Thợ lò cũng là chiến sỹ

107
THỢ LÒ CŨNG LÀ CHIẾN SĨ Bạn đang làm thợ lò mỏ than, mỏ quặng; đang làm cán bộ kỹ thuật, quản lý, chỉ huy ở mỏ hầm lò hay đang theo học nghề làm mỏ hầm lò, bạn nên đọc cuốn sách này. Tôi viết ra nó để tri ân những đồng nghiệp thợ lò đã giúp đỡ tôi, đi cùng tôi nhiều năm tháng và tặng cho các đồng nghiệp hiện thời cũng như tương lai. Mong rằng, sau khi đọc xong nó, bạn ghi nhận được một vài điều có ích giúp bạn làm việc vui hơn, an toàn hơn. Người thân của thợ lò, những ai quan tâm đến nghề làm mỏ hầm lò, đến thợ lò, đến phát triển năng lượng bền vững có thể tìm thấy ở đây đôi điều đáng chia sẻ. Xin trân trọng cảm ơn các đồng nghiệp đã và đang công tác trong ngành mỏ tại Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam và Tổng Công ty Đông Bắc đã góp ý để tác giả hoàn thiện cuốn sách; cảm ơn Trường Quản trị Kinh doanh - Vinacomin, Tạp chí Than - Khoáng sản Việt Nam đã tạo điều kiện cho cuốn sách này được ra mắt bạn đọc nhân dịp kỷ niệm 20 năm thành lập Tổng Công ty Than Việt Nam (10/10/2014). MỞ ĐẦU Cũng như nhiều đồng nghiệp khác, tôi xuất thân từ gia đình nông dân, được Chính phủ cho sang Ba Lan học ngành khai thác mỏ hầm lò rồi về nước làm việc trong Ngành Than - Khoáng sản từ cuối năm 1974 đến cuối năm 2009, liên tục trong 35 năm, nếu tính cả thời gian từ khi tôi bước chân vào lò, xuống hầm sâu - 600m để thực tập nghề nghiệp thì cả thảy là 41 năm học và làm mỏ, 41 năm “đi lò”. Thời sinh viên, ngay học kỳ đầu tiên nhà trường đã cho chúng tôi xuống mỏ thực tập nghề nghiệp trong suốt 5 tháng bắt đầu từ những việc đơn giản như mặc quần áo bảo hộ lao động sao cho đúng, đi lại trong hầm lò sao cho an toàn đến cầm cái xẻng, cầm cái búa thế nào cho chắc lại nhàn, rồi làm các công việc thường ngày của thợ lò từ đơn giản đến phức tạp; từ lò chuẩn bị vào đến lò chợ khai thác. Nhà trường nói rằng, làm nghề mỏ hầm lò có nhiều rủi ro, nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm đòi hỏi ở con người sự sáng tạo, sức chịu đựng, lòng dũng cảm và tính kỷ luật cao. Ai vượt qua được 5 tháng thực tập nghề nghiệp này thì có thể học tiếp để 5 năm sau trở thành thạc sỹ - kỹ sư mỏ, ai không vượt qua được hay ngại nó, sợ nó thì chuyển sang học ngành khác cho đỡ mất thì giờ và tiền bạc. Tôi còn có ba kỳ nghỉ hè xuống mỏ thực tập nghề nghiệp, làm việc như một thợ lò thực thụ hay một nhân viên kỹ thuật ở bộ phận thông gió, chống bụi, phòng chống cháy nổ và trạm cấp cứu mỏ ở Mỏ than hầm lò Đimitờrốp - Đó là mỏ than sâu nhất ở Ba Lan thời kỳ bấy giờ (-930m) lại có nguy cơ cao về khí nổ, bụi nổ, than tự cháy. Tôi đã vượt qua thử thách thời sinh viên và được thợ lò ở Mỏ than Đimitờrốp làm lễ tiếp nhận vào “đội ngũ thợ lò” mùa hè năm 1973. Hai năm sau tôi gia nhập “Đội ngũ thợ lò” của Xí nghiệp Xây lắp 6 Mông Dương. Tôi

Transcript of Thợ lò cũng là chiến sỹ

Page 1: Thợ lò cũng là chiến sỹ

THỢ LÒ CŨNG LÀ CHIẾN SĨ

Bạn đang làm thợ lò mỏ than, mỏ quặng; đang làm cán bộ kỹ thuật, quản lý, chỉ huy ở mỏ hầm lò hay đang theo học nghề làm mỏ hầm lò, bạn nên đọc cuốn sách này. Tôi viết ra nó để tri ân những đồng nghiệp thợ lò đã giúp đỡ tôi, đi cùng tôi nhiều năm tháng và tặng cho các đồng nghiệp hiện thời cũng như tương lai. Mong rằng, sau khi đọc xong nó, bạn ghi nhận được một vài điều có ích giúp bạn làm việc vui hơn, an toàn hơn.

Người thân của thợ lò, những ai quan tâm đến nghề làm mỏ hầm lò, đến thợ lò, đến phát triển năng lượng bền vững có thể tìm thấy ở đây đôi điều đáng chia sẻ.

Xin trân trọng cảm ơn các đồng nghiệp đã và đang công tác trong ngành mỏ tại Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam và Tổng Công ty Đông Bắc đã góp ý để tác giả hoàn thiện cuốn sách; cảm ơn Trường Quản trị Kinh doanh - Vinacomin, Tạp chí Than - Khoáng sản Việt Nam đã tạo điều kiện cho cuốn sách này được ra mắt bạn đọc nhân dịp kỷ niệm 20 năm thành lập Tổng Công ty Than Việt Nam (10/10/2014).

MỞ ĐẦU

Cũng như nhiều đồng nghiệp khác, tôi xuất thân từ gia đình nông dân, được Chính phủ cho sang Ba Lan học ngành khai thác mỏ hầm lò rồi về nước làm việc trong Ngành Than - Khoáng sản từ cuối năm 1974 đến cuối năm 2009, liên tục trong 35 năm, nếu tính cả thời gian từ khi tôi bước chân vào lò, xuống hầm sâu - 600m để thực tập nghề nghiệp thì cả thảy là 41 năm học và làm mỏ, 41 năm “đi lò”. Thời sinh viên, ngay học kỳ đầu tiên nhà trường đã cho chúng tôi xuống mỏ thực tập nghề nghiệp trong suốt 5 tháng bắt đầu từ những việc đơn giản như mặc quần áo bảo hộ lao động sao cho đúng, đi lại trong hầm lò sao cho an toàn đến cầm cái xẻng, cầm cái búa thế nào cho chắc lại nhàn, rồi làm các công việc thường ngày của thợ lò từ đơn giản đến phức tạp; từ lò chuẩn bị vào đến lò chợ khai thác. Nhà trường nói rằng, làm nghề mỏ hầm lò có nhiều rủi ro, nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm đòi hỏi ở con người sự sáng tạo, sức chịu đựng, lòng dũng cảm và tính kỷ luật cao. Ai vượt qua được 5 tháng thực tập nghề nghiệp này thì có thể học tiếp để 5 năm sau trở thành thạc sỹ - kỹ sư mỏ, ai không vượt qua được hay ngại nó, sợ nó thì chuyển sang học ngành khác cho đỡ mất thì giờ và tiền bạc. Tôi còn có ba kỳ nghỉ hè xuống mỏ thực tập nghề nghiệp, làm việc như một thợ lò thực thụ hay một nhân viên kỹ thuật ở bộ phận thông gió, chống bụi, phòng chống cháy nổ và trạm cấp cứu mỏ ở Mỏ than hầm lò Đimitờrốp - Đó là mỏ than sâu nhất ở Ba Lan thời kỳ bấy giờ (-930m) lại có nguy cơ cao về khí nổ, bụi nổ, than tự cháy. Tôi đã vượt qua thử thách thời sinh viên và được thợ lò ở Mỏ than Đimitờrốp làm lễ tiếp nhận vào “đội ngũ thợ lò” mùa hè năm 1973. Hai năm sau tôi gia nhập “Đội ngũ thợ lò” của Xí nghiệp Xây lắp 6 Mông Dương. Tôi làm việc ở Mông Dương 10 năm và 2 năm ở Công ty Xây lắp Cẩm Phả. Ở Mông Dương tôi đã trải qua các thang bậc nghề nghiệp từ anh kỹ sư tập sự; trưởng ca, đội phó Đội đào lò hơn 200 quân; phó phòng, phụ trách phòng kỹ thuật đến phó giám đốc, giám đốc Xí nghiệp Xây lắp mỏ Mông Dương chuyên đào lò, xây lắp các công trình mỏ than hầm lò Mông Dương, Khe Chàm, Khe Hùm, Khe Bố.

Các thợ lò đàn anh và cả đàn em nữa đã dạy cho tôi các “ngón nghề”, rèn luyện tôi thành một thợ lò, một kỹ sư mỏ có nghề, dám dấn thân, biết yêu thương kính trọng đồng nghiệp. Nếu không có sự rèn luyện ấy chắc chắn tôi đã không trở thành Tổng giám đốc Tổng Công ty Than Việt Nam (10.1994) rồi Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam. Tôi biết ơn các đồng nghiệp thợ mỏ đã rèn luyện mình, giúp đỡ mình và cả che chở cho mình nữa. Những việc tôi đã làm được để đền đáp thợ mỏ còn rất ít, chưa thấm tháp gì so với nỗi vất vả, hiểm nguy mà hàng vạn thợ mỏ, trước hết là thợ lò, phải đối mặt hàng ngày, hàng giờ trong lòng đất chẳng khác gì những người chiến sỹ ở ngoài mặt trận.

Page 2: Thợ lò cũng là chiến sỹ

Từ lâu tôi đã muốn viết một cuốn sách về thợ lò, xoay quanh nghề làm mỏ hầm lò để tri ân thợ lò, nhưng ngại rằng mình khó làm được điều đó. Với những gì mình đã trải qua, đã biết, đã chứng kiến, đã chỉ huy giải quyết, tôi đã rút ra được một số điều tâm đắc nay đem ra chia sẻ với các đồng nghiệp thợ lò mong sao các bạn làm việc vui hơn, an toàn hơn. Những người khác, nhất là cán bộ, công nhân, nhân viên làm việc ở mỏ hầm lò cũng có thể tìm thấy điều gì đó cần cho mình.

CHƯƠNG I: THỢ LÒ - ANH LÀ AI?

I.1. TRƯỜNG HỌC VÀ SÁCH VỞ NÓI GÌ?

Ở trường đào tạo hay trong các tài liệu chuyên môn người ta nói với bạn rằng thợ lò là những người làm việc trong hầm mỏ, đào lò khai thác than, khai thác quặng và đưa nó ra khỏi lòng đất. Những người làm việc trong hầm lò bao gồm cả công nhân, kỹ thuật viên, kỹ sư và những người chỉ huy. Công nhân làm việc trong hầm lò bao gồm thợ đào lò xây dựng cơ bản, lò chuẩn bị sản xuất; thợ khai thác (trước đây thường gọi là thợ chống cuốc), thợ cơ điện lò, thợ làm các công việc cứu hộ, cứu nạn, thông gió, thoát nước, vận tải, tín hiệu… Ở góc độ hẹp hơn thợ lò chỉ gồm thợ đào lò và thợ khai thác. Trong cuốn sách này tôi mong các bạn hiểu thợ lò là tất cả những người làm việc thường xuyên trong hầm lò từ công nhân lao động trực tiếp đến giám đốc điều hành mỏ. Và, hầm lò là nơi gian khó với nhiều hiểm họa thiên nhiên, môi trường làm việc ẩm ướt, độc hại, nặng nhọc, rủi ro cao.

I.2. TỰ THỢ LÒ NÓI GÌ?

Khác với trường học hay sách vở, thợ lò thường tự nói về mình là những “người trần gian làm việc dưới âm phủ”. Không phải vậy hay sao khi mà các nghề khác đều được làm trên mặt đất, mặt nước dù ở trong nhà hay ngoài trời đều được thở khí trời, đều ít hay nhiều nhìn thấy mặt trời, còn thợ lò suốt ca làm việc trong lòng đất không nhìn thấy bầu trời đâu cả, chỉ thở bằng “gió tươi” được bơm từ mặt đất xuống. Người đời vẫn ví lòng đất sâu là âm phủ, nơi đầy đọa linh hồn của những người đã chết. Chẳng có mấy ai lại không sợ âm phủ cả, ấy thế mà thợ lò làm việc quanh năm, tháng tháng, ngày ngày ở đó. Âm phủ (hay địa ngục đều là nó cả) được người đời hay các tôn giáo nói có tới 9 tầng thậm chí 18 tầng, càng sâu càng khổ vậy mà nơi làm việc của thợ lò còn sâu hơn vượt ra ngoài sự tưởng tượng của người bình thường. Thế mới biết thợ lò thật to gan, thật dũng cảm chẳng biết sợ cõi âm là gì cả, có chăng anh ta chỉ sợ …vợ hay bạn gái của mình thôi. Hết ngày làm việc những người làm nghề khác có thể không tắm chỉ rửa ráy tay chân, hoặc tắm để “tẩy trần” còn thợ lò nhất thiết phải tắm “tẩy âm”. Anh nào cũng thích “tẩy âm” bằng nước thật nóng, không chỉ tẩy bụi bặm mà tẩy cả âm khí từ dưới âm phủ ám vào người cho nên trên đời này hiếm có thợ nào sạch sẽ được như thợ lò! Ra khỏi hầm lò anh nào cũng khát, cũng muốn uống một cái gì đó cay cay để “tẩy âm” ở cả bên trong nữa. Khoa học đã chứng minh rằng thợ lò sau ca làm việc uống sữa để tẩy độc là tốt nhất. Còn thợ lò thì bảo uống sữa là tốt rồi, nhưng giá có thêm vại bia hay chén rượu nữa thì hay hơn. Chả thế mà thợ lò Nông Văn Sơn ở Công ty Than Hòn Gai khi được cứu ra khỏi lò sập sau 72 giờ đã đòi ngay “cho tao chén rượu”. Điều đó giải thích tại sao thợ lò uống rượu nhiều hơn các nghề khác. Nếu bạn đã xem phim Xô Viết thì bạn cũng thấy những người lính sau trận chiến ác liệt cũng uống nhiều rượu như vậy. Bộ đội ta tửu lượng cũng khá, chỉ tội sau trận mạc không có rượu mà uống thôi. Xem ra bộ đội và thợ lò đều là chiến sỹ cả.

Nói chuyện kỹ hơn với thợ lò bạn có thể biết thêm một nghịch lý nữa cũng khá thú vị. Thợ lò bảo rằng họ làm nghề “chống gỗ ngược”. Thật vậy, ở trên mặt đất người ta “chống gỗ xuôi” ngọn ở trên, gốc ở dưới; còn ở dưới hầm mỏ thì dứt khoát phải “chống gỗ ngược” gốc ở trên, ngọn ở dưới mới đảm bảo cho đường lò được vững chắc. Khắp thế gian này ở bên Tây, bên Tàu hay ở bất cứ quốc gia nào trong hầm mỏ đều chống gỗ ngược cả. Không chống gỗ ngược không phải là hầm mỏ hay công trình ngầm! Đó là nói chuyện trước đây, ngày nay đã khác xa rồi, hầm lò vẫn còn dùng gỗ nhưng ít thôi. Các mỏ đã chống

Page 3: Thợ lò cũng là chiến sỹ

lò bằng sắt thép, bằng kết cấu thủy lực, kết cấu neo bền vững hơn, an toàn hơn, góp phần bảo vệ môi trường tốt hơn.

Thời tôi làm giám đốc Xí nghiệp Xây lắp mỏ Mông Dương (1981-1986) anh em thợ lò còn nói với tôi rằng “chúng em phải chịu nhiều tầng nấc “áp bức”, à quên “cai quản” quá. Hỏi kỹ hơn thì anh em bảo: này nhé, ở trên cùng có anh (giám đốc), rồi các ông phó của anh, các phòng ban, quản đốc, đội trưởng rồi đến các bà, các cô ở nhà ăn, nhà tắm, nhà đèn cũng bắt nạt chúng em. Thậm chí cái bà ở phòng lao động chuyên làm cái việc cấp phát bảo hộ lao động cùng với thủ kho cũng chèn ép chúng em. Xin đi khám bệnh thì quản đốc nghi ngờ, đến trạm y tế thì người ta bảo giả vờ ốm… Nhân viên thống kê cùng với quản đốc có khi bớt công, bớt lương, bớt thưởng của chúng em, lại còn gửi lương nữa chứ, lĩnh rồi đấy mà có được tiêu đâu! Kể ra thì còn nhiều lắm. Lần theo ý kiến của thợ lò tôi đã sắp xếp lại để các đồng nghiệp dễ chịu hơn, và họ đã gọi tôi là “giám đốc của thợ lò”. Ngày nay trong Ngành Than Việt Nam vẫn nhà ăn, nhà đèn, nhà tắm, trạm y tế, nhưng đã tiến bộ hơn nhiều, đã bớt đi rất nhiều phiền hà nhưng vẫn còn đấy cách đối xử không trân trọng, vẫn còn đấy chuyện gửi lương, bớt lương, bớt thưởng ở một số mỏ. Vừa rồi (16.3.2014) khi giao lưu với gần 600 công nhân, cán bộ chủ chốt của Công ty than Quang Hanh với chủ đề “xây dựng mối quan hệ hài hòa trong công ty than hầm lò” tôi đã nói: “mục tiêu của quản đốc phân xưởng là hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch, đảm bảo an toàn, nội bộ đoàn kết, thợ lò phấn khởi. Nếu hoàn thành kế hoạch mà thợ lò không vui thì coi chừng kỳ kế hoạch sau có thể bị đổ vỡ…” Giờ nghỉ trưa mấy anh quản đốc nói với tôi: lần đầu tiên chúng em được nghe “nếu hoàn thành kế hoạch mà thợ lò không vui thì coi chừng… Đúng thế anh ạ!”.

Thợ lò còn khác người ở chỗ “ăn to, nói lớn”; có như thế mới đủ sức mà đối mặt với âm phủ nhiều cạm bẫy, đủ sức mà truyền đạt thông tin từ anh này đến anh kia; để át đi, để xua đuổi ma quỷ dưới âm phủ thợ lò thường hay văng tục, chửi thề nhưng khi đã lên đến mặt đất, “tẩy âm” xong, quần áo sạch sẽ, tinh tươm, nhìn thấy bầu trời, nhìn thấy chị em thì anh nào anh ấy đều nói năng lịch sự cả. Thợ lò thương yêu bạn gái, yêu chiều vợ, thương con chẳng khác gì những người lính trận. Nhưng bạn có biết thợ lò sợ cái gì không? Có thể bạn chưa đoán ra nhỉ? Thợ lò thường sợ… nắng gắt đấy. Hình phạt hiệu quả đối với thợ lò là chuyển đi làm việc khác trên mặt đất, nơi hàng ngày có nhiều nắng.

I.3. NGƯỜI ĐỜI NÓI GÌ?

Người đời bình luận khác nhau về nghề làm mỏ nói chung và nghề thợ lò nói riêng. Những người thông hiểu, tử tế thì bảo đó là nghề lao động nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm có nhiều rủi ro nhưng đem lại niềm vui, hạnh phúc cho rất nhiều người khác. Họ hiểu rằng không có thợ lò thì ai đào ra than để phát điện, để làm xi măng xây nhà; không đào mỏ sâu vài ba ngàn mét thì lấy đâu ra vàng, ra kim cương làm đồ trang sức cho người đời khoe mẽ… Bởi vậy họ trân trọng và biết ơn thợ lò, vinh danh thợ lò. Không ít người lại “lên giọng” dạy đời buông một câu: Ối giời, “rừng vàng, biển bạc” chỉ có việc đào mỏ lên mà ăn thế mà còn kêu khó, kêu lỗ. Những người này có thể không biết hoặc giả vờ không biết đến cái sự vất vả, hy sinh của thợ lò khi lấy được hòn than, hòn quặng ra khỏi lòng đất sâu. Than đấy, quặng đấy không chỉ thấm mồ hôi mà còn thấm cả máu và nước mắt của thợ lò, nước mắt của người thân nữa. Lắm kẻ chẳng coi ai ra gì, chỉ mình họ là nhất thôi. Vì vậy, một mặt Ngành Than không thể chỉ “hữu xạ, tự nhiên hương” mà phải tích cực tuyên truyền để cho những người chưa biết được biết, những người đã biết hiểu thêm; mặt khác cần phải vạch mặt chỉ tên đúng lúc, đúng chỗ những người cố tình nói sai, hoặc là lờ họ đi không chấp nhặt.

Có một lực lượng trong xã hội luôn trân trọng thợ lò, lấy lao động và cuộc sống của thợ lò làm cảm hứng sáng tác và biểu diễn. Đó là các nhà văn, nhà thơ, nhạc sỹ, ca sỹ, họa sỹ, nhà điêu khắc, nhà nhiếp ảnh, nhà biên kịch, nhà làm phim, nhà báo chân chính sống ở Thủ đô, ở mọi miền của đất nước và sống ngay tại Vùng Mỏ. Bằng lao động sáng tạo và tình yêu của mình họ đã làm nên các tác phẩm để đời về Vùng Mỏ, về Thợ Mỏ. Thợ lò có thể tự hào rằng họ đã hiểu mình, chia sẻ với mình, đã sáng tác những bài ca

Page 4: Thợ lò cũng là chiến sỹ

đi cùng năm tháng mà mỗi khi hát lên mỗi người trong ngành đều thấy như có luồng điện chạy qua cơ thể, đều thấy thêm yêu nghề, yêu Vùng Mỏ, yêu cuộc sống. Chỉ một câu “mỗi khi lò thủng đón cơn gió nồm nam mát rượi” trong bài “Tôi là người thợ lò” của Nhạc sỹ Hoàng Vân đã làm “mát lòng, mát dạ” mỗi người thợ lò. Chữ “lò thủng” ở đây đắt giá lắm, thợ lò khoái lắm, và chỉ có họ mới cảm nhận được nó một cách sâu sắc. Không thể thay chữ “thủng” bằng bất kể từ đồng nghĩa nào được. Hay khi nghe bài hát “Khi chúng tôi vào lò” của Nhạc sỹ Trần Chung:

Khi chúng tôi vào lò, trăng về khuya chờ đợi.

Khi chúng tôi vào lò, sương dần buông đầu núi…

Khi chúng tôi vào lò, những vì sao mờ dần.

Khi chúng tôi vào lò, ánh bình minh rạng rỡ…

Khi chúng tôi vào lò, thấy ngày mai gần lại.

Khi chúng tôi vào lò, thấy càng yêu cuộc sống…

Những ai tử tế đều cảm nhận được thợ lò vất vả là thế nhưng sao lại lãng mạn, lại yêu đời đến thế! Ấy thế mà trong tháng 1.2014, trên chương trình “Giai điệu tự hào” của Đài Truyền hình Việt Nam có người nhân danh thạc sỹ, bác sỹ của giới trẻ đã nói rằng bài ca “Tôi là người thợ lò” chỉ đơn thuần làm cổ động thôi, chẳng phải đỉnh cao nào cả. Nhưng khán giả cả giới trẻ lẫn giới già vẫn cho điểm rất cao. Lời bình luận của anh thạc sỹ-bác sỹ kia đã nói lên sự thay đổi nhận thức và hành động trong xã hội. Các bạn Thợ lò đừng buồn và đừng chấp nhé. Tốt hơn là ta vừa phải cố gắng làm việc hiệu quả hơn, tuyên truyền nhiều hơn, “tự tỏa sáng” hơn nữa. “Nếu không tỏa sáng, không tồn tại” (Trần Nhuận Minh Trường ca Đá cháy). Dù xã hội thay đổi, dù hầm lò thay đổi thì những bài ca vừa cách mạng, vừa lãng mạn kia vẫn sẽ đồng hành với thợ lò trên con đường đi tới tương lai tốt đẹp hơn.

I.4. NGƯỜI THÂN CỦA THỢ LÒ NÓI GÌ?

Cách nay hơn 30 năm (1982) tôi được nghe anh Nguyễn Trọng Bảo-Phó thư ký (Phó chủ tịch) Công đoàn Ngành Than kể câu chuyện về người vợ đảm ở Mạo Khê chăm chồng thợ lò như thế nào. Khi được hỏi bí quyết nào mà chồng chị đã hơn 55 tuổi rồi nhưng vẫn còn làm thợ lò giỏi như vậy? Chị bảo rằng: Chồng tôi làm thợ lò vất vả lắm, trên tay, trên mặt đều hằn lên các nốt than mầu đen xanh. Kỳ cọ thế nào cũng không tẩy đi được. Trong hầm lò lại ngột ngạt, hay xảy ra tai nạn có khi làm chết người. Ông ấy lại là lao động chính trong nhà nên tôi phải chăm bẵm cho ông ấy. Bao giờ tôi cũng đun sẵn cho ông ấy nồi nước để đi làm về ông ấy tắm, sắp cho ông ấy ăn riêng mới có sức mà đi làm. Những tuần ông ấy đi ca ba về tôi phải nâng giấc, vỗ về cho ông ấy ngủ. Hơn 20 năm sau cũng tại Mạo Khê, tôi đã cùng anh em ở Mỏ và Tạp chí Than đến thăm ba cụ thợ lò 100 và trên 100 tuổi, một cụ ở Thị trấn Mạo Khê, hai cụ khác cùng ở Làng Hạ Chiểu bên Kinh Môn - Hải Dương. Các cụ đều có chung một ý kiến: cái nghề thợ lò của mình cực nhọc lắm, lại hay bị tai nạn nhưng bây giờ đã khác ngày xưa nhiều rồi nên vẫn động viên con cháu học và làm nghề thợ lò. Một cụ ở Hạ Chiểu có tới 5 người con, cháu làm trong hầm lò, cả thợ chống cuốc lẫn kỹ sư. Cụ bảo: tôi vẫn dặn các cháu phải cẩn thận tự bảo vệ mình và người cùng làm, đừng chủ quan.

Một lần đi lò Vàng Danh (1999), tôi bất ngờ vào thăm nhà bếp công trường nơi mấy chị em đang chuẩn bị cơm hộp để đưa xuống lò cho bữa giữa ca. Nhìn thấy một chị bỏ đôi đũa rồi cái tăm vào hộp cơm tôi đã xúc động chảy nước mắt và nói “các chị chu đáo quá”. Chị ấy trả lời rằng: chồng em là thợ lò, các anh ấy vất vả lắm nên phải được ăn uống chu đáo để có sức mà làm. Một chị khác nói: anh trai em là thợ lò… À ra thế, họ đều hiểu rõ sự gian nguy, vất vả trong công việc của người thân dưới hầm lò nên đã cố

Page 5: Thợ lò cũng là chiến sỹ

gắng chu toàn với tình thương yêu chứ không chỉ là trách nhiệm của người 'làm công, ăn lương”. Còn những người vợ trẻ Khe Chàm không chỉ thấu hiểu nỗi vất vả, rủi ro của chồng trong hầm lò mà còn biết sẻ chia “chịu thiệt” nữa. Hôm Khe Chàm đưa lò chợ cơ giới hóa vào vận hành (2007), tôi và Giám đốc mỏ cùng Tổng biên tập Tạp chí Than-Khoáng sản Việt Nam vừa ra khỏi lò thì gặp hai chị ngả nón chào. Các chị bảo, chồng chúng em cũng là thợ lò làm việc trong cái lò chợ cơ giới hóa của mỏ đấy. Suốt hơn hai tháng nay các lão mải mê trong lò, quên hết mọi thứ bác ạ. Anh nào dám quên cái… lò ở nhà cơ chứ! - Giám đốc mỏ buông một câu đùa. Cả hai chị cùng phá lên cười, một chị nói quên thật mà, nhưng không sao để giành các bác ạ…

Tôi đã nhiều lần tiếp xúc với những người vợ ngồi ngoài cửa lò đợi tin chồng đang bị sự cố mắc kẹt trong hầm lò. Các chị đều biết rõ cái rủi ro nghề nghiệp của chồng nhưng đều tin là chồng mình có thể tránh được. Biết chồng đã hy sinh các chị cố nén, cố nuốt nỗi đau để nuôi con sống tiếp trong sự đùm bọc của đồng nghiệp. Tôi cũng đã giao lưu với các bạn trẻ có người yêu là thợ lò, có bạn đã tốt nghiệp đại học đang làm công việc quản lý ở mỏ hay công tác đoàn, có bạn làm công nhân xây dựng, vận hành thiết bị, sàng than hay làm ở nhà ăn, nhà đèn… Hỏi: biết thợ lò là “người trần gian làm việc âm phủ” vất vả, nguy hiểm là thế sao vẫn yêu, vẫn muốn lấy làm chồng ? Trả lời: chúng em biết chứ, có số cả anh ạ, với lại thợ lò thẳng thắn và chiều vợ lắm. Cũng có chị bảo: thợ lò lương cao lại yêu chiều vợ con, anh bạn của em lại đẹp trai, vui tính nữa anh bảo không yêu sao được!

Vậy là người thân đều biết lao động của thợ lò vất vả, độc hại, nguy hiểm hơn các nghề khác nhưng đều tin tưởng người nhà mình có thể tránh được, và nếu rủi ro xảy ra thì đó là do số mệnh! Nói thế không phải là không có người thân muốn con mình, chồng mình hay bạn trai của mình chuyển sang làm nghề khác đỡ vất vả hơn, ít rủi ro hơn.

I.5. CÁC NHÀ CHÍNH TRỊ NÓI GÌ?

Có thể nói các nhà chính trị Việt Nam đều hiểu nỗi vất vả, hiểm nguy mà thợ lò phải đối mặt; đều trân trọng thành quả lao động của thợ lò. Có điều, tùy thuộc vào hoàn cảnh của đất nước mỗi thời kỳ và sự sâu sát của cá nhân nhà lãnh đạo mà chính sách đối với thợ mỏ mỗi thời có khác nhau. Thợ lò thời nay có thể chưa biết chuyện thời chiến tranh chống Mỹ nhà nước cấm nấu rượu lậu, khi thăm và nói chuyện với thợ lò Mỏ than Thống Nhất biết thợ lò ta không có rượu uống Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã giao cho Bộ trưởng Nội thương Hoàng Quốc Thịnh cung cấp rượu cho thợ lò trong khi cả nước phải hạn chế sản xuất rượu giành lương thực nuôi quân đánh giặc.

Ngày 15.11.1968, khi gặp Đoàn đại biểu công nhân, cán bộ Ngành Than tại Phủ chủ tịch, Bác Hồ đã nói “Ngành sản xuất than cũng như quân đội đánh giặc…”. Không biết có so sánh nào hoàn hảo hơn? Ai cũng biết đánh giặc thì phải chịu đựng gian khổ, hy sinh một mất, một còn; ngày đêm đối mặt với bom đạn, chất độc hóa học của kẻ thù; xung phong “đánh giáp lá cà” hay “bám thắt lưng địch mà đánh”, “nhìn thẳng quân thù mà bắn”. Vậy mà không phải trận nào cũng thắng. Để giành chiến thắng các chiến sỹ, sỹ quan quân đội không chỉ chịu đựng gian khổ, hy sinh mà còn rất mưu trí, dũng cảm… Nghề làm mỏ hầm lò cũng vậy, kẻ thù luôn rình rập thợ lò là các hiểm họa sập lò, bục nước, nổ khí, khí độc, cháy mỏ, nổ bụi than và cả bệnh nghề nghiệp nữa. Không biết chịu đựng gian khổ, không dám dấn thân, không mưu trí, dũng cảm làm sao “sản xuất được nhiều than cho Tổ quốc!”. Mỗi thợ lò là một chiến sỹ, mỗi cán bộ chỉ huy là một sỹ quan chiến trường. Chiến sỹ, sỹ quan quân đội đánh giặc chắc chắn là gian khổ hy sinh nhiều hơn thợ lò trong sản xuất, nhưng thời bình thì có thể ít hơn. Thợ lò chiến đấu liên tục từ ngày này sang ngày khác, năm này qua năm khác, bền bỉ từ lúc vào nghề cho đến khi nghỉ hưu anh nào ít cũng 20 năm, nhiều thì hơn 30 năm, trừ những anh bỏ nghề giữa chừng hay bị tai nạn, sự cố.

Ngày nay, thời đổi mới lãnh đạo cấp cao năm nào cũng về Vùng Mỏ Quảng Ninh thăm thợ mỏ, lắng nghe và cho ý kiến chỉ đạo giải quyết những khó khăn, vướng mắc của Ngành Than. Lãnh đạo địa phương

Page 6: Thợ lò cũng là chiến sỹ

cũng quan tâm phối hợp thúc đẩy sự phát triển sản xuất và đời sống thợ mỏ. Lãnh đạo Quảng Ninh vẫn khẳng định: nói đến Quảng Ninh là nói đến Ngành Than, thợ mỏ - cái nôi của giai cấp công nhân Việt Nam và nói đến Vịnh Hạ Long - kỳ quan thiên nhiên của thế giới. Có lẽ do còn bận nhiều việc khác nên các nhà chính trị bây giờ ít sâu sát với Ngành Than và thợ mỏ so với trước đấy. Cũng có thể do Ngành Than đã lớn mạnh hơn nên sự quan tâm thực sự bớt đi chăng? Có một nhà chính trị xuất thân từ thợ lò Mỏ than Mạo Khê, đã từng bị tai nạn lao động gãy chân khi làm Giám đốc Xí nghiệp Xây lắp 6 Mông Dương. Sau này Ông làm Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Bí thư Thành ủy Hà Nội, Ủy viên Thường vụ, Thường trực Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam (1996-2001) rồi Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Ông quan tâm một cách sâu sắc đến Ngành Than, đến các đồng nghiệp thợ lò, đến con của thợ lò đã hy sinh trong một tai nạn lao động gần hai mươi năm trước. Ông là Phạm Thế Duyệt.

Nhìn xa hơn các mỏ lộ thiên đang giảm dần, các mỏ hầm lò tăng lên nhanh chóng, bây giờ đang là 50/50%, đến sau năm 2020 trên 70% sản lượng than từ lao động của thợ lò. An ninh năng lượng quốc gia nằm một phần rất quan trọng trong tay những người thợ lò đang ngày đêm “bạt đá ngăn, mở hầm sâu” để “khơi dòng suối than cho Tổ quốc đẹp giàu!” Ai nói gì thì nói, thợ lò và thành quả lao động của họ luôn là niềm tự hảo của giai cấp công nhân Việt Nam, của “Đất mỏ Anh Hùng”.

I.6. THỢ LÒ MONG MUỐN ĐIỀU GÌ?

Có một thực tế là đa số thợ lò xuất thân từ nông thôn Đồng bằng Bắc bộ, Trung bộ, gần đây còn đến từ các tỉnh miền núi phía bắc. Thợ lò sinh ra trên đất mỏ không nhiều. Tôi đã tìm hiểu, nói chuyện trực tiếp với thợ lò mọi lứa tuổi trong suốt gần 40 năm qua và xin nêu ra đây những mong muốn chung nhất của thợ lò, các bạn xem thử có đúng không nhé.

- Thứ nhất, thợ lò mong muốn có thu nhập kha khá không chỉ để nuôi sống mình mà còn nuôi được vợ, con, giúp đỡ cha mẹ già yếu ở quê “không có lương hưu”, làm mỏ lâu lâu thì có tích lũy để xây hoặc mua được chỗ ở tươm tất một chút cho “bằng anh bằng em”. Làm thợ lò mà thu nhập kém các nghề “thổ mộc” trên mặt đất thì chán lắm, ít ra phải cao hơn anh thợ xây dựng vài ba lần. Không được như thế nhiều anh tìm cách bỏ nghề. Thời bao cấp ở Xí nghiệp Xây lắp mỏ Mông Dương tôi đã quyết định trả lương cho thợ lò cao gấp 3 lần thợ xây dựng trên mặt bằng, xem ra cánh thợ lò yên tâm “choòng cuốc trong tay ta vào hầm sâu”. Thời Tổng Công ty Than Việt Nam tôi đã quyết định trả lương “theo định mức” cho thợ lò cao hơn thợ mỏ lộ thiên và các nghề khác. Thợ lò tính thu nhập bằng số tiền họ thực sự được tiêu, được dùng chứ không phải số tiền ghi trong bảng lương hay sổ thưởng họ ký lĩnh rồi lại phải nộp cho ai đó một phần như tình trạng đã có từ xưa đến nay (2014) vẫn còn diễn ra ở một vài mỏ. Không bị ăn bớt bằng cách “gửi lương” như trên thì có thể bị ăn bớt bằng cách chỉnh cân ăn bớt sản lượng than của thợ lò làm ra hàng ngày rồi bảo thợ lò bỏ tiền ra mua sản lượng. Thậm chí thợ lò còn bị phạt tiền vì cái tội gì đấy. Trong báo cáo của công ty thì thu nhập bình quân hàng tháng của thợ lò có thể là 8 triệu, 10 triệu đồng thậm chí cao hơn, nhưng số tiền thực được tiêu chưa chắc đã phải như vậy. Các nhà quản lý và công đoàn nên thường xuyên kiểm tra kỹ lưỡng loại trừ các gian lận, đảm bảo thu nhập thực tế của thợ lò.

- Thứ hai, thợ lò mong muốn cái “âm phủ” của mình, cái thành phố ngầm của mình, tức là nơi làm việc trong hầm lò ấy được an toàn, dễ chịu hơn, nghĩa là được thông gió tốt, chiếu sáng tốt, cơ giới hóa nhiều hơn để không phải cuốc bộ nhiều trong lò cũng như đỡ tốn sức hơn khi đào lò hay khai thác than hoặc quặng. Rồi các hiểm họa thiên nhiên được cảnh báo tốt hơn, đề phòng kỹ hơn, đường lò thông thoáng hơn, tai nạn lao động ngày càng ít đi, tính mạng được bảo đảm. Và bữa ăn đầu ca, giữa ca chất lượng hơn để họ đủ sức lực, đủ tỉnh táo làm việc với năng suất cao mà lại ít phải đổ mồ hôi, ít xảy ra sự cố, tai nạn lao động. Để rồi mỗi khi tan ca 'tẩy âm” xong sức lực vẫn dồi dào, vẫn vui vẻ “cùng em ghi thêm một chiến công” lại còn “là la, lá la” nữa.

Page 7: Thợ lò cũng là chiến sỹ

- Thứ ba, đã vào hầm lò thì không sợ gian khó (trừ một số ít anh lười nhác) mà lại sợ sự đối xử tệ hại thiếu tôn trọng của các cấp lãnh đạo, chỉ huy, của những người làm các công việc phục vụ, phụ trợ. Này nhé, ông quản đốc thì lúc nào cũng “khó đăm đăm”, hơi tý thì quát nạt. Việc khó, lò đổ đã không hướng dẫn, chỉ huy trực tiếp lại còn đùn đẩy cho lò trưởng, quát nạt hết anh này đến anh khác ra vẻ ta đây oai lắm. Nhà có việc đột xuất không đừng được phải xin nghỉ phép (khác với lịch đã đăng ký) quản đốc đã không cho còn chửi “mày nói dối”. Xin đi khám bệnh thì ông ấy bảo “đợi tao vào lò đã”, đợi được ông ấy ra thì hết giờ khám ở trạm y tế đành phải kiếm mấy viên thuốc tự chữa cho mình. Có những ông quản đốc, lò trưởng rất quái, liên kết với nhân viên thống kê, với phòng ban ăn bớt, ăn xén sản lượng nghiệm thu cho thợ lò, gửi lương, cắt thưởng hay phạt bằng tiền vô cớ. Có ông còn giấu cả giấy thông báo cho thợ lò bị bệnh bụi phổi về Hà Nội chữa, lý do rất đơn giản: đang cần người làm. Quản đốc thì cần người làm, còn giám đốc thì sợ tăng chi phí mà quên mất trách nhiệm phải chữa bệnh nghề nghiệp cho người lao động. Đó là nói về những người chỉ huy tệ hại còn xuất hiện đó đây trong Ngành Than, còn những người phục vụ, phụ trợ thì sao? Không ít mâu thuẫn, đụng chạm phát sinh hàng ngày. Thợ lò bảo rằng họ bị nhân viên hay người quản lý nhà ăn, nhà tắm, nhà đèn bắt nạt. Thật ra không phải như vậy, sự bắt nạt có chăng cũng ít thôi, cái chính là chưa hiểu nhau, đúng hơn là chưa hiểu công việc của nhau, chưa chia sẻ với nhau. Nếu cả thợ lò và anh chị em phục vụ, phụ trợ mà “để mắt” đến nhau hơn chút nữa thì va chạm sẽ ít đi trông thấy.

Sự thiếu tôn trọng thợ lò không chỉ xảy ra ở cấp phân xưởng, cấp đội mà ngay cả cấp công ty và cao hơn. Nhiều chuyện bức xúc thợ lò đã nêu ra ở phân xưởng nhưng không được giải quyết còn bị ỉm đi. Bằng cách này hay cách khác (đơn thư, nhắn tin, gọi điện, báo cáo trực tiếp) họ chuyển lên giám đốc, đảng ủy, công đoàn công ty. Không phải nơi nào giám đốc, công đoàn cũng sâu sát, điều tra giải quyết một cách đúng đắn sự việc đâu, có khi còn bênh vực cho nhau nữa. Đó cũng là lý do vì sao thợ lò bỏ mỏ này xin đến mỏ khác làm việc, thậm chí các mỏ mà họ xin đến thu nhập không cao hơn (có khi thấp hơn) nhưng được đối xử tốt hơn. Anh em quản đốc ở Công ty than Quang Hanh đã đồng tình khi tôi nói rằng: hoàn thành kế hoạch mà thợ lò không vui thì coi chừng kỳ sau đổ vỡ đấy. Tôi cũng biết trong giới chức quản lý ở Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam không phải ai cũng hiểu kỹ và chia sẻ với thợ lò, chả thế mà khi tăng quỹ lương của thợ lò lên 5% (2014) có người nói hàm ý như là sự ban ơn. Hay lại có nhiều người bảo rằng làm nhà ở cho thợ lò à, họ có ở đâu. Nhà đấy bỏ không còn thợ lò vẫn thích tự thuê lấy chỗ ở dù lụp sụp, nhếch nhác nhưng tự do. Tự do đi về, tự do ăn uống, chơi bời, tự do mang sổ lương cắm quán… Nói vậy là không hiểu thợ lò rồi, thật buồn, chả trách ở một số mỏ số thợ lò bỏ việc bằng hoặc đông hơn số mới tuyển vào. Mà bây giờ tuyển thợ lò đâu có dễ. Liên tục tuyển dụng, liên tục tốn kém. Các bạn thợ lò nghĩ thế nào về chuyện này? Bạn có ý định bỏ việc không và trong hoàn cảnh nào? Hãy nói nhỏ với các nhà quản lý có khi họ lại giúp bạn yên tâm làm việc đấy.

- Thứ tư, thợ lò muốn Giám đốc, Đảng ủy, Công đoàn công ty, Tập đoàn và các cấp quản lý nhà nước đừng coi họ đơn thuần chỉ là “người làm công ăn lương” theo hợp đồng lao động có hoặc không có thời hạn mà là lực lượng chủ lực, là các chiến sỹ, sỹ quan chiến trường đang ngày đêm đối mặt với các hiểm họa trong lòng đất làm ra nhiều than đưa công ty đến thành công, đưa Tập đoàn đến thắng lợi, bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, đưa nước nhà tiến lên sánh vai với các nước tiên tiến. Thợ lò muốn nhà nước khôi phục lại chế độ thâm niên cho họ như trước năm 1993 đã làm. Họ muốn Nhà nước, truyền thông và xã hội tôn vinh nghề nghiệp của mình và tạo điều kiện cho họ làm việc tốt hơn, an toàn hơn, nhẹ nhàng hơn với năng suất cao hơn, sống dễ chịu hơn. Nếu chẳng may họ bị hy sinh khi làm nhiệm vụ sản xuất than trong lòng đất thì công nhận liệt sỹ cho họ giống như các chiến sỹ quân đội hy sinh trong chiến đấu, trong luyện tập, bởi lẽ “Ngành sản xuất than cũng như quân đội đánh giặc” (Hồ Chí Minh 15.11.1968). Thợ lò không cần sự ban ơn mà cần được tôn trọng, được đối xử công bằng, được động viên thỏa đáng để họ yên tâm “sản xuất thật nhiều than cho Tổ quốc”. Chỉ vài năm nữa thôi khi các mỏ lộ thiên vùng Hòn Gai kết thúc khai thác, các mỏ hầm lò lại chưa kịp đầu tư mới và mở rộng, Vùng than Đồng bằng Sông Hồng chưa ai quyết định cho khai thác, thợ lò lại thiếu trong khi nhập khẩu than đâu

Page 8: Thợ lò cũng là chiến sỹ

phải dễ thì thảm họa thiếu điện xảy ra là cái chắc, bất hạnh và tụt hậu sẽ ập đến cho cả quốc gia và dân tộc. Xin đừng để thảm họa đó xảy ra! Đừng mơ nhập khẩu được nhiều than để phát điện, hãy chủ động phát triển nguồn than trong nước bằng cách xuống sâu tăng sản lượng Bể than Đông Bắc, đầu tư phát triển Bể than Đồng bằng sông Hồng và bằng cách tôn vinh thợ lò.

Tóm lại, Thợ lò Ngành Than - Khoáng sản cũng giống như chiến sỹ quân đội, khi làm việc trong lòng đất họ là những người luôn phải chịu đựng gian khổ, hy sinh nhưng lại mưu trí, dũng cảm, gan dạ hơn người. Có khác chăng là khi ở trên mặt đất lúc đời thường thợ lò có chút tự ti về nghề nghiệp, họ rất nhạy cảm và vì thế dễ bị tổn thương. Những mong muốn của thợ lò không phải là quá đáng mà rất thực tế, nó thẳng thắn, giản dị và cởi mở như chính bản thân họ. Hiểu được nó, hóa giải được nó thì thợ lò sẽ ít bỏ việc, sẽ yên tâm làm việc lâu dài trong hầm lò, sẽ tự hào về nghề làm mỏ của mình. Có niềm tự hào nghề nghiệp là có sự gắn bó, có sự phát triển, có tác phong công nghiệp với tính kỷ luật cao, làm việc sẽ năng suất hơn, an toàn hơn, vui hơn. Không hóa giải được nó thì nó là những nguyên nhân dẫn đến việc thợ lò bỏ việc hàng loạt và cái gì đến sẽ đến. Mong rằng các cấp quản lý trong từng công ty than, trong tập đoàn, ở địa phương và các cơ quan trung ương chủ động hóa giải được, đáp ứng được những mong muốn chính đáng của thợ lò. Đáp lại thợ lò sẽ không quản ngại gian khổ “vững thêm bước chân đi vào lò”, “bạt đá ngăn”, “mở hầm sâu”, “khơi dòng suối than cho Tổ quốc đẹp giàu”! Thợ lò sẽ ngẩng cao đầu cất lên tiếng hát:

“Tổ quốc thân yêu đêm ngày chờ than,

Ghi nhớ trong tim ta chẳng hề quên…”

Kết thúc chương I (Thợ lò anh là ai) này tôi muốn bạn hiểu và tự hào về nghề nghiệp của mình. Thợ lò luôn phải đối mặt với những bất trắc trong lòng đất vì thế mà họ rất to gan, sáng dạ, mạnh mẽ, dũng cảm và rất yêu đời. Họ chịu đựng gian khổ, hy sinh để cả nước có than dùng, có điện thắp sáng đến hang cùng ngõ hẻm. Thợ lò cũng như chiến sỹ ngoài mặt trận, “nơi hầm tối” của họ chính là “nơi sáng nhất!”.

CHƯƠNG II: NƠI LÀM VIỆC CỦA THỢ LÒ THẾ NÀO?

II.1. KHÁI QUÁT

Bạn đã vào hầm lò bao giờ chưa? Nếu chưa thì bạn hãy tìm đến bài ca “Đất mỏ anh hùng” của nhạc sỹ Xuân Giao. Năm mươi năm trước (1964), ông đã viết “nơi thành phố than xây dưới đường hầm”, đọc rồi tập hát bài ấy bạn sẽ hình dung ra phần nào nghề làm mỏ than cả hầm lò lẫn lộ thiên. Sau đó bạn nên đến Mỏ than Mông Dương hay Vàng Danh, hay Mạo Khê hoặc bất cứ mỏ hầm lò nào khác xuống lò thăm một chuyến xem sao. Bạn sẽ thấy hệ thống đường lò ngang dọc với tổng chiều dài hàng chục cây số được chiếu sáng tốt trông tựa như thành phố về ban đêm. Nhưng đó là nơi thợ lò đã đào xong, đã được lắp đặt thiết bị, đường goòng, đã được quét vôi, được chiếu sáng dành cho giao thông vận tải, còn thợ lò thì tiếp tục tiến sâu vào lòng đất cả chiều rộng lẫn chiều sâu đào những đường lò mới nối dài thêm, sâu thêm hệ thống đường lò. Nơi thợ lò đào lò mới hay khai thác than được gọi là gương lò (“nhìn gương than lấp lánh”), vậy là có gương lò đá, gương lò than. Đào lò trong đá để xuống tầng sâu (lò giếng đứng, giếng nghiêng), rồi từ chân tầng đi đến và xuyên qua các vỉa than (lò xuyên vỉa), rồi đi dọc vỉa than (lò đá dọc vỉa) vào đến nơi mở lò chuẩn bị sản xuất đào trong vỉa than (lò cái chân, lò cái đầu, lò song song, lò thông gió, lò thượng, lò ngầm) và cuối cùng là lò khai thác (lò chợ hay buồng…). Bạn sẽ mất một ngày làm việc đi theo người hướng dẫn bắt đầu từ cửa lò, cửa giếng qua các hầm trạm , lò xuyên vỉa, lò dọc vỉa vào đến lò cái chân, trèo lên thượng vào lò khai thác, đi dọc lò khai thác xem thợ lò làm việc rồi lên lò thông gió ở mức trên và đi ra ngoài. Chuyến đi mệt đấy nhưng đầy trắc ẩn và thú vị khi lần đầu tiên bạn bước chân vào lò. Có thể có chút sợ hãi nhưng bạn sẽ khám phá ra nhiều điều mà có giỏi tưởng tượng đến mấy khi ở trên mặt đất bạn cũng không thể nào hình dung ra được. Cả hệ thống đường lò trong đá,

Page 9: Thợ lò cũng là chiến sỹ

trong than và các gương lò đang đào, đang khai thác tạo nên cái 'âm phủ” của thợ lò. Đã là “âm phủ” thì dù có được ví với thành phố ngầm đi chăng nữa nó vẫn chật hẹp, ẩm ướt, bụi bặm, thiếu ánh sáng tự nhiên, thậm chí thiếu dưỡng khí, rồi có khi nóng bức ngột ngạt, có khi lại lạnh run người nếu không mặc đủ ấm. Lại còn những bất trắc khó lường luôn rình rập. Làm việc trong điều kiện như vậy người ta bị tiêu hao sức lực nhiều hơn, thấm mệt nhanh hơn ở trên mặt đất. Công việc lại nặng nhọc vì vậy thợ lò luôn phải cố gắng, không cố gắng không được, lười nhác sẽ tự làm hại mình, làm hại đồng nghiệp. Đó cũng là lý do để hiểu tại sao thợ lò hay vì nhau, nhìn nhau mà làm, cùng cố gắng. Thợ lò làm việc theo nhóm hay có “cặp đôi”, có tinh thần tập thể là như vậy; đoàn kết hay “đồng tâm” cũng là nó cả. Chỉ khi nào đã thực sự trở thành thợ lò rồi bạn mới hiểu được điều đó, mới thấy được giá trị của nó.

