thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web...

95
1. Chi tiết trong tác phẩm văn học Theo Từ điển thuật ngữ văn học, chi tiết nghệ thuật là: “Các tiểu tiết của tác phẩm mang sức chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng” . Cũng theo nhóm tác giả này thì: “Tuỳ theo sự thể hiện cụ thể, chi tiết nghệ thuật có khả năng thể hiện, giải thích, làm minh xác cấu tứ nghệ thuật của nhà văn, trở thành tiêu điểm, điểm hội tụ của tư tưởng tác giả trong tác phẩm. Chi tiết nghệ thuật gắn với quan niệm nghệ thuật về thế giới con người, với truyền thống văn hoá nghệ thuật nhất định.” (2) Như vậy, chi tiết nghệ thuật gắn với quan niệm nghệ thuật và quan niệm nhân sinh của nhà văn. Đối với người đọc khi nhận biết được các chi tiết đắt giá trong tác phẩm, chúng ta có thể làm sáng tỏ được ý nghĩa của hình tượng nghệ thuật, tư tưởng chủ đề của tác phẩm và hiểu rõ ý đồ sáng tạo của nhà văn. 2.2. Vai trò của chi tiết nghệ thuật trong truyện ngắn 2.2.1. Xây dựng cốt truyện Cốt truyện là hệ thống các sự kiện, (biến cố) xảy ra trong đời sống của nhân vật, có tác dụng bộc lộ tính cách, số phận nhân vật và làm sáng tỏ tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Đối với nhà văn, việc tạo nên cốt truyện là yếu tố đầu tiên của quá trình sáng tạo. Làm nên cốt truyện là các sự kiện. Làm nên sự kiện là các chi tiết. Chi tiết nghệ thuật “đóng vai trò vật liệu xây dựng làm tiền đề cho cốt truyện phát triển thuận lợi và hợp lí ” (2). Cốt truyện “Chí Phèo” hấp dẫn, tình tiết đầy kịch tính và luôn biến hóa, càng về cuối càng gay cấn với những tình tiết quyết liệt, bất ngờ. Nam Cao là người có biệt tài tạo dựng chi tiết cho truyện của mình. Góp phần tạo nên sự thành công cho kiệt tác “Chí Phèo” phải kể đến chi tiết bát cháo hành của Thị Nở dành cho Chí Phèo. Nó đã thúc đẩy cốt truyện phát triển và mở ra bước ngoặt trong cuộc đời của Chí. Sau khi ăn nằm với nhau như vợ chồng, thị Nở thương Chí bị ốm nên đã nấu cháo mang sang cho hắn. Đó là khoảnh khắc lột xác của một con quỷ để trở thành một con người. Đó là giây phút hạnh phúc duy nhất của một kẻ suốt đời bất hạnh. Bát cháo của Thị Nở đã làm tươi lại tâm hồn tưởng như đã hoàn toàn chai sạn của Chí. Bát cháo không chỉ là liều thuốc giải cảm, mà còn là liều thuốc giải độc tâm hồn. Vì đây là lần đầu tiên hắn được một người đàn bà cho, xưa nay muốn có ăn hắn “phải dọa nạt hay là giật cướp. Hắn phải làm người ta sợ”. Bát cháo đã cho Chí hiểu được một điều giản dị mà xúc động: Hóa ra trên đời này người ta có thể cho nhau ăn. Tình yêu mộc mạc, chân thành của Thị Nở đã 1

Transcript of thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web...

Page 1: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

1. Chi tiết trong tác phẩm văn họcTheo Từ điển thuật ngữ văn học, chi tiết nghệ thuật là: “Các tiểu tiết của tác phẩm mang sức chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng”. Cũng theo nhóm tác giả này thì: “Tuỳ theo sự thể hiện cụ thể, chi tiết nghệ thuật có khả năng thể hiện, giải thích, làm minh xác cấu tứ nghệ thuật của nhà văn, trở thành tiêu điểm, điểm hội tụ của tư tưởng tác giả trong tác phẩm. Chi tiết nghệ thuật gắn với quan niệm nghệ thuật về thế giới con người, với truyền thống văn hoá nghệ thuật nhất định.” (2)Như vậy, chi tiết nghệ thuật gắn với quan niệm nghệ thuật và quan niệm nhân sinh của nhà văn. Đối với người đọc khi nhận biết được các chi tiết đắt giá trong tác phẩm, chúng ta có thể làm sáng tỏ được ý nghĩa của hình tượng nghệ thuật, tư tưởng chủ đề của tác phẩm và hiểu rõ ý đồ sáng tạo của nhà văn.

2.2. Vai trò của chi tiết nghệ thuật trong truyện ngắn2.2.1. Xây dựng cốt truyện          Cốt truyện là hệ thống các sự kiện, (biến cố) xảy ra trong đời sống của nhân vật, có tác dụng bộc lộ tính cách, số phận nhân vật và làm sáng tỏ tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Đối với nhà văn, việc tạo nên cốt truyện là yếu tố đầu tiên của quá trình sáng tạo. Làm nên cốt truyện là các sự kiện. Làm nên sự kiện là các chi tiết. Chi tiết nghệ thuật “đóng vai trò vật liệu xây dựng làm tiền đề cho cốt truyện phát triển thuận lợi và hợp lí” (2).Cốt truyện “Chí Phèo” hấp dẫn, tình tiết đầy kịch tính và luôn biến hóa, càng về cuối càng gay cấn với những tình tiết quyết liệt, bất ngờ. Nam Cao là người có biệt tài tạo dựng chi tiết cho truyện của mình. Góp phần tạo nên sự thành công cho kiệt tác “Chí Phèo” phải kể đến chi tiết bát cháo hành của Thị Nở dành cho Chí Phèo. Nó đã thúc đẩy cốt truyện phát triển và mở ra bước ngoặt trong cuộc đời của Chí. Sau khi ăn nằm với nhau như vợ chồng, thị Nở thương Chí bị ốm nên đã nấu cháo mang sang cho hắn. Đó là khoảnh khắc lột xác của một con quỷ để trở thành một con người. Đó là giây phút hạnh phúc duy nhất của một kẻ suốt đời bất hạnh. Bát cháo của Thị Nở đã làm tươi lại tâm hồn tưởng như đã hoàn toàn chai sạn của Chí. Bát cháo không chỉ là liều thuốc giải cảm, mà còn là liều thuốc giải độc tâm hồn. Vì đây là lần đầu tiên hắn được một người đàn bà cho, xưa nay muốn có ăn hắn “phải dọa nạt hay là giật cướp. Hắn phải làm người ta sợ”. Bát cháo đã cho Chí hiểu được một điều giản dị mà xúc động: Hóa ra trên đời này người ta có thể cho nhau ăn. Tình yêu mộc mạc, chân thành của Thị Nở đã đánh thức nhân tính của Chí. Hết “ngạc nhiên thì hắn thấy mắt hình như ươn ướt”. Chí Phèo cảm động, rưng rưng nước mắt, có lẽ sau tiếng khóc chào đời hôm nay Chí Phèo mới biết khóc. Với Nam Cao, nước mắt chính là giọt nhân tính, chỉ có những người giàu nhân phẩm, có nhân tính mới biết khóc. Trong lòng Chí trào dâng bao cảm xúc của con người: “bâng khuâng”, “vừa vui vừa buồn. Và một cái gì nữa giống như là ăn năn”. Chí sám hối vì những việc mình đã làm trong hai mươi năm qua. Lần đầu tiên trong đời Chí thấy cháo hành ăn rất ngon. Thị Nở đã giúp anh cảm nhận được hương vị của tình yêu, tình bạn, tình mẹ. Chí thấy “lòng thành trẻ con…muốn làm nũng với thị như với mẹ”, cũng khao khát được yêu thương, chăm sóc. Và một câu hỏi rất hệ trọng đã day dứt lương tâm anh: “Hắn có thể tìm bạn được sao lại chỉ gây kẻ thù”. Thị Nở bằng một bát cháo hành đã đánh thức bản chất lương thiện của Chí Phèo: “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn”. Đó chính là khát vọng được hoàn lương. Mặc dù những giây phút hạnh phúc chỉ lóe lên rồi vụt tắt, nhưng hương vị của cháo hành mãi ám ảnh Chí, giúp anh chấm dứt những cơn mê muội dài mênh mông, sưởi ấm trái tim Chí để anh có đủ dũng cảm kết liễu kiếp sống của một con quỷ và bảo toàn thiên lương của một con người chân chính. Chỉ bằng một chi tiết nhỏ nhưng nhà văn đã dồn vào đó cả triết lý sâu sắc của mình: tình yêu có sức mạnh cảm hóa kì diệu, và con người hãy sống với nhau bằng tình yêu thương. Đồng

1

Page 2: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

thời, qua chi tiết này, Nam Cao cũng thể hiện niềm tin bất diệt vào bản chất tốt đẹp của người lao động, cái phần NGƯỜI trong mỗi người lao động đâu có thể tước đi một cách dễ dàng. Nếu không có chi tiết này, có lẽ “Chí Phèo” chỉ đơn thuần là câu chuyện về sự tha hóa biến chất của con người. Chi tiết bát cháo hành đã thúc đẩy cốt truyện phát triển tự nhiên, hấp dẫn và tạo nên bước ngoặt bất ngờ, làm tỏa sáng chủ nghĩa nhân đạo của Nam Cao.

2.2.2. Chi tiết nghệ thuật đã tạo nên cách mở đầu hấp dẫn cho câu chuyệnBàn về cách viết truyện ngắn, nhà văn Sêkhốp có phát biểu: “Theo tôi, viết truyện ngắn, cốt nhất phải tô đậm cái mở đầu và cái kết luận” (Theo “Sêkhốp bàn về văn học”). Nhà văn phải dụng công để tạo nên một cách mở đầu thật độc đáo, ấn tượng, thu hút sự chú ý của người đọc ngay từ những dòng đầu tiên. Kiệt tác “Chí Phèo” của Nam Cao thật đặc sắc khi mở ra bằng chi tiết tiếng chửi của Chí. Đây là cách giới thiệu trực tiếp nhân vật và mở đầu không theo trình tự thời gian mà đi thẳng vào giữa truyện. Chi tiết tiếng chửi là một dụng công rất lớn của Nam Cao. Cách chửi của nhân vật khá độc đáo: “Bắt đầu hắn chửi trời… Rồi hắn chửi đời… Chửi ngay tất cả làng Vũ Đại… chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn…”. Thoạt đầu Chí chửi vu vơ, sau đó thu hẹp dần đối tượng và cuối cùng bất ngờ chửi “đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn...”. Hắn chửi người đẻ ra mình, tức là chửi chính mình, chửi số kiếp mình. Cả làng Vũ Đại không ai biết  “đứa chết mẹ nào” đã đẻ ra Chí Phèo, nhưng nhà văn Nam Cao biết: Đẻ ra Chí Phèo bằng xương bằng thịt là một người đàn bà bất hạnh, còn đẻ ra hiện tượng Chí Phèo là cả cơ chế xã hội bất công thối nát đương thời, ở đó chất độc nằm ngay trong sự sống. Chí Phèo chửi cả làng với hi vọng được ai đó chửi lại, tức là hắn khao khát được giao cảm với mọi người. Nhưng tín hiệu giao tiếp phát đi liên tục, lại chỉ gặp sự im lặng đến đáng sợ. Ngay từ đầu tác phẩm Chí Phèo đã rơi vào tình trạng hoàn toàn cô độc, không ai giao tiếp với hắn dù là bằng hình thức thấp kém nhất: chửi nhau: “chửi rồi lại nghe”, “chỉ có ba con chó dữ với một thằng say rượu”. Tiếng chửi đã thể hiện tâm trạng bi phẫn, bất mãn, một trái tim đau đớn, vật vã, giằng xé, một tâm hồn tuyệt vọng khi bị xã hội khai trừ, bị cự tuyệt quyền làm người. Chi tiết này đã hé mở tình trạng bi đát của thân phận Chí Phèo. Tiếng chửi được thể hiện trong một đoạn văn đa giọng điệu: ngôn ngữ trực tiếp của người kể chuyện, ngôn ngữ của người kể chuyện hòa lẫn vào ngôn ngữ của nhân vật, tạo ra ngôn ngữ nửa trực tiếp. Nhà văn như đã hóa thân vào nhân vật, đồng cảm và nói hộ nỗi đau của thân phận Chí Phèo. Đằng sau cách gọi Chí là “hắn” đầy lạnh lùng là cả một trái tim trĩu nặng yêu thương của Nam Cao.2.2.3. Chi tiết nghệ thuật là yếu tố quan trọng tạo nên tình huống truyện          Tình huống là một trong những thành tố cấu trúc nên truyện ngắn hiện đại. Một trong những khâu quan trọng bậc nhất của nghệ thuật truyện ngắn là sáng tạo tình huống truyện độc đáo. Mỗi truyện ngắn thường được kết cấu xoay quanh một tình huống. Tình huống là một biến cố, một sự kiện trong đời sống được nhà văn lạ hóa để làm nổi rõ bản chất thật của con người, sự việc, qua đó, tác giả gửi gắm tư tưởng tình cảm của mình. Bởi vậy, tình huống giống như một thứ thuốc rửa ảnh làm nổi bật lên chân dung của nhân vật và tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Tình huống truyện được hình thành bởi hệ thống các chi tiết nghệ thuật có quan hệ biện chứng với nhau.Tình huống trong truyện “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam là tình huống độc đáo, giàu chất thơ, man mác buồn, một tình huống bình dị mà sâu xa như đời sống: Cuộc sống nơi phố huyện tất cả đều tàn lụi nhưng có một thứ không tàn: đó là khát vọng được đổi thay, được sống khác của những cư dân tội nghiệp sống trong phố huyện nghèo. Tuy phải sống một cuộc sống nghèo khổ, tối tăm, lay lắt, nhưng đêm nào họ cũng cố thức chờ chuyến tàu từ Hà Nội về, để gửi gắm mơ ước về một cuộc sống tươi sáng hơn. Tình huống truyện này đã được tạo nên từ những chi tiết về thời gian

2

Page 3: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

tàn, không gian tàn, những kiếp đời tàn, những đồ vật tàn…. Thời gian tàn từ chiều tà đi dần vào đêm khuya. Chỉ cần qua một buổi chiều, một lát cắt của thời gian, ta có thể cảm nhận mọi buổi chiều trong nhịp sống của phố huyện. “Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru…”. Âm điệu câu văn mở đầu chậm rãi, như ngân như ru lòng người vào một nỗi niềm bâng khuâng, mơ hồ, man mác. Câu văn được cất lên qua giọng điệu của Liên, hòa cùng sự ngậm ngùi của tác giả. Đó là một tiếng kêu thảng thốt, một tiếng thở dài não nuột của một tâm hồn già nua trước tuổi. Thế là một buổi chiều nữa của đời Liên lại về. Đó là khoảnh khắc Liên phải đối mặt và cảm nhận được sâu sắc nhất sự nghèo nàn, ảm đạm của phố huyện. Và để cho không khí tàn lụi đọng thành một ấn tượng đậm nét, nhà văn đã chọn không gian tàn với âm thanh, cảnh vật, màu sắc đều tàn lụi. Trong bức tranh khung cảnh, gợi cảm nhất là chi tiết: “Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những áng mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”, cảnh vật như đang lóe sáng lên lần cuối cùng trước khi tàn úa. Hình ảnh mặt trời đỏ ối sắp tắt là biểu tượng của một ngày tàn, là khoảnh khắc hấp hối của vũ trụ, hay là của chính miền quê này? Về màu sắc, gam màu đen bao trùm cả không gian. Bóng tối là một chi tiết nghệ thuật đầy ám ảnh đè nặng lên cảnh vật và con người. Không dưới ba mươi lần hình ảnh bóng tối xuất hiện, như một cái gì hãi hùng đang xâm lấn, luồn lách vào mọi cảnh vật, bủa vây mọi con người. Nó tạo nên không gian đen đặc cho bức tranh phố huyện. Bóng tối trở thành nỗi ám ảnh về một cuộc sống tối tăm, bế tắc, ngao ngán. Đối lập với bóng tối là những chi tiết về ánh sáng. Ánh sáng được miêu tả rất khe khắt, hiếm hoi và đơn độc, chỉ là những khe sáng, hột sáng, quầng sáng, vệt sáng, chấm lửa,… không đủ để soi sáng không gian, mà còn tô đậm thêm bóng đêm đậm đặc, mênh mông của phố huyện. Nếu như ánh sáng, âm thanh là biểu tượng của sự sống, thì bóng tối, sự tịch mịch là biểu tượng của hư vô, của cái chết. Cuộc sống hiện tại của chị em Liên là phố huyện ngập chìm trong đêm tối, nghĩa là sự sống đang hụt hơi, hấp hối như một miền đời quên lãng, một vùng đất chết, thiếu vắng sự sống.Bức tranh phố huyện càng buồn hơn khi nhà văn góp vào cái giờ khắc của ngày tàn một phiên chợ vãn, với những chi tiết tưởng như vu vơ nhưng lại chứa đầy dụng ý của nhà văn. Trên đất chỉ còn lại những rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn, lá mía. Ảm đạm nhất là chi tiết: “Một mùi âm ẩm bốc lên”, đó là mùi của sự tàn rữa. Trung tâm của bức tranh phố huyện là những mảnh đời nhỏ bé, âm thầm trong cuộc sống tối tăm, quẩn quanh, bế tắc. Những kiếp đời ấy làm nên gương mặt âm u của phố huyện. Làm nên cuộc sống của họ là những đồ vật tàn: một ngôi quán ọp ẹp, vách dán giấy nhật trình, một cái chõng tre sắp gãy, một manh chiếu rách, chiếc chậu sắt rúm ró,… Qua bức tranh phố huyện trong cảnh ngày tàn, với thời gian tàn, không gian tàn, kiếp người tàn lụi, tác giả thể hiện tiếng nói xót thương cho những kiếp người bé nhỏ, sống cuộc sống vô danh, vô nghĩa, quẩn quanh. Bao trùm lên bức tranh phố huyện là một vẻ tàn lụi, tăm tối, sự sống dường như đang từng ngày lìa bỏ nơi này. Nhưng có một thứ không tàn, đó là niềm hy vọng của con người về một tương lai tươi sáng hơn: “Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”. Và khao khát vượt ra khỏi cuộc sống mòn mỏi ấy được thể hiện rất rõ qua tâm trạng đợi tàu của hai đứa trẻ.Thạch Lam tập trung bút lực miêu tả một cách tỉ mỉ, kĩ lưỡng đoàn tàu theo trình tự thời gian, qua tâm trạng chờ trông của Liên và An. Chúng ta không thể bỏ qua được những chi tiết về đoàn tàu như: ánh sáng rực rỡ, lấp lánh chốn thị thành, át đi ánh sáng mờ ảo, yếu ớt của phố huyện. Âm thanh náo nhiệt, tưng bừng đối lập với những thanh âm buồn tẻ, đơn điệu của phố huyện. Đoàn tàu đã mang đến một thế giới khác lạ, nó khuấy động không gian phố huyện, làm cho con người nơi đây trong chốc lát quên đi hiện thực tăm tối, để sống với ước mơ.  Thạch Lam đã nhìn thấy trong hành động đợi tàu của hai đứa trẻ chứa đựng một khao khát không phải của riêng hai đứa trẻ và không phải của một thời, mà của mọi thời. Đó là khát khao đổi đời, cần phải thay đổi

3

Page 4: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

thế giới tăm tối này đi, đem đến một thế giới khác, ở đó ai cũng có quyền được sống trong hy vọng, chứ không phải là tàn đi trong vô vọng.

Như vậy, mọi chi tiết trong tác phẩm đều hội tụ, xoay xung quanh tình huống truyện và góp phần thể hiện tư tưởng nghệ thuật của tác giả.

2.2.4. Vai trò của chi tiết trong việc xây dựng hình tượng nhân vậtNhân vật là yếu tố quan trọng hàng đầu trong tác phẩm tự sự, là phương tiện cơ bản để nhà văn khái quát hiện thực, và “gửi gắm tư tưởng, tình cảm, quan niệm của mình về cuộc đời”. Nhân vật là “con đẻ tinh thần của nhà văn”. Hình tượng nhân vật trở nên sinh động, gợi cảm là nhờ các chi tiết. “Chi tiết (…) cho thấy tính cách nhân vật và diễn biến quan hệ của chúng (…). Do đó chi tiết rất quan trọng đối với nhân vật, vừa tạo ra sức hấp dẫn, thú vị, vừa bộc lộ ý nghĩa của chúng.” (7). Mỗi nhân vật là một sinh thể toàn vẹn được tạo nên bởi các chi tiết có quan hệ máu thịt với nhau: các chi tiết về ngoại hình (Chí Phèo: khuôn mặt, đầu, răng, mắt, quần áo, …); các chi tiết về hành động (Chẳng hạn với Chí Phèo là những hành động: chửi, say, ăn vạ, đến với thị Nở, đòi lương thiện, giết bá Kiến, tự sát.); các chi tiết về nội tâm (tâm trạng của Chí Phèo từ khi gặp Thị Nở, …); các chi tiết về ngôn ngữ (Chí Phèo: tiếng chửi, những lời nói tỏ tình với Thị Nở, tiếng nói đòi lương thiện,…); các chi tiết về mối quan hệ giữa các nhân vật và giữa nhân vật với hoàn cảnh xung quanh, các mối quan hệ này bộc lộ địa vị, tính cách, và số phận của nhân vật (Chí Phèo: quan hệ với bá Kiến, thị Nở, với hoàn cảnh xã hội của làng Vũ Đại,…)Đọc truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân, tôi đặc biệt ấn tượng với nhân vật người “Vợ nhặt” mà tác giả đã dồn bao tinh hoa và tinh huyết để xây dựng nên. Thị là nạn nhân khốn khổ nhất của cái đói. Thân phận bất hạnh đó được gợi lên từ một loạt những chi tiết nghệ thuật đặc săc. Chi tiết về tên gọi, người đàn bà này, thậm chí đến cái tên riêng cũng không có, nhà văn gọi thị là “thị” hoặc “người đàn bà“. Đằng sau cuộc đời của chị, còn thấp thoáng bóng dáng của bao người phụ nữ khốn cùng khác. Thương cảm hơn là những chi tiết về ngoại hình. Cái đói đã tàn phá dung nhan của thị, có mấy ngày không gặp mà Tràng thấy thị gầy guộc “trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt”, xấu xí, rách rưới “quần áo tả tơi như tổ đỉa”. Nạn đói giống như một cơn lũ lớn cuốn phăng đi tất cả, không chỉ đe dọa cướp đi cuộc sống về mặt sinh học, mà nó còn làm cho tính cách của thị cũng thay đổi. Nữ tính, nhân phẩm của thị cũng có nguy cơ bị mai một. Biết bao trăn trở, xót xa của nhà văn được dồn tụ trong những chi tiết miêu tả về lời nói và hành động của thị lúc này. Thị trở nên trơ tráo, ăn nói “chao chát, chỏng lỏn“, mất hết ý tứ và lòng tự trọng. Tiếng nói khẩn thiết nhất của cô vợ nhặt lúc này là phải duy trì được sự sống. Cô như người sắp chết đuối đang nguy khốn giữa dòng nước xoáy khủng khiếp, cô đang cố gắng túm lấy bất cứ cái gì có thể bấu víu để tồn tại. Câu hò trở thành cái cớ để thị bám vào Tràng. Rồi “ thị cong cớn … Thị vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng”. Thị không còn biết xấu hổ khi trách móc một người không quen biết: “Thị sầm sập chạy đến… sưng sỉa nói… Điêu… Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống thế mà mất mặt”. Rồi thị còn trắng trợn “gạ ăn”: “Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu”. Khi Tràng tỏ ra ga lăng “đấy muốn ăn gì thì ăn”, thì lập tức “hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên…. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì”. Cái đói đã làm cho con người trở nên thảm hại, đáng thương và cũng đáng được cảm thông, chia sẻ.Nhưng điều đáng quý đã làm nên chất thơ cho hiên thực đắng cay này đó là, sau khi nguy cơ chết đói đã qua, cô gái đã trở lại với con người thật của mình, và nữ tính cũng hồi sinh, cô chợt e lệ và xấu hổ. Chi tiết cô ăn xong thị “cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở : hà, ngon !” là chi tiết thể hiện nữ tính của người vợ nhặt. Đó là cách cô gái đánh trống lảng vì ngượng và che giấu sự

4

Page 5: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

xấu hổ bên trong. Đặc biệt trên đường về nhà chồng người vợ nhặt đã thay đổi hẳn, trở thành một cô dâu rất đáng yêu, không còn chao chát, chỏng lỏn nữa. Điều đó được thể hiện rõ nét qua những chi tiết về dáng vẻ, lời nói của thị: vì xấu hổ nên nói chuyện trống không với chồng; bước chân “rón rén”, “e thẹn”, “ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả vào chân kia”, “đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt”, đúng là dáng vẻ của một cô dâu đầy nữ tính. Tấm lòng nhân đạo của Kim Lân thể hiện qua cách ông đã miêu tả rất tỉ mỉ, chi tiết dáng vẻ của người đàn bà trên đường về nhà chồng, từ dáng đi e thẹn cho đến nỗi hờn tủi cho thân phận mình. Ở đây nhà văn đã rất kiên nhẫn lặp đi lặp lại những từ đồng nghĩa. Dường như ông cố minh oan, để trả lại cho người đàn bà khốn khổ bản chất dịu hiền vốn có. Khi về đến nhà, thị “ngượng nghịu”, “ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần” . Sáng hôm sau, thị dậy sớm quét tước nhà cửa. Người đàn bà đã thực sự trở thành một người vợ “hiền hâụ đúng mực“, đảm đang, tảo tần, chịu khó. “Thị” đã đem đến cho ngôi nhà của Tràng một sinh khí mới, một nhịp sống mới. Trong bữa cơm đầu tiên, thị đã “điềm nhiên và vào miệng miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ”. Đây là chi tiết thể hiện sự ý tứ và thái độ đồng cảm, sẻ chia với gia đình nhà chồng của người vợ nhặt. Thông qua một loạt các chi tiết biết nói, nhà văn muốn nhắn gửi tới chúng ta một điều: Hóa ra chính cái đói đã đẻ ra sự liều lĩnh, táo bạo, thô thiển, trắng trợn, nhưng không thể làm mất đi bản chất hiền hậu, tốt đẹp trong tâm hồn con người. Người vợ nhặt vốn là một cô gái nghèo, có tư cách, có khao khát hạnh phúc. Nạn đói đã làm mất đi phần nào tư cách ấy, biến dạng một phần tâm hồn cô, nhưng cuối cùng cô vẫn vươn lên giữ vững tư cách người. Dù bị đẩy đến đường cùng, “thị” vẫn khao khát sống, khao khát hạnh phúc. Hành động theo Tràng về làm vợ của người đàn bà, chứng tỏ “thị” luôn tìm mọi cách để vượt lên cái đói, tìm đến sự sống, kể cả phải hành động liều lĩnh. Nhà văn đã mở ra con đường sống cho những kiếp đời khổ cực. Nhân vật vợ Tràng đã thể hiện niềm tin bền vững của Kim Lân vào bản chất tốt đẹp của người lao động.Như vậy, khi phân tích một nhân vật, chúng ta phải tuân thủ tính hệ thống của các chi tiết nghệ thuật làm nên hình tượng đó. Nhưng mặt khác, giáo viên cũng cần định hướng cho học sinh phát hiện và xoáy sâu vào những chi tiết độc đáo, là điểm sáng mà nhà văn đã rất dụng công khi xây dựng hình tượng. Đến với nhân vật người đàn bà làng chài trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của nhà văn Nguyễn Minh Châu, tôi cứ bị ám ảnh bởi chi tiết về nước mắt và nụ cười của chị, về nỗi đau tột cùng và hạnh phúc vô bờ của người phụ nữ này. Lúc dơ lưng chịu những trận đòn “như lửa cháy” của chồng, dù đau đến mấy bà vẫn không hề kêu xin, khóc lóc, nhưng khi đứa con chứng kiến được toàn bộ tấn bi kịch gia đình, chị đã không cầm nổi những giọt nước mắt đau đớn. Sự xuất hiện của đứa con như “một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà, làm rỏ xuống những dòng nước mắt”. Làm sao diễn tả được sự tan nát của trái tim người mẹ khi chứng kiến cảnh đứa con mình “nhẩy xổ vào bố nó như một con sói con”, “giằng được chiếc thắt lưng, liền dướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực” ông ta. Cái phản ứng tự nhiên của một tâm hồn trẻ thơ thương mẹ, lại khiến cho người mẹ “dường như lúc này mới cảm thấy đau đớn – vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã”. Bà gọi tên con, “ôm chầm lấy nó”, rồi lại buông ra “chắp tay vái lấy vái để rồi lại ôm chầm lấy”. Có phải bà đau đớn vì rốt cuộc đã không sao tránh được cho con cái khỏi bị tổn thương vì bạo lực gia đình. Bà xấu hổ, nhục nhã vì phải giấu giếm con tình trạng khốn khổ của mình, dù bà đã hết sức che chắn. Bà xót xa vì niềm tin trong trẻo của con thơ đã bị rạn vỡ. Bà “vái lấy vái để” đứa con để “tạ tội” với nó, hay cầu xin nó đừng căm thù người cha đẻ của mình, đừng trở nên độc ác như bố nó. Còn nỗi đau nào hơn nỗi đau của người mẹ lúc này? Ẩn sâu trong trái tim đang rỉ máu của người mẹ, là lòng yêu thương con vò xé tâm can. Nước mắt

5

Page 6: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

chảy tràn trên gương mặt của người mẹ dường như đã hòa cùng giọt nước mắt xa xót cho thân phận con người của nhà văn?Bên cạnh những chi tiết buồn về thân phận của người đàn bà. Trong cả thiên truyện chỉ duy nhất một lần nhà văn miêu tả nụ cười của chị: “Lần đầu tiên trên khuôn mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên như một nụ cười” khi chị kể về những giây phút vợ chồng con cái được hòa thuận vui vẻ, là “lúc ngồi nhìn đàn con…được ăn no”. Đó là niềm vui, niềm hạnh phúc rất đời thường, bình dị mà đáng thương, đáng trân trọng. Chị đã phải đánh đổi hạnh phúc ấy bằng bao nỗi đau khổ. Sự yên lành no ấm của đàn con chính là mục đích sống, là nguồn sống của chị – người đàn bà luôn sống cho con. Đó chính là sức mạnh tinh thần kì diệu đã giúp chị vượt qua bao đắng chát chua cay của cuộc đời, để giữ lửa cho gia đình bé nhỏ của mình. Chị kết tinh vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam với trái tim chứa chan bao tình cảm vị tha, thánh thiện, lấy niềm vui, hạnh phúc của chồng con làm hạnh phúc của chính mình. Chỉ có tác giả là người thấu hiểu, người đàn bà làng chài mới là vẻ đẹp đích thực của “Chiếc thuyền ngoài xa”, đẹp trong đau khổ, nhọc nhằn và nhục nhằn – một vẻ đẹp hình như chưa từng thấy trong văn học sử thi 1945 – 1975.Từ sự phân tích ở trên chúng ta thấy lựa chọn được những chi tiết đắt giá sẽ quyết định thành công của tác phẩm, bởi chúng được chưng cất lên từ tấm lòng và tài năng của người cầm bút.

