TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ -...
Transcript of TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ -...
i
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
LÊ VĂN THU
NGHIÊN CỨU CHUỖI CUNG SẢN PHẨM
TÔM NUÔI Ở TỈNH QUẢNG NAM
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
HUẾ-NĂM 2015
ii
Công trình được hoàn thành tại:
Trường Đại học Kinh tế -Đại học Huế
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Mai Văn Xuân
PGS.TS. Trần Văn Hòa
Phản biện 1: ……………………………………..
Phản biện 2: ……………………………………..
Phản biện 3: ……………………………………..
Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Đại học
Huế tại:
Vào lúc: giờ ngày tháng năm 2015
Có thể tìm hiểu luận án tại:
Trung tâm học liệu – Đại học Huế
Thư viện Trường Đại học Kinh tế - Đại học Huế
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một trong những quốc gia xuất khẩu tôm hàng đầu của thế giới. Năm 2011
tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng tôm đạt 2,4 tỷ USD tăng 17,64% so với năm 2010, trong
đó tôm sú chiếm 59,7%, tôm thẻ chân trắng chiếm 29,3% trong tổng kim ngạch xuất khẩu tôm.
Sản phẩm tôm của Việt Nam đã có mặt trên 91 quốc gia và vùng lãnh thổ với ba thị trường lớn
nhất là Mỹ, Nhật Bản, EU chiếm hơn 65% tổng giá trị xuất khẩu tôm của Việt Nam.
Trong hơn hai thập kỷ qua, ngành nuôi tôm đã từng bước phát triển và đóng góp tỷ trọng
lớn trong tổng giá trị gia tăng của ngành thủy sản và trong GDP của nền kinh tế nước ta; nó là
một trong những ngành mà loại hình sản xuất chủ yếu là nông hộ, đang tồn tại và ngày càng
phát huy thế mạnh trong bối cảnh hội nhập, từng bước khai thác hiệu quả các lợi thế cạnh
tranh và khẳng định thế mạnh trên thị trường quốc tế.
Chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi là “con đường” mà sản phẩm tôm nuôi được tạo ra và đi qua
để đến người tiêu dùng cuối cùng. Chuỗi kết nối cung cầu trên thị trường là nơi chuyển tải
thông tin về nhu cầu của người tiêu dùng về sản phẩm tôm nuôi đến với người nuôi tôm.
Chuỗi có vai trò quan trọng đối với việc tổ chức và quản lý ngành hàng tôm nuôi trong môi
trường cạnh tranh hiện nay.
Trong những năm gần đây, tỉnh Quảng Nam đã thực hiện đa dạng hóa cây trồng, vật
nuôi trong sản xuất Nông - Lâm nghiệp - Thủy sản, từ đó đã làm cho đời sống kinh tế của
người dân khá hơn. Tuy nhiên, người nông dân nói chung, những hộ nuôi tôm nói riêng còn
gặp nhiều khó khăn trong nuôi trồng và tiêu thụ sản phẩm, thu nhập tuy cao nhưng chưa ổn
định, chịu sự tác động bởi dịch bệnh và những biến động bất lợi của thị trường các yếu tố
đầu vào và đầu ra sản phẩm tôm nuôi. Một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến quá
trình đó là do chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi hoạt động chưa hiệu quả, mối liên kết giữa các
tác nhân tham gia trong chuỗi, khả năng kiểm soát các vấn đề ô nhiễm môi trường, vệ sinh
an toàn thực phẩm trong từng mắt xích còn hạn chế; lợi ích giữa các tác nhân, nhất là người
nuôi tôm chưa được phân phối hợp lý.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài: “Nghiên cứu chuỗi cung sản
phẩm tôm nuôi ở tỉnh Quảng Nam” làm luận án tiến sĩ kinh tế.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát
2
Cung cấp luận cứ khoa học và đề xuất các giải pháp hoàn hiện chuỗi cung sản phẩm tôm
nuôi nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế và phát triển bền vững ngành hàng tôm nuôi trên địa bàn
tỉnh Quảng Nam.
2.2. Mục tiêu cụ thể
(1) Góp phần hệ thống hóa và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về chuỗi cung
sản phẩm tôm nuôi (CCSPTN);
(2) Phân tích, đánh giá thực trạng CCSPTN trên địa bàn tỉnh Quảng Nam;
(3) Đề xuất một số giải pháp chủ yếu hoàn thiện CCSPTN nhằm nâng cao hiệu quả
kinh tế, khả năng cạnh tranh và phát triển ngành hàng tôm nuôi bền vững trên địa bàn tỉnh
Quảng Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Là những vấn đề liên quan đến chuỗi cung/chuỗi giá trị sản phẩm tôm nuôi xét trong
mối quan hệ mật thiết với hiệu quả kinh tế và khả năng cạnh tranh của ngành hàng sản phẩm
tôm nuôi.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Về nội dung: Để đạt được những mục tiêu như đã đề ra, luận án tập trung nghiên
cứu CCSPTN ở tỉnh Quảng Nam, bao gồm phân tích cấu trúc, các tác nhân tham gia (mắt
xích), quá trình tạo giá trị, các dòng sản phẩm, thông tin, tài chính cùng các mối quan hệ
giữa các tác nhân trong chuỗi cung; các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình hoạt động chuỗi;
đi sâu phân tích các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến năng suất và hiệu quả kinh tế của các
hộ nuôi tôm - tác nhân trung tâm của chuỗi; đánh giá lợi thế và khả năng cạnh tranh của sản
phẩm tôm nuôi trong khuôn khổ kinh tế nguồn lực có hạn. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải
pháp chủ yếu để hoàn thiện CCSPTN nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, khả năng cạnh tranh
và phát triển bền vững ngành hàng tôm nuôi trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
+ Về không gian: Để có thể đánh giá sâu và đưa ra được những kết luận hợp lý, luận án
giới hạn phạm vi chính là ngành hàng tôm nuôi ở Quảng Nam, bao gồm các tác nhân trong
tỉnh tham gia hoạt động trong CCSPTN phục vụ cho nhu cầu của thị trường trong nước và
xuất khẩu. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng đề cập đến những tác nhân tham gia cung cấp các
yếu tố đầu vào chủ yếu và trực tiếp phục vụ nuôi tôm và các tác nhân tham gia thực hiện vai
trò tiêu thụ, chế biến và xuất khẩu sản phẩm tôm nuôi có nguồn gốc sản xuất ở Quảng Nam.
Việc mở rộng phạm vi nghiên cứu đến các tác nhân ngoài tỉnh này cho phép đảm bảo tính
3
tổng quát của chuỗi cung/chuỗi giá trị sản phẩm tôm nuôi.
+ Về thời gian: Các số liệu thứ cấp từ năm 2005 đến năm 2012; số liệu sơ cấp, tập
trung điều tra năm 2012; số liệu dự kiến đến năm 2020 về các vấn đề có liên quan.
4. Những đóng góp mới luận án
Những kết quả trong luận án góp phần hệ thống hóa và làm sáng tỏ những vấn đề về lý
luận và thực tiễn của chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi. Luận án nghiên cứu những vấn đề liên
quan đến chuỗi cung/chuỗi giá trị sản phẩm tôm nuôi trong mối quan hệ mật thiết với hiệu
quả kinh tế và khả năng cạnh tranh của sản phẩm tôm nuôi. Trước hết, thực trạng CCSPTN ở
tỉnh Quảng Nam được phân tích thông qua khung nghiên cứu với mô hình phân tích chuỗi
cung theo quan điểm tích hợp giữa phân tích chuỗi cung truyền thống với quan điểm giá trị
gia tăng của Micheal Porter trong khái niệm chuỗi giá trị. Mô hình này xác định các tác nhân
tham gia trong từng mắt xích thông qua quá trình vận động của dòng sản phẩm vật chất tạo
nên cấu trúc của CCSPTN, quá trình tạo giá trị, dòng tài chính, dòng thông tin và mối quan hệ
hợp tác giữa các tác nhân trong CCSPTN ở tỉnh Quảng Nam.
Trong đó, quá trình tạo giá trị là quá trình quan trọng nhất và cũng là mục tiêu chính của
quản lý chuỗi cung. Phân tích CCSPTN cũng bao gồm cả việc đánh giá các nhóm nhân tố tác
động đến quá trình hoạt động của chuỗi. Từ đó luận án xác định hệ thống chỉ tiêu đánh giá và
các phương pháp nghiên cứu CCSPTN ở tỉnh Quảng Nam. Với kết quả phân tích quá trình hoạt
động tạo giá trị, luận án đã đánh giá kết quả và hiệu quả kinh tế của từng tác nhân và toàn bộ
chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi này. Luận án chỉ ra những hạn chế và bất cập về dòng thông tin,
về quan hệ liên kết hợp tác, quá trình tạo giá trị và sự bất hợp lý trong quá trình phân phối giá trị
gia tăng giữa các tác nhân với nhau, làm sáng tỏ những nguyên nhân dẫn đến sự thua thiệt của hộ
nuôi tôm trong quá trình phân phối lợi ích đó. Phân tích các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến năng
suất, hiệu quả kinh tế đầu tư của hộ nuôi tôm - tác nhân trung tâm của chuỗi; đồng thời, xác định
lợi thế cạnh tranh của sản phẩm tôm nuôi, khẳng định khả năng tồn tại và phát triển của ngành
hàng này trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Luận án đã đi sâu đánh giá mức độ
tác động theo hướng tích cực lẫn tiêu cực của từng nhân tố đến quá trình hoạt động của
CCSPTN ở tỉnh Quảng Nam, đó là nhóm nhân tố: i) Điều kiện tự nhiên; ii) Thị trường; iii) Hộ
nuôi tôm; iv) Chính phủ và các cơ quan quản lý nhà nước ở tỉnh Quảng Nam; v) Quản lý
CCSPTN; vi) Cơ sở hạ tầng vùng nuôi tôm và dịch vụ hỗ trợ. Trên cơ sở phân tích thực trạng
CCSPTN ở Quảng Nam, luận án đề xuất một số giải pháp chủ yếu để hoàn thiện CCSPTN nhằm
nâng cao hiệu quả kinh tế, khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững ngành hàng tôm nuôi.
4
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Các công trình nghiên cứu chuỗi cung sản phẩm nông nghiệp, sản phẩm tôm nuôi
Trong thời gian gần đây, có rất nhiều công trình nghiên cứu về chuỗi cung sản phẩm
nông nghiệp, sản phẩm tôm nuôi. Các đề tài nghiên cứu đề cập đến nhiều khía cạnh khác
nhau của chuỗi cung sản phẩm nông nghiệp, trong đó phải kể đến:
Aramyan (2007) nghiên cứu về “Đo lường hiệu suất chuỗi cung trong lĩnh vực nông
nghiệp- thực phẩm”.
Normansyah Syahruddin (2012), Luận án tiến sĩ với đề tài “Quản lý chuỗi cung bền
vững, trường hợp nghiên cứu ngành hàng ca cao ở Inđônêsia ”.
Võ Thị Thanh Lộc (2006), Luận án tiến sĩ với đề tài: “Quản lý chất lượng chuỗi cung
thực phẩm hải sản: cải tiến chất lượng chuỗi cung tôm - triển vọng của các công ty thủy sản
ở đông bằng Sông Cửu Long, Viêt Nam”.
Trương Chí Hiếu (2012), Luận án tiến sĩ với đề tài: “Chuỗi cung tôm, quản lý tài sản
sở hữu chung và ô nhiễm môi trường tại phá Tam Giang Cầu Hai, Việt Nam”.
2. Đánh giá chung các công trình nghiên cứu về chuỗi cung sản phẩm nông nghiệp, sản
phẩm tôm nuôi
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về chuỗi cung sản phẩm nông nghiệp, sản phẩm tôm
nuôi, đề cập ở phần trên đã góp phần hệ thống hóa và làm sáng tỏ thêm về mặt lý luận của chuỗi
cung sản phẩm trong nông nghiệp. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên, chỉ nghiên cứu các
lĩnh vực quản lý của ngành nông nghiệp trong mối quan hệ với chuỗi cung. Vì vậy, hầu hết không
đi sâu phân tích mô hình chuỗi cung, mà chỉ xem chuỗi cung là một mô hình tổ chức kết nối hoạt
động giữa các tác nhân với nhau trong chuỗi ngành hàng của một sản phẩm cụ thể, hoặc đi sâu
nghiên cứu một mặt nào đó của chuỗi cung. Cho đến nay, chưa có một công trình nghiên cứu
CCSPTN nào có tính hệ thống, về khía cạnh lý luận đi sâu phân tích mô hình CCSPTN theo
quan điểm tích hợp giữa phân tích chuỗi cung truyền thống với quan điểm giá trị gia tăng của
Micheal Porter trong khái niệm chuỗi giá trị. Trên cơ sở đó, nghiên cứu chuỗi cung sản phẩm tôm
nuôi trong mối quan hệ mật thiết với hiệu quả kinh tế và khả năng cạnh tranh của ngành hàng tôm
nuôi với mục tiêu là đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi để nâng
cao hiệu quả kinh tế, khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững ngành hàng tôm nuôi trên địa
bàn tỉnh Quảng Nam.
5
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHUỖI CUNG
SẢN PHẨM TÔM NUÔI
1.1. Cơ sở lý luận về chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi
Trên cơ sở nghiên cứu khái niệm, cấu trúc và các tác nhân tham gia chuỗi cung, bản
chất kinh tế; các nhân tố ảnh hưởng đến chuỗi cung, phân biệt chuỗi cung và chuỗi giá trị,
tác giả đưa ra khái niệm về CCSPTN như sau: Hệ thống các tổ chức, con người, công nghệ,
hoạt động, thông tin và các nguồn lực liên quan trong việc đưa sản phẩm tôm nuôi từ chủ thể
nuôi tôm đến người tiêu dùng. Các hoạt động của chuỗi cung là quá trình tạo giá trị nhằm
chuyển nguồn tài nguyên nước, đất đai, con giống, thức ăn, TTYTS… và các sản phẩm qua xử
lý, chế biến hoàn chỉnh và tổ chức đưa sản phẩm đến người tiêu dùng cuối cùng. Mục tiêu của
quản lý chuỗi cung là tối đa hóa giá trị tạo ra cho toàn bộ chuỗi.
Tùy thuộc vào quan điểm tiếp cận khác nhau, các nhà khoa học kinh tế đã đưa ra rất nhiều
đặc điểm khác nhau về chuỗi cung, theo quan điểm quản lý chuỗi cung trong nông nghiệp,
CCSPTN phân thành hai nhóm đặc điểm sau: i) Nhóm đặc điểm của sản phẩm tôm nuôi khi tham
gia thị trường; ii) Tính khác biệt về sản phẩm tôm nuôi cũng như quá trình nuôi và tiêu thụ sản
phẩm tạo nên những đặc điểm riêng trong quá trình hình thành CCSPTN.
Từ bản chất của việc phân tích mô hình chuỗi cung, nội dung phân tích của mô hình
CCSPTN tập trung vào những vấn đề sau: Xác định các tác nhân tham gia CCSPTN, quá trình
chuyển hóa của dòng sản phẩm vật chất, quá trình tạo giá trị trong CCSPTN. Muốn đạt
được mục tiêu này mỗi khách hàng trung gian trong CCSPTN phải đáp ứng được nhu cầu
của khách hàng trên chúng. Đơn vị sản xuất kinh doanh đóng vai trò quan trọng trong việc
tạo giá trị cho chuỗi cung.
Dòng tài chính, dòng thông tin và các mối quan hệ trong CCSPTN. Theo các chuyên
gia Ngân hàng thế giơi (2008), chuỗi cung thực phẩm trong nông nghiệp là các mạng
lưới có ba dòng chảy cơ bản xuyên suốt chiều dài của chuỗi là dòng sản phẩm vật chất,
dòng thông tin và dòng tài chính. Vì vậy, CCSPTN cũng tồn tại ba dòng chảy trên.
Trên cơ sở lý luận chung về phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến chuỗi cung, sử dụng
phương pháp tổng hợp ý kiến chuyên gia, các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước
liên quan đến CCSPTN và nghiên cứu thực địa của tác giả. Xác định một số nhóm nhân tố
quyết định đến quá trình hoạt động của CCSPTN như nhóm nhân tố điều kiện tự nhiên,
6
nhóm nhân tố thuộc về chủ thể nuôi tôm, nhóm nhân tố về thị trường, chính phủ và các cơ
quan quản lý nhà nước, quản lý chuỗi cung và nhóm nhân tố về cơ sở hạ tầng.
