hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/6/4/nguyen_trong_tu_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài...
Transcript of hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/6/4/nguyen_trong_tu_la.pdf · 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài...
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam và Lào là hai nước láng giềng gần gũi trên bán đảo ĐôngDương, núi sông liền một dải; nhân dân hai nước cùng có truyền thống cần cù
sáng tạo, đã có mối liên hệ qua lại thân thiết từ lâu đời. Trải qua quá trình đấu
tranh lâu dài, gian khổ, hai dân tộc đã luôn luôn đoàn kết, kề vai sát cánh bên
nhau trong đấu tranh giành độc lập, tự do, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở mỗi
nước. Hơn 80 năm qua, kể từ ngày có Đảng lãnh đạo, mối quan hệ hữu nghịđặc biệt giữa hai nước do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Cayxỏn
Phômvihản cùng các thế hệ lãnh đạo và nhân dân hai nước dày công vun đắp
không ngừng đơm hoa kết trái. Mối quan hệ thủy chung, trong sáng hiếm có
này đã đi suốt chặng đường lịch sử vẻ vang, trở thành tài sản vô giá của hai dân
tộc và nhân dân hai nước; là biểu hiện sinh động của sự kết hợp nhuần nhuyễn
chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản, là mẫu mực vềchính sách láng giềng hữu nghị giữa hai nước. Tổng Bí thư Lê Duẩn đã đánhgiá: "Mối quan hệ đặc biệt Việt - Lào đời đời là niềm tự hào của hai dân tộc
chúng ta. Đó là quan hệ mẫu mực hiếm có, vô cùng trong sáng, rất mực thủy
chung, gian khổ không đổi thay, đạn bom không lay chuyển" [49, tr.120].
Trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và quân dân Việt Nam thực hiện
nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng Lào theo quan điểm: giúp nhân dân nước
bạn là tự giúp mình của Chủ tịch Hồ Chí Minh “như một chân lý vĩnh hằng,
thể hiện bản chất cách mạng trong sáng, cao quý của quan hệ dân tộc - quốc tế
trong thời đại mới” [82, tr.16].
Mối quan hệ ấy càng thể hiện rõ nét, sinh động giữa các tỉnh có chung
đường biên giới, từng chung lưng đấu cật nhằm chống lại âm mưu của các thế
lực ngoại xâm, để cùng tồn tại và phát triển, trong đó, có tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh
Bôlykhămxay, Khămmuộn.
Tỉnh Hà Tĩnh gần gũi với tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn về địa lý,
cùng dựa lưng vào dãy Trường Sơn hùng vĩ và có những điểm tương đồng vềlịch sử, văn hóa truyền thống, điều kiện kinh tế - xã hội. Đây là cơ sở khách
2
quan, bền vững của mối quan hệ hữu nghị đoàn kết gắn bó keo sơn giữa nhân
dân ba tỉnh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tình cảm đó được
thể hiện sinh động trong lịch sử gần một thế kỷ đấu tranh cho độc lập tự do của
nhân dân hai nước chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược và cùng tiến
hành quá độ đi lên CNXH. Mối quan hệ hữu nghị truyền thống hiếm có ấy
càng có ý nghĩa đặc biệt đối với nhân dân hai nước nói chung và Đảng bộ nhân
dân tỉnh Hà Tĩnh, tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn nói riêng trong sự nghiệp đổi
mới, trước nhiều vận hội nhưng cũng gặp không ít thách thức trong bối cảnh
toàn cầu hóa hiện nay.
Trong tổng thể mối quan hệ hợp tác giữa hai Đảng, Nhà nước và nhân
dân hai nước Việt Nam - Lào, mối quan hệ giữa tỉnh Hà Tĩnh và
Bôlykhămxay, Khămmuộn là một bộ phận cấu thành rất quan trọng, là sự
biểu hiện sinh động, cụ thể của quan hệ đối ngoại giữa hai nước. Trên cơ sởmối quan hệ đặc biệt giữa hai nước, mối quan hệ hữu nghị hợp tác toàn diện
giữa tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn ngày càng được củng
cố và không ngừng phát triển.
Sau năm 1975, quan hệ hai nước Việt Nam - Lào nói chung, tỉnh Hà Tĩnh
với tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn nói riêng có những chuyển biến mới. Từ
quan hệ chủ yếu về chính trị, quân sự, đối ngoại chuyển sang quan hệ hợp tác
trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng.
Đặc biệt, từ năm 1991, khi tỉnh Hà Tĩnh được tái lập, dưới sự lãnh đạo của
Đảng bộ tỉnh, quan hệ hữu nghị và hợp tác với hai tỉnh bạn có những bước phát
triển mới, đạt được những thành tựu quan trọng trên nhiều lĩnh vực.
Hiện nay, trong bối cảnh hai nước Việt Nam và Lào tiếp tục thực hiện
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hợp tác và phát triển, đa phương hóa và đadạng hóa quan hệ đối ngoại; tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; đặc
biệt là việc thực hiện Hiệp ước hữu nghị và hợp tác, các nội dung hợp tác mang
tính chiến lược Việt Nam - Lào đang đi vào chiều sâu, nhiệm vụ xây dựng mối
quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện giữa tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh
Bôlykhămxay và Khămmuộn càng được tích cực đẩy mạnh và tăng cường.
3
Do đó, việc nghiên cứu quá trình lãnh đạo xây dựng mối quan hệ hợp tác
với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn của Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh từ ngày tái lập
tỉnh đến năm 2010, nhằm tổng kết, đánh giá những thành tựu đạt được, chỉ rõnhững hạn chế, khiếm khuyết, qua đó đúc rút những kinh nghiệm trong quá
trình hoạch định chủ trương cũng như trong tổ chức triển khai thực hiện, nhằm
góp phần thúc đẩy hơn nữa mối quan hệ với hai tỉnh bạn là việc làm cần thiết.
Đồng thời, nghiên cứu quá trình lãnh đạo xây dựng mối quan hệ hợp tác
với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn của Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh trong chặng
đường gần 20 năm đổi mới góp phần tổng kết thực tiễn quá trình thực hiện chính
sách đối ngoại rộng mở của Đảng trên một địa phương cụ thể, có nhiều đặc thù
cả về điều kiện tự nhiên và lịch sử. Trên cơ sở đó, luận án không chỉ làm phong
phú thêm lịch sử hoạt động đối ngoại của Đảng, mà còn góp phần nghiên cứu
toàn diện hơn về lịch sử Đảng bộ địa phương, cung cấp cơ sở lịch sử để giáo dục
và phát huy truyền thống đoàn kết, gắn bó giữa nhân dân tỉnh Hà Tĩnh với nhân
dân tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn, góp phần tăng cường hơn nữa mối quan hệ
hợp tác lâu dài, toàn diện, bền vững giữa hai nước Việt Nam - Lào trong điều
kiện lịch sử mới.
Xuất phát từ ý nghĩa nêu trên, tác giả chọn đề tài: "Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnhlãnh đạo phát triển quan hệ hữu nghị hợp tác với tỉnh Bôlykhămxay vàKhămmuộn (Nước CHDCND Lào) từ năm 1991 đến năm 2010" làm đề tài
luận án tiến sĩ lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đíchNghiên cứu, tái hiện lại một cách chân thực, khách quan, khoa học và có
hệ thống toàn bộ quá trình lãnh đạo xây dựng mối quan hệ hữu nghị hợp tác
với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn của Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn từnăm 1991 đến năm 2010; góp phần tổng kết thực tiễn một chủ trương quantrọng trong chính sách đối ngoại của Đảng trên một địa bàn nhất định; đánh giá
những thành tựu đạt được và những bất cập, hạn chế; đúc rút một số kinh
nghiệm chủ yếu trong quá trình lãnh đạo tổ chức thực hiện, từ đó đóng góp cơsở lịch sử cho quá trình lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ tăng cường mối quan hệ
4
hữu nghị đặc biệt, hợp tác toàn diện với tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn
trong thời gian tới có hiệu quả hơn.2.2. Nhiệm vụ- Phân tích, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn hình thành mối quan hệ đặc
biệt, hợp tác toàn diện giữa tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay vàKhămmuộn; những nhân tố cơ bản tác động, ảnh hưởng tới mối quan hệ hữu
nghị hợp tác giữa tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn từ năm1991 đến năm 2010;
- Hệ thống hoá chủ trương của và quá trình chỉ đạo thực hiện xây dựng và
phát triển mối quan hệ hữu nghị hợp tác với tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn
của Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh từ năm 1991 đến năm 2010;
- Đánh giá những thành tựu nổi bật, những khó khăn, hạn chế, bất cập
trong quá trình hoạch định chủ trương và chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ tăng
cường tình hữu nghị và hợp tác với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn của Đảng
bộ tỉnh Hà Tĩnh từ năm 1991 đến năm 2010;
- Làm rõ những đặc điểm của mối quan hệ giữa tỉnh Hà Tĩnh với hai tỉnh
nước bạn Lào cùng chung biên giới;
- Đúc kết các kinh nghiệm từ quá trình lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ
xây dựng và phát triển mối quan hệ quan hệ hữu nghị hợp tác toàn diện với
tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn của Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh từ năm 1991 đến
năm 2010.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứuLuận án nghiên cứu quá trình hoạch định chủ trương và lãnh đạo tổ chức
thực hiện nhiệm vụ tăng cường quan hệ hữu nghị hợp tác toàn diện với tỉnh
Bôlykhămxay, Khămmuộn của Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn 1991 - 2010.
3.2. Phạm vi nghiên cứuVề nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu quá trình lãnh đạo xây dựng
mối quan hệ hữu nghị đặc biệt và hợp tác toàn diện với tỉnh Bôlykhămxay vàKhămmuộn của Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh từ năm 1991 đến năm 2010, trên các
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục đào tạo, y tế, khoa học công nghệ,
5
an ninh quốc phòng, công tác biên giới, hoạt động tình nghĩa, giao lưu hữu
nghị nhân dân.
Về không gian: các hoạt động quan hệ hữu nghị đặc biệt và hợp tác toàn
diện trên địa bàn ba tỉnh: tỉnh Hà Tĩnh, tỉnh Bôlykhămxay và tỉnh Khămmuộn
Về thời gian: Luận án nghiên cứu quá trình lãnh đạo xây dựng quan hệhữu nghị hợp tác với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn của Đảng bộ tỉnh Hà
Tĩnh giai đoạn từ năm 1991 đến năm 2010.4. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu
4.1. Cơ sở lý luậnLuận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử, quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng về quan hệ đối ngoại nói
chung, quan hệ hữu nghị đặc biệt và hợp tác toàn diện với nước Cộng hòa
DCND Lào nói riêng.
4.2. Phương pháp nghiên cứuPhương pháp nghiên cứu chủ yếu của Luận án là phương pháp lịch sử và
phương pháp logic, đồng thời kết hợp các phương pháp nghiên cứu chuyên
ngành và liên ngành, trong đó đặc biệt chú trọng phương pháp khảo sát thực tế,
thống kê.
4.3. Nguồn tài liệu- Các văn kiện liên quan đến quan hệ đối ngoại hai Đảng, Nhà nước và
Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh: văn kiện của ĐCS Việt Nam và Đảng NDCM Lào; vănkiện Đại hội Đảng bộ tỉnh và các NQ chuyên đề của BCH, BTV Tỉnh ủy Hà
Tĩnh các khóa XIII, XIV, XV, XVI, XVII; các NQ, Chương trình hành động,
Đề án, Quy hoạch, Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của HĐND, UBND tỉnh.
- Nguồn tài liệu về mối quan hệ ba tỉnh như: Báo cáo tổng kết, sơ kết
đánh giá quá trình thực hiện nhiệm vụ hợp tác giữa ba tỉnh trên các lĩnh vực từ1991 - 2010; Văn bản hội đàm giữa lãnh đạo cấp cao tỉnh Hà Tĩnh với hai tỉnh
bạn qua các chuyến thăm và làm việc chính thức; Văn bản ghi nhớ của các
đoàn công tác các ngành, đoàn thể, các tổ chức kinh tế xã hội, các địa phương,đơn vị; các công văn, quyết định, công thư, các văn bản lưu tại TTLT tỉnh,
6
Phòng Lưu trữ - Văn phòng Tỉnh ủy và các sở, ban, ngành, đoàn thể và các địaphương tỉnh Hà Tĩnh, tỉnh Nghệ An và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn.
- Những công trình nghiên cứu gồm sách, báo, tạp chí, luận án viết vềquan hệ hợp tác giữa Việt Nam - Lào nói chung, tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh
Bôlykhămxay, Khămmuộn nói riêng, có liên quan đến đề tài. Các bài báo,
phim tài liệu, bản đồ có liên quan đến đề tài...
- Kết quả khảo sát thực tế và phỏng vấn một số nhân chứng lịch sử tại tỉnh
Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn.
5. Đóng góp của luận án
- Qua sưu tầm tài liệu, nghiên cứu, khảo sát thực tế về ba tỉnh, Luận án
làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn hình thành mối quan hệ đặc biệt, hợp tác toàn
diện giữa tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn trong thời gian từnăm 1991 đến năm 2010.
- Đánh giá một cách khách quan thực trạng, những kết quả đạt được,
những khó khăn, hạn chế, bất cập trong quá trình hoạch định chủ trương vàlãnh đạo thực hiện nhiệm vụ tăng cường tình hữu nghị và hợp tác với tỉnh
Bôlykhămxay, Khămmuộn của Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh. Từ đó, luận án góp phần
giúp cấp ủy Đảng, chính quyền, các ngành, các tập thể, cá nhân lên quan có
thêm căn cứ khoa học và tư liệu thực tiễn để tham khảo, vận dụng trong quá
trình tham mưu, xây dựng chủ trương cũng như việc tổ chức triển khai thực
hiện các nhiệm vụ, giải pháp nhằm tiếp tục tăng cường quan hệ hợp tác giữa
tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn trong thời gian tới.
- Luận án góp phần cung cấp thêm nguồn thông tin, tư liệu để có cái nhìn
toàn cảnh, có hệ thống về quan hệ hữu nghị hợp tác giữa tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh
Bôlykhămxay và Khămmuộn giai đoạn 1991 - 2010, từ đó góp phần giáo dục
truyền thống, làm phong phú thêm lịch sử Đảng bộ và lịch sử địa phương tỉnh
Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn.
6. Bố cục luận án
Ngoài phần mở đầu, Tổng quan tình hình nghiên cứu, kết luận, phụ lục
và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm có 03 chương nội dung, 6 tiết
7
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài Luận án
Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam đi vào lịch sử thế giới
như một biểu tượng sáng ngời về tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản, một tấm
gương mẫu mực và hiếm có về sự thuỷ chung, trong sáng trong lịch sử quan
hệ quốc tế. Vì vậy, quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào
- Việt Nam là một chủ đề được giới nghiên cứu đặc biệt quan tâm. Đã có rất
nhiều công trình nghiên cứu về chủ đề này, nổi bật là những công trình nghiên
cứu trên các nhóm vấn đề sau:
1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến quan hệ Việt Nam - LàoCác công trình nghiên cứu tình hình thế giới, khu vực, quan điểm, đường
lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta qua các thời kỳ, trong đó đã
đề cập đến mối quan hệ hữu nghị đặc biệt và hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào,
đáng chú ý là: "Hội nhập quốc tế và giữ vững bản sắc" của Bộ Ngoại giao
[29]; "Ngoại giao Việt Nam 1945 - 2000" của Bộ Ngoại giao [30]; “Những vấn
đề lớn của thế giới và quá trình hội nhập, phát triển của nước ta” của Ban Tư
tưởng văn hóa trung ương [17]…
Các bài nói, bài viết của các nhà nghiên cứu liên quan đến vấn đề này
như: "Thế giới năm qua và nhiệm vụ đối ngoại của Đảng ta trong năm 2001",của Nguyễn Dy Niên [83]; "Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ đặc biệt Việt
Nam - Lào" của Trịnh Nhu [82]... Bên cạnh đó còn có một số hội thảo khoa
học về quan hệ hữu nghị đặc biệt, hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào. Các công
trình này đã tiếp cận được nhiều tư liệu quan trọng ở cả hai quốc gia và tập
trung theo các chủ đề chung nhằm dựng lại lịch sử mối quan hệ giữa hai nước,trong đó đi sâu vào từng lĩnh vực cụ thể như: Chính trị, Ngoại giao, An ninh,
Quân sự, Văn hoá - giáo dục, Kinh tế.Đặc biệt, từ sau Đại hội X của ĐCS Việt Nam, chủ trương nhằm tăng
cường hơn nữa gìn giữ những giá trị truyền thống lịch sử, đúc kết những vấn
đề lý luận, thực tiễn, rút ra những bài học kinh nghiệm, tiếp tục vun đắp và
8
nâng cao hiệu quả mối quan hệ, hữu nghị, hợp tác toàn diện giữa hai nước, BộChính trị Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa X) và Bộ Chính trị Đảng Nhân dân
cách mạng Lào (khóa VIII) đã quyết định tổ chức hợp tác cùng biên soạn công
trình “Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào; Lào - Việt Nam (1930-
2007)”[68]. Công trình gồm có 6 sản phẩm: “Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt
Nam - Lào; Lào - Việt Nam 1930 -2007”; Văn kiện Đảng và Nhà nước; Biên
niên sự kiện; Hồi ký; tập Sách ảnh tư liệu và bộ phim “Bản anh hùng ca quan
hệ Việt - Lào”.Ðây là công trình có quy mô lớn nhất từ trước tới nay về mối quan hệ đặc biệt
giữa hai nước, được Bộ Chính trị và Ban Bí thư của hai Ðảng trực tiếp chỉ đạo.
Công trình được nghiên cứu, biên soạn công phu, mang tầm vóc lớn lao của mối
quan hệ đặc biệt giữa hai Ðảng, hai Nhà nước, hai dân tộc và nhân dân hai nước,
đúng với quan điểm chỉ đạo của Bộ Chính trị Ðảng Cộng sản Việt Nam và Ðảng
Nhân dân Cách mạng Lào. Công trình đã tái hiện sinh động lịch sử quan hệ đặc biệt
Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam; làm sáng tỏ quy luật tất yếu, khách quan hai dân
tộc phải đoàn kết, nương tựa vào nhau, chống lại kẻ thù chung trong chiến tranh
giải phóng dân tộc trước đây và cùng nhau “chia ngọt sẻ bùi” trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay. Công trình đã góp phần tổng kết, phân tích,
đánh giá những đặc điểm của mối “quan hệ đặc biệt” và đúc kết những bài học kinh
nghiệm, đồng thời gợi mở những vấn đề vận dụng vào hiện tại và tương lai. Bộsách thuộc công trình đã được Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia xuất bản năm 2011,2012. Ngoài ra còn có một số công trình nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực
tiễn về Đảng Cộng sản cầm quyền và xây dựng đảng cầm quyền trong quá trình
phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam và kinh tế hàng hóa
theo cơ chế thị trường định hướng XHCN ở Lào, phân tích những tương đồng và
khác biệt của công tác xây dựng đảng cầm quyền ở Việt Nam và Lào, cuốn sách đềra một số giải pháp nhằm xây dựng đảng cầm quyền ở Việt Nam và Lào, làm sáng
tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn về xây dựng đảng cầm quyền ở hai nước.
Ngoài ra, một số công trình nghiên cứu về Lào và một số nước trong khu
vực cũng ít nhiều đề cập đến mối quan hệ với Việt Nam như: "Góp phần
nhận thức thế giới đương đại" của Nguyễn Đức Bình (Chủ biên) [27]. Các tác
9
giả đã đề cập đến tình hình thế giới, khu vực, phân tích những thời cơ, tháchthức đối và những vấn đề đặt ra đối với các nước trong khu vực Đông Nam Átrong việc hoạch định đường lối chính sách đối ngoại.
Một số luận án tiến sỹ của nghiên cứu sinh Lào bảo vệ thành công ở Việt
Nam có đề cập đến quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam, trong đó tập
trung đi sâu vào những vấn đề đặt ra của sự phát triển trong thời kỳ đổi mới, đólà những vấn đề đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, đổi mới tác động của nhà nước
nhằm khuyến khích phát triển hàng hoá trong nông nghiệp… có trình bày
những tác động của yếu tố khu vực, trong đó có Việt Nam.
1.2. Các công trình khoa học đề cập đến quan hệ Việt Nam - Lào trênmột số lĩnh vực, vùng miền hoặc địa phương cụ thể
Trên góc độ nghiên cứu này, có các công trình, các luận án tiến sỹ, luận
văn thạc sỹ nghiên cứu về quan hệ hữu nghị hợp tác đặc biệt Việt Nam - Lào
nói chung và quan hệ hữu nghị hợp tác giữa các tỉnh vùng Bắc Trung bộ của
Việt Nam với các tỉnh cùng chung biên giới vùng Trung Lào.
Các tác giả đã có nhiều đóng góp trong việc sưu tầm những tư liệu gốc
có giá trị, đáng tin cậy, phong phú, có cả tài liệu điền dã thực tế phục vụnghiên cứu. Các công trình này đã trình bày khá chi tiết những vấn đề về điều
kiện địa lý, truyền thống lịch sử, văn hóa và mối quan hệ giữa các tỉnh vùng
Bắc Trung bộ của Việt Nam với các tỉnh cùng chung biên giới vùng Trung
Lào trên một số lĩnh vực, chủ yếu là về kinh tế nông nghiệp và quốc phòng, an
ninh; khái quát mối quan hệ về vấn đề này trên những nội dung lớn là giải
quyết vấn đề biên giới, bảo về chủ quyền anh ninh biên giới Việt Nam - Lào.
Trên cơ sở các nghiên cứu khoa học, luận án rút ra một số nhận xét về thuậnlợi, khó khăn, bài học kinh nghiệm, phương thức, đặc điểm; đưa ra quan điểmquan hệ hợp tác, kiến nghị về cơ chế, chính sách để thực hiện tốt việc mởrộng hợp tác phù hợp với thực tiễn trong những năm tiếp theo.
Kết quả nghiên cứu của các công trình này đã cung cấp cho tác giảnhững cơ sở quan trọng trong quá trình phân tích, đánh giá và bước đầu tổng
kết những nét đặc thù trong quan hệ hợp tác giữa tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh
Bôlykhămxay, Khăm muộn.
10
1.3. Các công trình khoa học liên quan trực tiếp đến quan hệ hữu nghịvà hợp tác giữa tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay, Khăm muộn
Các công trình nghiên cứu đề cập đến các khía cạnh khác nhau về quan hệhữu nghị và hợp tác giữa tỉnh Hà Tĩnh với các tỉnh vùng Trung Lào, trong đó cótỉnh Bôlykhămxay, Khăm muộn, như : "Hà Tĩnh kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước", "Hà Tĩnh 30 năm kháng chiến", của Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Hà Tĩnh,Hà Tĩnh [31, 32]; "Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh", tập 1, Đặng Duy Báu (Chủbiên) [25]; "Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh", tập 2, Đặng Duy Báu (Chủ biên)
[26]; "Lịch sử Hà Tĩnh", tập 1, Đặng Duy Báu (Chủ biên) [23]; "Lịch sử Hà
Tĩnh", tập 2, Đặng Duy Báu (Chủ biên) [24]; Lê Văn Chất, "Mở rộng liên kết
giao lưu quốc tế” [41].
Một số luận văn thạc sỹ và luận án tiến sỹ nghiên cứu quan hệ hữu nghịhợp tác giữa một số tỉnh vùng Bắc Trung bộ của Việt Nam với một số tỉnh
vùng Trung Lào, trong đó có tỉnh Hà Tĩnh. Có thể thấy rằng, dưới góc độ lịch
sử (thông sử), đây là những công trình nghiên cứu có hệ thống về mối quan
hệ giữa một số tỉnh vùng Trung Lào như Hủaphăn, Xiêngkhoảng,
Bôlykhămxay, Khămmuộn với một số tỉnh vùng Bắc Trung bộ của Việt Nam
như Hà Tĩnh, Nghệ An. Trong đó đi sâu phân tích các lĩnh vực quan hệ hợp
tác về chính trị, quốc phòng - an ninh, biên giới, kinh tế, văn hóa và các lĩnhvực khác, đồng thời đưa ra những nhận xét về đặc điểm, thành tựu, khó khăn,triển vọng, bài học kinh nghiệm trong quan hệ hợp tác giữa các tỉnh.
Luận án của chúng tôi sẽ kế thừa có chọn lọc một số kết quả để phục vụcho việc mở rộng và nghiên cứu vấn đề này dưới góc độ khoa học lịch sửĐảng, đặc biệt là quá trình xây dựng chủ trương, lãnh đạo tổ chức triển khai
thực hiện, những kết quả đạt được, những khó khăn, hạn chế, những vấn đềđặt ra trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ hợp tác trên các
lĩnh vực giữa tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay và Khăm Muộn.
2. Những nội dung có liên quan đến đề tài luận án các công trình
nghiên cứu đã đề cập đến
Qua các công trình nghiên cứu đã được công bố, chúng tôi nhận thấy:
Về quan hệ hai nước Việt - Lào:
11
Nhiều công trình nghiên cứu đã thể hiện khá toàn diện và sâu sắc về lịch
sử, truyền thống, những thành tựu trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và dựng
xây đất nước qua các thời kỳ, những nét khái quát về quan hệ đối ngoại của
nước CHDCND Lào với các nước trong khu vực và trên thế giới, trong đó cóViệt Nam.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến những vấn đề liên quan
đến đề tài nghiên cứu, như: tình hình thế giới, khu vực, những thời cơ, tháchthức đối với Việt Nam trong xu thế hội nhập quốc tế, đường lối chính sách
đối ngoại của các nước trên thế giới, các nước trong khu vực Đông Nam Á,những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam trong việc hoạch định và việc tổ chức
thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại trong thời kỳ đổi mới, nhất là đối
với các nước bạn bè truyền thống, trong đó, đặc biệt là nhiệm vụ tăng cường
tình hữu nghị đặc biệt và hợp tác toàn diện đối với nước bạn Lào anh em.
Nhiều công trình nghiên cứu đã phản ánh khá toàn diện và sâu sắc mối
quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa hai nước Việt Nam - Lào trong lịch sử. Đặc
biệt, nhiều công trình nghiên cứu đã phản ánh khá toàn diện và sâu sắc tình
đoàn kết chiến đấu cùng những thắng lợi vẻ vang của quân và dân hai nước
trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹxâm lược; quá trình hoạch định, thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách
ngoại giao, những thành tựu đã đạt được trong quan hệ hợp tác giữa hai Đảng,
hai Chính phủ và nhân dân hai nước Việt Nam - Lào anh em trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong đó, một số công trình nghiên cứu đã đề cập
khá sâu sắc những thành tựu, hạn chế, bài học kinh nghiệm trong quan hệ hợp
tác giữa các ngành, các lĩnh vực của hai nước trong sự nghiệp đổi mới.
Tuy nhiên, trong các công trình nghiên cứu, các nguồn tài liệu chúng tôi
tiếp cận được, quan hệ hợp tác giữa các địa phương, nhất là các tỉnh có chung
đường biên giới hai nước chưa được đề cập, hoặc chỉ dừng lại ở việc nêu ví dụđiển hình, một số sự kiện, những vấn đề có tính chất sự vụ, thiếu tính tính toàn
diện, hệ thống. Cho đến nay, chưa có những công trình chuyên khảo, luận án
nghiên cứu một cách hệ thống quá trình lãnh đạo của Đảng trong quá trình xây
12
dựng quan hệ hữu nghị hợp tác giữa các địa phương hai nước, nhất là các tỉnh
cùng chung biên giới.
Về quan hệ hợp tác giữa tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn:
Các bài viết được đăng trên các báo, tạp chí, kỷ yếu hội thảo khoa học
ở Trung ương và địa phương đã khai thác, đề cập đến một số nội dung vềquan hệ hợp tác giữa các tỉnh trên các lĩnh vực, nhất là quan hệ hữu nghị hợp
tác, liên minh chiến đấu của quân dân các tỉnh trong cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, hợp tác về chính trị, an ninh, quốc
phòng, đối ngoại... trong thời kỳ đổi mới.
Phần lớn nội dung các bài viết đề cập đến những kết quả đạt được, những
khó khăn, hạn chế, những vấn đề đặt ra hiện nay trong quá trình hợp tác giữa các
tỉnh. Vấn đề Đảng lãnh đạo quá trình xây dựng mối quan hệ hợp tác giữa các
tỉnh, chưa được đề cập, hoặc chỉ được nêu ra hết sức khái quát, chưa tương xứng
với vị trí, vai trò và những đóng góp to lớn của Đảng bộ tỉnh trong quá trình
hoạch định chủ trương, chỉ đạo tổ chức thực hiện nhiệm vụ tăng cường tình hữu
nghị và hợp tác giữa các tỉnh trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ trước đâycũng như trong sự nghiệp đổi mới ngày nay. Vấn đề này cần được tiếp tục
nghiên cứu, tổng kết một cách nghiêm túc, toàn diện và sâu sắc hơn.Năm 2009, tác giả đã hoàn thành luận văn Thạc sỹ, chuyên ngành Lịch
sử Đảng với đề tài: "Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh lãnh đạo xây dựng mối quan hệhợp tác với tỉnh Bôlykhămxay từ năm 1991 - 2007"[122]. Trong khuôn khổcủa luận văn thạc sỹ, luận văn chỉ mới nghiên cứu quá trình hoạch định chủtrương, đường lối và việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ hợp tác giữa tỉnh Hà
Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay từ năm 1991 đến năm 2007.Như vậy, từ tổng quan tình hình nghiên cứu có thể thấy rằng, cho đến nay
đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến quan hệ Việt Nam - Lào, quan
hệ hợp tác giữa các tỉnh, vùng miền của Việt nam với các tỉnh có chung đường
biên giới của Lào. Đặc biệt đã có những công trình nghiên cứu đề cập đến quan
hệ hợp tác giữa tỉnh Hà Tĩnh với một số tỉnh của Lào. Tuy nhiên, chưa có một
công trình nào nghiên cứu vấn đề này dưới góc độ tiếp cận của khoa học Lịch
sử Đảng để phục đựng một cách đầy đủ, toàn diện quá trình Đảng bộ tỉnh Hà
13
Tĩnh lãnh đạo xây dựng phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác với tỉnh
Bôlykhămxay và Khămmuộn (CHDCND Lào) từ năm 1991 đến năm 2010.3. Những nội dung luận án tập trung nghiên cứu:
Những nội dung liên quan đến đề tài luận án của các công trình đã công
bố là những tư liệu quý tác giả kế thừa để giải quyết những vấn đề cần tiếp
tục nghiên cứu. Với mục đích và nhiệm vụ đặt ra, luận án tập trung nghiên
cứu, làm sáng tỏ những nội dung sau:
- Cơ sở lịch sử hình thành mối quan hệ quan hệ hợp tác của tỉnh Hà Tĩnhvới tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn (điều kiện tự nhiên, lịch sử, truyền thống,
văn hóa... của ba tỉnh).
- Cơ sở lý luận (đặt trong bối cảnh chung của cả nước và đường lối đối
ngoại của Trung ương Đảng) và thực tiễn hình thành chủ trương của Đảng bộtỉnh Hà Tĩnh xây dựng, phát triển quan hệ hợp tác với tỉnh Bôlykhămxay,Khămmuộn giai đoạn 1991 - 2010.