Có một câu chuyện vui thế này: Một anh nọ được đấng tối cao cho đi chu du một chuyến. Đầu tiên anh ta xuống âm phủ đến tầng địa ngục sâu nhất, ở đó anh ta thấy trên cái bàn tròn rộng bày la liệt đồ ăn, với những đôi đũa dài hơn một mét. Những kẻ bị đầy xuống địa ngục ngồi xung quanh bàn ăn, ai cũng gầy giơ xương trông có vẻ đói khát lắm. Thức ăn thì đầy đủ mà người ăn lại gầy đét, các bạn có hiểu tại sao không? Chỉ tại thế này thôi, các đôi đũa đều dài hơn một mét nên họ không thể tự gắp thức ăn mà đút vào mồm được. Anh bạn kia bèn rời âm phủ lên thiên đàng. Vừa đến thiên đàng anh ta đã gặp toàn người béo tốt, khỏe mạnh và đến bữa cũng thấy cái bàn ăn rộng với đầy đủ thức ăn và những đôi đũa giống như ở dưới địa ngục. Nhìn vào thấy người ta cầm đũa gắp thức ăn đút vào miệng người ngồi đối diện, vậy là ai cũng được ăn no đủ. Kết thúc chuyến chu du anh chàng kia liền mang thắc mắc ra hỏi đấng tối cao. Đấng tối cao bèn chỉ ra rằng: bọn ở dưới âm phủ rất ích kỷ, đứa nào biết đứa ấy thôi, không lo cho ai cái gì bao giờ nên đũa dài chúng không thể tự gắp thức ăn cho vào miệng mình được. Còn người trên thiên đàng thì ngược lại họ biết chia sẻ, đoàn kết, thương nhau nên gắp thức ăn cho nhau, ai ai cũng khỏe mạnh, vui vẻ cả. Thợ lò khác người ở chỗ họ làm việc dưới “âm phủ” nhưng lại cư xử với nhau như người trên “thiên đàng”.

II.2. HẦM LÒ VÀ CÁC HIỂM HỌA

Lòng đất để nguyên thì không sao nhưng khi ta đã đào sâu vào nó tạo ra các đường hầm công trình hay khai thác mỏ tức là đã phá vỡ thế ổn định hay sự cân bằng của nó nên nó phản ứng lại, tìm cách đáp trả. Sự đáp trả ấy là các hiểm họa thiên nhiên vốn trú ngụ trong lòng đất và các hiểm họa do sự tùy tiện, cẩu thả thiếu hiểu biết của chính con người gây ra, chúng chờ có dịp là sập xuống, xì ra, bật lại, tác oai tác quái gây khốn khổ và cả sự hy sinh cho con người. Để giữ cho mình an toàn khi đi vào và làm việc trong hầm lò bạn phải học cách đối phó hữu hiệu. Con người từ đời này qua đời khác đã rút được nhiều kinh nghiệm và tìm ra được những cách thức ngày càng hiệu quả chống lại các hiểm họa sập lò, khí độc, cháy, nổ khí mê tan, nổ bụi than, cháy mỏ do than tự cháy hay do con người gây ra, bục nước, chấn động trong hầm lò v.v… Tôi sẽ lần lượt trao đổi với bạn về điều kiện và cách thức hình thành và nhận diện các hiểm họa thường hay xảy ra và liên hệ với thức tế các vụ việc đã xảy ra ở các mỏ hầm lò Ngành Than Việt Nam trong vài chục năm vừa qua mà tôi được biết, đã chứng kiến hay đã trực tiếp chỉ huy xử lý…

II.2.1. Áp lực mỏ và hiểm họa sập lò

Áp lực mỏ hay nói cách khác là sự nén trên nóc lò, bên hông lò và cả từ dưới nền lò nữa tùy thuộc vào độ bền vững của đất đá xung quanh đường lò thế nào. Khi bạn đào một đường lò thì đất đá xung quanh đường lò gây sức nén vào khoảng trống bạn vừa đào, nếu bạn không kịp thời chống giữ thì nó có thể sập xuống từ nóc, lở ra từ hông lò hay đẩy từ phía nền lò lên. Thường thì áp lực lớn nhất từ phía nóc lò theo phương thẳng đứng. Bạn thử hình dung nếu bạn đào một đường lò đá có chiều cao 4m thì đá vách (đá phía trên nóc lò) có thể bị nứt cao đến 32m thậm chí 80m. Người ta đã tính được chiều cao vết nứt có thể đạt từ 8 đến 20 lần chiều cao của đường lò tùy thuộc vào độ bền vững và tính khó hay dễ nứt của đá vách. Chính vì vậy mà các kỹ sư hay kỹ thuật viên phải tính toán xem nên chống lò bằng gỗ, bằng các

Page 10: Thợ lò cũng là chiến sỹ

loại vì sắt hay bê tông cốt thép. Tuy nhiên chống bằng gì còn phụ thuộc vào tuổi thọ của đường lò dự kiến là bao nhiêu năm nữa. Ngày nay, Ngành Than Việt Nam đã giảm dùng gỗ rất nhiều, gỗ chỉ còn dùng ở các đường lò chuẩn bị sản xuất ngắn hạn hay trong một số đường lò khai thác. Ở lò khai thác bây giờ đã dùng chủ yếu là giá thủy lực di động, cao hơn là dàn chống tự hành. Ở lò đá, lò chuẩn bị sản xuất thường dùng bê tông, bê tông cốt thép và nhiều nhất là vì chống bằng thép lòng máng được chế tạo riêng cho hầm mỏ. Vì chống thép thường gồm 3 đoạn hai cột và một xà. Ở những nơi đất đá nền yếu do có áp lực từ dưới nền lò lên (gọi là bồng nền) thì vì chống có thêm dầm nữa. Ở một số đường lò đào trong đá có thể không cần phải chống hoặc chỉ chống bằng vì neo do đá bao quanh đương lò liền khối với độ bền vững cao.

Sự cố sập lò thường xảy ra khi đào lò tạo ra khoảng trống mà không chống đỡ kịp thời, hoặc có chống mà sơ sài hay làm sai quy cách, thậm chí ở nơi đã được chống đỡ chắc chắn nhưng qua thời gian chịu tải lò bị nén nặng quá, vì chống biến dạng méo mó đi không còn đủ sức chịu tải mà bạn lại chưa kịp củng cố, gia cường. Nhất là khi bạn đang chống xén đường lò bị nén để khôi phục lại tiết diện ban đầu của nó hay khi bạn thu hồi vì chống mà làm không cẩn thận thì nó sập xuống. Ở lò khai thác cũng vậy, khi bạn lấy than, lấy quặng đi, tạo ra khoảng trống mà không chống đỡ ngay thì nguy cơ sụp đổ là cái chắc (trừ những nơi được phép không chống giữ như ở một số mỏ quặng kim loại, mỏ muối…). Ở ta hiện nay khoảng trống sau các luồng khai thác (lò chợ) được lấp đầy bằng việc để cho đá vách tự sập xuống (đó gọi là phá hỏa) hoặc nếu nó không tự sập thì nổ mìn ép cho nó sập xuống (phá hỏa cưỡng bức). Chỉ có ở hai mỏ than mỡ Khe Bố và Làng Cẩm là được chèn lò bằng đất sét. Sự cố sập lò khai thác xảy ra nhiều hơn ở các lò khai thác theo kiểu buồng-cột so với các lò chợ. Lò buồng-cột khai thác ở các vỉa than dốc hay vừa dày vừa dốc, còn lò chợ ở các vỉa khấu một hay hai lớp ở các vỉa có chiều dày từ 2m đến 6m, ngày nay lò chợ hạ trần có thể khai thác ở các vỉa dày hơn, thậm chí 14-15m. Còn tại sao gọi là “lò chợ” thì có lẽ là ngày xưa lò khai thác thủ công, chống gỗ, đông thợ lò, tiếng ồn ào nhiều nên thợ lò ta ví như cái chợ quê chăng. Ở ta thì là “lò chợ” còn ở bên tây người ta gọi là “bức tường”, vì trông gương than chả khác nào bức tường cả; lò chợ dài thì gọi là bức tường dài, lò chợ ngắn tương ứng với bức tường ngắn.

Sập lò (hay đổ lò) xảy ra không chỉ do không chống đỡ kịp thời, do áp lực mỏ lớn hơn mức chịu đựng của vì chống hay do chống đỡ sai quy cách mà còn xảy ra bởi bục nước hay nhẹ hơn là nước chảy xói chân cột chống làm cho hệ thống cột thủy lực, dàn chống thủy lực mất áp, mất đi sức chống đỡ hay do cháy, nổ khí mê tan, cháy mỏ từ các nguyên nhân khác. Cho đến nay ở ta chưa ghi nhận được các vụ chấn động trong lòng đất ở các mỏ hầm lò, nên chưa có vụ sập lò nào từ nguyên nhân này gây nên.

Sự cố sập lò có thể xảy ra ở bất cứ đường lò nào, vì vậy mà bạn đừng chủ quan nhé. Nó có thể gây tai họa ở đường lò đá, đường lò cái, lò song song đào trong than hay trong lò chợ, lò buồng-cột… Ở lò đá sập lò hay xảy ra ở nơi đào xuyên qua lò cũ đã sập đổ, mở rộng lò cũ, đào các hầm trạm cao tiết diện lớn, nơi bắt mép mở đường lò mới (ngã ba, ngã tư), nơi tiếp giáp với vỉa than, nơi có nhiều nước thoát ra, nơi đào qua phay cát hay vùng đứt gãy. Nõ cũng xảy ra ở ngay đường lò đào qua đá vững chắc nếu bạn chủ quan không cạy om cho kỹ, không chống tạm ngay sau khi nổ mìn. Ngày 31/7/1977, ở đường lò xuyên vỉa chính Cánh Tây Mỏ than Mông Dương mức -97,5m đã xảy ra sự cố sập lò làm chết một thợ lò đang vận hành máy khoan. Nguyên nhân được Đoàn điều tra tai nạn lao động Quảng Ninh xác định là nhóm thợ lò ca 1 hôm ấy đã cạy om không kỹ và bỏ qua công đoạn chống tạm. Chỉ một tảng đá không lớn, nhưng ở độ cao 5,1m sập xuống trúng người đang khoan lỗ mìn. Tôi là người có dính líu trách nhiệm trong sự cố đó. Hồi đó tôi phụ trách phòng kỹ thuật xí nghiệp, lại trực tiếp lập biện pháp thi công và giám sát thi công. Biện pháp thì đúng nhưng Đoàn điều tra vẫn quy trách nhiệm cho tôi là thiếu sự giám sát chặt chẽ quá trình thi công… Quản đốc đào lò bị cách chức, còn tôi bị cảnh cáo. Ở các đường lò chuẩn bị sản xuất đào trong than sự cố sập lò có thể xảy ra ở bất cứ chỗ nào nếu bạn không chống đỡ kịp thời và đúng quy cách đã quy định trong biện pháp kỹ thuật thi công. Bạn đừng nghĩ rằng mình đã có

Page 11: Thợ lò cũng là chiến sỹ

nhiều năm trong nghề, bàn tay đã chai sạn, kinh nghiệm đã đầy đầu nên không thể xảy ra sự cố được. Trong nghề mỏ hầm lò lúc nào cũng phải chú ý bạn ạ. Và xin bạn nhớ cho: sập lò than hay xảy ra khi tháo vì chống để thu hồi nó, khi chống xén các đoạn lò cũ đã bị nén, nơi có nước chảy nhiều, nơi vỉa than bị vò nhàu, nơi bắt mép mở lò mới (ngã ba, ngã tư) và đặc biệt khi mở các lò thượng dốc trên 30 độ. Lò thượng hay lò ngầm thì cũng đều là lò nghiêng cả, gọi là lò thượng là do bạn đào từ phía dưới lên, còn khi đào từ trên xuống gọi là lò ngầm. Trước tết năm 2004 ở Mỏ than Vàng Danh đã xảy ra vụ sập lò ở nơi bắt mép mở lò thượng từ lò song song làm chết 4 thợ lò. Vấn đề là ở chỗ cái lò thượng đang được mở ấy dốc khoảng 50 độ được nhóm thợ lò chống bằng gỗ tốt với kích cỡ tiêu chuẩn, cả cột lẫn xà đều chắc chắn, đều có đường kính Φ20cm, còn văng gỗ cũng đúng tiêu chuẩn Φ>12cm. Vậy sai sót nằm ở đâu bạn có biết không? Nó nằm ngay ở biện pháp chống lò ấy. Ở lò bằng thì chống như vậy là ổn, đằng này ở lò thượng dốc 50 độ mà quân ta vẫn chống như ở lò bằng. Có lẽ là do thói quen chăng, hay do thiếu kinh nghiệm? Ở lò bằng nóc lò chịu áp lực mỏ theo chiều thẳng đứng, nên cột và xà gánh vác trách nhiệm chịu tải, còn văng đánh căng giữa các vì chống để giữ thế đứng ổn định cho chúng, vì vậy văng không chịu lực nên được dùng gỗ nhỏ, thường là Φ12-14cm. Còn ở lò thượng dốc nóc lò chịu sức nén theo cả chiều thẳng đứng lẫn chiều nghiêng theo độ dốc của đường lò. Những cái văng bây giờ trở thành cột chịu lực nghiêng nên phải dùng gỗ to, chắc như xà như cột và phải làm mồm cột để đánh cho căng, cho khít và còn phải liên kết văng với cột bằng đinh đỉa nữa. Thường thì để cho chắc chắn người ta phải đánh khuôn để tăng cường sự liên kết giữa các vì chống nơi bắt mép. Đáng tiếc cả người chỉ huy và nhóm thợ lò đã bỏ qua việc đó. Lò càng dốc áp lực theo chiều nghiêng càng cao và những cái văng phải chịu tải càng lớn. Trong trường hợp này nó không còn là văng nữa mà làm nhiệm vụ của cột rồi. Sai lầm là ở chỗ các đồng nghiệp ở Vàng Danh hôm đó vẫn đánh văng nhỏ và không có đinh đỉa liên kết nên khi lò bị nén ban đầu văng bị bật ra gây sập nóc xuống. Đó là câu chuyện ở trong lò thượng dốc, vậy còn lò chợ thì sao? Vụ đổ lò chợ ở Xí nghiệp than Cẩm Thành (Mỏ Khe Chàm 2) thuộc Công ty than Hạ Long đầu năm 2005 làm chết 4 thợ lò lại có nguyên nhân khác, đó là sự tham lam. Lò chợ được mở trong một vỉa than tốt có độc dốc dưới 30 độ với hướng khai thác giật lùi từ ranh giới mỏ về cửa lò. Hướng khai thác đúng, lò được chống bằng cột thủy lực đơn vững chắc, luồng khai thác đầu tiên được mở đúng sát với trụ bảo vệ ranh giới mỏ. Sau khi đã khai thác xong luồng thứ ba lẽ ra phải tiến gương về phía trước và chuẩn bị phá hỏa ban đầu nhưng không hiểu sao quân ta đã không làm như vậy. Có lẽ thấy than ở trụ bảo vệ “ngon quá” nên họ đã không tiến gương mà mở thêm một luồng nữa ở phía sau ăn vào trụ bảo vệ. Hành động trên đã làm trụ bảo vệ suy yếu không đủ sức chịu tải khi áp lực trên nóc lò gia tăng và nó đã sập xuống, vùi lấp 4 thợ lò mãi đến ba ngày sau mới đưa được thi thể anh em ra. Vậy là chỉ vì tham, muốn thêm tý sản lượng mà gây ra tai họa.

II.2.2. Hiểm họa khí mỏ

Bầu không khí trong hầm lò cũng tương tự như ở trên mặt đất, ôxy (dưỡng khí) chiếm gần 21%, nitơ 78% và một số chất khí khác. Đó là nói về không khí được dẫn vào hầm lò theo hệ thống thông gió. Vì lý do nào đó khí ôxy giảm xuống dưới 20% bạn bắt đầu cảm thấy khó chịu; ôxy xuống dưới 19% bạn thấy ngột ngạt, nhức đầu, mắt díu lại, buồn ngủ. Đó là lúc bằng cách nhanh nhất bạn phải thoát ra nơi có luồng gió tươi (gió sạch). Ôxy giảm tức là các khí có hại đã tăng lên, cần phải cảnh giác bằng cách gọi đội cấp cứu mỏ vào kiểm tra cụ thể, còn mình phải thoát ra nơi có gió tươi và tuân thủ lệnh của người chỉ huy. Đừng bao giờ xem nhẹ, chủ quan khi đột nhiên thấy khó thở, nhức đầu bạn nhé.

Nói về nguy cơ khí mỏ tôi muốn bạn chú ý đến hai nguy cơ chính sau đây: trước hết là nguy cơ cháy, nổ trong hầm lò do khí mê tan (CH4) gây ra và sau đó là nguy cơ nhiễm độc các khí sinh ra sau nổ mìn, và từ đám cháy; đó là ôxýt các bon rất độc và các bon níc gây ngạt; rồi đến các khí độc khác có thể xuất hiện trong hầm lò ở hoàn cảnh nhất định. Nổ mìn là giải pháp thông thường trong hầm lò khi đào lò trong đá, trong than hay khi cần phá hỏa cưỡng bức, có điều bạn phải chờ thông gió 30 phút sau nổ mìn cho

Page 12: Thợ lò cũng là chiến sỹ

khí độc hại loãng đi rồi mới trở lại vị trí làm việc, đừng vội lúc này mà tự gây hại cho mình và đồng nghiệp.

Bây giờ trở lại với khí mêtan. Trước hết nó là một chất khí nhẹ, không màu, không mùi, không vị có sẵn trong các vỉa than, khi bạn đào lò xuyên qua vỉa, cắt ngang vỉa hay dọc vỉa hoặc mở luồng khai thác nó thoát ra và tích tụ trên nóc lò, tích tụ nơi đầu tang quay cắt than của máy khấu liên hợp (combainer). Thứ hai, bạn cần nhớ rằng mêtan nhẹ nên nó chỉ tích tụ trên cao, ở nóc lò chứ không ở nền lò, trừ khi mêtan thoát ra quá nhiều chiếm cả tiết diện đường lò. Thứ ba, mêtan là một khí gây cháy nổ mạnh, là kẻ thù không đội trời chung với thợ lò trừ khi ta biết hóa giải nó, kiểm soát được nó bằng cách thông gió tích cực, phòng chống cháy nổ tốt, đặc biệt là phải tháo khí mêtan trước khi đào lò trong than nếu như hàm lượng mêtan thoát ra đủ lớn. Ở các nước như Ba Lan, Nga, Úc người ta thu mêtan từ mỏ than hầm lò để phát điện hay đưa vào hệ thống cung cấp khí đốt của khu vực. Mỏ than Khe Chàm đã thực hiện tháo khí mêtan từ mức -225m trước khi khai thác (từ 2012). Vậy khi nào thì mêtan nổ, khi nào nó cháy? Các vụ nổ khí mêtan trong các mỏ hầm lò thường xảy ra khi hàm lượng mêtan trong bầu không khí mỏ chiếm từ 5% đến 15%, có lửa và ôxy lớn hơn 12% . Dưới 5% và trên 15% nó cháy khi có lửa. Vụ nổ cũng có thể xảy ra ở mức dưới 5% hoặc trên 15% nhưng rất ít gặp. Để đảm bảo an toàn cho thợ mỏ quy chuẩn kỹ thuật an toàn đã khống chế hàm lượng mêtan cho phép ở luồng gió thải chính không quá 1%. Lớn hơn mức đó thì phải thông gió tích cực làm cho nó loãng ra. Bây giờ các mỏ hầm lò đã lắp đặt hệ thống cảnh báo khí mê tan, khi nó vượt 1% thì lập tức có báo động để thợ lò rút ra nơi có luồng gió tươi và hệ thống điện trong hầm lò bị cắt để đề phòng tia lửa điện kích nổ. Không phải vỉa than nào, mỏ than nào cũng chứa mêtan vì vậy người ta phải phân loại cấp độ chứa khí mêtan ở mỏ than theo quy chuẩn kỹ thuật an toàn mỏ. Trước đây hầu hết các mỏ hầm lò ở ta đều khai thác ở lò bằng nên chưa có hay ít có mêtan và chủ yếu là khai thác theo phương pháp thủ công, chống gỗ và dùng đèn đất. Thợ lò mang vào lò cái lồng chim để nhìn phản ứng của chim mà dự báo mêtan. Ngày nay mỏ than hầm lò nào ở ta cũng có khí mêtan, không còn tàu điện cần vẹt, tất cả thiết bị đều phòng nổ cao, mỏ nào cũng có hệ thống cảnh báo khí nổ mê tan. Xin bạn lưu ý, hệ thống cảnh báo dù có tốt đến mấy cũng có khi trục trặc vì vậy đừng chủ quan, đừng quên đọc bảng ghi kết quả đo khí, đừng quên mang và sử dụng máy đo khí cầm tay nếu bạn là cán bộ chỉ huy hay giám sát kỹ thuật, an toàn, đừng quên thông báo cho đồng nghiệp mỗi khi hàm lượng các chất khí vượt ngưỡng cho phép.

Sự cố cháy, nổ khí mêtan đã xảy ra không ít ở các mỏ than hầm lò nước ta trong vòng 20 năm qua. Lớn nhất, nặng nề nhất phải kể đến vụ nổ khí mêtan xảy ra lúc 8h30 sáng ngày 11.1.1999 tại Mỏ than Mạo Khê ở cúp xuyên vỉa số 1 từ lò dọc vỉa đá mức -25 vào vỉa 9 do Phân xưởng khai thác 5 thi công làm chết 19 người, bị thương 12 người. Hôm đó rơi vào ca 1 ngày thứ hai, sau nghỉ chủ nhật, thợ lò vào ca để thi công tiếp lò chuẩn bị sản xuất. Tôi đã cùng các anh Nguyễn Văn Long (Phó tổng giám đốc), Vương Văn Đốc (Công nghệ trưởng hầm lò), Phùng Mạnh Đắc (Viện trưởng Khoa học Công nghệ mỏ), Trần Bảo Ngọc (Trưởng Ban sản xuất) và các cán bộ kỹ thuật Mỏ Mạo Khê đến nơi vừa xảy ra sự cố. Lò không bị đổ mà chỉ xiêu một đoạn, nơi ranh giới các vì lò xiêu về hai phía ở cúp xuyên vỉa số 1 có lẽ là điểm phát nổ. Kiểm tra thực tế hệ thống đường lò chúng tôi đi đến nhận xét hệ thống thông gió cục bộ có vấn đề. Cũng trong năm 1999 ở một xí nghiệp thuộc Công ty Đông Bắc đã xảy ra vụ cháy khí mêtan làm chết và bị thương một số người. Nói là cháy, chứ không phải nổ là căn cứ vào việc kiểm tra hệ thống đường lò sau sự cố thấy còn nguyên vẹn và lời khai của nhân chứng. Liên tiếp trong hai ngày 19 và 20 tháng 12 năm 2002 xảy ra hai vụ cháy nổ khí mêtan ở Mỏ than Suối Lại và Mỏ than Hồng Thái. Cháy mêtan ở Suối Lại, Công ty than Hạ Long làm chết 6 người và nổ mêtan ở đường lò dọc vỉa dài gần 600m do Xí nghiệp Địa chất 909 đào thuê cho Mỏ than Hồng Thái Công ty than Uông Bí cũng làm chết 6 người. Ngày 6.3.2006 ở khu Yên Ngựa thuộc Công ty than Thống Nhất cũng cháy mêtan làm chết 8 người và ngày 8.12.2008 đã xảy ra nổ khí mêtan ở Công ty than Khe Chàm làm chết 9 người trong đó có một phó giám đốc công ty phụ trách an toàn và một đội viên Trung tâm cấp cứu mỏ. Sự cố xảy ra vào ca 3 chủ nhật 7.12 (đã sang ngày 8.12) trong khi phó giám đốc đang chỉ huy một đội thợ kiểm tra, bảo trì, củng cố

Page 13: Thợ lò cũng là chiến sỹ

hệ thống đường lò ngầm dẫn xuống mức -225m để chuẩn bị cho tuần làm việc tiếp theo của tháng cuối năm. Đó là một việc làm đúng, chỉ tiếc rằng mêtan đã xuất hiện nhiều một cách bất thường mà không được phát hiện và xử lý kịp thời.

Các vụ cháy khí mêtan (Suối lại 2002; Yên Ngựa Thống Nhất 2006) thường xảy ra nhanh, không có tiếng nổ và ít khi gây ra sập lò vì vậy việc giải quyết hậu quả cũng nhanh. Ngược lại các vụ nổ khí mêtan thường gây tiếng nổ làm chấn động hệ thống đường lò, gây ra sập lò hoặc làm siêu vẹo các vì chống (Mạo Khê -1999; Địa chất 909-2002; Khe Chàm-2008). Việc xử lý sự cố cũng lâu hơn, có khi phải mất 1-2 ngày mới đưa được thi thể người bị nạn ra.

Nổ mìn, than tự ủ nóng, các đám cháy ở mỏ thế nào cũng sinh ra nhiều khí các bon níc (CO2) gây ngạt và khí ôxýt các bon (CO) rất độc. Vào trong hầm lò mà nhìn thấy khói hay ngửi thấy mùi khen khét thì đó là dấu hiệu cho biết có cháy ở đâu đó hay vừa nổ mìn xong, bạn cần phải bình tĩnh xem xét, phán đoán, nếu cảm thấy có đám cháy thì phải mở ngay bình tự cứu, sử dụng nó như đã được hướng dẫn để thở cách ly và chạy ngay ra nơi có luồng gió sạch, báo cho mọi người biết. Chỉ những người biết dùng máy thở công tác và máy đó còn đang sử dụng được thì mới được phép vào nơi nghi có đám cháy, tất nhiên phải tuyệt đối tuân thủ lệnh của người chỉ huy.

Nếu bạn khoắng chân xuống rãnh nước mà ngửi thấy mùi trứng thối thì bạn cũng phải rút ra ngay, báo cho đồng đội và người chỉ huy biết. Đó đích thị là sunphua hydro (H2S) - một thứ khí rất độc. Nó có thể làm bạn chết ngay khi hàm lượng đủ lớn.

Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn trong khai thác hầm lò (QCVN-01, 2011/BCT) đã xác định hàm lượng các chất khí trong hầm lò như sau:

- Ôxy không nhỏ hơn 20%

- Các bon níc (CO2) không lớn hơn 0,5% ở nơi làm việc; 0,75% ở luồng gió thải và 1,0% nơi khôi phục sụp đổ.

- Khí độc ôxýt các bon (CO) không lớn hơn 0,0017%

- Khí độc ôxýt nitơ (NO2) không lớn hơn 0,00025%

- Khí độc sunphua hydro (H2S) không lớn hơn 0,00070%

- Khí độc anhydrit sunfurơ (SO2) không lớn hơn 0,00038%

- Khí mêtan (CH4) trong luồng gió thải không lớn hơn 1%, ở nơi tích tụ cục bộ không lớn hơn 2%.

Hàng ngày bạn cần để mắt đến các bảng đo gió, đo khí để biết xem bầu không khí nơi mình làm việc thế nào, nếu có các cảnh báo là phải thực hiện ngay. Hàm lượng khí độc mà vượt quá mức quy định sẽ gây nguy hiểm cho bạn và đồng nghiệp vì vậy phải luôn cảnh giác bạn nhé.

Còn một việc nữa có thể bạn và các đồng nghiệp còn ít chú ý, đó là nhiệt độ và độ ẩm ở nơi làm việc, chúng có thể ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của thợ lò. Quy chuẩn kỹ thuật an toàn hầm lò không cho phép thợ lò làm việc trong các đường lò có nhiệt độ lớn hơn 30oC, trong trường hợp cần thiết thì phải giảm số giờ làm việc xuống còn 6 giờ hoặc 4 giờ.

II.2.3. Hiểm họa nước mỏ

Page 14: Thợ lò cũng là chiến sỹ

Ít có mỏ than hầm lò nào mà lại không phải đối phó với hiểm họa nước mỏ. Hiểm họa nước mỏ trước hết là các sự cố bục nước gây ngập mỏ, gây sập lò làm chết người. Vậy bạn có biết nước ở đâu ra mà nhiều thế không? Trước hết đó là nước có sẵn trong các tầng đất đá (thuộc cấu tạo của vỏ trái đất, có những tầng chứa nước, ngậm nước); trong các vỉa than, vỉa quặng, ổ quặng. Nước có nhiều trong các khu vực đứt gẫy, đất đá bị vò nát (các nhà địa chất quen gọi là phay/phá, mặt trượt). Bạn thử nhìn lên bề mặt của đồi núi chỗ nào có đường phân thủy (nơi tụ nước, nước từ hai bên dồn xuống chảy qua) chỗ đó ở bên dưới bị nứt nẻ và chứa nhiều nước hơn những chỗ khác. Rồi nước từ các lỗ khoan địa chất không được bịt kín, từ các đường lò cũ, nhất là các khu vực đã phá hỏa sau khai thác, từ các lò than trái phép (than thổ phỉ), và nước từ các sông, hồ, bể chứa trên mặt mỏ vì một lý do nào đó chảy xuống hầm lò gây tai họa.

Nước có thể chảy vào lò từ một phía, hai phía hay cả tứ phía: từ nóc lò, từ hai bên hông lò hay đùn từ dưới nền lò lên. Trong nước mỏ có thể có chứa chất ăn mòn kim loại, ăn mòn bê tông phá hủy cơ cấu chống lò.

Bạn đừng bao giờ chủ quan với nước mỏ, nếu thấy dấu hiệu bất thường phải báo ngay cho người chỉ huy để thực hiện công việc theo dõi, phòng ngừa hay xử lý. Nếu thấy có nguy cơ bục nước thì đừng chần chừ mà hô nhau chạy cho nhanh đến nơi an toàn.

Để bạn hiểu rõ hơn hiểm họa của nước đối với các mỏ hầm lò tôi sẽ nêu ra mấy sự cố cụ thể đã xảy ra mà tôi đã chứng kiến, đã biết, thậm chí đã chỉ huy xử lý. Có thể bạn mới vào làm mỏ, bạn chưa biết đến vụ nước làm ngập toàn bộ mức -97,5m Mỏ than Mông Dương ngày 31.5.1987. Đêm thứ bảy 30.5.1987 trời mưa tầm tã như trút nước, thủy triều lại đang cường, sông Mông Dương không thoát kịp nước nên toàn bộ Trạm biến thế khu vực 110KV và mặt bằng sân công nghiệp mức +6,0m Mỏ than Mông Dương bị ngập sâu. Nước tràn vào giếng phụ (giếng đứng từ +6,0m xuống -97,5m) chảy thẳng xuống mức -97,5m. Ở phía suối Mông Dương cửa lò thượng H-10 (nối mặt đất với mức -97,5m) cũng bị ngập, nước tràn xuống mỏ. Đến sáng 31.5.1987 toàn bộ mức -97,5m bị ngập, may mà trước đó đã kịp rút toàn bộ lực lượng lên mặt đất, không có thiệt hại về người nhưng mỏ phải mất hơn ba tháng mới khôi phục được sản xuất. Ngay sau đó mỏ phải xây dựng cửa chắn kín để phòng ngừa nước ngập mặt bằng +6,0m chảy vào mỏ. Vậy tại sao mỏ hiện đại như thế lại bị ngập? Tôi cho rằng khi thiết kế chọn cốt cao của mặt bằng sân công nghiệp mỏ và nhất là cốt cao cửa giếng phụ người ta đã làm đúng quy định là tham khảo mức nước lịch sử nhưng lại không dự báo được việc suối, sông Mông Dương bị đất đá thải mỏ lộ thiên Cọc Sáu, Cao Sơn bồi lấp làm cho nông cạn hơn, thu hẹp mất dòng chảy. Sự cố lại rơi vào thời điểm thủy triều đang cao và mưa lại quá lớn, quá lâu. Thời nay người ta gọi những tác động như vậy là do biến đổi khí hậu và thiết kế công trình không chỉ tham khảo mực nước lịch sử mà phải tính đến nước biển dâng trong tương lai nữa. Các kỹ sư, các nhà thiết kế cần lưu ý điều đó.

Ở Mỏ Mạo Khê dưới lò xuyên vỉa chính mức -80,0m vào ngày 20.3.1996 đã xảy ra sự cố bục nước làm chết 4 thợ lò. Vào thời điểm đó lò đá xuyên vỉa chính đã đào đến vùng ảnh hưởng của phay FA. Đó là một đứt gãy lớn được thể hiện rất rõ ràng trên bề mặt cũng như trên bản đồ địa chất Mỏ than Mạo Khê. Cả chỉ huy, các kỹ sư và đội thợ lò đều đã thấy nước chảy từ hông lò ra nhiều hơn một cách bất thường nhưng vẫn tiếp tục đào lò bằng phương pháp thông thường. Sự cố đã xảy ra, nước từ vùng đứt gẫy (FA) bục ra làm chết 4 thợ lò và ngập cả đường lò. Bạn thử tưởng tượng xem vùng đứt gẫy , cái phay FA có chứa nhiều nước ấy có khác gì một dòng sông ngầm không? Muốn vượt qua nó phải dùng biện pháp đặc biệt cách ly được nước với vị trí đường lò đi qua. Người ta có thể khoan trước các lỗ khoan rồi bơm vữa xi măng vào đó thậm chí làm cho nước đóng băng lại rồi mới đào qua. Sự cố bục nước khi đào qua phay và cách xử lý nó sau đó đã để lại cho Mạo Khê và cả Ngành Than bài học đắt giá.

Bây giờ mời bạn trở lại Mông Dương. Chắc bạn còn nhớ những hình ảnh và thông tin khá đậm đặc trên các phương tiện truyền thông ngày 31.3 và 1.4.2006 nói về sự cố bục nước làm sập lò gây mắc kẹt 21

Page 15: Thợ lò cũng là chiến sỹ

thợ lò và chiến dịch giải cứu họ? Nước bục ra từ lò thông gió mức +9,8m chảy ào xuống lò thượng khai thác nối với mức -97,5m. Nước làm xói chân cột chống thủy lực làm cho nó mất áp lực đổ xuống. Vậy nước từ đâu ra, có nhiều không mà gây ra sự cố lớn chưa từng có như vậy? Khi chạy vào lò thông gió +9,8m xem xét chúng tôi đã thấy nước bục ra từ một đường lò cũ (người thì bảo là lò than trái phép nhưng tôi đã xác định đó là một lò cũ từ thời Pháp thuộc) với khối lượng vào khoảng 300 mét khối. Bằng trí thông minh sáng tạo và lòng dũng cảm lực lượng cứu nạn của Mỏ Mông Dương và toàn Ngành Than đã giải cứu sống được 18 thợ lò bị mắc kẹt trong lò thượng bị đổ. Ba người chết ngay từ đầu khi bị nước dồn xuống chân thượng vùi lấp bùn than lên. Một người được cứu sống nhưng do bị thương nặng nên đã qua đời tại bệnh viện.

Vào ngày 30.9.2009 tại Mỏ than Thành Công, Công ty than Hòn Gai đã xảy ra vụ bục nước tệ hại nhất trong lịch sử 15 năm năm (1994-2009) của Ngành Than Việt Nam. Nước tràn vào lò thượng khai thác làm mắc kẹt 4 thợ lò, rồi tràn xuống làm ngập sâu lò xuyên vỉa chính được đào từ chân giếng nghiêng. Vào thời điểm đó không ai biết rõ nước từ đâu ra mà nhiều như vậy. Sau khi xem xét kỹ mới tạm đi đến kết luận nước từ trên mặt đất theo các khe nứt chảy vào lòng đất rồi tích tụ lại đó và có thể có một tầng đất đá chứa nhiều nước mà trước đó chưa xác định được một cách chắc chắn. Phải vật lộn với nước và bùn trong lòng đất chật hẹp suốt 6 ngày đêm, đến sáng ngày thứ 7 lực lượng cứu nạn mới đưa được thi thể của bốn đồng nghiệp xấu số lên khỏi mỏ.

Qua bốn sự cố bục nước nói trên chắc bạn đã thấy nguồn nước gây ra sự cố khác nhau: vụ đầu (1987) ở Mông Dương là do nước từ trên bề mặt tràn xuống sau trận mưa dữ dội trong lúc triều cường; vụ ở Mạo Khê (1996) là do nước từ “dòng sông ngầm” phay FA bục ra; vụ thứ hai ở Mông Dương (2006) là nước từ lò cũ đã tích tụ mấy chục năm, tuy không nhiều và vụ cuối cùng ở Mỏ than Thành Công là do nước ngầm đã chứa sẵn trong tầng đất đá trên vách vỉa than kết hợp với nước từ bề mặt theo khe nứt chảy xuống. Vậy là nguồn nước gây ra sự cố bục nước thì có nhiều nhưng tác hại thì chả khác gì nhau, làm ngập mỏ, làm sập lò gây chết người… Vậy nên khi phát hiện thấy dấu hiệu bất thường thì phải đặc biệt chú ý theo dõi, áp dụng ngay các biện pháp cần thiết để phòng ngừa hoặc xử lý phù hợp với kế hoạch thủ tiêu sự cố của mỏ.

II.2.4. Hiểm họa cháy mỏ

Cháy mỏ là một hiểm họa khủng khiếp chẳng kém gì nổ khí mêtan hay bục nước trong hầm lò. Cháy mỏ có thể xảy ra từ nguyên nhân nội sinh hoặc ngoại sinh. Nội sinh tức là không cần có lửa mà nó vẫn tự cháy được, còn ngoại sinh thì phải có nguồn lửa mới gây được cháy trong điều kiện thích hợp. Có một số loại than có tính tự cháy. Thường thì than chứa nhiều lưu huỳnh có tính tự cháy như than nâu ở Na Dương (lưu huỳnh 6,5%), than mỡ ở Mỏ Khe Bố, Mỏ Làng Cẩm (lưu huỳnh 2,0 4,0%), than bán an tờ ra xít Khánh Hòa (lưu huỳnh 2,5 -3,0%). Than an tờ ra xít vùng Đông Bắc lưu huỳnh thấp, chất bốc thấp nên thường không có tính tự cháy. Từ năm 2004 tôi nghi ngờ một số vỉa than vùng Đông Tràng Bạch Đông Triều có tính tự cháy thấp nhưng chưa có thí nghiệm nào xác minh. Bạn có thể hiểu cơ chế than tự cháy như sau: Đó là quá trình ôxy hóa ở điều kiện bầu không khí mỏ bình thường của một đống than vỡ vụn với cỡ hạt thích hợp. Đống than không cần lớn đâu, chỉ cần tập trung với khối lượng vài cân có cỡ hạt thích hợp (thường là than cám vụn) là nó tự nóng dần lên đến một nhiệt độ nhất định thì phát sinh đám cháy. Phải lấy mẫu than ở mỏ để làm thí nghiệm mới xác định được nó có tính tự cháy hay không, ở quy mô khối lượng nào thì có thể cháy và nhiệt độ nào thì đống than đang ủ nóng phát ra ngọn lửa. Riêng than tự cháy đã rất nguy hiểm, nhưng nếu trong mỏ có khí mêtan nữa thì sự nguy hiểm nhân lên gấp bội. Cộng hưởng của cháy mỏ và nổ khí mêtan có thể là một thảm họa rất khó lường. Vậy làm thế nào để nhận biết được dấu hiệu tự ủ nóng của than? Nếu bạn thấy đống than và không khí chung quanh nó nóng hơn bình thường (tức là nhiệt độ than và không khí đã gia tăng), thấy hơi nước bốc lên và cảm thấy có mùi khét thì đích thị là đống than đang trong quá trình tự ủ nóng, phải dập nguội nó ngay. Ở các mỏ có than tự cháy người ta duy trì một đội ngũ chuyên gia chuyên đi kiểm tra, phát hiện than tự cháy. Thời

Page 16: Thợ lò cũng là chiến sỹ

tôi là sinh viên, vào cuối năm 1968 tôi đã làm quen với một thợ mỏ già (bố của một bạn học với tôi) có trình độ trung cấp kỹ thuật mỏ, đã 65 tuổi rồi mà mỏ vẫn cố mời làm chuyên gia phát hiện than tự cháy. Bác ấy chỉ cần nhìn, ngửi và sờ là phát hiện được.

Ở các mỏ hầm lò có than tự cháy quy trình kỹ thuật thông gió và khai thác rất nghiêm ngặt. Nguyên tắc cơ bản là sạch và nhanh. Các đường lò phải sạch, luồng khai thác phải sạch và tiến gương nhanh, dọc các lò vận chuyển không được để than tồn đọng thành đống ở dưới gầm băng tải, nơi đầu băng tải, đầu máng cào… Ở các mỏ này người ta thường áp dụng biện pháp chèn lò bằng cát, bằng đá nghiền hay bằng đất sét vì than sót lại trong vùng đã phá hỏa hay phát sinh cháy.

Tuy đã được chèn lò bằng đất sét nhưng vào mùa hè năm 1987 ở Mỏ than Khe Bố đã xảy ra sự cố cháy mỏ. Đám cháy xuất hiện vào đêm chủ nhật (mỏ không làm việc, thông gió cục bộ bị ngừng) tại một đường lò thông gió đào trong than. Vào đầu ca 1 ngày thứ hai mỏ mới phát hiện có đám cháy (do có khói ở cửa lò). Rất đáng tiếc do đặt sai vị trí khởi động từ của quạt gió cục bộ (lẽ ra phải đặt ở ngoài cửa lò nhưng phân xưởng đã đặt ở trong lò) và không sử dụng máy thở công tác mà một thợ lò, một quản đốc và một phó phòng kỹ thuật đã hy sinh. Bạn cần chú ý ở khu vực nào trong mỏ mà thấy hàm lượng ôxy giảm đi, cácbonic (CO2) tăng lên thì có thể nghĩ đến ở đâu đó trong khu vực ấy đang có đống than được ủ nóng. Còn nếu ôxy giảm, cácbonic tăng ở khu vực liền kề với lò khai thác cũ đã được phá hỏa thì có thể than còn sót lại ở trong đó đang được ủ nóng hoặc đang cháy. Trong trường hợp này cách duy nhất là cách ly vùng đã phá hỏa với vùng ngoài bằng các đập chắn rồi phun khí trơ vào trong đó, đừng phí công đào lò vào vùng đã phá hỏa để tìm đám cháy, nguy hiểm lắm! Chuyện này đã xảy ra ở vỉa 24 Mỏ than Hồng Thái hồi năm 2004. Còn để phòng ngừa thì phải tuân thủ nguyên tắc khấu sạch, dọn sạch không để than tích tụ và đảm bảo tốc độ khai thác, tốc độ gió đã được xác lập.

Bây giờ ta tìm hiểu về đám cháy ngoại sinh. Cháy ngoại sinh tức là cháy từ nguyên nhân bên ngoài. Vậy trong điều kiện nào thì đám cháy trong hầm lò xuất hiện? Điều kiện cháy bao gồm vật liệu cháy + nguồn lửa + ôxy. Thiếu một trong ba cái đó đám cháy không thể hình thành. Vật liệu cháy trong hầm lò thường là: mêtan, than, gỗ, gỗ dăm, giẻ, dầu, mỡ, vỏ cáp điện, cao su (băng tải), quần áo, vải bạt, can nhựa, hộp nhựa (đựng thực phẩm), chai nhựa; cồn công nghiệp… Nguồn lửa thường phát sinh từ nổ mìn, diêm, bật lửa, tia lửa điện (chập điện), hàn điện, va chạm mạnh của sắt thép, ma sát ở rulô băng tải, thiết bị chạy quá tải sinh nhiệt cao trên bề mặt, lưỡi dao máy khấu, vệt nóng do máy khấu để lại khi khấu đá vách…

Bạn có thể hỏi, vậy các đám cháy ngoại sinh thường hay xảy ra ở chỗ nào trong hầm lò? Trả lời: ở mọi nơi có đủ ba điều kiện: vật liệu cháy, nguồn lửa, ôxy. Ôxy thông thường không thiếu vậy còn lại hai điều kiện thôi. Chẳng hạn bạn tập kết gỗ chống lò ở đoạn lò rộng lại có luồng gió tươi chạy qua rồi dùng búa chém bóc bì các cây gỗ, chặt mồm xà, mồm cột, cưa cột cho vừa kích thước… Vậy là ở đấy có mạt cưa, có dăm gỗ và gỗ (là chất cháy). Ngồi đợi thấy buồn ngủ bạn chép miệng cho qua điều đã học về an toàn lấy đất bua mìn nặn điếu, lấy miếng vỏ gỗ làm đóm rồi bật lửa hút thuốc lào (bạn đang làm điều cấm kỵ trong hầm lò); bạn hút rồi rủ đồng nghiệp hút, hút xong đứng dậy đi làm. Chẳng may tàn lửa từ đóm rơi vào cái giẻ có dầu máy nằm trên đống dăm gỗ. Bạn và đồng nghiệp đi rồi lửa âm ỷ cháy lan ra cả đống gỗ… Nguy cấp! Hay bạn là thợ cơ điện hầm lò trực trạm bơm chính ở mỏ. Đầu ca bạn lau chùi máy móc, xong việc bạn lấy một miếng giẻ khô để lau sạch dầu mỡ trên tay, vô tình bạn để miếng giẻ đó trên mặt máy động cơ. Dịp ấy mưa nhiều, máy bơm phải chạy liên tục nên mặt máy nóng khác thường. Đến một lúc nào đó cái giẻ kia nóng quá lại sẵn có dầu trong đó nên nó âm ỷ rồi cháy. Chẳng hiểu sao từ một cái giẻ cháy mà lửa lại lan sang cáp điện bọc vỏ cao su ở gần đó. Có lần một thợ điện mở nắp khởi động từ quạt gió cục bộ để sửa chữa, sửa xong lắp lại nhưng không vặn đủ chặt các bu lông, đến khi cho quạt cục bộ làm việc trở lại trong khởi động từ phát sinh tia lửa điện. Nắp hở nên tia lửa điện gặp được khi mêtan mới tích tụ nhiều ở bên ngoài thế là đám cháy lập tức xảy ra. Ở nơi đầu băng tải rulô phải chạy nhiều, ma sát lớn làm nóng cao su băng tải gây ra cháy (bây giờ người ta đã dùng băng tải không cháy). Hay trong lò chợ dùng máy khấu than nhưng không kiểm soát tốt thông gió và khí mỏ nên khi răng máy

Page 17: Thợ lò cũng là chiến sỹ

khấu cắt vào đá vách sinh ra tia lửa đúng ở chỗ có tích tụ mêtan. Đám cháy bùng phát. Đám cháy cũng có thể xảy ra khi nổ mìn cưỡng bức phá hỏa… Tóm lại bạn phải cẩn thận với các vật liệu cháy, đừng bao giờ để chúng bừa bãi, đừng bao giờ mang diêm, bật lửa xuống hầm lò, đừng làm gì gây ra tia lửa…

Vào năm 1985, ở Mỏ than Vàng Danh đã xảy ra đám cháy lớn trong lò chợ, cháy vào vỉa than phải mất nhiều thời gian mới dập tắt được. Có điều cơ quan điều tra đã lấy mẫu phân tích, thử đi, thử lại, đã tìm kiếm rất lâu mà không làm sao tìm ra nguyên nhân gây cháy. Năm 2004 ở Mỏ than Hồng Thái, Công ty than Uông Bí đã xảy ra đám cháy trong vùng đã phá hỏa không gây tổn hại về người nhưng buộc phải cách ly cả khu vực khai thác. Gần đây nhất vào đêm 15.1.2014 tại Mỏ than Đồng Vông Công ty than Uông Bí đã xảy ra vụ cháy trong lò chuẩn bị sản xuất làm chết 6 thợ mỏ. Phân xưởng khai thác 5 đang chuẩn bị diện khai thác từ mức +72m xuống mức -100m bằng hệ thống các đường lò chuẩn bị sản xuất. Vào đầu ca 3 lò trưởng và nhóm công nhân đã phát hiện khói và khí nóng nhưng 6 người trong đó có lò trưởng đã không chạy kịp. Trước đó lò trưởng đã kịp gọi điện báo cho quản đốc phân xưởng. Lửa cháy từ chỗ nào đó trong đường lò than, đã cháy lan vào vỉa than. Có nhiều ý kiến khác nhau về nguyên nhân và vị trí phát sinh đám cháy. Có ý kiến cho rằng đám cháy phát sinh do ma sát ở rulô đầu băng tải rồi lan sang vách ngăn bằng gỗ và bắt vào vỉa than. Có ý kiến nghi ngờ rằng có thể than Đồng Vông (khoáng sàng Đông Tràng Bạch) có tính tự cháy… Dù sao thì cũng phải cách ly khu vực bị cháy bằng tường ngăn và bơm khí trơ vào để dập tắt nó. Chỉ khi nào mở lại khu vực đó thì nhà điều tra mới có thể vào tận nơi để xem xét. Kinh nghiệm cho biết nếu vùng cháy bị cách ly sớm mở lại được (nhiệt độ đã về mức ổn định, khí ôxýt các bon và các bon níc trở lại dưới mức cho phép) thì đám cháy đã xảy ra có nguyên nhân ngoại sinh; nếu phải nhiều tháng hay nhiều năm sau mới mở ra được thì thường là đám cháy nội sinh. Bạn đã thấy rồi đấy, cháy mỏ rất nguy hiểm nhưng không dễ gì xác định ngay được nguyên nhân một cách cụ thể, chính xác.

II.2.5. Hiểm họa nổ bụi than

Bạn hỏi tại sao lại có chuyện nổ bụi than? Có gì nhầm lẫn ở đây không? Không nhầm đâu bạn ạ. Nổ bụi than là một nguy cơ kinh khủng ở các mỏ than có chất bốc cao, thường là lớn hơn 15% (V>15%). Tuy vậy không phải mỏ nào có than chất bốc cao cũng sinh ra nguy cơ nổ bụi than. Phải làm các thí nghiệm cụ thể mới xác định được ở mỏ nào có nguy cơ này. Những hạt bụi than cực nhỏ, lơ lửng trong các đường lò với mật độ thích hợp, cộng thêm một số điều kiện khác có thể gây nổ trong hầm lò. Bụi than cũng có thể làm cho thợ lò mắc bệnh nghề nghiệp bụi phổi. Nổ bụi than là vụ nổ của hỗn hợp bụi than với không khí mỏ. Nếu trong mỏ mà có khí nổ (mêtan) thì vụ nổ bụi than với mêtan càng kinh khủng Đó là vụ nổ mang tính dây chuyền có thể lan ra khắp cả mỏ gây ra thảm họa khốc liệt. Nổ bụi than cũng có thể xảy ra trong nhà máy tuyển than.

Có điều may mắn là các mỏ than vùng Đông Bắc thường có chất bốc thấp, ví dụ than vùng Uông Bí-Vàng Danh chất bốc từ 3 đến 6%, than vùng Hòn Gai-Cẩm Phả chất bốc thường là 8-10%. Tuy nhiên, vẫn có ngoại lệ một số lộ vỉa than vùng này có chất bốc 13-15%. Các mỏ than Khe Bố, Làng Cẩm chất bốc cao hơn, thường trên 15%, than vùng Đồng bằng Sông Hồng có chất bốc trên 20%.

Hiện tại (đến 2014) Ngành Than Việt Nam chưa có phòng thí nghiệm xác định than tự cháy và nguy cơ nổ bụi than. Được biết dự án này đang được triển khai đầu tư.

II.2.6. Hiểm họa chấn động trong mỏ

Chấn động mỏ gây thảm họa sập lò thường xảy ra ở các mỏ khai thác các vỉa than nằm sâu dưới lòng đất (thường là ở độ sâu trên 700m như ở Ba Lan đã từng xảy ra) và ở phía trên nó có lớp đất đá có sự biến động lớn. Ở Việt Nam chưa ghi nhận được vụ chấn động nào trong các mỏ hầm lò, có lẽ vì ta khai thác chưa sâu (mới đến -250m ở Mông Dương và -300m ở Hà Lầm.