2.2.5. Chi tiết nghệ thuật có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo dựng khung cảnhNhà văn Nguyễn Minh Châu đã từng tâm niệm: “Văn học và cuộc sống là những vòng tròn đồng tâm, mà tâm điểm là con người”. Trong tác phẩm, hình tượng con người luôn hiện lên sinh động trên một nền cảnh nào đó. Vì vậy, việc xây dựng bối cảnh cho sự xuất hiện của nhân vật được hầu hết các nhà văn quan tâm. Và chi tiết nghệ thuật đóng vai trò quan trọng trong việc kiến tạo nên khung cảnh. Trong vấn đề này, chúng ta có thể phân loại chi tiết thành những tiểu loại phong phú: chi tiết về không gian (ánh trăng trong vườn chuối tạo nên khung cảnh thơ mộng, xui khiến hai con người khốn khố Chí Phèo và Thị Nở tìm đến với nhau,…), chi tiết về thời gian (thời điểm đêm tình mùa xuân khơi dậy sức xuân và tình xuân trong tâm hồn Mị …); chi tiết gắn với âm thanh (tiếng chim hót vui vẻ, tiếng người đi chợ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo… những giai điệu giản dị mà thiêng liêng của cuộc sống đánh thức tâm hồn Chí Phèo…), chi tiết gợi tả màu sắc (ánh sáng và bóng tối trong Hai đứa trẻ, Chữ người tử tù,..),… Thời gian và không gian, cũng như mọi hiện tượng của thế giới khách quan, khi đi vào tác phẩm đều được soi rọi bằng tư tưởng tình cảm, gắn liền với quan niệm về con người và cuộc đời, với ước mơ lý tưởng và in đậm cá tính sáng tạo của nhà văn.Không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật, vì không có hình tượng nghệ thuật nào không có không gian, không có nhân vật nào không có một nền cảnh của nó. Do đặc trưng của truyện ngắn là sự giới hạn về dung lượng nên những chi tiết nghệ thuật tạo dựng nên không gian cũng được nhà văn sàng lọc kỹ càng. Chỉ bằng một vài chi tiết mang đầy ẩn ý, tác giả có thể lột tả được thần thái của không gian và thể hiện tư tưởng của mình. Đọc “Vợ nhặt” của Kim Lân, chắc hẳn chúng ta, ai ai cũng bị ám ảnh bởi khung cảnh của nạn đói khủng khiếp năm 1945. Cho đến tận ngày nay vẫn còn hàng kho tư liệu kể lại rằng xác người chết đói nhiều đến nỗi người ta phải thu gom để đưa đến hố chôn tập thể. Nhưng nhà văn Kim Lân chỉ cần qua một vài chi tiết điển hình nhất mà làm sống dậy được không khí ảm đạm, thê lương của những ngày đói quay đói quắt. Đó là những hình ảnh thương tâm như: Người chết như ngả rạ, xác người chết nằm còng queo bên đường… Dưới những gốc đa, gốc gạo xù xì, bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma. Nghệ thuật so sánh đã vẽ lên chân thực tình cảnh của con người đang chới với trên ranh giới mong manh giữa sự sống và cái chết. Điểm vào đó là những chi tiết về âm thanh thê thiết: Tiếng quạ gào lên từng hồi, tiếng hờ khóc ở những nhà có người

6

Page 7: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

chết… Cộng hưởng với mùi vị của sự chết chóc: ẩm thối của rác rưởi, mùi gây của xác người, mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt. Một không khí thê thảm bao trùm lên xóm chợ, cõi âm và cõi dương đã hòa làm một. Sự hiện hữu của cái đói giống như một thảm hoạ kinh hoàng, một trận cuồng phong, một cơn đại hồng thuỷ ập đến càn quét mọi sinh linh, và cái đói tràn đến đâu ta thấy rõ ngay dấu ấn huỷ diệt của nó. Nhưng có lẽ điều kỳ diệu nhất là trên khung cảnh “tối sầm lại vì đói khát” đó, đôi trẻ vẫn dắt díu nhau về tổ ấm và làm nên một đám cưới nhỏ giữa một đám ma lớn. Điều đó chứng tỏ đôi trẻ này đã can đảm chống lại cái chết bằng sức sống mãnh liệt. Sự sống đã chiến thắng cái chết. Đó chính là thông điệp tươi xanh cất lên từ hiện thực cỗi cằn. Như vậy, qua những chi tiết giàu sức gợi, nhà văn đã phản ánh hiện thực tăm tối của nước ta trong nạn đói năm 1945; đồng thời tố cáo tội ác của phát xít Nhật, thực dân Pháp và phong kiến tay sai đã đẩy nhân dân ta vào thảm hoạ chết đói, hạ thấp giá trị con người. Cao quý hơn, Kim Lân đã bộc lộ niềm trân trọng khát vọng hạnh phúc và niềm tin vào sức sống mãnh liệt, vào phẩm giá sáng ngời của người lao động nghèo. Để tạo dựng được những khung cảnh đặc sắc từ những chi tiết nhỏ như vậy, đòi hỏi nhà văn phải trăn trở, lao tâm khổ tứ, chế tạo và sáng tạo.2.2.6. Chi tiết nghệ thuật góp phần tạo nên kết cấu đặc sắc cho tác phẩm          Kết cấu là “toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác phẩm… không chỉ giới hạn ở sự tiếp nối bề mặt, ở những tương quan bên ngoài giữa các bộ phận, chương đoạn mà còn bao hàm sự liên kết bên trong, nghệ thuật kiến trúc nội dung cụ thể của tác phẩm” (2). Trong tác phẩm văn học chi tiết phải tuân thủ kết cấu. Kết cấu giúp tổ chức chi tiết. Trong nhiều truyện ngắn, nhà văn đã tạo nên được những kết cấu độc đáo nhờ các chi tiết nghệ thuật. Khi mới ra đời “Chí Phèo” có tên là “Cái lò gạch cũ”. Đó là nơi Chí Phèo cha ra đời và cũng có thể là nơi hứa hẹn sự ra đời của Chí Phèo con. Chi tiết cái lò gạch cũ được nhắc đi nhắc lại hai lần trong tác phẩm, đặt ở vị trí đầu và cuối của thiên truyện như một thủ pháp trùng lặp, góp phần khái quát một hiện tượng phổ biến đến mức đã thành quy luật khủng khiếp trong cuộc đời những người nông dân ở xã hội cũ: họ bị xã hội thực dân nửa phong kiến đẩy vào con đường lưu manh, sa vào kiếp sống tối tăm của thú vật, bị cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính. Việc lặp lại hai lần chi tiết cái lò gạch cũ và lấy chi tiết đó đặt tên cho tác phẩm, Nam Cao đã nói lên một điều rằng: chừng nào còn có xã hội bất công, tàn bạo, có cơ chế đẻ ra tội ác, chừng ấy còn có hiện tượng Chí Phèo. Qua cách kết cấu này, chúng ta thấy, Nam Cao đã nhận thức được cái tận cùng của xung đột giai cấp ở nông thôn.Nếu chi tiết “cái lò gạch cũ” tạo nên kết cấu vòng tròn đầy buồn thảm cho “Chí Phèo” của Nam Cao, thì chi tiết lá cờ đỏ đã tạo nên kết thúc đầy lạc quan cho truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân. Chi tiết lá cờ đỏ sao vàng ở cuối truyện thật đột ngột, ngẫu nhiên mà cũng tất nhiên. Nó gắn với ý nghĩa sự chiến thắng của ánh sáng với bóng tối, của sự sống với cái chết. Nó là biểu tượng của cách mạng, của con đường tương lai tươi sáng mà nhà văn bằng tấm lòng nhân đạo cao cả đã soi đường chỉ lối cho nhân vật của mình. Những con người như bà cụ Tứ, đặc biệt là đôi vợ chồng trẻ với tình yêu thương đùm bọc, với sức sống mãnh liệt và niềm tin vào ngày mai tốt đẹp sẽ rất dễ dàng bắt gặp ánh sáng cách mạng của Đảng. Với ý nghĩa đó, “Vợ nhặt” có thể coi là bài ca ca ngợi sự sống, đã thể hiện niềm tin bất diệt của Kim Lân vào con người, đặc biệt là người lao động. Câu chuyện mở ra bằng bóng hoàng hôn chạng vạng, kết lại trong ánh sáng rực rỡ của ban mai và lá cờ đỏ sao vàng. Kết cấu tự nhiên ấy làm cho Vợ nhặt mở ra nhiều liên tưởng cho người đọc hướng về niềm tin và hi vọng. Lá cờ đỏ ở cuối tác phẩm là dấu hiệu của một cuộc cách mạng, một sự đổi đời. Và chính nhà văn Kim Lân từng nói: Cái đói là nỗi lo lắng của con người ở tất cả mọi dân tộc và mọi thời đại. Cho nên, đó là một đề tài thuộc về bản chất đời sống. Các nhà văn viết về cái đói ở khía cạnh tối tăm và bất lực của con người trước nó. Khi tôi viết, ý

7

Page 8: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

tưởng thường trực trong tôi là những người đói dù thế nào đi nữa vẫn luôn luôn khao khát cuộc sống tốt hơn, vẫn tin tưởng một cách mơ hồ vào cuộc sống tương lai.Trong quá trình nhà văn thai nghén tác phẩm, hình thành nên ý tưởng về kết cấu có ý nghĩa quyết định. Nguyễn Trung Thành khi sáng tác “Rừng xà nu”, ông đã dự kiến sẽ mở đầu và kết thúc tác phẩm bằng những chi tiết miêu tả “rừng xà nu”. Chính ông đã tâm sự: “Cái truyện ngắn này sẽ bắt đầu bằng một khu rừng xà nu – mà tôi sẽ ra sức tả một cách hết sức tạo hình…và truyện sẽ kết thúc bằng một cánh rừng xà nu, như một vĩ thanh cứ xa mờ dần và bất tận.” Kết cấu vòng tròn này đã giúp nhà văn ký thác tư tưởng nghệ thuật của mình. Tác phẩm mở ra bằng hình tượng rừng xà nu, và cuối tác phẩm ta cũng bắt gặp hình ảnh những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời. Đây là kết cấu vừa đóng vừa mở. Dường như câu chuyện này chỉ là một chương trong lịch sử ngàn đời của người Xô Man, một hành khúc trong bản anh hùng ca vô tận của Tây Nguyên. Kì tích của anh hùng Tnú chỉ là sự tiếp tục những gì mà Đam Săn, Xinh Nhã đã làm từ thời xưa. Sau Tnú, thằng bé Heng sẽ viết tiếp bản anh hùng ca mà cha ông đã viết. Với cách kết cấu này, câu chuyện còn mở ra một không gian rộng hơn làng Xô Man. Sức mạnh kiên cường, bất khuất của dân làng Xô Man, hay cũng chính là sức mạnh của cả Tây Nguyên, của cả miền Nam, và hơn nữa là của cả dân tộc Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Ấn tượng đọng lại trong kí ức người đọc mãi mãi chính là cái bát ngát của cánh rừng xà nu kiêu dũng đó. Những chi tiết miêu tả rừng xà nu rất độc đáo, giúp nhà văn thể hiện được ý đồ nghệ thuật của mình: khẳng định sức sống bất diệt của Tây Nguyên thời đánh Mĩ.Như vậy, chi tiết nghệ thuật có vai trò quan trọng trong việc kiến tạo nên kết cấu của tác phẩm.

2.2.7. Chi tiết nghệ thuật góp phần thể hiện chủ đề của tác phẩm, tư tưởng nghệ thuật của tác giả          Mácxim Gorki đã nói: “Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”. Điều đó thật đúng với tác phẩm “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân. Trong mỗi chi tiết mà ông sáng tạo nên đều dồn tụ biết bao ý nghĩa. Để làm nổi bật sự chiến thắng của ánh sáng với bóng tối, của cái cao thượng đối với cái thấp hèn, của cái đẹp với cái xấu xa, nhà văn đã xây dựng một loạt những chi tiết về một Huấn Cao luôn hiên ngang, bất khuất, ngẩng cao đầu trước quyền lực của nhà tù: hành động rỗ gông, thản nhiên nhận rượu thịt, câu nói khinh miệt đến điều với quản ngục, bình thản trước tin báo mình sắp sửa bị hành hình… Đặc biệt, khi miêu tả tư thế Huấn Cao cho chữ viên quản ngục, Nguyễn Tuân rất tài tình khi ông dùng từ “vướng xiếng” thay từ “bị xiềng”. Cách viết ấy đã gợi lên hình ảnh người tù hiên ngang, khẳng khái, bị trói buộc, giam cầm về thân thể nhưng luôn tự do về tinh thần. Gông xiềng chỉ là một cái gì vướng víu dưới chân. Còn tâm hồn người tù đang say sưa với mùi thơm của mực, ngây ngất trước màu trắng tinh khiết của tấm lụa bạch. Huấn Cao hiện lên như một nghệ sĩ đang say mê sáng tạo nghệ thuật, sáng tạo những con chữ nói lên hoài bão tung hoành của cả một đời người. Giây phút cuối cùng của cuộc đời tử tù không than thân trách phận. Trong khoảnh khắc thiêng liêng nhất, Huấn Cao vẫn dành trọn cho cái đẹp. Việc Huấn Cao cho chữ quản ngục, không phải là hành động của người sắp bị tử hình đem những thứ quý giá nhất của đời mình trao cho người khác, càng không phải là cơ hội cuối cùng để Huấn Cao trổ hết tài hoa. Mà lí do sâu xa như Huấn Cao đã nói: “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người… Thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Như vậy, việc Huấn Cao cho chữ Quản ngục thực chất là lấy lòng để tạ lòng, là tình cảm của kẻ tri âm dành cho người tri kỉ. Trong khoảnh khắc này, cái tài và cái tâm của Huấn Cao cùng thăng hoa để cho cái đẹp vút bay.Bên cạnh những chi tiết miêu tả phong thái của Huấn Cao khi cho chữ, chủ đề của tác phẩm còn thấm đẫm trong những chi tiết tưởng như rất nhỏ bé như chi tiết hương thơm của chậu mực, chi

8

Page 9: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

tiết tấm lụa trắng…“Thoi mựa thầy mua ở đâu mà tốt và thơm quá. Thầy có thấy mùi thơm từ chậu mực bốc lên không?…”. Câu hỏi của Huấn Cao như muốn lay thức tâm hồn trong sạch của quản ngục trỗi dậy. Hương thơm của mực hay chính là hương vị của tình người, hương vị của sự cộng cảm giữa những tâm hồn đồng điệu. Dấu (…) tạo nên khoảng lặng để tâm hồn con người được thăng hoa, ngây ngất thưởng thức cái đẹp. Chi tiết tấm lụa trắng xuất hiện bốn lần trong một đoạn văn ngắn mà bóng tối của nhà tù không thể xóa nhòa (tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ, tấm lụa trắng tinh, phiến lụa óng, bức lụa trắng). Hình ảnh tấm lụa trở đi trở lại gợi lên sự trong trẻo, thanh sạch trong tâm hồn con người mà hoàn cảnh tăm tối không thể làm hoen ố. Như vậy, ngục tù không thể tiêu diệt được cái đẹp. Đó không chỉ là cái đẹp định hình trong con chữ, mà còn là cái đẹp thoát bay từ tâm hồn, từ thiên lương trong sáng. Huấn Cao – người nghệ sĩ sáng tạo cái đẹp tuy sắp lìa đời, nhưng cái chết của ông có ý nghĩa tái sinh sự sống và làm hồi sinh thiên lương của quản ngục.Dường như, Nguyễn Tuân đã dồn nén bao tư tưởng trong chi tiết lời giáo huấn của người tù:  “Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng với những nét chữ vuông tươi tắn nó nói lên những hoài bão tung hoành của một đời con người”. Lời giáo huấn không cứng nhắc, giáo điều mà thấm thía. Nó cất lên khoan thai, thư thái, đĩnh đạc. Đó là những lời gan ruột của bạn tri âm dành cho người tri kỉ. Câu nói ấy vừa gói ghém được nhân cách của Huấn Cao vừa thể hiện được quan niệm của Nguyễn Tuân về cái đẹp: Cái đẹp không thể sống chung với cái xấu, cái ác, cái bạo tàn. Sự trong lành của thiên lương không thể đồng hành với sự đê tiện. Huấn Cao nhấn mạnh lại: “Thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi.” Qua những lời gan ruột này, nhà văn muốn nêu lên một yêu cầu đối với người thưởng thức nghệ thuật: Phải sống trong sạch, sống lương thiện mới có thể đến với nghệ thuật, đến với cái đẹp. Trước khi là một nghệ sĩ phải là một con người chân chính, có nhân cách cao đẹp. Lời răn dạy của Huấn Cao có sức mạnh cảm hóa kì diệu. Bởi tiếng nói của trái tim sẽ đến với trái tim. Ngục quan cảm động, trào dâng những giọt nước mắt nóng hổi tình người, nghẹn ngào nói: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Đây không chỉ là sự thuần phục của lí trí, mà còn là sự yêu mến của trái tim. Cái cúi đầu của quản ngục đã dạy chúng ta rằng: muốn nên người phải biết kính sợ ba điều: cái tài, cái đẹp, và thiên tính tốt đẹp của con người. Như vậy: Cái đẹp có sức mạnh cảm hóa, có thiên chức hướng thiện. “Cái đẹp cứu nhân thế”.  Sự trở về không bao giờ là muộn, và sự trở về của quản ngục đã chứng tỏ chiến thắng cuối cùng của cái đẹp. Trong trật tự của xã hội phong kiến đó là cái đẹp “nổi loạn”. Qua chi tiết này, Nguyễn Tuân muốn khẳng định rằng: Trên cõi đời này không chỉ có quyền lực của nhà tù, mà còn có quyền uy của cái đẹp – Cái đẹp của nhân cách, của tài hoa, của khí phách và thiên lương con người.Xây dựng những chi tiết nghệ thuật đặc sắc là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của những cây bút truyện ngắn tài hoa. Bởi, giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã từng ví thật đắc địa rằng: “Ở truyện ngắn, mỗi chi tiết đều có vị trí quan trọng như mỗi chữ trong bài thơ tứ tuyệt. Trong đó những chi tiết đóng vai trò đặc biệt như những nhãn tự trong thơ vậy”. Soi nhận định trên vào chi tiết chiếc lá trên tường trong tác phẩm “Chiếc lá cuối cùng” của Ohenry quả là không sai. Qua một tiểu tiết nhỏ này, nhà văn đã thể hiện những triết lý sâu sắc về nhân sinh và nghệ thuật. Chiếc lá được vẽ nên bằng tất cả tấm lòng yêu thương, bằng tinh hoa, tinh huyết của cụ Bơmen, là phút thăng hoa sau suốt cả cuộc đời miệt mài sáng tạo của người nghệ sĩ già. Vì vậy, nó đã trở thành kiệt tác bất tử với thời gian. Và chính chiếc lá trên tường giản diệu ấy đã thắp lên niềm tin, thổi bùng lên khát vọng sống trong tâm hồn Giônxi, giúp cô gái thoát khỏi lưỡi hái của thần chết. Quả đúng là nghệ thuật chân chính luôn được thoát thai từ tình

9

Page 10: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

yêu thương con người và thực hiện sứ mệnh cao cả: “vị nhân sinh”. Tác phẩm nghệ thuật của cụ Bơmen được “sinh thành” trong một đêm mưa gió. Phải chăng qua chi tiết này, nhà văn muốn khẳng định một chân lý: những kiệt tác luôn ra đời trong cơn chấn động của thời đại, giữa “một cuộc bể dâu”, và người nghệ sĩ có thể phải đánh đổi bằng cả tính mạng của mình. Chiếc lá trên tường có thể coi là “huyệt đạo”, chất chứa những lớp trầm tích ý nghĩa của tác phẩm, kết tinh những chiêm nghiệm của Ôhenry về con người, về mối quan hệ giữa nghệ thuật và hiện thực, về giá trị và chức năng cao quý của nghệ thuật, về tấm lòng và tài năng của người nghệ sỹ…Như vậy chính những chi tiết có dung lượng lớn về ý nghĩa đã tạo cho tác phẩm “những chiều sâu chưa nói hết”. Cái tài của người viết truyện ngắn là phải tạo được những chi tiết đắt giá để kí thác những tâm niệm của mình đối với cuộc đời và con người

LÍ LUẬN VĂN HỌCCHUYÊN ĐỀ THƠI. LÍ THUYẾT1. Thơ trong mối quan hệ với hiện thựcThơ là cuộc hôn phối giữa con người và vũ trụ. Thơ luôn tìm về với cuộc sống, thơ ở trong cuộc sống nên “Nhà thơ tuy chẳng muốn, cũng thấy mình bị ràng buộc vào cuộc biến chuyển của lịch sử” (Saint John Perse). Như vậy, dù ý thức hay vô thức, thơ vẫn chảy trong biển lớn cuộc đời và nhà thơ không thể đứng ngoài dòng chảy ấy. Hơn ai hết, họ phải là người cảm nhận cuộc sống mãnh liệt nhất, tế vi nhất.“Thơ phản ảnh đời sống con người trên toàn diện sinh động của nó từ mặt tầng (hành động) tới đáy tầng (tâm linh) qua hết mọi phương diện xã hội”2. Nhà thơ và quá trình sáng tạoĐể đi vào thế giới nghệ thuật thơ, có lẽ chúng ta cần xác định nhà thơ - họ là ai? Vì chính sứ mệnh nhà thơ chi phối quá trình sáng tạo thi ca. Với Trần Nhựt Tân, “Thi sĩ là người duy nhất có được ngôn ngữ: hắn đã vượt thóat được ngôn ngữ. Thi sĩ là người duy nhất có thể vượt thoát được hố thẳm, lập ngôn”. “Thơ là những xúc động đặc biệt được diễn tả bằng một ngôn ngữ đặc biệt của một sinh linh có năng khiếu đặc biệt mệnh danh là thi sĩ”.Như vậy, trong quan niệm của các nhà lý luận phê bình văn nhà thơ không phải là người bình thường mà là người nghệ sĩ có phẩm chất khác thường. Thật vậy, sáng tạo thi ca là quá trình phức tạp. Như một ngọn nến, thi nhân tự đốt cháy tâm hồn mới mong thơ tỏa sáng giữa cuộc đời. Vì “thơ là kết tinh, thơ là ngọc đọng, thơ là phiến Kỳ nam trong rừng trầm hương, thơ là hạt minh châu trong biển hạt trai, thơ là tinh hoa trong vườn phương thảo”. Quá trình sáng tạo của nhà thơ là sự kết tinh của “hồn thơ”. Để sáng tác thi ca ngoài phần kỹ thuật, thi pháp cũng như nội dung tư tưởng, “còn đòi hỏi một nguyên lý sinh động đó là cái hồn thơ, cái khả năng cảm hứng và diễn tả của nhà thơ nó làm cho nội dung kết cấu với hình thức và bài thơ có một sức sống linh diệu” (Nguyễn Sỹ Tế). Và “Những chất thơ có được trong tác phẩm đều xuất phát từ một hồn thơ. Hồn thơ là nguồn suối nguyên sinh của cái đẹp nghệ thuật tìm thấy trong một sáng tạo đam mê” (Trần Nhựt Tân).Với các nhà lý luận phê bình văn học, hồn thơ là yếu tố không thể thiếu trong quá trình sinh thành thơ ca. Nó không những là nguyên nhân, động lực, là “nỗi niềm tinh vân” dậy lên đam mê

10

Page 11: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

và khát khao sáng tạo mà còn là tiếng gọi từ trong vô thức của người thơ. “Chất thơ thường hướng về tác phẩm, tức là ngoại giới, hồn thơ là dư vang chưa thành hình còn đang ở trong trạng thái tiềm thế, đồng hóa với mỹ cảm sống động trong tâm hồn thi sĩ”3. Ngôn ngữ và hình ảnh thơ“Thơ là nghệ thuật lấy ngôn ngữ làm cứu cánh” (Jakobson). Đó là thứ ngôn ngữ được chưng cất công phu vì “bài thơ là tổ chức ở trình độ cao của ngôn ngữ, một tổ chức chặt chẽ tinh tế của ngôn ngữ”. Vì vậy với các nhà lý luận phê bình văn học, ngôn ngữ thơ là một phương tiện hình thức luôn được coi trọng, ngôn ngữ luôn là một giá trị không thể phủ nhận trong thơ, vì “thơ tức là phần tinh lọc nhất của ngôn ngữ” (Nguyễn Quốc Trụ). Và “ngôn ngữ thi ca là thứ ngôn ngữ kết hợp hài hòa giữa ngôn ngữ và tư tưởng và nhiệm vụ của thi nhân là phải tạo nên sự nhiệm màu kỳ diệu ấy”.Đây mới thực sự là yếu tố làm nên giá trị thơ ca. Tư tưởng trong ngôn ngữ thơ như một chiếc dây diều vừa đưa thơ cất cánh bay cao, bay xa trong bầu trời của thực và mộng vừa neo thơ lại với bầu khí quyển đời sống. Ngôn ngữ thơ theo Phú Hưng “không phải là một thứ ngôn ngữ xác ve sau mùa hè đã im bặt tiếng kêu mà đó là một thứ ngôn ngữ không ngừng biến sinh mãnh liệt”. Song ngôn ngữ trong thơ không phải là ngôn ngữ nguyên sinh của đời sống.Đó là ngôn ngữ có giá trị tạo nghĩa, là một thứ “bóng chữ”. Nó có một “ma lực” riêng, nhiều khi vượt thoát khỏi ý thức của người cầm bút để trở thành một thứ ám ảnh của vô thức. Như một “tiếng chim gọi đàn”, nó tràn ra ngòi bút của thi nhân và phóng chiếu thành những cảm hứng sáng tạo. Ngôn ngữ thơ vì thế “không những khác biệt ngôn ngữ nhật dụng, nó còn biệt lập với người cầm bút, nó còn khả năng tự tồn, sinh sôi, nẩy nở “Chữ đẻ ra chữ và ra nghĩa” (Bùi Hữu Sủng)4. Quan niệm về nhạc tính và âm điệu trong thơCùng với ngôn ngữ và hình ảnh, nhạc tính và âm điệu trong thơ cũng là một yếu tố thi pháp được các nhà lý luận phê bình văn học ở đô thị miền Nam đề cập khá nhiều trong quan niệm thơ của mình. Theo họ, “Nhạc điệu là một yếu tính của thi ca. Thiếu nhạc tính thơ trở thành văn xuôi”. Bởi nhạc tính như một nét duyên thầm làm nên vẻ đẹp của thơ, cũng là một yếu tố tạo mỹ cảm cho người đọc. “Ly khai với nhạc tính, thơ chỉ còn là một nhan sắc trơ trẽn thiếu duyên”(Tam Ích). Và “Thơ là sự phối hợp của âm thanh”. Thơ bao giờ cũng là sự kết hợp hài hòa giữa ý và nhạc. Nếu “rơi vào cái vực ý thì thơ sẽ sâu nhưng rất dễ khô khan. Rơi vào cái vực nhạc thì thơ dễ làm say lòng người nhưng dễ nông cạn” (Chế Lan Viên). Rõ ràng, nhạc tính là tiếng nói linh diệu của thi ca, gợi thức trí tưởng tượng của người đọc, nói như La Fontaine “Chẳng có thơ nào không có nhạc, song chẳng có thơ nào không có tưởng tượng”.Là một yếu tố không thể thiếu trong thơ, nhạc được tạo nên từ cách dùng ngôn ngữ, cách gieo vần, phối thanh... Nếu ngôn ngữ và hình ảnh là những yếu tố song hành thì âm điệu cũng là yếu tố đồng hành với tính nhạc. Nói một cách hình ảnh, nếu ngôn ngữ là sợi dây đàn thì nhạc tính và âm điệu là những cung bậc thanh âm ngân lên từ sợi dây đàn ấy, “âm điệu là bố cục của tiết nhịp” mà “nhạc tính là dây giao cảm của từng yếu tố trong toàn bộ bố cục ấy”(Trần Nhựt Tân). Vì vậy trong quan niệm lý luận phê bình văn học , âm điệu cũng là một yếu tố hình thức nghệ thuật quan trọng trong thơ. Việc kiến tạo âm điệu trong thơ cũng chính là kiến tạo nhạc tính. Và âm điệu cũng là chiếc cầu nối thơ với người đọc, nói như Trần Nhựt Tân “âm điệu là một cảm

11

Page 12: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

nghiệm thi tánh như một sinh khí hội thoại của thơ với người thưởng lãm”Quan niệm về ngôn ngữ, hình ảnh, âm điệu và nhạc tính trong thơ của lý luận phê bình văn học cũng tương hợp với quan niệm thơ phương Tây và quan niệm thơ ca truyền thống của dân tộc. Bởi đây là những hằng số giá trị của thơ ca. Nhưng thơ vẫn còn những ẩn số khác mà con người phải khám phá trong quá trình tìm đến bản thể thơ. “Thơ là vần điệu. Thơ là ý nghĩa tác động lên tâm hồn người đọc. Thơ là ẩn dụ nhằm gây rung động hay cảm xúc” (Huỳnh Phan Anh). Thơ mãi là một thế giới đầy bí ẩn mà khi giải mã, không phải lúc nào cũng có sự thống nhất; ngay cả trong quan niệm về việc chú giải, phê bình.Nguồn st)

Viết về cảm xúc trong thơ, nhà phê bình Hoài Thanh từng có ý kiến: Dòng cảm xúc quá chừng sôi nổi khiến cho câu chữ không thể đi theo những đường viền có sẵn, ý thơ xô đẩy làm cho khuôn khổ câu thơ cũng phải lung lay.

Bằng việc cảm nhận bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh, anh (chị) hãy bình luận ý kiến trên.

Hướng dẫn :

Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận (0,25 điểm): Có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài. Mở bài nêu được vấn đề nghị luận, thân bài triển khai được vấn đề, kết bài kết luận được vấn đề.– Điểm 0,25: Trình bày đầy đủ các phần Mở bài, Thân bài, Kết luận. Phần Mở bài biết dẫn dắt hợp lí và nêu được vấn đề; phần Thân bài biết tổ chức thành nhiều đoạn văn liên kết chặt chẽ với nhau cùng làm sáng tỏ vấn đề; phần Kết bài khái quát được vấn đề và thể hiện được ấn tượng, cảm xúc sâu đậm của cá nhân.

– Điểm 0: Thiếu Mở bài hoặc Kết luận, Thân bài chỉ có 1 đoạn văn hoặc cả bài viết chỉ có 01 đoạn văn.

2. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận (0,5 điểm): Vai trò của cảm xúc trong thơ ca: Khi cảm xúc quá sôi nổi, mãnh liệt nó sẽ phá vỡ những hình thức có tính khuôn mẫu, ổn định.– Điểm 0,5: Xác định đúng vấn đề cần nghị luận như trên

– Điểm 0,25: Xác định chưa rõ vấn đề cần nghị luận, chỉ nêu chung chung.

– Điểm 0: Xác định sai vấn đề cần nghị luận, trình bày lạc sang vấn đề khác.

Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng; kiến thức về lí luận, về tác phẩm và đoạn trích (2,5điểm)3.1. Giới thiệu vài nét về tác giả Xuân Quỳnh và bài thơ “Sóng” (0,25đ)

3.2. Giải thích ý kiến của Hoài Thanh (0,5đ):

12

Page 13: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

+ “Cảm xúc” là những rung động, là tình cảm- đây là yếu tố quan trọng nhất của thơ. Khởi nguồn của thơ là tiếng nói của tình cảm, cảm xúc. “Sôi nổi” chỉ mức độ của cảm xúc: nồng nàn, cháy bỏng, mãnh liệt dâng trào. “Ý thơ” chỉ tư tưởng, tình cảm.

+ “Những đường viền có sẵn”, “khuôn khổ câu thơ”: Những quy định có sẵn từ trước, những hình thức có tính chất khuôn mẫu, ổn định. “Xô đẩy”, “không đi theo”, “lung lay” đều chỉ sự bứt phá, vượt ra khỏi những quy định.

=> Khi cảm xúc, tình cảm trong thơ đến mức mãnh liệt nó sẽ phá vỡ những khuôn mẫu, những hình thức có tính chất ổn định. Từ đó cho thấy trong mối quan hệ giữa nội dung cảm xúc và hình thức nghệ thuật của thơ thì nội dung cảm xúc đóng vai trò chi phối.

3.3. Cảm nhận bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh (1,25đ)

+ “Sóng” là dòng cảm xúc “quá chừng sôi nổi”, là tiếng nói tình cảm mãnh liệt của một trái tim phụ nữ yêu chân thành, da diết. Cái “tôi” trữ tình khi thì hóa thân vào “em”, khi thì soi mình vào “sóng”. “Sóng” và “em” cùng song song tồn tại để bộc lộ những cảm xúc của nhân vật trữ tình.