- Làm rõ những yếu tố tác động đến quá trình lãnh đạo xây dựng và phát
triển mối quan hệ hợp tác toàn diện giữa tỉnh Hà Tĩnh với hai tỉnh bạn theo
tiến trình lịch sử, được phân chia thành hai giai đoạn căn cứ theo phân kỳ các
nhiệm kỳ đại hội Đảng bộ tỉnh; Đồng thời, khắc họa quá trình phát triển nhận
thức của Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh trong quá trình lãnh đạo thực hiện qua hai giai
đoạn (1991-2000 và 2001-2010).
- Phục dựng bức tranh chân thực về quá trình quán triệt đường lối đối
ngoại của Đảng trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh có nhiều điểm đặc thù, với những
khó khăn và thuận lợi nhất định, trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, vănhóa, giáo dục, an ninh - quốc phòng... qua hai giai đoạn từ năm 1991 đến năm2000 và từ năm 2001 đến năm 2010.
- Từ những tư liệu khai thác được qua khảo sát thực tiễn, tổng kết, nhận
định một cách khách quan những thành công, những hạn chế, khiếm khuyết
trong quá trình hoạch định chủ trương cũng như trong quá trình chỉ đạo thực
hiện của Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh về lãnh đạo thực hiện xây dựng, phát triển quan
hệ hợp tác với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn trong gần 20 năm đổi mới
(1991-2010).
14
Từ những thành công, hạn chế khiếm khuyết trong lãnh đạo thực hiện
xây dựng, phát triển quan hệ hợp tác với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn của
Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh trong gần 20 năm (1991-2010), qua các nhiệm kỳ Đại
hội, luận án làm sáng tỏ những đặc điểm trong mối quan hệ giữa tỉnh Hà Tĩnhvới tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn trong điều kiện lịch sử, văn hóa, truyền
thống có những đặc thù; đồng thời đúc rút một số kinh nghiệm chủ yếu cảtrên phương diện quán triệt chủ trương của Trung ương Đảng vận dụng vào
địa phương, cả trên phương diện tổ chức chỉ đạo thực hiện chủ trương đó trênđịa bàn cụ thể.
15
Chương 1QUÁ TRÌNH LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG QUAN HỆ HỮU NGHỊ, HỢP
TÁC VỚI TỈNH BÔLYKHĂMXAY VÀ KHĂMMUỘN CỦA ĐẢNG BỘTỈNH HÀ TĨNH TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2000
1.1. QUAN HỆ HỮU NGHỊ, HỢP TÁC GIỮA NHÂN DÂN HÀ TĨNHVỚI TỈNH BÔLYKHĂMXAY VÀ KHĂMMUỘN TRƯỚC NĂM 1991
1.1.1. Những nhân tố tác động đến quan hệ hợp tác giữa tỉnh Hà Tĩnhvới tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn
Điều kiện tự nhiên:Tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn là ba tỉnh liền kề về địa
lý, núi liền núi, sông liền sông, có chung 145 km đường biên giới thuộc hai
nước Việt Nam - Lào. Những điểm tương đồng về địa lý, kinh tế, chính trị,
văn hóa, truyền thống là điều kiện thuận lợi để tỉnh Hà Tĩnh mở rộng và tăng
cường quan hệ hợp tác với hai tỉnh bạn Lào trên nhiều lĩnh vực.
Tỉnh Hà Tĩnh là tỉnh thuộc vùng Duyên hải Bắc Trung bộ, phía Bắc
giáp tỉnh Nghệ An với chiều dài 88 km, phía Nam giáp tỉnh Quảng Bình với
chiều dài 130 km, phía Đông giáp biển Đông với chiều dài 137 km, phía Tây
giáp tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn - nước CHDCND Lào. Trên tuyến
biên giới giữa tỉnh Hà Tĩnh và Bôlykhămxay, Khămmuộn có 12 cột mốc
quốc giới. Nội biên có 9 xã biên giới thuộc 3 huyện là Hương Sơn, HươngKhê và Vũ Quang; có 5 Đồn biên phòng (575, 571, 567, 565, 563). Ngoại
biên đối diện có 35 bản thuộc hai huyện Căm Cợt (Bôlykhămxay) và Na Kai
(Khămmuộn); lực lượng vũ trang đóng trên biên giới của bạn có 2 đơn vị(Đồn 505 - Nậm Phào và Đồn 515 - Ma Ca).
Tỉnh Hà Tĩnh có diện tích tự nhiên 6.055,6 km2. Năm 2010, dân số Hà
Tĩnh khoảng 1,3 triệu người; Đảng bộ tỉnh có gần 8,5 vạn đảng viên, sinh
hoạt tại 771 tổ chức cơ sở đảng, thuộc 12 Đảng bộ huyện, thành phố, thị xã và
7 Đảng bộ trực thuộc [93]; có 127 km đường Quốc lộ 1A, 87 km đường Hồ
Chí Minh và 70 km đường sắt chạy dọc theo hướng Bắc - Nam; có Quốc lộ
16
8A và Đường 12 đi sang Lào và các tỉnh Đông Bắc Thái Lan, có cảng biển
nước sâu Vũng Áng, cảng Xuân Hải [134]. Tỉnh Hà Tĩnh có 12 đơn vị hành
chính trực thuộc, bao gồm 1 thành phố, 1 thị xã và 10 huyện, với 261 xã,
phường, thị trấn. Trong đó, có 3 huyện biên giới là: Hương Sơn (47 km biêngiới) gồm 2 xã biên giới Sơn Kim và Sơn Hồng; Vũ Quang (45 km biên giới);
Hương Khê (53 km biên giới) với 5 xã biên giới là Hoà Hải, Hương Vịnh,
Phú Gia, Hương Lâm, Hương Liên.Tỉnh Bôlykhămxay là một trong 7 tỉnh thuộc vùng Trung Lào, là tỉnh lớn
thứ 10 trong tổng số 17 tỉnh của nước CHDCND Lào, với diện tích 1.599.770
ha, dân số 422.300 người [71,tr.26]. Tỉnh Bôlykhămxay tiếp giáp với Việt
Nam ở phía Đông với đường biên giới dài 165 km; tiếp giáp với Thái Lan ở
phía Tây dọc theo sông Mê Kông với đường biên giới dài 195 km. Trong tổng
số diện tích của tỉnh, 64 % thuộc địa bàn vùng sâu, vùng xa. Địa hình nghiêng
dần từ dãy Phu Luông xuống khu vực sông Mê Kông, với nhiều dãy núi đá
lớn có độ cao từ 300 đến 700m. Nằm trong vành đai khí hậu nhiệt đới Bắc
bán cầu, tỉnh Bôlykhămxay có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm là chủ yếu,
phân thành hai mùa: mùa khô và mùa mưa. Mùa khô kéo dài 6 - 7 tháng,
nhiều nơi thiếu nước nghiêm trọng, ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế xã
hội, nhất là đối với nông nghiệp.
Về mùa mưa, đặc biệt là tháng 7, 8, 9, lượng mưa trung bình ở tỉnh
Bôlykhămxay rất lớn, khoảng 1.600 - 1.800 mm/năm. Mùa mưa thường trùng
với mùa lũ lớn do nước từ thượng nguồn sông Mê Kông đổ về nên đã gây ra
lũ lụt và ngập úng kéo dài trên diện rộng ở một số vùng đồng bằng. Diện tích
rừng của tỉnh Bôlykhămxay rất lớn, xấp xỉ 1.389.145 ha gồm: 3 khu bảo tồn
đa dạng sinh học quốc gia (296.500 ha); 4 khu rừng bảo tồn thuộc tỉnh
(52.236 ha); 1 khu rừng tái sinh tự nhiên (10.200 ha), với độ che phủ gần
50%; có nhiều loại gỗ và lâm thổ sản quý hiếm. Đối với tỉnh Bôlykhămxay,
rừng không chỉ là nguồn tài nguyên quý báu giúp địa phương phát triển kinh
tế, đặc biệt là công nghiệp chế biến gỗ, khai thác khoáng sản, mà còn là nơi
nương tựa cuộc sống của nhân dân các bộ tộc Lào. Nhiều đồng cỏ rộng lớn
17
trải dài dưới các vùng đồi núi rất thuận lợi cho việc phát triển chăn nuôi gian
súc. Tỉnh Bôlykhămxay có tiềm năng lớn về khoáng sản như than, sắt, thiếc,
muối, thạch cao, đá quý, đồng, chì, kẽm, vàng...
Bên cạnh những thuận lợi nêu trên, tỉnh Bôlykhămxay đang phải đối mặt
với nhiều khó khăn trên con đường phát triển, nhất là trình độ dân trí thấp, đời
sống nhân dân còn gặp rất nhiều khó khăn, thiếu thốn, chủ yếu dựa vào nghềnông và khai thác lâm thổ sản; hệ thống giao thông kém phát triển, chưa cóđường sắt, nên việc đi lại, trao đổi buôn bán giữa các địa phương trong tỉnh và
hợp tác với bên ngoài còn gặp rất nhiều khó khăn.Tỉnh Khămmuộn là tỉnh miền núi của Lào, có diện tích tự nhiên
16.315km2, dân số 55.985 người, mật độ dân số 22 người/km2. Trên địa bàn
có quốc lộ 13, 12 và 8B đi qua, có hai cửa khẩu là Thà Khẹt - Nakhon
Phannom giáp Thái Lan và Na Phào - Cha lo, tỉnh Quảng Bình - Việt Nam.
Tỉnh Khămmuộn có 9 huyện, thị, gồm 1 thị xã Thà Khẹt (141 bản) và 8 huyện
là Nacai (67 bản), Nhóm Mạ Lạt (71 bản), Hỉn Bun (66 bản), BuaLapha (82
bản), Ma HaXay (89 bản), Xay Bua Thoong (66 bản), Xe Băng Phay (50bản), Noong Bốc (72 bản) [48, tr.42-32]. Tỉnh Khămmuộn cũng như các tỉnh
miền núi khác của Lào, đồi núi và trung du chiếm 2/3 diện tích đất đai. Tỉnh
Khămmuộn có địa hình dốc, với các núi đá vôi lớn; là tỉnh nằm trong vành đaikhí hậu nhiệt đới nên nhiệt độ trung bình cả năm từ 20 - 340C, với hai mùa rõ
rệt, mùa khô kéo dài 5 đến 6 tháng, lạnh và hanh, độ ẩm thấp, đất đai khô cằn.
Bên cạnh đó, mùa mưa kéo dài 4 đến 5 tháng, là điều kiện thuận lợi cho các
loại cây phát triển, đặc biệt là trong sản xuất nông nghiệp. Đặc biệt, ở đây córất nhiều loại gỗ quý hiếm như lim, lát hoa, trầm hương và các loại lâm sản quý
hiếm khác. Khămmuộn có hai con sông lớn là Xêbăngphai và Nậm thởn và
một số con sông nhỏ do sông con Xêbăngphai tạo ra, thuận lợi cho việc phát
triển nông nghiệp, thủy điện.
Tuy điều kiện về tài nguyên thiên nhiên có nhiều thuận lợi, nhưng bêncạnh đó, tỉnh Khămmuộn cũng gặp rất nhiều khó khăn. Tỉnh Khămmuộn là
một tỉnh có trình độ dân trí còn thấp, người dân sống chủ yếu bằng nghề nông
và khai thác lâm thổ sản; cơ sở hạ tầng còn rất kém, giao thông đi lại khó
18
khăn. Cho đến năm 2010, tỉnh Khămmuộn vẫn chưa có đường sắt, hệ thống
đường bộ sau nhiều năm khai thác đã xuống cấp nên việc buôn bán trao đổi
hàng hoá, giao lưu cả trong và ngoài tỉnh đang gặp rất nhiều khó khăn, cản trởrất lớn đối với sự phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội của tỉnh.
Nhân tố dân cư và văn hóa xã hội: Việt Nam và Lào đều là những quốc gia đa dân tộc. Việt Nam có 54
dân tộc, Lào có 49 tộc người. Các nhóm dân tộc của Lào, đặc biệt là các
nhóm cư dân sống ở các vùng biên giới hai nước, có quan hệ khăng khít với
một số dân tộc thiểu số của Việt Nam. Một bộ phận cư dân hai nước vùng
biên giới có thể cùng một tộc người, có quan hệ huyết thống thông qua hôn
nhân, do đó một số bản của Lào giáp với biên giới Việt Nam có nhiều người
Lào gốc Việt. Cùng chung dãy Trường Sơn, cư dân hai nước tất yếu ít nhiều
chịu sự tác động qua lại của những xáo động cư dân qua những biến động trong
tiến trình lịch sử. Trước khi hình thành các khu vực biên giới và cả về sau này,
Lào là địa bàn gặp gỡ, giao lưu của các tộc người, từ các vùng phía Đông, phíaTây, nhất là biến động lên xuống của cư dân các vùng Bắc - Nam. Mối bang
giao có từ lâu đời giữa cư dân của hai dân tộc là một trong những cơ sở vững
chắc cho quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào ngày nay.
Cư dân tỉnh Hà Tĩnh chủ yếu là người Kinh, cư trú phần lớn ở đồng
bằng. Nội biên thuộc tuyến biên giới tỉnh Hà Tĩnh - tỉnh Bôlykhămxay vàKhăm muộn có tổng số 58.801 hộ, với 228.889 khẩu, trong đó dân tộc Kinh
có 58.473 hộ với 227.383 khẩu, dân tộc Lào có 117 hộ với 556 khẩu, dân tộc
Mường có 52 hộ với 212 khẩu, dân tộc Thái có 09 hộ với 25 khẩu, dân tộc
Mán Thanh có 121 hộ với 609 khẩu, dân tộc Chứt có 37 hộ với 154 khẩu [94].
Đồng bào các dân tộc ít người, gồm 328 hộ với 1.506 nhân khẩu sống tập
trung và xen ghép tại 7 thôn, bản thuộc 3 huyện: Hương Khê, Hương Sơn, VũQuang. Trong đó có dân tộc Chứt sống tập trung tại bản Rào Tre, xã Hương Liênvà Bản Giàng II, xã Hương Vĩnh thuộc huyện Hương Khê, vốn có mối quan hệđồng tộc với cư dân Lào vùng biên giới. Cư dân Lào cư trú dọc theo biên giới
giáp tỉnh Hà Tĩnh gồm nhiều tộc người, chung sống trong các bản làng. Mặc dầu
có rất ít sự tương đồng nguồn gốc dân cư nhưng do cùng sinh sống lâu đời dưới
19
mái nhà chung là dãy Trường Sơn, nên nhân dân ba tỉnh từ lâu đã sống rất hòa
thuận, cùng chia ngọt sẻ bùi, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong đấu tranh chống
giặc ngoại xâm, cũng như trong sự nghiệp dựng xây quê hương, đất nước.
Đặc biệt, một bộ phận nhân dân các địa phương vùng biên giới ba tỉnh
còn gắn bó thân thiết với nhau bởi các mối quan hệ thân tộc, thường xuyên
qua lại, thăm viếng, trao đổi hàng hóa, vật dụng phục vụ cuộc sống thường
nhật; chia sẻ kinh nghiệm sản xuất, giao lưu văn hóa [93].
Trong tiến trình lịch sử, do nhiều nguyên nhân khác nhau, một bộ phận
cư dân người Việt Nam di cư sang sinh sống, làm ăn và định cư trên đất Lào,
từng bước hình thành nên cộng đồng Việt kiều ngày càng đông đảo ở một sốđịa bàn trên nước bạn. Cộng đồng khá đông đảo người Việt tại Lào đã và đangnỗ lực đóng góp sức mình góp phần tham gia phát triển kinh tế, văn hoá, làm
thay đổi bộ mặt của nhiều thành phố, thị trấn và là cầu nối hết sức có ý nghĩatrong giao lưu kinh tế, văn hoá giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các bộtộc Lào. Có thể khẳng định rằng, những nhân tố về dân cư nêu trên đã có
những tác động lớn, góp phần tăng cường tình đoàn kết gắn bó keo sơn giữa
nhân dân tỉnh Hà Tĩnh với nhân dân các bộ tộ Lào anh em.
Về văn hóa, hai dân tộc Việt Nam và Lào có nhiều nét tương đồng. Việt
Nam và Lào đều nằm trong vùng ảnh hưởng mạnh của nền văn hoá của hai
quốc gia là Ấn Độ và Trung Quốc. Đặc biệt, Phật giáo có ảnh hưởng rất sâu
đậm trong đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân hai nước Việt Nam và Lào.
Trong tiến trình phát triển, mỗi quốc gia đều có truyền thống lịch sử lâu đời và
đã tạo nên những thành tựu và cả những nét khác biệt trong đời sống kinh tế,
văn hóa, xã hội với những phong tục, tập quán tốt đẹp của từng dân tộc. Tuy
nhiên, do gần gũi về địa lý cho nên từ xa xưa giữa hai dân tộc Việt Nam - Lào
đã có sự bang giao, nhất là các dân tộc ở dọc biên giới của hai nước. Xuất phát
từ những tương đồng, ít nhiều chịu sự chi phối, ảnh hưởng lẫn nhau về phươngthức sinh hoạt vật chất, cư dân ba tỉnh cùng chung biên giới ngày càng xích lại
gần nhau hơn và tất yếu chịu sự tác động, ảnh hưởng lẫn nhau trong sinh hoạt
văn hóa tinh thần. Ngày nay, nhiều phong tục tập quán, nhất là trong ma chay,
cưới xin, thờ cúng tổ tiên, thần linh... vốn là những nét đẹp văn hóa truyền
20
thống lâu đời của hai dân tộc Việt Nam - Lào, đã và đang được nhân dân ba
tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn lưu truyền từ đời này sang đời
khác. Do điều kiện đặc thù của địa bàn cư trú cùng với mối quan hệ mật thiết
giữa các nhóm dân cư sống dọc biên giới cũng như các điều kiện cụ thể của
lịch sử để lại, xuất phát từ nhu cầu giao tiếp giữa những cá nhân với cộng đồng
vốn đã gần gũi về địa lý, phong tục tập quán, nên trên thực tế đường biên giới
quốc gia không hề chia cắt tình cảm giữa các cộng đồng cư dân trên tuyến
đường biên vốn có từ ngàn xưa cho đến ngày nay. Văn hóa là nhịp cầu nối đểcác quốc gia dân tộc trên thế giới xích lại gần nhau hơn. Chính sức mạnh của
yếu tố văn hóa truyền thống đã góp phần quan trọng xây đắp nên tình cảm đặc
biệt giữa nhân dân ba tỉnh Hà Tĩnh - Bôlykhămxay, Khămmuộn trong suốt
chiều dài lịch sử từ ngàn xưa và ngày càng được phát huy, làm phong phú, đadạng thêm trong thời kỳ đổi mới.
Đặc điểm về kinh tế:Trong quá trình phát triển, do điều kiện gần gũi về địa lý và nhiều điểm
tương đồng về điều kiện tự nhiên, sinh hoạt văn hóa tinh thần, phong tục tập
quán, cư dân ba tỉnh dọc biên giới từ xưa đã sớm giao lưu, trao đổi về kinh tếvà có những điểm tương đồng trong sinh hoạt vật chất. Bên cạnh làm nươngrẫy, săn bắt hái lượm, khai thác nguồn lợi từ rừng núi, cư dân tỉnh Hà Tĩnh và
tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn đều sớm biết trồng lúa nước, chăn nuôi giasúc, trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải, phát triển kinh tế gia đình, ổn định cuộc sống.
Ngày nay, ngoài tăng cường trao đổi, hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm ngày
càng chặt chẽ và có hiệu quả trong sản xuất nông - lâm nghiệp, cư dân tỉnh Hà
Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn, nhất là địa bàn giáp biên còn tăngcường buôn bán, trao đổi hàng hóa, du nhập ngành nghề mới; chia sẻ thông
tin, kinh nghiệm cho nhau nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế của
từng địa phương nhằm giúp nhau phát triển kinh tế, nâng cao đời sống.
Từ xa xưa, cư dân Việt Nam và Lào đã có sự giao lưu kinh tế, lúc đầu
chủ yếu ở vùng biên giới, về sau, do yêu cầu ngày càng cấp thiết trong sựnghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước nên đã từng bước hình thành và phát
triển các tuyến đường thông từ Lào sang Việt Nam và ngược lại. Theo trục
21
Đông - Tây, phía bắc tỉnh Hà Tĩnh, có đường Quốc lộ 8A sang Lào, qua cửa
khẩu Quốc tế Cầu Treo với chiều dài 85 km, là con đường ngắn nhất nối vùng
Trung Lào và Thượng Lào ra Biển Đông. Tuyến đường này đã và đang làhuyết mạch quan trọng giúp tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn
nói riêng, hai nước nói chung trong việc tăng cường hợp tác trên nhiều lĩnhvực, đặc biệt là giao lưu trao đổi hàng hóa, phát triển du lịch, tăng cường hợp
tác kinh tế, thương mại, đầu tư. Ở phía Nam tỉnh Hà Tĩnh, có Quốc lộ 12 dài
55 km, nối cảng biển nước sâu Vũng Áng (Hà Tĩnh) với Thị xã Thà Khẹt
(Lào), qua cửa khẩu Cha Lo (Quảng Bình). Đây vừa là con đường kết nối
hành lang kinh tế Đông - Tây ngắn nhất, đồng thời mở ra điều kiện thuận lợi
hơn để khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế vùng đất đai rộng lớn phía Tây
tỉnh Hà Tĩnh nói riêng và đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội, củng cố quốc
phòng an ninh vùng biên giới Việt Nam - Lào nói chung.
Đặc biệt, tỉnh Hà Tĩnh có bờ biển dài với nhiều cảng và cửa sông lớn cùng
với hệ thống giao thông đường thủy rất thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, vănhóa xã hội của tỉnh, đồng thời hỗ trợ đắc lực cho nước bạn Lào, nhất là tỉnh
Bôlykhămxay, Khămmuộn trong sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước.
Chính phủ Việt Nam đã có quy hoạch định hướng xây dựng cụm
cảng Vũng Áng với các cảng tổng hợp và cảng chuyên dùng, phục vụcông nghiệp cơ khí, luyện cán thép, đóng và sửa chữa tàu thuỷ, hoá dầu
và đặc biệt là để giúp nước bạn Lào “thông ra biển”; xuất, nhập khẩu hàng
hoá, mở rộng buôn bán với các nước. Ngoài ra, ở phía Bắc tỉnh Hà Tĩnh,trên địa bàn huyện Nghi Xuân có cảng Xuân Hải, đủ điều kiện tiếp nhận
tàu có trọng tải 2.000 tấn, rất thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hóa từLào, theo Quốc lộ 8A đến các tỉnh của Việt Nam, sang nước thứ ba và
ngược lại.
Ở phía Tây, trên tuyến biên giới 145 km thuộc địa bàn tỉnh Hà Tĩnh,
ngoài Cửa khẩu Quốc tế Cầu Treo - Nậm Phào nằm trên Quốc lộ 8A và 3
đường tiểu ngạch: Bản Giàng đi Khămmuộn, Kim Quang, Sơn Hồng đitỉnh Bôlykhămxay, còn có nhiều đầu mối giao lưu, buôn bán được hình
thành và ngày càng mở rộng phát triển dọc tuyến biên giới, vừa giúp nhân
22
dân ba tỉnh giáp biên phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần, vừa là cầu nối ngày càng làm phong phú, sâu đậm thêm tình đoànkết hữu nghị đặc biệt giữa nhân dân tỉnh Hà Tĩnh với nhân dân các bộ tộc
Lào anh em.
Do những đặc điểm về điều kiện tự nhiên và xã hội, tạo lợi thế, tiềm năngvà cả những khó khăn, thách thức cho mỗi tỉnh trong quá trình phát triển, cho
nên trong quá trình xây dựng quan hệ hợp tác, nhất là trong lĩnh vực kinh tế,
tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn có thể bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau
nhằm hạn chế, khắc phục những khó khăn, thách thức, đồng thời phát huy được
tối đa tiềm năng, thế mạnh của mỗi tỉnh.
Về truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm qua các thời kỳ lịch sử:Trong suốt tiến trình phát triển, tình đoàn kết và mối quan hệ hữu nghị
đặc biệt giữa hai nước Việt Nam - Lào nói chung và giữa tỉnh Hà Tĩnh với
các tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn nói riêng được tạo nên không phải do ý
muốn chủ quan của mỗi quốc gia, mỗi địa phương, mà do yêu cầu khách
quan, bức thiết, có ý nghĩa sống còn trong cuộc đấu tranh giữ nước và dựng
nước của nhân dân hai dân tộc và các địa phương qua các thời kỳ lịch sử.
Dưới thời kỳ phong kiến, trong quá trình đấu tranh giành và giữ nền
độc lập, các triều đại phong kiến và nhân dân hai nước đã có mối quan hệhữu nghị, giúp đỡ lẫn nhau chống giặc ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập dân
tộc, như: giúp đỡ, chi viện về lực lượng, vũ khí, lương thực, tạo địa bàn
đứng chân an toàn, thuận lợi cho quân và dân nước bạn trong những thời
điểm khó khăn, hiểm nghèo.
Có thể khẳng nói rằng: nhận thức phải nương tựa vào nhau tồn tại
bắt nguồn từ yêu cầu sống còn của hai dân tộc, hai quốc gia. Chính
việc nương tựa vào nhau, cùng nhau đoàn kết xây dựng và bảo vệTổ quốc mình là nội dung cơ bản của quan hệ Việt Nam - Lào, Lào
- Việt Nam trong suốt thời kỳ cổ, trung đại [68, tr.18-19].
Đầu thế kỷ VIII, đời Khai Nguyên (713 - 741) nhà Đường, đã nổ ra cuộc
khởi nghĩa lớn trên đất Châu Hoan, do Mai Thúc Loan (quê ở làng Mai Phụ, xã
Thạch Bắc, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh ngày nay) khởi xướng và lãnh đạo.
23
Khi cuộc kháng chiến lan rộng, chính quyền đô hộ bị đập tan ở nhiều nơi thì
cùng lúc đó, quân Chăm Pa, Chân Lạp kéo đến tiếp ứng [23, tr.110].
Trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, vào đầu năm 1425, khi nghĩa quân tiến
vào vùng đất Hà Tĩnh, nhân dân khắp nơi vùng dậy cùng đóng góp sức người,
sức của vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Trong đó, nhân dân các dân tộc thiểu
số và nhiều tù trưởng Ai Lao vùng này đã đem hàng ngàn quân cùng voichiến theo Lê Lợi chống quân xâm lược.
Đặc biệt, lịch sử của hai dân tộc Việt Nam - Lào anh em đã ghi lại những
trang sử vẻ vang của nhân dân vùng đất Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay,Khămmuộn cùng đoàn kết gắn bó keo sơn, kề vai sát cánh bên nhau trong
cuộc đấu tranh trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược.
Cùng với nhân dân cả nước, hưởng ứng Chiếu Cần Vương, nhiều cuộc
khởi nghĩa vũ trang chống thực dân Pháp đã nổ ra trên địa bàn Hà Tĩnh.
Nhiều căn cứ và đơn vị nghĩa quân của Hàm Nghi, Tôn Thất Thuyết, Phan
Đình Phùng, Cao Đạt, Hà Văn Mao, Tống Duy Tân... đã dựa vào các vùng
rừng núi giáp biên giới Việt Nam - Lào để hoạt động, được nhân dân Lào và
Việt Nam ở đây đùm bọc, nuôi dưỡng [23,tr.19]. Trong đó, vùng biên giới
Lào là đất đứng chân của phong trào đấu tranh trong những năm cuối thế kỷXIX của nhân dân tỉnh Hà Tĩnh.
Đặc biệt, từ ngày có Đảng cách mạng dẫn đường, hai dân tộc tiếp tục
kề vai sát cánh bên nhau trong cuộc trường kỳ chống kẻ thù xâm lược, vun
đắp thêm tình hữu nghị đặc biệt hiếm có giữa hai dân tộc và nhân dân hai
nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Bọn thực dân Pháp và bọn can
thiệp Mỹ là kẻ thù của ta và của dân tộc Miên, Lào. Vì vậy, ta phải ra sức
giúp đỡ anh em Miên Lào, giúp đỡ kháng chiến Miên Lào” [72, tr.39]; “Dân
tộc Việt Nam đoàn kết chặt chẽ với dân tộc anh em Miên, Lào thì sức mạnh
sẽ đủ đánh tan thực dân Pháp và can thiệp Mỹ” [73, tr.402]. Tại Hội nghịliên minh ba nước Đông Dương, tháng 9/1952, Người cho rằng: Việt Nam
kháng chiến có thành công thì Lào, Miên mới thắng lợi và Lào Miên có
thắng lợi thì Việt Nam mới hoàn toàn thắng lợi [80, tr.323].
24
Ngay từ khi mới ra đời, Chính phủ Việt nam và Chính phủ Lào đã nhanh
chóng ký kết Hiệp ước tương trợ Lào - Việt (16/10/1945) và Hiệp định về tổchức liên quân Lào - Việt (30/10/1945), chính thức xác lập về mặt nhà nước
liên minh chiến đấu giữa hai nước, hai dân tộc. Đây cũng chính là cơ sở pháp
lý mới cho sự hình thành và phát triển mối quan hệ phối hợp chiến đấu giữa
các địa phương của hai nước, đặc biệt là các địa phương cùng chung đường
biên giới, trong đó có tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn.
Từ những ngày đầu khi chính quyền cách mạng non trẻ của hai nước
đang phải lo giải quyết những công việc bộn bề, thực dân Pháp đã chớp thời
cơ ra sức đẩy mạnh xâm chiếm vùng biên giới phía Tây Hà Tĩnh. Ngày
7/9/1945, bộ đội Hà Tĩnh đã phối hợp với quân dân Lào và Bôlykhămxay tấn
công quân Pháp tại Lạc Xao, Căm Cợt, Na Pê, giải phóng nhiều thôn xóm
khác dọc Quốc lộ 8A [24, tr.15,17]. Tại đây, quân và dân Hà Tĩnh đã giúp
Lào vừa xây dựng lực lượng, bảo vệ chính quyền, vừa phối hợp tấn công quân
Pháp tại nhiều vị trí xung yếu mà chúng đóng quân [38], [25, tr.40].
Ngày11/11/1945, Uỷ ban nhân dân Cách mạng huyện Hương Sơn vàđại diện lực lượng vũ trang kháng chiến Lào đã ký một Hiệp ước thân
thiện. Hai bên quyết tâm giúp đỡ nhau cùng chung sức phòng thủ biên giới,
góp phần củng cố tình hữu nghị vốn có lâu đời giữa nhân dân tỉnh Hà Tĩnhvới nhân dân Lào nói chung và nhân dân tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn
nói riêng [24, tr.17, 45].
Trong những năm đầu kháng chiến chống thực dân Pháp, tỉnh Hà Tĩnhđược giao nhiệm vụ vận chuyển, tiếp tế phục vụ cho các chiến trường. Trong
đó, ngoài trực tiếp phục vụ chiến trường Bình Trị Thiên, tỉnh Hà Tĩnh đã trực
tiếp tiếp tế chi viện cho chiến trường Trung Lào [25, tr.45]. Từ năm 1952 -
1953, ngoài tham gia phục vụ các chiến dịch Hòa Bình, Tây Bắc và chiến
dịch Điện Biên Phủ, tỉnh Hà Tĩnh tiếp tục chi viện nhiều lương thực, thực
phẩm, thuốc men cho chiến trường Lào, trong đó có 16 đại đội trực tiếp phục
vụ trên Quốc lộ 8A sang Trung Lào. Toàn tỉnh đã huy động 30.632 dân công
đi chiến dịch. Ngoài lực lượng dân công, tỉnh Hà Tĩnh đã huy động 1.500
thanh niên trực tiếp tham gia phục vụ chiến đấu tại mặt trận [115].
