PHẦN 2 TÂM LÍ HỌC Y HỌC -...
Transcript of PHẦN 2 TÂM LÍ HỌC Y HỌC -...
297
PHẦN 2
TÂM LÍ HỌC Y HỌC
298
Chương V
ĐẠI CƯƠNG TÂM LÍ HỌC Y HỌC
ĐỐI TƯỢNG VÀ NHIỆM VỤ CỦA TÂM LÍ Y HỌC
1. Lịch sử phát triển của Tâm lí Y học.
Ngay từ khi Y học tách ra khỏi những quan niệm thần bí để trở thành một
khoa học, các thày thuốc khi đó cũng đã rất quan tâm tới những vấn đề tâm lí.
Y học Trung Hoa cổ đại đã đề cập đến mối quan hệ của tâm lí với bệnh tật…
Ở Phương Tây, Hippocrates, người được xem là ông tổ của nghề y đã nói
rằng thầy thuốc cần có 3 thứ để chữa bệnh: con dao, ngọn cỏ và lời nói.
Mặc dù vậy, cũng phải đến thế kỉ thứ XVIII, những ứng dụng của Tâm lí học
vào Y học mới rõ nét hơn.
Năm 1882, Galton đã thành lập phòng thí nghiệm nhân trắc để đo những vấn
đề khác biệt cá nhân như: độ nhạy cảm giác quan, kỹ năng vận động và thời gian
phản ứng. J.Mc.Keen Cattell, nhà tâm lí học Mỹ cũng được nhắc đến như là một
trong những người đặt nền móng ban đầu cho trắc nghiệm tâm lí. Cattell cũng đã
từng làm việc tại phòng thí nghiệm tâm lí đầu tiên trên thế giới- Phòng thí
nghiệm tâm lí của W.Wundt và cũng như Galton, Cattell đi vào nghiên cứu sự
khác biệt thời gian phản xạ. Ông cũng cho rằng bằng cách này có thể nghiên cứu
được trí tuệ. Thuật ngữ Mental test (test trí tuệ) cũng là của J. Cattell.
Đến cuối thế kỷ XVIII, một bác sĩ người Áo tên là F. Mesmer (1734 - 1815),
người sáng lập ra lí thuyết thôi miên, đã sử dụng ám thị để chữa cho hàng nghìn
bệnh nhân. Ông đã đưa ra khái niệm "thể lỏng từ tính động vật" để giải thích hiện
tượng ám thị trong thôi miên. Cách giải thích của Ông đã không được Hội đồng
khoa học Hoàng gia Pari thừa nhận. Mesmer không chỉ bị bài xích mà còn bị coi
là phù thủy, bịp bợm. Tuy nhiên cũng chính Hội đồng này, đến năm 1882 đã khôi
phục danh dự cho Ông bằng cách thừa nhận sự ám thị như là phương tiện chữa
bệnh khoa học.
Cũng trong giai đoạn này, J. Charcot đã nổi tiếng với các biện pháp thôi miên
điều trị người bệnh hysteria. Bắt đầu sự hợp tác giữa Bleuler và Freud. Năm 1895
299
hai ông đã cho xuất bản tập Những nghiên cứu về hysteria. Do nhiều lí do, sự
hợp tác giữa họ đã bị đổ vỡ. Tuy nhiên sự hợp tác đó cũng đã góp phần thúc đẩy
Freud tạo ra hướng đi mới: Phân tâm học.
Nếu Galton, Cattell là những người khởi đầu thì Binet và cộng sự của Ông -
bác sĩ Simon với chính là những người thực sự mở ra thời kỳ mới của trắc
nghiệm trí tuệ nói riêng và test tâm lí nói chung. Năm 1905, test trí tuệ đầu tiên
ra đời theo đơn đặt hàng của Bộ giáo dục Pháp: Thang Binet - Simon (Binet –
Simon Scale). Thang được thiết kế nhằm sàng lọc những học sinh có khuyết tật
về trí tuệ để có thể có những biện pháp giáo dục đặc biệt hơn đối với những đối
tượng này. Do tính hiệu quả của nó, thang Binet-Simon được phổ biến sang
nhiều nước. Thang này cũng còn là sự khởi đầu cho hàng loạt các test trí tuệ khác
như: test trí tuệ Raven, test trí tuệ Wechsler v.v..
Đầu thể kỉ XX, trong Tâm lí học diễn ra cuộc cách mạng với 3 trường phái
lớn: Phân tâm học, Tâm lí học Gestal, Chủ nghĩa Hành vi và muộn hơn một chút,
đó là Tâm lí học Mac Xit. Sự xuất hiện của các trường phái lớn đã làm thay đổi
thực sự diện mạo của Tâm lí Y học. Nếu như trước đó, những vấn đề về Tâm lí Y
học do các thày thuốc nghiên cứu thì từ thời kì này, sự vào cuộc của các nhà Tâm
lí học diễn ra mạnh mẽ hơn. Hàng loạt những luận điểm Tâm lí học có dịp được
ứng dụng, kiểm nghiệm trong thực tiễn lâm sàng.
+ Phân tâm học với những luận điểm dựa trên nền tảng vô thức đã mở ra một
hướng điều trị mới: phân tích tâm lí (phân tâm). Xuất phát từ Phân tâm, một loạt
các dạng điều trị tâm lí khác đã ra đời và phát triển. Phân tâm cũng còn là cơ sở
cho một hướng mới trong các trắc nghiệm tâm lí lâm sàng: các phương pháp
phóng chiếu.
+ Chủ nghĩa Hành vi lấy hành vi làm phạm trù cơ bản cho mình để từ đó đi
vào những vấn đề về trị liệu. Liệu pháp hành vi được sử dụng ngày càng rộng rãi
trong nhiều lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ cá nhân và cộng đồng. Cũng trên cơ sở lí
luận của Tâm lí học Hành vi, có rất nhiều trắc nghiệm, thang đo tâm lí được xây
dựng và đưa vào ứng dụng.
+ Đối với Tâm lí học Mac Xit, phạm trù cơ bản là hoạt động. Một loạt những
vấn đề về sự hình thành và phát triển tâm lí cũng như các vấn đề của tâm lí bệnh
lí được xem xét và giải quyết từ tiếp cận hoạt động.
300
Đến giữa thế kỉ thứ XX, một trường phái Tâm lí học khác nổi lên, có đóng
góp rất đáng kể trong lĩnh vực liệu pháp tâm lí: trường phái Tâm lí học Nhân văn
và Hiện sinh.
Ở nước ta, sự phát triển của Tâm lí Y học còn khá mới mẻ. Mãi đến năm
1979, Khoa Tâm lí học Y học đầu tiên trong cả nước được thành lập ở Trường
Đại học Quân y (nay là Học viện Quân y). Trước đó, một số vấn đề về Tâm lí Y
học cũng đã được đề cập đến trong chương trình giảng dạy, nghiên cứu, ứng
dụng của một số cơ sở điều trị và giảng dạy môn Tâm thần học. Cho đến nay đã
có nhiều cơ sở đào tạo và nghiên cứu đưa vào giảng dạy và nghiên cứu những
vấn đề về Tâm lí Y học, Tâm lí lâm sàng, Tâm lí Thần kinh. Tại Khoa Tâm lí học
của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Đại học Quốc gia đã mở
chuyên ngành Tâm lí Lâm sàng chuyên đào tạo cử nhân tâm lí trong lĩnh vực
này.
2. Đối tượng của Tâm lí Y học.
Tâm lí Y học là một chuyên ngành ứng dụng của Tâm lí học trong Y học.
Đối tượng của Tâm lí Y học là các hiện tượng tâm lí của người bệnh.
Những vấn đề mà Tâm lí Y học quan tâm nghiên cứu tập trung vào các nội
dung sau:
+ Những biểu hiện tâm lí của người bệnh:
Tâm lí và cơ thể có mối liên hệ rất chặt chẽ với nhau. Khi cá nhân bị bệnh thì
tâm lí con người đó cũng có những biến đổi nhất định. Sự thay đổi tâm lí của
người bệnh có những điểm chung: những người mắc cùng một loại bệnh có
những đặc điểm tâm lí giống nhau. Những biến đổi như vậy mang tính quy luật
nhất định. Tuy nhiên tính quy luật như vậy chỉ mang tính tương đối. Mỗi con
người cụ thể có những đặc điểm riêng về cơ thể cũng như về tâm lí và xã hội. Do
vậy những thay đổi tâm lí do bệnh tật cũng có những điểm khác nhau ở những
người khác nhau.
+ Vai trò của các yếu tố tâm lí trong phát sinh và phát triển bệnh:
Yếu tố tâm lí đóng vai trò rất khác nhau trong sự hình thành và diễn biến
bệnh tật. Có những bệnh mà nguyên nhân chủ yếu là do tâm lí, ví dụ như rối loạn
phân li (trước đây gọi là hysteria). Cũng có những bệnh mà theo các thày thuốc,
tâm lí đóng vai trò chủ đạo, ví dụ như hen suyễn, viêm loét dạ dày - hành tá tràng
(mặc dù gần đây người ta đã tìm ra vi khuẩn Helicobater Pilory)…
+ Ảnh hưởng qua lại giữa bệnh và tâm lí:
301
Mối quan hệ giữa tâm lí và bệnh tật là khá phức tạp. Như đã biết, các hiện
tượng tâm lí được hình thành và phát triển trên cơ sở của hoạt động hệ thần kinh,
đặc biệt là hệ thần kinh trung ương. Một khi bị bệnh, hoạt động của hệ thần kinh
cũng bị ảnh hưởng và dẫn đến ảnh hưởng các hoạt động tâm lí. Ngược lại, các tác
động lên tâm lí cũng có thể ảnh hưởng đến hoạt động của hệ thần kinh dẫn đến
ảnh hưởng tới sự hình thành và diễn biến của bệnh. Ví dụ: trong điều kiện thời
tiết giá rét, những người có stress tâm lí là những người có nguy cơ mắc bệnh
viêm đường hô hấp trên cao hơn so với những người khác.
+ Những tác động của yếu tố môi trường (tự nhiên và xã hội) lên tâm lí người
bệnh: ngay trong điều kiện bình thường, các yếu tố của môi trường tự nhiên như:
nhiệt độ, độ ẩm, tiếng ồn…và các yếu tố môi trường xã hội như: tình hình chính
trị, kinh tế, xã hội cũng đã ảnh hưởng đến tâm lí con người. Trong điều kiện bệnh
lí, sự ảnh hưởng như vậy càng rõ nét song cũng phức tạp hơn.
+ Vai trò của yếu tố tâm lí trong điều trị và chăm sóc sức khoẻ con người:
Vận dụng cơ chế ảnh hưởng của tâm lí lên sức khoẻ nói chung, bệnh tật nói
riêng, trong Y học Lâm sàng có hẳn một chuyên ngành Liệu pháp Tâm lí. Từ
những thành công trong lĩnh vực lâm sàng tâm thần, liệu pháp tâm lí đã được ứng
dụng sang các lĩnh vực khác lâm sàng nội, ngoại khoa khác nhau.
Y học hiện đại không chỉ bó hẹp trong phạm vi bệnh viện. Cùng với Y học,
Tâm lí Y học góp phần xây dựng, triển khai những biện pháp nhằm tăng cường,
củng cố những hành vi sức khoẻ cho người dân và cộng đồng nói chung.
+ Giao tiếp của nhân viên y tế:
Hiệu quả hoạt động khám, chữa bệnh của người thầy thuốc phụ thuộc vào
không chỉ kiến thức, kinh nghiệm nghề nghiệp mà còn vào các kĩ năng giao tiếp
của họ. Do vậy một trong những điều không thể thiếu đối với công tác đào tạo
cán bộ y tế đó là trang bị, hình thành cho họ những kĩ năng giao tiếp cần thiết.
Hoạt động khám, chữa bệnh hoặc các biện pháp dự phòng, tăng cường sức
khoẻ đều nhằm đến mục tiêu cải thiện sức khoẻ (cả về thể chất và tâm lí) cho con
người. Tuy nhiên hiệu quả của các biện pháp đó không chỉ phụ thuộc vào trình
độ hiểu biết của người thầy thuốc về tâm lí người bệnh mà nó còn phụ thuộc vào
chính những đặc điểm tâm lí - nhân cách của họ- những người làm công tác chăm
sóc sức khoẻ. Do vậy, với góc độ là một lĩnh vực ứng dụng vào Y học, Tâm lí
học Y học không chỉ dừng lại ở mức độ trang bị cho thầy thuốc kiến thức về tâm
lí người bệnh. Những hiểu biết về tâm lí - nhân cách của thầy thuốc cũng còn là
302
cơ sở khoa học góp phần giáo dục, đào tạo bồi dưỡng và phát triển toàn diện, hài
hoà nhân cách người thầy thuốc.
3. Nhiệm vụ của Tâm lí Y học.
3.1. Chẩn đoán/đánh giá tâm lí lâm sàng:
+ Chẩn đoán tâm lí lâm sàng nhằm xác định trạng thái tâm lí hiện tại của
khách thể. Trên cơ sở so sánh/đối chiếu với các chuẩn hoặc trong điều kiện bình
thường nhằm xác định các biến đổi tâm lí.
+ Trong nhiều trường hợp, cần phải xác định nguyên nhân của những biến
đổi đó. Ví dụ: sự giảm sút trí nhớ đã được ghi nhận là do nguyên nhân gì?
+ Chẩn đoán tâm lí lâm sàng còn cần phải đưa ra được dự báo diễn biến tiếp
theo của các rối loạn tâm lí.
3.2. Can thiệp tâm lí:
Sự tham gia của tâm lí lâm sàng không chỉ bó hẹp trong khái niệm trị liệu
(liệu pháp/điều trị) tâm lí mà đã mở rộng ra rất nhiều. Trong lâm sàng, can thiệp
tâm lí không chỉ nhằm xoá bỏ nguyên nhân của các rối loạn. Dựa trên quan niệm
sức khoẻ con người bao gồm 3 thành tố: sinh học – tâm lí – xã hội, can thiệp tâm
lí nhằm tác động vào thành tố tâm lí, giúp cho người bệnh tự giải quyết những
vấn đề của mình.
Can thiệp tâm lí đã mở rộng ra lâm sàng các bệnh nội, ngoại, sản, nhi...Ví dụ:
đối với người bệnh ung thư, can thiệp tâm lí nhằm giúp họ thích ứng với tình
trạng của mình để phấn đấu vươn lên, sống có ích cho người thân trong gia đình,
không bi quan tuyệt vọng, không có ý định và hành vi cực đoan.
Can thiệp tâm lí cũng còn mở rộng sang cả lĩnh vực cộng đồng/công cộng.
Có hẳn một chuyên ngành nữa, đó là Tâm lí học Công cộng.
4. Các lĩnh vực ứng dụng của Tâm lí Y học.
4.1. Trong y học lâm sàng:
+ Trong lâm sàng tâm thần:
Cho đến nay đã có rất nhiều những thành tựu của công nghệ hiện đại được
ứng dụng vào Y học lâm sàng. So với chụp X. quang trước đây, hình ảnh của
siêu âm, siêu âm 3 chiều, chụp cắt lớp vi tính, chụp cộng hưởng từ hạt nhân…đã
có những bước tiến rất xa. Các thành tựu này đã trợ giúp rất nhiều cho thầy thuốc
trong công tác chẩn đoán bệnh. Tuy nhiên các bác sĩ tâm thần không được hưởng
303
lợi nhiều từ những thành quả đó. Hiện tại chưa có một thiết bị nào, ví dụ: có thể
ghi được tiếng nói trong đầu của bệnh nhân. Do vậy để chẩn đoán bệnh, các nhà
tâm thần học vẫn phải dựa vào cứ liệu lâm sàng là chủ yếu. Trong bối cảnh như
vậy, kết quả chẩn đoán tâm lí sẽ là cứ liệu bổ ích cho các bác sĩ tâm thần trong
quá trình chẩn đoán bệnh, đặc biệt là chẩn đoán phân biệt.
Ở bệnh nhân tâm thần, cái bị rối loạn nặng nề nhất không phải là cơ thể mà
là phần tâm lí – nhân cách. Do vậy xu hướng tác động, lên tâm lí bệnh nhân
nhằm mục đích điều chỉnh hành vi, nâng cao tính thích ứng đang ngày càng được
sử dụng nhiều. Hiện nay các biện pháp can thiệp tâm lí đang mở sang lĩnh vực
chăm sóc sức khoẻ tâm thần tại cộng đồng.
+ Trong lâm sàng thần kinh:
Một khi bệnh nhân bị tổn thương não, đặc biệt là vỏ não, các biểu hiện rối
loạn, biến đổi tâm lí cũng rất phức tạp. Chẩn đoán tâm lí thần kinh đưa ra nhận
định về khu vực tổn thương trên cơ sở phân tích các biến đổi, rối loạn tâm lí của
người bệnh. Mặc dù hiện nay các phương tiện kĩ thuật hiện đại đã có thể trợ giúp
rất nhiều trong chẩn đoán định khu thần kinh song ở một số nước, chẩn đoán tâm
lí thần kinh vẫn được ưa dùng bởi giá thành rẻ.
Một mảng ứng dụng của tâm lí nữa là phục hồi chức năng tâm lí cấp cao.
Như đã biết, khi một vùng nào đó của vỏ não bị bất hoạt, ví dụ: bị phẫu thuật
tách bỏ, những vùng khác còn lại sẽ “chia sẻ” chức năng của khu vực đó theo
nguyên lí bù trừ. Phục hồi chức năng tâm lí cấp cao nhằm tác động vào những
chức năng tâm lí còn được bảo toàn nhằm thông qua đó, điều khiển quá trình bù
trừ hoặc phục hồi diễn ra một cách tối ưu.
Chẩn đoán định khu tâm lí thần kinh và phục hồi hức năng tâm lí cấp cao
chính là những nội dung cơ bản của một chuyên ngành khác của Tâm lí Y học:
Tâm lí Thần kinh.
+ Trong lâm sàng nội, ngoại khoa khác:
Hiện nay, ở nhiều nước, can thiệp tâm lí đã được thực hiện trong tất cả các
khoa lâm sàng. Nhiều bệnh nhân, đặc biệt là những người bị bệnh hiểm nghèo, ví
dụ như ung thư, AIDS…hoặc bị bệnh mạn tính dễ có những tổn thương nặng nề
về tâm lí, ví dụ như trầm cảm lo âu hoặc dễ có ý nghĩ và hành vi cực đoan. Can
thiệp tâm lí chính là nhằm hỗ trợ chăm sóc sức khoẻ tâm lí cho những người như
304
vậy và cho bệnh nhân nói chung, cải thiện chất lượng cũng như kéo dài thời gian
sống cho họ nói riêng.
4.2. Trong công tác giám định:
Trong các hoạt động giám định như: giám định lao động, giám định hình luật –
pháp y, giám định quân sự, chẩn đoán tâm lí có thể được trưng cầu. Kết quả này sẽ
là những cứ liệu có ích cho việc xác định tỉ lệ mất sức khoẻ, độ tin cậy của lời
khai, chứng cứ…
4.3. Trong các dịch vụ tư vấn, tuyển chọn nghề nghiệp:
Hiện nay những ứng dụng của tâm lí lâm sàng đang được triển khai mạnh
trong các lĩnh vực tư vấn về sức khoẻ tâm lí cũng như tuyển chọn nghề.
CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA
TÂM LÍ Y HỌC
Những phương pháp thường được sử dụng trong nghiên cứu tâm lí y học là:
quan sát, hỏi chuyện, phân tích sản phẩm, trắc nghiệm, thực nghiệm...
Có thể chia các phương pháp của Tâm lí Y học thành 2 nhóm chính: các
phương pháp bổ trợ và các phương pháp chủ đạo. Phương pháp chủ đạo là
phương pháp được dùng chính trong một nghiên cứu. Thông thường kết quả của
các phương pháp chủ đạo được bổ sung, làm sáng tỏ thêm bằng kết quả của các
phương pháp bổ trợ. Lẽ đương nhiên sự phân chia như vậy cũng chỉ mang tính
tương đối.
1. Các phương pháp bổ trợ.
1.1. Hỏi chuyện lâm sàng:
Hỏi chuyện lâm sàng cũng là phương pháp được các thầy thuốc thường
xuyên sử dụng. Tương tự như vậy, trong tâm lí lâm sàng, hỏi chuyện được dùng
nhằm: thu thập thông tin về hiện trạng, nguyên nhân của các biến đổi tâm lí;
thông tin về quá trình phát triển cơ thể; phát triển tâm lí - nhân cách và các mối
quan hệ xã hội của người bệnh. Bên cạnh đó hỏi chuyện còn được sử dụng nhằm
tạo dựng sự tiếp xúc tâm lí cũng như làm liệu pháp tâm lí.
Dựa vào cấu trúc, nội dung hỏi chuyện lâm sàng, có thể chia thành 3 mức độ:
+ Mức I: hầu như không có cấu trúc.
Ở mức độ này, nhà tâm lí thường đặt ra những câu hỏi mở để bệnh nhân có
thể kể về những vấn đề của mình. Thông thường dạng hỏi chuyện này được thực
305
hiện dưới dạng một buổi trò chuyện tự do và thường là ở buổi đầu tiếp xúc với
bệnh nhân khi chúng ta chưa rõ vấn đề chính của họ. Nhược điểm là dễ lan man,
mất nhiều thời gian.
+ Mức II: chỉ có hướng chính của hỏi chuyện.
Hình thức hỏi chuyện này được thực hiện, ví dụ sau khi chúng ta đã tham
khảo các tư liệu trong bệnh án, qua lời kể của người nhà, bạn bè, đồng nghiệp
hoặc sau trò chuyện ban đầu và chúng ta đã xác định hướng vấn đề cần làm sáng
tỏ thêm.
+ Mức III: hệ thống câu hỏi chặt chẽ.
Đây còn gọi là hỏi chuyện (hoặc phỏng vấn) có cấu trúc. Với dạng hỏi
chuyện/phỏng vấn này, các hệ thống câu hỏi đã được chuẩn bị sẵn để giúp chúng
ta thu được thông tin đầy đủ về vấn đề cần nghiên cứu. Thang trầm cảm
Hamilton là một ví dụ thuộc dạng này. Đây là thang mà các hướng câu hỏi đã
được chuẩn bị sẵn, giúp cho người phỏng vấn đánh giá các dấu hiệu khác nhau
của trầm cảm và mức độ nặng của các triệu chứng này.
Hỏi chuyện là một quá trình giao tiếp. Do vậy ngoài kênh ngôn ngữ còn có
kênh phi ngôn ngữ. Chính kênh này đã truyền tải nhiều thông tin về cảm xúc, ví dụ
như lo âu hoặc căng thẳng mà thông qua quan sát chúng ta có thể ghi nhận được:
+ Các dấu hiệu cận ngôn ngữ của lo âu: nói nhanh, một số lỗi ngôn ngữ, nói
không hết câu…
+ Ở mức độ phi ngôn ngữ, lo âu thể hiện qua: tư thế cứng nhắc, tăng động
chân, tay. Trầm cảm thường gắn với giảm ngôn ngữ, giảm trương lực cơ, sự phục
tùng hoặc thụ động thể hiện ở giảm tiếp xúc bằng ánh mắt… Trong quá trình hỏi
chuyện, cảm xúc của bệnh nhân thường cũng bị thay đổi khi chủ đề của hỏi
chuyện thay đổi. Những trạng thái cảm giác như vậy thường là trung tâm của các
khó khăn về tâm lí. Tuy nhiên nếu ở bệnh nhân không có sự thay đổi cảm xúc
như vậy thì cần phải lưu ý đến sự nghèo nàn cảm xúc.
Ngoài ra cách ăn mặc, xưng hô, bộ điệu… cũng cho chúng ta những thông
tin nhất định về đặc điểm tâm lí của bệnh nhân.
1.2. Quan sát:
Quan sát được sử dụng nhằm theo dõi, nhận xét đánh giá về hành vi của
người bệnh. Trong tâm lí lâm sàng, quan sát thường được dùng kết hợp với các
phương pháp khác như: trắc nghiệm, thực nghiệm và đặc biệt là hỏi chuyện. Bên
306
cạnh đó, cũng có những thang đo được thiết kế trên cơ sở quan sát, ví dụ như một
số thang đo về tăng động, giảm chú ý ở trẻ em.
1.3. Phân tích sản phẩm hoạt động:
Mọi sản phẩm hoạt động của con người đều mang dấu ấn nhất định về những
đặc điểm tâm lí - nhân cách của chủ thể. Thông qua việc phân tích các sản phẩm
hoạt động, chúng ta có thể có những nhận xét nhất định về những đặc điểm đó.
Một trong những sản phẩm hoạt động được quan tâm nhiều trong thăm khám
tâm lí lâm sàng là các ghi chép, nhật kí, thư từ của bệnh nhân. Trong những sản
phẩm này, thông thường bệnh nhân ghi lại những cảm xúc, suy nghĩ, thái độ của
mình về một vấn đề nào đó hoặc về ai đó.
Trong nhiều trường hợp giám định tâm thần, nhật kí, thư từ… là những tư
liệu rất quan trọng trong việc xác định và lí giải nguyên nhân cũng như quá trình
dẫn đến hành vi cực đoan.
Phân tích sản phẩm hoạt động cũng có thể được xây dựng thành một phương
pháp chuyên biệt, ví dụ như phương pháp vẽ tranh: vẽ tranh tự do và vẽ tranh
theo chủ đề.
1.4. Phân tích tiểu sử:
Phân tích tiểu sử cũng là một trong những phương pháp cung cấp nhiều tư
liệu về sự phát triển tâm lí - nhân cách của chủ thể qua từng thời kì. Trong phân
tích tiểu sử cần lưu ý đến những biến cố mang tính quy luật và những biến cố
mang tính bất ngờ.
Những biến cố mang tính quy luật (hầu như ai cũng phải trải qua) như: bắt
đầu đi học, xa gia đình đi học hoặc đi công tác, lấy vợ hoặc lấy chồng, khi đứa
con đầu tiên ra đời…
Những biến cố mang tính bất ngờ như: ốm đau, bệnh tật, tai nạn giao thông,
cha mẹ hoặc chính bệnh nhân li dị…
Lẽ đương nhiên trong khi phân tích tiểu sử cũng phải luôn lưu ý đến sự phát
triển về sức khoẻ của bệnh nhân qua từng thời kì và những đặc điểm xã hội của
họ như: đặc điểm các mối quan hệ gia đình, đồng nghiệp, đặc điểm về kinh tế…
2. Các phương pháp chủ đạo.
Về mặt thuật ngữ, phương pháp có thể được hiểu ở 3 cấp độ: phương pháp
luận, phương pháp tiếp cận và phương pháp cụ thể (kĩ thuật cụ thể).
307
Ngoại trừ cấp độ phương pháp luận, trong thực hành tâm lí nói chung, tâm lí
lâm sàng nói riêng, các phương pháp nghiên cứu (chủ đạo) thường được dùng với
cả 2 cấp độ: các tiếp cận và phương pháp cụ thể. Có 2 cách tiếp cận được bàn
nhiều trong thực hành tâm lí lâm sàng, đó là thực nghiệm và trắc nghiệm.
2.1. Thực nghiệm tâm lí:
Thực nghiệm tâm lí là quá trình tác động vào đối tượng một cách chủ động,
trong những điều kiện đã được khống chế để gây ra ở đối tượng những biểu hiện
về quan hệ nhân - quả, tính quy luật, cơ cấu, cơ chế của chúng, có thể lặp đi lặp
lại nhiều lần và đo đạc, định lượng, định tính một cách khách quan các hiện
tượng cần nghiên cứu.
Đặc điểm nổi bật của thực nghiệm là vai trò chủ động, tích cực của nhà
nghiên cứu. Đây cũng chính là nét khác biệt cơ bản giữa tiếp cận thực nghiệm
với trắc nghiệm.
Đặc điểm khác nữa của thực nghiệm chính là phân tích định tính. Đặc điểm này
không loại trừ tính định lượng mà ngược lại, chúng quan hệ rất mật thiết với
nhau.
Theo hình thức thực hiện có thể có: thực nghiệm tự nhiên và thực nghiệm
trong phòng.
Theo mục đích: thực nghiệm phát hiện/xác định và thực nghiệm hình thành.
Trong thực hành tâm lí lâm sàng, thực nghiệm được sử dụng chủ yếu là thực
nghiệm trong phòng thí nghiệm và thực nghiệm xác định. Ví dụ, dùng thực
nghiệm để phát hiện các biểu hiện và mức độ của rối loạn tư duy hoặc nhằm
đánh giá chung những chức năng tâm lí còn được bảo toàn và những chức năng
tâm lí bị biến đổi/rối loạn cùng với mức độ rối loạn của chúng.
2.2. Trắc nghiệm tâm lí:
Cùng với việc xuất hiện các cuộc cách mạng trong Tâm lí học (như đã đề cập
trong bài trước), một trong những yêu cầu để xây dựng Tâm lí học thành một
ngành khoa học thực sự là đối tượng nghiên cứu của nó phải định lượng được.
Trước thế kỉ XX, trắc nghiệm tâm lí cũng đã có những bước đi ban đầu. Tuy
nhiên nó chỉ thực sự phát triển kể từ sau năm 1905, năm xuất hiện thang đo trí
tuệ Binet-Simon. Càng ngày càng có nhiều trắc nghiệm tâm lí được xây dựng và
phạm vi ứng dụng cũng được mở rộng ra rất nhiều: giáo dục, y tế, tuyển chọn
nghề, quân sự (ví dụ: tại Mĩ, trong chiến tranh thế giới lần thứ 2 đã có hơn 20
triệu quân nhân và nhân viên quân sự được “đo” trí tuệ).
308
+ Trắc nghiệm tâm lí là một phép đo nên trắc nghiệm đòi hỏi phải được thực
hiện theo các yêu cầu:
- Tính chuẩn: trắc nghiệm phải được thực hiện trong điều kiện chuẩn, có
những điểm chuẩn trên cơ sở kết quả của các nhóm đại diện cho một quần thể
(lứa tuổi, văn hoá, chủng tộc, nghề nghiệp...).
- Tính hiệu lực: trắc nghiệm phải đo được chính cái mà nó cần đo.
- Độ tin cậy: thể hiện ở chỗ trên cùng một đối tượng, trong các lần đo khác
nhau; hoặc trên cùng những đối tượng tương đồng; hoặc các phiên bản khác nhau
của cùng một trắc nghiệm phải cho kết quả giống nhau.
Cũng như các lĩnh vực Tâm lí học ứng dụng khác, trong thực tiễn tâm lí lâm
sàng, một trắc nghiệm tâm lí được xây dựng ở một nước nào đó và sau được sử
dụng ở nước khác. Trước khi ứng dụng, thông thường các trắc nghiệm được thích
ứng hoá. Đây là các biện pháp nhằm đảm bảo cho test được sử dụng có hiệu quả
trong điều kiện mới.
+ Thích ứng hoá test trải qua các bước:
- Phân tích cơ sở lí luận của test.
- Chuyển ngữ test và các hướng dẫn, kiểm định lại bằng ý kiến chuyên gia.
- Kiểm tra độ hiệu lực và độ tin cậy của test.
- Chuẩn hoá test.
Điều này cho thấy không nên tùy tiện sử dụng một trắc nghiệm/test bất kì nào
của nước ngoài.
Sự phân chia ra các phương pháp thực nghiệm và trắc nghiệm cũng chỉ mang
tính tương đối. Trong nhiều trường hợp, một phương pháp nào đó có thể được sử
dụng để đo, ví dụ: dùng test Raven để đo chỉ số trí tuệ. Tuy nhiên người ta cũng
có thể sử dụng chúng dưới góc độ thực nghiệm. Cũng với test Raven, người ta có
thể dùng nó là chất liệu để làm thực nghiệm về tư duy hoặc khả năng phê phán
của cá nhân.
+ Các phương pháp cụ thể:
Hiện nay có hàng nghìn phương pháp phương pháp khác nhau. Phần lớn các
phương pháp này được sử dụng dưới dạng trắc nghiệm:
- Các phương pháp khảo sát trí nhớ.
- Các phương pháp khảo sát chú ý.
- Các trắc nghiệm trí tuệ.
- Các phương pháp khảo sát cảm xúc.
309
- Các phương pháp khảo sát nhân cách.
Trong số những phương pháp này, các trắc nghiệm trí tuệ và nhân cách
chiếm phần lớn.
2.3. Đánh giá hành vi:
Theo các nhà tâm lí học hành vi, cái gọi là tâm lí - nhân cách bên trong của
con người là những cái không thể quan sát được cũng như không thể “đo đạc”
được một cách trực tiếp. Do vậy thay vì dùng các phương pháp đo gián tiếp, các
nhà tâm lí học hành vi xây dựng các quy trình đánh giá hành vi, những cái có thể
trực tiếp quan sát được.
2.3.1. Phỏng vấn:
Mục đích chính của phỏng vấn trong đánh giá hành vi là nhằm xác định hành
vi có vấn đề, các yếu tố hoàn cảnh gây râ các hành vi đó và hậu quả của chúng.
Những thông số chính về hành vi có vấn đề mà nhà quan sát cần quan tâm:
+ Tần xuất.
+ Cường độ.
+ Độ dài.
Nhằm tăng độ tin cậy của đánh giá, xu hướng chung hiện nay là sử dụng
những phỏng vấn có cấu trúc.
2.3.2. Quan sát:
Quan sát là kĩ thuật chủ yếu của đánh giá hành vi. Đối với một số trường hợp,
ví dụ như bệnh nhân loạn thần hoặc trẻ nhỏ thì quan sát là kĩ thuật chủ đạo. Quan
sát có thể do một chuyên gia hoặc là người đã được hướng dẫn, luyện tập. Đây
thường là những người tiếp xúc trực tiếp với đối tượng quan sát, ví dụ như: cô
giáo, cha mẹ. Cũng có thể do chính đối tượng thực hiện (tự quan sát).
Có thể sử dụng các phương tiện kĩ thuật trợ giúp: đồng hồ, camera và các
thiết bị điện tử hoặc đơn giản là giấy bút.
