Toan Cau Hoa Va Moi Truong Kinh Te Chau Au
description
Transcript of Toan Cau Hoa Va Moi Truong Kinh Te Chau Au
ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA THƯƠNG MẠI-DU LỊCH-MARKETING
QUẢN TRỊ KINH DOANH QUỐC TẾ
ĐỀ TÀI:
TOÀN CẦU HÓA
& MÔI TRƯỜNG KINH TẾ CHÂU ÂU
Đức – Hà Lan
GVHD : Quách Thị Bửu Châu
SVTT : Nhóm 07
Khóa : 35
Lớp : Kinh Doanh Quốc tế 03
TP Hồ Chí Minh, Tháng 11/2011
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên chúng em xin chân thành cảm ơn cô Quách Thị Bửu Châu,
người đã hướng dẫn tận tình để chúng em hoàn thành bài tiểu luận này. Những
bài giảng và tài liệu của cô chính là cơ sở để chúng em có thể hoàn thành tốt báo
cáo của mình.
Chúng em cũng xin gửi lời cảm ơn đến tất cả các bạn trong nhóm tiểu luận.
Chính nhờ sự đoàn kết và hợp tác nhiệt tình của các bạn mà bài tiểu luận này
được hoàn thành.
Hi vọng thông qua những nổ lực tìm hiểu của tất cả các thành viên, nhóm
sẽ giúp cho các bạn hiểu rõ hơn nền kinh tế của Đức & Hà Lan, thông qua đó có
thể hiểu được toàn cầu hóa đã tác động đến hai quốc gia này như thế nào, và
phản ứng của họ ra sao. Tuy nhiên, với những giới hạn về kiến thức và thời gian,
trong quá trình tìm hiểu, nhóm chúng em trong tránh khỏi những thiếu sót, mong
thầy và các bạn tận tình góp ý để nhóm chúng em hoàn thiện hơn nữa những kiến
thức của mình.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
Trang 02
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế đang lôi cuốn ở hầu hết các quốc gia
trên thế giới nhập cuộc trên cả hai cấp độ khu vực hóa và toàn cầu hóa. Sự phát triển
mạnh mẽ của các trào lưu này, nhất là từ những năm đầu thập niên 90 thế kỷ XX, đã đòi
hỏi các công ty phải có những chuyển biến rõ rệt trong tất cả các lĩnh vực sản xuất, tài
chính, quản trị nguồn nhân lực và R&D.
Trong bối cảnh chung đó, các doanh nghiệp Việt Nam cũng đang phải đối mặt với
những thách thức thời hội nhập. Hiện đất nước của chúng ta chưa có công ty đa quốc gia
nào và những dự án mang tầm cỡ quốc tế đầu tư sang nước ngoài, tuy nhiên, theo đánh
giá của các chuyên gia quốc tế, Việt Nam là quốc gia có nhiều tiềm năng và triển vọng.
Vì vậy, trong bài tiểu luận này, chúng tôi xin bạo dạn đưa ra một số ý kiến trong việc
thâm nhập vào thị trường Châu Âu- châu lục đã có nền công nghiệp hóa từ rất sớm, mà
hai quốc gia mà chúng tôi nghiên cứu là Đức- quốc gia phát triển bậc nhất Châu Âu hiện
nay, và đất nước của những cối xay gió, hoa Tulip, đôi giày gỗ- Hà Lan.
Phạm vi nghiên cứu nền kinh tế là trong vòng 20 năm trở lại đây, mà chủ yếu là từ
năm 2000 cho đến nay. Và tại sao chúng tôi lại chọn Đức và Hà Lan mà không phải là 2
quốc gia khác? Đức là quốc gia đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm trong nền kinh
tế, sau thế chiến thứ 2 kinh tế vô cùng khó khăn do lạm phát cao ngất ngưỡng, tuy nhiên
hiện nay là cường quốc thứ tư thế giới, là quê hương của những dòng xe sang bậc nhất.
Còn Hà Lan, có 1 điểm chung với Việt Nam là có lợi thế về nông nghiệp, nhưng ở đất
nước này, nông nghiệp lại tiên tiến hơn rất nhiều, chuyên môn hóa cao. Hơn nữa Đức và
Hà Lan là 1 trong những quốc gia Châu Âu có quan hệ tốt đẹp với Việt Nam, đã hỗ trợ
và có nhiều dự án đầu tư, góp phần thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển. Đầu tư vào
hai quốc gia này sẽ là cơ hội để Việt Nam nâng cao mối quan hệ hợp tác, học hỏi kinh
nghiệm, công nghệ và khoa học kĩ thuật. Hi vọng bài viết này sẽ đem lại nhiều thông tin
bổ ích cho các bạn về nền kinh tế Đức và Hà Lan.
Trang 03
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
MỤC LỤC
Trang
I. Toàn cầu hóa tác động đến nền kinh tế Châu Âu:....................................6
1. Sơ lược về lịch sử toàn cầu hóa ở châu Âu...................................................6
& tác động của nó lên các nước ở châu Âu
2. Các lĩnh vực toàn cầu hóa ở châu Âu............................................................8
.........................................................................................................................
II. Tác động của toàn cầu hóa đến nền kinh của Đức & Hà Lan:..............11
1. Cơ hội..........................................................................................................11
2. Thách thức...................................................................................................11
III. Phân tích các yếu tố môi trường kinh tế của hai quốc gia Đức & Hà Lan:
A. Quốc gia Đức: ...........................................................................................12
1. Các giai đoạn phát triển của thị trường......................................................12
2. Phân phối thu nhập......................................................................................20
3. Phân bổ dân số (population distribution)....................................................25
4. Liên kết kinh tế (Economic Alliances).........................................................29
5. Những yếu tố kinh tế xã hội khác.................................................................31
B. Quốc gia Hà Lan:
1. Các giai đoạn phát triển của thị trường......................................................36
2. Phân phối thu nhập......................................................................................46
3. Phân bổ dân số ...........................................................................................47
4. Liên kết kinh tế ...........................................................................................49
5. Những yếu tố kinh tế xã hội khác.................................................................51
IV. Phản ứng của ĐỨC & HÀ LAN trước những tác động do toàn cầu hóa đem
lại:
1. Phản ứng của Đức đối với toàn cầu hóa....................................................53
2. Phản ứng của Hà Lan đối với toàn cầu hóa................................................55
V. Sự khác biệt giữa 2 quốc gia Đức và Hà Lan:........................................57
Trang 04
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
VI. Các nhà đầu tư việt nam nên lựa chọn như thế nào khi thực hiện hoạt động
kinh doanh quốc tế ở Đức:
1. Tình hình một số mặt hàng xuất khẩu từ Việt Nam sang Đức.....................64
2. Cơ hội và thách thức chung đối với Việt Nam khi thực hiện kinh doanh quốc tế ở
Đức...............................................................................................................70
3. Một số lưu ý đối với các doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh xuất, nhập khẩu đối
với thị trường Đức.......................................................................................71
4. Đề xuất ....................................................................................................74
LỜI KẾT.....................................................................................................74
Trang 05
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
I. Toàn cầu hóa tác động đến nền kinh tế châu Âu:
1. Sơ lược về lịch sử toàn cầu hóa ở châu Âu & tác động của nó lên
các nước ở châu Âu:
Toàn cầu hóa là xu hướng hội nhập và phụ thuộc lẫn nhau nhiều hơn của hệ thống
kinh tế toàn cầu, là sự hội nhập quốc tế của hàng hóa, kỹ thuật, lao động và vốn, được tạo
ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa các quốc gia, các tổ chức hay các cá
nhân ở góc độ văn hóa, kinh tế… trên quy mô toàn cầu. Về bản chất, nó là sự mở rộng thị
trường ra ngoài biên giới quốc gia.
Toàn cầu hóa ở châu Âu đã xuất hiện từ rất lâu, từ sự xuất hiện những thành thị
Hy Lạp cổ đại, con đường tơ lụa,… và cho tới khi Columbus khám phá ra châu Mỹ, làn
sóng toàn cầu hóa thứ nhất (1492 – 1760) đã bùng nổ. Đó là các cuộc chinh phạt thuộc
địa, nô lệ hóa của chủ nghĩa thực dân phương Tây như Anh, Pháp… Điều này để lại hệ
quả là có sự giao lưu về mặt tư tưởng giữa châu Âu và Trung Hoa, sự di dân ồ ạt của nô
lệ từ châu Phi sang châu Âu cũng như đem lại nguồn lợi về kinh tế.
Làn sóng toàn cầu hóa thứ hai (1760 - 1914) được đánh dấu bằng cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ nhất khởi thủy từ nước Anh vào nửa cuối thế kỷ 18 và kéo dài cho
đến thế chiến thứ nhất. Sự xuất hiện của máy hơi nước, và sau đó là đường sắt, điện tín...
và cùng với nó là làn sóng toàn cầu hóa thứ hai đã đưa thế giới chuyển sang một quỹ đạo
mới. Chứng kiến sự phát triển vượt bậc của nước Anh trong vòng vài chục năm kể từ khi
bắt đầu công nghiệp hóa, các nước châu Âu khác (và sau đó cả Nhật và Mỹ) ý thức được
rằng cuộc đua về sức mạnh kinh tế và quyền thống trị thế giới đến bây giờ mới thực sự
bắt đầu. Trên thực tế, nếu như vào đầu thế kỷ 18, dưới tác động của làn sóng toàn cầu
hóa thứ nhất, thu nhập bình quân của các nước tây Âu chỉ cao hơn các nước đông Âu
chừng 20% thì đến năm 1890, khoảng cách này đã lên tới 80%. Cũng như nước Anh, các
nước phương Tây khác lao như thiêu thân vào cuộc chiến giành thuộc địa vì thuộc địa
rộng lớn hơn đồng nghĩa với việc có nguồn nhân công và nguyên liệu rẻ mạt dồi dào hơn
để phục vụ công nghiệp hóa, là thị trường tiêu thụ rộng lớn hơn, là sức mạnh kinh tế và
Trang 06
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
quân sự hùng mạnh hơn, là khả năng chinh phục và chiếm thêm được thuộc địa mới cũng
như giành lại thuộc địa cũ từ tay kẻ khác. Kết quả là nếu như vào năm 1800, châu Âu mới
kiểm soát 35% lãnh thổ trên thếgiới, thì con số này tăng lên 67% vào năm 1878 và 85%
vào năm 1914 – năm bắt đầu của thế chiến thứ nhất. Thế giới dường như đã rơi vào ngõ
cụt khi một nước, để tránh thân phận thuộc địa, buộc phải thuộc địa hóa kẻ khác - và đây
cũng là chiến lược thống trị của các quốc gia phương Tây, của Nhật và Mỹ trong làn sóng
toàn cầu hóa thứ hai.
Từ 1914 cho đến 1945, toàn cầu hóa hoàn toàn dừng lại với chiến tranh thế giới
thứ I, nhưng lại nổi lên sau khi chiến tranh thế giới thứ II. Hội nghị Bretton Woods ra đời
sau đó, một thỏa thuận chính trị gia hàng đầu thế giới để đặt khuôn khổ cho thương mại
quốc tế và tài chính, và thành lập một số tổ chức quốc tế nhằm mục đích để giám sát các
quá trình toàn cầu hóa như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Liên
hiệp quốc (UN). Toàn cầu hóa cũng được thúc đẩy bởi việc mở rộng toàn cầu của các tập
đoàn đa quốc gia có trụ sở tại Hoa Kỳ và Châu Âu, và trao đổi trên toàn thế giới phát
triển mới trong công nghệ, khoa học và các sản phẩm với phát minh quan trọng, cũng
như nền văn hóa phương Tây thông qua các phương tiện thông tin đại chúng mới: phim
ảnh, phát thanh, truyền hình và âm nhạc ghi lại. Phát triển và tăng trưởng của vận tải
quốc tế và viễn thông đóng một vai trò quyết định trong toàn cầu hóa hiện đại.
Toàn cầu hóa châu Âu thuận lợi hơn nhờ những tiến bộ trong công nghệ, làm giảm
chi phí thương mại, và các vòng đàm phán thương mại, ban đầu dưới sự bảo trợ của Hiệp
định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT), đã dẫn đến một loạt các thỏa thuận để
loại bỏ các hạn chế về thương mại tự do. Kể từ khi chiến tranh thế giới thứ II, các rào cản
đối với thương mại quốc tế đã được giảm đáng kể thông qua các thỏa thuận quốc tế -
GATT và người kế nhiệm của mình, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Xuất khẩu
thế giới tăng từ 8.5% vào năm 1970, lên tới 16.2% tổng sản phẩm toàn thế giới vào năm
2001.
Làn sóng toàn cầu hóa thứ ba chỉ thực sự nổi lên vào những năm 1980. Giai đoạn
này được đánh dấu bởi sự gia tăng của côngtenơ hóa, sự phát triển vận tải hàng không,
cước phí thông tin liên lạc giảm đi một cách nhanh chóng, sự phát triển ứng dụng rộng
Trang 07
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
rãi của công nghệ sinh học và điện tử, và sự xuất hiện và phát triển như vũ bão của
internet. Chính nhờ sự hòa mình vào toàn cầu hóa, hiện nay châu Âu đã trở thành trung
tâm kinh tế quan trọng của thế giới.
2. Các lĩnh vực toàn cầu hóa ở châu Âu:
a. Toàn cầu hóa thị trường: Là sự hợp nhất các quốc gia riêng biệt, tạo
thành một thị trường chung.
Liên minh châu Âu (EU)
Năm 1957, các hiệp ước Roma về việc xây dựng một cộng đồng kinh tế châu Âu
là sự khởi đầu một trang sử thành công của quá trình hòa nhập châu Âu.
Liên minh châu Âu hay Liên hiệp châu Âu (European Union), viết tắt là EU, là
một liên minh kinh tế chính trị bao gồm 27 quốc gia thành viên. Liên minh châu Âu được
thành lập bởi Hiệp ước Maastricht vào ngày 1 tháng 11 năm 1993 dựa trên Cộng đồng
châu Âu (EC). Với hơn 500 triệu dân, Liên minh châu Âu chiếm 30% (18.4 tỉ đô la Mỹ
năm 2008) GDP danh nghĩa và khoảng 22% (15.2 tỉ đô la Mỹ năm 2008) GDP sức mua
tương đương của thế giới.
Liên minh châu Âu (EU) là một thể chế đa phương, hội đủ sự cấu thành của một
nhà nước theo kiểu liên bang rộng lớn, là một trong các trung tâm chính trị, kinh tế,
thương mại tài chính lớn mạnh, và đang vươn lên phấn đấu trở thành khu vực phát triển
nhất hành tinh trong thế kỷ XXI.
Ngay từ lúc mới thành lập, Liên minh châu Âu đã đặt ra mục tiêu trọng tâm là
thiết lập một thị trường kinh tế duy nhất ở châu Âu bao gồm lãnh thổ của tất cả các quốc
gia thành viên. Hiện tại, hệ thống tiền tệ chung đang được sử dụng ở 16 nước thuộc Liên
minh châu Âu, thường biết đến với tên gọi khu vực đồng euro. Vào năm 2009, sản lượng
kinh tế của Liên minh châu Âu chiếm khoảng 21% tổng sản lượng kinh tế toàn cầu, ước
tính vào khoảng 14,8 nghìn tỉ USD, trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới. Liên minh
châu Âu cũng đạt được sản lượng xuất khẩu và nhập khẩu lớn nhất thế giới, về hàng hóa
và dịch vụ, đồng thời cũng là đối tác thương mại lớn nhất đối với các thị trường lớn trên
thế giới như Ấn Độ và Trung Quốc.
Hiệp hội mậu dịch tự do châu Âu (EFTA)
Trang 08
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
Hiệp hội mậu dịch tự do châu Âu (European Free Trade Association- EFTA) được
thành lập năm 1960 với 7 nước như một khối mậu dịch khác cho các nước châu Âu, do
không đủ khả năng hoặc chọn không gia nhập Liên minh châu Âu (EU). Hiện nay chỉ còn
4 nước thành viên: Iceland, Na Uy, Thụy Sĩ và Liechtenstein. Hiệp ước này cho phép tự
do hóa việc buôn bán trong các nước hội viên.
Khu vực kinh tế châu Âu (EEA)
EEA (European Economic Area) được thành lập ngày 1/1/1994 là một thỏa ước
giữa các nước hội viên của Hiệp hội mậu dịch tự do châu Âu (EFTA) ( trừ Thụy Sĩ),
Cộng đồng châu Âu (EC), và mọi nước thành viên của Liên minh châu Âu (EU). Nó cho
phép các nước hội viên của EFTA tham gia vào thị trường chung châu Âu mà không gia
nhập Liên minh châu Âu.
Tổ chức thương mại thế giới (WTO)
WTO (World Trade Organization) chính thức bắt đầu từ 1/1/1995 theo Hiệp định
Marrakech, thay thế Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT), có trụ sở ở
Genève, Thụy Sĩ, có chức năng giám sát các hiệp định thương mại giữa các nước thành
viên với nhau theo các quy tắc thương mại. Hoạt động của WTO nhằm mục đích loại bỏ
hay giảm thiểu các rào cản thương mại để tiến tới tự do thương mại. Đến 2008, WTO có
153 thành viên. Mọi thành viên của WTO được yêu cầu phải cấp cho những thành viên
khác những ưu đãi nhất định trong thương mại. Hiện nay tất cả các nước thành viên của
EU đều là thành viên của WTO.
b. Toàn cầu hóa sản xuất:
Để đạt lợi thế cạnh tranh trên trường quốc tế, châu Âu đã toàn cầu hóa sản xuất
bằng bố trí mạng lưới sản xuất ở khắp các vùng, quốc gia khác nhau trên toàn cầu. Đó là
các công ty đa quốc gia, đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình toàn cầu hóa. Ví dụ:
Cisco, Unilever (Anh), BMW AG (Đức), Metro AG (Đức), L'Oréal (Pháp)…
Unilever là tập đoàn của Anh và Hà Lan chuyên sản xuất các mặt hàng tiêu
dùng như mỹ phẩm, hóa chất giặt tẩy, kem đánh răng, dầu gội, thực phẩm.
Công ty này sở hữu nhiều công ty sản xuất hàng tiêu dùng, thực phẩm, sản
phẩm giặt tẩy, mỹ phẩm của thế giới. Nó có các công ty và nhà máy hoạt động
trên mọi châu lục (ngoại trừ Nam Cực) và phòng thí nghiệm nghiên cứu ở 5
Trang 09
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
nước trên thế giới. Unilever sử dụng khoảng 180.000 nhân công và có doanh
số gần 40 tỷ Euro hay hơn 62 tỷ Euro năm 2005.
Metro AG là tập đoàn bán buôn, bán lẻ quốc tế có trụ sở tại Đức. Được thành
lập năm 1964 bởi Otto Beisheim – tỷ phú, doanh nhân Đức, Metro AG là tập
đoàn giữ thị phần lớn nhất ở Đức và là một trong những hãng bán lẻ hoạt
động toàn cầu. Theo thông tin trên trang Metro Việt Nam, Metro đứng thứ ba
ở Âu Châu và thứ tư trên thế giới. Tính tới đầu năm 2007, Metro có cửa hàng
ở 26 nước châu Âu (phần lớn các nước Tây Âu và Bắc Âu), 8 nước châu Á
(Trung Quốc, Pakistan, Ấn Độ, Nhật Bản, Thổ Nhĩ Kỳ, Kazakhstan, Thái Lan
và Việt Nam) và châu Phi (Maroc, Ai Cập).
Heineken quốc tế là công ty Rượu - Bia - Nước giải khát của Hà Lan, được
thành lập vào năm 1864 bởi Gerard Adriaan Heineken ở Amsterda. Đến năm
2007, Heineken sở hữu hơn 125 nhà máy bia tại hơn 70 quốc gia và sử dụng
khoảng 54.000 người. Heineken được xếp vào hàng các nhà sản xuất bia lớn
thứ ba thế giới.
BMW là công ty ô tô, xe gắn máy và công ty sản xuất động cơ của Đức được
thành lập vào năm 1916. Nó sở hữu và sản xuất nhãn hiệu Mini, và là công ty
mẹ của xe ô tô Rolls-Royce. BMW sản xuất xe máy dưới thương hiệu BMW
Motorrad và Husqvarna. Trong năm 2010, BMW đã sản xuất 1.481.253 xe ô tô
và 112.271 xe gắn máy trên tất cả các thương hiệu của nó. Các công ty con ở
nước ngoài: Nam Phi, Hoa Kỳ, Ấn Độ, Trung Quốc, Canada và Ai Cập.