Trong mô hình phân tích CCSPTN cho thấy phân tích quá trình hoạt động tạo giá trị của
chuỗi cung là nội dung cốt lõi. Để tối ưu hóa giá trị tạo ra, đòi hỏi các tác nhân phải cố gắng tối
thiểu hóa chi phí hoạt động tạo giá trị thông qua sự dẫn dắt của các dòng sản phẩm, thông tin và
tài chính. Điều này đồng nghĩa với việc nâng cao hiệu quả kinh tế của CCSPTN. Lợi thế cạnh
tranh cho biết xem sản phẩm của một quốc gia có thể cạnh tranh thành công hay không trên thị
trường thế giới. CCSPTN muốn tồn tại và phát triển, đòi hỏi sản phẩm tôm nuôi phải có khả năng
cạnh tranh. Trước hết là phải đảm bảo lợi thế cạnh tranh. Một khi ngành hàng tôm nuôi có lợi thế
cạnh tranh thì có điều kiện để thu hút các thành phần kinh tế xã hội tham gia đầu tư, khai thác các
nguồn lực tự nhiên một cách có hiệu quả. Như vậy, phân tích chuỗi cung, hiệu quả kinh tế và
khả năng cạnh tranh của sản phẩm tôm nuôi là ba nội dung cơ bản có mối quan hệ hữu cơ
với nhau trong nghiên cứu luận án nhằm đáp ứng mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
1.2. Kinh nghiệm về quản lý CCSPTN của các quốc gia trên thế giới và Việt Nam
Từ các kinh nghiệm tổ chức, quản lý CCSPTN của các quốc gia xuất khẩu tôm hàng đầu
thế giới và thực trạng chuỗi cung hay chuỗi giá trị sản phẩm tôm nuôi ở Việt Nam, có thể rút ra
các bài học kinh nghiệm cho quản lý CCSPTN ở Quảng Nam: Đổi mới công nghệ nuôi tôm,
người nuôi tôm Thái Lan luôn học hỏi và ứng dụng những công nghệ mới để hạn chế ô nhiễm
môi trường, dịch bệnh và nâng cao năng suất, hiệu quả nuôi tôm; thành lập tổ chức tiếp thị
nghề cá (Thái Lan) hay liên minh nuôi trồng thủy sản (Bangladesh) hay thành lập các HTX của
nông dân sản xuất quy mô nhỏ, tổ chức này tập trung tư vấn về khoa học công nghệ, làm dịch
vụ hỗ trợ cung ứng các dịch vụ đầu vào và đầu ra của sản phẩm cho hộ nuôi tôm. Điều này cho
phép họ trang trải chi phí đầu vào trong khi vẫn duy trì vị thế trong thương lượng, cho phép họ
tham gia vào mối quan hệ trực tiếp với các nhà xuất khẩu tôm; tăng cường truy xuất nguồn gốc
thực phẩm và giám sát VSATTP, thông qua hệ thống kiểm tra ở các địa phương, nhằm đáp ứng
yêu cầu của người tiêu dùng ở các thị trường EU, Nhật Bản và Hoa Kỳ; tăng cường các mối
liên kết dọc theo chuỗi, khuyến khích các nhà máy chế biến và xuất khẩu liên kết với các hộ
nuôi thông qua các hợp đồng ký kết. Xây dựng các công ty tích hợp theo chiều dọc, đầu tư nuôi
trồng, chế biến thức ăn và cung cấp giống, có như vậy mới quản lý tốt chất lượng sản phẩm và
thực hiện tốt việc truy xuất nguồn gốc sản phẩm; giải quyết tốt các lợi ích giữa các thành viên
tham gia trong CCSPTN, loại bỏ các trung gian không cần thiết nhằm tối thiểu hóa chi phí và
tối đa hóa lợi ích cho người tiêu dùng.
7
CHƯƠNG 2
ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội ảnh hưởng đến CCSPTN ở Quảng Nam
Tài nguyên đất mặt nước ở tỉnh Quảng Nam phù hợp cho NTTS, đặc biệt là nuôi tôm
nước lợ. Tổng diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh là 1.043.837 ha, chiếm 3,09% diện tích cả nước.
Trong đó có hai nhóm đất thích hợp cho nuôi tôm vùng ven sông và ven biển (đất phù sa, đất
cồn cát và đất cát ven biển). Khí hậu ở Quảng Nam rất đa dạng, chịu ảnh hưởng bởi gió mùa
đông bắc và gió tây nam, vì vậy để phát triển nuôi tôm đảm bảo năng suất, sản lượng và chất
lượng cần phải xây dựng lịch thời vụ chính xác để thả giống theo đúng các quy luật diễn biến
thời tiết Trong NTTS, giá trị sản xuất tôm nuôi chiếm tỷ trọng cao, năm 2012 chiếm tỷ trọng
60,46%, trong khi đó cá chiếm 17,05% và nuôi khác 22,49%. Chính vì vậy, con tôm được coi
là con nuôi chủ lực của NTTS ở tỉnh Quảng Nam. Qua số liệu thống kê cho thấy thời kỳ
2005-2012 tốc độ tăng bình quân hằng năm của giá trị sản xuất tôm nuôi là 33,36%, đây là
mức tăng thấp hơn cá và các loại nuôi khác, ảnh hưởng đến tốc độ tăng bình quân giá trị sản
xuất của ngành NTTS. Vì vậy, trong thời gian đến địa phương cần có những giải pháp cụ thể
để phát triển ngành hàng tôm nuôi một cách bền vững là vấn đề hết sức cần thiết.
2.2. Thực trạng ngành hàng tôm nuôi ở Quảng Nam thời kỳ 2007- 2012
Các tổ chức kinh tế chính trong ngành hàng tôm nuôi của tỉnh Quảng Nam bao gồm hộ
nuôi tôm, các tác nhân cung cấp các yếu tố đầu vào như cơ sở sản xuất tôm giống, trại lưu
giữ tôm giống, các cơ sở chế biến TACN cho tôm, cơ sở sản xuất TTYTS và các tác nhân
phân phối sản phẩm tôm nuôi bao gồm: tác nhân thu gom, chế biến và xuất khẩu thủy sản,
bán buôn, bán lẻ. Mỗi tác nhân trong ngành hàng tôm nuôi của tỉnh có những đặc điểm khác
nhau. Hộ nuôi tôm là chủ thể nuôi tôm chủ yếu, có đặc điểm quy mô sản xuất nhỏ lẻ, manh
mún, thiếu phương tiện sản xuất, chế biến và thiếu thông tin, đặc biệt là thông tin thị trường
và tiến bộ kỹ thuật. Nguồn cung tôm giống là do các cơ sở sản xuất tôm giống ngoài tỉnh
cung cấp theo hai hình thức trực tiếp đến hộ nuôi hoặc gián tiếp qua các trại lưu giữ tôm
giống ở địa phương. Nguồn cung thức ăn công nghiệp cho tôm bao gồm các cơ sở sản xuất
trong tỉnh và ngoài tỉnh. Tôm được tiêu thụ ở trong nước và xuất khẩu. Các cơ sở sản xuất
và chế biến tôm có quy mô nhỏ, vốn đầu tư thấp, việc chế biến tôm không ổn định. Vì vậy,
tôm nuôi ở Quảng Nam chủ yếu cung cấp nguyên liệu chế biến và xuất khẩu cho các cơ sở
chế biến và xuất khẩu ở thành phố Đà Nẵng và các tỉnh lân cận (87,4%).
8
2.3. Phương pháp tiếp cận nghiên cứu và khung nghiên cứu CCSPTN
Các dịch
vụ hỗ trợ
Thu gom- Hậu cần
- Tài chính
- Kỹ thuật
Cung cấp
đầu vào
Hộ nuôi
tôm
Cơ sở chế
biến và
xuất khẩu
Bán
buôn
Bán lẻ
Người
TDTN
MÔ HÌNH CHUỖI CUNG SẢN PHẨM TÔM NUÔI
Dò
ng
sản
phẩ
mvậ
tchấ
t
Dò
ng
tài
ch
ính
Dò
ng
thô
ng
tin
Qu
átr
ình
tạo
giá
trị
CÁC NHÓM NHÂN
TỐ ẢNH HƯỞNG
Nhóm nhân tố điều
kiện tự nhiên
Nhóm nhân tố về hộ
nuôi tôm
Nhóm nhân tố
thị trường
Chính phủ
Cơ sở hạ tầng vùng nuôi
và dịch vụ hỗ trợ
Quản lý CCSPTN
NỘI DUNG PHÂN TÍCH CHUỖI CUNG SẢN PHẨM TÔM NUÔI
Hệ thống giải pháp để hoàn thiện CCSPTN nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế,
khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững ngành hàng tôm nuôi ở Quảng Nam
CÁC PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
Thống kê kinh tế
Phân tích chuỗi cung
Hàm sản xuất
Xác định lợi thế
cạnh tranh
Chuyên gia
SWOT
Hạch toán tài chính Các dịch
vụ hỗ trợ
Thu gom- Hậu cần
- Tài chính
- Kỹ thuật
Cung cấp
đầu vào
Hộ nuôi
tôm
Cơ sở chế
biến và
xuất khẩu
Bán
buôn
Bán lẻ
Người
TDTN
MÔ HÌNH CHUỖI CUNG SẢN PHẨM TÔM NUÔI
Dò
ng
sản
phẩ
mvậ
tchấ
t
Dò
ng
tài
ch
ính
Dò
ng
thô
ng
tin
Qu
átr
ình
tạo
giá
trị
Thu gom- Hậu cần
- Tài chính
- Kỹ thuật
Cung cấp
đầu vào
Hộ nuôi
tôm
Cơ sở chế
biến và
xuất khẩu
Bán
buôn
Bán lẻ
Người
TDTN
MÔ HÌNH CHUỖI CUNG SẢN PHẨM TÔM NUÔI
Dò
ng
sản
phẩ
mvậ
tchấ
t
Dò
ng
tài
ch
ính
Dò
ng
thô
ng
tin
Qu
átr
ình
tạo
giá
trị
CÁC NHÓM NHÂN
TỐ ẢNH HƯỞNG
Nhóm nhân tố điều
kiện tự nhiên
Nhóm nhân tố về hộ
nuôi tôm
Nhóm nhân tố
thị trường
Chính phủ
Cơ sở hạ tầng vùng nuôi
và dịch vụ hỗ trợ
Quản lý CCSPTN
CÁC NHÓM NHÂN
TỐ ẢNH HƯỞNG
Nhóm nhân tố điều
kiện tự nhiên
Nhóm nhân tố về hộ
nuôi tôm
Nhóm nhân tố
thị trường
Chính phủ
Cơ sở hạ tầng vùng nuôi
và dịch vụ hỗ trợ
Quản lý CCSPTN
NỘI DUNG PHÂN TÍCH CHUỖI CUNG SẢN PHẨM TÔM NUÔI
Hệ thống giải pháp để hoàn thiện CCSPTN nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế,
khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững ngành hàng tôm nuôi ở Quảng Nam
CÁC PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
Thống kê kinh tế
Phân tích chuỗi cung
Hàm sản xuất
Xác định lợi thế
cạnh tranh
Chuyên gia
SWOT
Hạch toán tài chính
CÁC PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
Thống kê kinh tế
Phân tích chuỗi cung
Hàm sản xuất
Xác định lợi thế
cạnh tranh
Chuyên gia
SWOT
Hạch toán tài chính
Sơ đồ 2.1. Khung nghiên cứu chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi ở tỉnh Quảng Nam
Nguồn: Tác giả
Quá trình nghiên cứu CCSPTN được tiếp cận theo quan điểm hệ thống. Khung nghiên
cứu CCSPTN ở tỉnh Quảng Nam là sự tích hợp giữa chuỗi cung truyền thống với quan điểm
giá trị gia tăng của Micheal Porter trong khái niệm chuỗi giá trị. Nó đã phản ánh được mối
quan hệ mật thiết giữa phân tích chuỗi cung/ chuỗi giá trị sản phẩm tôm nuôi với hiệu quả
kinh tế và khả năng cạnh tranh của ngành hàng tôm nuôi với mục đích qua đó đề xuất những
giải pháp để hoàn thiện chuỗi cung, nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, khả năng cạnh tranh và
phát triển bền vững ngành hàng tôm nuôi ở tỉnh Quảng Nam.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu tác nhân nuôi tôm, chúng tôi điều tra chọn mẫu 270 hộ ở 9 xã đại diện 3
địa phương: huyện Núi Thành, Thăng Bình và thành phố Hội An. Mỗi địa phương chọn 3 xã
đại diện, mỗi xã 30 hộ chiếm từ 25% đến 30% số hộ nuôi ở mỗi xã…
Đối với các tác nhân cung cấp các yếu tố đầu vào và tiêu thụ sản phẩm tôm nuôi được chọn
9
mẫu ngẫu nhiên: 10 cơ sở SXTG, 5 cơ sở chế biến TACN trong tỉnh, 5 cơ sở chế biến thức ăn
ngoài tỉnh, 10 trại lưu giữ tôm giống trong, 10 đại lý TACN và TTYTS cấp 1, 10 đại lý TACN và
TTYTS cấp 2, 10 thu gom lớn, 10 thu gom nhỏ, 10 hộ bán buôn ngoài tỉnh, 6 bán buôn trong
tỉnh, 10 hộ bán lẻ ngoài tỉnh, 10 bán lẻ trong tỉnh, 10 cơ sở chế biến và xuất khẩu thủy sản ngoài
tỉnh, 10 cơ sở chế biến và xuất khẩu thủy sản trong tỉnh.
Nguồn thông tin và số liệu thứ cấp được thu thập từ Chi cục Nuôi trồng thủy sản
Quảng Nam, Sở Nông nghiệp và PTNT Quảng Nam, Sở Công Thương Quảng Nam, Phòng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn của các huyện, thành phố trong tỉnh, Trung tâm
khuyến ngư, Niên giam thống kê tỉnh Quảng Nam. Thu thập các báo cáo khoa học có liên
quan đến hoạt động nuôi tôm.
Số liệu sơ cấp được thu thập từ các mẫu điều tra của các cơ sở sản xuất tôm giống, cơ sở
sản xuất thức ăn, thuốc phòng và điều trị dịch bệnh cho tôm, các đại lý, hộ nuôi tôm, hộ thu
gom, các công ty chế biến và xuất khẩu thủy sản, hộ bán buôn và hộ bán lẻ.
Phân tích thông tin, số liệu bằng các phương pháp chủ yếu, đó là phương pháp thống
kê kinh tế; phương pháp hạch toán tài chính; phương pháp phân tích chuỗi cung; phương
pháp xác định lợi thế cạnh tranh; phương pháp hàm sản xuất; phương pháp chuyên gia;
phân tích ma trận SWOT.
10
CHƯƠNG 3
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CHUỖI CUNG SẢN PHẨM
TÔM NUÔI Ở TỈNH QUẢNG NAM
3.1. Phân tích chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi ở tỉnh Quảng Nam
3.1.1. Cấu trúc về CCSPTN ở tỉnh Quảng Nam
Sơ đồ 3.1. Sơ đồ tổng quát CCSPTN ở tỉnh Quảng Nam
Nguồn: Tổng hợp kết quả điều tra năm 2012
Trong CCSPTN ở tỉnh Quảng Nam, hộ nuôi là tác nhân trung tâm, sản xuất ra sản
phẩm tôm nuôi cung cấp cho thị trường xuất khẩu, thị trường tiêu dùng trong và ngoài tỉnh.
Căn cứ vào dòng sản phẩm vật chất đi qua hộ nuôi tôm, CCSPTN ở tỉnh Quảng Nam được
phân thành: dòng về phía thượng nguồn và dòng về phía hạ nguồn của CCSPTN.
Sơ đồ 3.2. Dòng thượng nguồn của CCSPTN ở tỉnh Quảng Nam
Dòng về phía thượng nguồn CCSPTN phản ánh các mối quan hệ giữa các tác nhân
Thu gom lớn
trong tỉnh Bán buôn trong tỉnh
Hộ nuôi tôm
CSSX tôm giống ngoài tỉnh
bán trực tiếp cho hộ CSSX tôm giống ngoài tỉnh
bán gián tiếp
Trại lưu giữ tôm giống
trong tỉnh
Cơ sở chế biến
TACN cho tôm
trong tỉnh
CSSX thuốc
thú y thủy sản
ngoài tỉnh
Đại lý cấp 1
Đại lý cấp 2
Cơ sở CBXK
thủy sản
Nhà nhập khẩu
nước ngoài
Người tiêu dùng
nước ngoài
Bán buôn
ngoài tỉnh
Bán lẻ
ngoài tỉnh
Người tiêu dùng
ngoài tỉnh
Bán lẻ trong tỉnh
Người tiêu dùng
trong tỉnh
Thu gom nhỏ
87,3% 12,7%
95,6%
4,4% 66,7%
33,3%
87,4% 8,5% 4,1%
65,8%
34,2%
Cơ sở chế biến
TACN cho tôm
ngoài tỉnh
100%
6 5,5% 34,5%
Cơ sở sản xuất
TTYTS ngoài tỉnh
Cơ sở chế biến TACN cho
tôm ngoài tỉnh
CSSX tôm giống
ngoài tỉnh bán gián tiếp
Hộ nuôi
tôm
Đại lý cấp 2
Trại lưu giữ tôm
giống trong tỉnh
CSSX tôm giống ngoài
tỉnh bán trực tiếp 63,8%
36,2%
66,7%
33,3%
Cơ sở chế biến TACN
cho tôm trong tỉnh
Đại lý cấp 1
11
cung cấp các yếu tố đầu vào chủ yếu cho hộ nuôi tôm bao gồm: tôm giống, thức ăn công
nghiệp và thuốc thú y thủy sản. Qua kết quả điều tra cho thấy, nguồn cung tôm giống cho
các hộ nuôi tôm ở tỉnh Quảng Nam đều được cung cấp trực tiếp hay gián tiếp từ các cơ sở
SXTG ngoài tỉnh. Đối với các cơ sở SXTG có thương hiệu như: Công ty TNHH đầu tư thủy
sản Nam miền Trung, Công ty TNHH Việt - Úc.., đều bán trực tiếp cho các hộ nuôi, chiếm
63,8% số lượng tôm giống cung cấp cho toàn tỉnh. Số lượng tôm giống còn lại chiếm 36,2%
được cung cấp bởi các cơ sở SXTG ngoài tỉnh thông qua các trại lưu trữ giống trên địa bàn
tỉnh Quảng Nam. Đối với thức ăn công nghiệp và thuốc thú y thủy sản cho tôm không được
cung cấp trực tiếp từ cơ sở chế biến TACN hay cơ sở sản xuất TTYTS cho hộ nuôi, mà
thông qua hệ thống đại lý của nó.
