QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan...

187
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH LỘC THỊ THUỶ QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ N¡M 1991 §ÕN N¡M 2016 LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ PHONG TRÀO CỘNG SẢN, CÔNG NHÂN QUỐC TẾ VÀ GIẢI PHÓNG DÂN TỘC HÀ NỘI - 2018

Transcript of QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan...

Page 1: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

LỘC THỊ THUỶ

QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC

ë CUBA Tõ N¡M 1991 §ÕN N¡M 2016

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ PHONG TRÀO CỘNG SẢN,

CÔNG NHÂN QUỐC TẾ VÀ GIẢI PHÓNG DÂN TỘC

HÀ NỘI - 2018

Page 2: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

LỘC THỊ THUỶ

QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC

ë CUBA Tõ N¡M 1991 §ÕN N¡M 2016

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ PHONG TRÀO CỘNG SẢN,

CÔNG NHÂN QUỐC TẾ VÀ GIẢI PHÓNG DÂN TỘC

Mã số: 62 22 03 12

Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. NGUYỄN VIẾT THẢO

2. PGS.TS. TRẦN THỌ QUANG

HÀ NỘI - 2018

Page 3: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng

tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và có

nguồn gốc rõ ràng.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Lộc Thị Thuỷ

Page 4: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN

ĐẾN ĐỀ TÀI 7

1.1. Công trình nghiên cứu của các tác giả liên quan đến luận án 7

1.2. Vấn đề chưa được giải quyết 24

1.3. Những vấn đề luận án tập trung làm rõ 24

Chương 2: QUAN NIỆM VÀ NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN

QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH BẢO VỆ ĐỘC LẬP DÂN TỘC

Ở CUBA TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2016 26

2.1. Quan niệm về bảo vệ độc lập dân tộc 26

2.2. Những nhân tố tác động đến quá trình đấu tranh bảo vệ độc lập dân

tộc ở Cuba 35

Chương 3: THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH BẢO VỆ ĐỘC

LẬP DÂN TỘC Ở CUBA TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2016 60

3.1. Mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung của Đảng và Nhà nước Cuba về đấu

tranh bảo vệ độc lập dân tộc 60

3.2. Sự triển khai và kết quả thực hiện quá trình đấu tranh bảo vê ̣̣độc lập

dân tộc của Cuba 70

Chương 4: ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH BẢO VỆ ĐỘC LẬP

DÂN TỘC Ở CUBA TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2016, MỘT

SỐ ĐẶC ĐIỂM VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA 119

4.1. Thành tựu và hạn chế 119

4.2. Một số đặc điểm của quá trình đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc ở

Cuba giai đoạn 1991-2016 129

4.3. Vấn đề đặt ra đối với Cuba trong thời gian tới và liên hệ với kinh

nghiệm của Việt Nam 135

KẾT LUẬN 149

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 151

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152

PHỤ LỤC 169

Page 5: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Tên viết tắt Tên tiếng việt Tên gốc tiếng Tây Ban Nha/

tiếng Anh

ALADILAIA

Hiệp hội liên kết

Mỹ Latinh

- Asociación Latinoamericana de

Integración

- Latin American Integration

Association

ALBA

Liên minh Bolivar dành cho

các dân tộc Châu Mỹ chúng

ta

- Alianza Bolivariana para los Pueblos

de Nuestra America

- Bolivarian Alliance for the Peoples of

Our America

CANACN Cộng đồng các quốc gia

vùng Andes

- Comunidad Andina de Naciones

- Andean Community of Nations

APPA Liên minh Thái Bình Dương - Allianza del Pacifico

- Pacific Alliance

CACM Thị trường chung Trung Mỹ - Central American Common Market

CARICOM Cộng đồng Caribe - Caribbean Community

CELAC Cộng đồng các nước Mỹ

Latinh và Caribe

- Community of Latin American and

Caribbean States

- Comunidad de Estados

Latinoamericanos y Caribeños

CEPAL

Ủy ban Kinh tế Mỹ Latinh

và Caribe (của Liên Hợp

Quốc)

- Comisión Económica para América

Latina y el Caribe

EC Cộng đồng Châu Âu - European Community

EU Liên minh Châu Âu - European Union

FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài - Foreign Direct Investment

ICAP Viện Cuba hữu nghị với các

dân tộc

- Instituto Cubano de Amistad con los

Pueblos

IS Tổ chức Nhà nước Hồi giáo

tự xưng

- Islamic State

GDP Tổng sản phẩm quốc nội - Gross Domestic Product

MERCOSUR Khối thị trường chung Nam - Mercado Común del Sur

Page 6: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

SCM Mỹ - Southern Common Market

NAFTA Hiệp định Thương mại tự do

Bắc Mỹ

- North American Free Trade

Agreement

NAM Phong trào Không liên kết - Non-Aligned Movement

OAS Tổ chức các quốc gia Châu

Mỹ

- Organization of America States

RIO Nhóm RIO

- Grupo de Río

- Group of RIO

PAHO Tổ chức Y tế liên Mỹ - Pan American Health Organization

PDCA Thỏa thuận hợp tác và Đối

thoại chính trị song phương

- Political Dialogue and Cooperation

Agreement

SEV

CMEA

Cộng đồng kinh tế tương trợ

- Sovyet Ekonomičeskoy

Vzaimopomošči (tiếng Nga)

- Council of Mutual Economic

Assistance

TNC Tập đoàn xuyên quốc gia - Trans National Corporation

UNDP Chương trình Phát triển Liên

Hợp Quốc

- United Nations Development

Programme

UNESCO

Tổ chức giáo dục, khoa học

và văn hóa của Liên Hợp

Quốc

- United Nations Educational Scientific

and Cultural Organization

UN Liên Hợp quốc - Union Nation

USD Đồng đô la Mỹ - United States Dollars

WTO Tổ chức thương mại thế giới - World Trade Organization

Page 7: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc (9/1945), trên thế giới đã chứng kiến

sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách mạng giải phóng dân tộc,

cách mạng xã hội chủ nghĩa và cách mạng khoa học kỹ thuật). Đặc biệt, là cuộc

cách mạng giải phóng dân tộc đã tạo tiền đề quan trọng dẫn tới sự ra đời của

nước Cộng hòa Cuba vào ngày 1/1/1959, quốc gia sau đó đã lựa chọn con đường

đi lên xã hội chủ nghĩa (16/4/1961).

Thắng lợi của cuộc cách mạng Cuba trước chế độ độc tài Batista do Mỹ

hậu thuẫn được coi là minh chứng sống động về tinh thần đấu tranh kiên cường

của các dân tộc bị áp bức chống lại ách thống trị, cường quyền của chủ nghĩa

thực dân, đế quốc và khẳng định quan điểm đúng đắn của Lênin rằng: "Lịch sử

tiến theo những con đường rất lạ lùng và chính một nước lạc hậu lại có vinh dự

đi đầu một phong trào thế giới vĩ đại" [124, tr.431]. Trong suốt giai đoạn từ năm

1959-1991, nhân dân Cuba luôn phải thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược đó là:

vừa xây dựng đất nước, bảo vệ thành quả của cuộc cách mạng, vừa phải đương

đầu với sự chống phá của các thế lực phản động trong và ngoài nước được Mỹ

hậu thuẫn.

Sau khi chiến tranh Lạnh kết thúc (12/1991), dẫn tới sự sụp đổ của Liên

Xô (một đồng minh truyền thống), đã làm cho Cuba lâm vào khủng hoảng toàn

diện và sâu sắc khi mất đi 85% kim ngạch xuất nhập khẩu; 95% nguồn cung cấp

dầu; 57% sản lượng lương thực; GDP giảm 35%;mức lương thực tế giảm 25%;

nhập khẩu tới 70% lương thực, thực phẩm; tình trạng bất ổn định xã hội gia tăng;

niềm tin của nhân dân vào chế độ và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bị suy

giảm; trong nội bộ Đảng cộng sản Cuba cũng có nhiều ý kiến bất về con đường

phát triển của đất nước [92, tr.12]. Thêm vào đó, trong thời gian này, các chính

quyền Mỹ đã tăng cường các biện pháp chống phá Cuba thông qua Đạo luật

Torricelli (1992) và Helm-Burton (1996) nhằm bóp nghẹt nền kinh tế Cuba; tài trợ

cho các lực lượng đối lập trong nước nhằm mục tiêu lập ra các đảng đối lập chống

phá và gây ra các vụ bạo động nhằm làm bất ổn chính trị-xã hội; kích động lực

lượng người Mỹ gốc Cuba chống đối chính quyền và đẩy mạnh Đạo luật "Di trú"

Page 8: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

2

(Chân ướt, chân giáo) nhằm lôi kéo những người Cuba vượt biên trái phép sang Mỹ

và một số nước Mỹ Latinh. Đứng trước bối cảnh trên, Đảng và Nhà nước Cuba đã

đề ra đường lối cải cách kinh tế tại Đại hội lần thứ IV (10/1991), với phương châm

"chọn lọc dần dần và có trật từ", nhằm mục tiêu đưa đất nước thoát khỏi khủng

hoảng kinh tế-xã hội trong "Thời kỳ đặc biệt trong hòa bình".

Sau một thời gian thực hiện, nền kinh tế Cuba đã từng bước thoát khỏi

khủng hoảng; đời sống nhân dân dần được cải thiện; hệ thống chính trị-xã hội ổn

định; nền độc lập dân tộc được giữ vững; niềm tin của nhân dân vào chế độ được

củng cố...Đây chính là cơ sở để Đảng và nhà nước Cuba tuyên bố bước ra khỏi

"Thời kỳ đặc biệt trong hòa bình" vào năm 2004 và đưa đất nước bước vào giai

đoạn mới là đẩy mạnh cải cách kinh tế và thực hiện chủ trương "Cập nhật hóa

mô hình kinh tế-xã hội". Sau hơn một thập kỷ thực hiện chủ trương trên (2004-

2016), đến nay, nền kinh tế Cuba đã từng bước thoát ra khỏi khủng hoảng kinh

tế-xã hội; chế độ chính trị-xã hội được giữ vững; nền độc lập dân tộc và chủ

quyền quốc gia được đảm bảo; quan hệ quốc tế được mở rộng, nhất là việc Mỹ

đã tuyên bố bình thường hóa quan hệ với Cuba sau gần 60 năm đối đầu, thù địch.

Những thành công nêu trên đã góp phần củng cố vào sự nghiệp đấu tranh bảo vệ

độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia trong bối cảnh mới.

Tuy nhiên, quá trình đấu tranh và bảo vệ độc lập dân tộc của Cuba trong

giai đoạn này cũng vẫn phải đối mặt với nhiều nguy cơ, thách thức từ bên trong

và bên ngoài như: chính sách cấm vận kinh tế của Mỹ vẫn được duy trì và có

phần siết chặt hơn; sự điều hành nền kinh tế vĩ mô còn nhiều bất cập, hạn chế; sự

chống phá của các thế lực phản động vẫn tiếp tục gia tăng; những mặt trái của

chính sách bao cấp, miễn phí cũng tác động không nhỏ đến quá trình này...

Sở dĩ tác giả quyết định lựa chọn đề tài về quá trình đấu tranh bảo vệ độc lập

dân tộc ở Cuba mà không chọn các quốc gia khác bởi cách mạng Cuba có những

nét đặc trưng riêng có, không chỉ ở Mỹ Latinh mà còn trên thế giới, đó là: Cuba là

quốc gia xã hội chủ nghĩa duy nhất ở Tây bán cầu, nằm ngay sát nách kẻ thù là đế

quốc Mỹ, nhưng vẫn tồn tại và đứng vững bất chấp sự chống phá quyết liệt. Mặt

khác, cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc ở Cuba luôn gắn liền với con đường đi

lên chủ nghĩa xã hội, với nghĩa vụ quốc tế cao đẹp; các chính sách miễn phí về giáo

Page 9: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

3

dục, y tế, an sinh xã hội được coi là vũ khí quan trọng, minh chứng rõ nét nhất về tính

ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân Cuba đang xây dựng.

Giai đoạn 1991-2016, cũng được coi là mốc son tiêu biểu nhất, thể hiện

sinh động, rõ nét nhất sự nghiệp đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng

chủ nghĩa xã hội ở Cuba trong bối cảnh mới. Đây là giai đoạn có những nét khác

biệt cơ bản so với thời kỳ thực hiện Kế hoạch hóa 1961-1991, khi Cuba có sự

hậu thuẫn của Liên Xô trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Nghiên cứu

quá trình đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc của Cuba trong giai đoạn này thực sự

đã đem lại cho quốc đảo này những bài học kinh nghiệm quý báu không chỉ

trong giai đoạn hiện nay mà còn trong những năm tiếp theo bởi: những thành

công và thất bại từ quá trình cải cách và cập nhật hóa mô hình kinh tế-xã hội

trong giai đoạn này sẽ được lãnh đạo đảng, nhà nước Cuba đúc rút và phát triển

nó tốt hơn trong giai đoạn kế tiếp; giúp Cuba có được những kinh nghiệm quý

báu trong quá trình hội nhập quốc tế và tham gia gia sâu rộng hơn vào sân chơi

kinh tế quốc tế; giúp Cuba từng bước kiện toàn, củng cố và cải cách đường lối

phát triển kinh tế-xã hội, qua đó củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản đối

với đất nước và nhân dân; những kinh nghiệm của Cuba trong việc duy trì các

chính sách an sinh xã hội, giáo dục, y tế tốt đẹp trong giai đoạn này sẽ tiếp tục

được coi là lợi thế so sánh giúp quốc đảo này phát triển kinh tế và bảo vệ vững

chắc chế độ xã hội chủ nghĩa trong thời gian tới.

Với tư cách là một học giả ở Việt Nam, một quốc gia có nhiều nét tương

đồng với Cuba: có cùng ý thức hệ; phải tiến hành các cuộc đấu tranh giải phóng

dân tộc chống lại ách xâm lược của Mỹ và tay sai; có cùng mục tiêu và con

đường đi lên chủ nghĩa xã hội và đều là những quốc gia bị Mỹ thực thi các chính

sách bao vây cấm vận...nhưng sau 30 năm thực hiện công cuộc "Đổi mới" Việt

Nam đã thu được nhiều thành tựu quan trọng đó là: giữ vững được sự ổn định

chính trị-xã hội; nền độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia được bảo đảm; đời

sống của nhân dân không ngừng được nâng cao; vị thế của Việt Nam trên trường

quốc tế được mở rộng... Đây chính là bài học tham chiếu có ý nghĩa quan trọng

đối với Cuba, nhất là trong bối cảnh quốc đảo này đang thúc đẩy công cuộc cải

cách kinh tế nhằm mục tiêu từng bước đưa nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng;

Page 10: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

4

cải thiện đời sống của nhân dân; tranh thủ sự ủng của cộng đồng quốc tế yêu cầu

Mỹ xóa bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận kinh tế.

Với những nhận thức nêu trên, tác giả đã quyết lựa chọn đề tài: "Quá

trình đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc ở Cuba từ năm 1991 đến năm 2016"

làm luận án tiến sỹ chuyên ngành Lịch sử Phong trào cộng sản, công nhân quốc

tế và giải phóng dân tộc.

2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích của luận án

Luận án tập trung phân tích và làm rõ thực trạng đấu tranh bảo vệ độc lập

dân tộc ở Cuba từ năm 1991 đến năm 2016 trên các lĩnh vực chính trị- ngoại

giao; kinh tế; an ninh- quốc phòng; văn hóa- xã hội. Sau đó, tác giả đi đưa ra

những đánh giá về thành tựu và hạn chế, một số đặc điểm, vấn đề đặt ra đối với

quá trình đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc ở Cuba và liên hệ với kinh nghiệm

của Việt Nam.

2.2. Nhiệm vụ của luận án

- Đưa ra một số quan niệm về độc lập dân tộc và bảo vệ độc lập dân tộc,

sau đó đi sâu phân tích những nhân tố tác động đến quá trình đấu tranh bảo vệ

độc lập dân tộc ở Cuba từ năm 1991 đến năm 2016;

- Phân tích mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung và sự triển khai của quá trình

đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc ở Cuba từ năm 1991 đến năm 2016 qua 2 giai

đoạn: 1991-2004 và 2004-2016 trên các lĩnh vực: Chính trị- ngoại giao; kinh tế;

an ninh- quốc phòng; văn hóa-xã hội;

- Đánh giá những thành tựu, hạn chế và một số đặc điểm đặc trưng của

Cuba về quá trình đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc giai đoạn 1991-2016.

- Nêu lên một số vấn đề đặt ra đối với quá trình bảo vệ độc lập dân tộc ở

Cuba trong thời gian tới và liên hệ với kinh nghiệm của Việt Nam về đấu tranh

bảo vệ độc lập dân tộc trong giai đoạn 1991-2016.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án

3.1. Đối tượng nghiên cứu: những chủ trương, đường lối, chính sách

(mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung) và sự triển khai của quá trình đấu tranh bảo vệ

độc lập dân tộc ở Cuba từ năm 1991 đến năm 2016

Page 11: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

5

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về nội dung của luận án: tập trung nghiên cứu về quá trình đấu tranh

bảo vệ độc lập dân tộc ở Cuba trên các lĩnh vực: Chính trị- ngoại giao; kinh tế;

an ninh- quốc phòng; văn hóa- xã hội.

- Về không gian: nước Cộng hòa Cuba trong bối cảnh đấu tranh bảo vệ

độc lập dân tộc

- Về thời gian: Thời gian nghiên cứu của đề tài được giới hạn từ năm 1991

đến năm 2016. Năm 1991 là thời điểm Cuba tiến hành Đại hội Đảng toàn quốc

lần thứ IV, Đại hội đầu tiên của Công cuộc Cải cách kinh tế. Đây cũng là giai

đoạn rất khó khăn của đất nước Cuba vì sau khi Liên Xô sụp đổ, Cuba mất đi

một đồng minh chiến lược về chính trị và kinh tế. Mặt khác, đây cũng là thời

điểm chính quyền Mỹ thắt chặt hơn chính sách bao vây, cấm vận với Cuba thông

qua việc đề ra Đạo luật Torricelli (1992). Năm 2016, là mốc Cuba kỷ niệm 25

năm cải cách kinh tế và 55 năm Cuba tuyên bố tính chất xã hội chủ nghĩa của

cuộc Cách mạng. Đây cũng là năm đánh dấu 5 năm Cuba thực hiện chủ trương

“Cập nhật hóa mô hình kinh tế-xã hội” và tiến hành Đại hội Đảng toàn quốc lần

thứ VII.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý luận

Luận án được thực hiện dựa trên những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa

Mác - Lênin về thời đại; vấn đề dân tộc và quyền tự quyết dân tộc; vấn đề giai

cấp và đấu tranh giai cấp; quan niệm của Đảng và Nhà nước Cuba về đấu tranh

bảo vệ độc lập dân tộc được đề cập trong các Văn kiện, Cương lĩnh chính trị tại

Đại hội Đảng lần thứ IV, V, VI, VII và nền tảng tư tưởng của Jose Marti, tư

tưởng lịch sử của lãnh tụ Fidel Castro.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận án sử dụng phương pháp luận cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện

chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin. Tác giả còn sử dụng một

số phương pháp khác như: phương pháp lịch sử, phương pháp tổng hợp,

phương pháp so sánh, phương pháp phân tích và phương pháp quy nạp để

trình bày luận án.

Page 12: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

6

5. Đóng góp mới về khoa học của luận án

- Luận án có thể giúp cho người đọc tiếp cận một cách rõ nét hơn về quá

trình đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc của một quốc gia xã hội chủ nghĩa nhỏ bé

đứng bên cạnh một đế quốc, một siêu cường tư bản chủ nghĩa. Đây cũng là cuộc

đấu tranh kéo dài nhất trong lịch sử (kéo dài gần 6 thập kỷ) trong việc phá thế

bao vây, cấm vận, cô lập của Mỹ.

- Đánh giá những thành tựu, hạn chế về mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung và

quá trình triển khai trên các lĩnh mà Đảng và Nhà nước Cuba đã thực hiện trong

giai đoạn 1991-2016 đối với quá trình đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc.

- Từ những thành tựu và đóng góp trong quá trình đấu tranh bảo vệ độc

lập dân tộc ở Cuba, có thể khái quát thành một số đặc điểm của quá trình đấu

tranh bảo vệ độc lập dân tộc ở Cuba trong giai đoạn này.

- Luận án cũng góp phần làm phong phú thêm nguồn tài liệu tham khảo

cho việc nghiên cứu, giảng dạy về quan hệ quốc tế, lịch sử về phong trào cộng

sản công nhân quốc tế và giải phóng dân tộc của Việt Nam.

6. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội

dung luận án được kết cấu thành 04 chương, 10 tiết.

Page 13: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

7

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1. CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA CÁC TÁC GIẢ LIÊN QUAN

ĐẾN LUẬN ÁN

1.1.1. Các công trình nghiên cứu của các tác giả Việt Nam

* Nhóm các công trình liên quan đến quan niệm về bảo vệ độc lập dân tộc

Trong cuốn: "Độc lập dân tộc của các nước đang phát triển trong xu thế

toàn cầu hóa" của tác giả Thái Văn Long [48]. Tác giả đã tập trung đi sâu phân

tích 4 nội dung chính: thứ nhất, những nhân tố tác động đến độc lập dân tộc của

các nước đang phát triển như: chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội, lịch sử truyền

thống, trong đó yếu tố văn hóa-xã hội, lịch sử truyền thống được coi là yếu tố

quan trọng trong việc đề ra đường lối, chính sách của các nước đang phát triển;

thứ hai, nêu rõ những lực lượng tham gia cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc

hiện nay: phong trào Không liên kết (NAM), các nước xã hội chủ nghĩa và

phong trào cánh tả...; thứ ba, đưa ra những nội dung cơ bản trong cuộc đấu tranh

bảo vệ độc lập dân tộc của các nước đang phát triển; thứ tư, phân tích những vấn

đề cơ bản trong quá trình đấu tranh và bảo vệ độc lập dân tộc của Việt Nam

trong xu thế toàn cầu hóa. Những tác động của quá trình toàn cầu hóa mà tác giả

nêu trên cũng chính là những vấn đề mà các nước đang phát triển đang phải đối

mặt khi hội nhập quốc tế, trong đó có Cuba.

Trong cuốn: "Chủ quyền quốc gia dân tộc trong xu thế toàn cầu hóa và

vấn đề đặt ra đối với Việt Nam" của tác giả Nguyễn Hoàng Giáp và Phan Văn

Rân [36]. Các tác giả tập trung đi sâu phân tích quá trình bảo vệ độc lập dân tộc

của các nước đang phát triển dựa trên các vấn đề lý luận, thực tiễn về chủ quyền

quốc gia dân tộc, toàn cầu hóa. Trong đó, chia làm 3 chương, chương 1, các tác

giả đã tập trung vào vấn đề chủ quyền quốc gia dân tộc trong quá trình toàn cầu

hóa; chương 2, phân tích quan điểm của Việt Nam về độc lập dân tộc, chủ quyền

quốc gia của Việt Nam trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, đồng

thời, đưa ra những thành tựu và hạn chế của Việt Nam trong quá trình này;

chương 3, tác giả đưa ra một số khuyến nghị đối với Việt Nam trong việc tăng

Page 14: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

8

cường bảo vệ độc lập dân tộc trong hội nhập quốc tế. Thông qua những khuyến

nghị đối với Việt Nam trong việc tăng cường bảo vệ độc lập dân tộc có thể là kinh

nghiệm và bài học quý báu cho Cuba trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay.

Ngoài ra, còn có một số bài viết đăng trên các tạp chí trong nước cũng đã

đề cập đến quan niệm, tư tưởng bảo vệ độc lập dân tộc của Anh hùng giải phóng

dân tộc Jose Marti của Cuba. Tiêu biểu có một số bài viết như sau: Tác giả Phạm

Xuân Nam với các bài: "Hôxê Máctin người thầy của nền độc lập Cuba" của

Phạm Xuân Nam [55]; "Hôxê Mácti - Nhà văn hóa lớn, vị Thánh tông đồ của

nền độc lập Cuba" của Phạm Xuân Nam [57]; "Tư tưởng độc lập dân tộc và tiến

bộ xã hội của Hôxê Máctin và cách mạng CuBa" của tác giả Nguyễn Ngọc Mão

[53]. Trong đó, các tác giả đã ca ngợi tinh thần đấu tranh, tư tưởng tiến bộ của

Jose Marti về độc lập dân tộc trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Đây chính

là nền tảng tư tưởng giúp cho Đảng và nhân dân Cuba đấu tranh không mệt mỏi

chống lại ách thống trị của thực dân Tây Ban Nha và đế quốc Mỹ nhằm bảo vệ

vững chắc thành quả cách mạng năm 1959.

* Nhóm các công trình liên quan đến lịch sử cách mạng Cuba và vai trò

của lãnh tụ Fidel Castro đối với cuộc cách mạng này

Cuốn sách: "Cuba đất nước tự do của Châu Mỹ" của tác giả Lê Thành

[75] đã ca ngợi sự kiên trì, bền bỉ của nhân dân Cuba trong cuộc đấu tranh giải

phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc từ thực dân Tây Ban Nha và đế quốc Mỹ.

Tác giả cũng cho rằng, thắng lợi của nhân dân Cuba đã là niềm động viên, khích

lệ, là tấm gương để cho nhân dân các nước yêu chuộng hòa bình ở Mỹ Latinh

nói riêng, thế giới nói chung đứng lên giành độc lập dân tộc.

Cuốn sách: "Tìm hiểu lịch sử cách mạng Cuba - giai đoạn cách mạng giải

phóng dân tộc 1953-1959" của Phạm Xuân Nam [58]. Trong đó tác giả đã phân

tích một cách sâu sắc, rõ nét quá trình đấu tranh của các tầng lớp nhân dân Cuba

chống lại ách xâm lược của Mỹ (1902-1952) và cuộc cách mạng giải phóng dân

tộc của Cuba dưới sự lãnh đạo của Fidel Castro và Phong trào 26/7 chống lại chế

độ độc tài Batista thân Mỹ (giai đoạn 1952-1959) và được kết thúc bằng cuộc

cách mạng Tháng Giêng lịch sử, dẫn tới sự ra đời nhà nước Cuba xã hội chủ

nghĩa đầu tiên ở Tây bán cầu vào ngày 1/1/1959.

Page 15: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

9

Cuốn sách: "Nước Cộng hòa Cuba", của tác giả Phạm Xuân Nam [55].

Tác giả cũng đã giới thiệu rất rõ nét về đất nước và con người Cuba, với ý chí

quật cường và tinh thần đấu tranh không mệt mỏi, dưới sự lãnh đạo của Đảng và

Nhà nước Cuba đã giúp cho Cuba đứng vững và giành thắng lợi trong các cuộc

đấu tranh chống lại thực dân Tây Ban Nha và chế độ độc tài Batista thân Mỹ.

Cuốn sách: "Fidel Castro: con người huyền thoại" của tác giả Hoàng Đức

Nhận và Phạm Quốc Tuấn [63]. Các tác giả đã cho người đọc thấy được bức

chân dung về vai trò lãnh tụ cách mạng của Fidel Castro, một con người huyền

thoại, tài năng không chỉ ở Cuba mà còn cả trên toàn thế giới. Tên tuổi của Ông gắn

liền với sự kiện cách mạng quan trọng: giải phóng dân tộc Cuba, thành lập nước

Cộng Hòa Cuba, xây dựng và bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc ở Cuba.

Cuốn sách: "Lịch sử thế giới hiện đại (1917-1995)" của tác giả Nguyễn

Anh Thái [74]. Trong cuốn sách này tác giả đã trình bày những vấn đề cơ bản

của lịch sử thế giới hiện đại bao gồm 2 phần. Phần một gồm tám chương, viết về

lịch sử thế giới hiện đại từ năm 1917 - 1945. Bắt đầu từ cuộc cách mạng xã hội

chủ nghĩa tháng Mười Nga năm 1917 đến Chiến tranh thế giới thứ hai. Phần hai

gồm 10 chương còn lại, bao gồm những hiểu biết về lịch sử thế giới hiện đại từ

1945 - 1995. Quan hệ quốc tế từ 1945, Liên xô và các nước Đông Âu, Phong

trào cộng sản và công nhân quốc tế (1945 - 1995), trong đó có Cuba.

* Nhóm các công trình liên quan đến những nhân tố tác động đến quá

trình đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc của Cuba

Luận án tiến sỹ: "Nguyên nhân và tác động của sự sụp đổ Chủ nghĩa xã

hội ở Liên Xô tới tiến trình cách mạng thế giới hiện nay" của tác giả Ngô Hoan

[39] đã nêu ra những tác động tiêu cực từ sự sụp đổ của Liên Xô tới tình hình đất

nước Cuba nhất là trên lĩnh vực chính trị và kinh tế. Cuba đã mất đi một nguồn viện

trợ lớn về kinh tế, thương mại, nhất là các mặt hàng có giá trị trao đổi lớn như: Xì

gà, lương thực- thực phẩm và dược phẩm...Những tổn thất trên đã làm cho tình hình

Cuba lâm vào khó khăn, khủng hoảng, đòi hỏi Cuba phải có sự cải cách trong kinh

tế để phát triển đất nước. Điều này, cũng đã tác động rất lớn đến sự phát triển

phong trào cộng sản ở Mỹ Latinh nói riêng và trên thế giới nói chung.

Page 16: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

10

Trong cuốn: "Thế giới trong 50 năm qua (1945-1995) và thế giới trong 25

năm tới (1996-2020)", của tác giả Nguyễn Cơ Thạch [74] đã cho rằng động lực

chính cho sự phát triển của mỗi quốc gia trong giai đoạn hiện nay đó là sự phát

triển và bùng nổ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, yếu tố này đang

làm thay đổi và sắp xếp lại lực lượng cũng như cục diện thế giới, trong đó có

Cuba. Đồng thời, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tổ chức giáo dục, đào tạo

con người để thích ứng với cuộc các mạng khoa học - công nghệ đó.

Cuốn sách: "Toàn cầu hóa-khu vực hóa, cơ hội và thách thức với các

nước đang phát triển" của Viện Thông tin Khoa học Xã hội [123]; "Toàn cầu

hóa với các nước đang phát triển" của Trường Đại học Quốc gia [33], đều đi sâu

phân tích những mặt tích cực và tiêu cực của quá trình toàn cầu hóa đối với các

nước đang phát triển. Quá trình này ngoài việc đem lại những cơ hội, thuận lợi

cho các nước trong quá trình hội nhập với thế giới như: hội nhập kinh tế quốc tế,

trao đổi thương mại, giải quyết các vấn đề toàn cầu...bên cạnh đó, cũng chỉ ra

những mặt trái mà các nước phải đối mặt như: khoảng cách giàu nghèo, khủng

bố, mâu thuẫn, xung đột...điều này góp phần làm cho các nước đang phát triển

phải đối mặt với các nguy cơ mất tự chủ, phụ thuộc về kinh tế sau đó là phụ

thuộc về chính trị và Cuba cũng không nằm ngoài những nguy cơ trên.

Trong cuốn: "Một số vấn đề chính trị quốc tế trong giai đoạn hiện nay",

của nhóm tác giả Nguyễn Hoàng Giáp và cộng sự [35] và cuốn sách chuyên

khảo: "Giáo trình Quan hệ quốc tế" của Viện Quan hệ quốc tế - Học viện Chính

trị quốc gia Hồ Chí Minh [122]. Các tác giả cũng nêu rõ cuộc cách mạng khoa

học-công nghệ, kinh tế tri thức và quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ,

tác động sâu sắc đến sự phát triển của từng quốc gia, dân tộc. Xu thế hòa bình,

độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển là xu thế chung của thế giới ngày

nay, trật tự thế giới "đa cực" ngày càng được khẳng định cả về kinh tế và chính

trị; nhưng mâu thuẫn trong nội bộ đất nước, xung đột sắc tộc, tôn giáo, hoạt động

can thiệp, lật đổ, khủng bố, tranh chấp biên giới, lãnh thổ và tài nguyên... đang là

những vấn đề phức tạp mà các nước phải đối mặt. Bối cảnh trên của tình hình

quốc tế và khu vực Mỹ Latinh đang phải đối mặt đã tác động rất lớn đến Cuba.

Đòi hỏi, Đảng và Nhà nước Cuba phải có những chính sách phù hợp trong quan

hệ quốc tế và hợp tác khu vực, tiểu khu vực.

Page 17: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

11

Cuốn sách: "Những vấn đề toàn cầu trong hai thập niên đầu của thế kỷ

XXI", của tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn [10] cũng đã chỉ rõ những vấn đề toàn

cầu lớn nhất hiện nay mà nhân loại đang phải đối mặt đó là: chống khủng bố,

chiến tranh cục bộ, thiên tai, biến đổi khí hậu, đói nghèo...Những vấn đề trên mà

tác giả nêu lên cũng chính là những vấn đề mà Cuba đang phải đối mặt. Đây

chính là những khó khăn ảnh hưởng đến quá trình bảo vệ độc lập dân tộc ở Cuba

trong hiện tại và tương lai.

Cuốn sách chuyên khảo: "Hòa bình - hợp tác và phát triển: xu thế lớn trên

thế giới hiện nay" của tác giả Lê Minh Quân [68]. Trong đó tác giả cho rằng xu thế

hòa bình là điều kiện cho sự hợp tác và liên kết giữa các nước vì mục tiêu phát triển;

hợp tác là phương thức tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc, duy trì

hòa bình và thúc đẩy phát triển của các quốc gia; phát triển là phát triển bền vững, là

mục tiêu chung của toàn thế giới. Hòa bình, hợp tác và phát triển đang tác động đến

tất cả các nước trên thế giới, đây cũng là quan điểm phát triển của Cuba trong giai

đoạn hiện nay, nhất là trong bối cảnh Cuba và Mỹ đã tuyên bố bình thường hóa

quan hệ. Với xu thế này, Mỹ cũng không thể giữ chính sách bao vây, cấm vận và

thù địch với Cuba trong gần 6 thập kỷ qua. Tuy nhiên, xu thế này cũng đặt ra cho

Cuba những cơ hội và thách thức đan xen trong bối cảnh mới.

Ngoài những nhân tố cơ bản trên, công cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân

tộc ở Cuba trong thời gian này cũng chịu sự tác động bởi một khái niệm mới

trong quan hệ quốc tế đó là "An ninh phi truyền thống". Cuốn sách: "Sổ tay thuật

ngữ Quan hệ quốc tế" của tác giả Đào Minh Hồng và Lê Hồng Hiệp [40] đã cho

rằng: An ninh phi truyền thống là những mối đe dọa đối với an ninh quốc gia mà

không xảy ra những xung đột quân sự giữa các lực lượng quân đội. Các vấn đề

thuộc phạm vi của an ninh phi truyền thống là: khủng bố, tình trạng thiếu lương

thực, khủng hoảng kinh tế, môi trường, nhập cư bất hợp pháp...Những vấn đề

trên của thế giới cũng sẽ tác động không nhỏ đến Cuba, nhất là trong bối cảnh

quốc đảo này đang trong quá trình mở rộng quan hệ hợp tác với bên ngoài để

phát triển đất nước.

Bên cạnh những vấn đề quốc tế, những vấn đề của Mỹ Latinh cũng tác

động rất lớn đến Cuba.

Page 18: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

12

Cuốn sách: "Mỹ Latinh một vùng năng động" của tác giả Đỗ Lộc Diệp

[15], không chỉ cho người đọc thấy được những hình ảnh đẹp về con người và

đất nước Cuba ở Mỹ Latinh mà còn là vai trò của Cuba đối với Mỹ Latinh. Bên

cạnh đó, sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, sự thay đổi của trật tự thế giới đã

làm cho khu vực Mỹ thay đổi. Mỹ trở thành siêu cường trên thế giới, là khu vực

vốn được coi là "sân sau" của Mỹ, các nước Mỹ Latinh dần đi vào phát triển

kinh tế và trở thành khu vực có nền kinh tế phát triển năng động, là điểm đến của

rất nhiều nước trên thế giới với ưu thế về nguồn năng lượng, nguyên liệu...Sự

phát triển của Mỹ Latinh trong đó có Cuba sẽ ngày càng thu hút hơn nữa sự quan

tâm của các nước trên thế giới, đặc biệt là những nước lớn như: Nga, Trung

Quốc, EU, Nhật Bản...

Bài viết: "Chính trị - ngoại giao của các nước Mỹ Latinh trong giai đoạn

hiện nay", của tác giả Hồ Châu [8]. Tác giả cũng phân tích một số thay đổi trong

chính sách của Mỹ Latinh với Mỹ và sự thay đổi nhận thức của một số chính phủ

Mỹ Latinh đối với chính sách của Mỹ ở khu vực được coi là Vùng ảnh hưởng

truyền thống của nước này. Do đó, trong thời gian qua khu vực Mỹ Latinh đang

có xu hướng liên kết nội khối mạnh mẽ và tăng cường thắt chặt quan hệ hơn giữa

các nước, từng bước tránh bị lệ thuộc vào Mỹ.

Tọa đàm khoa học: "ALBA - Liên minh vì các dân tộc Mỹ Latinh: triển

vọng và tiến bộ" của Nguyễn Ngọc Mạnh [50]. Hội thảo cũng khẳng định vai trò

của các Liên minh Bolivar dành cho các dân tộc Châu Mỹ chúng ta (ALBA) đối

với sự phát triển chung của khu vực với các thành tựu nổi bật như: thực hiện

chương trình xã hội nhân đạo điều trị miễn phí cho các bệnh nhân nghèo bị bệnh

mắt; chương trình đào tạo bác sĩ cộng đồng, điều trị bệnh tim bẩm sinh cho trẻ em,

chương trình xóa mù chữ giúp thanh niên và người lớn hòa nhập xã hội và phát

triển toàn diện con người, cải thiện trình độ giáo dục, xóa bỏ nạn mù chữ tại các

nước thuộc ALBA và đảm bảo nguyện vọng theo đuổi việc học hành...Những

chương trình nêu trên chủ yếu là của Cuba, hoạt động trên đã giúp nước này từng

bước nâng cao được vai trò, vị thế của mình ở khu vực và trên thế giới. Qua đó,

tranh thủ được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế trong việc yêu cầu Mỹ xóa bỏ lệnh

bao vây cấm vận kéo dài suốt hơn 6 thập kỷ qua. Bên cạnh đó, ALBA cũng đã mở

Page 19: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

13

ra không gian tham vấn, phối hợp và thỏa thuận nhằm thiết lập liên minh chiến

lược, tạo dựng vị trí và vai trò cân bằng với các tổ chức quốc tế khác.

Cuốn sách: "Chính sách đối ngoại của các nước lớn trong giai đoạn hiện

nay" của tác giả Nguyễn Thị Quế [70] đã đề cập những nội dung khái quát nhất

về chính sách đối ngoại của một số nước lớn trên thế giới như: Mỹ, Trung Quốc,

Nga, EU...đối với Việt Nam, trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều biến

động phức tạp. Đồng thời, tác giả cũng cho rằng, ngoại giao không chỉ giúp phát

huy "sức mạnh mềm" của đất nước mà còn có vai trò góp phần nâng cao vị thế

trên trường quốc tế. Là một nước có cùng chế độ chính trị với Việt Nam, cũng

chịu chính sách bao vây cấm vận của Mỹ trong một thời gian dài, những kinh

nghiệm đối ngoại của Việt Nam sau 30 năm Đổi mới trong quan hệ với các nước

lớn, ít nhiều cũng sẽ giúp cho Cuba khắc phục được những hạn chế và tránh rơi

vào tình trạng bị lệ thuộc về kinh tế và chính trị.

Trong đề tài cấp Bộ: "Sự phục hồi của nền kinh tế ở khu vực Mỹ Latinh sau

khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu 2008-2009" của tác giả Nguyễn

Ngọc Mạnh [51]. Tác giả nêu rõ những tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng đối

với khu vực Mỹ Latinh như: việc làm giảm, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao, GDP toàn

khu vực đạt mức âm, quy mô kinh tế giảm, giá nguyên vật liệu giảm, tín dụng ngân

hàng khu vực Nhà nước không đáp ứng được yêu cầu, giá dầu thế giới giảm...Tất cả

những tác động trên đã làm ảnh hưởng đến các nền kinh tế lớn của khu vực và đẩy

một số nền kinh tế rơi vào khủng hoảng trầm trọng như: Brazil, Venezuela...điều

này, đã tác động và ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế của Cuba.

* Nhóm các công trình liên quan đến chính sách của Mỹ đối với Cuba

Cuốn sách: "Chiến lược đối ngoại của Mỹ trong những năm 1990", của

tác giả Phạm Văn Quế [71]. Trong cuốn sách này tác giả cũng đã đề cập đến

chính sách thắt chặt cấm vận kinh tế của Mỹ đối với Cuba thông qua Đạo luật

Torricelli năm 1992. Đây được coi là Đạo luật hà khắc của Mỹ đối với Cuba sau

khi nước này mất đi đồng minh chính trị, kinh tế là Liên Xô. Nền kinh tế Cuba

đã khó khăn, khủng hoảng nay còn khó khăn hơn.

Cuốn sách: "Hoa Kỳ cam kết và mở rộng" của tác giả Lê Bá Thuyên [114]

đã đề cập tới chính sách "Cam kết và Mở rộng" của Mỹ dưới thời Tổng thống

Page 20: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

14

Bill Clinton. Trong đó, nhấn mạnh chính sách tự do trong kinh tế của Mỹ áp

dụng đối với khu vực Mỹ Latinh đã làm cho rất nhiều nền kinh tế rơi vào khủng

hoảng và suy thoái. Đối với Cuba, trong giai đoạn này Mỹ thực hiện thắt chặt

lệnh cấm vận thông qua đạo luật Helm-Burton nhằm siết chặt hơn nữa lệnh cấm

vận về kinh tế với Cuba. Đây được coi là chiến lược quan trọng trong việc hoạch

định chính sách của Mỹ sau Chiến tranh Lạnh.

Bài viết: "Chính sách của Mỹ đối với khu vực Mỹ Latinh" của tác giả Trần

Đình Vượng [127]. Tác giả đã khái quát lại chính sách của Mỹ đối với khu vực

Mỹ Latinh, đặc biệt là chính sách chủ nghĩa tự do mới trong kinh tế. Đồng thời,

cũng phân tích một số tác động từ chính sách bao vây cấm vận của Mỹ đối với

nền kinh tế và đời sống của người dân Cuba.

Cuốn sách: "Vấn đề trừng phạt kinh tế trong chính sách đối ngoại của

Hoa Kỳ" của tác giả Nguyễn Thái Yên Hương [45] cũng đã đề cập đến các chính

sách trừng phạt kinh tế, cấm vận của Mỹ đối với các nước đe dọa đến an ninh

của Mỹ, những nước bị Mỹ liệt vào danh sách các quốc gia tài trợ cho chủ nghĩa

khủng bố như: Iraq, Việt Nam, Nam Tư cũ trong đó có cả Cuba.

Báo cáo đề tài cấp Bộ (2012): "Sự điều chỉnh chiến lược của Hoa Kỳ đối

với các nước Mỹ Latinh sau khủng hoảng tài chính toàn cầu và tác động tới Việt

Nam" của tác giả Nguyễn Ngọc Mạnh [49], có đề cập đến những thay đổi trong

chính sách đối ngoại của Mỹ với các nước Mỹ Latinh sau khủng hoảng tài chính

toàn cầu 2008. Giai đoạn này cũng đánh dấu sự điều chỉnh chính sách của chính

quyền Tổng thống Obama với Cuba, trong bối cảnh các nước Mỹ Latinh đang

dần trở nên quan trọng hơn trong bản đồ chính trị quốc tế và thu hút sự quan tâm

của các cường quốc như: Nga, Trung Quốc, EU...

* Nhóm các công trình liên quan đến quá trình xây dựng và phát triển

kinh tế của Cuba

Những công trình nghiên cứu về thành tựu của Cuba trong việc phát triển

kinh tế, xã hội nhằm đấu tranh chống lại chính sách bao vây cấm vận của Mỹ và

xây dựng đất nước, tiêu biểu có một số bài viết đăng trong Kỷ yếu Hội thảo 50

năm Cách mạng Cuba tổ chức tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,

ngày 31/12/2008: bài viết: "Những thành tựu nổi bật của Cuba trong xây dựng

Page 21: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

15

và phát triển đất nước" của tác giả Nguyễn Thị Quế [69];"Cuba - Hòn đảo kiên

cường, bất khuất qua nửa thế kỷ bao vây, cấm vận của Mỹ" của tác giả Hà Mỹ

Hương [44]; "Cuba tăng cường đấu tranh trên mặt trận tư tưởng" của tác giả

Phan Văn Rân [72]; "Thành tựu trong việc thực hiện chính sách xã hội của Cuba

trong 50 xây dựng chủ nghĩa xã hội" của tác giả Ngô Chí Nguyện [61]; "50 năm

phát triển kinh tế xã hội của nước Cộng hòa Cuba dưới ngọn cờ độc lập dân tộc

và chủ nghĩa xã hội" của tác giả Phạm Xuân Nam [59]... Hầu hết các công trình

nói trên đều ca ngợi những thắng lợi của Cuba trên mặt trận kinh tế, chính trị và

xã hội. Đồng thời, cũng khẳng định với những đường lối, chủ trương đúng đắn

phù hợp với điều kiện đất nước; vai trò lãnh đạo sáng suốt của Đảng cộng sản

Cuba đã giúp nước này ngày càng nâng cao vai trò, vị thế của mình trong khu

vực và trên thế giới đặc biệt là tinh thần đoàn kết quốc tế trong việc giúp các

nước Mỹ Latinh xóa nạn mù chữ, chữa bệnh, phẫu thuật miễn phí...Ngoài ra,

những thành công trên của Đảng và Nhà nước cũng giúp cho Cuba bảo vệ vững

chắc nền độc lập dân tộc, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bất chấp lệnh bao

vây cấm vận của Mỹ và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch trong và

ngoài nước.

Bài viết: "Cuộc cách mạng của Raúl Castro" của Thông tấn xã Việt Nam

[89] đã phân tích một số điểm khác biệt về đường lối, chính sách kinh tế - xã hội

giữa Raul và Fidel và cho rằng với đường lối mềm mỏng của Raul, Cuba sẽ có

những bước phát triển vượt bậc trong thời gian tới.

Bài viết "Nền kinh tế Cuba - Những thành tựu và cải cách dưới thời Chủ

tịch Fidel và Raul Castro - Phần 1, 2, 3" của Thông tấn xã Việt Nam [89]. Trong

3 phần này, tác giả cũng đã nêu rõ những thành tựu về kinh tế-xã hội mà Cuba đã

đạt được phần lớn là nhờ vào những nỗ lực của chính phủ trong việc cơ cấu lại

bộ máy kinh tế, sửa đổi và bổ sung luật kinh tế đặc biệt là mở rộng hợp tác quốc

tế nhằm thu hút đầu tư từ bên ngoài...

Bài viết: "Những thành tựu của cải cách kinh tế-xã hội ở Cộng hòa Cuba

từ 1993 đến nay" của tác giả Văn Ngọc Thành, Nguyễn Thanh Tuấn [77]. Trong

đó các tác giả cũng đã nêu rõ những thành quả mà Đảng và Nhân dân Cuba đã

đạt được trong việc thực hiện chủ trương, đường lối mà Đại hội Đảng lần IV đề

Page 22: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

16

ra. Đồng thời, cho rằng những chủ trương trên là đúng đắn và Cuba cần phát huy

hơn nữa những ưu thế về y tế và giáo dục, đây chính là điểm sáng và là công cụ để

Cuba có thể bảo vệ độc lập dân tộc trước các thế lực thù địch trong và ngoài nước.

Trong Báo cáo đề dẫn tại Hội thảo Khoa học: "50 năm cách mạng Cuba

và quan hệ Việt Nam-Cuba" của tác giả Lê Hữu Nghĩa [62] đã khẳng định: Cách

mạng Cuba là biểu hiện sinh động và là thắng lợi vẻ vang của con đường độc lập

dân tộc và chủ nghĩa xã hội; là biểu hiện không gì bác bỏ được về sức mạnh và

sự ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa; là hiện thân sinh động của chủ nghĩa

quốc tế vô sản trong thời đại ngày nay. Đặc biệt, tác giả còn cho rằng: Thực tiễn

cách mạng Cuba làm sáng tỏ một sự thật là: trong thời đại ngày nay, sự phát

triển triệt để của cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, vì các mục tiêu độc

lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội hoàn toàn có thể chuyển hoá thành cách

mạng xã hội chủ nghĩa. Sự gặp gỡ giữa giai cấp và dân tộc; giữa độc lập dân

tộc và chủ nghĩa xã hội là tự nhiên và là một trong những khuynh hướng lịch sử

không thể phủ nhận. Bên cạnh đó, còn nhấn mạnh mối quan hệ thủy chung,

trong sáng giữa Việt Nam và Cuba trong suốt hơn 50 qua, việc củng cố và phát

triển của mối quan hệ Việt Nam - Cuba là một trong những nhân tố góp phần

bảo vệ và phát triển chủ nghĩa xã hội ở hai nước trong những năm qua. Công

cuộc Đổi mới ở Việt Nam và công cuộc cải cách ở Cuba đã tạo tiền đề và bổ

sung cho nhau trên cả bình diện lý luận và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Đặc biệt, trong chuyến thăm và làm việc tại Việt Nam, Giáo sư Ruvislei

Gonza’lez Seaz, chuyên gia nghiên cứu về kinh tế, thuộc Trung tâm nghiên cứu

kinh tế, Bộ Ngoại giao Cuba đã có buổi tọa đàm về "Cập nhật hóa mô hình kinh tế

xã hội Cuba và những kịch bản mới" [73] tại Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt

Nam, ngày 24/3/2016. Trong buổi tọa đàm này tác giả tập trung vào 3 vấn đề chính:

thứ nhất, nêu khái quát về chủ trương "cập nhật về mô hình kinh tế-xã hội" ở Cuba;

thứ hai, tình hình Cuba trước viễn cảnh mới và cuối cùng, là thực trạng nền kinh tế

Cuba. Ngoài ra, tác giả cũng đánh giá về những thành tựu và hạn chế của Cập nhật

hóa mô hình kinh tế ở Cuba sau 5 năm thực hiện. Tuy nhiên, mức độ của những nội

dung trên mới chỉ được nêu một cách khái quát chứ chưa đi sâu vào phân tích cụ thể

về những nguyên nhân thành công hay hạn chế trong quá trình thực hiện.

Page 23: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

17

1.1.2. Các công trình nghiên cứu của tác giả Cuba và nước ngoài

* Nhóm các công trình viết về lịch sử cách mạng Cuba

Cuốn sách: "Moncada" (Cương lĩnh Moncada) của tác giả Marta Rojos [168].

Trong đó, tác giả đã đi sâu phân tích tiến trình phát triển của cách mạng Cuba thông

qua Bản tuyên bố Moncada lịch sử. Đây được coi là bản cương lĩnh và chương trình

hành động dẫn dắt cuộc cách mạng giải phóng dân tộc của Cuba đi đến thành công và

đưa Cuba vững bước tiến lên trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Cuốn sách: "Fidel Castro: la Revolución Cubana 1953-1962" (Fidel

Castro: cách mạng Cuba 1953-1962) của tác giả Adolfo Sánchez Rebolledo

[129], thuộc tài liệu biên soạn những bài phát biểu của Fidel từ 1953-1962. Tài liệu

là những bài viết của Chủ tịch Fidel về cách mạng Cuba nói chung trong giai đoạn

1953-1962. Trong đó, tác giả cũng đã trích dẫn rất nhiều bài phát biểu mà Chủ tịch

Fidel nói về thắng lợi cách mạng Cuba năm 1959, những bài học, ý nghĩa lịch sử

của chiến thắng này đối với nhân dân, báo chí trong nước và quốc tế.

Cuốn sách: "Breve Historia de la Revolución Cubana" (Tóm tắt lịch sử

cách mạng Cuba) của tác giả Arnaldo Silva León [132]. Viết về con đường đi lên

chủ nghĩa xã hội mà Cuba đã lựa chọn sau cách mạng thành công năm 1959.

Đồng thời, tác giả cũng nêu rõ đây chính là mục tiêu và nhiệm vụ xuyên suốt của

cách mạng Cuba trong thời kỳ này. Bên cạnh đó, tác giả cũng đề cập đến sự phát

triển của chủ nghĩa xã hội ở Cuba từ 1961-1975; quá trình đổi mới và con đường

xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Cuba từ 1975-1990 và việc thực hiện "Thời kỳ đặc

biệt trong hòa bình" của Cuba từ 1993 đến nay.

Cuốn sách: "Documentos de la Revolución cubana - 1959" (Tài liệu về

cách mạng Cuba-1959) của các tác giả José Bell, Delia Luisa López, Tania

Caram [157]. Cuốn sách viết về sự nghiệp cách mạng của nhân dân Cuba sau

thắng lợi ngày 1/1/1959. Đồng thời, tác giả cũng cho người đọc thấy được những

bài học kinh nghiệm quý báu của cuộc cách mạng 1959 đối với lịch sử Cuba, đặc

biệt là chiến dịch ở Pháo đài Moncada và đây cũng chính là dấu mốc quan trọng

để Cuba bắt đầu xây dựng và đi theo con đường chủ nghĩa xã hội.

Cuốn sách: "Cuộc đời tôi- Một trăm giờ với Fidel Castro" của tác giả Đỗ

Tuấn Anh, Hoàng Mạnh (dịch) [1]. Trong cuốn sách Fidel miêu tả lại những thất

Page 24: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

18

bại đầu tiên của cuộc cách mạng Cuba; tình đồng chí khăng khít của ông với Che

Guavara và thắng lợi rực rỡ của cách mạng trước chế độ độc tài Batista; quan

điểm của Cuba trong sự kiện Vịnh con Lợn và cuộc khủng hoảng tên lửa Caribe;

vai trò tích cực của Cuba trong các phong trào đấu tranh giành độc lập của nhân

Cuốn sách: "Historia de la revolucion Cubana" (Lịch sử cách mạng

Cuba) của tác giả Sergio Guerra [180]. Viết về chiến thắng ngày 1/1/1959 lịch sử

của Cuba và cho rằng đây chính là một dấu mốc quan trọng và có ý nghĩa lịch sử

về chính trị, kinh tế và xã hội đối với các nước Mỹ Latinh.

Cuốn sách: "Fidel: Cuộc đối đầu 10 đời Tổng thống Mỹ và những âm mưu

ám sát của CIA" của Nguyễn Văn Phước (dịch) [67]. Cuốn sách nói về cuộc đối

đầu giữa Fidel và 10 đời Tổng thống Mỹ thông qua các kế hoạch do CIA dựng

lên để ám sát Chủ tịch Fidel. Tuy nhiên, Cuba dưới sự lãnh đạo tài tình của Chủ

tịch Fidel vẫn vững vàng trên con đường xây dựng và phát triển đất nước. Thông

qua cuốn sách, tác giả còn muốn cho người đọc hiểu hơn về tính cách, tài năng,

bản lĩnh của Fidel, một người anh hùng, một nhân vật làm nên lịch sử, một người

đã cống hiến trọn đời cho cách mạng và nhân dân CuBa.

Cuốn sách: "The Cuban Revolution: Origins, Course, and Legacy" (Cách

mạng Cuba: nguồn gốc, hành động và di sản) của Oxford University Press [172].

Trong cuốn sách này tác giả khái quát lại các cuộc cách mạng của nhân dân

Cuba từ 1927-1959. Tác giả cũng nhấn mạnh những yếu tố giúp cho Cuba có thể

giành thắng lợi Cách mạng và những yếu tố làm cản trở sự phát triển của Cuba

đó là sự can thiệp của Mỹ trong các vấn đề của Cuba. Đồng thời, tác giả cũng đã

có những cái nhìn sâu sắc về xã hội Cuba và nêu rõ những vấn đề Cuba phải đối

mặt nhất là trong bối cảnh Cuba phụ thuộc nhiều vào Liên Xô trong những năm

1970. Bên cạnh đó, còn lên án các nhà lãnh đạo Cuba đã thất bại trong việc đa

dạng hóa nền kinh tế bao cấp quá lâu nhất là về giáo dục và y tế.

* Nhóm các công trình liên quan đến những nhân tố tác động đến quá

trình đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc của Cuba

Cuốn sách: "Govbachev-Riot: August even from inside" (Govbachev và sự

kiện chính biến ngày 19/8) của tác giả tác giả Lukialov.A. Pavlov.V và

Cruiskov.V [162] đã đi sâu phân tích cuộc chính biến ngày 19/8/1991 của những

Page 25: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

19

người muốn đảo chính lật đổ Tổng thống Govbachev nhằm cứu Liên Bang Xô

Viết khỏi sự sụp đổ. Cuộc chính biến này thất bại đã dẫn tới một sự thực là chủ

nghĩa xã hội không còn tồn tại ở Liên Xô nữa. Đây là một tổn thất to lớn đối với

phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và phong trào cách mạng thế giới trong

đó có Cuba, một đồng minh chính trị, quân sự, kinh tế quan trọng nhất của Liên

Xô ở Tây bán cầu.

Cuốn sách: "The Clash of civilizations" (Sự va chạm giữa các nền văn

minh) của tác giả Samuel Huttington [179] đã nêu ra sự va chạm, xung đột giữa

các nền văn minh, các khối ý thức hệ, các nền văn hóa ở các châu lục trên thế

giới, trong đó, Cuba với tư cách là quốc gia xã hội chủ nghĩa duy nhất ở Tây bán

cầu chắc chắn sẽ chịu ảnh hưởng sâu sắc từ tác động này.

Cuốn sách: "US-Latin America ralations: A new direction for a new

reality" của tác giả Charlene Barshefsky, James T. Hill [137] đã viết về sự thay

đổi trong chính sách của Mỹ đối với khu vực Mỹ Latinh sau khi chiến tranh

Lạnh kết thúc trong bối cảnh quốc tế và tình hình của Mỹ latinh có nhiều biến

động và thay đổi lớn. Trong đó, tác giả nhấn mạnh sự thay đổi chính sách của

Mỹ đối với Cuba thông qua việc thắt chặt lệnh cấm vận bằng đạo luật Torricelli

(1992) và Helm-Burton (1996). Với 2 đạo luật này, Cuba đã bị cô lập hoàn toàn

với bên ngoài về ngoại giao và kinh tế.

Bài viết: "Xin shiji zhongguo dui lamei de diyuan zhanlue" (China’s Geo-

strategy towards Latin America in the New Century - Chiến lược địa chính trị

của Trung Quốc đối với Mỹ Latinh trong thế kỷ mới) của tác giả Zhu Hong Bo;

Liu Wen Long [191]. Tác giả cũng đi sâu phân tích những thay đổi trong chính

sách ngoại giao, kinh tế của Trung Quốc đối với khu vực Mỹ Latinh, nhất là đối

với Cuba, một nước từng là bạn bè truyền thống của Trung Quốc. Chính sách

của Trung Quốc thay đổi với Cuba trong bối cảnh Mỹ đang suy giảm vai trò ở

khu vực vốn được coi là "sân sau" của mình, đây cũng là thời điểm Cuba có sự

thay đổi nhà lãnh đạo mới và có chính sách ngoại giao mở hơn so với thời Fidel.

Cuốn sách: "Cuba: What Everyone Needs to Know" (Cuba: những gì mọi

người cần để biết) của tác giả Julia E. Sweig [158] đã khái quát về đất nước và

con người Cuba hiện nay bao gồm các tài liệu từ cuộc phỏng vấn của tác giả với

Page 26: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

20

Cựu Chủ tịch Fidel Castro vào năm 2010. Các phiên bản mới bao gồm các sự

kiện quan trọng trong vài năm qua: giả định quyền lực từ người anh trai Fidel

chuyển sang cho Raul Castro; cải cách kinh tế và chính trị kể từ khi Raul lên

nắm quyền và những thay đổi trong quan hệ giữa Cuba-Mỹ sau cuộc bầu cử của

Tổng thống Barack Obama.

* Nhóm công trình viết về chính sách của Mỹ đối với Cuba và quan hệ

hai nước

Có thể nhận thấy, bản chất của quá trình đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc

của Cuba trong giai đoạn 1991-2016 chính là quá trình đấu tranh chống lại chính

sách bao vây cấm vận của Mỹ. Do đó, việc nghiên cứu về chính sách của Mỹ đối

với Cuba được tác giả tập trung khá nhiều.

Nhìn chung các tác giả nước ngoài đã phân tích và làm rõ chính sách cấm

vận của Mỹ đối với Cuba và những thiệt hại mà Cuba phải gánh chịu từ chính

sách trên. Tiêu biểu phải kể đến một số cuốn sách như: "The Cuban Embargo:

The Domestic Politics of an American Foreign Policy" (Lệnh cấm vận Cuba:

Chính trị nội bộ trong chính sách đối ngoại Mỹ) của tác giả Patrick Jude Haney

[173]; "US policy towards Cuba: Since the Cold War" (Chính sách của Mỹ đối

với Cuba: kể từ chiến tranh Lạnh) của tác giả Jessica Gibbs [153] và "The United

States and Cuba: Intimate Enemies" (Mỹ và Cuba: kẻ thù thân thiết) của tác giả

Marifeli Pérez-Stable [167]. Những công trình này phần lớn các tác giả viết về

chính sách bao vây cấm vận của Mỹ đối với Cuba thông qua đạo luật Helms-

Burton. Nhấn mạnh những chính sách bao vây cấm vận của Mỹ trong hai nhiệm

kỳ Tổng thống Bill Clinton và những nỗ lực thúc đẩy dân chủ dưới thời Tổng

thống George W.Bush (con). Đồng thời, còn hệ thống hóa mối quan hệ Mỹ-Cuba

sau Chiến tranh Lạnh và phân tích những căng thẳng kéo dài trong quan hệ hai

nước trong thế kỷ XXI. Mặt khác, tác giả cũng dự báo tác động của chính sách

đối nội đến chính sách đối ngoại của Mỹ đối với lệnh cấm vận của Cuba.

Bên cạnh đó cũng có những cuốn sách khác đề cập đến sự thay đổi trong

chính sách của Mỹ đối với Cuba. Mặc dù, chỉ là những nhận định ban đầu mang

tính dự báo nhưng có thể thấy cách tiếp cận của các học giả đã có sự thay đổi.

Tiêu biểu như:

Page 27: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

21

Bài viết: "U.S-Cuba Relations: From the Cold World to the Colder War"

(Quan hệ Mỹ-Cuba: từ chiến tranh Lạnh thế giới đến chiến tranh Lạnh) của tác giả

Jorge L.Domíniguez [156] đã luận giải mối quan hệ giữa Mỹ và Cuba theo góc nhìn

của chủ nghĩa hiện thực. Trong đó, những lý thuyết của Thucydides về quan hệ

quốc tế được tác giả áp dụng vào lý giải trường hợp của Cuba. Ông Domíniguez

cũng đã đưa ra những yếu tố lớn ảnh hưởng tới quan hệ đang xấu dần giữa Cuba -

Mỹ ở thời điểm này như: sự khác biệt về ý thức hệ hay chính trị nội bộ Mỹ.

Bài viết:"The Helms-Burton law and its consequences for Cuba, the

United States and Europe" (Đạo luật Helm-Burton và hậu quả của nó đối với

Cuba, Mỹ và Châu Âu) của tác giả Bert Hoffmann [135]. Bài nghiên cứu này tập

trung phân tích nguyên nhân chính trị mà Mỹ quyết định ban hành Đạo luật

Helms-Burton đó chính là gây áp lực buộc chính quyền Castro phải thay đổi,

Cuba phải tiến lên theo con đường dân chủ. Ngoài ra bài viết cũng phân tích

những bất cập trong các đề mục của Đạo luật Helms- Burton và những hậu quả

của Đạo luật này đối với Cuba, Mỹ và Liên minh Châu Âu.

Cuốn sách: "United States-Cuban Relations: A Critical History" (Quan hệ

Mỹ-Cuba: Một câu chuyện lịch sử quan trọng) của tác giả Esteban Morales

Dominguez [146]. Viết về quan hệ Mỹ - Cuba, tác giả phân tích những biến động

trong mối quan hệ hai nước và dự báo về mối quan hệ này trong thời gian tới.

Cuốn sách: "That Infernal Little Cuban Republic: The United States and

the Cuban Revolution" (Đây là nước Cộng hòa Cuba nhỏ bé đáng gườm: Mỹ và

cách mạng Cuba) của tác giả Lars Schoultz [162]. Tác giả cung cấp một biên

niên sử ký toàn diện về chính sách của Mỹ đối với cuộc Cách mạng Cuba. Sử

dụng các tài liệu và phỏng vấn trực tiếp các nhà lãnh đạo Mỹ và Cuba về những

nỗ lực của chính quyền Mỹ trong việc xóa bỏ Cách mạng Cuba và nhà nước

Cuba xã hội chủ nghĩa.

Cuốn sách: "The immigrant divide: How Cuban Americans Changed the

U.S. and Their Homeland" (Sự chia rẽ người dân nhập cư: Làm thế nào để người

Mỹ gốc Cuba có thể thay đổi được nước Mỹ và quê hương của họ) của tác giả

Susan Eckstein [181]. Tác giả đã đưa ra 4 phương hướng để hoạch định chính

sách của Mỹ đối với Cuba mà không tính đến chế độ và thể chế của hai nước.

