BÀI TIỂU LUÂN THẦY HUẤN
-
Upload
nguyen-truong-thi -
Category
Documents
-
view
28 -
download
2
Transcript of BÀI TIỂU LUÂN THẦY HUẤN
BÀI TẬP LỚN MÔN CƠ KHÍ VÀ MÁY TRONG CÔNG NGHỆ HÓA HỌC
NHÓM 6:
1. NGUYỄN TRƯỜNG THI 1021010334
2.TRẦN THỊ THƯƠNG 1021010350
3.LÊ NGUYÊN THANH 1021010304
4. TRƯƠNG ĐĂNG THÀNH 1021010316
5.NGUYỄN VĂN THÔNG 1021010342
6.NGÔ VĂN THUẦN 1021010344
1
LỜI MỞ ĐẦU
Trải qua hơn 30 năm hình thành và phát triển, ngành dầu khí việt nam ngày càng lớn
mạnh và đã khẳng định được vị trí của mình trên trường quốc tế. Sự phát triển ngày càng cao của
khoa học công nghệ đặt ra yêu cầu khắt khe hơn về nguồn nhiên liệu, đòi hỏi ngành công nghiệp
dầu khí phải luôn luôn vận động hết mình, không ngừng nghiên cứu và áp dụng những thành tựu
khoa học nhằm cải tiến công nghệ để nguồn nhiên liệu sản suất ra đáp ứng được những yêu cầu
đó.Ngành thiết bị dầu khí chính là ngành cầu nối giữa khoa học kĩ thuật với công nghệ sản
xuất.Với mong muốn được vận dụng những kiến thức đã học, cùng với sự tâm đắc của bản thân
về các trang thiết bị bảo quản tồn chứa (bồn chứa,bể chứa,bình tách ) nhóm em đã chọn đề tài “
Tìm hiểu về các trang thiết bị tồn chứa”.Trong quá trình hoàn thành tiểu luận nàyvới sự hướng
dẫn tận tình của thầy Đoàn Văn Huấn cùng với sự nỗ lực của các thành viên trong nhóm,chúng
em đã hoàn thành bài tiểu luận này, đồng thời tiếp thu thêm được nhiều kiến thức bổ ích.Tuy
nhiên, do kinh ngiệm nghiên cứu và kiến thức còn nhiều hạn chế nên bài tiểu luận của nhóm vẫn
không tránh khỏi những thiếu sót. Chúng em kính mong nhận được sự chỉ dẫn, đóng góp của các
thầy cùng các bạn độc giả để bài tiểu luận của chúng em được hoàn thiện hơn.
2
I. TỔNG QUAN
Các loại thiết bị tồn chứa đóng vai trò quan trọng trong công nghiệp hoá chất nói chung và
trong công nghiệp dầu khí nói riêng.Hầu như tất cả các quá trình chế biến dầu khí đều có sự tham
gia của các thiết bị tồn chứa. Tồn chứa nguyên liệu, sản phẩm trung gian trong quá trình chế biến,
sản phẩm thương phẩm…. Ngoài ra, thiết bị tồn chứa còn được sử dụng vào những mục đích như:
kinh doanh, mục đích quốc phòng mang tính chiến lược của từng quốc gia.Người ta có thể tồn
chứa xăng dầu vào các bể chứa bằng thép, bể chứa không phải bằng thép (bể phi kim loại) hoặc
chứa dầu vào các phuy, can nhỏ. Các phương tiện tồn chứa xăng dầu nói chung phải đảm bảo các
yêu cầu chung sau:
- Tránh và giảm bớt hao hụt về số lượng và chất lượng xăng dầu
- Thao tác thuận tiện
- Đảm bảo an toàn phòng độc và phòng cháy
Đối với các nhà máy lọc dầu, các đơn vị kinh doanh xăng dầu thương phẩm, tổng kho, từ
những đòi hỏi về vấn đề kinh tế, xu hướng ngày nay càng muốn xây dựngnhững thiết bị tồn chứa
lớn hơn để có thể tồn chứa được nhiều hơn.Tuy nhiên, kinh phí để xây dựng các thiết bị tồn chứa
này thường là khá tốn kém, chúng thường chiếm 10 – 20% tổng kinh phí đầu tư cho một nhà máy
lọc dầu.Vì vậy đối với các nhà máy lọc dầu về mặt kinh tế họ tìm cách giảm tối thiểu giá thành
lắp đặt của các thiết bị tồn chứa và vận chuyển như thế. Song về mặt kỹ thuật, chế tạo họ phải
tính toán sao cho việc sử dụng các thiết bị tồn chứa và vận chuyển phải hợp lý, an toàn, tránh tổn
thất nhất là trong những thời gian không làm việc của bồn chứa.
Ngày nay, các thiết bị tồn chứa được phát triển đa dạng hoá về công nghệ và kỹ thuật, đáp ứng
được hầu hết các nhu cầu tồn chứa khác nhau trong lĩnh vực dầu khí. Có rất nhiều loại thiết bị
tồn chứa được sử dụng trong việc tồn chứa xăng dầu, tuy nhiên trong khuôn khổ giáo trình này
chỉ giới thiệu với các bạn những loại thiết bị tồn chứa xăng dầu có trữ lượng lớn ( bồn chứa, bể
chứa), thường được sử dụng trong các nhà máy lọc dầu cũng như trong lĩnh vực kinh doanh xăng
dầu.
II.CÁC THIẾT BỊ TỒN CHỨA VÀ BẢO QUẢN
II.1.THIẾT BỊ BỒN BỂ CHỨA
II.1.1 PHÂN LOẠI CÁC THIẾT BỊ TỒN CHỨA XĂNG DẦU
Có nhiều cách phân loại các thiết bị tồn chứa. Dựa vào công dụng, sự vận hành, hình dạng thiết
bị ta phân loại các thiết bị tồn chứa theo các loại sau:
3
II.1.1.1 Phân loại theo sự vận hành
Theo sự vận hành của của bồn chứa, bể chứa ta phân biệt thành 3 loại chính sau:
- Bồn chứa tồn trữ dầu thô
- Bồn chứa trung gian (các loại bồn chứa sử dụng trong các phân đoạn chế biến nhà máy dầu)
- Bồn chứa hỗn hợp và sản phẩm cuối.
II.1.1.2. Phân loại theo áp suất làm việc
- Bể cao áp : Áp suất chịu đựng trong bể > 200mmHg
-Bể áp lực trung bình : áp suất chịu đựng trong bể từ 20-200 mmHg, thường dùng bể chứa
KO, DO.
-Bể áp thường : áp suất =20mmHg áp dụng cho bể dầu nhờn, FO, bể mái phao.
II.1.1.3 Dựa vào chiều cao xây dựng
Dựa vào chiều cao xây dựng người ta có thể chia ra:
- Bể ngầm: Bể chôn dưới đất
- Bể nửa ngầm nửa nổi: 1/2 chiều cao bể nhô lên khỏi mặt đất
- Bể nổi: Làm trên mặt đất
II.1.1.4 Theo hình dạng bồn chứa
- Bể trụ đứng
4
Bể trụ nằm ngang
Bể hình cầu, hình giọt nước
II.1.2. CẤU TẠO VÀ NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG
Cấu tạo của một thiết bị tồn chứa sử dụng trong công nghiệp dầu khí nói chung thường gồm
ba bộ phận chính sau:
- Thân thiết bị
- Đáy lắp thiết bị
- Các thiết bị phụ trợ
5
II.1.2.1 Thân thiết bị
Thân của các thiết bị tồn chứa thường là hình trụ hoặc hình cầu, chúng được chế tạo bằng
phương pháp cuốn, dập, vê, hàn nhiều tấm thép lại với nhau. Độ dày củatấm thép tuỳ thuộc vào
kích thước của bồn chứa. Dung tích bồn chứa có thể lớn hay nhỏ phụ thuộc vào đối tượng sử
dụng. Nếu đối tượng sử dụng là các đơn vị kinh doanh các sản phẩm thương phẩm thì thể tích
bồn chứa thường vào khoảng 10 m3– 30 m3. Nếu là các kho cấp 1, 2, 3 trong các nhà máy lọc dầu
thì thể tích bồn chứa thường từ 100 m3– 500 m3. Thân bồn chứa hình trụ thường được sử dụng
nhiều hơn thân bồn chứa dạng hình cầu do dễ chế tạo, dễ lắp đặt các thiết bị phụ trợ. Tuy nhiên
đối với các dạng chất lỏng hoặc khí (tồn chứa LPG) đòi hỏi thiết bị tồn chứa chịu áp lực cao và
tính thẩm mỹ người ta lại thường sử dụng bồn hình cầu do ứng suất được phân bố đều trong
thành bồn.
Hình II.1.1: Một số bồn chứa thường dung
II.1.2.2 Đáy và nắp bồn chứa
6
Đáy và nắp là hai chi tiết cùng với thân tạo thành thiết bị, hình dạng đáy và nắp của thiết bị
phụ thuộc vào nhiệm vụ của nó, vào áp suất làm việc và phương pháp chế tạo. Đáy và nắp có thể
được hàn, đúc liền với thân hoặc được lắp ghép với thân bằngmối ghép bích. Trong các thiết bị
tồn chứa thường hay dùng các loại đáy, nắp có hình : elip, chỏm cầu, nón (côn) hoặc phẳng.
- Với các thiết bị làm việc ở áp suất thường, nên dùng đáy nắp phẳng (tròn hoặc hình chữ
nhật) vì chế tạo đơn giản, rẻ tiền.
- Đáy nắp hình cầu, hình elíp được dùng trong thiết bị làm việc với áp suất lớn.
- Đáy nón được dùng với các mục đích sau:
+ Để tháo sản phẩm rời hoặc chất lỏng có hàm lượng pha rắn cao.
+ Để phân phối tốt chất khí hoặc lỏng theo tất cả tiết diện thiết bị
+ Để khuyếch tán làm thay đổi từ từ tốc độ chất lỏng hoặc chất khí nhằm mục đích giảm
bớt sức cản thuỷ lực.
II.1.2.3. Các thiết bị phụ trợ
Các thiết bị phụ trợ được sử dụng trong hệ thống tồn chứa nhằm đảm bảo cho thao tác xuất
nhập tại bồn chứa xăng dầu được thuận tiện và đảm bảo an toàn trong việc chứa xăng dầu trong
bể. Dưới đây là một số thiết bị phụ trợ thường được sử dụng trong các bể chứa xăng dầu:
1. Cầu thang: Để phục vụ cho việc đi lại lên xuống bồn chứa xăng dầu trong quá trình thao tác
tại bồn của công nhân giao nhận.
2. Lỗ ánh sáng: Được đặt trên nắp bể trụ đứng, có tác dụng để thông gió trước khi lau chùi
bồn, sửa chữa và kiểm tra bên trong bể.
3. Lỗ chui người: Có tác dụng để đi vào trong bồn khi tiến hành lau chùi, sửa chữa, bảo dưỡng
bên trong bể.
4. Lỗ đo lường lấy mẫu: Có tác dụng để thả các thiết bị đo, thiết bị lấy mẫu trong trường hợp
xác định độ cao mức nhiên liệu và lấy mẫu nhiên liệu. Lỗ đo lường,lấy mẫu nhiên liệu được đặt
lắp đặt trên mái bể trụ đứng.
5. Ống thông hơi: chỉ dùng trên các bể trụ đứng, để chứa dầu nhờn và DO, FO, ống này có tác
dụng điều hoà không gian hơi nhiên liệu của bể với áp suất khí quyển.
6. Ống tiếp nhận cấp phát: dùng để đấu nối với đường ống công nghệ tiếp nhận cấp phát
nhưng ống này được đặt ngay ở tầng thép thứ nhất của bể thép trụ đứng.