Sơ đồ 3.3. Luồng sản phẩm tôm nuôi xuất khẩu
Căn cứ vào tỷ lệ sản lượng tôm nuôi tiêu thụ ở các loại thị trường, cho thấy dòng về
phía hạ nguồn CCSPTN ở tỉnh Quảng Nam có hai luồng phân phối chính: luồng sản phẩm
xuất khẩu chiếm 87,4% và luồng sản phẩm tiêu thụ ngoài tỉnh chiếm 8,5% so với tổng khối
lượng sản phẩm tôm nuôi do người thu gom lớn cung cấp. Luồng sản phẩm tôm nuôi tiêu
thụ trong tỉnh chiếm tỷ lệ sản phẩm tiêu thụ thấp (4,1%). Vì vậy, luồng này không đại diện
cho thị trường mục tiêu của hộ nuôi tôm. Trong luận án này chỉ tập trung vào hai luồng sản
phẩm tiêu thụ chính: luồng sản phẩm tôm nuôi xuất khẩu và luồng sản phẩm tôm nuôi tiêu
thụ ngoài tỉnh.
Sơ đồ 3.4. Luồng sản phẩm tôm nuôi tiêu thụ ngoài tỉnh
Luồng sản phẩm tôm nuôi tiêu thụ ngoài tỉnh phản ánh sản phẩm tôm nuôi tiêu thụ ở
thành phố Đà Nẵng, Huế, Quy Nhơn, Quảng Ngãi. Người thu gom lớn bán tôm cho người
bán buôn tại các chợ đầu mối ngoài tỉnh với tỷ lệ sản lượng chiếm 8,5% sản lượng mua của
hộ nuôi. Tại chợ đầu mối người bán buôn bán tôm cho người bán lẻ tại các chợ địa phương.
Đối với thu gom nhỏ, họ là người của địa phương, thu mua tôm với số lượng dưới 1 tấn và
cung cấp cho người bán lẻ ở ngoài tỉnh, thường là những người quen biết tỷ lệ sản lượng
BB ngoài tỉnh Hộ nuôi tôm Thu gom lớn
NTD
ngoài tỉnh
Thu gom nhỏ 4,4%
34,2%
8,5% 95,6%
BL ngoài tỉnh
2.2
2.1
NTD nước
ngoài Cơ sở CBXK
Hộ nuôi tôm Thu gom lớn
Nhà nhập khẩu
nước ngoài
87,4% 100% 100% 95,6%
1.1
12
tiêu thụ chiếm 4,4% sản lượng tôm nuôi của hộ nuôi cung cấp. Họ vận chuyển bằng xe máy,
sản phẩm có thể là tôm ướp đá, tôm tươi sống. Do tỷ lệ sản lượng tiêu thụ ít, nên luận án chỉ
tập trung phân tích luồng sản phẩm (2.1), vì đây là luồng tiêu thụ chính, đại diện cho thị
trường tiêu thụ ngoài tỉnh.
3.1.2. Quá trình tạo giá trị trong CCSPTN ở Quảng Nam
3.1.2.1. Hộ nuôi tôm
Để sản xuất ra 1 tấn tôm, hộ nuôi tôm ở huyện Thăng Bình đầu tư chi phí 76,88 triệu
đồng, huyện Núi Thành 71,15 triệu đồng, ở Hội An mức đầu tư cao nhất 80,84 triệu
đồng/tấn. Xét về mức đầu tư trên 1ha nuôi tôm, huyện Núi Thành đầu tư cao nhất (454,25
triệu đồng/ha), Hội An có mức đầu tư thấp nhất (197,01 triệu đồng/ha). Do năng suất tôm
nuôi ở Hội An thấp nên chi phí bình quân trên tấn tôm thu hoạch là cao nhất. Tỷ suất lợi
nhuận trên chi phí sản xuất/tấn huyện Núi Thành cao nhất (0,37lần) cao hơn mức trung bình
chung là 0,05 lần. Điều này, cho thấy nuôi tôm ở huyện Núi Thành đạt hiệu quả kinh tế cao
hơn hai địa phướng kia.
Tổng chi phí HĐTGT của hộ tính trên 1tấn tôm nuôi là bằng tổng chi phí sản xuất của
hộ trừ đi giá vốn con giống và thức ăn công nghiệp do tác nhân cơ sở sản xuất tôm giống và
cơ sở chế biến TACN là 24,6 triệu đồng (trong đó chi phí hoạt động nuôi tôm là là 24,48
triệu đồng, chi phí marketing là 0,12 triệu động), tạo ra giá trị lợi nhuận 24,16 triệu
đồng/tấn. Nhờ liên kết với các tác nhân cung cấp đầu vào và đầu ra nên hộ giảm được chi
phí vận chuyên hàng hóa sản phẩm, giảm chi phí marketing, tăng thêm lợi nhuận.
3.1.2.2. Quá trình tạo giá trị của tác nhân về phía dòng thượng nguồn CCSPTN
(1) Cơ sở sản xuất tôm giống ngoài tỉnh
Quá trình tạo giá trị của cơ sở sản xuất tôm giống ngoài tỉnh bao gồm: (i) Hoạt động tạo
giống; (ii) Hoạt động marketing. Kết quả tính toán số liệu điều tra cho thấy cứ 1 tấn tôm
nuôi thì cơ sở SXTG bán được bình quân là 12,54 triệu đồng tôm giống, với chi phí sản xuất
kinh doanh bình quân là 9,58 triệu đồng và lợi nhuận thu được 23,6 triệu đồng. Trong đó, kết
quả và hiệu quả kinh tế tính trên 1 tấn tôm nuôi của cơ sở SXTG ngoài tính bán trực tiếp cho
hộ cao hơn kết quả và hiệu quả kinh tế của trại lưu giữ tôm giống. Nguyên nhân là giá bán
bình quân 1 vạn con tôm giống của các cơ sở sản xuất giống bán trực tiếp cho hộ nuôi tôm là
529,34 ngàn đồng, tổng chi phí 401,46 ngàn đồng tính trên 1 vạn con tôm giống PL12, chiếm
75,84% giá bán, trong đó chi phí mua tôm bố mẹ sinh sản 168,28 ngàn đồng, chiếm 33,1%
giá bán. Trong khi đó giá bán bình quân của trại lưu giữ giống là 310 ngàn đồng trên 1 vạn
13
con giống (thấp hơn 0,6 lần so với cơ sở SXTG bán trực tiếp), tổng chi phí là 257,74 ngàn
đồng, chiếm 83,13% giá bán
(2) Cơ sở chế biến thức ăn công nghiệp cho tôm
Kết quả điều tra cho thấy, cứ 1 tấn tôm nuôi, cơ sở chế biến TACN nuôi tôm bình
quân bán được doanh thu 34,9 triệu đồng, tổng chi phí chế biến 21,98 triệu đồng chiếm
62,98%, lợi nhuận bình quân là 12,92 triệu đồng chiếm 37% so với doanh thu, tỷ suất lợi
nhân trên chi phí 0,59 lần, chi phí nguyên vật liệu chiếm tỷ trọng lớn 23,65% so với giá trị
doanh thu. Tổng chi phí HĐTGT là 13,73 triệu đồng, bao gồm chi phí hoạt động chế biến,
chi phí vận chuyển, quảng cáo, tiếp thị. Các cơ sở chế biến TACN trong tỉnh đạt được lợi
nhuận cũng như hiệu quả kinh tế trên 1 đồng chi phí cao hơn các cơ sở chế biến TACN nuôi
tôm ngoài tỉnh. Nguyên nhân, do lợi thế về khoảng cách tiêu thụ, nên chi phí vận chuyển
thấp, cho dù giá bán thấp hơn nhưng lợi nhuận vẫn cao hơn. Tuy nhiên, trong điều kiện cạnh
tranh cần phải nâng cao chất lượng sản phẩm hơn nữa mới đảm bảo đạt được kết quả và
hiệu quả cao bền vững.
(4) Hệ thống đại lý cung cấp thức ăn công nghiệp cho tôm
Qua kết quả số liệu điều tra cho thấy doanh thu bình quân của một đại lý trên 1 tấn tôm
nuôi là 2,91 triệu đồng, chi phí HĐTGT chúng chính là chi phí kinh doanh của đại lý, bình
quân 2,45 triệu đồng. Lợi nhuận bình quân của đại lý là 0,45 triệu đồng. Mức lợi nhuận trên 1
tấn tôm nuôi của đại lý cấp 1 cao hơn đại lý cấp 2, trên thực tế mức chiết khấu thu nhập của
đại lý cấp 2 là 7% thấp hơn đại lý cấp 1; đồng thời khối lượng tiêu thụ cũng ít hơn nên các
khoản chi phí phân bổ nhiều hơn trên 1 tấn thức ăn. Tỷ suất lợi nhuận trên chi phí bình quân
của đại lý là 0,18 lần. Đây chính là phần thưởng của các cơ sở chế biến dành cho các đại lý để
thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, giảm lượng sản phẩm tồn kho.
3.1.2.3. Quá trình tạo giá trị của các tác nhân dòng về phía hạ nguồn CCSPTN
(1) Tác nhân thu gom lớn
Quá trình tạo giá trị của thu gom lớn thông qua hoạt động mua thu gom và bán tôm cho các
cơ sở chế biến và xuất khẩu thủy sản hay cho người bán buôn. 1 tấn tôm nguyên liệu cung cấp
cho cơ sở chế biến và xuất khẩu thủy sản có giá bán bình quân 116,34 triệu đồng/tấn, tổng chí phí
đầu tư 103,69 triệu đồng/tấn, lợi nhuận bình quân 12,65 triệu đồng/tấn; tôm cung cấp cho thị
trường ngoài tỉnh có giá bán bình quân là 117,41 triệu đồng/tấn, tổng chi phí đầu tư bình quân
103,19 triệu đồng/tấn. Sở dĩ có sự khác biệt về giá bán tôm và chi phí thu gom giữa các khách
hàng là do yêu cầu về chất lượng tôm, sản phẩm tôm (tôm ướp đá hay tươi sống), kích cỡ, địa
14
điểm, thời gian bán từ đó chi phí thu gom đầu tư, giá bán khác nhau, tuy nhiên trên thực tế sự
khác biệt này là không lớn giữa các luồng sản phẩm tiêu thụ ở các thị trường.
(2) Cơ sở chế biến xuất khẩu thủy sản
Để chế biến 1tấn tôm thành phẩm cần 1,5tấn tôm nguyên liệu. Chi phí đầu tư chế biến tôm
120,01 triệu đồng/tấn tôm, giá bán bình quân 197.87 triệu đồng/tấn thành phẩm, quy ra tôm
nguyên liệu 132,57triệu đồng/tấn tôm nguyên liệu, lợi nhuận bình quân 12,5 triệu đồng/tấn tôm
nguyên liệu. Trong các khoản mục chi phí, chi phí mua tôm nguyên liệu là 116,34 ngàn đồng/tấn
tôm, chiếm 87,76% so với giá bán, chi phí chế biến 3,67 triệu đồng/tấn tôm chiếm 2,8% so với
giá bán. Tỷ suất lợi nhuận trên 1 đồng chi phí đầu tư là 0,1 lần, so với các tác nhân trong chuỗi thì
hiệu quả thấp hơn, tác nhân thu gom, người nuôi tôm. Chi phí HĐTGT của cơ sở chế biến và xuất
khẩu là 3,73 triệu đồng trên 1 tấn tôm nguyên liệu. Nó bao gồm tất cả các hoạt động tạo giá trị
như đã trình bày. Giá vốn tôm nguyên liệu là phần giá trị được tạo ra do các tác nhân ở phía trước
CCSPTN đối với cơ sở chế biến và xuất khẩu..
(3) Người bán buôn ngoài tỉnh
Thông qua các hoạt động mua và hoạt động bán tác nhân bán buôn đã gia tăng chi phí
bảo quản và vận chuyển đến người bán lẻ. Tổng chi phí bán buôn ngoài tỉnh là 122,88 triệu
đồng/tấn. Trong đó, giá vốn mua tôm là 117,41 triệu đồng/tấn, chiếm 84,55% doanh thu, chi
phí hoạt động bán buôn là 5,47 triệu đồng/tấn, bao gồm chi phí tiền điện chạy kho đông
lạnh, nước đá bổ sung, chi phí vận chuyển đến các chợ địa phương giao hàng cho người bán
lẻ. Trong khoản mục chi phí HĐTGT cho thấy, chi phí vận chuyển bình quân trên 1 tấn tôm
của bán buôn lớn hơn thu gom lớn 60 nghìn đồng/tấn. Đặc biệt, là do thời gian lưu trữ và
bảo quản lâu ngày nên cao hơn thu gom lớn 740 nghìn đồng/tấn. Nguyên nhân là do phụ
thuộc vào tình hình tiêu thụ tôm hàng ngày của người bán lẻ, bán nhanh thì nhập nhanh, bán
chậm thì nhập chậm. Do vậy, hiệu quả kinh tế của bán buôn thấp hơn thu gom lớn. Đây là
hạn chế cần phải có giải pháp để khắc phục nhằm nâng cao giá trị gia tăng cho bán buôn.
(4) Người bán lẻ ngoài tỉnh
Doanh thu bình quân là 155,65 triệu đồng/tấn, tổng chi phí đầu tư bán lẻ bình quân
143,75 triệu đồng/tấn tôm chiếm 92,35% và lợi nhuận bình quân 11,9 triệu đồng/tấn tôm,
chiếm 7,65% so với doanh thu; giá vốn mua tôm bình quân 138,87 triệu đồng/tấn, chiếm
89,22% so với doanh thu. Tổng chi phí hoạt động của bán lẻ bình quân là 4,88 triệu
đồng/tấn chiếm 3,14% doanh thu. Tỷ suất lợi nhuận trên chi phí là 0,08 lần thấp hơn tác
nhân bán buôn trong cùng luồng sản phẩm tôm nuôi tiêu thụ ngoài tỉnh. Chi phí HĐTGT
của người bán lẻ bằng chi phí hoạt động bán lẻ là 4,88 triệu đồng/tấn.
15
Qua phân tích chuỗi hoạt động của quá trình tạo giá trị gia tăng trong từng tác nhân
trong CCSPTN ở tỉnh Quảng Nam cho thấy: Mỗi tác nhân đảm nhận một số hoạt động tạo
giá trị khi sản phẩm vật chất đi qua nó, biến nguồn nguyên vật liệu thô, các nguồn lực tự
nhiên thành sản phẩm tôm nuôi, sản phẩm chế biến từ tôm nuôi đáp ứng nhu cầu đa đạng
của người tiêu dùng; trong toàn bộ CCSPTN, chỉ có duy nhất người nuôi tôm tạo ra sản
phẩm tôm nuôi, các tác nhân khác là người cung cấp, người phân phối là cầu nối các yếu tố
đầu vào và đầu ra với thị trường; kết quả và hiệu quả kinh tế của từng tác nhân phụ thuộc
vào cách thức tổ chức quá trình hoạt động tạo giá trị của từng tác nhân đó.
3.1.3. Dòng tài chính trong chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi ở Quảng Nam
3.1.3.1. Quá trình chi trả và hiệu quả kinh tế của chuỗi
Bảng 3.1. Kết quả và hiệu quả hoạt động tài chính của các tác nhân trong
CCSPTN ở tỉnh Quảng Nam
(tinh trên 1 tấn tôm nuôi ) ĐVT: triệu đồng
Diễn giải Cơ sở
SXTG
Cơ sở
chế biến
TACN
Đại lý
bán
TACN
Hộ
nuôi
tôm
Thu
gom
lớn
Cơ sở
CBXK
thủy
sản
Bán
buôn
ngoài
tỉnh
Bán lẻ
ngoài
tỉnh
Chuỗi
giá trị
I. Dòng 1.1
1. Doanh thu (Giá bán) 12,54 34,90 2,90 99,24 116,34 132,57 - - 132,57
2. Chênh lệch giá sản phẩm
tôm(%) - - - 100,00 117,40 113,95 - -
133,59
3. Chi phí sản xuất 9,58 21,98 2,45 74,94 103,69 120,01 - - 66,73
3. Lợi nhuận 2,96 12,92 0,45 24,30 12,65 12,56 - - 65,84
5. LN/C 0,31 0,59 0,18 0,32 0,12 0,10 - - 0,99
II. Dòng 2.1
1. Doanh thu (Giá bán) 12,54 34,90 2,90 98,12 117,41 - 138,87 155,65 155,65
2. Chênh lệch giá sản phẩm
tôm(%) - - - 100,00 118,48 - 111,08
119,35 158,63
3. Chi phí sản xuất 9,58 21,98 2,45 74,94 103,19 - 122,88 143,75 74,03
3. Lợi nhuận 2,96 12,92 0,45 23,18 14,22 - 15,99 11,90 81,62
5. LN/C (lần) 0,31 0,59 0,18 0,31 0,14 - 0,13 0,08 1,10
Nguồn: Tính toán của tác giả
Dòng 1.1 chênh lệch giá giữa tác nhân cuối với hộ nuôi là 33,77%. Tương tự, ở dòng
2.1 chênh lệch giá giữa hộ nuôi với tác nhân cuối cùng là 58,63%. Giá bán tôm cho người
tiêu dùng cuối cùng là 155,65 triệu đồng/tấn cao hơn giá xuất khẩu (132,57 triệu
đồng/tấn). Đây là nguyên nhân làm cho nhu cầu tiêu thụ tôm trong nước thấp. Trong dòng
2.1, 1 đồng chi phí bỏ ra sẽ thu được 1,10 đồng lợi nhuận, hiệu quả cao hơn dòng 1.1, tuy
nhiên sản lượng tiêu thụ hạn chế 8,5% so với sản lượng hộ nuôi cung cấp cho thị trường.
