PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ VIỆT NAM … · 2019. 5. 4. · 2.1....
Transcript of PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ VIỆT NAM … · 2019. 5. 4. · 2.1....
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
---------------------------
TRẦN THỊ THU HƯƠNG
PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU
CHÍNH PHỦ VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH
HỘI NHẬP TÀI CHÍNH
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
HÀ NỘI, 2019
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
--------------------------
TRẦN THỊ THU HƯƠNG
PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU
CHÍNH PHỦ VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH
HỘI NHẬP TÀI CHÍNH
CHUYÊN NGÀNH : TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG
MÃ SỐ : 62.34.02.01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. TÔ KIM NGỌC
2. PGS.TS. TRẦN ĐĂNG KHÂM
HÀ NỘI, 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
nêu trong luận án này là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên
cứu của luận án có tính độc lập, số liệu và dữ liệu sử dụng trong luận án được
trích dẫn đúng quy định.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm lời cam đoan trên
Người cam đoan
NCS. Trần Thị Thu Hương
i
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT ............................................................. IV
DANH MỤC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ ....................................................................... VII
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU............................................................................................................................ 5
1.1. Tổng quan nghiên cứu ........................................................................................ 5
1.1.1. Tổng quan nghiên cứu nước ngoài ................................................................. 5
1.1.2. Tổng quan nghiên cứu tại Việt Nam ............................................................ 14
1.2. Khoảng trống nghiên cứu của đề tài ................................................................ 17
1.2.1. Khoảng trống nghiên cứu ............................................................................. 17
1.2.2. Câu hỏi nghiên cứu ...................................................................................... 18
1.3. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................. 19
1.3.1. Nghiên cứu định tính .................................................................................... 19
1.3.2. Nghiên cứu định lượng ................................................................................. 19
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU
CHÍNH PHỦ TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP TÀI CHÍNH .............................. 22
2.1. Thị trường trái phiếu Chính phủ ..................................................................... 22
2.1.1. Khái niệm thị trường trái phiếu Chính phủ ................................................... 22
2.1.2. Đặc điểm thị trường trái phiếu Chính phủ .................................................... 22
2.1.3. Cấu trúc thị trường trái phiếu chính phủ ....................................................... 30
2.2. Phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ trong bối cảnh hội nhập tài chính
.................................................................................................................................. 33
2.2.1. Hội nhập tài chính ........................................................................................ 33
2.2.2. Tác động của hội nhập tài chính đến thị trường trái phiếu Chính phủ ........... 39
2.2.3. Phát triển thị trường trái phiếu chính phủ trong bối cảnh hội nhập tài chính . 47
2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của thị trường trái phiếu Chính
phủ trong bối cảnh hội nhập tài chính .................................................................... 56
2.3.1. Quy mô nền kinh tế ...................................................................................... 57
2.3.2. Điều kiện vĩ mô ............................................................................................ 57
2.3.3. Sự tín nhiệm của Chính phủ với tư cách là tổ chức phát hành ....................... 59
2.3.4. Đặc điểm khu vực tài chính .......................................................................... 60
2.3.5. Khuôn khổ pháp lý và tính minh bạch của thị trường ................................... 61
2.4. Một số bài học về phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ trong bối cảnh
hội nhập tài chính từ kinh nghiệm quốc tế ............................................................. 62
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU
CHÍNH PHỦ VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP TÀI CHÍNH ......... 67
ii
3.1. Quá trình hội nhập tài chính của Việt Nam và hội nhập thị trường trái phiếu
Chính phủ ................................................................................................................ 67
3.1.1. Quá trình hội nhập tài chính của Việt Nam ................................................... 67
3.1.2. Hội nhập thị trường trái phiếu Chính phủ Việt Nam ..................................... 70
3.2. Khái quát quá trình hình thành và thực trạng thị trường trái phiếu Chính
phủ Việt Nam trong bối cảnh hội nhập tài chính ................................................... 71
3.2.1. Các quy định pháp lý điều chỉnh hoạt động thị trường trái phiếu Chính phủ
Việt Nam ............................................................................................................... 72
3.2.2. Thực trạng thị trường phát hành trái phiếu Chính phủ Việt Nam trong bối
cảnh hội nhập tài chính .......................................................................................... 73
3.2.3. Thực trạng thị trường giao dịch trái phiếu Chính phủ Việt Nam trong bối cảnh
hội nhập tài chính................................................................................................... 92
3.3. Phân tích sự phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ Việt Nam trong bối
cảnh hội nhập tài chính ......................................................................................... 104
3.3.1. Sử dụng bộ chỉ tiêu đánh giá sự phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ
Việt Nam trong bối cảnh hội nhập tài chính ......................................................... 104
3.3.2. Đánh giá sự phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ Việt Nam trong bối
cảnh hội nhập tài chính ........................................................................................ 124
CHƯƠNG 4: MÔ HÌNH KIỂM ĐỊNH CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TỚI SỰ
PHÁT TRIỂN CỦA THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ TRONG BỐI
CẢNH HỘI NHẬP TÀI CHÍNH .......................................................................... 133
4.1. Cơ sở dữ liệu và phương pháp ....................................................................... 133
4.1.1. Cơ sở dữ liệu .............................................................................................. 133
4.1.2. Phương pháp ước lượng ............................................................................. 134
4.1.3. Giả thuyết và mô hình nghiên cứu .............................................................. 135
4.2. Kết quả của mô hình định lượng .................................................................... 139
4.2.1. Phân tích thống kê mô tả ............................................................................ 139
4.2.2. Kết quả phân tích hồi quy ........................................................................... 141
4.3. Thảo luận kết quả nghiên cứu ........................................................................ 144
CHƯƠNG 5: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU CHÍNH
PHỦ VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP TÀI CHÍNH ..................... 148
5.1. Định hướng phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ Việt Nam trong bối
cảnh hội nhập tài chính ......................................................................................... 148
5.1.1. Định hướng hội nhập tài chính của Việt Nam ............................................. 148
5.1.2. Định hướng phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ Việt Nam trong bối
cảnh hội nhập tài chính ........................................................................................ 150
iii
5.2. Giải pháp phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ Việt Nam trong bối
cảnh hội nhập tài chính ......................................................................................... 150
5.2.1. Phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ gắn liền với phát triển kinh tế .... 151
5.2.2. Giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô .................................................................. 152
5.2.3. Tăng cường sự tín nhiệm của Chính phủ với tư cách là chủ thể phát hành trái
phiếu Chính phủ ................................................................................................... 155
5.2.4. Phát triển hệ thống tài chính tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững thị
trường trái phiếu Chính phủ ................................................................................. 159
5.2.5. Tăng cường nội lực cho thị trường hướng tới sự phát triển bền vững.......... 173
5.2.6. Tăng cường tính minh bạch của thị trường ................................................. 186
5.2.7. Kiến nghị thực hiện .................................................................................... 187
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 191
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................... 193
PHỤ LỤC ............................................................................................................... 202
iv
DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
Tên viết tắt Tên đầy đủ bằng Tiếng
Việt
Tên đầy đủ bằng
Tiếng Anh
ABMF Diễn đàn Thị trường Trái
phiếu ASEAN + 3
The ASEAN +3
bond market forum
ABMI Sáng kiến Thị trường Trái
phiếu Châu Á
The Asian bond
markets initiative
ADB Ngân hàng Phát triển Châu
Á
Asian development
bank
APEC Diễn đàn Hợp tác Kinh tế
châu Á – Thái Bình Dương
Asia-Pacific
Economic
cooperation
ASEAN Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á
Association of
Southeast Asian
Nations
CPSS Uỷ ban về các hệ thống
thanh, quyết toán
Committee on
payment and
settlement systems
CTCK Công ty chứng khoán
ECB Ngân hàng Trung ương
Châu Âu
European central
bank
EU Liên minh Châu Âu European Union
FEM Mô hình tác động cố định Fixed effects model
FTA Hiệp định thương mại tự
do
Free trade
agreements
GDP Tổng sản phẩm quốc nội Gross domestic
product
GLS Phương pháp ước lượng
bình phương nhỏ nhất
Generalized least
squares
GTGD Giá trị giao dịch
v
GTNY Giá trị niêm yết
HNTC Hội nhập tài chính
HNX Sở Giao dịch Chứng khoán
Hà Nội
IASB Hội đồng chuẩn mực kế
toán quốc tế
International
accounting standards
board
IMF Quỹ tiền tệ quốc tế International
monetary fund
IOSCO Tổ chức Quốc tế các Uỷ
ban Chứng khoán
The International
organization of
securities
commissions
KBNN Kho bạc Nhà nước
NĐT Nhà đầu tư
NHNN Ngân hàng Nhà nước
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTW Ngân hàng Trung ương
NSNN Ngân sách Nhà nước
ODA Hỗ trợ phát triển chính
thức
Official
development
assistance
OECD Tổ chức Hợp tác và Phát
triển Kinh tế
The organisation for
economic co-
operation and
development
OTC Thị trường giao dịch phi
tập trung
Over the counter
Pooled OLS Phương pháp hồi quy gộp Pooled ordinary least
squares regression
REM Mô hình tác động ngẫu Random effects
vi
nhiên model
SGDCK Sở giao dịch chứng khoán
TIPS Trái phiếu Chính phủ ngừa
lạm phát
Treasury inflation-
protected securities
TP Trái phiếu
TPCP Trái phiếu Chính phủ
TPP Hiệp định Đối tác xuyên
Thái Bình Dương
The Trans- Pacific
Partnership
UBCKNN Uỷ ban chứng khoán Nhà
nước
VBMA Hiệp hội thị trường trái
phiếu Việt Nam
Viet Nam bond
market association
VSD Trung tâm lưu ký chứng
khoán Việt Nam
Viet Nam securities
depository
WTO Tổ chức Thương mại thế
giới
World trade
organization
vii
DANH MỤC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ
1. Danh mục bảng
Bảng 3.1: Tỷ lệ đặt thầu và trúng thầu TPCP một số kỳ hạn ...................................... 79
Bảng 3.2: Cơ cấu NĐT trong các lần phát hành trái phiếu quốc tế của Việt Nam ....... 91
Bảng 3.3: Chỉ số vòng quay TPCP qua các năm ...................................................... 121
Bảng 3.4: Kết quả phân tích thống kê chỉ số TPCP của một số quốc gia trong khu vực .... 123
Bảng 4.1: Thống kê mô tả các biến trong mô hình nghiên cứu ................................. 140
Bảng 4.2. Ma trận tương quan giữa các biến trong mô hình nghiên cứu ................... 140
Bảng 4.3. Tổng hợp kết quả ước lượng với các phương pháp OLS, FEM và REM .. 141
Bảng 4.4: Kết quả hồi quy theo phương pháp GLS khắc phục hiện tượng tự tương
quan và phương sai sai số thay đổi .................................................................... 143
2. Danh mục biểu đồ
Biểu đồ 3.1: Khối lượng TPCP phát hành theo hình thức phát hành và kỳ hạn phát
hành bình quân (Đơn vị: Khối lượng: Tỷ đồng, Kỳ hạn bình quân: Năm ) .......... 75
Biểu đồ 3.2: Khối lượng phát hành TPCP bằng phương thức bảo lãnh phát hành (Đơn
vị: Tỷ đồng) ........................................................................................................ 77
Biểu đồ 3.3: So sánh lãi suất phát hành TPCP với lãi suất huy động và cho vay ........ 81
Biểu đồ 3.4: Cơ cấu nhà đầu tư mua TPCP trên thị trường sơ cấp .............................. 82
Biểu đồ 3.5: Thành viên tham gia đấu thầu TPCP qua các năm .................................. 83
Biểu đồ 3.6: Nợ công Việt Nam giai đoạn 2005-2017 ................................................ 86
Biểu đồ 3.7: Chỉ số Icor của một số nước Châu Á trung bình giai đoạn 2011-2015 .... 87
Biểu đồ 3.8 : Nợ công bình quân trên đầu người của một số quốc gia trong khu vực
giai đoạn 2010-2017 (Đơn vị: USD) ................................................................... 88
Biểu đồ 3.9: Tỷ trọng TPCP trong tổng nợ công (Đơn vị: %) ..................................... 88
Biểu đồ 3.10: Mức tăng tuyệt đối nợ nước ngoài khu vực công và mức nợ nước ngoài
quốc gia .............................................................................................................. 89
Biểu đồ 3.11: Giá trị giao dịch và niêm yết trên HOSE và HNX giai đoạn 2000-2008
(Đơn vị: Triệu đồng) ........................................................................................... 94
Biểu đồ 3.12: Quy mô niêm yết và giao dịch TPCP giai đoạn 2009 đến 2017 ............ 95
Biểu đồ 3.13: Lợi suất giao dịch TPCP các kỳ hạn ..................................................... 97
Biểu đồ 3.14: Quy mô giao dịch theo cơ cấu NĐT ................................................... 100
Biểu đồ 3.15: Quy mô thị trường TPCP so với GDP ................................................ 105
viii
Biểu đồ 3.16: Quy mô thị trường trái phiếu Chính phủ so với GDP của một số nước
khu vực ASEAN + 3 (Đơn vị: %) ..................................................................... 105
Biểu đồ 3.17: Quy mô thị trường thứ cấp TPCP Việt Nam (Đơn vị: %) ................... 106
Biểu đồ 3.18: Chênh lệch lãi suất TPCP kỳ hạn 2 năm và 10 năm tại một số thị trường
khu vực ( Đơn vị: Điểm cơ bản) ....................................................................... 108
Biểu đồ 3.19: Cơ cấu kỳ hạn còn lại của trái phiếu Chính phủ qua các năm ............. 109
Biểu đồ 3.20: Độ lệch lãi suất TPCP các kỳ hạn giữa Việt Nam và Thái Lan ........... 112
Biểu đồ 3.21: Độ lệch lãi suất TPCP kỳ hạn 10 năm giữa một số nước Đông Nam Á so
với Thái Lan ..................................................................................................... 112
Biểu đồ 3.22: Độ lệch lãi suất TPCP kỳ hạn 10 năm giữa một số nước Đông Nam Á so
với Mỹ .............................................................................................................. 113
Biểu đồ 3.23: Chỉ số β hội tụ của Việt Nam với Thái Lan và Thái Lan với Mỹ ........ 114
Biểu đồ 3.24: Hệ số chặn ......................................................................................... 115
Biểu đồ 3.25: Giá trị giao dịch TPCP theo phương thức khớp lệnh và thoả thuận trên
HOSE và HNX giai đoạn 2000-2008 ................................................................ 117
Biểu đồ 3.26: Giá trị giao dịch theo loại giao dịch giai đoạn 2009-2016 (Đơn vị: Tỷ
đồng) ................................................................................................................ 119
Biểu đồ 3.27: Biểu đồ boxplot thể hiện phân phối mức độ chênh lệch giá chào mua-
chào bán TPCP của Việt Nam, Phillipines và Malaysia giai đoạn 2007-2017 ... 121
Biểu đồ 5.1: Lộ trình hội nhập tài chính đến năm 2025 ............................................ 161
Biểu đồ PL1.1: Khối lượng trái phiếu Chính phủ Nhật Bản phát hành từng năm (Tỷ
Yên) và quy mô trái phiếu Chính phủ so với GDP (%) ..................................... 204
Biểu đồ PL1.2: Tỷ lệ nắm giữ trái phiếu Chính phủ Nhật Bản của các nhà đầu tư năm
2017 (%) ........................................................................................................... 209
Biểu đồ PL1.3: Quy mô thị trường TPCP Hàn Quốc (% GDP) và khối lượng giao dịch
(tỷ Won) ........................................................................................................... 213
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Thị trường trái phiếu Chính phủ (TPCP) là một bộ phận quan trọng của thị
trường tài chính và có vai trò lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Hàng hoá trên
thị trường là các loại TPCP, trái phiếu chính quyền địa phương được phát hành và giao
dịch với mục đích huy động vốn nhằm bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước, tạo môi
trường đầu tư cho công chúng, thực thi các chính sách kinh tế vĩ mô và chính sách tiền
tệ. Đồng thời, một thị trường TPCP phát triển và thanh khoản sẽ tạo nền tảng cho việc
định giá các công cụ tài chính khác cũng như thúc đẩy thị trường tài chính và thị
trường chứng khoán phái sinh phát triển hơn. Nghiên cứu về thị trường trái phiếu
Chính phủ là cần thiết và có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển của thị trường tài chính
và nền kinh tế ở từng quốc gia, khu vực.
Được hình thành từ những năm 1990, thị trường TPCP Việt Nam mặc dù ra đời
muộn hơn so với các nước trong khu vực và trên thế giới, nhưng cũng đã có những
thành công nhất định, trở thành một kênh huy động vốn quan trọng cho ngân sách nhà
nước và cho đầu tư phát triển. Tại Việt Nam những năm gần đây, hầu như năm nào
ngân sách nhà nước cũng bội chi và con số nợ công cũng tăng lên theo từng năm. Theo
số liệu thống kê, Việt Nam nằm trong số những quốc gia có tỷ lệ nợ công trên GDP
tăng nhanh nhất cho dù thành tích tăng trưởng kinh tế ấn tượng. Tính đến hết năm
2017, tỷ lệ nợ công ước khoảng 61,3% GDP, tiến sát trần 65% Quốc hội cho phép.
Bên cạnh đó, những năm gần đây, cơ cấu nợ công đã bắt đầu thay đổi do khả năng tiếp
cận nguồn vốn vay ưu đãi nước ngoài dần hạn chế, Chính phủ đã phải dựa chủ yếu vào
nguồn vay trong nước và vay thông qua phát hành TPCP. Do vậy, vai trò của thị
trường TPCP ngày càng trở nên quan trọng. Tuy nhiên, thị trường TPCP vẫn tồn tại
nhiều hạn chế, chưa phát triển tương xứng với tiềm năng. Quy mô thị trường còn nhỏ,
thị trường chủ yếu phát triển theo chiều rộng mà chưa có chiều sâu. Nhiều vấn đề
còn tồn tại như hàng hoá trên thị trường còn đơn giản, cơ sở nhà đầu tư kém đa
dạng, cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng yêu cầu của sự phát triển. Thị trường TPCP vẫn
chưa thực hiện được vai trò thị trường chuẩn, làm tham chiếu cho các bộ phận
khác của thị trường tài chính.
Thêm vào đó, nền kinh tế Việt Nam nói chung và thị trường tài chính nói riêng
đang trong quá trình hội nhập rất nhanh thông qua hàng loạt các hiệp định thương mại
2
vừa được ký kết. Đối với ngành Tài chính, toàn ngành đã tích cực tham gia các hoạt
động hợp tác tài chính khu vực Asean, Asean +3, Apec, Hội nghị cấp cao Đông Á
(EAS) và G20, tích cực triển khai xây dựng phương án đàm phán các hiệp định thương
mại tự do FTA, tham gia hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình
Dương CPTPP. Hội nhập tài chính (HNTC) khu vực và thế giới đem lại nhiều lợi ích,
giúp thu hút vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp từ nước ngoài, tăng cường các nguồn vốn
trung, dài hạn, tạo cơ hội chia sẻ rủi ro và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên,
HNTC cũng sẽ đem lại nhiều thách thức cho thị trường tài chính còn non trẻ của Việt
Nam, đáng chú ý nhất là nguy cơ khủng hoảng và lan truyền rủi ro. Là một bộ phận
thuộc thị trường tài chính, thị trường TPCP Việt Nam cũng không nằm ngoài xu
hướng hội nhập và chịu những tác động của HNTC khu vực và thế giới. Mặc dù vậy,
thị trường TPCP Việt Nam vẫn đang ở những bước đầu tiên của quá trình hội nhập. Và
khi so sánh với các thị trường TPCP của các quốc gia khác trong khu vực và trên thế
giới thì thị trường TPCP Việt Nam vẫn còn ở mức phát triển thấp. Trước tình hình đó,
thị trường TPCP cần có những bước phát triển hơn nữa nhằm đáp ứng với yêu cầu hội
nhập và tận dụng được những lợi ích mà HNTC đem lại.
Trước đây đã có nhiều nghiên cứu trên thế giới và tại Việt Nam về vấn đề
HNTC và thị trường TPCP, tuy nhiên đều là những vấn đề riêng rẽ mà chưa có một
nghiên cứu chính thức nào tổng hợp và toàn diện về thị trường TPCP trong bối cảnh
HNTC. Nhận thấy sự cần thiết của việc phát triển thị trường TPCP Việt Nam, nghiên
cứu sinh, dưới góc độ là một nhà nghiên cứu độc lập, đã lựa chọn đề tài: “Phát triển thị
trường trái phiếu Chính phủ Việt Nam trong bối cảnh hội nhập tài chính” làm đề tài
luận án tiến sĩ nhằm nghiên cứu và đóng góp cơ sở luận về phát triển thị trường TPCP
trong bối cảnh hội nhập tài chính, đồng thời đánh giá thực trạng thị trường TPCP Việt
Nam đặt trong điều kiện HNTC, từ đó gợi ý một số giải pháp phát triển thị trường này.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Các mục tiêu chính của luận án là:
Xây dựng khung lý thuyết về phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ trong
bối cảnh hội nhập tài chính trong đó có việc xây dựng bộ chỉ tiêu đánh giá mức độ
phát triển của thị trường TPCP trong bối cảnh HNTC và chỉ ra các nhân tố tác động
đến sự phát triển của thị trường TPCP trong bối cảnh HNTC.
3
Phân tích thực trạng phát triển của thị trường TPCP Việt Nam bao gồm thị
trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Từ đó đánh giá mức độ phát triển của thị trường
TPCP Việt Nam trong bối cảnh HNTC, chỉ ra những ưu điểm, tồn tại, hạn chế và
nguyên nhân.
Xây dựng mô hình kinh tế lượng xác định chiều ảnh hưởng và mức độ ảnh
hưởng của các nhân tố đến sự phát triển của thị trường TPCP để làm cơ sở cho việc
xây dựng các giải pháp phát triển thị trường TPCP trong bối cảnh HNTC.
Đề xuất các giải pháp nhằm phát triển thị trường TPCP Việt Nam trong bối
cảnh HNTC trong đó có các giải pháp đối với chủ thể quản lý thị trường, giải pháp với
chủ thể phát hành, nhà đầu tư và các tổ chức hỗ trợ thị trường.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của luận án là phát triển thị trường trái phiếu Chính
phủ.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu về không gian: thị trường trái phiếu Chính phủ Việt Nam
bao gồm cả thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
Phạm vi nghiên cứu về thời gian: luận án nghiên cứu thị trường TPCP Việt
Nam từ khi thị trường hình thành, tuy nhiên tập trung chủ yếu giai đoạn 2000-2017.
4. Những đóng góp mới của luận án
Về mặt lý thuyết
- Luận án đã hệ thống cơ sở luận về thị trường trái phiếu Chính phủ, hội nhập tài
chính, và phát triển thị trường TPCP dưới tác động của HNTC.
- Luận án đã xây dựng một bộ chỉ tiêu đầy đủ và toàn diện nhằm đánh giá mức độ phát
triển của thị trường TPCP trong bối cảnh HNTC bao gồm chỉ tiêu đánh giá về quy mô,
mức độ bền vững, mức độ hội nhập, mức độ tiếp cận, mức độ hiệu quả và mức độ ổn
định. Đây là điểm mới quan trọng của luận án.
Về mặt thực tiễn
4
- Luận án đã phân tích toàn diện thực trạng thị trường TPCP Việt Nam trên tất cả các
khía cạnh dưới tác động của hội nhập tài chính, tập trung giai đoạn từ năm 2000 đến
năm 2017.
- Luận án đã đánh giá mức độ phát triển của thị trường TPCP Việt Nam trong bối cảnh
HNTC sử dụng bộ tiêu chí đánh giá sự phát triển đã xây dựng ở phần lý thuyết. Những
kết quả đạt được, đặc biệt là những hạn chế và nguyên nhân trong phát triển thị trường
được chỉ rõ trong luận án.
- Luận án đã sử dụng mô hình để kiểm định các nhân tố và mức độ tác động của từng
nhân tố đến sự phát triển của thị trường TPCP trong bối cảnh HNTC. Đây là cơ sở cho
việc đề xuất các giải pháp ở chương 5.
- Kết hợp kết quả nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn, luận án đã đề xuất hệ thống giải
pháp đồng bộ, có cơ sở khoa học và có giá trị ứng dụng cao nhằm phát triển thị trường
TPCP Việt Nam tận dụng được những lợi ích đồng thời hạn chế bớt rủi ro mà HNTC
đem lại.
5. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận án gồm 5 chương:
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
Chương 2: Cơ sở lý luận về phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ trong bối cảnh
hội nhập tài chính
Chương 3: Thực trạng phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ Việt Nam trong bối
cảnh hội nhập tài chính
Chương 4: Mô hình kiểm định các nhân tố tác động tới sự phát triển của thị trường
trái phiếu Chính phủ trong bối cảnh hội nhập tài chính
Chương 5: Giải pháp phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ Việt Nam trong bối
cảnh hội nhập tài chính
5
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan nghiên cứu
Những công trình nghiên cứu về TPCP và thị trường TPCP có phạm vi và mức độ
nghiên cứu rất khác nhau. Bên cạnh đó, thời gian gần đây, nhiều nghiên cứu về HNTC
và các vấn đề liên quan cũng được các nhà nghiên cứu quan tâm. Tuy nhiên số lượng
công trình nghiên cứu về phát triển thị trường TPCP trong bối cảnh HNTC còn hạn
chế.
1.1.1. Tổng quan nghiên cứu nước ngoài
1.1.1.1. Nghiên cứu về thị trường trái phiếu Chính phủ và phát triển thị trường trái
phiếu Chính phủ
Luận điểm lý thuyết về phát triển thị trường TPCP được World bank và Quỹ tiền
tệ quốc tế (IMF) đưa ra trong nghiên cứu “Developing a government bond market: A
handbook” năm 2001 [112]. Một số vấn đề cụ thể được đề cập trong nghiên cứu như
lợi ích của việc phát triển thị trường, các điều kiện để phát triển thành công thị trường
TPCP, chiến lược phát hành TPCP và quản lý nợ, thị trường thứ cấp TPCP, cơ sở nhà
đầu tư, cơ sở hạ tầng cho thị trường, chính sách thuế liên quan, mối liên hệ giữa thị
trường TPCP và thị trường trái phiếu doanh nghiệp. Điều kiện tiên quyết để xây dựng
một thị trường TPCP hiệu quả đó là một Chính phủ có mức tín nhiệm tốt và ổn định,
chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ phù hợp, hệ thống pháp luật hiệu quả, hệ
thống thanh toán trơn tru và an toàn, và hệ thống tài chính tự do cạnh tranh giữa các
trung gian tài chính. Bên cạnh đó, nhà đầu tư đóng vai trò quan trọng đối với sự phát
triển của thị trường. Chính phủ theo truyền thống dựa vào thuế và quyền lực của họ để
đảm bảo cầu cho các trái phiếu được phát hành, vì vậy khó có thể đạt được mục tiêu
giảm chi phí vốn và một số nguồn vốn được sử dụng không hiệu quả do phân bổ vốn
sai. Phát triển cơ sở nhà đầu tư tự nguyện cho TPCP là cần thiết. Ngoài ra, Chính phủ
cần phát triển các nhà đầu tư lẻ cho TPCP đồng thời mở cửa thị trường cho nhà đầu tư
nước ngoài. Hệ thống quy định pháp lý cho thị trường cũng được đề cập như là một
nền móng cho sự phát triển hiệu quả của thị trường TPCP. Khuôn khổ pháp lý nên
được thiết lập rõ ràng từ việc tổ chức phát hành TPCP để vay nợ, quy trình phát hành
TPCP, đến việc giao dịch TPCP.
6
Trong nghiên cứu “FS series 12: Developing Government Bond Markets. Primer,
Diagnostic Checklist, and Guidelines for the Preparation of a Model Scope of Work”
(2010) [106] được Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ công bố, vấn đề phát triển thị
trường TPCP được đề cập đến cả trên phương diện lý thuyết và thực tiễn kinh nghiệm
ở một số quốc gia, tập trung vào việc xác định các biện pháp cần thực hiện để phát
triển thị trường TPCP hiệu quả. Để đạt được mục tiêu đó, các tác giả đã phân tích các
điều kiện tiền đề cho sự phát triển của thị trường bao gồm 3 nhóm chính là điều kiện
chung (mức độ tín nhiệm của Chính phủ tốt, điều kiện kinh tế vĩ mô ổn định, Chính
phủ cam kết trả lãi cho các khoản nợ tuân theo quy luật thị trường, khuôn khổ pháp lý
và kỹ thuật phù hợp cho thị trường tài chính, hệ thống ngân hàng tốt, nợ công và thị
trường tài chính đủ lớn), điều kiện liên quan đến thị trường tiền tệ và điều kiện liên
quan đến việc quản lý nợ. Đồng thời, 3 tiêu chí quản lý nợ cũng được đề cập đến như
là nền tảng quan trọng để phát triển thị trường TPCP, đó là việc quản lý nợ phải độc
lập nhưng cần phối hợp chặt chẽ với chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá, quản lý
nợ phải tập trung từ việc phát hành đến việc sử dụng và trả nợ, và đồng thời việc quản
lý thâm hụt hay thăng dự tiền mặt trong ngân sách ngắn hạn của Chính phủ phải gắn
với việc quản lý nợ. Khi đi vào nghiên cứu từng bộ phận của thị trường gồm thị trường
sơ cấp và thị trường thứ cấp, các điều kiện cụ thể hơn cũng được các tác giả đưa ra.
Việc phát hành TPCP phải dựa trên nguyên tắc thị trường, đấu thầu trái phiếu cần
được thực hiện theo nhiều phương pháp khác nhau, nhưng phải đảm bảo minh bạch,
hiệu quả và an toàn. Bên cạnh đó, các công cụ phát hành trên thị trường cần được
chuẩn hoá, có thể thay thế được nhằm làm tăng số lượng các trái phiếu hiện hành, tạo
ra những trái phiếu chuẩn và loại trái phiếu phát hành cần thay đổi linh hoạt cho phù
hợp với yêu cầu của nhà đầu tư và cấu trúc danh mục nợ mong muốn trong từng giai
đoạn. Phát triển thị trường TPCP đòi hỏi phải phát triển đồng thời thị trường sơ cấp và
thị trường thứ cấp. Phát triển thị trường thứ cấp là một thách thức, nhất là với các nước
đang phát triển. Một thị trường thứ cấp phát triển cần có khung pháp lý đầy đủ và hiệu
quả, cơ sở nhà đầu tư đa dạng, cơ sở hạ tầng hỗ trợ giao dịch và công bố thông tin
minh bạch. Cũng theo nghiên cứu này, các thị trường mới nổi được cho là đã có những
bước tiến dài trong việc mở rộng thị trường TPCP, trong khi đó, các nước đang phát
triển vẫn đang ở những bước đầu tiên. Kinh nghiệm của các nước phát triển và các thị
trường mới nổi cho thấy một thị trường trái phiếu được quản lý tốt, thanh khoản, đáng
7
tin cậy sẽ đóng vai trò quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ở cả tầm vĩ mô và vi
mô. Mỗi quốc gia cần xây dựng kế hoạch để phát triển thị trường riêng phù hợp với
điều kiện của mình. Kiểm tra các điều kiện phát triển thị trường là bước quan trọng
đầu tiên trong phát triển thị trường TPCP. Hơn nữa, khi thực hiện các biện pháp nhằm
tăng cường điều kiện thuận lợi cho phát triển thị trường sẽ gây tác động đến tình hình
vĩ mô đặc biệt là chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ, và khu vực tài chính. Do đó,
chiến lược phát triển thị trường phải phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế.
Bên cạnh các nghiên cứu về toàn bộ thị trường thì cũng có những nghiên cứu về
một vấn đề của thị trường như việc phát hành TPCP hay thị trường thứ cấp. Một số
nghiên cứu liên quan đến phát hành TPCP như lựa chọn phát hành TPCP bằng đồng
nội tệ hay ngoại tệ trong nghiên cứu của Claessens, Klingebiel, Schmukler (2007)
“Government bonds in domestic and foreign curency: the role of institutional and
macroeconomic factors” [47] và nghiên cứu của Siegfried, Simeonova, Vespo (2007)
“Choice of currency in bond issuance and the international role of currencies” [108].
Nghiên cứu của Claessens và cộng sự (2007) [47] sử dụng dữ liệu mảng cho thị trường
phát triển và thị trường mới nổi nhằm chỉ ra các yếu tố vĩ mô và các yếu tố khác có
ảnh hưởng đến độ sâu của thị trường TPCP và loại tiền tệ mà TPCP được phát hành.
Các tác giả đã xác định được một số yếu tố có ảnh hưởng hệ thống đến thị trường trái
phiếu gồm quy mô nền kinh tế và cơ sở nhà đầu tư. Nền kinh tế với hệ thống tài chính
trong nước phát triển sẽ có thị trường trái phiếu bằng đồng nội tệ lớn và phát hành ít
trái phiếu bằng đồng ngoại tệ hơn. Trong khi đó nhu cầu đầu tư của nhà đầu tư nước
ngoài có mối quan hệ cùng chiều với quy mô của các trái phiếu phát hành bằng đồng
ngoại tệ. Bên cạnh đó, một cơ chế tỷ giá hối đoái ổn định, ít linh hoạt cũng tạo điều
kiện cho phát hành trái phiếu bằng đồng ngoại tệ. Ngoài ra một số yếu tố khác tác
động đến thị trường cũng được nhắc đến như lạm phát, gánh nặng tài khoá, hệ thống
pháp luật, và độ mở của tài khoản vốn. Bên cạnh hoạt động phát hành, hoạt động giao
dịch TPCP cũng đóng góp quan trọng vào sự phát triển của toàn bộ thị trường. Nghiên
cứu của Arvai và Heenan (2008) [27] cho rằng phát triển thị trường thứ cấp TPCP cần
có một môi trường vĩ mô ổn định, đặc biệt là chính sách tài khoá, một chiến lược quản
lý nợ công hợp lý và minh bạch, cơ sở nhà đầu tư đa dạng, cơ sở hạ tầng thị trường
phát triển, vấn đề thực thi chính sách tiền tệ hiệu quả cũng tác động tích cực đến sự
phát triển của thị trường thứ cấp. Khi các yếu tố trên không đảm bảo thì sẽ ảnh hưởng
8
đến sự phát triển của thị trường thứ cấp TPCP, như cơ sở hạ tầng thị trường kém sẽ
dẫn đến chi phí giao dịch cao, thời gian thực hiện lệnh kéo dài, và mang nhiều rủi ro
hoạt động, từ đó làm giảm mức độ hấp dẫn của thị trường.
Một số công trình khác tập trung nghiên cứu về sự phát triển của thị trường TPCP
ở một quốc gia hay một khu vực cụ thể như nghiên cứu về thị trường Hàn Quốc của
Rhee năm 2013 [101], nghiên cứu của Karunasena (2009) [74] về kinh nghiệm phát
triển thị trường TPCP Sri Lanka, nghiên cứu của Abdullatif, E. M. A. (2009) [21] về
phát triển thị trường TPCP tại Iraq. Nghiên cứu của Abdullatif, E. M. A. (2009) [21]
đã phân tích môi trường tác động tới các nhà đầu tư tham gia thị trường, bao gồm
nhiều yếu tố tương tác xung quanh thị trường, trên thị trường tài chính và bản thân bên
trong thị trường trái phiếu. Môi trường xung quanh một thị trường trái phiếu là môi
trường về chính trị, môi trường kinh tế bao gồm các yếu tố vĩ mô như tăng trưởng kinh
tế, lạm phát, chính sách thuế, môi trường pháp lý và các quy định liên quan. Các yếu
tố thuộc thị trường tài chính bao gồm cấu trúc tài chính, ngân hàng và các tổ chức tài
chính, sản phẩm tài chính và cấu trúc lãi suất, chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ,
hệ thống các tổ chức hỗ trợ thị trường. Các yếu tố bên trong thị trường TPCP gồm
khuôn khổ pháp lý cho phát triển thị trường TPCP, phát triển thị trường sơ cấp TPCP,
cơ sở nhà đầu tư, phát triển thị trường thứ cấp, các yếu tố khác ảnh hưởng đến thị
trường như quản lý nợ, chính sách thuế, thị trường tiền tệ, và thị trường trái phiếu
doanh nghiệp. Tất cả các yếu tố đó ảnh hưởng đến sự hấp dẫn của thị trường đối với tổ
chức phát hành, nhà đầu tư, và các trung gian. Sự phát triển của thị trường TPCP cũng
được đề cập đến trong nghiên cứu về sự phát triển thị trường trái phiếu của các nước
Đông Á của Fabella và Madhur (2003) [59], bao gồm một số vấn đề cơ bản như quy
mô, cấu trúc kỳ hạn, cơ sở nhà đầu tư, chính sách thuế liên quan đến thị trường, cơ sở
hạ tầng cho thị trường. Nghiên cứu cũng chỉ ra mức độ phát triển khác nhau của các
thị trường trái phiếu tại các nước trong khu vực này, đồng thời đưa ra một số gợi ý
nhằm phát triển thị trường trái phiếu Đông Á như đảm bảo môi trường vĩ mô ổn định
bền vững với mức lạm phát thấp và lãi suất ổn định, cải cách hệ thống ngân hàng, tăng
cường khung pháp lý cho thị trường trái phiếu bao gồm cả vấn đề về thuế, mở rộng cơ
sở nhà đầu tư, thúc đẩy sự phát triển của trung tâm thị trường trái phiếu khu vực, tuy
nhiên cần phù hợp với mức độ phát triển của từng thị trường ở các quốc gia khác nhau.
9
1.1.1.2. Nghiên cứu về hội nhập tài chính và thị trường trái phiếu Chính phủ trong
bối cảnh hội nhập
Nghiên cứu về hội nhập tài chính
HNTC là xu thế đang diễn ra và lan toả trên toàn cầu với sự ra đời của các liên
minh kinh tế, tiền tệ như liên minh Châu Âu EU, liên minh tiền tệ Châu Âu, các hợp
tác song phương, đa phương giữa các quốc gia và khu vực. Nhiều nghiên cứu trên thế
giới về vấn đề HNTC đã được đưa ra, từ các vấn đề cơ bản như khái niệm, đặc điểm,
đến các vấn đề sâu rộng hơn. Cụ thể, nghiên cứu của Stavarek và cộng sự (2011) [110]
đã đưa ra khung lý thuyết chung về HNTC, bao gồm khái niệm, phân loại, lợi ích và
rủi ro mà HNTC đem lại như nhiều cơ hội chia sẻ rủi ro, phân bổ vốn hiệu quả giữa
các cơ hội đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng cường kỷ luật thị trường, tăng
trưởng đầu tư, cải thiện hệ thống tài chính nhưng lại làm tăng khả năng phải gánh chịu
các cú sốc từ bên ngoài, các cuộc khủng hoảng tài chính, sự biến động về vĩ mô và
dòng vốn. Ngoài Stavarek và cộng sự, nhiều tác giả khác cũng nghiên cứu về những
lợi ích và rủi ro mà hội nhập đem lại trên cả phương diện lý thuyết và thực tiễn như
Kenan (2007) [75], Mougani (2011) [94], Agenor (2001) [24]... Bên cạnh đó, một số
nghiên cứu chỉ ra rằng các quốc gia cần đạt được ngưỡng nhất định đối với sự phát
triển của hệ thống tài chính để có thể hấp thụ được lợi ích và giảm thiểu rủi ro của
HNTC. Các điều kiện ngưỡng chính được chỉ ra trong nhiều nghiên cứu như nghiên
cứu của Kose và cộng sự (2009) [77], Kose và cộng sự (2011) [78], Chen và cộng sự
(2014) [44] là: mức độ phát triển kinh tế quốc gia, sự phát triển của khu vực tài chính,
chất lượng thể chế và chính sách vĩ mô của chính phủ, và hội nhập thương mại. Một
quốc gia quản trị yếu kém, có chính sách và tổ chức kém như hệ thống pháp luật và tài
chính yếu thì HNTC có thể dẫn luồng vốn chảy ra ngoài, từ các nước khan hiếm vốn
đến các nước dư thừa vốn nhưng lại có hệ thống tổ chức tốt hơn. Từ đó sẽ ảnh hưởng
đến mức độ tăng trưởng của quốc gia đó. Đây là kết luận trong nghiên cứu “ Financial
integration and macroeconomic volatility” (2003) của Prasad và cộng sự [99]. Chính
vì vậy các quốc gia đang phát triển phải lựa chọn HNTC khi nào và như thế nào, và
cân nhắc mối quan hệ đánh đổi giữa lợi ích và rủi ro khi HNTC.
Tác động của HNTC phụ thuộc vào điều kiện ngưỡng mà từng quốc gia đạt được
khi hội nhập cũng như mức độ hội nhập của từng quốc gia. Vì vậy đo lường mức độ
HNTC là cần thiết. Nghiên cứu của Baele và cộng sự năm 2004 [29] đã xây dựng được
10
bộ chỉ số đo lường mức độ HNTC cho khu vực Châu Âu theo phương pháp dựa vào
giá, phương pháp dựa vào thông tin và phương pháp về lượng. Các tác giả đã xây dựng
một bộ chỉ số đánh giá mức độ HNTC cho từng phân khúc của thị trường tài chính bao
gồm thị trường tiền tệ, thị trường TPCP, thị trường trái phiếu doanh nghiệp, thị
trường tín dụng ngân hàng, và thị trường cổ phiếu. Từ đó, hàng năm, ngân hàng
trung ương Châu Âu ECB đã đưa ra các báo cáo đánh giá mức độ HNTC của các
nước trong khu vực.
Nghiên cứu về hội nhập thị trường trái phiếu Chính phủ
Trong nghiên cứu của Baele và cộng sự năm 2004 [29] và các báo cáo của ngân
hàng trung ương Châu Âu ECB, mức độ hội nhập của thị trường TPCP được xem xét,
đánh giá thông qua bộ chỉ số về giá, chỉ số về lượng và chỉ số về cơ sở hạ tầng.
Các nghiên cứu về hội nhập thị trường TPCP được đưa ra trước đây chủ yếu tập
trung ở khu vực Châu Âu. Nghiên cứu “EMU and European government bond market
integration” (2009) của Abad và cộng sự [19] đã sử dụng mô hình CAPM để so sánh
tác động của 2 nguồn rủi ro hệ thống là rủi ro toàn cầu và rủi ro khu vực Châu Âu lên
tỷ suất sinh lời của TPCP của hai nhóm nước thuộc liên minh tiền tệ Châu Âu và
không thuộc liên minh tiền tệ. Kết quả nghiên cứu cho thấy sự ra đời của đồng tiền
chung Châu Âu Euro có ảnh hưởng đến mức độ hội nhập của thị trường TPCP Châu
Âu. Các thị trường có chung một chính sách tiền tệ ít biến động hơn dưới tác động của
các yếu tố rủi ro toàn cầu và dễ bị tổn thương hơn dưới tác động của các yếu tố rủi ro
khu vực liên minh tiền tệ. Trong nghiên cứu của mình năm 2008 [82], Laopodis cũng
nghiên cứu sự kết nối giữa thị trường TPCP của các quốc gia thuộc liên minh tiền tệ và
không thuộc liên minh tiền tệ giai đoạn trước và sau khi đồng Euro được phát hành và
cho rằng không có sự hội nhập của các thị trường trái phiếu Châu Âu cho đến khi đồng
Euro ra đời. Những kết luận trên có ý nghĩa quan trọng đối với nhà đầu tư và những
nhà tạo lập chính sách. Đối với các nhà đầu tư, sự hiểu biết về mức độ đồng biến động
giữa các thị trường trái phiếu khu vực Euro rất cần thiết cho việc xây dựng và điều
chỉnh danh mục đầu tư quốc tế của họ. Đối với những người làm chính sách, hiểu biết
về mức độ hội nhập giữa các thị trường trái phiếu sẽ góp phần quan trọng trong việc
thực hiện chính sách tiền tệ và đề ra các chính sách khác. Cũng liên quan đến hội nhập
thị trường TPCP, nghiên cứu “Integration of government bond market in the Euro
Area and monetary policy” của Lukic năm 2016 [89] đã đánh giá cao mức độ hội nhập
11
thị trường TPCP các quốc gia ở khu vực Châu Âu, tuy nhiên từ khi xảy ra các cuộc
khủng hoảng nợ công lan truyền đến nhiều quốc gia, mức độ hội nhập giảm xuống từ
năm 2010. Bài viết cũng chỉ ra sự hội nhập của thị trường trái phiếu góp phần vào hoạt
động trơn tru của cơ chế truyền dẫn chính sách tiền tệ trong bối cảnh liên minh tiền tệ.
Ba chương trình của ECB để giải quyết cuộc khủng hoảng nợ công cũng được tác giả
phân tích, có tác dụng trong việc giảm lãi suất và chênh lệch lãi suất và làm dịu thị
trường. Nếu như ngân hàng trung ương là người cho vay cuối cùng của các ngân hàng
thì chương trình này được xem như là người mua cuối cùng đối với TPCP.
Hội nhập thị trường TPCP các nước khu vực Châu Á cũng được đề cập trong một
số nghiên cứu trước đây nhưng số lượng vẫn còn rất hạn chế. Nghiên cứu của Yu và
cộng sự năm 2007 [114] đánh giá mức độ hội nhập của thị trường TPCP khu vực Châu
Á kể từ sau cuộc khủng hoảng năm 1997, bao gồm các nước Nhật Bản, Trung Quốc,
Hồng Kong, Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore, Malaysia, Thái Lan, Indonesia và
Philippines. Tác giả đã xây dựng một bộ chỉ số đánh giá mức độ hội nhập chủ yếu dựa
trên cơ sở các thước đo hội nhập dựa vào giá đã được đưa ra trong nghiên cứu của
ECB và một số nghiên cứu trước đó. Tác giả cho rằng HNTC có nhiều chiều và khái
niệm về nó cũng khác nhau phụ thuộc vào từng nghiên cứu. Ví dụ, chỉ số mức độ phân
tán lãi suất trái phiếu dựa trên ý tưởng về việc các tài sản có đặc điểm giống nhau thì
phải đem lại thu nhập như nhau nếu thị trường hội nhập, trong khi phân tích mối tương
quan giữa lãi suất các trái phiếu lại đánh giá mức độ đồng biến động thu nhập như một
chỉ số đo lường mức độ hội nhập. Do vậy việc sử dụng chỉ số để đánh giá mức độ hội
nhập cần linh hoạt. Kết quả thực nghiệm trong nghiên cứu cho thấy mức độ hội nhập
của thị trường trái phiếu khu vực còn yếu và có rất ít thay đổi từ năm 2003.
Nghiên cứu của Lian “The empirical evidence on government bond market
integration in East Asian” (2016) [86] đã sử dụng phương pháp đánh giá mức độ hội
nhập dựa vào giá, dựa vào lượng, và sử dụng kinh tế lượng dựa vào kiểm định nhân
quả Granger để phân tích mức độ hội nhập của thị trường TPCP khu vực Đông Á. Tác
giả cho rằng, từ sau cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997, phát triển thị
trường trái phiếu đã trở thành trụ cột cho quá trình hợp tác tài chính ở Đông Á. Nhiều
nghiên cứu cho rằng một quốc gia riêng lẻ mặc dù cố gắng phát triển thị trường trái
phiếu trong nước nhưng cũng cần xây dựng một thị trường trái phiếu khu vực nơi các
Chính phủ, doanh nghiệp và các tổ chức khác có thể huy động vốn từ nguồn vốn lớn
12
của khu vực với chi phí thấp nhất (Shimizu, 2010 [107]; Rhee, 2013 [101]). Mặc dù
các thị trường trái phiếu khu vực này đã ngày càng hội nhập từ năm 2001 nhưng quá
trình hội nhập vẫn diễn ra rất chậm. Thị trường này bộc lộ hạn chế khi dễ bị ảnh hưởng
bởi những thay đổi đột ngột của các nhà đầu tư trên toàn cầu, tuy nhiên đã có những
bước cải thiện đáng kể sau cuộc khủng hoảng năm 2008. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng
các chính sách của chính phủ đóng vai trò quan trọng trong quá trình hội nhập của thị
trường trái phiếu khu vực Đông Á. Quá trình này diễn ra ngày càng mạnh mẽ qua hai
giai đoạn, sau khi sáng kiến thị trường trái phiếu Châu Á ra đời năm 2003 và giai đoạn
từ 2009 khi mà chính phủ các nước trong khu vực thực hiện các giải pháp nhằm tăng
cường hội nhập và giải quyết những ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu năm 2008. Tác giả cũng gợi ý rằng để thị trường trái phiếu khu vực hội nhập hơn
nữa thì cần có nhiều hơn các giải pháp từ phía Chính phủ các nước.
Nghiên cứu về tác động của hội nhập tài chính đến thị trường trái phiếu Chính phủ
HNTC có những tác động trực tiếp và gián tiếp đến thị trường TPCP. Những
nghiên cứu trước đây đã nghiên cứu về một vài tác động cụ thể của HNTC đến thị
trường TPCP. Claeys và cộng sự trong nghiên cứu “ Fiscal policy and interest rates:
the role of financial and economic integration” (2010) [48] cho rằng HNTC giúp bù
đắp chênh lệch lãi suất trên thị trường trái phiếu toàn cầu. Các tác giả đã đo lường mức
độ hội nhập của thị trường TPCP, sử dụng các kỹ thuật mô hình hoá và kết luận rằng
hiệu ứng lấn át (việc giảm chi tiêu hay đầu tư do chi tiêu của Chính phủ tăng) tác động
lớn đến lãi suất trong nước nhưng tác động này lại được giảm bớt bởi hiệu ứng lan toả
xuyên biên giới khi một quốc gia HNTC. Nối tiếp kết quả của nghiên cứu trước,
Claeys và cộng sự năm 2012 tiếp tục nghiên cứu về mối quan hệ giữa nợ công, lãi suất
và HNTC trong “Debt, interest rates, and integration of financial markets” [49]. Theo
lý thuyết, thâm hụt ngân sách lớn sẽ làm tăng lãi suất, tuy nhiên hiệu ứng lấn át này
của nợ công được cho là sẽ giảm bớt khi HNTC xảy ra. Các tác giả đã kiểm tra hiệu
ứng lấn át, và đo lường mức độ hội nhập của thị trường TPCP. Hiệu ứng lấn át được
kiểm soát bằng cách thêm vào các yếu tố không gian bao hàm mức độ HNTC. Các yếu
tố này mô hình hoá sự chuyển động đồng thời của lãi suất trong nước và nước ngoài,
do đó định lượng một cách đơn giản mức độ hội nhập của thị trường TPCP. Mô hình
không gian sau đó cho phép tính toán tác động cân bằng chung của tỷ lệ nợ công cao
lên lãi suất, có tính đến hiệu ứng lan toả tới các thị trường khác và phản hồi cho thị
trường trái phiếu trong nước. Sự tương quan giữa các mức lợi nhuận thị trường cho
13
phép đo lường mức độ hội nhập của thị trường TPCP, nằm trong khoảng từ 0 đến 1.
Tác giả kiểm tra ảnh hưởng của HNTC đến hiệu ứng lấn át trong nhóm nước OECD và
các thị trường mới nổi giai đoạn 1990-2005. Kết quả là hiệu ứng lấn át của nợ công
đến lãi suất dài hạn trong nước nhỏ. Với 1% tăng trong tỷ lệ nợ đẩy lãi suất tăng tối đa
2 điểm cơ bản. HNTC hàm ý tác động lan toả quan trọng thông qua thị trường trái
phiếu quốc tế, nhưng chỉ giữa các nước OECD và ở các nước Châu Âu. Các thị trường
mới nổi không hội nhập vào thị trường quốc tế tốt bằng sẽ chịu tác động mạnh mẽ hơn
của hiệu ứng lấn át.
Manganelli và cộng sự (2007) [90] trong nghiên cứu của mình thực hiện trên thị
trường TPCP Châu Âu đã phân tích mối quan hệ giữa HNTC, kỷ luật thị trường và
chính sách tài khoá. Các tác giả đã đặt ra câu hỏi liệu kỷ luật thị trường có được cải
thiện hay lại bị cản trở bởi HNTC và cho rằng HNTC bằng cách cải thiện hiệu quả thị
trường là công cụ để thị trường duy trì kỷ luật. Thị trường càng phát triển và hội nhập
thì hiệu quả thị trường càng được nâng cao và các TPCP cũng được định giá chính xác
hơn. Liên quan đến chính sách tài khoá, Furceri và cộng sự trong nghiên cứu
“Financial integration and fiscal policy” năm 2012 [61] đã sử dụng dữ liệu của 31
nước OECD từ năm 1970 đến năm 2009 chỉ ra rằng HNTC có tác động đáng kể, làm
giảm thâm hụt ngân sách và sự biến động của chi tiêu ngân sách, đồng thời có ảnh
hưởng đến cấu phần trong nợ chính phủ và tăng cường chia sẻ rủi ro bằng cách tăng tỷ
lệ nợ nước ngoài trong tổng nợ.
Cũng liên quan đến thị trường TPCP một cách gián tiếp, nghiên cứu của Bolton và
cộng sự (2011) “ Sovereign default risk and bank fragility in financially integrated
economies” [34] đã phân tích các cuộc khủng hoảng nợ công lan truyền trong các nền
kinh tế HNTC. Trong bối cảnh HNTC, các ngân hàng lựa chọn đa dạng hoá danh mục
đầu tư bằng cách nắm giữ TPCP của nhiều quốc gia nhằm giảm thiểu rủi ro một quốc
gia vỡ nợ. Mặc dù HNTC đem lại lợi ích đa dạng hoá, nhưng cũng đem lại rủi ro lan
truyền. HNTC mà không hội nhập tài khoá có thể dẫn đến tình trạng cân bằng nhưng
không hiệu quả trong nguồn cung TPCP. Những Chính phủ được đánh giá là có mức
độ tín nhiệm và an toàn cao sẽ hạn chế phát hành những khoản nợ có chất lượng cao,
được sử dụng làm tài sản thế chấp trong hệ thống tài chính trong khi các Chính phủ có
rủi ro cao lại phát hành quá nhiều các khoản nợ bởi họ không quan tâm đến chi phí lây
lan rủi ro vỡ nợ.
14
1.1.2. Tổng quan nghiên cứu tại Việt Nam
1.1.2.1. Nghiên cứu về thị trường trái phiếu Chính phủ và phát triển thị trường trái
phiếu Chính phủ tại Việt Nam
Một số nghiên cứu về phát triển thị trường trái phiếu khu vực Asia, trong đó có
Việt Nam được thực hiện, tiêu biểu như Burger và cộng sự (2015) [40] phân tích sự
phát triển của thị trường trái phiếu tại các nước Châu Á đang phát triển. Nghiên cứu
chỉ ra rằng nền kinh tế nhỏ, lạm phát cao trong thời gian dài là một trong những yếu tố
cản trở sự phát triển của thị trường trái phiếu và các nước này có thể phát triển thị
trường trái phiếu bằng cách theo đuổi những chính sách có lợi hơn cho người cho vay
như ổn định lạm phát và bảo vệ quyền lợi của người cho vay. Tác giả cũng nhấn mạnh
rằng Việt Nam là một trường hợp ngoại lệ được cảnh báo bởi thời gian gần đây, Việt
Nam đã phát triển thị trường trái phiếu bằng đồng nội tệ và giảm sự phụ thuộc vào việc
huy động vốn qua phát hành trái phiếu bằng đồng ngoại tệ nhưng phần lớn các trái
phiếu trong nước lại có kỳ hạn ngắn. Vì vậy những thay đổi về thể chế, chính sách là
cần thiết trước khi Việt Nam có thể vay nợ dài hạn bằng đồng tiền của mình.
Nghiên cứu trực tiếp về phát triển thị trường TPCP ở Việt Nam có một vài công
trình nghiên cứu như luận văn thạc sỹ của Trịnh Mai Vân “ Phát triển thị trường trái
phiếu Chính phủ ở Việt Nam” (2005) [16], luận án tiến sĩ của Lê Anh Tuấn “ Phát
triển thị trường trái phiếu Chính phủ ở Việt Nam” (2011) [3] đã hệ thống hoá các vấn
đề lý luận cơ bản về TPCP và thị trường TPCP, đánh giá thực trạng thị trường TPCP
trong giai đoạn trước đây khi thị trường chưa hình thành và khi thị trường mới đi vào
hoạt động, chỉ ra các hạn chế nguyên nhân và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện
và phát triển thị trường TPCP.
Bên cạnh các nghiên cứu tổng thể về thị trường, có những công trình nghiên
cứu tập trung vào một khía cạnh của thị trường như việc phát hành trái phiếu, giao
dịch trái phiếu. Luận án tiến sĩ của Trần Xuân Hà “Sử dụng công cụ trái phiếu Chính
phủ để huy động vốn cho đầu tư phát triển ở Việt Nam” (2004) [15] nghiên cứu bản
chất, vai trò và thị trường TPCP, các yếu tố ảnh hưởng đến việc đầu tư trái phiếu, quan
hệ cung cầu TPCP và mối liên hệ của chúng đối với việc thực thi chính sách tiền tệ,
đồng thời đánh giá việc sử dụng TPCP để huy động vốn của Việt Nam trong khoảng
thời gian 10 năm trước giai đoạn nghiên cứu. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ năm
2002 do TS Trương Thái Phương làm chủ nhiệm “ Cơ sở lý luận và thực tiễn phát
15
hành trái phiếu Chính phủ ra quốc tế” [18] đã chỉ ra sự cần thiết phải phát hành TPCP
ra thị trường quốc tế, cơ sở lý luận về phát hành TPCP ra quốc tế, đưa ra các giải pháp
thúc đẩy phát hành TPCP Việt Nam ra thị trường quốc tế. Liên quan đến thị trường thứ
cấp, đề tài nghiên cứu khoa học năm 2007 do Trần Văn Dũng làm chủ nhiệm “Phát
triển thị trường thứ cấp trái phiếu Chính phủ tại Việt Nam” [14] đã nêu ra những quy
chuẩn chung về tổ chức và vận hành thành công một thị trường thứ cấp giao dịch
TPCP, sau đó phân tích thực trạng thị trường thứ cấp TPCP Việt Nam và đề ra một lộ
trình và các giải pháp tổng thể để phát triển thị trường thứ cấp TPCP. Năm 2009,
Dương Minh Đức trong đề tài nghiên cứu khoa học cấp UBCKNN về “ Hoàn thiện hệ
thống thanh toán giao dịch trái phiếu Chính phủ tại thị trường chứng khoán Việt Nam”
[2] đã nghiên cứu đề xuất triển khai việc quyết toán bằng tiền tại NHNN cho các giao
dịch trên thị trường TPCP, nghiên cứu mô hình thanh toán và quyết toán tiền giao dịch
chứng khoán của các nước trên thế giới nhằm rút ra bài học và giải pháp cho Việt
Nam. Ngoài ra, với mong muốn xây dựng và hoàn thiện đường cong lãi suất chuẩn của
thị trường, nhiều công trình nghiên cứu đã được thực hiện như đề tài “ Hoàn thành các
điều kiện cho việc xây dựng đường cong lãi suất chuẩn của Việt Nam” (2007) [10], đề
tài “Xây dựng đường cong lãi suất chuẩn của Việt Nam” (2009) [11] do Tô Kim Ngọc
làm chủ nhiệm, và đề tài “ Xây dựng đường cong lợi suất chuẩn của trái phiếu Chính
phủ Việt Nam” do Nguyễn Thị Hoàng Lan làm chủ nhiệm (2011) [9] . Đây là những
gợi ý quan trọng trong việc xây dựng và hoàn thiện đường cong lãi suất chuẩn cho thị
trường TPCP.
1.1.2.2. Nghiên cứu về hội nhập tài chính và phát triển thị trường trái phiếu Chính
phủ Việt Nam trong bối cảnh hội nhập tài chính
Liên quan đến vấn đề hội nhập nói chung và HNTC nói riêng ở Việt Nam, tuy
đã có một số đề tài, công trình nghiên cứu khoa học được công bố liên quan nhưng số
lượng vẫn còn rất hạn chế. Đề tài nghiên cứu do Ths. Nguyễn Ngọc Cảnh chủ nhiệm
về “ Xây dựng lộ trình hội nhập thị trường vốn Việt Nam với thị trường vốn các nước
trong khu vực trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế đến năm 2010” (2005) [7] là
một trong những đề tài mang tính thời sự trong giai đoạn bấy giờ, đã đề cập đến các xu
thế và hướng tiếp cận trong tiến trình hội nhập quốc tế của thị trường vốn, trong đó
bao gồm hội nhập thị trường vốn giữa các quốc gia có mức độ phát triển tương đương
và không đồng đều, phân tích tình hình phát triển thị trường vốn Việt Nam trong bối
16
cảnh hội nhập, những cơ hội và thách thức, sau đó đưa ra các giải pháp cũng như lộ
trình hội nhập thị trường vốn Việt Nam.
Tự do hoá tài chính là một bước quan trọng trước khi một quốc gia HNTC. Có
một số công trình nghiên cứu đã bàn luận về vấn đề này, tiêu biểu như luận án tiến sĩ
của Bùi Thị Thanh Tình “Tự do hoá tài chính ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp”
(2013) [1] đã đưa ra cơ sở lý luận về tự do hoá tài chính, phân tích thực trạng tự do hoá
tài chính ở Việt Nam bao gồm tự do hoá lãi suất, tự do hoá tỷ giá hối đoái, tự do hoá
hoạt dộng của các tổ chức tín dụng và các định chế tài chính khác trên thị trường tài
chính, tự do hoá các giao dịch vốn. Sau đó, tác giả đã đo lường mức độ tự do hoá tài
chính của Việt Nam và đưa ra lộ trình tự do hoá tài chính và các giải pháp điều kiện
thúc đẩy quá trình tự do hoá tài chính ở Việt Nam. Trước đó còn có nghiên cứu của
Trần Thị Thái Hà “ Tự do hoá tài chính: Lý luận, kinh nghiệm quốc tế và những vấn
đề đặt ra cho Việt Nam” (2006) [13], đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước của
Nguyễn Toàn Thắng “Lý luận và thực tiễn về tự do hoá các giao dịch vốn và sự ổn
định khu vực tài chính Việt Nam: khuôn khổ chính sách đến năm 2020” (2010) [8].
Thời gian gần đây, vấn đề về HNTC bắt đầu thu hút được sự chú ý của nhiều
tác giả. Nghiên cứu của Tô Thị Thanh Trúc “Khu vực tài chính Việt Nam trong bối
cảnh hội nhập tài chính ASEAN” (2016) [12] đã thảo luận các khuôn khổ HNTC trong
khu vực ASEAN và các sáng kiến, cam kết hội nhập đã được các nước thực hiện bao
gồm tự do hoá dịch vụ tài chính, tự do hoá tài khoản vốn, hội nhập thị trường tài chính,
hội nhập trong lĩnh vực thanh quyết toán, phân tích thực trạng khu vực tài chính Việt
Nam trong mối tương quan so sánh với các nước trong cộng đồng kinh tế ASEAN,
liên quan đến đánh giá độ sâu tài chính, thị trường trái phiếu, thị trường cổ phiếu, hoạt
động của ngân hàng và các định chế tài chính trung gian, luồng vốn nước ngoài và độ
mở tài chính, đồng thời nêu ra các lợi ích và rủi ro của quá trình HNTC ASEAN đối
với Việt Nam. Lê Thị Hồng Minh và cộng sự trong nghiên cứu “ Kiểm định mối quan
hệ hội nhập tài chính giữa thị trường chứng khoán Đông Nam Á và thị trường chứng
khoán toàn cầu” (2016) [5] đã thực hiện kiểm định mối quan hệ hội nhập tài chính
giữa thị trường chứng khoán của sáu quốc gia Đông Nam Á (Việt Nam, Thái Lan,
Philippines, Malaysia, Indonesia và Singapore) và các thị trường chứng khoán toàn
cầu (Gồm Mỹ, Anh, Đức, Nhật Bản, và Trung Quốc) trong giai đoạn từ tháng 1/2001-
12/2015. Các tác giả sử dụng phương pháp kiểm định đường bao, kết hợp với mô hình
17
hiệu chỉnh sai số (ECM) dựa trên cách tiếp cận mô hình phân phối trễ tự hồi quy
(ARDL), kết quả nghiên cứu chỉ ra mối quan hệ cả trong ngắn hạn lẫn dài hạn giữa tất
cả các thị trường chứng khoán phát triển với thị trường chứng khoán Đông Nam Á,
đặc biệt là thị trường chứng khoán Trung Quốc thể hiện rõ nét và chặt chẽ nhất mối
quan hệ hội nhập toàn cầu.
Ngoài ra có khá nhiều bài báo và các cuộc hội thảo chuyên đề trong nước đề
cập đến vấn đề hội nhập nhưng các nghiên cứu này mới tập trung vào một vài khía
cạnh liên quan đến hội nhập nói chung, chưa có nghiên cứu nào mang tính hệ thống về
HNTC, đặc biệt là gắn kết sự phát triển của thị trường TPCP với HNTC.
1.2. Khoảng trống nghiên cứu của đề tài
1.2.1. Khoảng trống nghiên cứu
Có thể thấy, phần lớn các nghiên cứu trước đây đã có những đóng góp về mặt
cơ sở luận liên quan đến phát triển thị trường TPCP nói chung, và mảng phát hành
TPCP, lãi suất TPCP hay thị trường thứ cấp TPCP nói riêng. Đồng thời, nhiều nghiên
cứu cũng đã đưa ra những vấn đề lý luận về HNTC bao gồm khái niệm, đặc điểm, tác
động của HNTC, đo lường mức độ hội nhập đặc biệt là các nghiên cứu ở nước ngoài.
Liên quan đến thị trường TPCP, nghiên cứu trước đây đã chứng minh tác động của
HNTC đến thị trường thông qua tác động đến chính sách tài khoá, nợ, lãi suất, kỷ luật
thị trường và rủi ro vỡ nợ của Chính phủ. Tuy nhiên, các nghiên cứu này vẫn tồn tại
một số khoảng trống nghiên cứu về mặt lý thuyết cũng như thực tế, cụ thể như sau:
Về mặt lý thuyết:
Một là, chưa có nghiên cứu tổng quát, có hệ thống nào về phát triển thị trường TPCP
đặt trong bối cảnh HNTC, một xu hướng đã và đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới.
HNTC có tác động đến cả hệ thống tài chính, trong đó có bộ phận của thị trường tài
chính là thị trường TPCP thông qua một số kênh truyền dẫn. Đánh giá tác động của
HNTC đến thị trường TPCP sẽ là cơ sở để đưa ra các giải pháp thúc đẩy sự phát triển
của thị trường này trong bối cảnh hội nhập tài chính.
Hai là, chủ đề về phát triển thị trường TPCP được nghiên cứu ở nhiều quốc gia, trong
đó có Việt Nam. Tuy nhiên, phần lớn các nghiên cứu chưa xây dựng một bộ chỉ số
tổng hợp đánh giá mức độ phát triển của toàn bộ thị trường TPCP, đặc biệt khi đặt
trong bối cảnh HNTC. Đây là một khoảng trống nghiên cứu lớn và trong luận án của
18
mình, nghiên cứu sinh sẽ xây dựng bộ chỉ số đánh giá mức độ phát triển của toàn bộ
thị trường TPCP gắn với vấn đề hội nhập.
Ba là, các nghiên cứu trước đây đã sử dụng mô hình hồi quy dữ liệu gộp để đánh giá
tác động của các nhân tố đến thị trường trái phiếu nói chung ở khu vực Châu Phi, Châu
Á, tuy nhiên chưa có mô hình nào cụ thể về các nhân tố tác động đến thị trường trái
phiếu Chính phủ phù hợp với thị trường Việt Nam và khu vực ASEAN.
Về mặt thực tiễn:
Một là, về mặt thực tiễn, do mỗi quốc gia có xuất phát điểm, đặc điểm khác nhau về
kinh tế, tài chính, văn hoá, mức độ phát triển khác nhau, đồng thời mục đích phát triển
thị trường TPCP cũng khác nhau dẫn đến không thể phát triển thị trường TPCP theo
một khuôn mẫu chung giống nhau. Vì vậy, việc nghiên cứu phân tích thực trạng thị
trường TPCP từ đó đưa ra các giải pháp phát triển thị trường này cần được tiến hành
dựa trên những đặc trưng riêng có ở từng quốc gia. Những nghiên cứu về thị trường
TPCP Việt Nam chưa được cập nhật trước những thay đổi của tình hình kinh tế xã hội,
không được đặt trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng vào khu vực và thế giới.
Hai là, mức độ hội nhập của thị trường TPCP tác động đến sự phát triển của thị
trường, do vậy đo lường mức độ hội nhập của thị trường TPCP là cần thiết. Vấn đề
này đã được đưa ra trong nhiều nghiên cứu trên thế giới, tuy nhiên nghiên cứu cụ thể
cho Việt Nam thì chưa một nghiên cứu nào thực hiện, ngoài nghiên cứu của tác giả
trong các bài báo trước đây.
Tóm lại, các nghiên cứu về thị trường TPCP Việt Nam mới tập trung vào việc mô tả,
đánh giá chung, nhất là khi đặt trong một bối cảnh HNTC mới như hiện nay.
1.2.2. Câu hỏi nghiên cứu
Thị trường TPCP có vai trò quan trọng đối với thị trường tài chính, thị trường trái
phiếu và đối với sự phát triển của quốc gia nói chung. Phát triển thị trường TPCP là
nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết. Từ khi được thành lập đến nay, thị trường đã không
ngừng phát triển và ngày càng lớn mạnh. Tuy nhiên, dưới tác động của HNTC, một xu
thế đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu, thị trường TPCP cần có những bước đi phù
hợp hơn. Trong phạm vi nghiên cứu của luận án tiến sĩ, đề tài “ Phát triển thị trường
trái phiếu Chính phủ Việt Nam trong bối cảnh hội nhập tài chính” đã được lựa chọn
nhằm làm rõ câu hỏi nghiên cứu lớn nhất đó là những vấn đề trong phát triển thị
19
trường trái phiếu Chính phủ Việt Nam trong bối cảnh HNTC. Để đưa ra câu trả lời cho
câu hỏi chính, một số câu hỏi nhỏ được đưa ra, bao gồm:
Một là: Hội nhập tài chính tác động như thế nào đến thị trường TPCP?
Hai là: Thị trường TPCP Việt Nam phát triển thế nào trên tất cả các khía cạnh trong
bối cảnh HNTC thời gian vừa qua?
Ba là: Các nhân tố tác động đến sự phát triển của thị trường TPCP trong bối cảnh
HNTC là gì?
Bốn là: Giải pháp phù hợp nào để phát triển thị trường TPCP Việt Nam trong bối cảnh
HNTC hiện nay để khai thác được lợi ích mà HNTC đem lại đồng thời hạn chế bớt rủi
ro?
Các câu hỏi nghiên cứu trên sẽ được trả lời trên cơ sở khoa học chặt chẽ, cùng với
phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng với các dữ liệu thực tế về thị trường
TPCP Việt Nam.
1.3. Phương pháp nghiên cứu
Trả lời các câu hỏi nghiên cứu đặt ra về sự phát triển của thị trường trái phiếu Chính
phủ Việt Nam trong bối cảnh hội nhập tài chính luận án sử dụng cả phương pháp định
tính và định lượng.
1.3.1. Nghiên cứu định tính
Nghiên cứu định tính là phương pháp tiếp cận nhằm thăm dò, mô tả và giải thích đối
tượng được nghiên cứu dựa vào các phương tiện khảo sát kinh nghiệm, nhận thức,
động cơ thúc đẩy, dự định, hành vi, thái độ. Dữ liệu trong nghiên cứu định tính có thể
là dữ liệu định tính hoặc dữ liệu định lượng.
Trong luận án, phương pháp định tính được thực hiện nhằm phân tích các kênh tác
động của hội nhập tài chính đến thị trường trái phiếu Chính phủ, đồng thời đánh giá sự
phát triển của thị trường TPCP trong bối cảnh HNTC.
Nghiên cứu định tính trả lời các câu hỏi nghiên cứu bằng dữ liệu mang tính chất giải
thích, minh chứng, tuy nhiên kết quả đó không được chứng thực bằng các mô hình
kinh tế lượng như trong nghiên cứu định lượng. Do đó, trong quá trình nghiên cứu,
luận án kết hợp sử dụng cả nghiên cứu định lượng.
1.3.2. Nghiên cứu định lượng
Tiếp cận định lượng xem xét hiện tượng theo cách có thể đo lường được trên đối tượng
nghiên cứu. Nghiên cứu định lượng thường được gắn liền với việc kiểm định các giả
20
thuyết nghiên cứu. Nghiên cứu định lượng sử dụng các phương pháp khác nhau để
lượng hoá, đo lường và phản ánh, diễn giải mối quan hệ giữa các nhân tố với nhau.
Nội dung của phân tích định lượng là thu thập số liệu, xử lý các số liệu thông qua
thống kê, mô tả, hoặc chạy phần mềm xử lý dữ liệu và đưa ra các kết luận.
Trong luận án, phương pháp nghiên cứu định lượng được sử dụng để đo lường mức độ
phát triển của thị trường TPCP Việt Nam trong bối cảnh hội nhập tài chính và mô hình
kinh tế lượng được sử dụng để kiểm định các nhân tố và tác động của từng nhân tố tới
sự phát triển của thị trường TPCP. Cụ thể phương pháp định lượng được sử dụng như
sau:
- Nghiên cứu sinh thu thập số liệu. Luận án sử dụng cả nguồn dữ liệu sơ cấp và thứ cấp
có uy tín và có thể đối chiếu. Đối với dữ liệu sơ cấp, nghiên cứu sinh khai thác và phân
tích dữ liệu từ “Danh mục trái phiếu chính phủ và tín phiếu kho bạc” do Sở giao dịch
Chứng khoán Hà Nội HNX cung cấp. Đối với dữ liệu thứ cấp, nghiên cứu sinh thu
thập từ nhiều nguồn cung cấp số liệu như một số cơ sở dữ liệu của Ngân hàng Nhà
nước, Kho bạc Nhà nước, Bộ Tài chính, Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội, và từ Ngân
hàng phát triển châu Á, Ngân hàng thế giới World bank, Quỹ tiền tệ Quốc tế IMF...
- Nghiên cứu sinh sử dụng phương pháp thống kê, phân tích và tổng hợp để mô tả thực
trạng thị trường TPCP Việt Nam trong bối cảnh HNTC. Phần mềm Excel được sử
dụng để vẽ các đồ thị, bảng biểu nhằm mục đích phân tích, so sánh theo thời gian và
không gian.
- Nghiên cứu sinh xử lý các số liệu thu thập được nhằm tính toán các chỉ tiêu đo lường
mức độ phát triển của thị trường TPCP Việt Nam.
- Cuối cùng, phần mềm STATA 13 được sử dụng để chạy mô hình kinh tế lượng nhằm
tìm ra tác động của một số yếu tố đến sự phát triển của thị trường TPCP trong bối cảnh
HNTC. Dữ liệu sử dụng cho chạy mô hình kinh tế lượng là dữ liệu dạng bảng và
phương pháp hồi quy gộp Pooled OLS, mô hình tác động ngẫu nhiên REM, mô hình
tác động cố định FEM và phương pháp ước lượng bình phương nhỏ nhất GLS được sử
dụng.
21
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Chương 1 của luận án đã tổng hợp và đánh giá các kết quả nghiên cứu trước
đây liên quan đến vấn đề phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ trong bối cảnh hội
nhập tài chính. Các nghiên cứu này bao gồm các những nghiên cứu về mặt lý luận, và
cả những nghiên cứu thực tiễn về thị trường TPCP của một số khu vực hay quốc gia,
trong đó có Việt Nam. Cũng có nhiều nghiên cứu chỉ tập trung vào một vấn đề hay
một khía cạnh của vấn đề phát triển thị trường TPCP trong bối cảnh hội nhập tài chính
như nghiên cứu về việc phát hành trái phiếu Chính phủ, nghiên cứu về thị trường thứ
cấp TPCP, nghiên cứu về hội nhập của thị trường TPCP hay những nghiên cứu về tác
động của hội nhập tài chính. Tuy nhiên những nghiên cứu này chưa nghiên cứu tổng
quát và toàn diện về vấn đề phát triển thị trường TPCP Việt Nam trong bối cảnh hội
nhập tài chính. Trên cơ sở đó, một số câu hỏi nghiên cứu được đặt ra và các phương
pháp nghiên cứu bao gồm nghiên cứu định tính và định lượng được áp dụng ở các
chương tiếp theo để trả lời câu hỏi nghiên cứu.
22
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU
CHÍNH PHỦ TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP TÀI CHÍNH
2.1. Thị trường trái phiếu Chính phủ
2.1.1. Khái niệm thị trường trái phiếu Chính phủ
Thị trường TPCP là nơi phát hành, giao dịch mua bán các loại TPCP giữa
Chính phủ và nhà đầu tư và giữa các nhà đầu tư với nhau. Chính phủ thực hiện phát
hành trái phiếu trên thị trường TPCP nhằm huy động vốn bù đắp thâm hụt ngân sách
nhà nước, hoặc đầu tư vào các dự án, công trình trọng điểm. NĐT mua bán TPCP như
một công cụ đầu tư có rủi ro thấp.
2.1.2. Đặc điểm thị trường trái phiếu Chính phủ
2.1.2.1. Công cụ giao dịch
Trái phiếu Chính phủ là công cụ mua bán, giao dịch trên thị trường TPCP. Đây
là công cụ huy động vốn trung và dài hạn do Chính phủ phát hành. Trái phiếu ghi nhận
nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ và quyền lợi của người sở hữu trái phiếu. Khác với các
công cụ tài chính khác, TPCP là công cụ có độ an toàn cao, rủi ro thấp và thường có
thời hạn xác định. Trái phiếu Chính phủ được chia thành nhiều loại.
Phân loại theo kỳ hạn
- TPCP trung hạn: là các loại TPCP có thời hạn từ 1 năm đến 10 năm.
- TPCP dài hạn: là loại TPCP dài hạn có kỳ hạn trên 10 năm.
- Trái phiếu vĩnh cửu: là loại TP không có thời gian đáo hạn, thường được phát hành
bởi Chính phủ các nước. TP vĩnh cửu trả lãi định kỳ cho NĐT nắm giữ nó giống như
trái phiếu coupon nhưng không có ngày đáo hạn mà Chính phủ có thể mua lại để kết
thúc vòng đời của trái phiếu.
Phân loại theo lãi suất trái phiếu
- Trái phiếu có lãi suất cố định: là loại trái phiếu có lãi suất danh nghĩa được quy định
theo tỷ lệ phần trăm cố định của mệnh giá. Tổ chức phát hành cam kết trả khoản lãi
định kỳ cố định cho nhà đầu tư trong suốt thời gian tồn tại của trái phiếu bất kể lãi suất
trên thị trường biến động như thế nào.
- Trái phiếu có lãi suất thả nổi: là loại trái phiếu có lãi suất thay đổi theo từng
chu kỳ. Lãi suất của loại trái phiếu này thường được quy định theo một lãi suất
tham chiếu cụ thể.
23
- TPCP ngừa lạm phát (TIPS) là một loại trái phiếu Chính phủ đặc biệt giúp bảo vệ
người nắm giữ chúng trước tác động của lạm phát. Lãi hàng kỳ và số tiền gốc của trái
phiếu tự động tăng, giảm theo mức độ lạm phát trên thị trường. TIPS là loại chứng
khoán rất an toàn, vì vậy thường có mức lãi suất thấp hơn các loại TPCP khác.