2.4. Nghiên cứu trường hợp và nghiên cứu dịch tễ:
2.4.1. Nghiên cứu trường hợp:
Nghiên cứu trường hợp cũng là một phương pháp được sử dụng trong nhiều
lĩnh vực, đặc biệt là trong Y học và Tâm lí Lâm sàng.
Có một số quan niệm khác nhau về nghiên cứu trường hợp. Tuy nhiên từ góc
độ tâm lí lâm sàng, nghiên cứu trường hợp thường được hiểu là nghiên cứu một
cách tích cực, toàn diện của một trường hợp cụ thể. Nội dung của nghiên cứu
trường hợp bao gồm:
310
+ Các tư liệu: tiểu sử, nhật kí, tiền sử bệnh lí.
+ Hỏi chuyện, phỏng vấn.
+ Kết quả của các lần thực nghiệm tâm lí.
+ Kết quả trị liệu.
Giá trị lớn nhất của nghiên cứu trường hợp là ở chỗ nó có thể thu thập phong
phú các tư liệu của một cá nhân, chính những kết quả của nó dẫn đến việc hình
thành các giả thuyết khoa học.
2.4.2. Nghiên cứu dịch tễ:
Nghiên cứu dịch tễ là phương pháp nghiên cứu của Y học. Trong Tâm lí Lâm
sàng, nghiên cứu dịch tễ thường được sử dụng để xác định các chỉ số về dịch tễ
của một hoặc một số rối loạn tâm lí nào đó, ví dụ: nghiên cứu về stress ở sinh
viên.
Giá trị của nghiên cứu dịch tễ là ở chỗ khi phân tích sự phân bố các trường
hợp rối loạn trong cộng đồng và xem xét/phân tích những đặc điểm của nhóm rối
loạn, chúng ta nhận biết được bước đầu mối liên quan giữa rối loạn đó với các
yếu tố khác, ví dụ: mối liên quan giữa stress với bệnh tim mạch.
Phần lớn các nghiên cứu dịch tễ đều dựa trên phương pháp điều tra khảo sát
và phỏng vấn. Do vậy nghiên cứu dịch tễ cần phải được thực hiện trên cơ sở một
thiết kế tốt bởi nếu không chúng ta sẽ bỏ qua những yếu tố quan trọng.
Chương VI
CÁC HIỆN TƯỢNG TÂM LÍ
PHÂN LOẠI CÁC HIỆN TƯỢNG TÂM LÍ
1. Hiện tượng tâm lí.
Khi ta nhìn, quan sát thấy một sự vật hiện tượng, biểu tượng đó xuất hiện
trong đầu của chúng ta. Đó chính là biểu tượng tâm lí.
Khi chúng ta vui hoặc buồn, trạng thái vui hay buồn đó cũng là tâm lí.
Khi chúng ta suy nghĩ và đưa ra một nhận định, đánh giá nào đó, những nhận
định đánh giá của chúng ta cũng là các hiện tượng tâm lí.
Có những sự việc không diễn ra tức thời như quá trình suy nghĩ hay như
trạng thái vui, buồn mà nó chỉ là những khái quát từ các hiện tượng tâm lí khác.
311
Ví dụ: khi ta nói yêu lao động thì chúng ta đã đề cập đến một nét tính cách của
con người. Đối với một con người như vậy họ rất trân trọng, quý trọng sản phẩm
của lao động.
Trong ngôn ngữ Việt, bên cạnh thuật ngữ tâm lí còn có thuật ngữ tâm hồn.
Đôi khi người ta tách chữ tâm riêng, chữ hồn riêng. Trong Từ điển tiếng Việt
(1988), tâm hồn được định nghĩa là ý nghĩ và tình cảm, làm thành đời sống nội
tâm, thế giới bên trong của mỗi con người.
Các hiện tượng tâm lí, tâm hồn của con người đều có nguồn gốc từ bên ngoài,
là sự phản ánh thế giới khách quan. Thế giới vật chất được chuyển vào não, dưới
các dạng biểu tượng, hình ảnh đó không dừng lại ở mức độ xơ cứng, bất biến.
Nhờ có các giác quan, chúng ta có được những biểu tượng về các sự vật, hiện
tượng của thế giới khách quan. Từ vô số các hình ảnh, biểu tượng về những ngôi
nhà có thực, trong óc con người dần khái quát hoá, thu gọn tất cả những biểu
tượng đó vào một khái niệm: nhà. Chính ngôn ngữ đã giúp cho khả năng nhận
biết của con người về thế giới bên ngoài tăng lên một cách đột phá.
Cũng nhờ có ngôn ngữ, tư duy của con người đã chuyển sang một bước ngoặt
vĩ đại: từ tư duy bằng tay con người chuyển sang tư duy bằng khái niệm. Nhờ có
tư duy bằng khái niệm, con người đã có khả năng “nhìn” sâu vào những cái mà
bằng mắt thường không thể nhìn thấy. Bằng mắt, con người không thể nào nhìn
thấy đường đi của hạt ánh sáng song bằng tư duy thì có thể.
Như vậy có thể nhận thấy các hiện tượng tâm lí - thế giới nội tâm của con
người, mặc dù là sự phản ánh thế giới bên ngoài song nó là các hiện tượng tinh
thần. Thế giới tinh thần này cũng có những cơ chế, quy luật hoạt động cho riêng
mình. Bản thân nó có cấu trúc phức tạp. Để có thể nghiên cứu sâu hơn các hiện
tượng tâm lí, người ta phân chia chúng thành các lớp hiện tượng khác nhau.
2. Phân loại các hiện tượng tâm lí.
Có rất nhiều cách phân loại các hiện tượng tâm lí khác nhau. Ở đây chúng tôi
chỉ giới thiệu một số cách phân loại thường thấy.
2.1. Ý thức và vô thức:
2.1.1. Ý thức:
+ Khái niệm: có nhiều lĩnh vực quan tâm đến ý thức: Triết học, Giáo dục học,
Tâm thần học, Tâm lí học…
312
Với Tâm thần học, ý thức chủ yếu giới hạn ở khả năng định hướng của con
người: định hướng thời gian, định hướng không gian và định hướng bản thân.
Khái niệm ý thức trong Tâm lí học được hiểu rộng hơn so với Tâm thần học. Như
trên đã đề cập, những hình ảnh mà chúng ta quan sát được, những ý nghĩ và nhận
định mà chúng ta có được trong quá trình tư duy… đều là những hiện tượng tâm
lí. Khi những hiện tượng tâm lí đó lại là đối tượng để chúng ta suy nghĩ: tại làm
sao chúng ta quan sát được? Liệu những suy nghĩ và quyết định của chúng ta có
đúng hay không?…Khi đó các hiện tượng tâm lí đã được nâng cấp lên bình diện
mới: bình diện ý thức. Nói một cách khác, ý thức chính là năng lực hiểu được các
hiểu biết. Nói một cách khác, nếu các hiện tượng tâm lí là sự phản ánh thế giới
khách quan thì sự phản ánh đó lại một lần nữa được phản ánh lại trong ta - đó
chính là ý thức.
Ở động vật cũng có sự phản ánh tâm lí. Tuy nhiên sự phản ánh này chỉ dừng
lại ở đó mà không có sự phản ánh lại một lần nữa. Con vật cũng có những khả
năng nhận biết song chúng không nhận biết được rằng chúng đang nhận biết.
Chúng không có ý thức.
Trong ý thức của con người có một bộ phận đóng vai trò quan trọng: tự ý thức .
Tự ý thức là năng lực hiểu được chính mình, hiểu được những mong muốn,
những xu hướng của mình. Tự ý thức được xem là “bộ máy chỉ huy” cao nhất
trong toàn bộ ý thức của con người.
+ Cấu trúc: theo quan niệm chung, ý thức bao gồm 3 tầng bậc chính: nhận thức
cảm tính, nhận thức lí tính và hoạt động.
- Nhận thức cảm tính bao gồm 2 quá trình chính gắn bó mật thiết với nhau là
cảm giác và tri giác. Các biểu tượng của nhận thức cảm tính giúp chúng ta nhận
biết được sự tồn tại của thế giới bên ngoài, làm ranh giới giữa thức và ngủ, giữa
tỉnh và say.
- Nhận thức lí tính cung cấp cho chúng ta những hiểu biết một cách khái quát,
những mối quan hệ bên trong của sự vật, hiện tượng.
- Trong tầng bậc hoạt động, các hành động có ý thức đóng vai trò là những
đơn vị cơ bản. Hành động có ý thức là quá trình con người sử dụng những hiểu
biết, kinh nghiệm của mình tác động vào thế giới hiện thực nhằm thoả mãn
những nhu cầu của bản thân và xã hội.
2.1.2. Vô thức:
313
Vô thức là những hiện tượng tâm lí không được ý thức. Nó bao gồm:
+ Những hành động hoặc những cảm giác diễn ra nhưng người ta không nhận
biết được nguyên nhân.
+ Thành phần tự động hóa trong các kĩ năng, kĩ xảo.
+ Trạng thái mất ý thức do nguyên nhân sinh lí tự nhiên (mơ ngủ) hoặc do
bệnh lí (chấn thương sọ não, sốt cao) hay nhân tạo (gây mê).
+ Trực giác.
Mặc dù đã có khá nhiều nghiên cứu tập trung vào vô thức song vẫn còn nhiều
điều chưa được sáng tỏ trong lĩnh vực này.
2.2. Tâm lí bao gồm các quá trình, trạng thái và thuộc tính:
Đây là cách chia dựa vào thời gian tồn tại và vị trí tương đối của chúng trong
nhân cách.
+ Các quá trình tâm lý: là những hiện tượng tâm lí diễn ra trong một khoảng
thời gian ngắn, có mở đầu, diễn biến và kết thúc tương đối rõ ràng. Các quá trình
đều có sản phẩm của mình. Đó có thể là các biểu tượng của nhận thức cảm tính,
là khái niệm, nhận định của tư duy, là rung cảm của cảm xúc…
+ Các trạng thái tâm lí: là những hiện tượng tâm lí diễn ra trong khoảng thời
gian dài, mở đầu và kết thúc không rõ ràng và luôn luôn đi kèm theo, làm nền
cho các quá trình tâm lí. Ví dụ như chú ý, tâm trạng…
+ Các thuộc tính tâm lí: là những hiện tượng tâm lí tương đối ổn định, hình
thành chậm song cũng khó mất đi, tạo thành những nét riêng của nhân cách.
Thuộc tính tâm lí chính là sự khái quát phối hợp giữa một số quá trình tâm lí với
trạng thái tâm lí. Nét nhân cách có thể được xem xét một cách riêng biệt, ví dụ,
tính cẩn thận, song chúng cũng có thể kết hợp tạo thành nhóm. Ví dụ như xu
hướng, tính cách, năng lực, khí chất.
2.3. Tâm lí bao gồm ba mặt:
+ Nhận thức: là các quá trình tâm lí giúp cho con người nhận biết được sự
vật, hiện tượng, các mối quan hệ của những sự vật hiện tượng đó. Nhận thức gồm
2 nhóm chính là nhận thức cảm tính (cảm giác và tri giác) và nhận thức lí tính
(chủ yếu là tư duy).
314
+ Đời sống tình cảm: nếu như các quá trình nhận thức đem lại cho con người
hiểu biết về thế giới khách quan thì đời sống tình cảm lại thể hiện mối quan hệ
của chủ thể đối với các sự vật hiện tượng. Tuy nhiên không phải đối với mọi sự
vật hiện tượng mà chỉ là đối với những sự vật hiện tượng có liên quan đến sự
thoả mãn nhu cầu của chủ thể mà thôi. Gọi nó là đời sống hay lĩnh vực bởi nó
mang tính tổng thể (một cách tương đối) và bởi vì trong thành phần của nó có
nhiều các thành tố khác nhau, trải dài từ những màu sắc cảm xúc của cảm giác
cho đến tình cảm. Ngay trong lĩnh vực này, sự tách biệt đâu là quá trình, đâu là
trạng thái, thuộc tính cũng chỉ mang tính tương đối.
+ Ý chí: là mặt năng động của ý thức, biểu hiện ở năng lực thực hiện những
hành động có mục đích, đòi hỏi phải có sự nỗ lực khắc phục khó khăn. Ý chí là
hình thức tâm lí điều chỉnh hành vi tích cực nhất ở con người. Nhờ có ý chí, con
người chuyển được từ nhận thức và rung động sang hoạt động thực tiễn. Ý chí
luôn đi kèm với hành động do vậy lĩnh vực này còn được gọi là hành động ý chí.
Thế giới các hiện tượng tâm lí của con người là một chỉnh thể trọn vẹn,
thống nhất, không thể chia cắt được. Sự phân chia thành các lớp, loại, lĩnh vực
trước hết nhằm phục vụ mục đích nghiên cứu sâu hơn thế giới trừu tượng này.
Mỗi cách phân loại đều có ưu điểm và nhược điểm nhất định. Ngay trong từng
cách phân loại cũng đã mang tính tương đối bởi lẽ không thể xác định được một
cách chính xác ranh giới của các hiện tượng, ví dụ giữa ý thức và vô thức hoặc
không thể tách biệt một cách máy móc đâu là trạng thái cảm xúc và đâu là quá
trình cảm xúc.
315
CÁC QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC
1. Nhận thức cảm tính.
1.1. Khái niệm:
Mỗi sự vật, hiện tượng quanh ta đều được thể hiện ra bên ngoài hàng loạt các
đặc điểm như màu sắc (xanh, đỏ...), trọng lượng (nặng, nhẹ...), khối lượng (to ,
nhỏ...). Chúng ta biết được những thuộc tính đó là nhờ bộ não. Biểu tượng của
những thuộc tính bề ngoài của sự vật hiện tượng khi sự vật, hiện tượng đang trực
tiếp tác động vào ta được gọi là các biểu tượng nhận thức cảm tính. Quá trình
chúng ta nhận biết được các thuộc tính đó là quá trình nhận thức cảm tính.
Ví dụ: khi ta nhắm mắt, người bạn đặt vào lòng bàn tay ta một vật gì đó. Nếu
không sờ mó, nắm, bóp, ta chỉ có thể cảm nhận được vật đó nặng hay nhẹ, nóng
hay lạnh.
Chúng ta đang quan sát ngôi nhà. Trong đầu chúng ta khi đó xuất hiện hình
ảnh ngôi nhà.
Chúng ta có cảm giác nóng, lạnh, trong đầu có hình ảnh ngôi nhà… đó
chính là biểu tượng nhận thức cảm tính. Khi chúng ta đang cảm thấy nóng hoặc
khi chúng ta đang nhìn ngôi nhà thì đó là quá trình nhận thức cảm tính.
Đặc điểm chung nhất của nhận thức cảm tính là chỉ phản ánh được những
thuộc tính bên ngoài của sự vật, hiện tượng khi sự vật hiện tượng đang trực tiếp
tác động vào giác quan chúng ta.
Nhận thức cảm tính bao gồm 2 quá trình chính là cảm giác và tri giác.
1.2. Cảm giác:
1.2.1. Khái niệm:
Cảm giác là quá trình tâm lí phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ của sự vật hiện
tượng đang trực tiếp tác động vào giác quan của ta.
Cảm giác là hình thức phản ánh tâm lí, sơ đẳng, đơn giản nhất. Biểu tượng
của nó chỉ là những thuộc tính riêng rẽ của sự vật. Tuy nhiên nó lại đóng vai trò
khởi đầu cho các quá trình tâm lí khác như tưởng tượng, tư duy, trí nhớ… Cảm
giác cũng là khâu đầu tiên trong sự nhận thức hiện thực khách quan của con
người.
1.2.2. Các loại cảm giác:
+ Cảm giác bên ngoài:
316
- Cảm giác nhìn (thị giác): cho chúng ta biết thuộc tính ánh sáng, màu sắc,
kích thước của đối tượng.
- Cảm giác nghe (thính giác): cho chúng ta biết những thuộc tính của âm thanh.
- Cảm giác ngửi (khứu giác): giúp con người nhận biết được mùi.
- Cảm giác nếm (vị giác): giúp chúng ta nhận biết các loại vị: mặn, nhạt,
đắng, cay…
- Cảm giác da (mạc giác): cho ta biết về nhiệt độ.
+ Cảm giác bên trong:
- Cảm giác vận động.
- Cảm giác thăng bằng.
- Cảm giác nội tạng.
1.2.3. Các quy luật cơ bản của cảm giác:
+ Quy luật ngưỡng cảm giác (quy luật về tính nhạy cảm):
Muốn có cảm giác thì phải có kích thích. Tuy nhiên cường độ kích thích phải
đạt đến độ nhất định mới có thể gây ra được cảm giác. Mức độ đó được gọi là
ngưỡng cảm giác.
Ngưỡng cảm giác là cường độ tối thiểu của kích thích để có thể gây ra được
cảm giác.
Quy luật này còn gọi là quy luật về tính nhạy cảm bởi lẽ khi nói đến tính
nhạy cảm cao thì điều đó có nghĩa là chỉ cần cường độ kích thích nhỏ nhưng đã
có thể có cảm giác. Ví dụ: người ta nói một người nào đó có đôi tai rất thính có
nghĩa là với âm thanh khá nhỏ, trong khi người khác chưa nghe thấy thì người đó
đã nghe thấy. Như vậy độ nhạy cảm càng cao thì có nghĩa là ngưỡng cảm giác
càng thấp.
Điểm đáng lưu ý ở đây là khi chúng ta nói đến ngưỡng cảm giác là chúng ta
đề cập đến đại lượng vật lí, ví dụ như cường độ âm thanh, trọng lượng… còn khi
ta nói độ nhạy cảm thì đó lại là “đại lượng” tâm lí. Do không đo được trực tiếp
độ nhạy cảm của giác quan nên người ta phải đo nó một cách gián tiếp, thông qua
việc đo các kích thích vật lí bên ngoài.
+ Quy luật thích ứng cảm giác:
Để phản ánh được tốt nhất và bảo vệ hệ thần kinh, cảm giác của con người có
khả năng thích ứng với kích thích.
Thích ứng là khả năng thay đổi độ nhạy cảm của cảm giác cho phù hợp với
sự thay đổi của cường độ kích thích: khi cường độ kích thích tăng thì độ nhạy
317
cảm giảm và ngược lại, độ nhạy cảm tăng khi cường độ kích thích giảm. Ví dụ:
khi đang ở chỗ sáng (cường độ kích thích mạnh), đi vào chỗ tối (cường độ kích
thích yếu) thì lúc đầu ta không nhìn thấy gì, sau đó dần dần mới nhìn rõ mọi vật.
Điều này là do độ nhạy cảm tăng dần.
Tất cả các giác quan đều tuân theo quy luật thích ứng. Tuy nhiên mức độ
khác nhau. Cảm giác thị giác có khả năng thích ứng cao. Trong bóng tối tuyệt
đối, độ nhạy cảm với ánh sáng tăng gần 200.000 lần sau 40 phút. Bên cạnh đó,
cảm giác đau hầu như không thích ứng.
Khả năng thích ứng của cảm giác cũng có thể được phát triển do rèn luyện.
Ví dụ: công nhân luyện kim có thể chịu đựng được nhiệt độ cao tới 50 0 - 600C
trong hàng giờ đồng hồ.
+ Quy luật tác động lẫn nhau của cảm giác:
Các cảm giác không tồn tại độc lập mà luôn tác động qua lại lẫn nhau. Do sự
tác động qua lại như vậy, tính nhạy cảm của cảm giác bị thay đổi. Kích thích yếu
lên cơ quan phân tích này lại làm tăng độ nhạy cảm của giác quan kia. Ngược lại,
tác động mạnh lên giác quan này làm giảm độ nhạy cảm của cơ quan phân tích khác .
Ví dụ: khi nghe nhạc, có ánh sáng mầu kèm theo thì các bản nhạc cũng được
cảm nhận rõ nét hơn.
1.3. Tri giác:
1.3.1. Khái niệm:
Tri giác là một quá trình tâm lí nhận thức cảm tính, phản ánh một cách trọn
vẹn các thuộc tính bề ngoài của sự vật, hiện tượng đang trực tiếp tác động vào
giác quan người ta.
Cũng giống với cảm giác, tri giác là một quá trình nhận thức cảm tính.
+ Là một quá trình vì có khởi đầu, diễn biến và kết thúc.
+ Là quá trình nhận thức vì biểu tượng tri giác giúp cho con người nhận biết
được hiện thực khách quan bên ngoài.
+ Là cảm tính vì chỉ gọi là biểu tượng tri giác khi sự vật, hiện tượng đang
trực tiếp tác động vào giác quan.
Tuy nhiên biểu tượng tri giác là là một hình ảnh trọn vẹn về sự vật, hiện tượng.
Biểu tượng này được cấu thành từ các cảm giác. Ví dụ: hình ảnh ngôi nhà mà
chúng ta đang nhìn thấy bao gồm những cảm giác khác nhau về màu sắc, kích
318
thước. Lẽ đương nhiên đó không phải là một tổng số học mà là một tổng thể các
cảm giác.
1.3.2. Các loại tri giác:
+ Tri giác không gian: tri giác không gian giúp người ta nhận biết được kích
thước, hình dạng, khoảng cách, phương hướng của đối tượng.
+ Tri giác thời gian: tri giác thời gian là sự phản ánh độ lâu, vận tốc và tính
kế tục của các hiện tượng.
+ Tri giác vận động: phản ánh những thay đổi về vị trí của các sự vật trong
không gian.
Ngoài cách phân loại theo đối tượng tri giác như trên còn có cách phân loại
theo giác quan. Theo cách phân loại này, người ta có các loại tri giác: thị giác,
thính giác, khứu giác…
1.3.3. Các quy luật cơ bản của tri giác:
+ Quy luật về tính đối tượng của tri giác:
Hình ảnh mà tri giác đem lại bao giờ cũng là biểu tượng của một sự vật, hiện
tượng nhất định của thế giới bên ngoài. Tính đối tượng của tri giác nói lên cái mà
tri giác đem lại. Trong quy luật này đã hàm chứa tính chân thực của tri giác.
+ Quy luật về tính lựa chọn của tri giác:
Tri giác không thể phản ánh được toàn bộ những kích thích đang tác động lên
giác quan của con người ở tại một thời điểm. Do vậy để tri giác, con người phải
tách đối tượng ra khỏi bối cảnh.
Sự lựa chọn của tri giác cũng không mang tính cố định. Nó phụ thuộc vào
nhiều yếu tố bên ngoài cũng như bên trong của chủ thể.
+ Quy luật về tính lựa chọn của tri giác được ứng dụng nhiều trong thực tiễn:
kiến trúc, quảng cáo, quân sự (nguỵ trang), trong giáo dục và dạy học.
+ Quy luật về tính có ý nghĩa của tri giác:
Tri giác của con người gắn chặt với tư duy, với bản chất của sự vật, hiện
tượng. Chính vì lẽ đó, biểu tượng tri giác cho phép người ta gọi tên được sự vật
hiện tượng, có thể sắp xếp chúng vào một nhóm, lớp nhất định.
+ Quy luật về tính ổn định của tri giác:
Tính ổn định của tri giác thể hiện ở chỗ trong các điều kiện khác nhau nhưng
nội dung của biểu tượng tri giác vẫn không thay đổi. Ngôi nhà, dù có cách xa
chúng ta hàng ngàn mét và hình ảnh của nó trên võng mạc nhỏ hơn hình ảnh của
319
một người đang đứng trước mặt chúng ta thì ngôi nhà vẫn được tiếp nhận to hơn
so với con người. Sự ổn định tri giác còn thể hiện ở cả về mầu sắc, kích thước...
+ Quy luật tổng giác:
Quy luật này thể hiện ở chỗ nội dung các biểu tượng tri giác còn phụ thuộc
vào nội dung đời sống tâm lí của chủ thể: thái độ, nhu cầu, cảm xúc, động cơ...
(Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ - Nguyễn Du).
+ Tri giác nhầm:
Trong một số trường hợp, hình ảnh của tri giác không phù hợp với thực tại.
Cần phân biệt tri giác nhầm với ảo giác. Tri giác nhầm là quá trình chúng ta vẫn
đang tri giác (sự vật, hiện tượng vẫn đang tác động vào giác quan) song biểu
tượng tri giác không tương xứng với thực tiễn. Ví dụ: khi ta nhìn cái thìa đang để
trong nửa cốc nước, ta thấy như cái thìa bị gãy ở chỗ mặt nước. Ảo giác là hiện
tượng con người vẫn “nhìn” thấy, ví dụ: nhìn thấy rắn rết bò đầy trên giường
nhưng thực tế không có, nghe thấy tiếng nói nhưng xung quanh không có ai. Tri
giác nhầm là hiện tượng bình thường còn ảo giác là hiện tượng bệnh lí.
Cảm giác và tri giác đều là quá trình nhận thức cảm tính. Trong thực tế, khi
chúng ta quan sát sự vật hiện tượng thì sự xuất hiện của cảm giác và tri giác là
đan xen nhau, có thể cái này xuất hiện trước cái kia. Ví dụ: “bắt mắt” là màu đỏ,
sau đó chúng ta mới quan sát tổng thể ngôi nhà. Cũng có thể hình ảnh ngôi nhà
xuất hiện trước, sau đó với xuất hiện các cảm giác.
2. Tư duy.
2.1. Tư duy là gì ?
Cảm giác, tri giác đã giúp cho con người nhận biết được các của sự vật, hiện
tượng. Tuy nhiên đó mới chỉ là các đặc điểm bên ngoài. Để nhận biết được cái
bên trong, cái cốt lõi của các sự vật hiện tượng đó, con người cần đến tư duy.
Tư duy là một quá trình nhận thức phản ánh những thuộc tính bản chất,
những liên hệ, quan hệ có tính quy luật của sự vật hiện tượng khách quan mà
trước đó ta chưa biết.
2.2. Các đặc điểm tư duy:
+ Tư duy xuất phát từ hoàn cảnh có vấn đề:
Hoàn cảnh có vấn đề có thể là một bài toán, một nhiệm vụ cần phải giải
quyết… Cùng một hoàn cảnh song đối với người này là hoàn cảnh có vấn đề
nhưng đối với người khác lại không. Như vậy hoàn cảnh có vấn đề là hoàn cảnh
kích thích con người suy nghĩ.
320
+ Tính gián tiếp của tư duy:
Tư duy nhận biết được bản chất của sự vật hiện tượng nhờ sử dụng công cụ
(các dụng cụ đo đạc, máy móc…); các kết quả của nhận thức (quy tắc, công thức,
quy luật…). Tính gián tiếp của tư duy còn thể hiện ở chỗ nó được thể hiện thông
qua ngôn ngữ.
+ Tính trừu tượng và khái quát của tư duy:
Tư duy phản ánh cái bản chất, cái chung nhất cho một loại, một lớp hiện
tượng sự vật và khái quát chung bởi khái niệm. Nhờ có tư duy, con người có thể
đi sâu vào đối tượng, cho phép họ nhận thức được những vấn đề mà cảm giác, tri
giác không tiếp cận được.
+ Tư duy liên quan chặt chẽ tới ngôn ngữ:
Tư duy trừu tượng không thể tồn tại nếu không có ngôn ngữ. Nhờ có ngôn
ngữ, tư duy có được tính khái quát và gián tiếp. Cũng nhờ có ngôn ngữ, những
sản phẩm của tư duy mới được truyền đạt cho người khác. Trong lâm sàng tâm
thần, ngôn ngữ được coi là hình thức của tư duy và việc phân loại các rối loạn
hình thức tư duy dựa trên ngôn ngữ.
+ Tư duy liên hệ chặt chẽ với nhận thức cảm tính:
Nhận thức cảm tính thu thập tư liệu. Các biểu tượng của nhận thức cảm tính
là nguyên liệu cho tư duy. Tư duy phát triển cũng giúp định hướng nhận thức cảm
tính.
2.3. Các thao tác tư duy:
2.3.1. So sánh:
Dùng trí óc đối chiếu các đối tượng hoặc những thuộc tính, bộ phận... để xem
xét sự giống nhau hay khác nhau, đồng nhất hay không đồng nhất.
So sánh là cơ sở của mọi hiểu biết và của tư duy. Chúng ta nhận biết thế giới
không ngoài cách thông qua so sánh và phân biệt với một vật gì khác thì chúng
ta không thể có ý niệm nào và không thể nói lên một điểm nào về sự vật đó cả
(Usinxki).
2.3.2. Phân tích và tổng hợp:
+ Phân tích: dùng óc phân chia đối tượng thành bộ phận, thuộc tính, quan hệ.
+ Tổng hợp: kết hợp những đối tượng, thuộc tính quan hệ v.v.. thành tổng
thể.
2.3.3. Trừu tượng hoá và khái quát hoá:
321
+ Trừu tượng hoá: gạt bỏ những bộ phận, thuộc tính, quan hệ thứ yếu, chỉ giữ
lại những yếu tố cần thiết của đối tượng để tư duy.
+ Khái quát hoá là dùng trí óc bao quát nhiều đối tượng khác nhau trên cơ sở
một số thuộc tính, quan hệ, bộ phận giống nhau sau khi đã gạt bỏ những điểm
khác nhau.
Khái quát hoá là loại tổng hợp mới sau khi đã trừu tượng hoá.
Trong tư duy, các thao tác được thực hiện theo một hệ thống nhất định.
2.4. Các loại tư duy:
2.4.1. Theo lịch sử hình thành:
+ Tư duy trực quan - hành động:
Đây là loại tư duy mà việc giải quyết nhiệm vụ được thực hiện nhờ sự cải tổ
các tình huống bằng các hành động vận động có thể quan sát được. Loại tư duy
này có ở cả động vật cao cấp.
+ Tư duy trực quan - hình ảnh:
Đây là loại tư duy mà việc giải quyết các nhiệm vụ được thực hiện bằng sự
cải tổ tình huống chỉ trên bình diện hình ảnh mà thôi. Loại này đã phát triển
mạnh ở trẻ nhỏ.
+ Tư duy trừu tượng:
Loại tư duy được thực hiện trên cơ sở sử dụng các khái niệm, kết cấu logic,
được tồn tại trên cơ sở tiếng nói
Ba loại tư duy trên tạo thành các giai đoạn của phát triển tư duy trong quá
trình phát sinh chủng loại và cá thể.
2.4.2. Theo hình thức biểu hiện của vấn đề (nhiệm vụ) và phương thức giải quyết
vấn đề:
+ Tư duy thực hành:
Tư duy thực hành là loại tư duy mà nhiệm vụ của nó được đề ra một cách
trực quan, dưới hình thức cụ thể, phương thức giải quyết là những hành động
thực hành. Ví dụ: tư duy của người thợ sửa xe hơi khi xe hỏng.
+ Tư duy hình ảnh cụ thể:
Đây là loại tư duy mà nhiệm vụ của nó được đề ra dưới hình thức một hình
ảnh cụ thể và sự giải quyết nhiệm vụ cũng được dựa trên những hình ảnh đã có.
Ví dụ: suy nghĩ xem từ trường về nhà đi đường nào là tối ưu cho xe máy.
322
+ Tư duy lí luận:
Đó là loại tư duy mà nhiệm vụ được đề ra dưới hình thức lí luận và việc giải
quyết nhiệm vụ đó đòi hỏi phải sử dụng hệ thống khái niệm trừu tượng, những tri
thức lí luận. Ví dụ: giải quyết các bài toán về kinh doanh.
3. Ngôn ngữ.
Mặc dù ngôn ngữ không phải hoàn toàn là quá trình nhận thức song nó gắn
bó một cách mật thiết với tư duy nên chúng ta đề cập sâu thêm về hiện tượng tâm
lí này cũng là nhằm hiểu sâu sắc hơn lĩnh vực nhận thức.
3.1. Khái niệm về ngôn ngữ:
Con người có khả năng truyền đạt kinh nghiệm cá nhân cho người khác và sử
dụng kinh nghiệm của người khác vào hoạt động của mình nhờ có ngôn ngữ.
+ Ngôn ngữ là hiện tượng xã hội - lịch sử . Do sống và hoạt động cùng nhau
nên con người có nhu cầu giao tiếp.
Nói một cách chung nhất, ngôn ngữ là một hệ thống kí hiệu từ ngữ.
- Kí hiệu: Pavlov đã nói ngôn ngữ là tín hiệu của tín hiệu.
- Hệ thống: chỉ có ý nghĩa và thực hiện một chức năng nhất định trong hệ
thống của mình.
+ Ngôn ngữ - hệ thống kí hiệu từ ngữ gồm 3 bộ phận:
- Ngữ âm
- Từ vựng
- Ngữ pháp – hệ thống các quy tắc thành lập từ, cấu thành câu (từ pháp và cú
pháp), sự phát âm (âm pháp).
+ Các đơn vị của ngôn ngữ là âm vị, hình vị, từ, câu, ngữ đoạn, văn bản...
3.2. Các chức năng của ngôn ngữ:
3.2.1. Chức năng chỉ nghĩa:
Ngôn ngữ để chỉ chính sự vật, hiện tượng, tức là thay thế chúng. Nói một
cách khác, ý nghĩa của sự vật, hiện tượng có thể được khách quan hoá lần nữa và
có thể di chuyển đi nơi khác, làm cho con người có thể nhận thức được chúng
ngay cả khi chúng không xuất hiện trước mặt.
323
Chức năng chỉ nghĩa còn được gọi là chức năng làm phương tiện tồn tại,
truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm xã hội - lịch sử loài người.
Ngôn ngữ khác hẳn với những tiếng kêu của động vật. Về bản chất, động vật
không có ngôn ngữ.
3.2.2. Chức năng thông báo:
Ngôn ngữ được dùng để truyền đạt, tiếp nhận thông tin, để biểu cảm và nhờ
đó, điều chỉnh, thúc đẩy hoạt động của con người.
Chức năng thông báo của ngôn ngữ còn được gọi là chức năng giao tiếp.
3.2.3. Chức năng khái quát hoá:
+ Ngôn ngữ không chỉ một sự vật, hiện tượng riêng rẽ mà cả một loại, lớp
có chung một/một số thuộc tính: phạm trù, khái niệm, thuật ngữ... Nhờ vậy nó là
phương tiện đắc lực cho hoạt động trí tuệ.