Page 18: Thợ lò cũng là chiến sỹ

II.2.7. Các hiểm họa do sai lầm của con người gây ra

Có thể nói rằng từ xưa đến nay con người đã gây ra không ít hiểm họa cho mình trong các mỏ hầm lò. Đó là sai lầm của các nhà quản lý các cấp lẫn sai lầm của thợ lò - những người trực tiếp làm việc trong mỏ hầm lò. Trươc hết tôi muốn bạn hiểu rằng các nhà quản lý gây ra không ít tai họa đâu. Bạn hãy tham khảo phần trình bày dưới đây.

- Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật không phù hợp với thực tế công nghiệp mỏ Việt Nam đã gây ra không ít khó khăn cho người thực hiện. Một thời gian rất dài Việt Nam áp dụng Quy phạm tạm thời về an toàn trong các mỏ hầm lò than và diệp thạch được dịch từ Quy phạm của Liên Xô và ban hành vào năm 1967. Cái quy phạm tạm thời ấy kéo dài gần ba mươi năm. Không chỉ quy phạm tạm thời về an toàn mỏ mà rất nhiều văn bản tạm thời khác đã được áp dụng vài ba chục năm hoặc lâu hơn. Vì thế, người đời thường nói rằng, ở ta cái tạm thời là cái vĩnh cửu! Theo quy phạm việc khai thác vỉa dày chia lớp thì lò khai thác lớp trên phải cách lớp dưới ít nhất 30m, không có trường hợp ngoại lệ. Ở Mỏ than Khe Bố khai thác vỉa dày chia hai lớp có chèn lò bằng đất sét. Nếu thực hiện đúng giãn cách tối thiểu 30m thì lò đổ. Làm đi làm lại nhiều lần lò vẫn đổ và suýt gây thảm họa chết nhiều người, may mà thợ lò chạy kịp. Nhưng nếu để giãn cách 8-10m thì lò không đổ, việc khai thác được an toàn. Năm 1987, Công ty than 3 báo cáo cơ quan có thẩm quyền xin điều chỉnh xuống 8-10m nhưng không được xem xét đành phải quyết định vượt cấp cho mỏ làm.

- Thiết kế mỏ không phù hợp với điều kiện tự nhiên, địa chất công trình, địa chất thủy văn, địa chất mỏ của mỗi mỏ hay khu vực mỏ. Chọn sai hệ thống khai thông, mở vỉa; chọn sai kết cấu chống lò, chọn sai hệ thống và phương pháp khai thác, chọn sai hệ thống thông gió, thoát nước, cấp điện, cấp nước, thoát khí v.v… đều có thể gây ra sự cố lớn nhỏ thậm chí thảm họa khôn lường. Cái gì sai có thể sửa chữa được, chứ đã thiết kế sai hệ thống khai thông, mở vỉa, đã thi công xong rồi mới phát hiện ra thì khó sửa chữa lắm. Các kỹ sư mỏ! Bạn đừng tưởng rằng cứ có thiết kế được cấp có thẩm quyền phê duyệt rồi là đúng đâu, cứ thi công đi, cứ làm đi… Nếu suy nghĩ và hành động như vậy thì bạn chưa phải là kỹ sư mỏ thực thụ đâu. Ai cũng có thể phạm sai lầm. Các kỹ sư thiết kế kể cả chủ nhiệm đồ án có kinh nghiệm cũng vậy. Trong đội ngũ đó có những người tài giỏi, có những người “thường thường bậc trung” và có cả những người dốt nữa đấy. Nghề nào cũng vậy thôi. Người tài có khi chủ quan cũng phạm sai lầm. Nhiều nhà thiết kế chưa từng kinh qua chút thực tế nào ở mỏ, ra trường về Viện thiết kế làm việc cho đến khi nghỉ hưu, họ nặng về sách vở, thậm chí sách vở đã quá cũ, nhiều người không bám theo được thực tế khoa học, công nghệ đã tiến xa tới đâu. Có một câu chuyện vừa tức vừa buồn cười thế này: Chủ nhiệm đồ án thiết kế hơn hai mươi năm tuổi nghề mà không giải thích được cho Phó Tổng giám đốc Tổng Công ty Than Việt Nam sơ đồ công nghệ lò chợ chống bằng cột thủy lực đơn (1998). Anh ta không hề nhận ra sai lầm trong bản vẽ thiết kế mà mình đã chủ trì, đã ký vào đó. Chính Phó Tổng giám đốc đã chỉ cho anh ta cái sai sót “chết người” đó. Bạn là kỹ sư làm việc ở mỏ có thể không giỏi lý thuyết bằng các nhà thiết kế chuyên nghiệp nhưng chắc chắn bạn có nhiều kinh nghiệm thực tế hơn họ. Bạn hãy đọc, hãy nghiên cứu kỹ các thiết kế để đưa ra các ý kiến phản biện, ngay cả khi nó đã được phê duyệt. Duyệt rồi nhưng thấy sai, thấy có nguy cơ gây hại thì nhất định bạn phải có ý kiến, ý kiến đến cùng. Phải đấu tranh đòi thay đổi. Bạn cũng nên nhớ bạn làm ở mỏ, là cơ quan giữ vai trò chủ đầu tư, cơ quan thiết kế làm thuê cho chủ đầu tư đó, họ không phải là cấp trên của bạn, đừng sợ họ. Nếu có là cấp trên đi chăng nữa (cấp trên phê duyệt thiết kế do chủ đầu tư trình) khi thấy thiết kế sai bạn cũng phải kiên quyết yêu cầu điều chỉnh, duyệt rồi mà thấy sai thì duyệt lại là việc cần phải làm. Mình làm chủ, phải chủ động, đừng thụ động bạn nhé.

hó tổng giám đốc Tổng Công ty Than Việt Nam sơ đồ công nghệ lò chợ chống bằng cột thủy lực đơn (1998). Anh ta không hề nhận ra sai lầm trong bản vẽ thiết kế mà mình đã chủ trì, đã ký vào đó. Chính phó Tổng giám đốc đã chỉ cho anh ta cái sai sót “chết người” đó. Bạn là kỹ sư làm việc ở mỏ có thể không giỏi lý thuyết bằng các nhà thiết kế chuyên nghiệp nhưng chắc chắn bạn có nhiều kinh nghiệm

Page 19: Thợ lò cũng là chiến sỹ

thực tế hơn họ. Bạn hãy đọc, hãy nghiên cứu kỹ các thiết kế để đưa ra các ý kiến phản biện, ngay cả khi nó đã được phê duyệt. Duyệt rồi nhưng thấy sai, thấy có nguy cơ gây hại thì nhất định bạn phải có ý kiến, ý kiến đến cùng. Phải đấu tranh đòi thay đổi. Bạn cũng nên nhớ bạn làm ở mỏ, là cơ quan giữ vai trò chủ đầu tư, cơ quan thiết kế làm thuê cho chủ đầu tư đó, họ không phải là cấp trên của bạn, đừng sợ họ. Nếu có là cấp trên đi chăng nữa (cấp trên phê duyệt thiết kế do chủ đầu tư trình) khi thấy thiết kế sai bạn cũng phải kiên quyết yêu cầu điều chỉnh, duyệt rồi mà thấy sai thì duyệt lại là việc cần phải làm. Mình làm chủ, phải chủ động, đừng thụ động bạn nhé.

- Biện pháp kỹ thuật thi công các đường lò, biện pháp kỹ thuật và tổ chức lao động trong khai thác; các quy trình kỹ thuật sai cũng gây hậu quả không kém. Biện pháp kỹ thuật, sơ đồ công nghệ, hộ chiếu khoan nổ mìn, sơ đồ thông gió, quy trình vận hành, quy trình làm việc… thường là do các kỹ sư ở mỏ lập, lãnh đạo duyệt rồi cho làm. Nếu bạn chủ quan không khảo sát kỹ, không đọc kỹ quy chuẩn, không cập nhật những tiến bộ khoa học, công nghệ, quản lý, không tham khảo ý kiến những người có kinh nghiệm, không tham khảo những người trực tiếp thực hiện và phổ biến kỹ cho họ thì tai họa có thể xảy ra.

- Chỉ huy tồi cũng gây tai họa cho người lao động. Tôi chắc rằng bạn có thể đã làm việc dưới quyền một số người chỉ huy, trong số đó có người được bạn và các đồng nghiệp khen “ông này được đấy”, và có người bị các bạn chê “cha này đã dốt lại còn vênh váo”. Vậy cái anh dốt ấy hay thể hiện ra thế nào? Trước hết dù có học nhưng anh ta không nắm chắc công việc, anh ta không hiểu rõ đội ngũ những người làm việc dưới quyền của mình nên không biết phân công sao cho hợp lý. Anh ta có thể nói “thao thao bất tuyệt” nhưng trong đầu rỗng tuếch không đưa ra được điều gì cụ thể trong những lúc gay cấn. Nhiều lần như vậy sẽ chẳng còn ai lắng nghe anh ta nữa, anh ta phát cáu và phạm thêm sai lầm. Trong những lúc gay cấn mà người chỉ huy trực tiếp không nắm được công việc, không dám dấn thân chịu đựng, không gương mẫu xông pha, không biết xoay xở thế nào thì chắc chắn tai họa xảy ra. Lính có thể chết oan do chỉ huy dốt và nhát là như vậy. Gặp những người chỉ huy như vậy thật là chán phải không bạn? Nhưng đừng nản, hãy đấu tranh đòi thay đổi bạn nhé! Nếu người chỉ huy kém thì đơn vị của bạn có nguy cơ không hoàn thành kế hoạch sản xuất, có nguy cơ xảy ra sự cố kỹ thuật, tai nạn lao động, thu nhập của bạn bị giảm sút. Thế là đổ vỡ rồi còn gì. Lò trưởng hay ca trưởng, hay quản đốc chỉ huy một lò chợ, một phân xưởng đào lò hay khai thác không khác gì trung đội trưởng, đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng chỉ huy trận đánh. Sỹ quan chỉ huy dốt và nhát thì có trang bị đến tận răng trận đánh cũng thua. Trong hầm lò cũng vậy, thợ lò là chiến sỹ, lò trưởng, trưởng ca, quản đốc là sỹ quan chỉ huy. Nếu bạn được giao làm lò trưởng, trưởng ca, hay cao hơn là quản đốc bạn nên lắng nghe xem các chiến sỹ thợ lò nói về bạn thế nào, nhớ tiếp thu chân thành và rèn luyện nhiều hơn để xứng đáng với họ, chứ đừng hơi tý đe nạt, cao giọng “dọa cả làng” đấy nhé.

Chuyện về những sai sót của các nhà quản lý thì còn nhiều, tôi chỉ nêu bốn cái 'gạch đầu dòng” để bạn tham khảo. Là chiến sỹ thợ lò bạn có nghĩ rằng mình cũng có thể mắc sai lầm gây tai họa cho bản thân và đồng nghiệp không? Có đấy, vậy nó thường xảy ra trong các trường hợp nào? Các nhà quản lý về an toàn, vệ sinh lao động quốc gia đã đưa ra nhận xét hơn một nửa, thậm chí 60-70% số vụ tai nạn lao động xảy ra là do người lao động thiếu chú ý tự bảo vệ mình, bảo vệ đồng nghiệp. Trong hầm lò ở ta thợ lò hay mắc sai lầm trong các trường hợp dưới đây:

- Thiếu chú ý quan sát khi đi lại trong lò, thậm chí chủ quan không vào đúng chỗ tránh khi có đoàn tàu điện đi qua, không đi lại đúng hành lang quy định (thường là lối đi ở phía có rãnh nước), trèo qua các toa goòng; không chú ý nền lò trơn nên bị trượt ngã, không chú ý các vật cản như đống gỗ, đống vì lò, các toa goòng hỏng v.v… Rồi liều lĩnh đi trên ván trượt hay máng cào đang chạy, nằm dưới băng tải đang di chuyển hay đặt vật liệu lên đó thay cho việc khiêng vác. Gần đây, trên Tạp chí Than Khoáng sản Việt Nam đăng bài viết “Tắc xi hầm lò” để nhắc nhở việc vận chuyển vật liệu trái phép bằng băng tải theo chiều ngược lại với dòng than ra trên băng.

Page 20: Thợ lò cũng là chiến sỹ

- Dại dột chui vào nơi đã treo biển cấm, thậm chí tháo cả lưới thép B40 bịt đoạn lò cấm để chui vào trong như đã xảy ra ở nhiều mỏ và gần đây nhất là ở Mỏ than Đồng Vông ngày 31/7/2013 làm chết ba người do bị ngạt khí. Đầu tiên là một cơ điện lò mở biển cấm và lưới thép ra chui vào đó (làm gì chưa rõ), không thấy anh này ra anh giám sát viên an toàn đi tìm cũng bị nạn, rồi đến phó quản đốc. Cả ba người đều chết do lò đã đóng hơn 20 ngày không được thông gió, thiếu ôxy nghiêm trọng. Bạn đừng bao giờ liều lĩnh chui vào các khu vực đã treo biển cấm, đã có rào ngăn cách. Nếu muốn giải quyết nhu cầu cá nhân thì đến nơi được thông gió nhưng vắng người rồi vùi phế thải đi. Nếu muốn cất giữ dụng cụ lao động thì làm cái tủ sắt để nơi hầm trạm được thông gió, đừng liều lĩnh giấu vào hông lò đã bị “cấm vào”.

- Không làm đúng quy trình thao tác hay các bước công việc, thích làm tắt cho nhanh-đó là lỗi phổ biến của thợ lò bao gồm cả thợ cơ điện lò. Chẳng hạn thợ đào lò bỏ qua bước cạy om, sửa gương, chống tạm trước khi khoan chu kỳ tiếp theo; thợ lò chợ bỏ qua việc kiểm tra áp lực trên đồng hồ giá chống thủy lực di động hoặc là trong lò chợ dốc cặp thợ phía trên làm ẩu gây tai họa cho cặp thợ phía dưới; ca trước làm ẩu gây tai họa cho ca sau; thợ vận hành tời trục ở giếng nghiêng bỏ qua động tác kiểm tra đầu cáp v.v… Sự bỏ qua ấy chính là sự tùy tiện mà người ta thường gọi là làm bừa, làm ẩu đấy. Không biết bao nhiêu người làm bừa, làm ẩu đã tự gây thương tích cho mình và đồng nghiệp; đã tự đưa mình và đồng nghiệp vào chỗ chết? Bạn ơi, hàng ngày khi đi làm bạn nên nghĩ về ba cái “gạch đầu dòng” tôi vừa nêu ở trên và có thể bạn sẽ thêm vào đó một vài cái gạch đầu dòng nữa. Mỗi cái gạch đầu dòng ấy là bao nhiêu mạng sống trong đó có bản thân mình?

- Còn một điều nữa mong bạn lưu ý, có một số (không ít đâu) tai nạn lao động nhưng bản chất là tai nạn rủi ro đã xảy ra trong hầm lò do người bị nạn không biết sử dụng đúng cách trang bị bảo hộ lao động, không đi khám sức khỏe định kỳ, nên không biết mình mắc bệnh tiềm ẩn trong cơ thể; rồi rượu bia bét nhè khi xuống lò làm thì buồn ngủ díu mắt lại, chân tay lóng ngóng hay đêm trước ham vui ngồi chiếu đánh bài thâu đêm hoặc là người yêu hay vợ mới đến thăm yêu nhau quá đà, mang cơ thể mệt mỏi và sự buồn ngủ vào lò… Nếu chả may rơi vào những trường hợp như vậy thì xin bạn thực hiện lời khuyên sau đây: nói thẳng với người chỉ huy về tình trạng sức khỏe của mình và xin phép nghỉ làm việc, làm bù vào ngày khác và đừng lặp lại việc đó nữa. Hãy giữ mọi sinh hoạt (rượu, bia; chơi bài, ca hát, làm tình …) trong tầm kiểm soát. Bạn có thể xả hơi vào ngày nghỉ cuối tuần.

Tại sao cả các nhà quản lý quy chuẩn kỹ thuật - thiết kế - biện pháp kỹ thuật - chỉ huy lẫn những người lao động trực tiếp lại mắc vào nhiều “cái gạch đầu dòng” đến thế? (Nhiều sai lầm đến thế?). Câu hỏi này không ngoại trừ bất cứ ai trong đó có cả tôi, tác giả quyển sách này. Nguyên nhân của căn bệnh tùy tiện, làm bừa, làm ẩu này có nhiều; nhưng ở đây tôi xin chỉ ra một nguyên nhân cơ bản đó là tác phong công nghiệp kém. Hay nói đúng hơn là chưa có tác phong công nghiệp, tức là chưa biết tuân thủ một cách nghiêm ngặt kỷ luật lao động, quy trình làm việc, quy chuẩn kỹ thuật an toàn… Đa số thợ lò bao gồm cả các kỹ sư đều xuất thân từ nông thôn, dù đã qua đào tạo vẫn mắc “căn bệnh tùy tiện” vốn có của người nông dân. Vậy bạn có muốn tự bảo vệ mình, bảo vệ đồng nghiệp trong điều kiện làm việc ở hầm lò không? Chắc là có rồi! Không có cách nào khác, cả thợ lò làm việc trực tiếp lẫn các kỹ sư, các cán bộ chỉ huy, cán bộ giám sát an toàn đều phải tự mình hàng ngày, hàng giờ rèn luyện thói quen chấp hành kỷ luật lao động, thực hiện đúng các quy trình kỹ thuật, tuân thủ chỉ huy, nếu phát hiện điều gì sai, cái gì không đồng ý thì phải nêu ý kiến ngay. Rèn luyện tính kỷ luật tự giác, tác phong công nghiệp là cả một quá trình, không phải ngày một, ngày hai là đạt được, và nếu chưa làm điều đó thì bạn hãy bắt đầu đi, chưa bao giờ là muộn cả, mỗi ngày bạn cố một tý, cứ thế tiến dần, tôi tin là bạn sẽ thành công. Tôi muốn nói thêm một điều: người chỉ huy phải gương mẫu tự rèn luyện mình trước thì mới thành công trong huấn luyện công nhân dưới quyền… Làm việc tùy tiện, thiếu tác phong công nghiệp nhất định tai nạn sẽ xảy ra đe dọa mạng sống của bạn và đồng đội, mỏ có thể bị đóng cửa. Rèn luyện tác phong công nghiệp là vấn đề cốt lõi giữ sinh mạng của thợ lò, giữ cho mỏ được an toàn và phát triển. Ngược lại thì tôi nói không quá đâu mọi thứ sẽ sụp đổ. Kỷ luật lao động trong hầm mỏ chẳng khác gì kỷ luật sắt của quân đội

Page 21: Thợ lò cũng là chiến sỹ

ngoài chiến trường vậy. Trong quân đội có phương châm rèn luyện cho các chiến sỹ và sỹ quan là: đổ mồ hôi trên thao trường (luyện tập) càng nhiều thì đổ máu trên trên chiến trường (chiến đấu) càng ít. Bạn thấy đấy xét về việc tập luyện kỹ năng, rèn luyện kỷ luật thì bộ đội và thợ lò giống nhau đến 100%.

Ở nước Đức và nước Ba Lan người ta quản lý, chỉ huy công việc hầm mỏ và thợ lò giống như hệ thống quản lý, chỉ huy của quân đội. Nói cách khác theo kiểu quân sự hóa. Nhờ vậy tính kỷ luật trong hầm mỏ được đề cao, tai nạn, sự cố cũng ít hơn nhiều nơi khác. “Kỷ luật sắt” đó là kỷ luật bắt buộc đòi hỏi phải rèn luyện hàng ngày với sự cố gắng lớn lao, với tình yêu ở trong đó. Nếu các quan chức nhà nước yêu nghề, yêu người ban hành các tiêu chuẩn kỹ thuật an toàn đúng; các nhà thiết kế mỏ yêu người, yêu nghề thiết kế đúng; các nhà quản lý ở mỏ lập biện pháp kỹ thuật, công nghệ đúng, chỉ huy đúng, kiểm tra giám sát đúng thì sẽ giảm đi được quá nửa số vụ sự cố, tai nạn lao động trong hầm lò. Phần còn lại phụ thuộc vào sự rèn luyện tay nghề, rèn luyện kỷ luật lao động và lòng yêu nghề của công nhân lao động trực tiếp.

Trước khí kết thúc chương II (Nơi làm việc của thợ lò thế nào?) để chuyển sang chương III (Tự bảo vệ an toàn cho mình và đồng nghiệp) tôi muốn bạn ghi nhớ mấy điều sau đây:

(1)- Nơi làm việc của thợ lò dù có được cải thiện bằng cơ giới hóa, tự động hóa, hay điều hòa không khí đi chăng nữa thì nó vẫn là “âm phủ” đầy bất trắc, nó chuyển dịch theo thời gian và không gian và càng xuống sâu thì các hiểm họa càng nhiều.

(2)- Dù là hiểm họa tự nhiên (khí mỏ, nước mỏ, áp lực mỏ, chấn động mỏ, than tự cháy, bụi than …) nhưng nếu con người cẩn thận (thiết kế đúng, biện pháp đúng, thi công đúng, thao tác đúng) tuân thủ các quy trình kỹ thuật, kỷ luật lao động thì sẽ kiểm soát được các hiểm họa, đưa thiệt hại về người và của đến mức nhỏ nhất.

(3)- Nơi làm việc (môi trường làm việc) hiện đại mà con người không theo kịp, không hiện đại một cách tương xứng thì sự cố, tai nạn lao động vẫn cứ xảy ra vì vậy rèn luyện tác phong công nghiệp tuân thủ kỷ luật lao động, nâng cao tay nghề qua đó mà nâng cao năng suất lao động là vấn đề sống còn của mỗi thợ lò, của mỗi mỏ than hầm lò và cả Ngành Than Việt Nam.

CHƯƠNG III: TỰ BẢO VỆ AN TOÀN CHO MÌNH VÀ ĐỒNG NGHIỆP

III.1. AN TOÀN MỎ, AN TOÀN LAO ĐỘNG LÀ GÌ?

Đọc đến cái đề mục “an toàn mỏ là gì” có thể bạn cười thầm cho là ngớ ngẩn và tự nhủ: ngày nào chúng tôi chả hô, chả nhắc nhau “an toàn nhé” ngay từ đầu ca làm việc, chúng tôi biết tỏng rồi cần gì phải hỏi nữa. Bạn đúng, nhưng có thể chưa đủ đâu, vậy nên thêm một lần tìm hiểu xem “an toàn mỏ là gì?” cũng đáng. Và ở đây sẽ đề cập cụ thể đến an toàn mỏ than hầm lò. Chữ “an” trong tiếng Hán có nghĩa là an hay yên trong tiếng Việt ta. Người Hán xưa kia biểu thị sự yên ổn bằng hình tượng người đàn bà ở trong nhà (chữ an ở trên có bộ mái nhà, ở dưới có chữ nữ). Khi trong nhà có người đàn bà thì mọi việc yên ổn, ngược lại chị ta yên tâm khi được sống dưới một mái nhà với người chồng là chỗ dựa. An là sự yên ổn hay sự sắp đặt sao cho được yên, được thoải mái. Còn toàn thì sao? Toàn ở đây là đủ, cả, tất cả, là sự trọn vẹn, trọn bộ hay là sự lành lặn. Người Hán xưa thể hiện chữ toàn bằng ký tự mái lều ở trên và chữ vương ở dưới. Có thể “chiết tự” rằng, ông vua đứng dưới mái lều trên núi cao nhìn bao quát xung quanh, phóng tầm mắt đến tận chân trời và nói rằng ta cai quản cả thiên hạ. Vậy an toàn là sự yên ổn trọn vẹn, là sự lành lặn không sứt mẻ gì. Còn đảm bảo an toàn là làm sao giữ được sự yên ổn trọn vẹn đó, sự lành lặn đó; đừng để con người bị tổn thương, đừng để vật dụng hay hoàn cảnh bị sứt mẻ. Nói một cách ngắn gọn an toàn là yên lành.

Page 22: Thợ lò cũng là chiến sỹ

Cái mỏ đang được khai thác khác với cái nhà máy nào đó đang vận hành ở chỗ nhà máy thì đứng yên một chỗ, chỉ có dây chuyền sản xuất và con người hoạt động đưa nguyên liệu vào, chế biến ra sản phẩm nhập kho. Còn mỏ thì dịch chuyển cả trong thời gian, lẫn không gian nên khó quản lý, khó đảm bảo an toàn hơn nhất là mỏ hầm lò, ở đó chỉ có máy móc trong các hầm trạm chính, trong giếng đứng là ở yên một chỗ, còn mọi thứ khác và con người đều dịch chuyển. Dịch chuyển theo chiều dài, chiều rộng, chiều cao hay chiều sâu, biển đổi hàng giờ, hàng ngày. Làm sao giữ cho tất cả sự họat động đó, sự dịch chuyển đó, sự biến động đó được lành lặn không sa sẩy gì? Tức là làm sao tất cả hoạt động của mỏ từ trên mặt đất đến trong lòng đất không bị nguy hiểm, không xảy ra sự cố, tai nạn gì! Nếu không giữ yên lành cho thợ lò, cho toàn bộ công trình mỏ, cho tất cả máy mỏ, tất cả các hệ thống cấp điện, thông gió, cấp thoát nước, thông tin liên lạc, vận tải v.v… và vv được yên ổn, không giữ cho tất cả các đường lò được yên ổn thì sự cố sẽ xảy ra mang sự nguy hiểm đến cho con người, đe dọa tính mạng con người. Đó chính là an toàn mỏ. Nói một cách ngắn gọn an toàn mỏ hầm lò là giữ cho mọi hoạt động trên mặt đất, trong lòng đất của mỏ được yên ổn/lành lặn. Còn an toàn vệ sinh lao động là giữ cho con người được lành lặn, khỏe mạnh trong quá trình lao động hàng ngày. An toàn lao động trong mỏ hầm lò là một phần đặc biệt quan trọng trong an toàn mỏ hầm lò. Thợ lò mưốn được lành lặn, khoẻ mạnh (không mắc bệnh nghề nghiệp) trong lao động thì phải giữ cho mọi hoạt động của mỏ hầm lò được yên. Đó là cách tự bảo vệ mình, bảo vệ đồng nghiệp, bảo vệ mỏ. Các mục nêu trong chương này sẽ trao đổi với bạn về các kỹ năng tự bảo vệ và các giải pháp cơ bản đảm bảo an toàn mỏ.

III.2. RÈN LUYỆN KỸ NĂNG TỰ BẢO VỆ - LÀM VIỆC VỚI TÌNH YÊU TRONG ĐÓ

III.2.1. Sử dụng đúng trang bị bảo hộ lao động

Nhiều lần tôi xuống mỏ đã gặp không ít thợ lò cả công nhân và kỹ sư sử dụng không đúng các trang bị bảo hộ lao động. Đây có thể là một trong nhiều nguyên nhân gây ra sự cố hay tai nạn lao động. Trước hết nói về bộ quần áo lao động. Bạn hãy chọn cho mình bộ quần áo đúng cỡ vừa với mình, nếu mặc chật quá khó làm việc và dễ vấp ngã. Nếu rộng “thùng thình” thì lại vướng víu cũng có thể làm cho bạn bị ngã hoặc cản trở thao tác. (Ví dụ: Ca ba ngày 25.02.2013 tại Phân xưởng vận tải lò 2 Khu Đông Vàng Danh thuộc Công ty than Đồng Vông đã xảy ra tai nạn lao động làm chết thợ vận hành tời ma-nơ JD-11.4 bậc 3/7 do bị cáp tời quấn vào áo khoác chống rét khi anh này sơ ý không cài cúc và thắt đai áo). Cúc quần phải chắc chắn và tốt nhất bạn nên luồn dây lưng vào đảm bảo sao cho khi gặp sự cố quần không tuột ra khỏi người bạn. Bạn cũng cần giữ gìn đôi tay bằng việc mang găng tay vừa với kích cỡ của mình. Mới đeo găng tay làm việc có vẻ khó khăn nhưng rồi sẽ quen thôi. Còn đôi bàn chân bạn phải luôn giữ cho chúng được khô trong đôi ủng không chật quá mà cũng không rộng quá. Có mỏ may sẵn cho thợ mỏ đôi bao chân bằng vải hình đôi tất có dây buộc, có nơi dùng tất, nhưng tốt nhất là miếng ghệt hình tam giác bằng vải bông dễ thấm mồ hôi. Thợ lò khắp nơi trên thế giới hay ít nhất là những nơi tôi đã đến như Ba Lan, Ucraina, Nga, Trung Quốc, Đức, Pháp, Nhật đều cuốn chân bằng ghệt cả. Làm như vậy đôi chân bạn sẽ được giữ chắc chắn và êm ái trong đôi ủng cao su hay đôi giày cao cổ. Thực ra tôi vẫn chưa ưng những đôi ủng cao su mà một số mỏ của ta đang dùng, so với thời bao cấp thì tốt lắm rồi đấy nhưng vẫn chua đủ độ bám, độ dày cần thiết và đặc biệt là độ mềm dẻo. Trước đây Tổng Công ty Than đã cho đặt ở Hải phòng nơi có thể cho ra đời những đôi ủng tốt nhất cho thợ lò, nhưng nhiều người lý sự “kinh tế thị trường” vẫn ngấm ngầm mua ủng giá rẻ về mỏ. Ở Ba Lan hay Đức nơi hầm lò khô ráo người ta trang bị cho thợ lò giày da lộn có mũ thép rất an toàn. Bây giờ nói đến mũ lò, bạn cũng phải chọn mũ cho vừa với cỡ đầu của mình sao cho có thể điều chỉnh được cầu mũ cho nó ôm lấy đầu mà bạn vẫn thấy thoải mái. Bạn nên cài quai mũ vào cho chắc chắn và đừng bỏ mũ ra khỏi đầu khi đi lại, làm việc trong hầm lò.

Cái mũ lò cùng với đèn lò và bình tự cứu là thần hộ mệnh của bạn đấy. Đèn lò phải đảm bảo sáng được 24 giờ và bạn phải cài nó lên mũ, giữa đèn, mũ và lưng bạn phải được kết nối bằng dây đeo đèn và cáp đèn. Ở một số mỏ đã xuất hiện đèn nhỏ gọn bằng bao thuốc lá, cán bộ đi lò cầm tay hoặc cài lên túi áo. Tôi đã phê phán, đó là một sai lầm, ở mỏ hầm lò không được phép làm việc đó. Tại sao? Vì đèn phải

Page 23: Thợ lò cũng là chiến sỹ

luôn gắn với người, chả may mũ có bị bật ra khỏi đầu thì vẫn còn dây cáp đèn gắn trên mũ, bạn có thể nhanh chóng đội lại mũ và sử dụng đèn. Còn nếu đèn cài lên túi áo nó mà bật ra nhất là trong khi gặp sự cố thì bạn có thể không có đèn mà dùng đâu. Nó ngăn cản đường thoát của bạn đấy.

Bây giờ nói đến cái bình tự cứu bắt buộc lúc nào cũng phải ở bên người. Người Nga, người Nhật gọi nó là bình tự cứu, còn người Ba Lan gọi nó là bình lọc tẩu thoát. Cái bình này chỉ có tác dụng lọc không khí khi có đám cháy mỏ xảy ra giúp bạn tránh nhiễm phải khí độc ôxýt các bon, khí ngạt các bon níc trong một khoảng thời gian đủ để bạn chạy thoát từ khu vực cháy ra nơi có luồng gió sạch, an toàn. Trong thời gian đó bạn thở hoàn toàn bằng ôxy được sinh ra từ bình tự cứu, cách ly với bầu không khí mỏ. Vậy khi ngửi thấy mùi khét hay cảm nhận thấy có đám cháy bạn phải ngay (lập tức) mở bình tự cứu, sử dụng nó như đã được hướng dẫn và chạy thoát ra nơi có luồng gió sạch. Trong trường hợp nhìn thấy đám cháy hở trong đường lò đang ở mức độ nhỏ có thể dập tắt nhanh được thì sau khi mở dùng bình tự cứu bạn phải cùng đồng đội dập tắt đám cháy rồi hãy chạy ra ngoài. Bạn đừng chạy gấp gáp quá, quan trọng là tốc độ nhanh và đều để cái bình tự cứu giúp bạn thở được. Người ta thường thiết kế các loại bình tự cứu 30 phút, 45 phút, 60 phút để trang bị cho thợ lò. Ở các mỏ Ngành Than ta thường là các bình 60 phút. Cái bình này giúp bạn chạy thoát hiểm và chỉ dùng một lần. Bạn phải học cách mở và dùng nó một cách nhanh chóng, hữu hiệu nhưng tôi lại mong rằng không bao giờ bạn phải dùng đến nó.

Để kết thúc phần này tôi mời bạn thử hình dung xem nếu đám cháy mỏ xảy ra mà bạn lúng túng không biết mở và dùng ngay bình tự cứu, hay mở được rồi mà đèn, mũ văng ra không thu nhanh về được, hay đang chạy mà bị vấp ngã do quần áo quá chật hay quá rộng, hoặc là ủng bị tụt mấy do đi đôi tất lỏng trong cái ủng rộng thì sự thể sẽ ra thế nào? Có thể dẫn tới kết cục người khác thoát được còn bạn thì không; chỉ vì bạn thiếu cẩn thận không sử dụng đúng trang bị bảo hộ lao động.

Những thứ vừa nêu ở trên như quần áo, ủng, ghệt, mũ, đèn, găng tay, bình tự cứu là những thứ bắt buộc chứ chưa phải là hết. Khi bạn làm các công việc ở nơi phát sinh ra bụi như ở gương lò đá, lò chuẩn bị sản xuất, trong lò chợ bạn phải đeo khẩu trang hay cái lọc bụi đã được mỏ trang bị để tránh cho phổi của bạn nhiễm bụi đá, bụi than dẫn đến mắc bệnh nghề nghiệp bụi phổi. Ở một số công việc bạn còn được trang bị kính bảo vệ mắt và cái nút lỗ tai để tránh tiếng ồn. Bạn cũng cần mang theo bông băng để tự sơ cứu khi cần thiết. Đừng xem nhẹ hay coi thường bất cứ thứ gì được trang bị để bảo vệ cho bạn trong quá trình làm việc. Nếu công ty tổ chức gắn một con chíp điện tử vào mũ hay đèn lò của bạn thì bạn hãy giữ gìn nó thật cẩn thận nhé. Nhờ nó mà lực lượng cứu nạn có thể sớm tìm ra bạn khi bạn bị mắc kẹt đâu đó trong đường lò bị đổ. Con chíp ấy xác định chính xác vị trí của bạn đang ở chỗ nào đấy. Hệ thống định vị trong hầm lò là một tiến bộ của công nghệ thời hiện đại, nó giúp ta một cách hữu hiệu trong quản lý sản xuất và cứu nạn nơi hầm lò.

III.2.2. Đi lại trong hầm lò

Khi bạn vừa được tiếp nhận vào mỏ làm việc, thế nào bạn cũng phải trải qua huấn luyện an toàn ban đầu. Ở đó bạn được hướng dẫn sử dụng trang bị bảo hộ lao động, cách đi lại trong hầm lò sao cho an toàn. Tôi muốn bạn tham khảo những điều dưới đây.

Trước hết bạn nên làm quen với bản đồ mỏ để nhận biết cho được đâu là các lối thông từ mặt đất vào trong lòng đất hay nối thông với các tầng sâu được mở ra bằng giếng nghiêng hay giếng đứng. Đâu là cửa lò, cửa giếng cho người ra vào, đâu là giếng nghiêng hay giếng đứng chuyên dùng để vận tải than, đâu là giếng gió hay lò thông gió. Bạn cần biết gió vào mỏ từ đường lò nào hay giếng nào và ra khỏi mỏ bằng lò nào, giếng nào, khi xảy ra sự cố thì người thoát ra từ lối nào. Bạn đọc bản đồ càng kỹ càng tốt, ban đầu có thể chưa quen nhưng chắc chắn bạn sẽ quen dần. Trên bản đồ có những ký hiệu chỉ hướng đi của gió tươi (gió sạch), gió thải (gió bẩn), (gió từ ngoài vào gương lò làm việc gọi là gió sạch hay gió tươi, gió đã đi qua gương lò làm việc gọi là gió thải hay gió bẩn, gió bẩn thoát ra ngoài theo các đường lò

Page 24: Thợ lò cũng là chiến sỹ

thông gió), chỉ hướng vận tải, chỉ nơi có hầm trạm, nơi có trạm đo khí, đo gió, nơi có trạm để dụng cụ cứu hỏa, nơi có gương lò làm việc hay dự phòng… Bạn nên làm quen với các ký hiệu đó để đọc bản đồ cho nhanh, cho đúng. Thật sai lầm nếu bạn nghĩ rằng mình là công nhân lao động trực tiếp đọc bản đồ làm gì, đó là việc của mấy ông chỉ huy, mấy ông kỹ thuật. Bạn nên tự rèn cho mình thói quen đọc bản đồ. Khi đến thăm một mỏ khác bạn nên yêu cầu được xem bản đồ trước khi xuống mỏ, hãy xem và nhận biết đường vào hầm lò nơi bạn sẽ đến thăm và đường từ đó trở ra ngoài. Nếu bạn lần đầu chưa quen xuống mỏ bằng giếng đứng thì khi đứng trong thang máy bạn há miệng ra một chút để tránh bị ù tai.

Trong các hầm trạm và các đường lò chính chống bằng bê tông hay vì thép người ta thường quét vôi trắng cho dễ quan sát và có ghi tên các đường lò, các ngã ba, ngã tư, các biển chỉ dẫn cửa gió, đầu đo khí mêtan, trạm điện, lò cụt, lò cấm hay nơi cấm vào… Bạn cần làm quen với tất cả các biển chỉ dẫn ấy, làm quen với các đường đi lối lại trong hầm lò. Đừng nghĩ rằng mình đã làm lâu ở mỏ rồi thì không cần làm quen nữa. Hầm lò biến đổi liên tục, người ta vừa mở ra lò này lại đóng lò kia, hôm qua bạn có thể đi qua chỗ đó được nhưng hôm nay thì không. Bất cứ lúc nào khi đi lại trong hầm lò bạn cũng đều phải quan sát để phát hiện ra sự thay đổi (sẽ nói kỹ hơn ở III.2.3.), và nên đi về phía bên phải đường lò nơi có rãnh nước được đậy bằng các tấm bê tông đúc sẵn, bạn nên đi trên các tấm đậy rãnh nước đó. Nếu cần phải mang vác dụng cụ hay vật liệu thì bạn nhớ làm cho cẩn thận không gây cản trở người khác, không để va chạm vào đoàn goòng đang chạy hay thiết bị điện, cáp điện gần đó. Nếu cần bám tay cho chắc thì bạn bám vào tay vịn (nếu có), bám vào vì chống, bám vào đường ống, đừng bám vào cáp điện. Ngồi trong toa xe (song loan) hay xe treo trên ray đơn bạn phải cài xích chắn và đừng thò đầu, thò tay ra ngoài. Bạn cũng cần ghi nhớ đừng bảo giờ trèo qua các toa xe goòng, vượt qua chỗ tiếp giáp giữa hai cái xe goòng; đừng vượt qua băng tải hay máng cào ở nơi không có cầu vượt, đừng đi trên máng cào, máng trượt, đừng liều lĩnh nằm trên băng tải. Đã có nhiều trường hợp bị thương, bị chết do thực hiện các hành động liều lĩnh vừa kể trên. Đã có một chuyên gia Liên Xô ở Mỏ than Vàng Danh bị chết khi trèo qua khoảng trống giữa hai xe goòng 3 tấn. Cổ ông ta bị dính vào đường dây điện trần của tàu điện cần vẹt, điện giật, chết ngay tại chỗ (1965). Một điều nữa đã trở thành nguyên tắc là thợ lò làm việc có đồng đội, đi lại tìm kiếm, làm gì đó trong hầm lò ít nhất phải có hai người, người nọ theo rõi người kia, giúp đỡ người kia, canh chừng cho nhau để đảm bảo an toàn. Thợ lò có “cặp đôi” là vậy. Đừng xem nhẹ điều này. Đi lại một mình trong hầm lò có thể dẫn bạn đến sự nguy hiểm.

Trong trường hợp sự cố, mất điện, mất cả đèn lò thì bạn cần nhớ điều sau đây: cứ men đường lò mà đi theo hướng ngược với chiều gió hay xuôi theo hướng nước chảy trong rãnh nước thế nào bạn cũng ra đến cửa lò hay đến được sân ga đáy giếng, đó là nơi tập kết an toàn. Nhớ lại bản đồ bạn đã đọc bạn sẽ biết vì sao. Nước chảy về hướng cửa lò bằng hay chảy về hầm chứa nước ở sân ga đáy giếng, gió thì ngược lại từ cửa lò hay chân giếng thổi vào nơi bạn làm việc. Vậy đi ngược chiều gió thồi hay xuôi chiều nước chảy đều như nhau cả, cái nào bạn cảm nhận được rõ ràng hơn thì bạn theo nhé. Còn nữa, khi có sự cố bị mất thông gió bạn bị ngột ngạt mà ở đấy lại có đường ống khí nén thì bạn tìm cách trích nó ra, có thể bạn gặp may đấy, bạn có thể thở tạm bằng khí nén.

Tóm lại nếu bạn đi lại trong hầm lò một cách cẩn thận, đúng cách thì bạn được an toàn, ngược lại bạn có thể gặp nguy hiểm nhẹ thì gẫy tay, gẫy chân nặng thì mất mạng như một số trường hợp đã xảy ra. (Ví dụ: Cuối ca 3 ngày 25.7.2014 đã xảy ra vụ tai nạn lao động làm chết một thợ lò bậc 4/6 tại đề-pô tàu điện sân ga mức -150 Mỏ than Mạo Khê. Anh này cởi trần, trên người đeo một cái cuốc chim không có cán, do thiếu chú ý quan sát trong khi đang đi nên bị ngã, một đầu nhọn của cuốc chim đâm vào ngực. Nếu như anh ấy mặc áo bảo hộ lao động và chú ý quan sát thì sự thể đã khác).

III.2.3. Rèn luyện kỹ năng quan sát, cảm nhận

Như đã nói ở phần trên, mỏ hầm lò biến đổi liên tục theo thời gian và trong không gian. Có những thay đổi bạn nhìn rõ mồn một như mở thêm lò đá, đào thêm lò than, lò chợ đi đến đâu phá hỏa đằng sau đến

Page 25: Thợ lò cũng là chiến sỹ

đó. Có những biến đổi bạn phải để ý kỹ mới thấy rõ dần như nước thấm ra từ hông lò, vài hôm sau thấy nó chảy thành dòng hay đường lò bị nén méo mó dần đi. Và có những biến đổi khó mà nhìn thấy được như khí mêtan thoát ra tụ lại ở đâu đó, mấy cái gông vì chống thép đã bị nới lỏng ra theo thời gian… Để nhận biết được nhanh và rõ ràng những biến đổi trong hầm lò mà đề phòng sự cố có thể xảy ra ở bất cứ chố nào bạn phải tự rèn luyện kỹ năng quan sát, cảm nhận.

Bước chân vào hầm lò là mắt bạn phải chú ý nhìn, tai phải lắng nghe và mũi phải ngửi và có lúc tay phải sờ để phát hiện, nhận dạng những thay đổi. Bạn quan sát và cảm nhận trong suốt quá trình từ khi vào cửa lò, trên đường đến nơi làm việc, tại nơi làm việc và trên đường về. Hết ca làm việc bạn đã mệt mỏi nhưng đừng quên để ý dọc đường ra. Mắt bạn để ý xem có gì mới xuất hiện trên các đường lò có thể gây trở ngại cho việc đi lại, thông tải; xem có vì chống nào biến dạng, có chỗ tường bê tông nào mới nứt, có chỗ nào nước mới chảy ra hay đã xuất hiện từ trước nhưng nay dòng chảy mạnh hơn, chỗ nào thấy có khói, có hơi nước, những chỗ nào ống gió, ống cấp nước, ống cấp khí nén mới bị bục, tấm đậy rãnh nước nào hỏng hoặc bập bênh, chỗ nào đường ray bị bật mất bulông v.v và vv. Những cái gì có thể chỉnh sửa ngay được thì bạn cần cùng đồng nghiệp làm ngay, chẳng hạn như kê lại tấm đậy rãnh nước để người sau khỏi bị ngã. Nếu bạn là thợ cơ điện lò bạn phải chú ý quan sát hệ thống cấp điện, cấp nước, cấp hơi, hệ thống cảnh báo khí mỏ, hệ thống tháo khí mêtan, nói chung là xem xét các hầm trạm đặt thiết bị, nếu thấy có gì khác thường là phải xử lý ngay. Trong hầm lò bạn nên luyện thói quen chú ý nghe ngóng để biết được, dự báo được những sự kiện khác thường có thể xảy ra. Không chỉ mắt bạn nhìn thấy lò bị nén mà tai bạn có thể nghe thấy âm thanh riêng của nó đấy. Tai bạn có thể phân biệt tiếng máy chạy bình thường hay khác thường, tiếng nước chảy, tiếng gió luồn qua khe hở, tiếng đá rơi, đá lăn và cả tiếng kêu cứu của đồng đội dù nó yếu ớt. Có những người làm lâu năm trong hầm lò có thể nghe được những âm thanh của sự chuyển động trong lòng đất mà những người bình thường không nghe được. Họ đã trở thành chuyên gia. ở Ba Lan hồi những năm 1970 có một thợ mỏ già thính tai đến độ thăng hoa, dự báo được chấn động trong lòng đất sâu -600m của mỏ than hầm lò. Mỏ này bị hiểm họa chấn động lòng đất đe dọa. Và ngườu thợ già chuyên gia này được mời ngồi ở một vài chỗ dưới tầng -600m chỉ để lắng nghe.

Hầm lò có mùi đặc trưng của nó, chỉ những người thợ lò mới phân biệt được một cách rõ ràng. Trong hầm lò còn xuất hiện các mùi khác có người nhận biết được, có người không. Bạn cần chú ý nhiều nhất mỗi khi thấy xuất hiện mùi khét. Mùi khét có thể từ chỗ cáp điện bị quá tải nóng lên, cáp điện bị chập; đầu rulô băng tải bị nóng quá do ma sát. Mùi khét có thể từ một đống than đang ủ nóng âm ỷ, hay từ một đám cháy nào đó mà bạn có thể nhìn thấy hoặc không. Phàm là thấy mùi khét là bạn phải hành động ngay, phải đoán nhanh xem nó từ cái gì, nếu do điện quá tải thì phải ngắt điện ngay, nếu do cháy thì phải dùng bình tự cứu lập tức và tẩu thoát đến nơi an toàn và báo ngay cho người chỉ huy trực tiếp và/hoặc trung tâm điều khiển mỏ. Còn nếu ngửi thấy mùi trứng thối thì đích thị là khí độc sunphua hyđro (H2S) đấy, phải tránh ngay đến luồng gió sạch và yêu cầu đẩy mạnh thông gió, gọi người đeo máy thở đến kiểm tra, xử lý. Còn nếu bạn ngửi thấy mùi ẩm mốc nặng thì lò đã lâu không được thông gió đấy, đừng có liều mà vào đó hay đi qua đó bạn nhé kể cả trong trường hợp không treo biển “cấm vào”. Thợ lò còn ngửi và thậm chí nếm thử xem nước chảy từ khe đá, từ vỉa than ra có mùi vị gì để đánh giá nguồn gốc của nó: nước có sẵn trong các tầng đá, nước mặt, nước từ lò cũ hay từ sông hồ chảy xuống …). Nhiều thợ lò chỉ đặt tay lên vì chống hay lên vách đá, gương than cũng cảm nhận được điều gì đó. Chẳng hạn tay họ cảm nhận được sự rung, cảm nhận được sức nén lên vì chống. Tay sờ lên mặt máy cảm nhận được nó chạy quá tải… Tổng Công ty Than Việt Nam đã ban hành quy chế bắt buộc các mỏ hầm lò phảo tổ chức diễn tập theo kế hoạch thủ tiêu sự cố để cho thợ lò và hệ thống chỉ huy các cấp tập phản ứng nhanh khi sự cố xảy ra. Bạn sẽ tham khảo cụ thể phần này ở chương IV mục IV.2.

III.2.4. Tập làm việc đúng quy trình

Page 26: Thợ lò cũng là chiến sỹ

Ở đây tôi dùng chữ “Tập” với nghĩa làm đi làm lại nhiều lần cho quen, cho đúng, cho thạo để bày rỏ rằng không phải bảo làm đúng quy trình là làm ngay tắp lự được đâu mà phải tập từng tý một, từng giờ, từng ngày, từng tháng, từng năm và năm này qua năm khác cho đến khi hết nghĩa vụ làm việc. Thợ mỏ ta lại xuất thân từ nông dân, nông thôn vẫn quen tùy tiện nên cái sự “Tập” này khó hơn người bên trời Tây hay Nhật Bản-nơi công nghiệp đã phát triển hàng trăm năm. Trước khi đào một đường lò mới, mở một lò chợ mới hay chuyển diện khai thác, trước khi lắp một trạm biến áp mới hay di chuyển nó từ chỗ này đến chỗ khác bạn đều được nghe phổ biến biện pháp kỹ thuật để thực hiện sao cho an toàn và năng suất hay đảm bảo thời hạn. Thậm chí phòng kỹ thuật hay phòng cơ điện đến tận phân xưởng phổ biến thiết kế, quy trình thực hiện các bước công việc và không thể thiếu các biện pháp đảm bảo an toàn. Những bước như vậy nhiều người chăm chú lắng nghe nhưng cũng có người lơ đễnh, thậm chí không buồn nghe hay không thèm nghe. Có người còn bảo nó na ná như nhau cả mà, nghe mãi rồi cần gì phải nghe nữa, mất thì giờ. Nói và làm như vậy là chủ quan, thiếu trách nhiệm với chính bản thân mình và đồng nghiệp. Bạn nên lắng nghe, cái gì chưa rõ thì cần phải hỏi cho rõ, thậm chí bạn nên tranh luận, nên đề xuất ý tưởng nếu bạn thấy nó hay hơn cái người ta vừa trình bày. Chính bạn đã trải qua công việc cụ thể, bạn nhiều kinh nghiệm và bạn có thể đưa ra ý kiến hay hơn đấy, thậm chí ý kiến của bạn có thể là một sáng kiến tốt giúp cho phòng kỹ thuật hay cơ điện hoàn thiện thiết kế, biện pháp hay quy trình thao tác. Bạn sẽ được biết ơn, có thể được nhận tiền thưởng sáng kiến, nhưng quan trọng hơn cả là bạn đã góp phần làm cho công việc được tốt hơn, an toàn hơn. An toàn cho chính bạn, cho đồng nghiệp của bạn và cho cả mỏ. Đừng bỏ qua việc góp ý, tranh luận bạn nhé. Đừng nghĩ rằng mình là công nhân, người ta bảo gì làm nấy việc gì đến mình mà góp ý với tranh luận. Bạn ơi! Người lính binh nhì cũng có thể giúp vị đại tướng lừng danh ý kiến hay góp phần thắng trận với ít tổn thất đấy.

