TỔNG BIÊN TẬP Tạp chí ĐỊA KỸ THUẬT GS.TS. NGUYỄN … · 2018-05-18 · công...
Transcript of TỔNG BIÊN TẬP Tạp chí ĐỊA KỸ THUẬT GS.TS. NGUYỄN … · 2018-05-18 · công...
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 1
Tạp chí ĐỊA KỸ THUẬT
ISSN - 0868 - 279X NĂM THỨ 19
SỐ 4 NĂM 2015
MỤC LỤC
TRẦN THƢƠNG BÌNH: Trạng thái ứng
suất biến dạng của nền đất xung quanh
hố đào sâu 3
BÙI TRƢỜNG SƠN, VÕ PHÁN, LÊ HOÀNG
VIỆT: Ổn định của nền đất yếu dưới công
trình đắp theo các sức chống cắt
khác nhau 8
BÙI VĂN TRƢỜNG: Nghiên cứu ảnh hưởng
chiều rộng của sân chống thấm bằng mô
hình bài toán thấm 3 chiều 15
DƢƠNG DIỆP TH Y, PH M QU NG HƢNG,
LÊ THIẾT TRUNG: So sánh đánh giá mô
hình tính lún cho nhóm cọc có xét đến phân
bố của ma sát dọc thân cọc (SDF) và kết
quả thí nghiệm 22
LÊ HOÀNG VIỆT, VÕ PHÁN: Đánh giá sức
chống cắt không thoát nước của nền đất yếu
dưới công trình đắp thuộc khu vực đồng
bằng sông Cửu Long 30
M I NH PHƢƠNG, TRẦN NGUYỄN HOÀNG
HÙNG, LÊ KHẮC BẢO: Phân tích so sánh
các giải pháp gia cố đê bao chống lũ ở
An Giang 36
PHAN VÕ THU PHONG: Mô hình thí nghiệm
cọc đá balat trên đất yếu trong phòng thí
nghiệm: phương pháp thay thế 49
TRẦN QU NG HỘ, NGÔ QUỐC HUY VŨ,
DƢƠNG TOÀN THỊNH: Nén sơ cấp và thứ
cấp của sét yếu Sài Gòn theo mô hình
Gibson-Lo hay Taylor-Merchant 55
TỔNG BIÊN TẬP
GS.TS. NGUYỄN TRƢỜNG TIẾN
PHÓ TỔNG BIÊN TẬP PGS.TS. NGHIÊM HỮU H NH
PGS.TS. ĐOÀN THẾ TƢỜNG
HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP
PGS.TS. ĐÀO VĂN CANH
PGS.TS. ĐẶNG HỮU DIỆP
PGS.TS. PHÙNG MẠNH ĐẮC
GS.TSKH. BÙI ANH ĐỊNH
PGS.TS. LÊ PHƢỚC HẢO
PGS.TS. PHẠM QUANG HƢNG
PGS.TS. NGUYỄN BÁ KẾ
TS. PHÙNG ĐỨC LONG
GS. NGUYỄN CÔNG MẪN
PGS.TS. NGUYỄN HỒNG NAM
PGS.TS. NGUYỄN SỸ NGỌC
GS.TS. VŨ CÔNG NGỮ
GS.TS. MAI TRỌNG NHUẬN
PGS.TS. VÕ PHÁN
PGS.TS. NGUYỄN HUY PHƢƠNG
PGS.TS. NGUYỄN VĂN QUANG
GS.TSKH. NGUYỄN VĂN QUẢNG
PGS.TS. DOÃN MINH TÂM
GS.TS. TRẦN THỊ THANH
PGS.TS. VƢƠNG VĂN THÀNH
GS.TS. LÊ ĐỨC THẮNG
TS. ĐINH NGỌC THÔNG
GS.TSKH. NGUYỄN VĂN THƠ
GS.TS. TRỊNH MINH THỤ
TS. NGUYỄN ĐÌNH TIẾN
GS.TS. ĐỖ NHƢ TRÁNG
PGS, TS. TRẦN VĂN TƢ
TS. TRẦN TÂN VĂN
GS.TSKH. PHẠM XUÂN
Giấy phép xuất bản số 1358/GPXB - Ngày 8-6-1996, Bộ Văn hóa - Thông tin
Cơ quan xuất bản: Viện Địa kỹ thuật (Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam) 38 phố Bích Câu - Đống Đa - Hà Nội Tel: 04. 22141917, 22108643. Email: [email protected]; [email protected] Website: www.vgi-vn.com
Xuất bản 3 tháng 1 kỳ Nộp lƣu chiểu: tháng Mƣời hai 2015 In tại Công ty in Thủy lợi
Giá: 20.000 đ
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 2
VIETNAM GEOTECHNIAL JOURNAL
ISSN - 0868 - 279X
VOLUME 19 NUMBER 4 - 2015
CONTENTS
TRAN THUONG BINH: Stress- deformation
status of soil around deep excavation 3
BUI TRUONG SON, VO PHAN, LE HOANG
VIET: Stability of soft soil under
embankment based on various shear
strength 8
BÙI VĂN TRƢỜNG: Effect of width of
waterproofing courtyard in 3 dimensional
model 15
DUONG DIEP THUY, PHAM QUANG HUNG,
LE THIET TRUNG: Compare a model for
pile group settlement considering
distribution of friction along pile (SDF) and
full – scale pile groups test 22
LE HOANG VIET, VO PHAN: Estimating the
undrained shear strength of soft soil under
embankment in Mekong delta area 30
MAI ANH PHUONG, TRAN NGUYEN HOANG
HUNG, LE KHAC BAO: Analysis and
comparation of reinforcement solutions for
earth levees against annual floods in
An Giang 36
PHAN VO THU PHONG: Simulation in
laboratory for installation of stone columns
in soft soils: substitution method 49
TRAN QUANG HO, NGO QUOC HUY VU,
DUONG TOAN THINH: Primary and
secondary compression of Saigon soft clay
according to Gibson-Lo model or Taylor-
Merchant’s theory 55
EDITOR-IN-CHIEF
Prof.,Dr. NGUYEN TRUONG TIEN
DEPUTY EDITORS-IN-CHIEF
Assoc. Prof., Dr. NGHIEM HUU HANH
Assoc. Prof.,Dr. DOAN THE TUONG
EDITORIAL BOARD
Assoc.Prof. Dr. DAO VAN CANH
Assoc. Prof.,Dr. DANG HUU DIEP
Assoc.Prof. Dr. PHUNG MANH DAC
Prof.,Dr. BUI ANH DINH
Assoc. Prof.,Dr. LE PHUOC HAO
Assoc. Prof., Dr. PHAM QUANG HUNG
Assoc. Prof.,Dr. NGUYEN BA KE
Dr. PHUNG DUC LONG
Prof. NGUYEN CONG MAN
Assoc. Prof. Dr. NGUYEN HONG NAM
Assoc. Prof.,Dr. NGUYEN SY NGOC
Prof.,Dr. VU CONG NGU
Prof.,Dr. MAI TRONG NHUAN
Assoc. Prof.,Dr. VO PHAN
Assoc. Prof.,Dr. NGUYEN HUY PHUONG
Assoc. Prof.,Dr. NGUYEN VAN QUANG
Prof.,Dr.Sc. NGUYEN VAN QUANG
Assoc., Prof. Dr. DOAN MINH TAM
Prof., Dr. TRAN THI THANH
Assoc. Prof.,Dr.VUONG VAN THANH
Prof.,Dr. LE DUC THANG
Dr. DINH NGOC THONG
Prof.,Dr.Sc. NGUYEN VAN THO
Prof. Dr. TRINH MINH THU
Dr. NGUYEN DINH TIEN
Prof., Dr. DO NHU TRANG
Assoc. Dr. TRAN VAN TU
Dr. TRAN TAN VAN
Prof.,D.Sc. PHAM XUAN
Printing licence No 1358/GPXB
dated 8 June 1996 by the Minister of Culture and Information Published by the Vietnam Geotechnical Institute (Vietnam
Union of Science and Technology Associations) Add: 38 Bich Cau, Dong Da, Hanoi
Tel: 04.22141917, 22108643. Email: [email protected]; [email protected]
Website: www.vgi-vn.com Copyright deposit: December 2015
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 3
TRẠNG THÁI ỨNG SUẤT BIẾN DẠNG CỦA NỀN ĐẤT XUNG QUANH HỐ ĐÀO SÂU
TRẦN THƢƠNG BÌNH
*
Stress- deformation status of soil around deep excavation
Stress-deformation status of soil massive is very complicated and depends
so much on action feature of load. The paper deals with the difference in
stress-deformation status of soil in the case of loading vertical and of
decreasing horizontal load such as deep excavation problem. In the
conclusion the paper confirms the needfullness of triaxial test using
confining pressure decreasing for determining the behave of soil around
deep excavation.
Key words: Trixial, excavation.
ĐẶT VẤN ĐỀ *
Trạng thái ứng suất biến dạng của đất nền là
phức tạp và phụ thuộc vào đặc điểm tác động
của tải trọng công trình. Dưới tải trọng tác động
thẳng đứng trong một giới hạn nhất định, nền
đất được tăng bền, đồng thời tăng độ tin cậy của
ổn định của công trình trong thiết kế. Trong một
số trường hợp khác, ví dụ, khi thi công hố đào
sâu, hình ảnh trạng thái ứng suất biến dạng của
đất nền lại hoàn toàn khác. Trong trường hợp
này, đất nền bị giảm tải tác động theo phương
ngang và không tạo ra sự nén chặt tăng bền.
Nhận thức này đặc biệt quan trọng đối việc mô
hình hóa điều kiện làm việc của đất trong các thí
nghiệm trong phòng xác định các thông số tính
toán nền và móng. Hiện nay, thí nghiệm nén ba
trục theo sơ đồ gia tải đứng thường được áp
dụng cho tất cả các trường hợp, kể cả trong thí
nghiệm phục vụ tính toán thiết kế thi công hố
đào sâu với đất nền xung quanh chúng bị giảm
ứng suất ngang đó, dẫn đến các kết quả tính
toán dự báo ứng xử của đất khác nhiều với thực
tế đo đạc. Bài này phân tích sự sai khác về trạng
thái ứng suất biến dạng của đất nền xung quanh
* Trường Đại học Kiến Trúc Hà Nội
K10 Nguyễn Trãi, Hà Đông, Hà Nội
DĐ: 0913537260
Email:[email protected]
hố đào sâu với đất nền dưới móng công trình để
cho thấy sự cần thiết có các thí nghiệm nén ba
trục giảm ứng suất ngang.
1. SỰ BIẾN ĐỔI CỦ TR NG THÁI
ỨNG SUẤT BIẾN D NG THEO HƢỚNG
TÁC ĐỘNG CỦ TẢI TRỌNG
a) Đối với tải trọng phụ thêm tác động
thẳng đứng
Từ năm 1934 Frohlich đã đưa ra biểu thức
tổng quát nhất xác định sự phân bố ứng suất
trong môi trường đất dưới tải trọng đứng tập
trung phụ thuộc vào hệ số biến dạng ngang 1
2
( 1)( os )
2r
dPc
r
Ở đây, r là ứng suất trong khối đất dưới tác
động của tải trọng thẳng đứng P tại điểm xác
định bằng khoảng cách r và góc nghiêng β.
Trong bán không gian vô hạn đồng nhất đẳng
hướng, xét trạng thái ứng suất trước với sau khi
chất tải đứng của một phân tố đất ở độ sâu h
trong đới ảnh hưởng của tải trọng công trình, sẽ
nhận thấy những biến đổi như sau:
-Trước khi chất tải đứng có các thành phần
ứng suất
Thành phần thẳng đứng zt = h
Thành phần ứng suất nằm ngang x= z
Trong đó, z> x nên có ứng suất lệch
=z-x
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 4
- Sau khi chất tải đứng, giá trị tăng của ứng
suất thẳng đứng được xác định bởi = a.P.
Trong đó, a là hệ số phụ thuộc vào diện chịu tải,
tọa độ của phân tố và đặc điểm của tải trọng.
Đồng thời, khi tăng sẽ xảy ra biến dạng
thẳng đứng ez của phân tố với giá trị như sau:
ez= /E và ex= ez
Do đó, trạng thái ứng suất của phân tố thay
đổi như sau:
Thành phần ứng suất thẳng đứng zs = z
t +
= h + a.P
Thành phần ứng suất nằm ngang x= z +
E. ez
Trong đó, - hệ số biến dạng ngang
zt , z
s - ứng suất thẳng đứng trước và sau
khi tăng tải
x ứng suất ngang
hệ số áp lực ngang
So sánh trước với sau khi chất tải, có thể thấy
cả hai thành phần ứng suất đều tăng, nhưng sự
tăng ứng suất ngang là bị động do thành phần ứng
suất đứng gây ra và bị ràng buộc bởi điều kiện của
biểu thức gần đúng Kerisel và Quatre’s (1968)
2ex=ev-ez
Theo đó, sự biến đổi ex theo ez phụ thuộc vào
biến dạng thể tích ev nên biến đổi của x phụ
thuộc vào ev Nhưng với bất kỳ giá trị nào của ev
thì cũng không thể có ứng suất ngang giảm vì
phần thể tích đất giảm đi được thay thế vào
phần thể tích đế móng. Điều đó, cho thấy khi
tăng tải đứng, biến dạng ngang, hệ số biến dạng
ngang và ứng suất ngang đều tăng.
Từ phân tích trên, liên hệ với mẫu đất trong
buồng ba trục có thể xem phân tố đất trong bán
không gian vô hạn chịu tác dụng của tải trọng
công trình là mẫu đất trong buồng ba trục chịu
tác dụng dọc trục, với ứng suất ban đầu và tải
trong dọc trục được xác định sơ bộ theo điều
kiện tồn tại của nó trong bán không gian vô hạn.
Như thế, sự biến đổi trạng thái ứng suất biến
dạng của mẫu thí nghiệm theo sơ đồ tăng tải
đứng sẽ diễn tả sự biến đổi trạng thái ứng suất
của phân tố trong nền.
b) Đối với tải trọng tác động ngang giảm như
trong trường hợp đào các hố đào
Trong bán không gian vô hạn đồng nhất đẳng
hướng, xét trạng thái ứng suất trước với sau khi
giảm tải ngang của một phân tố đất ở độ sâu h
trong đới ảnh hưởng của của hố đào và lân cận
với vách hố đào, sẽ nhận thấy những biến đổi
như sau:
-Trước khi giảm tải ngang có các thành phần
ứng suất
Thành phần thẳng đứng zt = h
Thành phần ứng suất pháp nằm ngang x= z
Trong đó, z> x nên có ứng suất lệch
=z-x
-Sau khi giảm tải ngang, ứng suất thẳng đứng
ở đó không thay đổi, nhưng ứng suất ngang
giảm, giá trị nhỏ nhất ở thành hố và tăng dần
vào trong khối đất. Giả sử giá trị ứng suất ngang
ở phân tố giảm một giá trị x thì ứng suất
lệch sẽ tăng một giá trị tương ứng:
=z-(x-x) = z- x+x
Khi đó xẩy ra sự biến dạng thẳng đứng ez của
phân tố với giá trị như sau:
ez= /E và ex= ez
Do đó, trạng thái ứng suất của phân tố thay
đổi như sau:
Thành phần ứng suất thẳng đứng zs = z
t = h
Thành phần ứng suất nằm ngang x= z
- x
trong đó, - hệ số biến dạng ngang
zt , z
s - ứng suất thẳng đứng trước và sau
khi tăng tải
x ứng suất ngang
hệ số áp lực ngang
So sánh trước với sau khi chất tải sẽ thấy
thành phần ứng suất đứng không đổi, ứng suất
ngang giảm. Trong đó, sự giảm ứng suất ngang
là chủ động gây ra biến dạng ngang, lúc này
biến dạng đứng là bị động. Giữa biến dạng
ngang và biến dạng đứng bị ràng buộc bởi điều
kiện của biểu thức Kerisel và Quatre’s (1968)
và giá trị của hệ số biến dạng ngang còn phụ
thuộc vào biến dạng thể tích ev.
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 5
Từ phân tích trên liên hệ với mẫu đất trong
buồng ba trục có thể xem phân tố đất trong bán
không gian vô hạn chịu ảnh hưởng của hố đào là
mẫu đất ở trong buồng ba trục chịu tác dụng
giảm áp suất trong buồng trong khi tải trọng dọc
trục không đổi, với ứng suất ban đầu và tải trong
dọc truc được xác định sơ bộ theo điều kiện tồn
tại của mẫu đất. Như thế, sự biến đổi trạng thái
ứng suất biến dạng của mẫu xem như là sự biến
đổi của phân tố đất dưới ảnh hưởng của hố đào
trong bán không gian vô hạn.
Tóm lại, vai trò bị động và chủ động của các
thành phần ứng suất biến dạng là sự khác biệt
cơ bản nhất giữa hai dạng ứng xử, là nguyên
nhân dẫn đến nhiều khác biệt quan trọng mà
thông qua thí nghiệm mô phỏng bằng ba trục giá
trị biến dạng ngang, quá trình biến dạng đến
trạng thái giới han sẽ được làm sáng tỏ.
2. BIẾN D NG NG NG VÀ HỆ SỐ BIẾN
D NG NG NG
Nếu gọi thể tích ban đầu của mẫu hình trụ là 2.V H R . Tại một thời điểm trong quá trình
biến dạng, mẫu có chiều cao giảm H và chiều
rộng tăng là R khi đó thể tích mẫu sẽ là 2( ) ( )H RH R và sẽ có:
2 2. ( ) ( ) 0H R tpH R H R V
Trong đó, H- Chiều cao mẫu đất
R- bán kính tiết diện mẫu đất
H- biến dạng dọc mẫu đất
Vtp- biến dạng thể tích toàn phần.
R- biến đổi đường kính mặt ngang trung
bình của mẫu đất
0VRR)H(2R)H( 2
HRH
2
H
H
VHR
RRH
R
2
(1)
Từ biểu thức (1) chia 2 về cho R và với
R
Re
2 sẽ có :
H
2
2H
VHR
1e
(2)
Chia cả tử và mẫu của (2) cho HR2, và với
2HR
Vev
và
He H
1
, khi đó mối quan hệ giữa
ba thành phần biến dạng sẽ như sau:
e2 = 1
11
1
ve
e
(3)
Từ (3) có thể thấy:
- e2<0, chỉ khi 11
1
1
e
ev tức là phải có
111 eev suy ra ev> e1.
Đây là trường hợp tăng tải ngang trong ứng
xử của nền đất khi đóng cọc hoặc hạ các kết cấu
tường vây không khoan đào.
- e2> 0, chỉ khi 11
1
1
e
ev tức là phải có
111 eev suy ra ev< e1.
Ở đây xảy ra hai trường hợp: tăng tải đứng
ev> 0 và giảm tải ngang ev< 0.
Với K là modul đàn hồi thể tích của đất, có:
K
Pev với )2(
3
131 P
Do đó khi P tăng là trường hợp tăng tải, biến
dạng thể tích của mẫu sẽ làm mẫu nhỏ đi, ngược
lại khi giảm P, biến dạng thể tích làm mẫu tăng
hay mẫu nở ra Như vậy, trường hợp dỡ tải
ngang với biến dạng ngang là e2g luôn có ev> 0,
và trường hợp chất tải đứng với biến dạng
ngang là e2t luôn có ev<0 thì
e2g>e2
t
Khi không có biến dạng thể tích ev=0, e1=2e2
hay = 0.5. Suy ra:
nếu ev<0 thì e1< 2e2 tức là hệ số biến dạng
ngang < 0.5.
nếu ev>0 thì e1> 2e2 tức là hệ số biến dạng
ngang > 0.5
Tóm lại, hệ số biến dạng ngang của một phân
tố đất ở trong nền khi tăng tải đứng thì <0.5,
nhưng khi giảm tải ngang thì >0.5. Tuy nhiên,
khi tính toán dự báo dịch chuyển thành hố đào
bằng giá trị biến dạng ngang dựa trên các bảng
tra, hoặc kết quả thí nghiệm ba trục với đất bão
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 6
hòa xác định biến dạng thể tích bằng thể tích
nước thoát ra khỏi mẫu, tất cả đều có giá trị
<0.5. Đây là một trong những sai lầm dẫn đến
dự báo chuyển vị và áp lực lên tường chắn
không chính xác.
3. VỀ XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ ĐỘ BỀN CỦA
ĐẤT TRONG THÍ NGHIỆM BA TRỤC
a) Sự hình thành trạng thái giới hạn
Ưng suất lệch tăng sẽ dẫn đến trạng thái
giới hạn, tức là trạng thái chuyển sang mất cân
bằng. Với mỗi loại đất với các đặc trưng kháng
cắt khác nhau, có một giá trị giới hạn phụ
thuộc vào quan hệ giữa ứng suất tổng và ứng
suất buồng. Xem xét 2 cách mô phỏng trạng thái
ứng suất của nền với sơ đồ gia tải đứng và giảm
tải ngang.
- Sơ đồ tăng ứng suất tổng 1 và ứng suất
ngang không đổi 2=cosnt,
Khi đó giá trị ứng suất lệch lớn nhất ∆t do
tăng tải đứng được xác định theo biểu thức:
11
sincos 2sin cos2 2 2
1 sin 1 sin 1 sin 1 sint
C C
(4)
Quan hệ ∆t và 1 là bậc nhất ∆t = at 1 +
bt với
2sin
1 sinta
và
sin1
sin2
tb
- Sơ đồ giảm ứng suất ngang 2 và ứng suất
tổng 1= cosnt
Khi đó giá trị ứng suất lệch lớn nhất ∆g do
giảm tải ngang được xác định theo biểu thức:
22
sincos 2sin cos2 2 2
1 sin 1 sin 1 sin 1 sing
C C
(5)
Quan hệ ∆g và 2 là bậc nhất ∆g = ag 2 +
bg với
2sin
1 singa
và
cos2
1 sin
Cb
So sánh at với ag và bt với bg thì a = at - ag ≥
0 và b = bt -bg≥0, khi càng lớn thì a và b
càng lớn. Và khi =0 thì a=b=0 .
Từ diễn giải trên có thể khẳng định, quá trình
đạt đến trạng thái giới hạn giữa sơ đồ thí nghiệm
gia tải đứng với giảm tải ngang đối với đất có
=0 là như nhau, nhưng khác nhau càng nhiều
với đất có góc ma sát càng lớn.
Tóm lại, với cùng một mẫu đất thí nghiệm
theo sơ đồ chất tải đứng và theo sơ đồ giảm tải
ngang có cùng quy luật biến đổi tuyên tính,
nhưng sẽ có các kết quả không giống nhau về độ
bền hoặc giá trị biến dạng trượt cực đại.
b) Về giá trị độ bền và giá trị biến dạng trượt
cực đại
Quan hệ giữa modul biến dạng nén E với
modul biến dạng trượt G
2(1 )
EG
(6)
Trong đó, G- modul biến dạng trượt, G
- hệ số biến dạng ngang 2
1
e
e
- biến dạng trượt có giá trị cực đại khi
thành phần ứng suất tiếp τ đạt giá trị độ bền cắt
của đất,
, C- là các đặc trưng kháng cắt
trong quan hệ τ= tg +C
Thay các τ, G, e1 và e2 vào biểu thức (6) sẽ
được có quan hệ E với G
1
2 12( )
Eetg C
e e
2 1 2 1
1
2( ) 2( )( )tg C C
e e e e tgEe
=
C
tgeev )(( 1 )
C
tgE
ev
)(
)(2
CtgE
ECtg
-Trường hợp chất tải đứng ev> 0, với >0
)(2 ECtgev > 0 vì
)( CtgE >0
theo đó, ev > 0 khi và chỉ khi
tg
EC )(
-Trường hợp giảm tải ngang ev < 0, với > 0
)(2 ECtgev <0
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 7
vì )( CtgE >0
theo đó, ev > 0 khi và chỉ khi
tg
EC )(
Hình 1 Đồ thị quan hệ ev –ở trạng thái
cân bằng
Như vậy, độ bền của đất khi giảm tải ngang
luôn nhỏ hơn so với khi tăng tải đứng và giá trị
lớn nhất của nó bị ràng buộc bởi các thông số
theo mối quan hệ
tg
EC )(
Hình 1 chỉ ra đồ thị quan hệ giữa biến dạng
thể tích và độ lệch ứng suất.
KẾT LUẬN
Trạng thái ứng suất biến dạng của nền đất là
rất khác nhau phụ thuộc vào đặc trưng tác động
của tải trọng và quy luật biến đổi giá trị các
thông số như hệ số biên dạng ngang, biến dạng
thể tích, độ bền cũng khác nhau. Khi tính toán
thiết kế áp dụng hệ số là các hằng số để chuyển
đổi giữa các thông số của bài toán gia tải đứng
với giảm tải ngang sẽ không có được kết quả
tính toán chính xác. Cần thiết mô hình hóa điều
kiện làm việc thực tế của đất để xác định các
thông số đầu vào phục vụ thiết kế. Bài toán thiết
kế thi công hố đào sâu là một ví dụ điển hình.