+ Ngôn ngữ vừa là công cụ tồn tại của hoạt động trí tuệ, vừa là phương tiện lưu
lại kết quả của hoạt động này. Do vậy hoạt động trí tuệ không bị gián đoạn, không
bị lặp lại và có cơ sở cho sự phát triển tiếp theo .
+ Chức năng khái quát hoá của ngôn ngữ còn gọi là chức năng nhận thức hay
chức năng làm công cụ hoạt động trí tuệ.
Trong 3 chức năng của ngôn ngữ kể trên, chức năng giao tiếp là chức năng
cơ bản nhất. Chỉ trong quá trình giao tiếp, con người mới lĩnh hội được tri thức
về hiện thực, điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với hoàn cảnh sống. Về
thực chất, chức năng nhận thức cũng là quá trình giao tiếp, ở đây là giao tiếp với
chính bản thân mình. Còn chức năng chỉ nghĩa chỉ là điều kiện để thực hiện hai
chức năng kia.
3.3. Vai trò của ngôn ngữ đối với nhận thức:
+ Vai trò của ngôn ngữ đối với nhận thức cảm tính:
- Đối với cảm giác: ảnh hưởng mạnh đến ngưỡng cảm giác.
- Đối với tri giác: làm cho quá trình tri giác dễ dàng hơn, đặc biệt trong quan sát.
- Đối với trí nhớ:
. Vai trò của ngôn ngữ trong nhận thức lí tính.
324
. Gắn bó rất mật thiết với tư duy. Ở người trưởng thành, tư duy và ngôn ngữ
không tách rời nhau.
+ Ngôn ngữ là phương tiện để truyền tải tư duy.
4. Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính và lí tính.
+ Nhận thức của con người bắt đầu từ nhận thức cảm tính.
+ Các biểu tượng nhận thức cảm tính được trí nhớ lưu giữ lại.
+ Nhiều biểu tượng cùng loại với nhau được “cô đặc” lại vào từ.
+ Các từ, khái niệm (hoặc cũng có thể các biểu tượng cảm tính) được sử dụng
cho tư duy: giải quyết một nhiệm vụ nào đó.
+ Biểu tượng cảm tính càng phong phú thì hệ thống khái niệm cũng phong
phú theo và là điều kiện tốt cho tư duy.
+ Tư duy, ngôn ngữ phát triển nó sẽ định hướng, lựa chọn, hỗ trợ đắc lực (cùng
với cảm xúc, tình cảm) cho nhận thức cảm tính.
325
TRÍ NHỚ VÀ CHÚ Ý
1. Trí nhớ.
1.1. Khái niệm chung:
Trí nhớ là quá trình tâm lí có liên quan chặt chẽ tới toàn bộ đời sống tâm lí của
con người. Nếu không có trí nhớ, con người không thể có được quá khứ và cũng
không thể có được tương lai: người đó chỉ sống được với những gì đang diễn ra.
Một người như vậy không thể làm được bất kì việc gì, họ cũng không biết mình
là ai và cũng không thể định hướng được thời gian, không gian.
Trí nhớ là điều kiện không thể thiếu để con người có được đời sống tâm lí
bình thường, ổn định và lành mạnh. Trí nhớ cũng còn là điều kiện để con người
phát triển được các chức năng tâm lí cấp cao, tích luỹ kinh nghiệm và sử dụng
những kinh nghiệm đó vào trong đời sống, đáp ứng với yêu cầu ngày càng cao
của cuộc sống cá nhân và xã hội.
Đối với nhận thức, trí nhớ có vai trò đặc biệt to lớn. Nhờ có trí nhớ, các biểu
tượng của cảm giác, tri giác được lưu giữ làm nguyên liệu cho tư duy. Trí nhớ
cũng còn là nơi lưu giữ các quyết định, khái niệm..., kết quả của tư duy và các biểu
tượng cảm xúc...
Trong Tâm lí học, trí nhớ được định nghĩa là một quá trình ghi lại, giữ lại và
tái hiện những gì cá nhân thu được trong hoạt động sống của mình. Như vậy nét
đặc trưng nhất của trí nhớ là trung thành với tất cả những gì cá nhân đã trải qua.
Trí nhớ không làm thay đổi những thông tin mà nó thu được và giữ gìn. Đây
cũng chính là sự khác biệt của trí nhớ với nhận thức cũng như với tưởng tượng.
1.2. Các quá trình cơ bản của trí nhớ:
Quá trình trí nhớ bao gồm các quá trình thành phần: ghi nhớ, giữ gìn, tái hiện
và quên.
1.2.1. Ghi nhớ:
Thường thường người ta chia ghi nhớ của con người thành 2 loại:
+ Ghi nhớ không chủ định là không định trước cho mình nhiệm vụ ghi nhớ.
Đây là loại ghi nhớ không cần phải có biện pháp gì. Ưu điểm của loại ghi nhớ
này là nhớ nhanh, nhớ lâu, tốn ít sức lực và thời gian. Tuy nhiên trong đời sống
tâm lí của con người, hình thức ghi nhớ chủ yếu là có chủ định.
+ Ghi nhớ có chủ định là loại ghi nhớ đặt trước cho mình mục đích ghi nhớ.
Trong dạng ghi nhớ này, con người cần có nỗ lực ý chí và phải sử dụng những
326
thủ thuật, phương tiện ghi nhớ nhất định.Ghi nhớ có chủ định được thực hiện
bằng hai thủ thuật:
- Ghi nhớ máy móc: là loại ghi nhớ dựa vào sự liên hệ bề ngoài như trật tự
phát âm, liên tưởng... mà không cần đi sâu vào nội dung tài liệu. Những liên hệ
bề ngoài này mang tính tạm thời và ít bền vững.
- Ghi nhớ ý nghĩa: là loại ghi nhớ dựa vào sự hiểu biết nội dung, mối quan hệ
logic bên trong của sự vật, hiện tượng. Do cần phải hiểu nên ghi nhớ ý nghĩa tốn
nhiều thời gian hơn. Ngược lại, tài liệu được ghi nhớ tốt hơn, khối lượng nhiều
hơn và thời gian bền hơn.
1.2.2. Giữ gìn:
Giữ gìn là quá trình củng cố vững chắc những dấu vết đã được hình thành
trên vỏ não khi nhớ. Người ta chia ra làm 2 loại giữ gìn: tiêu cực và tích cực. Nếu
như ta lặp đi lặp lại nhiều lần tri giác tài liệu thì ta có giữ gìn tiêu cực. Còn ta chủ
động tái hiện tài liệu đã ghi nhớ thì đó là giữ gìn tích cực.
1.2.3. Nhận lại và nhớ lại:
+ Nhận lại: là nhận ra đối tượng khi đối tượng được tri giác lại. Nhận lại có
thể nhanh chóng và chính xác nếu hình ảnh cũ được giữ gìn một cách vững chắc
và hình ảnh mới trùng hợp với hình ảnh cũ. Trong nhiều trường hợp, do thời gian
hoặc do các yếu tố khác, hình ảnh mới đã thay đổi nhiều so với hình ảnh cũ. Do
vậy chúng ta không thể nhận lại được. Cũng có trường hợp, do có một số nét
giống nhau giữa một biểu tượng cũ và biểu tượng mới, chủ thể đã nhận nhầm.
Quen quen hoặc hao hao hay hình như... là những từ thường được dùng khi chủ
thể còn nghi ngờ tính chuẩn xác của nhớ lại. Chính vì lẽ đó, nhận lại không phải
là tiêu chuẩn đáng tin cậy về độ chính xác của trí nhớ.
+ Nhớ lại: làm hiện lại trong óc hình ảnh của đối tượng đã được tri giác trước
đây khi đối tượng không còn ở trước mặt ta. Nhớ lại mang tính cá nhân rất rõ nét;
cùng một tài liệu được quan sát nhưng mỗi người nhớ lại một cách khác nhau
cùng một bài học, một bộ phim, một sự kiện nhưng nội dung của những người lại
nhớ lại lại không hoàn toàn giống nhau. Sự khác nhau này là do kinh nghiệm,
hiểu biết, tình cảm, hứng thú... không giống nhau.
1.3. Các loại trí nhớ:
1.3.1. Phân loại theo biểu tượng:
327
+ Trí nhớ vận động: là trí nhớ những quá trình vận động ít nhiều mang tính tổ
hợp. Loại trí nhớ nhớ này đặc biệt quan trọng để hình thành kĩ xảo trong lao động
chân tay. Vận tốc hình thành và độ bền của kĩ xảo được dùng làm tiêu chí để
đánh giá trí nhớ vận động.
+ Trí nhớ cảm xúc: là trí nhớ về những cảm xúc, tình cảm đẫ diễn ra trước đây.
Cảm xúc luôn liên quan đến việc thoả mãn nhu cầu, đến việc chúng ta thực hiện
các mối quan hệ với thế giới xung quanh. Chính vì vậy, trí nhớ cảm xúc có vai
trò to lớn trong cuộc sống và hoạt động của mỗi con người. Trong nhiều trường
hợp, trí nhớ cảm xúc còn mạnh mẽ và bền vững hơn những loại trí nhớ khác.
+ Trí nhớ biểu tượng: là trí nhớ đối biểu tượng dạng như một ấn tượng, một
hình ảnh của cuộc sống cũng như âm thanh, mùi vị... Trí nhớ biểu tượng có thể
được gọi theo giác quan như: thị giác, thính giác, xúc giác... Nếu như trí nhớ
thính giác và thị giác thường đóng vai trò chủ đạo trong các loại trí nhớ ở người
bình thường thì trí nhớ xúc giác, khứu giác và vị giác, trong một chừng mực nhất
định, có sự ảnh hưởng của nghề nghiệp. Ngoài ra chúng cũng đặc biệt phát triển
ở những người có khuyết tật giác quan, ví dụ, khiếm thị hay khiếm thính.
+ Trí nhớ từ ngữ - logic: nội dung của trí nhớ từ ngữ - logic chính là những ý
nghĩ của chúng ta. Tuy nhiên những ý nghĩ luôn tồn tại trong từ ngữ. Do vậy
không đơn thuần là nhớ logic mà là từ ngữ - logic. Khi tái hiện và truyền đạt cho
người khác, chúng ta có thể thông báo những ý chính hoặc đầy đủ cả từ ngữ.
1.3.2. Phân loại theo mục đích:
+ Trí nhớ không chủ định: là loại trí nhớ không có mục đích chuyên biệt ghi
nhớ, giữ gìn và tái hiện tài liệu. Trong đời sống cá thể, dạng trí nhớ này xuất hiện
đầu tiên. Có nhiều kinh nghiệm sống được thu nhập bằng trí nhớ này.
+ Trí nhớ có chủ định: là trí nhớ có mục đích ghi nhớ, giữ gìn và tái hiện.
Trong dạng trí nhớ này con người thường dùng các thủ pháp, kĩ thuật để ghi nhớ.
Mặc dù xuất hiện sau trí nhớ không chủ định song trí nhớ có chủ định đóng
vai trò to lớn trong quá trình tiếp thu tri thức cũng như trong các hoạt động của
con người.
1.3.3. Phân loại theo thời gian:
+ Trí nhớ ngắn hạn (hay trí nhớ tức thời): là trí nhớ ngay sau giai đoạn ghi nhớ.
Những tài liệu dường như chưa chìm vào vô thức mặc dù không còn trên ý thức.
+ Trí nhớ dài hạn: là trí nhớ sau giai đoạn ghi nhớ một khoảng thời gian dài.
Nó rất quan trọng để con người tích luỹ tri thức.
328
1.3.4. Phân loại theo phương tiện:
+ Trí nhớ trực tiếp: là loại trí nhớ mà khi ghi nhớ, con người không sử dụng
phương tiện nào.
+ Trí nhớ gián tiếp: là trí nhớ phải sử dụng các phương tiện để ghi nhớ. Đây
là dạng trí nhớ chủ yếu của con người.
2. Chú ý.
2.1. Khái niệm chú ý:
Chú ý là một trạng thái tâm lí tham gia vào mọi quá trình tâm lí, tạo điều kiện
cho một/một số đối tượng được phản ánh tốt nhất.
Nói chú ý là trạng thái tâm lí vì chú ý luôn đi kèm với các quá trình tâm lí
khác. Bản thân chú ý không tồn tại độc lập, nó cũng không có sản phẩm mà chỉ
làm nền cho các quá trình tâm lí. Chú ý được ví như ngọn đèn pha, chiếu rọi vào
một đối tượng nào đấy, giúp cho các quá trình tâm lí đạt hiệu quả cao.
Chú ý có sự biểu hiện bề ngoài: ở nét mặt, động tác của con người. Có lúc sự
chú ý hướng vào đối tượng bên ngoài, cũng có lúc lại hướng vào nội tâm. Trong
thực tế, đôi khi có sự không tương đồng giữa sự biểu hiện của chú ý với trạng
thái thực của nó. Có người nhìn bề ngoài có vẻ chăm chú theo dõi đối tượng, ví
dụ nghe giảng, nhưng thực ra họ lại đang chú ý đến đối tượng khác. Ngược lại,
có người tưởng chừng lơ đãng nhưng họ lại đang chú ý cao độ.
Trong hoạt động học tập của sinh viên, khả năng chú ý phụ thuộc vào các yếu
tố sau:
+ Mục đích, nhu cầu, động cơ học tập.
+ Lượng thông tin cần phải tiếp thu (quá cao, quá khó, quá cũ, quá nhiều...).
+ Phương pháp giảng dạy của giảng viên và công tác tổ chức hoạt động dạy
và học.
+ Cảm xúc và sức khoẻ của sinh viên.
+ Điều kiện tự nhiên của lớp học (ánh sáng, tiếng ồn...).
2.2. Các loại chú ý:
Căn cứ vào mức độ tự giác của chú ý, người ta chia thành hai loại chú ý:
không chủ định và có chủ định.
2.2.1. Chú ý không chủ định:
329
Chú ý không chủ định là loại chú ý không có mục đích tự giác, không có một
biện pháp nào và vẫn chú ý vào đối tượng. Chú ý không chủ định có thể xuất
hiện tuỳ thuộc vào một số đặc điểm của kích thích:
+ Độ mới lạ của kích thích: vật kích thích càng mới, càng dễ gây ra chú ý
không chủ định; ngược lại, vật kích thích càng rập khuôn bao nhiêu thì càng nhanh
làm mất chú ý không chủ định bấy nhiêu.
+ Cường độ kích thích: theo quy luật cường độ đối với thần kinh, kích thích
càng mạnh bao nhiêu thì hưng phấn do nó gây ra càng lớn bấy nhiêu, do vậy
càng dễ gây ra chú ý không chủ định. Ngoài ra, khi vỏ não chuyển từ trạng thái
hưng phấn sang ức chế, như khi sắp ngủ, quy luật cường độ diễn ra theo pha trái
ngược: kích thích và hưng phấn tỉ lệ nghịch với nhau; hoặc cực kì trái ngược, tức
là có kích thích nhưng không có hưng phấn. Cũng cần phải lưu ý rằng ở người,
chú ý không chủ định chỉ phụ thuộc vào cường độ kích thích một cách tương đối.
+ Độ hấp dẫn của kích thích là một đặc điểm tổng hợp của 2 đặc điểm trên,
thể hiện ở mức độ phù hợp với người bị tác động, dễ gây ra sự tò mò.
2.2.2. Chú ý có chủ định:
Chú ý có chủ định là sự định hướng hoạt động do bản thân chủ thể đặt ra. Do
bản thân xác định mục đích hành động nên chú ý có chủ định phụ thuộc nhiều
vào chính mục đích và nhiệm vụ hành động. Loại chú ý này mang tính bền vững
cao hơn. Tuy nhiên do cần phải có nỗ lực ý chí nên nếu kéo dài chú ý có chủ định
thì dễ gây căng thẳng, mệt mỏi.
Cả 2 loại chú ý đều có ưu điểm và nhược điểm. Nếu chỉ có chú ý không chủ
định thì có lúc ta không đạt được mục đích, yêu cầu đề ra và không chủ động
được trước hoàn cảnh. Ngược lại, trong hoạt động, nếu chỉ có chú ý có chủ định
thì chẳng mấy chốc chúng ta sẽ mệt mỏi, căng thẳng, tắt lụi hứng thú. Trong thực
tiễn, hai loại chú ý này liên quan rất mật thiết và bổ sung cho nhau. Nhiều hoạt
động khởi đầu bằng chú ý không chủ định, sau đó là có chủ định. Trong những
hoạt động kéo dài cũng cần có cả chú ý không chủ định, góp phần hỗ trợ cho
chính các quá trình tâm lí đạt kết quả cao.
2.3. Những đặc điểm của chú ý:
+ Sức tập trung của chú ý (mức độ tập trung của chú ý): là khả năng tách một
phạm vi có hạn thành đối tượng cho chú ý hướng vào đó, tiến hành những hoạt
330
động cần thiết với số đối tượng đó. Phạm vi các đối tượng chú ý càng hẹp thì sức
chú ý càng tập trung, cường độ chú ý càng lớn.
+ Sự phân phối của chú ý: là khả năng cùng một lúc chú ý đầy đủ đến nhiều
đối tượng khác nhau.
Trong quá trình hoạt động, chú ý có thể không chỉ hướng vào một mà là
nhiều đối tượng. Điều đó cũng không có nghĩa rằng chú ý hướng vào các đối
tượng như nhau. Sự phân phối không mâu thuẫn với sức tập trung của chú ý. Tại
một thời điểm, chúng ta vẫn có khả năng chú ý đến một số đối tượng, trong đó
vẫn có một đối tượng được chú ý nhiều hơn.
+ Khối lượng của chú ý: là số lượng đối tượng được chú ý ở cùng một thời
điểm. Nhiều nhà tâm lí học cho rằng tại một thời điểm, khối lượng chú ý tối đa
không quá 7 đơn vị nếu chúng không liên hệ với nhau.
+ Tính bền vững, phân tán và dao động của chú ý:
- Tính bền vững của chú ý là khả năng chú ý lâu dài vào một số đối tượng
nhất định mà không chuyển sang đối tượng khác. Tính bền vững cần cho nhiều
dạng hoạt động khác nhau: tốc kí, điện báo, các công việc quan sát...
- Ngược với tính bền vững là tính phân tán: chú ý không bền.
- Xen kẽ giữa tính bền vững với phân tán là tính dao động của chú ý: sự phân
tán diễn ra theo chu kì. Ví dụ: trong đêm yên tĩnh, chúng ta nghe thấy tiếng chạy
của đồng hồ lúc to, lúc nhỏ, lúc nhanh, lúc lại chậm.
+ Sự di chuyển của chú ý: là khả năng di chuyển của chú ý từ đối tượng này
sang đối tượng khác, từ hoạt động này sang hoạt động khác.
- Sự di chuyển chú ý có thể nhanh hoặc chậm, dễ dàng hoặc khó khăn.
- Di chuyển chú ý nhanh và dễ dàng là một phẩm chất quý đối với con người.
ĐỜI SỐNG TÌNH CẢM
1. Khái niệm.
Trong đời sống cũng như trong các tài liệu tâm lí học, thuật ngữ tình cảm
được sử dụng theo 2 nghĩa:
+ Lĩnh vực đời sống tình cảm của con người.
+ Thuộc tính nhân cách: tình yêu, lòng thù hận...
331
Lĩnh vực đời sống tình cảm của con người cũng là một chỉnh thể, bao gồm từ
mức độ thấp như các rung động cho đến cảm xúc và phức tạp nhất là tình cảm.
Để dễ phân biệt, thay vì gọi đời sống tình cảm, người ta thường dùng cụm từ cảm
xúc, tình cảm.
Mọi hoạt động của con người đều nhằm thoả mãn những nhu cầu nhất định.
Nếu thoả mãn nhu cầu, con người cảm thấy khoan khoái, dễ chịu. Trái lại, nếu không
được thoả mãn nhu cầu, con người cảm thấy khó chịu, bực bội, chán nản. Toàn
bộ những hiện tượng: vui sướng, bực bội, chán nản… là các hiện tượng cảm xúc.
Cảm xúc, tình cảm là những hiện tượng tâm lí phản ánh mối quan hệ của sự
vật hiện tượng có liên quan tới sự thoả mãn nhu cầu của chủ thể.
+ So sánh tình cảm và nhận thức:
Cảm xúc, tình cảm Nhận thức
Nội dung phản ánh Mối quan hệ giữa sự vật hiện
tượng với nhu cầu, động cơ
Những thuộc tính, những mối
quan hệ của sự vật hiện tượng
Phạm vi Lựa chọn hơn (hẹp) Rộng
Phương thức phản
ánh
Rung cảm Hình ảnh, biểu tượng, khái niệm
Tính chủ thể Màu sắc chủ thể rõ nét Có phụ thuộc
+ Cơ sở sinh lí của cảm xúc: có thể nói ở góc độ sinh lí, cảm xúc được điều
hành và kiểm soát bởi 2 cơ chế: thần kinh và thể dịch. Sự gắn bó chặt chẽ này là
cơ sở cho nhiều nghiên cứu đo các phản ứng cảm xúc gián tiếp qua các chỉ số
sinh lí (xem thêm phần stress).
+ Phân biệt cảm xúc và tình cảm:
Cảm xúc Tình cảm
Quá trình Thuộc tính, phẩm chất của nhân cách
Trạng thái hiện thời Vừa hiện thực, vừa tiềm tàng
Có tính biến đổi Ổn định
332
Khái quát thành tình cảm Thể hiện qua cảm xúc
Có trước Có sau
Kèm theo các biến đổi sinh lí
2. Các mức độ của tình cảm.
2.1. Sắc thái cảm xúc của cảm giác:
Đây là mức độ thấp nhất của phản ánh cảm xúc, đi kèm theo cảm giác. Ví
dụ, màu xanh lá cây thường gây ra trạng thái khoan khoái, nhẹ nhõm; màu đỏ
kèm theo một cảm xúc rạo rực, nhức nhối.
Trong tiếng Việt: đỏ lòm, xanh lè, inh tai, nhức óc...nói lên sắc thái cảm xúc
của cảm giác.
Sắc thái cảm xúc: thoáng qua, không mạnh mẽ, mang tính chất rất cụ thể,
gắn liền với cảm giác nhất định và không được chủ thể ý thức một cách rõ ràng,
đầy đủ.
2.2. Rung cảm:
Rung cảm là những cảm xúc ban đầu, có cường độ thấp, chưa biểu lộ rõ nét
ra bên ngoài. Những rung cảm thường thoáng qua, không rõ nét và dễ mất đi,
không để lại dấu vết gì: buồn thoảng qua, vui thoảng qua...
2.3. Cảm xúc:
Đây là mức độ phản ánh cao hơn, thường là sự thể hiện cụ thể, trực tiếp một
tình cảm nào đó.
Cảm xúc có những đặc điểm: xẩy ra nhanh, mạnh, rõ rệt hơn so với màu sắc
của cảm xúc, được chủ thể ý thức rõ nét hơn.
Trong cảm xúc cũng có một số dạng đặc biệt:
+ Xúc động: xúc động là dạng cảm xúc có cường độ mạnh, xảy ra trong thời
gian ngắn, chủ thể vẫn ý thức được song khó có khả năng làm chủ được hành vi
của mình (Cả giận mất khôn - thành ngữ).
+ Tâm trạng: tâm trạng là một dạng cảm xúc diễn ra trong một thời gian dài,
cường độ thể hiện yếu, nhiều khi chủ thể không ý thức được nguyên nhân:
Hôm nay trời nhẹ lên cao
Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn. (Xuân Diệu)
333
Tâm trạng là một trạng thái tâm lí (cụ thể ở đây là cảm xúc), làm nền cho các
hoạt động của con người và ảnh hưởng rõ rệt đến toàn bộ hành vi của chủ thể...
Trạng thái stress cũng là một trạng thái đặc biệt của cảm xúc. Nó được xem ở
góc độ là sự đáp ứng (cả về sinh lí, tâm lí và hành vi) của chủ thể đối với những
tác động/tình huống gây stress. Trạng thái stress có thể ảnh hưởng tốt hoặc không
tốt đến các hoạt động của con người.
2.4. Tình cảm:
Đó là thái độ ổn định của con người đối với hiện thực xung quanh và đối với
bản thân mình.
Tình cảm là thuộc tính của nhân cách. Nó có các đặc điểm: ổn định, được ý
thức rõ ràng.
Trong tình cảm có một dạng đặc biệt, có cường độ rất mạnh, thời gian tồn tại
khá lâu dài và được ý thức rõ ràng: sự say mê. Có say mê tích cực nhưng cũng có
say mê tiêu cực thường được gọi là đam mê.
Con người có nhiều loại tình cảm khác nhau. Có thể phân chia thành tình cảm
cấp thấp và tình cảm cấp cao. Tình cảm cấp thấp liên quan đến sự thoả mãn nhu
cầu sinh lí, tình cảm cấp cao liên quan đến sự thoả mãn nhu cầu xã hội của
người.
3. Các loại tình cảm.
3.1. Tình cảm đạo đức:
Tình cảm đạo đức là những tình cảm có liên quan đến sự thoả mãn nhu cầu
đạo đức của con người. Tình cảm đạo đức còn là sự thể hiện thái độ của con người
đối với người khác, đối với xã hội và đối với trách nhiệm xã hội của bản thân.
Tình yêu tổ quốc, yêu quê hương, yêu ông bà cha mẹ...
3.2. Tình cảm trí tuệ:
Tình cảm trí tuệ là những tình cảm nảy sinh trong quá trình hoạt động trí óc.
Nó liên quan đến nhận thức, sáng tạo, đén sự thoả mãn nhu cầu nhận thức của
con người.
Tình cảm trí tuệ biểu hiện thái độ của con người đối với các ý nghĩ, tư tưởng,
các quá trình và kết quả hoạt động trí tuệ. Đó là: sự ham hiểu biết, ngạc nhiên,
hoài nghi, tin tưởng...
3.3. Tình cảm thẩm mĩ:
334
Tình cảm thẩm mĩ là những tình cảm có liên quan đến nhu cầu thẩm mĩ, nhu
cầu về cái đẹp của con người. Tình cảm thẩm mĩ biểu hiện thái độ thẩm mĩ của
con người đối với hiện thực (tự nhiên, xã hội, con người, lao động).
4. Các quy luật của tình cảm.
4.1. Quy luật lây lan:
Cảm xúc, tình cảm của người này có thể được truyền, “lây” sang người khác:
buồn lây, vui lây...
Tình cảm tập thể, tâm trạng tập thể, tâm trạng xã hội được hình thành theo
quy luật này.
4.2. Quy luật thích ứng:
Giống như cảm giác, cảm xúc, tình cảm cũng có hiện tượng thích ứng, nghĩa
là khi chúng được lặp đi lặp lại nhiều lần thì cường độ bị suy yếu và lắng xuống
(chai dạn tình cảm). Hiện tượng “xa thương, gần thường” là một trong những
biểu hiện của quy luật này.
4.3. Quy luật tương phản (hay cảm ứng):
Đó là sự tác động qua lại giữa những cảm xúc trái chiều nhau: những cảm
xúc âm tính lại có thể làm tăng cường độ của cảm xúc dương tính và ngược lại.
Cũng như trong cảm giác, quy luật tương phản của cảm xúc, tình cảm diễn ra
theo 2 góc độ: tương phản kế tiếp và tương phản đồng thời.
4.4. Quy luật di chuyển:
Cảm xúc, tình cảm có thể được di chuyển từ đối tượng này sang đối tượng khác:
“Yêu em yêu cả đường đi lối về “ hoặc: “Giận cá chém thớt; Vơ đũa cả nắm” đều
là những biểu hiện của quy luật này.
4.5. Quy luật pha trộn:
Quy luật pha trộn thể hiện ở chỗ trong một loại tình cảm cùng tồn tại những
cảm xúc trái dấu với nhau. Chúng không những không loại trừ nhau mà ngược
lại, có thể còn diễn biến theo quy luật tương phản. Những cảm xúc yêu thương và
ghen tuông có thể cùng tồn tại trong tình yêu. Không ít trường hợp càng yêu
mãnh liệt, càng ghen dữ dội.
4.6. Quy luật về sự hình thành tình cảm:
Tình cảm được hình thành theo con đường tổng hợp hoá và khái quát hoá các
cảm xúc cùng loại. Ví dụ, tình cảm của con cái đối với cha mẹ là do các cảm xúc
335
dương tính do cha mẹ đem lại trong suốt quá trình lớn khôn của đứa trẻ tạo
thành.
HOẠT ĐỘNG VÀ NHÂN CÁCH
1. Hoạt động.
1.1. Khái niệm hoạt động:
+ Khái niệm của Triết học: hoạt động là quan hệ biện chứng của chủ thể với
khách thể bao gồm:
- Quá trình khách thể hoá: chủ thể chuyển những đặc điểm của mình vào đối
tượng.
- Quá trình chủ thể hoá khách thể: chủ thể tiếp thu những đặc điểm của khách
thể vào năng lực của bản thân.
+ Khái niệm của Sinh lí học: hoạt động là sự tiêu hao năng lượng thần kinh
và cơ bắp của con người khi tác động vào hiện thực khách quan.
+ Tâm lí học: hoạt động là phương thức tồn tại của con người bằng cách tác
động vào đối tượng, tạo ra sản phẩm nhằm thoả mãn những nhu cầu (trực tiếp/gián
tiếp) của bản thân và xã hội.
- Hoạt động là sự thể hiện mối quan hệ của con người với môi trường xung
quanh.
- Hoạt đông luôn nhằm thỏa mãn nhu cầu nhất định.
1.2. Các loại hoạt động:
+ Về phương diện cá thể, có thể chia thành các loại hoạt động:
- Vui chơi.
- Học tập.
- Lao động.
+ Về phương diện sản phẩm, có thể chia thành:
- Hoạt động thực tiễn: tạo ra sản phẩm vật chất; gọi là hoạt động bên ngoài.
- Hoạt động lí luận: tạo ra sản phẩm tinh thần; còn gọi là hoạt động bên trong.
336
Dạng hoạt động thứ nhất tác động vào sự vật nhằm biến đổi sự vật.
Dạng hoạt động thứ hai không làm biến đổi vật thể tại vật thể.
+ Cách chia khác:
- Hoạt động biến đổi: dạng điển hình là lao động. Tuy nhiên hoạt động biến
đổi còn bao hàm cả biến đổi xã hội:
. Hoạt động xã hội – chính trị.
. Hoạt động quản lí (xã hội, kinh tế, khoa học v.v.).
. Hoạt động biến đổi con người.
- Hoạt động nhận thức: là một dạng hoạt động tinh thần, không làm biến đổi
các vật thể thực, quan hệ thực. Nó chỉ phản ánh các sự vật, quan hệ bằng các biểu
tượng, khái niệm, hình ảnh... Hoạt động nhận thức có cả ở mức độ kinh nghiệm
thực tiễn, có cả ở mức độ lí luận khoa học.
- Hoạt động định hướng giá trị: là một dạng hoạt động tinh thần, xác định ý
nghĩa của thực tại đối với bản thân.
1.3. Cấu trúc của hoạt động:
Theo các nhà tâm lí học Mác Xit, có thể phân tích hoạt động thành các thành
tố cấu thành.
Hình 6.1: Cấu trúc của hoạt động.
Mỗi hoạt động của con người được thúc đẩy bởi một hay một số động cơ.
Đơn vị của hoạt động là hành động. Hành động nhằm đạt được mục đích nhất
Chủ thể Khách thể
Hoạt động Động cơ
Hành động Mục đích
Thao tác Phương tiện
Sản phẩm
337
định. Trong một hoàn cảnh cụ thể, hành động được thực hiện bởi một loạt các
thao tác. Kết quả cuối cùng là sản phẩm của hoạt động.
Ví dụ: hoạt động học tập của sinh viên được thúc đẩy bởi động cơ nghề nghiệp
(và có thể có cả các động cơ cá nhân khác). Hoạt động học tập được chia nhỏ
thành các hành động nhằm đạt được từng mục tiêu cụ thể trên đường đi tới đích
cuối cùng. Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng cấu trúc của hoạt động là rất linh hoạt.
Việc phân biệt, ví dụ động cơ với mục đích cũng chỉ mang tính tương đối.
1.4. Các loại nhu cầu của con người:
Nhu cầu là sự đòi hỏi tất yếu, khách quan, là sự cần thiết về một cái gì đó cần
được thỏa mãn. Chính mọi hoạt động của con người nhằm thỏa mãn nhu cầu nào
đó nên các nhu cầu của con người, được tập hợp lại trong một hệ thống nhất
định, đóng vai trò là động cơ thúc đẩy mọi hoạt động.
Nhu cầu của con người rất đa dạng. Tuy nhiên cũng có thể chia thành 2 nhóm
chính là nhu cầu (mang tính) sinh học và nhu cầu (mang tính) xã hội. Hoặc cũng
có thể chia thành nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần.
Nhu cầu sinh học/sinh lí: là những nhu cầu cần để duy trì sự tồn tại của cơ thể
người. Ví dụ: nhu cầu về ăn, uống, nhu cầu tình dục.
Nhu cầu vật chất: là những đòi hỏi về vật chất.
Nhu cầu tinh thần: rất đa dạng và phong phú. Đó là những nhu cầu về đạo đức,
thẩm mĩ, nhu cầu về nhận thức và giao tiếp, nhu cầu lao động cũng như các hoạt
động xã hội.
Maslow, một nhà tâm lí học Mĩ xếp nhu cầu của con người thành 5 bậc:
Tự thể hiện
Được tôn trọng
Yêu thương và thuộc về
An toàn
Sinh lí
Hình 6.2: Sơ đồ thứ bậc nhu cầu của Maslow.
338
Một điều không kém phần quan trọng là khi xem xét hành động/hành vi của
con người, cần phải xét xem những hành động/hoạt động đó do động cơ gì. Nói
cách khác là cần quan tâm đến lĩnh vực động cơ - nhu cầu của mỗi con người.
