Tailieu.vncty.com 5106 4775

85
TRƯỜNG ĐẠI HC NGOI THƯƠNG KHOA KINH TVÀ KINH DOANH QUC TCHUYÊN NGÀNH KINH TĐỐI NGOI ---------***------- KHÓA LUN TT NGHIP Đề tài: ThÞ tr-êng vμng viÖt nam thùc Tr¹ng vμ gi¶i ph¸p Sinh viên thc hin : Nguyễn MLinh Lp : Khóa : 45 Giáo viên hướng dn : TS. Lê ThThu Thy Hà Ni, tháng 5 năm 2010

description

http://tailieu.vncty.com

Transcript of Tailieu.vncty.com 5106 4775

Page 1: Tailieu.vncty.com   5106 4775

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ

CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI

---------***-------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP Đề tài:

ThÞ tr­êng vµng viÖt nam thùc Tr¹ng

vµ gi¶i ph¸p

Sinh viên thực hiện : Nguyễn Mỹ Linh

Lớp :

Khóa : 45

Giáo viên hướng dẫn : TS. Lê Thị Thu Thủy

Hà Nội, tháng 5 năm 2010

Page 2: Tailieu.vncty.com   5106 4775

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU .............................................................................................. 2

CHƢƠNG I: ................................................................................................. 4

TỔNG QUAN VỀ VÀNG VÀ THỊ TRƢỜNG VÀNG ............................... 4

1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ VÀNG .......................................................... 4

1.1. Các đặc tính của vàng .................................................................................. 4

1.1.1. Tính chất hoá học ......................................................................... 4

1.1.2. Tính chất vật lý ............................................................................. 4

1.1.3. Tính thẩm mỹ ............................................................................... 5

1.2. Ứng dụng của vàng ...................................................................................... 5

1.2.1. Làm đồ trang sức .......................................................................... 6

1.2.2. Là một loại kim loại thiết yếu ....................................................... 7

1.2.3. Là tiền loại tiền tệ thế giới chung duy nhất ................................... 7

1.3. Đơn vị đo lường và cách quy đổi của Vàng ................................................. 8

2. VAI TRÒ CỦA VÀNG TRONG NỀN KINH TẾ ................................... 8

2.1. Vàng với vai trò là một loại tiền tệ ............................................................... 9

2.2. Vai trò của vàng trong các chế độ tiền tệ ................................................... 10

2.2.1. Chế độ đồng bản vị ..................................................................... 10

2.2.2. Chế độ bản vị vàng ..................................................................... 12

2.2.3. Chế độ lưu thông tiền giấy .......................................................... 15

3. TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƢỜNG VÀNG ............................................ 18

3.1. Khái niệm về thị trường vàng .................................................................... 18

3.2. Các yếu tố tác động đến thị trường vàng ................................................... 19

3.3. Một số thị trường vàng phát triển trên thế giới .......................................... 24

Page 3: Tailieu.vncty.com   5106 4775

CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG THỊ TRƢỜNG VÀNG VIỆT NAM ...... 26

1. BỨC TRANH TOÀN CẢNH VỀ THỊ TRƢỜNG VÀNG VIỆT NAM

HIỆN NAY .................................................................................................. 26

1.1. Các bước phát triển của thị trường vàng Việt Nam ................................... 26

1.2. Thực trạng về tình hình hoạt động thị trường vàng giai đoạn 2007-2009 .. 30

1.3. Phân tích những nguyên nhân gây biến động đến thị trường vàng ............ 38

1.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến thị trường vàng Việt Nam ........................... 40

1.4.1. Chính sách nhà nước ................................................................... 40

1.4.2. Biến động thị trường vàng thế giới ............................................. 42

1.3.3. Những yếu tố khác ảnh hưởng đến thị trường vàng Việt Nam .... 49

2. TÁC ĐỘNG CỦA THỊ TRƢỜNG VÀNG ĐẾN NỀN KINH TẾ

VIỆT NAM ................................................................................................. 52

2.1. Ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu ................................................ 52

2.2. Ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư............................................................... 53

2.3. Ảnh hướng đến thị trường bất động sản .................................................... 54

2.4. Ảnh hưởng đến hàng hoá khác .................................................................. 55

2.5. Ảnh hưởng đến tâm lý và cuộc sống của nhân dân .................................... 56

3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ THỊ TRƢỜNG VÀNG VIỆT NAM ............ 58

3.1. Thành công ................................................................................................ 58

3.2. Những vấn đề còn tồn tại và nguyên nhân ................................................. 58

CHƢƠNG III: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƢỜNG VÀNG VIỆT

NAM ............................................................................................................ 60

1. DỰ BÁO XU HƢỚNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƢỜNG VÀNG THẾ

GIỚI VÀ VIỆT NAM................................................................................. 60

1.1. Thị trường vàng thế giới ............................................................................ 60

1.2. Thị trường vàng Việt Nam......................................................................... 61

Page 4: Tailieu.vncty.com   5106 4775

1.3. Những chính sách của nhà nước tác động đến thị trường vàng trong thời

gian tới. ...................................................................................................... 62

2. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƢỜNG VÀNG VIỆT NAM TRONG

GIAI ĐOẠN HỘI NHẬP ........................................................................... 63

2.1. Hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về thị trường vàng ......................... 63

2.2. Đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh .............................................. 67

2.3. Phát huy hiệu quả kho ngoại quan vàng .................................................... 68

2.4. Phát triển kế hoạch xây dựng sàn vàng quốc gia ....................................... 70

2.5. Quản lý việc kinh doanh vàng bất hợp pháp qua mạng ............................. 72

2.6. Xây dựng các dịch vụ tư vấn đầu tư vàng .................................................. 74

2.7. Xây dựng các công cụ phân tích kỹ thuật và thông tin thị trường ............. 75

2.8. Đẩy mạnh nghiên cứu đào tạo đồng thời phổ biến rộng rãi kiến thưc về giá

vàng và thị trường vàng ............................................................................. 76

KẾT LUẬN ................................................................................................. 77

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 79

Page 5: Tailieu.vncty.com   5106 4775

1

DANH MỤC BẢNG BIỀU SỬ DỤNG TRONG BÀI

Biểu đồ 1: Nguồn cung cấp vàng trung bình trong 5 năm từ 2004-

2008

Biểu đồ 2: Sản lƣợng vàng thế giới theo khu vực từ năm 1980 –

2007

Biểu đồ 3: Nhu cầu trung bình vàng trên thế giới 5 năm từ năm

2004 - 2008

Biểu đồ 4: Giá vàng 10 tháng đầu năm 2008

Biều đồ 5: Giá vàng trong nƣớc so với giá vàng thế giới ngày

11/11/2009

Biều đồ 6: Diễn biến giá vàng từ lúc khởi điểm khủng hoảng kinh tế

đến cuối năm 2008

Biểu đồ 7: Nhu cầu vàng trang sức quý 3 năm 2008 tại một số quốc

gia

Biểu đồ 8: Nhu cầu vàng công nghiệp (Đơn vị: tấn)

Biểu đồ 9: Biểu đồ giá vàng trong nƣớc và quốc tế 18/3/2008 đến

20/2/2009

Page 6: Tailieu.vncty.com   5106 4775

2

LỜI NÓI ĐẦU

1. Tính thiết yếu của đề tài

Từ xưa đến nay vàng vẫn luôn được coi là biểu tượng của quyền lực và

của cải, luôn được lưu giữ như một khoản tiết kiệm trong mỗi gia đình. Vàng

tượng trưng cho vẻ đẹp, sự giàu có thịnh vượng của mỗi con người, của mỗi

quốc gia. Mọi người luôn quan tâm đến vàng vì nó là công cụ chính để bảo vệ

tài sản, chống rủi ro kinh tế và biến động chính trị. Những năm gần đây, giá

vàng liên tục biến đổi theo chiều hướng gia tăng, làm cho thị trường vàng

Việt Nam nói riêng, thị trường vàng Thế giới nói chung trở nên sôi nổi, và sự

biến động không ngừng của nó kéo theo những ảnh hưởng không nhỏ đến nền

kinh tế Việt Nam. Và Vàng trở thành một kênh đầu tư hẫp dẫn thu hút nhiều

nhà đầu tư với một số vốn khổng lồ. Thị trường vàng với rất nhiều vấn đề từ

vĩ mô đến vi mô của nó đã trở thành một mối quan tâm lớn, thu hút sự chú ý

của rất nhiều người. Xuất phát từ thực tế đó em quyết định chọn đề tài: “Thị

trường vàng Việt Nam - Thực trạng và giải pháp phát triển” làm đề tài cho

khoá luận tốt nghiệp của mình.

2. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của khoá luận là tìm hiểu thực trạng thị trường Việt

Nam những năm vừa qua, những yếu tố tác động đến thị trường vàng cũng

như những ảnh hưởng của nó đến nền kinh tế đất nước. Từ đó khoá luận cũng

đưa ra một số dự báo cũng như giải pháp nhằm phát triển thị trường vàng Việt

Nam trong những năm hội nhập.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là: những vấn đề lý luận chung về thị trường vàng

Việt Nam.

Page 7: Tailieu.vncty.com   5106 4775

3

Phạm vi nghiên cứu do trình độ và thời gian có giới hạn nên khóa luận

chỉ nghiên cứu thực trạng phát triển thị trường vàng trong giai đoạn từ năm

2007 đến nay.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học truyền thống và

hiện đại như: phương pháp logic, thu thập dữ liệu, so sánh, tổng hợp, thống kê

từ các bảng biểu, báo cáo thường niên của các cơ quan ban ngành và tổ chưc

quốc tế, phân tích kỹ thuật.

5. Nội dung khoá luận

Ngoài lời mở đầu kết luận mục lục và danh mục tham khảo, khoá luận

tốt nghiệp được chia làm ba chương:

Chƣơng I : Tổng quan về vàng và thị trƣờng vàng

Chƣơng II : Thực trạng thị trƣờng vàng Việt Nam

Chƣơng III : Giải pháp phát triển thị trƣờng vàng Việt Nam

Nội dung của khoá luận hướng tới khá rộng và phức tạp. Mặc dù đã có

nhiều cố gắng và nỗ lực song do những hạn chế về tài liệu, thời gian và kinh

nghiệm nên không tránh khỏi các thiếu sót. Vì vậy em rất mong nhận được sự

đóng góp ý kiến của các thầy cô và các bạn để khoá luận được hoàn thiện hơn.

Cuối cùng em xin được gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo trường Đại

học Ngoại thương đã trang bị cho em những kiến thức quý báu trong thời gian

học tập tại trường. Đặc biệt em xin chân thành cảm ơn TS. Lê thị Thu Thuỷ,

người đã hết lòng hướng dẫn, tận tình chỉ bảo em trong suốt quá trình làm

khoá luận.

Hà Nội, ngày…..tháng…..năm 2010

Page 8: Tailieu.vncty.com   5106 4775

4

CHƢƠNG I:

TỔNG QUAN VỀ VÀNG VÀ THỊ TRƢỜNG VÀNG

1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ VÀNG

1.1. Các đặc tính của vàng

1.1.1. Tính chất hoá học

Vàng là một nguyên tố hoá học với ký hiệu Au ( L.aurum ) và số nguyên

tử là 79 trong nhóm I hệ thống tuần hoàn Mendeleep, khối lượng nguyên tử từ

197, 967. Hàm lượng trong vỏ trái đất chiếm 4,3 x 10 -7% khối lượng. Vàng

không bị ảnh hưởng về mặt hoá học bởi nhiệt, độ ẩm, ôxy và hầu hết chất ăn

mòn, vì vậy nó thích hợp để đúc tiền kim loại và trang sức.Các halogen có tác

dụng hoá học với vàng, còn nước cường toan thì hoà tan nó. Màu của vàng

rắn cũng như dung dịch keo từ vàng (có màu đậm) được tạo ra bởi tần số

plasmon của nguyên tố này nằm trong khoảng thấy được, tạo ra ánh sáng

vàng và đỏ khi phản xạ và ánh sang xanh khi hấp thụ.[21] Vàng nguyên thuỷ

có chứa khoảng 8 đến 10% bạc, nhưng thường nhiều hơn thế. Hợp kim tự

nhiên với thành phần bạc cao (hơn 20%) được gọi là electrum. Khi lượng bạc

tăng, màu trở nên trắng hơn và trọng lượng riêng giảm. Trạng thái ôxi hoá

thường gặp của vàng gồm +1 (vàng(I) hay hợp chất aurous) và + 3(vàng (III)

hay hợp chất auric), lon vàng trong dung dịch sẵn sàng được khử và kết tủa

thành vàng kim loại nếu thêm hầu như bất cứ kim loại nào khác làm tác nhân

khử. Kim loại thêm vào được ôxi hoá và hoà tan cho phép vàng có thể được

lấy khỏi dung dịch và được khôi phục ở dạng kết tủa rắn. Kim loại này có ở

dạn quặng hoặc hạt trong đá và trong các mỏ bồi tích.[22]

1.1.2. Tính chất vật lý

Vàng là nguyên tố kim loại có màu vàng khi thành khối, nhưng có thể có

màu đen, hồng ngọc hay tía khi được cắt nhuyễn. Nó là kim loại dễ uốn dát

Page 9: Tailieu.vncty.com   5106 4775

5

nhất được biết đến và nó còn có thể chiếu sang. Thực tế, 1g vàng có thể được

dập thành tấm 1m2, hoặc 1 ounce thành 300 feet2. Là kim loại mềm nên vàng

thường được kết hợp với các kim loại khác để làm cho nó cứng thêm. Vàng

có tính dẫn nhiệt và điện tốt, không bị tác động bởi không khí. Vì đặc điểm

này vàng được sử dụng làm dây vi mạch nối vòng trong các chất bán dẫn, hay

“bộ não” của máy tính. Vàng cũng được dùng làm chất bột dính để in thành

mạch điện trên nền gốm (ceramic), sản xuất ra bộ mạch in. Vàng tạo hợp kim

với nhiều kim loại khác; hợp kim với đồng cho màu đỏ hơn, hợp kim với sắt

màu xanh lá, hợp kim với nhôm cho màu tía, với bạch kim cho màu trắng,

bismuth tự nhiên với hợp kim bạc cho màu đen. Vì vậy vàng được sử dụng để

làm các đồ trang sức và có thể kết hợp nhiều kim loại tạo ra màu sắc cho vàng

rất đẹp [23].

1.1.3. Tính thẩm mỹ

Vàng là một kim loại có tính thẩm mỹ cao. Màu của vàng rắn cũng như

của dung dịch keo từ vàng (có màu đậm, thường là tía) được tạo ra bởi tần số

plasmon của nguyên tố này nằm trong khoảng thấy được, tạo ra ánh sáng

vàng và đỏ khi phản xạ và ánh sáng xanh khi hấp thụ. Vàng tạo hợp kim với

nhiều kim loại khác, hợp kim với đồng cho màu đỏ hơn, hợp kim với sắt màu

xanh lá, hợp kim với nhôm cho màu tía, với bạch kim cho màu trắng, bismuth

tự nhiên với hợp kim bạc cho màu đen. Với các tính thẩm mỹ trên vàng thích

hợp nhất để làm đồ trang sức. Đồ trang sức bằng vàng trở nên đa dạng hơn

khi được kết hợp với các kim loại khác. Và làm đồ trang sức cũng làm tăng

giá trị thẩm mỹ của vàng.

1.2. Ứng dụng của vàng

Với các đặc tính như trên của vàng, vàng được ứng dụng vào cuộc sống

với nhiều mục đích khác nhau.

Page 10: Tailieu.vncty.com   5106 4775

6

1.2.1. Làm đồ trang sức

Vàng là một trong những kim loại được yêu thích nhất để sản xuất đồ

trang sức. Đồ trang sức làm bằng vàng thường có: nhẫn, vòng cổ, vòng đeo

tay, lắc, hoa tai, cài áo…thậm chí vàng còn được sử dụng để trang trí vào các

vật dụng như bình hoa, bật lửa, bút máy…Đồ trang sức bằng vàng được chế

tạo theo các tiêu chuẩn sau: 9, 14, 18 và 24 cara. Vàng 18 cara nghĩa là 18

phần vàng ròng trong 24 phần vàng, tương đương 75% vàng ròng. Vàng 24

cara thì quá mềm nên khó có thể tạo ra trang sức hay dùng để đúc tiền. Vì thế

vàng trong trang sức là vàng đã được kết hợp với các kim loại khác như bạc,

đồng, v.v…không chỉ để tạo độ cứng mà còn tạo ra các màu sắc khác nhau,

tạo ra được nhiều kiểu dáng phong phú và đa dạng. Đồng là kim loại thường

được kết hợp với vàng tạo ra màu đỏ hơn. Vàng 18k kết hợp với 25% đồng

thường được dùng làm đồ giả cổ hoặc nữ trang, và cũng có thể làm hoa bằng

vàng có màu đỏ. Vàng 14k có màu đồng đỏ được sử dụng để làm huy hiệu

như làm huy hiệu cảnh sát hay trong quân đội. Vàng xanh được tạo ra bằng

cách trộn vàng và sắt, vàng màu đỏ tía là vàng trộn với nhôm. Các loại vàng

này dùng để làm nữ trang hoặc đồ trang trí.

Page 11: Tailieu.vncty.com   5106 4775

7

1.2.2. Là một loại kim loại thiết yếu

Với những tính chất hoá học và vất lý của vàng nêu trên nên vàng được

coi như một loại công nghiệp thiết yếu và bắt đầu nổi lên vào cuối thế kỷ 20.

Tính dẫn nhiệt dẫn nhiệt cao và đề kháng ôxy hoá, vàng được sử dụng để mạ

bề mặt các đầu nối điện, bảo đảm tiếp xúc tốt và trở kháng thấp.

Thêm vào đó vàng có thể làm thành sợi mỏng để làm chỉ trong ngành

thêu, tạo ra tranh thêu vàng quý hiếm.

Hơn thế nữa vàng còn được sử dụng để thực hiện chức năng quan trọng

trong máy tính, thiết bị thông tin liên lạc, đầu máy bay phản lực, tàu không

gian và nhiều sản phẩm khác nữa.

Vàng được dung trong nha khoa phục hồi, được biệt trong phục hồi răng

như thân răng và cầu răng giả.

Vàng keo là dung dịch đậm màu đang được nghiên cứu trong nhiều

phòng thí nghiệm y học sinh học. Nó cũng là dạng được dùng làm nước sơn

vàng lên đồ gốm trước khi nung.

Mỗi năm khoảng 10% sản lượng vàng được sử dụng cho các quy trình

công nghiệp

1.2.3. Là tiền loại tiền tệ thế giới chung duy nhất

Vàng là loại tiền tệ được các quốc gia đương nhiên thừa nhận làm

phương tiện thanh toán quốc tế, phương tiện lưu trữ quốc tế mà không cần

phải thừa nhận trong bất cứ Hiệp định ký kết nào giữa các quốc gia trên thế

giới. Hiện nay, ngoài vàng ra chưa có một đồng tiền nào có thể thay thế vàng

trong chức năng đồng tiền thế giới.

Khi vàng là tiền tệ thế giới có các đặc điểm như sau:

-Nhiều năm nay, vàng trở thành tiền tệ dự trữ của các quốc gia trong

thanh toán quốc tế

-Vàng không dùng để thanh toán hàng ngày của các giao dịch phát sinh

giữa các quốc gia

Page 12: Tailieu.vncty.com   5106 4775

8

-Không dùng vàng để thể hiện giá cả cũng như tính toán tổng giá trị hiệp

định hoặc hợp đồng

-Tiền giấy không được đổi ra vàng một cách tự do thông qua hàm lượng

vàng của tiền tệ.

-Vàng chỉ được sử dụng để các quốc gia trả nợ cho nhau khi mà không

tìm ra được các công cụ khác để trả nợ.

1.3. Đơn vị đo lƣờng và cách quy đổi của Vàng

Trong ngành kim hoàn ở Việt Nam, đơn vị đo lường được tính theo cây

(lượng hay lạng) hoặc nhỏ hơn là chỉ. Một cây vàng nặng 37,50 gram. Một

chỉ bằng 1/10 cây vàng. Còn trên thế giới, vàng thường được tính theo đơn vị

là ounce hay troy ounce. 1 ounce tương đương với 31,103476 gram.

Tuổi vàng được tính theo thang độ K (karat). Một Karat tương đương

1/24 vàng nguyên chất. Vàng 9999 tương đương với 24K. Khi người ta nói

tuổi vàng là 18K thì nó tương đương với hàm lượng vàng xấp xỉ 75%. Vàng

được sử dụng làm đồ trang sức còn được gọi là vàng tây có tuổi khoảng 18K.

- Thị trường vàng thế giới

*Đơn vị yết giá : USD/ounce

*1 ounce = 1 troy ounce = 0.83 lượng

*1 lượng = 1,20556 ounce

- Thị trường vàng trong nước

*Đơn vị yết giá VNĐ/lượng

*Công thức chuyển đổi giá vàng thế giới (TG) sang giá vàng trong

nước (TN)

TN = (TG + phí vận chuyển)* 120556*(1+thuếNK)*tỷ giá USD/VNĐ+

phí gia công

2. VAI TRÒ CỦA VÀNG TRONG NỀN KINH TẾ

Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, vai trò và chức năng tiền tệ của vàng

không hề bị phai mờ, thậm chí vàng ngày càng có nhiều ứng dụng và đóng

Page 13: Tailieu.vncty.com   5106 4775

9

vai trò quan trọng hơn trong đời sống kinh tế của con người, trong đó một vai

trò quan trọng nhất của vàng là chức năng tiền tệ.

2.1. Vàng với vai trò là một loại tiền tệ

Vai trò quan trọng và thường thấy nhất của vàng gắn liền với chức năng

tiền tệ. Vàng được sử dụng làm dự trữ tại các ngân hàng trung ương. Tính đến

thời điểm năm 2004, các ngân hàng trung ương trên thế giới và các tổ chức tài

chính chính thức nắm giữ khoảng 19% tổng trữ lượng vàng trên mặt đất với

chức năng cất trữ. Tính cho đến nay, Hoa Kỳ là đất nước đứng đầu trong danh

mục các nước dự trữ vàng nhiều nhất thế giới, lên đến con số khoảng 8.133,5

tấn, theo sau đó là Đức, Italy, Nhật Bản Trung Quốc...song xét về khu vực thì

Châu Âu là khu vực cất trữ nhiều vàng nhất trên toàn thế giới.

Với chức năng tiền tệ, vàng không chỉ dung để cất trữ trong khi của các

ngân hang trung ương, vàng còn được sử dụng làm tài sản tiết kiệm truyền

thống và phổ biến ở nhiều quốc gia, nhất là các nước Á Đông. Vàng được sử

dụng làm tiết kiệm dưới dạng trang sức như dây chuyền, nhẫn, vòng, lắc hoặc

dạng thanh (cây) vàng. Theo như một số tài liệu thống kê thì vàng là thứ trang

sức rất phổ biến ở Ấn Độ còn ở Việt Nam người dân mua vàng với tâm lý tiết

kiệm và coi đây là một biện pháp an toàn nhằm bảo đảm giá trị tiền hoặc làm

của hồi môn cho con cháu.