TÀI LIỆU TH M KHẢO
1. Đào Huy Bích (1990). “Cơ học môi
trường liên tục”, Nhà in trường Đại học Tổng
hợp Hà Nội
2. Đào Huy Bích (2000), “Lý thuyết đàn hồi”,
Nhà xuất bản đại học Quốc gia Hà Nội.
3. Trần thương Bình (2005), “ Nghiên cứu
sự biến đổi sức kháng cắt của đất hệ tầng Thái
Bình trên mô hình thí nghiệm động”. Tuyển tập
khoa học toàn quốc địa chất công trình và môi
trường tr.238-242 .
4. P.Purushothama Raj (1995),
“Geotechnical.Engineering”, New York.
5. R. Whitlow (1997), “Cơ học đất”, NXB
Giáo dục.
6. Arnold Verrujit (2005), “Soil Dynamic”,
Delft University of Technology.
Người phản biện: PGS.TS. NGUYỄN BÁ KẾ
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 8
ỔN ĐỊNH CỦA NỀN ĐẤT YẾU DƯỚI CÔNG TRÌNH ĐẮP THEO CÁC SỨC CHỐNG CẮT KHÁC NHAU
BÙI TRƢỜNG SƠN, VÕ PHÁN, LÊ HOÀNG VIỆT*
Stability of soft soil under embankment based on various shear
strength
Abstract: Shear strengths of soft soil are various according to different
testing methods. Based on various values of shear strength, the stability
analysis of soft soil under embankment is carried out using circle
method, degree of approaching to limit state and factor of safety. The
calculating and analyzing results show that using the corrected
undrained shear strength of in-situ vane shear test allows to obtain the
more reasonable results in comparison with using the shear strength of
the other tests. Using undrained shear strength of vane shear test shows
that the sliding and plastic area exists under the talus and independent
from stress state.
1. CÁC PHƢƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ
KHẢ NĂNG CHỊU TẢI CỦ ĐẤT NỀN*
Trong thiết kế nền móng công trình, việc xác
định sức chịu tải an toàn và chính xác của nền
đất được quan tâm đầu tiên. Tồn tại một số
phương pháp đánh giá sức chịu tải của nền đất
dưới đáy móng và hầu hết các phương pháp đều
căn cứ trên cơ sở trạng thái cân bằng giới hạn.
Có thể phân chia các phương pháp này theo các
khuynh hướng chính sau: phương pháp dựa trên
mức độ phát triển của vùng biến dạng dẻo trong
nền, phương pháp dựa trên giả thuyết cân bằng
giới hạn và xác định giá trị tải trọng tới hạn,
phương pháp dựa trên giả thuyết mặt trượt và
các phương pháp bán kinh nghiệm trên cơ sở
các thí nghiệm hiện trường
Phương pháp căn cứ mức độ phát triển của
vùng biến dạng dẻo chủ yếu được trình bày bởi
các nhà nghiên cứu ở Liên Xô cũ. Tải trọng ban
* Trường Đại học Bách Khoa, ĐHQG-HCM
268 Lý Thường Kiệt, quận 10, TP. HCM
[email protected]; ĐT:0907159518
[email protected]; ĐT: 0913 867008
[email protected]; ĐT:0979853988
đầu p* tương ứng với trường hợp khi chỉ có một
điểm duy nhất trong nền dưới mép móng băng
xuất hiện trạng thái giới hạn được đề nghị bởi
N.P. Puzưrevski. Theo quan điểm của N.N.
Maslov, tải trọng tính theo N.P. Puzưrevski là
quá thiên về an toàn và ông đề nghị lấy phạm vi
độ sâu vùng dẻo zmax = b.tan để vùng biến
dạng dẻo không lan vào phạm vi giữa hai đường
thẳng đứng đi qua mép móng. Theo I.V.
Yaropolski, khi tăng tải trọng, vùng biến dạng
dẻo phát triển đến độ sâu lớn nhất và nối liền
với nhau, tương ứng với trạng thái của nền lúc
bắt đầu mất ổn định. Tiêu chuẩn Việt Nam tham
khảo cơ sở tiêu chuẩn Liên bang Nga xem giá
trị tải trọng hình băng ứng với phạm vi vùng
dẻo đến độ sâu bằng 1/4 bề rộng móng b thì nền
còn ứng xử trong phạm vi đàn hồi [1], [2], [3].
Việc tính toán sức chịu tải của nền với giả
thiết về kích thước, hình dạng nêm nén chặt và
hàm số các đường phá hoại trượt gắn liền với
các tên tuổi như: V.V. Sokolovski, L. Prandltl,
K. Terzaghi, V.G. Berezantsev,... Các kết quả
nghiên cứu này cho phép xác định giá trị ứng
suất giới hạn của tải trọng hình băng lên đất nền
[3], [4].
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 9
Prandtl là người đầu tiên quan sát trực tiếp
các mặt trượt đất nền bên dưới mô hình móng
và đưa ra dạng phương trình giải tích của các
mặt trượt dưới đáy móng gồm các đoạn thẳng nối
với nhau bởi đoạn cong xoắn ốc. Áp lực cực hạn ở
đáy móng qu được Prandtl giới thiệu gồm hai thành
phần: do lực dính c.Nc và do phụ tải hông qo.Nq.
Sau đó, Terzaghi, Buisman, Caquot, Sokolovski,
Meyerhof, Hansen và nhiều tác giả khác bổ sung
thành phần ma sát vào công thức sức chịu tải của
đất nền. Năm 1942, V.V. Sokolovski ứng dụng
phương pháp số để giải phương trình vi phân của F.
Kotter cho bài toán phẳng có xét đến trọng lượng
bản thân đất ( 0). Điều này góp phần quan trọng
trong phát triển lý thuyết cân bằng giới hạn để đánh
giá ổn định của nền đất, của mái dốc và tính toán
áp lực đất lên tường chắn. V.G. Berezantsev áp
dụng phương pháp của V.V.Sokolovski để xác
định tải trọng giới hạn phân bố đều khi lực tác dụng
đúng tâm có xét đến sự hình thành nêm đất và sau
này đưa ra lời giải áp dụng xác định tải trọng giới
hạn của nền đất cho cả bài toán phẳng và bài toán
không gian.
Sơ đồ tính toán của K. Terzaghi vẫn sử dụng
những đường trượt như trong phương pháp của
Prandtl xem nền không trọng lượng ( = 0). K.
Terzaghi giả thiết nêm đất là hình tam giác cân
với góc ở đáy bằng cho phù hợp với các kết
quả của thí nghiệm nén. Phương pháp có xét
đến ảnh hưởng của hình dạng móng, chiều sâu
chôn móng và độ nghiêng của tải trọng tác động
được Meyerhof khởi xướng và được đề cập
trong các nghiên cứu của các tác giả như: De
Beer, Vesic, Hansen, Hanna.
Sức chịu tải của đất nền còn có thể được
đánh giá thông qua các công thức kinh nghiệm
trên cơ sở kết quả thí nghiệm hiện trường như
xuyên tiêu chuẩn, xuyên tĩnh, bàn nén hay nén
trong hố khoan.
Đối với công trình đất đắp (đường, đê và
đập) ngoài việc xác định tải trọng giới hạn lên
đất nền, cần thiết phải đánh giá khả năng trượt
và phá hoại qua bản thân công trình bằng vật
liệu đắp [5], [6]. Theo các kết quả đo đạt và
quan sát các mặt trượt trong thực tế, nhiều mặt
trượt thường có dạng mặt trượt trụ tròn hoặc gần
với dạng này. Theo khuynh hướng này, phổ biến
có phương pháp phân mảnh cổ điển Fellenius,
phương pháp Bishop có xét sự tương tác của các
mảnh và các phương pháp khác.
Với sự trợ giúp của các công cụ tính toán hiện
nay, việc đánh giá khả năng chịu tải của đất nền
cũng có thể thực hiện được thông qua các phần
mềm trên cơ sở phương pháp phần tử hữu hạn
[7]. Ở đây, tùy theo mô hình vật liệu mà các tiêu
chuẩn bền khác nhau có thể được áp dụng. Ngoài
ra, cũng có thể căn cứ vào phạm vi vùng nguy
hiểm theo mức độ tiếp cận trạng thái giới hạn để
đánh giá khả năng ổn định của đất nền. Phương
pháp này chẳng những cho phép xét đến trọng
lượng bản thân đất mà còn cho phép sử dụng các
đại lượng độ bền như là một hàm số theo trạng
thái ứng suất ở điểm bất kỳ trong nền [8].
Đối với nền đất yếu, nhiều hồ sơ khảo sát
cho thấy giá trị độ bền khác nhau theo các
phương pháp thí nghiệm [9]. Do đó, việc sử
dụng các phương pháp tính toán khác nhau với
các đại lượng độ bền khác nhau sẽ cho phép
phân tích so sánh kết quả nhằm rút ra các nhận
định có ích trong việc chọn lựa phương pháp
tính cũng như giá trị độ bền hợp lý trong tính
toán thiết kế. Ở đây, việc phân tích chủ yếu tập
trung vào nền đất yếu dưới công trình đất đắp, là
loại hình công trình phổ biến có tải trọng tác
dụng trực tiếp lên đất nền.
2. KHẢ NĂNG ỔN ĐỊNH CỦ NỀN ĐẤT
YẾU DƢỚI CÔNG TRÌNH ĐẮP THEO
CÁC Đ I LƢỢNG ĐỘ BỀN KHÁC NH U
Các dữ liệu về đặc trưng cơ lý của đất yếu ở
khu vực Nhà Bè, Tp. HCM cho thấy giá trị sức
chống cắt khác nhau theo các phương pháp thí
nghiệm khác nhau (bảng 1). Đối với công trình
đắp, phương pháp đánh giá khả năng ổn định
bao gồm phương pháp cung trượt lăng trụ tròn,
bằng phần mềm Plaxis và mức độ tiếp cận trạng
thái giới hạn.
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 10
Bảng 1. Độ bền của nền đất yếu khu vực Nhà Bè từ các kết quả thí nghiệm khác nhau
Phương pháp thí nghiệm Giá trị độ bền
Cắt trực tiếp c = 8,83 kN/m2; = 4,3 độ
Nén đơn qu= 35,7 kN/m2
Nén ba trục theo sơ đồ UU c = 18,64 kN/m2; = 0,8 độ
Nén ba trục theo sơ đồ CU c’ = 10,79 kN/m2; = 23,9 độ
Cắt cánh hiện trường có hiệu chỉnh Su = 8,081 + 1,386.z (kN/m2). Với: z (m) – độ sâu.
Sơ đồ bài toán đặc trưng chọn lựa là công
trình đường đắp trên đất yếu với chiều cao đắp là
1,5m, với bề rộng mặt đường là 20m (2a = 20m),
độ dốc mái taluy 1: 1,5. Do đó, bề rộng đáy khối
đắp 2b = 24,5m. Trọng lượng riêng của vật liệu
đắp trung bình γ = 19,0KN/m3, lực dính c = 31
kPa, = 9,8 độ. Do việc tính toán khả năng chịu
tải cần thiết xét đến hoạt tải, nên xem khối đắp
chịu tải trọng phân bố đều p = 25,3 KN/m2.
Bề dày lớp đất yếu của khu vực có giá trị trung
bình 20m với dung trọng tự nhiên γ=15,2KN/m3,
mực nước ngầm nằm ngang mặt đất.
Việc đánh giá khả năng ổn định công trình
đắp trên nền đất yếu thường được thực hiện
thông qua giá trị hệ số ổn định K hay hệ số an
toàn FoS. Trong trường hợp này, phần mềm
Geoslope và Plaxis được sử dụng để phân tích.
Trong đó, hệ số ổn định được xác định theo
phương pháp Bishop và phương pháp phân
mảnh cổ điển.
Bảng 2. Giá trị hệ số ổn định theo các phƣơng pháp cung trƣợt lăng trụ tròn
Phương pháp thí nghiệm
Hệ số ổn định
Phương pháp
Bishop
Phương pháp phân
mảnh cổ điển
Cắt trực tiếp 1,619 1,570
Nén một trục 2,029 2,025
Nén ba trục the sơ đồ UU 2,217 2,196
Sức chống cắt hữu hiệu từ CU với các thành
phần ứng suất hữu hiệu
2,783 2,566
Cắt cánh hiện trường có hiệu chỉnh 1,642 1,646
Từ kết quả tính toán có thể thấy rằng giá trị
hệ số ổn định theo phương pháp Bishop đều lớn
hơn so với kết quả tính toán theo phương pháp
phân mảnh cổ điển, ngoại trừ trường hợp sử
dụng kết quả thí nghiệm cắt cánh hiện trường thì
giá trị hệ số ổn định của hai phương pháp là xấp
xỉ như nhau. Ở đây cũng cần nói thêm rằng khi
sử dụng giá trị sức chống cắt không thoát nước
thì ứng suất do trọng lượng bản thân là giá trị
tổng ứng suất phụ thuộc dung trọng tự nhiên
nếu đất có độ bão hòa cao hay dung trọng bão
hòa trong trường hợp đất nằm dưới mực nước
ngầm. Trong trường hợp sử dụng sức chống cắt
hữu hiệu, ứng suất do trọng lượng bản thân có
xét vai trò của áp lực do cột nước nên có giá trị
là ứng suất hữu hiệu.
Trong các trường hợp tính toán, giá trị hệ số
ổn định theo sức chống cắt hữu hiệu là lớn nhất.
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 11
Trong thí nghiệm theo sơ đồ CU, mẫu đất được
cố kết trước khi nén lệch trục. Các giá trị áp lực
buồng chọn lựa khá lớn so với thực tế áp lực
theo phương ngang nhỏ hơn đáng kể nên đất bị
nén chặt nhiều hơn so với thực tế trong nền.
Nên sử dụng sức chống cắt hữu hiệu có thể
không an toàn mà trong các khuyến cáo sử dụng
phương pháp cung trượt cũng được đề cập.
Kết quả tính toán sử dụng sức chống cắt
không thoát nước từ thí nghiệm nén ba trục UU
và nén một trục cho thấy hệ số ổn định khá lớn
và tương tự nhau. Kết quả đó không những thể
hiện thông qua giá trị hệ số ổn định mà còn ở
phạm vi cung trượt. Các cung trượt sử dụng giá
trị sức chống cắt này đạt đến độ sâu khá lớn
(xấp xỉ 6m).
Kết quả tính toán theo thí nghiệm cắt trực
tiếp và cắt cánh có giá trị hệ số ổn định gần như
nhau cũng như phạm vi cung trượt. Ở đây, có
thể thấy rằng thí nghiệm cắt cánh hiện trường có
hiệu chỉnh cho phép đánh giá sức chống cắt
không thoát nước ứng với trạng thái tự nhiên
nên phù hợp với ứng xử thực tế nhất. Trong khi
đó, thí nghiệm cắt trực tiếp được thực hiện
trong thời gian ngắn trong điều kiện khí quyển
nên mẫu đất ở trong trạng thái chưa được nén
chặt, do đó, sức chống cắt được xem là phù
hợp đối với khu vực có độ sâu nhỏ (giá trị này
sẽ nhỏ hơn thực tế đối với khu vực ở độ sâu
lớn). Do phạm vi cung trượt ở gần bề mặt nên
sức chống cắt chọn lựa trong trường hợp này
trở thành phù hợp.
2.196
20 m
+0.00
+1.50
16 m
ỔN ĐỊNH CHO TRƢỜNG HỢP THÍ NGHIỆM UU
1:1.5 1:1.5
q = 25.3 kPa
Name: Đất Nền Unit Weight: 15.2 kN/m³Cohesion: 18.64 kPaPhi: 0.82 °
Name: Đất Đắp Unit Weight: 19 kN/m³Cohesion: 31 kPaPhi: 9.8 °
Khoaûng caùch (m)
-5 0 5 10 15 20 25 30 35 40 45 50 55 60 65
Cao
ñoä
(m)
-22
-20
-18
-16
-14
-12
-10
-8
-6
-4
-2
0
2
4
6
8
1.64220 m
+0.00
+1.5016 m
ỔN ĐỊNH CHO TRƢỜNG HỢP THÍ NGHIỆM VST
1:1.5 1:1.5
q = 25.3 kPa
Name: Đất Nền Unit Weight: 15.2 kN/m³C-Top of Layer: 10.62 kPaC-Rate of Increase: 1.32 Limiting C: 37.02 kPa
Name: Đất Đắp Unit Weight: 19 kN/m³Cohesion: 31 kPaPhi: 9.8 °
Khoaûng caùch (m)
-5 0 5 10 15 20 25 30 35 40 45 50 55 60 65
Cao
ñoä
(m)
-22
-20
-18
-16
-14
-12
-10
-8
-6
-4
-2
0
2
4
6
8
10
Hình 1 và hình 2. Ổn định theo phương pháp phân mảnh cổ điển sử dụng sức chống cắt
không thoát nước từ thí nghiệm UU và thí nghiệm cắt cánh có xét sự thay đổi Su theo độ sâu
Khả năng ổn định của công trình cũng có
thể được đánh giá thông qua hệ số an toàn từ
sự suy giảm sức chống cắt của đất bằng phần
mềm Plaxis. Khi sử dụng sức chống cắt từ thí
nghiệm cắt trực tiếp, ứng suất do trọng lượng
bản thân chọn tính là tổng ứng suất nên không
xét vai trò mực nước. Nếu sử dụng sức chống
cắt hữu hiệu thì nhất thiết phải xét hiện tượng
đẩy nổi nên dưới mực nước ngầm thì ứng suất
chịu tác dụng của cột nước thủy tĩnh hay áp
lực nước lỗ rỗng thặng dư hình thành do tác
dụng của tải trọng ngoài. Lưu ý rằng việc sử
dụng lực dính thuần túy khi giá trị góc ma sát
trong φ = 0 không thực hiện được trong phần
mềm Plaxis.
Kết quả tính toán sử dụng kết quả thí nghiệm
cắt trực tiếp cho giá trị hệ số an toàn theo sự suy
giảm độ bền FoS = 1,31 và sử dụng sức chống
cắt hữu hiệu cho FoS = 1,81Việc tính toán theo
phần mềm Plaxis khó có thể cho phép xác định
chính xác giá trị hệ số ổn định hay khả năng
chịu tải nhưng xu thế chuyển vị và phạm vi
vùng nguy hiểm có thể dễ dàng phân biệt (hình
2). Ở đây, trong phạm vi nền có khả năng phá
hoại do trượt theo thí nghiệm cắt trực tiếp xảy ra
ở dưới mái taluy phù hợp với thực tế hơn so với
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 12
dưới tâm theo kết quả tính toán sử dụng sức
chống cắt hữu hiệu.
Mức độ tiếp cận trạng thái giới hạn có thể
thể hiện thông qua phạm vi vùng biến dạng
dẻo, tức là vùng có giá trị ≥1. Khi vùng
biến dạng dẻo giao nhau hoặc trồi lên đến bề
mặt thì đất nền xem như phá hoại. Đất trong
nền không những chịu tác dụng của tải trọng
ngoài mà còn chịu ứng suất do trọng lượng
bản thân. Để đánh giá hợp lý hơn, nhất thiết
phải xét đến trọng lượng bản thân trong quá
trình tính toán.
Từ kết quả tính toán sử dụng sức chống cắt
từ thí nghiệm cắt trực tiếp, có thể thấy rằng
phạm vi vùng nguy hiểm khác nhau đáng kể khi
không xét và xét trọng lượng bản thân đất nền
(hình 3 và 4). Ở đây, khi xét trọng lượng bản
thân đất nền, vùng dẻo thu hẹp đáng kể và tập
trung ở khu vực dưới mái taluy, trùng hợp với
phạm vi cung trượt nguy hiểm và không phát
triển đến các độ sâu lớn như khuynh hướng khi
sử dụng sức chống cắt theo kết quả thí nghiệm
nén đơn (cu=qu/2), UU hay CU. Ngoài ra, việc
sử dụng các giá trị sức chống cắt theo các
phương pháp thí nghiệm khác có xét đến trọng
lượng bản thân đất nền đều cho thấy khả năng
ổn định lớn hơn so với trường hợp không xét
căn cứ giá trị và phạm vi mức độ tiếp cận trạng
thái giới hạn nhỏ hơn (hình 5).
Sử dụng sức chống cắt có giá trị góc ma sát
trong thì sự khác biệt về phạm vi vùng nguy
hiểm khi có và không xét trọng lượng bản thân
khác nhau đáng kể do thành phần ma sát phụ
thuộc ứng suất tác dụng. Việc sử dụng sức
chống cắt không thoát nước theo kết quả cắt
cánh chỉ xét sức chống cắt không thoát nước Su
cho kết quả gần như nhau khi xét trọng lượng
bản thân mặc dù các thành phần ứng suất có ảnh
hưởng lên mức độ tiếp cận trạng thái giới hạn.
Điều này không những thể hiện thông qua giá trị
hệ số ổn định (bảng 1) mà còn thể hiện ở phạm
vi vùng dẻo (hình 6 và 7). Hơn nữa, trong các
trường hợp tính toán, kết quả sử dụng sức chống
cắt không thoát nước từ cắt cánh cho phạm vi
vùng biến dạng dẻo phù hợp với phạm vi mà đất
có sự dịch chuyển theo phương ngang lớn và
khá trùng hợp với phạm vi cung trượt đã tính
trước đó cũng như xu hướng dịch chuyển theo
phần mềm Plaxis.
Các phương pháp phân tích bằng phần mềm
Plaxis và Geoslope đều xét trọng lượng bản thân
và điều này hợp lý với ứng xử thực tế của đất
nền. Do đó, có thể xem việc đánh giá mức độ
tiếp cận trạng thái giới hạn có xét trọng lượng
bản thân là hợp lý hơn so với kết quả tính toán
không xét. Các kết quả tính toán theo sức chống
cắt từ thí nghiệm nén đơn, nén ba trục theo sơ
đồ UU và CU đều cho thấy vùng dẻo không
xuất hiện tương ứng với hệ số ổn định cao như
đã tính toán trước đó.
p
Hình 3. Mức độ tiếp cận trạng thái giới hạn của đất nền dưới công trình đắp theo kết quả thí
nghiệm cắt trực tiếp không xét trọng lượng bản thân đất nền
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 13
p
Hình 4. Mức độ tiếp cận trạng thái giới hạn của đất nền dưới công trình đắp theo kết quả
thí nghiệm cắt trực tiếp có xét trọng lượng bản thân đất nền
p
Hình 5. Mức độ tiếp cận trạng thái giới hạn của đất nền dưới công trình đắp theo kết quả
thí nghiệm nén ba trục UU có xét trọng lượng bản thân đất nền
p
Hình 6. Mức độ tiếp cận trạng thái giới hạn của đất nền dưới công trình đắp theo kết quả
thí nghiệm với sức chống cắt không thoát nước Su thay đổi theo độ sâu từ thí nghiệm cắt cánh
hiện trường không xét trọng lượng bản thân đất nền.
p
Hình 7. Mức độ tiếp cận trạng thái giới hạn của đất nền dưới công trình đắp theo kết quả
thí nghiệm với sức chống cắt không thoát nước Su thay đổi theo độ sâu từ thí nghiệm cắt cánh
hiện trường có xét trọng lượng bản thân đất nền.
Sự phù hợp vùngdẻo và cung trượt
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 14
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Từ kết quả tổng hợp giá trị độ bền của sét
mềm bão hòa nước theo các kết quả thí nghiệm
khác nhau và tính toán ổn định theo phương
pháp cung trượt lăng trụ tròn với hệ số an toàn
và vùng biến dạng dẻo theo mức độ tiếp cận
trạng thái giới hạn có thể rút ra các kết luận
chính như sau:
- Sử dụng kết quả thí nghiệm cắt cánh hiện
trường cho phép đánh giá hợp lý khả năng ổn
định của nền đất yếu dưới công trình đắp do phù
hợp với ứng xử thực tế, phạm vi vùng trượt và
vùng biến dạng dẻo.
- Kết quả tính toán theo sức chống cắt không
thoát nước chỉ với lực dính không thoát nước
cho thấy khả năng ổn định trong trường hợp
không xét và xét ứng suất do trọng lượng bản
thân là không đáng kể.
- Kết quả tính toán sử dụng sức chống cắt
không thoát nước từ thí nghiệm cắt trực tiếp có
thể phù hợp khi đánh giá ổn định nền ứng với
trường hợp phạm vi vùng trượt và vùng dẻo ở
gần bề mặt.