Page 28: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

22

Bài viết của Ủy Ban Quan hệ Quốc tế Mỹ CFR: "State Sponsors: Cuba”

(Người tài trợ Cuba) của Council on Foreign Relations [138] đã đưa ra lời giải

đáp cho những câu hỏi xoay quanh việc Cuba bị Mỹ đưa vào danh sách các quốc

gia bảo trợ khủng bố từ năm 1982 và tới tận năm 2010 vẫn chưa được đưa ra

khỏi danh sách. CFR đã đưa ra những lí do mà Mỹ biện luận để đưa Cuba vào

danh sách các quốc gia tài trợ khủng bố. Đồng thời cũng đưa ra những bằng

chứng tích cực của Cuba đối với Mỹ sau sự kiện 11/9/2001.

Ngoài những công trình nêu trên, đáng chú ý còn có các bài Báo cáo của

chính giới Mỹ, trong đó đưa ra những vấn đề và nhận định liên quan đến quan hệ

của Mỹ với Cuba như:

Bài báo cáo: "Changing Cuba Policy - in the United States National

Interest: Staff Trip Report to the Committee on Foreign Relations, United States

Senate" (Thay đổi chính sách của Cuba trong lợi ích quốc gia của Mỹ: Nhân viên

thực tế trình Báo cáo lên Ủy Ban Đối Ngoại- Thượng viện Mỹ) của tác giả Carl

Meacham Diane [136]. Báo cáo này cung cấp thông tin quan trọng và đưa ra một

số khuyến nghị để thúc đẩy lợi ích của Mỹ tại Cuba.

Bài báo cáo: "U.S-Cuban Relations in the 21st Century: A Follow-on

Chairman's Report of an Independent Task Force Sponsored" của tác giả

Bernard Aronson, William D. Rogers [134] thuộc Ủy ban Đối ngoại Quốc hội

Mỹ. Báo cáo này nêu rõ sự đồng thuận của cả hai Đảng trong chính sách của Mỹ

đối với Cuba và những vấn đề tồn tại trong quan hệ hai nước trước những yêu

cầu đòi gỡ bỏ lệnh cấm vận của Mỹ đối với Cuba của cộng đồng quốc tế.

* Nhóm các công trình liên quan đến chủ trương, đường lối, chính sách

của Đảng, Nhà nước Cuba và quá trình xây dựng, phát triển kinh tế, đất nước

của Cuba

Viết về những chủ trương, chính sách của Đảng cộng sản Cuba tại Đại hội

IV, V, có một số công trình, bài viết tiêu biểu như sau: bài viết liên quan đến Đại

hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, Đảng cộng sản Cuba như: "Congress documents

will be submitted to abroad discussion" [139]; "Raúl Castro,Central Report to

7th Congress of Communist Party of Cuba" [133]...

Viết về những nguyên nhân Cuba thực hiện "Cập nhật hóa mô hình kinh tế-xã

hội" để xây dựng và phát triển kinh tế đất nước có một số công trình tiêu biểu sau:

Page 29: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

23

Bài viết: "Cuba: actualización del modelo económico y social" của Julio

A. Díaz Vázquez [160]. Bài viết trên đã nêu ra một số nguyên nhân khách quan

và chủ quan dẫn đến việc Cuba quyết định thực hiện mô hình phát triển kinh tế-

xã hội như toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, khủng hoảng tài chính...và

những vấn đề trong nước như: lệnh cấm vận của Mỹ, kinh tế bao cấp quá

lâu...Ngoài ra, tác giả còn so sánh sự khác nhau giữa Cải cách kinh tế từ năm

1990 với "cập nhật" kinh tế trong thời gian này và đưa ra một số quan điểm về

mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Cuba.

Việc "Cập nhật hóa mô hình kinh tế-xã hội" ở Cuba cho đến nay vẫn còn

có rất nhiều ý kiến trái chiều. Có những học giả cho rằng Cuba học tập theo mô

hình "Đổi mới" của Việt Nam, một số khác lại nghĩ theo mô hình "Cải cách, Mở

cửa" của Trung Quốc. Viết về vấn đề này, có một số công trình tiêu biểu như sau:

Bài viết "Actualizar el modelo económico en Cuba: ¿Patrón chino o

vietnamita?" (Cập nhật mô hinh kinh tế ở Cuba: hình mẫu Trung Quốc hay Việt

Nam) của tác giả Julio A. Díaz Vázquez [159]. Theo ông giữa Trung Quốc, Việt

Nam và Cuba có một số nét tương đồng: đều là những nước xã hội chủ nghĩa, xuất

phát từ nền kinh tế nông nghiệp nhưng có sự khác nhau về địa lý, văn hóa và sự

phát triển của xã hội nên việc đưa ra mô hình phát triển phải phù hợp với điều kiện

của từng nước chứ không phải là sự cóp nhặt sau đó áp dụng vào đất nước mình.

Bài viết: "Cuba defiende actualizar modelo económico con estabilidad

social y política" (Cuba bảo vệ cập nhật hóa mô hình kinh tế - xã hội để ổn định

chính trị và xã hội) [140] trong một buổi Hội thảo bàn về mô hình này, các học

giả và các nhà Ngoại giao Cuba cho rằng: Cuba đang thực hiện một mô hình

"cập nhật" chứ không phải là một cuộc "cải cách" và đang nghiên cứu một mô

hình chuyển đổi để phù hợp với điều kiện của Cuba và nhấn mạnh họ không sao

chép mô hình của Trung Quốc.

Viết về những thành tựu và hạn chế trong "Cập nhật hóa mô hình kinh tế-

xã hội" ở Cuba, trong số các công trình nói về vấn đề này, đáng chú ý là bài viết:

"Raúl Castro Urges Cubans to Remain Alert to U.S. Efforts to Alter Communist

System" của tác giả Victoria Burnett [189]; bài viết: "These reforms will update

the Cuban model and spur economic growth" của tác giả Omar Everleny Perez

Page 30: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

24

[170] lại cho rằng: Cải cách mô hình kinh tế ở Cuba không phải là hoàn toàn mới

mà cái mới ở đây chính là nhận thức mới về vai trò và tầm quan trọng của khu

vực kinh tế tư nhân (khu vực ngoài nhà nước) và điều này có nghĩa là thị trường

phải đóng một vai trò ngày càng cao trong nền kinh tế Cuba. Đây được coi là

thành công ban đầu của chính phủ Cuba.

1.2. VẤN ĐỀ CHƯA ĐƯỢC GIẢI QUYẾT

Trước khi tác giả lựa chọn đề tài này, đã có nhiều nhà nghiên cứu, phân

tích trong và ngoài nước viết về đề tài Cuba. Tuy nhiên, điểm chung của các

công trình đi trước chủ yếu tập trung phân tích một cách sơ lược về đất nước,

con người, lịch sử, văn hóa, chế độ chính trị, xã hội của Cuba giai đoạn trước

1991 hoặc nghiên cứu một cách thuần túy về con đường phát triển của cách

mạng Cuba mà không đi sâu phân tích, tìm hiểu về quá trình đấu tranh bảo vệ

độc lập dân tộc ở quốc đảo này thời kỳ sau chiến tranh Lạnh, về sự nghiệp xây

dựng chủ nghĩa xã hội, quá trình cải cách kinh tế, sửa sai và chủ trương "Cập

nhật hóa mô hình kinh tế-xã hội" của Cuba trong giai đoạn mới. Những hạn chế

trên đã tạo nên một khoảng trống lớn về thông tin, tư liệu đối với các học giả

trong và ngoài nước, muốn quan tâm, tìm hiểu về tình hình Cuba, cũng như vai

trò, vị trí của đất nước ở Mỹ Latinh. Do đó, để khắc phục những hạn chế, thiếu

sót của các công trình đi trước, trong luận án này tác giả đã tập trung đi sâu phân

tích quá trình đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc ở Cuba giai đoạn 1991-2016 với

hai thời kỳ: "thời kỳ đặc biệt trong hòa bình" (1991-2004) và đẩy mạnh cải cách

kinh tế và thực hiện chủ trương "Cập nhật hóa mô hình kinh tế-xã hội" (2004-

2016). Mặc dù, luận án vẫn chưa thể làm rõ được hết những vấn đề mà các học

giả trước đây còn thiếu, chưa từng đề cập đến, nhưng đây được coi là một trong

những công trình nghiên cứu có quy mô lớn, đầu tiên ở Việt Nam về Quá trình

đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc ở Cuba từ sau chiến tranh Lạnh đến nay.

1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN TẬP TRUNG LÀM RÕ

Trên cơ sở tiếp thu những kết quả nghiên cứu của các công trình trước đó,

luận án sẽ tập trung giải quyết và làm sáng tỏ một số vấn đề sau:

Thứ nhất, luận án sẽ tổng thuật một số quan niệm về độc lập dân tộc và

bảo vệ độc lập dân tộc, sau đó, phân tích những nhân tố chủ quan và khách quan

Page 31: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

25

tác động đến quá trình đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc của nước Cộng hòa Cuba

từ năm 1991 đến năm 2016;

Thứ hai, phân tích các mục tiêu, nhiệm vụ và nội dung của Đảng, Nhà

nước Cuba về đấu tranh bảo vệ độc lập trên tộc trên các lĩnh vực: chính tri- ngoại

giao, an ninh -quốc phòng, kinh tế, văn hóa- xã hội thông qua hai giai đoạn: giai

đoạn "Thời kỳ đặc biệt trong hòa bình" (1991-2004) và giai đoạn đẩy mạnh cải

cách kinh tế và thực hiện chủ trương "Cập nhật hóa mô hình kinh tế-xã hội"

(2004-2016).

Thứ ba, đánh giá những thành tựu, hạn chế, một số đặc điểm của quá trình

đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc ở Cuba từ năm 1991 đến năm 2016 và những

vấn đề đặt ra đối với sự nghiệp đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc của Cuba trong

thời gian tới. Bên cạnh đó, tác giả cũng đã liên hệ với sự nghiệp đấu tranh bảo vệ

độc lập dân tộc của Việt Nam giai đoạn 1991-2016.

Tóm lại, luận án đi sâu phân tích và làm rõ thực trạng của quá trình đấu

tranh bảo vệ độc lập dân tộc ở Cuba giai đoạn 1991-2016. Đồng thời, cũng đưa

ra được một số luận điểm mới mang tính định hướng trên các lĩnh vực: chính trị-

ngoại giao; an ninh- quốc phòng; kinh tế; văn hóa- xã hội, đó là những khuyến

nghị mà cá nhân tác giả đã mạnh dạn nêu ra để Đảng và Nhà nước Cuba có thể

tham vấn và đề ra đường lối, chủ trương, chính sách phù hợp với điều kiện và

hoàn cảnh đất nước trong thời gian tới.

Page 32: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

26

Chương 2

QUAN NIỆM VÀ NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG

ĐẾN QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH BẢO VỆ ĐỘC LẬP DÂN TỘC Ở CUBA

TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2016

2.1. QUAN NIỆM VỀ BẢO VỆ ĐỘC LẬP DÂN TỘC

2.1.1. Quan niệm về độc lập dân tộc và bảo vệ độc lập dân tộc

Quan niệm chung về độc lập dân tộc: Theo từ điểm tiếng việt thuật ngữ

"Độc lập" của một nước vừa là tính từ, vừa là danh từ. Trên phương diện tính từ,

"độc lập" được hiểu là không phụ thuộc vào nước khác hoặc dân tộc khác, còn

trên phương diện danh từ, "độc lập" là trạng thái của một nước hoặc một dân tộc

có chủ quyền về chính trị, không phụ thụ thuộc vào nước khác, hoặc dân tộc

khác [126, tr.444].

Quan niệm chung về bảo vệ độc lập dân tộc: Bảo vệ độc lập dân tộc được

hiểu là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của

tổ quốc, bảo vệ đảng, nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ

công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo vệ lợi ích quốc

gia dân tộc; bảo vệ văn hóa dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định

chính trị, an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội [126, tr.147-148].

Quan điểm của Mác và Anghen về độc lập dân tộc: Trong tác phẩm

"Tuyên ngôn của Đảng cộng sản" (2/1848), Mác và Anghen đã chỉ rõ:

Giai cấp tư sản ngày càng xóa bỏ tình trạng phân tán về tư liệu sản

xuất. Nó tự tập dân cư, tập chung các tư liệu sản xuất và tích tụ tài sản

vào tay một số ít người. Kết quả tất nhiên của thay đổi ấy là sự tập

trung về chính trị. Những địa phương độc lập liên hệ với nhau hầu như

chỉ bởi những quan hệ liên minh và có những lợi ích, luật lệ, chính

phủ, thuế quan khác nhau thì đã được tập hợp lại thành một dân tộc

thống nhất, có một chính phủ thống nhất, một pháp luật thống nhất và

một lợi ích dân tộc thống nhất. Khi chủ nghĩa tư bản đã phát triển cao,

bước vào giai đoạn độc quyền thì vấn đề dân tộc và độc lập dân tộc có

những sự vận động phức tạp. Đối với nội bộ dân tộc, bọn tư sản độc

Page 33: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

27

quyền, nắm mọi quyền lực của dân tộc, lợi ích kinh tế, chính trị, văn

hóa, quân sự, ngoại giao của dân tộc bị chi phối bởi tư sản độc quyền.

Còn trong quan hệ với các nước khác, chúng liên minh với các thế lực

tư sản độc quyền của các cường quốc tiến hành xâm lược, nô dịch để

chia lại thị trường, thuộc địa, phá vỡ sự thống nhất dân tộc, làm mâu

thuẫn giữa thuộc địa với đế quốc ngày càng sâu sắc. Đây chính là

nguyên nhân làm cho phong trào dân tộc phát triển, chống lại sự nô

dịch, xâm lược, làm xác lập quyền độc lập dân tộc [7, tr.602-603].

Quan điểm của Lênin về độc lập dân tộc: Trong "Luận cương của Lênin

về vấn đề dân tộc và thuộc địa" (1916), Lênin đã nêu ra quan điểm sau:

Giai cấp tư sản đã giải quyết một cách trừu tượng và hình thức vấn đề

dân tộc và quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Đó là một sự dối trá, thủ

tiêu đấu tranh giai cấp nhằm bảo vệ lợi ích hẹp hòi, cá lớn nuốt cá bé.

Nó tạo ra những quốc gia độc lập về phương diện chính trị, nhưng

hoàn toàn phụ thuộc vào chủ nghĩa tư bản về phương diện kinh tế, tài

chính, quân sự [125, tr.204].

Lênin đã đặt ra một loạt vấn đề có tính nguyên lý và những phương hướng

giải quyết vấn đề dân tộc của chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng theo đó, mọi dân

tộc đều có quyền bình đẳng và quyền tự quyết về vận mệnh của dân tộc mình trên

tinh thần hợp tác và xích lại lẫn nhau giữa các dân tộc [125, tr.204]. Đây là sự hoàn

thiện, phát triển lý luận chủ nghĩa Mác về vấn đề dân tộc của Lênin.

Khi đề cập đến những yếu tố dân tộc của các dân tộc thuộc địa, một mặt

Lênin phê phán những biểu hiện khác nhau của chủ nghĩa dân tộc tiểu tư sản như:

"tinh thần ích kỷ dân tộc", "thành kiến dân tộc tiểu tư sản thâm căn cố đế", mặt khác,

ông đặc biệt lưu ý hai vấn đề: "sự nghi kỵ của quần chúng cần lao ở các nước thuộc

địa đối với các dân tộc bị áp bức nói chung, kể cả với giai cấp vô sản của các dân tộc

đó" và "tình trạng lạc hậu của nước tiểu tư sản nông nghiệp mang tính gia trưởng làm

cho những thành kiến tiểu tư sản thâm căn cố đế nhất như tinh thần dân tộc ích kỷ,

hẹp hòi dân tộc có một sức mạnh đặc biệt và có tính giai giẳng" [125, tr.205].

Lênin cũng khẳng định quyền bình đẳng giữa các dân tộc bao gồm tất cả

các lĩnh vực trong đời sống xã hội, chính trị, kinh tế, văn hóa. Đây chính là cơ sở

Page 34: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

28

pháp lý chung để giải quyết các quan hệ quốc gia, dân tộc trên thế giới, trong các

khu vực vì nó được pháp luật của các quốc gia và công pháp quốc tế ghi nhận.

Bình đẳng giữa các dân tộc cũng có nghĩa là tôn trọng quyền của mỗi quốc gia

bởi vì nó đặt lên hàng đầu việc xóa bỏ ách nô dịch của dân tộc này đối với một

dân tộc khác và trở thành nguyên tắc hàng đầu trong hợp tác, giao lưu giữa các

dân tộc, quốc gia trên thế giới hiện nay.

Như vậy, những quan điểm về độc lập dân tộc và bảo vệ độc lập dân tộc

trên, đặc biệt là quan điểm của Mác, Anghen và Lênin được coi là cơ sở và tiền

đề lý luận quan trọng để nhà tư tưởng vĩ đại của cách mạng Cuba thế kỷ XIX,

Jose Marti chiêm nghiệm và được Đảng cộng sản Cuba, Chủ tịch Fidel kế thừa

và phát triển cho phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh lịch sử của cách mạng

Cuba trong quá trình đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc trong bối cảnh mới.

2.1.2. Quan niệm của Cuba về đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc

* Quan niệm về đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc của Jose Marti

Jose Marti đã thể hiện rõ quan điểm độc lập dân tộc của mình đó là: "coi

tư tưởng của thuyết thế giới cân bằng" và "tinh thần cách mạng triệt để" làm nền

tảng tư tưởng của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ độc lập dân tộc ở

Cuba. Nội dung chính của luận thuyết này là: "xây dựng một nước Cuba Cộng

hòa dân chủ với một nền cộng hòa chân chính và tất cả mọi quyền và vì lợi ích

của mọi người" [130]. Trong nước cộng hòa này sẽ thủ tiêu hết mọi chế độ bóc

lột, xã hội không có kẻ giàu, người nghèo, không có kẻ thống trị và người bị trị

và chính quyền trong nước sẽ vì thành quả chung của nhân loại. Đây chính là

nước cộng hòa của người lao động. Jose Marti còn đề ra khẩu hiệu: "xây dựng

một nước cộng hòa với tất cả mọi người và vì quyền lợi của mọi người" [60,

tr.69]. Quan điểm này đã phản ánh được nguyện vọng của đông đảo quần chúng

nhân dân và tạo điều kiện để nhân dân Cuba đứng lên chống lại thực dân Tây

Ban Nha và giành lại nền độc lập dân tộc cho đất nước.

Jose Marti cũng luôn nhấn mạnh vào sự cần thiết của cuộc đấu tranh bằng

con đường bạo lực cách mạng để lật đổ thực dân Tây Ban Nha, kiên quyết vạch

trần và kịch liệt lên án các tư tưởng cải lương, thỏa hiệp, đầu hàng của những

người theo chủ nghĩa tự trị, cho dù là công khai hay dấu mặt trong cuộc chiến

Page 35: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

29

chống lại một chế độ mà theo như Marti là gắn liền với tội ác và giá treo cổ,

đồng thời, khẳng định rõ quan điểm độc lập tự chủ của nhân dân Cuba trước thực

dân Tây Ban Nha và đế quốc Mỹ qua phát biểu đanh thép của mình: "Chúng ta

không đi tìm sự thay đổi hình thức thống trị, chúng ta không muốn thay ông chủ

Tây Ban Nha bằng một ông chủ mới mặc quân phục Mỹ" [60, tr.65].

Marti là một trong số rất ít những nhà cách mạng ở Mỹ Latinh và Châu

Mỹ đã nhìn thấu suốt mưu đồ bành trướng, bá quyền của đế quốc Mỹ ở Tây bán

cầu cũng như trên phạm vị toàn thế giới. Đặc biệt, do theo dõi sát sao mọi hành

vi, diễn biến đường lối đối nội, đối ngoại của nước Mỹ cuối thế kỷ XIX, nên

Marti đã gọi chính quyền Mỹ là "Tập đoàn ăn cướp" vì dưới sự lãnh đạo của tập

đoàn đó "Nước Mỹ...chỉ chăm chú đến việc đi xâm lược các nước láng giềng

nhỏ, yếu hơn và tiến hành các cuộc chiến tranh vô nhân đạo, chống lại các nước

trên thế giới với ý đồ thống trị toàn cầu" [154, tr.352]. Chính vì nhận thức được

một cách chính xác chủ nghĩa bành trướng của để quốc Mỹ nên Marti đã sớm

giác ngộ nhân dân Cuba khỏi các âm mưu thâm độc của Mỹ, định thế chân Tây

Ban Nha xâm lược Cuba và qua đó thực hiện chiến lược bành trướng các nước

Mỹ Latinh khác. Ông còn chủ trương phát động toàn dân Cuba đứng lên tiến

hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc để đánh đổ ách thống trị của thực dân

Tây Ban Nha, giành độc lập hoàn toàn cho Cuba, thúc đẩy và giúp đỡ cho nền độc

lập của các nước láng giềng như Puertorico, Mexico và ngăn chặn con đường bành

trướng của Mỹ qua quần đảo Angti và các nước Mỹ Latinh. Như vậy, tư tưởng đấu

tranh và bảo vệ độc lập dân tộc, chủ nghĩa yêu nước chân chính của Marti đã gắn

liền hữu cơ với tinh thần đoàn kết quốc tế, đoàn kết Mỹ Latinh chống kẻ thù chung

và ngay từ năm 1895, ông đã chỉ rõ được nguy cơ đang đe dọa trực tiếp đến cách

mạng Cuba và toàn Mỹ Latinh chính là đế quốc Mỹ.

Bên cạnh đó, Marti còn là một nhà tư tưởng dân chủ cách mạng kiệt xuất

và luôn mong muốn xây dựng ở Cuba một xã hội công bằng, hợp lý và đảm bảo

tự do hạnh phúc cho nhân dân. Nếu như vào cuối thế kỷ XIX, nhiều nhà tư tưởng

ở Mỹ Latinh vẫn còn lý tưởng hóa và ca ngợi chế độ cộng hòa tư sản thì Marti,

qua thực tiễn sinh sống ở Mỹ 15 năm đã nhận rõ rằng nền dân chủ Mỹ là nền dân

chủ trên hình thức, bởi thực tế nó đã biến thành một nền chuyên chế của thiểu số

Page 36: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

30

bóc lột đại đa số quần chúng nhân dân lao động. Đồng thời, cho rằng nền cộng

hòa dân chủ của Mỹ không những không xóa bỏ được sự nghèo khổ mà còn làm

bần cùng hóa và gia tăng sự nghèo khổ lên một cách đáng sợ. Trong hoàn cảnh

cụ thể của Cuba cuối thể kỷ XIX, Jose Marti đã đưa ra được tư tưởng dân chủ

cách mạng rất tiến bộ tạo cơ sở để trở thành vũ khí tinh thần sắc bén giúp nhân

dân Cuba đứng lên đấu tranh chống áp bức bóc lột, giải phóng dân tộc, giai cấp

và xã hội.

* Quan điểm của Đảng cộng sản Cuba về đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc

Theo quan điểm của Đảng Cộng sản Cuba, Đảng cộng sản là lực lượng lãnh

đạo tối cao của xã hội, Nhà nước, là thành quả chân chính của Cách mạng đấu tranh

và bảo vệ độc lập dân tộc, đồng thời là lực lượng tiên phong có tổ chức, cùng nhân

dân đảm bảo thành quả cách mạng và chế độ xã hội chủ nghĩa [17, tr.1].

Tại Đại hội toàn quốc lần thứ nhất Đảng Cộng sản Cuba (12/1975), Bí thư

thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Cuba, Fidel Castro đã từng nói:

Đảng là sự tổng hợp của tất cả. Đảng là kết tinh những mơ ước của tất

cả những người cách mạng trong suốt chiều dài lịch sử; những tư

tưởng, những nguyên tắc và sức mạnh cách mạng đều được cụ thể hóa

trong Đảng; ...trong Đảng, chúng ta đoàn kết hơn, mỗi chúng ta trở

thành một người lính Spaktacud kiên cường và cùng nhau trở thành

một người khổng lồ bất khả chiến bại [22, tr.2].

Quan điểm trên là sự tổng hợp những tư tưởng và hành động của Đảng

cộng sản Cuba trong quá trình đấu tranh và bảo vệ tổ quốc không chỉ trong thời

kỳ cách mạng dân tộc dân chủ mà còn được áp dụng nhuần nhuyễn trong công

cuộc xây dựng và củng cố một xã hội hoàn toàn tự do và tự chủ như đã thể hiện

trong Hiến pháp của Cuba.

Đảng Cộng sản Cuba lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Jose Marti [34]

và tư tưởng lãnh tụ lịch sử Fidel Castro làm nền tảng tư tưởng đối với sự nghiệp

xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay [91, tr.20].

Ngoài ra, Đảng cộng sản Cuba còn là Đảng cầm quyền duy nhất ở Cuba, có

nhiệm vụ đoàn kết tất cả những người yêu nước, đấu tranh vì những lợi ích tối

cao của dân tộc là xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ những thành quả của Cách

Page 37: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

31

mạng và tiếp tục đấu tranh vì giấc mơ xây dựng một xã hội công bằng cho Cuba

và cho toàn nhân loại.

Đảng Cộng sản Cuba là nhân tố đảm bảo cho khối đoàn kết của tất cả

những người cách mạng và những người yêu nước, trong công cuộc đấu tranh

không mệt mỏi chống lại chính sách bao vây cấm vận của Mỹ và là nhân tố đảm

bảo cho nền độc lập, sự nghiệp bảo vệ tổ quốc, an ninh quốc gia. Chính vì vậy,

trong Điều lệ Đảng được coi là Đảng của dân tộc Cuba.

Mục tiêu của Đảng Cộng sản Cuba trong giai đoạn hiện nay và trong

tương lai là: “Duy trì khối thống nhất toàn dân, tăng cường đạo đức cách mạng,

phát huy tinh thần Cách mạng, củng cố tình đoàn kết, công bằng xã hội, sự tin

cậy lẫn nhau, kỷ luật, sự chân thành, khiêm tốn, tinh thần đấu tranh phê bình và

tự phê bình và an ninh quốc gia. Đảng đấu tranh chống lại chủ nghĩa cá nhân,

chống lại chủ nghĩa phân biệt chủng tộc dưới mọi hình thức, chủ nghĩa hoài

nghi, sự thiếu niềm tin vào chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa bi quan, chủ nghĩa cơ

hội, chủ nghĩa theo đuôi, lá mặt lá trái, sự vô kỷ luật, tham nhũng và tất cả các

biểu hiện vô đạo đức, phản xã hội [23]. Đây cũng được coi là mục tiêu để Cuba

bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.

Sự nghiệp đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc của Cuba được dựa trên

những đường lối và nội dung cụ thể của công tác tư tưởng, trên cơ sở chủ nghĩa

Mác-Lênin, tư tưởng Jose Marti và tư tưởng của lãnh tụ lịch sử Fidel Castro,

cùng truyền thống đấu tranh của nhân dân và kinh nghiệm lịch sử của Đảng và

của các dân tộc khác.

Kết quả của Đại hội VI, VII và Hội nghị toàn quốc của Đảng đã cho thấy

những quan điểm của Đảng cộng sản Cuba về đường lối đấu tranh bảo vệ độc

lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng trong giai đoạn hiện nay vẫn

còn nguyên giá trị. Các kỳ Đại hội Đảng và Hội nghị Trung Ương đã trở thành

nơi cung cấp vũ khí, công cụ và chỉ ra con đường để Cách mạng Cuba tiếp tục

tiến lên. Quan điểm này là sự tổng hòa giữa lịch sử trong thời kỳ đấu tranh giải

phóng dân tộc trước đây với quá trình "cập nhật hóa mô hình kinh tế-xã hội"

hiện nay và tương lai cách mạng Cuba.

Bên cạnh đó, để bảo vệ nền độc lập dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa,

Đảng cộng sản Cuba cũng quán triệt quan điểm về việc thống nhất, liên kết tất cả

Page 38: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

32

các phương tiện, lực lượng để củng cố khối đoàn kết toàn dân; việc phát triển

những giá trị cách mạng; việc đáp ứng những đòi hỏi chính đáng của cá nhân và

tập thể; việc đấu tranh chống lại những thành kiến hiện vẫn đang tồn tại trong xã

hội cũng như thách thức to lớn mà cách mạng Cuba đang gặp phải.

Mặc dù, phải đối mặt với những khó khăn trên, nhưng với sự lãnh đạo

đúng đắn, sáng suốt của Đảng cộng sản, cách mạng Cuba vẫn tiếp tục đi lên và

thu được nhiều thành tựu quan trọng trong việc đấu tranh và bảo vệ nền độc lập

dân tộc, tiêu biểu là việc Mỹ phải tuyên bố bình thường hóa quan hệ với Cuba,

đưa Cuba ra khỏi danh sách các nước tài trợ cho chủ nghĩa khủng bố...Đúng như

nhận định của Bí thư thứ nhất, Raul Castro:

Từ bỏ nguyên tắc một đảng cũng đồng nghĩa với việc hợp pháp hóa

các đảng của chủ nghĩa đế quốc ở ngay trên mảnh đất của mình; là

đồng nghĩa với việc hy sinh vũ khí chiến lược của chúng ta là khối

đoàn kết toàn dân, khối đoàn kết đã biến giấc mơ độc lập và công bằng

xã hội của biết bao thế hệ những người yêu nước từ Hatuey cho tới

Cespedes, Martí và Fidel, thành hiện thực [24].

* Quan niệm của Fidel Castro về bảo vệ độc lập dân tộc

Nói đến quan niệm bảo vệ độc lập dân tộc của lãnh tụ cách mạng Fidel

Castro không thể không nhắc đến tư tưởng "Cách mạng tiến công". Nội dung

chính của tư tưởng này là:

Muốn dành được độc lập thật sự cho tổ quốc, tự do cho nhân dân, người

cách mạng không thể do dự trước khó khăn, nguy hiểm, trái lại, phải có

tinh thần kiên quyết đấu tranh, kiên quyết phát động quần chúng nổi dậy,

từng bước tạo ra những điều kiện chủ quan, cần thiết, tích cực, chủ động

tạo ra thời cơ để giành thắng lợi cho cách mạng [58, tr.246].

Những thành quả của công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc (1953-

1959) dẫn tới sự ra đời của nhà nước Cộng hòa Cuba ngày 1/1/1959 đã khẳng

định tính đúng đắn của tư tưởng Cách mạng tiến công, đồng thời, làm rõ chân lý

cách mạng của ông:

Cách mạng là phải tiến công. Không tiến công, cách mạng không thể

giành được thắng lợi. Tiến công là tìm cách khắc phục mâu thuẫn,

Page 39: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

33

vượt qua khó khăn, kiên trì xây dựng, phát triển thực lực của cách

mạng về mọi mặt, tích cực, chủ động, sáng tạo ra thời cơ để đưa cách

mạng từng bước tiến lên, đánh bại từng chính sách, đập tan từng âm

mưu, đánh đổ từng vị trí, đi đến đánh đổ hoàn toàn ách thống trị của

bọn bóc lột, giành chính quyền về tay nhân dân [58, tr.429].

Những thắng lợi của cuộc đấu tranh giải phóng và bảo vệ độc lập dân tộc

của Cuba trong giai đoạn 1953-1959 đã thể hiện sự thấm nhuần tư tưởng Cách

mạng tiến công của Fidel và đường lối cách mạng dân tộc dân chủ triệt để của

Chủ nghĩa Mác-Lênin được áp dụng vào nước thuộc địa kiểu mới. Chính Fidel

đã khẳng định: "Quá trình cách mạng Cuba khẳng định sức mạnh kỳ lạ của tư

tưởng Mác, Anghen, Lênin" [149]. Do vậy, cho dù hình thức đấu tranh, bước đi

cụ thể của Phong trào cách mạng giải phóng và bảo vệ độc lập dân tộc ở Mỹ

Latinh có diễn ra như thế nào thì những thành công của Cuba đã góp phần làm

phong phú lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về cách mạng dân tộc dân chủ trong

điều kiện các nước thuộc địa, nửa thuộc địa và nửa phong kiến.

Tư tưởng Cách mạng tiến công của Fidel không chỉ dừng lại ở thắng lợi

của cuộc cách mạng Tháng Giêng 1959, mà nó còn giúp Cuba thu được nhiều

thắng lợi quan trọng như: hoàn thành bản Cương lĩnh Moncada lịch sử với nội

dung: Khôi phục tự do cho nhân dân và nền dân chủ chính trị trong nước [148],

đồng thời dẫn dắt cách mạng Cuba vượt qua nhiều khó khăn thách thức.

Bên cạnh đó, quan niệm bảo vệ độc lập dân tộc của Fidel còn thấm nhuần

sâu sắc học thuyết xây dựng thế giới cân bằng và xóa bỏ bất công của Jose

Marti. Từ thực tiễn, Fidel đã vận dụng và phát triển tư tưởng này của Marti, kết

hợp với chủ nghĩa Mác-Lênin trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ

độc lập dân tộc của Cuba và tạo nên sức mạnh đoàn kết, tập hợp lực lượng và

nhân dân Cuba tiến lên xây dựng Cuba công bằng, hợp lý và nhân văn.

Fidel cũng đã khẳng định: "Tư tưởng sẽ làm chuyển hóa thế giới" [65,

tr.33], từ tư tưởng đến hành động, Fidel luôn gắn liền với quyền lợi của nhân

dân, tạo lên sức mạnh đoàn kết toàn dân. Chính sức mạnh to lớn của nhân dân đã

giúp Cuba kiên cường gần 60 năm chống chọi được với những âm mưu chống

phá của Mỹ nhằm tiêu diệt và lật đổ cách mạng Cuba.

Page 40: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

34

Để khẳng định những giá trị về tư tưởng cách mạng của Fidel, Chủ tịch

Raul Castro đã nói:

Fidel là không thể thay thế được và nhân dân Cuba sẽ tiếp tục theo

đuổi sự nghiệp của Người. Nhân dân Cuba sẽ mãi mãi coi Fidel và tư

tưởng của ông là biểu tượng và làm nền tảng cho tinh thần đấu tranh

chống đế quốc, giành độc lập và chủ quyền dân tộc. Fidel và tư tưởng

của ông chính là nguồn cổ vũ động viên to lớn đối với các thế hệ

người dân Cuba và là động lực dẫn dắt cách mạng vượt qua mọi khó

khăn, thử thách hiện nay và tiến lên đạt được nhiều thắng lợi to lớn

hơn nữa [2].

Từ những quan niệm về độc lập dân tộc và bảo vệ độc lập dân tộc của

Mác, Anghen, Lênin, Jose Marti, Fidel và Đảng cộng sản Cuba, theo quan điểm

của tác giả về đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc ở Cuba trong giai đoạn 1991-

2016 được hiểu như sau:

Thứ nhất, đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc ở Cuba trong giai đoạn này

chính là bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc. Đối với Cuba, bảo vệ lợi ích quốc gia

dân tộc cũng chính là bảo vệ các giá trị truyền thống về văn hóa, lịch sử và bản

sắc dân tộc. Không duy trì được lợi ích quốc gia dân tộc Cuba sẽ không thể giải

quyết được bất cứ vấn đề nào của đất nước mình vì hiện nay, mối quan hệ đồng

minh thân thiết giữa Cuba và Venezuela cũng có thể mất đi nếu lợi ích quốc gia

không được tôn trọng và đáp ứng thỏa đáng, trong khi, những kẻ thù lâu dài của

Cuba như Mỹ, cũng có thể trở lên thân thiết, nếu lợi ích quốc gia song trùng.

Đúng như câu châm ngôn bất hủ của Huân tước Anh Palmerston nói trong cuộc

chiến tranh Crimea giữa đế quốc Nga Sa Hoàng với đế chế Ottoman (1855-1856)

rằng: "Không có đồng minh vĩnh viễn và kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích quốc gia

là vĩnh viễn" [105, tr.6].

Thứ hai, đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc của Cuba cũng luôn gắn liền với

con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và để bảo vệ những thành quả của cuộc cách

mạng Tháng Giêng năm 1959. Từ sau thành công của cuộc cách mạng này đến

nay, Cuba đã dứt khoát đi theo con đường chủ nghĩa xã hội và giành được nhiều

thành quả quan trọng trên các lĩnh vực như: giáo dục, y tế, công nghệ sinh học,

Page 41: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

35

du lịch...đặc biệt, bất chấp những khó khăn về kinh tế, nhưng Cuba vẫn duy trì các

chính sách miễn phí về giáo dục, y tế, an sinh xã hội...Đây chính là nền tảng quan

trọng để đảm bảo sự ổn định chính trị-xã hội, cải thiện của đời sống nhân dân.

Thứ ba, bản chất của cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc ở Cuba trong

giai đoạn này chính là đấu tranh chống lại các chính sách bao vây cấm vận, cô

lập của Mỹ, những chính sách đã gây ra cho Cuba thiệt hại nặng nề về vật chất,

tinh thần.

Thứ tư, đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc ở Cuba cũng chính là đấu tranh bảo

vệ những nền tảng tư tưởng mà cuộc cách mạng này đang theo đuổi: chủ nghĩa

Mác- Lênin, tư tưởng Jose Marti và tư tưởng của lãnh tụ lịch sử Fidel Castro. Đây

chính là kim chỉ nam giúp cách mạng Cuba vượt qua mọi khó khăn, thách thức và

là nền tảng tư tưởng cho sự phát triển của quốc đảo này trong tương lai.

Thứ năm, bảo vệ độc lập dân tộc của Cuba cũng chính là cuộc đấu tranh bảo

vệ những thành quả cách mạng mà nhân dân Cuba đã đạt được trên tất cả các lĩnh

vực, đặc biệt là kinh tế. Bởi lệ thuộc về kinh tế cũng có nghĩa là phụ thuộc về chính

trị, mất độc lập tự chủ và đưa Cuba trở lại chủ nghĩa tư bản một lần nữa.

Thứ sáu, bảo vệ độc lập dân tộc của Cuba cũng chính là phát huy được

thành tựu, lợi thế so sánh mà cách mạng Cuba đã và đang đạt được trên các lĩnh

vực: giáo dục, y tế, công nghệ sinh học, biến các ngành này thành những ngành

kinh tế mũi nhọn, đảm bảo thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống nhân

dân và thực hiện công bằng xã hội. Đặc biệt, góp phần quan trọng giúp Cuba

chuyển đổi thành công cơ cấu kinh tế và từng bước hoàn thiện mô hình kinh tế

thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo "kiểu" Cuba. Đây cũng được coi là

ưu điểm và là giá trị quan trọng nhất mà sự nghiệp đấu tranh bảo vệ độc lập dân

tộc của Cuba cần tiếp tục phát huy trong hiện tại và tương lai.

2.2. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH

BẢO VỆ ĐỘC LẬP DÂN TỘC Ở CUBA

2.2.1. Nhân tố chủ quan

2.2.1.1. Khái quát về nước Cộng hòa Cuba

Cuba (tên gọi chính thức là Cộng hòa Cuba, tiếng Tây Ban Nha:

Republica de Cuba) là một quốc gia nằm ở phía Bắc của quần đảo Angti lớn

Page 42: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

36

thuộc biển Caribe và khu vực Trung Mỹ. Ngoài hòn đảo chính, Cuba còn có tới

1600 hòn đảo lớn nhỏ và các bãi đất nổi với tổng diện tích rộng 114,524 km2

[25, tr.1]. Với vị trị chiến lược hết sức quan trọng như trên nên Cuba từ lâu đã bị

các cường quốc thực dân ở Châu Âu và Bắc Mỹ nhòm ngó, thực hiện các mưu

đồ thôn tính và xâm chiếm làm thuộc địa. Các nước này cũng luôn coi Cuba là

chìa khóa để xâm nhập và mở rộng ảnh hưởng tại Mỹ Latinh.

Hiện nay, Cuba có khoảng 11,16 triệu dân, trong đó hơn 65% là người da

trắng gốc Âu (Tây Ban Nha), 25% là người lai, 10% là người gốc phi da đen. Ngoài

ra, còn có một nhóm nhỏ là người gốc Á (chủ yếu là người Hoa). Về tôn giáo, Cuba

có hơn 80% dân số theo Thiên chúa giáo, số còn lại là theo các tôn giáo khác như:

Tin lành, Do thái và Hồi giáo [25, tr.1]. Những đặc điểm dân cư nói trên đã tạo nên

sự gắn kết về văn hóa và tạo ra một nền văn hóa riêng có ở Mỹ Latinh.

Ngôn ngữ chính thức của Cuba là tiếng Tây Ban Nha, ngôn ngữ này có sự

pha trộn với một số ngôn ngữ gốc Idio, gốc Phi, cùng một số ít từ gốc Anh, Pháp

[58, tr.30]. Cuba là quốc gia có tốc độ đô thị hóa cao, với hơn 70% dân số sống ở

thành thị, trong đó, thủ đô La Habana là thành phố lớn nhất, có dân số khoảng

2,1 triệu người. Trên cả nước có 15 tỉnh và 1 quận đặc biệt trực thuộc Trung

ương (Pinot) và các thành phố lớn là: Santiago de Cuba, Camaguey [66, tr.1-2].

Nước Cộng hòa Cuba là quốc gia theo chế độ xã hội chủ nghĩa, do Đảng

cộng sản là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Vì vậy, chế độ chính

trị ở Cuba có sự khác biệt hoàn toàn so với các nước Mỹ Latinh và Châu Mỹ.

Hệ thống chính trị ở nước Cộng hòa Cuba bao gồm các cơ quan: Hành

pháp, lập pháp và tư pháp và hệ thống chính quyền địa phương. Từ sau khi giành

được độc lập đến nay, Cuba đã xác định con đường phát triển của đất nước là

xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mô hình của Xô Viết với nền tảng tư tưởng là

chủ nghĩa Mác- Lênin. Bộ máy Nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc tập

quyền, quyền lực nhà nước là thống nhất, không phân chia và thuộc về nhân dân.

Tuy nhiên, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan để thực hiện các

quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Việc Cuba lựa chọn con đường xã hội

chủ nghĩa (chế độ chính trị xã hội khác biệt hoàn toàn với các nước ở Mỹ Latinh)

chính là căn nguyên dẫn tới việc chính quyền Mỹ liên tục thực hiện các chính

Page 43: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

37

sách cô lập nhằm lật đổ chế độ ở Cuba. Do đó, đối với Cuba, sự nghiệp đấu tranh

bảo vệ độc lập dân tộc luôn gắn liền với quá trình bảo vệ chế độ xã hội chủ

nghĩa, thành quả của cuộc cách mạng tháng Giêng năm 1959 và chống lại các

chính sách bao vây, cấm vận của Mỹ.

Cuba là quốc gia giàu tài nguyên khoáng sản (Nicken: trữ lượng đứng thứ

4 thế giới...), đất đai màu mỡ, thích hợp cho canh tác nhiều loại cây công nghiệp

và cây ăn quả có giá trị như: mía, cafe, thuốc lá, cam...và chăn nuôi đại gia súc,

có nhiều vùng sinh thái tự nhiên, đa dạng rất thích hợp cho việc phát triển các

loại hình du lịch tự nhiên.

Từ khi cách mạng thành công 1/1/1959, Cuba về cơ bản vẫn duy trì mô

hình kinh tế Kế hoạch hóa, tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay (2011-2016),

Cuba đã từng bước thực hiện chủ trương "Cập nhật hóa mô hình kinh tế-xã hội",

tuy nhiên đây là quá trình “cập nhật” chứ không phải “Cải cách” hay “Đổi mới”.

Nền văn hóa Cuba được hình thành từ trong quá trình sản xuất và trao đổi

của nhân dân. Mặc dù, là một đất nước đa chủng tộc, nhưng dưới sự lãnh đạo

của Đảng cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa mọi hành vi phân biệt chủng

tộc ở Cuba đều bị xóa bỏ.

Văn học nghệ thuật của Cuba được hình thành và phát triển cùng với quá

trình đấu tranh giải phóng dân tộc chống lại thực dân Tây Ban Nha, nó phản ánh

sự thức tỉnh dân tộc, dân chủ và truyền thống yêu nước của người Cuba qua

nhiều thế kỷ. Sự phát triển đó gắn liền với tên tuổi của nhiều nhà văn hóa nổi

tiếng: Nhà triết học F.Varela, Nhà thơ J.M.Hereria...

Với những đặc điểm trên, đã giúp cho Cuba có điều kiện để phát triển

kinh tế xã hội, xây dựng một nền văn hóa giàu bản sắc, mở rộng quan hệ hợp tác

quốc tế, qua đó, góp phần bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc. Tuy nhiên, nó

cũng đặt Cuba phải đối mặt với nhiều thách thức: vị trí địa lý thuận lợi của Cuba

cũng đã là nơi để các nước đế quốc tranh giành ảnh hưởng, thôn tính nhằm phục

vụ cho những tham vọng đế quốc của mình; sự đa dạng văn hóa, sắc tộc cũng là

nguy cơ để các thế lực lợi dụng, thúc đẩy các hoạt động diễn biến hòa bình thông

qua vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo, gây chia rẽ nội bộ giữa Đảng

với Nhân dân từ đó chuyển hóa Cuba trở lại quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản, đe

dọa trực tiếp đến nền độc lập dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa ở quốc đảo này.

Page 44: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

38

2.2.1.2. Kinh nghiệm đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc ở Cuba trước

năm 1991

* Xây dựng và bảo vệ thành quả cách mạng xã hội chủ nghĩa (1959-1991)

Ngay sau khi giành được độc lập, Cuba tiếp tục phải đối mặt với các chính

sách thù địch của Mỹ thông qua việc thúc đẩy sự can thiệp quân sự, bao vây,

cấm vận kinh tế, chính trị nhằm lật đổ chính quyền cách mạng vừa mới được thành

lập. Việc Cuba thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên Xô (13/2/1960) [151] và quốc

hữu hóa tài sản của các công ty Mỹ, đặc biệt, Fidel còn công khai tuyên bố đi theo

Chủ nghĩa xã hội và trở thành đồng minh của Liên Xô (12/1961) đã buộc Mỹ phải

tiến hành các biện pháp trả đũa về tài chính và quân sự thông qua việc cấm nhập

khẩu hàng hóa từ Cuba vào Mỹ; ngăn chặn mọi nguồn tài chính tới Cuba; hỗ trợ

cho các phần tử Cuba sống lưu vong đổ bộ vào Vịnh Con Lợn (16/4/1961) nhằm

tiêu diệt cách mạng Cuba. Tuy nhiên, cuộc tấn công này bị thất bại và đã làm cho

hơn 1000 phần tử bị tiêu diệt và 1100 người bị bắt làm tù binh [182].

Sau hơn 3 thập kỷ tiến hành xây dựng nền kinh tế kế hoạch (1959-1991),

Cuba đã đạt được nhiều thành tựu có dấu mốc quan trọng:

Giai đoạn trước Đại hội lần thứ I (1959-1975)

Trong giai đoạn 1959-1975, Cuba đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng

trong việc phát triển giáo dục ở Mỹ Latinh. Nếu như trong năm 1958, Cuba có 1

triệu người mù chữ hoàn toàn, hơn 1 triệu người mù chữ một nửa, 600.000 trẻ

em thất học vì không có trường, ngân sách đầu tư cho giáo dục chỉ đạt 79,4 triệu

peso [65, tr.116], thì đến năm 1961, với việc cải cách giáo dục mạnh mẽ của

Đảng cộng sản Cuba và các chiến dịch xóa nạn mù chữ, Cuba đã thu được nhiều

thành quả quan trọng: có hơn 3,05 triệu học sinh được đi học; số học sinh tiểu

học tăng 2,7 lần; học sinh trung học tăng 6,1 lần, sinh viên đại học tăng 5,5 lần

lên con số 67.000 sinh viên; gần 100% trẻ em từ 6-12 tuổi được đi học. Ngoài ra,

Cuba còn có 21 trường Đại học Sư phạm đào tạo được 33.000 giáo viên tiểu học,

trung học [65, tr.120].

Cơ sở hạ tầng về y tế của Cuba trước cách mạng rất hạn chế và xuống cấp.

Hầu hết các bác sỹ giỏi đều tập trung ở La Habana, nơi chiếm 22% dân số và

61% giường bệnh. Các công ty sản xuất và phân phối dược phẩm đều nằm trong

Page 45: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

39

tay 500 hãng và hiệu bào chế thuốc của nước ngoài đặc biệt là Mỹ. Nhưng sau

cách mạng, nhờ chính sách phát triển y tế đúng đắn của Đảng Cộng sản đã góp

phần cải thiện tình hình y tế ở Cuba. Cuba đã xây dựng được 10 trung tâm

nghiên cứu sinh hóa và y học; thành lập được 4 trường Đại học Y khoa, mỗi năm

đào tạo được 1000 thầy thuốc và 300 nha sỹ, nhiều loại dịch bệnh nguy hiểm đã

được Cuba loại trừ như: bệnh bại liệt (1963), sốt rét (1968), bạch hầu (1971)…tỷ

lệ tử vong ở trẻ sơ sinh đã giảm thiểu từ 60/1000 (1958) xuống còn 28,9/1000

(1975); tuổi thọ trung bình của người dân từ 55 tuổi (1958) lên 70 tuổi (1974).

Ngoài ra, Cuba còn đạt được tỷ lệ có 750 người/1 thầy thuốc, 3000 người/1 nha

sỹ, 10000 người/55 cán bộ kỹ thuật (1975). Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao

động chiếm 1/3 dân số (1958) (khoảng 70 vạn người, trong đó có 45% sống ở

nông thôn), nhưng với những nỗ lực của chính phủ Cuba tình trạng thất nghiệp

cơ bản đã được chấm dứt vào năm 1975 [65, tr.134].

Mặc dù, trong giai đoạn này, Cuba đều phải tập trung nguồn lực vào

nhiệm vụ sống còn là bảo vệ độc lập dân tộc,nhưng những thành tựu đã đạt được

như trên rất đáng khích lệ và được coi là nền tảng giúp Cuba bảo vệ vững chắc

nền độc lập dân tộc, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

* Xây dựng và phát triển thành quả của Chủ nghĩa xã hội

Giai đoạn từ Đại hội lần thứ I đến Đại hội lần thứ III (1975- 1991)

Từ năm 1976 đến cuối những năm 80 của thế kỷ XX, Cuba lần lượt thực

hiện các kế hoạch 5 năm về phát triển kinh tế-xã hội theo phương hướng mà

Cương lĩnh của Đảng cộng sản Cuba lần thứ nhất đề ra là: "Tổ chức lại và phát

triển nền kinh tế quốc dân; xóa bỏ sự mất cân đối trong cơ cấu của nó; phát triển

nền công nghiệp dân tộc; cải tạo và đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp (bao gồm

trồng trọt và chăn nuôi); tăng các mặt hàng và khối lượng sản phẩm xuất khẩu,

thay thế các mặt hàng xuất khẩu, nâng cao mức sống của nhân dân" [17, tr.63].

Với đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng và sự giúp đỡ có hiệu quả của

Liên Xô và các nước xã hội Chủ nghĩa trong Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV),

Cuba đã hoàn thành nhiều chỉ tiêu của các kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội.

Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) giai đoạn 1981-1985 tăng 7,3% vượt xa con số

5% đề ra tại Đại hội lần thứ II (1980); nhiều công trình kinh tế lớn được xây

Page 46: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

40

dựng: nhà máy lọc dầu và điện nguyên tử Cienfuegos, nhà máy luyện nicken ở

Camarioca, nhà máy nhiệt điện ở Matansas có công suất 30 vạn kw…; hàng hóa

xuất khẩu sang các nước xã hội chủ nghĩa chiếm 85,4% tổng số hàng xuất khẩu

của Cuba, trong khi đó hàng nhập khẩu chiếm 84%; hàng nhập khẩu từ các nước

Tư bản chủ nghĩa chiếm 26% tổng hàng nhập khẩu (giai đoạn 1976-1980) và

giảm xuống còn 16% (giai đoạn 1981-1985); thu nhập từ ngành du lịch tăng từ

39,6 triệu USD (1980) lên 87,3 triệu USD (1985) [18, tr.16].

Ngoài những thành tựu về kinh tế, Cuba cũng đã thu được nhiều thành

quả quan trọng trong lĩnh vực giáo dục và y tế. Về giáo dục, tính đến năm 1985,

Cuba có hơn 80% trẻ em 5 tuổi, 78% từ 13-16 tuổi đã được đến trường. Hơn

46.000 học sinh đang theo học các chương trình giáo dục đặc biệt tại 433 trường.

Ngoài ra, Cuba còn thành lập được 46 trung tâm giáo dục đại học với số sinh

viên lên tới 28 vạn người. Số sinh viên ở các trường Đại học sư phạm đạt con số

107.000 người trong giai đoạn 1985-1986, tăng 77% so với năm 1984 [18, tr.29].

Về y tế, công tác vệ sinh, dịch tễ trong toàn dân đã được tăng cường.

Cuba có 1354 nhà chuyên môn trong và ngoài ngành y tế; 3346 cán bộ kỹ thuật

ở trình độ trung cấp và hàng nghìn người khác đang hoạt động trong lĩnh vực

này. Tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh giảm xuống còn 15/1000 trẻ (1984); tuổi thọ

trung bình đạt 74,2 tuổi (1985); cứ 433 người dân/1 bác sỹ và 1864 người/1 bác

sỹ đa khoa (1985) [18, tr.26].

Với những thành tựu nêu trên đã giúp Cuba đứng vững trên con đường đã

chọn và tiến lên xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội bất chấp sự bao vây,

chống phá quyết liệt của Mỹ và các thế lực phản động trong và ngoài nước.

Bên cạnh những thành tựu trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế - xã

hội, trong giai đoạn này, Cuba cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức.

Thứ nhất, nền kinh tế Cuba mặc dù đã có sự phát triển nhưng mức phát

triển này vẫn chưa tương xứng và chưa đảm bảo được sự tăng trưởng ổn định

nhất là trong bối cảnh nền kinh tế Cuba còn phụ thuộc nhiều vào Liên Xô, các

nước xã hội chủ nghĩa và đang chịu sự bao vây, cấm vận kinh tế của Mỹ.

Thứ hai, ngành sản xuất mía đường (ngành công nghiệp quốc gia số 1 của

Cuba) tuy có nhiều tiến bộ nhưng vẫn chưa thu hút được vốn đầu tư từ bên

Page 47: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

41

ngoài. Việc phát triển các sản phẩm phụ của mía còn thiếu phương hướng thích

hợp. Sản xuất đường không đạt kế hoạch vì không trồng hết diện tích dẫn tới

năng suất không cao. Ngoài ra, sự chậm chễ trong việc triển khai các loại giống

mới đã làm hạn chế khả năng phát triển của ngành công nghiệp này.

Thứ ba, việc áp dụng các nguyên tắc trả lương cào bằng trong lao động đã

là nguyên nhân dẫn tới chế độ khen thưởng trong sản xuất kinh doanh không

được đánh giá đúng mức, điều này cũng đã gây ra những khó khăn trong công

tác quản lý và điều hành nền kinh tế.

Thứ tư, chính sách bao cấp và trợ giá về giáo dục, y tế, nhà ở, phương tiện

giao thông…đã đưa Cuba trở thành điểm sáng của Mỹ Latinh và thế giới về bảo

vệ, chăm sóc sức khỏe và quan tâm đến sự phát triển toàn diện của con người.

Đồng thời giúp Cuba đứng vững trước các chính sách bao vây cấm vận của Mỹ

và các thế lực thù địch. Nhưng nếu bao cấp quá lâu trong điều kiện nền kinh tế

còn rất nhiều khó khăn, nhất là khi sự trợ giúp của Liên Xô và các nước xã hội

chủ nghĩa không còn đã làm thâm hụt ngân sách nặng nề, sinh ra thói ỷ lại, dựa

dẫm trong dân vào nhà nước và làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự nghiệp xây

dựng và bảo vệ tổ quốc.

Thứ năm, sự khủng hoảng và sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên

Xô và Đông Âu cũng đã tác động tiêu cực đến nền kinh tế và xã hội Cuba. Bởi

trong thời gian dài, nền kinh tế của quốc đảo này luôn có sự gắn bó chặt chẽ với các

nước xã hội chủ nghĩa. Việc không còn các đối tác truyền thống khiến Cuba mất đi

chỗ dựa lớn về kinh tế và là tác nhân trực tiếp đẩy Cuba lâm vào khủng hoảng kinh

tế -xã hội trầm trọng trong những năm cuối của thập niên 80 của thế kỷ XX.

Thứ sáu, ảnh hưởng của các trận bão lịch sử trong năm 1963, cùng với

tình trạng hạn hán, dịch bệnh cũng là những tác nhân ảnh hưởng đến sự phát

triển kinh tế của Cuba, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp và các loại cây trồng

chủ lực như: mía, thuốc lá.

Tóm lại, công cuộc bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở

Cuba trong giai đoạn 1959-1991 đã đạt được nhiều thành tựu có ý nghĩa quan

trọng về chính trị, kinh tế, giáo dục, y tế…Nền độc lập dân tộc và chế độ xã hội

chủ nghĩa được duy trì và củng cố; nạn thất nghiệp cao do chế độ cũ để lại đã

Page 48: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

42

hoàn toàn bị xóa bỏ; trình độ học vấn và kỹ năng của công nhân viên chức được

chăm lo, bồi dưỡng và nâng cao…Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt

được, Cuba phải đối mặt với nhiều khó khăn khách quan do thiên tai, dịch bệnh

và do những "khiếm khuyết, sai lầm chủ quan trong quản lý kinh tế đã được Ban

lãnh đạo Đảng và Nhà nước phát hiện từ năm 1985" [18, tr.253-254]. Ngoài ra,

những diễn biến phức tạp trong quá trình cải tổ và cải cách ở Liên Xô và các

nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu nửa cuối những năm 80 cũng có tác động và

ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình Cuba. Những kinh nghiệm về thành công và

thất bại nêu trên trong giai đoạn này sẽ là bài học quan trọng giúp cho Cuba thực

hiện thành công nhiệm vụ bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và chế độ

xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới.

2.2.1.3. Vai trò lãnh tụ ở Cuba

* Vai trò của Fidel Castro

Fidel Castro (1926-2016), lãnh tụ tối cao của cách mạng Cuba trong suốt

gần 5 thập kỷ (1959-2008). Fidel là người đã có những đóng góp đặc biệt to lớn

đối với cách mạng và sự phát triển của dân tộc Cuba trong thời kỳ cách mạng

giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội như sau:

Đầu tiên phải kể đến đó là tầm ảnh hưởng của lãnh tụ Fidel đã đem lại

nguồn sức mạnh to lớn đối với sự nghiệp đấu tranh, giải phóng và bảo vệ nền

độc lập dân tộc như: trong gần 5 thập kỷ lãnh đạo cách mạng Cuba, Fidel đã

kiêm nhiệm 6 chức vụ lãnh đạo cao nhất của đất nước; ông có thể đưa ra các

quyết định quan trọng của Đảng, Nhà nước và Chính phủ một cách nhanh chóng,

chính xác mà không gặp phải sự phản đối của bất cứ ai; sức làm việc của Fidel là

phi thường (mỗi ngày chỉ ngủ 3-4 giờ đồng hồ)...đây là những nhân tố quan

trọng giúp ông có thể lãnh đạo cách mạng Cuba tới 49 năm, đồng thời dẫn dắt

cách mạng Cuba vượt qua những giai đoạn khó khăn nhất của đất nước.

Fidel là người đã có công trong việc nâng cao vai trò và vị thế của Cuba

trên trường quốc tế đưa dân tộc Cuba từ một quốc gia không mấy người biết đến

trở thành "thành trì" của chủ nghĩa xã hội ở Mỹ Latinh và Tây Bán Cầu; thực

hiện tốt nghĩa vụ quốc tế cao đẹp; luôn đi đầu trong việc phát triển phong trào

cánh tả để tiến lên xây dựng một xã hội mới "chủ nghĩa xã hội trong thế kỷ XXI"

Page 49: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

43

ở Mỹ Latinh mà không có sự hiện diện của Mỹ. Sự ra đời và phát triển của

Nicaragua (1979-1989); các nước Thiên tả ALBA và các phong trào du kích cánh

tả: Lực lượng vũ trang cách mạng Colombia (FARC) và Mặt trận giải phóng dân

tộc Farabundo Marti (Elsalvador) đều có công lao đóng góp của Fidel.

Bên cạnh đó, các chương trình "sửa sai" trong kinh tế do chủ tịch Fidel

khởi xướng, lãnh đạo đã góp phần củng cố và bảo vệ vững chắc chế độ xã hội

chủ nghĩa và nền độc lập dân tộc. Trong giai đoạn từ 1993-2003, Fidel đã thực

hiện một số chương trình cải cách kinh tế: chương trình lương thực thực phẩm,

du lịch, sản xuất dược liệu và công nghệ sinh học...đã góp phần làm cho Cuba

thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, tạo cơ sở và tiền đề để Raul đẩy mạnh cải cách

kinh tế trong giai đoạn sau.

Đặc biệt, thành tựu lớn nhất mà Fidel đem lại cho đất nước và nhân dân

Cuba trong gần 50 năm lãnh đạo đất nước chính là sự công bằng xã hội. Ở Cuba

ngoài một số ít các nhà lãnh đạo cấp cao như Fidel, Raul, còn các nhà lãnh đạo

khác đều không có lực lượng cảnh vệ. Một số Ủy viên Bộ chính trị trong đó có

Fidel sau khi hết giờ làm việc thường ra ngoài nói chuyện với hàng xóm. Các

nhà lãnh đạo ở Trung ương khi xuống địa phương làm việc đều ăn, ở cùng với

cán bộ địa phương mà không có chế độ ưu tiên...Ngoài ra, sự chênh lệch về

khoảng cách thu nhập giữa lãnh đạo với người dân là không lớn, các cán bộ liêm

khiết không có đặc quyền, đặc lợi và tham nhũng; chế độ phúc lợi xã hội giữa

lãnh đạo cấp cao với người dân là ngang nhau [93, tr.7].

Hơn nữa, thành tựu về giáo dục, y tế, công nghệ sinh học cùng chính sách

bao cấp miễn phí của Fidel đã giúp cho cách mạng Cuba trụ vững trước các

chính sách bao vây cấm vận hà khắc của Mỹ. Đồng thời, tạo cơ sở và niềm tin

của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, đứng đầu là Fidel.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, Fidel cũng đã mắc phải một số sai

lầm, khuyết điểm trong quá trình lãnh đạo đất nước và điều này cũng đã làm ảnh

hưởng đến sự nghiệp đấu tranh và bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã

hội cụ thể: tinh thần quốc tế cao cả của Fidel đôi khi không được hiểu đúng, đôi

lúc còn bị lợi dụng, do đó đã tạo ra những khó khăn đối với tình hình đất nước;

việc duy trì quá lâu chính sách bao cấp về an sinh xã hội, y tế và giáo dục trong

Page 50: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

44

điều kiện nền kinh tế gặp nhiều khó khăn đã làm cho nền kinh tế Cuba đứng trên

bờ vực của sự sụp đổ và làm cho người dân có tâm lý ỷ lại vào nhà nước; các

chương trình cải cách, sửa sai về kinh tế do Fidel khởi xướng vẫn chưa thực sự

phát huy được hết hiệu quả và làm cho nền kinh tế Cuba phải đối mặt với nhiều

khó khăn; quan điểm cách mạng kiên định, tinh thần đấu tranh chống Mỹ quá

mạnh mẽ, đôi lúc rơi vào tả khuynh. Tất cả những hạn chế nêu trên đã làm cho

cách mạng Cuba gặp rất nhiều khó khăn và làm cản trở quá trình bảo vệ độc lập

dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở quốc đảo này.

* Vai trò của Raul Castro

Sau khi lên thay Fidel, Chủ tịch Raul đã có những đóng góp quan trọng

đối với sự nghiệp đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội

ở Cuba như sau:

Raul chính là người đã thúc đẩy quá trình cải cách kinh tế và đề ra chủ

trương "Cập nhật hóa mô hình kinh tế-xã hội" ở Cuba đi đúng định hướng xã hội

chủ nghĩa. Ông cũng là người có vai trò quan trọng trong việc thực hiện chính

sách đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế. Giúp Cuba mở rộng quan hệ

ngoại giao với các nước Mỹ Latinh và thế giới. Đồng thời, phá được thế bao vây,

cô lập ngoại giao của Mỹ. Chủ tịch Raul cũng là nhân tố then chốt trong việc cải

thiện quan hệ với Mỹ bằng việc Mỹ đưa ra tuyên bố ngày 17/12/2014 và thiết lập

lại quan hệ ngoại giao giữa Cuba và Mỹ.