- Trái phiếu zero-coupon: là loại trái phiếu người mua không được nhận lãi hàng kỳ
mà được mua trái phiếu với mức giá thấp hơn mệnh giá và được nhận lại vốn gốc bằng
mệnh giá khi trái phiếu đó đáo hạn.
Phân loại theo phạm vi phát hành
- Trái phiếu phát hành trong nước: là loại TPCP được phát hành trên thị trường trái
phiếu của quốc gia phát hành.
- Trái phiếu quốc tế: là loại TPCP được phát hành trên thị trường vốn quốc tế nhằm
huy động vốn từ các nhà đầu tư trên thế giới.
Phân loại theo loại tiền tệ phát hành
- Trái phiếu phát hành bằng đồng nội tệ: là loại trái phiếu được phát hành bằng đồng
tiền của quốc gia phát hành trái phiếu. Người mua trái phiếu sẽ được thanh toán lãi và
gốc bằng đồng tiền nội tệ. Loại trái phiếu này không phải chịu rủi ro tỷ giá.
- Trái phiếu phát hành bằng ngoại tệ: là loại trái phiếu được phát hành bằng ngoại tệ,
khác với đồng tiền của quốc gia phát hành trái phiếu. Trái phiếu phát hành bằng ngoại
tệ gồm:
+ Trái phiếu bằng đồng ngoại tệ được phát hành trong nước: là loại trái phiếu phát
hành bằng ngoại tệ trên thị trường trái phiếu trong nước.
+ Trái phiếu Châu Âu- Eurobond: là loại trái phiếu được phát hành bằng một đồng tiền
khác với đồng nội tệ, và khác với đồng tiền của nước mà tại đó nó được phát hành.
+ Trái phiếu nước ngoài: là trái phiếu được phát hành ở nước ngoài bằng đồng tiền của
quốc gia phát hành.
2.1.2.2. Chức năng của thị trường trái phiếu Chính phủ
- Thị trường TPCP là nơi huy động vốn vay cho Chính phủ nhằm mục đích bù đắp
thâm hụt ngân sách nhà nước hoặc đầu tư cho các dự án, công trình trọng điểm, cơ sở
hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế xã hội. TPCP thường được phát hành với khối lượng
lớn, do đó quy mô thị trường TPCP thường lớn. Trong bối cảnh hội nhập tài chính và
tự do hoá tài chính, Chính phủ đứng trước yêu cầu loại bỏ dần các biện pháp huy động
vốn mang tính bắt buộc, hoặc phát hành tiền để cân đối ngân sách và chuyển dần sang
24
các hình thức huy động vốn tuân theo quy luật thị trường. Phát hành TPCP trên thị
trường TPCP là một kênh huy động vốn đáp ứng được yêu cầu. Đây là chức năng đặc
biệt của thị trường TPCP, khác so với các thị trường khác.
- Thị trường TPCP cung cấp công cụ đầu tư cho các cá nhân, tổ chức. Đây là công cụ
đầu tư quan trọng đối với NĐT trên thị trường mặc dù khả năng sinh lời không cao
nhưng đây là công cụ có tính an toàn cao, góp phần giảm rủi ro cho danh mục đầu tư
của NĐT.
- Thị trường TPCP đóng vai trò quan trọng trong thị trường tài chính. Bên cạnh việc
cung cấp thêm các công cụ nợ làm phong phú hệ thống hàng hoá trên thị trường tài
chính, thị trường TPCP được coi là thị trường nợ chuẩn, làm tham chiếu cho các thị
trường khác. Lãi suất TPCP được sử dụng làm lãi suất tham chiếu trên thị trường tài
chính. Ngoài ra, thị trường TPCP phát triển sẽ cải thiện cơ sở hạ tầng tài chính cần
thiết cho sự phát triển của các bộ phận khác trong thị trường tài chính, bao gồm hệ
thống giao dịch, lưu ký và thanh toán bù trừ. Bên cạnh đó, thị trường TPCP là nòng
cốt để phát triển thị trường TP.
- Đặc biệt hơn, thị trường TPCP là nơi cung cấp công cụ để Chính phủ và ngân hàng
Trung ương thực hiện chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ. Thị trường TPCP phát
triển sẽ là kênh truyền dẫn chính sách tiền tệ hiệu quả thông qua nghiệp vụ thị trường
mở, sự tồn tại của đường cong lãi suất chuẩn. Đối với chính sách tài khoá, thị trường
TPCP phát triển sâu rộng tạo điều kiện cho Chính phủ huy động vốn tài trợ cho thâm
hụt NSNN thông qua phát hành trái phiếu, hạn chế việc phải tăng thuế để tăng nguồn
thu, từ đó góp phần ổn định hệ thống thuế và tăng hiệu quả tổng thể của nền kinh tế.
Ngoài ra, kỷ luật thị trường TPCP góp phần tăng cường kỷ luật ngân sách, tăng cường
hiệu quả của chính sách tài khoá. Cụ thể trong trường hợp chính sách tài khoá kém
hiệu quả, người tham gia thị trường có thể yêu cầu tăng chi phí vốn tài trợ cho Chính
phủ thông qua lãi suất TPCP cao.
2.1.2.3. Chủ thể tham gia trên thị trường trái phiếu Chính phủ
Chủ thể quản lý
Thị trường TPCP được quản lý bởi sự kết hợp của nhiều cơ quan chức năng.
Thông thường Bộ Tài Chính là cơ quan quản lý chung, là đầu mối thống nhất quản lý
thị trường TPCP từ việc tham mưu các chính sách huy động vốn của Chính phủ, tổ
chức phát hành TPCP, điều hành lãi suất TPCP, định hướng phát triển và quản lý thị
25
trường, quản lý các thành viên tham gia thị trường, đưa ra các văn bản pháp luật liên
quan trình các cấp có thẩm quyền xem xét quyết định cũng như tổ chức và hướng dẫn
thực hiện các văn bản đó. Các đơn vị chức năng thuộc Bộ Tài chính được phân chia
nhiệm vụ rõ ràng trong từng khâu vận hành của thị trường. KBNN thường là đơn vị tổ
chức huy động vốn cho NSNN phục vụ chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển
thông qua phát hành TPCP, đồng thời phối hợp với các đơn vị khác điều hành thị
trường. NHTW cũng là một chủ thể quản lý quan trọng bởi đây là cơ quan quản lý nhà
nước trong lĩnh vực tiền tệ. NHTW phối hợp với Bộ Tài chính xác định nguồn bù đắp
bội chi NSNN và phối hợp trong phát triển thị trường TPCP, giúp KBNN huy động và
sử dụng vốn ngân sách một cách hiệu quả, quản lý các chủ thể tham gia trên thị
trường. TPCP là phương tiện quan trọng để NHTW thực thi chính sách tiền tệ, là công
cụ để NHTW thực hiện bơm, hút tiền từ nền kinh tế thông qua hoạt động thị trường
mở, qua đó cũng tạo thanh khoản cho TPCP và hỗ trợ thanh khoản cho các ngân hàng
thương mại. Thông qua việc mua bán TPCP mà NHTW tác động mạnh, thậm chí chi
phối giá cả của trái phiếu trên thị trường. Các tín hiệu thắt chặt hay nới lỏng chính
sách tiền tệ cũng có tác động đến thị trường TPCP.
Sở giao dịch chứng khoán (SGDCK) và thị trường giao dịch phi tập trung
(OTC) là các cơ quan trực tiếp quản lý, vận hành thị trường TPCP. SGDCK thực hiện
tổ chức giao dịch các trái phiếu Chính phủ được niêm yết, ban hành các quy định điều
chỉnh hoạt động giao dịch TPCP tại Sở. Thị trường OTC có thể được quản lý bởi
Chính phủ hoặc bởi các tổ chức kinh doanh chứng khoán.
Chủ thể phát hành
Chính phủ tham gia vào thị trường TPCP với vai trò quan trọng là chủ thể phát
hành. Việc phát hành TPCP đồng nghĩa với việc Chính phủ đang đi vay và sẽ làm tăng
nợ công của quốc gia. Chính phủ có rất nhiều cách khác nhau để huy động vốn như
vay nợ nước ngoài, vay nợ các tổ chức quốc tế, phát hành giấy tờ có giá, in tiền... Tuy
nhiên việc phát hành TPCP là việc làm phổ biến, được nhiều quốc gia áp dụng. Đây
được coi là cách thức tài trợ tối ưu nhất cho thâm hụt NSNN của một quốc gia. Chính
phủ với vai trò là tổ chức phát hành cũng sẽ đảm bảo cho việc thanh toán các khoản lãi
và gốc khi đến hạn của TPCP. Mặc dù vậy, trên thực tế, đã có nhiều quốc gia vỡ nợ
khi Chính phủ không thể thanh toán các khoản lãi và gốc theo cam kết.
Nhà đầu tư
26
Nhà đầu tư là chủ thể quan trọng trên thị trường TPCP. Do khối lượng và giá trị
giao dịch trên thị trường TPCP thường lớn nên tham gia trên thị trường chủ yếu là các
nhà đầu tư tổ chức có lượng vốn lớn.
Việc đa dạng hoá cơ sở nhà đầu tư cải thiện thanh khoản và tạo nguồn cầu ổn
định cho thị trường. Ở các nước có thị trường TPCP phát triển, cơ sở NĐT trải rộng từ
nhà đầu tư bán buôn đến các nhà đầu tư bán lẻ và từ NĐT trong nước đến NĐT nước
ngoài. Bên cạnh các ngân hàng thương mại, chủ thể đầu tư quan trọng của TPCP là các
quỹ đầu tư, các công ty bảo hiểm. Một hệ thống các nhà đầu tư không đồng nhất về
thời gian đầu tư, khẩu vị rủi ro, và động cơ giao dịch sẽ đảm bảo thanh khoản của
TPCP. Bên cạnh đó, sự khác nhau giữa các thị trường phát triển với các thị trường kém
phát triển là tính chất nguồn tài chính tài trợ cho Chính phủ. Sự phụ thuộc vào các
nguồn tài trợ bắt buộc thường xảy ra ở các thị trường kém phát triển. Trong khi đó, tại
các thị trường phát triển hơn, việc giảm dần tiến tới loại bỏ các yêu cầu dự trữ và giới
hạn tỷ lệ đầu tư của NĐT đã được thực hiện để tự do hoá thị trường.
Ngân hàng thương mại
Ở các thị trường mới nổi, NHTM là nhà đầu tư chính trên thị trường TPCP. Các
quốc gia thường quy định một tỷ lệ dự trữ các tài sản có tính lỏng để đảm bảo thanh
khoản trong đó có TPCP. Các NHTM đầu tư vào TPCP một phần để kinh doanh kiếm
lời, một phần để thoả mãn yêu cầu nắm giữ tài sản có tính lỏng, kiểm soát thanh khoản
của họ trong ngắn hạn và đề phòng những biến động lãi suất trong tương lai, đồng thời
sử dụng như tài sản thế chấp cho các giao dịch mua bán lại với khách hàng và chiết
khấu vay mượn từ ngân hàng trung ương.
Công ty chứng khoán
CTCK là chủ thể quan trọng trên thị trường sơ cấp và thứ cấp TPCP. Các
CTCK nắm giữ TPCP để đa dạng hoá danh mục đầu tư, phòng ngừa rủi ro. Ngoài vai
trò là NĐT thì CTCK còn đóng vai trò môi giới cho hoạt động mua bán TPCP trên thị
trường thứ cấp của các chủ thể đầu tư khác.
Các quỹ tiết kiệm hợp đồng (quỹ hưu trí và công ty bảo hiểm)
Quỹ hưu trí và công ty bảo hiểm đóng vai trò quan trọng, cung cấp nguồn cầu
ổn định, dài hạn trên thị trường. Nhu cầu của khu vực này về các sản phẩm có lãi suất
cố định và rủi ro thấp là cơ sở quan trọng để phát triển thị trường TPCP. Một trong
những đặc điểm đầu tư của quỹ hưu trí là đặt mục tiêu bảo toàn vốn lên trên hết. Quỹ
27
hưu trí có các nghĩa vụ thanh toán cố định, chắc chắn trong tương lai, và có nguồn vốn
nhàn rỗi lớn xuất phát từ sự đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động.
Do đó, TPCP thường được các quỹ hưu trí lựa chọn. Nghĩa vụ thanh toán của các quỹ
hưu trí phụ thuộc vào điều khoản quy định của quỹ và phải được bảo vệ trước biến
động lạm phát. Để tránh rủi ro tái đầu tư, các quỹ hưu trí cần tính toán thời lượng của
các tài sản đầu tư của họ trùng với nghĩa vụ thanh toán. Tuy nhiên, các quỹ hưu trí
nhất là ở các nước đang phát triển, các thị trường mới nổi thường đầu tư và nắm giữ
TPCP đến khi đáo hạn khiến cho giao dịch thứ cấp TPCP tại các thị trường này thường
ảm đạm.
Còn với các công ty bảo hiểm, chính sách đầu tư cũng phụ thuộc vào trách
nhiệm thanh toán trong tương lai và tính chất của từng gói sản phẩm. Tuy nhiên chính
sách đầu tư của công ty bảo hiểm rộng rãi hơn so với các quỹ đầu tư. Công ty bảo
hiểm đầu tư đa dạng, vào nhiều loại tài sản khác nhau, trong đó TPCP chỉ là một phần
trong danh mục đầu tư, nhằm giảm thiểu bớt rủi ro cho danh mục. Tuỳ thuộc vào chính
sách đầu tư của từng công ty cũng như quy định của từng quốc gia, phạm vi tham gia
thị trường TPCP của các công ty bảo hiểm sẽ khác nhau.
Các quỹ đầu tư– quỹ tương hỗ
Các quỹ đầu tư như quỹ tương hỗ có vai trò hỗ trợ sự phát triển của thị trường
TPCP. Các quỹ này có thể tạo ra sự cạnh tranh nhiều hơn trong khu vực tài chính và là
một cách hiệu quả để Chính phủ tiếp cận với các NĐT lẻ. Mục đích chính của quỹ là
đầu tư vào các chứng khoán trên thị trường như cổ phiếu và trái phiếu, đại diện cho
những người góp vốn vào quỹ. Quỹ tương hỗ phụ thuộc vào hiệu quả hoạt động của
thị trường chứng khoán. Khác với công ty bảo hiểm hay quỹ hưu trí, các quỹ tương hỗ
tạo lập danh mục đầu tư theo mục tiêu. Vì vậy họ có thể đầu tư vào một danh mục
không cân bằng, có thể tập trung quá nhiều vào trái phiếu (cả TPCP và trái phiếu
doanh nghiệp) hoặc cổ phiếu (hoặc đa dạng hoá hoặc tập trung vào một ngành nào đó).
Quỹ tương hỗ trái phiếu đóng vai trò quan trọng trên thị trường TPCP và cung cấp vốn
cho Chính phủ. Sự phát triển của quỹ tương hỗ không phụ thuộc vào các cải cách phức
tạp về an sinh xã hội hay cải cách trong ngành bảo hiểm. Do đó, chúng có thể phát
triển nhanh nếu được hoạt động trong khuôn khổ pháp lý mạnh mẽ nhằm thúc đẩy sự
phát triển của quỹ và bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư nhỏ.
28
Các quỹ tương hỗ dù được thành lập trong hay ngoài nước cũng cần được cho
phép đầu tư trên thị trường TPCP. Việc cho phép các tổ chức nước ngoài gia nhập vào
khu vực này cũng tạo áp lực cho các công ty trong nước cải thiện tình hình quản trị
doanh nghiệp và giảm bớt mức phí.
Nhà đầu tư cá nhân
Các nhà đầu tư cá nhân đóng góp một nguồn cầu ổn định cho TPCP. Để
phát triển NĐT cá nhân, Chính phủ cần phát triển cơ chế cung cấp TPCP chuẩn
cho nhà đầu tư lẻ nhằm hạn chế sự phân mảnh của thị trường khi có nhiều NĐT cá
nhân tham gia.
NĐT nước ngoài
NĐT nước ngoài cũng là một nguồn cầu quan trọng đối với TPCP. Các NĐT
nước ngoài thường có yêu cầu cao về chất lượng và dịch vụ của các trung gian tài
chính và cơ sở hạ tầng của thị trường, vì vậy, sự tham gia của họ sẽ thúc đẩy sự phát
triển của thị trường TPCP ở nhiều quốc gia. Tuy nhiên bởi vì NĐT nước ngoài thường
có xu hướng nhạy cảm hơn với rủi ro và thường quản lý danh mục đầu tư một cách
chủ động nên họ có thể làm cho thị trường trong nước mất ổn định.
Các tổ chức hỗ trợ thị trường
Nhà tạo lập thị trường
Khái niệm nhà tạo lập thị trường được đưa ra lần đầu tiên tại Mỹ năm 1960 và
đã phát triển rộng khắp thế giới. Hệ thống nhà tạo lập thị trường có vai trò quan trọng
đối với thị trường TPCP. Tất cả các quốc gia đều quy định nhà tạo lập thị trường phải
tham gia tích cực trên thị trường sơ cấp và thứ cấp với khối lượng mua và giao dịch tối
thiểu nhằm thúc đẩy phát triển thị trường. Trên thị trường sơ cấp, các nhà tạo lập thị
trường tham gia đấu thầu một khối lượng lớn và ổn định TPCP, hoặc bảo lãnh phát
hành TPCP. Trên thị trường thứ cấp, các nhà tạo lập thị trường ngoài việc phải giao
dịch một lượng tối thiểu theo quy định nhằm tăng thanh khoản của thị trường thì một
số quốc gia còn yêu cầu họ phải có nghĩa vụ chào giá mua bán hai chiều đối với TPCP.
Các nhà tạo lập thị trường sẽ yết giá mua và giá bán cho các loại TPCP này để làm căn
cứ giao dịch, và chênh lệch giữa giá chào mua- chào bán là phần lợi nhuận dành cho
các nhà tạo lập thị trường. Hệ thống các nhà tạo lập thị trường giúp cải thiện quy mô
29
và thanh khoản của thị trường, đồng thời giúp hạn chế số lượng tổ chức tham gia đấu
thầu trên thị trường sơ cấp, điều này sẽ hạn chế việc thị trường bị phân mảnh.
Nhà tạo lập thị trường sẽ có những quyền và lợi ích nhất định khi tham gia thị
trường, được ưu tiên hơn các NĐT khác. Nhà tạo lập thị trường có thể là bất cứ tổ
chức chuyên nghiệp nào trên thị trường đáp ứng được các điều kiện chặt chẽ mà mỗi
quốc gia đưa ra.
Khi phát triển thị trường TPCP, Chính phủ thường sử dụng hệ thống các nhà
kinh doanh trái phiếu cấp 1. Đây là các trung gian tài chính được Chính phủ lựa chọn
để thúc đẩy đầu tư vào TPCP và hoạt động trên thị trường TPCP. Thông thường, vai
trò tạo lập thị trường thường do chính các nhà kinh doanh trái phiếu chính phủ cấp 1
đảm nhiệm.
Nhà môi giới
Nhà môi giới là các tổ chức thực hiện giao dịch mua bán trái phiếu cho khách
hàng nhằm hưởng phí môi giới . Các tổ chức này đóng vai trò trung gian môi giới cho
các tổ chức, cá nhân có nhu cầu mua bán trái phiếu. Các nhà kinh doanh trái phiếu như
công ty chứng khoán, NHTM và các tổ chức khác được phép theo quy định của pháp
luật đều có thể trở thành nhà môi giới.
Tổ chức lưu ký và thanh toán giao dịch TPCP
Tổ chức lưu ký chứng khoán có chức năng tổ chức và giám sát hoạt động đăng
ký, lưu ký, bù trừ TPCP. Tổ chức thanh toán giao dịch TPCP có trách nhiệm thực hiện
thanh toán tiền giao dịch TPCP, đảm bảo an toàn cho hệ thống thanh toán. Với quy mô
thị trường nhỏ, tổ chức thanh toán giao dịch TPCP có thể được thực hiện bởi một tổ
chức được Chính phủ chỉ định. Tuy nhiên khi quy mô thị trường lớn hơn, quy mô niêm
yết và giá trị giao dịch, giá trị thanh toán ngày càng tăng đòi hỏi tổ chức thanh toán
TPCP phải có tiềm lực tài chính đủ mạnh mới có thể đảm bảo an toàn cho hệ thống
thanh toán, giải quyết được các rủi ro thanh toán tiềm ẩn.
Tổ chức xếp hạng tín nhiệm
Tổ chức xếp hạng tín nhiệm là tổ chức đánh giá mức độ tín nhiệm của tổ chức
phát hành cũng như các trái phiếu được phát hành dựa vào khả năng thanh toán các
khoản tiền theo cam kết. Tổ chức định mức tín nhiệm có vai trò quan trọng trên thị
trường trái phiếu bởi đây sẽ là cơ sở giúp các NĐT đưa ra quyết định đầu tư. Đây cũng
là yếu tố quan trọng ảnh hưởng quyết định đến việc phát hành và giao dịch của các
30
loại trái phiếu. Định mức tín nhiệm cao thì việc phát hành trái phiếu sẽ dễ dàng, thuận
lợi hơn, giảm được chi phí huy động vốn đồng thời giao dịch trên thị trường thứ cấp
cũng sôi động hơn. Theo xu hướng phát triển thị trường TPCP tuân theo quy luật thị
trường thì tổ chức xếp hạng tín nhiệm càng có vai trò quan trọng bởi theo quy luật này,
thị trường sẽ hướng tới việc coi TPCP là một công cụ đầu tư trên thị trường chứ không
đơn thuần là một công cụ phi rủi ro như trước. Định mức tín nhiệm sẽ tác động đến
Chính phủ phát hành trái phiếu, nâng cao ý thức về việc đảm bảo thanh toán lãi và gốc
khi đến hạn, từ đó việc phát hành và sử dụng vốn thu được từ TPCP hiệu quả hơn,
đồng thời gắn phát triển thị trường TPCP với cải thiện môi trường vĩ mô và tăng
trưởng kinh tế.
2.1.3. Cấu trúc thị trường trái phiếu chính phủ
2.1.3.1. Cấu trúc luân chuyển tư bản
Thị trường sơ cấp trái phiếu Chính phủ
Phát hành TPCP là việc Chính phủ bán TPCP ra cho các NĐT và thu tiền về.
Việc phát hành và phân phối TPCP đến nhà đầu tư được thực hiện qua một số phương
thức như đấu thầu, phát hành qua tổ hợp ngân hàng đầu tư và bán lẻ trái phiếu qua kho
bạc. Để phát hành được TPCP, thu hút được nhiều nhà đầu tư và kiểm soát được rủi ro,
Chính phủ phải cải thiện chất lượng kinh tế vĩ mô và cải thiện thể chế chính sách,
trong đó chính sách quản lý nợ là một phần rất quan trọng. Việc quản lý nợ của Chính
phủ ngày càng đối diện với nhiều thử thách khi Chính phủ có xu hướng dựa vào nguồn
lực của thị trường thông qua phát hành TPCP để tài trợ cho nhu cầu vốn của mình và
chấp nhận gánh chịu rủi ro đến từ việc tự do hoá tài chính và dòng vốn quốc tế gia
nhập thị trường ngày càng nhiều.
Thị trường thứ cấp trái phiếu Chính phủ
Thị trường thứ cấp TPCP là nơi các TPCP đã được phát hành trên thị trường sơ
cấp được giao dịch, mua đi bán lại. Trên thị trường thứ cấp, các NĐT trao đổi mua bán
TPCP với nhau, tiền và chứng khoán được chuyển từ NĐT này sang NĐT khác, không
liên quan đến tổ chức phát hành. Mặc dù thị trường thứ cấp không mang lại vốn một
cách trực tiếp cho tổ chức phát hành trái phiếu nhưng thị trường thứ cấp sẽ tạo động
lực cho sự phát triển của thị trường sơ cấp thông qua cải thiện thanh khoản cho TPCP.
31
2.1.3.2. Cấu trúc giao dịch
Thị trường giao ngay
Thị trường giao ngay là thị trường mua bán trái phiếu theo giá tại thời điểm
giao dịch và việc thực hiện thanh toán và giao hàng có thể diễn ra sau một vài ngày.
TPCP được coi là loại hàng hoá có tính thanh khoản cao. Để đảm bảo được tính thanh
khoản đó thì thị trường thứ cấp TPCP phải đáp ứng được yêu cầu mua bán TPCP ngay
lập tức, vì vậy rất cần các giao dịch giao ngay. Mục tiêu cuối cùng trong phát triển thị
trường giao dịch giao ngay là chi phí giao dịch thấp, giá cả sẵn có và cập nhật liên tục,
dễ dàng tiếp cận vào hệ thống giao dịch và các trung gian hỗ trợ giao dịch, cơ chế giao
dịch, thanh toán an toàn, nhanh chóng. Thời gian từ khi giao dịch được khớp đến bước
cuối cùng ngắn sẽ làm cho TPCP có tính lỏng cao hơn.
Thị trường kỳ hạn
Giao dịch mua bán lại là một nghiệp vụ mua bán trái phiếu chính phủ gồm hai
giai đoạn, bán trái phiếu tại thời điểm hiện tại với mức giá đã thoả thuận trong hợp
đồng, và mua lại trái phiếu đó với một mức giá xác định trong tương lai vào một ngày
đã định. Giao dịch đầu tiên thực hiện khi một bên (bên bán) bán một số lượng TPCP
cho bên thứ hai (bên mua) để thu tiền về. Trong thoả thuận này người bán được yêu
cầu phải mua lại số TPCP đó sau một thời gian, có thể là một đêm đến 2 tuần. Giao
dịch thứ hai xảy ra khi bên khởi tạo mua lại số TPCP họ đã bán. Ngược lại với các
khoản vay có thế chấp chuẩn, quyền sở hữu của TPCP trong giao dịch repo được
chuyển hẳn cho người cho vay, điều này sẽ giúp bảo vệ người cho vay. Người cho vay
có quyền sở hữu trái phiếu vì vậy cũng có toàn quyền bán toàn bộ số trái phiếu đó nếu
người bán ban đầu không thực hiện được nghĩa vụ mua lại của mình. Repo được thoả
thuận trong một thời gian ngắn, thường tối đa là 2 tuần, và có lãi suất gần với lãi suất
liên ngân hàng. Chúng có thể được thực hiện theo nhiều cách khác nhau, phụ thuộc
vào cơ sở hạ tầng của thị trường, thực tiễn và quy định pháp luật của từng quốc gia.
Thị trường mua lại (repo) cần được phát triển bởi vì chúng phục vụ cho các
mục đích đặc biệt của cả khu vực tư nhân và cơ quan tiền tệ. Việc vay và cho vay giữa
các bên tham gia thị trường bao gồm các ngân hàng, các định chế tài chính, doanh
nghiệp có thể được thúc đẩy trên cơ sở an toàn thông qua việc sử dụng repo làm giảm
rủi ro tín dụng và chi phí giao dịch. Các đại lý chứng khoán sử dụng repo để tận dụng
32
vốn từ số TPCP mà họ nắm giữ tồn kho bằng cách đưa chúng ra thị trường và cung cấp
báo giá hai chiều. Các đại lý cho mượn các chứng khoán đang ở trong kho của họ
nhưng không có ý định bán ngay. Ngân hàng trung ương có thể tạm thời bơm thanh
khoản vào hệ thống bằng cách mua chứng khoán theo repo. Khi giao dịch repo được
thực hiện nhiều, nhu cầu đối với TPCP tăng lên, làm tăng thanh khoản cho thị trường
thứ cấp.
2.1.3.3. Cấu trúc tổ chức thị trường trái phiếu chính phủ
Sở giao dịch
SGDCK là thị trường giao dịch TPCP tập trung. Trên thị trường này, chỉ có các
chứng khoán đủ điều kiện và đã niêm yết mới được giao dịch. Phương thức giao dịch
trên Sở giao dịch là phương thức đấu giá, lệnh mua bán được khớp với nhau trên cơ sở
cung cầu, từ đó hình thành giá TPCP dựa vào thị trường. Trên thị trường tập trung, chỉ
có các thành viên thị trường theo quy định mới được trực tiếp thực hiện các giao dịch
tại sàn, còn các thành viên khác bắt buộc phải thực hiện giao dịch thông qua các thành
viên chính thức của thị trường. Do vậy, nhằm tăng cường giao dịch TPCP trên thị
trường tập trung, nhiều quốc gia quy định các thành viên được cấp quyền giao dịch
trên thị trường tập trung phải thực hiện giao dịch khối lượng TPCP tối thiểu.
Thị trường OTC
TPCP có thể được giao dịch trên thị trường tập trung (Sở giao dịch chứng
khoán) hoặc giao dịch trên thị trường phi tập trung OTC. Thực tế tại nhiều quốc gia,
giao dịch TPCP trên thị trường OTC chiếm ưu thế hơn so với thị trường tập trung.
Hoạt động chủ yếu trên thị trường OTC là các nhà kinh doanh trái phiếu, nhà tạo lập
thị trường. Ở những thị trường kém phát triển, giao dịch điện tử còn chưa được thực
hiện, TPCP được mua bán tại nhiều mức giá khác nhau, ở nhiều địa điểm khác nhau,
và thực hiện tại mức giá thoả thuận giữa người mua và người bán. Ở các thị trường
phát triển hơn, giá TPCP được yết tự động bởi các nhà tạo lập thị trường, là những nhà
kinh doanh trái phiếu sẵn sàng mua bán một hoặc một vài trái phiếu theo giá đã yết.
Khi khách hàng muốn mua hoặc bán một loại trái phiếu nhất định, khách hàng có thể
liên hệ với CTCK nơi mở tài khoản, đặt lệnh mua hoặc bán. Nếu CTCK nơi khách
hàng đặt lệnh đồng thời là nhà tạo lập thị trường cho loại trái phiếu mà khách hàng
muốn giao dịch thì bộ phận giao dịch của công ty sẽ trực tiếp thương lượng và thoả
33
thuận với khách hàng. Nếu CTCK không phải là người tạo lập thị trường cho trái
phiếu đó, CTCK sẽ liên hệ với các nhà tạo lập thị trường, xác định giá chào mua, chào
bán và thực hiện giao dịch cho khách hàng với nhà tạo lập thị trường nào đưa ra mức
giá có lợi nhất.
2.2. Phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ trong bối cảnh hội nhập tài chính
2.2.1. Hội nhập tài chính
2.2.1.1. Khái niệm hội nhập tài chính
Khái niệm hội nhập tài chính được đưa ra trong nhiều nghiên cứu trước đây.
Baele và cộng sự (2004) [29], Broos (2010) [38] cho rằng một thị trường HNTC hoàn
toàn là khi những người tham gia thị trường đối mặt với các nguyên tắc như nhau khi
lựa chọn, tiếp cận các tài sản và dịch vụ tài chính giống nhau và được đối xử công
bằng trong các hoạt động trên thị trường. Trong khi Brouwer (2005) [39], Xing và
Abbott (2007) [113] nghiên cứu về HNTC và cho rằng HNTC là quá trình thị trường
tài chính của một quốc gia trở nên ngày càng hoà nhập với thị trường tài chính của các
quốc gia còn lại trên thế giới hoặc trong khu vực hội nhập, dẫn đến sự gia tăng của
dòng vốn nước ngoài và các tổ chức tài chính có thể hoạt động hoặc cung cấp các dịch
vụ tài chính xuyên biên giới.
Tóm lại, HNTC là quá trình thị trường tài chính một quốc gia trở nên ngày càng
kết nối với thị trường tài chính các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới, kéo
theo sự tự do dịch chuyển dòng vốn và các dịch vụ tài chính xuyên biên giới giữa các
quốc gia, không phân biệt đối xử giữa những người tham gia thị trường, làm cho các
tài sản tài chính có đặc điểm giống nhau bất kể nguồn gốc xuất xứ sẽ được giao dịch
với mức giá như nhau.
Hội nhập tài chính và toàn cầu hoá tài chính
Theo Ngân hàng thế giới, toàn cầu hoá tài chính được định nghĩa là sự hội nhập
hệ thống tài chính của các quốc gia khác nhau trên thị trường tài chính quốc tế
(Schmukler, 2004) [104]. Đây là một khái niệm rộng, chỉ sự mở rộng mạnh mẽ của các
dòng tài chính và các giao dịch tài chính toàn cầu. Trong khi thuật ngữ HNTC quốc tế
được đề cập đến là sự kết nối của một quốc gia với thị trường tài chính quốc tế (Prasad
và cộng sự, 2003) [99]. HNTC quốc tế là sự chủ động mở cửa của hệ thống tài chính
trong nước và tiếp cận với phần còn lại của thị trường tài chính thế giới bao gồm tiếp
nhận và đầu tư các dòng vốn xuyên biên giới, các dịch vụ tài chính và quốc tế hoá của
các tài sản tài chính hay các khoản nợ. Như vậy, toàn cầu hoá tài chính là một khái
34
niệm tổng hợp để chỉ sự liên kết ngày càng tăng trên toàn cầu thông qua các dòng chảy
vốn xuyên biên giới các quốc gia, còn HNTC lại đề cập đến sự liên kết của một quốc
gia với thị trường tài chính thế giới. Tuy nhiên có thể thấy hai khái niệm này có sự liên
quan chặt chẽ.
Hội nhập tài chính và tự do hoá tài chính
HNTC không giống với tự do hoá tài chính. Theo IMF, tự do hoá tài chính là
quá trình giảm thiểu và dần dần huỷ bỏ sự kiểm soát của Nhà nước đối với hoạt động
của hệ thống tài chính quốc gia, làm cho hệ thống này hoạt động tự do hơn và hiệu quả
hơn theo quy luật thị trường. Bản chất của tự do hoá tài chính là nhằm đưa hoạt động
tài chính vận hành theo cơ chế thị trường, bỏ vai trò điều tiết tài chính của Chính phủ,
chuyển từ quản lý bằng hành chính sang quy luật thị trường. Hội nhập đòi hỏi chính
phủ phải tự do hoá lĩnh vực tài chính trong nước và tài khoản vốn của họ (Schmukler,
2004) [104] [105]. Hội nhập xảy ra khi các quốc gia tự do hoá tiếp nhận sự di chuyển
của dòng vốn giữa các quốc gia ngày càng tăng lên, và sự tham gia một cách chủ động
của nhà đầu tư và người cần vốn trong nước trên thị trường quốc tế và sử dụng các
trung gian tài chính quốc tế.
2.2.1.2. Phân loại hội nhập tài chính
Có nhiều cách phân loại HNTC, dựa vào các tiêu chí khác nhau.
Theo mức độ hội nhập tài chính
- Theo Emiris (2002) [57], HNTC bao gồm hội nhập hoàn toàn và hội nhập từng phần.
Thị trường hội nhập hoàn toàn khi các tài sản có cùng đặc điểm rủi ro sẽ có cùng mức
giá kể cả khi chúng được giao dịch ở các thị trường khác nhau. Trong thị trường tài
chính hội nhập hoàn toàn, NĐT khi đầu tư các tài sản tài chính trên tất cả các thị
trường chỉ chịu các rủi ro chung mà không chịu các rủi ro cá biệt của từng quốc gia.
Khi thị trường hội nhập một phần, các NĐT đối mặt với cả rủi ro chung và rủi ro cá
biệt của từng quốc gia và việc đầu tư các tài sản tài chính cũng chịu cả 2 loại rủi ro
này. Nếu thị trường hoàn toàn không hội nhập, NĐT và cả giá của tài sản chỉ chịu rủi
ro đặc thù của một quốc gia. Trong trường hợp đó, các khoản đầu tư giống nhau ở hai
quốc gia sẽ đem lại mức sinh lời khác nhau, bởi nguồn rủi ro có thể khác nhau ở các
thị trường.
35
- Theo mức độ hội nhập, Oxelheim (1990) [95] và Guha và cộng sự (2004) [64] lại
phân loại HNTC thành HNTC trực tiếp, HNTC gián tiếp và HNTC toàn bộ (hoàn hảo).
HNTC trực tiếp liên quan đến quy luật một giá của các tài sản tài chính. Thị trường hội
nhập trực tiếp hoàn hảo khi quy luật 1 giá tồn tại và nhà đầu tư có thể kỳ vọng mức
sinh lời như nhau đối với các tài sản tài chính sau khi điều chỉnh theo rủi ro. HNTC
gián tiếp là khi thu nhập kỳ vọng của một khoản đầu tư ở một quốc gia liên quan gián
tiếp đến thu nhập của một khoản đầu tư ở một quốc gia khác. HNTC toàn bộ (hoàn
hảo) bao gồm HNTC trực tiếp và gián tiếp. Khi tỷ suất sinh lời kỳ vọng giống nhau ở
các thị trường hội nhập thì được gọi là HNTC toàn bộ.
Theo phạm vi hội nhập
Theo Garcia- Herrero và cộng sự (2007) [62], căn cứ vào phạm vi hội nhập,
HNTC gồm hội nhập khu vực và hội nhập toàn cầu. Hội nhập khu vực xảy ra khi thị
trường tài chính trong nước liên kết ngày càng chặt chẽ với các trung tâm tài chính khu
vực, trong khi hội nhập quốc tế là sự liên kết ngày càng tăng với các trung tâm tài
chính quốc tế như London và Newyork. Hội nhập khu vực hay quốc tế sẽ giúp quốc
gia khai thác được các lợi ích khác nhau. Chu kỳ kinh doanh ở các nước có khoảng
cách địa lý xa thường có sự tương quan thấp, vì thế lợi ích chia sẻ rủi ro được khai
thác tốt nhất từ hội nhập toàn cầu. Khoảng cách địa lý gần là một yếu tố quan trọng
ảnh hưởng đến thương mại và sự dịch chuyển của dòng vốn, vì thế tăng trưởng kinh tế
được khai thác từ hội nhập khu vực.
Theo tính chính thống
Theo Delisle và Julia (2009) [50], HNTC bao gồm hội nhập chính thống theo
hiệp định (formal financial integration) và hội nhập không chính thống theo thị trường
(informal financial integration). Hội nhập chính thống (formal financial integration) là
HNTC thực hiện theo các thoả thuận hợp tác được ký kết giữa hai quốc gia (song
phương) hoặc nhiều quốc gia (đa phương) trong quá trình bãi bỏ dần các hạn chế trong
hoạt động đầu tư, các giao dịch ngân hàng và tín dụng, các hoạt động thanh toán, và
chuyển thu nhập từ đầu tư, thoả thuận hợp nhất về mặt pháp lý cũng như các quy tắc
trên thị trường, thoả thuận chuyển đổi tiền tệ không mất phí và thoả thuận về một thị
trường vốn hợp nhất. Hội nhập không chính thống (informal financial integration) là
quá trình HNTC diễn ra tự nhiên được điều chỉnh bởi thị trường. Nó xảy ra khi các
36
ngân hàng hay tổ chức tài chính nước ngoài gia nhập vào thị trường trong nước, các
NĐT nước ngoài tham gia vào thị trường bảo hiểm, các quỹ hưu trí, chứng khoán được
giao dịch xuyên biên giới và các doanh nghiệp trong nước có thể vay vốn trực tiếp ở
thị trường nước ngoài ngay cả khi không có một thoả thuận chính thống nào để thúc
đẩy những hoạt động đó.
2.2.1.3. Nội dung hội nhập tài chính
Liebscher và cộng sự (2007) [87] cho rằng HNTC diễn ra ở nhiều khía cạnh như chuẩn
mực hoá về khuôn khổ pháp lý, tự do hoá tài khoản vốn, sự gia nhập của các yếu tố
nước ngoài và sự tham gia vào thị trường quốc tế của tổ chức, cá nhân trong nước, hội
nhập tiền tệ thông qua liên minh tiền tệ...
Chuẩn mực hoá về khuôn khổ pháp lý cho hoạt động tài chính
Hội nhập các sản phẩm, dịch vụ tài chính và hội nhập các quy định tài chính là
hai khía cạnh của quá trình hội nhập tài chính. Theo nhiều nghiên cứu như nghiên cứu
của Jordan và Majnoni (2002) [72], nghiên cứu của Garcia-Herrero và cộng sự (2007)
[62], HNTC đặt ra yêu cầu phải chuẩn mực hoá khuôn khổ pháp lý cho hoạt động tài
chính ở các quốc gia hội nhập. Chuẩn hoá khuôn khổ pháp lý cho hoạt động tài chính
có thể được thực hiện thông qua áp dụng các thông lệ quốc tế tốt nhất và hài hoà hoá
các tiêu chuẩn và luật pháp quốc gia thông qua việc công nhận lẫn nhau các tiêu chuẩn
hoặc thông qua các tiêu chuẩn tối thiểu chung để hạn chế gây ra những chênh lệch về
quy định giữa các quốc gia hội nhập (Sole và cộng sự, 2007 [109]). Bên cạnh đó, mở
cửa thị trường tài chính quốc gia cho các NĐT nước ngoài cũng như cho phép NĐT
trong nước đầu tư ra nước ngoài thông qua việc nới lỏng các quy định kiểm soát là một
nội dung hội nhập (Garcia- Herrero và cộng sự, 2007 [62]).
Nội dung chuẩn mực hoá khuôn khổ pháp lý cho hệ thống tài chính bao gồm
tăng cường áp dụng các chuẩn mực kế toán, kiểm toán quốc tế cùng với việc chuẩn
hoá các thông tin tài chính của người đi vay và chuẩn hoá các hợp đồng tài chính;
chuẩn hoá khuôn khổ pháp lý về công bố thông tin theo chuẩn quốc tế, hướng dẫn
cách công bố thông tin, xây dựng bản cáo bạch hay báo cáo tài chính chuẩn quốc tế;
khuôn khổ quản trị rủi ro theo chuẩn quốc tế, tuân thủ các hiệp ước, quy tắc quản trị
rủi ro toàn cầu và giám sát việc tuân thủ; và các tiêu chuẩn quản trị doanh nghiệp
(Liebscher và cộng sự, 2007) [87].
Trong hầu hết các trường hợp, các tiêu chuẩn quốc tế mà quốc gia hội nhập áp
dụng đều được rút ra trực tiếp từ những tiêu chuẩn quốc tế được ban hành bởi IMF, Uỷ
ban Basel, OECD, và hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB). Việc áp dụng các
37
chuẩn mực quốc tế này đòi hỏi phải có nguồn nhân lực có kiến thức, hiểu biết, vì vậy
vấn đề đào tạo nhân lực là rất cần thiết. Cộng đồng quốc tế đã và đang tiếp tục đưa ra
hàng loạt các chuẩn mực để thị trường tài chính phát huy chức năng của mình hiệu quả
và nhiều quốc gia đã thực hiện từng bước để đồng bộ hoá các quy định quốc gia với
chuẩn mực thế giới.
Sự gia nhập các yếu tố nước ngoài và sự tham gia vào thị trường quốc tế của tổ
chức, cá nhân trong nước
HNTC gắn với sự tham gia của các tổ chức, cá nhân nước ngoài vào thị trường
trong nước và sự tham gia của các tổ chức, cá nhân trong nước ra thị trường nước
ngoài. Cùng với đó, cơ sở hạ tầng thanh toán và hỗ trợ giao dịch chuẩn khu vực và
quốc tế cũng được sử dụng rộng rãi. Khu vực tài chính hội nhập sẽ sử dụng hệ thống
thanh toán duy nhất cho tất cả các quốc gia. Để xây dựng được hệ thống cơ sở hạ tầng
như vậy đòi hỏi một cách tiếp cận toàn diện bao gồm cải cách hệ thống thanh toán,
giao dịch quốc gia, hạn chế bớt rào cản cho việc thanh toán, giao dịch xuyên biên giới,
áp dụng các kinh nghiệm và tiêu chuẩn phổ biến. Các quốc gia trong khu vực hội
nhập, dựa vào việc áp dụng các chuẩn mực quốc tế được xây dựng bởi Uỷ ban về các
hệ thống thanh, quyết toán (CPSS) và tổ chức quốc tế các Uỷ ban chứng khoán
(IOSCO), đưa ra các thoả thuận dịch vụ thanh toán, giao dịch có khả năng đáp ứng yêu
cầu của tất cả người dùng. Cụ thể, hệ thống thanh toán bù trừ cần đảm bảo 5 khía cạnh
là thanh toán qua biên giới, chuyển tiền qua biên giới, hệ thống thanh toán bán lẻ qua
biên giới, thanh toán trên thị trường vốn qua biên giới, chuẩn mực hoá, nhằm cải thiện
cơ sở hạ tầng thanh toán trong nước, thúc đẩy các dịch vụ thanh toán xuyên biên giới
hiệu quả và cuối cùng tiến tới hội nhập vào hệ thống khu vực.
Theo ADB (2013) [28], trong quá trình hội nhập, một số quốc gia thành viên có
cơ sở hạ tầng tài chính không đủ thì cần ưu tiên xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng hội
nhập trước. Mỗi quốc gia có mức độ phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng khác nhau vì
vậy không thể có một lộ trình giống nhau ở tất cả các nước thành viên của khu vực hội
nhập mà nên phụ thuộc vào sự phát triển của thị trường tài chính và cơ sở hạ tầng cho
thị trường tài chính từng quốc gia.
Tự do hoá tài khoản vốn
Tự do hoá tài khoản vốn là quá trình dỡ bỏ dần những hạn chế áp dụng đối với
những giao dịch vốn, cho phép các dòng vốn vào ra được luân chuyển tự do theo
38
nguyên tắc thị trường, từ nơi có mức sinh lời thấp sang nơi có mức sinh lời cao. Khi
dòng vốn được tự do hoá, một chủ thể kinh tế có thể dễ dàng đầu tư hoặc vay tiền tự
do từ các quốc gia khác trong khu vực hội nhập mà không gặp bất cứ cản trở nào về
thủ tục pháp lý hay hành chính đối với việc chuyển vốn. Theo Sole (2007) [109], kế
hoạch tự do hoá tài khoản vốn sẽ khác nhau giữa các quốc gia tuỳ theo điều kiện ban
đầu và mục tiêu kinh tế của họ, mặc dù có những nguyên tắc nhất định về việc tự do
hoá tài khoản vốn có vẻ đơn giản như tự do hoá luồng vốn vào trước khi tự do hoá các
luồng vốn ra, tự do hoá các luồng vốn dài hạn trước khi tự do hoá các luồng vốn ngắn
hạn do các luồng vốn dài hạn có tính ổn định cao nên có thể tự do hoá trước, trong khi
luồng vốn ngắn hạn có tính biến động lớn, dễ đảo chiều, tạo ra bất ổn, tự do hoá đối
với việc sử dụng các công cụ tài chính có độ rủi ro thấp trước, tự do hoá đầu tư trực
tiếp nước ngoài trước đầu tư danh mục.
Hội nhập tiền tệ thông qua hình thành liên minh tiền tệ
Các bằng chứng lý thuyết và thực tiễn cho rằng, sự ra đời của đồng tiền chung
khu vực chắc chắn mang lại động lực mạnh mẽ cho quá trình HNTC bởi đồng tiền
chung là một yếu tố quan trọng của một hệ thống tài chính chung (Jikang và Xinhui,
2004 [71]). Theo Hargreaves (1999) [65] một liên minh tiền tệ khác với một khu vực
tiền tệ. Một khu vực tiền tệ là một nhóm các quốc gia theo đuổi chế độ tỷ giá cố định,
tối thiểu trong một giới hạn nhất định. Một liên minh tiền tệ là một khu vực sử dụng
đồng tiền chung. Sự khác nhau giữa khu vực tiền tệ và liên minh tiền tệ thường nhỏ
hơn trên thực tế, bởi vì trong cả hai chế độ, việc di chuyển vốn hạn chế sự độc lập của
chính sách tiền tệ. Mặt khác, sự khác biệt giữa chế độ tỷ giá thả nổi và cố định là vấn
đề các quốc gia cần cân nhắc khi có tham gia vào một khu vực tiền tệ hay liên minh
tiền tệ. Sự tồn tại của một liên minh tiền tệ dựa trên hai trụ cột, một là nền kinh tế và
hai là chính trị (Hargreaves, 1999) [65]. Sức mạnh của trụ cột kinh tế phụ thuộc vào
việc liệu những lợi ích kinh tế của việc sử dụng chung một đồng tiền cho khu vực có
vượt trội hơn so với các chi phí khi loại bỏ đồng tiền quốc gia. Trong khi đó, trụ cột về
chính trị phụ thuộc vào sự hỗ trợ và cam kết với liên minh. Việc có theo đuổi một
đồng tiền chung trong khu vực không thì nhiều quốc gia hội nhập phải cân nhắc mức
độ lợi ích đạt được với những chi phí bỏ ra đối với quốc gia mình.
39
2.2.2. Tác động của hội nhập tài chính đến thị trường trái phiếu Chính
phủ
HNTC đem lại nhiều lợi ích cho quốc gia hội nhập nhưng cũng không ít rủi ro.
Nhiều nghiên cứu trước đây chỉ ra rằng HNTC góp phần tăng tính hiệu quả của việc
phân bổ vốn, tạo cơ hội chia sẻ rủi ro, nâng cao hiệu quả của hệ thống tài chính và tạo
điều kiện tăng trưởng kinh tế (Schmukler và cộng sự, 2003 [103]; Baele và cộng sự,
2004 [29]; Schmukler, 2004 [105]; Henry, 2000 [69]; Edison, 2002 [53]). Tuy nhiên,
bên cạnh đó, HNTC cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro như sự biến động, đảo chiều của dòng
vốn gây tác động tiêu cực (Chen và cộng sự, 2012 [43]), sự mất ổn định vĩ mô, tài
chính và nguy cơ khủng hoảng đối với quốc gia hội nhập (Schmukler, 2004 [105]), và
cuối cùng là nguy cơ lan truyền rủi ro rộng rãi (Mougani, 2011 [94]).
Thị trường trái phiếu Chính phủ là một bộ phận của thị trường tài chính và cũng
chịu những tác động của hội nhập tài chính. HNTC tác động đến thị trường trái phiếu
Chính phủ trên nhiều khía cạnh, tuy nhiên tác động theo chiều hướng tích cực hay tiêu
cực còn phụ thuộc vào điều kiện tiền đề, mức độ hội nhập và cách thức hội nhập của
từng quốc gia.
2.2.2.1. Tác động tích cực
Tăng quy mô và thanh khoản của thị trường
Có rất nhiều yếu tố được cho là có tác động đến quy mô thị trường trái phiếu
Chính phủ của một quốc gia như mức độ thâm hụt và nhu cầu của ngân sách, mức độ
tín nhiệm của Chính phủ, điều kiện kinh tế, thị trường tài chính (Eichengreen và
Luengnaruemitchai (2004) [55], Adelegan và cộng sự (2009) [23], Bhattacharyay
(2011) [32], và Thotho (2014) [83]).
HNTC cũng có tác động đến quy mô thị trường TPCP. HNTC giúp mở rộng
quy mô vốn trên thị trường tài chính, phát triển hệ thống tài chính theo chiều rộng
(Schmukler, 2004 [104]). Trong một thế giới hội nhập tài chính, các nguồn vốn có thể
chảy tự do từ các nước thừa vốn sang các quốc gia mà tỷ suất lợi nhuận biên cao.
Nguồn vốn trên thị trường dồi dào và đa dạng hơn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc
phát hành TPCP, giúp Chính phủ bớt phụ thuộc vào nguồn vốn trong nước, giảm thiểu
rủi ro trong việc huy động vốn. Theo Baele và cộng sự (2004) [29], HNTC đem lại cơ
hội chia sẻ rủi ro cho Chính phủ, doanh nghiệp, các định chế tài chính và nhà đầu tư.
Vì vậy, Chính phủ dễ dàng mở rộng quy mô thị trường hơn. Bên cạnh đó, HNTC mở
40
rộng thị trường cho TPCP, kết nối với thị trường khu vực và quốc tế, tạo cơ sở NĐT
đa dạng, cùng với các sản phẩm giao dịch phong phú theo chuẩn quốc tế, tạo điều kiện
cho NĐT phòng ngừa rủi ro, từ đó tạo thanh khoản cao hơn cho thị trường. Ngoài ra,
HNTC có thể tác động đến quy mô và thanh khoản thị trường TPCP gián tiếp thông
qua tác động đến nền kinh tế của quốc gia. Nhiều nghiên cứu trước đây đã chứng minh
HNTC thúc đẩy tăng trưởng kinh tế như nghiên cứu của Bonfiglioli (2008) [35],
Henry (2000) [69], Borensztein (1998) [36], Levine (2001) [85], Edison và cộng sự
(2002) [53] và Prasad và cộng sự (2003) [98].
Giảm chi phí vốn – Lãi suất
HNTC là yếu tố được nhiều nhà nghiên cứu đưa vào xem xét khi phân tích các
yếu tố ảnh hưởng đến lãi suất TPCP. Năm 2010, Kumar và Baldacci [80] đã sử dụng
số liệu từ tất cả các quốc gia thuộc G20 và một số thị trường mới nổi khác để tìm các
yếu tố ảnh hưởng đến lãi suất TPCP, trong đó có xét đến ảnh hưởng của hội nhập tài
chính. Kết quả thực nghiệm cho thấy dòng vốn đầu tư nước ngoài cao (trên 10% GDP)
giúp hạn chế sự tăng lên của lãi suất trái phiếu do mở rộng tài khoá (giảm tác động của
tăng thâm hụt ngân sách 1% so với GDP lên lãi suất khoảng 5 điểm cơ bản) do các
nước có nguồn vốn dồi dào có khả năng thanh toán các TP đến hạn và thực hiện các
khoản vay mới. Tương tự, nghiên cứu của Broos (2010) [38] cũng đưa HNTC như là
một biến độc lập vào mô hình nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến lãi suất TPCP. Tỷ
lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài đối với TPCP được sử dụng để đại diện cho mức
độ hội nhập của thị trường. Khi thị trường hội nhập tài chính, Chính phủ có thể huy
động vốn từ các nguồn phong phú hơn, đồng thời có thể huy động vốn với chi phí
thấp. HNTC làm cho thị trường thanh khoản hơn và từ đó làm lãi suất giảm.
HNTC còn tác động đến lãi suất TPCP thông qua hiệu ứng lan toả. Claeys và
cộng sự (2010) [48] chỉ ra rằng hiệu ứng lấn át (việc giảm chi tiêu hay đầu tư do chi
tiêu của Chính phủ tăng) tác động lớn đến lãi suất trong nước nhưng tác động này lại
được giảm bớt bởi hiệu ứng lan toả xuyên biên giới khi một quốc gia hội nhập. Nhu
cầu vay nợ thêm của Chính phủ cùng với việc áp dụng chính sách tài khoá mở rộng sẽ
đẩy lãi suất thị trường lên cao và dẫn đến hiệu ứng lấn át việc đầu tư tư nhân. Một
trong những yếu tố giúp làm giảm bớt hiệu ứng lấn át đó là thâm hụt ngân sách cần
được tài trợ bởi nhiều nguồn khác nhau chứ không phụ thuộc duy nhất vào nguồn tài
chính trong nước. HNTC tạo điều kiện cho vốn luân chuyển giữa các quốc gia từ đó bù
41
đắp sự thay đổi lãi suất trong nước khi cung trong nước về trái phiếu Chính phủ tăng.
Mức độ luân chuyển vốn càng cao thì sự thay đổi về cung trái phiếu trong nước tác
động càng ít đến lãi suất trong nước. Nếu mức độ luân chuyển vốn giữa tất cả các quốc
gia trên toàn cầu đạt được sự hoàn hảo thì sự tăng lên của lãi suất chỉ liên quan đến sự
tăng lên của tổng nợ của tất cả các quốc gia trên thị trường trái phiếu toàn cầu. Tuy
nhiên trên thực tế, sự luân chuyển của luồng vốn giữa các quốc gia không hoàn hảo do
sự bất cân xứng thông tin, lo ngại rủi ro và sự thay thế không hoàn hảo giữa trái phiếu
trong nước và trái phiếu nước ngoài sẽ tạo ra thành kiến khi nhà đầu tư xây dựng danh
mục đầu tư. Cụ thể, các tài sản tài chính ở các quốc gia khác nhau không thể thay thế
hoàn hảo cho nhau do rủi ro tỷ giá, lạm phát và rủi ro vỡ nợ. Đồng thời các quy định
cũng khác nhau ở từng quốc gia, các tổ chức đầu tư ngại rủi ro sẽ lựa chọn đầu tư vào
các tài sản tài chính trong nước. Hơn nữa, các Chính phủ cũng có xu hướng thích phát
hành nợ trong nước hơn nhằm tránh rủi ro tỷ giá. Vì vậy hiệu ứng lan toản trên thực tế
không thực sự phát huy tác dụng ở những quốc gia hay khu vực có mức độ hội nhập
thấp. Thị trường càng hội nhập thì tác dụng của hiệu ứng lan toả càng mạnh.
Hiệu ứng lan toả càng mạnh hơn nếu các quốc gia tham gia vào một liên minh
tiền tệ, sử dụng chung một đồng tiền. Điển hình nhất là tại các quốc gia Châu Âu tham
gia vào liên minh tiền tệ, sử dụng đồng tiền chung Euro. Nếu các quốc gia khác nhau
vay nợ bằng một đồng tiền chung như trong một liên minh tiền tệ sẽ khiến các quốc
gia không quan tâm đến những vấn đề của ngân sách quốc gia (Chari và cộng sự,
2007) [42]. Rất nhiều lý do được đưa ra để tin tưởng rằng các chính phủ khác hoặc
ngân hàng trung ương sẽ cứu trợ các chính phủ vỡ nợ trong cùng liên minh tiền tệ.
Điều này khiến cho việc điều chỉnh lãi suất để bù đắp rủi ro đó không cần phải thực
hiện bởi mức bù này đã được trải rộng ra tất cả các thành viên trong liên minh. Tất
nhiên hiệu ứng lấn át và hiệu ứng lan toả phụ thuộc vào mức độ cam kết chính sách tài
khoá của từng thành viên trong liên minh.
Cải thiện cơ sở nhà đầu tư trên thị trường
HNTC tạo điều kiện cho sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài, bao gồm
cả các nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư tổ chức bởi những rào cản gia nhập và đầu tư
dần bị xoá bỏ. Hơn nữa, trước khi hội nhập, các nhà đầu tư trái phiếu thường có quan
điểm đầu tư trong nước thay vì đem vốn đầu tư ra nước ngoài bởi họ có thể có các
thông tin về chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá của quốc gia, lạm phát kỳ vọng,
42
cùng với thái độ phân biệt của quốc gia với NĐT nước ngoài. Mức độ HNTC tăng lên
sẽ loại bỏ quan điểm đó. Cụ thể, trong bối cảnh hội nhập tài chính, các ngân hàng có
xu hướng nắm giữ nhiều TPCP của các quốc gia khác nhau. Đặc biệt, trong một liên
minh tiền tệ, ví dụ như EU, TPCP của một quốc gia có thể được sử dụng như tài sản
thế chấp trong hệ thống tài chính của tất cả các quốc gia thành viên như TPCP của Ý
được sử dụng là tài sản thế chấp bởi một ngân hàng Đức trong khu vực đồng tiền
chung Châu Âu (Bolton và cộng sự, 2011) [34].
Bên cạnh đó, HNTC góp phần cải thiện quy mô và chất lượng NĐT trên thị
trường TPCP thông qua thúc đẩy hiệu quả của các tổ chức tài chính (Jappelli và
Pagano, 2008 [70]). Sự tham gia ngày càng mạnh mẽ của các trung gian tài chính nước
ngoài cùng với quá trình tự do hoá tài chính, loại bỏ dần những can thiệp của Chính
phủ làm tăng mức độ cạnh tranh giữa các trung gian tài chính, tổ chức đầu tư, và loại
bỏ các tổ chức kém hiệu quả. Áp lực cạnh tranh sẽ giúp giảm giá thành của các dịch vụ
tài chính cung cấp cho doanh nghiệp và nhà đầu tư, hỗ trợ mở rộng thị trường. Trong
một số trường hợp, các trung gian tài chính nước ngoài gia nhập vào thị trường trong
nước thông qua thực hiện mua bán, sáp nhập với các tổ chức trong nước. Các ngân
hàng hay công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư sẽ có sự cải thiện về quy mô và hiệu quả
hoạt động, từ đó nâng cao chất lượng NĐT tham gia trên thị trường.
Cải thiện cơ sở hạ tầng và cấu trúc vi mô của thị trường
HNTC cải thiện cơ sở hạ tầng cho hệ thống tài chính (Schmukler, 2004) [104]
[105]. Một trong các nội dung của HNTC là chuẩn mực hoá các quy định của mỗi
quốc gia hướng đến các quy định chung của khu vực hoặc thế giới. HNTC làm minh
bạch và nâng cao tính cạnh tranh của thị trường, đồng thời cũng đặt ra yêu cầu các
quốc gia cần tạo ra môi trường đầu tư như nhau, bình đẳng giữa các nhà đầu tư. Các
quy định, chính sách liên quan sẽ từng bước phải thay đổi để phù hợp hơn với điều
kiện, hoàn cảnh hội nhập mới và phù hợp với cam kết khi hội nhập.
Một nội dung khác của HNTC là cải thiện hệ thống cơ sở hạ tầng cho giao dịch
và thanh toán TPCP, tiệm cận dần với hạ tầng công nghệ của thế giới thông qua các
cam kết hội nhập và sự tham gia của các tổ chức tài chính, các NĐT nước ngoài vào
thị trường. Một khu vực HNTC sâu rộng thì yêu cầu về hạ tầng công nghệ phải đồng
nhất để tạo thuận lợi cho các giao dịch xuyên biên giới. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật hiện đại
43
hỗ trợ giao dịch và thanh toán nhanh chóng, thuận tiện sẽ thúc đẩy sự phát triển của thị
trường.
HNTC với các cam kết về tự do hoá tài chính làm thay đổi phương thức phát
hành và giao dịch của các công cụ trên thị trường TPCP theo hướng áp dụng thông lệ
quốc tế. Trên thị trường thế giới, đấu thầu TPCP là phương pháp phổ biến được sử
dụng để huy động vốn cho NSNN. Đấu thầu được tổ chức trên nguyên tắc cạnh tranh,
công khai, minh bạch, đã giúp hình thành mức lãi suất hợp lý, cân bằng cung cầu.
Về công cụ giao dịch, khái niệm HNTC nhấn mạnh việc các nhà đầu tư ở các
thị trường hội nhập sẽ đối mặt với các sản phẩm như nhau. Vì vậy, một trong ba chiều
hội nhập của một thị trường tài chính là cung cấp các sản phẩm tài chính như nhau trên
thị trường (Baele và cộng sự, 2004) [29]. Do đó, một thị trường TPCP tham gia vào
quá trình hội nhập cần giới thiệu và giao dịch các công cụ giao dịch phổ biến trong
khu vực và thế giới. HNTC không chỉ làm tăng thêm loại công cụ giao dịch trên thị
trường TPCP ở các nước đang phát triển hay các thị trường mới nổi, mà còn làm
phong phú hơn các công cụ giao dịch trên thị trường trái phiếu quốc tế xuất phát từ
nhu cầu phòng ngừa rủi ro đầu tư TPCP quốc tế của nhà đầu tư như các sản phẩm phái
sinh trái phiếu như hợp đồng quyền chọn, các hợp đồng kỳ hạn lãi suất, hợp đồng hoán
đổi tiền tệ trái phiếu...
Về các tổ chức hỗ trợ thị trường, HNTC tạo điều kiện cho sự gia nhập của các
tổ chức hỗ trợ thị trường quốc tế bằng việc nới lỏng và loại bỏ các rào cản, đồng thời
cũng tạo điều kiện thúc đẩy thành lập mới các tổ chức hỗ trợ thị trường trong nước
đang còn thiếu. Ngoài ra, sự cạnh tranh của các tổ chức hỗ trợ thị trường nước ngoài
cũng giúp cải thiện hệ thống các tổ chức trong nước như loại bỏ các tổ chức yếu kém,
nâng cao chất lượng dịch vụ, giảm chi phí cho nhà đầu tư.
Tăng cường kỷ luật thị trường
Theo Manganelli và Wolswijk (2007) [90], kỷ luật thị trường trong thị trường
TPCP được định nghĩa là các ảnh hưởng gây ra bởi những người tham gia thị trường
đến Chính phủ bằng cách đánh giá khác nhau về rủi ro thanh toán của TPCP. Trái
phiếu được phát hành bởi Chính phủ có chính sách tài khoá không rõ ràng sẽ tiềm ẩn
rủi ro lớn. Những NĐT ngại rủi ro sẽ đòi hỏi mức đền bù tương xứng thông qua yêu
cầu một mức lợi suất cao. Kỷ luật thị trường sẽ cung cấp một rào cản chống lại các
chính sách tài khoá không hiệu quả, hỗ trợ kỉ luật tài chính.
44
Kỷ luật thị trường có hiệu quả nhất trong các thị trường cạnh tranh và hoạt động
tốt. Một điều kiện cần thiết đối với việc định giá TPCP một cách chính xác là Chính
phủ phải tiếp cận thị trường vốn như những người đi vay thông thường khác và các
quốc gia phải chịu trách nhiệm toàn bộ khi xảy ra vỡ nợ trong tương lai nếu có. Bất kỳ
can thiệp trực tiếp hay gián tiếp ủng hộ đối với TPCP đều làm biến dạng giá trái phiếu,
do đó làm giảm vai trò của thị trường như là công cụ kỉ luật. HNTC giúp giảm thiểu
các hành động kiểm soát tài chính ở các thị trường tài chính được bảo vệ (McKinnon,
1991 [92]; Shaw, 1973, trích bởi Chen và Quang (2012) [43]). Xu hướng hướng tới
một sân chơi bình đẳng về luật lệ là điều kiện tiên quyết của một thị trường hội nhập.
Từ đó thị trường sẽ phát triển hơn bởi các lựa chọn sai lầm, chi phí đại diện hay sự bóp
méo của thông tin gây ra bởi các quy định không đầy đủ, chặt chẽ sẽ được giảm bớt.
Theo Hartmann và cộng sự (2007) [67] HNTC tác động làm giảm thông tin bất cân
xứng. Quá trình HNTC làm tăng hiệu quả của thị trường. Thị trường hiệu quả đến lượt
nó sẽ đánh giá chính xác giá trị sinh lời và rủi ro của từng trái phiếu. Từ đó, HNTC
tăng cường kỷ luật thị trường bằng cách nâng cao năng lực của thị trường để định giá
chính xác giá trị tài sản. Lane (1992) [81] chỉ ra một số các điều kiện cần thiết để kỷ
luật thị trường có hiệu quả
- Cung cấp thông tin: Yêu cầu công khai thông tin theo quy định cho thị trường về tình
hình tài khoá một cách chính xác và kịp thời.
- Ngăn chặn việc tài trợ cho thâm hụt ngân sách bằng các biện pháp phi thị trường.
- Chính phủ không có quyền tác động đến các tổ chức tài chính để tài trợ cho ngân
sách. Quy tắc này buộc các chính phủ phải tham gia vào thị trường vốn với những điều
kiện tương tự như những người đi vay khác.
- Không có điều khoản viện trợ cho các khoản nợ của một số tổ chức.
Những điều kiện này có thể đạt được do yêu cầu của HNTC. Một quốc gia HNTC
càng sâu rộng thì kỷ luật thị trường càng được cải thiện, sự tiếp cận của NĐT nước
ngoài đối với TPCP trong nước cũng dễ dàng hơn (Adelegan và Radzewicz-bak, 2009)
[22]
2.2.2.2. Tác động tiêu cực
Bên cạnh những tác động tích cực, HNTC có thể đem đến những tác động tiêu cực nếu
như các điều kiện để một quốc gia HNTC không được đảm bảo.
Tăng rủi ro thị trường
45
HNTC có thể gây ra sự bất ổn về vĩ mô, tài chính và lây lan khủng hoảng
(Schmukler, 2004) [104] [105]. Dòng vốn vào lớn, là kết quả của hội nhập tài chính,
đôi khi đem lại tác động vĩ mô không mong muốn như việc mở rộng tiền tệ nhanh
chóng, áp lực lạm phát, bất ổn tỷ giá hối đoái, và tăng thêm thâm hụt cho tài khoản
vãng lai (Kaur, 2014) [111]. Bên cạnh đó, mặc dù các yếu tố nội tại của quốc gia là
nguyên nhân chính dẫn đến khủng hoảng, nhưng HNTC có thể dẫn đến khủng hoảng
tài chính lan rộng bởi cơ chế lan truyền rủi ro giữa các quốc gia thông qua 3 kênh là sự
liên kết thương mại, sự liên kết tài chính và tâm lý đám đông (Mougani, 2011) [94].
Khủng hoảng tại một khu vực nhỏ trong thị trường tài chính có thể lây lan ra toàn thị
trường và từ đó ảnh hưởng đến cả nền kinh tế (Allen và cộng sự, 2000) [26]. Kodres
và cộng sự (2002) [76] cho rằng nhiều cuộc khủng hoảng tài chính trong quá khứ như
cuộc khủng hoảng ở Mexico năm 1995, khủng hoảng tại Đông Nam Á năm 1997 đều
có liên quan đến hiệu ứng lan toả trên thị trường tài chính. Điều này gây ra tác động
tiêu cực cho quy mô và thanh khoản của thị trường TPCP.
Nghiên cứu thực nghiệm của Yibin Mu và cộng sự (2013) [95] tại khu vực
Châu Phi chứng minh rằng hội nhập tài chính, đại diện bằng chỉ số độ mở tài khoản
vốn có quan hệ ngược chiều với quy mô thị trường TPCP. Nghiên cứu của Thotho
(2014) [83] về các yếu tố tác động đến thị trường trái phiếu Chính phủ tại 5 quốc gia
thuộc khu vực MEFMI đã chứng minh bằng thực nghiệm rằng HNTC có ảnh hưởng
tích cực đến quy mô thị trường TPCP trong mô hình hồi quy đơn, trong khi lại có tác
động tiêu cực trong mô hình hồi quy đa biến. Như vậy, tác động của HNTC đến quy
mô thị trường TPCP có thể là tích cực hoặc tiêu cực tuỳ từng quốc gia và khu vực hội
nhập.
Tác động làm tăng lãi suất
Theo Mougani (2011) [94], lãi suất TPCP chịu tác động của rất nhiều yếu tố tác
động qua lại như lãi suất ngắn hạn, triển vọng kinh tế, xếp hạng tín nhiệm Chính phủ,
nợ chính phủ, thâm hụt ngân sách và cả hội nhập tài chính. HNTC đã được chứng
minh là có tác động tích cực đến lãi suất TPCP, tuy nhiên nó cũng cải thiện cơ chế thị
trường và tăng cường kỷ luật thị trường đối với nhà phát hành, dẫn đến làm tăng lãi
suất tại các thị trường đang phát triển. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm của Broos
(2010) [38] chứng minh rằng ở các nước mà nhà đầu tư đánh giá không còn khả năng
trả các khoản nợ thì ảnh hưởng biên của nợ đến lãi suất có tương quan cùng chiều với
46
mức độ HNTC. HNTC tăng càng khiến cho tổng nợ công ảnh hưởng nhiều đến lãi suất
của TPCP, từ đó ảnh hưởng đến chi phí biên của các khoản nợ quốc gia.
Ở những nền kinh tế lớn phát triển, sự sẵn sàng của nguồn vốn đầu tư trên toàn
cầu khiến giá TPCP của các quốc gia này phụ thuộc ngày càng lớn vào sở thích của
các nhà đầu tư quốc tế. Các yếu tố như tiết kiệm, đầu tư toàn cầu, và rủi ro toàn cầu trở
thành các yếu tố quan trọng trong việc định giá các kỳ hạn nợ, trong khi các yếu tố nội
tại của quốc gia có ảnh hưởng rất hạn chế (Kumar và Okimoto, 2010) [79]. Kết quả là
mối tương quan giữa lãi suất TPCP dài hạn của các quốc gia ngày càng tăng lên.
Nguy cơ khủng hoảng nợ công
HNTC đem lại dòng vốn dồi dào, không chỉ là các dòng vốn trong nước mà bao
gồm cả dòng vốn quốc tế. Đây là cơ hội nhưng cũng là thách thức đối với việc quản lý
nợ công. Khi thị trường TPCP ngày càng hội nhập, Chính phủ có thể vay nợ dễ dàng
hơn, đặc biệt là vay nợ thông qua phát hành TPCP. Tuy nhiên, nếu không có chính
sách quản lý nợ công rõ ràng và nhất quán, điều này có thể dẫn đến nguy cơ khủng
hoảng nợ công.
Bên cạnh đó, trong bối cảnh HNTC, các quốc gia được cho là có động lực để
phát hành ít hơn các khoản nợ an toàn và nhiều hơn các khoản nợ rủi ro. Một mặt, một
quốc gia được coi là độc quyền cung cấp các tài sản an toàn bằng cách phát hành các
TPCP có độ an toàn cao có thể sẽ khai thác sức mạnh độc quyền đó bằng cách cung
cấp ít hơn các khoản nợ an toàn. Mặt khác, các quốc gia không có đủ động lực để giữ
cho các khoản nợ của họ được an toàn bởi họ không nội hoá các khoản chi phí mà các
quốc gia khác phải gánh chịu khi bất ổn tài chính gia tăng. Một vài các nghiên cứu gần
đây bắt đầu quan tâm đến hiệu ứng lan toả của khủng hoảng nợ công đến khủng hoảng
hệ thống ngân hàng và ngược lại, cũng như hiệu ứng lan toả của khủng hoảng nợ công
đến các quốc gia khác. Nghiên cứu của Gennaioli và cộng sự (2010) chứng minh nơi
nào có nguy cơ vỡ nợ công sẽ khiến bảng cân đối kế toán của các ngân hàng nắm giữ
TPCP của quốc gia đó yếu đi, từ đó làm giảm tín dụng tư nhân tại các nền kinh tế mở
nhỏ (trích dẫn bởi Bolton và cộng sự, 2011 [34]). Bên cạnh đó, nhiều nghiên cứu về
cuộc khủng hoảng nợ công ở Châu Âu đã đưa bằng chứng về sự phụ thuộc lẫn nhau về
kinh tế và tài chính giữa các quốc gia trong một khu vực hội nhập xuất phát từ việc các
ngân hàng nắm giữ nợ chính phủ bằng đồng Euro của các quốc gia khác. Hệ quả của
HNTC là các ngân hàng khu vực Châu Âu chịu rủi ro từ các khoản nợ Chính phủ
47
không chỉ của quốc gia mình mà còn của các quốc gia khác trong khu vực. Điều này
ngụ ý rằng các vấn đề về nợ Chính phủ có xu hướng trở thành trách nhiệm của tất cả
các quốc gia trong khu vực bởi vì không một Chính phủ nào có thể thờ ơ với sức khoẻ
của hệ thống ngân hàng của mình. Từ đó việc phát hành thêm TPCP làm tăng nợ công
sẽ chịu thêm sự tác động của các yếu tố bên ngoài quốc gia.
2.2.3. Phát triển thị trường trái phiếu chính phủ trong bối cảnh hội nhập
tài chính
2.2.3.1. Quan điểm về phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ trong bối cảnh hội
nhập tài chính
Phát triển thị trường TPCP là một quá trình lâu dài, phức tạp và cần thiết để một
quốc gia bước vào giai đoạn phát triển bền vững. Chỉ khi thị trường TPCP phát triển
tốt nó mới có thể thực hiện tốt các chức năng và vai trò của mình. Phát triển là sự thay
đổi cả về quy mô và chất lượng thị trường bao gồm toàn bộ các yếu tố trong thị trường
và sự tương tác giữa các yếu tố nhằm đưa thị trường đạt được mức độ hiệu quả cao
hơn và thực hiện chức năng tốt hơn. Đặt trong bối cảnh HNTC, thị trường TPCP cần
có những thay đổi tuân theo thông lệ và cam kết quốc tế. HNTC thông qua nhiều kênh
tác động, có ảnh hưởng tích cực và tiêu cực đến thị trường TPCP một quốc gia. Do đó,
phát triển thị trường TPCP trong bối cảnh HNTC đòi hỏi sự thay đổi cả về chất và về
lượng trên thị trường nhằm tăng cường hiệu quả của thị trường, đáp ứng yêu cầu của
quá trình hội nhập, tận dụng được những lợi ích và hạn chế rủi ro mà HNTC đem lại
nhằm đảm bảo thị trường phát triển bền vững.
Những thay đổi về lượng được phản ánh qua quy mô thị trường, đối tượng tham
gia thị trường, phương thức phát hành và giao dịch đa dạng, trong khi thay đổi về chất
thể hiện qua việc giảm chi phí phát hành, giao dịch, hoạt động tuân theo quy luật thị
trường, thanh khoản tốt và làm tham chiếu chuẩn cho các thị trường khác.
Một thị trường TPCP phát triển khi TPCP được phát hành và giao dịch tuân
theo quy luật thị trường mà không có bất kỳ sự can thiệp phi thị trường nào. Phát triển
thị trường TPCP trong nước trong điều kiện hội nhập có thể làm tăng khả năng huy
động vốn cho NSNN theo quy tắc thị trường mà vẫn có thể giảm bớt thiệt hại do các
cú sốc bên ngoài gây ra thông qua giảm tài trợ vốn hay giảm nguồn vốn vay trực tiếp
nước ngoài. Chính phủ có thể huy động vốn với chi phí thấp nếu chứng tỏ mình là một
nhà phát hành đáng tin cậy. Trên thị trường TPCP, chính phủ là người đi vay, NĐT là
48
những người cho vay. Mối quan hệ này duy trì dựa trên lợi ích cho đôi bên. Do đó,
Chính phủ cần quan sát thị trường và điều chỉnh các chính sách phát hành cho phù hợp
với nhu cầu thị trường thay vì áp dụng các chính sách ép buộc người cho vay.
Thị trường sơ cấp mạnh được hỗ trợ bởi thị trường thứ cấp thanh khoản và hiệu
quả. Một thị trường thanh khoản là khi có khả năng giao dịch nhanh chóng một khối
lượng TP nhất định với chi phí thấp và tác động giá ít và ngắn hạn (Rakkestad, 2013
[100]; Bank for International Settlement, 2002 [31]). Ngoài ra thị trường thanh khoản
còn được đặc trưng bởi sự bổ sung thanh khoản nhanh chóng và sự cân bằng giá trở lại
nhanh chóng sau mỗi giao dịch. Harris (1990) [66] và Arvai và cộng sự (2008) [27]
cho rằng, thanh khoản cần được xem xét trên 4 khía cạnh: độ rộng, độ sâu, sự tức thời
và khả năng phục hồi. Phần lớn các thước đo thanh khoản đều bao gồm các khía cạnh
trên. Về độ rộng hay mức độ hiệu quả, thị trường được coi là hiệu quả khi mọi thông
tin được phản ánh nhanh và chính xác vào giá chứng khoán. Điều này rất quan trọng
bởi thị trường hiệu quả giúp NĐT không cần dành quá nhiều thời gian cũng như nguồn
lực để thu thập thông tin thị trường, từ đó sẽ góp phần thu hút NĐT và làm tăng tính
thanh khoản của thị trường. Tuy nhiên, độ rộng không phản ánh được mức độ thanh
khoản sẵn có ở các mức giá khác nhau. Nếu một NĐT cần nhanh chóng mua (bán)
khối lượng lớn, chiều sâu sẵn có ở các mức giá chào bán (chào mua) khác nhau là rất
quan trọng đối với giá thực hiện trung bình mà NĐT đó đạt được. Độ sâu thể hiện mức
độ thị trường có thể thẩm thấu được các giao dịch có khối lượng lớn mà không ảnh
hưởng đến giá hiện tại của TP tại thời điểm giao dịch (Arvai và cộng sự, 2008) [27].