- Khi sử dụng sức chống cắt có giá trị góc ma
sát trong nhất thiết phải xét đến vai trò của ứng
suất do trọng lượng bản thân đất nền.
Từ các phân tích, có thể rút ra một số kiến
nghị như sau: nên sử dụng kết quả thí nghiệm
cắt cánh hiện trường hiệu chỉnh để đánh giá khả
năng ổn định của nền đất yếu dưới công trình
đắp do thí nghiệm này phù hợp với ứng xử thực
tế và kết quả tính toán phù hợp với phạm vi
phân bố vùng dẻo và vùng trượt gây phá hoại;
khi tính toán khả năng ổn định có xét đến góc
ma sát trong của đất cần lưu ý các phương pháp
tính có xét trạng thái ứng suất khu vực phá hoại
vì điều này ảnh hưởng đáng kể lên kết quả tính
toán; có thể sử dụng kết quả thí nghiệm cắt trực
tiếp để đánh giá khả năng ổn định của nền đất
yếu dưới công trình đắp do độ chặt của mẫu
trong thí nghiệm phù hợp ở khu vực vùng trượt
có độ sâu bé.
TÀI LIỆU TH M KHẢO
1. N.A. Xưtôvich (1987). Cơ học đất (bản
dịch). NXB Nông nghiệp, Hà nội.
2. Lê Quý An, Nguyễn Công Mẫn, Nguyễn
Văn Quỳ (1977). Cơ học đất. NXB đại học và
Trung học chuyên nghiệp.
3. Châu Ngọc Ẩn (2004). Cơ học đất. NXB
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
4. V.V. Sokolovski (1965). Statics of
granular media. Bergamon Press.
5. Nguyễn Thành Long, Lê Bá Lương,
Nguyễn Quang Chiêu, Vũ Đức Lực (1989).
Công trình trên đất yếu trong điều kiện Việt
Nam. Trường Đại học Kỹ Thuật TP. HCM – Tổ
Giáo trình.
6. Quy trình khảo sát thiết kế nền đường ôtô
đắp trên đất yếu - Tiêu chuẩn thiết kế 22TCN
262-2000.
7. Serge Leroueil, Jean-Pier Magnan,
Francois Tavenas (1990). Embankments on soft
clay. English Edittion, Ellis Horwood.
8. Bùi Trường Sơn. Phương pháp phân chia
vùng nền dưới công trình theo mức độ tiếp cận
trạng thái giới hạn. Tuyển tập kết quả khoa học
công nghệ năm 2008. Bộ NT và PTNT. Trang
665 - 671.
9. Bùi Trường Sơn, Lê Hoàng Việt. Chọn lựa
sức chống cắt không thoát nước của sét mềm để
tính toán nền công trình đắp. Tập 14, Tuyển tập
kết quả khoa học công nghệ 2011, NXB Nông
nghiệp. Trang 469-477.
Người phản biện: PGS.TS. ĐÀO VĂN TOẠI
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 15
NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CHIỀU RỘNG CỦA SÂN CHỐNG THẤM BẰNG MÔ HÌNH BÀI TOÁN THẤM 3 CHIỀU
BÙI VĂN TRƢỜNG*
Effect of width of waterproofing courtyard in 3 dimensional model
Abstract: For the waterproofing courtyard of dams, 2D problem often does
not take into account of the its width and can lead to incorrect results. This
paper presents the analysis and evaluation of technical efficiency of
waterproof courtyard in 3D seepage problem for a concret project and find
out that the effectiveness of waterproofing courtyard depends not only on the
length all so on the its width. That contributed to the orientation for the
calculation and design work to ensure more effective.
Keywords: Waterproofing courtyard, influence width, seepage 3
dimensional.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ*
Sân phủ chống thấm - sân trước (SCT) là giải
pháp được sử dụng phổ biến trong xây dựng các
công trình thuỷ lợi, thuỷ điện. SCT được xây dựng
ở phía thượng lưu (hình 1) bằng vật liệu có tính
thấm nhỏ. SCT có thể làm bằng đất sét, pha sét
(Ks <10-6cm/s), màng địa kỹ thuật chống thấm
GCL, HDPE (hình 2) có K=10-11
-10-13
cm/s
(Nguyễn Đình Hùng, 2008), bê tông asphan, bê
tông thường hoặc BTCT (TCVN9143:2012). SCT
có tác dụng kéo dài đường thấm, tăng sức cản
thấm xuyên của lớp đất phía thượng lưu, do đó
giảm lưu lượng và áp lực của dòng thấm ở nền
công trình, nhờ đó ngăn chặn được tác động bất
lợi của dòng thấm.
Hình 01. Sân phủ chống thấm (I)
* Khoa Công trình - Đại học Thủy lợi
175 Tây Sơn, Đống Đa, Hà Nội
DĐ: 0912135769; Email: [email protected]
Hình 02. Màng địa kỹ thuật chống thấm GCL & HDPE
Hiệu quả chống thấm của SCT không chỉ phụ
thuộc vào chiều dài (Ls), chiều dầy (ts) của sân mà
còn phụ thuộc quan trọng vào chiều rộng (Bs)
của SCT. Nếu SCT có chiều rộng nhỏ hẹp,
dòng thấm vòng hai bên SCT có thể vô hiệu
hóa tác dụng chống thấm của SCT.
Tuy nhiên, trong thiết kế SCT, tác dụng
chống thấm của SCT thường được tính toán
theo bài toán phẳng (2D). Chiều dài (Ls), chiều
dày (ts) của sân được xác định theo công thức
Ughintrut (TCVN 9143:2012), nhưng chiều
rộng (Bs) của SCT chưa được xét đến trong bài
toán này. Do vậy, kết quả tính toán thường
không phản ánh được sự phát triển phức tạp và
bất lợi của dòng thấm. Hậu quả là đã có những
công trình bị sự cố gây thiết hại nghiêm trọng
(Phan Sỹ Kỳ, 2000).
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 16
Để có những nhìn nhận đầy đủ, rõ ràng và
trực quan hơn về vấn đề này, cần phân tích,
đánh giá và so sánh hiệu quả của SCT có chiều
rộng (Bs) và chiều dài (Ls) khác nhau trong bài
toán thấm 3D.
Với mục đích đó, công trình đê Tả sông Hồng,
đoạn từ K142145 được lựa chọn trong nghiên
cứu này. Nền công trình có tầng thấm nước mạnh
thông nước với sông. Trong lịch sử đã xảy ra
nhiều sự cố, điển hình là thảm hoạ vỡ đê tại
K143.2 vào tháng 8 năm 1945.
2. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA CHẤT NỀN CÔNG TRÌNH
Nền công trình bao gồm 4 lớp (Bùi Văn
Trường, 1993, 2009):
- Lớp 1: Sét pha, dẻo mềm;
- Lớp 2: Sét pha, kẹp cát, chảy;
- Lớp 3: Cát hạt nhỏ, chặt vừa-xốp;
- Lớp 4: Bùn sét pha.
Đặc trưng cơ lý của các lớp đất nền được
trình bày trong bảng 01.
Như vậy, trong cấu trúc nền đê, lớp 1 & 2 là các
lớp đất thuộc tầng phủ thấm nước yếu.
Nằm dưới tầng phủ là lớp cát hạt nhỏ, chặt
vừa÷xốp có tính thấm mạnh . Lớp này bị sông
đào cắt, nên có quan hệ thủy lực trực tiếp với
nước sông. Khi có nước lũ về, mực nước sông
dâng cao, gia tăng áp lực thấm lên tầng phủ làm
phát sinh biến dạng thấm (BDT) gây mất ổn
định nền đê.
Trong điều kiện đó, SCT là một trong những
giải pháp xử lý (GPXL) được nghiên cứu lựa
chọn.
Bảng 01. Đặc trung cơ lý các lớp đất nền
3. MÔ HÌNH BÀI TOÁN THẤM 3 D
3.1. Cơ sở lý thuyết của mô hình và
phƣơng pháp giải
Để xây dựng MH bài toán thấm 3D cho khu
vực công trình, sử dụng phần mềm Visual
Modflow phiên bản 4.2.0.151 của Mỹ. Phần mềm
này có những tính năng hiện đại, linh hoạt, cho
phép mô phỏng khá đầy đủ các tính chất, hình thái
của môi trường và các hợp phần của hệ thống.
Sử dụng phần mềm này cùng với sự hỗ trợ
của hệ phần mềm Surfer, Mapinfor cho phép
mô hình hóa hệ thống tự nhiên - kỹ thuật
(TNKT), bao gồm hệ thông công trình, SCT và
các GPXL theo bài toán 3D. Mô hình này cho
phép xác định được các thông số của trường
thấm ở bất kỳ thời điểm và vị trí nào trong khu
vực, từ đó có thể tính toán, dự báo; phân tích,
đánh giá hiệu quả kỹ thuật của SCT và các
GPXL được thuận tiện và chính xác.
a. Mô hình toán học
Sự biến đổi độ cao mực nước (MN) dưới đất
h(x, y, z) được mô tả bằng một phương trình
đạo hàm riêng như sau:
t
hSW
z
hK
zy
hK
yx
hK
xszzyyxx
(1)
trong đó:
Kxx, Kyy, Kzz - hệ số thấm theo các hướng x,
y và z;
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 17
h - cốt cao MN tại vị trí (x,y,z) ở thời điểm t;
W - module dòng ngầm, phụ thuộc thời
gian và vị trí không gian (x,y,z);
Ss - hệ số nhả nước đơn vị (1/m).
Phương trình (1) mô tả động thái của nước
dưới đất (NDĐ) trong môi trường không
đồng nhất và dị hướng (Todd D.K, 1980).
Phương trình (1) cùng với các điều kiện biên,
điều kiện ban đầu tạo thành MH toán học của
dòng thấm.
b. Phương pháp giải
Trong thực tế, miền thấm có điều kiện rất
phức tạp, do vậy (1) được giải bằng sai phân
hữu hạn. Với phương pháp này, môi trường
thấm được chia thành các lớp. Mỗi lớp lại được
chia thành các ô nhỏ. Từ đó thiết lập được hệ
phương trình có số phương trình tương ứng với
số ô lưới. Giải lặp hệ phương trình này sẽ xác
định được h(x, y, z) ở bất kỳ thời điểm (t) nào
đó trong môi trường thấm.
3.2. Cơ sở tài liệu của mô hình
Mô hình được xây dựng trên cơ sở tổng hợp
các tài liệu và số liệu địa hình, địa hình đáy sông;
tài liệu khảo sát ĐCCT-ĐCTV nền đê theo các đề
án; số liệu quan trắc MNDĐ năm 2003, 2004; số
liệu thuỷ văn trạm Nhật Tảo; số liệu khí tượng
trạm Thái Bình, Nam Định; tài liệu các đề tài, dự
án liên quan (Bùi Văn Trường, 2009).
3.3.Xây dựng mô hình bài toán thấm
- Mô hình hóa bề mặt địa hình
Từ các tài liệu đo vẽ địa hình khu vực, địa
hình đáy sông, sử dụng phần mềm Surfer của
Mỹ số hoá bản đồ địa hình nền, xây dựng bản
đồ bề mặt địa hình 3D để đưa vào MH.
- Mô hình hóa các lớp đất nền
Trên cơ sở tài liệu địa chất nền đê, các công
trình trên đê,..., tiến hành lập các bản đồ đẳng
đáy, bản đồ đẳng bề dày các lớp đất để mô phỏng
các lớp đất nền trong MH.
- Tính thấm, giá trị bổ cập và bốc hơi
Từ số liệu ĐCTV tiến hành phân vùng và MH
hoá độ nhả nước, xây dựng sơ đồ phân vùng hệ số
thấm của TCN để đưa vào MH. Lượng mưa, bốc
hơi tính toán trong MH được xác định theo số liệu
quan trắc của trạm Thái Bình, Nam Định.
- Điều kiện biên của mô hình
Sông đào cắt vào TCN, có quan hệ thuỷ lực
trực tiếp với NDĐ nên được đặt là biên loại III
(biên sông “River”). Diễn biến MN trên biên sông
được xác định theo tài liệu quan trắc tại trạm thuỷ
văn Nhật Tảo và Nam Định (Trung tâm khí tượng
thủy văn Quốc gia, 2008).
Mô hình bài toán thấm 3D khu vực đê Tả
sông Hồng K142145 thể hiện ở hình 03 &
hình 04.
Hình 03. Mô hình bài toán thấm 3D khu vực
đê Tả sông Hồng K142145
3.4. Chỉnh lý mô hình
a. Kết quả bài toán chỉnh lý ổn định
Độ tin cậy của MH được đánh giá bởi sai số
trung bình (ME), sai số trung bình tuyệt đối
(MAE), sai số trung bình quân phương (RMS) và
sai số trung bình quân phương tiêu chuẩn
(NRMS). Kết quả bài toán chỉnh lý trình bày ở
bảng 02 & hình 05.
Kết quả này cho thấy sự phù hợp với điều kiện
tự nhiên và kết quả quan trắc MNAL ở nền đê.
Bảng 02. Kết quả tính toán sai số mực nƣớc
theo bài toán chỉnh lý ổn định
ME
(m)
MAE
(m)
RMS
(m)
NRMS
(%)
0.008 0.023 0.031 3.33
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 18
Hình 04. Sơ đồ điều kiện biên và lưới sai phân
trong mô hình
Hình 05. Tương quan MN tính toán
với quan trắc theo bài toán chỉnh lý ổn định
b. Kết quả chỉnh lý không ổn định
Bảng 03. Sai số mực nƣớc theo kết quả bài
toán chỉnh lý không ổn định
Thời
điểm
ME
(m)
MAE
(m)
RMS
(m)
NRMS
(%)
ĐL1 0.002 0.009 0.010 0.36
CL1 0.002 0.009 0.009 0.89
ĐL2 0.002 0.009 0.010 0.62
CL1 0.005 0.016 0.018 1.77
Điều kiện biên và các thông số của MH được chỉnh
lý qua từng bước thời gian. Độ tin cậy của MH
phản ánh qua sai số và tương quan giữa cốt cao
MN trên MH với mực nước quan trắc thực tế tại
các lỗ khoan ở các thời điểm đỉnh lũ 1 (ĐL1), chân
lũ 1 (CL1), đỉnh lũ 2 (ĐL2), chân lũ 2 (CL2) được
thể hiện ở bảng 03, hình 06 & hình 07.
Hình 06. Tương quan MN tính toán với quan trắc
theo bài toán chỉnh lý không ổn định
Hình 07. Biến đổi MN tính toán và quan trắc
theo bài toán chỉnh lý không ổn định
3.5. Kết quả mô hình
Kết quả mô hình đã xác định được các
thông số của trường thấm ở nền đê tại các
thời điểm và vị trí khác nhau (hình 08), từ đó
cho phép giải các bài toán thấm chính xác và
hiệu quả.
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 19
a b
Hình 08. Bản đồ đẳng cao trình mực nước áp lực ở nền đê tại thời điểm BBĐIII
(a), ĐL (b) khi chưa có SCT
4. CÁC KỊCH BẢN NGHIÊN CỨU VÀ
KẾT QUẢ TÍNH TOÁN
4.1. Các kịch bản tính toán SCT
Sau khi xây dựng MH bài toán thấm 3D
cho công trình. Để phân tích, đánh giá cụ thể
hiệu quả của SCT, đã MH hoá, tính toán
SCT trong mô hình 3 D theo các kịch bản với
chiều rộng (Bs) và chiều dài (Ls) khác nhau.
a. Các kịch bản SCT có chiều dài khác nhau
Các kịch bản này, SCT có cùng chiều rộng
Bs = 1000m, nhưng có chiều dài Ls như sau:
- Kịch bản 1-1: Ls = 50 m;
- Kịch bản 1-2: Ls = 100 m;
- Kịch bản 1-3: Ls = 200 m.
b. Các kịch bản SCT có chiều rộng khác nhau
Trong các kịch bản này, SCT có cùng chiều dài
Ls = 200m, nhưng có chiều rộng Bs khác nhau:
- Kịch bản 2-1: Bs = 100 m;
- Kịch bản 2-2: Bs = 500 m;
- Kịch bản 2-3: Bs = 1000m.
4.2. Kết quả tính toán
Kết quả tính toán của MH theo các kịch bản
của SCT với các trường hợp mực nước báo động
I, II, II (BĐI, BĐII, BĐIII), đỉnh lũ (ĐL), sau
đỉnh lũ 2 ngày (SDDL2), và sau đỉnh lũ 4 ngày
(SĐL4) với biến đổi MN trận lũ lịch sử tháng
8/1996 được thể hiện cụ thể ở bảng 04, hình 09
và hình 10.
Bảng 04. Biến đổi mực nƣớc áp lực ở đáy tầng phủ tại vị trí chân đê phía đồng
với SCT có chiều rộng (Bs) và chiều dài (Ls) khác nhau
Mức lũ
Cao trình mực nước áp lực (Htt, m)
Chưa có
sân chống
thấm
Ls = 50m,
Bs = 1000m
Ls = 100m,
Bs = 1000m
Ls = 200m,
Bs = 1000m
Ls = 200m,
Bs = 500m
Ls = 200m,
Bs = 100m
BĐI 3.29 3.13 2.95 2.79 2.82 3.13
BĐII 3.64 3.43 3.17 2.90 2.96 3.44
BĐIII 4.36 4.10 3.72 3.29 3.43 4.13
ĐL 4.52 4.24 3.84 3.37 3.52 4.28
SĐL2 4.68 4.43 4.02 3.52 3.70 4.48
SĐL4 4.73 4.51 4.14 3.66 3.85 4.57
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 20
Hình 09. Biến đổi cao trình mực nước áp lực ở
đáy tầng phủ thấm nước yếu tại vị trí chân đê
khi SCT có chiều dài (Ls) khác nhau
Hình 10. Biến đổi cao trình mực nước áp lực ở
đáy tầng phủ thấm nước yếu tại vị trí chân đê
khi SCT có chiều rộng (Bs) khác nhau
5. PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ CỦ TƢỜNG
CHỐNG THẤM
Từ kết quả tính toán ở bảng 04, hình 09 &
hình 10 cho thấy:
- Ở các kịch bản 1-1, 1-2, 1-3: Khi tăng
chiều dài LS của SCT, mực nước áp lực
(MNAL) ở đáy tầng phủ (Htt) giảm tương ứng
với mức độ tăng chiều dài của san (bảng 04 &
hình 09), các đường biến đổi MNAL theo thời
gian (t) với SCT có Ls = 50m, 100m, 200m
cách nhau khá đều (hình 09).
- Ở các kịch bản 2-1, 2-2, 2-3: Khi giữ nguyên
chiều dài Ls, giảm chiều rộng Bs, áp lực thấm tăng
rất nhanh, đường biến đổi Htt theo thời gian ở SCT
có chiều rộng Bs = 100m nằm gần đường MNAL
khi chưa có SCT và nằm cao hơn nhiều đường biến
đổi MNAL (Htt) khi chiều rộng của SCT Bs
=500m, 1000m (hình 10).
Điều đó cho thấy rõ, hiệu quả của SCT giảm
khi chiều dài của sân giảm; khi chiều rộng sân
giảm, hiệu quả của SCT cũng giảm, và nếu SCT
không đủ rộng (kịch bản 2-1) thì SCT gần có hiệu
quả rất thấp (hình 10).
Từ kết quả MH, nếu chập bản đồ đẳng cao
trình MNAL thực tế (Htt) của từng kịch bản
SCT với bản đồ đẳng cao trình MNAL cho phép
(Hcf), dễ dàng xác định được phạm vi có nguy
cơ phát sinh BDT ứng với mỗi kịch bản. Tổng
hợp loạt bản đồ dự báo BDT theo các kịch bản
cho phép thành lập được bản đồ dự báo nguy cơ
phát sinh BDT cho các kịch bản SCT.
Đây là bức tranh rất trực quan, hiệu quả của
SCT theo các kịch bản có chiều dài (Ls) và
chiều rộng (Bs) khác nhau được thể hiện rất rõ
bằng phạm vi BDT được xử lý của SCT (hình
11 và hình 12): Với SCT có chiều rộng Bs như
nhau, khi sân dài LS=50m chỉ xử lý được 6%
diện tích (SXL) so với diện (S) khi không có
SCT, với LS = 100m SXL= 11%, LS = 200m
SXL= 33% (hình 11). Trong trường hợp SCT có
chiều dài như nhau, nếu sân rộng BS = 100m chỉ
giảm được SXL= 4%, còn với BS = 500m giảm
được SXL=22% (hình 12).
Các kết quả nêu trên chứng tỏ chiều rộng của
SCT cũng có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của
SCT. Nếu SCT có chiều rộng không phù hợp thì
ngay cả khi SCT có chiều dài lớn, do ảnh hưởng
của dòng thấm vòng, SCT cũng có tác dụng rất
thấp. Đây là điều cần lưu ý khi tính toán thiết kế
xử lý BDT bằng giải pháp SCT.
Hình 11. So sánh hiệu quả của SCT
có chiều dài (Ls) khác nhau
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 21
Hình 12. So sánh hiệu quả của SCT có chiều
rộng (Bs) khác nhau
6. KẾT LUẬN
- Hiệu quả kỹ thuật, khả năng chống thấm của
SCT không chỉ phụ thuộc vào chiều dài (Ls) của
sân mà còn phụ thuộc quan trọng vào chiều rộng
(Bs) của SCT. Chiều dài và chiều rộng của SCT
giảm thì hiệu quả chống thấm của SCT đều giảm.
SCT đạt hiệu quả cao nhất khi có chiều rộng và
chiều dài phù hợp. SCT quá hẹp sẽ có hiệu rất quả
thấp, thậm chí không có tác dụng. Đây là vấn đề
cần lưu ý khi thiết kế SCT.
- Nghiên cứu hiệu quả, tác dụng chống thấm
của SCT trong bài toán thấm 3D với sự hỗ trợ
của hệ phần mềm Visual Modflow cho phép so
sánh, lựa chọn, tối ưu hóa các thông số kỹ thuật
của SCT được thuận tiện, chính xác. Để đảm bảo
an toàn cho công trình và phát huy tối đa hiệu quả
của SCT, khi thiết kế xây dựng SCT cần tính toán
và kiểm tra các thông số thiết kế SCT theo MH
bài toán thấm 3D.
TÀI LIỆU TH M KHẢO
1.NguyÔn §×nh Hïng, NguyÔn TiÕn §¹t (2008),
“øng dông mµng §Þa kü thuËt chèng thÊm”, T¹p
chÝ Tµi nguyªn níc, (1-2008), tr.26-31.
2.Phan Sỹ Kỳ (2000), Sự cố một số công
trình thuỷ lợi ở Việt Nam và các biện pháp
phòng tránh, Nxb Nông Nghiệp, Hà Nội.
3.Trung tâm khí tượng thủy văn Quốc gia
(2008), Số liệu quan trắc thủy văn trạm Nhật Tảo,
trạm Triều Dương, trạm Nam Định, Hà Nội.
4.Bùi Văn Trường (1993), Báo cáo địa chất
công trình nền đê Tả Hồng hà I, từ
Km142,2÷Km145, Thái Bình.
5.Bùi Văn Trường, Phạm Văn Tỵ (2008), Biến
dạng thấm nền đê sông tỉnh Thái Bình và một số
kết quả nghiên cứu, Báo cáo tuyển tập công trình
khoa học, Hội thảo khoa học toàn quốc “Tai biến
địa chất và giải pháp phòng chống”, Hà Nội.
6.Bùi Văn Trường (2009), Nghiên cứu biến
dạng thấm nền đê hạ du sông Hồng địa phận
tỉnh Thái Bình và đánh giá thực nghiệm các giải
pháp xử lý, Luận án tiến sĩ kỹ thuật , Hà Nội.
7.Bùi Văn Trường (2013), Cơ chế phá hủy
thấm nền đê hạ du sông Hồng, Tạp chí Địa kỹ
thuật, số 4-2013, Hà Nội.
8.TCVN 8253:2012, Công trình thủy lợi -
Nền các công trình thủy công - Yêu cầu thiết kế.
9.TCVN 9143:2012, Công trình thủy lợi -
Tính toán đường viền thấm dưới đất của đập
không phải là đá.
10.Todd D.K. (1980), Groundwater
hydrology, John Wiley & Sons, New York
chichester Bribane Toronto.
11.Waterloo Hydrogeologic, Visual Modflow
4.2.0.151, Canada.
