nồng nàn, ý vị, thiết tha,

thể hiện một cách chân thành

nỗi ước mơ nên vợ nên chồng mà chàng trai cày đang hướng tới.

Cho chim khoe giọng hót. Anh thợ mộc Thanh Hoa khoe tài. Chàng trai cày nói chuyện

bỏ quên cái áo "sứt chỉ đường tà"

v.v… Trai gái làng xưa đã tỏ tình, đã giao duyên... đậm đà như vậy.

Lao động, hạnh phúc lứa đôi, cuộc sống êm đềm hạnh phúc "chồng cày, vợ cấy, con trâu

đi bừa", là ước mong, khát vọng

muôn đời của họ. Chân thành, tế nhị ... của chàng trai trong tỏ tình, trong giao tiếp... là một

nét rất đẹp trong tâm hồn để ta

trân trọng.

Khái quát về văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX

Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX tồn tại và phát triển trong lòng xã hội

và văn hoá phong kiến được gọi

là Văn học trung đại Việt Nam.

I. Các giai đoạn phát triển

1. Giai đoạn từ thế kỷ X đến thế kỷ XV

- 3 cuộc kháng chiến vĩ đại: thời Lý đánh bại giặc Tống; thời Trần ba lần đánh thắng giặc

Page 163: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Nguyên - Mông; thời Lê đánh

đuổi quân "cuồng Minh" tàn bạo.

- Chịu ảnh hưởng tư tưởng của đạo Phật, đạo Nho và đạo Lão; sâu sắc nhất và bao trùm

nhất là đạo Nho.

- Văn học Hán Nôm thấm nhuần tư tưởng yêu nước và tinh thần dân tộc, ý chí chống

xâm lăng. Tác giả tiêu biểu nhất: Lý

Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông.

2. Giai đoạn từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XVIII

- Chế độ phong kiến khủng hoảng. Nội chiến Nam - Bắc triều; Trịnh - Nguyễn phân

tranh. Khởi nghĩa nông dân nổi lên

như vũ bão.

- Văn thơ chữ Nôm phát triển mạnh. Cảm hứng nhân đạo dào dạt nói lên nỗi đau thương

của con người, biểu lộ tấm lòng

thương dân lo đời.

Tác giả tiêu biểu nhất là Nguyễn Bỉnh Khiêm, Đào Duy Từ....

3. Giai đoạn từ nửa sau thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX

Chế độ phong kiến Việt Nam (cả Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài) khủng hoảng trầm trọng

và sụp đổ. Khởi nghĩa nông dân

Tây Sơn quét sạch thù trong giặc ngoài. Gia Long thiết lập triều Nguyễn. Nước ta rơi vào

hiểm hoạ xâm lăng của thực dân

Pháp.

- Thiên chúa giáo được truyền vào nước ta. Chữ quốc ngữ xuất hiện.

- Văn học viết Hán, Nôm phát triển rực rỡ. Chủ nghĩa nhân đạo thấm đẫm văn chương.

"Chinh phụ ngâm", "Cung oán

ngâm khúc","Truyện kiều"... là những áng thơ kiệt tác. Tên tuổi những nữ sĩ Đoàn Thị

Điểm, Hồ Xuân Hương, Bà Huyện

Thanh Quan sáng chói cùng với N guyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát.....

Page 164: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

4. Giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX.

- Thực dân Pháp xâm lăng, rồi thống trị nước ta. Phong trào yêu nước chống Pháp.

- Bắt đầu có văn thơ viết bằng chữ quốc ngữ. Giai đoạn cuối cùng của văn học chữ Nôm.

Nguyễn Đình C hiểu, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương... là những nhà thơ tiểu biểu nhất

giai đoạn này.

II. Mấy đặc điểm lớn về nội dung

1. Cảm hứng yêu nước.

2. Cảm hứng nhân đạo.

III. Mấy đặc điểm lớn về hình thức

1. Yếu tố Hán và yêu cầu dân tộc hoá hình thức văn học.

2. Tính quy phạm và việc phá vỡ tình quy phạm.

3. Phạm vi và quy mô kết tinh nghệ thuật của văn học.

Ngôn Hoài

Không Lộ Thiền sư

Trạch đắc long xà địa khả cư,

Dã tình chung nhật lạc vô dư.

Hữu thì trực thượng cô phong đính,

Trưởng khiếu nhất thanh hàn thái hư.

Tỏ lòng

Kiều đất long xà chọn được nơi

Tình quê nào chán suốt ngày vui.

Có khi đỉnh núi trèo lên thẳng

Một tiếng kêu vang lanh cả trời.

Phan Võ dịch

I. Tác giả

Page 165: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Không Lộ Thiền sư (?- 1119) là Phật danh, họ Dương, quê ở Nam Định, vùng biển. Đức

trọng tài cao, tên tuổi gắn liền

với nhiều giai thoại nhà chùa và hai bài tứ tuyệt: "Ngôn hoài", "Ngư nhàn".

II. Chủ đề

"Ngôn hoài"- giãi bày nỗi lòng của vị Thiền sư - thi sĩ - tình yêu đời chan hoà với tình

yêu quê hương, yêu thiên nhiên tạo

vật.

III. Phân tích

Hai câu đầu nói lên niềm vui dào dạt "suốt ngày vui", đó là "dã tình", là mối tình quê

nhà, đồng ruộng, núi rừng. Vui vì

chọn được "kiểu đất long xà" rất đẹp, rất thích để làm nhà. Niềm vui ấy bình dị như mọi

người. Không Lộ tuy là một vị Thiền

sư nhưng không thoát tục, vui niềm vui bình dị, yêu tình yêu quê hương.

Hai câu 3, 4 thể hiện khí phách và sự chan hoà của nhà thơ giữa thiên nhiên cao rộng,

trèo thẳng lên đỉnh núi cao rồi kêu

lên một tiếng thật to và dài trấn động cả bầu trời, vũ trụ. Chữ dùng thật hay, biểu lộ một chí

khí. Một tâm thế hào hùng, kỳ lạ :

"Hữu thì trực thượng cô phong đính,

Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư"

IV. Đọc thêm

Ngư nhàn

Vạn lý thanh giang, vạn lý thiên.

Nhất thôn tang giá, nhất thôn yên.

Ngư ông thụy trước vô nhân hoán,

Quá ngọ tinh lai tuyết mãn thuyền.

Không Lộ Thiền sư

Page 166: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Cảnh thanh nhàn của ngư ông

Mây xanh nước biếc muôn trùng,

Dâu chen khói toả một vùng thôn quê.

Ô ng chài giấc ngủ đang mê,

Quá trưa tỉnh dậy tuyết che đầy thuyền.

Đinh Văn Chấp dịch

(Tạp chí Nam Phong 1927)

Tụng giá hoàn kinh sư

Trần Quang Khải

Doạt sóc Chương Dương độ

Cầm Hồ Hàm Tử quan

Thái bình tu trí lực

Vạn cổ thử giang sơn

Phò giá về kinh

Chương Dương cướp giáo giặc,

Hàm tử bắt quân thù

Thái Bình nên gắng sức

Non nước ấy nghìn thu

Trần Kim Trọng dịch

(Việt Nam sử lược)

I. Tác giả

Trần Quang Khải (1241 - 1294) là thượng tướng, có công lớn trong cuộc kháng chiến

(lần thứ 2 và lần thứ 3) đánh thắng

giặc Nguyên – Mông. Học rộng, giỏi thơ văn, có tài thao lược và ngoại giao. Ông có tập

thơ "Lạc đạo", nổi tiếng nhất là bài

Page 167: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

thơ "Tụng giá hoàn kinh sư"

II. Xuất xứ chủ đề

1. Tháng 4/1285, Trần Nhật Duật chém đầu Toạ Đô tại Hàm Tử quan. Tháng 6/1285,

Trần Quang Khải đại phá giặc

Nguyên Mông tại Chương Dương độ, tiến lên giải phóng Thăng Long. Bài thơ "Tụng giá

hoàn kinh sư "được viết sau chiến

thắng Chương Dương độ.

2. Bài thơ biểu lộ niềm tự hào, niềm vui thắng trận và nói lên khát vọng đem tài trí xây

dựng đất nước thanh bình

bền vững muôn đời.

III. Phân tích

Bài thơ được viết theo thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt. Hai câu đầu bình đối như hai trang kí

sự chiến trường. Vị ngữ "đoạt

sóc" (cướp giáo) và "cầm Hồ" (bắt giặc Mông Cổ) được đặt ở đầu câu, thể hiện hai thế

đánh, hai cú đánh liên tiếp giáng

xuống đầu giặc với sức mạnh "Sát Thát" của tướng sĩ thời Trần. Chương Dương độ và Hàm

Tử quan, hai địa danh, hai chiến

công đã được ghi vào sử sách và thơ ca dân tộc trở nên trường tồn, chói lọi:

"Đoạt sóc Chương Dương độ

Cầm Hồ Hàm Tử quan "

Câu thơ như một bản tin chiến sự, có một sức nén và vang xa, dạt dào tự hào. Phải là

người tham dự, chỉ huy trận đánh

mới viết hàm súc và đĩnh đạc, hào hùng như vậy.

Hai câu cuối, một ý thơ mới xuất hiện. Trong khói lửa chiến trường, trong niềm vui chiến

thắng giải phóng kinh thành Thăng

Long trên đống tro tàn do lũ giặc gây ra, nhà thơ nghĩ đến nhiệm vụ mới:

"Thái bình tu trí lực

Page 168: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Vạn cổ thử giang san”

Trước mắt mọi người, từ vua tôi, tướng sĩ đến trăm họ, toàn dân, ai ai cũng phải đem tài

trí sức lực, của cải (trí lực) để xây

dựng giang san đất nước bền vững trong thanh bình đến muôn đời. Nhãn quan chính trị của

Trần Quang Khải vô cùng sáng

suốt. Câu thơ trên có ý nghĩa thời sự đối với chúng ta hiện nay.

Tóm lại, "Tụng giá hoàn kinh sư" là bài thơ kiệt tác. Bản dịch của tác giả Trần Trọng

Kim rất đặc sắc.

Thuật Hoài

Hoành sóc giang sơn cáp kỉ thu

Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu

Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu.

Phạm Ngũ Lão

Tỏ lòng

Múa giáo non sông trải mấy thâu,

Ba quân hùng khí át sao Ngưu

Công danh nam tử còn vương nợ

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu.

Trần Trọng Kim dịch.

(Việt Nam sử lược)

I. Tác giả

Phạm Ngũ Lão (1255-1320) quê ở làng Phù Ủng, Hải Dương. Là danh tướng thời Trần

trăm trận trăm thắng, văn võ toàn

tài. Còn lưu lại hai bài thơ "Thuật Hoài" và "Vân thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại

Vương".

Page 169: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

II. Chủ đề

Bài thơ "Thuật Hoài" nói lên chí khí và khát vọng công danh anh hùng của đấng nam nhi

trong thời loạn- khi Tổ

Quốc bị xâm lăng.

III. Lời bình

Cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ thơ đanh thép hùng hồn. Trong đạo quân mạnh như hổ báo,

chí khí lẫm liệt làm át, làm mờ cả

sao Ngưu trên bầu trời, thì người chiến sĩ thời Trần đã cầm ngang ngọn giáo để bảo vệ giang

sơn. Ngọn giáo ấy mang tầm vóc

kì vĩ đo bằng kích thước non sông. Hình tượng người anh hùng "Sát Thát" được thể hiện

bằng ngôn ngữ tráng lệ, kì vĩ khác

nào người anh hùng thần thoại, người dũng sĩ trong sử thi xa xưa?

Người anh hùng thuở "Bình N guyên" nung nấu trong lòng, cháy bỏng tâm hồn niềm

khao khát: đánh giặc lập công để đền

ơn vua báo nợ nước. Mang nặng nợ công danh cũng là khát vọng anh hùng cao đẹp. Tự tin

và tự hào khi nhà thơ khẳng định.

"Công danh nam tử còn vương nợ

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu"

Bài thơ là khúc tráng ca của người anh hùng Phạm Ngũ Lão trăm trận trăm thắng. Cùng

với "Hịch tướng sĩ " (Trần Quốc

Tuấn), "Tụng giá hoàn kinh sư" (Trần Quang Khải)... bài thơ "Thuật hoài" của Phạm Ngũ

Lão sáng ngời Hào khí Đông - Á.

Bạch Đằng giang phú

I. Tác giả

Trương Hán Siêu (?-1354), tự là Thăng Phủ, quê ở N inh Bình. Vốn là môn khách của

Hưng Đạo Vương. Dưới triều Trần

Anh Tông, Trần Dụ Tông, ông làm quan to trong triều. Lúc mất được truy tặng Thái bảo,

Page 170: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

được thờ ở Văn Miếu.

Là bậc danh sĩ tài cao học rộng. Hiện còn để lại 4 bài thơ, 3 bài văn, nổi tiếng nhất là

"Bạch Đằng giang phú".

II. "Phú" là gì?

"Phú" nghĩa đen là bày tỏ, miêu tả, là thể văn xuôi có vần dùng để tả cảnh vật, phong tục,

tính tình. Phú được chia làm hai

loại:

1. Phú cổ thể gọi là Phú lưu thuỷ, như một bài ca, hoặc một bài văn xuôi dài mà có vần.

2. Phú Đường luật là thể phú được đặt ra từ đời Đường vừa có vần vừa có đối, có luật

bằng trắc nghiêm nhặt.

Bố cục một bài phú gồm có 6 phần: 1, Lung; 2, Biện nguyên; 3, Thích thực; 4, Phu diễn; 5,

Nghị luận; 6, Kết.

Cách đặt câu trong một bài phú gồm có các kiểu sau: Câu tứ tự, câu bát tự, câu song quan,

câu cách cú, câu gối hạc.

Có hay chữ (tài giỏi), có tài hoa mới viết được phú. Cần hiểu thi pháp về phú mới cảm nhận

được cái hay của văn chương,

tư tưởng của phú và văn tế

III. Chủ đề

"Bạch Đằng giang phú" đã ca ngợi sông Bạch Đằng hùng vĩ từng ghi bao chiến công

oanh liệt của tổ tiên, biểu lộ niềm tự

hào về đất nước ta có "đất hiểm" có lắm anh hùng hào kiệt, để đánh giặc ngoại xâm, bảo vệ

nền độc lập thanh bình bền vững.

IV. Những nét lớn cần biết

1. "Bạch Đằng giang phú" được viết theo thể phú lưu thuỷ, có vần, tác giả sử dụng phép

đối nhiều chỗ. "Bài ca cuối bài

phú" là một sự sáng tạo. Nhân vật "khách" là nhân vật trữ tình - chính là nhà thơ.

2. Đoạn tả cảnh sắc Bạch Đằng giang hùng vĩ tráng lệ bằng cảm hứng thiên nhiên chan

Page 171: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

hoà với cảm hứng lịch sử là

đoạn hay nhất:

"Bát ngát sóng kình muôn dặm

Thướt tha đuôi trĩ một mầu

Nước trời: một sắc

Phong cảnh: ba thu

Bờ lau san sát

Bến lách đìu hiu

Sông chìm giáo gẫy

Gò đầy xương khô..."

3. Bô lão xuất hiện cuộc đối thoại giữa "khách" và "bô lão" làm cho giọng điệu bài phú

từ cảm xúc trữ tình chuyển thành

anh hùng ca. Nhà thơ tái hiện lại cảnh tượng chiến trường một thời oanh liệt - trận thuỷ

chiến trên sông Bạch Đằng:

"Đây là chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã.

Cũng là bãi đất xưa thuở trước Ngô chúa phá Hoàng Thao.

Đương khi ấy

Thuyền bè muôn đội

Tinh kỳ phấp phới.

Tì hổ ba quân.

Giáo gươm sáng chói

Trận đánh thư hùng chửa phân,

Chiến luỹ Bắc, Nam chống đối.

Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,

Bầu trời đất chừ sắp đổi

Page 172: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

(...) Đến nay sông nước tuy chảy hoài

Mà nhục quân thù khôn rửa nổi"

4. Trận thuỷ chiến trên sông Bạch Đằng khác nào trận Xích Bích, trận Hợp Phì trong Bắc

sử. Nhà thơ tự hào khẳng

định và ngợi ca:

"Quả là trời đất cho nơi hiểm trở,

Cũng nhờ nhân tài giữ cuộc điện an...

(...) Kìa trận Bạch Đằng mà đại thắng

Bởi Đại Vương coi thế giặc nhan ..."

5. Bài ca về sông Bạch Đằng

Sông Bạch Đằng hùng vĩ, là mồ chôn quân xâm lược:

"Sông Đằng một giải dài ghê

Sóng hồng cuồn cuộn tuôn về bể Đông."

Bài học giữ nước là bài học "đức cao" đó là lòng yêu nước, tinh thần đại đoàn kết chống

xâm lăng. Ý tưởng sâu sắc, tiến

bộ:

"Giặc tan muôn thuở thanh bình

Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao."

V. Tổng kết

"Bạch Đằng giang phú" là bài ca yêu nước và tự hào dân tộc. Ngôn ngữ tráng lệ. Dòng

sông hùng vĩ, hiểm trở. Dân tộc anh

hùng có nhiều nhân tài hào kiệt. Nhà thơ thể hiện những tư tưởng sâu sắc tiến bộ về vinh và

nhục, thắng và bại, tiêu vong

và trường tồn, đất hiểm và đức cao... Đó là bài học lịch sử sáng giá đến muôn đời.

Có những câu văn như một châm ngôn khẳng định một chân lí lịch sử.

"Những người bất nghĩa tiêu vong

Page 173: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

N ghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh"

Thơ văn Nguyễn Trãi

I. Cuộc đời Nguyễn Trãi

Nguyễn Trãi (1380-1442) hiệu là Ức Trai, người ở làng Nhị Khê, Thường Tín, Hà Tây.

Là con của Nguyễn Phi Khanh,

cháu ngoại tướng công Trần Nguyên Đán. Đỗ Thái học sinh năm 1400. Năm 1407 giặc

Minh xâm chiếm nước ta, cha bị giặc

bắt đưa về Trung Quốc, Nguyễn Trãi bị giặc giam lỏng tại thành Đông Quang.

- Nguyễn Trãi biệt Đông Quan, trốn vào Lam Sơn dâng "Bình Ngô sách" lên Lê Lợi, trở

thành vị quân sư "viết thư thảo

hịch tài giỏi hơn hết một thời".

- Năm 1428, ông thay lời Lê Lợi thảo "Bình Ngô Đại Cáo" sau đó được cử làm Chánh

chủ khảo khoa thi tiến sĩ đầu tiên

của triều Lê và viết chiếu cầu hiền. Chẳng bao lâu sau, ông bị bọn nịnh thần chèn ép, gièm

pha. Nguyễn Trãi xin về Côn Sơn.

Năm 1440, ông lại được vua vời ra giúp nước.

- Năm 1442 xẩy ra vụ án Lệ Chi Viên, ông bị kết án "tru di tam tộc". Mãi đến năm 1464,

vua Lê Thánh Tông mới minh

oan cho ông và truy tặng ông tước Tán trù bá.

Nguyễn Trãi là người anh hùng thủa"Bình N gô", văn võ toàn tài.

II. Sự nghiệp trước tác của Nguyễn Trãi

1. "Quân trung từ mệnh tập"

- "Bình Ngô Đại Cáo"

"Dư địa chí "... "Lam Sơn thực lực"

"Phú núi Chí Linh", "Q uốc âm thi tập", "Ức Trai thi tập",

- v.v...

Page 174: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

2. Nội dung thơ văn Nguyễn Trãi

a) Tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước và thương dân sâu sắc

- Thương dân, trừng phạt kẻ có tội (điếu phạt) tiêu diệt quân tàn bạo hại nước hại dân (trừ

bạo), đem lại yên vui, hạnh

phúc cho nhân dân (yên dân), đó là việc nhân nghĩa:

"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo"

- Sức mạnh nhân nghĩa là sức mạnh Việt Nam để chiến thắng thù trong giặc ngoài. Đó là

"Đại nghĩa" (nghĩa lớn vì nước vì

dân), là lòng "chí nhân" (thương người vô hạn):

"Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,

Lấy chí nhân để thay cường bạo"

- Lòng căm thù giặc sôi sục, quyết không đội trời chung với quân "cuồng M inh":

Ngẫm thù lớn há đội trời chung,

Căm giặc nước thề không cùng sống

- Tư tưởng nhân nghĩa của Ức Trai luôn luôn gắn liền với lòng "trung hiếu" và niềm "ưu

ái" (lo nước, thương dân).

"Bui có một lòng trung lẫn hiếu

Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen"

(Thuận hứng - 24)

"Bui một tấc lòng ưu ái cũ,

Đêm ngày cuồn cuộn nước triều Đông"

(Thuật hứng - 5)

b) Văn thơ Nguyễn Trãi thể hiện tình yêu thắm thiết đối với thiên nhiên, đối với quê

hương, gia đình.

- Yêu thiên nhiên:

Page 175: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

+ Yêu cây cỏ hoa lá, trăng nước mây trời, chim muông ...

"Hái cúc ương lan, hương bén áo

Tìm mai, đạt nguyệt, tuyết xâm khăn"

"Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc

Thuyền chở yên hà nặng vạy then"

"Cò nằm, hạc lẩn nên bầy bạn

Ủ ấp cùng ta làm cái con"

+ Yêu quê hương gia đình:

"...Ngỏ cửa nho, chờ khách đến

Trồng cây đức, để con ăn"

"Nợ cũ chước nào báo bổ

Ơn thầy ơn chúa liễn ơn cha"

"Quê cũ nhà ta thiếu của nào

Rau trong nội, cá trong ao"

+ Yêu danh lam thắng cảnh.

"Muôn hàng giáo ngọc tre gài cửa

Bao dải tua châu đá rủ mành"

(Đề chùa Hoa yên, núi Yên Tử)

"Một vùng biếc sẫm gương lồng bóng,

Muôn hộc xanh om tóc mượt màu"

(Vân Đồn)

"K ình ngạc băm vằm non mấy khúc

Giáp gươm chìm gẫy bãi bao tầng"

(Cửa biển Bạch Đằng)

c) Một cuộc đời thanh bạch, một tâm hồn thanh cao.

Page 176: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

...."Một tầm lòng son ngời lửa luyện.

Mười năm thanh chức ngọc hồ băng"

..."Nước biển non xanh thuyền gối bãi

Đêm thanh nguyệt bạc khách lên lầu".

"Say minh nguyệt, chè ba chén

Thú thanh phong, lều một gian "

"Sách một hai phiên làm bậu bạn.

Rượu năm ba chén đổi công danh"

3. Nghệ thuật

- Văn chính luận như "Bình Ngô Đại Cáo" thì hùng hồn, đanh thép, sắc sảo, đúng là tiếng

nói của một dân tộc chiến

thắng, một đất nước có nền văn hiến lâu đời.

- Thơ chữ Hán hàm súc, tinh luyện, thâm trầm. Thơ chữ Nôm bình dị mà tài hoa, thiết tha

đằm thắm. Thơ thất ngôn xen

lục ngôn là một dấu ấn kì lạ của nền thơ chữ Nôm dân tộc.

Nguyễn Trãi là anh hùng dân tộc, nhà văn hoá vĩ đại, là đại thi hào dân tộc. Nguyễn Trãi

còn là ông tiên ở trong lầu ngọc

mà tâm hồn lộng gió thời đại. Cuộc đời và thơ văn Nguyễn Trãi là bài ca yêu nước, tự hào

dân tộc.

Bình Ngô đại cáo

Nguyễn Trãi

I. Xuất xứ.

Năm 1407, giặc Minh xâm lăng nước ta. Năm 1417, tại núi rừng Lam Sơn, Thanh Hoá,

Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa xưng là

Bình Định Vương. Trải qua mười năm kháng chiến vô cùng gian lao và anh dũng, nhân

Page 177: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

dân ta quét sạch giặc Minh ra khỏi bờ

cõi. Mùa xuân năm 1428 thay lời Lê Lợi, Nguyễn Trãi thảo "Bình Ngô Đại cáo". Nó là một

luận văn chính trị, quân sự,

đồng thời là áng "thiên cổ hùng văn"

II. Chủ đề

"Bình Ngô đại cáo" khẳng định sức mạnh nhân nghĩa Đại Việt căm thù lên án tội ác ghê

tởm của quân "cuồng Minh", ca

ngợi những chiến công oanh liệt thuở "Bình Ngô", tuyên bố đất nươc Đại Việt bước vào kỷ

nguyên mới độc lập, thái bình bền

vững muôn thuở.

III. Phân tích

1. Đại Việt là một đất nước có truyền thống nhân nghĩa cao đẹp

a) Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn nêu cao ngọn cờ nhân nghĩa, đem "quân điếu phạt" để tiêu

diệt quân cường bạo, vì độc lập

của nước, vì sự yên vui hạnh phúc của nhân dân:

"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo"

b) Nguồn gốc của nhân nghĩa Đại Việt là nền văn hiến lâu đời. Đâu phải "N am man" là

"man di mọi rợ". Như bọn

hoàng đế phương Bắc thường láo xược phán truyền. Trái lại, Đại Việt là một quốc gia "vốn

xưng nền văn hiễn đã lâu". Nền

văn hiến ấp hợp thành bởi các nhân tố:

- Có núi sông bờ cõi "đã chia", đã " định phận tại Thiên thư".

- Có thuần phong mĩ tục.

- Có nền độc lập vững bền: "Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập", "hùng cứ một

phương".

Page 178: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

- Lắm nhân tài hào kiệt.

- Có truyền thống anh hùng chống ngoại xâm, có những trang sử vàng chói lọi từng làm

cho "Lưu Cung thất bại", "Triệu

Tiết tiêu vong", "bắt sống Toa Đô", "giết tươi Ô mã".

2. "Bình Ngô đại cáo" là bản cáo trạng đanh thép, đầy căm thù tội ác quân "cuồng

Minh". Tác giả đứng trên

quan điểm nhân nghĩa mà lên án quân xâm lược

- Giặc Minh tàn sát dã man nhân dân ta:

"Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,

Vùi con đỏ dưới hầm tai vạ"

- Tàn phá môi trường môi sinh, bóc lột vơ vét thậm tệ:

"Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,

Nặng thuế khoá sạch không đầm núi"

- Bắt dân ta xuống bể mò ngọc trai, lên rừng bẫy hươu đen... gây ra bao thảm cảnh. Bọn

thái thú, bọn tướng tá Thiên triều

như một lũ quỷ khát máu vô cùng ghê tởm: "Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no

nê chưa chán!".

Tội ác của giặc Minh chồng chất như núi, đầy mưu mô xảo quyệt "dối trời, lừa dân... gây

binh, kết oán". Một cách nói thâm

xưng đầy căm thù, ám ảnh:

"Dơ bẩn thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,

Độc ác thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!

Lẽ nào trời đất dung tha

Ai bảo thần dân chịu được?"

Từ xưa tới nay, chưa có nhà văn nào viết cụ thể mà khái quát tội ác xâm lược đối với

nhân dân ta như Nguyễn Trãi.

Page 179: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

3. Nguồn sức mạnh nhân nghĩa Đại Việt

a. Lãnh tụ nghĩa quân là một anh hung xuất chúng:

"Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,

Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.

(...) Thế trận xuất kì, lấy yếu chống mạnh,

Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều".

b. Sức mạnh của lòng căm thù giặc và tinh thần đại đoàn kết dân tộc để chiến thắng

quân xâm lược:

- “Ngẫm thù lớn há đội trời chung,

Căm giặc nước thề không cùng sống"

- "Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới,

Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào".

4. Quá trình phản công và toàn thắng

a. Nguồn gốc của chiến thắng là sức mạnh nhân nghĩa:

"Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,

Lấy trí nhân để thay cường bạo"

b. Trận đầu thắng lớn, giáng sấm sét vào đầu lũ xâm lăng:

"Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,

Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay"

c. Giải phóng miền rộng lớn đất nước:

"Thừa thắng ruổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,

Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về".

d. Quân ta càng đánh càng thắng to. Giặc Minh bị giáng những đòn chí mạng! Máu giặc

chảy thành sông thây

chết đầy nội.

Page 180: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

"N inh K iều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm

Tụy Động thây chết đầy nội, nhơ để ngàn năm".

e. Viện binh giặc bị tiêu diệt: Liễu Thăng "cụt đầu", bá tước Lương Minh "đại bại từ

vong", thượng thư Lý Khánh cùng

kế tự vẫn, Đô đốc "Thôi Tụ" lê gối dâng tờ tạ tội, thượng thư Hoàng Phúc "trói tay để tự xin

hàng". Cánh quân Vân Nam bị

đánh "vỡ mật", quân Mộc Thạnh "xéo lên nhau để chạy thoát thân". Cảnh tượng chiến

trường vô cùng rùng rợn, thảm đạm:

"Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đường,

Xương Giáng, Bình Than máu hôi đỏ

Suối Lãnh Câu máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc,

Thành Đan Xá thây chất đầy núi cỏ nội đầm đìa máu đen"

f. Giặc Minh bị hoàn toàn thất bại thảm hại. Viện binh "hai đạo tan tành"; Quân giặc các

thành "cởi giáp ra hàng”. Lũ

tướng tá Thiên triều và hàng chục vạn giặc bị bắt làm tù binh, hoặc đầu hàng đã bị tha tội

chết, được đối xử nhân đạo:

"Mã Kì, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể mà vẫn hồn bay phách

lạc.

Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa về đến nước mà vẫn tim đập chân run.”

- Quá trình phản công là một quá trình vươn dậy của cả dân tộc với sức mạnh vỡ bờ, bất

khả chiến thắng. Ngôn ngữ tráng

lệ, giọng văn mang âm điệu anh hùng ca:

" Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,

Voi uống nước, nước sông cũng cạn,

Đánh một trận, sạch không kình ngạc,

Đánh hai trận, tan tác chim muông ..."

Page 181: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

5. Lời tuyên bố

- Ngàn năm, vết nhục nhã sạch làu.

- Trời đất, tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đỡ... là nguyên nhân chiến thắng.

- Sự nghiệp "Bình N gô" là chiến công "oanh liệt ngàn năm"

- Đại Việt bước vào một kỷ nguyên mới: độc lập và thái bình vững chắc:

" Xã tắc từ đây vững bền,

Giang sơn từ đây đổi mới,

... Muôn thưở nền thái bình vững chắc"

III. Tổng kết

1. " Bình Ngô đại cáo" được viết theo thể "cáo" lối liền ngẫu loại chính luận, dùng cho

nhà vua để tuyên bố những vấn đề

trọng đại cho toàn dân biết. " Bình Ngô đại cáo" vừa là một bản tổng kết cuộc kháng chiến

mười năm chống giặc minh vừa là

lời tuyên ngôn độc lập, hoà bình.

2. Lập luận đanh thép, giọng văn hùng hồn, ngôn ngữ tráng lệ. "Bình Ngô đại cáo" dào

dạt tinh thần yêu nước, là áng "thiên

cổ hùng văn" khẳng định sức mạnh nhân nghĩa Đại Việt.

Bảo kính cảnh giới - 43

Nguyễn Trãi

Rồi bóng mát thuở cảnh trường

Hoè lục đùn đùn tán rợp trương

Thạnh lựu hiên còn phun thức đỏ

Hồn liên trì đã tịn mùi hương

Lao xao chợ cá làng ngư phủ,

Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.

Page 182: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Dẽ có Ngu Cầm đàn một tiếng.

Dân giàu đủ khắp đòi phương.

I. Xuất xứ

"Quốc âm thi tập"của Nguyễn Trãi hiện còn 254 bài thơ Nôm, trong đó có nhiều bài bát

cú, thất ngôn xen lục ngôn. Chùm

thơ "Bảo Kính cảnh giới" gồm có 61 bài trong "Quốc âm thi tập". Đây là bài 43. Nguyễn

Trãi viết bài thơ này khi ông đã về

Côn Sơn ở ẩn.

II. Chủ đề

Bài thơ nói lên niềm vui trước cảnh mùa hè và nỗi ước mong của bài thơ.

III. Phân tích

1. Niềm vui trước cảnh mùa hè

Đã thoát khỏi vòng danh lợi về sống giữa làng quê. Niềm vui nhàn hạ được "hóng mát"

được ngắm cảnh sắc mùa hè, thích

thú trước màu "lục" của tán hoè, trước sắc đỏ của hoa thạch lựu ngoài hiên, trước sen hồng

trong ao. Vui với niềm vui của bà

con làng chài, vui vì tiếng ve ngân như tiếng đàn cầm. Vui trong hoà điệu "lao xao" và

"dắng dỏi" của khúc nhạc đồng quê sớm

sớm chiều chiều.

"Lao xao chợ cá làng ngư phủ

Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương"

Nhà thơ giầu tình yêu thiên nhiên, gắn bó với quê hương. Một con người yêu đời và ham

sống. Màu sắc, âm thanh trong

vần thơ cho thấy cái thú vị đồng quê đáng yêy vô cùng.

2. Nỗi ước mong

"Dẽ có Ngư Cầm đàn một tiếng.

Page 183: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Dân giàu dù đủ khắp đòi phương"

Nhờ thơ tâm sự: hãy để cho ta có cây đàn thần của vua Thuấn, ta đàn lên một tiếng thôi,

thì dân khắp mọi miền, mọi nơi sẽ

giàu đủ no ấm, hạnh phúc. Niềm mong ước ấy hướng về nhân dân, lấy sự ấm no của nhân

dân làm niềm vui của mình. Trong

"Bình Ngô đại cáo", Nguyễn Trãi nói đến "yên dân", "để nhân dân nghỉ sức". Trong bài

"Tùng", ông cũng viết "Dành còn để

trợ dân này". Đó là tư tưởng lấy dân làm gốc.

3. Ngôn ngữ thơ thâm trầm, bình dị. Câu 1 câu 8 là câu "lục ngôn" một nét độc đáo của

thơ Nôm Ức Trai.

Cây chuối

Nguyễn Trãi

Tự bén hơi xuân tốt lại thêm,

Đầy buồng lạ, mầu thâu đêm.

Tình như một bức phong còn kín,

Gió nơi đâu gượng mở xem.

I. Xuất xứ

Trong " Quốc âm thi tập" có chùm thơ "Môn hoa mộc" hiện còn 34 bài nói về các loài

hoa như sen, mai, cúc, đào, hoè,

nhài... các loại cây như thiên tuế, tùng, trúc, cây đa, cây mía, cây chuối... phần lớn là thơ tứ

tuyệt thất ngôn xen lục ngôn.