25
Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, nhiệm vụ chi viện cho
các chiến trường, trong đó có chiến trường Lào đã được thực hiện một cách
kịp thời, có hiệu quả, trong đó, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Hà
Tĩnh đã có nhiều “đóng góp to lớn”. “Những đóng góp đã góp phần tích cực
vào thắng lợi chung của mặt trận, đẩy mạnh kháng chiến mau đến thành
công” [56]. Có thể khẳng định rằng, sự hợp đồng tác chiến giữa quân và dân
tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn làm nên những thắng lợi to
lớn, toàn diện trên chiến trường Lào, không chỉ có ý nghĩa bảo vệ tuyến biên
giới phía Tây tỉnh Hà Tĩnh, góp phần quan trọng vào thắng lợi của quân và
dân Lào, mà còn tác động to lớn đối với toàn bộ cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp trên chiến trường Việt Nam.
Trong những năm từ 1954 đến 1960, tỉnh Hà Tĩnh chủ yếu tập trung
giúp các tỉnh nước bạn Lào bảo vệ, phát triển lực lượng, đồng thời khôi
phục phát triển kinh tế. Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị, Tỉnh ủy Hà
Tĩnh đã ra NQ về giúp đỡ bạn xây dựng kinh tế và phát triển văn hóa ởvùng giải phóng. Ủy ban Kế hoạch tỉnh và các ngành chức năng như giaothông, quân sự, biên phòng, nông nghiệp, thủy lợi, giáo dục, văn hóa, y tế...
đã lập kế hoạch, cung ứng vật tư, điều động cán bộ, công nhân kỹ thuật
sang giúp tỉnh bạn [26, tr.198].
Đánh giá về vai trò và những đóng góp của quân và dân Hà Tĩnh trong
thời kỳ này, tại phiên làm việc với BTV Tỉnh ủy Hà Tĩnh ngày 24/3/1971,
Ban Bí thư Trung ương Đảng đã khẳng định: “Trong thời kỳ chống Mỹ, cứu
nước, xây dựng phát triển kinh tế, Đảng bộ và quân dân Hà Tĩnh đã có nhiều
cố gắng, nhất là công tác bảo đảm giao thông vận tải, kể cả lúc chiến tranh ác
liệt, công tác tuyển quân, tuyển thanh niên xung phong, huy động dân công
luôn đạt và vượt mức” [18].
Thực hiện chỉ đạo của Quân khu, mùa khô 1972 - 1973, lực lượng vũtrang tỉnh Hà Tĩnh tiếp tục đưa thêm lực lượng sang phối hợp với quân và dân
tỉnh bạn mở Chiến dịch 972 và đã giành thắng lợi lớn. Tuyên bố của Chính
phủ Lào, ngày 22/2/1973 đã ghi nhận: thắng lợi đó đã có tác dụng làm thay
đổi tương quan lực lượng trên địa bàn Trung Lào, rất có lợi cho cách mạng
26
Lào, góp phần tạo thế mạnh trong đàm phán, buộc đối phương phải ký kết
Hiệp định về lập lại hòa bình, thực hiện hòa hợp dân tộc ở Lào [42]. Hòa cùng
với chiến thắng của quân và dân ta trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử,
trên mặt trận phía Tây, quân và dân tỉnh Hà Tĩnh đã kiên cường sát cánh cùng
với quân và dân các tỉnh bạn giữ vững vùng giải phóng, đánh bại từng bước
âm mưu lấn chiếm của địch, góp phần đắc lực cùng với quân và dân Lào giải
phóng hoàn toàn đất nước vào ngày 2/12/1975.
Nhìn lại chặng đường lịch sử hào hùng và những bước phát triển của mối
quan hệ đặc biệt, hiếm có giữa hai dân tộc, trong đó có đóng góp xứng đángcủa quân và dân các địa phương hai nước, đồng chí Cayxỏn Phômvihản đã
khẳng định:
Trên những chặng đường đấu tranh cách mạng đầy hy sinh gian
khổ, có những lúc hiểm nghèo tưởng chừng như không thể qua
được, bên cạnh chúng tôi luôn luôn có các đồng chí thủy chung,
người anh em ruột thịt thân thiết, Đảng Lao động Việt Nam vĩ đại
và nhân dân Việt Nam anh hùng, có hậu phương trực tiếp rất mực
tin cậy là đất nước Việt Nam [39, tr.90].
Như vậy, sự gần gũi nhau về địa lý và có những điểm tương đồng về lịch
sử, văn hóa truyền thống, điều kiện kinh tế - xã hội là cơ sở khách quan, bền
vững cho mối quan hệ hữu nghị đoàn kết gắn bó keo sơn giữa nhân dân tỉnh
Hà Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc trong suốt tiến trình lịch sử. Đặc biệt, những nhân tố đó được thể
hiện sinh động trong lịch sử gần một thế kỷ đấu tranh cho độc lập tự do của
nhân dân hai nước chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và càng có ý nghĩatrong sự nghiệp đổi mới ngày nay của nhân dân hai nước nói chung và Đảng
bộ nhân dân Hà Tĩnh và Bôlykhămxay, Khăm muộn nói riêng.
1.1.2. Quan hệ hợp tác giữa Hà Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay vàKhămmuộn trong những năm đầu đổi mới (1986 - 1990)
Sau khi giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước,
Đảng, Chính phủ và nhân dân hai nước tiếp tục tăng cường phát triển mối
27
quan hệ hữu nghị đặc biệt và sự hợp tác chiến lược lâu dài lên một tầm cao
mới. Báo cáo Chính trị tại Đại hội ĐCS Việt Nam lần thứ IV khẳng định:
Ra sức bảo vệ và phát triển mối quan hệ đặc biệt giữa nhân dân
Việt Nam với nhân dân Lào và nhân dân Campuchia... làm cho ba
nước gắn bó với nhau trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc sẽ
mãi mãi gắn bó với nhau trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất
nước, vì độc lập và phồn vinh của mỗi nước [61, tr.112].
Trong quan hệ hợp tác với nước bạn Lào, giai đoạn 1976 - 1985, khi tình
hình kinh tế của hai nước còn gặp nhiều khó khăn sau chiến tranh, quan hệ
hợp tác hai nước Việt - Lào đã có các bước phát triển quan trọng. Ngày
18/7/1977, hai bên đã ký các hiệp định: "Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Việt -
Lào", "Hiệp định hoạch định biên giới quốc gia", "Hiệp định hợp tác kinh tế -
văn hóa - khoa học kỹ Hiệp định miễn thị thực". Đây là là những văn kiện
quan trọng, tạo cơ sở pháp lý bảo đảm cho hai nước phát huy tình hữu nghị
truyền thống, chuyển quan hệ từ chủ yếu về chính trị, quân sự và ngoại giao
sang quan hệ toàn diện cả về chính trị, an ninh, quốc phòng, ngoại giao, kinh
tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật. Hiệp ước này là nhân tố quan trọng để các
địa phương hai nước nói chung, tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay,
Khămmuộn nói riêng có cơ sở pháp lý để tăng cường hợp tác phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội và an ninh, quốc phòng.
Bước vào năm 1986, Việt Nam và Lào đều bắt đầu quá trình đổi mới đất
nước, chuyển từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN. Quan hệ hợp tác giữa hai nước tiếp tục được đẩy mạnh, nhất là
chương trình hợp tác chuyên gia, trao đổi kinh nghiệm trong quản lý kinh tế...
Trong giai đoạn này, do nguồn lực kinh tế của hai nước còn hạn hẹp, kiến
thức và kinh nghiệm để vận hành nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
còn thiếu, cùng với một số khó khăn, bất cập trong quá trình triển khai thực
hiện chủ trương, đường lối đối ngoại nên một số chương trình hợp tác được
hai bên thỏa thuận vẫn chưa được thực hiện [50, tr.6].
28
Sự phát triển không ngừng của mối quan hệ hữu nghị đặc biệt Việt - Lào
là nhân tố quan trọng, bảo đảm vững chắc cho mối quan hệ hợp tác lâu dài
giữa các địa phương hai nước, nhất là các tỉnh có chung đường biên giới,
trong đó có tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn [115]. Từ năm1967, theo quyết định của Trung ương, tỉnh Nghệ An kết nghĩa với tỉnh Xiêng
Khoảng, tỉnh Hà Tĩnh kết nghĩa với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn [116].
Sau khi hòa bình lập lại, năm 1976, tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Nghệ An sáp nhập
thành tỉnh Nghệ Tĩnh. Trong giai đoạn này, mối quan hệ hữu nghị hợp tác
giữa Hà Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn được đặt trong mối quan hệgiữa tỉnh Nghệ Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn.
Trong bối cảnh tình hình hai nước sau khi hòa bình lập lại, Đảng bộ và
nhân dân tỉnh Nghệ Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn đều phải đối mặt
với muôn vàn khó khăn, thử thách. Tỉnh Nghệ Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay,Khămmuộn đều là những tỉnh nghèo, có điểm xuất phát thấp, lại bị chiến
tranh tàn phá nặng nề. Nông nghiệp còn lạc hậu, mang nặng tính tự cung, tựcấp; công nghiệp, thương nghiệp, dịch vụ kém phát triển, đời sống nhân dân
gặp muôn vàn khó khăn.Thực hiện đường lối đổi mới tại Đại hội lần thứ VI của ĐCS Việt Nam
và Đại hội lần thứ IV của Đảng NDCM Lào, Đảng bộ và nhân dân tỉnh NghệTĩnh và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn triển khai công cuộc đổi mới,
chuyển từ nền kinh tế tự nhiên sang nền kinh tế hàng hóa, từ cơ chế quản lý
tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, đổi
mới chính sách đối ngoại... Các NQ qua các kỳ Đại hội Đảng bộ và các vănbản hội đàm thông qua các chuyến thăm và làm việc giữa lãnh đạo tỉnh
Nghệ Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn trong thời kỳ này đều nhấn
mạnh quyết tâm tiếp tục đẩy mạnh và tăng cường mối quan hệ hợp tác
truyền thống giữa tỉnh Nghệ Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn, trước
hết là “duy trì các chuyến thăm nhau và ký kết các chương trình hợp tác”.Thực hiện chủ trương đã được lãnh đạo các tỉnh thống nhất: "Mỗi năm một
lần Đoàn đại biểu cấp cao tỉnh này đến tỉnh kia để làm việc và ký kết" [117],
các chuyến thăm và làm việc giữa các Đoàn đại biểu cấp cao giữa tỉnh Nghệ
29
Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn được duy trì thường xuyên. Nội
dung, chương trình hợp tác giữa tỉnh Nghệ Tĩnh với các tỉnh bạn Lào giai
đoạn này nhằm giúp nhau khai thác thế mạnh của mỗi bên, ổn định phát
triển kinh tế, văn hóa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, góp phần giữvững biên giới hoà bình, hữu nghị theo hướng toàn diện, cơ bản, lâu dài có
hiệu quả [162]. Trong giai đoạn này, tỉnh Nghệ Tĩnh chủ yếu tập trung giúp
các tỉnh bạn về giống cây trồng vật nuôi, trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm thâm
canh sản xuất nông nghiệp; khai thác, chế biến, tiêu thụ hàng hóa; hỗ trợ xây
dựng một số cơ sở vật chất thiết yếu với quy mô vừa và nhỏ phục vụ sản
xuất và đời sống; bồi dưỡng đào tạo cán bộ, công nhân kỹ thuật; phối hợp
thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh [118], [119].
Điểm nổi bật trong quan hệ hợp tác giữa tỉnh Nghệ Tĩnh với tỉnh
Bôlykhămxay, Khămmuộn là việc tỉnh Nghệ Tĩnh tăng cường cử chuyên gia
trên các lĩnh vực sang giúp tỉnh bạn. Tính riêng trong 10 năm, từ 1977 -
1987, tỉnh Nghệ Tĩnh đã cử 126 chuyên gia sang giúp tỉnh Bôlykhămxay,Khămmuộn theo chương trình kế hoạch đã được các bên thống nhất ký kết
[136]. Trong đội ngũ chuyên gia được cử sang tỉnh Bôlykhămxay,Khămmuộn chủ yếu thuộc các lĩnh vực mà bạn còn thiếu hụt, như công
nghiệp, nông nghiệp, thủy lợi, thủy sản, giáo dục, y tế, truyền thanh, an
ninh, quốc phòng... Số lượng chuyên gia giúp tỉnh Bôlykhămxay,Khămmuộn ngày càng tăng [128]. Đặc biệt, từ cuối năm 1984, thực hiện
chủ trương của Trung ương, Nghệ Tĩnh đã cử 2 tổ chuyên gia thường trú
tại tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn [116]. Tỉnh Nghệ Tĩnh còn giúp tỉnh
Bôlykhămxay, Khămmuộn một số giống cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh
tế cao và nhiều nông cụ, máy móc, phân bón, thuốc trừ sâu... phục vụ sản
xuất nông nghiệp.
Trong những năm từ 1986 - 1990, tỉnh Nghệ Tĩnh đã cử nhiều cán bộ kỹ
thuật sang phối hợp giúp đỡ tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn xây dựng các cơ
sở sửa chữa máy móc, sản xuất nông cụ, vật liệu xây dựng tại huyện Mường
Mày, Lạc Xao, Mường Cầu [162]. Mặc dầu điều kiện kinh tế còn gặp nhiều
khó khăn nhưng tỉnh Nghệ Tĩnh đã đầu tư giúp tỉnh Bôlykhămxay,
30
Khămmuộn xây dựng một số công trình thiết yếu, như Bệnh viện ở Mường
Khăm, Trường cấp 1 - 2 và nhà khách ở thị trấn Căm Cợt [126].
Hoạt động buôn bán, trao đổi hàng hóa giữa tỉnh Nghệ Tĩnh và tỉnh
Bôlykhămxay, Khămmuộn ngày càng gia tăng do yêu cầu sản xuất và đời
sống của nhân dân, đặc biệt là các địa bàn biên giới. Tuy kim ngạch xuất
nhập khẩu thời kỳ này chưa cao nhưng đã mang lại hiệu quả thiết thực, vì
đáp ứng được yêu cầu khôi phục, ổn định và phát triển kinh tế và nhu cầu
thiết yếu phục vụ đời sống của nhân dân ba tỉnh. Các hoạt động trao đổi mua
bán hàng hóa của cư dân dọc biên giới tỉnh diễn ra khá phát triển, giúp đồng
bào miền núi, vùng xa xôi hẻo lánh cải thiện cuộc sống, chung sức chung
lòng giữ vững an ninh chính trị khu vực biên giới [162].
Thực hiện những nội dung thỏa thuận đã ký, trong thời gian từ 1986 -
1990, hàng năm, nhiều hoạt động giao lưu, biểu diễn văn hóa nghệ thuật, thểdục thể thao, phim ảnh, các hoạt động xã hội được phối hợp tổ chức thường
xuyên, nhất là tại các địa phương kết nghĩa, các địa bàn vùng sâu, vùng xa,
vùng biên giới, góp phần giúp đồng bào các bộ tộc Lào xây dựng đời sống
văn hoá mới, loại bỏ dần các phong tục, tập quán lạc hậu [19]. Tỉnh Nghệ
Tĩnh đã giúp đỡ tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn trao đổi kinh nghiệm về tổ
chức mạng lưới y tế từ tỉnh xuống huyện và cơ sở, công tác vệ sinh phòng
bệnh nhất là chống sốt rét, sốt xuất huyết, phòng bệnh lao... Mặc dù điều kiện
trong tỉnh còn gặp nhiều khó khăn, tỉnh Nghệ Tĩnh đã quan tâm giúp đỡ viện
trợ tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn trang thiết bị dạy học, cử nhiều đoàn cánbộ giáo viên sang giúp các tỉnh bạn chia sẻ kinh nghiệm, trực tiếp giảng dạy
và làm công tác xoá mù chữ. Nhiều học sinh tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn
được tiếp nhận và đào tạo các chuyên ngành y tế, nông nghiệp, tài chính,
thống kê... [128].
Mặc dù còn bộ lộ nhiều hạn chế do những nguyên nhân khác nhau, nhất
là điều kiện kinh tế trong tỉnh còn nhiều khó khăn nhưng những kết quả đạt
được trong hợp tác văn hoá và giáo dục với các tỉnh bạn trong giai đoạn này
31
đã góp phần quan trọng tăng cường tình hữu nghị và hợp tác giữa Đảng bộvà nhân dân tỉnh Nghệ Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn.
Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh và công tác biên giới, tỉnh Nghệ
Tĩnh đã tăng cường giúp bạn đào tạo cán bộ, sĩ quan chuyên nghiệp. Hàng
năm, tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn đã cử nhiều cán bộ, sĩ quan, đặc biệt là
sĩ quan chính trị sang học tập, tập huấn tại tỉnh Nghệ Tĩnh. Thực hiện chỉ
đạo của Bộ Quốc phòng, Quân khu IV và yêu cầu tỉnh Bôlykhămxay,
Khămmuộn, nhiều chuyên gia quân sự tỉnh Nghệ Tĩnh được cử sang giúp
bạn xây dựng chiến lược quốc phòng dài hạn, lập kế hoạch phòng thủ từng
thời kỳ và ở từng địa bàn, phù hợp với tình hình thực tế. Tỉnh Nghệ Tĩnh đã
tăng cường phối hợp với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn thực hiện nhiệm vụbảo vệ an ninh biên giới, ngăn chặn các hoạt động tội phạm, vượt biên trái
phép, buôn lậu qua biên giới, nhất là buôn lậu ma túy; tiêu diệt tận gốc các ổ
phỉ, các băng nhóm chống đối có vũ trang.
Trong giai đoạn 1986 - 1990, quan hệ hữu nghị hợp tác giữa tỉnh Nghệ
Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn diễn ra trong bối cảnh hai nước và
các địa phương đang gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhất là trong điều
kiện kinh tế tỉnh còn nghèo, chưa thoát khỏi cơ chế quan liêu bao cấp, lại
vừa phải đối phó với âm mưu chống phá thâm độc của các thế lực thù địch
trong và ngoài nước. Tình hình đó đã ảnh hưởng lớn đến chất lượng, hiệu
quả của các chương trình, nội dung hợp tác, nhất là trong lĩnh vực kinh tế -
xã hội. Tuy vậy, nhờ sự nỗ lực của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Nghệ Tĩnh và
tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn, với truyền thống đoàn kết gắn bó lâu đời
và những ưu đãi đặc biệt giành cho nhau, nhìn chung, quan hệ hữu nghị
hợp tác giữa tỉnh Nghệ Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn tiếp tục
được tăng cường và thu được những kết quả đáng phấn khởi, nhất là hợp
tác về chính trị và an ninh quốc phòng [184]. Việc triển khai thực hiện
nhiệm vụ hợp tác trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa xã hội bước đầu được
quan tâm và thu được những kết quả nhất định[161]. Đặc biệt, sự quan tâm,
giúp đỡ về chuyên gia, cung ứng cơ sở vật chất, trang thiết bị thiết yếu
32
phục vụ sản xuất, đời sống đã giúp tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn giải
quyết kịp thời những khó khăn trước mắt. Hoạt động ngoại thương giữa
tỉnh Nghệ Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn chủ yếu diễn ra dưới
hình thức hữu nghị và ưu đãi đặc biệt, được bao cấp bằng ngân sách nhà
nước [162], [163]. Trong thời kỳ khó khăn, hàng hoá của Việt Nam và của
tỉnh Nghệ Tĩnh đến với các bản làng của tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn,
nhất là địa bàn vùng sâu, vùng xa đã khắc phục được một phần thực trạng
hết sức khan hiếm hàng hoá của các tỉnh bạn, góp phần ổn định tình hình,
nâng cao đời sống cho nhân dân [126], [127]..
Tuy nhiên, trong giai đoạn này, những kết quả đạt được trong quá
trình triển khai thực hiện các thỏa thuận hợp tác đã được các bên thống
nhất còn thấp so với yêu cầu, mong muốn và tiềm năng của tỉnh Nghệ Tĩnh
và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn [19]. Nhiều nội dung hợp tác đã được đềra nhưng thực hiện thiếu kịp thời, có nơi, có lúc thiếu tính khả thi [174].
Tại một số thời điểm, trong lĩnh vực hợp tác nông nghiệp "Chưa hoạt động
và thực hiện được những vấn đề đã ký"; trong lĩnh vực y tế, "Tất cả đã ký ởvăn bản nhưng chưa thực hiện được" [20]. Quan hệ hợp tác chủ yếu đang
diễn ra ở khu vực kinh tế Nhà nước, trong đó, lĩnh vực được chú trọng nhất
là nông - lâm nghiệp. Do đó, nhìn chung việc hợp tác giữa tỉnh Nghệ Tĩnhvới tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn đem lại hiệu quả chưa cao, cả chiều
rộng lẫn chiều sâu, nặng tính chất bao cấp, phiến diện; chưa khơi dậy, phát
huy được tiềm năng, thế mạnh của tỉnh Nghệ Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay,Khămmuộn. Trong quá trình hợp tác, có những thời điểm, "Bôlykhămxay
thì chưa biết làm, Nghệ Tĩnh thì nể, cả hai bên đều phải rút kinh nghiệm"
[164]. Tuy nhiên, kết quả và những kinh nghiệm bước đầu trong quá trình
hợp tác giữa tỉnh Nghệ Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn trong
những năm đầu thực hiện đường lối đổi mới đã tạo cơ sở, tiền đề quan
trọng giúp Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Nghệ Tĩnh và tỉnh
Bôlykhămxay, Khămmuộn tiếp tục tăng cường hợp tác trong những năm
sau này đạt hiệu quả cao hơn.
33
1.2. CHỦ TRƯƠNG VÀ QUÁ TRÌNH CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG QUAN HỆHỮU NGHỊ, HỢP TÁC VỚI TỈNH BÔLYKHĂMXAY VÀ KHĂMMUỘN
CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH HÀ TĨNH TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2000
1.2.1. Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh lãnh đạo xây dựng quan hệ hữu nghị,hợp tác với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn từ năm 1991 đến năm 1995
1.2.1.1. Tình hình thế giới và hai nước Việt Nam, LàoTrong những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, hệ thống XHCN ở
Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, phong trào cách mạng thế giới lâm vào thoái
trào. Trên thế giới, cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đang diễn
ra như vũ bão, những thành tựu to lớn của nó đã tác động mạnh mẽ đến sựphát triển của lực lượng sản xuất, làm thay đổi tương quan lực lượng giữa
các nước. Xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra và tác
động mạnh mẽ đến tình hình các quốc gia, khu vực trên toàn thế giới. Đểđưa đất nước vượt qua cuộc khủng hoảng, đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tếxã hội, Đảng và Chính phủ hai nước Việt Nam - Lào đã tiếp tục đẩy mạnh
công cuộc đổi mới nhằm khơi dậy, phát huy sức mạnh nội lực, thực hiện
chính sách mở rộng quan hệ đối ngoại để nhanh chóng hội nhập với các
nước trong khu vực và quốc tế.
Đối với Việt Nam, căn cứ mục tiêu chặng đường đầu của thời kỳ quá độlên CNXH, Đại hội lần thứ VII của Đảng (6/1991) đã xác định mục tiêu của
chính sách đối ngoại đổi mới là "giữ vững hòa bình, mở rộng quan hệ hữu
nghị và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng
CNXH và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh
chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộxã hội" [63, tr.88]. Đại hội đã đề ra nội dung cơ bản của chính sách đối ngoại
đổi mới "Thực hiện một chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ rộng mở, đadạng hóa và đa phương hóa các quan hệ đối ngoại với tinh thần Việt Nam
muốn làm bạn của tất cả các nước trong cộng đồng, phấn đấu vì hòa bình, độc
lập và phát triển" [63, tr.147].
Từ quan điểm ủng hộ chính sách cùng tồn tại hòa bình giữa các nước có
chế độ chính trị xã hội khác nhau, Đại hội VII đã phát triển chủ trương "thêm
34
bạn, bớt thù" của Đại hội VI thành phương châm "Việt Nam muốn là bạn với
tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và
phát triển". So với Đại hội VI, đây là bước phát triển mới về nhận thức của
Đảng trong đường lối đối ngoại trước những biến chuyển của tình hình thếgiới và khu vực.
Hội nghị lần thứ ba BCH Trung ương ĐCS Việt Nam khóa VII
(6/1992) xác định bốn phương châm trong hoạt động đối ngoại của Việt
Nam, trong đó nổi bật phương châm đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệđối ngoại; tích cực tham gia hợp tác khu vực, đồng thời mở rộng quan hệ với
tất cả các nước. Từ đây Việt Nam đã xác lập vị thế mới trong hệ thống quan
hệ quốc tế, một bước chuẩn bị căn bản để gia nhập ASEAN.
Ngày 19/2/1992, Việt Nam và Lào đã ký “Hiệp ước Bali”, chính thức trở
thành quan sát viên của ASEAN và lần lượt Việt Nam (1995) và Lào (1997)
trở thành thành viên chính thức của ASEAN, đánh dấu mốc quan trọng trong
quá trình hội nhập khu vực và quốc tế của hai nước; mở ra cơ hội lớn để Việt
Nam - Lào tiếp tục đẩy nhanh quá trình hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học -
kỹ thuật trên cơ sở các thỏa thuận đã được ký kết [30, tr.331].
Năm 1992 là năm có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động đối ngoại giữa
hai nước. Tổng Bí thư ĐCS Việt Nam Đỗ Mười đã có chuyến thăm chính
thức CHDCND Lào từ ngày 12 đến ngày 16/8/1992. Hai bên ra Tuyên bốchung nhấn mạnh "quyết tâm phấn đấu không mệt mỏi nhằm củng cố và tăng
cường hơn nữa quan hệ hữu nghị và đoàn kết đặc biệt Việt Nam - Lào; tiếp
tục đổi mới phương thức hợp tác nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả thiết
thực, phù hợp với khả năng mỗi nước theo nguyên tắc giữ vững nền độc lập,
chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi, chân thành giúp đỡ lẫn nhau trên tình
đồng chí, anh em" [121, tr.3].
Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (Tháng
1/1994) tiếp tục quán triệt sâu sắc yêu cầu vận dụng đúng đắn các phương
châm xử lý các quan hệ quốc tế. Hội nghị khẳng định kết quả hoạt động đối
ngoại là một trong ba thành tựu quan trọng trong công cuộc đổi mới, đồng
35
thời xác định rõ nhiệm vụ đối ngoại là "tiếp tục thi hành đường lối đối ngoại
độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại...
phát huy các điểm đồng về lợi ích và thu hẹp các bất đồng, tăng thêm bạn và
phát triển sự hợp tác quốc tế" [64, tr.55].
Việc thực hiện đường lối chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa,
đa phương hóa trong quan hệ quốc tế của Đảng và nhà nước cùng với những
thành tựu về kinh tế - xã hội trong 10 năm đổi mới, đã tạo nên thế và lực mới
cho đất nước. Trong đó, "với đổi mới trong tư duy đối ngoại cũng như trongđường lối chiến lược đối ngoại, ta đã từng bước đẩy lùi được tình thế cực kỳnguy hiểm về chính trị cũng như về kinh tế, cải thiện được môi trường quốc
tế, tạo điều kiện cho sự nghiệp hòa bình phát triển đất nước” [77, tr.11]; đồng
thời "đánh dấu sự hoàn tất của việc đặt nền móng cho mối quan hệ mới giữa
Việt Nam và các nước" [36, tr.213] trong khu vực châu Á - Thái Bình Dươngvà trên thế giới.
Về mối quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa hai nước Việt Nam - Lào,
trong bài phát biểu tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng Nhân dân
cách mạng Lào (18/3/1996), đồng chí Đỗ Mười khẳng định:
ĐCS Việt Nam và Đảng NDCM Lào cùng chung cội nguồn, chung
một lý tưởng, gắn bó keo sơn bởi tình hữu nghị đoàn kết đặc biệt và
sự hợp tác anh em toàn diện. Quan hệ Việt - Lào do Chủ tịch HồChí Minh vĩ đại và Chủ tịch Cay Xỏn Phômvihản kính mến cùng
hai Đảng chúng ta dày công xây dựng, vun đắp, trải qua thời gian
và thử thách ngày càng trở nên bền vững [81, tr.124].
Bước phát triển mới trong quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa Việt Nam -
Lào trong giai đoạn này là việc hai nước quyết định ký kết Thỏa thuận về chiến
lược hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật giai đoạn 1996 - 2000. Lần đầu
tiên, các nội dung hợp tác mang tính chiến lược tạo tiền đề cho việc triển khai
hợp tác những năm sau này đã được đặt ra. Nhiều chương trình, dự án hợp tác
của giai đoạn 1985 - 1990 đã tạm ngưng, nay lại được tiếp tục thực hiện [50].
Đối với nước bạn Lào, giai đoạn 1986 - 1991, Lào tiếp tục thực hiện
đường lối đổi mới mà Đại hội Đảng lần thứ IV (1986) và lần thứ V (1991)
36
đã đề ra. Mục tiêu của giai đoạn này là củng cố cơ sở hạ tầng, từng bước
nâng cao đời sống của nhân dân các bộ tộc, thu nhập GDP bình quân 350
USD/người, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt là 6%; mở rộng quan hệ quốc tếvà thu hút vốn đầu tư [51].
Trên cơ sở nghị quyết Đại hội Đảng NDCM Lào lần thứ V, căn cứ vào
bối cảnh quốc tế và tình hình đất nước, Hội nghị Trung ương Đảng NDCM
Lào lần thứ 6 (khóa V) tháng 2/1993 đã đề ra kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội đến năm 2000 với mục tiêu chiến lược: giải quyết nhu cầu cấp bách về đời
sống nhân dân các bộ tộc; nâng cao mức sống vật chất và tinh thần cho toàn
dân; đảm bảo ổn định chính trị - xã hội trong cả nước bằng việc kết hợp chặt
chẽ giữa phát triển kinh tế - xã, an ninh và hội với quốc phòng đối ngoại.
Trong bài phát biểu tại Đại hội ĐCS Việt Nam lần thứ VII, trên cương vịChủ tịch Đảng NDCM Lào, đồng chí Cayxỏn Phômvihản nhấn mạnh:
ĐCS Việt Nam và Đảng NDCM Lào cùng sinh ra từ một cội nguồn,
cùng chung mục tiêu, lý tưởng. Tuy mỗi Đảng có phương pháp vàbước đi khác nhau do đặc điểm của mỗi nước, nhưng giữa hai Đảng
chúng ta luôn luôn có sự phối hợp hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau rất chặt
chẽ, hài hòa, luôn trao đổi, bổ sung kinh nghiệm, giúp cho hai Đảng
chúng ta ngày càng trưởng thành, vững mạnh và không ngừng nâng
cao khả năng lãnh đạo của mỗi Đảng ngang tầm với các giai đoạn
cách mạng [49, tr.5].
Đường lối và chính sách đổi mới mở cửa đã tạo hành lang pháp lý và
môi trường thuận lợi cho quan hệ giữa hai nước Việt - Lào, đồng thời là
nhân tố thúc đẩy mối quan hệ hữu nghị và hợp tác truyền thống giữa các
ngành, các địa phương hai nước nói chung và tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh
Bôlykhămxay, Khămmuộn nói riêng.
1.2.1.2. Tỉnh Hà Tĩnh được tái lập và chủ trương của Đảng bộ tỉnh vềquan hệ hữu nghị, hợp tác với tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn
Tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa VIII (tháng 8/1991) đã thông qua Nghịquyết chia tỉnh Nghệ Tĩnh thành hai tỉnh, Hà Tĩnh và Nghệ An. Sau khi được
tái lập, tỉnh Hà Tĩnh có diện tích tự nhiên 6.055,6 km2, dân số 1.173.000
37
người, 10 đơn vị hành chính, gồm 8 huyện và 2 thị xã. Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnhsau khi tái lập có 60.712 đảng viên, chiếm 5% dân số của tỉnh, có 760 tổ chức
cơ sở đảng, trong đó 90% là tổ chức cơ sở đảng vững mạnh và khá [98].