Người phản biện: PGS, TS ĐOÀN THẾ TƯỜNG
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 22
SO SÁNH ĐÁNH GIÁ MÔ HÌNH TÍNH LÖN CHO NHÓM CỌC CÓ XÉT ĐẾN PHÂN BỐ CỦA MA SÁT DỌC THÂN CỌC (SDF)
VÀ KẾT QUẢ THÍ NGHIỆM
DƢƠNG DIỆP TH Y, PH M QU NG HƢNG,
LÊ THIẾT TRUNG*
Compare a model for pile group settlement considering distribution of
friction along pile (SDF) and full – scale pile groups test
Abstract: There are many methods for pile foundation settlement
prediction. The method for piles proup settlement prediction in
consideration of lateral fricion distribution along pile length (SDF) is used
a little in Vietnam. The paper presents SDF method and compares the
settlement calculated from SDF and from full-scale pile group test for
some pile foundation with different number of piles. Conclusion is that for
the elastic zone the settlement value is almost the same and for the plastic
zone - not the same.
Keywords: Settlement, pile group, f-w, q-w, full-scale.
1. GIỚI THIỆU *
Hiện nay, có rất nhiều các mô hình tính toán
dự báo độ lún của nhóm cọc từ đơn giản đến
phức tạp. Trong đó, phương pháp dự báo độ
lún đang được sử dụng ở Việt Nam và trên thế
giới có thể kể đến như: 1) Phương pháp thực
nghiệm, hoặc nửa thực nghiệm (Meyerhof,
1976; Vesic, 1977); 2) Phương pháp móng
khối quy ước (SNiP 2.02.03-85 - tiêu chuẩn
móng cọc của Nga; Terzaghi – Peck 1967;
Poulos, 1993; Fellenius, 1991 và 2009); 3)
Phương pháp sử dụng độ lún của cọc đơn kết
hợp với hệ số tương tác giữa các cọc (Poulos &
Davis, 1980; Zhang & Lee, 2010); 4) Phương
pháp số (Chow, 1986)…
* Trường ĐH Xây dựng
55 Giải Phóng, Hai Bà Trưng, Hà Nội
DĐ: 0982139388 ; 0979048886 ; 0982251377
Email: [email protected],
Dương Diệp Thúy và cộng sự (2014) đề xuất
phương pháp tính lún có kể đến sự phân bố của
ma sát dọc thân cọc (SDF). Phương pháp này
đưa được thành phần ma sát bên và sức kháng
mũi vào mô hình tính dựa trên đường cong f-w
và q-w thể hiện quan hệ giữa ma sát đơn vị huy
động (f) và sức kháng mũi đơn vị huy động (q)
với chuyển vị (w). Mô hình tính là mô hình 3
chiều dựa vào khoảng cách bố trí giữa các cọc
theo phương x, y và chiều sâu chôn cọc để xem
xét đầy đủ tương tác giữa các cọc.
Trong phạm vi bài báo, dựa vào kết quả thí
nghiệm thực của Koizumi (1967) và O’Neill
(1982) cho một số đài cọc, các tác giả đã: 1) So
sánh điều kiện thí nghiệm và các giả thiết của
mô hình; 2) So sánh, đánh giá kết quả tính toán
từ phương pháp SDF với kết quả thí nghiệm.
2. GIỚI THIỆU PHƢƠNG PHÁP SDF
Dương Diệp Thúy và cộng sự (2014) đã đề
xuất phương pháp tính lún có xét đến sự phân
bố của ma sát dọc thân cọc (SDF) như sau:
2.1. Các giả thiết và mô tả phƣơng pháp tính
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 23
- Đài móng tuyệt đối cứng đảm bảo phân bố
đều tải trọng lên các cọc.
- Giả thiết cọc chịu toàn bộ tải trọng của
công trình và đất dưới đài cọc không tham gia
chịu lực.
Như vậy, với P là lực tác dụng lên đài móng
thì lực tác dụng lên các cọc trong đài P0 = P/m
với m là số lượng cọc trong đài.
P
a) b) c)
P0 = P/m
Fi
Pt
Fi
Fi
Pt
Pt
bt gl
Hình 1. Mô hình tính lún cho nhóm/bè cọc
Các bước tính toán như sau:
1) Xác định lực tác dụng lên các cọc là P0.
2) Chia cọc thành n đoạn cọc nhỏ có chiều
dài là dh (dh = L/n).
3) Phân phối lực dọc thân cọc bằng các lực Fi
(tổng hợp lực ma sát trong một đoạn cọc) và lực
kháng mũi Pt (hình 1b). Trong đó ti PFP 0 .
4) Từ các lực tập trung đã được phân phối
trong cọc dựa vào khoảng cách bố trí các cọc
để mô hình lực tập trung đặt trong lòng đất
(hình 1c).
5) Tính toán ứng suất trong mặt phẳng vuông
góc với mặt phẳng mũi cọc tại trọng tâm đài với
chiều sâu tính từ mũi cọc trở đi.
6) Sau khi có biểu đồ phân bố ứng suất trong
đất (dưới mũi cọc), tính lún theo phương pháp
đang được sử dụng hiện nay.
2.2. Phân phối lực dọc thân cọc
Phân phối lực P0 trong cọc thành các thành
phần ma sát dọc thân cọc Fi và sức kháng mũi
Pt tại mũi cọc (hình 1b) được dựa trên đường
cong f-w và q-w thể hiện quan hệ giữa ma sát
đơn vị huy động và sức kháng mũi đơn vị huy
động với chuyển vị. Các bước để phân phối ma
sát dọc thân cọc Fi và sức kháng mũi Pt tại mũi
cọc như sau:
1. Xác định đường cong f-w và q-w cho các
lớp đất (có thể sử dụng các mô hình lý thuyết
hoặc thực nghiệm đã có hoặc có số liệu đo thực
tế) – hình 2a.
2. Chia cọc thành n đoạn nhỏ đảm bảo một
đoạn cọc vẫn nằm trong phạm vi một lớp đất
(hình 2b).
3. Giả thiết chuyển vị nhỏ ở đầu cọc w1 dựa
vào đường cong f-w xác định được sức kháng
mũi Pn ứng với chuyển vị w1.
P1,t = p1,t . At (1)
Trong đó: pt = sức kháng mũi đơn vị huy
động (lấy từ đường cong q-w) và At = diện tích
mũi cọc.
Chú ý: Chuyển vị nhỏ w1 ban đầu phụ thuộc
vào kích thước cọc, lực tác dụng vào đầu cọc
P0. Nếu giá trị P0 rất nhỏ thì giá trị w1 có thể
tiến tới 0 có nghĩa đầu cọc không có dịch
chuyển hoặc không huy động sức kháng mũi
của cọc.
P0
1
2
f– z
f – z
3f– z
00
P1
P0
nn
Pt
Pn
Đoạn
mũi cọc
11
P2
P1
Mặt dưới
đoạn cọc 1
Mặt trên
đoạn cọc 1…
..
P0
Fi
Pt
a) b) c)
Hình 2. Phân phối lực dọc thân cọc
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 24
4. Giả thiết biến dạng trong đoạn cọc đang
xét là không đổi. Từ chuyển vị w1 dựa vào
đường cong f-w cho đoạn mũi cọc xác định
được thành phần ma sát fn. Lực ma sát được xác
định theo công thức:
F1,n = fn.U.dh (2)
Trong đó: U = chu vi cọc, dh = chiều dài của
đoạn cọc đang xét và fn = ma sát đơn vị giữa cọc
và đất tương ứng với chuyển vị tương đối giữa
cọc và đất.
P1,n = P1,t + F1,n (3)
Trong đó: P1,t và P1,n là sức kháng mũi và lực
ở mặt trên ở đọan cọc thứ n tương ứng với
chuyển vị w1.
5. Chuyển vị của đoạn cọc bên trên (thứ n-1)
sẽ bằng chuyển vị giả thiết cộng thêm biến dạng
đàn hồi. Từ chuyển vị mới này dựa vào đường
cong f-w để xác định thành phần ma sát và tính
được lực P1,n-1. Lặp lại quá trình tính như vậy sẽ
tính được lực tác dụng lên đầu cọc ứng với
chuyển vị f1 là P1,0.
6. So sánh giá trị P1,0 với giá trị P0 ban đầu
+ Nếu P1,0 < P0 tăng chuyển vị giả thiết
lên w2 và lặp lại từ bước 3 đến bước 5 cho
đến khi tìm được giá trị Pi,0 P0 thì kết
thúc vòng lặp. Lấy ra giá trị thành phần ma
sát và kháng mũi ở bước thứ i và i-1. Nội
suy để lấy ra được thành phần ma sát ứng
với lực P0.
+ Nếu ngay từ chuyển vị w1 mà P1,0 > P0,
giả thiết lại chuyển vị w1 hoặc nếu w1 đã quá
nhỏ mà P1,0 vẫn lớn hơn P0, lúc này có thể bỏ
qua sức kháng mũi và tính với thành phần ma
sát ở các đoạn cọc và lần lượt loại bỏ thành
phần ma sát ở các đoạn cọc dưới cho tới khi
tìm được vị trí mà P1,0 P0. Trường hợp này
xảy ra khi lực tác dụng lên cọc là nhỏ, thành
phần ma sát của lớp đất bên trên đã huy động
đủ và phần ma sát và mũi bên dưới không
làm việc.
Kết quả ở bước này cho ta lực tập trung Fi
đặt tại trọng tâm các đoạn cọc và sức kháng mũi
Pt đặt ở mũi cọc (hình 2c).
2.3. Tính ứng suất gây lún do nhóm cọc
gây ra
Sau khi xác định được thành phần ma sát Fi
đặt tại trọng tâm các đoạn cọc đã chia và lực tập
trung Pt tại mũi cọc (hình 1b) tiếp theo là tính
ứng suất gây lún.
Dựa vào tọa độ của m cọc trong móng để mô
hình trong không gian như hình 1c. Tính ứng
suất tại mặt phẳng mũi cọc tới hết chiều sâu
chịu nén của đất với các lực đặt trong nền đất
theo Mindlin (1936) với giả thiết nền đất là bán
không gian đàn hồi.
m
i
n
j
jijijijijiz FFFFFP
1 1
5,,4,,3,,2,,1,, )()1(8
(4)
Trong đó: Các giá trị Fi,j,1 đến Fi,j,5 được xác
định theo Minlin (1936) tương ứng với cọc thứ i
và đoạn cọc thứ j.
3. SO SÁNH VỚI KẾT QUẢ THÍ
NGHIỆM
Các mô hình được so sánh dưới đây đều
được thí nghiệm với điều kiện:
- Đài cọc đặt cách mặt đất một khoảng
đủ để đảm bảo đất bên dưới không tiếp
nhận tải trọng;
- Đài cọc tuyệt đối cứng để đảm bảo tải
trọng từ đài cọc truyền toàn bộ xuống cọc.
Với điều kiện thí nghiệm đưa ra hoàn toàn
phù hợp với các giả thiết của phương pháp SDF.
3.1 Kết quả từ mô hình thí nghiệm của
Yasunori Koizumi
Koizumi (1967) đã thí nghiệm phân tích sự
ảnh hưởng của nền đất xung quanh khi hạ cọc
và so sánh độ lún của cọc đơn và nhóm cọc.
Cọc đơn được thí nghiệm cách nhóm cọc là
4,2m. Các cọc thí nghiệm là cọc thép có đường
kính là 300mm dày 1,6mm và chiều dài 5,5m.
Khoảng cách các cọc được bố trí là 900mm từ
tâm đến tâm (3D). Tải trọng trong nhóm cọc
được đặt trên đài được coi là tuyệt đối cứng.
Đài cọc cách mặt đất là 1,3m để đảm bảo tải
trọng truyền toàn bộ lên các cọc. Cọc đơn có số
hiệu là 1, các cọc còn lại trong đài được đánh
số từ 2 đến 10 như hình 3.
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 25
3d 3d 4.2 m
3d
3d
24 kPa
20 kPa
24 kPa
40 kPa
30 kPa
25 kPa
1.3m
1.7m
3.8mBùn sét
Cát bụi
max (kPa)
1234
567
8910
Hình 3: Mặt bằng bố trí cọc theo Koizumi (1967)
Từ số liệu khảo sát của 3 hố khoan, địa tầng
của khu vực thí nghiệm bao gồm các lớp đất:
lớp đất cát bụi dày 1,7m, lớp sét bụi dày 13,5m
và lớp cuội sỏi bên dưới. Các vị trí thí nghiệm
cách nhau 1m theo chiều sâu tương ứng là ranh
giới phân chia các lớp để tính toán. Số liệu sức
kháng cắt lớn nhất được lấy trong lớp là giá trị
trung bình. Sức kháng mũi tại mũi cọc là 40
kPa. Hệ số Poisson sử dụng để tính toán là 0,5.
Lựa chọn mô hình f-w và p-w
Sử dụng mô hình f-w của Vijayvergiya
(1977), Heydinger & O’Neill (1986) và mô hình
sức kháng mũi theo Vijayvergiya (1977). Từ
hình 4 đến hình 9 các đường cong được xác
định trong phạm vi 1m và giá trị fu – ma sát bên
đơn vị lớn nhất được lấy bằng giá trị trung bình
trong phạm vi chiều dày lớp đất đang xét với
chuyển vị lớn nhất zmax là 5mm. Sức kháng mũi
từ kết quả thí nghiệm của Koizumi (1967) là 40
kPa. Đường cong p-w được mô tả như hình 10
với chuyển vị lớn nhất là 3% đường kính cọc.
0
5
10
15
20
25
30
0 5 10 15 20
f (kP
a)
Chuyển vị w (mm)
f -w ở độ sâu 4,5m - 5,5m
Hình 4: Mô hình f-w ở độ sâu 4,5m đến 5,5m
0
5
10
15
20
25
30
35
40
0 5 10 15 20
f (kP
a)
Chuyển vị w (mm)
f -w ở độ sâu 3,5m - 4,5m
Hình 5: Mô hình f-w ở độ sâu 3,5m đến 4,5m
0
5
10
15
20
25
30
35
0 5 10 15 20
f (kP
a)
Chuyển vị w (mm)
f -w ở độ sâu 2,5m - 3,5m
Hình 6: Mô hình f-w ở độ sâu 2,5m đến 3,5m
0
5
10
15
20
25
30
0 5 10 15 20
f (kP
a)
Chuyển vị w (mm)
f -w ở độ sâu 1,5m - 2,5m
Hình 7: Mô hình f-w ở độ sâu 1,5m đến 2,5m
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 26
0
5
10
15
20
25
0 5 10 15 20
f (kP
a)
Chuyển vị w (mm)
f -w ở độ sâu 0,5m - 1,5m
Hình 8: Mô hình f-w ở độ sâu 0,5m đến 1,5m
0
5
10
15
20
25
0 5 10 15 20
f (kP
a)
Chuyển vị w (mm)
f -w ở độ sâu 0m - 0,5m
Hình 9: Mô hình f-w ở độ sâu 0m đến 0,5m
0
5
10
15
20
25
30
35
40
45
0 5 10 15 20
q(k
Pa)
Chuyển vị w (mm)
p-w tại độ sâu 5,5m
Hình 10: Đường cong q-w
Kết quả tính toán
Tính toán với chuyển vị mũi giả thiết là
0,01mm, số lượng bước nhảy chuyển vị là 8000.
Đoạn cọc được chia là 0,1m. Sử dụng Visual Basic
Aplication (VBA) trong Excel viết chương trình
tính nhỏ để tính toán. Do tọa độ của cọc giữa trùng
với trọng tâm đáy móng nên khi tính ứng suất chọn
vị trí cách trọng tâm móng 10-4
mm. Sau khi tính
toán được ứng suất phân bố tại đáy móng do nền
bên dưới mũi cọc chỉ có một lớp nên độ lún được
tính toán theo phương pháp của Berardi &
Lancellotta (1991).
0
1
2
3
4
5
6
0 1 2 3 4
Độ sâ
u (m
)
Phân bố ma sát bên trong cọc (kN)
1260 kN
1200 kN
900 kN
600 kN
300 kN
Hình 11: Ph n bố ma sát b n hu đ ng trong cọc
0
1
2
3
4
5
6
0 5 10 15
Độ
sâu
(m)
Lực dọc trong 1 cọc (Tấn)
300 kN
600 kN
900 kN
1200 kN
1260 kN
Hình 12: Phân bố lực dọc trong cọc
So sánh đánh giá
Hình 13: Ph n bố ma sát b n hu đ ng trong cọc
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 27
Kết quả tính lún theo phương pháp SDF sử
dụng mô hình f-w hoàn toàn theo Vijayvergiga
(1977) và kết hợp sử dụng mô hình f-w của
Heydinger & O’Nell (1986) cho đất dính,
Vijayergiya (1977) cho đất rời được thể hiện
như hình 13. Các kết quả tính toán từ mô hình
SDF được so sánh với số liệu đo từ thí nghiệm
của Koizumi (1967) kết quả cho thấy rằng:
- Ở giai đoạn đàn hồi kết quả từ phương pháp
SDF (sử dụng cả hai mô hình f-w) đều phù hợp
với kết quả đo thực tế độ lún của nhóm cọc. Tuy
nhiên sử dụng mô hình f-w kết hợp của
Heydinger & O’Neill (1986) cho đất sét và
Vijayvergiga (1977) cho kết quả gần như chính
xác với kết quả đo từ thực tế.
- Khi cấp tải trọng cao có sự sai khác giữa
phương pháp SDF và kết quả đo lún của nhóm
cọc. Kết quả thu được từ các mô hình thường cho
chuyển vị nhỏ hơn so với kết quả của Koizumi
(1967). Sự sai khác này là do giả thiết của mô
hình f-w và q-w ở giai đoạn biến dạng dẻo.
- Với phương pháp SDF cho kết quả tải trọng
lớn nhất có thể tác dụng lên 1 cọc khoảng 140
kN (tương đương khoảng 1260 kN lên nhóm
cọc) khi đó cọc đã huy động toàn bộ ma sát bên
và sức kháng mũi. Phương pháp SDF chưa tính
toán được giai đoạn biến dạng dẻo khi tải trọng
tiếp tục tăng hoặc giữ nguyên tải trọng thì ứng
xử của nhóm cọc thay đổi như thế nào. Do các
mô hình f-w sử dụng giả thiết khi đã huy động
toàn bộ ma sát bên và sức kháng mũi thì chuyển
vị tăng khi tải trọng không đổi.
3.2 Kết quả từ mô hình thí nghiệm của
O’Neill, M.W. 1982.
O’Neill (1982) đã làm thí nghiệm với cọc
đơn và nhóm cọc 3x3 cọc và tổ hợp trong nhóm
3x3 để được nhóm 4 cọc và 5 cọc. Sơ đồ bố trí
cọc được thể hiện như hình 14. Với cọc thép có
đường kính 273mm và chiều dày là 9,25 mm.
Chín cọc được bố trí theo hình vuông. Cọc được
hạ xuống độ sâu 13,1 m. Đài cọc cứng cao 1,3
m và cách mặt đất 0,92 m. Thí nghiệm được tiến
hành bởi đại học Houston (Houston – Tex).
Điều kiện đất nền và sơ đồ bố trí cọc được
thể hiện như hình 14. Với 6 lớp đất, lớp 1 là lớp
sét cứng dày 2,4m; lớp 2 là lớp sét pha cứng với
chiều dày 1,3m; lớp 3 là lớp sét cứng dày 4,2m;
lớp 4 là lớp sét pha cứng dày 6,4m; lớp 5 là lớp
cát lẫn sét hạt nhỏ ở trạng thái chặt chặt dày 4m
và lớp 6 là lớp sét rất cứng với chiều dày chưa
xác định.
0.92
3d 3d
3d
3d
0
m
2.4
3.7
7.9
14.3
18.3
Sét cứng
Sét pha cứng
Sét cứng
Sét pha cứng
Cát
Sét rất cứng
Hình 14: Mặt bằng bố trí cọc theo O’Neill (1982)
Kết quả ứng suất cắt không thoát nước được
thể hiện như hình 15. Do kết quả thí nghiệm sức
kháng cắt không thoát nước Su ở các độ sâu
khác nhau và khi tính toán xác định đường cong
f-w giá trị Su được lấy trung bình trong phạm vi
lớp phân tố đang xét.
Sau khi thí nghiệm xong với nhóm 9 cọc, các
cọc góc được tách ra khỏi đài để làm thí nghiệm
với nhóm 5 cọc. Cuối cùng, cọc giữa được tách
ra để làm thí nghiệm với nhóm 4 cọc. Sơ đồ bố
trí như hình vẽ.
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 28
0
2
4
6
8
10
12
14
16
18
20
0 100 200 300
Độ sâ
u (m
)
Ứng suất cắt không thoát nước (kPa)
Hình 15: Sức kháng cắt không thoát nước của
nền đất khu vực thí nghiệm
3d 3d 3d 3d 3d 3d
3d
3d
3d
3d
3d
3d
4,2d 4,2d
Hình 16: Sơ đồ bố trí cọc cho đài 9, 5 và 4 cọc
Lựa chọn mô hình f-w và p-w
Sử dụng mô hình f-w và q-w theo
Vijayvergiya (1977). Sức kháng cắt không thoát
nước của nền đất trong khoảng tính toán được
lấy là giá trị trung bình trong khoảng lớp đất.
Theo O’Neill (1982) giá trị ma sát bên đơn vị
lớn nhất giữa bề mặt cọc – đất được lấy bằng
1/2 giá trị sức kháng cắt không thoát nước của
đất. Tuy nhiên O’Neill (1982) không giải thích
rõ nguyên nhân lấy giá trị này. Mô hình f-w
được xác định với giá trị chuyển vị lớn nhất zmax
= 5mm. Đường cong q-w được xác định với
chuyển vị lớn nhất là 3% đường kính cọc.
Tính toán với chuyển vị mũi giả thiết là
0,01mm với tải trọng 20 tấn trở lên riêng với tải
trọng nhỏ chuyển vị mũi giả thiết khoảng
0,0001mm do lực tại mũi bé với giả thiết chuyển
vị mũi lớn phản lực mũi sẽ lớn hơn tải trọng tại
đầu cọc. Số lượng bước nhảy chuyển vị khoảng là
8000. Đoạn cọc được chia là 0,1m. Với tọa độ của
cọc giữa trùng với trọng tâm đáy móng nên khi
tính toán ứng suất chọn vị trí cách trọng tâm móng
10-4
mm. Sau khi tính toán được ứng suất phân bố
tại mặt phẳng mũi cọc do nền đất bên dưới có
nhiều lớp đất khác nhau nên độ lún được xác định
theo phương pháp cộng lún từng lớp. Kết quả
được thể hiện như hình 17 đến 20
0
2
4
6
8
10
12
14
0 2 4 6
Chiề
u sâ
u (m
)
Sự phân bố ma sát bên trong cọc (kN)
650 kN
600 KN
500 kN
400 kN
300 kN
200 kN
Hình 17: Ph n bố ma sát b n hu đ ng trong cọc
0
2
4
6
8
10
12
14
0 100 200 300 400 500 600 700
Độ
sâu
(m)
Lực dọc trong một cọc (kN)
10 kN
20 kN
30 kN
40 kN
50 kN
60 kN
65 kN
Hình 18: Phân bố lực dọc trong cọc
Kết quả tính lún theo phương pháp SDF sử
dụng mô hình của Vijayergiya (1977) được
thể hiện như hình 19 đến 21. Các kết quả này
được so sánh với số liệu đo từ thí nghiệm của
O’Neill (1982).
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 29
0
2
4
6
8
10
12
0 100 200 300 400 500 600 700
Chuy
ển vị
-m
m
Tải trọng (kN)
Kết quả đo theo O’Neill (1982)
Phƣơng pháp đề xuất sử dụng t-z Vijayvergiya (1977)
Hình 19: Mô hình thí nghiệm 9 cọc
0
2
4
6
8
10
0 50 100 150 200 250 300 350 400
Chuy
ển vị
-m
m
Tải trọng (kN)
Kết quả đo theo O'Neill (1982)
Tính toán theo phƣơng pháp đề xuất sử dụng t-z Vijayvergiya (1977)
Hình 20: Mô hình thí nghiệm 5 cọc
0
2
4
6
8
10
0 50 100 150 200 250 300
Chuy
ển vị
-m
m
Tải trọng (kN)
Kết quả đo theo O'Neill (1982)
Tính toán theo phƣơng pháp đề xuất sử dụng t-z Vijayvergiya (1977)
Hình 21: Mô hình thí nghiệm 4 cọc
Dựa vào kết quả tính toán ta thấy rằng: - Ở giai đoạn đàn hồi với tải trọng bé tính
toán theo phương pháp SDF và kết quả thí nghiệm theo O’Neill (1982) là khá sát nhau.
- Với cấp tải cao kết quả có sự sai khác. Với nhóm cọc có 9 cọc chuyển vị ở cấp tải cao theo tính toán nhỏ hơn so với kết quả thí nghiệm. Tuy nhiên với nhóm 4 cọc và 5 cọc thì chuyển vị ở cấp tải cao theo tính toán lại lớn hơn kết quả thí nghiệm.