Qua phân tích quá trình chi trả giữa các tác nhân cho thấy, hộ nuôi là tác nhân trung tâm,
sản xuất đạt được lợi nhuận tính trên 1 tấn tôm nuôi thu hoạch là cao nhất (từ 23,18 triệu
16
đồng đến 24 triệu đồng) so với các tác nhân khác trong chuỗi, đạt được hiệu quả kinh tế
cao hơn so với các tác nhân trong dòng về phía hạ nguồn của CCSPTN ở Quảng Nam. Kết
quả điều tra tính toán, cho thấy tổng thu nhập hỗn hợp trong năm của một tác nhân thì
mức thu nhập của hộ nuôi là thấp nhất (bình quân 188,7 triệu đồng/hộ), vì thế thu nhập
hỗn hợp bình quân trên một lao động đạt 80 triệu đồng/người/năm cũng là mức thấp nhât.
3.1.3.2. Vị thế tài chính và phân phối lợi nhuận giữa các tác nhân trong CCSPTN
Bảng 3.2, cho thấy, CCSPTN đối với thị trường ngoài tỉnh, chi phí hoạt động để tạo
giá trị ở mỗi tác nhân (mắt xích) là khác nhau. Trong chuỗi cung này, hộ nuôi tôm có chi
phí hoạt động tạo giá trị là lớn nhất (39,9%), bao gồm tiền công lao động, chi phí TTYTS và
hóa chất, chí phí hoạt động marketting. Tuy nhiên, tỷ lệ lợi nhuận thu được của hộ lại không
tương xứng với vị thế tài chính của hộ nuôi (28,4%). Tương tự, trong CCSPTN thị trường
xuất khẩu (Bảng 3.3), hộ nuôi tôm có chi phí HĐTGT 24,6 triệu đồng/tấn chiếm 45,2%,
nhưng lợi nhuận thu được 24,3 triệu đồng/tấn chỉ chiếm 36,9% trong tổng giá trị của chuỗi.
Trong khi đó tất cả các tác nhân khác về phía hạ nguồn có lợi nhuận chiếm tỷ lệ cao hơn vị
thế tài chính của mình.
Bảng 3.2. Tỷ trọng chi phí HĐTGT, lợi nhuận của các tác nhân tham gia vào CCSPTN thị
trường tiêu thụ ngoài tỉnh
(tính trên 1 tấn tôm nuôi ) ĐVT: triệu đồng
Tác nhân
Chi phí
Đơn giá
Lợi nhuận
Tổng
chi phí
SXKD
Chi phí
HĐTGT
%
Chi phí
HĐTGT
LN %
LN
1. Cơ sở SXTG 9,58 5,81 9,43 12,54 2,96 3,63
2. Cơ sở chế biến TACN 21,98 13,32 21,62 34,90 12,92 15,83
3. Đại lý TA 2,45 2,45 3,98 2,90 0,45 0,55
4. Hộ nuôi tôm 74,94 24,60 39,94 98,12 23,18 28,40
5. Thu gom lớn 103,19 5,07 8,23 117,41 14,22 17,42
6. BB NT 122,88 5,47 8,88 138,87 15,99 19,59
7. BL NT 143,75 4,88 7,92 155,65 11,9 14,58
Tổng cộng 61.60 100,00 81,62 100,00
Nguồn: Số liệu điều tra năm 2012
Từ kết quả phân tích trên cho thấy, để hoàn thiện CCSPTN nhằm nâng cao hiệu quả
kinh tế, khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững ngành hàng tôm, cần phải có các giải
pháp hữu hiệu để nâng cao giá trị tăng thêm cho hộ nuôi. Các giải pháp này bao gồm cả lĩnh
vực quản lý kinh tế vi mô lẫn quản lý kinh tế vĩ mô nhằm tạo điều kiện tốt nhất để vừa giải
quyết được lợi ích của hộ vừa đạt được mục tiêu tối ưu hóa lợi ích của người tiêu dùng hay
17
tối đa hóa giá trị gia tăng của chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
Bảng 3.3. Tỷ trọng CPHĐTGT, lợi nhuận của các tác nhân tham gia
vào CCSPTN thị trường xuất khẩu
(tính trên 1 tấn tôm nuôi ) ĐVT: triệu đồng
Tác nhân
Chi phí
Đơn giá
Lợi nhuận
Tổng
chi phí
SXKD
Chi phí
HĐTGT
%
Chi phí
HĐTGT
LN %
LN
1. Cơ sở SXTG 9,58 5,81 10,70 12,54 2,96 4,50
2. Cơ sở chế biến TACN 21,98 13,32 24,50 34,90 12,92 19,63
3. Đại lý TA 2,45 2,45 4,50 2,90 0,45 0,68
4. Hộ nuôi tôm 74,94 24,60 45,30 99,24 24,30 36,91
5. Thu gom lớn 103,70 4,46 8,20 116,30 12,64 19,20
6. Cơ sở chế biến và xuất
khẩu thủy sản 120,01 3,67 6,80 132,60 12,56 19,08
Tổng cộng 54,31 100,00 65,83 100,00
Nguồn:Số liệu điều tra năm 2012
3.1.4. Dòng thông tin trong chuỗi
- Mức độ trao đổi thông tin theo chiều dọc: Mức độ chia sẻ thông tin giữa các đối tác có ý
nghĩa quan trọng, nó phản ánh được chất lượng của dòng thông tin là thông suốt hay ách tắc của
chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi. Trong chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi ở tỉnh Quảng Nam mức
độ trao đổi thông tin giữa các tác nhân trong mối quan hệ đối tác khác nhau là khác nhau.
- Với các tác nhân dòng thượng nguồn: Qua kết quả khảo sát 4 tác nhân về phía dòng
thượng nguồn (kể cả hộ nuôi tôm) của CCSPTN ở Quảng Nam cho thấy có 2 tác nhân cho
rằng mức độ trao đổi thông tin giữa họ với các tác nhân còn lại là trung bình, đó là hộ nuôi
tôm (mức trung bình là 3,019) và cơ sở chế biến TACN/ đại lý.
- Với các tác nhân dòng hạ nguồn: Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong 5 tác nhân được
khảo sát ở dòng hạ nguồn (kể cả hộ nuôi tôm) thì có 3 tác nhân cho rằng mức độ trao đổi
thông tin giữa họ với các tác nhân có quan hệ trực tiếp ở mức trung bình, đó là tác nhân thu
gom lớn, bán buôn ngoài tỉnh, cơ sở chế biến và xuất khẩu thủy sản.
- Mức độ trao đổi theo chiều ngang: Mức độ trao đổi trong từng khâu là rất yếu.
Nhìn chung mức độ trao đổi thông tin trong CCSPTN ở Quảng Nam là hạn chế, các thông
tin có được thông qua các mối quan hệ mua bán trực tiếp giữa các tác nhân trong chuỗi là chủ
yếu. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho dòng thông tin trong chuỗi thiếu minh bạch,
gây ách tắc, tác động đến quan hệ hợp tác của các tác nhân, làm giảm hiểu quả kinh tế và ảnh
18
hưởng đến mục tiêu tối đa hóa giá trị tạo ra cho sản phẩm tôm nuôi trong chuỗi cung này.
3.1.5. Phân tích mối quan hệ hợp tác giữa các tác nhân trong chuỗi
- Với các tác nhân ở dòng thượng nguồn: Qua khảo sát 3 tác nhân dòng thượng
nguồn CCSPTN ở Quảng Nam, họ đánh giá mức độ quan hệ hợp tác giữa họ với các tác
nhân khác là quan hệ hợp tác yếu (mức trung bình < 2,6).
- Với các tác nhân ở dòng hạ nguồn: Kết quả khảo sát cho thấy mức độ quan hệ hợp
tác giữa các tác nhân với nhau ở dòng hạ nguồn là chưa cao. Trong 5 tác nhân khảo sát có 3
tác nhân là thu gom lớn, bán buôn ngoài tỉnh, cơ sở chế biến và xuất khẩu nhận định mức độ
hợp tác của họ với các tác nhân khác là trung bình (2,9; 2,7; 3,1).
- Quan hệ hợp tác theo chiều ngang chưa chặt chẽ, thiếu liên kết bền vững
Tóm lại, qua phân tích các mối quan hệ hợp tác giữa các tác nhân ở cả 2 phía thượng
nguồn trong CCSPTN ở Quảng Nam cho thấy: mức độ các mối quan hệ hợp tác giữa các tác
nhân là thấp, đây là những mối quan hệ trực tiếp phát sinh trong quá trình trao đổi mua bán
thông thường, biểu hiện của sự manh nha, rời rạc, cục bộ chưa đạt được mức độ tích hợp theo
chiều dọc. Đây là nguyên nhân làm giảm hiệu quả kinh tế và khả năng cạnh tranh của ngành
hàng tôm nuôi ở tỉnh Quảng Nam.
3.2. Các nhân tố đầu vào chủ yếu ảnh hưởng đến năng suất, hiệu quả kinh tế đầu tư
nuôi tôm của hộ.
Các hệ số hồi quy riêng của các biến độc lập như: giống, thức ăn công nghiệp, công lao
động, kiểm dịch giống, hệ thống cấp thoát nước riêng, tập huấn đều dương và có mức ý
nghĩa trên 90%.
Bảng 3.4. Kết quả ước lượng hàm sản xuất Cobb- Douglas của các hộ nuôi tôm theo phương thức TC
vụ 1 và TC vụ 2 ở tỉnh Quảng Nam
Các biến và hệ số TC vụ 1 TC vụ 2
Coefficients T-stat Coefficients T-stat
Hệ số tự do (C) -2,946**
-2,523 -2.866**
-2,152
LnX1- Ln(Mật độ giống) 0,205***
4,176 0,193***
3,474
LnX2- Ln(Thức ăn công nghiệp) 0,642***
17,360 0,588***
17,326
LnX3- Ln(Công lao động) 0,350**
1,998 0,333*
1,658
D1- Kiểm dịch giống 0,088*
1,704 0,129**
2,235
D2- Môi trường ao nuôi -0,071*
-1,665 -0,188***
-4,183
D3- HT kênh cấp thoát nước 0,098**
2,087 0,086*
1,763
D4- Dịch bệnh -0,090*
-1,883 -0,107***
-2,159
D5- Tập huấn 0,086**
1,999 0,084*
1,798
F-Statistic 125,072***
108,355***
R2 0,7931 0,7720
R2 điều chỉnh 0,7868 0,7649
Số quan sát 270 265
Nguồn: Số liệu điều tra hộ năm 2012
19
Ghi chú:(*) ý nghĩa thống kê 90% (**) ý nghĩa thống kê 95 (***) ý nghĩa thống kê 99%,
Hệ số hồi quy riêng biến môi trường xung quanh ao nuôi, dịch bệnh làm giảm năng suất
tôm nuôi với mức ý nghĩa thống kê từ 90% trở lên ở cả hai mô hình. Điều này có nghĩa là
năng suất tôm nuôi biến động tăng (giảm) theo dấu của các hệ số hồi quy riêng. Dịch bệnh và
môi trường ao nuôi là 2 yếu tố chủ yếu làm giảm năng suất nuôi tôm. Trong điều kiện các yếu
tố khác không đổi, nếu dịch bệnh xảy ra được khắc phục kịp thời làm năng suất giảm (8,6%
đối với nuôi TC vụ 1, 10,45% đối với nuôi TC vụ 2) so với hộ không xảy ra dịch bệnh. Tương
tự môi trường nước xung quanh ao nuôi bị ô nhiễm làm giảm năng suất (6,8% đối với nuôi
TC vụ 1, 17,14% đối với nuôi TC vụ 2) so với hộ nuôi có môi trường xung quanh ao nuôi
không bị ô nhiễm. Vì vậy, việc xử lý môi trường ao nuôi và phòng ngừa dịch bệnh là yêu cầu
thường xuyên đối với nuôi tôm thẻ chân trắng nhất là đối với nuôi TC vụ 2
Bảng 3.5. Năng suất cận biên của các yếu tố đầu vào chủ yếu đối với nuôi tôm ở Quảng Nam
Yếu tố đầu vào ĐVT Xbq
Năng suất
cận biên- MPxi
(tấn/ha)
Gía trị sản phẩm
cận biên- MPVxi
(triệu đồng)
Vụ 1 Vụ 2 Vu 1 Vụ 2
X1- Mật độ giống Vạn con/ha 125,56 0,009 0,007 0,869 0,696
X2- Thức ăn CN tấn/ha 7,47 0,514 0,318 51,138 31,358
X3- Lao động Công/ha 706,16 0,003 0,002 0,267 0,211
Nguồn: số liệu điều tra hộ
Trên cơ sở các hàm sản xuất được thiết lập tương ứng với từng vụ nuôi trong năm theo
phương thức nuôi thâm canh, năng suất cận biên, giá trị sản phẩm cận biên của từng yếu tố
đầu vào được xác định ở Bảng 3.5, trên cơ sở đó, chúng ta tính toán hiệu quả kinh tế đầu tư
của các yếu tố đầu vào tương ứng.
Hiệu quả kinh tế đầu tư các yếu tố đầu vào chủ yếu được phản ánh ở Bảng 3.6, với giá bán
tôm trung bình là 99,1 triệu đồng/tấn, nếu tăng thêm 1vạn con/ha nuôi TC vụ 1 lời được 0,352
triệu đồng, nuôi thâm canh vụ 2 lời 0,179 triệu đồng; nếu tăng thêm 1 tấn thức ăn CN trên 1ha
nuôi TC vụ 1 lời gần 25,5 triệu đồng, nuôi TC vụ 2 lời trên 5,6 triệu đồng; nếu tăng thêm 1
ngày công lao động, trong trường hợp nuôi TC vụ 1 lời 0,166 triệu đồng, nuôi TC vụ 2 lời
0,110 triệu đồng. Điều này cho thấy, việc tăng thêm số lượng thức ăn, mật độ giống, ngày công
lao động cho nuôi tôm trong điều kiện này thì đảm bảo nâng cao hiệu quả kinh tế ở cả 2 vụ
nuôi. So sánh giữa 2 vụ nuôi cho thấy cả 3 yếu tố mật độ tôm giống thả nuôi, ngày công động,
thức ăn CN làm cho hiệu quả đầu tư nuôi TC vụ 1 cao hơn hiệu quả đầu tư nuôi TC vụ 2.
Từ kết quả phân tích trên cho thấy, để đạt được hiệu quả đầu tư trong nuôi tôm thẻ
20
chân trắng ở Quảng Nam đòi hỏi các hộ nuôi cần phải tập trung nuôi thâm canh một vụ ở
những vùng thấp trũng, tăng cường mật độ nuôi, tăng ngày công chăn sóc tôm nuôi ở tất cả
các khâu từ khâu cho ăn, theo dõi thời gian sục khí, kiểm tra màu nước, phòng ngừa dịch
bệnh và kịp thời xử lý môi trường ao nuôi, cần lựa chọn nguồn cung thức ăn đảm bảo chất
lượng để nâng cao năng suất tôm, nâng cao giá trị sản phẩm và hiệu quả kinh tế.
Bảng 3.6. Hiệu quả kinh tế trong việc đầu tư các yếu tố đầu vào chủ yếu
đối với nuôi tôm thẻ chân trắng ở tỉnh Quảng Nam
Yếu tố đầu vào
MPVxi
(tr.đ) Pxi
(tr.đ)
MPVxi-Pxi
(tr.đ)
Vụ 1 Vụ 2 Vụ 1 Vụ 2
X1- Mật độ giống thả nuôi 0,869 0,696 0,517 0,352 0,179
X2- Thức ăn CN 51,138 31,358 25,682 25,456 5,676
X3- Lao động 0,267 0,211 0,101 0,166 0,110
Nguồn: số liệu điều tra hộ
3.3. Lợi thế cạnh tranh của sản phẩm tôm nuôi ở tỉnh Quảng Nam
3.3.1. Tính hệ số DRC của sản phẩm tôm nuôi
Kết quả này cho thấy nuôi tôm TC vụ 1, TC vụ 2 đều có lợi thế cạnh tranh cao, vì tất
cả DRC/SER đều nhỏ hơn 1 (DRC nuôi TC vụ 1 là 0,4892, TC vụ 2 là 0,5853 đều nhỏ hơn
1). Tuy nhiên, nuôi TC vụ 1 có lợi thế cạnh tranh cao hơn nuôi thâm canh vụ 2. Nguyên
nhân là do nuôi TC vụ 1 có năng suất cao, mức ô nhiễm môi trường thấp, bệnh dịch ít xảy
ra, thời gian nuôi không bị áp lực bởi lũ lụt nên mức đầu tư cao.