Ngay sau khi có Quyết định thành lập Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh của BộChính trị, Tỉnh ủy Hà Tĩnh nhanh chóng ổn định tổ chức và tích cực chuẩn
bị Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII (vòng 2). Ngày 20/1/1992, Đại hội
Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII chính thức khai mạc. Trên cơ sở đánh giá thực
trạng tình hình kinh tế xã hội sau khi tái lập tỉnh, Đại hội đề ra phươnghướng chung là: “Phát triển kinh tế hàng hóa, trước hết đẩy mạnh sản xuất
nông, lâm, ngư nghiệp toàn diện, trọng tâm là lương thực, thực phẩm... Đoànkết và hợp tác nhiều mặt với các tỉnh bạn... để hình thành các vùng kinh tếhàng hóa lớn" [53, tr.17,18].
Về công tác đối ngoại và hợp tác với các tỉnh bạn Lào, Đại hội chủtrương tiếp tục tăng cường mối quan hệ hữu nghị hợp tác với hai tỉnh nước
bạn Lào có chung đường biên giới là tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn, xúc
tiến các cuộc gặp gỡ, hội đàm cấp cao giữa tỉnh Hà Tĩnh và các tỉnh bạn, ký
kết các thỏa thuận tạo cơ sở cho sự hợp tác giữa các ngành, các địa phương.
Sau Đại hội Đảng bộ tỉnh, chủ trương tăng cường mối quan hệ hữu nghị
và hợp tác giữa tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay được tiếp tục khẳng định
trong cuộc Hội đàm cấp cao trong chuyến thăm và làm việc tại Bôlykhămxay
của Đoàn đại biểu tỉnh Hà Tĩnh, tháng 11/1992. Hai bên khẳng định tiếp tục
“Vun đắp mối quan hệ hữu nghị đặc biệt và hợp tác toàn diện được đơm hoakết trái, không ngừng phát triển”; “Tiếp tục tăng cường hợp tác giữa hai tỉnh
nhằm làm cho nền kinh tế của cả hai bên không ngừng được phát triển mạnh
mẽ” [150]. Theo đó, hai bên “Tăng cường lưu thông các loại hàng hóa mà
mỗi bên có khả năng và nhu cầu tiêu thụ trên thị trường hai tỉnh, hai nước hay
xuất khẩu đi nước thứ ba trên cơ sở tuân thủ luật pháp của mỗi nước đã định”
[150]. Hai bên thống nhất “tăng cường xây dựng tuyến biên giới quốc gia
giữa hai tỉnh trở thành tuyến biên giới hòa bình, hữu nghị và hợp tác bền vững
và ổn định lâu dài” [150].
38
Nghị quyết số 13 NQ/TU, ngày 18/10/1995 của BCH Đảng bộ tỉnh vềphát triển kinh tế - xã hội năm 1995 tiếp tục khẳng định: “Tăng cường phát
triển quan hệ hợp tác hữu nghị với các tỉnh bạn và quốc tế” [99]; đẩy mạnh
phát triển kinh tế đối ngoại, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm trong và
ngoài nước, nhất là đối với các nước trong khu vực, các tỉnh bạn Lào. Đặc
biệt, NQ Đại hội Đảng bộ tỉnh và các NQ chuyên đề đã thống nhất từng bước
đầu tư, hình thành các khu kinh tế trọng điểm, trong đó, vùng kinh tế Đường 8
gắn với đầu tư nâng cấp Cửa khẩu Cầu Treo, chợ đường biên, cảng Xuân Hải,
cảng Vũng Áng, các khu công nghiệp mới, khu kinh tế hàng hóa lớn...[100],
tạo cơ sở quan trọng trong việc thực hiện các nội dung hợp tác với tỉnh
Bôlykhămxay, Khămmuộn.
Như vậy, ngay sau khi tái lập tỉnh, NQ Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứXIII, và các NQ chuyên đề của BTV, BCH Tỉnh ủy, các văn bản thỏa thuận
tại các cuộc Hội đàm cấp cao giữa tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay vàKhămmuộn đã khẳng định quyết tâm tiếp tục tăng cường quan hệ hợp tác lâu
dài, toàn diện và có hiệu quả trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa-xã hội, an ninh, quốc phòng, giao lưu hữu nghị nhân dân... với Đảng bộ và
nhân dân tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn; không ngừng “Vun đắp mối quan
hệ hữu nghị đặc biệt và hợp tác toàn diện được đơm hoa kết trái, không ngừng
phát triển” [150]; “Trong quan hệ với bạn, bảo đảm sự gắn bó thủy chung
giữa nhân dân và lực lượng vũ trang ba tỉnh, đặc biệt giữa tỉnh ta với các tỉnh
bạn Bôlykhămxay và Khămmuộn nhằm xây dựng tuyến biên giới hòa bình,
hữu nghị và hợp tác phát triển, không để các thế lực thù địch lợi dụng chia rẽvà tạo cớ phá hoại” [101]; coi đây là tài sản vô giá, là điều kiện đảm bảo cho
cho sự ổn định chính trị và an ninh và việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát
triển kinh tế xã hội của tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn.
Chủ trương tăng cường hợp tác với các tỉnh bạn Lào của Đảng bộ tỉnh
được tiếp tục khẳng định tại Đại hội lần đầu tiên sau ngày tái lập tỉnh và ngay
sau đó, chủ trương này được tiếp tục khẳng định trong chuyến thăm các tỉnh
bạn của lãnh đạo tỉnh Hà Tĩnh đã thể hiện lập trường, quan điểm trước sau
như một của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Hà Tĩnh luôn coi trọng và không
39
ngừng nỗ lực vun đắp tình hữu nghị và hợp tác toàn diện với các tỉnh bạn Lào
cùng chung biên giới. Những chủ trương đó vừa thể hiện sự kế thừa, tiếp nối
những thành quả đã đạt được của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Nghệ Tĩnh trước
đây, vừa thể hiện quan điểm, quyết tâm của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Hà
Tĩnh tiếp tục vun đắp mối quan hệ hữu nghị bền chặt thủy chung với Đảng bộvà nhân dân các bộ tộc Lào anh em, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng
trong tình hình mới.
1.2.1.3. Quá trình tổ chức thực hiệnNhằm triển khai thực hiện có hiệu quả công tác đối ngoại, Tỉnh ủy,
UBND tỉnh đã kịp thời thành lập các cơ quan đơn vị chuyên trách và các cơ
quan tham mưu về công tác đối ngoại. Trong những năm 1991 - 1995, Ban
Kinh tế đối ngoại đã được thành lập và đi vào hoạt động. Ban Kinh tế đối
ngoại là cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, tham mưu giúp Tỉnh ủy,
UBND tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước và tham mưu trong lĩnhvực kinh tế và hoạt động đối ngoại nói chung và quan hệ hợp tác với tỉnh
Bôlykhămxay, Khămmuộn nói riêng. Đồng chí Nguyễn Văn Cầm được bổ
nhiệm làm Trưởng ban. Thực hiện chỉ đạo của Tỉnh ủy, mặc dầu còn gặp
muôn vàn khó khăn trong những ngày đầu mới thành lập, Ban Kinh tế đối
ngoại đã tích cực tham mưu cho Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh ban hành nhiều
chủ trương, chính sách và chỉ đạo các ngành, các địa phương triển khai thực
hiện nhiệm vụ liên doanh, liên kết với các tỉnh bạn Lào phát triển kinh tế, mở
rộng thị trường xuất nhập khẩu.
Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, nhằm đáp ứng yêu cầu cấp bách
trong công tác biên giới, Ban Biên giới tỉnh đã được thành lập và nhanh
chóng ổn định tổ chức, bộ máy và đi vào hoạt động. Ban Biên giới là cơ quan
không chuyên trách, do đồng chí Nguyễn Hoàng Trạch - Phó Chủ tịch UBND
tỉnh làm Trưởng ban và đồng chí Nguyễn Bá Giai - Phó Chánh Văn phòng
UBND tỉnh làm Phó ban Thường trực, cùng các thành viên là đại diện các
ngành liên quan, được giao nhiệm vụ tham mưu cho cấp ủy, chính quyền, trực
tiếp chỉ đạo các vấn đề về biên giới.
40
Thực hiện chủ trương của Đảng bộ tỉnh, Văn phòng cấp ủy và UBND
các cấp được giao là cơ quan tham mưu cho cấp ủy, chính quyền các cấp vềcông tác đối ngoại. Các ngành liên quan, đặc biệt là Đối ngoại, Kế hoạch và
Đầu tư, Công an, Quân sự, Biên phòng và các huyện biên giới đã được kịpthời bố trí đội ngũ cán bộ có phẩm chất và năng lực phụ trách công tác tham
mưu cho cấp ủy, chính quyền về công tác đối ngoại.
Chủ trương tăng cường hợp tác với tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn
của Đảng bộ tỉnh được khẳng định tại Đại hội lần đầu tiên sau ngày tái lập
tỉnh và tại chuyến thăm các tỉnh bạn của lãnh đạo tỉnh đã được Ban Tuyên
giáo Tỉnh ủy tiếp tục cụ thể hóa thành các nội dung thông tin thời sự định
hướng và chỉ đạo Đài Phát thanh - Truyền hình, Báo Hà Tĩnh, các phương
tiện thông tin đại chúng, các ngành, đoàn thể, các địa phương đẩy mạnh tuyên
truyền trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân cổ vũ động viên toàn
Đảng, toàn quân và toàn dân tiếp tục vun đắp mối quan hệ hữu nghị bền chặt
thủy chung với Đảng bộ và nhân dân các bộ tộc Lào anh em, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ cách mạng trong tình hình mới.
Ngoài đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho cán bộ
đảng viên và các tầng lớp nhân dân về vị trí, vai trò, nhiệm vụ công tác đối
ngoại nói chung, quan hệ hợp tác với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn nói
riêng, các cấp ủy Đảng, chính quyền, các ngành, đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở đã
kịp thời lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt và tổ chức thực hiện các chương trình,
nội dung hợp tác trên các lĩnh vực.
Trong lĩnh vực chính trị: Điểm nổi bật trong quan hệ hợp tác trong lĩnh
vực chính trị giữa giữa tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn là
việc duy trì các chuyến thăm lẫn nhau của lãnh đạo cấp cao ba tỉnh.
Từ ngày 01 đến ngày 6/11/1992, Đoàn đại biểu cấp cao tỉnh Hà Tĩnh đã
sang thăm chính thức tỉnh Bôlykhămxay. Đây là chuyến thăm Bôlykhămxay
đầu tiên của lãnh đạo cấp cao tỉnh Hà Tĩnh kể từ ngày tái lập tỉnh. Ngày
3/11/1992, Đoàn đại biểu hai tỉnh đã tiến hành hội đàm và thống nhất ký kết
văn bản thỏa thuận hợp tác trên các lĩnh vực.
41
Hai bên thống nhất tiếp tục hợp tác chế biến và tiêu thụ sản phẩm gỗ, hợp
tác chăn nuôi; tiến hành nghiên cứu hợp tác trồng chè, quế; hợp tác tổ chức các
vùng ươm các loại cây ăn quả có giá trị xuất khẩu. Hai bên thống nhất tăngcường củng cố, xây dựng biên giới quốc gia giữa hai tỉnh thành tuyến biên giới
hòa bình, hữu nghị, hợp tác bền vững; phối hợp tiến hành cấp giấy chứng minh
nhân dân riêng cho nhân dân các xã, bản dọc hai bên biên giới; định kỳ 6 tháng
và 1 năm tiến hành giao ban giữa Ban biên giới hai tỉnh [150].
Nhằm tiếp tục tăng cường quan hệ hợp tác giữa tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh
Khămmuộn, năm 1993, Đoàn Đại biểu cấp cao tỉnh Khămmuộn đã sang
thăm Hà Tĩnh và ký kết thỏa thuận hợp tác. Đồng thời, trong thời gian này,
mỗi tỉnh đã cử 5 Đoàn công tác gồm chuyên viên các ngành công nghiệp,
thủy lợi, nông nghiệp, thương mại, công an, biên phòng sang bàn chươngtrình hợp tác cụ thể [11].
Nhằm tăng cường các cuộc gặp gỡ, trao đổi giữa lãnh đạo hai tỉnh, Đoànđại biểu cấp cao tỉnh Bôlykhămxay đã sang thăm tỉnh Hà Tĩnh, từ ngày 2/3
đến ngày 5/3/1994. Hai bên đánh giá tình hình kết quả thực hiện các thỏa
thuận đã ký kết và thống nhất khẳng định: Việc thực hiện các nội dung hợp
tác đã “bước đầu triển khai có kết quả một số nhiệm vụ quan trọng thể hiện
trên các lĩnh vực. Tuy vậy vẫn còn một số việc chưa thực hiện được, những
vấn đề này hai bên sẽ tự soát xét để tiếp tục đưa vào chương trình thực hiện
trong thời gian tới ” [151].
Hai bên khẳng định tiếp tục thực hiện các nội dung thỏa thuận đã ký;
thống nhất đề nghị Chính phủ hai nước đầu tư nâng cấp cửa khẩu Cầu Treo
thành cửa khẩu Quốc tế; nhất trí hằng năm, mỗi bên cử một đoàn gồm 10 cán
bộ chuyên môn sang học tập kinh nghiệm lẫn nhau; ngoài ra, tỉnh Hà Tĩnhgiúp tỉnh bạn vật liệu để xây dựng nhà khách trị giá 100 triệu đồng [151].
Tiếp đó, nhận lời mời của các tỉnh bạn, Đoàn đại biểu tỉnh Hà Tĩnh đã
có các chuyến thăm và làm việc tại tỉnh Bôlykhămxay và tỉnh Khămmuộn
[111], [153]. Trong các chuyến thăm của lãnh đạo cấp cao, tại mỗi tỉnh, sau
khi đánh giá tình hình triển khai thực hiện các nội dung thỏa thuận đã ký kết,
các bên cùng trao đổi bàn bạc và thống nhất các biện pháp cụ thể nhằm tiếp
42
tục thực hiện có hiệu quả hơn nhiệm vụ tăng cường hợp tác giữa Đảng bộ và
nhân dân tỉnh Hà Tĩnh với hai tỉnh bạn; đẩy nhanh việc thực hiện các nội
dung hợp tác đã ký [154].
Ngoài việc duy trì các chuyến thăm hữu nghị chính thức và tiến hành các
cuộc hội đàm cấp cao, tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn đã
cử nhiều đoàn công tác của các ngành, các địa phương sang thăm và làm việc
nhằm nắm bắt tình hình, trao đổi kinh nghiệm và ký kết các thỏa thuận các
nội dung hợp tác.
Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh và công tác biên giới: Ngay sau các
cuộc gặp cấp cao, Tỉnh ủy Hà Tĩnh đã chỉ đạo UBND tỉnh và các ngành liên
quan kịp thời triển khai thực hiện các thỏa thuận đã ký. Trong những năm đầu
thập kỷ 90, tình hình trên tuyến biên giới tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxayvà Khămmuộn có những diễn biến khá phức tạp. Đặc biệt, “lợi dụng tình hình
sơ hở, các phần tử xấu người Lào đã móc nối với những phần tử xấu người
Việt Nam, tổ chức trấn lột, chém giết lẫn nhau và nghiêm trọng hơn là nạn
buôn bán vũ khí” [7].
Nhằm kịp thời nắm bắt và xử lý kịp thời những vấn đề mới phát sinh,
đảm bảo an ninh biên giới, cuối năm 1992, Đoàn đại biểu UBND tỉnh đã tiến
hành chuyến khảo sát tuyến biên giới và chỉ đạo các ngành liên quan kịp thời
phối hợp giải quyết những vấn đề bức xúc đang đặt ra về an ninh trật tự tại
các địa bàn khu vực biên giới [97]. Nhằm phối hợp thực hiện có hiệu quả vấn
đề biên giới, tỉnh Bôlykhămxay đã cử Đoàn địa biểu do đồng chí Un Lả - Ủy
viên Trung ương Đảng NDCM Lào, Tỉnh trưởng, sang thăm và làm việc tại
tỉnh Hà Tĩnh [7].
Tiếp đó, Đoàn đại biểu Ban biên giới tỉnh Bôlykhămxay đã sang thăm vàlàm việc với Ban Biên giới tỉnh Hà Tĩnh. Hai bên đã trao đổi thông báo cho
nhau tình hình kinh tế xã hội, nhất là tình hình biên giới mỗi bên; thống nhất
một số nhiệm vụ giải pháp xử lý kịp thời những vấn đề phát sinh trong công
tác biên giới [129].
UBND tỉnh Hà Tĩnh đã kịp thời chỉ đạo các ngành chức năng kịp thời rà
soát, thống nhất quản lý các đối tượng xâm nhập và làm ăn trái phép trên từng
43
địa bàn; tăng cường kiểm tra, kiểm soát, xử lý thích đáng những cá nhân, tập
thể có hành vi phạm; tiếp tục tăng cường tuyên truyền sâu rộng cho nhân dân
ở các vùng thuộc địa bàn hai huyện Hương Sơn, Hương khê, đặc biệt là nhân
dân các xã dọc biên giới, hiểu rõ các chủ trương chính sách, pháp luật của
Đảng và Nhà nước, nhất là Quy chế Biên giới; thường xuyên duy trì công tác
giao ban định kỳ, thông báo cho nhau tình hình và kịp thời giải quyết những
vấn đề phát sinh trên tuyến biên giới. Ngoài việc ban hành các văn bản chỉđạo, UBND tỉnh tiếp tục cử các đoàn công tác kịp thời đến các địa bàn phức
tạp, phối hợp giải quyết những vấn đề phát sinh nhằm thực hiện tốt quy chế
biên giới và các thỏa thuận hợp tác đã ký kết [8].
Tháng 7/1995, Đoàn lãnh đạo Công an tỉnh Hà Tĩnh và lãnh đạo Công
an hai huyện Hương Sơn, Hương Khê đã sang thăm tỉnh Bôlykhămxay và
Khămmuộn để thống nhất kế hoạch nhằm bảo vệ an ninh biên giới trước sựxâm nhập và hoạt động chống phá của bọn phản động lưu vong [43]. Tiếp đó,
tỉnh Hà Tĩnh đã cử đoàn công tác của Ban Kinh tế Đối ngoại sang thăm và
làm việc với các cơ quan chức năng tỉnh bạn nhằm đôn đốc việc thực hiện các
nội dung hợp tác đã ký với các tỉnh bạn [6].
Bên cạnh đó, Ban Biên giới tỉnh phối hợp với các cơ quan liên quan, các
huyện biên giới, các đồn, trạm biên phòng, các xã biên giới tổ chức quán triệt
nội dung liên quan đến công tác biên giới, truyền giáo dục nhân dân thực hiện
tốt các quy định của Quy chế biên giới; quản lý chặt chẽ hoạt động của người
nước ngoài vào khu vực biên giới... Nhờ vậy, tình hình vi phạm trật tự trị an,
vượt biên, vi phạm quy chế biên giới giảm đáng kể so với trước đây [1].
Trong lĩnh vực kinh tế, thương mại: Triển khai thực hiện nội dung các
thỏa thuận hợp tác đã ký, các bên tiếp tục cử các Đoàn công tác của tỉnh, của
các ngành sang thăm và làm việc để bàn và thống nhất các phương án cụ thể
về hợp tác, trao đổi thương mại, kinh nghiệm phát triển kinh tế hộ gia đình,
giúp bạn về kỹ thuật nông nghiệp, trồng cây ăn quả, chăn nuôi gia súc, khaithác, chế biến lâm sản...
44
Tháng 5/1994, tỉnh Hà Tĩnh đã cử Đoàn cán bộ các sở, ngành cấp tỉnh
sang thăm và phối hợp khảo sát và hợp tác trong lĩnh vực giao thông, lâm
nghiệp tại tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn [130].
Tại tỉnh Khămmuộn, hai bên bàn bạc cử cán bộ, chuyên gia trong lĩnhvực quy hoạch, nông nghiệp, xây dựng cơ bản; xúc tiến mở tuyến đường biên
giới Hương Khê - Bản Giàng; giới thiệu xuất khẩu những mặt hàng mà tỉnh
Khămmuộn có nhu cầu; bàn kế hoạch khai thác, chế biến các loại sản phẩm
tại tỉnh bạn như gỗ, đá vôi, thạch cao, phốt pho...
Tại tỉnh Bôlykhămxay, hai bên bàn bạc trao đổi các nội dung hợp tác mà
hai bên đã ký, nhất là đôn đốc các ngành liên quan hai tỉnh phối hợp tiến hành
điều tra quy hoạch, chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi, giúp tỉnh bạn
giống mới, xây dựng các mô hình trong sản xuất nông nghiệp; tạo điều kiện
cho các doanh nghiệp, doanh nhân sang địa bàn hai tỉnh tìm kiếm cơ hội, thịtrường hợp tác sản xuất kinh doanh...
Tháng 6/1995, Đoàn công tác của UBND tỉnh và lãnh đạo các sở,
ngành liên quan đã sang thăm và khảo sát xây dựng Cửa khẩu Cầu Treo, xúc
tiến làm đường điện, khai thác vận chuyển gỗ [131]. Nhân dịp này, tỉnh Hà
Tĩnh đã giúp bạn 2000 gốc cam, bưởi, hồng, quýt, 10 kg cá giống và mời 2
đoàn (65 người) sang tham quan trao đổi kinh nghiệm về kinh tế vườn đồi và
kinh tế hộ gia đình; hỗ trợ huyện Căm Cợt 30 tấn gạo trong kỳ giáp hạt [1].
Cũng trong dịp này tỉnh Hà Tĩnh đã giúp tỉnh huyện Căm Cợt các loại vất tưđể xây dựng nhà khách của huyện [94].
Thực hiện chủ trương của Đảng bộ tỉnh, UBND tỉnh Hà Tĩnh đã triển
khai quy hoạch các vùng dân cư gắn với việc xây dựng vùng kinh tế mới và
chủ trương xóa đói giảm nghèo, nhằm từng bước nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần cho đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, nhất là ở các xã biên giới [1].
Nhằm đẩy mạnh các hoạt động thương mại, UBND tỉnh Hà Tĩnh đã tăngcường chỉ đạo các ngành, các địa phương, nhất là các huyện biên giới ban
hành các chính sách, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia
buôn bán, trao đổi hàng hóa với tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn; từng bước
hình thành các trung tâm buôn bán, dịch vụ trên địa bàn các xã vùng biên
45
nhằm tạo thuận lợi cho nhân dân ba tỉnh trao đổi, mua bán hàng hóa thiết yếu
phục vụ sản xuất và đời sống.
Trong giai đoạn 1991 - 1995, các nội dung thỏa thuận hợp tác giữa tỉnh
Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn nhân các chuyến thăm và hội đàmcấp cao cũng như các chuyến công tác của lãnh đạo các ngành, các địaphương đã được các bên triển khai thực hiện khá hiệu quả. Tuy nhiên, do điều
kiện kinh tế của ba tỉnh còn gặp khó khăn, nhất là trong điều kiện tỉnh Hà
Tĩnh vừa mới chia tách, nên kết quả hợp tác còn chưa tương xứng với tiềm
năng và yêu cầu đặt ra. Nhiều nội dung hợp tác đã ký hoặc chưa được triển
khai, hoặc triển khai chậm tiến độ, hiệu quả thấp. Kim ngạch xuất nhập khẩu
giữa ba tỉnh đạt thấp, riêng năm 1995, giữa tỉnh Hà Tĩnh và Bôlykhămxayxuất khẩu chỉ đạt 60% kế hoạch (156.000 USD), nhập khẩu đạt 30% kế hoạch
(85.000 USD) [2]. Chỉ tính riêng trong năm 1993, tỉnh Hà Tĩnh và
Bôlykhămxay đã “cử 5 đoàn sang làm việc với nhau gồm các chuyên viên vềcông nghiệp, thủy lợi, nông nghiệp, lâm nghiệp, thương mại, công an, biên
phòng sang trực tiếp bạn hoặc ta (Hà Tĩnh - Tác giả) để bàn hợp đồng cụ thể,
thực hiện các văn bản đã ký nhưng không đạt vì khó khăn về nguồn vốn”[11]. Đối với một số lĩnh vực hợp tác khác, “trong quá trình hợp tác, việc
thanh toán nợ nần, cân đối chậm trễ kéo dài đã gây không ít khó khăn cho chomột số ngành của tỉnh ta (Hà Tĩnh - Tác giả), cũng vì thế mà các ngành của
Hà Tĩnh sinh ra do dự trong quá trình hợp tác” [11]. Những vướng mắc, thiếu
thống nhất về giá cả, thị trường tiêu thụ hàng hóa, về thủ tục hành chính trong
quá trình xuất nhập khẩu... đã ảnh hưởng lớn đến việc thực hiện các nội dung
thỏa thuận hợp tác đã ký [9].
Về văn hóa thể thao, giáo dục, y tế: Ngành văn hóa tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh
Bôlykhămxay, Khămmuộn đã ký kết các văn bản hợp tác, khuyến khích các
cấp, các ngành, các địa phương tổ chức các hoạt động giao lưu văn hóa nghệthuật, thể dục thể thao nhằm tăng cường tình đoàn kết giữa nhân dân tỉnh Hà
Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn. Ngành Văn hóa Thể thao tỉnh Hà
Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn thường xuyên tổ chức các chuyến
thăm, trao đổi kinh nghiệm trong các lĩnh vực quản lý các hoạt động văn hóa,
46
biểu diễn nghệ thuật, công tác xây dựng mô hình phát triển văn hóa nghệthuật chuyên nghiệp trong cơ chế thị trường... Các đoàn văn hóa nghệ thuật
tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn đã tổ chức các chuyến lưudiễn với nhiều tiết mục văn nghệ đặc sắc, mang đậm bản sắc văn hóa mỗi dân
tộc, để lại những ấn tượng tốt đẹp trong lòng người xem [9]. Ngoài ra, nhiều
đội văn nghệ của Bộ chỉ huy Biên phòng, Bộ chỉ huy Quân sự, các huyện biên
giới đã thường xuyên tổ chức các chuyến thăm và biểu diễn tại các tỉnh bạn,
nhất là các địa phương dọc biên giới ba tỉnh [7].
Ngành giáo dục và đào tạo tỉnh Hà Tĩnh đã ký kết các văn bản hợp tác
với các tỉnh bạn nhằm tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ, góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục và hiệu quả công tác đào tạo [12]. Hằng năm, Sở Giáo dục -
Đào tạo tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn đã cử các đoàncán bộ, chuyên gia sang thăm hỏi, học tập, trao đổi kinh nghiệm trong công
tác quản lý, nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo các cấp học phổ thông.
Ngoài tăng cường hợp tác nâng cao chất lượng giáo dục bậc học phổ thông,
tỉnh Hà Tĩnh đã quan tâm giúp các tỉnh bạn đào tạo nguồn nhân lực những
lĩnh vực tỉnh bạn còn thiếu, nhất là về kinh tế, khoa học kỹ thuật [129].
Trong giai đoạn 1991 - 1995, ngành y tế tỉnh Hà Tĩnh đã tăng cường hợp
tác với các tỉnh bạn trên các lĩnh vực, đặc biệt là tập trung vào việc xây dựng
cơ sở vật chất cho các cơ sở khám chữa bệnh; cử chuyên gia trực tiếp hướng
dẫn, đồng thời trao đổi kinh nghiệm, cung cấp thông tin nhằm xây dựng và
phát triển y tế của mỗi tỉnh; thực hiện các biện pháp phòng và chống các dịch
bệnh: sốt sét, bướu cổ, phòng chống các bệnh nhiễm khuẩn. Tỉnh Hà Tĩnhtiếp tục tăng cường giúp hai tỉnh bạn thực hiện các chương trình xã hội nhưtiêm chủng mở rộng, y học dân tộc, bảo hiểm y tế.
Cũng như các lĩnh vực khác, hợp tác về văn hóa, thể thao, giáo dục, y tếgiữa tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay và tỉnh Khămmuộn trong giai đoạn
1991-1995 bước đầu có những chuyển biến tích cực. Sự hợp tác trong lĩnhvực này, nhất là sự giúp đỡ vô tư, đầy tình cảm và trách nhiệm của tỉnh Hà
Tĩnh đã giảm bớt phần nào những khó khăn của các tỉnh bạn, để lại những ấn
tượng tốt đẹp trong lòng đồng bào các bộ tộc Lào anh em.
47
1.2.2. Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh lãnh đạo xây dựng quan hệ hữu nghị,hợp tác với tỉnh Bôlykhămxay và tỉnh Khămmuộn những năm đầu đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (1996 - 2000)
1.2.2.1. Bối cảnh tình hình và chủ trương của Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnhvề xây dựng quan hệ hợp tác với tỉnh Bôlykhămxay và tỉnh Khămmuộn
Từ năm 1996, hai nước Việt Nam và Lào đều bước vào thời kỳ đẩy mạnh
công cuộc đổi mới đất nước bằng việc thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII
của Đảng (đối với Việt Nam) và Nghị quyết Đại hội lần thứ VI (đối với Lào).
Đại hội lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 6/1996) đã khẳng
định:
Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đaphương hóa và đa dạng hóa quan hệ đối ngoại với tinh thần Việt Nam
muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì
hòa bình, độc lập và phát triển... Ra sức tăng cường quan hệ với các
nước láng giềng và các nước trong tổ chức ASEAN, không ngừng
củng cố quan hệ với các nước bạn bè truyền thống [65, tr.120-121].
Đại hội lần thứ VI Đảng NDCM Lào (tháng 3/1996) tiếp tục khẳng định
nhất quán chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, tăngcường quan hệ ngoại giao hòa bình, hữu nghị và hợp tác với tất cả các nước,
không phân biệt chế độ chính trị, bình đẳng, hai bên cùng có lợi, góp phần
cùng các dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội; tăng cường tình hữu nghị truyền thống tình đoàn kết
đặc biệt và hợp tác toàn diện với Việt Nam và Cămpuchia [68, tr.673].
Với tinh thần dân chủ, đoàn kết, tập trung trí tuệ, nhìn thẳng vào sự thật,
đánh giá đúng thực trạng tình hình địa phương, Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnhlần thứ XIV đã quyết định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ nhiệm kỳ 1996
- 2000, quyết tâm đưa tỉnh Hà Tĩnh vươn lên thoát khỏi tình trạng tỉnh nghèo.
Đánh giá về tình hình an ninh biên giới và kết quả công tác đối ngoại, Đại hội
khẳng định: đã “Xây dựng và thực hiện tốt các phương án bảo vệ biên giới,
hải đảo, giữ vững sự ổn định chính trị trên mọi địa bàn trong tỉnh... Đảm bảo
quan hệ tốt với các tỉnh bạn Lào, giữ vững tuyến biên giới hữu nghị”
48
[54,tr.19]. Tuy nhiên, trên cơ sở nhìn thẳng vào sự thật, Đại hội đã đánh giá“kinh tế đối ngoại chưa đáp ứng yêu cầu phát triển mới. Sự hợp tác liên
doanh, liên kết với các cơ sở trong và ngoài nước còn ít” [54, tr.21].