Tuy nhiên, quá trình toàn cầu hóa vẫn gặp trở ngại như: rào cản thương mại, chi
phí vận chuyển, rủi ro kinh tế, chính trị…
Trang 010
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
II. Tác động của toàn cầu hóa đến nền kinh tế của Đức & Hà Lan:
1. Cơ hội:
- Toàn cầu hóa là một sự phát triển tích cực cho nền kinh tế thế giới, bao gồm các
nước công nghiệp như Đức, xu hướng mở cửa và hội nhập ngày càng tăng giữa
các quốc gia đã mang lại sự thịnh vượng chưa từng có cho Đức và Hà Lan.
- Thị trường vốn đang được mở cửa đầu tư qua nước ngoài. Dòng vốn tư nhân này
đã không chỉ giúp tài chính gia tăng sản xuất trong nước tiếp nhận, nó cũng giúp
duy trì nhu cầu đối với hàng hoá xuất khẩu quốc gia công nghiệp.
- Người tiêu dùng cũng được hưởng lợi từ toàn cầu hóa thông qua sự đa dạng hóa
sản phẩm với chi phí thấp, chuyên môn thương mại và tự do hóa thương mại.
- Toàn cầu hóa giúp các nhà đầu tư quốc tế có nhiều cơ hội, lợi nhuận cao hơn tiền
gửi tiết kiệm và đa dạng hóa danh mục đầu tư.
- Toàn cầu hóa thúc đẩy phân bổ hiệu quả nguồn tài nguyên trên toàn thế giới, do
đó, tăng trưởng thế giới cao hơn.
- Việc tự do hóa thị trường thương mại và vốn đã cho phép chuyển đổi sản xuất đến
các địa điểm có chi phí tương đối thấp dễ dàng hơn.
- Tăng việc làm phù hợp với tăng sư linh hoạt trong thị trường lao động và nhân
viên. Thúc đẩy tự do hóa của các thị trường vốn có đáng kể tạo điều kiện thuận lợi
tài chính hoạt động qua biên giới. Kinh doanh và tổng số cổ phiếu của trái phiếu
niêm yết tăng gần gấp bốn lần từ năm 1990 và 2005.
- Đối với Đức, do nằm ngay trung tâm châu Âu nên có 1 lợi thế rất lớn: có thể dễ
dàng trao đổi thương mại với tất cả các nước ở châu Âu và Mỹ. Ngoài ra, Đức còn
có cơ sở hạ tầng tuyệt vời cùng lao động có trình độ cao là điều kiện thuận lợi để
toàn cầu hóa.
2. Thách thức:
Là gia tăng sự cạnh tranh toàn cầu giữa các công ty, yêu cầu các công ty Đức và
Hà Lan phải đầu tư, tìm ra thế mạnh cạnh tranh nếu không sẽ bị tụt lùi và đào thải.
Trang 011
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
- Sự bất ổn tài chính các nền kinh tế toàn cầu đã làm Đức và Hà Lan hứng chịu
nhiều cuộc khủng hoảng tài chính tốn kém trong thập kỷ qua (ví dụ cuộc khủng
hoảng tài chính năm 2008, cuộc khủng hoảng ở các thị trường mới nổi gây ra bởi
sự kiện ở Mexico, sự sụp đổ của một số tổ chức tài chính lớn hay khủng hoảng ở
Hy Lạp…).
- Việc mở rộng đã tạo ra những thành viên mới đã tiến hành cải cách sâu rộng tự
do, mang lại nhiều cạnh tranh hơn cho đầu tư và việc làm.
- Toàn cầu hóa có xu hướng làm tăng tính đồng nhất văn hóa, vì vậy thách thức
được đặt ra là bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống độc đáo và lâu đời của Đức và
Hà Lan, nhất là nền văn hóa tuyệt vời ở Bavaria của Đức.
- Đối diện với sản phẩm kém chất lượng nhập từ các nước ( Đồ chơi độc hại và sữa melamine, các quỹ nhà nước không minh bạch và vi phạm nhân quyền là trong con mắt của nhiều người như là một trở ngại chính trong quan hệ với Trung Quốc.)
- Về lao động: Một dân số già làm tăng chi phí an sinh xã hội.
Cần phải di chuyển hướng tới một cách tiếp cận dựa trên vốn
+ Cấu trúc cứng nhắc, đặc biệt là trong thị trường lao động và hấp thụ một số
lượng ngày càng tăng của người nhập cư nền kinh tế Đức và Hà Lan gặp không
ít khó khăn trong việc điều chỉnh các thay đổi ngành trong sản xuất và việc làm
liên quan đến toàn cầu hóa.
+ Nhân viên có tay nghề thấp bị sa thải.
+ Ở Đức, nhiều công ty Đức có để tiết kiệm chi phí sản xuất và duy trì khả năng cạnh
tranh trên thị trường quốc tế, sản xuất một phần hoặc hoàn toàn chuyển sang các nước
mức lương thấp. Chính vì vậy, làm giảm thu nhập lao động người dân, tiền lương thực tế
và lương hưu giảm ít nhất 15% sau khi toàn cầu hóa.
- Có một mối đe dọa từ các nước thành viên mới của EU, nằm phía đông nước Đức,
nơi có nguồn lao động trình độ cao mà gần đó, lại có tiền lương thấp hơn nhiều lần
so với Đức. Tuy nhiên ở Hà Lan đã khắc phục được tình trạng này, phân phối thu
nhập của người dân khá là đồng đều.
Trang 012
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
- Xu hướng toàn cầu hóa đã góp phần hình thành ở Hà Lan những nét trưng riêng
như: là quốc gia đầu tiên trên thế giới cho phép sử dụng ma tuý công khai; công
nhận mại dâm như một nghề hợp pháp, đi tiên phong trong việc công nhận kết hôn
đồng giới. Nhưng nếu Hà Lan không có những biện pháp quản lí khéo léo, thì sẽ
có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng về đạo đức cũng như sự gia tăng của
tệ nạn xã hội. Tại Hà Lan còn có một sự thiếu hiểu biết một nỗi sợ hãi lớn của toàn
cầu hóa và phát triển văn hoá của Liên minh châu Âu. Các kiến thức và kinh
nghiệm họ có được và tuyên truyền là không thể thiếu trong việc làm giảm nỗi sợ
chưa biết. Trớ trêu thay đó là chính phủ lâm thời đã được chịu trách nhiệm về sự
phát triển của nền văn hóa của sự sợ hãi và cố ý tránh các cuộc tranh luận về châu
Âu, trong khi tài trợ cho các dự án thanh niên quốc tế, hỗ trợ công cộng và các
chiến dịch đang nổi bật.
- Khoảng cách giàu nghèo ngày càng gia tăng.
III. Phân tích các yếu tố môi trường kinh tế của hai quốc gia Đức
& Hà Lan
A. Quốc gia Đức:
1. Các giai đoạn phát triển của thị trường ( Stage of Market
Development:
a. Sự phát triển kinh tế:
Đức là một quốc gia liên bang nằm ở Trung Âu với diện tích 357,021km2 và có
chung đường biên giới với các nước Đan Mạch, Ba Lan, Séc, Áo, Thụy Sĩ, Pháp,
Luxembourg, Bỉ và Hà Lan . Với gần 82 triệu người, Đức là nước có dân số lớn nhất
trong Liên minh châu Âu và là nước có số dân nhập cư lớn thứ ba trên thế giới.
Đức là thành viên của Liên hiệp quốc, NATO, G8, G20, OECD và WTO… Nước
Đức là một cường quốc với nền kinh tế có GDP danh nghĩa đứng thứ tư và GDP sức mua
tương đương đứng thứ năm trên thế giới. Đức là nước viện trợ phát triển hằng năm nhiều
thứ nhì, và ngân sách quốc phòng đứng thứ sáu trên thế giới. Quốc gia này có một mức
Trang 013
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
sống cao và hệ thống an sinh xã hội toàn diện. Nước Đức giữ vị trí chính yếu trong quan
hệ ở châu Âu cũng như có nhiều liên kết chặt chẽ trên thế giới.
Đo lường sự phát triển kinh tế bằng GDP:
Giai đoạn 2001-2005 được coi là giai đoạn đình trệ của kinh tế Đức với chỉ số
tăng trưởng trung bình 0.7% và tỉ lệ thất nghiệp khá cao, khoảng 8% vào cuối năm 2006.
Tuy nhiên Đức đã vực dậy nền kinh tế của mình trong những năm về sau với tốc độ tăng
GDP năm 2010 là 3.5%.
Trang 014
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
Đức là một nước phát triển nên thu nhập bình quân đầu người tương đối cao
30.100USD (2005), mức này tăng dần qua các năm và đạt 35.700USD (2010).
Đặc trưng của các ngành:
Nông nghiệp:
Trồng trọt
Các sản phẩm chính: khoai tây, lúa mì, lúa mạch, củ cải đường, trái cây… Phần
lớn diện tích nước Đức được dùng cho nông nghiệp, nhưng chỉ có 2% - 3% dân số Đức
làm việc trong ngành này. Các vùng đất được chuyên môn hoá vào các lĩnh vực canh tác.
Đức là nước xuất khẩu lớn về nông sản và thực phẩm với giá trị xuất khẩu tương ứng lên
tới hơn 50 tỉ Euro.
Chăn nuôi
Gia súc và gia cầm: các mặt hàng quan trọng nhất bao gồm thịt và các sản phẩm từ
thịt. Năm 2008, với sản lượng tên 5 triệu tấn Đức là nước sản xuất thịt lợn đứng đầu EU,
đứng thứ ba thế giới sau Trung Quốc và Hoa Kỳ. Về thịt bò, Đức có 180.000 trang trại bò
với khoảng 13 triệu con. Điều này đã giúp Đức trở thành nhà sản xuất lớn thứ hai tại
Châu Âu với hơn 40 giống bò. Đức có tên trong danh sách các nước sản xuất sữa, sản
Trang 015
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
phẩm bơ sữa và thịt nhiều nhất thế giới. Nông nghiệp ở Đức được điều tiết theo chính
sách nông nghiệp của Liên minh châu Âu.
Công nghệ tiên tiến và các tiêu chuẩn vệ sinh hàng đầu, nhiều năm kinh nghiệm,
truyền thống lâu đời và đổi mới không ngừng - đó chính là những gì mà ngành công
nghiệp về sản phẩm từ thịt ở Đức đại diện. Ngành công nghiệp về sản phẩm từ thịt với
mức doanh thu cao 16 tỉ Euro là một trong những ngành dẫn đầu của lĩnh vực thực phẩm
ở Đức.
Hiện nay, đã có hơn 300.000 tấn xúc xích Đức được xuất khẩu trên toàn thế giới
với giá trị lên đến trên 1,3 tỉ euro.
Công nghiệp: Là một trong những nhà sản xuất công nghiệp lớn nhất và có
công nghệ hiện đại nhất thế giới. Đức tập trung chuyên môn hóa phát triển và chế tạo các
sản phẩm công nghiệp phức hợp, nhất là các thiết bị công nghiệp và công nghệ sản xuất
mới. Các ngành công nghiệp quan trọng nhất của Đức là chế tạo xe hơi, chế tạo máy, kỹ
thuật điện, điện tử và công nghiệp hóa chất. Chỉ riêng trong bốn ngành này đã có 2.9 triệu
người làm việc và tạo ra doanh số hơn 800 tỉ Euro.
Nước Đức phải nhập khẩu hầu hết nguyên vật liệu và năng lượng, mặc dù có
những mỏ than nâu và nhựa đường ở vùng Ruhr và thung lũng Saar nên ngành công
nghiệp thép của nước Đức tập trung tại những vùng này. Nước Đức cũng có một trữ
lượng không nhiều quặng sắt, dầu mỏ và khí đốt nên những trung tâm kinh tế quan trọng
nhất Đức là vùng Ruhr (khu công nghiệp đang trong thời kỳ chuyển đổi thành trung tâm
công nghệ cao và dịch vụ), vùng München và Stuttgart (công nghệ cao, chế tạo ô tô),
vùng Rhein-Neckar (hóa chất), Frankfurt bên sông Main (tài chính), Köln, Hamburg
(cảng biển, chế tạo máy bay Airbus, truyền thông). Đến nay tại các bang mới đã hình
thành một khu vực kinh tế tuy còn nhỏ bé, nhưng rất có năng lực tại những trung tâm
công nghệ cao còn gọi là “những ngọn hải đăng”, ví dụ như Dresden, Jena, Leipzig,
Leuna và Berlin-Brandenburg....
Công nghiệp xe hơi của nước Đức
Ngành công nghiệp xe hơi của Đức là ngành có quy mô lớn nhất ở châu Âu.
Thành công lớn nhất của nước Đức là trong ngành sản xuất xe hơi chất lượng cao,
khoảng 30% tổng đầu tư của các doanh nghiệp Đức vào nghiên cứu, phát triển đến từ
Trang 016
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
ngành này. Có lẽ các nhãn mác xe hơi sang trọng nhất thế giới ngày nay hầu như đều có
nguồn gốc từ Đức: Bayerische Motoren Werke AG (BMW), DaimlerChrysler AG
(Mercedes-Benz), Porsche, Audi, Volkswagen, Bugatti, Lamborghini, Mini, Rolls-Royce,
Bentley.....
o Mặc dù nền kinh tế toàn cầu đang rơi vào khủng hoảng nhưng ngành công nghiệp
sản xuất ôtô Đức vẫn tạo ra lợi nhuận kỷ lục và thu về doanh số bán hàng đáng mơ
ước trong nửa đầu năm 2011. Doanh số bán ô tô Đức năm 2011 dự kiến đạt 3,4
triệu chiếc, tăng 10% so với năm 2010 và là một trong những thị trường thành
công nhất trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Hiện nay Đức có tới 5
hãng ô tô, tức chiếm tới gần 50% trong số 12 “Thương hiệu ô tô nổi tiếng nhất thế
giới”.
- Tập đoàn Volkswagen AG bán được 59.389 xe trong tháng 7, tăng 32.2% so với
cùng kỳ năm 2010, và chính thức trở thành nhãn hiệu Đức bán chạy nhất. Như
vậy, trong 6 tháng đầu năm, đã có tổng cộng 413.426 xe Volkswagen được bán ra.
- Nhãn hiệu Opel thuộc quyền sở hữu của General Motors có doanh số tăng 11.1%
với 20.579 xe bán ra.
- Mercedes là nhãn hiệu cao cấp của Đức trong tháng 7 bán được 26.275, tăng 7.7%
so với cùng kỳ năm ngoái.
- KBA cũng cho biết thêm minivan là dòng xe được tiêu thụ mạnh nhất khi số
lượng xe loại này bán ra đã tăng gấp đôi so với tháng 6. Ba mẫu minivan của Đức
là VW Touran, VW Sharan, Opel Zafira là những mẫu bán chạy nhất, chiếm đến
60% thị phần.
Ngành chế tạo máy với gần 6.000 công ty đóng góp 13% tổng doanh số
công nghiệp và chiếm vị trí thứ hai sau ngành chế tạo ô tô. Là ngành công nghiệp tạo
nhiều việc làm nhất (965.000 chỗ làm) và là ngành xuất khẩu hàng đầu, nên ngành chế
tạo máy giữ một vị trí then chốt trong nền kinh tế Đức.
Ngành công nghiệp điện thuộc những ngành tăng trưởng mạnh nhất và đặc
biệt đổi mới. Hơn 20% số dự án được giới công nghiệp đầu tư ở Đức cho nghiên cứu và
phát triển được ngành công nghiệp điện thực hiện.
Trang 017
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
Ngành công nghiệp hóa chất là một trong những ngành công nghiệp quan
trọng nhất của nước Đức, một phần nằm trong tay các tập đoàn nước ngoài vì các tập
đoàn, công ty bị mua, sát nhập, chủ yếu sản xuất những sản phẩm dưới dạng nguyên liệu.
Có những công ty như Bayer, BASF và Hoechst, trong đó tập đoàn BASF của Đức ở
Ludwigshafen là tập đoàn hóa chất lớn nhất thế giới.
Chế tạo máy móc và máy xây dựng là những ngành công nghiệp quan trọng
khác của nước Đức, bao gồm các ngành chế tạo máy bay, đóng tàu, máy móc công
nghiệp, và cả ngành chế tạo ô tô nữa. Ngành máy phát điện, điện tử và các thiết bị văn
phòng cũng là những khu vực công nghiệp phát triển. Mặc dù có nhiều ngành công
nghiệp cực kỳ thành công, nhưng những ngành công nghiệp nặng truyền thống như
ngành luyện thép và ngành đóng tàu lại đang sa sút nghiêm trọng, giống như ở các nước
phương Tây khác. Sự cạnh tranh từ Nhật Bản và công nghệ mới đã làm giảm sút lợi
nhuận của nước Đức. Dù vậy công nghiệp vẫn là trụ cột của nến kinh tế Đức.
Dịch vụ:
Lĩnh vực dịch vụ đã tăng đều đặn trong những năm gần đây và hiện đóng góp
nhiều nhất vào tổng sản phẩm quốc nội. Lĩnh vực này bao gồm cả du lịch. Năm 2006
tổng GDP là 2.585 tỷ USD, dịch vụ 70%. Năm 2010 đã có một số thay đổi về tổng GDP
là 2.951 tỷ USD, dịch vụ 71.3%.
- Ngành dịch vụ: 29 triệu người.
- Công ty dịch vụ công và tư nhân: 12 triệu người.
- Lĩnh vực thương mại, khách sạn, nhà hàng và giao thông: 10 triệu người.
Một trụ cột của ngành dịch vụ là các công ty ngân hàng và bảo hiểm. Các công ty
này tập trung ở Frankfurt bên sông Main, môi trường ngân hàng hàng đầu của châu Âu,
trong khu vực trung tâm Frankfurt là trụ sở chính của các ngân hàng lớn nhất Đức:
Deutsche Bank AG, Commerzbank AG và Dresdner Bank AG. Thêm vào đó là nhiều
ngân hàng tư nhân quan trọng cũng có trụ sở tại Frankfurt như Bankhaus Metzler, Hauck
& Aufhäuser Privatbankiers, Delbrück-Bethmann-Maffei, BHF Bank, DZ BANK, Deka,
Frankfurter Sparkasse von 1822 và Ngân hàng bang Hessen-Thüringen. Đây là nơi có trụ
sở Ngân hàng trung ương châu Âu (ECB), Ngân hàng liên bang.
Trang 018
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
Frankfurt là một trung tâm tài chính và chứng khoán được biết đến trên toàn thế
giới. Frankfurt là thị trường cổ phiếu lớn thứ nhì châu Âu với thị trường chứng khoán
Frankfurt và hệ thống giao dịch điện tử XETRA do Deutsche Börse AG sở hữu và điều
hành. Sở giao dịch chứng khoán Frankfurt chiếm 90% tổng doanh số của thị trường Đức
và một tỷ lệ lớn của thị trường châu Âu. Ngày nay, Sở giao dịch chứng khoán Frankfurt
lớn thứ 12 thế giới về giá trị vốn hóa thị trường.
Dự báo trong tương lai:
Các nhà kinh tế hàng đầu đã cảnh báo rằng nước Đức sẽ dần rơi vào tình trạng
suy thoái vào năm 2012. Họ đã kêu gọi sự phối hợp giữa các quốc gia cùng hành động
để đổi phó với các cuộc khủng hoảng nợ đang leo thang ở châu Âu và ảnh hưởng tiêu
cực tới nền kinh tế Đức bao gồm các ngân hàng, công ty bảo hiểm mua các trái phiểu
của chính phủ Hy Lạp sẽ có những thiệt hại khá lớn. Các chuyên gia dự đoán sự suy
giảm kinh tế trong năm 2012. Đánh giá cho rằng, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của
Đức sẽ giảm từ 2.9% dự kiến trong năm nay xuống còn 0.8% vào năm 2012. Ban đầu họ
đánh giá năm 2012, kinh tế Đức sẽ tăng trưởng khoảng 2% khi tốc độ tăng trưởng ở Đức
tăng mạnh vào những tháng đầu năm 2011, tuy nhiên những tháng sau đó đã bị đình trệ.
Bên cạnh đó cũng có những dự báo lạc quan hơn khi các chuyên gia cho rằng tỷ lệ thất
nghiệp tại Đức sẽ giảm từ 7% trong năm nay xuống cón 6.7% vào năm 2012.
Tri thức - tư bản:
Đức là một đất nước của ý tưởng, đào tạo, khoa học, nghiên cứu và phát minh có
một ý nghĩa trung tâm. Trong thế giới của thị trường toàn cầu hóa, giáo dục, đào tạo được
trang bị để tận dụng được cơ hội của những đường biên giới mở và những mạng lưới tri
thức toàn cầu.
Hiện nay Đức chi khoảng 2,6% GDP cho nghiên cứu và phát triển (F&E),
cao hơn hẳn mức chi trung bình 1,9% (năm 2008) trong EU. Đến năm 2015 chính phủ
liên bang muốn cùng với các bang và giới kinh tế tăng mức chi cho nghiên cứu và phát
triển lên 3% GDP. Với mức chi là 49 tỉ USD Đức cũng là nước dẫn đầu về chi phí của
doanh nghiệp cho nghiên cứu, phát triển.