Bài "Cây chuối" nằm trong chùm thơ "Môn hoa mộc" ấy.

II. Phân tích

- Câu 1, 2 (khai, thừa)

Cây chuối, vốn đã xanh tốt, từ buổi "bén hơi xuân", nó "tốt lại thêm". Chữ "bén", ta

thường nói: "bén lửa", "bén

Page 184: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

duyên"... (Thiếp bén duyên chàng có thế thôi - Hồ Xuân Hương). Thành ngữ "Quen hơi bén

tiếng". "Bén" nghĩa là "bắt

vào", "nhập vào", "dính vào". Cũng có nghĩa là "biết". Hơi xuân, khí xuân ấm áp đã làm

cho cây chuối thêm tươi tốt. Đó

cũng là xuân sắc, một cách nói đầy chất thơ.

Từ ngày "bén hơi xuân", đêm đêm cây chuối toả ra một hương thơm nồng nàn kì diệu.

Chuối không có hương. Có lẽ đó là

hương xuân, mà nhà thơ cảm nhận được. Câu thứ hai có nhiều cách hiểu. Buồng là buồng

chuối. Buồng chuối trông rất lạ, có

nhiều nải chuối, trái chuối chi chít (đầy). Xuân Diệu hiểu một cách phong tình. Buồng là

buồng khuê, buồng thiếu nữ, vì thế

mới toả ra hương thanh khiết, nồng nàn thâu đêm.

Có thể nói, 2 câu đầu tả cây chuối, buồng chuối, cũng là để nói về xuân sắc, xuân xức và

xuân hương của cây cỏ, của

tuổi xuân, của sức sống tuổi trẻ. Cách nói của Ức Trai rất non tơ, phong tình. Tả hoa nhài,

ông cũng viết:

"Môi son bén phấn dây dây,

Đêm nguyệt đưa xuân một nguyệt hay..."

- Câu 3,4 (chuyển, hợp):

Câu 3 tả cái đọt chuối qua hình ảnh ẩn dụ "tình thư...". Cái đọt chuối màu xanh cẩm

thạch cuộn tròn (phong còn kín), đang

khẽ đung đưa trước làn gió xuân nhẹ. Gió được nhân hoá như một chàng trai đa tình

"Gượng mở xem" bức thư tình ấy

"Gượng mở" nghĩa là mở ra một cách nhẹ nhàng, trân trọng. Chữ "đâu" trong câu hỏi tu từ

như một lời nhắc nhở, đưa duyên.

Tả cái đọt chuối với cảm hứng xuân tình như vậy quả là thần diệu. Chỉ có thể trước hoặc sau

khi gặp ả bán chiếu gon ở Tây

Page 185: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Hồ, Ức Trai mới viết một phong cách tình như thế:

"Tình thư một bức phong mà kín,

Gió nơi đâu gượng mở xem"

III. Tổng kết

Câu 2, câu 4 là hai câu lục ngôn. Bài "Cây chuối" là bài tứ tuyệt, thất ngôn xen lục ngôn.

Ngôn ngữ thơ hàm súc cho ta

nhiều liên tưởng thú vị. Các từ ngữ: "bén", "tốt lạ thêm", "đầy buồng lạ", "tình thư", "kín",

"gượng mở xem" kết hợp với nhau

thành một chỉnh thể, một hệ thống ngôn ngữ tạo nên vẻ đẹp ngôn ngữ văn chương và tính

biểu cảm của vần thơ. Tả cây chuối

mùa xuân mà thi sĩ gợi lên trong lòng người đọc cảm xúc và cảm nhận về sắc xuân, sức

xuân, tình xuân của tuổi trẻ.

Chất tài hoa, phong tình của thi sĩ Ức Trai vô cùng kì diệu. Và đó cũng là chất thơ, hồn thơ

đầy quyến rũ viết về hoa cỏ mùa xuân.

Dục Thuý sơn

Nguyễn Trãi

Hải khẩu hữu tiên san,

Tiền niên lũ vãng hoàn.

Liên hoa phù thuỷ thượng,

Tiên cảnh trụy trần gian.

Tháp ảnh trâm thanh ngọc,

Ba quang kính thuý hoàn.

Hữu hoài Trương Thiếu bảo,

Bi khắc tiển hoa ban.

Núi Dục Thuý

Cửa biển có non tiên

Page 186: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Từng qua lại mấy phen.

Cảnh tiên rới cõi tục,

Mặt nước nổi hoa sen

Bóng tháp hình trâm ngọc

Gương sông ánh toác huyền.

Nhớ xưa Trương Thiếu bảo,

Bia khắc dấu rêu hoen.

Khương Hữu Dụng dịch.

I. Xuất xứ

1. Tên cũ là Băng Sơn, đầu thế kỷ thứ 14, Trương Hán Siêu đổi tên thành Dục Thuý

Sơn. Ngày nay gọi là núi Non Nước.

Dục Thuý Sơn - 600 năm về trước nằm trên cửa biển, nay biển đã lùi xa. Núi Non Nước

nằm bên bờ sông Đáy giữa thị xã

N inh Bình, là một danh lam thắng cảnh được nhiều thi sĩ vịnh cảnh đề thơ.

2. Bài "Dục Thuý Sơn" được Nguyễn Trãi viết bằng thơ ngũ ngôn bát cú, rút trong "Ức

Trai thi tập". Trong bản dịch thơ,

Khương Hữu Dụng vì để hiệp vần nên đã giao hoán hai câu 3, 4. Đó là điều cần biết trước

khi cảm nhận bài thơ.

II. Chủ đề

Bài thơ miêu tả núi Dục Thuý đẹp như cảnh tiên trên cửa biển, nhà thơ tới thăm núi mà

nhớ tới danh sĩ Trương Hán Siêu đời

Trần. Qua đó, tác giả nói lên lòng tự hào về núi sông mỹ lệ, tưởng nhớ đến công đức của

tiền nhân.

1. Hai câu "đề", Nguyễn Trãi giới thiệu Dục Thuý Sơn đẹp như non tiên nổi lên giữa cửa

biển. Cảnh đẹp quyến rũ nên

nhà thơ đã mấy phen tới thăm thú.

Page 187: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

2. Bốn câu tiếp theo trong phần "thực" và "luận" đối nhau từng cặp một. Nhà thơ tạo nên

4 hình ảnh so sánh ẩn dụ để

miêu tả Dục Thuý Sơn là non tiên: N hư đoá sen nổi trên mặt nước. Như cảnh tiên rơi xuống

cõi trần.

Bóng tháp như chiếc trâm bằng ngọc xanh. Ánh sáng trên sông nước như chiếc gương soi

mái tóc xanh biếc. Trên núi có

chùa, có tháp nên mới tả, mới so sánh với trâm ngọc, với gương soi mái tóc xanh biếc. Trâm

và gương ấy là của tiên nữ nơi

non tiên. Cảnh đẹp thơ mộng, thần tiên. Bút tháp tài hoa lãng mạn. Thơ hàm súc, giàu hình

tượng:

"Liên hoan phù thủy thượng

Tiên cảnh trụy trần gian

Tháp ảnh trâm thanh ngọc,

Ba quang kính thuý hoàn".

Câu 8 có "phù" (nổi) câu 4 đối lại "trụy" (rơi xuống); câu 5 là "trâm thanh ngọc", câu 6

lại có "kính thuý hoàn" thật là tương

ứng, hoà hợp. Yếu tố tưởng tượng tạo nên chất thơ tuyệt đẹp.

3. Hai câu kết thể hiện một tấm lòng đầy tình nghĩa. "Hữu hoài" là nhớ mãi. Chỉ nhắc lại

họ "Trương", tước hiệu "Thái bảo"

- một cách nói đầy kính trọng với Trương Hán Siêu, một danh sĩ thời Trần, người đã đổi tên

núi từ Băng Sơn thành Dục Thuý

Sơn, đã làm bài "Dục Thuý Sơn khắc thạch" và "Dục Thuý Sơn Linh Tế tháp kí". Nhìn bia

đá phủ rêu, Nguyễn Trãi nhớ đến

công đức tiền nhân. Hai câu thơ 10 từ chứa chan cảm xúc và tình nghĩa:

"Hữu hoài Trương Thiếu bảo,

Bi khắc tiển hoa ban"

III. Tổng kết

Page 188: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

"Dục Thuý Sơn" là một trong những bài thơ chữ Hán tuyệt bút của Ức Trai, thuộc đề tài

vịnh phong cảnh núi sông cẩm tú.

Yêu thiên nhiên, yêu đất nước, nhớ công đức người xưa là cảm hứng chủ đạo của Ức Trai.

Bốn câu trong phần thực và luận

là đẹp nhất, hay nhất, thể hiện cốt cách tài hoa của thi sĩ - chất tiên phong đạo cốt của Ức

Trai.

Ngụ hứng ở quán Trung Tân

(Trung tân ngụ hứng)

(Nguyễn Bỉnh Khiêm)

Nguyễn Bỉnh Khiêm

Sông ngòi vòng tây bắc

Làng xóm bọc tây nam

Giữa có nửa mẫu vườn

Vườn ở bên Vân Am

Xe ngựa bụi không đến

Hoa, trúc tay tự giồng:

Gậy, dép bén mùi hoa,

Chén, cốc ánh sắc hồng.

Rửa nghiên, cá nuốt mực,

Pha trà, chim lánh khói.

Ngâm thơ thừa tiêu dao.

Uống rượu thêm khoan khoái.

Người xảo thì ta vụng,

Ấy vụng thế mà hay!

Ta vụng người thì xảo

Page 189: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Ấy xảo thế mà gay!

Tính suy lẽ trời đất,

N ghiền ngẫm việc xưa nay:

Đường đời rất gập ghềnh,

Chông gai cần phải cắt.

Lòng người rất hiểm nghèo,

Buông ra nhiều quái quắc.

Quân tử biết răn mình,

C hí thiện làm mẫu mực.

Ngô Lập Chi dịch

I. Tác giả

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) quê ở làng Trung Am, xã Lý Học, Vĩnh Bảo, Hải

Phòng. Học giỏi, đỗ trạng nguyên.

Ông có câu thơ: "Văn thơ tam thượng tiếu tài sơ", nghĩa là ba lần đỗ đầu vẫn cười mình tài

tầm thường. Làm quan dưới triều

Mạc một thời gian rồi treo ấn từ quan, về quê dựng am Bạch Vân, lấy hiệu là Bạch Vân cư

sĩ, lập quán Trung Tân, xây

Nghinh Phong kiều, mở trường dạy học có nhiều người nổi tiếng như: Phùng Khắc Khoan,

(Trạng Bùng), Nguyễn Dữ.... Ông

đức trọng, tài cao, được người đời kính ái gọi là Tuyết Giang phu tử. Lúc ông mất, vua nhà

Mạc truy phong là Trình Quốc

Công.

Nguyễn Bỉnh K hiêm là nhà triết học vĩ đại để lại nhiều sấm kí linh diệu, là nhà thơ lỗi lạc

của dân tộc trong thế kỷ 16. Thơ ông

hàm súc, hàm chứa chất triết lí, giáo huấn, thương dân, lo đời, ghét chiến tranh. Những câu

thơ viết về thiên nhiên rất tươi tắn,

Page 190: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

thú vị. Hiện còn gần 200 bài thơ Nôm trong "Bạch Vân quốc ngữ thi tập" và trên 1.000 bài

thơ chữ Hán trong "Bạch Vân

Am tập”.

II. Lời bình

Năm Nhâm Dần (1548), Nguyễn Bỉnh Khiêm thoái quan về sống giữa xóm làng quê

hương. Mùa thu năm ấy, ông cùng

các bô lão dựng quán Trung Tân làm chỗ ngồi chơi hóng gió và để khách qua đường nghỉ

chân. Trong "Bài bia ở quán Trung

Tân", Nguyễn Bỉnh K hiêm nói rõ:

"Có người hỏi rằng: "Q uán ấy đặt tên "Trung Tân" có nghĩa là gì?". Ta trả lời rằng:

"Trung nghĩa là đứng giữa không

chênh lệch, giữ vẹn được điều thiện là trung, không giữ vẹn được điều thiện thời không phải

là trung vậy; tân có nghĩa là cái

bến, không biết chỗ đáng đậu là bến mê vậy....".

Trạng Trình có chùm thơ 3 bài lấy nhan đề "Trung Tân ngụ hứng"; Bài thơ thứ nhất này

gồm 24 câu thơ theo thể ngũ ngôn

trường thiên, lấy vần trắc (bắc - trắc - thực - sắc,....) làm âm vận chủ đạo. Bài thơ dịch của

Ngô Lập Chi rất hay, vừa giữ

được nguyên điệu thanh thoát, vừa sát nguyên tác, nhất là phép đối.

Hai câu đầu nói lên vị trí quán Trung Tân:

"Sông ngòi vòng tây bắc

Làng xóm bọc tây nam".

Quán ở giữa xóm làng đông vui, có sông ngòi uốn quanh, rất hữu tình. Trong "Bài bia ở

quán Trung Tân" tác giả cho biết

rất cụ thể.... Bến Trung Tân, trông sang phía Đông nhìn Đông Hải, ngoảnh sang phía Tây

nhìn Tây Kinh; bên nam trông sang

Ngư Khê, thì thấy Trung Am, Bích Động, cái kia cái nọ quanh tựa vào nhau; bên bắc cúi

Page 191: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

nhìn sông Tuyết Giang, thì thấy chợ

Hàn, bến Nguyệt bao bọc tả hữu; một con đường cái quan chạy dọc ở giữa, biết bao bánh

xe, chân ngựa, từ hàng ngàn dặm

xa tấp lập đi qua chốn này"....

Ba câu tiếp theo, nói về am Bạch Vân nơi đọc sách và dưỡng nhàn của ông Trạng sau khi

đã thoát vòng danh lợi. Am ở

bên nửa mẫu vườn, một nơi thanh tĩnh mà chủ nhân là một con người thanh bạch. Câu thơ

"Xe ngựa bụi không đến" mang tính

hàm nghĩa sâu sắc.

Tiếp theo, nhà thơ nói đến hoa, trúc, cá, chim, chuyện uống rượu, pha trà. Vừa tả cảnh

vừa tả tình. Cảnh vật được

nhân hoá. Cá, chim như bầu bạn tri kỷ. Một tâm hồn thanh cao, ung dung tự tại, chan hoà

giữa thiên nhiên. Uống trá, uống

rượu, ngâm thơ... lòng càng thêm "tiêu hao, khoan khoái".

Từng cặp câu song hành, đăng đối, ngôn ngữ hài hoà, giọng thơ khoan thai, đủng đỉnh.

Trong nguyên tác, trong bản dịch đều thế:

"Hoa, trúc tự tay giồng

Gậy, dép bén mùi hoa,

Chén, cốc ánh sắc hồng.

Rửa nghiên, cá nuốt mực,

Pha trà, chim lánh khói

Ngâm thơ vừa tiêu dao,

Uống rượu thêm khoan khoái'.

Nguyễn Bỉnh Khiêm có không ít vần thơ dung dị nói lên niềm vui dào dạt của kẻ sĩ thanh

cao sống giữa thiên nhiên. Một

cuộc đời thanh bạch mà sang trọng không phải ở cõi đời này ai cũng dễ có?

Page 192: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

- "Ruộng hiềm đất áy, cày chưa chín,

Sách được câu thần dạ những ngong"

(Bài 111)

- "Trà sen, sáng đãi người đưa khát,

Rượu thánh (ngon), hôm mời khách uống say".

(Bài 140)

- "Vườn rau, sáng dạo, sương đầy dép,

Bến cá đêm trăng, bóng lọt thuyền".

("Ngụ ý"- thơ dịch)

Giọng thơ biến đổi, pha chút hóm hỉnh tự giễu mình khi ông nói về "vụng" và "xảo". Cấu

trúc vần thơ liên hoàn. Thơ mang

nội dung đạo lí với cách nói thâm trầm, thấm thía. K huyên mình hay nhắc khẽ ai?

“Người xảo thì ta vụng

Ấy vụng thế mà hay

Ta vụng thì người xảo

Ấy xảo thế mà gay!”

Vụng là vụng về, chất phác, chân thật. Xảo là xảo quyệt, tham lam, dối trá. Vụng và xảo

là nói về hai loại người trong xã

hội xưa nay. Có bài thơ, ông nói về khôn, dại trong thiên hạ:

"Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ,

Người khôn người đến chốn lao xao..."

Nơi vắng vẻ là sống với ruộng vườn, thoát vòng danh lợi. Chốn lao xao là chốn bon chen,

giành giật. Cũng là hai cách sống

đối lập của hai loại người trong xã hội.

Tám câu còn lại nói về một nguyên lý đạo đức, một tiêu trí về triết lý nhân sinh. Ông

sống giữa thời loạn lạc, vì thế điều ông

Page 193: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

nói là cả một sự chiêm nghiệm lịch sử và xã hội. Là bài học về đạo lý và nhân sinh. "Đường

đời rất gập ghềnh,.... Lòng người

rất hiểm nghèo". Ý tưởng không có gì mới lạ, trước đó mấy nghìn năm, mấy trăm năm đã có

người nói. Cái hay là ở hai câu

cuối bài thơ:

"Quân tử biết răn mình,

C hí thiện làm mẫu mực".

"Chí thiện" là tiêu chuẩn tuyệt đối về các sự lý ở đời. Biết sống đẹp và hướng thiện cũng

là chí thiện. Là quân tử, là kẻ sĩ

phải là người chân chính. N guyễn Bỉnh Khiêm đã sống và ứng xử như vậy. Vì thế ông mới

được ngợi ca là Ông thầy của cả

một thời đại.

Đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm đến nay còn có bức đại tự sơn son thiếp vàng với 4 chữ:

"Như nhật trung thiên" - như mặt

trời giữa bầu trời. Hồ Chủ Tịch dạy cán bộ, đảng viên: "N gười cách mạng phải có đạo đức

cách mạng", phải "cần, kiệm, liêm,

chính, chí công vô tư". Đó cũng là chí thiện vậy.

Trông bốn bề

1. Trông bến nam bãi tre măt nước,

Cỏ biếc um dâu, mướt màu xanh,

Nhà thôn mấy xóm chông chênh,

Một đàn cò đậu trước ghềnh chiều hôm,

2. Trông đường bắc đôi chòm quan khách,

Rườm rà cây xanh, ngất núi non,

Lúa thành thoi thóp bên cồn,

Nghe thôi ngọc địch véo von trên lầu

Page 194: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

3. Non đông thấy lá hầu chất đống,

Trĩ xập xoè, mai cũng bẻ bai

K hói mù nghi ngút ngàn khơi,

Con chim bạt gió, lạc loài kêu sương.

4. Lũng Tây thấy nước dường uốn khúc,

Nhạn liệng không, sóng giục thuyền câu,

Ngàn thông chen chúc khóm lau,

Cánh ghềnh thấp thoáng người đâu đi về,

(Trích bản dịch "Chinh phụ ngâm")

I. Tác giả, dịch giả

1. Tác giả

Đặng Trần Côn sống vào nửa đầu thế kỷ 18 người Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội, là một

danh sĩ hiếu học tài ba.

2. Dịch giả

Hiện có bốn bản dịch Chinh phụ ngâm. Bản dịch lưu truyền rộng rãi lâu nay, được đánh

giá là hay nhất - nhiều ý kiến vẫn

cho là của Đoàn Thị Điểm (?) - Bà sinh năm 1705, mất năm 1748, quê ở Giai Phạm, Hưng

Yên, là một người phụ nữ có

nhan sắc, có học vấn và có tài thơ. Ngoài bản dịch Chinh phụ ngâm, bà còn để lại tập

truyện chữ Hán "Truyền kì tân phả"

và nhiều thơ phú khác.

II. Tác phẩm

- Đặng trần Côn viết Chinh phụ ngâm bằng chữ Hán theo điệu cổ Nhạc phủ có câu dài 5

từ, 7 từ, lại có câu 8, 9, 10 từ.

- Bản dịch thơ theo điệu ngâm song thất lục bát, dài 40 câu.

Nội dung tác phẩm:

Page 195: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Thế kỷ 18, nội chiến, loạn lạc kéo dài. Chinh phụ ngâm nói lên nỗi niềm nhớ thương, lo

lắng, mong mỏi và khao khát

hạnh phúc của người thiếu phụ trẻ có chồng đi chinh chiến miền xa, và miêu tả cảnh sống cô

đơn, vất vả của nàng ở quê

hương, cảnh gian khổ hiểm nguy của chồng trên chiến địa.

- Chủ đề:

Chán ghét chiến tranh, niềm khao khát hạnh phúc, sum họp lứa đôi, được sống yên vui

trong cảnh thanh bình là chủ đề của

"Chinh phụ ngâm".

III. Trích đoạn "Trông bốn bể"

1. Đoạn thơ dài 16 câu nói lên nỗi đợi chờ trông ngóng đến mòn mỏi của nàng chinh phụ

trong những năm dài

chồng đi chinh chiến miền xa. Cứ 4 câu là một cảnh cũng là một nét của nỗi lòng trông

ngóng đợi chờ. Mỗi cảnh là

một phương hướng, trong một mùa. Có nam, bắc, đông, tây. Có xuân, hạ, thu, đông. Bút

pháp miêu tả ước lệ tượng trưng,

cấu trúc cân xứng, qui phạm theo "tứ bình".

a. Mùa xuân đến, người vợ trẻ "trông bến nam", chỉ thấy một màu xanh của "cỏ biếc

um", của "dâu mướt" mà thôi. Thấy

nhà thôn "chông chênh" xa gần mấy xóm, thấy "đàn cò đậu trước ghềnh chiều hôm". Sắc

của cỏ, dâu thì mơn mởn. Cảnh đàn

cò kết bầy kết đôi. Ngoại cảnh ấy gợị lên trong lòng nàng chinh phụ còn trẻ nhiều khao

khát, mong đợi. Tủi cho thân phận cô

đơn.

b. Mùa hè đến nàng "trông đường bắc" nhìn xa chỉ thấy "rườm rà cây ngất núi non", mịt

mù: trông gần chỉ thấy "đôi chòm

quan khách" cũng gợi tả nỗi buồn lẻ loi đơn chiếc. Câu thơ "Lúa thành thoi thóp bên cồn"

Page 196: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

cũng mượn ngoại cảnh ngọn lúa

bay rập rờn trước gió bên bờ thành để đặc tả nỗi ám ảnh buồn thương tiêu điều của nàng

chinh phụ. Nàng chợt nghe thấy

tiếng sáo ngọc ngân lên véo von, dồn dập. Cũng là âm thanh gợi nhớ, gợi thương, não nùng

thê thiết!

"Lúa thành thoi thóp bên cồn

Nghe thôi ngọc địch véo von trên lầu".

c. Mùa thu đến nhìn về phương đông, nàng thấy lá rụng "chất đống" tàn tạ buồn thương.

Trĩ từng đôi "xập xoè", khóm mai

"bẻ bai" uốn lượn. Câu thơ "Trĩ xập xoè, mai cũng bẻ bai" là một nét vẽ tương phản đầy ấn

tượng. Cỏ hoa, chim chóc được

sánh đôi múa lượn còn nàng thì gối chiếc chăn đơn. Nàng càng thêm sầu tủi, cô đơn lẻ loi

hơn bao giờ hết khi nghe tiếng nhạc

lạc bầy kêu lên trong màn sương khói mịt mù:

"K hói mù nghi ngút ngàn khơi,

Con chim bạt gió lạc loài kêu sương".

Ngọn gió thu lạnh thổi bạc cánh nhạc lạc bầy. Và đó cũng là bão táp chiến tranh làm cho

những lứa đôi trở nên lẻ loi, đơn

chiếc, lạnh lùng. N àng chinh phụ còn thổn thức thương mình bao nhiêu lại thương chồng

nơi ải xa trong dãi dầu sương tuyết

bấy nhiêu.

d. Mùa đông đến, nàng lại nhìn về phương tây, nhìn về Lũng Tây bãi chiến trường núi

xương, sông máu... Nàng chỉ nhìn

thấy sông nước mịt mù, ngàn thông, rừng lau trùng điệp. Cánh nhạn và bóng người thấp

thoáng là hai nét vẽ đầy ấn tượng.

Nhìn cánh nhạn, cô phụ ngỡ là cánh nhạn đưa thư. N hìn về phía bên ghềnh, thấy thấp

thoáng "người đâu đi về", chinh phụ

Page 197: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

tưởng là người chồng thân yêu từ chiến trường xa trở về.... Nhớ quá, thương nhiều, đợi chờ,

mòn mỏi, nên chinh phụ mới cảm

nhận hư ảo ấy. Hy vọng lắm nên càng thất vọng nhiều. Càng thất vọng lại càng sầu tủi!

"Ngàn thông chen chúc khóm lau,

Cách ghềnh thấp thoáng người đâu đi về".

2. Nét đặc sắc nghệ thuật

a. Màu sắc cổ diển: Cảnh vật mang tính ước lệ tựơng trưng (ngọc địch, mai, trĩ, nhạn,

thuyền câu, thông, lau, Lũng Tây,

bóng người....), cấu trúc cân xứng: Xuân, hạ, thu, đông; nam, bắc, đông, tây. Lối diễn đạt

cũng hài hoà cân xứng:

...Trông bến nam...

...Trông đường bắc...

...Non đông thấy...

...Lũng tây thấy...

b. Tả cảnh ngụ tình đặc sắc, điêu luyện. Thi sĩ mượn ngoại cảnh 4 phương trời, 4 mùa

xuân, hạ, thu, đông; lấy cỏ, dâu,

lúa, thông, lau, bãi, núi, sông, ghềnh; lấy khói mù, sương gió, lấy đàn cò, chim trĩ, chim

nhạn, v.v... bấy nhiêu nét vẽ ngoại

cảnh đều góp phần đặc tả tâm cảnh, khắc hoạ nhữmg biến thái, những rung động trong tâm

hồn, những nhớ mong thương

nhớ, đợi chờ, cô đơn, hy vọmg để rồi thất vọng thêm sầu tủi...

c. Ngôn ngữ thơ giàu hình tượng và biểu cảm. Các từ chỉ màu sắc (cỏ biếc um dâu mướt

màu xanh.... Khói mù nghi

ngút ngàn khơi...), các từ láy tượng thanh tượng hình (chông chênh, rườm rà, thoi thót, véo

von, xập xoè, bẻ bai, nghi

ngút, chen chúc, thấp thoáng) được thi sĩ vận dụng rất thần tình, cho thấy bút pháp điêu

luyện, sự giàu có về từ ngữ sự phong

Page 198: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

phú về trí tưởng tượng tuyệt vời. Đến bản dịch "Chinh phụ ngâm", ngôn ngữ dân tộc trở nên

trong sáng, mềm mại, giàu có và

đẹp đẽ vô cùng.

d. Vần điệu, âm điệu, nhạc điệu

Thơ song thất lục bát còn gọi là song thất, một điệu ngâm, một thể thơ dân tộc giàu có về

vần điệu, âm điệu, nhạc điệu.

Trong 4 câu thơ "song thất lục bát" có đến 7 tiếng, để gieo vần, vừa có vần chân, vừa có vần

lưng, vừa có vần bằng, vừa

có vần trắc, tạo nên điệu ngâm du dương, réo rắt, trầm bổng, đọc lên nghe rất thú vị (xem

các từ in nghiêng, đọc đúng trọng

âm các từ gieo vần). Sự phối hợp giữa nhịp lẻ và nhịp chẵn ở câu 7 và câu lục bát làm cho

âm điệu thơ, giai điệu thơ biến hoá

đa thành, phức điệu.

3. Kết luận

Đoạn thơ "Trông bốn bề" giúp ta cảm nhận vẻ đẹp văn chương qua bút pháp tả cảnh ngụ

tình và sử dụng ngôn ngữ dân

tộc. Bút pháp điêu luyện, thơ giàu cảm xúc, giàu hình tượng. Lấy thời gian 4 mùa, lấy

không gian 4 phương trời để tả tâm

trạng nhân vật trữ tình, dịch giả đã làm nổi bật nỗi mong nhớ đợi chờ chồng, nỗi buồn cô

đơn.... của nàng chinh phụ ngâm

trong một thời loạn lạc. Giá trị nhân bản của đoạn thơ lay động mọi tâm hồn người xưa nay.

Nỗi nhớ nhung sầu muộn của người chinh phụ

(Trích bản dịch "Chinh phụ ngâm")

1...Lòng này gửi gió đông có tiện,

N ghìn vàng xin gửi tới non yên,

Non Yên dù chẳng tới miền,

Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời.

Page 199: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

2. Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,

Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong,

Cảnh buồn người thiết tha lòng,

Cành cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun.

3. Sương như búa bổ mòn gốc liễu,

Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô.

Giọt sương phủ bụi chim gù

Sâu tường kêu vẳng, chuông chùa nện khơi.

4. Vài tiếng dế, nguyệt soi trước ốc,

Một hàng tiêu, gió thốc ngoài hiên,

Lá màn lay ngọn gió xuyên,

Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm.

5. Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm,

Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông,

Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,

Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đâu...

Đoàn Thị Điểm dịch (?)

I. Phân tích

Đoạn thơ dài 20 câu. Nhan đề đoạn thơ "Nỗi nhớ nhung sầu muộn của người chinh phụ"

do người soạn sách giáo khoa

Văn 10 đặt ra, đó là ý tưởng chính của 20 câu thơ này.

1. Cũng như Lũng Tây, Bến Phì, non Yên... là cõi chiến trường, phía Tây Bắc Trung

Quốc xa xôi, nơi "xương phơi trắng

đất", nơi "hồn tử sĩ gió ù ù thổi" rùng rợn thê lương.... Trong "Chinh phụ ngâm", các đại

danh ấy chỉ là tượng trưng ước lệ hiện

Page 200: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

lên trong tâm tưởng người chinh phụ.

Hai câu đầu, nàng chinh phụ muốn nhờ gió đông (mùa xuân) gửi tới chàng đang chinh

chiến tại non Yên, dù mất "nghìn

vàng", nàng vẫn xin gửi đến bao nỗi nhớ thương tràn ngập trong lòng. Một cách nói thiết tha

cảm động:

"Lòng này gửi gió đông có tiện

N ghìn vàng xin gửi đến non Yên..."

2. Nỗi nhớ chàng triền miên dằng dặc,dài lê thê, day dứt bồn chồn lo lắng.

Vừa cụ thể vừa trừu tượng, đầy ắp trong lòng suốt đêm ngày. Lúc thì "Nhớ chàng đằng

đẵng đường lên bằng trời". Có lúc

lại là "N ỗi nhớ chàng đau đáu nào xong". Sau vần thơ, sau cái tiếng "đằng đằng", "đau đáu"

là những giọt lệ ứa ra, những tiếng

than thầm, tiếng thở dài ngao ngán cho cảnh ngộ cô đơn, buồn nhớ mà người chinh phụ

đang nếm trải. Cốc nước đắng uống

mãi vẫn đầy ắp!...

3. Cảnh buồn người thiết tha lòng

Cảnh buông lạnh lẽo. Sương tuyết đầy trời. Cái lạnh tê tái lòng người, cái lạnh làm héo

hon, tàn tạ cảnh vật. Liễu và ngô

đồng là hai hình ảnh ẩn dụ nói về nỗi buồn tê tái của người chinh phụ:

"Sương như búa bổ mòn gốc liễu,

Tuyết dường cưa xẻ héo cành ngô".

Đây là hai câu thơ tả cảnh sương, tuyết cực hay, hiếm có trong thơ ca dan tộc.

Chinh phụ thao thức suốt đêm. Tiếng trùng rả rích "phun mưa", tiếng "chim sâu tường

kêu vẳng, chuông chùa nện khơi", âm

thanh xa gần, thương nhớ bồn chồn. tiếng dế râm ran, tiếng gió...nàng trằn trọc lắng nghe để

rồi thương nhớ bồi hồi. Tả nỗi

nhớ trong niềm thao thức cũng thật sâu sắc, não nùng:

Page 201: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

"Giọt sương phủ bụi chim gù,

Sâu tường kêu vẳng, chuông chùa nện khơi..."

Từng canh dài trôi qua. Chinh phụ lắng tai nghe rồi nhìn thấy, hàng tiêu, thấy lá màn gió

thổi bay lên, thấy "Bóng hoa theo

bóng nguyệt lên trước rèm". Đây là bức tranh nói về trăng, hoa mang vẻ cổ điển:

"Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm,

Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông.

Nguyệt hoa hoa nguyệt trùng trùng.

Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đâu..."

"Hoa nguyệt nguyệt hoa"... "Nguyệt lồng hoa"... "Hoa giãi nguyệt"... "Trước hoa dưới

nguyệt"- quấn quýt, tựa vào nhau,

lồng vào nhau mà khoe "thắm" trùng trùng lớp lớp. Sử dụng điệp ngữ và phép liên hoàn,

nhân hoá "nguyệt hoa" để diễn tả vẻ

đẹp của trăng hoa đồng thời gợi tả nỗi lòng rạo rực, khao khát hạnh phúc lứa đôi của những

chinh phụ còn son trẻ

trong những đêm trăng đẹp lạnh lẽo.

II. Tổng kết

Đoạn thơ tả cảnh ngụ tình tuyệt bút. Có hình ảnh âm thanh, có hình ảnh màu sắc, có hình

ảnh tâm trạng - có cảnh lạnh lẽo,

có cảnh não nùng, lại có cảnh trăng, hoa giao hoà, quấn quýt khêu gợi. Tất cả đều hướng về

sự thể hiện nỗi nhớ nhung, sầu

muộn, nỗi buồn thao thức cô đơn, nỗi rạo rực khao khát yêu thương hạnh phúc lứa đôi một

thời son trẻ. Đó là chất nhân văn

đằm thắm.

Các câu thơ tả "nỗi nhớ chàng", tả sương tuyết, tả nguyệt hoa là hay nhất. Người đọc có

thể tìm thấy dấu ấn của nó trong

bài thơ "Hoàng hôn" (Nhật kí trong tù), trong bài "Cảnh khuya" của nhà thơ Hồ Chí Minh

Page 202: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

sau này.

Mời trầu

Hồ Xuân Hương

Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi,

Này của Xuân Hương mới quệt rồi.

Có phải duyên nhau thì thắm lại,

Đừng xanh như lá, bạc như vôi.

