Post on 19-Jul-2018
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
NGUYỄN - CƯ - TRINH
Văn-Học-Sử
[ Ghi-chú : Toàn bộ chữ Nho in trong sách
là thủ bút của tác-giả ghi trong di cảo ]
Phụ-Trách Ấn-Loát : Nguyễn-Kim-Ánh _ PARIS
Copyright © Nguyễn-Kim-Ánh
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
MỤC LỤC
I. NAM - TIẾN VIỆT - NAM
_ Bối cảnh Xã-hội, Chính-trị
Đất Thuận-Hóa.........................................1
II. THÂN-THẾ VÀ SỰ-NGHIỆP………...93
III. NGUYỄN-CƯ-TRINH Với
_ Tư-Tưởng Trung-Đạo Và
Quan-Niệm Chính Học...........................107
_ Tư-tưởng Chính-học Trong "Sãi-Vãi"....129
IV. TÂM-LÝ NGHỆ-THUẬT....................163
V. TÁC-PHẨM HÁN-VĂN……………....171
VI. KẾT-LUẬN............................................233
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
" Thành ư trung vị đắc hòa-bình,
Hình tại ngoại bất năng trung tiết ."
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
1
" Cối Kê cựu sự quân tu ký,
Hoan Diễn do tồn thập vạn binh "
( Cối-Kê cũ sự ông ghi lấy,
Hoan-Diễn ta còn chục vạn quân )
Trần-Nhân-Tông
( 1285-1292 )
HAI TRÀO-LƯU DI DÂN NAM-TIẾN._
Nói đến cuộc Nam-Tiến của dân-tộc
Việt-Nam trên bán-đảo Đông-Dương Ấn-Độ
Chi-Na này là cả một vận-mệnh lịch-sử của
dân-tộc sống còn theo cái định-luật tiến-hóa
NGUYỄN-CƯ-TRINH
2
khắt-khe lạnh-lùng vô tình như tất cả định-luật
thiên-nhiên mà Darwin cũng như Trang-Tử đã
đề-cập : " Sinh tồn cạnh tranh, ưu thắng liệt
bại " ( ), mà nôm-na
bình-dân Việt cũng có câu tục-ngữ tương-tự :
" Khôn sống mống chết ". Sự thực cuộc di dân
bành-trướng xuống phương Nam của Việt-tộc,
khác với cuộc Tây-tiến của dân Mỹ sang bờ
biển Thái-Bình-Dương, bởi vì đối với dân Mỹ
thì đấy là một sự mạo-hiểm thích-ý phiêu-lưu,
đáp ứng cho cái sở-thích về quyền-thế, về vĩ-
đại lạ-kỳ. Nhưng đối với dân Việt chúng ta thì
đấy lại thực là nhu-cầu sống còn, tồn-tại thiết-
yếu của dân-tộc để còn là một dân-tộc với ít
nhiều cá-tính truyền-thống, riêng biệt của nó
vậy .
Gần đây Lã-Sĩ-Bằng ( ) trong
" Đông-Nam-Á Nghiên-cứu Chuyên-san tập 3 "
đã có một nhận-định
rất chính-xác về lịch-sử dân-tộc Việt-Nam
rằng :
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
3
" L'Aurousseau, ( Viễn-Đông Học-
Viện E.F.E.O. ) suy-đoán dân-tộc Việt-
Nam nguyên xuất-phát từ nhóm Bách-
Việt, thuyết ấy rất có giá-trị. Gần đấy sự
nghiên-cứu và phát-hiện về các phương-
diện : Khảo-cổ-học ; Nhân-loại-học ;
Ngữ-học ; Dân-tộc-học đủ chứng-minh
cho suy-đoán của Aurousseau vậy…."
***
NAM-TIẾN LẦN THỨ NHẤT._
" Trong nhóm Bách-Việt một ngành
thiên-di xuống phương Nam, khiến cho
dân-tộc ấy trở nên một dân-tộc có thể
bảo-tồn được chủng-tộc-tính nguyên-
thủy, chưa thành di dân bị Hán-tộc đồng-
hóa dung-hòa, do điều-kiện thuận-lợi của
tình-thế địa-lý. Cho nên trong khoảng bốn
năm từ 221 đến 214 trước Tây-nguyên,
NGUYỄN-CƯ-TRINH
4
nó có thể chống-cự với quân nhà Tần. Mà
từ khi Hán-Vũ-Đế diệt triều nhà Triệu,
( 111 tr. T.N. ) về sau, Việt-Nam tuy lệ-
thuộc vào Trung-Quốc hơn một ngàn
năm, thấm-nhuần văn-hóa Hán-tộc,
nhưng không bị Hán-tộc đồng-hóa và
thu-hút, kết-cục vào thế-kỷ X nó thoát-ly
Trung-Quốc, đứng độc-lập. Còn như Âu-
Việt phiá Đông, Mân-Việt, Nam-Việt
Triệu-Đà, các chi Việt-tộc ấy từ thời nhà
Hán đến nay đã hướng vào trung-tâm
Hán-tộc để đồng-hóa, kết-cục đến dung-
hòa thành dân Tầu ngày nay ở các tỉnh
Triết, Mân, Việt, Quế vậy ."
_ ( Lã-Sĩ-Bằng trong sách dẫn trên )
Lời nhận-định khách-quan trên đây của
một học-giả Tầu cho chúng ta thấy ý-nghĩa sâu
xa của câu thơ ngẫu hứng tự-nhiên trên kia của
Vua Trần-Nhân-Tông, giữa lúc quân Mông-Cổ
ba mặt xâm-lăng vào Việt-Nam, Ngài đã ứng-
khẩu để khích-lệ tướng-sĩ mình bằng sự nhắc-
nhở đến thời oanh-liệt ở kinh-đô Cối-Kệ của
Việt-tộc do Câu-Tiễn lãnh-đạo .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
5
( Cái nhục ở cố đô Việt-tộc xưa ông nhớ lấy,
Đất Thanh Nghệ còn mười vạn quân nữa .)
Kể đến bây giờ, thế-kỷ XIII sau kỷ-
nguyên, thì hai ngàn năm về trước Việt-tộc đã
một thời bá-chủ miền Nam sông Dương-Tử,
suốt Hoa-Nam, trung-tâm ở Chiết-Giang,
những thế-lực bành-trướng phiá Bắc đến tận
Sơn-Đông, phiá Tây đến Ba-Thục (Tứ-Xuyên)
và Vân-Nam. Theo sử sách Tầu đáng tin cậy
như Sử-ký Tư-Mã-Thiên, Hán-Thư, Việt-
Tuyệt-Thư, Ngô-Việt Xuân-Thu, cùng là
những khảo-chứng của các nhà Bác-cổ-học
Pháp như E. Chavannes, Cl. Madrolle…..
chúng ta biết được rằng hơn trăm năm sau Câu-
Tiễn ( 333 tr. K.N. ) nước Việt ở Chiết-Giang
bị quân Sở diệt, từ đó lìa tan xuống Giang-
Nam, rải-rác theo miền bờ biển và lục-địa như
Phúc-Kiến, Quảng-Đông, Quảng-Tây, Lĩnh-
Nam. Ở đấy họ hỗn-hợp với dân Thổ bản-xứ
NGUYỄN-CƯ-TRINH
6
trước mà lập thành các bộ-lạc hay quốc-gia
nhỏ. Các bộ-lạc nhỏ dần dần bị các bộ-lạc lớn
thôn-tính, số bộ-lạc linh-tinh ( Bách-Việt ) một
ngày một thu lại chỉ còn lại năm nhóm Việt-tộc
có hình-thức quốc-gia là Đông-Việt ở Ôn-Châu
hay Đông-Âu-Việt, Mân-Việt ở Phúc-Châu,
Nam-Việt ở Quảng-Châu, Tây-Âu và Lạc-Việt
ở phiá Nam Quảng-Tây và Bắc-phần Đông-
Dương ngày nay .
Nhóm Lạc-Việt là Tổ-tiên trực-tiếp của
dân-tộc Việt-Nam, theo ấn-chứng mới đây của
CL. Madrolle là họ Lạc trong Mân-Việt, Phúc-
Kiến do đường biển đến duyên-hải phương
Nam, vào Hải-Nam và Trung-châu sông Nhị và
sông Mã phiá Bắc Việt-Nam ngày nay. Truyện
Thần-thoại Sơn-Tinh Thủy-Tinh cho ta tưởng
đến cuộc tranh bá trên đất Giao-Chỉ, giữa dân
bản-xứ miền núi ( Indonésien - Mường ) với
dân miền bể Hải-Hậu di-thực đến dựng nên
nước Việt đầu tiên là Âu-Lạc hay Lạc-Hùng,
đóng đô ở dưới chân núi Tản-Viên, Tổ-sơn của
Việt-Nam vậy .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
7
Đấy là bước đầu Nam-tiến của Việt-tộc
trong hệ-thống Bách-Việt. Ở đây Lạc-Việt đã
tổ-chức thành quốc-gia phong-kiến đơn-sơ, các
bộ-lạc ở dưới quyền Tù-trưởng, Lạc-tướng,
Lạc-hầu, khai-khẩn các ruộng gọi là hùng-điền
tại Trung-châu sông Nhị-Hà hay Hồng-Hà vào
khoảng thế-kỷ VI trước T.N. .
Hùng-Vương đô ở Phong-Châu,
Ấy nơi Bạch-Hạc hợp dòng Thao-Giang.
Đặt tên là nước Văn-Lang,
Chia mười lăm bộ, bản chương cũng liền.
Phong-Châu, Phúc-Lộc, Chu-Diên,
Nhân trong địa chí về miền Sơn-Tây ;
Định yên, Hà-Nội đổi thay,
Ấy châu Giao-Chỉ xưa nay còn truyền.
Tân-Hưng là cõi Hưng, Tuyên,
Vũ-Ninh tỉnh Bắc, Đương-Tuyền tỉnh
Đông.
Thái, Cao hai tỉnh hôn đồng,
Ấy là Vũ-Định tiếp cùng biên manh.
Hoài-Hoan, Nghệ, Cửu-Chân, Thanh,
Việt-Thường là cõi Trị, Bình, Trung-
châu.
NGUYỄN-CƯ-TRINH
8
Lạng là Lục-Hải Thượng-Du,
Xa khơi Ninh-Hải thuộc vào Quảng-Yên.
Bình-Văn, Cửu-Đức còn tên,
Mà trong cương giới sơn xuyên chưa
tường.
Trước sau đều gọi Hùng-Vương,
Vua thường nối hiệu, quan thường nối
tên.
Lạc-Hầu là Tướng điều-nguyên,
Vũ là Lạc-tướng giữ quyền quân-cơ.
Đặt quận bố-chính hữu tư,
Chức danh một bực, đẳng uy một loài .
***
NAM - TIẾN LẦN THỨ HAI._
Khi nước Tần _ ( V.N. đời Hồng-
Bàng năm 2864 T.Q. Vua Thận-Tinh-Vương
nhà Chu, năm 5. Tần đánh Thục và lấy được
nước ấy.) _ ( Hoàng-Việt Giáp-Tý _ Nguyễn-
Bá-Trác ) ở phương Bắc thống-nhất các chư-
hầu tiểu-quốc nhà Chu, tiêu-diệt các nước Việt
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
9
miền Nam sông Dương-Tử lập thành Quận,
Huyện Trung-Quốc, diệt nước Thục ở Tứ-
Xuyên vào năm 316 tr. T.N., các di-dân Bách-
Việt không chịu chính-sách bạo-ngược nhà
Tần, bèn tìm xuống Giao-Chỉ. Trong số ấy
dòng-dõi Vua Thục là Thục-Phán đem tập-
đoàn chống-cự quân Tần, chạy xuống Văn-
Lang của Lạc-Vương, kết cục đã hạ được Vua
Lạc xuống làm Tù-trưởng giữ miền đất Mê-
Linh làm Thái-ấp, lại thần-phục được các bộ-
lạc Tây-Âu ở phiá Nam Quảng-Tây lập ra nước
Âu-Lạc, và đóng đô, xây thành Trôn-Ốc tại
thành-đô, rồi Cổ-Loa, xưng hiệu là An-Dương-
Vương để nhớ lại cố hương Hoa-Dương và đặt
tên đất nước là Thục ở Tứ-Xuyên ( Ba-Thục )
đã mất với Tần .
Đấy là cuộc Nam-tiến lần thứ hai của hệ-
thống Bách-Việt. Lần này Thục-Phán đã rút
kinh-nghiệm tranh-đấu với Tần, nên đã xây-
dựng nước Âu-Lạc thành một nước vững vàng
hơn, bằng cách đem chế-độ qui-mô của nước
Thục cũ để đoàn-kết các bộ-lạc Việt-tộc, đem
văn-hóa Hoa-Dương sở-trường dạy cho dân
NGUYỄN-CƯ-TRINH
10
Âu-Lạc như xây thành Trôn-Ốc, Cổ-Loa, chế-
tạo binh-khí mới như nỏ bằng tre, may dệt quần
áo, nuôi ngựa, tinh-thần độc-lập dân-tộc. Sử
Tầu chép :
" Tần-Thủy-Hoàng tham lợi sừng
tê-giác, ngà voi, chim trả, ngọc thạch của
người Việt, phái Đồ-Thư chỉ-huy 50 vạn
quân, chia làm 5 cánh, một đóng ở đèo
Đàm-Thành, một đóng ở trại Cửu-Nghi
( Hồ-Nam ), một đóng ở Phiên-Ngung
( Quảng-Đông ), một giữ đất Nam-Dã
( Dự-Chương ), một tập-trung ở sông Dự-
Can ( Quảng-Tây ). Suốt ba năm quân-
lính không rời áo-giáp, buông trùng dây
cung. Quan-giám Sử-Lộc phái xuống,
thấy không có đường vận lương, mới cho
đào một đường thủy để làm vận-hà ngõ
hầu chống nhau với người Việt. Chúa
Tây-Âu là Dịch-Vụ-Tống bị giết. Tất cả
dân Việt vào rừng rậm ở với cầm-thú chứ
không chịu làm nô-lệ cho quân Tần.
Chúng chọn lấy người tài tôn lên làm
Tướng thống-lĩnh quân đánh quân Tần
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
11
ban đêm. Quân Tần đại bại, Đô-Úy Đồ-
Thư bị giết, thây chết máu chảy nhiều vô
kể.
" Bấy giờ Tần-Thủy-Hoàng mới cho
đầy các tội-nhân xuống cư-trú để bổ-túc
quân-lính mà cầm-cự với người Việt ."
_ ( Sách Hoài-Nam-Tử _ th. Nhân-Môn-
Huấn )
Cái tinh-thần Việt-tộc của Âu-Lạc ấy, có
vẻ quyết-liệt đối với Hán-tộc, nhưng đối với
Nam-Việt của Triệu-Đà lại tỏ ra sẵn-sàng nhân-
nhượng, có lẽ họ coi đất Nam-Việt như thuộc
về cùng một nòi Việt-tộc, cho nên Âu-Lạc của
họ Thục với Nam-Việt của họ Triệu đã sớm
thân-gia, mà trong Việt-sử Việt-Nam vẫn kể
nhà Triệu như một triều-đại của mình .
Triệu-Vương thay nối ngôi Trời,
Định đô cứ hiểm đóng ngoài Phiên-
Ngung.
Loạn Tần gặp lúc Ngu-hồ,
Trời Nam riêng mở dư đồ một phương.
Rồng Lưu bay cõi Phiêm-dương,
NGUYỄN-CƯ-TRINH
12
Mới sai Lục-giả đem sang ấn-phù.
Cõi Nam lại cứ phong cho,
Biên-thùy gìn-giữ cơ-đồ vững an.
Gặp khi gà Lữ gáy càn,
Chia đôi Hán - Việt lại toan sinh lòng.
Vì ai cấm chợ ngăn sông,
Để cho dứt nẻo quan thông đôi nhà.
Thân chinh hỏi tội Tràng-sa,
Mân, Âu muôn dặm mở ra một lần.
Hán-văn lấy đức mục-lân,
Sắc sai Lục-giả cựu thần lại sang.
Tỉ-thư một bức chiếu vàng,
Ngỏ điều ân ý, kể đường thủy chung.
Triệu-Vương nghe cũng bằng lòng,
Mới dâng tạ biểu một phong vào chầu.
Ngoài tuy giữ lễ chư-hầu,
Trong theo hiếu đễ làm đầu nước ta .
_ ( Đại-Nam Quốc-Sử Diễn-Ca )
Đấy là cái tinh-thần dân-tộc sau này của
" Bình Ngô đại cáo " :
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
13
" Duy ngã Đại-Việt chi quốc, thực vi
văn hiến chi bang. Sơn xuyên chi phong
vực ký thù, Nam Bắc chi phong tục diệc
di.
" Tự Triệu, Đinh, Lý, Trần chi triệu
tạo ngã quốc dữ Hán, Đường, Tống,
Nguyên nhi các đế nhất phương ."
( Như nước Việt ta trước, vốn xưng
văn-hiến đã lâu. Sơn-hà cương-vực đã
chia, phong-tục Bắc Nam cũng khác.
( Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần gây nên
độc-lập, cùng với Hán, Đường, Tống,
Nguyên làm chủ một phương .)
_ ( Bình Ngô Đại-cáo )
Nhưng đấy là kết-quả sau khi Hán-tộc đã
chiến-thắng Việt-tộc ở Giao-Chỉ mặc dầu bao
phen nổi dậy với tiếng gọi giống-nòi của họ
NGUYỄN-CƯ-TRINH
14
Trưng, họ Triệu, họ Mai, họ Phùng, mãi đến họ
Ngô, thế-kỷ thứ X mới thoát-ly khỏi ách đô-hộ
của Hán-tộc để thực trưởng-thành một quốc-gia
độc-lập như ý muốn của dân-tộc tự-do khai-
phóng theo tinh-thần văn-hóa Đông-Nam-Á.
Nhưng muốn được sinh-tồn với dân-tộc-tính,
Lạc-Việt không chịu đồng-hóa vào Hán-tộc thì
phải mở đường Nam-tiến xa nữa, xuống phiá
Nam bán-đảo Ấn-Độ Chi-Na, theo bờ biển và
dải núi Trường-Sơn, như lời khuyên của Trạng-
Trình : " Hoành-Sơn nhất đái vạn đại dung
thân "
Đấy là điều-kiện sống còn của dân-tộc
muốn bảo-tồn dân-tộc-tính, và đấy cũng là vận-
mệnh lịch-sử của Việt-Nam kể từ thế-kỷ thứ X
cho đến nay trải qua mấy triều-đại Đinh, Lý,
Trần, Lê, Nguyễn, đổ bao xương máu để tranh-
thủ lấy một chút nghĩa sống trên mặt đất .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
15
* Chiêm Việt Tranh Hùng ._
Nhưng Trường-Sơn đâu phải là đất vô
chủ. Trong khi Việt-tộc bị đô-hộ trên đất Giao-
Chỉ và Cửu-Chân, sau khi họ Trưng thảm-bại,
thì miền Nam Trung-phần ngày nay ở quận
Nhật-Nam, Chiêm-tộc quật-khởi, xây-dựng
quốc-gia, hiệu là Lâm-Ấp, thoát-ly ảnh-hưởng
Hán-tộc, hoàn-toàn theo văn-hóa, xã-hội,
chính-trị, pháp-chế của Ấn-Độ. Cuộc vận-động
độc-lập ấy trải qua bốn thời-kỳ từ 100 đến 192
Khu-Liên lãnh-đạo dân Chiêm, giết Huyện-
lệnh Hán mà tự lập. Theo An-Khê-Khảo Lịch-
sử Trung-Kỳ :
" Nước Chiêm-Thành trước kia
thuộc về đời Hán thì chỉ là một huyện
Tượng-Châu đến đời Tần, đời
Đường thì gọi là Lâm-Ấp, ở từ quận
Nhật-Nam vào cho đến Chân-Lạp,
nghĩa là về khoảng Quảng-Bình, Quảng-
Trị cho đến Bình-Thuận bây giờ. Nước ấy
không biết rõ lập quốc từ đời nào, trong
sử chép rằng năm Nhâm-Dần ( 102 ) đời
NGUYỄN-CƯ-TRINH
16
Vua Hòa-Đế nhà Đông-Hán
vì phiá Nam quận
Nhật-Nam có người Tượng-Lâm
hay đến cướp phá quận Nhật-Nam, nên
Vua Hán mới lập ra làm huyện Tượng-
Lâm, sai quan cai-trị. Khi ấy thì xứ
Tượng-Lâm cũng bị nhà Hán lấy làm
quận, huyện ."
_ ( Nam-Phong số 99 )
Từ khi Chiêm-tộc lập quốc Lâm-Ấp độc-
lập, vì đất nước eo-hẹp, một bên núi, một bên
là bể, thiếu đất phì-nhiêu để cầy-cấy, cho nên
luôn luôn ngó lên các Trung-châu phương Bắc
như Nhật-Nam, Cửu-Đức, Giao-Châu, nên
không ngớt đòi phen đem quân lên xâm-chiếm.
Sử sách Tầu ghi chép trong thời-kỳ Việt-
tộc bị đô-hộ, quân Lâm-Ấp vào đánh Giao-Chỉ:
" Năm 240 Lâm-Ấp đem quân xâm-
lăng Giao-Chỉ, Cửu-Chân, cướp mất
thành, ấp ."
_ ( Tam-Quốc-Chí Lục-Dậu Truyện )
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
17
" Giao-Châu và Lâm-Ấp đánh nhau
ở Cổ-Chiếu-Loan, mất đất Khu-Túc, lại
tiến vào xâm-chiếm lấy huyện Thọ-Linh,
nay là Thừa-Thiên.
" Năm 347 Vua Lâm-Ấp là Phạm-
Văn đem quân vây đánh Nhật-Nam, giết
5, 6 ngàn người, chiếm-cứ Nhật-Nam.
" Năm 348 lại đánh Cửu-Chân, giết
hại nhân-dân 8, 9 phần 10. Đô-hộ Tầu
đem quân Giao - Quảng đi đánh, bị thua ở
Lô-Dung.
" Năm 399 Phạm-Hồ-Đạt, Vua
Lâm-Ấp, tuy triều-cống Trung-Hoa mà
vẫn đem quân vào xâm-chiếm đất bảo-hộ
của Tầu là Nhật-Nam, bắt Thái-thú, lại
tiến quân vào Cửu-Đức.
" Năm 407 vào cướp Nhật-Nam.
" Năm 413 vào cướp đánh Cửu-
Chân.
" Triều Vua Lâm-Ấp thứ III là họ
Phạm-Dương-Mai ( 414 - 417 ), một mặt
vào triều-cống nước Tầu, một mặt hàng
năm vào đánh chiếm Nhật-Nam, Cửu-
NGUYỄN-CƯ-TRINH
18
Chân, Cửu-Đức, chém giết rất nhiều, làm
cho Giao-Châu kiệt-quệ.
" Trong khoảng từ 430 - 441 triều
Phạm-Dương-Mai đệ-nhị, vào năm 433
đem chiến thuyền hơn một trăm vào đánh
Giao-Châu, chiếm lấy quận Cửu-Đức, sai
sứ sang Tầu triều-cống và xin lãnh đất
Giao-Châu làm An-Nam Tướng-quân
Lâm-Ấp-Vương. Tống-Văn-Đế không
nghe, phái Thứ-sử Giao-Châu Đàn-Hòa-
Chi đánh dẹp, bị thua, lại phái Tướng
Tôn-Xác đi đánh tập-kích mới phá nổi
thành Champapura.
" Đến khi Phạm-Dương-Mai đời thứ
hai Vua Lâm-Ấp chết, nước Phù-Nam,
tức Chân-Lạp phiá Nam Lâm-Ấp, chiếm
nước Lâm-Ấp, người Phù-Nam là Cửu-
Thù-La tự xưng làm Vua, bị con cháu,
chắt Phạm-Dương-Mai là Phạm-Chú-
Nông đánh đuổi. Nhưng rồi Tề-Vũ-Đế,
năm 492 phong cho Phạm-Chú-Nông làm
An-Nam Tướng-quân Lâm-Ấp-Vương và
Lương-Vũ-Đế năm 503 cũng phong cho
Kiều-Trần-Như, Vua Phù-Nam làm An-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
19
Nam Tướng-quân Phù-Nam-Vương. Ý
hẳn chính-sách các Vua Tầu bấy giờ đã
thay đổi, muốn chia để trị, đề-phòng sự
liên-kết giữa Phù-Nam, Lâm-Ấp với các
phong-trào độc-lập ở Giao-Châu, như
sách Tầu ghi chép về Mai-Thúc-Loan
khởi-nghĩa ở Hoan-Châu sau này :
" Huyền-Tông khai nguyên thập
niên, An-Nam tặc súy Mai-Thúc-Loan dữ
Lâm-Ấp, Chân-Lạp-quốc thông mưu, hãm
An-Nam phủ, cứ Châu xưng Hắc-Đế ."
( Triều Vua Đường-Huyền-Tông
năm khai nguyên thứ X ( Tây-lịch 722 ),
đầu giặc An-Nam là Mai-Thúc-Loan cùng
với nước Lâm-Ấp, nước Chân-Lạp thông
mưu, vây hãm An-Nam Đô-hộ-phủ,
chiếm-cứ Giao-Châu xưng là Hắc-Đế .)
NGUYỄN-CƯ-TRINH
20
" Vào thời nhà Lương bên Tầu,
nhân-dân Giao-Châu cũng vẫn quật-khởi,
Triệu-Quang-Phục phá quân Lương, Lý-
Phật-Tử xưng Đế, dựng nên triều Tiền-Lý
độc-lập hơn 60 năm. Trong khoảng thời-
gian ấy quân Lâm-Ấp đánh vào Nhật-
Nam 543, bị tướng của Lý-Nam-Đế vào
đánh ở quận Cửu-Đức (Hà-Tĩnh) quân
Lâm-Ấp bỏ chạy về nước. Sau khi nhà
Tiền-Lý mất về nhà Tùy bên Tầu, Vua
Tùy sai danh tướng Lưu-Phương đánh
xuống Lâm-Ấp vào đến quốc-đô, đoạt
cướp của-cải rồi mới thu quân về.
" Bị Lưu-Phương đánh phá, Vua
Lâm-Ấp là Phạm-Chí dâng biểu xin triều-
cống, đến năm 640 Phạm-Đầu-Lê nối
ngôi, vẫn giữ triều-cống nhà Đường. Cho
đến 749 Vua Lâm-Ấp là Chư-Cát-Địa đổi
quốc-hiệu là Hoàn-Vương-Quốc. Người
nước Hoàn-Vương lại sang quấy nhiễu
Giao-Châu, chiếm lấy châu Hoan, châu
Sí. Mãi đến năm 808, Vua Đường sai đô-
hộ Trương-Châu đem binh thuyền vào
đánh quân Hoàn-Vương, giết hại rất
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
21
nhiều, Vua nước ấy phải lui về phương
Nam vào Quảng-Nam, Quảng-Nghiã bây
giờ, và đổi quốc-hiệu là Chiêm-Thành từ
đấy ."
***
NAM - TIẾN LẦN THỨ III ._
* Ta Chiếm Đất Chiêm - Thành ._
Trở lên chúng ta lược qua lịch-sử
quật-cường của Chiêm-tộc, một dân-tộc dũng-
mãnh dẻo dai, trải qua ngót một ngàn năm từ
thế-kỷ I đến thứ-kỷ IX đã tranh-hùng tranh-bá
với Hán-tộc trên bán-đảo Đông-Dương, nhiều
phen làm cho Hán-tộc phải ghê sợ, trong khi
Việt-tộc còn lại trên cõi Lĩnh-Nam cơ hồ bị
hoàn-toàn thâu-hóa tiêu-diệt .
Nhưng chúng ta cũng thấy trước khi Việt-
tộc thoát-ly khỏi ách đô-hộ của người Tầu, thì
Chiêm-tộc cũng đã kiệt-quệ trong cuộc chiến-
NGUYỄN-CƯ-TRINH
22
tranh một mất một còn với Hán-tộc. Chẳng qua
đến khi Việt-tộc thiết-lập thành một nước độc-
lập ở Giao-Châu thì cũng chỉ đến thay-thế Hán-
tộc trên đường Nam-tiến, khiến cho Chiêm-tộc
bị hoàn-toàn Việt-hóa hơn là Hán-hóa vậy.
Việt-tộc lập quốc trong điều-kiện khó-
khăn nguy-hiểm bội phần so với Chiêm-tộc,
phiá Bắc phải đương đầu với đối-phương chính
là Hán-tộc, phiá Tây phải tranh-thủ với một
đối-phương chẳng kém hùnh-mạnh là Thái-tộc
mà đại-biểu bấy giờ là Nam-Chiếu, Đại-Lịch từ
Vân-Nam tràn xuống, liên-kết với dân Mán,
Mường miền Sơn-Động, từng chiếm-cứ đồng-
bằng Bắc-Việt hàng mười năm .
Vận-mạng độc-lập của Việt-tộc chỉ bắt
đầu củng-cố vững vàng là kể từ thời nhà Lý với
võ-công oanh-liệt của Lý-Thường-Kiệt, phiá
Bắc tấn-công lên đất nhà Tống, phiá Tây chinh-
phục được họ Nùng của nước Đại-Nguyên-
Lịch, đồng-hóa dân Sơn-Động, phiá Nam uy-
phục được Chiêm-Thành. Nhưng với cái ý-chí
Đại-Việt của Vua Lý-Thánh-Tông, muốn giữ
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
23
thế quân-bình chia ba chân vạc trên bán-đảo
Đông-Nam-Á này mà đóng cửa vào Trung-
châu Bắc-Việt thì sớm chầy cũng sẽ mất với
thế-lực của Bắc-phương. Ngược lên phương
Bắc lấy lại bờ cõi Nam-Việt xưa của họ Triệu
thì rất khó-khăn, tuy nhất thời có thắng được
Tống ở Châu Khâm, Châu Liêm. Nhìn sang
phiá Tây thì rừng núi hiểm-trở, lại vướng thế-
lực của Đại-Nguyên-Lịch cũng đang nhòm
xuống phương Nam, nhất là đồng-bằng Bắc-
Việt. Vậy chỉ còn một đường sinh tử là mở
đường Nam-tiến. Nhưng với Vua Lý-Thái-Tôn
thì bắt đầu uy-phục bắt Chiêm-Thành, Chân-
Lạp phải triều-cống xưng thần. Theo Việt-sử
chép :
" Vua bảo tả, hữu : “ Tiên-Đế
thăng-hà đã 16 năm mà nước Chiêm-
Thành chưa có một sứ-thần nào sang
nước ta, phải chăng oai-lực của trẫm
chưa đến được nước ấy hay là chúng cậy
có núi, sông hiểm-trở đó chăng ?” Quần-
thần thưa : “ Đức tuy đã đến mà oai chưa
được rộng. ” Vua cho là phải mới cất
NGUYỄN-CƯ-TRINH
24
quân đi đánh Chiêm-Thành để thị-uy vậy.
Đánh được quân Chiêm chỉ bắt tù-binh
đem về, chứ không chiếm đất. Có chiếm
đất là từ Lý-Thánh-Tông, năm 1069 thân-
chinh đánh Chiêm-Thành, bắt được Vua
Chiêm là Chế-Củ, thâu nhận Châu Địa-
Lý, Châu Ma-Linh và Châu Bố-Chính
( Quảng-Bình, Quảng-Trị ) của Chế-Củ
dâng chuộc tội .
" Năm 1075 Vua Lý-Nhân-Tông sai
Lý-Thường-Kiệt vào kinh-lý, vẽ địa-đồ
hình- thế, đổi tên Châu Địa-Lý làm Lâm-
Bình, Ma-Linh làm Minh-Linh. Đến năm
1103 Chiêm-Thành lại khôi-phục lại ba
Châu đã mất, Lý-Thường-Kiệt lại phải
đem quân vào lấy lại.
" Năm 1132 Chiêm-Thành liên-
minh với Chân-Lạp đem quân ra đánh
Nghệ-An, bị tướng nhà Lý là Dương-
Anh-Nhĩ đánh thua phải lùi, từ đấy về
sau, trong thời Lý, Chiêm-Thành còn mấy
lần quấy-nhiễu Nghệ-An vào những năm
1117 và 1218 nhưng đều thất-bại, lại chịu
triều-cống. Tuy triều-cống nhưng vẫn
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
25
muốn đòi lại ba Châu đã mất, nên đến
năm 1252 Chiêm-Thành lại đem chiến-
thuyền vào cướp biên-giới và sai sứ cầu
xin lại đất đã dâng. Vua Trần-Thái-Tông
lại phải thân-chinh đi đánh, bắt được
Vương-phi là Bố-Gia-La rồi trở về.
" Năm 1301 Vua Trần-Nhân-Tông,
sau khi xuất-gia đầu Phật, có sang giao-
hảo với Vua Chiêm, bấy giờ là Chế-Mân,
hứa gả Công-chúa Huyền-Trân để liên-
kết thân-tình. Chế-Mân dâng sính-lễ hai
Châu Ô, Lý. Nước Chiêm lại trở về biên-
giới Hoàn-Vương thời nhà Đường, nghĩa
là từ Hoành-Sơn phiá Nam trở vào. Đến
năm 1307, Vua Trần-Anh-Tông thâu-
nhận Châu Ô, Châu Lý đổi tên là Thuận-
Châu và Hoá-Châu sai Đoàn-Nhữ-Hài
vào kinh-lý, đặt nền cai-trị, chiếu-dụ cư
dân, chia ruộng đất cho cầy-cấy ."
Cái dây thân-tình giữa Chiêm - Việt
không được bền lâu, mà sớm đoạn-tuyệt sau
khi Chế-Mân chết, Huyền-Trân bị cướp trở về.
Từ thân-gia đổi thành oan-gia, bởi vì Vua
NGUYỄN-CƯ-TRINH
26
Chiêm kế-vị là Chế-Chí bị Vua Trần-Anh-
Tông lừa bắt đem về nước rồi chết ở Gia-Lâm,
từ đấy Chiêm - Việt lại có điều thù oán mãi.
* Chiêm - Tộc Quật - Khởi Lần Chót ._
Nhà Trần kể từ Vua Dụ-Tôn trở đi
bắt đầu suy-nhược, mà Chiêm-Thành có Vua
anh-dũng là Chế-Bồng-Nga hết sức tập trận,
luyện binh nhằm đánh Việt-Nam để trả-thù, rửa
hận. Cho nên vào năm 1367, Vua Trần-Dụ-Tôn
sai Thế-Hưng và Tử-Bình đi đánh Chiêm-
Thành, bị quân Chiêm phục-kích bắt được Thế-
Hưng, Tử-Bình bỏ chạy. Năm sau Vua Chiêm
cho sứ sang đòi đất Hóa-Châu. Nam 1376 quân
Chiêm sang đánh phá ở Hóa-Châu, Vua Duệ-
Tôn phải thân-chinh đi đánh, mặc dầu đình-
thần hèn nhát cố can. Vua vào đóng quân ở cửa
Nhật-Lệ ( Quảng-Bình ) ở lại một tháng để
luyện-tập sĩ-tốt. Sang năm 1377 kéo quân vào
đánh thành Đồ-Bàn, tỉnh Bình-Định bây giờ.
Khi quân của Duệ-Tôn gần đến thành bị quân
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
27
Chiêm đổ ra vây, quân ta thua to, Duệ-Tôn chết
trong trận cùng với tướng sĩ chết rất nhiều. Đỗ-
Tử-Bình lĩnh hậu quân không đến cứu, Lê-
Quý-Ly bỏ chạy về .