++ Những trạng thái cảm xúc phong phú, phức tạp có lúc tưởng mâu thuẫn mà lại thống nhất trong tâm hồn người con gái đang yêu.

++ Khát vọng tự nhận thức, khát vọng tình yêu

++ Nỗi nhớ cháy bỏng, da diết trong tình yêu.

++ Tình cảm thủy chung khăng khít

++ Những dự cảm âu lo và niềm tin vào tình yêu chân chính

++ Khát vọng bất tử hóa tình yêu.

+ Ở “Sóng” có sự phá vỡ những hình thức, khuôn mẫu có tính chất ổn định (“câu chữ không đi theo đường viền có sẵn, khuôn khổ câu thơ bị lung lay”)

++ Âm điệu của bài thơ: Bài thơ có âm điệu của sóng. Sóng biển hay cũng chính là sóng lòng của người con gái đang yêu. Âm điệu đó được tạo nên do thể thơ (thể thơ năm chữ, gieo vần, ngắt nhịp, hài thanh linh hoạt); phương thức tổ chức ngôn từ và hình ảnh.

++ Kết cấu của bài thơ độc đáo thể hiện “dòng cảm xúc quá chừng sôi nổi”: Cả bài thơ có 9 khổ. Bốn khổ đầu và bốn khổ cuối mỗi khổ đều có 4 câu, riêng khổ giữa (khổ 5) có 6 câu. Kết cấu đó

13

Page 14: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

khiến người ta liên tưởng tới hai chân sóng và đỉnh sóng.

++ Hình tượng thơ: Có hai hình tượng song song tồn tại: Sóng và em, lúc thì phân thân soi chiếu vào nhau, lúc lại hòa với nhau làm một. Sóng biển và sóng lòng hòa quyện trong nhau.

++ Các biện pháp tu từ: Ẩn dụ, so sánh, nhân hóa được sử dụng linh hoạt nhằm diễn tả những cảm xúc trong tâm hồn người con gái đang yêu.

++ Ngôn ngữ thơ giản dị, tự nhiên như tiếng lòng chân thành của người phụ nữ, không màu mè, kiểu cách.

3.4. Bình luận ý kiến của Hoài Thanh (0,5đ): Học sinh có thể nêu ý kiến và lí giải:

+ Nội dung cảm xúc và hình thức nghệ thuật trong thơ phải có sự hài hòa, phù hợp với nhau. Tuy nhiên, trong mối tương quan giữa nội dung và hình thức thì nội dung là cái có trước và bao giờ cũng đóng vai trò chủ đạo. Thông qua ý thức năng động và tích cực chủ quan của người nghệ sĩ, nội dung cố gắng đi tìm một hình thức thể hiện phù hợp với nó, để bộc lộ một cách đầy đủ nhất, hấp dẫn nhất bản chất của nó. Khi tiếng nói cảm xúc, tình cảm trong thơ nồng nhiệt đến độ cao trào thì nó sẽ vượt ra khỏi khuôn khổ hình thức bình thường để rồi lại đi tìm một cách thể hiện khác phù hợp với nó. Đó chính là sự “phá vỡ những đường viền có sẵn”.

+ Khi cảm xúc phá vỡ những giới hạn, những hình thức cũ thì sẽ có một hình thức mới ra đời. Đây cũng chính là hành trình đi tìm sự sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sĩ. Nghệ thuật cũng vì thế mà luôn sáng tạo, luôn mới mẻ, hấp dẫn. (dẫn chứng: Thơ mới 30-45)

+ Ý kiến của nhà phê bình Hoài Thanh là ý kiến xác đáng, đúng đắn, đầy biện chứng về mối quan hệ giữa nội dung và hình thức trong thơ. Tuy nhiên cũng cần phải thấy rằng: Không phải cứ có cảm xúc mãnh liệt thì sẽ có sự phá cách và tạo nên cái mới trong nghệ thuật thơ ca. Việc sáng tạo nên những hình thức mới mẻ còn phải phụ thuộc vào cái tài của người nghệ sĩ. Cảm xúc chỉ là phần “xương thịt”, là yếu tố khơi nguồn và thúc đẩy. Hơn nữa, không chỉ thơ mà đối với loại hình nghệ thuật nào cũng vậy nội dung cảm xúc, tư tưởng luôn đóng vai trò chủ đạo, quyết định đối với hình thức thể hiện.

14

Page 15: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

 Cốt truyện là một hệ thống cụ thể những sự kiện, biến cố, hành động trong tác phẩm tự sự và tác phẩm kịch thể hiện mối quan hệ qua lại giữa các tính cách trong một hoàn cảnh xã hội nhất định nhằm thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm.

Các thành phần chính của cốt truyện.

TOP

Cơ sở sâu xa của cốt truyện là một xung đột đang vận động. Vì vậy, quá trình phát triển của một cốt truyện cũng giống như quá trình vận động của xung đột, bao gồm các bước hình thành, phát triển và kết thúc. Nhìn chung, một cốt truyện thường có các thành phần chính sau:

1.3.1. Phần trình bày.

Phần này giới thiệu khái quát về bối cảnh xã hội, các điều kiện, nguyên nhân làm náy sinh xung đột và tình hình buổi ban đầu của nhân vật. Hoàn cảnh ở đây thường nằm trong trạng thái tĩnh, mâu thuẫn chưa vận động và phát triển, nhân vật chưa đứng trước những thử thách nên chưa phát hu tính năng động của mình. Trong Truyện Kiều, phần trình bày là phần giới thiệu tài sắc của chị em Thúy Kiều và gia cảnh của họ. Cảnh Lí trưởng sai Trương tuần đóng cổng làng để thu thuế, cảnh thu thuế ở đình làng, cảnh nghèo đói túng thiếu của gia đình chị Dậu là phần giới thiệu của Tắt đèn.

1.3.2. Phần thắt nút.

Phần này đánh dấu sự kiện mà từ đó phát sinh mâu thuẫn, xung đột. Ðây chính là biến cố đầu tiên của cả hệ thống biến cố tạo thành xung đột của cốt truyện. phần thắt nút có nhiệm  vụ bộc lộ trực tiếp những mâu thuẫn đựơc tích tụ một cách âm ỉ từ trước, các nhân vật sẽ đứng trước những thử thách, đòi hỏi phải bày tỏ những thái độ, chọn lựa cách xử sự, hành động, phản ứng, từ đó bộc lộ rõ tính cách. Cảnh gia biến và việc Kiều phải bán mình chuộc cha là phần thắt nút của Truyện Kiều. Thắt nút của Tắt đèn là cảnh tuần đinh, lính lệ đến đánh đập anh Dậu để đòi sưu thuế (chương IV)

1.3.3. Phần phát triển.

Ðây là phần quan trọng và dài nhất của cốt truyện bao gồm nhiều cảnh ngộ, sự kiện và biến cố khác nhau. tính cách nhân vật chủ yếu được xác định trong phần này. Nó có thể được thay đổi thông qua các bước ngoặt, môi trường khác nhau. phần phát triển của Truyện Kiều là cuộc đời 15 năm lưu lạc, từ "chữ trinh đáng gíá nghìn vàng" đến "tấm lòng trinh bạch từ nay xin chừa", là những chuỗi dài bi kịch "thanh lâu hai lượt thanh y hai lần", là sự tiếp xúc với đủ các

15

Page 16: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

hạng người trong xã hội, là nỗi đau khổ này đến nỗi đau khổ khác của Kiều. Trong Tắt đèn, phần phát triển bao gồm những sự kiện: đàn con bị đói, chồng bị bắt, chị Dậu một mình tất tả ngược xuôi cho đến lúc người nhà lí trưởng ném cái xác lạnh ngắt, mê man bất tỉnh của anh Dậu vào nhà. (từ chương V - XVII)

1.3.4. Ðiểm đỉnh.

Còn được gọi là cao trào, là phần bộc lộ cao nhất của xung đột. Lúc này, xung đột đã phát triển đến độ gay gắt, quyết liệt, đòi hỏi phải được giải quyết theo một chiều hướng nhất định. Ðiểm đỉnh thường là một khoảnh khắc, một thời điểm ngắn nhưng có tác dụng quyết định đối với nhân vật trung tâm. Ðiểm đỉnh của Truyện Kiều là khoảnh khắc đau xót nhất của đời Kiều: Từ Hải chết, Kiều phải đánh đàn cho Hồ Tôn Hiến, bị ép gã cho thổ quan và cuối cùng nhảy xuống sông Tiền Ðường tự vẫn. Ðiểm đỉnh của Tắt đèn là lúc chị Dậu bị dồn vào đường cùng đã xô tên Cai Lệ và túm tên ngườn nhà của Lí trưởng "lẳng một  cái, ngã nhào ra thềm" (chương XVIII)

1.3.5. Phần kết thúc.(Mở nút)

Ðây là phần giải quyết xung đột của tác phẩm một cách cụ thể. Ởí đây, tác giả trình bày những kết quả của toàn bộ xung đột của cốt truyện. một cốt truyện tốt, bao giờ phần kết thúc cũng được giải quyết một cách tự nhiên, phù hợp với qui luật của cuộc sống. Tuy nhiên trong văn học cổ thường có phần kết thúc phù hợp với ước muốn chủ quan của con người. Phần kết thúc của Truyện Kiều là Kiều được cứu sống, là đoạn đoàn viên của Kiều với Kim Trọng và gia đình sau 15 năm luân lạc. Trong Tắt đèn, chị Dậu từ lúc bị bắt lên hầu quan phủ, sau đó phải xa chồng, xa con để đi làm vú hầu cụ cố nhà quan Tỉnh, đến lúc chị choàng dậy mở cửa chạy té ra sân "Trời tối đen như mực, như cái tiền đồ của chị" là phần kết thúc của tác phẩm. (chương XIX- XXVI)

Những thành phần chính trên đây tạo thành một cốt truyện đầy đủ. Tuy nhiên, trong thực tế văn học, không phải lúc nào cốt truyện cũng đầy đủ cả 5 thành phần đồng thời cũng không phải được trình bày theo thứ tự như trên. Ơí một số cốt truyện, có thể thiếu mất một vài thành phần, ở một số cốt truyện khác, có thể không có phần mở đầu hoặc nhiều khi lại bắt đầu bằng phần kết thúc hoặc một biến cố gần với điểm đỉnh. Vì vậy, khi tìm hiểu và xác định các thành phần của cốt truyện, không nên gò ép những biến cố hay sự kiện vào thành phần này hay thành phần khác với những lí do có tính chất hình thức. Cần tìm hiểu và phân tích sự xây dựng cốt truyện có thể hiện được những xung đột xã hội, sự phát triển của nó có phù hợp với qui luật cuộc sống và có thể hiện được ý đồ nghệ thuật của tác giả hay không.

II. KẾT CẤU

16

Page 17: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

1. Kết cấu và chức năng của kết cấu trong tác phẩm văn học. TOP

2.1.1. Khái niệm.

Một tác phẩm văn học, dù dung lượng lớn hay nhỏ cũng đều là những chỉnh thể nghệ thuật, bao gồm nhiều yếu tố, bộ phận...Tất cả những yếu tố, bộ phận đó được nhà văn sắp xếp, tổ chức theo một trật tự, hệ thống nào đó nhằm biểu hiện một nội dung nghệ thuật nhất định..gọi là kết cấu. Nói cách khác, kết cấu là toàn bộ tổ chức nghệ thuật sinh động, phức tạp của tác phẩm văn học.

Kết cấu là yếu tố tất yếu của mọi tác phẩm. Nếu khái niệm cốt truyện nhằm chỉ sự liên kết những sự kiện, hành động, biến cố...trong tác phẩm tự sự và kịch thì kết cấu là một khái niệm rộng hơn nhiều.

Cần có sự phân biệt giữa kết cấu và bố cục. Bố cục là sự sắp xếp các phần, các chương, các đoạn, các khổ thơ...Ðây chỉ là sự tổ chức hình thức bên ngoài của tác phẩm. Nói cách khác bố cục mới chỉ là kết cấu bề mặt của tác phẩm. Thuật ngữ kết cấu rộng và phức tạp hơn nhiều. Bên cạnh việc tổ chức, sắp xếp các yếu tố của tác phẩm, kết cấu còn bao hàm sự liên kết bên trong, những mối liên hệ qua lại giữa các yếu tố thuộc về nội dung và hình thức của tác phẩm, trong đó có cả yếu tố của bố cục.

2.1.2. Chức năng của kết cấu.

Trước hết, kết cấu có nhiệm vụ góp phần thể hiện chủ đề và tư tưởng của tác phẩm. Trong lao động sáng tạo văn học, có thể coi chủ đề tư tưởng là mục tiêu nhằm hướng tới của nhà văn trong quá trình phát hiện và xây dựng kết cấu. Tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá kết cấu một tác phẩm chính là hiệu quả diễn đạt nội dung của nó. Khi Radinxki cho rằng kết cấu của tiểu thuyết Anna Karênina lỏng lẻo, đó là hai cuốn tiểu thuyết với hai tuyến nhân vật (Anna- Vrônxki và Lêvin-Kitti) đứng cạnh nhau, thì L. Tônxtôi đã viết thư trả lời ông: "Ngược lại, tôi tự hào với cách kết cấu: các vòm đã được xây dựng thế nào mà không thể nhận ra được bộ đỡ ở đâu. Chính điều này làm cho tôi phải cố gắng nhiều nhất. Mối liên hệ của công trình xây dựng không dựa và sườn truyện và những mối quan hệ của các nhân vật, mà dựa vào mối liên hệ bên trong". Phan Cự Ðệ khẳng định mối liên hệ bên trong "chính là tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Những tìm kiếm của Levin là một lời giải đáp cho những câu hỏi mà số phận của Anna đặt ra. Anna phải li dị với chồng và sau đó phải tự vẫn vì không tìm thấy trong xã hội một tình yêu chân chính còn Lêvin thì đi tìm một con đường xác lập một thực tế có tình yêu. Anna thấy gia đình là một cái gì xa lạ đối với con người thì Lêvin cố gắng đi tìm một gia đình thực sự trong đó có tình thương yêu giữa con người với con người"

17

Page 18: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

Trong tác phẩm Tắt đèn, Ngô Tất Tố đã dành 2/3 tác phẩm để diễn tả hàng loạt sự việc diễn ra trong 1 ngày. Tác giả đã cố gắng dồn nén tất cả những mâu thuẫn vào trong một thời gian thật ngắn nhằm có điều kiện thể hiện một cách tập trung nhất bản chất của bọn địa chủ, quan lại và nỗi điêu đứng, cơ cực, đau xót của người nông dân đối với sưu cao, thuế nặng.

Trong bài thơ Mặt quê hương, Tế Hanh đã sắp xếp để tạo nên sự hòa nhập và phản ánh, so sánh lẫn nhau giữa khuôn mặt người yêu và hình ảnh quê hương nhằm thể hiện một chủ đề tư tưởng: Tình yêu dành cho quê hương là một tình yêu đằm thắm, bền vững như một cái gì gắn bó, thân thiết nhất:

Mặt em như tấm gương,

Anh nhìn thất quê hương

Kìa đôi mắt đôi mắt

Dòng sông yêu trong vắt

Kìa vừng trán thanh thanh

Khoảng trời xưa trong lành...

Kết cấu có nhiệm vụ tổ chức hệ thống các tính cách nhân vật, sự kiện, các biến cố, hình ảnh, cảm xúc...làm cho những yếu tố đó gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại ngay từ bên trong tác phẩm, làm cho nó trở thành một chỉnh thể nghệ thuật toàn vẹn không thể chia cắt được.

Trong đời sống văn học, đôi khi có người cho rằng một số tác phẩm có chủ đề tư tưởng tốt nhưng tác phẩm vẫn chưa được cảm nhận như một chỉnh thể nghệ thuật. Ðiều này có thể do nhiều nguyên nhân nhưng một phần quan trọng là do kết cấu. Việc nhà văn sắp xếp các tình huống, sự kiện, mối liên hệ qua lại giữa các tính cách, sự tác động giữa bộ phận và toàn thể...không phải đơn giản. Gônsarôp cho rằng "Chỉ riêng một cách cấu tạo, tức là việc xây dựng tòa nhà cũng đã ngốn hết toàn bộ trí óc của tác giả: Phải suy nghĩ cân nhắc về sự tham gia của các nhân vật, kèm theo vào đó là phải luôn luôn kiểm tra và phê phán sự bất hợp lí của những chỗ thiếu, cả những chỗ thừa".

Có thể nhìn thấy sự tác động qua lại giữa các yếu tố trong tác phẩm văn học qua "Suất sưu người chết" trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố. Những chi tiết của đoạn văn trên có ý nghia tự thân nhưng đồng thời nếu thay đổi vị trí của nó, để nó xuất hiện ngay từ đầu truyện và chị Dậu cùng một lúc chạy vạy cho đủ tiền để nộp suất sưu thì ý nghĩa tố cáo của nó sẽ không cao. Sự sắp xếp đúng chỗ đã tạo nên sức mạnh gấp nhiều lần ý nghĩa riêng của nó. Kim Thánh Thán cũng có

18

Page 19: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

nhận xét rất tinh về sự sắp xếp hệ thống nhân vật trong Thủy hử : "Một  bộ sách lớn 70 hồi, viết 108 người nhưng mở đầu chưa viết 108 người vội mà miêu tả Cao Cầu trước đã: đó là vì nếu không tả Cao Cầu trước mà viết ngay 108 người thì tức là loạn nẩy sinh từ dưới, nếu không viết 108 người trước mà viết Cao Cầu trước thì tức là loạn nổi từ trên. Loạn sinh từ dưới thì không thể để lâu được, tác giả rất lo là vậy. Một bộ sách lớn 70 hồi mà mở đầu viết Cao Cầu trước, thật là có lí vậy."

Như vậy, kết cấu của tác phẩm bao giờ cũng tăng cường sức mạnh nghệ thuật của tác phẩm văn học, tạo nên sức hấp dẫn cho người đọc. Phân tích kết cấu tác phẩm, người đọc có thể so sánh nó với các hình thức, thủ pháp kết cấu chung nhưng điều quan trọng là phải xuất phát từ bản thân tác phẩm và xem nó có thể hiện tốt nhất chủ đề tư tưởng của tác phẩm hay không.

2. Một số hình thức kết cấu trong tác phẩm văn học. TOP

Những hình thức kết cấu trong tác phẩm văn học rất phong phú và đa dạng. Nó có thể chịu sự qui định của thể loại (kết cấu tác phẩm tự sự và kịch với kết cấu tác phẩm trữ tình) của từng giai đoạn lịch sử khác nhau (có những hình thức kết cấu chỉ tồn tại trong một giai đoạn lịch sử nhưng sau đó lại bị loại bỏ hoặc ít sử dụng và thay vào đó là một kết cấu mới phù hợp với giai đoạn lịch sử mới)... Vì vậy, khó có thể xác định những hình thức kết cấu nếu thoát li thực tế sáng tác. Tuy nhiên, ở đây có thể tìm hiểu một số hình thức kết cấu đã từng xuất hiện trong lịch sử văn học và đã tạo nên nhiều tác phẩm có giá trị.

2.1. Kết cấu theo trình tự thời gian.

Ðây là dạng kết cấu phổ biến nhất trong văn học Việt Nam từ trước 1930. Theo kết cấu này, câu chuyện được trình bày theo thứ tự, phát triển trước sau của thời gian. Các sự kiện được sắp xếp, xâu chuỗi lại và lần lượt xuất hiện không bị đứt quãng. Hầu hết những tác phẩm chương hồi sử dụng lối kết cấu này. Ơí đây, tác phẩm được chia thành nhiều chương, hồi théo sự phân bố về mặt hành động và sự kiện của cốt truyện. Mỗi chương, mỗi hồi thường gắn liền với một giai đoạn nào đó của cốt truyện và nhiêu khi khá trọn ven, loại kết cấu này gíup người đọc dễ theo dõi câu chuyện nhưng nhiều khi lại đơn điệu.

2.2. Kết cấu theo hai tuyến nhân vật đối lập.

Lối kết cấu này được sử dụng nhiều trong văn học cổ. Nhà văn xây dựng 2 tuyến nhân vật chính diện và phản diện đối lập nhau về lí tưởng, chính kiến, đạo đức, hành động...Một bên đại diện cho lực lượng chính nghĩa, cái đẹp, chân lí. Một bên thì ngược lại. Hai lực lượng này đấu tranh không khoan nhượng với nhau và thường kết thúc với thắng lợi của lực lượng chính nghĩa. Hầu hết những truyện thơ Nôm ở Việt Nam sử dụng kết cấu này.

19

Page 20: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

Kết cấu này có tác dụng làm nổi rõ chủ đề tư tưởng thông qua so sánh, đối chiếu giữa 2 tuyến nhân vật đối lập. Tuy nhiên sự phân biệt khá rạch ròi giữa thiện và ác nhiều khi dẫn đến lí tưởng hóa hiện thực. Trong thực tế cuộc sống, các lực lượng xã hội có tác động qua lại, chuyển hóa cho nhau chứ không tồn tại một cách ổn định và tĩnh tại.

Hình thức kết cấu theo 2 tuyến nhân vật đôi khi được trình bày không phải là sự đối lập mà là 2 tuyến song song, làm cơ sở để đối chiếu và hỗ trợ cho nhau. Ở đây mỗi tuyến tập họp những kiểu người gần gũi với nhau về hoàn cảnh sống, về tính cách, đạo đức...Có thể coi Anna Karênina của L. Tônxtôi được xây dựng theo hình thức kết cấu này.

2.3. Kết cấu đa tuyến.

Trong những bộ tiểu thuyết lớn, để khái quát về một bức tranh xã hội rộng lớn gồm nhiều hạng người, nhiều mối quan hệ đan xen nhau, khai thác nhiều mặt khác nhau của đời sống, các nhà văn thường sử dụng hình thức kết cấu theo tuyến nhân vật. Trong những tác phẩm này, nhà văn tổ chức các nhân vật theo các tuyến dựa trên những mối quan hệ về gia đình, nghề nghiệp, giai cấp... Trong Chiến tranh và hòa bình, L. Tônxtôi đã xây dựng hai tuyến lớn và ở mỗi tuyến lớn lại có nhiều tuyến nhỏ tập họp các nhân vật theo từng dòng họ, từng gia đình.

Hình thưc kết cấu này thường được sử dụng trong văn học hiện đại, nhất là trong các tiểu thuyết lớn. Erenbourg có nhận xét về kết cấu của một số tiểu thuyết trong thế kỉ XX:

"Tiểu thuyết của thời đại ta có nhiều chỗ khác với tiểu thuyết thế kỉ XIX vốn xây dựng trên lịch sử một con người hay một gia đình. Trong tiểu thuyết hiện đại có nhiều nhân vật hơn, số phận của họ đan chéo vào nhau, nhà văn thường hay đưa người đọc từ thành phố này sang thành phố khác, đôi khi di sang một nước khác nữa, cách kết cấu khiến ta nghĩ tới sự luân phiên của những đoạn cận cảnh với những cảnh quần chúng trên màn ảnh". Có thể coi những bộ tiểu thuyết Sông Ðông êm đềm của Sôlôkhôp hay Vỡ bờ của Nguyễn Ðình Thi, Cửa biển của Nguyên Hồng ...sử dụng lối kết cấu này.

2.4. Kết cấu tâm lí.

Ðây là hình thức kết cấu dựa theo qui luật phát triển tâm lí của các nhân vật trong tác phẩm. Loại kết cấu này xuất hiện cùng với sự xuất hiện của các trào lưu văn học khẳng định vai trò của cá nhân trong xã hội. Kết cấu này thường dựa vào trạng thái tâm lí có ý nghĩa nào đó để sắp xếp các sự kiện, nhân vật, cốt truyện...Trong Sống mòn, Nam Cao đã sắp xếp nhiều mẫu chuyện vặt vãnh, quẩn quanh trong sinh hoạt hằng ngày với những trạng thái tâm lí bi quan, bất lực, tự ti, khinh bạc...của các nhân vật. Kết cấu đó góp phần thể hiện cuộc sống chật hep, tù túng, bế tắc của người tiểu tư sản nghèo trong xã hội cũ.

20

Page 21: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

2.5. Kết cấu trong tác phẩm trữ tình.

Những hình thức kết cấu trên tiêu biểu cho loại tác phẩm có cốt truyện: tác phẩm tự sự và kịch. Loại tác phẩm trữ tình, tiêu biểu nhất là thơ trữ tình không có cốt truyện nên cần xem xét cho phù hợp với đặc trưng thể loại: tác phẩm trữ tình chủ yếu thể hiện trực tiếp tâm trạng, cảm xúc, ý nghĩ chủ quan của người nghệ sĩ. Vì vậy, xây dựng kết cấu trong tác phẩm trữ tình là sự tổ chức hệ thống cảm xúc, tâm trạng trong quá trình vận động và phát triển của chúng. Một kết cấu tốt trong tác phẩm trữ tình phải liên kết được các mạch thơ, dòng thơ, các biện pháp biểu hiện nhằm thể hiện tốt nhất sự vận động cảm xúc nội tâm của nhân vật.

Có thể nói đến nhiều hình thức kết cấu khác nhau và nhà văn khi xây dựng tác phẩm, lựa chọn kết cấu nào bao giờ cũng nhằm nâng cao sức biểu hiện của chủ đề tư tưởng, tăng cường sức tác động thẩm mĩ của tác phẩm đối với người đọc. Các hình thức kết cấu dù phong phú và đa dạng cũng chỉ là hữu hạn trong khi thực tế sáng tác thì vô hạn. Tong từng tác phẩm, nhà văn có thể vận dụng nhiều hình thức kết cấu khác nhau với sự sáng tạo nghệ thuật. Vì vậy, không thể qui những tác phẩm cụ thể vào một dạng kết cấu riêng biệt nào mà cần phải xem xét tác động nghệ thuật của kết cấu đối với người đọc cũng như chức năng cụ thể của nó trong việc thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm.

21

Page 22: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

CÁCH TIẾP CẬN NHÂN VẬT TRONG TÁC PHẨM TỰ SỰPhan Huệ Chi - THPT Chuyên 1. Một số vấn đề lý thuyết1.1. Vài nét về tác phẩm tự sựTrong một số công trình Tự sự học (Narratology), thuật ngữ “tự sự” (Narration) được dịch là “trần thuật”. Theo đó nhiều người đã gọi “tác phẩm tự sự” là “tác phẩm trần thuật”. Cả hai thuật ngữ này đều chỉ cùng một nội dung: tác phẩm có cốt truyện, có người kể chuyện. Chúng ta cần xác định rõ hơn về vấn đề này. Cụ thể, “tự sự” là phương thức tái hiện đời sống bên cạnh hai phương thức khác là trữ tình và kịch, được dùng làm cơ sở để phân loại tác phẩm văn học; còn “trần thuật” là hành động diễn ngôn tự sự được thực hiện bởi một (hoặc nhiều) người kể chuyện giữ vai trò trung gian giữa người sáng tác với những chuyện được kể trong tác phẩm.Nếu tác phẩm trữ tình phản ánh hiện thực trong sự cảm nhận chủ quan về nó thì tác phẩm tự sự lại tái hiện đời sống trong toàn bộ tính khách quan của nó. Tác phẩm tự sự phản ánh hiện thực qua bức tranh mở rộng của đời sống trong không gian và thời gian, qua các sự kiện, biến cố xẩy ra trong cuộc đời con người. Phương thức phản ánh hiện thực qua các sự kiện, biến cố và hành vi con người làm cho tác phẩm tự sự trở thành một câu chuyện về ai đó hay về một sự kiện nào đó. Cho nên, tác phẩm tự sự thường có cốt truyện. Gắn liền với cốt truyện là hệ thống nhân vật được khắc họa đầy đặn hơn hẳn nhân vật trong tác phẩm trữ tình và kịch. Những đặc điểm nói trên làm cho tác phẩm tự sự trở thành loại văn học có khả năng quan trọng trong đời sống tinh thần của con người hiện đại.