Bảng 3.7. Chi phí nội nguồn DRC của sản phẩm tôm nuôi
thâm canh hai vụ xuất khẩu ở tỉnh Quảng Nam
(tính cho 1 tấn tôm nuôi)
STT Chỉ tiêu ĐVT TC vụ 1 TC vụ 2
I Yếu tố nội nguồn không thể mua bán
và sản xuất nội địa 1000VND 66689,51 80805,27
II Yếu tố nhập khẩu USD 241,62 265,81
III Chi phí thu mua, chế biến 1000VND 8180,00 8180,00
IV Giá trị đầu ra USD 9500,00 9500,00
V DRC 12,23 14,63
VI Tỷ giá chính thức USD 20,83 20,83
VII Tỷ gía hối đoái mờ USD 24,99 24,99
VIII Tỷ số DRC/SER lần 0,4892 0,5853
Nguồn: Số liệu điều tra và tính toán của tác giả
Hệ số này cho thấy, ở vụ 1 nếu bỏ ra 0,4892 USD đầu tư nuôi với thời gian bình quân 80
21
ngày thì thu hoạch và xuất khẩu sẽ thu được giá trị ngoại tệ gia tăng là 1 USD. Trong khi đó ở
vụ 2 phải bỏ ra 0,5853 USD nuôi tôm và xuất khẩu mới thu được giá trị ngoại tệ gia tăng
1USD. Điều này, có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc đối với việc xây dựng chiến lược phát triển kinh
tế của địa phương.
3.3.2. Phân tích độ nhạy của DRC
Bảng 3.8. Phân tích độ nhạy đối với chi phí nội nguồn của sản phâm tôm nuôi
thâm canh hai vụ xuất khẩu ở tỉnh Quảng Nam
STT Thay đổi chi phí và giá tôm xuất khẩu TC vụ 1 TC vụ 2
I Kịch bản cơ sở 0,4892 0,5853
II Chi phí sản xuất nội địa
2.3 Tăng 15% 0,5612 0,6677
2.4 Tăng 30% 0,6331 0,7529
III Chi phí nhập khẩu
3.3 Tăng 15% 0,4921 0,5863
3.4 Tăng 30% 0,4950 0,5901
IV Giá tôm xuất khẩu
4.3 Giảm 15% 0,5796 0,6906
4.4 Giảm 30% 0,7109 0,8480
V Chi phí và giá tôm xuất khẩu
5.3 Tất cả chi phí đều tăng 15% và giá tôm xuất khẩu giảm 15% 0,6695 0,7977
5.4 Tất cả chi phí đều tăng 30% và giá tôm xuất khẩu giảm 30% 0,9359 1,1168
Nguồn: Số liệu điều tra và tính toán của tác giả
Qua Bảng 3.8 cho thấy, các kịch bản về thay đổi giá cả đầu vào và đầu ra đều bất lợi đối
với nuôi tôm ở các địa phương trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, nhưng chỉ số DRC/SER luôn
nhỏ hơn 1. Tuy nhiên, khi giá chi phí nội địa, nhập khẩu tăng 30% và giá tôm xuất khẩu giảm
30% thì nuôi tôm vụ 2 không có lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh. Mặt khác, do các mối
quan hệ hợp tác giữa các tác nhân trong chuỗi không có tính ràng buộc chặt chẽ nên khi giá cả
đầu vào tăng và đầu ra giảm sẽ tác động bất lợi cho hộ nuôi tôm ở tỉnh Quảng Nam là điều
không thể tránh khỏi.
Với giá bình quân thực tế xuất khẩu tôm nuôi (tôm thẻ chân trắng): ở vụ 1 chỉ số
DRC/SER luôn nhỏ hơn 1, vụ 2 năm 2008 và 2009 có chỉ số DRC/SER lớn 1, do chi phí
đầu vào tăng cao và giá tôm xuất khẩu giảm hơn so với năm 2007 làm cho hiệu quả kinh tế
thấp, giảm lợi thế cạnh tranh. Đây là cơ sở khoa học, đòi hỏi các cấp quản lý phải quan tâm
khuyến khích hộ nuôi tôm đối với vùng hạ triều nên nuôi 1vụ ăn chắc đảm bảo hiệu quả
kinh tế và lợi thế cạnh tranh hơn.
3.4. Đánh giá chung thực trạng chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi ở Quảng Nam
22
- Từ kết quả điều tra cho thấy chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi ở tỉnh Quảng Nam bao
gồm nhiều tác nhân tham gia, mỗi tác nhân là một mắt xích, thực hiện các hoạt động được
chuyên môn hóa trong từng giai đoạn. Trước hết, hộ nuôi tôm được xem xét với tư cách là
tác nhân trung tâm và là tác nhân duy nhất sản xuất ra sản phẩm tôm nuôi đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng của thị trường.
- Mỗi tác nhân trong chuỗi đều có vị trí quan trọng trong quá trình tạo giá trị của chuỗi.
Thông qua các hoạt động của mình, các tác nhân làm gia tăng giá trị sản phẩm tôm nuôi của
chuỗi cung. Trong dòng hạ nguồn của CCSPTN ở Quảng Nam, hộ nuôi tôm có hiệu quả
kinh tế cao nhất, có vị thế tài chính cao nhất, nhưng lợi nhuận phân phối chưa tương xứng.
- Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến năng suất và hiệu quả kinh tế cho thấy: Các yếu
tố mật độ giống, ngày công lao động, số lượng thức ăn công nghiệp, kiểm dịch, tập huấn và
đầu tư hệ thống kênh cấp thoát nước làm tăng năng suất tôm nuôi. Bệnh dịch, ô nhiễm môi
trường ao nuôi làm giảm năng suất tôm nuôi. Yếu tố mật độ giống, ngày công lao động, số
lượng thức ăn công nghiệp làm tăng hiệu quả kinh tế đầu tư nuôi tôm của hộ.
- Sản phẩm tôm nuôi của CCSPTN ở Quảng Nam có lợi thế lợi thế cạnh tranh
(DRC/SER<1). Tuy nhiên, nếu giá cả các yếu tố đầu và và đầu ra biến động tăng, giảm trên
30% thì khả năng cạnh tranh của sản phẩm thấp. Thực tế cho thấy nuôi tôm thâm canh vụ1 có
hiệu quả kinh tế và lợi thế cạnh tranh cao hơn nuôi tôm thâm canh vụ 2,. khi giá tôm xuất khẩu
bình quân ở mức 4,27 nghìn USD/tấn, thì nuôi tôm ở vụ 2 không còn lợi thế cạnh tranh nữa.
- Nhóm nhân điều kiện tự nhiên, thị trường, hộ nuôi tôm, chính phủ và các cơ quan quản
lý Nhà nước ở Quản Nam, nhóm nhân tố thuộc về quản lý CCSPTN cung như nhóm nhân tố
thuộc về cơ sở hạ tầng vùng nuôi và dịch vụ hỗ trợ có động đến quá trình hoạt động của
CCSPTN ở Quảng Nam. Trong đó, nhân tố quy hoạch vùng nuôi tôm, quy mô diện tích của hộ
nuôi, hệ thống thủy lợi yếu kém, dịch vụ hậu cần hỗ trợ chưa tốt, hệ thống giao thông yếu kém
tác động rõ nét, đang cản trở quá trình hoạt động của CCSPTN ở Quảng Nam. Đây là những
hạn chế cần phải có biện pháp khắc phục nhằm hoàn thiện chuỗi cung để nâng cao hiệu quả
kinh tế, khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững ngành hàng tôm nuôi trên địa bàn tỉnh
Quảng Nam.
CHƯƠNG 4
CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHUỖI CUNG SẢN PHẨM TÔM
NUÔI Ở TỈNH QUẢNG NAM
Đánh giá đúng thực trạng CCSPTN ở tỉnh Quảng Nam và xu thế tiêu thụ tôm nuôi
trong nước và thế giới là cơ sở quan trọng nhằm đề xuất những giải pháp hữu hiệu bảo đảm
hoàn thiện CCSPTN ở tỉnh Quảng Nam.
Các quan điểm, định hướng hoàn thiện CCSPTN để nâng cao hiệu quả kinh tế, khả
23
năng cạnh tranh và phát triển ngành hàng tôm nuôi bền vững, cũng như dựa và kết quả phân
tích ma trận SWOT về những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức đối với ngành
hàng tôm nuôi ở tỉnh Quảng Nam là những căn cứ quan trọng để đề xuất những giải pháp
hoàn thiện CCSPTN ở tỉnh Quảng Nam.
Các nhóm giải pháp hoàn thiện CCSPTN ở tỉnh Quảng Nam bao gồm:
4.1. Giải pháp cho từng tác nhân trong chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi
Bao gồm (i) Nâng cao năng suất và hiệu quả nuôi tôm của hộ; (ii) Tăng cường mối
quan hệ hợp tác, trao đổi thông tin để nâng cao giá trị gia tăng cho từng tác nhân trong
chuỗi; (iii) Chú trọng công tác vệ sinh an toàn thực phẩm của từng tác nhân trong CCSPTN.
4.2. Giải pháp đối với các cơ quan quản lý nhà nước ở tỉnh Quảng Nam
Bao gồm (i) Quy hoạch vùng nuôi tôm theo hướng phát triển bền vững, bảo đảm chuỗi
cung ổn định, chất lượng, hiệu quả; (ii) Hoàn thiện cơ sở hạ tầng vùng nuôi tôm và dịch vụ
hậu cần theo hướng nâng cao hiệu quả kinh tế, khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững
ngành hàng tôm nuôi; (iii) Chính sách vốn cho việc hoàn thiện CCSPTN nhằm nâng cao
hiệu quả kinh tế, khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững ngành hàng tôm nuôi ở tỉnh
Quảng Nam; (iv) Phát huy vai trò của tổ cộng đồng, tiến tới thành lập các HTX dịch vụ nuôi
tôm để giải quyết tốt lợi ích cho hộ nuôi tôm thông qua hoàn thiện CCSPTN; (v) Nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực phục vụ ngành hàng tôm nuôi; (vi) Mở rộng thị trường tiêu thụ
tôm trong nước và xuất khẩu (vii) Tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với CCSPTN,
tạo điều kiện thuận lợi cho ngành hàng tôm nuôi phát triển bền vững.
Phần III KẾT LUẬN
Mô hình phân tích CCSPTN tập trung vào phân tích các tác nhân tham gia chuỗi
cung, quá trình chuyển hóa của dòng sản phẩm vật chất, quá trình tạo giá trị, quá trình chi
trả, quá trình trao đổi thông tin và các mối quan hệ trong chuỗi. Trong đó, quá trình tạo giá
trị là quá trình quan trọng nhất và cũng là mục đích của chuỗi cung. Phân tích CCSPTN
không chỉ dừng lại việc phân tích các bộ phận, thành phần của nó mà còn phân tích các
nhóm nhân tố ảnh hưởng đến quá trình hoạt động của chuỗi. Các phương pháp nghiên cứu
được lựa chọn thích hợp, nhất là phương pháp phân tích chuỗi cung, phân tích hàm sản
xuất, lợi thế cạnh tranh nhằm giải quyết mối liên hệ cơ bản giữa phân tích chuỗi
cung/chuỗi giá trị sản phẩm tôm nuôi trong mối quan hệ mật thiết với hiệu quả kinh tế và
khả năng cạnh tranh của ngành hàng tôm nuôi.
Kết quả nghiên cứu CCSPTN ở tỉnh Quảng Nam cho thấy để sản phẩm tôm nuôi đến tay
24
người tiêu dùng phải qua nhiều trung gian, đó là người thu gom, bán buôn, bán lẻ, cơ sở chế
biến và xuất khẩu thủy sản, nhà nhập khẩu nước ngoài với các dòng sản phẩm đa dạng. Chuỗi
hướng đến việc thỏa mản nhu cầu sản phẩm tôm nuôi cho các thị trường xuất khẩu, ngoài
tỉnh, trong tỉnh. Hình thành hai dòng sản phẩm tôm nuôi tiêu thụ chính với tỷ lệ tiêu thụ sản
phẩm cao. Dòng xuất khẩu trong tỉnh chiếm 87,4%, dòng tiêu thụ ngoài tỉnh chiếm 8,5% so
với tổng sản lượng tôm nuôi do người thu gom lớn cung cấp. Mỗi tác nhân đều phát huy
được vị trí, vai trò của mình trong quá trình tạo giá trị của sản phẩm tôm nuôi trong chuỗi,
được phản ánh qua kết quả và hiệu quả kinh tế của từng tác nhân và toàn bộ chuỗi cung.
Tuy nhiên, qua phân tích CCSPTN của tỉnh, còn có những mặt hạn chế sau:
Khi giá cả các yếu tố đầu vào tăng và giá xuất khẩu giảm 30% so với điệu kiện hiện
nay, sản phẩm tôm nuôi ở Quảng Nam rơi vào tình thế bất lợi cho nuôi TC vụ 2 và ở một
số địa phương. Dòng thông tin trong chuỗi cung chưa hoàn hảo, các tác nhân được chia sẻ
thông tin chủ yếu qua các mối quan hệ mua bán trực tiếp. Điều này ảnh hưởng đến quá
trình thực hiện chuỗi cung ở từng mắt xích, đặc biệt là người nuôi tôm với thu gom. Mức
độ quan hệ hợp tác trong chuỗi còn lỏng lẻo, chưa xác lập các mối liên kết chặt chẽ, hình
thành các liên minh chiến lược thông qua các mối quan hệ tích hợp theo chiều dọc.
Kết quả phân tích dòng tài chính và quá trình tạo giá trị của CCSPTN cho thấy, các
tác nhân đều có được kết quả và hiệu quả kinh tế cao, đặc biệt là hộ nuôi tôm. Tuy nhiên,
ở các chuỗi cung đều cho thấy vị thế tài chính của hộ nuôi là rất lớn (Chiếm giữ tỷ trọng
chi phí HĐTGT trong tổng chi phí HĐTGT toàn chuỗi lớn) nhưng LN được chia sẻ chưa
tương xứng, trong khí đó các tác nhân trung gian trong chuỗi như thu gom lớn, bán buôn,
bán lẻ, cơ sở chế biến và xuất khẩu thủy sản có chi phí HĐTGT chiếm tỷ trọng thấp nhưng
LN thu được lại chiếm tỷ trọng lớn, thu nhập hỗn hợp bình quân trên một lao động cao
gấp nhiều lần so với hộ nuôi tôm.
Qua khảo sát cho thấy, các nhân nhân tố đều ảnh hưởng đến quá trình hoạt động của
CCSPTN ở Quảng Nam. Trong đó các yếu tố về quy hoạch vùng nuôi tôm, cơ sở hạ tầng
và dịch vụ hỗ trợ, quy mô sản xuất (vốn, diện tích), VSATTP, đang là điểm nghẽn ảnh
hưởng tiêu cực đến kết quả thực hiện chuỗi cung này. Trên cơ sở những kết quả đã phân
tích, chúng tôi đã đưa ra một số giải pháp chủ yếu để hoàn thiện CCSPTN ở tỉnh Quảng
Nam nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững ngành
hàng tôm nuôi ở Quảng Nam, với các giải pháp đã được xây dựng đồng bộ, có tính hệ
thống, đột phá và bổ sung cho nhau, mang tính khả thi cao.
25
NHỮNG CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG
BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Mai Văn Xuân, Lê Văn Thu (2012), “Phân tích chuỗi cung sản phẩm tôm
nuôi trên địa bàn huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam”, Tạp chí Khoa học Đại
học Huế, 72B(3), tr.413-425.
2. Lê Văn Thu, Mai Văn Xuân (2014), “Hiệu quả kinh tế nuôi tôm thẻ chân
trắng của hộ gia đình trên địa bàn tỉnh Quảng Nam”, Tạp chí Khoa học và Công
nghệ, Đại học Đà Nẵng, số 4(77) 2014, tr 141-144.
26
HUE UNIVERSITY
COLLEGE OF ECONOMICS
LE VAN THU
A STUDY ON THE SUPPLY CHAIN OF FARMED
SHIRMP IN QUANG NAM PROVINCE
Specialty: Agricultural Economics
Code: 62.62.0115
PhD Thesis Summary
HUE, 2015
27
This research project done at: College of Economics, Hue University
Academic supervisor: Associate Prof. Dr. Mai Văn Xuân
Associate Prof. Dr. Trần Văn Hòa
Reviewer 1: ……………………………………………………
Reviewer 2: ……………………………………………………
Reviewer 3: …………………………………………………….
The dissertation has been defended under the assessment of Hue University
Doctoral Assessment Committee:
On: … h, …… ….. 2015
This dissertation is accessible at:
- Centre for Academy, Hue University
- College of Economics Library, Hue University
28
INTRODUCTION
1. The rationale of the thesis
Vietnam is one of the leading shrimp exporters in the world. In 2011, the total shrimp
export turnover reached US$ 2.4 billion, up 17.64% from 2010, in which black tiger shrimp and
white-leg shrimp accounted for 59.7% and 29.3% respectively. Vietnam’s shrimp products have
been used in more than 91 countries and territories, among those USA, Japan and EU are the
biggest markets making up over 65% of the shrimp export value in Vietnam.