Quân Chiêm-Thành đã phá được quân ta,
giết được Vua Duệ-Tôn, quyết chí một mất một
còn với Việt-Nam phen này trên bán-đảo. Cho
nên Chế-Bồng-Nga liền đem quân đánh vào
Thăng-Long, cướp phá không ai chống giữ nổi.
" Năm 1378 Chiêm-Thành lại sang
đánh Nghệ-An, vào sông Đại-Hoàng lên
đánh kinh-đô Thăng-Long.
" Năm 1380 quân Chiêm lại sang
phá Thanh-Hóa, Nghệ-An, bị Quý-Ly
đánh đuổi được.
" Năm 1382 quân Chiêm lại sang
cướp Thanh-Hóa, bị Quý-Ly và Đa-
Phương đuổi được đến Nghệ-An.
" Năm 1384 Chế-Bồng-Nga với
tướng La-Khải đem quân đi đường núi
vào đóng tận Quảng-Oai. Nghe tin,
NGUYỄN-CƯ-TRINH
28
Thượng-Hoàng Trần-Nghệ-Tông cùng
với Vua bỏ kinh-đô chạy sang đông-ngạn.
" Nhưng rồi Chế-Bồng-Nga bị
tướng nhà Trần là Khát-Chất phục-kích
giết ở địa-hạt Hưng-Yên. Từ đấy về sau
Chiêm-Thành mới nhụt bớt nhuệ-khí,
trong nước lục-đục, hai con Chế-Bồng-
Nga sang hàng Việt-Nam đều được phong
Hầu.
" Bước sang thế-kỷ XV, tướng nhà
Hồ là Đỗ-Mẫn đem quân sang đánh
Chiêm-Thành, Vua Chiêm cho sứ sang
dâng đất Chiêm-Động, Cổ-Lũy để bãi-
binh. Quý-Ly phân đất ấy ra bốn Châu là
Thăng, Hoa, Tứ, Nghiã, nay thuộc
Quảng-Nam, Quảng-Nghiã vậy ."
Đến lúc này cái lịch-sử chiếm-lĩnh
Chiêm-Thành đã là ba thời-kỳ : thời-kỳ thứ
nhất với Vua Lý-Thánh-Tông ( 1069 ) chiếm
lĩnh Châu Địa-Lý, Ma-Linh và Bố-Chính là đất
Nhật-Nam xưa thuộc Tầu .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
29
Thời-kỳ thứ nhì Vua Trần-Anh-Tông
( 1306 ) thu-nhận Châu Ô, Châu Lý cũng chưa
phải lãnh-thổ của Chiêm-Thành xưa .
Thời-kỳ thứ ba, Hồ-Hán-Thương ( 1402 )
chiếm-lĩnh đất Chiêm-Động và Cổ-Lũy đất cũ
của Chiêm-Thành Tượng-quân .
Như thế là từ thế-kỷ X đến thế-kỷ XV,
theo dải Hoành-Sơn vào đến Bình-Thuận, Việt-
Nam đã mở lãnh-thổ của mình xuống 3 phần 5
lãnh-thổ Chiêm-Thành vậy. Từ 1069 đến 1400
nước ta lấy 5 xứ của Chiêm-Thành đã ngót 400
năm mà chưa thấy kinh-lý như đất của mình.
Quốc-thổ tuy mở rộng nhưng không nghĩ đến
di dân khai-khẩn, chỉ cho mấy đạo binh đến
đóng đồn phòng ngự như thể bảo-hộ, mỗi năm
thu thuế và thúc dân bản-xứ phải triều-cống
Vua mình. Việc cai-trị nội-bộ vẫn giao cho
người bản-xứ lo liệu lấy, chỉ đặt có một Quan
biên-trấn trọng-thần kiêm-lĩnh như vào năm
1313 ông Đỗ-Thiên-Nghiễn làm Kinh-lược-sử
cả đất Nghệ-An và đất Lâm-Bình. Khi nào định
xuất quân đánh dẹp mới sai tướng đem quân ra
NGUYỄN-CƯ-TRINH
30
trọng trấn, như năm 1353 sai Trương-Hán-Siêu
làm Trấn-thủ Hóa-Châu. Về xứ Hóa-Châu thì
mãi đến năm 1361 mới đắp thành Hóa-Châu,
về sau Hồ-Quý-Ly mới sửa-sang lại. Xem thế
thì nước ta khi trước không phải vì mục-đích di
dân chiếm đất Chiêm-Thành mà là vì cái chủ-
nghiã đế bá muốn bắt các nước nhỏ bên cạnh
mình phải thần-phục, theo cái nghiã nước nhỏ
thờ nước lớn " Tiểu sự đại "
nhưng " Đại " cũng có trách-nhiệm đối với
" Tiểu " .
Sự thực chính-sách thực-dân của Việt-
Nam chỉ bắt đầu với họ Hồ. Năm 1402 Hồ-
Hán-Thương cho làm con đường thiên-lý từ
Tây-đô Thanh-Hóa chạy đến Hóa-Châu, lấy đất
Chiêm-Động, Cổ-Lũy phân ra bốn Châu, đặt
chức An-phủ-sứ Lộ-thăng-hoa để cai-trị, dời
dân xứ Bắc, người có tư-bản mà thiếu ruộng
vào ở đấy. Những dân ấy tuy vào lập-nghiệp
khẩn-hoang nhưng cũng thúc vào quân-ngũ, hễ
khi có việc thì đi đánh giặc, khi không việc
quân thì về làm ruộng. Lại sức cho dân, ai nộp
được trâu bò thì phong Tước, trâu bò ấy cấp
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
31
cho dân di-cư để cầy. Họ Hồ không những mở
đạo-lộ, lại còn mở thủy-lộ trên lục-địa để tiện
đường chuyển-vận giao-thông. Năm 1404 Hán-
Thương cho đào con sông vận-hà từ Tân-Bình
đến Thanh-Hóa. Như thế đủ thấy tầm vĩ-đại về
sự khai-khẩn quốc-thổ của họ Hồ. Đời Hậu-
Trần, đất Thuận-Hóa đã trở nên địa-điểm hậu-
cứ trọng-yếu để Lê-Thái-Tổ sử-dụng đánh quân
Minh, như Mộc-Thạch đã tuyên-bố với
Trương-Phụ : " Hoá-Châu núi cao sông rộng
chưa dễ đã lấy được." Trương-Phụ cũng nói :
" Ta có làm người được cũng ở đất Hóa-Châu,
mà nếu làm ma cũng ở đất Hóa-Châu ; Hóa-
Châu mà không lấy được thì không còn mặt
mũi nào để về trông thấy Chúa Thượng." .
Qua những lời nói ấy của các đại-tướng
nhà Minh chúng ta có thể suy-đoán mà biết mất
Hoá-Châu, Chiêm-Thành khó lòng giữ được
nước, mà việc Nam-tiến của dân Việt cũng là
cái kế bảo-tồn dân-tộc đối với Bắc-phương đế-
quốc hùng-cường vậy .
NGUYỄN-CƯ-TRINH
32
Nhưng Chiêm-tộc là một dân-tộc có bản-
lĩnh cương-ngạnh, không dễ khuất-phục. Sau
khi thấy quân Minh đánh bại nhà Trần, dầy xéo
đất nước Việt, các Vua Chiêm tính kế liên-
minh với nhà Minh để lại xin lĩnh đất cũ thay-
thế Việt-tộc trên bán-đảo Đông-Nam-Á. Nào
ngờ Việt-tộc lại sớm phục-hưng với nhà Lê. Và
nhà Lê, từ Lê-Thái-Tông, năm 1434, năm
1444, năm 1445, Chiêm-Thành được lòng nhà
Minh lại vào đánh cướp Hóa-Châu, bị quân ta
đánh bại. Đến thời Lê-Thánh-Tông, vào năm
1470 Chiêm-Thành đem đại quân 100.000
đánh Thuận-Hóa. Lần này 1471 Vua Lê-
Thánh-Tông sắp đặt một trận đại qui-mô để
quyết làm cho Chiêm-Thành kiệt-quệ. Thắng
trận Chà-Bàn, kinh-đô Chiêm-Thành, bắt được
Vua Chiêm, Vua Lê-Thánh-Tông lấy tất cả đất
đai từ Thạch-Bì-Sơn ( Tuy-Hòa ) về Bắc làm
thành Thừa-Tuyên Quảng-Nam, đặt Phủ,
Huyện, ra lệnh khắc bia trên núi gọi là núi Đá-
Bia. Còn bao nhiêu đất đai của Chiêm-Thành
còn lại 1 phần 5 Vua chia thành ba nước nhỏ là
Chiêm-Thành, Hoa-Anh và Hoa-Phan phong
cho tướng Chàm làm Chúa .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
33
Mở Quảng-Nam, đặt Trấn Ninh
Đề phòng muôn dặm oai linh ai bì.
Kỳ công núi có Đá-Bia,
Thi văn các tập Thần-Khuê còn truyền .
_ ( Đại-Nam Quốc-Sử Diễn-Ca )
Nhân-dân Phú-Yên có lập Miếu thờ Vua
Lê-Thánh-Tông tại thôn Long-Uyên, quận
Tuy-An, hiện còn đôi câu-đối :
" Giang-sơn khai-thác hà niên,
phụ lão tương truyền Hồng-Đức sự.
" Trở đậu hinh hương thử địa,
thanh linh trường đối Thạch-Bì cao ".
( Giang-san khai-thác năm nào,
phụ lảo còn truyền công Hồng-Đức.
( Lễ kính hương thơm đất ấy,
danh thiêng muôn thủa ngọn Đá-Bia ).
( Nguyễn-Đình-Tư _ " Non Nước Phú-Yên )
***
NGUYỄN-CƯ-TRINH
34
NAM - TIẾN VỚI NHÀ NGUYỄN ._
Với bia đá khắc trên đỉnh núi Đá-Bia hay
Thạch-Bì ở Tuy-Hòa, tưởng như cuộc xung-đột
Chiêm - Việt chấm-đứt từ đấy, mà đường Nam-
tiến của dân Việt cũng dừng. Nào ngờ xẩy ra
việc Nam - Bắc phân-tranh trong lịch-sử Việt-
Nam, Nguyễn - Trịnh tị-hiềm quyền Chúa, Vua
Lê chỉ còn hư vị tượng-trưng cho đơn-vị dân-
tộc thống-nhất bất-phân, Chúa Nguyễn vào
Nam, Chúa Trịnh đất Bắc. Nhưng chính có sự
phân-tranh ấy mà cuộc Nam-tiến càng được
thúc-đẩy .
Vào khoảng năm Thuận-Bình đời Lê-
Trung-Tông ( 1549 ), Nguyễn-Hoàng làm quan
với nhà Lê, từng giúp Vua Lê đánh Mạc, chém
được tướng của Mạc là Trịnh-Chí, được nhà
Vua khen : " Thực là cha hổ sinh con hổ ! "
Bấy giờ Trịnh-Kiểm là Hữu-tướng triều Lê,
cầm giữ binh quyền, chuyên chế mọi việc, hãm
hại Tả-tướng Lãng Quận-công Nguyễn-Uông,
anh ruột Nguyễn-Hoàng. Nguyễn-Hoàng thấy
thế cáo bệnh để giữ mình, ngầm cho người
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
35
xuống Hải-Dương hỏi nhà Lý-Học trứ-danh
Nguyễn-Bỉnh-Khiêm, được Bỉnh-Khiêm cho
câu sấm :
" Hoành-sơn nhất đái vạn đại dung thân !"
( Một dải núi ngang có thể nương thân
muôn đời ! )
Phải chăng câu sấm trên đây ứng-dụng
vào cho vận-mệnh của cả dân-tộc Việt-Nam
hay là cho riêng cá-nhân nhà Nguyễn là
Nguyễn-Hoàng lúc bấy giờ ?
Dù sao Nguyễn-Hoàng đã hiểu câu nói
muốn ám-chỉ vào cho mình nên ngầm vận-
dụng với chị ruột là Ngọc-Bảo, vợ Trịnh-Kiểm
để cho mình vào trấn đất Thuận-Hóa. Bấy giờ
Thuận-Hóa mới dẹp yên, tuy nhà Lê đã đặt
Tam-ty và Phủ, Huyện để cai-trị nhưng nhân-
dân vẫn chưa thuận-hòa một lòng. Thấy
Nguyễn-Hoàng xin vào đấy, Trịnh-Kiểm bằng
lòng ngay và dâng biểu lên Vua rằng : " Thuận-
Hóa là nơi quan-trọng, quân và của do đấy mà
ra. Buổi quốc-sơ nhờ đấy mà nên nghiệp lớn.
NGUYỄN-CƯ-TRINH
36
Nay lòng dân hãy còn giáo-giở, nhiều kẻ vượt
biển đi theo họ Mạc, sợ có kẻ dẫn giặc về cướp,
ví không được tướng tài trấn-thủ, vỗ yên thì
không thể xong. Đoan Quận-công ( Nguyễn-
Hoàng ) là con nhà tướng, có tài-trí mưu-lược,
có thể sai đi trấn ở đấy để cùng với tướng Trấn-
thủ Quảng-Nam cùng nhau giúp sức thì mới đỡ
lo đến miền Nam ".
_ ( Thực-Lục Tiền-Biên )
Vua Lê nghe theo và trao cho Chúa trấn-
tiết, phàm mọi việc đều ủy-thác cả, chỉ mỗi
năm nộp thuế mà thôi. Sứ-mệnh hoàn-thành
cuộc Nam-tiến của dân-tộc bắt đầu từ đây vào
tay nhà Nguyễn vậy .
Thế là năm chính-trị thứ nhất triều Lê-
Anh-Tông ( 1558 ) Nguyễn-Hoàng vào trấn
Thuận-Hóa, những người làng Tống-Sơn với
quân nghĩa dũng Thanh - Nghệ đem cả gia-
đình đi theo .
Năm 1570 Vua Lê lại triệu Tổng-binh
Quảng-Nam là Nguyễn-Bá-Quýnh về Nghệ-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
37
An, giao cả Quảng-Nam lẫn Thuận-Hóa cho
Nguyễn-Hoàng .
Về sau mỗi khi ra đánh phương Bắc thì
dân Nghệ-Tĩnh lại theo vào khai-khẩn đất
phương Nam, sinh tụ ở đất Chiêm-Thành. Từ
đó về sau nhân-đinh thêm trù-phú, điền-địa mở
mang, chả mấy chốc mà đất Thuận - Quảng trở
nên một cõi cường-thịnh .
A/ Thuận-Hóa có : 2 Phủ, 9 Huyện, 3 Châu .
1._ Phủ Tiên-Bình ( xưa là Tân-Bình ) gồm có :
- 3 Huyện : Khang-Lộc; Lệ-Thủy; Minh-
Linh.
- 1 Châu : Bố-Chính .
2._ Phủ Triệu-Phong gồm :
- 6 Huyện : Vũ-Xương; Hải-Lăng;
Quảng-Điền ( xưa là Đan-Điền ); Hương-Trà
( xưa là Kim-Trà ) ; Phú-Vang ( xưa là Tú-
Vang) ; Điện-Bàn
- 2 Châu : Thuận-Bình ; Sa-Bồn .
NGUYỄN-CƯ-TRINH
38
B/ Quảng-Nam có 3 Phủ, 9 Huyện .
1._ Phủ Thăng-Hoa gồm :
- 3 Huyện : Lê-Giang ; Hà-Đông ; Hy-
Giang .
2._ Phủ Tú-Nghĩa gồm :
- 3 Huyện: Bình-Sơn; Mộ-Hoa; Nghĩa-
Giang
3._ Phủ Hoài-Nhân gồm :
- 3 Huyện : Bồng-Sơn ; Phủ-Lý ; Tuy-
viễn .
Năm 1611 bắt đặt Phủ Phú-Yên. Bấy giờ
quân Chiêm-Thành xâm-lấn biên-giới.
Nguyễn-Hoàng sai Chủ-sự là Văn-Phong đem
quân đi đánh lấy được đất ấy bèn đặt làm 1 Phủ
gồm 2 Huyện : Đồng-Xuân và Tuy-Hòa .
Năm Quý-Sửu thứ 54 ( 1613 ) Nguyễn-
Hoàng khi mất có trối lại Hoàng-tử thứ sáu là
Nguyễn-Phúc-Nguyên, với cận-thần rằng :
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
39
" Ta với các ông cùng nhau cam khổ
đã lâu, muốn dựng lên nghiệp lớn. Nay ta
để gánh nặng lại cho con ta, các ông nên
cùng lòng giúp-đỡ cho thành công-
nghiệp ".
Rồi cầm tay Hoàng-tử dặn rằng :
" Làm con phải hiếu, làm tôi phải
trung, anh em trước hết phải thân yêu
nhau. Mày mà giữ lời dặn đó thì ta không
ân-hận gì. Đất Thuận-Quảng phiá Bắc có
núi Ngang ( Hoành-sơn ) và sông Gianh
( Linh-giang ) hiểm-trở, phiá Nam có núi
Hải-Vân và núi Đá-Bia ( Thạch-Bì-sơn )
vững-bền. Núi sẵn vàng, sắt, biển có cá,
muối thật là đất dụng-võ của người anh-
hùng. Nếu biết dạy dân, luyện binh để
chống-chọi với họ Trịnh thì đủ xây-dựng
cơ-nghiệp muôn đời. Ví bằng thế-lực
không địch được, thì cố giữ vững đất-đai
để chờ cơ-hội, chứ đừng bỏ qua lời dặn
của ta ."
_ ( Thực-Lục Tiền-Biên )
NGUYỄN-CƯ-TRINH
40
Như thế là Nguyễn-Hoàng quyết chí mở
nước ở miền Nam, dựng cơ-sở để quyết thống-
nhất sơn-hà, đánh đổ họ Trịnh ngoài Bắc .
Phương Nam bấy giờ gồm những đất
Thuận-Hóa và Quảng-Nam vào đến Tuy-Hòa
mới thiết-lập. Từ Tuy-Hòa trở xuống là Chiêm-
Thành và Chân-Lạp-Thủy, tức là Lục-Tỉnh sau
này. Đấy còn là cả một công-trình khai-thác
Nam-tiến đang chờ-đợi, trong khi ấy phải nghĩ
sao ngăn-chặn được quân Trịnh ở phiá Bắc
luôn luôn đánh xuống. Ngoài ra lại còn quân
Tây-Dương luôn luôn nhòm ngó vào bờ bể
Quảng-Nam, bằng-chứng là khi Nguyễn-Phúc-
Nguyên còn làm Hoàng-tử từng đánh tướng
giặc Tây-Dương ở Cửa Việt .
Khi Nguyễn-Phúc lên thay Chúa Nguyễn-
Hoàng, lo sửa sang thành lũy, đặt quan ải, vỗ-
về dân trong, ngoài vui-vẻ cả, mệnh danh là
Chúa Phật. Từ đấy mới xưng quốc-tính là họ
Nguyễn-Phúc .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
41
Ất-Sửu, năm thứ 12 ( 1625 ) Đào-Duy-
Từ theo về giúp Chúa phương Nam. Duy-Từ
người Thanh-Hóa, thông suốt kinh sử, rất giỏi
thiên-văn thuật-số. Vốn là con nhà phường-
chèo, không được đi thi theo chế-độ ngoài Bắc
của Chúa Trịnh bấy giờ. Từ buồn-bực, nghe
tiếng Chúa Nguyễn phương Nam yêu dân, quý
kẻ-sĩ, hào-kiệt đều về qui-phục. Từ quyết chí
tìm vào Nam, đến ở Huyện Vũ-Xương, nghe
tin Khám-lý Hoài-Nhân Trần-Đức-Hòa là
người hiểu-biết, được Chúa tin dùng. Bắt đầu
Từ xin vào làm người chăn trâu cho Phú-ông
xã Tùng-Châu. Phú-ông thấy là người biết rộng
nghe nhiều mới nói với Đức-Hòa. Đức-Hòa sau
khi tiếp chuyện với Từ biết Từ là người có
thực-học, không điều gì không thông-hiểu, rất
quý trọng, đem con gái gả cho. Duy-Từ từng
ngâm bài " Ngọa long cương " tự ví mình với
Khổng-Minh bên Tầu đời Tam-Quốc. Một hôm
Đức-Hòa vào mừng Chúa vừa thắng trận quân
Trịnh, nhân tiện đem dâng Chúa bài " Ngọa
long cương ngâm " của Từ cho Chúa xem và
trình rằng : " Bài này do thày dạy-học ở nhà tôi
là Đào-Duy-Từ làm." Chúa xem thấy lạ, cho
NGUYỄN-CƯ-TRINH
42
người mời đến gặp. Sau mấy ngày thì Đức-Hòa
cùng Duy-Từ đến ra mắt. Lúc ấy Chúa mặc áo
trắng đứng ở cửa nách chờ, Duy-Từ nhìn thấy,
đứng lại không đi. Chúa tức thì áo mũ chỉnh-tề
bước ra mời vào. Duy-Từ rảo bước vào lạy,
cùng nói chuyện, Chúa lấy làm hài-lòng nói :
" Khanh sao đến muộn thế ! " Tức thì trao cho
chức Nha-úy Nội-tán, tước Lộc-khê-hầu, trông
coi việc quân-cơ trong ngoài và Tham-lý quốc-
chính. Chúa từng vời vào bàn-bạc, Duy-Từ
bày-tỏ hết những điều uẩn-súc trong lòng, điều
gì biết đều nói cả. Chúa cho Đức-Hòa là biết
người .
Bắt đầu Đào-Duy-Từ khuyên Chúa đừng
nộp thuế cho họ Trịnh. Chúa nói : " Tiên-
Vương tài-trí hơn đời cũng còn phải đi lại
thông-hiếu. Ta nay nhỏ-mọn không bằng Tiên-
Vương, đất đai binh-giáp lại không bằng một
phần mười của Đông-đô, nếu không nộp thuế
cống thì lấy gì mà giữ đất đai để nối nghiệp
trước ? "
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
43
Duy-Từ thưa : " Thần nghe nói dẫu có trí-
tuệ không bằng nhân thời-thế. Cứ uy-vũ anh-
hùng mưu-kế sáng-suốt của Tiên-Vương,
không phải là không giữ được đất đai. Song
thời bấy giờ những thuộc-tướng ở ba Ty đều tự
họ Trịnh cất đặt, phàm cử-động việc gì cũng bị
họ Trịnh kiềm-chế, nên Tiên-Vương phải nhẫn-
nại như thế. Nay Chúa Thượng chuyên-chế một
phương, quan-liêu đều tự quyết cắt đặt, một lời
nói ra ai còn dám trái. Thần xin hiến một kế,
theo kế ấy thì không phải nộp thuế, mà giữ
được đất đai và có thể dựng nên nghiệp lớn ".
Chúa hỏi kế gì ?
Duy-Từ thưa : " Muốn đồ sự-nghiệp
vương-bá, cần phải có kế vẹn-toàn. Người xưa
nói : “ Không một lần khó-nhọc thì không được
nghỉ lâu dài, không phí-tổn tạm thời thì không
được yên ổn mãi mãi. ” Thần xin hiến bản vẽ,
đem quân, dân hai trấn đắp một cái lũy dài, trên
từ chân núi Trường-Dục, dưới đến bãi cát Hạc-
Hải, nhân thế đất mà đặt chỗ hiểm để vững
NGUYỄN-CƯ-TRINH
44
biên-phòng. Quân-địch có đến cũng không làm
gì được " .
Chúa theo kế ấy, bèn huy-động quân, dân
đắp lũy Trường-Dục, hơn một tháng thì xong .
Chúa hỏi Duy-Từ về kế trả lại sắc-phong
của Chúa Trịnh-Tráng mới sai Lại-bộ Thượng-
thư Nguyễn-Khắc-Minh đem vào phong Chúa
Phật ( Nguyễn-Phúc ) làm Tiết-chế Thuận -
Quảng, Thái-phó Quốc-công. Duy-Từ thưa :
" Đấy là họ Trịnh mượn sắc-mệnh Vua Lê để
nhử ta, nếu ta nhận sắc-mệnh thì họ có cớ nói
được, nếu ta không nhận thì họ tất động-binh.
Việc hiềm-khích ngoài biên đã gây thì không
phải phúc cho sinh-dân. Huống chi thành-
quách ta chưa bền vững, quân-sĩ chưa luyện-
tập, địch đến thì lấy gì mà chống ? Chi bằng
hãy tạm nhận cho họ không ngờ để ta chuyên
việc phòng-thủ, rồi sau dùng kế trả lại sắc, bấy
giờ họ không làm gì được ta nữa ."
Đến khi lũy Trường-Dực đắp xong, Duy-
Từ mới thưa với Chúa về việc trả lại sắc rằng :
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
45
" Nên đúc một cái mâm đồng hai đáy, giấu sắc
vào trong, ngoài sắm đủ vàng bạc lễ-vật, lấy
tướng Thần-lại là Văn-Khuông làm Sứ đi tạ ơn.
Thần xin nghĩ hơn mười câu vấn-đáp để trao
cho mang đi, tùy cơ ứng đối. Đem mâm ấy tiến
cho Chúa Trịnh, rồi thừa-cơ mà ra về. Làm thế
thì họ Trịnh mắc kế ta vậy ."
Chúa theo lời, sai Văn-Khuông vâng
mệnh đi Đông-đô, Văn-Khuông đến, Trịnh-
Tráng vời vào hỏi :
_ " Trước đây, việc đòi nộp lễ cống nhà
Minh, Nam-Chúa không thấy nộp là tại
sao ?
Văn-Khuông thưa :
_ " Voi và thuyền không phải lệ cống nhà
Minh, sợ người truyền lệnh nói không
đúng cho nên không dám vâng mệnh !
Hỏi : _ " Sao không cho con đến làm tin ?
NGUYỄN-CƯ-TRINH
46
Đáp : _ " Nam Bắc nghĩa như một nhà, đã
thành-tín với nhau thì dùng con tin làm
gì !
Hỏi : _ " Hoàng-Đế vời Chúa Nam đi
đánh Cao-Bằng cớ sao không đến ?
Đáp : _ " Giặc Cao-Bằng là giặc khốn-
cùng, sức quân Trung-đô cũng thừa đánh.
Chúa tôi vâng mệnh giữ hai xứ Thuận -
Quảng, phiá Nam chống Chiêm-Thành,
phiá Bắc thì phòng giặc Mạc, chỉ sợ
không giữ yên bờ-cõi cho nên không dám
đi xa .
Hỏi : _ " Đắp lũy Trường-Dực ý muốn
chống mệnh Vua hay sao ?
Đáp : _ " Chịu mệnh giữ đất, cần phải
phòng-bị bờ cõi cho bền, sao gọi là chống
mệnh được ?
Hỏi :_" Tướng-tá ở phương Nam thế nào?
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
47
Đáp : _ " Tài kiêm văn, võ như Đào-Duy-
Từ, Nguyễn-Hữu-Dật thì chẳng kém vài
chục
Hỏi : _ " Người ta nói Nam-Chúa là bậc
anh-hùng hào-kiệt, sao không nghĩ đến
đánh giặc lập công ?
Đáp : _ " Chúa tôi không mê tửu-sắc,
không thích đàn hát, chỉ muốn đem ân-
huệ vỗ-về dân-chúng, uy-tín cảm-phục
người xa. Ở phương Đông thì Mã-Cao
( Ma-Cao ), Lạc-Già ( Ma-Lắc-Ca ), ở
phương Tây thì Vạn-Tượng, Ai-Lao,
không đâu là không sợ phục. Nếu có
những bọn Vương-mãng, Tào-tháo tiếm-
lạm danh-nghĩa, giết hại sinh dân thì
Chúa tôi vì nghĩa mà đi đánh, xây dựng
công-nghiệp không việc gì lớn hơn thế
nữa ".
Tráng lặng yên, quay bảo bầy-tôi rằng :
_ " Sứ Nam ứng đối như nước
chảy, người Bắc không thể kịp được ".
NGUYỄN-CƯ-TRINH
48
Văn-Khuông bưng mâm đồng đầy vàng
bạc dâng, Tráng nhận. Văn-Khuông ngay hôm
ấy lẻn ra cửa Đô-thành do đường biển vượt trở
về. Người Trịnh thấy cái mâm hai đáy lấy làm
lạ, tách ra xem thì ở trong thấy một đạo-sắc và
một tờ thiếp viết :
" Mâu nhi vô dịch
Mịch nhi kiến tích
Ai lạc tâm trường
Lực lai tương địch ."
đem trình lên Trịnh-Tráng. Tráng hỏi bầy-tôi
đều không ai hiểu. Thiếu-úy Phùng-Khắc-
Khoan thưa : " Đó là ẩn-ngữ " Dư bất thụ sắc "
( ) ( Ta không nhận sắc ) " .
Tráng giận lắm sai người đuổi bắt Văn-
Khuông nhưng không kịp .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
49
Văn-Khuông về, Chúa mừng nói : " Duy-
Từ thật là Tử-phòng và Khổng-Minh ngày
nay ".
Chúa cùng Đào-Duy-Từ ngày đêm mưu
tính chống họ Trịnh. Duy-Từ mong được người
anh-tài tiến-dẫn giúp Chúa. Gặp được Nguyễn-
Hữu-Tiến biểu-danh là Thuận-Nghĩa, người
Thanh-hóa bèn tiến-cử, Chúa cho làm Đội-
trưởng coi thuyền Địch-cần quân Nội-thủy,
Hữu-Tiến thường ban đêm diễn tập quân-lính.
Trong quân có kẻ trái luật, lập-tức chém người
Kỳ-trưởng để thế mệnh, cả quân đều sợ. Duy-
Từ nghe thấy kinh-ngạc, vội vào hầu. Bấy giờ
Chúa đương xem " Chiến-Quốc sách ". Nhân
cùng bàn đến binh-pháp xưa nay. Duy-Từ ung-
dung nói đến chuyện Tôn-Vũ-Tử dạy chiến-sự
ở cung Vua Ngô mà chém vợ yêu của Vua.
Chúa rất khen Vua Ngô là người quyết-đoán,
Tôn-Vũ-Tử là người nghiêm cho nên mới dựng
nên nghiệp-bá. Duy-Từ nhân đấy đem việc
Hữu-Tiến chém người Kỳ-trưởng để xin tội.
Chúa nói : " Binh không đều thì giết còn tội
NGUYỄN-CƯ-TRINH
50
gì ? " Rồi dần thăng Hữu-Tiến làm Cai-đội. Từ
đó sĩ-tốt ai cũng sợ phục .
Giáp-Tuất năm thứ 21 ( 1634 ) mùa
đông, tháng 10 Nội-tán Đào-Duy-Từ bệnh
nặng, Chúa thân tới thăm. Duy-Từ khóc mà
nói : " Thần gặp được Thánh-minh, chưa báo
đền được chút đỉnh, nay bệnh ốm đến thế này,
còn nói gì nữa ". Nói rồi chết, thọ 63 tuổi.
Chúa thương tiếc vô cùng .
Duy-Từ có tài-lược văn, võ, phàm đã
mưu-tính trù-hoạch gì, hễ làm thì trúng thời-cơ,
giúp việc nước có 8 năm mà công-nghiệp rực-
rỡ, đứng hàng đầu công-thần khai-quốc. Tập
sách " Hồ-trường Khu-cơ " do ông làm còn
lưu-truyền ở đời .
Với quân-sư Đào-Duy-Từ, với chiến-lũy
Trường-Dực cuộc Nam Bắc chiến-tranh để
tranh-hùng tranh-bá kéo dài suốt nửa thế-kỷ từ
1627 đến 1672 bất phân thắng bại. Chiến-tranh
tạm dừng lại đây, Chúa Nguyễn phương Nam
đem hết chú-ý vào công-cuộc nối tiếp chương-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
51
trình Nam-tiến từ thời Lý Trần tới Lê-Thánh-
Tông .
Sau khi lấy đất Phú-Yên ( 1611 ) đặt
thành Phủ gồm hai Huyện Đông-Xuân và
Tuyên-Hóa, đến năm 1617 Văn-Phong ở Phú-
Yên lại dùng quân Chiêm-Thành để làm phản,
Chúa Phật ( Phúc-Nguyên ) sai Phó-tướng
Nguyễn-Phúc-Vinh đi đánh dẹp yên và lập
Dinh Trấn-biên trên đất còn lại của nước
Chiêm-Thành. Khi mới mở mang những nơi
địa-đầu biên-giới đều gọi là Trấn-biên Dinh.
Việc này xẩy ra vào năm 1617. Năm 1653, bắt
đầu đặt Dinh Thái-Khang, nhân cơ-hội có Chúa
Chiêm-Thành là Bà-Tấm quật-khởi đánh phá
Phú-Yên, Chúa Nguyễn-Phúc-Tần ( Chúa
Hiền ) phái tướng Hùng-Lộc đến đánh dẹp.
Quân đến Phú-Yên, các tướng đều muốn dừng
lại, Hùng-Lộc không nghe nói : " Ra quân lúc
không ngờ, đánh giặc lúc không phòng-bị là
mưu hay của nhà-binh. Nay quân ta từ nơi xa
đến, lợi ở sự đánh chóng, cần gì phải dụ địch ".
Rồi tiến quân, vượt đèo Hổ-Dương núi Thạch-
Bì đánh vào thành quân Chiêm-Thành. Bà-Tầm
NGUYỄN-CƯ-TRINH
52
trốn chạy, quân Nguyễn lấy được đất đến sông
Phan-Rang. Từ đấy nước Quảng-Nam lấy sông
ấy làm giới-hạn, từ phiá Đông đến địa-đầu
Phú-Yên chia làm hai Phủ là Thái-Khang ( nay
là Ninh-Hòa ) cho Hùng-lộc trấn giữ. Phiá Tây
sông thì vẫn còn về Chiêm-Thành bắt giữ lệ
cống, tức là từ Phan-Rang trở vào .
Trong khoảng thế-kỷ XVII giữa Chúa Sãi
hay ( Nguyễn-Phú-Nguyên ) ( 1613 - 1635 ) và
nước Chân-Lạp đã có sự giao-hảo ở chỗ gả
Công-chúa Ngọc-Vạn cho Vua Chân-Lạp là
Chey-Chetta II ( 1618 - 1626 ) .
" Chey-Chetta II sống từ nhỏ đến
lớn ở tại nước Xiêm, nhưng không có vẻ
giữ một kỷ-niệm tối-hảo đối với Xiêm,
bởi vì vừa lên ngôi ông đã tìm liên-lạc
ngay với những láng-giềng phiá Đông,
tức là người Việt của Chúa Nguyễn bấy
giờ, đang hoàn-thành dần dần cuộc chinh-
phục nước Chiêm-Thành và xây-dựng
nước Nam-Việt thay-thế. Chúa Nguyễn
rất vui sướng được thấy người láng-giềng
là nước Chân-Lạp cầu-thân với mình, và
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
53
Chúa Nguyễn bèn gả một trong các Công-
chúa cho Vua Cam-Bốt. Truyền rằng
nàng Công-chúa Việt này rất đẹp, biết
chiều chồng, được chồng yêu quý, lập
làm Hoàng-hậu. Người Việt bấy giờ đã
thành thân-hữu và đồng-minh của người
Chân-Lạp. Nhờ có sự giúp-đỡ của những
đồng-minh mới ấy, Vua Cam-Bốt đã hai
lần chiến-thắng những cuộc tấn-công của
quân Xiêm ( Thái-Lan ) vào năm 1621 -
1623 .