Khi bạn đã nắm được thiết kế hay biện pháp kỹ thuật, đã nắm được trình tự các bước công việc (quy trình) bạn sẽ thực hiện nó một cách dễ dàng hơn những người chưa nắm được nó. Chưa nắm được thì làm việc một cách “tù mù”, bị động; còn nắm chắc như bạn thì làm việc chủ động, thoải mái và dễ dàng hơn, đỡ tốn sức hơn, an toàn hơn. Trong quá trình làm việc bạn có thể phát hiện ra cái gì đó không phù hợp trong biện pháp kỹ thuật hay quy trình vận hành, bạn nên trao đổi việc đó với cán bộ chỉ huy để xem xét điều chỉnh. Nếu việc đó cần điều chỉnh và được chấp nhận điều chỉnh thì có nghĩa là bạn đã có đóng góp tích cực làm cho công việc của bạn và đồng nghiệp được tốt hơn, an toàn hơn. Và nếu bạn là cán bộ kỹ thuật, cán bộ tham mưu hay chỉ huy các cấp bạn cần lắng nghe ý kiến của những người thợ trực tiếp thực hiện biện pháp hay quy trình công nghệ, quy trình vận hành do bạn đề ra hoặc chỉ huy họ làm. Bạn sẽ thu nhận được nhiều điều bổ ích. Tôi viết ra điều này vì tôi đã từng làm cán bộ kỹ thuật trực tiếp giám sát thực hiện; có lúc tôi đã làm cán bộ chỉ huy cấp phân xưởng đào lò, cán bộ tham mưu cấp phòng ở xí nghiệp, ở công ty cho đến phó giám đốc kỹ thuật thi công và giám đốc xí nghiệp chuyên đào lò. Tôi đã được thợ đào lò, thợ cơ điện lò, thợ lắp máy góp cho nhiều ý kiến hay, có việc gì khó tôi lại hỏi họ, đặc biệt là hỏi các “thợ to” (lành nghề có uy tín trong đồng nghiệp). Sau này làm Tổng giám đốc Tổng công ty/Tập đoàn Than-Khoáng sản Việt Nam cũng vậy. Một phần quan trọng năng lực công tác của tôi được chuyển giao, được tiếp thụ từ thợ lò, từ công nhân trực tiếp sản xuất và từ cán bộ tham mưu, cán bộ chỉ huy các cấp. Tôi biết ơn họ rất nhiều.

Bây giờ tôi liệt kê ra đây các bước công việc của một chu kỳ đào lò đá để các bạn tham khảo xem mình có bỏ qua bước nào không nhé. Giả định rằng bắt đầu ca làm việc nhóm của bạn thực hiện một chu kỳ mới, ca trước đã dựng xong vì chống sát gương lò.

- Bước 1, Đưa nơi làm việc về trạng thái an toàn. Bạn cùng các đồng nghiệp phải kiểm tra xem các vì chống do ca trước chống đã thực sự chắc chắn hay chưa, nếu chưa thì phải làm cho nó chắc chắn chẳng hạn như xiết chặt các gông vì chống nối xà với cột, sửa lại văng gỗ cho căng, chèn thêm đá vào sau tấm chèn. Bạn kiểm tra tiếp xem gương lò đã thực sự sẵn sàng cho việc khoan chu kỳ mới hay chưa. Nếu gương lò chưa được phẳng còn mấp mô nhiều, đá nóc treo có thể tự rơi xuống trong lúc bạn

Page 27: Thợ lò cũng là chiến sỹ

khoan gây nguy hiểm. Hãy sửa sang lại, cạy om kỹ thêm một lần nữa. Trong khi đó một vài người khác trong nhóm của bạn kiểm tra máy khoan, máy xúc, đường ray, xe goòng, ống hơi, ống gió xem có bình thường không…? Và, dù là lò đá thì cũng phải đo khí xem có gì bất thường, nếu cán bộ chưa làm thì bạn yêu cầu cán bộ làm điều đó.

Bước 2, Khoan các lỗ mìn. Bạn có thể khoan bằng búa khoan khí nén hoặc máy khoan một cần hay hai cần tự hành hay chạy trên đường ray. Trong trường hợp này tôi nói đến việc khoan bằng máy khoan hai cần tự hành. Trước khi khoan bạn nên xem lại hộ chiếu-sơ đồ bố trí lỗ khoan để xác định rõ những lỗ nào khoan trước, lỗ nào khoan sau và chiều sâu của các lỗ khoan. Thường thì người ta khoan các lỗ trên cao trước, đường biên trước. Lỗ khoan dưới nền còn kết hợp sao cho việc đào hố chân cột và đào rãnh nước được thuận tiện. Trong khi bạn điều khiển máy khoan nhất thiết phải có một người theo rõi, hướng dẫn và cùng bạn xác định đúng vị trí lỗ khoan. Khoan xong các lỗ các bạn phải làm một việc nhất thiết không bao giờ được bỏ qua đó là lấy phoi làm sạch các lỗ khoan. Nếu không làm kỹ việc này công khoan của bạn có thể trở thành “công cốc”. Trong quá trình làm sạch cần kết hợp kiểm tra độ sâu các lỗ khoan và nếu lỗ nào chưa đủ độ sâu thì phải khoan tiếp cho đủ.

- Bước 3, Nạp và nổ mìn. Trước khi nạp mìn nhóm của bạn phải đưa các thiết bị như máy khoan, máy xúc (bây giờ đã có máy vừa khoan, vừa xúc, vừa nâng vì chống) và các thiết bị trong gương lùi ra vị trí an toàn mà hộ chiếu nổ mìn đã xác định. Bạn cũng phải củng cố lại các vì chống sát gương cho chắc chắn. Phía ngoài phải treo biển “nạp mìn-cấm vào” để người khác biết mà tránh… Thợ mìn phải chuẩn bị trước bua mìn một cách kỹ càng. Bua mìn có thể bằng bao nước (nơi có nhiều mêtan, bụi than) hay bằng đất sét có pha cát. Bua mìn không tốt, không đủ độ ma sát thì khi nổ mìn dễ bị phụt làm kém hiệu quả rõ rệt, gương sẽ không phẳng phải khoan nổ bổ sung hoặc cả gương không đạt được tiến độ cần thiết. Khi thợ mìn nạp mìn những người khác phải tránh ở nơi an toàn và canh không cho người ngoài vào khu vực gương lò. Nạp mìn xong thợ mìn phải đấu nối và kiểm tra sự đấu nối đó rồi mới rút ra vị trí an toàn chuẩn bị nổ mìn. Thợ mìn phải báo cáo người chỉ huy phát lệch nổ mìn (khai hỏa) khi đã tin chắc rằng mọi người đã rút ra vị trí an toàn và việc nạp mìn đã hoàn tất, đã được kiểm tra.

- Bước 4, Thông gió sau nổ mìn. Sau nổ mìn bạn phải chờ ít nhất 30 phút thông gió cho khói tỏa dần ra, khí độc hại phát sinh sau nổ mìn loãng đi rồi mới được vào gương lò kiểm tra. Nếu ống gió trong tình trạng không tốt thì người chỉ huy phải tổ chức chấn chỉnh lại và gia tăng thời hạn thông gió. Đã không ít thợ lò phạm sai lầm khi vội chạy vào kiểm tra gương sau nổ mìn. Vào thời điểm đó dễ bị nhiễm khí độc hại và nhiễm bụi. Người chỉ huy phải đo khí và chỉ cho phép thợ vào gương lò khi xác định được hàm lượng các khí ôxýt các bon (CO), các bon níc (CO2) và mêtan (CH4) ở trong giới hạn cho phép.

- Bước 5, Kiểm tra sau nổ mìn. Sau ba mươi phút thông gió người chỉ huy và thợ mìn phải vào gương lò kiểm tra xem mìn nổ có tốt không, có còn mìn câm không. Nếu còn mìn câm thì phải đánh dấu để xử lý. Thợ mìn thu dây và hoàn tất việc nổ mìn. Người chỉ huy kiểm tra tình trạng các vì chống lò nếu cần thì bổ sung lệnh cho nhóm thợ lò củng cố các vì chống.

- Bước 6, Cạy om, sửa gương lò. Việc cạy om phải do thợ có kinh nghiệm thực hiện bằng cách dùng sào thép chọc lên nóc lò cạy hết những chỗ đá om xuống. Nếu không cạy kỹ đá có thể rơi trúng đầu bạn khi bạn đang chống tạm nóc lò. Cùng với việc cạy om trên nóc bạn phải cạy om ở gương lò, đừng để đá đe dọa rơi khi bạn thực hiện việc khoan chu kỳ tiếp theo. Sửa gương là làm cho gương lò tương đối phẳng để khoan nổ mìn chu kỳ tiếp theo đạt hiệu quả mong muốn. Nhiều tai nạn hầm lò đã xảy ra chỉ vì không cạy om hoặc cạy om không kỹ. Chỉ một tảng đá rơi đè lên làm bạn bị thương hoặc chết ngay tại chỗ. Vậy bạn phải chú ý đừng bao giờ bỏ qua hay làm một cách sơ sài, qua loa công đoạn cạy om, sửa gương này, dù là lò đá hay lò than.

Page 28: Thợ lò cũng là chiến sỹ

- Bước 7, Chống tạm. Nhóm thợ lò phải thực hiện biện pháp chống tạm theo hướng dẫn trong biện pháp thi công để nóc lò phía trên đầu bạn được che chắn khi bạn thực hiện công việc ở bên dưới. Ngày nay máy móc hiện đại có thể giúp bạn thực hiện công việc chống tạm hoặc chống luôn cả vì chống một cách nhanh chóng và an toàn. Còn thời trước đây chúng tôi phải treo hai thanh ray trên xà nóc (xà vòm), nổ mìn xong thì đẩy nó vào sát gương rồi gác xà nóc lên trên đó, lát ván lên trên và cố định lại… Tóm lại kiểu gì thì kiểu, cách gì thì cách khoảng không gian trống trên đầu bạn đã lộ ra sau nổ mìn phải được chống đỡ, che chắn cho bạn làm việc bên dưới được an toàn.

- Bước 8, Xúc bốc, vận tải. Dù xúc bằng máy hay cực chẳng đã phải xúc thủ công thì bạn cũng phải xúc dọn sạch sẽ từ ngoài vào trong, xúc đến đâu sạch đến đó. Trước đây thường chất tải lên các xe goòng 1 tấn, hay 3 tấn rồi đầu tàu điện kéo ra ngoài. Ngày nay đã có nhiều gương đào lò được cơ giới hóa cao hơn, phía sau máy xúc là cầu chuyển tải và băng tải thải đá ra ngoài. Nếu có đá quá cỡ máy xúc và băng tải “không nhằn” được thì bạn phải đập, phải căn nhỏ ra, thậm chí phải nổ mìn cẩn thận cho vỡ ra, nhất thiết không để lại bên hông lò gây cản trở thậm chí gây nguy hiểm cho bạn và đồng nghiệp. Xúc xong lại phải kiểm tra và sửa gương sao cho không còn hòn đá nào có thể đột ngột tách ra, rơi xuống và gương lò phải tương đối phẳng để việc khoan nổ mìn chu kỳ sau được an toàn, hiệu quả.

- Bước 9, Chống chính thức. Thợ lò thường ngại đào hố chân cột khi chống chính thức do vậy công việc này cần được chú ý phân công luân phiên và giám sát cẩn thận. Khi chống lò bạn cần chú ý điều chỉnh sao cho vì chống phải ngay ngắn, vuông góc với trục tâm đường lò. Để đạt được sự ngay ngắn đó bạn nên chống sao cho xà vòm tiến trước về phía gương lò một chút (5-10cm, tùy theo kinh nghiệm) để sau khi nổ mìn chu kỳ sau nó trở lại ngay ngắn, vuông vức (do sức nén của nổ mìn). Nếu bạn chỉ chèn tấm bê tông mà không chèn đá vào khoảng trống giữa các tấm chèn và sườn hông lò thì vì chống sẽ không vững chắc, có thể bị xiêu vẹo, thậm chí bị đổ sau nổ mìn. Bạn đừng xem thường các văng gỗ giữa hai vì chống, các văng này phải bằng gỗ tròn và phải được đánh căng, cũng như các êcu gông lò phải được xiết chặt.

Trên đây là 9 bước công việc của một chu kỳ đào lò đá điển hình, khi sử dụng công nghệ khác nhau thì số đầu việc có thể thêm hoặc bớt. Nhưng làm gì thì làm bạn đừng bao giờ quên công đoạn cạy om, sửa gương và làm mái che trên đầu (chống tạm hay chống cố định) trước khi thực hiện các công việc khác. Đào lò trong than cũng tương tự như vậy. Nếu đào bằng máy liên hợp thì việc cạy om, chống lò sao cho nhanh và chắc là việc quan trọng nhất. Thế còn trong lò chợ thì sao? Dù khai thác bằng cuốc thủ công kết hợp nổ mìn hay khấu bằng máy; dù lò chống bằng gỗ, bằng cột thủy lực đơn, giá thủy lực di động hay dàn chống tự hành thì bạn cũng phải chú ý đến công việc đầu tiên của ca sản xuất là kiểm tra tình trạng an toàn của lò chợ. Nếu mất điện hay ngày nghỉ vì lý do gì đó mà lò chợ không được thông gió thì bạn đừng có liều lĩnh mà vào đó. Phải yêu cầu thông gió đã, sau 30 phút đo khí rồi mới được vào. Lò trưởng cùng với thợ cả phải vào trước kiểm tra tình trạng các vì chống, nếu là kết cấu thủy lực thì phải kiểm tra đồng hồ đo áp lực, nếu không đủ áp quy định là có chuyện phải xử lý ngay. Nếu chống gỗ mà lò bị nén mạnh thì phải xử lý tăng cường thậm chí xếp cũi lợn tại đó. Lò trưởng cũng đừng quên đo khí mêtan trên nóc lò hay ở nơi rãnh bánh răng máy khấu trên gương lò. Mêtan thường tích tụ ở những chỗ đó. Nếu lò dốc mà lại có nước thì bạn phải đặt chân cột chống lên đá trụ vỉa, đừng đặt trên nền than. Nước chảy làm xói chân cột gây mất áp lực đấy. Lò sẽ đổ. Trong những năm vừa qua đã có một số vụ sự cố lớn, nhỏ xảy ra ngay đầu ca làm việc, nhất là ca sáng đầu tiên sau nghỉ chủ nhật hay ngày lễ. Nguyên nhân chỉ có một đó là không kiểm tra hay kiểm tra sơ sài, đại khái trước khi thợ lò vào làm việc. Không ít lần sự cố xảy ra do từ đầu ca đã không phát hiện được cột thủy lực đơn bị non áp. Chỉ khi nào kiểm tra xong, xác nhận tình trạng an toàn của lò chợ thì lò trưởng mới cho thợ lò vào làm việc. Các bước công việc diễn ra theo quy trình công nghệ kèm theo các chỉ dẫn trong ca lệnh và sự chỉ huy trực tiếp của lò trưởng. Bạn được phân công làm gì thì phải làm đúng việc đó, có gì chưa rõ hay thắc mắc thì phải hỏi lại lò trưởng. Nếu có sáng kiến thì đề xuất, khi chưa được chấp thuận thì vẫn phải làm theo quy trình và

Page 29: Thợ lò cũng là chiến sỹ

lệnh chỉ huy, tuyệt đối không được tùy tiện cắt bớt, không được làm tắt. Tính đồng bộ trong lò chợ cơ giới hóa rất cao, nhất là ở các lò chợ chống bằng dàn chống tự hành có hạ trần (vỉa dày) được trang bị máy khấu than và hai máng cào. Làm việc trong lò chợ này an toàn hơn, đỡ tốn sức hơn, nhưng nếu bạn tùy tiện cắt giảm các bước công việc bạn sẽ gây ra nguy hiểm cho mình và đồng nghiệp đấy. (Ví dụ: Ca 2 ngày 29.7.2014 tại phân xưởng khai thác số 6 Công ty than Thống Nhất đã xảy ra vụ tai nạn lao động chết người trong lò chợ được chống bằng giá thủy lực ZH. Một thợ lò bậc 5/6 đã quên đóng van di chuyển trở lại trạng thái không làm việc khi thao tác di chuyển giá chống số 87/141 nên bị tấm chắn đá ép đầu vào khung treo gây tai nạn).

Đến đây tôi dừng việc của thợ đào lò, thợ khai thác lại để nói về công việc của thợ cơ điện lò. Bạn là thợ cơ điện lò, bạn thử hình dung xem nếu mình làm sai quy trình thì sẽ gây hậu quả gì? Trong các mỏ than hầm lò hiện nay mỏ nào cũng có khí mêtan, vì vậy tất cả thiết bị điện đều ở chế độ “phòng nổ”. Bản chất của “phòng nổ” ở đây là gì? Nói một cách đơn giản các thiết bị điều khiển như máy ngắt, khởi động từ đều phải đặt trong vỏ kín, bền vững. Kín đến mức cách ly hoàn toàn với không khí bên ngoài. Nếu có tia lửa điện phát ra trong nó thì mêtan bên ngoài vỏ dù có nhiều đến đâu cũng không cháy hay nổ được. Đấy là nói lý thuyết, là thiết kế của thiết bị. Nhưng (chỉ một chữ nhưng) nếu khi cần bạn mở một cái khởi động từ ra để kiểm tra chẳng hạn, khi đóng lại bạn không xiết các bu lông theo đúng trình tự và đủ chặt đảm bảo cho nó được kín, đủ sức nhốt tia lửa điện ở bên trong thì có thể bạn đã làm hại bao nhiêu người, trong đó có bản thân mình đấy. Đã có lần tôi bắt gặp thợ cơ điện mở khởi động từ ra, khi lắp lại không đủ các bu lông, và có mấy cái không được xiết chặt. Những năm gần đây Ngành Than đã có Trung tâm an toàn mỏ rồi, nơi đó có đủ điều kiện kiểm định phòng nổ của các thiết bị điện hầm lò. Hay bạn vận hành tời chở người và vật liệu xuống ngầm. Đầu ca bạn không kiểm tra khởi động từ, không kiểm tra múp nối cáp, không kiểm tra cáp, không kiểm tra hệ thống phanh hãm, hệ thống tín hiệu và barie… Chỉ một sơ suất chẳng hạn múp nối cáp lâu ngày không được kiểm tra, xiết chặt nó lỏng ra, hay hệ thống phanh không làm việc có thể làm cho nhiều người chết và bị thương khi đang được bạn điều khiển tời kéo toa chở người theo giếng nghiêng xuống tầng dưới. Sao vậy? Đầu dây cáp đã bị tuột ra, toa xe chở người lao nhanh xuống dốc không được hãm lại thế là lật, đổ, là tang thương. Đành rằng ngày nay tời trục đã có hệ thống bảo vệ tự động. Tự động mà con người thiếu trách nhiệm thì vẫn bị vô hiệu hóa đấy. Tất cả do con người cả thôi. Đã có nhiều sự cố liên quan đến tời xuống ngầm xảy ra ở các mỏ than hầm lò, làm chết và bị thương nhiều người. Vụ gần đây nhất đã xảy ra tại Mỏ than Vàng Danh năm 2013 làm chết 3 người.

Trên phạm vi cả nước Việt Nam có tới 75,02% số vụ tai nạn lao động được thống kê có nguyên nhân do người lao động vi phạm các vấn đề về an toàn lao động (Phó Cục trưởng Cục an toàn lao động- Bộ Lao động Thương binh-xã hội Vũ Như Văn trả lời phỏng vấn của phóng viên Báo Gia đình và xã hội năm 2010-Gia đình.net-6/3/2010).

Con số trong Ngành Than ta có thể thấp hơn số chung của Toàn quốc do có sự chủ động, tích cực phòng ngừa từ phía các doanh nghiệp và bản thân người lao động. Tổng Công ty than Việt Nam/Tập đoàn Than-Khoáng sản Việt Nam đã đầu tư lớn, có thể nói là không tiếc tiền cho công tác an toàn, bảo hộ lao động theo hướng đổi mới công nghệ và nâng cao trách nhiệm cá nhân, nâng cao ý thức tự bảo vệ của người lao động. Đã quy định rõ ràng nếu phát hiện ai làm sai, làm tắt quy trình sẽ bị nhắc nhở, nếu cứ tái phạm sẽ cho nghỉ làm việc để học lại quy trình làm việc, quy tắc an toàn, phải bồi thường thậm chí bị sa thải. Tổng Công ty cũng đã chỉ đạo các mỏ hầm lò thiết lập hệ thống giám sát viên an toàn và phân công một phó giám đốc chuyên trách công tác an toàn, bảo hộ lao động. Nhìn lại hơn 10 năm thực hiện thấy tình hình đã được cải thiện nhưng chưa nhiều, chưa thật rõ nét. Như thế đủ biết xây dựng nền nếp công nghiệp, rèn luyện tác phong tự bảo vệ mình, bảo vệ đồng nghiệp đòi hỏi sự kiên trì và quyết tâm cao đến mức nào. Mỗi cá nhân thợ lò dù là thợ đào lò đá hay đào lò than, thợ lò hay thợ cơ điện mỏ, thợ thông gió, vận tải, thoát nước; hay đội viên cứu hộ, cán bộ chỉ huy hay cán bộ giám sát an toàn v.v… và

Page 30: Thợ lò cũng là chiến sỹ

vv đều phải tự mình chăm chỉ rèn luyện làm đúng quy trình, làm đúng chức trách, nhiệm vụ được giao; mỗi ngày cố một tý là mỗi ngày tiến lên một chút. Sự cố gắng này thật xứng đáng vì nó đánh đổi cho bạn sự an lành.

Để chốt lại mục này xin mách bạn một điều. Bạn đừng bao giờ bắt chước những người hay làm bừa, làm ẩu. Đừng chép miệng bảo “nó làm (ẩu) được thì tao cũng làm (ẩu) được”. Đó là việc làm thật tệ hại, đáng xấu hổ. Bạn nên bắt chước, làm theo những người làm việc cẩn thận, đúng quy trình kỹ thuật, quy tắc an toàn. Học hỏi ở họ những kinh nghiệm hay, thế nào bạn cũng mau thuần thục. Rồi đến lượt bạn truyền nghề cho những người khác non trẻ hơn. Chắc bạn còn nhớ câu thợ lò làm việc có “cặp đôi” hay là làm việc có tính đồng đội (tập thể) rất cao. Anh nọ đỡ cho anh kia, yểm trợ anh kia, “bọc lót” cho anh kia. Chỉ một anh làm bừa, làm ẩu là khổ cho cả nhóm đấy. Một đội thợ lò có khác gì một tiểu đội hay trung đội chiến sỹ đang chiến đấu ngoài chiến trường, có khác gì một đội bóng đá trên sân cỏ đâu hả bạn? Vậy hãy vì bản thân mình, vì đồng đội, vì mục tiêu sản xuất an toàn mà cố gắng!

III.2.5. Rèn luyện sức khỏe

Thời xưa binh pháp của cha ông ta đã dạy “thực túc, binh cường” (ăn no, quân mạnh) sau này Ngành Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam thường lấy câu “ăn no, đánh thắng” làm phương châm hành động và mục tiêu phấn đấu. Chả thế mà chỉ trong chiến dịch Điện Biên Phủ (1954) ta huy động 50 ngàn bộ đội nhưng có đến trên 260 ngàn dân công và thanh niên xung phong phục vụ tải gạo, tải đạn lên chiến trường. Còn ở Ngành Than thời bao cấp các cô gái thường bảo “thứ nhất thợ lò, thứ nhì bò tót”. Ý muốn nói sự vất vả và kèm theo đó là tiêu chuẩn đãi ngộ đối với thợ lò là cao nhất rồi đến các anh thợ lái xe bò tót (xe MAZ của Liên Xô) trên mỏ lộ thiên. Thợ lò thời bao cấp được tiêu chuẩn 24 kg gạo, 3kg thịt, 1kg đường mỗi tháng, trong khi những người lao động trên công trường xây dựng chỉ được 15kg gạo, 0,5kg thịt và 0,3kg đường mỗi tháng. Dù còn chiến tranh, dù còn khó khăn nhà nước đã chăm lo cho thợ lò có đủ lương thực, thực phẩm để ăn no, để “sản xuất thật nhiều than cho Tổ quốc”. Ngày nay thợ lò ta không còn phải bận tâm nhiều về cái ăn vì các mỏ đã lo bữa ăn đầu ca, giữa ca khá chu đáo, ăn ở nhà vợ hay mẹ nấu cho cũng tươm tất. Chỉ còn lại những anh tự thuê nhà ở, tự nấu lấy ăn thì phải bàn. Có anh tự biết chăm lo cho sức khỏe của mình, có anh lười nấu ăn nên đi ăn cơm bình dân không mấy sạch sẽ hoặc là trót dại tiêu hết tiền nên ăn uống qua loa, đói thì cắm sổ lương ở quán. Vậy là không đủ sức để làm việc. Một vấn đề khác là rượu bia quá nhiều ảnh hưởng xấu đến cả thể lực và tinh thần làm việc, dễ xảy ra tai nạn lao động. Lại còn một số thợ lò không chịu đi khám sức khỏe định kỳ, không biết mình có bệnh mà đề phòng.

Thợ lò sau ca làm việc bao giờ cũng muốn tắm nước nóng, và nước phải nóng già. Tắm nước nóng để 'tẩy âm” là rất tốt nhưng xin bạn đừng tắm nóng quá ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe sinh sản. Chẳng ai muốn “chưa đến chợ đã tiêu hết tiền”, ngược lại anh nào cũng muốn vợ vui. Vậy thì hãy tắm nóng vừa vừa thôi nhé.

Cùng với việc ăn uống điều độ hợp vệ sinh, tắm nước nóng vừa phải thợ lò nên rèn luyện thói quen tập thể dục hàng ngày, chơi môn thể thao nào đó để rèn luyện sự dẻo dai. Các mỏ đều có nhà thể thao, sân chơi, thậm chí có cả bể bơi như ở Mạo Khê hay Mông Dương; vậy bạn còn chờ gì nữa mà không tập? Bạn đừng bao giờ nói rằng: úi dào, làm lụng đã vất vả bỏ bố rồi còn tập với chả tành, rách việc! Tập thể dục, chơi thể thao, đọc sách, xem truyền hình, vào mạng internet mở rộng giao lưu, tham gia các hoạt động xã hội đều có ích cho việc nâng cao thể lực, trí lực, mở rộng tầm nhìn, qua đó mà nâng cao năng lực nghề nghiệp của bạn.

Thêm một chút nữa, về mặt tinh thần bạn nhớ tự quan tâm đến mình nhé, không ai thương mình, yêu mình bằng mình đâu, bạn có tự yêu mình, thương thân mình thì mới biết thương người khác, yêu người khác. Người Việt mình hay dùng từ “tự ái” chứ ít dùng từ “tự yêu” (tự ái tức là tự yêu mình đấy). Nói đến

Page 31: Thợ lò cũng là chiến sỹ

tự ái cứ như là điều gì đó không hay ấy. Nhưng bạn đừng ngại nhé. Hãy tự chăm sóc bản thân, hãy chỉ mang niềm vui chứ đừng mang sự bực dọc, sự mệt mỏi từ nhà đến nơi làm việc và từ nơi làm việc về nhà. Giả sử bạn mới về quê nghỉ phép, do có chuyện gì đó bạn phải ở lại nhà nên mãi đến tối mới về đến mỏ để đi ca 3, bạn đang bực bội lại thấm mệt nữa. Hay là trong đời bạn chưa từng xảy ra như đêm qua “hoàn cảnh xô đẩy” hay “trời cho” thế nào mà cả bạn và vợ nổi hứng lên, không kìm lại được yêu nhau đến mấy lần, lúc yêu thì thăng hoa, sung sướng đến tột độ, nhưng đến sáng thì bạn mệt lử, lại phải dậy sớm đi ca 1. Trong những trường hợp bất đắc dĩ như vậy bạn hành động như thế nào? Cứ xuống lò làm việc bình thường hay xin nghỉ hoặc nhờ người bạn nào đó làm thay mình một ca? Bạn phải suy nghĩ đấy, làm gì thì do bạn nhưng phải chú ý rằng mang sự bực bội và sự mệt mỏi (kể cả mệt mỏi sau cú sướng) vào hầm lò dễ bị rước lấy tai họa. Tôi tin bạn là người tích cực, có kỷ luật và tôi không phải là “kẻ nối giáo cho giặc”, tôi tin là trong cuộc sống thỉnh thoảng có chuyện xảy ra một cách ngoại lệ, một cách đặc biệt hay ngoài ý muốn, và tôi ủng hộ bạn nói thẳng và chân thành với người chỉ huy về trạng thái của bạn để cùng đưa ra cách giải tốt nhất, cách giải bảo vệ sức khỏe của bạn. Thời làm giám đốc Xí nghiệp Xây lắp Mỏ Mông Dương (1981-1986) tôi đã quy định cho thợ lò được nghỉ trước kỳ phép một ngày và sau phép một ngày dể tránh vội vàng, cập rập, mệt mỏi tức là tránh xảy ra tai nạn đáng tiếc. Tôi sẽ đề cập kỹ hơn đến việc chăm lo sức khỏe tinh thần ở chương VI nói về xây dựng mối quan hệ hài hòa.

Tôi và bạn vừa đi qua mục “rèn luyện kỹ năng tự bảo vệ”, bạn có thấy khó lắm không? Chắc là không khó nhỉ, hay bạn lại bảo “ối giời đất ơi! nói thì dễ, làm mới khó”. Nếu bạn có nói thế cũng chẳng đáng trách đâu; đúng là như vậy đấy; nói ra, viết ra thì dễ, làm mới khó hơn gấp bội. Bởi thế cả mục này và cũng là mục quan trọng nhất của cuốn sách chỉ xoay quanh một chữ “TẬP”. Rèn luyện, tập dượt, tập luyện đều là tập cả. Chốt lại, để cho công việc trong hầm lò được an toàn trước hết và trên hết mỗi thợ lò phải tự tập cho mình thói quen sử dụng đúng trang bị bảo hộ lao động; thói quen quan sát, cảm nhận (mắt tinh - tai thính - mũi ngửi - tay sờ nhạy cảm); thói quen làm việc đúng quy trình kỹ thuật, quy tắc an toàn , thói quen ăn uống điều độ, sạch sẽ, tắm nước nóng vừa phải, tập thể dục, chơi thể thao và thói quen tự chăm sóc bản thân, sống vui vẻ, hài hòa…Đó chính là tác phong công nghiệp đấy. Tập luyện càng nhiều tác phong công nghiệp của bạn càng cao, bạn làm việc càng hiệu quả, càng an toàn, càng được vợ, con và đồng nghiệp yêu quý, càng được mỏ trân trọng. Vậy nên chỉ xin bạn ghi nhớ hai chữ, một chữ “TẬP” và một chữ “YÊU”. Nếu bạn yêu bản thân mình, yêu đời, quý trọng cuộc sống thì khó mấy bạn cũng “TẬP” được. Tập luyện với tình yêu ở trong đó, làm việc với tình yêu ở trong đó (chứ không phải là đối phó) bạn sẽ thành thục, sẽ thăng hoa vượt qua khó khăn, nguy hiểm đến đích thành công an toàn và hiệu quả. Bạn đã yêu nghề, yêu ngành rồi đó! Bạn càng yêu nghề thợ lò, yêu Ngành Than bạn càng tự hào về nó, càng muốn làm việc nhiều hơn vì sự phát triển của nó và của cá nhân bạn, gia đình bạn. Chỉ khi nào đa số thợ lò đều tự hào, đều hãnh diện về nghề làm mỏ hầm lò, về Ngành Than thì sản xuất than mới đạt mức an toàn cao hơn, sản lượng cao hơn. Ngành Than khi đó mới thực sự vững mạnh.

Tóm lại LÀM VIỆC VỚI TÌNH YÊU TRONG ĐÓ sẽ cho bạn AN TOÀN - NĂNG SUẤT - CHẤT LƯỢNG - HIỆU QUẢ.

CHƯƠNG IV: CÁC BIỆN PHÁP CƠ BẢN ĐẢM BẢO AN TOÀN MỎ HẦM LÒ

IV.1. BẢY THÔNG, BA THOÁT (HAY TỪ THÔNG ĐẾN THOÁT)

Ở trong trường dạy nghề hay trường đại học hoặc là ở mỏ người ta có thể dạy cho bạn nhiều biện pháp đảm bảo an toàn lao động, an toàn mỏ. Bằng kinh nghiệm thực tế của mình tôi đã đúc rút và phổ biến công thức 1+7+3+1. Nếu thực hiện tốt công thức này cùng với ý thức tự bảo vệ của thợ lò được nâng cao thì chắc chắn các hoạt động của mỏ hầm lò được an toàn hơn. Vậy 1+7+3+1 là gì? Thưa: số 1 đầu tiên là “thông tư tưởng”, tức là bạn muốn làm và tự giác làm điều gì đó. Tư tưởng mà thông suốt thì làm việc gì cũng được, ngược lại có thể sẽ thất bại. Con số 7 biểu thị cho 7 cái cần phải thông trong mỏ hầm lò. Đó là Thông đường - Thông điện - Thông gió - Thông nước - Thông khí ép - Thông tin và Thông tải.

Page 32: Thợ lò cũng là chiến sỹ

Tiếp đến là con số 3 đại diện cho 3 thoát gồm Thoát áp lực mỏ - Thoát bục nước - Thoát cháy, nổ. Và số 1 cuối cùng đó là thoát nạn. Nếu có bảy thông, ba thoát thì kết quả sẽ là thoát nạn, thoát được tối đa tai nạn, sự cố. Nhiều cán bộ ở các mỏ hầm lò đã đồng ý với tôi và cùng thống nhất gọi công thức nói trên là “bảy thông, ba thoát”. Bảy thông, ba thoát trước hết đảm bảo cho sản xuất ở mỏ được thông suốt, ít bị ách tắc, và đó là các giải pháp quan trọng đảm bảo cho các hoạt động trong hầm lò được an toàn. Nếu chẳng may xảy ra sự cố thì “bảy thông, ba thoát” sẽ giúp ta xử lý nhanh hơn. Ta sẽ lần lượt phân tích xem bảy thông ba thoát là thế nào nhé.

IV.1.1. Bảy thông

- Thứ nhất, Thông đường:

Đường đi lối lại trên mặt mỏ và ở bên trong lòng đất đều phải được thông thoáng không gây cản trở cho sự giao thông, không làm cho người ta bị vấp ngã, không đe dọa sập đổ. Như vậy giám đốc điều hành mỏ, các cấp chỉ huy phải tổ chức sản xuất, tổ chức lao động sao cho toàn bộ hệ thống đường lò được thông thoáng, có đủ biển chỉ dẫn, có đủ ánh sáng. Nơi nào cần để vật liệu phải xếp gọn gàng và có biển báo rõ ràng, không để bừa bãi cản trở giao thông. Các lối đi lại bên phía rãnh nước phải đủ rộng (tối thiểu 0,7m), các tấm đậy rãnh nước phải chắc chắn, không bập bênh. Nếu là lò thượng, lò ngầm thì bên phía lối đi phải có tay vịn… Nền đường phải giữ cho khô ráo, nếu phía trên nóc các đường lò có đặt xà (dầm) ngang làm giá đặt quạt cục bộ hay thứ gì đó, có treo thứ gì đó thì phải đảm bảo chiều cao tối thiểu và có biển báo rõ ràng, chiếu sáng đầy đủ . Đã có trường hợp đặt dầm ngang làm giá quạt cục bộ nhưng không treo biển cảnh báo, lại thiếu ánh sáng thế là thợ lái tàu điện bị tử nạn khi đang đứng lái tàu điện ắc quy chạy nhanh qua đó (Mỏ Mông Dương-1979). Vậy “thông đường” ở trong hầm lò cũng giống như ở trên phố, làm gì thì làm cũng phải đảm bảo sao cho việc đi lại của con người cũng như các phương tiện được thông thoáng, đảm bảo thời gian, đảm bảo an toàn.

- Thứ hai, Thông điện:

Mỏ than hầm lò là hộ tiêu thụ điện loại một, phải đảm bảo cung cấp điện 24/24 giờ mỗi ngày. Nguyên tắc mỗi mỏ phải có hai nguồn điện, một chính thức một dự phòng để có điện liên tục chạy ít nhất ba hệ thống bơm - trục - quạt. Nghĩa là trong mọi trường hợp phải có đủ điện cho hầm bơm chính, tời chở người (giếng đứng, giếng nghiêng) và quạt gió làm việc. Theo quy định an toàn của Việt Nam thì không được phép để mất điện trong hầm lò quá 30 phút, vì vậy các mỏ than hầm lò đều đã đầu tư trạm phát điện cục bộ dự phòng, phòng khi mất điện lưới là bơm - trục - quạt chạy được ngay. Thông điện không phải chỉ là có điện liên tục cấp vào mỏ mà toàn bộ hệ thống đường dây tải điện, các trạm biến áp trên mặt mỏ, dưới lòng đất, các máy ngắt, các khởi động từ và các thiết bị điện khác phải luôn sẵn sàng mang tải, làm việc một cách an toàn. Nếu mọi thứ đều đầy đủ đấy nhưng khi đóng điện mà cái nào đó không chạy được thì vẫn là “tắc” chứ “chưa thông”. Trong vụ sự cố ngập nước ở Mỏ than Thành Công ngày 30.9.2009 có chuyện một máy bơm công suất lớn đã được mỏ lắp đặt trước mùa mưa bão nhưng lại không chạy được cùng lúc với hai máy bơm khác. Hỏi kỹ mới được biết mỏ chỉ lắp thêm bơm nhưng lại không thay trạm biến áp hầm lò sang công suất lớn hơn, khi chạy cả ba bơm thì quá tải. Vậy là có bơm lớn cũng như không, cuộc cứu hộ bị kéo dài do chậm thoát nước. Trong trường hợp này điện vẫn có đấy nhưng không thông bạn ạ. Phải thông đồng bộ mới gọi là thông! Vậy thông điện tức là toàn bộ hệ thống thiết bị có sử dụng điện kể cả dự phòng đều chạy được khi cần phải chạy và chạy một cách ổn định, an toàn. Khi cần cắt điện ở thiết bị nào đó hay khu vực nào đó là cắt được ngay không có trục trặc.

- Thứ ba, Thông gió:

Thông gió tức là cấp đủ dưỡng khí cho mọi người làm việc trong mọi ngõ ngách của hầm lò. Không có dưỡng khí người ta chết ngay. Thế mới biết việc thông gió ở mỏ hầm lò quan trọng như thế nào. Bạn có

Page 33: Thợ lò cũng là chiến sỹ

thể hỏi: vậy còn thông gió tự nhiên thì sao? Có đấy, nếu một đường lò bằng đào thông qua quả núi, có thể dài đến cả cây số thì gió có thể vào ở cửa lò ở phía bên này rồi ra ở phía bên kia đủ cho một số người thở. Hay trong một cái hang có ít nhất hai lối thông ra ngoài trời cũng vậy. Còn từ đường lò bằng khi mà bạn đào thêm các đường lò mới thì phải lắp quạt gió cục bộ, chẳng hạn bạn mở một cái ngã ba, rồi đào thêm độ 8m, quá lắm là 10m thì gió tự nhiêm vẫn vào được, đào thêm nữa mà không chạy quạt cục bộ thì bạn chả có gì để mà thở đâu, đừng có dại nhé. Đừng bao giờ vào cái lò cụt không được thông gió bằng hệ thống quạt và ống gió cục bộ.

Ở mỏ hầm lò gió tươi (hay gió sạch) đi vào từ một cửa lò, thông gió cho các nơi làm việc rồi đi ra bằng một cửa lò khác. Gió ra khỏi nơi làm việc gọi là gió thải (hay gió bẩn). Trạm quạt gió chính có thể được đặt ở gần cửa lò hay cửa giếng nơi luồng gió sạch bắt đầu được đẩy vào mỏ hoặc được đặt ở gần cửa lò thông gió, hay cửa giếng gió nơi gió bẩn được hút ra khỏi mỏ. Ở trường hợp đầu người ta gọi là “thông gió đẩy”, trong trường hợp sau gọi là “thông gió hút”. Dù đẩy hay hút thì gió sạch vẫn vào mỏ theo một cái cửa lò ấy thôi, chỉ khác nhau ở vị trí đặt quạt. Ở các mỏ lớn hay các mỏ cũ được đào thông nhau có thể có hai nhay nhiều trạm quạt gió chính. Các kỹ sư thông gió căn cứ vào số lượng người tối đa làm việc trong mỏ và số lượng, công suất của các thiết bị được lắp đặt, cấp độ nguy hiểm về khí nổ, bụi nổ và một số điều kiện khác để thiết kế công suất trạm quạt gió chính, tiết diện các đường lò. Khi đi lại trong hầm lò bạn phải chú ý đóng các cửa gió để đảm bảo cho gió lưu thông. Khi đường lò bị nén bẹp tức là tiết diện bị nhỏ đi, lượng gió qua đó ít hơn, nếu không kịp thời chống xén khôi phục lại tiết diện đường lò thì khu vực làm việc của bạn có thể bị thiếu dưỡng khí đấy. Khi đào mới hay khôi phục các đường lò cụt việc đầu tiên bạn phải làm là lắp đặt hệ thống thông gió cục bộ, và đừng bao giờ rạch ống gió ra để lấy gió giữa chặng đường làm như thế gió không đủ sức mà chạy vào đến gương lò cho bạn thở đâu. Bạn chỉ có thể rạch ống gió trong trường hợp khẩn cấp để cứu người.

Xin nói với bạn một câu “chắc như đinh đóng cột” rằng: bất kể nơi nào trong hầm lò có người làm việc nơi đó đều phải có gió đi qua, tôi nói “đi qua” tức là có thể đo được tốc độ gió ở đó, chứ không phải kim đồng hồ đo gió đứng yên với tốc độ bằng không đâu nhé. Thông gió ở mỏ hầm lò là như vậy. Nơi có đông người làm việc (như lò chợ, gương lò đá, lò than đang đào, hầm trạm) nhất thiết phải được cấp gió tươi. Gió ra từ các nơi ấy gọi là gió thải, gió thải đi theo lò thông gió ra ngoài, ở luồng gió thải trong lò thông gió vẫn đủ dưỡng khí cho bạn đi lại, làm việc, nhưng chất lượng gió không được tốt như ở luồng gió tươi.

Xin bạn ghi nhớ thêm một điều nữa, hệ thống thông gió chính của mỏ có thể đảo chiều từ đẩy sang hút và ngược lại từ hút sang đẩy trong trường hợp xảy ra sự cố cháy mỏ. Hệ thống đảo chiều gió này phải được kiểm tra định kỳ đảm bảo sao cho khi có lệnh đảo chiều là đảo được ngay. Trong khi xử lý sự cố cháy mỏ Đồng Vông ngày 16.1.2014 người chỉ huy cao nhất có mặt tại hiện trường đã ra lệnh đảo chiều gió để đưa được thi thể các thợ lò bị mắc nạn trên đường lò thông gió ra ngoài. Đảo chiều gió để dồn khí độc, khí ngạt và hơi nóng về phía đám cháy tạo thuận lợi cho lực lượng cứu hộ tiếp cận vị trí các nạn nhân. Trong vụ sự cố bục nước làm đổ lò thượng khai thác Mỏ Than Mông Dương ngày 31.3.2006 làm mắc kẹt 21 thợ lò tôi đã ra lệnh đảo chiều gió cục bộ từ đẩy gió từ mức +9,8m xuống lò thượng sang hút gió từ lò thượng lên để tạo ra luồng gió từ mức -97,5m qua khe nứt vào lò thượng bị đổ lên mức +9,8m phù hợp với chiều gió tự nhiên để có gió cho anh em thở.

Kết lại mục “thông gió” này tôi muốn bạn ghi nhớ thật kỹ: đừng bao giờ vào những nơi không được thông gió. Vào nơi không được thông gió tức là tự mình dấn thân vào chỗ chết đấy.

- Thứ tư, Thông nước:

Thông nước ở đây gồm cả cấp nước và thoát nước. Nước cấp vào mỏ hầm lò phải được tính đủ cho các nhu cầu sản xuất và phòng chống cháy nổ. Lượng nước dự trữ trên bể và tiết diện hệ thống đường ống

Page 34: Thợ lò cũng là chiến sỹ

cấp nước phải tính đủ cho nhu cầu tối đa của sản xuất và dập tắc đám cháy xảy ra trong mỏ. Trong thực tế phải luôn giữ cho khối lượng nước dự trữ ở bể được đủ theo thiết kế và hệ thống đường ống phải kín, luôn ở trạng thái sẵn sàng hoạt động đầy tải. Các van nước phải luôn được kiểm tra, chạy thử không để xảy ra trục trặc khi cần vận hành. Không phải không có trường hợp bể chứa thì cạn nước, hệ thống đường ống cấp nước bị hở ở các mối nối, thậm chí ống nước bị thủng (kể cả ống sắt) không được thay, van nước nhiều cái han rỉ. Đến khi có đám cháy cần đến nước thì không có, đành bó tay. Thế còn sản xuất hàng ngày thì sao, nếu đường ống nước 'tậm tịt” hở tếch, hở toác ở nhiều chỗ, vào đến búa khoan, máy khoan hay máy đào lò, máy khấu than liên hợp (combainer) nước đã yếu (không đủ áp lực) thì bạn khoan đã khó lại hưởng thêm suất bụi đá hay bụi than, dù đã mang khẩu trang trong phổi bạn vẫn có ít bụi. Bụi tích lại làm cho bạn khó thở. Đó là dấu hiệu của bệnh nghề nghiệp bụi phổi đấy. Vậy nên để làm việc suôn sẻ, đỡ bực mình, có năng suất và hạn chế tối đa bị nhiễm bụi nước cấp cho máy khoan, máy xúc, máy đào lò, máy khấu than phải sạch, phải đủ áp lực và bạn cần mang khẩu trang hay cái lọc bụi.

Thoát nước ở mỏ hầm lò, nhất là lò giếng nghiêng hay giếng đứng là vấn đề quan trọng hàng đầu trong việc bảo vệ sức khỏe, bảo vệ tính mạng của bạn và bảo đảm cho sản xuất mỏ được trôi chảy. Để làm việc này trước hết hệ thống rãnh thoát nước dọc các đường lò phải có đủ độ dốc, ở các lò cố định lâu dài phải được đặt máng nước bằng vật liệu chắc chắn như bê tông cốt thép, xây gạch hay bằng thép. Rãnh nước phải được nạo vét thường xuyên. Hầm chứa nước cũng phải được nạo vét định kỳ. Nếu không nạo vét bùn đất đầy dần lên làm giảm dần sức chứa. Trạm bơm chính trung tâm ở gần đáy giếng liền kề với hầm chứa nước và hệ thống đường ống thải đảm nhận vai trò đưa nước từ đáy các tầng khai thác lên mặt đất đến trạm xử lý nước thải mỏ. Hệ thống này mà trục trặc thì hậu quả khôn lường, mỏ có thể bị ngập, theo đó thợ mỏ bị mắc kẹt, hoặc bị chết. Chính vì vậy mà trạm bơm chính bao giờ cũng có cơ số dự phòng đủ lớn. Về mùa mưa thường chỉ chạy khoảng một nửa tổng công suất các máy bơm, chỉ đợt nào mưa to liên tục nhiều ngày thì mới huy động hết công suất. Nếu không được như vậy thì là thiếu đấy, có thêm sự cố bục nước trong nhiều ngày mưa to thì khó lòng mà xoay xở được. Các máy bơm phải được kiểm tra, bảo dưỡng cẩn thận, thay nhau chạy để máy nào cũng sẵn sàng chạy khi có yêu cầu. Hệ thống ống cũng vậy phải đảm bảo luôn trong trạng thái sẵn sàng làm việc. Ngoài các bơm ở trạm chính mỏ còn phải lắp đặt một số trạm bơm khu vực và luôn có sẵn một số bơm và đường ống dự phòng, khi cần có thể huy động được ngay.

Thông nước là cả cấp và thoát nước phải luôn ở trạng thái đảm bảo cho sản xuất được ổn định, an toàn và khi có sự cố thì sẵn sàng làm việc đủ tải, đầy tải, cần bổ sung là có ngay. Muốn có thông nước phải thông đường và thông điện trước đã. Điện mà không đủ (không đồng bộ) thì lúc cần chỉ còn kêu trời thôi, giống như vụ ngập nước ở Mỏ than Thành Công năm 2009 ấy (bơm có, điện không đủ!).

- Thứ năm, Thông khí ép:

Trong mỏ than hầm lò khí ép thường dùng để chạy các búa căn, búa khoan khi đào lò đá, đào hố chân cột lò than, phá đá quá cỡ trong lò chợ. Ở các mỏ có nguy hiểm về khí nổ khí ép còn được dùng để chạy các quạt gió cục bộ, chạy bơm thoát nước cục bộ. Khí ép còn được dùng để chèn lò bằng đá, sỏi. Các mỏ lớn thường có trạm nén khí trung tâm ở trên mặt đất hoặc trong một hầm lớn dưới lòng đất cung cấp khí nén đến các gương lò qua hệ thống đường ống treo dọc đường lò cùng với hệ thống ống cấp nước. Các máy ép khí cục bộ được đặt trong một hầm hay ngách trên luồng gió sạch. Cũng như hệ thống đường ống cấp nước, hệ thống ống cấp khí nén phải chắc chắn, kín đảm bảo cho khí ép đến các máy sử dụng có đủ áp lực cần thiết. Không đủ áp lực búa khoan, búa căn chạy cầm chừng làm cho bạn bực mình. Trong những năm gần đây Tập đoàn Than-Khoáng sản Việt Nam đã chỉ đạo đưa đường khí ép đến các gương lò chợ và các ngõ ngách khác của hầm lò; đã dùng khoan khí ép they cho khoan điện nâng cao mức độ đảm bảo an toàn trong mỏ có khí mê tan.

Page 35: Thợ lò cũng là chiến sỹ

Khi xảy ra sự cố sập lò nếu ở đó có đường dẫn khí ép đội cứu hộ có thể xử lý nhanh hơn. Vụ sự cố bục nước làm đổ lò thượng khai thác ở Mỏ Mông Dương tháng 3.2006 là một ví dự tốt. Ở đó sẵn có đường ống khí ép nên việc phá đá quá cỡ được nhanh hơn, nhanh chóng giải cứu những người bị mắc kẹt trong lò đổ. Nếu chẳng may bạn đang ở trong một đoạn lò độc đạo (lò cụt) một chỗ bất ngờ sập xuống vít mất đường ra, bạn bị mắc kẹt. Dưỡng khí ở đó giảm dần, bạn hãy bình tĩnh xem xét, nếu có đường ống cấp khí nén thì bạn tìm cách trích ra lấy khí mà thở, đợi đội cứu hộ giải cứu. Sự tiêu hao khí ép ở đó cũng là tín hiệu báo cho bên ngoài biết bạn bị mắc kẹt.

Vậy là khí ép mà thông thì chẳng những sản xuất thông mà cứu nạn cũng nhanh và có thể giúp bạn sống sót khi bị mắc kẹt trong lò cụt bị đổ.

- Thứ sáu, Thông tin:

Bây giờ là thời đại của thông tin, chứ vài chục năm trước khổ lắm, làm gì có hệ thống điện thoại trong hầm lò trong những năm 1970, 1980 ngoại trừ hai mỏ Vàng Danh, Mông Dương do Liên Xô cung cấp thiết bị đồng bộ. Hệ thống thông tin nói ở đây là toàn bộ các phương tiện thông tin, tín hiệu, biển báo giúp cho hệ thống chỉ huy ở mỏ kiểm soát được quá trình sản xuất, kiểm soát được các hoạt động đang diễn ra dưới lòng đất; giúp cho thợ lò tránh được các hiểm họa, giữ được an toàn. Đầu tiên là các biển báo được đặt ở cửa lò, được viết lên tường lò, được treo ở các ngã ba, ngã tư, các hầm, trạm, v.v…và v.v để cảnh báo các nguy hiểm cần tránh; các nơi cấm vào; để chỉ dẫn đường đi lối lại; thông báo kết quả đo gió, đo khí; hướng dẫn quy trình vận hành thiết bị. Các biển bảo này phải được viết bằng sơn một cách rõ ràng, đúng kích thước quy định, đặt hay treo ở nơi dễ nhìn thấy. Khi biển bị mờ phải được thay mới. Thứ hai là hệ thống tín hiệu như tín hiệu máy nâng ở giếng đứng, tín hiệu tời ở giếng nghiêng, ở lò thượng, lò ngầm, lò bằng, tín hiệu ra vào các hầm trạm. Chuông hay còi tín hiệu phải luôn trong trạng thái sẵn sàng làm việc, người đánh tín hiệu (ở giếng) phải chuyên nghiệp nếu không “sai một ly, đi một dặm”. Tất cả thợ lò làm việc dưới mỏ đều phải thuộc và nhớ quy định về tín hiệu thế nào thì chở người lên, người xuống, mấy tiếng là chở vật liệu, mấy tiếng là dừng… Thứ ba, là các mỏ bây giờ đều có hệ thống liên lạc điện thoại giữa tổng đài mỏ với các hầm, trạm, gương lò thuận lợi cho điều hành sản xuất, cứu hộ, cứu nạn. Bạn phải cùng đồng nghiệp bảo vệ cho hệ thống điện thoại này luôn trong trạng thái làm việc tốt, đừng bao giờ làm bất cứ việc gì hại đến nó. Tôi còn nhớ hồi năm 1983-1984 ở Mỏ than Mông Dương một số anh thợ lò lười biếng muốn trốn việc hay bực tức chuyện gì đó với cán bộ chỉ huy đã phá các trạm điện thoại, vô hiệu hóa nó đi, làm các chuyên gia Liên Xô rất ngạc nhiên. Cũng ở Mông Dương hơn 20 năm sau nhờ có thông tin điện thoại thông suốt mà chiến dịch giải cứu 21 thợ lò bị mắc kẹt trong lò thượng bị sập do bục nước (31.3.2006) đã diễn ra khẩn trương, hiệu quả. Tôi ngồi ở trung tâm điều hành, giám đốc mỏ Doãn Văn Quang chỉ huy trực tiếp ở gương lò bị sập đã thường xuyên trao đổi, cập nhật thông tin. Rồi Phó thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vào cửa lò +9,8m qua điện thoại nói chuyện, động viên đội cứu nạn đang làm việc trong lò thượng từ phía trên xuống. Vụ bục nước sập lò ở Mỏ than Nam Khe Tam (Công ty 86, Tổng công ty Đông Bắc) ngày 23.1.2007 cũng vậy, thông tin điện thoại thông suốt và chỉ trong 14 giờ đồng hồ đã giải cứu được 10 thợ lò còn sống, hai người đã hy sinh.