Một khía cạnh quan trọng nữa của thanh khoản là khả năng nhanh chóng tìm được đối
tác giao dịch, hay còn gọi là sự tức thời. Đây sẽ không phải là vấn đề lớn đối với
những thị trường có cơ sở NĐT đa dạng và hệ thống trung gian giữa các NĐT phát
triển. Khía cạnh cuối cùng được nhắc đến là khả năng phục hồi phản ánh khả năng đưa
giá trở lại trạng thái cân bằng sau mỗi giao dịch. Trong khi giá trên thị trường được kỳ
vọng là sẽ biến đổi qua thời gian phản ánh những thay đổi về mặt giá trị thực của
chứng khoán, thì nhiều khi sự biến động giá lớn trong ngắn hạn lại không thực phản
ánh những biến động cân bằng này. Sự biến động của thị trường phụ thuộc rất nhiều
vào các yếu tố vĩ mô và môi trường xung quanh. Trong bối cảnh HNTC với khu vực
và thế giới, thị trường TPCP một quốc gia càng dễ chịu những tác động từ bên ngoài.
49
Một thị trường trái phiếu chính phủ thứ cấp phát triển không nên có quá nhiều các biến
động mạnh và thường xuyên.
2.2.3.2. Chỉ tiêu đánh giá mức độ phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ trong
bối cảnh hội nhập tài chính
Theo báo cáo dự án FSDI của World Bank (FSDI, 2006) [60], tài trợ bằng trái
phiếu (cả trong và ngoài nước) đã trở thành một phần không thể thiếu và quan trọng
trong việc tài trợ cho một Chính phủ hay doanh nghiệp, đặc biệt ở các thị trường mới
nổi. Dự án FSDI với mục tiêu đánh giá toàn diện hệ thống tài chính của các quốc gia,
đã giới thiệu các chỉ số phát triển hệ thống tài chính theo 4 chiều là quy mô thị trường,
mức độ tiếp cận, mức độ hiệu quả và mức độ biến động của thị trường nhằm hiểu rõ
hơn về sự phát triển toàn diện của thị trường. Bốn khía cạnh này cũng được áp dụng
trong việc đánh giá thị trường trái phiếu.
Xem xét mức độ phát triển của thị trường TPCP đặt trong bối cảnh HNTC cũng
đòi hỏi phải xem xét toàn diện, gồm các tiêu chí về quy mô, mức độ bền vững, mức độ
hội nhập, mức độ tiếp cận, sự hiệu quả và ổn định dưới tác động của hội nhập.
Chỉ tiêu đánh giá quy mô thị trường
Quy mô TPCP phát hành và quy mô giao dịch TPCP được đánh giá theo tỷ
trọng trên GDP của quốc gia nhằm phản ánh rõ mức độ mở rộng của thị trường tương
quan với mức độ tăng trưởng của nền kinh tế. HNTC tạo điều kiện cho các quốc gia
mở rộng quy mô thị trường TPCP và tăng cường thanh khoản. Bên cạnh đó, khi xem
xét sự phát triển của thị trường TPCP một quốc gia đặt trong bối cảnh hội nhập với
khu vực và thế giới thì so sánh quy mô thị trường trong nước với thị trường khu vực là
điều cần thiết.
Một số chỉ tiêu được xây dựng để đánh giá quy mô thị trường TPCP trong bối
cảnh HNTC gồm có:
Quy mô thị trường TPCP/GDP: chỉ số này phản ánh độ lớn của thị trường TPCP so
với GDP của một quốc gia.
��� �ô ���� ��ê� ��� = �ổ�� ��á ��ị ���� �ℎ�� �ệ�ℎ ��á
��� ���ℎ ��ℎĩ�
Quy mô thị trường TPCP trong nước / Quy mô thị trường TPCP khu vực : chỉ số này
phản ánh tương quan độ lớn của thị trường TPCP so với thị trường TPCP khu vực.
50
Giá trị giao dịch TPCP/ GDP và Giá trị giao dịch TPCP / Giá trị giao dịch khu vực :
Các chỉ số này phản ánh độ lớn của thị trường thứ cấp TPCP so với GDP, và so sánh
với một số thị trường khu vực.
Chỉ tiêu đánh giá mức độ bền vững của thị trường
Lãi suất TPCP các kỳ hạn : chỉ tiêu này nhằm đo lường chi phí vốn vay của
Chính phủ. Một thị trường TPCP phát triển bền vững khi Chính phủ có thể huy động
vốn qua phát hành trái phiếu với chi phí vốn thấp. Như đã phân tích ở trên, HNTC có
thể đem lại tác động tích cực hoặc tiêu cực đến lãi suất TPCP của quốc gia hội nhập.
Ngoài ra phát triển bền vững thị trường TPCP cần giảm bớt sự can thiệp đến lãi suất
TPCP, từ đó lãi suất có xu hướng tuân theo quy luật thị trường.
Tỷ trọng TPCP có kỳ hạn dài: Tỷ trọng TPCP có kỳ hạn dài trong tổng số
TPCP lớn thể hiện sự bền vững của thị trường bởi trái phiếu có kỳ hạn dài giúp hạn
chế áp lực trả nợ tức thời, trong ngắn hạn. TPCP có kỳ hạn ngắn được phát hành nhiều
là dấu hiệu của sự bất ổn và rủi ro do nó làm tăng nguy cơ dòng vốn đột ngột chảy ra
khỏi thị trường hoặc tăng lãi suất ngắn hạn làm tăng gánh nặng nợ (Caputo, 2010)
[41].
Tỷ trọng TPCP/ tổng giá trị TP: Thị trường TPCP chỉ phát triển bền vững khi
đặt trong sự phát triển tổng hoà của thị trường tài chính. Việc phát hành quá nhiều
TPCP so với tổng giá trị TP phát hành với những điều kiện bắt buộc các ngân hàng
hay tổ chức phải mua và nắm giữ TPCP sẽ dẫn đến việc đàn áp tài chính và gây ra hiệu
ứng lấn át khu vực tư nhân.
Hệ thống chỉ tiêu giám sát và cảnh báo rủi ro: Thị trường TPCP ổn định cần
một hệ thống giám sát. Hệ thống chỉ tiêu giám sát và cảnh báo rủi ro đòi hỏi phải bao
quát được các vấn đề của thị trường từ kế hoạch phát hành, quá trình phát hành, sử
dụng vốn, và trả nợ.
Chỉ tiêu đánh giá mức độ hội nhập thị trường
- Theo phương pháp dựa vào giá, nếu HNTC xảy ra ở đâu thì ở nơi đó quy luật
một giá phải tồn tại (Baele và cộng sự, 2004) [29]. Quy luật một giá cho rằng tài sản
có đặc điểm giống nhau có cùng rủi ro thì không phân biệt nguồn gốc địa lý của tài
sản, các tài sản này phải có cùng thu nhập kỳ vọng, vì vậy chúng cần được trao đổi ở
một mức giá. Đồng thời tỷ suất chiết khấu của các tài sản ở các nước hội nhập là như
nhau với rủi ro ở các nước này là như nhau. Vì vậy, với những đặc điểm liên quan
51
giống nhau và thời hạn như nhau, sự khác nhau về lãi suất giữa những người vay nợ ở
các nước khác nhau là thước đo trực tiếp mức độ hội nhập (ECB, 2006) [58]. Lãi suất
ở các thị trường hội nhập tốt cần bằng nhau. Chỉ số mức chênh lệch giữa lãi suất của
TPCP một quốc gia với lãi suất TPCP của một quốc gia khác được lấy làm tham chiếu
được sử dụng nhiều nhất. Mức độ hội nhập càng cao thì sự chênh lệch lãi suất càng
tiến dần tới 0. Lãi suất chuẩn có thể là lãi suất TPCP của một quốc gia được coi là hội
nhập tốt.
St = yc,t – yb,t (2.1)
St: Mức độ chênh lệch ngày t
Yc,t: Lãi suất TPCP của quốc gia hội nhập ngày t
Yb,t: Lãi suất TPCP của quốc gia tham chiếu ngày t
- Theo phương pháp dựa vào thông tin: Thị trường càng hội nhập thì lãi suất TP
chịu tác động của các yếu tố chung nhiều hơn là các yếu tố địa phương. Dựa vào quan
điểm này, ngân hàng Trung ương Châu Âu ECB (ECB, 2006) [58] đưa ra hai chỉ số
đánh giá mức độ hội nhập là chỉ số beta hội tụ và hệ số chặn α. Các chỉ số này cho
phép xem xét tương quan giữa sự thay đổi lãi suất TPCP của một quốc gia với sự thay
đổi trong lãi suất TPCP của một quốc gia tham chiếu, thể hiện sự thay đổi lãi suất TP
chịu ảnh hưởng của các yếu tố chung hay các yếu tố riêng biệt, đặc thù của từng quốc
gia.
Mô hình được áp dụng để xác định chỉ số beta hội tụ và hệ số chặn α là:
ΔRc,t = αc,t + βc,tΔRb,t + εc,t (2.2)
ΔRc,t: Sự thay đổi lãi suất TPCP của quốc gia đánh giá hội nhập
ΔRb,t : Sự thay đổi lãi suất TPCP tham chiếu
α là hệ số chặn thay đổi theo quốc gia và thời gian
εc,t : Biến nhiễu
Hệ số α và β được xác định bằng cách ước lượng mô hình trên sử dụng dữ liệu
của lãi suất TPCP trung bình theo tháng trong 18 tháng đầu giai đoạn nghiên cứu.
Sau đó, dữ liệu được di chuyển lên theo từng tháng và phương trình được ước tính
lại cho đến khi đạt được đến quan sát cuối cùng. Khi đó sẽ có một chuỗi hệ số α và β
theo thời gian.
52
+ Tại một thị trường hội nhập hoàn toàn những thay đổi lãi suất của một quốc
gia không nên lớn hơn hoặc nhỏ hơn một cách có hệ thống so với thị trường tham
chiếu chuẩn. Vì vậy hệ số α nên tiến tới 0.
+ Hệ số β thể hiện tương quan giữa hiệp phương sai biến động lãi suất của thị
trường hội nhập với thị trường chuẩn và phương sai của mức thay đổi lãi suất thị
trường tham chiếu.
��,� = ��� ��� (���,� , ���,� )
��� ��� (�� �,� )= ��,�,�
��,�
� �,�
Cov t-1 và Var t-1 là chỉ số hiệp phương sai và phương sai tương ứng, ρ i,b,t là hệ
số tương quan có điều kiện giữa sự thay đổi lãi suất TPCP của một quốc gia với sự
thay đổi lãi suất TPCP của quốc gia tham chiếu, σi,t và σ b,t là độ lệch chuẩn của những
thay đổi lãi suất của quốc gia hội nhập và quốc gia tham chiếu. Như vậy hệ số β phụ
thuộc vào hệ số tương quan sự thay đổi lãi suất quốc gia hội nhập và quốc gia tham
chiếu, đồng thời phụ thuộc vào tỷ lệ giữa độ lệch chuẩn quốc gia hội nhập và quốc gia
tham chiếu. Khi hội nhập tăng, lãi suất thay đổi do tác động của các yếu tố chung và
hệ số tương quan nên tiến gần đến 1. Tương tự, mức độ biến động của thay đổi lãi suất
TPCP của quốc gia hội nhập nên giống với biến động của thay đổi lãi suất TPCP của
quốc gia tham chiếu. Vì vậy hệ số β nên tiến tới 1.
Chỉ tiêu đánh giá mức độ tiếp cận thị trường
Đối với tổ chức phát hành, mức độ tiếp cận thị trường được thể hiện thông qua
khả năng huy động vốn trên thị trường trong nước và khả năng tiếp cận vốn quốc tế
trong bối cảnh hội nhập tài chính. Còn đối với nhà đầu tư đó là việc dễ dàng tham gia,
tiếp cận và giao dịch trên thị trường. Vì vậy, để đánh giá mức độ tiếp cận thị trường
TPCP, tác giả đưa ra một số chỉ tiêu.
Tỷ trọng TPCP phát hành trong nước/ Tổng giá trị TPCP : chỉ tiêu này phản ánh khả
năng thị trường trong nước cung cấp vốn cho Chính phủ cũng như khả năng huy động
vốn vay cho NSNN từ nguồn trong nước.
Giá trị TPCP quốc tế/ GDP : Chỉ số này phản ánh khả năng một quốc gia có thể gọi
vốn trên thị trường quốc tế. Các nước đang phát triển, do hạn chế trong việc quản lý tài
khoá và chính sách tỷ giá hối đoái nên thường khó khăn trong việc khai thác thị trường
quốc tế mặc dù cũng đã có nhiều cố gắng của các nước đang phát triển trong việc phát
hành TP quốc tế từ giữa những năm 1990. Khoảng 96% số TP quốc tế được phát hành
53
xuất phát từ những nước có thu nhập cao (FSDI, 2006) [60]. HNTC sâu rộng sẽ tạo
điều kiện thuận lợi hơn cho Chính phủ huy động vốn trên thị trường quốc tế. Tuy
nhiên, những tác động tiêu cực của HNTC cũng sẽ khiến các quốc gia cân nhắc về việc
tăng giá trị phát hành TPCP quốc tế.
Cơ sở NĐT tham gia thị trường:
+ Chỉ tiêu loại NĐT tham gia thị trường: NĐT tham gia thị trường đa dạng về chủng
loại và số lượng chứng tỏ khả năng tiếp cận thị trường dễ dàng.
+ Chỉ tiêu tỷ lệ nắm giữ TPCP của NĐT nước ngoài trên tổng số TPCP và quy định
thuế đầu tư TP của NĐT nước ngoài không phân biệt với NĐT trong nước. HNTCtăng
cường khả năng tiếp cận thị trường của NĐT nước ngoài, từ đó tăng sở hữu nước
ngoài trên thị trường.
Phương thức phát hành, phân phối và giao dịch TPCP đa dạng
Đấu giá là phương thức phát hành TPCP phổ biến được áp dụng tại các thị
trường TPCP phát triển bởi đây được cho là phương pháp phát hành TPCP tuân theo
định hướng thị trường. Tuy nhiên đa dạng hoá phương pháp đấu giá phù hợp với nhiều
đối tượng NĐT và người tham gia thị trường sẽ tăng khả năng tiếp cận thị trường.
Tương tự, phương thức giao dịch TPCP đa dạng chứng tỏ NĐT dễ dàng tham gia vào
thị trường hơn. Sự phát triển của giao dịch repo cũng là một khía cạnh đánh giá mức
độ dễ tiếp cận của thị trường TPCP. Giao dịch repo là giao dịch phổ biến được thực
hiện trên thị trường thứ cấp trái phiếu phát triển. Do đặc điểm của TPCP, nhiều NĐT
mong muốn nắm giữ TPCP đến khi đáo hạn, giao dịch repo thuận tiện giúp NĐT có
thể tham gia nhiều hơn vào thị trường thứ cấp TPCP nhằm tìm kiếm lợi nhuận.
Công cụ trên thị trường đa dạng, đồng bộ theo chuẩn quốc tế
Một thị trường TPCP phát triển sẽ có đa dạng các loại công cụ giao dịch khác
nhau, bao gồm cả các sản phẩm truyền thống và các công cụ phức tạp, phù hợp với
nhu cầu của đa dạng NĐT và giúp các NĐT phòng ngừa rủi ro, kinh doanh chênh lệch
giá (Caputo và cộng sự, 2010) [41]. Hơn nữa, HNTC yêu cầu các quốc gia tham gia
vào quá trình hội nhập giới thiệu và phát triển các công cụ tài chính như nhau. Việc
đưa vào thị trường những công cụ đã được nhiều quốc gia sử dụng là một dấu hiệu của
sự phát triển thị trường TPCP trong bối cảnh hội nhập.
Cơ sở hạ tầng hiện đại, đồng bộ
54
Cơ sở hạ tầng cho hoạt động giao dịch, hệ thống lưu ký, thanh toán bù trừ trái
phiếu hiện đại, hiệu quả và an toàn là điều kiện rất quan trọng hỗ trợ NĐT tiếp cận thị
trường, cũng như cho việc thực hiện chính sách tiền tệ hiệu quả, đảm bảo chức năng
thanh toán và ổn định tài chính. Đây phải là hệ thống hiệu quả về mặt chi phí, dễ sử
dụng, rút ngắn được chu kỳ thanh toán. Ngoài ra, HNTC yêu cầu sự liên kết của hệ
thống giao dịch, lưu ký, thanh toán bù trừ chung nhằm tăng mức độ dễ tiếp cận của thị
trường. Một chỉ số được sử dụng phản ánh sự liên kết giữa các hệ thống lưu ký, thanh
toán bù trừ trái phiếu giữa một quốc gia hội nhập với các quốc gia khác trong khu vực
đó là số lượng các liên kết hợp pháp được thực hiện giữa các trung tâm thanh toán, bù
trừ TPCP cho hoạt động giao dịch trong khu vực hội nhập.
Chỉ tiêu đánh giá mức độ hiệu quả
Để đo lường tính hiệu quả của thị trường TP, FSDI tập trung vào độ thanh
khoản của thị trường, được phản ánh bằng các chỉ tiêu như chênh lệch giá chào mua
chào bán, doanh số (vòng quay) của TPCP. Thanh khoản tốt sẽ giúp thị trường thực
hiện đầy đủ các chức năng của nó.
Chênh lệch giá chào mua chào bán (lãi suất TPCP kỳ hạn 10 năm)
Khoảng cách giá chào mua chào bán nhỏ thể hiện khả năng những nhà tạo lập
thị trường giảm rủi ro tồn kho bởi hoạt động giao dịch đã dễ dàng hơn. Các quốc gia
phát triển thường có khoảng cách chênh lệch giá chào mua chào bán trên thị trường
TPCP thấp, dưới 1 điểm cơ bản trong khi ở các nước đang phát triển khoảng 6-10
điểm cơ bản.
Chỉ số vòng quay (turnover) của TPCP
Thị trường TPCP càng phát triển thì lượng trái phiếu được giao dịch sẽ càng
lớn. Chỉ số bonds turnover ratio đo lường mức độ thanh khoản của thị trường. Chỉ số
này thể hiện tỷ lệ giao dịch trên thị trường thứ cấp của số TPCP đang lưu hành
(McCauley và cộng sự, 2000) [91].
�������� ����� = ��á ��ị ���� �ị�� �à�� �ă�
��á ��ị ���� �ư� �à�� �ì�� ��â� �ă�
Giá trị TPCP lưu hành bình quân năm bằng số TPCP trung bình vào cuối kỳ trước và
kỳ hiện tại. Giá trị giao dịch hàng năm không bao gồm giá trị giao dịch mua bán lại.
Tại các thị trường trái phiếu phát triển thì hệ số này dao động từ 200-500%.
Chỉ tiêu đánh giá mức độ ổn định
55
Sự thiếu ổn định của thị trường trái phiếu có thể góp phần làm tăng chi phí vốn
và không khuyến khích NĐT tham gia thị trường. FDSI dựa vào chỉ số lợi nhuận hàng
ngày, mức độ biến động (độ lệch chuẩn hàng năm), độ lệch, cấu trúc kỳ hạn để đánh
giá mức độ ổn định của thị trường thứ cấp TPCP.
Mức độ biến động của chỉ số trái phiếu chính phủ
Nhiều nhà phân tích chỉ ra rằng mức độ biến động của một số thị trường đang
phát triển thấp hơn thị trường phát triển. Đó có thể là kết quả của việc ít giao dịch
khiến cho giá có thể không giao động trong vài tuần và việc điều hành lãi suất ở một
số thị trường đã bóp méo chi phí vốn thật. Chính vì vậy, có thể vẫn tồn tại những đánh
giá thấp về sự bất ổn của thị trường đang phát triển.
Độ lệch của chỉ số TPCP
Chỉ số này đánh giá khả năng tổn thất lớn liên quan đến thị trường TPCP. Theo
nghiên cứu của tác giả, thu nhập kỳ vọng trái phiếu chính phủ ở các nước phát triển
thường có phân phối có độ lệch âm nhỏ tức là ít có khả năng mang lại thu nhập tiêu
cực lớn cho NĐT như ở các nước đang phát triển có phân phối có độ lệch âm lớn.
Skew = Average [(����)�
��]
Khi các mức sinh lời lệch về bên phải, tức là phân phối có độ lệch dương, và các giá
trị dương lớn chiếm ưu thế, lúc này độ lệch chuẩn đánh giá rủi ro quá cao bởi vì các
giá trị mức sinh lời cao và dương đã làm tăng sự biến động khi đo lường. Ngược lại,
khi phân phối có độ lệch âm (lệch về trái) tức là các giá trị âm lớn chiếm ưu thế, lúc
này độ lệch chuẩn đang đánh giá rủi ro thấp. Khi độ lệch âm thì rủi ro càng lớn.
Kurtosis là một chỉ số để đo lường về đặc điểm hình dạng của một phân phối xác suất,
so sánh độ cao phần trung tâm của một phân phối với một phân phối chuẩn, hay đo
lường phần đuôi của một phân phối xác suất. Khi đánh giá mức rủi ro dựa vào kurtosis
thì cần so sánh với một phân phối xác suất chuẩn.
Kurtosis = Average [(�� ��)�
�� ]
Excess kurtosis = kurtosis – 3
Excess kurtosis được cho là đáng kể nếu giá trị tuyệt đối của nó lớn hơn hoặc bằng 1,
khi đó kurtosis > 4.0 hoặc kurtosis < 2.0.
Tần suất của mức sinh lời âm lớn có thể dẫn đến độ lệch âm và/hoặc độ nhọn lớn
(đuôi béo).
56
Tỷ lệ nắm giữ TPCP của các NĐT dài hạn: Chỉ tiêu tỷ lệ nắm giữ TPCP của các NĐT
tổ chức như quỹ hưu trí, công ty bảo hiểm, các quỹ mở trên tổng số TPCP: Thể hiện sự
ổn định của thị trường bởi những NĐT này thường có kỳ đầu tư dài.
2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của thị trường trái phiếu Chính
phủ trong bối cảnh hội nhập tài chính
Sự phát triển của thị trường TPCP chịu tác động của nhiều nhân tố. Một vài
nghiên cứu trước đây như nghiên cứu trong FS Series 12 của Cơ quan phát triển quốc
tế Hoa Kỳ (2010) [106], nghiên cứu của Bhattacharyay (2011) [32], Eichengreen và
cộng sự (2004) [55], Thotho (2014) [83], Adelegan và cộng sự (2009) [23], Claessens,
Kingebiel và Schmukler (2003) [46], Caputo và cộng sự (2010) [41] đã đưa ra
một số nhân tố có ảnh hưởng đến sự phát triển của thị trường trái phiếu Chính phủ
bao gồm quy mô nền kinh tế, sự tín nhiệm của Chính phủ với tư cách tổ chức phát
hành, điều kiện vĩ mô, đặc điểm khu vực tài chính, khuôn khổ pháp lý và tính
minh bạch của thị trường.
Trong bối cảnh hội nhập tài chính, sự phát triển của thị trường TPCP chịu tác
động nhất định của yếu tố hội nhập. HNTC đem lại nhiều lợi ích nhưng cũng không ít
rủi ro cho thị trường tài chính nói chung và thị trường TPCP nói riêng. Thực tế cho
thấy nhiều quốc gia nhận được lợi ích lớn từ hội nhập tài chính, đồng thời có khả năng
hạn chế đến mức thấp nhất các tác động tiêu cực của các cú sốc bên ngoài tới nền kinh
tế nhưng cũng có những quốc gia chịu tác động nhiều hơn từ các cuộc khủng hoảng
hay các cú sốc kinh tế từ bên ngoài khi thực hiện hội nhập (Kose và cộng sự (2009)
[77], Rodrik và cộng sự, (2009) [102], Kose và cộng sự (2011) [78]). Để có thể tận
dụng được những lợi ích mà HNTC đem lại, các quốc gia cần đạt được một số điều
kiện ngưỡng chính mà nhiều nghiên cứu trước đây chỉ ra như mức độ phát triển kinh tế
quốc gia, sự phát triển của khu vực tài chính, chất lượng thể chế và chính sách vĩ mô
của chính phủ, và hội nhập thương mại (Kose và cộng sự (2009) [77], Chen và cộng sự
(2012) [43]).
Phát triển thị trường TPCP dưới tác động của HNTC cần tận dụng được những
lợi ích mà HNTC đem lại và hạn chế bớt rủi ro. Do đó, một số nhân tố tác động đến sự
phát triển của thị trường TPCP trong bối cảnh HNTC bao gồm:
57
2.3.1. Quy mô nền kinh tế
Quy mô nền kinh tế được cho là có ý nghĩa đối với sự phát triển của thị trường
trái phiếu Chính phủ. Các nền kinh tế nhỏ không đủ khả năng để tạo ra một thị trường
trái phiếu Chính phủ trong nước lớn và ổn định do vấn đề về quy mô (Eichengreen,
Hausmann và Panizza, 2002) [56]. Claessens, Kingebiel và Schmukler (2003) [46]
cũng chứng minh rằng quy mô nền kinh tế càng lớn có xu hướng tạo ra một thị trường
TPCP lớn. Nền kinh tế quy mô nhỏ cũng khó có thể cung cấp đầy đủ các điều kiện cho
sự phát triển của thị trường TPCP bao gồm cả cơ sở hạ tầng (World bank và IMF,
2001) [112]. Khối lượng phát hành TPCP trên thị trường trong nước có thể quá nhỏ để
thu hút các tổ chức đầu tư và các NĐT nước ngoài tiềm năng. Bên cạnh đó, trong một
thị trường nhỏ, mức độ thanh khoản kém, giá trái phiếu thường chịu tác động mạnh
bởi người mua và người bán tham gia và rút lui khỏi thị trường do số lượng NĐT tham
gia thị trường hạn chế. Một thị trường nhỏ sẽ không hấp dẫn những NĐT lớn, tổ chức
đầu tư chuyên nghiệp (Eichengreen và cộng sự, 2004) [55].
Bên cạnh đó, một nền kinh tế nhỏ có thể sẽ không khai thác được lợi ích mà
HNTC mang lại mà lại gánh chịu rủi ro nhiều hơn. Theo Arteta và cộng sự (trích bởi
Mougani, 2011) [94], HNTC đem lại lợi ích lớn cho các quốc gia giàu có hoặc trung
bình hơn là các quốc gia đang phát triển.
2.3.2. Điều kiện vĩ mô
Môi trường vĩ mô có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của thị trường TPCP
trong điều kiện hội nhập tài chính. Nhiều nghiên cứu trước đây như nghiên cứu của
Edison (2002) [53] và nghiên cứu của Kose và cộng sự (2011) [78] đã đánh giá vai trò
của chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá đối với hiệu quả của hội nhập tài chính.
Tự do hoá tài khoản vốn sẽ thành công hơn nếu có sự hỗ trợ của chính sách tiền tệ,
chính sách tài khoá và chính sách tỷ giá tốt. Chính sách yếu kém, không tương thích có
thể gây tăng nguy cơ khủng hoảng. Bên cạnh đó, rủi ro lây lan từ các cuộc khủng
hoảng bên ngoài cũng đặt ra yêu cầu mỗi quốc gia cần theo đuổi chính sách vĩ mô thận
trọng và ổn định cùng với chính sách quản lý nợ và dự trữ tài sản nhằm giảm thiểu tác
động tiêu cực từ HNTC.
Điều kiện vĩ mô còn tác động trực tiếp đến thị trường TPCP. Một khuôn khổ
chính sách vĩ mô gồm chính sách tài khoá thận trọng và bền vững, chính sách tiền tệ
ổn định có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của thị trường, làm giảm phần bù
58
rủi ro mà NĐT yêu cầu, từ đó chi phí huy động vốn của Chính phủ trong trung và dài
hạn. Mức độ cân bằng ngân sách sẽ tác động trực tiếp đến nhu cầu phát hành TPCP và
từ đó ảnh hưởng đến sự phát triển của thị trường. Không phải hầu hết các quốc gia đều
có nhu cầu phát triển thị trường TPCP với mục tiêu huy động vốn bởi ngân sách không
trải qua thời kỳ thâm hụt. Tuy nhiên, nếu một quốc gia bị đánh giá là không có khả
năng quản lý các khoản chi tiêu hay thu nhập từ thuế, hoặc một kế hoạch vay nợ không
rõ ràng, minh bạch, và bền vững thì NĐT sẽ nhận thấy rủi ro lớn và lãi suất TPCP sẽ
tăng. Ngoài ra, sự không chắc chắn về điều kiện vĩ mô trong tương lai, đặc biệt là lạm
phát, sẽ ngăn cản việc mở rộng đường cong lãi suất vượt ra ngoài khu vực ngắn hạn.
Tỷ lệ lạm phát có quan hệ ngược chiều với sự phát triển của thị trường trái phiếu vì
lạm phát cao dẫn đến xói mòn lợi nhuận đầu tư trái phiếu khi lãi suất thị trường tăng
và giá trái phiếu giảm. Để phát triển thị trường trong dài hạn đòi hỏi một mức lạm phát
ổn định hoặc việc mở rộng đường cong lãi suất trong điều kiện lạm phát liên tục yêu
cầu phải phát hành trái phiếu gắn với lạm phát hoặc trái phiếu có lãi suất thả nổi.
Tỷ giá hối đoái và tài khoản vốn có tác động đến thị trường TPCP trong bối
cảnh hội nhập tài chính, đặc biệt là khả năng thu hút NĐT nước ngoài. Các NĐT nước
ngoài xem xét lợi suất TPCP trong nước so với quốc tế, cân nhắc rủi ro tỷ giá và cả rủi
ro thanh toán của các quốc gia khác nhau. Trong trường hợp chế độ tỷ giá ổn định, thị
trường TP phát triển mạnh do các NĐT nước ngoài nhận thấy rủi ro thấp và tăng
cường đầu tư. Nếu tỷ giá biến động sẽ không khuyến khích sự phát triển của thị trường
trái phiếu (Eichengreen và Luengnaruemitchai (2004) [55].
Sự phối hợp giữa chính sách tài khoá và tiền tệ rất quan trọng. Một chính sách
tiền tệ hiệu quả kết hợp chính sách quản lý nợ tốt sẽ tạo ra một thị trường phát triển
hơn (World bank và IMF, 2001) [112]. Chính sách tiền tệ với mục đích làm tăng thanh
khoản có thể không khuyến khích hoạt động quản lý thanh khoản chủ động bằng cách
tham gia vào thị trường liên ngân hàng và thị trường mua bán lại của các ngân hàng
thương mại. Tương tự, việc thiết kế các công cụ tiền tệ tạo các điều kiện thuận lợi, dễ
dàng cho các ngân hàng đạt được nguồn vốn từ ngân hàng trung ương, hoặc nếu ngân
hàng trung ương cung cấp các công cụ sẵn sàng với mức lãi suất hấp dẫn để phân phối
các nguồn vốn cho các NHTM thì các NHTM sẽ không có động lực để giao dịch với
nhau, từ đó làm giảm thanh khoản của thị trường TPCP.
59
2.3.3. Sự tín nhiệm của Chính phủ với tư cách là tổ chức phát hành
Chính phủ cần đạt được mức độ tín nhiệm tốt khi phát hành TPCP. Một trong
những điều mà NĐT thường quan tâm khi đầu tư TPCP là liệu chính phủ có thể thanh
toán các khoản nợ mà không cần điều chỉnh chính sách tài khoá một cách đáng kể.
Một chính sách tài khoá thận trọng sẽ giảm thiểu những lo ngại về tính bền vững của
nợ. Vấn đề quản lý nợ công tác động trực tiếp đến sự phát triển của thị trường TPCP.
Quản lý nợ không hiệu quả, không có chiến lược dài hạn và tuân theo quy luật thị
trường, các công cụ và quy trình hoạt động không phù hợp sẽ cản trở sự phát triển của
thị trường. Sự thống trị về tài chính và thiếu kỷ luật tài khoá là những điểm yếu đe doạ
sự phát triển của thị trường TPCP. Nhiều nghiên cứu trước đây cũng nhấn mạnh vai
trò của chất lượng thể chế, chất lượng quản trị công, mức độ minh bạch của Chính phủ
có thể ảnh hưởng đến sự phân bổ nguồn vốn, từ đó ảnh hưởng đến tác động mà HNTC
mang lại.
Bên cạnh đó, một số nghiên cứu nhắc đến rủi ro chính trị như một yếu tố ảnh
hưởng đến sự phát triển của thị trường TPCP trong bối cảnh HNTC. Rủi ro chính trị có
thể xuất phát từ chiến tranh, các mâu thuẫn trong và ngoài nước, tranh chấp lãnh thổ,
cuộc cách mạng dẫn đến thay đổi chính phủ và các cuộc tấn công khủng bố, các yếu tố
xã hội bao gồm sự khác biệt ý thức hệ, phân phối thu nhập không bình đẳng, các xung
đột tôn giáo. Nếu NĐT mua một sản phẩm tài chính của Chính phủ, NĐT sẽ đối mặt
với rủi ro chính trị. Thực tế, rủi ro chính trị liên quan đến khả năng và sự sẵn lòng của
Chính phủ để trả nợ, đồng thời có liên quan đến khả năng Chính phủ có kiểm soát tỷ
giá, ngoại hối, kiểm soát vốn, áp các khoản thuế bổ sung... (Moser (2007) [93],
Duyvesteyn và cộng sự (2015) [51], Eaton và Gersovitz (1981) [52]). Tầm quan trọng
của rủi ro chính trị trong việc phát triển thị trường TPCP được nhấn mạnh, đặc biệt
trong thời gian gần đây. Ví dụ cuộc khủng hoảng đồng euro, và cuộc tranh luận tháng
10 năm 2013 giữa Đảng cộng hoà và Đảng dân chủ về trần nợ công của Mỹ. Trong
cuộc khủng hoảng đồng euro, thị trường chứng khoán và lợi suất trái phiếu Châu Âu
biến động mạnh theo việc liệu Hy Lạp có rời khu vực đồng tiền chung Châu Âu và
liệu Ý và Tây Ban Nha có cần sự cứu trợ của các nước khác trong khu vực không.
Những thay đổi trong chính phủ Hy Lạp, Ý và Tây Ban Nha là cần thiết để lấy lại lòng
tin từ cả NĐT và các nước Châu Âu khác. Nhiều nghiên cứu trước đây cũng nhấn
mạnh vai trò của chất lượng thể chế, quản trị công cùng khuôn khổ pháp lý, mức độ
60
tham nhũng và mức độ minh bạch của Chính phủ có thể ảnh hưởng đến sự phân bổ
nguồn vốn trong hội nhập tài chính. Như vậy, rủi ro chính trị có ảnh hưởng quan trọng
đến giá trái phiếu và sự phát triển của thị trường trong bối cảnh hội nhập tài chính. Bất
ổn chính trị có thể ảnh hưởng xấu đến tăng trưởng kinh tế và đầu tư (Alesina và cộng
sự 1993) [25]. Citron và Nickelsburg (1987) [45], Brewer và Rivoli (1990) [37], và
Balkan (1992) [30] cho rằng rủi ro chính trị có ảnh hưởng mạnh đến khả năng thanh
toán của Chính phủ. Những quốc gia có mức xếp hạng rủi ro chính trị cải thiện cũng
nhận được sự cải thiện trong xếp hạng tín dụng.
2.3.4. Đặc điểm khu vực tài chính
Một hệ thống tài chính tiến bộ, phát triển có khả năng tận dụng được lợi ích mà
HNTC đem lại (Chen và cộng sự, 2012) [43]. Khu vực tài chính hiệu quả và được
giám sát chặt chẽ là cần thiết để giúp hấp thụ nguồn vốn nước ngoài, đồng thời làm
giảm bớt tác động xấu do tính chất không ổn định của dòng vốn mang lại.
Sự phát triển của hệ thống tài chính, cùng với quá trình HNTC sẽ góp phần làm
tăng số lượng và chất lượng các chủ thể tham gia vào thị trường TPCP, từ NĐT đến
các nhà tạo lập thị trường, trung gian tài chính, tổ chức định mức tín nhiệm... từ đó
thúc đẩy thị trường TPCP phát triển. Trước tiên là hệ thống ngân hàng. Tác động của
hệ thống ngân hàng có thể tích cực hoặc tiêu cực. Khi hệ thống ngân hàng phát triển,
có khả năng cung cấp nhiều sản phẩm đa dạng, đáp ứng nhu cầu NĐT thì khả năng
phát hành TPCP thành công của Chính phủ sẽ giảm do tổ chức phát hành trái phiếu và
ngân hàng cạnh tranh trên cùng 1 thị trường (Harwood, 2000) [68]. Ở một khía cạnh
khác, việc thiếu các trung gian tài chính mạnh sẽ làm thị trường kém phát triển do
thiếu các nhà kinh doanh trái phiếu, nhà tạo lập thị trường. Sự hiện diện của hệ thống
ngân hàng lớn, phát triển tốt, cạnh tranh và có mức độ vốn hoá tốt là cần thiết để phát
triển thị trường trái phiếu thanh khoản và thực hiện đúng chức năng. Mức độ cạnh
tranh giữa các ngân hàng càng lớn trong việc huy động tiền gửi và cho vay, thì ngân
hàng càng dễ tìm đến hoạt động đầu tư trái phiếu nhằm kiếm lời. Đây là một điều kiện
thuận lợi cho sự phát triển của thị trường TPCP. Tuy nhiên, một hệ thống ngân hàng
khủng hoảng sẽ làm phức tạp thêm sự phát triển của thị trường TPCP do các thị trường
liên quan như thị trường liên ngân hàng, thị trường giao dịch repo hoạt động không
đúng chức năng. Điều này có thể dẫn đến thiếu hụt thanh khoản. Bên cạnh hệ thống
ngân hàng, thị trường tài chính phát triển thúc đẩy sự phát triển của các tổ chức tài
61
chính khác như quỹ đầu tư, công ty bảo hiểm, công ty tài chính..., đây là những NĐT
tiềm năng của thị trường TPCP.
2.3.5. Khuôn khổ pháp lý và tính minh bạch của thị trường
Một hệ thống pháp luật khuyến khích thị trường trái phiếu tuân theo quy luật thị
trường, bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư sẽ tạo điều kiện tốt hơn cho thị trường phát triển.
Khuôn khổ pháp lý cần có những quy tắc rõ ràng cho phát hành TPCP và trả nợ, các
quy tắc liên quan đến người tham gia thị trường, nguyên tắc công khai minh bạch
thông tin, quy tắc giao dịch và lưu ký thanh toán bù trừ TPCP. Các quy định bắt buộc
đầu tư TPCP sẽ bóp méo thị trường TPCP nói riêng, trong đó các quy định giới hạn về
kỳ hạn của tài sản và loại tài sản nắm giữ của các tổ chức tài chính, đặc biệt là ngân
hàng đang phổ biến. Theo Arvai và Heenan (2008) [27], việc phụ thuộc quá nhiều vào
một nguồn tài chính có tính chất bắt buộc để tài trợ cho ngân sách sẽ khiến thị trường
thứ cấp kém thanh khoản. Ở nhiều quốc gia, các NHTM là những NĐT cung cấp vốn
chính cho NSNN trên thị trường TPCP với mục đích chủ yếu là để đáp ứng các quy
định về tỷ lệ nắm giữ tài sản có tính thanh khoản mà Chính phủ đề ra. Bởi thế, các
ngân hàng có xu hướng nắm giữ TPCP cho đến khi đáo hạn thay vì giao dịch nó trên
thị trường thứ cấp. Bên cạnh đó, ở các thị trường đang phát triển hoặc mới nổi, những
người tham gia vào các quỹ hưu trí, hay bảo hiểm còn ít. Điều này cũng ảnh hưởng
đến cơ sở NĐT trên thị trường thứ cấp TPCP. Một trong những nguyên nhân là do
thiếu khuôn khổ pháp lý và cơ chế phù hợp cho các NĐT tổ chức và thiếu các biện
pháp kích thích sự phát triển của các tổ chức này như cải cách hưu trí. Ngoài ra, quy
định về thuế giao dịch và thuế thu nhập cũng có thể có tác động tiêu cực đến sự phát
triển của thị trường, vì chúng làm giảm nhu cầu giao dịch TPCP và có thể ảnh hưởng
đến phân bổ nguồn tiết kiệm. Tỷ lệ các loại thuế giao dịch đang giảm, nhưng ở một số
nước thuế giao dịch tài chính lại là nguồn thu lớn và có hiệu quả (Arvai và Heenan,
2008) [27].
Bên cạnh đó, cần có sự đồng bộ từ chính sách phát triển thị trường TPCP đến
chính sách HNTC nhằm khai thác được nhiều lợi ích từ HNTC. Theo Kose và cộng sự
(2009) [77], trong bối cảnh HNTC các quy định trong nước và quốc tế có tính chất
tương đồng, song song đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với các nền kinh tế chậm
phát triển thu nhập thấp, vốn là những nơi khó tiếp cận các nguồn tài chính. Sự bảo vệ
62
của pháp luật đối với người cho vay và mức độ rõ ràng, chuẩn xác của các chuẩn mực
kế toán có khả năng ảnh hưởng đến các quyết định phân bổ tài chính, từ đó ảnh hưởng
đến chiều tác động của HNTC (Mougani, 2011) [94].
Ngoài ra, thị trường minh bạch sẽ thúc đẩy sự hiệu quả. Thông tin liên quan đến
lãi suất giao dịch, khối lượng, thông tin về giá mà NĐT sẵn sàng giao dịch đều là
những cơ sở để hình thành giá. Minh bạch thông tin không chỉ là bên cung cấp thông
tin cung cấp đầy đủ các thông tin theo quy định trong các cam kết hội nhập, theo quy
định của từng quốc gia, mà thông tin cần được cung cấp một cách rõ ràng, dễ tiếp cận
đối với NĐT, từ đó hạn chế được vấn đề bất cân xứng thông tin và đảm bảo sân chơi
bình đẳng cho tất cả các NĐT.
2.4. Một số bài học về phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ trong bối cảnh
hội nhập tài chính từ kinh nghiệm quốc tế
Nhật Bản và Hàn Quốc là hai quốc gia có thị trường trái phiếu phát triển và hội
nhập ở khu vực Châu Á. Kinh nghiệm phát triển thị trường TPCP của hai quốc gia
được tổng hợp trong phụ lục 1. Sau khi nghiên cứu kinh nghiệm phát triển thị trường
TPCP của hai nước này, một số bài học được rút ra cho Việt Nam trong quá trình phát
triển thị trường TPCP trong bối cảnh hội nhập tài chính.
Phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ phải gắn với phát triển kinh tế và tăng
cường các điều kiện cơ bản cho thị trường
Kinh nghiệm cho thấy phát triển thị trường TPCP cần phù hợp với quá trình
phát triển kinh tế. Nhu cầu về TPCP thay đổi cùng với sự phát triển của nền kinh tế.
Từ kinh nghiệm của Hàn Quốc, đối với mục đích đặc biệt ngoài việc tài trợ cho thâm
hụt NSNN, Chính phủ Hàn Quốc đã sử dụng các trái phiếu công khác như các trái
phiếu đặc biệt và trái phiếu tài chính thay vì trái phiếu Chính phủ. Chiến lược này
được sử dụng nhằm hai mục đích đó là huy động vốn đáp ứng nhu cầu phát triển kinh
tế nhanh mà không ảnh hưởng đến chính sách tài khoá của Chính phủ. Mặc dù một số
trái phiếu đặc biệt vẫn cần sự chấp thuận của Quốc hội khi muốn phát hành nhưng điều
kiện phát hành cần chặt chẽ hơn nhiều so với trái phiếu Chính phủ thông thường.
Vấn đề vĩ mô đóng vai trò quan trọng đối với thị trường. Kinh nghiệm của các
nước có thị trường phát triển cho thấy rằng một quốc gia không chỉ cần đưa ra các biện
pháp phát triển thị trường trực tiếp mà còn phải đảm bảo đáp ứng các điều kiện tiên
63
quyết cơ bản để phát triển thị trường. Điều kiện tiên quyết để thiết lập một thị trường
trái phiếu Chính phủ hiệu quả bao gồm chính sách tiền tệ, chính sách tài khoá, hệ
thống tài chính phát triển và khuôn khổ pháp lý phù hợp.
Chính sách tài khoá tốt đảm bảo môi trường ổn định và thuận lợi cho việc đầu
tư TPCP, đặc biệt là các công cụ trung và dài hạn. Bên cạnh đó, các chính sách tài
khoá cần khuyến khích các NĐT trong và ngoài nước đầu tư vào TPCP thông qua cam
kết quản lý thận trọng và bền vững nợ chính phủ và thâm hụt NSNN. Việc phát hành,
sử dụng, quản lý và trả nợ cần thực hiện theo quy trình chặt chẽ và thống nhất. Đề ra
nguyên tắc trả nợ thống nhất và tuân thủ nguyên tắc cũng là một yếu tố giúp thị trường
TPCP phát triển. Có thể phát hành trái phiếu để đảo nợ nhưng phải đảm bảo nguyên
tắc thời gian trả nợ tối đa.
Bên cạnh đó, chính sách tiền tệ phải đảm bảo mục tiêu bình ổn giá. Nếu lạm
phát kỳ vọng cao và không ổn định, lợi suất TPCP ở những kỳ hạn dài sẽ không chắc
chắn, dẫn đến rủi ro cho NĐT, làm giảm động lực đầu tư. Kiểm soát lạm phát sẽ là
động lực thúc đẩy sự phát triển của thị trường TPCP. Kinh nghiệm của Nhật Bản cho
thấy mặc dù nợ công rất lớn, nhưng nhu cầu đối với TPCP Nhật vẫn cao dưới tác động
của giảm phát hoặc tỷ lệ lạm phát thấp. Ngoài ra, chính sách tỷ giá, dự trữ ngoại tệ đều
có khả năng ảnh hưởng đến chi phí huy động vốn và khả năng phát hành TPCP của
một quốc gia, đặc biệt trong việc thu hút NĐT nước ngoài. Theo kinh nghiệm Nhật
Bản, mặc dù nợ công Nhật Bản rất cao, nhưng ngoài việc có tỷ lệ nợ nước ngoài thấp,
Nhật Bản dự trữ ngoại tệ ở mức cao do vậy khả năng trả nợ không quá khó khăn. Cho
đến nay, các NĐT vẫn sẵn lòng cho Chính phủ Nhật Bản vay vốn với lãi suất siêu thấp
trên thị trường trái phiếu, cho phép Chính phủ dễ dàng thanh toán những khoản nợ đã
vay từ trước.
Phát triển thị trường TPCP theo hướng tuân theo quy luật thị trường, hạn chế và
dần loại bỏ cơ chế điều hành, can thiệp thị trường
Trên thị trường sơ cấp, điều quan trọng nhất đó là chuyển đổi từ cơ chế điều
hành can thiệp lãi suất sang cơ chế phát hiện giá theo thị trường. Chính phủ trước hết
cần cam kết huy động vốn theo định hướng thị trường thông qua sử dụng các công cụ
mang tính thị trường, giảm bớt và loại bỏ các nguồn vốn bắt buộc. Ở phần lớn các
quốc gia, hệ thống đấu thầu được giới thiệu nhằm định hướng thị trường theo cơ chế
64
phát hiện giá. Việc phát hành TPCP cần có sự tham vấn của các thành viên tham gia
thị trường thông qua các cuộc họp, hội nghị.
Cải thiện chức năng phát hiện giá của thị trường thông qua hệ thống giao dịch
điện tử, báo giá điện tử, chia khoảng bước giá giao dịch trên thị trường tập trung. Điều
này đòi hỏi cơ sở hạ tầng cho thị trường TPCP phải hiện đại. Hơn nữa, việc công bố
thông tin chính xác và thường xuyên về thị trường TPCP sẽ góp phần thúc đẩy thị
trường tuân theo đúng quy luật cung cầu. Để TPCP hấp dẫn như một khoản đầu tư giá
trị chứ không đơn thuần là một tài sản phi rủi ro, phương pháp định giá trái phiếu theo
thị trường cần được triển khai.
Cơ sở nhà đầu tư là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển của thị trường
TPCP
Cơ sở NĐT đa dạng với yêu cầu thanh khoản khác nhau sẽ giúp Chính phủ dễ
dàng hơn trong việc phát hành trái phiếu, giảm bớt biến động thị trường bằng cách
tránh các biến động cùng chiều và khuyến khích cạnh tranh trên thị trường, đồng thời
thúc đẩy thanh khoản của thị trường thứ cấp. Nếu việc bán TPCP cho số lượng lớn các
NĐT trong đó có nhiều NĐT nhỏ lẻ có thể dẫn đến số lượng TPCP mua của một NĐT
nhỏ, thị trường sẽ phân tán, thì theo kinh nghiệm của các nước, việc bán TPCP cho
NĐT lẻ có thể được thực hiện ở một số lượng hạn chế nhất định trong tổng số TPCP
bán ra, hoặc mở các kênh phân phối chứng khoán cho các NĐT lẻ qua các đại lý như
Nhật Bản trước đây sử dụng bưu điện làm kênh phân phối bán lẻ, hoặc sau này tổ chức
một hệ thống bán TPCP qua quầy (OTC), hay như Hàn Quốc đã có thị trường bán lẻ
TPCP dành cho những NĐT mua khối lượng nhỏ. Đồng thời để khuyến khích sự tham
gia của đa dạng NĐT, Chính phủ cần cải thiện môi trường pháp lý khuyến khích đầu
tư. Sự dịch chuyển từ khung đầu tư hạn chế sang khuôn khổ quản lý đầu tư thận trọng,
khuyến khích các quỹ đầu tư chuyên về TPCP và tăng cường lợi ích của các NĐT lẻ
thông qua các kênh phân phối mới bao gồm quỹ tương hỗ và các giao dịch tự động
cũng tăng cường cơ sở NĐT. NĐT nước ngoài đóng vai trò quan trọng trên thị trường
TPCP. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm của Nhật Bản, nếu TPCP được tài trợ phần lớn
bởi NĐT trong nước thì đây sẽ là nguồn cung vốn ổn định cho Chính phủ, giảm thiểu
rủi ro bởi các NĐT nước ngoài được cho là khá nhạy cảm khi gánh nặng nợ Chính phủ
tăng cao.
Xây dựng hệ thống nhà kinh doanh trái phiếu
65
Kinh nghiệm của các thị trường TPCP phát triển chỉ ra rằng việc xây dựng hệ
thống nhà kinh doanh trái phiếu cấp 1 là cần thiết và quan trọng. Nhà kinh doanh trái
phiếu sẽ có những quyền lợi hơn các NĐT khác, tuy nhiên họ sẽ phải đóng vai trò chủ
chốt trong các đợt phát hành TPCP và là nhà tạo lập thị trường trên thị trường thứ cấp.
66
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Chương 2 đã hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản nhất về phát triển thị trường
trái phiếu Chính phủ trong bối cảnh HNTC. Tổng quan về thị trường trái phiếu Chính
phủ được nêu ở phần đầu tiên của chương. Phần tiếp theo là những vấn đề liên quan
đến phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ trong bối cảnh HNTC bao gồm những
vấn đề cơ bản về HNTC, tác động của HNTC đến thị trường trái phiếu Chính phủ.
Quan điểm phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ trong bối cảnh HNTC cũng được
đưa ra cùng với các tiêu chí đánh giá mức độ phát triển. Trong phần tiếp theo, các
nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của thị trường TPCP trong bối cảnh HNTC cũng
được trình bày cụ thể, làm cơ sở cho chương 4 khi xây dựng mô hình kiểm định các
nhân tố tác động đến sự phát triển của thị trường TPCP trong bối cảnh HNTC. Phần
cuối cùng của chương 2 là một số bài học về phát triển thị trường TPCP trong bối cảnh
HNTC được rút ra từ nghiên cứu kinh nghiệm của một số quốc gia có thị trường TPCP
phát triển.
67
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU
CHÍNH PHỦ VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP TÀI CHÍNH
3.1. Quá trình hội nhập tài chính của Việt Nam và hội nhập thị trường trái phiếu
Chính phủ
3.1.1. Quá trình hội nhập tài chính của Việt Nam
Năm 1986 đánh dấu mốc quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam khi đất nước
bắt đầu tiến hành công cuộc đổi mới và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Từ đó đến
nay Việt Nam đã không ngừng mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế đối ngoại song
phương và đa phương với nhiều đối tác, dưới nhiều hình thức, trên nhiều lĩnh vực,
trong đó có lĩnh vực tài chính.
Hội nhập tài chính khu vực ASEAN
Hội nhập khu vực ASEAN luôn được đặt ưu tiên hàng đầu. HNTC trong
ASEAN bắt đầu diễn ra từ sau cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997. Tiến
trình hợp tác tài chính trong ASEAN tập trung vào các hoạt động: thực hiện lộ trình
hội nhập tài chính– tiền tệ ASEAN; thực hiện cơ chế giám sát kinh tế ASEAN, và các
chương trình hợp tác tài chính ASEAN khác. Lộ trình hội nhập tài chính– tiền tệ
ASEAN đã được các Nhà lãnh đạo cấp cao ASEAN thông qua vào tháng 10/2003, tập
trung vào 4 lĩnh vực là phát triển thị trường vốn, tự do hoá tài khoản vốn, tự do hoá
lĩnh vực dịch vụ tài chính ASEAN và hợp tác tiền tệ ASEAN. Sau khi lộ trình được
thông qua, ASEAN đã từng bước thực hiện lộ trình và một bước tiến quan trọng trong
quá trình HNTC của ASEAN là sự ra đời của cộng đồng kinh tế chung AEC vào năm
2015. Mục tiêu của AEC là tự do hoá thương mại, tự do hoá đầu tư và tự do lưu
chuyển vốn tiến tới hội nhập thị trường tài chính. Theo đó, các quốc gia ASEAN từng
bước điều chỉnh khung pháp luật theo hướng tạo điều kiện cho tự do hoá đầu tư và di
chuyển vốn. Các hợp tác tài chính ASEAN khác được thực hiện như hợp tác về thuế,
hải quan, chương trình xúc tiến đầu tư của các Bộ trưởng Tài chính ASEAN, hợp tác
chống rửa tiền và tài trợ khủng bố, cải cách hệ thống tài chính quốc tế... Hợp tác tài
chính ASEAN + 3 tập trung các hoạt động: Triển khai sáng kiến phát triển thị trường
trái phiếu ASEAN + 3 (ABMI), triển khai sáng kiến Chiềng Mai (CMI) và thực hiện
nghiên cứu trong khuôn khổ Nhóm nghiên cứu ASEAN + 3. ABMI được khởi xướng
vào năm 2003 với mục tiêu phát triển có hiệu quả và sâu rộng các thị trường trái phiếu
trong khu vực và tăng cường hợp tác qua biên giới giữa các thị trường.
68
HNTC trong ASEAN được đề ra trong các kế hoạch hội nhập gồm một số nội
dung cơ bản như:
- Loại bỏ nhanh chóng những hạn chế trong cung cấp dịch vụ tài chính trong khu vực
- Hài hoà hoá những tiêu chuẩn về thị trường vốn trong khu vực
- Tự do hoá tài khoản vốn thông qua việc gỡ bỏ các hạn chế tài khoản
- Phát triển thị trường vốn, bằng cách xây dựng năng lực và cơ sở hạ tầng cho phát
triển thị trường vốn ASEAN
- Hài hoà hoá hệ thống thanh toán
- Công nhận lẫn nhau về trình độ chuyên môn của các chuyên gia ngành tài chính
- Thúc đẩy xây dựng năng lực, sắp xếp tài chính khu vực và giám sát khu vực
Trong đó lộ trình HNTC của AEC bao gồm từng giai đoạn, có những nội dung cụ thể
(phụ lục 1).
Một số nội dung hội nhập tài chính Asean mà Việt Nam đã thực hiện
- Cam kết mở cửa thị trường bảo hiểm của Việt Nam ở mức độ cao trong các nước
ASEAN. Việt Nam cho phép NĐT nước ngoài cung cấp dịch vụ bảo hiểm qua biên
giới với đối tượng sử dụng là công ty có vốn đầu tư nước ngoài, người nước ngoài làm
việc tại Việt Nam trong một số lĩnh vực như bảo hiểm vận tải quốc tế, tái bảo hiểm,
môi giới bảo hiểm, và các dịch vụ phụ trợ; cho phép thành lập công ty bảo hiểm 100%
vốn nước ngoài, nhưng không được phép thành lập chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm
nhà nước tại Việt Nam trừ chi nhánh bảo hiểm phi nhân thọ. Việt Nam cũng chưa cho
phép cung cấp dịch vụ nhượng tái bảo hiểm qua biên giới.
- Trong lĩnh vực dịch vụ tài chính, Việt Nam chỉ cho phép nhà cung cấp dịch vụ nước
ngoài cung cấp dịch vụ qua biên giới với các dịch vụ chuyển thông tin, dịch vụ tư vấn
và dịch vụ phụ trợ. Cụ thể:
+ Trong dịch vụ ngân hàng, Việt Nam quy định các tổ chức tín dụng nước ngoài chỉ
được phép thành lập hiện diện thương mại tại Việt Nam dưới các hình thức sau: (1)
Đối với các NHTM nước ngoài: được phép thành lập dưới hình thức bao gồm văn
phòng đại diện, chi nhánh NHTM nước ngoài, NHTM liên doanh trong đó phần vốn
góp của bên nước ngoài không vượt quá 50% vốn điều lệ của ngân hàng liên doanh,
công ty cho thuê tài chính liên doanh, công ty cho thuê tài chính 100% vốn đầu tư
nước ngoài, công ty tài chính liên doanh và công ty tài chính 100% vốn đầu tư nước
ngoài, được phép thành lập ngân hàng 100% vốn đầu tư nước ngoài. (2) Đối với công
69
ty tài chính nước ngoài: được phép thành lập dưới các hình thức văn phòng đại diện,
công ty tài chính liên doanh, công ty tài chính 100% vốn đầu tư nước ngoài, côg ty cho
thuê tài chính liên doanh và công ty cho thuê tài chính 100% vốn đầu tư nước
ngoài. Tại Gói cam kết thứ 7, Việt Nam dỡ bỏ hạn chế quyền của một chi nhánh
ngân hàng nước ngoài được nhận tiền gửi bằng đồng Việt Nam từ các thể nhân
Việt Nam mà ngân hàng không có quan hệ tín dụng theo các mức vốn mà ngân
hàng mẹ cấp cho chi nhánh.
+ Về dịch vụ chứng khoán, trong khi các quốc gia khác chỉ cho phép công ty nước
ngoài cung cấp dịch vụ chứng khoán được phép thành lập hiện diện thương mại dưới
hình thức văn phòng đại diện hoặc liên doanh, thì Việt Nam cho phép NĐT nước
ngoài được thành lập CTCK 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam, cho phép thành lập
văn phòng đại diện và liên doanh với tỷ lệ góp vốn không quá 49%. Tuy nhiên, Việt
Nam chưa cam kết đối với giao dịch qua tài khoản (kể cả cá nhân và tài khoản khách
hàng), chưa cam kết đối với quản lý tài sản, quản lý quỹ.
- Việt Nam đang tham gia các sáng kiến trong khuôn khổ Nhóm công tác về phát triển
thị trường vốn ASEAN, đóng góp tích cực trong việc tăng cường hội nhập thị trường
tài chính trong khu vực như Chuẩn mực công bố thông tin ASEAN đối với chứng
khoán nợ và cổ phiếu, Khung rà soát đối với cổ phiếu niêm yết thứ cấp, Kết nối giao
dịch ASEAN, Thẻ điểm Quản trị doanh nghiệp ASEAN, và biên bản Ghi nhớ thành
lập Khung rà soát về Bản cáo bạch chung ASEAN. Bên cạnh đó, ASEAN cũng đã
triển khai Khung khổ ASEAN về chào bán qua biên giới quỹ đầu tư tập thể cho phép
một nước chào bán các sản phẩm quỹ đầu tư tập thể tại các nước ký kết.
- Việt Nam đã thành lập cơ chế liên kết thông tin giữa các SGDCK với các nước khác
trong khu vực ASEAN như xây dựng website chung, thông tin về các mã cổ phiếu
ASEAN, hợp tác trong lĩnh vực marketing- truyền thông về chứng khoán.
Hội nhập tài chính ngoài ASEAN
Ngoài ASEAN, khi tham gia vào các tổ chức thương mại quốc tế và ký kết các
FTA cũng như các hiệp định thương mại tự do với các nước, nhiều cam kết liên quan
đến tài chính cũng trong lộ trình được thực hiện.
- Nhiều dòng thuế được cam kết và thực hiện cắt giảm xuống còn 0% hoặc xuống đến
mức thuế suất cam kết theo lộ trình. Cam kết về thuế nhập khẩu trong 2 khuôn khổ
70
FTA thế hệ mới là CPTPP và Việt Nam – EU có tỷ lệ tự do hoá cao hơn với lộ trình
ngắn hơn, hướng tới cam kết xoá bỏ thuế quan đối với 100% số dòng thuế.
- Cam kết về dịch vụ bảo hiểm và chứng khoán của Việt Nam đã ở mức tự do hoá cao
trong WTO. Tuy nhiên Việt Nam vẫn thực hiện hạn chế một số điều khoản về việc mở
cửa thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài như chưa cho phép thành lập chi nhánh
bảo hiểm nhân thọ của doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài, chưa cho phép cung cấp
dịch vụ qua biên giới đối với dịch vụ nhượng tái bảo hiểm. Trong các FTA đã ký kết,
Việt Nam không mở cửa thêm dịch vụ bảo hiểm và chứng khoán so với cam kết WTO.
- Hợp tác tài chính cũng là một trong các trụ cột của diễn đàn Hợp tác tài chính Châu
Á- Thái Bình Dương (APEC). Với mục tiêu xây dựng một cộng đồng APEC hội nhập
tài chính, minh bạch, bền vững và kết nối, Kế hoạch hành động Cebu đã được các Bộ
trưởng tài chính APEC thông qua năm 2015 nhằm định hướng dài hạn cho hợp tác tài
chính APEC đến năm 2025 bao gồm 4 trụ cột: thúc đẩy hội nhập tài chính, thúc đẩy
minh bạch tài khoá, cải thiện bền vững tài chính, tăng cường tài chính và phát triển cơ
sở hạ tầng. Về hội nhập tài chính, các nền kinh tế hướng tới tăng cường tài chính cho
doanh nghiệp nhỏ, chia sẻ kinh nghiệm về tài chính toàn diện và chiến lược giáo dục
tài chính, giảm chi phí chuyển kiều hối về nước và hướng tới tự do hoá các dịch vụ tài
chính và tự do hoá tài khoản vốn trong nền kinh tế APEC. Nhằm cải thiện bền vững tài
chính, các nền kinh tế APEC đẩy mạnh hợp tác kinh tế vĩ mô, phát triển các cơ chế
bảo hiểm (bao gồm cả bảo hiểm vi mô) và hỗ trợ tài chính nhằm giúp nền kinh tế
APEC đối phó với các rủi ro thiên tai, giảm gánh nặng tài khoá, và phát triển thị
trường vốn nhằm tạo thêm các công cụ chuyển hoá rủi ro, các sản phẩm tài chính đa
dạng, và hệ thống tài chính ổn định.
Có thể thấy, thời gian qua, cùng với quá trình hội nhập kinh tế chung của đất
nước, lĩnh vực tài chính đã tích cực tham gia vào hội nhập khu vực, tích cực triển khai
xây dựng phương án đàm phán, phương án kết thúc các hiệp định thương mại tự do,
tiếp tục rà soát chuyển đổi biểu thuế và ban hành biểu thuế cho các FTA đang thực
hiện và vừa ký kết.
3.1.2. Hội nhập thị trường trái phiếu Chính phủ Việt Nam
Sau khi trở thành thành viên của WTO, thị trường trái phiếu Việt Nam đã từng
bước hội nhập ngày càng sâu rộng với thị trường khu vực và thế giới. Trong khuôn
khổ hợp tác tài chính, Việt Nam là thành viên của diễn đàn các thị trường mới nổi
71
(EMF), diễn đàn thị trường trái phiếu Châu Á (ABMF), là thành viên cộng đồng kinh
tế ASEAN, ASEAN + 3, tham gia Sáng kiến thị trường trái phiếu Châu Á (ABMI),
than gia diễn đàn thị trường trái phiếu mới nổi (Germlock). Đồng thời bộ tài chính đã
nhận được hỗ trợ kỹ thuật từ ABMI, ngân hàng phát triển châu Á (ADB), ngân hàng
thế giới (WB), đại sứ quán Anh để hoàn thiện thể chế chính sách và nâng cao khả năng
quản lý, giám sát trong lĩnh vực thị trường trái phiếu.
Được thành lập từ năm 2009, sau hơn 7 năm hoạt động, thị trường trái phiếu
Chính phủ chuyên biệt của Việt Nam đã từ bước sơ khai ban đầu phát triển gần tiệm
cận ASEAN, và đặt mục tiêu hội nhập sâu rộng hơn nữa vào thị trường trái phiếu khu
vực ASEAN (ASEAN bond market) với cả mảng trái phiếu chính phủ và trái phiếu
doanh nghiệp.
Thực tế, với thị trường ASEAN, Việt Nam đã từng bước tham gia vào thị
trường trái phiếu khu vực này với nhiều hoạt động như cung cấp thông tin về thị
trường trái phiếu Việt Nam để minh bạch hoá và quảng bá thị trường tới các nhà đầu
tư trái phiếu khu vực và quốc tế, cụ thể là đã cùng tham gia xây dựng sổ tay về thị
trường trái phiếu ASEAN – ASEAN Bond market guide; chuẩn hoá các thông lệ giao
dịch sao cho phù hợp với các chuẩn mực được quốc tế công nhận, rà soát quy trình thủ
tục phát hành trái phiếu nhằm tiến tới tham gia vào việc thử nghiệm trong chương
trình phát hành trái phiếu đa tiền tệ của ASEAN.
Trong thời gian tới, mục tiêu của SGDCK Hà nội và thị trường trái phiếu Chính
phủ chuyên biệt là hiện thực hoá việc thực hiện phát hành trái phiếu trong khuôn khổ
chương trình phát hành trái phiếu đa tiền tệ của ASEAN, tham gia vào các hoạt động
giao dịch và thanh toán trái phiếu xuyên quốc gia...
3.2. Khái quát quá trình hình thành và thực trạng thị trường trái phiếu Chính
phủ Việt Nam trong bối cảnh hội nhập tài chính
Thị trường TPCP Việt Nam được hình thành từ giữa những năm 1990 khi nhu
cầu huy động vốn phục vụ phát triển kinh tế và cơ sở hạ tầng của Chính phủ tăng và
Chính phủ phát hành một số loại TPCP huy động vốn như tín phiếu kho bạc, trái phiếu
kho bạc và trái phiếu công trình dưới sự điều chỉnh của nghị định 72-CP về việc ban
hành quy chế phát hành các loại TPCP năm 1994. Trước đó, khi Chính phủ cần tiền để
trang trải các chi phí của chính phủ và xây dựng cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế sau khi
kết thúc chiến tranh, ngoài các khoản vay nợ và viện trợ không hoàn lại từ các nước
72
khối xã hội chủ nghĩa, Chính phủ đã phát hành một số loại công trái như công trái
kháng chiến, công trái xây dựng tổ quốc để huy động cả tiền mặt và hiện vật từ người
dân. Tuy nhiên việc thu hút vốn còn rất hạn chế (Trịnh Mai Vân, 2010) [17].
Từ khi ra đời, thị trường TPCP liên tục phát triển với nhiều bước thăng trầm
nhưng đã dần trở thành kênh huy động vốn quan trọng cho ngân sách nhà nước. HNTC
đem lại những ảnh hưởng tích cực và cả những tác động tiêu cực lên thị trường. Thực
trạng thị trường TPCP Việt Nam được nghiên cứu theo các khía cạnh tác động của
HNTC.
3.2.1. Các quy định pháp lý điều chỉnh hoạt động thị trường trái phiếu
Chính phủ Việt Nam
Giai đoạn đầu của thị trường TPCP, số lượng các văn bản, quy định pháp lý quy
định trên thị trường TPCP còn rất ít và hạn chế. Cho đến năm 1994, nước ta mới có
văn bản chính thức đầu tiên quy định về việc phát hành các loại TPCP như Nghị định
72/CP ngày 26/7/1994, Nghị định 23/CP ngày 22/3/1995, Pháp lệnh số 12/1999/PL-
UBTVQH10.
Giai đoạn sau, cùng với quá trình hội nhập, đã chứng kiến nhiều quyết định
quan trọng, ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của thị trường TPCP Việt Nam như quyết
định phát hành TPCP theo lô lớn, quyết định đấu thầu TPCP qua thị trường giao dịch
chứng khoán tập trung, và đặc biệt là quyết định phê duyệt đề án xây dựng thị trường
TPCP chuyên biệt đã tạo một bước tiến lớn cho thị trường TPCP. Khuôn khổ pháp lý
về phát triển thị trường trái phiếu được ban hành đồng bộ, phù hợp với từng giai đoạn
thị trường, phù hợp với các cam kết hội nhập, theo xu hướng và thông lệ quốc tế. Một
số văn bản pháp luật cho hoạt động của thị trường TPCP trong giai đoạn hiện nay bao
gồm:
- Luật NSNN 2015; Luật quản lý nợ công (2017), Luật chứng khoán 2006, Luật sửa
đổi bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán (2010).
- Nghị định 53/2009/NĐ-CP về phát hành trái phiếu quốc tế (hết hiệu lực một phần);
- Nghị định 01/2011/NĐ-CP về phát hành TPCP, TP được CPBL và TP chính quyền
ĐP. Các thông tư hướng dẫn chi tiết nghị định 01/2011/NĐ-CP bao gồm quy trình, thủ
tục phát hành, đăng ký lưu ký và niêm yết các loại trái phiếu hướng tới các thông lệ
của thị trường quốc tế.
73
- Nghị định 95/2018/NĐ-CP quy định về phát hành, đăng ký, lưu ký, niêm yết và giao
dịch công cụ nợ của Chính phủ trên thị trường chứng khoán.
- Quyết định 576/QĐ-SGDHN sửa đổi bổ sung quy trình đấu thầu trái phiếu Chính
phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, trái phiếu Chính quyền địa phương tại
SGDCKHà Nội ban hành kèm quyết định số 276/QĐ-SGDHN ngày 3/8/2012.
- Nghị định 58/2012/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật chứng khoán và Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật chứng khoán, nghị định 60/2015/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung
một số điều của Nghị định số 58/2012/NĐ-CP.
- Quyết định 253/QĐ-UBCK về niêm yết và giao dịch trái phiếu Chính phủ phát hành
bằng ngoại tệ tại SGDCK Hà Nội
- Quyết định 750/QĐ-SGDHN về quy trình giao dịch trái phiếu chính phủ, trái phiếu
được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu Chính quyền địa phương tại SGDCKHà Nội
- Quyết định 756/QĐ-SGDHN về quy trình công bố thông tin và báo cáo đối với thành
viên giao dịch trái phiếu Chính phủ tại SGDCKHà Nội.
Khung khổ pháp lý tập trung phát triển thị trường TPCP trở thành kênh huy
động vốn hiệu quả cho NSNN đồng thời đóng vai trò là thị trường chuẩn cho hệ thống
tài chính. Theo đó công tác phát hành và giao dịch TPCP được cải tiến phù hợp với
tình hình thị trường và theo thông lệ quốc tế, thực hiện phát hành TPCP theo định
hướng thị trường.
Quá trình thay đổi các văn bản pháp luật cho hoạt động của thị trường TPCP
được nêu cụ thể trong phụ lục 2.
3.2.2. Thực trạng thị trường phát hành trái phiếu Chính phủ Việt Nam
trong bối cảnh hội nhập tài chính
3.2.2.1. Phương thức và khối lượng phát hành trái phiếu chính phủ
Khối lượng TPCP được phát hành phụ thuộc vào nhu cầu của Chính phủ, cân
đối thu chi ngân sách nhà nước, và các nguồn vay nợ khác của Chính phủ. Trong
những năm đầu tiên, khối lượng TPCP phát hành được rất hạn chế, việc phát hành
TPCP còn lẻ tẻ, chưa có kế hoạch rõ ràng. Từ khi thị trường TPCP ra đời, cùng với sự
ra đời của trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh thì việc phát hành
74
TPCP đã được cải thiện hơn. Khối lượng TPCP phát hành thay đổi qua các năm nhưng
phần lớn năm sau đều cao hơn năm trước, ngoại trừ 4 năm 2001, 2004, 2008 và 2009
có mức tăng trưởng âm. Năm 2009 được xem là năm không thành công nhất trong việc
phát hành các loại TPCP, các đợt đấu thầu TPCP liên tục thất bại. Tổng khối lượng
TPCP phát hành thành công trong năm chỉ khoảng 17000 tỷ đồng, giảm 65% so với
năm 2008. Nguyên nhân có thể xuất phát từ việc chênh lệch lãi suất quá lớn giữa hai
thị trường sơ cấp và thứ cấp, trung bình từ 100-200 điểm. Ngoài ra Chính phủ cũng
không phải chịu áp lực lớn trong việc huy động vốn trong năm này do một phần trái
phiếu phát hành thành công trong các năm trước được chuyển sang giải ngân trong
năm 2009.
Năm 2010 là năm chứng kiến mức tăng trưởng cao nhất của khối lượng TPCP
phát hành, lên đến gần 500% so với năm 2009. Nhưng đến năm 2011, mức độ tăng
trưởng khối lượng TPCP phát hành lại giảm mạnh, chỉ ở mức thấp khoảng 5%, do
những khó khăn trên thị trường. Năm 2012, tình hình kinh tế vĩ mô có những chuyển
biến tích cực nhất định khi lạm phát và mặt bằng lãi suất giảm, cùng với việc HNX
đưa vào vận hành hệ thống đấu thầu điện tử, thị trường sơ cấp đã có những bước phát
triển nhảy vọt, giá trị huy động tăng đều và ổn định qua các năm, trung bình khoảng
15%/năm. Năm 2016 được đánh giá là một năm thành công rực rỡ của thị trường
TPCP từ ngày thành lập. Khối lượng phát hành đạt được cao nhất, đạt hơn 300000 tỷ
đồng. Năm 2017, khối lượng TPCP phát hành giảm so với năm 2016. TPCP được phát
hành qua đấu thầu đạt gần 20000 tỷ đồng. Có được kết quả này là do kinh tế vĩ mô ổn
định, thị trường tiền tệ và tỷ giá ổn định, thanh khoản của các tổ chức tín dụng tốt, lãi
suất huy động và cho vay trên thị trường tiền tệ đều giảm.
Theo Nghị định số 01/2011/NĐ-CP về phát hành TPCP, trái phiếu chính phủ
bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa phương, trái phiếu chính phủ sẽ được phát hành
theo 4 hình thức là đấu thầu tại HNX, bán lẻ trái phiếu, bảo lãnh phát hành và đại lý
phát hành, trong đó 3 phương thức phát hành là đấu thầu, bán lẻ trái phiếu và bảo lãnh
phát hành được sử dụng nhiều nhất.
75
Biểu đồ 3.1: Khối lượng TPCP phát hành theo hình thức phát hành và kỳ hạn phát
hành bình quân (Đơn vị: Khối lượng: Tỷ đồng, Kỳ hạn bình quân: Năm )
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ số liệu HNX, KBNN, NHNN
Bán lẻ trái phiếu qua hệ thống kho bạc
Hình thức bán lẻ TPCP được sử dụng nhiều trong thời gian đầu của thị trường
sơ cấp, khi thị trường chưa phát triển, nhu cầu phát hành trái phiếu còn nhỏ, trái phiếu
chính phủ chưa nhận được sự quan tâm của nhà đầu tư trên thị trường. TPCP được bán
lẻ qua hệ thống KBNN với mức lãi suất và khối lượng phát hành được KBNN quy
định sẵn. Trong vòng 2 năm 1995 và 1996, KBNN đã phát hành được hơn 8100 tỷ
đồng trái phiếu qua hệ thống bán lẻ bao gồm trái phiếu Chính phủ có kỳ hạn 1 năm,
không in trước mệnh giá, gồm cả loại có ghi danh và không ghi danh có thể tự do
chuyển nhượng cầm cố. Tuy nhiên, sau 2 năm phát hành Chính phủ nhanh chóng nhận
thấy nhược điểm của loại trái phiếu này là có thời hạn ngắn, không phù hợp với mục
đích sử dụng vốn cho đầu tư phát triển của quốc gia, thời gian trả nợ ngắn. Vì vậy, các
loại trái phiếu có kỳ hạn dài hơn (2, 3 năm) được nghiên cứu phát hành. Số TPCP
được bán lẻ chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng số TPCP được phát hành (khoảng 30-
40%) giai đoạn 2000-2005, và giảm dần tỷ trọng những năm sau đó (biểu đồ 3.1). Sau
2 năm 2007, 2008 tạm ngừng phát hành TPCP có kỳ hạn 2 năm qua hình thức bán lẻ
0
2
4
6
8
10
12
14
16
0
50000
100000
150000
200000
250000
300000
350000
200
0
200
1
200
2
200
3
200
4
200
5
200
6
200
7
200
8
200
9
201
0
201
1
201
2
201
3
201
4
201
5
201
6
201
7
Đấu thầu trái phiếu (tỷ đồng)
Đại lý (tỷ đồng)
Bảo lãnh (tỷ đồng)
Bán lẻ (tỷ đồng)
Kỳ hạn PH BQ (năm)
76
qua hệ thống KBNN, năm 2009, 850 tỷ đồng TPCP có kỳ hạn 2 năm tiếp tục được huy
động thành công.
Bên cạnh TPCP có kỳ hạn ngắn, trong giai đoạn 1990-2009, Chính phủ còn tiến
hành bán lẻ công trái xây dựng tổ quốc 3 lần vào các năm 1999, 2003, 2005 với kỳ hạn
dài hơn (5 năm) huy động được khoảng 9800 tỷ đồng phục vụ cho việc đầu tư các
chương trình mục tiêu quốc gia, đồng thời cũng là một bước tiến trong việc phát
hành TPCP khi lần đầu tiên TPCP kỳ hạn 5 năm được phát hành thành công. Tuy
nhiên những trái phiếu này được phát hành dưới dạng chứng chỉ, với chi phí phát
hành cao, thời gian phát hành kéo dài do cần thời gian vận động, truyền thông
thuyết phục để NĐT chấp nhận TP trung hạn, gây ảnh hưởng đến hiệu quả huy
động vốn của Chính phủ.
Hình thức bán lẻ TPCP sau đó được sử dụng hạn chế, chỉ tập trung vào giai
đoạn tình hình phát hành TPCP khó khăn và khi Chính phủ muốn phát hành TPCP kỳ
hạn dài. Như năm 2015, do mục tiêu phải kéo dài kỳ hạn bình quân của danh mục nợ
TPCP mà Chính phủ quyết định bán lẻ TPCP có kỳ hạn dài 20, 30 năm và cả kỳ hạn 5
năm với tổng khối lượng huy động được là gần 18000 tỷ đồng.
Bảo lãnh phát hành trái phiếu
Bảo lãnh phát hành TPCP được triển khai thực hiện năm 2000, theo đó, TPCP
được phân phối thông qua các tổ chức bảo lãnh là các công ty chứng khoán, ngân hàng
thương mại, công ty tài chính. Các tổ chức bảo lãnh đủ điều kiện và được chấp thuận
của Bộ Tài Chính sẽ nhận bán số TPCP mà Chính phủ muốn bán. KBNN sẽ thực hiện
đàm phán và thống nhất với tổ chức bảo lãnh hoặc tổ chức bảo lãnh chính (trong
trường hợp có một tổ hợp bảo lãnh) về khối lượng, kỳ hạn, lãi suất và phí bảo lãnh
phát hành trái phiếu cho từng đợt phát hành trái phiếu.