Trang 019
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
Tinh thần phát minh, sáng chế cũng không bị chững lại. Năm 2009 các nhà đầu tư
và doanh nghiệp Đức đã đăng ký 11% tổng số bản quyền trên toàn thế giới – giữ vị trí thứ
3 trên thế giới. Vì thế trong nhiều lĩnh vực công nghệ tương lai Đức thuộc số những quốc
gia dẫn đầu, trong đó có các ngành:
- Ngành công nghệ sinh học và công nghệ gien: Đức giữ vị trí dẫn đầu châu Âu từ
nhiều năm nay.
- Công nghệ nano: Đức có một tiềm năng trí thức to lớn trong lĩnh vực này.
- Ngành công nghệ môi trường của Đức có một vị trí rất tốt trên thị trường quốc tế
(năng lượng gió, quang hóa, sinh khối), trong đó các nhà sản xuất thiết bị cung cấp
năng lượng gió chiếm gần 28% thị phần thế giới.
- Ngành chế tạo máy và ô tô, công nghiệp điện tử, công nghệ thông tin và truyền
thông thuộc những ngành kinh tế lớn nhất, tăng trưởng mạnh hơn hẳn toàn bộ nền
kinh tế.
- Ngoài ra có các ngành công nghệ cao như sinh trắc học, hàng không, vũ trụ, kỹ
thuật điện, cung ứng.
Trung tâm hàng không vũ trụ Đức, Viện nghiên cứu cơ học và robot mới
đây đã nghiên cứu và phát triển một loại robot có bánh xe. Đây là một trong những robot
tiên tiến nhất thế giới.
Toàn cầu hóa cũng đặt nền khoa học và giáo dục đại học Đức trước những thách
thức mới. Giáo dục của Đức được xem là nền giáo dục mang tính cách thực tiễn, lý thuyết và
thực hành luôn được xem quan trọng như nhau. Tại Đức, ngành giáo dục không mang tính cách
tập trung, tức mỗi tiểu bang có quyền quyết định về mô hình hệ thống giáo dục do quyền hành
chính tự lập và truyền thống văn hoá của từng vùng. Hệ thống đào tạo phổ thông và đại học Đức
đang trong một quá trình đổi mới sâu sắc và nay đã có những thành công đầu tiên, hơn ba phần
tư người trưởng thành đã được đào tạo nghề nghiệp, 13% đã tốt nghiệp đại học tổng hợp hoặc
đại học khoa học chuyên ngành. Các nhà đầu tư cũng đánh giá cao chất lượng sống ở Đức.
Tuy nhiên, hệ thống giáo dục Đức đang loại trừ học sinh thuộc gia đình nghèo và con cái các gia
đình nhập cư khỏi cơ hội nhận được một nền giáo dục tốt khi mà gạt chúng sang bên lề từ quá
sớm và việc phân hạng như hiện nay bỏ sót nhân tài và gây lãng phí chất xám rất lớn. ... như
Trang 020
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
việc tách học sinh dựa theo học lực từ quá sớm khi mà trẻ chưa thể hiện được đầy đủ tiềm năng
của mình.
Đức hiện nay thuộc nhóm nước HDC’s ( Post-industrialized countries ), với các
đặc điểm: khu vực dịch vụ chiếm tỉ lệ quan trọng 70% (2010), nhiều thách thức do trình độ
cạnh tranh tăng, nền kinh tế tri thức, tư bản là chủ yếu.
2. Phân phối thu nhập:
Các nền kinh tế Đức đã dần dần nổi lên từ những tác động của cuộc khủng hoảng
tài chính toàn cầu, trong đó có một tác động tiêu cực đáng kể về tài chính công và tăng
trưởng kinh tế. Việc kích thích chi tiêu đã đẩy thâm hụt ngân sách hơn 3% của GDP. Một
chương trình thắt lưng buộc bụng được thực hiện để kiềm chế thâm hụt tài chính gia tăng
của nó.
Trong những năm gần đây nhất, tổng chi tiêu chính phủ, bao gồm cả các khoản
thanh toán tiêu thụ và chuyển giao, tổ chức ổn định ở mức 43,7% của GDP.
a. Thu nhập cá nhân :
Khoảng cách thu nhập giữa hai miền Đông - Tây ngày càng lớn: so với năm
2008, mức tăng trưởng về thu nhập bình quân đầu người ở Tây Đức là 2,9% còn ở Đông
Đức chỉ là 2,5%.
- Vùng Tây Đức : 19 838 €/người/năm.
- Vùng Đông Đức : 15 484 €/người /năm.
- Thành phố mà người dân có thu nhập bình quân cao nhất: Hamburg.
- Thành phố mà người dân có thu nhập bình quân thấp nhất: Mecklenburg-
Vorpommern.
Có rất nhiều lý do dẫn đến sự chênh lệch tiền lương giữa hai miền nước Đức trong
đó có thể kể đến là do giá các dịch vụ tại Đông Đức được trả ít hơn so với Tây Đức và
nguồn vốn đổ vào đầu tư tại Đông Đức cũng thấp hơn đáng kể so với Tây Đức.
Thu nhập bất bình đẳng của Đức (2007):
- Khoảng cách giữa người giàu và người nghèo ở Đức đang mở rộng, trong khi
nhóm của những người thu nhập giữa thu hẹp lại. Người nghèo trở nên nghèo hơn, trong
khi những người giàu trở nên giàu có hơn. Theo nghiên cứu, năm 2000 có 66% người Đức
trong khung lớp trung lưu với thu nhập ròng hàng tháng của €860 - €1.844 (hộ gia đình duy
Trang 021
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
nhất). Năm 2007, con số này giảm còn 60%. Số lượng người thu nhập thấp tăng mạnh, từ
18% năm 2000 lên gần 22% trong năm 2009.
Mười bốn phần trăm dân số Đức sống trong nghèo đói, có ít hơn 60% của thu nhập
trung bình. Trong khi đó về phía tây Đức (13%) tỷ lệ hộ nghèo cao hơn ở Đông Đức (19%)
chủ yếu là do tỷ lệ thất nghiệp cao liên tục được tìm thấy ở đó.
Kết luận:
- Có thể đầu tư vào Đức với nhiều sản phẩm từ cao cấp nhất như trang sức, gia
công các sản phẩm cao cấp (đồ mỹ nghệ, dệt may)… phục vụ cho nhóm thu nhập cao đang
gia tăng đến các sản phẩm với giá cả vừa phải, chất lương ổn định các loại thực phẩm trái
cây, café, mật ong….phù hợp với nhóm thu nhập trung bình.
- Đầu tư các ngành dịch vụ nhiều hơn (du lịch, nghỉ dưỡng…) vào Tây Đức vì
ở nơi này có gía dịch vụ cao hơn, yêu cầu cao hơn.
- Các sản phẩm cần phải tiết kiệm năng lượng & hữu dụng. Người Đức có yêu
cầu cao khi sử dụng sản phẩm bao gồm cả về giá trị sử dụng, tiết kiệm năng lượng, độ
chính xác cao đáp ứng đúng nhu cầu. Chẳng hạn: Nếu nhà có máy rửa bát thì nên dùng
máy rửa bát thay cho rửa bằng tay, vì máy rửa bát tiêu tốn không nhiều năng lượng điện
và nước bằng rửa trực tiếp bằng tay. Người Đức không tráng bát lại sau khi rửa vì nước
rửa bát của họ không có hoá chất độc.
b. Đầu tư trong nước ở Đức: (2007 )
Hoạt động kinh tế và giá cả(Thay đổi theo phần trăm, trừ khi có ghi chú khác) 2003 2004 2005 2006 2007Tiêu dùng cá nhân 0.1 0.2 -0.1 1 -0.3Tổng đầu tư cố định -0.3 -0.2 1 6.1 5.5Đầu tư xây dựng -1.6 -3.8 -3.1 4.3 2.8Tổng quốc gia tiết kiệm (% của GDP) 19.8 21.8 22 23 24Tổng đầu tư trong nước (% của GDP) 17.9 17.5 17.4 18 18.4
Nguồn: Deutsche Bundesbank, IMF, IFS, IMF, World Economic Outlook, và dự đoán nhân
viên.
Trang 022
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
Đầu tư trong nước gia tăng qua các năm, tuy nhiên vào năm 2009 tỉ lệ này lại
giảm vì lúc này chính phủ Đức đang thực hiện chính sách thắt lưng buộc bụng để vượt qua
cuộc khủng hoảng năm 2008.
Tỉ lệ đầu tư trong nước không cao, tạo cơ hội cho các nhà đầu tư xâm nhập vào thị
trường Đức.
c. Chi tiêu của chính phủ :
Đức dành phần lớn cho trợ cấp xã hội và giáo dục, y tế, các dịch vụ công cộng
chung. Không đầu tư nhiều vào các lĩnh vực giải trí, văn hóa và tôn giáo.
Thu chi ngân sách:
- Tổng thu nhập đạt 1.277 tỷ USD, tiêu dùng chiếm 1.344 tỷ USD.
- Ngân sách (2009):
+ Thu Ngân sách : 1.398tỉ USD
+ Chi Ngân sách : 1.54 tỉ USD
Các nhà đầu tư có thể tận dụng cơ hội đầu tư vào giáo dục ở Đức, học hỏi cách quản
lí dịch vụ, các hoạt động bảo trợ xã hội.
d. Chi phí lao động ở Đức:
- Năm 2009, chi phí lao động ở Đức tăng vọt 4,1%, tăng hơn so với các nước châu Âu
khác, chi phí lao động trung bình 1 giờ là €30,90 (2009), tăng so với năm 2008 (29,70€).
- Các chương trình ngắn thời gian làm việc đã cho phép Đức tránh một sự gia tăng
mạnh tỷ lệ thất nghiệp (kết quả của suy thoái kinh tế năm 2008). Văn phòng thống kê liên
bang thông báo rằng tiền lương thực tế đã giảm ở Đức trong nhiều năm qua, đã giảm thêm
0,4% trong năm 2008.
- Chi phí lao động của Đức tăng, tỷ lệ thất nghiệp bất ngờ giảm (Theo cơ quan Lao
động Liên bang Đức) (3/2010).
So sánh các chi phí lao động với các nước châu Âu và Đức:
- Chi phí lao động ở Đức đã tăng mạnh hơn trong năm 2008 hơn so với các năm
trước, nhưng lại tăng ít rõ rệt hơn so với các nước châu Âu khác.
- Về chi phí đơn vị lao động - một chỉ số về khả năng cạnh tranh giá - Đức đã một lần
nữa được cải thiện vị trí của nó so với hầu hết các nước trong EU. Sự gia tăng gần
Trang 023
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
đây nhất trong chi phí lao động đơn vị là kết quả của sự sụt giảm mạnh trong tăng
trưởng kết hợp với xu hướng việc làm tương đối ổn định. Điều này thúc đẩy hơn
nữa khả năng cạnh tranh quốc tế của Đức và góp phần vào thặng dư tài khoản hiện
tại của đất nước. Tuy nhiên, hiện nay cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và suy
thoái kinh tế đã ảnh hưởng nền kinh tế của Đức mặc dù Đức có khả năng cạnh tranh
mạnh mẽ về giá cả của tiền lương.
- Thị trường sẵn sàng lao động.
o Có tay nghề lực lượng lao động cao: Hệ thống giáo dục đẳng cấp thế giới của Đức
đảm bảo tiêu chuẩn cao nhất. Hơn 80% lực lượng lao động của Đức đã nhận được chính
thức đào tạo nghề hoặc là sở hữu của bằng cấp ĐH.
o Kỹ thuật xuất sắc: Những nhân viên lành nghề và chuyên ngành là một tính năng
quan trọng của thị trường lao động Đức ở hiện tại và tương lai.
o Hệ thống giáo dục: Đức cung cấp lực lượng lao động có trình độ cao và linh hoạt.
Hiện nay có khoảng 350 ngành nghề được công nhận bởi hệ thống.
Đầu tư bằng cách đưa các sinh viên trẻ sang tu nghiệp tại Đức để có thể tiếp
cận trình độ công nghệ, trình độ quản lí .
o Các nhân viên có động lực và tin cậy: việc động viên và cách làm việc linh hoạt ở
Đức là một trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy nhân viên làm việc tích cực. Một hệ
quả trực tiếp của việc này là thực tế rằng người Đức làm việc nhiều hơn so với đồng
nghiệp quốc tế của họ (41,2 giờ mỗi tuần).
Giá lao động ổn định, không cao tạo ra một lợi thế cho Đức so với các thành
viên khác trong EU. Quan trọng hơn, lao động được đào tạo, lành nghề chiếm tỉ trọng cao
trong nước Đức. Cơ sở hạ tầng được xếp hạng hàng đầu thế giới, máy móc thiết bị, công
nghệ tiên tiến, vị trí địa lí thuận lợi, biết cách tạo động lực cho nhân viên (lương, thưởng,
trợ cấp)…là một trong những nguyên nhân thu hút mạnh mẽ các nhà đầu tư kinh doanh ở
Đức.
e. Cán cân thanh toán :
- Kim ngạch xuất-nhập khẩu :
Ngoại thương là một trong những nhân tố chủ yếu trong sự thành công của kinh tế
Đức. Đức thuộc top 3 nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu hàng hóa. Năm 2009 Đức là
Trang 024
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
nước xuất khẩu lớn thứ hai thế giới sau Trung Quốc. Đức đóng góp khoảng 9% vào tổng
trao đổi thương mại toàn cầu. Các mặt hàng xuất khẩu chính của Đức gồm máy móc, hàng
điện tử, ô tô, các sản phẩm hoá chất, thực phẩm, hàng dệt may, dụng cụ quang học và điện
năng.
Xuất khẩu:
o Các mặt hàng xuất khẩu gồm: máy móc, hóa chất, kim loại, chế biến, thực phẩm
và dệt may. Các đối tác xuất khẩu lớn là: Pháp (10,2%), Hoa Kỳ (8,8%), Anh
(7,9%), Italia (6,9%)…).
o Đức đẩy mạnh được xuất khẩu, đặc biệt là các mặt hàng máy móc thiết bị và
công nghiệp chế tạo có khả năng cạnh tranh cao.
Nhập khẩu:
- Là một nước phụ thuộc nhiều vào ngoại thương nên Đức đồng thời cũng nhập nhiều
loại hàng hoá và là nước nhập khẩu nhiều thứ hai thế giới. Các mặt hàng nhập khẩu chủ
yếu là máy móc, phương tiện vận chuyển, hoá chất, thuốc lá, lương thực, đồ uống, kim loại
và các sản phẩm dầu mỏ. Đức cũng nổi tiếng với các sản phẩm thủ công như lính chì và đồ
lưu niệm.
- Các đối tác nhập khẩu lớn là: Pháp (8,7%). Hà Lan (8.5%), Hoa Kỳ (6.6%), Trung
Quốc (6,4%)…
Cán cân thanh toán (hàng tỷ Euro)
2003 2004 2005 2006 2007
Xuất khẩu 770 846.5 915.9 1000 1.137
Nhập khẩu 685.7 736.8 805.1 921.2 990.8
Cán cân thương mại (% của GDP) 5.5 6.3 6.2 6.2 6.9
Cán cân thanh toán 40.9 94.9 103.1 117.2 135
Kim ngạch xuất khẩu của Đức lớn hơn kim ngạch nhập khẩu Đức là nước xuất
siêu.
Trang 025
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
Bên cạnh đó để cạnh tranh để vào được thị trường Đức thật sự gặp khó khăn rất lớn.
Không những phải đáp ứng đúng yêu cầu của Đức mà còn phải cạnh tranh với các đối thủ
khác như Trung Quốc, các thành viên trong khối EU.
3. Phân bổ dân số (population distribution):
Dân số (population):
a. Tổng số dân và GDP:
Từ năm 2003 dân số Đức tương đối ổn định nhưng kể từ 2010 dân số giảm từ
82,282,990 người (2010) xuống 81.471.830 người (2011 ước tính).
Tốc độ tăng dân số
Dân số bị suy giảm
Suy giảm dân số dẫn đến những vấn đề tài chính nghiêm trọng. Luôn luôn có một
"hợp đồng giữa các thế hệ" theo đó mà người lao động ngày nay nộp thuế, đóng bảo hiểm
và đóng góp vào các quỹ phúc lợi xã hội để chi trả cho dịch vụ y tế và tiền lương của
Trang 026
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
những người đã về hưu. Đồ thị thống kê dân số nước Đức hiện nay có khuynh hướng
thiên về số dân cao tuổi đến mức là hiện tại và sắp tới đang và sẽ còn sự thiếu hụt trong
các nguồn thu của chính phủ để dành cho các quỹ trợ cấp xã hội. "Thuế sinh thái" (Thuế
phụ thu đánh vào nhiên liệu xe hơi và các loại dầu khác) mặc dù ban đầu không phải
nhằm phục vụ mục tiêu này, bây giờ cũng được sử dụng để bù đắp cho sự thiếu hụt.
- Từ bảng trên ta thấy tốc độ gia tăng dân số giảm liên tục qua các năm, đến
năm 2010 tỷ lệ giảm là 0,06%. Trong khi đó GNP cùng năm 2010 tăng lên 1.82% so với
năm trước và xu hướng tăng trong những năm tiếp theo. Từ đó ta có thể thấy quy mô thị
trường đang được mở rộng, mức sống của người dân ngày càng nâng cao.
b. Tỉ lệ sinh, tử:
Tổng tỷ suất sinh :
Total fertility rate (children born/woman)
Country 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011
Germany 1.38 1.38 1.39 1.37 1.38 1.39 1.39 1.4 1.41 1.41 1.42 1.41
- Nhận xét: tỉ lệ sinh có xu hướng giảm.
- Nguyên nhân tỉ lệ sinh giảm do:
+ Đa số người Đức không thích kết hôn.
+ Lập gia đình muộn, ít con.
Trang 027
Năm 2006 2007 2008 2009 2010
GNP(tỷ USD)
3.081,112 3.245,631 3.504,510 3.473,814 3.537,180
Tốc độ tăng GNP(%)
5,34 7,97 -0,876 1,82
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
Tỷ lệ tử deaths/1000 population ít biến động qua các năm, cụ thể: 10.9
(năm 2009), 11 (năm 2010), dự đoán năm 2011 là 10,92.
- Tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh: Infant mortality rate (deaths/1,000 live births).
Country 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011
Germany 4.77 4.71 4.65 4.23 4.2 4.16 4.12 4.08 4.03 3.99 3.95 3.54
c. Tỉ lệ phụ nữ đi làm:
Tỉ lệ phụ nữ đi làm: Ngày càng có nhiều phụ nữ tham gia cuộc sống nghề nghiệp.
Từ khi luật nuôi dưỡng có hiệu lực từ năm 2008 trong trường hợp ly hôn thì việc phụ nữ
phải đi làm càng trở nên quan trọng hơn và gần 70 % phụ nữ hiện đang đi làm.
gia tăng số lượng phụ nữ đi làm.
Thu nhập gia đình tăng lên.
Nhu cầu một số sản phẩm thay đổi.
d. Mật độ dân và phân bổ dân:
Population density (Number of people per square kilometer)(mật độ dân số)
Country 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011
Germany 230.79 230.87 230.89 230.86 230.8 230.71 230.6 230.47 228.2
mật độ dân số tương đối lớn -> nguồn cung của thị trường cao. Đây là yếu tố hấp
dẫn các nhà cung cấp trong và ngoài nước.
Đô thị hóa:
Nước Đức có các thành phố lớn như: Berlin, Hamburg, München, Cologne,
Frankfurt, và Stuttgart. Khu vực đô thị lớn nhất là vùng Rhine-Ruhr (12 triệu người), bao
gồm Düsseldorf (thủ phủ của North Rhine-Westphalia), Berlin(3,439,100),
Hamburg(1,769,117), Munich(1,330,440), Cologne, Essen, Dortmund, Duisburg và
Bochum.
Dân cư phần lớn tập trung ở các thành phố lớn -> có sự chênh lệch về phân
bố dân cư giữa nông thôn và thành thị.
- Phân bổ dân cư (population distribution): xu huớng di dân: nông thôn ra
thành thị, hoặc đến những thành phố có lương cao, tiện nghi…..
Trang 028
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
e. Cơ cấu dân số: nhân khẩu, địa lí, tuổi, giới tính….
- Cơ cấu tuổi:
0-14 tuổi : 13,7% (nam 5.768.366 / nữ 5.470.516).
15-64 tuổi: 66.1% (nam 27.707.761 / nữ 26.676.759).
65 tuổi trở lên: 20.3% (nam 7.004.805 / nữ 9.701.551) (2010est).