Đại hội chủ trương: “Tập trung phát triển nhanh khu vực Cảng VũngÁng, khu vực thị xã Hà Tĩnh - Thạch Khê và vùng kinh tế Đường 8” [54,
tr.38]. Trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại, Đại hội xác định: “Phát huy lợi thế,
tiềm năng kinh tế tỉnh, kinh tế vùng, lợi thế trục Đường 8, Cửa khẩu Keo
Nưa, cảng Xuân Hải, cảng Vũng Áng. Phát huy tốt các liên doanh đã có, xúc
tiến việc hình thành thêm các khu kinh tế liên doanh, liên kết với nước ngoài
và tỉnh bạn” [54, tr.41].
Đối với tỉnh Bôlykhămxay, Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng bộ tỉnh
Bôlykhămxay lần thứ III, nhiệm kỳ 1998 - 2002 khẳng định: “Tiếp tục quan
hệ hợp tác toàn diện với tỉnh Hà Tĩnh, Nghệ An Việt Nam, cùng với đó tổchức, thực hiện các công trình mà hai bên đã ký kết, cần chuyển mối quan hệngày càng đi vào chiều sâu và hiệu quả” [57, tr.24].
1.2.2.2. Quá trình chỉ đạo tổ chức thực hiệnThực hiện chủ trương của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, công tác tuyên
truyền nhằm nâng cao nhận thức, tạo sự đồng thuận trong cán bộ, đảng viên
và các tầng lớp nhân dân về tăng cường tình hữu nghị và hợp tác với các
tỉnh bạn Lào đã được Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, các Ban Xây dựng Đảng,
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể cấp tỉnh và cấp ủy, chính quyền các địaphương hết sức quan tâm. Báo Hà Tĩnh, Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh
đã có nhiều chương trình, chuyên trang, chuyên mục, các tin, bài, phóng
sự... phản ánh khá kịp thời việc triển khai thực hiện nhiệm vụ hợp tác của
các ngành, các địa phương, qua đó biểu dương những tập thể, cá nhân có
thành tích xuất sắc trên các lĩnh vực.
Việc chỉ đạo đổi mới phương thức, lề lối làm việc của các bộ phận làm
công tác tham mưu trong lĩnh vực đối ngoại của cấp ủy, chính quyền các cấp
và các ngành, đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở đã được thực hiện khá thường xuyên.
Sở Ngoại vụ, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Ban Biên giới được quan tâm bổ sung
nhiều cán bộ có năng lực. Nhiều cơ chế, chính sách nhằm nâng cao hiệu quả
49
công tác đối ngoại đã được ban hành. Việc đầu tư tăng cường cơ sở vật chất,
trang thiết bị làm việc cho các cơ quan tham mưu trong lĩnh vực đối ngoại tiếp
tục được quan tâm. Nhiều cán bộ, chuyên viên làm công tác ngoại vụ được cửđi dự các lớp huấn nghiệp vụ, kỹ năng công tác trong và ngoài nước nhằm nâng
cao năng lực, đáp ứng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Thực hiện chủ trương của Đảng bộ tỉnh, việc chỉ đạo nắm chắc tình hình
các địa bàn, nhất là địa bàn vùng nội và ngoại biên các cửa khẩu, các đường tiểu
ngạch trên tuyến biên giới, công tác kiểm tra, đánh giá rút kinh nghiệm và biểu
dương khen thưởng các tập thể, cá nhân, những điển hình tiên tiến trong quá
trình triển khai thực hiện nhiệm vụ hợp tác với các tỉnh bạn Lào, nhất là trong
công tác biên giới đã được cấp ủy, chính quyền, các ngành, các địa phương quantâm thực hiện.
Việc rà soát, kiểm tra để kịp thời xử lý những vướng mắc trong quá trình
tham mưu hoạch định chủ trương, triển khai thực hiện nhiệm vụ của các ban,
ngành, các địa phương đơn vị liên quan được quan tâm hơn.Thực hiện chủ trương, đường lối đối ngoại của Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ VIII, đặc biệt là đường lối phát triển kinh tế đối ngoại của Đảng và
Nhà nước theo nội dung NQ 01- NQ/TW của Bộ Chính trị và NQ Hội nghịlần thứ tư BCH Trung ương Khóa VIII, NQ Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứXIV, Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh đã kịp thời lãnh đạo triển khai thực hiện, nhất là
việc đẩy mạnh các hoạt động kinh tế đối ngoại, tăng cường hợp tác, trao đổi
thương mại với Lào và Thái Lan; tăng cường mở rộng các hoạt động đối
ngoại nhân dân.
Nhận thức được vị trí, vai trò, tầm quan trọng đặc biệt của các cơ quanchuyên trách và các cơ quan tham mưu trong việc triển khai thực hiện nhiệm
vụ trong công tác đối ngoại, việc đổi mới, kiện toàn công tác tổ chức cán bộtiếp tục được quan tâm. Trong giai đoạn 1996 - 2000, Ban Đối ngoại tỉnh Hà
Tĩnh được thành lập (trên cơ sở Ban Kinh tế Đối ngoại trước đây) và đi vàohoạt động. Ban Đối ngoại là cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, tham
mưu giúp Tỉnh ủy, UBND tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước và
tham mưu trong lĩnh vực kinh tế và hoạt động đối ngoại nói chung và quan
hệ hợp tác với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn nói riêng. Đồng chí Tăng
50
Nghĩa - nguyên Phó Trưởng ban Kinh tế Đối ngoại được bổ nhiệm làm
Trưởng ban. Đồng chí Trần Văn Lâm được bổ nhiệm làm Phó Trưởng ban.
Ban Biên giới tỉnh là cơ quan không chuyên trách, do đồng chí Nguyễn
Hoàng Trạch- Phó Chủ tịch UBND tỉnh làm Trưởng ban và đồng chí
Nguyễn Bá Giai - Phó Chánh Văn phòng UBND tỉnh làm Phó ban Thường
trực, cùng các thành viên là đại diện các ngành liên quan, như Tài chính, Hải
quan, Đối ngoại, Công an, Quân sự, Bộ đội Biên phòng… được giao nhiệm
vụ tham mưu cho cấp ủy, chính quyền, trực tiếp chỉ đạo các vấn đề về biên
giới. Văn phòng cấp ủy và UBND các cấp được giao là cơ quan tham mưucho cấp ủy, chính quyền các cấp về công tác đối ngoại. Tại các ngành và
lĩnh vực liên quan, đã được kịp thời bố trí đội ngũ cán bộ chuyên viên phụtrách công tác theo dõi, chỉ đạo, tham mưu công tác đối ngoại. Việc kiện
toàn và đổi mới công tác tổ chức cán bộ đã phần nào đáp ứng được yêu cầu
nhiệm vụ ngày càng cao trong công tác đối ngoại, trong đó có việc thực thi
đạt hiệu quả cao hơn nhiệm vụ hợp tác với các tỉnh bạn Lào.
Trong lĩnh vực chính trị:. Nhiệm vụ tăng cường quan hệ hữu nghị và
hợp tác với tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn tiếp tục được đẩy mạnh, đặc
biệt là việc tiếp tục tổ chức các cuộc gặp gỡ cấp cao và ký kết các văn bản
thỏa thuận hợp tác trên các lĩnh vực.
Từ năm 1996 - 2000, tỉnh Bôlykhămxay và tỉnh Khămmuộn đã cử 4
Đoàn đại biểu cấp cao sang thăm và làm việc tại tỉnh Hà Tĩnh [155], [165],
[185], [157]. Tỉnh Hà Tĩnh cũng đã cử 2 Đoàn đại biểu cấp cao sang thăm vàlàm việc tai tỉnh tỉnh Bôlykhămxay và tỉnh Khămmuộn [181], [165], [166].
Nhân các chuyến thăm và làm việc, các bên đã tiến hành hội đàm và ký các
văn bản thỏa thuận hợp tác; cam kết tăng cường trao đổi hàng hóa mậu dịch
giữa hai tỉnh; thống nhất tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức kinh tế,
thương mại, du lịch ký kết các hợp đồng sản xuất, kinh doanh, phục vụ đắc
lực sự phát triển kinh tế xã hội; tiếp tục tăng cường mở rộng giao lưu hợp
tác nhằm khai thác tối đa mọi tiềm năng, nguồn lực, góp phần phát triển
kinh tế xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng sớm xúc tiến khai thông tuyến
du lịch giữa ba tỉnh; tăng cường công tác an ninh trật tự tuyến biên giới, bảo
51
vệ tốt hệ thống mốc quốc giới, tích cực truy quét tội phạm gây rối dọc
đường biên; đẩy mạnh các hoạt động giao lưu văn hóa, thể dục thể thao, bồi
dưỡng đào tạo cán bộ [185], [133].
Thực hiện thỏa thuận đã ký, giữa tháng 6/1996, Đoàn cán bộ của Bộ đội
Biên phòng tỉnh và Ban Kinh tế Đối ngoại tỉnh Hà Tĩnh đã sang thăm và làmviệc tại tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn nhằm chuẩn bị phiên họp giữa lãnh
đạo hai tỉnh về công tác biên giới tại tỉnh Bôlykhămxay và xây dựng Trạm
kiểm tra Liên hợp tại cửa khẩu Cầu Treo [13]. Tiếp đó, 4 đoàn cán bộ tỉnh Hà
Tĩnh được cử sang các tỉnh bạn nghiên cứu đất đai, khí hậu, đồng thời giúp
bạn giống các loại cây trồng, vật nuôi [5]. Đồng thời, tỉnh Hà Tĩnh đã tiếp đónhàng chục Đoàn cán bộ nhân dân các tỉnh bạn sang thăm quan học tập kinh
nghiệm làm kinh tế vườn đồi. Đặc biệt, tỉnh Bôlykhămxay đã cử Đoàn côngtác gồm các đồng chí tỉnh ủy viên, bí thư, huyện trưởng của tất cả các huyện,
thị trong tỉnh sang tham quan, trao đổi kinh nghiệm về công tác tổ chức chỉđạo xây dựng mô hình kinh tế hộ và quản lý hành chính [14].
Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, nhằm nắm chắc tình hình, nhất là
những khó khăn đặt ra trong việc thực hiện thực hiện các thỏa thuận đã ký,
trên cơ sở đó, nghiên cứu đưa vào kế hoạch phát triển kinh tế hàng năm vàkiến nghị với các bộ, ngành Trung ương giúp tháo gỡ những khó khăn về vốn,
cơ chế hợp tác đầu tư, tháng 6/1997, Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Hà Tĩnh đã
sang thăm và làm việc của tại tỉnh Bôlykhămxay [78].
Thực hiện chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND tỉnh, sau chuyến thăm và làmviệc của Đoàn đại biểu cấp cao, trong năm 1997, các đoàn công tác của các
ngành giáo dục, y tế, nông, lâm nghiệp, thương mại du lịch, công an, biên
phòng, đối ngoại tỉnh Hà Tĩnh... đã sang thăm và ký các biên bản ghi nhớthực hiện các nội dung hợp tác tại tỉnh Bôlykhăm xay, Khămmuộn [89]. Thực
hiện thỏa thuận đã ký, tháng 4/1999, Đoàn cán bộ Ban biên giới tỉnh Hà Tĩnhđã sang thăm và làm việc với tỉnh Bôlykhămxay. Hai bên đã bàn và thống
nhất nhiệm vụ thực hiện Hiệp định Quy chế biên giới và sửa chữa các cột
mốc quốc giới bị hỏng [134]. Từ tháng 5/1999 đến tháng 6/2000, Bộ đội Biên
phòng tỉnh đã cử 2 đoàn và Công an tỉnh đã cử 2 đoàn cán sang làm việc với
52
tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn về công tác biên giới, mốc giới, đấu tranh
phòng chống buôn lậu, mua bán, vận chuyển các chất ma túy [135, tr.97].
Trên cơ sở các văn bản thỏa thuận cấp cao đã ký, Tỉnh ủy, UBND tỉnh
tiếp tục chỉ đạo các ngành, các địa phương liên quan kịp thời triển khai thực
hiện. UBND tỉnh đã chỉ đạo các ngành liên quan xây dựng "Đề án quy hoạch
phát triển các Cửa khẩu biên giới Việt Nam - Lào đến năm 2010” [134].
Việc duy trì và không ngừng đổi mới các chuyến thăm lẫn nhau là nét
nổi bật về hợp tác trong lĩnh vực chính trị giữa tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh
Bôlykhămxay và Khămmuộn. Trong khuôn khổ các chuyến thăm và làmviệc giữa lãnh đạo tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn, trong
không khí phấn khởi, tin tưởng, thắm tình hữu nghị anh em, các bên đã tiến
hành các phiên hội đàm. Tham dự các buổi hội đàm, ngoài lãnh đạo cấp cao
ba tỉnh còn có đông đủ đại diện lãnh đạo các ban, ngành, đoàn thể cấp tỉnh,
đại diện cấp ủy, chính quyền các huyện biên giới của đơn vị sở tại. Các bên
đã thông báo cho nhau tình hình thực hiện nhiệm vụ chính trị kinh tế - xã
hội, an ninh, quốc phòng của mỗi tỉnh, thảo luận, chia sẻ những bài học kinh
nghiệm trong công tác lãnh đạo của Đảng, điều hành của Nhà nước, các
ngành, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể. Các bên cũng đã tiến hành trao
đổi, cung cấp thông tin về những vấn đề lý luận và thực tiễn [186].
Từ năm 1996 - 2000, lãnh đạo cấp cao tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh
Bôlykhămxay, Khămmuộn đã ký kết hàng chục văn bản thỏa thuận hợp tác,
làm cơ sở để các cấp ủy Đảng, chính quyền, các ngành, đoàn thể, các tổ chức
kinh tế, xã hội liên quan từ tỉnh đến cơ sở tiến hành xây dựng chương trình,
kế hoạch triển khai thực hiện.
Ngoài các chuyến thăm hữu nghị chính thức, nhân dịp các ngày lễ kỷ niệm
trọng đại của đất nước, địa phương, tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay,Khămmuộn đã cử các đoàn đại biểu sang tham dự, thể hiện sự quan tâm và tình
hữu nghị đặc biệt giữa Đảng bộ và nhân dân ba tỉnh [14],145].
Quán triệt chủ chủ trương của Tỉnh ủy, Ban cán Đảng HĐND, UBNDtỉnh kịp thời chỉ đạo các cơ quan chức năng xây dựng chương trình, kế hoạch
công tác đồng thời trực tiếp sang thăm và làm việc với tỉnh bạn phối hợp triển
53
khai thực hiện. Theo đó, hằng năm, tỉnh Hà Tĩnh đã cử từ 2 - 3 Đoàn công tácgồm lãnh đạo, cán bộ, chuyên viên HĐND, UBND sang tỉnh Bôlykhămxay,Khămmuộn phối hợp với các cơ quan chức năng các tỉnh bạn thống nhất
chương trình kế hoạch công tác [7], [106]. Đây là những việc làm cụ thể, thiết
thực nhằm thực hiện có hiệu quả các thỏa thuận giữa lãnh đạo ba tỉnh, kịpthời giải quyết những vấn đề phát sinh đột xuất trong từng thời kỳ. Ngoài ra,
các hoạt động giao lưu hữu nghị nhân dân thường xuyên được tổ chức ngày
càng phong phú đa dạng. Đây là những hoạt động hết sức có ý nghĩa, thắt chặt
thêm tình đoàn kết, gắn bó keo sơn, đáp ứng nguyện vọng của các tầng lớp
nhân dân tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn.
Trong lĩnh vực nông - lâm nghiệp: Lĩnh vực nông - lâm nghiệp của Lào
nói chung và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn nói riêng còn ở tình trạng thấp
kém, năng suất thấp, kỹ thuật canh tác còn lạc hậu. Hàng năm, nhiều vùng còn
thiếu lương thực. Nhiệm vụ quy hoạch, khai thác có hiệu quả tiềm năng dồi dào
về đất đai, đầu tư thủy lợi, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất,
nhất là đầu tư giống cây, con và kỹ thuật sản xuất, canh tác đang đặt ra hết sức
cấp thiết đối với các tỉnh bạn. Trong những năm 1996 - 2000, tỉnh Hà Tĩnh đã
tăng cường hợp tác, đầu tư, từng bước giúp các tỉnh bạn giải quyết những khó
khăn, đẩy mạnh phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn, góp phần nâng
cao đời sống cho nhân dân các bộ tộc Lào, nhất là các địa phương giáp biêngiới giữa ba tỉnh. Nội dung hợp tác tập trung chủ yếu vào việc giúp bạn nâng
cao trình độ khoa học kỹ thuật, đưa những giống cây trồng vật nuôi có giá trịkinh tế cao vào sản xuất; hợp tác sản xuất lương thực, thực phẩm, trồng và khai
thác chế biến lâm sản, cây công nghiệp, giúp xây dựng mô hình trọng điểm lúa,
quy hoạch rừng và xây dựng mô hình kinh tế nông - lâm kết hợp [43].
UBND tỉnh Hà Tĩnh đã chỉ đạo Sở Nông nghiệp và các ngành liên quan
chỉ đạo chuyển hướng từ hợp tác đầu tư nhỏ lẻ, mang tính chất mô hình sang
hình thức hỗ trợ các tỉnh bạn kết hợp quy hoạch chiến lược phát triển nông
nghiệp với quy hoạch sản xuất lương thực, thực phẩm; đầu tư xây dựng các
công trình thủy lợi vừa và nhỏ, đảm bảo an ninh lương thực gắn với nhiệm vụxây dựng nông thôn mới, nhất là các xã giáp biên giới.
54
Khắc phục tình trạng tiến hành khai thác lâm thổ sản một cách ồ ạt,
không có quy hoạch, thêm vào đó là các hành động lén lút vào rừng sâu đểkhai thác sản vật quý... làm cho tài nguyên rừng suy kiệt, dẫn đến mất cân
bằng hệ sinh thái động, thực vật, tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay,Khămmuộn đã xúc tiến thực hiện việc quy hoạch, kết hợp giữa khai thác và
bảo vệ, phát triển tài nguyên rừng; thực hiện chương trình trồng rừng, nhân
diện rộng các mô hình giao đất, giao rừng cho hộ nông dân quản lý, nhằm
từng bước phủ xanh đất trống đồi trọc. Việc thực hiện các mô hình này, một
mặt giúp bảo vệ phát triển rừng một cách bền vững, mặt khác giúp đồng bào
nâng cao đời sống, gắn bó, bảo vệ rừng một cách có hiệu quả [140].
Trong lĩnh vực xây dựng cơ bản: Trong thời kỳ đổi mới, hợp tác trong
lĩnh vực công nghiệp, đầu tư xây dựng, giao thông... là nội dung hết sức
quan trọng, nằm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Hà
Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn. Trong giai đoạn này, chú trọng
nhiệm vụ bảo trì, nâng cấp, xây dựng mới hệ thống giao thông đường bộnội tỉnh và xây dựng các tuyến giao thông kết nối hai bên, hệ thống đường
giao thông dọc tuyến biên giới nhằm phục vụ nhu cầu dân sinh và đảm bảo
quốc phòng an ninh; đăc biệt là thông qua tuyến Đường 8, Đường 12, giúp
bạn sử dụng các bến, cảng biển của tỉnh Hà Tĩnh nhằm đảm bảo vận tải
hàng hoá quá cảnh của Lào sang nước khác và vận chuyển hàng từ Việt
Nam sang Lào, đặc biệt là tiếp tục đầu tư xây dựng cảng Vũng Áng, nângcấp cảng Xuân Hải [12]; tiếp tục sửa chữa, nâng cấp làm mới một số tuyến
đường phục vụ yêu cầu quốc phòng và góp phát triển kinh tế xã hội dọc
tuyến biên giới.
Trong lĩnh vực đầu tư thương mại, du lịch: Tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh
Bôlykhămxay, Khămmuộn đã tăng cường đầu tư xây dựng, hoàn thiện hệ thống
giao thông, mở rộng các trung tâm thương mại, hình thành nhiều cơ sở dịch vụbuôn bán, nhất là khu vực hai bên các cửa khẩu, trên trục Đường 8, dọc tuyến
biên giới... Nhờ đó, hoạt động thương mại giữa tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh
Bôlykhămxay và Khămmuộn đã không ngừng phát triển, cả chiều rộng và chiều
sâu, đóng góp quan trọng vào nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội.
55
Các văn bản ký kết giữa ba tỉnh qua các cuộc hội đàm đã xác định
phương hướng, nhiệm vụ và đề ra các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng
và hiệu quả hợp tác thương mại, du lịch. Trong giai đoạn 1995 - 2000, tỉnh
Hà Tĩnh có 3 đơn vị tiếp tục phối hợp với Tập đoàn phát triển kinh tế miền
núi Lào khai thác, vận chuyển gỗ, trồng rừng và khai hoang. Đặc biệt, từ khi
Cửa khẩu Cầu Treo được nâng cấp thành cửa khẩu quốc tế, lượng người và
hàng hóa qua lại tăng nhanh. Hằng năm, có gần 50.000 lượt người thuộc hơn20 quốc gia và gần 20.000 lượt phương tiện làm thủ tục xuất nhập cảnh qua
cửa khẩu. Hệ thống chợ biên giới tiếp tục được cải tạo, nâng cấp, đáp ứng
nhu cầu trao đổi ngày càng tăng của du khách và nhân dân dọc tuyến biên
giới [132].
Tỉnh ủy, UBND tỉnh Hà Tĩnh đã kịp thời chỉ đạo các ngành liên quan
đẩy mạnh các chương trình đầu tư khu kinh tế Cửa khẩu Cầu Treo, xây dựng
cơ sở hạ tầng, ban hành cơ chế, chính sách thông thoáng về xuất nhập khẩu,
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư khai thác thị trường, trao đổi lưu
thông hàng hóa. Đặc biệt, tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay đã phối hợp đầu
tư xây dựng Trung tâm kinh tế Lạc Xao và Trung tâm kinh tế Cửa khẩu Quốc
tế Cầu Treo thành những khu kinh tế mở. Các tuyến du lịch Hà Tĩnh - Bô
lykhămxay - Thà khẹt - Viêng Chăn được khai thông và thu hút ngày càng
đông du khách của cả hai nước và quốc tế [15].
Trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo: Ngoài tăng cường hợp tác nâng cao
chất lượng giáo dục bậc học phổ thông, tỉnh Hà Tĩnh đã quan tâm giúp tỉnh bạn
đào tạo lưu học sinh ở những ngành tỉnh bạn chưa có điều kiện đào tạo, đặc
biệt những ngành mũi nhọn về kinh tế, khoa học kỹ thuật. Ngành giáo dục
đào tạo đã ký văn bản hợp tác về giáo dục đào tạo, tổ chức giao lưu, trao đổi
kinh nghiệm giảng dạy cho giáo viên ba tỉnh, đào tạo tiếng Việt cho cán bộ
của tỉnh Bôlykhămxay và cử các chuyên gia sang giúp các tỉnh bạn đào tạo
nghiệp vụ cho đội ngũ giáo viên [16]. Từ năm 1999 đến năm 2000, tỉnh Hà
Tĩnh đã tổ chức đào tạo tiếng Việt cho 15 cán bộ của tỉnh Bôlykhămxay.
Bên cạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực cho tỉnh Bôlykhămxay,
56
Khămmuộn, các hoạt động trao đổi kinh nghiệm quản lý giáo dục, đổi mới
phương pháp dạy học ở các cấp cũng được đẩy mạnh.
Hợp tác trong lĩnh vực y tế: Trong những năm 1996 - 2000, ngành y tếtỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn đã tăng cường hợp tác trên
nhiều lĩnh vực, đặc biệt là tập trung vào việc xây dựng cơ sở vật chất cho các cơsở khám chữa bệnh; đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ; cử chuyên gia trực tiếp
hướng dẫn, đồng thời trao đổi kinh nghiệm, cung cấp thông tin nhằm xây dựng
và phát triển y tế của mỗi tỉnh; tổ chức xây dựng mạng lưới y tế từ tỉnh đến cơsở; thực hiện các biện pháp phòng và chống các dịch bệnh: sốt sét, bướu cổ,
phòng chống các bệnh nhiễm khuẩn. Các bên tiếp tục tăng cường thực hiện các
chương trình xã hội như tiêm chủng mở rộng, y học dân tộc, bảo hiểm y tế. Giai
đoạn này, ngành y tế tỉnh Hà Tĩnh và Bôlykhămxay, Khămmuộn chủ yếu tập
trung vào việc đào tạo chuyên môn, cử chuyên gia trực tiếp hướng dẫn, trao đổi
kinh nghiệm tổ chức xây dựng mạng lưới y tế cơ sở, thực hiện các biện pháp
phòng và chống các dịch bệnh: sốt sét, bướu cổ, phòng chống các bệnh nhiễm
khuẩn [10]. Ngành Y tế tỉnh Hà Tĩnh đã tiếp nhận 4 đoàn cán bộ y tế các tỉnh
bạn sang bồi dưỡng nghiệp vụ phòng chống sốt rét, dịch bệnh, xây dựng mạng
lưới y tế cơ sở và cử 3 chuyên gia siêu âm, phẫu thuật ngoại sản, chấn thươngsang giúp bồi dưỡng nghiệp vụ, đồng thời, tặng bệnh viện Lạc Xao 2 máy tự tạo
ôxy trị giá 4.000 USD [157].
Trong lĩnh vực văn hóa, thể thao: Được sự quan tâm chỉ đạo của cấp ủy,
chính quyền, đặc biệt là sự nỗ lực của ngành văn hóa, các hoạt động hợp tác,
giao lưu văn hóa giữa tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn tiếp
tục được đẩy mạnh. Nhân các ngày lễ, các đoàn văn hóa nghệ thuật ba tỉnh đã
tổ chức các chuyến lưu diễn với nhiều tiết mục văn nghệ đặc sắc, mang đậm
bản sắc văn hóa mỗi dân tộc, để lại những ấn tượng tốt đẹp trong lòng người
xem [16]. Ngoài ra, nhiều đội văn nghệ của Bộ chỉ huy Biên phòng, Bộ chỉhuy Quân sự, Công an, các huyện biên giới như Hương Khê, Hương Sơn, VũQuang... đã thường xuyên tổ chức các chuyến thăm và biểu diễn tại các tỉnh
bạn, nhất là các địa phương dọc biên giới tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay,Khămmuộn [32].
57
Trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng và công tác biên giới:
Nhiệm vụ hàng đầu trong hợp tác về an ninh, quốc phòng giữa tỉnh Hà
Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn trong giai đoạn này là giữ vững an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, đập tan âm mưu phá hoại của các thế lực
thù địch. Các bên đã đẩy mạnh hợp tác toàn diện, chú trọng công tác cố vấn,
chuyên gia, tham mưu về công tác Đảng, chính trị trong quân đội; tăng cường
trao đổi thông tin, kinh nghiệm, tổ chức, quản lý, xây dựng lực lượng bộ đội
địa phương, dân quân du kích và dự bị động viên; giúp các tỉnh bạn xây dựng
vững chắc thế trận chiến tranh nhân dân; bổ sung, hoàn thiện các phương ánphối hợp tác chiến với bạn khi có tình huống xấu xảy ra; tổ chức đánh giátổng kết, rút kinh nghiệm trên từng lĩnh vực.
Ngày 22/7/1997 Tỉnh ủy ra NQ 08-NQTU về tăng cường lãnh đạo
công tác quốc phòng, an ninh trong tình hình mới, xác định phương hướng,
nội dung, giải pháp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng an ninh của tỉnh đến
năm 2000, trong đó, xác định tuyến biên giới Việt Nam - Lào là địa bàn
trọng điểm cần tập trung chỉ đạo. Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh đã chỉ đạo
lực lượng Biên phòng, Công an, chính quyền các địa phương liên quanphối hợp chặt chẽ với hai tỉnh bạn thường xuyên nắm bắt tình hình, không
để bị động bất ngờ, giải quyết kịp thời những vấn đề phát sinh về an ninh,
trật tự vùng biên giới, nhất là trong việc phát hiện, phòng ngừa và đấu
tranh kịp thời, trấn áp có hiệu quả những hành động xâm nhập, phá hoại
của các thế lực thù địch.
Mặc dù hai nước đã giành được độc lập nhưng chủ nghĩa đế quốc, đứng
đầu là Mỹ và các thế lực thù địch trong và ngoài nước vẫn chưa từ bỏ âm mưuchống phá cách mạng, nhằm chia rẽ tình đoàn kết giữa hai dân tộc. “Tỉnh Hà
Tĩnh là địa bàn chiến lược quan trọng của Quân khu IV và cả nước, có biên
giáp bạn Lào, có cửa khẩu Quốc tế Cầu Treo và đường Quốc lộ 8A lưu thôngvới các nước Đông Nam Á. Hoạt động của các đối tượng chống phá có chiều
hướng gia tăng với thủ đoạn tinh vi hơn, nhất là lợi dụng vấn đề tín ngưỡng,
tôn giáo” [104]. Tỉnh Hà Tĩnh tiếp giáp với tỉnh Bôlykămxay, Khămmuộn với
chiều dài 145km đường biên giới, có cửa khẩu quốc tế Cầu Treo và các cửa
khẩu phụ, cùng nhiều đường tiểu ngạch; là nơi núi rừng hiểm trở, có nhiều
sông suối, đi lại khó khăn nhất là về mùa mưa lũ; khí hậu khắc nghiệt; dân cư
58
phân bố không đều, đại đa số là dân tộc ít người, ý thức về biên giới quốc gia
còn nhiều hạn chế... Đây là những nhân tố để các thế lực thù địch lợi dụng, gia
tăng các hoạt động chống phá. Thủ đoạn của chúng là tìm cách xâm nhập, thu
thập thông tin và xuyên tạc về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước;
tuyên truyền, kích động, chống đối chế độ của hai nước [44]. Tình trạng người
H’mông (chủ yếu là người tỉnh khác) xuất nhập cảnh, di cư tự do sang Lào đã
xảy ra nhiều lần, gây thêm cho tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn
nhiều khó khăn [141].
Tình hình an ninh chính trị ở Lào cũng giống như tại Việt Nam, các thế lực
thù địch thực hiện âm mưu "Diễn biến hòa bình" để chống phá Lào. Các nhóm
phản động hiện đang tập trung hoạt động chống phá ở Bắc Lào và ngay tại khu
vực trung tâm thủ đô Viêng Chăn. Đồng thời, chúng đang có hướng xâm nhập
xuống Trung và Nam Lào. Tại hai tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn, bọn phản
động lưu vong người Lào, người Việt được các thế lực thù địch nuôi dưỡng và
huấn luyện rồi tung về Lào hoạt động chống phá cách mạng Lào [3].
Bộ đội biên phòng tỉnh Hà Tĩnh đã phối hợp chặt chẽ với lực lượng
công an, chính quyền các địa phương trên địa bàn và các lực lượng chức
năng của tỉnh bạn kịp thời nắm chắc tình hình, phát hiện, ngăn chặn và đấu
tranh có hiệu quả bọn tội phạm hình sự đang lẩn trốn, bọn khai thác lâm
thổ sản trái phép và các loại tội phạm khác [143], [35], [45].
Các bên tăng cường phối hợp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh biên giới,
ngăn chặn các hoạt động tội phạm, vượt biên trái phép, buôn lậu qua biên giới,
nhất là buôn lậu ma túy; tiêu diệt tận gốc các ổ phỉ, các băng nhóm chống đối có
vũ trang; giải quyết một cách thỏa đáng những vấn đề phát sinh [180].
Tính riêng trên địa bàn huyện Hương Sơn, từ năm 1991 - 2000, lực
lượng bộ đội biên phòng đã bắt giữ 295 đối tượng vượt biên trái phép [149].