Những năm đầu phát hành TPCP dưới phương thức bảo lãnh phát hành, khối
lượng TPCP được phát hành theo hình thức này tăng qua các năm và chủ yếu tập trung
vào các TPCP có kỳ hạn dài 5 năm và trên 5 năm. Giai đoạn tiếp theo (2008-2012) cơ
cấu TPCP được phát hành bằng phương thức bảo lãnh thay đổi theo hướng nhiều trái
phiếu có kỳ hạn ngắn 2-3 năm, số lượng trái phiếu có kỳ hạn dài 10-15 năm rất ít.
77
Biểu đồ 3.2: Khối lượng phát hành TPCP bằng phương thức bảo lãnh phát hành (Đơn
vị: Tỷ đồng)
Nguồn: Kho bạc nhà nước, HNX
Trước năm 2011, TPCP phát hành thông qua bảo lãnh chiếm tỷ trọng khá cao
trong tổng số TPCP phát hành, tỷ trọng này liên tục tăng cao từ 10% năm 2002 đến
gần 70% năm 2010 (biểu đồ 3.1). Nhưng có thể thấy từ năm 2012, khối lượng TPCP
phát hành qua kênh này giảm rõ rệt, và chỉ tập trung vào phát hành các TPCP có kỳ
hạn dài 10, 15 năm. Thông tư 111/2015/TT-BTC về việc hướng dẫn phát hành TPCP
tại thị trường trong nước quy định loại trái phiếu phát hành theo phương thức bảo lãnh
là các trái phiếu có kỳ hạn từ 5 năm trở lên. Điều này xuất phát từ lý do các TPCP có
kỳ hạn dài khi đem đấu thầu thường khó bán, trong khi với hình thức bảo lãnh phát
hành thì lãi suất trái phiếu được hình thành trên cơ sở thoả thuận giữa tổ chức phát
hành và tổ chức bảo lãnh phát hành nên kết quả phát hành theo phương thức này
thường đạt tỷ lệ thành công lớn. Sử dụng phương thức bảo lãnh phát hành giúp Chính
phủ cung cấp các loại TP dài hạn, làm thay đổi cơ cấu kỳ hạn của TPCP theo hướng
tích cực. Đồng thời, phát hành thông qua hệ thống bảo lãnh phát hành sẽ giúp tổ chức
phát hành hiểu rõ hơn và chính xác hơn về cung cầu thị trường. Tuy nhiên hình thức
này vẫn có sự áp đặt, can thiệp của Chính phủ vào khối lượng phát hành và lãi suất
thoả thuận, từ đó làm giảm tính tự do của thị trường. Vì vậy, việc phát hành TPCP
bằng hình thức này những năm gần đây được giảm dần và chỉ tập trung phát hành các
TPCP có kỳ hạn dài, những trái phiếu khó bán trên thị trường là một dấu hiệu tốt của
thị trường TPCP.
0
10000
20000
30000
40000
50000
60000
70000
80000
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016
15 năm
10 năm
7 năm
5 năm
3 năm
2 năm
78
Đại lý phát hành trái phiếu
Phát hành trái phiếu qua đại lý phát hành là việc tổ chức phát hành uỷ thác cho
một tổ chức khác thực hiện việc bán trái phiếu cho các NĐT. Đây là phương thức phát
hành trái phiếu ít được sử dụng nhất. Năm 2012, ngân hàng phát triển Việt Nam phát
hành trái phiếu qua đại lý với kỳ hạn 3 năm, lãi suất 10,1%. Ngoài ra phương thức phát
hành qua đại lý cũng được sử dụng trong phát hành trái phiếu chính quyền địa phương.
Năm 2012, 2013, Uỷ ban nhân dân thành phố Đà Nẵng và Uỷ ban nhân dân tỉnh
Quảng Ninh thực hiện phát hành trái phiếu kỳ hạn 3 năm dưới hình thức này. Tổng
khối lượng vốn huy động được khoảng gần 2500 tỷ đồng, phục vụ cho đầu tư phát
triển địa phương.
Đấu thầu trái phiếu
Nhằm tăng tính cạnh tranh cho thị trường TPCP, năm 2000 phương thức đấu
thầu đã được triển khai tại Trung tâm giao dịch chứng khoán Hồ Chí Minh theo nghị
định số 01/2000/NĐ-CP. Đây được coi là bước ngoặt chuyển mình của thị trường
TPCP Việt Nam. Từ khi hình thức đấu thầu TPCP được áp dụng năm 2000 cho đến
năm 2006, khối lượng TPCP phát hành bằng hình thức này vẫn còn hạn chế, và chiếm
tỷ trọng nhỏ trong tổng số TPCP phát hành (khoảng 10%- đến dưới 20%) (biểu đồ
3.1). Khi trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội được thành lập năm 2005, năm
2006, Bộ Tài Chính ra Quyết định 2276/2006/QĐ-BTC về việc tập trung đấu thầu trái
phiếu Chính phủ tại Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội và nay là SGDCK Hà
Nội, việc phát hành TPCP qua đấu thầu bắt đầu khởi sắc. Quy trình đấu thầu TPCP
ngày càng được cải tiến, tạo sự thuận lợi cho NĐT khi tham gia đầu thầu. Hiện nay
quy trình đã được điện tử hoá. Hệ thống đấu thầu trái phiếu điện tử cho phép thành
viên đấu thầu có thể nhập phiếu dự thầu từ xa, sửa/huỷ phiếu thầu theo diễn biến thị
trường, nhận kết quả đấu thầu trực tuyến tức thời, giúp rút ngắn thời gian xét thầu, xác
định kết quả đấu thầu và kết nối cơ quan quản lý, tổ chức phát hành, tổ chức thị trường
với toàn thể thành viên đấu thầu, tiệm cận với tiêu chuẩn của thị trường chứng khoán
phát triển trên thế giới. Sau khi hệ thống đấu thầu điện tử được đưa vào sử dụng thì giá
trị huy động qua đấu thầu năm 2013 đã tăng gấp gần 7 lần so với năm 2010. Những
năm tiếp theo, khối lượng TPCP phát hành qua đấu thầu tiếp tục tăng và trở thành
kênh huy động vốn chính cho NSNN. Năm 2017, khối lượng TPCP phát hành giảm so
với năm 2016 nhưng kênh phát hành chủ đạo vẫn là đấu thầu.
79
Bảng 3.1: Tỷ lệ đặt thầu và trúng thầu TPCP một số kỳ hạn
Nguồn: HNX và tính toán của tác giả
Nhìn vào bảng tỷ lệ đặt thầu và trúng thầu của một số loại TPCP có kỳ hạn từ 2
năm trở lên từ năm 2006 đến tháng 4/2017 có thể thấy tỷ lệ đặt thầu trong các đợt đấu
thầu TPCP khá cao (phần lớn là trên 100%) chứng tỏ sự quan tâm của các NĐT đến
TPCP, trừ năm 2009, tỷ lệ trúng thầu và tỷ lệ đặt thầu đều thấp ở tất cả các kỳ hạn.
Tuy nhiên tỷ lệ trúng thầu lại không cao, không đạt 100% chứng tỏ việc đấu thầu
không hiệu quả. Đồng thời, tỷ lệ đặt thầu và trúng thầu thấp hơn ở các kỳ hạn dài hơn
chứng tỏ loại trái phiếu này vẫn chưa thực sự hấp dẫn NĐT. Năm 2016 là năm đầu tiên
SGDCK Hà Nội tổ chức đấu thầu thành công TPCP có kỳ hạn 20 năm và 30 năm với
tỷ lệ trúng thầu 24% và 80% tương ứng. Đồng thời năm 2016 cũng là năm đầu tiên Bộ
Tài Chính đưa ra thị trường TPCP kỳ hạn 7 năm, với tỷ lệ trúng thầu khá cao, đạt gần
80%. Năm 2017, Chính phủ tập trung đấu thầu TPCP có kỳ hạn từ 5 năm trở lên, và
tiếp tục bán trái phiếu kỳ hạn rất dài 20 năm, 30 năm với tỷ lệ đặt thầu và trúng thầu
cao, chứng tỏ thị trường đã có thay đổi tích cực khi các trái phiếu dài hạn được quan
tâm nhiều hơn.
Có thể thấy, tỷ trọng TPCP nói chung được phát hành thông qua kênh đấu thầu
ngày càng cao trong tổng số TPCP phát hành (biểu đồ 3.1). Đến nay, số TPCP phát
80
hành qua kênh đấu thầu đã chiếm xấp xỉ 100% tổng số TPCP, TP chính phủ được bảo
lãnh và trái phiếu chính quyền địa phương được phát hành.
3.2.2.2. Chi phí vốn (lãi suất)
Mức độ kiểm soát lãi suất phát hành TPCP giảm dần cùng với sự phát triển của
thị trường TPCP. Quá trình tự do hóa lãi suất TPCP, tuân theo thị trường đã được chủ
trương thực hiện từ rất sớm. Tại nghị định 141/2003/NĐ-CP về việc phát hành trái
phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa
phương, Chính phủ đã quy định lãi suất trái phiếu do Bộ trưởng Bộ Tài chính quyết
định trên cơ sở tình hình thực tế của thị trường tài chính tại thời điểm phát hành.
Trường hợp đấu thầu lãi suất thì lãi suất hình thành theo kết quả đấu thầu.
Tuy nhiên quá trình tự do hoá lãi suất trên thị trường TPCP diễn ra chậm. Lãi
suất TPCP ngoài việc phụ thuộc vào quan hệ cung cầu trên thị trường còn phụ thuộc
vào chính sách tiền tệ của Ngân hàng nhà nước. Khi tổ chức đấu thầu, khối lượng đặt
thầu cao nhưng khối lượng trúng thầu lại thấp do Chính phủ kiểm soát bằng mức lãi
suất trần. Lãi suất trần sẽ được giữ kín khiến cho nhiều nhà đầu tư đưa ra mức lãi suất
dự thầu cao hơn mức lãi suất trần nên không trúng thầu. Việc đưa lãi suất chỉ đạo vào
đấu thầu đã làm ảnh hưởng đến mức độ tự do của thị trường TPCP, lãi suất không
phản ánh đúng đánh giá của thị trường về TPCP. Trên thực tế, nhiều thời điểm khi lãi
suất thị trường tăng, lãi suất trúng thầu luôn là mức lãi suất cao nhất theo khung chỉ
đạo của Bộ Tài Chính.
Nhìn chung mặt bằng lãi suất huy động thông qua phát hành TPCP có xu hướng
giảm dần, và thường thấp hơn mức lãi suất cho vay của các ngân hàng (Biểu đồ 3.3).
Tuy nhiên cũng có những thời điểm, lãi suất TPCP tăng cao vượt mức lãi suất cho vay
của ngân hàng, gây ra hiệu ứng lấn át đầu tư của khu vực tư nhân. Như năm 2008, lãi
suất TPCP tăng cao ở hầu hết các kỳ hạn, có thời điểm lãi suất TPCP kỳ hạn 2 năm
vượt qua cả mức lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại. Lãi suất phát hành và
lợi suất giao dịch chênh lệch nhau khá nhiều, mức lãi suất trần mà Bộ Tài chính đưa ra
dưới mức kỳ vọng của nhà đầu tư. Năm 2016, lãi suất TPCP được đánh giá là tăng khá
cao (ở mức 6-7%), điều này không chỉ ảnh hưởng đến chi phí vốn huy động của Chính
phủ mà còn cạnh tranh trực tiếp với lãi suất vay vốn của các doanh nghiệp (khoảng
7%). Đến năm 2017, lãi suất phát hành TPCP giảm ở tất cả các kỳ hạn. Lãi suất TPCP
81
kỳ hạn 5 năm và 10 năm giảm từ 0,1-0,5% (biểu đồ 3.3), trong khi lãi suất TPCP có kỳ
hạn 20 năm, 30 năm có mức giảm rất mạnh, khoảng 190 điểm cơ bản.
Biểu đồ 3.3: So sánh lãi suất phát hành TPCP với lãi suất huy động và cho vay
Nguồn: HNX, World Bank
Bên cạnh đó, có những khoảng thời gian thị trường sơ cấp chứng kiến lãi suất
TPCP kỳ hạn ngắn và trung bình (2 và 5 năm) vượt quá mức lãi suất TPCP kỳ hạn dài
10 năm như năm 2008, năm 2012. Ngoài ra, thị trường phát hành TPCP cũng có
những thời điểm lãi suất TPCP giảm xuống dưới mức lãi suất huy động của ngân hàng
và mức chênh lệch ngày càng mở rộng, 1% vào năm 2010, 1,5-1,8% năm 2011. Chính
phủ không những đã huy động được vốn mà còn huy động được với mặt bằng chi phí
thấp hơn. Mặc dù mức lãi suất TPCP xuống thấp hơn mức lãi suất huy động của ngân
hàng thương mại, nhưng các NHTM vẫn đầu tư vào TPCP chấp nhận lỗ bởi đây là
kênh đầu tư an toàn và hiệu quả mỗi khi gặp khó khăn trong việc cho vay. Ngoài ra,
các NHTM có thể bán/ cầm cố TPCP tại NHNN với mức lãi suất chiết khấu thấp, sau
đó cho các ngân hàng thiếu hụt thanh khoản vay với lãi suất cao nhằm hưởng lợi. Ví
dụ trong năm 2010-2011, lãi suất trên thị trường tăng cao, ở mức 10-12% đối với
TPCP và 18% ở thị trường khác. Với mức lãi suất cao như vậy sẽ gây khó khăn trong
việc phát hành TPCP. Tuy nhiên nhìn vào khối lượng phát hành 2 năm này có thể thấy
đây là 2 năm thành công trong việc phát hành TPCP.
82
3.2.2.3. Cơ sở nhà đầu tư
Quyết định 46/2006/QĐ-BTC về việc ban hành quy chế phát hành TPCP theo
lô lớn đã chuyển việc phát hành TPCP sang mô hình bán buôn, lựa chọn một vài đối
tượng để bán trái phiếu. Các đối tượng này sẽ mua buôn một số lượng lớn chứng
khoán theo quy định, hạn chế được số lượng NĐT, tăng tính tập trung, tích luỹ, để các
NĐT mua buôn có thể thực hiện vai trò của các nhà tạo lập thị trường. Trước khi thị
trường TPCP Việt Nam chuyển qua áp dụng mô hình bán buôn như hiện nay, Việt
Nam đã từng áp dụng bán trái phiếu theo diện rộng cho một số lượng lớn các nhà đầu
tư. Điều này sẽ làm cho thị trường bị phân tán vì số lượng mua của một NĐT quá nhỏ.
Tuy nhiên việc chuyển sang mô hình bán buôn, ít NĐT mua TPCP trên thị trường sơ
cấp có thể ảnh hưởng đến thanh khoản của trái phiếu bởi theo lý thuyết thì phải có
nhiều người nắm giữ thì mới có tính thanh khoản cao. Lo ngại này đã được khắc phục
bằng cách thực hiện đa dạng các đối tượng khác nhau tham gia vào thị trường để đảm
bảo thanh khoản như công ty chứng khoán, ngân hàng thương mại, các quỹ đầu tư,
công ty bảo hiểm.
Biểu đồ 3.4: Cơ cấu nhà đầu tư mua TPCP trên thị trường sơ cấp
Nguồn: Kho bạc Nhà nước
Cơ cấu nhà đầu tư tham gia đấu thầu TPCP cũng giống như cơ cấu NĐT
tham gia mua TPCP bộc lộ hạn chế khi sự tham gia chủ yếu tập trung ở khối các
NHTM và công ty chứng khoán, trong khi sự tham gia của các quỹ đầu tư, công ty
bảo hiểm vẫn còn hạn chế. Giai đoạn 2000-2005 số lượng thành viên tham gia đấu
thầu rất ít, bình quân mỗi phiên có từ 3-4 thành viên đấu thầu. Từ năm 2006, số
lượng thành viên tham gia đấu thầu đã tăng lên rõ rệt với sự tham gia của các
NHTM trong nước, các công ty chứng khoán, bảo hiểm, các quỹ đầu tư và công ty
tài chính cùng với các ngân hàng nước ngoài. Số lượng các thành viên đấu thầu liên
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
70%
80%
90%
100%
2013 2014 2015 2016
Quỹ đầu tư + Công ty tài chính
Công ty chứng khoán + Bảo hiểm
Ngân hàng nước ngoài
Ngân hàng thương mại trong nước
83
tục giữ ở mức trung bình 83 thành viên, trong giai đoạn từ năm 2007 đến năm
2012. Năm 2012, thông tư 17/2012/TT-BTC của Bộ Tài Chính hướng dẫn phát
hành trái phiếu Chính phủ tại thị trường trong nước đã quy định điều kiện để các
ngân hàng thương mại, công ty tài chính, công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm,
quỹ đầu tư và các định chế tài chính khác được thành lập và hoạt động hợp pháp tại
Việt Nam trở thành thành viên đấu thầu TPCP phải có vốn điều lệ thực góp tối
thiểu bằng mức vốn pháp định theo quy định của pháp luật liên quan, phải đáp ứng
các tỷ lệ an toàn vốn, có thời gian hoạt động tối thiểu là 3 năm, là thành viên thị
trường trái phiếu Chính phủ chuyên biệt tại SGDCK Hà Nội. Theo đó, một số thành
viên đã từng là thành viên đấu thầu đã bị loại ra. Hàng năm, Bộ Tài Chính sẽ đưa ra
danh sách các thành viên đấu thầu TPCP. Với việc đưa ra danh sách này, hoạt động
của thị trường trái phiếu Chính phủ đã tiệm cận dần với thông lệ quốc tế.
Biểu đồ 3.5: Thành viên tham gia đấu thầu TPCP qua các năm
Nguồn: HNX
Những năm gần đây, cơ cấu thành viên đấu thầu TPCP đã đa dạng hơn, nhờ sự
tham gia của 2 tổ chức là bảo hiểm xã hội (từ năm 2014) và bảo hiểm tiền gửi (từ năm
2016). Cùng với nhiều biện pháp nỗ lực của Chính phủ, cơ cấu nhà đầu tư trên thị
trường trái phiếu đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực, tạo điều kiện cho thị
trường trái phiếu phát triển một cách bền vững.
3.2.2.4. Hàng hoá trên thị trường phát hành trái phiếu Chính phủ
Số lượng và chất lượng hàng hoá được phát hành
9 17 22 25
38 39 36
17 14 15 14 14 15 4
8 8
8
9 8 8
5 4 3 1 1 1
12
29
36 41
37 30
30
14
7 6 4 5 5
11
14
16
14
10
10 9
1 2 2 2
2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018
NHTM trong nước Chi nhánh NHNN CTCK Khác
84
TPCP được phát hành dưới nhiều hình thức ngày càng đa dạng, chứng chỉ, bút
toán ghi sổ, từ TP ghi danh đến vô danh, giúp cho việc chuyển nhượng, giao dịch
TPCP được dễ dàng và thuận lợi hơn.
Từ những ngày đầu tiên của thị trường, Chính phủ phát hành trái phiếu lẻ tẻ,
không có quy mô, kế hoạch rõ ràng, nhiều đợt phát hành với các loại kỳ hạn, lãi suất,
ngày đáo hạn khác nhau dẫn đến tình trạng trên thị trường có nhiều loại TPCP. Vì vậy,
trên thị trường tồn tại khá nhiều mã trái phiếu, nhiều mã có khối lượng nhỏ nhưng sau
đấy, KBNN đã thực hiện mở bán thêm các loại trái phiếu đó. Số lượng mã trái phiếu
trên thị trường đã có dấu hiệu giảm dần. Năm 2006, có 112 mã trái phiếu mới được
phát hành, chưa có mã trái phiếu nào được mở để phát hành bổ sung thì những năm
tiếp theo, đặc biệt là từ năm 2013 trở lại đây, hàng năm có rất nhiều mã trái phiếu được
mở để phát hành bổ sung, nhằm tăng khối lượng mỗi mã. Kết quả phát hành TPCP đã
có dấu hiệu tích hơn khi khối lượng trái phiếu phát hành của từng mã trái phiếu tăng
và số mã trái phiếu giảm. Cụ thể năm 2014 và 2016, khối lượng TPCP được phát hành
rất cao nhưng chỉ có 66 và 76 mã tương ứng từng năm được phát hành mới, còn 34 mã
và 32 mã trái phiếu được phát hành bổ sung (Nguồn: HNX và tính toán của tác giả).
Bên cạnh các TPCP trả lãi định kỳ 1 năm 1 lần vào đầu kỳ hoặc cuối kỳ, thì Bộ
Tài chính đã triển khai một số sản phẩm TPCP khác, như trái phiếu không trả lãi định
kỳ (zero coupon), hoặc trái phiếu có kỳ trả lãi đầu tiên ngắn hoặc dài hơn kỳ hạn chuẩn
(long, short coupon). Trái phiếu không thanh toán lãi định kỳ được phát hành lần đầu
tiên vào năm 2015, có kỳ hạn 3 năm và được phát hành bằng hình thức đấu thầu. Từ
đó đến nay chưa có thêm trái phiếu zero coupon nào được phát hành thêm. Trái phiếu
có kỳ trả lãi đầu tiên dài hơn kỳ trả lãi chuẩn được phát hành vào năm 2015, 2016
thường có kỳ trả lãi đầu tiên dài hơn kỳ trả lãi chuẩn (12 tháng) từ 1-3 tháng. Trái
phiếu có kỳ trả lãi đầu tiên ngắn hơn kỳ trả lãi chuẩn (12 tháng) được phát hành đầu
năm 2017, với kỳ trả lãi đầu tiên trước kỳ trả lãi chuẩn gần 1 tháng. Các trái phiếu này
được phát hành để khắc phục vấn đề trước đây của thị trường là có quá nhiều TPCP có
kỳ hạn 2-3 năm được phát hành, khiến trong một thời điểm có thể có quá nhiều trái
phiếu có cùng kỳ trả lãi. Các trái phiếu này có thể giúp đẩy lùi hoặc đẩy nhanh kỳ trả
lãi so với kỳ trả lãi chuẩn, vào các kỳ mà ngân sách có nguồn thu để bù đắp như kỳ thu
thuế để có nguồn trả lãi.
85
3.2.2.5. Chính sách quản lý nợ công và kỷ luật thị trường
Vay nợ là một phần quan trọng trong chính sách của một quốc gia. Phần lớn các
quốc gia trên thế giới đều thực hiện vay nợ để tài trợ cho các nhu cầu chi tiêu và sử
dụng của Chính phủ vào các mục tiêu khác nhau, từ những nước nghèo đói ở Châu Phi
hay các nước đang phát triển như Việt Nam, Campuchia, đến các quốc gia giàu có như
Mỹ, Nhật, EU.
Hoạt động vay nợ của Chính phủ Việt Nam đã có từ rất lâu, khi Chính phủ lâm
thời tiến hành vay tiền, vàng của dân để phục vụ cho hoạt động của Chính phủ thời
chiến. Tuy nhiên, phải từ sau khi đất nước thống nhất và thực hiện đổi mới năm 1986,
cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế, nợ công Việt Nam có xu hướng
tăng lên rất nhanh. Năm 2007 là dấu mốc đầu tiên trong quá trình HNTC của Việt
Nam khi nước ta tham gia vào WTO. Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng, do nhu
cầu vay vốn để đầu tư phát triển và mở rộng nền kinh tế nên vốn ODA được thu hút
nhiều, các khoản vay nợ và viện trợ phát triển chính thức từ các tổ chức đơn phương,
đa phương kết hợp với việc đẩy mạnh huy động vốn trong nước thông qua thị trường
TPCP. Kết quả là, nợ công Việt Nam bắt đầu tăng nhanh trong các năm tiếp theo.
Thêm vào đó, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 bắt nguồn từ Mỹ nhanh
chóng lan rộng ra toàn thế giới đã ảnh hưởng không nhỏ đến Việt Nam, làm kinh tế
Việt Nam tăng trưởng chậm lại, thu ngân sách bị ảnh hưởng lớn trong khi nhu cầu chi
tăng mạnh, làm thâm hụt ngân sách ngày càng nhiều. Nhiều gói cứu trợ được đưa ra
nhằm vực dậy nền kinh tế, góp phần làm cho nợ công năm 2009 và 2010 của Việt
Nam tăng nhanh chóng với tỷ lệ nợ công trên GDP tăng từ 36,3% năm 2008 lên 41,9%
năm 2009 và 51,7% năm 2010. Năm 2010 Việt Nam được xếp vào nhóm nước có mức
nợ công trên trung bình.
Cũng theo số liệu của Bộ Tài Chính công bố, từ năm 2010, nợ công tiếp
tục tăng. Chỉ trong vòng 6 năm 2010-2015, nợ công Việt Nam đã tăng gấp gần 3 lần
về số tuyệt đối, từ 889388,73 nghìn tỷ đồng (khoảng 45 tỷ USD) năm 2010, chiếm
51,7% GDP lên 2608000 nghìn tỷ đồng (gần 87 tỷ USD), chiếm 64% GDP năm 2015.
Năm 2016 nợ công ước tính đạt 64,73% GDP, tiến sát giới hạn được Quốc hội phê
duyệt (65% GDP). Năm 2017, nợ công vẫn tiếp tục tăng về số tuyệt đối, tuy nhiên tỷ lệ
nợ công/GDP có dấu hiệu giảm, ở mức 61,3% GDP.
86
Trước tháng 7 năm 2018, việc quản lý nợ công được điều chỉnh bởi Luật quản
lý nợ công năm 2009. Theo đó, việc quản lý nợ công thuộc về ba cơ quan, gồm Bộ Kế
hoạch và đầu tư liên quan đến các khoản vay ODA và các khoản vay ưu đãi quốc tế,
NHNN chịu trách nhiệm đối với các khoản vay của World Bank, ADB...Bộ Tài chính
đảm nhận việc vay vốn trong nước, phát hành TPCP hoặc phát hành trái phiếu quốc tế.
Tuy nhiên, việc có nhiều cơ quan quản lý nợ công có thể dẫn đến tình trạng không
thống nhất đầu mối vay nợ, sử dụng nợ, và trả nợ.
Biểu đồ 3.6: Nợ công Việt Nam giai đoạn 2005-2017
Nguồn: Tác giả tổng hợp số liệu từ The economist và Bộ Tài chính
Về phạm vi tính nợ công, theo Lê Thị Khương (2016) [6], do cách tính nợ công
của Việt Nam với một số tổ chức quốc tế có sự khác biệt, nên quy mô nợ công thực tế
của nước ta có thể cao hơn so với mức công bố của Bộ Tài chính. Cụ thể, tính nợ công
theo tiêu chuẩn của Việt Nam dựa trên nguyên tắc trách nhiệm thanh toán thuộc về chủ
thể đi vay, còn nợ công theo tiêu chuẩn quốc tế được xác định trên cơ sở chủ sở hữu
thực sự hay pháp nhân đứng sau chủ thể đi vay có trách nhiệm thanh toán. Theo đó, nợ
công theo tiêu chuẩn quốc tế sẽ bằng nợ công theo tiêu chuẩn Việt Nam cộng với nợ
của Ngân hàng nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước, tổ chức bảo hiểm xã hội, an
sinh xã hội và một số địa phương.
Nợ công tăng nhanh nhưng hiệu quả đầu tư lại không cao càng gây áp lực lên
nợ công và việc trả nợ. Theo tính toán hệ số ICOR của tổng cục thống kê, giai đoạn
0.0
10.0
20.0
30.0
40.0
50.0
60.0
70.0
0.0
20000.0
40000.0
60000.0
80000.0
100000.0
120000.0
2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017
Tổng nợ công(triệu USD) Tỷ lệ nợ công/GDP (%)
87
2001-2005 để tạo ra 1 đồng tăng thêm của GDP phải bỏ ra 4,33 đồng, đến giai đoạn
2006-2010 phải bỏ ra 8,31 đồng mới tạo được 1 đồng tăng thêm GDP, và con số này ở
giai đoạn 2011-2015 giảm xuống còn 4,57. Theo viện nghiên cứu kinh tế và chính
sách VEPR về mức trung bình chỉ số ICOR của một số quốc gia Châu Á giai đoạn từ
2011-2015 chỉ số ICOR Việt Nam trong giai đoạn này thấp hơn một số nước như Thái
Lan, Indonesia, nhưng vẫn còn cao hơn một số nước trong khu vực như Myanmar,
Philippines, Cambodia.
Biểu đồ 3.7: Chỉ số Icor của một số nước Châu Á trung bình giai đoạn 2011-2015
Nguồn: Viện nghiên cứu kinh tế và chính sách VEPR
Nợ công bình quân trên một đầu người là chỉ tiêu phản ánh gánh nặng nợ công
của mỗi công dân trong một quốc gia. Từ năm 2016, nợ công bình quân trên một đầu
người ở Việt Nam đã đạt hơn 1000 USD. Mức nợ công bình quân trên đầu người này
khá thấp so với một số quốc gia trong khu vực ASEAN. Theo số liệu từ The
Economist về nợ công của các quốc gia trong khu vực, Singapore là nước có nợ công
bình quân đầu người cao nhất, tiếp theo là Malaysia và Thái Lan. Mặc dù một số quốc
gia trên thế giới cũng như trong khu vực có mức nợ công bình quân trên đầu người
rất cao như Nhật Bản (hơn 90000 USD), Mỹ, Singapore (khoảng 50000
USD/người ), Đức, Hà Lan, Hy Lạp, Pháp, Canada (30000-40000 USD/người),
nhưng đây thường là các quốc gia phát triển, nên họ có khả năng vay tiền và có cơ
hội đầu tư nhiều hơn. Mức nợ công bình quân đầu người của Việt Nam khi so
sánh với một số nước tuy không phải là quá cao, nhưng cũng cần lưu ý khi Việt
Nam là nước có thu nhập thấp trong nhiều năm qua và vừa mới lên mức thu nhập
trung bình trong một thời gian gần đây.
0 5 10 15 20
Cambodia
China
Indonesia
Malaysia
Myanmar
Phillippines
Thailan
VietNam
88
Biểu đồ 3.8 : Nợ công bình quân trên đầu người của một số quốc gia trong khu vực giai
đoạn 2010-2017 (Đơn vị: USD)
Nguồn: Economist Intelligence Unit – The global debt clock
Cơ cấu nợ công theo loại hình vay nợ
Nợ công bao gồm khoản vay ODA, vay ưu đãi và vay thương mại; phát hành
TPCP, tín phiếu, vay tồn ngân kho bạc, nợ được Chính phủ bảo lãnh, nợ chính quyền
địa phương. Trong các khoản vay này, khoản vay từ phát hành TPCP chiếm tỷ trọng
nhỏ, khoảng 10% nợ công, nhưng có xu hướng tăng. Những năm gần đây, giá trị
TPCP đang lưu hành thường chiếm hơn 40% nợ công của Việt Nam khiến TPCP dần
trở thành một kênh vay nợ quan trọng của Chính phủ.
Biểu đồ 3.9: Tỷ trọng TPCP trong tổng nợ công (Đơn vị: %)
Nguồn: ADB, Economist Intelligence Unit – The global debt clock
0 2000 4000 6000 8000 10000
Việt Nam
Indonesia
Philippines
Thailand
Malaysia
2017
2016
2015
2014
2013
2012
2011
2010
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
70%
80%
90%
100%
2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017
Giá trị TPCP
89
Cơ cấu nợ công phân theo nợ trong nước và nợ nước ngoài: Nợ nước ngoài liên
tục gia tăng ở các năm đầu của thời kỳ hội nhập và có dấu hiệu giảm những năm gần
đây. Những năm đầu do nền kinh tế trong nước còn khó khăn, cộng với nhu cầu huy
động vốn để phát triển kinh tế, Chính phủ đã vay vốn nhiều từ bên ngoài. Nhìn vào
mức tăng tuyệt đối nợ nước ngoài khu vực công có thể thấy mức tăng này luôn dương,
chứng tỏ nợ nước ngoài khu vực công liên tục tăng qua các năm, nhưng mức tăng
không ổn định, có sự tăng giảm qua các năm như năm 2008, nợ nước ngoài khu vực
công có dấu hiệu tăng ít hơn do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu,
nhưng lại tăng mạnh vào năm 2009 khiến nợ nước ngoài quốc gia đạt 39% GDP năm
2009 và đạt đỉnh là 42,2% GDP vào năm 2010. Tuy tỷ lệ nợ nước ngoài quốc gia/GDP
có dấu hiệu giảm nhẹ trong những năm gần đây, khoảng 40% trong giai đoạn từ năm
2010 đến năm 2015 nhưng vẫn ở mức cao so với các nước cùng nhóm khác trong khu
vực (Thái Lan từ 30-36%, Indonesia từ 24-33%).
Theo nhận định của ngân hàng thế giới và quỹ tiền tệ quốc tế, cơ cấu nợ công
của Việt Nam hiện đang từng bước được điều chỉnh theo hướng bền vững hơn. Cụ thể,
trong cơ cấu nợ Chính phủ, tỷ trọng nợ trong nước có xu hướng tăng từ 38.1% năm
2011 lên 59% năm 2016 và tỷ trọng nợ nước ngoài giảm tương ứng từ 61% năm 2011
xuống còn 41% năm 2016. Tỷ trọng này phù hợp với Chiến lược nợ công và nợ nước
ngoài của quốc gia giai đoạn 2011-2020 tầm nhìn đến 2030.
Biểu đồ 3.10: Mức tăng tuyệt đối nợ nước ngoài khu vực công và mức nợ nước ngoài
quốc gia
Nguồn: Bộ Tài chính
0
5
10
15
20
25
30
35
40
45
0
1000
2000
3000
4000
5000
6000
7000
Mức tăng tuyệt đối nợ công nước ngoài (triệu USD)
Nợ nước ngoài/GDP (%)
2 per. Mov. Avg. (Mức tăng tuyệt đối nợ công nước ngoài (triệu USD))
90
Tuy nhiên, việc tăng tỷ trọng vay trong nước, giảm tỷ trọng vay nước ngoài
những năm gần đây chưa hẳn đã là một xu hướng tốt phản ánh việc quản lý nợ công
tốt, giảm sự lệ thuộc vào nước ngoài mà sự sụt giảm này có thể là do các khoản vay ưu
đãi của nước ngoài đối với Việt Nam đang ngày càng giảm. Lãi suất nợ nước ngoài
cao cùng với rủi ro biến động tỷ giá khiến Việt Nam phải chuyển dần sang vay nợ
trong nước. Việc vay nợ quá nhiều trong nước sẽ gây ra hiệu ứng lấn át, làm mức vốn
dành cho khu vực tư nhân giảm, từ đó ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế nếu hiệu quả
đầu tư công không cao.
3.2.2.6. Hoạt động phát hành trái phiếu Chính phủ ra nước ngoài và phát hành trái
phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ
Phát hành trái phiếu Chính phủ bằng đồng ngoại tệ
Nghị định 141/2003/NĐ-CP quy định về việc phát hành TPCP, trái phiếu được
Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa phương đã cung cấp một kênh huy
động vốn mới cho Chính phủ, đó là phát hành TPCP bằng đồng ngoại tệ. Phát hành
TPCP bằng ngoại tệ trên thị trường vốn trong nước với mục đích huy động vốn là đầu
tư cho các dự án trọng điểm và bù đắp bội chi NSNN, đồng tiền phát hành và thanh
toán là đồng đô la Mỹ. Các trái phiếu được phát hành theo hình thức này có kỳ hạn từ
1 năm trở lên và được phát hành bằng phương thức bảo lãnh, đấu thầu hoặc bán lẻ
thông qua kho bạc nhà nước. Và trái phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ được niêm yết
giao dịch trên Sở giao dịch chứng khoán.
Trái phiếu có mệnh giá bằng ngoại tệ ra đời không những đã góp phần vào việc
làm phong phú hơn hàng hoá trên thị trường, mà còn giúp thu hút thêm nhà đầu tư
nước ngoài tham gia. Khối lượng trái phiếu bán được trong những đợt phát hành TPCP
bằng ngoại tệ thấp do lãi suất trái phiếu bằng ngoại tệ thấp hơn so với lãi suất TP bằng
VND trong cùng thời điểm phát hành. Bên cạnh đó, khi phát hành TP bằng đồng ngoại
tệ, cả Chính phủ và nhà đầu tư đều phải tính đến rủi ro tỷ giá.
Phát hành TPCP quốc tế
Khi TPCP bằng đồng ngoại tệ phát hành trong nước không thu hút đủ vốn cho
NSNN, Chính phủ quyết định phát hành TPCP ra thị trường quốc tế. Đây là một kênh
huy động vốn hữu hiệu đối với các nước đang phát triển có thị trường tài chính nhỏ, có
thể tận dụng nguồn vốn lớn trên thị trường tài chính thế giới. Việc phát hành TPCP
quốc tế có tác động làm tăng cung ngoại tệ sẽ góp phần cải thiện cán cân thanh toán
91
quốc tế, giảm áp lực lên tỷ giá hối đoái và ổn định kinh tế vĩ mô. HNTC hỗ trợ hoạt
động phát hành TPCP quốc tế được thuận lợi và dễ dàng hơn.
Năm 2005, lần đầu tiên Việt Nam phát hành TPCP ra thị trường quốc tế và số
tiền đặt mua lên tới 4,5 tỷ USD, cao gấp 6 lần trị giá chào bán là 750 triệu USD. Lãi
suất cho lần huy động vốn này là 7,125%/năm và TPCP có thời hạn 10 năm. Lần phát
hành thành công này có ý nghĩa rất lớn với thị trường TPCP Việt Nam, đánh dấu bước
tiến quan trọng trong quá trình hội nhập quốc tế. Tiếp nối thành công sau lần phát hành
đầu tiên, Chính phủ có kế hoạch phát hành TP quốc tế lần 2 vào tháng 6/2007 huy
động 1 tỷ USD, trái phiếu có thời hạn 15-20 năm. Tuy nhiên do cuối năm 2007 tình
hình thị trường tài chính quốc tế không thuận lợi, dấu hiệu khủng hoảng tài chính bắt
đầu xuất hiện, việc phát hành TPCP ra thị trường quốc tế khó có khả năng thành công
nên Chính phủ đã quyết định tạm ngừng các đợt phát hành TP quốc tế. Tháng 1 năm
2010, Việt Nam chính thức phát hành TP ra thị trường quốc tế lần thứ 2 và đã thành
công thu về 1 tỷ USD, kỳ hạn TP 10 năm, lãi suất coupon 6,75%/năm.
Lần phát hành thứ 3 vào năm 2014 khi Việt Nam được nâng hệ số tín nhiệm
quốc gia từ B+ lên BB- (theo Fitch’s) và từ B2 lên B1 (theo Moody’s). Rõ ràng, uy tín
và vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao, ngày càng có nhiều NĐT quan tâm
đến TPCP Việt Nam. Bằng chứng là tháng 11 năm 2014 khi Việt Nam phát hành TP
quốc tế lần thứ 3 thì tổng giá trị đăng ký mua của các NĐT là 10,6 tỷ USD, gấp 10 lần
số lượng bán ra. Kết quả là Việt Nam đã phát hành thành công 1 tỷ USD trái phiếu, có
thời hạn 10 năm, và lãi suất cố định 4,8%/năm, thấp hơn mức dự kiến là 5,125%/năm.
Trong cả 3 lần phát hành, các NĐT mua thành công TPCP của Việt Nam đều là
những NĐT lớn, trong đó có các quỹ đầu tư tài chính, ngân hàng, công ty bảo hiểm và
các tổ chức tài chính khác, chủ yếu đến từ Châu Âu và Châu Mỹ.
Bảng 3.2: Cơ cấu NĐT trong các lần phát hành trái phiếu quốc tế của Việt Nam
Nhà đầu tư Lần 1
(27/10/2005)
Lần 2
(25/1/2010)
Lần 3
(7/11/2014)
Quỹ đầu tư tài chính 51% 73% 84%
Ngân hàng 25% 10% 12%
Công ty bảo hiểm 17% 10% 4%
Các tổ chức tài chính khác 7% 7% -
Nguồn: Bộ Tài Chính
92
Mặc dù đã 3 lần phát hành TPCP ra thị trường quốc tế thành công và định mức
tín nhiệm quốc gia được cải thiện qua các lần phát hành khẳng định được vị trí của
Việt Nam trên thị trường tài chính quốc tế, nhưng có thể thấy mức lãi suất TPCP phát
hành cao và định mức tín nhiệm quốc gia vẫn ở mức thấp. Rõ ràng Việt nam chưa có
bước chuẩn bị đầy đủ khi đi huy động vốn trên thị trường quốc tế. Khi Việt Nam có
mức độ HNTC tốt hơn cùng với môi trường kinh tế vĩ mô được cải thiện thì có thể dễ
dàng huy động vốn từ thị trường quốc tế hơn với chi phí thấp hơn.
3.2.3. Thực trạng thị trường giao dịch trái phiếu Chính phủ Việt Nam
trong bối cảnh hội nhập tài chính
Mặc dù TPCP đã được phát hành từ sớm, nhưng cho đến trước năm 2000 thị
trường thứ cấp TPCP vẫn chưa chính thức được hình thành, mà các chủ thể thường
nắm giữ TPCP cho đến khi đáo hạn. Sau khi Trung tâm giao dịch chứng khoán Hồ
Chí Minh được thành lập vào tháng 7 năm 2000, một số TPCP bắt đầu được niêm
yết và giao dịch, đánh dấu sự ra đời của thị trường thứ cấp. Sau đó, thị trường thứ
cấp TPCP còn được tổ chức tại trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội năm
2005 và tập trung về một đầu mối tại SGDCK Hà Nội từ năm 2007. Tuy nhiên
việc giao dịch TPCP còn rất hạn chế, thị trường thứ cấp gần như còn rất sơ khai.
Năm 2009, với sự ra đời của thị trường TPCP chuyên biệt, hoạt động của thị
trường TPCP thứ cấp mới thật sự khởi sắc.
3.2.3.1. Quy mô niêm yết và giao dịch
Giai đoạn trước năm 2009
Thị trường thứ cấp TPCP chính thức ra đời năm 2000 với việc các TPCP được
niêm yết và giao dịch trên trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh
(nay là SGDCK thành phố Hồ Chí Minh). Trong giai đoạn 2000-2002 chỉ có khoảng
40 mã TPCP niêm yết trên SGDCK Hồ Chí Minh, và hoạt động giao dịch mua bán
TPCP trên thị trường thứ cấp còn rất ít. Nhà đầu tư có xu hướng mua và nắm giữ hơn
là giao dịch trên thị trường nên giá trị và khối lượng giao dịch TPCP không đáng kể,
giá trị giao dịch/giá trị niêm yết bình quân giai đoạn này chỉ khoảng 0,7%. Phương
thức giao dịch được áp dụng trong giai đoạn này là khớp lệnh và thoả thuận. Đồng
thời, giao dịch trái phiếu phải nằm trong biên độ giao động giá theo quy định. Sau đó,
cùng với các biện pháp phát triển thị trường sơ cấp, Chính phủ cũng đã có những chiến
lược để phát triển thị trường thứ cấp TPCP như quy định tất cả các TPCP được đấu
93
thầu công khai phải niêm yết trên trung tâm giao dịch chứng khoán. Giai đoạn 2003-
2008, thị trường thứ cấp TPCP đã có nhiều khởi sắc và thay đổi nhanh chóng. Giá trị
TPCP niêm yết năm 2003 tăng gấp ba lần giá trị trái phiếu niêm yết năm 2002 và liên
tục tăng mạnh trong những năm tiếp theo. Giao dịch TPCP trong giai đoạn này cũng
bắt đầu sôi động hơn. Giá trị giao dịch/giá trị niêm yết trên sàn Hồ Chí Minh rất thấp
trong giai đoạn 2000-2003, nhưng thanh khoản được cải thiện rõ rệt từ năm 2004. Đạt
được những thành công đó là do nhiều quy định mới được áp dụng nhằm thúc đẩy giao
dịch TPCP như không giới hạn tỷ lệ nắm giữ trái phiếu của các tổ chức, cá nhân, bỏ
biên độ dao động giá, đồng thời từ năm 2004 các CTCK bắt đầu triển khai nghiệp vụ
mua bán lại đối với trái phiếu. Sau đó, tỷ lệ này có sự biến động tăng giảm qua các
năm sau đó, tuy nhiên giá trị giao dịch luôn nhỏ hơn giá trị niêm yết cho đến năm
2008. Trong khi nhìn vào tỷ lệ GTGD/GTNY trên trung tâm giao dịch chứng khoán
Hà Nội thì thấy tỷ lệ này tăng đều qua các năm đến năm 2007 đã vượt trên 100%.
Năm 2008 là năm có nhiều đột biến mang tính quyết định đến sự phát triển thị
trường thứ cấp TPCP Việt Nam. Thực hiện theo quyết định số 86/QĐ-BTC ngày
15/1/2008 của Bộ Tài Chính phê duyệt đề án xây dựng thị trường trái phiếu Chính phủ
chuyên biệt, toàn bộ TPCP có thời gian đến khi đáo hạn từ 6 tháng trở lên đang niêm
yết và giao dịch trên SGDCK Hồ Chí Minh được chuyển sang niêm yết và giao dịch
tại trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội (nay là SGDCK Hà Nội). Việc này đã làm
số lượng TPCP niêm yết tại TTGDCK Hà Nội tăng vọt vào năm 2008 cùng với giá trị
giao dịch trái phiếu cũng tăng lên gấp gần 2,5 lần so với năm 2007, trong khi đó, giá
trị niêm yết và giao dịch trên SGDCK Hồ Chí Minh giảm mạnh. Bên cạnh đó, có thể
thấy tổng giá trị niêm yết và giao dịch TPCP năm 2007, 2008 trên hai Sở giao dịch cao
hơn đáng kể so với các năm trước đó. Nguyên nhân là do việc phát hành TPCP trên thị
trường sơ cấp đạt được nhiều thành công, nhất là năm 2007, khi Bộ Tài Chính triển
khai phương thức phát hành TPCP theo lô lớn. Việc phát hành TPCP theo lô lớn cũng
tạo ra một lượng hàng hoá chuẩn cho thị trường thứ cấp. Năm 2008 cũng là năm đầu
tiên chứng kiến giá trị giao dịch TPCP lớn hơn giá trị TPCP niêm yết trên cả hai sàn
Hồ Chí Minh và Hà Nội với tỷ lệ giá trị giao dịch/ giá trị niêm yết lần lượt là 170% và
116%, chứng tỏ thị trường đã ngày càng sôi động hơn.
94
Biểu đồ 3.11: Giá trị giao dịch và niêm yết trên HOSE và HNX giai đoạn 2000-2008
(Đơn vị: Triệu đồng)
Nguồn: HNX, HSX, Asianbondsonline
Giai đoạn từ năm 2009 đến nay
Hệ thống giao dịch TPCP chuyên biệt ra đời đã hỗ trợ giao dịch TPCP trên thị
trường thứ cấp. Hệ thống giao dịch mới đã tách biệt hai loại giao dịch outright và giao
dịch mua bán lại (repo). Trình tự đưa TPCP vào niêm yết và giao dịch sau đấu thầu
TPCP được diễn ra tự động. Khi HNX tổ chức đấu thầu (T+0), Trung tâm lưu ký
chứng khoán VSD thực hiện đăng ký trái phiếu căn cứ vào thông báo phát hành của tổ
chức phát hành và thông báo kết quả thầu vào ngày T+1. Sau đó, ngày T+2, ngày
thanh toán tiền mua TP, VSD sẽ thực hiện lưu ký căn cứ vào văn bản xác nhận thanh
toán tiền của tổ chức phát hành, và HNX đồng thời thực hiện niêm yết TP (căn cứ vào
thông báo đăng ký của VSD). Vào ngày T+3, TP mới phát hành đã có thể bắt đầu giao
dịch. Năm 2015, KBNN phối hợp cùng HNX và VSD đã giảm số ngày đưa trái phiếu
lên niêm yết và giao dịch sau đấu thầu xuống còn 2 ngày (T+2). Đây là một bước tiến
bộ về quy trình lưu ký, niêm yết và giao dịch TPCP.
0
20
40
60
80
100
120
140
160
180
0
20000000
40000000
60000000
80000000
100000000
120000000
140000000
160000000
180000000
200000000
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
GTNY HOSE
GTNY HNX
GTGD HOSE
GTGD HNX
GTGD/GTNY HOSE (%)
GTGD/GTNY HNX (%)
95
Biểu đồ 3.12: Quy mô niêm yết và giao dịch TPCP giai đoạn 2009 đến 2017
Nguồn: HNX
Năm 2009 là năm chứng kiến sự sụt giảm ở cả giá trị niêm yết và giá trị giao
dịch. Hai năm sau, mặc dù giá trị niêm yết bắt đầu tăng trở lại, nhưng giá trị giao dịch
vẫn ở mức thấp. Đây là giai đoạn thị trường nói riêng và nền kinh tế nói chung gặp
nhiều khó khăn. Giá trị giao dịch/giá trị niêm yết sụt giảm nhanh chóng, đạt đáy
khoảng 30% vào năm 2011.
Sau giai đoạn này, thị trường đã bắt đầu tăng trưởng trở lại với giá trị niêm yết
và giá trị giao dịch tăng dần qua các năm. Từ năm 2014, sau 6 năm, thị trường thứ cấp
TPCP mới lại chứng kiến giá trị giao dịch TPCP tăng cao vượt giá trị niêm yết. Năm
2016 được coi là năm thành công của thị trường thứ cấp TPCP khi giao dịch thứ cấp
sôi động với giá trị giao dịch tăng 73,84% so với năm 2015. Tính đến hết năm 2017,
quy mô niêm yết trên thị trường thứ cấp TPCP đạt khoảng 998 nghìn tỷ đồng, tăng
khoảng 8% so với năm 2016. Tổng giá trị giao dịch đạt khoảng 2250 nghìn tỷ đồng,
tương đương giá trị giao dịch bình quân phiên khoảng 8800 tỷ đồng, tăng gần 40% so
với năm 2016, gấp 30 lần so với năm 2009.
3.2.3.2. Hàng hoá
Trước năm 2012, hàng hoá giao dịch trên thị trường thứ cấp TPCP bao gồm các
TPCP có kỳ hạn danh nghĩa trên 1 năm do KBNN phát hành, trái phiếu được Chính
0
50
100
150
200
250
0
500000
1000000
1500000
2000000
2500000
2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017
GTNY (tỷ đòng)
GTGD(tỷ đồng)
GTGD/GTNY
96
phủ bảo lãnh, trái phiếu Chính quyền địa phương. Các loại trái phiếu này được nhóm
lại theo kỳ hạn còn lại để thuận tiện giao dịch và thực hiện giao dịch theo lô. Các trái
phiếu cùng một đợt phát hành phải có cùng ngày phát hành hoặc khác ngày phát hành
(trái phiếu lô lớn) nhưng có cùng ngày thanh toán trả nợ gốc.
Ngoài các loại TPCP bằng đồng nội tệ thì trái phiếu phát hành bằng ngoại tệ
cũng bắt đầu được niêm yết và giao dịch trên SGDCK Hà Nội vào năm 2009 theo
quyết định 253/QĐ-UBCK của Uỷ ban chứng khoán nhà nước. Trái phiếu Chính phủ
ngoại tệ được giao dịch qua hệ thống giao dịch trái phiếu Chính phủ phát hành bằng
ngoại tệ của SGDCK Hà Nội theo phương thức thoả thuận, và không quy định khối
lượng giao dịch tối thiểu và biên độ giao động giá. Các giao dịch TPCP phát hành
bằng ngoại tệ được thanh toán trực tiếp với thời gian thanh toán là 1 ngày làm việc sau
ngày giao dịch (T+1) bằng đô la Mỹ, theo tỷ giá quy đổi là tỷ giá liên ngân hàng do
NHNN Việt nam công bố vào ngày giao dịch.
Cùng với sự phát triển và hội nhập của thị trường thứ cấp TPCP, một số nghiệp
vụ phái sinh trên thị trường trái phiếu bắt đầu được triển khai. Thông tư 10/2017/TT-
BTC có hiệu lực từ ngày 1/9/2017 thực hiện một số sửa đổi quan trọng, liên quan đến
việc cho phép vay trái phiếu để bán, và quy định giao dịch bán/mua lại. Cụ thể, việc
bán TPCP chỉ được thực hiện khi bên bán bảo đảm có đủ TPCP để chuyển giao tại
ngày thanh toán theo quy định của Trung tâm lưu ký chứng khoán. Số TPCP để
chuyển giao bao gồm TPCP sẵn có trên tài khoản lưu ký của bên bán tại ngày giao
dịch, TPCP mà bên bán nhận được trước hoặc vào ngày thanh toán giao dịch từ giao
dịch mua hoặc giao dịch vay đã thực hiện trước đó. Việc vay TPCP chỉ được áp dụng
đối với thành viên giao dịch là thành viên đấu thầu TPCP, thời hạn vay không vượt
quá 180 ngày và không vượt quá thời hạn còn lại tới khi đáo hạn của TPCP. Giao dịch
bán/mua lại (sell/buy back) cũng được quy định rõ hơn trong thông tư, theo đó, NĐT
được thực hiện 2 giao dịch mua bán thông thường tại cùng 1 thời điểm với cùng 1 đối
tác, bao gồm cả 1 giao dịch bán TPCP kết hợp với một giao dịch mua lại cùng TPCP
đó tại một thời điểm xác định trong tương lai với mức giá, khối lượng và thời điểm
thực hiện được xác định từ trước.
3.2.3.3. Lợi suất giao dịch
Biến động lợi suất giao dịch TPCP phụ thuộc vào lãi suất phát hành TPCP và
lãi suất trên thị trường cùng với tình hình kinh tế vĩ mô. Giai đoạn 2008-2011 là giai
97
đoạn lợi suất giao dịch TPCP tăng cao, đặc biệt là cuối năm 2009 và năm 2011. Từ
giữa năm 2008, mức lãi suất trên thị trường đã tăng lên khoảng 21-25%, có thời điểm
là 30% đối với TPCP có thời hạn từ 5 năm trở lên cho thấy một bức tranh kinh tế u ám.
Giai đoạn này thị trường tiền tệ gặp vấn đề về thanh khoản, lãi suất liên ngân hàng liên
tục được duy trì ở mức cao đẩy lãi suất tăng, NHNN đưa ra nhiều biện pháp can thiệp
thị trường. NĐT đòi hỏi mức lãi suất cao để bù đắp rủi ro. Đồng thời, huy động VND
sụt giảm thúc đẩy nhu cầu repo trái phiếu của các ngân hàng thương mại, qua đó góp
phần làm tăng lợi suất TPCP trên thị trường thứ cấp. Cuối năm 2010 sang năm 2011,
lãi suất TPCP ồ ạt tăng mạnh ở tất cả các kỳ hạn do lạm phát tăng cao cùng với những
bất ổn trên thị trường tín dụng với nhiều rủi ro nợ xấu.
Những năm tiếp theo, thị trường chứng kiến lợi suất giao dịch TPCP giảm khá
mạnh ở hầu hết các kỳ hạn, trong đó, lợi suất ngắn hạn giảm nhanh hơn so với lợi suất
các kỳ hạn dài. Lợi suất trái phiếu giảm do nhu cầu tín dụng thấp và thanh khoản hệ
thống cao khiến nhu cầu TPCP gia tăng. Trong năm 2016, lợi suất giao dịch TPCP đã
giảm khoảng 52,6 điểm, có lúc lên đến 117,5 điểm so với đầu năm tuỳ từng kỳ hạn.
Năm 2017, lợi suất giao dịch TPCP tiếp tục xu hướng giảm.
Biểu đồ 3.13: Lợi suất giao dịch TPCP các kỳ hạn
Nguồn: investing.com
Hệ thống giao dịch TPCP chuyên biệt ra đời ngoài việc hỗ trợ giao dịch thứ cấp
TPCP, còn tạo cơ sở cung cấp thông tin cho các NĐT, tạo thuận lợi cho việc định giá
trái phiếu. Đồng thời hệ thống mới cũng tách biệt giao dịch giao ngay và giao dịch
repo, từ đó thông tin về giao dịch giao ngay được rõ ràng, tách bạch, làm cơ sở để
chuẩn hoá lợi suất trái phiếu theo cấu trúc kỳ hạn trái phiếu, và là cơ sở để xây dựng
0
2
4
6
8
10
12
14
Jan
-09
Jun
-09
No
v-09
Ap
r-1
0
Sep
-10
Feb
-11
Jul-
11
Dec
-11
May
-12
Oct
-12
Mar
-13
Au
g-13
Jan
-14
Jun
-14
No
v-14
Ap
r-1
5
Sep
-15
Feb
-16
Jul-
16
Dec
-16
May
-17
2 year
5 year
10 year
98
và phát triển đường cong lãi suất. Tháng 3/2013 HNX đã triển khai thành công hệ
thống đường cong lợi suất TPCP. Độ dốc của đường cong lãi suất phản ánh mức chênh
lệch giữa lãi suất thị trường dài hạn và lãi suất thị trường ngắn hạn. Đây được coi là
một chỉ báo tốt cho hoạt động kinh tế trong tương lai. Thông thường, khi thời gian đáo
hạn càng dài, rủi ro càng cao, và lợi nhuận kỳ vọng của NĐT tăng, nên đường cong lãi
suất thường có dạng dốc lên. Tại Việt Nam, giai đoạn 2007-2008, 2010-2011 có những
thời điểm lãi suất ngắn hạn bằng hoặc thậm chí cao hơn so với lãi suất dài hạn. Đường
cong lãi suất đi ngang hoặc dốc xuống là dấu hiệu cho thấy dấu hiệu bất ổn trong nền
kinh tế. Tại thời điểm chênh lệch lãi suất TPCP kỳ hạn 10 năm và 2 năm âm, Việt
Nam trải qua tình trạng lạm phát cao ở mức 2 con số và tăng trưởng GDP thấp.
3.2.3.4. Nhà đầu tư
Các chủ thể tham gia thị trường thứ cấp TPCP gồm các thành viên giao dịch
trên hệ thống giao dịch TPCP và các tổ chức đầu tư, kinh doanh trái phiếu không phải
là thành viên giao dịch.
Các thành viên giao dịch vừa đóng vai trò là tổ chức trung gian vừa đóng vai trò
là NĐT trên thị trường, bao gồm CTCK và ngân hàng thương mại. Các tổ chức đầu tư,
kinh doanh TP không phải là thành viên giao dịch như quỹ bảo hiểm xã hội Việt Nam,
các công ty bảo hiểm, quỹ tương hỗ, khi muốn thực hiện giao dịch cần thực hiện thông
qua các thành viên giao dịch có chức năng môi giới.
Hệ thống kết nối các NĐT trước khi thị trường TPCP chuyên biệt ra đời có
nhiều hạn chế, đặc biệt khi chỉ có các CTCK là thành viên của Sở giao dịch/ Trung
tâm giao dịch chứng khoán mới được kết nối trực tiếp vào hệ thống giao dịch, còn các
chủ thể giao dịch TPCP khác không thể yết lệnh, theo dõi lệnh, tìm kiếm lệnh, đối tác
giao dịch trực tiếp trên hệ thống giao dịch, trong khi phần lớn các giao dịch TPCP đều
xuất phát từ các tổ chức tín dụng (ngân hàng thương mại). Thị trường TPCP chuyên
biệt ra đời cho phép mở rộng các thành viên giao dịch, ngoài các CTCK thì các NHTM
cũng được tham gia với tư cách là thành viên đặc biệt thực hiện giao dịch tự doanh.
Bên cạnh đó, theo quy định mới nhất, KBNN được tham gia vào thị trường giao dịch
TPCP, thực hiện giao dịch mua bán lại TPCP trên hệ thống giao dịch TPCP tại
SGDCK với thời hạn không quá 3 tháng, mà không phải tuân thủ điều kiện tiêu chuẩn
làm thành viên, đăng ký làm thành viên, nghĩa vụ thành viên, chế độ báo cáo của thành
viên. Việc mở rộng thành viên có ý nghĩa rất quan trọng trong việc phát triển hệ thống
99
các nhà kinh doanh trái phiếu cấp 1 và tăng tính thanh khoản của thị trường, đồng thời
góp phần tăng hiệu quả phát hành TPCP trên thị trường sơ cấp.
Tuy số lượng thành viên tham gia trên thị trường thứ cấp TPCP tăng lên qua các
năm, từ 26 thành viên năm 2009 lên 56 thành viên năm 2016 nhưng hoạt động giao
dịch TPCP trên thị trường thứ cấp chủ yếu xảy ra giữa các NHTM và một số ít các
công ty chứng khoán, trong khi các tổ chức khác giao dịch rất hạn chế, chủ yếu nắm
giữ TPCP đến khi đáo hạn. Trong số các CTCK có hoạt động giao dịch TPCP thì chỉ
có một số CTCK lớn thường xuyên thực hiện giao dịch.
Nhà đầu tư nước ngoài
Thị trường TPCP Việt Nam từ khi ra đời dần thu hút được sự quan tâm của các
NĐT nước ngoài. Trước năm 2002, NĐT nước ngoài chưa tham gia vào giao dịch trên
thị trường TPCP mà hoạt động này chỉ thực sự bắt đầu năm 2003. Năm 2007, giá trị
giao dịch của NĐT nước ngoài chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng giá trị giao dịch toàn
thị trường (gần 80%). Tuy nhiên năm 2008, tỷ trọng giao dịch của các NĐT nước
ngoài về cơ bản ngang bằng với tỷ trọng giao dịch của các NĐT trong nước (xấp xỉ
50%), và tiếp tục giảm do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Năm
2011, giá trị giao dịch của NĐT nước ngoài chiếm 21% tổng giá trị giao dịch, tăng lên
31% năm 2012, và đạt đỉnh 34% năm 2014, tuy nhiên vẫn còn thấp hơn nhiều so với
giai đoạn trước cũng như so với tiềm năng của thị trường. Năm 2015, tỷ trọng giao
dịch của khối ngoại trên thị trường thứ cấp TPCP bắt đầu có dấu hiệu giảm sút, chỉ còn
12% năm 2015, 8% năm 2016 và 5% năm 2017.
Việc NĐT nước ngoài tham gia vào thị trường có ý nghĩa rất quan trọng, không
chỉ làm tăng tính thanh khoản của thị trường, mà đây còn là một bước tiến trong quá
trình hội nhập của thị trường TPCP. Tỷ trọng giao dịch của NĐT nước ngoài tham gia
trên thị trường TPCP thấp ngoài nguyên nhân do tác động của yếu tố bên ngoài, còn có
thể xuất phát từ những vấn đề vĩ mô trong nước không ổn định, dự trữ ngoại hối thấp,
thị trường thiếu các công cụ phòng ngừa rủi ro, hoạt động không hiệu quả hoặc các
quy định hạn chế trong nước đối với NĐT nước ngoài như thông tư 36/2014/TT-
NHNN giới hạn tỷ lệ đầu tư TPCP của ngân hàng nước ngoài.
100
Nguồn: HNX
NĐT trong nước GD outright
61%
NĐT trong nước GD
Repo 15%
NĐT nước ngoài GD outright
24%
NĐT nước ngoài GD
Repo 0%
24%
2013
NĐT trong nước GD outright
29%
NĐT trong nước GD
Repo 37%
NĐT nước ngoài GD outright
8%
NĐT nước ngoài GD
Repo 26%
34%
2014
NĐT trong nước GD outright
58%
NĐT trong nước GD
Repo 30%
NĐT nước ngoài GD outright
12%
NĐT nước ngoài GD
Repo 0%
12%
2015
NĐT trong nước GD outright
57%
NĐT trong nước GD
Repo 35%
NĐT nước ngoài GD outright
8%
NĐT nước ngoài GD
Repo 0%
8%
2016
NĐT trong nước GD outright
48%
NĐT trong nước GD
Repo 47%
NĐT nước ngoài GD outright
5%
NĐT nước ngoài GD
Repo 0%
2017
Biểu đồ 3.14: Quy mô giao dịch theo cơ cấu NĐT
101
3.2.3.5. Các tổ chức tham gia hỗ trợ thị trường
Về tổ chức lưu ký, thanh toán bù trừ TPCP
Tháng 5 năm 2006, Trung tâm lưu ký Chứng khoán Việt Nam được thành lập
theo quyết định 189/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ. Việc lưu ký, thanh toán
giao dịch TPCP được tập trung tại Trung tâm, trong khi trước đó hệ thống thanh toán
cho giao dịch TPCP tại SGDCK Hồ Chí Minh và TTGDCK Hà Nội được thực hiện
độc lập với các bộ phận đăng ký, lưu ký và thanh toán bù trừ của mỗi tổ chức. Việc xử
lý sau giao dịch tập trung sẽ giúp làm giảm chi phí giao dịch và làm tăng tính thanh
khoản của thị trường.
Từ khi VSD ra đời, việc lưu ký, thanh toán bù trừ trái phiếu và chuyển kết quả
cho ngân hàng thanh toán để xử lý do trung tâm lưu ký chứng khoán thực hiện, trong
khi ngân hàng được chỉ định thanh toán (ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam) sẽ
thực hiện thanh toán tiền giao dịch trái phiếu. Tuy nhiên việc thực hiện thanh toán toàn
bộ giao dịch TPCP qua một ngân hàng chỉ định thanh toán chỉ phù hợp với các thị
trường mới, quy mô giao dịch nhỏ. NHTM chỉ định này có thể sẽ gặp khó khăn khi
thực hiện vai trò là người cho vay hỗ trợ thanh toán khi các thành viên bị thiếu hụt tiền
thanh toán giao dịch TPCP khi quy mô giao dịch trên thị trường ngày một lớn hơn bởi
những hạn chế về nguồn vốn của ngân hàng. Việc này cũng có gây rủi ro mất khả năng
thanh toán giao dịch trái phiếu đối với toàn hệ thống. Đồng thời, hệ thống thanh toán
tiền giao dịch trái phiếu này chưa có cơ chế theo dõi, giám sát luồng tiền thanh toán
giao dịch, giúp nhà quản lý đánh giá về độ an toàn và sẵn sàng của hệ thống thanh toán
chứng khoán quốc gia do đây không phải là chức năng của một ngân hàng thương mại.
Từ những hạn chế này, thông tư 46/2017/TT-BTC ra đời, có hiệu lực từ ngày
1/8/2017, đã quy định nhiều thay đổi trong hoạt động đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh
toán giao dịch TPCP. Theo đó, việc thanh toán giao dịch mua bán TPCP niêm yết trên
SGDCK được thực hiện theo phương thức thanh toán theo từng giao dịch, và việc
thanh toán tiền được chuyển sang cho Ngân hàng nhà nước. Và để khắc phục tình
trạng tạm thời thiếu hụt khả năng thanh toán tiền giao dịch TPCP thì Bộ Tài chính quy
định các tổ chức thanh toán tiền gián tiếp tạm thời thiếu hụt khả năng thanh toán tiền
giao dịch TPCP được sử dụng tiền vay của ngân hàng thành viên thanh toán theo thoả
thuận hỗ trợ thanh toán ký kết giữa các bên, và trong trường hợp ngân hàng thành viên
thanh toán, thành viên lưu ký là ngân hàng thương mại, tổ chức mở tài khoản trực tiếp
102
là NHTM tạm thời thiếu hụt thanh toán tiền giao dịch TPCP được NHNN hỗ trợ thông
quan nghiệp vụ thấu chi và cho vay qua đêm để thực hiện thanh toán tiền giao dịch
TPCP. Có thể thấy, những thay đổi này phù hợp với thông lệ quốc tế và khuyến nghị
của Ngân hàng thanh toán quốc tế (BIS), giải quyết xung đột lợi ích, đảm bảo tính độc
lập, khách quan và tăng hiệu quả sử dụng vốn cho các NHTM và bảo đảm an toàn hệ
thống thanh toán giao dịch TPCP nói riêng và chứng khoán nói chung. Đây cũng là
bước đánh dấu quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng của thị trường Việt Nam vào thị
trường quốc tế.
Hiệp hội thị trường trái phiếu Việt Nam (VBMA)
Ra đời năm 2009, hiệp hội thị trường trái phiếu Việt Nam đã đóng góp lớn vào
sự phát triển của thị trường trái phiếu nói chung và thị trường TPCP nói riêng. VBMA
hoạt động nhằm thúc đẩy sự phát triển chuyên nghiệp và hiệu quả của thị trường trái
phiếu Việt Nam, đảm bảo quyền và lợi ích của hội viên, đồng thời đảm bảo lợi ích
quốc gia. Sau hơn 7 năm hoạt động, hiệp hội thị trường trái phiếu Việt Nam đã khẳng
định vai trò cầu nối giữa cơ quan quản lý và các thành viên thị trường, góp phần quan
trọng vào sự lớn mạnh của thị trường trái phiếu Việt Nam những năm qua. VBMA đã
bám sát các kế hoạch hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước, thông tin kịp thời
để lấy ý kiến tham gia, góp ý, phản biện chính sách có hiệu quả từ các hội viên của
hiệp hội. Đồng thời tổ chức các chương trình đào tạo và hội thảo cho các hội viên và
đại diện cơ quan quản lý nhà nước tham dự về những kiến thức mới trên thị trường
trái phiếu Việt Nam. Về hoạt động phát triển thị trường, VBMA đã triển khai thành
công thoả thuận giữa các nhà tạo lập thị trường nhằm cung cấp giá trái phiếu chuẩn
cho thị trường và tăng thanh khoản của thị trường trái phiếu. Bên cạnh đó, VBMA
cũng đang triển khai xây dựng hợp đồng mini GMRA nhằm phát triển thị trường repo,
hợp đồng khung cho giao dịch outright, nghiên cứu xây dựng các đường cong lãi suất
chuẩn ngắn hạn. Các thông tin thị trường cũng được VBMA cung cấp đầy đủ và kịp
thời đến các thành viên.
Hệ thống tổ chức xếp hạng tín nhiệm
Cơ chế cho việc thành lập công ty định mức tín nhiệm tại Việt Nam đã hoàn
chỉnh trong quy hoạch phát triển dịch vụ xếp hạng tín nhiệm đến năm 2020 và tầm
nhìn 2030 theo quyết định 507/QĐ-TTg 2015. Số lượng doanh nghiệp cung cấp dịch
vụ xếp hạng tín nhiệm sẽ tuỳ thuộc vào quy mô của thị trường trái phiếu và nhu cầu sử
103
dụng dịch vụ xếp hạng tín nhiệm của các chủ thể tham gia thị trường, nhưng tối đa chỉ
cấp phép hoạt động cho 5 doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm đến năm 2030. Tuy nhiên,
đến nay mới có một công ty định mức tín nhiệm của Việt Nam được cấp giấy phép
hoạt động.
3.2.3.6. Hệ thống cơ sở hạ tầng
Sơ đồ 2.1: Cơ cấu thị trường thứ cấp TPCP chuyên biệt
Nguồn: HNX
Trước khi hệ thống giao dịch TPCP chuyên biệt ra đời năm 2009, thị trường
TPCP tồn tại một số bất cập như: giao dịch trái phiếu và cổ phiếu dùng chung một hệ
thống phần mềm, trong khi cách thức giao dịch trái phiếu và cổ phiếu rất khác nhau về
cả phương thức giao dịch, cách thức yết giá, tính toán quyền...Tháng 9 năm 2009, hệ
thống giao dịch thứ cấp dành riêng cho thị trường TPCP đã chính thức đi vào vận hành
tại SGDCK Hà Nội, đây là hệ thống giao dịch điện tử duy nhất trên thị trường trái
phiếu Việt Nam cho đến thời điểm này. Hệ thống giao dịch TPCP chuyên biệt có nhiều
đặc điểm mới so với trước đây, với các đặc điểm phù hợp với đặc thù của giao dịch
trái phiếu. Những năm tiếp theo, thị trường TPCP đã có sự phát triển đột phá về công
nghệ với việc xây dựng và vận hành thành công hệ thống giao dịch TPCP phiên bản
2,3. Hệ thống giao dịch TPCP phiên bản 3 kết nối với tổ chức thông tin tài chính
Bloomberg cho phép NĐT đặt lệnh và chuyển lệnh tự động từ hệ thống giao dịch trái
phiếu của Bloomberg tới hệ thống HNX, đẩy nhanh quá trình khớp lệnh, xác nhận và
thanh toán giao dịch. Điều này giúp cho NĐT ngày càng dễ dàng tiếp cận thị trường
thứ cấp TPCP Việt Nam. Ngày 26/6/2015, nhằm hiện đại hoá phương thức giao dịch,
HNX chính thức triển khai hệ thống giao dịch TPCP trực tuyến trên nền tảng internet
(E-BTS). Hệ thống này đã làm thay đổi cách thức giao dịch trên thị trường, không giới
104
hạn việc giao dịch trên các máy tính cố định đã đăng ký với HNX. NĐT chỉ cần tải
phần mềm giao dịch trên website HNX, cài đặt vào máy tính cá nhân, đăng ký xác
thực chữ ký số CA là có thể kết nối với hệ thống của HNX và truy cập, giao dịch, tra
cứu thông tin mọi lúc mọi nơi. Ngoài ra, hệ thống E-BTS là hệ thống giao dịch cung
cấp đầy đủ công cụ giao dịch, thông tin thị trường đa dạng, tiện ích phụ trợ, và phòng
ngừa rủi ro hiệu quả. Không chỉ hỗ trợ NĐT giao dịch thuận lợi hơn mà hệ thống giao
dịch trực tuyến E-BTS còn mở rộng đối tượng người sử dụng gồm cơ quan quản lý,
thành viên thị trường, nhà đầu tư. NĐT có thể trực tiếp gửi lệnh qua internet cho thành
viên thị trường, nhận lệnh chào giá từ thành viên trên toàn thị trường, và có thể tự quản
lý dữ liệu giao dịch của mình trên hệ thống, hỗ trợ NĐT kiểm soát rủi ro và quản lý
danh mục đầu tư. Hệ thống E-BTS cũng góp phần hỗ trợ, từ đó thúc đẩy sự tham gia
của các NĐT nước ngoài bởi NĐT nước ngoài có thể truy cập trực tiếp vào hệ thống
giao dịch để tiếp cận các thông tin của thị trường, từ đó có đánh giá chính xác hơn và
đưa ra quyết định đầu tư.
3.3. Phân tích sự phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ Việt Nam trong bối
cảnh hội nhập tài chính
3.3.1. Sử dụng bộ chỉ tiêu đánh giá sự phát triển thị trường trái phiếu
Chính phủ Việt Nam trong bối cảnh hội nhập tài chính
3.3.1.1. Chỉ tiêu đánh giá quy mô thị trường
Chỉ tiêu quy mô thị trường TPCP
HNTC tạo cơ hội thu hút nguồn vốn dồi dào. Nhờ đó, thị trường sơ cấp TPCP
ngày càng phát triển theo chiều rộng, mở rộng về quy mô. TPCP dần trở thành kênh
huy động vốn quan trọng cho NSNN. Nhìn vào quy mô thị trường TPCP có thể thấy
quy mô thị trường có sự tăng trưởng qua các năm. Từ những năm 2000, khi thị trường
mới bước những bước đi đầu tiên, quy mô thị trường so với GDP chỉ khoảng 0.3%.
Đến năm 2009, thị trường TPCP chuyên biệt ra đời đã tạo tiền đề cho sự tăng trưởng
mạnh mẽ hơn nữa của thị trường. Quy mô thị trường tăng nhanh qua các năm và thị
trường đạt đỉnh năm 2014, 5 năm sau khi thị trường trái phiếu chuyên biệt chính thức
đi vào hoạt động. Năm 2014, thị trường trái phiếu chính phủ Việt Nam đã đạt mức
tăng trưởng bình quân 23%/năm, và trở thành thị trường có mức tăng trưởng dẫn đầu
các nền kinh tế mới nổi tại khu vực Đông Á cũng như khu vực ASEAN + 3. Thị
trường TPCP tiếp tục có những bước phát triển mạnh mẽ những năm gần đây. Năm
2016 được đánh giá là năm thành công của thị trường khi khối lượng trái phiếu phát
hành trong năm đạt mức cao kỷ lục.
105
Biểu đồ 3.15: Quy mô thị trường TPCP so với GDP
Nguồn: Asian bonds online
Chỉ tiêu quy mô thị trường TPCP trong nước/ Quy mô thị trường TPCP khu vực
Biểu đồ 3.16: Quy mô thị trường trái phiếu Chính phủ so với GDP của một số nước khu
vực ASEAN + 3 (Đơn vị: %)
Nguồn: Asianbondsonline
0
5
10
15
20
25
30
0
200000
400000
600000
800000
1000000
1200000
1400000
Mar
-00
Feb
-01
Jan-0
2
Dec
-02
Nov
-03
Oct
-04
Sep
-05
Aug
-06
Jul-
07
Jun
-08
May
-09
Ap
r-1
0
Mar
-11
Feb
-12
Jan-1
3
Dec
-13
Nov
-14
Oct
-15
Sep
-16
Aug
-17
TPDN (Tỷ đồng )
TPCP (Tỷ đồng)
TPCP (% GDP)
0 10 20 30 40 50 60
VietNam
Indonesia
Malaysia
Philippine
Singapore
Thailand
Jun-18
2017
2016
2015
2014
2013
2012
106
So sánh quy mô thị trường trái phiếu Chính phủ của Việt Nam với một số nước
trong khu vực ASEAN + 3 qua 5 năm gần đây thì thấy quy mô thị trường TPCP Việt
Nam vẫn còn nhỏ. Trong khi các quốc gia như Thái Lan, Singapore, Malaysia có quy
mô thị trường TPCP tương đương 50% GDP thì thị trường Việt Nam chỉ khoảng 20%.
Chỉ tiêu giá trị giao dịch/GDP: Giai đoạn 2009-2012, giá trị giao dịch TPCP
thứ cấp chỉ khoảng dưới 6% GDP, giảm xuống một nửa so với năm 2008 (khoảng
13%). Giai đoạn tiếp theo thị trường thứ cấp TPCP chứng kiến sự cải thiện về quy mô
giao dịch so với GDP khi chỉ số này tăng qua các năm và đạt đỉnh năm 2017 ở mức
69%. Tuy nhiên, chỉ tiêu này vẫn còn thấp.
Biểu đồ 3.17: Quy mô thị trường thứ cấp TPCP Việt Nam (Đơn vị: %)
Nguồn: Tác giả tự tính toán dựa vào số liệu của Asianbondsonline và HNX
Chỉ tiêu giá trị giao dịch Việt Nam/ giá trị giao dịch khu vực: So sánh giá trị
giao dịch của thị trường thứ cấp TPCP Việt Nam với một số thị trường trong khu vực
như Indonesia, Malaysia, và Thái Lan có thể thấy quy mô thị trường Việt Nam tăng
dần qua các năm, từ mức chỉ có giá trị giao dịch bằng khoảng dưới 20% giá trị giao
dịch của các nước trên, chỉ số này đã tăng dần sau giai đoạn 2009-2012, năm 2015 giá
trị giao dịch TPCP Việt Nam đã vượt qua giá trị giao dịch Malaysia, năm 2016 đã tiến
sát mức giá trị giao dịch của Indonesia và đến năm 2017 đã vượt qua giá trị giao dịch
của nước này. Tuy nhiên, khi so sánh giá trị giao dịch thứ cấp TPCP Việt Nam với
Thái Lan, thị trường được coi là thị trường tham chiếu chuẩn cho khu vực bởi mức độ
phát triển tốt và mức độ hội nhập cao, thì chỉ số này còn thấp, khoảng 70%.