I. Tác giả

Hồ Xuân Hương sống vào cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19. Gốc gác gia đình ở Nghệ An

sống nhiều năm ở phường Khán

Xuân, gần Hồ Tây, thành Thăng Long. Bà có tài thơ Nôm, giàu cá tính, một cuộc đời "bảy...

nổi ba chìm"!

Tác phẩm hiện còn trên dưới 50 bài thơ Nôm Đường luật và tập "Lưu Hương kí" bằng

chữ Hán.

Hồn thơ dân tộc và phong vị đồng quê là bản sắc thơ Hồ Xuân Hương. Trong thơ của nữ

sĩ có tình yêu thương, quí mến

người phụ nữ, có tâm hồn nồng nhiệt với cuộc sống và thiên nhiên, có thái độ phủ định đối

với lễ giáo phong kiến và các thế

lực thồng trị... Một tiếng cười, một tiếng nói trào phúng hóm hỉnh, sâu cay, có lúc trữ tình,

đằm thắm mà chua xót. Thơ lưỡng

ngôn, đa nghĩa rất hàm súc và độc đáo.

II. Lời bình

Không phải là cau vàng, trầu quế mà chỉ là "Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi". Một cách

nói khiêm nhường, tình tứ. Câu

thứ hai "Này của Xuân Hương mới quệt rồi", cũng chỉ là cách xưng hô thân mật. Chữ "này"

biểu thị một cử chỉ thân mật, vồn

vã, chân thành đối với khách. "Mới quệt rồi" - vừa giới thiệu miếng trầu tươi ngon, vừa biểu

Page 203: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

lộ một tấm lòng chân thành, hiếu

khách. Việc chủ nhân xưng tên "Này của Xuân Hương mới quệt rồi" cho thấy đối tượng

được mời là một văn nhân tài tử từng

có "tình ý" với nữ sĩ . Điều đó cũng cho biết Hồ Xuân Hương viết bài thơ này thời con gái,

vừa duyên dáng, vồn vã trong mời

đón khách đến chơi nhà, vừa biểu lộ một cá tính Xuân Hương, sắc sảo trong ứng xử "có góc

có cạnh".

"Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi,

Này của Xuân Hương mới quệt rồi".

Câu thơ - lời mời trầu - rất hóm hỉnh đã gợi ra trong đối tượng được mời trầu bao liên

tưởng thú vị. Thú vị của mối tình thôn

nữ với chàng thư sinh thuở nào: "Quả cau nho nhỏ - Cái vỏ vân vân - Nay anh học gần -

Mai anh học xa - Lấy anh từ thuở

mười ba - Đến năm mười tám thiếp đã năm con - Ra đường thiếp hãy con son - Về nhà thiếp

đã năm con cùng chàng" - Thú

vị ở sự dao duyên, đưa duyên, ngỏ tình qua miếng trầu chén rượu:

"Có trầu cho miếng đỏ môi,

Có rượu xin chén đẹp môi má hồng".

Thú vị ở sự chân tình "mới quệt rồi" mà lá trầu, quả cau đều là cây nhà lá vườn đậm đà

chân quê:

"Vào vườn hái quả cau xanh,

Bổ ra làm sáu mời anh xơi trầu".

Nói rằng thơ Hồ Xuân Hương mang phong vị hồn quê là như vậy.

Hai câu tiếp theo là một lời nói "ướm thử", một cách thăm dò đối tượng - chàng trai mà

cô gái đang mời trầu:

"Có phải duyên nhau thì thắm lại,

Đừng xanh như lá, bạc như vôi".

Page 204: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Xin cho được là miếng trầu ngon: miệng thơm, môi cắn chỉ quết trầu, cau, trầu, vôi

"thắm lại" trong cái duyên trầu cau.

Mong miếng trầu này, miếng trầu "chàng" - anh sẽ ăn không nhợt nhạt, vôi đi đằng vôi, lá đi

đằng lá, xin đừng "xanh như lá

bạc như vôi". Câu thơ mang một hàm ý: cô gái mời trầu đã bày tỏ niềm mơ ước thiết tha về

một tình duyên đằm thắm, mặn

nồng, son sắt thuỷ chung. Vừa cầu mong, mơ ước "Có phải duyên nhau thì thắm lại", vừa

như thầm nhắc khẽ "Đừng xanh như

lá, bạc như vôi". Có người cho rằng, qua câu thơ này, cô Xuân Hương đã ngầm răn đe người

khách đang mời trầu - Âu đó

cũng là một cách cảm nhận. Có điều câu thơ đầy ám ảnh như một "dự báo về con đường

tình duyên của nữ chủ nhân mời trầu

này. Câu thơ "Đừng xanh như lá, bạc như vôi" cho ta nhiều ngại ngùng về một điều gì sẽ

xẩy ra, chẳng bao giờ "thắm lại"

được!

Miếng trầu là đầu câu chuyện. Duyên trầu cau cũng là duyên đôi lứa... Qua mời trầu, Hồ

Xuân Hương nói lên một khát

khao, mơ ước về một tình duyên đẹp, thuỷ chung. Một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt, ngôn ngữ

bình dị, mượn miếng trầu để đưa

duyên. Bài thơ mang vị đời và thắm tình người - người con gái làng quê hai trăm năm về

trước.

Tự tình

Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom,

Oán hận trông ra khắp mọi chòm,

Mõ thảm không khua mà cũng cốc,

Chuông chùa chẳng đánh cớ sao om?

Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ,

Page 205: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Sau giận vì duyên để mõm mòm.

Tài tư văn nhận ai đó tá?

Thân này đâu đã chịu già tom!

Hồ Xuân Hương

I. Xuất xứ, chủ đề

1. Hồ Xuân Hương có chùm thơ 3 bài với nhan đề "Tự tình". Đây là bài thơ thứ hai trong

chùm thơ ấy. Giọng thơ cay đắng,

buồn tủi... điều đó cho thấy nữ sĩ viết bài thơ này trong tâm trạng của người phụ nữ quá lứa

lỡ thì...

2. Bài thơ thể hiện tâm trạng cuả tác giả tủi hận về tình duyên mà vẫn thách thức với

duyên số.

II. Phân tích

1. Đề

Thao thức cả đêm dài. Lòng bồn chồn nghe tiềng gà gáy văng vẳng trên bom, từ một con

thuyền trên mặt hồ, trên dòng

sông đưa tới. Nữ sĩ ngồi dậy "trông ra khắp mọi chòm", mọi thôn xóm, chỉ thấy mịt mùng

mà lòng thêm "oán hận" - oàn hận

về con đường tình duyên.

2. Thực

Hai câu 3, 4 đăng đối, phủ định để khẳng định tiếng "cốc" của "mõ thảm", tiếng "om" của

"chuông sầu". "Mõ thảm" và

"chuông sầu" là hai hình ảnh ẩn dụ cực tả nỗi đau khổ, sầu tủi của người đàn bà lỡ thì quá

lứa, trắc trở trong tình duyên. Thao

thức trong đêm dài, đau nỗi đau của đời mình như "mõ thảm", chẳng ai khua "mà cũng

cốc"; tủi nỗi tủi của lòng mình như

"chuông sầu", chẳng đánh "cớ sao om"?. Nỗi đau buồn, sầu tủi như thấm sâu vào đáy lòng,

toả rộng trong không gian, kéo

Page 206: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

dài theo thời gian như những đêm dài. Đây là hai câu thơ hay nhất tả nỗi "thảm, sầu" trong

sự trắc trở tình duyên.

"Mõ thảm không khua, mà cũng cốc,

Chuông sầu chẳng đánh, cớ sao om?"

3. Luận

Hai câu 5, 6 đăng đối cũng là để tả tâm trạng "rầu rĩ", tủi giận về con đường tình duyên:

"Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ,

Sau giận vì duyên để mõm mòm".

"Trước nghe những tiếng", là những tiếng gì? - Tiếng gà gáy trên bom? Tiếng "chuông

sầu", "mõ thảm" dội lên từ lòng mình.

Càng nghe càng thêm rầu rĩ, buồn tủi. Càng nghe càng "giận", hờn về tình duyên. Tình

duyên được ví với trái cây, không còn

"non xanh má phấn" nữa mà đã chín "mõm mòm", nghĩa là quá chín, đã nẫu đi. Cũng có

nghĩa là đã quá lứa, đã lỡ thì! Trong

câu thơ có nhiều lệ, nhiều tiếng thở dài, than thân, trách phận, buồn tủi về con đường tình

duyên. Hồ Xuân Hương thương

mình, thương cho những người đàn bà cùng cảnh ngộ.

4. Hai câu kết

Như một sự thách đố với số phận, với duyên số:

"Tài tử văn nhân ai đó ta?

Thân này đâu đã chịu già tom?"

Vừa nghi vấn, vừa cảm thảm, hai câu kết đầy nghịch lí. Nữ sĩ như vẫn tin vào tài năng

của mình có thể xoay đổi được

duyên phận, vẫn hi vọng tìm được bạn đời trăm năm trong đám tài tử văn nhân. Câu 6, nữ sĩ

viết: "Sau giận vì duyên để mõm

mòm", câu 8, bà lại nói:"thân này đâu đã chịu già tom!". "Già tom" nghĩa là rất già, già hẳn.

Một cách "nói cứng", thể hiện

Page 207: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

một bản lĩnh cứng cỏi trước ngang trái cuộc đời. Đọc chùm thơ "Tự tình" cũng như tìm hiểu

cuộc đời của nữ sĩ, về

mặt tình duyên ta thấy hạnh phúc lứa đôi chưa một lần mỉm cười với bà. Người đọc mãi mãi

cảm thông với những

sầu tủi, cay đắng, oán hận của nữ sĩ, của những người phụ nữ duyên ôi phận hẩm, quá lứa

lỡ thì.

Bài thơ gieo vần "om”, 5 vần thơ, vần nào cũng tài tình: "bom - chòm - om - mòm -

tom". Vần nào cũng hóc hiểm, tạo nên

âm điệu như thắt, như nén lại cái "oán", cái "hận", cái "ngang bướng" của một tâm trạng,

một cá tính rất Xuân Hương. Duyên

số và hạnh phúc - đó là vấn đề ám ảnh chúng ta khi đọc thơ "Tự tình" này của Hồ Xuân

Hương.

Cảnh chùa chiền

(Trích "Sơ kính tân trang")

Phạm Thái

I. Tác giả

Phạm Thái (1777 - 1813) hiệu là Chiêu Lì, quê ở Hà Bắc. Công danh lận đận, tình yêu dở

dang. Cuôc đời Phạm Thái đầy

bi kịch. Ông để lại "Sơ kính tân trang", "Văn tế Trương Quỳnh Như", bài "Chiến tụng Tây

Hồ phú" và một số thơ nôm khác.

"Sơ kính tân trang" cho thấy Phạm Thái là nhà thơ của tình yêu lãng mạn, của sự bộc lộ "cái

tôi" trong thơ ca rất mới mẻ, báo

hiệu thời kỳ cận đại.

II. Tóm tắt

"Sơ kính tân trang" nói về một chuyện tình như sau:

Trương Công quê ở Kiến Xương, Sơn Nam. Phạm Công quê ở Từ Sơn, Kinh Bắc. Một

người là võ quan, một người là

Page 208: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

quan văn kết bạn tâm giao. Họ ước hẹn, nếu sau này, một người sinh được con gái, một

người sinh được con trai thì sẽ kết

thành thông gia. Họ Trương trao cho họ Phạm một chiếc gương vàng và được tặng lại một

chiếc lược ngọc, để đính ước. Sau

đó, Phạm Công sinh con trai đặt tên là Phạm Kim, Trương Công sinh con gái, đặt tên là

Trương Quỳnh Thư.

Xảy ra quốc biến, Phạm Công chết, cơ nghiệp tan nát. Phạm K im lớn lên định nối chí

cha, nhưng mọi sự bất thành, chàng

đi du ngoạn thăm thú các danh lam thắng cảnh. Chàng tới miền Thú Hoa Dương, thấy cảnh

đẹp nên thơ, bèn lưu lại. Chính tại

đây chàng hạnh ngộ Trương Quỳnh Thư đang sống cùng cha mẹ nàng ở kề bên. Và được

Hồng Nương hết lòng giúp đỡ,

Phạm Kim và Trương Quỳnh Thư trao đổi thư từ, thơ phú cho nhau. Mến vì sắc, trọng vì tài

nên hai người yêu nhau. Phạm

Kim có việc, phải trở lại quê nhà, trong khi đó lại có viên đô đốc ở Kinh kì đến hỏi Trương

Quỳnh Thư làm vợ. Nàng vội gửi

thư báo tin cho Phạm Kim biết. Chàng vội đến Thú Hoa Dương gặp người yêu. Cả hai

người đều bế tắc. Họ chia tay trong

nước mắt và hẹn ước sang kiếp sau nên vợ nên chồng - Sau đó Trương Quỳnh Thư tự tử.

Phạm Kim cũng vô cùng đau

buồn, ốm nặng, chán đời, chàng bỏ đi tu.

Trương Công từ quan về quê, lấy vợ lẽ, sinh được một người con gái, đặt tên con là Thụy

Châu. Lớn lên Thụy Châu càng

xinh đẹp và vô cùng phóng khoáng, cải dạng làm trai, tu luyện như một đạo sĩ và hành

hương ngao du khắp mọi miền, thăm

thú cảnh đẹp. Một lần, Thụy Châu đến Kim Sơn thì tình cờ gặp Phạm Kim. Hai người đàm

đạo, xướng hoạ thơ phú. Lúc chia

tay, Phạm Kim cứ đinh ninh Thụy Châu là một cô gái, chàng ngẩn ngơ bỏ cả tu hành. Phạm

Page 209: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Kim trở lại Thú Hoa Dương viếng

mộ Trương Quỳnh Thư, một đêm trăng đẹp nghe tiếng đàn mà chàng nhận ra Thụy Châu.

Hai người tâm sự, cùng đem gương

vàng lược ngọc ra đối chiếu.... Trương Công vui lòng cho hai người lấy nhau và khuyên

Phạm Kim nên gắng sức học hành.

Vui duyên mới, nhưng Phạm Kim vẫn buồn thương Trương Quỳnh Thư. Chàng nói với

Thụy Châu về mối tình cũ. Thụy Châu

liền giơ bàn tay có dấu hai chữ "Quỳnh Thư". Phạm Kim ứa lệ mới biết Thụy Châu là hậu

thân của Trương Quỳnh Thư...

III. Chủ đề

"Sơ kính tân trang" ca ngợi mối lương duyên của tài tử giai nhân và niềm khát vọng trong

tình yêu son sắc chung thuỷ.

IV. Phân tích đoạn "Cảnh chùa chiền"

1. Đoạn thơ "Cảnh chùa chiền" tả lại những cảnh đẹp và những con người mà Phạm Kim

đã thăm thú đã gặp trên con

đường mưu đồ đại sự, sau khi Phạm Công - cha chàng đã mất.

2. Đoạn thơ có hai cảnh đầy ấn tượng

a. Cảnh đẹp thiên nhiên hữu tình

- Cảnh đền Hùng:

"Lên Hùng Vương rất non cao,

Mấy dương ngóc ngách, mấy cầu chông chênh"

- Cảnh Yên Tử:

"Vào Yên Tử rất non cùng,

Đàn xô nước suối, phách giong cây rừng".

- Cảnh Kính Chủ (Đông Triều, Quảng N inh):

"Đá sực sực, nước cồn cồn,

Page 210: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Chênh vênh cửa động, chon von mái chùa".

Phạm Thái có một cách viết rất mới lạ, có thể nói, ông tạo ra những câu thơ đảo ngữ, siêu

cú pháp: "Lên Hùng Vương rất

non cao", hoặc "Vào Yên Tử rất non cùng". Cảnh suối rừng núi non hùng vĩ hiện ra vô cùng

kì thú. Các từ láy tạo nên những

vần thơ đầy hình tượng và giàu âm điệu: "ngóc ngách", "chông chênh", "sực sực", "cồn

cồn", "chênh vênh", "chon von",....

b. Nhà tu hành dưới mái chùa xưa

Phạm Thái miêu tả những nhà tu hành dưới mái chùa xưa vừa bằng nụ cười châm biếm

vừa bằng cái nhìn lãng mạn. Tình

yêu có một mãnh lực, một ma lực ghê gớm có thể làm cho các nhà tu hành phải cởi áo cà sa

để trở về cõi tục, về sống giữa

"vườn trần" đông vui với bao lạc thú:

"Sài Sơn tựa áng phồn hoa,

Sư huynh chải chuốt, vãi già đong đưa.

Ra vào tiểu gái lẳng lơ,

Long lanh mắt liếc say sưa miệng cười..."

Giữa cảnh phồn hoa, từ sư huynh, vãi già đến tiểu gái đã "lột xác" hoàn toàn, họ trở thành

những con người trần tục hoàn

toàn: ham sống và ham yêu.

Có lúc nhà thơ ngẩn ngơ, tiếc nuối cho những giai nhân "lạc lối" vào con đường tu hành.

Đó cũng là cái nhìn lãng mạn:

"Người cung nữ tuổi xuân xanh,

Đem thân bồ liễu, đổi cành đàn na...

Tu hành đấy có sư cô,

Dễ đem nghìn nén mà mua tiếng cười?".

Page 211: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Tóm lại, Phạm Thái là nhà thơ của tình yêu. Mối tình của Phạm Kim với Quỳnh Thư -

Thụy Châu là một thiên diễm tình.

"Sơ kính tân trang" chỉ dài có 1482 câu thơ lục bát, có xen một vài bài thơ xướng hoạ nhưng

đã đóng góp cho nền thơ ca dân

tộc nhiều đoạn thơ tả cảnh, tả tình tràn đầy màu sắc lãng mạn. Phạm Thái không chỉ phản

ánh cảnh ăn chơi sa đọa của tầng

lớp nhà chùa trong thế kỷ 18, 19 ở nước ta mà còn khẳng định một sự thật ở đời: tình yêu

lứa đôi là chuyện đẹp nhất ở vườn

trần và có một sức mạnh ghê gớm. Đó là cái nhìn lãng mạn, là bút pháp lãng mạn của Phạm

Thái.

Nguyễn Du và Truyện Kiều

I. Tác giả

Nguyễn Du (1765-1820) tự là Tố Như, hiệu là Thanh Hiện, quê ở Tiên Điền, huyện Nghi

Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông xuất

thân trong một gia đình đại quý tộc thời Lê, có truyền thống văn học. Cha là Nguyễn N

ghiễm, đỗ tiến sĩ làm tể tướng. Anh là

Nguyễn Khản, đỗ tiến sĩ, làm đại quan trong phủ chúa.

Triều Lê - Trịnh sụp đổ, Nguyễn Du trôi giạt về quê vợ ở Thái Bình suốt "mười năm gió

bụi" rồi về sống ở Hà Tĩnh quê

nhà, sống ẩn giật, tự xưng là "Nam Hải điếu đổ", "Hồng Sơn liệp hộ".

Tây Sơn đổ, Gia Long thiết lập triều đại mới. Năm 1802, Gia Long triệu ông ra àm quan

cho nhà Nguyễn. Năm 1813,

Nguyễn Du được cử làm Chánh sứ sang Trung Quốc, có lúc giữ chức Tham tri bộ Lễ, Cần

chánh điện đại học sĩ.

II. Tác phẩm

1. - Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh).

- Văn chiêu hồn (Văn tế thập loại chúng sinh)

Page 212: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

- Thác lời trai phường Nón.

2. Thơ chữ Hán:

- Thanh Hiên thi tập.

- Nam trung tạp ngâm.

- Bắc hành tạp lục.

III. Truyện Kiều

1. Nguyễn Du dựa vào cốt truyện "Kim Vân Kiều truyện" của Thanh Tâm Tài Nhân, đời

Thanh Trung Quốc để sáng tạo

ra truyện Kiều, dài 3254 câu thơ lục bát, kiệt tác số một, "tập đại thành" của nền thơ ca cổ

điển Việt Nam.

2. Cốt truyện

Về đời Minh, có gia đình Vương Viên ngoại ở Bắc Kinh sinh thành được ba người con:

Thuý K iều, Thuý Vân, Vương

Quan. Hai chị em Kiều nhan sắc tuyệt trần, riêng Kiều còn có tài thi hoạ, ca, ngâm. Nhân

ngày hội Đạp Thanh ba chị em

Kiều đi chơi xuân, gặp một văn nhân tên là Kim Trọng "tình trong như đã mặt ngoài còn e".

Kim Trọng tìm cách gặp gỡ Kiều,

nhờ cành kim thoa mà hai người ước hẹn, thề nguyền dưới trăng "trăm năm tạc mộ chữ

đồng đến xương". K im Trọng phải về

Liễu Dương hộ táng chú. Gia đình K iều gặp tai biến, Kiều phải bán mình cho Mã Giám

Sinh để lấy tiền chuộc cha. Nàng trao

duyên cho Thuý Vân rồi theo họ Mã về Lâm Trụy. Kiều mắc lận Sở Khanh, bị Tú Bà làm

nhục. Kiều vào lầu xanh lần thứ

nhất. Kiều được Thúc Sinh chuộc ra lấy làm vợ lẽ. Hoạn Thư đánh ghen. Kiều bỏ trốn khỏi

nhà Hoạn Thư, lại rơi vào tay

Bạc Bà, Bạc Hạnh. Kiều vào lầu xanh lần thứ hai tại Châu Thai. Kiều được Từ Hải chuộc,

lấy từ Hải trở thành mệnh phụ phu

Page 213: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

nhân. Kiều báo ân báo oán. Kiều và Từ Hải mắc lừa Hồ Tôn Hiến. Từ Hải bị giết chết, Kiều

bị ép lấy viên thổ quan, nàng

nhảy xuống sông Tiền Đường tự tử nhưng được cứu thoat rồi đi tu.

Kim Trọng trở lại vườn Thuý, kết duyên với Thuý Vân. Kim Trọng và Vương Quan thi

đỗ được bổ đi làm quan. Cả gia

đình qua sông Tiền Đường may mắn gặp vãi Giác Duyên, tìm đến ngôi chùa Kiều đi tu.

Kiều gặp lại cha mẹ, hai em và chàng

Kim sau 15 năm trời lưu biệt...

3. Giá trị nội dung

a. Giá trị tố cáo hiện thức: lên án xã hội phong kiến thối nát, những thế lực hắc ám tàn

bạo, dã man đã chà đạp lên quyền

sống và hạnh phúc con người như bọn quan lại tham ô thối nát, bọn buôn thịt bán người,

bọn ma cô lưu manh tàn ác; lên án

mặt trái của đồng tiền hôi tanh...

b. Giá trị nhân đạo: xót thương cho nỗi đau khổ của con người, tài sắc bị dập vùi, nói lên

ước mơ về hạnh phúc, tự do và

công bằng, đề cao quyền sống của con người, v.v...

4. Giá trị nghệ thuật

a. Nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc, tạo ra những mẫu người với những tính cách

tiêu biểu cho cái đẹp, cái xấu,

cái thiện, cái ác... trong xã hội phong kiến suy tàn, thối nát.

b. Nghệ thuật tự sự, hấp dẫn, cảm động, tạo ra những tình huống, những bi kịch. Lúc

miêu tả, lúc tả cảnh ngụ tình, lúc

đối thoại, câu truyện về nàng Kiều diễn biến qua trên ba nghìn câu thơ liền mạch.

c. Ngôn ngữ thi ca: N guyễn Du đã kết hợp tài tình giữa ngôn ngữ bác học, sử dụng điển

tích, thi liệu văn học cổ Trung

Hoa với ca dao, tục ngữ, thành ngữ... nâng lên thành một ngôn ngữ văn chương trong sáng,

Page 214: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

trau chuốt, mượt mà, mẫu mực.

Cho đến nay chưa có nhà thơ Việt Nam nào viết thơ lục bát trên ba nghìn câu hay bằng

Nguyễn Du. "Truyện Kiều" xứng

đáng là "tiếng thương như tiếng mẹ du những ngày" (Tố Hữu).

IV. Những ý kiến, những lời thơ hay và đẹp nói về "Truyện Kiều"

1… "Tố Hữu tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu

không phải có cái mắt trông thấu

cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời, thi tài nào có cái bút lực ấy..."

(Mộng Liên Đường)

2... "Ngọc diện khởi ưng mai thuỷ quốc Băng tâm tự khả đối K im Lang..."

(Phạm Q uí Thích)

"Mặt ngọc nỡ sao vùi đáy nước,

Lòng trinh không thẹn với K im Lang"

(Nguyễn Quảng Tuân dịch)

3… Mười năm qua, nay trở lại hoà bình.

Trăng ly biệt lại đoàn viên trước cửa.

Cảo thơm đặt trước đèn, tôi giở

Mỗi trang Kiều rung một bóng trăng thanh.

Chạnh thương cô Kiều như đời dân tộc

Sắc tài sao mà lại lắm truân chuyên

Cành xuân phải trao tay khi nước mất

Cỏ bên trời xanh một sắc Đạm Tiên.

Bỗng quý cô Kiều như đời dân tộc

Chữ kiên trinh vượt trăm sóng Tiền Đường

Chàng Kim đã đến tìm, lau giọt khóc

Page 215: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Và lò trầm đêm ấy toả bay hương...

("Đọc Kiều"- Chế Lan Viên)

4... Trải qua một cuộc bể dâu

Câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình

Nỗi chìm kiếp sống lênh đênh

Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều...

("Bài ca mùa xuân 1961"- Tố Hữu).

5... Tiếng thơ ai động đất trời

Nghe như non nước vọng lời ngàn thu

Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du,

Tiếng thương như tiếng mẹ ru mhững ngày.

Hỡi Người xưa của ta nay,

K húc vui xin lại so đây cùng Người!

("Kính gửi cụ Nguyễn Du"- Tố Hữu)

Trao duyên

(Trích "Truyện Kiều")

Cậy em, em có chịu lời,

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.

Giữa đường đứt gánh tương tư,

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.

Kể từ khi gặp chàng Kim ,

Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.

Sự đâu sòng gió bất kỳ,

Hiều tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?

Ngày xuân em hãy còn dài,

Page 216: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Xót tình máu mủ, thay lời nước non.

Chị dù thịt nát xương mòn,

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.

Chiếc thoa với bức tờ mây

Duyên này thì giữ, vật này của chung.

Dù em nên vợ nên chồng,

Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên!

Mất người còn chút của tin,

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.

Mai sau dù có bao giờ,

Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.

Trông ra ngọn cỏ gió cây,

Thấy hiu hiu gió, thì hay chị về.

Hồn còn mang nặng lời thề,

Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.

Dạ đài cách mặt, khuất lời,

Rảy xin chén nước cho người thác oan.

Bây giờ trâm gãy bình tan,

Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!

Trăm nghìn gửi lạy tình quân

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.

Phân sao phận bạc như vôi?

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.

Ôi Kim Lang! Hỡi K im lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!

Page 217: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

I. Xuất xứ

Đoạn thơ dài 34 câu, từ câu 732 đến câu 756 trong Truyện Kiều, khởi đầu bi kịch cho

quãng đời 15 năm trời lưu lạc của

Thuý K iều.

II. Đại ý

Kiều trao duyên cho Thuý Vân, gửi lại em gái những kỉ vật của mối tình chung. N àng

đau khổ khóc than cho mối tình đầu

tan vỡ, cay đắng cảm thấy mình là con người phụ bạc.

III. Phân tích

1. Kiều cầu khẩn, van lạy em gái, cậy nhờ em gái "chịu lời", nhận lời chịu uỷ thác một

việc hệ trọng. Em gái đã trở thành ân

nhân của chị gái. Kiều đã lấy "lễ" đối xử với em: "N gồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa". "Lạy

rồi sẽ thưa" - cử chỉ trang trọng,

trang nghiêm.

Kiều thổ lộ với em mối tình đẹp với chàng K im: "Chén thề": chén rượu hai người cùng

uống dưới trăng đêm tình tự thề

nguyền: "Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương". "Q uạt ước": chiếc quạt mà Thuý Kiều

đã tặng Kim Trọng. Đó là một mối

tình đã thề nguyền thuỷ chung và đẹp.

Trước gia biến "sóng gió bất kỳ", giữa tình và hiếu "khôn lẽ hai bề vẹn hai". Chị phải đặt

chữ hiếu lên chữ tình. Chị phải

trao duyên cho em bởi lẽ em là "tình máu mủ" của chị, hơn nữa cuộc đời em còn trẻ còn

chứa chan hạnh phúc:

"Ngày xuân em hãy còn dài,

Xót tình máu mủ thay lời nước non".

"Lời nước non" là lời thề chỉ non thề biển; son sắc thuỷ chung. "Thay lời nước non"

nghĩa là thay chị, em lấy chàng Kim trả

Page 218: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

nghĩa cho chàng.

Nửa năm sau, chàng Kim trở lại vườn Thuý..., tìm đến nơi "di trú" của gia đình người

yêu. Vương Ông khóc than nhắc lại

lời K iều trước lúc ra đi:

"Dùng dằng khi bước chân ra

Cực trăm nghìn nỗi, dặn ba bốn lần.

Trót lời nặng với lang quân,

Mượn con em nó Thuý Vân thay lời.

Gọi là trả chút nghĩa người

Sầu này dằng dặc muôn đời chưa quên..."

Qua đó, ta thấy tấm lòng quý hoá thơm thảo của Thuý Kiều. Nàng bán mình để chuộc

cha, để cứu gia đình. Tình yêu dù

tan vỡ nhưng nàng vẫn giữ lấy cái "nghĩa" với chàng Kim, "cậy em"... "thay lời nước non".

Chị có trải qua nhiều đau khổ "thịt

nát xương mòn..." vẫn thơm lây về nghĩa cử chỉ của em.

2. Kiều trao lại kỉ vật thiêng liêng cho em. Trao duyên rồi vẫn còn vấn vương, đó là bi

kịch tình yêu khi K iều nói:

"C hiếc thoa với bức tờ mây,

Duyên này thì giữ, vật này của chung."

Đã trao duyên rồi, sao lại nói "vật này của chung?" Đó là quy luật của tình yêu, là nỗi

đau của Kiều "con tằm đến thác vẫn

còn vương tơ".

3. Lời than của Kiều não nùng thê thiết như lời trăng trối. Kiều nói đến "hồn", đến "dạ

đài", nói đến một ngày mai bi thảm

từ cõi âm trở về:

"Mai sau dù có bao giờ

Page 219: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Đốt lò hương ấy so tơ phím này

Trông ra ngọn cỏ lá cây,

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.

Hồn còn mang nặng lời thề,

Nát thân bồ liễu đến nghì trúc mai.

Dạ đài cách mặt khuất lời

Rảy xin chén nước cho người thác oan".

Tình yêu tan vỡ, Kiều xem như mình đã "chết", chết trong đau khổ. Lời than của Kiều

thấm đầy lệ.

4. Kiều thầm nhắn gửi người yêu: Tình yêu đã tan vỡ, đã "trâm gãy bình tan". Đau đớn

khôn xiết kể cho "tơ duyên ngắn

ngủi", cho "phận bạc"... Kiều gửi lạy tình quân.... Kiều cất tiếng gọi người yêu rồi ngất đi:

"Ôi Kim Lang! Hỡi K im Lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!"...

Trao duyên cho em để rồi ra đi mặc cho sỗ phận "nước chảy hoa trôi lỡ làng". K iều ngỡ

rằng trả được nghĩa chàng Kim sẽ

bớt phần đau khổ. Trái lại, trao duyên cho em rồi, Kiều lại càng vô cùng đau khổ. Nguyễn

Du với trái tim nhân đạo mênh

mông, ông đã ghi lại những biến thái tinh tế trong tâm hồn Kiều, những đau đớn ứa máu của

người con gái khi mối tình đầu tan

vỡ. Ta cảm thấy ông là người chứng kiến lễ trao duyên. Đây là một trong những đoạn thơ

xúc động nhất trong "Truyện

Kiều", gồm những "câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình".

Page 220: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Sử thi

I. Định nghĩa

Sử thi là những áng văn tự sự (bằng văn vần hoặc văn xuôi) có quy mô hoành tráng, miêu

tả và ca ngợi những thành tựu có

tính toàn dân và có ý nghĩ trọng đại (sống còn, vinh nhục) đối với cộng đồng, ca ngợi những

anh hùng bộ tộc mang sức mạnh

thần kỳ, tiêu biểu cho phẩm chất và khát vọng của bộ tộc.

Sử thi cổ đại là sản phẩm tinh thần - lễ nghi, nghệ thuật của xã hội thị tộc-bộ lạc, một thể

loại một đi không trở lại, phản

ánh những kì tích của cộng đồng trong công cuộc xây dựng sự phát triển, chinh phục tự

nhiên và chiến đấu chiến thắng mọi kẻ

thù của bộ tộc.

II. Những bộ sử thi của Việt Nam và thế giới

1. Việt Nam

"Đẻ đất đẻ nước" của người Mường, bằng thơ. Bản sưu tầm ở Hoà Bình dài 3887 câu

thơ; bản sưu tầm ở Thanh Hóa dài

8503 câu (?)

- "Bài ca Đan Sẵn" của người Ê đê.

- "Xinh Nhã" của nhiều bộ tộc ở Tây Nguyên, chủ yếu của người Ê đê.

- “Y Ban” của nhiều bộ tộc ở Tây Nguyên.

- "Đăm Di" của người Ê đê và Giarai.

- "Xinh Chơ Niếp" của người Ê đê.

- v.v...

2. Thế giới

- "Ramayana" của Ấn Độ gồm có 24.000 câu thơ đôi.

- "Mahabharata" của Ấn Độ dài 110.000 câu thơ đôi.

Page 221: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

- "Ôđixê" của Hi Lạp dài 12.110 câu thơ, tác giả Hômerơ.

- "Iliat" của Hi Lạp, dài 15.683 câu thơ, tác giả Hômerơ.

- v.v...

III. Những ý kiến về sử thi

1. ..."Thời đại thịnh vượng nhất của giai đoạn cao trong thời đại dã man được diễn tả

trong những bài thơ của Hômerơ,

nhất là tập Iliat.