Trong mấy năm vừa qua ở các mỏ than hầm lò đều đã có hệ thống cảnh báo khí cháy nổ (mêtan) hoạt động rất hiệu quả. Có một trường hợp xảy ra sự cố ở Công ty 86 năm 2013 sau khi hệ thống cảnh báo mêtan đã “lên tiếng”. Nồng độ mêtan đến mức 1%, hệ thống cảnh báo đã tác động bằng còi và cắt điện nhưng một số người làm việc ở đó vẫn không ngừng công việc như quy định. Vậy là mêtan tăng cao và sự cố đã xảy ra gây thiệt hại về người và của. Bạn thấy đấy thông tin đã cảnh báo nhưng con người “không tin” hay lấn cấn cái gì đó hoặc như dân gian thường nói “bị chập mạch” thế nào ấy nên đã không thực thi việc rút khỏi nơi làm việc. Trong Ngành Than (Mỏ Khe Chàm) hiện đang thử nghiệm việc quản lý sản xuất, quản lý lao động trong hầm lò bằng hệ thống truyền hình có xác định vị trí của mỗi thợ lò (hệ thống định vị GPS). Người chỉ huy ngồi ở phòng điều khiển trung tâm có thể nhìn thấy các hoạt động trong hầm lò, nhìn thấy người thợ lò đang di chuyển ra sao. Không chỉ nhìn thấy mà còn trao đổi thông

Page 36: Thợ lò cũng là chiến sỹ

tin, truyền lệnh sản xuất. Trong trường hợp xảy ra sự cố thợ lò bị mắc kẹt thì hệ thống định vị GPS này dễ dàng xác định vị trí người bị nạn đang ở đâu mà tìm.

Bạn thấy đấy các phương tiện thông tin ở mỏ ngày càng đa dạng và hiện đại. Nó giúp bạn làm việc nhàn hơn, an toàn hơn nhiều so với trước đây với một điều kiện duy nhất là bạn phải tuân thủ quy tắc làm việc. Không phải mình bạn tuân thủ là được, mà các đồng nghiệp của bạn, người chỉ huy của bạn phải tuân thủ quy tắc làm việc đã được phổ biến, được huấn luyện. Bạn đừng ngại nhắc thậm chí yêu cầu người chỉ huy tuân thủ trong trường hợp bạn phát hiện thấy anh ta đang cố tình hay vô tình lờ đi vì một lý do nào đó. Bạn thử nghĩ xem lỡ ra lúc đó anh ta đang “bị chập mạch” thì sao? Phải đánh thức anh ta, phải hành động để bảo vệ mình, bảo vệ cả anh ta nữa chứ.

- Thứ bảy, Thông tải:

Tôi để “thông tải” xuống cuối cùng không phải vì nó không quan trọng bằng các “thông” khác mà là vì nó là kết quả, là mục tiêu của các cái thông đã nói ở trên. Tuy vậy bản thân sự “thông tải” động đến hoạt động của hệ thống vận tải cả đầu vào lẫn đầu ra ở mỏ. Đầu vào bao gồm vật tư, thiết bị dụng cụ và sự đi đến nơi làm việc và trở về của thợ lò. Đầu ra là đất đá, than thải ra trong quá trình đào hệ thống các đường lò, hầm trạm, than ra từ lò khai thác đưa lên mặt mỏ… Cả hệ thống vận tải qua giếng bằng máy nâng hay tời trục, qua các đường lò chính bằng hệ thống đuờng ray, tàu điện, xe goòng hay bằng máng cào, băng tải, ray đơn, xe tự hành mà ách tắc thì đào lò hay sản xuất than bị đình trệ, sản lượng giảm sút, thu nhập của bạn cũng theo đó mà giảm đi. Chỉ đơn cử một việc đường ray không chắc chắn, các mối nối ray bị lệch, tà vẹt, đá lót không đủ, không chắc tàu sẽ chạy không êm, thậm chí hay bị cặm, nhiều khi bị đổ cả xe chở than lẫn “song loan” chở người. Hầu hết các mỏ hầm lò hiện nay chưa chú ý đúng mức đến việc lắp đặt đường ray và bảo trì nó cho tốt để tàu chạy cho êm, cho nhanh. Đã có anh chỉ huy ở mỏ nọ nói với tôi “anh chê thì chúng em nhận lỗi và sẽ cố gắng sửa chữa, nhưng anh thấy đấy cũng chưa đến nỗi nào, chả kém đường sắt Thống Nhất hay Hà Nội -Lào Cai mấy đâu”. Tôi biết nửa sau anh nói vui thôi. Cái tội thứ hai là sự thiếu đồng bộ về công suất hay khả năng thông tải của cả hệ thống vận tải từ lò chợ ra đến sân ga đáy giếng và qua giếng. Vậy là toàn bộ hệ thống từ đầu đến cuối phải theo cái đoạn “cổ chai” nào đó có công suất bé nhất. Ai cũng biết cái sự không đồng bộ là “vớ vẩn” nhưng “biết rồi, khổ lắm, nói mãi” mà vẫn chưa sửa được.

Tóm lại bản thân hệ thống vận tải mà được thông một cách đồng bộ và cùng với đường thông, điện thông, gió thông, nước thông, khí ép thông, thông tin thông thì mọi thứ đầu vào, đầu ra ở mỏ đều thông, tức là sản xuất được thông suốt, thợ lò làm việc đỡ vất vả hơn, đỡ bực bội hơn và chắc chắn là an toàn hơn. Nếu có xảy ra sự cố sập lò do áp lực mỏ, do bục nước hay xảy ra cháy, nổ thì việc cứu nạn cũng nhanh hơn, đỡ thiệt hại về người và của hơn. Bảy thông này là bảy thông tạo ra sự an toàn, tạo ra tốc độ, năng suất, chất lượng và niềm vui của bạn đấy. Bạn đồng tình hay phản đối nào?

IV.1.2. Ba thoát

- Thứ nhất, Thoát áp lực mỏ:

Ở phần trước tôi đã đề cập khi bạn đào lò tạo ra một khoảng trống trong lòng đất thì xung quanh không gian trống đó xuất hiện áp lực của đất đá: phía trên nóc thì đè xuống (đẩy xuống) phía hai bên sườn (bên hông) thì đẩy vào và phía dưới nền thì đẩy lên; sức đẩy từ các phía nặng nhẹ khác nhau. Nếu ta cân bằng được áp lực thì khoảng không gian trống vừa được tạo ra sẽ tồn tại, nếu không cân bằng được áp lực thì nó sẽ sập đổ vào lúc nào đấy. Bạn thường hiểu rằng để cân bằng áp lực thì phải chống đỡ khoảng không gian trống đó (tức là các đường lò, hầm trạm) bằng cái gì đó. Điều đó hoàn toàn đúng, nhưng chưa đủ. Có những chỗ bạn không cần chống gì cả mà đường lò đá vẫn tồn tại một cách an toàn, bền vững cả trăm năm hay nhiều hơn. Nếu bạn đến Mỏ than Mông Dương, bạn vào lò xuyên vỉa +9,8m

Page 37: Thợ lò cũng là chiến sỹ

đi suốt chiều dài gần 1000m, xuyên qua mấy vỉa than, ngước mắt lên nhìn bạn chỉ thấy vòm đá, chỉ có chỗ nào đi qua vỉa than mới có vì chống. Người Pháp đã cho đào đường lò xuyên vỉa này, đặt đường goòng ở đó để chở than về trung tâm mỏ từ đầu thế kỷ 20, đến năm 1975 Xí nghiệp Xây lắp 6 đã khôi phục đường lò này, cho đến ngày nay nó vẫn vững vàng. Các kỹ sư người Pháp đã tính được sự cân bằng áp lực trong khối đá vững chắc và họ đã quyết định không cần chống lò. Ở Ngành Than ta ngày nay đã có một số đường lò đá không chống hoặc được chống bằng neo thép hay neo dẻo. Tổng Công ty Than đã ban hành cả một quy định chi tiết và quy trình kỹ thuật chống vì neo để giảm bớt công sức, tiền của nhưng kết quả thực hiện chưa được nhiều. Có một lý do cơ bản là sợ trách nhiệm. Các nhà thiết kế mỏ ở ta bao giờ cũng thiết kế chống tất cả các đường lò, các kỹ sư mỏ ngại thay đổi vin vào thiết kế để làm “cho an toàn” (cho bản thân mình). Chỉ có các nhà nghiên cứu khoa học thì hăng hái hơn. Thực ra nếu quy chuẩn kỹ thuật đề cập một cách rõ ràng, bắt buộc phải khảo sát, tính toán chỗ nào không cần chống thì dứt khoát không chống. Nếu các nhà thiết kế mỏ, các kỹ sư ở mỏ hăng hái hơn, ít sợ trách nhiệm (sợ quy chuẩn) hơn thì ở Vùng than Đông Bắc (Quảng Ninh, Bắc Giang) có thể bỏ chống ở nhiều đuờng lò đá như người Pháp đã làm, hoặc chỉ chống bằng neo thôi. Như vậy sẽ tiết kiệm được nhiều công sức của thợ lò, tiền bạc của công ty.

Nhưng thôi, ta trở lại với việc chống lò. Thường thì người ta căn cứ vào tiết diện đường lò to hay nhỏ, thời gian cần duy trì đường lò trong bao nhiêu năm và độ bền vững của đất đá, than xung quanh mà quyết định xem chống lò bằng cái gì: xây gạch, bê tông cốt thép, vì thép hay vì gỗ và khoảng cách giữa các vì chống. Thiết kế giỏi là làm sao cho vì chống cân bằng được với sức nén của áp lực mỏ để đường lò không hoặc ít bị biến dạng. Có khi thiết kế đã chọn đúng nhưng thi công sai hay nhẹ hơn là lắp đặt các vì chống không “ke” (không ngay ngắn, vuông góc với trục của đường lò), các bu lông không được xiết chặt (việc này thường xảy ra), không chèn đá cẩn thận vào khoảng trống giữa vì chống với hông lò, nóc lò cũng làm cho vì chống bị biến dạng. Hoặc là các vì chống không được kiểm tra, xiết chặt định kỳ cũng dẫn đến nhanh bị biến dạng. Ở lò khai thác (lò chợ, lò buồng- cột) chống lò sai quy trình, tốc độ khai thác chậm, phá hỏa ban đầu ẩu cũng dẫn đến tình trạng lò bị nén. Ở các lò chợ dốc cột chống không đặt trên đá trụ mà đặt trên nền than cũng là nguyên nhân gây trượt dẫn đến đổ cục bộ hay cả lò chợ. Nếu chống lò chợ bằng cột thủy lực đơn, giá thủy lực di động hay dàn chống tự hành mà không kiểm tra, duy trì áp lực dầu thì cũng dẫn đến đổ cục bộ hay toàn bộ lò chợ. Muốn cân bằng được áp lực mỏ, tránh được sự cố sập lò (hay đổ lò) bạn và các đồng nghiệp phải chống lò đúng thiết kế, đúng các trình tự quy định đã được hướng dẫn và thường xuyên để ý, theo rõi đảm bảo cho nó luôn ở trạng thái làm việc tốt. Nếu thấy có dấu hiệu bất thường thì phải xử lý ngay, tự mình không làm được thì phải gọi thêm người, phải báo cáo chỉ huy, đừng chờ đợi. Cái khó trong khai thác hầm lò là điều khiển đá vách ở khoảng không đã khai thác (đã lấy than, lấy quặng đi). Ở Ngành Than Việt Nam các mỏ đều dùng biện pháp phá hỏa, tức là để cho đá vách tự sập hoặc cưỡng bức cho nó sập xuống lấp đầy dần khoảng trống. Chỉ có Mỏ than Khe Bố và Mỏ than Làng Cẩm dùng biện pháp chèn lò bằng đất sét. Viện Khoa học công nghệ mỏ và Công ty than Mạo Khê đang chuẩn bị thử nghiệm chèn lò bằng tro xỉ từ nhà máy nhiệt điện gần đó. Tro, xỉ cùng với nước sẽ được dẫn xuống lò bằng hệ thống đường ống giống như ở Nga hay Ba Lan người ta chèn lò bằng cát. Phá hỏa ban đầu, phá hỏa cưỡng bức thường nguy hiểm hơn, nếu được giao việc này bạn phải hết sức cẩn thận, làm việc có sự chỉ huy, giám sát chặt chẽ bạn nhé. Ở các lò chợ khai thác vỉa dày có “hạ trần” (kể cả lò chợ chống bằng dàn tự hành, bạn phải chú ý kỹ càng khi hạ trần tháo than sau lưới thép hay mở cửa sổ cho than vào luồng máng cào. Không chỉ có than đâu nhé, có khi cả đá vách tạt xuống “xông vào” gây nguy hiểm cho bạn.

Khép lại phần này tôi muốn bạn ghi nhớ “thoát áp lực mỏ” có nghĩa là đảm bảo cho được sự cân bằng giữa sức nén của đá vách, đá trụ, của vỉa than với sức chống đỡ của vỏ chống, vì chống hay dàn chống. Bạn phải hành động sao cho các kết cấu chống đỡ này luôn ở trạng thái làm việc tốt. Muốn vậy khi chống đỡ bạn phải làm đúng thiết kế, đúng trình tự thi công và sau đó phải theo dõi, kiểm tra duy tu, củng cố, sửa chữa. Nếu làm được như thế bạn không có gì phải sợ áp lực mỏ cả.

Page 38: Thợ lò cũng là chiến sỹ

- Thứ hai, Thoát bục nước:

Ở phần “hiểm họa nước mỏ” tôi đã trao đổi với bạn nước ở hầm lò nguy hiểm thế nào và mình phải chống đỡ lại ra sao. Ở đây tôi xin nhấn mạnh: muốn thoát được hiểm họa bục nước thì những người làm mỏ phải luôn đề phòng. Trước hết là các kỹ sư trắc địa, địa chất phải thường xuyên cập nhật các điểm khai thác lộ vỉa, các đường lò, hầm trạm, các lò khai thác lên bản đồ. Cập nhật tình hình mưa lũ, mực nước ở dòng sông, khe suối gần mỏ, các bể nước, hồ nước trên mặt mỏ, các đường lò, khu khai thác cũ dưới lòng đất. Đặc biệt phải cập nhật, theo dõi biến đổi của sự thẩm thấu nước ngầm vào các đường lò, thấy bất thường là phải báo cáo ngay. Có theo dõi, cập nhật tình hình, thể hiện nó trên bản đồ mỏ, bản đồ địa chất công trình, địa chất thủy văn; có suy nghĩ, nhận xét, phán đoán tình hình thì bạn sẽ đề ra, thiết kế được, tổ chức thực hiện được các biện pháp đề phòng một cách vững chắc.

Đến lượt bạn, những thợ lò làm việc trực tiếp dưới mỏ bạn không thể thờ ơ với nước mỏ mà phải luôn để ý đến nó, nếu thấy nước đột ngột xuất hiện, hay chảy ra nhiều hơn, mạnh hơn trước thì phải cảnh giác đề phòng ngay. Coi chừng có thể bục nước sắp xảy ra đấy. Nếu thấy nguy cơ đó thì bạn phải hô các đồng nghiệp tháo chạy ngay đến nơi an toàn. Nếu bạn đào lò dốc trong vỉa than (cả lò cái, lò nghiêng lẫn lò chợ) mà có nước (chưa xác định có nguy cơ bục nước) thì bạn phải đảm bảo cho đường lò luôn “bám trụ”, tức là chân cột chống dứt khoát phải đặt trên nền trụ của vỉa than, không được đặt trên than. Nếu bạn đặt chân cột trên than thì nước sẽ làm cho nó trượt rồi đổ đấy. Tôi nhắc đi nhắc lại việc này vì nó thực sự cần thiết giúp cho bạn đề phòng. Nếu bạn làm sai bạn sẽ gặp nguy hiểm, chuyện này đã xảy ra nhiều rồi, tôi không muốn nó lặp lại đối với bạn.

Nước là sự sống, chén nước đặt trên bàn thờ gia tiên là lễ vật đơn giản nhất nhưng nhất thiết phải có. Nước mỏ không chỉ có hại mà cũng có ích, ta có thể bơm nó lên, làm sạch nó và đưa vào sử dụng cho công nghiệp hay sinh hoạt. Tôi và Tổng giám đốc Trần Xuân Hòa đã uống nước thải mỏ Hà Lầm sau xử lý (2008), đó là nước sạch đủ tiêu chuẩn để uống, để đặt lên bàn thờ. Tôi muốn bạn luôn cảnh giác với nước mỏ, luôn hành động đúng để giữ an toàn cho mình và đồng nghiệp và góp phần làm cho cuộc sống thêm tươi khi chúng ta chuyển được nước mỏ thành nước sinh hoạt. Đó cũng là niềm vui phải không bạn.

- Thứ ba, Thoát cháy, nổ:

Trong các phần hiểm họa khí mỏ, than tự cháy, bụi than, cháy mỏ tôi đã thưa chuyện với bạn về sự khủng khiếp của các vụ cháy nổ trong các mỏ than hầm lò. Cùng với sập lò do áp lực mỏ, cùng với bục nước làm sập lò, làm ngập mỏ cháy, nổ là “kẻ thù không đội trời chung” của thợ lò, của Ngành mỏ hầm lò. Muốn thoát được cháy, nổ trong hầm lò thì chỉ có cách là chúng ta phải nỗ lực đề phòng, phải cẩn thận ngay từ khi bắt đầu thu thập, nghiên cứu kỹ các báo cáo địa chất, các báo cáo kết quả thí nghiệm mẫu than, mẫu khí, mẫu nước v.v và v.v. Từ kết quả nghiên cứu, phân tích tỷ mỉ ấy mà thiết kế mỏ một cách cẩn thận, rà soát mọi giải pháp tốt nhất với công nghệ hiện đại nhất đưa vào áp dụng phòng chống cháy nổ ở mỏ. Đừng bỏ qua những tiến bộ mới nhất trong phòng chống cháy nổ ở hầm lò chỉ vì tiếc tiền hay thói quen cố hữu “làm theo kinh nghiệm”. Sợ nhất là những người thiết kế mỏ vừa dốt, vừa lười, lại chủ quan cho sao chép (copy) những cái cũ đã làm từ năm nảo, năm nào vào thiết kế mỏ mới. Rồi đến quá trình thi công đào giếng, đào lò cũng phải theo rõi, giám sát chặt chẽ, thường xuyên lấy mẫu đất đá, mẫu nước, mẫu khí; mẫu vật liệu xây dựng để phân tích, đánh giá xem có phù hợp với các dữ liệu đã thiết kế không? Nếu không hay thiết kế có sai sót thì phải điều chỉnh kịp thời. Tôi lại nhắc lại sai lầm của nhiều kỹ sư của mỏ khi nói “cứ theo thiết kế mà làm, có gì cơ quan thiết kế họ chịu trách nhiệm”. Khi đã biết có vấn đề đã không chủ động yêu cầu điều chỉnh thiết kế, lại còn nói như vậy thì thật là tắc trách, và nói cho nghiêm túc thì đó là một tội ác. Đúng rồi, nếu bình thường thì phải làm theo thiết kế, nhưng khí phát hiện ra “có vấn đề” thì không thể 'cứ làm” như vậy được.

Page 39: Thợ lò cũng là chiến sỹ

Các cán bộ kỹ thuật ở mỏ là những người bám sản xuất hàng ngày, vì vậy sự theo rõi, lấy mẫu phân tích, cập nhật tình hình từ đó bổ sung hoặc làm mới hoàn toàn các giải pháp phòng chống cháy, nổ, đưa chúng vào “kế hoạch thủ tiêu sự cố” là việc làm cực kỳ quan trọng cần được lãnh đạo mỏ và mọi người khuyến khích, động viên nhưng nhất định phải đưa vào quy tắc “những công việc bắt buộc cán bộ kỹ thuật ở mỏ phải làm”. Không làm được điều đó không phải là kỹ sư mỏ hầm lò.

Còn bạn, bạn là người trực tiếp làm việc, trực tiếp thực hiện các biện pháp đào chống lò, khai thác than; trực tiếp thực hiện các biện pháp phòng ngừa các sự cố trong đó có phòng ngừa cháy, nổ từ mọi nguyên nhân, bạn cũng là nhân vật được bảo vệ, được hưởng lợi từ các giải pháp ấy. Sự tinh mắt, thính tai, sự nhạy cảm của mũi, của tay bạn; sự trung thực và cố gắng làm đúng, làm đủ quy trình, biện pháp của bạn sẽ giúp bạn và đồng nghiệp được an toàn hay nói cách khác giúp bạn thoát nạn. Ngược lại tính mạng của bạn và đồng đội bị đe dọa. Tôi muốn nói kỹ hơn một tý nữa là: Đã có một số thợ lò làm việc thì tốt thật đấy nhưng khi tham gia diễn tập phòng ngừa, xử lý sự cố thì lại chủ quan, xem thường. Đó là một sai lầm lớn đấy bạn ạ. Sự diễn tập cho ta kinh nghiệm, giúp ta thoát nạn khi sự cố thật xảy ra. Hãy coi các cuộc tập dượt như thế là một cơ hội tốt cho bản thân và đồng nghiệp bạn nhé. Bạn không chỉ tự nguyện tham gia một cách tích cực mà còn phải góp ý kiến để hoàn thiện kế hoạch diễn tập lần sau nữa mới đúng là người biết tự bảo vệ mình và đồng đội.

Bây giờ ta tóm tắt lại công thức 1+7+3+1 bạn nhé. Chắc bạn đã nắm được một cách rõ ràng cái “thông” số 1 là thông tư tưởng, nó đứng trước và vừa là nền móng vừa bao trùm 7 cái thông và ba cái thoát còn lại. Nếu bạn đã thông tư tưởng, đã muốn tự bảo vệ mình, bảo vệ đồng đội thì việc gì bạn cũng làm được cả. Từ việc làm đúng, làm đủ quy trình kỹ thuật đến nâng nó lên thành “nghệ thuật làm mỏ” để cho đường-điện-gió-nước-khí ép-tin-tải lúc nào cũng thông; nguy cơ sập lò, bục nước, cháy nổ lúc nào cũng thoát thì tất nhiên không chỉ mình bạn mà cả mỏ được “thoát nạn”. Bạn hãy nhìn và nhớ sơ đồ sau nhé:

Bạn thấy đấy, từ THÔNG đến THOÁT hay 7 thông, 3 thoát thật dễ nhớ phải không?

IV.2. KẾ HOẠCH THỦ TIÊU SỰ CỐ

IV.2.1. Kế hoạch thủ tiêu sự cố là gì?

“Thủ tiêu” là hai từ Hán -Việt mà người Việt Nam đã quen dùng, nghĩa thuần Việt của nó là xóa bỏ hay làm cho mất đi. Vậy thủ tiêu sự cố tức là xóa bỏ sự cố, làm cho sự cố không còn xảy ra nữa. Đó là nói theo cách tuyệt đối hóa, chứ trong thực tế sự cố vẫn xảy ra, nhiều hay ít phụ thuộc vào sự thuần thục tác

THÔNG TƯ TƯỞNG

BẢY THÔNG BA THOÁT1. Thông đường 2. Thông điện 3. Thông gió4. Thông nước5. Thông khí ép6. Thông tin7. Thông tải

1. Thoát áp lực mỏ2. Thoát bục nước3. Thoát cháy, nổ

THOÁT NẠN

Page 40: Thợ lò cũng là chiến sỹ

phong công nghiệp của người lao động và mức độ hiện đại, an toàn của máy móc, thiết bị cũng như trình độ thiết kế, tổ chức lao động, chỉ huy của các cấp quản lý… Ai cũng biết nếu sơ ý khi thái nắm rau hay đóng cái đinh còn bị đứt tay, dập ngón tay huống hồ làm việc nặng nhọc trong hầm lò. Chính vì thế mà kế hoạch thủ tiêu sự cố bao gồm hai phần: thứ nhất là phòng ngừa, ngăn chặn không để sự cố xảy ra; thứ hai là khi nó đã xảy ra thì làm sao cứu được người bị nạn nhanh nhất và ngăn chặn không cho sự cố phát triển. Năm 2011 Bộ Công Thương đã ban hành “Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn trong khai thác hầm lò” thay cho Quy phạm kỹ thuật an toàn trong các hầm lò than và diệp thạch đã ban hành năm 2006, theo đó “kế hoạch thủ tiêu sự cố” đã được đổi thành “kế hoạch ứng phó sự cố-tìm kiếm cứu nạn”. Tên gọi đã thay đổi nhưng nội dung thì vẫn trên cơ sở quy phạm năm 2006 nên trong phần này xin được dùng cả tên mới và tên cũ.

Theo “Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn trong khai thác hầm lò” thì kế hoạch ứng phó sự cố - tìm kiếm cứu nạn được lập hàng quý do giám đốc mỏ phê duyệt và phải được phổ biến đến tất cả những ai vào làm việc trong hầm lò. Tại sao lại mỗi quý một lần? Bởi lẽ như ở các phần trước tôi đã trao đổi với bạn rằng hầm lò không cố định (đứng yên một chỗ) như nhà máy mà dịch chuyển theo thời gian và không gian. Chỉ cần nối thông một đuờng lò thông gió mới là sơ đồ thông gió của cả mỏ đã thay đổi rồi. Bởi lẽ tính mạng con người là cái quý nhất mà họ lại làm việc trong điều kiện nặng nhọc, độc hại, nhiều rủi ro, lắm hiểm họa đe dọa nên kế hoạch này phải thường xuyên được cập nhật cho sát với thực tế, có như vậy mới đảm bảo được sự hiệu quả của công tác phòng ngừa cũng như xử lý sự cố khi nó xảy ra. Tôi nói điều này mong bạn thêm một lần chú ý khi được phổ biến, được yêu cầu diễn tập, để đừng chủ quan mà bảo rằng “tôi đã nghe, đã tập nhiều rồi, có gì mới đâu”…Thực ra tôi muốn bạn nắm chắc cái kế hoạch này và đưa ra thắc mắc nếu hàng quý nó không được phổ biến và lâu rồi không thấy phân xưởng hay mỏ tổ chức diễn tập. Được phổ biến, được diễn tập theo kế hoạch thủ tiêu sự cố thực sự là quyền lợi của bạn chứ đừng chỉ hiểu đó là nghĩa vụ bạn phải làm. Nói ra điều này bạn đừng bảo là tôi khách sáo, xa rời thực tế nhé. Đó là lời tự đáy lòng tôi, một thợ mỏ già đã từng chứng kiến, từng chỉ huy cứu nạn, xử lý nhiều vụ sự cố lớn trong hầm lò đấy. Không chỉ một lần tôi đã nuốt vào trong hai từ “giá mà” đấy bạn ạ.

Có thể bạn sẽ hỏi vậy kế hoạch thủ tiêu sự cố gồm những gì và hoạch định ra sao? Xin thưa trong kế hoạch thủ tiêu sự cố của mỏ than hầm lò không thể thiếu những việc sau đây:

- Thứ nhất, dự báo xem từ mặt bằng mỏ xuống đến các hầm trạm và toàn bộ hệ thống đường lò được đào hay được chèn lấp trong mỗi quý họat động sản xuất của mỏ chỗ nào có thể xảy ra sự cố: chỗ nào có thể xảy ra sập lò, bục nước, chỗ nào có thể xảy ra cháy nổ khí mêtan, cháy do than tự cháy hay cháy do nguyên nhân ngoại sinh, ở đâu có thể xảy ra sự cố về điện v.v… Từ dự báo, nhận định như vậy người ta đề ra các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn không để sự cố xảy ra; mặt khác bố trí thiết bị, vật tư dự trữ sẵn có tại chỗ để phòng khi sự cố xảy ra có cái dùng để ngăn chặn ngay. Đặc biệt khi đã dự báo rồi thì quá trình chỉ huy các hoạt động sản xuất người chỉ huy và thợ lò đều phải chú ý đề phòng, trước hết là theo rõi sát sao, thực hiện các biện pháp kỹ thuật phòng ngừa với sự phân công cụ thể cho tập thể lao động và từng cá nhân phụ trách.

- Thứ hai, Khi có sự cố xảy ra ở đâu đó trong mỏ thì mỗi người phải hành động ra sao để tự cứu mình, cứu đồng đội, dập tắt sự cố hay ngăn chặn không cho nó phát triển. Sự phân công xử lý sự cố là rõ ràng, công khai từ giám đốc, các phó giám đốc mỏ, các trưởng, phó phòng, các quản đốc, trưởng ca đến mỗi nhóm thợ và cá nhân từng thợ lò: ai làm gì, trách nhiệm đến đâu.

- Thứ ba, diễn tập xử lý sự cố. Căn cứ vào kế hoạch như đã nêu ở hai phần nói trên định kỳ hoặc đột xuất mỏ tổ chức diễn tập xử lý sự cố. Tình huống giả định được đưa ra (chẳng hạn sập lò chợ, hay cháy ở đường lò nào đó), được thông báo để mọi người hành động theo nhiệm vụ của mình. Sau mỗi lần diễn tập đều phải rút kinh nghiệm. Diễn tập tạo cho bạn và đồng nghiệp thói quen phản ứng nhanh, hành động kịp thời để thoát nạn, để cứu bạn đồng nghiệp hay để ngăn chặn sự cố lan rộng, giảm bớt thiệt hại cho

Page 41: Thợ lò cũng là chiến sỹ

mỏ cũng là giảm bớt thiệt hại cho bạn. Hồi còn thiếu nhi hẳn là bạn đã chơi trò “đánh trận giả”, diễn tập xử lý sự cố cũng là một trận giả nhưng lợi ích thật một trăm phần trăm! Lợi ích thiết thực đó là của bạn, của đồng nghiệp, của mỏ và cả Ngành Than. Lợi thế sao ta lại không làm?

IV.2.2. Hành động theo kế hoạch thủ tiêu sự cố ra sao?

Trong dân gian người ta thường nói vui rằng cái ông kế hoạch chỉ vạch ra mà chẳng làm gì cả. Thực ra kế hoạch chỉ là kế hoạch trên giấy nếu không hành động để biến nó thành thực tế có ích cho đời. Đối với mỏ than hầm lò và thợ lò thì thực thi kế hoạch thủ tiêu sự cố thực sự là cái phao cứu sinh như tôi đã nhắc đi, nhắc lại ở phần trên. Vậy bạn nên và cần phải làm gì? Trước hết nếu bạn là trưởng phòng kỹ thuật, hay an toàn, đội trưởng đội cấp cứu mỏ chuyên trách hay bán chuyên trách; quản đốc lò hay trưởng ca, lò trưởng bạn phải chịu trách nhiệm tham mưu cho giám đốc lập, phê duyệt, cập nhật, phổ biến, triển khai thực hiện kế hoạch thủ tiêu sự cố trong phạm vi toàn mỏ và ở mỗi phân xưởng sản xuất. Là quản đốc lò bạn không chỉ tham gia lập và phổ biến kế hoạch mà phải chịu trách nhiệm thực hiện nó tại phân xưởng, đòi hỏi các phòng ban, đơn vị liên quan cùng bạn cập nhật, điều chỉnh kế hoạch hàng quý; đòi hỏi được cung cấp thiết bị, phụ tùng, vật tư và đưa nó đến vị trí dự phòng đã được xác định, chỉ sử dụng nó khi cần thiết phù hợp với kế hoạch. Đặc biệt quản đốc, trưởng ca, lò trưởng hàng ngày phải để mắt đến các lối thoát hiểm, đảm bảo cho chúng được thông thoát. Có một việc mà các quản đốc thường hay quên không làm đó là lắp đặt (hay đơn giản chỉ là sơn rồi viết vẽ lên tường, lên hông lò) các biển báo chỉ rõ tên các đường lò, hầm trạm, mũi tên chỉ rõ lối thoát hiểm, nơi đặt các trang thiết bị, vật tư dự phòng cho xử lý sự cố. Mong rằng các quản đốc đừng quên việc đó, vì nó là nhiệm vụ mang lại nhiều lợi ích. Chính quản đốc, trưởng ca hay lò trưởng chịu trách nhiệm tổ chức huấn luyện, tổ chức diễn tập xử lý sự cố theo các tình huống giả định khác nhau. Nói một cách nôm na là tổ chức cho thợ lò trong phân xưởng đánh trận giả.

Là thợ lò, việc đầu tiên mà bạn nên làm và cần làm là lắng nghe cán bộ phổ biến kế hoạch thủ tiêu sự cố hàng quý, tham gia ý kiến, chỗ nào chưa rõ, thậm chí không đồng ý thì nêu ý kiến của mình. Bạn là người sát thực tế bạn có thể có ý kiến thiết thực mà người làm kế hoạch chưa dự liệu hết được. Tiếp theo bạn cần chú ý đối chiếu các điểm dự kiến có thể có sự cố xảy ra, các điểm đặt trang thiết bị phòng chống cháy nổ, điểm cấp cứu ban đầu, điểm đổi bình tự cứu; các điểm dự trữ vật tư, phụ tùng; các điểm đấu nối đường nước, đường khí ép giữa sơ đồ đã được phổ biến và thực tế trong các đường lò, hầm trạm. Hãy nhớ lấy các điều đó và sự thay đổi của chúng theo thời gian, không gian. Hàng ngày bạn đến nơi làm việc rồi từ đó trở về bằng việc đi qua hệ thống các đường lò trong đó có lối thoát hiểm. Có khi nào bạn thấy trên lối thoát hiểm ai đó đã để đầy gỗ lò hay các vì chống lò hay cái gì đó làm cản trở lối đi hay không? Chắc là có phải không? Vậy bạn đã làm gì? Im lặng đi qua hay yêu cầu người ta hoặc báo cáo trưởng ca, lò trưởng yêu cầu người ta giải tỏa? Bạn ơi lối thoát hiểm lúc nào cũng phải thông thoát đấy nhé. Hôm nay bạn im lặng đi qua, đồng nghiệp của bạn cũng vậy, thế là cái vật cản trở lối thoát hiểm vẫn nằm ỳ ra đấy. Hôm sau xảy ra sự cố cần phải tháo chạy ra nhưng bạn hay ai đó bị vấp ngã, bị kẹt lại do cái vật cản tồi tệ kia. Lúc đó không còn thì giờ cho bạn và đồng nghiệp, cho quản đốc, trưởng ca hay lò trưởng hối hận nữa. Sau sự cố có người sẽ giải thích rằng người thợ lò bị tai nạn do vấp ngã khi chạy khỏi nơi xảy ra sự cố, ít ai nói đến nguyên nhân vì sao anh ta vấp ngã. Người ta vẫn cho rằng cái đống gỗ, đống vì chống kia nó nằm ở đó là chuyện bình thường. Thực ra phải hiểu một cách đúng đắn rằng đó là tội ác! Việc tiếp theo trong các hành động của bạn là tự giác, tích cực tham gia các cuộc diễn tập do phân xưởng hay mỏ tổ chức. Bạn càng thuần thục trong diễn tập bao nhiêu thì khi xảy ra sự cố bạn xử lý càng nhanh bấy nhiêu.

Kết thúc mục này tôi xin được nhắc lại: hành động một cách tích cực theo kế hoạch thủ tiêu sự cố là tự trang bị phao cứu sinh cho mình.

Page 42: Thợ lò cũng là chiến sỹ

CHƯƠNG V: HÀNH ĐỘNG KHI SỰ CỐ XẢY RA

V.1. HÀNH ĐỘNG CỦA BẠN

Kế hoạch thủ tiêu sự cố sẽ chỉ dẫn cho mỗi người làm việc trong hầm lò các quy tắc hành động khi xảy ra sự cố. Bạn có thể tham khảo các chỉ dẫn chung dưới đây và xin nhớ kỹ lấy chúng. Trước hết khi ở trong hầm lò nếu nhận thấy có dấu hiệu sự cố thì nhất định bạn phải báo ngay cho người chỉ huy ca sản xuất hoặc trung tâm điều khiển của mỏ. Thứ hai, dưới đây là những chỉ dẫn cơ bản cho hành động của bạn trong một số tình huống sự cố (xem V.1.1 đến V.1.4).

V.1.1. Hành động của bạn khi có cháy, nổ khí hoặc bụi than

a) Khi phát hiện thấy khói ở phía trước mặt mình thì bạn phải đeo bình tự cứu ra phía trước mặt, mở ngay nó ra, sử dụng nó như khi bạn đã tập luyện (đảm bảo cho bạn được thở cách ly với bầu không khí mỏ tại đó) và chạy từ từ đến đường lò gần nhất có luồng gió sạch, đến lối thoát hiểm. (Bạn nhớ lối thoát hiểm chứ?). Nếu thấy chiều gió đã thay đổi (tức là mỏ đã đảo chiều gió phục vụ cho xử lý sự cố), bạn cần đi về hướng luồng gió sạch (đã đảo chiều) cho đến khí ra đến cửa lò bằng hoặc sân ga đáy giếng (giếng nghiêng, giếng đứng).

b) Khi thấy đám cháy trong lò có luồng gió sạch bạn vẫn phải mở và dùng ngay bình tự cứu và chữa cháy bằng những thứ đầu tiên mà bạn có được (nước từ rãnh nước, cuốc xẻng, bình dập lửa…). Nếu đám cháy gần dây điện hay thiết bị điện thì phải cắt điện ngay. Nếu chỉ có một mình không dập cháy được thì bạn phải gọi thêm người. Nếu không gọi thêm được ai thì bạn phải chạy đi, rút theo luồng gió sạch và báo ngay cho chỉ huy biết.

c) Nếu bạn bị mắc kẹt giữa đám cháy và gương lò cụt thì bạn phải lập tức dùng bình tự cứu, tẩm ướt mặt, tay và quần áo và bằng mọi cách vượt qua đám cháy ra khỏi lò độc đạo (lò cụt), báo cho chỉ huy. Ở đây bạn cần nhớ một điều: không có đường hầm nào mà lại không có lối thoát cả. Thợ lò đừng phụ thuộc vào câu “đường hầm không lối thoát” mà người đời thường nói. Chỉ có như vậy mới tự cứu được mình. Bạn có xem trò chơi nhảy vào lửa của dân tộc ít người ở Tây Nguyên không? Thợ lò làm được hơn như thế nhiều lắm. Đó cũng là sự khác biệt của thợ lò anh là chiến sỹ!

d) Nếu thấy có khói phát ra từ vùng đã phá hỏa (vùng lò cũ) thì bạn dùng ngay bình tự cứu và chạy ra luồng gió sạch, báo cho chỉ huy biết.

e) Nếu nổ khí hay bụi than làm đổ lò và bạn bị mắc kẹt trong đó, bạn hãy dùng bình tự cứu và chờ đợi lực lượng cứu nạn đến. Hãy kiên trì đợi, hãy giữ sức dù bình tự cứu hết tác dụng. Niềm tin của bạn lúc này sẽ giúp bạn chờ đợi thành công. Gió ở mỏ hầm lò khôn lắm, nó sẽ len lỏi qua các khe nứt đến với bạn dù rất yếu ớt.

V.1.2. Hành động của bạn khi có sập lò

a) Sập lò nhưng gió vẫn thông. Nếu bạn có mặt trong vùng có lò sập nhưng gió vẫn thông (phần vòm trống, gió vẫn lưu thông), kể cả lò cái lẫn lò chợ thì bạn phải nhanh chóng cùng đồng nghiệp xác định xem có ai bị mắc kẹt trong đám đổ sập đó không? Và phải lập tức tìm mọi cách cứu họ ra. Nếu bạn bị mắc kẹt trong đám sập đổ thì bạn hãy bình tĩnh giữ sức chờ đồng đội giải cứu, đừng cố quá mà kiệt sức. Bạn cần phát tín hiệu (nếu có thể) bằng cách đập vào vì lò sắt để phát ra âm thanh, hay soi đèn phát ra ánh sáng. Nếu phải đợi lâu thì hãy đái ra mũ lò hay lòng bàn tay, hay thấm vào áo, vào gệt quấn chân lấy nước mà uống. Hãy bình tĩnh và tin tưởng bạn nhé. Bạn còn nhớ thợ lò Nông Văn Sơn ở Công ty than Hòn Gai năm nào không? Sau 72 giờ bị mắc kẹt trong hầm lò bị sập anh ấy vẫn sống nhờ tình yêu của

Page 43: Thợ lò cũng là chiến sỹ

gió mỏ qua khe nứt, nhờ lòng tin và nước đái của chính mình. Hơn mười năm sau tôi đã gặp anh ấy khi cùng tham gia xử lý vụ sập lò do bục nước ở Mỏ than Thành Công đầu tháng 10.2009.

b) Sập lò mà gió không thông. Nếu bạn có mặt trong tình huống lò chợ bị sập vít hết đường lò, gió không thông được thì bạn phải dùng bình tự cứu và chạy đến nơi có luồng gió sạch, báo ngay cho người chỉ huy để tổ chức cứu nạn, xử lý sự cố. Còn nếu bạn bị mắc kẹt trong vùng sập đổ thì bạn hãy bình tĩnh đợi lực lượng cứu nạn đến giải thoát. Trong lúc chờ đợi bạn hành động theo điểm (a) vừa nêu ở trên.

c) Sập lò do bục nước.

Bục nước thường xảy ra bất thình lình từ chỗ bạn đang làm hay từ đường lò nào đó phía trên dội xuống làm bạn không kịp trở tay. Bục nước làm đổ lò, cuốn theo cả người và đất đá cùng vật liệu chống lò. Nếu bạn ở trong tình huống đó thì hãy đừng sợ, bằng cách nào đó di chuyển nhanh về một lò ngang (lò thông gió, lò song song chẳng hạn) bám chắc lấy hông lò, vì lò đợi cho nước chảy qua. Nếu không kịp chạy đến đường lò khác thì hãy bám chắc lấy hông lò, vì lò, cố tránh luồng nước mạnh đang ào qua. Không phải trường hợp nào nước cũng quá nhiều làm ngập hết tất cả. Có trường hợp nước ào qua rồi , lò bị đổ rồi còn quân ta vẫn bị mắc kẹt ở đó. Anh em đã bám trụ đợi đồng đội giải cứu. Các vụ bục nước làm sập lò ở Mông Dương 31.3.2006; Nam Khe Tam 23.1.2007, Khe Sim 8.8.2008 mà tôi đã nêu là những điển hình của trí thông minh và lòng quả cảm của những thợ lò bị mắc kẹt được giải cứu và của đồng đội đến giải cứu họ.

d) Sập lò cụt

Trường hợp sập lò vít mất lối ra, bạn bị mắc kẹt giữa đám sập đổ kín và gương lò cụt) thì bạn hãy bình tĩnh tìm cách báo cho đồng đội và chỉ huy (chẳng hạn gọi điện, soi đèn qua khe hở, đánh tín hiệu bằng cách va đập mạnh vào ống gió, ống nước, vào sắt thép hay bất kể cách gì có thể...). Nếu bị vít kín quá gió không thông được mà ở đó có đường ống nén khí thì hãy trích khí nén ra mà thở. Việc trích khí nén (tiêu hao khí nén) cũng còn là một cách báo cho bên ngoài biết bạn đang bị mắc kẹt. Hãy đợi đồng đội đến giải cứu.

V.1.3. Hành động của bạn khi có ngập nước, bùn

Trong tình huống có ngập nước, bùn bạn phải tìm cách đi theo lối nào gần nhất đến chỗ cao hơn. Nếu có thể bạn đi theo hướng nước chảy để ra cửa lò bằng hoặc chân giếng. Trong trường hợp nước ngập nhiều bạn không thể đi theo hướng nước chảy như vừa nói ở trên thì phải đi nhanh đến các đường lò ở mức cao hơn, tìm cách thoát ra ngoài theo đường lò thông gió. Nếu không thoát ra được thì trụ lại ở chỗ cao nhất có thể, tìm cách báo cho chỉ huy.

V.1.4. Hành động của bạn khi có phụt than và khí bất ngờ

Khi thấy có than và khí bất ngờ phụt ra bạn phải lập tức dùng bình tự cứu, rút lui theo lối nào ngắn nhất đến nơi có luồng gió sạch, tự mình hoặc báo cho thợ cơ điện cắt điện ở khu vực có phụt than và khí.

Nếu sự cố phụt than và khí bất ngờ bịt mất các đường ra, bạn bị mắc kẹt thì bạn hãy bình tĩnh, sử dụng ngay bình tự cứu và hành động như trường hợp “sập lò cụt” ngoại trừ việc bật đèn lò nếu mất ánh sáng. Nếu bạn bật công tắc đèn lò, nó có thể gây ra vụ nổ khí mêtan.

V.1.5. Hành động của bạn khi có nhiều người cùng bị mắc kẹt

Khi bạn và một số đồng nghiệp bị mắc kẹt trong cùng một đường lò hay hầm trạm thì điều quan trọng nhất là bạn phải tuyệt đối tuân theo lệnh của người chỉ huy cao nhất có mặt tại đó, đừng tùy tiện làm điều gì đó một cách manh động. Bạn có nhớ vụ giải cứu 33 thợ mỏ ở Mỏ Đồng San Jose Chi lê năm 2010

Page 44: Thợ lò cũng là chiến sỹ

không? Nhờ có sự đồng lòng tuân thủ kỷ luật mỏ, tuân thủ lệnh của người chỉ huy mà 33 thợ mỏ đã kiên nhẫn chờ đợi để được giải cứu sau 69 ngày bị mắc kẹt dưới lòng đất sâu 700 mét.

Chờ đợi rất khủng khiếp, nhưng mạng sống của bạn và đồng đội quý hơn cả, hãy giữ lấy nó bằng sự kiên nhẫn, tỉnh táo, đoàn kết với tinh thần kỷ luật cao.

V.2. BỐN NGUYÊN TẮC HÀNH ĐỘNG CỦA LỰC LƯỢNG CỨU HỘ

Trước khi nói về các nguyên tắc hành động của lực lượng cứu hộ khi xử lý sự cố ở mỏ tôi muốn làm rõ cứu hộ là gì và lực lượng cứu hộ nói ở đây gồm những ai? Từ điển Tiếng Việt 2013 (VIETLEX Nhà xuất bản Đà Nẵng) giảng rằng cứu hộ là “cứu giúp người, động vật, phương tiện đang bị nạn”. Như vậy cứu nạn (cứu người bị nạn) đã nằm trong khái niệm của “cứu hộ”. Vậy cứu hộ trong hầm lò là cứu lấy người đang bị nạn, cứu lấy máy móc, thiết bị, vật tư trong vùng bị sự cố, cứu lấy các đường lò bị sập, cứu lấy mỏ bị ngập nước… Còn lực lượng cứu hộ nói trong quyển sách này bao gồm: thợ lò, cán bộ chỉ huy tại chỗ - nơi xảy ra sự cố, lực lượng của toàn mỏ được huy động, Trung tâm Cấp cứu mỏ-TKV, lực lượng chi viện từ các mỏ than hầm lò khác, từ các tổ chức khác trong và ngoài Ngành Than, lực lượng cứu hộ, cấp cứu y tế của địa phương, trung ương… Tùy thuộc vào phạm vi ảnh hưởng của sự cố mà người chỉ huy cao nhất quyết định mức độ huy động lực lượng.

Sách “Cẩm nang kinh doanh Harvard-Quản lý khủng hoảng” (Nhà xuất bản tổng hợp Thành phố hồ Chí Minh, trang 77 đến 110) đã nêu bốn nguyên tắc xử lý khủng hoảng - sự cố, đó là:

- Hành động nhanh chóng, quyết liệt,

- Con người quý nhất,

- Có mặt tại hiện trường,

- Giao tiếp tự do.

Tôi hoàn toàn đồng ý với bốn nguyên tắc nói trên và bằng kết quả nghiên cứu, kinh nghiệm của mình tôi đã bổ sung và đưa các nguyên tắc này vào điều kiện cụ thể của Ngành Than-Khoáng sản Việt Nam để bạn đọc tham khảo.

V.2.1. Nguyên tắc thứ nhất: Hành động nhanh chóng - quyết liệt - vượt lên trên ngăn chặn

a) Thế nào là hành động nhanh chóng, quyết liệt?

Trước khi bàn về việc này bạn cần đọc lại mục V.1. (Hành động của bạn) để biết trong trường hợp nào thì bạn và lực lượng tại chỗ phải dùng ngay bình tự cứu, rút lui ngay khỏi nơi xảy ra sự cố và trong trường hợp nào thì phải lập tức cứu nạn. Dưới đây bàn về trách nhiệm của lực lượng tại chỗ trong các trường hợp cần phải cứu nạn ngay. Thật vậy, thực tế đã chứng minh rằng lực lượng tại chỗ giữ vai trò số 1 trong việc cứu nạn. Nếu hành động ngay, quyết liệt thì cứu sống nhanh được đồng đội, thiệt hại sẽ giảm đi. Có người hỏi nếu trong lúc xảy ra sự cố chỉ có vài thợ lò, toàn công nhân cả, không có chỉ huy ở đó thì chúng tôi phải làm gì? Bạn thân mến, thợ lò cũng là chiến sỹ, khi vắng chỉ huy (chẳng hạn vắng tiểu đội trưởng) thì người chiến sỹ có cấp bậc cao nhất, lão luyện nhất phải lập tức nắm lấy quyền chỉ huy thay thế cho đến khi chỉ huy có mặt. Hầm lò cũng vậy khi vắng lò trưởng, tổ trưởng hay nhóm trưởng thì người thợ lò có bậc thợ cao nhất, nhiều kinh nghiệm nhất phải nắm lấy quyền chỉ huy, tổ chức cứu đồng đội ngay, không chần chừ gì cả, không chờ đợi ai cả. Phải tranh thủ từng giây, từng phút giành lấy mạng sống của đồng đội, sự hèn nhát không có chỗ ở đây, bạn có thể bị thương khi cứu đồng đội nhưng bạn không thể hèn nhát bỏ mặc đồng đội. Trong nhiều cái xấu, cái rủi ro hãy chớp lấy cái ít xấu, ít rủi ro hơn. Điều đó phụ thuộc vào trí thông minh và lòng dũng cảm của bạn.