7. Van hô hấp và van an toàn:
7
- Van hô hấp: Van hô hấp kiểu cơ khí dùng để điều hoà áp suất dư và áp suất chân không
trong bể chứa.
- Van hô hấp được lắp kết hợp với van ngăn tia lửa: Có tác dụng điều chỉnh bởi trong bể chứa
trong giới hạn 2 atm đến 20 atm và ngăn tia lửa từ bên ngoài vào trong bể.
- Van an toàn kiểu thuỷ lực: Có tác dụng điều hoà áp suất dư hoặc chân không trong bể chứa
khi van hô hấp không làm việc. Dưới áp suất dư từ 5,5 atm – 6 atm và chân không từ 3,5 atm – 4
atm.
8. Hộp ngăn tia lửa: được lắp trên bể chứa phía dưới van hô hấp loại không kết hợp tác dụng
ngăn chặn sự phát sinh ngọn lửa hoặc tia lửa bên trong bể.
9. Van bảo vệ: Có tác dụng hạn chế tổn thất mất mát nhiên liệu tỏng trường hợp đường ống bị vỡ
hoặc khi van hai chiều chính của bể chứa bị hỏng hóc. Van bảo vệ được lắp ở đầu cuối ống tiếp
nhậ cấp phát quay vào phía trong bể chứa.
10. Bộ điều khiển của van bảo vệ: Được lắp phía trên của ống tiếp nhận – cấp phát có tác dụng
để mở van bảo vệ, giữ nó ở tư thế mở và đóng van bảo vệ lại.
11. Van Xi phông: có tác dụng định kỳ xả nước lắng lẫn trong bồn chứa.
12. Thiết bị đo mức nhiên liệu trong bể chứa: Với mục đích tiết kiệm thời gian đo mức nhiên liệu
trong bể chứa. Đồng thời đảm bảo kiểm tra dễ dàng được mức nhiên liệu.
13. Thiết bị cứu hoả: Phụ thuộc vào thể tích của bể chứa người ta có thể lắp đặt trên bể đến 6
bình bọt cứu hoả hỗn hợp và các bình bọit cố định. Có tác dụng để đẩy bọt khí cơ học vào bể khi
trong bể xảy ra sự cố cháy.
14. Hệ thống tiếp địa: Để tránh hiện tượng sét đánh vào bể. Trên bồn chứa thường được
hàn từ 3 – 6 cột thu lôi.
15. Hệ thống tưới mát: Dùng để làm mát bể khi trời nắng to để giảm hao hụt xăng dầu do bay
hơi.
16. Hệ thống thoát nước.
II.1.3. GIỚI THIỆU MỘT SỐ BỒN CHỨA – BỂ CHỨA
II.1.3.1 Bồn chứa hình trụ đứng
8
Hình II.1.2: Một số mặt cắt của bể chứa hình trụ đứng
Các bồn tồn chứa hình trụ đứng thường là những bể có thể tích chứa lớn từ: 400 m3
đến 100.000 m3.. Bể thường cấu tạo gồm 4 phần:
- Móng bể: bao gồm các lớp: đất đầm từng lớp dày 15 – 20 cm, lớp đất này có thể dày 50 – 60
cm. Trên những lớp đất này là lớp cát dày từ 20 – 30 cm để thân bể phân bố lực đồng đều và có
độ lún ổn định. Sau lớp nhựa đường trên trên cùng là lớp cát dày10 m- 15 cm để chống thấm
nước. Xung quanh móng bể người ta xây kè đá hoặc bê tông có rãnh thoát nước mưa và nước sả
từ trong bể ra.
- Đáy bể: Thân bể thường gồm các tấm thép hàn lại với nhau làm bằng tôn dày từ 4 – 8 mm.
Tuy nhiên do đáy bể còn chịu lực cắt tập chung của thành bể nên ta thường sử dụng tôn
dày 10 – 12 mm để làm đáy bể.
9
- Thành bể: Bao gồm nhiều tấm thép ghép hàn với nhau, chiều dài tấm thép theo chu vi,
chiều rộng theo chiều cao bể thường gọi là các tầng. Do phải chịu áp lực thuỷ tĩnh, trọng lực dầu
và bể lớn dần theo độ sâu nên nên tôn làm thành bể có bề dày thay đổi từ 4 – 8 mm. Việc gá tôn
thành bể có các cách gá sau:
+ Gá kiểu ống chui: Tầng trên có đường kính nhỏ hơn tầng dưới
+ Gá kiểu giao kết: Các tầng tôn gá xen kẽ nhau, tầng này vào trong tầng kia ra ngoài và cứ luân
chuyển như thế.
+ Gá hỗn hợp: Phối hợp hai kiểu gá trên trong một bể.
- Mái bể: mái bể thường được làm bằng tôn có chiều dày từ 4 – 5 mm. hình dạng mái cũng được
thiết kế theo nhiều dạng khác nhau nhằm hạn chế một số nhược điểm của từng loại bồn đối
với các nhiên liệu cần chứa. Các dạng mái bồn thường được chế tạo là:
+ Bồn có mái cố định: Mái phẳng, nhọn, hình cầu
+ Bồn có mái di động: Các lạo bồn này hiện đang được sử dụng rộng rãi trong các nhà máy lọc
dầu, các tổng kho xăng dầu để tồn chứa các sản phẩm dễ bay hơi: dầu thô, xăng… bởi chúng bởi
chúng giải quyết rất hiệu quả giảm độ hao hụt, mất mát do sự bay hơi trong bảo quản, tồn chứa
xăng dầu. Một nóc di động được sử dụng trượt dọc theo thành bồn, nằm đè trực tiếp lên lên chất
tồn chứa theo sự thay đổi mức trongbồn. Trong điều kiện này, pha hơi làm dâng chất lỏng thực tế
được loại bỏ. Một gioăng đặc biệt được sử dụng nhằm bảo đảm sự liên kết giữa nóc và thành
bồn. Lối vào nóc được làm bằng một cầu thang xoắn hàn ở vỏ thành bao. Để nóc đạt được độ
cứng theo yêu cầu chế tạo, mái được gia cố bởi một vành thép và một số chân đỡ. Nóc được chế
tạo sao cho có thể dễ dàng tháo dỡ để thuận tiện khi vệ sinh, bảo dưỡng và sửa chữa.
II.1.3.2. Bể trụ nằm ngang
Người ta thường chế tạo các loại bể hình trụ nằm ngang với thể tích từ 10 – 100 m 3. Thân bồn
thường gồm những tấm thép có chiều dày từ 4 – 5 mm cuộn lại thành hình trụ có đường kính
nhất định. Hai đầu của bể có thể được chế tạo dạng phẳng hoặc côn (chóp).
10
Hình 1.3: Mặt cắt một bể hình trụ nằm
1. Đầu lắp nhiệt kế 2. Đầu lắp áp kế 3. Đầu lắp van xả đỉnh
4. Đầu lắp van an toàn 5. Cửa chui người 6. Đầu lắp van an toàn
7. Đầu lắp đồng hồ đo mức 8. Chân đỡ 9. Cửa xuất lỏng
10. Cửa xuất hơi 11. Đường cân bằng hơi 12. Đầu nhập lỏng
13. Cửa xả 14. Giàn phun sương cứu hoả
II.1.4.CÁC CÔNG TÁC KIỂM TRA TRƯƠC KHI ĐUA VÀO VẬN HÀNH
II.1.4.1 Kiểm tra độ kín
II.1.4.1.1 Kiểm tra độ kín đáy bể
Có thể tiến hành bằng hai cách:
- Phương pháp chân không.
- Phương pháp thuốc thử.
a. Phương pháp chân không
Người ta dùng thiết bị gọi là rùa thử chân không, đó là một hình hộp một mặt trống, mặt đối
diện có kính và các ống nối đến máy hút chân không và đến áp kế.Người ta đặt thiết bị lên một
đoạn đường hàn cần thử, trát ma tít xung quanh, dùng bơm chân không hút không khí trong hộp
để tạo độ chân không trong hộp. Nếu đường hàn không kín thì xà phòng bôi trên đường hàn sẽ có
bong bóng, ta phái đánh dấu lại, tuy vậy cũng có thể đổ nước khi thủng thì sẽ có tăm khí nổi
lên.Để thử độ độ kín đáy bể bằng phương pháp chân không với tôn dày 4mm thì trong rùa cần là
500mm cột thuỷ ngân. Nếu dày hơn thì tạo độ chân không là 600mm.
11
b. Phương pháp thử bằng hoá chất
Người ta đắp đất xung quanh thành bể ngăn không cho khí thoát ra khí nén khí vào đáy bể,
chiều cao đất đắp khoảng 100 mm. Người ta đưa 3 – 4 vòi bơm khí amônắc vào đáy bể
với áp suất dư 8 – 9 mm cột nước dưới đáy bể. Trên đường hàn đã được đánh sạch người ta quét
dung dịch phênol talêin. Nếu thấy chỗ nào chuyển màu đỏ ta ghi lại. Còn nếu dùng dung dịch
axit HNO3 2,5% thì quét dung dịch lên vải màn hoặc giấy bản phủ lên đường hàn, chỗ nào thủng
chất chỉ thị ngả màu đen.
Thử đường hàn đáy và tôn thành thứ nhất có thể thử bằng rùa vuông góc hoặc thử bằng dầu
hoả quét bên ngoài, bên trong bể quét vôi hoặc phấn lên đường hàn.
II.1.4.1.2 Kiểm tra độ kín mối hàn thành bể
Các mối hành thành bể kiểm tra độ kín bằng cách quét hoặc phun dầu hoả ở phía trong, phía
bên ngoài quét nước vôi hoặc quét phấn. Quét 2 lần dầu hoả cách nhau 1 phút sau đó theo dõi
nếu không có vết dầu loang coi như là được.
Mối hàn gối ở đầu thành bể mà bên trong hàn ngắt quãng thì dùng máy hoặc đèn khò phun
dầu vào kẽ 2 tấm tôn rồi quan sát bên ngoài.
Những chố miếng vá tôn chồng lên nhau để thử độ kín phải khoan 1 lỗ nhỏ rồi
bơm dầu vào trong giữa hai lớp tôn ấy với áp xuất 1 – 2kg/m2. Bên ngoài đường hàn
quét nước vôi hoặc phấn theo dõi sau 12 giờ nếu không có vết dầu loang là tốt.
II.1.4.1.3 Thử độ kín mái bể
Thử bằng phương pháp nén khí trong bể và bôi nước xà phòng lên đường hàn mái bể, tôn
giáp thành bể. Nếu đường hàn không kín bọt xà phòng sẽ nổi lên (áp xuất thử bằng 15% áp xuất
làm việc của bể).Có thể thử độ kín mái bể bằng cách phun dầu hoả vào phần tiếp giáp mái bể và
phía ngoài bể, trên đường hàn ta bôi phấn hoặc quét nước vôi rồi quan sát theo dõi xem lớp vôi
được quét có bị thấm ướt hay không.
II.1.4.2 Thử độ bền bể
II.1.4.2.1 Thử cường độ của bể
Thử cường độ của bể bằng cách bơm đầy nước vào bể chứa trong bể từ 3 đến 7 ngày nếu độ
lún của bể không đáng kể, bể không bị biến dạng thì có thể kết thúc việc thử, coi như là tốt. Còn
nếu bể có sự biến dạng lớn phải tìm cách khắc phục.
II.1.4.2.2 Thử độ bền mái bể
12
Thử độ bền của bể là thử ở hai chế độ áp xuất, áp xuất dừng và áp xuất chân không bằng
cách: bơm nước hoặc nén khí vào trong bể, hoặc rút nước ra khi đó phải có van khống chế áp
xuất trong bể và áp kế theo dõi.