Bên cạnh đó, trong vai trò là một loại tiền tệ thế giới, vàng hội tụ đầy đủ

các yếu tố cơ bản để thực hiện chức năng tiền tệ của mình đó là được cả thế

giới công nhận là tiền tệ, vàng có tính dễ nhận biết nhất trong lưu thông do

đặc tính màu sắc, tính dễ chia nhỏ nên các mệnh giá khác nhau để người bán

và người mua có thể trao đổi, tính lâu bền nên được sử dụng lâu dài qua thời

gian, vàng có tính dễ vẫn chuyển, và thêm vào đó vàng có tính khan hiếm nên

nó có giá trị. Vàng đáp ứng tất cả các yêu cầu trên và có thể nói rằng nó là

dạng vật chất duy nhất trên thế giới đáp ứng được. Lượng vàng mà con người

Page 14: Tailieu.vncty.com   5106 4775

10

có được không thay đổi đột biến trong nhiều thế kỷ; lượng vàng bổ sung nhờ

khai thác được là khá nhỏ và dự tính được.

Ngoài vai trò để dự trữ và tiết kiệm vàng còn có vai trò to lớn trong sản

xuất công nghiệp để sản xuất thiết bị, công nghiệp sản xuất vũ khí cũng như

sản xuất đồng hồ.

2.2. Vai trò của vàng trong các chế độ tiền tệ

2.2.1. Chế độ đồng bản vị

Trong chế độ phong kiến, bạc là kim loại tiền tệ chủ yếu. Ở giai đoạn

đầu chủ nghĩa tư bản, Nhà nước quy định dùng bạc làm kim loại tiền tệ. Khi

sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển, nhất là những khoản giao dịch với

khối lượng hàng hoá có giá trị lớn ngày càng tăng khiến cho việc dùng bạc

làm vật ngang giá chung không còn thích hợp nữa. Vì giá trị của bạc rất nhỏ,

do vậy người ta phải tìm kim loại khác có giá trị cao hơn bạc để đưa vào lưu

thông. Kim loại đấy chỉ có thể là vàng. [1]

Vì vậy, vàng bạc luôn là kim loại được ưa chuộng đặc biệt hơn hẳn các

kim loại khác, bởi những đặc tính của chúng đã đáp ứng được nhiều nhất

những gì mà một đồng tiền hàng hoá cần có: sự khan hiếm, tính bền, có thể

chuyên chở, dễ chia nhỏ, và chất lượng được duy trì lâu bền

Sự chấp nhận vàng và bạc như tiền còn được củng cố từ một thực tế là

các loại kim loại này được thừa nhận rộng rãi là có giá trị sử dụng phi tiền tệ

trong các ngành công nghiệp và trang sức. Hơn nữa giá trị của vàng và bạc

được ổn định tương đối so với các hàng hoá khác, ngoài ra, chất lượng của

chúng có thể kiểm tra một cách chính xác và được các chuyên gia hay còn gọi

là thợ vàng chứng nhận.[8]

Chế độ đồng bản vị là chế độ tiền tệ đầu tiên được thừa nhận trong lịch

sử loài người. Chế độ đồng bản vị là chế độ tiền tệ mà pháp luật Nhà nước

quy định hai kim loại vàng và bạc đồng thời làm kim loại tiền tệ, hai loại tiền

vàng và tiền bạc được tự do đúc và có hiệu lực pháp lý thanh toán vô hạn

Page 15: Tailieu.vncty.com   5106 4775

11

Căn cứ vào cách quy định về mối quan hệ trao đổi giữa tiền đúc bằng

vàng và tiền đúc bằng bạc mà chia chế độ đồng bản vị ra làm hai loại cụ thể:

Chế độ bản vị song song và chế độ bản vị kép.

Chế độ bản vị song song là chế độ hai bản vị mà trong đó quy định tỷ lệ

trao đổi giữa tiền vàng và tiền bạc trong lưu thông phụ thuộc vào giá trị thực

tế của lượng vàng và lượng bạc chứa trong hai đồng tiền đó quyết định. Ở chế

độ bản vị này, hàng hoá kim loại hoạt động trên cơ sở giá trị đây đủ các đồng

xu, tức giá trị tiền tệ của chúng cũng là giá trị kim loại của đồng xu. Vì vậy,

khi giá vàng thay đổi so với bạc thì sẽ làm cho tỷ lệ trao đổi giữa các đồng xu

vàng và bạc thay đổi theo. Mặc dù tiền xu được đúc mang theo nhãn hiệu

riêng của từng quốc gia làm theo bằng chứng bảo đảm về nội dung và chất

lượng kim loại, nhưng trong thực tế các quốc gia thường đúc những đồng xu

bằng hỗn hợp kim loại là vàng hay bạc hay với các kim loại khác có giá trị

thấp hơn. Các quốc gia ngày càng thường xuyên giảm tỷ trọng vàng bạc trong

các đồng xu, điều này dẫn đến các đồng xu mất dần giá trị lưu thông, cho nên

hành động này cũng giống như hành động phá giá trong thời hiện đại.

Khác với chế độ bản vị song song, chế độ bản vị kép là chế độ hai bản vị

mà trong đó quy định cụ thể giá trao đổi giữa tiền đúc bằng vàng và tiền đúc

bằng bạc. Ví dụ, ở nước Mỹ năm 1792 quy định tỷ giá này là 1/15. Thông

thường người ta gọi chế độ hai bản vị chủ yếu chỉ là chế độ bản vị kép này.

Chế độ bản vị bạc tồn tại cho tới năm 1834, khi Quốc hội Mỹ quyết định

tăng giá vàng từ $19,394/ounce len $20,76/ounce, trong khi đó bạc vẫn giữ

nguyên nhằm khôi phục lại chế độ đồng bản vị kim loại. Như vậy tỉ lệ bạc:

vàng là 16, trong khi thế giới vẫn là 15,5. Một lần nữa trong thực tế nước Mỹ

lại chỉ có chế độ bản vị kim loại vàng.

Năm 1879, Mỹ quyết định chuyển đổi trở lại USD ra vàng mà không

chuyển đổi ra bạc, đây là một bước quan trọng trong việc hình thành chế độ

Page 16: Tailieu.vncty.com   5106 4775

12

đơn bản vị vàng (bản vị vàng) ở Mỹ. Tuy nhiên chế độ này vẫn không được

chính thức phê chuẩn cho tới khi có Đạo luật bản vị vàng vào năm 1990.[8]

Chế độ đồng bản vị là một chế độ tiền tệ không ổn định bởi bản tính của

tiền tệ là độc chiếm, gạt bỏ cái khác. Việc pháp luật thừa nhận cả bạc và vàng

đều là kim loại tiền tệ là trái với bản tính đó của tiền tệ.

Trong chế độ bản vị song song do lưu thông tiền vàng và tiền bạc căn cứ

theo giá trị thực tế của kim loại tiền tệ chứa trong nó, cho nên giá cả hàng hoá

và dịch vụ trên thị trường tất nhiên được thể hiện bằng hai loại giá cả: giá cả

tính bằng tiền vàng và giá cả tính bằng tiền bạc. Hai loại này tất nhiên sẽ thay

đổi theo sự thay đổi tỷ giá giữa kim loại vàng và kim loại bạc hình thành tự

phát trên thị trường, vì vậy giá cả hàng hoá và dịch vụ sẽ bị hỗn loạn và dẫn

đến sự hỗn loạn của thị trường.

Trong chế độ bản vị kép, Nhà nước quy định tỷ giá cố định giữa tiền

vàng và tiền bạc để khắc phục tình trạng không ổn định của lưu thông hàng

hoá do chế độ bản vị song song gây ra, nhưng lại gây ra hiện tượng tiền xấu

đẩy tiền tốt ra khỏi lưu thông, điều đó làm cho chế độ tiền tệ bị hỗn loạn

nghiêm trọng.

Khi hai loại tiền có giá trị thực tế không bằng nhau mà giá trị danh nghĩa

của chúng được nhà nước quy định tách rời nhau khỏi giá trị thực tế của nó và

cùng lưu thông theo giá trị danh nghĩa đó thì loại tiền có giá trị thực tế cao hơn

tất nhiên dẫn dần sẽ bị rút khỏi lưu thông, còn loại tiền kém hơn sẽ được đưa vào

lưu thông do tràn ngập thị trường. Hiện tượng này được goi là quy luật Gresham.

Dưới tác dụng của quy luật này, thực tế trong chế độ hai đồng bản vị kép

chỉ còn một đồng tiền có giá trị thấp trong lưu thông. Đây là tiền đề cho sự ra

đời của chế độ một bản vị sau này.[1]

2.2.2. Chế độ bản vị vàng

Chế độ bản vị tiền vàng là chế độ trong đó tiền tệ được đúc bằng vàng

một cách tự do, tiền phụ và tiền tín dụng, tiền ngân hàng được đổi ra tiền vàng

Page 17: Tailieu.vncty.com   5106 4775

13

một cách tự do, vàng được tự do xuất nhập khẩu. Nhờ có chế độ tiền tệ như

vậy nên lạm phát tiền tệ khó biến thành hiện thực. Đây là một chế độ tiền tệ

ổn định nhất từ trước đến nay. [1]

Vàng được lựa chọn bởi sự tinh khiết, không bị biến đổi theo thời gian,

dễ dàng phân biệt, thẩm định nhờ màu đặc trưng, độ dẻo, âm thanh khi va

chạm, khối lượng riêng lớn và vàng là một vật phẩm mà các nhà buôn lựa

chọn làm thước đo giá trị.

Trong chế độ bản vị vàng, vàng là kim loại duy nhất được sử dụng để

đúc tiền. Chế độ này phát triển theo ba giai đoạn khác nhau: chế độ bản vị

tiền vàng, chế độ bản vị vàng thỏi, chế độ bản vị hối đoái vàng.

Chế độ bản vị tiền vàng, đây là chế độ tiền tệ thông thoáng và ổn định

nhất trong lịch sử vì theo như quy định của chế độ này vàng được tự do đúc

thành tiền, các loại tiền phụ, giấy bạc ngân hàng cũng như tiền tín dụng được

tự do đổi thành vàng nếu muốn và bên cạnh đó pháp luật cũng cho phép tự do

xuất nhập khẩu vàng. Theo cách quy định này, vàng luôn được phản ánh

trung thực giá trị của mình, do đó sẽ khó có khả năng xảy ra hiện tượng

lạm phát.

Chế độ bản vị vàng có những quy tắc cơ bản sau:

Các quốc gia ấn định cố định giá trị đồng tiền mua của mình với vàng

và sẵn sàng không hạn chế mua và bán vàng tại mức giá quy định.

Việc xuất nhập khẩu vàng giữa các quốc gia được tự do hoạt động.

Ngân hàng trung ương luôn phải duy trì một số lượng vàng dự trữ trong

mối quan hệ trực tiếp với số tiền phát hành. Số vàng dự trữ này cho phép

ngân hàng trung ương xử lý uyển chuyển việc chuyển đổi ra tiền và vàng mà

không gặp bất cứ một trở ngại nào, tiền được tự do chuyển đổi ra vàng không

hạn chế. Quy tắc bảo đảm bằng vàng buộc ngân hàng trung ương khi mở rộng

cung ứng tiền cho nền kinh tế phải tuân thủ kỷ luật “chỉ phát hành tiền khi có

Page 18: Tailieu.vncty.com   5106 4775

14

luồng vàng từ công chúng chảy vào Ngân hàng trung ương”. Kết quả là, khả

năng thay đổi cung ứng tiền chính là sự thay đổi lượng vàng có sẵn trong tay

những người cư trú.

Đây là chế độ tiền thông thoáng và ổn định nhất trong lịch sử, vì theo

như quy định, vàng luôn được phản ánh trung thực giá trị của mình, do đó sẽ

khó có khả năng xảy ra hiện tượng lạm phát.

Tuy nhiên nhược điểm của chế độ là là đồng tiền vàng vẫn là hàng hoá,

do đó với nhu cầu ngày càng tăng của xã hội, việc sản xuất vàng không thể

theo kịp để đáp ứng. Thêm vào đó giá trị thực của đồng tiền trong lưu thông

càng ngày càng kém đi so với lượng giá trị mà nó đại diện.

Chế độ bản vị vàng thứ hai đó là chế độ bản vị vàng thỏi, người ta gọi

là chế độ bản vị vàng thỏi vì vàng không còn tồn tại dưới dạng tièn nữa mà

được đúc thành thỏi. Trong chế độ bản vị vàng thỏi, vàng không còn được tự

do đúc thành tiền để đưa vào lưu thông nữa, lúc này tiền trong lưu thông phải

được quy định chặt chẽ về hàm lượng vàng. Bên cạnh đó, các loại giấy bạc

ngân hàng không được đổi ra vàng một cách tự do mà phải đạt một tiêu chuẩn

nhất định do Nhà nước đề ra thì mới có thể đổi ra vàng. Hoạt động xuất nhập

khẩu vàng cũng bị kiểm soát chặt chẽ và có lúc bị cấm.

Cuối cùng là chế độ bản vị vàng hối đoái, chế độ vàng này được áp dụng

trong một quãng thời gian tương tự chế độ bản vị vàng thỏi. Cũng có những

quy định tương tự như chế độ bản vị vàng thỏi, tuy nhiên điểm khác biệt là

các loại tiền ngân hàng trong chế độ này sẽ không được chuyển ra vàng mà

chuyển ra ngoại tệ của nước thực hiện chế độ bản vị vàng thỏi. Việc chuyển

đối này cũng không được thực hiện tự do mà phải thực hiện với một số lượng

đủ lớn. [8]

Page 19: Tailieu.vncty.com   5106 4775

15

2.2.3. Chế độ lưu thông tiền giấy

Sau nhiều năm chế độ bản vị vàng được coi như là phương tiện để thanh

toán, cất trữ thì được thay thể bởi chế độ tiền giấy bởi người ta thấy rằng khi

lưu thông vàng gây khó khăn trong việc vận chuyển do nặng. Chế độ tiền giấy

ra đời, tiền giấy thực hiện chức năng của tiền tệ như dùng để trao đổi, thanh

toán, cất trữ, song tiền giấy gần như không có giá trị vì nó chỉ là loại tiền

mang dấu hiệu giá trị mà thôi. Tiền giấy được tất cả mọi người chấp nhận vì

nó được sản xuất bởi nhà nước và được nhà nước bảo đảm giá trị và bắt buộc

tất cả phải sử dụng nó là đồng tiền chung. Nhưng để tồn tại và được thừa nhận

chung thì tiền giấy cũng phải có lòng tin của người dân đối với chính nó. Khi

lòng tin của người dân không còn với tiền giấy thì người dân lại trở lại nắm

giữ vàng hoặc các vật dụng tài sản có giá trị khác như bất động sản. Mặc dù

tiền giấy được sử dụng để trao đổi thanh toán hàng ngày nhưng vàng vẫn

được sử dụng như một công cụ cất trữ có giá trị và tin cậy với hầu hết mọi

người dân.

Đặc điểm của chế độ tiền tệ ở xã hội phong kiến là việc đúc tiền thiếu

trọng lượng, tuổi tiền thấp nên đến thời đại tích luỹ nguyên thuỷ của chủ

nghĩa tư bản ở các nước Tây Âu và châu Mỹ tiền giấy đã ra đời, xuất hiện đầu

tiên ở châu Mỹ cuối thế kỷ 17, sang cuối thể kỷ 18 đã lan rộng rãi ở Pháp.

Tiền giấy là dấu hiệu của kim loại tiền tệ (vàng) được phát triển ra để thay thế

cho tiền kim loại đã từng tồn tại trong trao đổi. “Tiền giấy là đại biểu cho tiền

kim loại tiền tệ, biểu hiện cho giá trị hàng hoá, và tiến giấy trở thành dấu hiệu

của giá trị. Như vậy, tiền giấy chỉ là dầu hiệu của giá trị chíng nó đại biểu

cho số lượng vàng, những số lượng vàng này cũng như tất cả những số lượng

hàng hoá khác đều là số lượng giá trị” [2]

Tiền giấy đại biểu cho tiền vàng trong trao đổi, vì vậy lượng tiền giấy

phát hành đưa vào trao đổi phải do lượng tiền vàng cần thiết đáng lẽ tồn tại

Page 20: Tailieu.vncty.com   5106 4775

16

trong trao đổi quyết định. Do tiền giấy không đổi được ra vàng, nên lưu thông

tiền giấy khác với lưu thông tiền vàng: lưu thông tiền vàng do có tính co dãn

tương đối, nên lưu thông tiền tệ tự phát được điều hoà, ngược lại lưu thông

tiền giấy không có tính co giãn, nên lượng tiền giấy phát hành không thể thích

ứng với lượng tiền tệ cần thiết trong trao đổi được. [1]

Hệ thống tiền tệ Bretton Woods : [3]

Bản chất của hệ thống tỷ giá cố định là tỷ giá của các đồng tiền được cố

định giá với đô la Mỹ. Trong đó đô la Mỹ, được cố định giá với vàng và được

tự do chuyển đổi ra vàng. Vàng và đô la Mỹ là phương tiện dự trữ chủ yếu,

ngoài ra các đồng tiền khác cũng có thể được dùng dự trữ nhưng rất hạn chế.

Sự hoạt động của hệ thống Bretton Woods:

Giai đoạn những năm 1950: Đây là thời kỳ thống trị tuyệt đối của đô la

Mỹ. Trong thời kỳ này, hệ thống tỷ giá hoạt động ổn định sau những biến

động (phá giá) của đồng tiền các quốc gia Châu Âu vào năm 1940. Thời kỳ

này đồng đô la Mỹ chiếm vị trí thống trị do Mỹ có nền kinh tế mạnh và đô la

Mỹ có thể tự do chuyển đổi ra vàng. Mặt khác, các quốc gia Châu Âu và Nhật

Bản bị chiến tranh tàn phá nặng nề nên có nhu cầu lớn về máy móc, thiết bị

và hàng hoá để phục hồi nền kinh tế. Đặc trưng của giai đoạn này là sự thiếu hụt

đô la Mỹ. Lúc đầu đô la Mỹ được đáp ứng chủ yếu thông qua chu chuyển vốn

hình thức. Sau đó, gia tăng chu chuyển vốn tư nhân dưới dạng đầu tư trực tiếp.

Sự thâm hụt cán cân thanh toán chính thức tạo điều kiện cho các quốc

gia Châu Âu và Nhật Bản tái tạo dự trữ ngoại tệ bằng đô la Mỹ. Đồng thời,

nền kinh tế của các quốc gia Châu Âu phục hồi, thặng dư cán cân thanh toán

và dự trữ ngoại hối tăng lên cho phép các quốc gia Châu Âu áp dụng chính

sách tự do chuyển đổi đồng tiền của mình.

Như vậy, hệ thống Bretton Woods đã bắt đầu đi vào hoạt động theo đúng

dự định đã vạch ra khi thành lập năm 1944.

Page 21: Tailieu.vncty.com   5106 4775

17

Giai đoạn những năm 1960: Giai đoạn này lòng tin vào đô la Mỹ đã bắt

đầu lung lay khi cán cân thanh toán của Mỹ năm 1960-1970 thường xuyên

thâm hụt, trung bình là 3.5 tỷ USD, 1970 dự trữ vàng của Mỹ giảm xuống còn

11 tỷ USD, tài sản tính bằng đô la Mỹ do người nước ngoài nắm giữ tăng lên

nhanh chóng. Giá vàng trên thị trường tự do chịu áp lực tăng giá. Làn sóng

đầu cơ đối với vàng không ngừng gia tăng và mang màu sắc chính trị, như đối

với các quốc gia, ví dụ như Pháp không đồng tình với hệ thống cho phép Mỹ

mua tiềm năng sản xuất của các quốc gia khác bằng đô la Mỹ, không đảm bảo

đầy đủ bằng vàng. Pháp đòi chuyển một lượng dự trữ đô la Mỹ của mình ra

vàng . Mặt khác, sự hoài nghi về độ tin cậy đồng đô la Mỹ càng tăng cao khi

xuất hiện một số đồng tiền mạnh như Mác Đức, Gulden Hà Lan và Yên Nhật.

Các quốc gia cam kết không chuyển dự trữ đô la Mỹ ra vàng đồng thời cam

kết các quốc gia cùng tham gia can thiệp trên thị trường vàng để giữ giá vàng

ở mức ổn định là 35USD/ounce. Sự cam kết này được thực hiện bắt đầu năm

1962 và buộc phải kết thúc vào năm 1968 vì không đạt kết quả gì và phải tiêu

tốn mất khối lượng vàng là 3 tỷ USD.

Các quốc gia phát triển cũng ký kết "Thỏa thuận chung về vay mượn"

theo đó các Quốc gia cam kết sẽ dành cho IMF một nguồn tài chính bổ sung

cho mục đích các quốc gia thành viên vay tài trợ thâm hụt cán cân thanh toán.

Cuối 1960, cùng với sự suy giảm lòng tin vào đô la Mỹ , sự mất ổn định tỷ giá

của một số đồng tiền là dầu hiệu khủng hoảng của hệ thống Bretton Woods.

Năm 1971, cuộc khủng hoảng mới thực sự bắt đầu khi Mỹ thường xuyên

thâm hụt cán cân thanh toán, và lên đến con số tỷ lục là 30 tỷ USD.

15/8/1971 Tổng thống Mỹ Nixon đã tuyên bố dừng chuyển đổi dự trữ đô

la Mỹ ra vàng đồng nghĩa với thả nổi đồng đô la Mỹ và trên thực tế hệ thống

Bretton đã sụp đổ. Mỹ áp dụng mức thuế quan 10% đối với hàng hoá nhập

khẩu nhằm buộc các quốc gia khác phải nâng giá đồng tiền.

Page 22: Tailieu.vncty.com   5106 4775

18

Để cứu vãn sự sụp đổ của hệ thống Bretton Woods 10 quốc gia đã đưa ra

một số giải pháp:

+ Điều chỉnh lại tỷ giá của các đồng tiền, quan trọng nhất là phá giá đồng

đô la Mỹ. Giá vàng chính thức tăng 35 USD- 38 USD/ounce.

+ Mở rộng biên độ dao động từ 1%-2.25%.

+ Mỹ bãi bỏ thuế quan 10% đối với hàng nhập khẩu.

Những biện pháp này chỉ mang tính tạm thời nhằm giúp Mỹ lành mạnh

hoá nền kinh tế, đặc biệt là lĩnh vực tài chính.

Mỹ đã không tận dụng cơ hội này. Thâm hụt Ngân sách vẫn tăng và

thâm hụt cán cân thanh toán vẫn không giảm. Do đó, các quốc gia châu âu đã

phải đối mặt với một lượng cung lớn trên thị trường ngoại hối và buộc các

quốc gia này phải mua vào để giữ mức tỷ giá của mình trong giới hạn giao

động. Tình trạng này không thể kéo dài khi đến tháng 1/1973 Thụy Sĩ thả nổi

đồng france, Mỹ phá giá đồng đô la 10%, Nhật thả nổi đồng yên ...Thực chất

Mỹ đã từ chối can thiệp để duy trì tỷ giá đô la Mỹ, còn các quốc gia châu âu

từ chối can thiệp một mình trên thị trường ngoại hối. Hệ thống Bretton Woods

sụp đổ, và thay vào đó là sự thay đổi của một số đồng tiền.

3. TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƢỜNG VÀNG

3.1. Khái niệm về thị trƣờng vàng

Trong số các kim loại quý hiếm, vàng là một kênh đầu tư phố biến nhất.