Page 45: Thợ lò cũng là chiến sỹ

Người phát hiện sự cố phải báo ngay cho người chỉ huy và/hoặc trung tâm điều khiển của mỏ. Trung tâm này phải báo ngay cho giám đốc điều hành mỏ, Trung tâm Cấp cứu mỏ-TKV. Nếu là sự cố nghiêm trọng phải báo ngay cho cấp trên (Tổng công ty, Tập đoàn), lãnh đạo địa phương, cơ quan quản lý nhà nước để nhanh chóng có sự phối hợp xử lý.

Khi nhận được tin sự cố các cán bộ trong hệ thống chỉ huy các cấp của mỏ phải lập tức hành động bất kể lúc đó anh đang làm gì, ở đâu. Nếu đang ở xa thì gọi ngay cho người khác thay thế mình rồi tìm cách về mỏ nhanh nhất (trừ trường hợp đang ở quá xa thì phải xử lý sao cho hợp lý). Kể cả đang làm việc với cấp cao thì cũng xin phép mà về mỏ ngay. Tại trung tâm chỉ huy xử lý sự cố người chỉ huy nào có cấp bậc cao nhất đang có mặt tại đó phải nắm lấy quyền chỉ huy cho đến khi giám đốc điều hành mỏ có mặt. Đối với các sự cố lớn làm mắc kẹt nhiều người thì tổng giám đốc hay chủ tịch tập đoàn nắm quyền chỉ huy cao nhất khi có mặt tại hiện trường. (Đề xuất: nếu tổng giám đốc là kỹ sư mỏ hầm lò có kinh nghiệm thì tổng giám đốc phải nắm quyền chỉ huy cao nhất. Nhưng nếu tổng giám đốc không phải là kỹ sư mỏ hầm lò, mà chủ tịch là kỹ sư mỏ hầm lò có kinh nghiệm thì chủ tịch nên nắm lấy quyền chỉ huy cao nhất).

Người chỉ huy phải huy động một cách nhanh nhất mọi phương tiện cần thiết đã được chuẩn bị trong kế hoạch thủ tiêu sự cố hoặc huy động đột xuất đến hiện trường, đặc biệt phải huy động lực lượng cứu hộ tinh nhuệ nhất trong mỏ hay trong cả tập đoàn đến tham gia giải cứu những người bị nạn. Trong các tình huống sự cố cháy, nổ, phụt than, khí bất ngờ mà bầu không khí mỏ bị ô nhiễm thì việc giải cứu chỉ được thực hiện bởi lực lượng của Trung tâm Cấp cứu mỏ, bởi các đội cứu hộ chuyên trách hay bán chuyên trách của các mỏ đã được huấn luyện sử dụng máy thở công tác. Cán bộ chỉ huy các cấp cũng phải biết sử dụng máy thở công tác để vào nơi xảy ra sự cố mà khảo sát, mà chỉ huy. Tôi nói ra điều này bở vì đã có nhiều vụ sự cố Trung tâm Cấp cứu mỏ chỉ được giao nhiệm vụ mắc hệ thống thông gió cục bộ, đưa người bị nạn ra ngoài. Lẽ ra không chờ được thông gió mới vào nơi xảy ra sự cố , người chỉ huy và các chiến sỹ cấp cứu mỏ phải thở bằng máy mà vào ngay đó cứu người bị nạn. Đợi thông gió đến đâu, xúc dọn đến đâu mới vào đến đó thì có thể không còn cơ hội cứu sống người bị nạn.

b) Thế nào là vượt lên trên ngăn chặn?

Đó là vượt lên trên nỗi sợ hãi của bản thân mỗi người. Như đã nói ở trên: sự hèn nhát không có chỗ trong việc cứu nạn. Có thể bạn không hèn nhưng bạn thấy sợ khi xông vào nơi nguy hiểm cứu đồng đội. Thật lòng mà nói, việc đó cũng là bình thường. Nhưng hãy nhắm mắt lại và nghĩ rằng bạn mình, đồng nghiệp của mình đang bị nguy hiểm, mình có vào cứu họ không? Chỉ một vài giây thoáng qua bạn sẽ đưa ra quyết định đúng đắn: Đừng sợ!

Người chỉ huy cứu hộ còn có thêm một nỗi sợ nữa, đó là sợ vi phạm quy chuẩn kỹ thuật an toàn (vi phạm pháp luật). Thực ra không có quy phạm hay chuẩn nào lường hết được các sự cố hầm mỏ và không chỉ dẫn hết được người chỉ huy phải làm những gì, không được làm gì. Cái quy định quan trọng nhất là phải cứu ngay người bị nạn. Người chỉ huy phải tự mình khảo sát, phân tích, đánh giá sự cố, phải vào đến tận nơi mà người khác coi là nguy hiểm nhất mà xem xét, mà cảm nhận, mà phán đoán và bàn cách xử lý với các đồng nghiệp. Dựa vào kinh nghiệm cá nhân, dựa vào cảm nhận của mình người chỉ huy đưa ra quyết định phải làm gì và làm như thế nào, ai làm để giải cứu đồng nghiệp. Những lúc gay cấn nhất kinh nghiệm và cản nhận mách bảo người chỉ huy, anh ta không còn nghĩ đến quy chuẩn, không còn biết sợ mà chỉ nhắm về một mục tiêu duy nhất: cứu người bị nạn. Tôi đã mấy lần trải qua như thế: cùng đồng nghiệp vượt lên trên nỗi sợ hãi trong vụ xử lý sự cố nổ khí mê tan ở Xí nghiệp Địa chất 909 ngày 20.12.2002, sự cố sập lò chợ ở Xí nghiệp than Cẩm Thành (Công ty than Hạ Long) ngày 28.1.2005; bằng kinh nghiệm và cảm nhận của mình khi vào tận nơi nguy hiểm khảo sát, đã cùng đồng nghiệp đưa ra nhận định đúng và giải pháp đúng nhanh chóng giải cứu nhiều thợ lò bị mắc kẹt trong các vụ sự cố bục nước làm đổ lò ở Mỏ than Mông Dương ngày 31/3/2006; ở Mỏ than Nam Khe Tam ngày 23.1.2007; ở Mỏ than Tây Khe Sim ngày 8.8.2008.

Page 46: Thợ lò cũng là chiến sỹ

Kết lại có thể nói rằng: Nguyên tắc hàng đầu cho việc cứu hộ thành công là phải hành động nhanh chóng, quyết liệt, vượt lên trên nỗi sợ hãi của chính mình nhưng phải khảo sát thật kỹ, phải cảm nhận được, hình dung được, phán đoán được để đưa ra các quyết định thông minh, dũng cảm và mau lẹ.

V.2.2. Nguyên tắc thứ hai: Con người quý nhất

Từ xa xưa người Việt ta đã nói “người làm ra của, của không làm ra người” hay “của đi thay người”. Sự sống, tính mạng của con người là quý nhất. Hãy tranh thủ từng giây, từng phút để cứu lấy sự sống của người đang bị nạn. Trong mỗi vụ sự cố có người bị mắc kẹt người chỉ huy phải bằng mọi cách kiểm kê xem có bao nhiêu người bị nạn trong đó bao nhiêu người đang bị mắc kẹt. Khi chưa nhìn thấy, chưa tìm thấy họ thì đừng vội nghĩ là họ đã chết trong đám đổ vỡ, trong hầm lò bị sụp đổ do bục nước, ngập nước hay do cháy, nổ, do áp lực mỏ. Phải nghĩ rằng họ còn sống, phải khẩn cấp cứu họ ra, chỉ có suy nghĩ “họ còn sống” mới dẫn dắt, chỉ đạo hành động cứu hộ một cách mau lẹ, đầy khí thế. Còn nhớ vụ sập lò thượng khai thác do bục nước ở Mông Dương ngày 31.3.2006, khi tôi xuống lò mức -97,5m vào đến chân thượng khảo sát, tôi đã hô to “tất cả chú ý, họ còn sống đấy, hãy mở đường gió cho họ thở”. Giám đốc mỏ Doãn Văn Quang tiếp nhận và thực hiện ngay mệnh lệnh đó. Sau đó tôi lên lò thông gió ở mức +9,8m khảo sát rồi lệnh cho phó Giám đốc mỏ Nguyễn Hữu Thọ đảo ngay chiều gió quạt cục bộ từ đẩy gió xuống lò thượng bị sụp đổ sang hút gió từ đó ra tạo thêm sức hút cho gió từ phía chân thượng -97,5m len qua khe nứt mà vào lò đổ nơi có 21 anh thợ lò đang bị mắc kẹt trong đó. Hay ở Nam Khe Tam, Tây Khe Sim sau khi trực tiếp khảo sát ở dưới lò lên tôi đều nói với các anh lãnh đạo tỉnh Quảng Ninh đang chờ ở cửa lò đại ý: họ còn sống, phải tăng tốc; mặc dù bùn nước ngập gần tới nóc lò. “Họ còn sống” đã làm tăng quyết tâm, tăng tốc độ của toàn bộ lực lượng cứu hộ. Phải nói rằng lực lượng cứu hộ của Ngành Than ta thông minh, dũng cảm, mau lẹ và hiệu quả. Ba vụ giải cứu điển hình trong các sự cố sập lò do bục nước là Mông Dương (31.3.2006), cứu sống được 17 người trên tổng số 21 người bị mắc kẹt; Nam Khe Tam (23.1.2007)cứu sống được 10 người trên tổng số 12 người; Khe Sim (8.8.2008) cứu sống được 7 trong tổng số 8 người bị nạn. Những người khác đã qua đời vào ngay lúc đầu tiên khi nước cùng đất đá xô mạnh cuốn họ xuống đáy đường lò thượng.

Còn một việc nữa tôi muốn chia sẻ với các cấp chỉ huy cứu hộ, đó là phải ưu tiên kiểm kê cho được toàn bộ số người còn đang bị mắc kẹt. Bị mắc kẹt không có nghĩa là đã chết. Trong hầm lò bị đổ vẫn có các khoảng trống mà run rủi thế nào đó, do phép màu nào đó mà người bị nạn lọt được vào đó, họ vẫn sống. Vụ anh Nông Văn Sơn ở Than Hòn Gai bị tai nạn hồi năm 1996 (hay 1997 tôi nhớ không rõ ngày, tháng) là một điển hình. Anh này bị vùi trong một lò nghiêng bị sập đổ, từ trên nhìn xuống đất đá, than đầy kín. Ai cũng nghĩ Nông Văn Sơn đã chết, nhiệm vụ của cứu hộ là tìm cho được xác anh ấy. Xí nghiệp đã chuẩn bị sẵn rượu để tẩy rửa, vải trắng để khâm liệm. Ấy thế mà sau 3 ngày anh ấy vẫn nghe được tiếng động phát ra từ hoạt động đào bới của đội cứu hộ, anh ấy đã phát tín hiệu trở lại và được cứu sống. Lời đầu tiên anh ấy nói với đồng đội là “cho tao chén rượu”. Vậy là rượu chờ để tẩy xác anh ta đã trở thành đồ uống ngon lành đầu tiên khi anh ta được cứu sống.

Từ vụ cứu Nông Văn Sơn tôi nhắc đến vụ sập lò ở Mỏ than Mông Dương năm 2010 làm chết ba thợ lò. Lò thượng chống xén bị sập, một số người thoát ra được, còn ba người bị mắc kẹt. Giám đốc mỏ trực tiếp chỉ huy giải cứu.Sau khi lấy được xác một người thì phát hiện được người thứ hai cũng đã qua đời nhưng chưa lấy ra ngay được vì bị kẹt sâu dưới vì lò đổ. Giám đốc mỏ muốn tập trung lực lượng để tháo than phía dưới (từ dưới lên) để tìm cho được người thứ ba. Ý kiến này bị phản đối bởi một vài người chỉ huy khác. Người phản đối cho rằng phải lấy bằng được người thứ hai ra trước. Vậy nếu bạn là người chỉ huy cao nhất có mặt ở đó bạn quyết định thế nào? Xin mách bạn, hãy làm theo ý kiến của giám đốc mỏ vì ta chưa biết người thứ ba còn sống hay chết, và phải hy vọng rằng anh ta còn sống. Còn người thứ hai đã qua đời, nếu chưa lấy xác ra ngay được thì để chậm lại một chút giành ưu tiên cho việc tìm kiếm người thứ ba, đành rằng ta phải chịu thêm sức ép từ phía đồng đội và người thân đang mỏi mắt chờ.

Page 47: Thợ lò cũng là chiến sỹ

Vậy “con người quý nhất” khi hành động cứu hộ được sắp xếp theo thứ tự ưu tiên như sau: cứu người trước-cứu người còn sống trước-tìm người còn bị mắc kẹt trước. Và, đừng quên phối hợp chặt chẽ giữa lực lượng cứu hộ trong hầm lò khi làm nhiệm vụ sơ cứu ban đầu, đưa nạn nhân ra khỏi hầm lò với lực lượng cấp cứu y tế bên ngoài cửa lò hay trên giếng mỏ làm nhiệm vụ cấp cứu, đưa người bị nạn đến bệnh viện. Cần thiết phải đề nghị công an địa phương huy động xe cảnh sát dẹp đường để cho xe cứu thương nhanh chóng đưa người đến bệnh viện. Đáng tiếc, đã không cứu được chiến sỹ cứu hộ Trần Văn Thản thuộc Trung tâm Cấp cứu mỏ TKV trong vụ sự cố nổ khí ở Mỏ than Khe Chàm ngày 8.12.2008 chỉ vì ách tắc giao thông trên đường đến Bệnh viện đa khoa Cọc 7-Cẩm Phả.

V.2.3. Nguyên tắc thứ ba: Có mặt tại hiện trường

Có mặt tại hiện trường là nguyên tắc đối với những người lãnh đạo, chỉ huy các cấp trong mỗi công ty, tổng công ty và tập đoàn. Nhận được tin sự cố nghiêm trọng xảy ra người lãnh đạo, chỉ huy phải bằng cách nhanh nhất có mặt tại hiện trường; kể cả anh đang nghỉ phép, nghỉ lễ hay đang làm việc với cấp cao hay đối tác nước ngoài. Trừ khi anh ở quá xa, ở nước ngoài chưa về được thì phải điện về bàn với người thay thế mình. Bạn thử hình dung xem sự cố sập lò “nhốt” nhiều đồng nghiệp trong đó mà quản đốc đang nghỉ phép ở không xa mỏ lắm, biết tin nhưng vẫn vui chơi không về (vì cho là mình đang nghỉ phép và đã có phó quản đốc làm quyền quản đốc thay mình rồi) thì sau sự cố anh em thợ lò trong phân xưởng sẽ nhìn quản đốc với con mắt như thế nào? Hay là giám đốc mỏ nhận được tin ở mỏ mình vừa xảy ra sự cố lớn làm mắc kẹt nhiều người khi đang làm việc với Bộ trưởng Tài nguyên và môi trường “để xin” cấp phép khai thác khu vực mới cho mỏ. Việc này rất quan trọng phải không, cơ hội gặp được bộ trưởng không phải là dễ! Vậy giám đốc về ngay hay ở lại? Câu trả lời là: nhất định phải về ngay, tính mạng người trên hết, xin gặp lại bộ trưởng sau vậy. Nếu không về ngay giám đốc có thể ân hận suốt đời!

Có mặt tại hiện trường, tự mình phải xem kỹ sơ đồ, bản đồ cập nhật khu vực xảy ra sự cố, đọc và nghiên cứu kỹ nhật lệnh, ca lệnh và các báo cáo liên quan để cố hình dung xem những người bị mắc kẹt đang ở vị trí nào. Nhất thiết phải nghe báo cáo ngắn gọn và ý kiến của các đồng nghiệp đang chỉ huy ở đó để nắm chắc tình hình, bàn bạc với họ về các giải pháp. Ở những vụ sự cố lớn (làm mắc kẹt nhiều người) người chỉ huy cao nhất đừng vội vào lò (xuống lò) ngay mà phải xem bản đồ, nhật lệnh, ca lệnh, nghe báo cáo nhanh để nắm tình hình đã. Tiếp theo là xuống lò đến nơi xảy ra sự cố mà khảo sát, mà cảm nhận, mà phán đoán và bàn bạc; từ đó mà đưa ra các giải pháp sát thực. Có mặt tại hiện trường là như vậy. Không phải chỉ đến trạm chỉ huy là đủ. Việc có mặt tại trạm chỉ huy nên giành cho các viên chức lãnh đạo không làm nghề mỏ hầm lò, cho những người được phân công làm nhiệm vụ khác trên mặt đất. Có mặt tại hiện trường, nghiên cứu nhanh nhưng kỹ bản đồ, nhật lệnh, ca lệnh, báo cáo cập nhật; xuống lò vào cả nơi nguy hiểm mà khảo sát, mà chỉ huy trực tiếp (khi cần), phân công cho các trưởng bộ phận và mình về trạm chỉ huy nắm quyền tổng chỉ huy. Nắm quyền tổng chỉ huy không phải cứ ngồi đó mà gọi điện, mà ra lệnh mà vào lúc gay cấn lại xuống lò trực tiếp chỉ huy hoặc giám sát người dưới quyền chỉ huy hóa giải gay cấn như “mở đột phá khẩu” (mở cửa đột phá) chẳng hạn. Chính vào thời điểm đó người chỉ huy cao nhất trở thành chỗ dựa tinh thần vững chắc nhất cho những người chỉ huy dưới quyền và toàn bộ lực lượng cứu hộ.

Người chỉ huy cao nhất làm được như trên sẽ tác động mạnh mẽ đến tâm lý, tình cảm, tinh thần của toàn bộ lực lượng cứu hộ, tạo ra động lực thúc đẩy nhanh công tác cứu nạn. Không chỉ có thế, dư luận và đài báo sẽ đưa tin thiện chí, có lợi cho cứu hộ. Ngược lại hình ảnh người chỉ huy sẽ xấu trong công nhân viên chức ở mỏ, trong lòng công chúng và giới truyền thông. Tùy thuộc vào hành động của người chỉ huy cao nhất mà anh được thợ lò công nhận là “giám đốc của thợ lò” hay tên hèn nhát, thiếu trách nhiệm. Lựa chọn thuộc về người chỉ huy.

V.2.4. Nguyên tắc thứ tư: Giao tiếp tự do

Page 48: Thợ lò cũng là chiến sỹ

Giao tiếp tự do tức là đừng bưng bít (đừng giấu) thông tin về sự cố. Trong kế hoạch loại trừ sự cố giám đốc mỏ phải phân công cho một người có năng lực làm người phát ngôn, chịu trách nhiệm thông báo, cập nhật thông tin cho giới truyền thông, công nhân, viên chức trong công ty và gia đình nạn nhân. Khi sự cố xảy ra người phát ngôn phải soạn thảo ngay một thông báo ngắn gọn về sự cố, in nó ra giấy sau khi được người chỉ huy cao nhất chấp thuận. Thông báo này được mỏ chủ động phát lên internet, cung cấp cho các phóng viên đài, báo, các phân xưởng, truyền qua đài truyền thành của mỏ. Vậy thông báo này cần có những thông tin gì? Nó bao gồm những nội dung chính sau đây:

- Tên gọi của sự cố (sự cố sập lò, sự cố bục nước làm sập lò, sự cố cháy, nổ khí mêtan…)

- Nơi xảy ra sự cố (tại đường lò, mức, thuộc phân xưởng, mỏ than…)

- Sơ bộ thiệt hại về người (số người bị chết, bị thương hay số người đang bị mắc kẹt…)

- Nguyên nhân: (nguyên nhân trực tiếp là sập lò do bục nước, hay do nổ khí mêtan…)

- Công tác cứu hộ (sự có mặt của các lực lượng cứu hộ, sự có mặt của lãnh đạo công ty, tập đoàn, lãnh đạo địa phương…).

Ví dụ: “Vào hồi 2 giờ sáng ngày 3 tháng 5 năm 2013 tại phân xưởng khai thác số 5 Mỏ than Đông Phương thuộc Công ty than Hạ Long đã xảy ra sự cố sập lò thượng khai thác từ mức -100,0m đến mức ± 0,0m làm mắc kẹt 8 thợ lò đang làm việc ca 3. Nguyên nhân trực tiếp của vụ sập lò này là do bục nước từ một đường lò phía trên mức ± 0,0m . Mỏ đã báo cáo cơ quan điều tra để làm rõ.

Ngay sau khi sự cố xảy ra, lực lượng cứu hộ của mỏ và Trung tâm cấp cứu mỏ TKV do giám đốc điều hành mỏ Nguyễn Văn A trực tiếp chỉ huy đã tổ chức thực hiện ngay công tác cứu nạn. Tổng giám đốc Tập đoàn công nghiệp Than-Khoáng sản Việt Nam, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ninh đã kịp thời có mặt tại hiện trường chỉ đạo công tác giải cứu những người bị nạn”.

Tiếp theo người phát ngôn và trưởng các bộ phận kỹ thuật, an toàn, cơ điện, lao động, y tế phải dự kiến cho được các câu hỏi mà giới truyền thông có thể hỏi và chuẩn bị các câu trả lời thành văn bản, báo cáo người chỉ huy cao nhất thông qua làm cơ sở cho người phát ngôn trả lời báo chí. Người chỉ huy cao nhất nên giành ít thời gian trả lời phỏng vấn của các phóng viên. Nên nhớ rằng nghề của các phóng viên là săn tin và viết bài, làm phóng sự đưa đến công chúng. Nếu anh không cấp thông tin cho họ thì họ phải tự tìm lấy bằng cách này hay cách khác. Có thể vô tình hay hữu ý thông tin của họ đến công chúng làm hại cho hình ảnh của mỏ, của giám đốc, không có lợi cho cuộc cứu hộ. Vậy phải cung cấp thông tin chân thật (chỉ sự thật thôi) cho họ, thông tin mỏ cung cấp sẽ định hướng cho bài viết hay bình luận của phóng viên. Nếu bạn có quan hệ đúng mức với giới truyền thông lúc bình thường và khi có sự cố sẵn sàng cung cấp thông tin cho họ thì đa số họ sẽ có cảm tình với bạn, với mỏ của bạn vì thế mà thông tin của họ thiện chí, ít gây xung đột hơn. Cung cấp thông tin và tạo điều kiện thuận lợi cho các phóng viên tác nghiệp là việc rất cần làm và phải làm chu đáo với tinh thần trách nhiệm cao. Đó cũng là nghệ thuật. Bạn phải căn cứ vào hoàn cảnh xảy ra sự cố, tiến trình của công tác cứu hộ mà thu thập, phân tích và cung cấp thông tin, bạn phải nói đúng sự thật, không giấu nhưng chưa nói hết, lúc nào cần nói cái gì bạn cần phải cân nhắc cẩn thận sao cho có lợi nhất cho cuộc cứu hộ. Nếu bạn hiểu rõ, nắm chắc tình hình qua việc cung cấp thông tin, tạo điều kiện cho nhà báo tác nghiệp (ví dụ tổ chức cho một vài người vào lò nơi xảy ra sự cố, hay cho họ gặp các chiến sỹ thợ mỏ kiên cường, dũng cảm trong cứu nạn) bạn có thể góp phần xoay chuyển tình hình, hướng công luận đến việc có lợi cho công tác cứu hộ, cho mỏ.

Bạn hãy nhớ đừng dại dột làm việc gì kiểu “đổ thêm dầu vào lửa” đã từ chối cung cấp thông tin lại còn ra oai đe nẹt các nhà báo. Hành động đó của bạn có thể làm kéo dài cuộc cứu nạn gây thiệt hại thêm cho đồng đội và cả cho mỏ đấy.

Page 49: Thợ lò cũng là chiến sỹ

Kết thúc mục này tôi muốn nói với bạn: hãy quan hệ đúng mức với giới truyền thông, tạo điều kiện cho họ làm nhiệm vụ lúc bình thường và chủ động cung cấp thông tin cho họ, giúp họ tác nghiệp lúc xảy ra sự cố; bạn sẽ nhận được sự thiện chí từ họ.

CHƯƠNG VI: XÂY DỰNG MỐI QUAN HỆ HÀI HÒA

VI.1. QUAN HỆ HÀI HÒA VÀ AN TOÀN LAO ĐỘNG

Ở chương III (Tự bảo vệ an toàn cho mình và đồng nghiệp) mục III.2.5 (Rèn luyện sức khỏe) tôi đã trao đổi với bạn một ý kiến là mỗi người phải biết tự yêu thương lấy mình, biết tự chăm sóc sức khỏe thể lực và tinh thần của mình sao cho đừng mang sự mệt nhọc, sự bực tức từ nhà đến nơi làm việc và đừng mang bức xúc từ nơi làm việc về nhà. Cái mệt nhọc, bực tức ấy, cái bức xúc ấy sẽ chỉ có hại cho bạn không chỉ trong mối quan hệ với người thân, với đồng nghiệp mà tệ hại hơn có thể làm bạn tổn thương về thể xác, thậm chí dẫn bạn đến tai nạn lao động chết người. Bạn thử nghĩ xem khi trong lòng không yên bởi sự lo lắng, bực tức; khi ta mệt mỏi “bải hoải, bài hoài” thì liệu công việc có trôi chảy không? Đang thái mớ rau trong bếp mà đầu óc lơ đãng mải nghĩ về chuyện gì đó thì bạn vô tình cứa dao sắc vào tay, thế là bị thương, chảy máu. Đang dựng vì chống trong hầm lò mà lòng không yên, hãy còn bức xúc về cuộc cãi nhau với vợ trước lúc vào ca thế là vô tình để xà đổ đè lên người. Lần khác lên khỏi hầm lò sớm hơn trước giờ quy định chưa có nước tắm bạn đã “sửng cồ”với mấy chị phục vụ nhà tắm. Nước vẫn đủ, vẫn nóng đấy mà sao hôm nay bạn tắm không sạch, bạn lên xe về nhà trong lòng vẫn còn tức tối. Về đến nhà chưa thấy vợ đâu còn con trai thay vì phải học bài nó đang mải mê chơi game (trò chơi điện tử) thế là bạn tát cho thằng bé mấy cái và làm ầm ĩ lên. Bình tĩnh suy nghĩ lại bạn thấy “mình thật vô lý”. Nếu mọi chuyện cứ như thế tiếp diễn chắc bạn sẽ không yên và cũng chẳng lành. Đã có không ít tai nạn lao động xảy ra, kể cả tai nạn chết người do sự bất ổn tâm lý của người lao động. Nhiều nghiên cứu về tai nạn lao động ở Việt Nam và nước ngoài đã cho thấy điều đó. Trong Ngành Than của ta hiện tượng này đã được Công đoàn Than quan tâm, khảo sát, đánh giá. Tôi cũng đã thấy trong nhiều vụ tai nạn lao động anh chị em đồng nghiệp của người bị nạn hay người thân trong gia đình đã nhắc đến tâm lý do “anh ấy buồn bực, bức xúc” chuyện gì đó.

Tự chăm sóc bản thân, chủ động xây dựng mối quan hệ hài hòa trong gia đình với người thân tại nơi ở và làm việc sẽ giúp bạn hóa giải một cách nhẹ nhàng các bức xúc khiến cho cuộc sống của bạn vui hơn, ngày làm việc của bạn dễ chịu hơn, năng suất hơn. Vậy là vợ, con tiễn bạn đi làm và đón bạn về nhà đều với niềm vui và bằng những nụ hôn. Bạn và gia đình được an lành. Làm thế nào để xây dựng mối quan hệ hài hòa? Xin bạn tham khảo các mục VI.2, VI.3 dưới đây.

VI.2. VUN ĐẮP QUAN HỆ HÀI HÒA TRONG GIA ĐÌNH VÀ NGƯỜI THÂN

Chỉ cần lật trang báo “Gia đình và xã hội” hay báo “Phụ nữ Việt Nam” , báo 'Tiền phong” bạn có thể đọc được nhiều bài nói về xây dựng mối quan hệ gia đình, bạn bè lành mạnh, vì thế tôi xin không viết nhiều về mục này. Không phải là chuyên gia tâm lý nên tôi chỉ nói kỹ hơn các mối quan hệ xung quanh người thợ lò.

VI.2.1. Bạn đang độc thân

Khái niệm độc thân ở đây nói về những chàng thợ lò chưa lấy vợ. Độc thân, gia đình bạn ở quê xa mỏ, bạn sống ở nhà tập thể của mỏ hay thuê nhà ở riêng; cũng có thể gia đình bạn ở gần mỏ hàng ngày bạn đến mỏ làm việc. Độc thân, bạn chưa cùng ai hoàn toàn hay đã có bạn gái, người yêu? Độc thân, bạn đi làm chỉ để tự nuôi mình hay còn có nghĩa vụ với cha mẹ, gia đình hoặc còn đuợc gia đình chu cấp thêm? Tất cả các mối quan hệ vừa nói ở trên đều tác động đến sức khỏe và tình cảm, tinh thần của bạn một cách không giống nhau.

Page 50: Thợ lò cũng là chiến sỹ

Dù thế nào thì khi còn độc thân, dù nhà nghèo thì bố mẹ vẫn coi bạn còn bé bỏng cần để tâm chăm sóc. Bố mẹ nghe tin sự cố, tai nạn lao động chết người ở mỏ nào đó là lập tức nghĩ đến bạn, lo cho sự an toàn của bạn. Lúc rảnh rỗi mẹ mong bạn về để nấu cho bạn bát canh cua, giới thiệu cho bạn cô gái làng bên “đẹp người, tốt nết”. Anh chị em của bạn, họ hàng của bạn, bầu bạn của bạn cũng mong sao bạn được an toàn, sớm có bạn gái, sớm cưới vợ .v.v và v.v. Vậy bạn đáp lại tình cảm đó thế nào? Đã có không ít chàng thợ lò trẻ bực mình mỗi khi mẹ giục lấy vợ, giục nhiều quá anh chàng không về nhà thường xuyên nữa. Bạn hãy cố gắng hiểu lòng cha mẹ, người thân, làm cho họ được vui. Chẳng hạn thỉnh thoảng bạn mua tặng mẹ cái khăn hay cái áo ấm mà mẹ thích, tặng bố cái mũ hay chai rượu thuốc bổ, mua quà cho các cháu con anh/chị. Chuyện vợ con thì bạn phải nói sao cho cha mẹ yên. Nhớ đừng nổi cáu. Thậm chí bạn có thể “đánh trống lảng”mà nói với mẹ điều gì đó vui vui, đòi mẹ cho ăn món gì đó nhà quê 100% mà bạn thích… Khi đã có bạn gái ở độ có thể dẫn đến hôn nhân bạn nên giới thiệu cô ấy, thu xếp cho cô ấy ra mắt gia đình mình. Đó sẽ là một kỷ niệm đẹp. Hơn tất cả sự tiến bộ của bạn trong nghề nghiệp là niềm vui lớn nhất, niềm tự hào của gia đình. Tôi không có ý nói sự tiến bộ chỉ đơn thuần là được lên chức. Lấy đâu lắm chức đủ cho mọi người. Sự tiến bộ của người thợ lò trực tiếp sản xuất là tay nghề của anh ấy được đồng nghiệp và mỏ xác nhận, là tư cách của anh ấy được mọi người mến mộ, là thu nhập (tiền lương, tiền thưởng) của anh ấy cao hơn…

Nếu đã có bạn gái thì bạn phải để cho cô ấy hiểu rõ về nghề nghiệp của mình, hoàn cảnh của mình, chân thành chăm sóc cô ấy đúng với khả năng mình có. Đừng bốc đồng vay mượn vì cô ấy. Hãy để cho cô ấy làm quen với bầu bạn của bạn, với những người ở chung phòng với bạn. Khi bạn muốn cùng bạn gái ở trong phòng của mình thì hãy tế nhị nói trước với các bạn chung phòng. Thời tôi còn là sinh viên đi thực tập ở mỏ (1972,1973) ở chung phòng với hai anh bạn trẻ thợ lò người Ba Lan trong nhà ở tập thể của thợ mỏ. Mỗi lần bạn gái sắp đến chơi các anh ấy đều nói trước với tôi và anh kia. Thế là vào ngày giờ đó tôi chuồn đi chỗ khác đọc sách hay chơi thể thao.

Ở nhà tập thể của mỏ hay thuê nhà ở chung không phải lúc nào cũng tiện lợi, phù hợp với nhu cầu của mỗi người ở chung. “Cha mẹ sinh con, trời sinh tính” có ai giống ai đâu, do vậy phải “chiếu cố lẫn nhau” nhìn nhau, bảo nhau mà sống. Cái cốt lõi là sự biết điều, sự chân thành, đôi khi là sự nhường nhịn. Làm được như thế bạn sẽ vui thôi. Trong 43 năm kể từ khi sang Ba Lan học nghề mỏ đến khi về hưu tôi có 19 năm ở tập thể, có lúc trong hai gian nhà ọp ẹp ở khu tập thể của Công ty Xây lắp Cẩm Phả (1978-1980) khoảng 24-25m2 có tới 6 cán bộ cấp trưởng, phó phòng công ty và kỹ sư cùng ở. Chúng tôi đã dàn xếp, hòa thuận được với nhau, người nào việc ấy (người đi chợ nấu cơm, người trồng rau, người nuôi gà đẻ trứng…) rất vui vẻ. Nói ra đây không phải để khoe mà muốn mách bạn một điều: nếu ta muốn thì ta làm được và hãy tự nấu lấy cơm mà ăn hay nhờ người nào đó nấu cho đừng ăn “cơm bụi” nguy hại cho sức khỏe. Cơm bụi có rẻ đấy nhưng thường được nấu bằng thực phẩm chợ chiều ôi thiu được tái chế lại cho tươi bằng hóa chất độc hại. Có không ít thợ lò độc thân không muốn ở nhà tập thể mỏ hay thuê phòng ở chung mà thuê phòng trọ riêng cho độc lập “muốn làm gì thì làm”. Sự độc lập này cũng có mặt trái của nó, lắm khi dẫn đến các mối quan hệ phức tạp có hại cho sức khỏe và tư cách cá nhân. Lại có nhiều anh ăn cơm bụi kèm theo “cắm quán”, rồi “đề đóm”, “cá cược”. Chưa đến ngày lĩnh lương mà đã tiêu vượt trước hết mất rồi. Sổ lương, thẻ lĩnh lương mang ra “cắm quán” cũng không đủ, dẫn đến vay nặng lãi để trang trải nếu không “đầu gấu” nó đến “xử lý”. Vậy là tự mình làm cho mối quan hệ của mình thêm phức tạp, thêm xấu đi, tự mình làm hại mình đến mức không còn dám về quê nữa, đến mức phải bỏ việc đi “lánh nạn”.

Nói ra những điều trên tôi chỉ muốn bạn bình tâm suy xét về cuộc sống của mình, thỉnh thoảng tự hỏi xem mình là ai, mình đang ở đâu và quan trọng nhất mình phải làm gì cho cuộc sống tốt hơn. Chẳng có gì khác ngoài việc tích cực làm việc để có thu nhập chính đáng, an toàn và biết tự thương mình, tự chăm sóc mình, phát triển cá nhân mình bằng học tập, bằng rèn luyện sức khỏe, xây dựng mối quan hệ tốt với gia đình, người thân, bạn bè, với người ở chung phòng, với đồng nghiệp. Đừng sa vào “đề đóm”, “cá

Page 51: Thợ lò cũng là chiến sỹ

cược”, đừng “cắm quán”, đừng để bọn người thuộc “xã hội đen” lôi kéo. Làm được như vậy bạn sẽ vui tươi, yêu đời; gia đình, người thân, bạn bè sẽ vui và khỏi phải nói bạn gái của bạn sẽ cảm thấy thế nào? Phải chăng đó là hạnh phúc!?

VI.2.2. Bạn đã cưới vợ

Khi lấy vợ cuộc đời của bạn thay đổi như sang một trang sách mới, có thể bạn bè sẽ nói vui với bạn vào buổi tối trước ngày bạn cưới vợ: hôm nay chúng tao họp mặt uống với mày vài ly chấm dứt cuộc đời tự do để ngày mai mày “đi tù”. Đấy là nói vui thôi, và cái vui ấy đúng với anh nào vô phúc lấy phải cô vợ “đanh đá, cá cầy”, chỉ biết yêu sách, đòi hỏi mà không biết cho. Nhưng bạn “đừng sợ”, đó chỉ là những trường hợp hãn hữu. Quy luật muôn đời là người ta sống có đôi. Sướng khổ gì cũng phải có đôi, chứ “ăn một mình đau tức, làm một mình cực thân” lắm. Lấy vợ, đẻ con bạn làm chồng, làm cha, trên vai bạn có thêm trách nhiệm mới trong khi vẫn phải có trách nhiệm với mẹ cha và gia đình lớn. Cái gia đình nhỏ của bạn vui hay buồn, sướng hay khổ là do bạn- người trụ cột của nó và do vợ bạn- người giữ lửa. Nếu vợ chồng bạn hòa thuận thì “tát Biển Đông cũng cạn”. Hãy để mắt đến các con của bạn, giúp chúng vui chơi, học hành; đừng để chúng chơi game quá đà dẫn đến “kẹt net” để phải đi “cứu net” (con chơi game quá đà ở quán internet không đủ tiền trả bị chủ quán giữ lại, gọi điện cho bạn hay bố mẹ mang tiền đến cứu), đừng để chúng vô tình hay cố ý sa vào nghiện hút. Không có gì khổ bằng có con nghiện trong nhà; về hưu rồi mà cũng không được yên thân. Đừng bao giờ lấy lý do bận công việc ở mỏ, bận công tác xã hội, bận lo làm thêm kiếm tiền để giải thích “không có thì giờ để mắt đến con nên mới ra nông nỗi này”. Nếu muốn chăm con, cùng vợ làm việc nhà bạn sẽ sắp xếp được thời gian kể cả bạn đang làm quản đốc, trưởng phòng hay giám đốc mỏ. Bạn cũng đừng có ép con mình suốt ngày phải vùi đầu vào học, hết học ở trường đến học thêm ở nhóm nọ, lò kia. Thế vẫn chưa đủ còn thuê gia sư đến nhà dạy chữ, dạy học nhạc, dạy ngoại ngữ nữa. Con trẻ cứ rối bù đầu óc, chả được chơi, rốt cục càng bị ép học nhiều, kết quả học tập càng kém, càng làm cho vợ chồng bạn bực mình, bức xúc. Thực chất việc học của con bạn đã trở thành cuộc đua của vợ chồng bạn rồi. Mình có giỏi lắm đâu mà cứ bắt con phải giỏi hả bạn? Lời khuyên chân thành ở đây là phải căn cứ vào lực học của con mà chọn trường, chọn thầy, mà giúp con phấn đấu có học, có chơi, đừng ép con quá làm nó sợ, nó phản ứng tiêu cực dẫn đến sự bất ổn trong nhà bạn.

Nếu vợ chồng bạn ở chung cùng cha mẹ hay bạn cưới vợ cùng quê để vợ ở nhà với cha mẹ thì bạn có thuận lợi đấy nhưng phải tế nhị hơn. Đừng thể hiện lộ liễu tình cảm của mình với vợ trước mặt cha mẹ hay anh chị em trong nhà, nhất là khi bạn chỉ còn cha hay còn mẹ. Về quê thăm nhà việc đầu tiên bạn nên làm là chào hỏi cha mẹ trước, biếu quà cha mẹ và đưa quà cho bà “để bà chia cho các cháu”. Được như vậy chắc cha mẹ sẽ vui lắm. Còn vợ dù có nhớ mấy cũng phải hoãn lại đợi đến lúc thích hợp nhé. Người ở quê bây giờ đã thoáng hơn trước rất nhiều, nhưng vẫn còn các cụ “kỹ tính, kỹ nết”. Thấy con trai, con dâu “hú hí” các cụ không thích đâu. Bạn đi rồi vợ ở nhà phải gánh chịu “phàn nàn” của các cụ. Và, nếu không khéo (bạn không khéo dàn xếp, vợ không khéo “sửa lỗi”) có thể dẫn đến sự rạn nứt trong mối quan hệ vợ chồng bạn với cha mẹ, thậm chí rạn nứt giữa bạn và vợ đấy.. Vào các dịp lễ tết hay khi có điều kiện bạn nên trực tiếp tặng quà cho bố mẹ vợ khi đi cùng vợ con hay đi một mình. Cũng là “của chồng, công vợ” nhưng nếu bạn trực tiếp làm việc đó thì niềm vui sẽ lớn hơn. Thực ra bố mẹ mình hay bố mẹ vợ đều là cha mẹ cả, bạn và vợ đều phải chăm sóc hai bên như nhau. Như nhau ở đây là nói về sự quan tâm, về thái độ ứng xử; còn tiền bạc thì tùy hoàn cảnh bên nào khó khăn hơn có thể nhiều hơn, đừng chi ly quá nhé.

Dù bạn đã có vợ con hay còn độc thân thì thể nào bạn cũng nên tham gia các hoạt động xã hội tại nơi mình sống và ở quê nhà, đóng góp dù nhiều, dù ít tiền vào các quỹ do địa phương quyên góp vì mục đích xã hội, tham gia sinh hoạt cộng đồng và thiết lập quan hệ thân thiện với hàng xóm, láng giềng. Đầu năm 2014 vừa rồi tôi đến thăm một gia đình quen thân ở Kiến Xương, Thái Bình được chị chủ nhà cho biết trong làng có rất đông thanh niên làm thợ lò, chỉ làm thợ lò trong các mỏ Ngành than thôi không làm

Page 52: Thợ lò cũng là chiến sỹ

“than thổ phỉ” đâu. Chị bảo: cứ đến tết là họ về đông lắm, ba bốn người đi chung một cái xe taxi. Về làng họ thăm hỏi, đóng góp vào phong trào chung, thậm chí họ còn cùng nhau tổ chức liên hoan mời họ hàng, bà con nữa. Như vậy là chị và cả anh ấy nữa (cựu chiến binh 75 tuổi) đều khen thợ lò ta khi về quê đấy. Lời khen của người dân bình thường rất quý, nó xác nhận mối quan hệ tốt của những người thợ lò với quê hương. Biết được điều đó thợ lò sẽ vui hơn, làm nhiều việc tốt hơn.

VI.3. XÂY DỰNG QUAN HỆ HÀI HÒA TRONG CÔNG TY THAN HẦM LÒ

Hàng ngày tại nơi làm việc hay qua đài, báo, cuộc họp bạn thường nghe thấy các từ hay cụm từ lãnh đạo, chỉ đạo, quả lý, quả trị, điều hành, chỉ huy, xung đột lợi ích, lợi ích nhóm hay người sử dụng lao động, người lao động, quan hệ lao động hài hòa v.v. và v.v. Nghe xong có cái bạn hiểu rõ, có cái lơ mơ. Trong mục này tôi muốn trao đổi với bạn nhằm làm rõ hơn các khái niệm nói trên, làm rõ về vị trí vai trò của từng chức danh nghề nghiệp để đi đến xây dựng quan hệ (lao động) hài hòa trong công ty than hầm lò.

VI.3.1. Lãnh đạo và quản lý

a) Lãnh đạo, lãnh tụ

Lãnh tụ, lãnh đạo: là những từ Hán -Việt. Trong tiếng Hán chữ lãnh (lĩnh) là cái cổ áo, chữ tụ là cái tay áo. Kích thước cái tay áo và cổ áo quyết định cả việc may cái áo của người Hán xưa. Và chỉ cần cầm lấy cổ áo và tay áo là giũ được cái áo. Như vậy cổ áo và tay áo là hai cái quan trọng nhất của cái áo. Từ đó người ta nhân cách hóa lên, ai đuợc giao quản một nhóm người làm việc gì đó được gọi là “lãnh tụ”. Còn đạo là sự chỉ dẫn, là con đường, là dẫn đường. Lãnh đạo là sự dẫn đường chỉ lối. Cùng với thời gian các khái niệm này được bổ sung, thêm phức tạp và ngày nay “lãnh đạo” là làm cho và dẫn dắt người khác theo mình đi đến một cái đích (mục tiêu) nào đó đã được xác định. Cao hơn nữa người ta còn nói “lãnh đạo là nâng tầm nhìn của con người lên mức cao hơn, đưa việc thực hiện công việc đạt tới một tiêu chuẩn cao hơn và phát triển tính cách con người vượt qua những giới hạn thông thường”. Nói một cách ngắn gọn thì lãnh đạo là làm cho người khác theo mình (để làm việc gì đấy). Còn lãnh tụ là nhà lãnh đạo cấp quốc gia được tôn vinh. Chỉ đạo tức là chỉ đường, ngày nay nó cũng có nghĩa tương tự như lãnh đạo. Ở ta còn có từ “bị lãnh đạo”. Nói bị lãnh đạo hàm ý là sự bắt buộc phải theo, nó không thuận với nghĩa của “lãnh đạo” là dùng ảnh hưởng của mình mà làm cho người khác theo mình. Nên chăng ta nói “được lãnh đạo” và bị quản lý thì đúng hơn.

b) Quản lý, quản trị

Quản lý hay quản trị đều là từ Hán-Việt. Quản là sự trông coi, chăm sóc, sửa chữa, sắp đặt, điều khiển

một hoặc một số công việc gì đó để duy trì trạng thái ổn định và phát triển của nó. Thủa học trò, ở lớp

học chúng ta có bạn “quản ca” chuyên việc bắt nhịp cho cả lớp hát. Ở gia đình có thuê một người trông

việc nhà được gọi là “quản gia”, khi chết ra nghĩa địa phải gặp người “quản trang”. Chữ lý có nghĩa ban

đầu là sửa sang, sắp đặt; là cái lẽ tự nhiên phải theo khi ta muốn làm một việc gì đó thành công. Quản

theo lý đúng thì thành công, ngược lại quản theo cái lý sai thì thất bại. Còn trị tức là đưa vào khuôn khổ,

là cai trị. Xét cho cùng quản lý và quản trị đồng nghĩa với nhau.

Nói ngắn gọn thì “quản lý” chính là các công việc lập kế hoạch, sắp xếp tổ chức, phân bổ các nguồn lực

(lao động, tài chính, vật tư, thiết bị, nhà xưởng), chỉ huy thực hiện và kiểm soát các quá trình đó đảm bảo

đạt được mục tiêu đề ra.

Page 53: Thợ lò cũng là chiến sỹ

c) Khác nhau giữa lãnh đạo và quản lý

Lãnh đạo là một chức năng của quản lý. Lãnh đạo chỉ liên quan đến con người (cấp trên, cấp dưới, người lao động), tạo ra ảnh hưởng, bằng ảnh hưởng ấy mà thu phục người khác đi theo mình, làm theo mình. Vậy lãnh đạo thiên về ảnh hưởng. Còn quản lý liên quan đến con người và vật chất, tài chính. Nhà quản lý vừa biết thuyết phục người khác làm theo, vừa phân bổ các nguồn lực vật chất, tài chính, rồi phân công, chỉ huy người khác thực hiện. Quản lý thiên về quyền hạn hơn.

Nhà lãnh đạo giỏi có thể không biết quản lý tốt, ngược lại nhà quản lý giỏi chưa chắc đã biết lãnh đạo tài.

Như vậy phạm vi của quản lý rộng lớn trong đó lãnh đạo là một chức năng. Còn chỉ huy hay điều hành cũng là chức năng của quản lý. Chỉ huy (ngón tay vung lên) trước kia thường dùng trong lực lượng vũ trang, sau nó được đưa vào kinh tế để chỉ hoạt động điều hành sản xuất. Sau này người ta còn dùng “điều khiển” cũng là để chỉ sự điều hành sản xuất ở mỏ, nên ta thường thấy các danh từ: Nhà điều hành, Trung tâm điều khiển sản xuất ở các mỏ. Khi xảy ra sự cố thì thiết lập trung tâm hay sở, hay trạm chỉ huy ở trung tâm điều hành/điều khiển sản xuất hay ở ngay khu vực cửa lò.

VI.3.2. Hệ thống tổ chức - quản lý trong công ty than hầm lò

Hệ thống tổ chức quản lý trong các doanh nghiệp Nhà nước (doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp cổ phần do nhà nước nắm cổ phần chi phối) có đặc điểm khác các doanh nghiệp nước ngoài và các daonh nghiệp tư nhân ở chỗ có “hệ thống chính trị” do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Dưới đây tôi nêu cơ cấu tổ chức có tính chất đại diện ở công ty than hầm lò thuộc TKV để bạn tham khảo dù biết rằng nó còn đang thay đổi và sẽ tiếp tục thay đổi.

a) Hệ thống tổ chức - quản lý sản xuất:

- Hội đồng quản trị/Hội đồng thành viên. Hội đồng quản trị nếu ở mỏ là công ty cổ phần, còn hội đồng thành viên nếu mỏ là công ty trách nhiệm hữu hạn. Ở công ty trách nhiệm hữu hạn tùy thuộc quy định của điều lệ mà có hội đồng thành viên hay chỉ có chủ tịch công ty. Đã là hội đồng thì phải có từ ba người trở lên.

- Giám đốc công ty đồng thời là giám đốc điều hành mỏ. Các phó giám đốc công ty và kế toán trưởng.

- Các phòng tham mưu, giúp việc cho giám đốc (có thể giúp việc cho cả Hội đồng quản trị/Hội đồng thành viên hay Chủ tịch công ty) bao gồm nhưng không giới hạn bởi các phòng: tổ chức - lao động, kế hoạch, kế toán, kỹ thuật công nghệ, cơ điện, an toàn, đầu tư, môi trường, văn phòng v.v…

- Các phân xưởng, đội sản xuất, phục vụ bảo gồm: các phân xưởng đào lò, các phân xưởng khai thác than, phân xưởng sàng tuyển than; phân xưởng vận tải, thông gió, cơ giới, xây dựng, phục vụ, đời sống, trạm y tế v.v…

- Vừa qua Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam đã “tái cơ cấu” một số công ty than hầm lò từ công ty trách nhiệm hữu hạn thành chi nhánh của Tập đoàn như Than Hòn Gai, Than Hạ Long, Than Uông Bí, Than Nam Mẫu… Các chi nhánh này vẫn được mang tên công ty nhưng hạch toán phụ thuộc công ty mẹ - Tập đoàn, giám đốc do Tập đoàn bổ nhiệm.

b) Hệ thống chính trị:

Hệ thống chính trị bao gồm Đảng ủy - Hệ thống tổ chức, quản lý - Công đoàn - Thanh niên - Hội cựu chiến binh.

Page 54: Thợ lò cũng là chiến sỹ

Trước kia thì Đảng ủy lãnh đạo toàn diện ở công ty nhà nước, những năm sau này đã đổi mới, đảng ủy lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ cấp trên giao. Như vậy là Đảng ủy không đề ra nhiệm vụ sản xuất mà lãnh đạo thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ đã được cấp trên (Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam - TKV) xác định. Đảng ủy công ty cũng không toàn quyền quyết định công tác cán bộ mà phối hợp với đảng ủy cấp trên và người có thẩm quyền theo quy định tại điều lệ công ty xem xét quyết định.

Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội của người lao động. Công đoàn bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của người lao động. Công đoàn do Đảng ủy cùng cấp và Công đoàn cấp trên cùng lãnh đạo. Công đoàn tham gia quản lý.

Đoàn thanh niên là tổ chức chính trị xã hội của tuổi trẻ; do Đảng ủy công ty và Ban chấp hành đoàn cấp trên cùng lãnh đạo.

Hội cựu chiến binh đã được bổ sung vào hệ thống chính trị trong những năm gần đây.

VI.3.3. Ai lãnh đạo, ai quản lý?

Qua thực tế công tác nhiều năm tôi đã thấy nhiều cán bộ quản lý và công nhân trực tiếp ở mỏ chưa hiểu rõ vai trò của cán bộ các cấp: ai lãnh đạo, ai quản lý, ai tham mưu, ai chỉ huy v.v… Vì chưa rõ nên nhiều khi “thần hồn nát thần tính”, “sợ bóng sợ gió” mấy vị quan be bé mới lên tí phó phòng đã đe cả thiên hạ. Đọc xong phần này có thể bạn sẽ rõ hơn đôi điều.

a) Giám đốc công ty - anh là ai?