Áp xuất khống chế như phần thử kín nhưng thời gian giữa áp xuất là 2 – 3 giờ.
II.1.4.3 Thử độ lún bể
II. 1.4.3.1 Phân loại các dạng lún bể
* Lún đều : Nền bể sau khi xây dựng vào chứa dầu do xử lý bể nền không tốt bể bị lún
không nghiêng lệch nhưng độ lún ấy giá trị số quy định.
* Lún lệch : Sau khi đưa vào chứa dầu bể bị lún cục bộ từng phần làm cho bể nghiêng đi
một góc theo phương thẳng đứng đối với bể trụ đứng. Với bể trụ nằm ngang do một bộ đỡ bị lún
làm cho bể bị nghiêng.
II.1.4.3.2 Nguyên nhân
Hiện tượng lún đều chủ yếu là do nền đất không đủ độ chịu lực, mà việc gia cố móng bể
không đảm bảo nên thường xảy ra lún hoặc do thay đổi các yếu tố thủy văn như mực nước ngầm
đột nhiên lên cao một thời gian dài cũng làm cho bể bị lún.
Hiện tượng lún lệch là do xử lý nền móng không đều chỗ đầm kĩ, chỗ đầm không kĩ hoặc
móng bể thi công một phần ở đất nền một phần trên lòng đất mượn phải đầm nén. Trong quá
trình chứa dầu sẽ gây nên lún lệch. Cũng có thể móng bể xây trên nền đất đắp nhưng độ chịu lực
khác nhau cũng gây ra lún lệch bể.
II.1.4.3.3 Kiểm tra độ lún theo chu vi bể
Việc kiểm tra độ lún đáy bể có thể thực hiện bằng các phương pháp sau :
- Phương pháp đo thủy chuẩn xung quanh chu vi của bể.
- Đo độ nghiêng lệch của bể bằng phương pháp dây dọi. Bộ đo thủy chuẩn có ống cao
su vòng chu vi bể
Những quy định và cách đo :
- Tùy theo chu vi bể mà chia các điểm đo xung quanh bể nhiều hay ít số điểm đo
nhưng không được nhỏ hơn 8 điểm và khoảng cách giữa các điểm không nhỏ hơn 6m.
Với bể 2000 – 3000 m3 sau 4 năm sử dụng chênh lệch hai điểm đo cạnh nhau không quá 40mm,
hai điểm đối diện nằm trên đường kính
13
- không quá 180mm. Nếu bể sử dụng quá 4 năm chênh lệch cho phép lần lượt là 60mm
và 150mm.
- Những bể bé 400 – 500 m3 chênh lệch độ cao bằng 50% giá trị của bể lớn.
II.1.4.3.4 Kiểm tra độ lún trong nền bể
Có thể đổ nước vào đáy bể cho phủ khắp được nơi cao nhất sau đó đo chiều cao nước ở
những chỗ lõm.
Hoặc có thể đo khô đáy bể bằng phương pháp thủy chuẩn số điểm.
- Số đo phải lớn hơn 8 điểm trên bề mặt.
- Chiều cao vết lồi lõm trên đáy bể không được lồi quá 150mm, diện tích vết lõm
không quá 2m2.
II.1.4.3.5 Xử lý lún bể
Việc xử lý lún bể tùy theo mức độ lún, nguyên nhân lún ta có cách xử lý khác nhau :
Nếu do nền đất có độ chịu lực không tốt mà lún bể thì có thể phải kích bể đào móng bể lên,
đóng các cọc tre, cọc gỗ, cọc bê tông hoặc các cọc cát xuống lại móng bể là công việc khá phức
tạp và tốn nhiều công sức.
Nếu do lún cục bộ thì ta có thể chỉ cần kích phần lún quá nhiều tiến hành đóng cọc, làm lại
nền móng, gia cố cọc cát... phục hồi lại phần móng bể đó là được.
II.1.4.4.Bảo quản bế chứa xăng dầu
II.1.4.4.1 Sơn bể
Tuỳ thuộc vào vị trí đặt bể chứa dầu mà người ta sơn các loại sơn khác nhau, có thể sơn cả
trong bể và ngoài bể để chống ăn mòn thành bể. Bể đặt ngoài trời ngoài việc sơn chống ăn mòn
còn phải sơn thêm lớp sơn chống trắng để phản xạ ánh sáng mặt trời nhằm giảm thiểu tổn thất
hao hụt cả về chất lượng và số lượng xăng dầu chứa trong bể.
Việc sơn phía trong bể lớp sơn chống ăn mòn thường phải tiến hành sơn bể khi mới bắt đầu đưa
bể vào sử dụng. Đối với bên ngoài bể thường sơn một lớp chống gỉ, để khô lớp sơn này sau đó
mới sơn các lớp sơn và nhũ khác.
II.1.4.4.2 Định kì bảo dưỡng bể
Các kho tồn chứa xăng dầu cần có kế hoach xúc rửa bể chứa xăng dầu một cách định kỳ có
liên hạn. Tuy nhiên trong các trường hợp dưới đây cần nhất thiết phải xúc rửa bể chứa xăng
dầu nhằm đảm bảo chất lượng xăng dầu tồn chứa không bị ảnh hưởng về mặt chất lượng.
14
- Khi đưa bể mới vào sử dụng, do bể mới thi công nên có thể bị bùn đất bán vào, các rỉ sắt, các
mẩu que hàn… do vậy cần phải xúc rửa bình thật sạch trước khi đưa vào sử dụng.
- Khi thay đổi chủng loại dầu chứa trong bể.
- Khi bể bị hư hỏng phải xúc rửa bể chứa trước và sau khi sửa chữa.
*/. Thời gian cần thiết phải xúc rửa bể chứa xăng dầu. Tuỳ theo từng loại xăng dầu chứa trong
bể, tính chất của kho ta định ra thời gian cần thiết cần phải xúc rửa bể chứa:
- Ít nhất một năm 2 lần đối với bể chứa nhiên liệu dùng cho động cơ phản lực, xăng máy bay,
dầu mỡ dùng cho các ngành hàng không
- Ít nhất mỗi năm một lần đối với các bể chứa nhiên liệu đã pha phụ gia, các bể chứa phụ gia, các
loại xăng ôtô và dầu mỡ dùng cho ôtô.
- Ít nhất 2 năm 1 lần đòi với các bể chứa dầu nhờn, dầu FO, dầu DO…
*/. Trình tự xúc rửa được tiến hành như sau:
Phải rút hết xăng dầu ra khỏi bể bằng các máy bơm, khi dầu còn nhiều thì có thể rút xăng dầu ra
khỏi bể bằng các đường ống xuất nhập.
- Đối với dầu dầu sáng có thể bơm nước vào bể cho dầu nổi lên để vét dầu cho kiệt.
- Đối với các bể chứa dầu nhờn, dầu đốt lò không được phép cho nước vào nên sau khi vét sạch
dầu ở đáy bể, trên thành bể vẫn còn một lượng dầu dính bám người ta có thể để phơi nắng bể
trong vòng 2- 3 ngày cho dầu chảy xuống đáy bể, dùng bàn chải, giẻ lau dồn gọn lại và tiếp tục
vét bằng các xô thùng đưa ra ngoài.
Sau khi đã vét sạch dầu phải tách bể khỏi hệ thống công nghệ bằng cách đặt bích đặc giữa các
van đầu bể.
Tiến hành khử hơi xăng dầu trong bể bằng cách bơm nước vào trong bể ngâm từ 2 – 4 ngày
sau đó rút nước trong bể đi, mở tất cả các lỗ chui người, lỗ ánh sáng, lỗ đo mẫu, để tiến hành
thông gió tự nhiên từ 2 – 3 ngày hoặc tiến hành thông gió nhân tạo bằng quạt để nồng độ hơi
xăng dầu giảm xuống dưới mức cho phép để đảm bảo an toàn cho người công nhân khi làm việc
trong bể.
Sau khi vét hết bùn đất, cặn bẩn trong bể có thể dùng lăng cứu hoả phun nước lên thành và
đáy bể để rửa sạch các cặn bẩn, rỉ sắt, bùn nhựa bám vào bề mặt kim loại của bể.
Bể được coi là sạch khi đáy bể, thành bể không còn bùn đất, rỉ sắt, nhựa và cặn, axit của
xăng dầu. Nồng độ hơi xăng dầu phải dưới giới hạn nổ cho phép ( nếu bể xúc rửa để sửa chữa).
15
Việc xúc rửa các bể ngầm hình trụ nằm chôn dưới đất người ta cũng phải vét hết dầu trong bể
bằng bơm lắc tay. Sau đó bơm nước vào bể và ngâm trong 2 – 3 ngày rồi tiến hành bơm nước ra
ngoài. Sau khi bơm hết nước để thông gió tự nhiên từ 1 -2 ngày rồi cho người mang trang bị
phòng độc và bảo hộ lao động xuống vét hết những bùn đất trong bể.
II.1.5.SỰ THẤT THOÁT THÀNH PHẦN NHẸ VÀ BIỆN PHÁP HẠN CHẾ
Dầu được cất giữ trong các bể chứa tạm thời do quá trình hô hấp nên các thành phần nhẹ sẽ
thoát ra bầu khí quyển gây thất thoát. Trị số này có thể đạt đến 3 %. Cho nên cần phải có giải
pháp để kiểm soát sự thất thoát này.
Khi lưu trữ trong các bể chứa, trị số thất thoát phụ thuộc vào độ bay hơi của dầu, tức là phụ
thuộc vào tỷ lệ thành phần nhẹ. Để giảm tỷ lệ này thì bậc tách khí cuối cùng cần phải được thực
hiện trong điều kiện nhiệt độ cao và áp suất bé hơn áp suất khí quyển. Giải pháp tốt nhất để giảm
mất mát thành phần nhẹ là biện pháp ổn định dầu trước khi đưa vào cất chứa trong bể. Ta tách
các thành phần nhẹ mà ở điều kiện bình thường tồn tại ở thể khí bằng giải phápnung nóng dưới
áp lực chân không. Sau khi ổn định và tách hết thành phần nhẹ thì việc lưu giữ hoặc vận chuyển
tới các nhà máy chế biến thực tế cho thấy là không có thất thoát. Tuy vậy, việc ổn định nhiều khi
không hoàn toàn, nên để giảm thất thoát vẫn còn phảidùng đến các giải pháp khác. Có thể phân
ra 3 nhóm giải pháp :
II.1.5.1 Ngăn chặn sự bay hơi
Giải pháp này xuất phát từ ý tưởng loại bỏ không gian chứa khí trong bể. Lúc đó hầu như
không xảy ra quá trình bay hơi, thoát khí và không bị tổn hao. Điều đó thực hiện được khi ta bịt
mặt tiếp xúc bằng một cái phao, tạo ra nắp đậy kiểu nổi. Nắp sẽ chuyển động theo mức nâng hạ
của dầu. Các nắp nổi trên bề mặt dầu loại trừ hoàn toàn không gian khí. Cho nên ngăn chặn được
sự tổn hao trong quá trình thở mạnh và thở nhẹ.
Các nắp chế tạo từ kim loại và chất dẻo. Khe hở giữa thành bể và mép phao kim loại có
kích thước đạt tới 25cm. Để làm kín khoảng không này, ngăn ngừa sự lọt hơi ta dùng cửa chắn
làm từ kim loại màu hoặc vải asbet có tẩm cao su chịu dầu. Thiết bị nắp phao trước hết dùng cho
các bể chứa có hệ số quay vòng cao. Nước mưa hắt lên nắp chảy theo ống thoát nước có xiphong
ngược là một đoạn ống ngắn uốn cong có phần cuối ngập trong dầu. Do nước nặng hơn dầu nên
mực nước trong ống thấp hơn mực dầu trong bể. Nước và các cặn bẩn từ khí quyển xuyên qua
lớp dầu và đọng xuống đáy bể sẽ được xả theo các phương pháp thông thường. Các bể chứa nắp
16
phao tĩnh không trang bị ống xiphong thoát nước cũng như ống bản lề xả nước vì đã có mái ngăn
chặn nước và hắt bụi bẩn.