0
50
100
150
200
250
300
350
2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017
VN/Indonesia
VN/Malaysia
VN/Thailan
GTGD/GDP
107
3.3.1.2 Chỉ tiêu đánh giá mức độ bền vững của thị trường
Lãi suất TPCP các kỳ hạn
Lãi suất có xu hướng giảm dần qua các năm ở tất cả các kỳ hạn. HNTC cải
thiện tình hình kinh tế vĩ mô, làm phong phú nguồn vốn trên thị trường tài chính, thị
trường trở nên thanh khoản hơn là điều kiện tốt để giảm chi phí huy động vốn của
Chính phủ thông qua phát hành trái phiếu. Nhìn chung mặt bằng lãi suất huy động vốn
thông qua phát hành TPCP thường thấp hơn mức lãi suất cho vay của các ngân hàng
(Biểu đồ 3.3). Tuy nhiên cũng có giai đoạn lãi suất TPCP ở tất cả các kỳ hạn chứng
kiến biến động tăng cao như giai đoạn 2008, 2009, 2011, 2012, nguyên nhân xuất phát
từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 và những bất ổn kinh tế vĩ mô, một
phần do ảnh hưởng của hội nhập. Lãi suất TPCP tăng cao vượt mức lãi suất cho vay
của ngân hàng có thể gây ra hiệu ứng lấn át đầu tư của khu vực tư nhân.
Ngoài ra, thị trường TPCP chứng kiến nhiều giai đoạn lãi suất phát hành và lợi
suất giao dịch TPCP chênh lệch nhau khá nhiều do Chính phủ áp dụng mức lãi suất
trần dưới mức kỳ vọng của NĐT. Quá trình tự do hóa lãi suất TPCP, tuân theo thị
trường diễn ra chậm. Lãi suất TPCP chịu sự can thiệp của Chính phủ thông qua cơ chế
lãi suất trần. So sánh chênh lệch lợi suất TPCP 2 năm và 10 năm của Việt Nam và một
số nước trong khu vực cho thấy giai đoạn 2008- 2012, độ dốc đường cong lợi suất của
Việt Nam thấp nhất và ổn định nhất so với một số nước trong khu vực cùng với một
giai đoạn đường cong lãi suất đảo chiều như đã phân tích ở phần thực trạng lãi suất
giao dịch TPCP. Trong khi đó lạm phát của Việt Nam rất cao trong giai đoạn này,
chứng tỏ sự tồn tại của một mức lãi suất trần ngăn không cho lợi suất dài hạn tăng quá
cao phản ánh kỳ vọng lạm phát. Mặc dù đường cong lợi suất ổn định, không dốc và lãi
suất bị chặn trên, mức độ biến động lợi suất TPCP 10 năm của Việt Nam lại cao nhất
trong khu vực (Lê Hồng Giang, 2012) [4]. Những năm gần đây, chênh lệch lãi suất
TPCP kỳ hạn 10 năm và 2 năm nhìn chung có xu hướng tăng hơn giai đoạn trước năm
2012, chứng tỏ kỳ vọng về nền kinh tế tốt lên. Xu thế này cũng diễn ra ở Thái Lan và
Malaysia. Tuy nhiên chênh lệch lãi suất lại có xu hướng giảm ở Indonesia chứng tỏ
triển vọng kinh tế của nước này không tốt so với thời kỳ trước.
108
Biểu đồ 3.18: Chênh lệch lãi suất TPCP kỳ hạn 2 năm và 10 năm tại một số thị trường
khu vực ( Đơn vị: Điểm cơ bản)
Nguồn: Asianbondsonline
Như vậy, mặc dù giá và lợi suất giao dịch TPCP dần được tự do hoá và phần
nào phản ánh thông tin thị trường nhưng phân tích lợi suất giao dịch có thể thấy lãi
suất vẫn bị kiểm soát bởi các yếu tố phi thị trường, có những thời điểm không phản
ánh đúng thực trạng kinh tế vĩ mô và tình hình thị trường. Điều này phản ánh tính
thiếu bền vững của thị trường.
Chỉ tiêu tỷ trọng TPCP có kỳ hạn dài / tổng TPCP
Cùng với sự phát triển của thị trường, kỳ hạn của TPCP cũng có sự thay đổi
theo hướng tích cực, ngày càng được kéo dài, phù hợp với thời gian sử dụng vốn của
Chính phủ. Nếu như trước năm 1999, TPCP chủ yếu có 2 loại kỳ hạn là 1 năm và 2
năm, thì từ năm 1999 đã xuất hiện TPCP có kỳ hạn 5 năm. Tuy nhiên khi so sánh khối
lượng phát hành của TPCP kỳ hạn trung bình (từ 5 năm trở xuống) với loại TPCP có
kỳ hạn dài từ 10 năm thì tỷ lệ TPCP có thời hạn trung bình cao hơn so với loại còn lại,
khiến cho kỳ hạn phát hành bình quân năm thấp (biểu đồ 3.1).
-500
-400
-300
-200
-100
0
100
200
300
400
Jul-
06
Dec
-06
May
-07
Oct
-07
Mar
-08
Au
g-0
8
Jan
-09
Jun
-09
No
v-0
9
Ap
r-1
0
Sep
-10
Feb
-11
Jul-
11
Dec
-11
May
-12
Oct
-12
Mar
-13
Au
g-1
3
Jan
-14
Jun
-14
No
v-1
4
Ap
r-1
5
Sep
-15
Feb
-16
Jul-
16
Dec
-16
May
-17
Oct
-17
Mar
-18
VN ID MY TH
109
Biểu đồ 3.19: Cơ cấu kỳ hạn còn lại của trái phiếu Chính phủ qua các năm
Nguồn: Asian Bonds Online
Điều này cũng được thể hiện qua cơ cấu kỳ hạn còn lại của TPCP qua các năm.
Những năm đầu tiên của thị trường TPCP, tỷ trọng kỳ hạn 3-5 năm lớn nhất. Từ năm
2003 đến năm 2006, trái phiếu Chính phủ có kỳ hạn trên 10 năm chiếm tỷ trọng cao
trong tổng số trái phiếu, khoảng 40%. Sau đó, từ năm 2008 do những bất ổn vĩ mô của
nền kinh tế cùng với hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu khiến cho việc
huy động vốn dài hạn của Chính phủ gặp nhiều khó khăn. Hàng hoá trái phiếu đem ra
đấu thầu có tỷ lệ thành công lớn nhất là các trái phiếu có kỳ hạn ngắn 2 năm, 3 năm,
các trái phiếu dài hạn như 10 năm hầu như không huy động được. Những năm tiếp
theo, tỷ trọng TPCP có kỳ hạn trung hạn (dưới 5 năm) có xu hướng tăng trở lại.
Việc kéo dài kỳ hạn phát hành của TPCP sẽ cải thiện cơ cấu kỳ hạn TPCP,
giảm thiểu rủi ro, tăng mức độ bền vững của thị trường, vì vậy, thời gian gần đây việc
điều chỉnh kỳ hạn bình quân của danh mục TPCP đã được chú trọng hơn. Trong nghị
quyết 78/2014/QH, Quốc Hội đã thông qua quy định phát hành trái phiếu Chính phủ
phải có kỳ hạn từ 5 năm trở lên, không thực hiện các khoản vay có kỳ hạn ngắn để bù
đắp bội chi NSNN và giảm mức vay đảo nợ. Tuy nhiên thực tế, sau khi nghị quyết có
hiệu lực việc phát hành TPCP có kỳ hạn dài trên 5 năm gặp nhiều khó khăn, nhiều đợt
phát hành không thành công. Lý do được đưa ra là thị trường TPCP đang phụ thuộc
nhiều vào các ngân hàng thương mại. Đây là các nhà đầu tư chính trên thị trường, tuy
nhiên vốn của các NHTM thường huy động trong thời gian ngắn. Nếu TPCP có kỳ hạn
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
70%
80%
90%
100%
200
0
200
1
200
2
200
3
200
4
200
5
200
6
200
7
200
8
200
9
201
0
201
1
201
2
201
3
201
4
201
5
201
6
201
7
[>10 năm] (%)
[5-10 năm] (%)
[3-5 năm] ( %)
[1-3 năm] (%)
110
quá dài sẽ không hấp dẫn các ngân hàng thương mại. Đồng thời, thời hạn trái phiếu
càng dài thường đi kèm với rủi ro lớn, nếu một quốc gia có các yếu tố vĩ mô bất ổn thì
nhà đầu tư càng không mặn mà với loại trái phiếu này. Theo đó, trong Nghị quyết số
99/2015/QH13, Quốc hội đã cho phép phát hành đa dạng kỳ hạn TPCP nhưng giới hạn
khối lượng tối đa đối với kỳ hạn từ 3 năm đến dưới 5 năm phải đảm bảo không quá
30% tổng khối lượng phát hành trong năm 2015-2016. Năm 2016, theo báo cáo của Bộ
Tài chính, có 91% khối lượng phát hành có kỳ hạn từ 5 năm trở lên. Và đây cũng là
lần đầu tiên TPCP kỳ hạn 30 năm được phát hành thành công cho nhà đầu tư nước
ngoài. Đến năm 2017, kỳ hạn phát hành bình quân TPCP đã đạt 13,52 năm, tăng 8,72
năm so với năm 2014 (biểu đồ 3.1), và cao hơn mục tiêu đặt ra trong giai đoạn 2016-
2020 mà quyết định 261/QĐ-BTC về lộ trình phát triển thị trường trái phiếu giai đoạn
2013-2020 đã đề ra là 6-8 năm. Năm 2017, kỳ hạn còn lại của TPCP dưới 5 năm chỉ
còn khoảng 60%, giảm rõ rệt so với tỷ lệ 88% năm 2013 và 100% năm 2000. Đây là
những chuyển biến tích cực, tăng tính bền vững của thị trường.
Tỷ trọng TPCP/ tổng giá trị TP
Nhìn vào biểu đồ 3.15 có thể thấy TPCP chiếm phần lớn trong tổng giá trị TP
trên thị trường TP Việt Nam. TP doanh nghiệp chiếm một phần rất nhỏ. Tính đến
tháng 7 năm 2018, dư nợ thị trường trái phiếu Việt Nam là 39,9% GDP năm 2017
trong đó dư nợ thị trường TPCP là 29,2% GDP năm 2017.
Hệ thống chỉ tiêu giám sát và cảnh báo rủi ro: Hiện chưa có một bộ chỉ tiêu rõ
ràng cụ thể để giám sát và cảnh báo rủi ro cho thị trường TPCP Việt Nam. Đây là hạn
chế lớn đối với sự phát triển bền vững của thị trường.
3.3.1.3. Chỉ tiêu đánh giá mức độ hội nhập thị trường
Khi đánh giá mức độ hội nhập thị trường TPCP Việt Nam áp dụng theo nghiên
cứu của ngân hàng Trung ương Châu Âu ECB, một số vấn đề được đưa ra:
- Lựa chọn thị trường tham chiếu là thị trường đã được đánh giá là hội nhập sâu rộng
để làm cơ sở so sánh mức lãi suất. Bài viết sử dụng thị trường Thái Lan là thị trường
tham chiếu trong khu vực. Thái Lan là một quốc gia có thị trường tài chính phát triển
trong khu vực và được đánh giá là hội nhập tốt. Lãi suất thị trường trái phiếu Chính
phủ Thái Lan ngày càng tiệm cận với lãi suất TPCP Mỹ (ADB, 2012) [21].
111
- Cân nhắc sử dụng lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực: Lãi suất thực có thể bằng nhau
giữa các quốc gia không chỉ trong trường hợp thị trường có hội nhập mà cả khi lý
thuyết về sức mua tương đương tồn tại, như vậy việc kiểm tra lãi suất thực có bằng
nhau ở các quốc gia hay không được dùng để kiểm tra cả vấn đề HNTC và ngang giá
sức mua. Thứ hai, một số quốc gia có thể có tỷ lệ lạm phát cao hơn nước khác. Tuy
nhiên một trong những lợi ích của hội nhập là những khoản nợ quốc gia không chỉ
được tài trợ bởi các nhà đầu tư trong nước. Kết quả là lợi suất yêu cầu của tài sản
không phụ thuộc vào vào các nhân tố trong nước hay nội địa như quan hệ cung cầu
trong nước, thái độ với rủi ro của nhà đầu tư, và tỷ lệ lạm phát mà nhà đầu tư trong
nước phải đối mặt. Giả sử, lãi suất thực tế bằng nhau giữa các quốc gia. Trong trường
hợp này lãi suất danh nghĩa sẽ khác nhau giữa các quốc gia phản ánh tỷ lệ lạm phát
khác nhau. Tuy nhiên trong HNTC không tính đến rủi ro tỷ giá, sự khác nhau giữa lãi
suất danh nghĩa này sẽ không tồn tại lâu bởi nhà đầu tư từ các nước lạm phát thấp sẽ
có xu hướng và động lực tìm kiếm tỷ suất sinh lời cao hơn từ những nước có lạm phát
cao. Kết quả là giá cả hàng hoá sẽ được điều chỉnh cho đến khi cơ hội kinh doanh
chênh lệch giá không còn nữa (cụ thể là cho đến khi lãi suất danh nghĩa bằng nhau).
Tuy nhiên điều này chỉ đúng khi tỷ lệ lạm phát cao của một nước không liên quan đến
rủi ro tín dụng tại quốc gia này.
- Khi sử dụng phương pháp đo lường dựa vào lãi suất này, tác giả giả định loại bỏ rủi
ro tín dụng, coi như rủi ro tín dụng không đóng vai trò quan trọng trong việc định giá
trái phiếu chính phủ.
Chỉ số mức chênh lệch giữa lãi suất TPCP Việt Nam với lãi suất TPCP của
quốc gia tham chiếu gồm Thái Lan đại diện cho khu vực, và Mỹ đại diện cho thế giới.
Chỉ số này được tính bằng công thức:
St = yVN,t – yTL,t (3.1)
St: Mức độ chênh lệch ngày t
YVN,t: Lãi suất TPCP của Việt Nam ngày t
Yb,t: Lãi suất TPCP của Thái Lan, Mỹ ngày t
112
Biểu đồ 3.20: Độ lệch lãi suất TPCP các kỳ hạn giữa Việt Nam và Thái Lan
Nguồn: Tác giả tự tính toán dựa vào số liệu từ Investing.com
Biểu đồ 3.21: Độ lệch lãi suất TPCP kỳ hạn 10 năm giữa một số nước Đông Nam Á so
với Thái Lan
Nguồn: Tác giả tự tính toán dựa vào số liệu từ Investing.com
Với số liệu được lấy bắt đầu từ năm 2009, khi thị trường TPCP chuyên biệt của
Việt Nam ra đời, chênh lệch lãi suất TPCP các kỳ hạn giữa Việt Nam và Thái Lan
giảm dần qua các năm thể hiện sự hội nhập ngày càng tăng của thị trường TPCP
Việt Nam. Tuy nhiên chỉ số này vẫn ở mức khá cao những năm gần đây (khoảng
2%) chứng tỏ thị trường TPCP Việt Nam vẫn còn khoảng cách hội nhập với thị
trường khu vực.
Khi so sánh với một số nước trong khu vực về mức độ chênh lệch lãi suất TPCP
kỳ hạn 10 năm với Thái Lan, thì Việt Nam từ có mức chênh lệch lớn nhất, dần dần
giảm xuống và thấp hơn mức chênh lệch lãi suất của Indonesia, mặc dù vẫn cao hơn
Philipine. Điều này chứng tỏ thị trường TPCP ngày càng hội nhập tốt với khu vực.
0
2
4
6
8
10
12
Jan
-09
Jun
-09
No
v-0
9
Ap
r-1
0
Sep
-10
Feb
-11
Jul-
11
Dec
-11
May
-12
Oct
-12
Mar
-13
Au
g-1
3
Jan
-14
Jun
-14
No
v-1
4
Ap
r-1
5
Sep
-15
Feb
-16
Jul-
16
Dec
-16
May
-17
St(VN,TL-10y)
St(VN,TL-5y)
St(VN,TL-2 y)
-2
0
2
4
6
8
10
12
Jan
-09
Jun-
09
No
v-09
Ap
r-10
Sep
-10
Feb
-11
Jul-
11
Dec
-11
May
-12
Oct
-12
Mar
-13
Au
g-13
Jan
-14
Jun-
14
No
v-14
Ap
r-15
Sep
-15
Feb
-16
Jul-
16
Dec
-16
May
-17
St (VN,TL)
St (IND, TL)
St(Phip, TL)
113
Biểu đồ 3.22: Độ lệch lãi suất TPCP kỳ hạn 10 năm giữa một số nước Đông Nam Á so
với Mỹ
Nguồn: Tác giả tự tính toán trên số liệu từ Investing.com
Trong số các nước được tính toán, chênh lệch lãi suất TPCP giữa Thái Lan và
Mỹ là thấp nhất và tiệm cận mức 0% cho thấy mức độ hội nhập của thị trường TPCP
Thái Lan với thế giới ở mức cao, đứng đầu các nước trong khu vực. Điều này cũng cho
thấy lựa chọn Thái Lan làm quốc gia tham chiếu trong đánh giá mức độ hội nhập của
Việt Nam với khu vực là hợp lý. Chênh lệch lãi suất TPCP của Việt Nam với Mỹ luôn
ở mức cao, có khi lên đến 10%, và có sự biến động mạnh. Những năm gần đây,
khoảng cách lãi suất TPCP kỳ hạn 10 năm của Việt Nam so với Mỹ đã giảm dần, chỉ
khoảng trên dưới 4%, tuy nhiên đây vẫn là mức cao trong khu vực.
Chỉ số beta hội tụ
Để xác định chỉ số beta hội tụ, tác giá sử dụng mô hình
ΔRVN,t = αc,t + βc,tΔRTL,t + εc,t (3.2)
ΔRVN,t: Sự thay đổi lãi suất TPCP của Việt Nam
ΔRTL,t : Sự thay đổi lãi suất TPCP của Thái Lan
α là hệ số chặn thay đổi theo thời gian
εc,t : Biến nhiễu
Lãi suất TPCP Thái Lan vẫn được sử dụng làm lãi suất tham chiếu.
Tác giả ước lượng mô hình trên (3.2) sử dụng dữ liệu 18 tháng đầu của lãi suất
trung bình theo tháng, bắt đầu từ năm 2009, khi thị trường trái phiếu chính phủ chuyên
biệt của Việt Nam ra đời. Sau đó, dữ liệu được di chuyển lên theo từng tháng và
phương trình được ước tính lại cho đến khi đạt được đến quan sát cuối cùng. Khi đó sẽ
có một chuỗi hệ số β theo thời gian.
-2
0
2
4
6
8
10
12
Jan
-09
Jun
-09
No
v-0
9
Ap
r-1
0
Sep
-10
Feb
-11
Jul-
11
Dec
-11
May
-12
Oct
-12
Mar
-13
Au
g-1
3
Jan
-14
Jun
-14
No
v-1
4
Ap
r-1
5
Sep
-15
Feb
-16
Jul-
16
Dec
-16
May
-17
St(TL, US)
St (VN, US)
St(IND, US)
St(Phip, US)
114
Biểu đồ 3.23: Chỉ số β hội tụ của Việt Nam với Thái Lan và Thái Lan với Mỹ
Nguồn: Tác giả tự tính toán
Tác giả đồng thời ước lượng mô hình tương tự với biến phụ thuộc là mức thay
đổi lãi suất Thái Lan và biến độc lập là mức thay đổi lãi suất Mỹ, được lấy trên dữ liệu
lãi suất TPCP 10 năm.
Trong khi hệ số beta của Thái Lan với Mỹ khá ổn định và có xu hướng tiến dần
tới 1 (khoảng 0,8 những năm gần đây) thể hiện mức độ hội nhập khá cao của thị
trường TPCP Thái Lan với thị trường TPCP thế giới thì hệ số beta của Việt Nam với
Thái Lan liên tục biến động, không ổn định, và thường xuyên ở mức thấp, trung bình
khoảng 0,2, khẳng định mức độ hội nhập của Việt Nam với khu vực còn thấp. Khi hồi
quy mô hình với hai biến là mức độ biến động lãi suất của Việt Nam và Thái Lan, kết
quả cho thấy mức độ biến động lãi suất của Thái Lan có tương quan thấp, không có
nhiều ý nghĩa giải thích đối với mức độ biến động lãi suất của Việt Nam, chứng tỏ, thị
trường TPCP Việt Nam chưa thực sự hội nhập. Bởi khi một quốc gia hội nhập thì lãi
suất TPCP của quốc gia đó nên phản ứng mạnh với các thông tin chung trên thị
trường, được phản ánh vào sự thay đổi lãi suất của thị trường tham chiếu.
Hệ số chặn
Khi ước lượng mô hình 2.2 với hai biến là mức độ biến động lãi suất của Thái
Lan và Mỹ, tác giả có hệ số chặn α biến động xung quanh khoảng giá trị (0,05 ; -0,05),
chứng tỏ rủi ro tín dụng hay thanh khoản của Thái Lan vẫn tiếp tục có ảnh hưởng đến
-0.6
-0.4
-0.2
0
0.2
0.4
0.6
0.8
1
Jun
-10
Oct
-10
Feb
-11
Jun
-11
Oct
-11
Feb
-12
Jun
-12
Oct
-12
Feb
-13
Jun
-13
Oct
-13
Feb
-14
Jun
-14
Oct
-14
Feb
-15
Jun
-15
Oct
-15
Feb
-16
Jun
-16
Oct
-16
Feb
-17
Jun
-17
beta (VN-TL)
beta (TL-US)
115
sự thay đổi lãi suất TPCP của nước này thay vì chỉ chịu tác động của các yếu tố chung
trên thế giới. Tuy nhiên chỉ số này cũng thể hiện mức độ hội nhập với thế giới tốt của
Thái Lan. Trong khi đó, kết quả hệ số α của Việt Nam thu được khi ước lượng mô
hình 3.2 cho thấy mức độ biến động lãi suất của Việt Nam chênh lệch khá lớn một
cách có hệ thống và độc lập so với mức độ biến động lãi suất của Thái Lan, chứng tỏ
thị trường TPCP hội nhập yếu với khu vực.
Biểu đồ 3.24: Hệ số chặn
Nguồn: Tác giả tự tính toán
3.3.1.4. Chỉ tiêu đánh giá mức độ tiếp cận thị trường
Tỷ trọng TPCP phát hành trong nước/ Tổng giá trị TPCP
TPCP Việt Nam chủ yếu được phát hành trên thị trường trong nước, số lượng
TPCP phát hành quốc tế rất hạn chế. Việt Nam mới có 3 lần phát hành TPCP huy động
vốn trên thị trường quốc tế với số lượng vốn huy động hạn chế. Chính phủ chủ yếu
huy động vốn qua phát hành TPCP trong thị trường nội địa.
Giá trị TPCP quốc tế/ GDP
Do chủ yếu phát hành TPCP trong nước nên giá trị TPCP quốc tế so với GDP
rất nhỏ, không đáng kể. Tính đến nay, Việt Nam mới có 3 lần phát hành TPCP ra thị
trường vốn quốc tế để cơ cấu lại nợ trong nước của Chính phủ, với số tiền huy động
khoảng 750 triệu USD năm 2005, 1 tỷ USD năm 2010 và 1 tỷ USD năm 2014. Mặc dù
cả ba lần phát hành TPCP ra thị trường quốc tế đều thành công nhưng so với giá trị
TPCP phát hành trong nước thì rất nhỏ, không đáng kể.
Về cơ sở NĐT tham gia thị trường
-0.2
-0.15
-0.1
-0.05
0
0.05
0.1
0.15
0.2
Jun
-10
Oct
-10
Feb
-11
Jun
-11
Oct
-11
Feb
-12
Jun
-12
Oct
-12
Feb
-13
Jun
-13
Oct
-13
Feb
-14
Jun
-14
Oct
-14
Feb
-15
Jun
-15
Oct
-15
Feb
-16
Jun
-16
Oct
-16
Feb
-17
Jun
-17
c (VN-TL)
c (TL-US)
116
Chỉ tiêu sự đa dạng của các loại NĐT trên thị trường TPCP
Hệ thống nhà đầu tư trên thị trường TPCP đã có những tiến triển tích cực với
nhiều loại NĐT tham gia vào thị trường hơn, chứng minh tính dễ tiếp cận của thị
trường ngày càng được cải thiện. Cơ sở NĐT trên thị trường trái phiếu đã được chú
trọng cải thiện theo hướng ưu tiên phát triển nhà đầu tư dài hạn và đa dạng loại NĐT.
Năm 2009, các nhà đầu tư tham gia vào thị trường còn khá hạn chế cả ở trên hai thị
trường sơ cấp và thị trường thứ cấp, chỉ tập trung vào các công ty chứng khoán, các
NHTM trong nước, các định chế tài chính và một số ít các NHTM nước ngoài. Đến
nay, thị trường trái phiếu Chính phủ Việt Nam đã dần thu hút được thêm các loại nhà
đầu tư khác, như các tổ chức bảo hiểm xã hội, bảo hiểm tiền gửi. Tuy đối tượng NĐT
tham gia vào thị trường TPCP đã được cải thiện nhưng có thể thấy cơ sở NĐT vẫn
kém đa dạng.
Chỉ tiêu tỷ lệ nắm giữ TPCP của NĐT nước ngoài trên tổng số TPCP
Tỷ lệ nắm giữ TPCP Việt Nam của các NĐT nước ngoài ở mức thấp, nhưng có dấu
hiệu tăng qua các năm, chứng tỏ đã có sự cải thiện về mức độ hội nhập của thị trường
TPCP Việt Nam. Theo báo cáo của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước, năm 2009-2010,
sau khi rút vốn ra khỏi thị trường Việt Nam do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu năm 2008, NĐT vẫn chưa quay lại thị trường Việt Nam, vì vậy tỷ trọng
tham gia của NĐT nước ngoài trên thị trường còn khiêm tốn. Mặc dù, từ năm 2011,
khi nền kinh tế có dấu hiệu ổn định hơn, các NĐT nước ngoài bắt đầu tham gia nhiều
hơn với lệ sở hữu TPCP của NĐT nước ngoài tăng dần qua các năm, từ 5-6% năm
2014 đã tăng lên 8,35% năm 2015 và 12,38% năm 2016, nhưng đây vẫn là mức thấp.
Về phương thức phát hành và giao dịch TPCP
Phương thức phát hành
Đấu thầu dần trở thành phương thức phát hành phổ biến và chiếm tỷ trọng lớn
trong tổng số TPCP được phát hành ở Việt Nam. Điều này phù hợp với thông lệ quốc
tế. Hơn nữa, Việt Nam cũng áp dụng đa dạng phương thức và hình thức đấu thầu, tăng
khả năng tiếp cận thị trường của NĐT. Việt Nam sử dụng hai phương thức là đấu thầu
đơn giá và đấu thầu đa giá. Đấu thầu đơn giá là phương thức xác định kết quả đấu thầu
mà mức lãi suất phát hành là mức lãi suất trúng thầu cao nhất và được áp dụng chung
cho các thành viên trúng thầu. Trong khi đấu thầu đa giá là phương thức xác định kết
117
quả đấu thầu mà mức lãi suất phát hành đối với mỗi thành viên trúng thầu đúng bằng
mức lãi suất dự thầu của thành viên đó. Căn cứ vào sự phát triển của thị trường, Bộ Tài
chính quyết định phương thức đấu thầu đơn giá hoặc đa giá trong từng thời kỳ.
Bên cạnh đó, đấu thầu TPCP được thực hiện theo một trong hai hình thức là đấu
thầu cạnh tranh lãi suất và đấu thầu kết hợp cạnh tranh lãi suất và không cạnh tranh lãi
suất, trong đó tổng khối lượng trái phiếu phát hành không cạnh tranh lãi suất đảm bảo
không vượt quá 30% tổng khối lượng trái phiếu gọi thầu trong phiên đấu thầu.
Phương thức giao dịch
Trước khi thị trường TPCP chuyên biệt ra đời, phương thức giao dịch đối với
trái phiếu niêm yết bao gồm phương thức khớp lệnh liên tục và phương thức giao dịch
thoả thuận. Tuy nhiên trong giai đoạn này, một điểm đáng chú ý là lượng trái phiếu
được giao dịch khớp lệnh ngày càng thu hẹp so với phương thức giao dịch thoả thuận.
Từ năm 2005 thực tế toàn bộ các giao dịch trái phiếu qua hệ thống giao dịch của trung
tâm đều được thực hiện theo phương thức thoả thuận. Các giao dịch trong giai đoạn
này chỉ là các giao dịch mua bán thông thường.
Biểu đồ 3.25: Giá trị giao dịch TPCP theo phương thức khớp lệnh và thoả thuận trên
HOSE và HNX giai đoạn 2000-2008
Nguồn: HNX, HSX
Khi thị trường trái phiếu chính phủ chuyên biệt ra đời, chỉ duy nhất phương
thức giao dịch thoả thuận được thực hiện. Điều này phù hợp với đặc điểm hiện tại của
thị trường Việt Nam là tần suất giao dịch không nhiều, nhưng giá trị mỗi giao dịch lớn.
Nhà đầu tư có thể thực hiện giao dịch thoả thuận điện tử hoặc thông thường. Giao dịch
0
20000000
40000000
60000000
80000000
100000000
120000000
140000000
160000000
180000000
200000000
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
GDKL (triệu đ)
GDTT (triệu đ)
118
thoả thuận điện tử là hình thức giao dịch trong đó các lệnh giao dịch được chào với
cam kết chắc chắn và thực hiện ngay khi có đối tác lựa chọn mà không cần có sự xác
nhận lại, trong khi giao dịch thoả thuận thông thường là hình thức giao dịch trong đó
các bên tự thoả thuận với nhau về các điều kiện giao dịch và báo cáo kết quả vào hệ
thống giao dịch để xác lập giao dịch. Với giao dịch thông thường qua thoả thuận điện
tử và giao dịch mua bán lại, khối lượng tối thiểu giao dịch là 100 trái phiếu, trong khi
với giao dịch thoả thuận thông thường khối lượng tối thiểu là 10000 trái phiếu. Sự đa
dạng về phương thức giao dịch và lệnh giao dịch giúp đa dạng các NĐT có thể tiếp cận
thị trường thứ cấp TPCP để giao dịch, phù hợp với cả NĐT cá nhân và tổ chức.
Giao dịch repo
Hệ thống giao dịch TPCP chuyên biệt được tổ chức với hai loại giao dịch TPCP
là giao dịch thông thường (outright) và giao dịch mua bán lại (repo), được giao dịch
tách biệt. Giao dịch giao ngay (outright) là phương thức giao dịch được sử dụng phổ
biến trong những ngày đầu tiên của thị trường thứ cấp TPCP Việt Nam, trong khi đó
giao dịch repo chỉ mới thực sự phát triển thời gian gần đây. Giao dịch repo là giao dịch
rất phổ biến đối với trái phiếu bởi trái phiếu là một công cụ đầu tư có lãi suất ổn định
nên các NĐT thường nắm giữ trái phiếu từ khi mua đến khi trái phiếu đáo hạn, họ chỉ
thực hiện repo trái phiếu để kiếm lời thay vì bán đứt trái phiếu như trong giao dịch
giao ngay (outright). Tại các thị trường trái phiếu phát triển mạnh trên thế giới, các
giao dịch repo thường chiếm 60-80%, còn các giao dịch outright chiếm 20-40% tổng
giá trị giao dịch trên thị trường. Tại Mỹ, giá trị giao dịch repo chiếm tới 80-90% giá trị
giao dịch của thị trường. Tính thanh khoản của giao dịch repo được xem là thước đo
độ phát triển, độ sâu của thị trường trái phiếu.
Tại Việt Nam, giao dịch mua bán lại tuy đã xuất hiện ở những ngày đầu của thị
trường thứ cấp TPCP nhưng chưa được chính thức giao dịch, mà giao dịch dưới danh
nghĩa giao dịch thông thường. Nguyên nhân là do những ngày đầu, trước khi có thị
trường TPCP chuyên biệt, khuôn khổ pháp lý cùng với cơ sở hạ tầng công nghệ chưa
hỗ trợ thực hiện giao dịch mua bán lại. Chi phí giao dịch repo bị tính trùng hai lần do
coi đây là hai giao dịch thông thường. Điều này đã làm giảm tính hấp dẫn của công cụ
giao dịch này. Từ khi thị trường TPCP chuyên biệt ra đời năm 2009, giao dịch repo bắt
119
đầu được tách biệt với giao dịch outright. Trong ba năm đầu, giao dịch repo đạt giá trị
thấp, không đáng kể so với giá trị giao dịch outright, giao dịch outright vẫn chiếm trên
90% giá trị giao dịch toàn thị trường. Những năm tiếp theo, giá trị giao dịch repo tăng
dần, chiếm khoảng 20-25% giá trị giao dịch toàn thị trường. Đặc biệt năm 2016 ghi
nhận sự tăng trưởng mạnh của giao dịch repo so với trước, đạt mức gần ngang bằng
với giá trị giao dịch outright (gần 40% giá trị giao dịch toàn thị trường). Điều này cho
thấy thị trường thứ cấp đã có sự phát triển về chiều sâu. Xu thế này vẫn tiếp tục trong
năm 2017, giá trị giao dịch repo chiếm 47% tổng giá trị giao dịch, tiếp tục theo sát giá
trị giao dịch outright.
Biểu đồ 3.26: Giá trị giao dịch theo loại giao dịch giai đoạn 2009-2016 (Đơn vị: Tỷ đồng)
Nguồn: HNX
Chất lượng và sự đa dạng của các công cụ giao dịch trên thị trường
Trước năm 2011, trên thị trường trái phiếu chỉ có sản phẩm trái phiếu truyền
thống. Giai đoạn 2011-2017, hàng hoá trên thị trường TPCP Việt Nam đã có sự phong
phú hơn như gia tăng của các sản phẩm có kỳ hạn dài (15 năm, 20 năm, 30 năm) bên
cạnh các sản phẩm có kỳ hạn 2 năm, 3 năm, 10 năm đã phổ biến trên thị trường. Bên
cạnh đó, một số sản phẩm mới như sản phẩm trái phiếu zero-coupon, trái phiếu
long/short coupon (trái phiếu có kỳ trả lãi đầu tiên dài hơn hoặc ngắn hơn so với kỳ trả
lãi chuẩn) được giới thiệu.
Tuy nhiên, có thể dễ dàng nhận thấy các sản phẩm giao dịch vẫn còn đơn giản
và sơ sài. Bên cạnh đó, chất lượng hàng hoá trên thị trường chưa tốt khi có quá nhiều
mã trái phiếu trên thị trường và khối lượng trái phiếu cho mỗi mã còn nhỏ.
0
500000
1000000
1500000
2000000
2500000
2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017
GD repo
GD outright
120
Cơ sở hạ tầng hiện đại, đồng bộ
Từ khi thị trường TPCP chuyên biệt ra đời năm 2009, thị trường chứng kiến
nhiều cải tiến về mặt hạ tầng công nghệ, thanh toán và tăng cường kết nối với khu vực
và thế giới. Ngoài hệ thống đấu giá được nâng cấp hiện đại và tự động hoá, hệ thống
giao dịch điện tử cũng tạo thuận lợi cho NĐT tham gia thị trường. Trong bối cảnh hội
nhập, HNX và hãng thông tin kinh tế tài chính Bloomberg đã ký kết biên bản ghi nhớ
hợp tác (MOU) ra đời hệ thống giao dịch TPCP phiên bản 3, modul kết nối với hệ
thống thông tin quốc tế Bloomberg, cho phép NĐT đặt lệnh và chuyển lệnh tự động từ
hệ thống giao dịch trái phiếu của Bloomberg tới HNX, đẩy nhanh quá trình khớp lệnh,
xác nhận và thanh toán giao dịch.
Trung tâm thanh toán bù trừ VSD cũng thực hiện nhiều hợp tác song phương
với các nước trong khu vực và thế giới như hợp tác với tổ chức lưu ký tại các nước,
vùng lãnh thổ như Hàn Quốc, Thái Lan, Đài Loan, Nhật Bản, Hoa Kỳ và hiệp hội Tài
chính viễn thông toàn cầu (SWIFT). Bên cạnh đó, trung tâm lưu ký Việt Nam VSD
cũng triển khai mô hình đối tác thanh toán trung tâm CCP, đây là mô hình thanh toán
bù trừ, quản lý rủi ro được nhiều thị trường tài chính phát triển áp dụng, đặc biệt phù
hợp với thị trường chứng khoán phái sinh. Hệ thống cơ sở hạ tầng và thanh toán của
Việt Nam từng bước được hiện đại hoá, như hệ thống giao dịch và thanh toán bù trừ
chứng khoán phái sinh do tập đoàn các SGDCK toàn cầu (GMEX) đơn vị liên kết của
tập đoàn bù trừ hàng đầu châu Âu và thế giới EUREX cung cấp. Hệ thống này đã được
cung cấp cho nhiều thị trường như Anh, Newzealand, Dubai, phù hợp với các khuyến
nghị quốc tế.
3.3.1.5. Chỉ tiêu đánh giá mức độ hiệu quả
Chênh lệch giá chào mua- chào bán (lãi suất TPCP kỳ hạn 10 năm)
Chênh lệch giá chào mua chào bán TPCP Việt Nam được The
AsianBondsOnline tính toán dựa vào phỏng vấn các nhà tạo lập thị trường trái phiếu,
và được tính dựa vào trung bình chênh lệch giá chào mua chào bán. Chênh lệch giá
chào mua chào bán thể hiện sự khác nhau giữa mức giá cao nhất mà người mua muốn
bỏ ra để mua TPCP và giá bán thấp nhất mà người bán muốn bán.
Chênh lệch giá chào mua –chào bán TPCP trên thị trường TPCP Việt Nam ở
mức cao, trung bình khoảng 25 điểm cơ bản. Trong 10 năm từ năm 2007 đến 2017, độ
biến động mức chênh lệch giá chào mua- chào bán TPCP tại Việt Nam khá lớn, nhất là
khi so với một số nước trong khu vực như Philipines hay Malaysia. Hai quốc gia này
121
có mức độ chênh lệch giá chào mua-chào bán TPCP trung bình giai đoạn 2007-2017
chỉ khoảng 6 và 3,5 điểm cơ bản. Trong khi có 75% giá trị mức chênh lệch giá chào
mua- chào bán TPCP tại Việt Nam bằng hoặc dưới 30 điểm cơ bản thì 75% giá trị này
ở Philipines và Malaysia bằng hoặc dưới 6,3 và 3,15 điểm cơ bản. Cả ba quốc gia đều
có giá trị ngoại lai của mức chênh lệch giá chào mua- chào bán TPCP khá cao, rơi vào
thời điểm năm 2008, do chịu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Biểu đồ 3.27: Biểu đồ boxplot thể hiện phân phối mức độ chênh lệch giá chào mua-chào
bán TPCP của Việt Nam, Phillipines và Malaysia giai đoạn 2007-2017
Nguồn: Tác giả tự tính toán
Chỉ tiêu vòng quay trái phiếu (bonds turnover ratio
Bảng 3.3: Chỉ số vòng quay TPCP qua các năm
Năm Bonds turnover ratio Năm Bonds turnover ratio
2000 0,000089 2009 0,482956
2001 0,0353192 2010 0,41702
2002 0,034786 2011 0,308352
2003 0,348789 2012 0,520908
2004 0,9002 2013 0,716388
2005 0,66208 2014 1,06984
2006 0,85189 2015 1,048039
2007 1,0909 2016 1,70048
2008 1,2202 2017 2,25971
Nguồn: Tác giả tự tính toán
0
10
20
30
40
50
60
70
80
Viet Nam Philipines Malaysia
Box Mean line Mild outliers Extreme outliers
122
Chỉ tiêu vòng quay trái phiếu được tính bằng công thức:
Bonds turnover ratio = ��á ��ị ���� �ị�� �à�� �ă�
��á ��ị ���� �ư� �à�� �ì�� ��â� �ă�
Trong đó, giá trị TPCP lưu hành bình quân năm là số TPCP trung bình vào cuối
kỳ trước và kỳ hiện tại . Giá trị giao dịch hàng năm không bao gồm giá trị giao dịch
mua bán lại.
Chỉ số vòng quay TPCP qua các năm được tác giả tính toán trong bảng 3.3.
Những năm đầu tiên của thị trường thứ cấp TPCP, chỉ số vòng quay trái phiếu (bonds
turnover ratio) từ mức rất thấp, chỉ 0,000089, đã tăng dần qua các năm, lên đến 1,22
vào năm 2008, thể hiện thanh khoản thị trường dần được cải thiện. Sau năm 2008 gặt
hái được nhiều thành công với mức độ thanh khoản tốt, thì năm 2009 thị trường lại
chứng kiến sự sụt giảm về mức độ thanh khoản thể hiện qua chỉ tiêu vòng quay TPCP
giảm mạnh và duy trì xu hướng giảm cho đến năm 2011. Nguyên nhân là do ảnh
hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và những vấn đề bất ổn của nền kinh
tế trong nước, các tổ chức kinh doanh trên thị trường như các ngân hàng thương mại,
các CTCK gặp rất nhiều khó khăn, cùng với việc các NĐT nước ngoài ồ ạt rút vốn.
Khó khăn trong việc phát hành TPCP trên thị trường sơ cấp cũng gây ra sự ảm đạm
trên thị trường thứ cấp giai đoạn này. Những năm sau đó, thị trường bắt đầu phục hồi
thanh khoản, chỉ số vòng quay trái phiếu tăng dần trở lại qua các năm và đạt 2,25971
vào năm 2017, mức cao nhất từ trước đến nay.
3.3.1.6. Chỉ tiêu đánh giá mức độ ổn định
Mức độ biến động, độ lệch của chỉ số giá trái phiếu chính phủ
Vào 5/1/2015 SGDCK Hà Nội chính thức ra mắt bộ chỉ số trái phiếu (bond
index) nhằm cung cấp thêm công cụ chỉ báo trên thị trường TPCP. Đây là công cụ đo
lường mức độ biến động của thị trường trái phiếu, là một chỉ báo quan trọng của thị
trường TPCP. Chỉ số trái phiếu là công cụ tham chiếu để so sánh hiệu quả đầu tư trái
phiếu với các kênh đầu tư tài chính khác. Ngoài ra thông qua chỉ số trái phiếu, các
NĐT, nhất là NĐT nước ngoài có thể so sánh mức độ hấp dẫn của trái phiếu Việt Nam
với các thị trường khác để ra quyết định lựa chọn thị trường đầu tư hợp lý. Hơn nữa,
trong tương lai, chỉ số trái phiếu là tài sản cơ sở cho các sản phẩm phái sinh như hợp
đồng tương lai, quyền chọn.
Chỉ số trái phiếu đầu tiên được xây dựng trên trái phiếu KBNN vì loại trái phiếu
này chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị niêm yết của trái phiếu Chính phủ trên toàn
123
thị trường với 71%. Ngoài ra đây cũng là loại hàng hoá có độ rủi ro thấp và thuộc loại
hàng hoá cơ sở để NĐT tham chiếu định giá các loại trái phiếu khác trên thị trường.
Bộ chỉ số trái phiếu KBNN có điểm cơ sở là 100, ngày cơ sở là 18/3/2013.
Bảng 3.4: Kết quả phân tích thống kê chỉ số TPCP của một số quốc gia
trong khu vực
Chỉ tiêu Vietnam ThaiLan Indonesia Malaysia
Mean 0.05934 0.02326 0.07787 0.01909
Standard Deviation 0.29744 0.22529 0.85657 0.13297
Hệ tỷ số rủi ro (CV) 5.01218 9.68698 11.00023 6.96362
Skewness 0.28969 0.03335 0.23453 -1.38841
Kurtosis 10.41745 19.76325 17.53439 27.77963
Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên số liệu của HNX và Asianbondsonline
Dựa vào số liệu chỉ số giá trái phiếu của Việt Nam và một số nước trong khu
vực gồm Thái Lan, Indonesia, Malaysia, từ năm 2013 đến hết năm 2016, tác giả tiến
hành phân tích thống kê. Số liệu của 3 nước Thái Lan, Indonesia, Malaysia được sử
dụng là chỉ số tổng thu nhập trái phiếu Chính phủ trong bộ chỉ số iBoxx ABF Index
xây dựng cho một số nước khu vực ASEAN. Bộ chỉ số Markit iBoxx ABF được thiết
kế để phản ánh sự biến động giá TPCP bao gồm cả TPCP và TP chính quyền địa
phương của 8 quốc gia gồm Trung Quốc, Hong Kong, Indonesia, Korea, Malaysia,
Philippines, Singapore và Thái Lan. Bộ chỉ số này được xây dựng từ nhiều nguồn dữ
liệu khác nhau.
Qua phân tích thống kê có thể thấy mức sinh lời TPCP Việt Nam ở mức khá
cao so với một số nước trong khu vực. Tuy nhiên khi đánh giá hệ số rủi ro CV của
TPCP Việt Nam so với các quốc gia còn lại thì hệ số rủi ro thấp nhất. Điều này chứng
tỏ TPCP Việt Nam ít rủi ro hơn. Xét chỉ số độ lệch (skewness) mức sinh lời TPCP
Việt Nam có độ lệch dương giống như Thái Lan, Indonesia, nhưng có độ lệch lớn nhất,
chứng tỏ thị trường biến động và có những mức sinh lời dương cực lớn. Ngược lại,
Malaysia lại là thị trường có độ biến động mạnh và rủi ro cao do có độ lệch âm cao
cùng với giá trị độ nhọn (kurtosis) lớn. Thái Lan tuy không có giá trị trung bình của
chỉ số trái phiếu cao nhưng lại có rủi ro thấp, độ lệch dương không quá lớn chứng tỏ
thị trường ít biến động, có độ ổn định cao.
124
Chỉ tiêu tỷ lệ nắm giữ TPCP của các NĐT dài hạn
Nếu như trước năm 2016, các NHTM nắm giữ đến 80% khối lượng TPCP, các
nhà đầu tư khác chỉ nắm giữ khoảng 20%, thì đến năm 2016 cơ cấu NĐT nắm giữ
TPCP đã có sự dịch chuyển khi các nhà đầu tư như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm tiền gửi,
doanh nghiệp bảo hiểm... đã tăng lên đến 44,6% và các NHTM chỉ còn nắm giữ
55,4%. Năm 2017, con số này lần lượt là 47,6% và 52,4%. Rõ ràng, cơ cấu NĐT nắm
giữ TPCP đã chuyển dịch dần sang các NĐT dài hạn, hạn chế sự phụ thuộc vào các
NHTM vốn chỉ có nguồn vốn ngắn hạn, gây nên sự bất ổn cho thị trường.
3.3.2. Đánh giá sự phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ Việt Nam
trong bối cảnh hội nhập tài chính
3.3.2.1. Kết quả đạt được
Thứ nhất, thị trường TPCP đã có sự mở rộng đáng kể về quy mô. HNTC tạo cơ
hội thu hút nguồn vốn dồi dào cùng các nguồn lực khác, tạo điều kiện mở rộng thị
trường. TPCP dần trở thành kênh huy động vốn quan trọng cho NSNN. Khối lượng
TPCP phát hành qua các năm nhìn chung có xu hướng tăng. Bên cạnh đó, phát hành
TPCP ra thị trường quốc tế thành công đã tạo lập cầu nối giữa thị trường vốn trong
nước với thị trường tài chính quốc tế và là một phần trong quá trình hội nhập tài chính.
Trước tình hình thị trường tài chính trong nước còn nhỏ, quy mô vốn còn hạn chế, việc
phát hành TPCP quốc tế sẽ là một kênh huy động vốn quan trọng cho đầu tư phát triển,
giúp thị trường TPCP phát triển theo đúng chuẩn mực quốc tế hơn, ngoài ra còn giúp
tạo tiền đề cho các TP doanh nghiệp phát hành trên thị trường quốc tế. Giao dịch
TPCP trên thị trường thứ cấp đã cải thiện rõ rệt với giá trị giao dịch tăng nhanh
hàng năm.
Thứ hai, thị trường TPCP phát triển hướng dần tới sự bền vững khi lãi suất
TPCP có xu hướng giảm dần và tỷ trọng TPCP có kỳ hạn dài trong tổng số TPCP tăng.
Kỳ hạn TPCP có sự cải thiện qua các năm theo hướng tăng dần phát hành các TPCP có
kỳ hạn dài trên 10 năm, giảm TPCP có kỳ hạn ngắn (2,3 năm). Phát hành TPCP có kỳ
hạn dài sẽ tăng cường sự bền vững của thị trường bởi không tạo áp lực trả nợ nhanh,
trong ngắn hạn cho Chính phủ, từ đó giảm thiểu rủi ro. Đồng thời, lãi suất trên thị
trường TPCP cũng dần được tự do hoá, tuân theo quy luật cung cầu, đây là một trong
những điều kiện khi hội nhập tài chính.
125
Thứ ba, thị trường TPCP ngày càng hội nhập hơn với thị trường khu vực thể
hiện qua sự thu hẹp khoảng cách giữa lãi suất TPCP Việt Nam so với lãi suất TPCP tại
thị trường tham chiếu là Thái Lan.
Thứ tư, phần lớn TPCP Việt Nam được phát hành trên thị trường tài chính trong
nước, đây là nguồn cung cấp vốn quan trọng và bền vững cho thị trường. Trong bối
cảnh HNTC, Việt Nam cũng đã bắt đầu phát hành được TPCP quốc tế, dần tiếp cận
với thị trường vốn rộng lớn hơn.
Thứ năm, thị trường TPCP trở nên dễ tiếp cận hơn với các NĐT thể hiện ở cơ
sở NĐT ngày càng đa dạng. Hình thức phát hành TPCP qua đầu thầu trở thành kênh
huy động vốn chính, chứng tỏ thị trường TPCP đã ngày càng tuân theo chuẩn quốc tế.
Việc sử dụng hình thức đấu thầu thay vì bán lẻ, bảo lãnh hay đại lý phát hành sẽ giúp
thị trường cạnh tranh, minh bạch hơn tạo điều kiện cho nhiều NĐT tham gia. Phương
thức giao dịch đa dạng, gồm giao dịch thoả thuận điện tử và giao dịch thông thường hỗ
trợ nhiều đối tượng NĐT tham gia thị trường. Ngoài ra tỷ trọng giao dịch repo ngày
càng tăng thể hiện sự phát triển theo chiều sâu của thị trường. Bên cạnh đó, cơ sở hạ
tầng cho thị trường được cải thiện đáng kể, ngày càng hiện đại, đồng bộ, hỗ trợ tốt cho
NĐT, kể cả NĐT nước ngoài.
Thứ sáu, loại TPCP phát hành đã có sự đa dạng hơn, ngoài sản phẩm truyền
thống là trái phiếu trả lãi định kỳ chuẩn, thì thị trường đã có thêm sản phẩm trái phiếu
không trả lãi định kỳ và trái phiếu có kỳ trả lãi đầu tiên dài hoặc ngắn hơn kỳ hạn
chuẩn. Chất lượng hàng hoá trên thị trường TPCP dần được cải thiện. Số mã trái phiếu
phát hành đang có xu hướng giảm, và khối lượng từng mã tăng. Hàng hoá đa dạng và
có chất lượng tốt đáp ứng yêu cầu của đa dạng NĐT, làm cho thị trường TPCP trở nên
dễ tiếp cận hơn với các NĐT.
Thứ bảy, thị trường TPCP thể hiện sự hiệu quả hơn khi chỉ số vòng quay TPCP
được cải thiện đáng kể.
Thứ tám, mức độ ổn định thị trường TPCP được cải thiện đáng kể thông qua
việc cải thiện cơ cấu NĐT, giảm dần sự phụ thuộc vào các NHTM, và đã có sự tham
gia của các tổ chức khác như bảo hiểm xã hội và bảo hiểm tiền gửi. Đây là những
nguồn vốn trung và dài hạn cho thị trường.
126
3.3.2.2. Hạn chế
Thứ nhất, mặc dù số lượng TPCP phát hành và giá trị giao dịch TPCP đã tăng
hơn nhiều so với những ngày đầu thành lập nhưng quy mô thị trường TPCP của Việt
Nam so với một số nước trong khu vực và so với tiềm lực nền kinh tế vẫn còn nhỏ.
Thanh khoản của thị trường thứ cấp TPCP Việt Nam so với khu vực vẫn còn thấp.
Trong khi giá trị giao dịch bình quân phiên của Việt Nam chỉ khoảng 4000 tỷ
đồng/phiên, tương đương 180 triệu USD/phiên thì con số này của các quốc gia khác
trong khu vực khoảng 400 triệu USD-1500 triệu USD/phiên. Ngoài ra, giao dịch repo
vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng giá trị giao dịch thể hiện thị trường chưa thực sự
phát triển theo chiều sâu. Việc mở rộng quy mô nhanh chóng đôi khi có thể dẫn đến
nguy cơ khủng hoảng.
Thứ hai, thị trường phát triển chưa bền vững. Mặc dù lãi suất có xu hướng giảm
nhưng so với các nước trong khu vực, lãi suất TPCP Việt Nam vẫn còn ở mức cao.
Đồng thời lãi suất TPCP có những giai đoạn còn biến động rất mạnh, lãi suất ngắn hạn
cao hơn lãi suất dài hạn gây ra rủi ro cho thị trường, hoặc có những thời điểm lãi suất
TPCP ở mức rất cao gây ra hiệu ứng lấn át khu vực đầu tư tư nhân. Ngoài ra, kỳ hạn
còn lại của TPCP dưới 5 năm vẫn chiếm tỷ trọng lớn, trái phiếu có kỳ hạn dài khó phát
hành gây rủi ro cho Chính phủ. Trong khi đó, tỷ trọng TPCP/tổng giá trị TP phát hành
còn ở mức rất cao gây ra hiệu ứng lấn át đầu tư tư nhân, ảnh hưởng đến tính bền vững
của thị trường.
Thứ ba, mức độ hội nhập của thị trường TPCP Việt Nam với thị trường TPCP
khu vực còn thấp khi hệ số α và β không tiến đến 0 và 1, thị trường còn chịu tác động
từ nhiều yếu tố địa phương hơn là yếu tố chung của khu vực.
Thứ tư, mức độ tiếp cận thị trường vốn quốc tế của Việt Nam còn thấp khi khối
lượng TPCP quốc tế phát hành còn hạn chế và chủ yếu thu hút được NĐT do có mức
lãi suất cao. chứng tỏ Việt Nam chưa khai thác hiệu quả nguồn vốn dồi dào này.
Thứ năm, mức độ tiếp cận thị trường của các NĐT chưa cao.
Cơ sở nhà đầu tư vẫn thiếu vắng sự tham gia tích cực của các nhà đầu tư dài
hạn có tiềm lực tài chính mạnh như các quỹ đầu tư, các công ty bảo hiểm. NĐT trên
thị trường chủ yếu là các NHTM và một số ít các công ty chứng khoán. NĐT nước
ngoài tham gia trên thị trường TPCP Việt Nam còn hạn chế.
127
Bên cạnh đó, mặc dù đã có một số sản phẩm mới được triển khai nhưng các sản
phẩm TPCP phát hành vẫn còn là những sản phẩm khá đơn giản, chưa có các sản
phẩm phức tạp như trên thị trường quốc tế, như trái phiếu có lãi suất thả nổi, trái phiếu
TIPS, trái phiếu STRIP...Các công cụ cho NĐT phòng ngừa rủi ro như các công cụ
phái sinh còn hạn chế. Các sản phẩm trên thị trường TPCP sơ sài không đáp ứng được
nhu cầu đa dạng của nhiều loại NĐT.
Ngoài ra, sự kết nối cơ sở hạ tầng của thị trường với khu vực còn yếu, chưa xây
dựng được một hệ thống cơ sở hạ tầng chung với khu vực phục vụ cho việc phát hành
và giao dịch TPCP. Điều này làm hạn chế sự tiếp cận của NĐT, đặc biệt là NĐT nước
ngoài đến thị trường.
Thứ sáu, thị trường TPCP chưa hoạt động hiệu quả, chưa thể hiện được vai trò
là tham chiếu cho các thị trường khác. Chênh lệch giá chào mua, chào bán TPCP lớn.
Thứ bảy, mặc dù mức độ biến động chỉ số TPCP thấp nhưng thị trường TPCP
Việt Nam vẫn tiềm ẩn sự thiếu ổn định.
Rõ ràng thị trường TPCP Việt Nam từ khi thành lập đến nay đã có những bước
phát triển tích cực theo cả chiều rộng và chiều sâu. Các yếu tố của thị trường dần được
cải thiện, phù hợp hơn với từng giai đoạn phát triển và dần tuân theo chuẩn mực quốc
tế. HNTC đem lại tác động tích cực đến sự phát triển của thị trường TPCP, mở ra
nhiều cơ hội phát triển thị trường. Tuy nhiên có thể thấy thị trường TPCP chưa khai
thác được nhiều lợi ích từ hội nhập tài chính. Nếu thị trường tiếp tục mở rộng về quy
mô hơn nữa mà không phát triển chiều sâu, cùng với việc cải thiện các điều kiện
ngưỡng thì có thể phải gánh chịu rủi ro rất lớn.
3.3.2.3. Nguyên nhân
Quy mô nền kinh tế còn nhỏ
Nền kinh tế Việt Nam có tốc độ tăng trưởng GDP khá tốt thời gian gần đây tuy
nhiên chủ yếu GDP tăng trưởng nhờ tăng quy mô vốn đầu tư, cùng với sự tăng trưởng
không ổn định đã đem đến nhiều rủi ro tiềm ẩn.
Quy mô nền kinh tế nhỏ và sự phát triển của nền kinh tế ở mức độ thấp nên
nguồn tiết kiệm dài hạn còn hạn chế. Hơn nữa, tại một quốc gia đang phát triển với
mức thu nhập bình quân đầu người thấp, mới lên mức trung bình thì thói quen tiết
kiệm và đầu tư dài hạn của người dân còn hạn chế. Đây là trở ngại đối với sự phát
triển bền vững của thị trường TPCP. Ngoài ra, quy mô nền kinh tế nhỏ thì khả năng
128
gọi vốn trên thị trường quốc tế cũng thấp hơn, không thu hút được những NĐT lớn, tổ
chức đầu tư chuyên nghiệp.
Các điều kiện vĩ mô còn kém
Sự phát triển không ổn định của nền kinh tế cùng tỷ lệ lạm phát và sự biến động
của tỷ giá hối đoái đã hạn chế sự phát triển của thị trường TPCP. Diễn biến thị trường
TPCP phụ thuộc vào xu hướng biến động lãi suất VND, chịu ảnh hưởng của định
hướng điều hành chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ của Chính phủ, NHNN và
diễn biến kinh tế thế giới. Trong bối cảnh hội nhập, mở cửa nền kinh tế, diễn biễn kinh
tế vĩ mô của Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng từ biến động thế giới trong khi tình hình
thế giới còn nhiều phức tạp như những điều chỉnh chính sách của Mỹ, chiến tranh
thương mại Mỹ- Trung, các vấn đề chính trị diễn biến căng thẳng.
Mặc dù chính sách tài khoá được điều chỉnh theo hướng chặt chẽ, tiết kiệm, cân
đối thu chi NSNN nhưng Việt Nam vẫn có bội chi ngân sách lớn và kéo dài, tỷ lệ nợ
công cao, tỷ lệ thu ngân sách/GDP giảm, chi tiêu công lớn và chưa hiệu quả. Nguồn
thu NSNN chưa bền vững khi tỷ trọng thu từ khai thác tài nguyên còn cao trong khi
thu từ sản xuất kinh doanh còn thấp do tăng trưởng hoạt động sản xuất kinh doanh
kém. Tỷ trọng chi thường xuyên vẫn cao, nhiều hoạt động và nhiều đơn vị sự nghiệp
công lập chưa thu hút được nguồn lực ngoài NSNN khiến cho gánh nặng chi ngân sách
càng lớn.
Chính sách tiền tệ được điều hành linh hoạt trước những diễn biến của tình hình
trong nước và thế giới. Mặt bằng lãi suất được giữ ổn định, các chỉ tiêu tiền tệ, tín
dụng tăng theo mục tiêu, tỷ giá trong nước tương đối ổn định, thanh khoản thị trường
được đảm bảo, lạm phát được kiểm soát tốt. Tuy nhiên, diễn biến kinh tế thế giới có
nhiều phức tạp và liên tục thay đổi như diễn biến lãi suất, giá cả hàng hoá cơ bản trên
thị trường thế giới biến động, đã tác động mạnh đến lãi suất cũng như tỷ giá của Việt
Nam. Đây là thách thức không nhỏ đối với việc điều hành chính sách tiền tệ. Bên cạnh
đó, quy mô và chất lượng tín dụng mặc dù đã bước đầu được kiểm soát chặt chẽ hơn
nhưng tỷ lệ an toàn vốn của tổ chức tín dụng còn thấp.
Sự kết hợp giữa chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ còn bộc lộ nhiều hạn
chế. Đây là hai công cụ ổn định kinh tế vĩ mô quan trọng của quốc gia và có tác động
ảnh hưởng lẫn nhau. Kết hợp tốt hai chính sách sẽ đem lại sự tăng trưởng và ổn định
giá cả, đồng thời tạo điều kiện ứng phó với các giai đoạn kinh tế khác nhau. Mặc dù
129
các chính sách vĩ mô đã được chú trọng tăng cường phối hợp để đảm bảo tính thống
nhất hiệu lực, hiệu quả trong quản lý kinh tế vĩ mô tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế
cần khắc phục như việc phối hợp chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá thường chỉ
tập trung giải quyết một vấn đề trong một thời điểm chứ chưa thực sự giải quyết được
đồng bộ tất cả các mục tiêu vĩ mô khiến cho các điều kiện vĩ mô thường không ổn
định, chưa định lượng được tác động của từng chính sách đến nền kinh tế khiến cho
việc điều hành chính sách còn định tính...
Sự tín nhiệm của Chính phủ với tư cách là tổ chức phát hành còn hạn chế
Nợ công của Chính phủ mặc dù vẫn nằm trong mức đề ra của Quốc hội nhưng
cũng đã tiến sát trần. Tuy nhiên chính sách quản lý nợ công còn nhiều bất cập. Trước
đây, theo Luật quản lý nợ công năm 2009, việc quản lý nợ công thuộc về ba cơ quan,
gồm Bộ Kế hoạch và đầu tư liên quan, NHNN và bộ Tài chính khiến dẫn đến tình
trạng không thống nhất đầu mối vay nợ, sử dụng nợ, và trả nợ. Phạm vi tính nợ công
của Việt Nam cũng khác so với một số quốc gia và cách tính của một số tổ chức quốc
tế, không bao gồm nợ của Ngân hàng nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước, tổ chức
bảo hiểm xã hội, an sinh xã hội và một số địa phương. Điều này có thể làm nợ công
theo cách tính của Việt Nam thấp hơn cách tính của một số tổ chức quốc tế, đồng thời
cũng có thể gây ra việc đánh giá thấp nợ công thực sự của quốc gia dẫn đến việc các
NĐT e dè khi đưa ra quyết định đầu tư. Hơn nữa, tuy việc minh bạch tình hình nợ
công và quản lý nợ công đã được thực hiện và có sự cải thiện nhưng vẫn tồn tại nhiều
bất cập như việc công khai thông tin còn chậm trễ, thiếu chi tiết. Những vấn đề này
gây trở ngại cho việc thu hút NĐT vào thị trường TPCP Việt Nam.
Bên cạnh đó, mặc dù những can thiệp vào thị trường của Chính phủ và các cơ
quan quản lý đã dần được gỡ bỏ, tuy nhiên vẫn còn tồn tại như việc kiểm soát lãi suất
bằng lãi suất trần gây ra sự chênh lệch lớn giữa lãi suất phát hành và lãi suất giao dịch
tại một số thời điểm, chỉ định thầu...Chính phủ đóng vai trò chủ thể phát hành trên thị
trường TPCP nhằm huy động vốn cho NSNN, do vậy cần tuân theo quy luật thị
trường, hạn chế can thiệp với mục tiêu thu hút các nguồn vốn bắt buộc. Những can
thiệp mang tính chất bắt buộc của Chính phủ sẽ làm hạn chế sự phát triển của thị
trường.
130
Sự phát triển của khu vực tài chính còn thấp
Sự phát triển của thị trường TPCP chịu ảnh hưởng của hệ thống tài chính qua
nhiều kênh tác động như quy mô vốn, các tổ chức tài chính và cơ sở hạ tầng. Thị
trường tài chính chưa phát triển mạnh mẽ với quy mô còn nhỏ so với các nước trong
khu vực, dẫn tới khả năng cung ứng vốn còn hạn chế. Tỷ trọng nguồn vốn ngắn hạn
cao trong khi tỷ trọng nguồn vốn trung và dài hạn thấp khiến cho thị trường kém bền
vững, chưa đảm bảo được nguồn lực cho phát triển kinh tế.
Các tổ chức tài chính còn hạn chế cả về quy mô và chất lượng. Hệ thống các tổ
chức tài chính do mới phát triển nên quy mô còn nhỏ, các định chế đầu tư mới như quỹ
tương hỗ, quỹ đầu tư trái phiếu chưa thu hút được sự tham gia của các nhà đầu tư.
Nguồn vốn của các công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí còn hạn chế. Bên cạnh đó, do yếu tố
lịch sử nên hệ thống NHTM đóng vai trò là kênh cung cấp vốn chủ yếu cho nền kinh
tế gồm cả vốn trung, dài hạn, trong khi vốn huy động chủ yếu là ngắn hạn và vẫn là
nhà đầu tư chính trên thị trường TPCP đã hạn chế sự phát triển của thị trường. Hệ
thống ngân hàng Việt Nam mặc dù đang trong quá trình tái cơ cấu nhưng tiềm lực tài
chính còn hạn chế, các chỉ tiêu an toàn thấp, tỷ lệ nợ xấu cao. Điều này tiềm ẩn rủi ro
cho thị trường TPCP.
Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng tài chính còn nhiều hạn chế so với các thị trường
phát triển như các sản phẩm tài chính còn ít, kém đa dạng các sản phẩm phái sinh còn
ít, chưa có các sản phẩm chứng khoán hoá, chất lượng cung cấp thông tin còn thấp.
Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ, nhiều vấn đề
được đặt ra đối với cơ sở hạ tầng của hệ thống tài chính như tội phạm công nghệ cao,
bảo mật dữ liệu người dùng, bảo vệ nhà đầu tư...
Khuôn khổ pháp lý liên quan đến thị trường TPCP và các chủ thể tham gia thị
trường còn hạn chế
Khuôn khổ pháp lý đã được thay đổi nhiều cho phù hợp với sự phát triển của thị
trường nhưng lại chưa có sự thống nhất, đồng bộ, gây khó khăn cho các chủ thể tham
gia hoặc có ý định tham gia vào thị trường. Khuôn khổ pháp lý cho việc thành lập,
hoạt động, và tham gia vào thị trường TPCP của một số chủ thể như các quỹ đầu tư,
các công ty bảo hiểm, ngân hàng thương mại, đặc biệt là các NĐT nước ngoài còn
nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, quy định về thuế đối với thu nhập từ đầu tư chứng khoán
cũng chưa khuyến khích NĐT tham gia thị trường.
131
Tính minh bạch của thị trường chưa cao
Thị trường ngày càng minh bạch hơn. Cùng với hệ thống giao dịch TPCP
chuyên biệt thì hệ thống thông tin cũng được xây dựng mới, bảo đảm an toàn dữ liệu
và được cung cấp thông qua các thành viên, các hãng tin và trên trang tin điện tử. Nhờ
đó, nội dung thông tin về trái phiếu sẽ phong phú, đa dạng hơn, đáp ứng tốt hơn nhu
cầu của các thành viên thị trường và công chúng, tạo điều kiện xây dựng đường cong
lợi suất chuẩn. Các thông tin về nợ công, quản lý nợ, phát hành và giao dịch TPCP
được công khai đến các NĐT. Kế hoạch, lịch biểu, kết quả đấu thầu hàng năm, hàng
quý và ngày phát hành được công bố cụ thể kịp thời, chính xác. Tuy nhiên chất lượng
công bố thông tin vẫn còn hạn chế như thông tin cung cấp còn đơn điệu, chủ yếu mang
tính chất tổng quát, ngắn hạn, chung chung, chưa có các thông tin phân tích chuyên
sâu, dài hạn, phục vụ công tác đánh giá, nhận định xu hướng thị trường, gợi ý chính
sách.
132
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Chương 3 của luận án cung cấp thực trạng phát triển thị trường trái phiếu Chính
phủ Việt Nam trong bối cảnh hội nhập tài chính. Thực trạng HNTC và hội nhập thị
trường trái phiếu trong đó có thị trường trái phiếu Chính phủ của Việt Nam được tổng
hợp ngay từ đầu chương, tiếp theo là khái quát thực trạng thị trường sơ cấp và thị
trường thứ cấp TPCP Việt Nam. Nghiên cứu sinh thực hiện đánh giá về sự phát triển
của thị trường TPCP Việt Nam trong bối cảnh HNTC sử dụng bộ tiêu chí đánh giá sự
phát triển đã xây dựng ở chương 2. Những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân
được nghiên cứu tổng hợp, phân tích làm cơ sở cho phần giải pháp ở chương 5.
133
CHƯƠNG 4: MÔ HÌNH KIỂM ĐỊNH CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TỚI SỰ
PHÁT TRIỂN CỦA THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ TRONG BỐI
CẢNH HỘI NHẬP TÀI CHÍNH
4.1. Cơ sở dữ liệu và phương pháp
4.1.1. Cơ sở dữ liệu
Dữ liệu được sử dụng trong nghiên cứu là dữ liệu bảng cân bằng, bao gồm 9
nước trong khu vực ASEAN + 3 gồm 3 nước ngoài ASEAN là Nhật Bản, Hàn Quốc,
Trung Quốc, và 6 nước trong khu vực ASEAN gồm Indonesia, Malaysia, Philippines,
Singapore, Thái Lan và Việt Nam. Luận án thực hiện kiểm định các nhân tố tác động
tới sự phát triển của thị trường trái phiếu Chính phủ trong bối cảnh HNTC trên dữ liệu
thu thập từ 9 quốc gia trên do các quốc gia đều nằm trong cùng một khu vực liên kết ở
Đông Á, có các thể chế hợp tác trên nhiều lĩnh vực trong đó có sáng kiến thị trường
trái phiếu Châu Á nhằm phát triển thị trường trái phiếu trong khu vực. Bên cạnh đó, số
liệu liên quan đến các biến sử dụng trong mô hình không sẵn có ở một số quốc gia
chưa có thị trường trái phiếu phát triển trong khu vực ASEAN nên chỉ có 6 quốc gia
trong khu vực ASEAN được lựa chọn.
Dữ liệu của các biến liên quan trong mô hình được thu thập trong giai đoạn 17
năm từ năm 2000 đến năm 2016. Năm 2000 là thời điểm nhiều thị trường TPCP ở các
nước ASEAN + 3 bắt đầu bước vào giai đoạn phát triển. Ngoài ra có một số nước
trong mẫu nghiên cứu bắt đầu năm tài khoá không phải từ ngày 1 tháng 1 mà từ một
tháng khác trong năm như Singapore và Nhật Bản bắt đầu năm tài khoá từ ngày 1
tháng 4 cũng không ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu do một năm tài khoá vẫn bao
gồm 12 tháng.
Dữ liệu được thu thập từ các nguồn sau: Asiabondsonline, thống kê tài chính
thế giới của IMF (IMF international financial statistics), chỉ số phát triển thế giới của
Ngân hàng thế giới ( World development indicators of the World Bank), các chỉ số
chính cho Châu Á và Thái Bình Dương của Ngân hàng phát triển Châu Á ADB ( key
indicators for Asia and the Pacific), The Heritage foudation, và tổ chức Hướng dẫn
quốc tế về rủi ro quốc gia (International country risk guide). Đây đều là những nguồn
dự liệu có uy tín trên thế giới và trong khu vực, được sử dụng trong nhiều nghiên cứu
trước đây.
134
Nhằm kiểm định các nhân tố tác động tới sự phát triển của thị trường trái phiếu
Chính phủ trong bối cảnh hội nhập tài chính, luận án sử dụng biến phụ thuộc là quy
mô thị trường TPCP được tính bằng giá trị TPCP đang lưu hành trên GDP. Đây là biến
được sử dụng trong nhiều nghiên cứu trước đây khi đánh giá các yếu tố tác động đến
sự phát triển của thị trường trái phiếu như nghiên cứu của Eichengreen và cộng sự
(2004) [55], Adelegan và cộng sự (2009) [23], Bhattacharyay (2011) [32] và Thotho
(2014) [83].
Các biến độc lập trong mô hình gồm quy mô nền kinh tế, biến động tỷ giá hối
đoái, mức độ hội nhập tài chính, cân bằng ngân sách trên GDP, tự do tiền tệ, quy mô
hệ thống ngân hàng, chênh lệch lãi suất, và sự ổn định của Chính phủ. Trong đó biến
quy mô nền kinh tế và biến thu nhập bình quân đầu người sử dụng tổng sản phẩm quốc
nội ngang giá sức mua (GDP-PPP) để tính toán. Quy mô hệ thống ngân hàng được
phản ánh qua tỷ lệ tín dụng nội địa trên GDP cung cấp bởi hệ thống ngân hàng. Chênh
lệch lãi suất được tính bằng chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất đi vay. Biến
động tỷ giá hối đoái cho 1 năm được tính bằng độ lệch chuẩn của chênh lệch tỷ giá hối
đoái từng tháng giữa đồng nội tệ của một quốc gia với đồng đô la Mỹ.
4.1.2. Phương pháp ước lượng
Phương pháp nghiên cứu định lượng dữ liệu mảng được áp dụng trong luận án.
Dữ liệu mảng bao gồm 9 quốc gia và 17 thời điểm, như vậy có 153 quan sát. Phương
pháp hồi quy gộp Pooled OLS, mô hình tác động ngẫu nhiên REM, mô hình tác động
cố định FEM và phương pháp ước lượng bình phương nhỏ nhất GLS được sử dụng.
Pooled OLS là cách tiếp cận dữ liệu bảng gộp dựa trên giả định các hệ số đều không
thay đổi giữa các đối tượng khác nhau và không thay đổi theo thời gian. Do vậy, một
hàm hồi quy chung được áp dụng cho tất cả các nước và các hệ số hồi quy là như nhau
cho tất cả các quan sát. Mô hình tác động cố định FEM giả định mỗi quốc gia đều có
những đặc điểm riêng biệt có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của thị trường TPCP, từ
đó phân tích mối tương quan giữa phần dư của mỗi quốc gia với các biến giải thích,
qua đó kiểm soát và tách ảnh hưởng của các đặc điểm riêng biệt không thay đổi theo
thời gian ra khỏi các biến giải thích để chúng ta có thể ước lượng những ảnh hưởng
thực của biến giải thích tới biến phụ thuộc. Như vậy tung độ gốc thay đổi theo từng
quốc gia và hệ số độ dốc là hằng số đối với các quốc gia. Điểm khác biệt giữa mô hình
tác động ngẫu nhiên REM và mô hình tác động cố định FEM được thể hiện ở sự biến
135
động giữa các đơn vị là các quốc gia. Nếu sự biến động giữa các quốc gia có tương
quan đến biến giải thích trong mô hình FEM thì trong mô hình REM sự biến động giữa
các đơn vị được giả sử là ngẫu nhiên và không tương quan đến các biến giải thích.
REM giả định rằng tung độ gốc của một đơn vị cá nhân được lấy ra ngẫu nhiên từ một
tổng thể lớn, với giá trị trung bình không đổi. Sau đó tung độ gốc của từng đơn vị được
thể hiện như một sự lệch khỏi giá trị trung bình không đổi này. Khi tồn tại hiện tượng
phương sai sai số thay đổi và hiện tượng tự tương quan trong mô hình tối ưu nhất
trong 3 mô hình OLS, FEM, REM, phương pháp ước lượng bình phương nhỏ nhất
GLS được sử dụng. Có ba mô hình GLS có thể sử dụng đó là GLS giản đơn, mô hình
GLS khắc phục hiện tượng phương sai sai số thay đổi và mô hình GLS khắc phục hiện
tượng phương sai sai số thay đổi và tự tương quan, tuỳ thuộc vào các hiện tượng mà
mô hình tối ưu nhất trong 3 mô hình OLS, FEM, REM gặp phải. Phần mềm Stata 13
được sử dụng để thực hiện các ước lượng và kiểm định.
4.1.3. Giả thuyết và mô hình nghiên cứu
Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của thị trường TPCP đã được phân
tích ở chương II. Trên cơ sở vận dụng các lý thuyết này, cùng với mô hình hồi quy và
kết quả nghiên cứu của một số nghiên cứu thực nghiệm trước đây như nghiên cứu của
Eichengreen và Luengnaruemitchai (2004) [55], Adelegan và cộng sự (2009) [23],
Bhattacharyay (2011) [32], và Thotho (2014) [83], đồng thời có sự điều chỉnh để phù
hợp hơn với đặc điểm của thị trường TPCP, tác giả đưa ra giả thuyết cũng như mô
hình nghiên cứu nhằm làm rõ mục tiêu nghiên cứu là tìm ra các nhân tố có ảnh hưởng
đến sự phát triển của thị trường TPCP và đánh giá tác động của các nhân tố này đến sự
phát triển của thị trường. Mô hình hồi quy có dạng như sau:
GBMsizeit = βo + β1t*GDPit + β2t*EXFLUCit + β3t*KAOPENit + β4t*FISBALit +
β5t*BANKSIZEit + β6t* SPREADit + β7t* MONFREEit + β8t*GOVSTABit + Uit
Trong đó:
i : quốc gia thứ i (i = 1-9)
t: năm (từ 2000-2016)
Biến phụ thuộc:
- GBMsize it : quy mô thị trường trái phiếu (% GDP) ở nước i trong năm t
Các biến độc lập:
- GDPit: Tổng sản phẩm quốc nội- ngang giá sức mua (GDP PPP) của nước i tại năm t
136
- EXFLUCit: Biến động tỷ giá hối đoái giữa đồng nội tệ của quốc gia i với đồng USD
tại thời điểm t
- KAOPENit : Độ mở tài khoản vốn quốc gia i tại thời điểm t
- FISBALit : tỷ lệ thặng dư/ thâm hụt NSNN % GDP của quốc gia i tại thời điểm t
- BANKSIZEit : Tỷ lệ tín dụng trong nước cấp bởi các ngân hàng % GDP của quốc gia
i tại thời điểm t
- SPREADit : Chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất huy động của quốc gia i tại thời
điểm t
- MONFREEit : mức độ tự do tiền tệ của quốc gia i tại thời điểm t
- GOVSTABit : chỉ số ổn định của Chính phủ của nước i tại năm t
- Uit : phần nhiễu
Mô hình nghiên cứu được sử dụng để kiểm định các giả thuyết nghiên cứu sau:
Giả thuyết H1: Quy mô nền kinh tế có mối quan hệ cùng chiều với quy mô thị
trường TPCP.
Quy mô nền kinh tế được thể hiện bằng chỉ tiêu tổng sản phẩm quốc nội tính
theo ngang giá sức mua.
Giả thuyết H2: Biến động tỷ giá có mối quan hệ ngược chiều với quy mô thị
trường TPCP.
Biến động tỷ giá mạnh gây ra rủi ro lớn cho NĐT nước ngoài, từ đó hạn chế sự
phát triển của thị trường (Eichengreen và cộng sự, 2004) [55]. Tỷ giá hối đoái ổn định
sẽ hạn chế rủi ro cho NĐT, thu hút NĐT nước ngoài tham gia vào thị trường.
Giả thuyết H3: Mức độ HNTC có mối quan hệ cùng chiều hoặc ngược chiều
với quy mô thị trường TPCP.
Mức độ HNTC với biến đại diện là chỉ số KAOPEN thể hiện độ mở của tài
khoản vốn. Độ mở tài khoản vốn được đo bằng cách sử dụng chỉ số Chinn-Ito được
xây dựng bởi Chinn và Ito năm 2006 là một chỉ số về mức độ kiểm soát vốn.
Giả thuyết H4: Mức độ cân bằng ngân sách có mối quan hệ ngược chiều với quy
mô thị trường TPCP.