1.5. Kĩ năng, kĩ xảo và thói quen:
+ Hành động tự động hoá: là những hành động vốn lúc đầu có sự kiểm soát
mạnh mẽ của ý thức sau do lặp đi lặp lại nhiều lần, trở thành tự động. Vai trò
kiểm soát của ý thức đối với hành động tự động hoá chỉ ở mức độ tối thiểu, công
việc này chủ yếu dành cho vô thức. Trong quá trình thực hiện, nếu có gì bất
thường, ý thức lại dành quyền kiểm soát, điều hành hành động.
+ Kĩ năng và kĩ xảo: kĩ năng là khả năng vận dụng những tri thức vào thực
tiễn. Khi nào kĩ năng được luyện tập thường xuyên trở thành tự động hoá, khi đó
trở thành kĩ xảo.
+ Thói quen: là những hành động đã được tự động hoá và trở thành nhu cầu
của con người. Ví dụ: thói quen rửa tay trước khi ăn.
2. Nhân cách.
2.1. Một số khái niệm:
+ Con người: thực thể tự nhiên (động vật có vú) và là thực thể xã hội (chủ thể
của các hoạt động cá nhân và xã hội). Con người là một sáng tạo mới của lịch sử.
+ Cá nhân: đại diện cho loài người, bất kì một con người nào tồn tại trong
mỗi cộng đồng.
+ Cá tính: mỗi cá nhân khác nhau về thể tạng, kiểu loại thần kinh cũng như
về tính cách, nhu cầu, tình cảm... Những đặc điểm riêng của cá nhân được bộc lộ
trong các mối quan hệ, trong cuộc sống theo kiểu riêng biệt, không trùng lặp với
ai được gọi là cá tính. Cá tính nói lên bản sắc cá nhân của mỗi con người.
+ Nhân cách: là tổ hợp những đặc điểm, thuộc tính tâm lí của mỗi cá nhân,
biểu hiện bản sắc, giá trị xã hội của con người đó.
- Theo tiếng Việt: nhân - người, cách - cách thức, cách lối, cốt cách. Nhân cách:
đó là cách thức, cách lối làm người.
- Nhân cách: cấu tạo tâm lí mới, có khả năng tự điều chỉnh, có cấu trúc phức
tạp.
2.2. Cấu trúc của nhân cách:
339
2.2.1. Cấu trúc theo kiểu, loại:
+ Phân kiểu dựa theo khí chất ưu thế:
- Kiểu nhân cách nóng nảy: đây là nhân cách của người có kiểu thần kinh
mạnh, không cân bằng, hưng phấn mạnh hơn ức chế. Họ là những người nhanh
thay đổi khí sắc, yêu, ghét rõ ràng, bộc trực, thẳng thắn, dễ nổi nóng, chú ý đến
những cái lớn. Họ là người dễ có sáng kiến song kém bền bỉ trong công việc.
- Kiểu nhân cách bình thản: kiểu thần kinh của nhân cách dạng này là mạnh,
cân bằng, không linh hoạt. Các mối quan hệ của họ không rộng, hình thành chậm
nhưng bền. Trong công việc họ chậm nhưng chắc, có khả năng thực hiện công
việc một cách bền bỉ.
- Kiểu nhân cách hăng hái, sôi nổi: đây là kiểu nhân cách tương ứng với kiểu
thần kinh mạnh, cân bằng, linh hoạt. Người có kiểu nhân cách này là người hăng
hái trong công việc, dễ thích nghi với hoàn cảnh mới, các mối quan hệ rộng. Tuy
nhiên tình cảm của họ thường không sâu bền, dễ bắt tay vào công việc song cũng
dễ rút lui.
- Kiểu nhân cách ưu tư: cơ sở thần kinh của kiểu nhân cách này là kiểu thần
kinh yếu, ức chế mạnh hơn hưng phấn. Họ là người nhạy cảm, tinh tế, dễ xúc
động, các quyết định thường dựa trên tình cảm. Quan hệ hẹp nhưng sâu và bền.
Tuy nhiên họ thường khó thích nghi với cái mới, nhút nhát và kém quyết đoán.
+ Phân kiểu dựa theo mẫu hành vi ưu thế:
Hiện nay trong nhiều tài liệu tâm lí lâm sàng đề cập đến cách phân kiểu nhân
cách dựa vào mẫu hành vi nổi bật của Friedman A. và Roseman:
- Nhân cách týp A có 3 đặc điểm nổi bật là:
. Nhanh chóng trong hành động.
. Quan tâm đến nghề nghiệp rõ rệt.
. Có tinh thần cạnh tranh.
Những người này thường có tỉ lệ mắc bệnh động mạch vành cao hơn (dao động
từ 30% - 70% tùy theo từng nghiên cứu) so với tỉ lệ chung.
- Nhân cách týp B có những đặc điểm nổi bật:
. Có thái độ rút lui trong hành động.
. Thường hay thay đổi ý thích.
340
Kiểu A: người hăng hái, có tính ganh đua rất cao; kiểu B: ngược lại.
+ Kiểu nhân cách hướng nội, hướng ngoại:
- Người hướng ngoại điển hình: là người cởi mở, giao tiếp rộng, có nhiều
bạn, người quen. Họ hành động dưới ảnh hưởng chốc lát, có tính chất xung động,
vô tâm, lạc quan, thích vận động và hành động. Tình cảm và cảm xúc của họ
không được kiểm soát chặt chẽ.
- Người hướng nội điển hình: là người điềm tĩnh, rụt rè, nội quan, hay giữ kẽ,
ít tiếp xúc, giao tiếp với mọi người, trừ những bạn bè thân. Họ có khuynh hướng
muốn hoạch định kế hoạch hành động. Không thích sự kích động, làm công việc
hàng ngày với tinh thần nghiêm túc, thích trật tự, ngăn nắp. Kiểm soát chặt chẽ
cảm xúc tình cảm của mình, không dễ dàng buông thả.
2.2.2. Cấu trúc ba khối: Cái Nó - Cái Tôi, Siêu tôi:
Nhân cách, theo Freud, gồm 3 bộ phận, 3 "con người" bé nhỏ: Cái Nó (Id);
cái Tôi "Ego" và cái Siêu tôi (Super Ego).
+ Cái Nó: đây là con người của bản năng, đòi hỏi thoả mãn mọi nhu cầu và
phải thoả mãn ngay lập tức. Ví dụ, khi đói, con người bản năng này thúc đẩy cơ
thể phải có những hành động để thoả mãn cái đói. Trong thành phần của Cái nó
chỉ có vô thức.
+ Cái Tôi - con người của hiện thực: không thể thoả mãn nhu cầu bằng mọi giá
mà cần phải tính đến hoàn cảnh hiện thực. Phần nhân cách Cái Tôi thực hiện các
hoạt động chống lại Cái Nó bằng cách giành quyền làm chủ các ham muốn,
quyết định xem những đòi hỏi ấy có thể được thoả mãn hay không? phải trì hoãn
đến thời điểm khác hay phải loại bỏ hoàn toàn? Freud đã ví Cái Nó như con
ngựa, thích chạy hướng nào tùy thích. Tuy nhiên cần phải có người kiểm soát con
ngựa đó. Cái Tôi đóng vai trò kị sĩ để điều khiển con ngựa Cái Nó.
Trong thành phần của mình, cái Tôi chứa chủ yếu là ý thức. Vô thức cũng có
nhưng chiếm tỉ lệ nhỏ.
+ Siêu tôi - con người xã hội: con người sống trong xã hội và cần phải thể
hiện mình theo những yêu cầu về đạo đức, pháp luật, những yêu cầu mà xã hội
đòi hỏi. Cũng là đói, cũng là có thức ăn song người ta đã dạy rằng có những
341
“miếng ăn là miếng nhục”. Trong một chừng mực nào đó, Siêu tôi còn được gọi
là con người lí tưởng bởi nó là bộ phận luôn thúc đẩy con người tới hoàn thiện.
2.2.3. Cấu trúc yếu tố:
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng: trong mỗi nhân cách có các yếu tố khác nhau,
cấu thành khác nhau. Tuy nhiên số lượng yếu tố được đưa ra lại không giống
nhau.
+ Nhân cách bao gồm 4 nhóm thuộc tính chính. Mô hình nay đang được đề
cập nhiều trong các giáo trình tâm lí học trong nước:
- Xu hướng: đó là hệ thống những động cơ, mục đích thúc đẩy, quy định tính
lựa chọn thái độ và tính tích cực của con người. Xu hướng bao gồm một hệ thống
các nhu cầu, hứng thú, niềm tin, thế giới quan, lí tưởng tác động qua lại và liên
hệ mật thiết với nhau.
- Tính cách: hệ thống thái độ, hành vi của con người đối với mọi người xung
quanh, đối với xã hội và đối với bản thân.
- Khí chất: nói về động thái (cường độ, nhịp độ..) của các hiện tượng tâm lí
cá nhân.
- Năng lực: hệ thống các khả năng đảm bảo cho kết quả của các hoạt động.
+ Nhân cách bao gồm 2 yếu tố chính: yếu tố hướng nội, hướng ngoại và yếu
tố tính ổn định thần kinh. Hai yếu tố này kết hợp với nhau tạo nên kiểu nhân
cách. Mô hình 2 yếu tố này về cơ bản, tương thích với mô hình dựa theo khí chất.
+ Nhân cách bao gồm 16 yếu tố. Đây là mô hình do Cattell đề xuất trên cơ sở
nghiên cứu thực tiễn.
+ Mô hình 5 yếu tố: đây là mô hình đang được ưa dùng hiện nay. Năm yếu
tố gồm:
- Tính ổn định thần kinh: lo âu, thù địch, trầm cảm, tự ý thức, xung động, tính
dễ bị tổn thương.
- Tính hướng ngoại: thân thiện, thích giao thiệp, tính quyết đoán, tích cực
hoạt động, tìm kiếm sự kích thích, cảm xúc tích cực.
- Tính mở đối với hiểu biết: trí tưởng tượng, óc thẩm mĩ, nhạy cảm, hành động,
ý tưởng, giá trị.
- Tính dễ chịu: chân thành, thẳng thắn, vị tha, phục tùng, khiêm tốn, nhân hậu.
342
- Tính ý thức: năng lực, trật tự, trách nhiệm, nỗ lực thành đạt, tự giác, thận
trọng.
2.2.4. Cấu trúc hai mặt đức tài:
Đây là mô hình truyền thống ở trong nước, các nhà tâm lí học đã đúc kết lại:
Đức (Phẩm chất) Tài (Năng lực)
- Phẩm chất xã hội/đạo đức -chính trị
Thế giới quan, niềm tin, lí tưởng, lập trường,
thái độ chính trị, thái độ lao động...
Năng lực xã hội hoá: khả năng thích ứng,
cơ động, linh hoạt, mềm dẻo trong cuộc
sống xã hội.
- Phẩm chất cá nhân/đạo đức tư cách: các nết,
thói, thú (ham muốn)
Năng lực chủ thể hoá: khả năng thể hiện
tính đọc đáo, đặc sắc, thể hiện cái riêng của
cá nhân.
- Phẩm chất ý chí: tính kỉ luật, tính tự chủ, tính
mục đích, tính phê phán...
Năng lực hành động: khả năng hành động
có mục đích, chủ động, tích cực.
- Cung cách ứng xử: tác phong, lễ tiết... Năng lực giao tiếp: khả năng thiết lập và
duy trì các mối quan hệ...
(Nguồn: Phạm Minh Hạc, Lê Khanh, Trần Trọng Thuỷ, 1988).
3. Các con đường hình thành nhân cách.
Nhân cách con người không được sinh ra mà là được hình thành. Trong quá
trình hình thành nhân cách thì giáo dục, hoạt động, giao tiếp và tập thể có vai trò
quyết định và tạo ra những con đường cơ bản nhất.
3.1. Giáo dục:
+ Giáo dục đóng vai trò chủ đạo trong sự phát triển của nhân cách.
+ Giáo dục: toàn bộ các tác động sư phạm trực tiếp và gián tiếp, trong nhà
trường, gia đình và ngoài xã hội. Theo nghĩa hẹp, giáo dục thường được hiểu là
quá trình tác động tới thế hệ trẻ về mặt tư tưởng, đạo đức, hành vi.
+ Giáo dục vạch ra chiều hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách.
343
+ Giáo dục có thể đem lại những cái mà yếu tố bẩm sinh – di truyền hoặc môi
trường tự nhiên không thể đem lại được: học tập, học nghề...
+ Giáo dục bù đắp những thiếu hụt do bệnh tật.
+ Giáo dục có thể uốn nắn, điều chỉnh những phẩm chất tâm lí xấu.
+ Giáo dục có thể đi trước hiện thực.
3.2. Hoạt động:
Tâm lí được hình thành và thể hiện trong hoạt động: thông qua hoạt động và
bằng hoạt động, chủ thể thực hiện quá trình kép – nhập tâm và xuất tâm. Bằng
hoạt động và thông qua hoạt động con người lĩnh hội cũng như truyền đạt kinh
nghiệm xã hội - lịch sử.
3.3. Giao tiếp:
Giao tiếp là điều kiện để con người thực hiện các hoạt động cùng nhau, nhằm
lĩnh hội kinh nghiệm xã hội - lịch sử.
Giao tiếp là con đường để loài người thực hiện di truyền xã hội. Nhờ có giao
tiếp, con người có thể nhận thức được thế giới, nhận thức được chính bản thân.
3.4. Tập thể:
Mọi sự giao tiếp của con người đều diễn ra trong nhóm. Các tổ chức, hoạt
động của nhóm đều là điều kiện cho sự hình thành nhân cách của con người.
344
Chương VII
TÂM LÍ BỆNH HỌC
STRESS TÂM LÍ
1. Một số vấn đề chung.
1.1. Khái niệm stress:
Do không có từ tương thích trong tiếng Việt nên thuật ngữ stress được sử
dụng theo từ gốc nước ngoài.
+ Lúc đầu thuật ngữ stress được sử dụng trong Vật lí học, để chỉ sức nén mà
một loại vật liệu phải chịu đựng. Đến năm 1914, Walter Cannon đã sử dụng thuật
ngữ này trong Sinh lí học, để chỉ các stress cảm xúc. Năm 1935, Ông đi sâu
nghiên cứu sự cân bằng nội môi ở những động vật có vú khi chúng lâm vào các
tình huống khó khăn, như khi gặp phải sự thay đổi về nhiệt độ. Ông cũng mô tả
các nhân tố cảm xúc trong quá trình phát sinh, phát triển một số bệnh và xác định
vai trò của hệ thần kinh khi cơ thể đối phó với các tình huống khẩn cấp.
+ Trong Y học, từ lâu người ta đã đặt vấn đề là tại sao một số người mắc các
bệnh khác nhau lại có những triệu chứng giống nhau. Nhiều tác giả đã mô tả các
triệu chứng loét dạ dày, ruột ở những người bị bỏng ngoài da (Svon, 1823;
Kerling, 1842) và ở những người bệnh sau một phẫu thuật lớn bị nhiễm trùng
(Billrot). Viện Pastuer Rom và viện Yersen đã mô tả tuyến thượng thận của chuột
lang bị tăng trưởng và xuất huyết khi bị nhiễm bệnh bạch hầu...
+ Những nguyên nhân gây ra hiện tượng stress có thể rất khác nhau, nhưng
phản ứng của cơ thể đối với chúng thì đều giống nhau. Tất cả các phản ứng này
đều diễn ra theo ba giai đoạn:
- Giai đoạn đầu: con người cảm thấy có khó khăn.
- Giai đoạn hai: con người thích nghi với những khó khăn.
- Giai đoạn ba: giai đoạn cuối cùng, con người không chịu đựng được nữa.
Ba giai đoạn này giống như một qui luật chung điều hòa hành vi của mọi sinh
vật khi bị rơi vào những điều kiện đặc biệt căng thẳng và giống như tiến trình của
một phản ứng thích nghi không đặc hiệu của cơ thể đối với những tác động mạnh
mẽ, đột ngột khác nhau của môi trường.
345
Hans Selye (nhà nghiên cứu người Canada) là người đầu tiên nêu ra một khái
niệm stress hiện đại. Năm 1936, Ông đã chiết từ dịch tiết của buồng trứng động
vật có sừng một loại hormon và đem tiêm nó cho chuột. Sau khi tiêm một thời
gian, chuột có những biểu hiện như:
- Vỏ tuyến thượng thận tăng trưởng mạnh và chứa một lượng không lớn các
hạt lipit bài tiết.
- Tuyến ức, các hạch lympho và các cấu trúc chứa lympho bị teo nhỏ lại
(involution).
- Thành dạ dày, tá tràng, ruột của chuột bị loét và chảy máu.
Những thí nghiệm khác đã cho thấy các chất chiết từ tuyến thượng thận,
tuyến tụy và một số chất độc cũng có thể gây ra những biến đổi tương tự như
trên.
Lúc đầu, những biến đổi này được gọi là “triệu chứng được gây ra bởi các tác
nhân khác nhau”. Về sau, được đổi thành “ triệu chứng thích ứng chung”, hay
còn gọi là “triệu chứng stress sinh học”. Ba biến đổi trên đã trở thành ba chỉ số
quan trọng của stress và là cơ sở để phát triển một khái niệm đầy đủ về stress.
1.2. Stress tâm lí:
Nhìn chung có thể chia stress thành 2 loại chính:
+ Stress sinh lí: là toàn bộ những biến đổi về sinh lí, trạng thái sinh lí của cơ
thể nhằm đáp lại tác nhân gây stress, ví dụ những biến đổi về nhịp tim, nhịp thở,
các thay đổi về nội tiết…
+ Stress tâm lí: trạng thái tâm lí xuất hiện nhằm đáp ứng với tác nhân gây
stress. Ví dụ: những thay đổi về trí nhớ, tập trung chú ý, các phản ứng cảm xúc…
Dưới góc độ Tâm lí học, stress tâm lí là một trạng thái đặc biệt của cảm xúc.
Trong trường hợp stress kéo dài, cường độ thấp, nó có thể được xem như là một
trong những biểu hiện của tâm trạng. Ngược lại, nếu stress diễn ra đột ngột, trong
một khoảng thời gian ngắn thì nó lại là sự thể hiện của xúc động.
Các hiện tượng tâm lí vốn không tách rời nhau, trong đó trạng thái tâm lí luôn
làm nền cho các quá trình tâm lí. Do vậy, những quá trình tâm lí diễn ra trên nền
của stress đều chịu sự chi phối của stress. Ở mức độ tối ưu, stress đảm bảo cho
các quá trình tâm lí, đặc biệt là các quá trình nhận thức đạt được hiệu quả cao.
Ngược lại, trong trạng thái mệt mỏi suy kiệt, hiệu quả của các quá trình tâm lí
346
không những bị giảm sút mà toàn bộ nhân cách cũng bị ảnh hưởng. Đó chính là
những trường hợp rối loạn stress hoặc distress.
Lẽ đương nhiên bất kì một hiện tượng tâm lí nào cũng đều xuất hiện trên cơ
sở các quá trình sinh lí. Chính vì vậy stress tâm lí không thể tách rời với stress
sinh lí. Tuy thế, với tư cách là một lĩnh vực khoa học về các hiện tượng tâm lí,
Tâm lí học quan tâm và nghiên cứu stress tâm lí nhiều hơn.
Trong thực tế, stress là thuật ngữ đôi khi dùng để chỉ một nguyên nhân, một
tác nhân gây ra phản ứng stress (như tiếng ồn của thành phố, cái nắng nóng của
sa mạc, bệnh tật, sự thay đổi chỗ ở, việc làm...), hoặc đôi khi dùng để chỉ hậu quả
của những tác nhân gây kích thích mạnh (như sự hốt hoảng khi gặp thiên tai nặng
nề; sự cô quạnh khi sống lâu ngoài đại dương; sự căng thẳng khi gặp những khó
khăn trong công việc...). Những yếu tố đóng vai trò nguyên nhân gây ra stress
thường được gọi là các yếu tố gây stress hoặc các stressor. Do vậy không nên
nhầm lẫn giữa stress (trạng thái tâm - sinh lí bên trong) với các tác nhân gây
stress (các yếu tố bên ngoài).
Trong điều kiện bình thường, stress là một đáp ứng thích nghi về mặt tâm lí
và sinh lí. Stress đặt chủ thể vào quá trình dàn xếp thích ứng, tạo ra một cân bằng
mới cho cơ thể sau khi chịu những tác động của môi trường. Nói cách khác, phản
ứng stress bình thường đã góp phần làm cho cơ thể thích nghi.
Nếu đáp ứng của cá nhân với các yếu tố gây stress không đầy đủ, không thích
hợp và cơ thể không tạo ra được một cân bằng mới thì những chức năng của cơ
thể ít nhiều sẽ bị rối loạn, những dấu hiệu bệnh lí cơ thể, tâm lí, hành vi sẽ xuất
hiện và sẽ tạo ra những stress bệnh lí cấp tính hoặc kéo dài.
Nhiều người cho rằng, stress là một chứng bệnh gắn liền với nền văn minh
hiện đại, bị chi phối bởi sự cạnh tranh và những mối nguy hại.
2. Các giai đoạn của phản ứng stress.
Theo H. Selye, phản ứng stress được chia thành 3 giai đoạn: giai đoạn báo
động, giai đoạn thích nghi và giai đoạn suy kiệt.
2.1. Giai đoạn báo động:
Giai đoạn này được biểu hiện bằng những biến đổi đặc trưng của chủ thể khi
tiếp xúc với các yếu tố gây stress. Những biến đổi này là:
347
+ Các hoạt động tâm lí được kích thích, đặc biệt là tăng cường quá trình tập
trung chú ý, ghi nhớ và tư duy...
+ Các phản ứng chức năng sinh lí của cơ thể được triển khai như tăng huyết
áp, nhịp tim, nhịp thở và tăng trương lực cơ bắp...
Những thay đổi tâm lí - sinh lí - hành vi đã giúp con người đánh giá các tình
huống stress và bước đầu đề ra chiến lược đáp ứng trước các tình huống đó. Giai
đoạn báo động có thể diễn ra rất nhanh (vài phút) hoặc kéo dài vài giờ, vài
ngày... Chủ thể có thể chết trong giai đoạn này, nếu yếu tố gây stress quá mạnh,
tình huống stress quá phức tạp. Nếu tồn tại được thì các phản ứng ban đầu
chuyển sang giai đoạn ổn định (hay còn gọi là giai đoạn thích nghi).
2.2. Giai đoạn thích nghi:
Trong giai đoạn này, mọi cơ chế thích ứng được động viên để cơ thể chống
đỡ và điều hòa các rối loạn ban đầu. Sức đề kháng của cơ thể tăng lên, con người
có thể làm chủ được tình huống stress, lập lại các trạng thái cân bằng nội môi
(homeostase) và tạo ra sự cân bằng mới với môi trường. Giai đoạn này còn được
gọi là giai đoạn chống đỡ.
Trong một tình huống stress bình thường, chủ thể đáp ứng lại bằng hai giai
đoạn báo động và chống đỡ.
Nếu giai đoạn chống đỡ tiến triển tốt thì các chức năng tâm, sinh lí cơ thể
được phục hồi. Nếu khả năng thích ứng của cơ thể mất dần, thì quá trình phục
hồi không xảy ra và chuyển sang giai đoạn suy kiệt.
2.3. Giai đoạn suy kiệt:
Phản ứng stress trở thành bệnh lí khi tình huống stress hoặc quá bất ngờ, dữ
dội, hoặc ngược lại, quen thuộc nhưng lặp đi lặp lại, vượt quá khả năng dàn xếp
của chủ thể.
Trong giai đoạn suy kiệt, các biến đổi tâm lí, sinh lí và hành vi của giai đoạn
báo động xuất hiện trở lại, hoặc là cấp tính và tạm thời, hoặc là nhẹ hơn nhưng
kéo dài. Có thể chia stress bệnh lí thành hai loại: stress bệnh lí cấp tính và stress
bệnh lí kéo dài.
2.3.1. Stress bệnh lí cấp tính:
Những tình huống gây ra stress bệnh lí cấp tính thường là không lường trước
được, mang tính chất dữ dội, như khi bị tấn công bất ngờ, khi gặp thảm họa...
348
Trạng thái này được chia thành hai loại theo diễn biến của các phản ứng cảm xúc
cấp tính xảy ra tức thì hay chậm chạp.
+ Phản ứng cảm xúc cấp xảy ra nhanh:
Trong trạng thái này, chủ thể hưng phấn quá mức về mặt tâm thần và cơ thể:
- Tăng trương lực cơ: nét mặt căng thẳng, các cử chỉ cứng ngắc, kèm theo
cảm giác đau bên trong cơ thể.
- Rối loạn thần kinh thực vật: nhịp tim nhanh, có cơn đau vùng trước tim, cao
huyết áp, khó thở, ngất xỉu, chóng mặt giả, vã mồ hôi, nhức đầu, đau nhiều nơi,
nhất là đau các cơ bắp.
- Tăng quá mức phản ứng của các giác quan, nhất là tai. Người bệnh có cảm
giác khó chịu cả với những tiếng động bình thường.
- Rối loạn trí tuệ: kém khả năng tập trung suy nghĩ do nhớ lại các tình huống
stress; trí nhớ về các sự kiện vẫn còn sâu sắc.
- Tính tình dễ nổi cáu, bất an, kích động nhẹ; có thể có rối loạn hành vi và
người bệnh gặp khó khăn khi giao tiếp với những người xung quanh.
- Trạng thái lo âu, kèm theo nỗi sợ hãi mơ hồ.
Loại phản ứng stress cấp tính này kéo dài từ vài phút đến vài giờ, rồi mờ nhạt
dần tùy theo tính chất và tiến triển của stress. Sự mờ nhạt càng rõ nét hơn khi có
mặt người khác, làm chủ thể yên tâm và khuây khỏa.
+ Phản ứng cảm xúc cấp xảy ra chậm:
Các rối loạn xuất hiện chậm. Chủ thể có vẻ như chịu đựng được và chống đỡ
lại tình huống gây stress. Người bệnh tự nhận thức được rằng, mình đã bị các
tình huống stress xâm chiếm.
Cơ thể tiếp tục giai đoạn chống đỡ, nhưng chỉ tạo ra một cân bằng không bền
vững, kéo dài trong vài giờ hoặc vài ngày. Sau đó đột nhiên xuất hiện một phản
ứng stress cấp tính, diễn ra chậm. Biểu hiện và tiến triển của nó cũng giống như
phản ứng cảm xúc cấp tính, diễn ra tức thì.
Điều này chứng tỏ chủ thể không còn khả năng dàn xếp với tình huống stress
về mặt tâm lí, bị suy sụp và mất bù một cách chậm chạp.
2.3.2. Stress bệnh lí kéo dài:
+ Sự hình thành:
349
Stress bệnh lí kéo dài thường được hình thành từ các tình huống stress quen
thuộc, lặp đi lặp lại như trong trường hợp người bệnh có những xung đột hoặc
gặp những phiền nhiễu, không toại nguyện trong đời sống hàng ngày.
Đôi khi chúng được hình thành từ các tình huống stress bất ngờ và dữ dội
(sau một phản ứng cấp, không thoái lui hoặc sau một loạt các phản ứng cấp
thoáng qua).
+ Biểu hiện của stress bệnh lí kéo dài:
Biểu hiện của nó rất đa dạng và thay đổi tùy theo sự ưu thế về mặt tâm lí, cơ
thể hay về mặt hành vi.
- Các biểu hiện biến đổi tâm lí, tâm thần:
. Chủ thể phản ứng quá mức với hoàn cảnh: dễ nổi cáu, có cảm giác khó chịu,
căng thẳng về tâm lí, mệt mỏi về trí tuệ và không thư giãn được.
. Rối loạn giấc ngủ: khó ngủ, hay thức giấc và không có cảm giác hồi phục
sau khi ngủ.
Các rối loạn này tùy theo tính chất, hoàn cảnh và sự lặp lại của tình huống
stress mà có thể tiến triển thành các triệu chứng sau đây:
Chủ thể chờ đợi stress một cách bi quan.
Có sự cảnh tỉnh một cách cao độ và luôn ở trong tình trạng nghe ngóng, căng
thẳng nội tâm, dễ nổi cáu.
Có biểu hiện lo âu - ám ảnh sợ. Những lo âu - ám ảnh sợ này hình thành trên
nền một sự lo âu dai dẳng và xuất hiện những cơn lo lắng về nơi đã xảy ra tình
huống stress (ở nơi làm việc hay ở gia đình). Các rối loạn có khi mở rộng sang
nhiều lĩnh vực khác nhau như người bệnh sợ các phương tiện giao thông công
cộng, sợ xung đột với cấp trên, với người thân, ngại giao tiếp, sợ bệnh tật...
- Các biểu hiện về cơ thể:
Chủ thể thường có những rối loạn về thần kinh thực vật ở mức độ vừa.
Những rối loạn này tăng lên khi chủ thể hồi tưởng về các tình huống stress mà
mình đã phải chịu đựng.
Qua những lời than phiền của người bệnh, chúng ta thấy các rối loạn về tâm
thần và chức năng cơ thể của họ như sau:
. Người bệnh trong trạng thái suy nhược kéo dài.
. Căng cơ bắp (chuột rút), run tay chân, đổ mồ hôi.
350
. Nhức đầu, đau nửa đầu, đau cột sống kéo dài, dai dẳng.
. Đánh trống ngực, đau vùng trước tim và huyết áp tăng không ổn định.
. Có biểu hiện bệnh lí chức năng đại tràng và đau bàng quang (nước tiểu
trong)...
Tất nhiên, không phải mọi stress bệnh lí kéo dài đều có tất cả những biểu
hiện về cơ thể, về tâm lí như đã nêu ở trên. Song ngoài những triệu chứng trên,
có khi chúng ta còn gặp những biểu hiện khác về cơ thể có liên quan với trạng
thái lo âu.
+ Các biểu hiện về hành vi:
Tình huống stress có thể ức chế hoặc kích thích hành vi của người bệnh.
Những rối loạn chức năng thích nghi của hành vi được biểu hiện trong các rối
loạn hành vi.
Các rối loạn hành vi xảy ra do chủ thể có thái độ rút lui, tránh né các quan hệ
xã hội; hoặc ngược lại, do những xung động mất kiềm chế, dẫn đến sự khó khăn
trong giao tiếp của người bệnh. Có người thay đổi hẳn tính cách, làm cho người
khác không nhận ra hoặc có những băn khoăn, suy nghĩ về nhân cách của họ.
Các rối loạn hành vi lúc đầu chỉ gây ra sự khó chịu, nhưng về sau nó phát
triển và gây ra những tổn thất, làm trở ngại cho công việc của người bệnh.
Có người lúc đầu muốn dùng rượu, dùng thuốc để làm dịu những căng thẳng,
lo âu, nhưng sau đó, do bản thân rượu và thuốc lại là chất gây lo âu, nên bắt buộc
họ phải tăng dần liều sử dụng. Hành vi cứ như vậy lặp đi lặp lại và tăng dần, đưa
chủ thể vào một vòng xoắn đáng sợ của sự nghiện rượu, nghiện thuốc. Những rối
loạn hành vi nghiện này không thể không ảnh hưởng tai hại đến các quan hệ xã
hội của chủ thể.
3. Stress và bệnh cơ thể.
3.1. Khái niệm chung:
Từ xa xưa người ta đã cho rằng tâm lí có một vai trò nhất định trong sự xuất
hiện và phát triển bệnh. Tuy nhiên mãi đến giữa thế kỉ XX, những tư tưởng này
mới được phát triển mạnh mẽ. Khởi đầu cho hướng mới này chính là S. Freud.
Ông cho rằng các rối loạn cơ thể chỉ là sự thể hiện biểu trưng (Symbol) của
những xung đột nội tâm bị đè nén, ức chế. Mặc dù S.Freud (1910) đã cự tuyệt
việc tuyệt đối hoá vai trò ưu thế của tâm lí đối với cơ thể song điều này đã không
ngăn cản được nhiều tác giả khác lí giải bệnh cơ thể theo Phân tâm. Họ cho rằng
351
cũng như rối loạn tâm căn, tất cả các triệu chứng cơ thể chỉ là phương thức dung
hoà để giải toả năng lượng Libido. Các dạng co giật của vận động cơ thể chỉ là sự
né tránh căng thẳng của tính dục; các bệnh đường hô hấp là sự thể hiện quay trở
lại thời kì nằm trong bụng mẹ, khi mà hệ hô hấp chưa hoạt động...
Trên cơ sở lí thuyết phân tâm, Alexander (1950) cho rằng các yếu tố tâm lí
và cụ thể là sự xung đột tâm lí đóng vai trò quan trọng trong 7 bệnh thực thể: loét
dạ dày – tá tràng; viêm đại tràng; ưu năng giáp; viêm ruột non cục bộ; cao huyết
áp vô căn; viêm khớp dạng thấp và hen phế quản. Luận điểm về cơ chế bệnh
tâm-thể của Alexander được nhiều người chú ý. Dunbar (1954) cho rằng: những
người cùng bị một loại bệnh thường có cùng một kiểu (profile) nhân cách. Theo
Bà, có 8 loại bệnh phụ thuộc nhiều vào yếu tố nhân cách hơn so với các bệnh
khác, ví dụ như viêm khớp dạng thấp, tiểu đường, huyết áp cao, loạn nhịp tim ...
Cho đến nay vẫn có nhiều nghiên cứu sử dụng tư tưởng của Dunbar về kiểu
nhân cách làm cơ sở. Quan niệm hiện hành về kiểu nhân cách A và B là một ví
dụ.
Engel (1954) đã phát triển chi tiết khái niệm căn nguyên đa yếu tố. Đến năm
1977 ông thiết lập mô hình tâm – sinh – xã hội (biopsychosocial) của bệnh. Theo
quan điểm này, việc tìm kiếm và giải thích nguyên nhân của bệnh không nên
thuần túy theo một yếu tố nào mà là sự kết hợp của các yếu tố về cơ thể, tâm lí và
xã hội.