" Từ năm 1623 sứ-thần từ Huế đến,
đem lễ-vật trọng-hậu dâng lên Vua Chân-
Lạp ở kinh-đô Ou-Đông, để nhân-danh
Chúa Nguyễn xin phép cho dân Việt làm
ruộng và buôn-bán được định-cư ở trên
đất mà ngày nay là Saigon, và bấy giờ là
miền cực Nam nước Chân-Lạp. Bà
Hoàng-hậu can-thiệp với Vua chồng để
sự thỉnh-cầu ấy của đồng-bào bà được
nhà Vua ưng-thuận, và Vua Chey-Chetta
kết-cục đã ưng-thuận ."
_( Henri Russier _ " Histoire du Royaume
de Cambodge " _ dẫn ở Văn-Hóa số 43 ).
NGUYỄN-CƯ-TRINH
54
Xem thế đủ thấy chính-sách ngoại-giao
thân-thiện mở đầu đã làm cho việc di-thực của
dân-tộc vào Chân-Lạp thành-công mỹ-mãn. Sự
thực trong cuộc chiến-tranh giữa Nam, Bắc,
Nguyễn, Trịnh, dân từ Thanh, Nghệ luôn luôn
di-cư xuống miền Nam, nhân thấy đất hoang-
vu mầu-mỡ đã tự động kéo đến cầy-cấy khai-
khẩn, cho đến lúc đã đông-đúc trù-mật mới có
sự can-thiệp của Chúa Nguyễn để xin Vua
Chân-Lạp công-nhận một sự việc đã rồi và che-
chở cho chúng làm ăn. Ngoài ra lại còn những
cơ-hội thuận-lợi đưa đến như khi Chey-Chetta
mất ( 1626 ), nước Chân-Lạp cả Thủy lẫn Lục
chìm vào cuộc khủng-hoảng triều-đại. Năm
1642 con của Chey-Chetta là Chan, mẹ người
Lào, giết ông chú là Vua già Pra-Ontey, anh họ
là Ang-Non, lên ngôi Vua với danh-hiệu là
Prah-Rama-Thuppdey. Ông Vua này đi theo
đạo Hồi, nâng-đỡ ưu-đãi người Mã-Lai, Chà-
Dà ( Java ), Chiêm-Thành, làm cho triều-đình
phẫn-nộ vì trái với tinh-thần đạo Phật vốn là
Quốc-giáo Chân-Lạp. Hai con của Chey-Chetta
nổi lên, nhờ mẹ là Hoàng-hậu Việt, xin viện-trợ
của Chúa Nguyễn-Phúc-Tần ( Chúa Thượng ).
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
55
Chúa Thượng phái 2.000 quân năm 1628 đến
Mô-Xoài sau 24 ngay, bắt sống Vua Rama-
Thuppey đem về Quảng-Bình. Một người con
của Chey-Chetta lên làm Vua năm 1660 cho
đến 1672 thì bị giết do tay con rể. Nước Chân-
Lạp lại nổi loạn. Hoàng-tử Ang-Non tìm lánh
về Khánh-Hòa để xin người Việt trợ giúp. Năm
1675, Quan Trấn-thủ Khánh-Hòa là Nguyễn-
Dương-Lâm được cử đi. Chúa Thượng nói :
" Nặc-Nộn là phiên-thần, có việc nguy-cấp
không thể không cứu ". Bọn Dương-Lâm chia
làm hai đạo, đánh úp phá lũy Saigon ( Gia-
Định ) và Bích-Đôi ( Gò-Bích ) thẳng tiến vây
thành Nam-Vang ( Phnompenh ). Nặc-Ong-Đài
hoảng sợ chạy chết. Chúa đặt Nặc-Ong-Thu
( Prah-Ang-Sor ) làm Vua Lục-Chân-Lạp, đô ở
Ou-Đông, Ong-Non làm Vua Thủy-Chân-Lạp,
đô ở Saigon, cả hai đều coi việc nước, hàng
năm triều-cống Chúa Nam-Hà .
Hơn nữa nhà Minh bên Tầu cũng đang
mất nước cho Mãn-Thanh, các chiến-sĩ Minh
ưu-tú phẫn-uất bỏ đi tìm tự-do độc-lập ngoài
thế-lực kẻ thù. Vào năm Kỷ-Mùi thứ 31 tháng
NGUYỄN-CƯ-TRINH
56
giêng ( 1679 ) có Trấn-thủ Quảng-Đông là
Dương-Ngạn-Địch với Phó Tổng-binh Hoàng-
Tiến, Tổng-binh Cao-Châu, Lôi-Châu, Liêm-
Châu là Trần-Thượng-Xuyên và Phó Tổng-
binh Trần-An-Bình đem 3.000 quân và 50
chiến-thuyền chạy thẳng vào cửa Tư-Hiền và
Đà-Nẵng muốn đến xin làm thần-dân Chúa
Nguyễn. Đúng lúc Chúa Nguyễn-Phúc-Tần
đang để tâm vào việc khai-khẩn đất Chân-Lạp,
mới dung-nạp bọn họ, cho bọn Dương-Ngạn-
Địch ở Mỹ-Tho, Trần-Thượng-Xuyên ở Biên-
Hòa, khai-khẩn và thiết-lập phố-phường buôn-
bán, thuyền buôn của người Thanh và các nước
phương Tây, Nhật-Bản, Java đi lại thông-
thương phồn-thịnh. Do đấy mà phong-hóa Hán
thấm-nhuần vào đất Đông-Phố thay-thế hay
cạnh-tranh với văn-hóa Ấn, mà đất Chân-Lạp
càng sớm biến thành Việt-Nam. Người Tầu,
người Khmer, người Chiêm hợp-hóa cả vào
dân Việt .
Năm 1688 Phó-tướng nhà Minh Hoàng-
Tiến giết Chủ-tướng Dương-Ngạn-Địch ở cửa
biển Mỹ-Tho định xưng hùng xưng bá hạt
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
57
Rạch-Thanh tức Nam-Khê ( nay thuộc tỉnh
Định-Tường ) thủ-hiểm đắp lũy, đúc đại-bác,
đóng chiến-thuyền, thả quân đi cướp. Vua
Chân-Lạp Nặc-Thu bỏ việc triều-cống và đắp
lũy Bích-Đôi ( Gò-Bích ), Cầu-Nam và Nam-
Vang làm kế cố-thủ. Vua thứ nhì ở Thủy-Chân-
Lạp là Nặc-Nộn báo-cáo với Dinh Trấn-biên,
Chúa sai Vạn-Long làm Thống-binh đem quân
đánh Chân-Lạp, giết Hoàng-Tiến, Nặc-Thu
phải hàng phục, giữ lệ cống như cũ .
Đến năm 1692 Vua Chiêm-Thành là Bà-
Tranh bỏ không tiến-cống, Chúa Nguyễn-Phúc-
Chu sai Tổng-binh Nguyễn-Hữu-Kính đi đánh
bắt được Bà-Tranh và thần-tử với thân-thuộc
đem về Phú-Xuân. Chúa đổi Chiêm-Thành làm
trấn Thuận-Thành đặt Quan cai-trị rồi lại đổi
làm Bình-Thuận, cho thân-thuộc của Bà-Tranh
làm chức Khám-lý , ba người con là Đề-đốc, lại
bắt đổi y-phục theo Việt-Nam để phủ-dụ dân
Chiêm. Đến năm 1697 Chúa lại đặt phủ Bình-
Thuận, lấy nốt đất Phan-Rí, Phan-Rang của
Chiêm-Thành, làm huyện Yên-Phúc và Hòa-
NGUYỄN-CƯ-TRINH
58
Đa. Từ đấy nước Chiêm-Thành mất hẳn, tuy
vẫn còn Vua Chiêm nhưng vô quyền .
Lấy xong nước Chiêm-Thành công việc
Nam-tiến của Việt-Nam chưa xong, vì xứ
Trung không có đất phì-nhiêu đủ cho một nước
nông-nghiệp thịnh-vượng để đương đầu với
Chúa Trịnh ở Trung-châu Bắc-phần. Cho nên
đồng-bằng lưu-vực Cửu-Long mới chính là
mục-tiêu của Chúa Nguyễn bấy giờ dựng nước.
Tây-phương không đường tới,
Bắc-bộ khó nẻo qua.
Đường Nam-phương thấy đó chẳng xa,
Thì những sợ nhiều quân Đá-Vách .
_ ( " Sãi-Vãi " _ Nguyễn-Cư-Trinh )
Nam-phương đây là đất Thủy-Chân-Lạp
với Lục-Chân-Lạp là một nước thịnh-vượng
văn-hiến, từ thời Lý đã từng cho sứ-thần ra
cồng-hiến ở Thăng-Long. Một Trung-châu phì-
nhiêu của sông Cửu-Long bỏ hoang không dân
khai-khẩn, chính là nơi lý-tưởng cho dân nông-
nghiệp miền Trung-Việt núi non, ít đất cầy-cấy.
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
59
Như chúng ta đã thấy ở trên, nhân-dân tránh
cuộc chiến-tranh kéo dài giữa Bắc Nam, đã tự-
động tìm nơi an-cư lạc-nghiệp ở miền Mô-Xoài
bát-ngát, bấy giờ chỉ có 40.000 gia-đình. Sau
khi Nặc-Ong-Non, Vua thứ hai của Chân-Lạp
đóng đô ở Saigon chết đi, Chuá Nguyễn-Phúc-
Chu không lập Vua nữa mà đặt thành Phủ Gia-
Định, sai Thống-suất Nguyễn-Hữu-Kính, con
Nguyễn-Hữu-Dật, kinh-lược đất Chân-Lạp,
chia Đông-Phố, lấy Đồng-Nai làm huyện Phúc-
Long, dựng Trấn-biên Dinh ( Biên-Hòa ), lấy
Saigon làm huyện Tân-Bình, dựng Phiên-trấn
Gia-Định. Mỗi Dinh đều đặt chức Lưu-thủ,
Cai-bạ, Ký-lục và các cơ-đội thuyền thủy-bộ
tinh-binh và thuộc-binh. Mở rộng đất được
nghìn dặm, hơn 4 vạn hộ, bèn chiêu-mộ những
dân Bố-Chính trở về Nam đến ở cho đông-đúc.
Thiết-lập Thôn, Phường, Ấp, chia cắt giới
phận, khai-khẩn ruộng nương, định lệ thuế, làm
sổ đinh-điền. Lại lấy người Tầu đến buôn-bán
ở Trấn-biên, lập thành Xã Thanh-Hà, ở Phiên-
trấn lập thành Xã Minh-Hương. Từ đấy người
Tầu ở đây thành dân-hộ Việt-tịch .
NGUYỄN-CƯ-TRINH
60
Đồng thời khi tướng Dương-Ngạn-Địch
sang Quảng-Nam xin thần-phục, cũng có một
người Tầu đất Quảng-Đông bỏ nhà Thanh sang
đất Chân-Lạp, làm chức Ốc-Nha ở đất Sài-Mạt
trên bờ vịnh Xiêm-La, nơi giao-thông tụ-họp
người các nước. Ông ta bèn mở sòng-bạc để
thu thuế, trở nên giầu-có, mới chiêu-tập dân
phiêu-bạt đến Phú-Quốc, Cần-Bột, Gia-Khê,
Luống-Cày, Hương-Úc, Cà-Mâu, lập thành 7
Xã-thôn, thuộc tỉnh Hà-Tiên, rồi dâng thư xin
Chúa Nguyễn-Phúc-Chu ( 1708 ) làm chức
Tổng-binh giữ đất Hà-Tiên, Mạc-Cửu lập
Dinh-trại, đặt đội-ngũ đóng tại Phương-Thành,
chống với quân Xiêm thường đến phá rối tranh
cướp .
Đến khi Mạc-Cửu chết ( 1715 ), Chúa
Nguyễn ( Phúc-Chu ) lại cho con là Mạc-
Thiên-Tứ khuyếch-trương mọi sự-nghiệp của
cha để lại, làm cho xứ Hà-Tiên trở nên một nơi
văn-vật phồn-thịnh ở phương Nam ; nào đặt
nha-thuộc, bổ-nhiệm quân-ngũ, đắp thành-lũy,
mở phố chợ, khách buôn các nước tấp-nập ra
vào. Lại chiêu Hiền đãi Sĩ, mở " Chiêu Anh
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
61
Các " ngày ngày cùng nhau giảng học nghị-
luận văn-chương, có lưu lại tập " Hà-Tiên
Thập vịnh " .
Hà-tiên phồn-thịnh đã trở nên vật thèm
muốn của Xiêm-La và Chân-Lạp, một đằng
muốn cướp lấy, một đằng muốn đòi lại. Nhưng
họ Mạc đã lựa chọn sát-nhập vào triều-đình
Việt-Nam như thần-dân, cho nên năm 1739
Chân-Lạp ( Cam-Bốt ) định chiếm lại Hà-Tiên,
Chúa Võ-Vương sai NGUYỄN-CƯ-TRINH
sang đánh Vua Chân-Lạp, Nặc-Nguyên bỏ
chạy, xin nộp đất cầu hòa. Đất ấy là miền Nam
Gia-Định, Gò-Công và Tân-An bây giờ .
Năm 1756 Nặc-Tôn chạy sang Hà-Tiên
nhờ Mặc-Thiên-Tứ nói với Chúa Nguyễn xin
giúp-đỡ. Võ-Vương sai Thiên-Tứ đưa Nặc-Tôn
về Chân-Lạp làm Vua. Nặc-Tôn dâng đất phiá
Bắc sông Bassac tức là Vĩnh-Long, Sa-Déc,
Tân-Châu, Châu-Đốc ngày nay. Nặc-Tôn đền
ơn Thiên-Tứ 5 Phủ, Thiên-Tứ đều đem dâng
Chúa Nguyễn, Chúa cho sát-nhập vào Hà-Tiên,
dưới quyền họ Mạc bấy giở gồm từ Kompot
NGUYỄN-CƯ-TRINH
62
cho đến Cà-Mâu. Thế là trong khoảng một thế-
kỷ XVII Chúa Nguyễn miền Nam đã mở mang
lãnh-thổ dân Việt đến mức-độ cuối cùng của
cuộc Nam-tiến. Nhưng chiếm được đất là một
việc, còn giữ được đất và có dân lại là một
việc. Đấy là cả một chính-sách thuộc về khả-
năng của dân-tộc vậy. Jules Sion, trong sách
" L'Asie Des Moussons _ Géographie
Universelle ", có nhận thấy rằng :
" Cuộc bành-trướng của dân Việt là
một sự đồng-hóa thật sự. Tính-chất đó
giải-thích vì sao người Việt bành-trướng
chậm, nhưng rất chắc-chắn. Cao-Miên và
Lào-quốc đánh nhau chỉ đem quân cướp
lấy tù-binh đem về làm nô-lệ, lại có một
giai-cấp quí-tộc thống-trị cho nên có cướp
được đất cũng dễ mất ngay .
" Mục-đích của người Việt lại khác.
Họ không cần bắt nô-lệ, họ làm lấy. Đối
với họ thắng trận không phải để có người
làm, mà là để có đất cày .
" Nhiều khi chiến-tranh chỉ là để
xác-nhận một tình-thế đã rồi. Dân Việt
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
63
bành-trướng một cách ôn-hòa, sinh-cơ
lập-nghiệp rồi sau binh-lực mới tới, trước
khi Việt-Nam sát-nhập đất Nam-Kỳ về
mình, người Việt đã lập ở đấy những tổ-
chức, những đám di-dân đã xây-dựng
làng-xóm hay là tới ở chung với người
Mên, rồi lần lần nắm lấy quyền-chính .
" Cuộc bành-trướng thực-hành bằng
cách đưa đến những đám người liên-tiếp,
đủ các hạng : dân cầy không có ruộng ;
tù-tội ; kẻ chống đối chế-độ hay là quân
cướp muốn chuộc tội. Cũng có khi chính-
phủ thu-thập những người đó rồi đưa
xuống những miền mới chiếm lãnh, hay
là lập đồn điền nơi biên-thùy để phòng-bị
lân-bang tới đánh. Những đám người ấy
có Quan-lại cai-trị và họ lập thành làng-
mạc .
" Cuộc bành-trướng của các đám
bình- dân Việt đã là sức-mạnh của Việt-
Nam. Cuộc di-dân đã biến-hóa đất Nam-
Kỳ thành một xứ hoàn-toàn Việt-Nam
cũng như đất Bắc-Kỳ. Ngay dưới mắt ta
trong cảnh thái-bình, cuộc bành-trướng
NGUYỄN-CƯ-TRINH
64
ấy vẫn tiếp-tục khắp đất Căm-Bốt và đất
Lào ."
Và nhà Cổ-học Aurousseau cũng kết-luận
bài khảo-cứu công-phu của ông về cuộc di-dân
vĩ-đại của Việt-tộc từ sông Dương-Tử xuống
Vịnh Xiêm-La :
" Những yếu-tố những sức-mạnh có
thể tiêu-diệt được một nước mới thành-
lập đều vô-hiệu trước sức sống mãnh-liệt
của người Việt .
" Dân-tộc Việt chiếm-cứ các đồng-
bằng Bắc-Việt ngay từ thế-kỷ thứ III tr.
T.N. Xã-hội Việt-Nam trở nên thịnh-
vượng tại đấy. Lần lần các làn sóng di-
dân tiếp-tục tràn-lan mãi xuống phiá
Nam, để tới một điểm xa nhất trên đường
bành-trướng mà người Bách-Việt khởi từ
thế-kỷ thứ IV tr. T.N.
" Người Việt tới Trung-Việt ngay
cuối thế-kỷ sau. Ở đây dân-tộc Chiêm-
Thành chặn họ lại một thời-gian khá lâu.
Nhưng người Việt vẫn giữ được cái đà
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
65
bành-trướng như một sức mạnh âm-ỷ, và
sau một cuộc tiến-triển, sau nhiều năm
chinh-chiến, họ đã thắng được đối-
phương Chiêm-tộc vào năm 1471 để tiến
mãi về phiá Nam, tới Qui-Nhơn cuối thế-
kỷ XV, tới Song-Cầu 1611, tới Phan-
Rang 1653, tới Phan-Thiết 1697, tới
Saigon 1698, tới Hà-Tiên 1714. Cuối
cùng trong nửa đầu thế-kỷ XVII, người
Việt đã hoàn-thành cuộc bành-trướng của
dân-tộc và chiếm trọn đất Nam-Kỳ hiện
thời ."
Một đặc-tính trọng-yếu nhất trong cuộc
bành-trướng ấy là Việt-tộc trước sau vẫn giữ
được dân-tộc-tính thuần-nhất Việt-Nam đến
nỗi người Lào, người Chiêm, người Tầu Minh-
hương, người Mên, thảy đều Việt-hóa. Đại-úy
Gosselin trong sách : " L'Empire d'Annam "
đứng trước thực-trạng ấy cũng phải kinh-ngạc :
" Hết thảy các sử-gia có nhiệt tâm
tìm-tòi sự thật đều phải công-nhận rằng :
khi đặt chân lên đất Việt-Nam, người
NGUYỄN-CƯ-TRINH
66
Pháp đã phải đụng-chạm với một dân-tộc
thống-nhất. Thống-nhất một cách không
thể ngờ tới được, từ miền cao-nguyên
thượng-du Bắc-Việt cho tới biên-giới
Cam-Bốt, thống-nhất về đủ mọi phương-
diện nhân-chủng cũng như chính-trị và
xã-hội ."
Cái dân-tộc-tính đặc-sắc Việt-Nam mà
các học-giả Pháp quan-sát tại chỗ đã nhận thấy
là thành-quả của chính-sách di-dân khôn-khéo
có phương-pháp đường lối mà NGUYỄN-CƯ-
TRINH ( 1715 - 1767 ) đã trình-bày trong một
bài sớ dâng lên Chúa Nguyễn-Phúc-Khoát lúc
bấy giờ
* Cơ-Sở Xã-Hội Kinh-Tế Chính-Trị Nam-Hà._
Cuộc Nam-tiến thành-công mau lẹ đã
chứng-tỏ rằng tổ-chức quốc-gia của Việt-Nam
do Chúa Nguyễn lãnh-đạo đã có khả-năng hơn
tổ-chức của Chiêm-Thành và Chân-Lạp.
Huống chi cùng tranh-giành thôn-tính, Chân-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
67
Lạp thời bấy giờ còn có thế-lực Xiêm-La luôn
luôn cạnh-tranh với thế-lực của Nam-Hà. Nay
thử xét xem tổ-chức nội-bộ Nam-Hà thế nào
mà có được khả-năng ấy .
Thoạt đầu, khi Nguyễn-Hoàng có được
đất Thuận - Quảng, qui-mô lập quốc nhất-thiết
đều phỏng theo chế-độ thời Hồng-Đức của Vua
Lê với tinh-thần bảo-vệ nền tự-chủ của một
nước độc-lập. Nhưng vì Nam-Hà còn là nước
đương mở-mang cho nên tổ-chức chính-trị, và
xã-hội, văn-hóa còn hết sức giản-tiện, tất cả
chú-ý vào chiến-tranh bảo-vệ đối với Chúa
Trịnh ở phương Bắc, đối với ngoại-xâm ở Âu-
Tây và chinh-phục cùng khai-thác phương
Nam .
Về kinh-tế thì xã-hội Nam-Hà vẫn là xã-
hội xây-dựng trên cơ-sở nông-nghiệp lấy Xã-
thôn làm bản-vị. Các Chúa Nguyễn chú-trọng
vào công-cuộc đồn-điền để khai-khẩn đất
hoang thành ruộng để cầy-cấy. " Cuộc bành-
trướng thi-hành bằng cách đưa đến những đám
người liên-tiếp, đủ các hạng người : dân cầy
NGUYỄN-CƯ-TRINH
68
không có ruộng, những người tù-tội, những
người trốn tránh chế-độ, hay là những quân
cướp muốn chuộc tội. Cũng có khi chính-phủ
thu-thập những người đó rồi đưa xuống những
miền mới chiếm, hay là lập những đồn điền tận
biên-thùy để phòng-bị lân-bang tới đánh.
Những đám người đó có Quan-lại cai-trị và lập
thành Làng Xã " _ ( Jules Sion " L'Asie Des
Moussons " ).
Trên đường Nam-tiến, quân-lính chiếm
được đất nào thì Chúa sai chiêu-mộ lưu-dân từ
Thanh, Nghệ, Bố-Chính trở vào chia thành Xã-
thôn. Tù-binh của đàng-ngoài cũng được tổ-
chức thành Ấp, cho lương-thực để canh khẩn
khai-phá đất hoang, lập thành Làng-xóm trù-
mật. Như năm 1647, sau khi thắng trận lớn
quân Trịnh, bắt tù-binh đến 30.000, Chúa
Nguyễn-Phúc-Lan tức Chúa Thượng nói :
" Hiện nay từ miền Thăng - Bình,
Điện-Bàn trở vào Nam đều là đất cũ của
người Chàm, dân-cư thưa-thớt, nếu đem
chúng an-tháp vào đất ấy, cấp cho canh
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
69
ngưu điền-khí, chia ra từng bộ, từng xóm,
tính nhân-khẩu cấp cho lương ăn để
chúng khai-khẩn ruộng hoang, thời trong
khoảng mấy năm, thuế-má thu được có
thể đủ giúp quốc-dụng, và sau hai mươi
năm, sinh-sản ngày càng nhiều, có thể
thêm vào quân-số !
" Từ đó, từ Thăng, Điện đến Phú-
Yên, làng-mạc liền nhau, về sau sẽ thành
hộ-khẩu ".
_( Thực-Lục Tiền-Biên )
Sau này mở đất Chân-Lạp miền Gia-Định
cũng vẫn phương-pháp đinh-điền và xã-thôn
nông-nghiệp trên đây, như vào năm 1697 mở
đất Đông-Phố được 1000 dặm cho di-dân lập
làng xóm. Như thế là về phương-diện nông-
nghiệp, nước của Chúa Nguyễn ở Nam-Hà có
phần rất phong-phú. Ngoài ra đất Thuận -
Quảng có nhiều mỏ vàng, mỏ sắt, bờ bể sản
muối, núi rừng sản sáp-ong, ngà-voi, quế, trầm,
mật-ong v.v… Sách " Thực-Lục Tiền-Biên "
viết :
NGUYỄN-CƯ-TRINH
70
" Xứ Thuận - Quảng duy không có
mỏ đồng, mỗi khi những thuyền buôn
Phúc-Kiến, Quảng-Đông hay Nhật-Bản
chở đồng đỏ đến bán thì nhà nước thu
mua, cứ 100 cân thì trả giá 40 hay 50
quan tiền. Lại xã Mậu-Tài, huyện Phú-
Vang làm được dây thau, dây thép. Cứ
100 cân đồng đỏ pha vào 40 cân kẽm thì
làm được 90 cân dây thau, cứ 25 cân sắt
thì làm được 1 cân dây thép. Ty thợ mạ
vàng thì cứ 10 lạng vàng dát mỏng thì
được 9 vạn lá vàng quì. Đều do các kho
của nhà Đồ thu trữ ".
Xem đấy đủ biết nền kinh-tế nông-nghiệp
và công-nghiệp đất Nam-Hà bấy giờ đã phồn-
thịnh. Hơn nữa sự giao-dịch thông-thương với
ngoại-quốc cũng lại sầm-uất, ở cửa Hội-An
( faifo ) có người Tầu, người Nhật cùng người
các nước ra vào buôn-bán cho nên có tên gọi là
Quảng-Nam-Quốc của người ngoại-quốc. Tuy
nhiên chỉ có người ngoại-quốc đến buôn-bán
với ta, chứ ta không có thuyền buôn đi ngoại-
quốc .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
71
Nền tài-chính trong nước, đến năm 1753
làm sổ thống-kế theo lệnh của Vũ-Vương
( Nguyễn-Phúc-Khoát ) đại-khái như sau :
Thu vào có năm 338.100 quan tiền mặt,
xuất ra 364.400, có năm thu vào 423.300, xuất
ra 369.400. Còn vàng thì thu có năm được 830
lượng, có năm 890 lượng ; Bạc thứ giáp-ngân
240 lượng, có năm 390 lượng, thứ dung-ngân
có năm thu được 2.400 lượng, có năm 1.800
lượng, thứ kê-ngân có năm thu được 10.100
đồng, có năm 400 đồng. Tính trung-bình từ
năm 1746 đến 1752 trong vòng 7 năm số vàng
thu được 5.768 lượng, giáp-ngân 9.978 lượng,
dung-ngân 14.276 lượng, kê-ngân 21.150 đồng.
Tiền tiêu trong nước có thứ tiền đồng và
tiền kẽm khắc chữ " Thái-Bình " ( ) .
* Tổ-Chức Hành-Chánh ._
Sau khi đã mở đất đến Hà-Tiên, Cà-
Mâu là điểm cuối cùng trên đường đi về phiá
NGUYỄN-CƯ-TRINH
72
Nam, Vũ-Vương ( Nguyễn-Phúc-Khoát )
( 1738 ), Chúa lên ngôi Vương, bỏ ấn Tổng-
trấn Thái-phó Quốc-công mà dùng ấn Quốc-
Vương, và xuống chiếu rằng :
" Trời đất thi-nhân cởi-mở, khắp
bờ-cõi đều thấm-nhuần ; nhà Vua thuận
đạo lên ngôi, mọi người, vật đều đổi mới.
Vàng ngọc rực-rỡ, lời tơ truyền xa. Nhà
nước ta phát-tích Ô-Châu, vâng mệnh
dựng nước, Hoàng-tổ một phương hùng-
cứ, đã có được một nửa non sông. Thần-
tông bẩy huyện mở-mang, sắp thu cả đất-
đai gấm-vóc. Nghiệp-bá đương kinh-
doanh lớn, ơn Trời giúp-đỡ rộng thêm,
Minh-Miếu (Hiếu-Minh 1692 Phúc-Chu)
vũ-uy, dẹp yên giặc chốn Đông-Phố,
Hoàng-Khảo (Phúc-Chu 1726) văn trị
trau-chuốt lòng dân miền Nam. Bốn
phương nhờ ơn, đời đời để đức. Phong
thư vào ngọc-kiểm, nguyện-vọng non
sông còn chờ ; chưa đổi bực hoàn-khuê
( tước công ), tấm lòng quì hoắc ( hướng
về Lê ) giữ mãi. Nay ta tuổi trẻ, vâng nối
nghiệp xưa, mới cầm quyền chính bẩy
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
73
năm chưa có uy-quân " lục nguyệt "
( đánh giặc thành-công như Vua Tuyên
nhà Chu ). Thầm nghĩ nước chưa thống-
nhất, giặc chưa dẹp yên, vẫn gắng noi
theo Tiên-tổ. Ngờ đâu người đều đồng
tâm, Thần báo điềm tốt, ân-cần khuyên
giục xưng Vương. Vừa rồi lớn, nhỏ đều
tin, thư hàng đầy đủ. Theo hào bốn quẻ
Kiền, rồng hoặc đã nhảy, còn chờ thời
nên khiêm-tốn ; theo hào ba quẻ Khôn,
ngựa lợi đi nhanh, nên tất cả đều tôn-phò.
Mặc dầu thoái-thác ba bốn lần, khó ngăn
được thần dân nguyện-vọng. Ta đành
buộc lòng, thuận theo ý chúng. Cho nên
ngày 12 tháng 4 năm nay ( 1744 ) lên
ngôi Vương, đại-xá trong nước, để sáng
thêm ân-đức của tám đời, để tỏ lòng lợi
dân trong bốn cõi. Mong thần dân các
người mỹ-hóa. Ôi ! Đối với mệnh Trời ở
người có đức, để chở cơ-đồ Hậu Tắc
Công Lưu ; dìu-dắt thiên-hạ đến cõi thái-
bình, mong thấy cảnh Thành, Chu, Ngu,
Thuấn ".
_ ( Thực-Lục Tiền-Biên )
NGUYỄN-CƯ-TRINH
74
Chúa nghĩ tổ-chức lại hành-chính._ Địa-
hạt hành-chính đến năm 1634 Nam-Hà mới có
4 Dinh : Quảng-Bình ; Chính-Dinh ; Quảng-
Nam ; Phú-Yên. Đến đây 1744 Vũ-Vương lên
ngôi Vương, đổi Phủ ra Điện, chia Nam-Hà ra
12 Dinh :
Chính-Dinh hay Phú-Xuân
Cựu-Dinh hay Ái-Tử
Quảng-Bình Dinh
Vũ-Xá Dinh
Bố-Chính Dinh
Quảng-Nam Dinh
Phú-Yên Dinh
Bình-Khang Dinh đất cũ Chiêm-Thành
Bình-Thuận Dinh
Trấn-Biên Dinh
Phiên-Trấn Dinh đất cũ Chân-Lạp
Long-Hồ Dinh
Bộ máy nhà nước trung-ương có 3 Ty :
_ Xá-sai, có Đô-tri và Ký-lục giữ việc từ-
tụng văn-án .
_ Tướng thần lại Ty, có Cai-bộ giữ tài-
chính .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
75
_ Lịnh lại Ty, có Nha-ủy coi việc tế-tự,
từ-hàn .
Ở trên hết có Tứ-trụ giúp Chúa trị dân :
Nội-tả, Ngoại-tả, Nội-hữu, Ngoại-hữu .
Để thi-hành mệnh-lệnh trung-ương ra địa-
phương, Phủ, Huyện tại mỗi Dinh có một Quan
đầu Dinh là Trấn-thủ, một Cai-bộ ( tài-chính ),
một Ký-lục ( tư-pháp ). Ở Phủ, Huyện có
Huấn-đạo, Lễ-sinh coi việc tế-tự .
Binh-Chế thì quân-lính chia ra Cơ, mỗi
Cơ có một Cai-cơ hay Trưởng-cơ chỉ-huy .
Cơ chia ra Đội, mỗi Đội có từ 2 đến 5
thuyền do Đội-trưởng hay Cai-đội chỉ-huy.
Mỗi thuyền có từ 30 đến 50 người .
Mỗi Cơ gồm có từ 6 đến 10 thuyền .
Dinh cũng như Cơ do Trưởng-dinh chỉ-
huy .
NGUYỄN-CƯ-TRINH
76
Văn-Hóa : _ Học-chế thi-cử để đào-tạo
nhân-tài ở phương Nam hay Đàng-trong có vẻ
sơ-sài hơn Đàng-ngoài. Năm 1647 có mở khoa-
thi Chính-đồ và Hoa-văn.
Thi Chính-đồ có 3 kỳ :
1/ Tứ-lục ;
2/ Thơ-phú ;
3/ Văn-sách.
Đỗ hạng nhất là Giám-sinh, bổ Tri-phủ,
Tri-huyện. Đỗ hạng nhì là Sinh-đồ bổ đi huấn-
đạo. Đỗ hạng ba bổ đi làm Lễ-sinh .
Thi Hoa-văn cũng có 3 kỳ :
_ Làm một bài thơ đỗ ra làm ở 3 Ty .
Năm 1695 có mở thêm khoa thi trong Phủ
Chúa. Có kỳ thi Văn-Chức và thi Tam-Ty. Thi
Văn-Chức có Tứ-lục, Thơ-phú, Văn-sách. Thi
Tam-Ty có thi về Xá-sai-ty, hỏi việc binh, tiền
lương, từ-tụng. Về Tướng Thần-lại-ty và Lịnh-
lại-ty thì chỉ thi làm một bài thơ thôi .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
77
Phương Nam bấy giờ học-thức vụ về
đường thực-tiễn hơn là nghệ-thuật cho nên về
Hán-Văn có nhóm " Chiêu Anh Các " ở Hà-
Tiên ; " Đạm-am Văn-tập " của NGUYỄN-
CƯ-TRINH ; " Hổ-tướng Khu-Cơ " của Đào-
Duy-Từ ; " Ôn-châu Cận-lục " của Dương-
Văn-An .
Văn Nôm cũng có vài tác-phẩm xuất-sắc
như " Sơn-tinh Nhất-dạ " của Nguyễn-Hữu-
Hào ; " Sãi-Vãi " của NGUYỄN-CƯ-TRINH ;
" Ngọa-Long-Cương Ngâm " của Đào-Duy-Từ.
Trình-độ văn-hóa Nam-Hà thời bấy giờ,
Lê-Quý-Đôn ( 1726 - 1784 ) có nhận-định
trong tác-phẩm của ông " Phủ-biên Tạp-lục "
như sau :
" Nhân-tài đất nào không có ? Đất
Thuận-Hóa thời Nhuận-Hồ ( 1400 - 1407)
có cha con ông Đặng-Tất đều nổi-tiếng về
tướng Văn, tướng Võ. Khoảng năm
Thuận-Thiên ( 1428 - 1433 ) và Hồng-
Đức ( 1470 - 1497 ) có Nguyễn-Tử-Hoan
NGUYỄN-CƯ-TRINH
78
làm Quân-sư, Bùi-Dục-Tài đỗ Tiến-sĩ.
Thời ngụy-quyền, họ Mạc có Dương
Văn-Trung đỗ cao, làm sách " Ô-Châu
Cận-Lục ". Lê-Trung-Hưng ( 1530 ) sau
khi Đoan-Quốc-Công vào trấn Thuận-
Hóa nối theo Tổng-Quân-Vụ, riêng cùng
nhau truyền nối tự đặt ra quan-lại. Ở đấy,
nhân-sĩ Ô-Châu, Lý-Châu chẳng ai không
tùy theo thời-thế lập nên công-danh mà
họ Nguyễn đem theo dắt-díu phần lớn là
người Thanh-Hóa, Nghệ-An. Kiều-cư
liên-tiếp sinh con sinh cháu, có tài-nghệ
kiến-thức hoặc do chân lập ấm tiến lên
hay là do đường khảo-thí bổ-dụng không
phải thiếu người. Tuy hơn trăm năm tới
nay, tên tuổi không được trong nước biết
đến, nhưng không phải bảo là không có
nhân-tài vậy ".
