Trong cảnh Hạ Nguơn dầu sổi lửa bỏng, giặc giã …...Trong cảnh Hạ Nguơn dầu...

3
Trong cnh HNguơn dầu si la bng, gic giã khói la mt mù, BTát giáng trn không có thì ginhàn ri ngi uống trà run đùi ngâm thơ vịnh nguyt. Mi hành động, mi li nói của Đức Thy Hunh Giáo Chđều khế hp với thiên cơ đạo lý. Ngày 14-6- Canh Thìn (1940) tại làng Nhơn Nghĩa, Đức Thầy có làm thơ vnh Hng Nga dng ý gi một thông điệp quan trọng cho đệ thu lai biết rng Thy strvthi cui HNguơn như sau: Thơ xướng. Khen ai cc cbm tri tây, Tnh gic HNG NGA khéo vmày; Mt phiến linh đinh trôi mặt bin, Na vng lửng đửng dán trên mây. Cá ngcâu thtơi bời li, Chim tưởng cung trương sập sn bay; Nên mt nên hai còn bé tui, Mười lăm mười by bốn phương hay. Thơ họa. Mây hồng năm sắc phương Tây, Sáng sut Ô KIM bi vn mày;* Ô Kim nói lái là Kim Ô là mặt Trời Ming nhtiếng to vang bn bin, Lưỡi mm li ln dy rng mây. Lòng trong Thánh Ktình bơi lội, Dsch Pht Kinh ý luyn bay; Du cho thân Mthanh xuân tui, Thc giấc đời mê phải được hay. Nhthuban đầu si y! MChâu ơi hỡi MChâu, Mê chi thng Cht để su cho cha! (Sm Giảng Đức Hunh Giáo Chthuyết trên đường khuyến nông tmin Tây vSài Gòn tháng 6 năm Ất Du 1945) Nhthuban đầu si y!

Transcript of Trong cảnh Hạ Nguơn dầu sổi lửa bỏng, giặc giã …...Trong cảnh Hạ Nguơn dầu...

Page 1: Trong cảnh Hạ Nguơn dầu sổi lửa bỏng, giặc giã …...Trong cảnh Hạ Nguơn dầu sổi lửa bỏng, giặc giã khói lửa mịt mù, Bồ Tát giáng trần không

Trong cảnh Hạ Nguơn dầu sổi lửa bỏng, giặc giã khói lửa mịt mù, Bồ Tát giáng

trần không có thì giờ nhàn rỗi ngồi uống trà run đùi ngâm thơ vịnh nguyệt. Mỗi hành

động, mỗi lời nói của Đức Thầy Huỳnh Giáo Chủ đều khế hợp với thiên cơ đạo lý. Ngày

14-6- Canh Thìn (1940) tại làng Nhơn Nghĩa, Đức Thầy có làm thơ vịnh Hằng Nga

dụng ý gởi một thông điệp quan trọng cho đệ tử hậu lai biết rằng Thầy sẽ trở về thời cuối

Hạ Nguơn như sau:

Thơ xướng.

Khen ai cắc cớ bấm trời tây,

Tỉnh giấc HẰNG NGA khéo vẽ mày;

Một phiến linh đinh trôi mặt biển,

Nửa vừng lửng đửng dán trên mây.

Cá ngờ câu thả tơi bời lội,

Chim tưởng cung trương sập sận bay;

Nên một nên hai còn bé tuổi,

Mười lăm mười bảy bốn phương hay.

Thơ họa.

Mây hồng năm sắc ở phương Tây,

Sáng suốt Ô KIM bởi vẹn mày;* Ô Kim nói lái là Kim Ô là mặt Trời

Miệng nhỏ tiếng to vang bốn biển,

Lưỡi mềm lời lớn dậy rồng mây.

Lòng trong Thánh Kệ tình bơi lội,

Dạ sạch Phật Kinh ý luyện bay;

Dầu cho thân Mỗ thanh xuân tuổi,

Thức giấc đời mê phải được hay.

Nhớ thuở ban đầu si mê ấy!

Mị Châu ơi hỡi Mị Châu,

Mê chi thằng Chệt để sầu cho cha! (Sấm Giảng Đức Huỳnh Giáo Chủ thuyết trên đường khuyến nông từ miền Tây về Sài Gòn tháng 6 năm Ất Dậu 1945)

Nhớ thuở ban đầu si mê ấy!