-> Dân số già ->yếu tố thâm dụng lao động không được đánh giá cao.
- Tỷ số giới tính
dưới 15 tuổi: 1,05 nam (s) / nữ.
15-64 tuổi: 1,04 nam (s) / nữ.
65 tuổi trở lên: 0,72 nam (s) / nữ.
->Cơ cấu tuổi khác nhau -> thay đổi cơ cấu, số luợng sản phẩm cho từng độ
tuổi.
- Tuổi thọ
Country 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011
Germany 77.44 77.61 77.78 78.42 78.54 78.65 78.8 78.95 79.1 79.26 79.41 80.07
->Tuổi thọ cao và tăng tương đối qua các năm. Điều này cho thấy chất lượng cuộc
sống đã rất được xem trọng và đánh giá cao.
- Nhân khẩu học của Đức ngày càng tăng về số lượng.
o Dân tộc : Đức 91.5%, Thổ Nhĩ Kỳ 2.4%, khác 6.1%.
o Tôn giáo: Đạo tin lành 34%, Thiên chúa giáo La Mã 34%, Hồi giáo 3.7%,
khác và không tôn giáo 28.3%.
o Ngôn ngữ nói ở Đức bao gồm: Đức, Đan Mạch, Sorbian và Frisian.
4. Liên kết kinh tế (Economic Alliances):
Liên kết/ hội nhập kinh tế là việc thiết lập những luật lệ và nguyên tắc vượt phạm
vi 1 QG để cải thiện thương mại và sự hợp tác giữa các nước.
Những nét chính trong chính sách đối ngoại của Đức: đặc điểm của chính
sách đối ngoại của Đức là tính kế thừa và sự tin cậy. Chính sách này thể hiện trong quan
Trang 029
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
hệ hợp tác đối tác và sự cân bằng lợi ích. Có thể tóm gọn những định hướng của chính
sách đối ngoại của Đức trong những khẩu hiệu “Không bao giờ lặp lại” và “Không bao
giờ một mình”. Dựa trên nguyên nhân sâu xa trong lịch sử nước Đức, khẩu hiệu “Không
bao giờ lặp lại” thể hiện việc quay lưng lại với chính sách độc tài và bành trướng, cũng
như nghi ngờ một cách sâu sắc những phương tiện quyền lực quân sự. “Không bao giờ
một mình” có nghĩa là gắn kết chặt chẽ vào cộng đồng các nền dân chủ phương Tây. Sự
hòa nhập của Đức vào một châu Âu ngày càng kết nối với nhau chặt chẽ hơn và sự gắn
kết chặt chẽ của Đức vào Liên minh phòng thủ Bắc Đại Tây Dương là những trụ cột
trong định hướng đối ngoại. Nước Đức tích cực hoạt động trong các tổ chức hợp tác đa
phương. Đức là thành viên của các tổ chức quan trọng của châu Âu và quốc tế.
Liên minh châu Âu
Từ năm 1957 Đức là một trong 6 nước sáng lập EU ngày nay. Từ năm 2007 EU
gồm 27 nước thành viên, tại 16 nước đồng Euro là đồng tiền chính thức. Trong tổng ngân
sách 141 tỉ Euro của EU (2010) Đức đóng góp 26,6 tỉ Euro. Nằm giữa trung tâm của Liên
minh châu Âu (EU) nên Đức hưởng lợi từ mối quan hệ láng giềng hòa bình và tốt đẹp.
Cộng hòa Liên bang Đức là thành viên sáng lập Liên minh châu Âu (EU). Đức đóng góp
26,6 tỉ Euro, khoảng 20% ngân sách EU và như vậy là nước đóng góp nhiều nhất.
Đức đóng một vai trò trụ cột trong việc đưa ra các chính sách trong quá trình phát
triển của EU. Đức là nước đồng sáng kiến về phương sách phát triển một Liên minh châu
Âu hướng tới thống nhất kinh tế, tiền tệ và hướng tới một liên minh chính trị sâu sắc và
có khả năng hành động.
Chính vì thế đồng tiền chung Euro được tạo ra nhằm mục đích xây dựng một
thị trường duy nhất. Ý nghĩa của hành động này bao gồm việc thúc đẩy các quyền tự do
di chuyển, xóa bỏ vấn đề trao đổi ngoại tệ, cải thiện sự minh bạch về giá cả hàng hóa và
dịch vụ, thiết lập một thị trường tài chính thống nhất, ổn định giá cả và lãi suất thấp và
nhất là hạn chế những tác động tiêu cực do khối lượng giao dịch thương mại nội đại
khổng lồ trong phạm vi Liên minh châu Âu. Đồng tiền chung euro cũng chính là biểu
tượng chính trị cho sự hòa hợp và phát triển kinh tế liên tục.
Liên Hiệp quốc
Trang 030
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
Liên hiệp quốc (UNO) là nền tảng cơ bản và then chốt của hệ thống quốc tế. Từ
1973 Đức là thành viên Liên hiệp quốc (UNO). Từ năm 1996 Đức, nước đóng góp tài
chính lớn thứ ba- hơn 8% ngân sách thường kỳ của UNO, Đức là một trong số những
nước có trụ sở các cơ quan của UNO, ví dụ như văn phòng Ban thư ký khí hậu của
UNFCCC đóng ở thành phố Bonn.
Cộng hòa liên bang Đức ứng cử vào ghế ủy viên không thường trực Hội đồng bảo
an Liên hiệp quốc nhiệm kỳ 2011/2012. Với việc ra ứng cử này, Đức muốn tiếp nối
những nỗ lực từ trước đến nay của mình và sẵn sàng là một đối tác tin cậy và cởi mở
trong khi vượt qua mọi thách thức toàn cầu.
NATO
Liên minh Bắc đại tây dương được thành lập năm 1949. Đến nay liên minh phòng
thủ này đã có 28 nước thành viên. Từ năm 1955 Đức là thành viên của NATO.
OSCE
Với 56 nước thành viên, Tổ chức an ninh và hợp tác châu Âu (OSCE) là một diễn
đàn toàn diện cho quan hệ hợp tác trên toàn châu Âu. Các hoạt động của OSCE trước hết
nhằm phòng ngừa và giải quyết tranh chấp. Đức tham gia đóng góp một cách đáng kể tài
chính và nhân sự vào tổ chức này. Trụ sở cơ quan tổng thư ký của tổ chức OSCE đặt tại
Viên thủ đô nước Áo.
WTO
Tổ chức thương mại thế giới (WTO) được thành lập năm 1955 phục vụ cho việc
thực hiện các hiệp định thương mại quốc tế đã ký kết và là một diễn đàn đàm phán nhằm
tự do hóa thương mại thế giới. Trong khuôn khổ các vòng đàm phán thương mại thế giới,
Đức nỗ lực đấu tranh cho các nước đang phát triển hội nhập mạnh mẽ hơn nữa vào nền
thương mại thế giới. Trụ sở của WTO đặt tại Giơnevơ (Thụy Sĩ).
IMF
Nhiệm vụ trọng tâm của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) có trụ sở tại Washington là hỗ
trợ sự ổn định kinh tế vĩ mô của 186 nước thành viên. Với tỉ lệ góp vốn khoảng 6 % Đức
Trang 031
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
là một trong số những nước góp vốn quan trọng nhất của Quỹ tiền tệ quốc tế và Đức
tham gia mạnh mẽ vào quá trình đưa ra các quyết định của tổ chức này thông qua một ủy
viên hội đồng quản trị của Quỹ là người Đức.
Bộ Ngoại giao
Bộ Ngoại giao có trụ sở ở Berlin và một mạng lưới 229 cơ quan đại diện ở nước
ngoài. Bộ Ngoại giao đại diện cho nước Đức trên khắp thế giới. Hiện nay Đức có quan hệ
ngoại giao với hơn 190 nước.
5. Những yếu tố kinh tế xã hội khác
- Lạm phát.
- Tỉ giá.
- Đầu tư nước ngoài.
- Cơ sở hạ tầng : thông tin ,vận chuyển.
- Môi trường làm việc.
- Chăm sóc sức khỏe.
Lạm phát:
Trong bối cảnh xuất khẩu tăng, thất nghiệp giảm đang thúc đẩy đà tăng trưởng tại
nền kinh tế lớn nhất châu Âu, chi phí năng lượng tăng cao đã thổi bùng lên lạm phát: Giá
dầu sưởi tăng 32,8%; chi phí nhiên liệu tăng 11,2% ; giá thực phẩm tăng 2,2% (2011)
Tính đến tháng 4/2011, lãi suất cơ bản tăng từ 0,25% 1,25%.
Lạm phát tăng cao đã ảnh hưởng đến sức mua của người dân Đức dẫn đến sức mua
giảm trong những năm gần đây.
Tỉ giá(2011):
Đồng Euro: Lợi thế của nước Đức.
Kể từ khi đồng tiền chung Euro được đưa vào sử dụng vào đầu năm 1999, theo tính
toán của Ngân hàng Trung ương châu Âu, tính cạnh tranh của hàng hóa sản xuất tại Đức đã
tăng lên, không chỉ so với các nền kinh tế công nghiệp phát triển khác mà còn so với chính
các thành viên các của khu vực Euro.
Trang 032
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
Chính sách tăng lãi suất của ECB sẽ khiến đồng Euro suy yếu. Đồng Euro gần
chạm ngưỡng cao nhất trong 16 tháng so với đồng Đôla.
Cũng trong khoảng thời gian này, cán cân thanh toán của nước Đức đã chuyển từ
mức thâm hụt nhẹ sang thặng dư lớn, nhưng khu vực đồng euro nói chung lại có cán cân
thanh toán lại đi xuống chút ít. Cán cân thương mại chiếm phần lớn nhất trong cán cân
thanh toán, nhưng trong đó cũng có một số giao dịch khác, tuy không bao gồm đầu tư quốc
tế và lợi nhuận từ những khoản đầu tư này.
Nước Đức có khả năng cạnh tranh lớn hơn so với phần còn lại của thế giới có thể là
do các nước thành viên của khu vực sử dụng đồng euro khác đã hoạt động tương đối yếu và
như vậy giữ cho đồng euro không tăng giá mạnh so với với các đồng tiền khác.
Kể từ khi cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu đi vào giai đoạn tồi tệ nhất vào giữa
năm 2008, tất cả các nước này, bao gồm cả nước Đức, đều đã có sức cạnh tranh toàn cầu
được cải thiện.
Đầu tư nước ngoài:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 2007: 630 tỉ USD.
Trước khi thống nhất đất nước, nhiều nhà công nghiệp Đức và các nhà đầu tư đã
được di chuyển cơ sở sản xuất của Đức sang các nước khác đặc biệt là Tây Ban Nha và Bồ
Đào Nha hoặc Hoa Kỳ hoặc các nước khác nơi có chi phí lao động thấp.
Công ty đầu tư ở nước ngoài ở Đức là lớn nhất thế giới sau Hoa Kỳ, vượt xa các
nước như Trung Quốc, Nhật Bản và Pháp.
Một số nhà đầu tư nước ngoài lớn của Đức: công ty truyền thông Deutsche
Telekom, nhà sản xuất ô tô Volkswagen và công ty hậu cần Deutsche Post. Phần lớn đầu tư
là tập trung vào châu Á, vì Châu Á có chi phí sản xuất rất rẻ, làm cho nó một điểm đến hấp
dẫn đối với đầu tư vào sản xuất.
Cơ sở hạ tầng: hàng đầu thế giới.
Chất lượng đường giao thông và sân bay, đường sắt và cơ sở hạ tầng cảng, và các
thông tin liên lạc của quốc gia xuất sắc và cơ sở hạ tầng năng lượng đứng thứ hai thế giới
sau Hồng Kông (2010).
Trung tâm Logistics toàn cầu của châu Âu
Trang 033
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
Với hệ thống giao thông vận tải hiện đại bằng đường không, đường sắt, đường thủy
hoặc Autobahn, Đức cung cấp truy cập nhanh vào các thị trường trong nước và quốc tế.
Đức là một trung tâm hậu cần toàn cầu với doanh thu 200 tỷ EUR trong năm 2009. Cổ
phần chi phối của các thị trường hậu cần châu Âu làm cho các cầu thủ quan trọng nhất
trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của châu Âu. Hàng hóa đi qua Đức hơn là thông
qua bất kỳ quốc gia châu Âu khác.
Ở phía Bắc, các cảng biển của Đức (Berlin, Bonn, Bremen) là một cơ quan quan
trọng đối với thương mại với Anh, Scandinavia và các quốc gia Baltic. Ở phía tây, một
mạng lưới rộng lớn của đường bộ, đường sắt và đường thuỷ nội địa nguồn cấp dữ liệu vào
Pháp và các nước Benelux. Hệ thống đường sắt liên bang của Đức bao gồm khoảng 44.000
km (27.341 dặm) theo dõi hoạt động thuộc sở hữu của chính phủ. Hệ thống theo dõi điện
ước tính khoảng 20.300 km (12.614 dặm). Về phía nam, Đức có quan hệ thương mại với
Thụy Sĩ và Áo và đường trực tiếp, đường sắt và nước liên kết với các quốc gia Balkan
Chuyển về phía đông, đường biên giới của Đức với Ba Lan và Cộng hòa Séc cũng mang lại
Slovenia, Cộng hòa Slovak và Hungary trong tầm tay dễ dàng và làm cho thị trường xa hơn
ở Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Ukraine và Nga dễ dàng tiếp cận.
Nhà cung cấp dịch vụ hậu cần lớn nhất thế giới là công ty Deutsche Post (DHL).
Sân bay:
Có 625 sân bay tại Đức. Khoảng một nửa có đường băng trải nhựa. Hãng hàng
không hàng đầu của Đức, Lufthansa, là một trong số các nhà lãnh đạo thế giới trong ngành
công nghiệp hàng không.
Vận tải biển: các cảng chính trên biển Baltic, trong đó có Kiel, Rostock,
Luebeck, và trên biển Bắc, bao gồm cả Emden, Hamburg, Bremen, và Bremerhaven; kênh
Kiel cung cấp một kết nối quan trọng giữa biển Baltic và Biển Bắc. Hamburg là thành phố
cảng lớn nhất ở Đức, chiếm khoảng 33% của tất cả các vận chuyển hàng hóa. Nhiên liệu
vận chuyển bằng đường ống dẫn dầu ở Đức đã tăng từ 74,1 triệu tấn năm 1990 lên 90,7
triệu tấn trong năm 1998.
Động cơ:
Trang 034
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
Hơn 45 triệu xe có động cơ trên đường gây ra việc sử dụng đường cao và ùn tắc giao
thông thường xuyên. Tuy nhiên, nhiều người Đức ưa thích để sử dụng hệ thống giao thông
công cộng rộng lớn, hoặc xe đạp, thay vì xe có động cơ.
Truyền thanh, truyền hình: ZDF là hãng lớn nhất châu Âu. Đài phát thanh,
truyền hình đối ngoại là Deutsche Welle (DW-TV, DW-Radio, DW-world.de).
Viễn thông :
Đức có một trong các hệ thống viễn thông công nghệ tiên tiến nhất của thế giới. Với
thị phần 28%, Đức là thị trường viễn thông lớn nhất duy nhất ở châu Âu và hoàn toàn tự do
hóa (tháng 1/1998).
Dịch vụ điện thoại di động là phổ biến rộng rãi và bao gồm các dịch vụ chuyển vùng
với nhiều quốc gia nước ngoài.
Thông tin di động là một trong những khu vực đang phát triển nhanh nhất trong nền
kinh tế Đức. Sử dụng điện thoại di động ở Đức không được coi là "hợp thời trang", hay là
người sử dụng được coi là "quan trọng”. Tại Đức, lý do cho việc sử dụng các thiết bị viễn
thông di động chủ yếu là thực dụng.
Chăm sóc sức khỏe
Bệnh viện thuộc sở hữu đa dạng, trong đó tiếp tục khuyến khích cạnh tranh và nỗ
lực không ngừng để nâng cao tiêu chuẩn.
Chi tiêu thuốc tại Đức đã tăng lên hai phần ba trong thập kỷ qua.
Tuy nhiên, với một dân số lão hóa và tăng trưởng tiền lương trì trệ từ suy thoái kinh
tế, trả tiền cho chi phí chăm sóc y tế ngày càng tăng đang trở thành một gánh nặng.
tăng chi phí y tế và dân số lão hóa là những thách thức nghiêm trọng mà tất cả
các nước phát triển phải đối mặt.
Giáo dục:
Hiện nay, tại Đức có khoảng 312 trường Đại học và rất nhiều trường dạy nghề. Hệ
thống giáo dục của Đức nổi tiếng với sự sàng lọc rất khe khắt. Từ giai đoạn phổ thông
trung học, học sinh đã được định hướng nghề nghiệp và chỉ có những học sinh khá giỏi sau
khi hoàn thành tốt 13 năm học trung học, học sinh mới được tiếp tục theo học tại các
trường Đại học.
Trang 035
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
Hệ thống giáo dục của Đức là một hệ thống đào tạo chất lượng cao hiện đại gắn với
thực tiễn. Với nguyên tắc cơ bản là khuyến khích tiềm lực từ người học, các trường Đại
học ở Đức luôn hướng tới mở rộng quan hệ hợp tác, tăng các chương trình học trao đổi,
chương trình đào tạo Quốc tế nhằm tạo danh tiếng và nâng giá trị văn bằng tốt nghiệp. Nhờ
đó các chương trình đào tạo ở Đức rất phong phú, đa dạng và rất cởi mở. Bao gồm hệ
thống các trường đại học tổng hợp và các trường đại học khoa học ứng dụng.
B. Quốc gia Hà Lan:
Vương quốc Hà Lan là một nước Tây Âu, có bờ biển dài 1075km, diện tích tự
nhiên 41.526 km2, trong đó diện tích lục địa 33.873 km2. Là một nước nhỏ, nghèo tài
nguyên thiên nhiên nhưng Hà Lan là một trong những quốc gia Châu Âu thu hút vốn đầu
tư nước ngoài nhất. Là một nhà đầu tư Việt Nam, nền kinh tế quốc gia còn đang phát
triển, vị thế trên trường quốc tế chưa cao, việc đầu tư sang một quốc gia giàu có như Hà
Lan đầy mạo hiểm và thử thách. Vì vậy, chúng ta cần phải thật thận trọng và thông minh
để có thể thành công. Người xưa có câu “biết người biết ta, trăm trận trăm thắng”, cho
nên, việc phân tích môi trường kinh tế là vô cùng cần thiết.
1. Giai đoạn phát triển của thị trường:
Từ thế kỷ 16, Hà Lan đã theo kinh tế thị trường, tự do hóa nền kinh tế-
thương mại, có đội thương thuyền mạnh nhất thế giới, xâm chiếm Mỹ (còn nhiều địa
danh do người Hà Lan đặt tên như phố Wall, khu Harlem, New York vốn tên là New
Amsterdam...), châu Phi, Indonesia... Thế kỷ 17, Hà Lan là trung tâm tài chính lớn nhất
thế giới với các tổ chức tín dụng, ngân hàng, thị trường chứng khoán đầu tiên trên thế
giới với những con tàu chuyên chở 90% hàng hóa của Châu Âu. Công ty tàu biển Đông
Ấn VOC được coi là tập đoàn xuyên quốc gia đầu tiên trên thế giới. Do vậy, thế kỷ 17
được coi là “thế kỷ Hà Lan”, sau đó bị Anh, Đức, Mỹ vượt lên.
Ngày nay, Hà Lan đứng thứ hạng 16 trên thế giới, đứng thứ 5 trong danh sách sức
cạnh tranh quốc tế của IMF, theo nhà chức trách EIV, trong vòng 5 năm tới, Hà Lan sẽ là
sự lựa chọn tốt nhất trong thế giới kinh doanh và đầu tư, là một trong những quốc gia
Trang 036
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
Châu Âu thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhất và ngoại thương vẫn là động lực phát triển
chính của nền kinh tế Hà Lan.
Sự phát triển nền kinh tế Hà Lan ngày nay
Bảng thống kê chỉ số GDP, GNP của Hà Lan
Xếp hạng GDP 23rd GDP(PPP) (2005)
GDP 796,7 tỉ USD (2009)
Tăng trưởng GDP - 3,9 % (2009), 1,9% (2008), 3.9% (2007)
GDP đầu người 39.400 USD (2009)
GDP theo lĩnh vực Nông nghiệp (2%), chế tạo (19%), dịch vụ (79%) (2002)
Nền công nghiệp chủ yếu Nông nghiệp – liên quan đến công nghiệp, kim loại và sản phẩm xây dựng, điện tử và thiết bị điện, hóa chất, dầu mỏ, xây dựng, microelectronic, đánh cá.