Cân bằng ngân sách với biến đại diện là chênh lệch giữa thu và chi NSNN theo
tỷ lệ phần trăm GDP. Cân bằng ngân sách tốt không có lợi cho sự phát triển của thị
trường TPCP (Eichengreen và cộng sự, 2004) [55]. Một quốc gia có thể không cần
phát triển thị trường TPCP vì mục tiêu huy động vốn nếu NSNN trong tình trạng thặng
137
dư. Một quốc gia trong tình trạng thâm hụt ngân sách sẽ tìm cách huy động vốn cho
NSNN qua phát hành TPCP, từ đó giúp mở rộng quy mô thị trường.
Giả thuyết H5: Quy mô ngân hàng có mối quan hệ cùng chiều hoặc ngược chiều
với quy mô thị trường TPCP.
Tỷ lệ tín dụng trong nước cấp bởi các ngân hàng trên GDP là biến đại diện cho
quy mô hệ thống ngân hàng. Như đã phân tích ở chương 2, các ngân hàng là những
nhà kinh doanh trái phiếu và nhà tạo lập thị trường trên thị trường trái phiếu. Hệ thống
ngân hàng lớn và có mức độ vốn hoá cao là cần thiết cho sự phát triển của thị trường
trái phiếu thanh khoản và thực hiện đúng chức năng (Hawkins, 2002, trích bởi Leonard
Thotho (2014) [83]). Tuy nhiên, nếu hệ thống ngân hàng thống trị hệ thống tài chính
trong nước thì có thể TPCP không đủ sức hấp dẫn NĐT, từ đó cản trợ sự phát triển của
thị trường.
Giả thuyết H6: Chênh lệch lãi suất có mối quan hệ ngược chiều với quy mô thị
trường TPCP.
Chênh lệch lãi suất là chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất đi vay. Chênh
lệch lãi suất thể hiện mức độ cạnh tranh và hiệu quả của các ngân hàng thương mại.
Chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất huy động nhỏ có thể khiến các NHTM lựa chọn
trái phiếu như một kênh đầu tư. Đây là cơ hội mở rộng thị trường TPCP.
Giả thuyết H7: Mức độ tự do tiền tệ có quan hệ cùng chiều với quy mô thị
trường TPCP
Tham chiếu cho chỉ số tự do tiền tệ là chỉ số chính sách lạm phát, là một thành
phần phụ trong chỉ số tự do kinh tế được công bố bởi The Heritage Foundation. Tự do
tiền tệ yêu cầu một mức ổn định tiền tệ và giá xác định bởi thị trường. Không có tự do
tiền tệ, rất khó để tạo ra giá trị dài hạn hoặc vốn tích luỹ. Giá trị đồng tiền chịu ảnh
hưởng của chính sách tiền tệ của Chính phủ. Với 1 chính sách tiền tệ chống lạm phát,
duy trì sự ổn định về giá và duy trì sự giàu có của một quốc gia, mọi người có thể dựa
vào giá thị trường trong một tương lai gần. Các khoản đầu tư, tiết kiệm, các kế hoạch
dài hạn khác sẽ được tự tin thực hiện hơn. Ngược lại, một chính sách lạm phát có thể
làm giảm của cải và bóp méo giá, phân bổ nguồn lực sai, và tăng chi phí kinh doanh.
Không có một lý thuyết nào về một chính sách tiền tệ phù hợp cho một xã hội tự do.
Tuy nhiên, điều đặc trưng cho hầu hết lý thuyết tiền tệ là hỗ trợ lạm phát thấp và một
ngân hàng trung ương độc lập. Ngoài ra còn có sự công nhận rộng rãi rằng kiểm soát
138
giá phá huỷ sự hiệu quả của thị trường và dẫn đến sự thiếu hụt hoặc thặng dư. Mức độ
ổn định giá chiếm phần lớn số điểm của mục tự do tiền tệ, mặc dù các quốc gia sử
dụng các biện pháp can thiệp giá bị trừ 20% số điểm.
Mức độ tự do tiền tệ có quan hệ cùng chiều với quy mô thị trường TPCP bởi
khi đó lạm phát thấp, ổn định và giá được hình thành tuân theo quy luật thị trường sẽ
là điều kiện thuận lợi cho phát triển thị trường TPCP.
Giả thuyết H8: Sự ổn định Chính phủ có quan hệ cùng chiều với quy mô thị
trường TPCP.
TPCP liên quan đến rủi ro Chính phủ. Rủi ro Chính phủ xuất phát từ rủi ro
chính trị. Xếp hạng rủi ro chính trị được thực hiện bởi Tổ chức Hướng dẫn quốc tế về
rủi ro quốc gia (International Country Risk Guide – ICRG). Điểm số cao nhất cho thấy
nguy cơ tiềm ẩn thấp nhất cho thành phần tương ứng và số điểm thấp nhất 0 cho thấy
rủi ro tiềm ẩn cao nhất. Xếp hạng rủi ro chính trị bao gồm 12 biến có trọng số là sự ổn
định của Chính phủ, điều kiện kinh tế, xã hội, rủi ro đầu tư, mâu thuẫn nội bộ, xung
đột bên ngoài, tham nhũng, quân đội trong chính trị, căng thẳng tôn giáo, pháp luật và
mệnh lệnh, căng thẳng dân tộc, trách nhiệm dân chủ và chất lượng bộ máy hành chính.
Các nghiên cứu trước như nghiên cứu của Eichengreen và cộng sự (2004) [55],
Adelegan và cộng sự (2009) [23] sử dụng 4 chỉ tiêu trong 12 chỉ tiêu là pháp luật và
trật tự, tham nhũng, chất lượng bộ máy hành chính và rủi ro đầu tư nhằm đánh giá tác
động của các vấn đề này đến sự phát triển của thị trường trái phiếu nói chung, bao gồm
cả thị trường trái phiếu doanh nghiệp. Tuy nhiên luận án sử dụng 4 chỉ tiêu là sự ổn
định Chính phủ, mẫu thuẫn nội bộ, xung đột bên ngoài và pháp luật và mệnh lệnh bởi
đây là các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng phát hành TPCP và ảnh hưởng đến
sự phát triển của thị trường TPCP.
Chỉ tiêu sự ổn định Chính phủ là đánh giá về khả năng chính phủ thực hiện các
chương trình theo cam kết và khả năng giữ quyền lực của Chính phủ. Xếp hạng rủi ro
được xác định dựa vào 3 thành tố bên trong là sự thống nhất của chính phủ, sức mạnh
lập pháp và hỗ trợ phổ biến.
Chỉ tiêu mâu thuẫn nội bộ là đánh giá về tình hình bạo lực chính trị trong nước
và tác động đến vấn đề quản trị. Xếp hạng cao nhất được trao cho những quốc gia
không có sự phản đối vũ trang hay dân sự đối với chính phủ và chính phủ không
thường sử dụng bạo lực trực tiếp hoặc gián tiếp đến dân chúng. Xếp hạng thấp nhất
139
được gán cho quốc gia xảy ra nội chiến. Các thành phần phụ được xem xét để xếp
hạng điểm là các cuộc nội chiến hoặc đe doạ đảo chính, bạo lực chính trị, khủng bố và
biểu tình
Chỉ tiêu xung đột bên ngoài là đánh giá rủi ro đối với chính phủ đương nhiệm
từ các hành động nước ngoài, áp lực bên ngoài từ không bạo lực (áp lực ngoại giao,
viện trợ, hạn chế thương mại, trừng phạt, tranh chấp lãnh thổ...) đến bạo lực (chiến
tranh). Các xung đột bên ngoài có thể ảnh hướng xấu đến hoạt động kinh doanh nước
ngoài theo nhiều cách, từ hạn chế hoạt động thương mại và đầu tư, gây méo mó trong
việc phân bổ các nguồn lực kinh tế, tới nguy cơ thay đổi cấu trúc xã hội. Xếp hạng rủi
ro được xem xét dựa vào 3 nhân tố là chiến tranh, xung đột xuyên biên giới, áp lực
nước ngoài.
Chỉ tiêu pháp luật và trật tự được đánh giá riêng biệt. Để đánh giá yếu tố Luật,
sức mạnh và sự công bằng của hệ thống pháp luật được xem xét, trong khi trật tự là
một đánh giá về việc chấp hành pháp luật. Một quốc gia có thể được xếp hạng thấp
nếu tỷ lệ tội phạm cao và sự lan rộng của tội phạm.
Do các chỉ tiêu đều được đánh giá theo thang điểm đã tính trọng số và điểm số
cao nhất cho thấy nguy cơ tiềm ẩn thấp nhất cho thành phần tương ứng và số điểm
thấp nhất 0 cho thấy rủi ro tiềm ẩn cao nhất nên tác giả gộp 4 chỉ tiêu trên thành một
chỉ tiêu phản ánh sự ổn định của Chính phủ. Với mức điểm tổng càng cao phản ánh rủi
ro đối với Chính phủ càng thấp, điều này sẽ có tác động tích cực đến sự phát triển thị
trường TPCP. Điểm chỉ số rủi ro chính trị gồm 12 chỉ tiêu đánh giá bên trong không
được sử dụng trong nghiên cứu do ngoài 4 chỉ tiêu là sự ổn định của Chính phủ, mâu
thuẫn nội bộ, xung đột bên ngoài và pháp luật và trật tự có liên quan trực tiếp đến sự
phát triển của thị trường TPCP thì các chỉ tiêu khác không có liên quan trực tiếp hoặc
đã được phản ánh trong các biến khác trong mô hình. Việc đưa toàn bộ các chỉ tiêu
vào thành biến rủi ro chính trị sẽ gặp vấn đề đa cộng tuyến trong mô hình nghiên cứu,
tức là các biến độc lập có mối quan hệ mạnh với nhau.
4.2. Kết quả của mô hình định lượng
4.2.1. Phân tích thống kê mô tả
Kết quả thống kê mô tả đối với các biến có trong mô hình nghiên cứu được thể
hiện ở bảng 4.1.
140
Bảng 4.1: Thống kê mô tả các biến trong mô hình nghiên cứu
STT Tên biến Ký hiệu Số quan
sát
Mean Std. Deviation Min Max
1 Quy mô thị trường
TPCP
GBMsize 153 46,3432 41,3717 0,25 194,62
2 Biến động tỷ giá EXFLUC 153 0,5500451 6,791085 -0,0182649 84,00206
3 Độ mở tài khoản vốn KAOPEN 153 0,3009318 1,309683 -1,194733 2,374419
4 Cân bằng tài khoá FISBAL 153 -1,429412 3,675468 -8,3 11,4
5 Tự do tiền tệ MONFREE 153 78,90654 7,938229 49,4 94,3
6 Quy mô ngân hàng BANKSIZE 153 90,42537 38,31927 18,1557 184,7077
7 Chênh lệch lãi suất SPREAD 153 3,286283 1,453119 0,6066667 7,680833
8 Sự ổn định Chính phủ GOVSTAB 153 29,06503 7,39265 8,458333 39,5
9 Quy mô nền kinh tế GDP 153 2317,898 3780,812 159,786 21290,13
Nguồn: Kết quả thống kê mô tả từ phần mềm STATA
Đây là dữ liệu bảng cân bằng, từ 9 quốc gia, trong 17 năm, có tổng số quan sát
là 153 quan sát.
Tương quan giữa các biến phụ thuộc và biến độc lập trong mô hình được thể
hiện trong bảng 4.2.
Bảng 4.2. Ma trận tương quan giữa các biến trong mô hình nghiên cứu
GBMsize EXFLUC KAOPEN FISBAL MONFREE GDP BANKSIZE SPREAD GOVSTAB
GBMsize 1,0000
EXFLUC -0,0501 1,0000
KAOPEN 0,5334 -0,0268 1,0000
FISBAL -0,3271 -0,0703 0,2783 1,0000
MONFREE 0,4732 -0,1243 0,5042 0,1534 1,000
GDP 0,1980 -0,0380 -0,1770 -0,1659 -0,0262 1,000
BANKSIZE 0,2695 0,0456 0,0558 0,0763 0,3265 0,3270 1,000
SPREAD -0,5679 -0,0564 0,0033 0,3650 -0,2794 -0,1975 -0,5428 1,000
GOVSTAB 0,1142 -0,0388 0,4055 0,1778 0,4705 0,1136 0,0981 0,0233 1,0000
Nguồn: Tính toán của tác giả
Xem xét hệ số tương quan giữa biến phụ thuộc là quy mô thị trường TPCP với
các biến giải thích trong mô hình thấy biến độ mở tài khoản vốn, tự do tiền tệ, quy mô
nền kinh tế, quy mô hệ thống ngân hàng, và sự ổn định Chính phủ có quan hệ cùng
chiều với quy mô thị trường TPCP. Trong đó, biến độ mở tài khoản vốn thể hiện mức
độ HNTC của quốc gia có mối quan hệ khá mạnh với quy mô thị trường TPCP. Biến
quy mô thị trường TPCP cũng có mức độ phụ thuộc tuyến tính khá lớn vào biến tự do
141
tiền tệ với hệ số tương quan lớn. Các biến gồm biến động tỷ giá, cân bằng ngân sách,
chênh lệch lãi suất có hệ số tương quan với biến quy mô thị trường TPCP âm, thể hiện
sự biến động ngược chiều, trong đó biến chênh lệch lãi suất giữa lãi suất cho vay và lãi
suất huy động có quan hệ mạnh nhất với biến quy mô thị trường TPCP.
Nhìn vào ma trận hệ số tương quan giữa các biến trong mô hình nghiên cứu có
thể thấy giữa các cặp biến độc lập có mối tương quan rất thấp, giá trị tuyệt đối hệ số
tương quan giữa các cặp biến đều thấp hơn 0,6. Do đó, hiện tượng đa cộng tuyến giữa các
biến trong mô hình được đánh giá là không nghiêm trọng. Để kiểm tra hiện tượng đa cộng
tuyến giữa các biến trong mô hình, lệnh VIF được sử dụng cho kết quả như sau:
Tất cả các hệ số VIF đều nhỏ hơn 5, vì vậy có thể kết luận không có hiện tượng đa
cộng tuyến.
4.2.2. Kết quả phân tích hồi quy
Bảng 4.3. Tổng hợp kết quả ước lượng với các phương pháp OLS, FEM và REM
Biến Pool OLS FEM REM
Co.efficient P value Co.efficient P value Co.efficient P value
EXFLUC -0,285511 0,250 0,0080337 0,958 -0,285511 0,248
KAOPEN 20,3478 0,000 2,562142 0,260 20,3478 0,000
FISBAL -3,602462 0,000 -0,7838085 0,205 -3,602462 0,000
MONFREE 1,083715 0,000 -0,4895728 0,033 1,083715 0,000
GDP 0,0025516 0,000 0,0006344 0,305 0,0025516 0,000
BANKSIZE -0.0808842 0,172 -0,2712771 0,000 -0,0808842 0,170
SPREAD -11,03913 0,000 -3,082021 0,038 -11,03913 0,000
GOVSTAB -1,118279 0,000 -3,257303 0,000 -1,118279 0,000
-cons 19,89561 0,388 213,8806 0,000 19,89561 0,387
R-squared 0,7742 0,3707 0,0441
Prob> F 0,0000
Nguồn: Tính toán của tác giả
142
Luận án tiến hành hồi quy mô hình ước lượng với các phương pháp bình
phương tối thiểu gộp Pool OLS, mô hình các tác động cố định FEM, và mô hình các
tác động ngẫu nhiên REM. Kết quả các ước lượng được tổng hợp trong bảng 4.3.
Kiểm định Hausman nhằm mục đích kiểm tra sự phù hợp giữa mô hình tác
động cố định FEM và mô hình tác động ngẫu nhiên hay mô hình Pooled OLS với kết
quả như sau:
Prob = 0,0000 < 0,05 nên mô hình hiệu ứng cố định FEM là phù hợp hơn để
giải thích kết quả. Mô hình hiệu ứng cố định giải thích tốt hơn ảnh hưởng của các yếu
tố đến sự phát triển của thị trường TPCP với mức ý nghĩa 37%.
Kết quả mô hình tác động cố định cho thấy tự do tiền tệ, quy mô ngân hàng,
chênh lệch lãi suất cho vay và huy động và sự ổn định Chính phủ có ảnh hưởng tiêu
cực đến quy mô thị trường TPCP với mức ý nghĩa 5% cho biến tự do tiền tệ, biến
chênh lệch lãi suất, và mức ý nghĩa 1% cho biến quy mô ngân hàng và sự ổn định
Chính phủ . Còn các biến khác không có tác động đến sự phát triển của thị trường
TPCP.
Tuy nhiên để kiểm tra các kết quả ước lượng có chính xác không, tác giả thực
hiện kiểm tra hiện tượng phương sai sai số thay đổi và hiện tượng tự tương quan. Kiểm
định Modified Wald test được thực hiện để kiểm tra hiện tượng phương sai sai số thay
đổi có kết quả như sau:
Prob = 0,0000 < 0,05, do vậy phương pháp ước lượng FEM có hiện tượng
phương sai sai số thay đổi.
143
Kiểm định Wooldridge test được thực hiện để kiểm tra hiện tượng tự tương
quan có kết quả là:
Prob = 0,0001 < 0,05 do vậy có hiện tượng tự tương quan trong mô hình.
Do phương pháp ước lượng FEM có hiện tượng phương sai sai số thay đổi và tự
tương quan, luận án sử dụng phương pháp ước lượng bình phương nhỏ nhất GLS để
khắc phục các hiện trượng trên. Bảng 4.4 trình bày kết quả hồi quy mối quan hệ giữa
quy mô thị trường TPCP và các biến giải thích theo phương pháp ước lượng GLS khắc
phục hiện tượng tự tương quan và phương sai sai số thay đổi.
Bảng 4.4: Kết quả hồi quy theo phương pháp GLS khắc phục hiện tượng
tự tương quan và phương sai sai số thay đổi
Biến Co.efficient Std. Err
EXFLUC -0,0026645 0,0449527
KAOPEN 7,779302 1,239365 ***
FISBAL -0,9457525 0,2416386 ***
MONFREE -0,0727044 0,1315124
GDP 0,0014773 0,0002671 ***
BANKSIZE 0,0508646 0,268586 *
SPREAD -2,641492 0,5432186 ***
GOVSTAB 0.0926638 0,209063
-cons 43,10171 9,248769 ***
Prob> chi2 0,0000
Mức ý nghĩa * 10%; ** 5%; *** 1%
Nguồn: Tính toán của tác giả
Nhìn vào kết quả hồi quy theo phương pháp GLS khắc phục hiện tượng phương
sai sai số thay đổi và tự tương quan, nhóm các biến KAOPEN, GDP, BANKSIZE có
hệ số beta dương với mức ý nghĩa 1% cho biến KAOPEN và GDP và mức ý nghĩa
10% cho biến BANKSIZE. Điều này cho thấy mỗi quan hệ cùng chiều giữa mức độ
hội nhập tài chính, quy mô nền kinh tế và quy mô hệ thống ngân hàng với quy mô thị
trường TPCP. Trong khi biến GDP và BANKSIZE có hệ số beta dương nhỏ lần lượt là
0,0014773 và 0,0014773 thể hiện rằng quy mô nền kinh tế và quy mô hệ thống ngân
144
hàng dù có tác động cùng chiều với quy mô thị trường TPCP nhưng không có nhiều
tác động đến quy mô thị trường TPCP. Biến KAOPEN lại có hệ số β lớn, bằng
7,779302 thể hiện rằng mức độ HNTCcó mối quan hệ cùng chiều và tác động lớn đến
quy mô thị trường TPCP. Một quốc gia có mức độ HNTCcàng sâu rộng thì càng có cơ
hội phát triển thị trường TPCP.
Nhóm các biến FISBAL và SPREAD có hệ số beta âm với mức ý nghĩa 1% cho
thấy mối quan hệ ngược chiều giữa mức cân bằng tài khoá và chênh lệch lãi suất huy
động và lãi suất cho vay. Quốc gia có mức thâm hụt ngân sách lớn sẽ có quy mô thị
trường TPCP lớn, điều này phù hợp với lý thuyết và các giả thuyết nghiên cứu. Ngoài
ra, quốc gia có mức độ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động nhỏ sẽ có
quy mô thị trường TPCP lớn. Điều này cũng phù hợp với giả thuyết nghiên cứu.
Nhóm các biến EXFLUC, MONFREE có hệ số beta âm thể hiện tác động
ngược chiều với quy mô thị trường TPCP, trong khi biến GOVSTAB có hệ số dương
thể hiện tác động cùng chiều với quy mô thị trường TPCP. Tuy nhiên, những biến này
không có nhiều ý nghĩa thống kê.
4.3. Thảo luận kết quả nghiên cứu
Dữ liệu được sử dụng trong nghiên cứu là dữ liệu bảng cân bằng, bao gồm 9
nước trong khu vực ASEAN + 3 gồm 3 nước ngoài ASEAN là Nhật Bản, Hàn Quốc,
Trung Quốc, và 6 nước trong khu vực ASEAN gồm Indonesia, Malaysia, Philippines,
Singapore, Thái Lan và Việt Nam, trong khoảng thời gian 17 năm từ năm 2000-2016.
Luận án thực hiện phương pháp hồi quy gộp Pooled OLS, mô hình tác động ngẫu
nhiên REM, mô hình tác động cố định FEM và phương pháp ước lượng bình phương
nhỏ nhất GLS để kiểm định các nhân tố tác động tới sự phát triển của thị trường TPCP.
Kết quả quá trình thực hiện các kiểm định để lựa chọn mô hình phù hợp nhất giữa 3
mô hình Pooled OLS, FEM và REM, mô hình FEM là mô hình phù hợp nhất được
chọn. Tuy nhiên, khi kiểm tra các khuyết tật của mô hình, hiện tượng tự tương quan và
phương sai sai số thay đổi khiến cho mô hình không còn nhiều ý nghĩa. Để khắc phục
hiện tượng trên, phương pháp ước lượng bình phương nhỏ nhất GLS có khắc phục
hiện tượng phương sai sai số thay đổi và tự tương quan được sử dụng. Kết quả ước
lượng mô hình trên cho thấy:
- Độ mở tài khoản vốn có quan hệ cùng chiều và mạnh với quy mô thị trường trái
phiếu Chính phủ. Điều này phù hợp với giả thuyết nghiên cứu đưa ra. Độ mở tài khoản
145
vốn đo lường bằng chỉ số KAOPEN là thước đo mức độ HNTC được Chinn-Ito phát
triển. Một quốc gia càng HNTC sâu rộng thì thị trường TPCP càng có cơ hội phát
triển. Như vậy, hội nhập tài chính là cần thiết và các quốc gia cần có bước hội nhập tài
chính thận trọng và phù hợp để tận dụng được lợi ích mà hội nhập tài chính đem lại
đồng thời hạn chế bớt rủi ro.
- Cân bằng tài khoá có mối quan hệ ngược chiều với quy mô thị trường TPCP. Một
quốc gia có mức thâm hụt NSNN trên GDP lớn có quy mô thị trường TPCP lớn hơn
các nước có mức thâm hụt NSNN nhỏ hoặc thặng dư NSNN. Tuy nhiên một quốc gia
không thể dựa vào việc thâm hụt NSNN để phát triển thị trường TPCP. Thị trường
TPCP có thể phát triển theo chiều rộng đến một mức độ nhất định sau đó cần tập trung
phát triển theo chiều sâu.
- Quy mô nền kinh tế có quan hệ cùng chiều với quy mô thị trường TPCP. Kết quả này
không những phù hợp với giả thuyết nghiên cứu đưa ra mà còn phù hợp với kết quả
của nhiều nghiên cứu trước đây như nghiên cứu của Bhattacharyay năm 2011 trên thị
trường trái phiếu Châu Á, nghiên cứu của Thotho năm 2014, nghiên cứu của
Eichengreen và cộng sự năm 2004. Một nền kinh tế phát triển sẽ là cơ sở, nền tảng cho
sự phát triển của thị trường TPCP. Vì vậy, một quốc gia muốn phát triển thị trường
TPCP cần tập trung thúc đẩy kinh tế.
- Quy mô hệ thống ngân hàng có quan hệ cùng chiều với quy mô thị trường TPCP với
mức ý nghĩa 1%. Đồng thời, chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất huy động có quan
hệ ngược chiều với quy mô thị trường TPCP. Lãi suất cho vay và lãi suất huy động
chênh lệch càng lớn thì thị trường TPCP có quy mô càng nhỏ và ngược lại. Kết quả
này trùng với kết quả nghiên cứu của Bhattacharyay năm 2011 trên thị trường trái
phiếu Châu Á. Như vậy, sự phát triển của hệ thống ngân hàng thúc đẩy sự phát triển
của thị trường TPCP. Cải thiện quy mô, chất lượng và hiệu quả của hệ thống ngân
hàng là một trong những giải pháp cho phát triển thị trường TPCP.
- Sự ổn định của Chính phủ mặc dù có quan hệ cùng chiều với quy mô thị trường
TPCP nhưng lại không có ý nghĩa thống kê. Giải thích cho việc thị trường trái phiếu
dường như không phản ứng với những thay đổi về sự ổn định Chính phủ ngay lập tức
là do điểm đánh giá sự ổn định Chính phủ không phải là dễ tính toán và định lượng
ngay lập tức. Tuy không có ý nghĩa thống kê qua sử dụng mô hình nhưng quan hệ
cùng chiều giữa sự ổn định của Chính phủ với sự phát triển thị trường TPCP là gợi ý
146
giải pháp phát triển thị trường TPCP. Bất ổn về chính trị, xã hội khiến cho Chính phủ
gặp khó khăn trong việc phát hành TPCP cũng như chi trả các nghĩa vụ nợ gồm cả lãi
và gốc. Vì vậy, một quốc gia muốn phát triển thị trường TPCP cần giữ ổn định chính
trị xã hội.
- Mặc dù biến biến động tỷ giá không có ý nghĩa thống kê trong mô hình nhưng tương
quan âm thể hiện tỷ giá ổn định có ảnh hưởng tích cực đến thị trường TPCP. Chính
phủ cần theo đuổi chính sách tiền tệ đảm bảo ổn định vĩ mô làm cơ sở thúc đẩy sự phát
triển của thị trường TPCP.
Kết quả nghiên cứu định lượng trong chương này sẽ là cơ sở quan trọng để đưa ra các
khuyến nghị giải pháp trong chương 5 của luận án.
147
KẾT LUẬN CHƯƠNG 4
Chương 4 của luận án sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng dữ liệu
mảng bao gồm 9 quốc gia trong khu vực ASEAN + 3 trong 17 năm từ 2000-2016.
Phương pháp hồi quy gộp Pooled OLS, mô hình tác động ngẫu nhiên REM, mô hình
tác động cố định FEM và phương pháp ước lượng bình phương nhỏ nhất GLS được sử
dụng để tìm ra các nhân tố có tác động đến sự phát triển của thị trường TPCP trong bối
cảnh hội nhập tài chính, chiều ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng. Kết quả chạy mô hình
có ý nghĩa trong việc đề xuất các giải pháp phát triển thị trường TPCP trong bối cảnh
HNTC ở chương 5.
148
CHƯƠNG 5: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU CHÍNH
PHỦ VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP TÀI CHÍNH
5.1. Định hướng phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ Việt Nam trong bối
cảnh hội nhập tài chính
5.1.1. Định hướng hội nhập tài chính của Việt Nam
Tháng 1 năm 2016, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chiến lược tổng thể hội
nhập quốc tế đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 theo quyết định số 40/QĐ-TTg,
trong đó có các nội dung liên quan đến HNTC.
Theo Chiến lược này, hội nhập toàn cầu sẽ ngày càng diễn ra mạnh mẽ. Hoà
bình, hợp tác và phát triển tiếp tục là xu thế nổi trội trong quan hệ quốc tế. Xu thế khu
vực hoá diễn ra mạnh mẽ điển hình là Châu Á- Thái Bình Dương. Xu hướng kết hợp
các hiệp định FTA đã có thành một hiệp định duy nhất nhằm tận dụng tối đa lợi ích
thương mại có chiều hướng phát triển mạnh. Từ nay đến 2020, các FTA thế hệ mới,
như TPP, FTA Việt Nam – EU, và RCEP sẽ đi vào triển khai thực hiện, cùng với quá
trình hội nhập tiểu vùng và hội nhập xuyên biên giới diễn ra song song. Cộng đồng
kinh tế ASEAN hình thành, việc tự do di chuyển vốn, con người, hàng hoá sẽ trở thành
hiện thực cuối thập kỷ này. Với mục tiêu hội nhập quốc tế đến năm 2030 là nhằm góp
phần tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, tranh thủ tối đa các điều kiện quốc tế
thuận lợi để sớm đưa đất nước trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, nâng
cao đời sống nhân dân, đồng thời định hướng đến năm 2030, mức độ hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam ngang bằng mức trung bình của các nước ASEAN 4, đẩy mạnh
hội nhập quốc tế, tập trung triển khai hiệu quả các hiệp định đã ký kết, đặc biệt là các
FTA thế hệ mới. Một số định hướng được đề ra như rà soát hệ thống hoá, sửa đổi, bổ
sung, thay thế hoặc ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật nhằm hoàn thiện hệ
thống pháp luật liên quan cho phù hợp với cam kết, chuẩn mực quốc tế, đảm bảo nền
kinh tế vận hành theo quy luật thị trường; không ngừng cải thiện môi trường thu hút
đầu tư nước ngoài, gắn thu hút đầu tư với giám sát quá trình thực thi, đảm bảo an ninh
kinh tế, hiệu quả kinh tế - xã hội – môi trường, xây dựng chiến lược thu hút đầu tư
nước ngoài đến năm 2030; thực hiện hiệu quả các cam kết kinh tế quốc tế, chủ động,
tích cực tham gia xây dựng các quy tắc, luật lệ chung...
Trong đó, một số định hướng và giải pháp đối với HNTC được đưa ra như sau:
149
- Triển khai các hoạt động hội nhập trong lĩnh vực tài chính – tiền tệ phù hợp với yêu
cầu và trình độ phát triển của đất nước, góp phần huy động nguồn lực tài chính và
củng cố hệ thống tài chính- tiền tệ trong nước vững mạnh, có khả năng chống đỡ các
tác động từ bên ngoài.
- Tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng theo lộ trình
và bước đi phù hợp với khả năng của hệ thống ngân hàng Việt Nam, tập trung nâng
cao năng lực cạnh tranh của các tổ chức tín dụng và khả năng quản lý, kiểm soát của
Ngân hàng Nhà nước; tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng trong nước mở
rộng hoạt động ra thị trường nước ngoài thông qua các trao đổi hợp tác song phương,
đa phương
- Đẩy mạnh khai thác sử dụng hiệu quả nguồn lực dưới hình thức hỗ trợ tài chính và
kỹ thuật, tư vấn chính sách, hỗ trợ đào tạo và tăng cường năng lực từ các đối tác song
phương, đa phương để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển cơ sở hạ tầng
kỹ thuật và công nghệ ngành tài chính- ngân hàng
- Tiếp tục thiết lập và củng cố các cơ chế đối thoại song phương về lĩnh vực ngân
hàng, tài chính với các đối tác chiến lược và đối tác quan trọng khác; chủ động và tích
cực tham gia các hoạt động nhằm tăng cường tiếng nói và vị thế của Việt Nam tại các
định chế kinh tế, tài chính – tiền tệ khu vực và quốc tế như IMF, WB, ngân hàng phát
triển châu Á (ADB); ngân hàng đầu tư cơ sở hạ tầng châu Á (AIIB), tổ chức quốc tế
các uỷ ban chứng khoán (IOSCO), các diễn đàn khu vực, quốc tế về tiền tệ, ngân hàng,
chứng khoán, bảo hiểm trong khuôn khổ ASEAN, ASEAN + 3, Apec; chủ động nắm
bắt cơ hội, tham gia đàm phán gia nhập các định chế tài chính mới phù hợp với lợi ích
quốc gia
- Thúc đẩy áp dụng các chuẩn mực mới về giám sát tài chính – ngân hàng; tích cực
tham gia vào các cơ chế xây dựng luật lệ và chuẩn mực tài chính quốc tế, đặc biệt là
Ngân hàng thanh toán Quốc tế (BIS); nghiên cứu tham gia các cơ chế cảnh báo kinh tế
vĩ mô, các diễn đàn hợp tác tài chính- tiền tệ và phối hợp chính sách, các cơ chế hợp
tác phát triển thị trường vốn; tập trung triển khai các cam kết hội nhập đã ký liên quan
đến các lĩnh vực thuế, dịch vụ tài chính và các lĩnh vực khác có liên quan; tiếp tục mở
rộng hội nhập trong các lĩnh vực ưu tiên về tài chính, từng bước tiếp cận các chuẩn
mực chung và các thông lệ quốc tế.
150
5.1.2. Định hướng phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ Việt Nam
trong bối cảnh hội nhập tài chính
Theo lộ trình phát triển thị trường trái phiếu giai đoạn 2017-2020, tầm nhìn đến
năm 2030 trong quyết định 1191/QĐ-TTg ban hành ngày 14/8/2017, quan điểm phát
triển thị trường trái phiếu Việt Nam như sau:
- Xây dựng và phát triển thị trường trái phiếu phù hợp với mức độ phát triển của nền
kinh tế, đồng bộ với các cấu phần khác của thị trường tài chính, trong đó có thị trường
cổ phiếu và thị trường tiền tệ- tín dụng ngân hàng.
- Phát triển thị trường trái phiếu cả về chiều rộng và chiều sâu, đảm bảo an toàn hệ
thống, tường bước tiếp cận thông lệ, chuẩn mực quốc tế và hiện đại hoá hạ tầng thị
trường, đưa thị trường trở thành một kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng
cho nền kinh tế với chi phí vốn hợp lý
- Tiếp tục tập trung phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ làm nền tảng cho sự phát
triển của thị trường trái phiếu, đẩy mạnh phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp,
tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp huy động vốn, đặc biệt là vốn trung và
dài hạn, góp phần tăng cường quản trị và công khai thông tin doanh nghiệp
- Tăng cường tính công khai, minh bạch, bảo vệ lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham
gia thị trường.
Đối với thị trường TPCP, định hướng yêu cầu phát triển thị trường TPCP trở
thành thị trường chuẩn cho thị trường tài chính, làm nòng cốt để phát triển thị trường
trái phiếu. Mục tiêu đặt ra là phát triển thị trường TPCP ổn định, cấu trúc hoàn chỉnh,
mở rộng cơ sở nhà đầu tư, tăng quy mô, và chất lượng hoạt động, đảm bảo thị trường
hoạt động hiệu quả và trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng cho
NSNN, đồng thời đảm bảo công khai, minh bạch, bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư và chủ
động hội nhập thị trường quốc tế, từng bước tiếp cận với các chuẩn mực và thông lệ
quốc tế.
5.2. Giải pháp phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ Việt Nam trong bối
cảnh hội nhập tài chính
Phát triển thị trường TPCP Việt Nam trong bối cảnh HNTC cần đảm bảo sự
phát triển bền vững, đồng thời phải tận dụng được những lợi ích mà HNTC đem lại
đồng thời hạn chế bớt rủi ro. Từ đó một số giải pháp được đưa ra nhằm phát triển thị
trường trong bối cảnh hội nhập.
151
5.2.1. Phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ gắn liền với phát triển
kinh tế
Mở rộng quy mô thị trường TPCP phải phù hợp với mức độ phát triển kinh tế
để tạo sự bền vững trong phát triển thị trường TPCP. Nghiên cứu thực nghiệm đã
chứng minh rằng quy mô nền kinh tế có ảnh hưởng tích cực đến quy mô thị trường
TPCP và sự phát triển của thị trường. Kinh nghiệm của các quốc gia khác cũng cho
thấy phát triển thị trường TPCP cần phù hợp với quá trình phát triển kinh tế. Để có thị
trường TPCP phát triển sâu rộng, trước hết cần một nền kinh tế phát triển. Khi kinh tế
phát triển, thu nhập của người dân được cải thiện, tỷ lệ tiết kiệm tăng cùng với sự thay
đổi trong thói quen đầu tư của người dân sẽ khiến nguồn vốn của thị trường TPCP sẽ
dồi dào hơn. Mặc dù quy mô thị trường TPCP Việt Nam so với GDP vẫn còn rất nhỏ,
nhưng tính cho cả tổng nợ công thì tỷ lệ nợ công trên GDP đã rất gần với mức trần
65% mà Quốc hội đề ra. Như vậy rõ ràng để có thể tăng quy mô thị trường TPCP cần
tăng tỷ trọng nợ qua phát hành TPCP trong tổng nợ công và tăng quy mô nền kinh tế.
Điều này sẽ góp phần cải thiện nợ công theo hướng an toàn và bền vững hơn. Hơn
nữa, khi quy mô nền kinh tế tăng, hình ảnh Việt Nam trên thị trường quốc tế được cải
thiện, điều này sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam phát hành TPCP quốc tế dễ dàng hơn.
Chủ trương tái cơ cấu nền kinh tế đã được đề ra và thực hiện trong thời gian qua
với mục tiêu tổng quát đến năm 2020 là “ thực hiện tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển
đổi mô hình tăng trưởng theo lộ trình và bước đi phù hợp để đến năm 2020 cơ bản
hình thành mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu, bảo đảm chất lượng tăng
trưởng, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế”. Mục tiêu mà Việt
Nam hướng tới là tăng trưởng bứt phát, tăng trưởng nhanh và bền vững trên cơ sở tậ
dụng thành tự khoa học, công nghệ của nhân loại, nhất là cuộc cách mạng Công
nghiệp 4.0. Tuy đã đạt được nhiều kết quả tích cực trong quá trình tái cơ cấu nhưng
tăng trưởng kinh tế vẫn chủ yếu dựa vào các yếu tố đầu vào như vốn, tài nguyên, lao
động trình độ thấp, sức cạnh tranh của nền kinh tế chậm cải thiện. Do vậy, tái cơ cấu
nền kinh tế cần nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh,
đảm bảo phát triển kinh tế nhanh và bền vững, tận dụng lợi thế hội nhập.
- Chính phủ cần tạo ra môi trường cạnh tranh công bằng, bình đẳng đối với tất cả các
thành phần kinh tế đặc biệt là thành phần kinh tế tư nhân thông qua giảm bớt các điều
kiện kinh doanh, thủ tục hành chính, và chi phí kinh doanh, hỗ trợ doanh nghiệp vừa
152
và nhỏ, đồng thời thu hút mạnh hơn nữa đầu tư trực tiếp nước ngoài đặc biệt là các
doanh nghiệp có quy mô lớn và có chuỗi giá trị toàn cầu.
- Rà soát, hoàn thiện cơ chế chính sách huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực
cho đầu tư phát triển. Khuyến khích khu vực ngoài nhà nước đầu tư phát triển cơ sở hạ
tầng, đảm bảo hài hoà lợi ích giữa Nhà nước, người dân và người đầu tư. Các dự án
đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP) được cho là giải pháp tốt để thu hút đầu tư
vào xây dựng cơ sở hạ tầng trong điều kiện muốn giảm chi từ NSNN. Tuy nhiên trong
quá trình triển khai còn tồn tại nhiều vấn đề bất cập cần được điều chỉnh để việc hợp
tác này hiệu quả. Nghị định 63/2018/NĐ-CP của Chính phủ về đầu tư theo hình thức
đối tác công ty trong các dự án hợp tác công tư (PPP) đã có 6 thay đổi quan trọng được
cho là sẽ giúp tăng cường hiệu quả của hình thức này. Tuy nhiên quá trình triển khai
thực hiện cần những hướng dẫn rõ ràng cụ thể hơn. Có định hướng chiến lược rõ ràng
về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong đó làm rõ những ngành nghề ưu tiên
thu hút đầu tư có công nghệ cao, thân thiện môi trường.
- Tiếp tục thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước một cách tích cực, chủ động
cùng với việc nâng cao chất lượng quản trị doanh nghiệp nhà nước, cải thiện hiệu quả
hoạt động của những doanh nghiệp này.
- Tái cơ cấu lĩnh vực nông nghiệp, chuyển từ sản xuất nhỏ lẻ sang nền sản xuất quy mô
lớn, tập trung hợp tác, liên kết bằng cách khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực này. Đồng
thời hoàn thiện các quy định pháp luật về quản lý, sử dụng đất nông nghiệp.
- Tập trung phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ, nhằm cải thiện năng suất lao
động và hiệu quả của ngành thông qua các Chương trình phát triển ngành với mục tiêu
và định hướng cụ thể, trong đó tập trung các ngành như du lịch, công nghiệp chế biến,
thực phẩm, công nghiệp phụ trợ ô tô và nông nghiệp công nghệ cao.
- Thúc đẩy xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu bằng các công cụ chính sách, hàng rào kỹ
thuật phù hợp với thông lệ và cam kết quốc tế nhằm mục tiêu cân bằng và thặng dư
thương mại bền vững.
5.2.2. Giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô
Ổn định kinh tế vĩ mô luôn là ưu tiên hàng đầu trong quá trình phát triển kinh tế
của Việt Nam bởi vai trò quan trọng của nó. Chính sách tài khoá thận trọng cùng các
giải pháp quản lý thu chi NSNN và nợ công là điều kiện cần thiết cho sự phát triển của
thị trường TPCP. Tác động của lạm phát và tỷ giá hối đoái đến thị trường TPCP mặc
153
dù theo nghiên cứu thực nghiệm không có nhiều ý nghĩa thống kê nhưng kinh nghiệm
của Nhật Bản, một quốc gia cũng nằm trong khu vực ASEAN + 3 cho thấy, nhờ kiểm
soát lạm phát tốt Nhật Bản dù có mức nợ công rất cao, hơn 100% GDP, nhưng NĐT
vẫn sẵn lòng cho Chính phủ Nhật Bản vay vốn trên thị trường TPCP với mức lãi suất
thấp. Điều này không chỉ giúp Nhật huy động được vốn cho nhu cầu của NSNN mà
còn giúp Chính Phủ Nhật dễ dàng thanh toán những khoản vay từ trước, đảm bảo vận
hành trơn tru việc phát hành TPCP và trả nợ. Do đó, Việt Nam muốn phát triển thị
trường TPCP trước hết cũng cần đảm bảo duy trì một tỷ lệ lạm phát thấp hợp lý và tỷ
giá hối đoái ổn định. Các cuộc khủng hoảng nợ công xảy ra ở một số quốc gia thường
có nguyên nhân lạm phát. Mục tiêu đề ra trong Chương trình hành động của Chính phủ
thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TW tháng 11 năm 2016 của Hội nghị lần thứ tư Ban
chấp hành Trung ương Đảng khoán XII và Nghị quyết số 24/2016/QH14 của Quốc hội
về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020 là tiếp tục củng cố vững chắc
nền tảng kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát bình quân dưới 5%/năm. Một số vấn đề cần
thực hiện trong điều kiện hiện nay:
- Thực hiện chính sách tài khoá chặt chẽ, tăng cường kỷ luật tài chính, chống thất thu
NSNN, tăng tỷ trọng chi đầu tư và giảm dần tỷ trọng chi thường xuyên, thực hành tiết
kiệm, huy động tối đa nguồn lực bên ngoài nhà nước vào mục đích phát triển kinh tế-
xã hội. Nghiên cứu thực nghiệm ở chương 4 của luận án cho thấy cân bằng ngân sách
đo bằng thâm hụt/thặng dư NSNN trên GDP có quan hệ ngược chiều với quy mô thị
trường TPCP. Quốc gia có mức thâm hụt NSNN càng lớn thì quy mô thị trường TPCP
càng lớn. Tuy nhiên, mỗi quốc gia không thể lấy việc thâm hụt NSNN lớn thành động
lực để phát triển thị trường TPCP.
- Thực hiện chính sách tiền tệ thận trọng, hiệu quả. Thúc đẩy tái cơ cấu các tổ chức tín
dụng xử lý nợ xấu, tăng trưởng tín dụng đi kèm với nâng cao chất lượng tín dụng.
Kiểm soát lạm phát, giữ ổn định giá trị đồng tiền, giảm mặt bằng chung lãi suất. Theo
dõi diễn biến thị trường các mặt hàng thiết yếu để kịp thời xử lý các biến động bất
thường. Tỷ giá hối đoái cần được điều hành theo tín hiệu thị trường, tránh những biến
động lớn, tăng dự trữ ngoại hối. Trong năm 2017, Ngân hàng Nhà nước đã chuyển dần
sang cơ chế điều hành dựa vào thị trường nhiều hơn để định giá đồng tiền và điều
chỉnh tỷ giá trung tâm hàng ngày giúp đồng Việt Nam trở thành một trong những đồng
tiền ổn định nhất ở Châu Á.
154
Tác động của từng chính sách vĩ mô cần được cân nhắc và tính toán kỹ càng
nhằm đưa ra những giải pháp phù hợp tại từng thời điểm bởi những chính sách này có
thể tác động rộng lớn đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực trong nền kinh tế. Các chính
sách vĩ mô được đánh giá là tốt cũng cần phải được áp dụng đúng thời điểm, phù hợp
hoàn cảnh kinh tế, xã hội và đặc điểm của quốc gia. Từng chính sách vĩ mô được xây
dựng phải đảm bảo nguyên tắc không vì lợi ích đơn lẻ mà vì tổng thể.
- Nhằm tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, các cơ quan có thẩm quyền cần chủ động
điều hành linh hoạt, thận trọng, phối hợp giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài
khoá, nâng cao hiệu quả phân tích, dự báo và ứng phó kịp thời với những biến động
trong nước và quốc tế. Sự phối hợp đồng bộ, hiệu quả giữa các chính sách là hết sức
quan trọng. Chính sách tiền tệ cần phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khoá, đặc biệt
là trong việc điều hành cung tiền, tín dụng, lãi suất, bội chi Ngân sách Nhà nước và nợ
công. Cần xác định rõ ràng mục tiêu vĩ mô trong từng thời kỳ, giai đoạn của nền kinh
tế để xây dựng sự phối hợp giữa hai chính sách hiệu quả. Dựa vào mục tiêu chung có
thể xây dựng các mục tiêu chính sách ngắn hạn, trung hạn và dài hạn trong phối hợp
chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá. Trong ngắn hạn, chính sách tài khoá và chính
sách tiền tệ cần phối hợp nhằm đảm bảo mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm
phát và hỗ trợ tăng trưởng. Về dài hạn, chính sách tài khoá phải hướng đến việc sử
dụng hiệu quả các nguồn lực cho phát triển kinh tế xã hội, tạo điều kiện phát triển bền
vững. Hơn nữa, việc phối hợp giữa chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ cần đặt
trong tổng quan nền kinh tế cùng với các chính sách khác nhằm hạn chế sự biến động
lớn của dòng vốn vào ra cũng như nguy cơ khủng hoảng kinh tế trong bối cảnh hội
nhập sâu rộng của Việt Nam hiện nay.
- Nâng cao sự minh bạch và trách nhiệm giải trình của các cơ quan hoạch định và thực
thi chính sách. Đây là việc các cơ quan liên quan giải thích, làm rõ một cách công khai
minh bạch về việc thực hiện trách hiệm quyền hạn được giao. Ngoài các quy định về
nghĩa vụ giải trình, cần tăng cường phổ biến, giáo dục nâng cao nhận thức về vấn đề
này để phát huy tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, thẳng thắn nhìn
nhận đúng sai và biết sửa chữa, khắc phục.
- Tạo nền tảng vi mô vững chắc cho ổn định vĩ mô thông qua thúc đẩy phát triển sản
xuất kinh doanh. Tạo điều kiện thuận lợi hỗ trợ những ngành, lĩnh vực có lợi thế cạnh
tranh. Xây dựng kế hoạch cho từng ngành, lĩnh vực theo từng giai đoạn và đảm bảo
155
thực hiện kế hoạch. Thúc đẩy ứng dụng công nghệ cao, tận dụng cơ hội của cách mạng
công nghiệp 4.0 nhằm tăng năng suất lao động. Bên cạnh việc hoàn thiện thể chế nhằm
thúc đẩy ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp công
nghiệp, cần chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng được yêu cầu
thực hiện cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0.
5.2.3. Tăng cường sự tín nhiệm của Chính phủ với tư cách là chủ thể
phát hành trái phiếu Chính phủ
5.2.3.1. Tăng hiệu quả quản lý nợ công
- Việc huy động vốn cho NSNN qua vay nợ cần được quản lý chặt chẽ bởi nếu không
sẽ gây ra gánh nặng nợ rất lớn cho thế hệ sau. Cần xác định ngưỡng nợ theo số thu,
theo số dư nợ, số nợ huy động, số trả nợ, nghĩa vụ nợ trực tiếp, gián tiếp, nghĩa vụ nợ
dự phòng đối với các địa phương, và quốc gia. Theo Nghị quyết số 25/2016/QH14 về
kế hoạch tài chính 5 năm quốc gia giai đoạn 2016-2020 thì mục tiêu đảm bảo an toàn
nợ công ở mức không quá 65% GDP, nợ Chính phủ không quá 54% GDP, và nợ nước
ngoài của quốc gia không quá 50% GDP. Đến năm 2030, nợ công không quá 60%
GDP, nợ Chính phủ không quá 50% GDP, nợ nước ngoài không quá 45% GDP. Có
thể thấy các chỉ tiêu an toàn nợ công dựa nhiều vào thống kê về GDP, điều này sẽ
khiến cho việc đánh giá nợ công khó khăn, vì vậy cần cân nhắc đưa ra các chỉ tiêu
phản ánh tình trạng nợ công dựa vào tổng thu ngân sách hay dự trữ ngoại hối. Nếu sử
dụng chỉ tiêu phản ánh nợ công tương đối dựa vào GDP thì nên có thêm chỉ tiêu nợ
công/GDP của năm trước để dễ dàng so sánh. Ngoài ra, khái niệm về ngưỡng cảnh báo
nợ công được đưa ra trong Luật quản lý nợ công năm 2017, tuy nhiên cần có những
quy định cụ thể về mức ngưỡng này. Các con số về trần nợ công hay ngưỡng nợ công
này khi đưa ra cần có nguyên tắc rõ ràng, có phương pháp tính toán cụ thể khoa học,
có căn cứ, tuân theo chuẩn quốc tế, đánh giá được cả gánh nặng nợ công và khả năng
thanh toán nợ công theo giá trị danh nghĩa và giá trị thực tế, phù hợp với thực trạng
của nền kinh tế.
- Cần giảm dần việc bảo lãnh Chính phủ để vay nợ, xác định, phân loại đối tượng được
bảo lãnh một cách rõ ràng, minh bạch và chặt chẽ, chỉ bảo lãnh cho các đối tượng, dự
án thực sự cần thiết. Đồng thời cần tăng cường kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn
vay và nguồn đảm bảo trả nợ. Đối với các khoản nợ tự vay, tự trả của các doanh
nghiệp Nhà nước cần có cơ chế quản lý, giám sát, đánh giá hiệu quả sử dụng nợ, kiểm
156
soát rủi ro. Mặc dù khoản vay này không được tính đến khi tính nợ công Việt Nam
nhưng để tránh tình trạng ngân sách phải trả nợ thay cho các doanh nghiệp nhà nước
thì cần kiểm soát khoản vay này. Hơn nữa, cùng với quá trình hội nhập ngày càng sâu
rộng, Việt Nam cần tính toán nợ công theo thông lệ quốc tế, nợ của khu vực doanh
nghiệp nhà nước cần được tính toán và báo cáo đầy đủ.
- Cơ cấu nợ công cần được điều chỉnh cân đối về kỳ hạn, đồng tiền vay, và đối tượng
vay. Để đảm bảo tính bền vững của nợ cộng cần thay đổi cơ cấu nợ công theo hướng
tăng tỷ trọng nợ dài hạn và nợ trong nước.
- Luật quản lý nợ công năm 2017 đã thống nhất nhiệm vụ vay nợ và quản lý nợ công
về cho Bộ Tài chính. Cơ chế ba cơ quan quản lý nợ công trước đây đã làm giảm sự
phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tài khoá, tiền tệ, và quản lý nợ. Vì vậy cần thiết phải
thống nhất đầu mối cơ quan quản lý nợ công, bảo đảm sự đồng bộ trong tổ chức đàm
phán, quản lý, sử dụng nợ. Đây cũng là mô hình phổ biến tại nhiều quốc gia trên thế
giới. Điều này sẽ giúp việc quản lý nợ được tập trung, đầu đủ, toàn diện, kịp thời, giúp
cho việc giám sát tổng thể rủi ro tài khoá từ hoạt động vay nợ của Chính phủ và khu
vực công được toàn diện, hiệu quả, cũng như để hoạch định các chính sách, chiến lược
nợ hiệu quả với chi phí và rủi ro thấp. Tuy nhiên, cần quy định trách nhiệm giải trình
cụ thể trong việc sử dụng nợ công không hiệu quả. Cơ quan quản lý nợ công phải có
trách nhiệm giải trình công khai, minh bạch về nợ công và những rủi ro, nguy cơ với
nợ công.
- Theo quy định mới nhất trong Luật Quản lý nợ công (sửa đổi) có hiệu lực từ 1-7-
2018, để đảm bảo khả năng trả nợ và quản lý rủi ro thì các khoản trả nợ được đưa
về Quỹ tích luỹ trả nợ. Trong bối cảnh nợ công Việt Nam đang cao như hiện nay thì
Quỹ tích luỹ trả nợ ra đời nhằm đảm bảo cho khả năng trả nợ của chính phủ. Tuy
nhiên, nếu không tổ chức quản lý hiệu quả thì đây có thể là nguyên nhân khiến nợ
công ngày càng lớn và Quỹ càng ngày không đảm bảo được việc chi trả nợ. Cần có
cơ chế giám sát quỹ bởi một bên độc lập để tránh tình trạng sử dụng quỹ không
đúng mục đích. Hơn nữa, theo quy định, Quỹ tích luỹ trả nợ có thể mua ngoại tệ từ
ngân hàng nhà nước hoặc các ngân hàng thương mại nếu nguồn thu ngoại tệ của
Quỹ không đủ cho các khoản chi ngoại tệ. Điều này có thể ảnh hưởng đến dự trữ
ngoại hối và tỷ giá hối đoái.
157
- Cần có một chiến lược nợ dài hạn, trung hạn và hàng năm cụ thể được Quốc Hội phê
duyệt. Các chương trình ngắn hạn phải đảm bảo phù hợp với kế hoạch trung và dài hạn
để đảm bảo không phá vỡ cân đối nợ công. Các khoản vay mới cần phải được đánh giá
về tác động đối với nợ công và khả năng trả nợ ngay từ thời điểm trước khi phê duyệt.
Chiến lược nợ công cần được xây dựng trên cơ sở cân nhắc kế hoạch phát triển kinh
tế- xã hội, kế hoạch thu chi ngân sách nhà nước trong từng giai đoạn, thời kỳ, phân
tích tình hình thị trường trong nước và thế giới. Kế hoạch chiến lược về nợ công cần
xác định rõ mục đích vay để làm gì, đối tượng sử dụng các khoản vay, hiệu quả dự
kiến, xác định thời điểm vay, thời điểm dự kiến trả được nợ.
- Nâng cao chất lượng hoạt động đầu tư công, cải thiện hiệu quả sử dụng vốn trái
phiếu chính phủ. Nợ công cần được sử dụng vào những mục đích rõ ràng, cho các
chương trình, dự án trọng điểm và có hiệu quả. Những dự án kém hiện quả, chưa thực
sự cần thiết cần cắt bỏ hoặc khuyến khích đầu tư phối hợp công tư. Vì vậy, cần hoàn
thiện cách thức thẩm định, đánh giá và lựa chọn dự án đầu tư dựa vào hiệu quả kinh tế,
thực hiện đầu tư có trọng điểm. Thời gian đầu của quá trình phát triển có thể tập trung
đầu tư cho những vùng, khu vực, đối tượng có hiệu quả sử dụng vốn cao nhất để thúc
đẩy tăng trưởng, và khi đã có nguồn lực lớn hơn cần đầu tư cân bằng để tạo ra sự phát
triển bền vững. Tăng cường giám sát việc sử dụng vốn, tránh thất thoát, lãng phí.
- Công khai minh bạch các thông tin liên quan đến nợ công. Việc công bố thông tin
cần cập nhật, kịp thời, chính xác, theo đúng mẫu biểu để đảm bảo mỗi lần công bố
thông tin các nội dung giống nhau
5.2.3.2. Giữ vững ổn định chính trị - xã hội
Ổn định chính trị là nền tảng để phát triển kinh tế đất nước. Trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế, mục tiêu giữ vững ổn định chính trị- xã hội luôn được quan tâm
hàng đầu. Hội nhập đem lại những tác động tích cực nhưng cũng đặt ra nhiều khó khăn
thách thức về chính trị, xã hội. Vấn đề về lao động, việc làm, bảo vệ môi trường.. dưới
áp lực cạnh tranh gay gắt trong bối cảnh hội nhập có ảnh hưởng nhất định đến ổn định
chính trị- xã hội.
Sự ổn định chính trị được xây dựng và tạo lập trên nền tảng lòng tin của nhân
dân vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý, điều hành của Nhà nước. Vì vậy, cần bảo
đảm sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát
huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị- xã hội, tôn trọng
158
quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc trong
tiến trình hội nhập quốc tế. Trước tình hình mới, cần đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với các tổ chức chính trị- xã hội cho phù hợp. Để giữ ổn định chính trị xã
hội, cần thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, bảo vệ môi trường
và cải thiện đời sống nhân dân. Thực hiện cải cách hành chính, chống tham nhũng,
lãng phí. Củng cố quốc phòng, an ninh, đảm bảo trật tự an toàn xã hội.
Trong quá trình hội nhập, cần đảm bảo độc lập, tự chủ và hội nhập kinh tế, xây
dựng nền kinh tế có khả năng tự chủ cao, giữ vững an ninh chính trị, xã hội. Ngoài
việc nâng cao nhận thức của toàn Đảng, toàn dân về vấn đề này, cần chú trọng công
tác bảo vệ chính trị nội bộ để kịp thời phát hiện, đấu tranh với các quan điểm thù địch,
sai trái, lợi dụng hội nhập để xâm phạm chủ quyền, an ninh quốc gia, bảo vệ đường lối
chủ trương của Đảng về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bảo vệ và phát huy những giá trị văn hoá dân tộc, giải quyết tốt các vấn đề xã
hội. Cải thiện hệ thống an sinh xã hội, sửa đổi chính sách về bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm thất nghiệp, trợ cấp xã hội...Theo đuổi mục tiêu giảm nghèo bền vững, thu hẹp
khoảng các giàu- nghèo, khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, đảm bảo công bằng
xã hội. Đảm bảo mức sống tối thiểu cho người lao động và các điều kiện cơ bản như
giáo dục, y tế, nước sạch đặc biệt ở các vùng sâu vùng xa, biên giới, hải đảo.
5.2.3.3. Phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ tuân theo quy luật thị trường,
giảm bớt sự can thiệp của Chính phủ
- Phát triển thị trường theo định hướng thị trường, giá cả do cung cầu quyết định. Tiếp
tục quá trình tự do hoá lãi suất trên thị trường TPCP. Để hạn chế sự biến động quá lớn
gây rủi ro cho thị trường, Bộ Tài chính cần linh hoạt áp dụng khung lãi suất đấu thầu
theo sát diễn biến thị trường. Tuy nhiên, khi thị trường phát triển hơn, cơ sở NĐT đã
tốt hơn, cần thực hiện cam kết huy động vốn qua phát hành TPCP với lãi suất tuân thủ
theo quy luật cung cầu trên thị trường, loại bỏ hoàn toàn các biện pháp can thiệp phi
thị trường vào lãi suất (như áp dụng lãi suất trần). Thực tế trần lãi suất nhiều khi chịu
tác động rất nhiều bởi chính sách của ngân hàng nhà nước, và không dựa vào tình hình
biến động của nền kinh tế, không phản ánh xác thực cung- cầu thị trường.
- Cần hạn chế và dần loại bỏ các quy định bắt buộc mua và nắm giữ TPCP. Quy định
về tỷ lệ nắm giữ tối thiểu TPCP của một tổ chức tài chính có thể sẽ là nguồn tài trợ
159
vốn bắt buộc cho Chính phủ, nhưng lại không tuân theo quy luật thị trường. Điều này
sẽ cản trở sự phát triển của thị trường TPCP.
5.2.4. Phát triển hệ thống tài chính tạo nền tảng cho sự phát triển bền
vững thị trường trái phiếu Chính phủ
5.2.4.1. Tăng cường hội nhập tài chính
Phát triển thị trường TPCP theo chiều rộng cần tận dụng nguồn vốn quốc tế dồi
dào. Tuy nhiên, muốn huy động được nguồn vốn quốc tế trước hết cần cải thiện vị thế
của Việt Nam trong mắt NĐT nước ngoài.
Theo nghiên cứu thực nghiệm đánh giá các yếu tố tác động đến sự phát triển thị
trường TPCP được thực hiện trên mẫu lấy từ 9 quốc gia trong khu vực ASEAN +3
trong đó có Việt Nam chứng minh HNTC càng sâu rộng thì thị trường TPCP càng phát
triển. Khu vực ASEAN + 3 là khu vực có thị trường trái phiếu kết nối giữa các quốc
gia thành viên, trong đó Việt Nam cũng là một thành viên tích cực. Kết quả nghiên cứu
thực nghiệm càng có ý nghĩa trong việc đưa ra các giải pháp nhằm phát triển thị
trường TPCP Việt Nam trong điều kiện thúc đẩy HNTC sâu rộng hơn nữa. Việt Nam
cần tích cực tham gia các hoạt động HNTC trước mắt là trong khu vực ASEAN và các
hợp tác của ASEAN với các nước khác, sau đó là hội nhập với phần còn lại của thế
giới. Quá trình HNTC bên cạnh việc tự do hoá tài chính ở mức độ ngày càng cao, Việt
Nam cũng cần đánh giá các điều kiện trong nước để đảm bảo HNTC sẽ đem lại những
tác động tích cực cho Việt Nam bởi nếu vội vàng hội nhập khi điều kiện tiền đề trong
nước chưa đủ thì có thể sẽ có những tác động tiêu cực. Ngoài ra duy trì một hệ thống
chính trị ổn định trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng là hết sức cần thiết cho
sự phát triển của thị trường. HNTC sâu rộng hơn đòi hỏi sự chuẩn bị kỹ càng của các
cấp, các ngành nhằm nâng cao năng lực hội nhập. Cải cách cơ chế, chính sách liên
quan nhằm tận dụng được những cơ hội để thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội, đồng
thời tăng cường tính độc lập, tự chủ. Chỉ thị số 26/CT-TTg chỉ rõ cần đẩy mạnh hội
nhập kinh tế quốc tế theo hướng hiệu lực và hiệu quả hơn.
Một số giải pháp cụ thể được đưa ra:
- Tăng cường nghiên cứu, dự báo và đánh giá tác động của hội nhập kinh tế nói chung
và HNTC nói riêng để làm cơ sở cho quá trình hoạch định các cơ chế, chính sách liên
quan đến hội nhập. Các hiệp định thương mại song phương, đa phương mà Việt Nam
tham gia, các cam kết hội nhập trong khu vực và trên thế giới đều có những tác động
160
đến Việt Nam. Đánh giá được những tác động đó sẽ giúp việc đưa ra định hướng,
chính sách hội nhập hợp lý và hiệu quả. Bên cạnh đó, cần học tập kinh nghiệm của các
nước thực thi hiệu quả cam kết hội nhập, trong đó cần nghiên cứu cụ thể và chi tiết về
các biện pháp kỹ thuật của các quốc gia hội nhập không chỉ nhằm đưa ra các giải pháp
đối phó mà còn là kinh nghiệm khi xây dựng các biện pháp kỹ thuật phù hợp với các
cam kết về hàng rào kỹ thuật trong thương mại của Việt Nam trong các FTA đã ký.
- Nghiêm túc thực thi các cam kết HNTC gồm cam kết về thuế, hải quan, dịch vụ tài
chính như bảo hiểm, chứng khoán, ngân hàng, kế toán- kiểm toán và các dịch vụ khác.
- Xây dựng lộ trình hội nhập trong từng giai đoạn. HNTC cần một lộ trình thích hợp và
phải thực hiện từ từ từng bước. Không có một lộ trình HNTC chung cho tất cả các
quốc gia mà mỗi quốc gia cần xây dựng cho mình một lộ trình HNTC thích hợp với
tình trạng của mình và khu vực. Sự nóng vội trong quá trình HNTC có thể dẫn đến sự
thất bại của thị trường. Thực tế cho thấy, một số quốc gia quá vội vàng mở cửa tài
chính hoàn toàn đã gặp thất bại như Argentina, Chile, Uruguay (Park, 1999). Nguyên
nhân chính của sự thất bại này là tại thời điểm thực hiện hội nhập, các quốc gia này
đang trải qua sự mất cân bằng vĩ mô như tình trạng thiếu ngoại tệ và lạm phát cao,
cùng với sự thiếu hụt các ràng buộc pháp lý về an toàn tài chính.
Ở các nước đang phát triển, quá trình HNTC có thể thất bại do nhiều nguyên
nhân. Phần lớn thị trường tài chính ở các nước đang phát triển chưa thực sự phát triển
theo chiều sâu như các nước phát triển mà chỉ đơn thuần là sự mở rộng. Hoạt động của
các tổ chức tài chính bị kiểm soát chặt chẽ bởi Chính phủ mặc dù vai trò của Chính
phủ trên thị trường là đảm bảo các quy định được thực hiện chứ không phải là can
thiệp hay kiểm soát. Một trong những trở ngại lớn cho sự phát triển của hệ thống tài
chính ở các nước đang phát triển là sự non trẻ của tổ chức đầu tư tư nhân. Quỹ hưu trí
tư nhân, công ty bảo hiểm không đóng vai trò là nhà đầu tư quan trọng sở hữu các
công cụ thị trường vốn, phần lớn vốn được gửi có kỳ hạn tại các ngân hàng thương
mại. Hơn nữa, thị trường tài chính ở các nước đang phát triển thiếu cân bằng. Các
ngân hàng thương mại vẫn đóng vai trò quan trọng trong toàn bộ hệ thống tài chính,
chi phối việc phân phối vốn giữa các khu vực khác nhau trong nền kinh tế. Thị trường
chứng khoán ở các nước phát triển thường đóng vai trò quan trọng trong quá trình
phân phối các khoản tiết kiệm và đầu tư, trong khi tại các nước đang phát triển vai trò
của thị trường chứng khoán rất nhỏ bé. Các tổ chức tài chính phi ngân hàng như công
ty tài chính, tổ chức tài chính, ngân hàng đầu tư, công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí, các
quỹ đầu tư mạo hiểm cũng chỉ đóng vai trò rất nhỏ trong hệ thống tài chính. Sự thống
161
trị của các ngân hàng thương mại đã triệt tiêu sự đổi mới và cạnh tranh cần thiết trong
hệ thống tài chính. Hơn nữa, ở các nước đang phát triển, kể cả khi vai trò của khu vực
tài chính tư nhân lớn hơn, thì hệ thống tài chính vẫn chịu sự chi phối của các tổ chức
độc quyền nhóm. Luật chống độc quyền ở các nước này đang ở giai đoạn sơ khai và
các tập đoàn lớn thường có mối liên hệ với tổ chức chính phủ, trong đó có cả các ngân
hàng và các tổ chức tài chính lớn. Vì vậy các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như các
công ty mới thành lập thường chịu sự tác động của cả chính phủ và các tập đoàn lớn.
Tại các thị trường này, việc HNTC có thể được các tập đoàn lớn lợi dụng để tăng
cường củng cố thêm sự độc quyền nhóm hơn là thúc đẩy cạnh tranh trên thị trường và
tăng cường tính hiệu quả. Vì vậy, các nước đang phát triển cần xây dựng lộ trình nhằm
khắc phục dần các hạn chế, loại bỏ dần các rào cản của hội nhập này.
HNTC tại Việt Nam cần lộ trình thích hợp. Do điều kiện vĩ mô cùng với thực
trạng hệ thống tài chính của Việt Nam còn hạn chế, phụ thuộc nhiều vào hệ thống ngân
hàng nên trước mắt cần tập trung cải thiện nội lực nền kinh tế và hệ thống tài chính
trước khi có những bước hội nhập sâu rộng hơn. Cụ thể:
Biểu đồ 5.1: Lộ trình hội nhập tài chính đến năm 2030
- Rà soát hoàn thiện khung pháp lý tuân theo chuẩn mực khu vực và quốc tế,
tăng cường hợp tác với các thị trường trong khu vực, tăng cường hệ thống quản trị rủi
ro và đảm bảo an toàn hệ thống tài chính. Đây vừa là điều kiện cần cũng là điều kiện
2018-2030
Rà soát, hoàn thiện khung pháp lý tuân theo chuẩn mực khu vực và quốc tế, tăng cường hệ thống quản trị rủi ro và đảm bảo an toàn hệ thống tài chính
2018-2025
Cải thiện cơ sở hạ tầng và cấu trúc vi mô thị trường
2018-2025
Tăng cường năng lực cạnh tranh của các tổ chức tài chính trong nước
2021-2030
Tiếp tục thực hiện các cam kết hội nhập sâu rộng hơn với các dịch vụ tài chính có tính chất phức tạp sau khi thực hiện các cam kết với các dịch vụ tài chính cơ bản.
162
đủ cho một thị trường tài chính hội nhập sâu rộng. Việc hoàn thiện khung pháp lý cần
được thực hiện sớm và liên tục cho đến khi có một khung pháp lý tuân theo chuẩn
quốc tế.
- Cải thiện cơ sở hạ tầng và cấu trúc vi mô thị trường: Cơ sở hạ tầng hiện đại,
đồng bộ, kết nối với khu vực là một yêu cầu hội nhập. Bên cạnh đó, thị trường cũng
cần có những sản phẩm theo chuẩn quốc tế, đặc biệt là các sản phẩm phức tạp trên
từng thị trường theo thông lệ quốc tế như sản phẩm phái sinh, các sản phẩm trái phiếu
có lãi suất thả nổi, trái phiếu có gốc, lãi giao dịch tách biệt, trái phiếu gắn với lạm phát,
trái phiếu xanh...
- Tăng cường năng lực cạnh tranh của các tổ chức tài chính trong nước. Hiện
nay đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015” giai đoạn 1
đã cơ bản đạt được mục tiêu giữ vững ổn định, an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng,
không để xảy ra đổ vỡ tổ chức tín dụng ngoài tầm kiểm soát, quyền lợi của người gửi
tiền được đảm bảo. Đề án “ Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ
xấu giai đoạn 2016-2020” giai đoạn 2 đang được thực hiện với mục tiêu tiếp tục cơ
cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với trọng tâm là xử lý căn bản, triệt để nợ
xấu và các tổ chức tín dụng yếu kém bằng các biện pháp thị trường, giảm số lượng tổ
chức tín dụng yếu kém, giữ vững ổn định và an toàn hệ thống. Trong khi đó, đề án tái
cơ cấu các công ty chứng khoán đã được thực hiện từ năm 2012 và đạt được nhiều kết
quả. Tuy nhiên trước tình hình thị trường chứng khoán phái sinh ra đời và phát triển,
cùng với nhiều thay đổi trên thị trường đòi hỏi tiếp tục cơ cấu lại các công ty chứng
khoán theo hướng phân loại đánh giá rủi ro và cảnh báo sớm đối với các công ty chứng
khoán, công ty quản lý quỹ, khuyến khích các công ty đổi mới mô hình hoạt động,
nâng cao năng lực tài chính, củng cố khả năng quản trị doanh nghiệp.
- Tiếp tục thực hiện các cam kết hội nhập sâu rộng hơn với các dịch vụ tài chính
có tính chất phức tạp sau khi thực hiện cam kết với các dịch vụ tài chính cơ bản, tăng
cường kết nối với thị trường khu vực. Việc mở rộng các cam kết theo hướng tự do hoá
hơn, hội nhập sâu rộng hơn cần được thực hiện khi thị trường đã có nền tảng tốt sẽ
giúp tận dụng được các lợi ích của HNTC.
163
5.2.4.2. Phát triển các tổ chức tài chính tạo cơ sở nhà đầu tư mạnh cho thị trường
trái phiếu Chính phủ
Các tổ chức tài chính có vai trò quan trọng, ảnh hưởng lớn đến sự phát triển bền
vững của thị trường TPCP. Khi các tổ chức tài chính này còn non trẻ, quy mô nhỏ,
nắm giữ ít nguồn lực, họ sẽ có tác động không đáng kể đến thị trường. Nhưng khi quy
mô của họ đã lớn hơn, các tổ chức này có khả năng ảnh hưởng đến sự phát triển của
thị trường. Do đó, để tận dụng được các tổ chức tài chính như các quỹ đầu tư, các công
ty bảo hiểm vào sự phát triển của thị trường thì Chính phủ cần có những chính sách
thúc đẩy sự tăng trưởng của các tổ chức này.
Giải pháp đối với quỹ hưu trí
Để thúc đẩy quy mô và chất lượng các quỹ hưu trí, những nhà làm chính sách
cần chú ý đến toàn bộ tổ chức tổng thể của hệ thống an sinh xã hội và vai trò của các
thành phần công và tư nhân. Khi mà Chính phủ quyết định chuyển đổi hệ thống quỹ
hưu trí do Chính phủ tài trợ sang một hệ thống quỹ do tư nhân quản lý, cần phải đánh
giá chi phí chuyển đổi và đảm bảo rằng hệ thống công không phải là gánh nặng với
các nghĩa vụ tài chính không bền vững. Để thúc đẩy được các quỹ hưu trí tư nhân đòi
hỏi phải có một khung pháp lý mạnh mẽ và hiệu quả như đối với các tổ chức tài chính
khác như ngân hàng, công ty bảo hiểm, thậm chí khung pháp lý và giám sát còn đòi
hỏi chặt chẽ hơn bởi đặc thù của các quỹ này là các hợp đồng dài hạn, trên 60 năm.
Các quy định liên quan đến quỹ hưu trí cũng cần có các tiêu chuẩn rõ ràng để ngăn
chặn sự tham gia của các tổ chức không đủ tiêu chuẩn. Đồng thời quy định pháp luật
cũng cần nhấn mạnh sự tách biệt trong quản lý tài sản, thực hiện đa dạng hoá danh
mục đầu tư thận trọng, định giá thị trường cho các tài sản, kiểm toán định kỳ thường
xuyên và công bố thông tin rõ ràng, minh bạch.
Với các quỹ hưu trí, ưu đãi thuế thường được thực hiện để khuyến khích sự
phát triển của quỹ. Ưu đãi thuế này thường liên quan đến miễn thuế thu nhập hàng
năm và thu nhập đầu tư, còn với các khoản trợ cấp nghỉ hưu được đánh thuế khi nhận
được. Việc này sẽ giúp tránh đánh thuế 2 lần vào các khoản tiết kiệm dài hạn và tạo
động lực cho cá nhân tiết kiệm dài hạn.
Giải pháp đối với các công ty bảo hiểm
Ở hầu hết các quốc gia đang phát triển, ngành bảo hiểm luôn có các quy định
hạn chế, có sự phân tán sâu rộng trong khi các quy định giám sát kém. Trong trường
164
hợp đó, nhất thiết phải tái cơ cấu lại ngành bảo hiểm để cung cấp các dịch vụ bảo hiểm
hiệu quả hơn. Cũng giống như đối với quỹ hưu trí, các quy định về bảo hiểm cũng cần
khuôn khổ chặt chẽ để giám sát. Các công ty bảo hiểm nhân thọ là các tổ chức có
nghĩa vụ nợ dài hạn, và có thể mất khả năng thanh khoản, thậm chí là thanh toán. Việc
cơ cấu lại các công ty này thường được thực hiện bằng cách sáp nhập các công ty nhỏ
nhưng có khả năng và cho phá sản những công ty yếu kém. Việc tái cơ cấu các tổ chức
bảo hiểm cũng như quỹ hưu trí là một quá trình phức tạp và đòi hỏi thời gian dài để
thực hiện. Mở cửa thị trường cho nhà đầu tư nước ngoài và hội nhập thị trường trong
nước vào thị trường toàn cầu sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển giao công
nghệ tài chính, đảm bảo từng tổ chức hoạt động hiệu quả và có quy mô đủ lớn. Sự
tham gia của các tổ chức nước ngoài có thể thông qua việc liên doanh liên kết với
nhóm các tổ chức trong nước. Trong lĩnh vực bảo hiểm, ASEAN đã ghi nhận một số
thành tựu mà các cơ quan bảo hiểm ASEAN đạt được trong việc xây dựng khung pháp
lý điều hành để thúc đẩy các sản phẩm bảo hiểm, nâng cao nhận thức của người tiêu
dùng, tăng tỷ lệ bảo hiểm và tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của Hiệp hội giám sát bảo
hiểm quốc tế trong quá trình hiện thực hoá các mục tiêu của AEC. Khuôn khổ hội
nhập bảo hiểm ASEAN (AIIF) đã được thống nhất thông qua, nhằm cải thiện việc
cung cấp bảo hiểm xuyên biên giới hàng hải, hàng không, và ngành vận tải hàng hoá
quốc tế. Việt Nam cũng tham gia vào quá trình hội nhập đó, mở ra một tương lai cho
thị trường bảo hiểm trong nước. Theo thống kê của cục quản lý giám sát bảo hiểm,
trong giai đoạn 2011-2017, tổng số tiền các doanh nghiệp bảo hiểm đầu tư trở lại nền
kinh tế tăng trưởng bình quân 17,7%/năm, trong đó phần lớn vốn nhàn rỗi được đầu tư
vào trái phiếu Chính phủ và tiền gửi ngân hàng. Cụ thể, cuối năm 2017, trái phiếu
Chính phủ chiếm hơn 60% tổng danh mục đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm. Đây là
nguồn vốn quan trọng cho thị trường TPCP.
Một số giải pháp được đưa ra để phát triển hệ thống các công ty bảo hiểm ở
Việt Nam
- Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về việc thành lập, quản lý hoạt động, quản lý
tài chính của các doanh nghiệp bảo hiểm.
- Phát triển các sản phẩm bảo hiểm đa dạng, phù hợp với nhu cầu khách hàng.
Đặc biệt trong bối cảnh hội nhập tài chính, nhiều sản phẩm bảo hiểm mới cần được
nghiên cứu và áp dụng như bảo hiểm nông nghiệp, xuất khẩu...
165
- Đầu tư cho giáo dục và đào tạo để có chất lượng nguồn nhân lực tốt. Hiện nay,
đa phần các sản phẩm bảo hiểm đang được bán kết hợp với các tổ chức ngoài ngành,
hoặc các đại lý được đào tạo ngắn hạn, không có chương trình đào tạo dài hạn và
chuyên nghiệp. Bên cạnh đó, cần đào tạo nguồn nhân lực để đa dạng hình thức bán bảo
hiểm. Trong thời đại Cách mạnh công nghiệp 4.0, kinh doanh bảo hiểm trực tuyến là
xu thế và cần được nghiên cứu triển khai để đảm bảo tính an toàn và thuận tiện cho
khách hàng.
- Doanh nghiệp bảo hiểm cần công khai đầy đủ toàn diện về tình hình hoạt
động, kinh doanh của doanh nghiệp nhằm cải thiện kỷ luật thị trường, tạo cơ sở cho
khách hàng cân nhắc lựa chọn doanh nghiệp phù hợp. Bên cạnh đó, từng doanh nghiệp
cần xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu để tạo nên một hệ thống cơ sở dữ liệu toàn ngành.
Đây là nguồn tham khảo để các doanh nghiệp tính phí bảo hiểm hợp lý, cũng như
thuận lợi cho công tác quản lý vĩ mô.