1.2. Nhân vật trong tác phẩm tự sự1.2.1. Nhân vật trong tác phẩm văn họcNhân vật văn học là con người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm văn học. Nhân vật văn học có thể có tên riêng cũng có thể không có tên riêng. Khái niệm nhân vật văn học có khi được sử dụng như một ẩn dụ không chỉ một con người cụ thể mà chỉ một hiện tượng nổi bật nào đó trong tác phẩm. Bên cạnh con người, nhân vật văn học có khi còn là các con vật, các loài cây, các sinh thể hoang đường được gán cho những đặc điểm giống con người.Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật, nó mang tính ước lệ không thể bị đồng nhất với con người có thật, ngay cả khi tác giả xây dựng nhân vật với những nét rất gần với nguyên mẫu. Từ những góc độ khác nhau, có thể chia nhân vật văn học thành nhiều kiểu, loại khác nhau:- Dựa vào vai trò, vị trí khác nhau trong tác phẩm, nhân vật văn học được chia thành nhân vật chính, nhân vật phụ.- Dựa vào đặc điểm tính cách và việc truyền đạt sự đánh giá và thể hiện lý tưởng xã hội của nhà văn, nhân vật văn học được chia thành nhân vật chính diện (tích cực), nhân vật phản diện (tiêu cực).- Dựa vào thể loại văn học, người ta phân biệt nhân vật tự sự, nhân vật trữ tình, nhân vật kịch.- Dựa vào cấu trúc hình tượng, nhân vật được chia thành nhân vật chức năng (mặt nạ), nhân vật loại hình, nhân vật tính cách, nhân vật tư tưởng.- Tuy nhiên, mọi sự phân chia đều mang tính chất tương đối, nhân vật trong thực tế văn học hết

22

Page 23: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

sức đa dạng, sự phân chia chỉ nhằm nhấn mạnh đặc điểm cơ bản, xuất phát từ một trong những góc độ tiếp cận các nhân vật văn học. Trong văn học cổ điển, thông thường nhân vật chính đồng thời là nhân vật tích cực, chính diện và ngược lại. Tuy nhiên, đối với văn học hiện đại, sự phân chia nhân vật trong tác phẩm không rõ ràng, rạch ròi như văn học cổ điển, có nhân vật vừa ác vừa thiện, vừa hiền vừa dữ…1.2.2. Nhân vật trong tác phẩm tự sựNhân vật trong tác phẩm tự sự bao gồm:- Con người là đối tượng phổ biến và bao trùm nhất. - Vật: Loài vật, đồ vật, tạo vật thường được mô tả theo hai kiểu: Kiểu ngụ ngôn (phổ biến trong văn học dân gian, được nhân cách hóa hoặc người đội lốt vật); kiểu hiện thực (vẫn được miêu tả là đồ vật, loài vật nhưng có vai trò quan trọng trong tác phẩm như con chó vàng (Lão Hạc - Nam Cao), con chó becgie (Đôi mắt - Nam Cao), Khoang đen (Phiên chợ Giát - Nguyễn Minh Châu)…Nhưng dù nhà văn viết về loài vật, đồ vật nhưng đều miêu tả theo qui luật của con người. Miêu tả đồ vật, loài vật không phải vì bản thân đối tượng mà là vì con người. Nói cách khác, con người được miêu tả gián tiếp qua đó.Tầm quan trọng của việc tìm hiểu nhân vật trong tác phẩm tự sự được xác định dựa vào vai trò của nhân vật trong tác phẩm:- Nhân vật khái quát tính cách của con người, khái quát hóa cuộc sống, hiện thực được cô đặc lại, thu nhỏ lại trong cuộc sống của một nhân vật giống như qua một giọt nước thấy cả đại dương, qua số phận của một nhân vật có thể thấy được cả một lớp người, một thời đại, một xã hội. Đó chính là vai trò phản ánh.- Nhân vật là yếu tố hết sức quan trọng truyền tải tư tưởng của tác giả. Qua nhân vật, tác giả gửi gắm những tư tưởng, những thông điệp thẩm mỹ tới người đọc. Đó chính là vai trò tư tưởng.- Nhân vật tạo nên tính thuyết phục cho tác phẩm, khiến người đọc có cảm giác tin cậy vào những điều nhà văn viết. Vấn đề này hết sức cần thiết trong hoạt động tiếp nhân văn học. Điều quan trọng của tính thuyết phục là tính chân thực của tác phẩm, tức là sự phù hợp giữa tác phẩm với những qui luật của đời sống, mà xét đến cùng, tính chân thực của tác phẩm lại phụ thuộc vào tính chân thực của nhân vật. Vì vậy, có thể nói, nhân vật tạo nên tính thuyết phục cho tác phẩm.Như vậy, trong tác phẩm tự sự, nhà văn “nói” qua nhân vật. Nhân vật chính là nơi tập trung mang chở nội dung phản ánh, chủ đề, tư tưởng của tác phẩm, là nơi ký thác quan niệm về con người, về cuộc sống, về nghệ thuật của nhà văn. Một nhân vật văn học lớn bao giờ cũng thể hiện một số phận, một quan niệm nhân sinh độc đáo và thường điển hình cho một tầng lớp xã hội, một giai cấp, thậm chí một thời đại nào đó. Bởi thế, phân tích nhân vật trở thành con đường quan trọng nhất để xác định giá trị của tác phẩm, để nhận ra lí tưởng thẩm mĩ cùng tài năng, phong cách nghệ thuật của nhà văn. Trong chương trình THPT, tác phẩm tự sự chiếm số lượng lớn bên cạnh tác phẩm trữ tình, từ trung đại đến hiện đại. Ở đây, chúng tôi giới hạn việc tìm hiểu nhân vật trong tác phẩm tự sự hiện đại.2. Phân tích nhân vật trong tác phẩm tự sự2.1. Xác định đúng mục đích của việc phân tích nhân vật 

23

Page 24: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

Điều cốt lõi khi phân tích nhân vật trong tác phẩm tự sự là phải xác định đúng mục đích của việc phân tích. Thông thường, khi phân tích, giáo viên giúp học sinh chỉ ra được các đặc điểm của nhân vật như: hình dáng bên ngoài, lời nói, cách nói, cử chỉ, thế giới nội tâm, quan hệ với nhân vật khác... Nếu vậy, chưa thể xem là đã phân tích một nhân vật tự sự. Đây mới chỉ là những phương tiện, những dấu hiệu của đặc điểm tâm lý, tính cách nhân vật. Mục đích của việc phân tích nhân vật là chỉ ra được tâm lý, tính cách, bản chất xã hội của nhân vật từ đó làm rõ ý nghĩa phản ánh, ý nghĩa tư tưởng, thông điệp thẩm mĩ và những điểm sáng tạo được nhà văn thể hiện qua nhân vật. Người phân tích cần tránh nhầm lẫn giữa mục đích và phương tiện, không được lấy phương tiện thay cho mục đích.2.2. Xác định đúng loại nhân vật để định hướng cho qui trình phân tíchThực tiễn giảng dạy cho thấy, có sự khác nhau trong việc phân tích các loại nhân vật. Phân tích các nhân vật như Chí Phèo (Chí Phèo), Mị (Vợ chồng A Phủ) khác với tiến trình phân tích nhân vật Huấn Cao (Chữ người tử tù), Tnú (Rừng xà nu); cũng không giống với tiến trình phân tích nhân vật Hộ (Đời thừa)… Sự khác nhau trong phân tích các nhân vật nói trên xuất phát từ sự khác nhau về đối tượng phân tích. Nói cách khác, đó là các kiểu loại nhân vật được xây dựng theo những mô hình khác nhau. Ở mỗi loại nhân vật cần có cách tiếp cận khác nhau.Tác phẩm tự sự hiện đại trong chương trình có một số kiểu cấu trúc nhân vật chủ yếu:Nhân vật loại hình: Nhân vật thể hiện tập trung một loại phẩm chất, tính cách nào đó của con người hoặc các phẩm chất, tính cách, đặc điểm của một loại người nhất định của thời đại. Nhân vật loại hình không phải là khái niệm trừu tượng. Giống như các loại nhân vật khác, các nhân vật được thể hiện trong tác phẩm qua những chi tiết chân thực, sinh động của đời sống. Điển hình loại này có cá tính nhất định nhưng khái niệm loại vẫn là cốt lõi của nó. Chương trình THPT có loại nhân vật này như Huấn Cao (Chữ người tử tù), Tnú (Rừng xà nu), A Châu (Vợ chồng A Phủ)…Nhân vật tư tưởng: Loại nhân vật tập trung thể hiện một tư tưởng, một ý thức tồn tại trong đời sống tinh thần của xã hội. Nhân vật tư tưởng cũng thể hiện một cá tính, một nhân cách nhưng hạt nhân của nó là một tư tưởng, một ý thức. Trong chương trình THPT có những nhân vật tư tưởng như: Hộ (Đời thừa), Phùng (Chiếc thuyền ngoài xa)...Nhân vật tính cách: Là một kiểu nhân vật phức tạp được miêu tả trong tác phẩm như một nhân cách, một cá nhân có cá tính nổi bật. Nhân vật tính cách thường có những mâu thuẫn nội tại, những nghịch lý, những chuyển hóa. Do đó, tính cách của loại nhân vật này thường có một quá trình tự phát triển trong sự tác động, chi phối của hoàn cảnh sống.Như vậy, nhân vật tính cách khác với nhân vật loại hình. Nếu như khái niệm loại là hạt nhân của nhân vật loại hình thì ở nhân vật tính cách, hạt nhân lại là cá tính. Chương trình PTTH có những nhân vật tính cách như Chí Phèo (Chí Phèo), Mị (Vợ chồng A Phủ)… Tính cách, bản chất xã hội của nhân vật được thể hiện bằng cá tính, thông qua cá tính.Chỉ khi định vị được kiểu loại nhân vật, chúng ta mới có thể xác định đúng các kiến thức cơ bản, trọng tâm cần truyền đạt:- Với những nhân vật loại hình, nhân vật tư tưởng, kiến thức cơ bản, trọng tâm phân tích là làm sáng tỏ đặc điểm phần loại. Với kiểu nhân vật này, đặc điểm tính cách ít hoặc không thay đổi. Các sự kiện trong cốt truyện có đổi thay, vận động theo chiều không gian, thời gian cũng chỉ để

24

Page 25: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

khắc họa, tô đậm càng lúc càng rõ nét đặc điểm tính cách của nhân vật.- Với những nhân vật được xác định là nhân vật tính cách, trọng tâm cần phân tích không phải ở chỗ chỉ ra được những đặc điểm tính cách bất biến mà chính ở sự thay đổi, chuyển biến của tính cách dưới sự thay đổi của môi trường sống, hoàn cảnh sống cùng những mâu thuẫn, xung đột trong nội tâm, tâm lý, tính cách của nhân vật.Thực tiễn sáng tác cho thấy, có thể căn cứ vào chủng loại nhân vật - tập hợp nhân vật thể hiện tư tưởng và phong cách tác giả để hỗ trợ cho quá trình phân tích:- Nguyễn Tuân: Tập hợp các nhân vật bao gồm: Huấn Cao (Chữ người tử tù) cụ Hồ Viễn và cậu Chiêu (Ngôi mả cũ), ông Cử Hai (Thả thơ)... là những nghệ sĩ hoặc tuy không hành nghề nghệ thuật nhưng rất tài hoa trong nghề nghiệp của mình. Đây là loại nhân vật kết tinh tâm huyết và phong cách Nguyễn Tuân.- Nam Cao: Xuất hiện hệ thống các nhân vật xấu xí, dị dạng như Chí Phèo, Thị Nở (Chí Phèo), Mụ Lợi (Lang Rận), Trương Rự, Đức (Nửa đêm), Trạch Văn Đoành (Đôi móng giò)…là dụng ý của tác giả. Với loại nhân vật này, Nam Cao muốn nhấn mạnh tính chất khốc liệt và tàn bạo của xã hội Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám (làm méo mó, dị dạng cả tâm hồn lẫn thể xác của người lao động lương thiện) đồng thời bộc lộ quan điểm rất hiện đại về con người: không có con người hoàn toàn thánh thiện, không có con người hoàn toàn xấu xa, con người hiện diện với tất cả sự phức tạp của các mặt đối lập.Thạch Lam: Tập hợp những nhân vật như: Liên, An (Hai đứa trẻ), Thanh (Dưới bóng hoàng lan), Tâm (Cô hàng xén)…là kiểu con người nội tâm, với những trạng thái cảm giác, cảm xúc mơ hồ, mong manh, tinh tế, những rung động khẽ khàng như cánh bướm non… Tuy nhiên, các nhân vật dẫu có cùng một loại, chủng loại nhưng rất đa dạng, không nhân vật nào giống nhân vật nào. Bởi vì, bản chất lao động nghệ thuật là sáng tạo để mỗi tác phẩm phải là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung. Vì vậy, để chiếm lĩnh các giá trị của hình tượng nghệ thuật còn phải phân tích hình tượng với tư cách là sản phẩm tinh thần của một cá tính sáng tạo độc đáo. Phân tích nhân vật tự sự là tìm hiểu các phương diện mô tả nhân vật, gắn với sự tìm tòi, sáng tạo của người nghệ sĩ, để làm nổi bật tính cách, số phận, bản chất xã hội của nhân vật.2.3. Tìm hiểu các phương diện mô tả nhân vật Một nhân vật thành công cũng như một con người sinh động ngoài đời. Đó là con người này trong sự phân biệt với con người khác. Nó có tính cách riêng, số phận riêng không thể lẫn. Vấn đề là nhà văn không trực tiếp nói lên điều ấy. Tính cách, số phận nhân vật hiện lên sinh động trong tác phẩm qua nhiều phương diện cụ thể. Đó là những phương diện người đọc, người phân tích cần chú ý như: lai lịch, ngoại hình, nội tâm, ngôn ngữ, cử chỉ- hành động, mối quan hệ với các nhân vật khác…Tuy nhiên, không phải bất cứ nhân vật nào cũng được nhà văn thể hiện đầy đủ các phương diện nêu trên, người phân tích cần biết tập trung, xoáy sâu vào các phương diện thành công nhất của tác phẩm.Có thể xem những phương diện đã nêu đồng đẳng và đều là sự cụ thể hóa, hiện thực hóa của tính cách, số phận nhân vật, không xem tính cách như một phương diện ngang bằng các phương diện ấy.

25

Page 26: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

2.3.1. Lai lịchLai lịch là phương diện đầu tiên góp phần hình thành đặc điểm tính cách, chi phối số phận của nhân vật. Tính cách nhân vật được lý giải một phần bởi thành phần xuất thân, hoàn cảnh gia đình và bước đường đời đã trải qua.Chí Phèo (Chí Phèo) là đứa con hoang bị bỏ rơi trong lò gạch cũ, không hơi ấm tình mẫu tử, không bà con thân thích, không thước đất cắm dùi, đi ở từ nhà này sang nhà khác. Hoàn cảnh xuất thân ấy là một trong những nguyên nhân tạo nên số phận cô độc thê thảm của nhân vật. Tuy nhiên, Chí Phèo sinh ra và lớn lên vốn mang bản chất lương thiện. Chính vì vậy, sau này, xã hội tàn ác (đại diện là Bá Kiến và nhà tù thực dân) dẫu ra sức hủy diệt bản tính tốt đẹp ấy nhưng nó vẫn âm thầm sống trong đáy sâu tâm hồn Chí, ngay cả khi con người này tưởng chừng đã bị biến thành qủy dữ.Xuân Tóc Đỏ (Số đỏ) vốn mồ côi cha mẹ từ nhỏ, lại có hành vi vô giáo dục khi ở với bác họ, rồi bị đuổi ra khỏi nhà, sống lang thang đầu đường xó chợ, phải kiếm sống bằng đủ thứ nghề như trèo me, trèo sấu, quảng cáo thuốc lậu, nhặt ban quần, gắn với những thành tích bất hảo… Hoàn cảnh xuất thân ấy đã góp phần tạo nên tính cách lưu manh, liều lĩnh của nhân vật sau này.Tính cách của Mị và A Phủ (Vợ chồng A Phủ) đều có thể lý giải một phần bởi lai lịch. Mị tuy sinh ra trong đói nghèo nhưng ở tuổi thiếu nữ, cô đã từng được sống những tháng năm hạnh phúc. Mị xinh đẹp nhất vùng, hát hay, lại có tài thổi sáo nên từng được bao trai làng mê, con trai đến thổi sáo đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị. Mị từng có người yêu, từng hò hẹn…Điều này lí giải cho sự trỗi dậy của sức sống tiềm tàng và khát vọng tự do của nhân vật Mị ở phần sau. Còn A Phủ, cha mẹ, anh em đều chết trong một trận dịch đậu mùa, từng bị người làng đói bụng bắt đem xuống bán đổi lấy thóc của người Thái, suốt đời đi làm thuê, làm mướn, không có cả chiếc vòng bạc đeo cổ để đi chơi tết. Chính hoàn cảnh sống cùng cực ấy đã hun đúc cho A Phủ sức sống mạnh mẽ, tính cách gan góc cùng lòng ham chuộng tự do…2.3.2. Ngoại hình - Ngoại hình là dáng vẻ bên ngoài của nhân vật, bao gồm y phục, cử chỉ, tác phong, diện mạo...Trong văn học, nhà văn miêu tả ngoại hình nhân vật thường nhằm hai mục đích.Thứ nhất, nhằm cá thể hóa nhân vật, nghĩa là để tạo ấn tượng riêng về nhân vật ấy, không thể lẫn vào nhân vật khác. Qua đó, người đọc có thể nắm bắt được những đặc điểm chung của những người cùng nghề nghiệp, tầng lớp, thời đại. Những nhân vật thành công trong văn học từ xưa đến nay bao giờ cũng được nhà văn chọn lựa công phu những nét tiêu biểu nhất để khắc họa ngoại hình nhân vật.Thứ hai, qua vẻ bề ngoài mà phần nào hé mở tính cách, bản chất của nhân vật ấy. Miêu tả ngoại hình nhân vật không chỉ vì mục đích dựng ra trước mắt người đọc một nhân vật mà quan trọng hơn đó là một cách gián tiếp miêu tả tính cách vì ngoại hình là dấu hiệu của tính cách.- Khi cảm nhận, phân tích ngoại hình nhân vật, cần thấy rằng, phần lớn trường hợp, đặc điểm tính cách, chiều sâu nội tâm được thống nhất với vẻ bề ngoài. Song cũng có trường hợp bên trong và bên ngoài trái ngược (Lão Hạc -Lão Hạc- thân hình nhỏ thó, bộ mặt nhăn nheo như quả trám nhưng có lòng tự trọng, tình thương yêu lớn lao, cao cả ít ai bằng. Thị Nở - Chí Phèo- xấu xí nhưng có tình người nồng hậu…). Phân tích nhân vật cần qua các chi tiết ngoại hình mà “đọc” đúng nội tâm, bản chất của đối tượng.

26

Page 27: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

Không phải ngẫu nhiên nhà văn Nam Cao đặc tả ngoại hình của nhân vật Chí Phèo sau bảy tám năm ở tù: Hắn ai biết về lớp này trông khác hẳn, mới đầu chẳng ai biết hắn là ai. Trông đặc như thằng săng đá! Cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế, trông gớm chết! Đó là ngoại hình của một tên lưu manh, hay nói cách khác, tính cách lưu manh biểu hiện qua ngoại hình. Đó là hình hài của một kẻ côn đồ, chỉ biết gây gổ và đâm chém. Miêu tả hình thù quái gở của Chí Phèo cũng là cách Nam Cao nhấn mạnh tính chất khốc liệt của nhà tù thực dân cùng mối quan hệ biện chứng giữa tính cách và hoàn cảnh sống.Sau khi ra tù, sống ở làng Vũ Đại, làm tay sai đắc lực cho Bá Kiến, hung hãn, ngang ngược và triền miên trong cơn say, Chí Phèo được nhà văn Nam Cao miêu tả ngoại hình qua cái bóng đen, tả tơi, xệch xạc, méo mó, bị xé rách vài chỗ như chính sự phản chiếu thế giới tinh thần của Chí. Vẻ ngoài của nhân vật còn thể hiện qua khuôn mặt không trẻ cũng không già, nó không còn là mặt người, nó là mặt của một con vật lạ. Cái mặt của hắn vàng vàng lại muốn xạm màu gio, nó vằn dọc vằn ngang, không thứ tự, biết bao nhiêu là vết sẹo… Đây là dụng ý của nhà văn Nam Cao nhằm thể hiện quá trình tha hóa khủng khiếp của nhân vật. Nếu tha hóa được hiểu là tình trạng con người ngày càng trở nên xa lạ với bản chất người của mình, không được sống như mình mong muốn thì sự tha hóa ở Chí Phèo diễn ra qua hai cấp độ: từ một người lương thiện trở thành một tên lưu manh và từ một tên lưu manh trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Từ ngoại hình của tên lưu manh (gớm ghiếc nhưng ít ra vẫn còn là con người) đến ngoại hình của một con vật lạ góp phần thể hiện quá trình tha hóa khủng khiếp ấy của Chí Phèo. Nghĩa là, Chí Phèo ngày càng xa lạ với bản chất người của mình, bị vật hóa. Sức mạnh tố cáo là ở chỗ: nỗi đau lớn nhất của Chí Phèo là nỗi đau của một con người bị tàn phá về thể xác, bị hủy diệt về tâm hồn chứ không chỉ là nỗi đau vì đói cơm rách áo, không nhà cửa, không nơi nương tựa… như nhân vật trong các tác phẩm văn học hiện thực đương thời. Khi miêu tả nhân vật Mị (Vợ chồng A Phủ), nhà văn đặc tả một hình dáng ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa, khi nào cũng cúi mặt nhìn xuống đất, mặt buồn rười rượi. Đó là hình ảnh một cô gái lẻ loi, âm thầm như lẫn vào các vật vô tri (cái quay, tảng đá, tàu ngựa) đối lập với khung cảnh đông đúc, tấp nập của nhà thống lý Pá Tra. Mị là con dâu của một gia đình nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng mà sao lúc nào cũng cúi mặt nhẫn nhục và mang nỗi u sầu thăm thẳm? Dáng vẻ bề ngoài ấy của nhân vật góp phần biểu hiện thân phận tủi nhục của người con dâu gạt nợ trong nhà chúa đất.Người đàn bà trong Chiếc thuyền ngoài xa được Nguyễn Minh Châu miêu tả: thân hình cao lớn, thô kệch, mặt đầy những nốt rỗ chằng chịt, với khuôn mặt mệt mỏi, tái ngắt, tấm lưng áo bạc phếch, nửa thân dưới ướt sũng. Đó là ký họa chân dung của một người đàn bà xấu xí, chịu nhiều thiệt thòi về nhan sắc, là hiện hữu của nghèo khổ, lam lũ, nhọc nhằn. Khi sắp bị chồng đánh, người đàn bà đưa cặp mắt nhìn xuống chân biểu hiện sự cam chịu, nhẫn nhục. Còn người chồng thì được miêu tả với mái tóc tổ quạ, chân chữ bát, hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ, hai hàm răng nghiến ken két. Đó là những dấu hiệu của tính cách vũ phu, hung bạo, độc ác, phần người, phần thiện đang dần mất.2.3.3. Nội tâm

27

Page 28: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

Khái niệm nội tâm nhằm chỉ toàn bộ những biểu hiện thuộc đời sống bên trong của nhân vật. Đó là những tâm trạng, những suy nghĩ, những phản ứng tâm lý…trước những cảnh ngộ, những tình huống mà nhân vật gặp phải trong cuộc đời.Trong quá trình phát triển của lịch sử văn học, việc thể hiện nội tâm nhân vật ngày càng có vai trò quan trọng. Sự phát triển hợp lý và sâu sắc nội tâm góp phần rất lớn tạo nên sức sống của nhân vật. Để làm được điều đó, nhà văn phải hiểu sâu sắc cuộc sống và con người, nắm bắt được những biểu hiện và diễn biến dù nhỏ nhất của đời sống bên trong nhân vật. Miêu tả chân thực, tinh tế đời sống nội tâm nhân vật là chỗ thử thách tài nghệ của nhà văn.Thế giới bên trong với những cảm giác, cảm xúc, tình cảm, suy nghĩ… thường tương tác với thế giới bên ngoài (môi trường thiên nhiên, sự biến chuyển của đời sống xã hội, quan hệ và hành vi của các nhân vật khác xung quanh…) đồng thời cũng có qui luật riêng của nó.Các nhân vật của Thạch Lam thường được miêu tả thiên về thế giới tình cảm. Phân tích nhân vật Liên trong truyện ngắn Hai đứa trẻ cần khai thác sự vận động theo dòng cảm giác bâng khâng, tâm trạng buồn man mác trong không gian phố huyện nhỏ trước giờ khắc của ngày tàn, tâm trạng buồn thấm thía khi chứng kiến cảnh phố huyện lúc về đêm, tâm trạng buồn vui chen lấn khi chứng kiến đoàn tàu đi qua ... Tính trữ tình và sự tinh tế của ngòi bút Thạch Lam thể hiện qua việc diễn tả bao biến thái nhẹ nhàng của cảnh vật cùng sự hòa điệu của lòng người. Từ đó, nhà văn thể hiện một cách nhẹ nhàng và thấm thía niềm xót thương đối với những kiếp người sống cơ cực, quẩn quanh ở phố huyện, rộng hơn là ở đất nước còn đắm chìm trong đói nghèo, nô lệ đương thời. Thông điệp mà nhà văn muốn gửi tới là hãy cứu lấy những đứa trẻ, hãy cứu lấy tương lai!Sự thức tỉnh của nhân vật Chí Phèo được Nam Cao mô tả qua diễn biến tâm trạng nhân vật buổi sáng sau khi gặp Thị Nở. Ở đây có sự đồng điệu trong miêu tả lý trí và tình cảm: lần đầu tiên từ khi mãn hạn tù, Chí Phèo hoàn toàn tỉnh táo, nhận thức về không gian (căn lều), lắng nghe âm thanh của cuộc sống hàng ngày (tiếng chim hót, tiếng cười nói…), cảm nhận, hình dung, phán đoán (…vui vẻ quá, tiếng người đàn bà hỏi người đàn bà khác đi bán vải ở Nam Định về…). Đặc biệt, Chí Phèo nhận thức được cuộc đời mình cả trong quá khứ (từng mơ ước có một gia đình nho nhỏ…), hiện tại (già mà vẫn cô độc, tới dốc bên kia của cuộc đời…) và tương lai (tuổi già, đói rét và ốm đau…). Nghĩa là, Chí Phèo đã hồi sinh với sự trở lại của khả năng nhận thức ngoại giới, nhận thức chính mình cùng những tình cảm, cảm xúc rất con người. Như vậy, khi viết về người nông dân bị lưu manh hóa, Nam Cao đã thể hiện một cái nhìn nhân đạo sâu sắc, mới mẻ bằng cách đi sâu vào nội tâm nhân vật để phát hiện để phát hiện và khẳng định bản chất lương thiện của người lao động ngay cả khi tưởng như họ đã bị xã hội tàn ác cướp mất cả nhân hình lẫn nhân tính.Kim Lân đã miêu tả tinh tế diễn biến tâm trạng của các nhân vật trong Vợ nhặt, đặc biệt là nhân vật Tràng, để làm nổi bật niềm khát khao hạnh phúc và tình thương giữa những con người nghèo khổ, vượt lên cảnh sống ê chề, tăm tối hàng ngày: Khi người đàn bà theo về, ban đầu Tràng thấy chợn, rồi chặc lưỡi. Trên đường dẫn vợ về nhà, Tràng trở thành một con người khác hẳn, gương mặt có một vẻ gì phởn phơ khác thường, tủm tỉm cười nụ một mình, hai mắt thì sáng lên lấp lánh, cái mặt cứ vênh vênh tự đắc với chính mình ...và một cái gì mới mẻ, lạ lắm chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay

28

Page 29: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

vuốt nhẹ sống lưng…Buổi sáng đầu tiên khi có vợ, Tràng cảm thấy êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra….Niềm hạnh phúc ấy của nhân vật gắn với ý thức về bổn phận, trách nhiệm bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này… Diễn biến tâm trạng nhân vật Tràng đã cụ thể hóa ý đồ của nhà văn Kim Lân khi viết Vợ nhặt: Con người dù trong tình huống bi thảm đến đâu, dù kề bên cái chết vẫn khao khát hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống, vẫn hi vọng vào tương lai, vẫn muốn sống, sống cho ra người.2.3.4. Cử chỉ, hành độngKhi điển hình hóa nhân vật, nhà văn có tài thường lựa chọn cho nhân vật những hành động độc đáo, gây ấn tượng sâu đậm với người đọc. Hành động là phương diện quan trọng để thể hiện tính cách nhân vật vì việc làm của mỗi người là căn cứ quan trọng, có ý nghĩa quyết định nói lên tư cách, phẩm chất cũng như những đặc điểm thuộc về thế giới tinh thần của người đó. Bản chất con người bộc lộ chân xác, đầy đủ nhất qua cử chỉ, điệu bộ, hành vi, hệ thống hành động. Trong tác phẩm tự sự, đặc biệt là những tác phẩm thuộc chủ nghĩa hiện thực, tính cách nhân vật không phải ngay từ đầu đã được hình thành trọn vẹn. Chính hành động có tác dụng bộc lộ quá trình phát triển của tính cách và thúc đẩy diễn biến của hệ thống cốt truyện. Vì thế, ta cần khai thác kĩ phương diện này.Phân tích nhân vật cần chú ý cử chỉ, hành động đầu tiên khi nhân vật xuất hiện trong tác phẩm vì hành động ấy đã mách bảo cho chúng ta về tính cách của nhân vật.Phân tích nhân vật Huấn Cao (Chữ người tử tù) phải chú ý đến hành động dỗ gông, không chỉ vì hành động rất khó (sáu phạm nhân mang chung một chiếc gông dài tám thước, nặng đến bảy, tám tạ) mà vì hành động không được phép (gông biểu tượng cho sự trói buộc, quyền uy, pháp luật phong kiến). Chính vì vậy, hành động dỗ gông của Huấn Cao cho thấy khí phách hiên ngang, tinh thần tự do của một con người - việc gì muốn sẽ làm cho kỳ được, bất chấp hoàn cảnh, bất chấp việc đó khó khăn như thế nào và có được phép hay không. Nếu như hành động dỗ gông làm nổi bật khí phách của Huấn Cao thì hành động cho chữ làm nổi bật cái tâm cao cả của nhân vật. Việc Huấn Cao quyết định cho chữ Quản ngục vào đêm cuối tại nhà ngục tỉnh Sơn không phải để thanh toán nợ nần, cũng không phải hành động của người sắp đi vào cõi chết giao lại tài sản cho người ở lại, cũng không phải cơ hội cuối cùng để phô diễn tài năng. Đây là việc làm của một tấm lòng đền đáp một tấm lòng trong thiên hạ. Nhân vật Mị (Vợ chồng A Phủ) được Tô Hoài mô tả bằng rất ít hành động, chủ yếu qua dòng ý nghĩ, tâm tư, tiềm thức chập chờn. Tuy nhiên, trong ít hành động đó, không thể không chú ý đến những hành động trong đêm tình mùa xuân: Mị lén lấy hũ rượu uống ừng ực từng bát như uống hận, như đang uống đắng cay của phần đời đã qua, như đang uống cái khao khát của phần đời chưa tới, uống để quên nhưng cũng là để nhớ về ngày trước, để thấy mình còn trẻ. Tiếp đó là hành động thắp sáng thêm đĩa đèn của cô: Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng. Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo. Bấy lâu nay, cuộc đời đối với người con dâu gạt nợ chỉ như một đêm dài thăm thẳm. Đến lúc này, Mị không còn chịu nổi bóng tối đang vây bọc quanh mình. Thắp sáng thêm đĩa đèn hay người phụ nữ này đang muốn thắp sáng lại chính cuộc đời mình. Những hành động này chứng tỏ phản kháng âm thầm mà quyết liệt, chứng tỏ sóng cuộn trong chiều sâu tâm trạng từ khi nghe tiếng sáo gọi bạn yêu lấp ló ngoài đầu

29

Page 30: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

núi, lửng lơ bay ngoài đường… Và đỉnh điểm là hành động Mị cắt dây trói cho A Phủ và cùng A Phủ chạy trốn khỏi Hồng Ngài sau này - tự giải thoát khỏi gông xiềng của cường quyền lẫn thần quyền. Đây là hành động bất ngờ, táo bạo mà tự nhiên, hợp lý trong hoàn cảnh ấy, tính cách ấy. Như vậy, Tô Hoài đã đi sâu vào những bí mật của đời sống nội tâm để phát hiện những nét đẹp và nét riêng trong tính cách nhân vật.Đáng chú ý, bản chất nhân vật không chỉ bộc lộ ở việc nhân vật ấy làm mà còn qua cách làm việc ấy của nhân vật. Đây cũng là một phương diện vô cùng quan trọng để nhà văn cá tính hóa nhân vật.Nam Cao dựng lên một Chí Phèo bằng xương bằng thịt với tính cách độc đáo, với số phận tuyệt đối cô độc và bi thảm không thể lẫn với ai khác. Chí Phèo là con người này từ bộ mặt đầy sẹo, những cơn say triền miên đến cách chửi nhau, cách mặt ăn vạ, từ kiểu uống rượu đến lối tỏ tình với Thị Nở, từ hành động xách dao đi trả thù đến cách đâm chết Bá Kiến rồi tự sát.Cũng hành động trừng trị người nô lệ song cái cách thống lí Pá Tra (Vợ chồng A Phủ) hành hạ A Phủ chỉ vì anh để hổ bắt mất một con bò nhà nó thật độc ác, chứng tỏ quyền lực ghê gớm và bộ mặt tàn bạo của giai cấp phong kiến miền núi.2.3.5. Ngôn ngữKhái niệm ngôn ngữ nhân vật nhằm chỉ lời nói của nhân vật trong tác phẩm thuộc loại hình tự sự và kịch. Qua lời ăn tiếng nói, qua cách dùng từ, giọng điệu của một người, chúng ta có thể nhận ra nghề nghiệp, trình độ văn hóa, nhận ra tính cách của con người ấy, thậm chí là của một tầng lớp người nhất định. Ngôn ngữ nhân vật là một phương tiện hết sức đắc dụng để nhà văn khắc họa nhân vật. Ngôn ngữ nhân vật chính là bức chân dung tự họa sắc nét của tính cách hay khái quát hơn, chính là bức chân dung tự họa của nhân vật. Ngôn ngữ nhân vật thành công thường được cá thể hoá cao độ, nghĩa là mang đậm dấu ấn của một cá nhân. Nhà văn có tài là người biết sống với nhiều nhân vật, nắm bắt được nhiều kiểu ngôn ngữ.Câu nói của Huấn Cao (Chữ người tử tù): Suýt nữa ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ…giúp ta nhận thấy chút ân hận kiêu sa của một bậc đại trượng phu, khác với sự ân hận của người thường. Khi trở thành nhà cải cách xã hội, đốc tờ Xuân, giáo sư quần vợt, cố vấn báo Gõ mõ, được cả xã hội trọng vọng, Xuân Tóc Đỏ (Số đỏ) vẫn sử dụng câu của miệng mẹ kiếp, nước mẹ gì. Điều này chứng tỏ bản chất lưu manh, vô học của nhân vật không thể nào gột rửa. Khi xây dựng nhân vật Bá Kiến (Chí Phèo), Nam Cao không tả diện mạo, chỉ nhấn mạnh đến giọng nói ngọt nhạt, tiếng quát rất sang và cái cười Tào Tháo. Bá Kiến xuất hiện lần đầu đúng lúc Chí Phèo say rượu, đến cổng nhà hắn rạch mặt ăn vạ. Ngôn ngữ nhân vật đã khắc họa sinh động bản chất xảo quyệt, gian hùng của hắn: từ việc quát các bà vợ, giải tán đám đông để đỡ mất mặt, để Chí không còn hậu thuẫn kích thích sự hung hăng, để dễ bề mua chuộc, dụ dỗ Chí (Cả các ông, các bà nữa, về đi thôi chứ! Có gì mà xúm lại như thế này?) đến việc giở giọng đường mật, gọi đầy tớ cũ bằng “anh”, vồn vã mời vào nhà uống nước (Ai làm gì anh mà anh phải chết…cứ vào nhà uống nước đã ...người ngoài biết mang tiếng cả…) và thậm chí còn nhận họ hàng với Chí (Ai chứ anh với nó còn có họ kia đấy ). Nhờ đó, Bá Kiến đạt được hai mục đích, vừa tạm dập tắt ngọn lửa căm hờn trong Chí Phèo, vừa chuẩn bị biến Chí Phèo thành tay sai.