For over the last two decades, the shrimp industry has gradually developed and
considerably contributed to the total value added of the fishery sector and the country’s GDP.
Vietnam’s shrimp industry, which is dominated by a vast majority of small-scale farmers, has
been proving its strength in the context of integration and steadily exploiting its competitive
advantage on the international market.
The supply chain of farmed shrimp is “the path” in which shrimp is created and goes
through to the final customer. The chain connects the market supply and demand and is to convey
information on shrimp demand from customers to farmers. It takes an important role in
organizing and managing the shrimp industry in today’s competitive environment.
In recent years, Quang Nam Province has diversified crops and livestock structure in
Agriculture-Forestry-Fishery production to improve the local residents’ living standards.
However, farmers in general, shrimp farmers in particular have faced host of constraints in
growing out and consuming products. The income is high, yet unstable and suffers heavily
from disease outbreaks and unfavourable volatility of the shrimp input and output market.
One of the most influential reasons is due to the ineffective operation of the shrimp supply
chain, limited collaboration of the involved actors and ability to take control of environmental
pollution, food hygiene and safety, and the improper benefit allocation between actors,
especially to farmers.
Stemming from the above-mentioned reasons, the author chose “A study on the supply
chain of farmed shrimp in Quang Nam Province” to be the research topic for his doctoral
thesis.
2. Research objectives
2.1. Overall objectives
The thesis aims to provide scientific backgrounds and propose solutions to improving the
29
supply chain of farmed shrimp for the sake of elevated economic efficiency and sustainable
development of the shrimp industry in Quang Nam Province.
2.2. Specific objectives
(1) Systematizing and clarifying the theoretical and practical issues related to the supply
chain of farmed shrimp (CCSPTN);
(2) Analysing and evaluating the current situation of CCSPTN in Quang Nam
Province;
(3) Proposing key solutions to improve CCSPTN to increase economic efficiency,
competitiveness and the sustainable development of the shrimp industry in Quang Nam
Province.
3. The object and scope of the study
3.1. The object of study
The study object is issues related to the supply chain/value chain in the intimate
relationship with economic efficiency and competitiveness of the shrimp industry.
2.3 The scope of study
+ Content: To achieve the objectives set out, the thesis focused on the study of CCSPTN in
Quang Nam Province, which included the in-depth analysis of the chain structure, the involved
actors, the value creating process, the flows of products, information, finance and the relationship
between actors in the chain; factors affecting the operation of the supply chain, the productivity and
economic efficiency of shrimp farmers – the central actors of the chain; and the evaluation of
comparative advantage and competitiveness of farmed shrimp within the limited economic
resources. One the basis of those analyses, the thesis proposed key solutions to improving CCSPTN
to increase economic efficiency, competitiveness and sustainable development of the shrimp
industry in Quang Nam Province.
+ Space: To obtain in-depth analyses and draw logical conclusions, the thesis is limited to the
scope of the shrimp industry in Quang Nam, including the involved actors inside the province to meet
the demand of domestic and export market. In addition, the thesis also refers to primary and direct
input suppliers, consumers, processors and exporters of the shrimp originally produced in Quang
Nam. The expansion to the actors outside the province allows the well-rounded generalization of the
supply chain/value chain of farmed shrimp.
+ Time: Secondary data used in the thesis covering the period 2005-2012, primary data
30
mainly collected from the survey in 2012, predicted data on related issues up to 2020.
4. Contributions of the thesis
The research results contributed to systematizing and clarifying theoretical and practical
issues related to the supply chain/ value chain of farmed shrimp in the intimate relationship
with economic efficiency and competitiveness of farmed shrimp. First of all, the model of
supply chain analysis resulted from the perspective of integrating conventional supply chain
analysis and Michael Porter’s value chain was employed to analyse the current situation of
CCSPTN in Quang Nam province. This model identified the actors involved in each chain
through the movement of the flows of material products consisting of the structure of
CCSPTN, of the flows of value creating process, finance, information and the collaboration
between the involved actors in CCSPTN in Quang Nam Province.
The value creating process is the most important process in the chain and also the key target
of the supply chain management. Analysing CCSPTN also incorporates evaluating the groups of
factors affecting the operation of supply chain, which eventually serves as the foundation for
identifying the system of evaluation criteria and research methods of CCSPTN in Quang Nam
Province. Based on the analysis of value creating process, the thesis came up with an evaluation
of the performance and economic efficiency of each actor and the whole supply chain of farmed
shrimp. The thesis also pointed out limitations and shortcomings in the flows of information, the
collaboration, the value creating process and irrationality in the value added distribution between
the actors and clarified the causes of the loss of shrimp farmers in the process of benefit
distribution. In addition, the research analysed the key factors affecting productivity, investment
efficiency of shrimp farmers – the central actors of the chain, and at the same time determined the
competitive advantage of farmed shrimp products, and confirmed the viability and the potentials
of this industry in the context of global integration. The thesis carried out an in-depth evaluation
on the negative and positive impacts of each factor having on the operation of CCSPTN in Quang
Nam province, including: i) natural conditions, ii) market, iii) shrimp farmers, iv) Government
and state governance agencies, v) the management of CCSPTN, iv) infrastructure in the cultured
areas and support services. Based on the analysis of the current situation of CCSPTN in Quang
Nam, the thesis proposed key solutions to increase economic efficiency, competitiveness and
develop the farmed shrimp industry in a sustainable manner.
31
LITERATURE REVIEW OF THE RELATED RESEARCH
1. Recent research into the supply chain of agricultural products and farmed shrimp
In recent years, there have been many studies on the supply chain of agricultural
products, farmed shrimp. These researches addressed different aspects of the supply chain
of agricultural products, of which some must be mentioned as follows:
Aramyan (2007) a study on “Measuring the performance of the supply chain in the
field of agriculture – food sector”
Normansyah Syahruddin (2012), a doctoral thesis on “Sustainable management of
the supply chain, a case study of the cocoa sector in Indonesia”
Vo Thi Thanh Loc (2006), a doctoral thesis on “Quality management of the seafood
supply chain: improving the quality of the shrimp supply chain– prospect of seafood
companies in Mekong Delta”.
Truong Chi Hieu (2012), a doctoral thesis: “ Shrimp supply chain, common property
and pollution management: A case study of Tam Giang Cau Hai Lagoon”.
2. Overall assessment of the previous research into the supply chain of agricultural
products, farmed shrimp
Overall, the mentioned research into the supply chain of agricultural products, farmed
shrimp contributed to systematizing and shedding light on the theoretical backgrounds of the
supply chain of agricultural products. However, they merely focused on the governance aspect of
the agriculture sector in the connection with the supply chain. As a result, they didn’t look deeply
into the supply chain model, but only investigating supply chain as an organisational model
connecting involved actors in a commodity chain of a certain product or some research
specifically studied a specific aspect of the supply chain. Up to date, there hasn’t been any
research adopting the perspective of integrating conventional supply chain analysis and
Michael Porter’s value chain in the model of supply chain analysis. On that basis, the thesis
studied the supply chain in the intimate relationship with economic efficiency and
competitiveness of the farmed shrimp industry with the purpose of proposing solutions to
improve the supply chain of farmed shrimp to increase economic efficiency,
competitiveness and develop it sustainably in Quang Nam province.
32
CHAPTER 1
THEORETICAL AND PRACTICAL BACKGROUNDS OF
FARMED SHRIMP SUPPLY CHAIN
1.1. Theoretical backgrounds of farmed shrimp supply chain
On the basis of studying the concepts, structure and the involved actors in the supply
chain, economic nature, factors affecting the supply chain, distinguishing supply chain and
value chain, the author suggested the definition of CCSPTN as: A system of organisations,
persons, technology, activities, information and the resources related to launching the
farmed shrimp products from farmers to consumers. The operation of the supply chain is
also the process of creating value to transform the resources of water, land, seed, feed,
veterinary drugs... and unprocessed products, to complete products and bring the products to
the final consumers. The ultimate goal of supply chain management is to optimize the value
created for the whole chain.
Pursuant to different approached, economists have suggested many distinct characteristics
of supply chain. According to the supply chain management in agriculture, CCSPTN is divided
into 2 groups of characteristics: i) The characteristics of farmed shrimp products when launched
to the market, ii) The distinct characteristics of farmed shrimp as well as its production and
consumption process leading to unique features in the formation of CCSPTN.
From the nature of supply chain analysis, the matters involved in this process are:
Identifying actors of CCSPTN, the transformation process of the flows of material products,
value creating process in CCSPTN. To achieve this goal, each intermediary in CCSPTN has
to meet the demand of the customer above it. Manufacturing businesses play an important
role in creating value for the supply chain.
The flows of finance, information and relationships in CCSPTN: According to
experts from World Bank (2008), the supply chain in agriculture is a network embracing
three cross-cutting flows along the length of chain: the flows of material products (physical
flows), information and finance. CCSPTN, therefore, includes these 3 flows in it.
On the basis of theoretical backgrounds of factors affecting the supply chain, and the
synthesis of experts’ viewpoints, domestic and international research related to the research
33
topic, and the author’s field study, the thesis identified a number of groups of factors
affecting the operation of CCSPTN like: natural conditions, shrimp farmers, market,
Government and State governance agencies, supply chain management and infrastructure.
It can be seen from the analysis model of CCSPTN that the analysis of value creating
process is the core content. To optimize the created value, the actors have to make effort in
minimizing the costs of value creating activities through the leading of the flows of products,
information and finance. This also means increasing economic efficiency of CCSPTN. Competitive
advantage decides if a national product can compete successfully in the world market.
The survival and development of CCSPTN requires that farmed shrimp products must
obtain competitive advantage. Once the farmed shrimp industry obtains competitive advantage, it
inherently attracts other socio-economic resources and successfully exploits the natural resources.
Hence, the supply chain analysis, economic efficiency and competitiveness are the three core
contents interrelated with each other to achieve the research objectives of the thesis.
1.2. CCSPTN management lessons in other countries and in Vietnam
Based on the experience of CCSPTN organisation and management in leading shrimp
exporters in the world and the current situation of supply chain/value chain of farmed shrimp in
Vietnam, some lessons can be drawn for the management of CCSPTN in Quang Nam:
Innovating shrimp farming technology, shrimp farmers in Thailand continuously learn and
apply latest technology to reduce environmental pollution, disease and improve productivity
and economic efficiency of shrimp farming; founding organisations of fishery marketing
(Thailand) or aquaculture associations (Bangladesh) or establishing cooperatives for small-scale
farmers to provide consultancy services on technology, input and output support services for
shrimp farmers. These incentives assist farmers cover the input costs without losing their status
in negotiation, allow them to participate in the direct relationship with shrimp exporters,
enhance the traceability of the products and monitor the requirements of food hygiene and
safety, through the local inspection system to meet the demand of consumers in EU, Japan and
USA market, foster vertical chain relationship, encourage processing exporting mills to
collaborate with shrimp farmers through formal contracts. Building companies vertically
integrated in aquaculture investment, food processing and seed provision to manage the product
quality and the traceability of products; properly distributing the benefits between actors in
CCSPTN, removing unnecessary intermediaries to minimize the costs and maximize the
consumers’ interest.
34
CHAPTER 2
INTRODUCTION TO THE STUDY SITE AND
RESEARCH METHODOLOGY
2.1. Natural and Socio-economic conditions of the cultured areas in Quang Nam
province
Surface water resources in Quang Nam province are suitable for aquaculture, especially
for brackish water shrimp farming. The total natural land area of the province is 1,043,837 ha,
accounting for 3.09% of the total land area of the country. There are two kinds of soil suitable for
riverside and coastal shrimp farming (alluvial soil, sand dune soil, and coastal sandy soil). Quang
Nam’s climate is diversifying, influenced by northeast and southwest monsoon. Therefore, to
ensure the shrimp productivity, crop yield and quality it is necessary to design accurate seasonal
calendar for stocking the ponds in accordance with the weather patterns. Shrimp production make
up a high proportion of the aquaculture value, 60.46% in 2010 compared to 17.05% by fish
farming and 22.49% by others. Due to this value contribution, shrimp is considered as key sector
in aquaculture in Quang Nam province. According to statistical data, the period 2005 – 2012
witnessed the annual growth rate of shrimp production value is 33.36%, lower than fish and
others, which affected the average growth rate of production value in aquaculture. It is, therefore,
of crucial importance that there must be effective solutions to develop the shrimp farming in a
sustainable manner.
2.2. The current situation of shrimp farming in Quang Nam in the period 2007-2012
The main economic organisations in shrimp farming industry in Quang Nam
province are shrimp farmers, input suppliers like hatcheries, feed suppliers, veterinary drugs
production and actors distributing farmed shrimp including: collectors, seafood processers
and exporters, wholesalers and retailers. Each actor in the province’s farmed shrimp
industry has its own characteristics. Shrimp farmers - the primary shrimp farming agent are
mainly small-scale, fragmented and lacking in production and processing facilities,
information, especially information about market, and technology know-how. The supply of
shrimp seed is from the hatcheries outside the province through 2 main forms of either
directly to shrimp farmers or indirectly through the local seed nurseries.
The supply of industrial feed for shrimp farming is from the production agencies
inside and outside the province. Shrimp products are for domestic consumption and exports.
Shrimp production and processing establishments are characterized by small-scale, low
investment capital, and unstable shrimp processing. Due to these features, shrimp
35
production in Quang Nam is mainly to supply raw material for the processing and exporting
establishments in Da Nang city and some neighboring provinces (87.4%)
2.3. Research approach and CCSPTN research framework
A system of solutions to improve CCSPTN to increase economic efficiency,
competitiveness and to sustainably develop the shrimp farming
industry in Quang Nam
Natural conditions
shrimp farmers
Market
Government
infrastructure in the
cultured areas
THE ANALYSIS OF THE SUPPLY CHAIN OF FARMED SHRIMP
RESEARCH METHODS
Economic statistics
Supply chain analysis
Production function
Identifying competitive
advantage
Expert in-depth interview
SWOT
Financial planning
IMPACTS OF EACH
FACTOR
Support
services
Collectors
- Logistics
- Finance
-Techical
issues
Input
suppliers
Shrimp
farmers
Processing
and exporting
establishments
Wholes
alers
Retailers
Domestic
Consu-
mers
MODEL OF THE FARMED SHRIMP SUPPLY CHAIN
Fin
an
cia
lF
low
s
In
form
ati
on
Flo
ws
Valu
e C
reati
ng
process
Ph
ysic
al
Flo
ws
Supply chain
management
A system of solutions to improve CCSPTN to increase economic efficiency,
competitiveness and to sustainably develop the shrimp farming
industry in Quang Nam
Natural conditions
shrimp farmers
Market
Government
infrastructure in the
cultured areas
Natural conditions
shrimp farmers
Market
Government
infrastructure in the
cultured areas
THE ANALYSIS OF THE SUPPLY CHAIN OF FARMED SHRIMP
RESEARCH METHODS
Economic statistics
Supply chain analysis
Production function
Identifying competitive
advantage
Expert in-depth interview
SWOT
Financial planning
RESEARCH METHODS
Economic statistics
Supply chain analysis
Production function
Identifying competitive
advantage
Expert in-depth interview
SWOT
Financial planning
IMPACTS OF EACH
FACTOR
Support
services
Collectors
- Logistics
- Finance
-Techical
issues
Input
suppliers
Shrimp
farmers
Processing
and exporting
establishments
Wholes
alers
Retailers
Domestic
Consu-
mers
MODEL OF THE FARMED SHRIMP SUPPLY CHAIN
Fin
an
cia
lF
low
s
In
form
ati
on
Flo
ws
Valu
e C
reati
ng
process
Ph
ysic
al
Flo
ws
Collectors
- Logistics
- Finance
-Techical
issues
Input
suppliers
Shrimp
farmers
Processing
and exporting
establishments
Wholes
alers
Retailers
Domestic
Consu-
mers
MODEL OF THE FARMED SHRIMP SUPPLY CHAIN
Fin
an
cia
lF
low
s
In
form
ati
on
Flo
ws
Valu
e C
reati
ng
process
Ph
ysic
al
Flo
ws
Supply chain
management
Figure 2.1. Research framework for the supply chain of farmed shrimp
in Quang Nam province
The systematic approach was adopted in the study of CCSPTN. The research
framework for CCSPTN in Quang Nam province is the integration of conventional supply
chain and the perspective of value added in Michael Porter’s value chain. This reflects the
intimate connection between the analysis of the shrimp supply chain/ value chain and
economic efficiency and competitiveness of the farmed shrimp industry to propose solutions
to improve the supply chain, increase economic efficiency, competitiveness and develop the
shrimp farming industry in a sustainable manner.
36
2.4. Research methods
The survey involved 270 households in 9 communes representing 3 localities: Nui
Thanh district, Thang Binh district and Hoi An city. Three communes were selected from
each locality, 30 households/commune accounting for 25% - 30% of the shrimp farming
households in each commune.
The input suppliers and shrimp consumers were selected through the use of random
sampling: 10 hatcheries, 5 feed establishments inside the province, 5 feed establishments outside
the province, 5 shrimp seed establishments inside the province, 10 feed and veterinary drugs
dealers level 1, 10 feed and veterinary drugs dealers level 2, 10 big collectors, 10 small collectors,
10 wholesalers outside the province, 6 wholesalers inside the province, 10 retailers outside the
province, 10 retailers inside the province, 10 seafood processing and exporting establishments
outside the province, and 10 processing and exporting establishments inside the province.