Giải pháp đối với các quỹ đầu tư
Quỹ đầu tư là NĐT tiềm năng trên thị trường TPCP. Vì vậy trước hết cần xây
dựng hệ thống khuôn khổ pháp lý rõ ràng và đầy đủ cho sự ra đời và phát triển của quỹ
đầu tư. Để vận hành được các quỹ này đòi hỏi phải có đội ngũ nhân viên am hiểu nên
vấn đề đào tạo là rất quan trọng. Ngoài ra, cần có cơ chế khuyến khích sự phát triển
của đa dạng quỹ đầu tư như cơ chế ưu đãi về thuế, phí, đơn giản hoá thủ tục thành lập
quỹ đầu tư, chào bán chứng chỉ quỹ.
Giải pháp đối với các ngân hàng thương mại
Quá trình HNTC của Việt Nam đặt ra yêu cầu tái cơ cấu hệ thống ngân hàng và
các ngân hàng cần có sự thay đổi lớn để đáp ứng yêu cầu hội nhập. Trong khu vực
Asean, Thống đốc ngân hàng Trung ương các nước ASEAN đã tán thành khuôn khổ
hội nhập ngân hàng ASEAN (ABIF) vào năm 2014. Ngoài việc thiết lập tiêu chuẩn các
ngân hàng đạt chất lượng, gọi là các Ngân hàng ASEAN đủ tiêu chuẩn (QABs) và cho
phép các ngân hàng này tiếp cận sâu rộng thị trường các nước ASEAN khác trong điều
kiện các nước ký kết các hiệp định song phương lẫn nhau để QABs có thể tiếp cận thị
trường của nhau, nội dung HNTC trong lĩnh vực ngân hàng còn gồm chuẩn mực kế
toán ngân hàng, yêu cầu công bố thông tin, yêu cầu vốn tối thiểu, hành động khắc
phục, phương pháp giải quyết phá sản trong lĩnh vực ngân hàng và các biện pháp
chống rửa tiền và bảo vệ người tiêu dùng. Tuy nhiên quá trình hội nhập ngân hàng khu
166
vực ASEAN còn diễn ra chậm và sẽ có lộ trình thời gian muộn hơn so với các lĩnh vực
khác trong HNTC và dự kiến sẽ bắt đầu diễn ra năm 2020, với 5 quốc gia thành viên
lớn trong ASEAN là Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan, sau đó
mới đến các nước thành viên khác bao gồm Việt Nam. Trước mắt, yêu cầu đặt ra là
các quốc gia phải củng cố hệ thống ngân hàng của mình nhằm hạn chế rủi ro. Như vậy,
rõ ràng, trong thời gian tới, số lượng và chất lượng các NHTM ở Việt Nam cũng sẽ có
sự thay đổi đáng kể. Để phát huy vai trò của các NHTM đối với sự phát triển của thị
trường TPCP, ngoài việc tái cơ cấu hệ thống, nâng cao chất lượng các NHTM cần thực
hiện một số giải pháp như:
+ Tiếp tục tái cấu trúc hệ thống ngân hàng theo lộ trình đã đề ra. Giám sát chặt
chẽ quá trình tái cơ cấu nhằm giải quyết các vấn đề phát sinh, tránh những biến động
bất lợi cho thị trường tài chính.
+ Tập trung giải quyết nợ xấu trong hệ thống ngân hàng. Nợ xấu ảnh hưởng đến
tính an toàn, hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại.
Phân loại nợ xấu định kỳ, có cơ chế cảnh báo kịp thời để nhanh chóng xử lý phát sinh
nợ xấu đồng thời tăng cường thực hiện nghiêm túc và đầy đủ các quy định pháp luật,
các quy tắc, chuẩn mực về hoạt động ngân hàng, các hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ.
Nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng để hạn chế rủi ro trong hoạt động đánh giá và cấp
tín dụng.
+ Nâng cao chất lượng các ngân hàng thương mại thông qua áp dụng các tiêu
chuẩn quản trị ngân hàng, tuân thủ chuẩn mực an toàn vốn quốc tế Basel III, các
nguyên tắc quản trị rủi ro, tăng cường hoạt động giám sát.
+ Điều chỉnh chính sách đầu tư của các NHTM khi tham gia vào thị trường trái
phiếu. Ví dụ như thông tư 06/2016/TT-NHNN được ban hành đã nới lỏng tỷ lệ mua và
đầu tư TPCP của các NHTM trong nước từ 15% lên 25%, và tỷ lệ của chi nhánh các
ngân hàng nước ngoài từ 15% lên 35%. Tuy nhiên, theo nhiều chuyên gia, Chính phủ
cần tránh hạn chế mức độ tham gia của các NHTM vào đấu thầu TPCP bằng cách hành
chính như vậy. Thực tế trên thế giới hầu hết các quốc gia không quy định về giới hạn
đầu tư trái phiếu Chính phủ của các ngân hàng, đặc biệt là hạn chế đối với các tổ chức
tài chính nước ngoài vì điều này sẽ làm giảm khả năng thu hút đa dạng các nhà đầu tư
trên thị trường trái phiếu. Đối với ngưỡng sở hữu trái phiếu Chính phủ của các NHTM
thì mỗi ngân hàng cần tự tính toán mức ngưỡng cho mình dựa vào khả năng chịu đựng
167
rủi ro trong kinh doanh. Trái phiếu Chính phủ được xem là loại tài sản có rủi ro gần
như bằng 0, không phải trích lập dự phòng, có giá trị thanh khoản ngay sau tiền mặt.
Vì thế mỗi ngân hàng có nhu cầu đảm bảo thanh khoản khác nhau trong từng thời kỳ
thay vì áp đặt một mức chung. Khi đó, NHNN chỉ cần can thiệp vào sự rủi ro và tính
an toàn của hệ thống.
+ Xác định rõ vai trò của các tổ chức tín dụng khi tham gia vào thị trường vốn
và thị trường trái phiếu. Việc các NHTM tham gia thị trường TPCP là phù hợp với
thông lệ quốc tế, đây là các tổ chức tài chính quan trọng trong hệ thống tài chính. Theo
kết quả nghiên cứu thực nghiệm, quy mô hệ thống ngân hàng có tác động cùng chiều
đến quy mô thị trường TPCP, bởi hệ thống ngân hàng vừa là NĐT vừa là nhà tạo lập
thị trường, đóng vai trò quan trọng trên thị trường TPCP. Khi có nguồn vốn nhàn rỗi
các NHTM mua trái phiếu Chính phủ để tận dụng hiệu quả nguồn vốn. Sau đó họ bán
trái phiếu trên thị trường thứ cấp hoặc chiết khấu tại ngân hàng nhà nước. Tuy nhiên,
việc NHNN chiết khấu các giấy tờ có giá bao gồm cả trái phiếu Chính phủ là chức
năng của ngân hàng Trung ương, không có nghĩa là cơ quan này bơm vốn cho các tổ
chức tín dụng để đầu tư trái phiếu Chính phủ. Chức năng của các NHTM là huy động
vốn và đẩy vốn vào nền kinh tế. Đầu tư nhiều vào TPCP có thể phản ánh sự yếu kém
trong chức năng chính của NHTM là huy động vốn để cho vay vào hoạt động sản xuất
kinh doanh. Đó có thể là việc kiểm soát không hiệu quả, khả năng kiểm soát các khoản
cho vay, thiếu thông tin đáng tin cậy về người vay hay các dự án, hệ thống pháp luật
yếu kém. Tất cả đều dẫn đến việc các ngân hàng tìm đến kênh đầu tư an toàn là TPCP.
Khi tất cả những vấn đề này được khắc phục, ngân hàng sẽ trở thành người ít nắm giữ
TPCP hơn.
5.2.4.3. Cải tiến cơ sở hạ tầng
HNTC cùng với sự phát triển của thị trường TPCP đòi hỏi cơ sở hạ tầng cần
được nâng cấp không ngừng. Trong khu vực ASEAN, hội nhập cơ sở hạ tầng tài chính
hướng tới chuẩn mực chung ASEAN, trong đó tận dụng mô hình cơ sở hạ tầng kết nối
sẵn có của các sở giao dịch Thái Lan, Malaysia, và Singapore nhằm tiết kiệm chi phí
và tăng hiệu quả, tăng cường kết nối các thị trường vốn ASEAN còn hạn chế. Số quốc
gia tham gia tính đến thời điểm hiện tại không nhiều. Kết nối sàn giao dịch của 3 nước
Thái Lan, Malaysia, Singapore cho phép NĐT ở một trong 3 nước trên có thể mua
chứng khoán ở 2 thị trường còn lại thông qua các công ty môi giới chứng khoán tại địa
168
phương. Đồng thời các tổ chức phát hành có thể bán chứng khoán tại ba thị trường
khác nhau mà không cần làm các thủ tục tại từng nước. Đây là xu thế hội nhập
chung và sẽ được các quốc gia hội nhập tham gia thực hiện trong tương lai, trong
đó có Việt Nam.
- Để có thể hội nhập được với khu vực về cơ sở hạ tầng, trước hết cơ sở hạ tầng công
nghệ trong nước cần được nâng cấp, cập nhật theo công nghệ của thế giới, đồng thời
có khả năng kết nối với hệ thống giao dịch khu vực để đảm bảo hỗ trợ thực hiện giao
dịch nhanh, hiệu quả, giảm thời gian thực hiện giao dịch, thanh toán của thị trường,
tăng cường minh bạch thông tin đảm bảo tính chính xác, tính kịp thời và tính dễ tiếp
cận, giảm nguy cơ rủi ro thanh toán, hỗ trợ hoạt động quản lý, giám sát thị trường.
- Hiện đại hoá công nghệ thông tin về hệ thống đấu thầu, đăng ký, lưu ký và niêm yết
TPCP nhằm rút ngắn thời gian từ khi phát hành đến khi niêm yết trái phiếu từ T+2
xuống còn T+1 nhằm nhanh chóng đưa TPCP lên sàn giao dịch và từ đó tăng tính
thanh khoản cho thị trường. Như trên thị trường TPCP Hàn Quốc, tự niêm yết được áp
dụng đối với TPCP, trái phiếu Chính quyền địa phương và một vài trái phiếu đặc biệt
được phát hành vào một số ngày cố định trong năm. Trái phiếu kho bạc và trái phiếu
ổn định ngoại hối phát hành bằng ngoại tệ được niêm yết vào ngày phát hành theo các
quy định về tự niêm yết. Để làm được vậy cần có sự phối hợp giữa Kho bạc Nhà nước,
Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội và Trung tâm lưu ký chứng khoán.
- Tiếp tục cải thiện cở sở hạ tầng sau khi chuyển việc thanh toán giao dịch TPCP về
cho ngân hàng nhà nước. Cần tăng cường sự kết nối giữa trung tâm lưu ký chứng
khoán VSD với NHNN để việc thanh toán TPCP được nhanh gọn hơn, giảm chu kỳ
thanh toán xuống T+0 đối với ít nhất một loại TPCP (thường là trái phiếu Chính phủ
có kỳ hạn ngắn). Để có thể xử lý tất cả các giao dịch hiệu quả trong cùng một ngày cơ
sở, đôi khi cần phải giới hạn một khoảng thời gian giao dịch trong ngày. Ví dụ, các
giao dịch vào buổi sáng sẽ được thực hiện thanh toán trong cùng ngày giao dịch, trong
khi các giao dịch thực hiện buổi chiều sẽ được thanh toán vào ngày giao dịch tiếp theo.
- Xây dựng hạ tầng Trung tâm cơ sở dữ liệu xử lý chính cho toàn thị trường theo tiêu
chuẩn quốc tế. Bên cạnh đó, xây dựng một Trung tâm cơ sở dữ liệu dự phòng cho hệ
thống chính đề phòng khi xảy ra thảm hoạ vẫn đảm bảo được an toàn dữ liệu và tính
liên tục của hệ thống giao dịch.
169
- Nghiên cứu triển khai kết nối cơ sở hạ tầng giao dịch tài chính với khu vực Asean
tiến tới tham gia các hoạt động giao dịch và thanh toán trái phiếu xuyên quốc gia. Sau
đó, tiến tới hội nhập rộng rãi ra khu vực Châu Á và quốc tế.
- Sự phát triển công nghệ tài chính giúp tăng tính hiệu quả của thị trường, hỗ trợ thực
hiện các giao dịch, đăng ký, lưu ký và thanh toán bù trừ trên thị trường, cung cấp
thông tin tức thời về giá thị trường và giao dịch, cải thiện tính minh bạch của thị
trường và tăng tính cạnh tranh. Nghiên cứu áp dụng công nghệ 4.0 vào thị trường
TPCP. Trước mắt, đó là việc số hoá cơ sở dữ liệu, tiến tới việc cung cấp sản phẩm,
dịch vụ liên quan một cách tự động hoá. Vấn đề về chính sách cũng cần được xem xét.
Trong thời đại số hoá, việc xây dựng chính sách phải nhanh chóng, sát với thực tiễn thì
mới đảm bảo được yêu cầu. Muốn tận dụng được lợi ích từ cuộc cách mạng công nghệ
4.0 thì trước tiên con người cần hiểu về nó. Do vậy, việc đào tạo nguồn nhân lực có ý
nghĩa then chốt.
5.2.4.4. Phát triển các tổ chức trung gian tài chính, hỗ trợ thị trường
Xây dựng hệ thống nhà kinh doanh trái phiếu cấp 1
Nhiều chính phủ thiết kế một nhóm các nhà kinh doanh trái phiếu cấp 1 bao
gồm các trung gian tài chính đặc biệt với nghĩa vụ và đặc quyền để hỗ trợ sự phát triển
của thị trường TPCP. Vai trò chính của nhà kinh doanh TPCP cấp 1 là tham gia vào thị
trường phát hành các loại TPCP, đảm bảo tiêu thụ số chứng khoán mới phát hành và
phân phối chứng khoán đến tay nhà đầu tư cuối cùng. Những nhà kinh doanh trái
phiếu cấp 1 cũng được yêu cầu là những người tạo lập thị trường, cung cấp giá 2 chiều
mua bán cho các loại TPCP, nhằm cải thiện tính thanh khoản của thị trường. Xây dựng
hệ thống nhà kinh doanh trái phiếu cấp 1 là phù hợp với chuẩn quốc tế.
Theo thông lệ quốc tế, yêu cầu đối với nhà kinh doanh trái phiếu cấp 1 bao gồm
khả năng tài chính, yêu cầu vốn, kỹ năng quản lý, hệ thống công nghệ, sự hiện diện
trên thị trường được đo bằng hoạt động giao dịch, và mức độ sẵn sàng cung cấp thông
tin. Các yêu cầu về năng lực tài chính là rất quan trọng, vì nghĩa vụ phải tạo giá 2
chiều làm cho các nhà kinh doanh trái phiếu cấp 1 gặp phải rủi ro thị trường lớn (rủi ro
lãi suất). Để duy trì hiệu quả thị trường, các tiêu chí lựa chọn nhà kinh doanh trái phiếu
cấp 1 phải được thường xuyên xem xét và điều chỉnh cho thích hợp, phụ thuộc vào
điều kiện thị trường. Áp dụng yêu cầu khắt khe đối với nhà tạo lập thị trường khi thị
trường còn nhỏ về quy mô có thể trở thành gánh nặng cho họ, và cần được bù đắp
170
bằng một số các đặc quyền nhất định. Một số quốc gia dần thắt chặt các yêu cầu khi thị
trường phát triển hơn.
Trước đây, Việt Nam đưa ra tiêu chuẩn thành viên đấu thầu TPCP và thành viên
giao dịch, thành viên giao dịch đặc biệt TPCP trên SGDCK. Đây là những bước đi ban
đầu cho việc xây dựng một hệ thống nhà kinh doanh trái phiếu cấp 1. Gần đây, theo
quy định của Nghị định 95/2018/NĐ-CP về phát hành đăng ký, lưu ký ,niêm yết và
giao dịch công cụ nợ của Chính phủ thì khái niệm nhà tạo lập thị trường đã được đưa
ra. Theo đó, nhà tạo lập thị trường là tổ chức được Bộ Tài Chính lựa chọn để thực hiện
quyền, nghĩa vụ trong việc phát hành, giao dịch công cụ nợ của Chính phủ tại thị
trường trong nước theo quy định. Nhà tạo lập thị trường là ngân hàng thương mại,
CTCK được thành lập và hoạt động hợp pháp tại Việt Nam, có vốn chủ sở hữu thực có
trên báo cáo tài chính được kiểm toán của ba năm liền kề trước năm đăng ký làm nhà
tạo lập thị trường không thấp hơn mức vốn điều lệ tối thiểu theo quy định pháp luật
liên quan, có thời gian hoạt động tối thiểu 3 năm, tham gia mua công cụ nợ của Chính
phủ trên thị trường sơ cấp và giao dịch trên thị trường thứ cấp với khối lượng tối thiểu
do Bộ Tài Chính quy định.
Như vậy, NHTM, CTCK là những đối tượng có thể trở thành nhà tạo lập thị
trường. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm một số quốc gia cần quy định một tỷ lệ phần trăm
nhất định cho mỗi loại nhà đầu tư khác nhau như ngân hàng thương mại, công ty
chứng khoán, ngân hàng đầu tư, không nên tập trung vào một loại NĐT. Chính phủ
cũng cần thu hút các tổ chức nước ngoài trở thành nhà kinh doanh TPCP cấp 1, cân
nhắc giữa lợi ích và bất lợi mà các tổ chức này đem lại. Sự cạnh tranh nhiều hơn, mức
độ vốn nhiều hơn là những lợi thế, trong khi bất lợi cũng cần cân nhắc như khó kiểm
soát, thanh tra, giám sát, mức độ nhạy cảm chính trị, mức độ biến động của dòng vốn.
Bên cạnh đó, cần xác định quy mô hệ thống nhà kinh doanh TPCP cấp 1 phù
hợp với quy mô thị trường tại từng giai đoạn phát triển. Quá ít nhà kinh doanh TPCP
có thể làm giảm tính cạnh tranh, tăng khả năng thông đồng và giảm hiệu quả. Quá
nhiều nhà kinh doanh TPCP cấp 1 lại làm cho mức độ cạnh tranh cao, triệt tiêu lợi
nhuận từ đó làm giảm hiệu quả hoạt động của các tổ chức này.
Các tiêu chí xếp hạng nhà tạo lập thị trường cũng cần được quy định cụ thể
bởi Bộ Tài Chính sẽ dựa vào kết quả đánh giá xếp hạng để duy trì tư cách nhà tạo
lập thị trường.
171
Khi đã có hệ thống nhà kinh doanh trái phiếu cấp 1, có thể tập trung phát triển
thị trường phi tập trung OTC theo xu hướng phát triển của nhiều quốc gia trên thế giới.
Phần lớn các nước có thị trường trái phiếu phát triển đều có cả thị trường trái phiếu tập
trung và phi tập trung. Phát triển thị trường phi tập trung là phù hợp với quy mô thị
trường Việt Nam. Thị trường phi tập trung tất cả các loại trái phiếu chưa được niêm
yết trên Sở giao dịch. Giao dịch trên thị trường phi tập trung chủ yếu là giao dịch thoả
thuận giữa các NĐT. Vì vậy, để vận hành được thị trường, cần có các chính sách bảo
vệ NĐT như tăng cường giám sát, đảm bảo thông tin được công khai, minh bạch, công
bằng giữa các chủ thể tham gia thị trường.
Nâng cao năng lực của các công ty chứng khoán
Công ty chứng khoán là chủ thể quan trọng, vừa đóng vai trò là nhà đầu tư, vừa
đóng vai trò là tổ chức hỗ trợ thị trường. Quá trình tái cơ cấu công ty chứng khoán
đang diễn ra, cùng với hoạt động hội nhập tài chính, các công ty chứng khoán đứng
trước áp lực cạnh tranh ngày càng lớn. Việc loại bỏ các công ty chứng khoán có năng
lực yếu kém, hoạt động không hiệu quả sẽ góp phần nâng cao chất lượng chủ thể tham
gia vào thị trường TPCP. Một số giải pháp cần được tiếp tục thực hiện:
- Tiếp tục thực hiện đề án tái cơ cấu CTCK nhằm giảm số lượng, nâng cao chất lượng
và năng lực cạnh tranh của các CTCK, từng bước tăng quy mô, tiềm lực tài chính, mở
rộng phạm vi hoạt động ra nước ngoài.
- Khuyến khích các CTCK áp dụng tiêu chuẩn quản trị rủi ro phù hợp, đầu tư vào công
nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao tạo tiền đề phát triển bền vững thay vì chỉ phát
triển về quy mô, cạnh tranh thị phần. Hệ thống quản trị của công ty cần chặt chẽ, giảm
thiểu các loại rủi ro. Đầu tư vào hạ tầng công nghệ trong bối cảnh cuộc cách mạng
công nghiệp 4.0 là cần thiết để giúp các công ty chứng khoán nâng cao năng lực cạnh
tranh. Đồng thời các công ty chứng khoán nên nghiên cứu phát triển đa dạng các hoạt
động dịch vụ theo thông lệ quốc tế để tăng khả năng cạnh tranh khi hội nhập, đặc biệt
là các sản phẩm phái sinh, các hoạt động ký quỹ, bán khống. Mỗi công ty nên nghiên
cứu thiết kể các sản phẩm đặt thù dựa vào thế mạnh của mình và có các sản phẩm phù
hợp với từng đối tượng NĐT trên thị trường.
- Mở cửa thị trường cho các tổ chức kinh doanh chứng khoán nước ngoài tham gia vào
thị trường trong nước, phù hợp với những cam kết hội nhập.
172
- Tiếp tục hoàn thiện quy định quản lý, giám sát an toàn các CTCK, thực hiện
phân loại CTCK và áp dụng giám sát an toàn tài chính theo nhóm. Mục tiêu là cần
xử lý các công ty thiếu an toàn tài chính, kể cả các công ty lớn và hỗ trợ các công
ty đạt chuẩn an toàn. Thường xuyên nghiên cứu và điều chỉnh các quy định an
toàn tài chính đối với tổ chức kinh doanh chứng khoán, đảm bảo phù hợp với thực
tế phát triển thị trường. Yêu cầu các CTCK báo cáo tài chính tuân theo chuẩn mực
kế toán quốc tế IAS.
Phát triển hệ thống công ty định mức tín nhiệm tại Việt Nam
Việc phát hành và giao dịch TPCP trên thị trường quốc tế đã được quy định cụ
thể trong nghị định 95/2018/NĐ-CP về phát hành, đăng ký, lưu ký, niêm yết và giao
dịch công cụ nợ của chính phủ trên thị trường chứng khoán, do vậy yêu cầu về hệ
thống công ty định mức tín nhiệm để đánh giá định mức tín nhiệm cho TPCP Việt
Nam là yêu cầu cấp thiết bởi trước hết Việt Nam cần tự đánh giá định mức tín nhiệm
cho TPCP của chính mình trước khi thuê các tổ chức bên ngoài. Bên cạnh đó, phát
triển hệ thống công ty định mức tín nhiệm tại Việt Nam cũng là điều kiện cho sự phát
triển sâu rộng hơn của thị trường thứ cấp TPCP.
Một trong những khó khăn của các công ty định mức tín nhiệm nếu được thành
lập và hoạt động tại Việt Nam đó là bài toán kinh doanh một cách có hiệu quả trong
bối cảnh quy mô thị trường nhỏ và thiếu thông tin như hiện nay.
Một số giải pháp trước mắt nhằm thúc đẩy hình thành tổ chức định mức tín
nhiệm ở Việt Nam hiện nay:
- Hoàn thiện khung pháp lý cho việc thành lập cũng như điều chỉnh hoạt động
của các công ty xếp hạng hệ số tín nhiệm trên nền tảng quy định theo Nghị định
88/2014/NĐ-CP về dịch vụ xếp hạng tín nhiệm. Đặc biệt quy định về điều kiện kinh
doanh dịch vụ xếp hạng tín nhiệm cần được điều chỉnh cho phù hợp với từng giai đoạn
phát triển của thị trường. Trong giai đoạn đầu, nhằm khuyến khích các doanh
nghiệp tham gia vào lĩnh vực này, cần nới lỏng các điều kiện. Ví dụ như điều kiện
về vốn pháp định đối với doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm không cần thiết bởi
đặc thù hiệu quả của hoạt động dịch vụ xếp hạng tín nhiệm chủ yếu dựa vào trình
độ của nguồn nhân lực cũng như chất lượng thông tin mà doanh nghiệp có, chứ
vốn không phải là yếu tố quyết định đến tính an toàn và chính xác của hoạt động
173
xếp hạng tín nhiệm. Khi thị trường đã phát triển hơn, nhiều doanh nghiệp tham gia
thì có thể siết chặt các điều kiện hoạt động hơn.
- Chú trọng công tác đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho hoạt động xếp hạng tín
nhiệm. Đồng thời tăng cường tuyên truyền, phổ biến về sự cần thiết của hoạt động này
đê rtaoj thành một thói quen sử dụng định mức tín nhiệm trong đầu tư.
- Tạo điều kiện cho các tổ chức nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực này tại Việt Nam trong
bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng nhằm học hỏi kinh nghiệm và dần nâng cao uy
tín của các tổ chức định mức tín nhiệm Việt Nam.
- Cơ sở dữ liệu phục vụ cho hoạt động định mức tín nhiệm là vô cùng quan trọng. Vì
vậy cần tăng cường tính công khai minh bạch trên thị trường. Hệ thống thang đo, bảng
điểm tín nhiệm cần được tính toán, thiết lập và công bố rõ ràng.
- Nghiên cứu đưa ra quy định về yêu cầu phải xếp hạng hệ số tín nhiệm đối với TPCP
trước khi thực hiện phát hành bởi phát triển thị trường TPCP trong bối cảnh HNTC
yêu cầu mức độ tự do hoá thị trường ngày càng cao, đảm bảo tuân thủ quy luật thị
trường trong phát hành, giao dịch TPCP. Đây sẽ là nguồn cầu ổn định cho các tổ chức
định mức tín nhiệm tron nước.
5.2.5. Tăng cường nội lực cho thị trường hướng tới sự phát triển bền
vững
5.2.5.1. Thực hiện phát hành trái phiếu Chính phủ theo kế hoạch
- Tổ chức phát hành TPCP huy động vốn cho NSNN theo kế hoạch Bộ Tài
chính giao, đảm bảo các mục tiêu đã đề ra. Bám sát tình hình thị trường, đảm bảo huy
động đủ vốn cho nhu cầu cân đối NSNN hợp lý và nhu cầu đầu tư xây dựng cơ bản.
- Tập trung phát hành trái phiếu theo phương thức đấu thầu, để đấu thầu trở
thành phương thức phát hành chủ đạo của TPCP, nhằm đảm bảo tính thị trường và
cạnh tranh khi phát hành TPCP, phù hợp với thông lệ quốc tế. Duy trì phương thức
phát hành qua đấu thầu thường xuyên để thị trường không bị gián đoạn, dễ dẫn đến
mất lãi suất tham chiếu.
- Cơ cấu lại danh mục nợ TPCP, tính toán phát hành các trái phiếu có kỳ trả lãi
đầu dài hơn/ ngắn hơn kỳ trả lãi chuẩn nhằm giảm đỉnh nợ vào các năm 2019, 2020.
- Thường xuyên tổ chức các cuộc hội thảo, hội nghị, thông qua các tổ chức,
hiệp hội để tiếp cận với các NĐT trên thị trường nhằm nhanh chóng nắm bắt được nhu
cầu của các NĐT, từ đó tăng hiệu quả của việc phát hành. Học tập kinh nghiệm của
174
Nhật Bản, khi phát hành TPCP, Bộ Tài Chính lập kế hoạch phát hành hài hoà ý kiến
của những người tham gia thị trường. Bộ Tài chính tổ chức các cuộc họp với những
thành viên đặc biệt trên thị trường TPCP và những cuộc họp thường xuyên khác để
trao đổi ý kiến với những người tham gia thị trường và các chuyên gia khác có kiến
thức về thị trường. Kế hoạch phát hành, phương thức phát hành sẽ được thông báo sau
những cuộc họp này nhằm theo sát nhu cầu thị trường.
- Phát hành trái phiếu trên thị trường quốc tế là xu thế, khẳng định mức độ hội
nhập của thị trường. Sự sẵn sàng của nguồn vốn, sự đa dạng cơ sở nhà đầu tư, giúp
tăng tính thanh khoản của thị trường, đồng thời mở đường cho các doanh nghiệp huy
động vốn qua phát hành trái phiếu quốc tế là những lợi ích mà phát hành TPCP trên thị
trường quốc tế mang lại. Cơ sở pháp lý cho việc phát hành trái phiếu Chính phủ quốc
tế đã được quy định trong Nghị định của Chính phủ quy định về phát hành, đăng ký,
lưu ký, niêm yết và giao dịch công cụ nợ của Chính phủ trên thị trường chứng khoán.
Việc phát hành TPCP quốc tế tuân theo một số bước cơ bản gồm lựa chọn các tổ chức
hoặc tổ hợp quản lý phát hành, lựa chọn các tư vấn pháp lý có kinh nghiệm trong và
ngoài nước, chuẩn bị hồ sợ phát hành, đánh giá xếp hạng tín nhiệm quốc gia, tổ chức
quảng bá chào bán trái phiếu quốc tế theo yêu cầu của từng phương thức phát hành, Bộ
Tài chính quyết định các điều kiện, điều khoản phát hành trái phiếu quốc tế, lãi suất
đối với từng đợt phát hành trái phiếu quốc tế do Bộ Tài chính quyết định trong khung
do Thủ tướng Chính phủ quy định. Tuy nhiên vấn đề chi phí vốn vay cần được cân
nhắc kỹ lưỡng. Để TPCP quốc tế của Việt Nam thu hút được các NĐT trên thị trường
vốn quốc tế, trái phiếu cần được phát hành tuân theo quy luật thị trường. Lãi suất
TPCP quốc tế của một quốc gia thường tính bằng lãi suất trái phiếu kho bạc Mỹ cùng
thời hạn cộng với một biên độ. Biên độ này cao hay thấp phụ thuộc vào mức độ tín
nhiệm của quốc gia trên thị trường tài chính quốc tế. Như vậy rõ ràng để phát hành
TPCP quốc tế trở thành một kênh huy động vốn hiệu quả thì việc trước mắt là phải
nâng cao mức độ hệ số tín nhiệm quốc gia thông qua các giải pháp vĩ mô nhằm nâng
cao năng lực quốc gia.
5.2.5.2. Nâng cao chất lượng và đa dạng hàng hoá trên thị trường trái phiếu Chính
phủ
- Chuẩn hoá hệ thống TPCP, hạn chế hiện tượng phân mảnh sản phẩm bằng
cách cơ cấu lại TPCP phát hành và đang được giao dịch trên thị trường là điều kiện đối
175
với một thị trường thứ cấp phát triển (Caputo và cộng sự, 2010) [40]. Giảm bớt số mã
TPCP trên thị trường bằng cách mở bán lại các mã TP có khối lượng nhỏ nhằm tăng
quy mô mỗi mã và giảm số mã trên thị trường, giảm bớt việc phát hành TPCP manh
mún, thiếu nhất quán, thiếu kỳ hạn chuẩn, đồng thời Chính phủ cần áp dụng điều
khoản mua lại, từ đó hình thành các mã trái phiếu chuẩn.
- Nghiên cứu phát triển các sản phẩm mới, đã được sử dụng phổ biến tại các thị
trường trái phiếu chính phủ phát triển như trái phiếu có gốc và lãi được giao dịch tách
biệt (trái phiếu STRIPS), trái phiếu điều chỉnh theo lạm phát, trái phiếu có lãi suất thả
nổi. Các công cụ này có thể giúp Chính phủ điều chỉnh cấu trúc kỳ hạn của danh mục
nợ theo mục tiêu quản lý nợ đồng thời có thể thoả mãn nhu cầu của một nhóm các
NĐT như quỹ hưu trí.
+ Đối với trái phiếu STRIPS, là loại TPCP giao dịch tách biệt lãi và gốc. Trái
phiếu này sẽ được tách gốc và lãi thành các trái phiếu zero-coupon (không trả lãi định
kỳ). Ví dụ, nếu một trái phiếu kho bạc với khoản thanh toán lãi định kỳ 6 tháng 1 lần
và khoản thanh toán gốc sau 3 năm. Trái phiếu này sẽ được tách thành 1 trái phiếu
zero coupon bằng khoản gốc và 6 trái phiếu zero coupon là các khoản lãi. Việc tách lãi
suất và gốc thành các công cụ tài chính mới sẽ làm tăng thanh khoản cho thị trường
TPCP bởi kỳ hạn và lãi suất của các công cụ rất đa dạng. Hơn nữa, việc tạo ra các
công cụ mới mang lại cơ hội kinh doanh chênh lệch giá. Ngoài ra, lợi suất đáo hạn của
STRIPS được xác định trước, ngăn cản việc tái đầu tư trung hạn. Điều này giúp các
công ty bảo hiểm, các quỹ hưu trí sử dụng STRIPS như một công cụ đầu tư dài hạn.
Cuối cùng, hệ thống này có thể làm giảm bớt chi phí mua trái phiếu, nhu cầu đối với
trái phiếu STRIPS tập trung vào các nhà đầu tư cá nhân và các tổ chức nhỏ. Để triển
khai được loại trái phiếu này cần quy định loại TPCP thực hiện giao dịch tách biệt này,
đồng thời đưa ra quy định thực hiện giao dịch và thanh toán strip, và quy định xử lý
tách biệt thu nhập coupon, vốn gốc trên tài khoản lưu ký, thanh toán.
+ Trái phiếu điều chỉnh theo lạm phát là loại TPCP được nhiều quốc gia sử
dụng hiện nay bởi nó đáp ứng nhu cầu được bảo vệ trước lạm phát của phần lớn các
NĐT và tầm quan trọng của nó đối với danh mục nợ tối ưu. Loại TP này cung cấp một
hàng rào phòng chống rủi ro tự nhiên trước những tác động của lạm phát. Trong bối
cảnh lạm phát, khoản gốc của trái phiếu gắn với lạm phát được điều chỉnh theo lạm
phát, từ đó các khoản lãi cũng được điều chỉnh. Các trái phiếu điều chỉnh theo lạm
176
phát phù hợp với doanh thu và cả các rủi ro của các tài sản liên quan đến lạm phát
trong danh mục của Chính phủ. Đồng thời do các TP này có kỳ hạn dài nên có thể giúp
Chính phủ giảm rủi ro tái cấp vốn, góp phần ổn định nợ công. Phát hành loại trái phiếu
này cũng giúp thu hút được các NĐT tổ chức như quỹ hưu trí, các quỹ đầu tư, NĐT
nước ngoài tham gia vào thị trường TPCP (Caputo và cộng sự, 2010) [40]. Tuy nhiên
trái phiếu này được cho là sẽ khiến NĐT nắm giữ TP đến khi đáo hạn thay vì giao dịch
nó trên thị trường, từ đó có khả năng làm giảm thanh khoản của thị trường. Do đó, cần
cẩn trọng khi phát hành loại trái phiếu này, không nên phát hành khối lượng quá lớn.
+ Về sản phẩm trái phiếu có lãi suất thả nổi, quy định pháp lý cho phát hành loại sản
phẩm này đã được quy định tại Thông tư 111/2015/TT-BTC. Tuy nhiên yếu tố quan
trọng nhất là chỉ số tham chiếu cho lãi suất thả nổi, yếu tố này phải đảm bảo tính
thường xuyên, rõ ràng, công khai, minh bạch. Thông thường, các nước dựa vào chỉ số
tham chiếu là lãi suất tín phiếu kho bạc kỳ hạn 6 tháng hoặc 1 năm. Tuy nhiên, hiện
nay tại Việt Nam KBNN không phát hành thường xuyên tín phiếu Kho bạc. Vì vậy Bộ
Tài chính cần giải quyết vấn đề này trước khi đưa ra thị trường sản phẩm TPCP có lãi
suất thả nổi.
- Áp dụng các sản phẩm phái sinh để phòng ngừa rủi ro như hợp đồng tương lai,
kỳ hạn, quyền chọn có hàng hoá cơ sở là TPCP.
+ Đối với hợp đồng kỳ hạn: Một trong những loại giao dịch kỳ hạn đặc biệt là
giao dịch trên thị trường phát hành, liên quan đến việc bán chứng khoán của chính phủ
trước và ngay sau khi đấu thầu trái phiếu nhưng trước khi thanh toán. Giao dịch này
cho phép nhà kinh doanh phân phối các chứng khoán trước khi tham gia vào đấu thầu,
vì vậy sẽ làm cho thị trường sơ cấp phát triển sâu hơn, và thúc đẩy giao dịch trên thị
trường thứ cấp bằng cách mở đường cho việc phân phối chứng khoán trước khi đấu
thầu và có cơ sở giá cho hoạt động đấu thầu. Các điều kiện tiên quyết đối với giao dịch
này là một thị trường sơ cấp đủ phát triển để hạn chế đến mức thấp nhất khả năng đấu
thầu không thành công, hệ thống lưu ký, thanh toán bù trừ phát triển, quy định giám
sát đầy đủ để giảm đến mức thấp nhất các sai phạm. Giao dịch When-issued này đã
được các quốc gia có thị trường TPCP phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc áp dụng và
cho thấy sự hiệu quả cao trong việc thúc đẩy thanh khoản và hỗ trợ xác định giá TPCP.
+ Đối với hợp đồng tương lai và quyền chọn: thúc đẩy sự phát triển của thị
trường chứng khoán phái sinh để tạo thanh khoản cho các loại hàng hoá này. Cần thực
177
hiện chuẩn hoá hợp đồng này về loại TPCP được sử dụng làm hàng hoá cơ sở, khối
lượng giao dịch, thời hạn, hình thức giao dịch, nghĩa vụ của các bên tham gia hợp
đồng, và quy định về các biện pháp phòng ngừa rủi ro, bảo vệ người tham gia.
Thị trường chứng khoán phái sinh của Việt Nam mới đi vào hoạt động được 1
năm với sản phẩm đầu tiên là hợp đồng tương lai chỉ số VN30. Hợp đồng tương lại chỉ
số VN30 có một đặc điểm thuận lợi cho triển khai giao dịch đó là đơn giản, được
thanh toán bằng tiền và không có sự chuyển giao vật chất. Sản phẩm tiếp theo dự kiến
được giới thiệu trên thị trường chứng khoán phái sinh Việt Nam là hợp đồng tương lai
trái phiếu Chính phủ. Đây được xem là sản phẩm phức tạp hơn, tuy nhiên đây lại là
sản phẩm cần thiết cho sự phát triển của thị trường phái sinh và thị trường TPCP nói
riêng bởi khả năng phòng ngừa rủi ro của nó. Có hai lựa chọn về phương thức thanh
toán của sản phẩm hợp đồng tương lai TPCP là chuyển giao vật chất và thanh toán
bằng tiền. Trong khi thanh toán bằng tiền có thể đơn giản hơn tốn ít chi phí hơn, thì
chuyển giao vật chất lại an toàn hơn do khả năng bị thao túng ít hơn đồng thời có thể
hỗ trợ thị trường TPCP cơ sở phát triển. Hợp đồng tương lai cũng có rủi ro tín dụng, vì
vậy các bên tham gia cần thực hiện ký quỹ, và giá trị hợp đồng cũng được theo dõi
theo ngày, nhờ đó rủi ro thanh toán được giảm đi. Nếu hợp đồng tương lai TPCP tăng
giá trị trong ngày giao dịch thì tài khoản kỹ quỹ của NĐT sẽ được ghi tăng. Ngược lại,
nếu hợp đồng tương lai giảm giá trị, thua lỗ sẽ được trừ ra khỏi tài khoản kỹ quỹ của
NĐT. Và nếu số dư ký quỹ trong tài khoản của NĐT bị giảm xuống một mức tối thiểu
được quy định, NĐT sẽ bị gọi kỹ quỹ bổ sung. Nếu NĐT không thực hiện ký quỹ bổ
sung, vị thế của NĐT sẽ bị đóng.
Xây dựng hợp đồng tương lai TPCP cần xây dựng trên TPCP cơ sở có kỳ hạn
dài. Việc lựa chọn tài sản cơ sở rất quan trọng, nhằm tạo ra sự kết nối giữa thị trường
cơ sở và thị trường phái sinh. Tài sản cơ sở có thể là một mã TPCP cụ thể đang lưu
hành trên thị trường cơ sở hoặc một TPCP giả định có đầy đủ các đặc điểm cơ bản như
loại trái phiếu, lãi suất danh nghĩa, kỳ hạn...Kinh nghiệm ở nhiều quốc gia có thị
trường chứng khoán phái sinh phát triển cho thấy hầu hết các thị trường đều sử dụng
trái phiếu giả định là tài sản cơ sở cho hợp đồng tương lai TPCP. Việc thanh toán sẽ
phức tạp hơn khi phải chuyển đổi các trái phiếu giả định sang các trái phiếu thực thông
qua hệ số chuyển đổi tính cho ngày thanh toán cuối cùng hoặc dựa trên giá bình quân
của các trái phiếu trong rổ thanh toán. Khi triển khai hợp đồng tương lai TPCP, các cơ
178
quan quản lý, giám sát thị trường cần có những biện pháp phù hợp để ngăn chặn các
hành vi thao túng, bóp méo giá, bảo vệ nhà đầu tư và góp phần ổn định thị trường. Các
hợp đồng tương lai TPCP khi thiết kế cần nghiên cứu kỹ về điều khoản và điều kiện
của hợp đồng, nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị của Tổ chức quốc tế
các Uỷ ban chứng khoán (IOSCO) nhằm đảm bảo được đúng chức năng phòng vệ rủi
ro của hợp đồng.
Để phát triển hợp đồng tương lai TPCP thì cần có các nhà tạo lập thị trường. Để
khuyến khích các tổ chức tham gia là nhà tạo lập thị trường cần có cơ chế phù hợp, cân
bằng giữa trách nhiệm và quyền lợi của nhà tạo lập thị trường. Ưu đãi về phí giao dịch
của nhà tạo lập thị trường, hỗ trợ cơ chế thanh toán, tiết kiệm thời gian và chi phí vay
mượn chứng khoán là những giải pháp nhằm khuyến khích các tổ chức tham gia là nhà
tạo lập thị trường. Bên cạnh đó, tạo điều kiện cho nhà tạo lập thị trường thực hiện giao
dịch chênh lệch giá giữa thị trường trái phiếu cơ sở và phái sinh trái phiếu để tăng cơ
hội tìm kiếm lợi nhuận. Các CTCK có vai trò nhà tạo lập thị trường trên thị trường
giao dịch Hợp đồng tương lai TPCP. Để có thể thực hiện tốt vai trò tạo lập thị trường,
công ty chứng khoán cần có năng lực tài chính tốt cũng như danh mục đầu tư TPCP đủ
lớn. Hiện nay Việt Nam có khoảng 79 CTCK đang hoạt động bình thường sau quá
trình tái cơ cấu. Tuy nhiên, chất lượng các CTCK cũng rất khác nhau.
Theo quy định về vốn điều lệ, vốn chủ sở hữu đối với hoạt động tham gia vào
thị trường chứng khoán phái sinh được quy định trong thông tư 11/2016/TT-BTC của
Bộ Tài chính, thì yêu cầu vốn đối với hoạt động môi giới chứng khoán phái sinh là từ
800 tỷ đồng trở lên, đối với hoạt động tự doanh là từ 600 tỷ đồng trở lên, yêu cầu đối
với thành viên bù trừ trực tiếp là 900 tỷ đồng trở lên, còn đối với thành viên bù trừ
chung là 1200 tỷ đồng trở lên. Tuy nhiên, đối chiếu với quy mô hiện tại của các công
ty chứng khoán thì tính đến cuối năm 2017 có khoảng 18 CTCK đủ điều kiện thực
hiện nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán phái sinh, 12 CTCK đủ điều kiện thực hiện
môi giới chứng khoán phái sinh, 10 CTCK đủ điều kiện thanh toán bù trừ trực tiếp và
7 CTCK thực hiện thanh toán bù trừ chung (Lê Thu Thuỷ, 2017) [19]. Như vậy có thể
thấy số lượng CTCK được tham gia vào thị trường chứng khoán phái sinh còn hạn chế.
Quy định điều kiện thực hiện kinh doanh chứng khoán phái sinh chặt chẽ nhằm giảm
thiểu rủi ro cho thị trường, tuy nhiên cũng có thể làm hạn chế sự phát triển của thị
179
trường. Khi thị trường đã phát triển hơn, cần nghiên cứu giảm bớt các điều kiện tham
gia thị trường.
Trong quá trình triển khai sản phẩm phái sinh TPCP có thể vừa thực hiện, vừa
rút kinh nghiệm từ đó có điều chỉnh trong việc thiết kế các sản phẩm phái sinh cho phù
hợp với mức độ phát triển của thị trường.
5.2.5.3. Phát hành trái phiếu Chính phủ xanh
Trái phiếu xanh là loại trái phiếu mà số tiền thu được từ việc phát hành trái
phiếu được sử dụng cho việc tài trợ hoặc tái tài trợ một phần hoặc toàn bộ vào dự án
xanh đủ điều kiện cấp vốn. Trái phiếu xanh giống trái phiếu thông thường, cũng có kỳ
hạn, lãi suất, được xếp hạng tín nhiệm (Bộ Nguyên tắc Green Bond Principles).
Tại Việt Nam, trong nghị định số 95/2018/NĐ-CP đã quy định: Trái phiếu xanh
là một loại trái phiếu Chính phủ được phát hành để đầu tư cho các dự án liên quan đến
hoạt động bảo vệ môi trường theo quy định tại Luật Bảo vệ môi trường (dự án xanh)
và nằm trong danh mục dự án được phân bổ vốn đầu tư công theo quy định của Luật
Đầu tư công, Luật Ngân sách Nhà nước. Cũng theo Nghị định này, trái phiếu Chính
phủ xanh tuân theo các điều khoản về tổ chức phát hành, đăng ký, lưu ký, niêm yết và
giao dịch giống như trái phiếu Chính phủ thông thường.
Trái phiếu xanh có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo tính bền vững của thị
trường TPCP bởi tiền thu được từ trái phiếu được đầu tư cho các chương trình phát
triển bền vững, giảm tác động của biến đổi khí hậu, đây là vấn đề đang rất được quan
tâm trên thế giới. Tháng 11 năm 2017, diễn đàn thị trường vốn ASEAN đã công bố
Tiêu chuẩn Trái phiếu Xanh ASEAN (AGBS) dựa trên những nguyên tắc trái phiếu
xanh quốc tế, đồng thời loại bỏ việc cấp vốn cho những dự án liên quan đến nhiên liệu
hoá thạch. Bộ nguyên tắc quốc tế về trái phiếu xanh được Hiệp hội thị trường vốn
quốc tế (ICMA) đưa ra gồm một số nguyên tắc chính như mục đích sử dụng tiền thu
được từ hoạt động phát hành phải được công bố rộng rãi, cần xây dựng quy trình đánh
giá và lựa chọn dự án đủ điều kiện sử dụng vốn từ trái phiếu xanh, đồng thời cần minh
bạch về số tiền thu được từ phát hành trái phiếu xanh thông qua báo cáo thường xuyên
về việc sử dụng và giải ngân cũng như đánh giá hiệu quả sử dụng vốn.
Mặc dù đã được nhắc đến nhưng trái phiếu xanh vẫn chưa thực sự phổ biến trên
thị trường Việt Nam. Để phát triển loại trái phiếu này cần thực hiện một số giải pháp:
180
- Tạo khuôn khổ pháp lý cho việc phát triển trái phiếu xanh, từ quy định phát hành,
đến giao dịch và sử dụng vốn. Ban hành cẩm nang hướng dẫn phát hành, niêm yết,
giao dịch trái phiếu xanh giống như một số nước đã làm như Trung Quốc, Ấn Độ,
trong đó cần quy định rõ ràng tiêu chuẩn xác định trái phiếu xanh và dự án xanh phù
hợp. Các tiêu chuẩn này cần tuân thủ tiêu chuẩn chung của quốc tế và khu vực
ASEAN nhưng cũng cần được điều chỉnh cho phù hợp với đặc điểm riêng của Việt
Nam.
- Chuẩn hoá cơ chế theo dõi, đánh giá, giám sát tiền thu được từ việc phát hành trái
phiếu xanh.
- Tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân về tầm quan trọng của
trái phiếu xanh để hướng tới việc NĐT sẽ cân nhắc đến yếu tố phát triển bền vững khi
thành lập danh mục đầu tư.
- Chính sách thuế áp dụng cho trái phiếu xanh cần ưu đãi nhằm khuyến khích
sự tham gia của các tổ chức phát hành và nhà đầu tư.
- Tăng cường hợp tác với các cơ quan liên quan, các tổ chức quốc tế, học tập
kinh nghiệm các nước để phát triển thị trường.
5.2.5.4. Kéo dài kỳ hạn danh mục trái phiếu Chính phủ
Nghiên cứu và áp dụng kỳ hạn phát hành bình quân của TPCP nhằm đảm bảo
đạt mức kỳ hạn phát hành bình quân tối thiểu hàng năm để vừa huy động được vốn
cho NSNN vừa đảm bảo chi phí vốn không quá cao mà vẫn đảm bảo được kỳ hạn danh
mục nợ TPCP không quá ngắn. Việc Quốc hội giới hạn khối lượng phát hành tại mỗi
kỳ hạn nhằm hạn chế phát hành nhiều TPCP có kỳ hạn ngắn trong bối cảnh nợ công
nước ta đang cao, nợ ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn là để đảm bảo an toàn nợ công và an
ninh tài chính quốc gia. Tuy nhiên khi thị trường đã phát triển hơn thì cần nghiên cứu
loại bỏ các giới hạn đó, để thị trường tự do tuân theo cung cầu. Hơn nữa, việc phát
hành đa dạng các kỳ hạn sẽ giúp hình thành đường cong lãi suất chuẩn và thị trường
trở thành tham chiếu cho thị trường trái phiếu doanh nghiệp.
Bên cạnh việc chú trọng kéo dài kỳ hạn của danh mục nợ, phát hành các TPCP
có kỳ hạn dài thì việc thúc đẩy thanh khoản của các loại trái phiếu này cũng rất quan
trọng. Các thị trường TPCP phát triển sử dụng TPCP có kỳ hạn 10 năm như là một
công cụ tham chiếu. Để khuyến khích tăng thanh khoản của TPCP có kỳ hạn dài trong
tương lai, khi thị trường chứng khoán phái sinh phát triển hơn, nhận thức của NĐT về
181
chứng khoán phái sinh và giao dịch chứng khoán phái sinh tốt hơn, cần triển khai hợp
đồng tương lai trái phiếu Chính phủ đối với TPCP có kỳ hạn dài.
5.2.5.5. Đa dạng cơ sở nhà đầu tư tham gia thị trường
Cơ sở NĐT đa dạng góp phần hạn chế rủi ro liên quan đến nguồn cung cấp vốn,
tạo điều kiện cho hoạt động phát hành trơn tru, đồng thời đảm bảo sự ổn định và thanh
khoản của thị trường (Caputo và cộng sự, 2010) [41]. Đa dạng hoá NĐT sẽ giúp giảm
chi phí nợ của Chính phủ và giảm sự biến động lãi suất thị trường. Nhiều nhà nghiên
cứu đã nhấn mạnh vai trò của đa dạng hoá cơ sở NĐT trong việc thúc đẩy tính thanh
khoản của thị trường bởi tác động của nó đến mức độ cạnh tranh, sự cải thiện của thị
trường (Bank for international settlements, 2002) [31]. Cơ sở NĐT phải bao gồm
nhiều loại NĐT trong nước và nước ngoài với các kỳ hạn đầu tư khác nhau có thể thúc
đẩy sự ổn định và cải thiện sự hiệu quả của thị trường. Do vậy, cần tiếp tục tập trung
tăng quy mô tham gia của các nhà đầu tư dài hạn, giảm dần sự phụ thuộc vào hệ thống
ngân hàng để tăng tính bền vững cho thị trường. Đẩy mạnh sự tham gia của các tổ
chức phi ngân hàng có nguồn vốn dài hạn vào thị trường trái phiếu như bảo hiểm xã
hội, các doanh nghiệp bảo hiểm, các quỹ. Các nhà đầu tư tổ chức này đóng vai trò rất
quan trọng trên thị trường phụ thuộc vào môi trường đầu tư. Một môi trường đầu tư
với nhiều các nhà đầu tư lớn, các quy định mở cho việc lựa chọn đầu tư, cấu trúc tài
chính đa dạng cùng với các yếu tố như công nghệ mới, toàn cầu hoá, và hội nhập khu
vực sẽ ảnh hưởng đến các NĐT tổ chức và tác động của họ đến thị trường TPCP.
Ngoài quy mô và tiềm lực của các NĐT tham gia thị trường thì các quy định về
phạm vi và giới hạn đầu tư đối với từng loại NĐT cũng có vai trò ảnh hưởng quan
trọng. Ở các quốc gia mà quỹ hưu trí và công ty bảo hiểm bị buộc phải đầu tư vào các
TPCP không được giao dịch trên thị trường, thì các tổ chức này không có tác động trực
tiếp đến thị trường vốn. Do đó, để tận dụng được các tổ chức tài chính như các quỹ
đầu tư, các công ty bảo hiểm thì ngoài những chính sách thúc đẩy sự tăng trưởng của
các tổ chức này như đã nêu ở phần trên, các quy định trên thị trường cần được điều
chỉnh theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho sự tham gia của các NĐT tiềm năng. Yêu
cầu của các NĐT tổ chức đối với thị trường vượt xa yêu cầu thuần tuý là hoàn trả đầy
đủ và an toàn. Những NĐT này tìm kiếm sự minh bạch và tính thị trường hơn ở trên cả
thị trường sơ cấp và thứ cấp. Họ tìm kiếm chi phí giao dịch thấp và khuyến khích giao
dịch và thanh toán hiệu quả. Hiện nay theo quy định NĐT tham gia giao dịch trái
182
phiếu đều phải qua các CTCK môi giới, mua bán trái phiếu chủ yếu là các tổ chức lớn
như công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư, ngân hàng thương mại. Do mức chênh lệch khi
buôn bán trái phiếu không cao như cổ phiếu, lại thêm phí môi giới nếu phải trả sẽ làm
sụt giảm lợi nhuận của NĐT. Vì vậy giao dịch TPCP vẫn chưa thực sự hấp dẫn. Do đó,
có thể xem xét cho phép một số tổ chức đầu tư lớn và chuyên nghiệp được mua bán
trái phiếu trực tiếp mà không cần thông qua môi giới.
Ngoài ra, Chính phủ và các cơ quan quản lý thị trường TPCP cần tạo lập kênh
đối thoại thường xuyên với nhà đầu tư như các hội nghị, hội thảo được tổ chức định
kỳ. Đây sẽ là cầu nối với nhà đầu tư, giúp Chính phủ và các cơ quan quản lý thị trường
TPCP nắm bắt nhu cầu của từng loại nhà đầu tư, giải quyết những vấn đề vướng mắc
kịp thời.
Giải pháp đối với các nhà đầu tư phi tài chính
Bên cạnh các tổ chức tài chính thì tiếp cận với các nhà đầu tư phi tài chính như
các công ty, doanh nghiệp và NĐT nhỏ lẻ sẽ giúp đa dạng hoá cơ sở NĐT cho thị
trường TPCP.
Nhóm các NĐT phi tài chính đầu tiên là các tổ chức phi tài chính như công ty
thương mại, hay công ty công nghiệp. Các công ty này không phải là những NĐT dài
hạn cho TPCP nhưng họ sử dụng thị trường TPCP để quản lý hiệu quả các tài sản có
tính lỏng của mình. Các tổ chức phi tài chính có tác động tích cực đến sự phát triển
của thị trường tiền tệ thông qua một công cụ hiệu quả đó là nghiệp vụ repo, cho phép
đầu tư vào các TP dài hạn nhưng được chuyển thành các công cụ ngắn hạn.
Nhóm thứ hai là nhà đầu tư nhỏ lẻ. Đáp ứng nhu cầu của các NĐT nhỏ lẻ là một
phần tất yếu của một chiến lược tổng thể để phát triển một cơ sở NĐT đa dạng. Các
nhà đầu tư lẻ làm tăng tổng cầu đối với TPCP và là những người nắm giữ các công cụ
tài chính này ổn định. Chính phủ cần cân nhắc chi phí xử lý và phân phối để tiếp cận
với thị trường bán lẻ trực tiếp. Thu hút các NĐT cá nhân gián tiếp thông qua các quỹ
tương hỗ có thể làm giảm bớt chi phí bằng cách điều chỉnh thuế thu nhập cá nhân giữa
tiền gửi tiết kiệm và tiền đầu tư vào quỹ đầu tư trái phiếu. Phát triển hệ thống giao dịch
điện tử TPCP có thể giúp mở rộng cơ sở NĐT đến các NĐT nhỏ lẻ. Việc cung cấp
công cụ nào cho phân khúc bán lẻ cần được cân nhắc dựa vào chiến lược phát hành nợ
tổng thể của Chính phủ. Một thị trường thứ cấp phát triển sâu rộng có thể giúp tiếp cận
183
đối tượng NĐT này. Tuy nhiên để phát triển được thị trường thứ cấp như vậy thì phải
phát hành được các công cụ tiêu chuẩn có thể giao dịch được trên thị trường.
Giải pháp đối với nhà đầu tư nước ngoài
NĐT nước ngoài đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của thị trường
TPCP. Đồng thời trong bối cảnh hội nhập tài chính, việc tham gia của NĐT nước
ngoài có ý nghĩa quan trọng. Ngoài việc góp phần đưa các sản phẩm mới vào thị
trường nội địa, tăng mức cạnh tranh và tăng hiệu quả hoạt động của thị trường, NĐT
nước ngoài còn đóng góp làm tăng tính thanh khoản và kéo dài kỳ hạn trung bình của
TPCP. Đồng thời khi giao dịch tại thị trường trong nước, NĐT nước ngoài cũng sử
dụng các kỹ thuật giao dịch phức tạp mà sẽ nhanh chóng được học tập và triển khai tại
các nước chủ nhà. Từ đó, nhiều cải tiến trên thị trường sẽ được thực hiện. Thông qua
các chiến lược kinh doanh và đầu tư bài bản và chuyên nghiệp, các NĐT nước ngoài
làm tăng tính thanh khoản của thị trường thông qua các hoạt động kinh doanh chênh
lệch giá và đa dạng hoá danh mục đầu tư.
Điều kiện tiên quyết để có thể thu hút NĐT nước ngoài tham gia vào thị trường
là phải tự do hoá tài chính và có nền tảng kinh tế vĩ mô tốt (Caputo và cộng sự, 2010)
[40]. Các chính sách vĩ mô như tỷ giá, quản lý dòng vốn cần được tính toán điều chỉnh
để tạo động lực thu hút NĐT nước ngoài. Bên cạnh đó, cần cải thiện nền tảng kinh tế
vĩ mô, đồng thời tinh giản các thủ tục, điều kiện tham gia thị trường của NĐT nước
ngoài. Các thủ tục hành chính tuân theo tiêu chuẩn quốc tế sẽ tạo điều kiện cho NĐT
tham gia vào thị trường, đồng thời hỗ trợ nhà nước quản lý thị trường tốt hơn.
Bên cạnh đó, cần minh bạch thị trường hơn, điều chỉnh giảm các chi phí tham
gia thị trường của NĐT nước ngoài, tạo môi trường đầu tư công bằng, hạn chế phân
biệt đối xử giữa nhà đầu tư trong và ngoài nước. Vấn đề thuế áp dụng đối với NĐT
nước ngoài ở Việt Nam kinh doanh TPCP trên thị trường Việt Nam cần được xem xét,
đánh giá lại. NĐT nước ngoài khi đầu tư vào trái phiếu ở Việt Nam chịu mức thuế khi
chuyển nhượng chứng khoán là 0,1% trên tổng doanh thu thu được từ bán chứng
khoán tại thời điểm chuyển nhượng. Mức thuế này áp dụng như nhau giữa NĐT trong
nước và nước ngoài, và với mọi loại chứng khoán gồm cả cổ phiếu, TPCP, TP doanh
nghiệp. Tuy nhiên thị trường thứ cấp TPCP Việt Nam là một thị trường còn non trẻ và
kém phát triển, nền tảng nhà đầu tư còn kém, thì chính sách thuế nên được điều chỉnh
theo hướng thu hút NĐT nước ngoài. Thực tế, hầu hết các thị trường trái phiếu phát
184
triển đều không đánh thuế hoặc đánh thuế rất thấp đối với hoạt động đầu tư vào TPCP
của các NĐT nước ngoài vì thực chất mức thuế này sẽ bị đưa vào giá và đẩy chi phí
huy động vốn của Chính phủ lên cao, tác động làm chênh lệch giữa giá mua- giá bán,
làm giảm khối lượng giao dịch. Ngoài ra, nhà đầu tư nước ngoài yêu cầu sự ổn định
trong chính sách thuế, phí. Sự bất ổn định trong chính sách thuế phí dẫn đến sự biến
động trong mức sinh lời và rủi ro của danh mục đầu tư của NĐT đồng thời thể hiện
môi trường đầu tư kém ổn định, tiềm ẩn nhiều rủi ro, từ đó không hấp dẫn được NĐT
nước ngoài.
Bên cạnh những lợi ích đem lại, NĐT nước ngoài cũng đem lại một số rủi ro
cho thị trường TPCP. Sự tham gia của họ làm cho nền kinh tế nước chủ nhà dễ bị biến
động hơn. Nếu nền kinh tế nước phát hành TPCP có dấu hiệu xấu đi, chính sách tài
khoá yếu kém, hệ thống ngân hàng kém cỏi, và thị trường nội địa bị bóp méo thì các
NĐT nước ngoài có xu hướng sẽ rút lui đột ngột ra khỏi thị trường, tạo một lỗ hổng
trong hệ thống tài chính của quốc gia. Vì vậy cần có những biện pháp để hạn chế các
dòng vốn ngắn hạn từ nước ngoài và khuyến khích các dòng vốn dài hạn vào thị
trường như đánh thuế vào dòng vốn ngắn hạn, yêu cầu các ngân hàng và người môi
giới tăng phí và yêu cầu thế chấp.
5.2.5.6. Tăng độ sâu của thị trường trái phiếu Chính phủ
Tiếp tục phát triển thị trường mua bán lại trái phiếu chính phủ (repo) để làm
tăng tính thanh khoản trên thị trường thứ cấp và khẳng định chiều sâu trong phát triển
thị trường. Xây dựng khung pháp lý thống nhất về hoạt động repo. Để phát triển thị
trường mua lại repo, các cơ quan chức năng cần bảo đảm quản lý được các yếu tố liên
quan đến giao dịch và kiểm soát rủi ro:
+ Vấn đề thanh toán và chuyển giao trái phiếu: Người bán được yêu cầu chuyển thanh
toán toàn bộ số TP cho người mua vào ngày mua và người mua được yêu cầu chuyển
toàn bộ số TP cho người bán vào ngày mua lại. Thanh toán phải được thực hiện bằng
nguồn vốn sẵn có và chứng khoán phải được chuyển giao tự động vào hệ thống ghi sổ.
+ Ký quỹ: Các khoản ký quỹ là các khoản thanh toán bằng tiền hoặc chứng khoán
được thực hiện trong suốt thời gian tồn tại của hợp đồng repo căn cứ vào sự biến động
của giá thị trường của tài sản cơ sở. Khoản ký quỹ bổ sung có thể làm giảm tổn thất
tiềm ẩn liên quan đến rủi ro tín dụng khi giá của TP cơ sở giảm. Tuy nhiên các điều
khoản ký quỹ bổ sung này chỉ được thực hiện khi thị trường thứ cấp đủ phát triển để
185
cung cấp được thường xuyên mức giá thị trường. Trong thị trường mới, việc sử dụng
repo sẽ gặp hạn chế.
+ Thay thế trái phiếu: các bên tham gia giao dịch repo có thể đồng ý cho phép người đi
vay thay thế chứng khoán trong giao dịch repo bằng một chứng khoán khác trong suốt
thời gian tồn tại của hợp đồng repo. Không có nhiều lợi ích cho người cho vay tiền
mặc dù họ nhận được chứng khoán khác có giá trị bằng hoặc lớn hơn giá trị của chứng
khoán cơ sở cũ. Tuy nhiên lợi ích đối với bên đi vay là rất lớn bởi nó cho phép họ
lấy lại và bán chứng khoán đang tạm thời bị bán theo hợp đồng repo. Chứng khoán
đó có thể đang có một lượng cầu lớn và mức giá tốt. Nếu trái phiếu đó được repo,
những nhà kinh doanh TP sẽ thay thế TP đó bằng một TP khác mà cầu của nó ít
hơn. Việc thay thế sẽ phát sinh chi phí giao dịch và yêu cầu sự đồng ý của cả 2 bên
tham gia hợp đồng.
+ Xử lý các khoản thanh toán lãi trái phiếu: Nếu phát sinh khoản thanh toán lãi trái
phiếu trong quá trình thực hiện repo thì người mua phải chuyển khoản thanh toán đó
cho người bán. Việc này sẽ làm đơn giản hoá việc định giá tài sản cơ sở và giảm động
cơ kinh doanh chệnh lệch giá khi trái phiếu gần đến ngày trả lãi coupon. Một vấn đề
cần quan tâm ở đây là thuế đối với việc mua lại. Để tránh làm bóp méo mục đích của
công cụ repo thì hợp đồng mua lại phải được coi là khoản vay mà thu nhập được tạo ra
từ lãi hoặc chi phí. Và thuế chỉ được tính trên thu nhập đó.
+ Hợp đồng mua bán lại cần xây dựng mẫu cho NĐT tham khảo sử dụng khi thực hiện
mua bán lại. Mẫu hợp đồng cần được thiết kết hợp lý, đầy đủ các nội dung, là cơ sở
cho NĐT tham khảo. Một hợp đồng repo sẽ phải quy định rõ các điều khoản: tư cách
của các bên tham gia giao dịch, quyền hạn và nghĩa vụ của mỗi bên, tài sản đảm bảo,
tài sản dùng để repo, cách tính lãi suất repo, thời hạn của hợp đồng, phương pháp định
giá lại chứng khoán cơ sở, các điều khoản xử lý các vấn đề có thể phát sinh trong thời
gian thực hiện repo...Khung hợp đồng repo cần được thường xuyên cập nhật cho phù
hợp với tốc độ phát triển của thị trường trái phiếu trong nước và những biến động trên
thị trường thế giới.
- Tiếp tục phát triển các loại hình giao dịch cao cấp hơn như giao dịch bán khống
nhằm đa dạng hoá các hình thức đầu tư tìm kiếm lợi nhuận và phòng ngừa rủi ro cho
NĐT. Cơ chế pháp lý cho giao dịch bán khống đã có tại thông tư 10/2017/TT-BTC.
Theo đó, chỉ có các thành viên giao dịch là thành viên đấu thầu TPCP được vay TPCP
186
để bán theo quy chế của Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội, thời hạn vay không vượt
quá 180 ngày, và không được vượt quá thời hạn còn lại tới khi đáo hạn của TPCP,
khoản vay phải được hoàn trả bằng TPCP đã vay, trong trường hợp không có đủ TPCP
đã vay thì được trả bằng TPCP tương đương có thể chuyển giao, các bên liên quan tự
thoả thuận, chịu trách nhiệm về các nội dung liên quan đến khối lượng vay, tài sản vay
và hoàn trả, tài sản đảm bảo, lãi suất vay và các điều khoản khác. Mặc dù vậy, để thúc
đẩy giao dịch bán khống và đảm bảo an toàn và hiệu quả thì cần có một khuôn khổ
pháp lý chặt chẽ từ quy trình thực hiện cho đến quản lý, giám sát như lựa chọn loại
TPCP được phép thực hiện bán khống, quy định khối lượng giao dịch tối đa, thời hạn
giao dịch, hình thức giao dịch, các biện pháp kiểm soát khả năng thanh toán của các
bên tham gia hợp đồng. Bán khống có thể thúc đẩy tính thanh khoản và tăng hiệu quả
của thị trường. Bán khống là công cụ để thực hiện các chiến lược kinh doanh phức tạp,
bao gồm cả kinh doanh chênh lệch giá và phòng ngừa rủi ro, góp phần hình thành giá
hiệu quả, khuyến khích NĐT tham gia ngay cả khi thị trường đi xuống bởi nó cung cấp
cho NĐT công cụ để quản lý rủi ro. Hơn nữa, các nhà kinh doanh có thể cung cấp dịch
vụ chuyển đổi tài sản và thời gian đáo hạn tốt hơn.
- Xây dựng và phát triển thị trường giao dịch trái phiếu phi tập trung, đầu tiên là đối
với TPCP. Hầu hết các nước có thị trường trái phiếu phát triển, hoạt động giao dịch
trái phiếu diễn ra trên cả thị trường tập trung và phi tập trung. Để đảm bảo cho thị
trường được vận hành hiệu quả, bảo vệ nhà đầu tư khi xây dựng thị trường phi tập
trung cần tăng cường công tác giám sát giao dịch, công bố thông tin, nâng cao hiệu
quả hoạt động của thị trường. Ứng dụng hệ thống công nghệ thông tin hiện đại nhằm
đáp ứng nhu cầu giao dịch từ xa, rút ngắn khoảng cách không gian và thời gian cho
các nhà đầu tư.
5.2.6. Tăng cường tính minh bạch của thị trường
Theo yêu cầu hội nhập thị trường vốn trong ASEAN, Tiêu chuẩn Công bố
ASEAN được đưa ra nhằm hài hoà các yêu cầu công bố thông tin trong khu vực hôi
nhập. Ba quốc gia tham gia đầu tiên là Thái Lan, Malaysia và Singapore, sau đó các
quốc gia khác cũng sẽ tham gia thực hiện trong tương lai. Đứng trước yêu cầu của hội
nhập và yêu cầu phát triển thị trường TPCP, một số giải pháp cần thực hiện như:
- Nâng cao chất lượng các thông tin công bố trên thị trường. Việc công bố thông tin
cần đảm bảo tính đầy đủ, tính chính xác, và tính kịp thời theo quy định của pháp luật.
187
- Để đảm bảo và duy trì sự hiệu quả của thị trường TPCP, các cơ quan chức năng cần
cung cấp thông tin kịp thời và chính xác về ngân sách, cấu trúc nợ công và thông tin
liên quan đến thị trường TPCP. Tăng cường phối hợp giữa các bộ ban ngành gồm Bộ
Tài Chính, NHNN trong việc công bố thông tin về phát hành TPCP từ cơ chế chính
sách, kế hoạch phát hành, lịch biểu phát hành, kết quả phát hành, đến tình hình thu chi
NSNN. Hệ thống công khai thông tin như trang web của Bộ Tài chính cần cập nhật
thông tin thường xuyên hơn. Trên thị trường thứ cấp, theo kinh nghiệm của một số thị
trường TPCP phát triển, nhằm tăng tính minh bạch của thị trường và hỗ trợ NĐT cần
công bố hàng ngày giá TPCP, chỉ số TPCP, cách tính toán làm cơ sở cho NĐT tham
khảo, phát triển một số chỉ số TPCP chuẩn để khuyến khích đa dang hoá danh mục đầu
tư của NĐT, công khai một hệ thống so sánh giữa lãi suất và giá TPCP trong ngày
trước và sau khi giao dịch (Caputo và cộng sự, 2010) [40].
- Xây dựng một trang thông tin điện tử chuyên biệt, thống nhất, chuyên cung cấp các
thông tin liên quan đến thị trường trái phiếu, trước tiên là trái phiếu chính phủ, từ kế
hoạch phát hành, thực hiện phát hành, kết quả phát hành cho đến hoạt động giao dịch.
Hoạt động công bố thông tin về thị trường TPCP hiện nay còn rời rạc, chưa thành hệ
thống, mỗi cơ quan chức năng công bố một vài thông tin liên quan như KBNN công
bố thông tin về kế hoạch, lịch biểu và kết quả phát hành TPCP, SGDCK Hà Nội công
bố thông tin liên quan đến đấu thầu trái phiếu chính phủ, niêm yết, giao dịch TPCP và
thông tin liên quan đến hệ thống chỉ báo của thị trường.
- Hoàn thiện hệ thống chỉ báo thị trường như đường cong lợi suất, chỉ số trái phiếu.
Phát hành đa dạng kỳ hạn TPCP giúp thiết lập đường cong lãi suất chuẩn cho các sản
phẩm tài chính từ ngắn hạn đến dài hạn. Xây dựng các mã trái phiếu Chính phủ chuẩn,
đảm bảo tính đại diện cho thị tường, thể hiện ở mức độ thanh khoản cao và được yết
giá thường xuyên với khối lượng chào mua chàn bán đủ lớn nhằm tạo ra đường cong
lợi suất chuẩn.
- Ngoài ra cũng cần có các quy định rõ ràng để ngăn ngừa hành vi gian lận, thao túng
thị trường. Các quy tắc này có thể được thiết lập bởi các cơ quan quản lý hoặc thông
qua các hiệp hội tham gia thị trường.
5.2.7. Kiến nghị thực hiện
Quá trình phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ cần có sự tham gia của các cấp,
các ngành. Sự tham gia của các cơ quan chức năng liên quan vào thị trường TPCP cần
188
được phân định rõ trách nhiệm để tránh sự chồng chéo trong chức năng, nhiệm vụ vận
hành thị trường, đồng thời cần nâng cao vai trò, trách nhiệm của từng đơn vị.
- Quốc hội có trách nhiệm giám sát tổng nợ quốc gia, phê chuẩn mức vay nợ hàng năm
và quyết định các công trình trọng điểm quốc gia cần huy động vốn bằng nguồn vốn
thu được từ phát hành trái phiếu. Vấn đề này đã được pháp luật quy định rõ ràng
nhưng trong quá trình thực hiện cần có biện pháp nhằm nâng cao năng lực giám sát
quản lý nợ công của Quốc hội. Quốc hội thực hiện đánh giá nợ công dựa trên báo cáo
của Chính phủ về việc thực hiện ngân sách Nhà nước và nợ công. Cần quy định rõ
ràng về việc công khai chính xác những nội dung trong báo cáo Chính phủ trình Quốc
hội để các đại biểu Quốc hội có đủ thông tin cần thiết để xem xét đánh giá toàn diện và
cụ thể tình hình nợ công. Đồng thời, cần đánh giá và xác định trách nhiệm rõ ràng của
các cơ quan, hay cá nhân có liên quan trong công tác quản lý, điều hành của Chính phủ
trong thực hiện quản lý nợ công.
- Chính phủ có trách nhiệm thống nhất quản lý nợ công, các khoản vay nợ của Chính
phủ. Trong đó, Bộ Tài chính được giao là cơ quan đầu mối trong quản lý nợ công. Bộ
Tài chính hoạch định các chính sách, đề xuất nhằm xây dựng và phát triển thị trường
trái phiếu. Bộ Tài chính chịu trách nhiệm trong việc tổ chức phát hành, sử dụng vốn và
thanh toán trái phiếu khi đến hạn.
- Ngân hàng Nhà nước phối hợp với Bộ Tài chính trong việc xây dựng đề án phát hành
và tổ chức phát hành trái phiếu quốc tế, thực hiện chức năng thanh toán tiền giao dịch
TPCP. Đồng thời kết hợp quản lý hoạt động của các tổ chức tài chính, cấp phép, giám
sát và quản lý hoạt động kinh doanh trái phiếu của các ngân hàng thương mại. Bên
cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước phối hợp chặt chẽ với Bộ Tài chính trong thực hiện
chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá cho phù hợp, tính toán thời điểm phát hành
TPCP phù hợp không gây áp lực lên chính sách tiền tệ. Đây là nền tảng quan trong cho
phát triển thị trường TPCP.
- Uỷ ban chứng khoán Nhà nước thực hiện hoạt động quản lý, giám sát thị trường từ
quản lý hoạt động phát hành và giao dịch, giám sát hoạt động của tổ chức lưu ký và
thanh toán bù trừ.
- Sở giao dịch chứng khoán thực hiện tổ chức đấu thầu phát hành TPCP, kiểm soát
hoạt động của các thành viên thị trường, quản lý hoạt động niêm yết và giao dịch trái
phiếu, đảm bảo minh bạch thông tin bảo vệ nhà đầu tư, kiểm soát các hoạt động liên
189
quan đến đầu tư trái phiếu, hạn chế gian lận. Đồng thời nâng cấp cơ sở hạ tầng cho
hoạt động phát hành và giao dịch TP cho cập nhật và đồng bộ với thị trường quốc tế.
- Nghiên cứu thành lập một ban chuyên trách nhằm phát triển thị trường trái phiếu.
Thành viên của ban này có thể bao gồm đại diện của Bộ Tài Chính, đại diện Ngân
hàng Nhà nước, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước, Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội,
Hiệp hội kinh doanh trái phiếu và thành viên thị trường. Cơ quan này có trách nhiệm
nghiên cứu và tư vấn cho các cơ quan quản lý Nhà nước trong việc hoạch định chiến
lược phát triển, đề xuất các chính sách, giải pháp để phát triển thị trường. Định kỳ, ban
này có trách nhiệm nghiên cứu lựa chọn tiêu chuẩn nhà kinh doanh trái phiếu cấp 1
cho phù hợp với những thay đổi trên thị trường, đồng thời đề xuất các chính sách phát
triển thị trường phù hợp với từng giai đoạn.
190
KẾT LUẬN CHƯƠNG 5
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn đã phân tích ở các chương trước trong luận án và
định hướng phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ trong thời gian tới, một hệ thống
các giải pháp nhằm phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ Việt Nam trong bối cảnh
HNTC đã được đưa ra trong chương 5. Hệ thống giải pháp đưa ra đồng bộ và có tính
thực tiễn cao bao gồm các giải pháp chính như phát triển thị trường TPCP gắn với phát
triển kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, tăng cường sự tín nhiệm của Chính phủ
với tư cách là chủ thể phát hành TPCP, phát triển hệ thống tài chính tạo nền tảng cho
sự phát triển bền vững thị trường TPCP, tăng cường nội lực cho thị trường hướng tới
phát triển bền vững, tăng cường tính minh bạch cho thị trường. Đồng thời, luận án
cũng đưa ra kiến nghị thực hiện giải pháp phát triển thị trường TPCP Việt Nam.
191
KẾT LUẬN
Thị trường trái phiếu Chính phủ có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh
tế- xã hội của một quốc gia. Phát triển thị trường TPCP là vấn đề nhận được sự quan
tâm của nhiều nước trên thế giới. Các nghiên cứu trước đây về phát triển thị trường
TPCP đã đóng góp về mặt lý luận và thực tiễn. Bên cạnh đó, HNTClà xu hướng đã và
đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu. HNTC có tác động đến thị trường tài chính nói
chung và thị trường TPCP nói riêng theo qua nhiều kênh. Nghiên cứu về HNTCvà
những tác động của HNTCđến một số khía cạnh của thị trường TPCP đã được nhiều
nghiên cứu trước đây thực hiện. Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có một nghiên cứu
nào về phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ trong bối cảnh hội nhập tài chính.
Hơn nữa, các nghiên cứu về thị trường TPCP Việt Nam trước đây thiếu tính cập nhật,
không còn phù hợp với bối cảnh hội nhập tài chính. Như vậy, các nghiên cứu trước
đây vẫn còn hạn chế và có những khoảng trống nghiên cứu như đã phân tích.