_ ( Lê-Quý-Đôn _ " Nhân-vật Thời xưa đất
Thuận-Hóa " trong " Phủ-Biên-Tạp-Lục ")
Nhận-định trên đây là nói về giới trí-thức
lãnh-đạo còn giữ được truyền-thống văn-hóa từ
Bắc-Hà đem vào. Còn nhân-dân di-cư hay bản-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
79
xứ thì trình-độ văn-hóa hết sức thấp kém hay là
vẫn giữ tính-tình người Chàm, với tinh-thần
văn-hóa Bà-La-Môn của họ là Đa-thần-giáo
hay là Vật-linh-giáo như ở " Ô-Châu Cận-lục "
có viết : " Theo tập-tục cũ, người bản-xứ chất-
phác thường lấy dâm-vật để thờ làm Thần, sao
mà ngu-muội càn dỡ thế, kịp nên thẳng tay
trừng-giới, đổi hẳn cái hủ-tục ấy đi để nêu
gương sáng của vị Thần chính-trực "
_ ( Ô-Chân Cận-lục _ mục Đền Chùa )
Xem thế đủ biết tác-giả nhìn văn-hóa
Chiêm-Thành còn lại ở dân bản-xứ với con mắt
nhà Nho, ám-chỉ vào cái Linh-phù ( Linga )
của tôn-giáo Chiêm-Thành, và Nho-học của
người Việt đem vào, chưa có ảnh-hưởng xuống
bình-dân vì Nam-Hà thiếu sự mở mang giáo-
hóa. Tình-trạng văn-hóa ấy đã phản-chiếu rất
rõ trong " Ký-sự Hải-ngoại " ( )
của Thích-Đại-Sán ( ). Thích-Đại-
Sán tên húy là Thạch-Liêm là một nhà lão-tăng
ở Quảng-Đông sang do lời mời của Chúa
Nguyễn : " Anh-Tông Hoàng-Đế thường khiến
Tạ-Nguyên-Thiều qua Tầu cầu Cao-tăng, nghe
NGUYỄN-CƯ-TRINH
80
Liêm giỏi Thiền-học, bèn qua thỉnh-cầu. Liêm
mừng, cùng Nguyễn-Thiều vượt biển qua Nam,
đến nơi cư-trú tại Chùa Thiên-Mụ. Hiển-Tông
Hoàng-Đế thường mời ông vào ra mắt, cùng
đàm-luận Thiền-giáo. Hoàng-Thượng trọng sự
học uyên-bác của ông, rất yêu quý kính nể, ông
khéo tùy việc can-gián, cũng có bổ ích " .
_ ( Liệt truyện Tiền-Biên -- quyển 6 ) .
Anh-Tông và Hiển-Tông là Chúa Nghĩa,
Nguyễn-Phúc-Trăn ( 1678 - 1691 ) và Chúa
Minh, Nguyễn-Phúc-Chu ( 1691 - 1725 ) .
Và Thạch-Liêm đã ghi-nhận tình-trạng
xã-hội thời bấy giờ như mắt thấy tai nghe :
" Mỗi năm vào khoảng tháng ba,
tháng tư, quân-nhân đi ra các làng, bắt
dân từ 16 tuổi trở lên, những người thân-
thể cường-tráng, đóng gông lại bằng một
cái gông tre, hình như cái thang nhưng
hẹp hơn, để giải về Phủ sung quân ; vào
quân-đội rồi, mỗi người bắt chuyên học
một nghề, kế phân-phái đi theo các chiến-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
81
thuyền để luyện-tập ; có chiến-tranh đem
ra đánh giặc, lúc vô sự ở hầu Vương-phủ
làm xâu; tuổi chưa đến 60 chẳng được về
làng cùng cha mẹ vợ con đoàn-tụ ; hàng
năm thân-thích đem áo quần vật thực đến
thăm mà thôi. Vì cớ ấy, những dân còn lại
ở nhà, toàn gầy yếu tàn-tật, chẳng có mấy
người mạnh-mẽ. Cha mẹ sợ con phải đi
lính, vừa lớn lên tức cho vào Chùa làm
Sãi, hầu mong trốn-tránh việc Quan ; do
đó bọn khoác áo nhà Chùa rất đông,
Phật-pháp trở nên hỗn-loạn, chẳng
những " Tông-pháp " không ai hỏi đến,
mà các việc " Luật-luận " cũng đều
xếp xó bỏ qua, đến nỗi những kẻ mão-ni
áo-tràng mà nết xấu, tật hư còn quá bọn
dân quê ngoài Làng-mạc ! Cho đến những
hạng trí-thức tự xưng làm thày người
cũng không cứu-vãn được tệ-phong,
luống phụ lòng kính tín của quốc-dân và
Chúa Thượng. Tai nghe mắt thấy há nỡ
làm-thinh ; bèn viết cáo bạch một bài,
dán lên các cửa Chùa cho mọi người
được rõ ."
NGUYỄN-CƯ-TRINH
82
Lời cáo bạch :
" Tam-giáo Thánh-nhân khai-hóa
thiên-hạ, từ việc lớn đến việc nhỏ đều có
pháp-độ chương-trình. Đạo phải có gốc,
học phải có thày, không phải xuyên-tạc
đặt bày để mượn tiếng làm thày thiên-hạ
được . . .
" Có người sao tờ bạch của ta dâng
lên cho Vua xem. Nhà Vua nói : Phần
đông Tăng-chúng không giữ giới-luật, ta
sẽ phát lịnh bài đi các Phủ, bắt Tăng-đồ
đem về trình Lão Hòa-thượng ( tức Đại-
Sán ) khiến cần chịu 3 đàn giới-pháp, mới
cấp cho giới-điệp, miễn tha xâu thuế.
Lão-Hòa-thượng ra báo đơn thông-tri, từ
1 đến 8 tháng tư làm viên-mãn cả 3 đàn
cũng được. Ta sẽ thống-suất quyền-thuộc,
các Quan văn, võ ai có tín-tâm, đều xin
làm đệ-tử, chịu Bồ-tát-giới, xin Hòa-
thượng đặt cho Pháp-danh, Đạo-hiệu . . .
" Trong khi nói chuyện, Quốc-
Vương ( Phúc-Chu ) thường tỏ ý tưởng
nhớ Đông-kinh ( Hà-Nội Bắc-Hà ), nói
Đông-kinh là đất nước bản-quốc. Tiên-Đế
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
83
từng làm rể An-nam, được phong làm
Phiên-thần ở xứ này, dần dần trong xứ
trở nên cường-thịnh ; từ đất cát cứ lập
thành một nước, đổi hiệu làm Đại-Việt ".
_ ( Thích-Đại-Sán _ " Hải-ngoại Ký-sự " )
Đấy là tình-trạng xã-hội sinh-hoạt thực-tế
và tinh-thần ở Nam-Hà cuối thế-kỷ thứ 17 đầu
thế-kỷ 18. Đại-khái là một xã-hội do một ông
Tướng phong-kiến đang mở-mang với tất cả
tác-phong lạc-hậu, nhân-dân bị bóc-lột, không
có giá-trị con người, không được giáo-hóa, bị
võ-lực áp-chế chẳng biết kêu vào đâu, cho nên
chúng ngu-muội, dễ bị bọn " trốn việc quan đi
ở chùa ", lừa dối lòng tin, thiếu thày sáng-suốt.
Giới trí-thức lãnh-đạo, từ Bắc chạy vào, còn
giữ lại ít nhiều giáo-hóa thời Hồng-Đức, đang
mải vừa đánh-chiếm, vừa bảo-vệ một xứ xa lạ
đồng đất nước người, cho nên chưa xây-dựng
nên được một " văn hiến chi bang ", bất quá
mới chỉ là " một xứ cất cứ lập thành nước "
mà thôi. Bởi thế mới có bài điều-trần " Đại-
Việt Sự-nghi " của ông Sư Tầu, Thích Đại-Sán,
Thạch-Liêm, đưa cho Minh-Vương Nguyễn-
NGUYỄN-CƯ-TRINH
84
Phúc-Chu để trình-bày cả một chương-trình
lập-quốc, có 4 điều :
" 1/ Nên tiến-cống Trung-triều
( Mãn-Thanh ) để chính danh-hiệu : Nhà
Vua khiến Sứ thông-báo với các Quan
Đốc-vũ, Tướng-quân ( Quảng-Đông ) rồi
sau dâng biểu tiến-cống triều-đình, xin
phong Vương để chính vị hiệu ".
" 2/ Đặt Đồn-thú để củng-cố biên-
thùy .
" 3/ Thương yêu quân-sĩ để cổ-võ
lòng trung dũng .
" 4/ Mở trường-học để giáo-dục
nhân-tài: Nay nhà Vua nên dựng nhà
quốc-học, tôn thờ Khổng-thánh, tàng-trữ
sách Nho, mời các nhà Lý-học danh Nho
ra làm thày để giảng minh đạo Thánh. Từ
Vương thế-tử, con em các Đại-thần cho
đến nhân-dân tuấn-tú đều cho vào học ;
rồi bày cách thi-hạch để phân-biệt hơn
thua, nung đúc lâu ngày tự nhiên mọi
người hiểu-biết cương-thường luân-lý ; trị
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
85
đạo chính-đại, dần dần trở nên một nước
văn-minh ".
_ ( Hải-ngoại Ký-sự )
Xem nội-dung tờ biểu trên đây thì biết
trình-độ văn-hóa phương Nam bấy giờ còn thấp
kém, phải nhờ đến ý-kiến của một ông sư Tầu
dạy bảo cách xếp đặt lễ-giáo để trở nên một
nước Văn-minh .
* Tiếp-Xúc Với Văn-Hóa Âu-Tây._
Sự tiếp-xúc với Âu-Tây ở Việt-Nam
đã bắt đầu từ thế-kỷ XVI dưới hình-thức
truyền-bá đạo Thiên-Chúa cho các lưu-dân
chài-lưới ven bờ vịnh Bắc-Việt. Năm 1584 có
Giáo-sĩ Bartholome Ruiz đi tầu Bồ-Đào-Nha
vào Bắc-Việt được Chúa Mạc-Mậu-Hợp tiếp-
đãi tử-tế. Năm 1596 có hai Giáo-sĩ dòng
Dominicain là Alonzo Jimenez và Diégo
Aduarté người Y-Pha-Nho giảng đạo ở Thuận -
Quảng. Đến năm 1615, đời Chúa Sãi, Giáo-sĩ
F. Bussomi đến giảng đạo, năm 1621 có Jean
NGUYỄN-CƯ-TRINH
86
Rhodes người Pháp đến Phú-Xuân lập ra Giáo-
đường và sau ra Bắc được Chúa Trịnh cho
phép giảng đạo tại Kinh-đô. Một sự tình-cờ của
việc truyền-giáo ấy đã trở nên một sự-kiện lịch-
sử quyết-định cho tương-lai văn-hóa Việt-Nam
là việc Giáo-sĩ Alexandre De Rhodes ở cả
Đàng-trong và Đàng-ngoài ( 1627 - 1645 )
trong khi truyền-giáo có chế ra chữ Quốc-ngữ,
nghĩa là học tiếng Việt và tìm phiên-âm ra
mẫu-tự La-Tinh để viết sách giảng đạo cho dân
bản-xứ. Chữ Quốc-ngữ, là tiếng Việt phiên-âm
theo lối Tây-phương, thay cho chữ Nôm là
biến-thể của chữ Hán tượng-hình, bắt đầu từ
đây .
Bấy giờ chắc hẳn nhân-dân theo đạo
Thiên-Chúa mỗi ngày một đông, ảnh-hưởng
vào giới trí-thức lãnh-đạo, vốn tôn-sùng Nho-
giáo, Phật-giáo và tôn-giáo Tổ-tiên, nên mới có
sự tranh-biện giáo-lý năm 1636 như sau :
" Tại tỉnh Phú-Yên lúc ấy xẩy ra
một cuộc cãi lý giữa một Giáo-sĩ sốt-sắng
tên là Hi-E-Ro-Ni-Mô và một Nho-sĩ
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
87
trước mặt Quan Trấn-thủ ( Nguyễn-Phúc-
Kiều). Nho-sĩ này phải đuối lý không trả
lời được câu nào. Quan Trấn-thủ rất mộ
mến đạo ta ( tức Thiên-Chúa-giáo ) song
ông không theo vì ông không thể bỏ được
vợ bé của ông. Tuy vậy ông cho phép bà
vợ cả ( Công-chúa Ngọc-Đỉnh, con gái
Chúa Sãi Nguyễn-Phúc-Nguyên ) theo
đạo nếu muốn. Bà này liền tòng-giáo và
chúng tôi hy-vọng bà sẽ làm cho chồng
bà trở lại ".
_ ( Relation Cardim kể trong Cadière :
" Une Princesse Chrétienne à la Cour des
premiers Nguyễn " _ Bul. Des Amis du
Vieux Hếu 1939 _ tr. 113 - 114 _ do
Phạm-Đình-Khiêm _ trích-dẫn, Văn-Hóa
Nguyệt-San 1959 - Saigon_ tr. 889 số 43)
Thời bấy giờ trong Phủ Chúa Nguyễn
miền Nam đã có đến hai bà Chúa theo đạo,
cùng mang tên Thánh là Maria Madelena, một
bà là Vương-Thái-Phi Minh-Đức, Tiết-phụ
Chúa Nguyễn-Hoàng và một bà là vợ Quan
Trấn-thủ Phú-Yên Nguyễn-Phúc-Kiều. Như thế
NGUYỄN-CƯ-TRINH
88
đủ thấy ảnh-hưởng của Thiên-Chúa-giáo một
ngày một bành-trướng lan rộng. Vậy mà đột
nhiên năm 1631 Chúa Thượng Nguyễn-Phúc-
Lan cấm không cho người Tây-phương vào
giảng đạo ở trong nước. Và năm 1663 ở Đàng-
ngoài Chúa Trịnh-Tạc cũng bắt đuổi Giáo-sĩ và
cấm không cho người mình theo đạo Thiên-
Chúa. Năm 1664 Chúa Hiền ở Đàng-trong bắt
giết một người đi giảng đạo ở Đà-Nẵng. Năm
1696 Trịnh-Căn bắt đốt phá hết cả những sách
đạo, nhà Thờ ở các nơi và đuổi những người
giảng đạo ra khỏi nước. Năm 1699 Đàng-trong
Chúa Nguyễn sai gia-đinh tra bắt người theo
đạo Hòa-Lan, phàm người Tây-phương đến ở
lẫn đều đuổi về nước. Năm 1712 ở Đàng-
Ngoài, Trịnh-Cương bắt những người theo đạo
Thiên-Chúa phải cạo trán và khắc vào mặt bốn
chữ " Học Hòa-Lan đạo ". Năm 1754 Trịnh-
Doanh lại nghiêm cấm một cách rất ngặt,
không cho người ta đi theo đạo và lại giết cả
các đạo-trưởng và đạo-đồ .
Sự thay-đổi một cách đột-ngột của các
Chúa Đàng-trong và Đàng-ngoài đối với các
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
89
Giáo-sĩ Thiên-Chúa-giáo chắc hẳn có một
nguyên-nhân gì sâu-xa, hoặc về tín-ngưỡng
xung-đột, hoặc về ảnh-hưởng chính-trị đe-dọa
đến địa-vị quyền-thế của các Chúa phong-kiến.
Nhưng cũng có lẽ vì lý-do giản-dị này là lúc
đầu các Chúa chưa hiểu giáo-lý, tưởng đạo
Thiên-Chúa cũng như các đạo khác, có thể
sống chung thỏa-hiệp với nhau để cùng dạy
người ta làm điều lành, tránh điều dữ, không dè
đạo này cấm-đoán các tín-ngưỡng khác, cho là
tà-đạo, thậm-chí cấm cả dân theo đạo không
được sùng-bái Tổ-tiên, vốn là tín-ngưỡng cố-
hữu của dân-tộc Á-Đông. Do đấy mà đạo
Thiên-Chúa sang truyền-bá bấy giờ đã phạm
vào những tín-điều căn-bản của một nền luân-
lý cổ-truyền, khiến cho các Vua, Chúa Việt-
Nam hoảng-sợ mà phải cấm-đoán truyền-bá và
tín-đồ. Xem như câu chuyện cãi lý trên kia,
giữa một tín-đồ Thiên-Chúa-giáo với tín-đồ
Nho-giáo trước mặt ông Tổng-trấn thì đủ hiểu
sự xung-đột tín-ngưỡng lúc ấy có vẻ như một
phong-trào rồi vậy. Huống chi theo sau việc
truyền-giáo của các Giáo-sĩ Thiên-Chúa sang
Á-Đông, liền có những việc chiếm đất làm
NGUYỄN-CƯ-TRINH
90
thuộc-địa của người Âu-Tây, như người Bồ-
Đào-Nha lấy đất Áo-Môn ( Macao ) năm 1563,
người Tây-Ban-Nha lấy đất Phi-Luật-Tân năm
1568, người Hòa-Lan lấy đất Trà-Và ( Java)
năm 1596, người Pháp-Lan-Tây, người Anh-
Cát-Lợi chiếm đất Ấn-Độ…
Thực ra khuynh-hướng tinh-thần tôn-giáo
của giới trí-thức lãnh-đạo từ Vua, Chúa trở
xuống các Quan trọng-thần ở cả Đàng-ngoài
lẫn Đàng-trong, nhất là ở Đàng-trong như
chúng ta đã thấy, cách tiếp-đãi và đối-xử ở đất
Thuận - Quảng đối với nhà Sư Tầu Thích-Đại-
Sán, chứng-tỏ không-khí dung-hòa tôn-giáo
truyền-thống Việt-Nam Nho, Đạo, Phật, Thần-
tiên, Vật-linh, sống chung với nhau không
xung-đột. Hơn nữa trên đường Nam-tiến, đi
đến đâu là di-dân đem theo cơ-sở xã-hội nông-
thôn đến đấy, lấy Đình-làng làm trung-tâm
sinh-hoạt tinh-thần và thực-tế. Đình-làng chính
là tượng-trưng cho tinh-thần dung-hòa các tín-
ngưỡng chung-quanh vị Thành-Hoàng của mỗi
xã-thôn nông-dân .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
91
Chính trong cái bối-cảnh lịch-sử chính-trị
xã-hội và văn-hóa trên đây, đầu thế-kỷ XVIII
cuối thế-kỷ XIX mà NGUYỄN-CƯ-TRINH đã
sinh-trưởng và tạo-tác thân-thế và sự-nghiệp,
điển-hình của một Nho-sĩ Việt-Nam vậy .
***
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
93
THÂN-THẾ VÀ SỰ-NGHIỆP
NGUYỄN-CƯ-TRINH
Theo " Đại-Nam Liệt-Truyện Tiền-
Biên "( ), NGUYỄN-CƯ-
TRINH ( ) tên tự là NGHI, hiệu là
ĐẠM-AM ( ) con út Nguyễn-Đăng-Đệ
( ). CƯ-TRINH đĩnh-ngộ tuyệt-vời,
mười một tuổi đã thuộc văn-chương, biết làm
thơ, hay đề vịnh với người anh họ là Đăng-
Thịnh ( ) nổi tiếng. Năm Canh-Thân đỗ
khoa Hương-cống, bổ làm Tri-phủ Triệu-
Phong. Dần dần đổi sang Văn-chức, gặp việc
dám nói, có tác-phong can-gián nhà Vua. Mùa
hè năm Giáp-Tý ( 1744 ) Thế-Tông ( 1738 -
1765 ) đã lên ngôi Vua chính-thức, phàm chế-
độ biểu-chương đều do sáng-kiến của Đăng-
Thịnh, CƯ-TRINH thảo lời văn-từ lệnh. CƯ-
NGUYỄN-CƯ-TRINH
94
TRINH là người khẳng-khái có mưu-lược, lo-
liệu công-việc khéo quyết-đoán hợp với thời-
cơ. Mùa Xuân năm Canh-Ngọ ( 1750 ) Ông
được phong làm Tuần-phủ Quảng-Ngãi. Sắc-
phong nói :
" Thuộc-lại gian tham, ngươi phải
xét trị ; Hào-cường lấn cướp, ngươi phải
ngăn trừ ; án giam không quyết, ngươi
phải xét ra lẽ ; hộ-khẩu không đông,
ngươi phải làm cho phồn-thịnh ; nhân-
dân ương-ngạnh, ngươi phải giáo-hóa ;
kẻ gian trộm cắp, ngươi phải bắt vào
khuôn-phép. Nhất thiết tình-trạng của
quân, nỗi khổ của dân, cho ngươi được
tùy-nghi làm việc, chỉ cần thành-công chứ
không sợ nhọc ".
_ ( Đại-Nam Thực-Lục Tiền-Biên )
Tỉnh Quảng-Ngãi bấy giờ có giặc Mọi
Thạch-Bích thường đến quấy-nhiễu ngoài biên,
Quan quân đánh mãi không được. Khi CƯ-
TRINH đến làm tờ phủ-dụ, chúng cũng không
ra. Ông bèn đề-nghị tiến đánh thì phần nhiều
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
95
Quan quân cho là đất hiểm-trở, xa-xôi, khí độc
lam-chướng nên cản-trở đề-nghị của Ông. CƯ-
TRINH bèn làm ra Truyện " Sãi-Vãi " dùng
Quốc-âm lập ra lời vấn-đáp để chế-diễu và
hiếu-dụ. Sau rồi Ông cầm quân tiến đánh, giặc
Mọi đều trốn chạy. CƯ-TRINH sợ khi đem
quân về thì chúng lại tụ-tập, bèn chiếm-đóng
sào-huyệt của chúng lập thành Thôn-trại để
khai-khẩn đồn-điền, giả làm ra cái kế-hoạch ở
lâu, giặc Mọi sợ bèn kéo ra hàng dưới trướng.
Ông bèn phủ-dụ chúng và phân-phát đi các nơi,
xong rồi mới báo-cáo lên, Vua rất lấy làm khen
thưởng .
Năm Tân-Mùi ( 1751 ) mùa đông CƯ-
TRINH có thư tâu lên Vua về trạng-huống đau
khổ trong dân-gian, Ông viết :
" Nước lấy dân làm gốc, gốc không
vững thì nước không yên. Ngày thường
nếu không lấy ân-huệ để kết-hợp nhân-
dân đến khi có việc thì nương-tựa vào
đâu ? Trộm nghĩ thói tệ chất-chứa ở dân-
gian đã nhiều, nếu cứ thủ-thường theo cũ,
NGUYỄN-CƯ-TRINH
96
không tùy thời thêm bớt, lập ra kỷ-cương
thì một Ấp cũng chẳng làm được huống-
hồ là một nước. Nay có ba việc sinh-tệ
cho dân là nuôi lính, nuôi voi, và nộp tiền
án-phí. Ngoài ra còn nhiều sự nhũng-phí
khác kể không xiết được ".
Lại có trình-bày bốn điều về thói tệ :
" 1/ Phủ, Huyện là chức trị dân mà
gần đây không giao trách-nhiệm làm việc,
chỉ cho khám hỏi kiện-tụng, xin từ nay
trở đi các thứ thuế ruộng và thuế sai-dự
hết thảy giao cho Tri-huyện biên thu rồi
chuyển nộp cho Quảng-Nam để bớt
phiền-nhiễu .
" 2/ Từ trước đến nay, Phủ, Huyện
chỉ trông vào việc bắt-bớ, tra hỏi mà kiếm
lộc, khiến cho của dân càng thêm hao, tục
dân càng bạc. Nay xin định cấp cho
thưởng bổng và lấy liêm tham, siêng lười
mà thăng hay truất .
" 3/ Dân lậu thuế có hai hạng, có
hạng trốn thuế đi lang-thang, có hạng vì
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
97
cơ-hàn thiết-thân mà xiêu-dạt nơi khác.
Nay không chia đẳng hạng, hết thảy bắt
vào sổ để thu thuế thì chúng tất sợ-hãi
xiêu-tán, lẩn-lút nơi rừng-rú, xã-dân lại
phải bồi-thường thì họ chịu sao nổi. Xin
xét những dân lậu còn có cách sinh-nhai
thì thu thuế như lệ thường, còn người nào
đói rét khốn cùng thì cho miễn và tùy
phương vỗ nuôi, để cứu sống dân nghèo .
" 4/ Dân nên để cho tĩnh, không nên
làm cho động vì động thì dễ loạn, tĩnh thì
dễ trị. Nay sai người đi săn bắn ở núi
rừng, tìm gà đòi ngựa, bọn ấy không theo
được ý tốt của bề trên, mà quấy rối dân
địa-phương, rồi bọn giả-mạo đến đâu làm
náo-nhiệt ở đấy, mọi người đều than oán.
Xin từ nay, người được sai phải có giấy
tờ trình Quan địa-phương xét thực hư, kẻ
nào nhiễu dân thì xét trị, ngõ hầu lòng
dân được yên-tĩnh, khỏi hoang-mang ".
_ ( Liệt-Truyện Tiền-Biên )
Sớ dâng lên không được phúc đáp, CƯ-
TRINH liền xin từ-chức .
NGUYỄN-CƯ-TRINH
98
Vua triệu về đổi sang làm Ký-lục Dinh
Bố-Chính. Bấy giờ Hoàng-Tử nhà Lê là Duy-
Mật giận họ Trịnh tiếm quyền, họp quân đóng
giữ thành Trình-Quang thuộc Trấn-Ninh để
mưu diệt Trịnh. Trịnh-Doanh sai quân các đạo
đi đánh không được, muốn mượn đường ở ta
( Nam-Hà ) đưa thư mượn đường thuộc tỉnh
Quảng-Bình để tiến đánh. Vua sai CƯ-TRINH
làm thư khước-từ, Doanh bèn thôi. Bấy giờ là
năm 1753 .
Mùa đông năm Tân-Dậu 1755, Vua
Chân-Lạp là Nặc-Nguyên xâm-lấn Côn-Man,
Vua Thế-Tông muốn trừng phạt, bèn sai Cai-
đội là Thiện-Chính làm Thống-suất, CƯ-
TRINH làm Tham-mưu, điều-khiển 5 doanh
tướng-sĩ đi đánh Chân-Lạp .
Mùa hạ tháng 6 quân Gia-Định chia
đường tiến đánh Chân-Lạp. Thống-suất Thiện-
Chính tiến quân do đường Mỹ-Tho, NGUYỄN-
CƯ-TRINH cầm kỵ-binh tiến do đường sông
Bát-Đông. CƯ-TRINH tới đâu giặc tan chạy
cả. TRINH qua Tàn-Lê-Bắc ra Đại-Giang hội
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
99
với quân Thiện-Chính ở đồn Lô-Yêm. Bốn Phủ
Lôi-Lạp, Tầm-Bồn, Cầu-Nam, Nam-Vang đều
hàng, Nặc-Nguyên chạy đến Tầm-Phong-Thâu,
CƯ-TRINH bèn chia sai thuộc-tướng đi chiêu-
dụ người Côn-Man để làm thanh-thế, gặp mưa
lụt phải đóng quân lại .
Năm Ất-Hợi ( 1757 ) mùa xuân, Thống-
suất Thiện-Chính đem quân về đồn Mỹ-Tho
trước, ra lệnh cho người Côn-Man bỏ Kha-
Khâm, đem Bộ-lạc và xe cộ đến đóng ở Bình-
Thành. Đi đến Vô-Tà-Ơn bị quân Chân-Lạp,
hơn vạn người, đuổi theo đánh úp. Người Côn-
Man thế bí xếp xe lại làm lũy để chống giữ và
cáo-cấp. Thiện-Chính bị chặn và rừng ngăn trở-
ngại nên không ứng cứu. CƯ-TRINH tức thì
đem 5 đội tùy-binh đến giải-vây, quân Chân-
Lạp phải rút lui. TRINH bèn hộ-vệ hơn 5.000
trai, gái Côn-Man về đóng ở chân núi Ba-Đình,
rồi tâu học Thiện-Chính về tội bỏ lỡ cơ-hội và
bỏ rơi dân mới qui-phục. Vua giận triệu Thiện-
Chính về giáng xuống làm Cai-đội, sai Cai-đội
Trương-Phúc-Du thống-suất quân-sĩ dùng
người Côn-Man làm hướng-đạo sang đánh
NGUYỄN-CƯ-TRINH
100
Cầu-Nam và Nam-Vang, giết được mấy người
Ốc-Nha. Nặc-Nguyên chạy về Hà-Tiên, nương
nhờ Đô-đốc Mạc-Thiên-Tứ, xin nhờ dâng đất
hai phủ Tầm-Bồn và Lôi-Lạp để bù vào lệ cống
ba năm trước đã bỏ. Vua chưa bằng lòng, CƯ-
TRINH tâu rằng :
" Từ xưa việc dụng binh chẳng qua
trừ kẻ cầm đầu mà mở mang đất nước.
Nay Nặc-Nguyên đã hối lỗi nộp đất xin
hàng, nếu tìm mãi chỗ giả-dối của nó, thì
nó chạy trốn. Thế mà từ Gia-Định đến
thành La-Bích đường sá xa-xôi, không
tiện đuổi đến cùng. Muốn mở-mang đất-
đai nên trước hết hãy lấy hai phủ này để
củng-cố mặt sau cho hai doanh-trại. Nếu
bỏ gần cầu xa, e rằng hình-thế cách-trở,
quân dân không tiếp-xúc, lấy được tuy dễ
mà giữ được thật khó. Năm xưa mở-mang
Gia-Định tất phải trước hết mở đất
Hưng-Phúc, rồi đến Đồng-Nai, khiến cho
quân dân đông đủ, rồi sau mới mở đến
Saigon. Đó là kế tầm ăn dần
. Nay đất cũ từ Hưng-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
101
Phúc đến Saigon chỉ hai ngày đường,
dân-cư còn chưa yên-ốn, quân giữ cũng
còn chưa đủ. Huống chi từ Saigon đến
Tầm-Bồn xa sáu ngày đường, địa-thế
rộng-rãi, dân-số đến vạn người, quân
đóng giữ thực sợ chưa đủ. Thần xem
người Côn-Man giỏi thuật bộ-chiến,
người Chân-Lạp cũng đã e sợ. Nếu cho
họ ở đất ấy để họ chống giữ, lấy người
Man đánh người Man " dĩ Man công
Man " cũng là đắc-sách.
Vậy xin cho Chân-Lạp chuộc tội, lấy đất
hai phủ này ủy cho Phiên-thần xem xét
hình-thế, đặt thành-trì, đóng quân, chia
cấp ruộng đất cho quân-lính và nhân-
dân, vạch rõ biên-giới, cho lệ-thuộc vào
châu Định-Viễn để thu lấy toàn khu ."
Vua liền y theo .
_ ( theo " Đại-Nam Thực-Lục " về Thế-Tông
Hiếu-vụ ) .
Với chính-sách " Tàm-thực " và " dĩ
Man công Man " của họ NGUYỄN trên đấy,
NGUYỄN-CƯ-TRINH
102
thêm vào với sinh-lực dồi-dào mãnh-liệt của
dân Việt nhờ có truyền-thống tín-ngưỡng khai-
phóng vào Thực-tại vừa nội-tại vừa siêu-nhiên
( à la fois immanent et transcendant ) " hợp cả
trong và ngoài " cả Đời lẫn Đạo :
" Thành ư trung vị tất hòa-bình,
Hình tại ngoại bất năng trung tiết ! "
_( Nguyễn-Cư-Trinh _ " Sãi-Vãi " )
Nghĩa là :
( Sự thành-tín trong tâm chưa tới được
an-hòa quân-bình,
Thì sự biểu-hiện ra bên ngoài không thể
đúng tiết-độ mực-thước .)
Chẳng bao lâu Nặc-Nguyên chết, Vua
Thế-Tôn bèn phong cho Nặc-Tôn làm Vua
nước Chân-Lạp. Nguyên do sau khi Nặc-
Nguyên chết, người chú họ là Nặc-Nhuận tạm
coi việc nước. Biên-thần tâu xin nhân đó lập
Nhuận để tỏ ân-nghĩa cho vững biên-cương.
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
103
Vua bắt phải hiến hai phủ Trà-Vinh, Ba-Thắc
rồi sau mới y cho. Khi ấy xẩy ra việc con rể
Nặc-Nhuận là Nặc-Hinh giết bố vợ để cướp
ngôi, con Nặc-Nhuận là Nặc-Tôn chạy sang
Hà-Tiên. Thống-suất Trương-Phúc-Du thừa-thế
đánh Nặc-Hinh chạy đến Tầm-Phong-Xuy bị
quân Phiên là Ốc-Nha-Uông giết chết. Bấy giờ
Mạc-Thiên-Tứ cũng tâu giúp cho Nặc-Tôn.
Vua bèn sắc-phong cho Nặc-Tôn làm Vua đất
Chân-Lạp, sai Thiên-Tứ cùng với tướng sĩ 5
Dinh hộ-tống về nước. Nặc-Tôn bèn dâng đất
Tầm-Phong-Long, Phúc-Du và CƯ-TRINH tâu
xin dời Long-Hồ đến xứ Tầm-Bào ( nay là
tỉnh-lỵ Vĩnh-Long ). Lại đặt Đạo Đông-Khẩu ở
xứ Sa-Đéc, Tân-Châu ở Tiền-Giang, Châu-Đốc
ở Hậu-Giang, lấy quân doanh Long-Hồ để trấn
áp. Biên-giới phương Nam mở-mang đến đây
thật là cực rộng, đều do công-lao của CƯ-
TRINH cả .
Lại như ở Gia-Định bấy giờ, đường giao-
thông trên sông ngòi ngoắt-nghéo, thuyền cướp
thường ẩn-núp ở chỗ ngã ba hẻo-lánh, chờ
thuyền buôn đi qua là nhảy ra đánh cướp, nhà
NGUYỄN-CƯ-TRINH
104
buôn lấy làm khốn-khổ. CƯ-TRINH ra lệnh
cho các Hạt, phàm thuyền lớn nhỏ đều phải
khắc tên chủ-thuyền ở đầu thuyền cho Quan
Sở-tại ghi vào sổ để tiện việc tra xét. Từ đấy kẻ
gian không còn ẩn-náu được nữa mà cướp trộm
đều yên .
NGUYỄN-CƯ-TRINH ở biên-cương hơn
mười năm, uy-phong lừng-lẫy, nhân-dân cảm-
phục. Không những là một nhà chiến-thuật có
tài, một chính-khách lỗi-lạc, khéo cai-trị dân,
Ông còn là nhà Văn-học xuất-sắc, hay ngâm
vịnh, thường cùng với Tổng-trấn Hà-Tiên Mạc-
Thiên-Tứ trao tặng văn thơ, ý-tứ và lời nói
uyển-chuyển đẹp đẽ. Tác-phẩm Văn-học của
Ông rất phong-phú, tiếc rằng thất lạc đi nhiều.
Theo " Thực-Lục về Duệ-Tông Hiếu-Định
Hoàng-Đế " thì:
" Năm Ất-Dậu ( 1765 ) Duệ-Tông
Hoàng-Đế nối ngôi, triệu Tham-mưu
Dinh điều-khiển Gia-Định NGUYỄN-
CƯ-TRINH về triều, thăng lên làm Lại-
bộ kiêm Tào-vận-sứ. Quyền-thần Trương-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
105
Phúc-Loan lấy công sách-lập mà lộng-
hành, thường triệu bách Quan đến nhà
riêng để bàn việc nước. CƯ-TRINH
nghiêm-nghị nói : " Triều-đình bàn việc
công, tư đã có định-chế. Phúc-Loan sao
dám vô lễ như thế, muốn tiếm quyền Vua
hay sao ? Kẻ làm cho nước loạn là y
vậy ! "
Trăm Quan không ai dám đến nhà tư của
Phúc-Loan nữa. Phúc-Loan thâm-thù việc ấy
mà vốn kính-nể Ông nên không dám làm hại .