Nợ công 60,9 %
GNP 792,128 tỷ USD (2009)
Hà Lan có tổng sản phẩm quốc gia (GNP) là 598 tỷ USD, đứng thứ 16 trên thế
giới và đứng thứ 6 ở Châu Âu vào năm 2005 , GNP đã đóng góp không nhỏ vào việc xây
dựng nền kinh tế bền vững của Hà Lan.
Tỉ lệ tăng trưởng GDP hằng năm
Trang 037
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
Giữa giai đoạn 1998 và 2000, kinh tế tăng trưởng trung bình 4%, cao hơn nhiều
mức trung bình Châu Âu. Tăng trưởng đã chậm đáng kể giai đoạn 2001-2005 do sự suy
giảm toàn cầu. Tuy nhiên, năm 2006 lại tăng 2.9%. Tăng trưởng đạt 4.2% trong quý 3
năm 2007. Năm 2007, kinh tế cơ bản tiếp tục phát triển, GDP đạt 556 tỉ euro và tổng kim
ngạch thương mại là 654 tỉ euro.
Tuy nhiên từ năm 2008 kinh tế Hà Lan bị tác động mạnh của khủng hoảng tài
chính và suy thoái kinh tế thế giới, là một trong những nước Châu Âu bị tác động mạnh
bởi khủng hoảng. Mặc dù Chính phủ đã có nhiều nỗ lực (từ 2008 dành khoảng 50 tỉ euro
để kích cầu tập trung vào 4 lĩnh vực chính: mua nợ xấu kèm điều kiện tăng giám sát hệ
thống tài chính; mở rộng giao thông như nâng cấp cơ sở hạ tầng dài hạn, tạo việc làm,
giảm thất nghiệp..; hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ là đối tượng bị tác động mạnh nhất
của khủng hoảng nhưng năng động, dễ thích nghi, tạo nhiều việc làm; tăng bảo hiểm xã
hội nhất là cho người già, trẻ em, người bệnh) nhưng tình hình vẫn rất khó khăn. Nhưng
năm 2009, vẫn chịu ảnh hưởng kinh tế suy thoái.
GDP bình quân đầu người
Trang 038
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
Nguồn: indexmundi.com
GDP bình quân đầu người của Hà Lan tăng trưởng đều đặn qua các năm trong gần
một thập kỷ và luôn đứng ở mức có thu nhập cao, cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính thế
giới năm 2008 đã làm GDP bình quân sụt giảm đáng kể, bằng những cố gắng của chính
phủ đến năm 2010 nền kinh tế mới gần như hồi phục.
Nông nghiệp:
Tỉ trọng nông nghiệp trong nền kinh tế rất thấp, chỉ chiếm khoảng 2% (năm 2002)
trong cơ cấu nhưng lại là thế mạnh của Hà Lan, xuất khẩu nông sản đứng thứ 3 thế giới
và chiếm 7,7% thị phần toàn cầu. Được mệnh danh là vườn rau của toàn Châu Âu, trong
đó thị phần hoa của Hà Lan chiếm đến 60% thị phần của thế giới. Các phương pháp quản
lý và sản xuất theo công nghệ hiện đại đã mang lại những vụ mùa năng suất cao, chất
lượng tốt cũng như lợi tức lý tưởng cho nền nông nghiệp Hà Lan.
- Trồng trọt:
Nói đến ngành nông nghiệp Hà Lan chúng ta không thể nào bỏ qua ngành rau-hoa-
cây cảnh. Nổi tiếng thế giới là "vườn hoa châu Âu" hoặc "vương quốc hoa". Ngành sản
xuất rau-hoa-cây cảnh có vị thế quan trọng trong nền nông nghiệp Hà Lan, chủ yếu sản
xuất trong nhà kính, sản xuất ngoài trời rất ít, chỉ chiếm 6% diện tích đất nông nghiệp. Có
Trang 039
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
những nhà kính sử dụng công nghệ không dùng đất. Sản xuất trong nhà kính được
chuyên môn hoá cao độ, sản xuất ra sản phẩm có đẳng cấp cao, gồm trồng hoa, củ hoa
Tuylip, cây cảnh, rau, quả, nấm và cây giống.
Hoa Tuylíp là quốc hoa của Hà Lan, đã đưa ra thị trường bán buôn 200 loài.
Những loài hoa nhiệt đới, á nhiệt đới nhập khẩu đều là những giống mới. Hiện nay, hàng
ngày Hà Lan bán ra thế giới 17 triệu cành hoa cắt và 1.7 triệu chậu hoa. Cây cảnh cũng là
nguồn quan trọng về thu nhập. Diện tích sản xuất củ hoa cũng lớn, riêng hoa Tuylíp có
8500ha, sản xuất 3 tỷ củ hoa Tuylip/năm. Hàng năm sản xuất khoảng 7 tỉ củ hoa các loại,
giá trị 750 triệu USD.
Trong giai đoạn (1997-1999) các mặc hàng nông sản Hà Lan đều đứng nhất nhì
trên thị trường thế giới như: Hoa tươi cắt, cây cảnh trong chậu, cà chua, pho mát khô, sữa
đặc, thịt lợn, bia đại mạch, Sôcôla, thuốc lá…
Kim ngạch xuất khẩu nông sản tính theo đầu người rất cao. Trong 5 năm 1995-
1999, hàng năm kim ngạch xuất khẩu nông sản của Hà Lan bình quân đạt 37.83 tỉ USD.
Vì thiếu đất canh tác, Hà Lan thực thi chiến lược "đầu tư cao-sản xuất nhiều", là
một đặc trưng nổi bật của nền nông nghiệp Hà Lan. Hệ thống thuỷ lợi và phòng chống lũ
có tiêu chuẩn an toàn cao nhất thế giới. Mạng lưới kênh rạch chằng chịt bảo vệ đồng
ruộng, đảm bảo đồng ruộng dù thấp hơn mực nước biển tới 4-6m vẫn được sản xuất theo
công nghệ cao, được coi là kỳ quan của thế giới.
Sau đây là một vài so sánh để thấy rõ được hiệu quả sản xuất nông nghiệp của Hà
Lan:
So với Nhật: Kim ngạch xuất khẩu luỹ kế của Nhật 40,9 tỉ USD, chỉ tương
đương mức xuất khẩu trong một năm 1996 của Hà Lan. Trong 5 năm 1995-1999,
mức nhập khẩu nông sản của Nhật vượt quá 269 tỉ USD chiếm 10,6% thế giới,
mức nhập siêu bình quân tới 51,5 tỉ USD/năm, trái ngược với tình hình Hà Lan
Đức: Có 82,26 triệu dân, diện tích canh tác 11,83 triệu ha, bình quân đầu
người tương đương 2,5 lần Hà Lan. Kim ngạch xuất khẩu nông sản của Đức đạt 20
Trang 040
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
tỉ USD/năm, nhưng lại là nước nhập siêu nông sản. Trong 10 năm gần đây, mức
nhập siêu bình quân trên 18 tỉ USD/năm.
- Chăn nuôi: là ngành sản xuất quan trọng nhất của nền nông nghiệp Hà Lan.
Tuy quỹ đất ít, nhưng diện tích đồng cỏ lại lớn hơn diện tích đất canh tác.
o Chăn nuôi gia súc thông thường.
Là một ngành sản xuất nổi tiếng của Hà Lan, nhưng do ảnh hưởng của chính
sách nông nghiệp EU nên có phần bị hạn chế. Nghề nuôi bò sữa có lịch sử lâu
đời. Sữa bò phát triển được coi là một ngành sản xuất thúc đẩy sự phát triển
kinh tế -xã hội Châu Âu, nhất là Hà Lan. Hà Lan là một nước sản xuất sữa và
chế phẩm sữa bò lớn nhất thế giới. Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm sữa hàng
năm của Hà Lan đạt 2,5 tỉ Euro, chiếm tới 15% tổng mức xuất khẩu nông sản
toàn thế giới.
Ngành sản xuất này tạo tiền đề cho sự phát triển của hợp tác xã và ngành chế
biến cũng là ngành thúc đẩy sự truyền bá công nghệ mới, là nguồn tạo tích luỹ
vốn, giúp nông dân dễ tiếp cận phương thức sống của đô thị. Hiện nay, kim
ngạch xuất khẩu sản phẩm sữa bò. Đây cũng là một ngành tạo ra nhiều cơ hội
tôi luyện tinh thần hợp tác cộng đồng trong nông dân, cũng là một trường học
về kỹ thuật và quản lý cho nông dân. Có người cho rằng, nghề nuôi bò sữa là
bàn đạp thúc đẩy nền văn minh nông nghiệp Châu Âu.
o Chăn nuôi gia súc tập trung:
Chăn nuôi lợn phát triển mạnh. Quy mô trang trại ngày càng lớn, nhưng ở Hà
Lan có yêu cầu cao về bảo vệ môi trường, nên vẫn hạn chế nuôi lợn.
EU không hạn chế nuôi gà, cho nên ở Hà Lan, chăn nuôi gà phát triển rất
nhanh. Hà Lan còn nuôi gà tây, vịt, trong đó, đàn gà tây có 1.36 triệu con.
Lâm nghiệp: Hà Lan có diện tích rừng ít ỏi, từ 29.550 ha năm 1981 tăng lên
32330 ha năm 1996, chiếm 13,7% diện tích lục địa. Nhà nước hạn chế khai thác, khuyến
khích trồng rừng, tiêu dùng gỗ và sản phẩm gỗ dựa vào nhập khẩu. Chức năng của rừng
chủ yếu là bảo tồn tự nhiên và sử dụng làm nơi nghỉ dưỡng cho dân.
Ngư nghiệp: Nuôi trồng và khai thác các loài thuỷ sản Hà Lan có 12 cảng
cá, là một trong tám nước sản xuất lớn về thuỷ sản ở Châu Âu. Sản lượng cá 520.000
Trang 041
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
tấn/năm, ngư trường chủ yếu ở Bắc Hải, Bắc Đại Tây Dương, Tây và Nam Ailen
v.v...Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Hà Lan năm 1996 đạt 1,48 tỉ USD, đứng thứ 11
thế giới, nhập khẩu 1,14 tỉ USD, xuất siêu 337 triệu USD.
Công nghiệp
Nền công nghiệp phát triển và ổn định chiếm khoảng 19% trong cơ cấu GDP (năm
2002). Các ngành công nghiệp mũi nhọn của Hà Lan là chế biến thực phẩm với ngành
công nghiệp sữa phát triển hiện đại bậc nhất thế giới và truyền thống hàng trăm năm nuôi
bò sữa. Hà Lan còn là quốc gia có các phòng nghiên cứu và kiểm nghiệm sữa đạt tiêu
chuẩn Châu Âu.
Các ngành khác như:
Hoá chất, khai thác dầu khí và sản xuất máy móc thiết bị điện tử…
Khai thác khoáng sản, than, đá và dầu khí: Hà Lan là nước xuất nhập khẩu
thứ hai thế giới về các sản phẩm dầu mỏ, các hoạt động trong lĩnh vực phát
triển dầu mỏ, khí đốt và lọc hóa dầu chiếm tới 11% khối lượng xuất khẩu.
Mỗi năm, 100 triệu tấn dầu thô được vận chuyển qua cảng Rotterdam, gần
30% trữ lượng khí đốt tự nhiên châu Âu là của Hà Lan, 15 - 20% khí đốt
tiêu thụ tại châu Âu đến từ Hà Lan. Họ có mạng lưới các hệ thống phân
phối khí đốt dày đặc nhất tại châu Âu với chất lượng cao.
Cảng Rotterdam lớn thứ tư thế giới, là trung tâm kinh doanh dầu thô và
các sản phẩm dầu của châu Âu, nơi hiện có 5 nhà máy lọc dầu quốc tế, hơn
40 công ty hóa dầu và 3 nhà máy sản xuất khí công nghiệp. Cảng
Rotterdam đang được mở rộng thêm với diện tích 1.000ha, dự kiến được
đưa vào hoạt động năm 2014.
Ngoài ra, các doanh nghiệp của Hà Lan những "chuyên gia" về lĩnh vực
khai thác ngoài khơi với chuyên môn hàng đầu trong việc thăm dò dầu khí,
thiết kế và chế tạo các thiết bị ngoài khơi, lắp đặt đường ống, nạo vét,
nghiên cứu địa chấn, tháo lắp vận chuyển và lắp đặt các công trình ngoài
khơi.
Trang 042
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
Chế biến, chế tạo (kể cả chế biến thực phẩm, gỗ) một nước công nghiệp
phát triển và có thế mạnh về các lĩnh vực: chế biến thực phẩm, lọc và tinh
chế dầu mỏ, sản xuất và chế tạo kim loại.
Dịch vụ:
Chiếm 79% trong cơ cấu GDP (năm 2002), Hà Lan được biết đến là một đất nước
cung cấp dịch vụ toàn cầu, có một thái độ cởi mở với thế giới. Theo Văn phòng thống kê
TW của Hà lan (CBS) Hà lan đứng thứ 5 trong Liên minh châu Âu về xuất khẩu dịch vụ,
là quốc gia xuất khẩu hàng hoá và vốn lớn thứ 8 thế giới. Phần lớn xuất khẩu dịch vụ của
Hà lan trong lãnh vực nghiên cứu và phát triển, kinh doanh ngân hàng, bảo hiểm, tư vấn,
kiến trúc và cơ khí. Dịch vụ vận tải là ngành xuất khẩu đứng thứ hai. Hà Lan là khu vực
tài chính lớn thứ 7 và là ngôi nhà của nhiều ngân hàng nổi tiểng thế giới như ABN
AMRO, ING và Rabobank, những ngân hàng đứng trong danh sách 20 ngân hàng hàng
đầu thế giới. Ngoài ra, Amsterdam là một trong những trung tâm tài chính lớn của thế
giới, và Rotterdam là một trong những cảng bận rộn nhất của thế giới.
Là nước hẹp, người đông, không có nhiều tài nguyên thiên nhiên, Hà Lan chỉ có
hơi đốt và một khối lượng không lớn dầu lửa ở biển Bắc nhưng đã biết sử dụng thế mạnh
là một quốc gia ven biển, cửa khẩu của 3 con sông lớn ở Tây Âu và giữa các cường quốc
kinh tế Anh, Pháp, Đức để phát triển các ngành dịch vụ hàng hải, cảng, vận tải sông, công
nghiệp chế biến, hoá dầu… đặc biệt là công nghiệp hoa và ngành công nghiệp thực phẩm.
Cùng với chiếc cối xay gió, hoa Tulip, nổi tiếng thế giới bởi khu chợ phô mai
truyền thống- một nét văn hóa độc đáo, nhiều tòa nhà lớn được xây dựng theo lối kiến
trúc thời Trung cổ đã đưa Hà Lan trở thành một địa điểm du lịch đặc sắc trên thế giới thu
hút ngàn triệu du khách đặt chân đến đất nước này. Hà Lan cũng là một trong những quốc
gia đầu tiên trên thế giới cho phép sử dụng ma tuý công khai; công nhận mại dâm như
một nghề hợp pháp. Hà Lan cũng đi tiên phong trong việc công nhận kết hôn đồng giới...
Hà Lan nổi tiếng với nhiều thắng cảnh như: Triển lãm hoa và vườn hoa Floriade,
Keukenhof, Vườn quốc gia De Hoge Veluwe và Veluwezoon tại Veluwe, Khu vực bảo
vệ tự nhiên Texel, Reeuwijkse Plassen tại Gouda, Schiermonnikoog .
Amsterdam là thủ đô của Hà Lan và cũng là một điểm du lịch lớn thu hút nhiều du
khách đặt chân đến đây. Được mệnh danh là thành phố của những cây cầu, với hệ thống
Trang 043
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
kênh rạch chẳng chịt, từ ngoài thành phố đi vào bên trong du khách sẽ phải đi qua không
biết bao nhiêu cây cầu. Ước tính tổng số lượng cầu nơi đây là 1000. Bởi vì vậy mà nơi
đây rất thích hợp cho du khách làm những chuyến du lịch quanh thành phố bằng tàu
thuyền mà không phải nơi đâu cũng có thể thực hiện được. Một phần khu phố cổ xưa của
thành phố này được gọi là “khu đèn đỏ” bao gồm Coffeeshops là một trong những nơi có
quyền bán thuốc bồ đà, Càfé nâu, và nhà đỏ là nơi dành cho du khách làng chơi khi màn
đêm buông xuống.
Thành phố Hague nằm trên Biển Bắc với bãi biển Scheveningen. Đây là bãi biển
nổi tiếng nhất của Hà Lan, cũng như các khu nghỉ mát ven biển của Kijkduin. Maastricht
được biết đến như là một trung tâm truyền thống, lịch sử , văn hóa , và phổ biến với
khách du lịch cho mua sắm và giải trí.
Giáo dục:
Hà Lan là một đất nước có định hướng quốc tế và sáng tạo với vị trí địa lý toạ lạc
ngay tại trung tâm của châu Âu, điều này cũng thu hút các du học sinh trên toàn thế giới.
Hà Lan là quốc gia không nói tiếng Anh đầu tiên có các khóa học được giảng dạy bằng
tiếng Anh. Có hơn 1,500 chương trình và khóa học quốc tế được giảng dạy bằng tiếng
Anh tại tất cả các trường đại học ở Hà Lan.
Chương trình giáo dục đại học và sau đại học ở Hà Lan nổi tiếng thế giới vì chất
lượng cao. Điều này có được nhờ vào một hệ thống quốc gia về nguyên tắc và đảm bảo
chất lượng. Hà Lan cũng được quốc tế công nhận về việc ứng dụng đầu tiên một hệ thống
giảng dạy dựa trên phương pháp giải quyết vấn đề, theo đó sinh viên được đào tạo để tự
mình phân tích và giải quyết những vấn đề thực tiễn một cách độc lập.
Cơ sở hạ tầng:
Hà Lan là trung tâm của mạng lưới giao thông bao gồm hàng không, đường biển,
đường sông, và tàu hoả toả đi khắp các nơi trên thế giới. Rotterdam là hải cảng lớn nhất
châu Âu và lớn nhất thế giới cho đến năm 2004 khi vị trí này bị hải cảng Thượng Hải
Trang 044
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
chiếm ngôi. Sân bay Schiphol của thủ đô Amsterdam là một trong những sân bay chính
của châu Âu.
Hà Lan có một cơ sở hạ tầng tuyệt vời của các cảng, sân bay, và các con đường.
Nó cũng có một hệ thống viễn thông phát triển cao. Kể từ khi Hà Lan là một trong những
điểm chính của nhập cảnh đối với hàng hoá nhập khẩu vào châu Âu nên cơ sở hạ tầng là
rất quan trọng. Để cải thiện cơ sở hạ tầng, chính phủ có kế hoạch liên kết đường sắt tốc
độ cao giữa Amsterdam và Brussels, cải thiện đường cao tốc hiện tại. Một trong các dự
án cơ sở hạ tầng đang diễn ra chính tại Hà Lan là nỗ lực để ngăn chặn lũ lụt. Hơn một
nửa lãnh thổ của đất nước được bảo vệ khỏi bị ngập lụt bởi một hệ thống rộng lớn của
các đập, đê điều.
Quốc gia này có 2.739 km (1.702 dặm) đường sắt. Giao thông vận tải cũng
được hỗ trợ bởi một mạng lưới rộng lớn của đường thủy và kênh rạch. Các cảng Hà Lan
chính là Amsterdam, Dordecht, Groningen, Haarlem, Maastricht, Rotterdam, và Utrecht.
Rotterdam là cảng biển lớn nhất thế giới và xử lý có trọng tải hơn bất kỳ cảng khác.
Khoảng 70% của tất cả các hàng hóa nhập khẩu vào Hà Lan đi qua Rotterdam. Có 28 sân
bay ở Hà Lan, Amsterdam là sân bay sân bay thứ năm bận rộn nhất châu Âu.
Để cung cấp nguồn năng lượng trong cả nước, Hà Lan có một hệ thống đường ống
phát triển. Có 418 km đường ống dẫn dầu thô, 965 km của đường ống dẫn cho các sản
phẩm xăng dầu khác, và 10.230 km đường ống dẫn khí tự nhiên.
Hà Lan hiện nay thuộc nhóm nước HDC’s ( Post-industrialized countries ),
với các đặc điểm: khu vực dịch vụ chiếm tỉ lệ quan trọng 74% (2002), nhiều thách thức
do trình độ cạnh tranh tăng, nền kinh tế tri thức, tư bản là chủ yếu, Hà Lan là quốc gia có
mức sống cao, nơi định cư lý tưởng.
Dự báo nền kinh tế Hà Lan trong tương lai:
Hà Lan có nền sản xuất tạo giá trị gia tăng cao trong sản phẩm. Đặc điểm nổi bật
của Hà Lan là lấy thương mại quốc tế làm đòn bẩy phát triển kinh tế. Trọng tâm chính
sách kinh tế hiện nay của Chính phủ Hà lan là giảm thâm hụt ngân sách. Theo dự báo của
cơ quan phân tích kinh tế trung ương của Hà lan, thâm hụt ngân sách giảm nhanh hơn
dự kiến; thâm hụt cao ở mức 5,2% GDP năm 2010 theo tính toán sẽ giảm xuống còn
2,2% GDP vào năm 2011.