... Bản anh hùng ca của Hômerơ và toàn bộ thần thoại - đó là những di sản chủ yếu mà

người Hi Lạp đã đem được từ thời

đại dã man sang thời đại văn minh...” (Ăng ghen)

2. ..."Chỉ thông qua sức mạnh phi thường của cộng đồng, người ta mới có thể giải thích

được vẻ đẹp tuyệt vời và sâu sắc

của thần thoạivà anh hùng ca, một vẻ đẹp xây dựng trên sự hoà hợp triệt để giữa nội dung và

hình thức..." (Gorki)

3. "Sử thi anh hùng bao hàm một bức tranh hoàn chỉnh của cuộc sống nhân dân dưới hình

thức kể truyện anh hùng về quá

khứ. Thế giới sử thi lý tưởng và nhân vật dũng sĩ trong sự thống nhất hài hoà của chúng - đó

là những nhân tố chủ yếu của

một nội dung sử thi anh hùng". (Mêlêtinxki)

Thúc Sinh từ biệt Thuý Kiều

(1519) Người lên ngựa, kẻ chia bào,

Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.

Dặm hồng, bụi cuồn chinh an,

Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh.

Người về chiếc bóng năm canh,

Page 222: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi,

Vầng trăng ai xẻ làm đôi,

(1526) Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường.

I. Xuất xứ

Đoạn thơ 8 câu, từ câu 1519-1526 ghi lại cảnh Thúc Sinh từ biệt Thuý Kiều đi về Vô

Tích thăm vợ cả Hoạn Thư và thu

xếp chuyện "vườn mới thêm hoa".

II. Đại ý

Đoạn thơ ghi lại cảnh biệt ly giữa Thuý Sinh và Thuý Kiều và nói lên nỗi buồn thương

nhớ, cô đơn của đôi lứa...

III. Phân tích

1. Hai câu đầu ghi lại khoảnh khắc chia ly, chia lìa. Hai vế tiểu đối, hai hành động như

một nét cắt đau lòng:

Người lên ngựa // kẻ chia bào.

Cả một "rừng phong thu" bao la đỏ ối "đã nhuốm màu quan san", nơi xa xôi cách biệt.

"Màu quan san" ấy gợi cho ta cảnh

ly biệt vẫn thường diễn ra vào mùa thu. Nỗi nhớ thương của đôi lứa trẻ trung, từ lòng người

như thấm sâu vào cảnh vật, vào

không gian bao la, vào sắc lá của "rừng phong thu".

2. Hai câu 3, 4 tả cái đứng lặng và dõi theo của nàng Kiều. Con đường đỏ bụi (dặm

hồng), bụi cuốn lấy yên ngựa của

người đi xa (bụi cuồn chinh an). Kiều trông theo bóng hình Thúc Sinh, người chồng, vị ân

nhân của nàng, nhìn mãi, nhìn hoài

cho đến lúc chỉ thấy màu xanh của ngàn dâu mờ xa cuối chân trời. Chữ "trông" và chữ

"khuất" diễn tả tình lưu luyến khôn

nguôi:

"Dặm hồng bụi cuốn chinh an,

Page 223: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh".

Từ màu đỏ của "rừng phong thu" đến màu "hồng" của bụi cuốn, màu "xanh" của ngàn

dâu, đó là màu của tâm tưởng, màu

của biệt li, màu của thương nhớ:

"Ngàn dâu xanh ngắt một màu,

Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?"

(Chinh phụ ngâm)

3. Nỗi buồn cô đơn của Kiều. Nàng thương mình lẻ loi, cô đơn "chiếc bóng năm canh",

thao thức, thương nhớ, chờ đợi....

Nàng thương Thúc Sinh đi xa "muôn dặm" vất vả, cô đơn "một mình", và một ngày một "xa

xôi" thêm:

"Người về chiếc bóng năm canh,

Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi".

"Người về"với "kẻ đi" ở hai phía chân trời. "C hiếc bóng" và "một mình" đều lẻ loi, cô

đơn. Đêm "năm canh" đợi chờ như dài

ra. "Muôn dặm" với bao thương nhớ như "xa xôi" vô tận.

4. Đêm đêm nàng Kiều thao thức, chỉ có vầng trăng với nàng. Xưa là vầng trăng thề

nguyền, chứa chan hạnh phúc,

"Đêm nay" chỉ có vầng trăng li biệt, "vầng trăng ai xẻ làm đôi", biết bao đau buồn thương

nhớ!

"Vầng trăng ai xẻ làm đôi

Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm đường"

Vầng trăng chẳng còn tròn vành vạnh nữa mà đã bị cắt, bị "xẻ làm đôi", như một ám ảnh,

một dự báo cuộc từ biệt lần này

cũng là cuộc vĩnh biệt tình duyên giữa Thúc Sinh với nàng K iều. Đoạn thơ "Thúc Sinh từ

biệt Thuý Kiều" là một đoạn thơ tả

cảnh ngụ tình đặc sắc, "ngang giá một thiên phú biệt li" như Vũ Trinh đời N guyễn đã bình.

Page 224: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Nó chứa chan tình người, gợi lên nỗi đau buồn, thương nhớ cho những lứa đôi nặng tình mà

li biệt ...

Kim Trọng trở lại vườn Thuý

(2741) Từ ngày muôn dặm phù tang,

Nửa năm ở đất Liêu Dương lại nhà.

Vội xang vườn Thuý dò la,

Nhìn xem phong cảnh, nay đà khác xưa.

Đầy vườn cỏ mọc lau thưa

Song trăng quạnh quẽ, vách mưa rã rời...

Trước sau nào thấy bóng người,

Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.

Xập xoè én liệng rường không,

Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giày.

Cuối tường gai góc mọc đầy,

Đi về này những lối này năm xưa!

Chung quanh nặng khắt như tờ,

(2754) - Nỗi niềm tâm sự bây giờ hỏi ai?

I. Xuất xứ

Sau nửa năm về Liêu Dương hộ tang chú, Kim Trọng vội trở lại vương Thuý "dò la"...

Đoạn thơ dài 14 câu, từ câu 2741

đến câu 2754.

II. Đại ý

Đoạn thơ tả nỗi buồn ngao ngán của Kim Trọng trước cảnh tiêu điều, hoang vắng của

vườn Thúy.

III. Phân tích

Page 225: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

1. Bốn câu đầu giới thiệu Kim Trọng về Liêu Dương "phù tang" chú đã sáu tháng rồi,

nay mới trở lại nhà ở Bắc Kinh. Xa

cách người yêu đã trong một thời gian dài "nửa năm", trên một không gian "muôn dặm"

cách trở, với bao thương nhớ:

"Ngoài nghìn dặm, chốc ba đông,

Mối sầu ghi gỡ cho xong còn chầy"

Hai chữ "vội sang" trong câu thơ "Vội sang vương Thuý dò la" diễn tả niềm thương nhớ

bồn chồn, sự khát khao được

gặp mặt người yêu đã nửa năm xa cách. Câu thơ "Nhìn xem phong cảnh nay đà khác xưa"

không chỉ gợi tả khái quát sự đổi

thay của vườn Thuý, của gia đình người đẹp mà còn thể hiện một cái nhìn ngơ ngác, băn

khoăn của chàng Kim.

2. Mười câu thơ còn lại tả cảnh tiêu điều hoang vắng của vườn Thuý và nỗi niềm tâm sự

của Kim Trọng. Vườn xưa có

"Lơ thơ tơ liễu buông mành", có "đầy thềm hoa rụng"... có "song hồ nửa khép cánh mây",

có "tường gấm"... Nay đã thay đổi

hoàn toàn, "nay đã khác xưa". Vườn xưa, nay đã "cỏ mọc lau thưa". Sân xưa, nay đã "Cỏ lan

mặt đất rêu phong dấu giày".

Với K im Trọng, "dấu giày" của người đẹp, của người yêu như đã được "rêu phong" lại, giữ

lại cho chàng, để lòng chàng ngẩn

ngơ thương nhớ! Nhà cửa hoang vắng đổ nát tiêu điều: "Song trăng quạnh quẽ vách mưa rã

rời". Xưa kia vườn Thuý có "con

oanh học nói..." thì nay chỉ trông thấy cảnh "Xập xoè én liệng rường không", lòng chàng K

im lại càng ngổn ngang đau đớn.

Câu thơ "Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông" tuy khơi gợi từ một tứ thơ Đường của Thôi

Hộ nhưng đầy sáng tạo làm hiện

lên một khung cảnh buồn thương vắng bóng giai nhân, cỏ hoa như thấm đau nỗi buồn

thương nhớ li b iệt của chàng Kim. Biết

Page 226: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

bao bơ vơ, sầu tủi tràn ngập lòng người... Cây đào ấy như một chứng minh về kỷ niệm

không bao giờ quên đối với chàng

Kim đa tình: "Dưới đào dường có bóng người thướt tha... Trên đào nhác thấy một cành kim

thoa".

Đây là hai câu thơ hay nhất trong đoạn :

"Cuối tường gai góc mọc đầy

Đi về này những lối này năm xưa".

Sáu tháng trước, Kim Trọng đa tình đã từng "Tường đông, ghé mắt ngày ngày hằng

trông", đã biết bao phen "lần theo

tường gấm dạo quanh".... Và có bao giờ quên được cái giây phút thần tiên "Thang mây rón

bước ngọn tường" để tỏ tình với

người đẹp từng "thầm trông trộm nhớ...". Cũng như bức "tường gấm" ấy, "lối này"… cũng

đầy ắp kỷ niệm với "kẻ thiên tài":

"Xắn tay mở khoá động đào

Rẽ mây trông tỏ lối vào Thiên Thai".

Làm sao quên được cái đêm tự tình ấy, nàng Kiều đã "xăm xăm băng lối vườn khuya một

mình". Câu thơ "Đi về này những

lối này năm xưa" như làm hiện lên trong tâm hồn Kim Trọng bao kỷ niệm đẹp về nàng

Kiều mà thời gian không thể xoá nhoà.

Chàng Kim như chết nặng đi trong cô đơn, trong thương nhớ, biết ngỏ tâm sự cùng ai. Một

câu hỏi đầy bồi hồi, ám ảnh, ngổn

ngang thương nhớ:

"Chung quanh lặng ngắt như tờ

Nỗi niềm tâm sự bây giờ hỏi ai?"

3. Đoạn thơ "Kim Trọng trở lại vườn Thuý" cũng là một trong những đoạn thơ tả cảnh

ngụ tình tuyệt bút của thi hào

Nguyễn Du. Nét đặc sắc ở đoạn thơ ở chỗ: Kim Trọng nhìn cảnh vương Thuý tiêu điều

Page 227: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

hoang vắng mà mang tâm sự ngổn

ngang trong lòng. Người yêu, người đẹp bây giờ đi đâu về đâu?...Cảnh vật nào bao giờ cũng

mang theo bao kỷ niệm của

người yêu từng nặng tình thề nguyền... Cảnh cũ vườn xưa từ "song trăng" đến "hoa đào", từ

cánh én đến cỏ lau, từ "tường

gấm" đến "lối này" như mang nặng tình người, đang đối diện và tâm sự cùng chàng Kim.

Thuý kiều chắc đang ở Lâm Truy,

nàng có nghe thấu "Xa xôi ai có thấu tình chăng ai?"...

Anh hùng tiếng đã gọi rằng

2419- Nàng từ ân oán rạch ròi

Bể oan dường đã vơi vơi cạnh lòng.

Tạ ân lạy trước Từ công:

"Chút thân bồ liễu mà mong có rày!

Trộm nhờ sấm sét ra tay.

Tấc riêng như cất gánh đầy đổ đi!

Khắc xương ghi dạ xiết chi,

Dễ đem gan góc đền nghì trời mây."

Từ rằng: "Q uốc sĩ xưa nay,

Chọn người tri kỷ một ngày được chăng?

Anh hùng tiếng đã gọi rằng

Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha

Huống chi việc cũng việc nhà,

Lọ là thâm tạ mới là tri ân!

Xót nàng còn chút song thân,

Bấy nay kẻ Việt người Tần cách xa

Page 228: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Sao cho muôn dặm một nhà,

Cho người thấy mặt là ta cam lòng".

Vội truyền sửa tiệc quan trung

Muôn binh nghìn tướng hội đồng tẩy oan.

Thừa cơ trúc chẻ ngói tan,

Binh uy từ ấy sấm ran trong ngoài.

Triều đình riêng một góc trời

Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà.

Đòi phen gió quét mưa sa,

Huyện thành đạp đổ năm toà cõi nam.

Phong trần mài một lưỡi gươm,

Những phường giá áo, túi cơm sá gì!

Nghênh ngang một cõi biên thuỳ,

Thiếu gì cô quả, thiếu gì bá vương.

Trước cờ ai dám tranh cường?

2450- Năm năm hùng cứ một phương hải tần!

I. Xuất xứ

Đoạn thơ "Anh hùng tiếng đã gọi rằng", dài 32 câu, trích trong "Truyện kiều" từ câu

2419 đến câu 2450. Đoạn thơ này

tiếp sau cảnh Kiều báo ân báo oán.

II. Ý tưởng đoạn thơ

Đoạn thơ ca ngợi Từ Hải là một anh hùng đích thực giàu nghĩa khí qua đó nêu bật và

khẳng định cảm hứng nhân văn, nói

lên khát vọng tự do của con người thời đại.

III. Phân tích

Page 229: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

1. Mười tám câu đầu là cuộc trò chuyện giữa Từ Hải với K iều. Kiều tạ ơn Từ Hải đã

giúp mình báo ân báo oán. Có nhờ

được "sấm sét ra tay" thì "bể oan" mới được vơi đi, "tấc riêng" mới được gột rửa, được xoá

bỏ, được "đổ đi", mới thanh thản

nhẹ nhàng. Ơn nghĩa ấy vô cùng to lớn (trời mây) khắc vào xương, ghi sâu vào dạ, chẳng

bao giờ quên:

"Khắc xương ghi dạ xiết chi

Dễ đem gan óc đền nghì trời mây".

Kiều nói chân thành, nhỏ nhẹ, khiêm nhường (thân bồ liễu, tấc riêng, gan óc...) đầy tình

nghĩa. Từ Hải tự coi mình là "quốc

sĩ", xem Kiều là "tri kỉ". Từ hải giúp K iều báo ân, báo oán là một việc làm đầy nghĩa khí

như các anh hùng hảo hán xưa nay

vẫn coi trọng: "Lộ kiến bất bình, bạt đạo tương trợ". Với Từ Hải, không thể dung tha mọi

"bất bằng" tội ác ở đời:

"Anh hùng tiếng đã gọi rằng

Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha"

Câu nói của Từ vang lên đĩnh đạc hào hùng thể hiện một lý tưởng anh hùng tuyệt đẹp,

như một lời tuyên chiến với mọi cái

ác, cái bất công ở đời.

Từ Hải xem hành động ra oai "sấm sét" của mình giúp K iều báo ân báo oán là "việc

nhà", là chuyện gia đình... cũng là để

Kiều sớm gặp lại gia đình, gặp lại song thân. Từ Hải là một con người chí tình chí nghĩa,

thấu hiểu được nỗi đau riêng và ước

mong của Kiều:

"Xót nàng còn chút song thân,

Page 230: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Bấy nay kẻ Việt người Tần cách xa.

Sao cho muông dặm một nhà,

Cho người thấy mặt là ta cam lòng"

2. Từ Hải là một anh hùng đích thực.

Tiến quân như vũ bão "trúc chẻ ngói tan". Binh uy chấn động "sấm ran trong ngoài". Từ Hải

dựng lên một triều đình đối địch

làm chủ "một góc trời", có tổ chức quy củ: "Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà". Từ Hải xuất

quân đánh đâu thắng đấy:

"Đòi phen gió quét mưa sa,

Huyện thành đạp đổ năm toà cõi nam".

Dưới con mắt của Từ Hải, bọn vua quan triều đình chỉ là "phường giá áo túi cơm" mà

thôi. Từ đã có một giang sơn riêng,

một cõi biên thuỳ riêng ngang nhiên thách thức:

"Trước cờ ai dám tranh cường

Năm năm hùng cứ một phương hải tần'.

Nguyễn Du miêu tả Từ Hải oai phong lẫm liệt như một anh hung thần thoại, một dũng sĩ

trong sử thi, hiện lên trong hào

quang chiến trận, lừng lẫy trong chiến công. Những động từ mạnh, những hình ảnh kì vĩ

được vận dụng sáng tạo, đoạn thơ

vang lên hào hùng mang âm điệu anh hùng ca:

"Gió quét mưa sa", "đạp đổ năm toà cõi nam", " sấm ran trong ngoài"... Các từ Hán Việt

góp phần miêu tả cốt

cách phi thường của Từ Hải: quân trung, hội đồng tẩy oan, binh uy, triều đình, văn võ, sơn

hà, phong trần, biên thuỳ,

cô quả, bá vương, hùng cứ, hải tần....

Đoạn thơ góp phần hoàn thiện chân dung anh hùng Từ Hải : một con người chí tình chí

Page 231: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

nghĩa, sống và chiến đấu vì lý

tưởngvà khát vọng tự do, lẽ công bằng. "Đoạn thơ thể hiện sâu sắc cảm hứng nhân văn

trong "Truyện Kiều". Màu sắc

sử thi, hình tượng kì vĩ, âm điệu anh hùng ca là nét đặc sắc về nghệ thuật của đoạn thơ này.

Nhân vật Từ Hải là một khám phá

đầy sáng tạo của Nguyễn Du: từ một hảo hán trong "Kim Vân Kiều truyện" trở thành một

anh hùng đích thực trong

"Truyện Kiều".

Độc Tiểu Thanh kí

Nguyễn Du

Tây hồ hoa uyển tân thành khư

Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.

Chi phấn hữu thần liên tử hậu,

Văn chương vô mệnh lụy phần dư.

Cổ kim hận sự thiên nan vấn,

Phong vận kì oan ngã tự cư,

Bất tri tam bách dư niên hậu,

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như.

Đọc tập tiểu thanh ký

Hồ Tây cảnh đẹp hoá gò hoang,

Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.

Son phấn có thần chôn vẫn hận,

Văn chương không mệnh đốt cờn vương.

Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,

Cái án phong lưu khách tự mang.

Page 232: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,

Người đời ai khóc Tố Như chăng?

Vũ Tam Tập dịch

I. Xuất xứ

1. "Độc tiểu thanh kí" - bài thơ rút trong "Bắc hành tạp lục", tập thơ đi sứ của Nguyễn Du

(năm 1813 - 1814).

2. Tiểu Thanh là một tên cô gài tài sắc ở đầu thời Minh, Trung Quốc. Nàng họ Phùng lấy

làm lẽ một người cũng tên là

Phùng. Vợ cả ghen hành hạ, nàng đau khổ chết năm 18 tuổi. Nàng có một tập thơ "Độc tiểu

thanh kí" bị vợ cả đốt đi còn sót

lại vài bài. Nay ở Cô Sơn (Chiết Giang), cạnh Tây Hồ còn mộ Tiểu Thanh. Nguyễn Du đã

đọc phần dư cảo của "Tiểu Thanh

kí" khi ông đi sứ mà viết bài thơ này.

II. Chủ đề

Bài thơ "Độc Tiểu Thanh kí" nói lên lòng xót thương đối với những người phụ nữ tài sắc

bị dập vùi đau khổ, chết

trong oan ức, đồng thời tác giả tự cảm thương cho thân phận mình.

III. Phân tích

1. Đề

Cảnh vật tang thương. Vườn hoa ở Tây Hồ đã thành gò hoang hết cả. Thương một đời

dâu bể, nhà thơ thương người đàn

bà bạc mệnh. Nhà thơ đọc "mảnh giấy tàn" (nhất chỉ thư) đứng lặng trước cửa sổ điếu nàng

Tiểu Thanh.

"Tây Hồ cảnh đẹp hoá gò hoang

Thổn thức bến song mảnh giấy tàn"

2. Thực

Page 233: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Nhan sắc (son phấn) và tài năng (văn chương) đều bị vùi dập. Son phấn có thần, sau khi

chết người ta còn xót thương tiếc

nuối. Văn chương còn có số mệnh gì mà người ta còn bận lòng về những bài thơ sót lại sau

khi bị đốt? Nhà thơ thương xót

cho nhan sắc và tài năng của Tiểu Thanh bị hãm hại, chôn vùi:

"Chi phấn hữu thần liên tử hậu,

Văn chương vô mệnh lụy phần dư".

Hai câu thơ đối nhau làm nổi bật nhan sắc và tài năng bị vùi dập, thể hiện tình thương

của nhà thơ. Đúng là "Câu thơ còn

đọng nỗi đau nhân tình" (Tố Hữu).

3. Luận

Nhà thơ suy ngẫm về "hận sự" và "kì oan" trong xã hội. Mối hận xưa nay hỏi trời mà vẫn

khó. Cái oan lạ vì nết phong nhã,

tự mình ta lại buộc lấy mình. Ta như kẻ cùng hội cùng thuyền với kẻ mắc nỗi oan lạ vì nết

phong nhã ấy. Nỗi đau thương và

bế tắc dày vò nhà thơ và đó cũng là nỗi đau và bế tắc của đời người:

"Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,

Cái án phong lưu khách tự mang"

Phải hỏi trời vì hỏi người mãi mà chẳng được. Hỏi trời lại càng rất khó, thế thì "hận sự"

không thể nào kể xiết. Bế tắc là vô

hạn! Phong lưu, phong nhã là vẻ đẹp, là cốt cách sang trọng sao lại là kì oan? Nguyễn Du đã

từng trải qua "10 năm gió bụi"

trong cảnh tha phương, ốm đau không có thuốc, trôi giạt lênh đênh, tóc sớm bạc có lúc ông

tự nhận mình thời trai trẻ cũng là

kẻ có tài (tráng niên ngã diệc vi tài giả). Vì thế ông mới tự xếp mình vào "cùng hội cùng

thuyền", là khách phong lưu như Tiểu

Thanh nên mới mang cái oan lạ như nàng. Thật là chua chát!

Page 234: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

4. Kết

Hai câu kết ẩn chứa bao tâm sự. Tố Như hỏi hậu thế:

"Bất tri tam bách dư niên hậu,

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?"

Sau 300 năm nàng Tiểu Thanh chết, đến điếu và khóc nàng. Liệu sau khi ta mất hơn300

năm, người đời ai khóc tố Như?

Đó là lời tự thương đầy lệ. Nhà thơ tự thấy mình cô đơn bơ vơ, sầu tủi...

"Độc Tiểu Thanh kí" bài thơ mang cảm hứng nhân đạo sâu sắc. Nguyễn Du đã khóc một

Đạm Tiên, một Thuý Kiều....

Ông đã dành cho nàng Tiểu Thanh bao niềm thương xót. Đến Tây Hồ trên đường đi sứ, cái

tâm của ông lại hướng về nỗi đau

khổ oan trái của một giai nhân bị dập vùi với bao "những điều trông thấy mà đau đớn lòng".

Hai câu kết bài thơ phản ánh "nỗi

đoạn trường" của nhà thơ để dân tộc ta "Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du”... như Tố Hữu đã

nói.

Thăng Long thành hoài cổ

Bà Huyện Thanh Quan

Tạo hoá gây chi cuộc hí trường,

Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương.

Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,

Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.

Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,

Nước còn cau mặt với tang thương.

Ngàn năm gương cũ soi kim cổ

Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.

I. Xuất xứ

Page 235: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Tên thật là Nguyễn Thị Hinh, người làng Nghi Tàm, cạnh Hồ Tây. Bà là vợ của ông Lưu

N ghi, làm tri huyện Thanh Quan,

tỉnh Thái Bình, nên được người đời ái kính gọi là Bà huyện Thanh Quan. Bà từng được vua

Minh Mệnh vời vào Phú Xuân

nhận nữ chức quan "Cung trung giáo tập"

Bà còn để lại 6 bài thơ Nôm, đều viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật: "Qua đèo

ngang", "Chiều hôm nhớ nhà",

"Thăng Long thành hoài cổ", "Chùa Trấn Bắc", "Chơi đài Khán Xuân Trấn Võ", "Tức cảnh

chiều thu".

Ngôn ngữ thơ trang nhã, điêu luyện, âm điệu du dương réo rắt, giọng thơ buồn mác, hoài

cổ... là nét đặc sắc trong thơ Bà

Huyện Thanh Quan.

II. Chủ đề

Bài thơ nói lên nỗi nhớ xưa thành Thăng Long và nỗi đau buồn về cuộc đời tang thương.

III. Phân tích

1. Đề

Như một lời than, nhẹ trách tạo hoá. Hí trường: sân khấu. Tinh sương: Tinh là sao, sương

là sương giá. Mấy tinh sương là

mấy năm. Ông trời gây chi thế, làm cho cuộc đời luôn biến đổi chẳng khác gì các lớp kịch,

lớp này tiếp sang lớp khác trên sân

khấu. Cho đến nay, đã mấy năm thấm thoắt trôi nhanh qua. Ý thơ sâu nắng buồn man mác

về dòng chảy thời gian:

"Tạo hoá gây chi cuộc hí trường

Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương".

2. Thực

Kinh thành xưa - thuở vàng son nay còn đâu nữa! Chỉ còn lại vẻ hoang tàn:

"Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,

Page 236: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Nền cũ lâu đài bóng tịch dương".

Đường bàn cờ dọc ngang, xưa kia xe ngựa của ông hoàng bà chúa đi lại rầm rập... nay

chỉ còn lại "hồn thu thảo" - hồn cỏ

thu tàn tạ. Lâu đài xưa đã đổ nát, đã hoang tàn chỉ còn lại cái "nền cũ", vẻ tang thương hiện

lên dưới "bóng tịch dương" - bóng

mặt trời chiều tối. Hai câu thơ đối nhau làm nổi bật cái hoang phế, tàn tạ, thương tâm. "Lối

xưa" với "nền cũ", "xe ngựa" với

"lâu đài", "hồn thu thảo" với "bóng tịch dương" đăng đối, hoà hợp; nỗi đau buồn tang

thương từ cảnh vật đã và đang thấm sâu

vào lòng người. Đó là nỗi buồn hoài cổ về kinh thành xưa.

3. Luận

Nỗi đau về cuộc đời tang thương biến đổi như chất chứa dồn nén cảnh vật:

"Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,

Nước còn cau mặt với tang thương".

Đá và nước đã được nhân hoá, như hai chứng nhân lịch sử, như thách thức (trơ gan) cùng

năm tháng (tuế nguyệt). Như

đau đớn giận hờn (cau mặt) với sự đổi thay, với dâu bể (tang thương). Nghệ thuật chọn từ,

phối thanh (bằng trắc), phép đối -

được nữ sĩ vận dụng rất điêu luyện. Các triều đại đã nối tiếp hưng phế. K inh thành xưa, đế

đô nghìn năm xưa nay xuống cấp

trở thành một tỉnh dưới triều Nguyễn. Với nữ sĩ, ông cha đã mấy đời ăn lộc triều Lê, Thăng

Long lại còn chốn cũ quê nhà thì

nỗi đau buồn không thể nào kể xiết. Đá và nước được nói đến trong phần luận chính là nỗi

lòng nhà thơ.

4. Kết

Hai câu kết nói về dòng chảy thời gian và nỗi đoạn trường của Bà Huyện Thanh quan -

nỗi buồn hoài cổ:

Page 237: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

"Ngàn năm gương cũ soi kim cổ,

Cảnh đấy người đây luống đoạn trường."

Gương cũ nghĩa bóng là lịch sử, là trang đời. Kim cổ là hiện tại và quá khứ. Chuyện lịch

sử qua hàng năm như soi vào quá

khứ và hiện tại. Nhìn "Cảnh đấy" - cảnh Thăng Long tang thương, cảnh "sóng lớp phế

hưng" mà "người đây" (nữ sĩ) đau đớn

tưởng đứt ruột (luống đoạn trường). Đó là nỗi đau của một con người, cũng là nỗi buồn của

một lớp người khi nhớ về kinh

thành xưa một thời vang son, hoa lệ.

IV. Tổng kết

"Thăng Long thành hoài cổ" được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Bài thơ tả

cảnh ngụ tình. Cảnh thì tang

thương. Tình thì hoài cổ với nỗi đau đoạn trường. Có hồn thu thảo, bóng tịch dương, đá và

nước... như chứng nhân lịch sử,

chia xẻ nỗi đoạn trường với thi nhân.

Thi liệu và từ ngữ chọn lọc tinh tế. Một gam màu nhạt của bóng tịch dương phủ mờ bài

thơ. Âm điệu du dương, réo rắt

như một tiếng than mà ta cảm nhận được. Các từ Hán Việt (chữ in nghiêng) tạo nên cốt cách

trang trọng, cổ kim. Điêu luyện

nhất là phép đối, nghệ thuật phối thanh và nhân hoá. Bài thơ mang vẻ đẹp trang nhã và một

nỗi buồn hoài cổ thấm thía.

"Thăng Long thành hoài cổ"- bài thơ để ta yêu, để ta nhớ mãi...

Sử thi Hi Lạp

I. Một vài nét về văn học Hi Lạp cổ đại

- Văn học Hi Lạp cổ đại là "mảnh đất nuôi dưỡng" nghệ thuật. Hi Lạp sau này. Nó hình

thành và phát triển trong bảy tám

thế kỷ từ khoảng thế kỷ thứ 9 đến thế kỷ thứ 1 trước Công nguyên.

Page 238: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

- Nó gồm có Thần thoại Hi Lạp, sử thi Hi Lạp, bi kịch và hài kịch Hi Lạp.

Là nguồn thơ không bao giờ vơi cạn, văn học Hi Lạp cổ đại đã ca ngợi tự do, công lí dân

chủ, tình yêu, đạo lí, nhân đạo,

đề cao lí tưởng anh hùng, chiến thắng số mệnh... Nó đã xây dựng nên những hình tượng kì

vĩ tráng lệ, huyền diệu và chữ tình

đằm thắm, vô cùng cao cả và đẹp đẽ. Nó mãi mãi là dấu ấn chói ngời của nền văn minh Tây

Âu thuở bình minh nhân loại.

II. Tác giả Hômerơ

Theo truyền thuyết Hômerơ là nhà thơ mù ở Tiểu Á, vào thế kỷ thứ 9 trước Công nguyên

đi lang thang khắp các thành

bang kể truyện thơ của mình. Ông được coi là tác giả 2 cuốn sử thi Iliat và Ô đixê.

III. Tác phẩm "Ôđixê"

1. Nguồn gốc đề tài

Iliat là bài ca về thành Iliông (còn gọi là Tơroa) gồm 15.683 câu thơ nói về cuộc chiến

tranh 10 năm ở thành Tơroa.

"Ôđixê" là sự nối tiếp sử thi Iliat gồm 12.110 câu thơ, chia thành 24 khúc ca. Ôđixê kể lại

cuộc hành trình về quê hương của

Uylitxơ sau chiến thắng chiếm đánh thành Tơroa; một hành trình kéo dài 10 năm.

2. Tóm tắt "Ôđixê"

Sau khi chiến thắng ở Tơroa, quân Hi Lạp lần lượt kéo về xứ sở. Uylitxơ cùng đoàn dũng

sĩ của mình vượt qua chặng

đường dài dằng dặc vô cùng nguy hiểm trên biển cả mênh mông. Đoàn chiến thuyền của

Uylitxơ gặp bão dạt từ đảo này sang

đảo khác, trôi đến bờ biển châu Phi, xứ sở của những người trồng "quả lú", rồi lại trôi đến

phía tây Địa Trung Hải. Chàng

cùng các chiến hữu lọt vào đảo những tên khổng lồ "một mắt" Pôliphem, lần sang mảnh đất

của bọn khổng lồ "to như trái núi",

Page 239: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

vào nhà mụ phù thuỷ Xiếc-xê, xuống "thế giới những linh hồn", lách qua eo biển của hai

con quái vật Caripđơ và Xkila trấn

giữ, bước lên đảo thần Mặt trời Hêliôt... Quá đói khát, các bạn đồng hành của Uylitxơ ăn

mất mấy con bò trong đàn bò của

thần nên đã bị thần Dớt gây ra một trận bão lớn để trừng phạt. Sau bao nhiêu tai hoạ dồn

dập, bạn bè của Uylitxơ dần dần

chết hết. Uylitxơ trôi giạt đến đảo của nàng tiên Calipxô xinh đẹp. Nàng tiên mê đắm

Uylitxơ, dâng thần đơn linh dược cho

chàng trở thành bất tử để cùng chàng kết bạn trăm năm. Sau 7 năm trời bị Calipxô lưu giữ,

Uylitxơ mới được thần linh giải

thoát, chàng tiếp tục vượt biển đến ngày thứ 18, thì bạn bè Uylitxơ bị thần Pôêdiđông gây

bão tố đánh chìm để trả thù cho

con trai là gã khổng lồ Pôliphem đã bị chàng chọc mù mắt. Uylitxơ trôi giạt vào vương quốc

Phêaxi, được công chúa Nôdica

cứu giúp, và nhà vua Anxinôôx tiếp đãi ân cần cấp cho thuyền nhẹ bay như cánh chim để

chàng về quê hương. Trong bữa

tiệc tiễn đưa, nghe nghệ nhân hát ca ngợi về chiến công con ngựa gỗ thành Tơroa, Uylitxơ

xúc động rơi lệ. Nhà vua gạn hỏi

mới biết tên tuổi thật của chàng. Nhà vua ngỏ ý muốn chàng thuật lại hành trình từ khi rời

khỏi Tơroa. Nghe chàng kể những

gian truân, nguy hiểm đã qua, nhà vua và triều thần vô cùng cảm động.

Uylitxơ đến Itacơ quê hương sau 20 năm trời chinh chiến. Chàng giả dạng người hành

khất đến gặp người chăn lợn cũ

Ơmê, sau đó chàng bí mật gặp lại con trai Têlêmac. Hai cha con bàn mưu giết bọn cầu hôn.

Sau 10 năm trì hoãn, cuồi cùng

Pênêlốp, vợ chàng phải ra điều kiện, ai bắn trúng một phát xuyên qua 12 vòng trong của 12

cái rìu thì nàng sẽ lấy người đó.

Uylitxơ vào cung điện của vợ mình trong vai hành khất. Nhũ mẫu Ơriclê theo phong tục đã

Page 240: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

rửa chân cho chàng, phát hiện ra

Uylitxơ qua vết sẹo bị lợn lòi húc ở chân. Chàng đã ra hiệu cho Ơriclê giữ bí mật. Cuộc tỉ

thí bắt đầu.108 vị cầu hôn đều thất

bại, chỉ có người hành khất đã bắn xuyên 12 chiếc rìu. Hai cha con Uylitxơ đã trừng trị bọn

cầu hôn và lũ người nhà phản bội.