Các nhà đầu tư thường mua vàng như là một cách thức an toàn cũng như đối

phó với bất kỳ biến động của nền kinh tế, chính trị và xã hội hay rủi ro trong

thị trường tài chính. Những rủi ro ở đây có thể do đầu tư trong thị trường giá

xuống, nợ chính phủ, tài chính sụt giảm, lạm phát, chiến tranh hay bất ổn xã

hội. Đến nay, dường như chưa có một định nghĩa cụ thể về thị trường vàng,

song hầu hết mọi người đều hiểu rằng, thị trường vàng là nơi mà các nhà đầu

tư mua bán vàng, thường là mua trong thời điểm giá thấp sau đó bán đi với

Page 23: Tailieu.vncty.com   5106 4775

19

giá cao hơn để kiếm lời. Thị trường vàng cũng như hầu hết các thị trường

khác, cơ bản là sự trao đổi mua bán để kiếm lời, trong đó chủ thể là vàng.

Song thị trường vàng là một thị trường đầy rủi ro, thách thức với mỗi nhà đầu

tư, bên cạnh đó thị trường vàng cũng nằm trong sự kiểm soát của chính phủ,

chịu tác động từ phía chính phủ. Bản thân thị trường vàng cũng tạo nên những

ảnh hưởng nhất định đến nền kinh tế cũng như đời sống xã hội. Thị trường

vàng bao gồm các yếu tố như giá vàng, cung cầu vàng, các kênh đầu tư, các

công ty kinh doanh vàng cũng như khai thác vàng, phân tích kỹ thuật vàng,

chính sách của chính phủ v..v..

3.2. Các yếu tố tác động đến thị trƣờng vàng

Vàng được biết đến như một hàng hoá và cũng là của cải có giá trị cất

trữ. Bởi tính lâu bền cũng như giá trị của vàng, vàng dù là vàng miếng vàng

thỏi, trang sức vàng hay ngay cả vàng được đào lên từ mặt đất thì cũng đều có

giá trị. Lượng vàng trong mặt đất cũng có giới hạn, nó một thứ tài sản đến từ

tự nhiên, không do con người tạo ra. Bên cạnh đấy thì vàng cũng có thể huy

động từ người này sang người khác và từ quốc gia này sang quốc gia khác.

Vàng là thứ hàng hoá hết sức nhạy cảm, vì vậy yếu tố cung, cầu của vàng

cũng như môi trường kinh tế hay chính trị pháp luật đều có ảnh hưởng mạnh

mẽ đến thị trường vàng trong nước và quốc tế.

a. Cung vàng trên thị trường

Vàng là một thứ hàng hóa đặc biệt, bởi nó là một thứ kim loại được khai

thác dưới lòng đất và được đào lên qua quá trình chế tác trở thành vàng thỏi,

vàng miếng hay vàng trang sức, vì vậy vàng có thể được huy động một cách

linh hoạt.

Page 24: Tailieu.vncty.com   5106 4775

20

Biểu đồ 1: Nguồn cung cấp vàng trung bình trong 5 năm

từ năm 2004-2008

vàng khai thác tự

nhiên, 60%vàng từ ngân hàng

trung ương bán, 12%

vàng tái chế, 28%vàng khai thác tự nhiên

vàng từ ngân hàng trung ương

bán

vàng tái chế

vàng khai thác tự

nhiên, 60%vàng từ ngân hàng

trung ương bán, 12%

vàng tái chế, 28%

vàng khai thác tự nhiên

vàng từ ngân hàng trung ương bán

vàng tái chế

Nguồn: Investing in Gold- World Gold Council

Nguồn cung cấp vàng trên thế giới chủ yếu từ 3 nguồn là vàng được khai

thác từ tự nhiên, vàng được tái chế, và một nguồn vàng nữa là từ ngân hàng

trung ương bán ra. Như biểu đồ trên ta cũng thấy rằng vàng không chỉ được

khai thác từ tự nhiên trong long đất mà còn có lượng vàng được tái chế từ các

kim loại được khai thác trước đó ví dụ như nhôm và chì. Thực tế cho thấy

nguồn cung cấp nguồn vàng thứ hai chiếm một tỷ trọng không nhỏ, nhìn vào

biểu đồ, trong vòng 5 năm từ năm 2004 đến năm 2008 vàng tái chế chiếm đến

28% trên tổng số nguồn cung vàng trên toàn thế giới. Vàng được cung cấp đa

số là từ tự nhiên và một phần khoảng 12% là được cung cấp bởi ngân hàng

trung ương.[19]

Page 25: Tailieu.vncty.com   5106 4775

21

Biểu đồ 2: Sản lƣợng vàng thế giới theo khu vực từ năm 1980 - 2007

Nguồn: Investing in Gold- World Gold Council

Hơn một thế kỷ nay, Nam Phi luôn là nước đứng đầu trong khai thác

vàng trong tổng số sản lượng vàng trên thế giới. Vì thế mọi biến động về cung

ở Nam Phi đều ảnh hưởng rất lớn đến thị trường vàng thế giới.

Page 26: Tailieu.vncty.com   5106 4775

22

b. Cầu vàng trên thị trường

Biểu đồ 3: Nhu cầu trung bình vàng trên thế giới 5 năm

từ năm 2004-2008

Trang sức, 68%

Công nghiệp,

14%

Đầu tư, 19%

Trang sức

Công nghiệp

Đầu tư

Trang sức, 68%

Công nghiệp,

14%

Đầu tư, 19%

Trang sức

Công nghiệp

Đầu tư

Nguồn: Investing in Gold- World Gold Council

Nhu cầu về vàng rộng khắp trên thế giới. Đông Á, Ấn độ, Trung đông

chiếm đến 70% nhu cầu vàng trên khắp thế giới năm 2008. 55% nhu cầu được

chia đều cho 5 nước gồm: Ấn độ, Ý, Thổ Nhĩ Kỳ, Mỹ và Trung quốc. Nhu

cầu vàng hàng năm thường do ba nhu cầu chính gồm: nhu cầu dùng vàng để

làm đồ trang sức, cho công nghiệp và cho hoạt động đầu tư. Trong đó nhu cầu

dùng vàng để làm trang sức chiểm đến hơn hai phần ba lên đến 68% tương

đương 2,436 tấn trong suốt 5năm kể từ năm 2004. Trong 12 năm 2008 con số

giao dịch vàng để phục vụ cho nhu cầu trang sức lên đến 61 tỷ đô la Mỹ,

trang sức trở thành một trong những loại hàng hoá được tiêu dùng lớn nhất.

Mỹ là thị trường lớn nhất của vàng trang sức, trong đó Ấn độ là nước có số

lượng người sử dụng vàng nhiều nhất lên đến 24% tổng nhu cầu trong năm

Page 27: Tailieu.vncty.com   5106 4775

23

2008. Ở Ấn độ vàng được ưa chuộng bởi tính văn hoá truyền thống cũng như

linh thiêng chứ không phải theo xu hướng kinh tế.[24]

Nhu cầu vàng trong lĩnh vực đầu tư, nhu cầu về vàng để đầu tư càng

ngày trở nên phố biến, con số này càng ngày càng trở nên lớn hơn trong

những năm gần đây. Đầu tư thu hút nguồn vàng xấp xỉ 32 tỷ USD trong

năm 2008.

Ngành công nghiệp và y tế cũng chiếm 11% nhu cầu vàng (trung bình

hàng năm vượt qua con số 440 tấn từ năm 2004 đến 2008). Vàng ngày càng

được sử dụng nhiều trong ngành nhiệt và điện tử, sử dụng để làm vi mạch,

dây dẫn vì thế nên nhu cầu vàng trong công nghiệp ngày càng tăng.

Nguồn cung vàng trong tự nhiên thì có giới hạn mà nhu cầu sử dụng

vàng trong đời sống, công nghiệp, hay trở thành một kênh đầu tư trong nền

kinh tế càng ngày càng tăng. Điều đó chính là lý do dẫn đến những biến động

của thị trường vàng, sự tăng hay giảm của giá vàng cũng chịu ảnh hưởng bởi

một phần lớn từ nguồn cung và cầu vàng trên thế giới.[25]

c. Các yếu tố ảnh hưởng khác

Vàng là một hàng hoá đặc biệt, ngoài yếu tố cung cầu có tác động lớn

đến thị trường vàng thì môi trường kinh tế, chính trị và chính sách của nhà

nước cũng có những ảnh hưởng nhất định đến thị trường nhạy cảm này.

Môi trường kinh tế là môt yếu tố quan trọng, nó ảnh hưởng đến mọi hàng

hoá chứ không riêng gì vàng. Vấn đề cơ sở hạ tầng, các nhà đầu tư cũng như

vấn đề quản lý tiền tệ là những yếu tố thiết yếu tạo nên một môi trường kinh

tế, trong đó việc điều hành kinh tế vĩ mô, kết nối các thị trường tiền tệ, chứng

khoán, bất động sản với thị trường vàng cần có sự điều tiết thống nhất. Những

biến động khó lường của tỷ giá, lãi suất và lạm phát cao và hoạt động tìm vốn

cũng là những vấn đề mà thị trường vàng phải đối mặt trong những năm gần

đây. Khi không có một môi trường kinh tế ổn định, nhà đầu tư cũng không

Page 28: Tailieu.vncty.com   5106 4775

24

yên tâm đầu tư vào thị trường vàng, khi đó lượng giao dịch trong thị trường

cũng sẽ giảm sút.

Để có một môi trường kinh tế ổn định, trong đó tập trung ở sự nhất quán

và hợp lý của những điều chỉnh về chính sách điều hành và can thiệp thị

trường, có hệ thống thông tin dự báo kịp thời và chính xác. Mọi chính sách

của nhà nước cũng như những thay đổi trong cơ cấu chính trị của đất nước để

có những tác động nhất định đến kinh tế đất nước nói chung và thị trường

vàng nói riêng. Chỉ cần những thay đổi nhỏ trong chính sách cũng tạo ra

những biến động lớn cho thị trường vàng. Ví dụ như chính sách cấm nhập

khẩu vàng từ nước ngoài, sẽ làm cho nguồn cung trở nên khan hiếm, và cung

cũng có thể không đáp ứng được nhu cầu vàng trong nước, khi đó có thể giá

vàng trong nước sẽ tăng cao hơn mặt bằng chung giá vàng trên thế giới. Nhà

đầu tư vàng sẽ yên tâm hơn nếu thị trường nằm trong sự quản lý của nhà

nước, mọi biến động của thị trường chịu sự tác động của nhà nước dựa trên

nhũng chính sách hợp lý và thị trường vàng hoạt động theo đúng pháp luật.

3.3. Một số thị trƣờng vàng phát triển trên thế giới

Hai trong số những trung tâm giao dịch vàng quan trọng và lớn nhất trên

thế giới là thị trường vàng London và New York [16]

Thị trường vàng London ( London bullion market) là một trong những

thị trường vàng lâu đời nhất trên thế giới và là thị trường lớn nhất trong giao

dịch vàng vật chất. Các thành viên của Hiệp hội thị trường vàng London

“London Bullion Market Association” (LBMA) thực hiện giao dịch vàng và

bạc trên thị trường dưới sự dám sát của ngân hàng Anh. Hầu hết những thành

viên đều là các ngân hàng quốc tế lớn, thương gia và những nhà chế tạo vàng.

Một ngày hai lần 5 thành viên của London Gold Pool gặp nhau lúc 10h30

sáng và 3h chiều để cùng nhau xác định mức giá cho thị trường, phương pháp

xác định giá này được gọi là Gold Fixing. 5 thành viên đầu tiên của LBMA là

Page 29: Tailieu.vncty.com   5106 4775

25

các nhà giao dịch vàng lớn nhất thời bấy giờ: Rothschild & Sons, Mocatta &

Goldsmid, Pixley & Abell, Samuel Montagu & Co. và Sharps Wilkins, 5

thành viên hiện nay là: Deutsche Bank, Socíeté Génerale, HSBC, Scotia

Mocatta, Barclays Capital. Hiện nay giá vàng được ấn định bằng đôla

Mỹ(USD), Bảng Anh (GBP) và Euro (EUR). Cho đến nay London vẫn là

trung tâm lớn nhất thế giới xét về khía cạnh giao dịch OTC, xếp sau đó là thị

trường New York, Zurich và Tokyo. Mặc dù các thị trường giao dịch vàng vật

chất có mặt khắp thế giới nhưng hầy hết các giao dịch buôn bán đều được

thanh toán qua London. [16]

Thị trường vàng lớn thứ hai thế giới sau thị trường vàng London là thị

trường vàng New York, sàn giao dịch New York mở cửa vào năm 1872, lúc

đầu nó chỉ là Sàn giao dịch bơ và pho mát New York (NYMEX). Nó được

thành lập bởi một nhóm nhà buôn, dần dần các hàng hoá giao dịch ở đây được

mở rộng ra. Sàn giao dịch này bắt đầu giao dịch các hợp đồng tương lai vào

ngày 31 tháng 12 năm 1974, vào ngày đầu tiên các công dân Mỹ được cho

phép sở hữu vàng sau thời kỳ cấm đoán kéo dài trên 40 năm. Năm 1994,

NYMEX được sát nhập với Sàn giao dịch hàng hoá COMEX. Các hợp đồng

vàng ở COMEX có khối lượng là 100 ounces vàng mỗi hợp đồng, và mỗi

ngày COMEX giao dịch khoảng 75509 hợp đồng vàng tương lai.

Bên cạnh hai thị trường vàng lớn như London và New York thì còn một

số các thị trường vàng lớn và quan trọng khác trên thế giới như Tokyo,

Hôngkông, Thượng Hải, Sydney, Singapore, Dubai và Zurich.[26]

Page 30: Tailieu.vncty.com   5106 4775

26

CHƢƠNG II:

THỰC TRẠNG THỊ TRƢỜNG VÀNG VIỆT NAM

1. BỨC TRANH TOÀN CẢNH VỀ THỊ TRƢỜNG VÀNG VIỆT NAM

HIỆN NAY

1.1. Các bƣớc phát triển của thị trƣờng vàng Việt Nam

Trong lịch sử phát triển tiền tệ ở nước ta, theo sử sách ghi lại thì đồng

tiền đầu tiền không phải là vàng mà là đồng. Không ai biết chính xác người

Việt bắt đầu sử dụng vàng từ khi nào, chỉ biết rằng trong thời kỳ Hai Bà

Trưng khởi nghĩa thì có nhắc đến vàng như một thứ trang sức của phụ nữ ở

các gia đình vua chúa và có thế lực. Căn cứ vào những đồng tiền thu được khi

tiến hành khảo cổ, từ thời Bắc thuộc tiền đồng Trung Quốc đã được sử dụng ở

Việt Nam như tiền của nhà Hán. Bên cạnh đó, những đĩnh vàng, đĩnh bạc của

Trung Quốc cũng được lưu hành ở Việt Nam thời kỳ này.

Đến thời Nguyễn, sau khi lên ngôi vua Gia Long cho mở các sở đúc tiền

ở Bắc thành, Gia Định để đúc tiền đồng Gia Long thông bảo. Các triều vua

sau này của nhà Nguyễn cũng tiếp tục đúc tiền đồng và có lúc đúc cả tiền

kẽm. Song song với tiền đồng thì ở thời Nguyễn các loại thoi bạc, thoi vàng

và tiền bạc tiền càng cũng ra đời từ những khoảng năm 1820, cuối triều Gia

Long đầu triều Minh Mạng. Vàng được định giá gấp 17 lần bạc và mỗi lạng

bạc giá 2 quan 3 tiền đồng.

Đến thời kỳ Việt Nam là một phần của Đông Dương thuộc Pháp, đơn vị

của cả Đông Dương là đồng đôi khi là bạc. Tiền tệ do chính quyến trong giai

đoạn này lấy bạc làm bản vị nhưng những đồng tiền vàng của triều Nguyễn

vẫn được lưu hành bất hợp pháp ở các vùng nông thôn. Sau một số biện pháp

cải cách tiền tệ, ngày 31 tháng 5 năm 1930, Tổng thống Pháp có sắc lệnh

quy định đồng bạc Đông Dương có giá trị là 665 miligam vàng (độ tinh

Page 31: Tailieu.vncty.com   5106 4775

27

khiết 900 phần nghìn) từ đó chấm dứt chế độ bản vị bạc mà chuyển sang

chế độ bản vị vàng.

Sau khi nước Việt Nam dân chủ ra đời năm 1945, ngay cuộc họp

đầu tiên của hội đồng chính phủ đã quyết định tổ chức tuần lễ vàng được tiến

hành trong cả nước. Và tuần lễ vàng đã trở thành kỳ tích trong những ngày

đầu độc lập của nước Việt Nam dân chủ, chỉ trong vòng bảy ngày đồng bào

cả nước mà chủ yếu là các gia đình giàu có hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ

tịch Hồ Chí Minh đã quyên góp được 20 triệu đồng Đông Dương và 370kg

vàng. Quy theo giá vàng khi ấy thì số tiền này lên tới 2.293kg vàng. Điều đó

cho thấy, từ những năm 40 của thế kỷ, người dân Việt Nam đã tích trữ vàng

và khi cần huy động cũng sẵn sàng

Những năm sau đó, thị trường vàng Việt Nam đã có những bước phát

triển vượt bậc sôi động hơn rất nhiều, nhưng vẫn nằm trong sự kiểm soát chặt

chẽ của nhà nước từ việc khai thác cũng như mua bán vàng. Thời gian này

nhà nước đang độc quyền mua bán vàng và việc thực hiện mua bán vàng từ

nước ngoài do các công ty mua bán vàng mà nhà nước cho phép. Thị trường

đa dạng các chủ thể tham gia, ngoài các công ty đã chiếm tỷ trọng lớn, và có

khả năng chi phối như Công ty vàng bạc đá quý SJC, PNJ, SACOM, ACB,

SCB … còn có sự tham gia của nhiều ngân hàng thương mại cũng như hàng

ngàn tiệm vàng lớn nhỏ trên thị trường cùng mạng lưới các cá nhân tích trữ

vàng ở khắp các miền trên cả nước. Thị trường vàng được các chủ thể tiếp

cận với các mục đích có thể giống cũng có thể khác nhau từ tích trữ, kinh

doanh, để sản xuất, để thanh toán, để đầu tư sinh lời ngắn hạn hay thậm chí có

thể là nhu cầu trang sức làm đẹp…

Năm 1987 nhà nước ban hành Quyết định số 76/HĐBT ngày 13 tháng 5

của Hội đồng Bộ trưởng quy định về thăm dò, khai thác, chế biến và mua bán

vàng, đá quý từ long đất[27]

Page 32: Tailieu.vncty.com   5106 4775

28

Giá bán buôn công nghiệp 1 kg vàng cám 100% do xí nghiệp thuộc Bộ

Cơ Khí và luyện kim được Uỷ ban Vật giá nhà nước duyệt là 11.500.000

đồng. Giám đốc Ngân hang Nhà nước sẽ công bố giá mua giá bán lẻ kinh

doanh vàng bạc tại địa phương cả cá nhân và tập thể để đảm bảo cho Công ty

kinh doanh vàng bạc địa phương có thể mua bán và kinh doanh có lãi, cũng

như việc quản lý giá cả thị trường được tốt hơn.

Theo quy định trên giá vàng sẽ được Ngân hàng nhà nước điều chỉnh

theo các biến động của thị trường. Và gía các đá quý và trang sức khác như

bạc cũng được xác định theo giá vàng từng ngày. Tháng 6 năm 1989 thì Nhà

nước cho phép các đơn vị kinh tế tập thể, hộ kinh doanh cá thể thoả mãn các

điều kiện do nhà nước để ra như có số vốn tối thiểu, ký quỹ bằng hiện kim ở

Ngân hàng nhà nước, chuyên môn về kỹ thuật, có cửa hàng và có giấy phép

kinh doanh được kinh doanh vàng, song trong thời kỳ này chính sách vẫn

đang thắt chặt nên các đơn vị này không được buôn bán vàng khối, vàng thỏi,

vàng lá và mua bán với nước ngoài.

Sau khi kinh tế mở cửa, nhà nước đã có những bước nới lỏng cho kinh

doanh vàng, vì thế thị trường vàng Việt Nam được đà tiến lên. Đến tháng 9

năm 1993 thì các doanh nghiệp kinh doanh vàng được phép mua bán vàng

khối, vàng thỏi, vàng cục, vàng lá, vàng gốc, vàng tư trang được chế tác và

gia công. Ngày 09 tháng 12 năm 1999, theo quy định của nhà nước thì các

doanh nghiệp kinh doanh vàng có giấy phép của Ngân hàng nhà nước được

nhập khẩu vàng dưới dạng khối thỏi hạt miếng. Cùng với đó Bộ Tài chính đã

giảm thuế nhập khẩu vàng, vàng miếng từ 3% xuống 1%, vàng nguyên liệu từ

1% xuống 0.5%[5]. Và đến năm 2006, thuế nhập khẩu vàng các loại được

giảm xuống đồng đều là 0.5%.

Đến những năm gần đây, thị trường vàng Việt Nam có những bước phát

triển mới, năm 2006 Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành quyết định

Page 33: Tailieu.vncty.com   5106 4775

29

cho phép các tổ chức tín dụng và các doanh nghiệp kinh doanh vàng được

tham gia hoạt động kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài(số

03/2006/QĐ-NHNN ngày 18/01/2006 )[12]Quyết định trên được ban hành

nhằm điều chỉnh hoạt động kinh doanh vàng thông qua tài khoản vàng tại

nước ngoài dưới dạng các giao dịch theo thông lệ quốc tế của các tổ chức tín

dụng được phép hoạt động ngoại hối có hoạt động kinh doanh vàng và các

doanh nghiệp kinh doanh vàng [14]

Áp dụng mô hình như sàn giao dịch Chứng khoán ngày 25-5-2007 Ngân

hàng Á châu (ACB) khai trương Sàn giao dịch vàng Sài gòn tại 29 Lý thường

Kiệt quận Tân Bình Thành phố Hồ Chí Mình. Đây là Sàn giao dịch vàng đầu

tiên ở nước ta mở ra một kênh đầu tư vàng tập trung và có tổ chức.[28]

Song hoạt động của sàn vàng còn tiềm ẩn nhiều bất ổn cũng như chưa có

những biện pháp quản lý chặt chẽ nên ngày 6/1, Thống đốc Ngân hàng Nhà

nước đã ký ban hành Thông tư số 01/2010/TT-NHNN bãi bỏ Quyết định số

03/2006/QĐ-NHNN ngày 18/1/2006 về việc kinh doanh vàng trên tài khoản ở

nước ngoài và Quyết định số 11/2007/QĐ-NHNN ngày 15/3/2007 về sửa đổi,

bổ sung quy định về hoạt động này, từ đó chấm dứt các hoạt động kinh doanh

vàng trên tài khoản của các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp được cấp phép

trước đó.[15][29]

Vào tháng 6 năm 2007, kho ngoại quan vàng đầu tiên của Việt ANm

chính thức được đưa vào sử dụng. Công ty Vàng bạc đá quý Sài Gòn (SJC)

được sự hỗ trợ của Công ty dịch vụ tiếp vận toàn cầu Brink’s đã khai trương

Kho ngoại quan vàng tại TPHCM, nằm tại khu vực kho hàng của sân bay Tân

Sơn Nhất. Sự ra đời của kho ngoại quan vàng đánh dấu một bước phát triển mới

của thị trường vàng Việt Nam, hướng tới hội nhập với quốc tế sâu rộng hơn. [30]

Cho đến thời điểm năm 2009. thì SJC có thị phần chi phối gần 90% thị

trường vàng Việt Nam sở hữu thương hiệu mạnh nhất trong ngành với cơ sở

Page 34: Tailieu.vncty.com   5106 4775

30

hạ tầng kỹ thuật và nguồn nhân lực mạnh. Ngày 9-2-2010 lần đầu tiên miếng

vàng 10 lượng được sản xuất trong nước được đưa ra thị trường bởi công ty

SJC, miếng vàng ra đời rất tiện lợi cho những người mua và trữ vàng số lượng

lớn. Bên cạnh SJC thì còn có khoảng 10 doanh nghiệp có quy mô lớn cùng

với 3000 doanh nghiệp kinh doanh vàng vừa và nhỏ. Kinh doanh vàng là

ngành nghề có điều kiện và phải được phép của Ngân hàng nhà nước, trước

thời điểm tháng 1/2010 một số ngân hàng cũng được phép mở sàn vàng, kinh

doanh vàng trên tài khoản, song có do có nhiều vấn đề nảy sinh trong việc

quản lý nên đến tháng 3/2010 các sàn vàng chính thức bị đóng cửa.