3.2. Stress và miễn dịch:
Hệ miễn dịch có chức năng bảo vệ cơ thể, chống lại sự tấn công của virus, vi
khuẩn, vật kí sinh… hay các kháng nguyên nói chung. Cơ quan sản xuất các tế
bào miễn dịch nằm rải rác khắp cơ thể: tuỷ xương, tuyến ức, hạch lymphô, lá
lách, hạnh nhân và ruột thừa. Do nằm ở nhiều nơi như vậy nên không thể đánh
giá được trực tiếp ảnh hưởng của thần kinh trung ương đến hệ miễn dịch mà
người ta phải đánh giá một cách gián tiếp thông qua máu ngoại vi. Sự tuần hoàn
giúp cho máu vận chuyển các thành tố miễn dịch từ các cơ quan của hệ miễn dịch
đến các khu vực bị viêm nhiễm. Các thành tố của hệ miễn dịch tìm kiếm và
chống lại, vô hiệu hoá các kháng nguyên ngoại lai. Chính vì vậy, máu ngoại vi
đóng vai trò quan trọng trong quá trình miễn dịch, chống viêm nhiễm.
Như đã biết, có 2 loại xét nghiệm miễn dịch chính: xét nghiệm định lượng và
xét nghiệm chức năng. Định lượng là nhằm xác định tỉ lệ các loại tế bào bạch cầu
khác nhau ở máu ngoại vi. Các tế bào bạch cầu được quan tâm nhiều hơn từ góc
352
độ miễn dịch gồm: neutro, mono, lympho, trong đó có cả thực bào, lympho T và
B. Xét nghiệm định lượng có ý nghĩa quan trọng. Để có thể có được đáp ứng
miễn dịch với kháng nguyên, cơ thể cần có một số lượng tối thiểu các tế bào bạch
cầu và có sự cân bằng phù hợp giữa các loại tế bào bạch cầu. Sự tăng hay giảm
số lượng tế bào là những chỉ báo về sự thay đổi trong hệ thống miễn dịch. Miễn
dịch còn có thể được chia làm 2 loại: miễn dịch tế bào và miễn dịch nội tiết.
Miễn dịch tế bào: các tế bào bạch cầu trực tiếp chống lại các kháng nguyên. Miễn
dịch nội tiết: sản xuất ra các tế bào miễn dịch.
Trong cuộc sống của con người có rất nhiều sự kiện/biến cố vượt quá khả
năng giải quyết của cá nhân. Khi đó xuất hiện stress, cụ thể đó là những trạng
thái tiêu cực về cảm xúc, nhận thức. Stress làm thay đổi hoạt động của hệ thống
miễn dịch và hệ quả của nó là làm thay đổi khả năng nhiễm bệnh theo hướng cá
nhân dễ bị nhiễm bệnh hơn.
Một loạt những nghiên cứu của Glaser và CS. vào những năm 1980 cho thấy
ảnh hưởng của các kì thi đến chức năng miễn dịch ở các sinh viên y khoa, cụ thể
như giảm hoạt động của thực bào, giảm sản xuất tế bào lympho, giảm sản xuất
gamma interferon…
Stone và CS. nghiên cứu vai trò tích cực/tiêu cực của các sự kiện đời sống
đến miễn dịch nội tiết. Kết quả cho thấy những sự kiện dễ chịu kéo theo tăng tiết
IgA (Immunoglobulin A) và ngược lại, những sự kiện khó chịu làm giảm tiết
IgA. Việc tăng tiết IgA liên quan đến sự kiện dễ chịu kéo dài đến 2 ngày sau sự
kiện. Điều này cho thấy những sự kiện vui vẻ, dễ chịu cũng ảnh hưởng tốt đến
sức khoẻ theo góc độ miễn dịch.
Ngoài ra cũng còn rất nhiều nghiên cứu khác về mối quan hệ giữa các yếu tố
tâm lí đến miễn dịch, ví dụ như ở những cư dân sống gần nơi vụ nổ nhà máy điện
nguyên tử; những người chăm sóc bệnh nhân Alzheimer (Kiecolt-Glaser và CS.,
1987; Irwin và CS., 1991; Esterling và CS., 1994).
Các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm cho thấy những người có hệ thần
kinh giao cảm hoạt động mạnh (dễ tăng nhịp tim, huyết áp, các hormon giao cảm
như epinephrine và norepinephrine) dễ có những thay đổi mạnh trong đáp ứng
miễn dịch khi phải đối mặt với các tác nhân gây stress và ngược lại. Tuy nhiên sự
liên quan giữa hoạt động của hệ thần kinh giao cảm và miễn dịch vẫn chỉ là sự
tương quan mà chưa thể khẳng định được cái nào là nguyên nhân, cái nào là hệ
quả.
353
Cũng có nhiều nghiên cứu đi theo hướng mối quan hệ giữa các yếu tố xã hội
với miễn dịch. Những người cô đơn, sống li thân hoặc li dị, đáp ứng miễn dịch
kém hơn, hoạt tính của thực bào bị giảm sút ( Kiecolt-Glaser và CS., 1984,
1985).
Một trong những ví dụ điển hình về cơ chế stress có thể làm cho cơ thể dễ bị
bệnh, như đã đề cập ở trên, chính là mối quan hệ giữa stress và chức năng miễn
dịch. Cả stress cấp và mạn tính đều ảnh hưởng đến hoạt động của hệ miễn dịch.
Sự ức chế hệ thống miễn dịch do stress làm suy giảm khả năng chống chọi của cơ
thể đối với những tác nhân gây bệnh hoặc phục hồi sau chấn thương. Các nhà
nghiên cứu cũng đã xác định được sự suy giảm khả năng gia tăng bạch cầu khi có
tác nhân gây bệnh (Fisher và CS, 1987; Bachen và CS, 1992; Zakowski và CS,
1994; Delahanty và CS, 1996). Suy giảm khả năng sản xuất bạch cầu được ghi
nhận trong cả trường hợp có stress cấp tính hoặc mạn tính.
Các nhà nghiên cứu cũng đi sâu nghiên cứu ảnh hưởng của stress đối với
thực bào- những bạch cầu hạt khổng lồ có chức năng tiêu diệt rất nhanh tế bào
virut hoặc ung thư. Bằng các xét nghiệm cận lâm sàng (invitro) người ta cũng đã
phát hiện thấy ở những người có stress kéo dài, các thực bào tự nhiễm giảm cả về
số lượng và khả năng tiêu hủy tế bào ung thư (Schedlowski và CS, 1993;
Delahanty và CS 1996).
Sự thay đổi trong hệ miễn dịch cũng liên quan đến hoạt động của hệ thần
kinh giao cảm (ví dụ như tăng nhịp tim, tăng huyết áp, tăng tiết các
catecholamine). Sự thay đổi các chỉ số của hệ miễn dịch, ví dụ như số lượng bạch
cầu và khả năng của chúng tiêu diệt các tế bào khác liên quan đến kích thích tim
mạch (đặc biệt là những thay đổi về huyết áp và nhịp tim). Ngược lại, những yếu
tố tâm lý như khả năng kiểm soát bản thân, tính bất ngờ của tác nhân gây stress,
sự hỗ trợ của xã hội và khả năng phản ứng/đáp ứng của cá nhân cũng có ảnh
hưởng đến hệ miễn dịch. Nhìn chung các tác nhân gây stress bất ngờ hoặc không
kiểm soát được hoặc những hoàn cảnh ít có sự trợ giúp xã hội gây ức chế miễn
dịch nhiều hơn (Kennedy và CS, 1988; Barow và CS, 1990; Sieber và CS, 1992;
Wiedenfeld và CS, 1990; Zakowski, 1995).
Bệnh truyền nhiễm được xem như là bệnh có tác nhân gây bệnh rõ rệt, ví dụ:
virut, vi khuẩn… Bệnh có khả năng truyền từ người này sang người khác. Cơ chế
phòng vệ ban đầu chính là hệ thống miễn dịch. Hệ thống này được huy động
nhằm phá hủy, vô hiệu hoá các tác nhân gây bệnh. Do stress làm cho hệ thống
354
miễn dịch có những lúc hoạt động bị yếu đi do đó khả năng chống đỡ của nó (hệ
miễn dịch) đối với các tác nhân gây bệnh truyền nhiễm cũng bị giảm đi. Các
nghiên cứu thực nghiệm và tự nhiên đều cho thấy stress liên quan đến khả năng
dễ bị mắc bệnh truyền nhiễm (Cohen & Williamson, 1991; McEwen &Stellar,
1993; Kiecolt và CS, 1995; Biodi và CS, 1997). Trong điều kiện tự nhiên, stress
tăng càng làm cho dễ phát bệnh (Stone và CS, 1987; Kasl và cs, 1979; Rahe,
1972). Stress cũng làm cho các bệnh truyền nhiễm tiễm ẩn dễ phát bệnh hơn
(Kiecolt và CS, 1987, 1988).
Các nghiên cứu tương quan cũng cho thấy những người có nhiều stress trong
cuộc sống là những người dễ bị cảm lạnh (Stone và CS, 1992; Cohen và CS,
1998).
3.3. Stress và ung thư:
Mối quan hệ giữa stress với miễn dịch và ung thư phức tạp hơn nhiều so với
mối quan hệ giữa stress và nhiễm khuẩn. Nếu bệnh nhiễm khuẩn thường khởi
phát một cách cấp tính thì ngược lại ung thư mang tính chất kéo dài. Người ta
vẫn chưa xác định được rõ vai trò của hệ miễn dịch trong việc kiểm soát sự đột
biến trong quá trình khối u chuyển từ lành tính sang ác tính và sau đó sang di
căn. Cũng có tác giả cho rằng có sự liên quan giữa trầm cảm và ung thư song
cũng có tác giả phủ định điều đó (Hahl và CS, 1988, Kaplan và Reynolds, 1988;
Costa và Metrae, 1989). Nhìn chung mới chỉ có những cứ liệu cho thấy tress liên
quan đến tiến triển của ung thư và có khả năng liên quan đến cả cuộc sống cũng
như yếu tố nhạy cảm chung, nguy cơ và chất lượng cuộc sống.
3.4. Stress và bệnh tim:
Có nhiều tác giả đề cập đến sự ảnh hưởng của stress đối với bệnh động mạch
vành. Sự ảnh hưởng này chủ yếu diễn ra thông qua hệ thần kinh giao cảm. Stress
làm tăng tiết epinephrine và norepinephrine dẫn đến tăng hoạt hoá của các thụ thể
beta và alpha (Kamarck và Jennings, 1991; Markovitz và Mathews, 1991). Tăng
hoạt hoá beta dẫn đến tăng nhịp tim, do đó tim phải co bóp nhiều hơn và huyết áp
cũng tăng cao. Tăng hoạt hoá alpha làm co thành mạch (cả động mạch và tĩnh
mạch) dẫn đến làm tăng cản trở ngoại vi nói chung và lưu thông máu quay trở lại
tĩnh mạch nói chung. Những điều này đều dẫn đến một đích: tăng huyết áp
(Guyton, 1991).
Stress cũng góp phần vào xơ vữa mạch máu và những quá trình khác thông
qua cơ chế ảnh hưởng đến hoạt động của hệ thần kinh giao cảm.
355
Ngoài những liên quan đến động mạch vành, stress tâm lý cũng có thể góp
phần làm giảm việc cung cấp oxy cho tim, do đó góp phần hạ thấp ngưỡng thiếu
máu cơ tim hoặc thúc đẩy loạn nhịp cấp thông qua hoạt hoá hệ thần kinh thực
vật, làm tăng các cơn nhồi máu cơ tim. Các kết quả nghiên cứu cũng cho thấy
những biến cố stress cấp tính, ví dụ như phát biểu ở chỗ đông người, các tình
huống gây tức giận có thể làm thay đổi điện tim và dẫn đến loạn nhịp hoặc nhồi
máu cơ tim. Rối loạn loạn nhịp còn có thể liên quan đến trạng thái tâm lý chủ đạo
của cá nhân. Ví dụ: các rối loạn trầm cảm lo âu, nhân cách typ A, rối loạn stress
sau nhồi máu (Camerou, 1996; Frasure-Smith và CS, 1995; Moser và Dracup, 1996;
Rosenman, 1996; Tennant, 1987).
3.5. Stress và tiểu đường:
Như trên đã đề cập, tất cả các hệ thống nội tiết, thần kinh đều đáp ứng với
stress. Đối với người bị các rối loạn nội tiết, việc kiểm soát hormon là rất cần
thiết. Một khi stress làm rối loạn sự kiểm soát đó thì các triệu chứng bệnh càng
trở lên tồi tệ hơn do mất cân bằng hormon. Bên cạnh việc ảnh hưởng trực tiếp
đến nồng độ hormon, stress cũng còn ảnh hưởng đến nhiều những yếu tố nguy cơ
liên quan đến khởi phát bệnh, hoặc làm bệnh trầm trọng thêm, ví dụ như ăn
kiêng, dùng ma tuý, thực hiện chế độ điều trị.
Một trong những rối loạn nội tiết thần kinh phổ biến là tiểu đường. Có 2 loại
tiểu đường: typ I (phụ thuộc insulin) và typ II (không phụ thuộc insulin). Cả 2 typ
này đều do lượng đường trong máu tăng cao, đều có các triệu chứng như mắt mờ,
mệt mỏi không rõ nguyên nhân hay khát nước và đi tiểu nhiều.
Nguồn năng lượng ban đầu cho các tế bào cơ thể chính là glucoza. Tuy nhiên
glucoza được dùng tại các tế bào phải thông qua tác động của một loại hormon
đó là insulin.
Ở typ I, hệ thống miễn dịch tấn công vào các tế bào sản xuất insulin nằm ở
tuyến tụy, làm giảm mức độ bài tiết insulin và giảm năng lượng glucoza được sử
dụng ở các tế bào. Tiểu đường typ I thường khởi phát trước tuổi 40, trong đó
khoảng 50% khởi phát trước tuổi 20 (Tracey Avà CS, 2001).
Ngược lại, tiểu đường typ II khởi phát muộn. Tiểu đường typ II phát triển
một cách từ từ do các tế bào cơ thể kháng lại tác dụng của insulin dẫn đến giảm
lượng glucoza thâm nhập vào tế bào.
356
Stress không trực tiếp gây tiểu đường, tuy nhiên nó có thể làm cho cá nhân dễ
bị bệnh hơn. Ví dụ, trong trạng thái stress, các tế bào cơ thể cần nhiều năng
lượng hơn. Với tiểu đường typ I, đòi hỏi như vậy có thể vượt quá khả năng của
tuyến tuỵ, do vậy bệnh có thể khởi phát sớm hơn tương tự, đối với tiểu đường typ
II, các hormon stress có thể chi phối đến việc sử dụng insulin. Do đó có thể nhận
thấy stress đóng vai trò là một yếu tố nguy cơ đối với khởi phát tiểu đường cũng
như có thể ảnh hưởng đến điều trị thông qua sự ảnh hưởng đến kiểm soát
glucoza.
Các hành vi liên quan đến stress, ví dụ như ăn uống, sử dụng rượu, hút thuốc
lá, ít hoạt động trí tuệ, quên uống thuốc… cũng ảnh hưởng đến việc tự chăm sóc
và đây cũng là những nguy cơ gây tăng lượng glucoza trong máu.
Stress có thể ảnh hưởng trực tiếp đến việc quản trị các triệu chứng bệnh. Như
đã đề cập, stress có thể làm tăng lượng glucoza trong máu. Với tiểu đường typ I,
cơ thể không sản xuất đủ lượng insulin cần thiết để xử lý lượng glucoza cao trong
máu, còn trong typ II, do các tế bào có thể từ chối insulin nên lượng glucoza
trong máu vẫn ở mức độ cao. Lượng glucoza cao trong máu dẫn đến nguy cơ
nhiễm axit xetonic và hôn mê (Guyton, 1991).
Như vậy có thể thấy stress đóng vai trò rất quan trọng đối với sức khoẻ của
con người. Nó ảnh hưởng đến khởi bệnh cũng như diễn biến và kết thúc (tốt hoặc
xấu). Stress chính là khâu quan trọng giữa cơ thể/cá nhân với môi trường; kích
thích con người chống lại hoặc né tránh các tác nhân gây stress.
Stress ảnh hưởng đến mọi hệ thống của cơ thể và thông qua các hệ thống này,
stress ảnh hưởng đến sức khoẻ của con người.
TÂM LÍ NGƯỜI BỆNH THỂ CHẤT
Khi bị bệnh, tâm lí người bệnh cũng bị thay đổi. Sự thay đổi tâm lí người
bệnh thường diễn ra trên hai bình diện:
+ Bình diện thứ nhất: mối quan hệ tương hỗ giữa hiện tượng tâm lí với bệnh
tật.
+ Bình diện thứ hai: mối quan hệ giữa tâm lí người bệnh và môi trường xung
quanh (kể cả môi trường tự nhiên và môi trường xã hội).
357
Có thể phân định một cách tương đối: mối quan hệ giữa tâm lí người bệnh
với bệnh tật là mối quan hệ bên trong và mối quan hệ giữa tâm lí người bệnh với
môi trường là mối quan hệ bên ngoài của người bệnh.
1. Tâm lí người bệnh và bệnh tật.
1.1. Một số vấn đề chung:
Điều dễ dàng nhận thấy rằng một khi bị bệnh thì bản thân bệnh ảnh hưởng
đến tâm lí của bệnh nhân. Tuy nhiên sự ảnh hưởng này được diễn ra trên các cấp
độ khác nhau.
+ Cấp độ cơ thể:
Một khi có bộ phận hay cơ quan nào đó bị bệnh thì hoạt động chung của hệ
thống đó cũng bị thay đổi. Đến lượt mình, hệ thần kinh cũng phải có sự điều
chỉnh trong hoạt động của nó do ảnh hưởng của hệ thống bị bệnh. Sự điều chỉnh
hoạt động của hệ thần kinh chính là cơ sở dẫn đến sự thay đổi tâm lí của bệnh
nhân. Ví dụ: trong trạng thái mệt mỏi, hệ thần kinh trở nên nhạy cảm hơn đối với
các kích thích từ bên ngoài. Tiếng người nói bình thường như mọi khi đã làm cho
bệnh nhân cảm thấy to hơn, khó chịu hơn.
+ Cấp độ tâm lí:
Khi bị bệnh, tâm lí của bệnh nhân có các thay đổi nhất định. Trạng thái tâm lí
thường gặp nhất là trạng thái lo âu. Tùy theo mức độ của bệnh và đặc biệt là các
đặc điểm nhân cách của cá nhân, phản ứng lo âu của bệnh nhân biểu hiện rất
khác nhau, từ thờ ơ coi thường bệnh tật cho đến phản ứng thái quá. Có những
trường hợp thậm chí còn rơi vào trạng thái bệnh lí mặc dù có thể bệnh cơ thể
không nặng. Bên cạnh đó, các hiện tượng tâm lí của con người lại có liên quan
mật thiết với nhau. Trong trạng thái lo âu hoặc cảm xúc không ổn định, khả năng
tư duy, trí nhớ và trí tuệ nói chung cũng đều bị ảnh hưởng.
+ Cấp độ xã hội:
Mỗi bệnh nhân không chỉ đơn thuần là một cơ thể bị bệnh. Trên bình diện xã
hội, họ là chủ thể của các mối quan hệ và các hoạt động cá nhân, xã hội. Họ là
thành viên của gia đình (với một số cương vị nhất định như cương vị người
chồng và người cha), là thành viên của một nhóm xã hội nào đó (trong cơ sở lao
động hoặc trong các tổ chức chính quyền, đoàn thể...). Một khi bị bệnh, các
cương vị của họ ít nhiều cũng bị chi phối, bị ảnh hưởng. Thêm vào đó còn có thể
358
là các ảnh hưởng đáng kể về kinh tế: tăng chi phí cho các hoạt động khám, chữa
bệnh, giảm thu nhập do nghỉ việc. Tất cả những điều đó đều có ảnh hưởng không
nhỏ đến tâm lí bệnh nhân.
Sự kết hợp cả ba cấp độ đó càng làm cho những biến đổi tâm lí của bệnh
nhân trở nên phức tạp hơn.
Tâm lí người bệnh ảnh hưởng trở lại bệnh tật đến mức nào là tùy thuộc vào
đời sống tâm lí vốn có của người bệnh. Mỗi người bệnh có những thái độ khác
nhau đối với bệnh tật. Có người cho bệnh tật là điều bất hạnh không thể tránh
được, đành cam chịu, mặc cho bệnh tật hoành hành. Có người kiên quyết đấu
tranh, khắc phục bệnh tật. Có người không sợ bệnh tật, không quan tâm tới bệnh
tật. Có người sợ hãi, lo lắng vì bệnh tật. Đôi khi chúng ta gặp những người thích
thú với bệnh tật, dùng bệnh tật để tô vẽ cho thế giới quan của mình. Bên cạnh
những người giả vờ mắc bệnh, lại có người giả vờ như không bị bệnh tật... Thái
độ đối với bệnh tật nói riêng và đời sống tâm lí của người bệnh nói chung ảnh
hưởng trực tiếp đến khả năng huy động sinh lực bản thân trong phòng và chữa
bệnh cũng như trong khắc phục hậu quả bệnh tật của người bệnh.
Những diễn biến bệnh tật và biến đổi tâm lí của người bệnh tác động lẫn nhau
theo vòng tròn khép kín: bệnh ảnh hưởng đến tâm lí của bệnh nhân và ngược lại,
tâm lí cũng ảnh hưởng đến diễn biến và kết cục của bệnh. Các yếu tố tâm lí có
thể đóng vai trò là nguyên nhân (như trong một số trường hợp bệnh cơ thể tâm
sinh), cũng có thể là hậu quả của bệnh (lo âu, trầm cảm..) hoặc là hiện tượng đi
cùng. Khi thăm khám bệnh nhân tại một thời điểm nào đó, các yếu tố tâm lí có
thể vừa là hậu quả song chúng lại vừa có thể ảnh hưởng tiếp tới diễn biến của
bệnh (có thể làm xấu đi hoặc ngược lại, giúp bệnh nhân có thêm nghị lực đấu
tranh chống lại bệnh tật).
1.2. Phản ứng điều trị nội trú:
1.2.1. Một số đặc điểm chung:
Với người trưởng thành, hầu như ai cũng đã có một vài lần nằm viện. Đối với
một số người, việc nằm viện diễn ra thường xuyên. Tuy nhiên phần lớn ít khi
phải nằm viện. Đối với họ, lần nhập viện đầu tiên chính là sự báo hiệu cho những
thay đổi lớn.
Có rất nhiều thay đổi về mặt xã hội đối với mỗi cá nhân khi phải nhập viện.
Trước hết họ “có” thêm một vai trò mới, vai trò hầu như không mấy ai mong
muốn: bệnh nhân. Nằm viện kéo theo một loạt các hậu quả. Tự do bị hạn chế,
359
không còn được ăn, uống, đọc sách, thức đêm tùy ý. Mặc dù biết là cần thiết song
nhiều người vẫn cảm thấy ngần ngại khi phải cởi bỏ quần áo ngoài của mình để
mặc bộ quần áo bệnh nhân. Nhiều người, đặc biệt là phụ nữ, cảm thấy không dễ
chịu chút nào khi có tay người lạ đặt lên cơ thể mình.
Ở nhà, nếu buồn người ta có thể đi chơi, gọi điện thoại tán gẫu hay nghe nhạc.
Trong bệnh viện, họ không được như vậy. Mặt khác việc thích nghi với chế độ, các
qui định trong bệnh viện với nhiều người không thể diễn ra một cách nhanh
chóng.
Có nhiều tác giả đã nghiên cứu những phản ứng tâm lý đối với nằm viện.
Taylor (1979) nghiên cứu khá tỉ mỉ những phản ứng của bệnh nhân. Bà cảm thấy
rằng giảm khả năng tự chủ và giải thể nhân cách (bệnh nhân cảm thấy mình
không phải là mình nữa) là hai đặc điểm thường gặp ở bệnh nhân điều trị nội trú.
Taylor cũng đã mô tả những đặc điểm mà theo nhân viên y tế, là bệnh nhân “tốt”
họ là những người thụ động, không đòi hỏi và hợp tác. Những người này tuyệt
đối nghe lời nhân viên, không bao giờ đưa ra câu hỏi hoặc một đề nghị nào.
Ngược lại, đối với những “bệnh nhân kém”, đó là những người được Taylor mô
tả là “hành động có chút nổi loạn”, dạng như đi lại nhiều, hút thuốc lá hay uống
rượu, bia hoặc thỉnh thoảng đùa cợt với nhân viên. Họ là những người không
tuân thủ hoàn toàn nội qui bệnh viện, hay đưa ra câu hỏi hoặc đòi hỏi về điều trị.
Mặc dù nhân viên y tế thường khuyến khích những hành vi “tốt” song Taylor
cũng nêu ra những khả năng “bệnh nhân tốt” dẫn đến hồi phục kém. Điểm chủ
yếu là do hạn chế tính tích cực của cá nhân. Do vậy những bệnh nhân “tốt” có thể
dẫn đến tình trạng họ trở thành “nô lệ” của các chế độ điều trị (Goffman, 1961).
Bệnh nhân “kém” cũng không phải đã hay. Những đòi hỏi phải được chú ý,
quan tâm, chấp hành nội qui không nghiêm dễ làm cho nhân viên y tế “lẫn lộn”
giữa những phàn nàn quan trọng và không quan trọng. Tuy nhiên những người
này cũng có lợi thế nhất định. Do vẫn “giữ lại” ít nhiều quyền tự chủ, khả năng
kiểm soát cuộc sống cũng như cảm xúc nên những bệnh nhân này họ rất vui
mừng khi được ra viện và nhanh chóng thích ứng với cuộc sống: Karmel (1972)
cho thấy ở nhóm bệnh nhân được coi là “ngang bướng” hay gây nhiều “phiền hà”
cho nhân viên y tế lại có tỷ lệ trầm cảm thấp hơn và tinh thần, khí thế cao hơn.
Ngôn ngữ bệnh viện cũng là một trong những thay đổi. Ngôn ngữ của nhân
viên y tế, đặc biệt là những người có thâm niên trong nghề thường giống với
ngôn ngữ của người lớn đối với trẻ nhỏ. Bệnh nhân được “mời” như ra lệnh đến
360
chỗ bác sĩ, bị yêu cầu cởi áo, lên giường, xuống giường. Nhiều bệnh nhân cao
tuổi nghe những lời nói như vậy cứ có cảm tưởng rằng mình là một đứa bé
nghịch ngợm. Những cảm nhận khó chịu như vậy càng tăng lên khi họ lại phải
nghe ngôn ngữ bất cẩn của các y tá, điều dưỡng viên.
1.2.2. Các dạng phản ứng với bệnh:
Khi bị bệnh, đặc biệt là khi phải vào điều trị nội trú, cá nhân đều có các phản
ứng đối với bệnh cũng như đối với quá trình điều trị. Có thể phân chia ra 4 dạng
phản ứng chính.
+ Trầm cảm - lo âu: có rất nhiều yếu tố trong bệnh viện có thể gây stress hoặc
lo âu cho bệnh nhân. Các cứ liệu cho thấy những biểu hiện lo âu là khá phổ biến.
Kết quả những phỏng vấn của Wilson và Barnet (1976) cho thấy sự cách li
gia đình, bạn bè, công việc là nguyên nhân chủ yếu gây lo âu ở người bệnh. Theo
kết quả nghiên cứu của Johnston (1982), nhân viên điều dưỡng đánh giá quá cao
sự chăm sóc y tế còn bệnh nhân lại lo lắng đến cuộc sống của họ sau khi ra viện.
Trong nghiên cứu sau (Johnston, 1987) bà lại thông báo rằng lo lắng đến phẫu
thuật là quan tâm số 1 của bệnh nhân.
Trầm cảm ở bệnh nhân cũng là đề tài được nhiều người quan tâm. Moffic và
Paykel (1975) cho thấy có 24% số bệnh nhân điều trị nội trú tại bệnh viện đa
khoa có biểu hiện của trầm cảm theo thang trầm cảm Beck (Beck Depression
Inventory - BDI). Một số tác giả khác đưa ra tỉ lệ 33% số bệnh nhân nội trú bị
trầm cảm. Cũng có những nghiên cứu cho thấy có sự liên quan giữa mức độ nặng
của bệnh và mức độ nặng của trầm cảm. Tuy nhiên cũng có nghiên cứu cho rằng
không có sự liên quan như vậy. Các tác giả cũng chưa tìm thấy mối tương quan
giữa thời gian bị bệnh và mức độ trầm cảm.
+ Ám ảnh - nghi bệnh: bệnh luôn là nỗi ám ảnh của bệnh nhân. Trong đầu
bệnh nhân luôn xuất hiện những câu hỏi mà mỗi khi có câu trả lời thì bệnh nhân
lại cũng có cơ sở để đặt ra câu hỏi ngược lại. Ví dụ: bệnh nhân được chẩn đoán là
viêm da song sau đó lại nghi ngờ mình có thể bị tiểu đường. Sự nghi ngờ như vậy
là do có một người quen của bệnh nhân bị tiểu đường, lúc đầu cũng được chẩn
đoán là viêm da nhưng điều trị mãi mà không khỏi. Sau khi được giải thích rằng
bệnh tiểu đường còn có một số triệu chứng khác, ví dụ: hay khô miệng, uống
nhiều nước, sút cân, bệnh nhân tự thấy mình có vẻ cũng hay khô miệng, uống
nhiều nước và thường xuyên cân để theo dõi sự sút cân.
361
+ Phản ứng phân li: đối với người có dạng phản ứng này, bệnh tật dường như
là “tai hoạ”. Bệnh nhân hay có các phản ứng: kêu, rên, hay phàn nàn rằng số
mình khổ…Tuy nhiên những phản ứng như vậy chỉ diễn ra khi có mặt người
khác như nhân viên y tế, người nhà hoặc người thân. Những người có nét tính
cách phân li thường dễ có phản ứng phân li khi bị bệnh. Phản ứng này, về mặt vô
thức, nhằm thu hút sự chú ý của người khác tới bản thân bệnh nhân.
+ Phản ứng phủ định bệnh. Đây là dạng phản ứng cũng thường hay gặp. Khi
có những biểu hiện ban đầu của bệnh, họ thường né tránh sự thật. Ví dụ: khi có
các triệu chứng ban đầu như đau nhiều, người nhanh mệt mỏi… họ có thể tìm ra
những lí do khác nhau (trừ bệnh) để giải thích. Khi buộc phải đi khám và đã được
chẩn đoán, họ cho rằng có thể họ không bị bệnh như bác sĩ chẩn đoán bởi “bác sĩ
nhìn đâu cũng thấy vi trùng”. Trong trường hợp đã có các triệu chứng bệnh
không thể bác bỏ được thì họ lại cho rằng mức độ của bệnh không nghiêm trọng
như bác sĩ khẳng định.
2. Tâm lí và một số yếu tố chung của bệnh.
2.1. Yếu tố đau:
Đau là một cảm giác khó chịu song nó lại cần thiết cho cơ thể. Nếu chúng ta
không có cảm giác đau, cơ thể của chúng ta có nguy cơ bị tổn thương nhiều hơn
hoặc thậm chí dẫn đến việc chúng ta tự hủy hoại cơ thể của mình. Ví dụ: chẳng
may chúng ta bị ngã rạn xương; nếu không có cảm giác đau, cứ đi lại, mang vác,
chạy nhảy như bình thường thì nguy cơ chân bị gãy là rất rõ.
Dưới góc độ sinh lý học, các tín hiệu đau buộc cơ thể không được hoặc hạn
chế huy động vùng bị tổn thương vào các hoạt động thông thường cho đến khi
nào vùng tổn thương đó được phục hồi. Sinh lý học cũng không thể giải thích
được mọi khía cạnh của đau. Ví dụ: với những trường hợp đau mạn tính, không
có vùng cơ thể cụ thể nào bị tổn thương nhưng cảm giác đau cứ dai dẳng, kéo dài
triền miên. Tuy nhiên cũng không hợp lí nếu quan niệm rằng đau hoàn toàn là do
yếu tố tâm lí.
Có một số cách lí giải yếu tố tâm lí trong đau:
+ Phân tâm học: năm 1893, Breurer và Freud là hai bác sĩ tâm thần đã đưa ra
những giải thích về đau không đặc hiệu (đau không liên quan đến những vấn đề
về cơ thể). Họ cho rằng phần chìm của tảng băng chính là những xung đột tâm
thần được chuyển đổi sang các vấn đề cơ thể và thành các triệu chứng cơ thể.
Năm 1959, Engel đã phát triển những ý tưởng của Breurer và Freud khi cho rằng
362
trải nghiệm của bệnh nhân đóng vai trò rất lớn trong những vấn đề lâm sàng.
Cũng theo Ông, có người có “cơ địa đau” và trong trường hợp này yếu tố tâm lý
đóng vai trò chủ yếu trong cảm giác đau dù cho có hay không có các kích thích
từ bên ngoài. Với những người như vậy cứ hết đau chỗ này lại đến đau chỗ khác,
sau những cảm giác đau này chính là mặc cảm tội lỗi (vô thức hoặc là ý thức),
trầm cảm. Những người này, theo Engel, rất ít khi thành công trong cuộc sống.
Như vậy đau gắn liền với những vấn đề của nhân cách.
+ Tiếp cận hành vi:
Fordyce và CS (1973) thì lại cho rằng: đau liên quan đến các yếu tố hành vi
và môi trường hơn là nhân cách. Luận điểm này dựa trên lý thuyết của Skinner
(1971) về hành vi được củng cố do kết quả.
Khi một bệnh nhân đến khám bệnh, họ kể với bác sĩ rằng họ bị đau và họ
phải thể hiện đau như thế nào. Trong một chừng mực nhất định, những hành vi
đau đớn cũng gây ấn tượng cho bác sĩ. Song những hành vi như vậy cũng có thể
được củng cố bởi các hậu quả xã hội.
- Củng cố dương tính: được sự quan tâm, chú ý, được cho thuốc, nghỉ ngơi.
- Củng cố âm tính: sợ người khác coi thường hoặc chế diễu hay bị mất quyền
lợi.