30

Page 31: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

Ngôn ngữ nhân vật là yếu tố hết sức quan trọng khiến cho nhân vật Bá Kiến vừa mang bản chất chung của giai cấp địa chủ cường hào vừa có những nét riêng biệt không giống bất cứ nhân vật địa chủ nào trong văn học đương thời.Ngôn ngữ của các nhân vật trong Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu) phù hợp với đặc điểm tính cách từng nhân vật: Tính cách hung bạo, tàn nhẫn của người chồng được phản ánh qua ngôn ngữ thô bỉ, tàn nhẫn với những từ ngữ đầy vẻ tục tằn, hung bạo còn sự cam chịu, vị tha, đức hi sinh ở người đàn bà được thể hiện qua những lời dịu dàng, xót xa khi nói về con, những lời đau đớn và thấu trải lẽ đời khi nói về thân phận mình. Ngôn ngữ của nhân vật Đẩu ở tòa án huyện chứng tỏ tính cách tốt bụng, nhiệt thành…2.3.6. Mối quan hệ của nhân vật với nhân vật khácMối quan hệ của nhân vật với nhân vật khác cũng là một phương diện quan trọng giúp nhân vật bộc lộ tính cách bởi con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Đặt nhân vật trong hệ thống để phân tích, ta vừa có thể hiểu sâu sắc nhân vật, vừa hiểu thế giới nhân vật trong tác phẩm một cách toàn diện lại có thể nắm được xác thực bức thông điệp tư tưởng và thẩm mĩ của tác giả.Khi tìm hiểu nhân vật, cần đặt nhân vật trong mối quan hệ với các nhân vật cùng tuyến có mối quan hệ tương đồng, bổ sung cho nhau đồng thời đặt nhân vật trong mối quan hệ với những nhân vật trái tuyến, tương phản, đối chọi nhau để làm nổi bật tính cách, số phận của nhân vật cũng như chủ đề, tư tưởng của tác phẩm.Khi phân tích Mị trong Vợ chồng A Phủ, ta đặt nhân vật trong mối quan hệ với giai cấp thống trị là cha con thống lí Pá Tra (quan hệ tương phản) đồng thời đặt nhân vật trong mối quan hệ với giai cấp bị trị là A Phủ (quan hệ tương đồng). Đặt nhân vật trong hai mối quan hệ này để bổ sung cho nhau, làm tăng thêm sức tố cáo tạo nên ý nghĩa khái quát của tác phẩm: nạn nhân ách áp bức của chúa đất có đủ đàn ông, đàn bà, một bên là con dâu gạt nợ, một bên là đứa ở gạt nợ. Người dân miền núi Tây Bắc đã phải chịu bao nỗi cực nhục, khổ đau dưới ách thống trị của bọn chúa đất.Các nhân vật trong tác phẩm Rừng xà nu giống như phần lớn các tác phẩm thời kì kháng chiến được xây dựng thành hai tuyến đối lập gay gắt: lực lượng cách mạng và kẻ thù. Tuy nhiên, đáng chú ý là Nguyễn Trung Thành đã xây dựng được hệ thống các nhân vật tương đồng từ cụ Mết đến Tnú, Mai rồi Dít, bé Heng để đại diện cho các thế hệ nối tiếp trong cuộc chiến đấu giải phóng của nhân dân, làm nổi bật chủ đề của tác phẩm: Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo. Phân tích nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên, người phân tích nên đặt Chí Phèo trong mối quan hệ đối chọi với Bá Kiến để làm nổi bật quá trình tha hóa: một bên là thủ phạm, một bên là nạn nhân, một bên là kẻ cường quyền bạo ngược đẩy con người vào con đường bất lương, một bên là người đã bị mất lương thiện. Đặt Chí Phèo trong hệ thống các nhân vật thống trị (Bá Kiến, Đội Tảo, Tư Đạm, Bát Tùng, Lý Cường) và bị trị (Binh Chức, Năm Thọ, Chí Phèo con), ta thấy được thông điệp lớn của Nam Cao: Hiện tượng Chí Phèo là con đẻ của hiện tượng Bá Kiến và còn Lý Cường thì còn Chí Phèo con, nếu không do Thị Nở cũng sẽ có người đàn bà khác sinh ra. Nghĩa là, còn kẻ thống trị ác độc thì còn người lương thiện bị đẩy vào con đường lưu manh hóa. Sức mạnh phê phán, ý nghĩa điển hình của hình tượng Chí Phèo trước hết là ở chỗ vạch ra thật hùng hồn qui luật tàn bạo, bi thảm đó trong xã hội đương thời.

31

Page 32: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

Đồng thời, người phân tích có thể đặt Chí Phèo trong mối quan hệ với nhân vật trái tuyến là bà Ba và nhân vât cùng tuyến là Thị Nở để làm nổi bật tính cách, bản chất của nhân vật. Nếu bà Ba thuộc tầng lớp trên, xinh đẹp và chủ động trong mối quan hệ với Chí Phèo thì Thị Nở thuộc tầng lớp dân cùng, xấu xí và bị động trong mối quan hệ với Chí. Bà Ba bắt Chí làm việc yêu mà không hề yêu Chí, chỉ coi Chí như nô lệ. Với người đàn bà này, Chí Phèo cảm thấy nhục chứ yêu đương gì. Đây là biểu hiện của một Chí Phèo hiền lành, trong trắng, giàu lòng tự trọng. Trong mối quan hệ với bà Ba, Chí Phèo bộc lộ tất cả sự lương thiện của mình. Ngược lại, với Thị Nở, Chí Phèo thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao. Trong mối quan hệ với Thị Nở, Chí Phèo có được tình người, tình yêu và Thị Nở đã mở đầu cho sự thức tỉnh của Chí từ con quỷ dữ trở thành người. Như vậy, trong mối quan hệ với Thị Nở thì Chí là người mất nhân tính được hồi sinh còn Thị Nở là hiện thân của tình người, từ đó làm nổi bật thông điệp lớn của Nam Cao: chỉ có tình người mới cứu được tính người.Nếu đặt Chí Phèo trong mối quan hệ với bà cô Thị Nở thì Chí Phèo cũng là nạn nhân mà bà cô là hiện thân của định kiến, vô tình trở thành thủ phạm chặn đứng con đường hoàn lương của Chí.  Đặt mối quan hệ của Chí Phèo - bà cô Thị Nở và Chí Phèo - Thị Nở trong mối quan hệ với nhau, ta thấy: Thị Nở từ một vị cứu tinh nhưng chịu sự tác động của bà cô thì Thị Nở trở thành một cú hích dẫn đến cái chết của Chí Phèo (Thị Nở nói lời tuyệt tình khiến Chí Phèo hoàn toàn tuyệt vọng dẫn tới cái chết). Như vậy, tình người bị định kiến làm cho tiêu tan.3. Một số điểm cần lưu ý khi phân tích nhân vật trong tác phẩm tự sự- Phân tích nhân vật không chỉ dừng ở cấp độ cụ thể mà cần nâng lên tầm khái quát để chỉ ra tư tưởng, quan niệm của tác giả.- Quá trình phân tích một nhân vật văn học cần gắn với sự cảm thụ, đánh giá bút pháp nghệ thuật miêu tả của nhà văn.- Phân tích nhân vật nên theo kết cấu tổng - phân - hợp (khái quát chung về nhân vật - phân tích các phương diện cụ thể để làm nổi bật tính cách, số phận nhân vật - đánh giá chung tư tưởng, tình cảm, lý tưởng thẩm mĩ, nghệ thuật xây dựng nhân vật của nhà văn…)

32

Page 33: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

6 phương diện cụ thể phân tích nhân vật

Một nhân vật văn học thành công cũng như một con người sinh động ngoài đời vậy. Đó là “con người này” trong sự phân biệt với con người khác. Nó có tính cách riêng, số phận riêng không thể lẫn. Bởi thế, suy cho cùng, phân tích một nhân vật làm sáng tỏ một tính cách, một số phận.

Song vấn đề là nhà văn không trực tiếp bước vào tác phẩm mà nói lên điều ấy. Tính cách, số phận nhân vật hiện lên sinh động trong tác phẩm qua nhiều phương diện cụ thể. Đó chính là những phương diện học sinh- người phân tích cần lưu ý.

Lai lịch

Đây là phương diện đầu tiên góp phần hình thành đặc điểm tính cách, chi phối con đường đời của nhân vật cũng như mục đầu tiên ta thường khai trong bản “Sơ yếu lí lịch” là thành phần xuất thân, hoàn cảnh gia đình vậy.

Lưu ý không phải tác phẩm nào chúng ta cũng cần phải chú ý đến lai lịch của nhân vật.Chúng ta chỉ chú ý đến lai lịch của nhân vật khi đó là một dụng ý của nhà văn trong việc khắc hóa số phận và tính cách của nhân vật mà thôi.

Ngoại hình

Trong văn học, nhà văn miêu tả ngoại hình nhân vật thường với hai mục đích. Thứ nhất, để cá thể hóa nhân vật, nghĩa là tạo ấn tượng riêng về nhân vật ấy (không thể lẫn vào các nhân vật khác).

Thứ hai, qua vẻ bề ngoài mà phần nào hé mở tính cách, bản chất của nhân vật ấy. Một nhà văn có tài thường chỉ qua một số nét khắc họa chấm phá có thể giúp người đọc hình dung ra diện mạo, tư thế cùng bản chất của một nhân vật nào đó. Một nhân vật thành công bao giờ cũng là “con người này” khác với con người kia, con người nọ…

Khi cảm nhận, phân tích ngoại hình nhân vật cần thấy rằng phần lớn trường hợp, đặc điểm tính cách, chiều sâu nội tâm được thống nhất với vẻ bề ngoài. Song cũng có những trường hợp cái bên trong và vẻ bên ngoài của nhân vật “trật khớp”, thậm chí trái ngược nhau.

Trong phân tích nhân vật, cần qua các chi tiết ngoại hình mà “đọc” đúng nội tâm, bản chất của đối tượng.

Ngôn ngữ

Qua lời ăn tiếng nói, qua cách dùng từ, giọng điệu của một người, chúng ta có thể nhận ra nghề nghiệp, trình độ văn hóa, nhận ra tính cách của con người ấy.

Ngôn ngữ của nhân vật văn học thành công thường được cá thể hóa cao độ, nghĩa là mang đậm dấu ấn của một cá nhân. Nhà văn có tài là người biết sống với nhiều nhân vật, nắm bắt được nhiều kiểu ngôn ngữ.

Nội tâm

Khi phân tích nhân vật cần quan tâm đến thế giới bên trong với những cảm giác, cảm xúc, tình cảm, suy nghĩ… Thế giới bên trong này thường tương tác với thế giới bên ngoài (môi trường thiên nhiên, sự biến chuyển của đời sống xã hội, quan hệ và hành vi của các nhân vật khác xung quanh) đồng thời cũng có qui luật vận động riêng của nó.

33

Page 34: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

Một nghệ sĩ tài năng thường cũng là một bậc thầy trong việc nắm bắt và diễn tả tâm lí con người. Miêu tả chân thực, tinh tế đời sống nội tâm nhân vật là chỗ thử thách tài nghệ nhà văn và cảm nhận, phân tích được một cách kĩ lưỡng, thuyết phục mặt này cũng thành nơi chứng tỏ năng lực của người phân tích tác phẩm.

Cử chỉ, hành động

Bản chất của con người ta bộc lộ chân xác, đầy đủ nhất qua cử chỉ, hành động. Phân tích nhân vật, vì thế, cần tập trung khai thác kĩ phương diện này. Đó là sự thật hiển nhiên.

Nhưng đáng chú ý là bản chất nhân vật không chỉ bộc lộ ở việc nhân vật ấy làm mà còn qua cách làm việc ấy của nhân vật nữa.

Lời các nhân vật khác về nhân vật

Để khắc họa tính cách, bản chất một nhân vật, nhà văn còn mượn lời nói, lời đánh giá của các nhân vật khác. Lắm khi, nhà văn còn “tổ chức” cho các nhân vật khác thảo luận, bàn bạc về nhân vật ấy.

Những lưu ý quan trọng với học sinh

Thứ nhất: Không phải bất cứ nhân vật nào cũng được nhà văn thể hiện đầy đủ các phương diện này (lai lịch, ngoại hình, ngôn ngữ, nội tâm, cử chỉ, hành động, qua lời các nhân vật khác). Tùy trường hợp mà có chỗ nhiều, chỗ ít, chỗ đậm, chỗ nhạt.

Bởi thế, không phải cứ máy móc tìm đủ, phân tích đủ mà cần biết tập trung, xoáy sâu vào các phương diện thành công nhất của tác phẩm. Cũng không cứ phải tuần tự theo sáu phương diện như thế mà nên sắp xếp theo thực tế, làm sao cho bài văn của mình hấp dẫn.

Thứ hai: Tránh lầm lẫn cấp độ của những phương diện phân tích. Có thể xem sáu phương diện đã nêu đồng đẳng và đều là sự cụ thể hóa, hiện thực hóa của tính cách, số phận nhân vật.

Không nên xem tính cách như một phương diện ngang bằng các phương diện ấy (như một vài cuốn sách về làm văn lâu nay vẫn sắp xếp). Điều này không đúng về mặt lí luận và sẽ gây lúng túng trong thực tế làm bài.

Thứ ba: Nắm vững 6 phương diện cơ bản đã nêu khi phân tích nhân vật chính là điều có ý nghĩa định hướng cho việc đọc tác phẩm tự sự. Biết đọc tác phẩm tự sự nghĩa là hiểu được, nhớ được nội dung phản ánh của tác phẩm và mối quan hệ giữa các nhân vật, nắm được tính cách, số phận của các nhân vật chính.

Để có căn cứ phân tích, để có chất liệu làm bài, khi đọc tác phẩm cần ghi nhớ các chi tiết, các hình ảnh về từng phương diện ấy.

34

Page 35: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

  I. TIẾP NHẬN VÀ ÐỜI SỐNG LỊCH SỬ CỦA SÁNG TÁC VĂN CHƯƠNG

        1. Tiếp nhận là giai đoạn cuối cùng của quá trình sáng tác

a. Các giai đoạn của quá trình sáng tác giao tiếp.

            Bên cạnh hoạt động sản xuất ra của cải vật chất để tồn tại và phát triển, loài người còn có hoạt động sản xuất rất quan trọng đó là sản xuất ra của cải tinh thần. Văn chương nghệ thuật là một trong những dạng sản xuất của cải tinh thần của con người. Quá trình sản xuất ra của cải tinh thần - tác phẩm nghệ thuật diễn ra như thế nào? Trong chương nhà văn và quá trình sáng tác, chúng ta đã biết các khâu sáng tác tác phẩm của nhà văn là ý đồ, lập sơ đồ, viết, sửa chữa và hoàn thành tác phẩm. vậy, phải chăng hoàn thành công việc sửa chữa thì quá trình sản xuất tinh thần đã hoàn tất? Thực ra không phải như vậy. Hiểu một cách đúng đắn và nghiêm ngặt thì, xong khâu sửa chữa, việc sáng tạo nghệ thuật mới chỉ hoàn thành được một công đoạn trong cả một quá trình sản xuất. Ðó là công đoạn hoàn thành văn bản tác phẩm. nếu ví tác phẩm nghệ thuật là đứa con tinh thần của nhà văn, nhà văn phải thai nghén, mang nặng, đẻ đau thì hoàn thành văn bản tác phẩm chỉ ứng với lúc đứa con được sinh ra, đứa con chào đời. Còn sự sống, cuộc đời, số phận của nó như thế nào là chưa nói đến. Số phận đứa con sẽ được định đoạt như thế nào là tùy thuộc vào nó và xã hội chung quanh. Số phận của tác phẩm nghệ thuật như thế nào là tùy thuộc vào nó và người tiếp nhận nó. Chỉ đến khi được người đọc tiếp nhận thì hoạt động sáng tạo nghệ thuật mới hoàn tất. Hoạt động sản xuất tinh thần này cũng giống như hoạt động sản xuất vật chất. Chỉ có sử dụng mới hoàn tất hành động sản xuất, mang lại cho  sản xuất một sự trọn vẹn với tư cách là sản phẩm(C. Mác). Một vật phẩm được làm ra nhưng không được đưa vào sử dụng thì nó chẳng có ích lợi gì cho sự sống, nó chẳng có giá trị gì cả. Một tác phẩm nghệ thuật được viết xong nhưng nằm im trong ngăn kéo của nhà văn hoặc không được ai đoái hoài tới thì chưa phải là tác phẩm nghệ thuật thực sự. Vì nó chưa được sử dụng. Nghệ thuật có chức năng giao tiếp, tác phẩm hình tượng là công cụ, phương tiện giao tiếp rất quan trọng của con người. Lev Tolstoi đã khẳng định: Nghệ thuật là một trong nhữngphương tiện cần thiết để giao tiếp mà thiếu nó nhân loại không thể nào sống được. Và ông phân tích rõ Nghệ thuật là một trong những phương tiện giao tiếp giữa người với người. Bất kỳ một tác phẩm nào cũng đều làm công việc khiến cho người cảm thụ tham gia vào sự giao tiếp với người đã hoặc đang sản sinh ra nghệ thuật cũng như với tất cả những ai cùng một lúc với anh ta, trước hoặc sau anh ta đã cảm thụ hoặc sẽ cảm thụ ấn tượng nghệ thuật của anh ta. Chính quá trình giao tiếp của nghệ thuật là quá trình sử dụng sản phẩm của nghệ thuật, là quá trình phát huy tác dụng chức năng của nghệ thuật. Quá trình đó xác định con đường sống hay số phận lịch sử của tác phẩm nghệ thuật.

Sơ đồ của quá trình sáng tác - giao tiếp của văn chương như sau:

Nhà văn   (  Tác phẩm   (  Bạn đọc

Như vậy, có 3 giai đoạn của quá trình sinh tồn sản phẩm văn chương:

Giai đoạn 1 là giai đoạn hình thành ý đồ sáng tác, giai đoạn 2 là giai đoạn sáng tác. Ðây là giai đoạn ý đồ sáng tác cộng với tài năng sáng tạo được vật chất hóa trong chất liệu ngôn ngữ,

35

Page 36: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

thành tác phẩm. giai đoạn 3 là giai đoạn tiếp nhận của bạn đọc. Ðây là giai đoạn văn bản tác phẩm thoát ly khỏi nhà văn để tồn tại một cách độc lập trong xã hội, trong từng người đọc.

b. Giá trị sử dụng của hình tượng nghệ thuật.

Chúng ta đã nghiên cứu giai đoạn làm ra sản phẩm nghệ thuật nhưng chưa nghiên cứu giai đoạn sử dụng nó. Chúng ta có nói tới sự tương đồng về quá trình sản xuất sản phẩm vật chất và quá trình sản xuất sản phẩm nghệ thuật nhưng đây là sự tương đồng về các giai đoạn, còn từng giai đoạn giữa 2 loại sản xuất hoàn toàn khác nhau. Việc sử dụng tác phẩm nghệ thuật hoàn toàn khác việc sử dụng vật phẩm khác. Nếu như sử dụng vật phẩm của sản xuất vật chất là người ta chiếm hữu giá trị vật chất của nó thì sử dụng vật phẩm nghệ thuật người ta lại chiếm hữu giá trị tinh thần của nó. Mặc dầu hình tượng nghệ thuật tồn tại một cách hữu hình trong những chất liệu vật chất nhất định, nhưng giá trị của hình tượng không phải ở giá trị của chất liệu xây dựng nên hình tượng. Một pho tượng làm bằng đất nung vẫn có thể có giá trị hơn một pho tượng bằng vàng, và đánh giá một pho tượng bằng vàng không phải bắc lên bàn cân để xem pho tượng nặng bao nhiêu kylôgam vàng. Còn việc nói đến giá trị của chất liệu xây dựng nên hình tượng trong nghiên cứu nghệ thuật là, người ta nói đến những thuộc tính vật chất liệu tạo ra khả năng thuận lợi, to lớn cho nghệ sĩ thể hiện tư tưởng tình cảm.

            Tiếp nhận văn chương là sử dụng thế giới tinh thần (tư tưởng - tình cảm …) trong văn chương. Thế giới tinh thần tình cảm - tư tưởng đó toát ra từ những hình tượng cụ thể do chất liệu ngôn ngữ xây dựng nên. Việc mua bán tác phẩm văn chương đương nhiên không phải là tiếp nhận văn chương. Nhưng đọc văn chương để tìm hiểu những cứ liệu lịch sử, địa lí, tâm lí, ngôn ngữ v.v… cũng không phải là tiếp nhận văn chương đích thực. Mặc dầu cùng đọc những quyển sách được viết ra bằng những con chữ cả, nhưng đọc văn không phải như đọc tác phẩm chính trị hay triết học.

c.Các giai đoạn của quá trình tiếp nhận văn chương.

            Quá trình tiếp nhận văn chương diễn ra ở nhiều cấp độ khác nhau. Trước hết phải hiểu ngôn ngữ, cốt truyện, loại thể để tiếp nhận hình tượng nghệ thuật, cảm nhận nó trong tính toàn vẹn. Trong các mối liên hệ của các yếu tố, chi tiết cấu thành hình tượng. Muốn tiếp nhận Truyện Kiều, phải biết tiếng Việt và tiếng Việt trong truyện Kiều, tiếp đó, nắm diễn biến câu chuyện, rồi thể loại tiểu thuyết và truyện thơ mà Nguyễn Du sử dụng làm phương tiện tổ chức tác phẩm. Và như vậy, ta bắt đầu tiếp xúc với hệ thống hình tượng tác phẩm, các nhân vật, các mối liên quan giữa các nhân vật, các tiết đoạn, các chương, hồi v.v… Nhưng nếu dừng lại ở đây thì chúng ta mới nắm được câu chuyện, mới biết mà chưa hiểu. Phải tiến lên một cấp độ thứ hai là thâm nhập sâu vào hệ thống hình tượng để hiểu được ý đồ sáng tác, tư tưởng, tình cảm của tác giả đã kết tinh trong hình tượng như thế nào. Tư tưởng tình cảm như là chất tinh túy kết tinh ở trong hình tượïng nghệ thuật, người đọc có nhiệm vụ chắc lọc lấy tinh chất đó. Người đọc ví như con ong bay đến đóa hoa, không phải để chiêm ngưỡng màu sắc của cánh hoa mà để hút mật ở trong nhụy hoa. Ðọc Tây du kí, chẳng hạn, ta tiếp xúc với nhân vật Trư Bát Giới thì không phải chỉ để biết đây là một trong ba đệ tử của Ðường Tăng đến Tây Trúc thỉnh kinh. Mà phải hiểu dụng ý thâm thúy của tác giả ở nhân vật này là muốn nói đến cái chất heo ở trong mỗi con người. Cấp độ thứ ba là người đọc thể nghiệm và đồng cảm hình tượng nghệ thuật. Sau khi thâm nhập sâu vào hình tượng, người đọc sẽ không còn dửng dưng nữa mà tỏ thái độ thiện cảm hay ác cảm, yêu

36

Page 37: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

và ghét, vui cười hay khóc thương. Ðây là giai đoạn không phải người đọc thâm nhập sâu vào hình tượng nữa mà là, giai đoạn hình tượng thâm nhập sâu vào người đọc. Tư tưởng hình tượng đã trở thành máu thịt của người đọc. Hình tượng từ trang sách bước vào cuộc đời. chúng ta bất bình về thói tham ăn và hám sắc của Trư Bát Giới, nhưng chính Trư Bát Giới cũng cảnh tĩnh cho chúng ta về con heo ở trong mỗi con người trong chúng ta. Cấp độ cuối cùng là cấp độ đề lên thành quan niệm và hiểu biết vị trí tác phẩm trong lịch sử văn hóa tư tưởng nghệ thuật và đời sống. Ðây là cấp độ cao của tiếp nhận văn chương. Ðây là giai đoạn định giá một cách nghiêm túc và bắt buộc đối với loại người đọc - nghiên cứu.

        2. Tính khách quan của tiếp nhận văn chương  

TOP

a.Những quan niệm sai lầm về tiếp nhận văn chương.

            Ðể tiếp nhận văn chương, đòi hỏi người đọc đưa vào đây toàn bộ nhân cách của mình: tình cảm và lí trí, tri giác cảm tính trực tiếp và suy tưởng trừu tượng, cá tính, thị hiếu và lập trường chính trị xã hội, tình cảm và thái độ. Nhưng như vậy không có nghĩa là tiếp nhận văn chương hoàn toàn mang tính cá nhân chủ quan tùy tiện. Ơû Phương Ðông hay ở Phương Tây tồn tại một xu hướng xem tiếp nhận văn chương là phạm vi tự biểu hiện thẩm mĩ của người đọc, là phạm vi phụ gia của năng lực sáng tạo của người đọc. Mĩ học cổ Ðông Phương (Trung Quốc và Việt Nam…) có quan niệm tiếp nhận tác phẩm là việc tri kỉ, tri âm, Lưu Hiệp trong Văn tâm điêu long đã giải thích: Tri âm thực khó thay!Ââm đã khó tri, người tri khó gặp, gặp kẻ tri âm ngàn năm có một. Kết thúc Truyện Kiều của mình Nguyễn Du nói là để Mua vui cũng được một vài trống canh nhưng tâm sự riêng của Nguyễn Du là không biết đến bao giờ mới có người hiểu mình, tiếp nhận được tác phẩm mình. Khóc Tiểu Thanh là ông khóc cho chính mình:

            Bất tri tam bách dư niên hậu

                        Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như

            Không biết ba trăm năm sau thì ai trong thiên hạ hiểu được cái chí của mình? Ai là kẻ tri âm với mình. Những người theo chủ nghĩa ấn tượng Pháp chủ trương người tiếp nhận văn chương là người kể lại cuộc phiêu lưu của tâm hồn mình giữa những kiệt tác (A. France), phải gạt bỏ mọi qui tắc, công thức để tìm các đẹp tùy theo cảm hứng cá nhân (T.Gôchiê). Họ lấy chủ nghĩa chủ quan làm nguyên tắc quyết định để hiểu và lí giải tác phẩm. R.Ingarden, nhà hiện tượng học Ba Lan đã nói: Có bao nhiêu độc giả và có bao hiêu sự đọc mới cho cùng một tác phẩm thì có bấy nhiêu những thành tạo mà chúng ta gọi là những sự cụ thể hóa các tác phẩm. Trước Ingarden, Potebnhia, nhà ngữ văn học Nga đã xem tác phẩm văn chương như một bình chứa sẽ được người đọc làm đầy bằng những nội dung mà nó còn chưa đủ. Nhà lí luận đồng thời là nhà phê bình Pháp, Roland Barthes phát biểu: Khi đọc tác phẩm, tôi đặt vào sự đọc cái tình huống của tôi,.. tình huống hay thay đổi làm ra tác phẩm, tác phẩm không thể phản đối, chống lại cái ý nghĩa mà tôi phán cho nó…[1]

            Hiển nhiên là vai trò chủ quan của người tiếp nhận cái quan trọng trong quá trình tiếp nhận văn chương. nhưng nếu sự sống của tác phẩm nghệ thuật, vai trò quyết định là thuộc về

37

Page 38: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

người sử dụng nghệ thuật hoàn toàn thì một vấn đề được đặt ra là tại sao có những tác phẩm chịu đựng được thử thách của thời gian và gần như bất tử lại có tác phẩm sống một cách trầy trật hoặc chết yểu.

b. Tiếp nhận văn chương là một hoạt động mang tính chất khách quan.

Thực ra, tiếp nhận văn chương là một hoạt động xã hội - lịch sử, mang tính khách quan. Chứ không phải là một hoạt động cá nhân chủ quan thuần túy. Tác phẩm sau khi thoát ly khỏi nhà văn thì nó trở thành một hiện tượng tinh thần, một khách thể tinh thần tồn tại một cách khách quan đối với người đọc. Người đọc tiếp nhận nó là một kiểu phản ảnh, nhận thức thế giới. Mà nhận thức nào cũng có phương diện chủ quan và phương diện khách quan của nó. Hơn nữa, một nhận thức đúng đắn là một nhận thức tiếp cận được với bản chất và quy luật của đối tượng. Nội dung của tác phẩm trước hết là do những thuộc tính nội tại của nó tạo nên, là cái vốn có chứa đựng trong bản thân tác phẩm. Việc người đọc khác nhau đã cắt nghĩa khác nhau khi cùng đọc một tác phẩm là thuộc phương diện chủ quan của tiếp nhận. Với thuyết Mác hóa - tượng trưng, Roland Barthes cố tình bảo vệ quan điểm về tính đa nghĩa đến vô hạn của nghệ thuật và bảo vệ tính xác đáng của mọi cách đọc, đã chẳng những không lưu ý tới tính khách quan của tiếp nhận tác phẩm mà còn thổi phồng một cách vô căn cứ phương diện chủ quan. Cần phải thấy rằng đời sống của tác phẩm trong tiếp nhận: tác phẩm nghệ thuật là một sự chuyển hóa qua lại giữa đặc thù khách quan và chủ quan, một quan hệ xã hội, một tương quan với độc giả, một tổng thể gồm nhiều quá trình khác nhau, đa dạng, nhưng hệ thống. Có thể nói tác phẩm nghệ thuật gồm có hai phần, phần cứng và phần mềm. Phần cứng là văn bản, là sự khái quát đời sống, là một hệ thống ý nghĩa, tiếp nhận phụ thuộc vào các tương quan đời sống xã hội, phụ thuộc vào lòng người đọc. Phần cứng tạo ra cơ sở khách quan của tiếp nhận. Trong phần cứng này, có nhiều phương diện để tạo ra tính khách quan cho tiếp nhận văn chương. thứ nhất là hiện thực đời sống được phản ảnh. Thứ hai là chất liệu nghệ thuật xây dựng hình tượng phản ánh đời sống là trên cơ sở ngôn ngữ toàn dân, thứ ba là sự định hướng nội tại của tác phẩm vào việc tác động thẩm mĩ do nhà văn tạo nên. Nhà văn không giản đơn chỉ làm cái truyền đạt những hiểu biết đời sống, những quan sát, những phát hiện nghệ thuật của mình mà anh ta còn hướng tới việc thể hiện những cái đó sao cho chúng gây ấn tượng nhiều nhất đến công chúng độc giả. Ðây là thuộc tính tất yếu của tác phẩm ở cả nội dung và hình thức.

Chính cơ sở khách quan của việc tiếp nhận tác phẩm đã tạo ra ấn tượng chung đồng nhất ở mọi người đọc. Phần cứng của tác phẩm tạo ra phần nội dung tương đồng bất biến từ tác giả đến mọi người đọc. Rõ ràng là, độc giả hay khán giả sau khi cùng xem xong một tác phẩm nghệ thuật nào đó đều có một ấn tượng chung về một nhân vật nào đó. Trong dân gian những nhân vật nghệ thuật sau đây đã đi vào cuộc sống có ấn tượng tương đồng ở mọi người: Trương Phi, Tào Tháo; (Nóng như Trương Phi, Ða nghi như Tào Tháo) Sở Khanh, Hoạn Thư (người nào lừa đảo phụ nữ được gán cho hiệu Sở Khanh, người phụ nữ nào hay ghen và ghen một cách cay độc thì được gán cho hiệu máu Hoạn Thư).