Song dưới con mắt đánh giá của ông Albert Cheng, Tổng giám đốc Hội

đồng vàng Thế giới – khu vực châu Á, so với các nước trong khu vực thị

trường vàng Việt Nam đang có tốc độ phát triển nhanh nhất. Tuy nhiên để thị

trường vàng của chúng ta có thể đuổi kịp các thị trường vàng phát triển trong

khu vực, cần đạt đến tiêu chí một thị trường mở để kết nối với các giao dịch

của thị trường vàng thế giới.[31]

1.2. Thực trạng về tình hình hoạt động thị trường vàng giai đoạn 2007-2009

Qua một quá trình phát triển lâu dài, thị trường Việt Nam hiện nay đã có

những bước tiến vượt bậc so với cách đây vài chục năm. Xu hướng mở thể

hiện rõ nét qua tính đa dạng về chủ thể tham gia giao dịch trên thị trường.

Ngoài các công ty chiếm tỷ trọng lớn, có khả năng chi phối giá như công ty

Vàng bạc đá quý SJC, PNJ, SACOM, ACB, SCB…còn có sự góp mặt cảu

nhiều Ngân hàng thương mại, các tiệm vàng lớn nhỏ trên cả nước cùng mạng

lưới nhà đầu tư cá nhân khắp mọi miền. Các chủ thể tiếp cận thị trường với

nhiều mục đích khác nhau có thể là kinh doanh, tích trữ, để sản xuất, để thanh

toán, hay chỉ đơn giản là nhu cầu trang sức làm đẹp…Và có thể nhận thấy,

nhu cầu về giao dịch vàng tại Việt Nam đang có xu hường ngày một cao, sự

phát triển của thị trường vàng Việt Nam cũng vì thế mà ngày càng đi lên.

Page 35: Tailieu.vncty.com   5106 4775

31

* Cung vàng trên thị trường trong nước

Nguồn cung vàng chủ yếu trong nước là do nhập khẩu, Việt Nam là quốc

gia nhập khẩu tới 95% nhu cầu vàng của mình. Theo thống kê của công ty

Vàng bạc đá quý SJC, kể từ khi ra đời thương hiệu vàng miếng năm 1988 cho

đến thời điểm giữa năm 2008 thì đã có 11triệu lượng vàng miếng được đưa ra

thị trường, cứ 1 triệu lượng vàng miếng SJC tương đương với 37,5 tấn vàng.

Như vậy số vàng miếng SJC đã vào thị trường tương đương 412,5 tấn, tính

theo giá vàng thế giới tháng 4 năm 2008 là khoảng 12,3tỷ USD.

Ngoài ra còn một lượng lớn vàng nhập khẩu để chế tác nữ trang. Việt

Nam trở thành một trong những nước đứng đầu thế giới về nhập khẩu vàng.

Điều này góp phần không nhỏ vào thâm hụt cán cân thương mại của đất nước,

đối phó loại với tình hình, giữa tháng 5 năm 2008, Ngân hàng Nhà nước đã

ngừng cấp giấy phép nhập khẩu vàng nhằm kiềm chế lạm phát, điều chỉnh

kinh tế vĩ mô. Cho đến thời điểm ngừng nhập khẩu vàng thì tổng giá trị nhập

khẩu vàng cho năm 2008 là 1,7 tỷ USD tương đương 45 tấn vàng và bằng

57% sản lượng vàng tiêu thụ năm 2007.Việc ngừng nhập khẩu vàng là việc

phải làm nhưng “liều thuốc” này cũng đã để lại một số tác dụng phụ, trong đó

đáng chú ý là góp phần “đẩy” giá vàng trong nước càng xa với thế giới.

Ngưng nhập khẩu vàng đồng nghĩa với nguồn cung vàng bị bó hẹp lại, vì vậy

làm cung nhỏ hơn cầu tất yếu dẫn đến việc đẩy giá vàng tăng lên và tạo ra

những diễn biến phức tạp trong năm 2008.

Song đến cuối năm 2009, do có những biến động bất lợi tạo ra sự biến

động lớn trên thị trường vàng, đẩy giá vàng lên trên 29triệu đồng/ lượng,

nguồn cung vàng là một trong những nguyên nhân gây ra sự biến động này.

Để bình ổn giá vàng Chính phủ đã có những biện pháp ổn định thị trường

vàng trong nước, trong đó đáng chủ ý, là việc Thống đôc Ngân hàng Nhà

nước Nguyễn Văn Giàu đã cho phép nhập khẩu vàng sau 1,5 năm ngừng nhập

Page 36: Tailieu.vncty.com   5106 4775

32

khẩu. Nhờ đó thị trường vàng phần nào ổn định do cung vàng có thể đáp ứng

đủ nhu cầu vàng trong nhân dân.

* Cầu vàng trên thị trường trong nước

Nhu cầu cất trữ vàng trong nước đã xuất hiện từ xa xưa và những năm

gần đây cầu vàng càng ngày càng lớn do nhu cầu vàng đầu tư trong nước

ngày càng tăng. Sau sự biến động lớn của giá vàng năm 2006, người dân đổ

xô đi mua vàng. Vàng trở thành một xu hướng mới của giới đầu tư, năm 2007

là một năm đầy biến động của thị trường vàng trong nước, nhu cầu về vàng tăng

mạnh và đột ngột, sản lượng tiêu thụ được trong nước năm đó đạt 75 tấn, trong

những ngày cao điểm thị trường vàng đã tiêu thụ được 2 tấn vàng 1 ngày.

Tháng 9 năm 2007, đánh dấu một biến động lớn trên thị trường vàng

Việt Nam khi mà các thông tin liên quan về thị trường tài chính Mỹ bị phanh

phui, lo ngại về một cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ sắp lan toả toàn cầu. Và

trong thời điểm đó dễ nhận thấy được tính chất an toàn cũng như bảo toàn tài

sản, vàng đã trở thành kênh đầu tư an toàn nhất trong thời điểm bất ổn do lạm

phát tăng cao và đồng đô la mất giá. Trong ba kênh tiết kiệm, Việt Nam đồng,

đô la Mỹ và vàng thì vàng trở nên an toàn và được ưa thích hơn bao giờ hết.

Tháng 11, khi giá vàng đang tăng cao nhu cầu mua vàng đầu cơ tích trữ tại Hà

Nội và TP Hồ Chí Minh vẫn tăng cao. Những năm gần đây, qua sự biến động

của thị trường vàng cho thấy, nhu cầu vàng của người dân tỷ lệ thuận với giá

vàng, khi mà giá vàng tăng cao, nhu cầu vàng trong nước cũng tăng cao, do

thiếu sự hiểu biết về thị trường, người dân đua nhau mua vàng để đầu cơ. Đến

cuối năm 2009, giá vàng đột ngột tăng lên trên 29triệu đồng/ lượng, người

dân đổ xô đi mua vàng, khiến cho thị trường chao đảo, nhiều chuyên gia cho

rằng đó là hiện tượng bong bong vàng, do nhà đầu tư nhận định sai thị trường

cũng như việc người dân đi mua vàng theo dây chuyền khiếp cho nhu cầu

vàng tăng cao.

Page 37: Tailieu.vncty.com   5106 4775

33

* Giá vàng trong nước

Từ giữa năm 2006 thị trường vàng Việt Nam đã có những biến động lớn

do giá vàng đột ngột tăng mạnh vào giữa tháng 6, lần đầu tiên giá vàng vượt

ngưỡng 1,4 triệu đồng/chỉ. Từ đó vàng trở thành một xu hướng mới của giới

đầu tư, năm 2007 chứng kiến nhiều biến động của giá vàng, song mức giá đầu

năm 2007 lại diễn ra khá khiêm tốn, mức giá trên dưới 1,3 triệu đồng/chỉ.

Tháng 11 năm 2007 giá vàng bất ngờ tăng cao do nhu cầu mua vàng đầu cơ

tích trữ ở các thành phố lớn tăng cao do lo ngại khủng hoảng kinh tế, giá vàng

thị trường trong nước thời điểm này bán ra là 1.650.000 đồng/chỉ, mua vào

1.640.000 đồng/chỉ. Giá vàng tính đến hết năm 2007 đã tăng 30% so với thời

điểm cuối năm 2006.

Sang năm 2008, giá vàng trong nước biến động theo sự thăng trầm của

nền kinh tế thế giới, diễm biến giá vàng trong nước đã trải qua hai đợt sóng

lớn vào tháng 3 và tháng 7 khi vượt mức 19 triệu đồng/lượng , sau đó giảm

mạnh vào cuối năm. Theo dữ liệu từ Ngân hàng ACB, giá vàng SJC trong

nước đạt mức cao kỷ lục là 19.35 triệu đồng/lượng và thấp nhất 16.10 triệu

đồng/lượng. Tính bình quân giá vàng năm 2008 xoay quanh mức 17.64 triệu

đồng/ lượng. Nhìn vào biểu đồ ta cũng thấy rõ được sự thay đổi mạnh mẽ giá

vàng tháng 3 và tháng 7 năm 2008

Page 38: Tailieu.vncty.com   5106 4775

34

Biểu đồ 4: Giá vàng 10 tháng đầu năm 2008

Nguồn: Công ty vàng bạc đá quý Bảo Tín Minh Châu- Ngày 15/10/2008

Page 39: Tailieu.vncty.com   5106 4775

35

Trong năm 2008, đã có lúc giá vàng trong nước không theo sát giá vàng

thế giới, điều đó cho thấy thị trường vàng Việt Nam mới chỉ dừng lại ở việc

hoạt động và đáp ứng theo nhu cầu, chưa có sự liên kết được với các thị

trường thế giới.

Năm 2009 là năm có nhiều kỷ lục nhất về sự biến động của vàng chính

vì thế rất nhiều nhà đầu tư đã phải trả giá đắt cho sự dự đoán sai xu hướng của

giá vàng. Giá vàng đã có lúc biến động mạnh từ 24 triệu đồng/lượng lên đến

trên 29 triệu đồng/lượng, làm không ít nhà đầu tư thua lỗ hàng tỷ đồng. Ngày

11/11/2009 giá vàng tăng cao đột ngột có lúc lên đến 29.5 triệu đồng/lượng,

giá vàng trong nước lúc bấy giờ so với giá vàng thế giới chênh lệch trên 3

triệu đồng/ lượng, biết rằng giá vàng chếnh lêch cao nhưng các nhà đầu tư

vẫn tiếp tục mua vào.

Biểu đồ 5: Giá vàng trong nƣớc so với giá vàng thế giới ngày 11/11/2009

Nguồn: www.24h.com.vn/news/detail/52/26...ews%3D10

Page 40: Tailieu.vncty.com   5106 4775

36

* Hoạt động của sàn vàng và giá trị giao dịch

Các phiên giao dịch đầu năm 2007 của thị trường vàng diễn ra tương đối

khiêm tốn, lượng khách đến mua vàng tại các công ty vàng bạc đá quý không

mấy nhộn nhịp và hầu hết là khách mua vàng vào.

Ngày 25-5-2007, Ngân hang Á châu ( ACB) khai trường sàn giao dịch

vàng đầu tiên tại Sài Gòn, đây là sàn giao dịch vàng đầu tiên ở nước ta, mở ra

một kênh đầu tư vàng tập trung và có tổ chức. Để mua bán tại sàn này, nhà

đầu tư chỉ cần ký quỹ 10% giá trị giao dịch, 90% vốn sẽ được ACB cũng với

tư cách là thành viên của sàn sẽ cho vay, giúp nhà đầu tư kinh doanh cả chiều

mua và chiều bán. nhà đầu tư không chỉ có thể mua vàng về để đầu cơ giá lên

mà còn có thể bán vàng để đầu tư giá xuống.

Vào tháng 11 năm 2007, thời điểm giá vàng tăng cao khối lượng giao

dịch vàng lên tới 27.700 lượng vàng tại Sàn giao dịch vàng Sài Gòn và lên tới

20.000 lượng vàng tại công ty Vàng bạc đá quý SJC. Vàng đã trở thành kênh

đầu tư mới thu hút sự quan tâm của rất nhiều nhà đầu tư .

Sang đến năm 2008, năm đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của các sàn

giao dịch vàng, tính đến thới điểm cuối năm 2008 đã có hơn 10 sàn giao dịch

vàng đã được đi vào hoạt động. Việc ra đời các sàn vàng cùng với cơn sốt giá

trong năm đã khiến một lượng tiền lớn chảy từ chứng khoán sang. Tuy nhiên,

sự khốc liệt của loại hình này cũng chứng kiến không ít nhà đầu tư chịu thiệt

thòi do bị áp đặt các quy định bất lợi. Năm đó thị trường cũng chứng kiến sự

đời của rất nhiều sàn vàng bất hợp pháp. Hơn nữa đó cũng là thời điểm nở rộ

việc kinh doanh vàng qua tài khoản qua mạng bất hợp pháp. Các công ty ra

đời dưới cái danh trung tâm tư vấn, dù đã có rất nhiều người phải trả giá đắt

khi tham gia vào loại hình đầu tư mạo hiểm này song các nhà đầu tư khác vẫn

cứ lao vào như “ thiêu thân”. Tham gia thị trường này nhà đầu tư không mất

công đên sàn giao dịch mà cũng không phỉa viết phiếu đặt lệnh mua bán

Page 41: Tailieu.vncty.com   5106 4775

37

thông qua nhân viên nhập lệnh mà tự đặt lệnh mua bán vàng trực tuyến ở nhà.

Thực chất đây là hình thức kinh doanh theo kiểu trò chơi đánh bạc bằng máy

tính trực tuyến hên xui.

Do giá vàng trên sàn gắn với giá vàng thế giới, nên có thời điểm giá vàng

trên sàn giao dịch lại thấp hơn giá vàng vật chất bên ngoài đã giúp cho nhiều

nhà đầu tư kiếm được chênh lệch từ việc mua và rút vàng đem ra ngoài bán.

Điều này khiến các sàn giao dịch liên tục thay đổi hạn mức rút vàng gây

nhiều tranh cãi. Chỉ đến khi áp dụng mức phí rút vàng là không đủ dự trữ.

Năm 2009 là một năm sóng gió nhất trên thị trường tài chính, quả bom

về khủng hoảng kinh tế đã nổ và lan nhanh sang các thị trường tài chính trên

toàn thế giời. Nếu xét vàng là một loại hàng hoá thì trong thời kỳ suy thoái

kinh tế, chắc chắn mặt hang này cũng bị sụt giảm, nhưng từ quan điểm vàng

được coi là nơi trú ẩn an toàn của đồng vốn, kênh đầu tư an toàn nhất trong

giai đoạn kinh tế bất ổn thì thị trường này không ảm đạm – theo Phó chủ tịch

Hiệp hội kinh doanh vàng Việt Nam ông Huỳnh Trung Khánh - Tạp chí

Doanh nhân ngày 02/09/2009 [13]

Sức hấp dẫn của kênh đầu tư vàng cũng được chứng tỏ bởi nhà đầu tư

chỉ cần có 10 triệu đồng là có thể thành nhà đầu tư vàng, chính yếu tố này đã

lôi kéo không ít người dân tham gia, mà trong số họ không ít người không có

kiến thức về thị trường vàng nên họ có tâm lý bầy đàn mua cùng mua bán

cùng bán tạo ra hiện tượng bong bóng trên thị trường.

Cuối năm 2009, sau một thời gian dài thị trường vàng sôi sục vì giá vàng

không ngừng tăng và “ sân chơi” sàn vàng, ngày 30/12/2009, Thủ tướng

chính phủ cho ý kiến chỉ đạo tại văn bản 369/ TB-VPCP ban hành chậm nhất

90 ngày kể từ ngày thông báo mọi hoạt động kinh doanh sàn giao dịch vàng

và kinh doanh vàng trên tài khoản trong nước (bãi bỏ Quyết định 3/2006/QĐ-

NHNN ngày 18/02/2006) phải chấm dứt hoạt động (trước ngày 30/03/2010).

Page 42: Tailieu.vncty.com   5106 4775

38

Còn đối với hoạt động kinh doanh vàng là đồ trang sức vẫn được cấp phép

tiến hành bình thường song Ngân hàng nhà nước và UBND cấp tỉnh phải có

sự tổ chức và hướng dẫn cụ thế. Tính đến cuối năm 2009, trên cả nước đã có

khoảng 20 sàn vàng được tổ chức theo hình thức góp vốn và liên kết giữa các

tổ chức, cá nhân trong đó đa số là có sự tham gia của các ngân hàng thương

mại và công ty chứng khoán.

Thị trường Việt Nam những năm vừa qua đã có những bước phát triển

mạnh mẽ, thu hút được lượng lớn vốn trong dân và doanh nghiệp. Do vậy,

bên cạnh việc phát triển các kênh đầu tư khác như Thị trường chứng khoán,

Thị trường bất động sản, Thị trường ngoại hối…. thì việc xây dựng và phát

triển thị trường vàng cũng là một mắt xích quan trọng trong việc phát triển

kinh tế đất nước cũng như huy động vốn trong xã hội.

1.3. Phân tích những nguyên nhân gây biến động đến thị trƣờng vàng

Từ năm 2007 đến này, thị trường vàng Việt Nam đã có nhiều biến động

do các yêú tố bên trong và bên ngoài. Trước hết yếu tố tác động lớn nhất đến

thị trường vàng Việt Nam nói riêng mà thị trường vàng thế giới nói chung đó

là cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế thế giới trong thời gian qua. Trong

tháng 9 năm 2007, cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ đã có dấu hiệu bùng

phát và lan rộng trên toàn thế giới, đồng đô la giảm xuống mức thấp nhất

trong 15 năm trong khi đó giá vàng tăng mức kỷ lục trong 27năm. Song trong

thời điểm đó giá vàng ở Việt Nam vẫn chưa tăng giảm theo đúng nhịp độ của

giá thế giới. Chỉ đến tháng 11 khi mà thông tin về cuộc khủng hoảng đang lan

rộng khắp toàn cầu, giá vàng vào thời điểm đó lên mức xấp xỉ 1,7triệu

đồng/lượng, nhận định được sự bất ôn của thị trường, cùng lúc đó thị trường

chứng khoán cũng như bất động sản việt Nam rớt giá, vàng trở thành một

kênh tiết kiệm hoàn hảo nhất. Người dân đổ xô đi mua vàng theo những mục

đích khác nhau từ tiết kiệm đến đầu tư trong thời buổi mà chứng khoán sụt

giảm, bất động sản đóng băng, giá cả thị trường leo thang.

Page 43: Tailieu.vncty.com   5106 4775

39

Trong bốn tháng đầu năm 2008, lượng vàng nhập khẩu lên đến bằng

75% lượng vàng nhập khẩu năm 2007, dẫn đến tình trạng nhập siêu nên Ngân

Hàng nhà nước đã có lệnh ngừng nhập vàng để kiềm chế lạm phát, song việc

cấm nhập vàng lại gây ra một số tác động nhất định đến thị trường vàng.

Trong đó đáng chú ý nhất là góp phần đẩy giá vàng trong nước ngày càng xa

giá vàng thế giới. Khi nhà nước cấm nhập khẩu vàng việc sản xuất và kinh

doanh của các doanh nghiệp gia công liên quan đến vàng cũng như các công

ty kinh doanh vàng bạc sẽ bị ảnh hưởng, gây biến động đến thị trường, hơn

thế nữa còn tạo tâm lý cho người dân, nhu cầu về vàng tăng cao trong khi

cung thì lại bị hạn chế. Đến tháng 11 năm 2009, một lần nữa giá vàng lại lên

đến mức đỉnh điểm, có những thời điểm vàng lên trên 29triệu đồng/lượng, cả

thị trường hoảng loạn, người dân tranh nhau xếp hàng dài đi mua vàng.

Nguồn hàng thì khan hiếm nhưng người dân vẫn cứ tăng mua, tạo ra áp lực

tăng giá. Hơn nữa, một số người vay vàng ngân hàng, đến kỳ trả nợ, dù giá

vàng cao cũng phải mua vào để trả nợ. Thêm vào đó, một số nhà đầu tư đang

kỳ vọng giá tiếp tục tăng cao nên đua nhau đánh lên, mua vàng với lượng

lớn” đó là lời giải thích của ông phó trưởng phòng kinh doanh vàng SJC cho

hiện tượng giá vàng lên mức kỷ lục. Và có lẽ nguyên nhân lớn nhất dẫn đến

giá vàng leo thang vậy là do tính dây chuyền, khi thấy vàng lên cao, người

dân đổ xô đi mua, khi nhu cầu vàng ở mức cao mà nguồn cung làm cho giá

vàng mỗi ngày một tăng giá. Sau đó để làm nguội tình hình đang diễn ra trên

thị trường ngày 11/11/2009 Thống đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam

Nguyễn Văn Giàu tuyên bố sẽ có 5-6 doanh nghiệp được nhập vàng với khối

lượng không hạn chế. Sau gần 1 năm rưỡi cho ngừng nhập vàng tự do, nhà

nước ra quyết định cho một số doanh nghiệp kinh doanh vàng nhập không

hạn chế, khi cung được nới ra ngay lập tức giá vàng trong buổi chiều cùng

ngày hạ nhiệt xuống 1,2 triệu đồng mỗi lượng.

Page 44: Tailieu.vncty.com   5106 4775

40

Một yếu tố cũng tác động nhiều đến thị trường vàng Việt Nam những

năm vừa qua đó là sự ra đời của Sàn giao dịch vàng Việt Nam, sàn vàng được

áp dụng mô hình như sàn giao dịch chứng khoán, và các nhà đầu tư có thể đến

giao dịch thông qua các thành viên trên sàn theo phương thức khớp lệnh liên

tục. Nó tạo ra một sân chơi mới cho người dân, và cũng tạo nên một phong

trào sàn vàng không được như sàn chứng khoán song phần nào cũng thu hút

được sự quan tâm của rất nhiều nhà đầu tư. Những người quan tâm đến vàng

giờ không chỉ mua vàng để tích trữ mà mua đi bán lại, mua khi giá hạ và bán

khi giá lên để tạo ra lợi nhuận. Song hoạt động không được lâu, do chưa có cơ

sở pháp lý, không tạo ra gía trị gia tăng, độ rủi ro cao và thâm hụt vốn lớn, vì

vậy theo chỉ đạo của Thủ tướng chính phủ về việc quản lý của Nhà nước đối

với việc kinh doanh vàng, tại văn bản 369/TB-VPCP, theo đó việc kinh doanh

vàng trên những sàn vàng và kinh doanh vàng trên tài khoản ở trong nước

phải chấm dứt hoạt động trước ngày 30/03/2010. Có lệnh đóng cửa các sàn

vàng, các nhà đầu tư chuyển hướng sang kênh đầu tư khác, còn các sàn vàng

lại chuyển hướng sang kinh doanh vàng vật chất. Song từ khi có lệnh đến hết

tháng 3 các sàn vàng phải đóng cửa và sau đợt tăng giá kỷ lục lên trên 29 triệu

đồng/lượng, thị trường chưa có biến động nào lớn trong tháng đầu năm 2010.