+ Sự khác biệt về văn hoá và giới:
Melzack và Wall (1991) cho rằng: cảm giác đau thì giống nhau nhưng khả
năng chịu đựng thì lại khác nhau. Thực ra ngay từ năm 1952, Zborowski đã chỉ
ra rằng: thổ dân Mỹ thường ít thể hiện nỗi đau của mình ở chỗ đông người, họ
chỉ thường gào thét lên (do đau) khi chỉ có một mình. Người Do Thái và người
Italia thì ngược lại.
Liệu có sự khác biệt về khả năng chịu đau ở 2 giới? Câu trả lời cũng rất khác
nhau. Có nghiên cứu thì cho rằng không có sự khác biệt, cũng có tác giả lại đưa
ra nhận xét rằng phụ nữ chịu đau tốt hơn nam giới, đặc biệt là khả năng chịu đau
của phụ nữ tăng lên sau khi họ có con. Có lẽ những đau đớn trong khi vượt cạn
đã là đỉnh điểm đối với người phụ nữ.
Hiện nay người ta cũng đang tiếp tục nghiên cứu sự khác biệt giữa các nền
văn hoá về khả năng chịu đau.
2.2. Những khía cạnh tâm lí của cái chết:
363
2.2.1. Khái niệm chung:
Càng đi về cuối cuộc đời, người ta càng buộc phải chứng kiến nhiều hơn cái
chết của những người thân yêu, của bạn bè trước khi phải đối mặt với cái chết
của chính mình. Trong thực hành y học, nhiều thầy thuốc phải chứng kiến cái
chết của người bệnh và sự đau khổ của những người thân của họ. Cũng không ít
trường hợp có sự bất đồng giữa người nhà với nhân viên y tế, khi những con
người đang đau khổ đó cho rằng các thầy thuốc là những người “vô cảm”, chai
sạn với cái chết của con người. Nếu phân loại, có thể tạm chia ra làm 3 loại cái
chết:
+ Chết đột ngột: chết do cơn đột quị, do mất nhiều máu, do sốc phản vệ khi
tiêm thuốc…
+ Chết từ từ: chết do bệnh AIDS, do ung thư, do bệnh nặng dần…
+ Chết do tuổi già.
Trong bệnh viện, thường gặp nhất là dạng đầu. Do đặc điểm văn hoá, người
Việt Nam đều muốn được chết (khi cái chết đến gần) trong ngôi nhà của mình
với sự có mặt của những người thân yêu. Trong bệnh viện, nhiều trường hợp khi
tình trạng bệnh đã rất nặng, người nhà xin đón bệnh nhân về để lo liệu.
2.2.2. Các giai đoạn chết:
Không kể những trường hợp chết đột ngột, nhìn chung trên đường “đi đến”
cái chết, con người thường trải qua các giai đoạn khác nhau. Kubler - Ross (1970),
người đi đầu trong lĩnh vực nghiên cứu tâm lí về cái chết đã bắt tay vào những
vấn đề này từ những năm 60 của thế kỉ 20. Qua phỏng vấn hơn 200 bệnh nhân
trước khi chết, Bà đã đưa ra một mô hình gồm 5 giai đoạn như sau:
+ Giai đoạn I (từ chối): chối bỏ, sốc và không tin. Đó là những phản ứng đầu
tiên khi bệnh nhân biết rằng mình đã ở vào giai đoạn cuối và cái chết đã cận kề
với họ. Theo Kubler-Ross, một số người có những phản ứng này cho đến những
giây phút cuối cùng của cuộc đời.
+ Giai đoạn II (tức giận/kích động): sau khi chối từ, bệnh nhân trở nên khó
tính, hay đòi hỏi, gây khó khăn. Họ hay đưa ra những câu hỏi không có câu trả
lời: tại sao lại là tôi phải chết?
+ Giai đoạn III (mặc cả): bệnh nhân muốn có nhiều thời gian hơn để trì hoãn
cái chết.
364
+ Giai đoạn IV (trầm cảm): đây là dấu hiệu đầu tiên của sự chấp nhận mất
mát, không thể tránh.
+ Giai đoạn V (chấp nhận buông xuôi, sẵn sàng cho cái chết): lúc này họ rất
muốn có người thân bên cạnh. Giao tiếp ngôn ngữ thường là không cần thiết
trong giai đoạn này.
Tuy nhiên mô hình này cũng bị phê phán rằng rất nhiều trường hợp không
diễn ra tuần tự qua 5 giai đoạn như vậy, rằng trạng thái tâm lí của bệnh nhân có
thể chuyển đột ngột từ giai đoạn này sang giai đoạn khác và có nhiều yếu tố ảnh
hướng tới diễn biến của quá trình này như: tuổi, giới, dân tộc, xã hội, các đặc
điểm nhân cách… (Butller và Lewis, 1982).
2.2.3. Sự đau buồn khi mất người thân:
+ Hầu như bất kì ai cũng cảm thấy đau khổ khi mất người thân. Theo Bowlby
(1980), sự đâu khổ này có thể được chia thành 4 giai đoạn:
- Giai đoạn I (sững sờ): quên hết mọi chuyện. Cảm giác ngột ngạt, khó thở.
- Giai đoạn II (mong mỏi, khát khao): người còn sống cố gắng tìm kiếm
người đã chết. Nhiều lúc họ không tin rằng người thân của họ đã chết và thậm chí
những hình ảnh trong mơ làm cho họ có cảm giác rằng hình như họ vẫn còn gặp
được người thân. Họ thường cảm thấy bất an, kích động, cảm giác tội lỗi, buồn
rầu, khóc lóc, thương tiếc. Mất ngủ, kém ăn cũng là những hiện tượng thường
gặp.
- Giai đoạn III (tuyệt vọng): mất mát đã là sự thật buộc phải chấp nhận. Điều này
lại dẫn đến trầm cảm, cảm giác trống trải, vô vọng, suy sụp và mất ngủ nhiều
hơn.
- Giai đoạn IV (phục hồi): mọi việc dần ổn định trở lại. Thỉnh thoảng ý nghĩ
về người đã khuất có xuất hiện trở lại song không kéo dài và không chi phối
nhiều đến hành vi, cảm xúc cá nhân.
Bowlby cũng nhấn mạnh đến tính linh hoạt của mô hình. Tuy nhiên nhiều
nhà nghiên cứu vẫn khẳng định rằng sự đau khổ không hoàn toàn diễn ra theo
cách đó.
+ Qua tổng hợp các nghiên cứu, Wortmann và Silver (1990) cho thấy có 4
dạng thể hiện đau khổ khác nhau:
- Đau khổ kéo dài, triền miên.
365
- Đau khổ xuất hiện một thời gian sau đó cá nhân ổn định trở lại.
- Đau khổ xuất hiện muộn.
Đây là những trường hợp mà thoạt đầu dường như cá nhân không có phản
ứng mạnh lắm. Tuy nhiên một thời gian sau khi người thân qua đời, cá nhân cảm
nhận thấy những thiếu hụt, mất mát không gì bù đắp được. Trạng thái này rất lâu hồi
phục.
- Không có biểu hiện đau khổ.
Dù sao chăng nữa các thầy thuốc cũng phải lưu ý rằng khi có một bệnh nhân
chết thì có nhiều người khác đau khổ, dù rằng ở các trạng thái, các mức độ và các
hình thức biểu hiện có thể khác nhau.
2.2.4. Yếu tố văn hoá:
Khi có người thân qua đời, mọi người đều cảm thấy đau khổ. Tuy nhiên sự
thể hiện cảm xúc này bị chi phối rất nhiều bởi yếu tố văn hoá. Ở nước ta, theo
truyền thống văn hoá Phương Đông, người chết chỉ là người đi xa và người còn
sống vẫn tuân theo một số cách thức duy trì quan hệ tình cảm với người đã khuất
như: cúng 3 ngày, 49 ngày, 100 ngày, hàng năm, lập bàn thờ… Ngược lại, ở các
nước Âu- Mĩ, người ta thường động viên gia chủ nhanh chóng quên đi đau khổ
để trở về với công việc thường ngày.
3. Đặc điểm tâm lí người bệnh thực thể.
3.1. Đặc điểm tâm lí bệnh nhân nội khoa:
Biểu hiện thường gặp ở bệnh nhân nội khoa là các triệu chứng của trầm cảm.
Bệnh nhân thường hay so sánh tình trạng hiện tại với “trước khi bị bệnh”. Do
một số mặc cảm về bệnh nên có những bệnh nhân tự cách li mình với gia đình và
xã hội. Cũng có người nôn nóng, muốn giải quyết ngay tình trạng bệnh, tìm mọi
cách “giúp” thầy thuốc chẩn đoán và điều trị nhanh chóng nhất. Họ có thể tìm
đến nhiều thầy thuốc, vừa điều trị Tây y vừa điều trị bằng Đông y, thậm chí họ
còn đi xem bói và làm theo những gì “thầy” phán như: đặt lại bàn thờ, chuyển
cổng đi, sửa lại cửa...
Bệnh nhân bị bệnh cơ thể thường có những phản ứng cảm xúc khác nhau đối
với cái đau tăng lên, đối với hoàn cảnh bên ngoài, với những hành vi và lời nói
của nhân viên y tế... Dạng phản ứng cảm xúc này phụ thuộc nhiều vào đặc điểm
nhân cách của bệnh nhân.
3.1.1. Đặc điểm tâm lí người bệnh tim mạch:
366
+ Bệnh động mạch vành, đặc biệt là bệnh nhồi máu cơ tim:
Theo Côxencô và Paramônôva, những biến đổi tâm lí ở những người bệnh
này thuộc ba hội chứng sau:
- Hội chứng sảng khoái bệnh lí: người bệnh tươi tỉnh, tăng khí sắc, đánh giá
không đúng mức độ nặng nhẹ của bệnh, tay chân luôn vận động, đứng ngồi
không yên, cởi mở, nói nhiều, phán đoán nông cạn.
- Hội chứng nghi bệnh, loạn cảm giác: người bệnh có cảm giác tê, buồn, co
thắt ở vùng ngực và vùng cổ, kim châm ở vùng tim. Họ hay hốt hoảng, lo sợ, ngủ
đứt quãng, suy nhược và dễ bị xúc động.
- Hội chứng giống suy nhược thần kinh: người bệnh khó chịu với ánh sáng và
tiếng động, khí sắc không ổn định, hay giận hờn, hay cáu gắt, dễ bị kích động, có
khi khóc sướt mướt, suy nhược nặng, làm việc kém.
+ Bệnh xơ vữa mạch não:
Người bệnh dễ xúc động, khó kiềm chế những hành động bột phát, có khi nói
năng ba hoa, có thái độ khoan dung, song lại là người bảo thủ và giảm khả năng
lao động sáng tạo.
Những người có tính cách mạnh, có ý chí, luôn muốn đạt mục đích, không
thỏa mãn trong công việc... thường dễ mắc bệnh tim mạch. Để ngăn ngừa bệnh
này, theo viện sĩ J. Tschaean, cần tránh căng thẳng tâm lí, tình cảm; tránh bị rối
loạn điều hòa thần kinh; không hút thuốc lá và có chế độ làm việc, ăn uống hợp
lí...
3.1.2. Đặc điểm tâm lí người bị bệnh gan – mật:
+ Những người bệnh suy gan, xơ gan, viêm gan, viêm đường dẫn mật, túi
mật... thường rất nóng nảy, khó tính, hay cáu gắt, bực tức, nặng về xúc cảm âm
tính. Đặc biệt người bệnh hay mỉa mai, nhạo báng, độc ác và đa nghi, tiêu cực.
+ Bệnh sinh của những rối loạn tâm lí này rất phức tạp. Đa số các nghiên cứu
cho rằng, đây là hiện tượng nhiễm độc gan của cơ thể, nhất là của hệ thần kinh.
Chất độc trong máu tăng lên khác thường có thể do các cơ chế sau:
- Chức năng khử độc của gan bị suy giảm nên những chất độc của cơ thể
không được thanh lọc, chúng ngày càng tồn đọng trong cơ thể.
367
- Chức năng chuyển hóa của gan bị rối loạn nên các sản phẩm chuyển hóa dở
dang (không thành những sản phẩm cuối cùng) của prôtít, lipít, gluxít được đưa
thẳng vào máu và gây độc cho cơ thể.
- Hệ thống mật bị tổn thương (tế bào gan bị vỡ, đường dẫn mật bị tắc...), nên
sắc tố mật, muối mật đổ trực tiếp vào máu và trở thành những chất gây độc cho
cơ thể.
Lượng chất độc tăng cao trong máu đã làm nhiễm độc hệ thần kinh và toàn cơ
thể người bệnh. Tùy theo mức độ nhiễm độc mà tâm lí của người bệnh biến đổi
nhiều hay ít, mạnh mẽ hay từ từ.
3.1.3. Đặc điểm tâm lí người mắc bệnh dạ dày, tá tràng:
Những người bệnh viêm dạ dày mạn tính thường hay thờ ơ, lạnh nhạt, vô
cảm, có khi trầm cảm, nghi bệnh, sợ hãi. Những người bệnh loét dạ dày - tá tràng
có tính khí thất thường, thiếu kiên trì, nhẫn nại, khó kiềm chế, dễ nổi khùng, kích
động, rất nóng tính, hưng phấn mạnh hơn ức chế, lắm điều. Người bệnh khó làm
chủ thói quen, không bỏ được thói quen uống rượu, ăn ớt cay, hút thuốc lá... và
khó chấp hành các chế độ ăn kiêng.
3.1.4. Người bị bệnh lao:
Có nhiều nghiên cứu về những biến đổi tâm lí ở người bị bệnh lao, nhất là lao
phổi, song kết quả của những nghiên cứu này rất khác nhau.
E. Kraepelin nhận thấy ở những người bệnh này có biến đổi nhẹ về khí sắc và
ý chí, hay cáu gắt, nhạy cảm với những sang chấn tâm lí và vật lí, cả tin một cách
kỳ lạ, linh hoạt, rất ích kỷ, trí tuệ giảm sút ở mức độ nhất định dẫn đến giảm khả
năng phê phán, gặp nhiều khó khăn trong giải quyết những vấn đề bức thiết, có
khuynh hướng sợ hãi, ảo giác phản ứng và tự đề cao thể lực của bản thân.
Lenhien - Lavaxtin lại nhận thấy các thuộc tính tâm lí cơ bản của người bệnh
bị biến đổi trầm trọng, người bệnh đa sầu, đa cảm, ích kỷ, khó tính, song ở họ lại
có sự tìm tòi, sáng tạo một cách độc đáo.
Có tác giả phán đoán rằng, những chất độc đang tràn ngập ở não và hệ thần
kinh đã kích thích, làm cho người bệnh có trí tuệ xuất sắc, có đời sống tâm hồn
đẹp đẽ và khả năng rung cảm cao...
Cũng có ý kiến nhận xét rằng, sự tế nhị và tinh tế về tâm lí, đảm đang trong
cuộc sống là những đặc điểm nổi bật ở những người bệnh này. Trong trạng thái
368
hấp hối, người bệnh có trạng thái sảng khoái, đánh giá cao khả năng bản thân,
kích động, lạc quan tếu, hưng phấn mãnh liệt...
T.P. Xiaxon nhận thấy tâm lí của trẻ em bị lao biến đổi theo kiểu tâm thần
phân liệt hoặc loạn thần kinh chức năng (kín đáo, lạnh lùng, độc ác...).
3.1.5. Đặc điểm tâm lí của người bệnh ung thư:
Những người bệnh này thường không được biết chính xác về kết quả chẩn
đoán bệnh. Họ tò mò tìm hiểu nơi thầy thuốc và những người xung quanh. Họ sợ
bị bệnh ung thư, sợ chết. Họ có trạng thái suy nhược, tăng ám thị (sẵn sàng nghe
theo bất kỳ ai, miễn là giúp họ khỏi bệnh, hoặc làm dịu cơn đau). Nhiều người tỏ
ra thất vọng, tiêu cực, sợ trở thành gánh nặng đối với người thân, thậm chí đi đến
tự sát, không thiết sống...
3.1.6. Đặc điểm tâm lí bệnh nhân ngoài da và hoa liễu:
Trong số các bệnh ngoài da, có nhiều bệnh thể hiện ở cả những phần không
che kín của cơ thể. Khi đó bệnh nhân thường cảm thấy ngại ngùng xuất hiện ở
chỗ đông người. Nhiều người trong số họ, đặc biệt là phụ nữ, đã tự mình cách li
khỏi xã hội.
Sự phát triển mạn tính của bệnh có thể dẫn tới xuất hiện những nét nhân cách
bệnh lí. Trong thực tiễn đã có trường hợp chỉ do bệnh vảy nến mà bệnh nhân đã
có ý định tự sát.
Những bệnh hoa liễu, ví dụ như bệnh giang mai, thường gây ra các stress tâm
lí kéo dài cho bệnh nhân. Trong nhiều trường hợp, do phải giấu diếm nên điều trị
không được hệ thống. Khi đó, cùng với những kiến thức đã tìm và đọc, bệnh
nhân sợ sau này bệnh tiến triển vào “thời kì 4”, thời kì xuất hiện liệt tuần tiến hay
giang mai não.
Đặc biệt đối với bệnh nhân HIV/AIDS có những diễn biến tâm lí phức tạp.
Những biểu hiện thường gặp nhất là rối loạn trầm cảm và lo âu. Trong cơn trầm
cảm, có bệnh nhân có thể thực hiện hành vi tự sát. Có những trường hợp, bệnh
nhân kích động hoặc thực hiện những hành vi phi xã hội, ví dụ cố tình truyền
bệnh cho nhiều người để trả thù đời.
3.2. Đặc điểm tâm lí bệnh nhân sản, phụ khoa:
Những cảm nhận của phụ nữ, lần đầu tiên chuẩn bị làm mẹ cũng khá đa dạng.
Trước hết là những cảm nhận về thay đổi sinh học: ban đầu là các phản ứng thai
369
nghén, sau là những khó khăn, hạn chế vận động, có lúc ăn không ngon, ngủ
không yên, tiểu tiện thất thường.
Cùng với sự thay đổi về cơ thể là những thay đổi về tâm lí. Càng gần đến
ngày sinh con, lo âu của người mẹ lại càng tăng lên. Lo không biết có được mẹ
tròn con vuông hay không, sợ sảy thai, ngôi ngược, sợ đẻ non. Nhiều người rất sợ
các cơn đau đẻ, sợ băng huyết, sợ nhầm con, nhất là đối với những người đã từng
bị sảy thai.
Đặc biệt có những nỗi lo hoàn toàn mang tính tâm lí-xã hội: lo không đẻ
được con trai khi chồng và gia đình bên chồng đang “khao khát” một quý tử.
Thậm chí có những lo âu dai dẳng gần như bệnh lí: lo đẻ ra quái thai, dị dạng.
Ngay sau khi sinh con, ở những phụ nữ này lại xuất hiện những vấn đề khác.
Hiện tượng thường gặp là trầm cảm sau đẻ (hậu sản): tự nhiên khóc lóc chẳng có
nguyên cớ gì, chăm sóc con vụng về hoặc ở mức độ nặng hơn, người mẹ hoàn
toàn bỏ trễ, thờ ơ đối với đứa con. Ngoài ra cũng có thể có sợ quá mức: sợ đêm
ngủ đè vào con, sợ con tắc thở khi bú.
Đối với những bệnh nhân phải phẫu thuật, ví dụ như phải cắt tử cung thì
ngoài những yếu tố tâm lí thường gặp như đối với bệnh nhân ngoại khoa, còn có
thể có những lo âu liên quan đến việc mang thai sau này.
3.3. Đặc điểm tâm lí bệnh nhân ngoại khoa:
+ Trạng thái lo âu cũng là một đặc điểm tâm lí nổi bật ở bệnh nhân ngoại
khoa. Trong nhiều trường hợp, trạng thái lo âu trước phẫu thuật có thể đạt đến
cường độ cao. Lo âu chủ yếu và phổ biến nhất là sợ chết. Mặc dù có thể đã được
giải thích song họ vẫn sợ “nhỡ” rủi ro xảy ra, sợ “nhỡ” không thoát ra khỏi trạng
thái hôn mê và cuối cùng, lo rằng mổ cũng không giải quyết được bệnh tật.
+ Đối lập với nhóm trên là những người ưa phẫu thuật. Đó là những người đề
nghị được mổ để giải thoát các stress do bệnh hoặc liên quan đến bệnh. Ví dụ:
một số bệnh nhân bị loét dạ dày cố gắng thuyết phục bác sĩ cho mổ. Thực hiện
các chế độ ăn kiêng: kiêng ăn các chất chua cay; kiêng ăn thức ăn quá nóng hoặc
quá lạnh; kiêng uống rượu, bia; kiêng hút thuốc...tất cả các chế độ đó đã thực sự
trở thành stress đối với họ. Họ muốn được tự do hơn, không bị lệ thuộc vào các
yêu cầu của bác sĩ và theo họ, cách tốt nhất là “cắt” phần dạ dày đã bị loét.
+ Trạng thái sau phẫu thuật chủ yếu liên quan đến những cơn đau, mất sơ đồ
cơ thể. Sự thay đổi sơ đồ cơ thể, ví dụ: phẫu thuật cắt cụt, phẫu thuật tạo hình,
370
phẫu thuật cắt bỏ vú thường làm tăng những lo lắng trong quan hệ với người
khác.
Theo A. N. Baculev: phẫu thuật không phải là sự kết thúc điều trị, mà chỉ là
tạo nền tảng cho một điều trị mới tiếp theo.
+ Sự biến đổi tâm lí của người bệnh phụ thuộc rất nhiều vào các giai đoạn
phẫu thuật:
- Khi chuẩn bị phẫu thuật, người bệnh hay lo lắng về chỗ nằm trước và sau
mổ; quan tâm đến những lời bàn tán về trình độ của bác sĩ phẫu thuật chính, về
cách mổ và những điều khác liên quan đến cuộc mổ.
- Giai đoạn tiền phẫu thuật và trong phẫu thuật, nhất là ở những người bệnh
gây tê, châm tê hoặc gây mê không hoàn toàn (ý thức còn tỉnh, chỉ làm mềm cơ
và giảm đau), họ lo lắng vì tiếng va chạm của dụng cụ, họ chú ý theo dõi "không
khí tâm lí" trong cuộc mổ và những lời bàn tán của phẫu thuật viên...
Trong số những bệnh nhân nằm viện, bệnh nhân ngoại khoa, đặc biệt là trước
khi mổ, là những người chịu nhiều stress nhất. Theo M. Pitts (2003) có 3 thành tố
chính tham gia vào stress của bệnh nhân trước khi mổ:
. Bị gây mê: trong trạng thái bị gây mê, người bệnh hiểu rằng mình bị mất ý
thức, không còn khả năng kiểm soát bản thân. Mặt khác họ cũng sợ “không tỉnh
dậy”, bị “ngủ” luôn hoặc tỉnh lại được nhưng có thể “quên hết mọi thứ”.
. Lo ngại những cơn đau sau mổ, đặc biệt là khi đã tỉnh lại và thuốc giảm đau
đã hết tác dụng.
. Chính sự kiện phẫu thuật: bị mổ, rạch thịt, da, dao, kéo…
Theo Pitts, mỗi thành tố trên cũng đã có thể là một tác nhân gây stress. Tuy
nhiên chúng thường xuất hiện kết hợp với nhau làm cho stress càng phức tạp và
khó đối phó.
Một điểm cũng đáng lưu ý nữa và nó cũng có thể là một tác nhân gây stress
cho bệnh nhân trước phẫu thuật. Đó là ý nghĩ rằng cơ thể mình bị bộc lộ cho
người lạ. Tất nhiên không phải trường hợp nào cũng bị như vậy.
- Trong giai đoạn hậu phẫu, người bệnh lo lắng vì đau đớn, lo bị tai biến sau
mổ, lo cho sự lành sẹo và sự hồi phục sức khỏe sau này. Lúc này thái độ khách
quan, lời nói động viên, sự giúp đỡ tận tình... của thầy thuốc, của người thân và
của những người xung quanh là rất cần thiết, có tác dụng hỗ trợ cho người bệnh
vượt qua những khó khăn của phẫu thuật và bệnh tật.
371
Có rất nhiều nghiên cứu tập trung vào những phản ứng của bệnh nhân đối với
phẫu thuật, mối liên quan giữa lo âu, chuẩn bị cho phẫu thuật và hồi phục. Janis
(1958, 1969) là một trong những người đầu tiên đề cập đến lo âu trước mổ và
mối liên quan với quá trình phục hồi sau mổ. Lo sợ của những người trong nhóm
nghiên cứu được chia làm 3 mức độ: thấp, vừa và cao. Kết quả cho thấy chỉ có
nhóm lo sợ mức độ vừa là có kết quả hồi phục tốt hơn, Theo tác giả, điều này
cho thấy đối với một biến cố lớn như phẫu thuật, người bệnh cũng cần phải có sự
quan tâm lo lắng ở mức độ vừa phải: không nên quá mức song cũng không nên
chẳng lo lắng gì. Tuy nhiên nghiên cứu của Johnston và Carpenter (1980), của
Wallace lại đưa ra kết quả khác: chỉ có những trường hợp lo sợ quá mức thì quá
trình phục hồi kém hơn.
4. Liệu pháp tâm lí đối với bệnh nhân bệnh cơ thể.
4.1. Khái niệm chung:
Suốt một thời gian dài, người ta xem liệu pháp tâm lí là biện pháp điều trị của
riêng ngành Tâm thần. Nó được sử dụng chủ yếu đối với những rối loạn do căn
nguyên tâm lí. Trong lâm sàng nội, ngoại khoa chung (hay đối với bệnh nhân
thực thể nói chung) liệu pháp tâm lí chỉ giới hạn ở những tác động mang tính giải
thích, động viên chung chung.
Từ những năm 1970 trở lại đây, liệu pháp tâm lí được ứng dụng rất mạnh mẽ
trong tất các các chuyên ngành lâm sàng khác nhau. Nội dung của khái niệm
cũng đã thay đổi. Nếu trước đây liệu pháp tâm lí là một biện pháp điều tr ị thì bây
giờ, liệu pháp tâm lí được coi là những tác động lên tâm lí người bệnh nhằm cải
thiện tình trạng sức khỏe (cả về tâm lí và thể chất), nâng cao chất lượng cuộc
sống của người bệnh, thậm chí còn nhằm góp phần kéo dài cuộc sống cho những
trường hợp hiểm nghèo (ví dụ: ung thư). Chính vì vậy, xu hướng hiện nay là
dùng thuật ngữ can thiệp tâm lí thay cho liệu pháp tâm lí.
4.2. Các dạng liệu pháp tâm lí:
Các dạng của liệu pháp tâm lí rất phong phú, đến nay người ta ước tính có
khoảng 400 dạng liệu pháp tâm lí dành cho người lớn và gần 200 dạng dành cho
trẻ em (Kazdin, 1994). Cơ sở lí luận của các dạng liệu pháp tâm lí cũng rất phong
phú (xem thêm bài “Liệu pháp tâm lí” trong phần Tâm thần học). Tuy nhiên điều
372
có thể dễ dàng nhận thấy là các kĩ thuật liệu pháp tâm lí dựa trên cơ sở của Tâm
lí học Hành vi là phát triển nhất.
Những kĩ thuật chủ yếu được sử dụng thường tập trung vào: thay đổi nhận
thức, thay đổi thái độ và thay đổi hành vi theo hướng phù hợp, thích ứng với tình
trạng hiện tại, qua đó nhằm đạt những mục tiêu của liệu pháp tâm lí. Trong nhiều
trường hợp, các kĩ thuật này được sử dụng kết hợp với kĩ thuật thư giãn.
4.3. Chuẩn bị tâm lí trước phẫu thuật:
Chuẩn bị tâm lí cho bệnh nhân trước phẫu thuật là điều đang được các nhà
lâm sàng ngoại khoa quan tâm.
+ Có hai loại thông tin chính mà các thầy thuốc, nhân viên y tế cần quan tâm
trong chuẩn bị tâm lí cho bệnh nhân trước phẫu thuật:
- Thông tin về qui trình: đây được xem như là những thông tin về mặt kĩ thuật
mà bệnh nhân muốn (và cần) biết. Ví dụ: thời gian mổ vào lúc nào, kéo dài bao
lâu, bệnh nhân phải qua những khâu nào.
- Thông tin về giác quan: bệnh nhân rất muốn biết những cảm giác mà họ sẽ
có khi phẫu thuật, dạng đau như thế nào, mức độ dữ dội hay vừa, đau kéo dài
trong bao lâu.
Theo nhiều tác giả, bệnh nhân cần phải được chuẩn bị tốt về mặt tâm lí trước
phẫu thuật.
+ Các tác giả khác cũng đưa ra những mô hình của mình về chuẩn bị tâm lý
cho bệnh nhân phẫu thuật. Những chủ đề mà các tác giả thường tập trung vào là:
- Các phản ứng cảm xúc đối với việc nằm viện.
- Luyện tập các kỹ năng thư giãn.
- Luyện tập các kỹ năng nhận thức để đối phó.
Nhiều nghiên cứu cho thấy 2 qui trình: luyện tập thư giãn và luyện tập nhận
thức là có kết quả cao hơn tất cả. Nhìn chung các qui trình này còn phụ thuộc vào
đặc điểm nhân cách cá nhân.
373
Bảng 7.1: Chuẩn bị tâm lý trước phẫu thuật.
Nội dung Ví dụ
Qui trình Đầu tiên, ông/bà được đưa lên phòng mổ, sau đó được gây mê
Giác quan Khi ông/bà tỉnh dậy thì thấy khát khô cổ. Điều đó cũng là bình
thường thôi
Hướng dẫn hành vi Ông/bà hãy thở thật mạnh một, hai lần để thông khí phổi
Luyện tập theo mô hình Đây là đoạn băng ghi hình một người đã được phẫu thuật như
của ông/bà
Luyện tập thư giãn Chú ý đến thở sâu
Ngừa stress Ông/bà hãy chú ý đến các kỹ thuật thư giãn như đã nắm được
Luyện tập nhận thức Ông/bà nói rằng ông/bà rất lo lắng đến phẫu thuật, liệu
ông/bà có thể tập trung làm suy nghĩ của mình tích cực hơn
không
(Nguồn: Pitts “Health psychology, 2002 ”)
Một số tác giả sử dụng liệu pháp tâm lý nhóm: bố trí bệnh nhân chuẩn bị mổ
ở cùng phòng với người mới mổ xong (Kulik và Mahler, 1993). Kết quả cho thấy
những bệnh nhân ở cùng phòng với người đã mổ ít lo âu trước phẫu thuật và
nhanh ổn định hơn sau phẫu thuật.
374
TÂM LÍ NGƯỜI BỆNH VÀ MÔI TRƯỜNG
1. Tâm lí người bệnh và các yếu tố môi trường tự nhiên.
Môi trường tự nhiên xung quanh con người bao gồm những yếu tố như nhiệt
độ, màu sắc, âm thanh, mùi vị, thời tiết, khí hậu và các yếu tố địa lí khác...
Những yếu tố này tác động mạnh, làm thay đổi trạng thái tâm lí, khí sắc, sức khỏe,
trương lực sống và tình trạng bệnh tật... của người bệnh.
1.1. Tâm lí người bệnh và màu sắc:
Từ thời Hyppocrates, người ta đã biết màu sắc có tác động đến tâm lí người
bệnh và đã dùng màu sắc để chữa bệnh.
+ Phương thức tác động của màu sắc lên tâm lí người bệnh có thể theo hai
cách: hoặc là tác động trực tiếp, nghĩa là màu sắc tạo ra cho người bệnh những
phản ứng trực tiếp (ví dụ: màu vàng tạo ra cảm giác lạnh, mát; màu sẫm tạo cảm
giác nóng, ấm); hoặc là tác động gián tiếp, nghĩa là tác động qua liên tưởng
(ví dụ: màu vàng da cam làm con người liên tưởng tới lửa, từ đó có cảm giác nóng;
màu trắng, liên hệ đến tuyết, nên có cảm giác lạnh; màu xanh, liên hệ đến cây,
nên có cảm giác mát mẻ).
+ Thứ tự tác động thích hợp của màu sắc lên tâm lí người bệnh giảm dần theo
chiều hướng sau: màu xanh da trời, xanh lá cây, màu đỏ, màu đen. Một màu sắc
đơn độc, dù thích hợp đến mấy, song tác động lâu cũng gây ức chế tâm lí. Cách
trang trí thích hợp là phối hợp hài hòa nhiều màu với nhau.
+ Kết quả tác động của một số màu sắc như sau:
- Màu hồng tạo không khí tưng bừng, kích thích thần kinh người nóng tính,
kích thích sản xuất hồng cầu. Thời Trung Cổ người ta thường vẩy nước màu
hồng lên người ốm. Dân vùng Capcadơ thường cho người ốm đắp chăn màu
hồng...
. Màu hồng tươi làm những người quá xúc động trấn tĩnh trở lại, làm cho
người hiếu động trở nên thụ động và cơ bắp yếu bớt đi.
. Theo một số tác giả, màu hồng là màu của những người mơ mộng, giàu tình
cảm, vị tha. Sự ưa chuộng màu hồng thường là biểu hiện tính cách của những
người thiếu tự tin, cần sự bảo vệ.
- Màu đỏ là màu của sức khỏe, của niềm vui. Những người ưa thích màu đỏ
thường là người năng nổ, dễ kích động, thích tranh luận và có tính tự kỉ.
375
Những đồ vật có màu hồng, màu đỏ thường làm cho chúng ta có cảm giác
như chúng to hơn.
- Màu vàng được coi là màu gây nhiều mâu thuẫn nhất. Có người cho rằng,
đây là màu chứa đựng mầm mống của sự kích thích. Những người hay mang đồ
màu vàng thường có tư duy mạch lạc, song dễ nổi nóng. Cũng có tác giả cho rằng,
đây là màu của sự anh minh và trí tưởng tượng. Một số người lại có nhận xét,
đây là màu của những người hay "phóng đại" khả năng của mình; trịch thượng,
hợm hĩnh...
Màu vàng có tác dụng kích thích tiêu hoá. Song, màu vàng đậm lại gây nôn.
- Màu nâu thường gây ức chế, buồn rầu; làm người bệnh ăn mất ngon.