The information sources and secondary date were collected from Quang Nam
Department of aquaculture, Quang Nam Province’s Department of Agriculture and rural
development, Quang Nam Department of Trade and Industry, office of agriculture and rural
development in districts, and cities in the province, Centre of fishery extension, Statistical
yearbook of Quang Nam province. The author also consulted the scientific reports related to
shrimp farming activities.
The primary data were collected from the survey conducted at hatcheries and shrimp
seed suppliers, feed production establishments, veterinary drugs to prevent and treat shrimp
diseases dealers, shrimp farmers, collectors, seafood processing and exporting companies,
wholesalers and retailers.
The data were processed using main methods including economic statistics, financial
planning, supply chain analysis, identifying competitive advantage, production function,
expert interview, and SWOT matrix analysis.
37
CHAPTER 3
CURRENT SITUATION OF THE FARMED SHRIMP SUPPLY
CHAIN IN QUANG NAM PROVINCE
3.1. The analysis of the farmed shrimp supply chain in Quang Nam Province
3.1.1. The structure of CCSPTN in Quang Nam Province
Diagram 3.1. Overall diagram of CCSPTN in Quang Nam Province
Source: synthesized from the survey results in 2012
In CCSPTN in Quang Nam province, shrimp farmers are central actors producing
shrimp for exports and consumption markets inside and outside the province. On the basis
of the flows of material products through shrimp farmers, CCSPTN in Quang Nam province
is divided into: upstream flows and downstream flows
Shrimp seed suppliers
12,7%
95,6%
66,7%
33,3%
87,4%
65,8% Big collectors
in the
province Wholesalers inside the
province
Shrimp farmers
Hatcheries outside the
province sell directly to
famers
Hatcheries outside the
province sell indirectly
to farmers
Feed suppliers inside
the province
Veterinary drugs
outside the province
Dealers level 1
Dealers level 2
Seafood processing
and exporting
companies
Foreign importers
Foreign consumers
Wholesalers outside
the province
Retailers
outside the
province
Consumers outside
the province
Retailers inside the
province
Consumers inside the
province
Small collectors
87,3%
4,4%
8,5% 4,1%
34,2%
Feed suppliers
outside the
province
100%
6 5,5% 34,5%
Dealers level 1
Veterinary drugs
establishment outside the
province
Feed production
establishment outside the
province
Hatcheries outside the
province sell indirectly to
farmers
Shrimp farmers
Dealers level 2
Shrimp seed nurseries
Hatcheries outside the
province sell directly to
farmers
63,8% 36,2%
66,7%
33,3%
Feed production
establishments inside
the province
38
Diagram 3.2. The upstream flows of CCSPTN in Quang Nam province
The upstream flows of CCSPTN reflect the relationship between main input
suppliers: shrimp seed, feed, veterinary drugs. According to the survey, the shrimp seeds are
directly or indirectly supplied to the farmers by the hatcheries outside the province. The
hatcheries with brandnames like: South Central Seafood investment Ltd Company, Viet-Uc
Ltd Company,... sell shrimp seeds directly to shrimp farmers, accounting for 63.8% the
volume of shrimp seeds provided to the whole province. The remaining supply of shrimp
seed accounting for 36.2% is from the hatcheries outside the province, sold indirectly
through shrimp seed nurseries in Quang Nam province. The shrimp feed and veterinary
drugs are not sold directly from the production establishments to farmers, but through the
medium of their systems of dealers.
Diagram 3.3. Flows of shrimp products for exports
Based on the ratio of the shrimp consumed in various types of markets, it can be seen
that the downstream flows of CCSPTN in Quang Nam province consist of 2 main flows of
distribution: the flows of products for exports accounting from 87.4% and the flows of
products consumed outside the province accounting from 8.5% of the total volume of
farmed shrimp provided by big collectors. The flows of products consumed within the
province make a low consumption proportion of 4.1%. Therefore, this flow does not
represent the target market of the shrimp farmers. The thesis only focused on 2 main flows
of product consumption: the flows of products for exports and the flows of products
consumed outside the province.
Diagram 3.4. The flows of shrimp products consumed outside the province
The flows of shrimp consumption outside the province reflect the shrimp
consumption in Da Nang, Quy Nhon, Quang Ngai. Big collectors sell shrimp to wholesalers
Foreign
consumers
Processors and
exporters
Shrimp
farmers
Big collectors Foreign
importers
87,4% 100% 100% 95,6%
1.1
8,5%
Wholesalers
outside the
province
Shrimp
farmers
Big
collectors
Consumers
outside the
province
Small
collectors 4,4%
34,2%
95,6%
Retailers
outside the
province
2.2
2.1
39
in wholesale markets outside the province at the ratio of 8.5% of the total volume purchased
at shrimp farmers. At the wholesale markets, wholesalers sell shrimp to retailers/hawkers in
local markets. For the small collectors, they are local residents and purchase under 1 ton of
shrimp to supply for retailers outside the province, usually acquaintances, at the ratio of
4.4% of the shrimp volume provided by shrimp farmers. They tend to use motorbikes for
transportation, products purchased can be frozen shrimp or fresh raw shrimp. Due to its
small consumption volume, the thesis only focused on analyzing the flows of products in
(2.1), for it is the main flows of product consumption, representing the consumption markets
outside the province.
3.1.2. The value creating process in CCSPTN in Quang Nam
3.1.2.1. Shrimp farmers
To produce 1 ton of shrimp, shrimp farmers in Thang Binh district paid a investment
cost of 76.88 million dongs, shrimp farmers in Nui Thanh paid 71.15 million dongs, and
those in Hoi An paid the highest cost of 80.84 million dongs/ton. In terms of investment
cost per ha of shrimp farming, farmers in Nui Thanh district paid highest cost of 454.25
million dongs/ha, those in Hoi An paid the least of 197.01 million dongs/ha. The reason is
that the shrimp productivity in Hoi An was low leading to highest average investment cost.
The benefit –cost ratio per ton in Nui Thanh district was highest (0.37), 0.05 higher than the
average level. This reality proves that shrimp farming in Nui Thanh district obtained higher
economic efficiency than in the other two districts.
The total cost of value creating process/household/ton of shrimp is the sum of total
production cost deducting the expenses of shrimp seeds and feed provided by the shrimp
seed and feed establishment, which is 24.6 million dongs (including the cost of shrimp
farming activities is 24.48 million dongs and marketing cost of 0.12 million) creating value
profit of 24.16 million dongs/ton. Thanks to the collaboration between input and output
actors, the shrimp farmers can reduce the transportation and marketing cost, which in turn
helps to increase the profit.
3.1.2.2. The value creating process of actors involved in the upstream flows of CCSPTN
(1) Hatcheries outside the province
The value creating process of hatcheries outside the province includes: (i) breeding
activities, (ii) marketing activities. According to the survey data analysis, for every ton of
shrimp, hatcheries sell 12.54 million dong shrimp seed on average, in which the production
40
cost is 9.58 million dongs and the profit obtained is 2.96 million dongs. The economic
efficiency of the direct sale of 1 ton of shrimp from hatcheries outside the province to
farmers is higher than that of shrimp seed nurseries. The reason is that the average price of
ten thousand shrimp seeds sold directly to farmers is 529,034 thousand dong, in which the
total cost/ten thousand PL12 shrimp is 401,046 thousand dong accounting for 75.84% of the
selling price and the cost of buying stock is 168,028 thousand dong accounting for 33.1% of
the selling price. In comparison, the average price offered by the shrimp nurseries is
310,000 thousand dong/ten thousand shrimp seeds (0.6 lower than direct selling price by
hatcheries), in which the total cost is 257,074 thousand dong accounting from 83.13% of the
selling price.
(2) Feed production establishments for shrimp farming industry
According to the survey results, for every ton of farmed shrimp, feed production
establishment recorded a turnover of 34.9 million dongs, in which the total production cost
is 21.98 million dongs accounting for 62.98%, the average profit is 12.92 million dong
accounting from 37% of the turnover, the benefit-cost ration is 0.59, in which material costs
make up a large proportion of 23.65% of the turnover. The total cost of value creating
process is 13.73 million dongs, including costs of production activities, transportation,
advertisement and marketing. The feed production establishments inside the province
achieve higher economic efficiency over 1 dong spent than the feed production
establishment outside the province. However, in this competitive market, it is necessary to
continuously improve product quality to ensure the sustainable and high economic
efficiency.
(4) The system of feed dealers for shrimp farming industry
According to the survey results, the average turnover/dealer/ton of shrimp is 2.91
million dong, in which the cost of value creating process coinciding with the cost of
business operation of the dealer is 2.45 on average. The average profit obtained in 0.45
million dong. The profit/ton of shrimp obtained by dealers level 1 is higher that by dealers
level 2. In reality the income discount of dealers at level 2 is 7% lower than dealers level 1,
combined with lower consumption volume leading to higher costs distributed/ton of feed.
The average benefit-cost rate of the dealers is 0.18. This is the reward of the feed production
establishments offering to dealers to promote consumption and reduce inventory products.
3.1.2.3. The value creating process of actors involved in downstream flows of CCSPTN
41
(1) Big collectors
The value creating process of big collectors is through the activities of collecting and
selling shrimp to seafood processing and exporting establishments or to wholesalers. The average
selling price of 1 ton of shrimp to seafood processing and exporting establishments is 116.34
million dong/ton, in which the average total investment cost is 103.69 million dongs/ton and the
average profit is 12.65 million/ton. Shrimp supplied for the markets outside the province for the
average price of 117.41 million dong/ton, in which the average total investment cost is 103.19
million/ton. The difference in shrimp’s selling price and collecting cost between actors is due to
different requirements on shrimp quality, shrimp products (frozen shrimp or fresh raw shrimp),
size, location, selling time. However the actual difference in reality is not big between different
flows of products in the markets.
(2) Seafood processing and exporting establishments
A ton of processed shrimp requires 1.5 ton of raw shrimp. The investment cost is 120.01
million dong/ton, the average selling price is 197.87 million dong/ton of processed shrimp, in
which the price of raw shrimp is 132.57 million dong/ton, the average profit is 12.5 million
dong/ton of raw shrimp. Among the production costs, the cost of raw shrimp is 116.34 million
dong/ton accounting for 87.76% of the selling price, the processing cost is 3.67 million dong/ton
accounting for 2.8% of the selling price. The return rate on 1 dong investment cost is 0.1, lower
economic efficiency compared to other actors in the chain like collectors or shrimp farmers. The
cost of value creating process of the processing and exporting establishments is 3.73 million
dong/ton of raw shrimp. The price of raw shrimp is the value created by the previous actors in
CCSPTN for the processing and exporting establishments.
(3) Wholesalers outside the province
Through the buying and selling activities, the actors of wholesales add the storage
and transportation cost for retailers. The total cost paid by wholesalers is 122.88 million
dong/ton, in which the cost of raw shrimp is 117.41 million dong/ton, accounting for
84.55%, the cost of trading activities is 5.47 million dong/ton including the costs of
electricity to run freezer, additional ice, delivery transportation to retailers/hawkers in local
markets. Among the cost of value creating process, the average transportation cost/ton of
shrimp paid by wholesalers is 60,000 thousand dong higher than that of big collectors.
Especially, in case of prolonged storage, the difference reaches 740,000 thousand dong/ton.
The main reason is due to the dependence on the daily consumption of retailers, which leads
to the wholesalers obtaining lower economic efficiency than big collectors. There should be
42
measures to enhance the value added to the wholesalers.
(4) Retailers outside the province
The average turnover is 155.65 million dong/ton, in which the average total
investment cost is 143.75 million/ton accounting for 92.35% and the average profit is 11.9
million dong/ton accounting from 7.65% of the turnover; the average cost of purchasing raw
shrimp is 138.87 million dong/ton, accounting for 89.22% of the turnover. The average total
cost of retailing activities is 4.88 million dong/ton accounting from 3.14% of the turnover.
The return rate on the investment cost is 0.08 lower than wholesalers lying in the same
flows of products consumed outside the province. The cost of value creating process is the
cost of retailing activities at 4.88 million dong/ton.
The analysis of the value creating process of each actor in CCSPTN in Quang Nam
province indicates that: each actor undertakes a number of value creating activities when the
flows of material products go through it, transforms the raw materials and natural resources
to shrimp product, processed shrimp products meet the various need of consumers; in the
whole CCSPTN only farmers produce shrimp, other actors are suppliers, distributors
bridging the input and output factors to the markets; the results and economic efficiency of
each actor depend on the organisation of its value creating process.
3.1.3. The flows of finance in the farmed shrimp supply chain in Quang Nam
3.1.3.1. The payment process and economic efficiency of the chain
Table 3.1. The performance of finance activities of the actors in CCSPTN in
Quang Nam province
(per 1 ton of shrimp ) unit: million dong
Justification Hatcheries
Feed
production
establishments
Feed
dealers
Shrimp
farmers
Big
collectors
Processors
and
exporters
Wholesalers
Outside
The
province
Retailers
outside
the
province
Value
chain
I. Flow 1.1
1. Turnover (selling price) 12,54 34,90 2,90 99,24 116,34 132,57 - - 132,57
2. Difference in shrimp price(%) - - - 100,00 117,40 113,95 - - 133,59
3. Production cost 9,58 21,98 2,45 74,94 103,69 120,01 - - 66,73
4. Benefit 2,96 12,92 0,45 24,30 12,65 12,56 - - 65,84
5. Benefit/cost 0,31 0,59 0,18 0,32 0,12 0,10 - - 0,99
II. Flow 2.1
1. Turnover (selling price) 12,54 34,90 2,90 98,12 117,41 - 138,87 155,65 155,65
2. Difference in shrimp price(%) - - - 100,00 118,48 - 111,08 119,35 158,63
3. Production cost 9,58 21,98 2,45 74,94 103,19 - 122,88 143,75 74,03
4. Benefit 2,96 12,92 0,45 23,18 14,22 - 15,99 11,90 81,62
5. Benefit/cost 0,31 0,59 0,18 0,31 0,14 - 0,13 0,08 1,10
43
Source: the author’s calculation
In Flow 1.1, the difference between the end actors and farmers is 33.77%. Similarly, in
Flow 2.1 the price difference between farmers and the end actor is 58.63%. The shrimp selling
price to the final consumer is 155.65 million dong/ton higher than the export price (132.57
million dong/ton), which leads to the low shrimp consumption in the domestic market. In the
flow 2.1, 1 dong of investment gain 1.10 dong of profit, higher economic efficiency than in
flow 1.1, yet limited consumption of 8.5% compared to the yield provided for the market by
shrimp farmers. The analysis of the payment process between the actors shows that shrimp
farmers are the central actors earning the highest return rate on the investment (from 23.18
million dong to 24 million dong/ ton of harvested shrimp). This rate is higher than that of other
actors in the chain and shrimp farmers also obtain higher economic efficiency than actors in the
downstream flow in CCSPTN in Quang Nam. Based on the survey data analysis, shrimp
farmers earn the lowest total mixed income (on average 188.7 million dong/household) and so
the mixed income per capita is also lowest reaching 80 million dong/person/year.
3.1.3.2. The financial position and profit distribution among actors in CCSPTN
It can be seen from Table 3.2 that in CCSPTN for markets outside the province, the
cost of value creating process in each chain varies. In this chain, shrimp farmers have
highest cost of value creating process (39.9%) including wages, expenses of veterinary
drugs and chemical substances, marketing cost. However, the profit earned is not
comparable with the financial position of shrimp farmers (28.4%). Similarly in CCSPTN for
export markets (Table 3.3), shrimp farmers pay the cost of value creating process at 24.6
million dong/ton accounting for 45.2%, yet the earned profit is only 24.3 million dong/tan
accounting for 36.9% of the total chain value while the other actors in downstream flow
obtain a profit proportion higher than their financial position.
Table 3.2. The proportion of the value creating cost, profit earned by actors in
CCSPTN for markets outside the province
(per ton of shrimp) unit: million dong
Actors
Cost
price
Profit
Total
production
cost
Value
creating
cost
Proportion
of value
creating
cost
Profit Profit
proportion
1. Hatcheries 9,58 5,81 9,43 12,54 2,96 3,63
2.Feed production
establishments 21,98 13,32 21,62 34,90 12,92 15,83
3. Feed dealers 2,45 2,45 3,98 2,90 0,45 0,55
44
4. Shrimp farmers 74,94 24,60 39,94 98,12 23,18 28,40
5. Big collectors
103,19 5,07 8,23
117,4
1 14,22 17,42
6. Wholesalers outside the
province 122,88 5,47 8,88
138,8
7 15,99 19,59
7. Retailers outside the
province 143,75 4,88 7,92
155,6
5 11,9 14,58
Total 61.60 100,00 81,62 100,00
Source: survey data in 2012
The data analysis indicates that to improve CSPTN to increase economic efficiency,
competitiveness, and sustainable development of the shrimp farming industry, it is critical to
adopt effective solutions to elevate the value added for shrimp farmers. These solutions
include micro-economic and macro-economic management to create best conditions to
simultaneously resolve the benefits of shrimp farming and achieve the optimization of
customers’ benefits or maximise the value added of the whole supply chain of farmed
shrimp in Quang Nam province.