Trong năm 1999, lực lượng biên phòng đã tổ chức tuần tra 40 lần với 270 lượt
người tham gia, xử lý 80 trường hợp vào cư trú, làm ăn trái phép trong khuvực biên giới; phối hợp với tỉnh bạn tuần tra song phương 4 lần với 34 lượt
người tham gia. Nhờ tăng cường công tác tuần tra, xử lý vi phạm, tình trạng
vượt biên trái phép đã giảm nhiều so với những năm trước đây [134].
Song song với nhiệm vụ tăng cường hợp tác phòng chống có hiệu quả âm
mưu của các thế lực thù địch, giữ gìn an ninh trật tự trên địa bàn, tỉnh Hà Tĩnh và
59
tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn đã tăng cường hợp tác và thu được những kết quảđáng phấn khởi trong công tác xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị.
Thực hiện Hiệp định Quy chế biên giới quốc gia, về phía Việt Nam có
12 mốc quốc giới được giao cho 4 đồn Biên phòng quản lý, bảo vệ. Trong đó,Đồn cửa khẩu Cầu Treo phụ trách đoạn biên giới dài 56 km, gồm 4 mốc: N1,
N2, N13, N14; Đồn 567 phụ trách đoạn biên giới dài 44 km, gồm 2 mốc: N3,
N4; Đồn 571 phụ trách đoạn biên giới dài 28 km, gồm 4 mốc: N5, N6, N7,
N8; Đồn 575 phụ trách đoạn biên giới 17 km, gồm 2 mốc: N9, N10. Do mốc
quốc giới được cắm trên núi cao, độ dốc lớn, địa hình hiểm trở, kích cỡ cột
mốc quá nhỏ nên rất khó khăn trong công tác bảo vệ [36].
Trong những năm 1996 - 2000, các cấp ủy Đảng, chính quyền, các
ngành liên quan, đặc biệt là lực lượng Quân sự, Biên phòng, Công an tỉnh Hà
Tĩnh đã phối hợp với tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn tăng cường công tác
tuyên truyền giáo dục, giúp nhân dân nâng cao nhận thức, thực hiện tốt các
chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước, đặc biệt là tích cực
tham gia nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia; phát huy vai trò, sức mạnh to
lớn của nhân nhằm xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân
và biên phòng toàn dân vững mạnh; Phối hợp bảo vệ, tu bổ, giữ nguyên hiện
trạng và quản lý bảo vệ tốt hệ thống mốc quốc giới đảm bảo quy định của
Hiệp định Quy chế biên giới [179].
Do đời sống còn gặp nhiều khó khăn nên một bộ phận cư dân biên giới
cùng với các đối tượng thuộc các địa phương khác thường lợi dụng tình hình
để vượt biên trái phép sang lãnh thổ của nhau. Hàng năm, chính quyền các
tỉnh bạn đã tổ chức trao trả người di cư tự do cho các cơ quan chức năng của
tỉnh Hà Tĩnh và các tỉnh khác của Việt Nam qua cửa khẩu Cầu Treo. Trong
giai đoạn từ năm 1991 đến 1997, các tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn và BộNội vụ Lào đã tiến hành 13 đợt trao trả và tỉnh Hà Tĩnh đã tổ chức tiếp nhận
274 người Việt Nam vượt biên trái phép sang Lào [142].
Ngoài ra, bộ đội Biên phòng tỉnh Hà Tĩnh còn kết hợp với chính quyền
địa phương tổ chức giáo dục cho nhân dân nhận thức sâu sắc về quy chế biên
giới, đồng thời thực hiện nghiêm chỉnh Hiệp định về Quy chế biên giới quốc
gia của hai nước Việt Nam - Lào [149].
60
Tiểu kết chương 1:
Từ năm 1986 đến năm 1990, quan hệ hữu nghị hợp tác giữa tỉnh Hà
Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn diễn ra trong bối cảnh hai nước và
các địa phương đang gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhất là trong điều kiện
kinh tế còn nghèo, chưa thoát khỏi cơ chế quan liêu bao cấp, lại vừa phải đối
phó với âm mưu chống phá thâm độc của các thế lực thù địch. Tuy nhiên, nhờsự nỗ lực của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Hà Tĩnh, với truyền thống đoàn kết
gắn bó lâu đời và những ưu đãi đặc biệt giành cho nhau, quan hệ hữu nghị hợp
tác giữa tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn tiếp tục được tăngcường và thu được những kết quả đáng phấn khởi, nhất là hợp tác về chính trịvà an ninh quốc phòng [174]. Đặc biệt, sự quan tâm, giúp đỡ về chuyên gia,
cung ứng cơ sở vật chất, trang thiết bị thiết yếu phục vụ sản xuất, đời sống của
tỉnh Hà Tĩnh đã giúp các tỉnh bạn giải quyết kịp thời những khó khăn trước
mắt. Trong thời kỳ khó khăn, hàng hoá của Việt Nam đến với các bản làng của
các tỉnh bạn, nhất là địa bàn vùng sâu, vùng xa đã khắc phục được một phần
thực trạng khan hiếm hàng hoá của các tỉnh bạn, góp phần ổn định tình hình,
nâng cao đời sống cho nhân dân.
Tuy nhiên, trong giai đoạn này, những kết quả đạt được trong quá trình
triển khai thực hiện các thỏa thuận hợp tác đã được các bên thống nhất còn
thấp so với yêu cầu, mong muốn và tiềm năng của ba tỉnh. Nhiều nội dung
hợp tác đã được đề ra nhưng thực hiện thiếu kịp thời, có nơi, có lúc thiếu tính
khả thi. Quan hệ hợp tác chủ yếu đang diễn ra ở khu vực kinh tế Nhà nước,
trong đó, lĩnh vực được chú trọng nhất là nông - lâm nghiệp. Do đó, nhìn
chung việc hợp tác giữa tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn
đem lại hiệu quả chưa cao, nặng tính chất bao cấp, phiến diện; chưa khơi dậy,
phát huy được tiềm năng, thế mạnh của ba tỉnh.
Bước sang giai đoạn 1991 - 2000, quan hệ hợp tác giữa tỉnh Hà Tĩnh với
tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn được thực hiện một cách toàn diện, đồng
bộ, hiệu quả cao hơn trên nhiều lĩnh vực; hợp tác kinh tế từng bước được coi
trọng và bước đầu mang lại những kết quả đáng khích lệ trên một số lĩnh vực.
Cùng với hợp tác kinh tế, các lĩnh vực hợp tác khác cũng không ngừng phát
61
triển và đạt được nhiều kết quả. Tuy nhiên, qua quá trình tìm hiểu quan hệhợp tác giữa hai tỉnh Hà Tĩnh và Bôlykhămxay, Khămmuộn giai đoạn 1991 -
2000 cho thấy, kết quả hợp tác mà các bên mang lại chưa cao. Đặc biệt, trong
lĩnh vực kinh tế, tuy đã được hai nước và ba tỉnh xác định là lĩnh vực hợp tác
trọng tâm, nhưng trong thực tế, hợp tác giữa tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh
Bôlykhămxay và Khămmuộn trong lĩnh vực này hiệu quả còn thấp, chưatương xứng với tiềm năng, yêu cầu phát triển kinh tế và mong muốn của Đảng
bộ và nhân dân ba tỉnh.
Trong giai đoạn này, phương thức lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnhtrong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng quan hệ hữu nghị, hợp tác với tỉnh
Bôlykhămxay và Khămmuộn đã có một số đổi mới theo hướng quán triệt
nhận thức về phương thức lãnh đạo của Đảng được xác định trong Cương lĩnhxây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, nhất là trong hoạch định
chủ trương cũng như trong lãnh đạo tổ chức thực hiện các nhiệm vụ hợp tác
với các tỉnh bạn. Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng, phương thức lãnh đạo của
Đảng bộ trong việc xây dựng mối quan hệ hợp tác hữu nghị với tỉnh
Bôlykhămxay, Khămmuộn còn một số tồn tại, khuyết điểm. Cụ thể là, còn
chậm ban hành các Nghị quyết chuyên đề về xây dựng quan hệ hợp tác hữu
nghị với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn; công tác tuyên truyền chưa được
quan tâm đúng mức nhằm tạo sự thống nhất trong toàn Đảng bộ và cả hệthống chính trị về vấn đề này; công tác kiện toàn tổ chức, nâng cao tinh thần
trách nhiệm, hiệu quả, hiệu lực điều hành của bộ máy và đội ngũ cán bộ thực
thi nhiệm vụ trên các lĩnh vực công tác chưa thật sự được coi trọng; việc lãnh
đạo chính quyền thể chế hoá các quan điểm, phương hướng về hợp tác với
Bôlykhămxay, Khămmuộn của Đảng bộ thành các chương trình, kế hoạch, đềán, dự án cụ thể thiếu kịp thời, có nơi, có lúc còn chưa được coi trọng; công
tác kiểm tra, tổng kết việc thực hiện nhằm rút kinh nghiệm và khắc phục kịpthời những tồn tại vướng mắc chưa đạt yêu cầu. Đây cũng là những vấn đề đặt
ra đòi hỏi Đảng bộ cần tiếp tục giải quyết ở giai đoạn tiếp theo.
62
Chương 2CHỦ TRƯƠNG VÀ QUÁ TRÌNH CHỈ ĐẠO PHÁT TRIỂN QUAN HỆHỮU NGHỊ, HỢP TÁC TOÀN DIỆN VỚI TỈNH BÔLYKHĂMXAY,KHĂMMUỘN CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH HÀ TĨNH TỪ NĂM 2001 ĐẾN
NĂM 2010
2.1. BỐI CẢNH TÌNH HÌNH TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ VIỆT
NAM - LÀO TRONG THẬP NIÊN ĐẦU THẾ KỈ XXI
2.1.1. Tình hình quốc tế và khu vực
Bước vào thiên niên kỷ mới, tình hình thế giới và khu vực diễn biến
nhanh chóng, phức tạp, khó lường về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Cách
mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển với tốc độ ngày càng cao, đẩy
nhanh sự phát triển của lực lượng sản xuất, đồng thời thúc đẩy quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hóa nền kinh tế và đời sống xã
hội. Quá trình hội nhập kinh tế và khu vực tiếp tục phát triển sâu rộng với tốc
độ nhanh. Cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn [124, tr.209].
Trong bối cảnh các nước tiếp tục điều chỉnh chính sách, tình hình chính
trị và an ninh ở nhiều khu vực trở nên căng thẳng hơn. Tình hình chính trị - xã
hội của một số quốc gia ở một số khu vực có nhiều biến động và mất ổn định,
dẫn đến xung đột bạo lực leo thang, phân cực nội bộ xã hội và thay đổi chính
quyền. Tình trạng mất ổn định chính trị, an ninh ở một số quốc gia Đông -
Nam Á như Inđônêxia, Myanma, Tháilan... đã tác động lớn đến các mối quan
hệ song phương giữa nhiều quốc gia với nhau và ảnh hưởng đến môi trường
hòa bình, ổn định chung ở khu vực [17, tr.62-63]. Khu vực Đông Nam Á, sau
nhiều thập kỷ chiến tranh, đối đầu, đã có hòa bình. Tuy còn tiềm ẩn một sốnhân tố có thể gây bất ổn định, nhưng xu thế hợp tác để phát triển không
ngừng gia tăng.
Những biến động về chính trị trên trường quốc tế đã tác động đến quan
hệ Việt Nam - Lào. Các thế lực phản động quốc tế không từ bỏ chiến lược
"Diễn biến hoà bình" để xóa bỏ các nước XHCN còn lại [27, tr.505], âm mưu
63
dùng "Bạo loạn lật đổ", với những thủ đoạn "Chống khủng bố" và lợi dụng
các vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền để tạo cớ can thiệp vào nội
bộ Việt Nam và Lào. Ngoài ra, các thế lực thù địch còn tăng cường hỗ trợ,
tiếp tay cho các lực lượng phản động trong nước và bọn lưu vong ở nước
ngoài chống phá cách mạng Việt Nam và Lào quyết liệt hơn.
Trong bối cảnh đó, sự nghiệp đổi mới của đất nước, sự mở cửa của Việt
Nam và Lào đang đứng trước nhiều cơ hội, nhưng cũng không ít những thách
thức. Lào và Việt Nam là hai nước trong số ít quốc gia còn kiên định mục tiêu
CNXH, cho nên mỗi nước một mặt phải phát huy tinh thần độc lập tự chủ, tự
lực, tự cường, đồng thời cần đẩy mạnh và tăng cường mối quan hệ đặc biệt
giữa hai Đảng, nhân dân hai nước, nhằm đảm bảo giữ vững định hướng và
mục tiêu CNXH, đưa sự nghiệp đổi mới đi đến thành công, đáp ứng nguyện
vọng, lợi ích cơ bản và lâu dài của hai dân tộc, phù hợp với xu thế hoà bình,
phát triển của khu vực và trên thế giới.
Đối với nước Lào, Đại hội Đảng lần thứ VII (3/2001) tiếp tục khẳng định
đường lối đổi mới, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, tạo tiền đề cho việc
xây dựng CNXH; tiếp tục thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại hoà bình,
độc lập, hữu nghị và hợp tác với các nước, nhất là các nước trong khu vực.
Củng cố và phát triển tình đoàn kết, hữu nghị đặc biệt với Việt Nam [68,
tr.708]; Mở rộng quan hệ hợp tác với các nước láng giềng; Tích cực tham gia
các hoạt động của Hiệp hội các quốc gia ĐNA (ASEAN); Mở rộng quan hệ
hợp tác với các nước và các tổ chức quốc tế. Nước Lào còn tham gia tích cực
vào các tổ chức hợp tác khu vực như ASEAN, Diễn đàn khu vực ASEAN
(ARF), Tiểu vùng Mê công mở rộng (GMF), Tam giác phát triển Camphuchia
- Lào - Việt Nam (CLVBT), Hợp tác Camphuchia - Lào - Mianma - Việt Nam
(CLMV), Tổ chức chiến lược hợp tác kinh tế giữa 3 dòng sông Iraoađi- Chao
Phaya - Mê công (ACMECF), Hội nghị Á - Âu (ASEM).
Đại hội Đảng Nhân dân Cách mạng Lào lần lần thứ VIII (4/2006), tiếp
tục khẳng định đường lối đổi mới, xây dựng đất nước giàu mạnh và phồn
vinh. Đại hội xác định mục tiêu xây dựng đất nước thời kỳ 2006 - 2010 và
64
hướng tới năm 2020 là tăng cường đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh tổng
hợp, tiếp tục xây dựng và phát triển chế độ dân chủ nhân dân, từng bước tiến
tới mục tiêu xây dựng CNXH. Đại hội chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại
và hội nhập quốc tế: tiếp tục củng cố tăng cường mối quan hệ hữu nghị và
hợp tác toàn diện với các nước XHCN, trong đó tiếp tục củng cố và phát triển
tình đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện với Việt Nam [68, tr.716].
2.1.2. Tình hình trong nước
Bước vào thiên niên kỷ mới, với những thắng lợi đã giành được trước
đây trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, những thành tựu to lớn và
rất quan trọng của 15 năm đổi mới đã làm cho thế và lực của Việt Nam ngày
càng được củng cố và nâng cao. Quan hệ đối ngoại không ngừng được mở
rộng, hội nhập kinh tế quốc tế được tiến hành chủ động và đạt nhiều thành tựu
quan trọng. Việt Nam đã tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác nhiều mặt với
các nước XHCN, các nước láng giềng, các nước bạn bè truyền thống; tham
gia tích cực các hoạt động thúc đẩy sự hợp tác cùng có lợi trong Hiệp hội các
nước Đông Nam Á và Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương,tạo ra "một bước quan trọng cho việc hội nhập nền kinh tế khu vực, tạo điều
kiện để Việt Nam tham gia các tổ chức khu vực, liên khu vực, liên châu lục,
tiến tới gia nhập tổ chức hợp tác toàn cầu, hội nhập ngày càng sâu hơn vàonền kinh tế khu vực và thế giới" [30, tr.379].
Những thành tựu đạt được đã tăng cường sức mạnh tổng hợp, làm thay
đổi bộ mặt của đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường
quốc tế. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam đã từng bước chủ động hội
nhập khu vực và quốc tế, trước hết về kinh tế, nhằm bổ sung và hỗ trợ cho
việc "xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ theo định hướng xã hội chủ nghĩa,để từ đó có thể chủ động đi vào dòng chảy của thời đại một cách có lợi nhất
cho mình và phù hợp nhất với mình" [83, tr.20].
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định:
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở,
đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn
65
sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc
tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”, “Coi trọng và phát
triển quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa và
các nước láng giềng. Nâng cao hiệu quả và chất lượng hợp tác với
các nước ASEAN [66, tr.119,121].
Điểm mới về chủ trương đối ngoại của Đảng ở Đại hội IX là việc nhấn
mạnh vấn đề chủ yếu và trước hết của hội nhập khu vực, quốc tế là hội nhập
về kinh tế. Đại hội IX phát triển phương châm "Việt Nam muốn là bạn của tất
cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát
triển" [65, tr.120] của Đại hội VIII, thành "Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối
tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc
lập và phát triển" [66, tr.119]. Phương châm này thể hiện bước phát triển mới
về tư duy đối ngoại của Đảng, đồng thời khẳng định vị thế mới của Việt Nam
trong quan hệ quốc tế đương đại.
Nhằm đẩy mạnh hơn nữa quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, ngày
27/11/2001, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 07/NQ-TW về hội nhập kinh tếquốc tế. Nghị quyết đã xác định rõ hơn mục tiêu và những quan điểm chỉ đạo
của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Về mục tiêu hội nhập,
Nghị quyết nêu rõ phải "chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thịtrường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" [28, tr.3]. Về quan
điểm chỉ đạo, NQ yêu cầu quán triệt chủ trương được xác định tại Đại hội IX
là "chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối
đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và
định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn
bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường" [66, tr.43].
Đại hội X của Đảng (tháng 4/2006) tiếp tục khẳng định:
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình,
hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương
66
hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội
nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các
lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong
cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tếvà khu vực [67, tr.112].
Quán triệt đường lối đối ngoại của Đại hội của Đảng, trong giai đoạn
2001 - 2010, trước đòi hỏi tăng cường hơn nữa quan hệ thương mại, đầu tư vàđáp ứng sự phát triển không ngừng của hợp tác kinh tế, để tiếp tục hoàn thiện
hành lang pháp lý cho các hoạt động đầu tư, Việt Nam và Lào đã ký Hiệp
định bảo hộ đầu tư và tránh đánh thuế hai lần cùng nhiều văn kiện khác trên
tất cả các lĩnh vực hợp tác. Đồng thời, hai nước đã xây dựng các Thỏa thuận
chiến lược hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật cho các giai đoạn 5
năm, 10 năm. Hàng loạt Hiệp định, Nghị định thư và các thỏa thuận hợp tác
khác cũng đã được ký kết, tạo thành một hệ thống cơ chế hợp tác và văn bản
pháp lý để các Bộ, ngành, địa phương hai bên áp dụng, thực hiện các chương
trình, đề án hợp tác cụ thể [50].
Sự phát triển không ngừng trong quan hệ Việt Nam - Lào là nhân tố
quan trọng, bảo đảm vững chắc mối quan hệ hợp tác lâu dài giữa các địa
phương của hai nước, trong đó có quan hệ hợp tác giữa tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh
Bôlykhămxay và Khămmuộn. Phát huy những nhân tố đảm bảo cho mối quan
hệ hữu nghị hợp tác giữa tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn
trong giai đoạn 1991 - 2000, tình hữu nghị và sự hợp tác toàn diện giữa Đảng
bộ và nhân dân tỉnh Hà Tĩnh - Bôlykhămxay - Khămmuộn ngày càng được
tăng cường, đạt nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực và “diễn ra sôi
động, hiệu quả, có chiều sâu trên nhiều lĩnh vực...góp phần vun đắp thêm mối
quan hệ hữu nghị truyền thống đặc biệt giữa hai nước Việt Nam - Lào nói
chung và tỉnh Hà Tĩnh với các tỉnh bạn Lào nói riêng” [41, tr.148].
Tuy nhiên, nhìn lại quan hệ hợp tác giữa tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh
Bôlykhămxay và Khămmuộn giai đoạn 1991 - 2000 cho thấy, kết quả hợp tác
mà các bên mang lại chưa cao. Đặc biệt, trong lĩnh vực kinh tế, tuy đã được
67
tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn xác định là lĩnh vực hợp
tác trọng tâm, nhưng trong thực tế, hợp tác trong lĩnh vực này hiệu quả còn
thấp, chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu phát triển kinh tế và mong
muốn của Đảng bộ và nhân dân ba tỉnh.
Trước những biến chuyển của tình hình thế giới, khu vực và bối cảnh
quan hệ hữu nghị hợp tác hai nước đang đi vào chiều sâu, cùng với yêu cầu
đặt ra trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi tỉnh, nhiệm vụ tăngcường mối quan hệ hợp tác truyền thống giữa tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh
Bôlykhămxay và Khămmuộn đang đặt ra hết sức cấp thiết, không chỉ vì mục
tiêu tăng trưởng kinh tế, giữ vững an ninh chính trị của mỗi địa phương, màcòn góp phần quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi các thỏa thuận chiến
lược giữa hai nước.
2.2. ĐẢNG BỘ TỈNH HÀ TĨNH LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN QUAN
HỆ HỮU NGHỊ, HỢP TÁC TOÀN DIỆN VỚI TỈNH BÔLYKHĂMXAY
VÀ KHĂMMUỘN TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010
2.2.1. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh về tiếp tục phát triển
quan hệ đặc biệt giữa tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn
Ngày 4/01/2001, Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh lần thứ XV đã khai mạc.
Đánh giá tình hình thực hiện NQ Đại hội nhiệm kỳ 1996 - 2000, Đại hội
khẳng định:
5 năm qua, Đảng bộ và nhân dân Hà Tĩnh đã phấn đấu tạo được sự
phát triển tương đối toàn diện và đồng đều trên tất cả các lĩnh vực
và địa bàn, đạt và vượt nhiều chỉ tiêu Đại hội XIV đề ra. Nổi bật là
những thành tựu trong sản xuất nông nghiệp, đầu tư xây dựng kết
cấu hạ tầng, tăng nguồn thu, phát triển văn hóa, xã hội, giữ vững ổn
định chính trị. Đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện. Công tác
xây dựng Đảng và hệ thống chính trị có nhiều tiến bộ [55, tr.9].
Đại hội đã đánh giá cao về những cố gắng và những thành tựu về công
tác đối ngoại và khẳng định: “Hoạt động đối ngoại đã góp phần quan trọng
vào việc tăng cường hợp tác với Lào, Thái Lan, mở rộng với quan hệ nhiều
68
nước và tổ chức quốc tế, tạo điều kiện để giao lưu, mở rộng tầm nhìn, tìm
kiếm thị trường”, “Tăng cường quan hệ tốt với các tỉnh của nước bạn Lào, giữ
vững tuyến biên giới hữu nghị” [55, tr.13,17].
Quán triệt NQ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, trên cơ sở tổng kết
những thành tựu và hạn chế nhiệm kỳ 1996 - 2000 và những yêu cầu đặt ra
trong tình hình mới, Đại hội đã đề ra phương hướng chung nhiệm kỳ 2001 -
2005. Đại hội đã đề ra các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu nhằm đẩy nhanh tốc
độ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh. Trong đó, nhấn
mạnh nhiệm vụ “khai thác tiềm năng và lợi thế của từng vùng kinh tế: đồng
bằng, ven biển, trung du và miền núi, về đất đai, lao động, cơ sở vật chất kỹthuật, gắn với khai thác lợi thế kinh tế Đường 8, Đường Hồ Chí Minh, trung
tâm tỉnh lỵ, cảng Vũng Áng. Đẩy mạnh sản xuất hàng hóa, mở rộng thị
trường tiêu thụ sản phẩm và dịch vụ”; “phát triển mạnh mẽ kinh tế rừng, gắn
phát triển kinh tế miền núi với khai thác lợi thế Đường 8, Đường Hồ Chí
Minh và các lợi thế khác” [55, tr.37].
Chủ trương của Đại hội về đẩy mạnh phát triển kinh tế vùng, khai thác
tiềm năng, lợi thế kinh tế Đường 8, đầu tư khu kinh tế Cửa khẩu Cầu Treo,
xây dựng kết cấu hạ tầng phía Tây, vùng biên giới, nhất là cải tạo, nâng cấp,
xây dựng mới các tuyến đường trục Đông - Tây, “dồn sức phát triển công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp”, gắn với việc tiếp tục khai thác mở rộng thị
trường trong và ngoài nước, các tỉnh bạn, nhất là thị trường Lào và Thái
Lan... là cơ sở và điều kiện thuận lợi để Đảng bộ, chính quyền, các ngành, các
địa phương từ tỉnh đến cơ sở tiếp tục tăng cường quan hệ hợp tác trên các lĩnh
vực với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn.
Ngày 10/1/2001, BCH Tỉnh ủy khóa XV đã ra NQ số 04-NQ/TU về“Tiếp tục tăng cường lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ Quốc phòng - An ninh
trong tình hình mới”. Hội nghị đã đánh giá “Quan hệ quốc tế với bạn Lào và
các tỉnh bạn trên lĩnh vực phối hợp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng an ninh
được tăng cường gắn bó. Tình hình an ninh biên giới... được giữ vững, tạo
môi trường thuận lợi cho việc phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nhà” [104].
69
Nghị quyết khẳng định: “Không ngừng củng cố và tăng cường họp tác
về mọi mặt với bạn Lào, trên cơ sở các hiệp định và những nguyên tắc thỏa
thuận giữa hai nước”; “Thực hiện tốt nhiệm vụ quốc tế, xây dựng tình đoàn
kết hữu nghị với các tỉnh có cùng biên giới của nước CHDCND Lào. Trong
quan hệ với bạn, bảo đảm sự gắn bó thủy chung giữa nhân dân và lực lượng
vũ trang hai nước, đặc biệt giữa tỉnh ta với các tỉnh bạn Bôlykhamxay và
Khămmuộn nhằm xây dựng tuyến biên giới và Cửa khẩu Quốc tế Cầu Treo
hòa bình hữu nghị, không để các thế lực thù địch lợi dụng chia rẽ và tạo cớ
phá hoại” [104].
Tiếp tục quán triệt thực hiện NQ Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV, BCH
Đảng bộ tỉnh đã ra NQ 06-NQ/TU ngày 7/5/2002, về phát triển công nghiệp,
tiểu, thủ công nghiệp trong những năm tới; NQ 09-NQ/TU, ngày 6/9/2002, về
phát triển khoa học công nghệ giai đoạn 2002 - 2005, NQ 16-NQ/TU, ngày
10/5/2004, về tăng cường lãnh đạo phát triển thương mại, du lịch và dịch vụ
trong những năm tới. Trên cơ sở NQ Đại hội XV và các NQ của BCH Tỉnh
ủy, UBND tỉnh đã xây dựng các Đề án, NQ, Chương trình hành động, đặc
biệt là xây dựng Chương trình phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Hà Tĩnh đến
năm 2005 và 2010 và ban hành nhiều chính sách khuyến khích đầu tư. Trong
đó, tỉnh đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư vào khukinh tế trọng điểm Đường 8, Cửa khẩu Quốc tế Cầu Treo, đẩy mạnh các
chương trình hợp tác với các tỉnh bạn Lào [102].
Chủ trương “Không ngừng củng cố và tăng cường họp tác về mọi mặt
với bạn Lào”, “Thực hiện tốt nhiệm vụ quốc tế, xây dựng tình đoàn kết hữu
nghị với các tỉnh có cùng biên giới của nước CHDCND Lào” của Đảng bộ
tỉnh đã được UBND tỉnh kịp thời quán triệt và cụ thể hóa bằng việc xây
dựng các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội cùng với việc ban
hành nhiều cơ chế, chính sách nêu trên đã tạo chuyển biến mạnh mẽ trong
trong việc thực thi các nội dung hợp tác giữa tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh
Bôlykhămxay và Khămmuộn.
Ngày 16/8/2004 Bộ Chính trị đã ra NQ số 39 - NQ/TW về phát triển
70
kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung bộ và duyên
hải Trung Bộ đến năm 2010. BCH Đảng bộ tỉnh đã ra NQ 19-NQ/TU về triển
khai thực hiện NQ 39-NQTW của Bộ Chính trị. Đánh giá tình hình thực hiện
nhiệm vụ kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng năm 2001 - 2005, NQ khẳng
định: Trong những năm 2001 - 2005, “Đảng bộ và nhân dân Hà Tĩnh đã nỗ
lực phấn đấu vượt qua nhiều khó khăn, vươn lên giành được kết quả khá toàn
diện trên các lĩnh vực”. Kinh tế tăng trưởng khá, cơ sở vật chất được tăngcường, quốc phòng an ninh được giữ vững, tình hình chính trị ổn định, trật tự
an toàn xã hội đảm bảo; bộ mặt đô thị, nông thôn có nhiều khởi sắc, đời sống
nhân dân được cải thiện rõ rệt... [95]. Trong đó, việc thực hiện các nội dung
hợp tác giữa Hà Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn đã được các cấp,
các ngành, các địa phương triển khai thực hiện nhằm “không ngừng củng cố
và tăng cường họp tác về mọi mặt... bảo đảm sự gắn bó thủy chung giữa nhân
dân và lực lượng vũ trang ba tỉnh”. “Ba tỉnh đã có nhiều cố gắng trong việc
thực hiện văn bản ký kết của hai đoàn cấp cao và đã thu được một số kết quả
đáng ghi nhận trong các lĩnh vực như: Giáo dục Đào tạo, Y tế, đảm bảo an
ninh trật tự trên tuyến biên giới, Nông nghiệp, Khoa học công nghệ, văn hóa
thể thao và hoạt động tình nghĩa...” [159].
Quán triệt nội dung NQ 39-NQTW, trên cơ sở đánh giá tình hình thực
hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 - 2005, BCH Đảng bộ
tỉnh đã đề ra mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp cụ thể giai đoạn 2006 -
2010. Nghị quyết đã xác định các chương trình phát triển kinh tế - xã hội chủyếu, trong đó có “Chương trình phát triển kinh tế Đường 8 - Cửa khẩu Quốc
tế Cầu Treo, Cảng nước sâu Vũng Áng và Cảng Xuân Hải”, “Chương trình
phát triển kinh tế phía Tây và Đường Hồ Chí Minh”. Nghị quyết tiếp tục
khẳng định chủ trương:
Phát triển kinh tế Đường 8 gắn với Cửa khẩu Quốc tế Cầu Treo và
khu đô thị Hồng Lĩnh, Gia Lách theo hướng tăng cường mối quan hệhợp tác và sức thu hút đối với nước bạn Lào và các tỉnh vùng Đông
Bắc Thái Lan, gắn liền với khai thác, sử dụng có hiệu quả cảng Vũng
71
Áng và cảng Xuân Hải... nâng cấp Quốc lộ 8A; Tiếp tục đầu tư xâydựng kết cấu hạ tầng phục vụ nhu cầu quốc phòng an ninh và phát
triển dân sinh trên vùng biên giới. Tích cực chuẩn bị dự án đầu tư
khu Kinh tế Quốc phòng phía Tây huyện Hương Sơn [105].
Những chủ trương và giải pháp nêu trên đã cụ thể hóa quan điểm, chủ
trương và chính sách về công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước trong tình
hình mới, phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh,
quốc phòng, đáp ứng yêu cầu của Đảng bộ, nhân dân tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh
Bôlykhămxay, Khămmuộn trong việc tiếp tục tăng cường mối quan hệ, hợp
tác toàn diện đã và đang được các ngành, các cấp triển khai thực hiện theo các
thỏa thuận cấp cao đã ký.