II.1.5.2 Giảm thiểu sự bay hơi
Trước hết là phải giảm thiểu sự đốt nóng dầu do nóng bằng cách dùng sơn sáng màu phản xạ
tia mặt trời với hệ số phản xạ cao. Các loại sơn phản xạ nhiệt phổ biến là loại màu trắng và màu
nhôm, trong đó màu trắng hiệu quả cao hơn màu nhôm.
Bảng 1.1 Tính năng cơ bản của các loại sơn, dùng sơn phủ bể chứa
Các chỉ tiêu Màu sơn
Trắng Nhôm Đen
Bức xạ tia mặt trời được hấp phụ 59 88 100
Tổn hao hỗn hợp khí – không khí 100 170 200
Tổn hao sản phẩm dầu 100 180 240
Cũng nhằm mục đích giảm thiểu sự bay hơi, người ta sử dụng phổ biến phương pháp dùng
màng chắn là các màng chất dẻo mỏng và các quả cầu chất dẻo rỗng, các quả cầu này có đường
kính 0,01 – 0,2 mm, chế tạo từ nhựa phenol, phenolfomadehit và carbanit, phía trong lấp đầy
bằng Nito. Các màng chắn sẽ giảm tốc độ bay hơi của dầu từ 5 ÷ 6 lần.
II.1.5.3 Thu hồi lại thành phần nhẹ
Để thu hồi lại khí đã thoát ra khỏi bể, ta sử dụng hệ thống cân bằng khí. Lúc đó, tất cả
không gian khí các bể chứa trong trạm đượcnối liền với nhau bằng các ống dẫn khí thành mỏng.
Khi trong trạm đồng thời xuất và nhập dầu hệ thống máy làm việc rất hiệu quả. Khí thoát ra từ bể
nhập sẽ chảy vào bể xuất. Tổn hao do thở mạnh giảm tới trị số 0. Tuy nhiên, quá trình xuất nhập
không phải bao giờ cũng đồng pha với nhau, hoặc chỉ có nhập – xuất riêng rẽ hoặc xuất ít, nhập
nhiều và ngược lại. Để khắc phục khó khăn này, trong hệ thống bể chứa người ta lắp thêm bể bù
trừ và bể có nắp nâng hạ. Từ các bể chứa làm việc không đồng pha, khí thừa sẽ chảy theo ống
dẫn lắp nghiêng để tránh sự thành tạo các nút hydrat và chất lỏng, vào bể gom ngưng tụ sau đó
vào bể bù trừ mái nâng. Khi lượng dầu nhập lớn hơn xuất thì lượng khí thừa từ các không gian
chứa khí sẽ thoát vào các bể này và ngược lại khí từ bể bù trừ sẽ vào các bể chứa khi lượng xuất
lớn hơn lượng nhập.
II.2 BẢO QUẢN XĂNG DẦU TỒN CHỨA TRONG PHUY VÀ BAO BÌ NHỎ
II.2.1 Những yêu cầu đối với phuy chứa dầu
17
- Chắc chắn, bền, sử dụng lâu
- Nhẹ nhàng thuận tiện cho việc vận chuyển
- Hình dáng thích hợp tiện cho việc vận chuyển thô sơ cũng như máy móc.
- Cấu tạo và quy cách của Phuy chứa dầu: Phuy chứa dầu được làm bằng thép, thép được sử
dụng làm Phuy chứa dầu được cán nóng. Phuy chứa dầu thường có 2 loại là 100 lít và 200 lít.
Phuy chứa dầu có lỗ đóng dầu và lỗ thông hơi, phải dùng nắp có ren và gioăng
để đậy chặt. Lỗ áp suất của Phuy phải chịu được áp suất trong Phuy là 0,5 atm.
II.2.2. Bảo quản, tồn chứa xăng dầu trong phuy và bao bì nhỏ
Tồn chứa sản phẩm dầu trong Phuy và bao bì nhỏ sẽ đảm bảo giữ nguyên được phẩm chất và
số lượng sản phẩm dầu tạo điều kiện thuận lợi cho việc tính toán thiết kế…
- Từng loại sản phẩm dầu chứa trong Phuy và bao bì bên ngoài phải có đánh nhãn hiệu ghi rõ
từng loại sản phẩm được tồn chứa bên trong.
- Chỉ được chứa sản phẩm xăng dầu trong bao bì đến chiều cao tối đa 97% thể tích của
phương tiện chứa đựng.
- Độ sạch của bao bì trước khi chứa đựng sản phẩm dầu tuỳ thuộc vào sản phẩm dầu đã được
tồn chứa lần trước đó và sản phẩm dầu tiếp theo cần tồn chứa.
- Trước khi đóng dầu vào Phuy phải kiểm tra chất lượng Phuy, độ kín, độ sạch của Phuy và
nắp nút có đủ không. Người ta thường bảo quản các sản phẩm dầu đã đóng trong Phuy và các
loạibao bì trong nhà kho, cũng có thể bảo quản dầu nhờn tại các kho bãi khô ráo và xa nơi có lửa.
- Không được bảo quản sản phẩm dầu tồn chứa trong phuy và bao bì nhỏ trong các kho ẩm ướt
vì chúng sẽ hấp thụ hơi nước do đó phẩm chất sẽ kém đi.
- Phải bảo quản sản phẩm dầu riêng từng loại. Các Phuy chứa sản phẩm dầu cấp I (Xăng,
Diezel) chỉ được xếp một tầng còn các loại dầu nhờn thì được xếp hai tầng.
- Đối với các loại can mới, trước khi nhập dầu phải được sấy khô bằng không khí nóng rồi sau
đó sả nhanh sản phẩm vào dầu vào can để khí ẩm không kịp bám lại trên thành trong của can.
- Các loại chai lọ thuỷ tinh thì phải lau sạch bụi bẩn bám bên trong và bên ngoài chai. Lau sạch
bụi bẩn bằng khăn khô.
- Khi bảo quản dầu bằng phuy đặt các bãi chứa ngoài trời Phuy phải được dựng nghiêng một
góc 150và phần nắp nhập dầu ở phần trên góc nghiêng để nước mưa đọng không thể ào
trong Phuy được.
18
- Các Phuy mỡ phải nên để ở trong nhà và để nằm là tốt nhất để tránh hiện tượng tách
dầu làm khô mỡ do ảnh hưởng của nhiệt độ ngoài trời và do áp suất chịu nén của những lớp mỡ
ở phái dưới đáy Phuy gây lên.
- Can, Phuy chứa sản phẩm dầu có nhiệt độ bắt cháy nhỏ hơn 450C phải được bảo quản trong
nhà có mái che. Nếu sản phẩm dầu có nhiệt độ bắt cháy lớn hơn 450C thì có thể để Can, Phuy ở
ngoài trời.
II.3.THỜI HẠN TỒN CHỨA CÁC SẢN PHẨM XĂNG DẦU
Xăng dầu, mỡ máy là sản phẩm có tính chất đặc biệt. Trong một thời gian nào
đó của quá trình tồn chứa sẽ bị biến chất, do đó cần có quy định tồn chứa cho từng loại
sản phẩm dầu mỡ.
Thời hạn bảo quản một số nhiên liệu dầu mỡ và chất lỏng chuyên dùng trong bể
và thùng:
19
III.THIẾT BỊ BÌNH TÁCH:
III.1. Khái niệm, phân loại, chức năng của bình tách
III.1.1. Khái niệm
Thiết bị tách dầu khí là một thuật ngữ dùng để chỉ một bình áp suất sử dụng để tách chất lưu thu được từ các giếng dầu thành các pha khí và pha lỏng riêng biệt.Các thiết bị truyền thống thường được gọi là bình tách hoặc bẫy được lắp đặt tại nơi sản xuất
hoặc ngay tại miệng giếng của các giàn khoan để tách chất lỏng giếng thành các pha riêng biệt. Các thiết bị chỉ dùng để tách nước hoặc chất lỏng (dầu + nước) ra khỏi khí thường có tên gọi là
bình nốc ao (knock out) hoặc bẫy. Nếu thiết bị tách nước lắp đặt gần miệng giếng thì khí và dầu
thoát ra đồng thời còn nước tự do thoát ra ở phần đáy bình. Ở các bình tách lỏng cho phép tách
tất cả chất lỏng ra khỏi khí, dầu và nước thoát ra ở phần dưới của bình, còn khí thoát ra ở phần
trên đỉnh của bình. Như vậy thuật ngữ nốc ao để chỉ nhiệm vụ tách nhanh chất lỏng ra khỏi khí
của bình tách.
Thiết bị tách truyền thống làm việc ở áp suất thấp thường gọi là buồng Flat. Chất lưu vào là từ
các bình tách cao áp, chất lưu đi ra được chuyển tới các bể chứa, nên chúng thường đóng vai trò
là bình tách cấp hai hoặc cấp ba, có nhiệm vụ tách khí nhanh.
Các bình tách bậc một làm việc ở các trạm tách nhiệt độ thấp hoặc tách lạnh thường gọi là bình
giãn nở. Đối với loại bình này thì được trang bị thêm nguồn nhiệt để nung chảy hydrat hoặc cũng
có thể bơm chất lỏng phòng ngừa hydrat hoá vào chất lỏng giếng trước khi đưa vào bình.
Các bình lọc khí cũng tương tự như bình tách, dùngcho các giếng có chất lưu chứa ít chất lỏng
hơn so với chất lưu của giếng khí và giếng dầu, thường dùng trên các tuyến ống phân phối, thu
gom, được chế tạo theo kiểu lọc khô và lọc ướt. Loại lọc khô có trang bị bộ chiết sương, phổ
biến là kiểu keo tụ và các chi tiết phía trong tương tự như bình tách dầu khí. Đối với loại lọc ướt
thì dòng hơi đi qua một đệm lỏng (có thể là dầu) để rửa sạch bụi bẩn và tạp chất, sau đó qua bộ
chiết sương để tách lỏng. Bình lọc thường lắp ở dòng đi lên từ thiết bị xử lý khí bất kỳ hoặc thiết
bị bảo vệ dòng ra.
20
III.1.2. Phân loại
Việc phân loại bình tách dựa theo nhiều quan điểm khác nhau: Theo chức năng, theo hình
dáng,áp suất làm việc, mục đích sử dụng, nguyên tắc tách cơ bản…
III.1.2.1. Phân loại theo chức năng
Tùy theo từng chức năng của bình tách mà có thể phân loại như sau:
Bình tách dầu và khí;
Bình tách 3 pha: Dầu, khí và nước;
Bình tách dạng bẫy ;
Bình tách từng giai đoạn;
Bình tách nước (kiểu khô hay ướt);
Bình lọc khí;
Bình làm sạch khí (kiểu khô hay ướt);
Bình tách và lọc.
Bình tách 2 pha, 3 pha hay tách theo từng giai đoạn gọi chung là bình tách dầu và khí. Những
bình tách này sử dụng trên giàn cố định. Những bình kiểu này phải có kích thước đủ để kiểm
soát tốc độ dòng chảy tức thời lớn nhất.
- Tách lỏng: Dùng để tách chất lỏng, dẫn dầu và nước khỏi khí. Nước và dầu lỏng thoát ra ở
đáy bình còn khí đi ra theo đường trên đỉnh.