Thường thì bạn hiểu giám đốc công ty (sau đây gọi là giám đốc mỏ cho dễ gần) là người quyền cao nhất mỏ, to nhất mỏ đúng không? Chưa bao giờ giám đốc được toàn quyền đâu bạn ạ. Bên cạnh giám đốc còn có đảng ủy lãnh đạo cơ mà. Bây giờ đảng ủy không lãnh đạo toàn diện nhưng lãnh đạo công tác cán bộ, công tác chính trị, tư tưởng. Hơn nữa Hội đồng quản trị hay Hội đồng thành viên hoặc chủ tịch công ty mới là người nắm quyền lực cao nhất: quyết định kế hoạch sản xuất sao cho phù hợp với nhiệm vụ cấp trên (tập đoàn) giao, lợi ích của các cổ đông (nếu là công ty cổ phần như Mông Dương, Vàng Danh chẳng hạn), quyết định bổ nhiệm giám đốc sau khi được đảng ủy mỏ có ý kiến. Giám đốc nắm quyền điều hành cao nhất để thực hiện nhiệm vụ đã được giao đó là đảm bảo thực hiện cho được sản lượng than sản xuất ra cả về lượng lẫn về chất với chi phí không cao hơn mức tập đoàn đã khoán và đảm bảo an toàn lao động, an toàn môi trường, đảm bảo thu nhập của người lao động bằng hoặc cao hơn mức đã tính toán trong kế hoạch…Để thực hiện được kế hoạch đó giám đốc phải biết cùng các cộng sự của mình lập kế hoạch hành động, tổ chức thực hiện kế hoạch đó, kiểm tra giám sát quá trình thực hiện kế hoạch đó. Tổ chức thực hiện kế hoạch tức là phải phân công nhiệm vụ cho các phân xưởng, phòng ban, phối hợp với công đoàn, thanh niên tổ chức phong trào thi đua, động viên công nhân, cán bộ làm việc tích cực, an toàn. Lại phải đề ra các chính sách thể hiện bằng các quy chế cụ thể trong việc quản lý vật tư, thiết bị, lao động,phân phối tiền lương, tiền thưởng; quản lý an toàn lao động, bảo vệ môi trường, chăm lo đến bữa ăn, giấc ngủ ca 3, nơi vui chơi giải trí của công nhân v.v… Giám đốc là người tổng chỉ huy hay tổng điều hành việc thực hiện kế hoạch. Chỉ huy mà người dưới quyền không tự giác làm theo thì khó mà hoàn thành được kế hoạch, cho nên giám đốc phải biết khéo động viên, thuyết phục các cộng sự, các quản đốc và đặc biệt là thợ lò làm công việc trực tiếp trong các gương lò. Thợ lò mà tích cực làm việc thì giám đốc hoàn thành nhiệm vụ và có thể trở thành “giám đốc của thợ lò”.

Bạn thấy rồi đấy, dù không phải toàn quyền nhưng giám đốc mỏ lại là người phải chịu trách nhiệm cao nhất ở mỏ. Bất kể chuyện gì xảy ra người ta (cả cấp trên lẫn chính quyền địa phương và người lao động) đều “gõ vào đầu” giám đốc. Làm giám đốc mỏ hầm lò không dễ đâu vì anh ta vừa là người lãnh đạo, vừa là nhà quản lý, vừa là người làm ra lợi nhuận và là sỹ quan chỉ huy chịu trách nhiệm lớn nhất trong khi các chiến sỹ thợ lò làm việc suốt ba ca liên tục với công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm trong hầm

Page 55: Thợ lò cũng là chiến sỹ

mỏ luôn biến đổi theo thời gian và trong không gian. Mỗi thợ lò làm việc một ca 8 tiếng/ngày còn giám đốc phải thường trực, chịu căng thẳng cả 3 ca 24/24 giờ. Nếu mỏ không có lợi nhuận, nếu mỏ không phát triển, nếu tai nạn, sự cố liên tục xảy ra, công nhân bất bình thì giám đốc “mất chức như chơi”. Trước khi ứng cử làm giám đốc mỏ hầm lò bạn hãy xem xét kỹ điều này.

Giám đốc mỏ có một số phó giám đốc giúp việc. Mỗi phó giám đốc được giám đốc phân công và ủy quyền quyết định một số công việc. Như vậy phó giám đốc được sử dụng quyền hạn của giám đốc, nhân danh giám đốc để chỉ huy, để quyết định và phải báo cáo lại với giám đốc. Không ít phó giám đốc tưởng lầm là mình có nhiều quyền, gần như ngang hàng với giám đốc, tìm cách lạm quyền, thậm chí “chọc dao vào sườn” giám đốc, âm mưu lật đổ giám đốc để chiếm chỗ. Đó chính là nguyên nhân của mâu thuẫn nội bộ hay thường gọi là “mất đoàn kết”. Làm phó bạn cần nhớ chức vụ của mình do giám đốc đề nghị bổ nhiệm, công việc và quyền hạn của mình do giám đốc phân công, và ủy quyền. Vậy bạn hãy làm việc một cách tích cực và trung thành. Nếu bạn tài giỏi bạn cứ thể hiện một cách chân thực, người ta sẽ nhìn thấy, sẽ tạo điều kiện cho bạn phát triển, đừng “chọc gậy bánh xe” một cách hèn nhát, xấu xa để bị người xung quanh gọi bạn là “kẻ cơ hội”.

b) Trưởng phòng là ai và làm gì?

Trưởng là người đứng đầu. Phòng là phòng làm việc đấy. Vậy trưởng phòng là người đứng đầu một nhóm người làm việc chung trong một phòng (ngày nay quy mô mở rộng nhóm người này có thể làm việc trong nhiều căn phòng khác nhau, hoặc trong một phòng rộng có nhiều nhóm (nhiều phòng) cùng làm việc). Mỗi phòng được giám đốc lập ra và giao cho nhiệm vụ tham mưu cho giám đốc quản lý một hoặc vài lĩnh vực công tác của mỏ. Ví dụ phòng kỹ thuật, phòng an toàn,phòng tổ chức lao động, phòng kế toán, phòng kế hoạch, phòng vật tư, phòng đời sống, văn phòng …

Trưởng phòng là người quản lý, là người tham mưu không phải là người chỉ huy ở mỏ, mà chỉ có quyền chỉ huy những người làm việc trong phòng của mình thôi. Trưởng phòng không phải là cấp trên của quản đốc phân xưởng. Vậy tại sao trong thực tế nhiều quản đốc phân xưởng “sợ” hay “ngán” mấy vị trưởng phòng, thậm chí sợ cả vị phó phòng vừa mới lên được vài ngày? Rồi cánh thợ lò lại “sợ” mấy chị, mấy bà ở phòng kế toán hay phòng lao động tiền lương? Là bởi vì các phòng được phân công giải quyết các công việc liên quan đến quyền lợi của phân xưởng, đến quyền lợi của công nhân. Nhiều người nghĩ rằng nếu khéo quan hệ với các phòng thì phân xưởng sẽ nhận được kế hoạch sản xuất dễ chịu hơn, mức khoán chi phí dễ thở hơn. Ngược lại mấy người ngồi ở phòng ban nghĩ rằng mình có quyền nên lấn át cánh quản đốc buộc họ phải “biết điều” với mình. Người ở phòng kế toán, tài vụ lại nghĩ là tiền của mình, nên phát ra lúc nào là quyền của ta, mặc dù đã có lệnh chi của giám đốc. Chị quản lý chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hộ lao động ở phòng lao động cũng có thể nghĩ mình có quyền cho hay chưa cho khiến người lao động phải “chạy đôn, chạy đáo” xin xỏ. Tôi không nói tất cả trưởng phòng hay nhân viên của họ đều tiêu cực, đều gây phiền hà cho phân xưởng, cho công nhân, thậm chí tôi biết đa số họp làm việc vô tư vì lợi ích của mỏ, của công nhân. Nhưng có thể do thói quen của trào lưu xã hội, làm cái gì cũng phải xin từ thời bao cấp nay đang phát triển theo cách biến tướng dưới nhiều dạng khác nhau. Cái thói quen đó phần nào đã làm cho con người ta hèn đi, hễ cứ bị quản lý hay ở cấp dưới là phải quỵ lụy cấp trên, thậm chí phải nịnh nhân viên ở các phòng mặc dù mình là quản đốc, ngang cấp với trưởng phòng.

Trưởng phòng có thể được giám đốc ủy quyền chỉ huy công việc gì đó trong thời gian nhất định, thậm chí được ủy quyền quyết định tuyển dụng lao động, hay ký hợp đồng. Bạn nên nhớ theo “Luật Dân sự” thì người có quyền ủy quyền cho ai thì ủy quyền nhưng phải chịu trách nhiệm, và giám đốc ủy quyền cho phó giám đốc hay trưởng phòng hay một nhân viên nào đó đứng ra thay mình ký hợp đồng thì cũng như nhau cả thôi. Có điều người được ủy quyền nhiều khi lại ít bị kiểm tra dễ sinh ra lạm quyền.

Page 56: Thợ lò cũng là chiến sỹ

Ở mỏ than hầm lò bạn cần nhớ không chỉ trưởng phòng kỹ thuật, cơ điện, an toàn, môi trường mà các kỹ sư, kỹ thuật viên, nhất là các giám sát viên an toàn có quyền thật sự đối với bạn - những người làm việc trực tiếp trong hầm lò (kể cả là lò trưởng hay trưởng ca nữa) khi bạn làm sai quy trình kỹ thuật, bạn vi phạm quy tắc an toàn. Họ yêu cầu bạn phải dừng lại, phải sửa chữa để ngăn chặn nguy cơ xảy ra tai nạn lao động cho chính bạn, ngăn chặn nguy cơ xảy ra sự cố ở mỏ.

Nếu bạn làm việc trong các phòng ban của mỏ, nhất là khi bạn mới vào mỏ làm việc bạn cần tìm hiểu càng kỹ càng tốt về lịch sử Ngành Than, lịch sử công ty, cần nắm chắc đặc điểm nghề nghiệp và đặc biệt bạn cần hiểu biết kỹ về thợ lò - lực lượng chính ở mỏ đang ngày đêm sản xuất than. Nếu bạn có quyển sách này trong tay thì trước hết hãy đọc chương I (Thợ lò anh là ai?) để biết những điều cơ bản về thợ lò, hiểu được họ mong muốn điều gì. Tin rằng nó sẽ giúp ích cho bạn trong cách cư xử với thợ lò đấy.

c) Quản đốc - Quản cái gì, chỉ huy ai?

Bạn là quản đốc phân xưởng đào lò hay phân xưởng khai thác than bạn thừa biết mình quản cái gì, chỉ huy ai rồi, ở đây tôi chỉ khái quát để những người không phải là quản đốc đang làm việc trong các mỏ hiểu thêm công việc của bạn, chia sẻ, hợp tác với bạn. Rõ ràng là bạn phải quản lý mặt bằng thi công hay cả khu vực sản xuất được giám đốc mỏ giao; quản hệ thống các đường lò, hệ thống điện, hệ thống thông gió, hệ thống cấp thoát nước, hệ thống khí nén, hệ thống thông tin, hệ thống vận tải trong khu vực. Rồi các thiết bị cả mới lẫn cũ, đang làm việc hay ở chế độ dự phòng, các vật tư, phụ tùng cho sản xuất và phục vụ kế hoạch thủ tiêu sự cố. Bạn còn quản hồ sơ kỹ thuật bao gồm tài liệu thiết kế, sơ đồ công nghệ, hộ chiếu khoan nổ mìn, biện pháp kỹ thuật, quy trình vận hành, sổ sách nhật lệnh, ca lệnh, giao nhận vật tư, hồ sơ thống kê, làm lương v.v…

Giúp việc cho bạn, chịu sự chỉ huy của bạn là các phó quản đốc, các trưởng ca, cơ điện trưởng, lò trưởng. Các trưởng ca, lò truởng là những người trực tiếp chỉ huy mỗi ca sản xuất, mỗi gương lò; dưới quyền họ là thợ lò gồm công nhân lò, công nhân cơ-điện lò, công nhân làm công việc thông gió, thoát nước… Là quản đốc bạn thường đi lò kiểm tra hiện trường vào cuối ca ba hay đầu ca một? Thường là đầu giờ sáng bạn viết nhật lệnh rồi giao việc cho trưởng ca 1. Đó là việc không thể thiếu. Dù bận họp hành gì thì quản đốc lò vẫn phải bám sát gương lò, không đi lò vào cuối ca 3, đầu ca 1 thì vào ca 2 hoặc bất cứ lúc nào có thể. Đó là cái đặc thù, cái khó của quản đốc lò, chưa kể lúc có tai nạn, sự cố thì phải có mặt liên tục. Làm việc căng thẳng suốt như vậy nên có khi cáu gắt, nóng nảy cũng là chuyện dễ hiểu. Là quản đốc bạn phải khéo sắp xếp để luôn nắm được tình hình sản xuất, luôn kiểm soát được nó. Là phó quản đốc, trưởng ca, lò trưởng hay thợ lò (chỉ làm việc trong một ca) bạn cũng cần hiểu và chia sẻ với quản đốc - người phải để mắt đến cả ba ca, giúp sức cùng quản đốc hoàn thành nhiệm vụ. Có điều gì cần nói nếu không phải là gấp gáp thì hãy chọn lúc quản đốc vui vẻ, đừng nói vào lúc anh ta đang bực bội; hãy tìm cách giúp anh ta “hạ nhiệt”, như thế tốt hơn cho mọi người và công việc. Công việc đã vậy, trách nhiệm lại nặng nề, bây giờ đã đỡ hơn chứ trước đây ấy à cứ xảy ra tại nạn lao động chết người ở phân xưởng thì quản đốc không bị cách chức thì cũng bị cảnh cáo mặc dù nguyên nhân trực tiếp ở chỗ khác. Làm quản đốc lò không chỉ bản thân lo lắng mà cả nhà cùng lo nhất là các bà vợ. Ban đêm chỉ nghe tiếng chuông điện thoại reo thì không chỉ quản đốc mà cả vợ anh ta cũng đoán ra có tai nạn lao động hay sự cố xảy ra.

Quản đốc lò cũng giống các quản đốc khác ở các công việc nhận kế hoạch cả năm, hàng quý, hàng tháng bao gồm mục tiêu sản lượng than, số mét lò phải đào, chi phí sản xuất được khoán, vật tư, thiết bị được nhận rồi phân công, chỉ huy thực hiện sao cho đảm bảo tiến độ, đạt được sản lượng với chi phí thấp hơn hoặc tối đa là bằng mức khoán, đảm bảo chất lượng, đảm bảo an toàn, rồi tổ chức phong trào thi đua, xây dựng văn hóa phân xưởng; chia lương, chia thưởng, thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế. Cái khác của quản đốc lò với các quản đốc khác là hầm lò luôn chuyển dịch trong không gian và theo thời gian (ngày hôm nay khác ngày hôm qua), nơi làm việc chật hẹp, thiếu ánh sáng, thậm chí có

Page 57: Thợ lò cũng là chiến sỹ

lúc thiếu không khí, công việc của thợ lò thì nặng nhọc, độc hại, rủi ro cao vì vậy trách nhiệm đảm bảo an toàn của quản đốc lò rất cao, căng thẳng suốt 24 giờ trong mỗi ngày.Quản đốc phải tổ chức huấn luyện an toàn một cách kỹ lưỡng cho thợ lò, bao gồm cả tổ chức diễn tập, phải luôn để mắt đến việc chấp hành nội quy, quy trình kỹ thuật của các tổ đội, của mỗi cá nhân trong phân xưởng. Không chỉ có vậy, quản đốc còn phải lo tổ chức thăm hỏi động viên, chúc mừng hay chia sẻ với thợ lò, với các đồng nghiệp khác mỗi khi bản thân hay gia đình họ có việc vui, việc buồn trong khi phân xưởng (có khi đông đến vài trăm người) chẳng có đồng quỹ nào. Hỏi xin thì giám đốc giao cho kế toán trưởng còn kế toán truởng thì bảo “không có chế độ”, đành phải bỏ tiền túi ra vậy. Tiền túi bỏ mãi không chịu thấu thế là phải xà xẻo vào đâu đó (gửi lương, bớt xen khối lượng, khai khống sản lượng chẳng hạn). Vậy là giám đốc yếu kém và kế toán trưởng vô trách nhiệm đã đẩy quản đốc đến sai lầm. Tổng Công ty Than Việt Nam đã ban hành quy định hướng dẫn xử lý quỹ ở phân xưởng nhưng không phải mỏ nào cũng thực hiện nó một cách đầy đủ.

Quản đốc là người hiểu thợ lò nhất, biết thợ lò muốn gì nhưng làm sao đáp ứng được tất cả. Nhưng nếu không hoàn thành kế hoạch, hay hoàn thành đấy mà thợ lò không vui thì coi chừng kỳ sau vỡ kế hoạch. Thợ lò không vui có thể là do chia lương, chia thưởng không hợp lý, hay lương thưởng bị bớt xén do chính quản đốc hay ai đó đã “gửi lương”, đã bớt sản lượng được nghiệm thu đi…Hoặc là quản đốc hay trưởng ca, lò trưởng hay quát mắng họ một cách vô cớ, họ ốm thật đến xin đi khám bệnh đã không cho lại còn bảo “đợi tao vào lò đã”. Đợi được quản đốc ra thì đã muộn, hết giờ khám bệnh đành mua mấy viên thuốc tự chữa cho mình vậy. Họ được đi chữa bệnh nghề nghiệp bụi phổi thì quản đốc lờ đi đến sát ngày mới đưa giấy báo, quá bằng đánh đố v.v…Vậy nên quản lý một cách trung thực, công khai, sòng phẳng và thân thiện là tiền đề cho sự tin tưởng dẫn đến thành công liên tục. Làm được như vậy quản đốc sẽ nhàn hơn và phân xưởng sẽ vui hơn.

Bạn là phó quản đốc, là cơ điện trưởng phân xưởng, là trưởng ca hay lò trưởng bạn có phạm vi quản lý, chỉ huy được xác định và bạn là người dưới quyền của quản đốc, vậy hãy gắng sức cùng quản đốc và tập thể thợ lò làm tốt công việc. Là người chỉ huy bạn phải gương mẫu từ việc chịu khó học tập, đến việc viết cái ca lệnh cho rõ ràng, dễ hiểu, phân công rõ ràng, biện pháp cụ thể. Đừng viết ca lệnh như một thứ để bảo vệ cái ghế của mình nhưng lại là cái bẫy đối với người thực hiện. Hãy viết các lệnh sản xuất có tình yêu ở trong đó, tình yêu ở đây là tình yêu đồng đội, không chỉ là tình yêu bản thân mình. Hãy giám sát chặt chẽ việc thực hiện lệnh sản xuất, kịp thời phát hiện, sửa chữa các sai phạm, việc gì khó, chỗ nào nguy hiểm bạn phải “xông vào” mà giải quyết. Đầu ca bạn nhớ nhìn khắp lượt hàng quân của mình, để ý xem có anh nào nét mặt hay bộ dạng khác thường không? Nếu có thì phải hỏi cho kỹ lý do và nếu anh ta đang bức xúc, đang suy sụp thì hãy động viên, giúp đỡ anh ta, tạm thời không cho anh ta vào lò làm việc. Khi “cắt việc” bạn cũng nên để ý xem anh nào “ăn ý” với anh nào để tạo ra các cặp thợ có lợi cho công việc. Đối với những anh mới vào, những anh “có vấn đề” thì phải giao cho thợ to giàu kinh nghiệm lại thương người kèm cặp. Chỉ có như vậy bạn mới được tôn trọng, chỉ có như vậy mới giữ được an toàn.

d) Nhân viên phục vụ - Làm gì, cho ai, vì cái gì?

Trong các nghề công nghiệp có lẽ nghề thợ lò mỏ than có nhiều người phục vụ nhất: nhà ăn, nhà đèn, nhà tắm, nhà giặt, trạm y tế, trạm bảo vệ cửa lò, xe đưa đón đi làm, nhà thể thao, câu lạc bộ … Va chạm nhiều thế nào cũng có rắc rối xảy ra. Vậy làm thế nào để tránh hoặc giảm bớt được các rắc rối. Ở chương I - Thợ lò - anh là ai tôi đã nói khá kỹ về thợ lò, chắc các bạn làm nghề phục vụ đã biết được ít nhiều về lực lượng chính làm ra than, đối tượng mà mình phục vụ. Bây giờ ở phần này tôi mong muốn các bạn thợ lò hiểu thêm một chút về những người phục vụ mình. Nói hiểu thêm một chút là vì các bạn đều đã biết cả, nhiều bạn còn biết rất rõ nữa vì đã ngủ chung giường (với vợ bạn), đã ăn cơm ở nhà (với mẹ bạn), đã đi chơi (với bạn gái của bạn) với người làm công việc phục vụ cho thợ lò ở mỏ.

Page 58: Thợ lò cũng là chiến sỹ

Người phục vụ: dù lái xe chở bạn đi làm, đón bạn trở về; nấu cơm, làm bánh cho bạn ăn, phát bồi dưỡng giữa ca cho bạn mang theo xuống lò, nấu nước cho bạn uống, chuẩn bị nước nóng cho bạn tắm, phát và thu thẻ, đèn, bình tự cứu; giặt giũ quần áo, ủng bảo hộ lao động rồi sấy khô, vá lành cho bạn; kiểm tra huyết áp cho bạn trước khi xuống lò, sơ cứu cho bạn khi bị thương; kiểm tra trang phục, diêm, bật lửa trước khi bạn xuống lò; dọn dẹp sạch sẽ nơi bạn giao ca họ đều bình đẳng với bạn, đều là nhân viên hay cán bộ của mỏ, đồng nghiệp của bạn. Công việc của họ là phục vụ bạn - những người làm việc trong hầm lò. Cũng như bạn họ làm việc vì đồng lương, đồng thưởng để sống và sống tốt hơn. Không chỉ có vậy, họ làm việc vì mỏ, vì cả công ty và Ngành Than, họ muốn đóng góp vào sự phát triển địa phương và đất nước. Họ cũng như bạn vậy, chỉ khác nhau về công việc thôi. Nếu bạn vui thì họ hoàn thành nhiệm vụ. Vậy bạn có muốn giúp cho những người phục vụ vui không? Chắc là có phải không? Bằng cách nào? Trước hết có lẽ bắt đầu từ các quy định cụ thể của mỏ về tiêu chuẩn định lượng bữa ăn, cách ăn (tự chọn chẳng hạn); về giờ phát thẻ xuống lò, phát đèn lò và giờ thu nó về; giờ mở nước tắm; giờ phát quần áo, ủng bảo hộ lao động và chế độ vệ sinh môi trường liên quan. Bạn phải thực hiện các quy định đó, những người phục vụ cũng vậy. Giả sử bạn về sớm muốn được trả đèn, trả quần áo và tắm trước giờ quy định nhưng không được người phục vụ đáp ứng yêu cầu đó, thế là bạn “sửng cồ” lên với chị em, bảo rằng họ thế nọ, họ thế kia. Họ bực quá cãi lại thế là chuyện “bé xé ra to”, phức tạp thêm, xung đột xảy ra. Sao bạn không nhẹ nhàng nói với họ cái lý do mình về sớm (do có việc đột xuất hay do đã hoàn thành công việc được truởng ca cho về chẳng hạn), nhờ họ “linh động” giải quyết cho mình. Hay là khi bạn từ trong lò ra, đi qua chỗ có nước bạn chịu khó rửa đôi ủng đi, giũ qua cái quần, cái áo bảo hộ lao động cho bớt bùn đất đi, tức là bạn đã làm giảm nhẹ công việc cho người giặt ủng và quần áo cho bạn, giảm bớt tiêu hao năng lượng ở mỏ. Khi ăn tự chọn, bạn nhớ chỉ lấy thức ăn vừa đủ, đừng lấy nhiều không ăn hết lại thêm gánh nặng cho người phục vụ; hay bạn tha cả bùn đất vào nhà ăn, vào câu lạc bộ mà lẽ ra bạn phải chùi chân trước đó. Chỉ những cử chỉ nho nhỏ vậy thôi bạn đã làm tăng thêm hay giảm nhẹ đi công việc của người phục vụ, tăng thêm hay giảm bớt chi phí của mỏ. Nếu bạn để ý bạn có thể làm một cách dễ dàng nhiều việc khiến cho những người phục vụ bạn được vui.

Đúng là thợ lò được cả mỏ quan tâm nhưng mình cũng phải quan tâm đến người khác chứ, “có đi có lại mới toại lòng nhau”, phải không bạn?!

VI.3.4. Bạn có quyền không?

Là thợ lò hay nhân viên phục vụ (chẳng có tý chức tước nào) bạn có quyền không?. Muốn biết điều đó bạn có thể tham khảo mấy ý dưới đây mà tôi tiếp thụ được từ nhà văn Đắc Trung trong tác phẩm “Luận về sống và chết” của ông (Nhà xuất bản Thanh niên-2010) và từ sách “Cẩm nang kinh doanh Harvard-Quyền lực, tầm ảnh hưởng và sức thuyết phục” (Nhà xuất bản Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh-2006).

a) Quyền lực là gì, nó đến từ đâu?

Quyền lực phải chăng là khả năng nắm giữ, phân bổ các nguồn lực (con người, vật chất, tiền bạc), ra quyết định và bắt buộc thực hiện? Chị thủ kho được giao việc trông coi kho tức là nắm giữ vật chất để trong kho. Chị ta không có quyền phân bổ hay quyết định đối với vật chất ở trong kho nhưng người đời vẫn bảo “thủ kho to hơn thủ trưởng” là bởi vì chị ta có khả năng nắm giữ nó, nhất là vào lúc vật tư khan hiếm. Còn anh trưởng phòng kế hoạch-vật tư được giao nhiệm vụ chủ trì lập kế hoạch phân bổ các nguồn lực ở mỏ. Công việc ấy khiến khối người nể đến nhờ vả trước cho đơn vị của mình. Chỉ có giám đốc mới là người ra quyết định phân bổ và bắt buộc thực hiện. Nhưng nếu giám đốc quan liêu, không thạo việc, không sát sao chỉ ký cái kế hoạch cấp dưới đã trình thì lắm khi vô hình trung đã hợp thức hóa quyền lực của cấp dưới. Họ đã “qua mặt” mà giám đốc không biết.

Quyền lực đến từ đâu? Nó phát sinh từ bên trong trên nền năng lực cá nhân thì đó là nội lực và người ta gọi đó là thực quyền. Còn nếu nó phát sinh từ chức vụ được giao hay từ mối quan hệ với người khác thì

Page 59: Thợ lò cũng là chiến sỹ

đó là ngoại lực và người ta gọi đó là thế quyền. Những người có năng lực thực sự được bổ nhiệm giữ chức vụ phù hợp với năng lực của họ thì họ có cả thực quyền lẫn thế quyền. Còn những kẻ không có tài mà hay quỳ gối xin xỏ để có chức vụ thì chúng chỉ có thế quyền mà thôi. Lại có những kẻ nhờ vào mối quan hệ với những người có quyền mà có ảnh hưởng khiến người khác phải nể, sợ thì kẻ đó đã dùng phép “mượn quyền” và đó chỉ là thế quyền mà thôi.

Có một nghịch lý trong cuộc sống đó là người ta vừa ác cảm với quyền lực (vì đó là nguồn gốc của tham nhũng) lại vừa muốn có quyền.

b) Làm thế nào để có quyền?

Để có quyền trước hết bạn phải tự học tập, rèn luyện nâng cao năng lực cá nhân để có thực quyền và tìm kiếm thế quyền. Có ba cách tìm kiếm thế quyền đó là cận quyền, cầu quyền và kích quyền. Cận quyền là tiếp cận (gần với) quyền lực. Tìm cách làm việc bên cạnh người hay tổ chức có quyền lực người ta sẽ thấy rõ năng lực của bạn, cất nhắc bạn. Cầu quyền không phải là cầu xin, chạy chọt mà là bắc cầu nhờ được người khác giới thiệu mình với người có quyền (đó gọi là tiến cử) và cách thứ hai là tự tiến cử. Nếu bạn có thực quyền mà chưa được giao chức vụ bạn có thể tự làm đề án hay đề xuất ý tưởng gửi đến cơ quan hay người có quyền. Nếu ý tưởng của bạn hay, không sớm thì muộn bạn sẽ được giao nhiệm vụ lớn hơn. Còn kích quyền là thủ đoạn công kích gây phản ứng mạnh để người có quyền lực biết đến mình. Việc này mạo hiểm. Muốn vậy, bạn phải thật sự có thực quyền. Bạn có thể kết hợp cận quyền, cầu quyền với kích quyền để có được thế quyền, nghĩa là bạn đã có quyền lực. Nhưng để biết sử dụng quyền lực đó một cách đúng đắn bạn phải dày công nghiên cứu, rèn luyện thành “tinh quyền”.

c) Người có quyền lệ thuộc vào ai?

Hiển nhiên là người có quyền lệ thuộc vào cấp trên rồi, giám đốc công ty bạn chắc chắn lệ thuộc và tổng giám đốc và Hội đồng thành viên của Tập đoàn, và phụ thuộc vào cả Đảng ủy lẫn Hội đồng quản trị/Hội đồng thành viên hay chủ tịch công ty. Giám đốc có lệ thuộc vào các trưởng phòng, quản đốc, vào thợ lò hay nhân viên phục vụ không? Có đấy! Vậy lệ thuộc thế nào? Lệ thuộc vào chính tầm ảnh hưởng của bạn, tức là sự tinh nhuệ của bạn trong công việc và trong cuộc sống. Ở Thành phố Hải Phòng giữa hai thời kỳ bao cấp và đổi mới có một vị chánh văn phòng ủy ban nhân dân thành phố đã làm việc cho bảy đời chủ tịch. Vì sao vậy? Vì ông ta thạo việc lại khôn ngoan, quen biết nhiều các cụ cấp trên, được các cụ tin tưởng. Thời tôi làm giám đốc Xí nghiệp Xây lắp mỏ Mông Dương (1981-1986) hễ có việc gì khó mà các trưởng phòng, quản đốc chưa làm được hay thậm chí không giải quyết được thì tôi hỏi mấy anh kỹ sư hay chuyên viên thạo việc. Đào lò qua phay cát mấy đội không đi qua được tôi giao cho một đội trưởng-một thợ lò giỏi nghề, lắm mưu và cho anh ta toàn quyền với mức khoán rõ ràng, thế là đội anh ta đào qua an toàn. Làm sản phẩm cơ khí nào khó tôi không chỉ gặp quản đốc mà bàn với mấy anh chị thợ to giao việc cho họ cùng quản đốc, thế nào họ cũng nghĩ ra cách làm được. Trong tay tôi lúc nào cũng có danh sách thợ to ở xí nghiệp, việc gì khó là tôi nhờ đến họ. Bạn thấy đấy tôi đã lệ thuộc vào họ vì họ tài giỏi. Bạn thử nhìn vào tổ đội hay phân xưởng của bạn mỗi lần tổ chức đi chơi đâu đó, có anh chẳng có tý chức tước gì ở phân xưởng hay công đoàn bộ phận ấy thế mà bạn và những người khác lại muốn giao cho anh ta đứng ra chủ trì cuộc chơi. Vì sao vậy? Có lẽ vì anh ta giỏi việc đó, lại nhiệt tình, anh ta có ảnh hưởng đến bạn và đồng nghiệp. Một chị nhân viên ở nhà ăn vì có kinh nghiệm nên được giao nhiệm vụ làm thực đơn và đứng quan sát bao quát nhà ăn tự chọn xem thọ lò trong bữa ăn ấy chọn món gì nhiều, món gì ít để kịp thời báo cho đầu bếp điều chỉnh. Như vậy là chị ta có ảnh hưởng và có quyền đấy chứ! Chuyện nhỏ hơn là thế này: nhóm của bạn có mấy người thèm ăn thịt chó nhưng lại không muốn đến quán vì sợ ăn phải thịt chó ốm nên hẹn nhau mua một chú chó vàng về làm thịt vào một ngày gần đây. Cái ngày gần đây là ngày nào phụ thuộc vào anh chàng giỏi làm thịt chó, nấu được đủ 7 món có thể thu xếp được. Vậy là cả nhóm phụ thuộc vào thành viên khéo tay này, anh ta có quyền lựa chọn đấy chứ?

Page 60: Thợ lò cũng là chiến sỹ

Bạn thấy đấy không chỉ có chức vụ mới có quyền đâu, mà ai cũng có thể có quyền phụ thuộc vào vào năng lực và sở trường của anh ta hay chị ta thế nào, tầm ảnh hưởng của họ đến đâu. Tầm ảnh hưởng của bạn, phạm vi quyền lực của bạn cho thấy địa vị của bạn trong nhóm bạn chơi, ở tổ đội, phân xưởng hay công ty nơi bạn làm việc. Cái tầm ảnh hưởng ấy, phạm vi quyền hạn ấy nó có giới hạn và cái giới hạn ấy có thể được nới rộng ra hoặc bị thu hẹp lại tùy thuộc vào sự cố gắng phấn đấu của bạn (tùy thuộc vào tinh quyền của bạn). Bên cạnh bạn, xung quanh bạn luôn có những kẻ muốn bành chướng thế lực, muốn lấn át bạn, chiếm quyền của bạn. Thành tích của bạn sẽ giúp bạn giữ vững và mở rộng phạm vi ảnh hưởng cũng như phạm vi quyền lực.

Để biết rõ tầm ảnh hưởng của mình đến đâu bạn thử phân tích, xét đoán xem: ai lệ thuộc vào bạn? Bạn chi phối cái gì trong tổ sản xuất, tổ phục vụ, trong phân xưởng, trong phòng hay trong cả công ty? Người được bạn giúp đỡ có nợ bạn gì không? v.v… Quyền lực của bạn chính là phạm vi tác động hiệu quả của tầm ảnh hưởng của bạn. Vậy bạn hãy mở rộng nó thông qua công việc, đừng thông qua việc bịa đặt gây “tin đồn nhảm”. Bạn vừa làm việc tốt, kiến thức và kinh nghiệm gia tăng qua mỗi năm, bạn vừa biết dùng lý lẽ đúng đắn và hành động gương mẫu thuyết phục người khác, huấn luyện người khác làm theo, phát triển cá nhân bạn và cá nhân họ. Đó là con đường đúng đắn giữ vững và mở rộng ảnh hưởng và quyền hạn của bạn. Bạn hãy phấn đấu leo lên từng nấc thang một như thế sẽ vững chắc hơn.

d) Sử dụng quyền lực thế nào? (các kế dụng quyền)

Bạn đã có quyền rồi, bạn muốn sử dụng nó thế nào cho hiệu quả? Nhà văn Đắc Trung đã đúc rút ra mười kế dụng quyền, tôi xin mách bạn.

- Thứ nhất, Kế mượn quyền. Đó là mượn quyền của người khác để đạt được mục đích của mình. Có việc khó ở tầm quyền hạn của bạn không giải quyết được bạn nhờ một người ở cấp trên ra tay. Hay bạn muốn xin cho con vào học trường chuyên, bạn không tự xoay xở được phải nhờ đến quản đốc của bạn là người quen với thầy hiệu trưởng. Người ta mượn cả thực quyền, lẫn thế quyền hoặc cả hai. Họ còn mượn cả lãnh thổ (“mượn đường đi đánh Chiêm thành”), tài lực, nhân lực và vũ lực nữa. Tất cả tùy thuộc vào tình hình cụ thể và tài năng của kẻ đi mượn quyền.

- Thứ hai: Kế lược quyền. Là kế sách mang tính mục đích, nó nhắm tới mục đích chiến lược nhằm khôi phục, phát triển một tổ chức, một quốc gia; nhằm hạ gục đối thủ cạnh tranh hay kẻ thù quốc gia… Người ta dùng cả “khổ nhục kế” để đạt được mục tiêu chiến lược đó.

- Thứ ba: Kế cơ quyền. Trong cuộc sống hàng ngày người ta thường nói “trong phúc có họa, trong họa có phúc” hay “trong may có rủi, trong rủi có may”. Người dụng quyền bình tĩnh, sáng suốt sẽ biết phân tích kỹ tình hình, lường hết các khó khăn, biết được các thuận lợi đề ra nhiều tình huống khác nhau và các giải pháp phù hợp với tình huốn đó mà xoay xở tình hình biến cái khó thành dễ, biến nghịch thành thuận, biến bại thành thắng. Bạn hãy nhớ kỹ lời Tôn Tử “Trong điều kiện bất lợi phải nghĩ đến điều có lợi mới giải tỏa được họa hoạn”.

- Bốn là: Kế liên quyền. Đó là kế sách liên minh với người khác, đối tác khác để tạo ra sức mạnh. Chẳng hạn, Viện Khoa học Công nghệ mỏ liên kết với Công ty ALTA của Séc, Công ty Chế tạo máy TKV và Công ty than Nam Mẫu để chế tạo, lắp ráp dàn chống tự hành hạ trần rồi đưa vào áp dụng tại mỏ than Nam Mẫu. Liên kết này đã tạo ra sức mạnh mới: cơ giới hóa cao, an toàn và nâng cao sản lượng than đồng thời làm cho công việc của thợ lò đỡ vất vả hơn.

- Năm là: Kế tập quyền. Tập quyền là đảm bảo cho quyền lực được thống nhất, tập trung trên nền tảng dân chủ thực sự. Ví dụ Ngành Than Việt Nam trước 1995 (trước khi có Tổng Công ty Than Việt Nam) phân tán, các công ty đều trực thuộc bộ hay chính quyền địa phương, mạnh ai nấy làm bị khách hàng chèn ép, dẫn đến suy thoái nặng nề. Khi Chính phủ lập ra Tổng Công ty Than Việt Nam, thu Ngành Than

Page 61: Thợ lò cũng là chiến sỹ

về một mối, quyền lực được tập trung, thống nhất trên cơ sở bàn bạc dân chủ, Ngành Than đã thoát khỏi suy thoái. Tập quyền khác với độc quyền. Độc quyền vắng bóng dân chủ, cấp dưới trở nên sợ hãi, hèn nhát chỉ biết vâng lời.

- Sáu là: Kế phân quyền. Phân quyền (giảm bớt quyền lực cấp trên, giao quyền nhiều hơn cho cấp dưới) nhằm thu hút nhiều hơn người tài, của cải, tiền bạc trong tổ chức, trong xã hội để tạo ra sức mạnh tổng hợp. Cổ phần hóa các công ty thành viên, chuyển tổng công ty sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con, tiến tới cổ phần hóa cả công ty mẹ là một hình thức phân quyền.

- Bảy là: kế cân quyền. Đó là giữ cân bằng quyền lực giữa các lực lượng khác nhau, giữa các phe nhóm trong tổ chức nhằm tạo ra sự ổn định. Trong một phân xưởng không phải ai cũng nhất nhất ủng hộ quản đốc; trong công ty không phải tất cả cán bộ, công nhân đều ủng hộ giám đốc. Để cho dễ hiểu bạn nên hình dung theo nguyên tắc của các triết gia cổ đại: một phần ba theo anh, một phần ba chống lại anh, một phần ba lửng lơ theo chiều gió. Anh có giỏi thì tìm cách cân bằng để số lửng lơ kia theo anh, số chống lại anh bớt đi. Bạn đã xem phim “Tể tướng Lưu Gù” chưa? Nếu đã xem bạn có thể khâm phục vua Khang Hy đã khéo cân bằng hai thế lực, một bên do Hòa đại nhân đứng đầu, một bên do Lưu Dung đại diện.

- Thứ tám: Kế khống chế quyền. Đó là cách đưa quyền lực vào đúng chỗ, đúng hướng, vận hành đúng quy định áp dụng cho cả hệ thống từ trên xuống dưới nhằm tránh biến quyền lực chính đáng thành ma lực; không để tập quyền thành độc quyền; không cho phân quyền trở thành lộng quyền, cát cứ quyền… Điều lệ tổ chức và hoạt động của tập đoàn hay của công ty cổ phần là một hình thức khống chế quyền.

- Thứ chín: Kế củng cố quyền. Có được quyền lực đã khó, giữ được nó còn khó hơn. Bạn phải củng cố cả thực quyền lẫn thế quyền. Để củng cố thực quyền bạn phải luôn học tập và rèn luyện nâng cao năng lực hoạt động, nâng cao ý chí và bản lĩnh cá nhân; không được chủ quan mà phải luôn đúc kết rút kinh nghiệm, “thắng không kiêu, bại không nản”. Đừng coi thất bại là điều tồi tệ mà hãy nghĩ đó là một thử thách mình chưa vượt qua được, phải vượt tiếp. Với thế quyền bạn cần làm cho cả cấp trên lẫn cấp dưới thấy được năng lực và tầm ảnh hưởng của mình, tức là thấy được thực quyền của bạn. Khi đã thấy rõ rồi thì họ sẽ tin tưởng bạn, giao cho bạn nhiệm vụ lớn hơn. Đừng bao giờ chấp nhận sự gian trá, lừa lọc, mỵ dân để có thực quyền, đó chỉ là thực quyền giả mà thôi. Cũng đừng bao giờ chạy chọt, đút lót, “lôi bè, kéo cánh” để có thế quyền. Đó cũng là thế quyền giả.

- Thứ mười: Kế kế quyền. Kế quyền là cách thức chuẩn bị cho người khác kế tục mình khi mình lên chức hay nghỉ hưu. Bạn hãy chủ động lựa chọn, đào tạo người thay thế khi bạn đang trên ghế quyền lực. Khi bạn rời vị trí người kế nhiệm đủ sức đảm đương công việc được như bạn hay tốt hơn bạn thì càng quý. Đừng bao giờ nghĩ chỉ có mình mới làm được việc đó, bạn là người không thể thay thế. Không đâu “quan nhất thời, dân vạn đại” mà. Hãy nghĩ đến lợi ích của công ty mà chủ động đào tạo người thay thế, đừng báo cáo với cấp trên rằng chúng tôi chưa tìm được người thay thế để mình được ngồi dài hơn.

e) Ba kiểu nhà quản lý dụng quyền

Sách “Cẩm nang kinh doanh Harvard-Quyền lực, tầm ảnh hưởng và sức thuyết phục” (Nhà xuất bản tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh-2006) đã chỉ ra ba kiểu nhà quản lý trong sử dụng quyền lực, bạn có thể tham khảo để nhận biết xem mình thuộc kiểu nào hay sếp của mình thuộc kiểu nào để mà tự xử lý cho thích hợp.

- Thứ nhất: Nhà quản lý chiều lòng cấp dưới. Chiều lòng cấp dưới để được họ quý mến mình, nghe theo mình để công việc được trôi chảy. Chiều lòng cấp dưới tức là làm cho họ hạnh phúc, thỏa mãn yêu cầu của họ để họ ủng hộ mình, đó là mỵ dân. Cách này không bền vững vì làm sao anh thỏa mãn được hết các yêu cầu của họ? Mỵ dân dẫn đến việc nhà quản lý không thể sử dụng quyền lực cho mục đích chính,

Page 62: Thợ lò cũng là chiến sỹ

không đạt được mục tiêu đề ra. Nhà quản lý kiểu này thường không nhất quán, bạn khó lòng mà lường trước được hành động của anh ta; anh ta có thể tự đánh mất vị trí của mình kéo theo sự hủy hoại sự nghiệp của bạn. Hãy chú ý nhé.

- Thứ hai: Nhà quản lý dùng quyền lực cá nhân. Nhà quản lý kiểu này thích quyền lực cá nhân hơn là sự quý mến; anh ta tìm kiếm quyền lực cho bản thân và cho nhóm của mình để thực hiện nhiệm vụ. Anh ta làm việc một cách dân chủ nhưng chỉ dân chủ trong nhóm của mình thôi nên được cấp dưới kính nể, trung thành, vì cảm thấy mình cũng được mạnh mẽ bên cạnh sếp. Tuy nhiên bạn cần lưu ý các sếp kiểu này chỉ chăm lo tạo lập lãnh địa riêng chứ không phải là người chăm lo cho tổ chức (công ty). Nếu trưởng phòng hay quản đốc của bạn thuộc dạng này bạn cần chú ý là phòng bạn hay phân xưởng của bạn sẽ bị các phòng khác, phân xưởng khác xa lánh, khó hợp tác. Vậy bạn phải lựa chọn lợi ích của phòng bạn, phân xưởng của bạn hay lợi ích của cả công ty. Bạn có thể đề phòng bằng cách cứ trung thành với sếp nhưng tự mở rộng quan hệ của bạn trong công ty, tự nâng cao năng lực và tầm ảnh hưởng của bạn, nó sẽ giúp bạn khi sếp của bạn chuyển đi chỗ khác.

- Thứ ba: Nhà quản lý vì tổ chức. Đó là nhà quản lý sử dụng quyền lực để phục vụ tổ chức chứ không phải phục vụ mục tiêu cá nhân. Đó là người có tinh thần làm việc vì tổ chức (công ty) cao, đạo đức nghề nghiệp mạnh mẽ, sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích của tổ chức, tin vào việc khen thưởng cho các cá nhân làm việc vì mục tiêu của tổ chức. Nếu bạn có một sếp như thế thì bạn cứ yên tâm mà làm việc, mà phấn đấu sẽ không uổng công đâu.

VI.3.5. Nghệ thuật xử lý các tình huống

Bạn là một nhà quản lý, chẳng hạn bạn là quản đốc phân xưởng khai thác hay một trưởng phòng ở mỏ hằng ngày bạn phải xử lý các tình huống trong quan hệ nội bộ phân xưởng với cấp dưới của bạn, rồi với các phân xưởng phòng ban khác và với cấp trên, chưa kể các mối quan hệ xã hội liên quan đến bạn hay cấp dưới của bạn. Bạn có thể tham khảo phần trình bày dưới đây mà tôi đã đúc kết được qua thực tế và học hỏi được từ sách “100 tình huống của giám đốc” của Lê Thụ (Nhà xuất bản Thống kê Hà Nội 1994) khi xử lý một số tình huống giao tiếp.

a) Với cấp dưới

Điều quan trọng nhất bạn cần thấm nhuần là “bạn muốn cấp trên đối xử với bạn thế nào thì cấp dưới của bạn cũng muốn bạn đối xử với họ như thế”. Từ đó bạn xây dựng mối quan hệ chân thành, khách quan và công bằng với mọi người trong phòng, trong phân xưởng; đưa ra yêu cầu một cách chặt chẽ với mọi người và chỉ đánh giá họ bằng kết quả công việc. Bạn phải chủ động bảo vệ lợi ích của họ, tạo điều kiện cho họ phát triển cá nhân. Lợi ích nói ở đây trước hết là việc làm của họ, là sự an lành của họ trong lao động, là thu nhập, là nhân phẩm của họ, bạn chỉ có quyền thêm vào chứ đừng bớt đi nhất là tiền lương, tiền thưởng và các lợi ích có thể quy ra tiền. Trong trường hợp gay cấn có nguyên nhân bất khả kháng đã tìm hết cách rồi mà vẫn phải tạm thời giảm bớt quỹ lương thì bạn phải thảo luận công khai với cấp dưới và tự quyết định bớt phần của mình đi trước. Bạn đừng để xuất hiện một nhóm “con cưng” trong đơn vị của mình. Bạn cởi mở nhưng đừng xuồng xã “cá mè một lứa”, khi có lỗi bạn sẵn sàng xin lỗi công khai, cái đó không “làm mất mặt” bạn mà ngược lại gia tăng uy tín của bạn, côt sao bạn đừng để xảy ra nhiều lỗi là được. Với cấp phó của mình bạn hãy giao việc, giao quyền cho họ một cách hợp lý với sự tin cậy, bảo vệ uy tín của họ khi họ làm việc gì sai, thậm chí bạn gánh một phần trách nhiệm cho họ và giúp họ sửa lỗi. Cấp phó làm tốt thì bạn sẽ nhàn lại được khen.

- Khi xảy ra tình huống chủ trương của bạn không được ủng hộ, quyết định của bạn không được thi hành thì bạn hãy bình tĩnh xem xét lại chủ trương hay quyết định đó, tìm cho ra tại sao? Tại nó sai, nó không hợp lý, nó không thể thực hiện được hay vì cấp dưới cố tình “chơi” bạn, chống lại bạn. Biết được nguyên

Page 63: Thợ lò cũng là chiến sỹ

nhân bạn sẽ tìm ra cách xử lý. Có thể bạn điều chỉnh hay thay đổi quyết định, có thể bạn vẫn bắt buộc cấp dưới phải làm.

- Khi công nhân hay nhân viên của bạn có điều gì bức xúc đến gặp bạn thì bạn hãy chịu khó chăm chú lắng nghe, nhìn thẳng vào mặt họ mà khuyến khích cho họ dốc bầu tâm sự. Chỉ cần lắng nghe thôi là bạn đã làm cho nỗi bức xúc của họ vơi đi một nửa rồi đấy. Phần còn lại nếu làm được gì cho họ thì bạn nên làm. Đừng hứa hẹn điều mình không thể, khi đã hứa rồi thì phải làm. Nếu khó quá không làm được thì phải nói lại cho họ biết.

- Khi cấp dưới gặp khó khăn bạn đừng bỏ rơi họ, hãy tìm cách động viên, giúp đỡ họ vượt qua. Có khi chỉ lời động viên chân thành của bạn đã tạo cho họ động lực vượt lên rồi đấy. Khi họ mắc khuyết điểm hãy tìm hiểu kỹ nguyên nhân cả nguyên nhân trực tiếp lẫn nguyên nhân sâu xa. Có khi nguyên nhân sâu xa lại do chính mình hay ai đó trong bộ máy quản lý gây ra. Phê phán hay kỷ luật họ là điều cần phải làm nhưng đừng bịt hết lối của họ, hãy mở cho họ lối thoát để họ sửa chữa. Nếu khuyết điểm của cấp dưới chưa đến mức phải chịu một hình thức kỷ luật nào đó thì tùy hoàn cảnh mà bạn phê bình kín hay công khai.

- Khi cấp dưới “dở quẻ”, “làm mình làm mẩy”, “chọc gậy bánh xe” thì bạn cần phải tỏ thái độ rõ ràng, dứt khoát, còn khi cấp dưới tỏ ra không tôn trọng cấp trên thì bạn hãy tránh đi đừng cãi vã với họ trước đám đông. Cãi nhau với họ bạn sẽ thua đấy. Hãy chờ đúng lúc, đúng chỗ mà “vạch mặt, chỉ tên”. Tương tự, khi có người đã lười biếng lại hay “ngồi lê mách lẻo”, hay rình rập, nói xấu người khác, “đâm bị thóc, chọc bị gạo” bạn phải vạch mặt chỉ tên đúng lúc.

- Lại có trường hợp cấp dưới đố kỵ nhau chia thành phe nhóm đẩy mâu thuẫn lên cao. Bạn đừng vội đứng về bên nào mà hãy lắng nghe, tìm hiểu kỹ thông tin nhiều chiều rồi hãy kết luận.

- Khi có cấp dưới hay khoe khoang “vỗ ngực ta đây”, quan trọng hóa vấn đề, tự đề cao mình thì bạn nên hiểu rằng anh ta hay chị ta muốn danh vị, tiền tài và là người nhỏ nhen, hay đố kỵ, và dễ bị mua chuộc. Đó là một mặt, còn mặt thứ hai của họ là có năng lực và muốn thể hiện năng lực, muốn tự khẳng định, họ xông xáo nhưng hiếu thắng. Gặp trường hợp như vậy bạn đừng chấp nhặt mà hãy động viên, khích lệ họ, tạo điều kiện cho họ thể hiện nhưng phải theo rõi họ chặt chẽ để kịp thời uốn nắn cái sai nếu nó sắp hay đã xảy ra.

- Nếu cấp dưới của bạn thông minh hơn, nhất là lại “chịu chơi” nữa thì đó thực sự là tài sản quý hiếm. Họ là người có tài, chỉ tôn thờ lẽ phải, có chính kiến, không chịu khuất phục nhưng họ lại biết điều, không ganh ghét, không đố kỵ, không ham danh vọng, tiền tài mà muốn dấn thân tự khẳng định mình, có sai thì nhận không đùn đẩy trách nhiệm. Nếu có được những người như thế thì số bạn thật là may mắn. Hãy yên tâm giao việc cho họ nhưng đừng bao giờ cậy quyền với họ, áp đặt họ bởi vì họ dễ tự ái. Áp đặt họ là họ sẽ công khai đương đầu đấy.