Page 2: Trong cảnh Hạ Nguơn dầu sổi lửa bỏng, giặc giã …...Trong cảnh Hạ Nguơn dầu sổi lửa bỏng, giặc giã khói lửa mịt mù, Bồ Tát giáng trần không

Nhân lúc ngồi trên chuyến xe khuyến nông cùng với Đức Thầy vào tháng 6 năm Ất

Dậu 1945, ông thi sĩ Việt Châu {Nguyễn Xuân Thiếp} có trao tặng cho Thầy quyển thơ

Lông Ngỗng Gieo Tình do ông viết nổi tiếng thời bấy giờ, nội dung kể lại câu chuyện

tình duyên Trọng Thủy Mị Châu, Đức Thầy ứng khẩu hai câu thơ trên đây coi như là

trực tiếp phê bình tập thơ. Nhưng theo lý thiên cơ, Ngài mượn việc phê bình tập thơ của

ông thi sĩ Việt Châu, để gởi đi một Thông Điệp rất quan trọng cho các chính khách thế

hệ tương lai của cả Thế Giới { đặc biệt là nước Huê Kỳ} đừng vội tin lời đường mật của

Trung Quốc mà gây cảnh nhơn loại bị diệt vong.

Trong Hai Ngàn xử biến Thất Sơn,*

Biến thiên biến địa biến nhơn thay đời

Biến hết thảo mộc lại biến lời,

Rã rời thân thể cho đời khinh khi! (Kim Cổ Kỳ Quan 9: 18, ông Ba Thới viết năm 1915)

Mưa dầu nắng lửa mười năm chẵn,

Nước nẩy tôi hiền trổ Chúa nhân. (Tận Thế và Hội Long Hoa tr. 171, Vương Kim biên khảo năm 1952, cô Trúc Lâm Nương tiên tri)

Trong mười năm dựng nghiệp Minh đình,

Biển hồ lai láng mặc tình cá đua. (Kim Cổ Kỳ Quan, 9: 18, ông Ba Nguyễn văn Thới viết năm

1915 )

TRONG trần khởi động cuộc phong ba,

HAI lẽ trầm thăng nghịch với hòa.

NGÀN việc cao sang như ảo mộng,

NĂM điều giới luật tợ châu sa.

TẬN kim bởi quả kim điêu xảo,

THẾ cổ vì nhân cổ thật thà.

ĐẾN lúc châu nhi huờn phục thỉ,

NƠI nơi hãy tỉnh giấc Nam Kha. (Tiên tri của Bồ Tát Thanh Sĩ, Tận Thế và Hội Long Hoa

tr. 162, Vương Kim biên khảo & ấn hành năm 1952)

Câu sấm khoán thủ: Trong Hai Ngàn Năm Tận

Thế Đến Nơi”. Đấy là nói cái nhân sâu xa của

cuộc Tận Thế đã có từ năm 1972. {Nixon gặp

Mao}

Bồ

Tát

Sợ

Nhân Chúng

Sanh

Sợ

Quả

Con sông nước chảy vòng cầu,

Ngày sau có việc thảm sầu thiết tha.

Chừng ấy nổi dậy phong ba,

Có Con Nghiệt Thú nuốt mà người hung

Đến chừng thú ấy phục tùng,

Bá gia mới biết Người Khùng là ai. (Khuyên Người Đời Tu Niệm, Đức Huỳnh Giáo Chủ

viết tại Hòa Hảo năm 1939)

NGÀY tháng trôi qua tợ bóng câu,

GIỜ Ơn Trên định chẳng còn lâu.

TẬN đời vạn cảnh lâm trần mộng,

THẾ diệt thiên bang cuộc bể dâu.

CHẬP chững nhân gian nhiều ách nước,

CHỜN vờn thế giới lắm oan sầu.

BÊN kia bên nọ tranh vô địch,

LƯNG lửng rồi thôi chẳng đến đâu!

(Tiên tri của Bồ Tát Thanh Sĩ, Tận Thế và Hội Long Hoa tr. 229, Vương Kim biên khảo, nhà xuất bản Long Hoa ấn hành năm 1952)

THẤT tình lục dục thân cũng đổi,

Đặng hiểu tường giềng mối Thánh hiền.

Ai Thần ai Thánh ai Tiên,

Đổi rồi mới biết Thánh hiền là ai.

SƠN báu có cung đài Thần trí,

Lòng kiên cường đại hỉ vô cùng.

Tại mê vật chất ung dung,

Bỏ quên bị mất ngày cùng đừng than! (Thượng Đế Thưởng Phạt tr. 44, do Đức Cậu Bần Sĩ Vô

Danh thuyết theo thể thơ khoán thủ song thất lục bát,

Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney ấn tống năm 2001)

* Thiên cơ bất khả lộ, Tiền Bối nói bên

ngoài là ám chỉ bên trong. Nói

Thất Sơn để ám chỉ Thất Tình trong

lòng nhơn loại nổi loạn từ năm 1972.

Page 3: Trong cảnh Hạ Nguơn dầu sổi lửa bỏng, giặc giã …...Trong cảnh Hạ Nguơn dầu sổi lửa bỏng, giặc giã khói lửa mịt mù, Bồ Tát giáng trần không

Sydney, 8-12-2018, Kỳ Vân Cư Sĩ biên khảo (facebook Mõ Tre) * https://kinhsamthatson.wordpress.com/

Mẹ đấy con! chén kia khi bể,

Dù khéo tay không thể gắn liền.