- Với mô hình thí nghiệm của O’Neill (1982) do không có kết quả thí nghiệm và khuyến cáo cho sức kháng mũi nên sức kháng mũi được xác định dựa vào các công thức thực nghiệm. Kết quả sai khác nhiều hơn so với mô hình của Koizumi (1967). 4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Từ những tính toán và phân tích ở trên, các
tác giả đi đến một số kết luận và kiến nghị như sau:
a. Điều kiện thí nghiệm hoàn toàn phù hợp với các giả thiết của phương pháp SDF là đài
cọc tuyệt đối cứng đảm bảo truyền toàn bộ tải trọng xuống cọc.
b. Kết quả tính toán theo phương pháp SDF cho kết quả khá sát với thí nghiệm trong giai đoạn đàn hồi với cấp tải nhỏ.
c. Ở giai đoạn biến dạng dẻo kết quả thí nghiệm và phương pháp SDF có sự sai khác. Nguyên nhân chủ yếu là do việc xác định mô hình f-w và p-w. Đặc biệt do các mô hình f-w và q-w do các hầu hết các tác giả đều giả thiết thành phần ma sát đơn vị lớn nhất và sức kháng mũi đơn vị lớn nhất là không thay đổi khi chuyển vị lớn hơn chuyển vị lớn nhất. Điều này chưa mô tả hoàn toàn đúng sự làm việc của cọc ở giai đoạn biến dạng dẻo.
d. Mô hình SDF là đã đưa vào khá đầy đủ thành phần ma sát đến độ lún của nhóm cọc dựa trên đường cong f-w và q-w. Tuy nhiên mô hình vẫn còn hạn chế là chưa xem xét được ảnh hưởng của đài cọc và nền đất dưới đài cọc đến độ lún của nhóm cọc.
TÀI LIỆU TH M KHẢO
1. Dương Diệp Thúy, Phạm Quang Hưng, Lê
Thiết Trung (2014). Một mô hình tính lún mới cho nhóm cọc có xét đến phân bố của ma sát dọc thân cọc. Tạp chí địa k thuật Việt Nam, ISSN -0868-279X năm thứ mười tám số 1-2014. Trang 42-49.
2. Heydinger, A.G., and O’Neill (1986). “Analysis of axial pile-soil interaction in clay,” International Journal for Numerical and Analytical Methods in Geomechanics 10(4), 367-381.
3. Koizumi Y, Ito K. Field tests with regard to pile driving and bearing capacity of piled foundations. Japanese Geotechnical Society Soil Found 1967;7(3):30–53.
4. Mindlin, R. D. Force at a Point in the interior of a semi-infinite solid Physic 8, 195, 1936.
5. O’Neill, M. W., Hawkins, R.A., and Mahar, L.J, 1982. Load transfer mechanisms in piles and pile groups. Journal of the Geotechnical Engineering Division, ASCE, 108(GT12): 1605-1623.
6. Roberto C, Enrico C. Settlement analysis of pile groups in layered soils. Can Geotech J 2006;43:788–801
7. Vijayvergiya, V.N. “Load-movement characteristics of piles”, Proceedings, Ports 77, American Society of Civil Engineers, Vol II, 269-286, 1977
Người phản biện: PGS, TS NGUYỄN VĂN DŨNG
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 30
ĐÁNH GIÁ SỨC CHỐNG CẮT KHÔNG THOÁT NƯỚC CỦA
NỀN ĐẤT YẾU DƯỚI CÔNG TRÌNH ĐẮP THUỘC KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
LÊ HOÀNG VIỆT* , VÕ PHÁN
**
Estimating the undrained shear strength of soft soil under
embankment in mekong delta area
Abstract: The paper presents the results of evaluating change of
undrained shear strength Su based on correlations between undrained
shear strength and degree of compaction and timeby on - dimensional
consolidation problem. The result from prediction calculation is
appropriate to in-siu field vane test and can be used to estimate long-
term stability of soft soil under embankment in Mekong Delta area.
Keywords: Undrained shear strength; Soft soil; Stability; Displacements.
1. TỔNG QU N KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU*
Sức chống cắt không thoát nước (Su) là
thông số quan trọng được sử dụng để đánh
giá ổn định công trình đắp trên đất yếu.
Dưới tác dụng của khối đắp, hiện tượng cố
kết xảy ra và kéo dài theo thời gian. Theo
22TCN 262-2000 [1], Su tăng đồng đều
theo độ sâu và theo thời gian dưới tác dụng
của tải trọng ngoài và việc dự báo thay đổi
Su chỉ căn cứ vào mức độ cố kết tổng thể
Ut(t). Tuy nhiên, ở khu vực có lớp đất yếu
có bề dày tương đối lớn, hiện tượng cố kết
kéo dài đến hàng chục năm, thậm chí trăm
năm và quá trình cố kết vẫn tiếp diễn ra
trong quá trình sử dụng.
Trong quá trình cố kết, sự tiêu tán áp
lực nước lỗ rỗng thặng dư xảy ra không đồng
đều trong phạm vi nền ảnh hưởng. Tại các vị
trí gần biên thoát nước, sự tiêu tán áp lực
nước lỗ rỗng thặng dư xảy ra nhanh hơn.
Khi áp lực nước lỗ rỗng thặng dư tiêu tán
*, **
Trường Đại học Bách Khoa, ĐHQG-HCM số 268 Lý
Thường Kiệt, quận 10, TP. HCM, ĐT: 083 8636822 *
ĐT: 0979 853 988, Email:
[email protected], ** ĐT: 0913 867008,
Email: [email protected]
một phần, ứng suất hữu hiệu gia tăng
tương ứng với hiện tượng nén chặt đất. Như
vậy sự gia tăng Su cũng xảy ra không đồng
đều trong nền.
Một số kết quả thí nghiệm trong phòng trên
cùng một loại đất bão hòa chỉ ra rằng Su phụ
thuộc vào độ ẩm và tuân theo quy luật phi
tuyến [2]. Như vậy, Su có liên hệ chặt chẽ với
độ chặt hay trạng thái ứng suất ban đầu và có
thể thể hiện thông qua tỷ số Su/σ’v, [3].
Theo Skempton (1948):
Su/ σ′ = 0,11+0,0037Ip (1)
Các tương quan giữa Su và chỉ số dẻo Ip của
Bjerrum (1972), Terzaghi, Peck và Mersi
(1996) đã nghiên cứu. Theo quan điểm thiết kế
SHANSEP (Stress History And
Normalized Soil Engineering Properties) [4],[5]
Su = m'
vo )OCR(S (2)
Trong đó: S - hệ số chuẩn hóa sức chống cắt
không thoát nước cho trạng thái cố kết thường
(OCR = 1),
S = 1OCR
'
vou /S
(3)
m - hệ số xác định từ độ dốc của đường
quan hệ log (OCR) và log (Su/'
vo ).
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 31
Su của sét quá cố kết được xác định:
Su = (Su/ '
vo )OCR=1 . (OCR)m
. '
v (4)
Điều này đã được các tác giả Jamiolkowski
(1985), Mersi (1989), Ladd (1991) nghiên cứu
bổ sung. Ladd (1991) đề nghị giá trị các hệ số:
S = 0,22 0,03 và m = 0,8 0,1.
Sức chống cắt không thoát nước cũng được
xác định bằng cách phân tích theo ứng suất hữu
hiệu với việc sử dụng hệ số áp lực lỗ rỗng
Skempton Af (khi phá hoại) [6] như sau:
'sin)1A2(1
)K1(AKsin'cos'cS
f
0f0
'
vo
u
(5)
Đối với sét cố kết thường:
'sin)1A2(1
)K1(AK'sinS
f
0f0
;
vo
u
(6)
Trên cơ sở cân bằng giới hạn, bỏ qua các
thông số hệ số áp lực nước lỗ rỗng, Verruijt
cũng đưa ra công thức gần tương tự để đánh giá
giá trị Su theo trạng thái ứng suất [7].
Ngoài ra, thông qua tính toán trên cơ sở
lý thuyết cố kết thấm, tác giả đã tính toán
dự báo Su thay đổi theo thời gian bằng các
biểu thức (5) và (6) cho kết quả khác nhau
đáng kể so với kết quả thí nghiệm cắt cánh tại
hiện trường.
2. GIỚI THIỆU CÔNG TRÌNH
Hình 1. Vị trí tuyến đường mở r ng Quốc l 1A đoạn Mỹ Thuận - Cần Thơ.
Chiều dài tuyến thuộc khu vực nghiên cứu
từ Km 2042 đến Km 2061 dự án nâng cấp
mở rộng Quốc lộ 1- Mỹ Thuận - Cần Thơ
thuộc địa bàn tỉnh Vĩnh Long. Theo kết quả
khảo sát hiện trường & kết quả thí nghiệm
trong phòng, địa tầng tại khu vực nghiên cứu
được chia làm các lớp đất chính như sau:
Lớp K: Đất đắp, là lớp đất không đồng
nhất, tuỳ từng khu vực mà lớp này có đặc
điểm khác nhau. Bề dày lớp biến thiên từ
0,5m đến 2,8m.
Lớp 1a: Sét, màu xám nâu, xám đen, xám
xanh, trạng thái dẻo mềm. Cao độ đáy lớp
biến thiên từ -1,67m đến 2,75m. Bề dày lớp
biến thiên từ 0,4m đến 3,4m.
Lớp 1b: Bùn sét cát / bùn sét kẹp cát,
màu xám xanh, xám nâu, xám đen. Tại
một số lỗ khoan (Km 2056- Km 2061)
chưa phát hiện lớp này. Cao độ đáy lớp
được từ -29,8m đến
-29,0m. Bề dày lớp thay đổi từ 14,0m đến
15,2m.
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 32
Lớp 1: Bùn sét/bùn sét kẹp cát, màu xám
xanh, xám đen. Lớp này gặp trong tất cả các
lỗ khoan. Hầu hết các lỗ khoan phần tuyến
đều chưa được khoan qua hết bề dày của lớp.
Cao độ đáy lớp biến thiên từ -29,80m đến -
9,58m. Bề dày lớp đã khoan được biến thiên
từ 10,0m đến 30,0m.
Lớp 2: Sét, màu xám nâu, xám đen, trạng
thái dẻo chảy. Lớp này chỉ gặp trong một
vài vị trí. Bề dày lớp đã khoan được là 1,8
đến 15,0m. Bề dày lớp chưa được xác
định qua hết.
Thấu kính TK1: Cát, hạt nhỏ, màu xám
đen, đôi chỗ lẫn ổ bùn sét, kết cấu rời rạc.
Thấu kính này gặp trong một vài vị trí (Km
2042- Km 2047), cao độ đáy thấu kính biến
thiên từ -10,90m đến -3,6m và bề dày thấu
kính biến thiên từ 2,0m đến 9,2m. Thấu kính
này gặp trong một vài vị trí (Km 2056- Km
2061), cao độ đáy thấu kính biến thiên từ -
21m đến -24,2m và bề dày thấu kính biến
thiên từ 4,1m đến 4,7m.
Thấu kính TK2: Cát hạt mịn. Thấu kính
này gặp trong lớp 1, tại một vài vị trí (Km
042-Km 2047). Cao độ đáy thấu kính là
10,2m. Bề dày thấu kính là 2,0m
3. ĐÁNH GIÁ SỰ TH Y ĐỔI SỨC
CHỐNG CẮT THOÁT NƢỚC THEO BÀI
TOÁN CỐ KẾT THẤM
3.1. Xây dựng tương quan sức chống
cắt không thoát nước theo độ sâu, mức độ
nén chặt.
Để đánh giá Su của đất yếu cần xác định
tương quan giữa độ chặt (e) và trạng thái ứng
suất của đất nền. Từ kết quả thí nghiệm nén cố
kết, kết quả như hình 2 và:
e = 1,6073exp(-0,0015σ'v) (7)
Với: e- hệ số rỗng, σ'v- ứng suất nén
Hình 2. Tương quan mức độ nén chặt theo
trạng thái ứng suất
Để dự báo sự gia tăng Su của đất yết theo
thời gian, ngoài độ chặt, cần phải đánh giá
trạng thái ứng suất trong quá trình cố kết. Từ
đó xây dựng tương quan giữa ứng suất
(σ'v) - độ chặt (e) và sức chống cắt không
thoát nước (Su). Từ tương quan này cho phép
dự báo sự gia tăng Su dưới tác dụng của quá
trình gia tải. Trong phạm vi nghiên cứu này,
tác giả sử dụng giá trị hệ số hiệu chỉnh của
Bjerrum.
Su= µ.Su(VST) (8)
với µ=1.7 - 0.54*log(IP) để hiệu chỉnh
giá trị Su từ kết quả thí nghiệm cắt cánh
(VST) và thành lập các tương quan: Su -z;
tương quan Su/e- z; tương quan Su/e - σ’v của
các khu vực nghiên cứu. Kết quả tính toán
được như sau:
Su = 0,395z + 13,978 (9)
79,442e
Sln.2,201 u'
V
(10)
Từ kết quả tổng hợp sức chống cắt không
thoát nước của thí nghiệm VST và được hiểu
chỉnh theo biểu thức (8), xây dựng được các
tương quan (9) và (10) là khá chặt chẽ, với hệ
số tương quan R2=0,99 và được thể hiện trên
hình 3, hình 4, hình 5 và hình 6.
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 33
Hình 3. Tương quan giữa Su theo độ sâu
khu vực dự kiến mở rộng mặt đường
Hình 4. Tương quan giữa Su theo độ sâu (với
lớp đất trên bề mặt cố kết trước)
Hình 5. Tương quan giữa Su/e theo độ sâu Hình 6. Tương quan giữa Su/e và ứng suất hữu hiệu
3.2. Cơ sở lý thuyết dự báo sức chống cắt
không thoát nước theo bài toán cố kết thấm
Để thực hiện tính toán giá trị áp lực nước lỗ
rỗng thặng dư ở thời điểm bất kỳ theo độ sâu
có thể sử dụng lý thuyết cố kết thấm 1 chiều
của K.Terzaghi. Lời giải cố kết thấm một chiều
của K.Terzaghi chấp nhận nước lỗ rỗng không
chịu nén ép, hệ số cố kết phụ thuộc vào tính
nén ép của cốt đất và tính thấm của đất:
w0
zv
a
kC
(11)
Thực tế, nước lỗ rỗng luôn chứa một hàm
lượng khí nhất định, các loại khí này khi chịu
nén ép sẽ bị hòa tan một phần. Xét tính nén ép
của nước lỗ rỗng, hệ số cố kết có thể được biểu
diễn bằng biểu thức sau:
w,ask
w
zv
K
n3
K
)v1(2
kC (12)
)v21(3
EK 0
u
(13)
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 34
pp
1
p
1
2
)H1(S1
3K
o0
r
w,a (14)
Trong đó:
Ksk - module biến dạng thể tích khung cốt đất;
Ka,w - module biến dạng thể tích hỗn hợp
khí-nước lỗ rỗng;
Với: po = patm + γw.z - áp lực ban đầu của
nước lỗ rỗng trong điều kiện tự nhiên;
E0 - Module biến dạng tổng quát;
ν - Hệ số Poisson của đất ;
γw - trọng lượng riêng của nước;
n - độ rỗng của đất;
kz - hệ số thấm theo phuơng đứng.
Sử dụng lý thuyết cố kết thấm cho phép
xác định được giá trị áp lực nước lỗ rỗng
thặng dư theo độ sâu tại một thời điểm nhất
định nào đó. Từ đó, ứng suất hữu hiệu:
σ′ = (σ − u) xác định được khi đã biết ứng
suất tổng tác dụng. Áp lực nước lỗ rỗng
thặng dư của bài toán cố kết thấm một chiều
được tính theo biểu thức sau:
1i2
22
v th
iCexp
h
zisin
i
1q4u (15)
Với điều kiện địa chất khu vực nghiên cứu,
xét khối đắp dày 2m, trọng lượng riêng của vật
liệu đắp là 19,5kN/m3, hệ số cố kết tính theo
biểu thức (12), Cv= 6,704x10-4
m2/ngđ và hệ số
thấm kz = 3,145x10-5
m/ngđ. Kết quả tính
toán biểu thức (7) và (10) trên cở sở bài toán
cố kết thấm một chiều khi xét tính nén ép
của nước lỗ rỗng, giá trị sức chống cắt không
thoát nước Su gần với giá trị Su từ thí nghiệm
VST. Kết quả tính toán được thể hiện hình 7
và hình 8.
Kết quả dự báo sức chống cắt không thoát
nước Su theo độ sâu (hình 8) tại tâm diện gia
tải ở các thời điểm khác nhau trên cơ sở bài
toán cố kết thấm một chiều cho thấy có sự
khác biệt không đáng kể. Kết quả tính toán
cho thấy ở gần bề mặt trong phạm vi 30 năm, ở
độ sâu từ 8-9m trở lại thì Su ở tâm diện
truyền tải lớn hơn ở taluy vì ứng suất nén
trong nền ở tâm diện gia tải lớn hơn ở taluy.
Ở độ sâu từ 9-14 m, giá trị Su ở các thời điểm
khác nhau có giá trị gần bằng nhau và phù
hợp với giá trị Su từ kết quả thí nghiệm cắt
cánh tại hiện trường. Từ độ sâu 14m trở lên, giá
trị Su ở các thời điểm khác nhau có giá trị gần
bằng nhau và lớn hơn đáng kể với giá trị Su từ
kết quả thí nghiệm cắt cánh tại hiện trường
thuộc khu vực nghiên cứu.
Hình 7. Kết quả tính toán Su theo mức độ cố
kết và độ sâu theo thời gian không xét
tínhnén ép của nước lỗ rỗng
Hình 8. Kết quả tính toán Su theo mức độ
cố kết và độ sâu theo thời gian có xét tính
nén ép của nước lỗ rỗng
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 35
4. KẾT LUẬN
Kết quả phân tích và tổng hợp số liệu thí
nghiệm xác định sức chống cắt không thoát
nước và xây dựng các tương quan: (Su-z),
(e-Su), (σ’v-Su/e), và kết hợp với lý thuyết cố
kết thấm một chiều có xét tính nén ép của
nước lỗ rỗng, cho phép dự báo được sự thay
đổi Su theo thời gian và theo độ sâu. Kết quả
nghiên cứu có thể rút ra các kết luận chính
như sau:
- Khu vực nền đất cố kết trước (khu vực đã
tồn tại công trình đắp), kết quả tính toán Su theo
các tương quan thí nghiệm đề nghị với bài toán
cố kết thấm thấm một chiều có xét tính nén ép
của nước lỗ rỗng phù hợp với kết quả thí
nghiệm VST tại hiện trường. Sức chống cắt ở
khu vực này gần bề mặt giảm dần đến độ sâu
2m, từ độ sâu này trở đi thì Su tăng gần như
tuyến tính theo độ sâu.
- Dưới tác dụng của tải trọng ngoài, kết quả
dự báo Su theo thời gian tại tâm diện gia tải
với bài toán cố kết thấm một chiều phù hợp
với xu hướng gia tăng sức chống cắt nơi tồn
tại công trình đắp.
- Giá trị Su dưới mái taluy tăng ít hơn so với
tâm ở khu vực bề mặt.
Kết quả nghiên cứu cho phép đánh giá khả
năng ổn định của nền đất yếu theo thời gian và
sự gia tăng khả năng chịu tải của đất nền ở khu
vực bề mặt.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Tiêu chuẩn thiết kế 22TCN: 262-200,
"Qui trình khảo sát thiết kế nền đường ô tô đắp
trên đất yếu," Nhà xuất bản Xây dựng, 2000.
[2] Nguyễn Thành Long, Lê Bá Lương,
Nguyễn Quang Chiêu, Vũ Đức Lực, "Công
trình trên đất yếu trong điều kiện Việt Nam,"
Trường Đại học Bách Khoa TP. HCM - Tổ
Giáo trình, 1989.
[3] Kenya Sagae, Motohiro Sugiyama,
Akira Tonosaki and Masaru Akaishi, "Ratio
of undrained shear strength to vertical
effective stress," Proc.Schl.Eng.Tokai
University, vol. 31, pp. 21-25, 2006.
[4] F.H. Kulhavy, P.W. Mayne, Manual on
estimating soil properties for
foundation design, Cornell University Ithaca
ed., 1990.
[5] Charles C. Ladd, Hon.
M., "Recommended practice for soft
ground site characterization," in 12th
Panamerican conference on soil mechanics
and geotechnical engineering, 2003.
[6] Braja M. Das, Advanced Soil
Mechanics, T. edition, Ed., Taylor & Francis
Group, 2008.
[7] Arnold Verruijt, Soil Mechanics, D. U.
o. Technology, Ed., 2001.
[8] Bùi Trường Sơn, "Biến dạng tức thời
và lâu dài của nền đất sét bão hòa nước,"
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ,
Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh, vol. 9, pp.
17-24, 2006.
[9] Lê Hoàng Việt, Bùi Trường Sơn,
"Tương quan sức chống cắt không thoát nước
của sét mềm theo độ sâu và mức độ nén chặt,"
Tạp chí khoa học kỹ thuật thủy lợi & Môi
trường, Đại học Thủy Lợi, vol. 39, pp. 120-
125, 2012.
Người phản biện: PGS,TS. ĐẶNG HỮU DIỆP
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 36
PHÂN TÍCH SO SÁNH CÁC GIẢI PHÁP GIA CỐ ĐÊ BAO CHỐNG LŨ Ở AN GIANG
M I NH PHƢƠNG*
TRẦN NGUYỄN HOÀNG HÙNG**
LÊ KHẮC BẢO***
Analysis and comparison of reinforcement solutions for earth levees
against annual floods in An Giang
Abstract: Earth levees in the Mekong Delta have often broken and slided
by many reasons. Several solutions such as slope flattening, sand bags,
steel mesh, and timber piles have been applied to reinforce earth levees
but still remain ineffective. These solutions can not cut seepage flows off
and improve slope stability. The analysis indicates that the FS using
timber piles and slope flattening for reinforcement at the lowest water
level are 0.97 and 0.96, respectively. Earth levees were proposed to
reinforce by single or double row soilcrete walls with cement contents of
250 to 300 kg/m3. The results suggest that soilcrete walls can cut off
seepage and improve slope stability effectively. The FS using a single row
and a double row soilcrete walls at the lowest water level are 1.38 and
1.76, respectively.
Keywords: Earth levee, levee reinforcement, deep mixing method, seepage,
sliding, soft ground improvement.
1. GIỚI THIỆU *
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là vựa
lúa lớn nhất của cả nước, đóng góp hơn 48% sản
lượng lương thực và 85% sản lượng lúa xuất khẩu
của Việt Nam [4]. Hệ thống đê bao chống lũ ở
ĐBSCL có vai trò liên kết các vùng, bảo vệ diện
tích hoa màu, và thúc đẩy nền nông nghiệp trong
tỉnh phát triển toàn diện và bền vững. Tuy nhiên,
vỡ đê do mùa lũ làm thiệt hại hàng ngàn hecta lúa.
Đê bao thường được xây dựng trên nền đất yếu
bằng đất nạo vét từ các con kênh song song đê nên
có sực chịu tải yếu và không có khả năng chống
trượt sâu. Thân đê có nhiều lỗ rỗng do không
được lu đầm đúng quy định nên có dòng thấm gây
* Học viên cao học trường ĐH Bách Khoa TP. HCM,
** Giảng viên khoa KTXD – Trường Đại Học Bách
Khoa TP. HCM, [email protected].
*** Học viên cao học trường ĐH Bách Khoa TP. HCM,
xói mòn tạo thành những dòng nước nhỏ cuốn trôi
các hạt đất và gây sụp đổ đê. Trong mùa năm
2011, hơn 322 m đê bị vỡ làm mất trắng 5479
ha lúa và 435 ha hoa màu, tổng thiệt hại về nông
lâm thủy sản là 210.7 tỉ đồng riêng ở An Giang [9].
Các biện pháp gia cố như cừ tràm, đắp bao tải cát,
và làm thoải mái dốc, v.v., được sử dụng nhưng
hiệu quả không cao do gia cố đê tạm thời [9]. Giải
pháp cọc đất ximăng có khả năng chống thấm và
chống trượt sâu [13]. Tuy nhiên, giải pháp đất trộn
ximăng chưa được nghiên cứu ứng dụng gia cố đê
ở ĐBSCL. Bài báo phân tích khả năng chống thấm
và chống trượt sâu của các giải pháp gia cố đê
nhằm đưa ra phương án tối ưu ở ĐBSCL.