Ngày 1/12/2005, Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh lần thứ XVI
khai mạc. Đại hội xác định phương hướng và mục tiêu tổng quát là: “Nângcao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, hiệu lực và hiệu quả
quản lý, điều hành của chính quyền các cấp, tăng cường sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân, đẩy mạnh công cuộc đổi mới trên tất cả các lĩnh vực, tập trung
cao độ mọi nguồn lực tạo bước đột phá về công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp,
đồng thời hết sức coi trọng phát triển nông nghiệp, nông thôn toàn diện, phát
triển thương mại, du lịch, dịch vụ, đẩy nhanh tiến trình đô thị hóa... phấn đấu
đưa Hà Tĩnh từ một tỉnh nông nghiệp sớm trở thành một tỉnh có công nghiệp -
dịch vụ phát triển [107].
Đại hội khẳng định chủ trương tiếp tục thúc đẩy có chiều sâu các mối
quan hệ quốc tế đã được thiết lập giữa tỉnh Hà Tĩnh với các tỉnh của nước
CHDCND Lào, các tỉnh Đông Bắc Thái Lan, các nước trong khối ASEAN...
Chú trọng đầu tư nguồn nhân lực phục vụ quá trình hội nhập quốc tế”; xây
dựng khu vực phòng thủ vững chắc gắn với xây dựng cơ sở xã phường, cụm
tuyến an toàn làm chủ sẵn sàng chiến đấu; tập trung vào các địa bàn trọng
điểm, tuyến biên giới; đảm bảo an ninh nội địa, xây dựng biên giới Việt Nam
- Lào hòa bình hữu nghị, đoàn kết.
Chủ trương chủ động và tích cực hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế
72
của Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh đề ra phù hợp với bối cảnh tình hình quốc
tế, khu vực, tình hình trong nước cũng như yêu cầu phát triển kinh tế xã hội
của tỉnh trong tình hình mới. Chủ trương đó đáp ứng yêu cầu tiếp tục đẩy
mạnh và phát triển quan hệ hợp tác với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn nhằm
khai thác có hiệu quả tiềm năng và lợi thế của mỗi tỉnh, phục vụ đắc lực
nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an
ninh quốc phòng trong điều kiện mới. Quan điểm, chủ trương trong hợp tác
được khẳng định là chủ động, tích cực, toàn diện và có chiều sâu. Đây là
bước phát triển mới trong nhận thức cũng như quá trình xây dựng chủ trương,
hoạch định các chương trình, kế hoạch cụ thể của Đảng bộ và chính quyền địaphương nhằm tiếp tục tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác với tỉnh
Bôlykhămxay, Khămmuộn trong tình hình mới. Ngoài việc tiếp tục khẳng
định chủ trương đẩy mạnh thực hiện các chương trình kinh tế, các vùng kinh
tế trọng điểm được đề ra tại Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ XV, Đại hội đã
thống chất chủ trương xúc tiến đẩy mạnh thực hiện một số chương trình, dự
án kinh tế trọng điểm thuộc Khu kinh tế Vũng Áng, Khu kinh tế Cửa khẩu
quốc tế Cầu Treo, Dự án khai thác mỏ sắt Thạch Khê, Chương trình kinh tế
khai thác lợi thế Đường 8, Đường 12, Đường Hồ Chí Minh. Việc thực hiện
các chương trình, dự án trên đây tạo điều kiện quan trọng đưa quan hệ hợp tác
giữa tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn đi vào chiều sâu, tạo
thế và lực mới, đảm bảo thực hiện thắng lợi các thỏa thuận hợp tác giữa tỉnh
Hà Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn, đồng thời đóng góp quantrọng vào việc thực hiện các thỏa thuận hợp tác chiến lược của Đảng và Nhà
nước ta với nước bạn Lào anh em. Lần đầu tiên, vấn đề đào tạo nguồn nhân
lực phục vụ quá trình hội nhập đã được đề cập tại Đại hội Đảng bộ tỉnh, đồng
thời việc huy động, bố trí các nguồn lực được từng bước cụ thể hóa và đưa
vào các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của tỉnh cũng như
một số ngành và lĩnh vực trọng điểm.
Đối với tỉnh Bôlykhămxay: Đại hội Đảng bộ lần thứ IV nhiệm kỳ 2005 -
2010 của BCH Đảng bộ tỉnh Bôlykhămxay khẳng định:
73
Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng, tăng cường tình
đoàn kết hữu nghị đặc biệt, hợp tác toàn diện với Việt Nam, tổ chức
gặp gỡ trao đổi kinh nghiệm. Phối hợp trong công tác khảo sát và
cất bốc hài cốt liệt sỹ và chuyên gia Việt Nam hi sinh tại
Bôlykhămxay về nước [58, tr.24].
Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng bộ lần thứ V, nhiệm kỳ 2010 - 2015
của BCH Đảng bộ tỉnh Bôlykhămxay:
Khẳng định đường lối đối ngoại của Đảng, phát huy mối quan hệ
hữu nghị, tình đoàn kết đặc biệt, hợp tác toàn diện với Việt Nam,
đặc biệt là tỉnh có chung đường biên giới với nhau để tạo điều kiện
cho mối quan hệ hợp tác chiều sâu hơn trước. Thường xuyên giải
quyết các vấn đề xây dựng khu vực biên giới hòa bình, hữu nghị và
phát triển; tiếp tục hợp tác trong công tác tìm kiếm và cất bốc hài
cốt liệt sỹ quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam hy sinh tại tỉnh
về nước. Tăng cường hoạt động mở rộng thu hút, tranh thủ sự hỗ
trợ, hợp tác của các nước bạn và các cơ quan tổ chức nước ngoài đểtranh thủ vốn và kỹ thuật công nghệ phát triển tỉnh” [59, tr.14].
Đối với tỉnh Khămmuộn: Báo cáo Chính trị tại Đại hội Đảng bộ tỉnh
Khămmuộn lần thứ VII nhiệm kỳ 2006 - 2010 đã khẳng định:
Thực hiện chính sách mở rộng mối quan hệ, hợp tác với nước
ngoài, trên cơ sở bình đẳng, hai bên đều có lợi. Tăng cường mối
quan hệ đặc biệt, hợp tác toàn diện với Việt Nam để tận dụng thếmạnh của hai bên vì sự phát triển của mỗi tỉnh”; “Khẳng định
đường lối đối ngoại của Đảng... giữ gìn và tăng cường mối quan hệ
hợp tác toàn diện với các tỉnh kết nghĩa của Việt Nam, hàng năm tổchức đoàn đại biểu cấp cao, các ngành liên quan của hai tỉnh tổ
chức trao đổi kinh nghiệm” [60,tr.10, 28].
Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Khămmuộn lần thứ VIII, ngày
19/08/2010 khẳng định:
Tiếp tục thực hiện đường lối chính sách đối ngoại của Đảng như:
74
Hòa bình, độc lập hữu nghị và hợp tác, tăng cường mối quan hệ hữu
nghị và tình đoàn kết đặc biệt, truyền thống, hợp tác toàn diện với
Việt Nam. Tiếp tục xây dựng mối quan hệ và hợp tác với các nước
láng giềng, mở rộng hợp tác đối ngoại quốc tế và tổ chức phi chính
phủ nước ngoài” [60, tr.30]; “Tiếp tục thực hiện đường lối đối
ngoại của Đảng, mở rộng mối quan hệ với bên ngoài theo nhiều
hướng, nhiều cấp độ. Chủ động hội nhập quốc tế” [60, tr.184].
2.2.2. Quá trình chỉ đạo thực hiện phát triển quan hệ hữu nghị,hợp tác với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn của Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh(2001 - 2010)
Nhằm tăng cường phát triển quan hệ hữu nghị hợp tác toàn diện với hai
tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng bộ
tỉnh lần thứ XV, XVI, XVII, trong những năm từ 2001 - 2010, Đảng bộ tỉnh
Hà Tĩnh đã kịp thời quán triệt sâu rộng, nhằm nâng cao nhận thức và phát huy
sức mạnh tổng hợp của các cấp, các ngành, các địa phương và hệ thống chính
trị, tổ chức thực hiện các chương trình nhiệm vụ hợp tác, phù hợp với điều
kiện cụ thể trong từng địa phương, đơn vị. Đồng thời, căn cứ vào yêu cầu
nhiệm vụ trong từng thời kỳ, chủ trương đó được cụ thể hóa trong các chương
trình kế hoạch công tác của cấp ủy, đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện, kịp thời,
đồng bộ, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, đặc biệt là sự điều
hành của UBND các cấp, nhằm thực hiện có hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ
đặt ra trong từng giai đoạn.
Theo chỉ đạo của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy đã
kịp thời chỉ đạo các ban, ngành, đoàn thể, các địa phương cơ sở đẩy mạnh
công tác tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức, tạo sự đồng thuận trong cán
bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về tăng cường tình hữu nghị và hợp
tác với các tỉnh bạn Lào, đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.
Báo Hà Tĩnh, Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh, đại diện cơ quanthường trú các báo của trung ương đóng trên địa bàn tỉnh đã được thông báo
kịp thời và tạo điều kiện thuận lợi để viết tin, bài, phóng sự... đưa tin về các
75
hoạt động của lãnh đạo cấp cao tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay,Khămmuộn trong các chuyến thăm và làm việc, về việc triển khai thực hiện
nhiệm vụ hợp tác trên các lĩnh vực của các ngành, các địa phương, doanh
nghiệp; phản ánh, biểu dương kịp thời những tập thể, cá nhân, những doanh
nghiệp có thành tích xuất sắc và những đóng góp thiết thực vun dắp mối quan
hệ hợp tác ngày càng bền chặt giữa Đảng bộ và nhân dân tỉnh Hà Tĩnh với
tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn.
Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, chủ trương, yêu cầu, nhiệm vụ tăng
cường hợp tác với các tỉnh nước bạn Lào được quán triệt và cụ thể hóa trong
chương trình, kế hoạch công tác của các Ban xây dựng Đảng, Ban cán sựĐảng HĐND, UBND tỉnh, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể cấp tỉnh và
các ngành, các địa phương.
Quán triệt chủ trương của Đại hội Đảng bộ tỉnh và sự chỉ đạo của BTV
Tỉnh ủy, HĐND và UBND tỉnh đã cụ thể hóa yêu cầu nhiệm vụ hợp tác với
các tỉnh bạn Lào nói riêng và nhiệm vụ công tác đối ngoại trong thời kỳ mới
nói chung vào việc hoạch định các chương trình hành động, đề án, kế hoạch,
quy hoạch, dự án đầu tư và nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội hằng năm, ngắn
hạn và dài hạn, phù hợp với điều kiện cụ thể trong từng giai đoạn. Điểm nổi
bật trong việc quán triệt chủ trương về tăng cường hợp tác với các tỉnh bạn
Lào của Đảng bộ tỉnh trong giai đoạn này là đặt nhiệm vụ này theo hướng
ngày càng ưu tiên trong tổng thể các chương trình, dự án trọng điểm của tỉnh,
do đó, các nguồn lực đảm bảo cho việc thực thi các thỏa thuận hợp tác trên
các lĩnh vực, nhất là về kinh tế, thương mại mang lại hiệu quả cao hơn. Theo
đó, UBND tỉnh đã kịp thời quán triệt chủ trương của Đại hội Đảng bộ tỉnh,
chỉ đạo các cơ quan chức năng xúc tiến đẩy mạnh thực hiện một số chươngtrình, dự án trọng điểm tại Khu kinh tế Vũng Áng, Khu kinh tế Cửa khẩu Cầu
Treo, Dự án khai thác mỏ sắt Thạch Khê; chỉ đạo xây dựng đề án nhằm triển
khai Chương trình kinh tế khai thác lợi thế Đường 8, Đường 12, Đường HồChí Minh; chỉ đạo ngành Giáo dục - Đào tạo phối hợp với các cơ quan liên
quan xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, tạo nguồn nhân lực phục vụ quá
76
trình hội nhập đã được đề cập tại Đại hội Đảng bộ tỉnh. Trong những năm từ2001 - 2010, đồng chí Trần Minh Kỳ - Ủy viên BTV Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch
Thường trực UBND tỉnh được giao giữ chức vụ Trưởng ban Biên giới và trực
tiếp chỉ đạo các ngành, các địa phương thực hiện nhiệm vụ hợp tác với các
tỉnh bạn Lào.
Đồng thời, UBND tỉnh đã kịp thời chỉ đạo các ngành, các địa phương
liên quan, căn cứ vào chức năng nhiệm vụ và điều kiện cụ thể của từng địaphương, đơn vị tổ chức quán triệt, xây dựng chương trình, kế hoạch và tổ
chức thực hiện nhiệm vụ hợp tác với các tỉnh bạn Lào. Việc rà soát, kiểm tra
để kịp thời xử lý những vướng mắc trong quá trình tham mưu hoạch định chủtrương, triển khai thực hiện nhiệm vụ của các ban, ngành, các địa phương đơn
vị liên quan được quan tâm hơn. Các bộ phận làm công tác tham mưu trong
lĩnh vực đối ngoại của ngành, các địa phương, nhất là Sở Ngoại vụ, Sở Kếhoạch và Đầu tư, Ban Biên giới, Ban chỉ đạo cắm mốc được tiếp tục bổ sung
nhân lực, trang thiết bị làm việc; được kịp thời cung cấp thông tin, tập huấn
nghiệp vụ, kỹ năng công tác nhằm nâng cao năng lực, đáp ứng tốt hơn yêucầu nhiệm vụ được giao. Nhằm nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ, nhất là
đội ngũ cán bộ thực thi nhiệm vụ hợp tác với các tỉnh bạn Lào, Sở Ngoại vụ
phối hợp với Sở Nội vụ và các cơ sở đào tạo mở nhiều lớp học tiếng Lào thu
hút hàng trăm cán bộ, công chức các ban, ngành, các địa phương tham gia.
Nhằm nâng cao nhận thức và phát huy sức mạnh của các tầng lớp nhân
dân vào việc thực hiện chủ trương chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tăngcường tình đoàn kết gắn bó với nhân dân các bộ tộc Lào anh em, cấp ủy,
chính quyền từ tỉnh đến cơ sở đã tăng cường chỉ đạo, tạo điều kiện thuận lợi
cho Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể quần chúng, đẩy mạnh các hoạt động giao
lưu, đối ngoại nhân dân. Bước sang giai đoạn 2001 - 2010, hoạt động giao
lưu, kết nghĩa, đối ngoại nhân dân với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn đã diễn
ra sôi nổi, với nhiều hình thức phong phú, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân
dân tham gia.
77
Nhiệm vụ tăng cường, nâng cao chất lượng đội ngũ làm công tác đối
ngoại của các cơ quan đơn vị được quan tâm đúng mức. Trong giai đoạn 2001
- 2010, Ban Đối ngoại (nay là Sở Ngoại vụ) là cơ quan chuyên môn thuộc
UBND tỉnh, tham mưu giúp UBND tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà
nước các hoạt động đối ngoại tại địa phương; thực hiện một số nhiệm vụ,
quyền hạn theo sự uỷ quyền của UBND tỉnh và theo quy định của pháp luật;
được giao nhiệm vụ trực tiếp chỉ đạo, tham mưu cho Tỉnh ủy, UBND tỉnh vềcông tác đối ngoại nói chung và quan hệ hợp tác với tỉnh Bôlykhămxay,
Khămmuộn nói riêng. Các đồng chí Tăng Nghĩa, Nguyễn Đường, Hồ Quang
Minh lần lượt được bổ nhiệm giữ chức vụ Trưởng ban Đối ngoại (nay là
Giám đốc Sở Ngoại vụ). Các đồng chí Trần Văn Lâm, Nguyễn Chí Thanh lần
lượt được bổ nhiệm là Phó Ban Đối ngoại (nay là Phó Giám đốc Sở Ngoại
vụ). Nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, nhất là công tác tham mưu cho BanThường vụ Tỉnh ủy, UBND tỉnh tăng cường mối quan hệ hợp tác với các tỉnh
bạn Lào, Ban Đối ngoại tỉnh đã đẩy mạnh việc sắp xếp lại tổ chức bộ máy,
tiếp nhận nhiều cán bộ có năng lực tăng cường cho các lĩnh vực trọng yếu; cải
tiến, đổi mới lề lối làm việc; nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác tham mưu,
điều hành các hoạt động đối ngoại.
Ban Biên giới tỉnh là cơ quan không chuyên trách, do đồng chí Trần
Minh Kỳ - Phó chủ tịch Thường trực UBND tỉnh làm Trưởng ban, đồng chí
Hồ Quang Minh, Giám đốc Sở Ngoại vụ làm Phó Trưởng ban và các thành
viên gồm đại diện các ngành liên quan; được giao nhiệm vụ tham mưu chocấp ủy, chính quyền, trực tiếp chỉ đạo các vấn đề về biên giới. Trong giai
đoạn 2001 - 2010, Ban Biên giới tỉnh tiếp tục được kiện toàn, bổ sung nhân
lực đồng thời không ngừng đổi mới lề lối làm việc, phát huy ngày càng tốt
hơn vai trò phối hợp với các ban ngành liên quan, các địa bàn biên giới và các
cơ quan hữu quan của các tỉnh bạn Lào chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ theo
quy định, kịp thời xử lý những vấn đề phát sinh trong công tác biên giới.
Văn phòng cấp ủy và UBND các cấp là cơ quan tham mưu cho cấp ủy,
chính quyền các cấp về công tác đối ngoại, được củng cố, tăng cường đội ngũ
78
cán bộ đủ phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Tại các
ngành và lĩnh vực liên quan, đã được kịp thời bố trí đội ngũ cán bộ chuyên viên
phụ trách công tác theo dõi, chỉ đạo, tham mưu công tác đối ngoại.
Nhằm tạo sự đồng bộ, thống nhất giữa các ngành, các địa phương, trong
việc triển khai thực hiện kịp thời các nội dung, nhiệm vụ hợp tác với các tỉnh
bạn Lào và Thái Lan, UBND tỉnh Hà Tĩnh đã thành lập "Tổ công tác triển
khai hợp tác với Lào và Thái Lan" do đồng chí Nguyễn Thiện - Phó Chủ tịch
UBDN tỉnh làm Tổ Trưởng, đồng chí Hồ Quang Minh, Giám đốc Sở Ngoại
vụ làm Tổ phó và 15 thành viên là đại diện lãnh đạo các sở, ngành liên quan;
đồng thời thành lập Tổ giúp việc gồm Trưởng, Phó các phòng chuyên môn
thuộc các sở, ngành liên quan để giúp việc cho Tổ công tác. Nhờ đó, việc chỉ
đạo triển khai thực hiện các nội dung hợp tác giữa tỉnh Hà Tĩnh và các tỉnh
của Lào, Thái Lan có nhiều chuyển biến mới và đạt kết quả đáng phấn khởi
trên các lĩnh vực [120].
Thực hiện thỏa thuận giữa hai Chính phủ Việt Nam - Lào về triển khai
Kế hoạch tổng thể tăng dày và tôn tạo hệ thống mốc quốc giới Việt Nam -
Lào, tỉnh Hà Tĩnh đã thành lập "Ban Chỉ đạo cắm mốc" do đồng chí Trần
Minh Kỳ - Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh làm Trưởng ban, đồng chí
Hồ Quang Minh - Giám đốc Sở Ngoại vụ làm Phó Trưởng ban. Đồng thời,
"Đội cắm mốc tỉnh Hà Tĩnh" đã được thành lập, do đồng chí Nguyễn Trịnh
Ngọ làm Đội trưởng. Sau khi được thành lập, Ban Chỉ đạo cắm mốc tỉnh Hà
Tĩnh đã kịp thời phối hợp với Ban Chỉ đạo cắm mốc hai tỉnh Bôlykhămxay vàKhămmuộn chỉ đạo Đội cắm mốc triển khai thực hiện có hiệu nhiệm vụ phân
giới cắm mốc theo kế hoạch đề ra.
Ngoài ra, trong một số lĩnh vực trọng tâm, tỉnh Hà Tĩnh đã chỉ đạo thành
lập các tổ giúp việc, tổ công tác gồm các cán bộ, chuyên viên có năng lực và
kinh nghiệm, tham mưu đắc lực cho lãnh đạo các ngành, các địa phương triển
khai thực hiện kịp thời, có hiệu quả những nội dung thỏa thuận hợp tác giữa
tỉnh Hà Tĩnh với các tỉnh bạn Lào.
79
Thực hiện chủ trương của Đảng bộ tỉnh, việc chỉ đạo nắm chắc tình hình
các địa bàn, nhất là địa bàn vùng nội và ngoại biên các cửa khẩu, các đường
tiểu ngạch trên tuyến biên giới, công tác kiểm tra, đánh giá rút kinh nghiệm
và biểu dương khen thưởng các tập thể, cá nhân, những điển hình tiên tiến
trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ hợp tác với các tỉnh bạn Lào,
nhất là trong công tác biên giới đã được cấp ủy, chính quyền, các ngành, các
địa phương quan tâm thực hiện.
Về hợp tác trong lĩnh vực chính trị, ngoại giao: Nhằm tăng cường mối
quan hệ hữu nghị hợp tác giữa tỉnh Hà Tĩnh với hai tỉnh Bôlykhămxay,
Khămmuộn trong lĩnh vực chính trị và kịp thời đẩy mạnh việc thực hiện các
nội dung hợp tác, từ năm 2001- 2010 lãnh đạo ba tỉnh đã tổ chức hàng chục
chuyến thăm hữu nghị chính thức lẫn nhau và tiến hành các cuộc hội đàm
đồng thời ký kết các văn bản thỏa thuận hợp tác.
Về phía tỉnh Hà Tĩnh: Trong những tháng đầu kể từ sau Đại hội Đảng bộ
tỉnh lần thứ XV, Đoàn đại biểu cấp cao tỉnh Hà Tĩnh đã sang thăm hữu nghị
và làm việc tại tỉnh Bôlykhămxay và tỉnh Khămmuộn, từ ngày 18/6 đến ngày
23/6/2001 [110]. Tiếp đó, nhằm đẩy nhanh viêc thực hiện thỏa thuận đã ký
trong chuyến thăm Hà Tĩnh của Đoàn đại biểu tỉnh Bôlykhămxay (từ ngày
08/7 đến ngày 10/7/2003), Đoàn đại biểu cấp cao tỉnh Hà Tĩnh đã sang thămvà làm việc tại tỉnh Bôlykhămxay, từ ngày 1/8 đến ngày 3/8/2004. Tại buổi
Hội đàm ngày 2/8/2004, hai bên đã đánh giá cao sự nỗ lực của hai tỉnh trong
việc thực hiện các thỏa thuận của cuộc hội đàm năm 2003, nhất là trong lĩnhvực y tế, khoa học công nghệ, bảo đảm an ninh biên giới. Tuy nhiên, hai bên
thống nhất đánh giá: “So với tiềm năng và yêu cầu của sự phát triển mối quan
hệ hợp tác, hữu nghị thì kết quả đó chưa tương xứng. Nguyên nhân chủ yếu
do các ngành, các cấp chưa phối hợp chặt chẽ trong việc triển khai thực hiện”
[160]. Trên cơ sở đánh giá tình hình các hoạt động hợp tác thời gian qua và
yêu cầu nhiệm vụ công tác đối ngoại trong tình hình mới, hai bên bày tỏ quyết
tâm đẩy mạnh hợp tác giữa hai tỉnh trong thời gian tới theo hướng “đạt hiệu
quả bền vững và thiết thực hơn” [160]. Theo đó, hai bên cần tiếp tục rà soát
80
và tiếp tục thực hiện các thỏa thuận đã ký (tháng 7/2003), đồng thời triển khai
thêm một số nội dung như: tỉnh Hà Tĩnh đồng ý hỗ trợ Bôlykhămxay xây
dựng một nhà học 2 tầng, 8 phòng học tại trường Dân tộc nội trú ở thị trấn
Lạc Xao, mang tên Trường hữu nghị Bôlykhămxay - Hà Tĩnh. Tỉnh
Bôlykhămxay triển khai nhanh việc nâng cấp mở rộng đoạn Đường 8 thuộc
nội biên Lào, từ mốc N1 đến đồn Biên phòng Nậm Phào, nhằm tạo thuận lợi
cho người và phương tiện hai nước đi lại.
Thực hiện chủ trương tiếp tục tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác với
tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn theo hướng “chủ động, tích cực, toàn diện và
có chiều sâu”, từ năm 2005 đến năm 2010, tỉnh Hà tĩnh tiếp tục duy trì và tăngcường các chuyến thăm và tổ chức các cuộc hội đàm cấp cao với hai tỉnh bạn.
Từ ngày 23 đến ngày 25/4/2008, Đoàn đại biểu cấp cao tỉnh Hà Tĩnh đã
sang thăm chính thức tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn. Tại buổi hội đàm với
tỉnh Bôlykhămxay, hai bên đã khẳng định: Hiện nay nhiều thế lực thù địch,
các phần tử phản động cách mạng đang tìm cách dụ dỗ, phá hoại nền hòa bình
cũng như tình cảm tốt đẹp mà Đảng, nhà nước và nhân dân hai tỉnh, hai đất
nước đã vun đắp, gìn giữ từ bao đời nay. Tuy nhiên, dù trong bất cứ điều kiện,
hoàn cảnh nào, Đảng, nhân dân hai tỉnh vẫn giữ vững lập trường, quan điểm
của mình, tiếp tục vun đắp cho mối quan hệ hợp tác của hai đất nước, hai dân
tộc. Mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng tỉnh Hà Tĩnh luôn sẵn sàng kề vai, sát
cánh và giúp đỡ tỉnh Bôlykhămxay trong mọi điều kiện, hoàn cảnh. Trong
thời gian tới, tỉnh Hà Tĩnh sẽ tiếp tục dành sự quan tâm và hợp tác toàn diện
hơn nữa để thúc đẩy sự phát triển KT-XH, QPAN của hai tỉnh. Nhân dịp này,
tỉnh Hà Tĩnh đã tặng quà cho tỉnh bạn, trị giá 1,5 tỷ đồng [168].
Tại tỉnh Khămmuộn, ngày 25/4/2008, Đoàn đại biểu cấp cao hai tỉnh đã
tiến hành Hội đàm. Hai bên thống nhất tiếp tục thực hiện tốt các nội dung
thống nhất tại Biên bản cuộc họp lần thứ XVII của Ủy ban Biên giới quốc gia
hai nước. Hai bên thống nhất tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp,
doanh nhân vào đầu tư sản xuất kinh doanh trên địa bàn mỗi tỉnh; tăng cường
giao lưu trao đổi hàng hóa, hợp tác phát triển cây công nghiệp và chế biến
81
lâm sản. Hai bên thống nhất tạo diều kiện thuận lợi cho Tổng Công ty Khoáng
sản và Thương mại Hà Tĩnh khai thác vận chuyển thạch cao về Việt Nam và
xây dựng nhà máy chế biến thạch cao tại tỉnh Khămmuộn. Hai tỉnh tiếp tục
triển khai các nội dung đã ký kết trên lĩnh vực khoa học và công nghệ, khuyến
khích tăng cường các hoạt động giao lưu văn hóa, thể dục thể thao, nhất là các
ngày lịch sử trọng đại của hai nước. Tỉnh Hà Tĩnh tạo điều kiện thuận lợi cho
doanh nhân, doanh nghiệp tỉnh Khămmuộn sang tham quan du lịch và giao
thương; tạo điều kiện thuận lợi tổ chức các tour du lịch giữa hai tỉnh và các
tỉnh của hai nước. Tỉnh Hà Tĩnh thống nhất trích ngân sách hỗ trợ tỉnh
Khămmuộn 1 tỷ đồng xây dựng Trường tiểu học Na Pô [168].
Nhằm thực hiện thỏa thuận cấp cao giữa các tỉnh đã ký qua các chuyến
thăm, bàn các nhiệm vụ giải pháp cụ thể tăng cường hợp tác giữa ba tỉnh,
tháng 7/2010, Đoàn công tác của UBND tỉnh tiếp tục có chuyến làm việc tại
các tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn và thủ đô Viêngchăn. Tại tỉnh
Bôlykhămxay, hai bên đã trao đổi một số công việc mà hai tỉnh quan tâm
như: tạo điều kiện ưu đãi cho các doanh nghiệp hai tỉnh sang đầu tư, đặc biệt
là tại Khu Kinh tế cửa khẩu quốc tế Cầu Treo, Khu Kinh tế Vũng Áng của
tỉnh Hà Tĩnh; trao đổi bàn bạc về việc quy hoạch nâng cấp, mở rộng đoạn nối
liền giữa hai Cửa khẩu quốc tế Cầu Treo - Nậm Phào. Tại tỉnh Khămmuộn,
hai bên cùng trao đổi, bàn bạc về những lợi thế, tiềm năng của mỗi tỉnh, đềxuất một số nội dung hợp tác như: Hiện nay Khu kinh tế Vũng Áng là khu
công nghiệp lớn, các chuyên gia và lực lượng lao động rất đông vì thế tỉnh
Khămmuộn có thể sản xuất lương thực, thực phẩm, rau quả cung cấp cho khu
công nghiệp và các dịch vụ khác có lợi thế; tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi và
giúp đỡ Tổng Công ty Khoáng sản Thương mại Hà Tĩnh khai thác và chế biến
thạch cao tại tỉnh Khămmuộn. Đoàn cũng đã đến thăm và tặng quà trường
Tiểu học Na Pô - ngôi trường được tỉnh Hà Tĩnh trích ngân sách hỗ trợ 1 tỷđồng để xây dựng [170].
Đồng thời với việc tổ chức các đoàn sang công tác tại hai tỉnh bạn, tỉnh
Hà Tĩnh đã đón nhiều đoàn công tác của bạn sang thăm và làm việc tại tỉnh
Hà Tĩnh.
82
- Đối với tỉnh Bôlykhămxay: Từ năm 2001 đến năm 2010, tỉnh
Bôlykhămxay đã cử 4 Đoàn đại biểu cấp cao sang thăm chính thức và làm
việc tại tỉnh Hà Tĩnh: Chuyến thăm do đồng chí Thoong Òn Khăm Phu Ban -
Phó Bí thư Tỉnh ủy, Phó Tỉnh Trưởng dẫn đầu, từ ngày 08/7 đến ngày
10/7/2003 [158]; Chuyến thăm do đồng chí Khăm Pha Phi La Vông - Ủy viên
Trung ương Đảng NDCM Lào - Bí thư Tỉnh ủy, Tỉnh Trưởng dẫn đầu, từ
ngày 25 đến ngày 27/6/2006 [159], [82]; Chuyến thăm do đồng chí KhămphaPhilavông - Ủy viên Trung ương Đảng NDCM Lào - Bí thư Tỉnh ủy, Tỉnh
Trưởng dẫn đầu, từ ngày 11 đến ngày 12/8/2009 [169]; Chuyến thăm và trao
quà hỗ trợ nhân dân vùng lũ tại Hà Tĩnh tháng 10/2010 của Đoàn cán bộ tỉnh
Bôlykhămxay do đồng chí Pạn Nọi Mả Ni - Bí thư, Tỉnh trưởng dẫn đầu.