1.4. Những yếu tố ảnh hƣởng đến thị trƣờng vàng Việt Nam

1.4.1. Chính sách nhà nước

Các chính sách của nhà nước liên quan đến kinh doanh vàng ảnh hưởng

mạnh mẽ đến thị trường vàng Việt Nam, trong đó gồm các pháp lệnh, thông

tư, nghị định của Ngân Hàng nhà nước, của Thủ tướng chính phủ. Việc kinh

doanh vàng hiện nay ở nước ta được điều chỉnh theo Nghị định số

64/2003/NĐ-CP ngày 11/06/2003 của chính phủ sử đổi bổ sung từ nghị định

số 174/199/NĐ-CP. [7]Song Nghị định này chỉ quản lý một số hoạt động về

vàng có liên quan tới chính sách tiền tệ như: xuất, nhập khẩu vàng nguyên

Page 45: Tailieu.vncty.com   5106 4775

41

liệu, sản xuất vàng miếng. Các hoạt động kinh doanh vàng khác như mua bán

vàng trang sức mỹ nghệ, vàng miếng được coi là hoạt động kinh doanh bình

thường giống như các loại hàng hóa khác. Các tổ chức, cá nhân có nhu cầu

kinh doanh vàng chỉ cần thực hiện đăng ký kinh doanh và hoạt động kinh

doanh theo Luật doanh nghiệp, Luật thương mại. Sở kế hoạch và đầu tư thực

hiện cấp phép, kiểm tra, kiểm soát hoạt động trên thị trường do Bộ Công

thương chịu trách nhiệm…Tuy nghị định này chưa thật đầy đủ và chặt chẽ

xong phần nào cũng cần thiết và có những tác động nhất định đến thị trường

vàng Việt Nam. Việc cho phép hay ra lệnh ngừng nhập vàng của Ngân hàng

nhà nước vào những tháng đầu năm 2008 hay cuối năm 2009 cũng có những

tác động to lớn đến thị trường vàng, trong đó cụ thể là đợt mở cửa cho phép

một số doanh nghiệp kinh doanh vàng được phép nhập khẩu vàng với số

lượng không giới hạn ngay lập tức đã hạ cơn sốt thèm vàng của thị trường

xuống 1,2 triệu đồng/lượng trong một buổi chiều.

Năm 2006, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành quyết định cho

phép các tổ chức tín dụng và các doanh nghiệp kinh doanh vàng được tham

gia vào hoạt động kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài và một năm

sau, năm 2007 Sàn giao dịch vàng Sài gòn thuộc ngân hàng Á Châu ra đời .

Về việc cho phép kinh doanh vàng trên tài khoản nước ngoài và tài khoản

trong nước giúp cho các đơn vị kinh doanh vàng có thể lựa chọn mức giá khi

xuất, nhập khẩu vàng. Song đây cũng là hoạt động có mức rủi ro rất cao khi

giá vàng thế giới có những biến động mạnh, lên xuống thất thường với biên

độ lớn. Đồng thời chính các đơn vị kinh doanh vàng trên tài khoản này cũng

thành lập các sàn giao dịch vàng trong nước mà thực chất là mua bán vàng

trên tài khoản trong nước gây ra nhiều biến động trên thị trường thời gian vừa

qua. Theo Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước hoạt động kinh doanh sàn vàng

hay còn gọi là kinh doanh vàng trên tài khoản trong nước loại hình kinh

Page 46: Tailieu.vncty.com   5106 4775

42

doanh chênh lệch giá tiềm ẩn nhiều rủi ro cho cả nhà đầu tư và chính các đơn

vị kinh doanh vàng. Việc chưa có những quy định rõ ràng của Nhà nước về

việc kinh doanh này nên trong thời gian qua đã xảy ra không ít những vụ

tranh chấp khiếu kiện giữa nhà đầu tư và đơn vị tổ chức sàn, đồng thời việc

hoạt động của sàn vàng do chưa có cơ sở pháp lý cũng gây ra nhiều bất ổn

cho không chỉ thị trường vàng mà con cho cả nền kinh tế. Với thực tế trên,

Thủ tướng chính phủ đã giao Ngân hàng nhà nước bãi bỏ quy định về việc

kinh doanh vàng trên tài khoản nước ngoài theo Quyết định 03/2006/QĐ-

NHNN ngày 18/01/2006, và theo đó Thủ tướng chính phủ cũng đã yêu cầu

không tổ chức và thực hiện việc kinh doanh vàng trên tài khoản ở trong nước

dưới mọi hình thức. Chậm nhất là 90 ngày kể từ ngày có thông báo (đến

30/03/2010) mọi hoạt động liên quan đến sàn giao dịch vàng và kinh doanh

vàng trên tài khoản phải chấm dứt hoạt động. Việc cho phép 90 ngày để chấm

dứt hoạt động của các sàn vàng nhằm cho phép nhà đầu tư có đủ thời gian để

hoàn tất trạng thái vàng đang nắm giữ trên tài khoản.

Như vậy chúng ta cũng thấy được, dù chưa có những cơ sở pháp lý thật

chặt chẽ song các chính sách cũng như những thay đổi quy định của Ngân

hàng Nhà nước trong việc quản lý kinh doanh vàng, đầu tư vàng, nhập khẩu

vàng cũng phần nào tác động đến hoạt động của thị trường vàng Việt Nam.

1.4.2. Biến động thị trường vàng thế giới

* Tổng quan về thị trường vàng năm 2007-2009

Thị trường vàng thế giới là một trong những yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ

đến thị trường vàng Việt Nam mặc dù thị trường vàng Việt Nam kết nối chưa

thật tốt với vàng thế giới, song sự tăng giảm giá vàng hàng ngày hay những

tình hình tinh kế chính trị xảy ra hàng ngày cũng ít nhiều ảnh hưởng trực tiếp

đến thị trường vàng Việt Nam. Những năm qua thị trường vàng thế giới cũng

trải qua những biến động không nhỏ.Trong năm 2007, giá vàng thị trường thế

Page 47: Tailieu.vncty.com   5106 4775

43

giới đã có lúc lên tới mức kỷ lục nhưng cũng kết thúc năm bằng một con số

dưới mong đợi.[20] Theo thống kê xu thế của Hội đồng Vàng thế giới WGC,

lượng cầu về kim loại quý năm 2007 cao hơn 4% so với năm 2006 và đạt

3.547 tấn. Năm 2007, Trung quốc đã vượt Mỹ và trở thành thị trường vàng

bán lẻ đồ trang sức bằng vàng lớn thứ hai trên thế giới sau Ấn Độ với mức

cầu về đồ trang sức vàng đạt 302 tấn vượt qua mốc 300 tấn lần đầu tiên năm

1997. Tuy nhiên giá vàng cao và bất ổn đã gây ảnh hưởng lớn trong quý thứ

IV, lượng cầu giảm 17% so với cùng kỳ năm trước. Xu hướng giảm cầu vàng

này ảnh hưởng từ thị trường lớn nhất thế giới là Ấn độ, nơi mà nhu cầu vàng

giảm xuống 64% so với cùng kỳ năm trước sau khi đã tăng đến 40% trong ba

quý đầu năm. Nước Mỹ cũng bị ảnh hưởng xấu bởi nền kinh tế phát triển

chậm chạp, mức cầu giảm 14%. Ngược lại trong lĩnh vực đầu tư, những tháng

cuối năm 2007 lại chứng kiên những kỷ lục về vàng mua vào đạt 8tỷ đô la

mức cao nhất tính trong quý những năm trước đó. Việc mua vào được thế

hiện mạnh ở khu vực gồm các giao dịch vàng trả tiền ngay, thay đổi trong hợp

đồng tương lai được đảm bảo bằng cổ phần và các giao dịch phái sinh khác.

Đầu tư bán lẻ dưới dạng các dạng thỏi và tiền vàng tăng 2% năm 2007. Năm

2007 cũng là năm nguồn cung cấp vàng vẫn hạn hẹp, giảm 3% xét về số

lượng tấn so với năm trước, nguồn cung từ khu vực chính thức tăng do số

lượng bán ra theo Hiệp định của Ngân hàng trung ương tăng lên, song nguồn

cung đó lại phải bù cho lượng gia tăng các công ty phòng hộ giá vàng nguồn

cung vàng phế liệu giảm[18][34]

Sang đến năm 2008 là một năm đầy biến động với những thăng trầm của

nền kinh tế thế giới và thị trường vàng cũng nằm trong vòng xoáy đó. Nếu lấy

thị trường vàng thế giới làm thước đo, năm 2008 có thể chia thành hai nửa đối

lâp. Ở nửa thứ nhất vàng được coi là một kênh an toàn nhất trong thời kỳ

khủng hoảng kinh tế của các nhà đầu tư, cảnh lạm phát leo thang, sự trượt giá

Page 48: Tailieu.vncty.com   5106 4775

44

của đồng đô la và sự đổ vỡ của các tổ chức tài chính. Ở nửa thứ hai, kim loại

quý này lại được xem là kênh đầu tư phải bán ra đầu tiên để huy động tiền

mặt trong bối cảnh thế giới rơi vào tình trạng thắt chặt tín dụng, đồng đô la

lấy lại ưu thế, nỗi lo giảm phát và sự suy thoái đồng loạt của các nền kinh tế

lớn. Tính trung bình cả năm 2008 vàng tăng them 175,33 USD lên mức 871

USD/oz, trong năm đó vàng là hàng hoá duy nhất tăng giá trong khi thị

trường chứng khoán và nhiều loại hang hoá khác giảm một nửa giá trị. Mức

tăng trong năm 2008 khá khiêm tốn nhưng do liên tục biến động mạnh và có

lúc chạm mức kỷ lục 1011USD/oz vào ngày 17/3 do nhà đầu tư đổ xô vào

kênh đầu tư an toàn sau vụ sụp đổ của Bear Steans, kể từ đó vàng hạ dần

Biểu đồ 6: Diễn biến giá vàng từ lúc thời điểm khủng hoảng

kinh tế đến cuối năm 2008

Nguồn: Global Insight_ World Gold Council

Tuy nhiên đến giữa tháng 11 thì vàng lại có xu hướng tăng trở lại do

những nguyên nhân do thị trường tiền tệ thắt chặt nhiều nhà đầu tư lo sợ viễn

cảnh lạm phát và đồng đô la có dấu hiệu mất giá khiến cho nhu cầu vàng tăng.

Page 49: Tailieu.vncty.com   5106 4775

45

Về nhu cầu vàng trang sức, quý 3 năm 2008 chứng kiến sự phục hồi của

nhu cầu vàng trang sức, tăng 27% so với quý 2 và lên đến 647,6 tấn. Nhu cầu

đặc biệt tăng ở một số nước như Ấn độ tăng 29%, Trung Đông tăng 15% và

Trung Quốc tăng 10% trong khi đó do ảnh hưởng lớn của khủng hoảng tài

chính Mỹ giam 29%. Nguyên nhân khiến nhu cầu vàng trang sức tăng một

phần do giá vàng trong quý 3 giảm.[19]

Biều đồ 7: Nhu cầu vàng trang sức quý 3 năm 2008 tại một số quốc gia

Nguồn: Hội đồng vàng thế giới_ World Gold Council

Nhu cầu vàng công nghiệp giảm mạnh do suy thoái kinh tế thế giới.

Vàng sử dụg trong chế tại thiết bị điện tử trong quý 3 năm 2008 giảm 7% so

với quý 2. Nhu cầu tại Nhật, thị trường điện tử lớn nhất thế giới giảm gần

15% so với năm trước do nhà sản xuất cắt giảm sản lượng. Vàng trang trí và

Page 50: Tailieu.vncty.com   5106 4775

46

được sử dụng trong các ngành khác cũng suy yếu trong quý 3 hạ 16% so với

năm 2007.

Biều đồ 8: Nhu cầu vàng công nghiệp (Đơn vị : tấn)

Màu vàng: vàng sử dụng trong điện tử

Màu đỏ: vàng sử dụng trong ngành khác

Màu rêu nhạt: vàng sử dụng trong nha khoa

Nguồn: Hội đồng vàng thế giới – World Gold Council

Khai thác vàng tiếp tục ổn định, sản lượng khai thác tạm ở mức ổn định

tăng 2% so với năm 2007. Một số nước khai thác vàng lâu năm cắt giảm sản

lượng, lớn nhất là Nam Phi, tiếp đó là Indonesia, Australia và Mỹ. trong khi

đó một số nước như Trung Quốc và các nước Mỹ la tính lại tăng cường khai

thác vàng. Theo dự báo của một số chuyên gia, khủng hoảng tín dụng có khả

năm sẽ tiếp tục làm ảnh hưởng đến hoạt động thăm dò và khai thác vàng.

Cuối cùng mức độ dự trữ vàng của chính phủ tiếp tục khác biệt giữa các

khu vực. Các ngân hang trung ương tại châu Á hầu như vẫn dữ trữ vàng với

số lượng nhỉ, trong khi đó các ngân hang Châu Âu lại tích trữ một khối lượng

vàng tích trữ một khối lượng khổng lồ lại tiếp tục giảm tỷ lệ vàng nắm giữ

bằng cách bán ra.

Page 51: Tailieu.vncty.com   5106 4775

47

Năm 2009, vàng tăng lên theo đà phục hồi kinh tế. Giá vàng đã tăng 9

năm liên tiếp nguyên nhân chính là do đồng đô la giảm và các Ngân hàng

trung ương tăng mạnh việc thu mua vàng. Trong vòng một thập kỷ qua vàng

đã tăng giá lên 280%. Năm 2009 chứng kiến giá vàng tăng mạnh với biên độ

lớn và khá ổn định, do các Ngân hàng trung ương, quỹ trợ cấp và các nhà đầu

tư cả thế giới đổ xô vào thị trường này, coi vàng như một tài sản tích trữ an

toàn trước những bất ổn về kinh tế sau cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất từ thời

Đại suy thái. Điều đáng nói là giá vàng thế giới năm vừa qua lập kỷ lục giữa

lúc khủng hoảng tài chính không còn căng thẳng như năm 2008, đồng thời rủi

ro lạm phát cũng không phải là một mối lo lớn của hầu hết các quốc gia. Tuy

không phát huy được tối đa vai trò kênh đầu tư an toàn nhất, giá vàng năm

2009 nhận được sự hỗ trợ lớn từ chính sách tiền tệ và tài khoá nới lỏng ở Mỹ.

Trong năm 2009 các ngân hàng trung ương các nước cũng đóng một

vai trò quan trọng làm ảnh hưởng đến thị trường vàng thế giới, ví dụ như

Trung Quốc nâng dự trữ vàng lên 10 nghìn tấn trong 10 năm tới trong khi đó

Ấn độ tăng gấp đôi dự trữ vàng bằng việc công bố 200 tấn vàng từ IMF. Và

theo Hội đồng vàng thế giới (WGC) Trung quốc trở thành nước mua nhiều

vàng nhất năm 2009 với 454 tấn , đưa tổng số dự trữ của nước này lên 1.054

tấn, vượt qua Thuỵ Sỹ để trở thành nước có kho vàng lớn thứ 5 sau Mỹ, Đức,

Pháp và Italy. Khi các nước sôi sục mua vàng để tăng lượng vàng dự trữ trong

kho thì nhiều nhà phân tích thị trường cho rằng nhiều khả nămg quan hệ cung

cầu vàng thế giới sẽ không thể cân bằng cũng sẽ không thể theo kịp cầu và giá

vàng lúc đó.[19][20]

Ảnh hưởng đến thị trường Việt Nam

Tác động đến thị trường vàng có rất nhiều yếu tố nhưng không thể thiếu

tác động từ thị trường vàng thế giới. Thị trường vàng trong nước hiện nay đã

và đang gắn chặt với thị trường thế giới. Khi thị trường thế giới biến đổi sẽ

Page 52: Tailieu.vncty.com   5106 4775

48

lập tức ảnh hưởng đến thị trường trong nước. Thị trường vàng thế giới lại chịu

chi phối bởi nhiều yếu tố như quyết định dự trữ, quyết định mua , bán vàng

của các quốc gia. Cũng có khi chỉ cần một nước nào đó phát triển hay khủng

hoảng cũng sẽ ảnh hưởng đến thị trường vàng mà trong đó chính xác là ảnh

hưởng đến giá vàng. Khi giá vàng thế giới tăng hiển nhiên giá vàng trong

nước cũng sẽ tăng theo một phần do vàng Việt nam cũng được nhập khẩu chủ

yếu ở nước ngoài. Song cũng có thời điểm giá vàng trong nước không cùng

nhịp độ với giá vàng thế giới, như thời điểm năm 2008 giá vàng New York có

lúc đã giảm xuống mức thấp kỷ lục trong năm, 780 USD/ounce. Nhưng giá

vàng trong nước vẫn tăng và cao hơn giá New York 800 – 900 ngàn đồng. Sự

liên kết giữa thị trường nội địa và thị trường thế giới hầu như không tồn tại.

Khoảng cách này được giữ khá lâu cho tới khi giá vàng thế giới tăng trở lại

trong khi giá nội địa không có biến động lớn

Biểu đồ 9: Biểu đồ giá vàng trong nƣớc và quốc tế

18/3/2008 đến 20/2/2009

Page 53: Tailieu.vncty.com   5106 4775

49

Hay có thể lấy ví dụ ở đợt biến động giá vàng mạnh cuối năm 2009 giá

vàng thế giới vào khoảng 1.106,8 USD/oz đêm ngày 10/11/2009 thì giá vàng

trong nước tăng còn khủng khiếp hơn khi vượt mốc 29 triệu đồng/lượng vào

ngày 11/11/2009. Giá vàng thế giới quy đổi theo tỷ giá USD tự do cộng thêm

thuế và các chi phí khác chỉ tương đương với khoảng 2.560.000 đồng/chỉ,

thấp hơn giá vàng mức đỉnh 2.835.000 đồng/chỉ của giá vàng trong nước lúc

10h30 đúng 275.00 đồng/chỉ, tức 2,75 triệu đồng lượng. Đó là mức chênh giá

đỉnh điểm giữa thị trường vàng Việt nam và thị trường vàng thế giới.

1.3.3. Những yếu tố khác ảnh hưởng đến thị trường vàng Việt Nam

Ngoài chính sách nhà nước hay biến động thị trường thế giới có những

tác động đến thị trường vàng Việt nam, thì các yếu tố khác như môi trường

kinh tế, thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản

cũng ít nhiều tác động đến hành vi đầu cơ, đầu vào của doanh nghiệp kinh

doanh vàng, điều đó sẽ phần nào là nguyên nhân dẫn đến mỗi biến động của

thị trường.

Trong nền kinh tế hiện nay, USD được xem là đồng tiền mang tính thanh

toán toàn cầu, do đó theo thông lệ, các loại hàng hoá hay ngoại tệ khi giao

dịch trên thế giới thường được định giá theo USD và vàng cũng không ngoại

lệ. Giá vàng chủ yếu được yếu bằng USD và Việt Nam muốn nhập khẩu vàng

cũng phải dùng USD, do vậy bất cứ tác động nào ảnh hưởng đến giá trị đồng

USD thì cũng tác động trực tiếp đến sự biến động của thị trường vàng thế giới

nói chung và thị trường vàng trong nước nói riêng.

Trong lịch sử, đồng USD có xu hướng đi ngược lại với giá vàng do vàng

và đồng USD luôn song hành như hai sự lựa chọn khác biệt của giới đầu tư.

Giá vàng tăng lên đồng USD có xu hướng đi xuống và ngược lại, ngoài việc

đồng USD giảm khiến cho các nhà đầu tư thấy vàng rẻ hơn và mua vàng thì

đồng USD giảm sẽ khiến cho lo lắng về lạm phát tăng lên. Lạm phát tăng lên

Page 54: Tailieu.vncty.com   5106 4775

50

khiến các nhà đầu tư có xu hướng nắm giữ vàng với tư cách là tài sản có giá trị

ổn định.

Song trong thời gian gần đây, quy luật đó đã không còn đúng trong mối

quan hệ giữa vàng và USD, vàng và USD hiện đang đi cùng hướng với nhau

bởi cả hai đều là mục tiêu của giới đầu tư trong bối cảnh nền kinh tế còn chịu

nhiều tác động của suy thoái và những gói cứu trợ kinh tế không ngừng tăng.

Thêm vào đó, về việc đồng USD và vàng đi ngược chiều nhau theo lý thuyết

thông thường, chúng ta có thể lấy ví dụ khi giá vàng tăng liên tiếp trong 9

năm qua thì đồng USD trong 7 năm gần đây cũng đã giảm so với các đồng

tiền mạnh khác trong rổ tiền tệ. Việc đồng USD và vàng có mối quan hệ

ngược chiều nhau đã khiến cho thị trường hình thành nên một thói quen trong

thời gian vừa qua khi kinh doanh vàng đó là bán vàng khi đồng USD tăng và

mua vàng khi đồng USD giảm.

Mối quan hệ giữa đồng USD và vàng hiện tại đã khác về cơ bản do bối

cảnh nền kinh tế mang lại. Lý do khiến đồng USD và vàng đi cùng chiều

trong thời gian gần đây được đưa ra là bởi vàng hiện không còn là một sự lựa

chọn thay thế cho USD mà vàng cùng với USD hiện đang là sự lựa chọn thay

thế cho các đồng tiền khác trong bối cảnh thị trường lo ngại các đồng tiền trên

thế giới đang ngày càng mất giá do tác động của hàng loạt gói cứu trợ kinh tế

mang lại. Đồng USD tăng giá so với các loại tiền tệ khác khiến giá vàng vốn

đã ở mức cao lại càng cao hơn nếu đem định giá với các ngoại tệ khác.

Thêm vào đó, sự tương quan trong biến động giá cả giữa các loại hàng

hóa trên thị trường là điều không tránh khỏi, nhất là các loại hàng hóa cùng

được định giá bằng một loại tiền tệ, trong đó vàng và dầu là hai loại hàng hóa

có mối quan hệ chặt chẽ về giá. Tuy nhiên, cần có sự phân biệt rằng, vàng và

dầu là hai loại hàng hóa khác nhau, dĩ nhiên sẽ chịu những tác động khác

nhau khi biến động giá cả. Nếu sự biến động của dầu được đánh giá là đến từ

Page 55: Tailieu.vncty.com   5106 4775

51

tác động của đồng USD thì dao động giá dầu phần lớn sẽ diễn biến tương

quan với biến động của vàng. Nhưng nếu yếu tố tác động khiến cho dầu dao

động không đến từ đồng USD, mà vì lý do khác thì khó có thể nói rằng, diễn

biến của vàng rồi cũng diễn ra theo chiều hướng như vậy.

Bên cạnh đó, thị trường chứng khoán cũng là một nguyên nhân gây ra

biến động trên thị trường vàng trong nước. Trong hoàn cảnh mà thị trường

chứng khoán Việt Nam đã xa thời điểm “mua là thắng” thì sự biến động mạnh

mẽ của thị trường vàng tạo cùng với sự sinh lời cao của nó đã thu hút rất

nhiều nhà đầu tư chuyển dịch vốn từ thị trường chứng khoán sang thị trường

vàng. Tuy có không ít sự tương quan giữa hai thị trường nay nhưng vẫn có

nhiều điểm khác biệt, do đó nhiều nhà đầu tư đã phải trả giá đắt khi không tìm

hiểu rõ về thị trường mới mẻ và nhạy cảm này khi tham gia.