Trang 045
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
Tính toán theo mô hình thương mại thế giới, xuất khẩu của Hà lan đã tăng trưởng
mạnh năm 2010 và có khả năng giảm trong tương lai vài năm tới. Tuy nhiên vào những
năm 2011 và 2012, tăng trưởng xuất khẩu vẫn chiếm vị trí quan trọng tạo nên tăng trưởng
kinh tế.
Tiêu dùng của các hộ gia đình và đầu tư kinh doanh của các doanh nghiệp thận
trọng có phần làm cho tăng trưởng chậm. Đầu tư của các doanh nghiệp sau 2 năm giảm
đã có dấu hiệu tăng trở lại.
Thị trường lao động có những dấu hiệu tích cực đáng ngạc nhiên: tỷ lệ thất nghiệp
giảm xuống ở mức thấp hơn nhiều so với dự báo ở mức khoảng 4% năm 2012. Tuy
nhiên, thị trường vẫn tiềm ẩn những dấu hiệu không bền vững như giá dầu tăng cao; sự
hồi phục chậm toàn cầu về sức tiêu dùng và sự tự tin của nhà sản xuất; và đồng euro tăng
giá nhanh.
Cơ quan phân tích kinh tế của Hà lan đã đưa ra những con số và dự báo dưới đây:
Các chỉ số kinh tế chính 2010(%) 2011(%) 2012(%)GDP 1,7 1,75 1,5Thương mại quốc tế 11,3 6,25 5Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) 1,3 2 2Thất nghiệp(% lực lượng lao động) 4,5 4,25 4Xuất khẩu hàng hóa (không tính năng lượng) 12,7 7,25 5,25Sức mua trung bình của các hộ gia đình -0,4 -0,75 -0.75
2. Phân phối thu nhập:
Thu nhập cá nhân: Hà Lan có mức thu nhập bình quân đầu người khá cao 42.447
USD xếp hạng thứ 8 trong 10 nước có thu nhập cao nhất thế giới năm 2011 do tạp chí
Forbes bình chọn. Đứng thứ năm trong danh sách năm 2004 về đánh giá các quốc gia
theo tiêu chuẩn mức sống, sau Na Uy, Thụy Điển, Úc và Canada.
Các hộ gia đình ở Hà Lan đã có 28 ngàn đồng euro trung bình chi tiêu trong năm
2003. Thu nhập trung bình cao nhất trong các hộ gia đình từ 50 đến 55 tuổi. Thu nhập
cao nhất từ doanh nghiệp lao động và sở hữu.
Có gần 7 triệu hộ gia đình ở Hà Lan vào năm 2003 có thu nhập trung bình 28 ngàn
euro. 16% hộ gia đình phụ thuộc vào lương hưu hoặc trợ cấp đối với thu nhập của họ đã
có, trong khi các hộ gia đình có thu nhập từ lao động hoặc doanh nghiệp là 55%.
Trang 046
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
Các hộ gia đình bằng nguồn thu nhập chính của năm 2003
3. Phân bổ dân số:
Dân số Hà Lan khoảng 17 triệu người, với khoảng 480 người dân trên một cây số
vuông (2011), là quốc gia có mật độ dân số cao và phân bổ khá đều trên lãnh thổ - đất
nước không có núi. Sự chênh lệch giàu– nghèo không quá lớn.
Tỷ lệ tăng dân số bình quân hằng năm
Cơ cấu tuổi (số liệu 2007, nguồn www.cia.gov)0 - 20 tuổi 20-45 tuổi 45-65 tuổi 65-80 >80
24.2% 34.4% 26.95% 10.8% 3.7% Tuổi thọ trung bình:
- Tuổi thọ trung bình đối với nam: 77,1 tuổi.
Trang 047
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
- Tuổi thọ trung bình đối với nữ: 81,3 tuổi.
Tỉ lệ sinh: 10,7/1000 người.
Tỉ lệ tử: 8,69/1000 người.
Tỉ lệ nhập cư: 2,63/1000 người.
Dân tộc:
- Gốc Hà Lan: 18%.
- Gốc khác: 19% ( trong đó 10% không phải gốc phương tây chủ yếu là
Turks, Moroccans, Antilleans, Surinamese và Indonesians).
Tỉ lệ phụ nữ đi làm:
Phụ nữ tham gia vào thị trường lao động với tỉ lệ 66%, cao hơn tỉ lệ trung bình của
châu Âu. Tuy nhiên một tỷ lệ lớn trong số này làm việc bán thời gian, phụ nữ Hà Lan còn
thiếu tham vọng. Chỉ 30% phụ nữ Hà Lan, chiếm tỉ lệ thấp nhất trong số phụ nữ cùa khối
liên minh châu Âu, đảm nhiệm các công việc quan trọng mang tính chuyên nghiệp và
quản lý.
Những quan niệm xã hội về đức tính của một người mẹ tốt đã ăn sâu vào xã hội
Hà Lan. Ingrid Ooms, một trong các tác giả của bản báo cáo đã nói: "Theo những giá trị
này, người mẹ phải ở nhà và việc giao con cho một người lạ là sai trái”.
Như hầu hết các quốc gia phát triển ở Châu Âu, Hà Lan có cơ cấu dân số
già, tuổi thọ trung bình cao, tốc độ gia tăng dân số giảm đều đặn từ 2004 cho đến nay, tỉ
lệ sinh hằng năm thấp, và có xu hướng giảm trong các năm tới => không có lợi thế trong
các ngành thâm dụng lao động.
Kế hoạch kinh tế của quốc gia:
Ít quan tâm đến lĩnh vực quốc phòng, chú trọng về năng lượng tái tạo hơn
vấn đề ô nhiễm ngày càng tăng trên ozone, ô nhiễm không khí địa phương. Các chính
sách bao gồm các tiêu chuẩn hiệu suất năng lượng chặt chẽ đối với các tòa nhà mới, thỏa
thuận tự nguyện với các ngành sản xuất, và sử dụng gia tăng nhiệt và điện kết hợp, cũng
như phát triển năng lượng tái tạo.
Theo khuôn khổ chính sách năng lượng thông qua năm 2020, chính phủ Hà
Lan dự định để tăng cổ phần tái tạo năng lượng khoảng 10%, 6% từ phát điện; khoảng
Trang 048
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
3% so với sản xuất nhiệt, chủ yếu từ hệ thống nước nóng năng lượng mặt trời và máy
bơm nhiệt, và ít hơn 1% từ khu vực giao thông vận tải. Với việc thông qua kế hoạch này
và phát triển những nỗ lực cụ thể để hỗ trợ Nghị định thư Kyoto nhằm đối phó với biến
đổi khí hậu, các chương trình để thúc đẩy việc sử dụng năng lượng tái tạo, đặc biệt là
năng lượng gió và năng lượng mặt trời nước nóng được chú trọng đầu tư.
4. Liên kết kinh tế:
Hà Lan là nạn nhân của nhiều cuộc chiến tranh (Tây Ban Nha, Pháp, Đức,
Anh...). Trước chiến tranh thế giới thứ 2, Hà Lan theo đường lối trung lập. Sau khi bị
phát xít Đức chiếm, Hà Lan liên kết với phe đồng minh và phương Tây, tham gia sáng
lập và có vai trò quan trọng ở nhiều tổ chức quốc tế như UN, EU, IMF, Ngân hàng thế
giới, CSCE, GATT-WTO, NATO, ASEM...
Hà Lan ưu tiên củng cố quan hệ với đồng minh truyền thống như Mỹ,
NATO, Tây Âu, Nhật. Ngoại trưởng hiện nay (Verhagen) coi “Mỹ là đồng minh quan
trọng nhất” (Hà Lan đầu tư hơn 150 tỉ USD ở Mỹ - lớn thứ 3 sau Anh và Nhật, Mỹ là nhà
đầu tư lớn nhất ở Hà Lan với hơn 200 tỉ USD), chú trọng quan hệ với các nước đang phát
triển (một phần vì thuộc địa trước đây), tranh thủ tài nguyên, thị trường tiêu thụ...Đặc biệt
ưu tiên hợp tác trong lĩnh vực xây dựng luật pháp quốc tế (Toà án hình sự), an ninh, xây
dựng châu Âu, nhân quyền, xoá đói giảm nghèo, chú trọng lĩnh vực năng lượng, môi
trường, biến đổi khí hậu.
Năm 2010, Hà Lan đóng góp 3,6 tỉ euro cho EU. Chính phủ mới sẽ tiếp tục
chính sách của chính phủ trước. Đối với các vấn đề quốc tế, Thủ tướng Mark Rutte tuyên
bố Hà Lan sẽ tiếp tục gách vác các trách nhiệm quốc tế như đã thực hiện trong quá khứ.
Hợp tác phát triển là một phần quan trọng trong chính sách đối ngoại của
Hà Lan. Hà Lan là một trong những nước có tỉ lệ viện trợ ODA cao nhất trên thế giới
(0,8% GDP hàng năm), tương đương hơn 4 tỉ USD/năm, chủ yếu cho những nước chậm
phát triển nhất ở châu Phi, Nam Á, Mỹ Latinh…
Quan hệ Việt Nam-Hà Lan:
Từ năm 1602, công ty Đông Ấn Hà Lan đến Việt Nam để mua gạo, lụa, sành sứ...
mở đầu cho quan hệ. Hà Lan là một trong những nước Tây Âu viện trợ cho Việt Nam khá
lớn, tổng số khoảng 130 triệu USD (trong đó 100 triệu USD là viện trợ không hoàn lại).
Trang 049
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
Hà Lan luôn duy trì Việt Nam trong danh sách các nước ưu tiên tiếp nhận tài trợ của Hà
Lan. Ngân sách tài trợ cho Việt Nam tăng đều qua các năm. Các lĩnh vực ưu tiên: Bảo tồn
rừng và đa dạng sinh học, y tế, quản lý nguồn nước và các vấn đề có tính liên ngành như
xoá đói giảm nghèo, giới và phát triển, quản lý nhà nước…
Ngày 12/3/2009, Hà Lan công bố Chương trình ORIO viện trợ phát triển hạ tầng
cho 45 nước đang phát triển trong đó có Việt Nam với ngân quỹ ban đầu khoảng 180
triệu euro nhằm giúp các nước đang phát triển cùng cộng đồng doanh nghiệp thiết lập và
phát triển các dự án hạ tầng lớn.
Việt Nam là 1 trong 23 nước được tiếp nhận tài trợ từ Chương trình NICHE (Sáng
kiến Tăng cường năng lực giáo dục Hà Lan), Theo đó Chính phủ Hà Lan sẽ tài trợ
khoảng 18 triệu Euro cho các dự án tăng cường đào tạo sau trung học trong các lĩnh vực:
i/quản lý nguồn nước, ứng phó với biến đổi khí hậu và nông nghiệp (9 triệu Euro), ii/vận
tải biển (3 triệu Euro), iii/ giáo dục đại học hướng nghề nghiệp (3 triệu Euro), iv/ y tế (3
triệu Euro).
Ngoài ra, trong năm 2009, Hà Lan cũng công bố các sáng kiến hợp tác mới với
Việt Nam như chương trình doanh nghiệp với doanh nghiệp (B2B), chính phủ với chính
phủ (G2G), tri thức với tri thức (K2K) nhằm hỗ trợ ODA cho Việt Nam.
Trao đổi thương mại Quan hệ thương mại Việt Nam-Hà Lan không ngừng phát
triển, kim ngạch thương mại khá lớn và tăng đều hàng năm. Từ năm 2002, xuất khẩu
sang Hà Lan bắt đầu có chiều hướng tăng khá, trung bình khoảng 15%/năm.
Đầu tư trực tiếp: Hà Lan đầu tư vào Việt Nam chủ yếu theo hình thức liên doanh
chiếm 69% vốn đầu tư. Hình thức 100% vốn đầu tư nước ngoài chiếm 18% vốn đầu tư.
Hiện Hà Lan có hơn 130 dự án đầu tư vào Việt Nam với tổng số vốn đăng ký là 5.32 tỷ
USD. Các lĩnh vực đầu tư Hà Lan bao gồm dịch vụ, quản lý nước, môi trường, gần đây là
bán lẻ, bất động sản, nhà ở, đầu tư gián tiếp...
Hợp tác giáo dục và đào tạo giữa hai nước cũng phát triển tốt đẹp. Hà Lan giúp
Việt Nam trong nhiều dự án, như Chương trình hợp tác liên đại học Việt Nam- Hà Lan,
chương trình học bổng Hà Lan…
5. Một số yếu tố kinh tế khác:
Trang 050
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
Tỷ lệ lạm phát ở Hà Lan lần cuối báo cáo ở mức 2.7% trong tháng 9 năm
2011. Từ năm 1997 đến năm 2010, tỷ lệ lạm phát trung bình ở Hà Lan là 2,08% , đạt mức
cao lịch sử 4,50% trong tháng 4 của năm 2001 và ghi lại mức thấp 0,20% vào tháng 7
năm 2009. Tỷ lệ lạm phát liên quan tới sự gia tăng giá chung.
Biểu đồ thể hiện tỉ lệ lạm phát của Hà Lan từ 7/2008-7/2011.
Tỉ lệ thất nghiệp:
Tỉ lệ lạm phát và thất nghiệp gần như biến đổi tỉ lệ với nhau, thất nghiệp năm 2010
là cao nhất trong vòng 10 trở lại đây, do ảnh hưởng của khủng hoảng toàn cầu 2008. Nhìn chung
Hà Lan vẫn là quốc gia có tỉ lệ lạm phát và thất nghiệp thấp, nền kinh tế khá ổn định, trong thời
buổi nền kinh tế Châu Âu đang khó khăn do khủng hoảng nợ công của Hi Lạp thì Hà Lan sẽ là
lựa khá an toàn cho các nhà đầu tư.
Cán cân thương mại:
Trang 051
2005 5.2882006 4.3642007 3.5762008 3.0662009 3.7282010 4.458
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
Hà Lan là quốc gia xuất siêu, các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu gồm: hàng tiêu dùng
15,3%, Thực phẩm 8,4% , Nhiên liệu 11,0% , Hàng 23,4%, Máy móc 31,5%, Giao thông
vận tải 10,2%.
Xuất nhập khẩu:
Hà Lan đã hình thành một nền kinh tế xuất khẩu thịnh vượng. Gần 80% xuất khẩu
của Hà Lan là quốc gia châu Âu và gần 70% nhập khẩu của nó đến từ các quốc gia châu
Âu.
Hiện nay, với kim ngạch thương mại khoảng 1100 tỉ USD.
Như đã phân tích ở trên Hà Lan đứng thứ bảy trên thế giới về khối lượng xuất
khẩu,các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Hà Lan bao gồm máy móc, thiết bị, nhiên liệu,
hóa chất, rau, và các sản phẩm thực vật. Chín xuất khẩu hàng đầu như sau:
% CỦA TỔNG NƯỚC
thiết bị 8,4
Các sản phẩm dầu mỏ tinh chế 6,9
Điện tử microcircuits 3,9
Thiết bị viễn thông 3,0
Vật liệu thô thực vật 2,5
Khí thiên nhiên và sản xuất 2,5
Thịt 2,4
Polyme 2,2
Rau 1,8
Theo thống kê năm 2009, Hà Lan nhập khẩu một khối lượng tổng cộng 358,9 tỷ
USD, giảm đáng kể từ mức 474,8 tỷ USD trong năm 2008. Hà Lan xếp hạng thứ tám trên
thế giới về khối lượng nhập khẩu.
Nhập khẩu của Hà Lan đã được phân phát trong các loại sau: Thiết bị vận chuyển,
Hóa chất, Nhiên liệu, Thực phẩm, Quần áo.
Việt Nam – Hà Lan:
Hiện nay, Hà Lan là 1 trong 13 thị trường mà Việt Nam xuất khẩu trên 1 tỷ USD.
Quan hệ thương mại Việt Nam- Hà Lan không ngừng phát triển, kim ngạch thương mại
Trang 052
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
lớn và tăng đều hàng năm. Xuất khẩu của Việt nam vào Hà lan trong quý I 2011 tăng
46%, nhập khẩu giảm 8% so với cùng kỳ năm 2010.
Đối với thị trường Hà Lan, Việt Nam xuất khẩu chủ yếu các mặt hàng như giày
dép các loại, may mặc, hạt điều, hạt tiêu, cà phê, hải sản, hàng rau quả, đồ gỗ và các sản
phẩm gỗ chế biến.
Đứng thứ 2 về kim ngạch là mặt hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện.
7 tháng năm 2011, mặt hàng này xuất khẩu sang Hà Lan thu về cho Việt Nam tương ứng
150,43 triệu USD. Mặt hàng hạt điều là mặt hàng đứng thứ 3 về kim ngạch trong số các
mặt hàng của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Hà Lan.
Hà Lan là thị trường đạt kim ngạch nhập khẩu rau hoa quả cao nhất trong khối
nước EU với gần 12 triệu USD năm 2010. Tỷ trọng trong cơ cấu thị trường nhập khẩu rau
hoa quả của Hà Lan cũng tăng từ 29.8% (2009) lên 44.3% (2010).
Chi phí lao động:
Cực kỳ cạnh tranh so với nhiều nước EU khác khi nói đến chi phí lao động
tổng thể. Ở Hà Lan nhân viên lao động có tay nghề cao, đa ngôn ngữ, hiểu biết về kinh
doanh... Hà Lan có vị trí tương đối tốt khi nói đến các yếu tố khác tác động đến chi phí
của người sử dụng lao động. Ví dụ, về năng suất, điểm số của Hà Lan khá tốt, người Hà
Lan có hiệu suất làm việc cao.
IV. Phản ứng của Đức & Hà Lan trước những tác động do toàn
cầu hóa đem lại:
1. Phản ứng của Đức đối với toàn cầu hóa:
Đức đã chứng minh giá trị của một đồng tiền ổn định là chìa khóa để tăng
trưởng mạnh mẽ, bền vững và công bằng.
Đức đã đi tiên phong trong khái niệm của nền kinh tế thị trường xã hội, kết
hợp một nền kinh tế, thị trường cạnh tranh với một mối quan hệ đối tác xã hội độc
đáo mang lại nhiều năm thịnh vượng kinh tế và hòa bình xã hội.
Đức cam kết xây dựng châu Âu đã giúp thúc đẩy hòa bình, ổn định và tiến
bộ kinh tế trên khắp lục địa.
Trang 053
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
Đầu tư tài chính đã trở nên ngày càng đa dạng giữa các quốc gia để giảm
thiểu rủi ro và nâng cao tỷ suất lợi nhuận.
Đức đã chấp nhận xuất nhập khẩu toàn cầu thông qua một loạt các ngành
công nghiệp phát triển mạnh. Một nghiên cứu của Ernst & Young phân tích các
báo cáo hàng năm của 30 công ty Đức soạn DAX (Chỉ số chứng khoán Đức), cho
biết rằng ba phần tư doanh số bán hàng cho 28 trong số 30 công ty Đức là từ nước
ngoài.
Những công ty vừa và nhỏ thành công trong chuyên môn hóa sản xuất các
sản phẩm không phổ biến được sử dụng cho sản xuất công nghiệp.
Các doanh nghiệp khác sử dụng máy móc để tăng hiệu suất và giảm sự phụ
thuộc về lao động của con người thường tìm nguồn cung ứng từ các công ty Đức.
Bãi bỏ thủ tục rườm rà và các quy định trong các lĩnh vực như điện, vận tải,
khí đốt tự nhiên và viễn thông để giảm chi phí đầu vào của các công ty, trong lĩnh
vực tài chính để phát triển thị trường tài chính…
Mức lương phản ánh tốt hơn năng suất và sự khác biệt về trình độ kỹ năng,
và thỏa thuận tiền lương về các điều kiện trong các công ty tư nhân.
Sự chi tiết và thúc đẩy hợp tác giữa nhà quản lý và người lao động đã cho
phép các doanh nghiệp phát triển mạnh trong một nền kinh tế thế giới đầy thách
thức. Lao động lập kế hoạch linh hoạt đã cung cấp cho các doanh nghiệp Đức có
lợi thế cạnh tranh ở nhiều thị trường toàn cầu. Ví dụ: sự thoả thuận thành lập hợp
đồng mà người lao động sẽ làm thêm giờ trong suốt thời gian sản xuất cao điểm và
sau đó chuyển nó vào thời gian nghỉ khi nhu cầu giảm. Điều này đã cho các công
ty có khả năng duy trì một lực lượng lao động ổn định mà không phải trả các chi
phí lao động quá mức để đáp ứng nhu cầu thay đổi.