        3. Tính khuynh hướng xã hội của tiếp nhận văn chương.   TOP

38

Page 39: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

            Tiếp nhận văn chương không chỉ mang tính khách quan, mà con mang tính chủ quan, cá nhân sâu sắc, nó gắn chặt với tình cảm và thị hiếu của mình và do đó mà họ có thể thích, khoái nhân vật này, nhân vật nọ, tác phẩm này, tác phẩm nọ và ngược lại. Ðiều đó, góp phần làm phong phú phần mềm của tác phẩm. Tiếp nhận văn chương tuy mang dấu ấn cá nhân sâu sắc nhưng chưa bao giờ là hoạt động thoát ly khỏi điều kiện lịch sử xã hội. Hoạt động nghệ thuật luôn luôn là hoạt động mang tính khuynh hướng xã hội mạnh mẽ. Khuynh hướng xã hội, đời sống thực tế sẽ chi phối mạnh mẽ đến quá trình tiếp nhận văn chương của mỗi cá nhân. Mỗi cá nhân đến với tác phẩm không chỉ đem đến cho nó cái tôi mà còn cái ta nữa. Họ cắt nghĩa tác phẩm trên cơ sở lập trường giai cấp, lợi ích xã hội. Tiếp nhận Truyện Kiều, Nguyễn Khuyến suy ngẫm về xã hội đồng tiền trở thành cán cân công lí mà Nguyễn Du lên án:

Có tiền việc ấy mà xong nhỉ

Ðời trước làm quan cũng thế à?

Rõ ràng Nguyễn Khuyến đã nhìn Truyện Kiều từ điều kiện lịch sử mà ông đang sống. Vịnh Kiều nhưng lên án xã hội đương thời. Ðời trước làm quan cũng thế, cũng như đời nay. Ðó là tiền. Tác giả bộ phim Chị Dậu đã nói lên khó khăn thì chuyển thành kịch bản phim từ tiểu thuyết Tắt đèn cảnh kết thúc tác phẩm, chị Dậu của tác giả điện ảnh đã chạy ra trong một đêm tối nhưng không phải tối như mực và như cái tiền đồ của chị mà đêm tối có mưa gíó, sấm chớp, với ý nghĩa:

Bão ngày mai là gió nổi hôm nay,

Trời chớp giật tất đến sét đánh.

Việc dựng phim từ tiểu thuyết cũng là một cách cắt nghĩa tác phẩm văn chương. Hiện tượng có những tác phẩm nào đấy mà số phận của nó sự thăng trầm qua các thời đại thì không phải lúc thăng là do công chúng thời đại đó thông minh còn lúc trầm là do công chúng thời đại đó dốt nát. Ðiều chính yếu là do xu hướng tư tưởng thời đại tác động đến. Trường hợp Pasternax chẳng hạn, hay việc tiếp nhận Thơ mới ở ta chẳng hạn. Khi phong trào Thơ mới ra đời, người đọc rầm rộ đón nhận, nhất là thanh niên, nhưng sau đó, khi đất nước tiến hành cuộc sống chiến chống Pháp, Mĩ thì Thơ mới đã trở nên cũ. Vì nó làm ủy mị con người kiên cường xông pha lửa đạn. Ngày nay, đất nước hoà bình xây dựng, người ta lại tiếp nhận Thơ mới như là nó vẫn mới. Ðúng như Kharavchenko nói: Mỗi thời đại riêng thường thích hợp với những sắc điệu khác nhau trong tác phẩm nghệ thuật với những phương diện khác nhau của khái quát hình tượng của nó.

        4. Tính sáng tạo của tiếp nhận văn chương.   TOP

Tiếp nhận là khâu cuối cùng của quá trình sáng tạo - giao tiếp của văn chương. Không có tiếp nhận thì không có đời sống của tác phẩm. Tác phẩm chưa được sử dụng thì đó chưa phải là sản phẩm đích thực của sản xuất tinh thần. Nhưng tác phẩm - người sáng tác và người đọc là 2 việc khác nhau. Nhà văn và bạn đọc không phải là những người đồng sáng tạo. Ðại biểu của lí

39

Page 40: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

thuyết người đọc là đồng sáng tạo với tác giả. Potebnya, nhà ngữ văn Nga khẳng định: chúng ta có thể hiểu được tác phẩm thi ca, chừng nào chúng ta tham gia vào việc sáng tạo nó. Yù kiến này không xem người đọc - nguời tiếp nhận là khâu hoàn tất của quá trình sáng tạo - giao tiếp mà xem người đọc cùng tham gia vào quá trình làm ra tác phẩm. Ingarder giải thích rõ thêm và khẳng định tác phẩm sẽ được cụ thể hóa trong quá trình tiếp nhận của người đọc. Tác phẩm văn chương tự thân nó, chỉ như là một bộ xương, sẽ được người đọc bổ sung và bù đắp ở một loại phương diện, nhưng trong một số trường hợp, nó cũng bị biến đổi hoặc bóp méo. Chỉ dưới cái diện mạo mới, đầy đủ và cụ thể hơn này (mặc dù giờ đây vẫn chưa được hoàn toàn cụ thể), tác phẩm cùng với những bổ sung cho nó mới là đối tượng của tiếp nhận và khoái cảm thẩm mĩ.[1]

Ðiều hiển nhiên mà ai cũng thấy là tiếp nhận phải là công việc sau khi văn bản tác phẩm đã thoát ly khỏi nhà văn và tồn tại như một hiện tượng, một sự vật độc lập khách quan. Ðộc giả chỉ tiếp xúc với tác phẩm là kết quả của quá trình sáng tạo của nhà văn chứ không phải cùng tham gia viết tác phẩm. Xem tác phẩm là bộ khung, bộ xương, Ingarder đã nhấn mạnh tính chất sơ lược của tác phẩm để từ đó biện hộ cho lí thuyết đồng sáng tạo cũng không đúng. Thực sự nhà văn không muốn và không đặt mục đích cuối cùng là tái hiện và truyền đạt lại tất cả các đặc điểm cá nhân vốn có của đối tượng. Nhà văn chỉ chọn lấy cái tiêu biểu, cái điển hình. Mục tiêu xã hội và ý nghĩa thẩm mĩ của nghệ thuật là ở chỗ tạo ra những khái quát nghệ thuật.

Tiếp nhận văn chương không phải là đồng sáng tạo, nhưng cũng không đơn giản là hoạt động thụ động. Hoạt động tiếp nhận văn chương có tính tích cực chủ động sáng tạo của nó. Tính tích cực chủ động sáng tạo của người đọc là ở chỗ bằng vào năng lực cá nhân, kinh nghiệm cá nhân, thị hiếu thẩm mĩ, lập trường xã hội, người đọc tiếp cận tác phẩm cố gắng làm sống dậy hình tượng, khôi phục những nét lờ mờ, phần chìm của tảng băng, tầng ngầm của toà lâu đài, của hệ thống hình tượng …, từ đó thâm nhập vào chiều sâu tác phẩm nhận ra sức nặng của ý nghĩa khái quát của hình tượng. Lúc đó, hình tượng từ tác phẩm sống dậy trong lòng người đọc. Ở mỗi người đọc có một hình tượng nghệ thuật riêng. Ðỗ Ðức Hiếu đã nói về tính sáng tạo của người đọc như sau: Ðọc văn chương có nghĩa là tháo gỡ các ký hiệu văn chương trong văn bản, là tìm hiểu ý nghĩa của tác phẩm thông qua các cấu trúc của văn bản (cốt truyện, kết cấu, nhân vật, đối thoại, không gian, thời gian v.v…) đọc là Mác hóa cách đọc, là tổng hợp các khâu của việc đọc - cảm tưởng, phân tích, đối chiếu, tổng hợp, đánh giá, v.v… là phát hiện và sáng tạo. đọc trước hết là phát hiện trong văn bản, một thế giới khác, những con người khác, người đọc sống trong một thế giới tưởng tượng của mình, thông qua tác phẩm, xây dựng cho mình một thế giới riêng. đọc là một hoạt động tích cực; người đọc nhập cuộc hóa thân, với những cảm xúc riêng của mình, những kỉ niệm, ký ức, khát vọng riêng. đọc có nghĩa là chuyển đổi tác phẩm thành một vũ trụ tình cảm, cảm xúc, tư duy, tình cảm riêng của mình.[1]

Ðiều gì đã cho phép người đọc  có thể và có quyền sáng tạo khi tiếp nhận văn bản văn chương như vậy? Tất cả là ở chỗ tính đặc thù của nghệ thuật nói chung và văn chương nói riêng.

        5. Ðời sống lịch sử và tính nhiều tầng nghĩa của tác phẩm văn chương. TOP

            Sau khi nhà văn hoàn tất văn bản tác phẩm thì, tác phẩm nghệ thuật bắt đầu trôi nỗi trong dòng đời và đón nhận số phận lịch sử của mình. Có tác phẩm vừa mới ra đời, liền được người đọc vồ vập ấp iu, nhưng sau đó bị lãng quên. Có tác phẩm, lúc mới ra đời thì bị hắt hủi, lãng

40

Page 41: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

quên nhưng sau đó lại được nâng niu trân trọng. Có tác phẩm đời sống của nó êm ả hoặc sáng chói lâu dài, có tác phẩm mờ mờ ảo ảo… Có tác phẩm cùng trong một thời đại nhưng bạn đọc, người ghét, kẻ yêu, người khen, kẻ chê. Lại có tác phẩm ý đồ nhà văn một đằng mà người đọc hiểu một nẻo. Truyện Kiều ở ta là một thí dụ. Ngày nay chúng ta xem Truyện Kiều là một kiệt tác văn chương dân tộc. Và thực sự Truyện Kiều đã làm nhiều thế hệ mê mẫn. Trong đó, có vua Tự Ðức:

Mê gì mê thú tổ tôm

Mê ngựa Hậu bổ, mê nôm Thúy Kiều.

Nhưng không phải đã không có thời , có người sợ Truyện Kiều

Làm trai chớ đọc Phan Trần

Làm gái chớ đọc Thúy Vân, Thúy Kiều.

Hoặc giả Chinh phụ ngâm của Ðoàn Thị Ðiểm cũng có số phận lịch sử đặc biệt. Lúc mới ra đời người đọc tiếp nhận như là tiếng kêu ai oán chống chiến tranh giành đất đai của các tập đoàn phong kiến. Nhưng đến thời đại chúng ta lúc đất nước đang lâm nguy, nhân dân ta đang làm chiến tranh bảo vệ tổ quốc, chúng ta tiếp nhận Chinh phụ ngâm như một thứ đồ cổ - quý mà không thể xài. Bởi vì nỗi gian truân, đau khổ và vô vọng của người chinh phụ trong Chinh phụ ngâm sẽ không có mấy tác dụng tích cực cho bạn đọc hiện thời.

Cơ sở để tạo ra tính nhiều tầng nghĩa của văn chương, đứng về phía văn bản tác phẩm, chúng ta thấy, văn bản là một cấu trúc mang những nét đặc biệt:

- Tác phẩm nghệ thuật là một tác phẩm hoàn chỉnh của nhiều yếu tố riêng biệt và mối liên hệ mật thiết giữa các yếu tố. Nghệ thuật yêu cầu phản ánh toàn vẹn con người (với các mặt tâm hồn và thể xác, hoạt động và đời sống …) các hiện tượng đời sống một cách hình tượng cảm tính.

- Tác phẩm nghệ thuật thường bộc lộ sự phân tích và tổng hợp những quá trình của đời sống. Nhà văn muốn hiểu biết con người trong sự đa dạng và phức tạp của nó.

- Trong tác phẩm nghệ thuật, vai trò quyết định cấu trúc tác phẩm là xung đột. Những xung đột này phản ảnh xung đột đời sống. Tác phẩm là một sự tranh cãi về đời sống của nhà văn, của nhân vật, sự bất đồng giữa các nhân vật. Sự xung đột giữa các hiện tượng đời sống.

- Tác phẩm là một hệ thống hình tượng, mỗi hình tượng mang một chức năng khái quát hóa đời sống. Tổng thể các sự khái quát của hình tượng tạo ra sự khái quát của tác phẩm. tác phẩm là phức thể gồm những tư tưởng cảm xúc.

- Mỗi tác phẩm nghệ thuật là một hệ thống của những sắc điệu. Những sắc điệu đó hợp lại tạo thành giọng điệu của tác phẩm. hay nói đúng hơn, cùng với giọng điệu cơ bản, trong tác phẩm có một hệ thống các sắc điệu phức tạp vô vàn.

41

Page 42: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

- Tác phẩm nghệ thuật được sáng tạo chẳng những nhằm khách quan hóa sự lĩnh hội thực tại bằng hình tượng mà còn có mục đích tác động đến người sử dụng nghệ thuật. Cho nên, mỗi thành tố của tác phẩm vừa thực hiện chức năng nhận thức, vừa thực hiện chức năng biểu hiện.

Tóm lại, tác phẩm nghệ thuật là một cấu trúc đa dạng phức tạp và hoàn chỉnh của các thành tố. Ðặc điểm này là cơ sở tạo ra tính đa tầng nghĩa của văn chương . Eizenshtein đã nói rất hay về cấu trúc của một tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh về các thành tố tạo nên cấu trúc ấy: Bộ phim hoàn chỉnh là một mớ không gì so sánh được của những phương tiện biểu hiện và tác động hết sức nhiều vẻ. Quan niệm lịch sử về đề tài, tình huống kịch bản, tiến trình chung mang tính kịch, sức sống của hình tượng nghệ thuật và diễn xuất của diễn viên, thực tế tiết tấu dựng phim  và cấu tạo hình khối của khuôn hình; âm nhạc, tiếng động, tiếng ồn; dàn cảnh và trò diễn bố trợ của các thủ pháp hội họa; ánh sáng và bố cục lời nói có sắc điệu v.v …và cái tưởng như hỗn độn của các lĩnh vực riêng biệt không đo được, cũng như những cái có thể đo lường, đã được kết hợp lại thành một chỉnh thể hợp lí; thống nhất.[1] Ðặc điểm này của văn bản tác phẩm sẽ tạo ra tính đa nghĩa của nó khi nó va chạm với cuộc sống xã hội.

    II. NGƯỜI ÐỌC TRONG QUÁ TRÌNH TIẾP NHẬN VĂN CHƯƠNG.

        1. Người đọc như một yếu tố bên trong của sáng tác văn chương   TOP

            Người đọc không đồng sáng tạo với nhà văn, nhưng lại là một yếu tố bên trong của sáng tác. người đọc đối với sáng tạo nghệ thuật cũng giống như một người tiêu dùng trong lao động sản xuất. Với tư cách là một đòi hỏi, một nhu cầu, bản thân sự tiêu dùng là một yếu tố nội tại của hoạt động lao động sản xuất (C. Mác). Người tiêu dùng là mục tiêu của sản xuất, người đọc là mục tiêu của sáng tác. Chính nhu cầu của người tiếp nhận, người tiêu dùng, người sử dụng văn chương là yếu tố có ý nghĩa quyết định đối với quá trình văn chương. Người đọc hiện lên trước nhà văn dưới một hệ thống câu hỏi: Viết cho ai?, Viết để làm gì?, Viết như thế nào?. Người đọc yêu cầu, đòi hỏi, chờ đợi và phê bình nhà văn. Nhà văn sáng tác để đáp ứng đòi hỏi bạn đọc. Người đọc tạo nên mối quan hệ trực tiếp với tác phẩm của sáng tác - tiếp nhận.

            Nhưng ai là người đọc, người tiếp nhận văn chương? Loại hình học người đọc văn chương chia ra nhiều loại người đọc khác nhau.

            - Ðứng về phía người tiếp nhận, người ta chia người đọc ra 4 loại. Thứ nhất là người đọc tiêu thụ. Ðây thường là loại người đọc đọc  ngấu nghiến cốt truyện, ham thích tình huống éo le gay cấn, nhiều khúc mắc cạm bẫy. Loại này đọc lướt nhanh vào giờ nhàn rỗi, tìm thú giải trí, có những đánh giá dễ dãi. Thứ hai là, loại đọc điểm sách. Loại  người này có ý thức tìm ở văn chương những thông tin mới về cuộc sống, đạo đức … để thông báo cho độc giả của các báo. Thứ ba là loại người đọc chuyên nghiệp - những người giảng dạy nghiên cứu phê bình ở các trung tâm nghiên cứu. Thứ tư là những người sáng tác - nhà văn, nhà thơ đọc theo cảm hứng bất chợt hoặc để tham gia viết những trang phê bình ngẫu hứng.

            - Ðứng ở góc độ sáng tác người ta chia người đọc ra làm ba loại. Thứ nhất: người đọc thực tế. Tức là những người đọc, người tiếp nhận sáng tác tồn tại một cách cụ  thể, cá thể. Họ là những người A, người B nào đó trong đời sống, tiếp nhận văn chương theo cá tính, theo sở thích

42

Page 43: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

cá nhân. Như vậy, trước mắt người sáng tác có biết bao nhiêu người đọc thực tế. Nhưng nhà văn không viết để đáp ứng cho từng người cụ thể mà viết cho người đọc nói chung. Thứ hai: người đọc giả thiết. Ðây là loại độc giả của từng tác giả. Loại này tồn tại trong tác giảsuốt quá trình sáng tác từ nảy sinh ý đồ cho đến kết thúc. Nhà văn có chủ đích hướng tới họ là chủ yếu. Thứ ba: người đọc hữu hình hay người đọc bên trong là loại người đọc tồn tại bên trong tác phẩm như một nhân vật luôn đối diện và đối thoại với nhà văn, nhưng không phải nhân vật mà là hiện thân của người đọc bên ngoài tác phẩm. Tố Hữu viết bài thơ Kính gửi cụ Nguyễn Du, suốt bài thơ tác giả nói với cụ Nguyễn cụ thể nhưng thực tế Tố Hữu chủ yếu viết cho người đọc thực tế hôm nay, nói với người hôm nay. Trong thơ Tố Hữu dạng nhân vật này thường hay xuất hiện dưới đại từ em như một đối tượng thân thiết gần gũi để tâm sự:

- Em ơi Ba Lan mùa tuyết tan

- Em ạ ! Cu-ba ngọt lịm đường

            - Ðứng ở góc độ thời gian, người ta chia người đọc ra làm 3 loại: Thứ nhất: người đọc hiện tại, tức loại người đọc đang sống đồng thời với tác giả, họ thực sự tiếp nhận tác phẩm của tác giả và lên tiếng khen chê trực tiếp với tác giả. Trong số người đọc hiện tại, có thể chia ra làm nhiều lớp theo cách khác nhau: người đọc bình thường; người đọc của người đọc - nhà phê bình; người đọc thiếu nhi, thanh niên, công nhân, nông dân, trí thức… Thứ hai: người đọc quá khứ. Ðây là loại người đọc không thể và không bao giờ tiếp nhận tác phẩm cả. Nhưng nhiều khi nó quyết định thành bại của tác phẩm. khi Tố Hữu viết Kính gửi cụ Nguyễn Du thì đây phải là bức thư gởi cụ Nguyễn Du nào đó đang sống thực sự ở đâu đó, mà là gửi cho linh hồn cụ Nguyễn Du. Và chính Nguyễn Du lúc sinh thời cũng đã có loại người đọc như thế. đó là Tiểu Thanh (xem bài thơ Ðộc Tiểu Thanh ký.  Nhân vật nàng trong màu tím hoa sim của Hữu Loan cũng lại là một người đọc quá khứ. Thứ ba: người đọc tương lai. Loại người đọc này chưa tồn tại thực tế sẽ có thể, hoặc không thực sự đọc tác phẩm nhưng vẫn xuất hiện trong quá trình làm tác phẩm của tác giả, và có khi là chủ đích hướng tới của nhà văn. Nhà văn muốn gởi thế kỉ mai sau, muốn nói chuyện với người 300 năm sau như Nguyễn Du đã nói:

Bất tri tam bách dư niên hậu

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như

Stendhal thì chờ người đọc nửa thế kỉ sau.

            - Lại có cách chia người đọc theo ý thức hệ. Cách này, chia người đọc ra làm 2 loại. Thứ nhất: người đọc bạn bè, đây là loại người đọc chỉ hướng, cùng quan điểm xã hội, lập trường tư tưởng. Phần lớn các tác giả có đông đảo bạn đọc loại này. Ðây là loại bạn đọc chí cốt mà Tố Hữu đã nói: Tôi buộc hồn tôi với mọi người. để hồn tôi với bao hồn khổ.Thứ hai: loại người đọc đối thủ. Loại người đọc này trái với chí hướng, lập trường giai cấp xã hội của mình. chẳng hạn cụ Ngáo trong bài thơ Hởi cụ Ngáo của Tố Hữu.

            Tính quyết định của người đọc đối với quá trình sáng tác văn chương là ở chỗ nếu không có người đọc thì không có bản thân quá trình sáng tác. Nghệ thuật như là một hình thức giao tiếp. Nó ra đời để đáp ứng nhu cầu giao lưu, trao đổi giữa người viết văn và người đọc văn, nhưng

43

Page 44: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

trước hết là để thỏa mãn nhu cầu tự bộc lộ mình của người sáng tác. Người đọc lúc này sẽ là nơi gởi gắm tâm sự của nhà văn. Ở đây người đọc trở thành người phục vụ nhà văn. Ðến lượt mình, nhà văn lại trở thành người phục vụ bạn đọc. Ðây là một mục tiêu quan trọng của sáng tạo nghệ thuật. Nghệ thuật phục vụ người đọc ở 2 phương diện. Một là thỏa nhu cầu nghệ thuật của họ. Hai là đào tạo họ thành những người sính nghệ thuật. Rồi những người sính nghệ thuật đó lại yêu cầu nghệ sĩ không được tự thỏa mãn mà phải nâng mình lên. Ðây là một sự phát triển theo đường tròn xoáy ốc. Tác phẩm nghệ thuật - và mọi sản phẩm khác cũng thế, - đều tạo một thứ công chúng sính nghệ thuật và có khả năng thưởng thức cái đẹp, như vậy là sản xuất không những chỉ sản sinh ra một đối tưọng cho chủ thể, mà còn sản sinh ra một chủ thể cho đối tượng. (C. Mác)

        2. Vai trò của người đọc đối với đời sống lịch sử của văn chương   TOP

            Cấu trúc nội tại của tác phẩm với tính đa thanh, đa giọng điệu, nhiều tầng nghĩa do thuộc tính phản ánh và khái quát đời sống và chất liệu ngôn từ đã tạo nên phương diện khách quan của đời sống lịch sử tác phẩm nghệ thuật. Còn người đọc thực tế tạo ra phương diện chủ quan của đời sống lịch sử tác phẩm nghệ thuật. Chính vai trò năng động sáng tạo của bạn đọc đã làm cho đời sống lịch sử của nghệ thuật vô cùng phong phú, sinh động.

            Ta có thể thấy những yếu tố cụ thể từ phiá người đọc tham gia vạch ra con d8ường lịch sử của văn chương:

            - Khác với tiếp nhận khoa học, tiếp nhận nghệ thuật có một công chúng rộng rãi. Tính chất dân chủ rộng rãi của tiếp nhận sẽ vẽ ra gương mặt đa dạng của tác phẩm. Mọi người, mọi lứa tuổi, mọi giới tính, mọi nghề nghiệp, giai cấp đều có thể tiếp nhận văn chương và tiếp nhận theo cách của mình. Do đó, ở trong mỗi một độc giả sẽ có một hình tượng mà hình tượng đó sẽ không trùng khít với hình tượng tác phẩm và cũng không trùng khít với hình tượng mà người khác cùng tiếp nhận. Quyết định tới tính đa dạng và đa diện của nghệ thuật từ phía chủ thể tiếp nhận là do tuổi tác đã đành, còn do cá tính cảm xúc, quan điểm thẩm mĩ, thị hiếu thẩm mĩ khác nhau; lại còn do trình độ văn hóa, địa vị xã hội, thành phần giai cấp, năng lực của từng người…

            - Mặt khác, lại còn tâm lí tiếp nhận của công chúng. Công chúng tiếp nhận có nhiều kiểu. Loại tiếp nhận để giết thì giờ lúc chờ đợi, hay rảnh rỗi. Loại này chủ yếu đọc ngấu nghiến tiếp nhận một cách bàng bạc, hời hợt. Loại người tiếp nhận sâu về phương diện đồng cảm, đồng điệu của hình tượng. Với những người này hình tượng trở nên sống động một cách kỳ lạ: y như thật. Có người đã tưởng thật. Có người thuơng khóc, hay uất ức thực sự đối với nhân vật: loại người tiếp nhận thiên về lí trí. Loại này khai thác sâu phương diện khái quát của hình tượng. Họ nặng suy tư, suy tính. Hình tượng nghệ thuật đến với họ đều ở bề chìm. Loại người tiếp nhận sơ lược, nắm bắt hình tượng không trọn vẹn. Hình tượng nghệ thuật đến với những người này không toàn bích và chỉ ở một số phương diện, khía cạnh nào đấy. Cuối cùng là loại người tiếp nhận trọn vẹn. Loại người này tiếp nhận hình tượng một cách đa diện, cả chiều cao, chiều sâu, bề chìm bề nổi nhận ra phong cách nghệ thuật, thi pháp và tư tưởng tác phẩm.

            Tiếp sức, định hướng, chế ước người đọc đó là điều kiện lịch sử - xã hội. Trong điều kiện xã hội phát triển, đời sống văn hóa nâng cao người có điều kiện tiếp nhận nghệ thuật và tiếp nhận

44

Page 45: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

tốt hơn trong xã hội có điều kiện kinh tế thấp. Trong điều kiện xã hội có những biến động nào đấy về chính trị  -xã hội, ví du,ï đang hoà bình chuyển sang chiến tranh và ngược lại thì việc tiếp nhận nghệ thuật của công chúng cũng sẽ bị ảnh hưởng v.v… Ðã có một thời công chúng tiếp nhận vở chèo Lưu Bình - Dương Lễ  ở phương diện tình bạn cao cả đầy ân nghĩa của Dương Lễ; dám cho vợ đi tìm Lưu Bình để nuôi ăn học thành đạt. Trong chế độ đa thê, năm the, bảy thiếp, thì người tiếp nhận, kể cả phụ nữ cũng rất tán đồng Dương Lễ. Nhưng trong chế độ chúng ta - chế độ phụ nữ được giải phóng, được tôn trọng thì người ta không tán thành cách làm của Dương Lễ. Và vở chèo đó không được dàn dựng, không được tiếp nhận như trước đây nữa.

            Tất cả những điều trên đây chúng ta chỉ mới nói với vai trò người đọc trong tiếp nhận ở góc độ thiên về phương diện nào đó của hình tượng, nhưng chưa nói tới việc người đọc mở rộng giới hạn nghĩa cho hình tượng. Nói mở rộng giới hạn nghĩa không có nghĩa là người đọc viết thêm vào tác phẩm, mà người đưa tác phẩm vào hoàn cảnh của mình, quan hệ với mình và phát hiện ra nghĩa cho tác phẩm từ những quan hệ mới, có thể thấy điều này qua lịch sử tiếp nhận Truyện Kiều của Nguyễn Du và nhiều trường hợp tiêu biểu khác. Hình tượng cô Tấm trong truyện cổ tích Tấm - Cám được các loại người nhận khác nhau cảm nhận khác nhau. Ðối với người bình dân xưa, cô Tấm điển hình cho quan niệm đạo đứcở hiền gặp lành. Ðối với Chế Lan Viên, cô Tấm là của tài năng diệu kỳ:

Ôi đất nước của vạn nghìn cô Tấm

Xé vỏ thị bà tiên ra mà làm chuyện bất ngờ

            Ở Phó Ðức Phương, cô Tấm là hiện thân của vẻ đẹp trong lao động, của tình yêu lao động : Những cô Tấm ngày xưa như vẫn còn đây trong mùa trẩy hội.

            Ðến đây ta thấy được vấn đề bức thiết đặt ra cho nghệ thuật là cần phải đào tạo người đọc, để người tiếp nhận biết cách đọc, thói quen đọc, kỹ năng đọc. Có thể có 4 bước cho người đọc như sau:

            Trước hết, lựa chọn sách đọc. chọn những sách phù hợp với khát vọng lớn lao, chính đáng của con người như hoà bình, tự do, chống bạo lực, tình yêu, tình bạn, tình người.

            Thứ đến, định hướng đọc: đọc để làm gì? Ðể thỏa mãn nhu cầu hiểu biết, giáo dục, thẩm mĩ, giải trí, giao tiếp v.v…

            Thứ ba, phương pháp đọc: tìm các mã của văn bản, các đặc trưng phong cách, các thao tác phân tích, thống kê, đối chiếu.