Vàng là một hàng hoá do vậy dao động của thị trường vàng cũng được

xem xét bởi các yếu tố tác động cung cầu. Nguồn cung vàng trên thế giới thì

đến từ các quốc gia có trữ lượng vàng lớn và sản lượng xuất khẩu có tầm ảnh

hưởng lớn như Nam Phi, Mỹ, Nga, Úc…Thị trường Việt Nam nhập khẩu đến

95% vàng vì thế nguồn cung ổn định cũng là một thiết yếu nhằm ổn định thị

trường trong nước. Xét đến nhu cầu vàng, vàng được mua qua bán lại nhằm

nhiều mục đích khác nhau, ở Việt Nam chủ yếu là làm trang sức, tích trữ và

đầu cơ. Tuỳ vào thời điểm mà nhu cầu tăng cao do những đột biến của các

lĩnh vực khác trong nền kinh tế như khi thị trường chứng khoán giảm sút vàng

trở thành kênh đầu tư thu hút được nhiều người tham gia hơn.

Những vấn đề trên đây dù không bao quát hết toàn bộ những yếu tố gây

ảnh hưởng đến biến động của thị trường vàng trong nước thời gian vừa qua,

nhưng những yếu tố này được đánh giá có tầm ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián

tiếp mạnh mẽ đến giá vàng.

Page 56: Tailieu.vncty.com   5106 4775

52

2. TÁC ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG VÀNG ĐẾN NỀN KINH TẾ

VIỆT NAM

2.1. Ảnh hƣởng đến hoạt động xuất nhập khẩu

Khi nói đến các yếu tố ảnh hưởng đến xuất nhập khẩu thì ai cũng biết

rằng sự ảnh hưởng lớn nhất đến thị trường xuất nhập khẩu của Việt Nam đó là

sự tăng giảm của đồng đô la Mỹ, vậy vàng có ảnh hưởng như thê nào đến

hoạt động xuất nhập khẩu. Vàng cũng là một loại hàng hoá, nhưng nó đặc biệt

hơn mọi loại hàng hoá ở giá trị cũng như sự phổ biến của nó trên toàn thế

giới. Việt Nam là một nước mà gần đến 95% vàng được nhập khẩu từ nước

ngoài, vì vậy hàng năm phải chi hàng trăm triệu đô la để nhập khẩu vàng, mà

lại không có nguồn thu từ nhập khẩu để cân bằng cán cân thương mại. Nhập

vàng đồng nghĩa phải tiêu đi một số lượng lớn ngoại tệ nên cán cân ngoại tệ

trong nước cũng bị ảnh hưởng. Bên cạnh đó khi giá vàng tăng cao sẽ có

trường hợp người ta gom đô la để nhập vàng dù và đường chính ngạch hay

đường lậu đẩy tỷ giá USD/VNĐ tăng cao, điều đó gây không ít khó khăn cho

việc nhập khẩu các mặt hàng khác.

Trong các năm mà thị trường vàng có nhiều biến động lượng ngoại tệ

cho nhập khẩu vàng tăng mạnh. Năm 2007 tổng giá trị nhập khẩu vàng của

nước ta theo đường chính ngạch là 1,6 tỷ USD (70 tấn). Năm 2008 nước ta đã

nhập đến 1,7 tỷ USD 45 tấn vàng trong quý 1 do tình hình nhập khẩu lượng

vàng quá lớn dẫn đến thâm hụt cán cân thương mại, Ngân hàng nhà nước đã

phải cho ngừng nhập khẩu vàng trong suốt một năm rưỡi do tiêu tốn quá

nhiều ngoại tệ.

Giá vàng tăng cao còn ảnh hưởng đến giá vàng nguyên liệu trong việc

chế tác sản phẩm mỹ nghệ xuất khẩu hay các đồ điện tử, các sản phẩm Việt

Nam sẽ xuất khẩu ra các thị trường trên thế giới, giá các sản phẩm đương

Page 57: Tailieu.vncty.com   5106 4775

53

nhiên sẽ tăng theo giá vàng. Trong bối cảnh kinh tế khó khăn giá hàng hoá tăng

giá cũng là một bất lợi đối với sản phẩm được sản xuất tại Việt Nam do Việt

Nam vẫn được biết đến với nguồn nhân công cũng như nguồn nguyên liệu rẻ.

2.2. Ảnh hƣởng đến hoạt động đầu tƣ

Trên thị trường tài chính hiện nay có bốn kênh đầu tư là vàng, chứng

khoán, USD và bất động sản luôn được giới đầu tư quan tâm hàng đầu.Trong

điều kiện nền kinh tế lạm phát cao năm 2007-2008 để tránh mất giá tiền tệ,

nhiều người đã chọn tích trữ vàng thay vì tiền mặt và vào những lúc giá vàng

trong nước có chênh lệch đáng kể so với giá vàng thế giới các nhà đầu cơ

cũng tranh thủ mua đi bán lại để hưởng lời từ chênh lệch giá. Từ lúc thị

trường vàng có nhiều biến động đến nay hiệu ứng của vàng đã thu hút

không ít nhà đầu tư chuyển từ đầu tư chứng khoán, bất động sản và USD

sang đầu tư vàng.

Những ngày đầu năm 2008, khi mà bảng chứng khoảng liên tiếp bị bao

trùm bởi màu đỏ thì thị trường vàng lại được hâm nóng bởi rất nhiều thông tin

hỗ trợ. Thời điểm đó giới đầu tư nghĩ rằng đầu tư vào vàng có lời hơn và ít rủi

ro hơn vào chứng khoán, họ ồ ạt bán chứng khoán ra để lấy tiền mặt đầu tư

vào thị trường vàng. Việc bán ồ ạt các loại chứng khoán cùng một lúc của

giới đầu tư cũng đồng thời làm cho giá chứng khoán nói chung giảm đi. Khi

đó giới đầu tư đánh giá vàng là một nguồn ngoại tệ dự trữ an toàn và có tính

dài lâu nhất. Cũng đầu năm đó, giá vàng liên tiếp lên những kỷ lục mới khiến

cho nhiều nhà đầu tư đổ xô kinh doanh. Hơn thế nữa sự ra đời của sàn giao

dịch vàng năm 2007 lại càng khiến cho vàng trở thành “ông vua” trong các

kênh đầu tư. Xu hướng kinh doanh vàng dạng lướt song ngày càng trở nên

nhiều hơn. Giá vàng biến động nhiều làm cho nguồn vay vàng tại các ngân

hàng cũng tăng đáng kể, người đi vay sẽ đi vay vàng khi giá cao để bán ra

kiếm lời và khi vàng giảm thì mua vào để trả lại ngân hàng. Thậm chí sức hút

Page 58: Tailieu.vncty.com   5106 4775

54

của vàng còn thâm nhập vào những người dân. Họ đổ xô đi mua vàng để dự

trữ, lượng vàng này không chiếm nhiều trên thị trường nhưng đó cũng là một

hình thức đầu tư không quan tâm đến mức lời để tránh sự mất giá của đồng

VNĐ

Vàng luôn dịch chuyển, giá vàng luôn biến động không ngừng, ngày

càng thấy rõ được sức nóng từ thị trường vàng và vàng có thực sự là kênh đầu

tư an toàn. Rõ ràng giá vàng tăng là do đầu cơ, kể từ năm 2009 thì lượng vàng

của SPDR Gold Trust, quỹ đầu tư vàng lớn thế giới đã tăng 33%. Cung vàng

cũng là một yếu tố thực sự tác động đến giá vàng, nhiều nhà đầu tư nắm giữ

vàng đã phải đối mặt với sự mất giá của những tài sản khác, khi đó họ phải

bán vàng để bù lỗ. Những người bình thường cũng có động thái bán vàng khi

mà suy thoái kinh tế như vậy sẽ làm tăng cung vàng trên thị trường mở và

ngăn tăng giá. Bên cạnh đó giá dầu giảm mạnh từ năm 2008 do nhà đầu cơ

bán ra để bù lỗ nhưng giá vàng lại không trượt dốc theo giá dầu. Rõ ràng là

dòng tiền mới đã đổ vào vàng, nhiều người bán chứng khoán và các tài sản

khác như bất động sản đô la để tái đầu tư vào vàng. Phần lớn đầu cơ vàng đều

do động cơ lợi nhuận, khi mà tất cả các kênh đầu tư khác đều giảm giá do

khủng hoảng kinh tế mang lại thì vàng vẫn “vững chân”.

Vàng có thể coi là loại tiền tệ duy nhất không liên quan trực tiếp đến bất

kỳ nền kinh tế quốc gia nào, với việc suy thoái kinh tế khiến sức mua ngoại tệ

bị ảnh hưởng thì vàng là kênh đầu tư an toàn nhất. Song cũng là một phần

trong thị trường tài chính, thị trường vàng cũng có thể thay đổi.[17]

2.3. Ảnh hƣớng đến thị trƣờng bất động sản

Do khủng hoảng kinh tế, thị trường chứng khoán sụt giảm, lạm phát tăng

cao cùng với kế hoạch cắt giảm chi tiêu, thị trường bất động sản năm 2007 và

2008 diễn ra trầm lắng, một phần là do sự ảnh hưởng từ thị trường vàng. Ở

Việt Nam ở người ta sử dụng vàng làm đơn vị thanh toán và phương tiện

Page 59: Tailieu.vncty.com   5106 4775

55

thanh toán trong giao dịch mua bán nhà đất, tập trung tại thành phố Hồ Chí

Minh và nhiều tỉnh phía Nam. Hàng ngày chúng ta đọc trong mục quảng cáo

của không ít tờ báo đăng các tin rao bán: đất ở khu này, diện tích như thế này,

giá 2 cây/1m2, hay 9 chỉ/m

2, hoặc biệt thự nọ giá 1.500 cây vàng. Việc công

bố giao dịch như vậy cũng xuất hiện công khai trong các giao dịch địa ốc của

các ngân hàng, như: ACB... Trong thực tế, ít người thanh toán trực tiếp với

nhau bằng vàng, mà vàng chỉ là đơn vị thanh toán, người mua và người bán

vẫn thanh toán với nhau bằng tiền mặt, chủ yếu là đồng Việt Nam. Giá đất

vẫn được nhà đầu tư tính bằng vàng, vì vậy khi thị trường vàng biến động mà

ở đây là sự tăng giá của vàng sẽ kéo theo tâm lý hoang mang cho người dân,

những người đã mua nhà và trả bằng vàng hay những người có ý định mua

nhà. Một trong các lý do khiên cho thị trường bất động sản bị ắch tắc là do rất

ít giao dịch mua bán nhà bằng vàng thành công. Người mua rất ngại mua nhà

do họ lo sợ giá vàng sẽ tiếp tục tăng cao, giá nhà bị đắt so với giá thực, trong

khi đó người bán lại muốn giao dịch bằng vàng để hưởng chênh lệch khi giá

vàng tăng song tính thanh khoản của căn nhà là rất thấp. Hơn thế nữa, khi giá

vàng biến động theo xu hướng lên nhà đầu tư bất động sản chuyển qua đầu tư

vàng, đầu tư vàng vừa cần vốn lớn, tính thanh khoản lại thấp, việc tìm người

bán người mua khó hơn so với vàng lại không bị rằng buộc vào giấy tờ như

bất động sản.

2.4. Ảnh hƣởng đến hàng hoá khác

Khi thị trường vàng biến động một số hang hoá trong xã hội cũng bị kéo

theo, mà ở đây đầu tiên là trang sức. Trang sức làm bằng vàng tất nhiên sẽ

tăng giá theo vàng, thời điểm cuối năm là thời điểm trang sức được tiêu thụ

lớn nhất do là mùa cưới và dịp tết cổ truyền, song do giá vàng những năm gần

đây tăng cao, lượng trang sức vàng giảm mạnh trong những năm gần đây. Các

loại trang sức khác như bạc hay bạch kim cũng bị ảnh hưởng ít nhiều bởi giá

Page 60: Tailieu.vncty.com   5106 4775

56

vàng. Các loại hang hoá tiêu dung hang ngày do không được trao đổi bằng

vàng nên cũng không có nhiều biến động.

2.5. Ảnh hƣởng đến tâm lý và cuộc sống của nhân dân

Nước ta là một trong số những trường hợp hiếm hoi khi mà cả vàng và

ngoại tệ (chủ yếu là Đô la Mỹ) được sử dụng công khai bình đẳng như nhau

trong các quan hệ cất trữ, thanh toán và giao dịch với ngân hang như nội tệ

_Đồng Việt Nam, đồng tiền quốc gia. Vì vậy những biến động lớn của thị

trường vàng gần đây ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý cũng như cuộc sống của

người dân. Thực tế đã cho thấy rằng rủi ro càng cao thì lợi nhuận càng lớn,

người dân sẵn sang chấp nhận rủi ro để kiểm được lợi nhuận rất lớn, và lợi

nhuận đó được coi là cái giá của rủi ro họ nhận được. Đã có rất nhiều thời

điểm giá vàng tăng cao, người dân đổ xô đi mua vàng làm giá vàng trong

nước chênh lệch lớn với giá vàng thế giới, mà điểm hình là tháng 11 năm

2009, đã có lúc giá vàng lên vượt ngưỡng 29 triệu đồng/lượng chênh lệch gần

3triệu đồng so với giá vàng thế giới. Thị trường vàng trở nên hoảng loạn,

người dân đổ xô đi rút tiền ở các ngân hang để mua vàng tích trữ, giá vàng

tăng lên từng phút. Thị trường trở nên điên loạn với giá vàng bị thổi lên

quá đáng.

Page 61: Tailieu.vncty.com   5106 4775

57

Hình ảnh người dân xếp hang đi mua vàng ngày 11.11.2009

Hơn thế nữa, thị trường vàng biến động mạnh còn ảnh hưởng đến những

người vay vàng đến kỳ trả nợ thi gánh nợ rất cao, do giá vàng lúc vay thấp

hơn so với giá vàng lúc trả rất lớn. Đó là chưa kể tới lãi của ngân hang, chỉ

tính riêng biến động giá vàng ngân hang đã được lợi rất lơn. Trong nền kinh

tế hiếm có mặt hang nào mà biến động của nó lại tăng với tốc độ lớn như

vàng hiện nay. Cũng chính bởi sự biến động không ngừng và không thể lường

trước của thị trường vàng mà có nhiều nhà đầu tư đã phá sản vì đầu tư vàng.

Sau đợt giá vàng tăng kỷ lục nhà nước cho phép nhập khẩu vàng trở lại thị

trường vàng ngay lập tức hạ nhiệt, nhiều nhà đầu tư với hi vọng giá vàng tiếp

tục tăng đã ôm một khối lượng lớn vàng, khi vàng hạ giá trở tay không kịp và

dẫn đến phá sản. Nhiều người đã gọi ngày 11/11/2009 là ngày thứ tư đen tối

bởi nó thực sự ảnh hướng lớn đến cuộc sống của nhiều nhà đầu tư. Như vậy

có thể thẩy rõ được sự tác động sâu và rộng của thị trường vàng đến cuộc

sống của người dân Việt Nam những người có thói quen tích trữ vàng từ xưa

hay những nhà đầu tư coi vàng là một kênh đầu tư kiếm lợi

Page 62: Tailieu.vncty.com   5106 4775

58

3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ THỊ TRƢỜNG VÀNG VIỆT NAM

3.1. Thành công

Thị trường vàng Việt Nam có một tốc độ phát triển nhanh nhất khu vực,

đó là thành công lớn nhất của thị trường vàng trong những năm qua. Theo số

liệu từ Hội đồng vàng thế giới trong năm 2007 thị trường vàng trong nước

tiêu thụ 75tấn vàng, cho đến thời điểm ngừng nhập khẩu vàng năm 2008 thị

trường tiêu thụ khoảng 43tấn vàng. Khối lượng giao dịch vàng tại các ngân

hang trong nước mà chủ yểu ở hai thành phố chính lớn, có thể vượt mức trung

bình 500.000 lượng/ngày. Khi thị trường chứng khoán sụt giảm thị trường bất

động sản trầm lắng thị thị trường vàng trở thành “nơi trú ẩn an toàn”, là kênh

đầu tư được sự quan tâm lớn nhất của hầu hết nhà đầu tư.

Thị trường vàng đã thu hút được nhiều chủ thể tham gia từ các cá nhân

muốn đầu tư vào thị trường, các ngân hàng, các công ty kinh doanh vàng bạc

đá quý….tạo nên một làn sóng kinh đầu tư vàng thu hút một nguồn vốn lớn

trong nền kinh tế.

3.2. Những vấn đề còn tồn tại và nguyên nhân

Bên cạnh sự những thành công mà thị trường vàng có được thì vẫn còn

nhiều vấn đề còn tồn tại với thị trường nơi buôn bán những hàng hoá đặc biệt

nhạy cảm này.

Trước hết, phần quản lý nhà nước vẫn chưa có quy định cụ thể, hành

lang pháp lý chặt chẽ để quản lý việc kinh doanh hoạt động vàng, mà đặc biệt

là hoạt động đầu tư vàng, gây ra nhiều khó khăn cho thị trường. Điều đó là do

thị trường vàng Việt nam vẫn còn non trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm trong

việc quản lý, do đó sai sót là không thể tránh khỏi. Ví dụ như khi nhà nước

cho phép kinh doanh vàng trên tài khoản nước ngoài cũng như kinh doanh

vàng trên tài khoản trong nước, nhà nước chưa có những văn bản pháp luật đủ

Page 63: Tailieu.vncty.com   5106 4775

59

chặt chẽ để quản lý, vì vậy việc ra đời của các sàn giao dịch vàng đã sớm phải

ngừng hoạt động sau hai năm thành lập.

Hiện tượng kinh doanh vàng bất hợp pháp qua mạng cũng như việc một

số sàn giao dịch vàng mở không có giấy phép của nhà nước cũng chưa có

những biện pháp quản lý chặt chẽ nên vẫn tự do kinh doanh. Nguyên nhân là

do chưa có một cơ quan chức năng có thẩm quyền nào đứng ra chịu trách

nhiệm quản lý trực tiếp, vì thế việc tổ chức kinh doanh vàng bất hợp pháp vẫn

diễn ra bình thường cho đến khi nhà nước buộc phải buộc đóng cửa tất cả sàn

vàng và bãi bỏ việc kinh doanh vàng qua mạng. Hơn nữa bản thân người dân

cũng chưa ý thức được sự mạo hiểm khi tham gia những sàn vàng hay các đầu

tư qua các công ty môi giới đầu tư này.

Bên cạnh đó nhà nước chính sách xuất nhập khẩu vàng của Việt Nam

hiện nay cũng chưa thật tốt, tuỳ theo biến động của thị trường mà Ngân hàng

nhà nước cho phép nhập hoặc không, như vậy không thể tạo thế chủ động cho

nhà đầu tư cũng như các doanh nghiệp kinh doanh vàng. Vì vậy để phát triển thị

trường vàng trong nước toàn diện phải được quản lý chặt chẽ của nhà nước.

Môi trường cạnh tranh thị trường vàng chưa thực sự được đảm bảo

công bằng do chỉ có một số doanh nghiệp được phép nhập khẩu và phân phối

vàng nên vẫn còn hiện tượng độc quyền, đôi khi những doanh nghiệp này làm

cho giá vàng tăng cao do “ém” vàng không chịu bán. Kho vàng ngoại quan

chưa phát huy được hiệu quả bình ổn thị trường như mong đợi.

Thêm vào đó người dân chưa có những kiến thức cơ bản về vàng cũng

như thị trường vàng vì thế nên họ thường đầu tư hay mua vào bán ra theo

phong trào, điều đó tác động xấu đến thị trường, dẫn đến giá vàng Việt Nam

và giá vàng thế giới chênh lệch lớn, thị trường trở thành mất phương hướng

khi mà giá vàng cứ tăng cao hơn so với thực tế đáng có.

Page 64: Tailieu.vncty.com   5106 4775

60

CHƢƠNG III:

GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƢỜNG VÀNG VIỆT NAM

1. DỰ BÁO XU HƢỚNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƢỜNG VÀNG THẾ

GIỚI VÀ VIỆT NAM

1.1. Thị trƣờng vàng thế giới

Hiện nay khi mà tình hình kinh tế thế giới chưa thực sự có được sự ổn

định, thì thị trường vàng thế giới phụ thuộc một phần lớn vào những diễn biến

cũng như tin tức tốt xấu của nền kinh tế Mỹ hay ngay cả những quyết định

của Chính phủ Mỹ. Các chuyên gia của thị trường vàng cho rằng thị trường

vàng hiện không có nhiều lý do để tăng quá mạnh trong thời gian ngắn hạn.

Đầu năm 2010 Quỹ tiền tệ IMF tuyên bố kế hoạch bán ra thị trường 191,3 tấn

vàng tương đương 6.9tỷ USD, trong khi đó sau dịp tết của một số nước Á

đông nhu cầu vàng vật chất cũng từ những thị trường có sức tiêu thụ lớn như

Trung Quốc, Ấn độ bao giờ cũng giảm mạnh. Cung tăng, cầu giảm sẽ khiến

giá vàng ở mức thấp. Tình hình này càng khiến cho các nhà đầu tư trên khắp

thế giới trở nên thận trọng và làm thị trường vàng càng trở nên thêm trầm

lắng. Theo nhận định của một số chuyên gia, thì trong dài hạn giá vàng vẫn có

xu hướng tăng khả quan do áp lực lạm phát. Nếu như lạm phát bùng phát thì

giá vàng có cơ hội chinh phục trở lại ngưỡng cao kỷ lục 1.226 USD/oz trong

năm 2009. Song nguyên nhân chính giá vàng đầu năm 2010 giảm sẽ là do

đồng USD trên thế giới đang đà phục hồi mạnh và giá vàng thường tỷ lệ

nghịch với ngoại tệ này. Hiện nay đầu tư thế giới đang lo ngại khả năng FED

sẽ sớm thắt chặt các chính sách tiền tệ và điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản đồng

USD, lúc đó chỉ số giá USD sẽ được hỗ trợ giá tăng, kéo theo vàng phải chịu

áp lực giảm giá. Theo Jon Nadler chuyên gia phân tích cao cấp tại Kitco

Bullion Dealers Montreal cho rằng nhiều Ngân hàng trung ương và cá nhân

Page 65: Tailieu.vncty.com   5106 4775

61

chưa thật sự đặt niềm tin vào vàng, vì theo họ vàng vẫn chưa đủ khả năng để

trở thành một đồng tiền dự trữ hàng đầu. Trong thời gian đầu thị trường vàng

thế giới sẽ không có nhiều sự biến động song nhận định chung của nhiều nhà

phân tích thì giá vàng năm 2010 sẽ tăng theo đà phục hồi kinh tế thế giới, hứa

hẹn nhiều điều thú vị trước mắt.[36]

1.2. Thị trƣờng vàng Việt Nam

Năm 2010 được dự đoán là một năm thị trường Việt Nam sẽ có những

bước biến chuyển cùng nhịp với sự chuyển động của thị trường thế giới. Thị

trường vàng trong nước biến động hay giá vàng trong nước có bằng với giá

vàng thế giới hay không thì đó là do chính sách nhà nước. Theo như Hội

Đồng vàng thế giới, trong những năm gần đây Việt Nam nhập trung bình

khoảng 60tấn vàng một năm để dập thành vàng miếng và nữ trang. Trong số

đó có khoảng 80% là vàng miếng còn lại 20% nữ trang để cung ứng cho thị

trường.