Mùa hè tháng 5 NGUYỄN-CƯ-TRINH
mất, thọ 52 tuổi, CƯ-TRINH là người có cơ-trí
mưu-lược, giỏi quyết-đoán, phàm có kiến-nghị
tâu bày đều là lời nói ngay-thẳng chính-trực.
Trong khi tham-dự việc Quan ở miền Nam, 11
năm mở-mang đất-đai giữ yên biên-giới, công-
lao danh-vọng rỡ-ràng. Khi ở Gia-Định cùng
với Tổng-binh Trấn Hà-Tiên Mạc-Thiên-Tứ
thường lấy văn thơ trao tặng, có tập " Hà-Tiên
Thập Vịnh " ( ) trong " Đạm-Am
Tập " ( ) là tập văn-chương rất quý
NGUYỄN-CƯ-TRINH
106
giá còn lưu-truyền ở đời, và bài " Sãi-Vãi Vấn
tập " bằng văn Nôm, ngụ-ý tôn-sùng Chính-
học, bài-bác mê-hoặc, dùng lối văn Biền-ngẫu
Quốc-âm .
Mùa hè năm Đinh-Hợi ( 1767 ), Ông bị
bệnh rồi mất, thọ 52 tuổi, được tặng Tá-lý
Công-thần, đặc tiến Trụ-quốc Kim-tự Vĩnh-lộc
Đại-phu Chính-trị Thượng-khanh, Thụy là
Văn-Định ( ). Đến năm Minh-Mệnh
thứ 20 ( 1839 ) truy-lục lại công-trạng, Ông
được truy-tặng thêm chức Hiệp-biên Đại-học-sĩ
lãnh Lại-bộ Thượng-thư, đổi Thụy là Văn-Lạc
( ) tước Tân-minh-hầu ( )
tòng tự tại Thái-miếu .
Ông có hai người con trai, con trưởng là
Cư-Dật, con thứ là Cư-Tuấn đều hiển-hách .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
107
TƯ - TƯỞNG
VỀ QUAN - NIỆM CHÍNH - HỌC
CỦA NGUYỄN - CƯ - TRINH
Xem thân-thế, sự-nghiệp chính-trị
và văn-chương của NGUYỄN-CƯ-TRINH trên
đây, chúng ta đã thấy được hình-ảnh một nhà
Nho đóng vai Kẻ-sĩ điển-hình ở Việt-Nam xưa.
Căn-cứ vào những tác-phẩm còn ghi lại được
của Ông, chúng ta thử tìm-hiểu tư-tưởng và
quan-niệm Chính-Học của Ông như thế nào .
CƯ-TRINH là một Nho-sĩ, và theo tư-
tưởng cổ-truyền điển-hình Á-Đông thì cái danh
xưng nhà Nho theo " Thuyết văn " là " Nhu
mâu dã, thuật sĩ chi xưng " ( )
( Nho là mềm vậy, hạng người có nghệ-thuật
xưng mình ) .
NGUYỄN-CƯ-TRINH
108
Lại sách Luận-Ngữ viết : " Khổng-Tử bảo
Từ-Hạ rằng : Anh làm người Nho quân-tử
không làm kẻ Nho tiểu-nhân " .
Người Nho vốn là hạng người có trí-thức
tài-nghệ, đấy là cái tên thông-thường gọi một
lớp người như thế, về sau mới đem áp-dụng
vào một học-phái, là học-phái Khổng-Nho vậy.
Vì có sự phân-biệt giá-trị trên đây về nhân-
cách quân-tử, tiểu-nhân nên từ Khổng-Tử về
sau danh-từ Nho mới là danh-hiệu của một
học-phái. Và học-phái ấy tôn-thờ học-thuyết
của họ Khổng. Cái học-thuyết ấy cốt đào-tạo
một hạng người lãnh-đạo nhân-dân trong nước,
theo chế-độ nhà Chu bên Tầu thì " Thân
thông lục nghệ dĩ giáo dân giả, dĩ đạo
đắc dân " ( )
nghĩa là ( Bản thân thông-hiểu sáu nghề : Lễ,
Nhạc, Bắn cung, Cưỡi ngựa, Viết chữ, Tính
toán để dạy dân, lấy đạo-lý mà được dân theo ).
Cái đạo-lý ấy cốt ở điểm có một thế-giới-quan
để sống và hành-động vào đời. " Thông thiên
địa nhân viết Nho "
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
109
( ) nghĩa là quán-thông
mối liên-hệ giữa Trời, Đất, Người hay là cá-
nhân con người, thế-giới sự-vật và Thượng-đế.
NGUYỄN-CƯ-TRINH hẳn đã có cái quan-
niệm ấy rất thâm-thúy ở bản-thân nên đã biểu-
lộ ra hành-động thực-tế như ta đã được thấy ở
đời sống của Ông khi đối với Vua, với dân và
những người trong giới của mình .
Trong bức thư viết trả lời Mạc-Thiên-Tứ
Tổng-đức-hầu Tổng-binh ở Hà-Tiên, Ông có
bày-tỏ quan-niệm Nho-sĩ của Ông như sau :
Phiên-âm :
" Nhân bất năng ly đạo, dĩ thành
nhân, đạo diệc bất năng viễn nhân dĩ vi
đạo. Sự bản hô đạo, đạo tàng chư sự. Vô
NGUYỄN-CƯ-TRINH
110
định danh, vô định hình. Phân chi nhi tam
tài, hợp chi nhi lục tịch. Hữu nhân như
thử, hoặc quyển nhi ước chi, hoặc thư nhi
bác chi. Phù thùy viết bất nghi ? Tự nhân
quan chi, cố hữu chính đắc, hữu kỳ đắc,
hữu vô cầu nhi bất đắc. Đạo nhất dã,
danh chi bất đồng, vị chi dã ".
Dịch nghĩa :
( Người ta không thể dời đạo để nên
con người mà đạo-lý cũng không thể xa
người để làm thành đạo-lý được. Sự-vật
gốc ở đạo-lý, đạo-lý tiềm-tàng nơi sự-vật,
không có tên gọi nhất-định, không có
hình-tướng nhất-định cho đạo-lý được vì
là Tuyệt-đối. Tuyệt-đối ấy phân-hóa ra ba
phương-diện hay là ba tác-dụng, hợp lại
mà làm sáu Kinh ( Thi, Thư, Dịch, Lễ,
Nhạc, Xuân-Thu ). Có người như thế,
hoặc cuộn lại mà yếu-ước, hoặc duỗi ra
mà rộng khắp, ai bảo rằng không nên ?
Tự người mà xét, nên có kẻ đạt theo
đường ngay, có kẻ đạt theo đường đặc-
biệt, lại có kẻ không cầu gì mà không đạt.
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
111
Đạo-lý chỉ một thôi, tên gọi không giống
nhau, lệ-thuộc vào địa-vị vậy ) .
_ ( Lê-Quý-Đôn _ dẫn trong " Thuận-Hóa
Cổ-thời Chi Nhân-vật " _ Phủ-Biên Tạp-
Lục )
Lại nói về cái học lý-tưởng rằng :
Phiên-âm :
" Thường văn cổ chi vi học dã, cử
đạo khâu dĩ vi nhục, khuynh đức uyên dĩ
vi tửu, biên bách hạnh nhi lư thất chi, tập
vạn thiên nhi quán phục chi. Ngôn khả
ngôn ư khả ngôn chi thời vô bất trúng, vi
khả vi ư khả vi chi thời vô bất tòng. Tu
chi ư gia nhi minh chi ư vương đình, tu
chi ư quốc nhi hành chi ư tuyệt vực, kỳ
như thị chi vị hữu đắc ".
NGUYỄN-CƯ-TRINH
112
Dịch nghĩa :
( Thường được nghe nói rằng cái
học của người xưa cất vò gạo để làm thịt,
nghiêng nguồn đức để làm rượu, kết trăm
nết làm nhà ở, góp muôn điều thiện mà
làm khăn áo mặc. Nói điều lúc đáng nói
điều nào cũng trúng, làm việc lúc đáng
làm chẳng việc nào không theo. Tu sửa
cái học ấy ở trong nhà mà vang tiếng
trong triều Vua, tu sửa ở trong nước mà
thi-hành đến tận nơi hẻo-lánh ở ngoài xa.
Có được như thế mới gọi là người đạt ) .
_ ( " Thuận-Hóa Cổ-thời Nhân-vật "
_ Phủ-Biên Tạp-Lục. N.P. 55 )
Vậy CƯ-TRINH quan-niệm cái học của
Nho-sĩ là cốt đến chỗ đạt. Người đạt không
phải là người biết nhiều về lý-thuyết mà là
người giữ được lời nói việc làm đi đôi với
nhau, tức là tri và hành hợp-nhất vậy. Đấy là
con người đắc đạo. Đạo ấy như Ông đã giới-
thuyết khúc-chiết trên đây thì vừa siêu-nhiên
vừa nội-tại ( transcendant et immanent ) cho
nên không có " định danh " " định hình "
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
113
không xa người mà cũng không rời được
người, là nguồn-gốc của sự-vật và tiềm-tàng
nơi sự-vật. Đạo ấy cũng chỉ là một thôi, không
lệ-thuộc vào thời-gian không-gian mà tràn-
ngập cả thời-không, hiện-diện khắp cả. Cái
" Đạo Nhất " ấy mà CƯ-TRINH đã quan-niệm
và đạt được phải chăng là con đường hành-
động của Ông trong khi Ông ra thi-thố với dân
với nước ở Nam-Hà dưới thời Chúa Võ-Vương
( 1738 - 1765 ) .
" Đạo Nhất " ấy là cả một thế-giới-quan,
một ý-thức-hệ của Nho-sĩ truyền-thống điển-
hình, là hệ-thống Nhất-quán Tam-tài Thiên -
Địa - Nhân, nghĩa là thế-giới hiện-tượng sự-vật
khác nhau vô cùng, biến-hóa không hết, không
một khoảng-khắc nào có thật ở một chỗ, trôi
chảy ngày đêm không ngừng, khiến cho
Khổng-Tử phải nhìn theo giòng nước mà thở
dài than: ( ) " Thệ giả
như tư phù bất xả trú dạ " nghĩa là ( Đi mãi
thế kia ngày đêm không thôi ). Đứng trước
cảnh-tượng biến đổi như thế người ta không thể
không tự hỏi : Có cái chi thật ? Không có chi
NGUYỄN-CƯ-TRINH
114
thật cả mà chỉ có trào-lưu biến-đổi là thật thôi.
Cái thật ấy chính là vận-động liên-tục toàn-thể,
không riêng gì thế-giới hiện-tượng bên ngoài
mà cả thế-giới hiện-tượng bên trong ở tại nơi
người chủ-thể đứng nhìn. Tất cả ngoại-giới
cũng như nội-giới chỉ là một trào-lư trôi chảy
ngày đêm không thôi. Do cảnh-tượng ấy mà
người ta sớm trực-giác đến một cái sự quan-hệ
thống-nhất toàn-thể thế-giới, không có một
hiện-tượng nào biệt-lập mà có thật, tất cả hiện-
tượng trên trời, dưới đất, trong con người đều
chỉ là biểu-hiện của một cái gì không biến-đổi.
Cái ấy là cái MỘT tối-cao, cũng tức là cái mà
CƯ-TRINH gọi là " Đạo Nhất ", cũng như
Kinh Dịch viết : " Dịch hữu thái
cực " nghĩa là ( Biến-đổi trôi chảy ắt phải có
một đầu mối cùng cực quán-thông tất cả ). Nếu
thiếu cái MỘT quán-thông ấy thì sự biến-đổi
trở nên hỗn-độn, vô trật-tự, không có điều-lý,
vận-động chi cả, cho nên cái MỘT quán-thông
ấy, cái Thái-cực trong biến-dịch ấy duy-trì
đường lối vận-động, đem cho sự vận-động cái
điều-lý của nó, cho nên cũng gọi là Đạo ( ),
nghĩa đen là đường-lối vậy .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
115
CƯ-TRINH muốn nói đến cái Đạo như
thế nên bảo rằng Đạo là Một, phân-hóa ra ba
mặt hay ba tác-dụng chính-yếu cơ-bản là Trời-
thời, Đất-lợi và Người-hòa, để rồi lại hợp cả
vào sáu Kinh : Thi ( ), Thư ( ), Dịch
( ), Lễ ( ), Nhạc ( ), Xuân-Thu
( ). Đấy là cái ý-thức-hệ của Nho-sĩ Á-
Đông mà CƯ-TRINH đã đòi nhà trí-thức
đương thời phải đạt. Sáu Kinh gồm tất cả
phương-pháp thực-hành để thành-tựu cái
nguyên-lý Tam-tài : Người quan-hệ với Trời và
Người quan-hệ với Đất. Đất và Trời đây ngụ ý-
nghĩa tượng-trưng cho Địa-lợi nghĩa là khu-vực
tạo-vật sinh-thành và Thiên-thời nghĩa là
phạm-vi thời-tiết biến-hóa. Một mặt Địa là Âm
( ) thuộc về thế-giới hữu-hình, khí-lực vận-
động theo chiều Qui-tâm, một mặt Thiên là
Dương ( ) thuộc về thế-giới vô-hình, khí lực
vận-động theo chiều Ly-tâm, còn Nhân là
chính giữa ( Trung ) hai thế-lực để điều-
hòa sự quân-bình của hòa-điệu Tam-tài vậy .
NGUYỄN-CƯ-TRINH
116
" Trung dã giả thiên hạ chi đại bản dã.
Hòa dã giả thiên hạ chi đạt đạo dã. Trí
trung hòa thiên địa vị yên, vân vật dục
yên ". _ ( Trung-Dung ).
( Trung là gốc lớn của thế-giới. Hòa là
chỗ đạt đạo của thế-giới. Đến chỗ trung
hòa thì trời đất quân-bình, muôn vật nẩy
nở ) .
Đấy là một vũ-trụ-quan sinh-động mà
hạnh-phúc là ở chỗ quân-bình hòa-điệu, người
ta đạt tới bằng cách thực-hiện vừa Tri vừa
Hành, hỗ-tương chứ không phải chỉ suy-tư như
ở các hệ-thống triết-học trí-thức. Vì sự sống
toàn-diện không phải là lý-thuyết hay thực-
hành, nó đòi luôn luôn khai-triển cho đến
" Toại kỳ sinh " ( ) nghĩa là ( thoả-
mãn đầy đủ sự sống ), sống vật-chất cũng như
tinh-thần trong hòa-điệu giữa con người với
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
117
thế-giới và giữa con người với vũ-trụ đại-đồng,
tức là giữa hai phương-diện của Thể
( Substance ) và Dụng ( Existence ) của một
Tính ( ) hay một Ý-Sống ( ). Cho
nên sách Trung Dung của nhà Nho bảo phải :
" Tận kỳ tính, tận nhân tính, tận vật tính,
dũ Thiên Địa tham".
( Trọn vẹn hết tính mình, tính người và
tính vật, cùng với Trời Đất hợp thành hòa
điệu Ba-ngôi hay Tam-tài ) .
Như thế thì tất cả vũ-trụ từ chỗ vô-hình
đền chỗ hữu-hình chỉ có cái " Một Tính "
sinh-thành biến-hóa làm bản-thể đại-đồng cho
ba tác-dụng Tam-tài Trời, Đất, Người .
Theo NGUYỄN-CƯ-TRINH người đạt là
đạt tới cái Ý-Sống ấy, tức là cái Tính toàn-diện
NGUYỄN-CƯ-TRINH
118
vậy. Vì chỉ có cái Tính ấy mới hợp được cả
Thể và Dụng, cả Tri và Hành, cả Tâm và Vật,
Đạo và Đời. Đấy là Đạo Nhất của Ông. Muốn
đạt tới Đạo Nhất ấy, họ NGUYỄN bảo phải
theo Lục-Kinh, trong đó thì Kinh Thi chủ về
tình-cảm để khởi-hứng ở con người nhưng
không để cho tà-dâm. Kinh Lễ chủ về điều-lý
trật-tự bên ngoài, giữ sự tôn-kính trong tinh-
thần. Kinh Nhạc chủ về hòa-điệu, điều-lý bên
trong. Vậy Thi hứng, Lễ lập, Nhạc hòa đấy là
hoàn-thành cho cá-nhân. Còn Kinh Dịch chủ về
ý-nghĩa biến-hóa trong vũ-trụ, không có gì cố-
định, chỉ tùy thời mà có, tùy thời không, nên
không thể cố-định mà phải luôn luôn thích-ứng
không được chấp-nhất. Kinh Thư cốt ở nghĩa
Chấp-trung ( ) vì " Tâm đạo hay ý-thức
vũ-trụ đạo-lý rất vi diệu, nhân-tâm hay là ý-
thức con người hay mờ tối thiên-lệch, nên phải
tinh nhất giữ lấy mối giữa bên trong ", tức là
cái nguồn do đấy xuất-phát ra một bên là Đạo-
tâm một bên là Nhân-tâm, tựu-trung thì chỉ có
một cái Tâm thật ở chỗ Trung, quân-bình. Kinh
Xuân-Thu chỉ về hành-động nhân-sinh, cốt ở
chỗ phân-biệt Thiện, Ác " Chính danh định
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
119
phận " ( ) trong nhân-quần xã-
hội .
Đấy là sáu đường lối của Nho-học để
hoàn-thành cái đạo Tam-tài, là một nhân-bản
toàn-diện phải thực-hiện bản-tính đầy đủ của
con người, vừa thực-tế trong điều-kiện không-
gian và thời-gian, địa-lý và lịch-sử, vừa siêu-
nhiên vượt ra ngoài những điều-kiện ấy để nối
với Thiên-mệnh " Tri mệnh lạc thiên "
( ) nghĩa là ( Biết định-mệnh vui
với lẽ tự-nhiên ). Bởi thế mà CƯ-TRINH bảo :
" Nói điều có thể nói đúng lúc, không điều gì
không trúng, làm việc gì có thể làm, đúng lúc,
không việc gì không được người ta tuân theo ",
ví như lời Ông đã mắng Trương-Phúc-Loan
dám bàn việc triều-đình tại nhà riêng chẳng
hạn. Và Ông tin tưởng rằng " tu đạo ấy ở nhà
mà nổi tiếng đến nơi triều-đình Vua, tu đạo ấy
trong nước mà có hiệu-lực đến ngoài cõi xa ".
Vì đạo-lý của CƯ-TRINH quan-niệm tùy theo
với vị-trí của mình mà tu, không phải không-
tưởng mà phải thiết-thực, không đứng núi nọ
mà nhìn núi kia, " hồn bướm mà mơ tiên ", ở
NGUYỄN-CƯ-TRINH
120
thân-phận con người mà nhận-xét," Tự nhân
quán chi " ( ) thì kẻ đạt đạo
cách này, kẻ đạt đạo cách kia, đường lối khác
nhau, tùy với cảnh-ngộ nhưng một khi thành-
đạt thì chân-lý là một, tuyệt-đối ở trên các
đường lối. Đấy là cái đạo Trung-dung của CƯ-
TRINH :
" Quân tử tố kỳ vị nhi hành bất nguyện hồ
kỳ ngoại ".
( Người quân-tử tùy theo địa-vị cảnh-ngộ
mình mà hành-động, không mong đợi vào
cái sức bên ngoài mình không có ) .
Ở địa-vị Người đứng giữa Trời và Đất,
Vô-hình hay Siêu-hình và Hữu-hình hay là
Thiên-nhiên, điều tiên-quyết trước hết là ý-thức
cái sứ-mệnh lịch-sử của mình, ý-thức sự liên-
hệ tương-quan giữa mình với thế-giới chung-
quanh mình, ý-thức chính cái thực-tại của
mình. Bởi thế nên Nho-sĩ có chương-trình tu
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
121
đạo hai giai-đoạn để đạt tới chỗ Thành ( )
là con người nhân-bản toàn-diện, tức là Đạt
( ) vậy .
" Thành giả phi tự thành kỷ nhi dĩ dã, sở
dĩ thành vật dã. Thành kỷ nhân dã, thành
vật tri dã, tính chi đức dã, hợp ngoại nội
chi đạo dã, cố thời thố chi nghi dã ".
_ ( Trung-Dung )
( Thành thật chẳng phải chỉ có tự nên thân
mình mà thôi, còn là làm nên cho vật nữa.
Làm cho mình nên là đức nhân-ái, làm
cho vật nên là đức hiểu-biết, đều là cái
đức của bản-tính, hợp cả đạo-lý khách-
quan và chủ-quan, ngoại-vật và nội-tâm.
Cho nên lúc nào thi-hành cũng chính-
đáng vậy ) .
NGUYỄN-CƯ-TRINH
122
Đấy hẳn là cái học mà CƯ-TRINH đã
xưng-tụng trên đây, cho là cái học để thành-đạt
của người Nho-sĩ :
" Ngôn khả ngôn ư khả ngôn chi thời vô
bất trúng,
Vi khả vi ư khả vi chi thời vô bất tòng " .
( Nói lời đáng nói vào lúc có thể nói
không lời nào không chính-xác,
Làm việc đáng làm vào lúc có thể làm
không việc nào không được người ta tuân
theo ) .
Đấy là Đạo Thành ( ) ở sách Trung-
Dung, cũng là Đạo Nhất của CƯ-TRINH vì
Thành ( ) là Nhất-tâm ( ) tập-trung
cả Trí, Tình, Ý hay là Tri và Hành vào một
điểm như nguyên-tự nghĩa cho ta thấy :
( ) gồm Ngôn và Thành,
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
123
Ngôn là Tri và Thành là Hành vậy. Bởi thế mới
hợp được hết tác-dụng của bản-tính toàn-diện
chưa phân-hóa mà chỉ thấy có Sáng mà thôi :
" Thành tắc minh, minh tắc thành "
( ) ( Thành thật là đức
Sáng, đức Sáng là thành thật ). Đức Sáng ấy là
bản-thể tối-cao của thế-giới biểu-hiện, vì biểu-
hiện đầu tiên của thể-tính đại-đồng là Đức
Sáng như ở các Đại Truyền-thống Tôn-giáo
thế-giới đã chứng-minh, vì phải có Sáng trước
hết rồi mới có muôn vật được. Bất cứ cái gì
cũng do ánh-sáng phân-hóa ra và đều qui về
ánh-sáng cả. Ánh-sáng là nguyên-thủy của vũ-
trụ tạo-vật, bất cứ vật gì cũng có yếu-tố Đức-
Sáng làm cơ-bản :
" Tự thành minh vị chi tính, tự minh thành
vị chi giáo"
( Bản-tính là tự thật sáng, giáo-hóa là tự
sáng đến thật).
NGUYỄN-CƯ-TRINH
124
Phép giáo-hóa con người của Nho-học là
ở chỗ làm cho cái Đức-Sáng bản-nhiên sáng ra,
không bị tư-dục che-lấp : " Tự minh minh đức _
( Đại-Học )" ( ) đến chỗ
" Tự minh thành " ( ), theo quá-trình
trên kia đã trình-bày là : lấy Thi để khởi hứng-
cảm ; lấy Lễ để thiết-lập ý-chí cho vững và lấy
Nhạc để thành-tựu con người ở cái ý-thức
quân-bình Trí, Thành, Ý, tức là Thành vậy .
Một khi đã " Tự minh thành " rồi, Nho-
sĩ còn phải đem ra trắc-nghiệm với hoàn-cảnh
theo quá-trình " Tự thành minh " ( )
lấy Xuân-Thu làm bài-học kinh-nghiệm mà noi
theo làm thiện tránh ác, lấy Dịch để hiểu cái
nghĩa tùy thời và lấy Nhạc để nuôi cho tinh-
thần trực-giác thông-cảm với hoàn-cảnh xã-hội
và thiên-nhiên trong hành-động. Cả hai phương
diện đối với nhân-thân bên trong và đối với xã-
hội thiên-nhiên bên ngoài, " Tự minh thành "
và " Tự thành minh " hỗ-tương quan-hệ bổ-túc
cho nhau mới hoàn-thành khóa-trình giáo-dục
đầy-đủ, lấy sự quân-bình hòa-điệu làm tiêu-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
125
chuẩn, quân-bình trong tâm-hồn, quân-bình
ngoài xã-hội và thiên-nhiên, hợp-nhất cả đạo-lý
khách-quan với đạo-lý chủ-quan, tinh-thần vật-
chất vào một chữ Thành, vì : " Thành giả thiên
chi đạo dã, thành chi giả nhân chi đạo "
( ) ( Thành
thật là đạo-lý vũ-trụ, làm cho nên thật là đạo-lý
của nhân-loại ) .
Vì nhân-thân là cả một vũ-trụ nhỏ tựu-
trung chỉ có một cái Đức-Sáng vô-biên là
Thành vậy. Cho nên Mạnh-Tử cực tả cái nhân-
bản thành-tựu đầy đủ toàn-diện ấy rằng : " Vạn
vật giai bỉ ư ngã giả, phản thân nhi thành lạc
mạc đại yên"
( Tất cả sự-vật biểu-hiện trong vũ-trụ thời-
không, có đầy đủ ở nơi thân ta, trở về nơi thân
mà thực-hiện đến cái thực-nghiệm sáng-lạn thì
hoan-lạc vui sướng vô cùng ) .
Tuy Đức-Sáng là tuyệt-đối, là đại-đồng,
là Thượng-đế tối-cao của tất cả Đại-tôn-giáo
thế-giới, nhưng ở địa-vị con người mà nhìn thì
Nho-học nhìn qua tác-dụng tâm-lý thực-
NGUYỄN-CƯ-TRINH
126
nghiệm mà thấy nó hiện ra toàn-diện với cái ý-
thức " Thành " tập-trung tất cả tình-cảm, ý-chí
và lý-trí vào một năng-lực không có giới-hạn
nữa. Vì người ta sinh ra chỉ bẩm-thụ có tác-
dụng ấy thôi, nên chỉ phải dùng chúng để đi
đến chỗ thành thật hết mức, tức là đến chỗ đạt
đạo vậy .
Nhưng đạt Đạo như thế cũng theo nhiều
lối, tùy theo địa-vị của mỗi người, mỗi hoàn-
cảnh, hoặc bắt đầu bằng tình-cảm, hoặc theo
con đường lý-trí, hoặc theo con đường ý-chí,
nhưng đến chỗ Sáng toàn-diện thì đều giống
nhau. Riêng ở địa-vị nhà Nho CƯ-TRINH thời
bấy giờ nhìn thế-giới, thì thế-giới ấy là thế-giới
Nam-Hà, địa-vị ấy là địa-vị dân-tộc Việt-Nam
đã di-cư vào Thuận - Quảng để tránh ngụy-
quyền Chúa Trịnh, trở về Bắc-Hà phải đánh bại
nhà Trịnh, mà muốn đánh bại thì phải sống còn
và tự làm cho mình thịnh-vượng hùng-mạnh.
Vậy nhân-dân cũng như chính-quyền Nam-Hà
bấy giờ không thể không khai-thác vào lãnh-
thổ Chiêm-Thành, Chân-Lạp, là đồng-bằng
sông Cửu-Long phì-nhiêu, bát-ngát, hoang-vu.
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
127
Đấy là mục-đích cấp-bách, sống còn mà dân
Nam-Hà không có thể lãng quên để ngần-ngại
rụt-rè trước những trở-ngại trên đường Nam-
tiến của mình .
CƯ-TRINH đã ứng-dụng cái học mình đã
đạt được như trên kia để chăn dân Quảng-Nam
và chinh-phục Mọi Đá-Vách. Ở trường-hợp ấy
Ông đã sáng-tác vở tuồng " Sãi-Vãi " để
truyền-bá tư-tưởng Chính-học như Ông quan-
niệm .
*****
*
NGUYỄN-CƯ-TRINH
129
TƯ - TƯỞNG CHÍNH - HỌC
TRONG " SÃI - VÃI "
" SÃI-VÃI " là một vở tuồng ngắn
của CƯ-TRINH làm ra nhân khi Ông trọng-
nhậm Tỉnh Quảng-Ngãi có giặc Mọi Thạch-
Bích quấy-nhiễu, Ông bèn đề-nghị với quân-
nhân đi đánh giặc. Quân-nhân phần lớn e-ngại
lam-chướng, xa-xôi nên không hăng-hái lắm.
Vở tuồng " Sãi-Vãi " bằng văn Nôm có dụng ý
khích-động ba-quân thêm hăng-hái, và châm-
biếm tính ươn hèn cầu an của một số lãnh-đạo .
Cốt Truyện : _
Tác-giả dùng vai-trò đối-đáp nhau, một
ông Sãi với một bà Vãi. Ông Sãi đây không
phải đi tu thật, mà chỉ là mượn áo nhà tu để ẩn-
náu đợi thời-cơ, đem cái học kinh-bang tế-thế
ra thi-thố. Còn bà Vãi là một Ni-cô xuất-gia
NGUYỄN-CƯ-TRINH
130
thật, tìm giải-thoát vào Tây-thiên Cực-lạc, tức
là con đường tĩnh-thổ sùng-bái, tuy cũng là
người am-hiểu việc đời, thông suốt kinh-sử đạo
Nho. Như thế có vẻ như hai vai-trò tạo ra chỉ
để đối-tượng-hóa chính bản-ngã của tác-giả,
một là nam-nhi đại-diện cho trí-thức, một là
nữ-nhi đại-diện cho tình-cảm vậy .
Vào đề tác-giả đặt ngay vấn-đề :
Cảnh xã-hội thanh-bình thời-đại hoàng-
kim lý-tưởng đại-đồng của truyền-thống chính-
trị Nho-giáo. Cảnh tiêu-dao xuất-thế, xuất-trần
là lý-tưởng của Phật-giáo và Lão-giáo .
Hai Lý-Tưởng :
1/ " Lãm đền mộc bản thủy nguyên, dốc
báo càn khôn phú tái ", là tin vào thế-giới
hiện-tượng có thật do định-luật nhân-quả chi-
phối .
2/ " Ước siêu tam muội, ngõ thoát cửu
huyền ", là tin vào sự giác-ngộ của ý-thức tam-
NGUYỄN-CƯ-TRINH
131
muội, không còn lệ-thuộc vào thời-gian không-
gian hình-sắc danh-tướng .
Theo thể tuồng, hai lý-tưởng trên đây là
lời giáo đầu để giới-thiệu, giới-thiệu thời-thế
hoàn-cảnh, giới-thiệu đạo-lý của mình. Nhưng
suốt trong 340 câu văn đối đáp giữa hai bên,
tác-giả chỉ muốn trình-bày có một ý-tưởng
chính là tu đạo Phật và tu đạo Nho, mục-đích
chỉ là để bênh-vực đạo Nho là thiết-thực mà
gièm pha các đạo khác như Phật, Lão, Dương,
Mặc, thiếu chính-xác, không thích-hợp cho
Việt-Nam bấy giờ trên con đường Nam-tiến
của dân-tộc .
Tư-Tưởng Nội-Dung : _
Sau khi ông Sãi nói lời giáo đầu, thì bà
Vãi liền xuất-hiện trên sân-khấu và hỏi tung-
tích ông Sãi tự đâu ra mà giỏi kinh-kệ nhà
Phật ?
21._ Chẳng hay ông Sãi quê-quán nơi nao ?
22._ Lời diễn kệ rất cao, đạo tu-hành thêm
chói ?
NGUYỄN-CƯ-TRINH
132
Sãi không những không trả-lời đứng-đắn,
mà lại ẫm-ờ cợt-nhả đạo nhà Chùa và giới-
thiệu đạo Nho :
25._ Sãi người sanh trong nước, Sãi cũng khỏi
Xâu bơi .
26._ Sãi sanh ở trong đời, Sãi cũng không thuế
khóa .
27._ Khăng thìn đạo cả, vẹn giữ giềng ba .
28._ Ngay với Chúa, thảo với cha, nghĩa cùng
thày, tin cùng bạn .
Tư-tưởng của ông Sãi trên đây không
thích-hợp cho một nhà tu xuất-gia mà là tư-
tưởng của một Nho-gia, quan-niệm người ta
sinh ra ở trong đời chỉ phải sống với đời, trong
quan-hệ nhân-quần xã-hội như Tuân-Tử đã
xác-nhận ( ) " Nhân bất năng
vô quần " là nhân-loại không có thể không có
đoàn-thể được. Như thế là chủ-trương người ta
sinh ra là một loài xã-hội-tính, chỉ sống và
phát-triển được ở trong xã-hội mà thôi. Phủ-
nhận liên-hệ xã-hội, quan-hệ giữa người với
người là phản với nhân-tính, nghịch với lẽ tự-
nhiên. Những quan-hệ căn-bản của xã-hội là
NGUYỄN-CƯ-TRINH
133
nhà, là nước, là thiên-hạ, là thiên-nhiên trời đất.
Ở nhà thì ai cũng có cha mẹ sinh ra mà bổn-
phận làm con là phải hiếu-thảo với cha mẹ, hòa
mục với anh chị em. Ở trong nước thì phải có
quan-hệ vua tôi, người lãnh-đạo và người
phục-tòng tuân theo, có như thế mới ra một
nước, có trật-tự trên dưới, có lễ-pháp văn-hiến,
có xã-tắc sơn-hà nghĩa là có hồn nước vậy. Ở
xã-hội có quan-hệ thày trò, bầu bạn cốt yếu ở
lòng tín-nghĩa. Đấy là tất cả cái đạo làm người,
nhập-thế hành-động ở miệng một ông Sãi là
người xuất-gia tu Phật. Thì ra ông Sãi này vốn
là con nhà hành-động, từng :
21._ Xưa Sãi biết chăn dân muôn quận,
Xưa Sãi hay giữ việc nhà vàng .
31._ Giữ mình làm cội, lấy đức chăn dân.
Giữ mực-thưóc, cầm cân, đánh roi bồ răn
chúng .
Tóm lại toàn là những tư-tưởng chính-trị
vương-đạo của Nho-giáo không-tưởng : nào là
" chuông Hạ-Võ chiêu hiền ", nào là " Đạo
Trọng-Ni thiết-giáo " .
NGUYỄN-CƯ-TRINH
134
Rồi ông Sãi lại còn thử-thách bà Vãi xem
tu thật hay tu giả, nếu phải là tu Phật chân-
chính thì thử xem có còn chấp nữa không, cho
nên mới tự giới-thiệu mình là một nhà sư hổ-
mang, ngoài miệng " nam-mô ", trong bụng
" một bồ dao găm " .
38._ Thấy mụ Vãi nhan-sắc có hơn,
Sãi theo với tu-hành kẻo thiệt .
Bà Vãi thấy ông Sãi mở lời trớt-nhả, chọc
ghẹo, bà liền phản-đối :
49._ Lời sao nói ngụy, chẳng phải tánh chơn !
50._ Tu làm sao mà lo thiệt lo hơn,
Tu làm sao mà tham tài tham sắc ?
87._ Nói một lời lỗi luật, tu muôn kiếp khôn
đền .
88._ Nơi Thiên-đường, ông hỡi chưa lên,
Chốn Địa-ngục, ông toan kịp xuống !
Đến đây tác-giả liền bắt lấy chữ " tu " để
trình-bày cả một hệ-thống tư-tưởng Nho-học
xưa nay, quan-niệm về cách " tu " so với các
NGUYỄN-CƯ-TRINH
135
học-phái khác như Dương-học, Mặc-học, Phật-
học v.v… Nhưng trước hết tác-giả mượn lời
ông Sãi phản-đối quan-niệm Thiên-đường và
Địa-ngục của bà Vãi theo tín-ngưỡng Sùng-bái
ngẫu-tượng, tu cầu Thiên-đường, tránh Địa-
ngục ở bên ngoài .