Bên cạnh đó, những cải cách trên của Raul vẫn còn nhiều bất cập, hạn

chế: quá trình chuyển giao thế hệ lãnh đạo cấp cao từ thế hệ lịch sử sang trẻ tuổi

còn diễn ra chậm chạp và khó khăn; hiệu quả của công cuộc cải cách kinh tế

không cao; cơ cấu kinh tế đất nước chưa có sự thay đổi rõ rệt; nhiều lĩnh vực sản

xuất có dấu hiệu đình trệ; nền kinh tế vẫn là kinh tế Kế hoạch hóa chưa chuyển

sang hoàn toàn nền kinh tế thị trường; sự phụ thuộc kinh tế của Cuba vào

Venezuela ngày càng lớn; chính sách đồng tiền kép vẫn còn tồn tại, đời sống

nhân dân gặp nhiều khó khăn...những tồn tại trên đã làm cản trợ sự phát triển của

nền kinh tế và tác động không tốt đến quá trình bảo vệ độc lập dân tộc của Cuba

trong hiện tại và tương lai.

Page 51: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

45

2.2.2. Nhân tố khách quan

2.2.2.1. Tình hình thế giới và khu vực

* Tình hình thế giới

Trong những năm cuối thập niên 80, đầu 90 của thế kỷ XX, hệ thống xã

hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu lâm vào khủng hoảng và sụp đổ đã làm cho

cục diện thế giới, quan hệ quốc tế thay đổi sâu sắc và toàn diện khi nó làm chấm

dứt hoàn toàn chiến tranh Lạnh và đối đầu Xô-Mỹ và đưa thế giới từ "hai cực"

chuyển sang "nhất siêu đa cường". Đặc biệt, sự thay đổi này đã làm chấm dứt

cuộc đối đầu ý thế hệ và đấu tranh giai cấp vốn tồn tại không chỉ giữa hai khối

mà còn trong chính nội bộ các nước xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, nó đã đưa thế

giới bước sang một giai đoạn mới, nơi mà xu thế "hợp tác" thay cho "đối đầu"

nhưng dựa trên phương châm "vừa hợp tác, vừa cạnh tranh".

Bước sang thế kỷ XXI, quá trình xác lập và hình thành trật tự thế giới mới

vẫn tiếp tục chứa đựng nhiều nhân tố phức tạp, bất chắc và khó đoán định: sự

phục hồi của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế thông qua sự phát triển

của Trung Quốc, Việt Nam, nhưng vẫn gặp phải sự chống phá mạnh mẽ của chủ

nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, muốn xóa bỏ toàn diện và triệt để những

thành quả của chủ nghĩa xã hội trong 100 năm qua.

Cơ cấu địa chính trị, phân bổ tiềm lực và cán cân so sánh lực lượng vẫn

nghiêng về có lợi cho chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên, trật tự quốc tế từ đầu thế kỷ

XXI đến nay vẫn nổi lên hai khuynh hướng cơ bản và có sự đối đầu với nhau

gay gắt: nước Mỹ về cơ bản vẫn duy trì được trật tự thế giới "đơn cực", mặc dù,

trật tự này đang bị suy giảm mạnh do sự cạnh tranh mạnh mẽ của các cường

quốc: Trung Quốc, Nhật Bản, EU, Nga và không chấp nhận quan điểm thế giới

"đơn cực" do Mỹ chi phối. Bên cạnh đó, khái niệm "đa trung tâm" gồm Mỹ, Tây

Âu và Nhật Bản tồn tại trong giai đoạn 1970-1990 cũng đã chấm dứt và chuyển

sang "đa cực" với sự hiện diện của các nước đang phát triển, phát triển và mới

nổi như: Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản [37, tr.10]... Ngoài ra, quá trình đấu

tranh giữa hai khuynh hướng "đơn phương" với "đa phương"; "đơn cực" với "đa

cực" cũng diễn ra gay gắt, quyết liệt với ưu thế thuộc về "đa cực" và "đa

phương" trong quan hệ quốc tế.

Page 52: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

46

Sau khi chiến tranh Lạnh kết thúc, những đặc điểm và xu thế của tình hình

quốc tế như: sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa; xu thế toàn cầu hóa; hòa

bình, hợp tác và phát triển; cách mạng khoa học công nghệ.. đã tác động trực tiếp

đến quá trình đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa hội theo

hai hướng thuận- nghịch như sau:

Thứ nhất, toàn cầu hóa (đặc biệt là toàn cầu hóa kinh tế) là xu hướng

khách quan lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia trong đó có Cuba. Xu thế

này đang bị một số nước phát triển, mới nổi và các tập đoàn tư bản xuyên quốc

gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực và tiêu cực, vừa có

hợp tác và đấu tranh.

Toàn cầu hóa đã trở thành một xu thế khách quan của thế giới. Nó được hình

thành từ đầu thế kỷ XX và phát triển mạnh trong hai thập niên đầu của thế kỷ XXI.

Đây là một quá trình mà thông qua việc sản xuất và mở cửa thị trường, các nước có

xu hướng phụ thuộc lẫn nhau. Quá trình này đã tác động trực tiếp đến nền độc lập

dân tộc của Cuba theo hai hướng thuận-nghịch đan xen cụ thể như sau:

Theo chiều thuận, quá trình toàn cầu hóa đã tạo cơ hội cho Cuba có khả

năng hội nhập sâu rộng với các quốc gia, tổ chức ở khu vực Mỹ Latinh và thế

giới trên các phương diện. Về kinh tế, toàn cầu hóa kinh tế đã thúc đẩy sự phát

triển, xã hội hóa lực lượng sản xuất và tạo điều kiện cho việc chuyển giao khoa

học, công nghệ của thế giới tới Cuba, giúp quốc đảo này từng bước hội nhập và

phát triển kinh tế [10, tr.15]; quá trình này cũng góp giúp Cuba có được những

thị trường, đối tác, bạn hàng và phương thức hoạt động mới, nhất là trong bối

cảnh quan hệ Cuba-Mỹ đã được cải thiện. Về chính trị, toàn cầu hóa còn giúp

Cuba tăng cường tình đoàn kết với các nước Mỹ Latinh, các nước xã hội chủ

nghĩa, các nước đang phát triển, cộng đồng thế giới và các lực lượng chính trị xã

hội khác nhau để chống lại những mặt trái của quá trình này. Về văn hóa-xã hội,

toàn cầu hóa giúp cho người dân Cuba có cơ hội tiếp cận, giao lưu, hợp tác với

nhiều nền văn minh tiên tiến trên thế giới để năng cao sự hiểu biết và nhận thức

của người dân với thế giới; các hoạt động giao lưu văn hóa của Cuba (vốn được

coi là thế mạnh) với thế giới sẽ thuận lợi hơn nhằm nâng cao vai trò và vị thế của

Cuba trên trường quốc tế.

Page 53: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

47

Theo chiều nghịch, về kinh tế, (i) tham gia vào tiến trình toàn cầu hóa kinh

tế quốc tế sẽ làm cho Cuba không còn độc lập tuyệt đối trong việc đề ra các

chính sách kinh tế độc lập tự chủ và đẩy nền kinh tế Cuba có nguy cơ phụ thuộc

vào thương mại và đầu tư từ bên ngoài; sự an toàn của nền kinh tế Cuba, đặc biệt là

trong lĩnh vực tài chính sẽ không còn được đảm bảo, nhất là trong bối cảnh Cuba

đang từng bước hội nhập sâu rộng với thế giới; toàn cầu hóa kinh tế sẽ làm cho nền

kinh tế Cuba dễ bị các nhà tài phiệt, đầu cơ tài chính quốc tế, các thế lực đế quốc

thao túng, lũng đoạn, đưa Cuba quay trở lại chủ nghĩa tư bản tự do [115]. Về chính

trị, với sự phát triển mạnh mẽ của quá trình toàn cầu hóa, nền độc lập dân tộc và

chế độ xã hội chủ nghĩa ở Cuba sẽ gặp phải những thách thức nghiêm trọng và có

thể sẽ bị rơi vào tay các thế lực phản động, tay sai, đế quốc; một số vấn đề như:

thông tin, mạng xã hội cũng sẽ vượt khỏi tầm kiểm soát và làm suy giảm quyền lực

truyền thống và tầm ảnh hưởng mạnh mẽ bấy lâu nay của Đảng và Nhà nước Cuba.

Về văn hóa-xã hội, toàn cầu hóa sẽ tác động tiêu cực đến đời sống xã hội của người

dân Cuba đặc biệt là đối với vấn đề việc làm. Bởi với một nền kinh tế đóng, tổ chức

quản lý sản xuất yếu kém, thói quen dựa dẫm, ỷ lại vào nhà nước của người dân quá

lâu dẫn tới tình trạng phá sản hàng loạt của các xí nghiệp quốc doanh, tình trạng lao

động thất nghiệp, không có việc làm. Điều này, sẽ nảy sinh hàng loạt các vấn đề xã

hội tiêu cực cho Cuba nhất là trong bối cảnh thực hiện "Cập nhật hóa mô hình kinh

tế-xã hội"; toàn cầu hóa còn tác động đến nền tảng tư tưởng, tinh thần của người

dân Cuba, làm xói mòn bản sắc văn hóa dân tộc và gây ảnh hưởng nghiêm trong

đến chủ quyền quốc gia của Cuba như: sự phai nhạt lý tưởng cách mạng, xuống cấp

đạo đức xã hội, chủ nghĩa thực dụng, cơ hội, cá nhân...và làm biến đổi bản chất con

người và bản chất xã hội chủ nghĩa của dân tộc Cuba.

Thứ hai, cuộc cách mạng khoa học- công nghệ đang có bước phát triển

nhảy vọt và đạt được nhiều thành tựu to lớn

Từ thập niên 70 của thế kỷ XX đến nay, cuộc cách mạng khoa học kỹ

thuật và công nghệ hiện đại diễn ra mạnh mẽ và làm cho khoa học trở thành lực

lượng sản xuất trực tiếp, nó tác động sâu sắc tới tất cả các lĩnh vực của đời sống

mỗi quốc gia và trong quan hệ quốc tế. Đặc điểm nổi bật của cuộc cách mạng

này là ở chỗ khoa học -công nghệ và sản xuất không còn là 3 lĩnh vực tách rời

Page 54: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

48

nhau mà trái lại phát minh khoa học đã chuyển hóa thành công nghệ và được đưa

vào sản xuất đại trà ngày càng thống nhất trong một quá trình; khoảng cách giữa

nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và nghiên cứu triển khai vào sản xuất

ngày càng được rút ngắn. Cuộc cách mạng này là động lực quan trọng thúc đẩy

sản xuất phát triển nhảy vọt, đồng thời tạo ra các lực lượng sản xuất mới hiện đại

và có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các mối quan hệ kinh tế, xã hội, văn hóa...

Cuộc cách mạng khoa học-công nghệ cũng có những tác động tích cực và

tiêu cực đối với quá trình bảo vệ độc lập dân tộc của Cuba.

Về mặt tích cực, thông qua quá trình này, Cuba có thể đi tắt đón đầu

những công nghệ hiện đại, nguồn tri thức tiến bộ của nhân loại nhằm phát triển

lực lượng sản xuất, đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, nâng cấp cơ sở hạ tầng. Đồng

thời, đưa những thành tựu đó vào trong quá trình “cập nhật hóa mô hình kinh tế-

xã hội” giúp Cuba có sự bứt phá ngoạn mục về kinh tế để từng bước thoát khỏi

tình trạng tụt hậu, kém phát triển so với các nước Mỹ Latinh và trên thế giới.

Về mặt tiêu cực, quá trình này cũng góp phần làm gia tăng khoảng cách

giàu nghèo giữa các tầng lớp nhân dân trong xã hội Cuba, tăng nguy cơ Cuba bị

lệ thuộc kinh tế và làm cho nền kinh tế thiếu khả năng cạnh tranh với bên ngoài.

Thứ ba, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn tiếp tục là xu thế chủ đạo của

thế giới lôi cuốn tất cả quốc gia, dân tộc tham gia trong đó có Cuba

Kể từ sau khi chiến tranh Lạnh kết thúc đến nay, giữa các quốc gia, đặc

biệt là các nước lớn về cơ bản không còn những mâu thuẫn tranh giành và phân

chia thuộc địa như trước, nhưng vẫn còn tồn tại những mâu thuẫn trong việc

phân chia các lợi ích quốc gia, dân tộc. Những mâu thuẫn này buộc các nước

phải hợp tác chặt chẽ với nhau và giải quyết bằng con đường hòa bình.

Hiện nay, hợp tác và phát triển diễn ra dưới rất nhiều hình thức: hợp tác

song và đa phương, khu vực, quốc tế...Các tổ chức kinh tế, chính trị quốc tế như:

Liên Hợp Quốc (UN), Tổ chức thương mại thế giới (WTO)...ngày càng tham gia

nhiều hơn vào đời sống chính trị thế giới. Sự tham gia của các tổ chức này đã

giúp cho lĩnh vực hợp tác giữa các nước trở lên đa dạng hơn.

Sự phát triển của xu thế này cũng đã tác động rất lớn đến quá trình đấu

tranh và bảo vệ độc lập dân tộc ở Cuba cụ thể:

Page 55: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

49

Về điều kiện thuận lợi, xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển đã tạo ra môi

trường quốc tế thuận lợi giúp Cuba nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ trong việc

yêu cầu Mỹ bình thường hóa quan hệ và xóa bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận kinh tế;

tránh được sự tranh giành ảnh hưởng của các nước lớn và có thể chủ động đề ra

đường lối, chính sách độc lập, tự chủ nhằm phục vụ cho sự nghiệp phát triển

kinh tế, xây dựng và bảo vệ tổ quốc; thúc đẩy tình đoàn kết với các nước Mỹ

Latinh và thế giới nhằm chống lại các nguy cơ: chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ

nghĩa khủng bố và những nguy cơ tiềm tàng khác...; với xu thế chủ đạo này, mặc

dù là một siêu cường có tầm ảnh hưởng lớn trên toàn cầu, nhưng Mỹ đã phải có

sự điều chỉnh và thay đổi cách tiếp cận trong quan hệ với Cuba trước sức ép

trong nước, cộng đồng quốc tế bằng việc thông qua Tuyên bố bình thường hóa

quan hệ với quốc đảo này sau gần 6 thập kỷ đối đầu, thù địch.

Những hạn chế, xu thế hợp tác và phát triển chỉ được duy trì một cách

tương đối giữa các quốc gia với nhau. Đối với Cuba, là một nước nghèo, chậm

phát triển và vẫn chịu sự bao vây cấm vận kinh tế của Mỹ, chắc chắn sẽ không

thể đón nhận hết được những lợi thế mà xu thế này đem lại. Không những vậy,

một số quốc gia khi hợp tác với Cuba vẫn bị Mỹ trừng phạt về kinh tế. Điều này,

đã làm cản trở quá trình hợp tác giữa Cuba với thế giới và ảnh hưởng đến quyền

tự quyết của Cuba trong các mối quan hệ quốc tế.

* Tình hình khu vực

Mỹ Latinh là khu vực có địa lý trải dài từ Mexico đến đảo Đất lửa (cực

Nam của Châu Mỹ), có diện tích hơn 20 triệu km2, dân số hơn 626 triệu người,

bao gồm 33 quốc gia và 14 vùng lãnh thổ (các đảo nhỏ, vùng đất thuộc Anh, Mỹ,

Hà Lan), trừ Brazil nói tiếng Bồ Đào Nha, hầu hết các nước còn lại là nói tiếng

Tây Ban Nha [186]. Yếu tố văn hóa này đã hình thành nên khu vực Mỹ Latinh

có nền văn hóa riêng, đa dạng và giàu bản sắc.

Sau chiến tranh Lạnh, cùng với sự tan rã của trật tự thế giới hai cực Xô-

Mỹ, Mỹ Latinh đã nổi lên là một khu vực có quá trình hội nhập thông qua việc ra

đời của các thể chế mới. Quan hệ chính trị, kinh tế, thương mại nội khối đã được

củng cố nhờ vào việc thiết lập các mối quan hệ chính trị chặt chẽ giữa các quốc

gia cùng với đó là hàng rào thuế quan, phi thuế quan được cắt giảm. Cho đến

Page 56: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

50

năm 1999, có 5 khối kinh tế trong khu vực đang nổi lên và trở thành những trụ

cột quan trọng của Mỹ Latinh như: Cộng đồng Caribe (CARICOM); Khối thị

trường chung Trung Mỹ (CACM); Cộng đồng các nước Andes (CAN); Khối thị

trường chung Nam Mỹ (MERCOSUR); Hiệp định Thương mại tự do Bắc Mỹ

(NAFTA)...5 tổ chức khu vực này dựa trên những kinh nghiệm khác nhau để

hướng tới việc thúc đẩy các mối liên kết về chính trị, kinh tế bền chặt hơn.

Mặc dù, Mỹ Latinh đã thoát khỏi ách cai trị của các thế lực độc tài thân

Mỹ trong thập niên 80, nhưng bước sang thập niên 90, với sức mạnh kinh tế,

chính trị, quân sự và tiềm lực tài chính vượt trội, Mỹ vẫn tiếp tục gây những áp

lực buộc các nước Mỹ Latinh phải đi theo quỹ đạo về chính trị, kinh tế Mỹ thông

qua việc áp dụng mô hình "chủ nghĩa tự do mới trong kinh tế", hậu quả là khu

vực này lâm vào tình trạng khủng hoảng, đói nghèo, chậm phát triển, bất bình

đẳng xã hội gia tăng...Sự bần cùng hóa này chính là cơ sở để hình thành và phát

triển các cuộc cách mạng và phong trào cánh tả trong khu vực cuối những năm

90 của thế kỷ XX và thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI, điển hình là cuộc cách

mạng Bolivar ở Venezuela của Hugo Chavez vào tháng 12/1998 [175].

Như vậy, bối cảnh khu vực trên đã tác động sâu sắc tới quá trình đấu tranh

bảo vệ độc lập dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Cuba theo hai hướng thuận-

nghịch đan xen và thể hiện thông qua các khía cạnh sau:

Thứ nhất, sự nổi lên của phong trào Cánh tả Mỹ Latinh và sự ra đời của

nhóm ALBA

Mỹ Latinh là khu vực có phong trào Cánh tả phát triển rất sớm, từ cuối thế

kỷ XIX. Từ cuối thập niên 90 của thế kỷ XX đến nay, Phong trào Cánh tả ở khu

vực đã tiến lên một bước phát triển mới rất mạnh mẽ mà dấu ấn đầu tiên chính là

thắng lợi của Hugo Chavez trong cuộc bầu cử Tổng thống ở Venezuela năm

1998. Ngoài ra, trong giai đoạn 1998-2013, có hơn 10 nước Mỹ Latinh do các

Lực lượng cánh tả cầm quyền sau các cuộc bầu cử: Brazil, Argentina, Chile,

Paraguay...Đặc biệt, một trong những nét đặc sắc của Phong trào Cánh tả là sự ra

đời của nhóm Liên minh Bolivar dành cho các dân tộc Châu Mỹ (ALBA-

12/2004) trên cơ sở ý tưởng của cố Chủ tịch Fidel Castro và cố Tổng thống

Hugo Chavez. Tổ chức này bao gồm 9 thành viên và 3 quan sát viên với mục

Page 57: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

51

tiêu hoạt động là bảo vệ quyền của nhân dân, xây dựng một mô hình phát triển

nhân đạo, xã hội công bằng, bình đẳng và tự do [50]. Các nước ALBA xác định

mục tiêu phát triển dựa trên cơ sở của chủ nghĩa xã hội kiểu mới trong thế kỷ

XXI là: về tư tưởng, lấy chủ nghĩa Mác, tư tưởng cách mạng và tiến bộ Simon

Bolivar và tinh tinh thần nhân văn Thiên chúa giáo làm nền tảng tư tưởng; về

chính trị, nhấn mạnh tư tưởng “dân chủ cách mạng và chính quyền nhân dân”,

theo đó nhân dân có trách nhiệm cùng tham gia quyết định vận mệnh của đất

nước; về kinh tế, chủ trương thực hiện kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế

nhà nước và hợp tác xã đóng vai trò chủ đạo, nhấn mạnh việc giành lại chủ

quyền quốc gia dân tộc đặc biệt là về dầu mỏ, nước sạch và môi trường; về xã

hội, chủ trương phân phối công bằng của cải xã hội để giải quyết vấn đề bất bình

đẳng và phân hóa xã hội; về đối ngoại, thúc đẩy khối đoàn kết Mỹ Latinh và

quan hệ hữu nghị với tất cả các nước, lấy hợp tác thay cho cạnh tranh, lấy hội

nhập thay cho bóc lột và đấu tranh cho một trật tự thế giới đa cực, dân chủ; về

cách làm và bước đi, kế thừa những mặt tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô

và Đông Âu trước đây, không dập khuôn sao chép mà phải thường xuyên đổi

mới và sáng tạo, bên cạnh phát triển kinh tế, coi trọng các giá trị đạo đức, tinh

thần đoàn kết dân tộc và chú trọng kinh nghiệm quốc tế của các nước xã hội chủ

nghĩa như Trung Quốc, Cuba, Việt Nam. ALBA xác định “chống chủ nghĩa đế

quốc” là ưu tiên hàng đầu cho sự phát triển của tổ chức này [50].

Sự ra đời của Phong trào cánh tả và nhóm ALBA đã tác động đến nền

độc lập dân tộc của Cuba theo hai hướng sau:

Theo chiều thuận, (i) nó giúp cho cách mạng Cuba có thêm chỗ dựa vững

chắc về kinh tế, bởi Cuba và các nước cánh tả đều coi nhau là những đồng minh

tự nhiên do có sự tương đồng về văn hóa, lịch sử, tôn giáo, ngôn ngữ...các nước

cánh tả coi Cuba là chỗ dựa về chính trị, tư tưởng, tinh thần giúp cho họ có thêm

kinh nghiệm để xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thế kỷ XXI, điều mà họ chưa

làm được trong lịch sử. Trong khi các nước này, lại là chỗ dựa kinh tế quan trọng

giúp cho Cuba vượt qua những khó khăn từ chính sách bao vây cấm vận của Mỹ

để có thể bảo vệ vững chắc thành quả của chủ nghĩa xã hội, nền độc lập dân tộc.

Đây cũng chính là cơ sở để Cuba có thể duy trì sự ổn định xã hội bất chấp những

khó khăn kinh tế trong nước; (ii) Cuba luôn là quốc gia đi tiên phong trong cuộc

Page 58: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

52

đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chống mặt trái của toàn cầu hóa nên được

các nước Mỹ Latinh rất coi trọng. Sự ra đời của nhiều tổ chức và Phong trào

cánh tả ở khu vực đều dựa trên ý tưởng và có dấu ấn của Cuba. Chính vì vậy,

cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Cuba và ý tưởng xây dựng Chủ nghĩa xã hội trong

thế kỷ XXI của các nước cánh tả ALBA kết hợp với các nhà nước dân túy theo

khuynh hướng xã hội dân chủ sẽ là những cơ sở và động lực quan trọng giúp Cuba

củng cố vững chắc nền độc lập dân tộc theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.

Theo chiều nghịch, (i) sau hơn một thập kỷ phát triển mạnh mẽ với những

dấu ấn quan trọng đạt được trên các lĩnh vực, từ năm 2013 đến nay, do tác động

từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, giá dầu sụt giảm, sự chống phá của Mỹ và

các thế lực phản cách mạng, cùng chính sách quản lý yếu kém của các chính phủ

đã làm cho nhiều nước cánh tả lâm vào khủng hoảng chính trị, kinh tế sâu sắc,

các đảng cánh tả mất quyền lãnh đạo đất nước, Tổng thống bị phế truất...khiến

cho tương lai của Phong trào cánh tả Mỹ Latinh rơi vào tình trạng bất ổn và khó

đoán định. Những khó khăn này đã tác động trực tiếp đến Cuba, bởi trong thời

gian qua, các nước cánh tả đóng một vai trò quan trọng giúp cho Cuba phát triển

kinh tế, đặc biệt là Venezuela mỗi năm cung cấp cho Cuba từ 2-4 tỷ USD không

hoàn lại và 100.000 thùng dầu/ngày với giá bằng 1/3 giá thị trường [77, tr.13].

Tuy nhiên, khi Venezuela gặp khủng hoảng và cắt giảm nguồn viện trợ dầu mỏ

đã làm cho Cuba gặp nhiều khó khăn trong việc duy trì sự ổn định kinh tế trong

nước nhất là về năng lượng. Đồng thời, nó cũng làm ảnh hưởng xấu đến quá

trình bảo vệ độc lập dân tộc của Cuba trước sự chống phá mạnh mẽ của các thế

lực trong và ngoài nước; (ii) hiện nay, một số nước cánh tả ở Mỹ Latinh đang rơi

vào tình trạng khủng hoảng chính trị do trong các cuộc bầu cử Tổng thống, Quốc

hội, các lực lượng cánh hữu, với sự hậu thuẫn của Mỹ và các thế lực phản động

đã lên nắm quyền lãnh đạo đất nước thay cho lực lượng cánh tả điển hình như ở

Brazil, Argentina..., điều này, sẽ gây khó khăn cho Cuba trong việc thiết lập mối

quan hệ với các chính phủ cánh hữu ở các nước Mỹ Latinh.

Thứ hai, tác động của quá trình liên kết nội khối ở Mỹ Latinh tới Cuba

Từ thập niên 90 đến nay, quá trình liên kết nội khối ở Mỹ Latinh phát

triển mạnh mẽ với sự ra đời của nhiều tổ chức khu vực, tiểu khu vực như: Hiệp

Page 59: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

53

hội liên kết Mỹ Latinh (ALADI), Cộng đồng các nước Mỹ Latinh và Caribe

(CELAC), Nhóm RIO, Liên minh Thái Bình Dương (AP)...Bên cạnh đó, nhiều

tổ chức khu vực đã được hình thành từ trước đây, nay đã có sự mở rộng, phát

triển về quy mô và tính chất như: MERCOSUR từ 4 quốc gia sáng lập nay đã trở

thành 5 quốc gia (thêm Venezuela-2009), Cộng đồng các nước Andes (CAN) với

5 thành viên sáng lập nay đã mở rộng thành 6 thành viên (thêm Venezuela),

nhóm RIO, sau hơn 20 năm cản trở đã kết nạp Cuba trở lại khối (2008)...Sự liên

kết nội khối này đã giúp cho các nước Mỹ Latinh có sự phụ thuộc với nhau

nhiều hơn và tạo ra cho các nước những điều kiện thuận lợi để phát triển. Đối

với Cuba, thông qua các tổ chức khu vực này sẽ tranh thủ được sự ủng hộ, giúp

đỡ về vật chất và tinh thần nhằm phá thế bao vây, cô lập của Mỹ tiến tới yêu cầu

Mỹ xóa bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận về kinh tế trong gần 6 thập kỷ qua.

Tuy nhiên, quá trình liên kết nội khối diễn ra mạnh mẽ ở Mỹ Latinh trong

thời gian qua cũng đã tác động rất lớn đến Cuba cụ thể như sau:

Sự phát triển này giúp cho Cuba thu hút được nguồn vốn từ các nước

trong khu vực như: Brazil, Venezuela và các nước khác trên thế giới như: Mỹ,

Trung Quốc, Nhật Bản, EU đến đầu tư và có thể mở rộng hợp tác trên các lĩnh

vực có thế mạnh như: năng lượng, y tế, du lịch, công nghệ sinh học...Đây chính

là điều kiện thuận lợi giúp Cuba phát triển kinh tế, dần đưa đất nước thoát khỏi

khủng hoảng, làm cho đời sống nhân dân được cải thiện. Ngoài ra, việc tham gia

mạnh mẽ và sâu rộng vào các tổ chức khu vực trên sẽ giúp cho Cuba thúc đẩy

hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, qua đó giảm bớt sức ép từ chính sách bao

vây cấm vận của Mỹ.

Quá trình liên kết nội khối diễn ra mạnh mẽ ở Mỹ Latinh cũng tạo cho

Cuba không ít những thách thức đó là: Cuba phải làm thế nào để tiếp cận và hội

nhập với khu vực (bởi nước này trong một thời gian quá dài phải chịu sự cấm

vận, phong tỏa kinh tế của Mỹ); khi tham gia và hội nhập vào các tổ chức khu

vực, Cuba phải chấp nhận những quy định, luật lệ mà các tổ chức này đem lại,

nếu không có những bước đi thận trọng thì Cuba sẽ phải đối diện với nhiều bất

ổn về chính trị, xã hội. Điều này, ít nhiều sẽ ảnh hưởng đến quá trình xây dựng

chủ nghĩa xã hội và bảo vệ nền độc lập dân tộc mà Cuba đang theo đuổi.

Page 60: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

54

Thứ ba, Mỹ Latinh trong đó có Cuba đang trở thành nơi thu hút sự quan

tâm của các cường quốc trên thế giới đặc biệt là Trung Quốc và Nga.

Mỹ Latinh vốn được coi là vùng ảnh hưởng truyền thống của Mỹ trong

nhiều thế kỷ. Tuy nhiên, trong những năm đầu thế kỷ XXI, do bị sa lầy vào cuộc

chiến chống khủng bố ở Iraq và Afganistan nên Mỹ đã có phần sao nhãng đến

khu vực này. Còn Trung Quốc thông qua chính sách ngoại giao mở cửa "toàn

phương vị" đã tăng cường mở rộng mối quan hệ hợp tác toàn diện với các quốc

gia trên thế giới, đặc biệt là Mỹ Latinh, khu vực có vị trí địa chính trị, địa chiến

lược quan trọng.

Trung Quốc, với sự phát triển kinh tế nhanh chóng như: Tăng trưởng kinh

tế đạt 10% (1980-2012) và 6,7% (2012-2016), do đó, để đáp ứng được nhu cầu

phát triển các ngành công nghiệp trong nước, nước này rất cần có nguồn năng

lượng dồi dào từ Mỹ Latinh, trong đó có Cuba. Hàng năm, Trung Quốc phải

nhập khẩu lượng Nicken và đường từ Cuba chiếm hơn 90% giá trị trao đổi

thương mại và 95% tổng thương mại song phương [144, tr.19]. Ngoài ra, các

doanh nghiệp Trung Quốc cũng đã đẩy mạnh đầu tư vào Cuba với nhiều dự án

có giá trị lớn về kinh tế như: dự án hiện đại hóa cảng Santiago de Cuba trị giá

120 triệu [144, tr.20]...

Bên cạnh Trung Quốc, Nga cũng đã có những chính sách tập trung vào

khu vực này khi cam kết sẽ đưa mối quan hệ với Mỹ Latinh trở thành ưu tiên

hàng đầu trong chính sách đối ngoại của mình. Thủ tướng Nga Putin đã khẳng

định: "Mỹ Latinh đang trở thành một mắt xích quan trọng trong chuỗi mắt xích

thế giới đa cực đang được hình thành. Chúng tôi sẽ dành nhiều sự quan tâm hơn

tới khu vực này trong chính sách kinh tế và đối ngoại của mình" [188].

Nga đã thúc đẩy quan hệ chiến lược với Cuba trên các lĩnh vực chính trị,

ngoại giao, kinh tế và đặc biệt là quân sự. Trong chuyến thăm Cuba của Tổng

thống Mevedev (2011), Nga cùng Cuba thống nhất đưa quan hệ song phương trở

thành "đối tác chiến lược", Cuba coi Nga là đối tác quan trọng trong các lĩnh vực

khai thác chế biến dầu khí, năng lượng nguyên tử, công nghiệp quốc phòng. Đặc

biệt trong chuyến công du tới Cuba (7/2014), Tổng thống Putin đã cam kết xóa

cho Cuba 90% số nợ (33,5 tỷ USD) vay từ thời Liên Xô và ngỏ ý muốn thuê lại

Page 61: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

55

Cuba Căn cứ điện tử viễn thông Lourdes, được Liên Xô xây dựng từ năm 1967,

từng cung cấp cho Liên Xô cũ 75% tin tức tình báo về Mỹ [183].

Như vậy, có thể nhận thấy rằng, Mỹ Latinh, trong đó có Cuba ngày càng

có một vai trò và vị thế lớn trong mối quan hệ quốc tế nói chung và quan hệ

nước lớn nói riêng. Sự cạnh tranh ảnh hưởng giữa các nước lớn sẽ ngày càng

tăng khi lợi ích ở khu vực này ngày càng hiện hữu đặc biệt là sự cạnh tranh giữa

hai cường quốc lớn là Trung Quốc và Mỹ. Điều này, đã đặt ra cho Cuba những

cơ hội và thách thức lớn trong việc bảo vệ nền độc lập chủ quyền và toàn vẹn

lãnh thổ trong bối cảnh mới.

2.2.2.2. Chính sách của một số nước lớn đối với Cuba

Sự nghiệp đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc của Cuba trong gần 3 thế kỷ

qua, bên cạnh những các yếu tố chủ quan, khách quan, chính sách của các nước

lớn cũng có tác động rất lớn đối với quốc đảo này theo chiều hướng thuận,

nghịch đan xen.

* Chính sách của Mỹ đối với Cuba

Các chính sách bao vây, cấm vận của các chính quyền Mỹ đối với Cuba

như: Bush (cha), Bill Clinton, Bush (Con), Obama và Donald Trump từ sau

chiến tranh Lạnh đến nay hầu như không có nhiều thay đổi về mục tiêu đó là lật

đổ chế độ và đưa Cuba quay trở lại quỹ đạo của Mỹ thông qua các biện pháp

như: gây ra tình trạng hỗn loạn trong xã hội Cuba, ngăn cản và gây áp lực lên các

nước thứ 3 để họ ngừng các hoạt động thương mại [187]. Đồng thời, cấm tuyệt

đối các tập đoàn, công ty của Mỹ ở nước ngoài được phép tiến hành các giao

dịch tài chính, thương mại, thực hiện các biện pháp trừng phạt các đối tác thương

mại, nhà đầu tư các nước tới Cuba, bất chấp sự lên án, phản đối của cộng đồng

quốc tế [94, tr.16].

Với những chiến lược trên, chính quyền Mỹ muốn đạt được một số mục

tiêu cụ thể như: chuyển hóa chế độ chính trị và đưa Cuba quay trở lại chủ nghĩa

tư bản một lần nữa; đe dọa đến sự ổn định chính trị, trật tự xã hội, toàn vẹn lãnh

thổ, chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc của Cuba; thông qua Cuba Mỹ có thể

kiềm chế sự phát triển của phong trào cánh tả Mỹ Latinh và xác lập lại ảnh

hưởng tại khu vực vốn từng được coi là vùng ảnh hưởng truyền thống của Mỹ.

Page 62: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

56

Như vậy, có thể hiểu bản chất của quá trình đấu tranh bảo vệ độc lập dân

tộc của Cuba trong giai đoạn 1991-2016 chính là chống lại các chính sách bao

vây cấm vận của Mỹ.

* Chính sách của EU đối với Cuba

Khác với Mỹ, cách tiếp cận của EU đối với Cuba có phần mềm mỏng hơn

bởi một số quốc gia trụ cột trong khối này như Pháp có mối quan hệ hữu nghị,

truyền thống với quốc đảo này. Chính sách của khối này đối với Cuba được chia

làm 2 giai đoạn rõ rệt.

Giai đoạn đầu từ 1991-2008, chính sách của EU với Cuba có sự chia rẽ

sâu sắc. Một số nước vẫn tiếp tục ủng hộ Mỹ siết chặt hơn nữa lệnh cấm vận

chống Cuba với lý do chính phủ Cuba vi phạm nhân quyền, đàn áp các phần tử

bất đồng chính kiến trong nước. Vì lý do này, vào năm 1996, EU đã quyết định

thiết lập các quy tắc giới hạn trong mối quan hệ với Cuba. Đề án này do Thủ

tướng Tây Ban Nha lúc đó là Jose Maria Aznar thúc đẩy và trình lên Hội đồng

Châu Âu nhằm gây áp lực với Cuba về chính trị, ngoại giao, kinh tế. Sau đó, vào

năm 2003, sau khi Cuba xét xử một số kẻ tội phạm đưa người Cuba vượt biên ra

nước ngoài, EU đã thi hành lệnh cấm vận ngoại giao toàn diện với Cuba. Nhiều

nước EU, đứng đầu là Đức và Anh còn ủng hộ Tổng thống Bush (con) thông qua

đạo luật Thay đổi dân chủ ở Cuba.

Tuy nhiên, bên cạnh đó, một số nước khác trong EU lại có cách tiếp cận

mềm dẻo, chính sách hợp tác thực dụng hơn trong quan hệ với Cuba (đứng đầu

là Pháp) do trong quá khứ giữa Đảng cộng sản Cuba với Đảng xã hội Pháp có

mối quan hệ tốt đẹp với nhau, bất chấp sự khác biệt về chính trị và tư tưởng.

Ngoài ra, Pháp cũng là chủ nợ của Cuba trong nhóm Câu lạc bộ Paris.

Giai đoạn từ năm 2008 đến nay, dưới sự trung gian hòa giải của Tây Ban

Nha (7/2008), EU đã dỡ bỏ lệnh cấm vận chính trị, ngoại giao với Cuba nhưng

tiến trình bình thường hóa quan hệ song phương vẫn bị cản trở bởi vấn đề nhân

quyền và việc EU ủng hộ lệnh cấm vận kinh tế của Mỹ đối với Cuba.

Sự thay đổi chính sách của EU với Cuba được thể hiện thông qua chuyến

thăm của Ngoại trưởng Hà Lan, Frans Timmerrmans tới Cuba, tại đây ông đã

kêu gọi EU cải thiện quan hệ với Cuba. Đồng thời, nhấn mạnh Cuba hiện giữ vai

trò rất quan trọng trong việc kết nối EU với Mỹ Latinh.

Page 63: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

57

Sau khi Mỹ điều chỉnh chính sách với Cuba bằng việc Tuyên bố bình

thường hóa quan hệ ngoại giao, EU đã có sự thay đổi lớn trong quan hệ với Cuba

thông qua các chuyến viếng thăm của lãnh đạo cấp cao các nước trong khối. Đặc

biệt, các nước thuộc nhóm Câu lạc bộ Paris (đa số thành viên là các nước EU) đã

nhất trí xóa 70% số nợ trị giá 18 tỷ USD cho Cuba [73]. Đặc biệt, EU đã cùng với

Cuba hoàn tất đàm phán Thỏa thuận Hợp tác và Đối thoại chính trị song phương

(PDCA) vào ngày 11/3/2016 và chính thức ký kết thỏa thuận Bình thường hóa hoàn

toàn quan hệ song phương vào ngày 12/12/2016 [16]. Hiệp định này dự kiến sẽ tạo

ra một bước chuyển biến mới giữa EU và Cuba trong tương lai.

Như vậy, chính sách trên của EU, một mặt giúp cho Cuba hội nhập sâu

hơn với cộng đồng quốc tế và khẳng định được vai trò của mình trên thế giới.

Nhưng mặt khác, nó cũng đặt ra cho Cuba những yêu cầu và nhiệm vụ mới, nhất

là trong bối cảnh Mỹ, Trung Quốc, Nga và một số nước lớn đang gia tăng sự

hiện diện ở Cuba và thông qua quốc đảo này để mở rộng ảnh hưởng của mình tại

Mỹ Latinh.

* Chính sách của Trung Quốc đối với Cuba

Sau khi Liên Xô sụp đổ, Cuba lâm vào khủng hoảng kinh tế-xã hội, Trung

Quốc đã đẩy mạnh chính sách xâm nhập Cuba thông qua đầu tư về kinh tế và

đóng vai trò quan trọng trong việc giúp nền kinh tế Cuba thoát khỏi sự phụ thuộc

vào Liên Xô cũ.

Ngoài ra, với sự phát triển nhanh chóng về kinh tế, chính trị, quân sự như

hiện nay Trung Quốc đã có sự điều chỉnh chính sách với các khu vực trên thế

giới đặc biệt là Mỹ Latinh trong đó có Cuba nhằm mục tiêu từng bước khẳng

định vị thế của mình trong việc tranh giành ảnh hưởng toàn cầu tại nơi được coi

là vùng ảnh hưởng truyền thống của Mỹ. Trung Quốc đã có những nỗ lực để mở

rộng ảnh hưởng của mình bằng việc các nhà lãnh đạo cấp cao của nước này thực

hiện hàng loạt các chuyến thăm tới Cuba: Chuyến thăm của Chủ tịch Hồ Cẩm

Đào (11/2008); Chủ tịch Tập Cận Bình (7/2014), đặc biệt, trong chuyến thăm

của Thủ tướng Lý Khắc Cường (9/2016), lãnh đạo hai nước đã ký 12 thỏa thuận

hợp tác song phương trên các lĩnh vực: năng lượng tái tạo, nghiên cứu y học, tin

học, chính sách công nghiệp, ngân hàng, tài chính [106, tr.23-24]...

Page 64: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

58

Những chiến lược trên của Trung Quốc đã giúp Cuba có thêm một đối

trọng trong quan hệ với Mỹ, tuy nhiên, nó cũng đặt ra cho Cuba nhiều khó khăn,

bởi sự phụ thuộc quá nhiều vào kinh tế sẽ dẫn tới sự phụ thuộc về chính trị như

Cuba đã từng gặp phải với Liên Xô trong thời kỳ chiến tranh Lạnh. Đây chính là

nguy cơ đe dọa đến nền độc lập dân tộc của Cuba, nhất là trong bối cảnh Mỹ và

Trung Quốc đang ngày càng gia tăng ảnh hưởng và cạnh tranh trực tiếp tại khu

vực Mỹ Latinh.

* Chính sách của Nga đối với Cuba

Sau khi Liên Xô sụp đổ, nước Nga mới của Tổng thống Boris Yeltsin đã

cắt đứt hoàn toàn mối quan hệ chính trị, ngoại giao, kinh tế với Cuba bất chấp

việc quốc đảo này từng là đồng minh thân thiết trong thời kỳ chiến tranh Lạnh và

đang lâm vào khủng hoảng kinh tê, xã hội.

Trở thành Tổng thống nước Nga (3/2000), ông Putin đã có sự điều chỉnh

chính sách đối ngoại với Cuba theo hướng: từng bước lấy lại ảnh hưởng tại quốc

đảo này như Liên Xô cũ đã từng có được trong thời kỳ chiến tranh Lạnh. Chiến

lược này được thể hiện rõ trong sắc lệnh của Tổng thống Liên Bang Nga, số 605,

ngày 7/5/2012 về "Những biện pháp thực hiện chính sách đối ngoại của Liên

Bang Nga" [95, tr.2], theo đó: "Nga sẽ tiếp tục củng cố toàn diện quan hệ với các

quốc gia Mỹ Latinh và khu vực Caribe (trong đó có Cuba), chú ý tới vai trò đang

tăng lên của khu vực này trong các hồ sơ quốc tế. Nga sẽ hướng đến sự đoàn kết

các mối quan hệ với các liên minh đa phương và các cấu trúc hội nhập của Mỹ

Latinh và khu vực Caribe...." [96, tr.11]. Dựa trên cơ sở của chiến lược trên, các

nhà lãnh đạo Nga đã đẩy mạnh các chuyến thăm tới Cuba nhằm củng cố quan hệ

chiến lược với quốc đảo này: Phó Thủ tướng Nga Igor Sechin thăm Cuba 3 lần

trong năm 2008, ký 10 Hiệp định hợp tác trên nhiều lĩnh vực; Tổng thống

Medvedev thăm Cuba (11/2008).

Sau sự kiện Nga sát nhập bán đảo Crime (3/2014) và bị Mỹ và phương

Tây cô lập ngoại giao và trừng phạt về kinh tế. Tổng thống Putin đã có sự điều

chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng tiếp tục đẩy mạnh quan hệ với Cuba

nhằm thông qua nước này để mở rộng ảnh hưởng tại Mỹ Latinh, khu vực vốn

được coi là sân sau của Mỹ. Sư thay đổi này được thể hiện rõ trong các chuyến

Page 65: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

59

thăm của Tổng thống Putin (7/2014) và Thủ tướng Medvedev (2/2015) với các

thỏa thuận: xóa 90% khoản nợ trị giá 33,5 tỷ USD của Cuba đã vay từ thời Liên

Xô cũ; hợp tác khai thác dầu khí có trữ lượng 20 tỷ thùng ở ngoài khơi Cuba và

ngỏ ý thuê lại căn cứ điện tử Loudes [97, tr.16].

Với việc Tổng thống Putin tiếp tục cầm quyền ở nước Nga và Cuba đang

đẩy mạnh chủ trương "Cập nhật hóa mô hình kinh tế-xã hội" và kế hoạch phát

triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2016-2030, nước Nga sẽ tiếp tục coi trong mối

quan hệ chiến lược với quốc đảo này để củng cố vị thế của mình ở Mỹ Latinh và

cạnh tranh ảnh hưởng với Mỹ và các cường quốc khác tại khu vực này. Tuy

nhiên, nó cũng tạo ra những thách thức đối với nền độc lập dân tộc của Cuba,

bởi các nước lớn sẽ gia tăng cạnh tranh và biến quốc đảo này thành địa bàn tranh

giành ảnh hưởng giữa các siêu cường, điều này, Cuba đã gặp phải trong thời kỳ

chiến tranh Lạnh.

Tiểu kết chương 2

Từ sau khi chiến tranh Lạnh kết thúc đến nay, quá trình đấu tranh bảo vệ

độc lập dân tộc ở Cuba cũng chịu sự tác động sâu sắc từ nhiều yếu tố như: những

quan niệm về độc lập dân tộc và bảo vệ độc lập dân tộc của thế giới (Mác,

Anghen, Lênin) và Cuba (Jose Marti, Fidel, Đảng cộng sản); cùng những nhân tố

chủ quan (đặc điểm của Cuba; kinh nghiệm đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc

trước năm 1991; vai trò lãnh tụ (Fidel, Raul) và những nhân tố khách quan (cuộc

cách mạng khoa học công nghệ, xu thế hòa bình hợp tác và phát triển); tình hình

khu vực (sự phát triển phong trào cánh tả Mỹ Latinh; quá trình liên kết nội khối

ở Mỹ Latinh); chính sách của một số nước lớn đối với Cuba (Mỹ, EU, Trung

Quốc, Nga)…Do đó, để có thể phát huy được tốt hơn nữa những cơ hội, hạn chế

những khó khan, thách thức từ những vấn đề nêu trên, đòi hỏi Đảng và Nhà nước

Cuba phải đề ra những đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn phù hợp với

điều kiện và hoàn cảnh của đất nước mình trong bối cảnh mới.

Page 66: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

60

Chương 3

THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH BẢO VỆ ĐỘC LẬP DÂN

TỘC Ở CUBA TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2016

3.1. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ, NỘI DUNG CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC

CUBA VỀ ĐẤU TRANH BẢO VỆ ĐỘC LẬP DÂN TỘC

3.1.1. Mục tiêu

Mục tiêu chung: giữ vững nền độc lập dân tộc, đảm bảo sự liên tục và tính

chất không thể đảo ngược của chủ nghĩa xã hội, sự phát triển của nền kinh tế đất

nước và nâng cao đời sống nhân dân, kết hợp với sự hình thành những giá trị đạo

đức và chính trị cần thiết của nhân dân [20, tr.13]. Tiếp tục củng cố vững chắc

một nước Cuba xã hội chủ nghĩa có độc lập, chủ quyền, dân chủ, thịnh vượng và

bền vững [120, tr.2].

Mục tiêu cụ thể: Trong giai đoạn từ 1991 đến 2016, mục tiêu cụ thể của

Đảng và Nhà nước Cuba được điều chỉnh liên tục qua các kỳ Đại hội đảng nhằm

đảm bảo giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế, nâng cao đời

sống nhân dân và đấu tranh chống lại các chính sách bao vây cấm vận của Mỹ.

Tại Đại hội IV (10/1991) và Đại hội V (10/1997), Đảng cộng sản Cuba

xác định các mục tiêu cụ thể gồm các bước sau: "Điều chỉnh kinh tế bằng hệ

thống các biện pháp cải cách thận trọng" như: (i) giảm chi tiêu cho lực lượng vũ

trang và bộ máy hành chính để kiềm chế lạm phát và ổn định tiền tệ quốc gia; (ii)

thu hút đầu tư và hội nhập kinh tế quốc tế [141, tr.6].

Sang đến Đại hội VI (4/2011) và Đại hội VII (4/2016) Đảng cộng sản

Cuba, đã có sự điều chỉnh mục tiêu cụ thể với 6 bước đột phá đó là: (i) tăng

cường chiến lược tự túc về lương thực, thực phẩm và năng lượng; (ii) đảm bảo

tăng trưởng GDP; (iii) củng cố thế trận Quốc phòng và an ninh Quốc gia; (iv)

Đảm bảo môi trường chính trị ổn định và có trật tự thông qua các hoạt động đấu

tranh chống lại sự phá hoại của các thế lực thù địch, tham nhũng và các tội hình

sự khác; (v) Mở rộng và đa dạng hoá các nguồn đầu tư nước ngoài trong trung và

dài hạn. Coi đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là yếu tố quan trọng hàng đầu

trong chiến lược phát triển kinh tế đất nước. Mở rộng và đa dạng hoá các hoạt

Page 67: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

61

động hợp tác kinh tế quốc tế; (vi) Tiếp tục duy trì thành quả của Cuộc cách mạng

trong các lĩnh vực: y tế, an sinh xã hội, giáo dục, văn hoá. Đảm bảo mọi người

dân trong xã hội đều có việc làm [121, tr.6-7].

3.1.2. Nhiệm vụ

Để thực hiện các mục tiêu đề ra, Đảng và Nhà nước Cuba đã xác định

những nhiệm vụ cụ thể như sau:

Thứ nhất, kiên quyết đấu tranh yêu cầu Mỹ xóa bỏ hoàn toàn chính sách

bao vây, cấm vận thù địch chống Cuba, đây chính là điều kiện để Cuba tiếp tục

phát triển và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, tăng cường, chủ

động đưa đất nước hội nhập sâu rộng với khu vực và quốc tế

Nhận thức được những thay đổi của tình hình thế giới, khu vực và phù

hợp với quá trình phát triển kinh tế đất nước, Đảng và Nhà nước Cuba đã kiên

quyết đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại nhằm phá thế bao vây cấm vận của Mỹ,

bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc, giữ vững môi trường hòa bình, tranh thủ

được sự ủng hộ của quốc tế, đồng thời tạo điều kiện cho Cuba phát triển đất nước.

Chiến lược đối ngoại của Cuba đã đặt ra những nhiệm vụ sau: ưu tiên

tham gia nhóm Sự lựa chọn Bolivar dành cho các dân tộc Châu Mỹ (ALBA) và

Cộng đồng các nước Mỹ Latinh và Caribe (CELAC). Coi việc tham gia hai tổ

chức này là trọng tâm trong chính sách đối ngoại. Tiếp tục duy trì sự tham gia

vào các cơ chế hội nhập thương mại khu vực mà Cuba đã là thành viên: nhóm

CARICOM; Hiệp hội ALADI [120, tr.2]... Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước

Cuba còn tiếp tục giữ vững đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hóa, đa

phương hóa quan hệ quốc tế, không phân biệt chế độ chính trị, xã hội, dựa trên

nguyên tắc bình đẳng, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, tôn trọng

chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi quốc gia. Cuba cũng luôn ủng hộ và giữ

vững chủ trương cùng có lợi trong quan hệ quốc tế, coi đây là cơ sở vững chắc

để bảo đảm việc gìn giữ, củng cố hòa bình và an ninh ở Mỹ Latinh và trên thế

giới. Ngoài ra, Cuba còn tìm kiếm những sáng kiến để giải quyết các mâu thuẫn

trong khu vực thông qua giải pháp chính trị.

Cuba còn tiếp tục chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực nhằm đẩy

mạnh công cuộc phát triển kinh tế đất nước và nâng cao đời sống nhân dân; Giữ

Page 68: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

62

vững hòa bình, tạo môi trường quốc tế thuận lợi, một mặt sẽ góp phần bảo vệ

độc lập chủ quyền và an ninh quốc gia, mặt khác, còn giúp Cuba nâng cao được

vị thế quốc tế. Đây chính là những điều kiện thuận lợi để Cuba có thể tranh thủ

được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế, phá thế bao vây, cấm vận của Mỹ.

Thứ hai, từng bước thay đổi tư duy trong phát triển kinh tế, tiếp tục đẩy

mạnh quá trình cải cách kinh tế, đồng thời, vẫn duy trì các chính sách an sinh xã

hội tốt đẹp

Cuba đấu tranh yêu cầu Mỹ xóa bỏ chính sách bao vây cấm vận và duy trì

các chính sách phúc lợi xã hội tốt đẹp cho người dân vừa là mục tiêu và là

phương hướng trong quá trình đi lên của cách mạng Cuba. Trong bối cảnh nền

kinh tế Cuba phải trải qua "Cơn khủng hoảng "dữ dội" khi mất đi thị trường

truyền thống là Liên Xô cũ và Đông Âu cũng như mất đi 35% GDP và thâm hụt

ngân sách 30% trong giai đoạn 1989-1993" [141, tr.6], cùng những chính sách

bao vây cấm vận của Mỹ đã gây ra trong nhiều thập kỷ. Việc yêu cầu Mỹ xóa bỏ

chính sách cấm vận sẽ giúp cho quá trình "Sửa sai" và "hội nhập" của Cuba đẩy

mạnh các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân,

xây dựng một xã hội công bằng, bình đẳng, đồng thời, giúp quốc đảo này mở

rộng quan hệ với khu vực với quốc tế. Để làm được điều này, Đảng và Nhà nước

Cuba đã đề ra những nhiệm vụ như sau:

Về phát triển kinh tế, xác định cơ chế thị trường, quan hệ hàng hóa-tiền tệ,

đa dạng hóa các thành phần kinh tế, đây được coi là những yếu tố mà Cuba buộc

phải vận dụng để chủ nghĩa xã hội có thể tồn tại được. Đồng thời, Cuba còn đề ra

3 chương trình kinh tế lớn: chương trình "lương thực-thực phẩm, du lịch, công

nghệ sinh học và sản xuất dược liệu" và tiến hành đường lối "sửa sai" theo

hướng "chọn lọc, dần dần và có trật tự" [19]. Trong quá trình "sửa sai" Đảng và

Nhà nước Cuba tiếp tục vận dụng, nghiên cứu lý luận bám sát với thực tiễn đời

sống của Nhân dân, tìm tòi, khái quát chỉ ra những vấn đề có tính quy luật, xây

dựng nền tảng tư tưởng lý luận cho sự phát triển của đất nước, phù hợp với điều

kiện, hoàn cảnh của mình. Mặt khác, vẫn đảm bảo giữ vững bốn nguyên tắc kinh

tế-xã hội của nhà nước xã hội chủ nghĩa đó là: kiên quyết bảo vệ những thành

quả xã hội đã đạt được trên các lĩnh vực y tế, giáo dục, văn hóa và an sinh xã

Page 69: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

63

hội; kiên trì tính chất xã hội chủ nghĩa ở mô hình phát triển kinh tế-xã hội; nâng

cao trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật cho nhân dân; xây dựng nguồn lực con

người đủ năng lực cạnh tranh.

Dưới sự lãnh đạo của Bí thư thứ nhất, Raul Castro, Đảng và Nhà nước

Cuba đã đưa ra những nhận thức mới trong tư duy kinh tế khi khẳng định rằng:

việc tăng năng suất lao động, tăng cường tiết kiệm là giải pháp hữu hiệu để thúc

đẩy tăng trưởng kinh tế. Đồng thời, đề ra các chính sách tự chủ về sản xuất

lương thực thực phẩm nhằm đảm bảo nhu cầu trong nước và tiến tới xuất khẩu

hàng nông nghiệp có chất lượng cao ra thị trường thế giới.

Cuba còn đưa ra quan điểm mới trong sản xuất kinh doanh như: hỗ trợ

học nghề, vốn, giống và hướng dẫn kỹ thuật cho những người lao động bị thất

nghiệp trong chính sách đóng cửa hoặc giải tán các nông trường quốc doanh, đặc

biệt trong lĩnh vực mía đường.

Ngoài ra, còn thực hiện việc phi tập trung hóa các ngành dịch vụ và

thương mại không có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế đất nước mà trước

đây nhà nước giữ độc quyền. Bên cạnh đó, còn cho phép tư nhân mở các hệ

thống kinh doanh dịch vụ nhỏ nhưng thiết yếu với đời sống người dân như: xây

dựng, điện nước, cắt tóc, đóng giày, kế toán...và cho phép các cửa hàng có thể

tuyển nhân viên ngoài gia đình.

Cuba còn quy định mức lương tối thiểu chặt chẽ cho người làm công, điều

chỉnh mức lợi nhuận hợp lý cho những người kinh doanh bằng sắc thuế mới bao

gồm cả việc sửa đổi hệ thống thuế [28].

Để khắc phục khó khăn trong nước và phát triển kinh tế, Đảng và Nhà

nước Cuba đã đề ra một số biện pháp hướng tới việc điều chỉnh, thay đổi cơ chế

bao cấp dần chuyển mạnh sang cơ chế thị trường, thực hiện thí điểm trong việc

xây dựng đường lối, chính sách, cơ chế mới theo hướng thúc đẩy hội nhập kinh

tế quốc tế phù hợp với tình hình khu vực Mỹ Latinh và thế giới, góp phần nâng

cao tính hiệu quả của công cuộc bảo vệ độc lập dân tộc.

Những biện pháp này bao gồm: tăng thêm quyền hạn cho các doanh

nghiệp nhà nước gắn với việc nâng cao trách nhiệm trong việc kiểm soát các

nguồn lực vật chất và tài chính mà doanh nghiệp điều hành và tạo điều kiện cho

Page 70: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

64

kinh tế tư nhân phát triển; các hợp tác xã được hình thành trên cơ sở tự nguyện

của người lao động; ngoài việc cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp nhà

nước, ngân hàng cũng sẽ cung cấp tín dụng cho khu vực kinh tế tư nhân để góp

phần thúc đẩy sự phát triển của khu vực kinh tế này; đẩy mạnh khuyến khích các

nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước; nền

nông nghiệp Cuba phải đảm bảo được sự tự túc về lương thực, thực phẩm tiến

tới ổn định an ninh lương thực trên cả nước; thực hiện việc đa dạng hóa các hình

thức quản lý nhà ở (nhà nước, tư nhân...) nhằm tìm ra các giải pháp hợp lý cho

vấn đề nhà ở của người dân; đa dạng hóa các hình thức quản lý sở hữu xã hội và

các chủ thể tham gia vào quá trình sản xuất và cung cấp dịch vụ thương mại.

Về xã hội, Đảng và Nhà nước Cuba xác định duy trì và bảo vệ thành quả

cách mạng trong các lĩnh vực: giáo dục, y tế, an sinh xã hội để bảo lưu tính định

hướng xã hội chủ nghĩa trong các chính sách. Bên cạnh đó, cũng từng bước điều

chỉnh lại các chính sách hiện hành cho phù hợp với khả năng nền kinh tế, giảm

bớt hoặc xóa bỏ chi phí thái quá trong lĩnh vực xã hội.

3.1.3. Nội dung

* Trong lĩnh vực chính trị, ngoại giao

Về chính trị: Đường lối lãnh đạo trong lĩnh vực chính trị của Đảng và Nhà

nước Cuba luôn có sự bổ sung, kế thừa, phát triển qua các kỳ Đại hội Đảng nhưng

mục tiêu bao trùm của đường lối cách mạng trong giai đoạn 1991-2016 vẫn là: "Giữ

vững nền độc lập dân tộc, bảo vệ và cải tiến chủ nghĩa xã hội, tạo ra những cơ sở

kinh tế xã hội để tiếp tục phát triển khi cuộc khủng hoảng qua đi" [143].

Để thực hiện mục tiêu này, Cuba từng bước thực hiện các biện pháp như: (i)

củng cố vững chắc Nhà nước Cuba xã hội chủ nghĩa, tăng cường xây dựng nền dân

chủ xã hội chủ nghĩa và các nguyên lý cơ bản của nền dân chủ này; (ii) xây dựng hệ

thống chính quyền các cấp linh hoạt, hiệu quả; (iii) tiếp tục hoàn thiện hệ thống các

cơ quan Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ. Quá trình cải cách thành công sẽ

giúp Cuba xây dựng một chính quyền Nhà nước các cấp dân chủ, hiện đại và mang

tính xã hội chủ nghĩa sâu sắc [143]. Đây chính là điều kiện cốt yếu để đảm bảo

được sự ổn định chính trị, là nền tảng quan trọng và cốt lõi, là yếu tố quyết định dẫn

đến sự thành công của sự nghiệp đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc ở Cuba.

Page 71: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

65

Đại hội VI Đảng cộng sản Cuba đã đánh dấu một bước chuyển mới trong

nhận thức chính trị là cần tách bạch vai trò lãnh đạo của đảng với vai trò quản lý

của nhà nước. Phải đổi mới phong cách lãnh đạo của đảng là trong công tác tư

tưởng, tổ chức, tránh quan liêu, hình thức. Đồng thời, đánh giá đúng và chọn lọc

được những cán bộ thực sự có phẩm chất cách mạng ở tất cả các cấp.

Để tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác chính trị, tư

tưởng trong thời kỳ mới, Cuba đưa ra biện pháp: tăng cường phát huy vai trò của

báo chí trong việc thông tin, giáo dục và phê phán những khuyết điểm, tiêu cực

trong quản lý kinh tế xã hội; phải thường xuyên trẻ hóa đội ngũ cán bộ lãnh đạo

đảng, chính phủ nhằm đảm bảo tính kế thừa và liên tục của cách mạng. Việc trẻ

hóa cán bộ cần phải làm từ cấp cơ sở đến Trung Ương kể cả những chức vụ cao

nhất như: Bí thư thứ nhất, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Hội đồng Bộ trưởng,

những chức vụ này thời hạn nắm quyền tối đa 2 nhiệm kỳ, mỗi nhiệm kỳ là 5

năm. Đồng thời, xây dựng và củng cố hệ thống chính trị trong nước nhằm đối

phó với những âm mưu chia rẽ và lật đổ của chính quyền Mỹ; thực hiện việc cải

tổ bộ máy chính quyền các cấp cho phù hợp với điều kiện và tình hình của đất

nước (cải cách thủ tục hành chính để thực hiện việc hội nhập kinh tế quốc tế

nhằm phát triển kinh tế đất nước, nâng cao đời sống của nhân nhân) để từng

bước đưa đất nước thoát khỏi khó khăn.

Tiếp đó, tại Đại hội VII Đảng Cộng sản Cuba (4/2016) tập trung thảo luận

và thông qua 4 nội dung lớn đó là: đánh giá việc thực hiện Nghị quyết Đại hội

VI (4/2011) và Chương trình phát triển kinh tế-xã hội tới năm 2030; Tầm nhìn

quốc gia, các trụ cột, mục tiêu và lĩnh vực chiến lược; đánh giá việc thực hiện

đường lối cập nhật hóa mô hình kinh tế và các mục tiêu của Hội nghị Đảng toàn

quốc lần thứ nhất (1/2012); xác định khái niệm về "mô hình phát triển kinh tế và

xã hội, xã hội chủ nghĩa của Cuba; xác định các lĩnh vực và các ngành chiến

lược cho phát triển kinh tế và xã hội của Cuba. Đồng thời, Đại hội VII cũng đã

bầu ra được các cơ quan lãnh đạo mới của Đảng (BCH TW, BCT, BBT) [133].

Cuba tiếp tục đẩy mạnh và đổi mới công tác xây dựng Đảng với mục tiêu

ưu tiên là tăng cường các tổ chức cơ sở Đảng nhằm nâng cao tính chiến đấu, tính

gương mẫu của đảng viên. Bên cạnh đó, Đảng cộng sản Cuba đã đưa ra một số

Page 72: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

66

cải cách chính trị theo hướng thận trọng như: trao thêm quyền lực cho các địa

phương; cải cách về bầu cử ở Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp; đưa ra

phương thức bầu các nhà lãnh đạo trong giai đoạn mới [98, tr.11].

Về đối ngoại: Đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước Cuba trong hai

giai đoạn (1991-2004 và 2004-2016) luôn có sự điều chỉnh để phù hợp với

những biến đổi mau lẹ của tình hình trong nước và thế giới.

Tại Đại hội IV, Đảng và Nhà nước Cuba đã từng bước điều chỉnh chính

sách đối ngoại theo hướng: sẵn sàng bình thường hóa quan hệ với Mỹ trên cơ sở

nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền và quyền tự quyết của các dân tộc; đề

cao tinh thần cảnh giác và đối phó với các âm mưu, thủ đoạn chống phá của các

thế lực phản cách mạng; đẩy mạnh quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa đặc

biệt là Liên Xô, các nước thuộc Phong trào Không liên kết và các nước Mỹ

Latinh [18, tr.202]; tích cực hoạt động trong các tổ chức quốc tế và diễn đàn đa

phương nhằm tập hợp lực lượng để phá thế bao vây cấm vận của Mỹ.

Đến Đại hội V, Cuba đã điều chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng đẩy

mạnh quan hệ đối ngoại với các nước đang phát triển, các nước xã hội chủ nghĩa

còn lại trên thế giới, các nước lớn như: Trung Quốc, Liên Bang Nga, Ấn Độ;

thúc đẩy ưu tiên trong quan hệ với các tổ chức khu vực ở Mỹ Latinh đặc biệt là

nhóm ALBA; chủ động tích cực tham gia vào các diễn đàn quốc tế, đa phương

như: Liên hợp quốc, CARICOM.