2. CÁC GIẢI PHÁP GI CỐ ĐÊ B O
CHỐNG LŨ Ở ĐBSCL
2.1. Các giải pháp gia cố đê hiện nay ở
ĐBSCL
Các biện pháp chống sạt lở đê hiện nay ở
ĐBSCL thường dùng: (i) Giảm áp lực gây trượt
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 37
như đắp bao tải cát làm thoải và đánh cấp mái
dốc. (ii) Giải pháp gia cố mái đất như đóng cừ
tràm và dùng lưới thép B40 [1].
2.1.1. Đắp đê bằng bao tải cát làm thoải
mái dốc
Thân đê được đắp bằng bao tải cát giảm độ dốc
mái dốc nhằm giảm lực gây trượt và tăng sức
chống cắt cho thân đê (Hình 1, Hình 3). Biện pháp
gia cố này có ưu điểm là giá thành rẻ, thi công
nhanh, và không cần thiết bị phức tạp. Nhược
điểm của biện pháp này không có khả năng chống
thấm, chống trượt sâu, tiêu thụ cát - nguồn vật liệu
ngày càng khan hiếm, và thu hẹp dòng chảy gây
sạt lở ở những khu vực lân cận [2].
2.1.2. Gia cố chân đê bằng cừ tràm
Chân đê được đóng cừ tràm ổn định trượt cục
bộ chân đê và tăng sức chống cắt cho thân đê
(Hình 2). Giải pháp này có giá thành rẻ, thi công
nhanh, và không cần thiết bị phức tạp, nhưng
không có khả năng chống thấm và chống trượt
sâu. Nguồn vật liệu cừ tràm ở địa phương ngày
càng khan hiếm và có thể ảnh hưởng đến rừng
và môi trường.
2.1.3. Gia cố chân đê bằng lƣới thép B40
Mái và đê được gia cố bằng lưới thép B40
nhằm tăng sức chống cắt trong thân đê (Hình 4).
Giải pháp này đạt yêu cầu kinh tế nhưng không
có khả năng chống thấm và chống trượt sâu.
2.1.4. Giải pháp kết hợp nhiều giải pháp
gia cố đê khác
Đê bao có thể được gia cố kết hợp nhiều giải
pháp gia cố đê khác như giải pháp gia cố chân đê
bằng cừ tràm kết hợp gia cố mái dốc đê bằng tấm
bê tông cốt thép đúc sẵn hoặc trồng cỏ, giải pháp
gia cố kết hợp lưới thép B40 và bao tải cát, v.v.
Các giải pháp này cần nguồn vật liệu khai thác từ
tự nhiên như cát và cừ tràm, không có khả năng
chống thấm, chống trượt sâu, và chỉ sử dụng tạm
thời ở các điểm sạt lở trước các mùa lũ.
Hình 1: Đắp thân đê bằng bao tải cát [5] Hình 2: Gia cố chân đê bằng cừ tràm [6]
Hình 3: Làm thoải mái dốc [7] Hình 4: Gia cố đê bằng lưới thép B40 [8]
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 38
2.2. Đề xuất giải pháp gia cố đê phù hợp
với điều kiện ĐBSCL
Công nghệ đất trộn ximăng đã được nghiên cứu
ứng dụng ở nhiều nước trên thế giới. Ximăng được
phun và trộn với đất nền theo chiều sâu (SCDM) để
tạo nên hàng cọc đất trộn ximăng có cường độ cao,
có khả năng chống thấm, và chống trượt sâu. Giải
pháp này có nhiều ưu điểm như thời gian thi công
nhanh, có thể tận dụng vật liệu tại chỗ, phù hợp với
mọi loại đất, máy thi công nhỏ gọn và tải trọng nhẹ
(như thiết bị NSV), và giá thành vừa phải. Tuy
nhiên, công nghệ này cần có hệ thống thiết bị
chuyên dụng và kiến thức chuyên sâu.
Đê bao được gia cố bằng một hoặc hai hàng
cọc đất ximăng đường kính 0.6 m. Hàm lượng
ximăng sử dụng từ 250-300 kg/m3
cho cường độ
đất ximăng của các lớp đất lớn hơn 0.35 MPa
theo nghiên cứu trong phòng [1, 3]. Cọc đất
ximăng có chiều dài 10.5 m đảm bảo gia cố hết
lớp đất yếu nên có khả năng chống trượt sâu
(Hình 5a) và được bố trí như một tường cọc
(Hình 5b) nên có khả năng chống thấm qua thân
đê. Ưu nhược điểm của các phương án gia cố
được trình bày trong Bảng 1.
a) Mặt cắt ngang gia cố b) Mặt bằng gia cố 1 hoặc 2 hàng cọc
Hình 5: Gia cố đê bằng cọc đất trộn ximăng [1, 3]
Bảng 1: Bảng tóm tắt ƣu nhƣợc điểm của các phƣơng án gia cố.
Giải pháp gia cố Ƣu điểm Nhƣợc điểm
Đắp bao tải cát làm
thoải mái dốc
Dễ thi công, không cần máy
móc phức tạp, giá thành rẻ.
Vật liệu cát ở địa phương ngày càng khan hiếm,
không có khả năng chống thấm và chống trượt
sâu, làm thu hẹp dòng chảy gây sạt lở ở những
khu vực lân cận
Gia cố đê bằng cừ
tràm
Dễ thi công, không cần máy
móc phức tạp, giá thành rẻ.
Vật liệu cừ tràm ở địa phương ngày càng khan
hiếm, không có khả năng chống thấm và chống
trượt sâu
Gia cố đê bằng lưới
thép B40
Dễ thi công, máy móc thi công
đơn giản, giá thành rẻ.
Không có khả năng chống thấm và chống trượt
sâu.
Giải pháp kết hợp Dễ thi công, máy móc thi công
đơn giản, giá thành rẻ.
Vật liệu gia cố ở địa phương ngày càng khan
hiếm, không có khả năng chống thấm và chống
trượt sâu
Giải pháp tường cọc
đất trộn ximăng
Có khả năng chống thấm và
chống trượt sâu, thiết bị thi
công (NSV) nhỏ gọn, sử dụng
vật liệu sẵn có ở địa phương,
giá thành vừa phải.
Phải có máy móc thi công chuyên dụng và kiến
thức chuyên sâu
SÉT, DẺO CỨNG
SÉT PHA, DẺO CỨNG
Comment [HT1]: LAM CHO HINH NAY DAM NET VA RO HON. DAM BAO RANG KHI IN RA CO THE DOC DUOC.
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 39
3. PHƢƠNG PHÁP PHÂN TÍCH SO SÁNH
3.1. Số liệu đầu vào
Địa hình và địa chất được thu tập ở đoạn đê
dọc kênh Mười Cai, xã Vĩnh Trạch, huyện
Thoại Sơn, tỉnh An Giang (Hình 6). Đây là đoạn
đê đặc trưng cho đê bao ở ĐBSCL [1]. Số liệu
địa chất dọc theo hố khoan 25 m được trình bày
trong Bảng 2 [10].
Hình 6: Ví trí nghiên cứu các giải pháp gia cố đê
Bảng 2: Các chỉ tiêu cơ lý của lớp đất [10]
Lớp đất Hệ số thấm, k
(m/s)
Dung trọng tự
nhiên, (kN/m3)
Lực dính, c
(kN/m2)
Góc ma sát
trong, φ (0)
Chiều dày, H
(m)
Lớp 1 10-6
÷ 10-4
17.95 20.10 11.87 4.1
Lớp 2 3.64 x 10-8
15.64 6.20 5.45 6.4
Lớp 3 1.66 x 10-8
19.07 19.10 14.97 4.8
Lớp 4 1.37 x 10-8
20.05 29.60 17.48 9.7
3.2. Cơ sở lý thuyết
3.2.1. Lý thuyết dòng thấm trong đất
Phương trình cơ bản trong phân tích dòng
thấm phẳng (2D) được thể hiện ở phương trình
(1) [12].
( ) ( )x y
H Hk k Q
x x y y t
(1)
Trong trường hợp dòng thấm ổn định,
0t
, phương trình (1) được viết lại:
( ) ( ) 0x y
H Hk k Q
x x y y
(2)
trong đó: H - Cột nước thấm tổng; kx - Hệ số
thấm theo phương ngang; ky - Hệ số thấm theo
phương đứng; Q - Lưu lượng phụ thêm; θ - hàm
độ ẩm về thể tích; t - thời gian.
3.2.2. Hệ số ổn định
Hệ số ổn định (FS – Factor of Safety) được
sử dụng để đánh giá khả năng chống trượt sâu
của đê bao. Theo Duncan & Wright (2005), hệ
số ổn định được định nghĩa là tỉ số giữa môment
chống trượt và môment gây trượt như phương
trình (3).
Comment [HT2]: PHAI THỐNG NHẤT SỐ THẬP PHÂN == DAU “.” HAY “,” CHO TOAN BO BÀI BAO NAY !!!
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 40
FS Moment chong truot
Moment gay truot (3)
Phương pháp Bishop được sử dụng để phân
tích FS dựa trên phương pháp phân mảnh cổ
điển với giả thiết mặt trượt trụ tròn như phương
trình (4) và được mô tả trên Hình 7 [11]. Theo
22 TCN 262-2000, đê bao đạt điều kiện ổn định
khi có hệ số an toàn FS ≥ 1.4. Hệ số FS được
xác định bằng phương pháp lặp, trước tiên cho
FS một giá trị ban đầu (thường FSo = 1) sau đó
tính lặp, thử đúng dần FS đạt tới độ chính xác
yêu cầu.
' cos cos tan '
cos sin tan ' /
sin
c L W u L
FFS
W
(4)
trong đó: c’, φ’ - Lực dính và góc ma sát
trong hữu hiệu; Δl – Chiều dài của mỗi mảnh
dọc theo cung trượt; α – Góc nghiêng của mỗi
mảnh theo phương ngang; u – Áp lực nước lỗ
rỗng; W – Trọng lượng của mỗi mảnh;
Hình 7: Xác định hệ số an toàn theo phương
pháp phân mảnh [11].
3.3. Phƣơng pháp luận phân tích so sánh
Khả năng chống thấm và chống trượt sâu của
các giải pháp gia cố đê hiện nay ở ĐBSCL và
giải pháp gia cố đê bằng cọc đất trộn ximăng
được phân tích bằng phần mềm SEEP/W và
SLOPE/W. Lưu lượng mưa ngày được lấy tại
trạm đo Châu Đốc i = 121 mm/ngày = 0.00504
m/giờ (QCVN 02:2009/BXD). Mực nước sông
rút với tốc độ 0.2 m/ngày dựa trên kết quả khảo
sát thực tế. Các trường hợp phân tích được trình
bày trong Bảng 3.
Bảng 3: Các trƣờng hợp phân tích thấm và ổn định.
Trường hợp phân tích Mực
nước sông (m)
Mực
nước ruộng (m)
Phân tích
thấm
Phân tích
ổn định
Mực nước sông cao nhất +3.10 +1.42 x x
Mực nước sông cao nhất
có mưa
+3.10 +1.42 x x
Mực nước sông rút nhanh +3.10 xuống
+0.6
+1.42 x x
Mực nước sông thấp nhất +0.6 +1.42 - x
x: có xét đến trong tính toán
Các giải pháp gia cố bằng cừ tràm và lưới
thép B40 có nguyên lý hoạt động là tăng sức
kháng cắt trong thân đê nên chọn phương án gia
cố cừ tràm để phân tích tính toán. Các loại vật
liệu này không ngăn được dòng thấm trong đất
nên lấy hệ số thấm bằng hệ số thấm của các lớp
đất. Hệ số thấm lớp 1 chọn từ 10-6
đến 10-4
m/s
do thân đê có hiện tượng nứt nẻ và có nhiều lỗ
mọt. Bề rộng một và hai hàng cọc đất ximăng
được quy đổi lần lượt là 0.5 m và 1.0 m. Hệ số
thấm của hỗn hợp đất ximăng là 10-9
m/s [13].
Tải trọng tính toán là hoạt tải xe 2.5 tấn theo 22
TCN 210-92. Các chỉ tiêu cơ lý của hỗn hợp đất
ximăng được trình bày trong Bảng 4.
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 41
Bảng 4: Chỉ tiêu cơ lý của hỗn hợp đất trộn ximăng thiết kế [3]
Hệ số thấm, k
(m/s)
Dung trọng tự nhiên, γw
(kN/m3)
Cường độ nén, qu
(kN/m2)
Lực dính, c
(kN/m2)
Góc ma sát
trong0
10-9
19.5 350 175 0
4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1. Phân tích thấm
a. Trƣờng hợp mực nƣớc sông cao nhất
Dòng thấm có xu hướng chảy từ phía sông
sang phía ruộng (Hình 8) [3]. Đường dòng trên
Hình 8a và 8b đi qua thân đê, kết quả này cho
thấy các giải pháp gia cố đê hiện nay không có
khả năng chống thấm. Đường dòng ở Hình 8c
và 8d bị giới hạn và có xu hướng chảy phía dưới
cọc đất ximăng, kết quả này cho thấy phương
pháp gia cố đất ximăng ngăn được dòng thấm
qua đê. Lưu lượng thấm qua đê tăng lên khi thân
đê có nhiều lỗ rỗng. Do không thể đo trực tiếp
hệ số thấm thân đê có lỗ rỗng, hệ số thấm thay
đổi từ 10-4
đến 10-6
m/s được dùng để xét sự tác
động thấm của lỗ mọt trong nghiên cứu này.
Lưu lượng thấm của các giải pháp làm thoải mái
dốc và gia cố cừ tràm tăng lên hơn 90 lần khi hệ
số thấm của lớp 1 tăng từ 10-6
lên 10-4
m/s và
thay đổi không đáng kể khi thân đê được gia cố
bằng cọc đất trộn ximăng. Giải pháp đất trộn
ximăng một và hai hàng cọc làm giảm lưu lượng
thấm so với các giải pháp khác lần lượt là 10 và
15 lần (Bảng 5).
a) Đắp bao tải cát làm thoải mái dốc b) Giải pháp gia cố cừ tràm
c) 1 hàng cọc đất trộn ximăng d) 2 hàng cọc đất trộn ximăng
Hình 8: Kết quả phân tích thấm trường hợp mực nước sông cao nhất
Comment [HT3]: CHUYEN TOAN BO THONG TIN THANH TIENG VIET !!! DIEU CHINH TUONG TU CHO TOAN BO BAI BAO VA LVTN !!!
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 42
Bảng 5: Lƣu lƣợng thấm qua thân đê trong trƣờng hợp mực nƣớc sông cao nhất
Các trường hợp
phân tích
Lưu lượng thấm qua thân đê (m3/h)
Thoải mái dốc Cừ tràm Gia cố 1 hàng cọc Gia cố 2 hàng cọc
kLop1=10-4
m/s 0.13 0.13 0.14 x 10-3
0.97 x 10-4
kLop1=10-5
m/s 0.13 x 10-1
0.13 x 10-1
0.14 x 10-3
0.96 x 10-4
kLop1=10-6
m/s 0.13 x 10-2
0.14 x 10-2
0.13 x 10-3
0.93 x 10-4
b. Trƣờng hợp mực nƣớc sông cao nhất
kết hợp mƣa
Đường bão hòa nước trong thân đê dâng lên
theo thời gian mưa (Hình 9). Hệ số thấm lớp 1
càng nhỏ thì đường bão hòa nước trong thân đê
dâng lên càng nhanh. Với klơp 1 = 10-6
m/s, thân
đê bão hòa hoàn toàn sau 12 giờ mưa. Đường
bão hòa nước trong thân đê dâng lên không
đáng kể khi klơp 1 = 10-4
m/s sau 24 giờ mưa,
nguyên nhân là do hệ số thấm lớp 1 lớn làm
tăng khả năng thoát nước trong thân đê ra phía
bên ngoài.
a) Đắp bao tải cát làm thoải mái dốc b) Giải pháp gia cố cừ tràm
c) 1 hàng cọc đất trộn ximăng d) 2 hàng cọc đất trộn ximăng
Hình 9: Đường bão hòa nước trong thân đê khi có mưa
c. Trƣờng hợp mực nƣớc phía sông rút
nhanh
Đường bão hòa nước trong thân đê khi mực
nước sông rút với vận tốc 0.2 m/ngày từ mực
nước cao nhất xuống mực nước thấp nhất thể
hiện trên Hình 10. Mực nước trong thân đê giảm
khi mực nước sông giảm đối với các giải pháp
gia cố hiện nay (Hình 10a, 10b). Kết quả ở Hình
10c và 10d cho thấy đường bão hòa nước trong
thân đê không thay đổi khi mực nước phía sông
thay đổi, kết quả này cho thấy sự hiệu quả của
việc ngăn dòng thấm khi có tường đất ximăng.
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 43
a) Đắp bao tải cát làm thoải mái dốc b) Giải pháp gia cố cừ tràm
c) 1 hàng cọc đất trộn ximăng d) 2 hàng cọc đất trộn ximăng
Hình 10: Đường bão hòa nước trong thân đê khi mực nước sông rút
4.2. Phân tích ổn định
a) Trƣờng hợp mực nƣớc sông cao nhất
Kết quả phân tích ổn định giải pháp gia cố 2
hàng cọc đất trộn ximăng được thể hiện ở Hình
11. Kết quả phân tích ổn định chi tiết các giải
pháp gia cố đê trong trường hợp mực nước sông
cao nhất thể hiện ở Bảng 6. Kết quả phân tích cho
thấy đê bao phía ruộng và phía sông của các giải
pháp đạt an toàn khi mực nước sông cao nhất (FS
> 1.4), nguyên nhân là do có áp lực ngang của
nước phía sông chống lại lực gây trượt trong thân
đê. Hệ số FS phía sông tăng lần lượt là 1.85 và 2
lần khi gia cố 1 và 2 hàng cọc đất trộn ximăng so
với các giải pháp gia cố đê hiện nay.
a. Phía sông b) Phía ruộng
Hình 11: Phân tích ổn định giải pháp gia cố 2 hàng cọc đất trộn ximăng
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 44
Bảng 6: Kết quả phân tích ổn định các giải pháp gia cố trƣờng hợp mực nƣớc sông cao nhất
Các trƣờng hợp phân tích
Hệ số an toàn, FS Cừ tràm Thoải mái dốc Gia cố 1 hàng cọc Gia cố 2 hàng cọc
Phía ruộng
Phía sông
Phía ruộng
Phía sông
Phía ruộng
Phía sông
Phía ruộng
Phía sông
kLop1=10-4
m/s 2.13 1.55 2.13 1.48 3.29 2.64 3.26 2.85 kLop1=10
-5 m/s 2.22 1.50 2.13 1.48 3.29 2.64 3.26 2.85
kLop1=10-6
m/s 2.13 1.55 2.13 1.48 3.28 2.63 3.25 2.84
b) Trƣờng hợp mực nƣớc sông cao nhất
kết hợp mƣa
Hình 12, 13, và 14 thể hiện mối quan hệ giữa hệ
số an toàn FS và thời gian mưa úng. Nhìn chung, hệ
số an toàn phía sông và phía ruộng giảm nhẹ theo
thời gian mưa do đường bão hòa nước trong đất tăng
lên theo thời gian mưa làm tăng áp lực nước lỗ rỗng
trong đất và làm giảm sức chống cắt trong thân đê.
Tuy nhiên, một số trường hợp hệ số an toàn phía
ruộng tăng lên trong khoảng 6 giờ mưa đầu tiên.
Đường bão hòa nước trong thân đê tăng lên làm vị
trí cung trượt nguy hiểm nhất bị đẩy sâu hơn và làm
tăng sức chống cắt trong thân đê. Kết quả phân tích
cũng cho thấy hệ số FS trong các trường hợp đều
lớn hơn 1.4 và thay đổi không đáng kể khi có mưa
và khi hệ số thấm của lớp 1 thay đổi từ 10-6 đến 10
-4
m/s. Bề rộng thân đê nhỏ (khoảng 3 m) giúp đê bao
ít ảnh hưởng bởi mưa to.
a. Phía sông b) Phía ruộng
Hình 12: Phân tích ổn định trường hợp klớp 1 = 10-4
m/s.
a) Phía sông b) Phía ruộng
Hình 13: Phân tích ổn định trường hợp klớp 1 = 10-5
m/s
Comment [HT4]:
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 45
a) Phía sông b) Phía ruộng
Hình 14: Phân tích ổn định trường hợp klớp 1 = 10-6
m/s
c) Trƣờng hợp nƣớc phía sông rút nhanh
Hình 15, 16, và 17 là mối quan hệ giữa hệ số
an toàn và thời gian nước sông rút từ cao độ
+3.10 m xuống 0.6 m với tốc độ 0.2 m/ngày. Hệ
số an toàn phía sông giảm tuyến tính theo cao
độ nước sông do nước sông rút làm giảm áp lực
ngang chống lại lực gây trượt. Trong khi đó, hệ
số an toàn phía ruộng tăng dần theo thời gian
nước rút, nguyên nhân là do áp lực ngang gây
trượt do nước từ phía sông sang phía ruộng bị
giảm. Một số trường hợp hệ số an toàn phía
ruộng giảm khi mực nước sông giảm từ 0.2 đến
0.4 m, nguyên nhân là do đường bão hòa nước
trong thân đê giảm làm thay đổi vị trí cung trượt
nguy hiểm nhất dẫn đến hệ số an toàn tăng lên.
Kết quả phân tích cũng cho thấy hệ số ổn định
phía sông tăng lên lần lượt là 57% và 87% khi
sử dụng biện pháp gia cố 1 và 2 hàng cọc đất
trộn ximăng và thay đổi không đáng kể khi hệ
số thấm của lớp 1 thay đổi.
a) Phía sông b) Phía ruộng
Hình 15: Phân tích ổn định trường hợp klớp 1 = 10-4
m/s.
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 46
a. Phía sông b) Phía ruộng
Hình 16: Phân tích ổn định trường hợp klớp 1 = 10-5
m/s.
a. Phía sông b) Phía ruộng
Hình 17: Phân tích ổn định trường hợp klớp 1 = 10-6
m/s.
d) Trƣờng hợp mức nƣớc thấp nhất
Kết quả phân tích ổn định trường hợp mực
nước sông thấp nhất của giải pháp gia cố 2 hàng
cọc đất trộn ximăng được thể hiện ở Hình 18.
Kết quả chi tiết của các giải pháp khác thể hiện
ở Bảng 7.
a. Phía sông b) Phía ruộng
Hình 18: Phân tích ổn định giải pháp gia cố 2 hàng cọc đất trộn ximăng Comment [HT5]: DUNG BANG BIEU VA GIAI THICH CHO NGUOI DOC TUONG TU PHAN TREN
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 47
Bảng 7: Kết quả phân tích ổn định trƣờng hợp mực nƣớc sông thấp nhất
Các trƣờng
hợp phân tích
Hệ số an toàn, Fs
Cừ tràm Thoải mái dốc Gia cố 1 hàng cọc Gia cố 2 hàng cọc
Phía
ruộng
Phía
sông
Phía
ruộng
Phía
sông
Phía
ruộng
Phía
sông
Phía
ruộng
Phía
sông
kLop1=10-4
m/s 2.23 0.97 2.24 0.96 3.16 1.38 3.25 1.76
kLop1=10-5
m/s 2.23 0.97 2.24 0.96 3.16 1.38 3.25 1.76
kLop1=10-6
m/s 2.23 0.97 2.24 0.96 3.17 1.38 3.25 1.76
Hệ số ổn định phía sông trường hợp mực
nước sông nhỏ nhất theo phương pháp Bishop
của các giải pháp như làm thoải mái dốc và gia
cố đê bằng cừ tràm lần lượt là 0.96 và 0.97
(không đạt an toàn theo TCVN 262-2000). Kết
quả này phản ánh đúng tình hình thực tế khi
hiện nay đê bao ở ĐBSCL thường xuyên xẩy ra
sạt lở [9]. Hệ số an toàn phía sông khi gia cố
bằng 1 hàng cọc đất ximăng bằng 1.38 nhưng
vẫn có thể chấp nhận được khi tính toán với
điều kiện mực nước sông thấp nhất lịch sử kết
hợp với tổ hợp tải trọng bất lợi nhất có thể xẩy
ra [3]. Kết quả phân tích cho thấy ta nên sử
dụng phương án gia cố 1 hàng cọc ở những vị
trí có khả năng sạt lở thấp. Hình 24a cho thấy
phương án gia cố đất trộn ximăng 2 hàng cọc có
khả năng chống trượt sâu, giúp đê an toàn (FS =
1.76). Hệ số an toàn phía ruộng của tất cả các
giải pháp lớn hơn 1.4, kết quả này cho thấy đê
bao phía ruộng đảm bảo an toàn và không cần
phải gia cố.