Nhưng Pênêlốp vẫn không chịu nhận chàng. Chỉ đến lúc Uylitxơ chỉ ra cái dấu riêng của

chiếc chân giường là một cái gốc

cây, Pênêlốp mới chịu nhận ra chồng nàng. Cuộc dàn xếp với thân nhân bọn cầu hôn bị giết

diễn ra những ngày sau đó.

3. Giá trị của tác phẩm

a. Sử thi Ôđixê ca ngợi chí tuệ, dũng khí và nghị lực của con người với khát vọng chinh

phục thế giới chung quanh và niềm

mơ ước về một cuộc sống hoà bình, yên vui, hạnh phúc. Nó còn ca ngợi tình yêu quê hương,

tình vợ chồng, cha con, tình bạn

cao cả, thuỷ chung.

b. Sử thi Ôđixê có cốt truỵên chặt chẽ, hấp dẫn và li kì. Ngôn ngữ tráng lệ. Nhân vật

Uylitxơ là một anh hùng mà trí tuệ,

mưu trí "sánh ngang với thần linh". C hất bi kịch, màu sắc thơ mộng huyền ảo như muôn

ngàn sợi chỉ màu óng ánh dệt nên sử

thi này, thể hiện một vẻ đẹp riêng không thể nào bắt chước nổi.

Uylitxơ trở về

I. Xuất xứ

Sau 20 năm trời chinh chiến, Uylitxơ mới về đến quê hương. Hai cha con đã lập mưu giết

chết 108 vị cầu hôn. Pênêlốp vẫn

không tin chồng mình trở về. Đoạn này trích khúc 23 - "Ôđixê", nói lên quá trình Pênêlốp

nhận ra Uylitxơ chồng nàng. Hai

người vô cùng cảm động.

Page 241: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

II. Phân tích

1. Pênêlốp

Là một người vợ thuỷ chung, kiên trinh đợi chờ chồng suốt 20 năm trời khi chồng đi

chinh chiến. Nàng đã tìm đủ mọi cách

để trì hoãn (chuyện dệt bức thảm, chuyện nêu điều kiện bắn xuyên 12 vòng tròn trên 12 lưỡi

rìu) để khước từ bọn cầu hôn.

- Gặp lại Uylitxơ tại cung điện của mình sau sự kiện "người hành khất" đã bắn xuyên 12

lưỡi rìu và giết chết 108 vị cầu hôn.

Nói với nhũ mẫu, nàng thận trọng cho rằng người vừa bắn xuyên 12 lỗ rìu là "một vị thần"

còn "Uylitxơ đã chết rồi". N hũ mẫu

nói về "cái sẹo" do lợn lòi húc ở chân Uylitxơ thì nàng vẫn thận trọng cho đó là "ý định

huyền bí của thần linh bất tử".

Sau khi xuống lầu, Pênêlốp băn khoăn "không biết nên đứng xa xa hỏi chuyện...." hay

nên lại gần, ôm lấy đầu, cầm lấy tay

người mà hôn, khi thì nàng lại "đăm đăm nhìn chồng", khi lại không nhận ra chồng dưới bộ

quần áo rách mướt.

- Khi bị con trai trách mẹ là "tàn nhẫn", "độc ác quá chừng", "lòng dạ mẹ rắn hơn cả đá"

thì Pênêlốp "kinh ngạc quá chừng"

và tin rằng, nàng và Uylitxơ sẽ nhận ra nhau qua "những dấu hiệu riêng" chỉ có hai người

biết còn người ngoài không ai biết

hết. Thật là thận trọng, thông minh và giàu niềm tin.

- Uylitxơ trách "nàng thật là người kì lạ", các thần đã ban cho nàng "một trái tim sắt

đá"... Lúc bấy giờ Uylitxơ vừa tắm và

thay quần áo xong "đẹp như một vị thần". Nàng ra lệnh cho nhũ mẫu "K hiêng giường ra

khỏi gian phòng vách tường kiên cố...

"để thử chồng"... K hi nghe Uylitxơ nói lên chân giường là một gốc cây cảm lảm không thể

nào di chuyển được thì Pênêlốp

"bủn rủn cả chân tay",... "chạy ngay lại, nước mắt chan hoà, ôm lấy cổ chồng, hôn lên trán

Page 242: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

chồng". Hai mươi năm ấy biết bao

nhiêu tình! Pênêlốp nhìn chàng không chán mắt và hai tay trắng muốt của nàng cứ ôm lấy

cổ chồng không lỡ buông rời".

Tóm lại, Pênêlốp là một người vợ thuỷ chung rất thận trọng như nàng nói "vì đời chẳng

thiếu gì người xảo quyệt, chỉ làm

điều tai ác". Pênêlốp rất thông minh, kín đáo và bình tĩnh làm chủ cảnh ngộ. Nàng là một

phụ nữ, một người vợ rất giàu tình

cảm khi nhận ra Uylitxơ đích thực là chồng mình.

2. Uylitxơ

- Với kì mưu "con người gỗ thành Tơroa" chàng là một người trần mà mưu trí "sánh

ngang thần linh". M ười năm trời lênh

đênh biển cả, trải qua bao gian nguy, Uylitxơ là hiện thân của lòng dũng cảm, mưu trí và có

nghị lực phi thường.

- Là một con người giàu lòng yêu quê hương, gia đình, vợ con.

- Lập mưu giết bọn cầu hôn chứng tỏ "cha vẫn là người nổi tiếng khôn ngoan, không một

kẻ phàm trần nào sánh kịp" như

Têlêmác đã nói.

- Bình tĩnh, rất giàu tình cảm. Sự thật vốn không ưa trang trí, hãy kiên nhẫn đợi chờ để sự

thật nói lên sự thật! Uylitxơ để

cho "cái chân giường nói lên sự thật". Và khi Pênêlốp nhận ra chàng đích thực là chồng

nàng thì Uylitxơ "ôm lấy vợ xiết bao

thân yêu, người bạn đời chung thuỷ của mình, mà khóc dầm dề".

Uylitxơ là hình ảnh lý tưởng về người anh hùng, về một người chồng, một người cha

dũng cảm, mưu trí, độ lượng, thuỷ

chung.

3. Nét đặc sắc nghệ thuật

- Tạo ra nhiều tình huống hấp dẫn, cảm động.

Page 243: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

- Cử chỉ, ngôn ngữ, tâm lí nhân vật được miêu tả sâu sắc làm nổi bật những tính cách với

bao cá tính đầy ấn tượng.

Sử thi Ấn Độ

I. Một vài nét về sử thi Ấn Độ

- Thần thoại Vêđa tiếp theo là sử thi tạo nên nền tảng vĩ đại của nền văn học cổ đại Ấn

Độ hình thành hơn 1.000 năm

trước công nguyên.

- Nền văn minh sông Hằng và cuộc chiến tranh giữa các vương quốc trên nước Ấn Độ cổ

đại là điều kiện cho các bộ sử

thi ra đời.

- Sử thi Ấn Độ là bức tranh hiện thực rộng lớn của xã hội Ấn Độ xa xưa, là bài ca vĩ đại

ca ngợi chiến công và khí phách

của những anh hùng thần thoại, mẫu người lí tưởng cao cả và thiêng liêng.

- Sử thi Ấn Độ vô cùng tráng lệ, hùng kiện, là bầu vú sữa luôn nuôi dưỡng nghệ thuật

(múa, kiến trúc...) Ấn Độ phát triển

độc đáo, rực rỡ.

Ramayana Mahabharata, Krixna-Rađa... là những bộ sử thi vô cùng đồ sộ của Ấn Độ

làm thế giới kinh ngạc.

II. Sử thi Ramayana

1. Nguồn gốc và ảnh hưởng

- Ramayana bắt nguồn từ truyền thuyết về hoàng tử Rama, được lưu truyền trong dân

gian mấy ngàn năm về trước.

- Vào khoảng thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên, Vanmiki- một đạo sĩ Bà Lamôn đã ghi lại

bằng văn vần.

Sử thi Ramayana có độ dài 24.000 câu đôi chia ra thành 7 khúc ca. Nó có ảnh hưởng sâu

sắc nhất tới ca múa (vũ điệu

Xita) kiến trúc, hội hoạ... trong việc khơi ngợi đề tài và nguồn cảm hứng.

Page 244: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

2. Tóm tắt

- Khúc ca I: dòng dõi và tuổi trẻ của hoàng tử Rama.

- Khúc ca II: 13 năm lưu đầy trong rừng sâu.

- Khúc ca III: nàng Xita bị quỷ vương Ravana bắt mất đưa về đảo Lanka.

- Khúc ca IV: Rama tiêu điều vua khỉ Valin giành lại ngôi báu cho vua khỉ Xugriva.

Cuộc liên minh thần thánh.

- Khúc ca V: tướng khỉ Hanuman do thám đến đảo Lanka.

- Khúc ca VI: Cuộc chiến đấu dữ dội, ác liệt giữa Rama và Ravana. Ravana bị tiêu diệt.

Nàng Xita được cứu thoát.

- Khúc ca VII: Rama nổi cơn ghen.Xita nhảy vào dàn lửa. Thần Anhi soi sáng lòng kiên

trinh thuỷ chung cho nàng. Rama

cùng vợ là Xita trở về quốc vương Kôsala lên ngôi vua.

3. Giá trị tác phẩm

a. Về mặt nội dung, sử thi Ramayana:

- Là bức tranh rộng lớn về xã hội Ấn Độ cổ đại.

- Ca ngợi chiến công và đạo đức của người anh hùng.

- Biểu dương tấm lòng thuỷ chung, kiên trinh son sắt của người phụ nữ.

b. Về mặt nghệ thuật Ramayana:

- Bút pháp miêu tả thiên nhiên và tâm trạng nhân vật tài tình tạo nên màu sắc trần thế và

thần linh hoà quỵên.

- Kể chuyện bi hùng, đậm đà màu sắc thần thoại kì diệu.

- Rama và Xita là 2 hình tượng điển hình chói sáng nhất, hấp dẫn nhất.

- Quy mô kì vĩ, hoành tráng mang tầm vóc vũ trụ.

Page 245: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Rama buộc tội

I. Xuất xứ và ý nghĩa

Đoạn kể "Rama buộc tội" trích trong ca khúc thứ 6, chương 79 sử thi Ramayana.

- 78 chương trước kể lại dòng dõi, cuộc đời của Rama, hơn 13 năm đi đày và cuộc chiến

đánh thắng quỷ vương Ravana

để cứu nàng Xita xinh đẹp. Lúc giải phóng đảo Lanka, Rama cùng đoàn quân ca khúc khải

hoàn thì hạn đi đày 14 năm gần

kết thúc. Bỗng Rama nổi cơn ghen tuông dữ dội. Chương 79, Rama dùng những lời nặng

nề, gay gắt buộc tội Xita, nghi ngờ

nàng về sự trong trắng thuỷ chung. Xita bước vào giàn lửa thần Anhi đã minh chứng cho

nàng... Rama hồi hận, cảm động, tự

hào đón lấy nàng. Hạn đi đày 14 năm cũng kết thúc. Rama chia tay các chiến hữu, chàng

cùng em trai và vợ dùng chiếc thiên

xa bay về kinh đô Kôsala...

- Chương 79 khắc hoạ thêm một nét đẹp về con người Thiện của đẳng cấp Kơxatrya

(vương công, quý tộc, võ sĩ) và đức

tính trung hậu, đoan trang của người phụ nữ cao quý.

II. Phân tích

1. Rama ghen tuông - nổi giận

- Khi Xita đã khiêm nhường đứng trước Rama, chàng nói với nàng một cách mỉa mai:

"Hỡi phu nhân cao quý". Quan hệ

vợ chồng hầu như không còn nữa.

- Cuộc giao tranh đã kết thúc, theo Rama đó là nghĩa vụ và tài năng đã hoàn thành: "ta đã

gỡ cho nàng khỏi điều vu

khống nghĩa là nàng đã bị Ravana bắt cóc chứ không phải đi theo hắn; "cơn giận ta đã hả, ta

đã trả thù kẻ năng nhục ta".

Rama đã sống vì một nguyên lí đạo đức của đẳng cấp Kơxatrya của mình: "K ẻ nào bị quân

Page 246: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

thù lăng nhục mà không đem tài

nghệ của riêng mình ra để trả thù, kẻ đó là một gã tầm thường". Rama cũng dành những lời

nói tốt đẹp nhất để ca ngợi

Hanuman và Viphisana - hai chiến hữu tài ba, cao cả của mình.

Trước nhan sắc của Xita: "khuôn mặt bông sen", "những cuộn tóc cuộn sóng" và những

giọt lệ của nàng, lòng Rama "đau

như dao cắt", nghĩa là chàng vẫn say đắm Xita. Nhưng danh dự là trên hết, là tất cả, bởi lẽ

người anh hùng "sợ tai tiếng".

Phải kết thúc chiến tranh là vì nhân phẩm, là để "xoá bỏ vết ô nhục vì uy tín và danh dự của

dòng họ lừng lẫy tiếng tăm của

mình".

Rama không thể "nhận nàng về", "không ưng có nàng nữa" vì "nàng đã lưu lại tại nhà một

kẻ xa lạ", vì Ravana với "đôi mắt tội

lỗi... hau háu nhìn khắp người nàng", nghĩa là nàng đã thất thân với hắn, cho nên Rama phải

nghĩ tới "gia đình cao quý" đã

sinh ra mình.

Tóm lại, Rama vẫn còn yêu Xita xinh đẹp, nhưng vì danh dự, nhân phẩm của người anh

hùng, của dòng họ cao quý mà

chẳng phải buộc tội Xita, chấm dứt quan hệ vợ chồng với nàng: "Vậy ta nói cho nàng hay,

nàng muốn đi đâu tuỳ nàng, ta

không ưng có nàng nữa" Rama cảm thấy xấu hổ bị xúc phạm khi trông thấy Xita thì

"không chịu nổi", "chẳng khác ánh sáng

đối với người bị đau mắt". Rama ghen tuông, buộc tội không phải vì mù quáng mà trái lại,

ghen tuông và buộc tội vì nhân

phẩm, danh dự, một nét tính cách của con người Thiện của đẳng cấp Kơxatrya cao quý.

2. Nàng Xita

Xita được miêu tả trong chiều sâu của bi kịch về tình yêu và danh dự.

Page 247: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Nàng đau khổ vì bị oan, bị xúc phạm. Nàng "đau đớn đến nghẹn thở". Nàng "xấu hổ cho

số kiếp của nàng", nàng muốn

chết ngay "muốn tự chôn vùi cả cái hình hài của mình". Nàng vô cùng đau đớn trước những

lời buộc tội của Rama, nàng cảm

thấy như muôn nghìn mũi tên "xuyên vào trái tim nàng". Nàng khóc "nước mắt nàng đổ ra

như suối"- buộc tội Rama. Nàng

khẳng định: "trái tim thiếp đây thuộc về chàng". Chàng chưa hiểu được thiếp qua tình yêu

và tâm hồn thiếp. Tại sao khi

Hanuman trinh sát tới đảo Lanka, chàng không nhắn nhủ lời "tử bỏ thiếp để thiếp sớm tự kết

liễu đời mình". N ếu chàng tự hào

dòng dõi cao quý thì thiếp có kém gì: "Đất là mẹ của thiếp". Nếu Rama mỉa mai, gọi Xita là

"Hỡi phu nhân cao quý" thì Xita

cũng đàng hoàng đáp lại "Hỡi đức vua" (và trách) "cớ sao hồi còn thanh niên chàng đã cưới

thiếp?".

- Xita nhảy vào giàn hoả thiêu là một cảnh vô cùng bi tráng. Ai đã từng mục kích điệu

múa "Nàng Xita"? Rama "khủng

khiếp như Thần Chết". Các thánh thần thì tự hào nhìn Xita nhảy vào lửa "chẳng khác nào

một đồ cúng trong lễ tế

sinh". Đông đảo phụ nữ thì "kêu khóc thảm thương". Loài ma quỷ như Vanara, Raksaxa

cũng "kêu khóc váng trời".

- Hình ảnh Xita đàng hoàng tự tin. N àng "lượn quanh" Rama như để chào vĩnh biệt.

Nàng lạy chư thần cao quý thiêng

liêng. Nàng cất lời nguyền với Thần Anhi: khẳng định mình bị oan, một phụ nữ trinh tiết bị

coi như một kẻ gian dối; tự hào về

lòng trong trắng thuỷ chung trong tình yêu cúi xin thần "bảo vệ con", "phù hộ cho con".

Ta hãy nghe lời cấu nguyện của nàng Xita:

"Nếu con trước sau một lòng một dạ với Rama thì cúi xin Thần hãy tìm hết cách bảo vệ

con. Rama đã coi một người phụ

Page 248: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

nữ trinh tiết như một kẻ gian dối: nhưng nếu con trong trắng, xin Thần Anhi phù hộ cho

con."

Đọc "sử thi Ramayana" như ta biết, ngọn lửa sáng rực như mặt trời, nàng Xita lộng lẫy

kiều diễm trong ngọn lửa. Thần lửa

Anhi đã chứng minh và cứu sống nàng. Rama dang đôi tay đón Xita, nước mắt chan hoà

sung sướng vừa ân hận, vừa tự hào.

3. Một cài nhìn khái quát về sử thi đã học

- Đan Săn, Uylitxơ và Rama mang dòng máu cao quý thần linh. Đan Săn gọi Trời bằng

cậu, lên gặp Trời được bước qua

một cái thang bằng vàng. Uylitxơ thuộc dòng dõi thần linh, có mưu trí "sánh ngang thần

linh". Rama là một hoàng tử mang sức

mạnh thiên thần.

- Chiến công của 3 anh hùng đều mang tầm vóc vũ trụ, có thần linh che chở và trợ giúp

để chiến thắng. Tình yêu, tình bạn,

tình cộng đồng... đẹp đẽ thuỷ chung...

- Qui mô có khác, "Đam Săn" là chuyện hát nhiều đem. "Ôđixê" là chuyện kể nhiều

tháng, còn "Ramayana" là một cuốn

sách "triết lí trường cửu" đọc và kể trong nhiều năm ròng...

Thơ Đường

I. Thành tựu và nguyên nhân phát triển

1. Thành tựu

Thơ Đường là một trong những thành tựu rực rỡ về thi ca của nền văn học Trung Quốc,

là một trong những thành tựu chói

lọi của nền văn minh nhân loại. Thơ Đường hiện còn khoảng 48000 bài trên 2300 thi sĩ,

trong đó có Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch

Cư Dị và hàng trăm tên tuổi khác đã bất tử với thời gian, được người đời ngưỡng mộ.

2. Nguyên nhân phát triển

Page 249: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

- Triều đại nhà Đường kéo dài ngót 300 năm (618-907), tuy có luc thăng trầm, nhưng xã

hội Trung Quốc và chế độ phong

kiến Trung Hoa phát triển mạnh. Đời sống vật chất và tinh thần thay đổi lớn lao.

- Kinh tế nông nghiệp, thủ công nghiệp, hàng hải, thương nghiệp mở mang, phát triển.

Nghệ thuật như kiến trúc, hội hoạ,

âm nhạc đạt đến trình độ cao, chói sáng.

Chế độ thi cử chọn người làm quan, kẻ sĩ được đề cao, việc học thịnh đạt. Các tao nhân

mặc khách được trọng vọng.

- Đó là những nguyên nhân tạo nên bước phát triển kỳ diệu của thơ Đường.

II. Một số đặc điểm về nội dung và hình thức nghệ thuật thơ Đường.

1. Nội dung

- Cảm hứng thiên nhiên trữ tình: ca ngợi phong cảnh hùng vĩ tráng lệ, miêu tả vẻ đẹp bốn

mùa, với hoa lá cây cỏ, trăng,

tuyết gió mây.... thể hiện tình yêu thiên nhiên tạo vật, yêu quê hương đất nước (Lư Sơn bộc

bố, Tuyệt cú...)

- Cảm hứng nhân đạo: nói lên nỗi khổ của nhân dân vì cơ hàn, vì chiến tranh loạn lạc,

lòng khao khát hạnh phúc, hoà

bình, ca ngợi tình vợ chồng, tình bạn (Thạch Hào lại, Nguyệt dạ, Hoàng Hạc lâu Tống

Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng...)

- Có những vần thơ siêu thoát ca ngợi cuộc sống ẩn dật ở chốn điền viên, lâm tuyền. Có

những vần thơ nói về sinh hoạt

thôn dã, đồng nội; thú vui cầm, kỳ, thi tửu của mặc khách tao nhân. Tài tử giai nhân là một

đề tài có nhiều tuyệt bút. Nội

dung thơ Đường rất phong phú và đa dạng, là một bức tranh rộng lớn xã hội Trung Quốc

thời Đường trong 300 năm.

2. Nghệ thuật

a. Thể thơ: từ, cổ phong, Đường luật.

Page 250: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

b. Luật thơ:

- Vần thơ (vần chân và vần cách, vần trắc và vần bằng).

- Bằng, trắc.

- Niêm (dính).

- Đối.

- Cấu trúc bài thơ rất chặt chẽ, nhất là Đường luật.

+ Thơ tứ tuyệt: khai, thừa, chuyển, hợp.

+ Thơ bát cú: đề, thực, luận, kết.

c. Ngôn ngữ thơ: tinh luyện, hàm xúc, Thi trung hữu hoạ. Thi trung hữu cầm. Coi trọng

lời thơ: thanh, nhã (trong sáng,

trang nhã...) ước lệ tượng trưng....

d. Tứ thơ: phong phú, đa dạng, biến hoá, khơi gợi...

Tóm lại, làm thơ Đường phải giỏi, phải có tay nghề cao và giàu tâm hồn thi sĩ . Học và

cảm thụ thơ Đường phải hiểu đặc

điểm nội dung và nghệ thuật thơ Đường.

Đẻ đất đẻ nước

I. Một vài nét về tác phẩm

1. Quy mô

Sử thi "Đẻ đất đẻ nước" có quy mô hoành tráng. Bản sưu tầm ở Thanh Hoá dài tới 8503

câu thơ. Người Mường ở Nghĩ

Lộ, Hoà Bình và miền tây Thanh Hoá còn truyền tụng "Đẻ đất đẻ nước". Các thầy mo (thầy

cúng) vẫn đọc "Đẻ đất đẻ nước"

trong các tang lễ.

2. Tóm tắt

Thuở ấy, khi đất trời còn hỗn mang, bỗng "mưa dầm mưa dãi" nước ngập mênh mông, 50

ngày sau mới rút hết. Tự nhiên

Page 251: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

mọc lên một cây xanh có 90 cành, có một cành cao trọc trời, biến thành ông Thu Tha, Bà

Thu Thiên. Hai Thần truyền lệnh

làm ra Đất, Trời và Vạn vật. Sau đó, nắng dữ dội suốt 12 năm liền, mặt đất xơ xác. Thần

Pồng Pêu ao ước một trận mưa lớn.

Tức thì mưa to gió lớn suốt chín, mười ngày đêm; hạt mưa to bằng quả bưởi, nước lại ngập

bao la. Bẩy tháng sau nước rút

cạn, có một cây si khổng lồ mọc lên tua tủa 1919 cành. Trời sai con Sâu Gang khoét ruỗng

ruột cây si. Cây đổ, mỗi cành hoá

ra một bản mường:

..."Một cành đổ về đất Sạp

Nên mường Sạp.

Một cành đổ về đất Giạp

Nên mường Giạp.

Một cành ngã về đất Bi, đất Lỗ.

Nên Mường Bi, Mường Lỗ..."

Có một cành si lại hoá ra Mụ Dạ Dần; mụ đẻ ra hai cái trứng kì dị, nở ra cun Bướm Bạc

và cun Bướm Bờ. Vừa mới nở,

cun Bướm Bạc đã ăn hết 9 chõ cơm; cun Bướm Bờ ăn hết 5 chõ xôi:

"Cun Bướm Bạc và cun Bướm Bờ

Lớn cao hơn đụn chính, đụn mười.

Tiếng cười như tiếng trống cái

Tiếng nói như tiếng sấm vang

Xương vai dài tám mươi lóng

Xương sống dài bẩy mươi gang..."

Vua trời cho mười nàng tiên xuống trần gian du ngoạn. Hai cun cưõi ngựa bạc, vác ná đi

sãn lợn rừng, gặp các nàng tiên

Page 252: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

"lưng ong, tóc mượt". Hai nàng tiên quên đường về trời. Họ nên vợ nên chồng . Sau 12 năm

9 tháng, hai nàng tiên sinh được

một bầy con mà "Trống chim Tùng, mái chim tót là con út con yêu". Đôi chim trống mái

sau "9 ngày, 9 đêm, 9 tháng" để ra

1919 chiếc trứng nở ra Thần Chớp, Thần Mây, nở ra chuột, lợn, voi, thú dữ... Đôi chim đẻ

ra lứa thứ hai "được một trứng

đen đen bốn khúc - Trứng bầu dục 4 khuôn - Mặt vuông mặt tròn chín cạnh -Rành rành

mười hai quai"... Mụ Dạ Dần sai

chim chiền chiện ấp, trứng nở ra một bầy con, mỗi đứa nói một thứ tiếng: tiếng Lào, tiếng

Thái, tiếng K inh, tiếng Mọn, tiếng

Mường, tiếng Mán, tiếng Mèo… Trứng cũng nở ra anh em nhà lang: ông Dịt Dáng, ông

Lang Tà Cái, ông Lang Cun Cần, bố

Bướm Khang, ông Sang Si, nàng Vạ Hai Chiếng.... Loài người có từ đấy. Bộ tộc Mường có

từ đấy.

Thần Cuộng Minh Vàng Rậm, nàng ả Sấm Trời "đúc 9 mặt trời, đúc được 12 mặt trăng"

làm chói chang trời đất. Họ nhà

Ngao "thần nỏ" dùng cung tên bắn rụng hết, chỉ để lại một mặt trăng, một mặt trời. Rồi ông

Thu Tha, bà Thu Thiên làm ra

năm, tháng, ngày, đêm, bốn mùa cho người theo đó làm ăn sinh sống.

Người Mường chưa có thủ lĩnh.Mường nước mời ông Dịt Dáng, rồi mời Lang Tá Cái ra

"cầm binh cầm mường”. Cả hai

đều bất tài bị "ma đón đường, thuồng luồng xanh","rồng vàng ngăn ngõ". Mường nước phải

đi mời Lang Cun Cần ra tiễu trừ

ma quỷ, thú dữ.

"Ma chạy từng bầy trốn vào trong núi

Ma rồng sơ Lang Cun Cần trời

Thuồng luồng sợ Lang Cun Cần chặt

Page 253: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Ma Trời, ma Đất cùng chạy nhanh nhanh"...

Lang Cun Cần trở thành thủ lĩnh từ đó. Rùa Thần giúp lang dựng nhà cửa to đẹp. Tà Cắm

Cọt (thần lửa) cho Cun Cần

lửa. Nàng tiên Mái Lúa (thần Trồng Trọt) giúp lang nhiều hạt giống để sản xuất. Lang

Khấm Dậm bày cho cách ủ men chế

rượu cần. Mụ La, mụ Húng, (thần chăn nuôi) dạy cho mường nước nuôi gia súc, gia cầm.

Mường nước có trâu bò cày ruộng

làm nương.

Hai chương 17, 18 gồm 1263 câu thơ kể chuyện Lang Cun Cần lấy vợ. Lang lấy em gái

nàng Vạ Hai Chiếng, bị làng bản

coi khinh, bị vua Trời sai cun Sấm nàng Sét (thiên lôi) xuống trừng phạt, may mà thoát chết.

Lang Cun Cần sai bỏ nàng Vạ

Hai Chiếng vào rừng sâu. Lang sai người đem lễ vật đi khắp nơi tìm "gái đẹp con dòng".

Cun Cần lấy được nhiều vợ: có vợ là

con gái vua Trời, có vợ là thần tiên, có vợ là con gái mường nước. Lang Cun Cần có một

bầy con:

"Nàng Vậm Đầu Đất

Đẻ được cun Tồi, cái Sang

Nàng Vậm Đầu Nước

Đẻ ra cun Tàng, cái Lớn,

Nàng Ả Sao, Ả Sáng,

Ả Rạng nhà ông vua Trời

Đẻ được Lang Cun Khượng

Ả Gái nuôi trong mường

Đẻ ra chàng Toóng Ín..."

Con cái trưởng thành. Lang Cun Cần chia đất cho các con. Anh em bất hoà. Toóng Ín vu

cho Lang Cun Khương làm giặc

Page 254: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

để âm mưu cướp đất của anh. Lang Cun Khương chạy lên vua Trời, nhờ ông ngoại che chở.

Trời giáng hoạ, gây ra lũ lụt, ép

anh em nhà Lang phải giết Toóng Ín. Từ đó, Lang Cun Khương trở nên một thủ lĩnh giàu

có, đầy quyền uy.

Tậm Tạch là tôi tớ của lang đã tìm được cây Chu Đồng (cây thần) lấy được "bông thau,

quả thiếc" mà trở nên giàu có.

Anh em Lang Cun Khương lập mưu chuốc rượu cho Tậm Tạch say, lừa lấy được "bông

thau, quả thiếc". Lang đưa cả

mường nước đi chặt cây Chu Đồng kéo về làm nhà chu.Tậm Tạch phản loại bị lang giết

chết. Rùa Thần lại giúp lang làm nhà

chu "sáng cả mường, kinh kì kẻ chợ", "rạng trời rạng đất". Lang giết 10 voi ngà, 30 trâu

mộng, 9 bò, 100 gà sao, nấu 1000 vò

rượu, để ăn mừng. Lang Cun Cần ban thưởng cho các con nhiều vàng bạc quý giá.

Con của Tậm Tạch lại đốt nhà chu để báo thù cho cha. Hắn lại bị lang giết chết, máu hắn

hoá thành con Moong khổng lồ,

tàn phá bản mường. Lang Cun Cần đưa tất cả mường nước đi săn Moong, vô cùng nguy

hiểm mới giết được. Moong được

ăn thịt; người Lào, người Thái, người Tày, người Mường nhanh chân lấy được da Moong

vằn vện mà học được cách thêu

thùa, dệt vải rất đẹp. Người K inh đến sau lấy được thịt và mỡ Moong, từ đấy biết nấu nhiều

món ăn ngon.Người "Mường

ngoài" (Hoà Bình) đến sau cùng, chẳng được thứ gì , chỉ nhìn thấy đống tro thui Moong,

chẳng may, gió thổi tro bay dính vào

môi, nên môi người "Mường ngoài" bị đen là vì thế!

Tai hoạ còn nhiều. Chó ăn phải phổi Moong mà thành chó điên. Chó điên bị giết, xác bị

quẳng xuống sông, cá ăn phải biến

thành Cá điên. Cá điên bị lang bắt giết, bầy quạ ăn phải hoá ra Quạ điên. Mường nước săn

nùng mãi, cuối cùng Lang Cun

Page 255: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Khương bắn trúng Qụa, cả bày hoảng sợ bay trồn vào rừng sâu. Nhưng rồi hồn Toóng Ín lại

biến thành Ma Ruộng đưa bầy

Rắn "mỏ vàng, mỏ đỏ" đánh nhau với anh em Lang Cun Khương. Quân hai bên đánh nhau

suốt đêm ngày, kịch chiến giữa

ruộng, quần nhau trên đồi gianh, đuổi nhau trong rừng sến, hỗn chiến tại bến sông Rồng,...

Toóng Ín thất thế phải chạy xuống

thuỷ phủ của Long Vương ẩn náu và xin cầu viện. Long Vương biến Toóng Ín thành Ma

May, Ma Lang. Hắn đưa binh mã

gồm thuồng luồng, ba ba, cá ngao... dâng nước làm lũ lụt, dìm chết được Lang Cun Tàng,

Lang Cun Khương cùng mường

nước nổi chiêng cồng đem giáo mác, cung nỏ, lưới... vây các ngả sông đón đánh. Giặc Ma

May, Ma Lang bị đại bại, bỏ lại

trên bãi chiến trường bao xác loài thuỷ quái, làm thổi cả bản mường.

Từ đó, mường nước yên vui, hoà bình thịnh vượng. Lang Cun Cần đã sống được trên vạn

năm. Trẻ già, trai gái mường

nước nô nức sắm áo quần, lo kiệu lo ngai, rước vua về, "Đồng chì tam quan kẻ chợ"

II. Giảng văn: Đẻ nước

1. Xuất xứ

Đoạn thơ này trích gần trọn chương "Đẻ nước" trong sử thi "Đẻ đất đẻ nước"; từ câu

268-334 theo sưu tầm của Hoàng

Anh Nhân (Thanh Hoá)

2. Ý chủ đạo

Đoạn thơ nói về trận đại hồng thuỷ thời tiền sử - buổi đầu khai thiên lập địa theo cách

cảm nhận riêng của người Mường xa

xưa.

3. Ông Pồng Pêu

Là Thần Mưa theo cách gọi của ngưòi Mường.

Page 256: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Thiên tai kéo dài "Hạn 9 tháng biền biệt - nắng 12 năm xác đất" làm cho muôn loài đau khổ:

"cây cau úa cả tàu - rừng vàu

không mọc măng", làm cho "chó mực, chó ngao lè lưỡi, rái cá phải chạy lên đồi"...

Ông Pồng Pêu lúc đó đang ngồi "đan chài" và "đan lưới" trong nhà, bình dị như con

người lao động. Ông ngước nhìn khắp

trời đất, rồi gọi gió, gọi "mưa cho mát lòng các loài thú hiền thú dữ, cây lau cây bái". Tức

thì trời mưa to. Pồng Pêu là biểu

tượng cho ý nguyện của muôn loài muôn vật và con người vì sự sống bắt diệt trên trái đất.

4. Cảnh trời mưa

Mưa miêu tả dữ dội chẳng khác nào trận đại hồng thuỷ trong Kinh thánh nói đến. Mây

vàng mây đen đùn lên che kín cả

bầu trời, gió ùn ùn thổi điên cuồng. Cun Sấm nàng Sét cùng ra oai:

"Lanh lảnh cun Sấm xuống thét

Lăm lăm nàng sét xuống đánh".

Mưa kéo dài "mưa 9 đêm, mưa liền 9 ngày". Hạt mưa " to bằng hột cà" về sau "to bằng

quả bưởi". Nước ngập mênh

mông. Mưa để "rước nàng ngâu về trời" để "đưa chàng ngâu qua sông Ngân". Mưa "ngập

cây", "ngập bụi", mãi "bốn tháng

nước rút - bẩy tháng nước xuôi". Mưa đem đến sự sống cho đàn cua đá, đàn cá, đàn ba ba,

đàn cá chuối, đàn nòng nọc, đàn

cá cơm. Sau khi "đẻ nước" trời "đẻ đất".