- Bình giãn nở: Thường là bình tách giai đoạn 1 trong tách nhiệt độ thấp hoặc tách lạnh.
Bình tách này có thể được lắp thiết bị gia nhiệt có tác dụng làm chảy hydrat (glicol) vào chất lưu
vỉa từ giếng lên trước khi vào trong bình tách này.
-Bình tách làm sạch khí: Hoạt động tương tự như bình tách dầu và khí
Bình tách dầu và khí thường dùng trong thu gom khí và đường ống phân phối, những chỗ
không yêu cầu phải kiểm soát sluggs hoặc heads (là hiện tượng chấtlưu đi từ vỉa lên không liên
tục mà thay đổi) của chất lỏng. Bình làm sạch khí kiểu khô dùng thiết bị tách sương và thiết bị
bên trong thì giống bình tách dầu.
Bình làm sạch khí kiểu ướt hướng dòng khí qua bồn chứa dầu hoặc các chất lỏng khác để làm
sạch bụi và các tạp chất khác còn lại khỏi khí. Khí được đưa qua một thiết bị tách sương để tách
các chất lỏng khỏi nó.
Một thiết bị lọc có thể coi như một thiết bị đặt trước một tổ hợp thiết bị tách khí để bảo vệ nó
khỏi chất lỏng hay nước.
-Thiết bị lọc: Được coi như một bình làm sạch khí kiểu khô đặc biệt nếu được dùng ban đầu
để tách bụi khỏi dòng khí. Thiết bị lọc trung bình thường được dùng trong bồn chứa để tách bụi,
cặn đường ống, rỉ và các vật liệu khác khỏi khí.
21
III.1.2.2. Phân loại theo hình dáng
Theo hình dáng thì bình tách được chia làm 3 loại: Bình tách hình trụ đứng, bình tách hình trụ
ngang, bình tách hình cầu.
Bình tách hình trụ đứng: Tùy thuộc vào số pha tách mà bình tách hình trụ đứng được chia ra
làm 2 loại: 2 pha (tách dầu- khí) và 3 pha (tách dầu- khí-nước).
Hình III.1. Bình tách hình trụ đứng 2 pha
1- Cửa vào của hỗn hợp; 2- Bộ phận tạo va đập;
3- Bộ phận chiết sương; 4- Đường xả khí;
5- Đường xả chất lỏng.
22
Hình III.2. Bình tách hình trụ đứng 3 pha
1- Đường vào của hỗn hợp; 5- Đường gom các giọt chất lỏng;
2- Bộ phận tạo va đập; 6- Đường xả nước;
3- Bộ phận chiết sương; 7- Đường xả dầu.
4- Đường xả khí;
Thông thường thì các loại bình tách hình trụ đứng có đường kính từ 10 inh cho đến 10 ft
và có chiều cao từ 4- 25 ft.
Bình tách hình trụ ngang: Tương tự như bình tách hình trụ đứng mà bình tách hình trụ
ngang cũng được chia ra làm 2 loại: 2 pha và 3 pha.
Ngoài ra bình tách hình trụ ngang còn có thể xếp chồng lên nhau dạng 2 hình trụ ghép với
nhau. Đối với loại bình ngang thì có đường kính của bình thay đổi từ 10 in - 16ft và chiều dài từ
4- 70 ft. Dưới đây là một số dạng cụ thể của bình tách hình trụ ngang:
23
Hình III.3. Bình tách hình trụ nằm ngang 2 pha
1- Đường vào của hỗn hợp; 4- Đường xả khí;
2- Bộ phận tạo va đập; 5- Đường xả chất lỏng.
3- Bộ phận chiết sương;
Hình III.4. Bình tách hình trụ nằm ngang 3 pha
1- Đường vào của hỗn hợp; 4- Đường xả khí;
2- Bộ phận tạo va đập; 5- Đường xả nước;
3- Bộ phận chiết sương; 6- Đường xả dầu.
Bình tách hình cầu: Thường có đường kính từ 24- 72 in, gồm có 2 loại:
24
- Bình tách hình cầu 2 pha (dầu – khí).
- Bình tách hình cầu 3 pha (dầu – khí – nước).
Hình III.5. Bình tách hình cầu 2 pha
1- Bộ phận ly tâm - kiểu thiết bị thay đổi hướng cửa vào;
2- Màng chiết;
3- Phao đo mức chất lỏng;
4- Thiết bị điều khiển mức chất lỏng trong bình;
5- Van xả dầu tự động.
Trên thực tế hiện nay thì bình tách hình cầu ít được sử dụng hơn bình tách hình trụ đứng và
bình tách hình trụ ngang, do một số ưu việt của nó không bằng 2 loại kia (bảng III.1).
25
Hình 1.6. Bình tách hình cầu 3 pha
1- Thiết bị đầu vào;
2- Bộ phận chiết sương;
3- Phao báo mức dầu trong bình;
4- Phao báo mức nước trong bình;
5- Thiết bị điều khiển mức nước trong bình;
6- Thiết bị điều khiển mức dầu trong bình;
7- Van xả dầu tự động;
8- Van xả nước tự động.
Bảng III.1. So sánh ưu nhược điểm của các loại bình tách.
STT Các chỉ tiêu chính
Bình tách hình
trụ ngang
Bình tách hình
trụ đứng
Bình tách
hình cầu
26
1 Hiệu quả tách 1 2 3
2 Sự ổn định của chất lưu 1 2 3
3 Khả năng thích ứng với sự thay đổi
điều kiện
1 2 3
4 Tính chất cơ động của sự hoạt động 2 1 3
5 Dung tích 1 2 3
6 Giá thành của một đơn vị dung tích 1 2 3
7 Vật liệu ngoài 3 1 2
8 Khả năng xử lý bọt dầu thô 1 2 3
9 Khả năng thích ứng để sử dụng di
động
1 3 2
10
Khoảng không gian yêu cầu cho lắp
đặt:
Mặt phẳng đứng
Mặt nằm ngang
1
3
3
1
2
2
11 Tiện lợi cho việc lắp đặt 2 3 1
12 Tiện lợi cho việc kiểm tra, bảo
dưỡng thiết bị 1 3 2
Chú thích:
1: Tốt nhất; 2: Trung bình; 3: Kém.III.1.2.3. Phân loại theo áp suất làm việc
Gồm có 3 loại sau:
- Loại thấp áp: Áp suất làm việc của bình là 0,7- 15 at.
- Loại trung áp: Áp suất làm việc của bình là 16- 45 at.
- Loại cao áp: Áp suất làm việc của bình là 45- 100 at.
III.1.2.4. Phân loại theo mục đích sử dụng
27
- Bình tách thử giếng: Dùng để tách và đo chất lỏng, có trang bị các loại đồng hồ để đo tiềm
năng dầu, khí, nước, thử định kỳ các giếng khai thác hoặc thử các giếng ở biên mỏ. Thiết bị có 2
kiểu: Tĩnh tại và di động, có thể 2 pha hoặc 3 pha, trụ đứng hay nằm ngang hoặc hình cầu.
- Bình tách đo: Có nhiệm vụ tách dầu, khí , nước và đo các chất lưu có thể thực hiện trong cùng
một bình, các kiểu thiết kế đảm bảo đo chính xác các loại dầu khác nhau, có thể 2 hoặc 3 pha. Ở
loại 2 pha, sau khi tách chất lỏng được đo ở phần thấp nhất của bình. Trong thiết bị tách 3 pha có
thể chỉ đo dầu hoặc cả dầu lẫn nước. Việc đo lường được thực hiện theo giải pháp: Tích luỹ, cách
ly và xả vào buồng đo ở phần thấp nhất.
Với dầu nhiều bọt hoặc độ nhớt cao, thường không đo thể tích mà đo trọng lượng thông qua bộ
khống chế cột áp thuỷ tĩnh của chất lỏng.
- Bình tách khai thác: Là một kiểu bình đặc biệt, chất lỏng giếng có áp suất cao chảy vào bình
qua van giảm áp sao cho nhiệt độ bình tách giảm đáng kể thấp hơn nhiệt độ chất lỏng giếng. Sự
giảm thực hiện theo hiệu ứng Joule - Thomson khi giãn nở chất lỏng qua van giảm áp nhờ đó xảy
ra sự ngưng tụ. Chất lỏng thu hồi lúc đó cần phải được ổn định để ngăn bay hơi thái quá trong bể
chứa.
III.1.2.5. Phân loại theo nguyên lý tách cơ bản
- Nguyên lý trọng lực: Dựa vào sự chênh lệchmật độ của các thành phần chất lưu. Các bình tách
loại này ở cửa vào không thiết kế các bộ phận tạo va đập, lệch dòng hoặc đệm chắn. Còn ở cửa
ra của khí có lắp đặt bộ phận chiết sương.
- Nguyên lý va đập hoặc keo tụ: Gồm tất cả các thiết bị ở cửa vào có bố trí các tấm chắn va
đập, đệm chắn để thực hiện tách sơ cấp.
- Nguyên lý tách ly tâm: Có thể dùng cho tách sơ cấp và cả thứ cấp, lực ly tâm được tạo ra
theo nhiều phương án:
+ Dòng chảy vào theo hướng tiếp tuyến với thành bình.
+ Phía trong bình có cấu tạo hình xoắn, phần trên và dướiđược mở rộng hoặc mở rộng từng
phần.
Lực ly tâm tạo ra các dòng xoáy với tốc độ cao đủ để tách chất lỏng. Tốc độ cần thiết để tách
ly tâm thay đổi từ 3- 20 m/sec và giá trị phổ biến từ 6- 8 m/sec. Đa số thiết bị ly tâm có ở hình
trụ đứng. Tuy nhiên các thiết bị hình trụ ngang cũng có thể lắp bộ phận tạo ly tâm ở đầu vào để
tách sơ cấp và ở đầu ra của khí để tách lỏng.
III.1.3. CHỨC NĂNG CỦA BÌNH TÁCH
Bình tách có 3 chức năng chính là: Chức năng cơ bản, chức năng phụ và chức năng đặc biệt.
III.1.3.1. Chức năng cơ bản
Tách dầu khỏi khí, tách khí khỏi dầu và tách nước khỏi dầu.
Việc tách khí có thể được bắt đầu khi chất lỏng đi từ vỉa vào giếng, khi di chuyển trong ống
nâng và ống xả. Vì vậy có những trường hợp trước khi vào bình tách dầu và khí đã được tách
28
hoàn toàn, lúc đó bình tách chỉ còn tạo không gian cho khí và dầu đi theo đường riêng. Sự chênh
lệch mật độ lỏng – khí nói chung bảo đảm cho quá trình tách dầu, tuy nhiên vẫn cần đến các
phương tiện cơ khí chẳng hạn như bộ chiết sương và các phương tiện khác trước khi xả dầu, khí
ra khỏi bình.
Tốc độ giải phóng khí ra khỏi dầu là một hàm số biến thiên theo áp suất và nhiệt độ. Thể tích
khí tách ra khỏi dầu phụ thuộc vào tính chất vật lý và hoá học của dầu thô, áp suất và nhiệt độ
vận hành, tốc độ lưu thông, hình dáng kích thước của bình tách và nhiều yếu tố khác. Tốc độ lưu
thông qua bình và chiều sâu lớp chất lỏng ở phần thấp quyết định thời gian lưu giữ hoặc thời
gian lắng. Thời gian này thường từ 1- 3 phút là thoả mãn trừ trường hợpdầu bọt, còn phải tăng
lên từ 5- 20 phút tuỳ theo độ ổn định của bọt và kết cấu của bình, chung nhất là từ 2- 4 phút, loại
2 pha từ 20 giây đến 2 phút, loại 3 pha từ 2 đến 10 phút, khoảng thời gian có thể gặp là từ 20
giây đến 2 giờ. Hệ thống khai thác và xử lý đòi hỏi phải tách hoàn toàn khí hoà tan, bao gồm
rung, lắc, nhiệt, keo tụ, lắng. Nếu dầu có độ nhớt cao hoặc sức căng bề mặt lớn thì phải sử dụng
các vật liệu lọc.