Người lao động có tay nghề cao có mức lương cao, gần phía đông châu Âu
công nhân sẵn sàng để cung cấp lao động giá rẻ cho các nhiệm vụ khác tầm
thường...
Trang 054
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
Nhiều sản phẩm đã thúc đẩy thành công xuất khẩu của Đức là nhằm mục
đích hiện đại hóa các doanh nghiệp trong các thị trường mới nổi, nơi họ đã phát
triển mạnh.
Thành tựu đạt đuợc
Phát triển nhanh hơn về doanh thu và số lượng nhân viên kinh doanh.
Các công ty báo cáo tăng trưởng 19% ở nước ngoài, so với 9% trong nước.
Các công ty Đức đã thực hiện rất tốt trong năm 2010, lợi nhuận trước thuế
tăng gần gấp đôi so với năm trước lên 87.3 tỷ euro.
Trong năm 1990 đến 1995, xuất khẩu của Đức cho các nước đang phát triển
tăng gần 10% trung bình mỗi năm về đồng đô la Mỹ, trong khi xuất khẩu của Đức
sang các nước công nghiệp chỉ tăng 3% so với cùng kỳ hàng năm. Kết quả là, năm
1995, xuất khẩu sang các nước đang phát triển chiếm 25% tổng xuất khẩu của
Đức, so với chỉ 19% vào đầu thập kỷ này.
2. Phản ứng của Hà Lan đối với toàn cầu hóa:
Ngày nay, xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế đang lôi cuốn ở hầu hết các
quốc gia trên thế giới, và Hà Lan cũng không đứng ngoài cuộc, nhanh chóng nắm bắt
được xu hướng toàn cầu này, bằng chứng là các công ty đa quốc gia như Unilever, Shell,
Phillips,Heniken… luôn là những công ty đứng đầu thế giới. Tận dụng có hiệu quả những
lợi thế của mình, Hà Lan đã khẳng định được vị thế trên thị trường thế giới với nền nông
nghiệp tiên tiến bậc nhất. Luôn chủ động, Hà Lan đã đóng góp không nhỏ vào việc thành
lập và phát triển EU - một trong những tổ chức thế giới có uy tín và các thành viên đều là
những quốc gia giàu có. Trong năm 2002, Hà Lan cũng nằm trong số 12 nước thành viên
EU đã thay thế tiền tệ của riêng cá nhân của họ với đồng euro. Vì vậy, nền kinh tế là tích
hợp cao với phần còn lại của Liên minh châu Âu, hầu hết thương mại của Hà Lan là với
các nước EU khác. Hà Lan có một nền kinh tế mở rất cao hướng tới thương mại thế giới
và tài chính. Toàn cầu hóa đem lại những lợi ích to lớn cho các quốc gia, giúp nền kinh tế
phát triển nhanh chóng do tận dụng được những lợi thế cạnh tranh. Tuy nhiên, không
phải toàn cầu hóa là ưu thế tuyệt đối. Một sự khủng hoảng ở quốc gia này sẽ kéo theo sự
khủng hoảng của quốc khác. Một quy luật trong kinh tế là “lợi nhuận đi đôi với rủi ro”,
Trang 055
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
Hà Lan đã dám chấp nhận những rủi ro và chứng minh được bản lĩnh đối phó với những
khó khăn khi toàn cầu hóa, điển hình là cuộc khủng hoảng thế giới năm 2008 đã làm thị
trường thế giới lao đao, và Hà Lan cũng vậy, nhưng với nền kinh tế phát triển bền vững
và khả năng khắc phục khủng hoảng, đến năm 2010, kinh tế Hà Lan gần như hồi phục và
sẽ tiếp tục phát triển trong vài năm tới, tuy nhiên tốc độ sẽ chậm, đó là dự đoán của các
chuyên gia kinh tế .
Vì vậy, Hà Lan luôn tìm kiếm cơ hội đầu tư ở các quốc gia phát triển có
tiềm năng, giàu tài nguyên thiên nhiên để đầu tư và giúp đỡ. Mặt khác họp tác với các
công ty đa quốc gia của nước khác để hình thành một công ty đa quốc gia hùng mạnh
hơn, nhằm tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường toàn cầu khốc liệt hiện nay. Bên cạnh
đó, Hà Lan còn tổ chức các tour du lịch Thưởng thức châu Âu, các trò chơi và trang web
mô phỏng châu Âu để công dân Hà Lan, đặc biệt là giới trẻ hiểu biết và gần gũi hơn với
châu Âu, áp dụng năng lượng tái tạo để thay thế tài nguyên khan hiếm; chính phủ cũng
tìm cách thúc đẩy nền kinh tế trong nước bằng cách đẩy mạnh chương trình cơ sở hạ
tầng, cắt giảm thuế để các doanh nghiệp giữ chân người lao động, và các cơ sở tín dụng
mở rộng xuất khẩu.
Trang 056
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
V. Sự khác biệt giữa 2 quốc gia Đức và Hà Lan
Bảng so sánh một số lĩnh vực của Hà Lan và Đức:
Các lĩnh vực ĐỨC HÀ LAN
Tốc độ tăng GDP 2001-2005 được coi là giai đoạn
đình trệ, phục hồi năm 2010 với 3,5%
2001-2005 tăng trưởng chậm, giảm mạnh vào 2009 và tăng lên vào 2010(1.5%).
Thu nhập bình quân đầu
ngườiCao, tăng dần qua các năm 34.200USD (2009).
GDP bình quân đầu người tăng trưởng đều đặn 39.400 USD (2009)
Nông nghiệp- Trồng trọt
- Chăn nuôi
- Xuất khẩu lớn về nông sản, với giá trị hơn 50 tỉ Euro.
- 2008, sản xuất thịt lợn đứng đầu EU, thịt bò sx lớn thứ 2 ở châu âu.
- Xuất khẩu nông sản đứng thứ 3 thế giới và chiếm 7,7% thị phần toàn cầu.
- Là ngành sx quan trọng, nghề nuôi bò sữa là bàn đạp thúc đẩy nền văn minh nông nghiệp Châu Âu; công nghiệp chế biến nông sản hiện đại.
- Xứ sở của hoa Tuy-lip.
- Lâm nghiệp: rừng ít, 13,7% lục địa.
- Ngư nghiệp: một trong tám nước sản xuất lớn về thuỷ sản ở Châu Âu.
Trang 057
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
Công ngiệp - Sản phẩm công nghiệp phức
hợp:
+ Chế tạo xe hơi quy mô lớn nhất
ở châu Âu.
+ Công nghiệp thép.
+ Chế tạo máy và xây dựng:
6.000 công ty đóng góp 13% tổng
doanh số công nghiệp, các ngành
chế tạo máy bay, đóng tàu, máy
móc công nghiệp, và cả ngành
chế tạo ô tô.
+ Kỹ thuật điện.
+ Điện tử: tăng trưởng mạnh nhất.
+ Công nghiệp hóa chất có BASF
tập đoàn hóa chất lớn nhất thế
giới.
- Không nhiều quặng sắt, dầu mỏ
và khí đốt, nhập khẩu hầu hết
nguyên vật liệu và năng lượng.
- Phát triển và ổn định, 19% trong
cơ cấu GDP (năm 2002).
- Công nghiệp mũi nhọn: chế biến
thưc phẩm, công nghiệp sữa.
- Khai thác khoáng sản, than, đá và
dầu khí.
- Chế biến thực phẩm, lọc và tinh
chế dầu mỏ, sản xuất và chế tạo
kim loại.
- nước hẹp, người đông, không có
nhiều tài nguyên thiên nhiên.
Dịch vụ Tăng đều đặn và đóng góp nhiều
nhất trong GDP (70%-2006), các
ngành, Frankfurt là một trung tâm
tài chính và chứng khoán lớn và
thị trường cổ phiếu lớn thứ nhì
châu Âu.
- Khu vực tài chính lớn thứ 7.
- 79% trong cơ cấu GDP ( năm
2002, các ngành.
Trang 058
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
- Ngành dịch vụ.
- Công ty dịch vụ công và tư
nhân.
- Lĩnh vực thương mại, khách
sạn, nhà hàng và giao thông.
- Trong lĩnh vực tài chính, cho
thuê bất động sản và dịch vụ
doanh nghiệp.
- Lãnh vực nghiên cứu và phát triển.
- Kinh doanh ngân hàng- bảo hiểm.
- Tư vấn.
- Kiến trúc và cơ khí.
- Du lịch phát triển.
Dự báo Tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
của Đức sẽ giảm từ 2.9% dự kiến
trong năm nay xuống còn 0.8%
vào năm 2012.
Thâm hụt ngân sách giảm nhanh hơn
dự kiến; thâm hụt cao ở mức 5,2%
GDP năm 2010 theo tính toán sẽ
giảm xuống còn 2,2%GDP vào năm
2011
Tri thức - Đất nước của ý tưởng, đào tạo,
khoa học, nghiên cứu và phát
minh.
- Dẫn đầu trong công nghệ sinh
học, Nano, thông tin, sinh trắc
học, hàng không, vũ trụ, kỹ
thuật điện, cung ứng, công
nghệ môi trường.
- Giáo dục phát triển.
- Chính phủ Hà Lan đầu tư 4 tỷ
USD mỗi năm vào kỹ thuật và
khoa học.
- Hà Lan là nước phát triển ở trình
độ cao, đạt nhiều thành tựu.
- Biết tranh thủ nguồn lực từ tài
nguyên quốc tế và thị trường thế
giới để không ngừng đổi mới cơ
cấu kinh tế theo hướng tối ưu hoá.
- Phương thức sản xuất chủ yếu là
đầu tư tập trung vốn và chất xám,
chuyên môn hóa cao.
Trang 059
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
Thu nhập
Thu nhập cá nhân:- Khoảng cách thu nhập giữa hai miền
Đông - Tây ngày càng lớn.- Khoảng cách giữa người giàu và người
nghèo ở Đức đang mở rộng, trong khi nhóm của những người thu nhập giữa thu hẹp lại.
Chi tiêu của chính phủ :phần lớn cho trợ cấp xã hội và giáo dục ,các dịch vụ công cộng chung.
Chi phí lao động tăng ít rõ rệt hơn so với các nước châu Âu khác.
Thị trường sẵn sàng lao động có tay nghề lực lượng lao động cao.
Giá lao động ổn định.
Xếp hạng thứ 8 trong 10 nước có thu nhập cao nhất thế giới năm 2011 do tạp chí Forbes bình chọn.
Mức lương tối thiểu của công nhân Hà Lan hàng tháng là $19.00
Phân phối thu nhập hộ gia đình không đồng đều
Thu nhập cao nhất từ doanh nghiệp lao động và sở hữu
Giá lao động cao hơn ở Đức
Lạmphát 2,3% (4/2011) 2.7% (9 /2011).
Tỉ giá Đồng Euro: Lợi thế của nước Đức
Chi phí lao động ổn định hơn
Chi phí lao động cũng khá ổn định
Đầu tư nước ngoài
Lớn nhất thế giới sau Hoa Kỳ, vượt xa các nước như Trung Quốc, Nhật Bản và Pháp.
Hà Lan đầu tư hơn 150 tỉ USD ở Mỹ lớn thứ 3 thế giới
Tỉ lệ viện trợ ODA cao nhất trên thế giới
Cán cân thanh toán
Đức là nước xuất siêu.- Đẩy mạnh mặt hàng máy móc thiết bị và
công nghiệp chế tạo có khả năng cạnh tranh cao để xu ất kh ẩu
- Mặt hàng xuất khẩu chính: máy móc, xe hơi, hoá chất, kim loại và hàng công nghiệp, thực phẩm, dệt may.
- Nước nhập khẩu nhiều thứ hai thế giới: nhập khẩu chủ yếu là máy móc, phương tiện vận chuyển, hoá chất, thuốc lá, lương thực, đồ uống, kim loại và các sản phẩm dầu mỏ.
Cạnh tranh để vào được thị trường
Hà Lan là nước xuất siêu.- Thị trường đạt kim ngạch nhập
khẩu rau hoa quả cao nhất trong khối nước EU.
- Hai phần ba GDP từ thương mại hàng hóa.
- Xuất khẩu khí đốt tự nhiên lớn nhất thứ năm trên thế giới.
- Nhập khẩu dầu và than đá.
Trang 060
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
Đức thật sự gặp khó khăn rất lớn. (đáp ứng đúng yêu cầu của Đức cạnh tranh với Trung Quốc, các thành viên trong khối EU).
Cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng hàng đầu thế giới Trung tâm Logistics toàn cầu của châu
Âu: Hàng hóa đi qua Đức hơn là thông qua bất kỳ quốc gia châu Âu khác.
Ùn tắc giao thông thường xuyên. Viễn thông: một trong các hệ thống viễn
thông công nghệ tiên tiến nhất của thế giới.
Sử dụng điện thoại di động ở Đức chủ yếu là thực dụng.
Trung tâm của mạng lưới giao thông bao gồm hàng không, đường biển, đường sông, và tàu hoả toả đi khắp các nơi trên thế giới.
Một trong các dự án cơ sở hạ tầng đang diễn ra chính tại Hà Lan là nỗ lực để ngăn chặn lũ lụt.
Hệ thống giao thông công cộng phổ biến và rẻ tiền.
Một hệ thống đường ống phát triển.
Hệ thống viễn thông phát triển cao.
Chăm sóc sức khỏe
Tăng chi phí y tế và dân số lão hóa là những thách thức nghiêm trọng.
Dịch vụ chăm sóc sức khỏe rất đa dạng.
Giáo dục Đầu tư rất nhiều vào hệ thống giáo dục để tạo ra nguồn tài nguyên lao động tay nghề cao.
Sàng lọc rất khe khắt.
Đào tạo theo hướng tương tác ,làm việc nhóm
Hệ thống giáo dục nổi tiếng thế giới
Dân số DS: 82.3tr người.Dân số già, tỉ lệ tăng dân số chậm và giảm qua các năm.
Dân cư phân bố không đều, tập trung phần lớn ở thành thị.
Sự chênh lệch rất lớn giữa giàu và nghèo.
Cơ cấu dân số già, tỉ lệ tăng chậm và giảm qua các năm. mật độ dân số cao và phân bổ khá đều trên lãnh thổ.
Sự chênh lệch giàu – nghèo không quá lớn.
Trang 061
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
Liên kết kinh tế
Nước Đức tích cực hoạt động trong các tổ chức hợp tác đa phương.
Đức có vị thế cao và đóng vai trò rất quan trọng trong các tổ chức này.
Tham gia sáng lập. Có vai trò quan trọng ở nhiều tổ chức quốc tế như UN, EU, IMF, Ngân hàng thế giới, OSCE, GATT-WTO, NATO, ASEM...
Nhận xét chung:
- Cả 2 nước đều không có lợi thế trong các ngành thâm dụng lao động.
- Cả 2 quốc gia đều có mạng lưới liên kết quốc tế rộng lớn, hội nhập cao và
hoạt động thương mại rộng khắp thế giới.
Đức Hà Lan
Điểm mạnh - Giá cả lao động ổn định hơn so với
các nước trong khối EU, lao động có
trình độ kí thuật cao.
- Cơ sở hạ tầng hàng đầu thế giới vượt
qua Hà Lan, dịch vụ chăm sóc sức
khỏe được chú trọng.
- Chủ yếu xuất máy móc thiết bị, các
sản phẩm công nghệ: nhập khẩu
lương thực, đồ uống, năng lượng.
- Cơ sở hạ tầng phát triển, lao
động cũng có trình độ cao, lành
nghề.
- Dịch vụ chăm sóc sức khỏe tốt
- Có thế mạnh để phát triển du
lịch, dịch vụ nghỉ dưỡng …
- Tỉ lệ lạm phát thất nghiệp luôn
ở mức thấp.
- Nông nghiệp phát triển hàng
đầu thế giới.
Điểm yếu - Khoảng cách thu nhập ngày càng gia
tăng giữa Đông Đức, Tây Đức;
người giàu, người nghèo.
- Chi phí trợ cấp xã hội gia tăng bởi
dân số ngày càng già, trở thành gánh
nặng đối với Đức.
- Phân phối thu nhập không
đồng đều giữa các hộ gia
đình,
- Phụ thuộc vào nhập khẩu năng
lượng từ nước ngoài, giá lao
động cao hơn ở Đức.
Trang 062
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
- Chi tiêu cho quốc phòng thấp
- Tài nguyên thiên nhiên thiếu
hụt, đặc biệt là năng lượng.
Đầu tư sang Đức nếu muốn giảm chi phí lao động (đi từ mục tiêu chi phí thấp nhất) vì
chi phí lao động ở Đức ổn định, thấp hơn Hà Lan.
Đức là một trong những nền kinh tế hàng đầu ở châu Âu có hệ thống cơ sở hạ tầng
thuận lợi cho kinh doanh quốc tế, là cửa ngõ để có thể giao lưu với các nước khác ở
châu Âu.
So với Đức, Việt Nam không có thế mạnh về khoa học kĩ thuật, công nghiệp nhưng
Việt Nam có những điểm khác biệt thuận lợi để có thể kinh doanh quốc tế sang Đức
như :
Thủy sản, nông sản nhiệt đới( cà phê,chuối..), gốm sứ có chất lượng, gia công.
Học tập được cách quản lí, công nghệ của Đức để có thể áp dụng tại Việt Nam.
Do đó, nhóm chúng tôi quyết định chọn Đức là quốc gia mà nhóm tiếp tục nghiên cứu
đầu tư kinh doanh quốc tế.
VI. Các nhà đầu tư Việt Nam nên lựa chọn như thế nào khi thực
hiện hoạt động kinh doanh quốc tế ở Đức:
1. Tình hình một số mặt hàng xuất khẩu từ Việt Nam sang Đức :
Trong các nước EU và kể cả toàn châu Âu, Đức là đối tác thương mại lớn nhất của
Việt Nam. Kim ngạch ngoại thương Việt - Đức đóng góp 28% kim ngạch ngoại thương
Việt Nam – EU. Nhiều doanh nghiệp Việt nam đã tham gia thường kỳ các triển lãm, hội
chợ quốc tế tại Đức như Anuga Colonge, Tendence, Koblenz, Resale Frankfurt, EXPO
Hannover. Thông qua các hội chợ, triển lãm này các doanh nghiệp Việt nam đã thiết lập
được nhiều quan hệ bạn hàng, ký được nhiều hợp đồng với các nhà nhập khẩu Đức cũng
như với các doanh nhân nước ngoài khác. Đứng đầu các sản phẩm xuất khẩu của Việt
Nam tại thị trường Đức là giầy dép. Tiếp theo là hàng dệt may, cà phê, hàng thủ công mỹ
nghệ, thủy sản, máy vi tính và linh kiện…
Trang 063
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
Các mặt hàng xuất nhập khẩu của Đức và Việt Nam 2009: Đơn vị: USD
Trang 064
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
Trang 065
Mặt hàng xuất khẩu Giá trị
Nông sản Cà phê 233,014,846
Hàng thủy sản 209,076,629
Cao su 89,585,174
Hạt tiêu 59,103,560
Hạt điều 16,869,604
Hàng rau quả 7,334,672
Bánh, kẹo và Sản phẩm từ ngũ cốc
6,753,834
Chè 4,991,845
Gạo 1,267,419
Chất dẻo nguyên liệu 197,804
Sắn và các sản phẩm từ sắn
13,069
Công nghiệp nhẹ Sản phẩm dệt, may 443,308,632
Giày dép các loại 356,774,795
Gỗ và Sản phẩm từ gỗ 116,864,802
Túi xách, ví,vali, mũ và ô dù
85,197,408
Sản phẩm từ chất dẻo 70,399,387
Sản phẩm gốm, sứ 28,004,490
Sản phẩm mây, tre, cói và thảm
27,178,977
Sản phẩm từ cao su 11,470,088
Vải các loại 2,542,149
Sản phẩm từ giấy 693,211
Công nghiệp nặng Tàu thuyền các loại 92,244,283
Sản phẩm từ sắt thép 75,367,277
Máy móc, thiết bị, dụng cụ & phụ tùng
52,051,134
Máy vi tính, Sản phẩm điện tử & linh kiện
35,467,483
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
Giày dép:
Đức là thị trường đầy tiềm năng đối với các nhà xuất khẩu, như Việt Nam. Đây sẽ
là một cơ hội tốt cho các doanh nghiệp sản xuất giày xuất khẩu sang thị trường Đức, đặc
biệt là các loại giày có kiểu dáng thể thao đang được giới trẻ Đức ưa dùng. Thị phần giày
cao su và giày nhựa cũng là một khe thị trường hấp dẫn cho các doanh nghiệp xuất khẩu.