5. KẾT LUẬN
Khả năng chống thấm và chống trượt sâu của
các giải pháp gia cố đê hiện nay ĐBSCL đang
sử dụng và giải pháp gia cố đê đề xuất bằng cọc
đất trộn ximăng được mô phỏng bằng phần
mềm SEEP/W và SLOPE/W từ các số liệu địa
hình và địa chất được thu thập tại đoạn đê kênh
Mười Cai, xã Vĩnh Trạch, huyện Thoại Sơn,
tỉnh An Giang. Từ kết quả phân tích ta có thể rút
ra một số kết luận như sau:
1. Các giải pháp gia cố đê như làm thoải mái
dốc, gia cố đê bằng cừ tràm, v.v., không ngăn
được dòng thấm qua thân đê. Trong khi đó,
dòng thấm qua thân đê bị ngăn lại khi sử dụng
biện pháp gia cố đê bằng một hoặc hai hàng cọc
đất trộn ximăng.
2. Các giải pháp gia cố đê hiện nay ở
ĐBSCL như làm thoải mái dốc, cừ tràm, v.v.,
chỉ là giải pháp gia cố đê tạm thời và không có
khả năng chống trượt sâu. Giải pháp gia cố đê
bằng cọc đất trộn ximăng có khả năng chống
trượt sâu, giúp đê ổn định lâu dài.
3. Giải pháp gia cố đê bằng đất trộn ximăng
một hàng cọc nên sử dụng ở những vị trí có
nguy cơ sạt lở thấp và những vị trí cần chống
thấm cho đê bao. Giải pháp gia cố đê bằng 2
hàng cọc đất trộn ximăng sử dụng ở những vị
trí có nguy cơ sạt lở cao và chống thấm qua
thân đê.
LỜI CẢM ƠN
Đề tài này được thực hiện với nguồn kính phí
nghiên cứu từ AUN/SEED-NET (HCMUT CRI
1301), Sở NN&PTNT An Giang (299/HĐ-
KHCN-CCTL), và tập đoàn Something Việt
Nam. Các tác giả chân thành cảm ơn sự hỗ trợ
nhiệt tình của các cơ quan, Sở, Ban, Ngành,
người dân địa phương ở An Giang, và trường
Đại Học Bách Khoa TP. HCM trong suốt quá
trình nghiên cứu.
TÀI LIỆU TH M KHẢO
1. Mai Anh Phương, Nguyễn Bình Tiến,
Trương Đắc Châu, và Trần Nguyễn Hoàng
Hùng. “Nghiên cứu ứng xử của đất An Giang
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 48
trộn ximăng bằng công nghệ trộn ướt và trộn
sâu”. Tạp chí địa k thuật, số 2/2014, pp. 34-43,
tháng 2-2014.
2. Lê Xuân Việt. “Nghiên cứu chống sạt lở
đường ven sông trên đất yếu tại Ql.91 đoạn
Bình Mỹ, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang,”
Luận văn thạc sỹ, trường ĐH Bách Khoa Tp.
HCM, Tp. HCM, 2011, 117 trang.
3. Lê Khắc Bảo, Lê Phi Long, và Trần
Nguyễn Hoàng Hùng. “Ảnh hưởng của tường
đất-xi măng đến dòng thấm và ổn định của đê
bao chống lũ ở Đồng Tháp”. Tạp chí xây dựng,
số 12/2014, pp. 66-70, tháng 12-2014.
4. Tăng Đức Thắng, và Ngô Quang Toàn.
“Ngập do lũ và triều biển dâng trên đồng bằng
sông Cửu Long trong bối cảnh biến đổi khí hậu
và một số giải pháp thích ứng”. Tạp chí khoa
học và công nghệ thủy lợi, số 4, tháng 10/2011.
5. Tổng cục thủy lợi. “Quản lý khai thác
công trình thủy lợi vùng ĐBSCL”. Internet:
http://www.wrd.gov.vn. 17/10/2014.
6. Báo Dân Việt. “ĐBSCL: Nhà nông hối hả
phòng chống lũ”. Internet:
http://www.danviet.vn .09/10/2013.
7. Báo Việt Nam Net. “Lũ ở ĐBSCL: 8
người chết, vỡ đê liên tục”. Internet:
http://www.vietnamnet.vn . 30/09/2011.
8. Báo điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam.
“An Giang trong mùa lũ lớn”. Internet:
http://www.cpv.org.vn. 7/10/2011.
9. Ban Chỉ Huy PCLB & TKCN tỉnh An
Giang, “Báo cáo công tác phòng chống lũ lụt
năm 2011 tỉnh An Giang”, 20/12/2011.
10. Las XD 475. “Bảng thống kê các chỉ tiêu
thí nghiệm đất: Công trình nghiên cứu CRI
1301”, An Giang, 2013.
11. J.M. Duncan, and S.G. Wright, Soil
strength and slope stability, New Jersey: John
Wiley & Sons, 2005, 297 pp.
12. Đỗ Văn Đệ, Vũ Minh Tuấn, Nguyễn Sỹ
Han, Nguyễn Khắc Nam, Hoàng Văn Thắng.
Phần mềm Seep/W ứng dụng vào tính toán thấm
cho công trình thủy và ngầm. Hà Nội: Nhà xuất
bản xây dựng, năm 2012, 163 trang.
13. M. Kitazume and M. Terashi. The deep
mixing method, CRC Press, A Balkema Book,
UK, 2013, 405 pp.
14. Bộ Xây Dựng. “Số liệu điều kiện tự
nhiên dùng trong xây dựng”. Quy chuẩn Kỹ
thuật Quốc gia, QCVN 02:2009/BXD, 324
trang, 2009.
15. Bộ Giao Thông Vận Tải. “Đường GTNT
– Tiêu chuẩn thiết kế”. Tiêu chuẩn ngành,
22TCN 210-92, 31 trang, 1993.
Người phản biện: PGS.TS. ĐẬU VĂN NGỌ
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 49
MÔ HÌNH THÍ NGHIỆM CỌC ĐÁ BALAT TRÊN ĐẤT YẾU TRONG PHÕNG THÍ NGHIỆM: PHƯƠNG PHÁP THAY THẾ
PHAN VÕ THU PHONG*
Simulation in laboratory for installation of stone columns in soft
soils : substitution method
Abstract - This article concerns the consolidation process of clay
(kaolin) reinforced by ballast stone columns. Research work is based on
laboratory experiments and mainly derived from the reduced
reinforcement model of rock pile. The role of soil reinforcentnt with
ballast pile by "substitution method" will be clairi fied at the same time
taking into account of the influence of pile diameter in the
implementation process on the settlement of the land after reinforcement.
Keywords: Reinforcement, stone column, method of construction,
compaction.
1. LỜI NÓI ĐẦU *
Việc áp dụng các giải pháp gia cố nền đất
yếu đã được phổ biến rộng rãi ở Việt Nam,
tuy nhiên giải pháp gia cố đất yếu bằng cọc
đá balat chưa được đề cập nhiều. Kỹ thuật
này được áp dụng đầu tiên ở Đức năm 1936,
sau đó xây được cải tiến và sử dụng nhiều
cho những công trình xây dựng trên đất sét
yếu ở các nước châu Âu cũng như ở Mỹ. Khi
ứng dụng giải pháp gia cố này, nền đất yếu
được cải thiện bởi hai yếu tố: thứ nhất là từ
vật liệu gia cố do chúng có những tính chất
tốt hơn đất được gia cố, thứ hai là từ sự nén
chặt của vùng đất xung quanh cọc do
phương pháp chế tạo và do việc đầm nén vật
liệu gia cố trong quá trình thi công. Chủ đề
này cũng đã được nhiều nhà khoa học làm
rõ bằng phương pháp phần tử hữu hạn, tức
là việc xét đến sự nở hông của cọc khi thực
hiện cọc gia cố dựa trên mô hình ứng xử của
đất được gia cố (Rangeard và nnk, 2005;
Flaviny và nnk, 2006…).
* Trường Đại học Bách Khoa, Đại Học Quốc Gia
thành phố Hồ Chí Minh
Bài báo xem xét chủ yếu ảnh hưởng của
phương pháp thi công và đường kính cọc đơn
đến quá trình cố kết của đất yếu sau khi gia cố
bằng cọc đá balat. Để đơn giản và thuận tiện
cho việc thực hiện, đồng thời để tránh sự
biến đổi tính chất tự nhiên của mẫu đất gia cố,
chúng tôi làm việc trên mẫu đất được chế bị tại
phòng thí nghiệm từ một loại đất sét đồng nhất
với những đặc tính được xác định rõ ràng, đó là
cao lanh. Những cọc cát áp dụng trong nghiên
cứu này được chế bị theo phương pháp thay
thế không đầm nén.
Nhiều đề tài đã nghiên cứu về ứng xử của
cọc đá balat ở phòng thí nghiệm xét trên các
mô hình thu nhỏ là khối đất yếu và cọc cát.
Chúng ta có thể kể ra ở đây những công trình
nghiên cứu của Sivakumar và nnk (2004);
Black và nnk (2006) hoặc Ammar và nnk
(2009)... Tuy nhiên, các nhà khoa học này chỉ
quan tâm đến vai trò của đường kính và chiều
sâu cọc lên hiệu quả của việc gia cố đất mà
chưa xem xét đến ảnh hưởng của phương
pháp thi công.
Trong khuôn khổ của công việc này, chúng
tôi cũng quan tâm đến việc chế tạo cọc sao cho
thật sát với quy trình thực hiện thi công cọc đá
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 50
balat ở công trường. Thật vậy, những cọc cát
thực hiện trong phòng được chế tạo từ một bộ
thiết bị cho phép thực hiện một hố khoan, sau
đó thay thế đất yếu bởi vật liệu gia cố cọc bằng
cách đổ vật liệu gia cố vào hố khoan mà không
đầm nén (do đó được gọi là phương thay thế
không đầm nén). Trong quá trình thực hiện,
nhiều cọc cát cũng đã được chế tạo với những
đường kính hố khoan khác nhau. Sau đó,
những khối đất gia cố này (nghĩa là mẫu đất thí
nghiệm có chứa một cọc cát) được đặt dưới
cùng một tải trọng phân bố đều để tiến hành
cố kết nhằm đánh giá ảnh hưởng của đường
kính cọc gia cố và phương pháp chế tạo lên
ứng xử của hỗn hợp đất và cọc.
2. VẬT LIỆU THÍ NGHIỆM
Cát được sử dụng cho mô hình này là cát tự
nhiên lấy từ sông Loire ở Pháp. Sau đó cát
được rây sàng và rửa sạch. Để vật liệu được
đồng nhất, có xét đến khối lượng cát sử dụng
chế tạo cọc là nhỏ và vật liệu này đảm nhiệm
vai trò màng lọc nước trong quá trình cố kết
(Degoutte và nnk, 2005), chúng tôi sử dụng cát
có thành phần hạt trong khoảng từ 1,00 mm đến
1,25 mm.
Đất sử dụng trong nghiên cứu này là cao lanh
công nghiệp ở dạng bột khô. Các giá trị về giới
hạn chảy wl và giới hạn dẻo wp của chúng cũng
được xác định theo tiêu chuẩn của Pháp (NF P
94-051) và có giá trị lần lượt là 55 % và 39 %.
Các mẫu đất nghiên cứu ở đây được cố kết
trước một phần từ cao lanh công nghiệp khi
trộn lẫn chúng với nước theo hàm lượng bằng
hai lần giới hạn chảy. Tức là cao lanh sẽ được
làm ẩm và bảo quản trong một bao kín không
rò sau 24 giờ để việc làm ẩm thật sự đồng
đều. Sau đó, chúng ta sẽ đổ hỗn hợp cao lanh
ẩm vào trong khuôn cứng hình trụ được làm
bằng gang có đường kính là 150 mm và chiều
cao là 200 mm, tiếp đến là đặt mẫu dưới tác
dụng của lực phân bố đều có cường độ tăng
dần cho đến khi đạt được một áp lực là 50 kPa
(hình 1).
Hình 1. Mẫu đất nghiên cứu
Mỗi cấp áp lực cần được duy trì trong một
thời gian đủ dài cho đến khi độ lún của mẫu ổn
định (vượt qua gia đoạn cố kết thứ nhất). Trạng
thái đạt được ở cấp tải cuối cùng (50 kPa) gọi là
tình trạng ban đầu của mẫu đất nghiên cứu và đó
cũng chính là mẫu tham chiếu để tiến hành chế tạo
những cọc cát gia cố.
Dựa vào các thí nghiệm cổ điển ở phòng thí
nghiệm (thí nghiệm nén cố kết (XP P 94-090-1),
thí nghiệm nén ba trục (NF P 94-074)), những
đặc trưng cơ lý của mẫu đất cũng được xác định.
Các mẫu dùng để làm thí nghiệm được trích
từ mẫu đất nghiên cứu ban đầu chứa trong
khuôn bằng các dụng cụ chuyên dụng. Những
giá trị về cơ lý của đất được thể hiện chi tiết
trong tài liệu tham khảo [11] và được tóm lược
trong bảng 1.
Bảng 1. Đặc trƣng cơ lý mẫu đất nghiên cứu
Chỉ số
nén
Chỉ số
nở
Áp lực
tiền cố
kết
Lực
dính hữu
hiệu
Góc
ma sát
hữu
hiệu
Cc Cs ı’p (kPa) c' (kPa) φ’ (độ)
0,5 0,1 50 0 21
3. MÔ HÌNH CHẾ TẠO CỌC ĐÁ BALAT
Ở PHÒNG THÍ NGHIỆM THEO PHƢƠNG
PHÁP THAY THẾ KHÔNG ĐẦM NÉN
Mô hình chế tạo những cọc cát trong phòng
thí nghiệm từ những mẫu đất ban đầu đã chuẩn
bị ở mục §2 nhằm để mô phỏng các điều kiện khi
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 51
áp dụng phương pháp thi công cọc đá balat ở
ngoài thực tế. Chính xác hơn là sẽ mô phỏng lại
sự thay thế đất yếu bằng đất gia cố tốt hơn dưới
tác dụng của áp lực cố kết.
Dụng cụ được sử dụng để chế tạo cọc cát
chủ yếu bao gồm một bộ ống inox có đường
kính trong (Φo) từ 10 mm đến 25 mm, bề dày
của ống là 0,12 mm. Các giai đoạn chế tạo cọc
cát theo phương thay thế không có đầm nén
được thực hiện một cách tuần tự như sau:
- Bước 1: một thiết bị dẫn hướng được lắp
đặt cố định lên khuôn mẫu, thiết bị này được
liên kết với tấm đệm cứng hình vành khăn đặt
lên bề mặt cao lanh thông qua các bulông
để giữ cố định khối đất trong quá trình chế
tạo cọc cát. Ống inox (đầu mở) được đóng
vào trong khối cao lanh đến sát đáy khuôn
(hình 2a).
- Bước 2: cao lanh được trích ra bởi một
lưỡi khoan có đường kính bằng đường kính
trong của ống inox (hình 2b).
- Bước 3: một khối lượng cát được rót vào
để tạo thành một lớp có chiều cao hlớp, với giả
định dung trọng cát sau khi rơi tự do trong ống
inox là 1,5 t/m3 (hình 2c).
- Bước 4: một pít-tông bằng nhôm có đường
kính tương tự với mũi khoan được đưa vào tiếp
xúc với bề mặt lớp cát và được cố định bằng
thanh giữ (hình 2d).
- Bước 5: ống inox được nâng lên một đoạn
bằng chiều cao hlớp (hình 2e).
- Bước 6: lớp cát này được nén nhẹ dưới
trọng lượng của pít-tông (3 N) (hình 2f).
Các bước từ 3 đến 6 được lặp đi lặp lại cho
đến khi cột cát được hình thành, nghĩa là chiều
cao cột cát bằng với chiều cao của khối đất
(hình 2g).
- Bước 7: bề mặt của khối đất gia cố được
bao phủ bởi một lớp cát dày 15 mm (hình 2h).
- Bước 8: cột cát được đổ đầy nước và bão
hòa ít nhất 24 giờ trước khi đặt tải (hình 2i).
Hình 2. Quy trunh chế tạo cọc cát theo
«phương pháp tha thếª không đầm nén
Trong trường hợp này, lực đầm nén truyền
lên vật liệu gia cố rất bé và do đó lực tác dụng lên
đất xung quanh cọc cũng rất bé. Với mục đích
phân tích ảnh hưởng của đường kính cọc gia cố lên
đặc tính của hỗn hợp đất/cọc sau khi gia cố dưới
một áp lực cố kết, nhiều cọc cát với những
đường kính khác nhau từ 14 mm đến 28 mm đã
được thực hiện bằng phương pháp này.
Việc theo dõi độ lún của mỗi lớp gia cố trong
quá trình chế tạo nhờ vào đồng hồ đo chuyển vị
cho phép tính độ lún trung bình (htb) trên toàn
bộ chiều cao cọc cát (ho). Sau đó xét biến dạng
thẳng đứng trung bình (tb) của mỗi lớp gia cố
trong lúc chế tạo cọc:
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 52
εtb = ¨htb / hlớp (1)
Kết quả tính toán được tổng hợp trong bảng 2.
Bảng 2. Bảng tổng hợp độ lún và biến dạng
thẳng đứng trung bình của mỗi lớp gia cố
Mẫu I II
III IV V
Фo
(mm)
11,9 13,8 15,8 20,1 25,1
F (N) 3 3 3 3 3
ıđn (kPa) 28 21 16 10 6
hlớp
(mm)
18,4 22,7 24,2 19,9 9,4
Δhtb
(mm)
5,5 6,3 6,0 3,1 2,1
tb(%) 30 28 25 15 22
Chúng tôi thấy rằng mặc dù áp lực đầm nén rất
nhỏ nhưng độ lún trung bình của mỗi lớp gia cố dao
động từ 2,1 mm đến 5,5 mm và biến dạng thẳng
đứng trung bình thay đổi từ 22% đến 30% tỷ theo áp
lực đầm nén. Diễn biến này được thể hiện trên hình 3.
Hình 3. Sự tiến triển biến dạng thẳng đứng trung
bình theo áp lực đầm nén của các mẫu thí nghiệm
Đối với mỗi cọc được thực hiện, đường kính
trung bình của cọc cát (Φtb) được xác định dựa
vào số lượng cát đã được đổ vào trong lúc chế
tạo. Sự tăng trưởng của đường kính cọc cát
(¨Φtb/Φo) theo áp lực đầm nén rất nhỏ dưới trọng
lượng của pít-tông được tính theo công thức:
¨Φtb / Φo = (Φtb - Φo) / Φo (2)
Để thấy rõ hơn nữa sự tăng tương đối của cọc
so với đường kính hố khoan, chúng tôi xem xét
tỉ lệ thay thế trước và sau gia cố vật liệu, tỉ lệ
này được xác định bởi hệ số thay thế:
A
Aa c (3)
Với : Ac là diện tích của cọc cát sau khi thi
công ; A là diện tích toàn bộ vùng ảnh hưởng
của cọc và diện tích cọc (trong trường hợp này,
A là diện tích của khuôn).
Các kết quả trên được tổng hợp trong bảng 3
và thể hiện trên hình 4.
Bảng 3. Bảng tổng hợp đƣờng kính cọc và tỉ
lệ thay thế của các mẫu thí nghiệm
Mẫu I II III IV V
Фo (mm) 14,2 16,1 17,4 21,8 28,5
Фtb / Фo (%) 20 17 11 8 13
ao (%) 0,6 0,8 1,1 1,8 2,8
atb (%) 0,9 1,1 1,4 2,1 3,6
atb / ao (%) 43 37 22 17 28,4
Xét đến đường kính của khuôn hình trụ chứa
mẫu đất gia cố là 150 mm, thu các tỉ lệ trộn được
áp dụng cho phương pháp chế tạo này vào
khoảng 3 %. Chúng ta ghi nhận rằng tỉ lệ này vẫn
còn nhỏ hơn đối với tỉ lệ trộn đã sử dụng ở ngoài
thực tế (Dhouib et Blondeau, 2005).
Hình 4. Sự tăng trưởng của đường kính cọc
và tỉ lệ thay thế theo áp lực nén tĩnh, dưới
trọng lượng của pít-tông
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 53
Chúng ta thấy rằng sự tăng tương đối đường
kính cọc cát tỉ lệ với áp lực đầm nén mặc dù áp
lực này rất nhỏ, điều đó cho thấy nó cũng làm nở
hông một phần cọc cát trong quá trình chế tạo.
4. ỨNG XỬ TRONG QUÁ TRÌNH CỐ
KẾT CỦA CÁC KHỐI ĐẤT ĐƢỢC GIA CỐ
Để đánh giá ảnh hưởng của việc gia cố đất
đối với ứng xử của khối đất sét sau khi thực hiện
gia cố bằng cọc cát, chúng tôi đặt chúng dưới
một áp lực phân bố đều là 150 kPa. Áp lực phân bố
này được duy trì trong thời gian đủ dài để giai
đoạn tiền cố kết hoàn toàn kết thúc. Kết quả cụ
thể được trình bày dưới đây.
Những đường cong diễn biến độ lún được thể
hiện ở hình 5. Đường cong biểu diễn độ lún của
một mẫu cao lanh không được gia cố cọc cát
cũng được biểu thị đồng thời trên hình này.
Đường cong này cũng là đường cong tham
chiếu biểu thị cho đất hoàn toàn chưa được xử
lý. Như đã tiên đoán, chúng ta ghi nhận rằng,
độ lún của những khối đất được gia cố bởi
cọc cát là nhỏ hơn độ lún của khối đất thuần
túy (đất không gia cố cọc cát) và điều này được
nhận thấy một cách rõ ràng hơn đối với những
cọc có đường kính lớn hơn 20 mm. Hơn nữa,
dường như đường kính của cọc cát cũng ảnh
hưởng quan trọng đến biên độ lún của khối đất.
Hình 5. Độ lún theo thời gian dưới tác dụng tải
phkn bố đều 150 kPa Những cọc cát được chế tạo
theo phương pháp thay thế không đầm nén
Để thấy một cách rõ ràng ảnh hưởng của
việc chế tạo cọc theo phương pháp chế tạo này,
chúng ta xem xét tỉ lệ giảm độ lún Tr được
xác định bằng biểu thức sau:
(4)
với ¨hkc là độ lún thuần túy của khối đất khi
không có gia cố (mẫu tham chiếu), ¨hcc là độ lún
của khối đất khi có gia cố bằng một cọc cát.
Tính đến hình dạng của đường cong biểu
diễn về độ lún (hình 5), giá trị độ lún được
xem xét trong mỗi trường hợp sử dụng để tính
trong công thức (4) là độ lún được đo ở cùng
một thời điểm 105 giây. Kết quả được thể hiện
trong bảng 4 và trên hình 6.
Bảng 4. Tỉ lệ giảm độ lún của các
mẫu thí nghiệm
Mẫu I II III IV V
Фo
(mm)
14,2 16,1 17,4 21,8 28,5
Tr
(%)
0,8 1,5 3,4 8,4 13,6
Chúng ta thấy rằng, đường kính cọc cát càng
lớn, tỉ lệ giảm độ lún càng lớn và giá trị này đạt
13,6% ứng với tỉ lệ trộn 3,6%. Mặt khác, ứng
xử của một cọc đơn cũng khác biệt so với ứng
xử của một cọc nằm trong nhóm (Wehr, 2004).
Nhất là, sự phân tích ứng xử của một nhóm cọc
được hunh thành từ việc gộp chồng các ứng
xử của những cọc đơn dẫn đến một sự đánh giá
thấp về hiệu quả của việc gia cố.
Những phương pháp tính toán độ lún được
dựa trên nền tảng đơn giản về sự đồng nhất của
những đặc tính biến dạng của đất và của cọc
(theo tỉ lệ về diện tích) ứng với trường hợp chế
tạo cọc bằng phương pháp thay thế, khi những
đặc trưng cơ lý của đất không hoặc ít tác dụng
đến phương pháp thi công cọc.
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 54
Hình 6. Sự giảm đ lún theo đường kính cọc
5. KẾT LUẬN
Nghiên cứu này giải quyết ảnh hưởng của
các phương pháp thi công cọc đá balat dựa trên
việc gia cố đất sét yếu. Một nghiên cứu về mô
hình thu nhỏ ở phòng thí nghiệm đã cho phép
làm rõ vai trò phương pháp chế tạo cọc và cố
kết của đất yếu khi được gia cố. Mặc dù việc
đầm nén nhỏ nhưng biến dạng thẳng đứng của
cọc trong quá trình chế tạo có thể đạt đến 30%
tương ứng với áp lực đầm nén tĩnh là 28 kPa và
điều đó đã làm tăng đường kính cọc lên đến
20%, việc này cũng chứng tỏ đất xung quanh
cũng bị ép chặt một phần khi chế tạo bằng
phương pháp thay thế không đầm nén. Vai trò
của đường kính cọc gia cố cũng đồng thời được
sáng tỏ, đường kính cọc càng lớn, sự giảm độ
lún càng lớn và giá trị này đạt 13,6% ứng với
hệ số thay thế 3,6%.