Đến Đại hội VI (4/2011) và đặc biệt là Đại hội VII (4/2016), Cuba đã thực

hiện sự điều chỉnh lớn trong chính sách đối ngoại với Mỹ bằng việc tái khẳng

định sẵn sàng phát triển quan hệ với siêu cường này theo hướng cùng có lợi và

dựa trên tinh thần "nghệ thuật chung sống văn minh, bất chấp khác biệt" và phủ

nhận khả năng tái ra nhập tổ chức OAS trong tương lai [91, tr.17]. Đồng thời,

tiếp tục kiên trì chính sách ngoại giao mở, tập trung vào việc mở rộng quan hệ

với các nước lớn, các nước trong khu vực như: Trung Quốc, Nga, EU, Brazil,

Venezuela...cùng các tổ chức quốc tế, khu vực: UN, ALBA, CELAC[91, tr.17]...

* Trên lĩnh vực kinh tế

Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, đứng đầu là Chủ tịch Fidel và Raul

Castro, Cuba liên tục có sự điều chỉnh đường lối kinh tế trong hai giai đoạn phát

Page 73: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

67

triển đất nước: 1991-2004 và 2004-2016 thông qua các kỳ Đại hội nhằm từng bước

khắc phục những khó khăn nội tại của đất nước và đẩy mạnh phát triển kinh tế.

Tại Đại hội V, Cuba đã từng bước điều chỉnh chính sách kinh tế bằng các

biện pháp cải cách thận trọng theo hướng hợp pháp hóa việc sử dụng ngoại tệ

trong nhân dân; thu hút đầu tư nước ngoài và hội nhập kinh tế quốc tế. Đồng

thời, xác định cơ chế thị trường, quan hệ hàng hóa-tiền tệ; đa dạng hóa các thành

phần kinh tế và đề ra 3 chương trình kinh tế lớn với mục tiêu đưa Cuba từng

bước thoát khỏi khủng hoảng. Song song với đó là việc xác định được 4 nội

dung chính là: không nêu chỉ tiêu cụ thể; sử dụng nội lực kinh tế trong nước là

chính; nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh được coi là nội dung trọng tâm;

đảm bảo tính chất xã hội chủ nghĩa trong quá trình sửa sai [5, tr.14]. Đây chính

là những nhiệm vụ hàng đầu giúp cho Cuba thoát khỏi tình trạng khủng hoảng

kinh tế trong "thời kỳ đặc biệt trong hòa bình".

Sau khi đề ra chủ trương "Cập nhật hóa mô hình kinh tế-xã hội" tại Đại

hội VI, Chủ tịch Raul và Đảng cộng sản Cuba đã đưa ra quan điểm cần phải đổi

mới sửa chữa tất cả những "sai lầm" trong quản lý kinh tế và trong xây dựng chủ

nghĩa xã hội bằng việc đổi mới về "tư duy" nếu không nó chính là rào cản lớn

nhất đối với tiến trình cải cách kinh tế. Thông qua các biện pháp cụ thể như sau:

Thứ nhất, hệ thống kinh tế của Cuba dựa trên sở hữu của toàn dân theo nguyên

tắc phân phối xã hội chủ nghĩa "làm theo năng lực, hưởng theo lao động"; thứ

hai, Cuba xác định kinh tế "Kế hoạch hóa" sẽ vẫn được ưu tiên chứ không phải

kinh tế "thị trường". Kế hoạch hóa để nhà nước kiểm soát nền kinh tế một cách

có hệ thống và đảm hoạt động có hiệu quả cho nền kinh tế quốc dân [20]; thứ ba,

thực hiện chính sách thu hút đầu tư nước ngoài nhằm đảm bảo các mục tiêu: tiếp

cận được công nghệ tiên tiến, các phương pháp quản lý, đa dạng hóa và mở rộng

thị trường xuất khẩu, thay thế nhập khẩu, đóng góp nguồn tài chính nước ngoài

trong trung và dài hạn để xây dựng các mục tiêu sản xuất cũng như tạo việc làm

mới; thứ tư, tạo thuận lợi cho việc đa dạng hóa sự tham gia của các doanh nghiệp

nước ngoài trong quá trình khuyến khích đầu tư: xúc tiến thành lập các đặc khu

phát triển kinh tế để tăng xuất khẩu, giảm nhập khẩu; tăng cường phát triển các

dự án công nghệ cao để phục vụ cho sự phát triển của các địa phương và góp

phần tạo ra việc làm mới [20].

Page 74: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

68

Tại Đại hội Đảng lần thứ VII, Cuba tiếp tục có những nhận thức mới về tư

duy kinh tế khi xác định sẽ không sử dụng "Những liệu pháp sốc" (shock-

therapie) của các nước tư bản để kích thích nền kinh tế, cũng như không được bỏ

mặc bất cứ người dân nào trong xã hội, dù họ thuộc tầng lớp nào" [133] và

những công thức theo kiểu "tự do kinh tế mới" khuyến khích tư nhân hóa tài sản

Nhà nước và khẳng định con đường phát triển kinh tế đất nước sẽ phải thực hiện

được các mục tiêu đó là: đưa ra định nghĩa về "cập nhật hóa mô hình kinh tế - xã

hội" xã hội chủ nghĩa; tiến hành thống nhất hai đồng tiền và hai tỷ giá hiện tại

của Cuba; khẳng định lại nguyên tắc xã hội chủ nghĩa về sở hữu toàn dân đối với

các phương tiện sản xuất cốt lõi.

* Trên lĩnh vực an ninh, quốc phòng

Để bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc, chế độ xã hội chủ nghĩa và an

ninh quốc gia, Đảng và Nhà nước Cuba trong giai đoạn 1991-2016, đã xác định

rõ các biện pháp sau:

Thứ nhất, luôn coi trọng và đề cao vai trò của Bộ các Lực lượng vũ trang

cách mạng (quân đội) trong quá trình đấu tranh và bảo vệ độc lập dân tộc. Trong

đó, Cuba tập trung vào một số vấn đề như: xây dựng thế trận quốc phòng toàn

dân và chiến tranh nhân dân;

Thứ hai, để ngăn chặn các âm mưu can thiệp quân sự và tiến hành chiến

tranh xâm lược lật đổ chính quyền cách mạng Cuba của Mỹ, Cuba tiếp tục duy

trì lực lượng vũ trang 3 thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân

du kích);

Thứ ba, tiếp tục cuộc đấu tranh yêu cầu Mỹ trao trả căn cứ Guantanamo vô

điều kiện cho Cuba; củng cố năng lực bảo vệ biên giới, lãnh thổ (nhất là các khu

vực giáp với căn cứ Guantanamo của Mỹ chiếm đóng ở khu vực miền Đông Cuba);

Thứ tư, hoàn thiện, củng cố hệ thống an ninh quốc gia cho phù hợp với

những chuyển biến về chính trị, kinh tế, xã hội trong nước và thế giới trong bối

cảnh mới; ngăn chặn các hoạt động xâm nhập qua biên giới của các tổ chức phản

cách mạng;

Thứ năm, tăng cường hợp tác quân sự và trao đổi kỹ thuật quân sự với

Nga, Trung Quốc, Việt Nam và một số nước Mỹ Latinh: Venezuela, Nicaragua;

Page 75: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

69

Thứ sáu, giảm biên chế và thúc đẩy cải cách quân đội để Lực lượng này hoạt

động có hiệu quả, gọn nhẹ, cơ động và có tính tác chiến cao; đào tạo các cán bộ

quân sự phục vụ cho việc tham gia hợp tác khu vực, quốc tế, đặc biệt là tham gia

vào Chương trình hợp tác và gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc [121, tr.6-7].

Những chủ trương về an ninh, quốc phòng trên của Cuba sẽ giúp nước này

có điều kiện thuận lợi để xây dựng và phát triển đất nước, bảo vệ vững chắc chủ

quyền quốc gia, độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ trước âm mưu diễn biến

hòa bình và chống phá của Mỹ, các thế lực thù địch.

* Trên lĩnh vực văn hóa, xã hội

Trong giai đoạn 1991-2004 và 2004-2016, đặc biệt là tại Đại hội VI, Đảng

và Nhà nước Cuba đã đưa ra nhiều nội dung trong hoạt động văn hóa-xã hội đó

là: tăng cường bảo vệ bản sắc văn hóa; tiếp tục nâng cao chất lượng và tính

nghiêm túc trong công tác giảng dạy ở các cấp học nhằm nâng cao hiệu quả của nền

giáo dục Cuba; từng bước sắp xếp lại mạng lưới các trường học, nâng cao năng lực

của giáo viên trước học sinh, sinh viên thông qua việc trang bị các trang thiết bị

giảng dạy; cải thiện chất lượng dịch vụ và chăm sóc y tế cho toàn dân, đồng thời có

chính sách đãi ngộ tốt cho nhân viên làm trong ngành này; phát triển các hoạt động

y tế cộng đồng nhằm nâng cao sức khỏe, cải thiện đời sống của nhân dân; tiếp tục

đào tạo đội ngũ chuyên gia y tế, bác sỹ để đáp ứng nhu cầu trong nước và coi

"ngoại giao y tế" là kênh đối ngoại quan trọng để phát triển kinh tế đất nước và

nâng cao vai trò vị thế của Cuba trên trường quốc tế [20, tr.13].

Tiếp đó, tại Đại hội VII, Cuba cũng đã đưa ra nhiều nội dung quan trọng

để tiếp tục phát triển con người toàn diện, giữ vững và phát huy những thành quả

cách mạng đã đạt được về y tế, giáo dục, văn hoá. Đồng thời, tạo các nguồn thu

mới ngoài ngân sách nhà nước từ các doanh nghiệp dành cho y tế, giáo dục, văn

hoá [120, tr.2].

Tóm lại, các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước

Cuba trong 2 giai đoạn 1991-2004 và 2004-2016 được thông qua tại các Đại hội

Đảng cộng sản Cuba lần thứ IV, V, VI, VII, đã làm rõ mục tiêu, nhiệm vụ và nội

dung trên các lĩnh vực: chính trị, ngoại giao; kinh tế; an ninh, quốc phòng; văn

hóa,xã hội mà cách mạng Cuba phải thực hiện qua từng giai đoạn. Đây chính là

Page 76: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

70

cơ sở và nền tảng để cho Cuba thực hiện thành công công cuộc đấu tranh bảo vệ

độc lập dân tộc trong thời kỳ mới.

3.2. SỰ TRIỂN KHAI VÀ KẾT QUẢ THỰC HIỆN QUÁ TRÌNH ĐẤU

TRANH BẢO VỆ ĐỘC LẬP DÂN TỘC CỦA CUBA

3.2.1. Giai đoạn Cuba thực hiện "Thời kỳ đặc biệt trong hòa bình"

(1991-2004)

Sở dĩ Cuba thực hiện "Thời kỳ đặc biệt trong hòa bình" là do từ Đại hội

III (2/1986), Đảng và Nhà nước đã nhìn nhận ra những yếu kém của cơ chế quản

lý cũ và bước đầu đưa ra các biện pháp điều chỉnh cơ chế quản lý kinh tế mới,

nhưng tiến trình chuyển đổi đó bị ảnh hưởng nặng nề từ sự sụp đổ Liên Xô vào

tháng 12/1991. Đây là một "cú sốc" lớn đối với tình hình kinh tế và chính trị của

Cuba, bởi trong một thời gian dài, khoảng 85% tổng lượng xuất nhập khẩu (chủ

yếu là thiết bị, nguyên liệu); 95% nguồn cung cấp dầu; 57% nguồn cung cấp

lương thực, 51% sản lượng thịt và phần lớn phương tiện giao thông, máy móc,

giấy, hàng tiêu dùng thiết yếu…của Cuba gắn liền với nước này [143, tr.2]. Vì

vậy, nền kinh tế Cuba đã phải đối mặt với những thách thức lớn khi quan hệ

thương mại, kinh tế với Liên Xô hoàn toàn bị cắt đứt. Hơn thế nữa, sự sụp đổ

của hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới đã làm tổn thương niềm tin của nhân

dân Cuba vào chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

Ngoài những khó khăn trên, chính quyền Mỹ còn lợi dụng sự sụp đổ của

Liên Xô, đồng minh chiến lược của Cuba trong thời kỳ chiến tranh Lạnh để siết

chặt lệnh trừng phạt về kinh tế đối với quốc đảo này. Biểu hiện rõ nhất là hai đạo

luật Torriceli (1992) và Helm-Burton (1996) nhằm bóp nghẹt kinh tế Cuba. Mỹ

còn giật dây EU gây sức ép chính trị, cấu kết với các lực lượng phản động trong

và ngoài nước để gia tăng các hoạt động phá hoại, can thiệp gây mất ổn định tình

hình, bạo loạn và khủng bố với nhiều thủ đoạn để tiêu diệt cách mạng Cuba.

Điển hình là vụ đánh bom ở Habana vào tháng 10/1994, do CIA tổ chức…Điều

này, đã gây ra cho Cuba những khó khăn to lớn trong việc gìn giữ sự ổn định đất

nước, phát triển và mở rộng quan hệ quốc tế. Do tác động từ những yếu tố trên,

Cuba đã rơi vào khủng hoảng kinh tế toàn diện và sâu sắc. Trong giai đoạn

1989-1993, lạm phát lên tới 121%, thâm hụt ngân sách 158%, tổng sản phẩm

Page 77: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

71

quốc nội (GDP) giảm 35% [143]. Để đối phó với tình trạng trên, Cuba đã buộc

phải tuyên bố đưa đất nước bước vào "Thời kỳ đặc biệt trong hòa bình" tại Hội

nghị TW 5 khóa IV, tháng 7/1993.

Bối cảnh trên của Cuba đã đặt ra cho sự nghiệp đấu tranh bảo vệ độc lập

dân tộc giai đoạn 1991-2004 những cơ hội và thách thức đan xen, điều này, được

thể hiện thông qua các lĩnh vực sau:

3.2.1.1. Trên lĩnh vực chính trị- ngoại giao

Để đối phó với những âm mưu can thiệp và lật đổ của Mỹ và các thế lực

bên trong, bên ngoài, Đảng và Nhà nước Cuba đã triển khai các biện pháp đồng

bộ trên lĩnh vực chính trị và đối ngoại nhằm bảo vệ thành quả cách mạng năm

1959, bảo vệ nền độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và chế độ xã hội chủ

nghĩa. Những biện pháp đó bao gồm:

Thứ nhất, Cuba đã ban hành Hiến pháp mới vào năm 1992 và tiến hành

sửa đổi Hiến pháp vào năm 2002. Đây được coi là những biện pháp mang tính

chất bản lề để giữ vững sự ổn định chính trị trong nước, trong bối cảnh nền kinh

tế-xã hội đang lâm vào khủng hoảng trầm trọng

Để đáp ứng được với những đòi hỏi của công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ

quốc trong điều kiện mới, Cuba đã 2 lần tiến hành sửa đổi và thông qua Hiến pháp

mới vào các năm 1992, 2002 [98, tr.1]. Sự thay đổi này đã phản ánh đúng đắn quá

trình đổi mới tư duy chính trị và thực tiễn cải cách đất nước của Đảng cộng sản Cuba.

Bên cạnh đó, Quốc hội cũng đã ban hành, thông qua và sửa đổi nhiều Văn

bản pháp luật quan trọng liên quan đến việc tổ chức và hoạt động của các cơ

quan quyền lực Nhà nước, các tổ chức chính trị-xã hội, các hoạt động kinh tế,

thu hút đầu tư nước ngoài...Đồng thời, xóa bỏ những quy định, văn bản không

phù hợp đối với việc xây dựng và phát triển kinh tế đất nước. Những thay đổi

nêu trên, đã tạo ra những khuôn khổ pháp lý quan trọng để Đảng và Nhà nước

Cuba tăng cường quản lý xã hội bằng pháp luật trên tất cả các lĩnh vực nhằm tạo

ra sự ổn định chính trị-xã hội trong bối cảnh Cuba đang lâm vào khủng hoảng

kinh tế, sự chống phá quyết liệt của Mỹ và các lực lượng phản động.

Việc sửa đổi thành công Hiếp pháp này đã đáp ứng được nguyện vọng của

nhân dân và yêu cầu phát triển kinh tế của đất nước trong "Thời kỳ đặc biệt trong

Page 78: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

72

hòa bình". Đồng thời, phản ánh tính đúng đắn trong việc đổi mới tư duy, nhận

thức về chính trị. Đây chính là cơ sở giúp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất

nước diễn ra thuận lợi.

Thứ hai, Đảng và nhà nước Cuba đã đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị,

tư tưởng nhằm tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong đảng, giữa đảng với

nhân dân để bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và chống lại các âm mưu gây bất ổn

chính trị xã hội của Mỹ và các thế lực thù địch.

Tư tưởng luôn được coi là lĩnh vực nhạy cảm mà các thế lực thù địch

thường xuyên lợi dụng, chống phá. Để đẩy mạnh cuộc đấu tranh trên mặt trận tư

tưởng nhằm bảo vệ nền độc lập dân tộc và thành quả cách mạng xã hội chủ

nghĩa. Tại Đại hội Đảng lần thứ IV (10/1991) và V (10/1997), Đảng cộng sản

Cuba đã xác định nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Đảng là:

Công tác chính trị, tư tưởng nhằm thực hiện mục tiêu cuối cùng là bảo

vệ độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội do Đảng

cộng sản lãnh đạo. Công tác chính trị tư tưởng sẽ giúp cho mọi tầng

lớp, nhân dân Cuba nhận thức được rằng, Đảng cộng sản là lực lượng

lãnh đạo cao nhất trong toàn xã hội, của nhân dân, hướng dẫn và phối

hợp các nỗ lực chung của toàn thể dân tộc Cuba trong sự nghiệp xây

dựng chủ nghĩa xã hội và góp phần củng cố hệ tư tưởng cách mạng

của Cuba trong xã hội. Hệ tư tưởng được Cuba xác định đó là sự kết

tinh toàn diện giữa tư tưởng cách mạng triệt để của Jose Martin và

truyền thống đấu tranh giải phóng dân tộc độc đáo của nhân dân, với

những đặc thù cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Theo đó, tư tưởng và

hành động của Fidel là biểu hiện cao nhất trong nền tảng chính trị, tư

tưởng của cách mạng Cuba [82, tr.13].

Công tác chính trị tư tưởng được Cuba đẩy mạnh trong nội bộ đảng thông

qua việc cơ cấu tổ chức theo 3 cấp: trung ương, tỉnh/thành phố, quận/huyện. Hệ

thống thông tin tuyên truyền của nhà nước, các tổ chức quần chúng, các cơ quan

ngôn luận của Đảng bao gồm: báo Granma, Tạp chí xã hội chủ nghĩa, trang web

của Đảng và nhà xuất bản Chính trị. Thông qua các cơ quan truyền thông này,

nhiều chủ trương, đường lối, chỉ thị, hướng dẫn của các cơ quan và tổ chức

Page 79: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

73

Đảng, cũng như ý kiến và định hướng của chủ tịch Fidel được phổ biến sâu rộng

trong toàn dân.

Trong những năm cuối của thập niên 90, Đảng cộng sản Cuba còn tiến

hành trên phạm vi rộng lớn các diễn đàn chính trị tư tưởng công khai với sự

tham gia của nhiều nhà lãnh đạo cấp cao trong đó có chủ tịch Fidel, Phó Chủ tịch

Raul để yêu cầu Mỹ xóa bỏ chính sách cấm vận với Cuba. Thực hiện nghị quyết

của Đại hội V, Đảng đã phát động đợt sinh hoạt chính trị thông qua việc phát

động quần chúng tiến hành các cuộc biểu tình, tuần hành yêu cầu Mỹ trả tự do

cho bé Elian trong suốt 7 tháng (năm 2000), đấu tranh yêu cầu Mỹ trao trả 5

công dân Cuba bị Mỹ bắt giam làm gián điệp. Các hoạt động này đã buộc Mỹ

phải trao trả bé Elian vào tháng 7/2001. Cuba đã khánh thành Viện bảo tàng Đấu

tranh tư tưởng (7/2001), đây là viện Bảo tàng đầu tiên ở Cuba và trên thế giới

nhằm khơi dậy cuộc đấu tranh của Nhân dân Cuba chống chủ nghĩa đế quốc.

Những hoạt động đấu tranh tư tưởng trên của Đảng cộng sản Cuba đã góp

phần củng cố mối quan hệ giữa Đảng cộng sản với nhân dân, tạo cho người dân

luôn có ý thức cảnh giác trước các hành động chống phá và can thiệp của Mỹ

cũng như các thế lực thù địch vào quốc đảo này.

3.2.1.2. Trên lĩnh vực kinh tế

Sự tan rã của Liên Xô đã làm cho nền kinh tế Cuba đứng trước nguy cơ của

sự sụp đổ. Tình hình này, đã đặt ra cho Đảng và Nhà nước Cuba nhu cầu cấp bách

là phải thay đổi để có thể tồn tại và tiếp tục tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa.

Thứ nhất, sự thay đổi trong chính sách phát triển kinh tế đã giúp Cuba thu

được kết quả khả quan và từng bước thoát khỏi khủng hoảng; duy trì sự ổn định

chính trị- xã hội trong nước; giữ vững nền độc lập dân tộc và chế độ xã hội chủ

nghĩa trong bối cảnh Mỹ siết chặt hơn nữa lệnh cấm vận.

Nhờ việc thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn: lương thực -thực phẩm; du

lịch; công nghệ sinh học theo phương châm "chọn lọc dần dần và có trật tự",

trong giai đoạn từ 1991-2004, Cuba đã thu được nhiều kết quả quan trọng.

Sau nhiều năm liên tiếp tăng trưởng kinh tế ở mức âm như: -10,7%

(1991), -11,5%(1992) và -14,9% (1993), GDP giảm 35% (1989-1993) [93, tr.16]

thì đến năm 1994, Cuba đã chặn đứng được đà suy thoái, đạt mức tăng trưởng

Page 80: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

74

0,7% ; 2,5% (1995) và 7,8% (1996) [82, tr.10]. Kim ngạch xuất khẩu đạt 2,4 tỷ

USD (1994) bằng với mức bình quân năm 1992. Tài chính của đất nước bắt đầu

được củng cố, mức thâm hụt ngân sách giảm 40% so với dự kiến. Nguồn vốn

đầu tư nước ngoài đạt 1,5 tỷ USD. Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc

(UNDP) đã giúp Cuba triển khai 10 dự án phát triển kinh tế và một số dự án về

đào tạo cán bộ quản lý kinh doanh với tổng số vốn là 7 triệu USD [117, tr.158].

Thâm hụt ngân sách từ 35% (1993) xuống còn 5% (1996). Những thành tựu kinh

tế trên đã góp phần quan trọng nâng cao thu nhập thực tế, cải thiện đời sống

nhân dân, hạ tỷ lệ thất nghiệp từ mức 10% (1992) xuống còn 5% (2002). Tỷ lệ

lạm phát từ 179% (1989) xuống còn 5% (2002) [82, tr.11]. Tốc độ tăng trưởng

kinh tế của Cuba đạt 1,2% (1998), con số này tuy còn khiêm tốn nhưng là một

minh chứng cho thấy nền kinh tế Cuba vẫn giữ được khả năng phục hồi trong

điều kiện bất lợi do hậu quả của chính sách cấm vận kinh tế của Mỹ và ảnh

hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính giai đoạn 1997-1998.

Trong các năm từ 1999-2001, khi nền kinh tế thế giới suy giảm, kinh tế

Mỹ Latinh suy thoái nặng nề do hậu quả của chính sách tự do mới trong kinh tế

của chính quyền Bill Clinton và tác động từ thảm họa khủng bố ngày 11/9/2001

ở Mỹ, nhưng Cuba lại là nước duy nhất trong khu vực duy trì được sự ổn định

trong điều kiện bị bao vây cấm vận và đạt được mức tăng trưởng bình quân

4%/năm [86]; thâm hụt ngân sách từ 5% (1996) xuống 3% (2001); năng suất lao

động thời kỳ 1993-2001 tăng gần 20% [86].

Những thành công bước đầu nêu trên, một mặt, giúp Cuba thoát khỏi tình

trạng khủng hoảng kinh tế trong bối cảnh mất đi một thị trường lớn là Liên Xô

và lệnh cấm vận của Mỹ về kinh tế đang bị siết chặt. Nhưng mặt khác, nó cũng

giúp cho Cuba củng cố vững chắc hơn nữa nền độc lập dân tộc và chế độ xã hội

chủ nghĩa.

Bên cạnh những kết quả đạt được trong tăng trưởng kinh tế, tiến trình cải

cách kinh tế còn giúp Cuba đẩy nhanh quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế.

Trước thập niên 90, sở hữu công bao trùm toàn bộ nền kinh tế, nhưng sau 7 năm

cải cách kinh tế của Đại hội V, các hình thức sở hữu đã có những thay đổi sâu

sắc. Nền kinh tế Cuba đã có sự kết hợp ở mức độ khác nhau giữa sở hữu tư nhân

Page 81: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

75

với sở hữu có vốn đầu tư nước ngoài, với công hữu làm chủ đạo: năm 1999,

Cuba đã thành lập hơn 4000 Ủy Ban phân chia, trên cơ sở phân chia lại đất đai

của gần 400 Nông trường quốc doanh và Nhà nước chỉ quản lý 33% đất đai nông

nghiệp so với 70% trước đây [46]. Khu vực kinh tế tư nhân bắt đầu xuất hiện từ

năm 1993 đã nhanh chóng trở thành động lực của nền kinh tế Cuba. Năm 1997,

khu vực kinh tế nhà nước chiếm 15,8% số việc làm mới, trong khi đó khu vực

kinh tế hỗn hợp chiếm tới 32% số việc làm mới [83].

Chính phủ Cuba đã mở cửa cho đầu tư nước ngoài ở hầu hết các khu vực

kinh tế trừ giáo dục, y tế và quốc phòng. Tính đến năm 1998, Cuba có khoảng

332 Hiệp hội kinh tế đang hoạt động bằng nguồn vốn nước ngoài, khu vực kinh

tế tư nhân đã sử dụng trên 200.000 lao động Theo Báo cáo của Bộ Kế hoạch Đầu

tư Cuba, tính đến năm 2003, Cuba đã thu hút được 700 dự án đầu tư nước ngoài

với tổng số vốn 250 triệu USD [83].

Cơ cấu kinh tế của Cuba có sự chuyển đổi quan trọng từ "nhất dạng" sang

"đa dạng" với một số ngành nghề mới xuất hiện như: công nghệ sinh học, khai

thác nicken và du lịch, đặc biệt, ngành du lịch đã phát triển nhanh chóng và thể

hiện tính vượt trội hơn hẳn so với các ngành nghề truyền thống. Cuba đã đón gần

1,8 triệu khách du lịch, với doanh thu đạt hơn 1,8 tỷ USD (năm 2002) và trở

thành một động lực tăng trưởng kinh tế của đất nước [77, tr.3].

Trong nông nghiệp, sản xuất đỗ, ngô, mía đường, bò sữa đều có sự phát

triển và có tốc độ tăng trưởng khá nhanh. Trong công nghiệp, ngành sản xuất

đường, lĩnh vực kinh tế chủ lực của Cuba trong những năm trước đây nay chỉ

đóng vai trò thứ yếu. Trong khi đó, ngành khai thác và sản xuất nicken vươn lên

và trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Cùng với việc phát triển ngành du lịch,

xuất khẩu dịch vụ cũng có giá trị gia tăng cao (chủ yếu là dịch vụ chăm sóc y tế

và cấp phát bằng phát minh, sáng chế về công nghệ sinh học) đã đưa lại nguồn

thu ngoại tệ lớn cho đất nước. Xuất khẩu dịch vụ đã đem lại 10% giá trị xuất

khẩu (1990) và tăng lên 60% (2003). Khai thác dầu khí từ chỗ không đáng kể

trước đây đến năm 2002 đã đảm bảo được 50% nhu cầu của đất nước và triển

vọng có thể trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực trong tương lai gần [82, tr.11].

Tỷ trọng xuất nhập khẩu hàng hóa cũng giảm đi nhanh chóng, từ 90% (1989)

Page 82: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

76

xuống 36% (2003). Trong khi ngành ngoại thương có nhiều khởi sắc: trong giai

đoạn 1990-1993, thị trường xuất khẩu số 1 của Cuba là Liên Xô đã không còn

làm cho giá trị trao đổi thương mại giảm ở mức -77%. Đến năm 2002, con số

này đã tăng lên 5 tỷ USD (mức cao nhất kể từ năm 1991, trước khi Cuba bước

vào "thời kỳ đặc biệt trong hòa bình" [85].

Như vậy, sự thay đổi cơ cấu kinh tế trong giai đoạn này đã giúp cho nền

kinh tế Cuba chuyển từ trạng thái "đơn nhất" sang "đa dạng", làm cho nền kinh

tế có sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Qua đó, thúc đẩy nền kinh

tế phát triển, tạo tiền đề vững chắc cho Công cuộc cải cách kinh tế và tiến lên

xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Thứ hai, du lịch và công nghệ sinh học đã trở thành ngành kinh tế mũi

nhọn của Cuba. Đây chính là "cứu cánh" giúp Cuba giải quyết được những khó

khăn kinh tế trước mắt và tạo cơ sở, tiền đề cho các ngành kinh tế khác có điều

kiện phát triển. Đồng thời, giúp Cuba có thể tự chủ hơn về kinh tế và giảm sự

phụ thuộc vào bên ngoài.

Về du lịch:

Để phát triển tiềm năng du lịch quốc gia, từ đầu thập niên 90, chính phủ

Cuba đã thực hiện các kế hoạch thúc đẩy các hoạt động du lịch: du lịch tắm

nắng, bãi biển, du lịch sinh thái...nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch của du khách

trong và ngoài nước, tăng lượng khách quốc tế đến quốc đảo này. Lượng khách

quốc tế đến Cuba trong giai đoạn này chủ yếu đến từ Mexico, Mỹ, Đức,

Pháp...và chiếm 90% lượng khách du lịch quốc tế [77, tr.4]. Từ năm 1994, tổng

doanh thu của ngành du lịch đã vượt ngành mía đường trở thành nguồn cung cấp

ngoại tệ quan trọng hàng đầu cho Cuba cùng với sản xuất niken. Trong giai đoạn

1990-2000, số khách du lịch tới Cuba tăng 6 lần, từ vị trí 25 lên vị trí thứ 9 của

khu vực. Thu nhập từ ngành này tăng hơn 11 lần, từ 4% tăng lên 45% tổng thu

ngân sách [41].

Chính phủ Cuba còn đặc biệt chú trọng đến việc khai thác thị trường du

lịch của các quốc gia Châu Á-Thái Bình Dương, nhất là Trung Quốc. Vào tháng

1/2004, Cuba và Trung Quốc đã ký biên bản ghi nhớ về du lịch trong đó, chính

phủ Trung Quốc đã công nhận Cuba là nước đầu tiên ở Tây Bán Cầu được

Page 83: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

77

hưởng quy chế "Điểm đến du lịch" của du khách Trung Quốc và điều này sẽ giúp

tăng lượng khách Trung Quốc đến Cuba [77, tr.4].

Theo thăm dò của Hãng Lữ hành du lịch của Mỹ năm 2004, Cuba xếp vị

trí thứ 7 trong tổng số 57 nước có nền công nghiệp không khói tốt nhất thế giới;

đứng đầu thế giới về đảo và khách sạn; thứ ba về bãi biển; thứ 8 về thành phố.

Thủ đô La Habana đứng vị trí thứ 8 về thành phố du lịch tốt nhất thế giới và

đứng thứ 2 Châu Mỹ, ngang với Buenos Aires (Argentina) [77, tr.4].

Về công nghệ sinh học

Chính phủ Cuba đã ưu tiên phát triển ngành công nghệ sinh học bằng việc

đầu tư, xây dựng các cơ sở nghiên cứu, sản xuất các sản phẩm công nghệ sinh

học, trong đó một số cơ sở có tầm cỡ quốc tế như: Trung tâm Kỹ nghệ di truyền

và công nghệ sinh học (CIGB); Viện vác xin Finlay; Trung tâm khoa học quốc

gia (CENIN)...các trung tâm này đã đưa ra thị trường hàng trăm sản phẩm nhằm

nâng cao sức khỏe của con người và phục vụ cho chăn nuôi, trồng trọt.

Chính phủ Cuba cũng đã áp dụng công nghệ gen và nghiên cứu sản xuất

thành một số loại dược phẩm có giá trị cao: vác xin phòng chống viêm não Nhật

Bản; vác xin phòng chống siêu vị B, C...Ngoài ra, Cuba còn chế tạo thành công

các loại thuốc thú y như: vác xin phòng chống bọ ve ở bò (GAVAC). Hơn nữa,

còn sử dụng công nghệ biến đổi gen để cho ra thị trường các sản phẩm đạt năng

suất cao: cá rô phi, mía, khoai tây...

Cuba còn có hàng chục các sản phẩm công nghệ sinh học được cấp bằng

sáng chế và có bản quyền trong và ngoài nước: vác xin chống ung thư. Các sản

phẩm công nghệ di truyền của Cuba được ưa chuộng tại 60 nước, với giá trị xuất

khẩu 1 tỷ USD/năm. Trong giai đoạn từ 2000-2004, xuất khẩu công nghệ sinh

học mang lại cho Cuba mỗi năm khoảng 350 triệu USD [77, tr.7].

Bên cạnh đó, Cuba cũng thực hiện chuyển giao công nghệ sinh học tới

một số nước như: Ấn Độ, Trung Quốc, Brazil, Việt Nam...

3.2.1.2. Trên lĩnh vực an ninh- quốc phòng

Trong bối cảnh cách mạng Cuba liên tục chịu sự bao vây, cấm vận, can

thiệp, lật đổ của Mỹ và các thế lực phản động bên trong và bên ngoài. Để đối

phó thành công những âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, Đảng và Nhà nước Cuba đã

Page 84: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

78

đề ra các biện pháp để từng bước phát triển lực lượng vũ trang cách mạng nhằm

bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia và chế độ xã hội chủ nghĩa. Chiến lược này

của Cuba được thể hiện thông qua một số biện pháp sau:

Thứ nhất, tiếp tục duy trì và củng cố các lực lượng bảo vệ cách mạng

nhằm góp phần ổn định trật tự trong nước, bảo vệ Đảng, nhà nước và nhân dân

trước sự chống phá quyết liệt của kẻ thù

Đảng và Nhà nước Cuba coi việc bảo vệ tổ quốc, củng cố quốc phòng, giữ

vững an ninh quốc gia là nhiệm vụ của toàn thể nhân dân, của mọi lực lượng

trong xã hội. Trong đó, sức mạnh của lực lượng vũ trang được coi là nòng cốt,

chú trọng phát huy nội lực là chính; kết hợp sức mạnh kinh tế, chính trị với ngoại

giao; sẵn sàng đối phó với mọi tình huống chiến tranh, nguy cơ xâm lược của Mỹ

cùng các thế lực thù địch và kiên quyết giành thắng lợi. Ngoài ra, Cuba còn chú

trọng xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng 3 thứ quân: Bộ đội chủ lực, bộ đội địa

phương, dân quân du kích. Quán triệt tư tưởng cách mạng tiến công, tích cực, chủ

động, sãn sàng đánh bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù

địch. Đồng thời, tiếp tục khẳng định: "Học thuyết Quốc phòng của Cuba vẫn tiếp

tục là học thuyết chiến tranh Nhân dân" [91, tr.17]. Tính đến năm 2003, Cuba có

60.000 quân chính quy thuộc các binh chủng hải, lục, không quân, với hơn 3,5 triệu

quân dự bị, bộ đội và công nhân quốc phòng vào làm việc trong hơn 60.000 cơ sở

kinh tế quốc phòng thuộc các đơn vị vũ trang trên cả nước [174].

Nhờ xây dựng được lực lượng vũ trang vững mạnh, có mối liên hệ mật

thiết với nhân dân nên Cuba đã kịp thời ngăn chặn và dập tắt các vụ gây rối, bạo

loạn chính trị (Sự kiện bạo loạn chính trị vào tháng 10/1994 tại thủ đô La

Habana do một số phần tử Cuba lưu vong được Mỹ hậu thuẫn gây ra); các âm

mưu ám sát nhằm vào lãnh tụ Fidel; vô hiệu hóa hoạt động của các đối tượng

phản động trong và ngoài nước lợi dụng các vấn đề tôn giáo, dân chủ, nhân

quyền để gây mất ổn định chính trị và không để bên ngoài lấy cớ can thiệp vào

công việc nội bộ của Cuba; đấu tranh ngăn chặn các hoạt động của một số phần

tử cơ hội chính trị trong nước, không để chúng hình thành các tổ chức chính trị

đối lập để chống lại Đảng và phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc; góp phần

giữ vững sự ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội trên phạm vi cả nước;

Page 85: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

79

nâng cao và giác ngộ trình độ hiểu biết về quốc phòng- an ninh cho toàn dân, các

cấp, bộ và ngành; đề cao tinh thần cảnh giác, ý thức cách mạng và trách nhiệm,

nghĩa vụ của Nhân dân trong công cuộc xây dưng và bảo vệ tổ quốc; bố trí lại

các Lực lượng quốc phòng theo quân khu, vùng miền, khu vực phòng thủ phù

hợp với ý đồ chiến lược, phát huy cao độ sức mạnh quốc phòng để bảo vệ vững

chắc tổ quốc Cuba xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, ngăn chặn chiến tranh xâm lược

và sẵn sàng đánh trả các cuộc tấn công của kẻ thù.

Như vậy, trong giai đoạn 1991- 2004, quân đội Cuba, dưới sự lãnh đạo

của Đảng cộng sản đã luôn đề cao tinh thần cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu nhằm

tăng cường bảo vệ vững chắc độc lâp chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, chế độ xã

hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng và Nhân dân, chủ động ngăn chặn, đẩy lùi các hoạt

động phá hoại của kẻ thù, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội của

đất nước trong điều kiện và hoàn cảnh mới.

Thứ hai, Cuba chủ trương cải cách các Lực lượng vũ trang để bảo vệ vững

chắc thành quả cách mạng góp phần giữ vững ổn định trật tự xã hội, chủ quyền

quốc gia.

Cuba đã xác định rõ mục tiêu là xây dựng quân đội cách mạng dựa trên cơ

sở "kinh nghiệm lịch sử của quân đội giải phóng Rebel chống thực dân Tây Ban

Nha trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc lần 1 (1868-1878) và lần 2 (1895-

1898)" [142, tr.2], thành một lực lượng vũ trang cách mạng tinh nhuệ, chính quy,

có đủ năng lực để bảo vệ tổ quốc và giúp đỡ nhân dân khi gặp thiên tai, địch họa.

Đồng thời, đẩy mạnh phát triển các lực lượng quân dự bị, dân cảnh nội địa (dân

quân tự vệ) nhằm phát huy hết năng lực và vai trò của các lực lượng trên trong

sự nghiệp phát triển kinh tế và bảo vệ tổ quốc khi cần thiết.

Bên cạnh đó, tiếp tục thực hiện việc củng cố mối quan hệ giữa Bộ các Lực

lượng vũ trang cách mạng, Bộ Nội vụ với các Bộ ngành khác nhằm củng cố

vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân. Thông qua hoạt động này, Cuba còn

muốn củng cố mối quan hệ chặt chẽ và gắn bó truyền thống giữa các lực lượng

vũ trang cách mạng với các Bộ để ngoài mục tiêu bảo vệ độc lập dân tộc còn có

thể giúp người dân trong các hoạt động phòng chống thiên tai, dịch bệnh, cứu

hộ, cứu nạn [80].

Page 86: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

80

Cuba còn xây dựng thế trận quốc phòng, kết hợp với kinh tế và đối ngoại.

Điều chỉnh lại thế chiến lược với các Lực lượng Vũ trang, đặc biệt là khu vực

giáp với căn cứ Guantanamo để chống lại các âm mưu xâm lược, chống phá cách

mạng Cuba của Mỹ. Sự hiện diện quân sự của Mỹ tại căn cứ Guantenama vẫn

được coi là nguy cơ đe dọa trực tiếp đến an ninh quốc gia của Cuba. Từ tháng

1/2002, dưới thời Tổng Bush (con), Mỹ đã sử dụng căn cứ này để giam giữ

những nghi phạm khủng bố bị bắt giữ trong cuộc chiến chống khủng bố ở Iraq

và Afganistan [128]. Điều này, làm cho Cuba rất lo ngại, một mặt, thông qua căn

cứ này Mỹ có thể tiến hành chống phá Cuba về tư tưởng, chính trị, quân sự. Mặt

khác, có thể dễ dàng thực hiện các kế hoạch xâm nhập, đổ bộ vào Cuba sau đó

tiến tới thiết lập một chính quyền thân Mỹ tại đây.

Thành tựu cách mạng Cuba đã đạt được nêu trên đã góp phần to lớn trong

việc củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, chế độ xã hội chủ

nghĩa. Đồng thời, làm cho trật tự xã hội được giữ vững và ổn định, bất chấp sự

chống phá quyết liệt của các lực lượng phản động bên trong và bên ngoài.

3.2.1.2. Trên lĩnh vực văn hóa- xã hội

Nhắc đến những thành tựu của cách mạng của Cuba trong giai đoạn này

không thể không nói đến các thành quả về giáo dục, ý tế, an sinh xã hội. Mặc dù,

đất nước phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, nhưng Đảng và Nhà nước

Cuba luôn giành ưu tiên đặc biệt đến việc chăm lo sức khỏe, đời sống của người

dân. Đây chính là cơ sở quan trọng để đem lại sự công bằng trong xã hội, đồng

thời, củng cố niềm tin của nhân dân vào đường lối lãnh đạo của Đảng cộng sản

và chế độ xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, những thành tựu trong các lĩnh vực nói

trên đã trở thành vũ khí quan trọng giúp Cuba đứng vững và vượt qua thời khắc

hiểm nghèo của "thời kỳ đặc biệt trong hòa bình".

Thứ nhất, việc duy trì tư tưởng yêu nước của Jose Marti trong lĩnh vực

văn hóa được coi là nhiệm vụ quan trọng để Cuba bảo vệ thành quả cách mạng

Một trong những giá trị về văn hóa mà cách mạng Cuba luôn lưu giữ và

phát triển chính là những quan điểm yêu nước của Jose Marti về văn hóa thông

qua các tác phẩm văn học, thơ ca, hài kịch, cùng những tác phẩm lý luận chính

trị của ông. Những quan điểm này được hình thành trên cơ sở của cuộc đấu tranh

Page 87: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

81

chống lại ách thống trị của thực dân Tây Ban Nha qua tác phẩm "Nhật ký tuổi

thơ" với câu nói nổi tiếng "Tôi sẽ quyết trả thù cho những người phải sống lay

lắt, vật vờ trong kiếp nô lệ" [57, tr.59]. Toàn bộ các sáng tác nghệ thuật cùng

hoạt động thực tiễn của ông đều hướng về mục tiêu duy nhất là đấu tranh giành

độc lập cho tổ quốc và đem lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Ông cũng đã

khẳng định: "Không thể có con người mà không có tổ quốc...Không thể có tổ

quốc mà không có tự do" [154, tr.459].

Chủ nghĩa yêu nước của Jose Marti đã được nâng lên thành quan điểm

văn hóa và những giá trị của nó không chỉ có ý nghĩa thực tiễn trong thế kỷ XIX

mà còn có ý nghĩa đối với Cuba trong giai đoạn này. Bởi nhờ hệ tư tưởng này

mà Đảng cộng sản Cuba đã tiếp thu, trân trọng và phát triển nó thành một nền

văn hóa cách mạng có một không hai ở Mỹ Latinh với nền giáo dục, y tế miễn

phí; quyền bình đẳng giữa các màu da, sắc tộc, tôn giáo và quyền con người luôn

được tôn trọng một cách triệt để; tình đoàn kết của chủ nghĩa yêu nước và chủ

nghĩa quốc tế trong sáng luôn được đề cao; mối quan hệ giữa mọi giai cấp, tầng

lớp trong xã hội luôn gắn bó chặt chẽ; quan hệ giữa Đảng với nhân dân trong nội

bộ đảng luôn được củng cố bền chặt và không thể chia căt; đặc biệt, hệ tư tưởng

Jose Marti đã luôn được Đảng cộng sản Cuba coi là một trong những nền tảng,

kim chỉ nam cho sư nghiệp đâu tranh bảo vệ tổ quốc ở quốc đảo tự do này. Đây

chính là thứ vũ khí vô cùng mạnh mẽ giúp Cuba đối phó thành công với các

chính sách bao vây, cấm vận của Mỹ và các thế lực thù địch.

Thứ hai, những thành tựu về giáo dục, y tế không chỉ giúp Cuba đứng

vững trước khó khăn về kinh tế mà còn nâng cao được vai trò, vị thế trên trường

quốc tế, qua đó, tranh thủ sự ủng hộ, đồng tình của cộng đồng quốc tế trong việc

chống lại chính sách bao vây, cấm vận hà khắc của Mỹ

Về giáo dục:

Hiến pháp Cuba năm 1992 đã nêu rõ: "…Tất cả mọi người đều được phép

tiếp cận như nhau với giáo dục ở tất cả các trường học của đất nước (từ tiểu học

đến đại học) và giáo dục không mất tiền" [19, tr.4] nhờ chính sách ưu việt về

giáo dục, Cuba đã đạt được những thành quả: trong giai đoạn 1991-2000, Cuba

chỉ còn 0,5% dân số mù chữ (so với 13% ở toàn khu vực Mỹ Latinh); 100% số

Page 88: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

82

trẻ em trong độ tuổi đi học được đến trường; đã phổ cập giáo dục lớp 9 cho toàn

dân; có 47 trường đại học (trong đó có 14 trường Đại học Sư phạm); giáo dục đại

học đã được triển khai đến toàn bộ các cấp, quận, huyện trong cả nước với 67%

thanh niên ở độ tuổi 18-24 đến giảng đường đại học. Cuba có 130 trung tâm

nghiên cứu khoa học với số lượng cán bộ lên tới hàng chục nghìn người và thực

hiện các biện pháp giảng dạy, học tập như học qua đài phát thanh, truyền hình

[85]...Ngay những thời điểm cam go nhất của nền kinh tế, Đảng và Nhà nước

Cuba vẫn luôn quan tâm đến sự phát triển giáo dục và trở thành điểm sáng ở Mỹ

Latinh cũng như trên thế giới. Tính đến năm 2001, Cuba có 100% dân số được

phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở; hơn 700 nghìn người tốt nghiệp

đại học; 310 nghìn giáo viên và 70 nghìn bác sỹ…Cuba còn dẫn đầu thế giới về

số giáo viên tính theo đầu người và tiếp tục duy trì chính sách giáo dục miễn phí

cho toàn dân [150, tr.20].

Với mục tiêu tất cả các học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học có nguyện

vọng đều có thể học đại học, Cuba đã mở rộng mô hình đại học về các

quận/huyện, tạo điều kiện để 100% số trẻ em trong độ tuổi đi học đều được đến

trường, cung cấp miễn phí sách, vở cho toàn bộ học sinh và đảm bảo nội trú

miễn phí hoàn toàn cho gần 428 nghìn học sinh và bán trú cho trên 725 nghìn

học sinh. Ngoài ra, 525 nghìn trẻ em khuyết tật đã được đi học, 272 trẻ em

khuyết tật nặng đã được tổ chức học tập ngay tại giường bệnh. Cuba còn xây

dựng một nhà in chữ nổi dành riêng cho người mù và trang bị máy tính cho

người khuyết tật [61].

Bắt đầu từ năm 2002-2003, Cuba đã phát động một cuộc cách mạng giáo

dục với nội dung quan trọng là đưa giáo dục đại học đến 169 quận huyện trên cả

nước, đồng thời tiến tới phổ cập giáo dục đại học cho toàn dân. Bộ Giáo dục

Cuba cũng đã tổ chức lại các lớp học ở cấp phổ thông để mỗi một lớp học cấp 1

không quá 20 học sinh, cấp 2 và đại học là không quá 15 học sinh.

Với những thành công trên, Tổ chức Văn hóa, giáo dục và Khoa học kỹ

thuật của Liên Hợp quốc (UNESCO) đã công nhận Cuba là nước đầu tiên ở Mỹ

Latinh hoàn thành chỉ tiêu "Chương trình giáo dục cho mọi người" được Liên

Hợp quốc đề ra tại Diễn đàn thế giới tổ chức tại Dhaka (Bangladesh, 2000),

Page 89: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

83

Cuba đứng thứ 23 thế giới về thành tích giáo dục [150, tr.20] và đạt giải thưởng

"Vua Xê Đông" năm 2002 [77, tr.7].

Về y tế:

Đảng và nhà nước Cuba luôn coi y tế là trọng điểm trong chính sách an

ninh-xã hội. Cuba thực hiện các nguyên tắc trong y tế như: phổ biến, miễn phí,

dễ dàng, được trang bị với những thiết bị, vật chất cần thiết, đội ngũ bác sĩ được

đánh giá cao, dựa trên cơ sở phòng bệnh là chính. Tất cả mọi người dân Cuba đều

có quyền được tiếp cận bình đẳng các dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe chất lượng

cao, hoàn toàn miễn phí mọi nơi, mọi lúc. Ngân sách dành cho các lĩnh vực y tế

chiếm từ 17-18%. Với những chính sách và sự đầu tư đó, Cuba đã thu được những

thành quả rất đáng khâm phục và trình độ y tế của nước này đã đạt mức ngang hàng

với các nước phát triển trên thế giới. Cuba đã có mạng lưới cơ sở y tế phủ khắp mọi

vùng miền trên cả nước với 400 bệnh viện đa khoa, hơn 200 bệnh viện chuyên

khoa, 10 viện y học chuyên ngành (1997). Cả nước có 20 cơ sở đào tạo y khoa và

đào tạo được 90.000 bác sĩ. Trong giai đoạn 1990-1999, Cuba đã đào tạo được

37.842 bác sỹ. Tỷ lệ tử vong ở trẻ em từ giảm từ 10% (1994) xuống còn 6% (2001).

Tuổi thọ trung bình của người dân là 78 tuổi, ngang hàng với tuổi thọ của các nước

tư bản phát triển nhất. Tỷ lệ người bị nhiễm HIV/AIDS là 0,03% so với 0,6% của

Mỹ (tỷ lệ thấp nhất Châu Mỹ). Tất cả các trẻ em đều được tiêm phòng chống lại 13

căn bệnh cơ bản. Cuba có trên 70.000 bác sĩ, trung bình trên 100.000 dân/500 bác sĩ

so với mức bình quân của Mỹ Latinh là 100.000 dân/160 bác sĩ. Tỷ lệ này của Cuba

đã vươn lên đứng đầu thế giới về tỷ lệ bác sỹ tính theo đầu người. Cuba không chỉ

chú trọng đạo tạo bồi dưỡng các bác sỹ, nhân viên y tế từ cấp trên tới cấp cơ sở mà

còn chú ý đầu tư nghiên cứu các trang thiết bị y tế, các sản phẩm dược và công nghệ

mới hiện đại trong lĩnh vực y tế hiện đại. Cuba cũng đã tự chế đạo được 90% dược

phẩm phục vụ cho nhu trong nước, trong đó có một số loại dược phẩm có chất

lượng rất cao và được thế giới ghi nhận [84].

Không chỉ đạt được những thành tựu trong nghiên cứu, khám chữa bệnh,

xây dựng và phát triển hạ tầng y tế, Cuba còn sử dụng y tế như một kênh ngoại

giao quan trọng nhằm mở rộng nhằm mở rộng ảnh hưởng chính trị và đem lại

nguồn thu cho nước này. Ngoại giao y tế đã góp phần tạo ra những lợi ích về sức

Page 90: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

84

khỏe, giúp cải thiện quan hệ giữa Cuba với các quốc gia và trở thành nền tảng

trong chính sách đối ngoại của Cuba kể từ khi cách mạng Cuba thành công năm

1959. Vào năm 2000, Chủ tịch Fidel Castro và Tổng thống Chaves đã đề ra

Chương trình "Đổi bác sỹ lấy dầu", theo đó, Cuba cung cấp cho nước này 31.000

bác sỹ, nha sỹ và đào tạo 40.000 nhân viên y tế. Tiếp đó, đến năm 2004, thông

qua Chương trình "Phẫu thuật diệu kỳ", Cuba đã phẫu thuật mắt miễn phí cho

2,8 triệu người ở 35 quốc gia trên thế giới [78].

Với chính sách miễn phí về y tế và giáo dục, cùng với những thành tựu

nêu trên đã giúp Cuba thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế, nâng cao được

vai trò, vị thế ở khu vực và trên thế giới, qua đó tranh thủ được sự ủng hộ, đồng

tình của cộng đồng quốc tế trong việc yêu cầu Mỹ xóa bỏ chính sách bao vây,

cấm vận trong suốt hơn 4 thập kỷ.

Thứ ba, những thành tựu về an sinh xã hội đã tạo nền tảng cho sự ổn định

đất nước của Cuba

Giống như giáo dục và y tế, an sinh xã hội cũng là yếu tố được Đảng và

Nhà nước Cuba luôn coi trọng và đầu tư. Bởi sự thành công của chính sách này

sẽ giúp củng cố niềm tin của nhân dân vào chế độ. Chiến lược an sinh xã hội của

Cuba được phát triển đồng bộ với các biện pháp như: giải quyết việc làm, vấn đề

nhà ở, dịch vụ công cộng, phòng chống tệ nạn xã hội trong thanh thiếu niên. Nhờ

có chính sách trên mà người dân Cuba đã được hưởng rất nhiều lợi ích tốt đệp.

Trong giai đoạn này có tới 90% người dân (trong tổng số 11,2 triệu người) được

sử dụng điện; hơn 90% dân số được sử dụng nước sạch và 80% số hộ gia đình

trong toàn quốc có sở hữu nhà hợp pháp (1999). Tỷ lệ thất nghiệp liên tục giảm

từ 10% (1992) xuống còn 5% (2001) và 1,9 % (2002), đây là mức thấp nhất thế

giới [61]. Đất nước Cuba hầu như không có trẻ xin ăn trên đường phố và không

có người nghiện ma túy. Cuba cũng đứng đầu danh sách các nước đảm bảo an

ninh quốc gia và an ninh cho người dân tốt. Mặc dù, đời sống người dân còn

nhiều khó khăn nhưng tỷ lệ tội phạm ở Cuba thấp hơn nhiều so với mức trung

bình ở toàn Châu Mỹ. Theo đánh giá của Tổ chức Nông lương thế giới (FAO) về

công tác xóa đói giảm nghèo, Cuba là một trong số ít nước trên thế giới thực

hiện nghiêm túc công tác này ở tất cả các cấp, các vùng, miền.

Page 91: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

85

Ngoài ra, Đảng và Nhà nước Cuba còn đề ra và triển khai nhiều chính

sách nhằm tiêu diệt tận gốc những tàn dư, định kiến của chủ nghĩa phân biệt

chủng tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, màu da giúp cho người dân có thể tham gia sâu

rộng vào đời sống xã hội đất nước. Tính đến năm 2003, Cuba có tới 42% lực

lượng lao động là phụ nữ. Trong đó, 66% (trong tổng số 42% ) là các chuyên gia

trong lĩnh vực kinh tế [150, tr.20]. Cuba đã ký kết 87/184 công ước do Tổ chức

Lao động quốc tế (ILO) ban hành đó là những nội dung liên quan đến tự do công

đoàn, quản lý lao động, an toàn vệ sinh lao động…những chính sách xã hội ưu

việt nêu trên đã làm cho nhân dân Cuba thêm tin tưởng vào sự nghiệp xây dựng

và bảo vệ tổ quốc do Đảng cộng sản lãnh đạo và tạo cơ sở vững chắc cho sự

nghiệp cách mạng Cuba vượt qua mọi thử thách.

Như vậy, những thành quả mà cách mạng Cuba đạt được trong giai đoạn

"Thời kỳ đặc biệt trong hòa bình" (1991-2004) không chỉ mang lại cho người

dân ở đất nước này một cuộc sống tự do, hạnh phúc, khiến họ có ý thức tự giác,

quyết tâm bảo vệ những lợi ích mà cách mạng đã đem lại. Mà còn góp phần

quan trọng vào việc củng cố nền độc lập dân tộc, chế độ xã hội chủ nghĩa và tạo

cơ sở vững chắc để cách mạng Cuba vượt qua mọi thử thách, tiếp tục đứng vững

và đi lên trong mọi hoàn cảnh.

Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, quá trình đấu tranh bảo vệ độc

lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn 1991-2004 của Cuba

còn gặp phải một số khó khăn, hạn chế như sau:

Thứ nhất, việc Mỹ duy trì chính sách bao vây cấm vận quá lâu đối với

Cuba đã làm cho quốc đảo này bị cô lập về chính trị -ngoại giao, kinh tế và lâm

vào khủng hoảng toàn diện, sâu sắc

Sau khi chiến tranh Lạnh kết thúc, chính quyền Mỹ, dưới thời Tổng thống

Bush (cha), Bill Clinton, Bush (con), đã tăng cường siết chặt các lệnh cấm vận

về chính trị, ngoại giao, kinh tế với Cuba, hậu quả là Cuba bị lâm vào thế cô lập

ngoại giao toàn diện. Bên cạnh đó, nhiều quốc gia ở Châu Phi, vốn từng được

Cuba giúp đỡ trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc như: Angola,

Mozambic, Etiopia...sau khi chuyển đổi chế độ, dưới sức ép của Mỹ đã thực hiện

chính sách chống Cuba. Còn ở Mỹ Latinh, Mỹ cũng đã gây sức ép để nhiều quốc

gia và tổ chức trong khu vực như: OAS, Ngân hàng phát triển Liên Mỹ, và các

Page 92: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

86

nước: El Sanvador, Nicaragua, Panama...cô lập và cắt đứt quan hệ ngoại giao với

quốc đảo này. Bên cạnh đó, chính quyền Mỹ còn muốn gây ra tình trạng hỗn

loạn trong xã hội Cuba bằng việc: ngăn cản và gây sức ép lên các nước thứ 3 để

họ ngừng các hoạt động thương mại [187]; cấm tuyệt đối các tập đoàn, công ty

của Mỹ ở nước ngoài không được phép tiến hành các giao dịch tài chính, thương

mại với quốc đảo này [171]... Các lệnh cấm vận trên của Mỹ đã làm cho Cuba

thiệt hại rất lớn trên tất cả các lĩnh vực, nhất là về y tế và sức khỏe của người

dân: trong thời gian này, tuổi thọ của người dân Cuba tăng chậm, chỉ khoảng

0,54% mỗi năm, so với mức 15,5% (giai đoạn 1960 -1989), đây là giai đoạn

Cuba được Liên Xô hỗ trợ rất nhiều về trang thiết bị y tế và thuốc men. Trong

giai đoạn 1991-2004, tuổi thọ trung bình của người dân Cuba chỉ tăng khoảng

6%, tương đương với 0,26% mỗi năm [175]. Ngoài ra, nó cũng ảnh hưởng đến

việc tiếp cận thuốc của người dân Cuba do Mỹ cấm các công ty của nước này có

hoạt động thương mại, mua bán thuốc với Cuba. Trước khi Mỹ siết chặt lệnh

cấm vận, tổng giá trị trao đổi hàng hóa giữa Mỹ và Cuba đạt khoảng 719 triệu

USD/năm, trong đó, lương thực và thuốc chiếm tới 90% giá trị. Sau khi Mỹ siết

chặt lệnh cấm vận, con số này đã giảm xuống còn 0,3 triệu USD/năm (giai đoạn

1992-1995). Đặc biệt, vào năm 1994, do thiếu lương thực, thực phẩm, Cuba đã phải

đổi mặt với đại dịch lớn về các bệnh như: thần kinh, giảm thị lực, suy dinh dưỡng

và tiêu chảy. Các hội chứng này còn tăng lên trong những năm tiếp theo do nguồn

nước bị ô nhiễm vì thiếu hóa chất để xử lý chất thải và thiếu dược phẩm.

Ngoài ra, với điều khoản trừng phạt các nước thứ 3 có quan hệ thương

mại với Cuba, nên trong thời gian này, việc hợp tác giữa Cuba với Mỹ và các

nước khác đã giảm đáng kể. Trong đó, ngành công nghiệp của Cuba bị thiệt hại

nặng nề nhất do thiếu đầu vào là máy móc, phụ tùng, trang thiết bị phụ vụ cho

sản xuất. Điều này, dẫn tới sản lượng công nghiệp của Cuba bị sụt giảm mạnh,

từ mức 7,5 triệu tấn/năm trong giai đoạn 1987-1991 xuống còn 4 triệu tấn/năm

trong các năm 1993, 1994 và và 3,3 triệu tấn/năm vào năm 1995. Tiếp đó, là

ngành nông nghiệp cũng lâm vào tình trạng thiếu phân bón, thuốc trừ sâu, máy

móc cơ giới phục vụ cho sản xuất lương thực, thực phẩm. Ngành lâm nghiệp,

xây dựng, vận tải cũng phải chịu cảnh tương tự: lâm nghiệp và thủy sản, đã giảm

xuống còn 55%; xây dựng: 72%; vận tải hành khách:79,3%; vận chuyển hàng hoá:

Page 93: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

87

60%; khí đốt và nước: 23% trong giai đoạn 1990-1994. Hệ lụy của nó là làm cho xã

hội Cuba trở lên bất ổn, tình trạng thiếu việc làm trở lên phổ biến, đời sống nhân

dân gặp nhiều khó khăn do thiếu điện, nước sinh hoạt, thuốc men [185]...

Như vậy, những chính sách cấm vận của chính quyền Mỹ từ năm 1991-

2004 đã làm cho nền kinh tế Cuba rơi vào tình trạng khủng hoảng, kiệt quệ, đời

sống nhân dân gặp nhiều khó khăn...Điều này, đã tác động trực tiếp đến phát

triển kinh tế, đe dọa đến sự ổn định chính trị, chủ quyền quốc gia và sự tồn vong

của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Cuba.

Thứ hai, Cuba gặp khó khăn từ sự chống phá của Mỹ và các thế lực thù địch

Lợi dụng sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu,

chính quyền Mỹ đã đẩy mạnh các hoạt động chống phá Cuba về tư tưởng nhằm

thúc đẩy sự chia rẽ giữa Đảng cộng sản với nhân dân, xóa bó nguyên tắc tập

trung dân chủ trong Đảng để biến Đảng thành câu lạc bộ từ đó làm tan rã Đảng

cộng sản Cuba; kích động các lực lượng đối lập bên trong kết hợp với các phần

tử người Cuba sống lưu vong ở Mỹ gây bạo loạn để lật đổ chế độ Xã hội Chủ

nghĩa ở Cuba khi có thời cơ.

Chính quyền Mỹ đã cho xây dựng Đài phát thanh Marti ở Florida, phát

thanh 2200 giờ/tuần với 24 tần số khác nhau để chống phá cách mạng Cuba; sử

dụng máy bay vận tải C130 phát sóng truyền hình nhiều tần số để phát trực tiếp

vào Cuba; cung cấp tài chính, đào tạo các lực lượng phản động tại Cuba: tài trợ

670 nghìn USD cho một số tổ chức phản động người Cuba ở Mỹ để lập hệ thống

báo chí đối lập ngay trên đất nước Cuba; chi 1,6 triệu USD cho việc thành lập

các tổ chức Phi chính phủ và 2,1 triệu USD cho các kế hoạch chuyển giao quyền

lực ở Cuba [72] …Những hoạt động chống phá trên của Mỹ và các thế lực phản

động đã gây nhiều khó khăn cho cách mạng Cuba.

Thứ ba, do Cuba phụ thuộc rất lớn vào nguồn viện trợ của Liên Xô, nên

sau khi Liên Xô sụp đổ, quốc đảo này đã không đủ sức chống chọi với những tác

động từ bên ngoài

Trong thời kỳ kinh tế Kế hoạch (trước 1991), nền kinh tế Cuba phụ thuộc

rất lớn vào Liên Xô: với nguồn viện trợ từ 4-5 tỷ USD/năm [93, tr.16], ¾ nguồn

năng lượng (dầu khí), thiết bị máy móc, phân bón và tốc độ tăng trưởng kinh tế của

Page 94: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

88

Cuba đều phụ thuộc vào viện trợ của Liên Xô [84, tr.1]. Ngoài ra, hầu hết các nhà

kinh tế của Cuba đều được đào tạo ở Liên Xô nên lực lượng này chịu ảnh hưởng

sâu sắc bởi tư duy kinh tế Kế hoạch hóa của mô hình Xô Viết. Các nhà lãnh đạo

Cuba (kể cả Fidel) luôn tin tưởng tuyệt đối và không nhận ra được những khiếm

khuyết, hạn chế mà mô hình này đem lại. Chỉ sau khi Govbachev thực hiện chuyến

thăm Cuba (4/1989), yêu cầu quốc đảo này cải cách theo mô hình tự do, lúc đó các

nhà lãnh đạo Cuba mới nhận thấy sự yếu kém của nền kinh tế đất nước.