Từ khi Việt Nam cho phép mở sàn vàng các giao dịch vàng bắt đầu sôi

động hẳn lên, đến đầu năm 2008 lượng vàng nhập khẩu cũng tăng lên dáng

kể. Lúc này giá vàng trong nước chênh rất ít so với giá vàng thế giới. Sau đó

do những nguyên nhân khách quan và chủ quan, Ngân hàng nhà nước thay

đổi chính sách về việc nhập khẩu vàng và cho ngừng nhập khẩu trong suốt

18tháng dẫn đến tình trạng nguồn cung bị khan, giá vàng trong nước tăng đột

biến trong tháng 11/2009 lên mức 29 triệu đồng/lượng, vênh xa với thế giới

gần 3 triệu đồng một lượng. Song ngay khi Ngân hàng nhà nước đã phát đi

thông điệp cho phép nhập khẩu vàng trở lại, ngay lập tức vàng hạ nhiệt. Do

vậy, trong tương lai gần với chính sách nhập vàng không giới hạn mà nhà

nước cho phép một số doanh nghiệp giá vàng trong nước sẽ theo nhịp thế giới

và sẽ không có sự “ mất bình tĩnh” của thị trường vàng giống như tháng cuối

năm 2009. Việc cho phép nhập khẩu vàng không giới hạn dễ dẫn đến thâm

Page 66: Tailieu.vncty.com   5106 4775

62

hụt cán cân thương mại vì Việt Nam vẫn chưa coi vàng là một ngoại tệ trong

khi trên thế giới đều coi đây là một ngoại tệ mạnh. Vì vậy trong thời gian tới

Hiệp hội vàng sẽ xem xét kiến nghị lên Ngân hàng Nhà nước đưa vàng ra

khỏi danh sách mặt hàng xuất nhập khẩu và coi đây là một hàng hoá đặc biệt.

Những tháng đầu năm 2010 mãi lực từ thị trường vàng trong nước chưa

lớn, do tâm lý nghe ngóng của giới đầu tư. Nhưng đây vẫn được xem là một

kênh đầu tư hấp dẫn. Bởi kênh đầu tư chứng khoán đã trở nên rất khó khăn và

đã không còn sức hút như trước. Bất động sản thì vốn sẽ lớn hơn rất nhiểu

trong khi tính thanh khoản thấp. Do vậy, thị trường vàng vẫn là thị trường

tiềm năng đối với những người có vốn nhàn rỗi, mua vàng tích trữ lâu dài vừa

an toàn vừa có cơ hội lời cao. Song năm 2010 sẽ không có nhiều biến động

lớn trong thị trường vàng do không bị giới hạn nguồn cung, cũng như nền

kinh tế thế giới đã đi vào quỹ đạo dần ổn định.

1.3. Những chính sách của nhà nƣớc tác động đến thị trƣờng vàng trong

thời gian tới.

Đầu năm 2010 Ngân Hàng nhà nước chính thức có văn bản chấm dứt

hoạt động kinh doanh vàng trên tài khoản nước ngoài của các tổ chức tín

dụng, doanh nghiệp được cấp phép trước đó. Theo đó Thông tư số

01/2010/TT-NHNN quy định các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp đang kinh

doanh vàng trên tài khoản nước ngoài phải chấm dứt mọi hoạt động kinh

doanh vàng trên tài khoản nước ngoài kể từ ngày 06/01/2010, trừ các giao

dịch để tất toán, đóng tài khoản kinh doanh vàng nói trên. Các tổ chức tín

dụng và doanh nghiệp đang kinh doanh vàng trong tài khoản ở nước ngoài có

trách nhiệm hoàn tất và đóng cửa trước ngày 30/03/2010. Trước đó ngày

30/12/2009 Thủ tướng chính phủ cũng đã phải có công văn yêu cầu không tổ

chức và thực hiện việc kinh doanh vàng trên tài khoản trong nước dưới mọi

hình thức và chậm nhất 90 ngày kể từ ngày 30/12/2009 mọi hoạt động liên

Page 67: Tailieu.vncty.com   5106 4775

63

quan đến sàn giao dịch vàng và kinh doanh vàng trên tài khoản ở trong nước

phải chấm dứt hoạt động[28]. Và đồng thời cũng bãi bỏ quy định về việc kinh

doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài theo Quyết định số 03/2006/QĐ-

NHNN ngày 18/01/2006[37]

Như vậy, việc đóng cửa các sàn giao dịch vàng, cấm các hoạt động kinh

doanh vàng trên tài khoản nước ngoài cũng như trong nước cũng ảnh hưởng

không nhỏ đến những biến động của thị trường vàng trong nước. Thị trường

vàng sẽ phần nào giảm bớt những biến động bất ngờ cũng như sẽ làm cho

không khí thị trường vàng vật chất ảm đạm do việc đóng của sàn vàng làm giá

vàng thiếu sóng gió, vàng trở nên kém hấp dẫn hơn.

Việc Ngân hàng nhà nước Việt Nam chính thức cho phép nhập khẩu

vàng với khối lượng phù hợp để can thiệp thị trường cuối năm 2009 cũng là

một tác động lớn đến thị trường vàng trong nước, góp phần can thiệp thị

trường giảm sức nóng và cơn thèm khát vàng trong suốt 18 tháng ngừng nhập

khẩu vàng trước đó. Điều đó đã giúp bình ổn thị trường chống đầu cơ, ảnh

hưởng đến quyền lợi của người dân. Song việc mở cửa nhập khẩu trở lại chỉ

đối với một số đầu mối lớn như: Công ty Vàng bạc đá quý Sài Gòn, Ngân

hàng Xuất nhập khẩu Việt Nam, Công ty Vàng bạc đá quý Phú Nhuận, Công

ty Vàng bạc đá quý Ngân hàng Nông nghiệp…[38]

2. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG VÀNG VIỆT NAM TRONG

GIAI ĐOẠN HỘI NHẬP

2.1. Hoàn thiện công tác quản lý nhà nƣớc về thị trƣờng vàng

Hiện nay, Việt nam chưa có một hành lang pháp lý chặt chẽ trong việc

quản lý thị trường vàng, mới chỉ có nghị định 174/199/NĐ-CP ngày

9/12/1999 của chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng. Song nghị

định này đã cũ và không được cập nhật thường xuyên với những biến động

của thị trường. Bên cạnh đó, nghị định 174 không bao gồm các quy định về

Page 68: Tailieu.vncty.com   5106 4775

64

việc đầu tư vàng, chỉ chủ yếu để cập đến việc kinh doanh vàng, xuất nhập

khẩu, sản xuất gia công và khai thác vàng tự nhiên, song hiện nay cũng đã có

nhiều thay đổi trên thị trường vàng nên nghị định 174 có nhiều điểm đã không

còn phù hợp[5]. Nhà nước đang trong quá trình xây dựng một hành lang pháp

lý hoàn hảo, nhằm giúp cho thị trường vàng Việt Nam phát triển toàn diện

hơn, an toàn hơn và dễ dàng liên kết với thị trường thế giới. Ngân hang nhà

nước cũng cần phải văn bản chỉ đạo về việc thu thập và cung cấp thông tin, số

liệu về tình hình kinh doanh vàng tại một số thành phố lớn. Việc làm này sẽ

có thể giúp Ngân hàng nhà nước tiến tới quản lý chặt chẽ hơn loại hàng hoá

này. Trong một thời gian dài từ cuối những năm 90 cho đến thời điểm năm

2007 hoạt động vàng nhìn chung đã diễn ra khá ổn định và không có tác động

đến việc điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Tuy nhiên trong thời gian gần đây do biến động của giá vàng thế giới cũng

như những biến động và những nhiều yếu tố tác động đến thị trường vàng

trong nước, vàng trở lại trở thành hoá đặc biệt và nó ảnh hưởng đến chính

sách tiền tệ và bảo đảm ổn định kinh tế xã hội. Bên cạnh đó nhà nước cũng

nên có biện pháp hay ban hành nghị định quản lý đối với vàng theo hướng

Nhà nước tập trung thống nhất. Hiện nay, các quy định và một số văn bản

hướng dẫn thi hành việc quản lý kinh doanh vàng lại có những điểm quy định

khác nhau. Cụ thể như nghị định 174 về quản lý hoạt động kinh doanh vàng

quy định Chính phủ giao Ngân hàng Nhà nước chỉ quản lý một số hoạt động

về vàng có liên quan tới chính sách tiền tệ như: xuất nhập khẩu vàng nguyên

liệu sản xuất vàng miếng. Các hoạt động kinh doanh vàng bạc khác như mua

bán vàng trang sức mỹ nghệ vàng miếng được coi là hoạt động kinh doanh

bình thường giống như các loại hang hoá khác.[5]

Các tổ chức, cá nhân có nhu cầu kinh doanh vàng chỉ cần thực hiện đăng

ký kinh doanh và hoạt động kinh doanh theo Luật doanh nghiệp, Luật thương

Page 69: Tailieu.vncty.com   5106 4775

65

mại. Sở kế hoạch và đầu tư thực hiện cấp phép, kiếm tra, kiểm soát hoạt động

trên thị trường do Bộ Công thương chịu trách nhiệm. Trong khi đó, Pháp lệnh

ngoại hối năm 2005 thì quy định Ngân hàng Nhà nước được giao là cơ quan

quản lý hoạt động xuất nhập khẩu vàng nguyên liệu dưới dạng khối, thỏi, hạt,

miếng đồng thời đưa vàng trên tài khoản ở nước ngoài vào khái niệm ngoại

hối[9]. Còn nghị định 160/2006/NĐ-CP hướng dẫn pháp lệnh ngoại hội giao

Ngân hàng Nhà nước quản lý hoạt động xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu

dưới dạng khối, thỏi, hạt, miếng. Nghị định 86/1999/NĐ-CPquy định Ngân

hàng Nhà nước là cơ quan quản lý Nhà nước về dự trữ ngoại hối Nhà nước,

trong đó có vàng trong dự trữ ngoại hối Nhà nước[6].

Ngoài ra,với mục tiêu chuyển hóa nguồn vốn trong dân thành nguồn vốn

tiền đồng để phục vụ sản xuất, vào năm 2000, Ngân hàng Nhà nước đã ban

hành QĐ Quyết định 432 cho phép tổ chức tín dụng được thực hiện hoạt động

huy động và cho vay bằng vàng: hoạt động xuất nhập khẩu vàng nguyên liệu

dưới dạng khối, thỏi, hạt, miếng; hoạt động sản xuất vàng miếng; hoạt động

kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài; hoạt động huy động, cho vay

bằng vàng của các tổ chức tín dụng; quản lý vàng trong dự trữ ngoại hối Nhà

nước.[10]Các hoạt động mua bán, sản xuất, gia công vàng của các doanh

nghiệp kinh doanh vàng; hoạt động xuất nhập khẩu vàng trang sức, mỹ nghệ

không do Ngân hàng Nhà nước quản lý; được cấp phép từ Sở Kế hoạch và

Đầu tư tỉnh, thành phố; quản lý thị trường của Bộ Công thương; xuất nhập khẩu

qua Hải quan của Bộ Tài chính; quản lý chất lượng của Bộ Khoa học công nghệ.

Rõ ràng, với các văn bản pháp luật trên, người ta thấy vẫn còn nhiều chống chéo,

thiếu nhất quán trong quản lý vàng. Và vấn đề đặt ra là cần nhanh chóng rà soát

để ban hành một Nghị định quản lý đối với vàng theo hướng Nhà nước tập trung

và thống nhất hơn.

Sàn vàng trong những năm qua hoạt động là kẽ hở của pháp luật và

không có cơ quan nào quản lý. Việc không một cơ quan nào đứng ra quản lý

Page 70: Tailieu.vncty.com   5106 4775

66

sàn vàng dẫn đến những biến động cũng như tiềm tang những sự nguy hiểm

đối với không chỉ nhà đầu tư mà còn với đảm bảo trật tự xã hội dẫn đến việc

Ngân Hàng Nhà nước Việt Nam phải bắt các sàn giao dịch vàng ngừng hoạt

động chính thức vào tháng 3 năm 2010. Một số các ngân hàng cũng hoạt động

giao dịch vàng trong khi không hề được cấp giấy phép, điều đó cho thấy sàn

giao dịch một mặt hàng nhạy cảm mà không hề có sự quản lý chặt chẽ của

nhà nước. Sàn giao dịch vàng là một lĩnh vực đầy tiềm năng và rất mới mẻ

nên được rất nhiều người quan tâm. Vì vậy nên xây dựng cho sàn giao dịch

vàng một hành lang pháp lý chặt chẽ, Ngân hàng Nhà nước nên đứng ra

quản lý từ việc thành lập sàn giao dịch vàng, cho đến việc quản lý việc lập

tài khoản.

Hơn thế nữa nên tổ chức những hội thảo về tổ chức và quản lý sàn giao

dịch vàng trong đó có sự tham gia của Hiệp hội kinh doanh vàng Việt Nam,

Hiệp hội kinh doanh vàng thế giới và đại diện của nhà nước. Qua đó tìm hiểu

rút kinh nghiệm của các nước phát triển chọn ra một phương thức phù hợp

với thị trường Việt Nam.

Vấn đề xuất nhập khẩu vàng cũng ảnh hưởng rất lớn đến thị trường vàng,

như tình hình năm 2009 khi mà nhà nước cấm nhập khẩu vàng, tình trạng nhu

cầu vàng tăng cao mà nguồn cung hạn chế dẫn đến những biến động không

lường trước được của thị trường vàng, đẩy nhiều nhà đầu tư vào cảnh dở khóc

dở cười, sau đó Thống đốc ngân hàng nhà nước cho phép một số doanh

nghiệp được nhập khẩu vàng không hạn chế điều đó ngay lập tức làm dịu thị

trường. Song nếu cứ để nhập khẩu vàng không giới hạn sẽ dẫn đến làm tăng

tỷ lệ nhập siêu do Việt Nam 95% nhu cầu vàng là nhập khẩu từ nước ngoài.

Nhà nước nên đưa vàng ra khỏi danh sách mặt hàng xuất nhập khẩu mà xem

đây như là một hàng đặc biệt. Nếu vàng không ở trong danh sách các mặt

hàng xuất nhập khẩu thì có thể thực hiện chính sách thả nổi việc nhập vàng

Page 71: Tailieu.vncty.com   5106 4775

67

theo nhu cầu thị trường và không làm ảnh hưởng đến cán cân thương mại. Và

như vậy sẽ không có chuyện giá vàng trong nước chênh với giá vàng thế giới.

Việc thả nổi xuất nhập vàng thì có tái nhập tái xuất và như vậy thị trường

ngoại hối sẽ càng lưu thông không bị khan hiếm ngoại tệ giống như nhiều

người lo ngại.

Sự quản lý của nhà nước là một trong những yếu tố rất quan trọng trong

tất cả các hoạt động kinh tế trong xã hội, đặc biệt hơn ở thị trường vàng, một

mặt hàng mà sức ảnh hưởng của nó đến các mặt của xã hội là rất lớn, thì cần

quản lý hết sức chặt chẽ và có những phương án dự phòng cũng như có kế

hoạch phát triển thị trường ngắn hạn và dài hạn.

2.2. Đảm bảo môi trƣờng cạnh tranh lành mạnh

Cạnh tranh lành mạnh là một yếu tố không thể thiếu trong bất kỳ một thị

trường nào và thị trường vàng cũng không năm ngoài. Luật cạnh tranh đã ra

đời năm 2004 nhưng đi vào cuộc sống quá chậm cho đến nay nhiều ngành

nghề trong nước chưa có được một môi trường cạnh tranh thật sự lành mạnh

và bình đẳng. Trong thị trường vàng không hẳn xuất hiện yếu tố độc quyền,

song việc chỉ có một số doanh nghiệp được phép nhập khẩu vàng đã đẩy thị

trường vàng Việt Nam có những lúc phụ thuộc vào các doanh nghiệp đó. Như

mục tiêu bình ổn giá vàng của nhà nước nhiều lúc chưa thực sự phát huy do

việc SJC bán vàng cho các doanh nghiệp kinh doanh vàng với giá cao so với

giá thế giới như vậy phải chăng SJC được hưởng lợi từ việc nhập khẩu vàng

còn những doanh nghiệp mua lại vàng của SJC cũng như người dân vẫn phải

mua vàng với giá cao. Sự độc quyền của SJC cũng như một số doanh nghiệp

được phép nhập khẩu vàng cũng là nguyên nhân gây ra mất cân đối cung cầu

vì nguồn nhập khẩu có tác động rất lớn đối đến cân đối cung cầu vàng trên thị

trường, nhiều người muốn mua và chỉ có ít người bán thì mất cân đối cung

cầu và phải mua với giá do họ quyết định. Cũng chính vì một số doanh nghiệp

Page 72: Tailieu.vncty.com   5106 4775

68

được phép nhập khẩu vàng, trong một số trường hợp họ có thể chi phối thị

trường, nhất là khi vàng khan hiếm họ có vàng và đấy giá lên cao làm lũng

đoạn thị trường. Vì vậy không đem lại hiệu quả cao cho thị trường vàng nói

riêng và nền kinh tế nói chung.

Trong môi trường cạnh tranh lành mạnh có sự tham gia của mọi doanh

nghiệp từ tư nhân đến nhà nước cổ phần thì tính năng động, chất lượng quản

lý đều được nâng cao. Kinh tế thị trường sở dĩ là năng động phát triển nhanh

nhờ cạnh tranh. Chúng ta cần kiểm điểm việc thi hành luật Cạnh tranh, phân

tích cặn kẽ tính cạnh tranh trong môi trường kinh doanh vàng, làm rõ những

trở lực đang kìm hãm việc tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng. Nếu đảm

bảo được một môi trường cạnh tranh lành mạnh xoá bỏ được độc quyền sẽ tạo

tiền đề cho việc xây dựng luật đảm bảo quyền của dân được tiếp cận thông tin

và đóng góp ý kiến hoàn thiện, vì thị trường vàng có quan hệ mật thiết đến

sản xuất và đời sống nhân dân, đảm bảo được sự công bằng người dân sẽ an

tâm khi tham gia vào thị trường vàng.

2.3. Phát huy hiệu quả kho ngoại quan vàng

Năm 2006, kho ngoại quan vàng bạc đá quý đầu tiên tại Việt Nam chính

thức được đưa vào sử dụng. Sự ra đời của kho ngoại quan vàng được kỳ vòng

là sẽ bình ổn được nguồn cung cấp vàng cho thị trường trong nước và sự hoạt

động của nó sẽ tác động tích cực đến thị trường vàng trong nước.[39]

Với ưu điểm là thời gian được rút ngắn và chi phí so với việc nhập khẩu

trực tiếp từ nước ngoài đáng lẽ ra kho ngoại quan vàng phát rất được quan

tâm. Song thực tế cho thấy rất ít doanh nghiệp trong nước lấy vàng từ đây,

doanh nghiệp nước ngoài cũng không sử dụng.

Ước tính phí vận chuyển và bảo hiểm sẽ giảm đến 40% nếu nhập khẩu từ

kho vàng ngoại quan so với nhập khẩu trực tiếp từ nước ngoài thông qua

trung gian. Một yếu tố mà chắc chắn các doanh nghiệp phải đối mặt là thời

Page 73: Tailieu.vncty.com   5106 4775

69

gian nhập khẩu từ nước ngoài sẽ lâu hơn rất nhiều khi nhập khẩu trong nước.

Song hoạt động của kho ngoại quan vàng cũng không tiến triển tốt, chưa phát

huy được ưu thế của mình.

Theo như một số doanh nghiệp sản xuất vàng miếng trong nước thì gửi

vàng vào kho ngoại quan vàng chủ yếu là các đầu mối kinh doanh lớn như

Eximbank, Sacombank, ACB. Như vậy khách hàng chủ yếu vẫn là các thành

viên trong liên minh thành lập ra kho ngoại quan vàng và chủ yếu chỉ kinh

doanh chứ không tập trung sản xuất.

Theo như ông Nguyễn Thanh Trúc, Giám đốc công ty Vàng bạc Ngân

hàng Nông nghiệp thừa nhận, để thu hút được số lượng lớn khách hàng thì

các kho ngoại quan vàng phải dựa vào một công ty chuyên về kho vàng ngoại

quan của nước ngoài và trên thực tế việc ký kết được hợp đồng bảo hiểm kiểu

này thì không đơn giản.

Trên lý thuyết thì chi phí và thời gian cũng giảm được đáng kể so giữa

nhập khẩu vàng trực tiếp trong nước với nhập khẩu vàng từ nước ngoài. Song

nhiều doanh nghiệp lâu nay vẫn có những nguồn nhập riêng với giá rẻ hơn và

thời gian thậm chí còn nhanh hơn. Nếu vào những thời điểm sốt vàng, giá cả

thay đổi theo giờ thì lấy vàng qua kho vẫn bị chậm, nếu qua “mối quen” thì

chỉ cần gửi tiền là có thể lấy hang bất cứ lúc nào.

Một vấn đề nữa với kho ngoại quan vàng nước ta là do vàng Việt Nam

chủ yếu là sử dụng để chứa và lưu vàng nhập khẩu, vì vậy công suất của kho

chưa được sử dụng hết. Tuy nhiên, đến giữa năm 2008, Nhà nước cho ngừng

việc nhập khẩu vàng, kho ngoại quan vàng càng trở nên trầm lắng hơn vì

không xuất cũng không nhập, kho vàng trở thành đúng nghĩa là nơi lưu giữ

vàng chứ chưa phát huy được những mong muốn ngày đầu khai trương.

Một vấn đề ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của kho ngoại quan vàng đó là

tình trạng xuất lậu vàng. Do chênh lệch giữa giá vàng Việt nam và thế giới

Page 74: Tailieu.vncty.com   5106 4775

70

lớn, lợi nhuận từ việc buôn vàng to nên nhiều người đã buôn lậu. Những lúc

giá vàng tăng cao là dịp để các mối tranh thủ xuất hang sang các nước láng

giềng như Campuchia hay Lào để hưởng chênh lệch.

Việc hạn chế xuất khẩu vàng như hiện nay thì sẽ không tránh được tình

trạng chảu máu vàng như hiện nay. Đây sẽ là một thiệt hại lớn khi mà nhà

nước thì không thu được thuế xuất khẩu mà vàng thì vẫn chảy ra khỏi đất

nước. Hơn thế nữa, loại vàng được xuất lậu lại không phải vàng chế tác mà là

vàng nguyên liệu vì vậy không tạo được công ăn việc làm người lao động.

Nhà nước nên quản lý chặt chẽ, không để cho buôn lậu vàng hoành hành, hơn

thế nữa, cần có những ưu đãi rõ ràng với những doanh nghiệp sử dụng kho

ngoại quan vàng, một phần bình ổn thị trường vàng trong nước.

Cuối năm 2010 Nhà nước đã cho phép một số doanh nghiệp nhập khẩu

vàng trở lại, và đầu năm 2010 công ty Vàng bạc đá quý SJC đã nhập 4tấn

vàng và chuyển đến kho ngoại quan vàng, chuẩn bị làm thủ tục đem ra dập

thành vàng miếng. Hi vọng kho ngoại quan vàng sẽ phát huy được ưu thế của

nó, khi mà chỉ có một số doanh nghiệp được phép nhập khẩu vàng thì các

doanh nghiệp khác phải nhập trực tiếp từ SJC, chứ không thế nhập khẩu qua

trung gian nước ngoài. Song bên cạnh đó, SJC cũng phải có những quy định

rõ ràng về giá cả thời gian giao hang nhanh chóng, tạo ra niềm tin cho các

doanh nghiệp trong nước và nước ngoài.