Có đất, đất đang xơ xác,

Có nước, nước ùn đục ngầu

Đó vẫn là cảnh thiên địa xơ khai.

Biện pháp lặp và liệt kê được nhà thơ dân gian xưa của tộc Mường, vận dụng tạo nên ấn

tượng "đẻ nước". Thần mưa,

Page 257: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

thần Sấm, thần Sét, Chức nữ, Ngưu lang...được nói đến hồn nhiên đầy ý vị. Đoạn sử thi đã

giải thích hiện tượng mưa gió, lũ

lụt qua cảm quan nghệ thuật “vạn vật hữu linh" của người Mường thời viễn cổ.

Hoàng Hạc lâu Tống mạnh hạo nhiên chi Quảng Lăng

Lý Bạch

Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu,

Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu

Cô phàm viễn ảnh bích không tận.

Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu.

Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng.

Bạn từ lầu Hạc lên đường,

Giữa mùa hoa khói, châu Dương xuôi dòng...

Bóng buồm đã khuất bầu không,

Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời.

Ngô Tất Tố dịch

I. Tác giả và chủ đề

Lý Bạch (701-762) là một trong ba nhà thơ cự phách đời Đường. Ông được người đời ca

ngợi là "Thi tiên", để lại hơn một

nghìn bài thơ tuyệt tác. Là một kiếm khách - thi sĩ, ông coi thường danh lợi, thích ngao du

sơn thuỷ, cầu tiên phỏng đạo.

Trăng, rượu, hoa, cảnh núi sông tráng lệ, tình bằng hữu, tình quê hương lòng khao khát tự

do... chứa chan trong những vần

thơ lãng mạn tràn đầy hùng tâm tráng chí. Ông có làm quan khoảng 3 năm ở kinh đô Tràng

An nhưng đã vứt bỏ áo mũ, với

thanh gươm túi thơ lại lên đường... "Vọng Lư Sơn bộc bố", "Hành lộ nan", "Tĩnh dạ tư",

"Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo

Page 258: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Nhiên chi Quảng Lăng", "Tảo phát Bạch Đế thành"... là những bài thơ nổi tiếng của "Thi

tiên" cho thấy một hồn thơ tuyệt đẹp.

II. Chủ đề

Bài thơ "Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng" ghi lại một kỷ niệm sâu

sắc tại lầu Hoàng Hạc, Lí Bạch

tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi về Quảng Lăng, qua đó nói lên tình lưu luyến, thương nhớ bạn.

III. Phân tích

1. Cách đưa tiễn

Nơi Lý Bạch đưa tiễn bạn lên đường đi xa về phía tây là lầu Hoàng Hạc, một thắng cảnh

thuộc Vũ Xương, tỉnh Hồ Bắc.

Lầu Hoàng Hạc gắn liền với huyền thoại Phí Văn Vi đắc đạo thành tiên, thường cưỡi hạc

vàng bay về đây. Bạn là Mạnh Hạo

Nhiên (689-740) một nhà thơ nổi tiếng, bạn vong niên của Lý Bạch; một kẻ sĩ hào hiệp hào

hoa, phóng khoáng, ưa ngao du,

rất tâm đầu ý hợp với Lý Bạch. Hai chữ "Cố nhân" (bạn cũ, người xưa) trong câu đầu nói

lên mối quan hệ sâu sắc, lâu bền về

tình bạn đẹp giữa hai nhà thơ. Đó là bạn tao nhân mặc khách:

"Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu"

(Bạn từ lầu Hoàng Hạc lên đường)

Câu thơ dịch rất hay và thanh thoát, nhưng chữ "tây" chưa dịch được để nói lên hướng đi

của bạn. Chữ "bạn" chưa lột tả

hết ý và cảm xúc của từ "cố nhân". Trong thơ cổ, mỗi lần từ "cố nhân" xuất hiện, gợi tả bao

tình nghĩa làm rung động hồn

người:

"Dạng chu tầm thuỷ tiện

Nhân phỏng cố nhân cư"

(Mạnh Hạo Nhiên)

Page 259: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

(Thuật dòng đủng đỉnh thuyền bơi

Cố nhân gần đó, qua chơi thăm nhà)

- "Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân"

(câu 2330- "Truyện Kiều")

Câu hai phát triển và hoàn thiện câu thơ thứ nhất, nói rõ thời gian bạn lên đường và nơi

bạn sẽ đến. Mạnh Hạo Nhiên lên

đường vào một ngày tháng ba (tam nguyệt) mùa hoa khói (yên hoa), xuôi về nơi phồn hoa

đô hội, Dương Châu - một trong

những đô thị đẹp nổi tiếng thời Đường:

"Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu"

(Giữa mùa hoa khói Châu Dương xuôi dòng )

Chữ "há" có bản phiên âm là "hạ", được Ngô Tất Tố dịch thành "xuôi dòng", thật là sáng

tạo. "Yên hoa" là một thi liệu, một

ẩn dụ giàu chất thơ mà ta gặp nhiều trong Đường thi. Câu thơ không chỉ xác định thời gian

và không gian đi, đến mà còn diễn

tả nỗi niềm của kẻ ở người đi. Lầu Hoàng Hạc và Dương Châu cách xa hàng nghìn dặm như

hiện lên qua vần thơ. Đằng sau

hai địa danh mà nhà thơ nói đến là cả một nỗi niềm, một không gian trống vắng vô bờ, một

trời thương nhớ biệt ly của đôi bạn

tri âm. Có một bản dịch khác đọc lên nghe rất thú vị:

"Bạn từ lầu Hạc ra đi

Dương Châu Hoa khói giữa kỳ tháng ba"

(Nhữ Thành)

Có thể nói trong hai câu "Khai thừa", yếu tố tự sự chỉ là bề nổi của câu chữ: nỗi niềm của

một tâm sự thầm kín mới là tầng

sâu hàm ẩn. Nơi "thi hội tao nhân" cũng là nơi ly biệt, đó là Hoàng Hạc Lâu. Lý Bạch đứng

trên lầu cao hay trên một cao

Page 260: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

điểm nào đó trên bến sông, dõi theo chiếc thuyền đưa Mạnh Hạo Nhiên đến chân trời xa?

Cấu trúc không gian hai điểm mút

"cận - viễn" là một thủ pháp trong hội hoạ, ta thường bắt gặp trong Đường thi, trong các bức

hoạ cổ Trung Hoa. Lý Bạch đã

vận dụng thành công thủ pháp ấy tạo nên điểm nối giữa câu 1, 2 với câu 3, 4 thành một

chỉnh thể nghệ thuật hoàn hảo.

2. Tình lưu luyến mến thương

Hai câu cuối là linh hồn của bài thơ, giãi bày những tình cảm sâu sắc, đẹp đẽ, cảm động

của Lý Bạch đối với Mạnh Hạo

Nhiên. ẩn hiện sau ba hình ảnh được miêu tả trực tiếp: dòng sông, cánh buồm, bầu trời là

hình ảnh của Lý Bạch đứng mãi nhìn

hoài con thuyền đưa bạn cũ đi xa...

Cánh buồm đơn côi, lẻ loi (cô phàm) xa dần, mờ dần (viễn ảnh) rồi mất hút vào trời xanh,

vào cuối chân trời xa (bích

không tận). Hay tầm lòng "Thi tiên" với bao ái ngại, lưu luyến, nhớ thương... như những

con sóng gối lên nhau, đưa tiễn

con thuyền của bạn, mất hút dần, mờ dần trên dòng sông Trường Giang?

"Con sông sẽ trở nên rộng bao la khi cái hữu hạn của nó đồng nhất với cái vô hạn của

bầu trời. Chiếc thuyền buồm lẻ loi

chở Mạnh Hạo Nhiên đã tan biến trong dòng sông bao la đó mang đi tình bạn của Lý Bạch.

Dòng sông càng rộng, chiếc

thuyền buồm càng nhỏ mất hút vào khoảng không gian vô tận. Rõ ràng, sau khi tiễn bạn lên

đường, Lí Bạch dừng lại khá lâu

dõi mắt nhìn theo chiếc thuyền buồm lẻ loi đến tận chân trời xa tít. Lí Bạch mượn cái khung

cảnh thiên nhiên sau buổi tiễn đưa

để nói lên tình cảm nhớ bạn da diết....

Lí Bạch tả về cái buồn của sự li b iệt, nhưng vẫn giữ được phong cách phóng khoáng khi

Page 261: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

ông miêu tả cái hùng vĩ của thiên

nhiên". (Trần Xuân Đề)

"Cô phàm viễn ảnh bích không tận

Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu"

(Bóng buồm đã khuất bầu không

Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời).

Cái tiêu điểm đầy ám ảnh của bài thơ là "cô phàm viễn ảnh". Cái tâm cảnh của Lí Bạch

được diễn tả bằng hai chữ "duy

kiến" - chỉ nhìn thấy. Ta đã biết Lí Bạch sống trong thời Thịnh Đường. Lúc bấy giờ kinh tế

phát triển mạnh, thương nghiệp mở

mang, nhiều đô thị sầm uất mọc lên: Tràng An, Dương Châu, Thành Đô v..v... Trên con

sông Trường Giang suốt đêm ngày

thuyền bè ngược xuôi như mắc cửi. Thế mà trong muôn ngàn cánh buồm ở trên sông, Lý

Bạch "duy kiến" chiếc "cô phàm"

của bạn, nhìn mãi cho đến lúc nó mất hút trong "bầu trời xanh biết". Chỉ sống với một tình

bạn tri âm, thắm thiết thì mới có cái

nhìn "duy kiến" ấy.

Mặc dầu chưa dịch được hai chữ "cô" (cô phàm), "bích" (bích không tận) nhưng Ngô Tất

Tố đã lột tả được "điệu Đường",

"hồn Đường" của nguyên tác, đọc lên rất thấm thía về nỗi buồn thương, lưu luyến bạn của

nhà thơ Lý bạch.

IV. Tổng kết

1. Bài thơ "Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng" là một trong những

tuyệt tác về thơ thất ngôn tứ

tuỵêt của Lý Bạch. Vừa cụ thể vừa phổ quát cho muôn đời về nỗi buồn tống biệt và ức hữu.

Cấu trúc không gian xa - gần

(cận - viễn), lấy ngoại cảnh để biểu hiện nội tâm, ngôn ngữ, trang nhã, gợi cảm, hàm súc...

Page 262: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

đó là những yếu tố nghệ thuật tạo

nên vẻ đẹp văn chương và cốt cách của bài thơ này.

2. Bài thơ đã phản ánh một tâm hồn đẹp, một tình bạn đẹp của Lý Bạch, cũng là của

những tao nhân mặc khách đời

Đường.

3. Ngô Tất Tố dịch giả bài thơ này đã tấm tắc khen: "Tất cả có 28 chữ, đủ cả chỗ ở, nơi

đi, ngày đi, cảnh đi và tấm

lòng quyến luyến bè bạn. Thật là kiệt tác".

Thu hứng

Đỗ Phủ

Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,

Vu Sơn, Vu Giáp, khí tiêu sâm.

Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,

Tái thượng phong vân tiếp địa âm

Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,

Cô chu nhất hệ cố viên tâm.

Hàn y xứ xứ thôi đao xích,

Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.

Cảm xúc mùa thu

Lác đác rừng phong hạt móc sa,

Ngàn non hiu hắt, khí thu loà.

Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm,

Mặt đất mây đùn cửa ải xa.

Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,

Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.

Page 263: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,

Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.

Nguyễn Công Trứ dịch

I. Tác giả và "tung hứng"

1. "Giáo sư Phan Ngọc đã viết một công trình trên một nghìn trang sách với nhan đề "Đỗ

Phủ nhà thơ dân đen". "Đỗ Phủ

(712-770) là nhà thơ hiện thực lớn nhất đời Đường, được ngợi ca là "Thi thánh" để lại

khoảng 1400 bài thơ mang phong cách

nghệ thuật độc đáo.

Thi hào dân tộc Nguyễn Du rất ngưỡng mộ Đỗ Phủ:

"Thiên cổ văn chương, thiên cổ sư

Bình sinh bội phục vị thường li"

(Mộ Đỗ Thiếu Lăng ở Lỗi Dương)

Câu thơ trên nghĩa là: Văn chương lưu truyền muôn đời, là bậc thầy muôn đời. Bình sinh

ta khâm phục, chưa từng xa rời

ông. Qua đó ta thấy Đỗ Phủ vô cùng vĩ đại.

2. Thơ Đường cũng như thơ Đỗ Phủ nói về đề tài mùa thu vừa nhiều vừa hay. Bài thơ

"Thu hứng" này nằm trong

chùm thơ 8 bài. Bản dịch của Nguyễn Công Trứ đã được lưu truyền gần hai thế kỷ nay,

được xem là một bản dịch xuất sắc.

3. Bố cục bài thơ

- 4 câu đầu: Cảnh thu.

- 4 câu sau: Tình thu (nỗi lòng nhà thơ).

4. Chủ thể

Nỗi lòng của thi nhân - kẻ tha hương trước cảnh sắc trời thu.

II. Phân tích

Page 264: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

1. Cảnh thu

"Ngọc lộ" móc ngọc, hình ảnh ẩn dụ nói về hạt móc long lanh như hạt ngọc. "Ngọc lộ"

đã làm héo hon, điêu tàn cả một

rừng phong bao la. Hình ảnh rừng phong gợi lên một vẻ thu, một sắc thu tiêu điều, buồn bã.

Rừng phong là một biểu tượng

của mùa thu phương Bắc, là một thi liệu được nói đến nhiều trong thơ cổ, tuy mang tính ước

lệ, nhưng rất gợi cảm thi vị:

"Mãn mục giai tình sắc"

(Tương âm dạ)

(Đâu đâu mắt cũng thấy sắc thu)

- " Thu mãn phong lâm sương diệp hồng"

(Nhiếp khẩu đạo trung)

(Giữa thu sương xuống trên rùng phong là đỏ)

- Rừng thu từng biếc chen hồng"

(Câu 1520- Truyện Kiều)

Núi Vu, kẽm Vu ở Quỳ Châu mịt mờ khí thu (khí tiêu sâm). Cũng là một nét thu hiu hắt

buồn.

Hai câu đầu, hình ảnh ẩn dụ và nhân hoá với 2 cặp từ gợi tả (điêu thương, tiêu sâm). Đỗ

Phủ đã làm hiện lên một không

gian núi rừng mang một màu sắc buồn thương tàn tạ, hiu hắt. nguyễn Công Trứ đã thay vu

Sơn, Vu Giáp bằng 2 chữ "ngàn

non" cũng là một sự sáng tạo:

"Lác đác rừng phong hạt móc sa,

Ngàn non hiu hắt, khí thu loà"

Page 265: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

"Kẽm" là khoảng không gian giữa 2 vách núi kề nhau. "Từ điển phổ thông tiếng Việt Văn

Tân chủ biên giải thích: "K ẽm là

khe núi có sườn dốc đi được". Sách văn 10 giáo viên có gợi ý: "C âu thứ 3 tả riêng cảnh

kẽm Vu, và câu thứ tư tả riêng cảnh

núi vu. Căn cứ vào chữ "kẽm" như đã trình bày, chúng tôi không nghĩ phần "thực" bài thơ

"Thu hứng" này là như thế.

- Câu 3, 4 vẽ tiếp cảnh thu bằng hai hình ảnh vừa dữ dội vừa hoành tráng: Trên dòng

sông thu, những đợt sóng cuồn cuộn

vọt lên, vỗ lên tận lưng trời. Khắp cửa ải, mây từng lớp từng lớp đùn lên, sa sầm giáp mặt

đất. Hình tượng thơ kỳ vĩ, sóng và

mây đối nhau, cái hướng về trời cao, cái sa xuống đất để lại nhiều ấn tượng mạnh mẽ. Một

bức tranh thu nói về dòng sông và

con sóng, về cửa ải và mây, mang tầm vóc vũ trụ, hoành tráng.

"Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,

Tái thương phong vân tiếp địa âm"

(Lưng trời sóng rợn, lòng sông thẳm,

Mặt đất mây đùn cửa ải ra).

Hai câu thơ này đã thể hiện sâu sắc những nét cơ bản trong phong cách thơ Đỗ Phủ ở giai

đoạn cuối đời: "trầm uất và bi

tráng".

Tóm lại, phần đầu bài thơ, cảnh thu từ rừng phong đến Vu Sơn, Vu Giáp, từ dòng sông

sóng vỗ, đến cửa ải mây đùn - tất

cả đã gợi lên nỗi niềm, bao cảm xúc đối với kẻ tha hương.

2. Nỗi lòng thi nhân

Như ta đã biết, năm 759, Đỗ Phủ từ đời quan, dời nhà đến Tân Châu. Ông phải trải qua 7

năm trời lưu lạc (759-766).

Chùm "Thu hứng" 8 bài được viết vào mùa thu năm 766, tại Quỳ Châu. Ngày thu đến, đối

Page 266: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

cảnh sinh tình, vừa thương đời,

vừa thương vợ con, thương mình gian truân, chìm nổi. Phần 2 bài "Thu hứng" này là nỗi

lòng u ẩn của tác giả.

Cúc, dòng lệ, con thuyền lẻ loi (cô chu), vườn cũ, dao thước, tiếng chày đập vải vừa mang

tính hiện thực, vừa mang màu sắc

ước lệ tượng trưng, rất giàu chất chữ tình. Mùa thu trước, Đỗ Phủ ở Vân An, màu thu này,

ông ở Quỳ Châu. Hai mùa thu trôi

qua, hai lần nhìn hoa cúc nở, cả hai đều rơi nước mắt: "Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ". Đã

bao lần nhà thơ gửi gắm hi vọng

được về quê bằng một chiếc thuyền, những chiếc thuyền vẫn bị buộc chặt ở bến sông, nơi

đất khách quê người: "Cô chu nhật

hệ cố viên tâm". Nói về nỗi nhớ quê nhà, nỗi buồn li hương thì đó là hai câu thơ tuyệt cú.

Lời thơ đẫm lệ:

"Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ

Con thuyền buộc chặt mối tình nhà"

Trời thu phương Bắc càng về chiều càng rét, nhất là những người luống tuổi, đang ốm

đau và phải sống xa quê như Đỗ Phủ

những năm cuối đời. Nghĩ đến chuyện may áo rét mà lòng thêm sầu thương. Hai chữ "dao

thước" (đao xích) trong câu 7 tả ít

mà gợi nhiều. Lúc hoàng hôn nơi thành cao Bạch Dế, tiếng chày đập vả dồn dập vang lên

(cấp mộ châm) nỗi lòng kẻ li hương

càng thêm thổn thức. Tiếng vọng của âm thanh đời thường đã rung lên trong lòng nhà thơ

bao cảm xúc bùi ngùi:

"Hàn y xứ xứ thôi đao xích

Bạch Đế thành cao cấp mộ châm"

(" Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,

Thành Bạch chày vang bóng ác tà").

Page 267: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Kim Thánh Thán nhà phê bình văn học kiệt xuất đời Thanh viết: "K ẻ không biết thì bảo

"lưỡng khai" (nở hai lần) ấy là "tùng

cúc" (tùng: khóm, bụi cúc, hoa cúc) đâu biết rằng "lưỡng khai" ấy đều là "tha nhật lệ" (nước

mắt ngay sau). Kẻ không biết thì

bảo "cô chu" (chiếc thuyền lẻ loi) hà tất phải "nhật lệ" ấy chỉ là "cố viên tâm" (lòng nhớ

vườn xưa). Trên chữ "lệ" đặt chữ "tha

nhật", tuyệt diệu! Chỉ có chính mình ở cảnh đó thì mới biết được. Câu 7 nói "xứ xứ" (nơi

nơi) chính là tiên sinh "buộc lòng" (hệ

tâm) vào một nơi (nhất xứ). Bạch Đế Thành ở phía đông Quì Phủ; đây là nói gần để chỉ xa

vậy. Trong bụng nghĩ đến "dao

thước" (đao xích) trong nhà mà trong tai thì chỉ nghe thấy tiếng "châm" thành Bạch Đế,

khách xa nhà vì thế mà rất mực thê

lương.

Dưới "châm" mà hạ chữ "thành cao" liền thấy được là tai xa nghe, mắt xa trông nỗi khổ

của khách xa nhà vì đó mà rât mực

thê lương"

Tóm lại, nỗi lòng nhớ quê được biểu hiện một cách rất tinh tế, sâu sắc, cảm động bằng

nhiều thủ pháp nghệ thuật điêu

luyện. Cảnh và tình, hiện tại và quá khứ, sự vật và con người, âm thanh và nỗi lòng, gần và

xa.... các chi tiết nghệ thuật đã đan

chéo vào nhau, hoà nhập vào nhau, để lại nhiều dư ba, chấn động trong lòng người đọc trên

một nghìn năm nay, nhất là đối

với những kẻ đã trải qua những năm dài li hương, nếm trải nhiều cay đắng.

III. Kết luận

1. Đỗ Phủ từng nói: "Làm người tính thích câu văn đẹp - Đọc chẳng kinh người chẳng

chịu thôi" Đọc bài "Thu hứng" này, ta

cảm nhận cái hay của áng thơ thất ngôn bát cú, mà mỗi câu, mỗi chữ đều mang cái "thần"

của nó, phô diễn cảnh và tình bằng

Page 268: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

nhiều hình tượng cảm động. Rừng phong phương Bắc trong khí thu mờ, con thuyền lẻ loi

vườn xưa với những hàng lệ của kẻ

xa quê... làm ta thổn thức và nhớ mãi.

2. Nỗi nhớ quê nhà, ước mơ được trở về vườn cũ, thăm ngôi nhà xưa nơi chôn rau cắt

rốn.... không chỉ là tình cảm riêng,

ước mơ riêng của Đỗ Phủ mà còn là tình cảm và ước mơ chung của hàng triệu con người

trong loạn lạc chiến tranh, xưa và

nay... Vì thế, "Thu hứng"chan chứa tình đời có giá trị nhân văn tuyệt đẹp.

Hoàng lạc Lâu

Thôi Hiệu

Tích nhân dĩ thừa Hoàng Hạc khứ

Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu.

Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản,

Bạch vân thiên tải không du du.

Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,

Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.

Nhật mộ hương quan hà xứ thị?

Yên ba giang thượng sử nhân sầu.

Lầu Hoàng Hạc

Hạc vàng ai cưỡi đi đâu,

Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ.

Hạc vàng đi mất từ xưa,

N ghìn năm mây trắng bây giờ còn bay.

Hán Dương sông tạnh cây bày.

Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non.

Page 269: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Quê hương khuất bóng hoàng hôn,

Trên sông khói sóng cho buông lòng ai?

Tản Đà dịch

I. Tác giả và dịch giả

1. Thôi Hiệu (704-752) đỗ tiến sĩ, nổi tiếng là tài hoa, để lại khoảng 40 bài thơ, hay nhất

vẫn là những bài thơ vịnh cảnh.

"Hoàng Hạc lâu" là bài thơ kiệt tác của Thôi Hiệu. Tương truyền, thi tiên Lý Bạch đến vãn

cảnh Hoàng Hạc lâu, thấy thơ Thôi

Hiệu đề lên vách, ông tấm tắc khen và viết:

"N hãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc

Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu"

(Trước mắt có cảnh đẹp, nhưng nói không được

Vì đã có thơ của Thôi Hiệu đề ở trên đầu)

2. Tản Đà (1889-1939) là nhà thơ nổi tiếng nhất những năm hai mươi của thế kỷ này, với

vốn Hán học uyên thâm, với hồn

thơ lãng mạn bay bổng, về phương diện dịch thơ Đường, ông vẫn là cây bút vô địch. Những

bài thơ Đường do Tản Đà dịch

đều đăng tải trên tạp chí Ngày nay và Tiểu thuyết thứ bảy. Tất cả có 84 bài, phần lớn dịch

thành thơ lục bát 70/84 bài. Ông

đã dịch: 38 bài của bạch Cư Dị, 14 bài của Lí Bạch: 4 bài của Đỗ Phủ, 28 bài của các nhà

thơ khác. Bài "Hoàng Hạc lâu"

của Thôi Hiệu qua bản dịch thơ lục bát của Tản Đà, là bản dịch thơ hay nhất, thể hiện đẹp

nhất cái hồn Đường, điệu Đường kì

diệu.

II. Chủ đề

Bài thơ nói lên cảm xúc của thi nhân khi ngắm nhìn lầu Hoàng Hạc mà bâng khuâng về

huyền thoại, mà man mác buồn

Page 270: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

nhớ quê hương.

III. Phân tích

1. Đề

Câu 1, 2 đối nhau xưa và nay, mất và còn, Hạc vàng đi đâu mất cùng tiên, nay chỉ còn lại

lầu Hoàng Hạc trơ trọi. Cảm

hứng huyền thọai dâng đầy, nỗi lòng thi nhân nhiều xúc động bâng khuâng:

"Hạc vàng ai cưỡi đi đâu

Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ"

Nhà thơ vừa ngắm lầu Hạc Vàng, vừa tự hỏi mình. Có gì đó cứ xao xuyến, ngơ ngác bồi

hồi khi nhớ đến "tích nhân", nhớ

đến Phí Văn Vi trong huyền thoại.

2. Thực

Câu 3, 4 đối nhau giữa quá khứ và hiện tại, giữa cái mất đi và cái đang còn hiển hiện,

giữa màu sắc của "Hoàng Hạc",

"bạch vân" giữa cái hữu hạn và cái vô hạn:

"Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản

Bạch Vân thiên tải không du du"

Về bằng trắc, thanh điệu có một sự phá cách độc đáo. Câu 3 có 6 thanh trắc như thắt lại,

nén lại, câu 4 có 3 tiếng "không

du du" - phù bình thanh, gợi tả âm điệu chơi vơi, tiếc nuối, ngẩn ngơ. Câu thứ 4, Khương

Hữu Dụng dịch rất hay:

"Mây trắng nghìn năm bay chơi vơi"

3. Luận

Cảnh đẹp được tả ở một điểm nhìn xa và rộng. Có dòng sông và bãi sông. Có Hán Dương

và Anh Vũ. Có hàng cây và bãi

cỏ. Có màu ánh sáng trên dòng sông, có màu xanh và hương thơm của bãi cỏ. Nhà thơ say

Page 271: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

mê đứng lặng trên lầu cao ngắm

nhìn:

"Hán Dương sông tạnh cây bày,

Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non"

Hai câu trong phần "luận" cho ta biết Thôi Hiệu đến chơi lầu Hoàng Hạc vào một chiều

xuân đẹp, thanh bình. Cảm hứng

huyền thoại chan hoà với cảnh hứng thiên nhiên trữ tình tạo nên những vần thơ đẹp, phản

ánh một hồn thơ đẹp. Thi nhân như

đang dẫn hồn mình vào cõi mộng. Cảnh đẹp và vô cùng vắng lặng, mênh mang.

4. Kết

Bóng hoàng hôn phủ mờ dần cảnh vật. Nhà thơ tự hỏi đâu là quê hương? Chỉ nhìn thấy

khói sóng trên dòng sông xa, nỗi buồn nhớ dâng lên man mác trong lòng khách li hương:

"Quê hương khuất bóng hoàng hôn

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?"

Thi liệu đẹp, mang màu sắc cổ điển thi vị: "Mộ", "hương quan", "yên ba giang thượng",

"sử nhân sầu". Đây là những vần thơ tả nỗi buồn nhớ quê qua trên một ngàn năm rồi vẫn

làm cho chúng ta rơi lệ:

"Nhật mộ hương quan hà xứ thị?

Yên ba giang thượng sử nhân sầu?"

"Hương quan" là cái cổng làng; chỉ quê nhà. giấc hương quan : giấc mơ về nhà; Nguyễn

du đã viết trong Truyện Kiều:

Mối tình đòi đoạn vò tơ,

Giấc hương quan luống lần mơ cảnh dài.

Song sa vò võ phường trời,

Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng"

(1265-1268)

Page 272: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Tì Bà Hành

Bạch Cư Dị

I. Tác giả và xuất xứ bài thơ

1. Bạch Cư Dị (772 – 846) đậu tiến sĩ năm 28 tuổi, làm qua đời Đường tại kinh đô

Tràng An. Có một thời gian bị giáng

chức xuống làm Tư mã ở quận Cửu Giang. Ông là một trong những nhà thơ lớn nhất đời

Đường, để lại trên 3000 bài thơ. Thơ

ông chứa chan tinh thần nhân đạo.

2. “Tì bà hành” là bài hành nói về tiếng đàn tì bà của một giai nhân bạc mệnh trên bến

Tầm Dương một đêm trăng thu.

Năm 816, Bạch Cư Dị bị giáng chức xuống làm quan Tư Mã, quân Cửu Giang. Một đêm

trăng thu đẹp mà buồn, ông được

nghe người ca nữ gảy đàn tì bà và kể về cuộc đời nhiều bất hạnh của nàng, Bạch Cư Dị cám

cảnh “Cùng một lứa bên trời lận

đận…” đã khóc “sướt mướt” trong bữa tiệc hoa sau khi ca nữ ngừng đàn.

Bài thơ dai 88 câu thất ngôn gồm có (7x88) – 616 tiếng. Bản dịch thành thơ song thất

lục bát, cũng 616 từ. Bản dịch thơ

này, lâu nay nói là của Phan Huy Vịnh, gần đây có ý kiến là của Phan Huy Thực, thân sinh

của Phan Huy Vịnh. Hầu như

không có một nghệ nhên hát ca trù nào lại không thuộc và hát hay “Tì Bà Hành”

II. Chủ đề

Bài thơ tả tiếng đàn tì bà huyền diệu của một ca nữ trên bến Tầm Dương trong một đêm

trăng thu hiu hắt, qua đó nói lên

cuộc tương ngộ và sự đồng cảm cho số phận cay đắng giữa giai nhân và tài tử.

III. Bố cục bài thơ

1. Câu 1 – 8: cuộc đưa tiễn bạn buồn lưu luyến giữa một đêm trăng thu hiu hắt trên bến

Tầm Dương.

Page 273: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

2. Câu 9 – 38: Gặp ca nữ và nghe nàng đàn.

3. Câu 39 – 62: Ca nữ ngậm ngùi nói về cuộc đời nhiều bất hạnh của mình.

4. Câu 63 – 82: Nhà thơ thương người rồi tự thương mình lận đận.

5. Câu 83 – 88: Ca nữ đàn lần thứ hai. Tiệc hoa đầy lệ

IV. Phân tích đoạn thơ tả tiếng đàn tì bà

13… Mời mọc mãi, thấy người bỡ ngỡ,

Tay ôm đàn che nửa mặt hoa

Vặn đàn mấy tiếng dạo qua

Dẫu chưa nên khúc tình đà thoảng hay

Nghe não một mất dây buồn bực

Dường than niềm tấm tức bấu lâu

Mày chau tau gảy khúc sầu,

Dãi bày hết nỗi trước sau muôn vàn.

Ngón buông bắt khoan khoan dìu dặt

Trước Nghê Thường sau thoắt Lục Yêu,

Dây to đường đổ mưa rào,

Nỉ non dây nhỏ khác nào chuyện riêng.

Tiếng cao thấp lựa chen lần gẩy

Mâm ngọc đâu bổng nẩy hạt châu

Trong hoa oanh ríu rít nhau

Nước tuôn róc rách chảy mau xuống ghềnh

Nước suối lạnh, dây mành ngừng đứt

Ngừng đứt nên phút bặt tiếng tơ,

Ôm sầu mang giận ngẩn ngơ

Tiếng tơ lặng ngắt, bây giờ càng hay.

Page 274: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Bình bạc vỡ tuôn đầy dòng nước,

Ngựa sắt giong xô xát tiếng đao;

Cung đàn trọn khúc thanh tao:

Tiếng buông xé lụa, lựa vào bốn dây

Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt,

Một vầng trăng trong vắt lòng sông…

Phân tích

Thành tựu nổi bật nhất trong “Tì bà hành” là nghệ thuật miêu tả tiếng đàn. Trong bữa

tiệc hoa trên bến Tầm Dương giữa

trăng thu hiu hắt, thính giả của ca nữ là một tài tử văn nhân rất sành nhạc, đặc biệt hơn nữa

ông còn có một cuộc đời, một nỗi

niềm cay đắng, trải qua nhiều thăng trầm, trôi nổi lận đận…

Lần thứ nhất, tả từ xa, tiếng đàn mơ hồ sương khói Tầm Dương.

Câu thứ hai, tiếng đàn được tả trong mọi cung bậc, giai điệu và cảm xúc, nỗi niềm của

tâm hồn đa tài, đa cảm.

Ngón tay ca nữ “buông, bắt” lướt trên phím đàn. Hai khúc nhạc cung đình ngân vang

thánh thót. Câu thơ làm hiện lên một

Page 275: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

nghệ sĩ bì bà hành lỗi lạc:

“Ngón buông bắt khoan khoan dìu dặt

Trước Nghê Thường sau thoắt Lục Yêu”

Mười bốn câu tiếp theo, Bạch Cư Dị sử dụng một chuỗi 9 ẩn dụ so sánh để cực tả tiếng

đàn tì bà của nàng ca nữ.

Tiếng đàn biến hóa kì ảo, lúc thì ào ào như mưa rào, lúc thì nỉ non, thủ thỉ như lời tâm tình:

“Dây to đường đổ mưa rào,

Nỉ non dây nhỏ khác nào chuyện riêng.”

Tiếng đàn lanh lảnh reo ngân như hạt châu nẩy trên mâm ngọc, như tiếng chim oanh ríu

rít trong ngàn hoa:

“Tiếng cao thấp lựa chen lần gảy

Mâm ngọc đâu bổng nẩy hạt châu

Trong hoa oanh ríu rít nhau…”

Tiếng tì bà đang như “nước tuôn róc rách chảy mau xuống ghềnh” thì bỗng đột ngột

“ngừng đứt”. Nàng ca nữ diễn tấu

“dấu lặng” trong bản đàn một cách tài tình. Người dự tiệc hoa và ngồi thưởng thức ca nữ

đàn đều “ngẩn ngơ” trước sự

huyền diệu của suối âm thành:

“Nước suối lạnh, dây mành ngừng đứt

Ngừng đứt nên phút bặt tiếng tơ,

Ôm sầu mang giận ngẩn ngơ

Tiếng tơ lặng ngắt, bây giờ càng hay.”