Sau khi Liên Xô sụp đổ, nguồn viện trợ bị cắt giảm hoàn toàn, nền kinh tế

Cuba ngay lập tức lâm vào khủng hoảng toàn diện: Trong giai đoạn 1991-1993,

tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức -0% trong 3 năm liên tiếp; tổng sản phẩm quốc

nội GDP giảm 35%; thâm hụt ngân sách 33%; mức lương thực tế của người lao

động giảm 25%; Cuba phải nhập khẩu 70% lương thực từ bên ngoài [92, tr.12].

Do đó, Cuba đã không đủ sức chống lại những tác động từ bên ngoài, nhất là

chính sách cấm vận của Mỹ.

Như vậy, sự phụ thuộc vào Liên Xô cũng là một trong những nguyên nhân

làm cho Cuba mất độc lập tự chủ và đe dọa đến sự tồn vong của chế độ xã hội

chủ nghĩa.

Tóm lại, những hạn chế, yếu kém của cách mạng Cuba trong giai đoạn

này đã cản trở quá trình xây dựng và phát triển đất nước, điều này cũng đã tác

động trực tiếp đến bảo vệ nền độc lập dân tộc và chế độ chủ nghĩa xã hội của

quốc đảo này trong bối cảnh mới.

3.2.2. Giai đoạn Cuba tiếp tục thực hiện cải cách kinh tế và chủ

trương "Cập nhật hóa mô hình kinh tế-xã hội" (2004-2016)

Sau hơn một thập kỷ thực hiện "Thời kỳ đặc biệt trong hòa bình" (1991-

2004), bên cạnh những thành tựu đạt được, cách mạng Cuba vẫn còn phải đối

mặt với nhiều thách thức mới nảy sinh và có nguy cơ đe dọa đến nền độc lập dân

tộc, chủ quyền quốc gia và chế độ xã hội chủ nghĩa. Để giải quyết những khó

khăn trong nước và đưa đất nước phát triển. Đảng và Nhà nước Cuba đã xác

định phải kế thừa và phát triển những thành quả của thời kỳ trước. Đồng thời,

khắc phục những hạn chế, yếu kém để đưa đất nước từng bước thoát khỏi khủng

hoảng và vững bước tiến lên trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Page 95: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

89

Trở thành nhà lãnh đạo mới của Cuba (7/2006), Chủ tịch Raul đã đề ra

một số biện phát nhằm khắc phục những khuyết điểm, sai lầm trong kinh tế của

thời kỳ trước bằng việc đề ra chủ trương "Cập nhật hóa mô hình kinh tế-xã hội"

tại Đại hội VI (4/2011) và "Đường lối phát triển kinh tế-xã hội của Đảng và cách

mạng" tại Hội nghị Trung ương II, khóa 6, tháng 9/2011. Bên cạnh đó, Cuba còn

xác định khái niệm về "Mô hình phát triển kinh tế và xã hội, xã hội chủ nghĩa"

được đề ra tại Đại hội lần thứ VII (4/2016) với mục tiêu phát triển nền kinh tế

đất nước theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.

Những mục tiêu này của Đảng và Nhà nước Cuba được thể hiện thông

qua một số biện pháp trên các lĩnh vực như sau:

3.2.2.1. Trên lĩnh vực chính trị, ngoại giao

Thứ nhất, tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân nhằm

tạo sự đoàn kết, thống nhất trong toàn xã hội

Để đảm bảo sự nghiệp cách mạng Cuba luôn là của nhân dân, do nhân dân

và vì nhân dân, Đảng cộng sản Cuba thường xuyên chăm lo, duy trì, củng cố và

phát triển mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân. Cuba luôn đề cao vai

trò lãnh đạo của Đảng cộng sản và mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với quần

chúng bằng việc: tăng cường giáo dục chính trị, văn hóa, nghiệp vụ cho quần

chúng nhân dân; xúc tiến đối thoại với quần chúng; quan tâm đến nguyện vọng

của quần chúng; tuyên truyền đường lối, nghị quyết của Đảng; duy trì và nâng

cao tính chiến đấu của đảng viên và quần chúng, rèn luyện và nâng cao khả năng

sãn sàng chiến đấu của đảng viên và người lao động trong việc bảo vệ tổ quốc.

Điều này, làm cho quần chúng nhân dân hiểu hơn về Đảng và vai trò lãnh đạo

của Đảng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc trước chính sách bao

vây và chống phá của Mỹ.

Việc xây dựng và củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng mà chính phủ Cuba

đề ra đã tăng cường được tình đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Đặc biệt là trong

đội ngũ lãnh đạo cấp cao đã có sự thống nhất về mục tiêu, lý tưởng và con đường

đi lên chủ nghĩa xã hội của đất nước trong tình hình mới nhằm chống lại các âm

mưu chia rẽ trong nội bộ Đảng, làm phân hóa đội ngũ cán bộ Đảng viên, tiến tới

là sụp đổ vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản với cách mạng ngay từ bên trong.

Page 96: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

90

Thông qua Đảng bộ và các tổ chức cơ sở Đảng để giữ mối liên hệ chặt chẽ

với nhân dân, vừa lắng nghe những thắc mắc, ý kiến đóng góp của quần chúng,

vừa giải thích, giáo dục và động viên họ thực hiện chủ trương, chính sách của

nhà nước. Đặc biệt, Đảng còn chú trọng xây dựng các tổ chức quần chúng: như

Đoàn thành niên cộng sản, Đội thiếu niên Jose Marti, Ủy ban Bảo vệ cách

mạng...thông qua các tổ chức quần chúng này, Đảng tiếp tục duy trì mối quan hệ

với nhân dân tạo ra sự đồng thuận trong xã hội về việc triển khai, thực hiện

đường lối chính sách của nhà nước [76].

Dưới sự lãnh đạo của Bí thư thứ nhất Raul, Cuba vẫn thường xuyên tổ

chức các diễn đàn mở, hội nghị bàn tròn trên truyền hình được tiến hành hàng

ngày với những chủ đề khác nhau nhằm nâng cao sự hiểu biết của quần chúng,

động viên và cổ vũ các thế hệ tích cực hưởng ứng các phong trào đấu tranh vì

độc lập và chủ quyền dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân.

Các hoạt động cụ thể trên là biểu hiện của sự đồng tâm, nhất chí của Đảng

và nhân dân Cuba trên con đường xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đồng thời, để cho kẻ

thù thấy rằng chúng không thể khuất phục được ý chí của một dân tộc biết đoàn kết,

có tổ chức và buộc chúng phải từ bỏ ý đồ khôi phục chủ nghĩa tư bản và áp đặt trở

lại ách thống trị của chủ nghĩa thực dân mới ở quốc đảo này một lần nữa.

Nhờ làm tốt công tác chính trị tư tưởng, Đảng và nhân dân Cuba đã nhận

thức đầy đủ hơn về tính ưu việt của chế độ xã hộ chủ nghĩa, nhờ đó, ý thức của

nhân dân về bảo vệ độc lập dân tộc, quyền tự do, bình đẳng và bác ái đã được

nâng cao, trên cơ sở đó hình thành nên khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thống nhất

tập trung quanh Đảng để chống lại mọi mưu đồ chia rẽ của Mỹ và các thế lực

phản động.

Trong quá tình xây dựng chủ nghĩa xã hội và phát triển đất nước, Đảng

cộng sản Cuba đã luôn quán triệt nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân

dân, tăng cường thực hành dân chủ và phát huy tính sáng tạo của nhân dân, biết

tham khảo và vận dụng có chọn lọc về xây dựng nhà nước pháp quyền của nhân

loại vào điều kiện cụ thể là xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã

hội chủ nghĩa ở Cuba, phù hợp với dân tộc, thời đại và hoàn cảnh thực tiễn của

đất nước.

Page 97: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

91

Thứ hai, kiện toàn lại hệ thống chính trị để đáp ứng nhu cầu phát triển của

đất nước trong điều kiện mới

Để đáp ứng được với sự đòi hỏi của công cuộc xây dựng và phát triển đất

nước trong thời kỳ mới, Cuba đã tiến hành sửa đổi Hiến pháp vào năm 2011.

Quốc hội Cuba đã thông qua sửa đổi và ban hành nhiều văn bản pháp luật quan

trọng liên quan đến tổ chức và hoạt động của các cơ quan quyền lực nhà nước,

các tổ chức chính trị xã hội và các hoạt động kinh tế, đầu tư như: Ban hành luật

đầu tư mới (6/2014), loại bỏ các quy định kinh tế lỗi thời, cụ thể hóa và thể chế

hóa quyền công dân và quyền con người...Những văn bản pháp luật đó đã tạo

khuôn khổ pháp lý quan trọng để Cuba tăng cường quản lý xã hội bằng pháp luật

trên tất cả các lĩnh vực.

Quốc hội là cơ quan quyền lực tối cao cũng đã có những bước cải cách quan

trọng thông qua việc học tập mô hình xây dựng Quốc hội của Việt Nam. Bên cạnh

đó, Quốc hội cũng từng bước hoàn thiện cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động

như việc: tăng cường các đại biểu chuyên trách; làm tốt công tác giám sát, chức

năng lập pháp và quyền quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước. Sự thay đổi

trên đã giúp cho Quốc hội Cuba từng bước dân chủ hóa trong các cuộc thảo luận,

tranh luận, các diễn đàn, buổi chất vấn trên truyền hình và đài phát thanh; các đại

biểu cũng tăng cường tiếp xúc cử tri ở dưới cơ sở và lắng nghe người dân trình bày

ý kiến của mình về những vấn đề quan trọng của đất nước để truyền đạt những ý

kiến này trên các diễn đàn Quốc hội, Đảng và chính phủ [98, tr.12]. Nhờ vậy hiệu

quả và hiệu lực của Quốc hội được nâng cao và thu hút được sự quan tâm của các

tầng lớp nhân dân đối với các kỳ họp của Quốc hội.

Cuba cũng đã từng bước kiện toàn lại bộ máy các cơ quan nhà nước từ

Trung ương đến địa phương: sắp xếp lại các cơ quan bộ và ngang bộ để hình

thành các bộ quản lý nhà nước theo hướng đa ngành, đa lĩnh vực; tách dần chức

năng nhà nước với sản xuất, kinh doanh và doanh nghiệp; phân biệt chức năng

của cơ quan hành chính và công quyền với các đơn vị hành chính sự nghiệp.

Với việc cải tổ bộ máy cơ quan nhà nước trên sẽ làm cho hệ thống chính trị

của Cuba từ Trung ương đến địa phương được tinh gọn, hoạt động có hiệu quả, qua

đó có thể thực hiện được những mục tiêu mà Đảng và nhà nước đã đề ra. Ngoài ra,

Page 98: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

92

nó còn giúp Cuba cải cách được các thủ tục hành chính để thu hút đầu tư, được các

nguồn vốn nước ngoài vào Cuba đầu nhằm thúc đẩy và phát triển kinh tế, tạo công

ăn việc làm, cải thiện đời sống của nhân dân, góp phần nâng cao vai trò, vị thế của

Cuba trên trường quốc tế nhằm tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế trong

việc yêu cầu Mỹ dỡ bỏ lệnh cấm vận kinh tế hoàn toàn đối với Cuba.

Thứ ba, với phương châm đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ quốc

tế, Đảng và Nhà nước Cuba đã thực hiện mở rộng quan hệ ngoại giao với nhiều

nước trong khu vực và trên thế giới

Cuba luôn theo đuổi đường lối ngoại hòa bình, hữu nghị và đoàn kết với

các dân tộc, đi tiên phong trong việc bảo vệ lợi ích của các nước đang phát triển,

góp phần xây dựng một trật tự quốc tế công bằng, bình đẳng, nhờ vậy mà ngoại

giao Cuba đã thu được nhiều thành tựu ngoại giao quan trọng, bất chấp chính

sách bao vây cấm vận của Mỹ.

Hiện nay, Cuba đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 175/220 quốc gia và

vùng lãnh thổ, có cơ quan đại diện ngoại giao ở 135 nước trên thế giới. Đảng

cộng sản Cuba phát triển quan hệ với gần 300 Đảng phái, tổ chức và phong trào

chính trị trên thế giới. Viện Cuba hữu nghị với các dân tộc (ICAP) có quan hệ

với gần 3000 tổ chức hòa bình, đoàn thể hữu nghị quốc tế. Các tổ chức quần

chúng Cuba (Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Công đoàn) có quan hệ với hàng

trăm đoàn thể quần chúng trên thế giới [25, tr.5].

Cuba cũng đã cải thiện, bình thường hóa quan hệ với nhiều quốc gia và

tham gia trở lại nhiều tổ chức khu vực sau một thời gian bị Mỹ ngăn cản: trở

thành thành viên chính thức của nhóm RIO (2008), sau 22 năm bị Mỹ cản trở;

Cuba được phép tái gia nhập OAS sau 53 năm bị ngăn cấm, đặc biệt Cuba đã

bình thường hóa quan hệ hoàn toàn với EU (2016), với các nước El Salvador

(2012), Panama (2015)...sau một giai đoạn đối đầu và căng thẳng trong quan hệ

với các nước và tổ chức này [25, tr.6].

Thành tựu quan trọng của ngoại giao Cuba trong giai đoạn này chính là

việc đã tham gia sáng lập nhóm ALBA (12/2004) và CELAC (2012), những tổ

chức này đã giúp cho Cuba phát triển, duy trì sự ổn định chính trị và nâng cao

địa vị quốc tế ở khu vực, bất chấp các chính sách bao vây cấm vận của Mỹ.

Page 99: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

93

Cuba cũng đã củng cố quan hệ chiến lược với các nước lớn và các nước

đang phát triển: Nga, Trung Quốc, Ấn Độ, Nam Phi...;các nước xã hội chủ

nghĩa: Việt Nam, Bắc Triều Tiên và các nước phát triển: Nhật Bản, Pháp, Tây

Ban Nha...Những thành tựu trên của Cuba đã chứng tỏ đường lối đối ngoại đa

dạng hóa, đa phương hóa của Cuba trong thời gian qua là đúng đắn.

Sau khi Cuba đẩy mạnh cải cách kinh tế và bình thường hóa quan hệ với

Mỹ, đã có rất nhiều nhà lãnh đạo các nước trên thế giới, trong đó có các nước

lớn tới thăm Cuba: Tổng thống Nga Putin (7/2014); Chủ tịch Trung Quốc Tập

Cận Bình (7/2014) và Thủ tướng Lý Khắc Cường (9/2016); Tổng thống Pháp

Hollande (5/2015); Thủ tướng Italia Matteo Renzi (7/2015); Giáo hoàng Francis

I (9/2015); Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe (9/2016)....

Thành tựu đối ngoại quan trọng nhất của Cuba trong giai đoạn này là

thiết lập quan hệ đồng minh chiến lược với Venezuela. Quan hệ hai nước được

hình thành dựa trên cơ sở sự tương đồng về nhận thức trong đấu tranh giải phóng

dân tộc, chống bá quyền Mỹ và có chung mục tiêu xây dựng một xã hội dân chủ,

bình đẳng ở Mỹ Latinh. Sau khi trở thành Tổng thống của Venezuela (12/1998),

Hugo Chaves đã đưa đất nước đi theo đường lối Cánh tả và đề ra đường lối đối

ngoại mới với mục tiêu thúc đẩy khối đoàn kết Mỹ Latinh, mở rộng quan hệ hữu

nghị với tất cả các nước trong khu vực, đặc biệt là Cuba. Lấy hợp tác thay thế

cho cạnh tranh, lấy hội nhập thay cho bóc lột và đấu tranh cho một thế giới đa

cực, dân chủ. Đường lối đối ngoại mới này của Venezuela đã tạo cơ sở quan

trọng để Chủ tịch Cuba, Fidel Castro có chuyến thăm lịch sử tới nước này (vào

tháng 10/2000). Chuyến thăm này đã đưa quan hệ hai nước lên thành "đối tác

hợp tác toàn diện" [46]. Trong chuyến thăm này hai nước đã ký Hiệp định hợp

tác năng lượng và tài chính, theo đó, mỗi ngày Venezuela cung cấp cho Cuba

53.000 thùng dầu thô với giá bằng 1/3 giá thị trường thế giới, một nửa trong số

đó sẽ được trả chậm trong vòng 25 năm. Ngoài ra, các hoạt động cung cấp dầu,

giá cả, bảo hiểm và cước phí vận chuyển dầu từ Venezuela sang Cuba sẽ do Tập

đoàn Dầu khí quốc gia Venezuela (PDVSA) đảm nhiệm. Ngoài ra, Venezuela

còn cam kết viện trợ cho Cuba 3-5 tỷ USD/năm [46]. Tiếp đó, trong chuyến

thăm của Tổng thống Chavez tới Cuba (10/2004), lãnh đạo hai nước đã nâng

Page 100: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

94

quan hệ hai nước lên "đồng minh chiến lược", đồng thời, thống nhất xây dựng

một thỏa thuận trao đổi dầu lấy thiết bị y tế-giáo dục. Cuba sẽ cung cấp cho

Venezuela các dịch vụ chuyên môn về y tế (đặc biệt là các thiết bị y tế và dược

phẩm), chịu trách nhiệm xóa mù chữ cho các khu vực nông thôn hẻo lánh. Trong

khi, Venezuela cam kết duy trì cung cấp dầu mỏ và các sản phẩm từ dầu cho

Cuba. Các sản phẩm dịch vụ về y tế, giáo dục của Cuba sẽ được Venezuela

thanh toán bằng đồng Bolivar và các đồng tiền khác, có thời hạn đến năm 2020.

Thông qua sự giúp đỡ, hỗ trợ đắc lực của Venezuela về năng lượng, tài

chính đã giúp cho Cuba từng bước thoát khỏi những khó khăn về kinh tế-xã hội

trong "thời kỳ đặc biệt trong hòa bình" và đất nước Cuba có thể trụ vững trước

những chính sách bao vây cấm vận hà khắc của Mỹ. Đây chính là cơ sở góp

phần giúp Cuba bảo vệ thành công nền độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia.

Thứ tư, Cuba cũng đã từng bước cải thiện quan hệ ngoại giao với Mỹ

nhằm phá thế bao vây, cô lập, thù địch kéo dài trong gần 6 thập kỷ

Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Raul, Cuba đã có rất nhiều nỗ lực để cải

thiện quan hệ với Mỹ và yêu cầu Mỹ chấm dứt hoàn toàn chính sách bao vây

cấm vận phi lý với đất nước này. Những nỗ lực của Cuba đã có hiệu quả khi vào

tháng 6/2013, Tổng thống Mỹ Obama đã đồng ý khởi động vòng đám phán bí

mật kéo dài 18 tháng nhằm cải thiện quan hệ song phương. Sau nhiều vòng đàm

phán ở các kênh, cấp độ liên lạc khác nhau, với sự trung gian hòa giải của

Canada và Vantican và đặc biệt là cuộc nói chuyện kéo dài 45 phút của lãnh đạo

hai nước, Cuba và Mỹ đã chính thức Tuyên bố bình thường hóa quan hệ vào

ngày 17/12/2014. Sự kiện Cuba và Mỹ bình thường hóa quan hệ đánh dấu sự

chấm dứt gần 6 thập kỷ đối đầu giữa hai bên và mở ra một chương mới trong

quan hệ đối đầu giữa hai nước. Nó chứng minh chính sách cấm vận của Mỹ với

Cuba đã lỗi thời. Sau bình thường hóa, Cuba và Mỹ đã tiến hành 3 vòng đàm

phán quan hệ với nội dung chính là các vấn đề: Căn cứ Guantanamo, chính sách

Di trú, bản danh sách Cuba nằm trong nhóm các nước tài trợ cho chủ nghĩa

khủng bố và lệnh cấm vận kinh tế với nước này.

Mặc dù, giữa hai nước còn tồn tại nhiều bất đồng trong các vấn đề do sự

khác biệt về nhận thức và quan điểm nhưng nó đã tạo cơ sở và tiền đề để Tổng

Page 101: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

95

thống Obama và Chủ tịch Raul có cuộc gặp tại Panama vào tháng 4/2015 dẫn tới

việc Mỹ đưa Cuba trở lại tổ chức này sau 53 năm ngăn cản và loại Cuba ra khỏi

danh sách các nước tài trợ cho chủ nghĩa khủng bố (29/5/2015). Lãnh đạo hai nước

cũng đã đồng ý mở lại đại sứ quán tại mỗi nước và tăng cường các cuộc tiếp xúc bộ,

ngành và ngoại giao nhân dân để làm sâu sắc hơn mối quan hệ hai bên.

Đặc biệt, vào ngày 16/3/2016, Tổng thống Obama đã thông qua gói giải

pháp cuối cùng trong việc thúc đẩy quan hệ chính trị với Cuba. Nỗ lực này đã tạo

thuận lợi cho chuyến thăm của ông tới Cuba (20-21/3/2016). Chuyến công du Cuba

đầu tiên của một vị Tổng thống Mỹ sau 88 năm [43]. Mặc dù, hai nước còn tồn tại

sự khác biệt lớn về tư tưởng và ý thức hệ, nhưng chuyến thăm này đã góp phần rất

lớn trong việc cải thiện quan hệ chính trị, kinh tế song phương và trong 2 năm

(2015-2016), hai nước đã ký được 22 thỏa thuận trên các lĩnh vực: hợp tác chống

tràn dầu; chống tội phạm tin học; chống khủng bố và buôn bán ma túy; hợp tác an

ninh, hàng hải; chia sẻ kinh nghiệm trong việc điều trị bệnh ung thư [107, tr.17].

Việc Cuba nỗ lực cải thiện quan hệ với Mỹ xuất phát từ lý do Cuba trong

một thời gian dài bị cô lập hoàn toàn với thế giới trên tất cả các lĩnh vực. Điều

này làm cho nền kinh tế của Cuba lâm vào khủng hoảng trầm trọng, đời sống

nhân dân khó khăn, bần cùng. Ngoài ra, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng

kinh tế toàn cầu làm nhiều đồng minh của Cuba tại Mỹ Latinh rơi vào tình trạng

suy thoái. Cuba không còn chỗ dựa vững chắc trong việc chống lại chính sách

của Mỹ. Hơn lúc nào hết, Cuba cần phải thay đổi để đáp ứng được yêu cầu thực

tiễn của đất nước trong bối cảnh mới. Do đó, lãnh đạo Cuba đã quyết định từng

bước cải thiện quan hệ với Mỹ để khắc phục tình trạng trên của đất nước. Còn

đối với Mỹ, việc duy trì lệnh cấm vận quá lâu với Cuba đã làm cho Mỹ bị suy

giảm hình ảnh, uy tín trên thế giới cũng như khu vực Mỹ Latinh. Mặt khác, việc

cấm vận kinh tế với Cuba cũng khiến cho các doanh nghiệp không thể tiếp cận

vào thị trường tiềm năng của Cuba và để thị trường này rơi vào tay các đối thủ

lớn của Mỹ, còn cộng đồng người Mỹ gốc Cuba thì oán thán chính quyền Mỹ đã

làm li gián họ với người thân quê nha. Trước những sức ép trong nước và quốc

tế trên, chính quyền Obama đã phải đi đến quyết định bình thường hóa quan hệ

với Cuba.

Page 102: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

96

3.2.2.2. Trên lĩnh vực kinh tế

Thứ nhất, dấu ấn lớn nhất trong thực hiện cải cách kinh tế chính là đã đề

ra chủ trương "Cập nhật hóa mô hình kinh tế-xã hội". Biện pháp này đã giúp

Cuba từng bước thoát khỏi những khó khăn kinh tế trong nước; xây dựng được

một nền kinh tế đa dạng; mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế và là điểm đến đến của

nhiều nhà đầu tư nước ngoài. Những thành tựu này đã góp phần tạo ra "nội lực"

giúp Cuba bảo vệ được lợi ích quốc gia, dân tộc

Thông qua việc đề ra chủ trương "Cập nhật hóa mô hình kinh tế-xã hội"

tại Đại hội VI (4/2011) và tiếp tục đẩy mạnh tại Đại hội VII (4/2016), sau 5 năm

thực hiện, Cuba đã thu được nhiều thành tựu quan trọng về kinh tế cụ thể là:

* Khuyến khích các thành phần kinh tế tư nhân phát triển

Chính phủ Cuba lần đầu tiên cho phép chính quyền các thành phố trên cả

nước đưa ra kế hoạch phát triển kinh tế bao gồm các hình thức hợp tác xã và

doanh nghiệp vừa, nhỏ. Đồng thời, còn cho thí điểm dự án tài xế taxi ở thủ đô La

Habana được phép thuê xe thay vì phải nhận lương của Nhà nước (vào tháng

1/2010). Đến tháng 4/2010, Cuba đã cho phép áp dụng hệ thống cho thuê đối với

các cửa hàng cắt tóc và tiệm làm đẹp. Đây là lần đầu tiên các cơ sở bán lẻ của

Nhà nước được giao cho người lao động kể từ khi Cuba tiến hành quốc hữu hóa

toàn diện nền kinh tế đất nước vào năm 1968.

Chính phủ Cuba còn thông báo kế hoạch mở rộng thành phần kinh tế tư

nhân với việc thông qua danh sách 178 ngành kinh doanh và dịch vụ mà tư nhân

có thể đăng ký tham gia, cho phép 18 nhóm ngành nghề mới được phép sử dụng

lao động độc lập theo chính sách cải cách kinh tế của nước này.

Trong giai đoạn 2008-2014, Cuba đã thực hiện chính sách cải cách theo

hướng khuyến khích hơn 500.000 doanh nghiệp tư nhân phát triển. Theo thống

kê chính thức của Bộ Lao Động Cuba, trong giai đoạn 2012 đến giữa 2013, Cuba

đã cấp phép cho hơn 50.000 hộ kinh doanh cá thể và nâng tổng số người tham

gia kinh tế tư doanh trên 40 vạn. Trong đó, trên 70% đối tượng được cấp phép

kinh doanh cá thể là những người trước đây không có việc làm, người về hưu

hoặc trong diện tinh giảm biên chế [190]. Tạo việc làm mới cho 1,8 triệu người

trong năm này. Những hoạt động cải cách trên được hy vọng sẽ đóng góp từ 40-

45% GDP trong thời gian tới [190].

Page 103: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

97

Những cải cách mạnh mẽ trên được Đảng và Chính phủ Cuba khẳng định

là nỗ lực "cải tiến" chứ không phải là "từ bỏ" mô hinh kinh tế xã hội chủ nghĩa.

Cuba đã đặt mục tiêu đưa 40% lực lượng lao động tới làm việc trong khu vực

không phải của Nhà nước, vượt 10% chỉ tiêu đề ra trước đó. Những hạn chế

trong khu vực kinh tế tư nhân đã được nới lỏng. Một số lượng lớn công nhân

viên Nhà nước đã bị sa thải và hàng chục nghìn người đã xin được giấy phép để

tự kinh doanh. Lần đầu tiên trong nhiều năm người dân Cuba đã được phép mua

bán nhà, xe hơi, đi du lịch ở nước ngoài và có thể vay vốn kinh doanh từ ngân

hàng. Ngoài ra, họ còn có thể truy cập internet với giá 4,5 USD/giờ, bằng ¼

lương trung bình của viên chức Nhà nước [190]. Trong hơn hai thập kỷ qua,

chính quyền Cuba luôn hạn chế việc truy cập internet của các viên chức Nhà

nước, việc Cuba nới nỏng chính sách này đã cho thấy chính sách mở cửa trong

lĩnh vực viễn thông của Cuba đã có sự thay đổi.

Trong giai đoạn 2015-2017 có khoảng 250.000 người tham gia vào kinh tế

tư nhân và mô hình kinh doanh của họ sẽ chỉ ở quy mô nhỏ [190] Cuba khó có

thể kỳ vọng ngay vào những loại hình kinh tế quy mô lớn khi hạ tầng cơ sở đang

bị xuống cấp và lực lượng lao động đã quen với mô hình kinh tế Kế hoạch hóa từ

nhiều năm qua. Từ năm 2011-2016, Cuba đã cấp phép cho 201 ngành nghề mới,

chủ yếu là lao động giản đơn như: thợ nề, sửa nhà cũ, bán hàng dong, mở nhà

hàng...số lao động tự do ở Cuba đã tăng từ 150.000 người (2010) lên hơn

500.000 người (2016). Lực lượng lao động ở khu vực kinh tế tư nhân đã đạt 5

triệu người chiếm hơn 30% lao động trên cả nước [108, tr.17].

* Cải tổ doanh nghiệp Nhà nước

Trong giai đoạn 2010-2013, Cuba đã cắt giảm hơn 1 triệu lao động làm

việc tại các cơ quan, doanh nghiệp Nhà nước, tương đương với 30% biên chế

công chức và giảm gánh nặng bao cấp lên tới 2 tỷ USD mỗi năm [118].

Chính phủ Cuba cũng cấp mới 250.000 giấy phép cho các hộ kinh doanh

gia đình trong vòng 6 tháng cuối năm 2011 để thúc đẩy sự phát triển của các

thành phần kinh tế phi Nhà nước [73]. Ngoài ra, còn cho phép người dân tham

gia một số dịch vụ nhỏ như: giao thực phẩm, cho thuê phòng trọ, mở quán ăn gia

đình với điều kiện không được thuê người làm công. Đồng thời, tiến hành mạnh

Page 104: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

98

tay loại bỏ các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn thiếu hiệu quả bằng việc thành

lập Hợp tác xã, tư nhân hóa hay liên doanh với nước ngoài.

* Thúc đẩy chính sách cải cách đất đai và nông phẩm

Để tăng cường hiệu quả của sản xuất nông nghiệp trong nước, giảm sự

phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu lương thực từ bên ngoài (mỗi năm khoảng 2 tỷ

USD), Cuba đã trao 1,5 triệu ha đất cho người nông dân, trong đó, 79% đã được

đưa vào trồng các loại cây ăn quả và lúa nước. Đồng thời, có 163.000 hộ nông

dân đã được sở hữu ruộng đất. Trong giai đoạn 2011-2016, Cuba tiếp tục giao

900.000 ha đất hoang cho nông dân canh tác và chăn thả các loại gia súc, tùy

theo khả năng kinh doanh và sở thích của họ [169, tr.53-72].

Chính phủ Cuba còn chủ trương phát triển các dự án nghiên cứu, đầu tư

để đảm bảo thực hiện thành công các chương trình sản xuất nông nghiệp, trong

đó canh tác lúa, đậu tương và các loại lương thực sẽ được coi là hướng ưu tiên

và là trọng tâm. Trong giai đoạn 2011-2016, Cuba đã đầu tư 450 triệu USD để

thúc đẩy sản xuất lúa gạo và đáp ứng được 80% nhu cầu tiêu thụ trong nước.

Chính phủ còn giải ngân 108 triệu USD để mua sắm trang thiết bị, máy móc

phục vụ cho sản xuất nông nghiệp tại 152 quận, huyện trên cả nước [169, tr.56].

Tính đến năm 2014, Cuba đã thông qua hơn 300 chủ trương để phát triển mô

hình kinh tế với mục tiêu ổn định nền kinh tế vĩ mô, phát triển đất nước và đảm

bảo an ninh lương thực cho người dân.

* Ban hành Luật đầu tư nước ngoài mới

Thành tựu đặc biệt quan trọng của Cuba là Quốc hội Cuba đã thông qua

"Luật đầu tư mới" vào ngày 28/3/2014 và có hiệu lực vào ngày 28/6/2014. Bộ

luật này được thông qua để thay thế cho Luật đầu tư được ban hành vào tháng

5/1995. Đây được coi là một trong những chính sách chủ chốt của Kế hoạch Cải

cách kinh tế của Cuba nhằm mục tiêu hiện đại hóa nền kinh tế [144]. Bộ luật này

được thông qua với nhiều nội dung quan trọng như: Sắc lệnh số 118/2014 quy

định các loại hình doanh nghiệp có thể sử dụng và thu hút nguồn vốn đầu tư

nước ngoài bao gồm: liên doanh; các thỏa thuận đối tác kinh tế quốc tế: hợp

đồng quản lý khách sạn, dịch vụ, hợp đồng về thăm dò và khai thác tài nguyên

thiên nhiên, xây dựng và sản xuất nông nghiệp [73].

Page 105: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

99

Với Bộ luật trên, mỗi năm Cuba đã thu hút được hơn 2 tỷ USD và tiếp cận

được với nhiều công nghệ tiên tiến, phương pháp quản lý của nước ngoài để thúc

đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm, giúp cho kinh tế Cuba tăng từ 5-

7% mỗi năm [14] và đảm bảo sự ổn định của công cuộc Cải cách.

Một điểm đáng chú ý nữa của Luật đầu tư nước ngoài mới là các nhà đầu

tư được khuyến khích tham gia vào các liên doanh với các công ty Nhà nước hay

tư nhân của Cuba. Trong các mô hình hợp tác đầu tư nước ngoài, lần đầu tiên

xuất hiện hình thức hợp đồng liên kết kinh tế quốc tế và công ty 100% vốn nước

ngoài. Bên cạnh đó, luật đầu tư mới sẽ cho phép triển khai và áp dụng một số hệ

thống thuế ưu đãi cho một số trường hợp. Theo đó, các nhà đầu tư sẽ được miễn

thuế thu nhập trong 8 năm đầu hoạt động và sau đó sẽ phải đóng 15% thuế, giảm

một nửa so với quy định 30% trước đây. Tuy nhiên, trong ngành khai thác tài

nguyên thiên nhiên Niken hay nhiên liệu hóa thạch sẽ bị đánh thuế 50% [2].

Ngoài ra, Cuba đã ký kết được nhiều thỏa thuận hợp tác song phương về tránh

đánh thuế hai lần với Tây Ban Nha, Barbados, Italia, Việt Nam, Trung Quốc...và

duy trì được 42 thỏa thuận đầu tư song phương với các nước này [73].

Với những thành tựu trên của Luật đầu tư mới, đã giúp Cuba thay đổi và

phát triển đất nước. Đúng như đánh giá của Bộ trưởng Ngoại thương Cuba,

Rodrigo Malmierca: "Luật đầu tư mới được thông qua sẽ giúp kinh tế Cuba tăng

trưởng từ 6-8%/năm, nguồn vốn đầu tư nước ngoài sẽ đạt từ 2-2,5 tỷ USD và tạo

động lực để ngành dầu khí có bước phát triển" [177].

* Xây dựng Đặc khu kinh tế Mariel

Một trong những thành tựu nổi bật của chính sách thu hút đầu tư nước

ngoài của Cuba là sự ra đời của Đặc khu kinh tế Mariel vào ngày 19/9/2013. Một

trong những lý do quan trọng dẫn tới sự ra đời của Đặc khu này là Cuba đã nhận

rõ được lợi thế về địa lý, địa kinh tế của mình trong việc thúc đẩy Cải cách kinh

tế và coi đây là điểm trung chuyển hàng hóa trong khu vực.

Đặc khu kinh tế Mariel là dự án đưa ra nhằm khuyến khích sự phát triển

kinh tế bền vững của Cuba thông qua việc thu hút đầu tư nước ngoài nhằm đổi

mới công nghệ, tập trung phát triển công nghiệp và bảo vệ môi trường.

Xây dựng Mariel cũng phù hợp với chiến lược mở rộng quan hệ hợp tác

kinh tế quốc tế mà Cuba đang đẩy mạnh. Thông qua cảng nước sâu này, Cuba có

Page 106: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

100

thể cải thiện quan hệ với Mỹ và hợp tác kinh tế với nhiều quốc gia khác tránh sự

lệ thuộc vào một nền kinh tế nhất định. Đồng thời, giúp Cuba phát triển các

ngành công nghiệp, mạng lưới giao thông vận tải nhằm phát triển kinh tế theo

hướng hiện đại hóa.

Như vậy, những cải cách trong nước trên đã cho thấy đây là một biện

pháp đúng đắn của Đảng và Nhà nước Cuba nhằm phản ứng lại chính sách cấm

vận kinh tế của Mỹ và làm cho chính quyền Obama phải có sự thay đổi trong

chính sách với Cuba. Mặt khác, nó còn giúp cho nền kinh tế Cuba từng bước

thoát khỏi khó khăn; cải thiện đời sống của nhân dân; nâng cao được vai trò và

vị thế trong khu vực; mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế với bên ngoài.

Thứ hai, Đảng và Nhà nước Cuba chủ trương mở rộng quan hệ kinh tế quốc

tế với nhiều nước trong khu vực và thế giới nhằm thúc đẩy nền kinh tế đất nước

Trao đổi thương mại của Cuba với các nước trên thế giới phát triển mạnh, các

mặt hàng xuất khẩu chính gồm: đường và Nicken, tăng 15%, sản phẩm công nghiệp

và thuốc chữa bệnh tăng 23%. Trao đổi thương mại giữa Cuba với các nước Bắc,

Trung và Nam Mỹ chiếm 45% tổng giá trị thương mại; Châu Âu:31% và Trung

Đông: 21%. Giá trị thương mại năm 2006 tăng 27% so với năm 2005 [42]. Tính đến

năm 2008, Trung Quốc và Venezuela chiếm 35% cán cân thương mại của Cuba.

Theo số liệu của Bộ Đầu tư nước ngoài và hợp tác kinh tế quốc tế của

Cuba, nguồn đầu tư nước ngoài vào Cuba tăng liên tục trong giai đoạn 2008-

2015, mỗi năm tăng khoảng 25-30% với khoảng 1,5-2 tỷ USD/năm, trong đó có

nhiều dự án lớn: Dự án cải tạo Cảng nước sâu Mariel do Tập đoàn Odebrecht

của Brazil làm chủ đầu tư với số vốn 2 tỷ USD, Tập đoàn này được sự hậu thuẫn

của Ngân hàng Phát triển quốc gia Brazil (BNDES) đầu tư (2/2010). Ngân hàng

này còn dành cho Cuba khoản vay trị giá 682 triệu USD (2015) [98, tr.10].

Tính đến tháng 3/2016, Cuba có hơn 1000 dự án đầu tư nước ngoài thuộc

340 tổ chức, trong đó, các nước Châu Âu đứng đầu danh sách các nhà đầu tư vào

Cuba, chiếm 71% số dự án, tiếp đó, là Châu Mỹ: 23%; Châu Á-Thái Bình

Dương: 5% và Trung Đông và Châu Phi: 1%. Các nhà đầu tư hàng đầu vẫn là:

Venezuela, Trung Quốc, Tây Ban Nha, Pháp, Brazil, Canada [73]. Lĩnh vực thu

hút đầu tư nước ngoài nhiều nhất của Cuba là du lịch, chiếm 52%; tiếp theo là

khai khoáng và năng lượng: 11%; công nghiệp:10% và mía đường: 5%. Lĩnh

Page 107: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

101

vực liên doanh hiện phổ biến nhất trong các hình thức đầu tư nước ngoài vào

Cuba, chiếm 50% tổng số các dự án [73].

Thứ ba, sự hỗ trợ đắc lực của Venezuela về kinh tế, năng lượng đã giúp

Cuba từng bước thoát khỏi khó khăn kinh tế trong nước trước chính sách bao

vây, cô lập về kinh tế của Mỹ

Venezuela là một trong những đối tác kinh tế, thương mại và đầu tư hàng

đầu của Cuba. Kim ngạch thương mại song phương của hai nước đạt 3 tỷ USD

(2010) và 2,5 tỷ USD (2015) [73]. Ngoài ra, nước này cũng triển khai nhiều dự

án đầu tư lớn vào Cuba như: dự án nâng cấp nhà máy lọc dầu Fuciagos từ 72.000

thùng/ngày lên 100.000 thùng/ngày; dự án đường ống dẫn dầu dài 189 km nối

Venezuela với Cuba; dự án xây dựng tổ hợp hóa dầu gồm các nhà máy sản xuất

phân bón, sơn, polyetilen trị giá 5 tỷ USD [87]. Bên cạnh đó, Venezuela cũng là

đối tác lớn trong việc nhập khẩu thuốc chữa bệnh, dịch vụ y tế và lao động kỹ

thuật. Trong khi Cuba, là bạn hàng quan trọng của nước này trong các sản phẩm

xăng dầu, các mặt hàng tổng hợp và khí đốt. Mặc dù, từ năm 2013 đến nay, kinh

tế Venezuela lâm vào khủng hoảng những Cuba vẫn duy trì mối quan hệ thương

mại, đầu tư với nước này nhằm đảm bảo sự ổn định năng lượng trong nước tránh

cú sốc kinh tế như thời Liên Xô trước đây.

Sở dĩ Cuba vẫn tiếp tục duy trì quan hệ với Venezuela xuất phát từ các yếu tố

sau: quốc gia Nam Mỹ này là nhà cung cấp năng lượng số 1 cho Cuba trong một

thời gian dài và từng giúp Cuba duy trì sự ổn định trong nước bất chấp những chính

sách cấm vận kinh tế ngặt nghèo của Mỹ. Sự hậu thuẫn, ủng hộ kinh tế của

Venezuela cũng giúp Cuba đa dạng hóa các đối tác kinh tế và giảm bớt sự thiếu hụt

nguồn cung do sự sụp đổ của đối tác Liên Xô trước đây. Nhưng hơn hết, Cuba vẫn

coi Venezuela là một đối tác tin cậy tuyệt đối mà nước này có thể hợp tác thuận lợi

nhằm đảm bảo cho sự nghiệp xây dựng đất nước của Cuba được ổn định.

3.2.2.3. Trên lĩnh vực an ninh- quốc phòng

Thứ nhất, Cuba từng bước hiện đại hóa các lực lượng vũ trang cách mạng

theo hướng gọn nhẹ, hiệu quả, phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của đất

nước. Quá đó, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia

Để đối phó tốt những âm mưu lật đổ chế độ của Mỹ và các thế lực thù

địch bên trong và bên ngoài, mặc dù nền kinh tế khó khăn nhưng chính phủ

Page 108: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

102

Cuba vẫn luôn dành ưu tiên ngân sách cho an ninh-quốc phòng nhằm hiện đại

hóa lực lượng chiến đấu để bảo vệ an ninh tổ quốc.

Hiện nay, Cuba là quốc gia có Lực lượng quân sự hùng mạnh nhất Vùng

Caribe và Trung Mỹ. Lực lượng vũ trang cách mạng Cuba bao gồm: Bộ Các Lực

lượng vũ trang cách mạng (Bộ Quốc Phòng) và Bộ Nội vụ. Hiện nay, hệ thống

vũ khí được coi là hiện đại nhất của Cuba là tên lửa SS-2, đây là loại tên lửa đất

đối không đã được Cuba nâng cấp để bắn hạ máy bay chiến đấu của đối phương

ở tầm cao trên 12 Km [80].

Lực lượng quân đội được chia làm 3 binh chủng: hải quân, lục quân và

không quân, trong đó, lực lượng lục quân có số quân thường trực và tại ngũ là

4,5 vạn quân với 1500 xe tăng và 400 xe bọc thép; không quân: 10.000 quân và

hải quân: 5000 quân. Ngoài ra, Bộ Nội vụ cũng có 20 tiểu đoàn đặc chủng với

15.000 quân và Lực lượng bộ đội biên phòng là 4.000 người. Ngân sách chi cho

quốc phòng đạt 390 triệu USD, chiếm 1,7% ngân sách chính phủ Cuba (số liệu

năm 2013) [80].

Để đối phó có hiệu quả các hoạt động chống phá của Mỹ và các thế lực

thù địch trong thời gian qua, Bộ các Lực lượng vũ trang cách mạng Cuba đã

thường xuyên tiến hành các cuộc tập trận nhằm tăng cường khả năng sãn sàng

chiến đấu của quân đội. Kể từ tháng 11/2009, Cuba đã bắt đầu cuộc tập trận quân

sự có quy mô lớn nhằm mục tiêu bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa và chống lại

chính sách bao vây, cấm vận của Mỹ. Đây là cuộc tập trận đầu tiên kể từ khi Chủ

tịch Raul lên nắm quyền và quan hệ Mỹ-Cuba bắt đầu có dậu hiện "tan băng"

dưới thời Tổng thống Obama. Cuộc tập trận này có sự tham gia của hàng trăm

nghìn người, bao gồm lực lượng quân sự và dân sự, với nhiều loại vũ khí hiện

đại: xe tăng T72, máy bay ném bóm IL62 và trực thăng tiến công KA28 [81]...

Tiếp đó, vào ngày 2/2/2013, quân đội Cuba cũng đã tổ chức cuộc tập trận

giả định với kịch bản "bị quân đội Mỹ đánh chiếm lãnh thổ". Theo đó, các đơn vị

quân đội trên toàn quốc đã bắt đầu cuộc tập trận với sự tham gia của quân đội và

nhân dân, cùng với các Lực lượng vũ trang ở tỉnh Camaguay ở miền Đông;

thành phố Matanzas ở miền Trung và một số đơn vị vũ trang nhỏ ở Artemisa ở

ngoại ô La Habana. Đây là hoạt động quân sự rất cần thiết để Cuba kiểm chứng

Page 109: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

103

lại sức mạnh của các Lực lượng vũ trang và sẵn sàng đáp trả lại các hành vi quấy

rối, xâm phạm lãnh thổ, khiêu khích của Mỹ. Cũng trong năm này, quân đội

Cuba còn tiến hành cuộc tập trận mang tên "Passion 13" (từ ngày 23-

24/11/2013), với sự tham gia của tất cả các Lực lượng vũ trang trên cả nước, Lực

lượng dự bị động viên và người dân. Cuộc tập trận quy mô này được điều hành

và chỉ đạo bởi các cơ quan quyền lực cao nhất của Cuba: Bộ Chính Trị, Hội đồng

Quốc Phòng và chính quyền địa phương. Theo Tổng tư lệnh các Lực lượng vũ trang

Raul Castro, mục đích chính của cuộc tập trận này là "Nâng cao cấp độ huấn luyện,

liên kết giữa các Lực lượng vũ trang và kiểm soát tất cả các tình huống khi xây ra

chiến tranh. Quân đội và người dân Cuba sẵn sàng đối mặt với tất cả các hành động

chống phá của kẻ thù với cách mạng" [13]. Đây được coi là cuộc tập trận với quy

mô lớn nhất kể từ năm 1980, khi Cuba phải đối mặt với áp lực quân sự, chính trị,

kinh tế từ chính quyền Tổng thống Ronald Regan trước đó.

Thứ hai, Cuba tiếp tục duy trì các hoạt động hợp tác quân sự với các nước

trên thế giới nhằm ứng phó có hiệu quả với các âm mưu chống phá Mỹ và các

thế lực phản động

Ngoài việc hiện đại hóa lực lượng quốc phòng trong nước, Cuba còn chủ

trương thiết lập quan hệ quốc phòng với các nước khác nhằm nâng cao chất

lượng quân sự, khí tài để đảm bảo cho an ninh quốc gia.

* Hợp tác quốc phòng với Nga

Trong chuyến thăm của Tổng thông Putin tới Cuba (16/7/2014), hai nước

đã đạt được thỏa thuận mở lại một phần căn cứ điện tử Loudes mà Nga đã đóng

cửa vào năm 2001, với lý do giá thành thuê quá đắt (khoảng 200 triệu Rup,

tương đương với 117 triệu USD/năm). Nguyên Giám đốc cơ quan tình báo hải

ngoại Nga, Vyacheslav Trublikov đã cho rằng: "Loudes đã đưa con mắt của Liên

Xô sang toàn bộ Tây bán cầu...đối với Nga, nước đang đấu tranh cho những

quyền lợi hợp pháp của mình trên thế giới thì dự án này này không kém so với

Liên Xô trước đây" [178]. Đây được coi là một phần trong sự điều chỉnh chiến

lược của Nga đối với Mỹ Latinh, nơi được coi là "sân sau" của Mỹ để đối phó

với các lệnh cấm vận về chính trị và kinh tế của Mỹ, phương Tây sau sự kiện

Nga sát nhập bán đảo Crime.

Page 110: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

104

Trong chuyến thăm Cuba và một số quốc gia Mỹ Latinh khác như:

Argentina, Brazil, Nicaragua của Ngoại trưởng Nga, Sergei Lavrov (6/2014),

Nga đã ký Hiệp ước về việc xây dựng các hệ thống định vị toàn cầu Glonass ở

các nước này nhằm tăng cường sự kết nối về chính trị, quân sự, kinh tế của Nga

với khu vực [178]. Trước đó, trong chuyến thăm của Tổng tham mưu trưởng các

Lực lượng vũ trang của Nga, Nikolai Makarov (9/2009), quan hệ quân sự của

Cuba và Nga đã được kết nối trở lại sau một thời gian dài bị gián đoạn dưới thời

Yeltsin. Hai nước cũng đã thúc đẩy các hoạt động hợp tác song phương về quân

sự, hiện đại hóa các lực lượng vũ trang và tăng cường các hoạt động đào tạo,

huấn luyện quân nhân của Nga cho Cuba. Bên cạnh đó, Nga còn giúp Cuba hiện

đại hóa và nâng cấp kho vũ khí vốn đã bị lạc hậu. Thông qua chuyến thăm này,

Nga đã tuyên bố sẽ viện trợ quân sự trở lại cho Cuba.

* Hợp tác với Việt Nam

Tiếp nối truyền thống hợp tác quân sự tốt đẹp vốn có giữa hai nước từ

trong quá khứ, trong những năm gần đây quan hệ Quốc phòng Cuba-Việt Nam

vẫn được duy trì và phát triển. Trong chuyến thăm của Bí thư thứ hai, kiêm Bộ

trưởng Quốc Phòng Cuba, Raul Castro tới Việt Nam (4/2005), hai nước đã thúc

đẩy các hoạt động hợp tác quân sự: nâng cấp kho vũ khí, đào tạo quân nhân, chia

sẻ tin tức tình báo cùng các hoạt động hỗ trợ nhân đạo trong quốc phòng.

Bên cạnh đó, chuyến thăm Cuba (20-24/4/2016) của Phó Chủ nhiệm-

Kiêm tham mưu trưởng Tổng Cục Hậu cần, Thiếu tướng Ngô Huy Hồng, hai

nước đã thúc đẩy các hoạt động hợp tác trong lĩnh vực hậu cần, phòng chống

thiên tai, đào tạo các sỹ quan tham gia Lực lượng gìn giữa Hòa bình của Liên

Hợp Quốc và tiếp tục duy trì các chuyến thăm cấp cao của lãnh đạo Bộ Quốc

Phòng hai nước để thắt chặt quan hệ hai bên [4].

Vào tháng 3/2015, trong cuộc gặp Đại tá Otto Danlcourt Cesar, Cục

trưởng Cục Cơ yếu, Bộ Nội vụ nước Cộng hòa Cuba thăm Việt Nam, Đại tướng

Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã khẳng định: "hợp tác quốc

phòng Việt Nam-Cuba là hỗ trợ nhau nhằm đảm bảo độc lập, chủ quyền và toàn

vẹn lãnh thổ mỗi nước; bảo vệ, ổn định hệ thống chính trị, cuộc sống bình yên

của nhân dân và sự phát triển phồn vinh của hai nước" [64]. Không chỉ dừng lại

Page 111: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

105

ở đó, vào ngày 21/7/2016, trong cuộc đối thoại chính sách quốc phòng Việt

Nam-Cuba được tổ chức tại La Habana, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ

trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam và Thượng tướng Leopoldo Cintra Frias Bộ

trưởng Bộ các LLVTCM Cuba đã khẳng định: hai nước sẽ tiếp tục thúc đẩy hợp

tác quốc phòng ngày càng thực chất, hiệu quả nhằm nâng cao tiềm lực quốc

phòng của mỗi nước để bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững

thành quả cách mạng. Đồng thời, thống nhất phương hướng hợp tác trên các lĩnh

vực mà hai bên có thế mạnh, tiềm năng và nhu cầu để tiến tới ký Kế hoạch hợp

tác trong thời gian tới và khẳng định sẽ đưa hợp tác quốc phòng trở thành một

nhân tố quan trọng của mối quan hệ gắn bó mật thiết, lâu dài giữa Việt Nam và

Cuba [104].

* Hợp tác với Mỹ

Cũng như chính trị và kinh tế, an ninh quốc phòng cũng là lĩnh vực mà

Cuba muốn hợp tác với Mỹ. Mặc dù, đây chỉ là hoạt động mang tính ngoại giao

nhưng qua đây có thể thấy những thiện chí của Cuba trong việc giải quyết các

vấn đề mà hai nước có liên quan và cũng là trở ngại trong quan hệ hai bên đặc

biệt là vấn đề Guantanamo.

Sau gần 6 thập kỷ trong tình trạng "đóng băng", Cuba lần đầu tiên đã tham

gia Hội nghị an ninh quân sự với Mỹ tại Thủ đô Kingston (Jamaica) với tiêu đề

"Hội nghị an ninh các nước Vùng Caribe" (27-29/1/2016). Với nội dung chính là

tăng cường hợp tác và chia sẻ các tin tức về quốc phòng, chống khủng bố, buôn

bán ma túy, tình trạng buôn người trong khu vực. Sự tham gia của Cuba tại Hội

nghị này có ý nghĩa rất lớn góp phần thúc đẩy quá trình hợp tác trong khu vực và

cho thấy quan hệ Cuba-Mỹ đã cải thiện đáng kể. Phát biểu tại Hội nghị, Tư lệnh

Bộ chỉ huy phương Nam của Mỹ, tướng John F.Kelly cho rằng: "Mỹ sẽ không

thảo luận vấn đề Guantanamo trong Hội nghị này với Cuba vì Guantanamo là

căn cứ hải quân chiến lược của Mỹ tại Caribe" [99], tuy nhiên, Mỹ cũng không

phản đối việc Cuba đưa ra vấn đề này để thảo luận trong Hội nghị.

Trước đó, tàu cứu thương USS Comfort của hải quân Mỹ đã đón tiếp một

đoàn bác sỹ quân y của Cuba, tại Cảng Port au Prince của Haitti (9/2015), nhằm

thúc đẩy và hợp tác y tế giữa lực lượng quân đội của hai nước.

Page 112: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

106

Thông qua các hoạt động hợp tác trên, Cuba đã từng bước củng cố, xây

dựng và phát triển Lực lượng quốc phòng theo xu hướng mở, nhằm tranh thủ sự

ủng hộ, hợp tác với bạn bè quốc tế trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất

nước. Đồng thời, giảm sức ép và chính sách can thiệp lật đổ của Mỹ.

3.2.2.4. Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội

Phát huy thành quả về giáo dục, y tế, an sinh xã hội của giai đoạn trước,

trong giai đoạn này, Cuba tiếp tục duy trì và củng cố chính sách ưu việt trên các

lĩnh vực này nhằm đảm bảo phúc lợi xã hội cho người dân và ổn định tình hình

trong nước để đối phó thành công các âm mưu của kẻ thù nhằm lật đổ chế độ và

chính quyền cách mạng ở Cuba một lần nữa.

Thứ nhất, Cuba tiếp tục duy trì vị thế hàng đầu ở Mỹ Latinh và thế giới về

giáo dục và y tế. Đây cũng được coi là nền tảng giúp Cuba ổn định xã hội, phát

triển kinh tế đất nước, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khó khăn, tạo động lực

giúp cho các ngành kinh tế khác phát triển, góp phần bảo vệ vững chắc thành

quả cách mạng.

Trong giáo dục:

Từ năm 2004 tới nay, Cuba đã thực hiện việc tăng cường trang thiết bị vật

chất và hiện đại hóa thiết bị dạy học cho nhà trường đảm bảo ngày học 2 buổi,

100% phòng học trên cả nước có điện, mỗi phòng học có 1 tivi, cứ 100 học sinh

có 1 đầu Video, 1 máy ghi âm và tiến tới trang bị phổ cập máy vi tính cho các

trường học.

Từ một quốc gia có 60% dân số mù chữ (1959), đến năm 2007-2008,

Cuba có tới trên 98% dân số biết chữ, hơn 3,3 triệu học sinh, trong đó có

700.000 sinh viên [61]. Tỷ lệ này đã tăng lên khoảng 3,8 triệu học sinh (trong

tổng số 11,2 triệu dân), trong đó, có 800.000 người là sinh viên (2014). Theo

đánh giá của Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP), tính đến năm

2008, tỷ lệ người lớn biết chữ ở Cuba gần 100%; tỷ lệ nhập học gộp của các bậc

giáo dục trung học và đại học là 87,6% [11, tr.235].

Trong giai đoạn 2004-2016, Cuba đã đưa ra nhiều biện pháp để cải cách

mạnh mẽ ngành giáo dục trong nước, giúp cho lĩnh vực này bắt kịp với xu thế

phát triển của thế giới: Cuba đã giảm thời gian đào tạo của chương trình giáo dục

Page 113: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

107

đại học từ 5 năm xuống còn 4 năm để tiết kiệm chi phí và thời gian đào tạo; tăng

cường chú trọng đào tạo ngoại ngữ (chủ yếu là tiếng Anh) cho sinh viên, giáo

viên và nguồn nhân lực để giúp cho Cuba không bị lạc hậu, thiếu hụt nhân lực

khi hội nhập sâu rộng vào xu thế toàn cầu hóa kinh tế quốc tế; có chính sách ưu

đãi thu hút sinh viên tham gia vào ngành y tế, sư phạm, những lĩnh vực hiện nay

đang có ít người theo học do lương thấp vì lĩnh vực này được nhà nước trả lương

theo bao cấp; chính phủ Cuba đã thông qua quyết định tăng lương cho người lao

động làm việc trong lĩnh vực giáo dục (2015) để khuyến khích họ gắn bó lâu dài

với nghề, mặc dù, điều kiện kinh tế Cuba vẫn còn khó khăn [73].

Chính phủ Cuba cũng đang tiến tới việc cắt giảm chi phí trong ngành giáo

dục như: chuyển dần học sinh nội trú ở cấp dự bị đại học từ nông thôn vào thành

phố để tiết kiệm kinh phí 139 triệu USD/năm (2013) cho ngân sách giáo dục [52].

Hiện nay, trên cả nước Cuba có khoảng trên 50 trường đại học, trong đó

có 15 trường sư phạm: Cuba có hơn 10.000 sinh viên theo học tại các trường đại

học kỹ thuật; 133 trung tâm nghiên cứu khoa học; hơn 250.000 giáo viên chuyên

môn; 34.000 giáo viên thể dục thể chất; trung bình 20 học sinh/1 giáo viên [73].

Những con số trên đã đưa Cuba trở thành một trong những nước có trình độ dân

trí và tỷ lệ giáo dục theo dân số đứng đầu thế giới.

Về y tế:

Từ chỗ chỉ có 6000 bác sỹ (1959) được phân bố không đều trên cả nước,

đến nay, con số tăng lên 78.000 bác sỹ (2013), trong đó có 60.000 bác sỹ có

bằng thạc sỹ; 96.000 nhân viên y tế [52]. Cuba tiếp tục phát triển hệ thống chăm

sóc sức khỏe miễn phí cho toàn dân thông qua Chương trình "Tân trang và mở

rộng" tất cả các bệnh viện, trạm xá trên toàn quốc.

Ngân sách dành cho ngành y tế đã tăng 1,5 lần trong giai đoạn 2000-2013.

Tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh từ 5,3/1000 trẻ (2007) xuống còn 4,1/1000 (2013).

Tuổi thọ trung bình của người dân Cuba từ 78 tuổi (2007) lên 80 tuổi (2013) và

tỷ lệ bác sỹ bình quân trong người dân là 1/150 người, tỷ lệ cao nhất trên thế giới

hiện nay [73].

Cuba cũng đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong công tác chăm sóc

sức khỏe cho nhân dân như: tổ chức phòng ngừa thành công sự lây truyền vi rút

Page 114: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

108

cúm A/H1N1 với 57.000 người có triệu chứng đáng ngờ được nhập viện và

11.000 người khác được theo dõi tại nhà, nhưng chỉ có 41 người bị tử vong,

trong tổng số 973 trường hợp bị nhiễm bệnh. Đặc biệt, năm 2012, các nhà khoa

học Cuba đã công bố và chế tạo thành công Vidatox, một sản phẩm chữa trị ung

thư được điều chế từ nọc độc bọ cạp xanh, một loại bọ cạp đặc chủng của Cuba.

Đây là một thành tựu mới của nền y học Cuba với cơ chế cô lập tế bào ung thư,

cô lập khối u không cho mạch máu đến nuôi dưỡng và làm cho nó teo đi.

Không chỉ đạt được những thành tựu về nghiên cứu, khám chữa bệnh, xây

dựng cơ sở hạ tầng trong y tế, Cuba còn sử dụng y tế như một kênh ngoại giao

để mở rộng ảnh hưởng và đem lại nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. Chính sách

ngoại giao y tế đã giúp Cuba thu về khoảng 10 tỷ USD mỗi năm, đưa y tế trở

thành ngành kinh tế có thu nhập lớn, vượt xa so với số tiền kiều hối gửi về nước

và xuất khẩu Nicken. Theo Thông báo của Bộ Y tế Brazil (21/8/2013), Tổng

thống Rouseff đã ký Hợp đồng thuê 40.000 bác sỹ Cuba tới làm việc tại nước

này trong chương trình hợp tác "Nhiều bác sỹ hơn nữa" nhằm giải quyết tình

trạng khan hiếm bác sỹ tại các bệnh viện công ở Brazil. Thỏa thuận hợp tác này

được ký kết thông qua Tổ chức Y tế liên Mỹ (PAHO), Brazil sẽ trả lương cho

các bác sỹ Cuba với mức lương 10.000 Real (khoảng 4.098 USD/người/tháng).

Bên cạnh đó, đội ngũ bác sỹ của Cuba còn có mặt ở các nước: Ai Cập,

Mexico, Pakistan...Cuba cũng đã cử 165 bác sỹ, y tá tới Sierra Leone để giúp

quốc gia Tây Phi này đối phó với đại dịch vi rút Ebola (2014, 2015). Đồng

thời, Cuba cũng là một trong những nước có số lượng cán bộ y tế tham gia

vào các chương trình hợp tác với nước ngoài về y tế nhiều nhất: 39.000 người,

trong đó, có 15.000 bác sỹ. Các nhân viên y tế của Cuba đang làm việc ở 66

nước trên thế giới, 40 nước là theo các chương trình hợp tác miễn phí và 26

nước trả dịch vụ theo hợp đồng, qua đó hàng năm Cuba thu khoảng 6 tỷ USD.

Đánh giá về sự hỗ trợ của Cuba đối phó với đại dịch Ebola của các quốc gia

Tây Phi, Tổng Giám đốc Tổ chức y tế thế giới, Margaret Chan đã ca ngợi:

"Tiền và các thiết bị là rất quan trọng, nhưng cả hai điều này không thể ngăn

chặn được sự lây truyền của vi rút Ebola. Nguồn nhân lực rõ ràng là nhu cầu

quan trọng nhất với chúng tôi" [104].

Page 115: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

109

Thứ hai, Cuba vẫn tiếp tục duy trì các chính sách an sinh xã hội tốt đẹp

Trong giai đoạn 2004-2016, Đảng và Nhà nước Cuba cũng đã triển khai

hơn 150 chương trình xã hội để khẳng định sự ưu việt của chủ nghĩa xã hội trong

đó có công tác văn hóa, xã hội và nâng cao đời sống của cán bộ công chức cũng

như người dân.

Cuba còn ban hành chế độ tiền lương mới, tăng lương bình quân 27,9%.

Chương trình xây dựng 70.000 ngôi nhà mới và sửa chữa 150.000 ngôi nhà cũ

mỗi năm. Trong năm 2006, Cuba đã xây dựng được 110.000 ngôi nhà, tăng gấp

3 lần so với 2005. Đặc biệt, vào tháng 6/2007, Cuba đã thảo luận trên toàn quốc

về cơ chế, chính sách tiếp tục thúc đẩy phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề

xã hội cấp bách của người dân. Tiếp đó, Hội đồng Nhà nước Cuba do Chủ tịch

Raul đứng đầu đã quyết định bổ xung thêm 837 triệu Peso (2008) cho quỹ phúc

lợi xã hội, và tăng khoảng 13% so với năm 2007 để thực hiện việc tăng lương,

tiền hưu trí, trợ cấp xã hội cho nhân dân [152].

Tính đến năm 2014, Cuba đã có 85% hộ gia đình có sở hữu riêng về nhà

ở; 97% lãnh thổ đã được sử dụng điện; 95,3% dân số được dùng nước sạch; tỷ lệ

người bị nhiễm HIV/AIDS là 0,03%, một tỷ lệ [152] thấp nhất trên thế giới. Đặc

biệt, tỷ lệ người thất nghiệp ở Cuba đã hạ từ mức 10% (1992) xuống còn 2,7%

(2015), tỷ lệ thấp nhất ở Mỹ Latinh. Đánh giá về thành tựu phát triển con người

ở Cuba, Chương trình phát triển của Liên Hợp quốc (UNDP), đã xếp Cuba đứng

thứ 67/177 (2014) quốc gia và 44/185 (2015) [164]. Đây được coi là những

thành tựu to lớn đối với một đất nước nhỏ bé và điều kiện kinh tế xã hội còn

nhiều khó khăn như Cuba.