2.4. Phát triển kế hoạch xây dựng sàn vàng quốc gia

Khi mà các sàn giao dịch tự do trong nước ra đời và hoạt động tiềm ẩn

nhiều rủi ro đối với nhà đầu tư, hơn thế nữa sau một thời gian hoạt động các

sàn giao dịch tự do bao gồm cả những sàn giao dịch chưa có giấy phép kinh

doanh, hoạt động không dựa trên một quy tắc nào, dẫn đến nhiều biến động

khó lường lên thị trường vàng trong nước. Trước tình hình đó ngày

Page 75: Tailieu.vncty.com   5106 4775

71

30/12/2010 Thống đốc Ngân hàng nhà nước chính thức cho ngừng hoạt động

của các sàn giao dịch vàng.

Nhưng hiện Việt Nam la quốc gia có số người tham gia đầu tư vàng

đứng đầu thế giới, do vậy đã đến lúc cần có một sàn giao dịch vàng mang

tầm quốc gia để đáp ứng nhu cầu thị trường. Còn để thị trường giao dịch tự

do thì chắc chắn thị trường cũng như nhà đầu tư vàng trong nước sẽ gặp

nhiều rủi ro.

Việt Nam nên cho ra đời một sàn giao dịch vàng quốc gia, thêm vào đó

trước khi cho ra đời nên nghiên cức kinh nghiệp của các sàn giao dich vàng

quốc tế hoạt động hiệu quả trên thế giới, kết hợp với nghiên cứu tình hình thị

trường vàng trong nước. Bên cạnh đó cũng phải nhanh chóng xây dựng một

hành lang pháp lý cho bộ máy sàn giao dịch vàng quốc gia diễn ra suôn xẻ.

Điểm khác biệt lớn nhất so với các sàn giao dịch nhỏ lẻ là không phải do

một doanh nghiệp, một đơn vị tổ chức mà là do nhiều ngân hang thương mại,

nhiều doanh nghiệp hoạt động kinh doanh vàng tham gia. Hoạt động của sàn

giao dịch sẽ độc lập không phụ thuộc hoặc hoạt động chỉ vì lợi ích của riêng

một doanh nghiệp mà chủ yếu là làm dịch vụ, hoàn toàn không có sự cạnh

tranh kinh doanh giữa các doanh nghiệp. Sàn giao dịch vàng quốc gia này sẽ

do Hiệp hội Kinh doanh vàng Việt Nam đứng ra thành lập và chịu trách

nhiệm, vì vậy việc khớp giá ở sàn giao dịch vàng quốc gia, tỷ giá trên trên thị

trường cũng như giá bán sẽ được minh bạch rõ ràng, không còn gây ra những

tranh cãi như mô hình sàn giao dịch vàng do doanh nghiệp tổ chức. Sàn giao

dịch sẽ có dịch vụ mua bán có kỳ hạn và thực hiện các công cụ đề phòng rủi

ro khi thị trường vàng thế giới biến động bất thường.

Như vậy nhà đầu tư có thể tính được giá mua, giá bán trên cơ sở khớp

giá hàng ngày của nhiều người mua, nhiều người bán, nếu lượng khách giao

dịch ngày càng lớn sẽ phản ánh giá mua và giá bán càng khách quan hơn.

Page 76: Tailieu.vncty.com   5106 4775

72

Hơn thế nữa sàn giao dịch vàng quốc gia còn mang lại nhiều lợi ích cho các

cơ quan quản lý nhà nước. Với sự ra đời của sàn giao dịch quốc gia thì sẽ hạn

chế được lượng giao dịch không chính thức, tránh được rủi ro không đáng có.

Qua đó cơ quan quản lý cũng nắm được rõ tình hình cung cầu thị trường

vàng, cung cầu ngoại tệ liên quan đến vàng cũng như lượng tiền giao dịch

trên thị trường vàng một cách chính xác, chủ động hơn, để có những điều tiết

kịp thời khi biến động xảy ra. Thông qua sàn giao dịch này Ngân hang Nhà

nước có cơ sở để ban hành các quy chế cần thiết cho việc quản lý thị trường

vàng trong nước. Hơn thế nữa, qua sàn giao dịch Nhà nước thì có thể huy

động được nguồn vốn để đầu tư cho phát triển còn nhà đầu tư sẽ tiết kiệm

được một khoản chi phí.

Khi mới đi vào hoạt động sàn vàng quốc gia nên được hưởng những

chính sách thoả đáng để tạo điều kiện cho thị trường phát triển ổn định với

đúng ý nghĩa là một thị trường dịch vụ nhưng vẫn phải bảo vệ được lợi ích

cho nhà đầu tư cũng như cơ quan quản lý nhà nước. Nếu sàn vàng quốc gia có

thể đảm bảo tính minh bạch và hạn chế các yếu tố đầu cơ thi nó sẽ góp phần

kiểm soát thị trường tiền tệ.

Hiện nay Nhà nước chỉ mới quản lý vàng trong quan hệ xuất nhập khẩu,

vì vậy muốn Sàn giao dịch vàng quốc gia được thành lập và hoạt động trôi

chảy thì Ngân hàng nhà nước cũng nên ban hành quy chế về việc kết nối giữa

các sàn giao dịch nhỏ với sàn giao dịch quốc gia.

2.5. Quản lý việc kinh doanh vàng bất hợp pháp qua mạng

Thời gian vừa qua hang loạt vụ lừa đảo kinh doanh vàng qua mạng đã

khiến nhiều người điêu đứng. Lợi dụng sự nhẹ dạ cả tin và kém hiểu biết của

nhà đầu tư một số tổ chức tư vấn môi giời vàng đã mở ra các tài khoản cho

phép nhà đầu tư kinh doanh vàng trên đó. Thế nhưng hoạt động kinh doanh

vàng qua mạng vẫn tiếp tục rộ lên từ khi sàn giao dịch đầu tiên của Việt Nam

Page 77: Tailieu.vncty.com   5106 4775

73

ra đời cho đến thời điểm này, khi mà tất cả các sàn giao dịch sẽ phải đóng cửa

và việc kinh doanh vàng trên tài khoản trong nước và nước ngoài phải ngừng.

Hầu hết tất cả các công ty kinh doanh vàng qua mạng hiện đều hoạt động

bất hợp pháp. Các công ty núp dưới cái bong là công ty dịch vụ tư vấn đầu tư

nhưng thực chất bên trong là kinh doanh vàng cho một số trang web vàng ở

nước ngoài. Thời điểm đầu năm 2009 trên thị trường xuất hiện nhiều sàn giao

dịch vàng chui hơn song vẫn không có một khung pháp lý nào để quản lý sàn

giao dịch vàng hay việc kinh doanh vàng bất hợp pháp qua mạng. Về tổ chức,

Ngân hàng Nhà nước cấp phép cho 5 ngân hàng kinh doanh vàng trên tài

khoản ra nước ngoài như một công cụ bảo hiểm kinh doanh, nhằm bảo đảm

tính thanh khoản trong hoạt động kinh doanh vàng của ngân hàng chứ cũng

không cho phép ngân hàng kinh doanh vàng qua mạng cho khách hàng. Các

giao dịch mua bán không rõ ràng và thiếu tính minh bạch sẽ mang lại rủi ro

lớn cho nhà đầu tư.

Sàn giao dịch vàng Sài Gòn một sàn giao dịch vàng đầu tiên, đánh dấu

sự khởi đầu trong việc xây dựng và đưa hoạt động kinh doanh vàng vào bước

phát triển mới. Cũng như chứng khoán, bất động sản, nhà đầu tư có thể kinh

doanh vàng qua sàn. Thế nhưng, thị trường vẫn chờ đợi một khuôn khổ pháp

lý cho hoạt động này để nhà đầu tư có thể yên tâm tham gia kinh doanh vàng

qua sàn. Không chỉ với nhà đầu tư, mà ngay cả nhà tổ chức Sàn giao dịch

vàng cũng băn khoăn khi chưa có khung pháp lý rõ ràng. Đại diện một ngân

hàng cho biết, việc thành lập sàn giao dịch vàng đã được tính đến, vì đây

được xem là loại hình kinh doanh tăng nguồn thu cho mảng dịch vụ. Tuy

nhiên, ngân hàng này vẫn muốn có khung pháp lý trước khi triển khai sàn

vàng.

Vì vậy, kinh doanh vàng qua tài khoản trên mạng là hành vi phạp pháp,

trái pháp luật và lừa đảo gây ra những thiệt hại cho nhà đầu tư. Nhà nước cần

Page 78: Tailieu.vncty.com   5106 4775

74

có những biện pháp cứng rắn để ngăn chặn việc hoạt động của việc kinh

doanh trái phép này. Hơn nữa, trong thời gian tới, khi mà các sàn giao dịch

chính thức bị đóng cửa, nguy cơ bùng nổ đầu tư vàng chui là rất lớn, vì thế

nên có những biện pháp quản lý chặt chẽ từ bây giờ. Thêm vào đó, các nhà

đầu tư cần phải tìm hiểu để có kiến thức về việc giao dịch vàng, không nên

tham gia các trang web bất hợp pháp này, đó chính là cách bảo vệ mình khỏi

rủi ro trong đầu tư vàng.

2.6. Xây dựng các dịch vụ tƣ vấn đầu tƣ vàng

Trong một thị trường vàng đầy biến động và không thể biết trước được

giá vàng sẽ lên hay xuống, thị trường vàng phải chịu tác động từ nhiều phía,

để trờ thành một nhà đầu tư thành công không phải là chuyện đơn giản, mà

thực sự đó là niềm ước ao của rất nhiều người. Hầu hết các nhà đầu tư ở Việt

Nam đều không có kiến thức tốt về thị trường vàng nói chung cũng như

nguyên nhân các yếu tố ảnh hưởng đến giá vàng nói riêng, vì vậy họ thường

đầu tư theo xu hướng, không có định hướng rõ ràng gây ra nhiễu song thị

trường, cũng như đem đến những rủi ro tiềm tang cho chính họ. Vì vậy sự ra

đời của các công ty tư vấn đầu tư vàng là một giải pháp tất yếu cho thị trường.

Kinh doanh vàng là công cụ đầu tư cho lợi nhuận cao nhưng luôn đi kèm

với rủi ro. Đây có thể là con đường dẫn đến giàu sang của nhiều người nhưng

cũng khiến không ít nhà đầu tư lớn phải khốn đốn, vì vậy công ty tư vấn đầu

tư như một công cụ thay nhà đầu tư quản lý cũng như giúp nhà đầu tư có

những kiến thức cơ bản trước khi bước chân vào đầu tư. Hình thức công ty tư

vấn đầu tư vàng như vậy đã gặt hái được nhiều thành công ở nhiều nước trên

thế giới như Hồng Kông, Thượng Hải…

Công ty tư vấn đầu tư có trách nhiệm tìm hiểu thị trường vàng thông qua

những kiến thức chuyên nghiệp của mình cũng như nắm rõ thị trường thế

giới, sự biến động, chu kỳ của sự biến động, phân tích kỹ thuật…Mục đích

chính là giúp các nhà đầu tư không có nhiều kiến thức đầu tư hiệu quả, tất

Page 79: Tailieu.vncty.com   5106 4775

75

nhiên quyết định cuối cùng vẫn thuộc về nhà đầu tư. Nhưng các công ty tư

vấn đầu tư cần thực hiện đúng chức năng của mình, không được lợi dụng nhà

đầu tư cũng như kinh doanh vàng qua tài khoản trên mạng bất hợp pháp.

2.7. Xây dựng các công cụ phân tích kỹ thuật và thông tin thị trƣờng

Để tạo ra lợi nhuận cao cũng tránh được rủi ro, nhà đầu tư cần phải có

được sự hỗ trợ từ các phương pháp phân tích kỹ thuật trong đầu tư vàng cũng

như nắm chắc những thông tin thị trường. Phân tích kỹ thuật là phương pháp

nghiên cứu sự biến động của giá trong quá khứ và hiện tại dựa vào đồ thị

nhằm mục đích dự báo xu hướng giá trong tương lai (ngắn hạn, trung hạn và

dài hạn).

Trên thực tế, việc xây dựng cũng như thực hiện tốt các phương pháp

phân tích kỹ thuật là một mắt xích quan trọng trong đầu tư, hơn thế nữa, ở thị

trường vàng nhiều biến động và rủi ro nhà đầu tư càng nên trang bị cho mình

một nền tảng kiến thức về đầu tư vàng để trở thành nhà đầu tư thành công.

Trong đầu tư vàng nhà đầu tư có thể tham khảo các phương pháp sau: phân

tích kỹ thuật , phân tích cơ bản, phân tích tâm lý, phân tích tổng hợp kết hợp

kỹ thuật và cơ bản. [40]

So với phân tích kỹ thuật cơ bản thì phân tích kỹ thuật dễ tiếp cận hơn

và dễ hiểu hơn và khi áp dụng đem đến kết quả tức thời và hiệu quả. Phân tích

kỹ thuật được tiếp cận dựa trên 3 giả định cơ bản là biến động thị trường

phản ánh tất cả, giá di chuyển theo xu thế chung và lịch sử sẽ lặp lại. Khi sử

dụng phân tích cơ bản để xác định xu hướng giá thì rất khó để dự báo giá sẽ

tăng hoặc giảm bao nhiêu. Nhưng sử dụng phân tích kỹ thuật , nhà đầu tư có

thể dễ dàng xác định các mức cản trên hoặc cản dưới và dễ dàng xác định

mục tiêu dừng lỗ hoặc chốt lời khi giao dịch.

Để ứng dụng phân tích cơ bản trong xác định xu hướng thị trường, nhà

đầu tư cần có kiến thức sâu rộng về nhiều lĩnh vực, phải có nguồn thông tin

nhanh và chính xác, phải phân tích tổng hợp từ rất nhiều nguồn tư liệu…Vì

Page 80: Tailieu.vncty.com   5106 4775

76

vậy đầu tư vàng không hẳn là quá khó, nhưng vấn đề là nhà đầu tư cần phải

sử dụng hiệu quả phân tích kỹ thuật, tuỳ vào từng trường hợp mà sự dụng các

công cụ khác nhau tuỳ theo thị trường xuất hiện xu hướng hay thị trường dao

động trong biên độ bao nhiêu.[40]

Khi càng am hiểu về phân tích kỹ thuật thì mức độ chính xác trong phân

tích càng cao. Nhà đầu tư cần kết hợp nguồn thông tinh chính xác kịp thời để

đưa ra quyết định cuối cùng trong giao dịch. [41]

2.8. Đẩy mạnh nghiên cứu đào tạo đồng thời phổ biến rộng rãi kiến thƣc

về giá vàng và thị trƣờng vàng

Tình hình giá vàng biến động lên xuống nhiều lúc có sự chênh lệch lớn

với thế giới một phần do sự thiếu hiểu biết của nhà đầu tư, mà chính xác là do

những người dân thấy giá vàng lên cao đổ xô đi mua có lúc lại đổ xô bán ra

như một phong trào. Vì vậy việc phổ biến kiến thức về giá vàng cũng như thị

trường vàng là hết sức quan trọng trong tình hình hiện này. Người dân hay

nhà đầu tư vàng nên hiểu rõ những yếu tố ảnh hưởng đến thị trường vàng

cũng như sự tác động của thị trường vàng đến tổng thể nền kinh tế đất nước.

Như vậy chúng ta cần đẩy mạnh nghiên cứu đạo tạo, nên mở các lớp phổ biến

kiến thức cơ bản đầu tư vàng, để nhà đầu tư không đầu tư theo hướng “phong

trào” như vậy với bất cứ biến động nào thị trường sẽ không bị “nháo nhác”

như đợt giá vàng tăng cao tháng 11/2009. Trong mọi ngành nghề thị trường

không riêng gì thị trường vàng, nghiên cứu và phát triển là một yếu tố không

thể thiếu, với sự non trẻ của mình, việc nâng cao nghiên cứu đào tạo và phổ

biến kiến thức về giá vàng và thị trường vàng là không thể thiếu.

Page 81: Tailieu.vncty.com   5106 4775

77

KẾT LUẬN

Ở Việt Nam vàng đã được sử dụng rộng rãi thay thế các tiền tệ trong các

giao dịch thương mại như bất động sản, phương tiện đi lại cho đến tận giữa

thập niên 1990s. Chẳng có một thống kê nào có thể cho biết chính xác đã có

bao nhiêu giao dịch thành công và tổng giá trị là bao nhiêu nhờ công cụ tiền

tệ này. Cho đến nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, thị trường vàng

Việt Nam đang có những bước phát triển mạnh mẽ, cùng với nhiều biến động

như sự ra đời của các trung tâm giao dịch vàng liên thông thế giới, việc đóng

cửa các sàn giao dịch vàng sau hơn hai năm hoạt động, cho đến các chính

sách xuất nhập khẩu vàng của nhà nước. Tất cả tạo nên một thị trường vàng

Việt Nam sôi động và thu hút nhiều nhà đầu tư, cuộc chơi của các nhà đầu tư

vàng Việt Nam mở rộng hơn với nhiều lựa chọn và đa dạng về công cụ đầu tư.

Song kinh doanh vàng là kênh đầu tư ẩn chứa nhiều rủi ro khó dự đoán,

bước đầu thị trường vàng Việt Nam cũng còn gặp nhiều khó khăn trong quản

lý. Nếu có thể chớp lấy cơ hội thì thị trường Việt Nam sẽ mang lại nhiều

nguồn lợi cho đất nước. Tuy nhiên, nhà nước nên vừa có những biện pháp

quản lý chặt chẽ vừa tạo thông thoáng cần thiết cho các doanh nghiệp kinh

doanh vàng để có thể phát triển thị trường ngày càng trở nên hoàn thiện hơn.

Doanh nghiệp và nhà nước nên có những phối hợp cần thiết để tạo nên một

thị trường cạnh tranh lành mạnh. Nhà đầu tư cũng nên trang bị cho mình

những kiến thức cơ bản về thị trường vàng để không gặp phải những rủi ro

không đáng có vì sự thiếu hiểu biết. Thị trường vàng Việt Nam sẽ vững mạnh

hơn khi có thể tận tận dụng tốt những biến động trên thị trường thế giới cũng

như có hành lang pháp lý phù hợp.

Thị trường vàng thật sự là một thị trường nhạy cảm và rất phức tạm, nó

chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố từ vi mô đến vĩ mô, và chính bản thân thị

Page 82: Tailieu.vncty.com   5106 4775

78

trường vàng cũng phần nào tác động đến nền kinh tế đất nước. Trong quá

trình thực hiện, tuy đã có gắng tìm hiểu và sưu tầm tài liệu, nhưng chắc chắn

bản khoá luận sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Em hi vọng được các thầy

cô và các bạn góp ý để bài viết hoàn thiện hơn.

Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn tất cả các thầy cô giáo trường đại

học Ngoại Thương và đặc biệt là Tiến sỹ Lê thị Thu Thuỷ đã giúp đỡ em

trong quá trình thực hiện khoá luận này.

Page 83: Tailieu.vncty.com   5106 4775

79

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tham khảo Tiếng Việt:

1. Đinh Xuân Trình- 1999 – Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ- tập 1-

NXB Giáo dục

2. K.Mark- 1959- Tư bản quyển 1, tập I. NXB Sự thật, tr179

3. N.Gregonry Mankiw (2004) Những nguyên lý của kinh tế học, NXB Lao động

xã hội- Hà Nội

4. Nghị định 160/2006/NĐ-CP hướng dẫn pháp lệnh ngoại hội giao NHNN quản

lý hoạt động xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu dưới dạng khối, thỏi, hạt, miếng

5. Nghị định 174/1999/NĐ-CP ngày 9/12/1999 của chính phủ về quản lý hoạt

động kinh doanh vàng

6. Nghị định 86/199/NĐ-CP

7. Nghị định số 64/2003/NĐ-CP ngày 11/06/2003 của chính phủ sử đổi bổ sung từ

nghị định số 174/199/NĐ-CP

8. PGS.TS Nguyễn Văn Tiến- 2007- Tài chính quốc tế- NXB Thống kê

9. Pháp lệnh ngoại hối 2005

10. Quyết định 432 năm 2000, do NHNN đã ban hành

11. Quyết định 76/HĐBT ngày 13 thánh 5 năm 1987 của Hội đồng bộ trường quy

định về thăm dò khai thác chế biến và mua bán vàng

12. Quyết định về việc kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài- Số

03/2006/QĐ-NHNN tháng 1 năm 2006

13. Tạp chí Doanh số ra ngày 02/09/2009

14. Theo thông tấn xã Việt Nam ra ngày 22-1-2006

15. Thông tư số 01/2010/TT-NHNN bãi bỏ Quyết định số 03/2006/QĐ-NHNN

ngày 18/1/2006 về việc kinh doanh vàng trên tài khoản pử nớpc ngoài và quyết

định số 11/2007/QĐ-NHNN ngày 15/3/2007 về sửa đổi bổ sung quy định

Page 84: Tailieu.vncty.com   5106 4775

80

Tài liệu tham khảo Tiếng Anh:

16. T.W. McRae (2003), The gold market, Oxford University Press, UK

17. The time-19.03.2009

18. United State National Mining Association (2001)

19. Word Gold Council (2007) “The Value of Gold to the Society”

20. World gold council (2007) “Gold Market Knowledge”

Trang website tham khảo:

21. http://periodic.lanl.gov/elements/79.html

22. http://environmentalchemistry.com/yogi/periodic/Au.html

23. http://www.galleries.com/minerals/elements/gold/gold.htm

24. http://www.invest.gold.org/sites/en/why_gold/demand_and_supply/

25. http://www.pensions.gold.org/us/supply_demand/supply/

26. http://www.saga.vn/Cohoigiaothuong/Thitruong1/tthh/14911.saga

27. http://www.saga.vn/Cohoigiaothuong/Thitruong1/tthh/14920.saga

28. http://www.sggp.org.vn/daututaichinh/2007/5/101282/- Báo Sài gòn

giải phóng

29. http://vneconomy.vn/20100107041512554P0C6/cham-dut-kinh-doanh-

vang-tren-tai-khoan-o-nuoc-ngoai.htm

30. http://www.laodong.com.vn/Home/Khai-truong-kho-ngoai-quan-vang-tai-

TPHCM/20076/43370.laodong

31. http://atpvietnam.com/vn/thongtinnganh/13871/index.aspx

32. Website công ty vàng bạc đá quý Bảo tín Minh Châu Ngày 15/10/2008

33. www.24h.com.vn/news/detail/52/26...ews%3D10

34. http://www.saga.vn/view.aspx?id=10238

35. http:// www.gold.org _Hội đồng vàng thế giới

36. http://vovnews.vn/Home/Xu-huong-cua-gia-vang-nam-

2010/20103/138078.vov- Báo điện tử đài tiếng nói Việt Nam

Page 85: Tailieu.vncty.com   5106 4775

81

37. Theo Vieteconomy ngày thứ 5 07/01/2010

38. http://www.sbv.gov.vn ngày 11/11/2009- Wesbsite của Ngân hàng nhà

nước Việt Nam

39. http://www.mof.gov.vn/Default.aspx?tabid=612&ItemID=34746 website

chính thức của Bộ tài chính

40. http://giavang.com.vn/home/article/phan-tich-ky-thuat-trong-dau-tu-vang-

20091125-12481.html

41. http://www.vntrades.com/tintuc/name-News-file-article-

sid-46811.htm