            Thứ tư, đánh giá tác phẩm: Giá trị nội dung và tư tưởng xét trên nhiều chiều đồng đại và lịch đại v.v…

45

Page 46: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

1. Sứ mệnh nhà văn Khi xác định về sứ mệnh của nhà văn trong tình hình xã hội miền Nam lúc bấy giờ, Nguyễn Hiến Lê cho rằng: “nhiệm vụ đầu tiên của nhà văn lúc này là vạch những đau khổ của nhân loại, những bất công trong xã hội, bênh vực kẻ yếu, an ủi kẻ nghèo và tìm cách xây dựng một tương lai rực rỡ mà mọi người hiểu nhau, hợp tác với nhau, không ai thù oán nhau, tranh giành nhau, bóc lột nhau.” [1]. Như vậy, trong quan niệm của Nguyễn Hiến Lê, nhiệm vụ của nhà văn thật lớn lao và cao cả đến không tưởng. Vì như thế, nhà văn rất khó thực hiện được sứ mệnh của mình. Bởi lẽ, không chỉ nhà văn mới có trách nhiệm đối với xã hội mà đó là trách nhiệm của mọi người. Song nhà văn với thiên chức của mình, có vai trò đặc biệt đối với xã hội. Bởi văn học, luôn có tác động rất lớn đến cuộc sống nhân sinh. Trong lý luận phê bình văn học ở đô thị miền Nam đây cũng là vấn đề được quan tâm bàn đến với những điểm nhìn khác nhau. Do ảnh hưởng chủ nghĩa hiện sinh theo kiểu J.P. Sartre, một số nhà lý luận phê bình văn học ở đô thị miền Nam đề cập nhiều đến việc dấn thân của nhà văn, xem đây là sứ mệnh thiêng liêng, cao cả của người nghệ sĩ. Vì theo Huỳnh Phan Anh "Nhà văn nào không dấn thân trong tác phẩm mình. Và tác phẩm nào không dấn thân trong xã hội" [2]. Còn Nguyễn Văn Trung thì cho rằng: “Nhà văn không thể lãnh đạm trước thời cuộc, không thể tách rời chính trị để thành một thứ văn chương vô tình, vô thưởng vô phạt, vì chính sự có mặt của văn chương, chính sự hiện hữu của tác phẩm đã là một thái độ bày tỏ trước cuộc đời, nghĩa là đã dấn thân”, “gia nhập” rồi, dù tác phẩm không hề đụng tới chính trị, thời cuộc và chỉ nói đến mây nước gió trăng” [3]. Và “cách dấn thân của nhà văn là bày tỏ, vì chỉ nguyên sự bày tỏ cũng đã xác định một lập trường trước cuộc đời chung quanh rồi” [4]. Như vậy, trong quan niệm của các nhà lý luận phê bình chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh, việc bày tỏ thái độ của nhà văn thông qua tác phẩm cũng là một sự dấn thân, cũng thể hiện tinh thần trách nhiệm của nhà văn. Nhưng trước những đau khổ của đồng bào, khi phải sống trong cảnh nước mất nhà tan, nhà văn chỉ bày tỏ thái độ qua tác phẩm, không biến ngòi bút của mình thành vũ khí chống cường quyền bạo lực thì làm sao xã hội có công bằng, nhân dân ấm no, đất nước được tự do độc lập ? Dấn thân là phải thật sự đi vào đời sống để giải quyết những vấn đề nóng bỏng của cuộc sống nhân sinh. Còn nếu dấn thân nửa vời như thế, chẳng khác nào thỏa hiệp trước bạo tàn, lúc đó nhà văn liệu có thực hiện được sứ mệnh cao cả đối với xã hội, để văn chương không trở thành một thứ “văn chương vô tình, vô thưởng, vô phạt” như chính Nguyễn Văn Trung đã viết ? Vì vậy, cũng bàn đến vai trò trách nhiệm của nhà văn, nhưng khác với Nguyễn Văn Trung, Huỳnh Phan Anh, các nhà lý luận phê bình chịu ảnh hưởng tư tưởng mác xít, luôn đề cao sứ mệnh của nhà văn với tư cách là một người chiến sĩ chống bạo lực, cường quyền. Trong quan niệm của Vũ Hạnh, nhà văn phải có “trách nhiệm cụ thể đối với xã hội mà mình đang sống (…) cái trách nhiệm cải tạo sự sống bằng những phương tiện riêng biệt của mình, với cái tính cách riêng biệt của bộ môn mình, theo các quan điểm mà mình chấp nhận là đúng” [5]. Cũng như Nguyễn Văn Trung, Lữ Phương cho rằng: “nhà văn cũng là người trí thức bày tỏ tiếng nói trước đời sống bằng tác phẩm của mình” [6], nhưng trong quan niệm của Lữ Phương, tiếng nói trong tác phẩm phải là một thứ vũ khí, của người nghệ sĩ góp phần vào cuộc đấu tranh chống kẻ thù giành độc lập tự do cho dân tộc. Bởi lẽ theo Lữ Phương: “ Nhà văn không thể lấy máu tủy tư liệu

46

Page 47: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

ở đời để viết lên những điều vô trách nhiệm” [7]. Và nói như Châu văn Thuận, nhà văn “không thể tách rời đời sống, họ gắn liền với thực tại. Họ không phải là người bàng quan yên ổn đứng bên bờ sông nhìn dòng lịch sử mơ mộng viễn vông. Đó là trách nhiệm và cũng là sức mạnh của nhà văn nhất là trong thời đại của chúng ta” [8]. Như vậy, tùy theo điểm nhìn, mỗi khuynh hướng có quan niệm khác nhau về sứ mệnh nhà văn. Điều ấy phản ánh trung thực tính khuynh hướng cũng như sự phân hóa trong lý luận phê bình văn học ở đô thị miền Nam 1954- 1975. Song dù còn có những điểm khác nhau về một số vấn đề trong quan niệm về sứ mệnh nhà văn, họ vẫn có sự thống nhất ở chỗ đề cao sứ mệnh của nhà văn trước cuộc đời. Bởi lẽ, theo Nhật Tiến “là chứng nhân của thời đại nhà văn không thể đi ngược lại với thực tế, không thể che đậy giấu diếm với bất cứ giá nào, không thể phản bội thiên chức của mình để đánh lừa độc giả ngày nay và ngày sau” [9]. Một khía cạnh khác về sứ mệnh nhà văn trong quan niệm của các nhà lý luận phê bình văn học ở đô thị miền Nam, đó là quan hệ giữa nhà văn với vận mệnh dân tộc. Đây cũng là vấn đề được nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau. Là con người, ai cũng sinh ra và lớn lên trong cộng đồng dân tộc, được tắm mình trong tình tự văn hóa dân tộc. Văn học bao giờ cũng là văn học gắn liền với bản sắc văn hóa dân tộc. Vì vậy, nhà văn phải gắn số phận mình với vận mệnh của dân tộc. Và trong ý nghĩa đó, Nguyễn Văn Trung cho rằng: “nhà văn là người được dân tộc giao cho nhiệm vụ giữ ngọn đuốc thiêng của đất nước và duy trì tình tự tiếng nói dân tộc” [10] . Vì thế “Chỉ khi nào nhà văn có thái độ “dấn thân” lên tiếng hoặc hành động đáp lại những đòi hỏi của đất nước người đọc mới tôn kính” [11]. Như vậy, trong quan niệm của Nguyễn Văn Trung, vận mệnh nhà văn bao giờ cũng gắn với vận mệnh dân tộc và ý thức của nhà văn trước sự tồn vong của dân tộc cũng là một chuẩn giá trị để người đọc đánh giá nhà văn. Khẳng định dứt khoát và mạnh mẽ hơn ý thức trách nhiệm của người cầm bút trước vận mệnh dân tộc, Nguyễn Trọng Văn cho rằng: “Số phận nhà văn không thể tách biệt khỏi số phận chung của dân tộc. Cố tình hay cố ý chạy trốn thực tế để lao mình vào thế giới mộng du, tưởng tượng, không thể là thái độ đáng hãnh diện." [12]. Còn với Nguyên Sa: “Nhà văn không phải là hoang đảo, không phải là những ông hoàng, không phải là một quốc gia riêng biệt nằm trong một quốc gia. Nó ở trong một dân tộc. Nó là thành phần của cái đại thể là dân tộc đó.” [13]         Việc đề cao trách nhiệm xã hội và ý thức dân tộc của nhà văn trong lý luận phê bình văn học ở đô thị miền Nam, tuy còn có những điểm dị biệt giữa các khuynh hướng nhưng xét trong tình hình chính trị xã hội ở miền Nam 1954-1975 thì đây là một quan điểm tiến bộ, là một thái độ tích cực thể hiện lòng tự tôn dân tộc và trách nhiệm xã hội của nhà văn trong việc đấu tranh chống sự xâm lăng văn hóa của ngoại bang, góp phần thức nhận lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc. 2. Nhà văn và quá trình sáng tạo Nói đến sáng tạo của nhà văn là nói đến một loại hình lao động đặc biệt, lao động của sáng tạo. Nhà văn chỉ có thể làm tròn sứ mệnh của mình khi sáng tạo ra tác phẩm văn học. Như mọi hoạt động lao động khác, sáng tạo của nhà văn cũng cần có những điều kiện nhất định, trước tiên là vốn sống. Bởi vì, đối với nhà văn không có vốn sống nghĩa là không có chất liệu để sáng tạo. Đó là hằng số mà mọi tư duy lý luận dù theo quan điểm mỹ học nào cũng đều thừa nhận. Nhật Tiến cho rằng, sản phẩm văn học không chỉ thuần túy tưởng tượng mà còn là kết quả quá trình nghiệm sinh của nhà văn. Người viết truyện có thể sáng tạo ra nhiều loại nhân vật với những cá tính khác

47

Page 48: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

nhau. Nhưng nếu sản phẩm văn nghệ chỉ được khai sinh bằng sự hoàn toàn bịa đặt, mà không là kết quả nhào nặn từ trải nghiệm đời sống thì “dù trí tưởng tượng có đạt tới mức hoàn hảo đến đâu, tác phẩm cũng chỉ là một thứ tiểu xảo không thể nào tiến tới mức giá trị nghệ thuật” [14].       Có thể nói, hư cấu là đặc quyền của nhà văn trong quá trình sáng tạo, nhưng nếu sáng tác văn học chỉ hoàn toàn là sản phẩm của hư cấu và tưởng tượng mà không mang hơi thở của đời sống thì sẽ không truyền được cảm xúc đến người đọc. Văn học bao giờ cũng là chuyện cuộc đời. Nhà văn muốn sáng tạo, phải lặn ngập trong biển lớn của cuộc đời. Theo Lữ Phương: “Đối với nhà văn thì đời sống sẽ giúp họ nhiều hiện tượng sinh động thật sâu sắc” [15]. Nên muốn viết lĩnh vực nào, nhà văn phải am hiểu lĩnh vực ấy. Vì theo Duyên Anh "kinh nghiệm và cuộc sống đóng góp nhiều cho sự hoàn thành một tác phẩm." [16] và “chính cái vốn sống nghèo nàn là một lý do cơ bản giải thích tình trạng thiếu đề tài của các nhà văn thành phố ngày nay” [17]. Việc thiếu vốn sống không chỉ dẫn đến nghèo nàn trong chọn đề tài mà còn dẫn đến sự bế tắc trong việc biểu hiện nội dung tác phẩm. Đây là nguyên nhân Cô Phương Thảo cho rằng “người sáng tác không làm sao cho tác phẩm sống động dồi dào” [18]. Bởi lẽ, theo Nhật Tiến “Kinh nghiệm sống là điều kiện tất yếu để cấu tạo nên một tác phẩm hay” [19] . Như vậy, trong quan niệm của các nhà lý luận phê bình văn học ở đô thị miền Nam, dù theo khuynh hướng mỹ học nào, họ đều khẳng định một yếu tố có tính nguyên tắc trong sáng tạo của nhà văn đó là vốn sống. Bởi lẽ, theo Nguyên Sa “Sự sống liên đới với cuộc đời đó cần thiết hơn nữa cho người làm văn bởi vì đó là một trong những điều kiện sáng tạo” [20]. Song có vốn sống thôi chưa đủ, muốn sáng tạo, nhà văn cần phải sống thật với cuộc đời, phải trải lòng ra với cuộc đời. Cái “khát vọng thành thực” ấy đã hơn một lần được Hoài Thanh nói đến trong Thi nhân Việt Nam. Theo ông, một trong những điều làm nên sự kì diệu của Thơ Mới đó chính là khát vọng thành thực. Thi nhân không thành thực với đời thì không thể sáng tạo những bài thơ đốt cháy lòng người. Nhà văn không sống thực với cuộc đời, nhất định không thể sáng tạo được những tác phẩm văn học có giá trị và tồn sinh với cuộc sống. Như vậy, sống thật với cuộc đời cũng là một yếu tố quan trọng trong hành trình sáng tạo của nhà văn. Trong quan niệm của Trần Nhựt Tân “Nghệ sĩ có sống thật mới sáng tạo được. Tác phẩm đạt đến giá trị nghệ thuật là chính tác phẩm đã được sáng tạo từ một sự sống thật. Cho nên nếu nghệ sĩ sống thật với mình trước hoàn cảnh thì hẳn sáng tạo cũng nhằm nghệ thuật hóa những gì họ đang đã từng ôm ấp, suy tư băn khoăn, sống thật” [21] . Và ở một phương diện nào đó, theo chúng tôi, sống thật còn là biểu hiện sự trung thực của nhà văn trước cuộc đời. Nhà văn có sống trung thực với mình, với đời thì sáng tạo của nhà văn mới có giá trị. Không yêu ghét thật lòng thì tác phẩm do nhà văn sáng tạo ra chỉ là một sự ngụy tín. Vì theo Nguyễn Văn Trung “khi nhà văn viết văn, không thể không nói lên cái gì liên lạc với cuộc đời mình đã cảm nghĩ, đã sống, đã yêu, giận, ghét, đã bảo vệ đấu tranh” [22]. Và với Nguyên sa “Những tình cảm vui buồn đó cần thiết phải được xuất phát ra từ sự va chạm với cuộc đời” [23]. Cho nên trong suy nghĩ của Dương Nghiễm Mậu “Phải sống thực, thấy rõ những gì mình muốn viết, nhắc nhở mình viết cho gọn, sáng. Không nghĩ không sống thì lấy gì để viết? Trước đó là lựa chọn, sau là trau dồi, tôi luyện” [24]. Chịu ảnh hưởng thuyết phân tâm học của Freud, hiện tượng luận của Edmund Husserl, các nhà lý luận phê bình văn học ở đô thị miền Nam còn cho rằng để sáng tạo, nhà văn không chỉ có vốn sống, không chỉ sống thực với đời, với mình mà còn phải chuyển hóa những điều ấy thành tâm cảm, thành sự ám ảnh của vô thức và tâm linh. Vì nói như Nguyên Sa: “Những chất liệu đến từ cuộc đời chưa đủ để làm nên tác phẩm văn nghệ” [25]. Nên theo Huỳnh Phan Anh, nhà văn bao

48

Page 49: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

giờ cũng “viết trong ám ảnh”[26]. Và với Nguyễn văn Trung, “sáng tạo văn chương là một sự thôi thúc từ bên trong ... Chính tình cảm, niềm thiết tha đó là động cơ thúc đẩy nhà văn viết. Nhà văn viết vì không thể chịu đựng được những bức rức trong lòng đè nặng tâm hồn.” [27]. Người nghệ sĩ chỉ có thể sáng tạo khi họ thật sự trở về “với nội tâm, phải trở về với niềm cô độc”(Nguyên Sa) [28]. Đó cũng là lúc họ nghiền ngẫm kiếm tìm ý nghĩa mới. Bởi “vấn đề sáng tạo không phải là phản ảnh những ý nghĩa đã có mà là tìm kiếm những ý nghĩa mới”( Nguyễn Văn Trung) [29]. Đây mới chính là chân giá trị trong hành trình sáng tạo của nhà văn cũng là một yếu tố thể hiện cá tính sáng tạo và phong cách nhà văn.  3. Cá tính sáng tạo và phong cách nhà văn Thật ra, vấn đề cá tính sáng tạo và phong cách nhà văn không phải là quan niệm riêng của một nền lý luận văn học nào. Đó là một trong những bình diện mà mọi nền lý luận văn học cổ kim Đông Tây đều nói đến như một điển phạm. Bởi vì  “Nói đến cá tính sáng tạo và phong cách nhà văn là nói đến một loại thước đo nghệ thuật”(M.B.Kharapchenko) [30]. Bất cứ nhà văn nào muốn khẳng định sự hiện tồn của mình trong đời sống văn học, phải tạo cho mình một phong cách riêng, với cá tính sáng tạo riêng vì đây là một chuẩn giá trị trong sáng tạo nghệ thuật để “xác định nhà văn này khác với nhà văn kia”(Nguyễn Văn Trung) [31]. Trong quan niệm của lý luận phê bình văn học ở đô thị miền Nam, nhà văn có cá tính sáng tạo và phong cách là phải làm nên sự khác biệt nhằm tạo cho mình “một cõi không giống ai”( Tam Ích) [32]. Đó là điều không đơn giản nhưng không có con đường nào khác. Muốn hiện hữu, nhà văn phải tự tìm cho mình một lối đi riêng, với hình thức diễn tả riêng. Đây là một trong những giá trị tiên quyết thể hiện cá tính sáng tạo và phong cách nhà văn. Bởi lẽ, theo Nguyễn Văn Trung: “một nhà văn thực sự bao giờ cũng tìm đến nguồn suối sống động là kinh nghiệm đời của mình. Mà kinh nghiệm sống thực bao giờ cũng là độc đáo riêng tư, do đó bao giờ cũng cần biểu hiện bằng những hình thức diễn tả đặc biệt riêng tư, như thể trước đó chưa bao giờ có và chưa bao giờ thấy” [33]. Như vậy, trong quan niệm của các nhà lý luận phê bình văn học ở đô thị miền Nam, yêu cầu tính độc đáo trong hình thức diễn đạt, có nghĩa nhà văn cần “tạo ra những hình ảnh mới, những chữ mới, những bố cục mới để phản ảnh cái mình thấy thực, ý mình nghĩ thực, không vay mượn” [34] của bất kỳ ai và sự tiếp xúc với người khác chỉ là điều kiện soi chiếu để mình tìm ra một lối đi riêng, không lẫn vào con đường họ đã đi. Vì nói như Phạm Công Thiện, người nghệ sĩ có cá tính sáng tạo là người không bao giờ lặp lại mình, lặp lại người khác mà phải luôn biết phủ nhận người khác cho dẫu đó là thiên tài: “Rimbaud đã chết từ lâu, mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút, mỗi giây tôi phải giết hết Rimbaud, Dostoievsky, Nietzsche trong mỗi một lời, mỗi một cử chỉ, một một bước đi, mỗi một cái búng tay. Tôi biết rằng anh đã sợ hãi, anh sợ hãi vì anh chỉ muốn bắt chước thiên tài chứ không muốn làm thiên tài” [35] Cá tính sáng tạo của nhà văn trong quan niệm của lý luận phê bình văn học ở đô thị miền Nam không chỉ thể hiện ở sự độc đáo trong phong cách để tạo cho mình một thế giới riêng không lẫn với ai mà còn biểu hiện ở chỗ nhà văn phải luôn biết tự làm mới mình, phủ định chính mình. Vì trong quan niệm của Nguyễn văn Trung “Đối với nhà văn cái cốt yếu, lý do tồn tại của mình là sáng tạo, nghĩa là phủ nhận. Như thế các nhà văn là người luôn luôn bất mãn với tác phẩm đã ra đời, với cái đã có” [36]. Không bằng lòng với những gì mình đã làm ra trong hiện tại, luôn khám phá để tìm ra cái mới đó là qui luật của sáng tạo và cũng là qui luật vận động của mọi sự vật hiện tượng trong quá trình phát triển. Dừng lại tức là bước thụt lùi, là lui về phía sau, là tự sát. Trong

49

Page 50: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

sáng tạo văn học, qui luật này lại càng khắc nghiệt hơn. Vì “Sáng tạo là một vận chuyển biện chứng dệt bằng những hủy diệt liên tiếp, phải từ chối cái có, mới vươn tới cái chưa có. Không một nhà văn nào thỏa mãn với sự nghiệp, dừng lại ở những tác phẩm đã ra đời. Nếu dừng lại phải coi người đó như đã chết và thuộc về văn học sử” [37]. Để khẳng định cá tính sáng tạo và phong cách, nhà văn cần phải tạo cho mình một bút pháp độc đáo vì “nhà văn càng độc đáo, càng có bút pháp độc đáo. Mà độc đáo đặc biệt là gì khi bước vào sinh hoạt sáng tác văn chương, nếu không phải là tránh đi lại những con đường mòn hết sức kỵ sự nhắc lại, sự bắt chước" [38]. Do đó, không thể có những tiêu chuẩn tiên nghiệm, qui định sáng tác, những tiêu chuẩn khách quan, phổ biến áp dụng cho mọi người, mà chỉ có những tiêu chuẩn do chính nhà văn sáng tạo ra để qui định sáng tác của mình. Với những vấn đề nêu trên, ta thấy các nhà lý luận phê bình văn học ở đô thị miền Nam rất đề cao cá tính sáng tạo và phong cách nhà văn. Nghĩa là họ rất tôn trọng vai trò của cá nhân trong sáng tạo nghệ thuật. Họ không chấp nhận tính "cộng đồng" với những “tiêu chuẩn tiên nghiệm qui định sáng tác”. Và đây cũng là điểm dị biệt với lý luận văn học của chúng ta ở một thời chưa xa khi mà trong quan niệm có lúc chúng ta còn xem nhẹ vai trò cá tính sáng tạo và phong cách nhà văn, chỉ thiên về đánh giá nội dung tư tưởng của tác phẩm. Nói điều này chúng tôi không hàm ý so sánh mà muốn khẳng định một vấn đề có tính tất yếu, là khi đánh giá nhà văn không thể chỉ chú tâm đến nội dung tác phẩm, xem nhà văn phản ánh cái gì, có gắn với cuộc sống hay không, mà không xét đến cá tính sáng tạo và phong cách. Bởi vì “Nếu cá tính nhà văn mờ nhạt không tạo ra được tiếng nói riêng, giọng điệu riêng thì đó là một sự tự sát trong văn học, một lĩnh vực tối kỵ sự nhai lại ngay cả đối với những chân lý quan trọng” [39]. Và “Người nghệ sĩ đích thực, người nghệ sĩ có tài năng bao giờ cũng mang đến cho đời một cái gì mới, một cái gì riêng biệt chưa từng có. Chính cái mới, cái riêng biệt đó làm cho cuộc sống luôn luôn phong phú, lạ lùng, hấp dẫn” [40]. Về một phương diện nào đó, đây cũng là yếu tố thể hiện thiên tư, bản lĩnh và ý thức tự do của nhà văn trong quá trình sáng tác. 4. Nhà văn và vấn đề tự do sáng tác Đây là vấn đề được nhiều người quan tâm bàn luận, là nhân tố quan yếu đối với quá trình sáng tạo của nhà văn. Trong quan niệm của lý luận phê bình văn học ở đô thị miền Nam, vấn đề  tự do sáng tác của nhà văn là yếu tính, là điều kiện tiên quyết của sáng tạo văn học. Điều ấy không chỉ có ý nghĩa đối với quá trình sáng tác của nhà văn mà còn có ý nghĩa đối với sự tồn sinh của một nền văn nghệ. Ánh Việt cho rằng: “Nói đến tự do, ai lại không biết rằng đó là yếu tố cơ bản cho việc hình thành một tác phẩm giá trị đồng thời cũng là điều kiện cần thiết cho việc phát triển một nền văn nghệ chân chính” [41]. Tự do, không chỉ cần cho nhà văn trong sáng tác văn học mà cần cho tất cả mọi con người trong cuộc sống. Song đối với lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật, đây là vấn đề vô cùng quan thiết. Xét trong bối cảnh xã hội miền Nam giai đoạn 1954-1975, thì điều ấy lại càng có ý nghĩa hơn. Song, việc hiểu về tự do sáng tác của nhà văn trong lý luận phê bình văn học ở đô thị miền Nam là một vấn đề còn có ý kiến khác biệt tùy theo điểm nhìn của mỗi khuynh hướng lý luận phê bình. Từ điểm nhìn tâm lý sáng tạo của nhà văn, Huỳnh Phan Anh cho rằng: “còn gì tự do hơn khi bạn ngồi trước tờ giấy trắng” [42]. Như vậy khi sáng tác, nhà văn hoàn toàn tự do sáng tạo để phóng chiếu những ý tưởng của mình mà không bị một trở lực nào. Nói như Minh Đức Hoài Trinh “Nhà văn chúng ta là tự do chỉ có một mình với ngòi bút tha hồ muốn bố cục, muốn xếp đặt, xây

50

Page 51: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

dựng thế nào thì xây, khỏi phải hỏi ý kiến, khỏi phải xin xỏ ai cả ” [43]. Có điều, từ trong tâm thức và ý thức, nhà văn phải chọn lựa việc sử dụng quyền tự do như thế nào để xứng đáng với sứ mệnh của mình. Bởi vì theo Nguyễn Văn Trung “tự do sáng tác không phải là muốn viết gì thì viết, vô trách nhiệm, nhưng là được tự do lựa chọn viết văn và nhất là được tự do thể hiện cuộc đời theo lối nhìn của nhà văn, như một tác phẩm văn chương” [44]. Như vậy tự do sáng tác của nhà văn không chỉ nhìn từ tâm lý sáng tạo của người viết mà còn phải được nhìn từ sự tác động của đời sống xã hội. Nhà văn bao giờ cũng gắn với một thời đại, một hoàn cảnh sống nhất định, không bao giờ vượt thoát khỏi hoàn cảnh xã hội. Vì thế, nhận thức về tự do của nhà văn bao giờ cũng đặt trong một chế độ xã hội nhất định với những yếu tố chi phối quá trình sáng tạo của nhà văn như luật pháp, đạo đức luân lý, phong tục tập quán… nên nhà văn cần nhận thức đúng vấn đề tự do sáng tác.Trong tình hình xã hội đô thị miền Nam trước đây, vấn đề ý thức về tự do sáng tác của nhà văn là điều rất có ý nghĩa thể hiện bản lĩnh, lập trường, nhân cách của nhà văn. Bởi vì theo Lữ Phương, tự do trong văn nghệ không thể không tuân phục lẽ phải để chống lại gian tà, không thể không tuân phục chân lý để đập tan những ngụy trá, không thể không hướng về tố cáo bất công, thối nát để kêu đòi cho quyền sống đông đảo những con người thua thiệt từ lâu.“Chỉ có được nuôi dưỡng bằng thứ tự do đó, chỉ có chiến đấu cho thứ tự do đó, văn nghệ với mong biện minh được cho sự hiện diện của mình trong đời sống con người, ít nhất là trong đời sống hiện tại của chúng ta” [45]. Và để nhà văn nhận thức đúng về vấn đề tự do sáng tác, Lữ Phương còn vạch trần bộ mặt ngụy tạo của thứ văn nghệ độc quyền, thứ tự do giả hiệu vốn là hiện tượng phổ biến trong xã hội miền Nam lúc bấy giờ “Đó là cái thứ “tự do” trong các thứ văn nghệ được nuôi dưỡng bằng những dơ dáy của cái xã hội điếm đàng đĩ bợm làm ra vừa để giúp vui cho bọn lưu manh, vừa góp phần đầu độc tinh thần những con người lương thiện. Đó còn là thứ “tự do” rên rỉ tự do đồi trụy của những kẻ vô trách nhiệm viện ra để lừa mình, để lừa đời, hòng quên đi cho được dễ dàng cái khốn khổ của bao người khác." [46]. Vì Vậy, việc “chiến đấu chống lại những âm mưu ích kỷ độc quyền văn nghệ, do đó không phải là không tôn trọng tự do, nhưng chính là nhân danh một thứ tự do đích thực để chống lại những thứ tự do giả hiệu vốn đầy rẫy trong văn nghệ ở đây.” [47].      Vẫn biết tự do là một qui luật sáng tạo văn học, là nhu cầu cấp thiết đối với đời sống văn học cũng như quá trình sáng tạo của nhà văn. Song trong tình hình xã hội chính trị phức tạp như miền Nam trước đây, không phải nhà văn nào cũng nhận ra vấn đề một cách đúng đắn. Vì theo Ánh Việt: “Một nhà văn tự do là anh ta có đủ tự chủ và tính độc lập để từ chối mọi cám dỗ bất chính, có đủ thành thực trong cảm xúc của mình và có đủ suy nghĩ chín chắn để đứng hẳn về phía quần chúng bị áp bức đang mang hết lương tâm trí tuệ, tài năng và sức mạnh của nghệ thuật cống hiến cho mục đích thiêng liêng cao quí là độc lập cho dân tộc và hạnh phúc cho toàn dân” [48]. Như vậy, trong quan niệm của lý luận phê bình văn học ở đô thị miền Nam vấn đề tự do sáng tác, không chỉ được nhìn nhận ở bình diện tâm lý sáng tạo mà còn được nhìn nhận ở phương diện xã hội. Và đây là lĩnh vực được các nhà lý luận phê bình quan tâm bàn bạc nhiều hơn. Tự do sáng tác của nhà văn không phải là vấn đề của một thời mà là vấn đề của mọi thời. Nhưng làm sao có một thứ tự do tuyệt đối khi con người chúng ta đang đứng trước rất nhiều giới hạn. Song, những gì các nhà phê bình văn học ở đô thị miền Nam bàn về vấn đề tự do sáng tác của nhà văn cũng giúp cho chúng ta thấy rõ thực trạng về vấn đề tự do sáng tác của nhà văn ở đô thị miền Nam trước kia cũng như thức nhận về vấn đề tự do sáng tác của nhà văn hôm nay. Bởi vì nói như Nguyễn Văn Trung: “Trong một nước chưa lo được những vấn đề căn bản, như chính cái lẽ tồn

51

Page 52: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

tại còn bị đe dọa thì cứu nước phải là nhiệm vụ cấp bách và quan trọng nhất, nếu mất nước còn nói gì tới văn chương” [49]. Và “nhà văn có thể đi vào mọi sinh hoạt kinh tế, chính trị, xã hội, giáo dục một cách cụ thể, đi vào nhà máy công trường, nông thôn để phản ảnh miễn là nhà văn được tự do phản ảnh theo cách thể hiện riêng biệt của mình, không phải nhất thiết chỉ biết ca tụng một chiều, đả đảo một chiều” [50] . Vấn đề tự do sáng tác của nhà văn dù nhìn ở góc độ nào, đó cũng là một vấn đề thiết thân không chỉ đối với nhà văn mà còn đối với cả nền văn học. Song tự do sáng tạo của nhà văn không phải là thứ tự do tuyệt đối mà luôn gắn với hoàn cảnh chính trị xã hội nhà văn đang sống. Để thực thi quyền tự do đó, nhà văn nên nhận thức rõ và gắn sự lựa chọn của mình vào vận mệnh của dân tộc. Vì vậy, theo chúng tôi những điều mà các nhà lý luận phê bình văn học ở đô thị miền Nam bàn đến về tự do sáng tạo của nhà văn đến nay vẫn còn nguyên giá trị và cũng là điều để chúng ta suy ngẫm. Vì nói như Uyên Thao: “nhà văn sáng tác hoàn toàn tự do trước đối tượng và tự lãnh trách nhiệm về việc hành xử quyền tự do của mình” [51] . Như vậy, trong tư duy lý luận phê bình văn học ở đô thị miền Nam, vấn đề nhà văn là vấn đề được quan tâm bàn thảo khá toàn diện với nhiều lĩnh vực: sứ mệnh nhà văn, quá trình sáng tạo, cá tính và phong cách, vấn đề tự do sáng tác. Tuy từng vấn đề cụ thể có khi bàn bạc chưa thật sâu sắc, chưa đến tận cùng chân lý, chưa có một hệ mỹ học làm chuẩn giá trị và nhiều vấn đề phải tiếp tục làm sáng tỏ để tìm sự thống nhất. Song những điều này cũng góp phần soi sáng cho chúng ta nhiều vấn đề lý luận về nhà văn, một trong những nhân tố chủ yếu của quá trình sáng tạo văn học. Vì vậy, sự đóng góp của những quan niệm lý luận này vào hệ thống lý luận văn học của dân tộc trong quan niệm về nhà văn là điều không thể phủ nhận. Nhưng lý luận văn học ở đô thị miền Nam không chỉ dừng ở việc bàn về nhà văn mà còn nhìn vấn đề nhà văn trong quan hệ với tác phẩm và người đọc. Đây cũng là điều khá mới trong tư duy lý luận phê bình văn học lúc bấy giờ./.

Vai trò của nhà văn đối với đời sống văn học.