Tiếng đàn như sầu thương, như giận dữ, làm mê say, đắm đuối rung động hồn người.

Tiếng đàn như thể hiện nỗi lòng và

tâm tình một cuộc đời nhiều nước mắt, nhiều cay đắng, đã trải qua những tháng ngày “ôm

sầu mang giận ngẩn ngơ”. Người dự

Page 276: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

tiệc và nghe đàn như đang bị cuốn hút trước giai điệu buồn thương của tiếng đàn, hoặc tấm

tắc trầm trồ, hoặc rơi lệ…

Bốn ẩn dụ tiếp theo tả biến thái của giai điệu tiếng đàn tì bà. Lúc thì như nước trào ra

khỏi bình bạc vỡ. Lúc thì rầm rập

như đoàn quân thiết kỵ xung trận, như ngựa hí đao khua trên chiến địa. Có lúc như tiếng lụa

xé kề tai… Hình ảnh nào cũng

thần tình. Câu thơ nào cũng đẹp. Ngôn ngữ thơ tràn ngập âm thanh. Đây là đoạn thơ tả âm

thanh tiếng đàn tì bà nhanh, dồn

dập, trầm hùng, mạnh mẽ:

“Bình bạc vỡ tuôn đầy dòng nước,

Ngựa sắt giong xô xát tiếng đao;

Cung đàn trọn khúc thanh tao:

Tiếng buông xé lụa, lựa vào bốn dây”

Trong suối âm thanh tì bà vang lên giữa đêm thu, cảnh vật như nín thở cùng lắng nghe

đàn với quan Tư Mã Giang Châu.

Dòng sông, con thuyền, bầu trời, vầng trăng thu như ru hồn trong mộng tưởng, say đắm,

bâng khuâng, tất cả đều “lặng ngắt”

tận hưởng dư âm tì bà. Khung cảnh hiện lên qua một nét vẽ đầy chất thơ. Sông như thêm

mông mênh hơn. Ánh trăng thu

trong xanh hơn. Con thuyền như đắm chìm trong giấc một đêm thu:

“Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt,

Một vầng trăng trong vắt lòng sông”

Lấy ngoại cảnh để biểu cảm âm thanh tiếng đàn tì bà là một thủ pháp nghệ thuật tinh tế,

điêu luyện của Bạch Cư Dị. Các

nhà thơ Việt Nam đã kế thừa sáng tạo. Có tiếng đàn cầm của nàng Kiều gảy cho Kim Trọng

nghe sau ngày tái hợp. Nguyễn

Du cũng ví với tiếng ngọc:

Page 277: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

“Trong sao châu nhỏ duềnh quyên,

Ấm sao hạt ngọc Lam Điền mới đông”

(3203–3204)

Lấy ngoại cảnh tả tiếng đàn: “Ngọn đèn khi tỏ khi mờ…” (485). Trong bài: “Tiếng sáo

Thiên Thai”, Thế Lữ cũng viết:

“Mây hồng ngừng lại sau đèo,

Mình cây nắng nhuộm, bóng chiều không đi”

Tóm lại, đọc “Tì bà hành” qua bản dịch thơ của Phan Huy Vịnh (?), ta vô cùng thú vị

trước những vần thơ song thất lục bát

réo rắt du dương, trầm bổng, u hoài. Giữa nàng ca nữ và thi nhân không chỉ có tấm lòng biệt

nhỡn liên tài, mà còn là đôi

bạn tri âm, đồng điệu. “Cũng một lứa bên trời lận đận – Gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau”…

Bao nhiêu âm thanh là bấy nhiêu

tấc lòng, bấy nhiêu tình đời cay đắng u uất. Tài tử gian nan, hồng nhan bạc mệnh… tiếng

đàn tì bà và cuộc đời nàng ca nữ

bước đường công danh lận đận của ông quan Tư mã Giang Châu cho ta nhiều ám ảnh:

“Lệ ai chan chứa hơn người

Giang Châu Tư mã đượm mùi áo xanh”

Page 278: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Tam Quốc diễn nghĩa

I. Nguồn gốc

1. Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc là một thành tựu kì diệu của nền văn học Trung Hoa.

Nó hình thành và phát triển rực

rỡ từ thời Minh (1308–1644) và thời Thanh (1644–1911). Từ những thoại bản, những sự

kiện lịch sử được các nhà văn

lỗi lạc sáng tạo nên những bộ tiểu thuyết đồ sộ mấy nghìn trang, mấy trăm nhân vật, kết cấu

chương hồi phát triển theo dòng

chảy thời gian và lịch sử.

2. Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc có những bộ tiêu biểu nhất

- Tây Du kí: 100 hồi

- Thủy Hử truyện: 120 hồi

- Tam quốc diễn nghĩa: 120 hồi

- Hồng lâu mộng: 120 hồi

II. Một vài nét về Tam Quốc diễn nghĩa

1. Tác giả

La Quán Trung sống vào đầu thời Minh đã dựa vào các chuyện kể dân gian, các truyền

thuyết và sử sách để viết nên bộ

“Tam Quốc diễn nghĩa”, tác phẩm hay nhất trong toàn bộ các tác phẩm tiểu thuyết cổ điển

Trung Quốc.

2. Tóm tắt

Tam Quốc diễn nghĩa kể lại cuộc phân tranh trong vòng 87 năm giữa 3 tập đoàn phong

kiến: Ngụy, (Tào Tháo), Thục,

(Lưu Bị) và Ngô (Tôn Quyền).

- Từ hồi 1 đến hồi 14 (năm 184–190) cuộc khởi nghĩa nông dân khăn vàng. Đổng Trác

thâu tóm quyền hành. Vương

Page 279: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Doãn dùng mĩ nhân kế diệu Trác.

- Từ hồi 15 đến hồi 50 (năm 190–208) Viện Thiệu xưng hùng rồi đại bại. Tào Tháo tiêu

diệt sạch các tập đoàn phương

Bắc, làm chủ trung nguyên Lưu Bị đã có binh hùng tướng mạnh nhưng chưa có đất. Tào

Tháo đại bại ở Xích Bích. Lưu Bị

được đất Kinh Châu: Thế chân vạc Ngụy–Thục–Ngô hình thành.

- Từ hồi 51 đến hết (208–280) Tào Tháo có binh hùng tướng mạnh, lúc đánh Ngô, lúc

tiến công Thục, thế trận giằng co,

thì Táo Tháo chết. Con là Tào Phi lên thay, phế vua Hán, lập ra nước Ngụy, quyền hành rơi

dần vào tay thừa tướng Tư Mã

Ý.

Lưu bị có mưu sĩ Khổng Minh, có ngũ hổ tướng, thế lực ngày một mạnh. Lưu Bị lên ngôi

vua. Quan Vũ bị Đông Ngô giết.

Trương Phi cất quân đánh báo thù cho anh mà bị hại. Lưu Bị thảm bại về trận hoả công của

Đông Ngô rồi ốm chết. Con là

Lưu Thiện nối ngôi. Khổng Minh “thất cầm Mạnh Hoạch”, “Lục xuất Kỳ Sơn”, sự nghiệp

đang dở dang thì ốm chết. Thục

suy vong dần. Năm 263, tướng Ngụy là Đặng Ngải, diệt Thục, Lưu Thiện đầu hàng. Nhà

Ngô có địa thế Giang Đông hiểm

yếu, có binh hùng tướng mạnh, lấy thủ, làm công, nhiều lần đánh bại Ngụy, Thục. Sau khi

Tôn Quyền chết, Tôn Hạo lên thay,

thế yếu dần. Năm 279 Tư Mã Viêm (cháu Tư Mã Ý), kéo đại binh đánh Đông Ngô, Tấn

Hạo đầu hàng. Tư Mã Ý phế

Ngụy, lập ra nhà Tôn thống nhất Trung Quốc.

3. Giá trị của “Tam Quốc diễn nghĩa”

- Ca ngợi những tấm gương anh hùng nghĩa sĩ, trung dũng, có tài thao lược một thời loạn

lạc.

Page 280: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

- Nêu lên khát vọng của nhân dân về một bậc minh quân, về hòa bình ổn định.

- Xây dựng được những điển hình như Ngũ hổ tướng, (Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Tử

Long, Hoàng Trung, Mã Siêu),

“Ngũ tuyệt” như Tuyệt nhân (Lưu Bị), Tuyệt trí (Khổng Minh), Tuyệt nghĩa (Quan Vũ),

Tuyệt gian (Tào Tháo), Tuyệt dũng

(nhiều tướng lĩnh của ba phe).

- Kể chuyện dùng mưu, tường thuật các trận đánh hào hùng, đầy kịch tính, hấp dẫn….

“Hoa Dung lộ”, “Quá Ngũ quan

trảm lục tướng”, “Hồi trống Cổ Thành”, “Thất cầm Mạnh Hoạch” v.v… Đọc “Tam Quốc

diễn nghĩa” không ai là không

nhớ…

- “Tam Quốc diễn nghĩa” từ lâu đã đi vào tuồng, gần đây đã đi vào Truyền hình làm chấn

động 5 châu, 4 biển.

III. Phân tích “Hồi trống Cổ Thành”

1. Tóm tắt

Biết tin anh là Lưu Bị ở Hà Bắc trên đất Viên Thiệu, Quan Vũ đưa hai chị (vợ của Lưu

Bị) đi tìm anh. Tào Tháo tránh

không tiếp Quan Vũ đến từ biệt vì muốn lưu giữ Quan Vũ để dùng. Tháo không cấp giấy

qua ải, nhưng cũng không cho

tướng đuổi bắt. Các tướng giữ ải vẫn không cho Quan Vũ qua ải, Quan Vũ phải mở đường

máu mà đi.

- Qua ải Đông lĩnh chém Khổng Tú

- Đến ải Lạc Dương chém Hán Phúc và Mạnh Thầu

- Qua Nghi Thuỷ giết Biện Hỷ

- Vượt ải Huỳnh Dương chém Vương Thực

- Đến bờ Hoàng Hà, giết Tần Kỳ

- Đến Cổ Thành, Quan Vũ ngỡ là gặp được em xiết bao vui mừng, ai ngờ Trương Phi

Page 281: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

“mắt trợn tròn xoe” râu hùm vểnh

ngược, hò thét như sấm, múa xà mâu chạy lại đâm Quan Công”. Bất ngờ Sái Dương lại kéo

quân đến bắt Quan Vũ. Phi càng

nghi ngờ… Chỉ đến lúc đầu Sài Dương bị Quan Vũ chém đứt, Phi mới đánh một hồi trống,

Phi mới nguôi giận dần. Và chỉ sau

khi nghe tên lính kể đầu đuôi mọi chuyện,… Phi mới tin, “rỏ nước mắt, thụp lạy Vân

Trường”.

2. Hình ảnh Trương Phi

Người anh hùng trong thời loạn đề cao trung nghĩa: “Trung thần thà chịu chết không chịu

nhục. Có lẽ đâu đại trượng phu lại

thờ hai chủ?”. Trong suy nghĩ của Trương Phi thì Quan Công đã hàng Tào, “được phong

hầu tử tước”, đã “bội nghĩa” đến Cổ

Thành là để lập mưu bắt Phi! Nên phải đâm chết: “Phen này tao quyết liều sống chết với

mày”. “Xin hai chị thong thả, để tôi

giết thằng phụ nghĩa này đã…”.

- Trung thực, nóng nảy, quyết liệt. Nghe Tôn Cào vào báo tin hai chị và Quan Vũ đến,

mời Trương Phi ra đón, Phi “chẳng

nói chẳng rằng lập tức mặc áo giáp vác xà mâu lên ngựa, dẫn một nghìn quân đi tắt qua Cửa

Bắc”. Hành động dữ dội, sôi

sục “mắt trợn tròn xoe, râu hùm vểnh ngược, hò thét như sấm, múa xà mâu chạy lại đâm

Quan Công”. Mạt sát Quan Công:

“mày đã bội nghĩa còn mặt nào đến gặp tao nữa”.

- Ai phân trần khuyên bảo cũng không nghe. Chỉ có một điều kiện “xong 3 hồi trống phải

chém đầu tướng Tào” để làm tin.

Đầu Sái Dương rụng, tên lính nói rõ mọi chuyện thì Phi mới tin: “rỏ nước mắt, thụp lạy Vân

Trường”. Phục thiện và biết điều.

Tóm lại, tác giả miêu tả Trương Phi rất sống động: cương trực, thẳng thắn, quyết liệt, trong

sáng và trung nghĩa.

Page 282: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

3. Quan Vũ – đó là một võ tướng: tuyệt nghĩa. Vượt qua nguy hiểm để đi tìm anh, quá

ngũ quan trảm lục tướng.

4. Nghệ thuật: “Hồi trống Cổ Thành” hấp dẫn bởi tình huống và kịch tính.

Tình huống1: Trương Phi ngỡ là Quan Công đến lừa bắt mình nộp Tào Tháo. Phi phải

giết Quan Công. Tình huống 2: Sái

Dương mang quân đến hỏi tội Quan Công… Phi ngỡ là âm mưu của Quan Công. Tình

huống 3: Trương Phi đánh ba hồi trồng

thì Quan Công phải chém chết Tào. Đầu Sái Dương bị Quan Công chém lăn dưới đất,

Trương Phi vừa đánh xong một hồi

trống. Mâu thuẫn được giải quyết, Phi khóc, thụp lạy Vân Trường.

Nhân vật được miêu tả bằng hành động các tình tiết diễn biến nhanh, đẩy xung đột nên

căng thẳng và hấp dẫn.

Tóm lại, “Tiếng trống Cổ Thành” vang lên là đầu giặc bị chém rụng xuống đất để người

anh hùng minh oan bằng tài năng.

Đó là tiếng trống hội ngộ của tình nghĩa, của lòng trung thực, của khí phách anh hùng. Cũng

là tiếng trống thúc quân, tiếng

trống thắng trận tưng bừng giòn giã.

Người lái buôn thành Vơnidơ

Sêcxpia

I. Thời đại Phục hưng và Văn hóa Phục hưng

1. Sau đêm trường trung cổ, Tây Âu bước sang một thời đại mới là Thời đại Phục hưng

trong thế kỷ 15-16. Phương Tây

bàng hoàng và kinh ngạc phát hiện ra trong những di sản của nền văn học nghệ thuật Hi

Lạp, La Mã vô cùng xán lạn, đã bị

chôn vùi qua hàng ngàn năm từng bị nhà thờ và chế độ phong kiến xuyên tạc, bóp méo. Con

người phương Tây khao khát,

hăm hở làm sống lại tinh hoa nền văn hoá đó để xây dựng một nền văn minh mới vì tự do và

Page 283: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

hạnh phúc của con người. Lịch

sử gọi là Thời đại Phục hưng.

2. Cùng với sự phát triển của kinh tế, khoa học, kỹ thuật, phong trào văn hóa Phục hưng

nở rộ khắp các nước Tây

Âu. Trào lưu tư tưởng này lấy chủ nghĩa Nhân văn làm nòng cốt đề cao trí tuệ con người, vì

hạnh phúc, tự do của con

người mà kiên quyết chống lại những thế lực hắc ám, tàn bạo trong xã hội, để con người

được phát triển tự do, tự nhiên, hài

hoà, đẹp đẽ.

II. Tác giả Sêcxpia

Sêcxpia (1564–1616) là một nhà thơ, nhà soạn kịch thiên tài của nước Anh, “một trong

những ngọn đuốc chói lọi”

của Văn hóa Phục hưng. Thị trấn Xtratpho on Âyvơn là quê hương ông. Ông bước vào kịch

trường Anh quốc, lúc đầu là

chân giữ ngựa và nhắc vở ở rạp hát, dần dần được là diễn viên, đạo diễn, tài năng phát triển,

trở thành kịch tác gia.

Ông để lại 37 vở kịch, có hài kịch, có bi kịch, có kịch lịch sử. Cấu trúc hoành tráng, ngôn

ngữ đối thoại vừa bóng bẩy vừa

hùng tráng, phản tích tâm lí sâu sắc… Kịch Sêcxpia là tiếng nói của lương tri, của chính

nghĩa, của tự do, hạnh phúc và

niềm tin vào con người, vào thế hệ trẻ trong tương lai. Kịch Sêcxpia sáng bừng chủ nghĩa

nhân văn cao đẹp.

Rômêô và Ju liet, Hamlet, Ôtenlô, Người lái buôn thành Vơnidơ… là những vở kịch -

kiệt tác của Sêcxpia gần gũi, quen

thuộc với hàng trăm triệu, nghìn triệu con người trên hành tinh chúng ta.

III. Tóm tắt vở kịch “Người lái buôn thành Vơnidơ”

Baxaniô một quý tộc trẻ, có học. Bạn thân là Antôniô, một thương gia giàu có ở Vơnidơ.

Page 284: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Baxaniô cần tiền cưới vợ - công

nương Porxia xinh đẹp. Antôniô không sẵn tiền vì tất cả tài sản của chàng đang lênh đênh

trên 3 chiếc thuyền buôn chưa về.

Antôniô phải đến vay của tên Sailốc, một lái buôn Do Thái số tiền 3000 đuyca với điều kiện

ghi vào văn khế: nếu sau 3 tháng

không trả được nợ thì Sailốc có quyền xẻo một cân thịt trên thân thể người vay nợ.

Tuy yêu Baxaniô, nhưng công nương Porxia phải thực hiện đúng chúc thư của bố, người

cầu hôn phải chọn đúng cái hòm

trong đựng chân dung nàng mới được kết duyên cùng nàng. Ông hoàng Marốc chọn cái hòm

vàng, mở ra chỉ thấy cái đầu lâu

và một tờ thư châm biếm. Ông hoàng xứ Aragông chọn cái hòm bạc, trong chỉ có chân dung

thằng ngốc với một bài thơ hài

hước. Baxaniô chọn hòm chì, mở ra… và hạnh phúc đã thuộc về chàng.

Hạn nợ đã đến. Sailốc kiện ra toà. Baxaniô và Graxianô (chồng nàng Nêrixa hầu gái của

công nương Porxia phải cấp tốc

về Vơnidơ. Được ông anh họ là quan toà viết thư ủy nhiệm, Porxia cải trang thành tiến sĩ

luật khoa, nàng Nêrixa cải trang

thành viên thư ký. Hai nàng đã được thống lĩnh mời vào ghế quan tòa. Porxia tuyên bố cho

Sailốc thực hiện đúng văn khế và

lưu ý phải cắt đúng 1 cân thịt không hơn không kém trên thân thể Antôniô và không làm

chảy ra một giọt máu nào. Sailốc bị

thua kiện, bị ghép vào tội âm mưu hãm hại một công dân thành Vơnidơ, bị toà tuyên bố tịch

thu toàn bộ tài sản.

Kết thúc phiên toà, hai vị “quan toà và thư ký” khéo léo xin được nhẫn của Baxanioo và

Graxianô. Trở lại đời thường, hai

nàng hỏi đức lang quân về nhẫn đính hôn đâu rồi và tỏ ý giận dỗi. Cuối cùng Porxia đưa thư

ủy nhiệm của ông anh họ thì

Baxaniô mới biết rõ sự thật, bàng hoàng khâm phục người yêu.

Page 285: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Cùng lúc đó, tin ba thuyền buôn của Antôniô cập cảng, thuyền đầy ắp hàng hóa.

IV. Giá trị của tác phẩm

1. Về nội dung: Vở kịch “Người lái buôn thành Vônidơ” đã ca ngợi tình bạn, tình yêu

thủy chung cao cả, đề cao trí tuệ và

công lý, lên án sự độc ác tham lam. Vẻ đẹp và sự thông tuệ, sắc sảo của người phụ nữ trẻ

được khẳng định và ngưỡng mộ.

2. Về nghệ thuật: Hành động kịch phong phú. Mâu thuẫn tạo nên xung đột và kịch tính

(văn khế – cảnh xử kiện – chiếc

nhẫn).

Ngôn ngữ rất bóng bẩy. Chất hài qua màn kịch chọn hòm vàng, hòm bạc, hòm chì…

Tóm lại, với “Người lái buôn thành Vônidơ” tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật hài

kịch của Sêcxpia. Tính triết lý trong

màn cầu hôn rất đặc sắc.

Sự lựa chọn của Baxaniô

(Trích hồi II, cảnh 2 – “Người lái buôn thành Vônidơ”)

Công nương Porxia yêu Baxaniô tha thiết nhưng nàng vẫn phải tuân thủ di chúc của

người cha thân yêu. Nàng không chỉ

diễm kiều mà còn đang được thừa kế một gia tài lớn ở Belmônt. Cuộc cầu hôn của nàng rất

đặc biệt Baxaniô cũng như mọi

người, đến cầu hôn khắc phải qua một thử thách về tài trí, về đức độ và cả sự may mắn nữa.

Porxia đưa Baxaniô đến trước chiếc hòm, nghe chàng nói mà lòng “kinh hãi” và tin

tưởng: “Nếu chàng yêu em thì chàng sẽ

phát hiện thấy em trong đó”. Tuân thủ di chúc của cha là đặt nghĩa vụ lên trên hết, tin người

yêu với tình yêu chung thủy sẽ

tìm ra chân dung nàng để đi tới một hôn nhân. Nàng khẳng định sức mạnh của tình yêu.

Ngắm nhìn 3 chiếc hòm, Baxaniô nói với mình. Một cách nói văn hoa của giới quý tộc

trẻ trong thế kỉ 16. Chàng châm

Page 286: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

biếm thiên hạ luôn luôn “bị đánh lừa bởi ngoại hình trang sức”; chàng chế giễu những kẻ

giả danh anh hùng mà “bộ gan

trắng bệch như sữa”. Chàng chỉ ra những con người bên ngoài rất đẹp “vành tóc xoăn óng

ánh sắc vàng…”, nhưng tâm

hồn lại trống rỗng “nằm yên trong mồ”, có lúc “một trang sức rất đẹp mắt” chỉ là “một bến

lừa người của một biển

khơi nguy hiểm”. Suy nghĩ ấy cho thấy Baxaniô là một con người thông minh, sáng suốt

trong nhìn nhận bản chất bên

trong tốt đẹp của sự vật. Chàng vừa có đức vừa có tài.

Vì thế chàng không chọn hòm vàng bởi lẽ chàng cho là “rắn quá!”. Chàng không chọn

hòm bạc vì chất bạc theo ý

chàng chỉ là “kẻ nô lệ trắng bệch và tầm thường”. Baxaniô đã chọn hòm chì “nghèo nàn”

vì nó đã làm cho chàng cảm

động bởi “sắc xanh xám xuềnh xoàng”.

Porxia hồi hộp, động viên người yêu phải sáng suốt, bình tĩnh, hãy “bớt sôi nổi”, hãy dẹp

bớt “cơn bồng bột nồng nàn”.

Kịch tính căng lên như dây đàn khi Baxaniô mở hòm chì. Chàng reo lên sung sướng: “Chân

dung nàng Porxia tuyệt sắc!”

Chàng hỏi với tất cả niềm kiêu hãnh tự hào: “Có vị á thần nào đã gần hoá công được đến thế

này?”. Đó là cách nói của người

phương Tây về giai nhân cũng như ở phương Đông gọi người đẹp là “cành thiên hương”

vậy.

Hạnh phúc cầm tay, ngắm chân dung người yêu, Baxaniô sung sướng đến tột độ. Chàng

ca ngợi nhan sắc công nương

Porxia bằng những lời đẹp nhất, đầy chất thơ:

- “Đôi môi hé mở… hơi thở ngọt ngào như mật ong…”

- “mái tóc… như con nhện chăng tơ…”

Page 287: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

- “Đôi mắt của nàng… tưởng chừng như cứ vẽ xong một con mắt thôi cũng đủ làm cho

họa sĩ mù cả đôi mắt mình và bỏ

dở dang tác phẩm”.

Chưa hả hê thỏa mãn, Baxaniô đọc to bài thơ:

“Hỡi chàng, vốn không tin ở những bề ngoài

Chàng đã chọn trúng và may mắn lớn

Hạnh phúc đó đã đến với chàng

Thì chàng nên mãn nguyện và đừng tìm gì khác nữa

Nếu chàng thấy mệnh vận đã chiều chàng,

Thì hãy quay về phía giai nhân,

Và đòi tình yêu của nàng bằng một cái hôn đính ước tình vợ chồng - nụ hôn “ban

cho” và “tiếp nhận”.

Ngôn ngữ kịch trau truốt, đầy chất thơ, mượt mà. Ca ngợi tình yêu và hạnh phúc lứa đôi

là một biểu hiện sâu sắc, đẹp đẽ

của chủ nghĩa nhân văn thời Phục hưng và Văn hóa Phục hưng. Và đó là chất thơ trong hài

kịch Sêcxpia.

- Sau nụ hôn là niềm tự hào của công nương Porxia. Nàng trân trọng nói: “Thưa quý

công tử Baxaniô…”. Nàng chỉ muốn

từ nay trở đi, tài đức của nàng “hai chục lần làm tăng gấp ba”, sắc đẹp của nàng đẹp “gấp

lên nghìn lần, giàu lên vạn lần…”.

Nàng sung sướng tuyên bố: “ngay từ bây giờ ngôi nhà này, những kẻ hầu hạ kia và bản thân

em, chúng em là của chàng, hỡi

chúa của em…”. Và nàng đã trao nhẫn…

Cũng là tiếng nói hạnh phúc và ca ngợi tình yêu.

Tóm lại, chất hài và chất thơ kết hợp hài hòa. Suy nghĩa của Baxaniô về hòm vàng, hòm

bạc, hòm chì còn mang một ý vị

triết lý về sự hào nhoáng giả dối và cái đẹp chân chính, cái đẹp thực chất trong cuộc đời.

Page 288: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Con người phải thông tuệ, có đức

tài để nhận diện và khám phá. Đoạn kịch đã ca ngợi tình yêu, hạnh phúc và đức tài của tuổi

trẻ. Đó là tính nhân văn mà ta cần

biết để trân trọng vẻ đẹp.

Văn học là gì

I. Văn học là một môn nghệ thuật

1. Văn học nhận thức, phản ánh đời sống con người

Cũng như hội họa, ca nhạc, điêu khắc… văn học là một môn nghệ thuật. Đối tượng của

văn học là con người – con người

trong học tập, lao động, chiến đấu, con người trong tình yêu và những mối quan hệ xã hội

khác, con người trong không gian

thời gian với thiên nhiên, vũ trụ. Nói văn học là nhân học, đúng thế. Văn học không chỉ

phản ánh đời sống con người mà còn

phải nhận thức con người và đời sống con người, nói lên những ước mơ, khát vọng, những

tâm tư, tình cảm của con người

trong chiều sâu tâm hồn với sự đa dạng, phong phú.

Chỉ đến lúc nào đó văn học mới là văn học đích thực khi văn học thể hiện được sự khám

phá và sáng tạo, có những kiến

giải hay và đẹp về con người và đời sống con người.

“Ramayana” có 24.000 câu thơ đôi, “Tam quốc diễn nghĩa” với hàng triệu chữ, bài thơ

“Cây chuối” của Nguyễn Trãi, bài

thơ tình của Xuân Diệu… đó là văn học.

2. Văn học là sự thể hiện tinh tế tư tưởng và tình cảm, ước mơ và khát vọng, quan điểm

và lý tưởng thẩm mĩ của

nhà văn đối với con người và cuộc sống. Mỗi trang văn, mỗi bài thơ (đích thực) dù nói về

gì, đề tài gì rộng lớn hay bé nhỏ

đều thể hiện lòng yêu, sự ghét của tác giả, thể hiện một quan điểm nhân sinh hoặc lên án cái

Page 289: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

ác, hoặc ca ngợi tình yêu, đưa tới

sự hướng thiện, cái cao cả, cái đẹp của thiên nhiên và con người. Văn học mang tính khuynh

hướng rõ rệt.

“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,

Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi

Lẽ nào trời đất dung tha

Ai bảo thần dân chịu được

(Nguyễn Trãi)

“Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh

Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần.

Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm,

Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân…

(Nguyệt Cầm – Xuân Diệu)

“Yêu biết mấy, những con người đi tới

Hai cánh tay như hai cánh bay lên

Ngực dám đón những phong ba dữ dội

Chân đạp bùn không sợ các loài sên”

(“Mùa thu tới” – Tố Hữu)

3. Văn học nhận thức và thể hiện bằng hình tượng nghệ thuật

Văn thơ hàm chứa tư tưởng tình cảm. Nhưng văn chương không nói ý một cách khô

khan. Vì sao mà có thơ nồi đồng, con

cóc? Văn chương đích thực là hoa quí nên mới có hương sắc. Văn chương thấm vào lòng

người, bất tử với thời gian, không

có biên giới bởi lẽ văn học nhận thức và thể hiện bằng hình tượng nghệ thuật.

Hình tượng nghệ thuật do nhiều yếu tố, chi tiết nghệ thuật hợp thành. Đọc tác phẩm văn

học phải phát hiện ra và cảm nhận

Page 290: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

các chi tiết nghệ thuật, có thế mới khám phá được cái hay, cái đẹp của hình tượng nghệ

thuật.

Vậy hình tượng nghệ thuật là gì?

- Trong thơ văn, hình tượng nghệ thuật có thể là một bông hoa, một vầng trăng, một nàng

Kiều, một Trương Phi – cũng

có thể là một nét của tâm trạng, tình cảm như “Tương tư” của Nguyễn Bính, v.v…

- Vậy, hình tượng là bức vẽ về con người, về cuộc đời, về thiên nhiên cụ thể được nhà

văn sáng tạo nên qua liên tưởng,

tưởng tượng để thể hiện tư tưởng, tình cảm và khái quát hiện thực một cách thẩm mĩ

- Có cảm nhận được hình tượng mới thấy được cái hay, cái ý vị của văn chương.

II. Văn học là nghệ thuật của ngôn từ

1. Ngôn từ là chất liệu xây dựng hình tượng của văn học

Hội họa dùng màu sắc, đường nét… âm nhạc diễn tả bằng âm thanh, tiết tấu… điêu khắc

dùng chất liệu (kim loại, đá,

gỗ...) tạo nên hình khối, đường nét v.v… Còn văn học phải diễn tả bằng ngôn từ. Mỗi tác

phẩm văn học phải được gắn liền

với một thứ ngôn ngữ và văn tự (gốc) nhất định. Ngôn ngữ, văn tự là công cụ của nhà văn.

Nhà văn Nguyễn Tuân được ca

ngợi là bậc thầy về ngôn ngữ. Văn của ông là tờ hoa, là trang văn. Hồ C hí Minh viết văn

làm thơ bằng tiếng mẹ đẻ, bằng tiếng

Pháp, bằng chữ Hán. Thật là kì tài.

2. Những đặc điểm của ngôn từ văn học

Nhà văn nhà thơ phải sử dụng ngôn từ và trau chuốt nó, tạo thành một thứ ngôn ngữ văn

chương giàu có, sang trọng, đẹp

đẽ. Ngôn ngữ văn học có những đặc điểm sau:

- Tính hệ thống

- Tính chính xác

Page 291: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

- Tính truyền cảm

- Tính hình tượng

- Tính hàm súc, đa nghĩa

- Tính cá thể hoá

Trong đó, tính chính xác, tính truyền cảm, tính hình tượng là cực kỳ quan trọng. Nói rằng

“Văn hoa dã chất chi đối”, “Lời

lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu” là như vậy. Kim Trọng khen Kiều khi nàng làm một bài

thơ viết lên bức tranh Kim Trọng

mới vẽ:

“Khen tài nhả ngọc phun châu,

Nàng Ban, ả Tạ cũng đâu thế này!”

Nhà văn sử dụng ngôn từ để xây dựng hình tượng văn học. Vì thế đọc sách hoặc phân

tích thơ văn không được thoát li văn

bản và ngôn từ

3. Tính chất “phi vật thể” của chất liệu ngôn từ và khả năng diễn tả đặc biệt phong phú

của nghệ thuật ngôn từ

- Xem tranh xem ti vi… đã thấy được cụ thể cảnh vật, sự việc biểu hiện. Đọc văn, ta phải

tưởng tượng, liên tưởng, suy

luận, cảm xúc với tất cả mọi giác quan và tâm hồn, mới hình dung được cảnh vật, sự việc.

Điều đó nói lên rằng, ngôn từ mang

tính chất “phi vật thể”. Con chứ đấy, câu thơ đấy nhưng không phải ai cũng hiểu và cảm

như nhau.

- Ngôn từ có sức mạnh vạn năng, có thể diễn tả sự việc theo dòng chảy lịch sử qua hàng

trăm năm, hàng vạn năm trên một

không gian hữu hạn hoặc rộng lớn vô hạn.

- Ngôn từ còn có khả năng diễn tả những rung động biến thái của tâm hồn con người.

Thật là kỳ diệu khi Nguyễn Trãi viết:

Page 292: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

“Ngư ca tam xướng yên hồ khoát,

Mục đích nhất thanh thiên nguyệt cao!”

(Ức Trai thi tập)

Nếu không hiểu được ngôn từ sao có thể cảm được cái hay của hai câu thơ trên?

Nhà văn và quá trình sáng tạo

I. Vai trò của nhà văn với đời sống văn học

Không có ong mật thì chẳng có mật ong. Và không có hoa thì ong cũng chẳng thể làm ra

mật. Không có nhà văn thì không

có tác phẩm, tất nhiên cũng không thể có đời sống văn học. Lại còn phải có hiện thực phong

phú tạo nguồn sáng tạo cho nhà

văn thì mới có thơ văn. Từ muốn mặn, phù sa, hương sắc cuộc đời… nhà văn sống hết mình

với hiện thực phong phú ấy may

ra mới có tác phẩm văn học.

Viết về mối quan hệ giữa nhà văn và đời sống hiện thực, Chế Lan Viên nói:

“Bài thơ anh, anh làm một nửa mà thôi,

Còn một nửa cho mùa thu làm lấy.

Cái xào xạc, hồn anh chính là xào xạc lá

Nó không là anh, nhưng nó là mùa…”

(“Sổ tay thơ – Đối thoại mới)

Nhà văn phải khám phá và sáng tạo, không theo đuổi người. Không tô hồng cũng không

bôi đen hoặc sao chép hiện thực.

Nhà văn cũng không được lặp lại mình. “Văn chương quý bất tùy nhân hậu” (Hoàng Đình K

iên đời Tống”.