- Từ lâu, màu đen đã là biểu hiện của sự bí ẩn, độc ác và buồn đau. Những
người ưa màu đen thường thích gây ấn tượng mạnh và hay che giấu những ý
định, phẩm chất đích thực của mình. Có tác giả cho rằng, đây là màu gợi tình.
- Màu xám thường là màu của những người không thích nổi bật, nhưng thích
sự tế nhị và không xác định.
- Ngược lại, màu tím thường bị coi là màu của những người thích chơi trội,
khác người. Theo Goethe, ở châu Âu, màu tím bị coi là màu đơn côi, gợi nỗi
buồn nhớ. Còn đối với chúng ta, màu tím là màu biểu hiện của tình yêu.
- Màu da cam là màu dành cho những người chững chạc, thận trọng và
thường đóng những vai trò quan trọng. Song những người ưa màu này thường
khó thích ứng với những điều kiện, hoàn cảnh mới và hay gặp "vấn đề" trong
những tình huống bất thường...
- Màu xanh làm hạ huyết áp, giảm căng thẳng thần kinh. Màu xanh đậm làm
cho người bệnh có cảm giác an toàn. Màu xanh da trời tạo cảm giác yên tĩnh, làm
mất sự suy yếu của cơ bắp do màu hồng gây ra. Những người thích màu xanh lơ
thường là người nghiêm khắc, có khả năng thích ứng cao với hoàn cảnh, trung
thực, ổn định, không ưa tranh luận, đối đầu. Màu xanh lá cây được coi là màu
của sự tin cậy. Những người thích nó thường khiêm nhường, mực thước, nhẫn
nại, không bộc lộ những tình cảm sôi động. Nhìn vào màu xanh lá cây, lúc đầu
chúng ta có cảm giác dễ chịu, song về sau, nếu nhìn lâu sẽ bị ức chế, thậm chí bị
rơi vào tình trạng trầm cảm. Những ánh sáng màu lục làm cho người bệnh hoạt
động kém hơn so với những ánh sáng màu đỏ.
376
- Màu trắng thường gây phản ứng trung tính. Đôi khi nó làm cho những
người bệnh nhức đầu, đau khớp, bệnh thần kinh bị khó ngủ và chỗ đau bị tái
phát.
Sự kết hợp khéo léo màu trắng với các màu khác là biểu lộ một tính cách
bình ổn và giàu sức sáng tạo. Theo Giac Vieno (nhà tô màu nổi tiếng người
Pháp): màu sắc có đủ khả năng, có thể sinh ra ánh sáng, tạo nên sự yên tĩnh hoặc
phấn chấn, làm tâm hồn êm dịu hay bão tố, đem lại cảm giác thanh bình hay
thảm họa.
1.2. Tâm lí người bệnh và âm thanh:
+ Âm thanh tác động rất lớn đến xúc cảm. Những tiếng ồn mạnh và kéo dài
sẽ gây ra cảm giác khó chịu, mệt mỏi, thậm chí dẫn đến rối loạn tâm thần. Trái lại,
nếu quá yên tĩnh sẽ gây ức chế.
+ Âm nhạc tạo nên xúc cảm tích cực cho người bệnh, làm thay đổi khí sắc,
gây lòng sung sướng hoặc buồn rầu. Mặt khác, âm nhạc tạo ra một nhịp điệu sinh
hoạt đều đặn. Âm điệu và nhịp điệu của âm nhạc có khả năng làm biến đổi tần
số hô hấp, nhịp đập của tim và tác động lên quá trình trao đổi chất của cơ thể.
Lep Tônxtôi đã nói: "Âm nhạc là tốc ký của tình cảm".
+ Trong lâm sàng thần kinh và tâm thần, các thầy thuốc đã sử dụng âm nhạc
để điều trị. Âm nhạc được dùng làm phương tiện giảm đau.
Sự tri giác âm nhạc sâu sắc phụ thuộc vào sự rèn luyện, năng khiếu thẩm mỹ
và nhất là trạng thái tâm lí của người bệnh. Vì vậy, việc sử dụng âm nhạc để điều
trị phải phù hợp với từng người bệnh.
V. M. Bechterev nói: âm nhạc làm chủ xúc cảm của chúng ta. Bằng âm nhạc,
thầy thuốc có thể tạo ra được khí sắc nhất định, giảm được hưng phấn, biến được
trạng thái buồn rầu thành vui tươi, tác động lên hô hấp và tuần hoàn, làm cơ thể
đỡ mệt mỏi, tạo cho mọi người một sinh lực dồi dào.
1.3. Tâm lí và một số yếu tố khác của môi trường tự nhiên:
+ Mùi tác động lên cơ quan khứu giác và qua đó tác động lên tâm lí người
bệnh. Mùi của những chất nôn, chất thải; mùi của một số thuốc, hóa chất... làm
người bệnh khó chịu, sợ hãi. Có một số người bệnh luôn nhớ về một mùi nhất
định, ví dụ: người bị bệnh bạch hầu thường nhớ tới mùi bánh mốc; người bị bệnh
dịch hạch thường nhớ đến mùi táo...
Mùi thơm của hoa quả, của thảo mộc, của nước hoa... làm người bệnh phấn
chấn. Mùi tinh dầu hồi, long não... kích thích tuần hoàn, hô hấp của người bệnh.
377
Mùi chanh làm người bệnh đỡ mệt mỏi, tinh thần sảng khoái; mùi hoa hồng sẽ
tạo nên cảm giác êm dịu, tĩnh tại...
+ Vệ sinh thân thể, trang phục ảnh hưởng không nhỏ đến khí sắc của người
bệnh. Những quần áo cũ, rách, không đúng cỡ số... làm cho người bệnh cảm thấy
buồn cho thân thể ốm đau của mình. Đối với những trường hợp này, nên cho
người bệnh dùng một số đồ dùng cá nhân, miễn là giữ gìn sạch sẽ.
+ Tình hình khí hậu và vi khí hậu ảnh hưởng quan trọng đến tâm lí người
bệnh. Không khí trong lành, áp lực khí quyển vừa phải, không nóng quá, không
lạnh quá... sẽ ảnh hưởng tốt đến khí sắc. Quang cảnh bệnh viện thoáng mát, trang
trí buồng bệnh hài hòa, có chậu hoa, cây cảnh đẹp đẽ ở cửa sổ... sẽ làm cho người
bệnh cảm thấy gần gũi với thiên nhiên, thêm yêu cuộc sống và tinh thần thêm
vui vẻ...
2. Tâm lí người bệnh và các yếu tố môi trường xã hội.
Con người là một thực thể xã hội, vì vậy tồn tại xã hội và môi trường xã hội
xung quanh là những yếu tố có ý nghĩa rất đặc biệt. Người bệnh tuy nằm trên
giường bệnh, ngoài quan hệ chặt chẽ với nhân viên và người bệnh khác, bằng
muôn vàn sợi dây vô hình họ còn gắn bó chặt chẽ với cuộc sống của gia đình,
người thân, bạn bè; với tình hình lao động sản xuất, công tác, học tập, chiến đấu
của đơn vị, của đất nước; với các sự kiện đang diễn ra trên khắp hành tinh chúng
ta... Những mối quan hệ này trực tiếp hoặc gián tiếp tác động tới người bệnh,
bằng những phương tiện ngôn ngữ hoặc phi ngôn ngữ. Mối quan hệ xã hội của
người bệnh rất đa dạng, nhiều chiều và kết quả tác động của nó lên tâm lí cũng
như bệnh tật rất khác nhau, có khi là những tác động tự phát, tiêu cực, cũng có
khi là những tác động chủ định, tích cực...
2.1. Tác động tâm lí của môi trường xã hội ngoài bệnh viện:
Những tác động này thường gián tiếp, qua nghe đài, xem ti vi, đọc sách báo
và qua thư từ, lời kể của người đến thăm, của nhân viên y tế... Những thông tin,
tư liệu ở đây thường tự phát, chưa được chọn lọc cho phù hợp với từng người
bệnh. Người thầy thuốc phải biết cách hướng những thông tin này vào mục đích
điều trị, gây ảnh hưởng tốt nhất cho sự hồi phục sức khỏe người bệnh.
Người thầy thuốc cần hướng dẫn người bệnh đọc những bài báo, nghe những
buổi phát thanh, xem những chương trình truyền hình thích hợp, bổ ích; cần điều
chỉnh một cách hợp lí các cuộc đến thăm, tránh tình trạng có người bệnh phải vất
vả tiếp nhiều cuộc viếng thăm hình thức, vô bổ, trong khi những người bệnh khác
378
buồn tẻ, không có ai thăm hỏi. Người thầy thuốc cũng cần nhắc nhở những người
đến thăm phải tiếp thêm lòng hăng hái, vui vẻ, quyết tâm khắc phục bệnh tật cho
người bệnh.
Larrey (bác sĩ phẫu thuật của quân đội Napoleon) đã nói rất đúng rằng: vết
thương liền nhanh hơn trong đội quân của những người chiến thắng.
Thông qua những người đến thăm, thông qua cách giao tiếp của người bệnh
với môi trường xã hội bên ngoài, người thầy thuốc hiểu thêm người bệnh và bệnh
tật để có những phương pháp điều trị hợp lí. Qua mối quan hệ tiếp xúc với môi
trường bên ngoài, người bệnh gần gũi với cuộc sống thường ngày và đây là sự
chuẩn bị tốt để sau khi khỏi bệnh, họ nhanh chóng hòa nhập với cuộc sống.
2.2. Tác động tâm lí của môi trường xã hội trong bệnh viện:
Mối quan hệ xã hội bên trong bệnh viện được tập trung vào quan hệ giữa
những người bệnh với nhau và giữa người bệnh với nhân viên y tế.
+ Quan hệ người bệnh với người bệnh:
- Những người mắc cùng một loại bệnh, nhất là bị khuyết tật như nhau, hoặc
bị cùng loại bệnh mạn tính, thường có thiện cảm với nhau; họ có cùng mối quan
tâm và rất thích trao đổi với nhau về bệnh sử, diễn biến bệnh tật cũng như về
phương pháp điều trị. Nhiều khi sự trao đổi này lại là khởi nguồn của những mối
quan hệ thân thiện, gắn bó về sau. Họ tự tổ chức những hội không chính thức
(như câu lạc bộ) để thông báo cho nhau về phương pháp điều trị mới, chia sẻ với
nhau về diễn biến của sức khỏe, bệnh tật...
- Những người bệnh ở cùng một phòng cần có sự tương đồng về tâm lí.
Người thầy thuốc phải biết bố trí hợp lí, phải đối xử bình đẳng theo bệnh tật
những người bệnh trong cùng phòng; phải biết đề phòng những tác động xấu do
người bệnh gây ra cho nhau.
Người bệnh chuẩn bị mổ nên xếp nằm cùng phòng với người bệnh đã mổ đạt
kết quả tốt, sắp ra viện. Người bệnh mới nên xếp cùng phòng với "cựu bệnh
nhân" có thái độ tích cực và chấp hành nghiêm chế độ điều trị.
Không nên để những người bệnh có mâu thuẫn, hiềm khích, ác cảm với nhau
nằm chung một phòng. Những người bệnh nặng, phải xử lí cấp cứu nhiều lần;
những người bệnh hấp hối... nên xếp nằm riêng ở phòng cấp cứu để không gây
ảnh hưởng xấu đến những người bệnh khác. Những người bệnh thiếu vốn hiểu
379
biết, lại có nhân cách nghi bệnh, cần được quan tâm thích đáng, tránh để họ mắc
thêm những bệnh mới do bị ám thị bởi những người bệnh khác.
- Không khí tâm lí hài hòa trong buồng bệnh là rất cần thiết cho quá trình
điều trị. Người thầy thuốc phải tạo nên sự thông cảm, quan tâm, giúp đỡ lẫn nhau
giữa những người bệnh; động viên họ cùng nhau chấp hành nghiêm túc mệnh
lệnh điều trị và các nội qui, qui định của bệnh viện; giúp họ thực hiện có hiệu quả
liệu pháp tâm lí nhóm; tránh những phản ứng ngầm hoặc những phản ứng mang
tính tập thể không có lợi cho việc điều trị.
+ Quan hệ giữa người bệnh và nhân viên y tế:
Những ảnh hưởng của nhân viên y tế lên trạng thái tâm lí, nhân cách, hứng
thú... của người bệnh là rất lớn.
Mục đích tác động tâm lí của nhân viên y tế lên người bệnh là loại trừ hoặc
làm giảm tối đa những tác hại của bệnh tật và tạo nên những yếu tố có lợi cho sự
hợp tác trong quá trình điều trị. Yêu cầu đặt ra cho nhân viên y tế là điều trị
nhanh, an toàn và làm vừa lòng người bệnh. Người bệnh đòi hỏi ở nhân viên y tế
chủ nghĩa nhân đạo và lương tâm. Người thầy thuốc không được gây phiền hà;
không được làm những thăm khám, xét nghiệm không cần thiết và tốn kém cho
người bệnh; không được kê đơn những thuốc đắt tiền, khó tìm kiếm, vượt quá
khả năng của người bệnh...
Thầy thuốc phải tránh những tác động có hại lên tâm lí người bệnh. Một lời
nói thiếu thận trọng, thái độ coi thường ý kiến của người bệnh, thảo luận về bệnh
với đồng nghiệp trước mặt người bệnh, nét mặt không bình thường khi đọc bệnh
án, khi xem các kết quả xét nghiệm... tất cả đều có thể tác động không tốt đến
tâm lí người bệnh. Nói cho người bệnh biết những chẩn đoán nguy hại hoặc tiên
lượng xấu của bệnh, không để ý đến hình ảnh lâm sàng bên trong của bệnh, bỏ
qua những biến đổi trạng thái tâm lí, nhân cách của người bệnh, không chú ý đến
những tác động của môi trường xung quanh, không coi trọng những chuẩn mực y
đức... đều có thể mang lại hậu quả bất lợi cho người bệnh. Giữ bí mật về bệnh tật
cho người bệnh nếu điều đó không có hại cho xã hội, mà lại bảo vệ được sự trong
sạch tâm lí, là điều rất quan trọng. Cần hết sức tránh để người bệnh mắc những
bệnh do chính thầy thuốc gây ra. Nhân viên y tế không những không được tác
380
động xấu lên người bệnh mà còn phải tạo ra những tác động dương tính, giúp họ
đấu tranh với bệnh tật.
Cần tiến hành tâm lí liệu pháp, hướng dẫn vệ sinh tâm lí, dự phòng các bệnh
tâm thần cho người bệnh và giúp họ khắc phục các yếu tố gây stress, tránh những
gánh nặng tâm lí trong khám, chữa bệnh cũng như trong quá trình hồi phục sức
khỏe.
Mối quan hệ giữa nhân viên y tế với người bệnh là mối quan hệ giữa con
người với con người, giữa nhân cách với nhân cách. Điều trị người bệnh một
cách toàn diện, nghĩa là người thầy thuốc đồng thời với quá trình tích cực cứu
chữa bệnh tật, phải hết lòng chăm lo, nâng đỡ tâm lí, tinh thần cho người bệnh.
2.3. Sự thích nghi của người bệnh với môi trường:
Có ba loại thích nghi của người bệnh với môi trường xung quanh, nhất là môi
trường xã hội.
2.3.1. Người bệnh thích nghi được với môi trường:
Những người bệnh này luôn tìm cách khắc phục bệnh tật về mặt tâm lí.
Họ coi bệnh tật chỉ là một quá trình sinh vật và vẫn giữ nguyên các giá trị xã hội
của mình.
Có trường hợp bệnh tật kích thích ý chí của cá nhân, giúp họ huy động mọi
khả năng để khắc phục khó khăn và duy trì các hoạt động sáng tạo. Có nhiều
người tàn tật nhưng do khổ công rèn luyện nên đã làm được những việc phi
thường. Khả năng bù trừ tâm lí của họ là rất lớn.
Phương pháp thích nghi xã hội của người bệnh cũng vô cùng phức tạp, mang
tính cá biệt và phụ thuộc rất nhiều vào nhân cách cá nhân, vào sự giáo dục và
điều kiện xã hội. Việc thành lập các trường dành riêng cho những người khuyết
tật; tổ chức các cuộc thi thể thao, văn hóa cho những người tàn tật... vừa thể hiện
sự quan tâm, lòng nhân đạo của xã hội, vừa tạo điều kiện để người tàn tật thích
nghi với cuộc sống và để họ tiếp tục cống hiến nhiều hơn.
2.3.2. Người bệnh không thích nghi được:
Đây là những người không có khả năng khắc phục bệnh tật về mặt tâm lí, đầu
hàng bệnh tật, tuyệt vọng, tự coi mình là thứ bỏ đi. Họ là người nhu nhược ý chí,
ngại đấu tranh với bệnh tật, đi tìm sự bù trừ trong rượu và thuốc ngủ; tự dày vò,
381
than vãn về số phận. Có người bệnh chìm trong đau khổ, sống cô đơn, ích kỉ.
Song ngược lại, có người bệnh phô trương, cường điệu bệnh tật, ỷ lại, đòi ưu đãi,
quấy rầy gia đình, bệnh viện, xã hội...
2.3.3. Sự thích nghi đang tiếp diễn:
Đây là dạng thích nghi hay gặp hơn cả, bao gồm những người bệnh có quá
trình thích nghi chưa hoàn chỉnh, chưa bền vững (sự thích nghi còn đang tiếp
diễn). Với những người bệnh này, thầy thuốc phải hướng dẫn cho họ biết cách nghỉ
ngơi, lao động, rèn luyện tâm lí, thể lực... Đây chính là những biện pháp giáo dục
y học mà các thầy thuốc cần tiến hành để giúp người bệnh ngày càng thích nghi
với môi trường.
382
Chương VIII
GIAO TIẾP Y HỌC
GIAO TIẾP
1. Đặt vấn đề.
+ Giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lí giữa hai hay nhiều người.
+ Trong xã hội, con người phải sử dụng giao tiếp để:
- Thống nhất hoạt động cùng nhau.
- Để trao đổi thông tin.
- Để tác động nhằm làm thay đổi đối tượng, ví dụ như cha mẹ yêu cầu con
phải rửa tay trước khi ăn.
+ Như vậy ta có thể thấy nhờ có giao tiếp, con người có thể liên kết với nhau,
cùng nhau thực hiện một hoạt động chung nào đó. Cũng nhờ có giao tiếp, các
mối quan hệ xã hội của mỗi cá nhân được hình thành và vận hành. Nhân cách của
con người cũng được hình thành và phát triển nhờ có giao tiếp.
2. Các thành phần của giao tiếp.
2.1. Trao đổi thông tin:
+ Một trong những thành phần quan trọng của quá trình giao tiếp đó là trao
đổi thông tin. Thông tin mà con người trao đổi với nhau không chỉ là những kiến
thức được thể hiện trong các khái niệm, ngôn từ mà nó còn bao gồm cả những ý
nghĩ, cảm xúc, hứng thú, thái độ…
+ Giao tiếp của con người được nhiều tác giả xem xét, phân tích dưới góc độ
lí thuyết thông tin. Tuy nhiên qua trình trao đổi thông tin của con người có những
đặc điểm riêng:
- Thông tin mang tính đa dạng, nhiều chiều, thậm chí có những điểm không
rõ ràng (độ bất định khác nhau).
- Thông tin được phát triển, điều chỉnh ngay trong quá trình trao đổi.
- Thông tin được truyền vừa theo theo cách tổng thể, vừa theo công đoạn, có
thể trên một hoặc nhiều kênh khác nhau, ví dụ: vừa trên kênh ngôn ngữ lại vừa
trên kênh phi ngôn ngữ.
383
2.2. Hiểu biết lẫn nhau:
Giao tiếp của con người là quá trình trao đổi thông tin giữa hai (hoặc nhiều
hơn) chủ thể chứ không phải là hai thiết bị khác nhau. Trong giao tiếp và qua
giao tiếp, bên cạnh việc trao đổi thông tin, mỗi chủ thể dần nhận biết, hiểu được
đối tác của mình, bắt đầu từ những đặc điểm bên ngoài và sau đó là những đặc
điểm bên trong. Từ những hiểu biết đó, ở chủ thể giao tiếp hình thành những cảm
xúc đối với đối tác. Những cảm xúc này có thể bắt đầu từ những rung động và
sau đó có thể hình thành những tình cảm bền vững hơn. Những hiểu biết, cảm
xúc, tình cảm chính là cơ sở, tiền đề cho sự hình thành, phát triển thái độ của chủ
thể đối với đối tác giao tiếp.
Như vậy có thể nhận thấy con người càng mở rộng phạm vi giao tiếp thì càng
có cơ hội tăng cường những hiểu biết của mình về người khác, làm phong phú
thêm các mối quan hệ xã hội của mình.
2.3. Tác động qua lại:
Một khía cạnh khác của giao tiếp chính là mặt hành động. Người ta có thể
đưa ra yêu cầu, mệnh lệnh, đề nghị đối tác làm hoặc không làm một việc gì đó .
Sự thay đổi hành động còn có thể diễn ra theo cách gián tiếp: tự thấy mình cần
phải thay đổi hoặc sự thay đổi diễn ra một cách tự nhiên mà chủ thể không nhận
biết được.
Kết quả của sự tác động qua lại không chỉ thể hiện ở những hành động, hành
vi bên ngoài mà còn cả những thay đổi bên trong: thay đổi về cách nghĩ, thay đổi
về tình cảm, thay đổi về thái độ.
Trong từng hoạt động giao tiếp cụ thể, tùy theo mục đích, động cơ của mình
mà chủ thể chú trọng đến mặt nào đó của giao tiếp. Ví dụ: do chưa quen biết, lúc
đầu chỉ là những câu thăm dò nhằm xác định xem người đang nói chuyện với
mình là người như thế nào. Trong khi đó, những lời khuyên, yêu cầu, mệnh lệnh
điều trị của bác sĩ là nhằm thay đổi hành vi, nhận thức của bệnh nhân.
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến giao tiếp.
3.1. Các yếu tố môi trường bên ngoài:
+ Các yếu tố môi trường tự nhiên như: nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, tiếng
ồn…ảnh hưởng nhất định đến quá trình giao tiếp. Tiếng ồn lớn làm cho người ta
khó nghe và phải nói to, thậm chí như quát, như hét vào tai nhau. Ánh sáng quá
384
yếu khiến người ta không nhìn rõ nét mặt của nhau, không tiếp nhận được những
dấu hiệu cảm xúc của nhau…
+ Các yếu tố môi trường xã hội: tình hình chính trị, kinh tế, xã hội… cũng ảnh
hưởng đáng kể đến giao tiếp. Trong bầu không khí chính trị căng thẳng, người ta
tiếp xúc với nhau cũng dè dặt. Sau chiến thắng vang dội của đội tuyển bóng đá
nước nhà, trong mỗi câu chuyện cũng đều có sắc thái của niềm vui chiến thắng.
3.2. Các yếu tố bên trong:
Có thể chia các yếu tố bên trong có thể ảnh hưởng đến giao tiếp thành 2 loại:
các yếu tố thuộc về đặc điểm xã hội và các yếu tố thuộc về đặc điểm tâm lí cá
nhân của chủ thể giao tiếp.
+ Các yếu tố thuộc về đặc điểm xã hội của cá nhân bao gồm:
- Tầng lớp, vị thế xã hội.
- Xu hướng, quan điểm chính trị .
- Tôn giáo.
- Nghề nghiệp, trình độ học vấn của cá nhân.
+ Các yếu tố tâm lí của cá nhân bao gồm:
- Các đặc điểm kiểu nhân cách: người hướng nội hay hướng ngoại, người
điềm đạm hay sôi nổi hoặc nóng tính… rụt rè do gặp nhiều thất bại hoặc hay
khoe khoang, khoác lác…
- Các đặc điểm tâm lí khác như: đặc điểm tư duy (sâu sắc hay hời hợt) trí nhớ
(nhớ lâu, chính xác…) cũng đều ảnh hưởng đến giao tiếp.
4. Các phương tiện giao tiếp.
Để thực hiện được giao tiếp, con người phải sử dụng các loại phương tiện
khác nhau. Những phương tiện này có thể được chia thành 2 nhóm chính: ngôn
ngữ và các phương tiện phi ngôn ngữ.
4.1. Ngôn ngữ:
Ngôn ngữ là phương tiện chủ đạo được con người dùng trong giao tiếp.
Trong quá trình sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp, con người dùng hệ thống nghĩa
của từ ngữ để trao đổi thông tin, kiến thức. Thường có ba loại nghĩa của từ: nghĩa
đen, nghĩa rộng và nghĩa bóng. Bên cạnh nghĩa của từ, con người còn sử dụng hệ
thống hàm ý (ngụ ý) của ngôn ngữ để giao tiếp. Hệ thống này thường được dùng
để thông báo về thái độ của chủ thể cho đối tượng giao tiếp.
385
Ngoài hệ thống ngữ, nghĩa, con người còn sử dụng những tính chất khác của
ngôn ngữ nói để giao tiếp: cường độ ngữ âm (nói to hay nói nhỏ), vận tốc ngôn
ngữ (nói nhanh hay chậm), và tần số âm thanh. Những tính chất này thường được
dùng để chuyển tải sắc thái cảm xúc, thái độ chủ quan...
4.2. Các phương tiện phi ngôn ngữ:
4.2.1. Phương tiện vật chất:
Phương tiện vật chất được dùng trong giao tiếp hàng ngày thường là dạng
quà cáp, tặng phẩm... Những phương tiện này thường được sử dụng với những
hàm ý khác nhau. Trong cuộc sống xã hội, con người cũng còn sử dụng những
phương tiện vật chất khác để giao tiếp như: các sản phẩm vật chất của lao động,
công cụ lao động, các danh lam...
4.2.2. Phương tiện kí hiệu, tín hiệu:
+ Nét mặt:
Con người sử dụng bộ mặt của mình để diễn đạt nội dung giao tiếp, trước hết
là diễn đạt về cảm xúc, thái độ. Nét mặt cau có thể hiện sự giận dữ, khó chịu; nét
mặt rạng rỡ thể hiện sự hài lòng hoặc sung sướng...
Giao tiếp bằng nét mặt thường được tập trung ở đôi mắt và miệng. Ánh mắt
‘nói” lên rất nhiều sắc thái tâm lí: vui, buồn, ngờ vực hay kiên quyết, tự tin.
Giọng cười, cách cười trong giao tiếp cũng phần nào thể hiện được trạng thái tâm
lí và tính cách của chủ thể giao tiếp.
+ Cử chỉ:
Mỗi cử chỉ bàn tay: nắm chặt hay xoè rộng, nhẹ nhàng hay thô bạo... cũng đều
có thể được sử dụng làm phương tiện giao tiếp. Đó là chưa kể đến các cử chỉ
chuyên biệt được dùng trong các cơ sở giao dịch dạng như thị trường chứng
khoán hay hệ thống chữ bằng cử chỉ dành cho người khiếm thính. Bên cạnh các
cử chỉ của tay, những cái gật đầu nhẹ nhàng hay lia lịa, tay chống cằm hoặc để
gọn gàng trên bàn... cũng là những dấu hiệu được sử dụng làm phương tiện giao
tiếp.
+ Tư thế của thân thể:
Tư thế đứng, cách ngồi, cách đi lại trong giao tiếp ít nhiều liên quan đến vai
trò, địa vị của cá nhân.
386
Trong thực tế cuộc sống, con người sử dụng đồng thời nhiều loại phương tiện
khác nhau trong giao tiếp: vừa sử dụng ngôn ngữ lại dùng cả điệu bộ, nét mặt...
Chính điều này nói lên tính phức tạp của giao tiếp.
5. Các loại giao tiếp.
Giao tiếp là một hiện tượng tâm lí phức tạp. Người ta có thể có các cách phân
loại khác nhau. Dưới đây là một số cách phân loại thường gặp.
5.1. Phân loại theo phương thức giao tiếp:
5.1.1. Giao tiếp trực tiếp:
Trong dạng giao tiếp này, các đối tượng giao tiếp trực tiếp trao đổi thông tin
với nhau. Khoảng cách giữa các đối tượng giao tiếp rất gần nhau. Ví dụ: sự tiếp
xúc của nhân viên y tế với người bệnh.
Đây là dạng giao tiếp thông dụng nhất. Nó rất linh hoạt và mềm dẻo. Cũng
chính trong dạng giao tiếp này, con người có thể vừa sử dụng ngôn ngữ nói, lại
vừa có thể dùng các cử chỉ, điệu bộ, nét mặt kèm theo để thể hiện hoặc nhấn
mạnh thái độ của mình.
5.1.2. Giao tiếp gián tiếp:
Khi các đối tượng giao tiếp không thể trực tiếp gặp gỡ, trao đổi thông tin với
nhau, họ thường sử dụng giao tiếp gián tiếp. Những phương tiện thường được
dùng trong trường hợp này thường là ngôn ngữ viết. Ngoài ra, người ta còn có
thể sử dụng các phương tiện khác như gửi quà, nhờ người khác truyền đạt lại.
5.1.3. Giao tiếp trung gian:
Đây là loại giao tiếp không hoàn toàn trực tiếp lại cũng không hoàn toàn gián
tiếp, ví dụ như trao đổi qua điện thoại.
5.2. Phân loại theo quy cách và nội dung:
5.2.1. Giao tiếp chính thức:
Đây là giao tiếp giữa các thành viên trong nhóm chính thức. Sự giao tiếp này
được thực hiện theo chức trách, nhiệm vụ, quy chế. Ví dụ: giao tiếp giữa thày
thuốc và người bệnh hoặc người nhà bệnh nhân.
5.2.2. Giao tiếp không chính thức:
Đây là giao tiếp trong nhóm không chính thức, không tuân thủ theo một sự
quy định chính thức nào. Ví dụ: giao tiếp của bệnh nhân với nhau.
387
GIAO TIẾP THẦY THUỐC BỆNH NHÂN
Có thể nói giao tiếp đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động khám, chữa
bệnh của người thầy thuốc. Giao tiếp cũng là một trong những công cụ cơ bản để
xây dựng mối quan hệ thầy thuốc - bệnh nhân. Trong chương trình đào tạo ở các
trường y, hầu như không có một môn học nào hướng dẫn cho các sinh viên hình
thành những kĩ năng giao tiếp thiết yếu với bệnh nhân cũng như người nhà của
họ.
Trong bài giao tiếp, chúng tôi đã đề cập vấn đề giao tiếp ở cấp độ chung nhất.
Trong bài này chúng tôi đi vào giao tiếp thầy thuốc - bệnh nhân, đặc biệt chú
trọng đến các kĩ năng giao tiếp nghề nghiệp cần thiết của người thầy thuốc.
1. Các yếu tố ảnh hưởng đến giao tiếp thầy thuốc - bệnh nhân.
Cũng như bất kì một hoạt động giao tiếp nào, giao tiếp thầy thuốc-bệnh nhân
chịu ảnh hưởng của các yếu tố môi trường bên ngoài và bên trong.
1.1. Các yếu tố từ phía bệnh nhân:
+ Các triệu chứng cơ thể: yếu tố chung ở đây là đau. Đau có nhiều loại khác
nhau: đau từng cơn, đau âm ỉ, đau quặn… Đau làm cho người bệnh khó khăn
trong việc kể bệnh cũng như trả lời câu hỏi của bác sĩ.
+ Các yếu tố liên quan đến bệnh hoặc điều trị: trong phần tâm lí người bệnh
chúng tôi đã đề cập, ở tầng bậc tâm lí, bệnh là một tác nhân gây stress rất lớn. Nó
có thể làm cho người ta có mặc cảm, kém tự tin hoặc thậm chí còn gây ra lo âu,
trầm cảm. Hoặc ngược lại, bệnh làm cho người bệnh phải bỏ dở một công việc,
một dự định hay làm lỡ cơ hội nào đó khiến cho họ bực tức với chính mình. Tất
cả những trạng thái tâm lí như vậy đều ảnh hưởng đáng kể đến giao tiếp thầy
thuốc - bệnh nhân.
+ Các đặc điểm nhân cách của bệnh nhân: mỗi người có một kiểu tính cách
nhất định. Người có nét tính cách hysteria thường hay nói nhiều và kèm theo
nhiều điệu bộ. Người có nét tính cách nghi bệnh lại nói nhiều về những nghi ngờ
của mình. Ngược lại cũng có người ít nói, bác sĩ hỏi đâu, người bệnh trả lời đấy.
1.2. Các yếu tố liên quan đến bác sĩ:
+ Kĩ năng giao tiếp đã có: những kĩ năng này có thể được hình thành trong
quá trình học tập cũng như trong hoạt động nghề nghiệp của mình (quá trình tự
đào tạo).
388
+ Mức độ tự tin vào khả năng giao tiếp: có nhiều sinh viên y khoa lúc đầu
cảm thấy việc hỏi bệnh, tiếp xúc với bệnh nhân là công việc khá dễ dàng. Tuy
nhiên khi trực tiếp tiếp xúc với bệnh nhân, họ không biết bắt đầu từ đâu.
+ Các đặc điểm nhân cách.
+ Các yếu tố sức khoẻ (ví dụ: mệt mỏi sau ca trực hay ca mổ).
+ Các yếu tố tâm lí (ví dụ: lo âu, bận tâm về điều gì đó).
2. Các kĩ năng giao tiếp cơ bản.
2.1. Bước chuẩn bị:
Khi cần thu thập những thông tin mang tính riêng tư, cần lựa chọn, dự kiến
địa điểm giao tiếp đảm bảo yên tĩnh. Thông thường buổi hỏi bệnh như vậy được
thực hiện tại buồng bác sĩ.
+ Vị trí ngồi: nhiều người chọn cách ngồi đối diện với bệnh nhân. Điều cần
lưu ý là bác sĩ nên ngồi ngang tầm với bệnh nhân. Đặc biệt không nên đứng hỏi.
+ Khoảng cách: không nên quá gần vì dễ làm cho bệnh nhân e ngại, cũng
không nên quá xa, dễ tạo cảm giác rằng bác sĩ không quan tâm nhiều tới những
gì mà bệnh nhân chuẩn bị kể.