Nước trong chất lưu giếng cần được tách trước khi đi qua các bộ phận giảm áp như van, vòi để
ngăn ngừa sự ăn mòn, tạo thành hydrat hoặc tạo thành nhũ tương bền gây khó khăn cho việc xử
lý. Việc tách nước thực hiện trong các thiết bị 3 pha bằng cơ chế trọng lực kết hợp với hoá chất.
Nếu thiết bị có kích thước không đủ lớn để tách theo yêu cầu thì chúng sẽ được tách trong các
bình tách nhanh lắp ở đường vào hoặc ra của thiết bị tách có vai trò tách sơ bộ hoặc bổ sung. Nếu
nước bị nhũ hoá thì cần có hoá chất để khử nhũ.
III.1.3.2. Chức năng phụ
Duy trì áp suất tối ưu và mức chất lỏng trong bình tách.
Để thực hiện tốt chức năng cơ bản, áp suất trong bình tách cần được duy trì ở giá trị sao cho
chất lỏng và chất khí thoát theo đường riêng biệt tương ứng vào hệ thống thu gom và xử lý. Việc
duy trì được thực hiện bởi các van khí cho riêng mỗi bình hoặc một van chính kiểm soát áp suất
cho một số bình.
Để duy trì được áp suất cần giữ được một đệm chất lỏng ở phần thấp của bình tách, nó có tác
dụng ngăn khí thoát theo chất lỏng, mức chất lỏng thường được khống chế bằng van điều khiển.
III.1.3.3. Chức năng đặc biệt
Tách dầu bọt, ngăn ngừa lắng đọng parafin, ngăn ngừa sự han gỉ và tách các tạp chất.
Trong một số loại dầu thô các bọt khí tách ra được bọc bởi một màng dầu mỏng, tạo thành
bọt phân tán trong chất lỏng. Một số loại khác lại có độ nhớt và sức căng bề mặt cao, khí tách ra
cũng bị giữ lại trong dầu tương tự như bọt. Bọt có độ ổn định khác nhau tuỳ theo thành phần và
hàm lượng tác nhân tạo bọt có trong dầu. Dầu tạo bọt thường có tỷ trọng thấp hơn 40 độ API, độ
nhớt lớn hơn 53 cp và nhiệt độ làm việc thấp hơn 160 độ F. Sự tạo bọt làm giảm khả năng tách
29
của thiết bị, các dụng cụ đo làm việc không chính xác, tổn hao thế năng của dầu – khí một cách
vô ích và đòi hỏi các thiết bị đặc biệt phá hoặc ngăn ngừa sự tạo bọt theo phương pháp rung, lắc,
lắng, nhiệt và hoá học.
Các thiết bị tách dầu nhiều paraffin có thể gặp trở ngại do parafin lắng đọng làm giảm hiệu
quả và có thể phải ngừng hoạt động do bình hẹp dần hoặc bộ chiết sương có đường dẫn chất lỏng
bị lấp. Giải pháp hiệu quả có thể dùng hơi hoặc dung môi để làm tan paraffin. Tuy nhiên tốt nhất
là dùng giải pháp ngăn ngừa bằng nhiệt và hoá chất, phía trong thiết bị sơn phủ một lớp chất dẻo.
Tuỳ thuộc vào điều kiện địa chất của tầng chứa, chất lưu có thể mang theo các tạp chất cơ học
như cát, bùn, muối kết tủa với hàm lượng đáng kể.Việc tách chúng trước khi chảy vào đường
ống là một việc làm rất cần thiết. Các hạt tạp chất với số lượng nhỏ được tách theo nguyên tắc
lắng trong các bình trụ đứng với đáy hình côn và xả cặn định kỳ. Muối kết tủa được hoà tan bởi
nước và xả theo đường xả nước.
III.2. CẤU TẠO VFA NGUYÊN LÝ HOẠT ĐỘNG CỦA BÌNH TÁCH
III.2.1. CẤU TẠO CHUNG
Đối với các loại bình tách nói chung thì cấu tạo của bình bao gồm 4 bộ phận chính: Bộ phận
tách cơ bản, bộ phận tách thứ cấp, bộ phận lưu giữ chất lỏng, bộ phận chiết sương.
Dưới đây là cấu tạo của một bình tách hình trụ đứng 2 pha:
Theo hình dáng của bình từ trên xuống:
D: Bộ phận chiết sương;
A: Bộ phận tách cơ bản;
B: Bộ phận tách thứ cấp;
C: Bộ phận lưu giữ chất lỏng.
30
Hình III.7. Sơ đồ cấu tạo của bình tách 2 pha hình trụ đứng
1- Đường vào của hỗn hợp; 5- Bộ phận chiết sương;
2- Tấm lệch dòng; 6- Đường xả khí;
3- Thiết bị điều khiển mức; 7- Van an toàn.
4- Đường xả chất lỏng;
III.2.1.1. Bộ phận tách cơ bản A
Đây là bộ phận được lắp ngay trên đường vào của hỗn hợp dầu khí tham gia vào giai đoạn đầu
của quá trình tách. Có 2 cách bố trí bộ phận này là: Bố trí theo nguyên tắc hướng tâm và bố trí
theo nguyên tắc ly tâm (tiếp tuyến).
Nguyên tắc hướng tâm
Nguyên tắc hướng tâm phải tạo được các va đập, thay đổi hướng chuyển động và tốc độ
chuyển động. Hỗn hợp dầu khí phải được phân tách tạo rối qua các vòi phun và đập vào các tấm
chặn để thực hiện quá trình tách cơ bản. Hỗn hợp sản phẩm dầu khí đi vào ống phân tách,
qua các vòi phun thì được tăng tốc và đập vào các tấm chặn, thay đổi chiều chuyển
động và giảm tốc độ thoát qua khe hở giữa các tấm chặn, kết dính lại rồi đi xuống bộ phận tách
thứ cấp qua lỗthoát chất lỏng.
Nguyên tắc lực ly tâm
31
Hình III.8. Bình tách sử dụng bộ phận tách cơ bản theo nguyên tắc ly tâm
1- Đầu lốc xoáy; 8- Van điều tiết;
2- Thanh hướng dòng; 9- Thanh kéo;
3- Bình chứa tầng trên; 10- Hệ thống xả dầu;
4- Các tấm rót dầu; 11- Phao đo mức;
5- Bộ phận thu giữ hạt dầu; 12- Các tấm rót dầu;
6- Vòi phun; 13- Vách ổn định mực chất lỏng;
7- Các vách ngăn dạng nan chớp; 14- Bình chứa tầng dưới.
Bộ phận tách cơ bản sử dụng nguyên lý lực ly tâm thường thiết kế hai bình trụ đồng tâm,
dòng sản phẩm hỗn hợp dầu khí sẽ đi vào khoảng không gian giữa 2 bình theo hướng tiếp tuyến
với thành bình, dầu có xu hướng bám dính vào thành bình. Tùy thuộc vào loại bình tách mà có
thể bố trí bộ phận tách cơ bản có cấu tạo khác nhau.
+Đối với bình trụ đứng: Sử dụng bộ phận tách cơ bản là hai bình hình trụđồng tâm có
đường kính không đổi, bình trong có rãnh kiểu nan chớp. Khi dòng hỗn hợp sản phẩm dầu khí đi
vào theo hướng tiếp tuyến với thành bình và chuyển động theo quỹ đạo vòng xoáy, do khí có lực
ly tâm bé sẽ đi vào bình trụ trong qua các nan chớp và thoát lên phía trên. Còn lại dầu có lực ly
tâm lớn hơn sẽ văng ra và bám dính vào thành bình của bình trụ ngoài, kết dính với nhau và lắng
xuống phía dưới đến bộ phận tách thứ cấp tiếp theo.
+Đối với bình trụ ngang: Cũng sử dụng bộ phận tách cơ bản là hai hình trụ đồng tâm nằm
ngang, trong đó bình trụ trong có đường kính thay đổi (hoặc sử dụng một phần hình trụ, một
32
phần hình côn). Dòng hỗn hợp sản phẩm dầu khí đi vào sẽ được hướng theo rãnh hình xoắn ốc
để tạo lực ly tâm (tạo xoáy) nhằm dễ dàng phân ly pha lỏng và pha khí.
Ngoài ra còn tách sơ bộ bằng đầu xoáy lốc thủy lực.
III.2.1.2. Bộ phận tách thứ cấp B
Là phần lắng trọng lực, thực hiện tách bổ sung các bọt khí còn sót lại ở phần A. Để tăng hiệu quả
tách các bọt khí ra khỏi dầu, cần hướng các lớp mỏng chất lưu theo các mặt phẳng nghiêng (tấm
lệch dòng), phía trên có bố trí cácgờ chặn nhỏ, đồng thời phải kéo dài đường chuyển động bằng
cách tăng số lượng các tấm lệch dòng.
Hình III.9. Tấm lệch dòng
III.2.1.3. Bộ phận lưu giữ chất lỏng C
Là phần thấp nhất của thiết bị dùngđể gom dầu và xả dầu ra khỏi bình tách. Dầu ở đây có thể
là một pha hoặc hỗn hợp dầu – khí tùy thuộc vào hiệu quả làm việc của phần A và phần B, vào
độ nhớt và thời gian lưu giữ. Trường hợp là hỗn hợp thì phần này có nhiệm vụ lắng để tách khí,
hơi và cả nước ra khỏi dầu.
III.2.1.4. Bộ phận chiết sương D
Là bộ phận được lắp ở phần cao nhất của bình tách, đây có thể coi là bộ phận quan trọng nhất
quyết định tới hiệu quả tách của bình. Nó có nhiệm vụ giữ lại những giọt dầu nhỏ bị cuốn theo
dòng khí. Dầu thu giữ được ở đây đi theo một đường dẫn xuống dưới phần lưu giữ chất lỏng.
Có nhiều loại bộ chiết sương: Kiểu đồng tâm, kiểu nan chớp, dạng cánh, bộ lọc sương.
Bộ chiết sương kiểu đồng tâm
Gồm 3 hình trụ đồng tâm, có lỗ thoát khí ở phía trên cao nhất và thấp nhất của mỗi hình trụ để
hướng dòng khí đi lên xuống với trị số tốc độ khác nhau ở mỗi hình trụ trước khi ra đầu xả. Các
giọt dầu bám vào thành ống sẽ chảy xuống.
33
Ưu điểm của loại này là chế tạo đơn giản, giá thành thấp, quá trình tách các bụi dầu ra khỏi
dòng khí diễn ra nhanh. Tuy nhiên nó có nhược điểm là tách các phần lắng.bụi dầu ra khỏi khí
chưa triệt để.
Bộ phận chiết sương kiểu nan chớp
Hình III.10. Bộ chiết sương kiểu nan chớp
Bộ phận chiết sương kiểu nan chớp là loại được sử dụng khá phổ biến bao gồm các tấm uốn lượn
sóng và tấm đục lỗ thẳng đứng. Khí được tách ra từ bộ phận tách cơ bản sẽ bay lên mang theo
các bụi dầu đi vào các tấm lượn sóng nằm ngang. Khí chuyển động theo các khe hở song song
giữa các tấm chắn lượn sóng làm cho chiều chuyển động được thay đổi liên tục, dầu va đập vào
các tấm chắn này và chuyển động chậm hơn khí sẽ dính lại với nhau sau đó va đập vào tấm chắn
đục lỗ thẳng đứng.