- Khi bị cấp dưới phê bình, bạn nổi cáu hay lắng nghe? Hãy lắng nghe, hãy tiếp thu và đừng bao giờ trù dập. Nếu bạn phạm sai lầm hãy chủ động nhận lỗi và sửa chữa nó.

- Khi bạn bị cấp phó hay ai đó trong bộ tứ “đá hậu” (gắp lửa để lên tay bạn, ném đá sau lưng bạn, thọc dao vào sườn bạn…) bạn hãy bình tĩnh đừng làm ầm ỹ lên mà tìm hiểu cho kỹ ngọn nguồn của sự việc, lập kế hoạch hành động phản công. Bạn hãy công khai sự việc ra, hãy lo quản lý và chỉ huy chặt chẽ hơn, hãy đạt cho được hay vượt được mục tiêu kế hoạch để ra, hãy bảo vệ quyền lợi của công nhân, nhân viên dưới quyền ; kiểm soát chặt chẽ phân phối tiền lương, tiền thưởng cho đúng quy chế, đừng để ai ăn lẹm vào thu nhập của họ. Bằng cách đó những người trung thực sẽ tập hợp đằng sau lưng bạn, tự họ sẽ vạch mặt những kẻ “đá hậu” bạn. Bạn cũng cần báo cáo sự việc với cấp trên, đề nghị cấp trên cho kiểm tra, làm rõ và công bố công khai.

Page 64: Thợ lò cũng là chiến sỹ

- Khi xảy ra tai nạn lao động, sự cố nghiêm trọng. Bạn phải thật bình tĩnh, gương mẫu thể hiện vai trò người đứng đầu của mình, thực hiện “Bốn nguyên tắc hành động của lực lượng cứu hộ” đã nêu ở V.2.

- Khi bạn cảm thấy nhiệm vụ nặng nề, căng thẳng quá, khó khăn nhiều quá thì đừng có mà ôm đồm, hãy chia việc ra và giao cho cấp phó chịu trách nhiệm, còn bạn giữ vai trò “tổng chỉ huy”. Đừng sợ cấp phó giỏi hơn mình, đừng sợ “bị lật đổ” khi giao việc cho họ. Nếu thấy họ có tài, họ giỏi hơn mình thì hãy động viên họ, tiến cử họ.

b) Với cấp trên

Điều quan trọng nhất của bạn đối với cấp trên là bạn luôn sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt nhiệm vụ với những “đòi hỏi” ít nhất. Bạn đừng hứa hão cho qua chuyện, mà đã hứa là phải làm bằng được, vậy hãy liệu sức mình trước khi hứa hẹn với cấp trên. Bạn xây dựng mối quan hệ tốt với cấp trên thông qua việc thực hiện nhiệm vụ chứ không phải bằng sự luồn cúi, nịnh hót. Bạn cũng cần hiểu rõ tính cách, năng lực của cấp trên để mà giải quyết các tình huống trong quan hệ với họ.

- Xin ý kiến cấp trên vào lúc nào? Bạn hãy chuẩn bị thật kỹ những vấn đề bạn cần xin ý kiến cấp trên, nhưng nên nhớ đừng đưa quá nhiều vấn đề một lúc nhé. Nếu có vài vấn đề nhất thiết phải nêu thì hãy đi từ dễ đến khó. Bạn có nên chọn lúc giám đốc đang căng thẳng mà đến xin gặp trình bày việc của mình hay đợi đến lúc ông ta vui vẻ, hay lúc ông ta cùng bạn đi lò kiểm tra sản xuất…? Khi trình bày bạn nên nói rõ ràng, đúng “gu” của giám đốc, chẳng hạn gặp ông giám đốc thích “quan trọng hóa” mà bạn trình bày vấn đề theo kiểu đơn giản thì có khi hỏng đấy. Có khi bạn gặp phải những việc nhất thiết phải làm, không làm không được mà đợi gặp được giám đốc không phải dễ thì hãy liều một cú “tiền chảm hậu tấu” kiểu “tướng quân ngoài biên ải”.

- Khi bị cấp trên ép. Có thể giám đốc “ép” bạn làm thêm công việc gì đấy ngoài nhiệm vụ bạn đang thực hiện hay “gợi ý” cho bạn đề xuất bổ nhiệm thêm ai đấy làm phó cho bạn hoặc giải quyết quyền lợi gì đó cho ai đó là cấp dưới của bạn… Bạn nên suy nghĩ cho kỹ, nếu là nhiệm vụ của công ty, có khó đấy nhưng cố thêm là mình làm được thì nên nhận, đừng từ chối, có thể nêu ra các đề xuất không phải là khó đối với giám đốc. Còn việc nhân sự thì phải rất cẩn trọng, nếu người được gợi ý làm phó cho bạn không đủ tư cách và năng lực thì hãy tìm cách từ chối. Đừng nói gay gắt nhưng phải từ chối, có thể quan hệ của bạn với giám đốc bị sứt mẻ tý chút, rồi bạn tìm cách hàn gắn sau, chứ đừng nhận mà chuốc vạ vào thân. Có chị viết thư cho giám đốc tố một cô nhân viên của bạn có quan hệ tình cảm với chồng chị ta đang là một cán bộ có vai vế ở mỏ. Giám đốc mời bạn lên giao nhiệm vụ điều chuyển cô ta đi chỗ khác theo yêu cầu của chị kia. Vậy bạn hành động thế nào khi trong tay bạn chẳng có chứng cứ gì cụ thể? Bạn làm theo lập tức hay tìm kế hoãn binh chọn thời cơ thích hợp?

- Cấp trên không hài lòng với bạn, không ủng hộ bạn. Khi nhận thấy giám đốc tỏ ra không hài lòng với mình, không ủng hộ mình thì bạn xoay xở thế nào? Trước hết bạn phải đánh giá xem đó là sự không hài lòng nhất thời vì một chuyện gì đó hay đã có dấu hiện ông ta chán bạn, không ủng hộ bạn? Bạn cần phân tích kỹ tại sao? Tại mình không đủ năng lực hoàn thành nhiệm vụ? Tại mình phạm sai lầm gì đó để đơn vị mất đoàn kết nội bộ? Tại có kẻ muốn hất cẳng mình? Hay tại giám đốc khó tính? Muốn biết có thực sự giám đốc khó tính hay không thì hãy nghiên cứu chân dung của những người khác đồng cấp với mình, đang được giám đốc tin cậy, xem họ khác mình ở chỗ nào, thành tích của họ ra sao có hơn mình không? Phải tìm ra cho được nguyên nhân đích thực bạn ạ, chỉ có như vậy mới đề ra cách “đối phó”, tức là cải thiện mối quan hệ. Còn nếu đã cố gắng rồi mà vẫn không cải thiện được thì bạn hãy mở sách của Tôn Tử chọn lấy kế “chuồn”, đi tìm sếp khác.

- Cấp trên độc đoán. Người chuyên quyền, độc đoán thường có tài, chỉ muốn người dưới quyền làm theo ý mình, không được cãi. Vậy bạn phải “lựa chiều dẹt” thôi. Với giám đốc như vậy bạn đừng cãi với ông

Page 65: Thợ lò cũng là chiến sỹ

ta, không thay đổi được ông ta đâu, cãi lại là bị ông ta trừng phạt đấy, nhưng phải tranh thủ mà học lấy kiến thức và kinh nghiệm của ông ta bạn ạ. Hãy trình bày rõ ràng ý kiến của bạn bằng văn bản gửi qua văn phòng cho ông ta. Khi ngồi đọc một mình ông ta sẽ “bút phê” đồng ý hay không đối với đề xuất của bạn. Hãy trình bày rõ ràng ý kiến của bạn bằng văn bản gửi đến văn phòng cho ông ta. Khi đọc một mình ông ta sẽ bình tĩnh suy xét và “bút phê” đồng ý hay không đồng ý với đề xuất của bạn. Khi làm việc với ông ta bạn hãy chăm chú lắng nghe và nói ít thôi. Đã làm như thế mà bạn vẫn bị ức chế thì hãy tìm cơ hội đến với sếp khác có thể được dễ thở hơn.

- Cấp trên chung chung, đại khái. Cấp trên kiểu chung chung đại khái thường là những người thiếu kiến thức chuyên môn (có bằng đại học đúng nghề mà vẫn thiếu) nhưng lại cả nể, dễ tin; là người tốt đấy nhưng vẫn tắc trách. Bạn cần gì ở vị này khi làm việc với ông ta? Chữ ký phải không? Ông ta có thể ký ở bất cứ đâu với câu nói nổi tiếng “tớ ký các cậu chịu trách nhiệm nhé!”.

- Cấp trên hay quên. Cấp trên hay quên đấy nhưng vẫn “nện” bạn như thường. Vậy bạn hãy cẩn thận. Làm việc với ông ta hãy ghi chép vào sổ cho đầy đủ, ghi rõ ràng ngày tháng, địa điểm và mình đề xuất cài gì, ông ta trả lời hay kết luận ra sao. Cuối buổi làm việc nên nhắc lại những điều cốt lõi xin ông ta xác nhận lại. Sau đó bạn có thể viết thành văn bản chuyển đến cho ông ta qua văn phòng.

- Cấp trên thiếu năng lực. Thiếu năng lực mà biết điều thì còn đỡ chứ không biết điều thì thật tệ hại. Bạn phải chú ý phán đoán xem cái ông cấp trên của bạn là người “biết điều” hay “không biết điều” để “đối phó” cho phù hợp. Cái ông “không biết điều” thường tỏ ra “ta đây là người có quyền” làm việc với ông ta thật khó. Vậy bạn phải cân nhắc kỹ cái gì cần nói, cái gì không và nói đơn giản thôi, chỉ dùng ngôn ngữ phổ thông (ai cũng hiểu được) để diễn đạt các vấn đề chuyên môn phức tạp, chớ dùng thuật ngữ chuyên môn khiến ông ta không hiểu mà “nổi đóa” lên.

- Cấp trên thông minh. Có được cấp trên thông minh, lại dân chủ, cởi mở thì còn gì bằng, thật hạnh phúc. Bạn hãy tranh thủ mọi cơ hội mà học lấy kiến thức, kinh nghiệm, tác phong từ ông ta, đừng giấu ông ta; không “qua mặt” được ông ta đâu; ông ta biết đấy, có điều có nói ra hay không thôi. Nhưng bạn cần nhớ một điều: những điều ông ta góp ý cho bạn tuy chân thành đấy nhưng có thể chưa sát với công việc của bạn đâu, vì ông ta bận bao quát nhiều việc. Bạn hãy tham khảo và tự mình phân tích, đánh giá, quyết định.

Ngày nay, các giám đốc mỏ Ngành Than Việt Nam đã được học hành tử tế, được luân chuyển qua nhiều vị trí công tác, lại được tiến cử hay thi tuyển qua một quy trình phức tạp nên đa số biết người, biết việc, hoàn thành tốt nhiệm vụ. Nhưng không phải không còn những anh độc đoán hay chung chung, đại khái. Bạn hãy “tùy cơ mà ứng biến”.

c) Quan hệ ngang cấp

Quan hệ ngang cấp nói ở đây là giữa các trưởng phòng với nhau, giữa các quản đốc với nhau hay giữa các quản đốc với trưởng phòng. Nguyên tắc cơ bản cho mối quan hệ này là được việc, vì vậy hãy chân thành, cởi mở đừng câu lệ quá. Anh nào thấy có việc cần đến anh kia thì chủ động đề xuất, chủ động gặp nhau, đừng nghĩ mình “xin hẹn” là mình lép vế. Và cũng không nhất thiết phải “môn đăng hộ đối” trưởng phòng phải gặp trưởng phòng, quản đốc phải gặp quản đốc hay trưởng phòng phải làm việc với quản đốc chứ không gặp cấp phó. Khi cần thiết gặp ai giải quyết được việc là bạn nên tiến hành, đừng chờ đợi mà lỡ việc. Tại sao trưởng phòng này lại không trao đổi công việc với một chuyên viên của phòng kia hay phó quản đốc của một phân xưởng nọ để giải quyết một vấn đề thuộc về chuyên môn mà anh ta đang cần? Tại sao quản đốc không thể gặp một kỹ sư đã thiết kế biện pháp kỹ thuật mà cứ phải đợi trưởng phòng kỹ thuật. Tất cả những thứ đó là “sỹ hão”, là thứ rào cản vớ vẩn cản trở công việc. Hãy

Page 66: Thợ lò cũng là chiến sỹ

lấy mục tiêu công việc làm gốc, hãy tạo điều kiện cho nhau cùng hoàn thành nhiệm vụ. Hợp tác chân thành là con đường ngắn nhất dẫn đến thành công.

d) Quan hệ với khách hàng

Quản đốc có thể ít quan hệ với khách hàng hơn trưởng phòng, nhưng trong bất cứ trường hợp nào bạn hãy tỏ thái độ chân thành. Bạn cần nhớ khách hàng trả lương cho mình chứ không phải giám đốc, giám đốc chỉ phân chia tiền lương đó mà thôi. Thị trường có lúc thuộc về người bán, lúc khác thuộc về bên mua. Khi mình mạnh (nhiều người đến xin mua hàng) thì đừng có mà “vênh mặt” lên với người ta, đặt ra những điều kiện quá lố ép buộc người ta phải theo, đừng có bỏ khách hàng truyền thống mà chạy theo bọn “hớt váng”. Làm như thế là tự rào ngõ nhà mình lại đấy. Đến khi thị trường chuyển sang tay người mua (cung lớn hơn cầu) họ sẽ bỏ bạn mà tìm nguồn cung khác tử tế hơn. Tốt nhất là hãy xây dựng mối quan hệ tốt đẹp, bền vững với các khách hàng, đặc biệt là khách hàng truyền thống, có lúc mình nhờ người ta giúp và khi khác thì họ nhờ mình giúp. Thị trường than không phải là thứ “ăn xổi” được, phải liên tục xây dựng, củng cố quan hệ không phải chỉ với người mua hàng của mình và với cả các nhà cung cấp hàng hóa đầu vào cho mình nữa. Mối quan hệ này mà tốt thì chi phí đầu vào có thể thấp góp phần làm hạ giá thành, nâng cao sức cạnh tranh và hàng hóa dễ bán hơn anh có giá thành cao. Chi phí thấp, hàng bán chạy tức là khách hàng (ngày nay người ta thích gọi là bạn hàng, đối tác hơn) đã trả lương cho bạn cao hơn rồi đấy.

e) Quan hệ với địa phương và cộng đồng

Đã có nhiều bài học được rút ra hay có, dở có trong việc quan hệ với địa phương và cộng đồng dân cư xung quanh mỏ. Trước hết giám đốc nên giành thời gian gặp gỡ cấp ủy đảng, chính quyền, mặt trận tổ quốc, công an phường, xã nơi mình hoạt động, để cùng bàn bạc, giải quyết những vấn đề liên quan đến sản xuất, đời sống của mỏ, của phường xã, của công nhân và nhân dân. Ở phường, xã mà thông thì lên huyện, thành phố hay tỉnh sẽ dễ hơn. Có anh giám đốc “ngại” đến phường, xã nên chỉ giao cho trưởng, phó phòng đến thôi. Đây là một sai lầm lớn, không đáng để xảy ra bạn ạ.

Thợ mỏ ta là một bộ phận của cộng đồng dân cư, làm gì đó giúp cho cộng đồng hạnh phúc tức là làm cho thợ mỏ hạnh phúc và cũng là tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất phát triển một cách an toàn. Mọi người ở mỏ từ giám đốc, quản đốc, trưởng phòng đến thợ lò, nhân viên phục vụ nên cùng chung tay xây dựng địa phương vững mạnh, xây dựng cộng đồng hạnh phúc. Địa phương và cộng đồng là căn cứ họat động của mỏ đấy bạn ạ, hãy nhớ lấy điều đó.

Trước khi kết thúc mục này tôi muốn gửi đến bạn lời nhắn nhủ: “Biết mình, biết người” để “đối nhân xử thế” là cái gốc trong việc xây dựng mối quan hệ hài hòa trong gia đình, ngoài xã hội và đặc biệt là ở nơi làm việc, nơi bạn kiếm tiền để nuôi mình và gia đình. Sự hài hòa trong các mối quan hệ (cũng đồng nghĩa với sự quan tâm, chia sẻ, giúp đỡ của bạn với người khác và của nhiều người khác đối với bạn) sẽ giúp bạn vơi đi nỗi buồn, bớt đi sự lo lắng; giúp bạn giải tỏa sự búc xúc; tăng thêm niềm vui. Bạn cảm thấy phấn chấn, muốn làm thêm việc gì đó tốt đẹp. Công việc của bạn trôi chảy hơn, năng suất cao hơn, an toàn hơn và dĩ nhiên là thu nhập sẽ cao hơn. Bạn sẽ hát “cuộc đời vẫn đẹp sao, tình yêu vẫn đẹp sao”…hay “mỗi khi tan ca anh cùng em lại ghi thêm một chiến công… là la, lá la”… nhiều hơn, hay hơn. Chúc bạn thành công!

VI.4. HÀI HÒA NGAY TỪ KHI ĐÀO TẠO THỢ LÒ

VI.4.1. Tại sao khó tuyển sinh nghề mỏ hầm lò?

Tôi dám chắc rằng trong tương lai không xa chính những người thợ lò Ngành Than Việt Nam sẽ quyết định vận mệnh của an ninh năng lượng quốc gia. Không phải Ngành Dầu khí, Ngành Điện mà Ngành

Page 67: Thợ lò cũng là chiến sỹ

Than sẽ giữ vai trò quan trọng số 1 của năng lượng Việt Nam. Ấy thế mà một nghịch lý đã và đang xảy ra: khó tuyển sinh nghề làm mỏ hầm lò mặc dù Tổng công ty Than Việt Nam/Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam đã rất cố gắng, đã áp dụng nhiều chính sách ưu đãi thợ lò ngay từ khi bắt đầu sự học tập ở các trường dạy nghề. Thợ lò ở các mỏ than đang bỏ việc hàng loạt, số tuyển mới không bù đủ số bỏ việc. Tại sao vậy??? Có thể lý giải điều này bằng các nguyên nhân sau đây:

- Thứ nhất, làm nghề thợ lò công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, nhiều rủi ro. Dù có cố gắng đến mấy thì sự cố, tai nạn lao động trong các mỏ than hầm lò cũng nhiều hơn, cao hơn các ngành nghề khác. Số người chết do tai nạn lao động trong hầm lò hàng năm có giảm nếu tính tỷ lệ trên đầu mỗi triệu tấn than nhưng chưa có sự thuyên giảm về tổng số. Một số vụ sự cố lớn làm chết nhiều người đã tác động tiêu cực đến tư tưởng thợ lò.

- Thứ hai, trong thời đại truyền thông phát triển sâu, rộng không giấu được ai cái gì thì việc đưa tin nhanh, dồn dập, đa chiều về các vụ sự cố, tai nạn lao động nghiêm trọng không chỉ tác động đến bản thân thợ lò mà đồng thời tác động mạnh mẽ đến vợ con, cha mẹ, người thân, đến những thanh niên đang có dự định vào học nghề làm mỏ hầm lò. Người ta thấy sợ, sợ cái chết đến với mình và vì muốn bảo mạng nên đã hoặc sẽ rút lui khỏi nghề mỏ hầm lò.

- Thứ ba, thu nhập của thợ lò chưa cao, điều kiện làm việc, ăn ở, vui chơi chưa thật hấp dẫn. Thêm vào đó ở một số nơi cán bộ lãnh đạo chưa thấu hiểu thợ lò, cán bộ quản lý, chỉ huy hay mắng mỏ, đe nẹt, gửi lương, bớt thưởng, phạt tiền thợ lò làm cho họ bức xúc, tự ti dẫn đến bỏ việc.

- Thứ tư, kinh tế thị trường đang phát triển, khả năng lựa chọn nghề lớn hơn, dễ hơn trước đây.

- Thứ năm, xã hội nhìn nhận chưa đúng về nghề làm mỏ hầm lò, về thợ lò; về Ngành Than; chưa đánh giá đúng việc mỗi tấn than ra lò thấm ướt mồ hôi, nước mắt và cả máu của thợ mỏ, chưa coi thợ lò cũng là chiến sỹ như Bác Hồ đã dạy “Ngành sản xuất than cũng như quân đội đánh giặc…”. Điều đó khiến cho thợ lò thấy mình thấp bé hay là tự ti rồi bỏ nghề.

Những lý do trên dẫn đến việc nghề làm mỏ hầm lò không còn hấp dẫn dù rằng lương có cao hơn nhiều nghề khác.

VI.4.2. Giải pháp thu hút thợ lò

Ở chương I, mục I.6 “Thợ lò mong muốn điều gì” tôi đã đề cập đến các giải pháp hóa giải các vướng mắc, trở ngại. Dưới đây xin làm rõ thêm mấy giải pháp cụ thể.

- Một là, Đảng và Nhà nước (Quốc hội, Chính phủ) phải thực sự coi trọng và luật hóa lời dạy của Chủ tịch hồ Chí Minh ngày 15.11.1968 “Ngành sản xuất than cũng như quân đội đánh giặc…”. Theo đó cần ban hành chính sách đối xử với thợ lò cũng như đối xử với các chiến sỹ quân đội đang làm nhiệm vụ. Thợ lò hy sinh trong lao động ở hầm mỏ được công nhận là liệt sỹ. Thợ lò được tôn vinh. Cần tạo ra cơ chế để Ngành Than có nguồn lực đầu tư phát triển các mỏ hầm lò với công nghệ sản xuất và quản lý hiện đại qua đó giảm nhẹ nỗi vất vả cho thợ lò, nâng cao mức độ đảm bảo an toàn lao động cho họ và giảm bớt số lượng lao động trong hầm lò.

- Hai là, cùng với Đảng và Nhà nước, Mặt trận Tổ Quốc, công đoàn, thanh niên, các tổ chức xã hội, nhà trường và các cơ quan truyền thông cùng “vào cuộc” chia sẻ, động viên, khuyến khích, tôn vinh thợ lò như đã và đang tôn vinh các chiến sỹ lực lượng vũ trang nơi biên giới, biển đảo.

Page 68: Thợ lò cũng là chiến sỹ

- Ba là, Ngành Than phải chủ động đầu tư đổi mới công nghệ, đẩy mạnh cơ giới hóa, nâng cao mức độ đảm bảo an toàn trong hầm lò, trả lương cao hơn, khen thưởng nhiều hơn cho thợ lò và các mỏ hầm lò, chăm lo tốt hơn đến điều kiện ăn ở, vui chơi giải trí của thợ lò.

- Bốn là, Ngành Than Việt Nam đang thua kém (so với Ngành Than nước láng giềng Trung Quốc) trong lĩnh vực tổ chức sản xuất, chỉ huy thực hiện nhiệm vụ. Người đông, năng suất lao động thấp, giá thành cao khó cạnh tranh. Người đông dễ xảy ra nhiều tai nạn lao động và lương không cao. Không có con đường nào khác là phải đối mới một cách đồng bộ phương thức tổ chức sản xuất, tổ chức lao động, rèn luyện tác phong công nghiệp, siết chặt kỷ luật lao động, nâng cao năng lực chỉ huy của cả hệ thống.

Tóm lại thợ lò cần được nhà nước và xã hội tôn vinh nhưng không vỗ về. Vỗ về là hỏng, mọi thứ đều phải đặt đúng chỗ của nó. Sự tôn vinh đi kèm theo nó là sự đòi hỏi cống hiến, đòi hỏi làm việc với tác phong công nghiệp ngày càng thuần thục, với tính kỷ luật ngày càng cao. Bốn giải pháp trên cùng với các giải pháp cụ thể khác và xây dựng mối quan hệ hài hòa trong học tập và lao động ngay từ khi tuyển sinh vào học nghề mỏ hầm lò sẽ tạo ra động lực gắn bó với nghề, yêu nghề, tạo ra sự hấp dẫn và sức hút của nghề làm mỏ hầm lò. Nói một cách ngắn gọn đó là sức hút của sự an toàn, lành lặn, sức hút của sự tôn vinh hay An -Vinh!

VI.4.3. Xây dựng mối quan hệ hài hòa trong trường đào tạo nghề mỏ hầm lò

Các bạn ở nhà trường có thể tham khảo mục VI.3. “Xây dựng mối quan hệ hài hòa trong công ty than hầm lò” và một số ý kiến nêu ở mục này.

a) Quan hệ giữa bộ phận tuyển sinh, tiếp nhận, phục vụ với học sinh

Nhà trường nên và cần phải phối hợp với các mỏ cử người thạo việc, tính tình cởi mở, trung thực, hiểu biết nhiều về Ngành Than, về thợ lò, về Quảng Ninh, về Nhà trường làm công tác tuyển sinh. Thông tin chuyển đến các địa phương, đến các gia đình, đến thanh niên phải trung thực, hấp dẫn và vừa đủ. Đừng làm như ngày xưa đi tuyển người học nghề thợ lò nhưng lại bảo người ta là nghề “lái min nơ” ỡm ờ, úp úp, mở mở. Bạn đi tuyển sinh ở nông thôn, miền núi bạn phải tièm hiểu trước đó một cách kỹ lưỡng phong tục, tập quán của mỗi làng, mỗi xã, của mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng; phải biết được tính cách và thói quen của cán bộ địa phương mà tìm cách ứng xử thích hợp; phải ăn mặc gọn gàng, giản dị, tác phong nghiêm túc, lịch sự. Bạn nói làm sao để người ta hiểu đúng với nghề thợ lò vừa nặng nhọc, nguy hiểm vừa có đóng góp lớn lao cho đất nước, một nghề đáng được xã hội tôn vinh. Bạn đừng nói quá nhiều về học phí, về tiền lương và các ưu đãi giành cho học sinh nghề hầm lò và thợ lò. Bạn tạo ra ấn tượng ban đầu thế nào đó để khi đến trường học sinh không thấy có sự khác biệt nhiều giữa những gì bạn đã nói và thực tế đang diễn ra.

Lần đầu tiên học sinh đến trường là rất quan trọng. Thầy hiệu trưởng cùng lãnh đạo nhà trường nên giành thời gian tiếp, nói chuyện với các em, giới thiệu vài nét chính về nhà trường với các em. Nếu có thể thì mời các em ăn bữa cơm đầu tiên nhập trường. Ấn tượng ban đầu sâu sắc lắm. Nó tốt hay nó xấu đều làm các em nhớ suốt đời. Nó tốt thì các em sẽ theo nghề, nó xấu sẽ làm cho các em chán nản thậm chí tính bài chuồn.

Nội quy học tập, sinh hoạt, nơi ăn chốn ở, quan hệ trong và ngoài trường cần được phổ biến và áp dụng ngay từ đầu. Nhiều em nhà nghèo chưa biết cái hố xí tự hoại là gì, chưa quen ngồi quanh bàn ăn cơm, chưa quen dùng nước máy… Vậy bộ phận quản trị, phục vụ phải hướng dẫn cụ thể, phải giúp đỡ các em. Mục tiêu hướng tới là xây dựng nền nếp trật tự, kỷ luật nhưng thân thiện ngay từ ngày đầu các em nhập học.

b) Quan hệ giữa các khoa, phòng với học sinh, giữa thày với trò

Page 69: Thợ lò cũng là chiến sỹ

Khi các em mới nhập học Nhà trường nên giành thời gian và chọn người thích hợp nói cho các em nghe về lịch sử Ngành Than Việt Nam, về văn hóa Vùng mỏ và Thợ mỏ, về chiến lược phát triển Ngành Than Việt Nam, về lịch sử và truyền thống của nhà trường.. Ban đầu là các nét khái quát, sau đó phải nói kỹ hơn trong các bài giảng, nếu chưa có thì phải đưa môn này vào chương trình đào tạo.

Song song với việc dạy kiến thức làm mỏ các thầy cần dạy các em rèn luyện sức khỏe, kỹ năng sống, kỹ năng tự bảo vệ, tác phong công nghiệp; thực hành từ đơn giản đến phức tạp, từ dễ đến khó… Những cuộc vui chơi giải trí trong trường, giao lưu với các đơn vị khác thông qua công tác đoàn thanh niên, công tác xã hội sẽ rất có ích giúp các em rèn luyện kỹ năng sống, bản lĩnh và nhân cách.

Trước khi đưa học sinh đến mỏ thực tập Nhà trường, mà cụ thể là các phòng, các khoa có liên quan và các thầy giáo phải cùng với lãnh đạo và hệ thống quản lý ở mỏ chuẩn bị thật kỹ. Kỹ đến mức những em nào sẽ thực tập ở tổ, đội, phân xưởng nào, do ai kèm cặp; điều kiện làm việc ở đó ra sao? Các em ở nhà nào, ăn ở đâu, ai phụ trách. Buổi đầu tiên đến mỏ ai sẽ tiếp, sẽ giới thiệu cho các em. Các em có được trả thù lao trong quá trình thực tập tham gia làm ra sản phẩm hay không, và được trả như thế nào? Kết thúc thực tập có nhận xét hay không, có gặp mặt tổng kết hay không v.v và v.v? Nếu mỏ và nhà trường làm được như vậy thì sẽ tạo cho các em ấn tượng tốt. Nhiều ấn tượng tốt cộng lại thành sự gắn bó đấy bạn ạ.

Nhà trường cũng nên hướng dẫn cho các em các lớp, các khối xây dựng mối quan hệ cởi mở, thân thiện, quan tâm giúp đỡ lẫn nhau hướng đến truyền thống “Kỷ luật và đồng tâm” của thợ mỏ, để các em hiểu rằng các em đang là một bộ phận của đội ngũ thợ mỏ, một bộ phận không thể tách rời của Ngành Than.

Nhà trường, các thầy cũng cần giữ liên lạc với gia đình học sinh với những thông tin đủ và kịp thời nhưng có chọn lọc đồng thời giúp học sinh xây dựng mối quan hệ hài hòa với gia đình và người thân.

Tất cả các công việc mà nhà trường hợp tác với các mỏ, các địa phương làm đều hướng tới mục tiêu:

- Học sinh được trang bị đầy đủ kiến thức ban đầu, có hiểu biết về nghề làm mỏ hầm lò, về Ngành Than Việt Nam, có tính kỷ luật và ý thức tự bảo vệ an toàn trong lao động.

- Học sinh cảm thấy được tôn trọng, bớt đi sự tự ti về nghề làm mỏ hầm lò, mạnh dạn bước vào nghề, tiến tới YÊU NGHỀ.

CHƯƠNG VII: TỰ HÀO NGÀNH THAN VIỆT NAM

VII.1. NGÀNH THAN CÓ TỪ BAO GIỜ?

Ngày 10.1.2010 Tập đoàn Công nghiệp Than-Khoáng sản Việt Nam đã long trọng kỷ niệm 170 năm ngày Đức Vua Minh Mạng khai sinh ra Ngành Than Việt Nam. Là người mới vào học nghề làm mỏ hay mới vào mỏ làm việc bạn có thể hỏi tại sao lại 170 năm và tại sao lại là Vua Minh Mạng? Thật vậy sau khi người dân vô tình phát hiện ra than bên bờ suối (khi lấy ba hòn đá bắc nồi thổi cơm họ thấy có một hòn đá cháy, họ đã đi báo quan) Bộ Công (Thương) đã cho khai thác 10 vạn câu than chở vào Kinh đô Huế. Năm 1839 Tổng đốc Hải An (một phần đất tỉnh Hải Dương và tỉnh Quảng Ninh ngày nay) Tôn Thất Bật đã dâng sớ xin Vua Minh Mạng cho phép thuê dân địa phương khai thác than cho triều đình. Nhà vua đã “chuẩn tấu” ban hành chỉ dụ cho phép khai thác than theo lời thỉnh cầu của Tôn Thất Bật. Đó là vào ngày mồng sáu tháng thứ mười hai năm Minh Mạng thứ 20 (6.12 âm lịch năm 1839), chiếu theo dương lịch thì rơi vào ngày 10.1.1840).

Sau khi được Triều đình Nhà Nguyễn bán cho vùng mỏ Hòn Gai, Cẩm Phả, Đông Triều các chủ tư bản Pháp đã lập Công ty Pháp mỏ than Bắc Kỳ vào năm 1888 được gọi tắt theo tiếng Pháp là FSCT. Người

Page 70: Thợ lò cũng là chiến sỹ

Pháp đã khai thác than cả lộ thiên lẫn hầm lò, đã dựng lên Nhà máy Cơ khí Hòn Gai, Nhà máy Than luyện Hòn Gai, cùng với Cảng Hòn Gai và Nhà sàng Cẩm Phả cùng với Cảng Cẩm Phả để tuyển than tốt đưa về Pháp và xuất khẩu đi các nước khác. Thương hiệu antờraxít Hòn Gai ra đời từ đó.

Ngày 25.4.1955, Vùng mỏ Hòn Gai được giải phóng, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp quản Vùng Mỏ là lập nên Xí nghiệp quốc doanh Than Hòn Gai thay cho và kế tục công việc khai thác mỏ của FSCT. Từ đó Ngành Than Việt Nam phát triển dưới chế độ mới từ sản xuất thủ công quy mô nhỏ đến sản xuất với công nghệ tiên tiến quy mô lớn do đoàn Công nghiệp Than-Khoáng sản Việt Nam và Tổng Công ty Đông Bắc thực hiện. Trước ngày 1.1.1995 Ngành Than gồm nhiều công ty, xí nghiệp trực thuộc Bộ Năng lượng, Bộ Quốc phòng, Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Ninh, có một số mỏ nhỏ ở các địa phương khác. Ở Quảng Ninh Xí nghiệp quốc doanh Than Hòn Gai đã chuyển thành Công ty Than Hòn Gai từ ngày 1.8.1960 với nhiều mỏ và xí nghiệp trực thuộc. Đến năm 1965 có Tổng công ty Than Quảng Ninh, hai năm sau vào 1967 Nhà nước thành lập Tổng công ty mỏ Việt Nam quản lý các mỏ than, mỏ quặng kim loại và năm 1969 trở lại mô hình Công ty than Hòn Gai ở Quảng Ninh, Công ty than Việt Bắc ở Thái Nguyên (quản lý các mỏ than ở Thái Nguyên, Bắc Giang, Lạng Sơn). Ngày 10.10.1994 Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt ký quyết định thành lập Tổng Công ty Than Việt Nam (hoạt động từ 1.1.1995) thu Ngành Than về một mối. Tổng Công ty Than đã trở thành Tập đoàn Than Việt Nam từ ngày 8 tháng 8.2005 rồi Tập đoàn Công nghiệp Than-Khoáng sản Việt Nam ngày 26 tháng 12.2005. Tổng Công ty Than/Tập đoàn Công nghiệp Than-Khoáng sản Việt Nam đã đẩy sản lượng than bán ra từ 6 triệu tấn năm 1994 lên 44 triệu tấn vào năm 2010.

Có thể bạn chưa biết hai điều thú vị sau đây. Thứ nhất, chỉ sau 8 tháng giành được độc lập (2.9.1945) vào ngày 30.5.1946, Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh đã ký ba sắc lệnh số 89, 90, 91 về than. Sắc lệnh 89 nói về việc Chính phủ giành quyền tìm kiếm mỏ (trong một khu vực có tọa độ cụ thể), sắc lệnh số 90 hủy bỏ “những đạo nghị định của nguyên Toàn quyền Pháp tại Đông Dương, định các nơi cấm địa về khai mỏ (có địa chỉ, tọa độ cụ thể ở Đông Triều, Thái Nguyên, Trà My, Nông Sơn, Khe Bố). Những khu cấm địa kể trên này lập thành khu mỏ của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”. Sắc lệnh số 91 giao cho “Ông Đỗ Long Giang, chủ mỏ, ngụ ở số 51 phố Lê-Thái-Tổ, Hà Nội, được hưởng đặc quyền tìm mỏ và khai khẩu than đá trong một khu vực có tên là Giáp Khẩu” (có tọa độ rõ ràng, nay là Giáp Khẩu, Thành phố Hạ Long). Thứ hai, vào ngày 24.9.1949 tại An toàn khu Việt Bắc, Tổng Công đoàn Việt Nam đã quyết định thành lập Xí nghiệp than Lam Sơn khai thác than ở Quán Triều (Phú Lương, Thái Nguyên) phục vụ cho quân giới sản xuất vũ khí. Xí nghiệp than Lam Sơn bây giờ là Công ty than Khánh Hòa thuộc Tổng Công ty công nghiệp mỏ Việt Bắc-TKV. Trước ngày 10.10.1954 công nhân, cán bộ Mỏ than Quán Triều cùng với Mỏ than Mạo Khê đã thi đua “làm than thắp sáng Thủ đô” đưa than về Nhà máy nhiệt điện Yên Phụ thay cho Than Hòn Gai bị thực dân Pháp ngừng cung cấp (Hòn Gai nằm trong vùng 300 ngày quân Pháp tập kết) với âm mưu làm cho Hà Nội không có ánh sáng điện ngày giải phóng (10.10.1954).

Thợ mỏ Ngành Than không chỉ “sản xuất thật nhiều than cho Tổ Quốc” mà còn “chiến đấu và chiến đấu dũng cảm” trong kháng chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ và chống Trung Quốc xâm lược biên giới phía bắc năm 1979. Thời chống Pháp có Đại đội Hồ Chí Minh ở Hòn Gai. Liệt sỹ đầu tiên trong kháng chiến chống Pháp ở Quảng Ninh chính là anh Nguyễn Văn Thuộc công nhân trẻ của Mỏ than Hà Lầm. Trong kháng chiến chống Mỹ có Binh đoàn Than vào Miền Nam chiến đấu, Sư đoàn Than được thành lập tại Quảng Ninh vào ngày 26.9.1978 gồm các cán bộ, chiến sỹ thuộc Công ty than Hòn Gai. Ở các công ty khác đều thành lập trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội tự về sẵn sàng chiến đấu bảo vệ biên cương của Tổ quốc.

VII.2. TỰ HÀO BẢN SẮC VĂN HÓA NGÀNH THAN

Page 71: Thợ lò cũng là chiến sỹ

Là người Ngành Than có thể bạn đã nghe người ngành khác khen thợ mỏ Ngành Than trung thực, thẳng thắn, cởi mỏ và nhiệt tình. Cái sự trung thực, thẳng thắn, cởi mở và nhiệt tình ấy ở đâu chả có sao người ta lại khen thợ mỏ Ngành Than? Vậy phải có cái gì đó hơn hẳn, cái gì đó đặc biệt, cái gì đó khác thường mới khiến người ta để ý, ghi nhận nhanh như vậy? Phải chăng đó chính là tình người Ngành Than! Cái tình người ấy có lẽ đã bắt đầu từ khi dân ta vô tình phát hiện ra than và vì thương dân muốn dân có việc làm kiếm tiền nuôi than khi mùa màng thất bát mà Tổng đốc Hải An Tôn Thất Bật đã xin Đức Vua cho phép thuê dân khai thác than. Cũng chính vì thương dân mà Đức Vua Minh Mạng đã “chuẩn cho lời cầu xin” và còn dặn “các ngươi nên thận trọng, chớ sơ suất để an úy lòng trẫm muốn ra ân cho dân”. Thật hiếm có lời cầu xin và lời phê chuẩn nào nhân văn đến như vậy! Nghề khai thác than nặng nhọc, độc hại lắm rủi ro nhiều người chết do hùm beo, rắn rết, bệnh tật, tai nạn lao động vì thế mà nhân dân và thợ mỏ đã dựng lên Miếu Mỏ ở nơi khai thác than đầu tiên thờ cúng những người thợ mỏ đã qua đời. Ngày nay không có mỏ than nào lại không dành nơi trang trọng đặt bát hương và ghi tên tưởng nhớ những người thợ mỏ đã hy sinh trong sự nghiệp sản xuất than. Tập đoàn Công nghiệp Than-Khoáng sản Việt Nam đã quyết định tôn tạo Miếu Mỏ trong quấn thể di tích “Điểm khai thác than đầu tiên” tại xã Yên Thọ, Huyện Đông Triều, Quảng Ninh.

Chắc bạn có biết ít nhiều về cuộc đình công từ đêm 12.11.1936 và kéo dài hơn 20 ngày của hơn ba vạn thợ mỏ bắt đầu từ Cẩm Phả rồi lan ra khắp Vùng Mỏ buộc chủ mỏ Pháp phải nhượng bộ. Bọn chủ mỏ phải nhượng bộ vì chúng sợ sức mạnh của hơn ba vạn người thợ không có gì để mất đang siết chặt đội ngũ dưới khẩu hiệu :Kỷ luật và Đồng tâm chúng ta nhất định thắng”. Cuộc đình công thắng lợi đã để lại cho các thế hệ thợ mỏ và người dân Quảng Ninh niềm tự hào về sự phát huy sức mạnh của tình yêu thương và tinh thần “kỷ luật-đồng tâm” giữa những con người bị áp bức bóc lột nặng nề. ngày 12.11.1936 đã trở thành “Ngày miền mỏ bất khuất”, “Ngày Truyền thống công nhân mỏ - Truyền thống Ngành Than”. Trong sản xuất cũng như trong chiến đấu, ở bất cứ nơi đâu dưới hầm lò sâu hay trên tầng than cao, trong nhà máy hay trên bến cảng thợ mỏ luôn nêu cao tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, sống có nhau, làm việc có nhau, sẻ cơm nhường áo, nhường việc làm cho nhau, che chở cho nhau trước mũi tên hòn đạn, che chở cho nhau trước các mối đe dọa hiểm nguy trong hầm lò. Thợ mỏ không chỉ sẻ chia cho nhau mà còn tích cực hoạt động xã hội: nhận phụng dưỡng rất nhiều bà mẹ Việt Nam anh hùng ở Quảng Ninh, ở Quảng Nam và các tỉnh khác, chia sẻ thu nhập của mình với đồng bào các nơi bị thiên tai, bị chất độc da cam, với đồng bào nghèo do bất khả kháng, với các gia đình miền núi (Ba Chẽ) có nhà còn bị dột nát v.v và vv…

Dù gian khổ đến mấy thợ mỏ cũng luôn tin tưởng vào tương lai, luôn cất cao lời ca tiếng hát, luôn ham mê bóng đá và các hoạt động thể dục, thể thao, văn hóa, nghệ thuật. Khách đến công ty thăm, làm việc, giao lưu; khách đến nhà chơi bao giờ thợ mỏ cũng tiếp nhiệt tình, chu đáo, cởi mở nhưng mộc mạc, thẳng thắn, không rào trước đón sau; không mượn rượu để nói chuyện khác. Có lẽ cái nghề “sản xuất than cũng như quân đội đánh giặc” luôn phải đối phó với hiểm nguy, có lúc ranh giới giữa cái sống và cái chết rất mong manh đã hun đúc nên tình đoàn kết, thương yêu nhau, gắn bó với nhau giữa những người thợ mỏ, giữa thợ mỏ với cộng đồng; đã rèn luyện thợ mỏ thành những người có tính kỷ luật cao, gan dạ, mưu trí, dũng cảm trong lao động nhưng lại rất hiền, rất mộc mạc, cởi mở và nhiệt tình trong giao tiếp đời thường. Xuyên suốt một chặng đường dài của lịch sử Ngành Than Việt Nam từ cuộc đình công ngày 12.11.1936 đến nay (2014) “Kỷ luật và Đồng tâm” đã trở thành giá trị tinh thần to lớn làm nền tảng của sức mạnh vật chất “dời non lấp biển”, nền tảng của bản sắc văn hóa thợ mỏ Ngành Than Việt Nam. Cái bản sắc văn hóa ấy được sinh ra và phát triển tại Vùng Mỏ Quảng Ninh mảnh đất “địa linh nhân kiệt”- nơi đã trở thành quê hương của biết bao thế hệ thợ mỏ. Nhạc sỹ Đỗ Hòa An người sống tại đất mỏ đã khắc họa con người và Vùng Mỏ trong bài hát “Quê Em” thật sinh động, rất đặc trưng và đầy tự hào:

… Phải chăng em yêu biết mấy quê hương Vùng Than

Mà cháy lên lời ngợi ca.

Page 72: Thợ lò cũng là chiến sỹ

Ở nơi em, mặt trời lên sớm hơn nhiều, mặt trăng cũng lặn muộn

Ở nơi em, lắp lánh tầng cao và lấp lánh lò sâu.

Như ánh sao người thợ rọi tháng ngày gọi suối than về bến.

Ở nơi em, biển khơi lấp lánh ánh đèn, hòa trong tiếng dô hầy.

Ở nơi em, nắng, nắng thật vàng và gió, gió dạt dào

Mưa, mưa ngập tràn và con người đã yêu, yêu nồng nàn!

Đất và người Vùng Mỏ như thế hỏi sao không yêu, không quý, không tự hào Yêu qúy bao nhiêu, tự hào bao nhiêu lại muốn góp thêm sức lực và trí tuệ làm cho nó thêm giàu, thêm đẹp, thêm nổi trội bấy nhiêu! Bạn có đồng ý, có muốn như thế không?

VII.3. VINH QUANG THỢ MỎ VIỆT NAM

Có dịp về Cẩm Phả mời bạn ghé thăm Đài tưởng niệm 12-11 thắp nén tâm hương tưởng nhớ những thợ mỏ đã khuất trong cuộc đình công 12.11.1936 và trong chiến đấu cũng như lao động sản xuất những năm sau đó. Liền đó mời bạn xuống Quảng trường 12-11 chiêm ngưỡng tượng đài “Vinh quang Thợ mỏ Việt Nam” do Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam và Thành phố Cẩm Phả dựng năm 2011 nhân kỷ niệm 75 năm Ngày truyền thống công nhân mỏ - Truyền thống Ngành Than. Về Hà Nội, lên Phòng truyền thống của Tập đoàn trên tầng 7 tòa nhà 226 phố Lê Duẩn bạn sẽ thấy lấp lánh cờ và huân chương. Đó là Huân chương Sao vàng (Huân chương cao quý nhất Việt Nam) được Nhà nước trao tặng cho Ngành Than ngày 10.11.1996 vì đã có công lao to lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc nhân dịp kỷ niệm 50 năm Nước Việt Nam - Dân chủ - Cộng hòa, 60 năm truyền thống Ngành Than. Đó là danh hiệu Anh hùng Lao động (thời kỳ đổi mới) được Nhà nước phong tặng cho Tổng Công ty Than Việt Nam đầu năm 2005 sau 10 năm hoạt động hiệu quả. Ngành Than là ngành kinh tế đầu tiên được thưởng Huân chương Sao vàng; Tổng Công ty Than Việt Nam là tổng công ty đầu tiên do Chính phủ thành lập được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới. Có thể bạn chưa biết trong Ngành Than có đến 15 đơn vị được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động; 13 đơn vị được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân trong đó có 7 đơn vị đã đón nhận cả hai danh hiệu đó là các công ty than Cọc Sáu, Hà Lầm, Đèo Nai, Tuyển than Cửa Ông, Tuyển than Hòn Gai, Hà Tu và Mạo Khê (Mạo Khê có phân xưởng đào lò đá số 5 được phong Anh hùng Lao động năm 2005). Mười chín công nhân, cán bộ Ngành Than đã được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động, hai người được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Trong ngành mỏ hầm lò chỉ có ba công ty Than Hà Lầm, Vàng Danh , Nam mẫu và một phân xưởng đào lò đá Mạo Khê được phong Anh hùng lao động. Bảy thợ lò Anh hùng Lao động là các anh Nguyễn Văn Vỡi (Mạo Khê), Hoàng Văn Tiến (Thống Nhất), Nguyễn Đức Vụ (Hà Lầm), Hà Văn Hồng (Xây lắp mỏ Mông Dương), Lều Vũ Điều (Mạo Khê), Nguyễn Văn Dự (Hà Lầm) và Nguyễn Văn Tía (Mạo Khê).

Không thể kể ra hết có bao nhiêu đơn vị và cá nhân trong Ngành Than được thưởng huân chương và bằng khen của các cấp. Không thể kể ra hết có bao nhiêu thợ lò được nhận các vinh dự đó. Hàng năm Tổng công ty/Tập đoàn Than-Khoáng sản Việt Nam đã tổ chức lễ tuyên dương hàng trăm tập thể và cá nhân tiêu biểu trong đó thợ lò chiếm số đông. Lãnh đạo Tổng công ty/Tập đoàn đã không ngừng chăm lo xây dựng đội ngũ thợ mỏ, không ngừng động viên, tôn vinh thợ lò. Còn rất nhiều việc phải làm để thợ lò “vững thêm bước chân đi vào lò”, để mỗi khi vào lò thấy “ngày mai gần lại” nhưng cũng phải nói rằng cả Ngành Than và nhiều mỏ than đã đứng trên đỉnh vinh quang của sự nghiệp. Mỗi thợ mỏ đều có quyền tự hào về điều đó.

Page 73: Thợ lò cũng là chiến sỹ

“Ngày mai gần lại”, ngày mai đất nước cần nhiều than hơn ngày hôm qua, ngày mai có thể gian khổ hơn ngày hôm nay, cứ cho là như vậy đi để luôn sẵn sàng đối mặt, sẵn sàng chiến đấu vượt lên trên chính mình, để mỗi khi vào ca thợ mỏ ngẩng cao đầu mà hát:

Tổ quốc thân yêu đêm ngày chờ than,

Ghi nhớ trong tim ta chẳng hề quên,

Trăm ngàn khó khăn ta vẫn vượt lên,

Dâng cả trái tim cho Tổ quốc - Mẹ hiền.

(Đất mỏ Anh hùng Xuân Giao 1994)

Lời kết

Bạn thân mến, xin cảm ơn bạn đã chia sẻ cùng tôi từ đầu đến cuối quyển sách này. Ở cuối mỗi chương, mỗi mục tôi đã mạo muội đưa ra lời bình hay sự đúc kết hoặc lời nhắn nhủ. Điều cuối cùng và cũng là điều tâm đắc nhất tôi muốn nói là Thợ lò cũng là Chiến sỹ. Họ và các cấp chỉ huy của họ ở mỏ cần được tôn vinh như nhà nước và xã hội đã và đang tôn vinh các chiến sỹ, sỹ quan trong các lực lượng vũ trang. Được như vậy họ sẽ tự hào, sẽ hãnh diện về nghề làm mỏ hầm lò, sẽ luôn sẵn sàng “dâng cả trái tim cho Tổ quốc - Mẹ hiền”.

Hà Nội, tháng 4-8/2014

ĐOÀN KIỂN

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn trong khai thác hầm lò (Bộ Công Thương - 2011) và Quy phạm kỹ thuật an toàn trong các hầm lò than và diệp thạch (Bộ Công Thương -2006).

2. Tập hợp các quy định đối với các mỏ hầm lò - Bản Tiếng Balan (Karbon - 2002).

3. Những nét chính của Ngành Than đá hầm lò (Nhà xuất bản Đại học bách khoa Silêdi, Balan; Glinwice - 2007).

4. Luận về sống và chết - Đắc Trung (Nhà xuất bản Thanh niên - 2010).

5. Cẩm nang kinh doanh Harvard (1) Quản lý khủng hoảng (2) Quyền lực, tầm ảnh hưởng và sức thuyết phục (Nhà xuất bản tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh - 2006).

6. 100 tình huống của giám đốc - Lê Thụ (Nhà xuất bản Thống kê Hà Nội - 1994).

7. Tài liệu giới thiệu cuốn tư liệu lịch sử “Ngành Than Việt Nam -Quá trình hình thành, phát triển và đổi mới - 1839 - 2009” Nguyễn Tường Hưng - 2011.

8. Tình yêu ở lại - Đoàn Kiển (Nhà xuất bản Dân trí - 2015).

Page 74: Thợ lò cũng là chiến sỹ