Luận án đã tổng hợp và hệ thống lại cơ sở lý luận về vấn đề phát triển thị
trường TPCP trong bối cảnh hội nhập tài chính, trong đó đã xây dựng được bộ chỉ tiêu
đánh giá mức độ phát triển của thị trường TPCP trong bối cảnh hội nhập tài chính. Sau
đó luận án đã phân tích thực trạng phát triển của thị trường TPCP Việt Nam từ những
ngày đầu thành lập đến hết năm 2017 bao gồm các nội dung cơ sở pháp lý cho thị
trường, hoạt động phát hành và giao dịch TPCP, lãi suất phát hành và giao dịch, cơ sở
NĐT, hàng hoá, cơ sở hạ tầng, vấn đề kỷ luật thị trường và quản lý nợ công. Nghiên
cứu sinh đã đánh giá mức độ phát triển của thị trường TPCP Việt Nam trong bối cảnh
HNTC sử dụng bộ chỉ tiêu đánh giá đã xây dựng ở chương 2. Những kết quả đạt được
và những tồn tại hạn chế trong phát triển thị trường cùng với nguyên nhân được nêu ra
trong phần cuối chương 3 của luận án.
Luận án sử dụng mô hình kinh tế lượng để xác định các nhân tố tác động đến sự phát
triển của thị trường TPCP, chiều tác động và mức độ tác động của từng nhân tố. Thông
qua kết quả kiểm định, hội nhập tài chính, quy mô nền kinh tế, quy mô hệ thống ngân
hàng, sự ổn định của chính phủ có mối quan hệ cùng chiều với quy mô thị trường
TPCP trong khi cân bằng tài khoá, chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất huy động có
quan hệ ngược chiều.
192
Thông qua đánh giá thực trạng thị trường TPCP Việt Nam và kết quả kiểm định
các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường TPCP trong bối cảnh hội nhập tài chính, luận án
đã đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển thị trường TPCP trong bối cảnh hội nhập
tài chính. Các giải pháp đưa ra nhằm cải thiện theo hướng tích cực các nhân tố có ảnh
hưởng đến sự phát triển của thị trường TPCP đã phân tích ở các chương trước đó.
Tóm lại, luận án đã giải quyết được các câu hỏi nghiên cứu và mục tiêu nghiên
cứu đã đề ra. Nghiên cứu sinh mong muốn thông qua luận án đóng góp một phần công
sức và kiến thức vào việc đề xuất các giải pháp nhằm phát triển thị trường TPCP trong
bối cảnh HNTC hơn nữa. Do hạn chế về khả năng tiếp cận số liệu cũng như khả năng
nghiên cứu nên luận án có thể vẫn có những hạn chế thiếu sót. Do vậy, nghiên cứu
sinh mong nhận được sự ý kiến đánh giá của các nhà khoa học để những kiến thức
trong luận án trở nên hoàn thiện hơn.
193
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Bùi Thị Thanh Tình. (2013). Tự do hoá tài chính ở Việt Nam – Thực trạng và giải
pháp. Luận án tiến sĩ kinh tế. Học Viện Ngân Hàng. Hà Nội
2. Dương Minh Đức. (2009). Hoàn thiện hệ thống thanh toán giao dịch TPCP tại thị
trường chứng khoán Việt Nam. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Uỷ ban chứng khoán
nhà nước. Hà Nội.
3. Lê Anh Tuấn. (2011). Phát triển thị trường TPCP ở Việt Nam. Luận án tiến sĩ. Học
Viện Tài Chính. Hà Nội
4. Lê Hồng Giang. (2012). Thị trường trái phiếu Việt Nam và kinh nghiệm quốc tế.
5. Lê Thị Hồng Minh, Hoàng Thị Phương Anh, Nguyễn Bùi Hạnh Duyên. (2016).
Kiểm định mối quan hệ HNTC giữa thị trường chứng khoán Đông Nam Á và thị
trường chứng khoán toàn cầu. Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế: Phát triển bền vững
thị trường tài chính Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Nhà xuất bản Dân trí.
6. Lê Thị Khương, 2016. Bàn về nợ công Việt Nam hiện nay. Tạp chí Ngân hàng, số
21. Ngân hàng nhà nước.
7. Nguyễn Ngọc Cảnh. (2005). Xây dựng lộ trình hội nhập thị trường vốn Việt Nam
với thị trường vốn các nước trong khu vực trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế đến
năm 2010. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp uỷ ban chứng khoán nhà nước. Hà Nội.
8. Nguyễn Toàn Thắng. (2010). Lý luận và thực tiễn về tự do hoá các giao dịch vốn và
sự ổn định khu vực tài chính Việt Nam: khuôn khổ chính sách đến năm 2020. Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp nhà nước.
9. Nguyễn Thị Hoàng Lan. (2011). Xây dựng đường cong lợi suất chuẩn của TPCP
Việt Nam. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Uỷ ban chứng khoán nhà nước. Hà Nội.
10. Nguyễn Thu Thuỷ. (2017). Thuận lợi và thách thức trong phát triển thị trường
chứng khoán phái sinh Việt Nam. Tạp chí Ngân hàng, số 11.
11. Tô Kim Ngọc. (2007). Hoàn thành các điều kiện cho việc xây dựng đường cong lãi
suất chuẩn của Việt Nam. Đề tài cấp ngành ngân hàng. Hà Nội.
12. Tô Kim Ngọc. (2009). Xây dựng đường cong lợi suất chuẩn của Việt Nam. Đề tài
cấp ngành ngân hàng. Hà Nội.
13. Tô Thị Thanh Trúc. (2016). Khu vực tài chính Việt Nam trong bối cảnh HNTC
ASEAN. Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ, 19(1Q), 129-142.
194
14. Trần Thị Thái Hà. (2006). Tự do hoá tài chính: Lý luận, kinh nghiệm quốc tế và
những vấn đề đặt ra cho Việt Nam. Đề tài nghiên cứu khoa học. Hà Nội
15. Trần Văn Dũng. (2007). Phát triển thị trường thứ cấp TPCP tại Việt Nam. Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Uỷ ban chứng khoán nhà nước. Hà Nội.
16. Trần Xuân Hà. (2004). Sử dụng công cụ TPCP để huy động vốn cho đầu tư phát
triển ở Việt Nam. Học Viện Tài Chính. Hà Nội
17. Trịnh Mai Vân. (2005). Phát triển thị trường TPCP ở Việt Nam. Luận văn thạc sĩ.
Trường đại học kinh tế quốc dân. Hà Nội
18. Trịnh Mai Vân, 2010. Phát triển thị trường trái phiếu ở Việt Nam. Luận án tiến sĩ.
Trường đại học kinh tế quốc dân.
19. Trương Thái Phương. (2002). Cơ sở lý luận và thực tiễn phát hành TPCP ra quốc
tế. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ. Hà Nội.
Tiếng Anh
20. Abad, P., Chulia, H., & Gomez-Puig, M. (2010). EMU and European government
bond market integration. Journal of Banking & Finance, 34(12), 2851-2860.
21. Abdullatif, E. M. A. (2009). Development of Government Bonds Market in
Iraq:(application of Japan's Experiences to Iraq). Institute of Developing Economies,
Japan External Trade Organization.
22. ADB. (2012). Thailand bond market guide
23. ADB. (2016). Asean + 3 bond market guide- Japan. http://www.adb.org
24. Adelegan, O. J., & Radzewicz-Bak, B. (2009). What determines bond market
development in sub-Saharan Africa?(No. 9-213). International Monetary Fund
25. Agenor, P. R. (2001). Benefits and costs of international financial integration:
theory and facts. The World Bank.
26. Alesina, A., V. Grilli, and G. M. Milesi-Ferrett., 1993. The Political Economy of
Capital Controls. Working Paper 4353, National Bureau of Economic Research.
27. Allen, F. and D. Gale, 2000. Financial contagion. Journal of Political Economy,
Vol. 108 (1), pp. 1-33
28. Arvai, Z., & Heenan, G. (2008). A Framework for Developing Secondary Markets
for Government Securities (No. 8-174). International Monetary Fund.
29. Asian Development bank. 2013. The road to ASEAN financial integration: A
combined study on assessing the financial landscape and formulating milestones for
195
monetary and financial integration in ASEAN. Mandaluyong City, Philippines: Asian
Development Bank, 2013.
30. Baele, L., Ferrando, A., Hördahl, P., Krylova, E. and Monnet, C. 2004. Measuring
Financial Integration in the Euro Area. European Central Bank Occasional Paper
Series No. 14.
31. Balkan, E. M. (1992). Political instability, country risk and probability of
default. Applied Economics, 24(9), 999-1008.
32. Bank for International Settlements (2002). The Development of Bond Markets in
Emerging Economies. BIS Papers No. 11.
33. Bhattacharyay, B. N. (2011). Bond market development in Asia: An empirical
analysis of major determinants.
34. Blommestein, H. J., Harwood, A., Anderson, P., & Pazarbasioglu, C. (2009).
Secondary market liquidity in domestic debt markets. OECD Journal: Financial
Market Trends, 2008(2), 1-6.
35. Bolton, P., & Jeanne, O., 2011. Sovereign default risk and bank fragility in
financially integrated economies. IMF Economic Review, 59(2), 162-194.
36. Bonfiglioli, A., 2008. Financial Integration, Productivity and Capital
Accumulation. Journal of International Economics, 76: 337-55.
37. Borensztein, Eduardo, José De Gregorio, and Jong-Wha Lee. 1998. How Does
Foreign Direct Investment Affect Growth?. Journal of International Economics, Vol.
45 (June), pp. 115–35.
38. Brewer, T. L., & Rivoli, P. (1990). Politics and perceived country creditworthiness
in international banking. Journal of Money, Credit and Banking, 22(3), 357-369.
39. Broos, M. L. F. 2010. Financial integration and its effect on bond yield sensitivity
to debt.
40. Brouwer, G. 2005. Monetary and Financial Integration in Asia: Empirical
Evidence and Issues. Asia Economic Cooperation and Integration, Manila: Asia
Development Bank.
41. Burger, J. D., Warnock, F. E., & Warnock, V. C. (2015). Bond market
development in developing Asia.
42. Caputo Silva, A., Oliveira de Carvalho, L., & Ladeira de Medeiros, O. (2010).
PUBLIC DEBT: the Brazilian experience.
196
43. Chari V. and Kehoe P., 2007. On the need for fiscal constraints in a monetary
union. Journal of Monetary Economics, 54(8), 2399-2408.
44. Chen, J., & Quang, T. 2012. International financial integration and economic
growth: new evidence on threshold effects.
45. Chen, J., & Quang, T. (2014). The impact of international financial integration on
economic growth: New evidence on threshold effects. Economic Modelling, 42, 475-
489.
46. Citron, J. T., & Nickelsburg, G. (1987). Country risk and political
instability. Journal of Development Economics, 25(2), 385-392.
47. Claessens, S., Klingebiel, D., & Schmukler, S. L. (2003). Government bonds in
domestic and foreign currency: the role of macroeconomic and institutional
factors (Vol. 3789). Centre for Economic Policy Research.
48. Claessens, S., Klingebiel, D., & Schmukler, S. L. (2007). Government bonds in
domestic and foreign currency: the role of institutional and macroeconomic
factors. Review of International Economics, 15(2), 370-413.
49. Claeys, P., Moreno, R., & Suriñach, J. (2010). Fiscal policy and interest rates: the
role of financial and economic integration. In Progress in Spatial Analysis (pp. 311-
336). Springer, Berlin, Heidelberg.
50. Claeys, P., Moreno, R., & Suriñach, J. (2012). Debt, interest rates, and integration
of financial markets. Economic Modelling, 29(1), 48-59.
51. Delisle Worrell and Julia Jhinkoo. 2009. Formal and informal financial integration
in the Caribbean.
52. Duyvesteyn, J., Martens, M., & Verwijmeren, P. (2016). Political risk and
expected government bond returns. Journal of Empirical Finance, 38, 498-512.
53. Eaton, J., & Gersovitz, M. (1981). Debt with potential repudiation: Theoretical and
empirical analysis. The Review of Economic Studies, 48(2), 289-309.
54. Edison, H.J., Levine, R., Ricci, L. and Slok, T. 2002. International Financial
Integration and Economic Growth. Journal of International Money and Finance, 21:
749–76.
55. Eichengreen, B. 2001.Capital Account Liberalization: What Do Cross-Country
Studies Tell Us?. World Bank Economic Review, 15, 341–365.
197
56. Eichengreen, B., & Luengnaruemitchai, P. (2004). Why doesn't Asia have bigger
bond markets? (No. w10576). National Bureau of Economic Research.
57. Eichengreen, B., Hausmann, R., Panizza, U., Morgan, T. J., Pêtre, D., & Are, M.
A. W. (2002). 1Original Sin: The Pain, the Mystery, and the Road to Redemption.
58. Emiris, M. 2002. Measuring capital market integration. BIS Papers chapters, 12,
200-221.
59. Européenne, B. C. 2006. Indicators of Financial Integration in the Euro
Area. Rapport, Septembre.
60. Fabella, R., & Madhur, S. (2003). Bond market development in East Asia: issues
and challenges.
61. FSDI. (2006). Bond market development indicators. World bank.
62. Furceri, D., & Zdzienicka, A. (2012). Financial integration and fiscal policy. Open
Economies Review, 23(5), 805-822.
63. Garcia-Herrero, A., & Wooldridge, P. D. 2007. Global and regional financial
integration: progress in emerging markets.
64. Goldstein, M. and G. Woglom. 1992. Market based fiscal discipline in monetary
unions: evidence from the US municipal bond market. In: Canzoneri, M., Grilli, V.
and P. Masson (Eds.), Establishing a Central Bank, Cambridge University Press, pp.
226—260
65. Guha, P., Daga, S., Gulati, R., Bhupal, G. and Oak, H. 2004. International
Financial Markets Integration or Segmentation: A Case Study of Equity Markets.
EconWPA Working Paper No. 0412013.
66. Hargreaves, D., & McDermott, J. 1999. Issues relating to optimal currency areas:
theory and implications for New Zealand. Reserve Bank of New Zealand
Bulletin, 62(3), 16-29.
67. Harris, L. (1990). Liquidity, trading rules and electronic trading systems. New
York University Salomon Center Monograph Series in Finance and Economics.
68. Hartmann, P., Heider, F., Papaioannou, E. and Lo Duca, M. 2007. The role of
financial markets and innovation in productivity and growth in Europe. European
Central Bank Occasional Paper Series No. 72.
69. Harwood, A. (Ed.). (2000). Building local bond markets: an Asian perspective.
World Bank Publications.
198
70. Henry, Peter, 2000. Stock Market Liberalization, Economic Reform, and Emerging
Market Equity Prices. Journal of Finance, Vol. 55 (April), pp. 529–64.
71. Jappelli, T. and Pagano, M. 2008. Financial market integration under EMU. CEPR
Discussion Paper No. 7091.
72. Jikang, Z. and Xinhui, W. 2004. Financial Market Integration in Euro Area,
Development and obtacles. The 4th Meeting of the European Studies Centers in Asia:
EU Enlargement and Institutional Reforms and Asia, China: European Studies in Asia.
73. Jordan, C., & Majnoni, G. 2002. Financial regulatory harmonization and the
globalization of finance. World Bank Publications.
74. Kalemli-Ozcan, S. and Manganelli, S. 2008. Financial Integration and Risk
Sharing: The Role of the Monetary Union. 5th European Central Banking Conference
on The Euro at Ten: Lessons and Challenges, Frankfurt: ECB.
75. Karunasena, A. G. (2009). Development of government bond market with special
reference to developing a yield curve: experience of Sri Lanka. Staff Studies, 35(1).
76. Kenan, P. B. (2007). The benefits and risks of financial globalization. Cato J., 27,
179.
77. Kodres, L. and M. Pritsker. 2002. A rational expectations model of financial
contagion. Journal of Finance, Vol. 57 (2), pp. 768-99
78. Kose, M. A., Prasad, E. S., & Taylor, A. D. (2009). Thresholds in the process of
international financial integration. The World Bank.
79. Kose, M. A., Prasad, E. S., & Taylor, A. D. (2011). Thresholds in the process of
international financial integration. Journal of International Money and Finance, 30(1),
147-179.
80. Kumar, Manmohan S. and Tatsuyoshi Okimoto 2010. Dynamics of International
Integration of Government Securities Markets. Journal of Banking and Finance.
81. Kumar, M. M. S., & Baldacci, M. E. 2010. Fiscal deficits, public debt, and
sovereign bond yields. No. 10-184. International Monetary Fund.
82. Lane, T.,. 1992. Market Discipline. IMF, Research Department
83. Laopodis, N. T. (2008). Government bond market integration within European
Union. International Research Journal of Finance and Economics, 19, 56-76.
84. Leonard Thotho. 2014. Key determinants of government bond market development
in MEFMI region. MEFMI Fellows development programme.
199
85. Levine, R., Loayza, N., & Beck, T. 2000. Financial intermediation and growth:
Causality and causes. Journal of monetary Economics, 46(1), 31-77.
86. Levine, R. 2001. International financial liberalization and economic growth.
Review of International Economic, 9: 688–702.
87. Lian, L. (2016). The Empirical Evidence on Government Bond Market Integration
in East Asia.
88. Liebscher, K., Christl, J., Mooslechner, P., & Ritzberger-Grünwald, D. (Eds.).
(2007). Financial development, integration and stability: evidence from Central,
Eastern and South-Eastern Europe. Edward Elgar Publishing.
89. Lønning, I. 2000. Default premia on European government debt.
Weltwirtschaftliches Archiv, Vol. 136, pp. 259-283
90. Lukic, V. (2016). Integration of Government Bond Market in the Euro Area and
Monetary Policy. Journal of Central Banking Theory and Practice, 5(1), 71-97.
91. Manganelli, S., & Wolswijk, G. (2007). Market discipline, financial integration
and fiscal rules: What drives spreads in the euro area government bond market?.
92. McCauley, R., & Remolona, E. (2000). IV. Special feature: Size and liquidity of
government bond markets. BIS Quarterly Review.
93. McKinnon, R. 1991. The order of economic liberalization : Fiancial Control in the
Transition to a Market Economy. Johns Hopkins University Press, Baltimore.
94. Moser, C. (2007). The impact of political risk on sovereign bond spreads-evidence
from Latin America.
95. Mougani, G. (2011). Financial Globalization and International Financial
Integration: Analysis of Impact of Financial Integration on Economic Activity, Trade
Opennessand Macroeconomic Volatility in Africa.
96. Mu, Y., Phelps, P., & Stotsky, J. G. (2013). Bond markets in Africa. Review of
Development Finance, 3(3), 121-135.
97. Oxelheim, L. 1990. International financial integration. Stockholm: The Industrial
Institute for Economic and Social Research.
98. Poterba, J. and K. Rueben. 1999. State institutions and the U.S. municipal bond
market. Fiscal Institutions and Fiscal Performance. J.M. Poterba and J. von Hagen,
eds. Chicago: U. Chicago Press.
99. Prasad, A., Rogoff, K., Wei S.-J., and Kose, A. 2003. Effects of Financial
200
Globalization on Developing Countries Some Empirical Evidence. IMF Occasional
paper 220, IMF, Washington.
100. Prasad, E., Kose, M.A. and Terrones, M. (2003). Financial Integration and
Macroeconomic Volatility. IMF Staff Papers No. 50.
101. Rakkestad, K. J., Skjeltorp, J. A., & Ødegaard, B. A. (2013). The Liquidity of the
Secondary Market for Debt Securities in Norway.
102. Rhee, Y. (2013). Government bond market development The Korean
experience. Knowledge Sharing Program: KSP Modularization.
103. Rodrik, D., and A. Subramanian. (2009). Why did financial globalization
disappoint?. IMF Staff Papers, 56(1), 112-38.
104. Schmukler, S., and Vesperoni, E. 2003. Financial Globalization and Debt
Maturity in Emerging Economies. World Bank Working Paper 2323.
105. Schmukler, S. L. 2004. Financial globalization: gain and pain for developing
countries. Economic Review-Federal Reserve Bank of Atlanta, 89(2), 39.
106. Schmukler, S. L. 2004. Benefits and risks of financial globalization: challenges
for developing countries. Globalization, Growth, and Poverty, World Bank Policy
Research Report.
107. Series, F. S. 12: Developing Government Bond Markets. Primer, Diagnostic
Checklist, and Guidelines for the Preparation of a Model Scope of Work. The United
States Agency for International Development [Електронний ресурс].–Режим
доступу: http://egateg. usaidallnet. gov/resources/1151.
108. Shimizu, S. (2010). The development of Asian bond markets since the global
financial crisis—significance and challenges. Pacific Business and Industries, 10(38).
109. Siegfried, N., Simeonova, E., & Vespro, C. (2007). Choice of currency in bond
issuance and the international role of currencies.
110. Sole, M. J., Sensenbrenner, M. G., Tahari, M. A., De Vrijer, J. E. J., Moretti, M.
M., Brenner, M. P. D., & Semlali, M. A. S..2007. Financial sector reforms and
prospects for financial integration in Maghreb countries (No. 7-125). International
Monetary Fund.
111. Stavarek, D., Repkova, I., & Gajdosova, K. (2011). Theory of financial
integration and achievements in the European Union.
201
112. Sumit Kaur. 2014. Financial market development and integration: A look at the
Indian story. National Stock Exchange of India Limited.
113. World Bank, I. M. F. (2001). Developing government bond markets: a handbook.
The World Bank.
114. Xing, T., & Abbott, A. 2007, September. The effects of trade, specialisation and
financial integration for business cycle synchronisation. 9th European Trade Study
Group Conference , pp. 13-15
115. Yu, I. W., Fung, L., & Tam, C. S. (2007). Assessing bond market integration
in Asia.
202
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Kinh nghiệm phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ trong bối
cảnh HNTCcủa một số quốc gia
Phụ lục 1.1. Kinh nghiệm của Nhật Bản
Giới thiệu về quá trình HNTCvà thị trường trái phiếu Chính phủ Nhật Bản
Theo báo cáo của ngân hàng phát triển Châu Á ADB, Nhật Bản là quốc gia có
thị trường trái phiếu phát triển với quy mô lớn nhất Châu Á và là một trong những thị
trường có mức độ hội nhập quốc tế mạnh mẽ nhất. Thị trường trái phiếu Chính phủ
(TPCP) Nhật Bản là nơi huy động vốn chủ yếu cho ngân sách nhà nước. Đầu năm
2018, quy mô thị trường TPCP Nhật bằng khoảng gần 200% GDP.
Sau thế chiến thứ II, nền kinh tế Nhật Bản trải qua tốc độ tăng trưởng chưa từng
có, trung bình khoảng 10%/năm trong thập niên 1960. Kết quả là Nhật Bản nổi lên như
là nền kinh tế công nghiệp lớn thứ hai của thế giới phương Tây. Mặc dù vậy, hệ thống
tài chính của Nhật Bản vẫn được quản lý chặt chẽ thời bấy giờ và cắt đứt với phần còn
lại của thế giới. Vào khoảng những năm 1960 và nửa đầu những năm 1970, Nhật Bản
có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, Chính phủ dựa vào thuế để tài trợ cho các chi tiêu
công. Tuy nhiên, khoản thuế thu được ngày càng nhỏ so với nhu cầu của ngân sách và
trái phiếu đã được phát hành để tài trợ thâm hụt ngân sách lần đầu tiên. Cũng trong
khoảng thời gian đó, Nhật Bản dần hội nhập thị trường, thông qua các khoản đầu tư
trực tiếp, đầu tư chứng khoán trong và ngoài nước. Bước đầu tiên trong việc HNTC là
vào năm 1964 khi Nhật Bản trở thành thành viên OECD. Ngoài ra, nhiều thay đổi đã
được thực hiện nhằm thúc đẩy việc tự do hoá thị trường tài chính Nhật Bản như cho
phép các CTCK nước ngoài sở hữu được quyền trở thành thành viên SGDCK Tokyo
vào năm 1971, và quyết định mở rộng số thành viên vào những năm tiếp theo. Việc
mở rộng thành viên SGDCK Nhật đã tăng đầu tư nước ngoài trên thị trường Nhật, làm
tăng khối lượng giao dịch. Nhật Bản thực hiện hội nhập từ từ, với ban đầu là nới room
sở hữu lên tới 100% cho một số lượng hạn chế các ngành công nghiệp, sau đó mở rộng
dần ra và cuối cùng chỉ hạn chế sở hữu nước ngoài ở một số ngành trọng yếu có ảnh
hưởng đến an ninh quốc gia và những ngành nhạy cảm.
Cuộc khủng hoảng dầu năm 1973 đã dẫn đến sự thay đổi lớn trong chính sách
tài khoá của Chính phủ Nhật. Khi khoản thu từ thuế bị đình trệ trong bối cảnh khủng
hoảng kéo dài, năm 1975, Chính phủ đã thông qua một đạo luật đặc biệt sửa đổi Luật
203
Tài chính công cho phép phát hành trái phiếu tài trợ cho chi tiêu Chính phủ. Bên cạnh
đó, năm 1984, Nhật Bản bắt đầu tiến hành mạnh mẽ việc mở cửa toàn diện thị trường
tài chính của mình với hàng loạt các thay đổi. Nhật Bản thực hiện tự do hoá đầu tư
chứng khoán trong nước và đầu tư ra nước ngoài. Năm 1980, với sự sửa đổi Luật
ngoại hối, giá trị đầu tư chứng khoán trong nước của Nhật Bản đã đã vượt lên mức
1000 tỷ Yên năm 1980 thay vì khoảng 500 tỷ yên như những năm trước đó. Cuối
những năm 1980, thị trường trái phiếu và thị trường phái sinh được thành lập. Các
ngân hàng nước ngoài lần đầu tiên được kinh doanh chứng khoán ở Nhật vào năm
1985 cùng với đó là sự tăng lên của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở Nhật.
Thâm hụt ngân sách của Nhật Bản ngày càng lớn, và tăng lên từng năm, từ 0,1
nghìn tỷ Yên năm 1960 lên 16,6 nghìn tỷ yên năm 1980 và đạt đỉnh 41,8 nghìn tỷ yên
năm 1999, cùng với môi trường kinh tế mới không còn phù hợp với hệ thống tài chính
cũ, dựa vào ngân hàng là chủ yếu của Nhật Bản. Do vậy, Nhật Bản đã quyết tâm thay
đổi hệ thống tài chính. Năm 1996, Thủ tướng Nhật đã thông qua chương trình “Big
Bang”, một chương trình lớn nhằm cải thiện cơ sở hạ tầng cho thị trường tài chính,
gồm cả thị trường sơ cấp và thứ cấp. Chương trình này có mục tiêu đẩy nhanh và mở
rộng cải cách tài chính bằng cách tạo ra một thị trường tự do, công bằng và kết nối
toàn cầu. Mục tiêu của chương trình Big Bang là làm cho thị trường tài chính Nhật
Bản trở thành một thị trường tài chính quốc tế như Newyork và London.
Hội nhập quốc tế cùng với nhiều cải cách trên thị trường tài chính đã hỗ trợ sự
phát triển của thị trường TPCP. TPCP dần trở thành kênh huy động vốn chính cho
NSNN Nhật. Lượng trái phiếu chính phủ phát hành tăng dần qua các năm từ 0,197
nghìn tỷ yên năm 1965, đáp ứng 5,3% chi tiêu Chính phủ lên 14,1 nghìn tỷ yên, đáp
ứng 25% chi tiêu Chính phủ năm 1975, và tiếp tục tăng lên trong những năm tiếp theo
nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu Chính phủ cho đến năm 2005 lượng TPCP phát hành
bắt đầu có xu hướng giảm đến năm 2008 còn hơn 140 nghìn tỷ yên. Tuy nhiên sau đó,
trong những năm tiếp theo, lượng TPCP Nhật được phát hành đều tăng, đặc biệt là sau
thảm hoạ sóng thần, động đất đầu năm 2011. Nhìn vào quy mô trái phiếu Chính phủ
Nhật so với GDP có thể thấy, chỉ trong khoảng 20 năm, giá trị TPCP/GDP đã tăng 4
lần, từ con số 50% GDP năm 1998 đã lên tới hơn 200% GDP Nhật Bản đầu năm 2018.
Điều này cũng tương ứng với những thống kê về tình hình nợ công tại Nhật Bản. Nhật
Bản là một quốc gia có nợ công lớn, tỷ lệ nợ công/GDP luôn ở mức cao. Nợ công Nhật
204
Bản tăng nhanh chủ yếu do lượng phát hành TPCP ngày một lớn. Việc liên tục phát
hành TPCP để bù đắp chi tiêu đã khiến 80% trong số nợ khổng lồ là nợ bằng trái phiếu
Chính phủ.
Nguồn: Asianbondsonline
Biểu đồ PL1.1: Khối lượng trái phiếu Chính phủ Nhật Bản phát hành từng năm (Tỷ
Yên) và quy mô trái phiếu Chính phủ so với GDP (%)
HNTC không chỉ đem lại động lực cho sự phát triển của thị trường TPCP trong
nước Nhật Bản mà còn phát triển cả thị trường trái phiếu quốc tế. Trái phiếu samurai
là trái phiếu quốc tế do Chính phủ, các tổ chức nước ngoài hay các tổ chức quốc tế
phát hành bán trên thị trường chứng khoán Nhật Bản nhằm mục đích huy động vốn
bằng đồng Yên Nhật. Trái phiếu samurai được phát hành lần đầu vào năm 1970. Thời
gian đầu người phát hành trái phiếu samurai phần lớn là các chính phủ nước ngoài
hoặc chính quyền địa phương nước ngoài. Song càng về sau đối tượng phát hành càng
đa dạng. Sự ra đời của thị trường này được những người tham gia thị trường ủng hộ
bởi nó không chỉ tạo ra một cơ hội kinh doanh mới mà còn giúp hội nhập thị trường
trái phiếu sơ cấp và thứ cấp trái phiếu trong nước của Nhật Bản.
Kinh nghiệm phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ Nhật Bản
Tự do hoá lãi suất TPCP
Khi Chính phủ Nhật Bản bắt đầu phát hành nhiều TPCP vào những năm 1970,
thị trường TPCP chủ yếu hoạt động trong môi trường mà lãi suất bị kiểm soát bởi
chính quyền. Các TPCP kỳ hạn 10 năm được bảo lãnh và nắm giữ bởi các tập đoàn
bảo lãnh là các ngân hàng. TPCP được bảo lãnh sau 1 năm được bán lại cho NHTW
Nhật. TPCP kỳ hạn 10 năm không được giao dịch trên thị trường thứ cấp mặc dù vẫn
0
50
100
150
200
250
0
50000
100000
150000
200000
250000
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017
Mar
-18
Khối lượng TPCP phát hành (tỷ Yên)
Giá trị TPCP/GDP (%)
205
được niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán. Ở Nhật Bản có một hệ thống phân cấp
lãi suất mà đứng đầu là các TPCP với lãi suất rất thấp. Lãi suất cho các trái phiếu khác
như trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, trái phiếu chính quyền địa phương, trái phiếu
ngân hàng bảo lãnh, trái phiếu doanh nghiệp được xác định theo xếp hạng tín dụng và
mức lãi suất TPCP. Khi lãi suất áp dụng cho TPCP được xác định bởi các cơ quan
quản lý ở mức thấp hơn lãi suất thị trường, các trái phiếu khác cũng tuân theo mức lãi
suất kiểm soát đó, thị trường trái phiếu Nhật Bản không hoạt động theo quy tắc thị
trường. Tự do hoá lãi suất ở Nhật Bản diễn ra vào năm 1985 nhưng mãi đến năm 1993,
việc kiểm soát lãi suất được bãi bỏ hoàn toàn. Kể từ đó, lãi suất liên ngân hàng qua
đêm cung cấp lãi suất cơ bản cho lãi suất ngắn hạn và giá TPCP bắt đầu tuân theo quy
luật thị trường.
Đa dạng về chủng loại, kỳ hạn cũng như mệnh giá TPCP
Trái phiếu Chính phủ Nhật chủ yếu gồm hai loại: trái phiếu xây dựng và trái
phiếu phát hành phục vụ cho chi tiêu Chính phủ, bù đắp thâm hụt ngân sách. Luật tài
chính công của Nhật Bản chỉ cho phép Chính phủ phát hành trái phiếu chỉ với mục
đích là huy động vốn cho các dự án đầu tư: đường xá, cầu cảng... phục vụ cho phát
triển kinh tế xã hội, gọi là các trái phiếu xây dựng. Đây là loại trái phiếu Chính phủ
duy nhất được phát hành ở Nhật giai đoạn 1966-1974. Sau khi Luật đặc biệt cho phép
Chính phủ phát hành TPCP nhằm bù đắp thâm hụt NSNN phục vụ cho chi tiêu Chính
phủ ra đời, khối lượng trái phiếu chính phủ phát hành nhằm phục vụ chi tiêu của Chính
phủ ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng khối lượng TPCP phát hành.
TPCP Nhật Bản là một sản phẩm tài chính phổ biến có thể mua được ở nhiều tổ
chức tài chính như ngân hàng, các CTCK và bưu điện, và được đa dạng về chủng loại
cũng như kỳ hạn mặc dù trước năm 1990, Chính phủ Nhật chủ yếu phát hành TPCP kỳ
hạn 10 năm. Các loại TPCP trên thị trường Nhật Bản như trái phiếu trả lãi cố định
hàng kỳ có kỳ hạn 2 năm, 5 năm, 10 năm, 20 năm, 30 năm và 40 năm; trái phiếu chống
lạm phát có kỳ hạn 10 năm; trái phiếu lãi suất thả nổi có kỳ hạn 10 năm, 15 năm; trái
phiếu phát hành cho nhà đầu tư cá nhân có kỳ hạn 3 năm, 5 năm, 10 năm; trái phiếu
STRIPS được giới thiệu vào năm tài khoá 2002 (kết thúc vào tháng 3 năm 2003) cùng
với chương trình bán lẻ TPCP có kỳ hạn 10 năm.
Ngoài đa dạng về chủng loại và kỳ hạn, TPCP Nhật Bản còn có nhiều mệnh giá
từ lớn đến nhỏ phục vụ cho nhiều đối tượng nhà đầu tư: mệnh giá nhỏ (10.000 yên)
206
dành cho các nhà đầu tư cá nhân, có lãi suất cố định, kỳ hạn 3 hoặc 5 năm, hoặc lãi
suất thả nổi có kỳ hạn 10 năm, mệnh giá 50.000 yên: có kỳ hạn 2, 5, 10, 20, 30, 40
năm, mệnh giá 100.000 yên là các trái phiếu chống lạm phát có kỳ hạn 10 năm, trái
phiếu có lãi suất thả nổi có kỳ hạn 15 năm.
Đa dạng phương thức phát hành TPCP
Đấu thầu cạnh tranh về giá và lãi suất được áp dụng khi phát hành TPCP ra thị
trường. Ngoại trừ trái phiếu theo chỉ số lạm phát và trái phiếu có kỳ hạn 40 năm được
đấu thầu theo kiểu Hà Lan thì các trái phiếu khác đều được đấu thầu cạnh tranh theo
kiểu đa giá. Bên cạnh đấu thầu cạnh tranh, các TPCP có kỳ hạn 2 năm, 5 năm và 10
năm có thể được phát hành dưới hình thức đấu thầu không cạnh tranh (non-
competitive auction). Hình thức này hướng đến những người tham gia thị trường vừa
và nhỏ, những người chỉ đấu thầu 1 khối lượng rất nhỏ so với các NĐT khác. Ngoài ra,
TPCP Nhật còn được bán dưới hình thức đấu thầu cạnh tranh không giá loại I và loại
II (nonprice competitive auctions I and II). Chỉ có những thành viên đặc biệt của thị
trường TPCP Nhật Bản mới được tham gia vào loại đấu thầu này. Đấu thầu cạnh tranh
không giá loại I được tổ chức cùng thời gian với đấu thầu cạnh tranh, trong khi đấu
thầu cạnh tranh không giá loại II được thực hiện sau khi đấu thầu cạnh tranh hoàn
thành. Đây là hình thức phát hành dành sự ưu tiên cho những NĐT đặc biệt trên thị
trường TPCP Nhật Bản.
Phát triển thị trường thứ cấp TPCP
Cơ sở NĐT đa dạng dưới tác động của HNTC đặt ra yêu cầu cần đáp ứng nhu
cầu của đa dạng NĐT thông qua thiết lập một cơ chế cạnh tranh giữa các thị trường
giao dịch khác nhau. Yêu cầu giao dịch chứng khoán chỉ thông qua SGDCKđược loại
bỏ vào năm 1998 cùng với quá trình HNTC của Nhật Bản. Từ đó, thị trường OTC là
thị trường giao dịch chủ yếu của trái phiếu. Trên thị trường OTC, về nguyên tắc, giá
được xác định dựa trên thoả thuận giữa hai bên mua bán. Hệ thống giao dịch độc
quyền cho chứng khoán có thu nhập cố định (PTS) được giới thiệu lần đầu ở Nhật Bản
vào tháng 11 năm 2000 và các CTCK bắt đầu thực hiện các giao dịch với NĐT, xử lý
các lệnh của NĐT bên ngoài Sở giao dịch chứng khoán. Hệ thống PTS được chia
thành 2 phần là giao dịch giữa môi giới và môi giới hay còn gọi là thị trường giao dịch
nội bộ giữa các nhà môi giới, và thị trường giao dịch giữa môi giới và các NĐT. Thị
207
trường giao dịch nội bộ giữa các nhà môi giới có người hoạt động chính là các nhà môi
giới của môi giới, chủ yếu hoạt động giao dịch điện tử.
Ngoài ra, để tăng thanh khoản cho TPCP, Bộ Tài chính Nhật Bản thực hiện việc
mở bán lại trái phiếu bắt đầu từ tháng 3 năm 2001. Khi Bộ Tài chính đề nghị một đợt
phát hành mới, cả phần lãi coupon và ngày trả lãi và gốc có thể trùng với những trái
phiếu khác đang tồn tại trên thị trường. Trong trường hợp này, Chính phủ sẽ mở lại
bán thêm các TP đang lưu hành. Điều này giúp hạn chế sự manh mún của TPCP trên
thị trường.
Thị trường mua lại trái phiếu ở Nhật
Thị trường mua lại TP ở Nhật bao gồm: giao dịch vay và cho vay trái phiếu
trong đó việc vay và cho vay trái phiếu lấy tiền làm tài sản đảm bảo, thường được biết
đến như là thị trường repo tại Nhật, và giao dịch gensaki là sự kết hợp của giao dịch
mua và bán trái phiếu giống như giao dịch repo được thực hiện tại Mỹ và một số thị
trường khu vực ASEAN +3. Năm 2001, thị trường gensaki đã có những cải cách để cải
thiện chức năng của mình như một thị trường repo mà Châu Âu và Mỹ đã làm cùng
với quá trình HNTC của Nhật Bản. Một số quy định kiểm soát rủi ro như:
- Số tiền ký quỹ (trái phiếu) sẽ được điều chỉnh linh hoạt để không gây ra tình trạng
thiếu tài sản đảm bảo khi giá trái phiếu làm tài sản đảm bảo giảm bằng cách:
+ Áp dụng tỷ lệ để tính toán giá trị mua hoặc bán trái phiếu. Theo điều khoản này, một
đơn vị giá trái phiếu được dùng làm tài sản đảm bảo theo một thoả thuận mua lại được
cố định ở một tỷ lệ phần trăm thấp hơn so với giá hiện hành của trái phiếu trong giao
dịch mua lại. Điều này giúp cho giá trị tài sản thế chấp không bị ảnh ưởng lớn ngay cả
khi giá thị trường của tài sản cơ sở giảm.
+ Điều khoản gọi ký quỹ - quản lý tài sản thế chấp. Dưới điều khoản này, khi giá thị
trường của tài sản cơ sở thay đổi trong suốt thời gian thực hiện giao dịch mua lại, số
tiền vay của 1 bên trong thoả thuận mua lại được duy trì bằng cách điều chỉnh tài sản
thế chấp
+ Giới thiệu hệ thống định giá lại. Khi giá thị trường của trái phiếu cơ sở giảm mạnh
so với giá thị trường hiện hành tại thời điểm thoả thuận mua lại, các bên trong giao
dịch mua lại sẽ thống nhất huỷ bỏ thoả thuận và thoả thuận lại các điều kiện mới dựa
trên mức giá hiện hành trong khi vẫn giữ nguyên các điều kiện và điều khoản trong
giao dịch đã bị huỷ trước đó.
208
Giao dịch gensaki mới của Nhật Bản cũng cho phép người bán trái phiếu được
thay thế trái phiếu cơ sở bằng các trái phiếu khác với sự đồng ý của người mua, cho
phép người bán có thể sử dụng các trái phiếu cơ sở nếu cần thiết.
Đa dạng cơ sở nhà đầu tư trên thị trường TPCP Nhật Bản
Cơ sở NĐT cho thị trường TPCP Nhật Bản ngày càng đa dạng dưới tác động
của hội nhập tài chính. Tuy nhiên có thể thấy, ngân hàng Trung ương Nhật nắm giữ tỷ
lệ lớn TPCP Nhật Bản. Năm 2017, ngân hàng Trung ương Nhật nắm đến hơn 40% số
lượng TPCP trên thị trường TPCP Nhật. Bên cạnh ngân hàng Trung ương, các tổ chức
của Chính phủ, công ty bảo hiểm và NHTM cũng là những người nắm giữ tỷ lệ lớn
TPCP Nhật Bản. Giao dịch trên thị trường thứ cấp trái phiếu chủ yếu là từ các nhà
kinh doanh trái phiếu như công ty chứng khoán, ngân hàng cho cả mục đích sở hữu và
cho tài khoản của khách hàng. Các NHTM lớn và các ngân hàng tín thác giao dịch
khối lượng lớn trái phiếu.
Các NĐT nước ngoài cũng đóng vai trò ngày càng quan trọng trên thị trường
trái phiếu Nhật Bản thông qua việc đầu tư vào các TPCP phát hành bằng đồng Yên
Nhật đặc biệt là sau khủng hoảng năm 2008. Họ cũng là những người tích cực tham
gia thị trường TPCP Nhật Bản ngắn hạn, giao dịch T-bill. Đối với NĐT nước ngoài,
Nhật Bản không có bất kỳ quy định hạn chế nào, NĐT có thể thoải mái đầu tư vào bất
kỳ trái phiếu nào ở Nhật đồng thời cũng không có yêu cầu khi rời khỏi thị trường cụ
thể nào. Các thông tin trên thị trường trái phiếu Chính phủ đều được công bố bằng
Tiếng Anh cho NĐT nước ngoài có thể tiếp cận dễ dàng. Bên cạnh đó, từ tháng 9 năm
1999, nhằm khuyến khích NĐT nắm giữ TPCP, lãi suất từ TPCP trả lãi hàng kỳ được
miễn thuế cho NĐT nước ngoài hoặc công ty nước ngoài trong một số điều kiện nhất
định. Tuy nhiên, tỷ lệ nắm giữ TPCP Nhật của NĐT nước ngoài còn hạn chế, chỉ
khoảng 10% năm 2017. TPCP Nhật được tài trợ chủ yếu bởi các NĐT trong nước.
Hơn 90% TPCP Nhật Bản được nắm giữ bởi các NĐT trong nước, chủ yếu từ các tổ
chức chính phủ, NHTM và các công ty chứng khoán. Đây là nguồn cung vốn khá ổn
định cho Chính phủ. Ở một quốc gia như Mỹ, phần lớn nợ Chính phủ được tài trợ bởi
các NĐT nước ngoài, đối tượng khá nhạy cảm khi gánh nặng nợ Chính phủ tăng cao.
209
Nguồn: Asianbondsonline
Biểu đồ PL1.2: Tỷ lệ nắm giữ trái phiếu Chính phủ Nhật Bản của các nhà đầu tư năm
2017 (%)
Bên cạnh đó, NĐT cá nhân được Chính phủ Nhật Bản rất quan tâm và đã thực
hiện nhiều biện pháp để tăng cường phân phối TPCP đến đối tượng NĐT này. Giao
dịch bán TPCP tại các bưu điện được thực hiện bắt đầu từ năm 1988 nhằm mục đích
tiếp thị rộng rãi chứng khoán đến công chúng và đây là cách truyền thống của Nhật
Bản để đưa TPCP đến các nhà đầu tư nhỏ lẻ. Nhiều loại TPCP được phát hành cho các
NĐT cá nhân như TPCP có lãi suất thả nổi kỳ hạn 10 năm cho NĐT lẻ, TPCP kỳ hạn 5
năm lãi suất cố định và TPCP kỳ hạn 3 năm lãi suất cố định. Tháng 10 năm 2007 một
hệ thống bán TPCP qua quầy (OTC) được giới thiệu để tăng cơ hội mua TPCP của
NĐT nhỏ lẻ. Hệ thống bán TPCP OTC này cho phép các tổ chức tài chính tư nhân
tham gia vào việc bán TPCP theo cách trước đây dành riêng cho các bưu điện. Sự phát
triển này cho phép các NĐT nhỏ lẻ mua TPCP qua các tổ chức tài chính mà họ đã
quen thuộc. Trong hệ thống này, Bộ Tài chính Nhật Bản đã uỷ quyền cho các tổ chức
tài chính như công ty chứng khoán, ngân hàng, các tổ chức tài chính, và bưu điện
(khoảng 1090 tổ chức) chấp nhận các đăng ký mua TPCP và bán TPCP từ các NĐT
nhỏ lẻ tuy nhiên họ không bắt buộc phải mua bất kỳ TPCP nào chưa bán được.
Ngân hàng , 17.1
Công ty bảo hiểm , 19.0
Quỹ hưu trí , 2.9
Quỹ đầu tư CK tín thác, 0.6
NHTW, 41.1
Tổ chức CP , 4.6
Trung gian tài chính khác , 1.3
Các tổ chức phi tài chính , 0.8
Khác, 1.4
NĐT nước ngoài , 11.2
210
Hệ thống thanh toán giao dịch TPCP tại Nhật Bản
Hệ thống thanh toán bù trừ giao dịch TPCP Nhật Bản cũng được cải thiện cùng
với quá trình hội nhập tài chính. Quy trình giao dịch và thanh toán bù trừ TPCP Nhật
Bản được thực hiện thông qua ngân hàng trung ương Nhật Bản, chịu trách nhiệm lưu
ký, chuyển khoản đối với TPCP Nhật đồng thời thực hiện chức năng chuyển khoản
thanh toán tiền đối với tất cả giao dịch trái phiếu thông qua hệ thống chuyển tiền BOJ-
NET. Dịch vụ TPCP của BOJ-NET xử lý thanh toán các giao dịch TPCP cũng như
việc đấu giá, phát hành, thanh toán tại thời điểm phát hành TPCP. Hệ thống BOJ-NET
sử dụng hai phương thức quyết toán là quyết toán định kỳ và quyết toán tổng tức thời
RTGS. Tuy nhiên để giảm thiểu rủi ro hệ thống, phương thức quyết toán định kỳ đã bị
loại bỏ và chuyển sang bắt buộc sử dụng phương thức quyết toán RTGS kể từ năm
2001. Đến nay, RTGS đã trở thành phương thức quyết toán duy nhất trong việc chuyển
tiền giữa các tổ chức tài chính.
NHTW Nhật cho phép các tổ chức lưu ký TPCP Nhật mở tài khoản trực tiếp để
thanh toán giao dịch. Các tổ chức này có thể là công ty chứng khoán, công ty bảo
hiểm, ngân hàng lưu ký... và có hai tài khoản gồm tài khoản tiền gửi thanh toán và tài
khoản lưu ký chứng khoán nhằm phục vụ thanh toán giao dịch TPCP Nhật.
Phát hành, quản lý nợ công và cơ chế trả nợ
Việc phát hành TPCP được Bộ Tài chính Nhật Bản quản lý với mục tiêu cấp
vốn một cách bền vững, trơn tru cho tài khoản quốc gia, giảm thiểu chi phí tài chính
trung đến dài hạn. Hội đồng tư vấn quản lý nợ công, hội nghị các nhà đầu tư trái phiếu
Chính phủ Nhật Bản, hội nghị các thành viên đặc biệt trong thị trường TPCP Nhật Bản
được tổ chức thường xuyên, cho phép Bộ Tài chính có được những thông tin kịp thời
và chính xác về nhu cầu và xu hướng thị trường, sẽ được sử dụng trong việc xây dựng
chính sách quản lý nợ. Phương pháp phát hành, loại TPCP, và phương pháp đấu thầu
sẽ được thông báo sau những cuộc họp này.
Ngoài ra Nhật Bản còn thực hiện các giao dịch đang phát hành (gọi là giao dịch
WI), là giao dịch được thực hiện trong suốt thời gian giữa ngày thông báo phát hành
TPCP và ngày phát hành. Điều này giúp theo dõi diễn biến thị trường hơn, đồng thời
giá các TPCP mới phát hành cũng hợp lý và ổn định hơn.
Cơ chế trả nợ: Tại Nhật Bản, tất cả các trái phiếu phát hành để tài trợ thâm hụt
ngân sách được trả thông qua Quỹ hợp nhất nợ Chính phủ. Tất cả các nguồn tài chính
211
để trả nợ TPCP đều được chuyển qua Quỹ này, từ tiếp nhận, tích luỹ đến giải ngân.
Chính phủ đôi khi cũng phải phát hành TPCP mới để thanh toán cho các khoản nợ từ
các TPCP cũ sắp đến hạn. Các trái phiếu này được phát hành thông qua Tài khoản
đặc biệt của Quỹ hợp nhất nợ Chính phủ và tiền thu được cũng được tập hợp vào
Quỹ này. Không như những trái phiếu phát hành để huy động nợ mới, những trái
phiếu phát hành để đảo nợ này không bị giới hạn khối lượng, miễn đảm bảo
nguyên tắc trả nợ 60 năm, tức là trả nợ TPCP 60 năm sau khi phát hành. Nguyên
tắc này được đặt ra xuất phát từ thực tế là thời gian hao mòn kinh tế trung bình
của tài sản được mua bằng trái phiếu xây dựng khoảng 60 năm. Như vậy hàng năm
sẽ có tỷ lệ khấu hao cố định là 1/60.
Công bố thông tin rõ ràng, minh bạch
Hàng năm, Bộ Tài Chính Nhật công bố các thông tin liên quan đến thị trường
TPCP cho từng năm tài khoá, về quy mô phát hành, chính sách quản lý nợ, kéo dài kỳ
hạn bình quân của TPCP, cải thiện thanh khoản thị trường và khuyến khích phát triển
thị trường trái phiếu chỉ số lạm phát. Nhật Bản yêu cầu công bố thông tin bằng cả tiếng
Anh và tiếng Nhật. Với các trái phiếu chào bán ra công chúng thì các nội dung công bố
thông tin được trình bày bằng Tiếng Nhật và có bản tóm tắt bằng tiếng Anh. Nếu là
chào bán riêng lẻ thì các thông tin cần cung cấp được đưa ra bằng Tiếng Nhật hay
Tiếng Anh phụ thuộc vào đối tượng mua trái phiếu. Còn đối với trái phiếu niêm yết
trên thị trường trái phiếu Pro-Bond Tokyo thì công bố thông tin bằng tiếng anh cũng
được chấp nhận. Lãi suất TPCP là thông tin quan trọng trên thị trường thứ cấp. Lãi
suất này không được hiển thị trên website của các nhà quản lý ở Nhật mà được công
bố rộng rãi tại các công ty chứng khoán, các nhà cung cấp thông tin nhằm mục đích
thương mại như Bloomberg. Đồng thời, lãi suất TPCP Nhật bản cũng được cung cấp
để thống kê về thị trường trái phiếu Nhật Bản trên Asianbondsonline.
Phụ lục 1.2. Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Khái quát thị trường TPCP Hàn Quốc
Thị trường trái phiếu Hàn Quốc là thị trường lớn thứ hai ở Châu Á sau Nhật
Bản. Thời gian đầu, TPCP Hàn Quốc được phát hành rất hạn chế, chủ yếu là các trái
phiếu xây dựng đất nước trong khi TP doanh nghiệp chiếm ưu thế trên thị trường.
Nguyên nhân xuất phát từ thực trạng tài khoá của Hàn Quốc khi mà nhu cầu tài trợ tài
chính cho Chính phủ gần như không có. Hơn nữa, giai đoạn đầu, TPCP được bán dưới
212
hình thức bắt buộc, các ngân hàng được giao đầu tư vào TPCP với mức lãi suất được
quản lý bởi Chính phủ. Khi TPCP không được bán hết các trung gian tài chính bắt
buộc phải mua lại với lãi suất còn thấp hơn cả lãi suất trúng thầu. Dưới hình thức này,
việc phát hành TPCP của Hàn Quốc là một hình thức khác của đánh thuế hơn là một
khoản vay từ thị trường. Cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997 được coi là
một chất xúc tác làm thay đổi thị trường TPCP Hàn Quốc một cách tích cực. Nhiều cải
cách lớn đã được thực hiện nhằm cải tổ thị trường. Năm 1997 cũng đánh dấu mốc tự
do hoá thị trường trái phiếu Hàn Quốc cho NĐT nước ngoài. Việc chuyển từ cơ chế lãi
suất bị quản lý sang cơ chế lãi suất tuân theo thị trường là một bước tiến quan trọng
của thị trường. Các biện pháp cải cách đã giúp thị trường TPCP Hàn Quốc phát triển
mạnh mẽ cả về quy mô và tính thanh khoản. Cuối năm 1998 quy mô thị trường TPCP
Hàn Quốc chỉ bằng khoảng 15% GDP đã tăng lên hơn 50% GDP vào đầu năm 2018.
Trước khủng hoảng, thị trường TPCP so với thị trường TPDN rất nhỏ nhưng sau
khủng hoảng, lượng TPCP đã dần vượt qua lượng TP doanh nghiệp vào cuối năm
2004. Trên thị trường thứ cấp, khối lượng giao dịch TPCP tăng gấp 10 lần từ 250
nghìn tỷ Won năm 1998 tăng lên đỉnh gần 800 nghìn tỷ Won năm 2013, sau đó giao
động ở mức 450 nghìn tỷ Won những năm gần đây.
NĐT tham gia thị trường TPCP Hàn Quốc ngày càng đa dạng. Hệ thống nhà tạo
lập thị trường được thành lập năm 1999, đóng vai trò quan trọng trên cả thị trường sơ
cấp và thứ cấp. Ngoài ra, trong nỗ lực hội nhập thị trường TPCP, Chính phủ Hàn Quốc
đã dần mở cửa thị trường, giảm bớt rào cản gia nhập của các tổ chức nước ngoài và cải
thiện môi trường đầu tư. Kết quả là thị trường trái phiếu Hàn Quốc thu hút được một
lượng đáng kể đầu tư nước ngoài.
Trái phiếu Chính phủ Hàn Quốc bao gồm các trái phiếu kho bạc, trái phiếu nhà
ở quốc gia (NHB) loại 1 và loại 2, trái phiếu được phát hành bằng ngoại tệ, trong đó
trái phiếu kho bạc có khối lượng lớn nhất và giao dịch nhiều nhất. Trái phiếu kho bạc
thường là trái phiếu có lãi suất cố định có các kỳ hạn là 3, 5,10, 20, 30, 50 năm, trong
khi trái phiếu gắn với lạm phát có kỳ hạn 10 năm, được gắn với chỉ số giá tiêu dùng
của quốc gia. Trái phiếu kho bạc Hàn Quốc là loại trái phiếu có thể thay thế được,
nghĩa là các đặc điểm như kỳ hạn, lãi coupon đều giống với các trái phiếu phát hành
trong một khoảng thời gian nhất định.
213
Nguồn: Asianbondsonline
Biểu đồ PL1.3: Quy mô thị trường TPCP Hàn Quốc (% GDP) và khối lượng giao dịch
(tỷ Won)
Một số biện pháp được thực hiện nhằm phát triển thị trường TPCP Hàn Quốc
Quy định về việc phát hành TPCP
Sau khi đổi từ loại trái phiếu quỹ quản lý nợ Chính phủ sang trái phiếu kho bạc
Hàn Quốc, Chính phủ Hàn quốc đã có những thay đổi như thông báo nhu cầu phát
hành TPCP hàng tháng và năm rõ ràng.
Thay đổi phương pháp đấu thầu trái phiếu kho bạc
TPCP Hàn Quốc được phát hành thông qua đấu thầu cạnh tranh và được chuyển
từ phương pháp đầu thầu đa giá là phương pháp truyền thống sang hệ thống đấu thầu
kiểu Hà Lan vào năm 2000. Bên cạnh đó, còn có đấu thầu phân biệt khoảng giá (được
áp dụng từ tháng 9 năm 2009) và đấu thầu không cạnh tranh. Theo phương thức đấu
thầu phân biệt khoảng giá, lãi suất trúng thầu được xác định bằng cách nhóm các mức
lãi suất dự thầu theo nhóm cách nhau 2 điểm cơ bản theo thứ tự giảm dần và chọn mức
lãi suất cao nhất trong từng nhóm để làm mức lãi suất trúng thầu. Phương thức đấu
thầu không cạnh tranh được chia làm 3 loại: đấu thầu không cạnh tranh giữa các NĐT
thông thường (cá nhân và tổ chức) những người không đủ điều kiện để tham gia đấu
thầu cạnh tranh, đấu thầu không cạnh tranh như một quyền lựa chọn cho các nhà kinh
doanh trái phiếu cấp 1 của thị trường TPCP, và đấu thầu không cạnh tranh cho những
nhà kinh doanh trái phiếu STRIPS.
0
100000
200000
300000
400000
500000
600000
700000
800000
900000
0
10
20
30
40
50
60
Mar
-98
Mar
-99
Mar
-00
Mar
-01
Mar
-02
Mar
-03
Mar
-04
Mar
-05
Mar
-06
Mar
-07
Mar
-08
Mar
-09
Mar
-10
Mar
-11
Mar
-12
Mar
-13
Mar
-14
Mar
-15
Mar
-16
Mar
-17
Mar
-18
Khối lượng giao dịch (tỷ won)
Government(% GDP)
214
Thị trường giao dịch trái phiếu Chính phủ chuyên biệt và hệ thống giao dịch điện
tử (KTS)
Thị trường TPCP chuyên biệt KRX được thành lập tháng 3 năm 1999 để giao
dịch TPCP giữa các nhà kinh doanh trái phiếu và công ty chứng khoán. Thị trường thứ
cấp TPCP ở Hàn Quốc gồm hai thị trường là thị trường OTC hoạt động bởi hiệp hội
các nhà kinh doanh chứng khoán Hàn Quốc (KSDA) và hệ thống giao dịch điện tử
KTS hoạt động bởi Sở giao dịch Hàn Quốc.
Thị trường thứ cấp TPCP Hàn Quốc phát triển trên OTC hơn là thị trường tập
trung. Dựa vào kế hoạch cải thiện thanh khoản trên thị trường thứ cấp trái phiếu, Hàn
Quốc đã thành lập một hệ thống giao dịch trái phiếu đặc biệt gọi là FreeBond, được
quản lý bởi hiệp hội các nhà đầu tư tài chính Hàn Quốc KOFIA vào tháng 4 năm 2010.
Đây là hệ thống giao dịch trái phiếu trực tuyến. Đến tháng 8 năm 2017, hệ thống
Freebond được nâng cấp lên K-Bond. Hệ thống K-bond gồm hai cấu phần là hệ thống
tin nhắn tức thì và bảng giao dịch. Hệ thống tin nhắn phục vụ cho giao dịch thoả thuận
trái phiếu, bao gồm cả phòng chat (chat room) cho phép những người tham gia thảo
luận với một hoặc nhiều người và thực hiện giao dịch độc lập, đồng thời nó cũng lưu
trữ tự động các cuộc trò chuyện. Còn bảng giao dịch cung cấp nhiều loại dữ liệu thị
trường trái phiếu như thông tin báo giá thị trường, thông tin 15 phút, và thông tin liên
quan đến dựng sổ phục vụ cho phân tích thị trường.
Trên Sở giao dịch Hàn Quốc, các trái phiếu được giao dịch trên một sàn giao
dịch điện tử (KTS). Người dùng có thể truy cập vào sàn giao dịch thông qua hệ thống
kết nối thành viên. Trái phiếu kho bạc được giao dịch trên KRX KTB. Các nhà kinh
doanh trái phiếu muốn tham gia hệ thống này cần cài đặt chương trình giao dịch cung
cấp bởi KRX. Trong hệ thống này, các lệnh đặt mua và bán được gửi qua internet, sau
đó được so khớp theo phương thức đấu thầu cạnh tranh. Các nhà kinh doanh trái phiếu
cấp 1 là những người tạo lập thị trường trên KTS. Đây là thị trường bán buôn TPCP
cho các nhà kinh doanh trái phiếu chính phủ với một lô giao dịch là 1 tỷ Won trái
phiếu. Chu kỳ thanh toán cho các giao dịch trên KTS là T+1. Với mục tiêu là minh
bạch và đáng tin cậy, hệ thống KTS tạo điều kiện cho việc thiết lập một mức lãi suất
tham chiếu chuẩn phản ánh chính xác tình hình thị trường và góp phần vào việc phát
hiện giá hợp lý, là căn cứ ra quyết định đầu tư. Trái phiếu kho bạc Hàn Quốc, trái
phiếu ổn định tiền tệ MSB và trái phiếu KDIC là những trái phiếu được giao dịch
215
thông qua hệ thống KTS của Sở giao dịch Hàn Quốc. Tuy nhiên trái phiếu ổn định tiền
tệ và trái phiếu KDIC phải đáp ứng điều kiện nhất định mới được giao dịch.
Hệ thống nhà kinh doanh trái phiếu cấp 1
Hệ thống các nhà kinh doanh trái phiếu cấp 1 được giới thiệu vào tháng 7 năm
1999 để tái cấu trúc thị trường, và thiết lập một nguồn tài trợ ổn định cho Chính phủ.
Nhà kinh doanh trái phiếu cấp 1 được hưởng nhiều lợi ích như cơ hội đấu thầu ưu đãi
trên thị trường phát hành TPCP, đấu thầu thay mặt cho những người tham gia đấu thầu
không cạnh tranh. Tuy nhiên họ phải thực hiện một số nghĩa vụ trên thị trường như
bảo lãnh tối thiểu 10% tổng số TPCP phát hành, báo giá hai chiều hàng ngày với tất cả
các trái phiếu tham chiếu, giao dịch TPCP và nắm giữ trái phiếu kho bạc ít nhất 1 tỷ
won. Các nhà kinh doanh trái phiếu muốn trở thành nhà kinh doanh trái phiếu cấp 1
cần đáp ứng một số tiêu chuẩn mà các nhà kinh doanh trái phiếu cấp 1 như vấn đề an
toàn tài chính, giao dịch trái phiếu kho bạc tham chiếu được phát hành, giao dịch trái
phiếu trên thị trường thứ cấp, và tỷ lệ nắm giữ TPCP.
Để xây dựng được hệ thống nhà kinh doanh trái phiếu cấp 1, tháng 3 năm 2011,
Bộ tài chính và Chiến lược đã thành lập hệ thống các nhà kinh doanh trái phiếu cấp 1
dự bị (PPD). Các PPD này được cấp quyền và nghĩa vụ giống với các nhà kinh doanh
trái phiếu cấp 1. Sau 1 năm dự bị nếu đủ tiêu chuẩn, các nhà kinh doanh trái phiếu này
sẽ được nâng cấp lên làm nhà kinh doanh trái phiếu cấp 1. Còn những nhà kinh doanh
trái phiếu cấp 1 nếu kém sẽ bị hạ xuống nấc dự bị.
Hệ thống phát hành bổ sung (hệ thống mở bán lại)
Trong quá khứ, do các kỳ hạn của trái phiếu khác nhau và lãi suất coupon được xác
định dựa vào lãi suất trúng thầu, nên có rất nhiều loại TPCP được phát hành và giá
phát hành thường thấp, dẫn đến thanh khoản kém. Để giải quyết vấn đề này, Chính
phủ Hàn Quốc đã triển khai một loạt các biện pháp khắc phục từ năm 2000. Đối với
các TPCP có kỳ hạn từ 3 năm trở lên, nếu có thêm 1 đợt phát hành trong vòng 3 tháng,
ngày đáo hạn và lãi suất coupon được xác định giống với các TPCP được phát hành
trước đó. Hệ thống mở bán lại TPCP này giúp cải thiện thanh khoản của trái phiếu
bằng cách tăng quy mô. Việc mở rộng quy mô phát hành trái phiếu có cùng kỳ đáo hạn
đã giúp cải thiện thanh khoản trên thị trường thứ cấp. Năm 2003 Chính phủ tiếp tục
sửa đổi hệ thống mở bán lại để chuẩn hoá việc định giá TPCP theo tiêu chuẩn quốc tế.
Hơn nữa, để giảm sự khác biệt giữa các loại thuế đối với TPCP có thể gây ra bởi việc
216
mở bán lại, các quy định về thuế cũng được thay đổi để chỉ áp thuế trên cơ sở lãi suất
coupon của TPCP. Tháng 3 năm 2003, thời kỳ mở bán lại TPCP được kéo dài lên 6
tháng thay vì 3 tháng.
Áp dụng giao dịch trước khi phát hành trái phiếu kho bạc (when-issued trading)
Giao dịch trước khi phát hành là giao dịch các chứng khoán chưa phát hành.
Trước khi phát hành trái phiếu kho bạc, các cơ quan có thẩm quyền sẽ công bố quy mô
phát hành. Tại thời điểm này, NĐT có thể giao dịch những trái phiếu này trước, thoả
thuận về giá, nhưng thanh toán tiền và chứng khoán được lùi đến ngày trái phiếu được
phát hành. Năm 2015 hình thức này được áp dụng tại Hàn Quốc cho phép giao dịch
trái phiếu kho bạc 2 ngày trước ngày đấu thầu nhằm cải thiện khả năng phát hiện lãi
suất trước đấu thầu và tạo ra các nguồn cầu mới. Nhờ đó, Chính phủ có thể phát hiện
nhu cầu cho trái phiếu kho bạc và kiểm soát tốt khối lượng phát hành. Các nhà kinh
doanh trái phiếu có cơ hội phòng ngừa rủi ro biến động lãi suất và nắm giữ khối lượng
đấu thầu theo quy định.
Áp dụng hệ thống yêu cầu báo giá điện tử
Năm 2016, Sở giao dịch Hàn Quốc giới thiệu hệ thống yêu cầu báo giá điện tử
e-RFQ bên cạnh hệ thống đặt lệnh trung tâm nhằm đáp ứng yêu cầu của thị trường và
nâng cao sự hài lòng của người tham gia. RFQ tạo điều kiện cho việc thực hiện các
giao dịch khối lớn, các đối tác giao dịch trên RFQ thảo luận về các điều kiện giao dịch,
bao gồm cả giá và khối lượng trước khi thực hiện giao dịch.
Chia khoảng bước giá trên thị trường tập trung
Năm 2016, Sở giao dịch Hàn Quốc áp dụng 3 khoảng bước giá đối với giao
dịch trái phiếu có tính đến thời gian còn lại đến đáo hạn của các trái phiếu niêm yết.
Việc chia khoảng bước giá giúp giá các trái phiếu được xác định chính xác và công
bằng hơn và việc thu hẹp bước giá có thể làm giảm chi phí giao dịch cho NĐT trái
phiếu.
Tự niêm yết TPCP
Tự niêm yết được áp dụng đối với TPCP, trái phiếu Chính quyền địa phương và
một vài trái phiếu đặc biệt được phát hành vào một số ngày cố định trong năm. TPCP
được niêm yết khi nhận được đơn đăng ký niêm yết mà không cần phải kiểm tra các
điều kiện niêm yết. Trái phiếu kho bạc và trái phiếu ổn định ngoại hối phát hành bằng
ngoại tệ được niêm yết vào ngày phát hành theo các quy định về tự niêm yết.
217
Đa dạng hoá các công cụ trên thị trường
Chính phủ Hàn quốc đã giới thiệu nhiều sản phẩm liên quan đến TPCP như repo, hợp
đồng tương lai trái phiếu kho bạc, hợp đồng quyền chọn trái phiếu kho bạc, sản phẩm
trái phiếu kho bạc ETF, STRIPS, và trái phiếu kho bạc gắn với lạm phát. Tuy nhiên,
thị trường cho những sản phẩm này chưa thực sự sôi động. Hơn nữa, thị trường Hàn
Quốc mới thực sự sôi động ở phân khúc kỳ hạn 10 năm. Muốn phát triển phân đoạn
TPCP có kỳ hạn dài cần một thị trường cho các công cụ phái sinh gắn với lãi suất để
giúp NĐT kiểm soát rủi ro lãi suất của mình.
218
Phụ lục 2: Lộ trình hội nhập tài chính ASEAN
Chỉ tiêu Mục tiêu Năm 2015 Năm 2020
Tự do hoá
dịch vụ tài
chính (FSL)
Đạt được sự tự do đối
với các luồng dịch vụ
tài chính
Nguyên tắc: Các quốc
gia thành viên sẽ
chuẩn bị danh mục
chỉ dẫn các phân
ngành dịch vụ tài
chính và phương thức
tự do hoá, các vòng
đàm phán được thực
hiện trên cơ sở đơn
phương kết hợp và/
hoặc cơ chế yêu cầu
Tự do hoá cách tiếp cận
và hạn chế đối với các
ngân hàng ASEAN đạt
tiêu chuẩn (QABs)
Đến năm 2015 loại bỏ
hạn chế đối với lĩnh vực
bảo hiểm, ngân hàng và
thị trường vốn phân
ngành `
Đến năm 2017
thống nhất danh
mục một số
trường hợp linh
hoạt đã được thoả
thuận trước đó mà
mỗi nước thành
viên có thể áp
dụng từ năm 2020
Loại bỏ hạn chế
đối với thương
mại trong lĩnh vực
dịch vụ cho các
ngành còn lại
Tự do hoá
tài khoản
vốn (CAL)
Loại bỏ hạn chế và
kiểm soát vốn để
thuận lợi cho việc lưu
chuyển vốn, bao gồm
loại bỏ các hạn chế về
giao dịch tài khoản
vãng lai, FDI, và
luồng vốn đầu tư gián
tiếp
Tự do hoá dòng chảy ra
của vốn gián tiếp
Tự do hoá các
luồng vốn khác
(vay/cho vay)
Phát triển thị
trường vốn
(CMD)
Tăng cường trung
gian tài chính, nâng
cao năng lực và quản
lý rủi ro để hỗ trợ
tăng trưởng quốc gia
Tự do hoá dịch vụ môi
giới và các sản phẩm tài
chính
Hài hoà hoá tiêu chuẩn
thị trường vốn tại
Hội nhập thị
trường chứng
khoán ASEAN
219
Chỉ tiêu Mục tiêu Năm 2015 Năm 2020
và khu vực, cũng như
để giảm tính dễ bị tổn
thương đối với những
cú sốc từ bên ngoài
và biến động thị
trường
ASEAN đối với các lĩnh
vực có quy định về
chứng khoán nợ, yêu cầu
công bố thông tin và các
quy tắc phân bổ.
Tạo điều kiện thoả thuận
công nhận lẫn nhau hoặc
thoả thuận công nhận
chéo bằng cấp, đào tạo
và kinh nghiệm của các
chuyên gia thị trường.
- Linh hoạt đối với ngôn
ngữ và kiểm soát các yêu
cầu về luật đối với việc
phát hành chứng khoán
Cải thiện cấu trúc thuế
khấu trừ nhằm mở rộng
cơ sở nhà đầu tư đối với
việc phát hành nợ
ASEAN
Hệ thống
thanh quyết
toán (PSS)
Tiêu chuẩn hoá và phát
triển cơ sở hạ tầng thanh
toán
Hội nhập hệ thống
thanh quyết toán
trong ASEAN
220
Phụ lục 3: Hệ thống các văn bản pháp lý cho hoạt động của thị trường TPCP qua
các năm
Năm Văn bản pháp luật Hiệu lực
1994 Nghị định 72/CP ngày 26/7/1994 ban hành
quy chế phát hành các loại trái phiếu
Chính phủ
1995 Nghị định 23/CP ngày 22/3/1995 Nghị
định của Chính phủ về việc phát hành trái
phiếu quốc tế
1999 Pháp lệnh số 12/1999/PL-UBTVQH10 về
phát hành công trái xây dựng tổ quốc
Còn hiệu lực
2002 Luật Ngân sách nhà nước Đã hết hiệu lực
2004 Quyết định 66/2004/QĐ-BTC ngày
11/8/2004 về việc ban hành quy chế
hướng dẫn trình tự, thủ tục phát hành
TPCP, trái phiếu được chính phủ bảo lãnh
và trái phiếu chính quyền địa phương
Đã hết hiệu lực
2004 Thông tư 21/2004/TT-BTC ngày
24/3/2004 hướng dẫn đấu thầu TPCP, trái
phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái
phiếu Chính quyền địa phương qua thị
trường giao dịch chứng khoán tập trung
Đã hết hiệu lực
2004 Thông tư 29/2004/ TT-BTC ngày
6/4/2004 về hướng dẫn việc bảo lãnh phát
hành và đại lý phát hành trái phiếu Chính
phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh
và trái phiếu chính quyền địa phương
Đã hết hiệu lực
2006 Luật chứng khoán Còn hiệu lực
2006 Quyết định 2276/QĐ-BTC Tập trung đấu
thầu trái phiếu Chính phủ tại trung tâm
giao dịch chứng khoán Hà Nội
Còn hiệu lực
2006 Quyết định 46/2006/QĐ-BTC Quy chế
phát hành trái phiếu Chính phủ theo lô lớn
Hết hiệu lực toàn bộ
221
Năm Văn bản pháp luật Hiệu lực
2008 Quyết định 86/QĐ-BTC đề án xây dựng
thị trường giao dịch trái phiếu Chính phủ
chuyên biệt
2008 Quyết định 352/QĐ-UBCK chuyển niêm
yết trái phiếu Chính phủ từ SGDCKthành
phố Hồ Chí Minh ra Trung tâm giao dịch
chứng khoán Hà Nội
Còn hiệu lực
2009 Luật quản lý nợ công Đã hết hiệu lực
2009 Nghị định 53/2009/NĐ-CP về phát hành
trái phiếu quốc tế
Hết hiệu lực một phần
2009 Thông tư 19/2009/TT-NHNN hướng dẫn
quản lý ngoại hối đối với các giao dịch trái
phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ phát hành
theo quyết định số 211/QĐ-TTg
Còn hiệu lực
2009 Thông tư 206/2009/TT-BTC hướng dẫn
kế toán giao dịch mua bán lại trái phiếu
Chính phủ
Còn hiệu lực
2009 Quyết định 211/QĐ-TTg về việc phát
hành trái phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ
trên thị trường vốn trong nước
Còn hiệu lực
2009 Quyết định 253/QĐ-UBCK về niêm yết và
giao dịch trái phiếu Chính phủ phát hành
bằng ngoại tệ tại SGDCK Hà Nội
Còn hiệu lực
2011 Nghị định 01/2011/NĐ-CP về phát hành
TPCP, TP được CPBL và TP chính quyền
ĐP
Còn hiệu lực một phần
2011 Thông tư 150/2011/TT-BTC hướng dẫn
hoán đổi trái phiếu Chính phủ
Còn hiệu lực
2012 Thông tư 17/2012/TT-BTC hướng dẫn
phát hành trái phiếu Chính phủ tại thị
trường trong nước
Đã hết hiệu lực
2012 Thông tư 34/2012/TT-BTC về phát hành
TPCP bảo lãnh
Đã hết hiệu lực
222
Năm Văn bản pháp luật Hiệu lực
2012 Nghị định 58/2012/NĐ-CP hướng dẫn thi
hành Luật chứng khoán và Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật chứng
khoán,
Còn hiệu lực
2012 Thông tư 213/2012/TT-BTC hướng dẫn
hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài trên
thị trường chứng khoán Việt Nam
Hết hiệu lực
2012 Thông tư 234/2012/TT-BTC hướng dẫn
quản lý giao dịch TPCP, trái phiếu được
Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính
quyền địa phương
Còn hiệu lực
2012 Quyết định 276/QĐ-SGDHN quy trình
đấu thầu TPCP, trái phiếu được CP bảo
lãnh tại SGDCKHà Nội
Còn hiệu lực
2013 Thông tư 167/2013/TT-BTC sửa đổi, bổ
sung Thông tư 34/2012/TT-BTC
Đã hết hiệu lực
2013 Quyết định 56/QĐ-SGDHN quy định về
đường cong lợi suất TPCP
Còn hiệu lực
2013 Quyết định 65/QĐ-SGDHN về quy trình
giao dịch trái phiếu Chính phủ, trái phiếu
được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu
Chính quyền địa phương tại SGDCKHà
Nội
Còn hiệu lực
2013 Quyết định 160/QĐ-UBCK quy định chào
mua, chào bán trên thị trường trái phiếu
Chính phủ
Còn hiệu lực
2015 Luật ngân sách nhà nước Còn hiệu lực
2015 Thông tư 99/2015/TT-BTC ngày
29/6/2015 hướng dẫn về phát hành trái
phiếu được Chính phủ bảo lãnh.
Còn hiệu lực
2015 Thông tư 111/2015/TT-BTC hướng dẫn
phát hành trái phiếu Chính phủ tại thị
trường trong nước.
Còn hiệu lực
223
Năm Văn bản pháp luật Hiệu lực
2015 Thông tư 100/2015/TT-BTC hướng dẫn
về phát hành trái phiếu Chính quyền địa
phương tại thị trường trong nước
Còn hiệu lực
2015 Thông tư 99/2015/TT-BTC ngày
29/6/2015 hướng dẫn về phát hành trái
phiếu được Chính phủ bảo lãnh.
Còn hiệu lực
2015 Thông tư 99/2015/TT-BTC ngày
29/6/2015 hướng dẫn về phát hành trái
phiếu được Chính phủ bảo lãnh.
Còn hiệu lực
2015 Nghị định 60/2015/NĐ-CP sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định số
58/2012/NĐ-CP ngày 20 tháng 7 năm
2012 của Chính phủ quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành Luật chứng khoán và
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật chứng khoán
Còn hiệu lực
2015 Quyết định 576/QĐ-SGDHN sửa đổi bổ
sung Quy trình đấu thầu trái phiếu Chính
phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh,
trái phiếu chính quyền địa phương tại
SGDCKHN ban hành kèm theo quyết định
276/QĐ-SGDHN ngày 3/8/2012
Còn hiệu lực
2017 Luật quản lý nợ công Còn hiệu lực
2017 Thông tư 10/2017/TT-BTC sửa đổi, bổ
sung một số điều của Thông tư
234/2012/TT-BTC hướng dẫn quản lý
giao dịch TPCP, trái phiếu được Chính
phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa
phương
Còn hiệu lực
2017 Thông tư 22/2017/TT-BTC quy định mua
lại trái phiếu Chính phủ tại thị trường
trong nước
Còn hiệu lực
2017 Thông tư 46/2017/TT-BTC hướng dẫn Còn hiệu lực
224
Năm Văn bản pháp luật Hiệu lực
hoạt động thanh toán giao dịch trái phiếu
Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo
lãnh và trái phiếu chính quyền địa phương
2017 Quyết định 750/QĐ-SGDHN về quy trình
giao dịch trái phiếu chính phủ, trái phiếu
được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu
Chính quyền địa phương tại SGDCK Hà
Nội;
Còn hiệu lực
2017 Quyết định 756/QĐ-SGDHN về quy trình
công bố thông tin và báo cáo đối với thành
viên giao dịch trái phiếu Chính phủ tại
SGDCK Hà Nội.
Còn hiệu lực
2018 Nghị đinh 95/2018/NĐ-CP quy định về
phát hành, đăng ký, lưu ký, niêm yết và
giao dịch công cụ nợ của Chính phủ trên
thị trường chứng khoán
Còn hiệu lực
2018 Thông tư 15/2018/TT-BTC quy định về
chi phí phát hành, hoán đổi, mua lại, thanh
toán gốc, lãi trái phiếu Chính phủ, trái
phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái
phiếu Chính quyền địa phương
Còn hiệu lực