II. Những nhân tố cần có đối với một nhà văn

Một vạn học sinh đỗ tú tài, sau 5, 6 năm học tập ở đại học có thể đào tạo thành những kĩ

sư, bác sĩ… nhưng rất ít hoặc

Page 293: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

không thể đào tạo thành nhà văn. Có một hiện tượng kỳ lạ là trong xã hội ta ngày nay sao

mà nhiều “nhà thơ” thế. Thật ra đó

là những “thi sĩ – vè”, “thi sĩ – con cóc”,… Lênin từng nói: “Trong lĩnh vực nghệ thuật,

không có chỗ đứng cho kẻ trung

bình”. Vậy nhà văn cần những nhân tố gì?

– Phải có năng khiếu, có tài.

– Phải có cái tâm đẹp. (chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” – Kiều)

– Phải có vốn văn hóa rộng rãi (có học). Học vấn thấp hạn chế chẳng khác nào đất ít mầu

mỡ, cây kém xanh tươi, hoa

trái chẳng ra gì.

– Phải có vốn sống như con ong giữa rừng hoa. Phải sống hết mình.

– Phải có một lí tưởng thẩm mĩ cao đẹp: sống và viết vì chủ nghĩa nhân văn.

– Phải có tay nghề cao. Xuân Diệu gọi đó là “bếp núc làm thơ”.

– Ngoài ra còn có một điều kiện khách quan ấy là môi trường sáng tác. Nhà văn phải được

sống trong tự do, dân chủ,

phải có vật chất tạm đủ (cơm áo không đùa với khách thơ) …

– Với nhà văn, kiêng kị nhất là thói kiêu ngạo, xu nịnh bợ đỡ… Vì thế văn chương có ngôi

thứ: kẻ làm thơ, nhà thơ, thi

nhân, thi sĩ, thi hào, đại thi hào. Còn có loại “đẽo câu đục vần” được ngồi một chiếu riêng.

Loại bồi bút thì bị độc giả khinh bỉ.

Trong tập “Văn 10” tập 2 có viết:

“Nhà văn phải có năng khiếu, có vốn văn hóa rộng rãi và có tư tưởng nghệ thuật độc đáo.

Nói như thế là đúng nhưng

chưa đủ.

III. Quá trình sáng tạo

Lao động nghệ thuật của nhà văn là một thứ lạo động đặc biệt. Phải có hứng, nếu không

có hoặc chưa có cảm hứng thì

Page 294: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

chưa thể sáng tác. Mỗi nhà văn có một cách sáng tác riêng. Xuân Diệu làm thơ được “thiết

kế” công phu chặt chẽ. Tố Hữu

thì “câu thơ trước gọi câu thơ sau”. Hoàng Cầm làm thơ, có thể như có ai đọc chính tả cho

chép lại. Ông sáng tác bài: “Lá

Diêu Bông” vào quá nửa đêm mùa rét 1959. Khi cả nhà đang ngủ say, ông tỉnh giấc “chợt

bên tai vẳng lên một giọng nữ rất

nhỏ nhẹ mà rành rọt, đọc chậm rãi, có tiết điệu, nghe như từ thời nào, xa xưa vẳng đến, có lẽ

từ tiền kiếp vọng về:

“Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng…”

(“Về Kinh Bắc”, trang 160 – 161)

Nhà thơ Chế Lan Viên qua đời còn để lại một núi “Phác thảo thơ – di bút”. Đọc hồi kí

các nhà văn, nhà thơ danh tiếng,

ta ngạc nhiên và vô cùng khâm phục về lao động sáng tạo của họ. Có câu thơ được viết hàng

tháng.

Có bài thơ hình thành nhiều năm. Có cuốn tiểu thuyết được sáng tác trong 1/10, 1/5 thế

kỷ.

Để có những “thiên cổ hùng văn”, “thiên cổ kì bút”, “Sách gối đầu giường cho thiên hạ”

phải là những bậc thiên tài mới

sáng tạo nên.

Yêu văn học ta càng yêu kính và biết ơn nhà văn, nhà thơ. Tác phẩm của họ đã làm tâm

hồn ta thêm giàu có. Văn chương

là cái đẹp muôn đời. Văn chương, văn hiến, văn hóa là niềm tự hào của mỗi quốc gia.

Page 295: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Bài ca chàng Đam Săn

I. Xuất xứ

"Bài ca chàng Đam Săn" là sử thi anh hùng của tộc người Ê đê ở Tây Nguyên. Tác phẩm

được nhiều người sưu tầm tuy lời

kể có khác nhau ít nhiều, nhưng cốt truyện đều giống nhau.

II. Tóm tắt

Theo tục "nối dây", Đam Săn phải lấy hai chị em Hơ Nhí và Hơ Bhí làm vợ. Anh đã

chống lại, nhưng bị trời lấy ống điếu gõ

vào đầu 7 lần "Đam Săn chết lịm, rồi Trời cho sống lại". Cuối cùng Đam Săn phải làm theo

lời Trời. Đam Săn trở thành tù

trưởng giàu mạnh, danh tiếng vang lừng rừng núi, "đầu đội khăn kép, vai mang túi da". Đam

Săn đã cùng bộ tộc đánh thắng

hai tù trưởng hùng mạnh khác là Mơtao Grứ và Mơtao Mơxây, bắt được nhiều nô lệ, thu

được nhiều tài sản quý báu. Ngang

tàn coi thường thần linh, Đam Săn chặt cây thần. Chặt mãi cây mới đổ. Cây đổ quật chết cả

hai nàng Hơ Nhí và Hơ Bhí. Anh

vác rìu đi lên trời, cầu xin Trời cứu sống vợ anh. Đang sống trong yên vui giàu có, Đam Săn

lại lên đường đi bắt Nữ thần Mặt

Trời để có "hai vợ lẽ... vợ thật đẹp”. Cuộc cầu hôn thất bại, anh trở lại quê nhà, bị chết lún

giữa rừng của bà Sun Y Rít. Đam

Săn chết, cháu Đam Săn ra đời, lại theo tục "nối dây" đi tiếp hành trình của cậu chàng, dấn

thân vào cuộc chiến đấu mới.

III. Giảng văn

Đi bắt nữ thâng Mặt Trời

1. Xuất xứ và ý tưởng chủ đạo

Đoạn trích "Đam Săn đi bắt nữ thần Mặt Trời" nằm trong chương 7 "Bài ca chàng Đam

Săn"

Page 296: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Đoạn sử thi này nói lên khát vọng và dũng khí, lòng quả cảm của người anh hùng Đam Săn

được bộ tộc ngưỡng mộ.

2. Hình ảnh dũng sĩ Đam Săn

- Khát vọng phi thường. Là một tù trưởng giàu có và hùng mạnh: "Trăm chiêng núp anh

đã có. Trăm chiêng bằng anh đã

có. Trăm con voi anh đã có...". Nhiều nồi đồng, lợn dê đầy sân. "Tiếng tăm anh vang đến

thần núi", ai cũng phải khen anh là

"gan dạ, anh dũng", không hề lùi trước bất cứ địch thủ nào! Đam Săn đi bắt nữ thần Mặt

Trời vì nàng là "người đẹp nhất",

"bắp chân nàng tròn, váy nàng đẹp tuyệt vời". Đi bắt nữ thần Mặt Trời mới thành một tù

trưởng "hết sức giàu mạnh... trên đời

không ai bì kịp"... Khi đến vương quốc của nữ thần Mặt Trời, Đam Săn đã nói với người

đẹp: "Tôi muốn có hai vợ lẽ, tôi

muốn có một người vợ thật đẹp và tôi hứa với nàng tôi sẽ mang nàng xuống trần lập một gia

đình chung với Hơ Nhí và Hơ

Bhí". N gười tù trưởng phải có khát vọng phi thường như vậy mới tiêu biểu cho phẩm chất

cao đẹp của cộng đồng bộ tộc xa

xưa.

- Dũng khí quả cảm vô song.

Lên đường với con tuấn mã, tay cầm lao, gươm dắt thắt lưng, khoác áo màu đen màu

trắng, mang theo bùa ngải..."sẽ giúp

tôi thắng!". Đừng đi đầy tê giác, hùm thiêng, cọp dữ, đã cắm chông, đã cắm bẫy, nước đầy

đỉa, cây đầy sên, bò cạp giữa

đường, rết trên ngọn cây... xương người và xương trâu đầy rừng!... Nhưng quyết tâm của

Đam Săn không hề nao núng: "Mặc

kệ! để tôi kiếm một nối đi. Tôi sẽ tới chỗ tôi muốn! Gặp hùm tôi sẽ giết hùm".

Đam Săn ra đi từ lúc gà gáy. Chàng vượt qua rừng âm u, núi rậm chân và tay bị cỏ tranh,

mây "cắt nát". Đến ranh giới giữa

Page 297: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

trời và đất, Đam Săn đã "chặt một sườn núi ném xuống bùn làm con đường" để vượt qua và

tiến lên. Chàng dũng sĩ vô cùng

ngạc nhiên trước cái nhà của nữ thần: cầu thang nhà là chiếc cầu vồng, cối và chày giã gạo

đều bằng vàng, sân nhà đầy voi,

trong nhà đầy chiêng núp. Tôi tớ trai và gái đi lại đông như mây. Đam Săn thì được người

nhà của nữ thần ngắm nghía như

nhìn một "thần linh danh tiếng". Còn nữ thần Mặt Trời thay hai lần váy mới "nhấp nháy như

chớp sáng". Tóc chải bóng buông

dài. Dáng đi thướt tha "như chim diều bay, như phượng hoàng liệng, như nước chảy êm

đềm". Cổ nàng "đẹp như cổ con

công". Nàng là dòng dõi nhà "Trời và Đất". Với tưởng tượng kì diệu, tác giả sử thi đã miêu

tả hành trình của Đam Săn và hình

ảnh nữ thần Mặt Trời để ca ngợi dũng khí, lòng quả cảm và khát vọng về công danh, hạnh

phúc của người dũng sĩ lỗi lạc.

Cuộc cầu hôn không thành, Đan Săn lên ngựa trở về. Thần ánh sáng đã làm cho đất nhão

ra. Chàng dũng sĩ đã chết trong

tư thế lẫm liệt. Mặc dù vậy, Đam Săn là tù trưởng duy nhất đi tới được vương quốc nữ thần

Mặt Trời. Người Ê đê xưa và

nay vô cùng tự hào về hành trình của Đam Săn. Cách giải thích hiện tượng tự nhiên, Mặt

Trời và ánh sáng của người Ê đê xa

xưa rất kì diệu.

Đoạn Đam Săn đi bắt nữ thần Mặt Trời là đoạn hay nhất tràng lệ nhất, bi tráng nhất trong

sử thi "Bài ca chàng Đam

Săn". Nghệ thuật phóng đại và so sánh được sử dụng trong miêu tả và chuyện kể rất thần

tình, đầy ấn tượng.

Page 298: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Chử Đồng Tử

I. Một vài điều cần biết về chuyện cổ tích

1. Cổ tích là tích cũ, chuyện xa xưa, ra đời khi xã hội có áp bức, bóc lột. Cổ tích kể về

những

truyện mang yếu tố hoang đường, sự tích kì lạ về con người, hoặc thế giới muôn loài, chứa

đựng triết lý nhân sinh sâu sắc.

2. Người ta chia truyện cổ tích thành 3 loại:

- Truyện cổ tích loài vật (Quạ và Công; Con thỏ tinh khôn...)

- Truyện cổ tích thần kỳ (Chử Đồng Tử, Cây khế…)

- Truyện cổ tích sinh hoạt (Chàng ngốc, Cái cân thuỷ tinh...)

3. Cuộc đấu tranh giữa thiện và ác, giàu và nghèo, thống trị và bị thống trị, chính nghĩa

và phi nghĩa... Các bài học về ở

hiền gặp lành, ác giả ác báo, tham thì thâm... rất dễ bắt gặp trong truyện cổ tích. Cổ tích nêu

cao khát vọng về tự do và hạnh

phúc, công bằng ở đời.

II. Truyên "Chử Đồng Tử"

1. Tóm tắt

Ngày xưa ở nàng Chử Xá có hai cha con Chử Cù Vân và Chử Đồng Tử, nghèo khổ, mò

cua bắt ốc, chỉ có một chiếc khố

chung nhau, hễ ai đi đâu thì đóng: Chử Cù Vân ốm sắp chết dặn con cứ táng trần cho cha.

Nhưng khi Chử Cù Vân qua đời

thì Chử Đồng Tử đã lấy khố đóng cho cha rồi mới chôn cất. Ngày ngày Chử Đồng Tử vẫn

xuống sông mò cua bắt cá kiếm

sống. Thuở ấy có nàng Tiên Dung, công chúa của vua Hùng thứ ba, nhan sắc tuyệt trần, đã

17, 18 tuổi mà không chịu lấy

chồng, chỉ thích chèo thuyền đi xem sông núi. Một hôm, thuyền của nàng đến khúc sông

làng Chử Xá, thấy cảnh sông nước

Page 299: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

bờ bãi xinh đẹp, nàng bèn ra lệnh cho thị nữ vây màn tứ vi vào một nơi có bóng mát để tắm.

Không ngờ nơi đó Chử Đồng

Tử đang náu mình dưới cát. Tiên Dung giội nước một lúc, nàng giật mình thấy một chàng

trai trồi lên. Nàng hỏi duyên cớ thì

Chử Đồng Tử nói vì không có quần áo, thấy thuyền quan quân thì sợ nên phải vùi mình

xuống cát để ẩn.

Tiên Dung nói với Chử Đồng Tử : "Tôi đã nguyện không lấy chồng, nay duyên trời run

rủi, lại gặp chàng chốn này mới biết

cưỡng không được với trời". Nàng sai thị nữ đem áo quần cho Chử Đồng Tử và sửa soạn

tiệc hoa. "Chử Đồng Tử bối rối

chối từ, Tiên Dung nói: "Thiếp với chàng là tự trời xe duyên, việc gì mà từ chối!". Hai

người nên vợ nên chồng từ đấy.

Vua Hùng được tin giận lắm, ra lệnh cho quân quan, người hầu của Tiên Dung phải về

kinh đô. Nàng sợ cha, đành cùng

chồng ở lại làm ăn. Mấy năm sau, cuộc sống trở nên thịnh vượng. Nàng để chồng ra biển

tìm vật lạ đem về đổi lấy các thứ

khác. Chử Đồng Tử lên đường. Đến một nơi núi non hữu tình, thấy cái am nhỏ, chàng leo

lên núi, may thay gặp sư Phật

Quang. Thấy Chử Đồng Tử là người chân thật, sư Phật Quang truyền cho phép lạ, hơn một

năm sau thành tài. Chử Đồng Tử

xuống núi trở về nhà, lạy tạ nhà sư và được Phật Quang ban cho một cái gậy, một nón có

phép mầu nhiệm biến hoá. Chử

Đồng Tử đem phép mầu truyền lại cho Tiên Dung rồi hai vợ chồng du ngoạn cảnh sông núi.

Có lần trời tối giữa đường, hai vợ

chồng cắm cái gậy xuống đất, úp nón lên đầu gậy, hai người tựa vào nhau dưới nón mà ngủ.

Nửa đêm tỉnh giấc, hai vợ chồng

thấy mình đang sống trong một cung điện tráng lệ... Tin lạ ấy bay đến tai vua Hùng. Vua cả

giận, ngỡ là Chử Đồng Tử và Tiên

Page 300: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Dung làm phản bèn sai quân quan đi đánh dẹp. Binh mã triều đình chưa qua sông thì trời tối

phải dừng lại. Đêm ấy, Tiên Dung

và Chử Đồng Tử cùng bay lên trời. Mưa to, gió lớn, cung điện cũng biến mất. Về sau, bãi ấy

gọi là bãi Tự Nhiên, đầm ấy gọi

là đầm Nhất Dạ. Nghe nói, thời nước ta bị tàu đô hộ, Chử Đồng Tử đã cưỡi rồng xuống giúp

Triệu Việt Vương một cái vuốt

rồng cắm lên mũ đầu mâu... Nhờ thế mà quân ta phản công, chém được tường giặc Lương là

Dương Sằn, khôi phục lại đất

nước.

2. Ý nghĩa

- Chử Đồng Tử " là một truyện cổ tích thần kì, có nhiều dị bản đậm sắc thần kỳ". Nó

cũng thuộc đề tài về những kẻ hèn

mọn "lấy tiên, lấy công chúa... được kể qua nhiều truyện cổ tích thần kì. Truyện "Chử Đồng

Tử" cũng vậy. Chử Đồng Tử mò

cua, bắt cá, nghèo khổ, một cái khố cũng không có, nhưng rất hiếu thảo, chân thật. Hạnh

phúc cầm tay rồi mà chàng vẫn bối

rối, muốn chối từ. Với Tiên Dung thì nàng "gặp" và lấy Chử Đồng Tử là do "duyên trời run

rủi", là " tự trời xe duyên". Qua đó,

ta thấy truyện Chử Đồng Tử nói lên quan niệm của nhân dân ta về vấn đề hôn nhân là do

duyên số, đồng thời thể hiện ước

mơ tự do và dân chủ trong tình yêu, trong xây dựng hạnh phúc lứa đôi. Tiên Dung đã chủ

động kết duyên với Chử Đồng Tử

vượt qua lễ giáo và đẳng cấp, vượt qua mọi thử thách để bảo vệ hạnh phúc.

Tình tiết Chử Đồng Tử cưỡi rồng xuống hạ thế giúp Triệu Việt Vương chiếc vuốt rồng

linh nghiệm... để quân ta chém được

tướng giặc là Dương Sằn, Tổ quốc được giải phóng, đã làm cho truyện cổ tích này thêm vị

truyền thuyết thể hiện sâu sắc lòng

yêu nước của nhân dân ta. Con người Việt Nam dù đi đâu làm đâu cũng nhớ về cội nguồn,

Page 301: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

tìm mọi cách để giúp nước. Chử

Đồng Tử và Tiên Dung đã sống và hành động như vậy.

Nhà sư Phật quang, cái nón và chiếc gậy nhiệm màu, cung điện tự mọc lên, tự mất đi,

Chử Đồng Tử và Tiên Dung bay lên

trời, Chử Đồng Tử giúp Triệu Quang Phục cái vuốt rồng.... đó là yếu tố hoang đường, kì

diệu... làm cho truyện cổ tích này vô

cùng hấp dẫn. Các địa danh: làng Chử Xá, bãi Tự Nhiên, đầm Nhất Dạ... nay vẫn còn đó,

làm cho truyện cổ tích "Chử Đồng

Tử" tuy mang màu sắc hư ảo, thần kì mà như thật, có thật. Rất thú vị về những tên người,

tên đất... ấy.

Trầu cau

I. Tóm tắt

Ngày xưa, một nhà quan lang họ Cao sinh được hai người con trai giống nhau như hai

giọt nước, thật khó phân biệt ai là

anh, ai là em. Khi hai anh em đến tuổi 17, 18 thì cha mẹ đều qua đời cả. Anh em lại càng

yêu thương nhau nhiều hơn.

Hai anh em đến xin học ông đạo sĩ họ Lưu. Thấy hai anh em chăm chỉ học hành, lại đứng

đắn nên thầy quý như con. Ông

đạo sĩ có một cô con gái xinh đẹp tươi giòn, tuổi đã 16, 17 sinh lòng yêu mến hai chàng trai,

muốn kết duyên với người anh

như không thể phân biệt được người nào là anh, người nào là em. Sau đó, cô mới nghĩ ra

một kế: dọn 2 bát cháo mà chỉ đặt

một đôi đũa rồi mời hai anh em cung ăn. Người em lễ phép nhường đôi đũa cho người anh

ăn trước. Cô gái xinh đẹp xin phép

cha mẹ cho được lấy người anh làm chồng.

Từ ngày lấy vợ, người anh hình như dồn tất cả tình yêu cho vợ nên tình cảm anh em

không còn được thắm thiết như trước

Page 302: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

nữa. Người em buồn tủi vô cùng. Một lần đi nương về, trời đã tối, cô gái họ Lưu từ buồng ra

gặp người em tưởng là chồng,

vội ôm chầm lấy. Người em vội kêu lên, cả hai đều xấu hổ. Còn người anh thì lại nghi ngờ

chị dâu và em chồng có tình ý gì

nên càng hững hờ với em hơn trước.

Một buổi chiều, ở nhà một mình, trống vắng, buồn tủi, cô đơn, người em đã bỏ nhà ra đi,

đi mãi vào tận khu rừng âm u.

Trời tối mịt, người em vẫn đi. Trăng đã lên. Phía trước là một con suối rộng, sâu, nước xanh

biếc, chẳng lội qua được. Chàng

ngồi bên bờ suối mà khóc, khóc mãi. Sương khuya lạnh thấm vào cõi lòng cô đơn. Chàng

chết mà vẫn trơ trơ, biến thành một

tảng đá.

Thấy em bỏ nhà ra đi mãi chưa về, người anh đi tìm em. Lại ngồi trước con suối, người anh

rầu rĩ than khóc, ngất đi rồi chết

cứng, hoá thành một cây không cành mọc thẳng đứng bên tảng đá. Người vợ lại bỏ ra đi tìm

chồng, tìm em. Lạ thay người lại

đi theo con đường vào rừng xanh, cũng đến bờ suối, ngồi cạnh tảng đá, dưới gốc cây. Nàng

vô cùng đau khổ khóc than,

mình gầy xác ve, chết tự lúc nào, biến thành một cây leo quấn chặt lấy cái cây không cành

mọc bên tảng đá.

Trong vùng, ai cũng thương tâm. Một lần vua Hùng đi qua con suối ấy, nhân dân đem

truyện ba người kia kể lại cho vua

nghe. Vua bảo thử lấy quả ở cây không cành nghiền với lá cây leo thì một mùi thơm toả ra;

nhai thử thấy thơm ngon đậm đà

và nhổ vào tảng đá, lạ chưa bãi nước biến thành sắc đỏ. Nhân dân đặt tên cây không cành ấy

là cây cau, cây dây leo là cây

trầu, lại lấy tảng đá nung lên cho xốp để ăn với trầu, cau cho thơm miệng, đỏ môi.

Tục ăn trầu của dân ta có từ đấy. Trầu cau không thể thiếu trong lễ hội, trong cưới xin...

Page 303: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Mỗi lần khách đến chơi nhà

"miếng trầu là đầu câu chuyện" làm cho tình nghĩa thêm đẹp và đằm thắm, đậm đà.

II. Phân tích

1. Ý nghía

Truyện "Trầu cau" là một trong những truyện cổ tích thần kì sớm nhất ở Việt Nam.

Truyện đã giải thích một cách nên thơ,

cảm động, với bao tình tiết đậm đà chất trữ tình tục ăn trầu- một mĩ tục dân gian, biểu hiện

một nét đẹp truyền thống lâu đời

giàu bản sắc của nền văn hoá Việt Nam. Đồng thời truyện còn ca ngợi tình nghĩa thắm thiết,

thuỷ chung của anh em, vợ chồng

trong gia đình.

Cái chết của ba người-hai anh em họ Cao và cô gái họ Lưu- chỉ là một sự hoá thân kì

diệu:cau - trầu - vôi. Cây cau toả

bóng chở che cho hòn đá, cây trầu quấn chặt lấy thân cau. Cũng như trầu với cau ăn với tí

vôi làm cho miệng thơm môi đỏ.

Trầu cau đã gắn bó với lễ hội cổ truyền, trong thù tiếp của cộng đồng người Việt xa xưa.

2. Lời bình

Dị bản thành văn của truyện "Trầu cau" xuất hiện ở thế kỷ 15 trong "Lĩnh Lam chích

quái" (Truyện Cây Trầu). Nhưng như

thế là rất muộn so với nội dung xã hội được phản ánh trong truyện. Mằc dù các tác giả

"Lĩnh Lam chích quái" có cố gắng tô

điểm lại thêm đôi nét cho thích hợp với quan điểm đạo đức thời phong kiến, dị bản này vẫn

bảo lưu được cái cốt lõi rất cổ

của truyện kể. Đó là một kiểu truyện kể về sự xung đột của hai quan điểm vì hình thái hôn

nhân: một thuộc chế độ quần hôn

(anh em lấy chung một vợ) thời mẫu hệ và một thuộc chế độ hôn nhân và gia đình lứa đôi

thời phụ hệ.

Page 304: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Sự xung đột đó phản ánh một bước tiến xã hội và thể hiện thành tâm trong đau khổ giằng xé

giữa tình anh em và tình yêu trai

gái ở trong từng nhân vật của truyện. Tâm trạng ấy đưa đến cái chết sầu muộn của cả ba

người thật là cảm động. Kiểu truyện

này phổ biến khắp vùng Đông Nam Á.

Nhưng cũng như ở nhiều nơi khác, truyện cổ tích thần kì Việt Nam đã lồng đề tài xã hội

vào đề tài thiên nhiên, đã kết thúc

bằng đồng nhất các quan hệ tình cảm kia với sự hài hoà của thiên nhiên (trầu, cau, vôi) gợi

nên niềm thương cảm gắn bó giữa

những con người chân thành với nhau, cũng là một nội dung văn hoá lành mạnh của tục ăn

trầu ở Việt Nam hàng ngàn năm

qua.

Cao Huy Đỉnh

(Tìm hiểu tiến trình văn hoá dân gian Việt Nam)

Page 305: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Tiễn dặn người yêu

I. Tóm tắt

"Tiễn dặn người yêu" là một truyện thơ dài 1846 câu của người Thái ở Tây Bắc nước ta.

Truyện kể về một mối tình chung

thuỷ của lứa đôi, trải qua nhiều trắc trở đắng cay, cuối cùng cũng đoàn tụ. Cốt truyện như

sau:

Chàng trai nhà nghèo yêu một cô gái. Hai người có bao kỷ niệm đẹp êm đềm và từng gắn

bó thề nguyền:"Sông Đà cạn

bằng chiếc đũa hãy quên". Anh nhờ người mối lái, lo lễ vật đến xin ở rể, nhưng bố mẹ cô

gái chê anh nghèo, không nhận lời.

Cô bị bố mẹ ép gả cho một người con trai giàu có. Cô kêu van chú thím anh chị em trong

nhà, kêu van đến cả chim cu,

nhưng ai cũng không giúp được, "dẫu van xin bố mẹ cũng không buông, không tha".

Người con trai nhà giàu đến ở rể. Người yêu của cô đau khổ, phẫn chí bỏ nhà đi buôn, hy

vọng trở nên giàu có, sẽ trở về

giành lại người yêu.

Trước lúc ra đi, cô trao lại người yêu chiếc đàn môi hẹn ngày tái ngộ. Cô mòn mỏi chờ

trông mà người yêu đi mãi vẫn chưa

về. Năm tháng đã trôi qua, người con trai nhà giàu đã hết hạn "ở rể ngoài" và được làm "rể

trong". Hết hạn ở rể, cô phải về

nhà chồng. Cùng lúc ấy, người yêu trở về, anh tiễn chị đi. Đôi bạn tình bịn rịn, không muốn

rời nhau. Anh tiễn người tình trước

lúc chia tay: " K hông lấy được nhau thời trẻ" thì hãy lấy nhau "khi goá bụa về già".

Mấy năm sau, chị bị nhà chồng đuổi về nhà cha mẹ đẻ vì theo họ, chị không thể nào trở

thành "vợ hiền, dâu thảo". Rồi cha

mẹ chị bán chị cho một nhà quan. Chị đau khổ như điên như dại. Gia đình nhà quan đưa chị

ra chợ bán với giá bán một cuộn

Page 306: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

dong. Người mua chị lại chính là người yêu cũ, nay đã trở nên giàu có và đã có vợ. Chị đã

quá thay đổi, anh chẳng nhận ra chị

được nữa. Chị đem đàn môi ra gảy. Anh chợt nhận ra chị qua tiếng đàn môi não nùng. Anh

thu xếp cho người vợ trước trở về

nhà cha mẹ mình rồi cưới chị làm vợ như lời nguyền ngày trước.

II. Thân em chỉ bằng thân con bọ ngựa

1. Đoạn thơ ghi lại tâm trạng hoảng hốt, đau khổ của cô gái Thái khi bị cha mẹ ép

duyên.

- Đó là một buổi chiều, cô đang kiếm củi trên nương. Cô vừa hái củi vừa nghĩ đến người

yêu: ".. một bó dành nhen lửa sàn

hoa - Lứa sàn hoa để bạn trai xa hơ áo - Em chỉ đón chờ mồi thuốc anh yêu". Cô mơ ước

"Hỡi vía anh yêu, về nhà theo

nhau". Mặt trời được nhân hoá như đang đối thoại với cô gái, mặt trời "qua sàn người

thương", lúc "sắp lặn", lúc "khuất mây

mờ", mặt trời "không gọi....không chờ", - chẳng khác nào chàng trai - người yêu của cô.

Gánh củi về nhà, cô ngạc nhiên nhìn thấy gói cà, gói xôi, gói thuốc lào... Lúc đầu cô

tưởng là hàng hoá của người Xá mang

tới đổi bán. Khi biết là sính lễ "ràng cuốn tình con", cô luống cuống hoảng sợ, đau khổ "lập

cập chạy ra sân"..."nát ruột gan"

nghĩ về người yêu. Kêu van bác trai, bác gái, chú thím, chị em dâu rể, ai cũng bảo: "K hông

giúp nổi cháu ơi", "không giúp

được em ơi!" N ghe chim cu khuyên giải: "Bố gả chồng cho, đừng chối cô à!".

Như một định mệnh "dầu van xin cha cũng không buông không thả", cô gái tủi thân, tủi

phận, than khóc:

"Ngẫm thân em chỉ bằng thân con bọ ngựa.

Bằng con chẫu chuộc thôi!"

2. Ý nghĩ, giá trị

Page 307: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

- Đoạn thơ phản ánh tục lệ ép duyên, lên án lễ giáo phong kiến về hôn nhân đã chà đạp

lên tình yêu hạnh phúc của người

phụ nữ. (Thái)

- Đoạn thơ có giá trị nhân đạo, thể hiện sự đồng cảm đối với nỗi đau khổ của người con

gái bị ép duyên.

Vượt biển

I. Tóm tắt

"Vượt biển" là một truyện thơ dân gian Tày, Nùng, dài chừng 1.000 câu thơ. Tiếng Tày,

Nùng gọi là "K hảm hải". Truyện

được lưu truyền rộng rãi ở vùng xung quanh hồ ba bể, tỉnh Bắc Cạn. Các thầy cúng xưa nay

vẫn đọc "Vượt biển" trong

những buổi lễ cầu hôn, cầu mát nghe rất não nùng, ai oán. Có thể tóm tắt truyện thơ "Vượt

biển" như sau:

Có hai anh em nhà kia mồ côi, lúc nhỏ rất yêu thương nhau. Sau khi người anh lấy vợ, rồi

giàu có. Người anh trở nên nhạt

nhẽo và bỏ mặc em sống nghèo đói lam lũ, rách rưới. Chị dâu thương tình vá áo cho đứa em

chồng. Lưng áo rách của em đã

in những ngón tay chàm của chị dâu. người anh đi làm về nhìn thấy vết tay chàm trên lưng

áo em, ghen tức.

"Chém đầu em treo ngọn cọ,

Chặt chân em treo ở ngọn vông".

Em chết đau đớn, oan khuất. Linh hồn không nơi lưng tựa, bơ vơ. Rồi bị các quan slay ở

âm phủ bắt làm sa dạ sa đồng -

phu chèo thuyền trên biển ma. Mỗi lần vượt biển là phải trải qua một hải trình dài 12 rán

nước, đay thuỷ quái, mặt biển réo

sôi. Các sa dạ sa đồng lúc thì cất tiếng than hãi hùng, lúc thì hối hả gọi nhau chèo gấp. Lúc

các slay lên bờ kéo vào chợ

Page 308: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

Đường Chu (chợ xứ ma của Diêm Vương), sa dạ ngồi trên bờ biển than khóc, khiếp sợ nghĩ

đến cảnh phải vượt biển trở lại

tiếp theo...

II. Phân tích đoạn thơ "Chèo thuyền vượt biển"

Ở dương gian, người em trải qua nhiều cái khổ: mồ côi, cô đơn, đói rách, bị anh giết chết

một cách dã man và oan uổng.

Xuống địa ngục lại trở thành sa dạ sa đồng, phải trèo thuyền vượt qua biển dữ, biển ma. Hải

trình là 12 rán nước, mỗi rán

nước là một cửa tử, rùng rợn vô cùng. Phép liệt kê tăng cấp cùng với tiếng than khóc, tiếng

biển sôi, biển réo tạo nên cảnh

chết vô cùng hãi hùng! Rán thứ chín "mặt biển nước sôi gầm réo", rán thứ mười "nước trời

băng băng, làm cho con thuyền

"cánh dầm tung bốn góc". Rán thứ mười một "sóng đuổi sóng xô đi", v.v… Thuỷ quái, nhất

là con "ngọ lồm" - quỷ biển ma -

đón đường cắn xé sa dạ sa đồng. Phu chèo thuyền kinh hãi, cất tiếng khóc than:

"Biển ơi, đừng giết tôi

Nước hỡi, đừng lôi lấy thuyền".

Họ gọi nhau "chèo mau lên, chèo cố" giữa biển ma mịt mù và cái chết nơi cõi âm bủa

vây.

Các slay - quan quân lên bờ, có người "ôm hoa", "ôm hương", có người "cầm nón", "cầm

ô", "xách giầy hoa...giầy đẹp",

gánh gồng bao của quý "đi lễ người". Còn các sa dạ sa đồng, hồn ma của người em bất hạnh

ngồi trên bờ biển càng cảm thấy

cô đơn, nghĩ đường về nhà kinh hãi:

"Chèo thuyền qua lò than, qua biển

Nhìn đường về, nước cuộn ầm rung".

Hết rán nước này qua rán nước khác, chèo thuyền đi rồi lại chèo thuyền về trên biển ma -

Page 309: Các thành phần cấu tạo của nền văn học việt namtruonghocso.com

kết cấu chuyển dịch nhằm diễn

tả những kiếp người luân hồi đau khổ. "Vượt biển" qua giọng đọc và khấn cầu của thầy

cúng, ai đã một lần được nghe mới

súc động trước âm điệu thê thiết não nùng, mới cảm thấy cái khủng khiếp của bể trầm luân

và thương sót với những kiếp

người đau khổ, bất hạnh. Truyện thơ "Vượt biển" là tiếng kêu đau thương từ cõi âm vọng về

cõi dương. Đó là nội dung nhân

đạo của nó.