39._ Tham Thiên-đường phải giữ lòng lành,
Tránh Địa-ngục nên chừa thói dữ .
Theo quan-điểm Chính-học tức là Nho-
học của tác-giả, thì có đạo tu quân-tử và tiểu-
nhân .
90._ Có Thiên-đường thì quân-tử tu lên,
Có Địa-ngục thì tiểu-nhân tu xuống .
Như vậy thì nghĩa đen của chữ " tu "
chỉ là sửa đổi, sửa đổi theo chiều hay, cũng có
thể sửa đổi theo chiều dở. Sở dĩ nhà Nho quân-
tử biết tu theo chiều hay là vì :
Lấy nhân ( ) mà tu tánh,
Lấy đức ( ) mà tu thân
Tu minh đức để mà tân dân
Tu tề gia để mà trị quốc .
NGUYỄN-CƯ-TRINH
136
Đấy là cả một hệ-thống triết-học chính-trị
xã-hội : tu ; tề ; trị ; bình của Nho-học xưa nay
như trình-bày trong sách Đại-Học. Ở đây CƯ-
TRINH lấy nghĩa của phái Lý-Học " Minh đức
tân dân " như mở đầu sách Đại-Học của Chu-
Hy chú-giải :
" Đại-Học chi đạo, tại minh minh đức, tại
tân dân, tại chỉ ư chí thiện ".
( Sách Đại-Học dạy : cái đạo học chính ở
chỗ làm sáng đức sáng bản-nhiên, ở chỗ
làm mới dân trong một nước, và ở chỗ lấy
điều thiện tối cao làm đích ).
Tu Minh-đức là con đường của Tri,
Tu Tân-dân là con đường của Hành .
Vậy theo tác-giả Sãi-Vãi thì Tri và Hành
là hai việc, không phải " Tri hành hợp nhất "
là trực-giác của Vương-Dương-Minh. Bởi thế
nên tác-giả mới viết tiếp theo đấy rằng :
NGUYỄN-CƯ-TRINH
137
97._ Ngoài thì tu khoan dũ ôn nhu,
Trong thì tu hòa-bình trung-chính .
Như thế là cả trong lẫn ngoài, cả tri lẫn
hành đồng thời cùng tu vậy. Bởi vì theo thuyết
Lý-học của Chu-Hy : " Cách vật chí tri "
( ) thì " cách " là " chí " là
đến, đem cái ý-thức của mình đến vật, tức là có
vật là thực-tại ở ngoài tâm, vậy tâm với vật, là
nội-giới chủ-quan với ngoại-giới khách-quan,
là hai yếu-tố lưỡng-nguyên đối-đãi. Như thế thì
" Tri " ở đây chỉ là cái biết khách-quan của lý-
trí, một mình cái biết ấy do giác-quan và suy-tư
đem lại không đủ cho người ta thành con người
nhân-cách đạo-đức trong hành-vi nhân-sinh
được như CƯ-TRINH đòi-hỏi : " Ngoài thì
khoan dũ ôn nhu " bởi thế nên " Trong tu hòa
bình trung chính ", vậy là thực-tại tuyệt-đối hay
Thiên-lý với Nhân-tâm cách-biệt, cho nên phải
vừa tu bên trong vừa tu bên ngoài, nghĩa là vừa
hành vừa tri cho đến khi nào cả trong lẫn ngoài
đều mất, thì mới " Hợp ngoại nội chi đạo "
( ). Nếu chỉ tu một bên nào thì
đi đến chỗ thiên-lệch, mất quân-bình, cho nên
NGUYỄN-CƯ-TRINH
138
tác-giả " Sãi-Vãi " mới phân ra có lối tu của
người quân-tử, có lối tu của đứa tiểu-nhân, lại
có hạng tu thượng-trí, trung-trí, hạ-trí .
Phân ra như thế là vì CƯ-TRINH trung-
thành với Tống-Nho hay là chịu ảnh-hưởng
Tống-Nho, chỉ bắt đầu quan-niệm thế-giới
lưỡng-nguyên Âm-Dương mà không chú-ý tới
tâm-linh nhất-nguyên của Mạnh-Tử " Vạn vật
nhất thể " ( ) .
114._ Âm vi quỉ thần sở hại,
Dương vi vương pháp sở tru .
Vũ-trụ Âm-Dương này bắt đầu từ điểm
phát-hiện sáng hóa của bản-thể Tính sinh-thành
phân-hóa với nguyên-lý Khôn ( ) là Địa,
Mẫu, thuộc về hành-động, tác-dụng, tức là
hành-vi nhân-sinh mà sách Trung-Dung viết :
NGUYỄN-CƯ-TRINH
139
" Hỷ nộ ai lạc chi vị phát vị chi trung,
phát nhi giai trúng tiết vị chi hòa ".
( Tác-dụng của bản-tính là tình khi chưa
phát- động thì còn tiềm-tàng bên trong,
đến khi phát-động rồi thì đều đúng với
thời-tiết, điều-lý trật-tự của hòa-điệu đại-
đồng ) .
Ở quan-điểm Người mà nhìn " Tự nhân
quán chi " ( ) thì người ta sinh ra
tính-tình không giống nhau và địa-vị lịch-sử
xã-hội cũng khác nhau nên đường tu đạo cũng
tùy điều-kiện khách-quan, tùy khả-năng chủ-
quan mà thay đổi. Cho nên CƯ-TRINH ở
" Sãi-Vãi " cũng chủ-trương như Khổng-Tử là
có tính-tình khác nhau, địa-vị khác nhau nên
phải phân-biệt đường lối tu-hành ra : Thượng-
trí ; Trung-trí và Hạ-trí. Theo Khổng-Tử ở
Luận-Ngữ nói thì ( )
" Duy Thượng-trí dữ Hạ-ngu bất di " ( Hạng
Thượng-trí với hạng Hạ-ngu mới không thể lấy
giáo-hóa mà cải-hóa tính-tình đi được nữa vì
hết mức rồi. Vậy giáo-hóa để cải đổi con
người, chỉ ứng-dụng vào cho hạng người
NGUYỄN-CƯ-TRINH
140
Trung-trí mà thôi. Đối với CƯ-TRINH thì
Thượng-trí không phải bậc " Sinh nhi tri "
không cần phải tu mới đạt, mà
Thượng-trí là đường lối tu-hành của Nho-sĩ lý-
tưởng truyền-thống chính-trị vương-đạo xưa
nay .
117._ Nhớ thuở Đường, Ngu, Thánh xưng Nhị-
Đế .
118._ Nhị-Đế người tu kỷ mà trăm họ đều an .
119._ Tam-Vương người tu nhân, mà muôn
dân đều trị .
120._ Dầu như Hán, Đường kể chi, cho đến
Tống, Minh tương-truyền .
121._ Có tu đức thì thiên-hạ mới trị yên .
122._ Dầu như tu văn, tu võ, người cũng tùy
thời mà tu .
123._ Thuở thái-bình, yển võ tu văn, cơ bát
loạn, yển văn tu võ .
124._ Trên một người tu đủ, dưới trăm họ hòa-
hài .
125._ Hây hây thọ vức xuân dài, tu vậy thiệt
trang Thượng-trí .
NGUYỄN-CƯ-TRINH
141
Đấy là lý-tưởng của Khổng-Phu-Tử, sống
trong một xã-hội đại-đồng phân-công hợp-tác,
an-cư lạc-nghiệp, trên dưới hòa-hài, già trẻ giắt
nhau hóng mát trên đài xuân như lời ông Tăng-
Tích đã phát-biểu trong sách Luận-Ngữ :
" Đương mộ xuân tháng ba, áo mặc
mát đã may xong, cùng với năm sáu
người đã làm lễ gia quan, 20 tuổi trở lên,
bẩy tám đứa trẻ cùng đi tắm sông Nghi,
hứng gió ở đài xuân Vũ-Vu hát mà về !
" Khổng-Tử ngậm-ngùi than : Ta
khen cái chí-hướng cao-thượng của anh
Điềm ".
Đấy thật là cảnh thanh-bình của xã-hội
mà CƯ-TRINH lấy làm lý-tưởng Nho Việt-
Nam vậy. Vì quan-điểm Nho là quan-điểm
luân-lý chính-trị " Nhân đạo mẫn chính, địa
đạo mẫn thụ._Trung-Dung " ( )
( Đạo người là chăm lo chính-trị cũng như đạo
của đất là chăm lo nuôi cây cối vậy ). Chính-trị
ở đây là cái chính-trị vương-đạo, nhằm thực-
hiện một xã-hội đại-đồng " Tứ hải giai huynh
đệ " ( ) ( trong bốn bể là anh
NGUYỄN-CƯ-TRINH
142
em ), từ phương-diện phân-hóa của tính-tình
phát-xuất tác-dụng lưỡng-nguyên đối-đãi :
thiện ác, Thiên-đường, Địa-ngục, làm sao giữ
cho điều-tiết để bảo-vệ sự hợp-nhất Trời và
Người, Vũ-trụ và Nhân-sinh trong thế quân-
bình " Trung-Hòa " ( ) .
" Thành ư trung vị đắc hòa bình Hình tại ngoại bất năng trung tiết ".
Từ quan-điểm nhân-sinh mà nhận-thức
thì Vũ-trụ là Thái-hòa ( ) một đại hòa-
điệu, một bản nhạc vĩ-đại ( )
" Đại nhạc dữ thiên địa đồng hòa ". Thế-giới
hiện-tượng luôn luôn biến-hóa, sinh-thành
trong vòng tương-đối thiện, ác, tốt, xấu, không
bao giờ rời được nhau, không phải chỉ có tâm
chủ-quan mà không có vật khách-quan, có
trong ắt có ngoài, hai bộ mặt của Thực-tại
" Tính mệnh " ( ) cùng Có và cùng
Không. Nhưng bộ mặt ấy của Thực-tại là hai
NGUYỄN-CƯ-TRINH
143
quá-trình biện-chứng sinh-thành, ở Trung-Hoa
gọi là Âm-Dương, ở Ấn-Độ gọi là Ảo-Hóa
( Maya ) không phải hai khái-niệm cố-định,
trừu-tượng của trí-thức mà là hai tác-dụng sinh-
hóa, ( trong Âm có Dương, trong Dương có
Âm ) ( ) " Âm trung chi
Dương, Dương trung chi Âm ", bởi thế mà thế-
giới biểu-hiện chỉ là những trạng-thái quân-
bình " Trung-hòa " , ( có thật ở trong mới hình
ra ngoài ) _ ( Đại-Học )
" Thành ư trung hình ư ngoại ". Vậy chủ-
trương của Nho-học điển-hình thừa nhận cái
thế-giới biểu-hiện hữu-hình là Có một cách
tương-đối, không phải Có thật tuyệt-đối, Có
như ( bóng trăng chiếu xuống muôn ngàn giòng
sông ) ( ) _ ( Chu-Hy ) " nguyệt
chiếu vạn xuyên " nghĩa là thế-giới thiên-hình
vạn-trạng này của hiện-tượng sự-vật cũng như
bóng trăng chiếu xuống các giòng nước khác
nhau, nhưng nếu không có một vầng trăng trên
trời thì cũng hết bóng trăng. Cho nên trong cái
khác có cái đồng ( mỗi cá-thể đều có một thái-
cực đồng-nhất ) " Vật vật các hữu thái cực "
NGUYỄN-CƯ-TRINH
144
( ) . Thái-cực ấy Có một
cách tuyệt-đối, các vật biểu-hiện Có một cách
tương-đối. Thật-tại chỉ có một, nhưng là Thực-
tại linh-động của nguồn sống " sinh sinh "
( ) " tồn tồn " ( ), mà theo CƯ-
TRINH thì ( ) " tự nhân quan
chi " , nghĩa là ( người ta không thể rời đạo để
nên người, đạo cũng không thể xa người mà là
đạo được, sự vật gốc ở đạo, đạo tiềm-tàng nơi
sự vật, không có tên gọi nhất-định, không có
hình-tướng nhất-định ) _ ( Thư đáp Tổng-Đức-
Hầu ). Vậy muốn nên con người Nho-sĩ thì
phải tu cả trong lẫn ngoài, ngã-nhân và tha-
nhân, cá-nhân và xã-hội. Nhưng xét về
phương-pháp-luận, trước sau thì trong có thật
chừng nào, ngoài mới thật chừng ấy, trong và
ngoài, đạo và đời, thể và dụng, đều lệ-thuộc
vào Thực-tại tối-cao của Tính ( ) hay là cái
" Tâm sinh thành " , cái ý-thức vũ-trụ vô-hình
vô-danh. Cái Tính ấy là cửa ngõ chung cho cả
đạo lẫn đời, tri lẫn hành, vũ-trụ thiên-nhiên lẫn
nhân-ngã xã-hội, cho nên Dịch-Truyện nói :
( ) " Thành tính tồn
NGUYỄN-CƯ-TRINH
145
tồn đạo nghĩa chi môn " ( Nên được đức tính
vĩnh-cửu là cửa ngõ chung cho cả chân-lý vũ-
trụ và luân-lý nhân-sinh vậy ) . Cả đạo và
nghĩa, vũ-trụ và nhân-sinh đều quy về đức Tính
vừa siêu-nhiên vừa nội-tại ( transcendant et
immanent ) mà Nho-sĩ phải đạt tới bằng công-
phu tu-hành cả ngoài lẫn trong .
97._ Ngoài thì tu khoan dũ ôn nhu
Trong thì tu hòa bình trung chính .
Đấy là đường lối tu của bậc Thượng-trí, ở
vào thời sơ-thủy nhân-loại còn hồn-nhiên, cốt
chỉ cần lấy mình làm gương-mẫu cho thiên-hạ
theo, thì người lãnh-đạo chỉ phải sửa mình, tu
kỷ. Ở thời mà thiên-hạ đã cạnh-tranh thì phải tu
nhân-nghĩa, là lấy lòng nhân-ái đem lại thái-
bình trật-tự cho xã-hội. Cho nên đường tu
Thượng-trí cũng tùy thời và tùy địa-vị :
122._ Dẫu tu văn, tu võ, người cũng tùy thời
mà tu .
123._ Thuở thái-bình yển võ tu văn
Cơn bát loạn yển văn tu võ .
NGUYỄN-CƯ-TRINH
146
Và :
155._ Hễ đạo làm Đế làm Vương thì phải tu
nhân tu chính .
156._ Tu quyền tu bính, tu kỷ tu cương .
Nhưng vì Nho-học quan-niệm đạo-lý
sinh-tồn là một nhân-bản toàn-diện, cho nên
con người " sinh ở trong đời " " từ người mà
nhận xét " thì không còn ai là bậc " sinh nhi
tri ", ai cũng có bẩy Tính phát-động làm mờ
che mất bản-tính tự sáng nguyên-thủy, cho nên
ai cũng phải tu. Mà tu là chuyển hướng tác-
dụng phát-xuất của bản-tính bên trong khiến
cho trúng tiết-điệu giữa trong và ngoài chứ
không phải diệt tình-dục một cách tiêu-cực
thiên-lệch. Theo Tâm-lý-học Nho-gia thì tác-
dụng của bản-tính thiên-nhiên là bẩy Tình :
Vui, Thương, Giận, Yêu, Ghét, Muốn, Sợ hay
là Hỷ, Nộ, Ai, Cụ, Ái, Ố, Dục, nghĩa là Mừng,
Giận, Thương, Sợ, Yêu, Ghét, Muốn. Đấy là
cái mà ông Sãi gọi là cái bệnh :
216._ Sãi mang một bệnh thất tình .
NGUYỄN-CƯ-TRINH
147
Hay là :
Công-danh chẳng tưởng vì bệnh thất tình.
Cái bệnh ấy là bệnh chung của giống
hữu-tình tức là nhân-loại. Và nhân-loại trước
hết theo Nho-học là phải tìm cầu hiểu biết sống
cho ra sống như Khổng-Tử nói: ( )
" Vị tri sinh an tri tử " ( Chưa biết sống làm sao
biết chết được ) .
Biết sống là biết có bệnh thất tình, phải
trị-liệu bằng cách hướng mối tình vào mục-tiêu
chính của nó. Bởi thế mà theo lời ông Sãi, sống
là sống trong đoàn-thể nhân-quần xã-hội, theo
điều-lý trật-tự, có lễ-nghĩa cương-thường .
197._ Chuyện phụ tử làm đầu, chuyện quân
thần rất hệ .
198._ Quân sự thần dĩ lễ .
199._ Thần sự quân dĩ trung .
200._ Vi phụ chi ư tử .
201._ Vi tử chi ư hiếu .
202._ Vi nhân bất phú .
NGUYỄN-CƯ-TRINH
148
203._ Vi phú bất nhân .
204._ Tài tụ tắc dân tán .
205._ Tài tán tắc dân tụ .
Nghĩa là :
( Người ta sống có đoàn-thể, và đoàn-thể
cơ-bản nhất là nhà ( gia-đình ) và nước ( tổ-
quốc ). Phương-ngôn nói : " Uống nước nhớ
đến nguồn, làm người nhớ đến Tổ ", bởi thế
mà chuyện cha con làm đầu, chuyện vua tôi rất
trọng đại, tức là những quan-hệ tình-yêu trong
nhà, quan-hệ trên dưới, giữa chỉ-huy lãnh-đạo
với bị chỉ-huy thừa-hành trong nước. Mỗi vai-
trò đều có mục-tiêu riêng, Vua chỉ-huy đối với
kẻ bị chỉ-huy phải có lễ-độ, vì việc công mà sai
vô-tư thì người bị chỉ-huy thừa-hành mới hết
lòng ; làm cha có từ-ái thì con mới hiếu-thảo.
Trong quan-hệ giữa người với người, là đạo
nhân, thì mục-tiêu ở chỗ đề-cao giá-trị quên
mình, coi người cũng như mình, đấy là tình yêu
liên-kết chứ không phải quyền-lợi kinh-tế vật-
chất, cho nên muốn cho các phần-tử xã-hội
quốc-gia đoàn-kết chặt-chẽ, " cơ đồ củng cố "
thì phải có tình thân chứ không nên nhằm mục-
NGUYỄN-CƯ-TRINH
149
đích làm giầu. Muốn làm giầu thì hãy đi buôn,
như Phương-ngôn nói : " Phi thương bất phú "
( ) chứ đừng đóng vai trong giới
kẻ-sĩ lãnh-đạo chính-trị thiên-hạ :
121._ Có tu đức thì thiên hạ mới trị yên .
Có tu nhân thì cơ đồ mới củng cố .
Bởi thế mà qua lời ông Sãi, CƯ-TRINH
bảo Nho-sĩ : Muốn thực-hành đạo nhân, làm
một bậc nhân, thì không giầu, muốn làm giầu
thì phải bất-nhân. Và muốn cho nhân-dân theo
mình lãnh-đạo, chăn dắt thì đừng tham vơ-vét
tài-sản, phải nên san-sẻ cho đều, ai nấy cùng
được hưởng, còn mình hãy nhường-nhịn. Cho
nên bảo tiền-tài mà tụ lại thì dân không được
nhờ, sẽ đi phương khác, tiền-tài có phân-phát
ra thì nhân-dân mới đến với mình .
Đấy là những nguyên-tắc tối căn-bản của
đạo Nho để sống một đời sống đoàn-thể, xây-
dựng trên tình yêu, không phải trên quyền-lợi
kinh-tế vậy. Vì chủ-nghĩa chính-trị Nho-sĩ là
một chủ-nghĩa nhân-bản giáo-hóa, đề-cao
NGUYỄN-CƯ-TRINH
150
nhân-cách con người chứ không hoàn-toàn tin
vào tổ-chức, lấy người để trị người chứ không
hẳn trông-cậy cả vào pháp-trị, cho nên vấn-đề
tu thân được coi là căn-bản chung cho tất cả
phần-tử xã-hội bất phân giai-cấp như nói ở
sách Đại-Học :
" Tự thiên tử dĩ chí ư thứ nhân
nhất thị giai dĩ tu thân vi bản ".
( Từ vua cho đến người thường hết thảy
đều lấy việc tu sửa cá-nhân làm gốc ) .
Nhưng tu thân ở đây không phải để lánh
trách-nhiệm xã-hội, gia-đình, tìm tự-do giải-
thoát cá-nhân, mà hoàn-toàn nội-hướng. Tu
thân ở đây là :
95._ Tu minh đức để mà tân dân
Tu tề gia để mà trị quốc .
như ở thời tiền-cổ lý-tưởng :
NGUYỄN-CƯ-TRINH
151
118._ Nhị-Đế ( Nghiêu, Thuấn ) tu kỷ mà trăm
họ đều an .
119._ Tam-Vương ( Hạ, Thương, Chu ) người
tu nhân mà muôn dân đều trị .
Vì Nho-gia tin-tưởng vào giá-trị của tình
yêu xã-hội, coi tình yêu như sức mạnh hòa-hợp
đại-đồng, và ảnh-hưởng của tình yêu gương-
mẫu thì vô bờ bến, cho nên sách " Đại-Học " đã
cực tả :
" Nhất gia nhân, nhất quốc hưng
nhân, nhất gia nhượng, nhất quốc hưng
nhượng, nhất nhân tham lệ, nhất quốc tác
loạn, kỳ cơ như thử, thử vi nhất ngôn
phấn sự, nhất nhân định quốc ".
( Một nhà có đức nhân, thì một nước
tiến về đức nhân, một nhà có đức
nhường-nhịn, thì một nước tiến về đức
nhường-nhịn hy-sinh. Một người ở địa-vị
lãnh-đạo mà tham-tàn thì cả nước làm
loạn. Đấy là động-cơ tế-vi như thế. Thế
NGUYỄN-CƯ-TRINH
152
gọi là một lời phấn-khởi công việc, một
người gương-mẫu có thể bình được cả
nước vậy ) .
_ ( Đại-Học )
Đấy là vần-đề tối then-chốt, tối căn-bản
của triết-lý xã-hội, là vấn-đề quan-hệ giữa cá-
nhân và đoàn-thể, phần-tử và toàn-thể, tự-do ý-
chí và định-mệnh, được giải-quyết không như
chủ-nghĩa công-lợi, bằng " đoàn-thể chỉ-huy
cá-nhân phụ-trách " vì " tối đại đa số, tối
hạnh-phúc " mà bằng sự điều-hòa cá-nhân với
đoàn-thể vào cái Trung-Hòa ( ) nối
con người với vũ-trụ, hợp cả trong lẫn ngoài :
" Hợp ngoại nội chi đạo thời thố chi
nghi".
( Hợp cả đạo Trời là Vũ-trụ thiên-nhiên
với đạo Người là Tâm-lý nhân-sinh, lúc
nào thi thố ra cũng đáng nên ) .
_ ( Trung-Dung )
NGUYỄN-CƯ-TRINH
153
Con người tu đến mức ấy mới gọi là đạt,
là đắc đạo, như CƯ-TRINH đã viết cho Tổng-
Đức-Hầu ở Hà-Tiên :
" Ngôn khả ngôn ư khả ngôn chi
thời vô bất trúng, vi khả vi ư khả vi chi
thời vô bất tòng. Tu chi ư gia nhi minh
chi ư vương đình, tu chi ư quốc nhi hành
chi ư tuyệt vực. Kỳ như thị chi vị hữu
đắc ".
( Nói điều đích-đáng ở lúc đáng nói
điều nào cũng trúng, làm việc đích-đáng
vào lúc đáng làm chẳng việc nào không
được tuân theo. Đem ra tu sửa ở trong
nhà mà tiếng vang đến tận triều-đình,
đem ra tu sửa ở trong nước mà ảnh-hưởng
ra đến tận nơi hẻo-lánh. Có được như thế
mới gọi là đạt ).
NGUYỄN-CƯ-TRINH
154
_ ( Thư đáp Tổng-Đức-Hầu ở Hà-Tiên _
trong Phụ-Biên Tạp-Lục -- Lê-Quý-Đôn
dẫn )
Con người đắc đạo như thế, theo CƯ-
TRINH là vừa làm chủ được thất tình bên
trong, đến chỗ hòa-bình, vừa chỉ-huy được
hành-vi bên ngoài trúng tiết-điệu .
Đấy là con đường đắc đạo của hạng người
mà CƯ-TRINH gọi là hạng Thượng-trí, tức là
đạt đạo Trung-Dung : " Luận như yêu đạo thì
Sãi yêu đạo Trung-Dung." Là Nho-sĩ lẽ dĩ
nhiên là CƯ-TRINH đề cao đạo "Trung-Dung"
là cái ý-thức-hệ hành-vi nhân-sinh truyền-
thống của Nho-học Á-Đông, đem ứng-dụng
vào hoàn-cảnh Nam-tiến bấy giờ của dân-tộc
thì rất thích-hợp vậy .
Nhưng đạo " Trung-Dung " của
NGUYỄN-CƯ-TRINH trong không khí Nam-
Hà lúc ấy đang có cuộc " cãi lý " giữa Thiên-
Chúa-giáo với Nho-giáo như chúng ta đã thấy
ở trên, không tỏ ra có khuynh-hướng độc-tôn
NGUYỄN-CƯ-TRINH
155
Nho-giáo, cho nên tác-giả " Sãi-Vãi " mới có
thái-độ của ông Sãi " cãi lý " với mụ Vãi mà
xếp các đạo quá-khích, thiên về một bên, vào
hạng tu Trung-trí và Hạ-trí :
126._ Bằng muốn xét cho cùng nhân sự, hãy
còn nhiều Trung-trí chi tu .
127._ Kìa như Mặc-địch, Dương-Chu, tu một
việc vị nhân, vị ngã .
128._ Nhổ mày lông, mà lợi cả thiên hạ, thì
Dương-Chu tu một sự chẳng vui .
129._ Mài hết trán, mà lợi có một người, thì
Mặc-địch tu một lòng chẳng nại .
130._ Dầu những Thích-Ca tu lại, cùng với
Đạt-Ma tu qua .
131._ Tu cho tinh chuyên là La-Thập Cửu-Ma,
tu cho khổ não là Văn-Thù Bồ-Tát .
132._ Ấy là người ngoại-quốc, chọn theo thói
Trung-Hoa .
133._ Chê sự đời phú-quý vinh-hoa, muốn vui
thú thanh-nhàn dật lạc .
134._ Nghiệm chữ kia cho xác, chữ Tiên ( )
là " nhất cá sơn nhân " ( )
NGUYỄN-CƯ-TRINH
156
135._ Suy chữ nọ cho chân, chữ Phật ( ) là
" phất tri nhân sự " ( )
136._ Ai dữ thì mặc dữ, ai lành cũng mặc lành .
137. Nhà hưng vong phụ tử chẳng bình, nước
trị loạn quân thần chẳng đoái .
138._ Song chẳng can danh Phạm-Ngãi, cũng
không dịch tính biến tình .
139._ Tham Thiên-đường phải giữ lòng lành,
sợ Địa-ngục nên chừa thói dữ .
140._ Tuy có ích cũng không sinh sự, ấy là
trang Trung-trí chi tu .
Thái-độ " Trung-Dung " của CƯ-
TRINH trên đây là đứng ở quan-điểm nhân-
sinh mà phản-đối các quan-điểm cực-đoan, vì
làm người ai cũng có Tình, Tình ấy bắt đầu từ
mình đến người, từ gần đến xa, nhờ đấy mà
bảo-tồn được nhân-quần xã-hội là bản-tính của
người. Bởi thế mà không thể chỉ biết có mình,
" vị ngã " ( ) như Dương-Chu hay là
như Đạo-gia tu Tiên chỉ biết có Thiên-nhiên,
không chịu phục-tòng lễ-nghĩa của xã-hội.
Cũng không thể chỉ biết có xã-hội nhân-quần
NGUYỄN-CƯ-TRINH
157
mà quên hẳn mình, coi cha mẹ người cũng như
cha mẹ mình, con cái người cũng như con cái
mình, như Mặc-Địch với chủ-trương "Kiêm-ái"
( ). Cả hai quan-điểm đều phi-lý, " Phất
nhân chi tính " nghĩa là phủ-
nhận nhân-tính, vốn không hẳn là tiên
( ange ) cũng không hẳn là cú ( bête ) như
Phương-ngôn Tây-phương nói : " L'Homme
n'est ange, ni bête, qui veut se faire ange
devient bête " ( nhân-loại không phải tiên,
không phải cầm-thú, kẻ muốn làm tiên trở nên
cầm-thú ). Đạo " Trung-Dung " cốt bảo-tồn
lấy Tính người ( ) với sứ-mệnh thiêng-
liêng của nó là giữ thế quân-bình trong hòa-
điệu vĩ-đại của vũ-trụ là Tam-tài, Thiên-Địa-
Nhân. Tuy nhiên CƯ-TRINH cũng thông-cảm
với các trình-độ khả-năng của bản-tính nhân-
loại, cho nên tuy không biểu-đồng-tình với
Đạo-giáo, Phật-giáo, Dương-Chu, Mặc-Địch,
nhưng không bài-bác vì cho rằng các đường tu
ấy :
" Song chẳng can danh Phạm-Ngãi ;
Cũng không dịch tính biến tình ".
NGUYỄN-CƯ-TRINH
158
" Tuy vô ích cũng không sinh sự ".
Đấy là thái-độ bao-dung của Nho-sĩ Việt-
Nam, tuy không phải chủ-trương Tam-giáo thời
Lý, Trần, nhưng là tự-do tín-ngưỡng, không
phải bài-xích cấm-đoán mà độc-tôn Nho-giáo.
Nhưng CƯ-TRINH nhất-định bài-xích phản-
đối kịch-liệt hạng mê-tín, " tu mà hóa ngu " .
144._ Tham lam cầu Đạo, lặn lội tầm Tiên .
159._ Đương ban ngày dầu có phép lên trời,
luận đạo trị chẳng ích chi cho nước .
160._ Thấy đâu đặng phước, đều những mang
tai .
161._ Nếu cứ theo mê đạo hoài hoài, như vậy
chẳng là trang Hạ-trí ?
Vậy là CƯ-TRINH đã mãnh-liệt mạt-sát
không khí " mê đạo " thời bấy giờ không nhìn
vào thực-tế trước mắt là chương-trình Nam-tiến
phải hoàn-thành, khi nào vào được tới đồng-
bằng sông Cửu-Long, vựa thóc tương-lai cứu
nguy cho dân-tộc. Dân-tộc Việt-Nam không thể
bắt-chước dân-tộc Chiêm-Thành tín-ngưỡng
NGUYỄN-CƯ-TRINH
159
vào những ngôi Tháp mỹ-thuật đứng trơ-vơ
trên các ngọn đồi núi, xa-cách với xã-hội sinh-
hoạt mà đắm chìm vào cõi mộng Thần-tiên.
Việt-tộc thực-tiễn hơn với tín-ngưỡng Đình-
làng, dung-hòa Đời với Đạo, như CƯ-TRINH
đã phát-biểu : " Người ta không có thể rời xa
Đạo để nên người, đạo cũng không có thể xa
người để là đạo ". Cho nên người Việt muốn
sống còn là người Việt, là đoàn-thể Việt độc-
lập, cần phải vượt tất cả trở-ngại cản đường
vào đất Đồng-Nai, như trường-hợp bấy giờ của
NGUYỄN-CƯ-TRINH là phải làm sao chinh-
phục bằng được giặc Đá-Vách. Dẹp giặc theo
CƯ-TRINH không phải để tiêu-diệt, như Ông
đã giải-thích sau này, mà là để thu-phục lòng
người, đồng-hóa vào dân Việt để lấy nhân-công
khai-thác mở-mang đất sống :
" Từ xưa việc dụng-binh chẳng qua
là để trừ diệt bọn cầm đầu, và mở mang
đất đai ".
_ ( Thực-Lục _ đã dẫn trên )
Bởi thế nên mượn lời ông Sãi, CƯ-
TRINH đã khuyên những ai như bà Vãi
NGUYỄN-CƯ-TRINH
160
" đứng núi nọ nhìn núi kia ", hãy trở về thực-tế
của vận-mệnh dân-tộc đang bị cản-trở trên
đường Nam-tiến :
323._ Chốn Thiên-đường còn cách-trở minh
minh ; miền phạn sát, hỡi xa chừng vòi
vọi .
324._ Tây phương không đường tới ; Bắc lộ
khó nẻo qua .
325._ Đường Nam phương thấy đó chẳng xa,
thì những sợ nhiều quân Đá-Vách .
330._ Hãy tu đây nương dựa ; chớ qua đó làm
chi .
Nói thế vì hoàn-cảnh thực-tế của nhân-
dân Nam-Hà đại-diện cho toàn-thể vận-mệnh
dân-tộc bị đe-dọa Tầu hóa ở phương Bắc, phải
tìm điều-kiện sống còn về phương Nam.
Nhưng mượn lời bà Vãi, CƯ-TRINH không
hoàn-toàn độc-tôn về tư-tưởng mà chủ-trương
tôn-trọng tự-do tín-ngưỡng, tùy theo với vai-trò
lịch-sử và địa-vị xã-hội của mỗi người :
NGUYỄN-CƯ-TRINH
161
332._ Kinh trung hữu thuyết : " Nhung-Địch
thị ưng " .
333._ Ai chịu quyền trọng trấn nhất phương,
nếu không đánh để sau sanh tệ .
334._ Đạo tu lòng chẳng trễ, công mài sắt ắt
nên .
335._ Mặc ai sao lãng lòng Thiền .
336._ Đạo ta ta giữ cho bền thì thôi .
337._ Thôi thôi ông Sãi hãy ngồi .
338._ Tây phương Vãi tới tìm nơi Thiên-
đường.
Vậy là ở miệng CƯ-TRINH phát-biểu có
hai khuynh-hướng cầu đạo bấy giờ, khuynh-
hướng xã-hội quốc-gia của đoàn-thể Việt-tộc,
là con đường Nam phương và khuynh-hướng
tâm-linh thực-nghiệm của cá-nhân là con
đường Tây phương Cực-lạc ( Thiên-đường ),
hai con đường theo CƯ-TRINH vẫn dung lẫn
cho nhau, ông Sãi mượn áo nhà Chùa để ấp-ủ
ý-chí hành-động kinh-bang tế-thế, bà Vãi theo
con đường Thiền, tìm giải-thoát nơi Thiên-
đường, Tây phương Cực-lạc. Ở đây CƯ-
TRINH đã tỏ ra hoài-bão truyền-thống của
NGUYỄN-CƯ-TRINH
162
Nho-sĩ Việt-Nam là sau cuộc đời hành-động trả
nợ nam-nhi rồi được trở về vui thú điền viên,
tìm đến cảnh thiên-nhiên đặng di-dưỡng tính-
tình vậy.
" Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo,
Thảnh thơi thơ túi rượu bấu ."
_ ( Nguyễn-Công-Trứ )
NGUYỄN-CƯ-TRINH
163
TÂM - LÝ NGHỆ - THUẬT
CỦA
NGUYỄN - CƯ - TRINH
Là một Nho-sĩ điển-hình, bên cạnh
con người " Sĩ " với cái học Kinh-luân
( ), với cái mộng " Kinh-bang tế-thế "
( ) vẫn có con người " thi hứng "
( ) mà đề-tài cảm-hứng là thiên-nhiên,
là " sơn thủy hữu tình " ( ).
Ngay khi bắt đầu ra làm quan, bổ-nhiệm Tuần-
phủ tỉnh Quảng-Ngãi, CƯ-TRINH đã tỏ tình
yêu thiên-nhiên mà đặt tên mỹ-tự cho phong-
cảnh tỉnh mình, còn lưu-truyền mãi về sau :
NGUYỄN-CƯ-TRINH
164
1/ Thiên-Ấn Niêm-Hà, chỉ tên núi Thiên-
Ấn làng Phú-Nhơn nằm ngang sông Trà-
Khúc .