Thứ ba, Cuba vẫn duy trì được nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, đồng

thời đã đạt được một số thành tựu trong việc hợp tác văn hóa với thế giới, nhất là

với Mỹ

Nền văn hóa Cuba được hình thành từ trong chính quá trình đấu tranh, xây

dựng và bảo vệ tổ quốc. Quá trình này đã hình thành ở Cuba một nền văn hóa

chung với nhiều sắc thái đa dạng, độc đáo đúng như nhận xét của nhà văn hóa,

địa lý học Cuba thế kỷ XX, Antonio Nunez Jiminez:

Page 116: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

110

Mỗi nhóm thuộc các chủng tộc ấy vượt biển mang đến Cuba văn hóa,

phong tục và các tài sản của mình. Tất cả các nhóm đó đã đến đất

nước của chúng ta an cư lạc nghiệp và kết hợp các yếu tố khác nhau lại

tạo lên một đặc điểm của Cuba. Nhịp điệu của những bài hát Tây Ban

Nha đã xuất hiện trong những ca khúc đặc sắc của người nông dân

Cuba. Từ những cái trống của người nguyên thủy Châu Phi, kết hợp

với ảnh hưởng của âm nhạc Châu Âu đã nảy sinh ra những bài hát,

điệu nhảy của người Cuba gốc phi. Người Trung Quốc đóng góp một

số yếu tố văn hóa và tập tục dân gian. Còn người Mỹ thì đưa đến chủ

nghĩa thực dụng và cách tổ chức công nghiệp của họ [130, tr.310].

Trong suốt gần 5 thế kỷ, mặc dù chủ nghĩa thực dân, đế quốc trong quá

trình cai trị Cuba không ngừng reo dắt chủ nghĩa phân biệt chủng tộc trong các

tầng lớp nhân dân, nhất là giữa người da đen với da trắng nhằm thực hiện chính

sách chia để trị, gây hằn thù giữa các màu da, chủng tộc, nhưng nhân dân Cuba

đã biết khắc phục có hiệu quả những thành kiến chủng tộc do kẻ thù gây ra để

đứng lên đấu tranh giành độc lập cho tổ quốc. Mặc dù là đất nước đa chủng tộc,

nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Cuba, đứng đầu là Chủ tịch Fidel và

Raul, mọi sự phân biệt chủng tộc đều bị xóa bỏ và bình đẳng như nhau.

Nền văn học, nghệ thuật của Cuba cũng được phát triển song song với quá

trình đấu tranh giải phóng dân tộc chống thực dân Tây Ban Nha và đế quốc Mỹ.

Trong giai đoạn hiện nay, bên cạnh việc phát huy những giá trị văn hóa nghệ

thuật, tư tưởng yêu nước của Jose Marti và các nhà văn hóa lỗi lạc của Cuba

như: các công trình nghiên cứu lịch sử tiến bộ của A.Suco; các yêu sách về cải

cách kinh tế của Luis Caballero [58, tr.40]...Cuba còn tập trung khai thác nhiều

thế mạnh văn hóa vật thể và phi vật thể như: các sản phẩm rượu rum, điệu nhảy

chachacha, các hệ hội Canavan cùng hệ thống các di sản văn hóa như: thành cổ

Habana, pháo đài Moncada và các hệ thống bãi biển, điểm du lịch đã được

UNESCO xếp hạng...

Kể từ sau khi bình thường hóa quan hệ với Mỹ (12/2014), Cuba đã thúc

đẩy hợp tác văn hóa với các nước trên thế giới theo mục tiêu: Đẩy mạnh quảng

bá các giá trị văn hóa của Cuba ra thế giới. Đồng thời, thúc đẩy việc xuất khẩu

Page 117: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

111

các sản phẩm văn hóa mà nước này có thế mạnh như: Rượu rum, xì gà...Chiến lược

này đã đạt được một số kết quả quan trọng khi sản phẩm rượu rum (Habana club)

đã được ra hạn đăng ký tại thị trường EU (Pháp, Đức) vào năm 2015 [100, tr.21].

Trong hợp tác văn hóa với Mỹ, Cuba đã ký kết được một số Hiệp định

hợp tác và giao lưu, trao đổi văn hóa với Mỹ, nhờ đó ban nhạc Rock Rolling

stone đã sang biểu diễn tại Cuba lần đầu tiên vào tháng 7/2015; bộ phim Bom

tấn của Hollywood: Fast and Furios 8 lần đầu tiên được quay tại Cuba; show

diễn thời trang quốc tế đầu tiên của 2 nhà đồng tổ chức là Chanel và Karl

Lagerfeld đã được tổ chức tại Cuba vào tháng 6/2015; tàu du lịch cỡ lớn của Mỹ

lần đầu tiên cập bến tại Cảng Havana (3/2015); sản phẩm rượu rum Habana club

đã được gia hạn đăng ký tại Mỹ [108, tr.19].

Hợp tác giao lưu văn hóa được coi là kênh ngoại giao quan trong giúp

Cuba mở cửa và hợp tác sâu rộng với bên ngoài, nhất là với Mỹ qua đó, dần hạn

chế các chính sách thù địch của Mỹ đối với Cuba. Đồng thời, giúp cho quốc đảo

này nâng cao được vai trò trên trường quốc tế.

Như vậy, với những thành tựu thu được trên tất cả các lĩnh vực trong giai

đoạn 2004-2016, là một minh chứng để khẳng định rõ đường lối cải cách kinh tế

và chủ trương "Cập nhật hóa mô hình kinh tế-xã hội" mà Đảng và Nhà nước

Cuba đề ra là đúng đắn và phù hợp với thực tiễn, điều kiện, hoàn cảnh của đất

nước Cuba. Đây cũng chính là nguồn nội lực quan trong giúp Cuba từng bước

phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, mở rộng quan hệ quốc tế, qua đó

bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, đủ sức đối phó với

các âm mưu chống phá của Mỹ và các thế lực phản động bên trong và bên ngoài.

Bên cạnh những thành công nêu trên, quá trình đấu tranh bảo vệ độc lập dân

tộc ở Cuba trong giai đoạn này vẫn còn gặp một số khó khăn, hạn chế như sau:

Thứ nhất, sự già hóa thế hệ lãnh đạo ở Cuba

Vấn đề già hóa đội ngũ cán bộ lãnh đạo (đặc biệt là cán bộ cấp cao) luôn

là một mối quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước Cuba trong các kỳ Đại hội

Đảng. Điều này, lại càng trở lên cấp thiết khi "thế hệ lịch sử" gắn với cuộc cách

mạng Tháng giêng 1959 dần rút lui khỏi vũ đài chính trị. Tại kỳ Đại hội đảng lần

thứ VI, VII, Cuba đã đưa ra một số quyết sách quan trọng nhằm trẻ hóa đội ngũ

Page 118: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

112

cán bộ cấp chiến lược như: đến Đại hội VIII (4/2021), số độ tuổi của Ủy viên

Trung ương mới được bầu không quá 60 tuổi; ủy viên Bộ chính trị không quá 70

tuổi...Đặc biệt, trong danh sách 142 Ủy viên Trung ương Đảng khóa VII có 55

người mới với độ tuổi là 54,5 (trẻ nhất trong gần 30 năm qua), 5 trong số 17 Ủy

viên Bộ Chính trị được bầu mới. Tuy nhiên, có một thực tế là các vị trí lãnh đạo

chủ chốt của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội vẫn do các lãnh đạo thuộc

thế hệ lịch sử nắm giữ như: Bí thư thứ nhất Raul (85 tuổi); Bí thư thứ hai Jose

Ramon Machado Ventura (86 tuổi)...Mặc dù, Cuba đã liên tục có sự đào tạo và

chỉ định các cán bộ trẻ, có năng lực là người thừa kế thế hệ lịch sử nhưng các

nhân vật này đều gặp phải những vấn đề cá nhân và bị cắt chức do liên quan đến

tham nhũng như: Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Carlos Lage đã bị cắt chức

năm 2009; Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng phụ trách về chủ trương "Cập nhật

hóa mô hình kinh tế-xã hội", Marino Murillo, có con gái chạy sang Mỹ sống lưu

vong (2012) nên uy tín bị giảm sút [101, tr.16].

Tất cả những bất cập trên đã cho thấy, quá trình trẻ hóa đội ngũ cán bộ ở

Cuba gặp rất nhiều khó khăn và vẫn không hoàn toàn tách rời được thế hệ lịch

sử. Vào năm 2018, nếu Cuba có sự thay đổi thế hệ lãnh đạo (Chủ tịch Raul thôi

giữ chức Chủ tịch Hội đồng Nhà nước và Hội đồng Bộ trưởng) cũng là một

trong nguy cơ đe dọa đến sự ổn định chính trị, niềm tin của nhân dân vào sự lãnh

đạo của Đảng và Nhà nước và sẽ là cơ hội để cho Mỹ và các thế lực thù địch có

thể lợi dụng, chống phá hoặc lập ra một chính phủ đối lập thân Mỹ.

Thứ hai, nền kinh tế Cuba bị phụ thuộc quá nhiều vào Venezuela, nhất là

năng lượng, do đó, khi nền kinh tế nước này rơi vào khủng hoảng, Cuba ngay lập

tức rơi vào khủng hoảng năng lượng. Điều này, sẽ làm cho Cuba mất độc lập tự

chủ về kinh tế.

Sau chuyến thăm của Tổng thống Chavez tới Cuba (vào tháng 10/2004),

Venezuela đã cam kết cung cấp dầu mỏ và các sản phẩm từ dầu cho Cuba. Theo

Thỏa thuận này, Venezuela sẽ cung cấp cho Cuba sản lượng dầu tăng dần theo

số năm, cụ thể: 98.000 thùng/ngày (năm 2009) và 105.000 thùng (năm 2010) [6,

tr.2] (bao gồm cả các sản phẩm từ dầu mỏ). Trong đó, Cuba đã dành 92.000

thùng dầu để tiêu dùng trong nước và 13.000 thùng còn lại được lọc lại và xuất

Page 119: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

113

khẩu ra bên ngoài. Không chỉ vậy, việc nhập khẩu dầu thô Cuba cũng nhận được

sự ưu đãi đặc biệt từ Venezuela: 50% sản lượng dầu nhập khẩu được thanh toán

trong vòng 90 ngày với giá bằng 1/3 giá thị trường, 50 % còn lại được thanh toán

trong vòng 25 năm với lãi suất 1% và viện trợ dầu sẽ tiếp tục tăng nếu giá dầu

thô trên thị trường thế giới tăng [6, tr.3]. Bên cạnh đó, Chính phủ Venezuela còn

đầu tư 1,4 tỷ USD để nâng gấp đôi công suất nhà máy lọc dầu Cienfuegos cho

Cuba; xây dựng đường ống dẫn khí dài 320 km qua biển Caribe nối liền hai

nước; 1 nhà máy lọc dầu mới ở tỉnh Matanzas và 1 nhà máy khí hóa lọc ở tỉnh

Santiago de Cuba [6, tr.3].

Tuy nhiên, kể từ năm 2013 đến nay, do sự sụt giảm giá dầu trên thị

trường thế giới và tình hình kinh tế-xã hội ở Venezuela lâm vào tình trạng khủng

hoảng đã tác động nặng nề đến ngành công nghiệp dầu khí của Cuba. Chính phủ

Maduro đã tuyên bố cắt giảm nguồn cung dầu cho Cuba xuống còn 80.000

thùng/ngày (vào tháng 12/2014) và 30.000 thùng/ngày (vào tháng 12/2015) và

40.000 thùng/ngày vào tháng 7/2016 [110, tr.21]. Hậu quả của những đợt cắt

giảm năng lượng của Venezuela đã làm cho Cuba lần đâu tiên phải tuyên bố tình

trạng tiết kiệm năng lượng trên cả nước [108, tr.21] kể từ năm 1993 đến nay.

Một khó khăn nữa mà Cuba phải đối mặt từ sự cắt giảm năng lượng của

Venezuela đó là số nợ của chính phủ Cuba thông qua các hoạt động nhập khẩu

dầu ngày càng lớn. Theo thống kê của nhà nghiên cứu, nhà phân tích chính trị

người Mỹ gốc Cuba, Romero, trong giai đoạn 2001-2009, Cuba đã nợ Venezuela

4,975 tỷ USD, trong đó 24% số tiền là nợ Tập đoàn Dầu khi quốc gia Venezuela

(PVDSA); còn tờ El Nacional (của Colombia ra ngày 14/11/2010) đã xác nhận

khoản nợ của Cuba đối với Venezuela là 13,8 tỷ USD [6, tr.2-3]. Đây chính là

thách thức rất lớn đối với Cuba trong bối cảnh nền kinh tế gặp nhiều khó khăn và

nguồn dầu khí bị cắt giảm mạnh trong thời gian qua.

Kể từ năm 2013 đến nay, do quá phụ vào sự hỗ trợ về tài chính và năng

lượng của Venezuela, nên nền kinh tế Cuba đã rơi vào tình trạng tăng trưởng

không bền vững và một lần nữa Cuba lại tái hiện lại tình trạng lệ thuộc kinh tế

như với Liên Xô trong thời kỳ chiến tranh Lạnh. Đây là một nguy cơ đe dọa trực

tiếp đến độc lập tự chủ về kinh tế, về lâu dài nó sẽ tác động lớn đến sự ổn định

Page 120: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

114

chính trị của Cuba nếu nước này không có sự đa dạng hóa các đối tác kinh tế,

thương mại của mình.

Thứ ba, vấn đề Guantanamo giữa Cuba với Mỹ vẫn chưa được giải quyết

nên đã đe dọa đến độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Cuba

Vấn đề Guantanamo luôn là một rào cản trong quan hệ của Cuba với Mỹ,

bất chấp việc Mỹ đã dỡ bỏ lệnh cấm vận chính trị với Cuba thông qua tuyên bố

bình thường hóa quan hệ song phương.

Guantanamo, phần lãnh thổ Mỹ chiếm đóng trái phép của Cuba nằm cách

bờ biển phía Đông Bang Florida Mỹ (1300 km). Căn cứ này có diện tích 117,6

km2, trong đó, chỉ có 49km2 của khu căn cứ là khô ráo, 38,8 km2 là trên mặt

biển và 29,8 km2 đầm lầy. Đây là một Hải cảng nước sâu tự nhiên quan trọng

nhất ở Vùng Caribe. Vào năm 1903, chính phủ Cuba của Tổng thống Panma và

chính phủ Mỹ của Tổng thống Theodore Roosevelt đã ký Hiệp định "của các bến

than và hải quân", theo đó, Mỹ được quyền xây dựng căn cứ quân sự tại

Guantanamo. Đến năm 1934, Mỹ và Cuba tái ký điều ước cho phép căn cứ

Guantanamo của Mỹ tồn tại vô thời hạn theo hình thức thuê đất. Theo đó, nếu

Cuba muốn thu hồi phần lãnh thổ này của mình phải đàm phán trực tiếp với Mỹ.

Cũng theo Hiệp ước này, hàng năm Mỹ trả cho Cuba 2.000 USD tượng trưng

tiền thuê đất và số tiền này sẽ được trả bằng séc. Sau khi cách mạng Cuba thành

công 1959, chính quyền cách mạng của Chủ tịch Fidel đã không chấp nhận Hiệp

định trên và quyết định không tiếp nhận số tiền mang tính tượng trưng đó. Chủ

tịch Fidel đã ví căn cứ này là "một con dao găm của Mỹ cắm trên thân thể Cuba"

và trước sau như một đòi Mỹ phải rút khỏi căn cứ này. Cuba cũng không thừa

nhận Hiệp định năm 1903 và điều ước năm 1934, không tiếp nhận tiền thuê đất

của Mỹ, không đàm phán với Mỹ nhưng cũng đảm bảo sẽ không dùng vũ lực để

thu hồi lại Guantanamo. Trong khi đó, Mỹ lại cho rằng, Điều ước năm 1934 là

do hai bên tự nguyện thỏa thuận và ký kết, Mỹ không hề gây sức ép và bắt buộc

chính phủ Cuba phải ký. Cuba muốn thu hồi Guantanamo phải đàm phán trực

tiếp với Mỹ chứ không được đơn phương đòi Mỹ tự rút quân [164].

Trong suốt thời kỳ chiến tranh Lạnh, căn cứ Guantanamo đã được Mỹ sử

dụng vào mục đích chống Cuba cũng như các nước xã hội chủn nghĩa khác ở

Page 121: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

115

Vùng Caribe và Mỹ Latinh. Từ tháng 1/2002, dưới thời Tổng thống Bush (con),

Mỹ dùng căn cứ này để giam giữ những nghi phạm bị bắt ở Afganistan, Pakistan

và nhiều nơi khác trong cuộc chiến chống khủng bố do Mỹ phát động. Theo báo

cáo của Tổ chức ân xá quốc tế (AI), các điều kiện giành cho tù nhân tại nhà tù

của quân đội Mỹ ở Guantanamo rất khắc nghiệt và phi nhân đạo, khiến các tù

nhân suy sụp về tinh thần và thể chất. Cũng chính vì điều đó mà đến nay nhà tù

Guantanamo đã trở thành tâm điểm để chỉ trích về tình trạng vi phạm nhân

quyền và ngược đãi tù nhân của quốc tế với Mỹ.

Từ năm 2009 tới nay, Tổng thống Obama đã có nhiều nỗ lực cải thiện

hình ảnh của nước Mỹ với thế giới thông qua: Tyên bố đóng cửa nhà tù này

(2017) bằng việc giảm số tù nhân từ 799 xuống còn 105 và đưa 5 phạm nhân đặc

biệt nguy hiểm sang giam giữ tại các Tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE),

cùng đề xuất xây dựng 13 nhà tù ở Mỹ để giam 56 trong tổng số 91 tù nhân còn

lại ở nhà tù này, 35 tù nhân sẽ được chuyển sang giam giữ tại các nước đồng

minh [30], trong đó, 9/35 tù nhân sẽ được chuyển sang giam giữ tại Ả Rập Xê Út

[30]. Tuy nhiên, những quyết định trên của chính quyền Obama đã gặp phải sự

phản đối của Quốc hội Mỹ, nơi đảng Cộng hòa chiếm đa số do lo ngại các tù

nhân này có thể gây ra sự bất ổn cho an ninh quốc gia cũng như các nước đồng

minh. Đồng thời, kiên quyết ngăn chặn kế hoạch này của Tổng thống Obama.

Những bất đồng giữa Tổng thống và Quốc hội Mỹ đã làm cho vấn đề

đóng cửa nhà Guantanamo trở lên bế tắc và làm cho quan hệ hai nước căng

thẳng, đây cũng là một trong những vấn đề làm cản trở tiến trình bình thường

hóa hoàn toàn quan hệ song phương giữa hai nước. Chủ tịch Cuba, Raul đã đưa

ra yêu cầu Mỹ phải trao trả căn cứ quân sự này cho Cuba như là một điều kiện

tiên quyết cho việc nối lại đầy đủ quan hệ ngoại giao giữa hai nước tại các Hội

nghị quốc tế như: Hội nghị Thượng đỉnh cộng đồng các nước Mỹ Latinh và

Caribe CELAC ở Costa Rica (28/1/2015), tiếp đó trong cuộc gặp với Tổng thống

Obama tại Cuba (21/3/2016), Chủ tịch Raul một lần nữa nhấn mạnh: "Mỹ và Cuba

không thể xích lại gần nhau nếu Washington không bàn giao Guantanamo lại cho

La Habana" [116], nhưng lại không nhận được phản hồi từ Mỹ. Bên cạnh đó, một

số Nghị sỹ thuộc đảng Cộng hòa như: Ted Cruz, Marco Rubio đều phản đối Tổng

Page 122: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

116

thống Obama trao trả Vịnh Guantanamo cho Cuba với bất cứ giá nào vì coi đây là

tài sản quan trọng có tính chiến lược đối với an ninh quốc gia của Mỹ [54].

Điều làm cho Cuba lo ngại trong vấn đề này là sự tồn tại của Căn cứ

Guantanamo sẽ đe dọa tới an ninh quốc gia của Cuba. Thông qua căn cứ này Mỹ

có thể tiến hành chống phá Cuba về tư tưởng, chính trị, quân sự, đồng thời, dễ

dàng thực hiện các kế hoạch xâm nhập, đổ bộ và xâm lược Cuba sau đó tiến tới

thiết lập một chính quyền thân Mỹ tại đây. Mặt khác, Guantanamo là mảnh đất

cuối cùng của Cuba bị nước ngoài chiếm đóng, vấn đề này không chỉ liên quan

đến độc lập chủ quyền mà còn là sự tự tôn của dân tộc Cuba. Sự có mặt của Mỹ

tại căn cứ này cũng đồng nghĩa với việc sự nghiệp đấu tranh và giải phóng dân

tộc của Cuba vẫn chưa hoàn thành. Do đó, đây chính là chủ đề để Cuba phải đấu

tranh, lên án và đòi Mỹ trao trả hoàn toàn, vô điều kiện Guantanamo cho mình.

Nếu vấn đề Guantanamo không được giải quyết thì sự nghiệp đấu tranh bảo vệ

độc lập dân tộc và xây dựng đất nước vẫn bị đe dọa.

Thứ tư, cái chết của Fidel đã tác động không tốt đến sự nghiệp đấu tranh

bảo vệ độc lập dân tộc ở Cuba

Sự nghiệp cách mạng của Cuba luôn gắn liền với tên tuổi của lãnh tụ Fidel

Castro. Ông là nhà lãnh đạo có thời gian tại vị cao nhất là 49 năm, kiêm nhiệm 6

chức vụ quan trọng, đồng thời là người định hướng tư tưởng và dẫn dắt cách

mạng Cuba vượt qua nhiều khó khăn, thách thức. Sự ra đi của cố Chủ tịch Fidel

(11/2016), đã khiến cách mạng Cuba mất đi một người có khả năng dẫn dắt, định

hướng tư tưởng, duy trì khả năng ổn định trong nội bộ Đảng. Bởi Fidel là người

có tầm ảnh hưởng rất lớn đối với xã hội Cuba điều này được thể hiện qua sự

kiện: trong chuyến thăm của Tổng thống Mỹ Obama tới Cuba (3/2016), Tổng

thống Mỹ đã có các cuộc tiếp xúc với các phần tử đối lập tại nhà hát Habana,

nhằm thúc đẩy quá trình chuyển hóa dân chủ ở Cuba, kích động các phần tử này

chống đối chính phủ. Trước diễn biến này, nguyên Chủ tịch Fidel đã có bài viết

"Suy ngẫm về người anh em Obama" đăng trên báo Granma, cơ quan ngôn luận

của Đảng cộng sản Cuba, nhằm cảnh tĩnh lãnh đạo và người dân Cuba tránh khỏi

âm mưu tự diễn biến, tự chuyển hóa [102, tr.20]. Bài viết này đã có tiếng vang

lớn đối với dư luận Cuba và các nước cánh tả Mỹ Latinh. Do đó, sự ra đi của ông

Page 123: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

117

đã khiến quốc đảo này mất đi một chỗ dựa về tinh thần, tư tưởng quan trọng.

Đúng như nhận định của Chủ tịch Raul trong lễ nhậm chức (2/2008), "...Fidel là

không thể thay thế được".

Tóm lại, trong giai đoạn từ 2004-2016, với việc thực hiện chủ trương

"Cập nhật hóa mô hình kinh tế-xã hội" đã làm cho tình hình kinh tế-xã hội Cuba

về cơ bản đã thay đổi sâu sắc và toàn diện, đây chính là cơ sở và nền tảng giúp

quốc đảo này phát triển kinh tế, đảm bảo các quyền lợi do nhân dân. Tuy nhiên,

trong quá trình đấu tranh bảo vệ tổ quốc, Cuba vẫn không tránh khỏi những khó

khăn, thiếu sót đến từ các nguyên nhân bên trong, bên ngoài, nhất là chính sách

bao vây, cấm vận của Mỹ.

Tiểu kết chương 3

Nhận thức rõ được những trọng trách lịch sử của mình với cách mạng

Cuba trong bối cảnh mới, trong giai đoạn 1991-2016 với việc triển khai và thực

hiện các mục tiêu, nhiệm vụ và nội dung trong hai thời kỳ: "Thời kỳ đặc biệt

trong hòa bình" (1991-2004) và "Thời kỳ đẩy mạnh cải cách kinh tế và chủ

trương "Cập nhật hóa mô hình kinh tế-xã hội" (2004-2016), Đảng và Nhà nước

Cuba đã vững bước trèo lái con thuyền cách mạng và đạt được một số kết quả

quan trọng trên các lĩnh vực. Về chính trị, ngoại giao, duy trì sự ổn định chính

trị- xã hội; kiện toàn lại hệ thống chính trị trong nước; mở rộng quan hệ ngoại

giao với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, đặc biệt là với Mỹ nhằm phá

thế bao vây, cô lập, thù địch kéo dài trong gần 6 thập kỷ. Về kinh tế, du lịch và

công nghệ sinh học đã trở thành ngành kinh tế mũi nhọn; đề ra chủ trương "Cập

nhật hóa mô hình kinh tế-xã hội"; mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, và có sự hỗ

trợ đắc lực từ Venezuela về kinh tế, năng lượng. Về an ninh, quốc phòng, củng

cố và cải cách các Lực lượng vũ trang; duy trì các hoạt động hợp tác quân sự với

các nước trong khu vực và thế giới. Về văn hóa, xã hội, duy trì tư tưởng yêu

nước của Jose Marti; tiếp tục duy trì vị thế hàng đầu ở Mỹ Latinh và thế giới về

giáo dục, y tế, an sinh xã hội; đẩy mạnh hợp tác văn hóa của Cuba với trên thế

giới, nhất là Mỹ. Tuy nhiên, sự nghiệp đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc của

Cuba cũng gặp phải rất nhiều khó khăn, thách thức như: Mỹ vẫn duy trì chính

sách bao vây cấm vận, nhất là về kinh tế; khó khăn từ sự chống phá của Mỹ và

Page 124: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

118

các thế lực thù địch; sự phụ thuộc rất lớn của Cuba vào nguồn viện trợ của Liên

Xô, Venezuela; sự già hóa thế hệ lãnh đạo; vấn đề Quantenama giữa Cuba với

Mỹ vẫn chưa được giải quyết; cái chết của lãnh tụ Fidel...

Như vậy, với việc thực hiện những mục tiêu, nhiệm vụ thông qua quá

trình thực hiện sự nghiệp đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc trong giai đoạn 1991-

2016, về cơ bản Cuba vẫn duy trì được sự ổn định chính trị, xã hội trong nước,

giữ vững nền độc lập dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa trước sự chống phá

quyết liệt của Mỹ và các thế lực thù địch trong gần 30 năm qua.

Page 125: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

119

Chương 4

ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH BẢO VỆ ĐỘC LẬP DÂN TỘC

Ở CUBA TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2016, MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM

VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA

4.1. THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ

Trong 26 năm qua, mặc dù, phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và thách

thức, song những trở ngại trên không thể ngăn cản được tiến trình phát triển của

dân tộc Cuba. Nhờ có đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng và Nhà nước, dựa

vào sức mạnh đại đoàn kết toàn toàn dân tộc (đoàn kết giữa Đảng với Nhân dân,

đoàn kết toàn dân, đoàn kết trong nội bộ Đảng...) và sự giúp đỡ, ủng hộ lớn lao

của các lực lượng yêu chuộng hòa bình, dân chủ, tiến bộ xã hội trên thế giới (đặc

biệt là các nước xã hội chủ nghĩa, cánh tả Mỹ Latinh và nhóm ALBA), Đảng cộng

sản Cuba đã lãnh đạo đất nước vượt qua mọi thử thách hiêm nghèo "tưởng chừng

không thể vượt qua nổi của "thời kỳ đặc biệt trong hòa bình" (1991-2004)", thúc

đẩy cải cách kinh tế và chủ trương "Cập nhật hóa mô hình kinh tế-xã hội" (2004-

2016) và giành được những thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, ngoại

giao; kinh tế; an ninh, quốc phòng; văn hóa, xã hội. Đây được coi là những nhân tố

quan trọng quyết định những thành công của quá trình đấu tranh, bảo vệ độc lập dân

tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Cuba trong giai đoạn này.

4.1.1. Những thành tựu

Sau 26 năm tiến hành Cải cách kinh tế, với những cố gắng, nỗ lực không

mệt mỏi của Đảng và Nhà nước Cuba, công cuộc đấu tranh và bảo vệ độc lập

dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội đã thu được nhiều thành tựu to lớn, tập trung

ở một số lĩnh vực chủ yếu sau đây:

* Trên lĩnh vực chính trị- ngoại giao

Thứ nhất, duy trì sự ổn định chính trị, xã hội trong nước, tạo cơ sở bảo vệ

vững chắc nền độc lập dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Thành công lớn nhất mà Đảng và Nhà nước Cuba đã đạt được trong lĩnh

vực này là duy trì sự ổn định chính trị, xã hội trong nước, đảm bảo vai trò lãnh

đạo của Đảng cộng sản với đất nước trên tất cả các mặt, củng cố niềm tin của

Page 126: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

120

tuyệt đại đa số nhân dân Cuba về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa

xã hội, đồng thời nhận được sự ủng hộ lớn lao của các quốc gia, dân tộc, các bạn

bè trong khu vực và thế giới, từ đó, tạo ra những tiền đề cho phát triển kinh tế,

phục vụ cho sự nghiệp đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc và chế độ xã hội chủ

nghĩa ở Cuba.

Theo quan điểm của Đảng cộng sản Cuba, chỉ có sự ổn định chính trị, xã

hội, Cuba mới có điều kiện và thời gian để triển khai đồng bộ các chiến lược

phát triển kinh tế- xã hội, mở rộng quan hệ quốc tế, đồng thời, có thể tập hợp

toàn bộ sức mạnh trong xã hội để thực hiện những mục tiêu, nhiệm vụ chiến

lược mà Đảng và Nhà nước đề ra nhằm bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc và

chủ quyền quốc gia như: để đưa ra được chủ trương "Cập nhật hóa mô hình kinh

tế-xã hội" tại Đại hội VI (4/2011), Đảng cộng sản Cuba phải lấy ý kiến đóng góp

của hàng triệu quần chúng trong một thời gian dài (từ tháng 12/2010 đến tháng

2/3/2011) [29]. Điều này, không chỉ tạo ra sự đồng thuận trong xã hội đối với

Văn kiện Đảng quan trọng này mà còn chứng minh được sự ổn định về chính trị-

xã hội của nước Cộng hòa Cuba.

Thứ hai, quá trình đổi mới tư duy chính trị ở Cuba đã đem lại những thành

tựu quan trong đối với sự nghiệp bảo vệ độc lập dân tộc.

Thành công trong đổi mới tư duy chính trị cũng đóng một vai trò quan

trọng đến sự nghiệp đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc ở Cuba. Đây là một cuộc

đấu tranh lâu dài, gian khổ và đòi hỏi sự cố gắng, nỗ lực rất lớn của toàn Đảng,

toàn dân trong đó có cả các lãnh đạo cấp cao. Bởi ngay trước giai đoạn Cuba tiến

hành cải cách và khi tiến hành sự nghiệp này, hầu hết các nhà lãnh đạo đều

khẳng định Cuba có thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội theo mô hình của

Xô Viết (kinh tế kế hoạch) mà không cần phải có sự thay đổi, thậm chí một số ý

kiến trong đảng còn cho rằng Cuba đang ở thời kỳ "Chủ nghĩa xã hội" và chuẩn

bị tiến lên giai đoạn "Chủ nghĩa cộng sản". Ngay bản thân lãnh tụ cách mạng

Fidel cũng rơi vào quan điểm "tả khuynh" khi nghi ngờ đường lối "Đổi mới" của

Việt Nam và coi đây là mô hình "kinh tế thị trường tự do" kiểu phương Tây mà

Liên Xô và các nước Đông Âu đã gặp phải. Thậm chí, Chủ tịch Fidel còn cách

chức Đại sứ Cuba tại Việt Nam, là người bạn chiến đấu trong trận chiến

Page 127: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

121

Moncada của mình, Menba Heznandez với lý do không nắm bắt được tình hình

của Việt Nam. Đặc biệt, trong chuyến thăm Việt Nam vào tháng 9/1993, Fidel đã

nói: "Cuba không cần ai dạy khôn nước mình về xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Cuba đủ hiểu về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội của mình", đồng thời,

"Biết rõ cần phải làm gì để xây dựng chủ nghĩa xã hội và hoài nghi về nền kinh

tế thị trường" [88]. Tuy nhiên, cùng với thời gian, Fidel đã nhận ra những sai lầm

phạm phải trong quá trình cải cách và nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa

xã hội. Trong bài phát biểu tại Đại học Habana (11/2005), ông đã khẳng định:

"Sai lầm nghiêm trọng nhất chính là trong một thời gian dài, ông đã lầm tưởng

rằng có một người nào đó hiểu rõ về chủ nghĩa xã hội và người ấy biết rõ cần

phải làm gì để xây dựng chủ nghĩa xã hội" [88]. Sự thay đổi tư duy của Fidel

được coi là một bước đột phá và từ đây lãnh đạo đảng, nhà nước Cuba đã bắt đầu

chịu nghe về đổi mới tư duy chính trị.

Những đổi mới chính trị lớn lao dưới thời Raul như: giới hạn độ tuổi của

các nhà lãnh đạo cấp cao; giới hạn nhiệm kỳ lãnh đạo; trẻ hóa đội ngũ cán bộ;

phát huy vai trò của báo chí, đặc biệt là việc đề ra chủ trương "Cập nhật hóa mô

hình kinh tế-xã hội" đã góp phần đưa Cuba từng bước thoát khỏi những khó

khăn kinh tế-xã hội, qua đó góp phần phát triển đất nước, bảo vệ vững chắc chủ

quyền quốc gia, dân tộc trong bối cảnh mới.

Thứ ba, Đảng cộng sản Cuba luôn nhất quán nền tảng tư tưởng của chủ

nghĩa Mác-Lênin và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

Thực tiễn cách mạng Cuba trong gần 6 thập kỷ qua đã chứng minh một

thực tiễn sinh động rằng chỉ có đặt dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng cộng

sản với nền tảng tư tưởng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Jose Marti và tư tưởng

của lãnh tụ lịch sử Fidel Castro Cuba mới bảo vệ vững chắc được nền độc lập

dân tộc. Trong giai đoạn trước năm 1991, nhờ những nền tảng tư tưởng này mà

cách mạng Cuba đã giành được nhiều thắng lợi quan trọng như: chiến thắng

Hiron, cuộc khủng hoảng tên lửa...Từ năm 1991 đến nay, với sự dẫn dắt của các

nền tảng tư tưởng này, cách mạng Cuba tiếp tục vượt qua nhiều thử thách hiểm

nghèo: sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa của Liên Xô; chính sách bao

vây, cấm vận, cô lập của Mỹ...không những vậy, Cuba còn từng bước thực hiện

Page 128: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

122

thành công công cuộc cải cách kinh tế và củng cố được khối đại đoàn kết thống

nhất trong đảng, giữa đảng với nhân dân và tiếp tục đặt nó dưới sự lãnh đạo của

một đảng Mác xít Lêninnit chân chính.

Trong hoàn cảnh đất nước hiện nay, Đảng cộng sản Cuba vẫn luôn coi hệ tư

tưởng trên là kim chỉ nam, điều kiện, tiền đề quan trọng để đưa Cuba thoát khỏi

nghèo nàn, lạc hậu, đối phó thành công với những chính sách của Mỹ và các thế lực

phản động bên trong và bên ngoài. Đồng thời, đảng đã thực sự trở thành hạt nhân

lãnh đạo, bộ tham mưu chiến đấu của cách mạng Cuba, nhờ đó mà sự chuyển giao

thế hệ lãnh đạo từ Fidel đến Raul diễn ra suôn sẻ. Sự trụ vững của cách mạng Cuba

trong giai đoạn 1991-2016, một lần nữa chứng tỏ sự kiên định của đảng với những

hệ tư tưởng trên là hoàn toàn đúng đắn và đây tiếp tục được coi là kim chỉ nam soi

sáng cách mạng Cuba giành được nhiều thắng lợi trong thời gian tới.

Thứ tư, Cuba đã thúc đẩy việc mở rộng quan hệ hợp tác với khu vực và

thế giới.

Một thành tựu nữa của cách mạng Cuba trong giai đoạn này chính là việc

đẩy mạnh hợp tác quốc tế với các nước trên thế giới đặc biệt là các nước Mỹ

Latinh. Nếu như, trong thời kỳ chiến tranh Lạnh, quan hệ đối ngoại của Cuba với

các nước trong khu vực và thế giới chủ yếu là mối quan hệ mang đậm màu sắc ý

thức hệ với các nước xã hội chủ nghĩa. Điều này, đã làm hạn chế quan hệ ngoại

giao của Cuba với bên ngoài. Thì sau chiến tranh Lạnh, với sự sụp đổ của Liên

Xô và chính sách cô lập ngoại giao của Mỹ, Cuba đã từng bước có thay đổi

chính sách đối ngoại theo hướng đa dạng hóa, đa phương hóa quạn hệ quốc tế,

theo đó, ưu tiên thúc đẩy và phát triển quan hệ với các nước láng giềng ở Mỹ

Latinh như: Venezuela, Nicaragua, Brazil, Bolivia...và các nước đang phát triển,

các nước lớn trên thế giới như: Mỹ, Nga, Trung Quốc, EU, Việt Nam...Nhờ sự

thay đổi trên mà Cuba đã đạt được nhiều thành tựu như: bình thường hóa quan

hệ với Mỹ; cải thiện quan hệ với EU; nâng cao được vai trò, vị trí trong khu vực

và thế giới, qua đó, giúp quốc đảo này có thể mở rộng hợp tác quốc tế với bên

ngoài trong bối cảnh chính sách cấm vận kinh tế của Mỹ vẫn được duy trì.

* Trên lĩnh vực kinh tế

Thứ nhất, sự thay đổi trong tư duy kinh tế của Đảng và Nhà nước Cuba.

Page 129: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

123

Cũng giống như sự đổi mới về tư duy chính trị, quá trình đổi mới tư duy

kinh tế cũng diễn biến rất phức tạp. Trong giai đoạn trước 1991, do chịu ảnh

hưởng sâu sắc của mô hình "Kinh tế Kế hoạch" kiểu Xô Viết nên các nhà lãnh

đạo Cuba không thừa nhận bất cứ mô hình kinh tế nào khác. Cuba xem "Kinh tế

kế hoạch" là đặc trưng quan trọng nhất của nền kinh tế quốc dân, không thừa

nhận sự tồn tại của kinh tế nhiều thành phần, tư nhân, cá thể tiểu chủ do lo ngại

các mầm mống kinh tế tư bản chủ nghĩa có thể xuất hiện trở lại ở Cuba. Đồng

thời, xây dựng quan hệ kinh tế khép kín với các đối tác truyền thống như Liên

Xô và các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới. Lãnh đạo Cuba, kể cả chủ tịch

Fidel không thích nói về kinh tế thị trường. Điều này, đã làm hạn chế sự phát

triển nền kinh tế đất nước, mối quan hệ hợp tác quốc tế với bên ngoài. Hậu quả

của những nhận thức sai lầm trên là Cuba đã rơi vào khủng hoảng kinh tế trầm

trọng khi Liên Xô sụp đổ. Còn trong giai đoạn từ 1991 đến nay, với việc thực

hiện cải cách kinh tế và sự đổi mới tư duy kinh tế tại Đại hội VI (4/2011) thông

qua chủ trương "Cập nhật hóa mô hình kinh tế-xã hội", Đảng và Nhà nước Cuba

đã thu được nhiều thành tựu quan trọng trong kinh tế như: xây dựng nền kinh tế

nhiều thành phần; khuyến khích các thành phần kinh tế tư nhân phát triển; ban

hành luật đầu tư mới; từng bước xóa bỏ hệ thống đồng tiền kép...Điều này, cũng

đã từng bước giúp nền kinh tế Cuba duy trì được sự tăng trưởng kinh tế liên tục

trong 22 năm (từ 1994-2016); đời sống nhân dân từng bước được cải thiện; chế

độ an sinh xã hội, miễn phí về giáo dục, y tế tiếp tục được duy trì...Đây chính là

cơ sở và nền tảng quan trọng giúp Cuba bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc,

chủ quyền quốc gia, bởi nếu Cuba phụ thuộc quá nhiều vào kinh tế bên ngoài thì

nguy cơ bị mất độc lập tự chủ sẽ khó tránh khỏi và kịch bản sẽ bị lập lại như sự

phụ thuộc của Cuba vào Liên Xô trước đây.

Thứ hai, quá trình hội nhật kinh tế quốc tế thu được nhiều thành tựu khả

quan, đã giúp Cuba từng bước phát triển kinh tế đất nước, nâng cao vai trò, vị

thế trong khu vực và thế giới.

Nếu như trong thời kỳ chiến tranh Lạnh, quan hệ kinh tế của Cuba với bên

ngoài chỉ dừng lại ở hình thức viện trợ, cho và nhận từ Liên Xô và hậu quả của

nó là Cuba bị lệ thuộc quá nhiều vào thị trường này, nên khi Liên Xô lâm vào

Page 130: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

124

khủng hoảng và sụp đổ, Cuba đã không đủ sức để chống đỡ với những tác động

kinh tế đem lại. Hậu quả là đời sống của nhân dân gặp rất nhiều khó khăn, nền

độc lập dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Cuba rơi vào thế ngàn cân treo sợi

tóc. Từ mất độc lập về kinh tế, nguy cơ mất độc lập tự chủ về chính trị và chế độ

đã dần hiện hữu ở Cuba trong giai đoạn này. Để khắc phục những sai lầm trên,

từ năm 1991 đến nay, với đường lối cải cách kinh tế, Đảng và Nhà nước đã từng

điều chỉnh đường lối kinh tế đối ngoại, nhất là từ Đại hội VI, theo phương châm

đa dạng hóa các đối tác kinh tế. Nhờ sự thay đổi này, đến nay Cuba đã đạt được

nhiều thành tựu quan trọng: cải thiện quan hệ kinh tế với các doanh nghiệp Mỹ,

EU; tăng cường hợp tác kinh tế với Trung Quốc, Brazil; tham gia sáng lập các tổ

chức kinh tế khu vực: CELAC, ALBA...Đặc biệt, việc tham gia hội nhập kinh tế

quốc tế còn giúp quốc đảo này có thêm nhiều kinh nghiệm về kinh tế thị trường

để có thể xây dựng và phát triển mô hình kinh tế thị trường theo "kiểu Cuba",

nhằm thức đẩy nền kinh tế đất nước phát triển và tránh phụ thuộc vào các đối tác

truyền thống như Venezuela và hạn chế đến mức thấp nhất những tổn thất về

kinh tế do chính sách cấm vận kinh tế hà khắc của Mỹ đem lại.

* Trên lĩnh vực an ninh- quốc phòng

Lực lượng vũ trang cách mạng Cuba là nhân tố quan trọng giúp bảo vệ

vững chắc nền độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia trong bối cảnh chính sách

bao vây cấm vận của Mỹ vẫn được duy trì và siết chặt hơn kể từ sau chiến tranh

Lạnh đến nay.

Với một lực lượng vũ trang gồm 3 thứ quân (hải quân, lục quân và không

quân), có tính chính quy, kỷ luật và tinh thần chiến đấu cao, các lực lượng vũ

trang Cuba đã bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng thông qua việc đập tan các

mưu đồ can thiệp quân sự, tấn công mạng, cài cắm điệp viên và tập hợp các lực

lượng đối lập để đòi tự do chính trị. Đặc biệt, bất chấp việc chính quyền Mỹ biến

Quantenamo thành nơi giam giữ các phần tử khủng bố và tăng cường các hoạt

động quân sự, coi đây là bàn đạp để tấn công quân sự để lật đổ chế độ Castro khi

cần thiết. Nhưng với một tinh thần đoàn kết, có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng

và Nhà nước, lực lượng vũ trang cách mạng Cuba vẫn duy trì và giữ vững được

nền độc lập dân tộc.

Page 131: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

125

Ngoài ra, với tư cách là một lực lượng chủ chốt bảo vệ độc lập dân tộc,

các lực lượng vũ trang cách mạng Cuba đã thu được nhiều thành công trong việc

mở rộng, hợp tác giao lưu trao đổi quân sự đối với các nước trong khu vực và

trên thế giới, qua đó, nhằm hiện đại hóa và nâng cao tiềm lực quốc phòng.

* Trên lĩnh vực văn hóa- xã hội

Với chính sách miễn phí về giáo dục, y tế và an sinh xã hội tốt đẹp đã

giúp củng cố niềm tin của nhân dân vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà

Đảng và Nhà nước Cuba đã lựa trọn trong gần 3 thập kỷ qua.

Mặc dù, trong giai đoạn này nền kinh tế -xã hội Cuba còn khó khăn, thách

thức, nhưng xuất phát từ quan điểm mọi chính sách của Đảng và Nhà nước đều

phải đảm bảo mục tiêu phúc lợi xã hội miễn phí cho toàn dân nên Cuba vẫn duy

trì nhất quán mục tiêu miễn phí trong giáo dục, y tế và an sinh xã hội, đồng thời,

đảm bảo mức sống tối thiểu cho các đối tượng chính sách. Đây được coi là điểm

mạnh, tính ưu việt của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Cuba. Nó đã thực sự chứng tỏ

tính nhân văn, nhân đạo của chế độ mới và là sự khác biệt hoàn toàn so với các

chế độ chính trị xã hội ở Mỹ Latinh và chủ nghĩa xã hội ở các nước trên thế giới.

Ngoài việc duy trì tính ưu việt này, Cuba còn sáng tạo ra chính sách "ngoại giao

y tế", chính sách này không những giúp Cuba nâng cao hình ảnh trên trường

quốc tế, tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế trong việc yêu cầu Mỹ xóa

bỏ chính sách cấm vận, mà còn trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, đem lại nguồn

thu ngoại tệ lớn nhất, giúp Cuba từng bước thoát khỏi khó khăn kinh tế, cải thiện

đời sống của nhân dân. Những kết quả thu được từ các chính sách trên, đã một

lần nữa góp phần giúp Cuba củng cố hơn nữa niềm tin của nhân dân vào sự lãnh

đạo của Đảng, bất chấp sự chống phá quyết liệt của các thế lực phản động trong

và ngoài nước. Đây chính là nền tảng quan trọng giúp Cuba bảo vệ độc lập dân

tộc và chế độ xã hội nghĩa trong bối cảnh mới.

4.1.2. Những hạn chế

Bên cạnh những thành tựu đạt được, quá trình đấu tranh bảo vệ độc lập

dân tộc của Cuba còn tồn tại nhiều hạn chế, yếu kém và tác động xấu đến quá

trình này cụ thể như sau:

Page 132: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

126

Thứ nhất, Cuba chưa xây dựng được mô hình chủ nghĩa xã hội hoàn chỉnh

theo "kiểu Cuba"

Một trong những hạn chế lớn nhất của cách mạng Cuba trong giai đoạn

hiện nay là chưa xây dựng được môt mô hình chủ nghĩa xã hội hoàn chỉnh theo

kiểu Cuba. Trong giai đoạn trước 1991, hệ thống chính trị Cuba về cơ bản là "bệ

nguyên" mô hình của Xô Viết để xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước mình như:

chức danh của các nhà lãnh đạo; quá trình ban hành quyế định của các cơ quan

Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ giống như nhau và đặc biệt là chủ quan,

duy ý chí và đốt cháy giai đoạn trong quá trình xây dựng nền kinh tế-xã hội đất

nước. Lãnh đạo Cuba đã tin tưởng tuyệt đối vào mô hình phát triển đất nước của

Liên Xô mà không nhận rõ được những hạn chế, khiếm khuyết của nó. Từ sau

chiến tranh Lạnh đến nay, Cuba đã tiến hành thử nghiệm nhiều kế hoạch cải

cách, sửa sai, đề ra các chiến lược phát triển kinh tế đất nước...cùng với đó, là

việc tham khảo kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Trung

Quốc, nhưng vẫn chưa đưa ra được một mô hình chủ nghĩa xã hội hoàn chỉnh mà

chỉ dừng lại ở "cập nhật" chứ không phải là "Đổi mới" hay "Cải cách". Thậm chí

các nhà lãnh đạo Cuba như Chủ tịch Raul, phó Chủ tịch Miguel Diaz -Canel còn

nghi ngờ chính đường lối cập nhật hóa khi khẳng định: “Một số doanh nghiệp tư

nhân muốn xây dựng lại hình ảnh lý tưởng của Cuba trước cách mạng” và cho

chấm dứt việc mở rộng mô hình kinh tế tư nhân bất chấp một thực tế là mô hình

này tạo ra tới 72% việc làm mới cho người dân Cuba trong giai đoạn từ 2010 đến

tháng 6/2017 [113].

Đây chính là cơ sở để Mỹ và các thế lực phản động lợi dụng tuyên truyền,

chống phá và cho rằng Đảng cộng sản Cuba đã bế tắc về đường lối và đi theo

quỹ đạo dân chủ phương Tây, Cuba mới có thể đi thoát khỏi tình trạng bế tắc này

[187]. Sự khó khăn này diễn ra trong bối cảnh nền kinh tế Cuba đang phải đối

mặt với tình trạng thiếu năng lượng; chính sách cấm vận kinh tế của Mỹ vẫn

được duy trì, có phần siết chặt hơn; lãnh tụ Fidel đã mất; trong khi Raul và các

nhà lãnh đạo thuộc thế hệ lịch sử sẽ dần rút khỏi chính trường. Đây chính là

nguy cơ tác động trực tiếp đến quá trình bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc

gia của Cuba trong hiện tại và tương lai.

Page 133: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

127

Thứ hai, những bất cập trọng điều hành và quản lý nền kinh tế đất nước

Bên cạnh những thành tựu thu được trong quá trình cải cách kinh tế, Cuba

hiện đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức, nhất là trong việc

điều hành và quản lý nền kinh tế vĩ mô. Điều này, được thể hiện rõ qua chương

trình hợp nhất hai đồng tiền được khởi xướng từ năm 2013 những đến nay đã bị

trì hoãn và lùi tới một thời điểm không xác định do những lo ngại về bất ổn

chính trị có thể xảy ra; Đặc khu Mariel ra đời từ năm 2013 nhưng đến nay mới

thu hút được một số vốn đầu tư rất hạn chế; kế hoạch tăng trưởng kinh tế từ 5-

7% do Đại hội VI, VII đề ra nhưng đến nay vẫn không hoàn thành mục tiêu, khi

Tổng GDP giảm 0,9% (2016) [109, tr.16]. Bên cạnh những hạn chế nêu trên,

việc Cuba liên tục thực hiện các đợt cải cách, sửa sai kinh tế; không chấp nhận

quá trình cải cách kinh tế nhanh mạnh theo hướng thị trường mà chỉ theo hướng

"Tiến lên trong ổn định" [101, tr.16] cũng làm cho quá trình vận hành, điều hành

kinh tế vĩ mô của Cuba gặp khó khăn.

Ngoài ra, việc Cuba chưa có một mô hình kinh tế -xã hội, xã hội chủ

nghĩa mà chỉ mới đưa ra khái niệm chung, nên trong quá trình vận hành và quản

lý kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, trở ngại. Mặt khác, đội ngũ cán bộ, đặc biệt là

đội ngũ cán bộ cấp cao còn thiếu kinh nghiệm quản lý về kinh tế thị trường,

trong khi tư duy kinh tế kiểu bao cấp, thói quen ỷ lại, dựa dẫm vào nhà nước vẫn

còn tồn tại trong một bộ phận không nhỏ các nhà quản lý kinh tế của Cuba. Một

trong những nguyên nhân quan trọng làm cản trợ sự phát triển kinh tế của Cuba

trong nhiều thập niên chính là thói quen dựa vào sự trợ giúp về kinh tế từ bên

ngoài như Liên Xô, Venezuela, mà không tạo ra nội lực bên trong, nên khi các

nước này lâm vào khủng hoảng, khó khăn về kinh tế, ngay lập tức nền kinh tế

Cuba bị tác động mạnh mẽ và khó có khả năng chống đỡ được với những tác

động này, điển hình là cuộc khủng hoảng năng lượng vừa qua do Venezuela cắt

giảm mạnh nguồn viện trợ về năng lượng. Tất cả những hạn chế, yếu kém nêu

trên đã trở thành nguy cơ, trở lực ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế, ổn định

chính trị-xã hội của đất nước và điều này, cũng đã góp phần tác động đến độc lập

tự chủ của Cuba.

Page 134: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

128

Thứ ba, Cuba là quốc gia có nền văn hóa đa dạng với nhiều sắc tộc, tôn

giáo khác nhau, nên đây chính là cơ hội để Mỹ và các thế lực phản động lợi dụng

chống phá

Quá trình hình thành, phát triển và đấu tranh giải phóng dân tộc đã hình

thành lên ở Cuba một nền văn hóa đa dạng, đa sắc tộc, chủng tộc. Sự đa dạng

này đã hình lên ở Cuba một nền văn hóa riêng có và khác biệt so với các nước

Mỹ Latinh khác. Đây cũng chính là nguồn sức mạnh tạo ra nền văn hóa yêu

nước ở quốc đảo tự do này. Tuy nhiên, sự đa dạng này cũng đặt ra cho Cuba

nhiều thách thức, nhất là trong bối cảnh Mỹ và các lực lượng phản cách mạng

luôn lợi dụng yếu tố này để chống phá Đảng và Nhà nước Cuba. Với đặc thù có

tới 80% dân số theo đạo Thiên chúa và một bộ phận theo Do thái giáo, Mỹ đã và

đang thực hiện chiêu bài diễn biến hòa bình; dân chủ , nhân quyền, dân tộc và

tôn giáo để kích động, chia rẽ mối quan hệ giữa Đảng cộng sản với các tầng lớp

nhân dân, giữa các tôn giáo với nhau. Đồng thời, thông qua các lực lượng này

tiến hành tập hợp lực lượng, thu thập các tin tức tình báo để phá hoại Cuba từ

bên trong. Đặc biệt, sự kiện các Đức giáo hoàng Jean Paul II, Benedict XVI,

Francis I đều có các chuyến thăm Cuba trong thời gian làm lãnh đạo ở Vantican

vào các năm 1998, 2012, 2015, bên cạnh việc thúc đẩy quan hệ tôn giáo, văn hóa

giữa quốc gia Công giáo này với giáo Hội Thiên chúa giáo Cuba, còn có một

mục tiêu khác là thăm dò, cổ xúy cho các phần tử đội lốt tôn giáo gây diễn biến

hòa bình trong nội bộ Cuba.

Sau khi Mỹ và Cuba bình thường hóa quan hệ (2014), chính quyền Mỹ đã

tăng cường các hoạt động chống Cuba bằng việc cho các công ty truyền thông

của Mỹ vào đầu tư và làm ăn ở Cuba nhằm thu thập tin tức tình báo, gây mất ổn

định xã hội, chính trị thông qua các trang mạng internet...Đồng thời, tăng cường

truyền bá văn hóa phương Tây vào trong xã hội Cuba, nhất là giới trẻ nhằm mục

tiêu làm phai nhạt nền văn hóa cách mạng của Jose Marti, thực hiện chiến lược

tự diễn biến, tự chuyển hóa trong nội bộ Cuba. Điều này, đã tác động trực tiếp

đến một số bộ phận người dân khi vào tháng 12/2016, Cuba đã bắt giam nghệ sỹ

đàn Graffiti, Danilo Maldonado (biệt danh Elsexto), một phần tử chống đối cách

mạng được Mỹ hậu thuẫn (nhân vật này từng bị tòa án Cuba bắt giam năm 2014

Page 135: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

129

khi viết tên 2 lãnh tụ cách mạng Fidel và Raul trên lưng 2 con lợn sống trong

một buổi biểu diễn nghệ thuật và được trả tự do vào tháng 8/2015). Sau khi Lãnh

tụ Fidel qua đời, phần tử cách mạng này đã viết lên trên mặt tiền của nhiều tòa

nhà công cộng dòng chữ "Sue Fue" (Ông ta đã ra đi) [110, tr.12-13] và tạo thành

nguy cơ đe dọa đến độc lập tự chủ ở Cuba nhất là trong bối cảnh người định

hướng nền văn hóa cách mạng Cuba lãnh tụ Fidel Castro đã mất.

4.2. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH BẢO VỆ

ĐỘC LẬP DÂN TỘC Ở CUBA GIAI ĐOẠN 1991-2016

Từ việc phân tích những nhân tố tác động, mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung,

sự triển khai bảo vệ độc lập dân tộc trong hai giai đoạn 1991-2004, 2004-2016

và đánh giá những thành tựu, hạn chế của quá trình đấu tranh bảo vệ độc lập dân

tộc ở Cuba giai đoạn từ sau chiến tranh Lạnh đến nay, tác giả đã đưa ra một số

đặc điểm chủ yếu về quá trình này như sau:

Thứ nhất, sự nghiệp đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc luôn gắn liền với quá

trình xây dựng và đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện và hoàn cảnh của Cuba.

Cách mạng Cuba thành công (1/1/1959), với sự giúp đỡ của Liên Xô và các

nước xã hội chủ nghĩa, Cuba đã quyết định lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã

hội hiện thực theo mô hình Xô Viết, tập trung quan liêu bao cấp. Mô hình này,

ngoài việc đem lại cho Cuba một số thành quả quan trọng về giáo dục, y tế, an sinh

xã hội, nhưng cũng đã tạo ra không ít thách thức, hệ lụy, nhất là việc Cuba lại nằm

ngay sát nách một siêu cường tư bản chủ nghĩa là Mỹ, luôn có quan điểm thù địch

chống Cuba và muốn lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở quốc đảo này.

Trong suốt gần 6 thập kỷ qua, đặc biệt từ sau khi chiến tranh Lạnh kết

thúc, với sự sụp đổ của Liên Xô, Cuba luôn phải chịu sự chống phá, bao vây, cô

lập toàn diện từ Mỹ, nhưng mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh bảo

vệ nền độc lập dân tộc ở Cuba vẫn không thay đổi. Bởi độc lập dân tộc chính là

mục tiêu trước mắt, tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc (mục tiêu

trước mắt) và tiến lên chủ nghĩa xã hội (mục tiêu lâu dài) có mối quan hệ biện

chứng với nhau, không thể đi đến mục tiêu lâu dài nếu không thực hiện được mục

tiêu trước mắt. Nền độc lập dân tộc chính là tiền đề để Cuba đi lên chủ nghĩa xã hội,

là con đường tốt nhất để bảo vệ thành quả của độc lập dân tộc. Đây cũng chính là

Page 136: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

130

đặc điểm tiêu biểu nhất của cách mạng Cuba trong giai đoạn này về đấu tranh bảo

vệ độc lập dân tộc trước sự bao vây, chống phá, cô lập của Mỹ và các thế lực phản

động nhằm mục tiêu lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở quốc đảo này.

Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước Cuba cũng xác định quá trình này là sự

nghiệp lâu dài, gian khổ và phức tạp vì nó phải bảo vệ được thành quả của cách

mạng năm 1959, đồng thời, phải tạo ra sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các

mặt của đời sống xã hội. Chính nhờ hiểu và nắm vững được yếu tố này mà cách

mạng Cuba đã vượt qua được mọi khó khăn, thử thách trong "thời kỳ đặc biệt

trong hòa bình", đồng thời thực hiện thắng lợi nhiều mục tiêu trong công cuộc

cải cách kinh tế và chủ trương "Cập nhật hóa mô hình kinh tế-xã hội". Trong

những năm tới đây, sự nghiệp cách mạng của Cuba chắc chắn vẫn luôn gắn chặt

với đặc điểm và mục tiêu này vì nếu xa rời nó Cuba sẽ mất phương hướng và có

thể một lần nữa quay trở lại quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản như trước năm 1959

và thành quả trong quá trình đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng chủ

nghĩa xã hội sẽ không còn tồn tại nữa.

Thứ hai, một đặc điểm làm hạn chế đối với quá trình bảo vệ độc lập dân

tộc ở Cuba trong giai đoạn này chính là sự chống phá quyết liệt của cộng đồng

người Mỹ gốc Cuba (khác so với cộng đồng người Hoa kiều của Trung Quốc)

Cộng đồng người Mỹ gốc Cuba, Hoa Kiều đều có chung một đặc điểm là

những người rời bỏ "đất mẹ" đến Mỹ sau sự thất bại của các chính quyền thân

Mỹ trong các cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Cuba (1959) và nội chiến

cách mạng ở Trung Quốc (1949). Tuy nhiên, sau thành công của các cuộc cách

mạng này, quan điểm của các cộng đồng người trên về quê hương của mình có

sự khác biệt.

Nếu như cộng đồng người Hoa kiều (chiếm khoảng 15 triệu người và sinh

sống đông đảo thứ 2 tại Mỹ), được đánh giá là cộng đồng người có đầu óc dân tộc

chủ nghĩa. Thì cộng đồng người Mỹ gốc Cuba lại luôn có tư tưởng đối nghịch với

chế độ chính trị ở quê hương mình. Hiện nay, cộng đồng người Mỹ gốc Cuba có

khoảng 2 triệu người, là lực lượng có tiềm lực về kinh tế, ảnh hưởng về chính trị

trong xã hội Mỹ. Do những mâu thuẫn từ trong lịch sử với chính quyền Fidel về vấn

đề quốc hữu hóa tài sản nên họ luôn ủng hộ chính sách bao vây cấm vận của chính

Page 137: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

131

quyền Mỹ; phản đối những nỗ lực cải thiện quan hệ song phương của hai nước như:

Sau sự kiện "tấn công sóng âm" (tháng 2/2017), các Thượng Nghị sỹ Mỹ gốc Cuba

như: Marco Rubio, Ileana Ross, Diaz Balarl đã gửi thư cho Ngoại trưởng Mỹ Rex

Tillerson yêu cầu chính phủ Mỹ đáp trả cứng rắn với Cuba bằng việc trục xuất tất cả

các nhà ngoại giao và đóng cửa đại sứ quán Cuba tại Mỹ [111]. Đây chính là minh

chứng cho sự thù địch của người Mỹ gốc Cuba với tổ quốc, bất chấp một thực tế là

hai nước đã bình thường hóa quan hệ song phương. Không những vậy, các lực

lượng này còn kết hợp với những phần tử chống đối trong nước tiến hành các hoạt

động đánh bom, tấn công mạng gây mất trật tự an ninh xã hội, tạo ra mâu thuẫn

giữa Đảng với nhân dân và cho người dân mất niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng.

Điều này, đã ảnh hưởng rất lớn đến sự ổn định chính trị trong nước của Cuba trong

giai đoạn này và tạo ra sự khác biệt lớn về quan điểm chính trị đối với tổ quốc giữa

người Mỹ gốc Cuba và cộng đồng Hoa kiều.

Thứ ba, sự nghiệp đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc ở Cuba luốn gắn liền

với sự phát triển của phong trào cánh tả Mỹ Latinh, nhất là nhóm thiên tả ALBA

Một đặc điểm của quá trình đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc của Cuba

trong giai đoạn này là sự gắn kết của cách mạng Cuba với phong trào cánh tả ở

Mỹ Latinh, đặc biệt là nhóm ALBA về lý luận và thực tiễn. Về lý luận, Cuba và

các nước ALBA đã đưa ra đề án xây dựng "Chủ nghĩa xã hội trong thế kỷ XXI"

ở Mỹ Latinh với nội dung chính là lấy chủ nghĩa Mác, tư tưởng cách mạng tiến

bộ Simon Bolivar và tư tưởng nhân đạo Thiên chúa giáo làm nền tảng tư tưởng

để xậy một xã hội mới ở Mỹ Latinh trong thế kỷ XXI. Về thực tiễn, Cuba chính

là trụ cột về chính trị, còn Venezuela là trụ cột về kinh tế của ALBA.

Quá trình bảo vệ độc lập dân tộc của Cuba trong giai đoạn này không thể

không kể đến sự giúp đỡ đắc lực của các nước cánh tả Mỹ Latinh về kinh tế, tài

chính, năng lượng như: Venezuela, Nicaragua, Bolivia, Ecuador...sự giúp đỡ to

lớn trên đã giúp nền kinh tế Cuba từng bước thoát khỏi khó khăn; chế độ xã hội

chủ nghĩa được giữ vững trước chính sách bao vây cấm vận của Mỹ.

Thông qua ALBA, Cuba cũng từng bước mở rông quan hệ đối ngoại; thúc

đẩy hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư góp phần đưa nền kinh tế đất nước dần

phục hồi, từng bước nâng cao vai trò, vị thế ở khu vực.

Page 138: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

132

Thứ tư, việc đề ra chủ trương "Cập nhật hóa mô hình kinh tế-xã hội, được

coi là chủ trương lớn giúp Cuba phát triển kinh tế, nâng cao đời sống của nhân

dân và bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc. Việc Cuba sử dụng "Cập nhật"

không phải là "Cải cách" theo Trung Quốc hay "Đổi mới" theo Việt Nam được

coi là đặc điểm riêng biệt của cách mạng Cuba trong giai đoạn này.