Các tấm chắn thẳng đứng đó sẽ hướng các giọt dầu chảy xuống buồng thu chất lỏng và được
đưa xuống phần lắng của bình tách qua đường ống dẫn. Còn pha khí đã tách các hạt bụi dầu sẽ
tiếp tục đi qua các tấm chắn đục lỗ thẳng đứng và ra theo đường xả khí. Hiệu quả các quá trình
tách các bụi dầu sẽ tăng lên khi trên các tấm lượn sóng nằm ngang có bố trí thêm các gờ hoặc các
cánh phụ.
Ưu điểm:
Về cơ bản giống bộ chiết sương kiểu đồng tâm nhưng khả năng tách các bụi dầu khỏi dòng khí
tốt hơn. Tuy nhiên quá trình tách này vẫn chưa được triệt để.
Bộ phận chiết sương dạng cánh
34
Hình III.11. Bộ phận chiết sương dạng cánh
Bộ chiết sương dạng cánh được cấu tạo từ các tấm thép góc lắp song song. Đỉnh của các tấm
thép này bố trí hướng lên phía trên, các khe hở được bố trí để dòng khí chịu va đập, thay đổi
hướng, thay đổi tốc độ chuyển động và keo tụ tách pha lỏng ở dạng sương mù ra khỏi pha khí.
Bộ chiết sương loại này có cấu tạo đơn giản, giá thành thấp nhưng lại cho hiệu quả tách khá cao.
Bộ lọc sương
Hình III.12. Bộ lọc sương
35
1- Đường khí đi ra; 4- Đường vào của hỗn hợp dầu khí;
2- Các lớp đệm; 5- Đường ra của chất lỏng.
3- Giọt dầu ngưng tụ;
Bộ lọc sương được cấu tạo từ các lớp đệm, phổ biến là các lưới thép, dùng để tách sương
trong khí thiên nhiên. Nó được dùng nhiều trong hệ thống vận chuyển và phân phối khí khi hàm
lượng chất lỏng ở trong khí thấp và chúng tồn tại ở dạng sương khó tách. Các tấm đệm này tạo ra
một tập hợp các cơ chế: Va đập, đổi hướng, thay đổi tốc độ và kết dính để tách chất lỏng khỏi
dòng khí. Đệm tạo ra mặt tiếp xúc lớn để gom và keo tụ sương chất lỏng. Bộ lọc kiểu này ít được
sử dụng trong các bình tách dầu khí bởi vì đệm keo tụ thường được chế tạo từ vật liệu giòn, dễ
hỏng khi vận chuyển và các mắt lưới thép có thể bị lấp nhét bởi paraffin hoặc các tạp chất.
Ngoài ra, với mục đích tách sương từ khí thiên nhiên, người ta đưa vào sử dụng bộ tách sương
dạng sợi hai lớp đệm. Lớp dưới gồm sợi đa kích thước và lớp trên là đệm thô một kích thước.
Lớp dưới bao gồm các sợi thủy tinh siêu mảnh (cỡ 0,02 mm) được đan với thép không gỉ (cỡ 2.5
mm) sẽ gom các hạt sương từ 1 10 μm thành các hạt lớn hơn và giao cho lớp đệm trên, lớp đệm
này sẽ tách chúng ra khỏi khí.
Hình III.13. Bộ lọc sương 2 lớp
1- Dòng khí có nhiều sương; 4- Xi lanh dẫn chất lỏng;
2- Đệm dày từ sợi thủy tinh và thép không gỉ; 5- Khí khô.
3- Đệm thưa từ thép không gỉ;
36
Ngoài các bộ phận cơ bản trên thì bình tách còn có những thiết bị phụ trợ khác như: Các loại
van, đồng hồ đo, phao báo mức…
III.2.2. NGUYÊN LÝ HOẠT ĐỘNG CỦA BÌNH TÁCH
Nguyên lý hoạt động của bình tách có thể chia ra làm các giai đoạn sau:
- Giai đoạn 1- tách sơ bộ
Khi hỗn hợp chất lỏng đi từ các đầu giếng khai thác vào bình tách qua bộ phân tách cơ bản
tại đây thì xảy ra quá trình tách sơ bộ với một loạt các cơ chế như là: Va đập, ly tâm, thay đổi
hướng và tốc độ chuyển động… làm cho các hạt dầu được tách ra khỏi dòng khí và rơi xuống bộ
phận tách thứ cấp theo nguyên lý trọng lực, còn lại thì dòng khí tiếp tục chuyển động lên trên.
- Giai đoạn 2- tách thứ cấp
Giai đoạn này chủ yếu xảy ra ở bộ phận tách thứ cấp, tại đây thì các hạt dầu từ bộ phận
tách cơ bản chuyển xuống được dẫn hướng theo đường vòng thông qua các tấm lệch dòng
tạo cho chất lỏng được phân lớp, khi đó khí còn đọng lại trong dầu dưới dạng bọt sẽ được
giải phóng và chuyển động lên trên, còn lại dòng dầu tiếp tục đi xuống phần lắng ở đáy
bình.
- Giai đoạn 3- tách triệt để
Giai đoạn này xảy ra chủ yếu ở bộ phận triết sương là phần cao nhất của bình, tại đây thì
các bụi dầu tồn tại dưới dạng sương mù sẽ được gom lại thông qua một loạt các cơ chế
như: Ly tâm, quán tính, va đập, keo tụ, thấm, thay đổi hướng và tốc độ chuyển động… sau
đó thì các hạt dầu sẽ được chuyển xuống phần lắng qua đường ống dẫn riêng, còn lại khí sẽ
được đưa ra ngoài qua cửa xả khí.
- Giai đoạn 4- Lắng đọng:
Toàn bộ những giọt dầu sẽ được chuyển xuống đáy bình, tại đây xảy ra quá trình lắng
đọng và phân lớp rõ ràng (dầu – nước - cặn) sau đó sẽ được ngoài thông qua các cửa xả
riêng.
III.2.3. CÁC SỰ CỐ THƯỜNG GẶP TRONG BÌNH TÁCH,BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC
Trong quá trình làm việc của bình tách thường xảy ra 3 sự cố chính:
Chất lỏng bị cuốn ra ngoài theo khí.
Mực chất lỏng không ổn định.
Quá tải chất lỏng.
III.2.3.1. Trường hợp chất lỏng bị cuốn ra ngoài theo khí
Bảng III.2. Nguyên nhân và cách khắc phục với trường hợp chất lỏng bị cuốn ra ngoài theo khí
Nguyên nhân Biện pháp khắc phục
Lưu lượng khí vào dư nhiều. Kiểm tra lại lưu lượng khí, chỉnh lại theo
thiết kế.
37
Mực chất lỏng lên vùng khí chưa tách. Kiểm tra mực chất lỏng, chỉnh lại thấp hơn
thiết kế.
Các thiết bị tách bên trong bị kẹt do bụi và
nước.
Kiểm tra lại nhiệt độ và áp suất tính theo
lượng nước được tạo ra.
Sóng mạnh ở vùng chất lỏng. Kiểm tra lại hay cài thêm màng chắn ngang.
Áp suất hoạt động lớn hơn áp suất thiết kế. Kiểm tra áp suất hoạt động, tăng lưu lượng
khí.
Tỷ trọng chất lỏng (OAPI) cao hơn thiết
kế.
Giảm lưu lượng khí theo tỷ trọng.
III.2.3.2. Trường hợp mực chất lỏng không ổn định
Phao bị bao phủ hoàn toàn bởi chất lỏng, để xử lí ta phải thổi ra đường ống chia độ để lấy
mức đo chính xác. Nếu thùng đo ở ngoài thì cần thổi chìm phao xuống xem phao có bị kẹt
không. Khi ống đo mức chất lỏng và phao kiểm tra xong thì xem phao có bị chìm không, thường
xuyên rút chất lỏng ra để phao ngập 1/2, nhập mực chất lỏng cho các bộ điều khiển.
Mực chất lỏng thấp dưới phao: Kiểm tra xem phao có bị kẹt không, đóng van tháo lỏng
để van chìm 1/2.
Van điều khiển chất lỏng không làm việc, cần tiến hành các biện pháp sau:
+ Kiểm tra lại sự hoạt động của van xem đóng mở có đúng không.
+ Vặn van đóng mở hoàn toàn xem có trở lực không.
+ Kiểm tra lưu lượng lỏng để xác định trở lực trong đường ống.
Phao bị lắc do sóng: Lắp giá bảo vệ phao luôn cân bằng để phao làm việc ổn định.
Bộ điều khiển mức chất lỏng không tương ứng: Bị thay đổi mực chất lỏng có thể do bộ
điều khiển hỏng, phao thủng hoặc chất lỏng ở dưới phao. Ta phải đóng mở van để chất lỏng dao
động bằng chiều dài của phao, nếu bộ điều khiển không tương ứng sẽ làm rơi phao.III.2.3.3.Trường hợp quá tải chất lỏng
Bảng III.3. Nguyên nhân và cách khắc phục đối với trường hợp quá tải chất lỏng
Nguyên nhân Cách khắc phục
Lưu lượng các dòng cao. Chỉnh lại đúng thiết kế.
38
Nhiệt độ thấp hơn thiết kế. Tăng nhiệt độ tách.
Bộ ngưng tụ, bộ lọc bị tắc.Kiểm tra áp suất rơi (sụt áp) hoặc phục hồi
sửa chữa, tẩy rửa bộ ngưng tụ hoặc thay thế.
III.3. TÍNH TOÁN CHO BÌNH TÁCH
III.3.1. Tính toán kích thước bình tách
III.3.1.1. Tính đường kính
Đường kính của bình tách được tính theo công thức:
(III.1)
Trong đó:
m: Lưu lượng khối lượng (kg/giờ);
F∞: Là hệ số kể đến hình dáng và điều kiện làm việc của bình tách.
Với bình tách đứng F∞ = 0,10 - 0,167.
Với bình tách ngang F∞ = 0,35 - 0,707.
ρl: Là khối lượng riêng của dầu, kg/m3.
ρg: Là khối lượng riêng của khí, kg/m3.
F: Là hệ số trong bình tách, được tính theo bảng dưới đây:
Bảng III.4. Hệ số F của bình tách
h/d F h/d F
0,00 1,000 0,30 0,748
0,05 0,981 0,35 0,688
0,10 0,948 0,40 0,626
0,15 0,906 0,45 0,564
0,20 0,858 0,50 0,500
39
0,25 0,804 0,55 0,436
Giá trị của F∞ trong công thức (III.1) là một biến độc lập thực nghiệm. Các yếu tố ảnh hưởng
đến giá trị của F∞:
Tỷ số chiều dài trên đường kính L/D.
Kiểu dáng các chi tiết bên trong.
Độ sâu mực chất lỏng.
Khuynh hướng tạo bọt của dầu.
Sự chuyển động ổn định của dòng khí.
Tỷ lệ pha khí trên pha lỏng.
Sự hiện diện của các chất liệu khác.
Trong đó yếu tố L/D ảnh hưởng tới F∞ nhiều nhất. Việc sử dụng ống nắn dòng, tấm chắn
làm lệch dòng và các thiết bị đặc biệt ở cửa vào sẽ làm tăng giá trị của F∞ và công suất của bình
tách.
Lưu lượng khối lượng được tính theo công thức:
m = (III.2)
Kp : Là hệ số khí hòa tan trong dầu, (Kp= 1,0565.10-5 m3/m3.Pa).
P : Là áp suất làm việc của bình tách, (atm).
Γ : Là tỷ lệ khí trong hỗn hợp.
Qn: Công suất của bình tách, (kg/h).