TÀI LIỆU TH M KHẢO
1. Ambily A.P. and Gandhi S.R., «Behavior
of Stone Columns Based on Experimental
and FEM
Analysis », Journal of Geotechnical and
Geoenvironmental Engineering, 2007, pp.405-414.
2. Ammar A.M.S., Liu X., Lin H. et Ren
J., « Enlarged base stone columns to improve
soft clay soil», International Conference on
Transportation Engineering 2009 (ICTE 2009),
2009, pp.4240-4245.
3. Black J., Sivakumar V., Madhav M. R.,
and McCabe B., « An Improved Experimental
Test Set-up to Study the Performance of
Granular Columns », Geotechnical Testing
Journal, Vol. 29, N° 3, 2006, p.193-199.
4. Degoutte G., Royet P., Aide mémoire
de mécanique des sols, Réédition, Paris, 2005.
[5]. Dhouib A., Blondeau F.,
Colonnes Ballastées, Presses de l’École
National des Ponts et Chaussées, Paris, 2005.
[6]. Phan V.T.P., Renforcement des
sols compressibles par colonnes ballastées,
Thèse de doctorat, Université Européenne de
Bretagne - INSA de Rennes, 2010.
[7]. Rangeard D., Guillard R., Sadek
M., « Caractérisation mécanique d’une colonne
ballastée à partir d’essais pressiométrique »,
Proc. Int. Symp. 50 Years Pressuremeter 1,
2005, pp.637-644.
[8]. Sivakumar V., McKelvey D., Graham
J., and Hughes D., «Triaxial tests on model
sand columns in clay», Can. Geotech. J. 41,
2004, pp. 299-312.
[9]. Wehr J. (2004) Stone columns -
Single columns and group behaviour. Proc.
5th
Int. Conf. Ground Imp. Tech., 329-340.
Người phản biện: PGS.TS. ĐOÀN THẾ TƯỜNG
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 55
NÉN SƠ CẤP VÀ THỨ CẤP CỦA SÉT YẾU SÀI GÕN THEO MÔ HÌNH GIBSON-LO HAY TAYLOR-MERCHANT
TRẦN QU NG HỘ*, NGÔ QUỐC HUY VŨ**,
DƢƠNG TOÀN THỊNH**
Primary and secondary compression of Saigon soft clay according to
Gibson-Lo model or Taylor-Merchant’s theory.
Abstract: In many years, a major controversy has occurred among
reseachers about whether or not creep during primary consolidation
stage. In ten recent years, many empirical evidences from laboratory and
field support hypothesis A that creep occurs only after the end of primary
consolidation. The important point to emerge here is that a number of
theories of secondary consolidation are equivalent to Gibson and Lo’s
model which is in turn equivalent to Theory A by Taylor and Merchant.
Therefore this model is accepted as a good representation of the
secondary stage of the continuous process and applied to the soft soil in
Sai Gon to find model parameters as a guideline for practical design.
Key words: Creep, primary consolidation, secondary consolidation
1. GIỚI THIỆU *
Sau nhiều năm tranh luận về đường cong nén
lún ở cuối giai đoạn cố kết sơ cấp từ thí nghiệm
oedometer ở phòng thí nghiệm có đại diện được
cho ứng xử của đất ở ngoài công trường hay
không, đã dẫn đến việc đánh giá Lý thuyết A
hay B của Taylor và Merchant là hợp lý. Trong
những năm về sau, nhiều bằng chứng từ thí
nghiệm ở trong phòng và quan trắc ở hiện
trường đã ủng hộ lý thuyết A. Mô hình từ biến
của Gibson và Lo tương ứng với Lý thuyết A đã
được áp dụng để nghiên cứu những thông số
nén sơ cấp (cố kết) và thứ cấp (từ biến) của đất
yếu Sài Gòn.
2. THUYẾT T YLOR VÀ MERCH NT
Taylor và Merchant (1940) đã nhận thấy suốt
trong quá trình cố kết hệ số rỗng là một hàm số
theo ứng suất có hiệu ’v và thời gian t. Cho nên
* Trường Đại học Bách Khoa, Tp.Hồ Chí Minh
268 Lý Thường Kiệt, P.14, Quận 10, Tp.HCM
Email: [email protected] **
Công ty TNHH Địa K Thuật Portcoast
328 Ngu ễn Trọng Tu ển, P.12, Q.T n Bình, Tp. HCM
Email: [email protected]
tốc độ nén được mô tả theo tốc độ thay đổi hệ số
rỗng như sau:
vt
e
dt
de
dt
de v
tv
(1)
Trong đó tv )/e( là độ nén của khung kết
cấu hạt đất ở thời điểm t do độ gia tăng ứng suất
có hiệu; và v
)t/e( là độ nén lún của khung
kết cấu hạt đất theo thời gian t ở ứng suất có
hiệu bất kỳ. Như vậy tốc độ nén tổng cộng
(de/dt) gồm hai phần. Phần thứ nhất
dt/d.)t/e( vv là tốc độ nén do tốc độ gia
tăng ứng suất có hiệu dt/d v . Phần thứ hai
v)t/e( là tốc độ nén thay đổi theo thời gian t.
Tích phân phương trình (1) sẽ cho độ nén lún
tổng cộng theo thời gian t:
dtt
e
dt
dede
t
0
v
tv
t
0 v
(2)
Phương trình (2) có thể viết lại như sau:
t
t
t
0
v
tv
t
0 p v
p
v
dtt
edt
t
e
dt
dede (3)
So sánh phương trình (2) và (3) cho thấy khi
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 56
thời gian t vượt qua tp thì 0dt/d v . Nói một
cách khác tp là thời gian cố kết trong lúc ứng
suất có hiệu tăng dần, được gọi là thời gian cố
kết sơ cấp. Tổng độ nén trong thời gian cố kết
sơ cấp được gọi là độ nén sơ cấp. Thời gian tiếp
theo sau giai đoạn cố kết sơ cấp là giai đoạn nén
thứ cấp (hay từ biến). Tổng độ nén trong thời
gian nén thứ cấp được gọi là độ nén thứ cấp.
Tích phân thứ nhất ở vế phải của phương
trình (3) là độ nén sơ cấp; tích phân thứ hai ở vế
phải là độ nén thứ cấp. Phương trình (3) đã cho
thấy suốt trong quá trình cố kết sơ cấp cả hai đại
lượng tv )/e( và
v)t/e( đều góp phần vào
độ nén sơ cấp. Tích phân thứ hai ở vế phải của
phương trình (3) cho thấy nếu v
)t/e( không
tiến về zero thì độ nén thứ cấp sẽ kéo dài mãi
mãi. Tuy nhiên điều quan trọng là phải nhận
thấy rằng tv )/e( và
v)t/e( không phải là
những hằng số chỉ tiêu của đất. Đặc biệt là
tv )/e( và v
)t/e( không phải là hằng số
trong quá trình cố kết sơ cấp cũng như nén thứ
cấp; và giá trị của v
)t/e( trong quá trình cố
kết sơ cấp và nén thứ cấp không nhất thiết phải
bằng nhau.
3. GIẢ THUYẾT VÀ GIẢ THUYẾT B
Xây dựng lý thuyết và giải tích phân thứ nhất
ở vế phải của phương trình (3) được xem là
thuyết của Taylor và Merchant (1940), được gọi
là Lý thuyết A (Barden, 1966), tương phản với
lý thuyết cố kết thấm của Terzaghi với
tv )/e( là hằng số và v
)t/e( = 0. Sau đó
Taylor (1942) đề nghị một lý thuyết nữa liên
quan đến tích phân thứ hai của phương trình (3)
được gọi là Lý thuyết B.
Nhiều nhà nghiên cứu (Leonards, 1972,
1977; Ladd, Foot, Ishira, Schlosser & Poulos,
1977; Jamiolkowski, Ladd, Germaine &
Lancellotta,1985; Mesri & Choi, 1985a,b) dựa
trên Lý thuyết A cho rằng từ biến chỉ xảy ra sau
khi kết thúc cố kết sơ cấp. Giả thuyết này được
gọi là giả thuyết A. Tuy nhiên theo Mesri (2001)
Lý thuyết A không đòi hỏi một giả thuyết như
vậy về từ biến trong giai đoạn cố kết sơ cấp.
Một số nhà nghiên cứu khác (Bjerrum,1967;
Kabbaj, Tavenas & Leroueil, 1988) dựa trên Lý
thuyết B cho rằng từ biến xảy ra như một hiện
tượng độc lập suốt trong quá trình cố kết sơ cấp.
Giả thuyết này được gọi là giả thuyết B.
Các nhà nghiên cứu đều dẫn chứng những số
liệu thí nghiệm cũng như quan trắc để bảo vệ
quan điểm của mình. Tuy nhiên những dẫn
chứng kết quả từ thí nghiệm sau đây của Mesri
(2001) có nhiều cơ sở vững chắc để giả thuyết A
được ủng hộ.
1. Độ nén cố kết sơ cấp không phụ thuộc vào
thời gian cố kết sơ cấp. Nếu từ biến xảy ra đồng
thời theo giả thuyết B thì điều này không xảy ra.
2. Nếu quan hệ giữa hệ số rỗng e ở cuối giai
đoạn cố kết sơ cấp, EOPe (EOP: end of
primary) phụ thuộc vào thời gian cố kết sơ cấp
theo giả thuyết B thì áp lực tiền cố kết ’p ở
ngoài hiện trường (đường thấm dài) sẽ khác với
’p xác định ở phòng thí nghiệm (đường thấm
ngắn). Đặc biệt là giả thuyết B dự đoán áp lực
tiền cố kết ở hiện trường nhỏ hơn áp lực tiền cố
kết ở phòng thí nghiệm. Tuy nhiên sự quan trắc
áp lực nước lổ rỗng từ các công trình đắp trên
đất yếu đã cho thấy áp lực tiền cố kết ở ngoài
hiện trường và ở phòng thí nghiệm là giống
nhau. Điều này cho thấy độ nén cố kết sơ cấp
không phụ thuộc vào thời gian cố kết sơ cấp.
3. Sau nhiều thập kỷ tính toán và quan trắc
người ta có thể đi đến kết luận là độ lún cố kết
sơ cấp tính toán từ đường cong nén lún giữa
EOPe và ’v ở phòng thí nghiệm giống với kết
quả quan trắc ở hiện trường.
4. Dù có sự tham gia của thành phần
v)t/e( trong thời gian cố kết sơ cấp ở hiện
trường dài hơn ở phòng thí nghiệm cũng như giá
trị v
)t/e( ở công trường nhỏ hơn ở phòng thí
nghiệm thì EOPe ứng với ’v vẫn không phụ
thuộc vào thời gian cố kết sơ cấp.
Từ bốn dẫn chứng từ thí nghiệm và quan trắc
ở trên giả thuyết A được ủng hộ và trong thực
tiễn tính toán thiết kế thì EOPe ứng với ’v
được xem là không phụ thuộc vào thời gian cố
kết sơ cấp. Trong khi đó không có số liệu đáng
tin cậy nào từ phòng thí nghiệm cũng như quan
trắc để ủng hộ giả thuyết B (Mesri, 2001).
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 57
4. MÔ HÌNH CỦ GIBSON VÀ LO.
Mặc dù lý thuyết cuả Taylor và Merchant
(1940) không dùng thuật ngữ nào liên quan đến
mô hình từ biến nhưng nó hoàn toàn tương đương
với mô hình của Gibson và Lo trong Hình 1 như
đã được Christie (1964) chứng minh. Như vậy mô
hình của Gibson và Lo tương đương với Lý thuyết
A. Mô hình từ biến của Barden (1966) tương
đương với Lý thuyết B.
Hình 1 Các mô hình. a) Terzaghi
b) Gibson và Lo; c) Barden
Lý thuyết về cố kết và từ biến của Gibson và
Lo (1961) có thể xem là sự phát triển mở rộng
của lý thuyết cố kết thấm của Terzaghi. Tất cả
giả thiết theo lý thuyết của Terzaghi vẫn được
tuân thủ nhưng cố kết sơ cấp được mô hình
bằng một lò xo và lò xo này được nối tiếp với
một mô hình Kelvin. Mô hình Gibson và Lo
được đặc trưng bởi hai hằng số lò xo (nghịch
đảo của độ cứng lò xo) là a, b và một hằng số
của dashpot là (nghịch đảo của độ nhớt).
5. PHƢƠNG TRÌNH CỐ KẾT TỪ BIẾN
THEO GIBSON VÀ LO
Tổng biến dạng trong mô hình Gibson và
Lo bằng biến dạng 1= a’(t) trong phần tử a
cộng với biến dạng 2 trong mô hình Kelvin:
de)(, t
b
t
0
2 (4)
Tổng biến dạng :
de)(,
)t(,
at
b
t
0
(5)
Kết hợp với phương trình liên tục của dòng
thấm và biến đổi sẽ rút ra phương trình cố kết từ
biến sau đây:
de),z(,
b
,
t
,a
z
,k
t
0
tb
2
2
2
w
(6)
Điều kiện biên:
t0
0z,)t(q
hz,0z (7)
Phương trình (6) có thể giải bằng phương
pháp biến đổi Laplace.Tuy nhiên trong thực tế
tính toán thiết kế, người kỹ sư chỉ cần quan tâm
đến độ lún theo thời gian S(t) ở bề mặt của lớp
đất và áp lực lổ rỗng ở mọi độ sâu và ở bất kỳ
thời điểm t nào. Độ lún S có thể xác định được
bằng cách biến đổi và tích phân phương trình
(5). Trong trường hợp tải trọng đơn giản q(t) =
q0 là hằng số và thời gian t đủ lớn thì kết quả độ
lún S(t) như sau:
)]e1(ba[hq)t(St
bo
(8)
Khi t
hq)ba(S o (9)
6. XÁC ĐỊNH CÁC THÔNG SỐ CỦA
MÔ HÌNH
Theo lý thuyết cố kết và từ biến thì cần xác
định bốn thông số sau đây: hệ số thấm k; độ
nhớt cấu trúc của đất 1/; hằng số nén sơ cấp a;
hằng số nén thứ cấp b. Từ phương trình (8) các
hằng số a, b và có thể xác định như sau:
Viết lại phương trình (8) dưới dạng:
tbbe)ba(,
)t(
(10)
Kết hợp với phương trình (9) sẽ có được:
tbbe,
)t()(
(11)
Lấy logarit thập phân hai vế phương trình
trên:
tb
434,0blog,)t()(
log 1010
(12)
Vẽ biểu đồ log[()-(t)]/’ theo thời gian t
sẽ cho giá trị tung độ b và độ dốc /b (Hình 2).
Giá trị của a được xác định theo độ lún ổn định
ở phương trình (9) hoặc theo biểu thức
(c)
Đàn
hồi
tuyến
tính
eán
tính Đàn hồi
tuyến
tính
b
(a) (b)
Đàn
hồi
tuyến
tính
eán
tính Nhớt
tuyến
tính
Nhớt
không
tuyến
tính
tính
a
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 58
)e1(b,)t(
aat
ba
(13)
Hình 2. Xác định các hằng số của mô hình.
7. ĐỘ CỐ KẾT Us(t)
Để tiện lợi trong việc tính lún cần đưa ra ba
hệ số không thứ nguyên sau đây:
2G
2
h
tT;
b
hN;
a
b1M
(14)
M là hệ số nén đặc trưng cho độ lớn của độ
nén cố kết thứ cấp, N là hệ số ảnh hưởng đặc
trưng cho tốc độ cố kết thứ cấp và TG là nhân tố
thời gian sơ cấp hoàn toàn giống với nhân tố
thời gian cuả Terzaghi và = Cv=k/aw. Theo
lời giải của Gibson và Lo (1966) độ cố kết Us(t)
tính theo độ lún được xác định như sau:
12)
41
21
2
22
42
21
1
22
(2
1
2
81
)(
)(
mn
GTx
e
xx
x
M
n
GTx
e
xx
x
M
n
n
hoqba
tStsU
(15)
với
2
]22
162
)22
4[()22
4(
2
1 NnnMNnMN
x
x 16)
8. XÁC ĐỊNH HẰNG SỐ CỦ SÉT YẾU
SÔNG SÀI GÒN
Để xác định các hằng số a, b và của mô
hình cho sét yếu Sài Gòn ba mẫu đất yếu được
lấy ở các độ sâu 8m, 16m, 24m. Ba mẫu được
tiến hành thí nghiệm cố kết lần lượt ở các cấp
tải 25, 50, 100, 200, 400, 800, 1600 và 3200
kPa. Mỗi cấp tải kéo dài trong thời gian 7 ngày.
Số liệu đo được ghi tự động.
Biểu đồ log[()-(t)]/’ theo thời gian t của
ba mẫu được trình bày ở Hình 3a, b, c. Từ ba hình
này các hằng số a, b, 1/ và /b được xác định và
trình bày ở các Bảng 1, 2, 3 và các Hình 4, 5, 6.
Bảng 1. Bảng tính mẫu BH02-8m
Cấp áp lực a b 1/ /b MKpa
12.5 2.3716E-05 1.159E-05 4.405E+08 1.959E-04 1.488E+00
25 6.3479E-05 2.280E-05 2.524E+08 1.738E-04 1.359E+00
50 0.00010962 7.177E-05 7.081E+07 1.968E-04 1.655E+00
100 0.00018582 9.149E-05 5.398E+07 2.025E-04 1.492E+00
200 0.00040222 5.715E-03 2.699E+07 6.482E-06 1.521E+01
400 0.0001688 3.015E-03 5.398E+07 4.565E-06 1.886E+01
800 7.2464E-05 1.567E-03 1.469E+08 4.344E-06 2.262E+01
Bảng 2. Bảng tính mẫu BH02-16m
Cấp áp lực a b 1/ /b MKpa
25 2.105E-04 3.722E-05 9.800E+07 2.741E-04 1.177E+00
50 1.707E-04 1.224E-05 3.657E+08 2.233E-04 1.072E+00
100 2.258E-04 6.085E-05 3.378E+07 4.865E-04 1.270E+00
200 4.322E-04 1.681E-04 1.039E+07 5.729E-04 1.389E+00
400 2.229E-04 3.082E-05 9.624E+07 3.371E-04 1.138E+00
800 8.886E-05 6.110E-06 1.039E+07 3.420E-04 1.069E+00
1600 3.375E-05 5.189E-06 7.703E+08 2.502E-04 1.154E+00
Bảng 3. Bảng tính mẫu BH02-24m
Cấp áp lực a b 1/ /b MKpa
50 2.063E-04 1.175E-05 1.248E+08 6.816E-04 1.057E+00
100 1.498E-04 2.236E-05 8.930E+07 5.009E-04 1.149E+00
200 3.251E-04 1.319E-04 2.565E+07 2.956E-04 1.406E+00
400 2.485E-04 1.974E-05 9.060E+07 5.592E-04 1.079E+00
800 8.624E-05 1.304E-05 1.397E+08 5.489E-04 1.151E+00
1600 3.246E-05 1.070E-05 9.060E+07 7.046E-04 1.330E+00
3200 1.593E-05 1.690E-06 2.543E+09 2.328E-04 1.106E+00
Hình 3a đã cho thấy mẫu đất ở độ sâu 8m có
tính quá cố kết nặng OCR = 2,3 cho nên khi áp
lực nén vượt qua áp lực tiền cố kết đường cong
nén lún có độ dốc lớn như Hình 3d, dẫn đến có
sự khác biệt của các giá trị log[()-(t)]/’
giữa các cấp áp lực.
Trong hình 4 hằng số cố kết sơ cấp a tương
tự như hệ số nén thể tích mv cho nên sự thay đổi
a theo áp lực nén có dạng hình chuông và có giá
trị tương tự như hệ số nén thể tích mv trong thí
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 59
nghiệm cố kết. Hình 5 cho thấy sự thay đổi hằng
số nén thứ cấp b cũng có dạng hình chuông
nhưng các mẫu ở độ sâu 16m, 24m có giá trị
nhỏ hơn do thời gian trầm tích lâu hơn.
Hình 3a. Biểu đồ log[()-(t)]/’ theo thời
gian t mẫu BH02-8m
Hình 3b. Biểu đồ log[()-(t)]/’ theo thời
gian t mẫu BH02-16m
Hình 3c. Biểu đồ log[()-(t)]/’ theo thời
gian t mẫu BH02-24m
Hình3d. Đường cong nén lún của mẫu BH02-8m
Để xây dựng biểu đồ Us(t) theo t, thông số trung
bình M= 1,304 ứng với áp lực 100kPa từ ba mẫu
được chọn để tính. Từ công thức (9) cho thấy với
M = 1,304 thì độ nén lún thứ cấp (từ biến) bằng
30,4% so với độ lún cố kết sơ cấp. Hình 6 trình bày
sự thay đổi của Us(t) theo t ứng với M = 1,304 và
nhiều giá trị khác nhau của N. Kết quả cho thấy giá
trị của N ảnh hưởng đến sự thay đổi đường cong
quan hệ ở cuối giai đoạn cố kết. Từ những đường
cong này có thể dẫn đến hai nhận xét sau:
Khi M 1và N = 0, trong trường hợp này
hằng số phải bằng không, có nghĩa là độ nhớt
(1/) vô cùng lớn thì mô hình Kelvin đã cản trở
và kéo dài quá trình từ biến.
Khi M 1và N = , trong trường hợp này hằng
số = , có nghĩa là độ nhớt (1/) vô cùng nhỏ cho
mô hình Kelvin không làm chậm quá trình nén lún,
và độ nén thứ cấp được gộp chung vào độ nén lún sơ
cấp. Trường hợp này tương đương với mô hình của
Terzaghi với hằng số của lò xo là (a+b).
Hình 4. Hệ số cố kết sơ cấp a
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 60
Hình 5. Hệ số nén thứ cấp b
Hình 6. Độ cố kết Us(t) với N khác nhau
9. KẾT LUẬN
1. Theo mô hình Gibson-Lo đối với đất yếu
Sài gòn độ nén lún cố kết thứ cấp có tỉ lệ tương
đối lớn 30,4% so với độ nén lún cố kết sơ cấp.
2. Lớp đất ở dưới sâu do trầm tích lâu ngày
nên có hằng số cố kết thứ cấp nhỏ hơn lớp đất ở
phía trên.
3. Hệ số ảnh hưởng N đặc trưng cho tốc độ
nén thứ cấp, ảnh hưởng đáng kể đến hình dạng
đường cong quan hệ giữa Us(t) và thời gian ở
cuối giai đoạn cố kết.
4. Có thể sử dụng những thông số của sét
yếu theo mô hình từ biến của Gibson-Lo hay
Taylor-Merchant để dự báo độ lún cho các công
trình đắp dọc sông Sài Gòn.
TÀI LIỆU TH M KHẢO
1. Barden, L. (1965). Consolidation of clay
with non-linear viscosity. Geotechnique, vol.15,
No. 4, pp. 345-362.
2. Barden, L. (1968). Primary and secondary
consoliation of Clay and Peat. Geotechnique,
vol.18, pp. 1-14.
3. Gibson, L. E. and Lo, K. Y. (1961). A
theory of consolidation for soils exhibiting
secondary compression. Norwegian Geotech.
Inst. Pub. No.41, 16pp.
4. Ho, T. Q. (2011). Công Trình Trên Đất Yếu,
Tái bản lần ba, NXB Đại Học Quốc Gia Tp. HCM
5. Mesri, G. (2001). Primary Compression
and Secondary Compression. Geotechnical
Special Pubication No. 119, pp. 122-138.
6. Christie, I. F. (1964). A re-appraisal of
Merchant’s contribution to the theory of
consolidation. Geotechnique, vol.14, No. 4, pp.
309-320.
7. Kabbaj, M., Tavenas, F. & Leroueil, S.
(1988). In situ and laboratory stress-strain
relationships. Geotechnique, vol. 38, No. 1, pp.
83-100.
8. Ladd, C. C., Foott, R., Ishira, K.,
Schlosser, F. & Poulos, H. J. (1977) Stress-
deformation and strength characteristics. Proc.
9th
Int. Conf. Soil Mechan. Fdn Engrg , Tokyo,
pp. 421-491.
9. Taylor, D. W., và Merchant, W. (1940). A
Theory of clay consolidation accounting for
secondary compression. J. Maths. And Physics,
19 (3), 167-185.
10. Taylor, D. W.(1942). Research on
consolidation of clays. Publ. Serial 82, Dept. of
Civil and Sanitary Engrg, Mass. Inst. of Tech.
Người phản biện: TS. BÙI ĐỨC HẢI