Trong quá trình phát triển đất nước, Cuba thường không sử dụng cụm từ

"cải tổ" hay "cải cách" mà thường sử dụng "hoàn thiện" hay "cập nhật", để vạch

rõ ranh giới với "cải tổ", "cải cách" theo chủ nghĩa tự do mới ở Liên Xô và Đông

Âu, nhưng trên thực tế, đây cũng là một hình thức của "cải cách". Từ những năm

80 của thế kỷ XX đến nay, Cuba đã 3 lần tiến hành cải cách kinh tế và 2 lần sửa

sai nhưng để đảm bảo tính định hương xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế, Đảng và

Nhà nước Cuba vẫn tiếp tục khẳng định mô hình phát triển kinh tế của Cuba

trong hiện tại và tương lai vẫn là "cập nhật" vì trước hết đây là quá trình "cập

nhật" chứ không phải là "cải cách", vì Cuba không áp dụng "Cải cách" nền kinh

tế theo mô hình của Trung Quốc hay Việt Nam, mà muốn đưa một số yếu tố "thị

trường" vào việc phát triển kinh tế để phù hợp với điều kiện và tình hình đất

nước của Cuba. Mặt khác, Đảng và Nhà nước Cuba cũng cho rằng: đây là quá

trình diễn ra lâu dài, từ từ và có chọn lọc nên trong quá trình thực hiện, một số

yếu tố cũ như chế độ bao cấp về y tế, giáo dục, chính sách quản lý, điều tiết của

Nhà nước và vai trò của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế quốc dân vẫn được

duy trì để đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Cuba còn giải thích tiếp

những biện pháp trên sẽ giúp Cuba dần tiếp cận với định hướng "thị trường" sau

đó mới tiến tới nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây được coi

là sáng tạo về mặt lý luận và thực tiễn mà Đảng cộng sản Cuba đã đúc rút được

từ kinh nghiệm thực tiễn trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc

không chỉ ở nước mình mà còn từ những bài học thành công, thất bại của những

nước xã hội chủ nghĩa còn lại trên thế giới hiện nay.

Thứ năm, quá trình đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc và chống lại các

chính sách bao vây cấm vận của Cuba kéo dài nhất trong lịch sử (gần 60 năm) so

với Việt Nam và 20 quốc gia khác đã từng bị Mỹ thi hành chính sách bao vây,

cấm vận. Nó, đã tạo ra điểm khác biệt, riêng có của quốc đảo này.

Page 139: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

133

Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, Cuba có những khác biệt

cơ bản so với Việt Nam và các nước đã từng bị Mỹ thực thi chính sách cấm vận

như: Cuba chỉ nằm cách Mỹ 150 km; là một đất nước xã hội chủ nghĩa duy nhất

ở Tây bán cầu, nhỏ bé về diện tích, dân số; kinh tế lạc hậu; lệnh cấm vận của Mỹ

đối với Cuba kéo dài nhất so với 20 lệnh cấm vận trên (gần 60 năm). Còn các

nước khác như Việt Nam, Bắc Triều Tiên, Iran, nằm cách xa Mỹ, có tiềm lực

nhất định về quốc phòng, thời gian cấm vận ngắn hơn nhiều: Việt Nam (20

năm); Triều Tiên (24 năm); Iran (36) năm...Những đặc điểm này đã tạo ra cho

Cuba một tâm thế cảnh giác cao độ với Mỹ thông qua việc luôn thực hiện các

biện pháp sửa sai trong kinh tế nhằm đưa đất nước thoát khỏi khó khăn do lệnh

cấm vận của Mỹ gây nên và tiếp tục duy trì chính sách bao cấp, miễn phí trong

giáo dục, y tế, an sinh xã hội để tạo ra sự công bằng trong xã hội, làm cho người

dân tin tưởng vào chế độ và sự lãnh đao của Đảng.

Thứ sáu, việc duy trì tốt các chính sách ưu việt về giáo dục, y tế, an sinh

xã hội được coi là vũ khí giúp Cuba chống lại mọi âm mưu chống phá của Mỹ và

các thế lực phản cách mạng trong quá trỉnh bảo vệ nền độc lập dân tộc

Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Cuba mang tính định hướng xã

hội chủ nghĩa sâu sắc. Mọi chính sách của Đảng và Nhà nước Cuba đều hướng

đến mục tiêu là đảm bảo phúc lợi xã hội cho nhân dân. Trong khi nền kinh tế gặp

khó khăn, Cuba vẫn nhất quán thực hiện chế độ giáo dục, chăm sóc sức khỏe

miễn phí cho toàn dân và đảm bảo mức sống tối thiểu cho các đối tượng chính

sách. Đây chính là điểm mạnh, là sự ưu việt của mô hình xây dựng chủ nghĩa xã

hội ở Cuba.

Cuba tiếp tục thực hiện chính sách bao cấp về y tế và giáo dục cho toàn

dân, quan tâm tới những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn (những tầng lớp

yếu thế trong xã hội). Điều này, cũng đã được Chủ tịch Raul Castro khẳng định

rất rõ trong Đại hội VI, đó là: "Việc củng cố thể chế chính trị, kinh tế, xã hội sẽ

đảm bảo cho chính sách "Cập nhật hóa", không gây nguy hại đến tính kế thừa

của chủ nghĩa xã hội ở Cuba. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới có khả năng chiến

thắng khó khăn, bảo tồn được thành quả cách mạng, phát triển kinh tế, nâng cao

Page 140: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

134

đời sống của Nhân dân và không bao giờ cho phép chủ nghĩa tư bản được quay

lại Cuba một lần nữa" (Cuba thông qua lộ trình Cập nhật hóa mô hình kinh tế).

Ngoài ra, Cuba còn đưa ra một số chủ trương về cải cách giáo dục để

hoàn thiện hơn nữa hệ thống giáo dục ở bậc đại học và sau đại học nhằm tạo ra

những thế hệ nối tiếp có trình độ cao để phục vụ cho sự phát triển của đất nước.

Trong y tế, Cuba đã coi "ngoại giao y tế" là kênh đối ngoại quan trọng để mở

rộng ảnh hưởng chính trị, nâng cao vai trò của Cuba trong khu vực và quốc tế.

Đồng thời, chủ trương này cũng đã đem lại cho Cuba nguồn thu ngoại tế quan

trọng để phát triển kinh tế và nâng cao đời sống nhân dân. Nếu không thực hiện

tốt các chính sách ưu việt trên, Cuba khó có thể vượt qua khó khăn, thách thức

trong nước và đứng vững được trước chính sách cô lập của Mỹ. Đây là đặc điểm

lớn nhất mà Cuba đã tạo ra được trong quá trình bảo vệ vững chắc nền độc lập

dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Thứ bảy, đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc ở Cuba luốn gắn liền với nghĩa

vụ quốc tế cao đẹp, đây là chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước nhằm

tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế để phát triển kinh tế và nâng cao vị thế đất nước

Đây được coi là mục tiêu xuyên suốt, một chiến lược lớn của Cuba ngay

sau khi nhà nước xã hội chủ nghĩa này ra đời, được thể hiện thông qua việc Đảng

cộng sản Cuba, đứng đầu là Fidel đã có sự giúp đỡ to lớn về vật chất, tinh thần

và cả máu đối với nhiều cuộc đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc ở các

nước thế giới thứ 3 như: Việt Nam, Angola, Etiopia...

Trong giai đoạn từ 1991 đến nay, cùng với những biến đổi của tình hình

quốc tế, Cuba đã có sự điều chỉnh chính sách và nghĩa vụ quốc tế theo hướng

tăng cường phát huy các thế mạnh về giáo dục, y tế để giúp đỡ các nước, nhất là

các nước khu vực Mỹ Latinh và đang phát triển nhằm khắc phục những hậu quả

của thiên tai, dịch bệnh, xóa mù chữ...đồng thời, biến các thế mạnh thành lợi thế

cạnh tranh để mở rộng hợp tác quốc tế, đem lại nguồn thu ngoại tệ để phát triển

kinh tế đất nước, nâng cao vị thế, uy tín của Cuba trên thế giới. Chính việc phát

huy tốt tinh thần quốc tế trong giai đoạn này đã giúp Cuba từng bước phá thế bao

vây cấm vận của Mỹ, tạo động lực quan trọng để đẩy mạnh công cuộc cải cách

kinh tế nhằm phát triển đất nước.

Page 141: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

135

4.3. VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI CUBA TRONG THỜI GIAN TỚI VÀ

LIÊN HỆ VỚI KINH NGHIỆM CỦA VIỆT NAM

4.3.1. Vấn đề đặt ra đối với Cuba

Quá trình đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc của Cuba trong những năm tới

được dự báo sẽ bị tác động sâu sắc bởi một số nhân tố quốc tế, khu vực cùng các

đặc điểm và xu thế trong quan hệ quốc tế như: toàn cần hóa; chống khủng bố;

hòa bình, hợp tác và phát triển; các vấn đề toàn cầu: nghèo đói, dịch bệnh, biến

đổi khí hậu, an ninh lương thực; xung đột sắc tộc tôn giáo, dân tộc cực đoan;

cách mạng công nghiệp 4.0; liên kết khu vực, tiểu khu vực; sự phát triển của

phong trào cánh tả Mỹ Latinh...đặc biệt là chính sách bao vây cấm vận kinh tế

của Mỹ vẫn được duy trì và ngày càng thắt chặt hơn dưới thời Tổng thống

Donald Trump...Bên cạnh đó, các vấn đề trong nước của Cuba như: việc thực

hiện chủ trương "Cập nhật hóa mô hình kinh tế, xã hội"; xây dựng và hoàn thiện

khung lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo "kiểu"

Cuba; sự thay đổi nhà lãnh đạo trong tương lai; quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh

tế; xóa bỏ hệ thống đồng tiền kép...Với những đặc điểm, xu hướng vận động nêu

trên, sẽ đặt ra những cơ hội và thách thức đan xen đối với quá trình đấu tranh

bảo vệ độc lập dân tộc của Cuba trong thời gian tới như sau:

Một là, trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, ngoài việc đem lại cho

Cuba những thời cơ lớn như: phát triển kinh tế, mở rộng hợp tác, nâng cao vị thế

trên trường quốc tế, thì nó cũng đặt ra cho Cuba một nhiệm vụ quan trọng là phải

luôn đảm bảo mục tiêu bảo vệ độc lập dân tộc gắn liền với hội nhập quốc tế

Trong thời gian tới, chính sách cấm vận của Mỹ đối với Cuba sẽ vẫn

không có nhiều thay đổi lớn, thậm chí còn có thể được siết chặt hơn, do đó, để

phát triển kinh tế đất nước, hội nhập sâu rộng với bên ngoài, Cuba cần phải đa

dạng hóa, đa phương hóa mối quan hệ quốc tế, tiếp tục tăng cường mối quan hệ với

các đối tác là bạn bè truyền thống: Nga, Trung Quốc, Việt Nam, Venezuela và các

nước phát triển khác như: EU, Nhật Bản, Ấn Độ nhằm tạo ra động lực để thu hút

đầu tư, vốn, kỹ thuật, quản lý, công nghệ để phát triển nền kinh tế đất nước.

Trong quan hệ với Mỹ, bên cạnh việc cảnh giác với những mưu đồ khó

lường của chính quyền Mỹ thì Cuba cũng nên tạo ra các cơ hội hợp tác trong các

Page 142: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

136

diễn đàn song phương và đa phương để từng bước cải thiện, xây dựng lại quan

hệ với siêu cường này dựa trên nguyên tắc "Nghệ thuật chung sống giữa các nền

văn minh", bởi Mỹ vẫn có ảnh hưởng và tác động rất lớn đối với Cuba, nếu duy

trì mối quan hệ thù địch quá lâu, Cuba sẽ là nước bị thiệt hại và ảnh hưởng nhiều

nhất, chứ không phải là Mỹ.

Hai là, công nghệ sinh học, du lịch, giáo dục, y tế luôn được coi là nội lực

quan trọng, nền tảng kinh tế vững chắc để đảm bảo lợi ích quốc gia, dân tộc của

Cuba trong bối cảnh Mỹ siết chặt lệnh cấm vận về kinh tế

Trong thời gian tới, chính sách bao vay cấm vận của Mỹ đối với Cuba về

cơ bản sẽ vẫn được giữ nguyên, cụ thể: thắt chặt chính sách về đi lại, thương

mại; cấm các công ty của Mỹ làm ăn và giao dịch với các tập đoàn thuộc quyền

quản lý của quân đội, lực lượng an ninh Cuba; các hoạt động giao lưu nhân dân

giữa hai nước bị hạn chế...do đó, nền kinh tế Cuba sẽ tiếp tục đối mặt với nhiều

khó khăn như: kinh tế tăng trưởng không ổn định; thiếu lương thực, thực phẩm;

thiếu nguyên liệu đầu vào cho quá trình sản xuất; thiếu năng lượng; đời sống

nhân dân gặp khó khăn...Để khắc phục những hạn chế do chính sách cấm vận

của Mỹ đem lại, chính phủ Cuba cần có một chiến lược phát triển kinh tế mới,

theo hướng ưu tiên phát triển những ngành, lĩnh vực kinh tế mà Cuba có thế

mạnh như: công nghệ sinh học, du lịch, y tế, giáo dục trở thành những nghành

kinh tế mũi nhọn, đem lại giá trị xuất khẩu cao, nguồn thu ngoại tệ lớn.

Đối với ngành công nghệ sinh học và dược phẩm, bên cạnh việc tiếp tục

duy trì và đẩy mạnh những thành quả đã đạt được, thì Cuba cần tạo ra nhiều

chiến lược phát triển cho ngành này như: mở các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực

về ngành này cho các nước ở Cuba; trao đổi nguồn nhân lực và mở các trung tâm

nghiên cứu ở nước ngoài; chuyển giao bản quyền công nghệ, kỹ thuật; sản xuất

dược phẩm đặc trị các bệnh ung thư như: ung thư da, ung thư phổi, gan, da dày

(Căn bệnh phổ biến ở các hiện nay)...Với những chiến lược này, Cuba sẽ mở ra

nhiều cơ hội hợp tác mới với các nước, phát triển nền kinh tế đất nước, củng cố

vai trò, vị trí của mình trong khu vực và trên trường quốc tế.

Còn trong lĩnh vực du lịch, đầu tiên Cuba cần phải đầu tư vào cơ sở hạ

tầng, trang thiết bị phục vụ cho ngành du lịch để nâng cao chất lượng dịch vụ,

Page 143: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

137

đáp ứng được yêu cầu của tất cả các đối tượng du khác; khai thác những lợi thế

du lịch tự nhiên, nhân văn mà nước này có thế mạnh để tạo ra nét riêng biệt của

quốc đảo này; mở các trường, khoa du lịch để đào tào đội ngũ sinh viên có chất

lượng cao (nhất là về ngoại ngữ) để đáp ứng được yêu cầu hội nhập của đất

nước; liên kết với một số nước ở Mỹ Latinh để xây dựng các tour, điểm du lịch

phù hơp với du khách nước ngoài. Đặc biệt, cần phải xây dựng bài bản và có hệ

thống trong việc quảng bá, xây dựng hình ảnh du lịch của Cuba với thế giới, qua

đó, giúp du khách hiểu rõ về đất nước và con người quốc đảo này.

Trong lĩnh vực giáo dục, Cuba cần thúc đẩy việc nghiên cứu, giảng dạy

các ngành, lĩnh vực có thế mạnh; xây dựng chương trình học bổng miễn phí để

thu hút sinh viên, học viên các nước đến theo học ở Cuba; liên kết đào tạo với

các trường Đại học trên thế giới về y tế: với trường Đại học Y-Dược của Việt

Nam, Ấn Độ, Trung Quốc...

Về y tế, đẩy mạnh hơn nữa chương trình "ngoại giao y tế"; trao đổi bác sỹ;

tổ chức các chương trình phòng chống dịch bệnh với WHO, PAHO...

Với những chiến lược phát triển đồng bộ các lĩnh vực mũi nhọn nêu trên,

chắc chắn, trong tương lai nền kinh tế của Cuba sẽ phát triển nhanh chóng, đời sống

nhân dân được cải thiện, vai trò, vị thế của Cuba được nâng cao trên trường quốc tế.

Ba là, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 vừa được coi là cơ hội nhưng

cũng tạo ra những thách thức không nhỏ đối với quá trình bảo vệ độc lập dân

tộc, chủ quyền quốc gia của Cuba trong thời gian tới

Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 được khởi nguồn từ Báo cáo tại Hội chợ

Hanover (Đức) năm 2011 và sau đó được Thủ tướng Đức Algena Merkel đề cập

tới trong Diễn đàn kinh tế thế giới ở Davos, Thụy Sỹ (1/2015) với tên gọi là

Công nghiệp IP [12]. Đây là cuộc cách mạng đang được manh nha hình thành và

dự báo sẽ có nhiều bước phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới lên cơ hội và

thách thức của nó đặt ra cho các quốc gia dân tộc trên thế giới, trong đó có Cuba.

Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 được dự báo sẽ đem lại cho Cuba những

cơ hội và thách thức như sau:

Cuộc cách mạng này cũng sẽ đặt ra yêu cầu đối với Đảng và Nhà nước

Cuba là phải có những nhận thức mới, cụ thể trên nhiều lĩnh vực như: hội nhập

Page 144: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

138

kinh tế quốc tế; phát triển khoa học công nghệ trong thời kỳ cách mạng

số...Đồng thời, có khả năng nâng cao khả năng quản lý, điều hành, vận hành của

chính phủ và các doanh nghiệp trước yêu cầu ngày càng tăng của cuộc cách

mạng công nghệ với trí tuệ nhân tạo và rô bốt đóng vai trò chi phối.

Cuộc cách cách mạng này cũng tạo ra cho Cuba phát triển, nâng cao trình

độ của lực lượng sản xuất và hoàn thiện phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa.

Đồng thời, giúp Cuba có cơ hội quảng bá các kinh nghiệm trong những lĩnh vực

mà nước này có thế mạnh như: giáo dục, y tế, công nghệ sinh học ra thế giới.

Đồng thời, nó còn giúp Cuba nâng cao trình độ quản lý công nghệ, năng lực sản

xuất, tăng khả năng cạnh tranh và tạo ra cơ hội cho các ngành công nghiệp của

Cuba có khẳ năng bắt kịp với trình độ khoa học tiên tiến của thế giới.

Mặc dù, Cuba chưa phải là quốc gia có trình độ điện tử và internet phát

triển, nhưng về lâu dài cuộc cách mạng 4.0 cũng tạo ra cơ hội thuận lợi xây dựng

một chính phủ điện tử, liêm chính có khả năng quản lý xã hội tốt. Đồng thời,

giúp Đảng Cộng sản thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng Cuba trở thành một

quốc gia xã hội chủ nghĩa hiện đại vào năm 2030.

Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội, cuộc cách mạng này cũng đặt ra cho

Cuba những thách thức rất lớn trong việc bảo vệ độc lập dân tộc.

Cuộc cách mạng 4.0 đã làm cho thế giới thực và ảo bị xóa nhòa ranh giới, đặt

ra cho Cuba những mối đe dọa về an ninh mạng, an ninh văn hóa, chính trị, đồng thời

là cơ hội để cho các lực lượng phản động, tội phạm lợi dụng chống phá Cuba thông

qua các hoạt động khủng bố mạng, tin tặc, thu thập tin tức tình báo và làm gia tăng

nguy cơ phân hóa giàu nghèo trong xã hội, xóa nhòa bản sắc văn hóa dân tộc...

Cuộc cách mạng này có thể làm cho phương thức sản xuất và lực lượng

sản xuất bị tụt hậu hơn so với thế giới bởi cơ sở hạ tầng của Cuba đang bị xuống

cấp nghiêm trọng; năng suất lao động thấp, trong khi khả năng tiếp tận với công

nghệ tiên tiến còn hạn chế cho chính sách cấm vận của Mỹ đem lại. Do đó, đặt ra

yêu cầu đối với Đảng và Nhà nước Cuba là nâng cao kỹ năng quản lý, điều hành

của đội ngũ cán bộ; nâng cao trình độ tay nghề của lao động; đẩy mạnh hợp tác

quốc tế trong lĩnh vực khoa học công nghệ nhằm đi tắt đón đầu và thu hẹp dần

khoảng cách với thế giới.

Page 145: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

139

Nền giáo dục Cuba trong thời gian qua đã đạt được một số thành tựu quan

trọng. Tuy nhiên, về cơ bản giáo dục Cuba vẫn là khép kín, chưa hội nhập sâu

rộng với thế giới, do đó, với tác động tiêu cực của cuộc cách mạng này, nền giáo

dục Cuba có thế đứng trước nguy cơ tụt hậu nếu Cuba không có sự cải cách và

hội nhập đúng đắn.

Trong bối cảnh Cuba vẫn chưa bắt kịp được cuộc cách mạng công nghiệp

lần thứ 3, thì những thách thức đến từ cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ rất

lớn. Do đó, nó đòi hỏi Đảng và Nhà nước Cuba phải đổi mới tư duy mạnh mẽ, có

đường lối, chính sách đúng đắn, có quyết tâm chính trị cao, cùng sự phấn đấu

của mọi tầng lớp nhân dân thì mới có thể đưa đất nước vượt qua mọi thách thức

do cuộc cách mạng này đem lại. Có như vậy, Cuba mới có thể bảo vệ vững chắc

độc lập chủ quyền và chế độ xa hội chủ nghĩa.

Bốn là, chính sách cấm vận kinh tế của chính quyền Tổng thống Trump

đối với Cuba có thể siết chặt hơn trong thời gian tới, điều này sẽ tạo ra những

nguy cơ và thách thức mới đối với quá trình bảo vệ độc lập dân tộc của Cuba

trong thời gian tới.

Sau khi trở thành ông chủ mới của Nhà Trắng (1/2017), chính quyền của

Tổng thống Trump đã có hàng loạt các điều chỉnh trong chính sách với Cuba

theo hướng cứng rắn hơn khi đề nghị xem xét lại hoàn toàn thỏa thuận bình

thường hóa quan hệ ngoại giao với Cuba của chính quyền Obama.

Trong chuyến thăm tới thành phố Miami thuộc tiểu bang Florida ngày

16/6/2017, Tổng thống Trump đã tuyên bố sẽ hủy bỏ "chính sách một chiều"

với Cuba của cựu Tổng thống Obama và quyết định này sẽ có hiệu lực ngay lập

tức [184] thông qua một số chính sách cụ thể như sau: Thứ nhất, Mỹ sẽ thắt chặt

hơn một số quy định về đi lại và thương mại với Cuba nhưng không đảo ngược

hoàn toàn quan hệ với quốc đảo này; thứ hai, người dân Mỹ phải cung cấp toàn

bộ lịch trình hoạt động của mình khi tới Cuba và lưu giữ trong vòng 5 năm mọi

giấy tờ liên quan đến các giao dịch về tài chính vì có thể bị kiểm tra bất cứ lúc

nào; thứ ba, cấm các công ty của Mỹ làm ăn và giao dịch với các tập đoàn thuộc

quyền quản lý của quân đội, lực lượng an ninh Cuba như: Tập đoàn doanh

nghiệp Quân đội (GAESA) (thuộc quyền quản lý của quân đội Cuba)...và cấm

Page 146: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

140

các quan chức làm trong quân đội, an ninh Cuba không được mở tài khoản tại

các ngân hàng của Mỹ với lý do là việc nới lỏng các hoạt động đi lại và thương

mại đều không đem lại lợi ích cho người dân Cuba mà chủ yếu là đem lại lợi

nhuận cho các lực lượng quốc phòng, an ninh [184]; thứ tư, yêu cầu chấm dứt

mọi hoạt động giao lưu nhân dân giữa hai nước và công dân người Mỹ gốc Cuba

chỉ được về nước với mục đích thăm thân nhân; thứ năm, chính quyền Trump

còn đưa ra Văn bản cụ thể về chính sách với Cuba bao gồm 5 điểm, trong đó,

nêu rõ chính quyền Mỹ quyết định điều chỉnh chính sách với Cuba là vì lợi ích

then chốt liên quan đến an ninh quốc gia và cam kết sẽ không quay lưng lại với

người dân Cuba.

Như vậy, có thể thấy tất cả những tuyên bố, thay đổi trong chính sách của

chính quyền Trump đối với Cuba chỉ là nhằm vào chính quyền Castro và cho

rằng người dân Cuba đang bị chế độ cộng sản đàn áp [161].

Bên cạnh đó, việc chính quyền Trump tiến hành trục xuất 15 nhà ngoại giao

Cuba tại Mỹ về nước (3/10/2017) với lý do để trả đũa cho việc các nhân viên ngoại

giao Mỹ bị tấn công ở Cuba trong giai đoạn từ tháng 11/2016-8/2017 đã đẩy quan

hệ Mỹ-Cuba rơi vào trạng thái chiến tranh Lạnh và một lần nữa chứng tỏ chính sách

bao vây, cấm vận của Mỹ đối với Cuba vẫn không thay đổi [111, tr.25] cho dù nước

Mỹ có Tổng thống là người của Đảng Cộng hòa hay Dân chủ.

Thông qua các chính sách chống phá của chính quyền Trump nêu trên,

được coi là những trở lực lớn đối với Cuba và đặt ra cho sự nghiệp đấu tranh và bảo

vệ độc lập dân tộc những thách thức mới. Điều này, cũng đồng nghĩa với việc quá

trình đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc của Cuba còn lâu dài và gian khổ, đòi hỏi

Đảng và Nhà nước Cuba phải có những đối sách phù hợp để thực hiện thắng lợi

những mục tiêu, nhiệm vụ đề ra đối với quá trình này trong thời gian tới.

Năm là, một số vấn đề đặt ra đối với Cuba dưới sự lãnh đạo của tân Chủ

tịch Miguel Diaz- Canel

Sau hơn 2 thập kỷ, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Fidel và Raul, nền độc

lập dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Cuba vẫn được duy trì, giữ vững bất

chấp những khó khăn về kinh tế, chính sách bao vây cấm vận của Mỹ và sự

chống phá quyết liệt của các thế lực phản động trong và ngoài nước.

Page 147: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

141

Vào ngày 19/4//2018 vừa qua, Chủ tịch Raul đã quyết định thôi giữ chức

vụ Chủ tịch Hội đồng Nhà nước và Hội đồng Bộ trưởng và nhường vị trí này cho

Miguel Diaz-Canel. Ông là nhà lãnh đạo trẻ tuổi (58 tuổi), người đầu tiên không

thuộc dòng họ Castro giữ chức Chủ tịch Hội đồng nhà nước và Hội đồng Bộ

trưởng ở Cuba; Ông không phải là người trưởng thành qua các cuộc đấu tranh

cách mạng giải phóng dân tộc. Để tiếp tục duy trì những thành quả cách mạng

mà thế hệ đi trước đã đạt được, bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc, chủ quyền

quốc gia trong bối cảnh và điều kiện mới, Cuba dưới sự lãnh đạo của tân Chủ

tịch Canel cần tránh việc Mỹ và các thế lực phản động lợi dụng sự khác biệt

trong nhận thức về chính trị, tư tưởng giữa hai thế hệ lãnh đạo: thế hệ của Fidel,

Raul đã từng chiến đấu chống Mỹ, hiểu Mỹ nên luôn cải cách kinh tế theo hướng

thận trọng, trong khi đó, Canel thuộc thế hệ lãnh đạo mới, không qua thực tiễn

đấu tranh cách mạng và luôn muốn đẩy mạnh quá trình cải cách kinh tế để lập ra

các đảng phái đối lập, chống phá chính quyền và đưa Cuba quay trở lại quỹ đạo

của chủ nghĩa tư bản.

4.3.2. Liên hệ với kinh nghiệm của Việt Nam

Từ thực tiễn kinh nghiệm bảo vệ nền độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia

của Việt Nam từ sau chiến tranh Lạnh đến nay, có thể đưa ra một số kinh nghiệm

tham chiếu đối với Cuba như sau:

Thứ nhất, kinh nghiệm của Việt Nam trong công tác xây dựng đảng để

chống nguy cơ "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ đảng

Một trong những thành tựu của Việt Nam trong giai đoạn 1991-2017

chính là những kinh nghiệm trong công tác xây dựng đảng và đấu tranh chống

lại các nguy cơ "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ đảng. Điều này,

được thể hiện thông qua các Nghị quyết của đảng như: Nghị quyết TW5, khóa

VIII (3/1998) về xây dựng chỉnh đốn đảng; Nghị quyết TW4, khóa XI (1/2011)

và Nghị quyết TW4, khóa XII (1/2016) về tăng cường xây dựng và chỉnh đốn

đảng [9]...Thông qua các Nghị quyết này, Đảng cộng sản Việt Nam đã xử lý kỷ

luật và đưa ra khỏi đảng nhiều cán bộ cấp cao: Lần đầu tiên sau 87 năm ra đời,

Đảng cộng sản Việt Nam đã bắt tạm giam Ủy viên Bộ chính trị, Bí thư thành ủy

thành phố Hồ Chí Minh, Đinh La Thăng. Đặc biệt, Bộ chính trị khóa X (2006-

Page 148: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

142

2011) đã phát động cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ

Chí Minh để chống lại tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị trong một bộ

phận không nhỏ các cán bộ đảng viên, kể cả các cán bộ cấp cao.

Từ những kinh nghiệm của Việt Nam, Cuba cần phải tiếp tục trú trọng

việc xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố nội bộ đảng;

mối quan hệ giữa đảng với nhân dân; kiên quyết loại ra khỏi đảng những phần tử

thoái hóa, biến chất. Đồng thời, cần xây dựng những đội ngũ cán bộ có tinh thần

cách mạng, có tính chiến đấu cao, liêm khiết và luôn kiên định nền tảng tư tưởng

của chủ nghĩa Mác-Lênin, Jose Marti và tư tưởng của lãnh tụ lịch sử Fidel. Đảng

cũng cần phải lấy sự gương mẫu của các cán bộ cấp cao làm tấm gương để các

đảng viên cấp dưới và nhân dân noi theo. Đảng cộng sản Cuba cũng phải thấm

nhuần quan điểm "Ý đảng lòng dân" của cố Lãnh tụ Fidel và đưa nó vào thực

tiễn cuộc sống một cách thành công, bởi đây chính là nền tảng quan trọng giúp

cho công tác giáo dục chính trị tư tưởng của đảng với nhân dân được hiệu quả,

qua đó có thể giúp Cuba tránh được những nguy cơ "tự diễn biến", "tự chuyển

hóa", vi phạm kỷ luật đảng của các cán bộ lãnh đạo cấp cao, của các đảng viên

như: một số cán bố cấp cao của đảng đã từng mắc phải trong quá khứ là Ủy Viên

Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Roberto Robaina (1999) vì tội tham

nhũng; Ủy Viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Hội đồng nhà nước Carlos Lage bị

cắt chức năm 2009 do vi phạm kỷ luật đảng...

Thứ hai, Cuba có thể tham chiếu những kinh nghiệm trong công tác xây

dựng khối đại đoàn kết dân tộc của Việt Nam

Trong giai đoạn từ 1991-2017, Việt Nam đã đề ra một số chủ trương,

đường lối về công tác xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc như: Bộ Chính trị

Đảng cộng sản Việt Nam khóa X đã ban hành nghị quyết số 36 (4/2006) về việc

coi bộ phận Việt kiều là một lực lượng quan trọng và không thể tách rời của dân

tộc Việt Nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc; thành lập các ban chỉ

đạo Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ của Bộ Chính trị khóa IX (8/2003) để

giải quyết các vấn đề dân tộc, tôn giáo: vấn đề Khome Crom, Tin lành Đề Ga,

Vương quốc Mèo (H’Mông) (và việc ban hành quy chế dân chủ ở cơ sở của Bộ

Chính trị khóa VIII (8/1998) với phương châm: "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân

Page 149: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

143

kiểm tra". Với những chủ trương trên, đến nay, đã thu được nhiều kết quả tích

cực: Lượng kiều hối do Việt kiều gửi về nước đạt 11 tỷ USD (2016); thu hút 36

tỷ USD đầu tư trực tiếp nước ngoài (FĐI) vào Việt Nam (2017) [32]; các hoạt

động "Diễn biến hòa bình", "Bạo loạn lật đổ" đã được khống chế, đặc biệt việc

ban hành quy chế dân chủ ở cơ sở đã giúp tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc,

giữa Đảng với nhân dân, đấu tranh các âm mưu gây chia rẽ, lật đổ chính quyền,

phá hoại Đảng và nhà nước thông qua việc bắt giữ được các tổ chức phản động

như: Khối 8406 (lập ra ngày 8/4/2006 của Lê Công Định); thành lập Vương

quốc Mèo độc lập (22/5/2011)...

Từ kinh nghiệm của Việt Nam nêu trên, Đảng và nhà nước Cuba có thể

tham chiếu và áp dụng vào việc củng cố khối đại đoàn kết dân tộc ở nước mình.

Bởi trong giai đoạn 1991-2017, mặc dù Cuba đã có nhiều cố gắng để xây dựng

và củng cố Ủy Ban bảo vệ cách mạng (giống như Mặt trận Tổ quốc của Việt

Nam) khi đối phó thành công với các hoạt động phá hoại về tư tưởng, can thiệp,

lật đổ của các lực lượng phản động. Tuy nhiên, công tác này, vẫn bộc lộ nhiều

hạn chế, yếu kém, minh chứng là: từ tháng 11/2016-8/2017, Cục Tình báo Trung

ương Mỹ (CIA), kết hợp với các phần tử phản động trong và ngoài nước đã tiến

hành nhiều đợt tấn công các nhà ngoại giao Mỹ và gia định họ ở Habana bằng

sóng âm, nhưng Ủy Ban bảo vệ cách mạng cấp cơ sở không nắm bắt được các

hoạt động trên và hậu quả là làm cho quan hệ ngoại giao giữa hai nước trở lên

căng thẳng [112, tr.20]. Từ vụ việc nêu trên, đòi hỏi Đảng và Nhà nước Cuba

phải củng cố hơn nữa khối đại đoàn kết cấp cơ sở để nâng cao tinh thần cảnh

giác trong nhân dân, qua đó, đối phó hữu hiệu với các âm mưu chống phá của

Mỹ và các thế lực phản động. Việc thực hiện tốt công tác này sẽ góp phần giúp

Cuba bảo vệ được nền độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia.

Thứ ba, tăng cường hiện đại hóa các lực lượng vũ trang

Mục tiêu xây dựng kinh tế đất nước và bảo vệ tổ quốc luôn được coi là hai

nhiệm vụ chiến lược của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Nhờ thực hiện tốt mục

tiêu trên, trong giai đoạn 1991-2017, nhờ đường lối "Đổi mới", Việt Nam đã thu

được nhiều thành tựu kinh tế quan trọng như: Kim ngạch xuất nhập khẩu từ 100

tỷ USD (2007) tăng 400 tỷ USD (2017); GDP đạt 198 tỷ USD (2016) và khoảng

Page 150: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

144

220 tỷ USD (2017)...Với tiềm lực kinh tế sau 30 năm thực hiện đường lối "Đổi

mới" nêu trên, Việt Nam đã trú trọng đến việc tăng cường tiềm lực quốc phòng

như: tăng chi tiêu trong ngân sách quốc phòng. Tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội

khóa XIV (5/2016), Quốc hội Việt Nam đã phê chuẩn ngân sách chi tiêu Quốc

phòng năm 2016 trị giá 6,3 tỷ USD tăng 12% so với năm 2015 [103, tr.6]; hiện

đại hóa các lực lượng vũ trang, mở rộng các hoạt động hợp tác quốc phòng với

các nước trong khu vực ASEAN và trên thế giới; chống khủng bố...để có thể bảo

vệ vững chắc chủ quyền gia và chế độ xã hội chủ nghĩa, trong bối cảnh những

nguy cơ đe dọa đến nền độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia vẫn đang hiện

hữu, nhất là vấn đề tranh chấp lãnh thổ trên Biển Đông.

Từ những kinh nghiệm nêu trên, Đảng và Nhà nước Cuba cần phải đẩy

mạnh hơn nữa quá trình cải cách kinh tế thông qua chủ trương "Cập nhật hóa mô

hình kinh tế-xã hội", tìm ra được mô hình phát triển kinh tế phù hợp với điều kiện

và hoàn cảnh của đất nước, nhằm phát triển nền kinh tế bền vững, ổn định chính trị

-xã hội, có được nguồn tài chính vững mạnh để hiện đại hóa các lực lượng vũ trang,

nhất là trong bối cảnh cơ sở hạ tầng quân sự, vũ khí, khí tài của quân đội Cuba hiện

đã bị xuống cấp nghiêm trọng (chủ yếu vũ khí, khí tài quân sự của Cuba là do Liên

Xô viện trợ trong thời kỳ chiến tranh Lạnh). Do đó, việc phát triển kinh tế kết hợp

với hiện đại hóa quốc phòng là điều rất cấp thiết đối với Cuba trong giai đoạn hiện

nay và cũng phù hợp với hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ vững chắc

tổ quốc Cuba xã hội chủ nghĩa, phù hợp với học thuyết "Chiến tranh Nhân dân" mà

Đại hội VII [91, tr.20] (4/2016) Đảng cộng sản Cuba đã đề ra. Thực hiện tốt mục

tiêu này cũng giúp Cuba bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc.

Thứ tư, kinh nghiệm của Việt Nam trong việc xác định rõ "Đối tác" và

"Đối tượng" trong quan hệ quốc tế

Hội nghị Trung ương 8 khóa IX (2003), Đảng cộng sản Việt Nam đã đưa

ra chiến lược bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới, trong đó, đưa ra những diễn

giải quan trọng cho khái niệm: "Đối tác" hợp tác" và "đối tượng" đấu tranh"

trong quan hệ quốc tế của Việt Nam. Theo đó: "Bất cứ lực lượng nào lên kế

hoạch và hành động chống lại các mục tiêu của chúng ta theo đuổi trên con

đường xây dựng và bảo vệ tổ quốc đều là "đối tượng" đấu tranh" và "bất cứ ai

Page 151: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

145

tôn trọng nền độc lập dân tộc và chủ quyền của chúng ta, thiết lập và mở rộng

các quan hệ hữu nghị, bình đẳng và cùng có lợi với Việt Nam là "đối tác" của

chúng ta". Đồng thời, đưa ra các phép phân tích biện chứng rằng: "Với các "đối

tượng" đấu tranh chúng ta có thể tìm ra các lĩnh vực hợp tác; với các "đối tác"

tồn tại các mâu thuẫn, lợi ích và khác biệt với lợi ích của chúng ta thì chúng ta

nên nhận thức được điều này, qua đó thoát khỏi hai xu hướng, cụ thể là thiếu

cảnh giác và tỏ ra cứng nhắc trong nhận thức" [27, tr.121]. Nghị quyết cũng xác

định thúc đẩy quan hệ với các nước và các trung tâm lớn trên nguyên tắc bình đẳng,

cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, tạo thế đan xen lợi ích

giữa các nước với nước ta, tránh bị rơi vào thế đối đầu, cô lập hay lệ thuộc. Đây là

bước phát triển mới trong chính sách của Việt Nam với các nước lớn.

Đúc rút những kinh nghiệm từ Việt Nam, trong quan hệ với Mỹ và các

nước lớn khác như: Trung Quốc, EU, Nga, Cuba cần phải xây dựng chính sách

đối ngoại theo hướng giữ vững độc lập tự chủ, định hướng xã hội chủ nghĩa và

coi lợi ích quốc gia là tiêu chí hàng đầu trong quan hệ hợp tác quốc tế. Lợi ích

quốc gia được coi là yếu tố bất biến trong quan hệ với bất cứ nước nào, đây được

coi là nhân tố quyết định đảm bảo sự thành công đối với sự nghiệp xây dựng và

bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới. Cuba cũng cần phải xác định rõ "đối tác",

"đối tượng" trong quan hệ quốc tế, để tranh thủ được những mặt tích cực, hạn

chế đến mức thấp nhất những mặt tiêu cực, có thể đe dọa đến sự tồn vong của

chế độ và đất nước, nhất là trong quan hệ với Mỹ và Trung Quốc, tránh sự lệ

thuộc quá mức vào một quốc gia nào đó, nhất là về kinh tế.

Đồng thời, cần phải phát huy được tính chủ động, linh hoạt, sáng tạo trong

hoạt động đối ngoại, kịp thời nắm bắt những cơ hội, không được tạo cớ để Mỹ

đe dọa và tấn công quân sự; không liên minh, liên kết với bất cứ quốc gia nào để

chống lại nước thứ 3, đặc biệt là với Mỹ và Trung Quốc. Xác định được rõ "đối

tác" và "đối tượng" trong quan hệ quốc tế sẽ góp phần thúc đẩy sự nghiệp đấu

tranh bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia đi đúng hương và thành công.

Thứ năm, Cuba tránh nguy cơ phụ thuộc kinh tế, thương mại vào bên ngoài

Quá trình 30 năm "Đổi mới" của Việt Nam, bên cạnh những thành tựu

kinh tế to lớn như: tốc độ tăng trưởng kinh tế khoảng 6% (2012-2017); dự trữ

ngoại tệ đạt gần 48 tỷ USD; GDP đạt 220 tỷ USD; kim ngạch thương mại

Page 152: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

146

khoảng 400 tỷ USD...thì cũng đặt ra cho Việt Nam nhiều thách thức đó là sự phụ

thuộc về thương mại, kinh tế từ bên ngoài, đặc biệt là Trung Quốc. Quan hệ

thương mại, kinh tế của Việt Nam với Trung Quốc đạt khoảng 88 tỷ USD (2016)

và khoảng 100 tỷ USD (2017), trong đó, Việt Nam nhập siêu là chủ yếu với

khoảng 50 tỷ USD (2016). Các dự án đầu tư của Trung Quốc tại Việt Nam

thường trong tình trạng chậm tiến độ, đội vốn, thua lỗ như: dự án đường sắt cao

tốc Cát Linh-Hà Đông, đội vốn hơn 1,3 tỷ USD... Sự phụ thuộc về thương mại

của Việt Nam vào Trung Quốc sẽ dẫn tới nguy cơ gia tăng sự phụ thuộc về chính

trị, nhất là trong bối cảnh các tranh chấp chủ quyền giữa hai bên ở Biển Đông

vẫn diễn biến phúc tạp và gợi nhớ đến những ảnh hưởng của Liên Xô cũ với Việt

Nam trong giai đoạn 1978-1986 khi Liên Xô cắt giảm nguồn viện trợ 7 tỷ

rúp/năm, nền kinh tế Việt Nam ngay lập tức bị khủng hoảng [103].

Từ bài học này của Việt Nam, trong quá trình cải kinh nền kinh tế và thực

hiện chủ trương "Cập nhật hóa mô hình kinh tế-xã hội" trong bối cảnh Cuba

đang từng bước mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế với bên ngoài; việc

Trung Quốc đang gia tăng ảnh hưởng kinh tế thông qua các gói viện trợ kinh tế,

các dự án đầu tư...tại khu vực Mỹ Latinh trong đó có Cuba. Bởi hiện nay, Trung

Quốc là đối tác thương mại lớn thứ 2, nhà đầu tư quan trọng hàng đầu của Cuba,

là đối tác nhập khẩu Nicken, đường lớn nhất của Cuba...Do đó, để hạn chế

những ảnh hưởng về kinh tế từ Trung Quốc và nguy cơ bị lôi kéo vào vòng cạnh

tranh ảnh hưởng với Mỹ tại khu vực Mỹ Latinh, Cuba cần phải đa dạng hóa các

mối quan hệ kinh tế, thương mại quốc tế; giảm sự phụ thuộc vào một thị trường

nhất định; tìm ra mô hình phát triển kinh tế mới phù hợp với điều kiện và hoàn

cảnh của đất nước; xây dựng một nền kinh tế đa dạng, bền vững, hiện đại. Điều

này, có thể giúp Cuba giảm đến mức thấp nhất sự phụ thuộc vào kinh tế bên

ngoài, đây chính là cơ sở quan trọng giúp Cuba đảm bảo nền độc lập tự chủ.

Thứ sáu, Cuba cần tránh được nguy cơ đến từ "chủ nghĩa tư bản thân

hữu", "lợi ích nhóm" và "sân sau gia đình" trong quá trình xây dựng nền kinh tế

thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế

Trong quá trình thực hiện "Đổi mới" kinh tế, Việt Nam cũng đang phải

đối mặt với nhiều thách thức đó là: tiến trình cổ phần hóa, cải cách các doanh

Page 153: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

147

nghiệp nhà nước đang rơi vào tình trạng chậm tiến độ, nhiều doanh nghiệp sau

khi được cổ phần do những bất cập trong khâu định giá tài sản (giá trị về đất đai và

tài sản của nhà nước trước khi cổ phần hóa) dẫn tới một thức tế là rất nhiều doanh

nghiệp sau khi thực hiện cổ phần, tài sản và quyền sở hữu doanh nghiệp ngay lập

tức rơi vào một nhóm người, hoặc những người có quyền lực trong các công ty và

xí nghiệp đó, như trường hợp cổ phần hóa Công ty Cổ phần bóng đèn Điện Quang

của nguyên Thứ tưởng Bộ Công thương, Hồ Thị Kim Thoa là một ví dụ điển hình.

Ngoài ra, do tình trạng buông lỏng quản lý kinh tế và kỷ luật đảng dẫn tới tình trạng

các tập đoàn, tổng công ty nhà nước đều bị thua lỗ sau cổ phần hóa, hình thành lên

12 dự án lớn làm thất thoát ngân sách nhà nước, gây giảm sút niềm tin của nhân dân

vào tiến trình cải cách và phát triển đất nước. Đặc biệt, nhiều dự án sau khi cổ phần

hóa bị thua lỗ cực lớn như: Vinashine lỗ 86.000 tỷ USD và hình thành lên các

"nhóm lợi ích", "tư bản thân hữu" và "sân sau gia đình" [119].

Từ những bài học của Việt Nam, trong thời gian vừa qua, Cuba đã tiến

hành cải tổ các doanh nghiệp nhà nước và bước đầu đã thu được một số kết quả

nhất định. Tuy nhiên, trong thời gian tới, để giảm thiểu những tổn thất có thể xảy

ra như Việt Nam, Đảng và Nhà nước Cuba cần thực hiện các biện pháp như: tăng

cường củng cố công tác cán bộ, đặc biệt là các cán bộ nắm giữ trọng trách quan

trọng trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp; tiến hành kiểm kê, định giá sát

thực tài sản của nhà nước trước khi thực hiện cổ phần; hoàn thiện khung pháp lý,

thể chế về cổ phần hóa và gắn trách nhiệm của những cán bộ chủ chốt với quá

trình này; cần tuyệt đối hóa những nguy cơ hình thành "nhóm lợi ích", "tư bản

thân hữu", "sân sau gia đình" và "đầu sỏ chính trị" trong quá trình cổ phần hóa.

Bởi đây chính là những phần tử cơ hội, thoái hóa biến chất, tham nhũng về

quyền lực chính trị, khi có thời cơ chúng sẽ kết hợp với các lực lượng phản động

và đế quốc để phá hoại các thành quả của cải cách kinh tế và đưa Cuba quay trở

lại quỹ đạo kinh tế thị trường tự do theo kiểu phương Tây.

Như vậy, những bài học thành công và thất bại của Việt Nam trong 30

năm qua sẽ được coi là kinh nghiệm quý báu để Cuba có thể tham khảo và học

tập, qua đó, có thể giúp cho quá trình đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc của Cuba

đạt được nhiều thành tựu trong thời gian tới.

Page 154: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

148

Tiểu kết chương 4

Với việc Đảng cộng sản Cuba luôn nhất quán nền tảng tư tưởng của chủ

nghĩa Mác-Lênin và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, trong quá trình đấu tranh

bảo vệ độc lập dân tộc giai đoạn 1991-2016, Cuba đã thu được được rất nhiều

thành quả quan trọng trên các lĩnh vực như: duy trì sự ổn định chính trị, xã hội

trong nước; đổi mới tư duy chính trị, kinh tế; mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế;

Lực lượng vũ trang cách mạng Cuba đã bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc và

chủ quyền quốc gia; chính sách miễn phí về giáo dục, y tế và an sinh xã hội tốt

đẹp đã giúp củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.

Bên cạnh đó, quá trình bảo vệ độc lập dân tộc ở Cuba cũng còn phải đối

mặt với nhiều hạn chế như: Cuba chưa xây dựng được mô hình chủ nghĩa xã hội

hoàn chỉnh; những bất cập trọng điều hành và quản lý nền kinh tế đất nước; nền

văn hóa đa dạng của Cuba đã tạo cơ hội để Mỹ và các thế lực phản động lợi

dụng chống phá.

Như vậy, những thành tựu và hạn chế nêu trên, đã tạo ra những cơ hội,

thách thức và đặt ra một số vấn đề đối với sự nghiệp đấu tranh bảo vệ độc lập

dân tộc ở Cuba trong thời tới. Do đó, đòi hỏi đảng và nhà nước Cuba cần phải có

sự thay đổi về tư duy, nhận thức để có thể bảo vệ vững chắc những thành quả đã

đạt được trong quá trình bảo vệ độc lập dân tộc trong giai đoạn này và hạn chế

đến mức thấp nhất những nguy cơ, đồng thời, phải có sự trao đổi kinh nghiệm từ

những bài học về thành công, thất bại trong việc bảo vệ độc lập dân tộc và chủ

quyền quốc gia, trong đó có Việt Nam.

Page 155: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

149

KẾT LUẬN

Chiến tranh Lạnh kết thúc, tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến đổi

sâu sắc đã tác động mạnh mẽ đến các quốc gia dân tộc nói chung và Cuba nói

riêng. Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu đã làm đảo lộn cục

diện chính trị, an ninh thế giới. Toàn cầu hóa (cụ thể là toàn cầu hóa kinh tế và

hội nhập kinh tế quốc tế) trở thành xu thế chủ đạo, lôi cuốn và tác động sâu sắc

đến mọi quốc gia, dân tộc trong đó có Cuba. Các nước lớn cũng luôn tìm cách

lôi kéo, chi phối và gây ảnh hưởng đến việc hoạch định chính sách của Cuba,

thậm chí đe dọa đến độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ...đòi hỏi Cuba phải

tìm ra con đường phát triển phù hợp để có thể tranh thủ tối đa thời cơ và giảm

thiểu những nguy cơ, tác động tiêu cực của nó.

Nhờ có đường lối lãnh đạo đúng đắn, dựa vào sức mạnh đại đoàn kết toàn

dân tộc, đoàn kết trong Đảng, giữa Đảng với Nhân dân, cùng sự giúp đỡ vô tư,

trong sáng của các nước xã hội chủ nghĩa, cánh tả Mỹ Latinh, các lực lượng yêu

chuộng hòa bình, dân chủ trên toàn thế giới. Đảng và Nhà nước Cuba đã lãnh

đạo đất nước vượt qua những giai đoạn khó khăn của "thời kỳ đặc biệt trong hòa

bình" (1991-2004) và đẩy mạnh công cuộc cải cách kinh tế và chủ trương "Cập

nhật hóa mô hình kinh tế-xã hội" (2004-2016) để từng bước tiến lên xây dựng và

bảo vệ tổ quốc trong điều kiện và hoàn cảnh mới.

Trong gần 30 năm qua (1991-2016), quá trình đấu tranh bảo vệ độc lập

dân tộc của Cuba đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng như: bảo vệ vững chắc

nền độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; đập tan các hoạt động chống phá của

các lực lượng chống phá của lực lượng phản cách mạng và chính sách bao vây

cấm vận của Mỹ; duy trì sự ổn định chính trị-xã hội trong nước; thúc đẩy sự

nghiệp cải cách kinh tế; ban hành nhiều chính sách cải cách quan trong; duy trì

chính sách miễn phí về giáo dục, y tế và an sinh xã hội tốt đẹp, bằng việc: Cuba

đã xây dựng được một thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân

một cách vững chắc, thúc đẩy cải cách các Lực lượng Vũ trang cách mạng theo

hướng chính quy, tinh nhuệ. Đồng thời, mở rộng quan hệ quốc tế với nhiều tổ

chức khu vực, tiểu khu vực, quốc tế quan trọng như: CELAC, ALBA...Cuba

cũng đã thiết lập quan hệ ngoại giao với nhiều nước lớn như: Mỹ, Nga, Trung

Quốc, EU...Những thành tựu này đã khẳng định vai trò lãnh đạo đúng đắn của

Page 156: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

150

Đảng cộng sản và Nhà nước Cuba, đứng đầu của Chủ tịch Fidel, Raul, góp phần

quan trong xây dựng một nước Cuba xã hội chủ nghĩa phát triển năng động,

mạnh mẽ, tự làm chủ vận mệnh của mình và tạo cơ sở bảo vệ vững chắc nền độc

lập dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Thành quả từ quá trình đấu tranh, xây dựng và bảo vệ độc lập dân tộc mà

Đảng cộng sản và Nhân dân Cuba đạt được là rất đáng tự hào, được bạn bè quốc

tế thừa nhận. Nhưng trong quá trình này, Cuba vẫn còn nhiều hạn chế và đứng

trước những nguy cơ, thách thức đe dọa trực tiếp đến nền độc lập dân tộc đó là:

sự chống phá mạnh mẽ của các thế lực thù địch, chính sách bao vây, cấm vận

kinh tế của Mỹ đối với Cuba vẫn được duy trì; những bất cập trọng điều hành và

quản lý nền kinh tế đất nước; căn cứ quân sự Guantenamo vẫn bị Mỹ chiếm

đóng...Điều đó, đã tạo ra những thách thức với Cuba.

Để bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ, đòi hỏi Đảng và

Nhà nước Cuba trong thời gian tới phải đề ra các chính sách phát triển đất nước

(đặc biệt phát triển kinh tế); phải luôn đảm bảo mục tiêu bảo vệ độc lập dân tộc gắn

liền với hội nhập quốc tế; công nghệ sinh học, du lịch, giáo dục, y tế sẽ được coi là

nội lực quan trọng, nền tảng kinh tế vững chắc để đảm bảo lợi ích quốc gia, dân tộc

của Cuba trong bối cảnh Mỹ siết chặt lệnh cấm vận về kinh tế; cuộc cách mạng

công nghiệp 4.0; và sự thay đổi thế hệ lãnh đạo (từ thế hệ lịch sử là Raul sang thế hệ

trẻ là Diaz Canel)… vừa được coi là cơ hội những cũng tạo ra những thách thức

không nhỏ đối với quá trình bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia của Cuba

trong thời gian tới; chính sách cấm vận kinh tế của chính quyền Tổng thống Trump

đối với Cuba có thể siết chặt hơn, điều này sẽ tạo ra những nguy cơ và thách thức

mới đối với quá trình bảo vệ độc lập dân tộc của Cuba trong thời gian tới.

Bên cạnh đó, Cuba cũng cần phải có sự học hỏi, trao đổi kinh nghiệm với

các nước khác, nhất là với Việt Nam. Bởi Việt Nam và Cuba có sự tương đồng

về ý thức hệ; từng bị Mỹ thực hiện chính sách bao vây cấm vận và hiện nay cũng

đang gặp phải một số vấn đề như: chống phá của các thế lực phản động thông

qua các chiêu bài dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo...Do đó, kinh nghiệm

thành công và thất bại của Việt Nam chính là những bài học tham chiếu quý báu

cho Đảng cộng sản Cuba về đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc ở nước mình trong

hiện tại và tương lai.

Page 157: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

151

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Lộc Thị Thủy (2015), "Tác động của Tuyên bố bình thường hóa đến quan

hệ Mỹ-Cuba", Tạp chí Châu Mỹ Ngày nay, (4), tr.12.

2. Lộc Thị Thủy (2015), "Công cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc ở Cuba

dưới thời Chủ tịch Raul Castro trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng", Tạp

chí Châu Mỹ Ngày nay, (11), tr.16.

3. Lộc Thị Thủy (2016), "Chính sách của Mỹ đối với Cuba dưới thời Tổng thống

Obama từ năm 2009 đến nay", Tạp chí Châu Mỹ Ngày nay, (01), tr.15.

4. Lộc Thị Thủy (2016), "Đánh giá những thành tựu về kinh tế-xã hội" của

Cuba giai đoạn 2011-2016", Tạp chí Châu Mỹ Ngày nay, (8), tr.9.

5. Lộc Thị Thủy (2016), "Chuyến thăm lịch sử của Tổng thống Mỹ tới Cuba",

Tạp chí Châu Mỹ Ngày Nay, (3), tr.66.

6. Lộc Thị Thủy (2016), "Đại hội lần thứ VII Đảng Cộng sản Cuba", Tạp chí

Châu Mỹ Ngày nay, (4), tr.66.

7. Lộc Thị Thủy (2017), "Những thành tựu ấn tượng của Cuba về giáo dục và

y tế", Tạp chí Châu Mỹ Ngày nay, (2), tr.59.

8. Lộc Thị Thủy (2017), "Một số nhận định ban đầu về chính sách của Mỹ đối

với Cuba dưới thời Tổng thống Donald Trump", Tạp chí Châu Mỹ

Ngày nay, (7), tr.61.

Page 158: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

152

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT

1. Đỗ Tuấn Anh, Hoàng Mạnh (Dịch) (2008), Cuộc đời tôi - Một trăm giờ với

Fidel Castro, Nxb Thông tấn, Hà Nội.

2. Vân Anh (2013), "Kinh tế Cuba sắp đón luồng gió mới", tại trang:

http://laodong.com.vn/the-gioi/kinh-te-cuba-sap-don-luong-gio-moi-

191479.bld, [truy cập ngày 7/4/2016].

3. Lại Thái Bình (2015), "Một dấu ấn lịch sử trong quan hệ Mỹ - Cuba", tại

trang: http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/The-gioi-van-de-su-

kien/2015/31322/Mot-dau-an-lich-su-trong-quan-he-My-Cuba.aspx,

[truy cập ngày 9/1/2017].

4. Bộ Ngoại giao Việt Nam (2016), "Quân đội Việt Nam-Cuba tăng cường

hợp tác về hậu cần", tại trang: http://www.mofahcm.gov.vn/vi/ mofa/nr

040807104143/nr040807105001/ns050426095026, [truy cập ngày

24/4/2017].

5. Bộ Quốc phòng, Viện 70 - Tổng cục 2 (2016), Quan điểm lý luận cơ bản về

chủ nghĩa xã hội của Cuba: những giá trị cần tham khảo, Tài liệu lưu

hành nội bộ, Hà Nội.

6. Carmelo Mesa - Lago (Dịch), "Mối quan hệ kinh tế giữa Cuba và

Venezuela: Thực trạng và triển vọng", Tạp chí Văn hóa xã hội, (19).

7. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

8. Hồ Châu (1999), "Chính trị - ngoại giao của các nước Mỹ Latinh trong giai

đoạn hiện nay", Tạp chí Châu Mỹ Ngày nay, (01).

9. Chính phủ (2016), Nghị quyết Trung ương lần thứ tư khóa XII về tăng

cường xây dựng và chỉnh đốn đảng, Hà Nội.

10. Nguyễn Trọng Chuẩn (2006), Những vấn đề toàn cầu trong hai thập niên

đầu của thế kỷ XXI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

11. Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc UNDP (2008), Báo cáo phát triển

con người 2007-2008, (Dịch và xuất bản bằng tiếng Việt với sự chấp

thuận của UNDP), Hà Nội.

Page 159: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

153

12. Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia (2016), Cuộc cách mạng

công nghiệp lần thứ tư, Trung tâm Phân tích thông tin, Hà Nội.

13. Lê Cường (2013), "Quân đội Cuba tiến hành cuộc tập trận chiến lược quy

mô lớn Passion 13", tại trang http://giaoduc.net.vn/Quoc-te/Giao-duc-

Quoc-phong/Quan-doi-Cuba-tien-hanh-tap-tran-chien-luoc-quy-mo-

lon-Bastion-2013-post132210.gd, [truy cập ngày 20/11/2017].

14. Diễn đàn đầu tư kinh doanh (2014), "Cuba áp dụng luật đầu tư nước ngoài

mới", tại trang: http://m.baocongthuong.com.vn/cuba-ap-dung-luat-

dau-tu-nuoc-ngoai-moi.html, [truy cập ngày 30/6/2017].

15. Đỗ Lộc Diệp (1998), Mỹ Latinh một vùng năng động, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

16. Phúc Duy (2016), "EU - Cuba ký kết hiệp định bình thường hóa quan hệ",

tại trang http://thanhnien.vn/the-gioi/eu-cuba-ky-ket-hiep-dinh-binh-

thuong-hoa-quan-he-773544.html, [truy cập ngày 12/12/2017].

17. Đảng Cộng sản Cuba (Ban Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Việt

Nam dịch) (1976), Cương lĩnh Đảng cộng sản Cuba, La Habana.

18. Đảng Cộng sản Cuba (1987), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III,

Nxb Sự thật, Hà Nội.

19. Đảng Cộng sản Cuba (Ban Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Việt

Nam dịch) (1997), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV của

Đảng cộng sản Cuba, Hà Nội.

20. Đảng Cộng sản Cuba (Ban Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Việt

Nam dịch) (2011), Đường lối chính sách kinh tế - xã hội của Đảng và

cách mạng - Đại hội VI Đảng Cộng sản Cuba, Hà Nội.

21. Đảng Cộng sản Cuba (Ban Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Việt

Nam dịch) (2012), Văn kiện cơ sở, Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất,

khóa VI, Hà Nội.

22. Đảng Cộng sản Cuba (Ban Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam

dịch) (2012), Điều lệ Đảng cộng sản Cuba (PCC), được sửa đổi, bổ sung và

thông qua tại Hội nghị Đảng Toàn quốc lần thứ Nhất, Hà Nội.

23. Đảng Cộng sản Cuba (Ban Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Việt

Nam 2012 dịch), Diễn văn khai mặc của đồng chí Jose Ramon

Page 160: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

154

Balaguer, Bí thư Trung ương Đảng, trưởng ban Đối ngoại Trung

ương Đảng cộng sản Cuba, Hội thảo Lý luận lần thứ nhất giữa Đảng

Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Cuba, Hà Nội.

24. Đảng Cộng sản Cuba (Ban Đối Ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Việt

Nam dịch) (2012), Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Cuba lần thứ

nhất, khóa VI, Phát biểu của Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung

ương Đảng Đảng Cộng sản Cuba Raul Castro, Hà Nội.

25. Đảng Cộng sản Cuba (Ban Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Việt

Nam dịch) (2015), Tài liệu cơ bản về Cộng hòa Cuba và Đảng cộng

sản Cuba, Hà Nội.

26. Đảng Cộng sản Cuba (Ban Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Việt

Nam dịch) (2016), Kế hoạch quốc gia về phát triển kinh tế - xã hội

đến năm 2030: Đề xuất mang tầm nhìn quốc gia, các trụ cột và lĩnh

vực chiến lược, Cuba.

27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Nền tảng cải cách kinh tế ở Cuba, tại

trang: http://dangcongsan.vn/quoc-te/tin-tuc/nen-tang-cai-cach-kinh-

te-o-cuba-51274.html, [truy cập ngày 8/10/2016].

29. Đài Tiếng nói Việt Nam (2011), "Cuba: cải cách kinh tế để phát triển đất

nước", tại trang: http://vov.vn/the-gioi/quan-sat/cuba-cai-cach-kinh-te-

de-phat-trien-dat-nuoc-172695.vov, [truy cập ngày 20/4/2017].

30. Đài Truyền hình Thông tấn xã (2016), Mỹ điều chuyển tù nhân

Guantenamo sang Ả Rập Xê Út, ngày 16/4/2016, Hà Nội.

31. Đài Truyền hình Việt Nam (2015), Tổng thống Mỹ cam kết sẽ đóng cửa nhà

tù Guantenamo trong năm 2017, ngày 4/1/2015, Hà Nội.

32. Đài Truyền hình Việt Nam (2017), Nguồn kiều hối của Việt Nam trong năm

2017 đạt mức cao kỷ lục, ngày 24/12/2017, Hà Nội.

33. Đại học Quốc gia (2002), Toàn cầu hóa với các nước đang phát triển, Nxb

Đại học Quốc gia, Hà Nội.

34. Đại sứ quán Cuba tại Việt Nam (2010), Khái quát lịch sử cách mạng Cuba,

tại trang: http://www.cubadiplomatica.cu/vietnam/EN/Learna bout

Cuba/History.aspx, [truy cập ngày 17/2/2017].

Page 161: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

155

35. Nguyễn Hoàng Giáp và cộng sự (2005), Một số vấn đề chính trị quốc tế

trong giai đoạn hiện nay, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

36. Nguyễn Hoàng Giáp, Phan Văn Rân (2010), Chủ quyền quốc gia dân tộc

trong xu thế toàn cầu hóa và vấn đề đặt ra đối với Việt Nam, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

37. Nguyễn Hoàng Giáp, Nguyễn Thị Quế (2014), Phong trào cộng sản quốc

tế: hiện tại và triển vọng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

38. Hiệp định Hợp tác Toàn diện giữa nước Cộng hòa Cuba và nước Cộng hòa

Bolivariana Venezuela (2000), Tài liệu dịch, (người dịch Caracas).

39. Ngô Hoan (1995), Nguyên nhân và tác động của sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội

ở Liên Xô tới tiến trình cách mạng thế giới hiện nay, Luận án tiến sĩ

Lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

40. Đào Minh Hồng, Lê Hồng Hiệp (2013), Sổ tay thuật ngữ Quan hệ quốc tế,

Khoa Quan hệ quốc tế, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,

Thành phố Hồ Chí Minh.

41. Nguyễn Anh Hồng (2002), "Cuba khai thác thế mạnh dầu mỏ, du lịch, mở

rộng quan hệ kinh tế trong khu vực Mỹ Latinh", Thời báo Kinh tế Việt

Nam, (30), tr.3.