Theo số liệu thống kê, thì kim ngạch xuất khẩu giày dép của Việt Nam đứng thứ 2
sau mặt hàng dệt may trong nửa đầu năm 2011, đạt 186 triệu USD, chiếm 12.39% thị
phần, tăng 14,94% so với cùng kỳ năm trước, trong đó tháng 6 kim ngạch mặt hàng này
xuất sang Đức đạt 42,7 triệu USD, tăng 21,16% so với tháng 5.
Hiện nay, mặc dù là nước xuất khẩu giày dép lớn thứ ba của Đức, song về giá trị
và số lượng xuất khẩu của Việt Nam vẫn còn rất nhỏ so với hai nước đứng đầu là Trung
Quốc và Italia. Để nâng cao vị thế của mình, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải có
Xuất Khẩu Giày Dép chất lượng tốt, ít nhất cũng ngang bằng với các nước khác và giá cả
phải rẻ hơn để có thể cạnh tranh được. Ngoài ra, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải
chú ý tới xu hướng nhập khẩu và thị hiếu tiêu dùng của Đức để có thể chủ động ký kết
được các hợp đồng lớn.
Dệt may:
Đức luôn là quốc gia có doanh số nhập khẩu hàng may mặc lớn nhất EU, đạt
khoảng 27.8 tỷ Euro trong năm 2004. Sau khi EU bãi bỏ hạn ngạch nhập khẩu đối với
mặt hàng dệt may, một số nước đã ồ ạt đưa hàng vào thị trường Đức, trong đó có cả
Trung Quốc. Hiện nay hàng dệt may Trung Quốc chiếm thị phần cao nhất trên thị trường
Đức.
Cơ hội và thách thức đối với các nhà xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Đức
- Người dân Đức không quá đòi hỏi yêu cầu về kiểu cách và mẫu mã, quan trọng là
chất lượng thành phẩm và sự kỳ công của nhà sản xuất được thể hiện qua mũi kim đường
chỉ, do đó đây sẽ là lợi thế cho hàng dệt may Việt Nam. Doanh nghiệp Việt Nam khi
muốn đưa hàng dệt may vào thị trường Đức, buộc phải tuân thủ quy chuẩn của cả EU và
của Đức. Trong đó cần chú trọng đến 3 tiêu chuẩn: chất lượng, vệ sinh sản phẩm và trách
nhiệm xã hội.
Trang 066
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
- Ngoài ra, khi sử dụng nguyên phụ liệu dệt may, doanh nghiệp nên tránh các chất
gây cháy như PPF hoặc nguyên liệu có tính chất tẩy trùng, bởi với các chất không đảm
bảo về tiêu chuẩn chất lượng thì hải quan Đức sẽ tiêu huỷ và chi phí tiêu huỷ do phía Việt
Nam chi trả.
- Đức là thị trường tiềm năng cho hàng dệt may Việt Nam do dân số Đức đông và
thu nhập đầu người rất cao.
- Mặc dù hàng Trung Quốc nhập khẩu vào Đức tuy có mẫu mã đa dạng nhưng chất
lượng thành phẩm vẫn chưa làm hài lòng người tiêu dùng nơi đây. Mặt khác, người Đức
không muốn lệ thuộc hoàn toàn vào hàng của Trung Quốc, do đó đã chuyển xu hướng
thích sử dụng hàng hóa của các quốc gia khác. Vì thế, đây sẽ là cơ hội mới cho doanh
nghiệp xuất khẩu dệt may Việt Nam để thâm nhập sâu hơn.
- Một thuận lợi khác là mức tiêu thụ hàng may mặc của người dân Đức rất lớn.
Trung bình mỗi tháng một gia đình tiêu hết 23 Euro cho quần áo nam, 44 Euro cho quần
áo nữ, 8 Euro dành để mua quần áo trẻ em và khoảng 12 Euro sử dụng cho các mặt hàng
dệt may khác.
Từ năm 2004 trở về trước, khi EU còn áp dụng hạn ngạch nhập khẩu, thị phần
hàng dệt may Việt Nam tại Đức đạt khoảng 30%, hàng dệt may của Việt Nam cũng
chiếm thị phần rất lớn. Nhưng kể từ khi EU chính thức gỡ bỏ hàng rào hạn ngạch thì Việt
Nam lại gặp nhiều khó khăn do giá thành sản phẩm của Trung Quốc rất cạnh tranh và
người Đức rất quan tâm đến vấn đề giá.
Cà phê và chè:
Theo số liệu của Tổ chức Thương mại thế giới, trong các năm từ 2004 đến 2007,
Đức là đối tác nhập khẩu cà phê và chè hàng đầu của Việt Nam
Cơ hội:
- Đức là nước tiêu thụ cà phê lớn nhất EU, chiếm 21% trong tổng mức tiêu thụ cà
phê của toàn EU. Mức tiêu thụ cà phê bình quân đầu người của Đức cao hơn mức trung
bình của EU. Để mở rộng thị trường, sản phẩm cà phê cần có thêm gia vị (như vị bạch
đậu khấu) và các hương vị phụ thêm (như vỏ cam) vì chúng đang có tiềm năng trên thị
Trang 067
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
trường này. Ngoài ra chúng ta cần có chứng nhận Impatto Zero để Đức dễ chấp nhận về
chất lượng sản phẩm.
- Mặc dù mức tiêu thụ chè theo đầu người của Đức vẫn còn thấp, Đức vẫn là thị
trường tiêu thụ chè lớn thứ ba EU. Mặt hàng trà thảo dược đang được tiêu dùng ngày
càng rộng rãi và đã chiếm một thị phần lớn trên thị trường.
Thủy sản:
Xuất nhập khẩu thuỷ hải sản từ Việt Nam sang Đức là lĩnh vực có tiềm năng phát
triển lớn nhất. Đặc biệt vì Đức không có nhiều đường biển, trong khi người Đức rất thích
ăn các sản phẩm thuỷ hải sản. Việt Nam cần khai thác thế mạnh về việc nuôi cá basa và
cá tra để xuất khẩu sang Đức. Hiện nay, cá basa Việt Nam chiếm khoảng 70% toàn bộ cá
nhập khẩu vào Đức. Cá da trơn chiếm vị trí thứ 5 trong số các mặt hàng thủy sản được
yêu thích ở Đức vì các ưu thế cơ bản là hương vị trung tính, dễ chế biến và giá thấp so
với nhiều mặt hàng thủy sản khác.
Ngay từ những tháng đầu năm, giá trị XK cá ngừ sang Đức liên tục tăng trưởng ở
mức 2 con số và đến tháng 4/2011, thị trường này đã vượt qua Italia để đứng đầu trong
khối EU về giá trị NK cá ngừ từ Việt Nam. Trong đó, mặt hàng XK chủ yếu là sản phẩm
cá ngừ chế biến đóng hộp đạt 6,7 triệu USD chiếm tới 87% tổng giá trị XK cá ngừ sang
Đức, sản phẩm cá ngừ nguyên liệu đạt trên 1 triệu USD chiếm 13%.
Sự chênh lệch đáng kể về tỷ trọng của hai nhóm sản phẩm cá ngừ XK nói trên cho
thấy nhu cầu các sản phẩm giá trị gia tăng tại Đức cao hơn, vì vậy các DN XK cần nắm
bắt được nhu cầu của từng thị trường nói riêng để có định hướng chiến lược sản phẩm
đúng đắn và tăng cường XK các sản phẩm có chất lượng và giá trị cao hơn nhằm đạt lợi
nhuận nhiều hơn.
Những yếu tố ảnh hưởng tới giá cá da trơn:
- Điều kiện thời tiết bất lợi trong vài năm trở lại đây đã có những ảnh hưởng nghiêm
trọng đến hoạt động sản xuất tại Việt Nam.
- Thuế nhập khẩu cao tại Mỹ khiến cho thị trường EU tràn ngập các sản phẩm cá da
trơn phile nhập khẩu, và có những thay đổi lớn trong nhập khẩu của Mỹ khi mặt hàng cá
da trơn sẽ chịu chi phối bởi những quy định kiểm soát an toàn thực phẩm ngặt nghèo
Trang 068
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
hơn.Vì vậy, các nhà xuất khẩu sẽ hướng đến thị trường EU, làm tăng nguồn cung cá da
trơn tại thị trường này.
- Sự cạnh tranh từ các nhà cung cấp Trung Quốc ở một số sản phẩm như cá da trơn
và cá rô phi dự kiến cũng sẽ gây ra những tác động tiêu cực lên các mức giá tại thị trường
EU.
- Giá cá tuyết trở về mức thông thường cũng gây nên những áp lực đối với cá da
trơn do cá tuyết và cá da trơn đều nằm trong phân khúc cá phi-lê đông lạnh.
Xu hướng thị trường:
- Cá tra có tốc độ tăng trưởng mạnh trong vài năm gần đây cũng mở ra cơ hội cho
việc kinh doanh một số loại cá khác như cá Tilapia (cá rô phi) – một trong những mặt
hàng có sức cạnh tranh mạnh với cá tra tại thị trường Đức.
- Để bán sản phẩm mang lại lợi nhuận cao hơn, nhiều nhà sản xuất đã tăng tỷ lệ
nước đá trong sản phẩm, đặc biệt là các sản phẩm từ Việt Nam. Hiện chính phủ Việt Nam
đã đưa ra quy định về hàm lượng nước trong sản phẩm xuất khẩu không được quá 83%.
Ngoài ra, chính phủ cũng sẽ đưa ra những biện pháp yêu cầu người bán lẻ và người mua
cung cấp cá tra đáp ứng hệ thống sản xuất bền vững, thân thiện với môi trường và đảm
bảo công bằng xã hội.
- Ngành nuôi cá Đức đang kiến nghị về việc các nhà bán lẻ dán nhãn sản phẩm tươi
cho các sản phẩm đông lại đã được làm tươi trở lại và các nhà bán lẻ phải cung cấp rõ
thông tin cho khách hàng để phân biệt hai loại sản phẩm này và dự kiến sẽ có hiệu lực
vào năm 2011.
Kết luận: Hầu hết cá mặt hàng hiện nay rất có tiềm năng xuất khẩu lâu dài qua
Đức nhưng gặp rất nhiều khó khăn về đáp ứng các tiêu chuẩn sản phẩm, giấy phép, cạnh
tranh cao.
2. Cơ hội và thách thức chung đối với Việt Nam khi thực hiện kinh doanh
quốc tế ở Đức:
Cơ hội
- Là một thành viên của EU, Đức áp dụng chính sách thương mại chung của EU đối
với Việt nam. Theo đó, nhiều chủng loại hàng hoá của Việt nam được hưởng thuế suất ưu
Trang 069
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
đãi GSP (trừ một số hàng nông sản trong đó có gạo). Bên cạnh đó, thái độ và chính sách
của Đức đối với cộng đồng doanh nhân người Việt tại Đức tương đối thuận lợi. Mặc dù
kim ngạch XNK với Việt Nam chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng giá trị kim ngạch
ngoại thương của Đức, nhưng Đức vẫn coi Việt Nam là một thị truờng tiềm năng và là
bạn hàng quan trọng trong tương lai gần.
- Theo Tổ chức Hợp tác kinh tế và Phát triển (OECD), Cộng hòa Liên bang Đức là
nước duy nhất trong tổ chức này có sự suy giảm rõ rệt về lực lượng lao động và đang cần
một số lượng lớn lao động nhập cư. Gần đây, Luật nhập cư của Đức đã có nhiều đổi mới,
với chính sách nhập cư thông thoáng hơn. Điều đó, đồng nghĩa với việc các nước có nhu
cầu xuất khẩu lao động sẽ có thêm cơ hội.
- Hiện nay, có 9 vạn người Việt Nam đang sinh sống và làm ăn tại Đức, bên cạnh
đó, Hiệp hội Doanh nghiệp Việt Nam tại Đức đã được thành lập, đây sẽ là “cầu nối” liên
kết giữa doanh nghiệp người Việt Nam ở Đức và giữa doanh nghiệp trong nước với các
doanh nghiệp Đức.
Thách thức
- Thách thức lớn nhất là sự cách trở về mặt địa lý khiến giá cả hàng hóa bị đội lên
cao. Hơn nữa, thời gian vận chuyển dài cũng là một vấn đề rất nan giải đối với các doanh
nghiệp Việt Nam.
- Chỉ có một số ít các biện pháp hạn chế nhập khẩu phi thuế còn áp dụng, bao gồm:
o Tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm cao đối với hàng thuỷ sản.
o Giấy phép đối với gạo và thuốc chữa bệnh.
o Kiểm tra kép đối với các sản phẩm giầy dép (nhằm mục đích chống gian
lận thương mại).
Trong số những mặt hàng Việt Nam xuất khẩu sang Đức, vẫn còn tản mạn, chưa
có số lượng lớn và hầu hết là chính các sản phẩm của Việt Nam đang cạnh tranh với
chính sản phẩm của Việt Nam (như hàng thủ công mỹ nghệ...)
3. Một số lưu ý đối với các doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh xuất, nhập
khẩu đối với thị trường Đức:
Trang 070
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
- Thứ nhất, các doanh nghiệp Việt Nam trước khi đặt quan hệ làm ăn với doanh
nghiệp nào của Đức thì nên thăm dò uy tín của doanh nghiệp đó trước (về quy mô doanh
nghiệp, hoạt động ra sao, tình hình tài chính như thế nào, hiện tại có khả năng buôn bán
hay không) bởi thực tế không phải doanh nghiệp nào của Đức cũng hoạt động “ngon
lành”.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng không nên quan niệm rằng muốn vươn ra thị trường
nên bằng mọi cách xuất được hàng bởi hiện nay có khá nhiều doanh nghiệp Việt Nam bị
các doanh nghiệp Đức chiếm dụng vốn (có những doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn tới
gần 1 triệu USD, đặc biệt là trong ngành thuỷ sản, thủ công mỹ nghệ).
- Thứ hai, các doanh nghiệp nên phát triển theo hướng chuyên doanh, có chiến lược
kinh doanh tập trung và tạo được nguồn hàng lớn, không nên sản xuất, kinh doanh tổng
hợp để tạo ra những cạnh tranh không lành mạnh lẫn nhau trong nội bộ các doanh nghiệp
Việt Nam.
- Thứ ba, khi xuất khẩu hàng sang Đức, nhất thiết phải xuất những hàng hoá chất
lượng, không xuất hàng tạp. Đặc biệt là các mặt hàng may mặc, giày dép, nếu chúng ta
xuất hàng tạp sẽ không thể cạnh tranh được với hàng của Trung Quốc vốn đang chiếm
lĩnh hầu hết thị trường này.
4. Đề xuất:
- Hiện nay một số mặt hàng nông sản của Việt Nam như cá tra, cá basa, cà phê, trà
thảo dược… đã và đang được người dân Đức ưa chuộng, những mặt hàng này đang có
tiềm năng mở rộng trên thị trường Đức, nếu chúng ta đầu tư vào chất lượng, cải thiện
những thiếu sót, đáp ứng các yêu cầu của Đức về sản phẩm (tiêu chuẩn vệ sinh, chứng
nhận sản phẩm, chất lượng…) thì sẽ ngày càng cạnh tranh cao đối với sản phẩm của
Trung Quốc- một đối thủ lớn trong thị trướng Đức, vì Đức không muốn lệ thuộc nhiều
vào Trung Quốc, đồng thời Trung Quốc đã có nhiều dư luận trên thế giới về chất lượng
sản phẩm.
Đồng thời Cá tra được vào danh mục phát triển bền vững trong Chương trình Thủy hải
sản Toàn cầu của WWF có tiềm năng để đầu tư hơn nữa.
Chiến lược:
Trang 071
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
Cải tiến sản phẩm: chất lượng đúng tiêu chuẩn, phải qua kiểm định chặt chẽ; mẫu
mã đẹp, hợp văn hóa; bao bì có khả năng bảo quản được sản phẩm tốt…
Giá cả phải chăng phù hợp lớp người có thu nhập trung bình.
Tạo uy tín thương hiệu bằng cách giao hàng đúng chất lượng đã cam kết, đúng
thời hạn, tuân thủ luật pháp của Đức…
Kiểm soát chặt chẽ từ hệ thống sản xuất đến phân phối sản phẩm để ngăn chặn
các hành vi tiêu cực ảnh hưởng xấu đến chất lượng sản phẩm như: cho cá ăn các
chất tăng trưởng, bơm nước vào cá làm tăng trọng lượng...; cà phê không hái đúng
chất lượng hạt, hạt chín, chưa chín lẫn lộn....
Thực hiện các chiến lược marketing: quảng cáo, truyền thông, giới thiệu sản phẩm
mạnh mẽ , đa dạng hơn nhằm quảng bá hình ảnh đất nước, con người, các sản
phẩm ở Việt Nam.
Tuy nhiên cần thương lượng tránh bị ép giá gây thiệt hại lớn cho nhà xuất khẩu
Việt Nam.
Ngoài xuất khẩu các sản phẩm cá đã qua sơ chế, ta có thể chế biến thành những
món ăn mang đậm hương vị Việt Nam, đáp ứng cho 1 bộ phận người Việt tại Đức
cũng như giới thiệu về hình ảnh của Việt Nam đến bạn bè Đức.
- Ngoài ra chúng ta có thể đánh vào thị trường cao cấp với các sản phẩm tinh xảo,
độc đáo như hàng thủ công mỹ nghệ: gốm sứ, vật lưu niệm...
- Đi vào các mặt hàng còn ít xuất khẩu qua Đức hoặc các mặt hàng Đức hiếm có
như các loại nông sản đã qua sơ chế hoặc chế biến, hoặc các món ăn truyền thống của
người Việt.
Công nghệ
- Tiếp cận công nghệ của Đức :
o Đưa người sang tu nghiệp để học hỏi kinh nghiệm, đặc biệt là công nghệ chế tạo
máy móc, cơ khí -luyện kim, chế biến, quản lí.
o Hoặc có thể đưa sinh viên sang Đức du học vì hệ thống giáo dục ở Đức khá phát
triển, nếu những lao động có trình độ cao mình có thể đưa họ sang đức làm việc vì
hiện tại Đức đang thiếu một số lượng kỹ sư khá lớn, đây cũng là cơ hội cho chúng
ta học hỏi về công nghệ của họ.
Trang 072
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
o Chuyển giao công nghệ của họ.
o Thu hút các kĩ sư người Đức về các công ty của Việt Nam (ta…)
Chính sách
- Tranh thủ sự ủng hộ của chính phủ về chính sách khuyến khích xuất khẩu.
- Kiểm soát chặt các sản phẩm khi xuất khẩu để tạo uy tín với các nhà nhập khẩu và
người tiêu dùng.
- Rút kinh nghiệm từ các vụ kiện về bán phá gía cá tra, cá basa cũng như vụ việc
WWF đã có những nhận định sai khi đưa cá tra Việt Nam vào “danh sách đỏ”.
- Mở rộng thị trường.
- Không những xuất khẩu ở Đức, Hà Lan mà còn có thể đầu tư sang các nước lân
cận trong khu vực EU…nhằm mở rộng khả năng hội nhập toàn cầu của các doanh nghiệp
Việt Nam.
- Mở rộng các danh mục đầu tư: lĩnh vực tài chính (chứng khoán, ngân hàng), hàng
hóa, vốn, cổ phiếu, thành lập một số doanh nghiệp hoặc liên doanh tại Đức.
- Tham gia vào các công ty đa quốc gia để giảm thiểu chi phí thương lượng, hậu cần
và tham gia vào các liên kết kinh tế tăng vị thế của mình để tránh bị ép giá.
- Tăng cường giao lưu văn hóa, tham gia vào các buổi triễn làm hàng hóa ở Đức
nhằm giới thiệu trực tiếp sản phẩm của Việt nam, thực hiện các chiến dịch marketing
hiệu quả, mạnh mẽ hơn.
Trang 073
GVHD: Quách Thị Bửu Châu
LỜI KẾT
Hàng nông sản là một trong những mặt hàng chủ yếu có lợi thế trong
lĩnh vực xuất khẩu của Việt Nam. Thời gian qua việc xuất khẩu rau quả của
Việt Nam sang các thị trường khó tính như Nhật Bản, Hàn Quốc và đặc biệt là
Mỹ đã có nhiều thuận lợi. Vì vậy việc thành công ở thị trường Đức là trong
tầm tay. Cho nên, các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản Việt Nam cần nhanh
chóng vượt qua những điều kiện khắt khe về vệ sinh thực phẩm của thị trường
khó tính này. Quan trọng hơn, các doanh nghiệp cũng cần phải có một
chiếnlược xuất khẩu nông sản lâu dài đối với thị trường Đức. Để thực hiện tốt, các
doanh nghiệp xuất khẩu nông sản Việt Nam cần phối hợp tốt với cả người sản xuất nông
sản và các cơ quan chức năng của nhà nước l i ên quan đến v iệc xuấ t
khẩu những mặt hàng này .
Trang 074