Table 3.3. The proportion of value creating cost, profit earned by actors in
CCSPTN for export markets
(per ton of shrimp ) unit: million dong
Actors
Cost
price
Profit
Total
production
cost
Value
creating
cost
Proportion
of value
creating
cost
Profit Profit
proportion
1. Hatcheries 9,58 5,81 10,70 12,54 2,96 4,50
2.Feed production
establishments 21,98 13,32 24,50 34,90 12,92 19,63
3. Feed dealers 2,45 2,45 4,50 2,90 0,45 0,68
4. Shrimp farmers 74,94 24,60 45,30 99,24 24,30 36,91
5. Big collectors 103,70 4,46 8,20 116,30 12,64 19,20
6. Wholesalers outside the
province 120,01 3,67 6,80 132,60 12,56 19,08
Total 54,31 100,00 65,83 100,00
Source: survey data in 2012
3.1.4. The flows of information in the chain
- The level of vertical information exchange: The level of information shared among
actors reflects the quality of the information flow which is smooth or blocked in the shrimp
supply chain. In CCSPTN in Quang Nam province, the level of information exchange between
actors in the relationship of partners is varied.
- Among the upstream actors: The survey of 4 upstream actors (including shrimp
45
farmers) in CCSPTN in Quang Nam shows that there are two actors having the average
level of information exchange with the other two, they are shrimp farmers (3.019) and feed
production establishments /dealers
- Among the downstream actors: The survey of 5 downstream actors (including
shrimp farmers) shows that there are 3 actors having average level of information exchange
with actors in their direct relationship, they are big collectors, wholesalers outside the
province and the seafood processing and exporting establishments.
- Level of horizontal information exchange: There is weak communication in each
stage.
In general, the level of information exchange in CCSPTN in Quang Nam is limited, the
information shared mainly through direct trading relationship between actors in the chain. This is
one of the reasons leading to the lack of transparency, congestion of the information flow,
affecting the collaboration between actors, economic efficiency reduction and constraints to
maximise the chain value.
3.1.5. The collaboration between the actors in the supply chain
- Among the upstream actors: Through the survey of 3 upstream actors in CCSPTN
in Quang Nam, the collaboration between actors were self-evaluated as weak (average level
<2.6)
- Among the downstream actors: The survey results show that the collaboration
between downstream actors is not yet high. Among the 5 actors surveyed, there are 3 actors
namely big collectors, wholesalers outside the province, the processing and exporting
establishments reaching the relatively average level (2.9, 2.7 and 3.1 respectively)
- Horizontal collaboration not yet close and lacking in sustainable links
In short, the analysis of the collaboration of both upstream and downstream actors in
CCSPTN in Quang Nam shows that the level of cooperation between actors is low, mainly
depending on the direct relationships born during the trading activities. This is the embryonic
sign of incoherent and partial relationship, yet to reach the level of vertical integration, which
consequently leads to reducing economic efficiency and competitiveness of shrimp farming in
Quang Nam province.
3.2. The key input factors affecting productivity and economic efficiency of shrimp
46
farming
The regression coefficients of the independent variables such as seed, industrial feed,
labor wage, quarantine, separate water supply system and training were positive and had
the significance level of over 90%
Table 3.4. The estimated results of Cobb-Douglas production function of shrimp farmers adopting
intensive farming season 1 and intensive farming season 2 in Quang Nam
Variables and coefficients
Intensive farming
season1
Intensive farming
season 2
Coefficients T-stat Coefficients T-stat
Constant (C) -2,946**
-2,523 -2.866**
-2,152
LnX1- Ln(stocking density) 0,205***
4,176 0,193***
3,474
LnX2- Ln(feed) 0,642***
17,360 0,588***
17,326
LnX3- Ln(labor) 0,350**
1,998 0,333*
1,658
D1- Quarantine 0,088*
1,704 0,129**
2,235
D2- Farming pond environment -0,071*
-1,665 -0,188***
-4,183
D3- Irrigation system 0,098**
2,087 0,086*
1,763
D4- Diseases -0,090*
-1,883 -0,107***
-2,159
D5- Training 0,086**
1,999 0,084*
1,798
F-Statistic 125,072***
108,355***
R2 0,7931 0,7720
R2 -Adjusted R Square 0,7868 0,7649
Observations 270 265 Source: survey data in 2012
Notes:(*) statistically significant 90% (**) statistically significant 95% (***) statistically
significant 99%,
The regression coefficients of farming pond environment, diseases decrease shrimp productivity
with the statistical significance of 90% or above in both farming models. This means that shrimp
productivity decrease or increase positively with individual regression coefficients. Diseases and
farming pond environment are the two prominent factors affecting shrimp productivity. Provided that
the other factors are constant, if diseases occur and are timely controlled, the productivity reduces (8.6%
for intensive farming crop 1, 10.45% for intensive farming crop 2) in comparison with shrimp farms
having no diseases or infection. Likewise, if the farming pond water is contaminated, the productivity
reduces (6.8% for intensive farming crop 1, 17.14% for intensive farming crop 2) in comparison with
uncontaminated shrimp ponds. Therefore frequent pond treatment and disease prevention is a must in
white-leg shrimp’s intensive farming, crop 2.
Table 3.5. Marginal productivity of primary inputs to shrimp farming in Quang Nam
Inputs unit X mean
Marginal
productivity- MPxi
(ton/ha)
Marginal
product value- Movie
(mill. dong)
47
crop 1 crop 2 crop 1 Crop 2
X1- Stocking density Ten thousand /ha 125,56 0,009 0,007 0,869 0,696
X2- Feed ton/ha 7,47 0,514 0,318 51,138 31,358
X3- Labor Worked hours/ha 706,16 0,003 0,002 0,267 0,211 Source : household survey data
Based on the production function established corresponding to each season of intensive
farming in a year, the marginal productivity and marginal product value of each input factor were
identified as in Table 3.5. From that, economic efficiency of each input factor was also calculated.
Economic efficiency of input factors was indicated in Table 3.6, with the average selling
price of 99.1 million dong/ ton of shrimp, if ten thousand shrimp seeds/ha is added, intensive
farming crop 1 earns a profit of 0.352 million dong, and intensive farming crop 2 is 0.179 million
dong. Increasing 1 ton of feed/ha will bring about a profit of 25.5 million dong and 5.6 million
dong for intensive farming crop 1 and crop 2 respectively. Increasing one day of hired work will
bring about a profit of 0.166 million dong and 0.110 million dong for intensive farming crop 1
and crop 2 respectively. Comparison between the two crops shows that the three factors of
stocking density, labor and feed bring about higher investment efficiency for intensive farming
crop 1 than for crop 2.
Table 3.6. Economic efficiency of primary input factors for white-leg shrimp farming
in Quang Nam province
Input factors
Movie
(mill. dong) Pxi
(mill. dong)
Movie-Pxi
(mill. dong)
Crop 1 Crop 2 Crop 1 Crop 2
X1- Stocking density 0,869 0,696 0,517 0,352 0,179
X2- Feed 51,138 31,358 25,682 25,456 5,676
X3- Labour 0,267 0,211 0,101 0,166 0,110
Source: household survey data
As can be seen from the above analysis, to achieve economic efficiency in white-leg
shrimp farming in Quang Nam, the shrimp farmers should focus on intensive farming crop 1
in low land areas, increasing stocking density, worked hours to take care of shrimp at all
stages from feeding, aeration monitoring, checking water color, preventing diseases and
giving timely treatment to pond environment. It is advisable to select high quality feed to
increase shrimp productivity, shrimp product value and economic efficiency.
3.3. Competitive advantage of farmed shrimp in Quang Nam Province
48
3.3.1. DRC coefficient of farmed shrimp products
The results below show that both farmed shrimp in both crop 1 and crop 2 has high
competitive advantage because all DRC/SER are smaller than 1 (DRC of crop 1 is 0.4892,
of crop 2 is 0.5853). However, farmed shrimp in crop 1 has higher competitive advantage
than in crop 2. The reason is that farmed shrimp in crop 1 has high yield, low level of
environmental pollution and diseases, no pressure of floods which results in high
investment.
Table 3.7. DRC of intensively farmed shrimp in two crops for exports in Quang Nam province
(per a ton of farmed shrimp)
No Criteria Unit Crop 1 Crop 2
I Endogenous factors that can’t be purchased
and domestically produced 1000VND 66689,51 80805,27
II Imported factors USD 241,62 265,81
III Cost of collecting and processing 1000VND 8180,00 8180,00
IV Output value USD 9500,00 9500,00
V DRC 12,23 14,63
VI Official rate USD 20,83 20,83
VII Shadow exchange rate USD 24,99 24,99
VIII DRC/SER times 0,4892 0,5853
Source: survey data and the author’s calculation
This coefficient shows that in case of crop 1 if $ 0.4892 investment is spent, within
the average duration of 80 days, the harvested and exported shrimp products will earn an
added foreign currency of 1 USD while in case of crop 2 the investment spent is 0.5853 for
the same value added. This finding has a significant impact on the local economic strategy
development.
3.3.2. DRC sensitivity analysis
Table 3.8. DRC sensitivity analysis of intensively farmed shrimp for exports in two
crops in Quang Nam province
No. Change in cost of price of exporting shrimp Crop 1 Crop 2
I Scenarios 0,4892 0,5853
II Domestic production cost
2.3 Increase 15% 0,5612 0,6677
2.4 Increase 30% 0,6331 0,7529
III Exporting cost
3.3 Increase 15% 0,4921 0,5863
3.4 Increase 30% 0,4950 0,5901
IV Price of exporting shrimp
4.3 Decrease 15% 0,5796 0,6906
49
4.4 Decrease 30% 0,7109 0,8480
V Cost and price of exporting shrimp
5.3 All the costs increase 15% and the price of exporting shrimp decreases 15% 0,6695 0,7977
5.4 All the costs increase 30% and the price of exporting shrimp decrease 30% 0,9359 1,1168
Source: Survey data and the author’s calculation
From the table 3.8, the scenarios of change in input and output costs are unfavourable for
shrimp farming in local areas in Quang Nam province, yet the ratio of DRA/SER is always under
1. However, when domestic production cost and exporting cost increase 30% and the price of
exporting shrimp decrease 30%, shrimp farming in crop 2 loses its comparative and competitive
advantage. On the other hand, since the collaboration between actors in the chain is not binding
tightly, the increase of input cost and decrease of output price will unavoidably have adverse
impacts on shrimp farmers in Quang Nam.
With the average export price of white-leg shrimp: in crop 1 the ratio DRC/SER is
always under 1, in crop 2 in 2008 and 2009 the ratio is bigger than 1 due to the increased input
costs and decreased exporting price compared to that in 2007, which led to a reduction on
economic efficiency and competitiveness. This is the strong scientific evidence for the state
governance agencies to take into consideration to encourage the shrimp farmers in low-lying
areas to adopt one farming crop to ensure the economic efficiency and competitiveness.
3.4. Overall assessment of the current situation of the shrimp supply chain in Quang Nam
- The survey results indicated that the shrimp supply chain in Quang Nam province
consists of a number of actors, each actor is a chain performing specialized activities in each
stage. First and foremost, shrimp farmers are regarded as the central actors and the sole actors that
produce shrimp products to serve the market consumption.
- Each actor in the chain holds an important role in creating the value of the chain. Through its
own activities, the actors contribute to the value added to the shrimp product in the supply chain. In
downstream flows of CCSPTN in Quang Nam, shrimp farmers have highest economic efficiency and
financial position, yet the benefits are not yet properly distributed.
- The analysis of factors affecting shrimp productivity and economic efficiency shows that:
the factors of stocking density, labor, amount of feed, quarantine, training and investment in
irrigation system contribute to increasing shrimp productivity. Diseases and contaminated farming
pond reduce shrimp productivity. The factors of stocking density, labor, amount of feed also
contribute to increasing economic efficiency of shrimp farmers.
- The farmed shrimp products in Quang Nam province have competitive advantage with
DRC/SER<1. However, if the input costs and output price increase and decrease respectively over
30%, farmed shrimp products’ competitiveness will be low. The reality shows that crop 1 yielded
higher economic efficiency and competitive advantage than crop 2. When the average export price
reaches US$ 4.27 thousand/ton, the farmed shrimp in crop 2 loses its competitive advantage.
50
- The factors of natural conditions, market, shrimp farmers, government and state
governance agencies in Quang Nam, the factors in CCSPTN management as well as factors of
infrastructure in the cultured areas and support services have impacts on the operation of CCSPTN
in Quang Nam. In particular, factors of cultured area planning, scale and farming area, weak
irrigation system, unqualified logistics support, poor transportation systems are hindrances to the
operation of CCSPTN in Quang Nam. These limitations need to be addressed to improve the
supply chain to increase economic efficiency, competitiveness and to develop the shrimp farming in
a sustainable manner.
CHAPTER 4
SOLUTIONS TO IMPROVE THE SHRIMP SUPPLY CHAIN IN
QUANG NAM PROVINCE
Accurate assessment of the current situation of CCSPTN in Quang Nam and the
domestic and international shrimp consumption trend serves as a strong foundation for
effective solutions to improve CCSPTN in Quang Nam Province.
The proposed solutions to improve CCSPTN in Quang Nam province were also
based on perspectives, orientation of improving CCSPTN to increase economic efficiency,
competitiveness and to sustainably develop the shrimp farming industry as well as the
analysis of SWOT matrix about the strengths, weaknesses, opportunities, threats of the
shrimp farming in Quang Nam province.
The key groups of solutions to improve CCSPTN in Quang Nam province includes
4.1. Solutions to each actor in the chain
This includes (i) increasing shrimp productivity and economic efficiency for the
shrimp farmers, (ii) enhancing the collaboration and information exchange for each actor in
the chain, (iii) taking food hygiene and safety into consideration in each actor in the chain
4.2. Solutions to state governance agencies in Quang Nam province
This group of measures includes (i) planning the shrimp cultured areas towards
sustainable development, ensuring the stability, quality and efficiency of the chain, (ii)
upgrading the infrastructure of the cultured areas towards increasing economic efficiency,
competitiveness and sustainable development; (iii) financial policy to improve CCSPTN;
(iv) promoting the role of community groups, towards establishing cooperatives of shrimp
farming services to resolve benefits for shrimp farmers; (v) improving human resources
serving in the shrimp farming industry; (vi) expanding domestic shrimp consumption
markets and export markets; (vii) strengthening state management of CCSPTN, creating
favorable conditions for the sustainable development of shrimp farming industry.
CONCLUSIONS
The analysis model of CCSPTN focused on analysing actors involved in the supply
51
chain, the transformation of flows of material products, value creating process, payment
process, information exchange and collaboration in the chain. In which, value creating
process is the most important one and also the ultimate purpose of the chain. The analysis of
CCSPTN did not only analyse its actors but also groups of factors affecting the operation of
the chain. The thesis adopted appropriate research methods including supply chain analysis,
production function analysis, competitive advantage to solve the core relationship of supply
chain/ value chain in intimate connection with economic efficiency and competitiveness of
the shrimp farming industry.
The research results indicate that the shrimp products has to go through many
intermediaries to the hand of consumers, which are collectors, wholesalers, retailers, seafood
processors and exporters, foreign importers. The supply chain aims to satisfy the shrimp
demand for export markets and domestic markets outside and inside the province. There are
two main flows of high shrimp consumption, flows of shrimp exports and shrimp consumption
outside the province provided by big collectors accounting from 87.4% and 8.5% respectively.
Each actor able to promote its position and roles in the value creating process of the farmed
shrimp supply chain, which is reflected through the performance and economic efficiency of
each actor and the whole supply chain.
However, there are still limitations as follows:
When the input costs increase and the exporting price decreases by 30% compared to the
current conditions, the farmed shrimp products in Quang Nam fall to disadvantaged situation for
intensive shrimp farming in crop 2 and in some local areas. The flows of information exchange are
not perfect, actors sharing information mainly through direct trading relationships, which affects the
operation of the supply chain in each chain, especially between shrimp farmers and collectors. The
collaboration of actors in the chain is weak, not yet establishing close links and strategic alliance
through vertical integration.
The analysis of the flows of finance and value creating process in CCSPTN indicates that all
the actors obtained high economic efficiency, especially shrimp farmers. However, despite the
important financial position in the supply chain, shrimp farmers are not given comparable benefits
while the intermediaries such as big collectors, wholesalers, retailers, seafood processors and
exporters contribute low proportion of value creating costs, but gain many times higher mixed
income per capita than shrimp farmers.
The survey results show that all the factors affecting the operation of CCSPTN in Quang
Nam, in which factors of cultured area planning, infrastructure and support services, production
scale (capital, farming area), food hygiene and safety are the bottleneck situation hindering the
performance of the supply chain. On the basis of research results, the author proposed
synchronous, systematic, highly feasible and complementary groups of solutions to improve the
CCSPTN in Quang Nam province.
52
53
THE AUTHOR’S PUBLICATIONS RELATED TO THE
RESEARCH TOPIC
1. Mai Văn Xuân, Lê Văn Thu (2012), “Analysing the supply chain of farmed shrimp in the
area of Thang Binh district, Quang Nam province”, Hue University’s journal of science,
72B(3), p.413-425.
2. Lê Văn Thu, Mai Văn Xuân (2014), “The economic efficiency of white-leg shrimp
farming of farming households in the area of Quang Nam province” , Da Nang University’s
journal of science and technology, Da Nang University, Vol. 4(77) 2014,p.141-144.