2.2. Mở đầu:
Với nhiều sinh viên y khoa, sau khi dự những buổi hỏi bệnh của các giáo sư
có kinh nghiệm, họ thấy hỏi bệnh cũng khá đơn giản. Tuy nhiên đến lúc tự mình
hỏi thì họ không biết bắt đầu như thế nào.
Mở đầu buổi hỏi bệnh có ảnh hưởng nhất định đến tiến trình tiếp theo. Những
điều nên làm là:
+ Chào và mời bệnh nhân ngồi.
+ Một vài phút dành cho trò chuyện. Nên lựa chọn những gì mà cảm thấy bệnh
nhân có hứng thú (lẽ đương nhiên là chưa nên nói gì về bệnh tật và điều trị). Vài
phút như vậy vừa giúp bệnh nhân ổn định và giảm thiểu những lo ngại có thể có.
+ Bước tiếp theo: tự giới thiệu bản thân.
+ Nói rõ mục đích buổi hỏi bệnh.
+ Thông báo thời gian dự kiến.
+ Giải thích cho bệnh nhân rằng có thể bác sĩ cần phải ghi chép để không bỏ
sót thông tin, rằng những thông tin này chỉ được phục vụ cho chuyên môn và bác
sĩ vẫn phải bảo đảm tính riêng tư đó.
2.3. Phần chính:
2.3.1. Kĩ năng thu nhận thông tin:
389
+ Kĩ năng thu nhận thông tin thể hiện ở khả năng của người thầy thuốc dựa
vào sự thể hiện cảm xúc, ngữ điệu, thanh điệu của ngôn ngữ, cử chỉ, động tác
cũng như thời gian và không gian giao tiếp để phán đoán về trạng thái tâm lí của
bệnh nhân.
+ Trong giao tiếp, nhất là giao tiếp trực tiếp, con người thường xuyên sử
dụng nét mặt, điệu bộ, cử chỉ cùng với ngôn ngữ để truyền tải thông tin, cảm xúc
cũng như thái độ của mình cho đối tượng.
Có thể nói trong các phương tiện phi ngôn ngữ, nét mặt thường được con
người sử dụng một cách rất phong phú để biểu đạt cảm xúc, thái độ của mình. Từ
cái nhìn buồn bã hay ánh mắt cầu cứu; nụ cười sung sướng hay những giọt nước
mắt đau khổ... Tất cả những dấu hiệu đó đều được sử dụng để truyền tải thông
tin.
+ Thông tin mà người thầy thuốc cần trước hết là những thông tin về bệnh
tật: bệnh nhân đau ở đâu, cảm giác đau như thế nào, bắt đầu bằng những biểu
hiện gì… Những thông tin từ phía người bệnh rất cần cho thầy thuốc trước khi
đưa ra chẩn đoán hay cách thức điều trị. Đôi khi thầy thuốc chỉ quan tâm đến
những thông tin về bệnh mà quên rằng những thông tin đó không hoàn toàn
khách quan mà đã thông qua lăng kính chủ quan của người bệnh.
+ Cần phải chú ý lắng nghe những điều bệnh nhân kể. Cũng cần lưu ý rằng
người bệnh rất để ý đến thái độ của bác sĩ khi họ kể bệnh. Nếu họ thấy bác sĩ
chăm chú lắng nghe có nghĩa là bác sĩ thật sự quan tâm đến vấn đề của họ. Khi
họ đã cảm thấy tin tưởng, họ có thể bộc bạch cả những điều chưa kể cho ai với hi
vọng bác sĩ có thể giúp được họ.
“Giải mã” được các thông tin được truyền tải bằng các phương tiện ngôn ngữ
và phi ngôn ngữ.
- Lược ghi những lời kể của bệnh nhân, xác định lại những điểm chưa rõ.
- Hỗ trợ, giúp đỡ bệnh nhân kể.
- Duy trì mạch hỏi chuyện, không để lạc đề.
- Không nên để đứt đoạn mặc dù cũng có thể đôi chỗ cần dừng một chút.
- Về phần cuối, nên tóm tắt những nội dung chính của câu chuyện.
2.3.2. Kĩ năng định vị:
Kĩ năng định vị thể hiện ở chỗ chủ thể xác định được vị trí của mình trong
quan hệ với đối tượng. Trong giao tiếp, nhất là giao tiếp chính thức, con người
thường ý thức được cương vị, vị trí của mình. Tuy nhiên cùng với các quan hệ
390
chính thức, mỗi thành viên trong nhóm còn có các mối quan hệ khác với các
thành viên khác. Ví dụ, giao tiếp giữa thầy thuốc với người bệnh là giao tiếp
chính thức. Trên bình diện quan hệ thầy thuốc - người bệnh, những yêu cầu,
mệnh lệnh điều trị của thầy thuốc thì người bệnh phải chấp hành. Trong quan hệ
không chính thức, người bệnh có thể là người nhiều tuổi hơn người thầy thuốc
hoặc là người có cương vị cao ngoài xã hội. Song đối với thầy thuốc, họ là người
bệnh, người có nghĩa vụ phải tuân thủ mệnh lệnh điều trị của thầy thuốc.
Kĩ năng định vị còn thể hiện ở khả năng biết đặt mình vào vị trí của đối
tượng giao tiếp để “nghĩ theo cách nghĩ của họ, hiểu theo cách hiểu của họ”. Với
kĩ năng này, chủ thể giao tiếp không những luôn xác định được vị trí của mình
mà còn có khả năng thấu hiểu sâu sắc những cảm xúc, trạng thái tâm lí của đối
tượng. Kĩ năng này đóng vai trò quan trọng trong giao tiếp của những người làm
công tác y tế với người bệnh. Những trạng thái tâm lí do bệnh hoặc liên quan đến
bệnh rất cần được chia sẻ. Sự thấu hiểu, cảm thông của thầy thuốc ngay từ buổi
gặp đầu tiên thực sự là liệu pháp tâm lí đối với người bệnh.
2.3.3. Kĩ năng làm chủ trạng thái cảm xúc của bản thân:
Kĩ năng làm chủ trạng thái cảm xúc của bản thân thể hiện ở khả năng của chủ
thể biết tự kìm chế được tâm trạng khi cần thiết, biết điều chỉnh và điều khiển các
diễn biến tâm lí của mình. Làm được điều này cũng không hề đơn giản.
Trong cuộc sống hàng ngày, con người có những trạng thái cảm xúc khác
nhau. Khi giao tiếp với người khác, các trạng thái này ảnh hưởng (với các mức
độ khác nhau) đến đối tượng giao tiếp. “Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ”. Câu
thành ngữ, theo nghĩa rộng, nói lên sự lan truyền cảm xúc từ đối tượng này sang
đối tượng khác trong nhóm.
Tuy nhiên trong nhiều dạng hoạt động thuộc nhóm nghề “người - người ”
như thầy thuốc, thày giáo, nhân viên bán hàng..., do yêu cầu của công việc, chủ
thể không được phép để các trạng thái tâm lí cá nhân, đặc biệt là những trạng thái
cảm xúc âm tính như: buồn rầu, bực bội...ảnh hưởng đến đối tượng giao tiếp.
Trong hoạt động khám – chữa bệnh, người thầy thuốc cần phải có kĩ năng
làm chủ trạng thái tâm lí của cá nhân. Mọi phiền muộn, lo âu của cuộc sống đời
thường hay của công việc đều phải được “để vào trong tủ” khi thay áo công tác
và đi vào buồng bệnh.
2.3.4. Kĩ năng sử dụng các phương tiện giao tiếp:
Trong các phương tiện giao tiếp có ở con người, ngôn ngữ là phương tiện
đặc trưng. Đây là cả một hệ thống tín hiệu vô cùng phong phú và cũng rất phức
391
tạp. Tâm lí học đã chứng minh được rằng nếu nội dung của lời nói có tác động
mạnh mẽ đến ý thức thì ngữ điệu lại có ảnh hưởng tới tình cảm của con người.
Khi bàn về vai trò của ngôn ngữ đối với tâm lí con người, một nhà giáo dục
học Xô Viết đã nói: “Từ ngữ là sự tác động mạnh mẽ nhất tới trái tim, nó có thể
trở nên mềm mại như bông hoa đang nở và nước thần, chuyển từ niềm tin và sự
đôn hậu... một từ thông minh và hiền hoà tạo ra niềm vui, một từ ngu xuẩn hay
tàn ác không suy nghĩ và không lịch sự đem lại sự thiếu tin tưởng hoặc làm giảm
sức mạnh tinh thần”.
Trong hoạt động khám bệnh, mỗi lời nói của thầy thuốc đều được người bệnh
chăm chú lắng nghe. Họ không chỉ nghe xem thầy thuốc nói gì mà còn xem nói
như thế nào. Cũng là lời giải thích nhưng với một giọng khô cứng hoặc lạnh lùng
khác với lời giải thích ân cần, trìu mến.
Phương tiện phi ngôn ngữ được con người luôn luôn sử dụng kèm theo ngôn
ngữ trong giao tiếp chính là nét mặt. Kĩ năng sử dụng dạng phương tiện này thể
hiện ở chỗ làm thế nào để không chỉ truyền tải tối đa, chính xác thông tin mà còn
phải góp phần thể hiện tốt trạng thái tâm lí cần thiết, tác động tích cực lên đối
tượng.
Sử dụng các câu hỏi phù hợp để thu được những thông tin cần thiết. Không
nên hỏi dồn dập, câu hỏi không quá dài, không phức tạp, phải phù hợp với trình
độ học vấn của bệnh nhân.
Bảng 8.1: Năm dạng câu hỏi phỏng vấn (Maloney & Ward, 1976).
Dạng Tầm quan trọng Ví dụ
Câu mở Tạo cho bệnh nhân trách nhiệm và
phạm vi rộng để trả lời
Nào, tình hình sức khoẻ của anh
hiện nay ra sao?
Câu cụ thể Điều chỉnh, cổ vũ bệnh nhân duy trì
hướng hỏi chuyện
Anh có thể nói cụ thể hơn về vấn
đề này được không?
Câu sàng lọc Khuyến khích sự sàng lọc hoặc mở
rộng
Tôi đoán rằng điều này có nghĩa
là chị cảm thấy…
Câu đối lập Chỉ ra mâu thuẫn hoặc trái ngược Lúc trước anh lại nói rằng…
392
Câu trực tiếp Một khi quan hệ đã được xác lập,
bệnh nhân đã có trách nhiệm với đối
thoại, những câu hỏi trực tiếp cũng
có thể hữu ích.
Chị đã nói với anh ấy như thế nào
khi anh ấy phê phán sự lựa chọn
của chị?
Theo một cách phân loại (Maloney & Ward, 1976), có 5 dạng câu hỏi: câu
mở, câu cụ thể, câu sàng lọc, câu đối lập và câu trực tiếp. Câu mở thường được
sử dụng trong phần mở đầu của giao tiếp, khi bác sĩ chưa biết cụ thể vấn đề của
bệnh nhân. Trong phần chính, tùy theo mục đích phỏng vấn, bác sĩ lựa chọn dạng
câu hỏi phù hợp.
3. Giao tiếp trong một số tình huống đặc biệt.
3.1. Thông báo tin xấu:
Thông báo tin xấu là một phần không thể tránh khỏi trong thực tiễn y học.
Nhiều thầy thuốc cảm thấy bối rối, lo ngại khi phải thông báo tin xấu cho bệnh
nhân hoặc người nhà của họ. Điều này cũng dễ hiểu bởi trong các trường y
người ta chưa dạy cho những thầy thuốc tương lai cách thông báo tin xấu.
Nhiều nghiên cứu cũng chỉ để cập đến khía cạnh người bệnh hoặc gia đình của
họ có những phản ứng ra sao khi biết được tin xấu chứ chưa có những nghiên
cứu về cách thức thông báo sao cho hạn chế mức độ thấp nhất những đau khổ
chủ quan của người bệnh.
3.1.1. Những khó khăn khi phải thông báo tin xấu:
+ Thầy thuốc cảm thấy mình có một phần trách nhiệm trong đó và sợ bị buộc
tội.
+ Không biết cách làm như thế nào là tốt nhất.
+ Sợ làm thay đổi vị thế trong mối quan hệ thầy thuốc - bệnh nhân.
+ Chưa hiểu hết bệnh nhân.
+ Lo ngại những biến chứng, thay đổi hình dạng cơ thể, đau đớn cho bệnh
nhân.
+ E ngại về những gánh nặng tài chính sắp tới cũng như những thay đổi về
xã hội: vai trò, vị thế của bệnh nhân trong gia đình và nghề nghiệp.
3.1.2. Một số nguyên tắc thông báo tin xấu:
+ Giải thích trước rằng bạn sẽ nói về vấn đề gì.
393
+ Sử dụng các câu đơn giản, ngắn gọn, tránh các thuật ngữ chuyên môn khó hiểu.
+ Luôn kiểm tra xem người nghe có hiểu đúng những điều bạn nói.
3.1.3. Cách thức:
+ Cần phải có bước chuẩn bị cá nhân. Chuẩn bị ở đây bao gồm nội dung và
cách thức sẽ thông báo, tâm thế của bản thân thầy thuốc. Chuẩn bị về thời gian,
lựa chọn thời gian phù hợp, thậm chí có điều kiện thì có thể bố trí lịch trước đó
nếu vấn đề khá nghiêm trọng. Chuẩn bị địa điểm, đảm bảo sự riêng tư một cách
tương đối, không có người làm phiền. Ví dụ: tại buồng bác sĩ, bên ngoài có treo
biển “Không làm phiền”.
+ Giao tiếp phải chậm, vừa với mức độ tiếp thu của bệnh nhân. Câu phải đơn
giản, tránh lặp đi lặp lại cụm từ nào đó.
+ Lưu ý đến các kĩ năng giao tiếp phi ngôn ngữ, ví dụ: nhìn vào mắt bệnh
nhân với ánh mắt chân tình.
+ Bắt đầu từ những gì mà bệnh nhân/người nhà đã biết.
+ Lắng nghe một cách tích cực. Giúp bệnh nhân huy động những tiềm lực
của họ để đối phó.
+ Không nên đưa ra những lời động viên không có cơ sở cốt để yên lòng
người bệnh. Tuy nhiên lại cần phải truyền cho họ niềm hi vọng thực tế.
3.1.4. Những điều không nên:
+ Không thông báo tin xấu khi vừa mới khám xong bệnh nhân, khi họ còn
chưa mặc xong quần áo.
+ Không thông báo ngoài hành lang, qua điện thoại.
+ Không chạy đi, chạy lại khi đang nói chuyện.
+ Sau khi thông báo xong có thể thỏa thuận về việc theo dõi tiếp hoặc gợi ý
giới thiệu đến chuyên gia khác hoặc đến tư vấn tâm lí nếu bệnh nhân có nhu cầu.
3.2. Giao tiếp với bệnh nhi:
Trẻ em cũng có thể bị những bệnh như người lớn. Tuy nhiên giao tiếp với bệnh
nhi cũng có những điểm khác biệt nhất định. Trong khi một số bác sĩ vẫn cảm thấy
thoải mái (thường là các thầy thuốc nữ) thì một số lại cảm thấy có những khó khăn
nhất định.
3.2.1. Những khó khăn thường gặp khi giao tiếp với bệnh nhi:
+ Không biết nói như thế nào nếu như không dùng từ chuyên môn.
394
+ Trẻ sợ người lạ, do vậy hoặc là chúng khóc, hoặc là chúng im lặng.
+ Trước đây trẻ cũng đã bị bệnh và phải vào bệnh viện hoặc được thầy thuốc
chữa trị. Có thể chúng vẫn còn ấn tượng đau đớn. Đặc biệt có những trường hợp
hình tượng bác sĩ được đưa ra để dọa trẻ: “ăn đi, không mẹ gọi bác sĩ tiêm cho
con. Bác sĩ mà tiêm là đau lắm”.
+ Thầy thuốc ngại gây đau đớn cho trẻ.
+ Sợ trẻ vặn vẹo, giãy giụa khi bị đau hoặc khó chịu (ví dụ, bị đè lưỡi để soi
họng).
Ngại cha mẹ trẻ sợ quá mức rằng điều xấu có thể xảy ra với con của họ.
+ Cảm thấy khó hỏi khi có dấu hiệu trẻ bị lạm dụng.
3.2.2. Những điều nên và không nên làm khi giao tiếp với trẻ:
+ Nên:
- Đặt mình ở vào tầm tuổi của trẻ để hiểu được những đặc điểm tâm lí của
chúng.
- Tạo được sự tự tin và hợp tác của trẻ trước khi khám.
- Tìm hiểu được những ngôn từ mà trẻ sử dụng để gọi tên các bộ phận cơ thể.
- Giải thích trước những việc cần làm, chuẩn bị cho trẻ không bị bất ngờ với
tiếng ồn, mùi lạ và những kĩ thuật xét nghiệm, khám bệnh gây đau đớn hoặc
những việc khác với thường ngày.
- Luôn nói chuyện với trẻ bằng một giọng bình tĩnh ngay cả khi chúng vẫn khóc.
- Yêu cầu cha mẹ cùng phối hợp, nhất là khi khám cho trẻ.
- Cứ để trẻ lo ngại một chút về các kĩ thuật có thể gây đau hoặc gây khó chịu.
Tuy nhiên đừng để lâu, tránh cho trẻ rơi vào trạng thái trầm cảm.
- Nếu có thể, cứ để trẻ một mình ở chỗ lạ với những người lạ.
+ Không nên:
- Phụ thuộc quá nhiều vào chuyện dỗ dành, cho quà. Làm như vậy dễ tạo cho
trẻ quen được quà và sẽ đòi quà sau mỗi lần, ví dụ: tiêm thuốc.
- Hứa những điều không thể, ví dụ: “Bác tiêm không đau đâu”. Trong trường
hợp như vậy dễ làm trẻ hoảng sợ và mất lòng tin.
- Sử dụng từ ngữ phức tạp hoặc thuật ngữ chuyên môn.
Nói chung khi cần thông tin cho trẻ điều gì đó thì nên kiểm tra lại xem trẻ có
hiểu đúng hay không. Trong giao tiếp với trẻ, nhất là trẻ nhỏ, có thể sự dụng sự
trợ giúp của đồ chơi, ví dụ, gấu bông nhỏ hay búp bê.
395
Thầy thuốc và cha mẹ của trẻ cần thống nhất và bình tĩnh. Thực tế cho thấy
những đứa trẻ được giải thích trước một cách đầy đủ những gì cần phải làm, điều
gì có thể xảy ra thì sẽ ít rơi vào trạng thái lo âu.
3.2.3. Vai trò của trò chơi và vẽ:
Trẻ có thể dễ dàng thể hiện thái độ của mình thông qua đồ chơi. Trong trường
hợp có thể, bác sĩ nên yêu cầu cha mẹ trẻ đem theo một thứ đồ chơi yêu thích
của trẻ.
Thầy thuốc cũng có thể sử dụng đồ chơi để trợ giúp giao tiếp, ví dụ: dùng
búp bê để nói với trẻ hoặc nói với búp bê những điều cần làm, động viên sự can
đảm.
Tại phòng đợi khám cho trẻ cũng cần được bố trí như một nhà trẻ, trên tường
có các tranh vẽ với những nhân vật cổ tích quen thuộc. Nhiều bệnh viện nhi trên
thế giới được thiết kế dành cho trẻ. Các buồng bệnh không đánh số mà là tên một
con vật hoặc một loài hoa. Các trang thiết bị trong phòng cũng được thiết kế phù
hợp với trẻ, ví dụ như tay nắm cửa ra vào vừa tầm với của trẻ.
3.2.4. Trang phục của bác sĩ:
Có một thực tế là một số trẻ em rất sợ áo blouse trắng của thầy thuốc bởi điều
này đồng nghĩa với đau đớn do trẻ đã có kinh nghiệm trước đó hoặc do người lớn
“dạy” qua dọa nạt.
Trong một số cơ sở điều trị, bác sĩ được phép mặc thường phục khi khám
bệnh nhi để giảm căng thẳng. Ống nghe cũng có thể được trang trí sặc sỡ, nhiều
màu ngộ nghĩnh. Một số bác sĩ giàu kinh nghiệm tiếp xúc với trẻ em thường thủ
sẵn vài đồ chơi nhỏ trong túi áo công tác.
3.2.5. Nói chuyện với trẻ:
Không nên hỏi chuyện trẻ như hỏi với một đứa bé hơn bởi điều này dễ làm
cho trẻ cảm thấy công việc không nghiêm túc. Cần phải làm cho trẻ thấy tự tin và
được tôn trọng. Để tạo được sự tiếp xúc ban đầu, có thể trò chuyện với trẻ về trò
chơi mà nó yêu thích.
Cũng có trường hợp do nhút nhát nên trẻ bám chặt lấy mẹ. Khi đó yêu cầu trẻ
cứ ngồi với mẹ để bác sĩ khám. Lẽ đương nhiên cần yêu cầu cha mẹ trẻ hợp tác.
Sau mỗi kĩ thuật, nên động viên và giải thích cho trẻ thấy thực ra những kĩ thuật
đó cũng có thể gây đau nhưng không đến mức quá đau do đó cũng chẳng cần
phải sợ.
3.3. Giao tiếp với người già:
396
Người phương Đông thường nói câu: sinh, lão, bệnh, tử. Con người sinh ra ở
trên đời, đến một lúc nào đó thì cũng phải già, hay đau ốm. Tuổi già thường kéo
theo tốc độ phản xạ chậm, suy giảm độ tinh tế của các vận động, dạng như ăn
cơm hay rơi vãi. Nhịp sinh học cũng thay đổi, đêm ngủ ít, đi ngủ sớm nhưng dậy
rất sớm, hoặc có trường hợp mất ngủ, mỗi đêm chỉ ngủ được khoảng 2 - 3 tiếng,
giấc ngủ chập chờn, không sâu. Người già cũng dễ gặp các bệnh, ví dụ như về
tim mạch, khớp, cột sống…
Một số đặc điểm tâm lí thường gặp ở người già: giảm sút trí nhớ, kém tập
trung chú ý, tư duy chậm chạp, dễ thay đổi dấu của các phản ứng cảm xúc.
Toàn bộ những biến đổi về cơ thể và tâm lí, đối với người già đều là các vấn
đề, song lại thường không được mọi người, đặc biệt là người trong gia đình, chú
ý đến một cách nghiêm túc. Do vậy cũng không khó hiểu khi biết rằng người già
dễ bị trầm cảm, cảm giác cô đơn, cách li, bị bỏ mặc.
Trong giao tiếp với người già, ngoài những đặc điểm trên, thầy thuốc cũng
cần lưu ý đến một số khiếm khuyết thường gặp, ảnh hưởng trực tiếp đến giao
tiếp, đó là giảm sút về ngôn ngữ và thính giác. Những khiếm khuyết này thường
gặp trong những trường hợp tai biến mạch máu não.
Khi giao tiếp với những bệnh nhân có khiếm khuyết về ngôn ngữ, về thính giác,
cần lưu ý một số điểm sau:
+ Không cố đoán những gì bệnh nhân định nói.
+ Sử dụng các phương tiện giao tiếp khác, ví dụ: tranh vẽ, kí hiệu, các câu đã
được chuẩn bị để đọc.
+ Sử dụng “phiên dịch” nếu có. Trong trường hợp này thường là người nhà.
+ Kiểm tra lại xem bệnh nhân có hiểu đúng các thông tin đã được đưa ra.
4. Bệnh y sinh.
4.1. Khái niệm chung:
Bệnh y sinh là bệnh do nhân viên y tế gây ra. Ngoài cụm từ “bệnh y sinh”, trong
các tài liệu tiếng Việt, cụm từ “bệnh do thầy thuốc” cũng thường được sử dụng.
Bệnh y sinh không phải là một đơn vị bệnh độc lập. Đó có thể là một bệnh
mới, một triệu chứng mới hay đơn thuần là mức độ trầm trọng của bệnh tăng lên
do lời nói, thái độ, hành vi thiếu thận trọng, thiếu cân nhắc của đội ngũ cán bộ,
nhân viên y tế gây ra.
397
Trong các cơ sở điều trị-giảng dạy, các bệnh viện thực hành, bệnh y sinh có
thể là do những bất cẩn trong giao tiếp, hướng dẫn thực hành của giáo viên tại
buồng bệnh với sự chứng kiến của bệnh nhân. Bệnh cũng có thể là do những non
nớt, thiếu kinh nghiệm của sinh viên trong khi khám bệnh, hỏi bệnh làm bệnh án.
Bệnh y sinh cũng có thể là do sự buông lỏng quản lí hồ sơ bệnh án, bệnh
nhân tò mò đọc nhưng không hiểu hết và đúng những ghi chép trong bệnh án.
Hiện nay cũng có những người cho rằng cần phải mở rộng phạm vi của bệnh
y sinh, bao gồm cả những trường hợp các triệu chứng bệnh xuất hiện do sơ suất
trong quá trình điều trị (dùng nhầm thuốc, dùng thuốc quá liều, dị ứng thuốc…).
4.2. Các nguyên nhân gây bệnh y sinh:
+ Chẩn đoán sai: không có bệnh nhưng lại được chẩn đoán là có bệnh, bệnh
lành tính nhưng được chẩn đoán là ung thư.
+ Tiên lượng quá mức: bệnh có thể chữa khỏi nhưng do quá dè dặt lại nói
rằng rất khó chữa khỏi, rằng có thể chuyển sang mạn tính, hoặc có thể nguy hiểm
đến tính mạng.
+ Hỏi bệnh vụng về: hỏi quá nhiều về một hoặc một số triệu chứng bệnh nào
đó khiến bệnh nhân rất hoang mang. Bệnh nhân càng lo lắng hơn khi lại được
nghe những câu giải thích không rõ ràng, gẫy gọn, có những thuật ngữ chuyên
môn khó hiểu.
+ Khám bệnh vụng về: quá chú trọng vào một cơ quan, bộ phận, khám đi
khám lại nhiều lần làm cho bệnh nhân nghi ngờ là mình bị bệnh nặng ở cơ quan,
bộ phận đó.
+ Dùng thuốc quá mức cần thiết hoặc không đúng bệnh: bệnh nhẹ nhưng
dùng thuốc đắt tiền, dùng nhiều loại thuốc khác nhau, dùng vội vã khi chưa xác
định rõ chẩn đoán, vội vã thay đổi thuốc.
+ Trong khi hướng dẫn đầu giường hoặc minh hoạ lâm sàng lại giảng về
những triệu chứng không có ở bệnh nhân, làm cho bệnh nhân lo lắng hoặc “học”
được các triệu chứng và rồi xuất hiện các triệu chứng bệnh.
+ Bác sĩ hoặc điều dưỡng viên thể hiện sự lo lắng quá mức của mình qua nét
mặt, ánh mắt, cử chỉ, ngôn ngữ.
4.3. Phòng bệnh y sinh:
Để phòng ngừa các chứng bệnh y sinh, thầy thuốc, điều dưỡng viên và các
nhân viên y tế, sinh viên y khoa cần lưu ý những điểm sau:
398
+ Không để cho bệnh nhân biết những chẩn đoán sơ bộ, chưa chính xác,
những chẩn đoán phân biệt, loại trừ.
+ Cần thận trọng, có cân nhắc khi trả lời những câu hỏi của bệnh nhân về
bệnh cũng như về tiên lượng bệnh. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là rụt rè, là
lấp lửng bởi như vậy lại càng làm cho bệnh nhân thêm lo lắng, tìm mọi cách để
biết “sự thật”.
+ Khi khám bệnh cũng như hỏi bệnh cần tỉ mỉ, cẩn thận song cũng cần lưu ý
không nên hỏi chi tiết, khám kĩ chỉ một bộ phận, một vấn đề nào đó.
+ Dùng thuốc đúng bệnh, không nên dùng thuốc bao vây, không nên dùng
các thuốc trợ lực, bồi dưỡng nếu không cần thiết.
+ Không thảo luận bệnh án ngay tại đầu giường của bệnh nhân.
Hãy lưu ý rằng người thầy thuốc điều trị cho người bệnh không chỉ bằng
thuốc hay bằng con dao mổ mà còn bằng lời nói, cử chỉ của mình. Mọi hành vi
của thầy thuốc trong bệnh viện đều được bệnh nhân quan sát, mọi lời nói của
thầy thuốc đều được bệnh nhân chú ý lắng nghe. Do vậy không chỉ là tránh gây
ra các triệu chứng bệnh y sinh mà người thầy thuốc còn cần phải biết cách gieo
vào lòng bệnh nhân sự tin tưởng: tin tưởng vào thầy thuốc, tin tưởng vào bản
thân; phải biết cách giúp cho người bệnh huy động những tiềm năng của mình
đấu tranh chống lại bệnh tật.
399
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bloch S., Singh B.S.
Cơ sở lâm sàng Tâm thần học (Tài liệu dịch), NXB Y học, 2003.
2. Bộ môn Tâm thần học Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh
Tâm thần học, NXB Y học, 2005, 272 tr.
3. Bộ môn Tâm thần học và Tâm lý Y học Học viện Quân y
Bài giảng Tâm thần học. HVQY, 1990, 140 tr.
4. Bộ môn Tâm thần học và Tâm lý Y học Học viện Quân y
Bệnh học Tâm thần, NXB QĐND, 2005, 388 tr.
5. Bộ môn Tâm thần học và Tâm lý Y học Học viện Quân y
Một số chuyên đề Tâm thần học. HVQY, 1996, 224 tr.
6. Nguyễn Văn Ngân, Ngô Ngọc Tản
Rối loạn tâm thần thực tổn, NXB QĐND, 2002, 168 tr.
7. Ngô Ngọc Tản, Nguyễn Văn Ngân (chủ biên)
Tâm thần học đại cương và điều trị các bệnh tâm thần, NXB QĐND,
2003, 346 tr.
8. Bùi Đại
Bệnh học truyền nhiễm. NXB Y học, 1999, tr. 222-387
9. O.V. Kecbicôp, M.V. Cockina, R.A. Natgiarôp, A.V. Xnhegiơnhepxki
Tâm thần học (Tài liệu dịch). NXB "Mir", Maxcơva . NXB Y học. HN,
1980, 471 tr.
10. Nguyễn Văn Nhận, Nguyễn Sinh Phúc, Nguyễn Bá Dương
Tâm lý học Y học, NXB Y học, NXB Y học, 1998.
11. Nguyễn Văn Nhận
Tâm lý học Y học, Tái bản lần 2, NXB Y học, HN, 2006.
12. Thái Hồng Quang
400
Bệnh nội tiết. NXB Y học, 1997, tr. 117-453.
13. Tổ chức Y tế Thế giới
ICD-10F. Về các rối loạn tâm thần và hành vi. Geneva, 1992, 296 tr.
14. Viện Lão khoa
Những người trăm tuổi ở Việt Nam. Cục Xuất bản, 1998, 110 tr.
15. Nguyễn Việt
Tâm thần học. NXB Y học, 1980, tr. 119-123.
16. Trần Đình Xiêm
Tâm thần học. Trường Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh, 1997, 734 tr.
17. Adler R. , Burrows G. , O'Connor D. , Smith G..
Foundations of Clinical Psychiatry. Melbourne. University Press, 1994, 472
Pp.
18. American Psychiatric Association
Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 4 th Ed.,
Washington, DC, 1994.
19. American Psychiatric Association
Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 4 th Ed., Text
Revision, Washington, DC, 2000.
20. Andreasen N.C., Black D.W.
Introductory Textbook of Psychiatry, 3th. Ed. American Psychiatric
Publishing, Inc.,2001, 720 Pp.
21. Baum A., Revenson T.A., Singer J.E.
Handbook of Health Psychology. Lawrence Erlbaum Ass. Publishers, 2001.
22. Desjarlair R., Eisenberg L., Good B., Kleinman A.
World Mental Health. New York - Oxford. University Press, 1995, 382 Pp.
23. Dunner D.L.
Current Psychiatric Therapy. II. W.B.Saunders C.,1997,657Pp.
401
24. European Neuropsychopharmacology
V.10 - 2000, 410 Pp.
402
25. C. Holmes
Alzheimer's Disease. Medicine International. N.,00 (3), 1997; 35-36 Pp.
26. H.I. Kaplan, B.J. Sadock
Synopsis of Psychiatry. 6th . Ed. USA - Bantimore, 1994, 903 Pp.
27. Lishman W.A.
Organic Psychiatry. 2nd Ed., Oxford, 1987, 745 Pp.
28. Lovestone S.
Early Diagnosis and Treatment of Alzheimer's Disease. Martin Dunitz,
1998.
29 Plante T.G.
Contemporary Clinical Psychology, 2nd Ed., J. Wiley & Sons, Inc., 2005.
30. Pitts M., Phillips K.
The Psychology of Health. Routlege, 2001.
31. Lemke/Rernerrt
Neurologie Und Psychiatrie. Leipzig, 1982.
403
TÂM THẦN HỌC
VÀ TÂM LÍ HỌC Y HỌC
(GIÁO TRÌNH GIẢNG DẠY ĐẠI HỌC)
Chịu trách nhiệm xuất bản: PHẠM QUANG ĐỊNH
Chịu trách nhiệm bản thảo: HỌC VIỆN QUÂN Y
Biên tập: PHÒNG BIÊN TẬP SÁCH QUÂN SỰ – NXB QĐND
BS: NGUYỄN VĂN CHÍNH
BS: TRỊNH NGUYÊN HOÈ
BS: NGUYỄN DUY HÙNG
CN: TRẦN THỊ HƯỜNG
Trình bày: CN: VŨ THỊ KIM HOA
Bìa: BS: TRỊNH NGUYÊN HOÈ
Sửa bản in: CN: TRẦN THỊ TƯỜNG VI
BS: TRỊNH NGUYÊN HOÈ
BS: NGUYỄN DUY HÙNG
TÁC GIẢ
NHÀ XUẤT BẢN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN
23 – Lý Nam Đế – Hà Nội. Điện thoại: 8.455.766
In xong nộp lưu chiểu tháng 4 năm 2007. Số xuất bản: 21-2006/CXB/278-335/QĐND
Số trang: 396. Số lượng: 1000; Khổ sách: 19 x 27. In tại Xưởng in - Học viện Quân y.
404