Họa đến rồi niệm Phật sao yên,

Lùi hơn sự tiến lên là khổ!*

Mẹ đấy con! vắng người trên lộ,

Trong nhà không kẻ ở đìu hiu.

Sợ người như Gà nọ sợ diều,

Cảnh ấy sẽ còn nhiều chưa hết.

Mẹ đấy con! nếu là phải chết,

Nên chết cho rạng tiết con người! (Rằm Tháng Mười, c. 1989-1998, Bồ Tát Thanh Sĩ viết

ngày 15-12-1958 ở Tokyo) *

Nay xem cảnh thế thình lình,

Vô thường quỷ dẫn ai binh đặng nào.

Sớm còn tối mất lao đao,

Tỉ như trời chớp sáng nào đặng lâu.

Dặm Canh thâu, dặm Canh thâu,

Thở than than thở lo âu cho đời.

Nghĩ trong cuộc thế vơi vơi,

Khổ tăng gia khổ trong đời gian nan.

Kìa kìa quỷ mị khởi loàn,

Xà thương Hổ giảo đa đoan hội này,

Phần thời giặc giã phủ vây,*

Phần thời đói khát thân rày chẳng yên.

Lăng xăng nhiều cuộc đảo điên,

Sợ trong thế sự như thuyền chạy khơi.

Đã hết lời, đã hết lời,

Khuyên răn dạy biểu cho người thiện duyên

Trách lòng nhiều sự chẳng kiêng,

Ốm đau cầu giảm, an thuyên chẳng màng.

Biến sanh những sự tà gian,

Hủy tăng phá giới lòng toan hại người.

Thế nay cạn, sự đã rồi!

Mở mang dời đổi Lập Đời Thượng Nguơn.

Chuyển luân thiên địa tuần huờn,

Hội Này thấy lửa tàm lam cháy mày.

Ít ai tỏ biết đặng hay,

Ví như cầm chén rủi tay bể rồi!

Thầy xưa lời dặn hẳn hòi,

Thực nhơn nhơn thực đến hồi chẳng không.

Oan oan tương báo chập chồng,

Tham tài tích đại mình không xét mình.

Khiến xui phụ tử tương tranh,

Cha không lành thảo con lành đặng đâu.

Trung quân, phụ tử làm đầu,

Phản quân, sát phụ, hỡi câu sách nào?

Trời xui trăm vật trăm hao,

Để cho đồ khổ, xiết bao nhọc nhằn.

Ngọn phù thủy, cuộc đất xây,*

Rồng nằm đáy biển sông hằng hứng sương.

Bao giờ hưởng thọ Kỳ Hương,

Tuế tăng vạn tuế lưu phương lâu dài.

(Sấm Truyền Đức Phật Thầy Tây An, tr. 106-108, lưu ở đình Tòng Sơn năm Kỷ dậu 1849, Nguyễn văn Hầu biên khảo ấn tống năm 1973)

…Không lo âu yếm tu tịnh cho rồi,

Nứt nắp bể nồi chè xôi trôi hết.

Từ đây tới tết kẻ lết người bò,

Đói khổ xuôi cò chuyện trò ai nữa.

Giờ mau tắm rửa đóng cửa từ bi,

Cậu nói vân vi dị kỳ quá sá.

Miền Nam quý giá cao cả biết bao,

Bá tánh đồng bào rủ nhau cho lẹ.

Đừng nên ganh hẹ sau sẽ nguy nàn,

Ức triệu bạc vàng cũng trôi ra biển.

Về nhà cầu nguyện Phật hiện cứu đời

Sau đẹp tuyệt vời xa xa trông thấy.

Ai xài bạc giấy sau mất sạch trơn,

Bảy núi Thất Sơn nghe đờn lừng lẫy.

Trò đâu có thấy mây bạc chín từng,

Đừng có vui mừng nửa lừng lửa cháy

Kêu trong đạo phái ráng hãy tường tri

Ráng sống mau đi đặng mình coi hát.

Bình Dương ngào ngạt gánh hát đủ màu

Đen trắng cùng nhau đủ đào đủ kép.*

Ráng về mà khép coi hát nghe hôn,

Ráng hãy bôn chôn dựng cồn dựng bãi

Coi đi trai gái Gánh Hát Bình Dương,

Cậu đã phô trương đủ tài đủ phép.

Giờ này hãy khép mắt lại im tai,

Là con số 2.

(băng Lộ Huyền Cơ 7, Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh ứng khẩu thuyết thập niên 80, kết tập sách Hòa Đồng Tôn Giáo tr. 117-118, Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney ấn tống năm Tân Tị 2001)