42. Nguyễn Anh Hồng (2016), "Cuba phát huy thế mạnh kinh tế", Thời báo

kinh tế Việt Nam, (01), tr.7.

43. Quang Huy (2016), "Mỹ-Cuba bước sang trang mới: Di sản đối ngoại để

đời của ông Obama", tại trang: http://dantri.com.vn/the-gioi/my-cuba-

buoc-sang-trang-moi-di-san-doi-ngoai-de-doi-cua-ong-obama-

20160324080705976.htm, [truy cập cập ngày 24/3/2016].

44. Hà Mỹ Hương (2008), "Cuba - Hòn đảo kiên cường, bất khuất qua nửa thế

kỷ bao vây, cấm vận của Mỹ", Kỷ yếu Hội thảo 50 năm Cách mạng

Cuba, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

45. Nguyễn Thái Yên Hương (2003), Vấn đề trừng phạt kinh tế trong chính

sách đối ngoại của Hoa Kỳ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

46. Lưu Vạn Kha (1999), "Cuba vượt lên sóng cả", Báo Nhân dân, (30), tr.2.

Page 162: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

156

47. Liên Hiệp các Tổ chức Hữu Nghị Việt Nam (2013), "ALBA - Liên minh vì

các dân tộc Mỹ Latinh: triển vọng và tiến bộ", Kỷ yếu tọa đàm khoa

học, Hà Nội.

48. Thái Văn Long (2006), Độc lập dân tộc của các nước đang phát triển trong

xu thế toàn cầu hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

49. Nguyễn Ngọc Mạnh (2012), Sự điều chỉnh chiến lược của Hoa Kỳ đối với

các nước Mỹ Latinh sau khủng hoảng tài chính toàn cầu và tác động

tới Việt Nam, Đề tài khoa học cấp Bộ, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội,

Hà Nội.

50. Nguyễn Ngọc Mạnh (2013), "ALBA - Liên minh vì các dân tộc Mỹ Latinh:

triển vọng và tiến bộ", Kỷ yếu tọa đàm khoa học, Liên Hiệp các Tổ

chức Hữu Nghị Việt Nam phối hợp với Đại sứ quán Cuba, Venezuela,

Hà Nội.

51. Nguyễn Ngọc Mạnh (2015), Sự phục hồi của nền kinh tế ở khu vực Mỹ

Latinh sau khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu 2008-

2009, Đề tài khoa học cấp bộ, Viện Nghiên cứu Châu Mỹ - Viện Hàn

lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.

52. Phương Mai (2014), "Y tế Cuba: Những thành tựu khó tin", tại trang:

http://anninhthudo.vn/doi-song/y-te-cuba-nhung-thanh-tuu-kho

tin/545843.antd, [truy cập ngày 11/4/2017].

53. Nguyễn Ngọc Mão (2003), "Tư tưởng độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội của

Hôxê Máctin và cách mạng Cu Ba", Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, (4).

54. Thuỵ Miên (2015), "Cuba đòi Mỹ trả Vịnh Guantenamo", tại trang:

https://thanhnien.vn/ the-gioi/cuba-doi-my-tra-vinh-guantanamo-5300

05.html, [cập nhật ngày: 30/1/2015].

55. Phạm Xuân Nam (1978), "Hôxê Máctin người thầy của nền độc lập Cuba",

Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, (178).

56. Phạm Xuân Nam (1982), Nước Cộng hòa Cuba, Nxb Sự thật, Hà Nội.

57. Phạm Xuân Nam (1995), "Hôxê Mácti - Nhà văn hóa lớn, vị Thánh tông đồ

của nền độc lập Cuba", Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, (2).

Page 163: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

157

58. Phạm Xuân Nam (2002), Tìm hiểu lịch sử cách mạng Cuba - giai đoạn cách

mạng giải phóng dân tộc 1953-1959, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

59. Phạm Xuân Nam (2008), 50 năm phát triển kinh tế xã hội của nước Cộng

hòa Cuba dưới ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Kỷ yếu

Hội thảo 50 năm Cách mạng Cuba, Học viện Chính trị quốc gia Hồ

Chí Minh, Hà Nội.

60. Phạm Xuân Nam (2009), Tìm hiểu lịch sử cách mạng Cuba, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

61. Ngô Chí Nguyện (2008), "Thành tựu trong việc thực hiên chính sách xã hội

của Cuba trong 50 xây dựng chủ nghĩa xã hội", Kỷ yếu Hội thảo 50 năm

Cách mạng Cuba, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

62. Lê Hữu Nghĩa (2009), 50 năm cách mạng Cuba và quan hệ Việt Nam-Cu

ba, Báo cáo đề dẫn tại Hội thảo Khoa học, Học Viện Chính trị quốc

gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

63. Hoàng Đức Nhận, Phạm Quốc Tuấn (Dịch) (2003), Fidel Castro: con

người huyền thoại, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

64. Nguyễn Hồng Pha (2015), "Đại tướng Phùng Quang Thanh tiếp Cục trưởng

Cục cơ yếu-Bội nội vụ Cuba", tại trang http://vov.vn/chinh-tri/dai-

tuong-phung-quang-thanh-tiep-cuc-truong-cuc-co-yeubo-noi-vu-cuba-

386225.vov, [truy cập ngày 4/3/2016].

65. Phi-Đen Ca-Xtơ-Ro Ru-Dơ (1978), Cuba trên con đường đi lên chủ nghĩa

xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội.

66. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) (2015), Hồ sơ thị

trường Cuba, Ban Quan hệ quốc tế, Hà Nội.

67. Nguyễn Văn Phước (Dịch) (2008), Fidel: Cuộc đối đầu 10 đời Tổng thống

Mỹ và những âm mưu ám sát của CIA, Nxb Trẻ, Hà Nội.

68. Lê Minh Quân (2010), Hòa bình - hợp tác và phát triển: xu thế lớn trên thế

giới hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

69. Nguyễn Thị Quế (2008), "Những thành tựu nổi bật của Cuba trong xây

dựng và phát triển đất nước", Kỷ yếu Hội thảo 50 năm Cách mạng

Cuba, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

Page 164: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

158

70. Nguyễn Thị Quế (2015), Chính sách đối ngoại của các nước lớn trong giai

đoạn hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

71. Phạm Văn Quế (1995), Chiến lược đối ngoại của Mỹ trong những năm

1990, Đề tài khoa học cấp Bộ, Bộ Ngoại giao, Hà Nội.

72. Phan Văn Rân (2008), "Cuba tăng cường đấu tranh trên mặt trận tư tưởng",

Kỷ yếu Hội thảo 50 năm Cách mạng Cuba, Học viện Chính trị quốc

gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

73. Ruvislei Gonza’lez Seaz (2016), "Cập nhật hóa mô hình kinh tế xã hội

Cuba và những kịch bản mới", Kỷ yếu tọa đàm khoa học, Viện Hàn

lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội.

74. Nguyễn Cơ Thạch (1997), Thế giới trong 50 năm qua (1945-1995) và thế

giới trong 25 năm tới (1996-2020), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

75. Lê Thành (1961), Cuba đất nước tự do của Châu Mỹ, Nxb Sự thật, Hà Nội.

76. Trần Thành (2013), Quan điểm lý luận cơ bản về chủ nghĩa xã hội của

Cuba: Những giá trị cần tham khảo, Đề tài khoa học cấp bộ trọng

điểm, Bộ Ngoại giao, Hà Nội.

77. Văn Ngọc Thành, Nguyễn Thanh Tuấn (2009), "Những thành tựu của cải

cách kinh tế - xã hội ở Cộng hòa Cuba từ 1993 đến nay", Tạp chí

Nghiên cứu lịch sử, (5).

78. Mai Thảo (2014), "Ngoại giao y tế Cuba "được mùa"", tại trang:

http://baoquocte.vn/ngoai-giao-y-te-cuba-duoc-mua-1129.html, [truy

cập ngày 30/12/2016].

79. Nguyễn Anh Thái (2013), Lịch sử thế giới hiện đại (1917-1995), Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

80. Theo Infonet (2013), "Tìm hiểu về quân đội vũ trang cách mạng Cuba", tại

trang http://www.bienphongvietnam.vn/nghien-cuu-trao-doi/bien-phon

g-quoc-te/1035-dd.html, [truy cập ngày 11/10/2016].

81. Theo Infonet (2013), "Quân đội Cuba tập trận chống Mỹ", tại trang:

https://www.tienphong.vn/hanh-trang-nguoi-linh/quan-doi-cuba-tap-

tran-chong-my-tan-cong-613064.tpo, [truy cập ngày 3/2/2017].

Page 165: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

159

82. Thông tấn xã Việt Nam (1997), Đại hội V Đảng cộng sản Cuba, Tài liệu

tham khảo đặc biệt, số 211, số tháng 12/1997, tr.18, Hà Nội.

83. Thông tấn xã Việt Nam (1998), Cuba - Khu vực kinh tế tư nhân tạo nhiều

công ăn việc làm, Tin kinh tế, số 90, ngày 20/2/1998, tr.19, Hà Nội.

84. Thông tấn xã Việt Nam (1999), Cuba tiếp tục đi theo con đường Xã hội Chủ

nghĩa, Tài liệu tham khảo đặc biệt, số 320, ngày 2/7/1999, tr.20, Hà Nội.

85. Thông tấn xã Việt Nam (2005), Cuba-giá trị trao đổi thương mại tăng, Tài

liệu tham khảo đặc biệt, số 25, ngày 26/1/2005, tr.36, Hà Nội.

86. Thông tấn xã Việt Nam (2006), Cuba vững vàng nơi đầu sóng, Tài liệu

tham khảo đặc biệt, số 329, ngày 12/12/2006, tr.18, Hà Nội.

87. Thông tấn xã Việt Nam (2009), Quan hệ Venezuela-Cuba dưới thời Raul

Castro, Tài liệu tham khảo đặc biệt, số 205, ngày 31/7/2009, tr.15, Hà Nội.

88. Thông tấn xã Việt Nam (2011), Cuba mở rộng kinh tế để cứu vãn mô hình

chủ nghĩa xã hội, Tài liệu tham khảo đặc biệt, số 193, ngày 19/4/2011,

tr.21, Hà Nội.

89. Thông tấn xã Việt Nam (2013), Nền kinh tế Cuba - Những thành tựu và cải

cách dưới thời Chủ tịch Fidel và Raul Castro, Phần 1, 2, Tin tham

khảo, số 194, ngày 15/6/2013, tr.11, Hà Nội.

90. Thông tấn xã Việt Nam (2014), Cuộc cách mạng của Raul Castro, Tin

tham khảo thế giới, số 93, ngày 24/3/2014, tr.22, Hà Nội.

91. Thông tấn xã Việt Nam (2016), Nội dung chính Báo cáo trọng tâm của Đại

hội toàn quốc Đảng cộng sản Cuba lần thứ VII, Tài liệu tham khảo

đặc biệt, số 94, ngày 18/4/2016, tr.2, Hà Nội.

92. Thông tấn xã Việt Nam (2016), Cuba:điều gì sẽ xảy ra đằng sau sự ra đi

của lãnh tụ Fidel Castro?, Tài liệu tham khảo đặc biệt, số 320, ngày

2/12/2016, tr.13, Hà Nội.

93. Thông tấn xã Việt Nam (2016), Những di sản của cố Chủ tịch Fidel Castro,

Tài liệu tham khảo đặc biệt, số 315, ngày 2/12/2016, tr.7, Hà Nội.

94. Thông tấn xã Việt Nam (2016), Mỹ - Cuba: Lại câu chuyện về cây gậy và

củ cà rốt, tài liệu tham khảo đặc biệt, số 172, ngày 20/2/2016, tr.16,

Hà Nội.

Page 166: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

160

95. Thông tấn xã Việt Nam (2016), Khái niệm chính sách đối ngoại của Liên

Bang Nga (phần 1), Tài liệu tham khảo đặc biệt, số 321, ngày

8/12/2016, tr.12, Hà Nội.

96. Thông tấn xã Việt Nam (2016), Khái niệm chính sách đối ngoại của Liên

Bang Nga (phần cuối), Tài liệu tham khảo đặc biệt, số 323, ngày

10/12, tr.11, Hà Nội.

97. Thông tấn xã Việt Nam (2016),Cấm vận Cuba, Mỹ đã bỏ lỡ điểm chiến lược,

Tài liệu tham khảo đặc biệt, số 332, ngày 19/12/2016, tr.16, Hà Nội.

98. Thông tấn xã Việt Nam (2016), Con đường của Cuba có thể đi được bao

xa?, Tài liệu tham khảo đặc biệt, số 95, ngày 19/4/2016, tr.11, Hà Nội.

99. Thông tấn xã Việt Nam (2016), "Cuba lần đầu tham gia Hội nghị an ninh

quân sự với Mỹ", tại trang: https://www.vietnamplus.vn/cuba-khang-

dinh-my-can-cham-dut-chinh-tri-hoa-chinh-sach-di-cu/363452.vnp,

[truy cập ngày 29/1/2017].

100. Thông tấn xã Việt Nam (2016), Cuba được gì trong quan hệ với Mỹ?, Tài

liệu tham khảo đặc biệt, số 201, ngày 7/8/2016, tr.21, Hà Nội.

101. Thông tấn xã Việt Nam (2016), Về một nước Cuba đang ở ngã ba đường,

Tài liệu tham khảo đặc biệt, số 323, ngày 10/12/2016, tr.16, Hà Nội.

102. Thông tấn xã Việt Nam (2016), Suy ngẫm của Fidel về "người anh em" Obama,

Tài liệu tham khảo đặc biệt, số 82,ngày 3/4/2016, tr.20, Hà Nội.

103. Thông tấn xã Việt Nam (2016), Ý nghĩa của việc Mỹ dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ

khí đối với Việt Nam, Tài liệu tham khảo, số 128, ngày 26/5/2016,

tr.6, Hà Nội.

104. Thông tấn xã Việt Nam (2016), "Đối thoại chính sách quốc phòng Việt

Nam-Cuba", tại trang: http://baoquocte.vn/doi-thoai-chinh-sach-quoc-

phong-vie-t-nam-cuba-33133.html, [truy cập ngày 22/7/2017].

105. Thông tấn xã Việt Nam (2017), Tại sao Triều Tiên không tin tưởng Trung

Quốc?, Tài liệu tham khảo đặc biệt, số 287, ngày 31/10/2017, tr.6, Hà Nội.

106. Thông tấn xã Việt Nam (2017), Mọi thứ vẫn khác ở Cuba (phần đầu), Tài

liệu tham khảo đặc biệt, số 89, ngày 9/4/2017, tr.23-23, Hà Nội.

Page 167: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

161

107. Thông tấn xã Việt Nam (2017), Nhận định của Cuba về các chính sách của

Tổng thống Donald Trump, Tài liệu tham khảo đặc biệt, số 172, ngày

5/7/2017, tr.17, Hà Nội.

108. Thông tấn xã Việt Nam (2017), Cuba không muốn một thị trường tư bản

chủ nghĩa, Tài liệu tham khảo, số 306, ngày 19/11/2017, tr.17, Hà Nội.

109. Thông tấn xã Việt Nam (2017), Cuba: đã tới lúc phải vận động, Tài liệu

tham khảo, số 134, ngày 28/5/2017, tr.16, Hà Nội.

110. Thông tấn xã Việt Nam (2017), Mọi thứ vẫn khác ở Cuba (phần cuối), Tài

liệu tham khảo, số 90, tr.12-13, Hà Nội.

111. Thông tấn xã Việt Nam (2017), Chính sách của Mỹ đối với Cuba quay về

trạng thái chiến tranh Lạnh?, Tài liệu tham khảo đặc biệt, số 290,

ngày 10/4/2017, ngày 3/11/2017, tr.25, Hà Nội.

112. Thông tấn xã Việt Nam (2017), Các nhà ngoại giao Mỹ tại Cuba bị tấn

công: Một chiến dịch mạo danh của CIA?, Tài liệu tham khảo, số 226,

ngày 28/8/2017, tr.20, Hà Nội.

113. Thông tấn xã Việt Nam (2018), Bầu cử Quốc hội Cuba: Sự nhất trí giả

tạo?, Tài liệu tham khảo, số 72, ngày 21/3, tr.19.

114. Lê Bá Thuyên (1997), Hoa Kỳ Cam kết và Mở rộng, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

115. Nguyễn Ngọc Toàn (Dịch) (2008), Toàn cầu hóa và những mặt trái, Nxb

Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

116. Trang điện tử Thông tin trong tầm tay (2016), "Người Cuba "bất nhất" với

căn cứ quân sự của Mỹ", tại trang: http://motthegioi.vn/the-gioi-c-

79/nguoi-cuba-bat-nhat-voi-can-cu-quan-su-cua-my--5049.html [truy

cập ngày: 21/3/2017].

117. Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia (1998), Mỹ Latinh- Một

vùng năng động, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

118. Nguyễn Thị Ánh Tuyết (2014), Những cải cách kinh tế đột phá của Cuba từ

2000 tới nay, Đại học Văn hóa, Hà Nội.

119. Quang Vinh, Ngọc Tú (2018), Xung quanh khoản nợ 86.000 tỷ đồng của

Vinashin, tại trang http://ndh.vn/xung-quanh-khoan-no-86-000-ty-

dong-cua-vinashin-420290p4c147.news, truy cập ngày 2/5/2018.

Page 168: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

162

120. Viện Nghiên cứu Châu Mỹ, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

(Dịch) (2016), Cập nhật đường lối, chủ trương, chính sách kinh tế-xã

hội của Đảng và của cuộc cách mạng trong giai đoạn 2016-2021 đã

được phê duyêt tại Đại hội Đảng lần thứ VII (4/2016) và được thông

qua tại Quốc hội (7/2016), Hà Nội.

121. Viện Nghiên cứu Châu Mỹ, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

(Dịch) (2016), Định nghĩa về mô hình kinh tế - xã hội, phát triển xã

hội chủ nghĩa của Cuba, Mục tiêu cụ thể của Đại hội VII về phát triển

kinh tế - xã hội, Hà Nội.

122. Viện Quan hệ Quốc tế (2005), Giáo trình Quan hệ quốc tế, Nxb Lý luận

chính trị, Hà Nội.

123. Viện Thông tin Khoa học Xã hội (2000), Toàn cầu hóa - khu vực hóa, cơ

hội và thách thức với các nước đang phát triển, Nxb Viện Thông tin

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

124. V.I. Lênin (1974), Toàn tập, tập 28, Nxb Sự thật, Hà Nội.

125. V.I. Lênin (1978), Toàn tập, Tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

126. Vietlex (Trung tâm từ điển học) (2013), Từ điển tiếng việt, Nxb Đà Nẵng,

Đà Nẵng.

127. Trần Đình Vượng (2002), "Chính sách của Mỹ đối với khu vực Mỹ Latinh",

Tạp chí Châu Mỹ Ngày nay, (3).

128. Hoàng Yến (Tổng hợp) (2015), "Căn cứ Quantenamo: "Con dao găm của

Mỹ gắn trên thân thể Cuba", tại trang: https://thethaovanhoa. vn/the-

gioi/can-cu-guantanamo-con-dao-gam-cua-my-cam-tren-than-the-

cuba-n201507 23192136487.htm, [truy cập ngày 23/7/2016].

II. TÀI LIỆU TIẾNG NƯỚC NGOÀI

129. Adolfo Sánchez Rebolledo (1972), Fidel Castro: la Revolución Cubana

1953-1962, Mexico.

130. Alfred J. López (2014), José Martí: A Revolutionary Life, University of

Texas Press.

131. Antonio Nunez Jiminez (1973), Geografia de Cuba, La Havana.

Page 169: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

163

132. Arnaldo Silva León (2003), Breve Historia de la Revolución Cubana, La

Habana.

133. 7th PCC Congress Central Report, presented by First Secretary Raúl Castro

Ruz (2016), at page http://en.cubadebate.cu/news/2016/04/18/7th-

pcc-congress-central-report-presented-by-first-secretary-raul-castro-

ruz/, [date 18/4/2016].

134. Bernard Aronson, William D. Rogers (2001), "U.S-Cuban Relations in the

21st Century: A Follow-on Chairman's Report of an Independent Task

Force Sponsored", at page https://www.foreignaffairs.com

/reviews/capsule-review/2001-03-01/us-cuban-relations-21st-century-

follow-chairmans-report, [date 25/4/2006].

135. Bert Hoffmann (1998), "The Helms-Burton law and its consequences for

Cuba, the United States and Europe, Prepared for delivery at the 1998

meeting of the Latin American Studies Association", at page

http://citeseerx.ist.psu.edu/viewdoc/download;jsessionid=93EC49A4C

351683B19B46EC54545B200?doi=10.1.1.691.5188&rep=rep1&type

=pdf, [date 15/12/2016].

136. Carl Meacham Diane (2009), "Changing Cuba Policy - in the United States

National Interest: Staff Trip Report to the Committee on Foreign Relations,

United States Senate", at page https://www.gpo.gov/fdsys/ pkg/CPRT-

111SPRT47260/html/CPRT-111SPRT47260.htm, [date 19/12/2016].

137. Charlene Barshefsky , James T. Hill (2008), US-Latin America ralations: A

new direction for a new reality, Council on forgein relation, 28th, June.

138. Council on Foreign Relations (2010), "Sates Sponsors: Cuba", at page

https://www.cfr.org/backgrounder/state-sponsors-cuba, [date 15/9/2016].

139. Congress documents will be submitted to a broad discussion (2016), at page

http://en.granma.cu/cuba/2016-04-16/congress-documents-will-be-

submitted-to-a-broad-discussion, [date 16/4/2016].

140. Cuba defiende actualizar modelo económico con estabilidad social y

política, at page http://www.elnuevoherald.com/noticias/mundo/

america-latina/cuba-es/article19855956.html, [date 29/4/2016].

Page 170: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

164

141. Discurso pronunciado por el comandante en jefe Fidel Castro ruz (1991),

Primer secretario del comite central del partido comunista de Cuba y

presedente de los consejos de estado y de ministros, en la

inauguracion del IV congreso del partido comunista de Cuba,

efectuada en el teatro " Heredia", Santiago de Cuba.

142. Doctrina militar cubana, at page http://www.cubagob.cu/otras_info/minfar/

doctrina/doctrina_militar.htm, page 2, [date 22/9/2016].

143. Elda Moline Diaz (2007), "Cuba-Economic restructuring, recent trends and

main challenges", at page: http://www.networkideas.org/ ideasact/jun

07/Beijing_Conference_07/Elda_Molina.pdf, [date 7/6/2016].

144. Enrique Dussel Peters (2015), "China evolving role in Latin America: Cant

it be a win-win", at page http://www.atlanticcouncil.org/images/publi

cations/AC_CHINA_0916_web.pdf, [date 16/9/2016], page 19.

145. Entra en vigor la nueva Ley de Inversión Extranjera de Cuba, at page

http://w.elmundo.es/internacional/2014/06/28/53aeecca22601df22a8b

4575.html, [date 28/06/2016].

146. Esteban Morales Dominguez (2008), United States-Cuban Relations: A

Critical History, in the United States of America Enrique Dussel

Peters, China evolving role in Latin America: Cant it be a win-win, at

page http://www.atlanticcouncil.org/images/publications/ AC_CHIN

A_0916_web.pdf, [date 16/9/2016].

147. Flag of Cuba, at page: https://commons.wikimedia.org/wiki/File:

Flag_of_Cuba.svg, date 26/12/2017].

148. Fidel Castro (1967), Siete documentos de nuetra historia, La Habana.

149. Fidel Castro (1972), Le processus revolutionaise de Cuba confirme la force

extraochinare des idees de Mars, Engels et Lenine, Granma.

150. Fidel Castro (2005) (không rõ nguồn), Speed at the first graduation of

student from Latinh American shool of Medicine, August.

151. Historia del Partido Comunista de Cuba (2009), at page

http://www.pcc.cu/i_historia.php, [date 15/12/2016].

152. Infome dela CEPAL robre la’ economia’ Cubana (2008), at page

http://www.nodo50.org/ceprid/spip.php?article241, [date 10/9/2016].

Page 171: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

165

153. Jessica Gibbs (2011), US policy towards Cuba: Since the Cold War,

published in the USA and Canada.

154. Jose Marti (1964), Obras Completas, Lahabana.

155. Jose Marti (2016), Obras completas José Martí, La Habana.

156. Jorge L.Domíniguez (1997), U.S-Cuba Relations: From the Cold World to

the Colder War, Center for Latin American Studies at the University

of Miami.

157. José Bell, Delia Luisa López y Tania Caram (2006), Documentos de la

Revolución cubana - 1959, Ciencias Sociales, La Habana.

158. Julia E. Sweig (2013), Cuba: What Everyone Needs to Know, Oxford

University Press.

159. Julio A. Díaz Vázquez (2012), "Actualizar el modelo económico en Cuba:

¿Patrón chino o vietnamita?", at page http://www.igadi.org/web/

analiseopinion/actualizar-el-modelo-economico-en-cuba-patron-

chino-o-vietnamita, [date 15/6/2016].

160. Julio A. Díaz Vázquez (2015), "Cuba: actualización del modelo económico

y social", at page http://www.igadi.org/web/analiseopinion/cuba-

actualizacion-del-modelo-economico-y-social, [date 17/3/2016].

161. John Wagner and Karen DeYoung (2017), "Trump announces revisions to

parts of Obama’s Cuba policy", at page https://www.washingtonpost.

com/politics/trump-announces-revisions-to-parts-of-obamas-cuba-

policy/2017/06/16/dee8671c-52ab-11e7-91eb-9611861a988f_story.

html?utm_term=.bd2905931ee3, [date 15/10/2017].

162. Lars Schoultz (2009), That Infernal Little Cuban Republic: The United States

and the Cuban Revolution, The University of North Carolina Press.

163. Lukialov.A. Pavlov.V và Cruiskov.V (1994), Govbachev-Riot: August even from

inside (Govbachev và sự kiện chính biến ngày 19/8), Moscow, Russia.

164. Lily Rothman (2015), "Why the United States Controls Guantanamo Bay",

at page http://time.com/3672066/guantanamo-bay-history/, [date

22/10/2016].

165. Los avances médicos de Cuba (2016), at page http://www.elnuevodia

rio.com.ni/opinion/327306-avances-medicos-cuba/, [date 14/4/2016].

Page 172: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

166

166. Map of Cuba, at page: https://www.google.ca/search?q=cuba+beaches

&espv=2&biw=1070&bih=669&source=lnms&tbm=isch&sa=X&ved

=0ahUKEwj6o4b-0ezRAhVj6IMKHTyGC74Q_AUIBigB#tbm=isch

&q=cuba+map&imgrc=1ACEwUJlyfPaVM%3A, date 15/12/2017.

167. Marifeli Pérez-Stable (2011), The United States and Cuba: Intimate

Enemies, Published byLatin American and Caribbean Center.

168. Marta Rojos (1960), Moncada, Public La Habana, La Habana.

169. Novoa, Armando (2012), Reforma en la agricultura: lineamientos y

resultados recientes, En Pavel y Pérez, P.53 - 72.

170. Omar Everleny Perez (2011), "These reforms will update the Cuban model

and spur economic growth", at page http://www.americasquarterly.

org/node/2450, [date 15/12/2016].

171. One hundred fourth congress of The United States of America, Cuban

liberity and democractic solidarity (Libertad) (1996), at page

http://cuba-embargo.procon.org/sourcefiles/1996-Cuban-Liberty-and-

Democratic-Solidarity-Act.pdf, [date 27/12/2016].

172. Oxford University Press (2011), The Cuban Revolution: Origins, Course,

and Legacy 3rd Edition, 3 edition, December 7, 240pp.

173. Patrick Jude Haney (2005), The Cuban Embargo: The Domestic Politics of

an American Foreign Policy, Published by The university of

pittsburgh press.

174. Poli’tica militar del partido comunista de Cuba, at page http://www.cuba

gob.cu/otras_info/minfar/politica_pcc.htm, [date 13/11/2016].

175. Richard Garfield, DrPH, RN and Sarah Santana (2007), The Impact of the

Economic Crisis and the US Embargo on Health in Cuba, at page

https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC1380757/pdf/amjph00

500-0017.pdf, [date 9/9/2016].

176. Roger A. Kittleson, David Bushnell and James Lockhart (2017), "History of

Latin America", at page https://www.britannica.com/place/Latin-

America, [date 28/12/2017].

177. Rodrigo Malmierca (2015), "El mundo empresarial está respondiendo a

esfuerzos de Cuba por atraer negocios", at page http://www.

Page 173: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

167

cubadebate.cu/noticias/2015/12/11/rodrigo-malmierca-el-mundo-

empresarial-esta-respondiendo-a-esfuerzos-de-cuba-por-atraer-

negocios/#.WLzOGZyg_IU, [date 11/12//2016].

178. Russia to reopen spy base in Cuba "as relation with US continue to sour", at

page https://www.theguardian.com/world/2014/jul/16/russia-reopeni

ng-spy-base-cuba-us-relations-sour, [date 16/7/2016].

179. Samuel Huttington (1996), The Clash of civilizations, Ottawa, Canada.

180. Sergio Guerra (2009), Historia de la revolucion Cubana, Maldonado Alejo,

Txalaparta.

181. Susan Eckstein (2009), The immigrant divide: How Cuban Americans Changed

the U.S. and Their Homeland, Published in the United Kingdom.

182. This day in History (2015), "The Bay of Pigs invasion begins", at page

http://www.history.com/this-day-in-history/the-bay-of-pigs-invasion-

begins, [date 15/4/2016].

183. The Moscow Times, part of the New East network (2014), "Russia writes

off $32bn Cuban debt in show of brotherly love", at page

http://www.theguardian.com/world/2014/jul/10/russia-writes-off-

cuban-debt, [date 10/6/2016].

184. The White House Office of the Press Secretary (2017), Remarks by

President Trump on the Policy of the United States Towards Cuba, at

Manuel Artime Theater Miami, Florida.

185. The impact of The US embargo on health and nutrition in Cuba, at page

http://medicc.org/ns/documents/The_impact_of_the_U.S._Embargo_o

n_Health_&_Nutrition_in_Cuba.pdf, [date 8/12/2016].

186. United Nations Department of Economic and Social Affairs (2016), World

Population Prospects, The 2015 Revision: Key Findings and Advance

Tables, Population Division.

187. United States code, Foreign relations and intercouse chapter 69, "Cuban

democracy act ("CDA")", at page https://www.treasury.gov/resource-

center/sanctions/Documents/cda.pdf, [date 12/12/2016].

188. Vladimir Sudarev (2012), "Is Russia returning to Latin America?", at page

http://russiancouncil.ru/en/inner/?id_4=252#top, [date 20/2/2016].

Page 174: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

168

189. Victoria Burnett (2016), "Raúl Castro Urges Cubans to Remain Alert to

U.S. Efforts to Alter Communist System", at page https://www.

nytimes.com/2016/04/17/world/americas/raul-castro-urges-cubans-to-

remain-alert-to-us-efforts-to-alter-communist-system.html, [date 16/4/2016].

190. Voz Digital, "Reformas económicas en Cuba: La doble moneda no va más",

at page http://semanariovoz.com/?s=Reformas+econ%C3%B3micas+en

+Cuba%3A+La+doble+moneda+no+va+m%C3%A1s, [date 20/11/2016].

191. Zhu, Hongbo; Liu Wenlong (2008), "Xin shiji zhongguo dui lamei de

diyuan zhanlue" (China’s Geo-strategy towards Latin America in the

New Century)", Xiandai guoji guanxi (Contemporary International

Relations), (3), p.38-42.

Page 175: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

169

PHỤ LỤC

Phụ lục 1: BẢN ĐỒ NƯỚC CỘNG HOÀ CUBA

Nguồn: [166].

Page 176: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

170

Phụ lục 2: QUỐC KỲ, QUỐC HUY NƯỚC CỘNG HÒA CUBA

Nguồn:[147].

Page 177: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

171

Phụ lục 3 KẾ HOẠCH QUỐC GIA VỀ PHÁT TRIỂN KINH TỄ- XÃ HỘI ĐẾN

NĂM 2030: ĐỀ XUẤT MANG TẦM NHÌN QUỐC GIA, CÁC TRỤ CỘT VÀ LĨNH VỰC CHIẾN LƯỢC

I. GIỚI THIỆU Kể từ những năm đầu cuộc cách mạng thắng lợi, lãnh đạo đất nước

luôn rất quan tâm đến việc tạo ra được một công cụ hoạch định dài hạn hỗ trợ cho việc định hướng chiến lược cho nền kinh tế và cụ thể hoá các mục tiêu của Chương trình. Với mục đích này và để đương đầu với các thách thức mới kèo lùi sự tiến bộ của cuộc cách mạng Công tác kế hoạch hoá đã được thực hiện và giữ vai trò cơ bản trong hệ thống chỉ đạo KTXH đồng thời nhiều kế hoạch ngắn và trung hạn cũng được thiết lập.

Những diễn biến từ những năm cuối thập niên 80 cùng với cấm vận kinh tế của Mỹ ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế Cuba. Trong bối cảnh đó, với mục tiêu giải quyết mất cân bằng trong cấu trúc kinh tế, theo Đường lối Chính sách KTXH của Đảng và của cuộc Cách Mạng đã được thông qua tại ĐHĐ VI, Kế hoạch quốc gia về phát triển KTXH đến năm 2030 (KHQG) đã được đưa ra.

Việc xây dựng KHQG được chia làm 2 giai đoạn: Giai đoạn 1: đang được tiến hành và dự kiến sẽ cho ra đời văn kiện Đại

hội đảng VII trong đó xác định các yếu tố khái niệm cơ bản- cơ sở cho KHQG- như đánh giá tình hình hiện tại, chuẩn đoán định tính, các nguyên tắc hướng dẫn soạn thảo chiến lược phát triển, tầm nhìn quốc gia, các trụ cột và lĩnh vực chiến lược;

Giai đoạn 2: đánh giá và đưa vào các chương trình và hướng hành động khác, chú trọng vào thực hiện theo lĩnh vực chứ không phải trên cả nước.

Cuối cùng là thiết lập và củng cố các cơ chế theo dõi, kiểm soát và đánh giá theo hướng xây dựng mô hình quản lý hướng đến kết quả.

II. CÁC NGUYÊN TẮC HƯỚNG DẪN VÀ TRỤC NỘI DUNG CỦA VIỆC SOẠN THẢO KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KTXH QUỐC GIA

Các nguyên tắc hướng dẫn và trục nội dung đã được được đề cập đến trong tài liệu “Các phương diện chính của Cơ sở Soạn thảo Kế hoạch phát triển KTXH Quốc gia”. Đó là kết quả của quá trình phân tích cẩn thận kỹ lưỡng tình hình hiện tại và kết luận được đưa ra tại văn kiện này. Với mục tiêu củng cố vững chắc một nước có chủ quyền, độc lập, xã hội chủ nghĩa, dân chủ, thịnh vượng và bền vững, phải xác định rõ các nguyên lý sau:

1. Đảm bảo tăng trưởng GDP, yếu tố cho phép phát triển bền vững và kéo theo đó là cải thiện phúc lợi xã hội cho người dân, công bằng và bình đẳng XH.

Page 178: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

172

2. Đảm bảo sở hữu toàn dân đối với các tư liệu sản xuất cơ bản và củng cố một mô hình phát triển KTXH thúc đẩy hoạt động hiệu quả của các cơ quan Nhà nước và Chính phủ, của hệ thống doanh nghiệp cũng như cho việc tham gia ngày càng nhiều và hiệu quả của xã hội đối với việc ra chính sách.

3. Tăng mức hiệu quả và khả năng cạnh tranh trong mọi lĩnh vực kinh tế. 4. Hoàn thiện Hệ thống An ninh và Quốc phòng Quốc gia. 5. Đảm bảo môi trường an toàn, trật tự trong nước thông qua đấu

tranh phòng chống hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, tham nhũng và các tội hình sự khác cũng như các hành vi chống lại xã hội.

6. Tạo điều kiện và thúc đẩy nghiên cứu khoa học và áp dụng KH-CN và đổi mới trong mọi mặt của đời sống.

7. Chuyển dịch ngành năng lượng, tăng đóng góp của năng lượng tái tạo và các nguồn năng lượng quốc gia khác.

8. Phục hồi, bảo tồn, hiện đại hoá và mở rộng cơ sở hạ tầng. 9. Đảm bảo ổn định dân số. 10. Phát triển các hoạt động sản xuất và cung cấp dịch vụ tận dụng tối

đa thế mạnh của đất nước. 11. Đảm bảo và ưu tiên phát triển tổng thể các ngành công nghiệp

chiến lược. 12. Phát triển sản xuất và thương mại hoá nông- thuỷ sản đảm bảo tự

cung tự cấp về lương thực thực phẩm. 13. Đảm bảo sự gắn kết trong các chính sách tiền tệ, tín dụng, giá cả,

tỷ giá và thuế. 14. Tăng nguồn tiền tiết kiệm quốc gia và đảm bảo cho các quỹ đầu tư

tài chính. 15. Mở rộng và đa dạng hoá các nguồn đầu tư nước ngoài về trung và

dài hạn. 16. Coi FDI là yếu tố quan trọng trong chiến lược phát triển đất nước. 17. Mở rộng và đa dạng hoá hoạt động ngoại thương và hợp tác quốc tế. 18. Tạo điều kiện hoàn thiện và mở rộng thị trường trong nước. 19. Củng cố thành quả của cuộc cách mạng về y tế, an sinh và hỗ trợ

xã hội, giáo dục, văn hoá, thể thao, giải trí, an ninh và bảo vệ công dân. 20. Đảm bảo nguồn việc làm cần thiết. 21. Đảm bảo công việc là nhu cầu và mục tiêu trong nhận thức cá nhân

của từng người dân. 22. Các nguồn lực sản xuất phải được phân bố đồng đều về địa lý. 23. Đảm bảo bảo tồn và sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên

nhiên và bảo vệ môi trường. Tóm lại, các trục nội dung là: Xã hội, Lãnh thổ, dân số, hạ tầng, đối

ngoại, tiền tệ-tài chính, năng lực sản xuất, quốc phòng và anh ninh trong nước, và tài nguyên thiên nhiên- môi trường.

Page 179: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

173

III. TẦM NHÌN QUỐC GIA ĐẾN NĂM 2030 Tầm nhìn quốc gia được xác định là: chủ quyền, độc lập, CNXH, dân

chủ, thịnh vượng và bền vững. Trong tầm nhìn quốc gia cần phải đạt được một sự phát triển có đủ khả

năng đương đầu với các vấn đề và khó khăn chính mà XH đang đối mặt trên mọi lĩnh vực cũng như vượt qua các thách thức trong tương lai liên quan đến tình hình quốc tế như chính trị, tài chính và thương mại.

IV. CÁC TRỤC CHIẾN LƯỢC Dựa trên tầm nhìn quốc gia, người ta xác định 6 trục chiến lược và 26

mục tiêu chung cũng như 106 mục tiêu cụ thể. Sáu trục này là hạt nhân cho việc xác định các đề xuất KTXH.

Trục chiến lược: Nhà nước XHCN hiệu quả và liên kết xã hội. Việc xây dựng Tầm nhìn quốc gia đến năm 2030 đòi hỏi phải có sự hoàn

thiện và củng cố Nhà nước XHCN, các cơ quan hành pháp, lập pháp và tư pháp và hành pháp, bộ máy nhà nước… và đỏi hỏi phải hoàn thiện tổ chức hành chính. Các cơ quan Nhà nước và hoạt động của các đơn vị này đóng vai trò cực kỳ quan trọng đối với việc soạn thảo và thực hiện các chính sách công. Phải đảm bảo các cơ quan này không được vượt qua các giới hạn mà Hiến pháp và pháp luật đã quy định. Sự phát triển của các cơ quan hành chính công hiện đại là các yếu tố mang tính quyết định đối với việc thực hiện các chính sách công.

Để đạt được những điều trên, người ta đã thiết lập 4 mục tiêu chung và 17 mục tiêu cụ thể.

Mục tiêu chung: 1. Củng cố Nhà nước XHCN dân chủ, thúc đẩy sự tham gia của người

dân trong mọi mặt. 2. Củng cố khung thể chế trên mọi phương diện và việc tuân thủ pháp

luật của toàn bộ các cơ quan nhà nước, Chính phủ, các tác nhân kinh tế và người dân.

3. Củng cố quốc phòng và an ninh quốc gia. 4. Thúc đẩy hội nhập quốc tế của Cuba vào các tiến trình kinh tế vùng

và thế giới. Mục tiêu cụ thể: 1. Tăng cường dân chủ XHCN, các nguyên lý cơ bản, các thể chế và

các thủ tục của nền dân chủ XHCN. 2. Củng cố một hệ thống hành chính công linh hoạt, hiệu quả. 3. Tăng cường hệ thống kiểm soát trong và ngoài nước cũng như

kiểm soát xã hội. 4. Đảm bảo thực hiện đúng các chính sách thông tin xã hội của chính phủ. 5. Thúc đẩy phát triển vùng dựa trên việc tăng cường quyền hạn và

khả năng hoạch định và quản lý lãnh thổ, sự tham gia của các tác nhân trong xã hội và sự hợp tác với các cơ quan khác của Nhà nước.

Page 180: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

174

6. Củng cố hệ thống điều hành nền kinh tế. 7. Đảm bảo một môi trường kinh tế vĩ mô ổn định và bền vững. 8. Củng cố hệ thống tài chính hiệu quả để đảm bảo ổn định tài chính. 9. Củng cố khung pháp lý cho phép thúc đẩy sự vận hành hiệu quả và

quy củ các tác nhân và thị trường. 10. Tạo điều kiện tăng mức đầu tư cả trong nước và nước ngoài trong

các hoạt động mang lại giá trị gia tăng cao và tạo ra nhiều việc làm. 11. Đẩy mạnh tuân thủ pháp luật, giám sát việc thực hiện quyền và

nghĩa vụ công dân thông qua một hệ thống luật pháp hiệu quả. 12. Hoàn thiện hệ thống an ninh quốc phòng quốc gia phù hợp với

những biến chuyển về chính trị, kinh tế, xã hội trong và ngoài nước. 13. Tăng cường khả năng an ninh phòng thủ trong nước dựa trên ứng dụng

ngày càng nhiều công nghệ và sự chuẩn bị của tất cả các thành tố của hệ thống. 14. Khuyến khích một môi trường chính trị trong nước và khu vực có

lợi cho sự phát triển của quốc gia thông qua hoạt động đóng góp vào tiến trình gìn giữ hoà bình, thực hiện Luật pháp quốc tế và việc tạo ra môt trật tự kinh tế quốc tế mới.

15. Tăng cường kêu gọi quốc tế yêu cầu dỡ bỏ cấm cận kinh tế, thương mại và tài chính.

16. Tiếp tục lên tiếng kêu gọi quốc tế về vấn đề trao trả lại vùng lãnh thổ Guantanamo bị Hải quân Mỹ chiếm đóng trái phép.

17. Quảng bá hình ảnh đất nước Cuba là một điểm đến hấp dẫn và an toàn, tăng tín nhiệm của Cuba trong các mối quan hệ kinh tế quốc tế.

Trục chiến lược: Chuyển dịch sản xuất và hội nhập quốc tế Chuyển dịch sản xuất với tư cách là một yếu tố của chiến lược phát triển

cần phải bao hàm được ba lĩnh vực cơ bản: hướng các nguồn lực chính của hoạt động kinh tế tới các hoạt động có kiến thức và công nghệ cao hơn, thực hiện chuyển dịch và sửa đổi cần thiết trong từng lĩnh vực, nhất là các lĩnh vực chiến lược, sửa đổi mô hình chuyên môn hoá và hội nhập kinh tế quốc tế.

Tạo điều kiện cho lực lượng lao động được chuyển đổi sang các ngành và lĩnh vực có năng xuất cao hơn, tạo dây chuyền sản xuất, xác định, khuyến khích và tạo ra các ngành mới dựa trên nguồn lực và khả năng của đất nước và sự phát triển của nền kinh tế thế giới. Cần nới lỏng các quy định tài chính cho phép Cuba có được mối quan hệ có lợi hơn với thị trường tài chính quốc tế.

Để đạt được điều này, người ta đã đặt ra 5 mục tiêu chung và 14 mục tiêu cụ thể.

Mục tiêu chung: 1. Đạt tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. 2. Thúc đẩy cơ cấu sản xuất đa dạng hoá, hiệu quả và bền vững 3. Tăng cường sự tham gia tích thực, hiệu quả và đa dạng vào thị

trường quốc tế.

Page 181: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

175

4. Sự tham gia nhiều hơn của các tác nhân kinh tế của đất nước. 5. Tạo đủ việc làm. Mục tiêu cụ thể: 1. Phát triển ngành công nghiệp chế tạo các thiết bị sản xuất quốc gia. 2. Đạt năng suất cao nhất trong mọi lĩnh vực kinh tế thông qua đa

dạng hoá, hiện đại hoá công nghệ và đổi mới. 3. Hỗ trợ dây chuyền sản xuất hướng tới hoạt động trong nước. 4. Tăng FDI. 5. Tăng sản lượng, năng suất, khả năng cạnh tranh và tính bền vững

về môi trường và tài chính cho các dây chuyền sản xuất nông lương thực, đảm bảo an ninh lương thực, thay thế nhập khẩu.

6. Thúc đẩy mối quan hệ giữa nông nghiệp với sản xuất, đặc biệt là công nghiệp thực phẩm và giữa ngành dịch vụ với sản xuất.

7. Thúc đẩy hiện đại hoá và phát triển bền vững ngành công nghiệp xây dựng.

8. Tăng cường cạnh tranh, đa dạng hoá và phát triển bền vững ngành du lịch để tăng nguồn thu cho đất nước, tạo công ăn việc làm, quảng bá văn hoá đất nước.

9. Tăng cường ngành công nghiệp hướng tới thị trường trong nước và khuyến khích tham gia vào thị trường nước ngoài.

10. Tăng hiệu quả, chất lương, khả năng đầu tư và năng suất của các hình thức quản lý phi nhà nước.

11. Thúc đẩy phát triển xuất khẩu dựa trên nền tảng là sự tham gia cạnh tranh trên thị trường quốc tế và sự liên kết giữa các doanh nghiệp xuất khẩu với ngành công nghiệp sản xuất và dịch vụ.

12. Tận dụng tiềm năng mà các vùng cũng như tiểu vùng mang lại để đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế.

13. Tham gia hiệu quả hơn vào thị trường tài chính quốc tế với mục tiêu mở rộng và đa dạng hoá các nguồn tài chính nước ngoài về trung và dài hạn.

14. Thúc đẩy tạo công ăn việc làm đặc biệt trong các ngành có công nghệ và kiến thức phức tạp, đảm bảo mức lương bình đẳng.

Trục chiến lược: Cơ sở hạ tầng Đầu tư vào cơ sở hạ tầng là chìa khoá để duy trì tăng trưởng KTXH dài

hạn vì nó mang lại các tác động trực tiếp rất lớn đến tăng khả năng cạnh tranh và hiệu quả như: tăng hiệu xuất và năng suất sản xuất của doanh nghiệp, giảm chi phí chuyển giao và hậu cần, thu hút đầu tư, hỗ trợ liên kết dây chuyền sản xuất, tạo công ăn việc làm và tăng cả số lượng và chất lượng dịch vụ cung cấp cho người dân.

Mục tiêu chung: 1. Tối ưu hoá đóng góp của cơ sở hạ tầng trong tiến trình phát triển.

Page 182: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

176

2. Hoàn thiện vai trò của Nhà nước là người quản lý đồng thời là nhà đầu tư vào cơ sở hạ tầng.

3. Tăng cường đóng góp của đầu tư trong nước và quốc tế vào phát triển và duy trì cơ sở hạ tầng quốc gia.

Mục tiêu cụ thể: 1. Tạo môi trường kinh tế vĩ mô và khung thể chế hướng tới thúc

đẩy đầu tư và đóng góp vào hạ tầng. 2. Tái cơ cấu sự tham gia của nhà nước và các hình thức quản lý

khác trong chuỗi giá trị của lĩnh vực cơ sở hạ tầng. 3. Tăng mức đầu tư vào cơ sở hạ tầng thông qua hiện đại hoá, đổi

mới và/hoặc bổ sung thêm vào khả năng đã có. 4. Tăng năng suất xã hội của các nguồn lực dành cho cơ sở hạ tầng. 5. Cho phép đầu tư nước ngoài tại các khu vực đánh giá là thuận tiện

về mặt xã hội và có tính khả thi, trong cung cấp tài chính và thực hiện đầu tư cơ sở hạ tầng.

6. Tăng cường và duy trì cơ sở hạ tầng ngành công nghiệp xây dựng bằng cách đưa vào sử dụng các công nghệ tiên tiến.

7. Đảm bảo nguồn cung năng lượng đáng tin cậy, đa dạng, hiện đại, giá cả cạnh tranh và trong điều kiện mội trường bền vững; tăng tỷ trọng năng lượng tái tạo.

8. Phát triển và duy trì cơ sở hạ tầng viễn thông để mọi người dân có thể được tiếp cận và sử dụng năng suất công nghệ thông tin và truyền thông.

9. Phát triển và duy trì cơ sở hạ tầng thuỷ điện và văn hoá tiết kiệm. 10. Mở rộng độ bao phủ và cải thiện chất lượng và tính cạnh tranh của

cơ sở hạ tầng và dịch vụ vận tải và hậu cần. 11. Biến Cuba thành một trung tâm hậu cần của khu vực dựa trên thế

mạnh về vị trí địa lý. 12. Tạo cơ sở hạ tầng tiêu chuẩn, đo lường và kiểm soát chất lượng,

quy chuẩn kỹ thuật và công nhận. 13. Đảm bảo phát triển bền vững các khu vực thành thị, nông thôn,

khu vực ven biển và vùng núi. 14. Tạo chiến lược linh động cho đầu tư hướng đến phát triển hạ tầng

đất nước bằng cách đa dạng hoá và mở rộng các nguồn đầu tư cả trong và ngoài nước.

Trục chiến lược: Tiềm lực con người, khoa học, công nghệ và đổi mới Một trong những nguồn lực cho tăng trưởng cấp quốc tế chính là đào

tạo và huy động tiềm lực con người. Để làm được điều này cần hoàn thiện khung pháp lý, trong đó có phát

triển KHCN và đổi mới, tạo ra được môi trường mà ở đó đổi mới đóng vai trò then chốt giúp tăng cường tác động của tri thức và trình độ đối với phát triển KTXH của quốc gia.

Page 183: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

177

Mục tiêu chung: 1. Phát triển tiềm lực con người có trình độ cao và đảm bảo điều kiện

để bảo vệ và ổn định tiềm lực này. 2. Tăng tác động của KHCN và Đổi mới (KHCN&ĐM) trong phát

triển KTXH và hoàn thiện khung pháp lý 3. Khuyến khích phát triển, tiếp thu và học hỏi công nghệ tiên tiến

đồng thời tạo điều kiện cho tự chủ công nghệ. Mục tiêu cụ thể: 1. Ưu tiên các lĩnh vực và hoạt động trong đó KHCN&ĐM có tác

động mạnh hơn và nhanh hơn đến tăng trưởng kinh tế. 2. Đẩy mạnh hội nhập của hệ thống KHCN&ĐM cũng như phát triển

nguồn nhân lực và hạ tầng. 3. Thúc đẩy quy trình khoa học-sản xuất khép kín. 4. Điều chỉnh khung pháp lý và quy định về KHCN&ĐM cho phù

hợp với tiến trình cập nhật mô hình kinh tế. 5. Đẩy mạnh văn hoá cống hiến cho khoa học và đổi mới trong mọi

thành phần xã hội, nhất là tầng lớp thanh thiếu niên. 6. Đẩy mạnh đổi mới và phổ biển nó trong lĩnh vực sản xuất. 7. Tăng cường vại trò của FDI trong việc đưa các công nghệ tiên tiến

cấp quốc tế vào nước ta và trong việc thành lập các khu nghiên cứu. 8. Tăng cường và đẩy mạnh vai trò của công nghệ trong tăng hiệu quả

kinh tế và năng suất của các ngành chiến lược. 9. Phát triển tiến trình và công nghệ bản địa, sử dụng hiệu quả các

nguồn lực quốc gia. 10. Tăng tiền dành cho KHCN&ĐM theo mức tăng GDP. 11. Nâng cao và tăng cường tự chủ công nghệ trong phát triển viễn

thông, công nghệ thông tin và kết nối 12. Tăng cường khả năng khảo sát và anh ninh công nghệ và bảo vệ

quyền sở hữu trí tuệ. 13. Đảm bảo sự phát triển của các trường đại học, nguồn nhân lực và

hạ tầng cho các đơn vị đào tạo này. 14. Tạo điều kiện cho sinh viên được tham gia nhiều hơn vào các

ngành khoa học tự nhiên, KH chính xác, kỹ thuật và giáo dục tương ứng với các trọng tâm sản xuất của quốc gia và từng địa phương.

15. Xây dựng các chương trình đào tạo và tăng học bổng đào tạo nghiên cứu chuyên sâu cho các tài năng trẻ các trường đại học và viện công nghệ.

16. Đưa ra đãi ngộ để bảo vệ và ổn định nguồn nhân lực có chất lượng cao, nhiều kinh nghiệm, các tài năng trẻ và đội ngũ lao động khó thay thế được.

17. Tiếp tục thúc đẩy phát triển nghiên cứu trong lĩnh vực KHXH và Nhân văn.

18. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong KHCN&ĐM.

Page 184: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

178

Trục chiến lược: Tài nguyên thiên nhiên và môi trường Cuba được ban tặng nguồn tài nguyên thiên nhiên vốn đóng vai trò

tiềm lực đối với phúc lợi xã hội và phát triển KT-XH bền vững, nhưng do nhiều thiếu sót trong quản lý và khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên đã bị sụt giảm cả về chất lượng và số lượng. Thêm vào đó là tình trạng ô nhiễm môi trường đòi hỏi phải có nỗ lực để giải quyết tình trạng này, nhất là khi Cuba đang đứng trước những thay đổi trong kinh tế. Chính phủ đang tiếp tục thúc đẩy những nỗ lực bảo vệ môi trường, đưa ra các sáng kiến mới, các mức phạt hành chính và giáo dục về môi trường, v.v. để giải quyết vấn đề này. Đồng thời thúc đẩy việc thiết lập các chính sách quản lý hiệu quả nguy cơ và thích ứng với biến đổi khí hậu, hiệu quả năng lượng và phát triển các nguồn năng lượng tái tạo… Để làm được điều này, người ta đã đưa ra các mục tiêu sau:

Mục tiêu chung: 1. Đảm bảo sử dụng hợp lý các nguồn TNTN, bảo tồn hệ sinh thái và

bảo vệ mội trường cũng như các di sản quốc gia. 2. Nâng cao chất lượng môi trường. 3. Tăng cường năng lực quốc gia để thích ứng với biến đổi khí hậu. Mục tiêu cụ thể: 1. Thực hiện một cách có hiệu quả, cập nhật thường xuyên và tăng

cường khung thể chể đối với việc áp dụng chiến lược môi trường quốc gia, làm cơ sở cho chiến lược mội trường của Cuba.

2. Thực hiện mô hình quản lý địa phương và cộng đồng với trọng tâm là môi trường.

3. Bảo vệ và sử dụng bền vững tài sản và dịch vụ từ hệ sinh thái và các di sản tự nhiên và văn hoá quốc gia.

4. Thực hiện hiệu quả việc sản xuất và tiêu thụ bền vững, áp dụng chiến lược Sản xuất an toàn hơn.

5. Ngăn ngừa, giảm thiểu và kiểm soát ô nhiễm. 6. Phát triển hệ thống quản lý tổng thể rác thải, chất độc hại và các

nguồn gây ô nhiễm ở khu vực đô thị và nông thôn. 7. Cải thiện dẫn chất lượng sống tại các khu định cư. 8. Ngăn chặn thoái hoá đất nhờ nền nông nghiệp bền vững. 9. Ngăn chặn và xử lý sụt giảm chất lượng nước và tăng cường

nguồn cung cấp nước thông qua việc bảo vệ và quản lý hợp lý các nguồn nước, tiết kiệm và tái sử dụng nước.

10. Đẩy mạnh hiệu quả năng lượng và phát triển các nguồn năng lượng tái tạo.

11. Thực hiện một cách hiệu quả các chương trình và hành động chống biến đối khí hậu.

12. Áp dụng sáng kiến kinh tế nhằm đạt được nguồn tài chính bền vững trong sử dụng và bảo tồn nguồn TNTN.

Page 185: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

179

13. Cân nhắc các hình thức quản lý kinh tế trong các chính sách môi trường và trong khung pháp lý hiện có.

14. Thúc đẩy, hệ thống hoá và tối ưu hoá tác động của khoa học và đổi mới công nghệ trong giải quyết vấn đề môi trường.

15. Tái định hướng và đẩy mạnh giáo dục đào tạo về môi trường hướng đến phát triển bền vững ở mọi cấp.

16. Hoàn thiện Hệ thống Tự vệ Dân sự để giảm thiệt hại trước những hiểm nguy từ thiên nhiên, công nghệ và sức khoẻ, phát triển hoạt động quản lý nguy cơ một cách tổng thể và hiệu quả với sự tham gia tích cực của cả cộng đồng và chính quyền địa phương.

17. Tăng cường hợp tác quốc tế . Trục chiến lược: Phát triển con người, bình đẳng và công bằng Tăng phúc lợi xã hội và chất lượng cuộc sống luôn là mục tiêu ưu tiên

của xã hội XHCN Cuba kể từ khi Cách mạng thành công. Việc làm sao để người dân có thể được tham gia vào mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị và xã hội luôn là một nguyên tắc cơ bản để đạt được tiến bộ trong tiến trình xây dựng xã hội XHCN.

Mục tiêu chung: 1. Thúc đẩy phát triển con người một cách đầy đủ và toàn diện. 2. Củng cố các thành quả của cuộc cách mạng về Chính sách xã hội

và đảm bảo nâng cao không ngừng và bền vững mức sống cũng như chất lượng sống của người dân.

3. Đảm bảo hiệu lực pháp luật cũng như việc tuân thủ các quyền và nghĩa vụ cơ bản được quy định trong Hiến pháp.

4. Giảm dần sự chênh lệch kinh tế xã hội giữa các vùng trong nước. Mục tiêu cụ thể: 1. Duy trì chính sách tiếp cận miễn phí với các chế độ phúc lợi xã hội,

tăng cường tính hiệu quả trong việc sử dụng các nguồn lực cho mục đích này cũng như tăng chất lượng phục vụ.

2. Tăng chất lượng và hiệu lực của hệ thống giáo dục phổ thông, chú trọng đến đào tạo nghề và kỹ thuật.

3. Tăng chất lượng y tế. 4. Đẩy mạnh nghiên cứu lịch sử Cuba đặc biệt và tư tưởng của José

Martín và tư tưởng chiến lược của cuộc Cách mạng. 5. Đẩy mạnh sức mua từ nguồn thu nhập từ công việc. 6. Thúc đẩy và tái khẳng định việc nhận thức các giá trị, hành động

và cách ứng xử quy định xã hội của chúng ta. 7. Tạo các điều kiện thúc đẩy sự gắn kết và liên kết giữa kế hoạch của

cá nhân và gia đình với tập thể và xã hội. 8. Tiếp tục đẩy mạnh các giải pháp giải quyết những nhu cầu thiết

yếu chưa được đáp ứng của người dân.

Page 186: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

180

9. Đảm bảo tăng tiêu thụ trong dân, đa dạng hoá sản phẩm và cải thiện chất lượng.

10. Đảm bảo nguồn việc làm theo yêu cầu của mục tiêu phát triển, chú trọng đến các việc làm có chất lượng, trình độ và lương cao hơn.

11. Đảm bảo cho việc làm trở thành nhu cầu và động lực cá nhân của mỗi công dân; lương và các khoản thu nhập khác là nguồn động lực cho người lao động.

12. Đảm bảo việc khôi phục và giữ gìn nguồn nhà ở hiện có cũng như xây dựng hệ thống nhà ở mới từ nguồn của nhà nước lẫn ngoài nhà nước.

13. Tăng cường vai trò hạt nhân của cộng đồng và gia đình trong xã hội. 14. Cải thiện tháp dân số, tạo điều kiện tăng tỷ lệ sinh. 15. Đảm bảo một hệ thống an sinh và hỗ trợ XH bền vững, phổ cập và

duy nhất. 16. Đưa ra các chính sách đặc biệt để hỗ trợ cho nhóm người cần sự hỗ

trợ đặc biệt, nhất là nhóm người dễ bị tổn thương. 17. Tăng cường bảo vệ người cao tuổi nhất là người cao tuổi trong

nhóm dễ bị tổn thương. 18. Đảm bảo bình đẳng về cơ hội cho người tàn tật, cho họ tham gia

vào hoạt động KTXH. 19. Đảm bảo việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ đối với mọi công

dân một cách bình đảng, công bằng xã hội và cho phép họ được tham gia vào xã hội.

20. Hoàn thiện khung pháp lý và thể chế để mọi người dân đều tham gia hiệu quả vào mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị và xã hội.

21. Đưa thêm lợi ích của các địa phương vào trong công tác thiết lập và quản lý chính sách công.

22. Giảm bất bình đẳng giữa khu vực thành thị và nông thôn, và giữa các vùng, trong tiếp cận dịch vụ và cơ hội.

23. Thúc đẩy và phát triển các tiến trình và biểu hiện văn hoá khác nhau giúp tái khẳng định và bảo tồn bản sắc và các giá trị nghệ thuật khác của dân tộc.

24. Tạo điều kiện cho toàn dân được tiếp cận với hình thức giải trí lành mạnh, tạo thêm không gian mới và hoàn thiện các không gian đã có.

25. Chuẩn bị cho người dân nhất là giới trẻ có cái nhìn phê phán trước những thông tin độc hại, ủng hộ chủ nghĩa đế quốc, phân biệt đối xử, bạo lực…

26.Đẩy mạnh các hoạt động thể chất và thể thao. V. CÁC LĨNH VỰC KINH TẾ CHIẾN LƯỢC Xác định được các tiêu chí về phương pháp luận phù hợp nhằm xác

định các lĩnh vực hay hoạt động chiến lược đối với phát triển đóng vai trò rất quan trọng. Các tiêu chí chính là:

Page 187: QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC ë CUBA Tõ …hcma.vn/Uploads/2018/5/8/Luan an.doc.pdf · sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách

181

1. Các lĩnh vực hay hoạt động này phải có tỷ trọng cao trong các hoạt động kinh tế, có công nghệ và đòi hỏi kiến thức và phải thể hiện được khả năng thích ứng với nhiều điều kiện trong và ngoài nước.

2. Có khả năng sản xuất và xuất khẩu từ nguồn TNTN phong phú và có tính cạnh tranh cao.

3. Có tác động tích cực và lớn đến cán cân thanh toán. 4. Cho phép phát triển mạng lưới sản xuất trên cả nước. 5. Có tác động lớn đến thị trường trong nước về tạo việc làm, đáp ứng

được như cầu cũng như có khả năng cung cấp được cho các nền kinh tế của vùng và địa phương.

6. Tác động trực tiếp và gián tiếp tới tạo việc làm trong hoạt động sản xuất. 7. Thúc đẩy các mối liên kết với các mô hình công nghệ cấp quốc tế và

đưa các công nghệ tiên tiến vào trong nước. 8. Cho phép vượt qua các hạn chế về hậu cần và hạ tầng. 9. Đóng góp quan trọng vào chủ quyền và an ninh quốc gia. 10. Tác động có lợi và không gây các tác động tiêu cực đến bền vững môi trường. 11. Trong quá trình xác định các lĩnh vực chiến lược cần tính đến việc

tiềm lực kinh tế của mỗi ngành phụ thuộc vào rất nhiều các yếu tố và cả vào việc củng cố khung pháp lý vì khung pháp lý đảm bảo thị trường hoạt động có hiệu quả và có sự quản lý.

12. Các lĩnh vực kinh tế chiến lược của Cuba là: Xây dựng, năng lượng điện, viễn thông- công nghệ thông tin-kết nối, hậu cần (logistics) giao thông vận tải, hậu cần của mạng lưới và nhà máy nước, du lịch và đa dạng hoá du lịch, dịch vụ chuyên môn nhất là y tế, công-nông liên hiệp không bao gồm ngành công nghiệp mía đường và công nghiệp thực phẩm, dược phẩm-công nghệ sinh học-sản xuất y sinh, mía đường và các ngành có liên quan và công nghiệp nhẹ.

13. Thêm vào đó, cần đẩy mạnh phát triển các hoạt động sản xuất, thương mại và dịch vụ có đặc điểm không cần nhiều vốn và dựa trên các doanh nghiệp vừa và nhỏ, bằng cách ưu tiên cho các hoạt động kinh tế hỗ trợ tăng khả năng cạnh trạnh và góp phần giảm chi phí cố định.

14. Để làm được những điều trên cần có những thay đổi đáng kể trong kế hoạch tổ chức của ngành công nghiệp, trong cơ cấu doanh nghiệp và thay đổi chung trong quản lý.

Nguồn: [26].