III.3.1.2. Tính chiều dài
Chiều dài bình tách được xác định theo công thức:
(III.3)
L: Chiều dài bình, (m).
V: Thể tích bình tách, (m3).
d: Đường kính của bình, (m).III.3.1.3. Tính bề dày cho thành và đáy bình
Chiều dày thành bình
Được xác định theo công thức:
40
(III.4)
r1: Chiều dày thành bình, (cm).
P: Áp suất làm việc của bình tách, (psi).
d: Đường kính bình tách, (cm).
E: Hệ số giảm bền do ảnh hưởng của mối hàn ( E = 0,85÷ 1 ).
S: Giới hạn bền của vật liệu chế tạo bình, (S= 1500÷ 1800 kG/cm2 ).
C: Chiều dày dự phòng có kể đến hao mòn do han gỉ, (C= 2,5÷ 3,2 mm).
Chiều dày đáy bình
Được xác định theo công thức:
(III.5)
r2: Chiều dày đáy bình tách, (cm).
Cσ: Chiều dày dự phòng ăn mòn đáy bình, (Cσ= 0,42 cm)
III.3.2. Tính toán các thông số làm việc của bình tách
III.3.2.1. Tính thể tích
Thể tích của bình tách được xác định bởi công thức:
(III.6)
Qn: Công suất của bình tách, (kg/ngày đêm).
t: Thời gian lưu giữ chất lỏng trong bình, (giây).
III.3.2.2. Tính công suất tách
Công thức tính công suất của bình tách là:
(III.7)
vg: Vận tốc khí lớn nhất cho phép, (m/s).
Qn: Công suất tách của bình, (kg/h).
Công suất bình tách phụ thuộc vào các yếu tố:
Kích thước của bình tách.
Hình dáng và các thiết bị bên trong bình tách.
Số giai đoạn tách.
Nhiệt độ và áp suất trong bình.
Tính chất lý, hoá của dầu.
Tỷ số dầu/ khí trong chất lưu.
41
Kích thước và phân bố các phần tử chất lỏng trong khí ở cửa vào của bình.
Mức chất lỏng được duy trì trong bình tách.
Hàm lượng tạp chất có trong dầu.
Khuynh hướng tạo bọt của dầu.
Trong các yếu tố trên thì 2 yếu tố: Tính chất lý, hoá của dầu và kích thước, phân bố các phần tử
chất lỏng trong khí ở cửa vào của bình tách là rất cần thiết cho việc xác định chính xác kích
thước của bình tách để cho hiệu suất cao nhất nhưng cũng rất khó xác định đầy đủ và chính xác.
Trong bình tách đứng, những phần tử chất lỏng tách khỏi khí, rơi xuống sẽ gặp sự cản trở của khí
bay lên. Trong bình tách ngang các phần tử lỏng bay ngang qua bình như quỹ đạo của viên đạn
bắn từ lòng súng. Qua đó cho thấy bình tách ngang sẽ tách được một lượng chất lỏng lớn hơn so
với bình tách đứng với cùng một kích thước. Điều này đúng khi mức chất lỏng trong bình tách
phải duy trì ở một mức thích hợp để tránh hiện tượng khí mang theo dầu khi mức chất lỏng trong
bình quá cao.
Vận tốc khí lớn nhất trong bình tách cho phép sự tách sương khỏi khí, được tính theo công thức
Stock:
(III.8)
III.3.2.3. Tính thời gian lưu giữ chất lỏng trong bình tách
Thời gian lưu giữ chất lỏng trong bình là thời gian giới hạn cho khí thoát ra khỏi pha
lỏng. Thông số này không có trong công thức tính kích thước của bình tách.
Xác định thời gian lưu giữ chất lỏng là cách gián tiếp để xác định thể tích của bình tách
cần thiết để kiểm soát được dòng chảy có lưu lượng cho trước. Thể tích bình tách bằng lưu lượng
của bình nhân với thời gian lưu giữ chất lỏng. Với bình tách cho trước, thể tích lỏng cần thiết ảnh
hưởng nhiều hơn đến kích thước của bình so với lưu lượng khí. Điều này đúng cho các bình tách
lớn với tỷ số dầu - khí thấp. Ta có công thức tính thời gian lưu giữ chất lỏng ( thời gian lắng):
V l=Ql . t
1440 (III.9)
Vl : Phần thể tích chất lỏng cần thiết của bình tách, (m3).
t: Thời gian lưu giữ thiết kế, (phút).
Ql: Lưu lượng chất lỏng qua bình, (m3/phút).
Từ công thức (III.9) suy ra công thức tính thời gian lưu giữ chất lỏng là:
(III.10)
42
Thời gian lưu giữ bị ảnh hưởng bởi thành phần bọt, sự hiện diện của các chất rắn và nhũ
tương. Thời gian lưu giữ chất lỏng là thông số rất quan trọng trong bình tách, ở đó các phản ứng
hoá học có thể xảy ra. Thời gian lắng được thể hiện trong các bảng dưới đây:
Bảng III.2. Thời gian lắng
Dầu - khí tự nhiên 1 - 3 phút
Dầu nghèo 10 - 15 phút
Xử lý phân đoạn 8 - 15 phút
Trong bình làm lạnh 4 - 7 phút
Tiêu chuẩn API 12J dùng cho bình tách dầu và khí:
Bảng III.3. Thời gian lắng tương đương với tỷ trọng tương đối của dầu.
Tỷ trọng tương đối của dầu Phút
< 0,85 1
0,85 - 0,93 1 – 2
0,93 - 1 2 – 4
III.3.2.4. Tính toán bền cho bình tách
Hình III.1. Sơ đồ các lực tác dụng lên bình tách
Lực F tác dụng lên 2 đầu bình tách được tính theo công thức:
(III.11)
F: Lực tác dụng lên 2 đầu bình tách, (KN).
43
Dt: Đường kính trong của bình tách, (mm).
P: Áp suất làm việc của bình tách, (at).
Diện tích chịu lực f tính theo đường kính trong của bình:
f = π.Dt.r (III.12)
Ứng suất cho phép của bình
σbt = = (III.13)
r: Chiều dày thành bình tách, (mm).
Bình làm việc ổn định khi lực tác dụng lên thành bình cân bằng với phản lực tại mối hàn
Điều kiện ổn định:
(III.14)
Trong đó:
L: Là chiều dài của bình tách, (mm).
N: Là phản lực tại mối hàn, (KN).
Dc: Là đường kính trung bình của bình tách, (mm).
Ứng suất tại mối hàn:
(III.15) So sánh giữa σbt với σmh ta thấy σbt<<σmh. Vì vậy khi kiểm toán bền cho bình ta dựa vào σmh. Trong thực tế thì thay thế bằng σbt có kể tới hệ số bề của mối hàn.
44
KẾT BÀIQua những tìm hiểu, nghiên cứu trong suốt thời gian làm tiểu luận và kiến thức trong quá trình
học tập nhóm em đã hoàn thành bài tiểu luận của mình. Đồ án đưa ra cái nhìn tổng quan về các
trang thiết bị tồn chứa về cấu tạo,phân loại,nguyên lý hoạt động.Vì vậy, việc tìm hiểu, bổ sung
những kiến thức liên quan đến bồn bể chứa dầu – một trong những bộ phận quan trọng nhất
trong quá trình chế biến và bảo quản dầu – là rất cần thiết để có thể thực hiện tốt công tác vận
hành bồn bể chứa.
Trong quá trình hoàn thành tiểu luận này với sự hướng dẫn tận tình của thầy Đoàn Văn Huấn
cùng với sự nỗ lực của các thành viên trong nhóm,chúng em đã hoàn thành bài tiểu luận này,
đồng thời tiếp thu thêm được nhiều kiến thức bổ ích. Tuy nhiên, do kinh ngiệm nghiên cứu và
kiến thức còn nhiều hạn chế nên bài tiểu luận của nhóm vẫn không tránh khỏi những thiếu sót.
Chúng em kính mong nhận được sự chỉ dẫn, đóng góp của các thầy cùng các bạn độc giả để bài
tiểu luận của chúng em được hoàn thiện hơn.
45
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thiết bị trong công nghệ lọc hóa dầu – phần 3
2. Chemical Proccess Equipment
3. Tài liệu – Ebook
46
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
I. TỔNG QUAN2
II.CÁC THIẾT BỊ TỒN CHỨA VÀ BẢO QUẢN2
II.1.THIẾT BỊ BỒN BỂ CHỨA2
II.1.1 PHÂN LOẠI CÁC THIẾT BỊ TỒN CHỨA XĂNG DẦU 2
II.1.1.1 Phân loại theo sự vận hành 2
II.1.1.2. Phân loại theo áp suất làm việc 3
II.1.1.3 Dựa vào chiều cao xây dựng 3
II.1.1.4 Theo hình dạng bồn chứa 3
II.1.2. CẤU TẠO VÀ NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG 5
II.1.2.1 Thân thiết bị 5
II.1.2.2 Đáy và nắp bồn chứa 6
II.1.2.3. Các thiết bị phụ trợ 7
II.1.3. GIỚI THIỆU MỘT SỐ BỒN CHỨA – BỂ CHỨA 8
II.1.3.1 Bồn chứa hình trụ đứng 8
II.1.3.2. Bể trụ nằm ngang 10
II.1.4. CÁC CÔNG TÁC KIỂM TRA TRƯƠC KHI ĐUA VÀO VẬN 11
47
HÀNH
II.1.4.1 Kiểm tra độ kín 11
II.1.4.2 Thử độ bền bể 12
II.1.4.3 Thử độ lún bể 12
II.1.4.4. Bảo quản bể chứa xăng dầu14
II.1.5. SỰ THẤT THOÁT THÀNH PHẦN NHẸ VÀ BIỆN PHÁP 15
HẠN CHẾ
II. 1.5.1 Ngăn chặn sự bay hơi 16
II.1.5.2 Giảm thiểu sự bay hơi 16
II. 1.5.3 Thu hồi lại thành phần nhẹ 17
II.2 BẢO QUẢN XĂNG DẦU TỒN CHỨA TRONG PHUY VÀ BAO 17
BÌ NHỎ
II.2.1 Nhũng yêu cầu đối với phuy chứa dầu 17
II.2.2. Bảo quản ,tồn chứa xăng dầu trong phuy và bao bì nhỏ 17
II.3. THỜI HẠN TỒN CHỨA CÁC SẢN PHẨM XĂNG DẦU 18
III.THIẾT BỊ BÌNH TÁCH:19
III.1. KHÁI NIỆM ,PHÂN LOẠI,CHỨC NĂNG CỦA BÌNH TÁCH 19
III.1.1. Khái niệm19
III.1.2. Phân loại 20
III.1.3. Chức năng của bình tách 28
III.2. CẤU TẠO VÀ NGUYÊN LÝ HOẠT ĐỘNG CỦA BÌNH TÁCH 30
III.2.1. Cấu tạo chung 30
III.2.2. Nguyên lý hoạt động của bình tách 37
III.2.3. Các sự cố thường gặp trong bình tách ,biện pháp khắc phục38
III.3. TÍNH TOÁN CHO BÌNH TÁCH39
III.3.1. Tính toán kích thước bình tách 39
III.3.1.1. Tính đường kính 39
III.3.1.2. Tính chiều dài 41
III.3.1.3. Tính bề dày cho thành và đáy bình41
III.3.2. Tính toán các thông số làm việc của bình tách42
III.3.2.1. Tính thể tích 42
48
III.3.2.2. Tính công suất tách 42
III.3.2.3. Tính thời gian lưu giữ chất lỏng trong bình tách 43
III.3.2.4. Tính toán bền cho bình tách44 KẾT BÀI46 TÀI LIỆU THAM
KHẢO47
49