2/ Thiên-Bút Phê-Vân, chỉ tên núi Thiên-
Bút ở làng Chánh-Lộ, hình-dáng như cái
bút giữa cánh đồng bằng .
3/ Long-Đầu Hý-Thủy, chỉ ngọn núi bên
kia sông Trà-Khúc, nước sông ở trên tỏa
xuống chảy vào hòn núi đá .
4/ La-Hà Thạch-Trận, hình như thiên binh
vạn mã đang giao-chiến ở làng La-Hà và
An-Hà .
5/ Thạch-Bính Tà-Dương, khi bóng chiều
rọi xuống thì ửng đỏ .
6/ Hà-Nhai Vãng-Bộ, là bến đò Hà-Nhai
( Sơn-Tinh ) vì buổi chiều dân đi làm nứa
về rất đông .
7/ An-Hải Sa-Bàng, là cái gò cát .
NGUYỄN-CƯ-TRINH
165
8/ Cổ-Lũy Cô-Thôn .
9/ Liên-Trì Dục-Nguyệt, là ao Sen làng
Liên-Chiều huyện Đức-Phổ .
10/ Vu-Sơn Lộc-Trường, có nhiều hươu
nai .
11/ Vân-Phong Túc-Vũ .
12/ Thạch-Cơ Điếu-Tẩu .
Lấy mỹ-tự đặt tên cho phong-cảnh thiên-
nhiên là để ngụ-ý tìm cái ý-nghĩa bên trong
hình-ảnh biểu-hiện, qua thiên-nhiên biến-ảo
vươn lên cái siêu-nhiên vĩnh-cửu, cho nên mới
nói là " sơn thủy hữu tình ", một thứ tình yêu
lâu dài vĩnh cửu như sông núi vậy. Đấy vốn là
tâm-lý nghệ-thuật cổ-điển Á-Đông, tìm cảm-
thông với vũ-trụ qua hình-ảnh biểu-hiện. Tất cả
biểu-hiện ra ngoài chỉ là do tình-cảm bên trong,
nơi nguồn sống thâm-trầm, là nguyên-lý đồng-
nhất của tất cả .
NGUYỄN-CƯ-TRINH
166
Trong thư của Anh-Đức-Hầu Hiệp-Trấn
Hà-tiên hỏi CƯ-TRINH về thơ văn, CƯ-
TRINH đáp :
" Phù tồn tâm vi chí, ngụ chí vi thi,
nhân hữu thiển thâm cố thi hữu ần hiển
bác ước chi bất đồng, thời hữu thăng
giáng. Cố thi hữu sở thịnh trung vãn chi
các dị. Ước chi bất ngoại hồ trung hậu vi
bản, hàm xúc vi nghĩa, bình đạm vi công
nhi văn chi dĩ ỷ lệ, đoạn chi dĩ kỳ xảo, đặc
lục nghĩa chi ngoại thiên, ngũ tế chi dư sự
giả dã. Tâm giả nan trắc chi vật, tiết chi
vi thi nhi thành hồ vi ngữ. Chí ư nhất tự
hữu tam niên nhi hậu đắc, thiên tự nhi
phất giải ."
NGUYỄN-CƯ-TRINH
167
( Ôi nuôi lòng làm ý-chí, ngụ ý-chí
làm thơ. Người ta có kẻ sâu kẻ nông cho
nên thơ cũng có kín có mở, rộng và gọn
không giống nhau, luôn luôn có lên
xuống. Bởi thế nên thơ có lúc mới-thịnh,
giữa-thịnh và muộn-thịnh khác nhau, tóm
lại không phải lấy sự trung-hậu làm gốc,
hàm-xúc làm ý-nghĩa, bình-thường làm
công-phu, rồi làm cho văn vẻ bằng tô-
điểm, uốn-nắn bằng sự khéo lạ, đặc-biệt
ngoài sáu nghĩa, là Phong, Nhã, Tụng,
Phú, Tỉ, Hứng, còn năm mối, là vua tôi,
cha con, vợ chồng, anh em, bầu bạn. Tâm
người ta là vật khó lường, phát-tiết ra làm
thơ mà thành được nên lời. Đến như có
một chữ mà ba năm sau mới đạt được,
ngàn đời mà không giải-thích được ) .
Đấy là quan-niệm sâu sắc về thơ văn của
CƯ-TRINH, phản-chiếu một tinh-thần đạo-học
về nghệ-thuật cổ-điển như đã quy-định trong
sách Nho " Thi ngôn kỳ chí " ( )
nghĩa là thi-ca nói lên cái ý-chí cao cả của
NGUYỄN-CƯ-TRINH
168
mình, và " văn dĩ tái đạo " ( ) ( văn
chương để chuyên chở đạo-lý ) .
Và cái tâm-lý nghệ-thuật ấy là thuần-túy
kinh-nghiệm với thực-thể tâm-linh biểu-hiện ra
điều-lý vũ-trụ. Sách Nhạc-Ký chẳng đã viết :
" Thi ngôn kỳ chí, ca vịnh kỳ thanh,
vũ động kỳ dụng. Tam giả bản ư tâm
nhiên hậu nhạc khí tòng chi. Thi cố tình
thâm nhi văn minh, khí thịnh nhi hòa
thần, hòa thuận tích trung nhi anh hoa
phát ngoại."
( Thơ nói lên ý-chí, ca hát ngâm nga
thanh âm, múa nhảy vận-động dáng mạo.
Cả ba phương-diện đều gốc ở tâm rồi
nhạc-khí mới theo. Cho nên cảm-xúc
thâm-sâu mà văn-chương sáng-tỏ, sinh-
khí giầu mạnh mà hóa ra tinh-thần. Ở bên
NGUYỄN-CƯ-TRINH
169
trong chứa điều hòa-thuận mà tinh-hoa
phát ảnh ra ngoài ).
Theo tâm-lý nghệ-thuật ấy thì " văn tức
là người " ( Le style c'est l'homme ) cũng như
Phương-ngôn ta hay nói : " người làm sao
chiêm bao làm vậy". Cho nên CƯ-TRINH bảo
là " tồn tâm vi chí, ngụ chí vi thi " ( nuôi giữ
ấp-ủ trong lòng là ý-chí, gởi vào lời là thơ ).
Tuy khác nhau tùy từng tâm-hồn với hoàn-
cảnh, nhưng thơ văn đều cốt ở chỗ có hồn, có
khí, đều gốc ở chỗ " trung hậu " nơi tình-cảm,
" hàm xúc " nơi ý-nghĩa, " trung hậu vi bản,
hàm xúc vi nghĩa " . Lấy tình-cảm trung hậu,
ý-nghĩa hàm-xúc làm căn-bản cho văn-nghệ,
đấy là căn-cứ vào nguồn cảm-hứng của tác-giả
trong thuần-túy kinh-nghiệm với thực-thể tâm-
linh đại-đồng để thẩm-mỹ văn thơ vậy. Vì cái
đẹp lý-tưởng của Nho-sĩ hành-động là nghệ-
thuật nhân-sinh, lấy nghệ-thuật để nối nhân-
sinh với vũ-trụ, thay cho tôn-giáo nghi-thức,
cho nên thơ văn phải lấy " tồn tâm vi chí, ngụ
chí vi thi "." Tồn tâm " ( ) đến chỗ cảm-
thông được với " Đạo hợp ngoại nội " thì
NGUYỄN-CƯ-TRINH
170
cảm-thông với Trời, Đất như Nguyễn-Công-
Trứ đã diễn-tả :
" Đạo thông thiên địa hữu hình ngoại,
Tứ nhập phong vân biến thái trung ".
( Đạo-lý thông suốt cả trời, đất ngoại-vật
có hình,
Tư-tưởng theo vào trong các trạng-
thái biến-đổi của gió mây ).
Đấy là tinh-thần văn-nghệ của NGUYỄN-
CƯ-TRINH như Lê-Quý-Đôn đã viết : " CƯ-
TRINH bác học năng thi " ( ).
***
*
NGUYỄN-CƯ-TRINH
171
TÁC - PHẨM HÁN - VĂN
CỦA
NGUYỄN - CƯ - TRINH
Về tác-phẩm nghệ-thuật của
NGUYỄN-CƯ-TRINH ngày nay, ngoài vở
tuồng trứ-danh " Sãi-Vãi " ra, chỉ còn thu-
lượm rải-rác một số tác-phẩm Hán-văn như Lê-
Quý-Đôn đã ghi trong sách " Phủ-biên Tạp-lục
" ( ) _ Microfilm, n° 764. A. 184 _
Viễn-Đông Bác-Cổ Học-Viện ) :
NGUYỄN-CƯ-TRINH
172
" CƯ-TRINH bác học năng thi, tại
Bình-Thuận Gia-Định đồn-doanh thời, dữ
Hà-Tiên Tổng-binh Tổng-Đức-Hầu Mạc-
Thiên-Tích dĩ văn học tương tặng đáp.
Hữu họa Hà-Tiên thập vịnh vân."
( CƯ-TRINH học rộng, hay thơ.
Lúc đóng binh ở Bình-Thuận Gia-Định,
thường tặng đáp văn thơ với Tổng-binh
Trấn Hà-Tiên là Tổng-Đức-Hầu Mạc-
Thiên-Tích ( hoặc Tứ ).
Sau đây là mười bài thơ của CƯ-TRINH
họa lại " Hà-Tiên Thập vịnh " của Mạc-Thiên-
Tứ, người sáng-lập " Chiêu-Anh-Các "
( ) để chiêu tập văn-sĩ bốn phương
cả người Hoa lẫn người Việt. Thơ chữ Hán ý-
tứ thâm-trầm, nhưng cũng không khỏi luận-
điệu văn-chương thù-tạc, ép-uổng mà làm nên,
thiếu bồng-bột tự-nhiên. Thơ cảm-hứng tự-
nhiên của Ông, ngoài vở tuồng Sãi-Vãi là văn
Nôm, có nhiều bài văn Hán biểu-lộ rõ-rệt
mạnh-mẽ hơn .
NGUYỄN-CƯ-TRINH
173
1./ Kim-Dự Lan Đào
= ( Đạo Kim-Dự Ngăn Sóng )
2./ Bình-Sơn Điệp Thúy
= ( Non Bình Lớp Lớp Biếc )
3./ Tiên-Tự Thần Chung
= ( Chuông Sớm Chùa Tiên )
4./ Giang-Thành Dạ Cổ
= ( Trống Đêm Thành Giang )
5./Châu-Nham Lạc Lộ
= ( Cò Trắng Xuống Châu-Nham )
6./ Thạch Động Thốn Vân
= ( Động Đá Ngốn Mây )
7./ Đông-Hồ Ấn Nguyệt
= ( Đông-Hồ Trăng In )
8./ Nam-Phố Trừng Ba
= ( Sóng Lặng Bến Nam-Phố )
9./ Lộc Trĩ Thôn Cư
= ( Xóm Làng Ở Gò Nai Hươu )
10./ Lư Khê Ngư Bạc
= ( Bến Chài Ở Rạch-Vược ).
NGUYỄN-CƯ-TRINH
174
I.
Dịch âm :
KIM DỰ LAN ĐÀO
Đế nộ Dương hầu sổ phạm biên,
Di tương Tiên đảo trấn tiền xuyên ;
Ba niêm bất thắc trường thành diện,
Thủy mãnh phương tri chỉ trụ quyền
Tinh vệ bán tiêu hàm thạch hận,
Ly long toàn ẩn bão châu miên ;
Tri quân diệc thị kình thiên vật,
Kim cổ thao thao độc nghiễm nhiên
.
NGUYỄN-CƯ-TRINH
175
Nghĩa :
CÙ-LAO VÀNG NGĂN SÓNG
Trời giận Thủy-thần hay phạm vào biên-
giới,
Dời đảo Tiên ra trấn-ngự trước sông.
Như bức thành dài sóng vỗ cũng không
sờn mặt
Như cột đá gặp sóng xô mạnh mới biết
sức,
Thực là hòn đá của chim Tinh-Vệ ngậm
hờn lấp biển đã tiêu được nửa phần.
Khiến cho Ly-Long có thể ôm ngọc châu
ngủ yên giấc.
Thế mới biết ngài ví với hòn đảo kia thực
là kinh thiên động địa.
Từ xưa đến nay thao thao nước chảy mà
một mình vẫn nghiễm nhiên không suy
xuyển .
Bài thơ để ca-tụng, lấy vật ngụ tình một
cách khéo-léo ở chỗ không xa với thực-trạng,
hợp cảnh hợp tình không phải gò-bó cưỡng-ép.
Ngoài ra còn hàm-xúc quan-điểm cao-siêu của
NGUYỄN-CƯ-TRINH
176
tác-giả nhìn cảnh-vật vô-tri vô-giác, khiến cho
linh-hoạt nửa tình nửa cảnh, cảnh là tình, tình
là cảnh không rời nhau, thật thật hư hư như
mộng-ảo. Hai câu kết thật là khúc-chiết cao-
siêu, lời ca-tụng mà như khuyến-khích rất tự-
nhiên, lại rộng tả cái hoài-vọng chung của tâm-
hồn cao-thượng, đứng trước thế-giới biến-đổi,
trôi chảy như giòng nước ngày đêm không
nghỉ, mà có cái gì như đạo-lý chân-thật, tuyệt-
đối vẫn y-nhiên tự-tại, "bất biến ứng vạn biến"
vậy. Đọc lên câu :
" Tri quân diệc thị kình thiên vật,
Kim cổ thao thao độc nghiễm nhiên".
( Mới hay ngài bậc kinh thiên,
Cổ kim sóng gió y nhiên giữa giòng ) .
Chúng ta tưởng đến hòn đảo giữa sóng,
" trung lưu chỉ trụ " ( cột đá giữa giòng ), lại
liên-tưởng đến vị Tổng-trấn nơi biên-thùy luôn
luôn bị đe-dọa xâm-lăng rồi liên-tưởng đến cái
thực-thể tối cao làm cơ-sở bên trong thế-giới
sự-vật biến-đổi bất-thường, nay đi mai lại, nay
NGUYỄN-CƯ-TRINH
177
còn mai mất, mà không đến nỗi phải thất-vọng
bi-quan như tác-giả " Cung-Oán Ngâm-Khúc":
" Trăm năm còn có gì đâu
Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì ".
CƯ-TRINH ở đây còn đang hăng-hái tự-
tin của bậc chiến-sĩ mở-mang bờ-cõi về
phương Nam với cái tin-tưởng " kim cổ thao
thao độc nghiễm nhiên " .
II.
NGUYỄN-CƯ-TRINH
178
Dịch âm :
BÌNH SƠN ĐIỆP THÚY
Trung phân thôn lạc lập thiều nghiêu
Đạm mặc nồng thanh tác ý miêu.
Địa mạch suy linh khan cổ thạch,
Dân tình sầu lạc vấn sô nghiêu.
Xuân khai tú mạc yêu nhung phủ,
Thu khởi kim thành củng thánh triều.
Thử vị Quảng Châu nhân lạc đắc,
Phân hoa bất vị lục trầm điểu .
Nghĩa :
NÚI BIẾC BÌNH SƠN
Đứng giữa xóm làng vẻ treo-leo,
Xanh thâm đậm lạt khéo tô mầu.
Thịnh suy mạch đất xem tầng đá,
Vui khổ tình dân ướm mục tiều.
Xuân mở màn thêu mời quan tướng,
Thu xây thành sắt vọng vương triều.
Quảng-Châu ai kẻ ưa mùi vị,
Hoa cỏ đất chim vẫn mỹ-miều .
NGUYỄN-CƯ-TRINH
179
Đáng chú-ý hai câu :
" Địa mạch suy linh khan cổ thạch,
Dân tình sầu lạc vẫn sô nghiêu ."
( Thịnh suy mạch đất xem tầng đá,
Vui khổ tình dân ướm mục tiều .)
Cho ta thấy cái chí-hướng của tác-giả,
luôn luôn nhìn ngắm non sông, tin-tưởng vào
địa-linh nhân-kiệt, mà nghĩ đến nhân-dân vui
sướng hay lầm-than đau khổ. Và muốn biết
lòng dân thì phải hỏi những kẻ cùng-đinh,
những đứa trẻ chăn trâu chất-phác. Vậy tuy
vịnh cảnh mà nặng lòng với nước với dân,
không quên cái lý-tưởng Nho-sĩ đối với nghệ-
thuật là nghệ-thuật vị nhân-sinh dân-tộc vậy .
NGUYỄN-CƯ-TRINH
180
III.
Dịch âm :
TIÊU TỰ THẦN CHUNG
Thần chung lạc lạc lộ hoa phao,
Thiều đệ thu thanh quá thụ sao ;
Kim thú hao tàn tinh hải chử,
Mộc kình đả lạc nguyệt lâm ao ;
Vạn gia tỉnh mộng Phật triều khuyết,
Bát thủy khai nhan Tăng hạ sào ;
Đãi khấu kham lân thiền diệc hữu,
Bất minh, minh đắc thái dương giao .
NGUYỄN-CƯ-TRINH
181
Nghĩa :
CHUÔNG SỚM CHÙA TIÊU
Chuông sớm văng vẳng trong sương nổi
lên,
Liên-tiếp như tiếng mùa thu qua ngọn cây
Con thú vàng ( chuông ) lên tiếng làm cho
sao mờ trên bãi biển.
Chầy đánh vào chuông làm cho trăng lặn
sau rừng cây.
Muôn nhà tỉnh mộng, Phật lên trời.
Tám cõi đất Phật sáng mở, nhà sư về tịnh-
thất.
Chờ gõ chịu thương cho chú tiểu.
Chẳng kêu, kêu được mặt-trời lên .
Bài này tả tiếng chuông Chùa buổi sớm
mai. Thơ bắt đầu mô-tả hình-ảnh buổi sớm
trong lúc sương xuống chưa tan, tiếng chuông
dóng lên thánh-thót, chậm rãi từng tiếng một
theo ngọn gió lướt trên ngọn cây. Con thú
vàng, tức là cái chuông, lên tiếng thì những
ngôi sao lác-đác trên sông Ngân-Hà cũng vừa
lặn. Chiếc chầy kình để gõ chuông, mỗi chiếc
NGUYỄN-CƯ-TRINH
182
nện làm rụng mặt-trăng xuống nơi thung-lũng
trong rừng. Đây là tác-giả khéo mô-tả linh-
động tiếng chuông Chùa ban mai như gọi lên
trời sáng vậy. Và nhà nhà nghe tiếng chuông
tỉnh dậy, như tỉnh giấc mộng tục trần, Phật lên
chầu Trời, mà nhà sư cũng dời khỏi nhà thiền-
thất. Kết-luận ngụ-ý tiếng chuông Chùa đại-
diện cho tiếng nói từ-bi, hễ khi gõ vào mới lên
tiếng. Một khi đã lên tiếng liền có hiệu-lực làm
cho mặt-trời phải lộ mặt, đem ánh-sáng cho
thế-gian. Ý thơ rất thâm-trầm sâu-sắc có múi-vị
đạo-học .
IV.
NGUYỄN-CƯ-TRINH
183
Dịch âm :
GIANG THÀNH DẠ CỔ
Kim thành trĩ lập bích giang cao,
Hiêu ngọa tiều lâu điếu nguyệt hào.
Tế vũ hữu quyền thanh dục tốn,
Cuồng ba vô vận hưởng thiên hào.
Dao kha thước thụ ỷ nan định,
Cận đảng giao đàm mộng diệc lao.
Thùy niệm thiên nha minh võ lược,
Kinh hoa tòng thử chẩm di cao .
Nghĩa :
TRỐNG ĐÊM Ở GIANG-THÀNH
Thành vàng xừng-xững bến sông biếc,
Nằm tựa lầu canh đối trăng thét ;
Rả rích mưa phùn khôn lấp tiếng,
Bập bình sóng vỗ, trống vẳng kêu xa.
Nạt dọa chim thước trên cây không yên
đậu.
Làm xao-động nước trong đầm khiến
giao-long mất ngủ.
NGUYỄN-CƯ-TRINH
184
Nào ai có hay ở nơi góc biển chân trời
tiếng trống vũ-lược dóng-dả.
Do đấy mà nơi kinh-đô được gối cao ngủ
yên .
Vận :
GIANG-THÀNH TRỐNG ĐÊM
Thành vàng xừng-xững bến Ô-Giang,
Nằm tựa lầu canh gọi chị Hằng ;
Lã chã mưa tuôn nhường lấp tiếng,
Rì rào sóng vỗ vẫn rền vang ;
Mắng khua chim thước cây xào-xạc,
Dao động đầm rồng mộng bàng hoàng ;
Dóng dả chân trời oai vũ-lược,
Kinh-đô yên giấc mộng kinh bang .
Tuy vẫn là giọng tán-dương, nhưng kín-
đáo bên trong mỹ-dụ tiếng trống cầm canh nơi
biên-thùy hẻo-lánh, trấn giữ kẻ xâm-lăng, bảo-
vệ cho quốc-gia được yên-ổn. Hai câu kết có ý
trung-hậu, kêu gọi nhà Vua nghĩ đến kẻ đang
chiến-đấu nơi góc biển chân trời. Toàn bài ý
NGUYỄN-CƯ-TRINH
185
thơ đều tỏ ra khí-phách của kẻ-sĩ hành-động vì
quốc-gia dân-tộc .
V.
Dịch âm :
THẠCH ĐỘNG THỐN VÂN
Nhất sơn khai phá lưỡng nham a,
Thốn hạ phù vân hàn phóng qua ;
Hoạch khất long thân qui sắc nạp,
Loan tường phụng chử nhập bao la ;
Hồ lô hỏa thấp ngưng yên vũ,
Thạch thất nhân hàn tích nhữ đa ;
Xuất trục đãi giao năng ngũ thái,
Quang phù thần vũ định sơn hà .
NGUYỄN-CƯ-TRINH
186
Nghĩa :
ĐỘNG ĐÁ NUỐT MÂY
Ngọn núi mở ra hai cánh là vách đá .
Nuốt vào những làn mây nổi để rồi lại
phun qua.
Tựa như rồng vươn, rắn uốn vào ra
khuất-khúc.
Khác nào như phượng múa loan bay
trong cõi bao la.
Trong động bấy giờ lửa hỏa-lò của phái
Tiên-học khói đọng lại ẩm ướt như mưa.
Nhà Phật tu Thiền trong thạch-thất run
lạnh phải mặc áo bông thêm vào.
Đám mây ra khỏi núi chờ biến khả-năng
ra năm mầu.
Để phò giúp vũ-lược như thần mà yên
định quốc-gia .
Dịch vận :
ĐỘNG ĐÁ NUỐT MÂY
Một non đôi vách động phanh ra,
Nuốt ngốn mây vào lại tuôn qua ;
NGUYỄN-CƯ-TRINH
187
Rồng lộn rắn trườn đường khuất khúc,
Loan bay phượng múa khắp bao la ;
Lò Tiên đạo-sĩ đầm mưa khói,
Thiếu thất Thiền-sư lạnh thấu da ;
Mây lià động núi thành năm sắc,
Để giúp thần-công định sơn hà .
Ý thơ với hình-ảnh trên đây thật phong-
phú, linh-động và tương-xứng một cách tự-
nhiên, bầy ra một cảnh-tượng sinh-hoạt biến-
hóa rất hùng-vĩ cao-cả. Nhưng cảnh ấy không
phải để nhà tu Tiên luyện thuốc trường-sinh
hay pháp-thuật huyền-bí, cũng không thích-hợp
cho nhà Phật xuất-gia ngồi tĩnh-tọa trầm-tư,
ngoài nhân-quần xã-hội, quên xã-tắc sơn-hà.
Cảnh ấy, động đá mây tuôn như rồng bay
phượng múa, còn đang chờ biến-hóa ra mây
lành ngũ-sắc để phù giúp cho thần-vũ oai-hùng
của quốc-gia dân-tộc .
Đủ tỏ CƯ-TRINH không bao giờ quên
cái lý-tưởng vương-đạo của Nho-sĩ chân-chính
vậy. Cái lý-tưởng ấy là cái triết-lý hành-động
đem Đạo vào Đời, trong Đời thực-hiện Đạo,
NGUYỄN-CƯ-TRINH
188
qua " Thạch động thốn vân ", thực-hiện
" Ngũ thái sơn hà ", đem chủ-quyền dân-tộc
bành-trướng xuống phương Nam này vậy .
VI.
Dịch âm :
CHÂU NHAM LẠC LỘ
Sơn hàm hải sắc bích vô hà,
Thùy tống sương nhi đáo tác hoa.
Hành bảng lãng đầu ngư mại kế,
Lập đương tùng phát hộc vong gia.
Tích triều hưng thế tự nguy nghiệp,
Phù hạc đoản trường không chúc a.
NGUYỄN-CƯ-TRINH
189
Vị tưởng ô y đường thượng khách,
Hoàn tương lục lục tiếu thiên nha .
Nghĩa :
CÒ XUỐNG BÃI CHÂU-NHAM
Núi xanh biếc như mầu nước biển không
chút dáng pha.
Ai khéo đưa cò trắng như tuyết sương
xuống điểm như hoa.
Cò kia bay là theo ngọn sóng để bắt cá.
Lại đậu trên ngọn thông, khiến chim hộc
quên tổ.
Nước thủy-triều khi lên khi xuống, cò kia
vẫn tự bước nghênh-ngang tại bãi sông.
Chim hạc, chim quạ, cổ dài cổ ngắn đùa
kêu âu-a, cò kia không để ý.
Cò thảnh-thơi thế kia mà các con chim
lồng các nhà quan quí,
Lại cười cò lủi-htủi chân trời góc biển,
thật là bọn ấy ngu-ngốc .
NGUYỄN-CƯ-TRINH
190
Dịch vận :
CÒ XUỐNG BÃI CHÂU-NHAM
Biển biếc non xanh hợp một mầu,
Ai đem cò trắng điểm phau phau.
Là theo ngọn sóng tìm săn cá,
Rình đậu cành thông, hộc thảy đâu.
Lững-thững bãi sông triều lên xuống,
Hạc cao, quạ thấp mặc á âu.
Chim lồng quyền quí cười lủi-thủi,
Cò trắng bên trời há quản đâu .
VII.
NGUYỄN-CƯ-TRINH
191
Dịch âm :
ĐÔNG HỒ ẤN NGUYỆT
Dạ lai thùy trúc lưỡng viên quang,
Nhất cống thiên gia nhất thủy hương.
Thủy vị ngân bàn thiên học chú,
Thiên nghi ngọc cảnh thủy chân trang ;
Giao ly nhược lậu độn hình thế,
Âu nhạn như thiêm bác dục phương ;
Khái tưởng Đào - Chu thành sự hậu,
Kiền khôn dục chước đỉnh trung ương .
Nghĩa :
ĐÔNG HỒ TRĂNG IN BÓNG
( Ánh trăng in xuống mặt Đông-Hồ, )
Trước hết tả hai vầng sáng tròn, một trên
trời, một dưới đáy nước, hỏi ai đã khéo
rũa nên thế ?
Nước thì bảo Trời mới đúc chiếc mâm
bạc.
Trời ngờ rằng Nước thực đã trang-điểm
tấm gương ngọc.
NGUYỄN-CƯ-TRINH
192
Cá-sấu, thuồng-luồng khó bề nép trốn cho
lọt ánh sáng.
Chim âu, chim nhạn nhờ ánh-sáng mà vỗ
cánh rộng bay.
Tưởng nhớ vì đâu Đào - Chu khi xong sự-
nghiệp rồi,
Lại muốn uống rượu trong bầu vũ-trụ .
Dịch vận :
TRĂNG CHIẾU ĐÔNG-HỒ
Đêm qua ai khéo chuốt đôi vầng,
Một giữa trời một đáy nước trong.
Nước bảo bàn ngân Trời mới đúc,
Trời ngờ kính ngọc nước làm sang.
Sấu, rồng khôn ẩn tầm ánh sáng,
Âu, hạc thêm vây sức vẫy-vùng.
Tưởng đến Đào - Chu tròn sự-nghiệp,
Quay về vũ-trụ thảnh-thơi lòng .
Ở đây thi-ảnh rất phong-phú mà mung-
lung vừa linh-động vừa siêu-thoát. Còn cảnh
nào hữu tình bằng cảnh trăng với nước, nước
lồng bóng trăng ngụ biết bao tình-tứ, khác nào
NGUYỄN-CƯ-TRINH
193
như cuộc đối-thoại giữa hai nhân-tình, mà kỳ
thực lại chính tự mình đối-tượng-hóa thành hai,
hai đây lại là Trời với Nước nghiêm-trang đối-
đáp với nhau về cái tuồng ảo-hóa bầy ra đấy,
tràn ngập ánh-sáng không còn để cho vật gì ẩn-
náu, như những vật-dục ẩn-ý vẩn-đục trong
tâm-hồn. Đấy là trước cảnh sinh tình, ngắm
cảnh sáng bên ngoài mà cảnh tỉnh vào cảnh
sáng trong nội-giới của nhà Nho chân-chính
luôn luôn nghĩ đến " tự minh minh đức "
( ) là cửa ngõ của Đạo vậy.
Nhìn ngắm cảnh đẹp thiên-nhiên ai mà chẳng
thích-thú, ai chẳng mơ tưởng thỏa chí thanh
nhàn để hưởng lạc. Nhưng lạc-thú ở tại nơi
tâm-hồn, không ở tại bên ngoài. Cho nên chỉ
khi nào Nho-sĩ trả xong cái nợ nam-nhi-chí ở
hành-động phụng-sự cho quốc-gia xã-hội thì
tâm-hồn mới được thảnh-thơi, cũng như
Nguyễn-Công-Trứ sau này :
" Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo,
Thảnh thơi thơ túi rượu bầu ".
NGUYỄN-CƯ-TRINH
194
Thì NGUYỄN-CƯ-TRINH cũng một
tâm-tình ấy khi đứng trước hay tưởng-tượng
cảnh " Trăng chiếu Đông-Hồ " thấy trong tinh-
thần bầng sáng mà tưởng nhớ đến Đào - Chu
làm tròn sự-nghiệp bèn dâng tâm-hồn cho cái
Sáng cái Đẹp vô-biên của Vụ-trụ vậy .
VIII.
Dịch âm :
NAM PHỐ CHỪNG BA
Doanh dâm ba lãng kỷ thời khuynh,
Hoàn bả pha ly liệt địa minh ;
Cơ thất phân nhân thiên sự thiểu,
NGUYỄN-CƯ-TRINH
195
Ngạc nghê quyền thất hải tâm bình.
Can thành khách sự thừa phù tứ,
Hành bộ nhân vô vấn kiếm thanh.
Dạ lão dữ âu phân lục bãi,
Trường an tiếu chỉ thánh nhân sinh .
Nghĩa :
BẾN NAM SÓNG LẶNG
( Bài này ngụ ý rằng : lâu nay đất Nam-
Phố gió lặng sóng êm, mặt nước không gợn,
như tấm gương pha-lê sáng khắp. Trên trời sao
Cơ, sao Tất mọc đúng chỗ phương-vị của
chúng, không có chi xẩy ra. Đáy biển bình an
trong suốt, cá kình, cá sấu không hoành-hành.
Vì vô sự nên khách võ-công giữ thành muốn
cưỡi bè chơi biển, cũng như thời bình, quân-sĩ
không dùng cung kiếm đánh nhau.
( Lão quê mùa nhàn nhã cùng với chim âu
chơi trên bãi biển. Được như thế là nhờ ở kinh-
đô có thánh ra đời .)
Bài thơ có ý khuyên răn nên trung-thành
với Chúa Nguyễn .
NGUYỄN-CƯ-TRINH
196
IX.
Dịch âm :
LỘC TRĨ THÔN CƯ
Tịch nhượng cùng khâu khả tịch thinh,
Tử tôn vô hoạn đoạt mao đình.
Lộc tu lưu khách dã trà hắc,
Đồn túc nghênh thê viên quả thanh.
Bão noãn bất tri thiên tử lực.
Phong đăng duy tín hải thần linh.
Cánh vô tô phú hựu nhạn sự,
Thái bán nhân xưng cận bách linh .
NGUYỄN-CƯ-TRINH
197
Nghĩa :
THÔN XÓM Ở GÒ HƯƠU
Đây cũng ngụ-ý tả cảnh trù-phú đất Hà-
Tiên, từ hang cùng ngõ hẻm đều yên-tĩnh. Con
cháu ở các nhà lá lều-tranh không lo bị cướp-
bóc. Đây là xóm Gò-Hươu, giữ khách thì dùng
trà lá-vối với nem hươu. Cưới vợ thì con lợn là
đủ, với trái cây xanh trong vườn nhà. No ấm
không biết đến có Sắc của Vua. Mùa-màng tốt
chỉ tin vào thần thiêng của biển. Sưu thuế đã
không có lại nhàn hạ, bởi thế nên quá nửa làng
có nhiều ngưòi thọ gần trăm tuổi .
Trong ý thơ ca-tụng phong-tục chất-phác
Hà-Tiên như trở về thời hoàng kim thế-giới
theo lý-tưởng chính-trị Lão - Trang .
NGUYỄN-CƯ-TRINH
198
X.
Dịch âm :
LÔ KHÊ NGƯ BẠC
Nghì gia doanh đội nguyệt tằng tằng,
Lâu xuất tùng lô kỷ điểm đăng ;
Phụ lão không văn triều hiệu Hán,
Thê nh thiên quán khách danh Lăng ;
Xanh trì giang hán song chi trạo,
Thâu thập kiền khôn nhất bão tăng ;
Văn đạo bạch giao kim hữu trưởng,
Thụy dư hạnh nghĩ thế dư năng .
NGUYỄN-CƯ-TRINH
199
Nghĩa :
THUYỀN ĐÁNH CÁ BẾN LÔ-KHÊ
Đây là tả cảnh sinh-hoạt bình-dân của dân
chài-lưới, đại-ý rằng :
Thuyền đánh cá của dân chài đậu bến Lô-
Khê từng lớp từng hàng, dưới ánh-trăng.
Thỉnh-thoảng lọt ra qua đám lau rậm mấy tia
sáng đèn. Người già cả ở đấy lo việc làm ăn chỉ
nghe nói triều Vua hiền là Hán. Còn vợ con họ
chỉ biết có bạn nổi tiếng là Nghiêm-Tử-Lăng,
nhà ẩn-sĩ thời Hán hay đi câu cá để sinh nhai,
ra ngoài công danh trần tục. Bọn dân chài chỉ
có hai mái chèo khua khắp sông Giang, sông
Hán. Thâu cả vũ-trụ vào trong cái nơm của
mình. Có lẽ lúc này cá kình trắng đã lớn, rủ
nhau ngủ dậy. Sẽ tỏ tài bủa lưới thử xem .
Ý thơ vẫn ngụ một cuộc sinh-hoạt chất-
phác, ra ngoài kỷ-luật xã-hội, có vẻ ngang-tàng
tự-do, trong một xã-hội không tưởng .
NGUYỄN-CƯ-TRINH
200
Trở lên là mười bài thơ mà NGUYỄN-
CƯ-TRINH đã họa lại " Hà-Tiên Thập Vịnh "
của Mạc-Thiên-Tích. Vì là thơ họa lại, bị gò bó
bởi đề và vận, lại là Hán-văn rất khó tuy ý-tứ
rất cao, đã được nhà Nho đất Bắc danh-tiếng
như Lê-Quý-Đôn liệt vào hạng " Hiển-danh " .
Dưới đây là bốn bài của Ông tự-do đề
vịnh, có lẽ tâm-lý nghệ-thuật của Ông ở đây
được bộc-lộ tự-nhiên hơn .
I.