1. 1. Không có ong mật thì chẳng có mật ong. Và không có hoa thì ong cũng chẳng thể làm ra mật. Không có nhà văn thì không có tác phẩm, tất nhiên cũng khôong thể có đời sống văn học. Lại còn phải có hiện thực phong phú tạo nguồn sáng tạo cho nhà văn thì mới có thơ văn. Từ muốn mặn, phù sa, hương sắc cuộc đời…nhà văn sống hết mình với hiện thực phong phú ấy may ra mới có tác phẩm văn học. Viết về mối quan hệ giữa nhà văn và đời sống hiện thực, Chế Lan Viên nói: Bài thơ anh, anh làm một nửa thôi, Còn một nửa cho mùa thu làm lấy. Cái xào xạc, hồn anh chính là xào xạc lá Nó không là anh, nhưng nó là mùa… (Sổ tay thơ- Đối thoại mới) Nhà văn phải khám phá và sáng tạo, không theo đuổi người. Không tỏ hồng cũng không bôi đen hoặc sao chép hiện thực. Nhà văn cũng không được lặp lại mình. “ Văn chương quý bất tùy nhân hậu” ( Hoàng Đình Kiên đời Tống). Một vạn học sinh đỗ tú tài, sau 5, 6 năm học tập ở đại học có thể đào tạo thành những kĩ sư, bác sĩ… nhưng rất ít hoặc không thể đào tạo thành nhà văn. Lê nin từng nói : “ Trong lĩnh vực nghệ thuật, không có chỗ đứng cho kẻ trung bình”. Vậy nhà văn cần những nhân tố gì ? Trước tiên là phải có năng khiếu, có tài. Đây là điều cần phải có của một nhà văn. Ngoài ra, nhà văn cần có cái tâm hồn đẹp. (“ chữ tâm kia mới bằng ba

52

Page 53: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

chữ tài – Truyện Kiều), có vốn văn hóa rộng rãi vì học vấn hạn chế chẳng khác nào đất ít màu mỡ, cây kém xanh tươi, hoa trái chẳng ra gì; phải có vốn sống như con ong giữa rừng hoa, phải sống hết mình; phải có một lí tưởng thẩm mỹ cao đẹp : sống và viết vì chủ nghĩa nhân văn; phải có tay nghề cao, Xuân Diệu gọi đó là “ bếp núc làm thơ”. Bên cạnh đó, còn có một điều kiện khách quan khác đó là môi trường sáng tác. Nhà văn phải được sống trong tự do, dân chủ, phải có vật chất tạm đủ ( cơm áo không đùa với khách thơ)… Với nhà văn, kiêng kị nhất là thói kiêu ngạo, xu nịnh,

2. 2. thi hào, đại thi hào. Còn có loại “ đẽo câu đục vần” được ngồi một chiếu riêng.Loại bồi bút thì bị độc giả khinh bỉ. Vì vậy, nếu nói “ Nhà văn phải có năng khiếu” có vốn văn hóa rộng rãi và có tư tưởng nghệ thuật độc đáo”, nói như thế là đúng nhưng chưa đủ, vì nhà văn còn cần có sự sáng tạo. Lao động nghệ thuật của nhà văn là mộ thứ lao động đặc biệt. Phải có hứng, nếu không có hoặc chưa có ảm hứng thì chưa thể sáng tác. Mỗi nhà văn có một cách sáng tác riêng. Xuân Diệu làm thơ được “ thiết kế” công phu chặt chẽ. Tố Hữu thì “ câu thơ trước gọi câu thơ sau”. Hoàng Cầm làm thơ, có thể như có ai đọc chính tả cho chép lại. Ông sáng tác bài : “ Lá Diêu Bông” vào quá nửa đêm mùa rét 1959. Khi cả nhà đang ngủ say, ông tỉnh giấc “ chợ bên tai vẳng lên một giọng nữ rất nhỏ nhẹ mà rành rọt, đọc chậm rãi, có tiết điệu, nghe như từ thời nào, xa xưa vẳng đến, có lẽ từ tiền kiếp vọng về”. Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng… (Về Kinh Bắc) Nhà thơ Chế Lan Viên qua đời còn để lại một núi “ Phác thảo thơ- di bút”. Đọc hồi kí các nhà văn, nhà thơ danh tiếng, ta ngạc nhiên và vô cùng khâm phục về lao động sáng tạo của họ. Có câu thơ được viết hằng tháng. Có bài thơ hình thành nhiều năm. Có cuốn tiểu thuyết được sáng tác trong 1/10, 1/5 thế kỉ. Để có những “ thiên cổ hùng văn” , “ thiên cổ tùy bút” . “ Sách gối đầu giường cho thiên hạ” phải là những bậc thiên tài mới sáng tạo nên. Yêu văn học ta càng yêu kính và biết ơn nhà văn, nhà thơ. Tác phẩm của họ đã làm tâm hồn ta thêm giàu có. Văn chương là cái đẹp muôn đời. Văn chương , văn hiến, văn hóa là niềm tự hào của mỗi quốc gi

53

Page 54: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

Một số nhận định văn học cần nhớ[CÁI NÀY RẤT CẦN THIẾT ĐỂ TĂNG TÍNH SÂU SẮC CHO CÁC BÀI NLVH-CÂU 5Đ TRONG ĐỀ THI MÔN VĂN,ĐẶC BIỆT LÀ LÍ LUẬN VH TRONG CÁC ĐỀ HSG.TỔNG CỘNG 7 TRANG CÁC BẠN KHÔNG THỂ HỌC THUỘC HẾT ĐƯỢC,NÊN IN RA ĐỂ ĐỌC KHI CẦN THIẾT]1.“Bài thơ anh anh làm một nửa mà thôiCòn một nửa cho mùa thu làm lấyCái xào xạc hồn anh chính là xào xạc láNó không là anh nhưng nó là mùa” (Sổ tay thơ, Chế Lan Viên),2.“Đối với tôi văn chương không phải là cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên ; trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối, tàn ác, vừa làm cho lòng người đọc thêm trong sạch và phong phú hơn”. (Thạch Lam)3.“Một nhà nghệ sĩ chân chính phải là nhà nhân đạo trong cốt tủy”. (Sê khốp)4.“Nhà văn phải là người thư kí trung thành của thời đại”. (Banlzac)5.“Văn học, đó là tư tưởng đi tìm cái đẹp trong ánh sáng”. (CharlesDuBos)6.“Nhà văn phải biết khơi lên ở con người niềm trắc ẩn, ý thức phản kháng cái ác; cái khát vọng khôi phục và bảo vệ những cái tốt đẹp”. (Ai ma tôp)7.“Thi ca là một tôn giáo không kỳ vọng.” (Jean Cocteau)8.“Văn học giúp con người hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm tin vào bản thân mình và làm nảy nở ở con người khát vọng hướng tới chân lý.” (M.Gorki)9.“Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than. (Nam Cao)10.“Văn chương có loại đáng thờ và loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương, loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người .(Nguyễn Văn Siêu)11,“Thơ ca làm cho tất cả những gì tốt đẹp nhất trên đời trở thành bất tử.” (Shelly)12.“Thơ là rựơu của thế gian.” (Huy Trực)13.“Trong tâm hồn con người đều có cái van mà chỉ có thơ ca mới mở được.” (Nhêcơraxop).14.“Trên đời, có những thứ chỉ giải quyết được bằng thơ.” (Maiacôpxki)15.“Niềm vui của nhà thơ chân chính là niềm vui của người mở đường vào cái đẹp, của người biết đi tới tương lai.” (Pautôpxki)16.“Nhà thơ, ngay cả các nhà thơ vĩ đại nhất cũng phải đồng thời là những nhà tư tưởng.” (Biêlinxki)17.“Tất cả mọi nghệ thuật đều phục vụ cho một nghệ thuật vĩ đại nhất là nghệ thuật sống trên Trái Đất.” (Béc-tôn Brếch)18.“Thơ là sự sung mãn của tình cảm mãnh liệt.” (Ban-zắc)19.“Thơ là chuyện đồng điệu.” (Tố Hữu)20.“Thơ là tiếng gọi đàn.” (Xuân Diệu)21.“Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp.” (Sóng Hồng)22,“Thơ sinh ra từ tình yêu và lòng căm thù, từ nụ cười trong sáng hay những giọt nước mắt cay đắng.” (Raxun Gamzatôp)23.“Thơ là âm nhạc của tâm hồn, nhất là những tâm hồn cao cả, đa cảm”. (Voltaire)24.“Thơ là viên kim cương lấp lánh dưới ánh mặt trời.” (Sóng Hồng)25.“Thơ là thần hứng.” (Platon)26.“Thơ là ngọn lửa thần.” (Đecgiavin)27.“Thơ ca là niềm vui cao cả nhất mà loài người đã tạo ra cho mình”. (C.Mac)

54

Page 55: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

28j“Thơ, trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật”. (Biêlinxki)29.“Thơ là cái nhụy của cuộc sống, nên nhà thơ phải đi hút cho được cái nhụy ấy và phấn đấu làm sao cho cuộc đời của mình cũng có nhụy”. (Phạm Văn Đồng)30.“Một nhà văn thiên tài là người muốn cảm nhận mọi vẻ đẹp man mác của vũ trụ”. (Thạch Lam)31.“Sống đã rồi hãy viết, hãy hòa mình vào cuộc sống vĩ đại của nhân dân”. (Nam Cao)32.“Ở đâu có lao động thì ở đó có sáng tạo ra ngôn ngữ. Nhà văn không chỉ học tập ngôn ngữ của nhân dân mà còn là người phát triển ra ngôn ngữ sáng tạo, không nên ăn bám vào người khác. Giàu ngôn ngữ thì văn sẽ hay…Cũng cùng một vốn ngôn ngữ ấy nhưng sử dụng có sáng tạo thì văn sẽ có bề thế và kích thước. Có vốn mà không biết sử dụng chỉ như nhà giàu giữ của. Dùng chữ như đánh cờ tướng, chữ nào để chỗ nào phải đúng vị trí của nó. Văn phải linh hoạt. Văn không linh hoạt gọi là văn cứng đơ thấp khớp…” (Nguyễn Tuân)33.“Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó. Nhưng là tư tưởng đã được rung lên ở các bậc tình cảm, chứ không phải là cái tư tưởng nằm thẳng đơ trên trang giấy. Có thể nói,tình cảm của người viết là khâu đầu tiên cũng là khâu sau cùng trong quá trình xây dựng tác phẩm lớn” (Nguyễn Khải)34.“Mỗi tác phẩm phải là một phát minh về hình thức và khám phá về nội dung”. (Lêonit Lêonop)35.“Cái quan trọng trong tài năng văn học và tôi nghĩ rằng cũng có thể trong bất kì tài năng nào, là cái mà tôi muốn gọi là tiếng nói của riêng mình”. (IvanTuốcghênhiép)36.“Nếu tác giả không có lối đi riêng thì người đó không bao giờ là nhà văn cả… Nếu anh không có giọng riêng, anh ta khó trở thành nhà văn thực thụ” (Sê khốp)37.“Đối với nhà thơ thì cách viết, bút pháp của anh ta là một nửa việc làm. Dù bài thơ thể hiện ý tứ độc đáo đến đâu, nó cũng nhất thiết phải đẹp. Không chỉ đơn giản là đẹp mà còn đẹp một cách riêng. Đối với nhà thơ, tìm cho ra bút pháp của mình – nghĩa là trở thành nhà thơ.” (Raxun Gamzatop)38.“Đối với con người, sự thực đôi khi nghiệt ngã, nhưng bao giờ cũng dũng cảm củng cố trong lòng người đọc niềm tin ở tương lai. Tôi mong muốn những tác phẩm của tôi sẽ làm cho con người tốt hơn, tâm hồn trong sạch hơn, thức tỉnh tình yêu đối với con người và khát vọng tích cực đấu tranh cho lí tưởng nhân đạo và tiến bộ của loài người”. (Sô lô khốp)39.“Văn học làm cho con người thêm phong phú, tạo khả năng cho con người lớn lên, hiểu được con người nhiều hơn.” (M.L.Kalinine)40.“Một tiểu thuyết thực sự hứng thú là tiểu thuyết không chỉ mua vui cho chúng ta, mà còn chủ yếu hơn là giúp đỡ chúng ta nhận thức cuộc sống, lí giải cuộc sống.” (Giooc-giơ Đuy-a-men)41.“Văn học không quan tâm đến những câu trả lời do nhà văn đem lại, mà quan tâm đến những câu hỏi do nhà văn đặt ra, và những câu hỏi này, luôn luôn rộng hơn bất kỳ một câu trả lời cặn kẽ nào”. (Claudio Magris – N.văn Ý)42.“Thơ chỉ bật ra trong tim ta khi cuộc sống đã tràn đầy.” (Tố Hữu)“Làm thơ là cân một phần nghìn milligram quặng chữ.” (Maiacopxki)“Một câu thơ hay là một câu thơ có sức gợi.” (Lưu Trọng Lư)43,“Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu. Tình yêu con người, ước mơ cháy bỏng vì một xã hội công bằng, bình đẳng bái ái luôn luôn thôi thúc các nhà văn sống và viết, vắt cạn kiệt những dòng suy nghĩ, hiến dâng bầu máu nóng của mình cho nhân loại.” (Leptonxtoi)44.“Thiên chức của nhà văn cũng như những chức vụ cao quý khác là phải nâng đỡ những cái tốt để trong đời có nhiều công bằng, thương yêu hơn.” (Thạch Lam)45.“Công việc của nhà văn là phát hiện ra cái đẹp ở chỗ không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và

55

Page 56: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

che lấp của sự vật, để cho người đọc một bài học trông nhìn và thưởng thức.” (Thạch Lam)46.“Nghệ thuật bao giờ cũng là tiếng nói của tình cảm con người, là sự tự giãi bày và gửi gắm tâm tư.” (Lê Ngọc Trà)47.”Một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên bên trên tất cả bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình…Nó làm cho người gần người hơn.” (Nam Cao)48.”Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bât lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện.” (Nam Cao)49.“Tôi khuyên các bạn nên đọc truyện cổ tích…thơ ngụ ngôn, các tuyển tập ca dao… Hãy đi sâu vào vẻ đẹp quyến rũ của ngôn ngữ bình dân, hãy đi sâu vào những câu hài hòa cân đối trong các bài ca, trong truyện cổ tích… Bạn sẽ thấy ở đó sự phong phú lạ thường của các hình tượng, sự giản dị của sức mạnh làm say đắm lòng người, vẻ đẹp tuyệt vời của những định nghĩa… Hãy đi sâu vào sáng tác của nhân dân, nó trong lành như nước nguồn ngọt ngào, tươi mát, róc rách từ khe núi chảy ra.” (M.Gorki)50.“Thi sĩ là một con chim sơn ca ngồi trong bóng tối hát lên những tiếng êm dịu để làm vui cho sự cô độc của chính mình.” (B. Shelly)51.“Thơ là một bức họa để cảm nhận thay vì để ngắm.” (Leonardo De Vinci)52.“Ðể trong lòng là chí, ngụ ra ý là thơ. Người có sâu, cạn cho nên thơ có mờ có tỏ, rộng hẹp khác nhau.. Người làm thơ không ngoài lấy trung hậu làm gốc, ý nghĩa phải hàm súc, lời thơ phải giản dị.” (Nguyễn Cư Trinh)53.“Giống như ngọn lửa thần bốc lên từ trong cành khô, tài năng bắt nguồn từ những tình cảm mạnh mẽ nhất của con người.” (Raxun Gazatôp)54.“Không có câu chuyện cổ tích nào đẹp hơn câu chuyện do chính cuộc sống viết ra.” (Andecxen)55.“Thơ là người thư kí chân thành của trái tim.” (Đuybralay)56.“Andecxen đã lượm lặt những hạt trơ trên luống đất của những người dân cày, ấp ủ chúng nơi trái tim ông rồi gieo vào những túp lều, từ đó lớn lên và nảy nở những đoá hoa thơ đẹp, chúng an ủi trái tim của những người cùng khổ.” (Pauxtopxki)57.“Thơ ca là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tinh thần, do đó không đơn giản mà cũng không thần bí, thiêng liêng…Thơ ca chân chính phải là nguồn thức ăn tinh thần, nuôi tâm hồn phát triển, nó không được là thứ thuốc phiện tinh thần êm ái mà nhỏ nhen, độc hại…” (Phương Lựu)58.“Vạt áo của triệu nhà thơ không bọc hết vàng mà đời rơi vãi. Hãy nhặt lấy chữ của đời mà góp nên trang.” (Chế Lan Viên)59.“Tôi thu thập hình tượng cũng như con ong hút mật vậy. Một con ong phải bay một đoạn đường bằng sáu lần xích đạo trong một năm ba tháng và đậu lên bảy triệu bông hoa để làm nên một gam mật.” (P.Povlenko)60.“Chi tiết làm nên bụi vàng của tác phẩm.” (Pauxtopxki)61.“Những câu thơ lấp lánh như những tấm huy chương.” (Pon-Valeri)62.“Cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn học.” (Tố Hữu)63.“Nhà văn là người cho máu.” (Enxa Tơriole)64.“Thơ là bà chúa của nghệ thuật.” (Xuân Diệu)65.“Văn học là nhân học.” (Gorki)66.“Nghệ sĩ là người biết khai thác những ấn tượng riêng chủ quan của mình, tìm thấy những ấn tượng đó có giá trị khái quát và biết làm cho những ấn tượng đó có những hình thức riêng.”

56

Page 57: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

(M.Gorki)67.“Nghệ thuật là lĩnh vực của sự độc đáo vì vậy nó đòi hỏi người viết sự sáng tạo phong cách mới lạ, thu hút người đọc.” (Phương Lựu)68.“Cái bóng của độc giả đang cúi xuống sau lưng nhà văn khi nhà văn ngồi dưới tờ giấy trắng. Nó có mặt ngay cả khi nhà văn không thừa nhận sự có mặt đó. Chính độc giả đã ghi lên tờ giấy trắng cái dấu hiệu vô hình không thể tẩy xoá được của mình.” (Sách Lý luận văn học)69.“Phải đẩy tới chóp đỉnh cao của mâu thuẫn thì sự sống nhiều hình mới vẽ ra.” (Heghen)70.“Tác phẩm chân chính không kết thúc ở trang cuối cùng, không bao giờ hết khả năng kể chuyện khi câu chuyện về các nhân vật đã kết thúc. Tác phẩm nhập vào tâm hồn và ý thức của bạn đọc, tiếp tục sống và hành động như một lực lượng nội tâm, như sự dằn vặt và ánh sáng của lương tâm, không bao giờ tàn tạ như thi ca của sự thật.” (Aimatop)71.“Tình huống là một lát cắt của sự sống, là một sự kiện diễn ra có phần bất ngờ nhưng cái quan trọng là sẽ chi phối nhiều điều trong cuộc sống con người.” (Nguyễn Minh Châu)72.“Văn học phản ánh hiện thực nhưng không phải là chụp ảnh sao chép hiện thực một cách hời hợt nông cạn. Nhà văn không bê nguyên si các sự kiện, con người vào trong sách một ca chs thụ động, giản đơn. Tác phẩm nghệ thuật là kết quả của một quá trình nuôi dưỡng cảm hứng. thai nghén sáng tạo ra một thế giới hấp dẫn, sinh động…Thể hiện những vấn đề có ý nghĩa sâu sắc, bản chất của đời sống xã hội con người…Nhân vật trong tác phẩm của một thiên tài thực sự nhiều khi thật hơn cả con người ngoài đời, bởi sức sống lâu bền, bởi ý nghĩa điển hình của nó. Qua nhân vật ta thấy cả một tầng lớp, một giai cấp, một thời đại, thậm chí có nhân vật vượt lên khỏi thời đại, có ý nghĩa nhân loại, vĩnh cửu sống mãi với thời gian.” (LLVH)73.“Mỗi tác phẩm nghệ thuật là một phát minh về một hình thức, một khám phá mới về nội dung.” (Leonit Leonop)74.“Thơ là tiếng nói của tri âm.” (Tố Hữu)75.“Cái đẹp là cuộc sống.” (Secnưsepxki)76.“Giọng ca buồn là thích hợp nhất cho thơ ca.” (Etga Pô)77.“Thơ ca phải say mới thích.” (Tố Hữu)78.“Bạn ơi hay suy nghĩ bằng trái timVà hãy đọc cảm xúc bằng lý trí” (Phôntan)79.“Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết. Tôi và các nhà văn cùng chí hưóng như tôi muốn tiểu thuyết là thực sự ở đời.” (Vũ Trọng Phụng)80.“Người sáng tác là nhà văn và người tạo nên số phận cho tác phẩm là độc giả.” (M.Gorki)81.“Hãy đập vào tim anh – Thiên tài là nơi đó.” (A.De Muytxe)82.“Từ bao giờ cho đến bây giờ, từ Homero đến kinh thi, đến ca dao Việt Nam thơ vẫn là một sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại. Nó đã ra đời giữa những vui buồn của loài người cho đến ngày tận thế.” (Hoài Thanh)83.“Thơ chính là tâm hồn.” (M.Gorki)84.“Văn chương phải là thế trận đuổi nghìn quân giặc.” (Trần Thái Tông)85.“Do tình sinh ý, do ý sinh chữ, bởi cái này mà có cái kia cũng là thế cả.” (Bùi Dương Lịch)86.“Trước hết là các nghệ sĩ lớn, sau đó mới đến các nhà khoa học, họ xứng đáng hơn ai hết được hưởng sự kính trọng của con người.” (Einstein)87.“Những gì tôi viết ra là những gì thương yêu nhất của tôi, những ước mong nhức nhối của tôi.” (Nguyên Hồng)88,“Mỗi tác phẩm đều có ít nhiều nhà văn.” (Thạch Lam)89.“Nền đất ẩm, chiếu manh, trang giấy trắngAnh khi sinh bao nhiêu vật cho đời

57

Page 58: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

Nên anh chết như chuyến đi dài hạnBởi họ sống thay anh có mặt giữa muôn đời.”(Đào Cảng)90.“Nếu tác giả không có lối nói riêng của mình thì người đó không bao giờ là nhà văn cả. Nếu anh ta không có giọng riêng, anh ta khó trở thành nhà văn thực thụ.” (Sekhop)91.“Thơ là thơ, đồng thời là hoạ, là nhạc, là chạm khắc theo một cách riêng.” (Sóng Hồng)92.“Có những đêm không ngủ, mắt rực cháy và thổn thức, lòng tràn ngập nhớ nhung…Khi đó tôi viết.” (Lecmôntop)94.“Nếu những nỗi đau khổ từ lâu bị kiềm chế, nay sôi sục dâng lên trong lòng thì tôi viết.” (Nêkratxtop)95.“Mỗi khi có gì chất chứa trong lòng, không nói ra, không chịu được thì lại cần thấy làm thơ.” (Tố Hữu)96.“Thi sĩ không phải là Người, nó là Người Mơ, Người Say, Người Điên. Nó là Tiên, là Ma,là Quỷ…” (Chế Lan Viên)97.“Thơ là tiếng lòng.” (Diệp Tiếp)98.“Nghệ thuật đó là sự mô phỏng tự nhiên.” (Puskin)“Đau đớn thay cho những kiếp sống muốn cất cánh bay cao nhưng lại bị cơm áo ghì sát đất.” (Sống Mòn – Nam Cao)99.“Điều quan trọng hơn hết trong sự nghiệp của những nhà văn vĩ đại ấy lại là cuộc sống, trường đại học chân chính của thiên tài. Họ đã biết đời sống xã hội của thời đại, đã cảm thấy sâu sắc mọi nỗi đau đớn của con người trong thời đại, đã rung động tận đáy tâm hồn với những nỗi lo âu, bực bội, tủi hổ và những ước mong tha thiết nhất của loài người. Đó chính là cái hơi thở, cái sức sống của những tác phẩm vĩ đại.” (Đặng Thai Mai)100.Trong "Thi nhân Việt Nam",Hoài Thanh nhận định:"Từ bao giờ đến bây giờ,từ Hômero đến kinh thi đến ca dao việt nam, thơ vẫn là 1 sức đông cảm mãnh liệt và quảng đại.Nó đã ra đời giữa những vui buồn của loài người và nó sẽ kết bạn với loài người cho đến ngày tận thế"101.Tố Hữu nói:"Thơ chỉ bật ra trong tim ta khi cuộc sống đã tràn đầy"102.Nói như Maiacopxki:"Làm thơ là cân 1 phần nghìn milligram quặng chữ"103.Thơ ca là tiếng hát của trái tim,là nơi dừng chân của tâm hồn,do đó không giản đơn mà cũng không thần bí ,thiêng liêng...Thơ ca chân chính phai rlaf nguồn thức ăn tinh thần nuôi tâm hồn phát triển,nó không được là thứ thuốc phiện tinh thần êm ái mà nhỏ nhen,độc hại.104.Nhà thơ Lưu Trọng Lư cho rằng:"Một câu thơ hay là 1 câu thơ có sức gợi"105.Văn học 12 nhận định:"Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo.Vì vậy đòi hỏi người sáng tạo phải có phong cách nổi bật,tức là có cái gì rất riêng mới lạ trong phong cách của mình"106.L.Tônx tôi khẳng định:"Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu.Tình yêu con người, ước mơ cháy bỏng vì 1 xã hội công bằng,bình đẳng bái ái luôn luôn thôi thúc các nhà văn sống và viết,vắt kiện cạt những dòng suy nghĩ,hiến dâng bầu máu nóng của mình cho nhân loại"107.Với Thạch Lam thì:"Thiên chúc của nhà văn cũng như những chức vụ cao quý khác là phải nâng đỡ những cái tốt để trong đời có nhiều công bằng,thương yêu hơn"108.Nghệ thuật bao giờ cũng là tiếng nói của tình cảm con người,là sự tự giãi bày và gửi gắm tâm tư"(Lê Ngọc Trà)Đề bài: Nhà văn Nguyễn Đình Thi viết: “Tác phẩm văn học lớn hấp dẫn người ta bởi cách nhìn nhận mới, tình cảm mới về những điều, những việc mà ai cũng biết cả rồi”. ( Theo Nhà văn nói về tác phẩm, NXB Văn học, 1998, trang 260). Anh/ chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ thông qua phân tích cách cảm nhận về đất nước của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm trong đoạn thơ sau đây:"Đất là nơi anh đến trường

58

Page 59: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

Nước là nơi em tắmĐất Nước là nơi ta hò hẹnĐất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầmĐất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”.Thời gian đằng đẵngKhông gian mênh môngĐất Nước là nơi dân mình đoàn tụĐất là nơi Chim vềNước là nơi Rồng ởLạc Long Quân và Âu CơĐẻ ra đồng bào ta trong bọc trứngNhững ai đã khuấtNhững ai bây giờ Yêu nhau và sinh con đẻ cái Gánh vác phần người đi trước để lại Dặn dò con cháu chuyện mai sau Hằng năm ăn đâu làm đâu Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ"( Đất nước, trích chương V trường ca Mặt đường khát vọng, Nguyễn Khoa Điềm)---------------------------------------------------------------Ai đó từng nói “ Sự lặp lại là cõi chết của nghệ thuật”. Một tác phẩm thật sự có giá trị không chấp nhận sự sao chép, rập khuôn mà phải luôn mới mẻ, riêng biệt. Một nghệ sĩ lớn phải luôn tìm cho mình một cách thể hiện riêng, một lối đi riêng để khẳng định cá tính sáng tạo của mình cho dù có đề cập đến những vấn đề đã quen thuộc đi chăng nữa. Nhà văn Nguyễn Đình Thi đã rất có lí khi cho rằng: “Tác phẩm văn học lớn hấp dẫn người ta bởi cách nhìn nhận mới, tình cảm mới về những điều, những việc mà ai cũng biết cả rồi”. Ý kiến trên của Nguyễn Đình Thi đặt ra một quan niệm đúng đắn về nghệ thuật, có thể được xem như tôn chỉ sáng tác dành cho mọi nhà văn. Marcell Proust quan niệm: “Thế giới được tạo lập không phải một lần, mà mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện thì lại một lần thế giới được tạo lập”. Một tác phẩm hay không có nghĩa là rũ bỏ hoàn toàn cái cũ để tôn thờ cái mới. Người nghệ sĩ tài năng là người biết khám phá cái cũ theo một cách hoàn toàn mới lạ, giữa con đường mòn luôn tìm được những lối đi riêng. Từ “Những việc mà ai cũng biết cả rồi”, công việc của văn chương là làm cho nó trở nên hấp dẫn bởi một cách nhìn nhận mới, một tình cảm mới chưa có bao giờ. Và chính chiếc áo mới ấy sẽ khiến cho tác phẩm dù viết về một đề tài đã cũ nhưng lại tạo được một dấu ấn riêng không lẫn lộn với bất kì ai.Đất nước là một đề tài lớn, xuyên suốt trong thơ ca thời kháng chiến. Bởi lẽ khi một dân tộc bị ngoại xâm thì còn còn tiếng nói nào tha thiết, ân tình hơn tiếng gọi về đất nước. Ta đã từng gặp một đất nước êm đềm qua dáng nằm nghiêng nghiêng của con sông Đuống trong thơ Hoàng Cầm:Sông Đuống trôi đi Một dòng lấp lánh Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ Xanh xanh bãi mía bờ dâu Ngô khoai biêng biếc 

59

Page 60: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

Một đất nước bình dị mà tươi đẹp qua thơ Tố Hữu:Đẹp vô cùng, Tổ quốc ta ơi! Rừng cọ đồi chè, đồng xanh ngào ngạt Nắng chói sông Lô, hò ô tiếng hát Chuyến phà dào dạt bến nước Bình Ca... Một đất nước trong chiều sâu suy tưởng của Nguyễn Đình Thi:Nước chúng ta Nước những người chưa bao giờ khuất Ðêm đêm rì rầm trong tiếng đất Những buổi ngày xưa vọng nói về!Và còn biết bao nhiêu tiếng thơ tha thiết, ngọt ngào khác về đất nước. Cũng viết về đề tài quen thuộc ấy nhưng đoạn trích Đất nước (Trích trường ca Mặt đường khát vọng) của Nguyễn Khoa Điềm lại tạo được một dấu ấn riêng đầy độc đáo qua lối cảm nhận và suy tư hoàn toàn mới lạ của nhà thơ, đặc biệt là qua đoạn thơ sau: Đất là nơi anh đến trườngNước là nơi em tắmĐất Nước là nơi ta hò hẹnĐất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầmĐất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”.Thời gian đằng đẵngKhông gian mênh môngĐất Nước là nơi dân mình đoàn tụĐất là nơi Chim vềNước là nơi Rồng ởLạc Long Quân và Âu CơĐẻ ra đồng bào ta trong bọc trứngNhững ai đã khuấtNhững ai bây giờ Yêu nhau và sinh con đẻ cái Gánh vác phần người đi trước để lại Dặn dò con cháu chuyện mai sau Hằng năm ăn đâu làm đâu Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ TổTrong chiều sâu suy tưởng của mình, để trả lời cho câu hỏi “Đất nước là gì?”, Nguyễn Khoa Điềm đã đem đến một cách cảm nhận riêng, đầy mới mẻ. Nhà thơ đã sử dụng lối chiết tự khá độc đáo, lúc thì tách rời hai thành tố Đất và Nước để đi sâu tìm hiểu, lúc lại hòa nhập hia yếu tốt Đất và Nước để tạo sự cộng hưởng, khiến Đất nước hiện lên vừa cụ thể lại vừa khái quát, vừa bình dị lại vừa lớn lao. Đất nước trong cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm hiện lên qua các phương diện: Thời gian – lịch sử, không gian-địa lý và văn hóa phong tục. Chiều dài của thời gian – lịch sử được gợi ra từ huyền thoại “Lạc Long Quân và Âu Cơ/ Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”, từ truyền thuyết về các vua Hùng và ngày giỗ tổ và từ biết bao câu chuyện cổ xa xưa khác của dân tộc Việt gợi hình ảnh một đất nước ra đời từ rất xa xưa, tồn tại trong một “Thời gian đằng đẵng”.Trên phương diện không gian – địa lý, đất nước không chỉ là không gian tự nhiên của núi sông rừng bể “Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc/ Nước là nơi “con cá ngư ông

60

Page 61: thpt-pbai.thuathienhue.edu.vnthpt-pbai.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu_muc_he_thong/_…  · Web viewChi tiết trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,

móng nước biển khơi” mà còn là không gian sinh hoạt gần gũi, gắn bó với cuộc sống của mỗi người “Đất là nơi anh đến trường/ Nước là nơi em tắm”, là không gian dịu ngọt của tình yêu đôi lứa “Đất Nước là nơi ta hò hẹn/ Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”. Và thiêng liêng hơn cả, đất nước là không gian sum họp của cả cộng đồng “Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ”.Đất nước còn được nhà thơ cảm nhận qua chiều sâu của văn hóa phong tục được gợi ra từ chất liệu văn hóa, văn học dân gian. Đó là những câu chuyện cổ như “Truyền thuyết rồng tiên”, là những bài ca dao như “Khăn thương nhớ ai”… Tất cả góp phần tạo dựng nên một đất nước có nền văn hóa phong phú, đa dạng. Trong suy tưởng của nhà thơ, đất nước không chỉ thuộc về hiện tại mà còn là của bao nhiêu thế hệ đã đi qua cũng như bao thế hệ tương lai sắp đến. Có một sợi dây kết nối từ quá khứ đến hiện tại đến tương lai, từ những ai đã khuất, những ai bây giờ và con cháu mai sau. Nhà thơ nhắc nhớ mọi người về ý thức, trách nhiệm thiêng liêng đối với Đất nước. Không chỉ là trách nhiệm với hiện tại mà còn là trách nhiệm với quá khứ và tương lai. Đó là trách nhiệm Gánh vác phần người đi trước để lại/ Dặn dò con cháu chuyện mai sau”.Hai câu thơ “Hằng năm ăn đâu làm đâu / Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ” là sự vận dụng sáng tạo bài ca dao “Dù ai đi ngược về xuôi/ Nhớ ngày giỗ tổ mồng mười tháng ba”. Hai chữ “cúi đầu” thể hiện một niềm thành kính thiêng liêng, nhắc nhớ mỗi chúng ta về một tấm lòng đối với quê hương, nguồn cội. Có thể nói , với đoạn trích “Đất nước”, Nguyễn Khoa Điềm đã làm mới một vấn đề đã cũ bằng một lối suy tư, cảm nhận rất riêng, không lẫn lộn với bất kì ai. Cũng chính nét riêng ấy đã khiến đoạn thơ tạo được sức vang sâu rộng, lâu bền trong lòng người đọc. Để hôm nay và mãi mãi về sau, nhắc đến Đất nước trong thơ kháng chiến, ta không thể quên Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm.

61