NGUYỄN-CƯ-TRINH
201
Dịch âm :
ĐỀ TÙNG LÃNG THI
Bình địa phiên giao khởi lục ba,
Trượng phu tranh nại A-di hà ?
Lưu thanh tráng yểm cầm hoàng tế,
Dũng xứ hàn xâm chẩm diệm đa.
Cử trạo thương long thừa thế vũ,
Khai phàm huyền hạc xấn thời qua.
Hà nhân bán tỉnh duy châu phố,
Mãnh tỉnh uy do ngạn diệp ma ?
Nghĩa :
Đất đương bằng yên, chuyển động khiến
cho sóng biếc nổi dậy,
Cây thông tượng-trưng cho người trượng-
phu kẻ cả, cạnh-tranh chống-chọi sao lại
được với Dì gió.
Tiếng chuyển vận mạnh che lấp tiếng đàn
sáo nhỏ.
Chỗ nước tràn ngập thấm ướt cả chăn
gối.
Khua mái chèo rồng xanh cưỡi sóng múa
manh.
NGUYỄN-CƯ-TRINH
202
Dương cánh buồm chim hạc đen vượt
qua thời-gian.
Ai đây là người nửa tỉnh, không đang
ngủ, chỉ có nhà thuyền chài.
Tỉnh hẳn một cách mạnh mẽ, có cành lá
thông trên bờ vậy .
Bài thơ trên đây rất thâm-thúy, hình-ảnh
sâu rộng cao-siêu, ngụ cả một vũ-trụ-quan của
nhà Nho hành-động phấn-đấu trong hoàn-cảnh
sóng gió. Tác-giả lấy cây thông để ngụ người
nam-nhi. Nhưng cây thông đây không phải
đứng ở góc núi, mà trái lại đứng ngay bờ nước,
bị cơn gió bão làm cho sóng biển nôi lên, bờ
biển rung chuyển dữ-dội. Nam-nhi đứng trong
cảnh chiến-trường đang bị thử-thách, muốn
ngủ cũng không được, muốn giải-trí hay mê
say ca nhạc cũng không xong. Chỉ còn hai thái-
độ hiện ra trước mắt của tác-giả là Rồng-biếc
" Thương long " với Hạc đen " Huyền hạc ".
Rồng đại-diện cho người quân-tử có nghị-lực
phấn-đấu dẻo dai bền-bỉ " Quân tử kiền kiền"
( ) người quân-tử kiên cường
( Dịch ). Còn Hạc là đại-diện cho đạo-sĩ tu tiên.
NGUYỄN-CƯ-TRINH
203
Tác-giả đã chọn cây " Thông " bền sức phấn-
đấu chịu-đựng, trong cơn sóng gió, đứng bên
bờ biển mà cành lá vẫn reo " mãnh tỉnh "
trong đám nhân-dân lao-động thuyền chài đang
mê " bán tỉnh " .
II.
Dịch âm :
VỊNH LƯỠNG NỮ TẨY TÚC
Đảo điên hữu thuật lộng anh hùng,
Nhất đối quần nhu tẩy nãi ông ;
Cứ ngã phương nhu long cước xích,
Nghênh nhân do bảng ngọc nhan hồng ;
Tương quân bất tỏa nho sinh khí,
NGUYỄN-CƯ-TRINH
204
Đình trưởng nan thu lý giám công ;
Đại suất thư công bằng mã thượng,
Ung hoành vô phục đế vương phong .
Nghĩa :
VỊNH HAI CÔ RỬA CHÂN BÁI-CÔNG
Bài này lấy tích Hán-Cao-Tổ, xuất thân
một chú xã-thôn, sau khi thống-nhất thiên-hạ
nhờ quân-sư giỏi như Trương-Lương, Hàn-Tín,
có vẻ khinh Nho-sĩ theo giấu Tần-Thủy-
Hoàng-Đế " phần thư khanh nho " đốt sách
Nho, chôn Nho-sĩ. Một bữa kia, ngồi trong
cung đang để cho hai cô thị-tỳ rửa chân, có
Nho-sĩ xin ra mắt, liền cho vào, và tiếp khách
đồng thời để cho thị-tỳ cứ tiếp-tục rửa chân cho
mình, vừa tỏ ra thô-lỗ, không biết có lễ-nghi
đàng-hoàng của một ông Hoàng-Đế. Và chính
ông ta cũng tự-phụ rằng cầm gươm trên mình
ngựa lấy thiên-hạ, không cần đến văn-hóa. Tác-
giả nhân vịnh đề-tài này, ngụ ý bênh-vực văn-
phong, miệt-thị võ-cách .
NGUYỄN-CƯ-TRINH
205
Dịch vận :
VỊNH HAI CÔ RỬA CHÂN BÁI-CÔNG
Đảo điên đem thuật cợt anh-hùng,
Đôi ả quần thoa tắm rửa ông ;
Ngồi xoạc chân rồng còn đẫm ướt,
Lại kề gái đẹp đón Nho phong ;
Tướng quân sao dám lờn Sĩ-khí,
Lý xã vì đâu tới Đế cung.
Xảo trá cơ mưu phường mã thượng,
Còn đâu khí tượng Đế-vương phong .
III.
NGUYỄN-CƯ-TRINH
206
Dịch âm :
DẠ ẨM THI
Tỉnh nhân hà khổ độc hành ngâm,
Kế quỹ lưu tân thả đối châm ;
Thủ chúc thượng tư thường trú đoản,
Tình bôi an dụng vấn canh thâm ;
Thị phi cửu náo văn lôi nhĩ,
Ly loạn nga vong túy nguyệt tâm ;
Hà tất sơn trung minh nhiên hảo,
Phù sinh can nhật ký phân âm .
Dịch vận :
UỐNG RƯỢU ĐÊM
Lủi thủi ngâm nga tỉnh một mình,
Đêm nay giữ khách chén lưu-linh ;
Chong đèn uống đã bù ngày vắn,
Khắc muộn canh chày miễn thỏa tình ;
Phải trái rườm tai ù ù sấm,
Loạn ly quên khuấy đối trăng thanh ;
Say sưa nào phải nơi hang núi,
Cuộc thế trăm năm được mấy canh .
NGUYỄN-CƯ-TRINH
207
IV.
Dịch âm :
MỘ VŨ LƯU KHÁCH THI
Tọa trướng thiên quang vãng bất hồi,
Vô đoan âm vũ khứ hoài lai ;
Qua đinh dĩ tại quân tiền tẩy,
Tùng trúc đô qui cố lý tài ;
Sách tỉ vị nghi nhu lữ phục,
Thôi đăng thả cộng khánh dư bôi ;
Dương quan đối thử tình vô hạn,
Nhất tịch thăng như nhất quyển khai .
NGUYỄN-CƯ-TRINH
208
Dịch vận :
ĐÊM MƯA GIỮ KHÁCH
Ngồi buồn trời tối, tối mờ mờ,
Xầm xập từng cơn trận trận mưa ;
Giặc dã chiến-tranh nay gột rửa,
Quê nhà vui bón trúc, thông già ;
Đường đời lê gót thêm ướt áo,
Đốt đuốc cùng nhau chén chén thừa ;
Vô hạn nhớ nhung tình ly biệt,
Một đêm cùng bạn một vần thơ .
*****
*
NGUYỄN-CƯ-TRINH
209
THƠ BỐN THÚ
( TỨ THÚ THI )
Theo " Tứ thú thi " thì đã bị hạn
vận, lại mỗi câu phải lấy chữ trong bát âm làm
mở đầu. Như thế rất khó làm lắm .
NGUYỄN-CƯ-TRINH
210
Dịch âm :
VỊNH NGƯ
Kim thúy lâm hà hựu hướng khê,
Thạch than lô chử nhậm đông tế ;
Ti khiên hý bạng tranh giang duật,
Trúc dẫn huyền ngư khiếp thủy kê ;
Bào trản sở hoa do tỵ tấn,
Thổ đê minh đới vị phong Tề .
Cách sầu tự hữu minh huyền khúc,
Mộc lại lưu cầm tạc điểu đê .
NGUYỄN-CƯ-TRINH
211
Dịch âm :
VỊNH CANH
Kim đầu túc đạo khái điền khê,
Thạch ngạn huyền thoa nhật dĩ tê.
Ti kiện chúc tê mưu tích giải,
Trúc tiên huề trĩ nhĩ minh kê.
Bào tôn chúc xã tiêu tâm khiết,
Thổ thảo khai chuy ngẫu lục tề.
Cách mệnh đãi phùng tam sính hậu.
Mộc lê phao hạ cúc ai đề .
NGUYỄN-CƯ-TRINH
212
Dịch âm :
VỊNH MỤC
Kim kinh quải giốc khấu tiền khê,
Thạch bạch tùng thanh dã chiếu tê.
Ti kiếu lâm hồ an mộc điểu,
Trúc suy báo lũng dấu sa kê.
Bào huyền bắc địa chung tu hậu,
Thổ xướng nam sơn vị tướng Tề.
Cách mệnh mỗi tòng ngưu khẩu đắc,
Mộc xôn thảo trước mạc ưu đề .
NGUYỄN-CƯ-TRINH
213
Dịch âm :
Quá Giả-Nghị Trạch Họa Đương
Tướng Khanh Nguyên Vận .
Bằng điểu tranh kham vấn sổ trì,
Siêu thiên hà bỉ trích hà bi.
Hoàng đầu cánh nhập hiên đinh mộng,
Thanh giản nan hành ráng quán thì.
Thanh hận thời lưu hồ tỉnh tại,
Cô trinh minh hứa thạch sàng tri.
Lân quân hoàn hữu hạnh quân ý,
Tuyên thất vị ôn thiên nhất thì .
NGUYỄN-CƯ-TRINH
214
Theo sử-ký truyện Giả-Nghị có ghi-chú
rằng theo " Sương Thủy Ký " nói thì nhà của
Giả-Nghị bên trong có một cái giếng do Nghị
đào, rất nhỏ mà sâu, bên trên hẹp mà lớn, hình
dáng như cái bầu hồ, bên cạnh có cái giường đá
chân cao, dùng cho đủ một người ngồi. Người
ta truyền rằng là chỗ Giả-Nghị ngồi thủa trước .
*****
*
NGUYỄN-CƯ-TRINH
215
Thư-từ của NGUYỄN-CƯ-TRINH trả
lời Mạc Tổng-binh Tổng-Đức-Hầu ở Hà-Tiên
như sau :
NGUYỄN-CƯ-TRINH
216
NGUYỄN-CƯ-TRINH
217
NGUYỄN-CƯ-TRINH
218
NGUYỄN-CƯ-TRINH
219
Phiên âm :
Đáp Hà-Tiên Mạc Tổng-binh
Tổng-Đức-Hầu thư .
Năng giả nhục huệ hảo âm, trách dĩ
khai quyển hữu đắc, hoặc yếu vụ hoằng mưu
nhất nhị tất dĩ phản thị. Kim ti hữu như thị. Thị
trách chi giả sở dĩ giáo chi dã. Ý khi ân tư, cần
tư. Bỉ dã bất giác cảm quí giao tập. Bỉ đạm ô
trì chi tiên, diệc dương chi tác võng chi ân, vị
lâm viên chi điềm diệc đương tri súc thụ chi ân.
Kỳ vi hoạch dã tiểu, vi lợi dã hạ hỹ. Huống giả
chi dĩ kinh vĩ chi cụ, công chi dĩ đạo nghĩa chi
tư, nhi vong kỷ sở dĩ hoạch chi lợi chi sở tự hồ?
Tĩnh ngôn tư chi, tuy quát quần phi chi hoàn,
tộc chúng tiềm chi châu, dĩ cung nhất bình,
diệc tư vi bạc hỹ. Phù hà hữu ư phản ?
Thường văn : Cổ chi vi học dã, cử đạo
khâu dĩ vi nhục, khuynh đức uyên dĩ vi tửu,
biên bách hạnh nhi lư thất chi, tập vạn thiện
nhi khấu phục chi. Ngôn khả ngôn ư khả ngôn
chi thời vô bất trúng ; vi khả vi ư khả vi chi
thời vô bất tòng. Tu chi ư gia nhi minh chi ư
NGUYỄN-CƯ-TRINH
220
vương đình ; tu chi ư quốc nhi hành chi ư tuyệt
vực. Kỳ như thị chi vị hữu đắc. Bỉ dã tắc bất
nhiên. Thái ư hàn mặc chi vi, nhi gia chi lại
dân chi thượng lục ư tư ấm chi mạt, nhi trách
chi dĩ biên cương chi hiệu, tắc hà đẳng vinh
ngộ, hà đẳng thời tiết tai ! Cẩu bất bỉ dã, tất
năng kinh quyền tịnh hành, nội ngoại vô gián.
Triệu-Mạnh khai cương bất xí thiên lý. Cao-
Tông hoạch xú hà đãi tam niên, nhi bỉ dã đồ
mộ Hoàng-Công chi quảng đức, kỳ sở dĩ quảng
dã phất khắc ích ; thiên Nam-Trọng chi toàn
sư, kỳ sở dĩ toàn dã phất khắc tế. Tam biểu ngũ
nhĩ, chi sách, mộng trung thuyết mộng, kỳ
nguyệt tam niên chi giáo, mang nhược vọng
dương, xuất nhập giáo trụ, tiến thoái như xúc.
Hiền hầu nhi độc dĩ bỉ dã vi năng hữu đắc hồ ?
Phù trung chi hoành dã, nãi thị chi hành, giai
Hiền hầu chi bất quan dã. Phỉ duy thức giám
tương bất tri ngũ hành, bất thức nhất đinh, diệc
khái kiên vô năng dã dĩ. Hiền-hầu nhi hựu dĩ bỉ
dã vi năng chân hữu đắc hồ ?
Tuy nhiên, nhân bất năng ly đạo dĩ thành
nhân, đạo diệc bất năng viễn nhân dĩ vị đạo.
NGUYỄN-CƯ-TRINH
221
Sự bản hồ đạo, đạo tàng chư sự, vô định danh,
vô định hình. Phân chi nhi Tam-tài, hợp chi nhi
Lục-tịch. Hữu nhân như thử, hoặc quyển nhi
ước chi, hoặc thư nhi bác chi ; phù thùy viết
bất nghi ? Tự nhân quan chi, cố hữu chính
đắc. Đạo nhất dã, danh chi bất đồng, vị chi
dịch dã. Tích hữu y yên, hữu thiện nhi công kỳ.
Nhất dược giả dã, nhất thạch giả dã. Thạch giả
chúc chi viết : " Cẩu năng huệ ngã dĩ tế nhân
dã giả, ngô kỳ vĩnh thỉ chi tai ! " Dược giả
nhiên chi, di chi dĩ sở đắc sưu bột chi. Hữu chi
thế cấu chi, cơ ư ly. Phu sưu bột chi ư ly, phi
khả cấu dã. Thu chi, sả chi, các ư kỳ vị dã .
Viên tự nhược quán, phụng tiên nhân chi
di biến, thiết lũy thế chi tao phách nhất đắc ý
tắc ưng chi bất dĩ, hựu tòng nhi vi chi nhi
huyền chi, nhật tiến ngô vãng dã. Ký sĩ, tác
huyền giả vi, vi giả huyền, tiệm nhi bán hỹ.
Kim tắc bất năng dĩ nhất nhị. Quân nhi thị
nhân dã, tàng vị ngũ thập, ký hồ nhiên nhi kỳ,
hựu hồ nhiên nhi tất, vị phi vị chi dịch nhi hà.
NGUYỄN-CƯ-TRINH
222
Trắc văn Hiền-hầu, khiêm mâu thổ chi
tôn, lý khoảng chi nghị, di quá thất, trọng
nhiên nặc, liêm hậu mệnh nhi chỉ xích, luật
Tiểu-Bạch nhi chính ư Chu, cần quân thí nhi
thưởng phạt, mộ Bão-Châu chi trung ư Đường,
trí dục vi qui, thủy sử viên chi ; nghĩa dục vi
củ, thủy sử phương chi ? Chung nhất ngôn nhi
bách nặc, chung bách hạnh nhi quần tòng. Tắc
bất phu nhiễu, bất xế chửu. Ký nhi tự mãn túc,
bất đình phi độc. Nhất thiên nhi lai, như dăng
xuân đài. Tắc phi bỉ dã chi khả năng đắc dã.
Bất duy bất khả năng, khủng năng chi nhi bất
chu, chu chi nhi bất cập yên giả dã. Hà tắc ?
Chú ư hương giả lưng ư đình, sát ư hào giả, tế
ư hình, tắc ư dược giả thạch giả kiến chi, tư bất
xuất kỳ vị chi vị dã. Thử tắc Hiền-hầu chi thức
giám hựu bất túc tri giả hỹ. Cố nãi thiếu ư
thạch điền nhi tàng nhược hư, trách hiếu ư lậu
chi nhi hữu nhược vô. Đắc phi khủng bỉ dã chi
khốn ư da dã. Quân tử đa hồ tai ? Mạt sanh tắc
bản dao, ngoại phồn tắc nội quỉ, nhi hữu thị
ngôn, nhi hữu thị chi truân-truân, cần-cần. Cố
viết trach chi giả sở dĩ giáo chi dã dĩ. Bỉ dã kim
NGUYỄN-CƯ-TRINH
223
văn mệnh hỹ. Phi trùng diệc qua, vô lự thời
hoạch, vọng phong y-y, cảm bố phúc tâm .
Dịch nghĩa :
Thư Phúc Đáp Của
NGUYỄN-CƯ-TRINH Cho Mạc-Tổng-Binh
Tổng-Đức-Hầu Ở Hà-Tiên
Trước kia tôi có nhận được thư của
Ngài mong cầu đọc sách có đạt, hay là lo toan
các việc trọng-yếu, một hai ắt có tỏ ra phản-
chiếu. Nay lại cũng nhận được thư như thế. Ấy
là mong cầu để dạy bảo vậy. Với ý khí ân-cần
săn-sóc như thế, khiến tôi là kẻ bỉ lậu cảm thấy
hổ thẹn bối-rối. Kẻ kia được ăn cá tươi cũng
còn phải biết ơn người đan lưới, nếm vị ngọt ở
vườn cây cũng phải biết ơn người trồng cây.
Đấy là nói điều thu được nhỏ, điều lợi thấp
vậy. Huống chi giúp cho công-cụ làm việc, ban
cho tư-cách đạo-nghĩa, mà có thể quên tự đâu
mà có được sự thu lợi sao ? Bình tĩnh suy nghĩ
thì tuy có vét cả đàn chim bay, vơ cả đống hạt
châu để chứa vào một bình cũng còn là bạc bẽo
vậy. Có chi là trái đâu ?
NGUYỄN-CƯ-TRINH
224
Từng được nghe nói : Người xưa quan-
niệm về việc học, là đem đạo-lý như gò núi để
làm thịt, nghiêng cái nguồn đạo-đức để làm
rượu, kết trăm hành-vi tốt đẹp để làm nhà ở,
tập họp muôn ngàn điều thiện để làm mũ áo,
nói điều đích-đáng ở lúc đáng nói, không điều
gì không trúng cách, làm cái việc đích đáng
vào lúc đáng làm, không việc nào không được
người ta tuân theo. Đem ra tu sửa ở trong nhà
mà có tiếng vang đến tận triều-đình, đem ra tu
sửa ở trong nước, mà ảnh-hưởng ra đến tận nơi
hẻo-lánh. Có được như thế mới gọi là đạt. Hèn
này đâu được thế ! Lượm được chút ít nơi bút
mực, mà đặt vào chức vị đứng đầu dắt dân, liệt
vào hàng tập-ấm cuối cùng mà đảm-nhiệm giữ-
gìn biên-giới thì sự gặp gỡ ấy còn vinh-dự biết
chừng nào, còn may-mắn biết chừng nào !
Nếu không coi tôi là hèn-mọn thì hẳn là
có thể đồng thời thi-hành chấp kinh, tòng
quyền, trong tâm và ngoài vật không cách biệt.
Triệu-Mạnh mở-mang bời cõi chẳng đến ngàn
dặm. Cao-Tông chịu dở chẳng đợi đến ba năm.
Vậy mà kẻ hèn này mộ theo cái đức rộng của
NGUYỄN-CƯ-TRINH
225
Hoàng-Công. Cái đức ấy sở dĩ rộng, không
thêm được nữa, khen tài Nam-Trọng giữ được
toàn-vẹn quân-sĩ, sở dĩ bảo-toàn là không có
thể giúp được. Đến như chính-sách " Ba biểu,
năm mồi " thì trong mộng nói mơ, cái giáo-lý
hẹn cho ba năm của Mạnh-Tử, thì mênh-mông
như nhìn biển rộng không biết đâu là bờ, ra vào
như phím đàn gắn một chỗ, lên xuống vấp váp,
Hiền-hầu mà lấy một mình tôi làm kẻ có tài-
năng, có đạt đạo hay sao ? Ôi, trúng mà rộng
đấy phải là hành-động, đều là chỗ Hiền-hầu
không đủ để mà xét ; chẳng phải chỉ về kiến-
thức, thì không biết đến ngũ-hành, không hiểu
một chữ, đủ thấy đại-khái là không có tài-năng
rồi vậy. Hiền-hầu mà lại còn cho hèn này là có
tài-năng, thật có đạt nữa sao ?
Tuy nhiên người ta không có thể dời đạo
để nên người, mà đạo cũng không thể xa người
để là đạo được. Sự việc gốc ở tại đạo, đạo
ngầm chứa trong các sự việc, không có tên
nhất-định, không có hình-thể nhất-định. Phân-
hóa ra mà là Tam-Tài ( Thiên Địa Nhân ), hợp
lại vào cả trong Sáu-Kinh ( Dịch, Lễ, Thi, Thư,
NGUYỄN-CƯ-TRINH
226
Nhạc Xuân-thu ). Có người như vầy, hoặc cuộn
vào mà thúc ước, hoặc ruỗi ra mà rộng lớn, kìa
ai bảo là không nên. Tự người mà nhìn, cho
nên có kẻ đạt cách ngay thẳng, có kẻ đạt cách
lẻ-loi, có kẻ không cầu mà không được, đạo
chỉ là Một, mang tên gọi không giống nhau,
địa-vị thay đổi vậy. Xưa có nhà thày thuốc, bạn
với điều lành mà chống đường queo. Có một
chất thuốc, một chất đá. Đá dặn bảo rằng :
" Nếu hay ban ơn cho ta để cứu giúp người, ta
thi-hành vậy thay ! Dược cho là phải. Để lại để
được tán ngào. Vợ của bạn mắng trách điều ấy,
gần như đến lìa nhau. Ôi, ngào tán đối với phép
làm thuốc, chẳng có thể trách mắng được, thu
lấy hay bỏ đi là tùy theo từng vai-trò vậy .
Hèn này từ nhỏ theo đòi sách vở của tiền-
nhân để lại, trộm lấy được cặn bã tích chứa
nhiều đời, mỗi khi được một ý-tưởng nào thì
ôm ấp không dời. Lại theo đấy mà mềm mà
căng, ngày ngày tiến tới. Đến khi ra làm quan
thì điều mềm thành căng, điều căng lại mềm,
dần dần còn một nửa vậy. Đến nay thì không
còn được một hai. Đều là một người ấy, chưa
NGUYỄN-CƯ-TRINH
227
từng đến năm mươi tuổi mà đã chợt lức thì như
sao Cơ ưa gió, có lúc lại như sao Tất mong
mưa, như thế chẳng phải địa-vị dịch sử hay
sao ?
Thường nghe tiếng Hiền-hầu rộng-lượng
tha-thứ kẻ lầm lỗi, tôn-trọng lời hứa, kính
mệnh Vua, xem như trong gang tấc, đúng như
ông Tiểu-Bạch theo nghĩa tôn nhà Chu,
chuyên-cần việc thi tuyển người trong quận để
làm tỏ sáng phép thưởng và phạt, hâm mộ theo
ông Bão-Châu có lòng trung đối với nhà
Đường. Trí đã muốn vuông thì ai xoay lại tròn
được, nghĩa muốn tròn thì ai đổi ra vuông
được. Ngài nói ra một lời thì trăm người nghe,
làm một việc thì trăm người theo, không phải
sờn da, không phải vướng tay, thế mà vẫn chưa
lấy làm đủ, làm mãn-nguyện, còn hàng ngày
gắng sức học-hỏi. Gặp điều gì hay thì sung-
sướng như bước lên đài xuân. Tôi tự thấy
không có thể bì kịp vậy, dù có cố-gắng nhưng
cũng khó toàn-vẹn, có toàn-vẹn cũng không tới
được. Tại sao ? Vì rằng kẻ-sĩ nào chú-ý đến
tiếng vang nhỏ thì không nghe thấy tiếng sấm,
NGUYỄN-CƯ-TRINH
228
kẻ chú-trọng việc nhỏ thì ít thấy việc lớn. Khác
chi người thày thuốc hay châm-cứu, có trông
có thấy cũng chỉ trong phạm-vi phận-sự
chuyên-môn của mình. Hiền-Hầu là hạng có
thức giám cũng không đủ biết điều ấy của tôi
vậy. Nay xét muốn thu thóc ở nơi ruộng đá sỏi
thì thực cũng như giấu cái trống không, dâng
rượu bằng cái chén thủng thì có rượu cũng như
không. Hay là Ngài sợ tôi khốn về kiến-văn
quá nhiều chăng ? Người quân-tử có, cứ chi
nhiều. Ôi kìa, ngọn nặng thì gốc phải lay, bên
ngoài đầy thì bên trong thiếu, cho nên mới có
sự chuân-chuân, cần-cần. Cho nên nói : " trách
mắng tức là dạy cho đấy. Tôi nay thực đã được
nghe Ngài dạy bảo. Chim bay có thể bắn được,
chẳng lo không có lúc bắt được nó. Luôn luôn
tôi ngóng trông cái phong-thái của Ngài mà
nương theo, dám xin bày tỏ nỗi lòng ".
NGUYỄN-CƯ-TRINH
229
Ông lại đáp Hiệp-trấn Hà-Tiên Anh-Đức-
Hầu hỏi xin thơ rằng :
Dịch âm :
Phù tồn tâm vi chí, ngụ chí vi thi. Nhân
hữu thiển thâm, cố thi hữu ẩn, hiển, bác, ước
chi bất đồng, thời hưu thăng giáng. Cố thi hữu
sơ thịnh trung văn chi các dị. Ước chi bất
ngoại hồ trung hậu vi bản, hàm xúc vi nghĩa,
bình đạm vi công, nhi văn chi dĩ ỷ lệ, đoạn chi
dĩ kỳ xảo, đặc lục nghĩa chi ngoại thiên, ngũ tế
chi dư sự giả dã. Tâm giả nan trắc chi vật, tiết
NGUYỄN-CƯ-TRINH
230
chi vi thi, nhi thành hồ vi ngữ. Chí ư nhất tự
hữu tam niên nhi hậu đắc, thiên kỳ nhi phất
giải.
Dư thị dụng nan chi. Huống thiếu tồn
thiệp liệp, vị năng cùng tư ư kinh luân. Trường
phả dung sơ, thiết giới hy danh ư văn tự. Dĩ cố
bình sinh giai tác giả tiễn, thẫu nãi kim hà
ngọc tái, vạn lý chi tình, tam quân chi vụ, kỳ
năng hà cập hồ ? Túng hữu ngâm vịnh nhất
nhị, diệc mẫn miễn do nhân, sơ phi tận xuất kỷ
hứng. Luật chi bất cẩu, lương diệc đa tàm, duy
thiện vi ngã tàng, bất túc dữ nhân đạo dã .
Dịch nghĩa :
Ôi, nuôi lòng làm ý-chí, ngụ ý-chí làm
thơ. Người ta có kẻ sâu kẻ nông cho nên thơ
cũng có kín có mở, rộng và gọn không giống
nhau, luôn luôn có lên xuống. Bởi thế nên thơ
có lúc Mới-thịnh, Giữa-thịnh và Muộn-thịnh,
khác nhau, tóm lại không ngoài lấy sự trung-
hậu làm gốc, hàm-xúc làm ý-nghĩa, bình
thường làm công-phu, rồi làm cho văn vẻ bằng
tô-điểm, uốn nắn bằng sự khéo lạ, đặc biệt
NGUYỄN-CƯ-TRINH
231
ngoài sáu nghĩa là : Phong, Nhã, Tụng, Phú, Tỉ,
Hứng, còn năm mối là : vua tôi, cha con, vợ
chồng, anh em, bầu bạn. Tâm người ta là vật
khó lường, phát-tiết ra làm thơ mà thành được
nên lời. Đến như một chữ mà ba năm sau mới
đạt được, ngàn đời mà không giải-thích được.
Tôi đối với việc đó khó làm được. Phương chi
lúc thiếu thời hiểu qua chứ chưa nghiên-cứu
sâu sắc về nghệ-thuật trị nước. Khi lớn lên hơi
biếng nhác và tránh con đường tiếng-tăm về
chủ-nghĩa. Vì thế trong đời ít có sáng tác hay
giỏi .
Đối với thi văn nổi tiếng như lời vàng
tiếng ngọc truyền rộng kêu xa thì vì tình lo cho
muôn dân vạn dặm, việc của ba quân, còn rảnh
đâu mà đề cập đến. Dù rằng có ngâm vịnh một
đôi bài cũng do gắng gượng vì lời yêu cầu của
người chứ chẳng phải tự mình hứng thú, tuy
luật thơ không sai trái nhưng cũng lắm thẹn
thùng, tốt nhất vì tôi mà giấu đi không đáng
đọc cho người nghe .(1)
(1)
Nhận xét : Một vị quan tài giỏi, học hành kiêm ưu mà rất khiêm-nhường
NGUYỄN-CƯ-TRINH
233
KẾT - LUẬN
Đầu thế-kỷ XVIII, NGUYỄN-CƯ-
TRINH đại-diện cho Nho-học miền Nam bênh-
vực tư-tưởng Chính-học như trình-bày trên
đây, là một Ý-thức-hệ hay là Thế-giới-quan của
sĩ-phu lãnh-đạo. Cái Ý-thức-hệ ấy muốn là một
Chủ-nghĩa Nhân-bản Toàn-diện truyền-thống
Á-Đông như sách " Đại-Học " " Trung-Dung "
đã yếu ước. Cả hai hợp lại cho ta một quan-
niệm về ba phương-diện sinh-tồn của nhân-loại
là Tâm-lý, Xã-hội, Thiên-nhiên, hay là Tín-
ngưỡng, Đạo-đức và Khoa-học .
Khuynh-hướng tinh-thần miền Nam kể từ
khi Nguyễn-Hoàng vào Thuận-Hóa ( 1600 -
1613 ) cho đến Võ-Vương Nguyễn-Phúc-
Khoát ( 1738 - 1765 ) vẫn là tinh-thần khai-
phóng, ít ra thì cũng ở tinh-thần các Chúa trị-vì
NGUYỄN-CƯ-TRINH
234
đang có những vấn-đề sinh tử phải đối-phó,
một mặt phải bảo-vệ tự-do độc-lập đối với
Chúa Trịnh phiá Bắc, một mặt mở đường sống
vào đồng-bằng Củu-Long bấy giờ ở trong tay
Chiêm-Thành, Chân-Lạp. Do đấy mà các Chúa
phương Nam có óc cởi mở để cầu hiền, như
trường-hợp Đào-Duy-Từ, không được trọng-
dụng ở phương Bắc, mặc dù tài-ba nhưng là
dòng-dõi " xướng ca vô loài ", như trường-
hợp cho người sang Quảng-Đông thỉnh-cầu
Thích-Đại-Sán, như trường-hợp thu-nạp, trọng-
dụng các chiến-sĩ Minh-hương, như trường-
hợp cho các Công-chúa theo đạo Thiên-Chúa.
Đủ chứng tỏ tinh-thần phương Nam của các
Chúa Nguyễn bấy giờ rất khai-phóng và thông-
cảm, cho nên mới có những cuộc cãi lý giữa
Nho-sĩ và Giáo-sĩ trước mặt Tổng-trấn Quảng-
Nam một cách công-khai .
Vậy vở tuồng " Sãi-Vãi " của
NGUYỄN-CƯ-TRINH cũng chính là để xác-
định lập-trường Nho-học của sĩ-phu Việt-Nam
ở Nam-Hà bấy giờ vậy. Tuy là lập-trường
" trung-dung " khai-phóng, không độc-tôn
NGUYỄN-CƯ-TRINH
235
Nho-giáo thực-tiễn hay từ-chương, biết công-
nhận các quan-điểm khác nhau, nhưng Ông hết
sức phản-đối sự mê-tín, nhất là ở địa-vị lãnh-
đạo mục-dân mà lại không nhìn vào thực-tế,
chỉ cầu Phật, cầu Tiên, ham Thiên-đường sợ
Địa-ngục :
" Tham-lam cầu Đạo, lặn lội tầm Tiên,
Mỏi sức người trăm họ chịu lao phiền,
Hao của nước muôn dân than đồ khổ ".
Cái triết-lý " trung-dung " của Ông có
thể tóm-tắt vào trong câu này ở miệng ông Sãi :
Thành ư trung vị đắc hòa bình,
Hình tại ngoại bất năng trung tiết .
Nghĩa là CƯ-TRINH muốn dung-hòa cả
tâm lẫn vật, cả trong lẫn ngoài theo cái đạo
" Hợp ngoại nội " ( ) của sách
" Trung-Dung ". Tác-giả " Sãi-Vãi " muốn
NGUYỄN-CƯ-TRINH
236
hợp-nhất vào một chữ Thành ( ) là cái
ý-thức tâm-lý thực-nghiệm thuần-túy về điểm
đồng-điệu giữa Thể và Dụng của Thiên-tính,
giữa Tri và Hành cũng như giữa Siêu-nhiên và
Hiện-thực. Cái tư-tưởng này ở miền Nam đã
được một lớp Nho-sĩ về sau nối-tiếp, phát-triển
và thực-hiện, từ Hoàng-Quang đến Võ-Trường-
Toản, từ Phan-Thanh-Giản đến Nguyễn-Đình-
Chiểu cùng một số trí-thức Minh-hương như
Mạc-Thiên-Tích, Trịnh-Hoài-Đức chẳng hạn.
Đấy là khuynh-hướng Nho-học khai-phóng
vậy .
***************
********
******
*
NGUYỄN-CƯ-TRINH
237
SÁCH THAM KHẢO
* Đại-Nam Thực-Lục Tiền-Biên.
* Nhân-Vật Thời Xưa Đất Thuận-Hóa. _
Lê-Quý-Đôn
* Ô-Châu Cận-Lục._ " Mục Đình Chùa ".
* Liệt-Truyện Tiền-Biên.
* Hải-Ngoại Ký-Sự._ Thích-Đại-Sán.
* Phủ-Biên Tạp-Lục._ Lê-Quý-Đôn.
* Quảng-Ngãi Tỉnh Chí._ Nam-Phong, số 181.
* Tam-Quốc-Chí Lục-Truyện.
* Non-Nước Phú-Yên._ Nguyễn-Đình-Tư.
* L'Asie Des Moussons._ Jules Sion.
* L'Aurousseau ._ Viễn-Đông Học-Viện.
E.F.E.O.
* L'Empire D'Annam._ Gosselin.
* Histoire du Royaume de Cambodge._ dẫn ở
Văn-Hóa, số 43. _ Henri Russier.
* Une Princesse Chrétienne à la Cour Des
Premiers NGUYỄN._ Bul. Des Amies Du
Vieux Huế._do Phạm-Đình-Khiêm Trích-
dẫn.Văn-Hóa Nguyệt-San, 1959 Saigon.
Relation Cardim-Cadière.
§§§§§§§§§§§§§§§§§§§§§§§