- Đối với tỉnh Khămmuộn: Từ năm 2001 đến năm 2010, tỉnh Khămmuộn
đã cử 3 Đoàn đại biểu cấp cao sang thăm chính thức và làm việc tại tỉnh Hà
Tĩnh: Chuyến thăm của Đoàn đại biểu cấp cao tỉnh Khămmuộn do đồng chí Lê
Ca Căn Nha - Ủy viên Trung ương Đảng NDCM Lào, Bí thư Tỉnh ủy, Tỉnh
Trưởng dẫn đầu, từ ngày 06 đến ngày 08/8/2003 [167]; Chuyến thăm các Khukinh tế tại tỉnh Hà Tĩnh ngày 6/6/2010 của Đoàn đại biểu tỉnh Khămmuộn do
đồng chí Khăm Bay Đăm Lắt, Ủy viên Trung ương Đảng NDCM Lào, Bí thư,
Tỉnh trưởng dẫn đầu [91]; Chuyến thăm và làm việc tại tỉnh Hà Tĩnh từ ngày
21 đến 23/10/2010, do đồng chí Khăm Bay Đăm Lắt, Ủy viên Trung ương
Đảng NDCM Lào, Bí thư, Tỉnh trưởng làm Trưởng đoàn [171].
Kết quả nổi bật nhất trong lĩnh vực chính trị là các bên đã duy trì và tăngcường các chuyến thăm hữu nghị và tiến hành các cuộc hội đàm cấp cao giữa
lãnh đạo ba tỉnh theo định kỳ và thỏa thuận giữa các bên. Tỉnh Hà Tĩnh đã
đón tiếp chu đáo và tổ chức có hiệu quả các hoạt động trong các chuyến thămvà làm việc của các đoàn công tác của hai tỉnh bạn.
Thông qua các chuyến thăm, từ năm 2001 đến năm 2010, lãnh đạo cấp
cao tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn đã ký kết hàng chục vănbản thỏa thuận hợp tác. Đây là những văn kiện quan trọng thể hiện cụ thể,
sinh động việc quán triệt, vận dụng chủ trương, đường lối, chính sách đối
83
ngoại của hai Đảng, Nhà nước, Chính phủ hai nước Việt Nam - Lào vào việc
xây dựng quan hệ hữu nghị hợp tác đặc biệt tại các địa phương cùng chung
biên giới giữa hai nước; đánh dấu quá trình, nội dung hợp tác trên các lĩnh
vực của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân ba tỉnh trong từng thời kỳ và là cơsở pháp lý để các cấp ủy Đảng, chính quyền, các ngành, đoàn thể, các tổ chức
kinh tế xã hội liên quan từ tỉnh đến cơ sở, căn cứ chức năng nhiệm vụ của
mình, xây dựng chương trình, kế hoạch triển khai thực hiện.
Về phía các tỉnh bạn, ngoài các chuyến thăm hữu nghị chính thức và ký
kết các thỏa thuận hợp tác của lãnh đạo cấp cao, hằng năm, các tỉnh bạn đã cử
nhiều Đoàn đại biểu đại diện cấp ủy, chính quyền, các ngành, đoàn thể, các
địa phương trong tỉnh sang làm việc [136]. Các ngành liên quan, đặc biệt là
công an, biên phòng, hải quan, thương mại du lịch, biên giới... hằng năm đã tổ
chức hàng chục chuyến thăm và làm việc song phương với các ngành liên
quan của Hà Tĩnh [47].
Các ban ngành, các hoạt động giao lưu hữu nghị nhân dân thường xuyên
được tổ chức ngày càng phong phú đa dạng. Đây là những hoạt động hết sức
có ý nghĩa, thắt chặt thêm tình đoàn kết, gắn bó keo sơn, đáp ứng nguyện
vọng của các tầng lớp nhân dân ba tỉnh.
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể cấp tỉnh và các địa phương, nhất là các
huyện biên giới của Hà Tĩnh đã tổ chức nhiều chuyến thăm, giao lưu với hai
tỉnh bạn. Năm 2001, Hội Liên hiệp phụ nữ Hà Tĩnh đã tổ chức chuyến thăm
và ký kết thỏa thuận hợp tác với Hội Phụ nữ tỉnh Bôlykhămxay. Từ đó, haibên đã thường xuyên tổ chức các đoàn sang thăm và chia sẽ kinh nghiệm về
công tác vận động phụ nữ [75], [76].
Năm 2003, nhận lời mời của Tỉnh Đoàn Hà Tĩnh, Đoàn đại biểu Tỉnh
Đoàn Bôlykhămxay đã sang thăm và làm việc tại Hà Tĩnh. Sau khi tham
quan, nghiên cứu các mô hình, hai bên đã tiến hành Hội đàm và ký kết bản
thỏa thuận hợp tác nhằm phát huy vai trò của thanh thiếu niên tham gia
phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường tình đoàn kết gắn bó giữa tuổi trẻ hai
tỉnh [122].
84
Cuối năm 2007, Tỉnh đoàn Hà Tĩnh đã khởi công Dự án xây dựng Làng
Thanh niên lập nghiệp biên giới Tây Sơn, tổng số vốn đầu tư 26 tỷ đồng, với
diện tích khoảng 10 km2, phía Tây giáp huyện Căm Cợt tỉnh Bôlykhămxay.
Làng Thanh niên lập nghiệp biên giới Tây Sơn được xây dựng tạo điều kiện
thuận lợi cho tuổi trẻ giữa hai huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh và huyện Căm
Cợt, tỉnh Bôlykhămxay trong quá trình xây dựng cuộc sống mới, phát triển
kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh biên giới [123].
Tháng 9/2007, Huyện đoàn Hương Sơn đã sang thăm và làm việc với
huyện đoàn Căm Cợt. Hai bên đã thống nhất chương trình phối hợp hoạt
động, giao lưu văn hoá, học hỏi kinh nghiệm trong công tác Đoàn và phát huyvai trò của thanh niên tham gia giữ gìn trật tự khu vực biên giới, xây dựng
Đồi thanh niên hữu nghị Hương Sơn - Căm Cợt tại thị trấn Lạc Xao, tỉnh
Bôlykhămxay. Nhân dịp này, Huyện đoàn đã đã hỗ trợ cây giống và huy động
Đội Tình nguyện gồm 50 đoàn viên huyện Hương Sơn sang trồng 10.000 cây
gió trầm tại huyện Căm Cợt [79].
Phát huy truyền thống đoàn kết keo sơn giữa nhân dân tỉnh Hà Tĩnh với
tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn, đặc biệt là các địa phương hai bên tuyến biên
giới, các hoạt động kết nghĩa giữa các ngành, các địa phương, giao lưu, hữu
nghị nhân dân đã được tổ chức ngày càng phong phú đa dạng. Ngoài các
huyện biên giới, đã có 4 huyện, thị xã và Trường Chính trị của Hà Tĩnh đã kết
nghĩa với các địa phương, đơn vị tỉnh bạn, đó là: Thị xã Hồng Lĩnh với Thị xã
Pạc San, huyện Đức Thọ với huyện Pạc Cả Đinh, huyện Cẩm Xuyên với
huyện Tha Phả Bạt, huyện Nghi Xuân với huyện Bô Ly Khăn, Trường Chính
trị Trần Phú tỉnh Hà Tĩnh với Trường Chính trị tỉnh Bôlykhămxay.
Về hợp tác trong lĩnh vực kinh tế, thương mại:
Về nông, lâm nghiệp: Trong giai đoạn 2001 - 2010, tỉnh Hà Tĩnh đã tăng
cường hợp tác, đầu tư, từng bước giúp các tỉnh bạn giải quyết những khó
khăn, đẩy mạnh phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn. Nội dung hợp
tác tập trung chủ yếu vào việc giúp bạn nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật,
đưa những giống cây trồng vật nuôi có giá trị kinh tế cao vào sản xuất; hợp
85
tác sản xuất lương thực, thực phẩm, trồng và khai thác chế biến lâm sản, cây
công nghiệp; xây dựng mô hình kinh tế nông - lâm nghiệp. Định kỳ hằng
năm, tỉnh Hà Tĩnh đã tổ chức các đoàn cán bộ phụ trách nông lâm nghiệp
sang nước bạn để trao đổi kinh nghiệm trong sản xuất như: giúp bạn khai thác
và phơi muối mỏ bằng ánh nắng mặt trời ở huyện Nống Bốc; thí điểm trồng
lúa chiêm tại Căm Cợt; chuyển giao công nghệ kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi;
giúp bạn làm thí điểm mô hình kinh tế vườn đồi, kinh tế hộ gia đình; triển
khai dự án phối hợp trồng cây cao su. Các tỉnh bạn đã tổ chức các đoàn cán
bộ sang làm việc tham quan thực tế các mô hình sản xuất nông nghiệp, xây
dựng kinh tế hộ gia đình và kinh tế vườn đồi [109]. Nhiều chuyên gia nông
nghiệp của Hà Tĩnh đã trực tiếp đến tận các bản làng ở vùng sâu, vùng xa của
tỉnh bạn giúp đồng bào kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi, sản xuất những cây con
có giá trị kinh tế cao, đáp ứng nhu cầu đời sống và tạo sản phẩm hàng hóa
phục vụ xuất khẩu.
Về thương mại và du lịch: Trên cơ sở các thỏa thuận hợp tác đã ký, tỉnh
Hà Tĩnh và hai tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn đã tăng cường chỉ đạo, tạo
điều kiện thuận lợi để các thành phần kinh tế nhà nước, tập thể và tư nhân đầu
tư 100% vốn, hoặc hợp tác đầu tư cùng kinh doanh, sản xuất, chế biến và tiêu
thụ sản phẩm trong nước và xuất khẩu sang nước thứ 3. Hướng ưu tiên đối
với doanh nghiệp ba tỉnh trong giai đoạn này là đầu tư sản xuất, chế biến
nông, lâm sản như: gỗ, lương thực, thực phẩm, rau quả và khai thác, chế biến
khoáng sản [109].
Tại cuộc hội đàm nhân chuyến thăm của Đoàn đại biểu cấp cao tỉnh Hà
Tĩnh tại Bôlykhămxay năm 2001, hai tỉnh đồng ý hợp tác tổ chức các quầy
hàng tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, dịch vụ ăn uống. Tỉnh Bôlykhămxay đồng ý
tạo điều kiện cho Hà Tĩnh thành lập cơ sở chế biến đồ gỗ, song, mây, cung
cấp thiết bị kỹ thuật chưng cất tinh dầu gió. Hai bên thống nhất tiếp tục tiến
hành hợp tác về cung cấp vật tư, sửa chữa cơ khí, mở rộng hợp tác du lịch
trên nguyên tắc hai bên cùng có lợi [114]. Đặc biệt, năm 2001, tỉnh
Bôlykhămxay đã cử 2 đoàn gồm các doanh nghiệp sang Hà Tĩnh tiếp xúc với
86
các ngành liên quan, xem xét tình hình nhằm hợp tác đầu tư, đánh bắt, chếbiến, tiêu thụ hải sản [109].
Hoạt động hợp tác giữa hai nước Việt - Lào qua cửa khẩu quốc tế Cầu
Treo - Nậm Phào diễn ra khá sôi động. Hai bên đã tạo điều kiện thông thoáng,
thuận lợi về thủ tục hải quan cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Với các
chính sách ưu đãi dành cho nhau, nhiều mặt hàng buôn bán giữa hai nước có
thuế suất 0%, tạo điều kiện cho thương mại ngày càng phát triển. Năm 2010,
kim ngạch xuất khẩu qua cửa khẩu Cầu Treo đạt 5,7 triệu USD, kim ngạch
nhập khẩu đạt 24,2 triệu USD; đã có trên 70 doanh nghiệp tham gia xuất nhập
khẩu vào khu kinh tế Cầu Treo, tham gia hợp tác với nước bạn Lào. Một sốdoanh nghiệp Lào đang xúc tiến đầu tư vào Khu kinh tế cửa khẩu Cầu Treo và
Khu kinh tế Vũng Áng.
Theo đề nghị của tỉnh Hà Tĩnh, Chính phủ cử đồng chí Nguyễn Xuân
Phúc - Phó Thủ tướng Chính phủ cùng các Bộ, ngành liên quan tổ chức buổi
làm việc với Tỉnh ủy, UBND tỉnh và lãnh đạo các sở, ngành liên quan về việc
xúc tiến thành lập Khu hợp tác kinh tế biên giới Hà Tĩnh - Bôlykhămxay theomô hình “một khu vực, hai quốc gia, một chính sách”. Theo đề xuất của tỉnh
Hà Tĩnh, Bộ Giao thông Vận tải đã cử đoàn công tác phối hợp với tỉnh Hà
Tĩnh tổ chức khảo sát tuyến Đường 8, Đường 12 để hoàn thiện hồ sơ đề xuất
Chính phủ để đưa hai tuyến đường này vào Hiệp định khung Tổ chức tiểu
vùng sông Mê Kông (GMS). Tiếp đó, UBND tỉnh Hà Tĩnh đã tổ chức Đoàn
công tác của tỉnh cùng phối hợp với Tổ công tác của Văn phòng Chính phủ,
Bộ Kế hoạch và Đầu tư sang làm việc tại tỉnh Bôlykhămxay để khảo sát, thu
thập số liệu phục vụ nghiên cứu, xây dựng đề án để trình Chính phủ hai nước;
UBND tỉnh cũng đã cử đoàn công tác của tỉnh sang làm việc với chính quyền
tỉnh Bôlykhămxay và Hải quan vùng III của Lào và một số doanh nghiệp xuất
khẩu của Lào để thống nhất tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong việc vận
chuyển hàng hóa trên tuyến Quốc lộ 8 (phía đất Lào) đồng thời xây dựng kếhoạch đề xuất Tổng cục Hải quan hai nước tiến tới thực hiện thủ tục “một lần
dừng, một lần kiểm tra” tại Cửa khẩu Cầu Treo - Nậm Phào.
87
Nhằm tăng cường hợp tác trong lĩnh vực kinh tế thương mại, du lịch,
được sự đồng ý của Chính phủ hai nước, "Tổ công tác phối hợp Việt - Lào
nghiên cứu về quản lý khai thác Cảng Vũng Áng" được thành lập và đi vào
hoạt động. Trong khuôn khổ các chuyến làm việc của tổ công tác, lãnh đạo
các ngành, các địa phương liên quan tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay,
Khămmuộn đã tăng cường trao đổi thông tin, kiến nghị với Chính phủ, các bộ
ngành hai nước có cơ chế chính sách nhằm tăng cường đầu tư và phối hợp
khai thác có hiệu quả cảng Vũng Áng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ phát triển
kinh tế xã hội, an ninh, quốc phòng của hai nước nói chung và ba tỉnh nói
riêng, nhất là trong việc giúp các tỉnh bạn xúc tiến đầu tư thương mại, lưuthông hàng hóa với Việt Nam và các nước thứ ba [40].
Tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn đã chỉ đạo và tạo điều
kiện thuận lợi cho một số doanh nghiệp tỉnh Hà Tĩnh đầu tư sản xuất và kinh
doanh tại thị trường Lào như: Công ty Cổ phần xuất nhập khẩu đầu tư dây
chuyền chế biến bột Becbrin; Doanh nghiệp Hưng Thịnh đầu tư dây chuyền sản
xuất dây thép gai, cung cấp xi măng sắt thép, xăng dầu, hóa mỹ phẩm vào thịtrường Lào. Tỉnh Hà Tĩnh đã hỗ trợ Công ty Lan Xạng thuộc Bộ Thương mại
Lào mở siêu thị không thu phí tại Trung tâm Thương mại Thành phố Hà Tĩnh
nhằm tiêu thụ hàng hóa sản phẩm của Lào tại thị trường tỉnh Hà Tĩnh [90].
Được sự hỗ trợ của Chính phủ hai nước, tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh
Bôlykhămxay đã từng bước đầu tư hình thành các khu kinh tế trọng điểm đối
diện nhau qua cửa khẩu quốc tế Cầu Treo. Do thuận lợi về mặt địa lý, giao
thông, hệ thống cơ sở hạ tầng từng bước được đầu tư khá đồng bộ, cơ chế
chính sách cởi mở, thông thoáng, cho nên các hoạt động kinh tế, thương mại
ở các trung tâm này diễn ra khá sôi động [90].
Sau khi có Quyết định số 162/2007/QĐ-TTg ngày 19/10/2007 của Thủ
tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế hoạt động của Khu kinh tế cửa
khẩu quốc tế Cầu Treo, theo đó, toàn bộ Khu kinh tế rộng 56.684 ha được xác
định là khu phi thuế quan với những cơ chế, chính sách ưu đãi đặc biệt về
thuế, tín dụng, đất đai và một số cơ chế, chính sách khác. Tỉnh Hà Tĩnh đã chỉ
88
đạo các cấp, các ngành triển khai công tác quy hoạch, xây dựng nhằm đẩy
mạnh hoạt động về giao lưu thương mại giữa các tỉnh có chung đường biên,
hai nước và của các tỉnh có sử dụng Đường 8, Đường 12 của ba nước Việt
Nam - Lào - Thái Lan.
Tỉnh Hà Tĩnh đã chỉ đạo Ban Quản lý Khu kinh tế Vũng Áng thành lập
Công ty Cổ phần cảng Vũng Áng Việt - Lào. Đây là dự án quan trọng được
lãnh đạo cao cấp hai nước ưu tiên, tập trung chỉ đạo góp phần phục vụ vận tải
hàng quá cảnh của Lào và phục vụ phát triển hành lang kinh tế Đông Tây.
Đối với ngành du lịch, hai bên thống nhất tiếp tục chỉ đạo phối hợp làm
tốt các khâu dịch vụ, nhà hàng, khách sạn, điểm du lịch để thu hút khách tham
quan; tăng cường và mở rộng các tour du lịch qua cửa khẩu Cầu Treo; tăng
cường mở rộng và trao đổi lưu thông hàng hóa, tạo điều kiện tốt nhất để nhân
dân các tỉnh có chung đường biên, hai nước và nước thứ ba tham quan du lịch
trên địa bàn hai tỉnh, hai nước và nước thứ ba [158.tr,82].
Tỉnh Hà Tĩnh nỗ lực gắn kết các điểm du lịch đặc sắc như biển Thiên
Cầm, khu lưu niệm Nguyễn Du, khu di tích lịch sử Ngã ba Đồng Lộc, với
suối nước nóng Lạc Xao, du lịch bản Na Coi, hang đá núi Then Chau của tỉnh
Bôlykhămxay và khu bảo tồn đa dạng sinh học quốc gia Na Kai - Nậm Thơn
của tỉnh Khămmuộn để tạo thành tuyến du lịch hành lang kinh tế Đông - Tây
theo Quốc lộ 8A qua Cửa khẩu Cầu Treo [102]. Ngành thương mại, các công
ty lữ hành ba tỉnh đã liên kết, hình thành các tour, tuyến du lịch nội và ngoại
vùng, nâng cấp mở rộng và từng bước hiện đại hóa hệ thống dịch vụ, đầu tưquảng bá, giới thiệu tiềm năng du lịch của mỗi địa phương, do đó lượng
khách du lịch qua lại giữa ba tỉnh ngày càng tăng [90].
Về công nghiệp và xây dựng cơ bản: Trong giai đoạn từ 2001 - 2010,
nhiều công ty, doanh nghiệp tỉnh Hà Tĩnh đã đảm nhận thi công nhiều công
trình tại tỉnh bạn đảm bảo yêu cầu về chất lượng và tiến độ, được phía bạn
đánh giá cao. Đặc biệt, bằng nguồn vốn đầu tư của Chính phủ, tỉnh Hà Tĩnhđã phối hợp với tỉnh Bôlykhămxay tiến hành tu sửa, nâng cấp con đường
huyết mạnh giữa hai tỉnh là Đường 8A, đồng thời nâng cấp đoạn đường Gia
89
Lách - cảng Xuân Hải, phục vụ đắc lực việc thực hiện chủ trương giúp nước
bạn Lào “thông ra biển”. Cùng với việc tiếp tục đầu tư, nâng cấp cảng Vũng
Áng và xây dựng Đường 12, nối cảng Vũng Áng với Lào và các tỉnh Đông
Bắc Thái Lan, tỉnh Hà Tĩnh đã ban hành chính sách ưu đãi trong việc giúp
bạn sử dụng hệ thống cầu cảng, bến bãi... tạo môi trường và điều kiện hết sức
thuận lợi cho tỉnh Bôlykhămxay và nước bạn Lào giao lưu, trao đổi hàng hóa,
phát triển kinh tế - xã hội, góp phần đắc lực giúp bạn thực hiện đường lối mởcửa, hội nhập kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đặc biệt,
việc thành lập Công ty Cổ phần cảng Vũng Áng Việt - Lào sẽ góp phần phục
vụ đắc lực nhiệm vụ vận tải hàng quá cảnh của Lào sang Việt Nam cũng nhưcác nước khác và ngược lại, đồng thời đóng góp thiết thực phát triển hành
lang kinh tế Đông Tây.
Nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, giao lưu, trao đổi hàng hóa,
dịch vụ tại các địa phương miền núi dọc tuyến biên giới, đồng thời tằng
cường nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong tình hình mới, tỉnh Hà Tĩnh cùng
với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn đã đầu tư xây dựng mới nhiều tuyến
đường biên giới, như: Đường tuần tra biên giới Khe Sinh - Mốc M13, M14
(nay là mốc số 446, 472 thuộc biên giới Hà Tĩnh - Bôlykhămxay) với nguồn
vốn 4,9 tỷ đồng; Dự án đường ra biên giới với tổng số vốn đầu tư trên 80 tỷđồng, đã bàn giao đưa vào đưa vào sử dụng trên 70 km. Dự án này đã góp
phần đảm bảo quốc phòng, an ninh và phát triển kinh tế, tạo thuận lợi các hoạt
động lưu thông hàng hóa khu vực biên giới. Năm 2010, tỉnh Hà Tĩnh tiếp tục
thi công các tuyến đường: Sơn Hồng đi Cửa khẩu Nậm Xắc với số vốn 18 tỷ
đồng; đường Vũ Quang đi biên giới Việt - Lào với số vốn 41 tỷ đồng và tuyến
đường tuần tra biên giới Đồn Biên phòng 571 đi Mốc N6, N7 (là mốc 502,
506 thuộc biên giới tỉnh Hà Tĩnh - Khămmuộn) với số vốn hơn 40 tỷ đồng.
Mặc dầu điều kiện kinh tế trong tỉnh còn gặp nhiều khó khăn nhưng tỉnh
Hà Tĩnh đã tiến hành hỗ trợ đầu tư giúp các tỉnh bạn nhiều công trình điện,
đường, trường, trạm… góp phần nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho
đồng bào, nhất là các xã dọc tuyến biên giới.
90
Nhìn chung, hợp tác về công nghiệp, xây dựng cơ bản giữa tỉnh Hà Tĩnhvới tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn giai đoạn 2001 - 2010 đã có nhiều chuyển
biến tích cực, với quy mô hợp tác ngày càng lớn, nội dung hợp tác ngày càng
phong phú, khai thác có hiệu quả tiềm năng tài nguyên, lao động, thị trường,
đóng góp quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của các
tỉnh bạn, nhất là ở các địa bàn vùng sâu vàng xa, vùng biên giới [183].
Về văn hóa xã hội, giáo dục y tế: Phát huy truyền thống vốn có lâu đời
trong lịch sử, xuất phát từ tình cảm, nhu cầu giao tiếp và làm giàu thêm bản
sắc văn hóa của mỗi dân tộc, mỗi địa phương, được sự quan tâm chỉ đạo của
cấp ủy, chính quyền, đặc biệt là sự nỗ lực của ngành văn hóa, các hoạt động
hợp tác, giao lưu văn hóa giữa tỉnh Hà Tĩnh và Bôlykhămxay, Khămmuộn
tiếp tục được đẩy mạnh.
Trong giai đoạn 2001- 2010, các ngành văn hóa, thể thao, giáo dục, y tếba tỉnh tiếp tục tăng cường tổ chức tham quan học tập kinh nghiệm trong quản
lý và tổ chức các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao; trao đổi kế hoạch phát
triển văn hóa trong tình hình mới; thông báo cho nhau tình hình mỗi bên, kịpthời kiến nghị nhằm phối hợp giải quyết kịp thời những vấn đề phát sinh
trong quá trình thực hiện các thỏa thuận hợp tác. Ngành văn hóa tỉnh Hà Tĩnh
và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn đã ký kết các văn bản hợp tác, khuyến
khích các cấp, các ngành, các địa phương, nhất là địa bàn biên giới tăng
cường các hoạt động giao lưu văn hóa nghệ thuật, thể dục thể thao, báo chí,
nhằm tăng cường hiểu biết lẫn nhau, tăng cường tình đoàn kết giữa nhân dân
các địa phương [187]. Nhân các ngày lễ lớn, các đoàn văn hóa nghệ thuật tỉnh
Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn đã tổ chức các chuyến lưu diễn
với nhiều tiết mục văn nghệ đặc sắc, mang đậm bản sắc văn hóa mỗi dân tộc,
để lại những ấn tượng tốt đẹp trong lòng người xem [79]. Ngoài ra, nhiều đội
văn nghệ của Bộ chỉ huy Biên phòng, Bộ chỉ huy Quân sự, Công an tỉnh Hà
Tĩnh, các huyện biên giới như Hương Khê, Hương Sơn, Vũ Quang... đã
thường xuyên tổ chức các chuyến thăm và biểu diễn tại các tỉnh bạn, nhất là
các địa phương dọc biên giới [90].
91
Trong giai đoạn 2001 - 2010, tỉnh Hà Tĩnh đã quan tâm giúp hai tỉnh bạn
đào tạo lưu học sinh ở những ngành mà tỉnh bạn chưa có điều kiện đào tạo,
đặc biệt những ngành mũi nhọn về kinh tế, khoa học kỹ thuật. Tỉnh Hà Tĩnh
đồng ý tiếp nhận đào tạo trình độ sơ, trung cấp, cao đẳng các chuyên ngành y
tế, kinh tế tài chính, kế hoạch, trồng trọt, chăn nuôi cho cán bộ các tỉnh bạn
với phương châm các bên cùng hợp tác chia sẽ trách nhiệm, phù hợp với khả
năng và điều kiện thực tế mỗi bên [178].
Theo thỏa thuận đã ký kết, năm 2005, đã tổ chức đào tạo tiếng Việt cho
27 cán bộ của hai tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn (Bôlykhămxay 20 học
viên, Khămmuộn 07). Năm 2006, ngành Giáo dục và Đào tạo tỉnh Hà Tĩnhtiếp tục hoàn thành đào tạo tiếng Việt cho 20 học viên và đào tạo trung cấp
chuyên nghiệp cho 15 học viên của tỉnh Bôlykhămxay trong hai năm tiếp
theo; tiếp tục cử giáo viên các môn toán, lý, hóa sang giúp bồi dưỡng, chia sẻkinh nghiệm cho đội ngũ giáo viên tỉnh Bôlykhămxay trong dịp hè [90].
Trong năm 2007, tỉnh Hà Tĩnh tiếp tục tiếp nhận, đào tạo 32 học viên của hai
tỉnh (Bôlykhămxay 20 học viên, Khămmuộn 12 học viên). Tỉnh
Bôlykhămxay đã phối hợp với Bộ Giáo dục, trường Đại học Quốc gia Lào
nhận đào tạo tiếng Lào cho 10 học viên của tỉnh Hà Tĩnh.
Thực hiện nội dung văn bản thoả thuận hợp tác cấp cao đã ký giữa tỉnh
Hà Tĩnh - Bôlykhămxay, từ năm 2007, tỉnh Hà Tĩnh nhất trí với đề nghị của
tỉnh bạn, đồng ý cho các học sinh tỉnh bạn sau khi học xong hệ Trung cấp sẽ
được tiếp tục học liên thông lên hệ Cao đẳng. Số học viên đã hoàn thành xong
hệ tiếng Việt sẽ được nhận vào các Trường Cao đẳng, Trung học chuyên
nghiệp. Năm học 2008 - 2009, tỉnh Hà Tĩnh đồng ý và giao cho trường Đại
học Hà Tĩnh nhận đào tạo tiếng Việt và các chuyên ngành cho 63 học viên
của bạn. Sau khi học xong tiếng Việt, 37 học viên được tiếp nhận đào tạo
chuyên ngành tại trường Đại học Hà Tĩnh và trường Cao đẳng Y tế. Kinh phí
tỉnh Hà Tĩnh đã hỗ trợ cho công tác đào tạo là 900 triệu đồng/năm [113]. Năm2010, tỉnh Hà Tĩnh đã chỉ đạo các trường tiếp nhận 192 học viên của hai tỉnh
Bôlykhămxay và Khămmuộn (trong đó Bôlykhămxay 154 và Khămmuộn 38)
92
sang học tiếng Việt và các chuyên ngành tại Trường Đại học Hà Tĩnh, Trường
Cao đẳng Y tế và Trường Cao đẳng Nghề Việt - Đức. Trong năm 2010, tỉnh
Hà Tĩnh tiếp tục hỗ trợ 1,7 tỷ đồng cho hai tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn
xây dựng trường học và trích ngân sách hỗ trợ 1,3 tỷ đồng cho công tác đàotạo lưu học sinh Lào [111].
Từ năm 2005 đến 2010, tỉnh Hà Tĩnh nhận đào tạo tiếng Việt và các
chuyên ngành cho 512 học viên của hai tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn và
Xavẳnnakhệt (tỉnh Bôlykhămxay 381 học viên, tỉnh Khămmuộn 116 học viên,
tỉnh Xavẳnnakhệt 15 học viên). Trong khuôn khổ Thỏa thuận hợp tác giữa hai
tỉnh Hà Tĩnh - Bôlykhămxay về lĩnh vực giáo dục và đào tạo, năm 2008, tỉnh
Hà Tĩnh phối hợp với tỉnh Bôlykhămxay tổ chức tổ chức 02 lớp học tiếng Lào
tại tỉnh Hà Tĩnh cho 52 cán bộ, công chức của tỉnh Hà Tĩnh [92].
Bên cạnh hợp tác đào tạo nguồn nhân lực, hằng năm, Sở Giáo dục - Đàotạo tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn đã cử các đoàn cán bộ,
chuyên gia sang thăm hỏi, học tập, trao đổi kinh nghiệm trong công tác quản
lý, nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo các cấp học phổ thông. Nhằm giúp
các tỉnh bạn tăng cường cơ sở vật chất cho giáo dục đào tạo, năm 2001, tỉnh
Hà Tĩnh đã trích ngân sách 100 triệu đồng giúp Bôlykhămxay xây dựng 1
trường mầm non; năm 2006 đầu tư xây dựng công trình nhà học 2 tầng gồm 8
phòng học, trị giá hơn 1,7 tỷ đồng. Trong năm 2008, tỉnh Hà Tĩnh tiếp tục hỗ
trợ tỉnh bạn xây dựng trường cấp III Xí Thả Na Xay, trị giá 1,5 tỷ đồng và hỗ
trợ tỉnh Khămmuộn xây dựng trường Tiểu học Na Pô, trị giá 1 tỷ đồng [189].
Về y tế: Tỉnh Hà Tĩnh đã chỉ đạo ngành Y tế phối hợp với ngành Y tế hai
tỉnh bạn tổ chức các đoàn qua lại gặp gỡ, trao đổi, ký kết hợp tác về công tác
chuyên môn, kinh nghiệm quản lý và xây dựng mạng lưới y tế; cung cấp
thông tin kịp thời về tình hình dịch bệnh, phối hợp phòng chống dịch bệnh
cho nhân dân vùng biên. Ngành y tế tỉnh Hà Tĩnh đã tiếp nhận một số cán bộ
y tế các tỉnh bạn sang bồi dưỡng nghiệp vụ. Năm 2004, tỉnh Hà Tĩnh nhận bồi
dưỡng trình độ chuyên môn (khoa mổ) ba tháng cho 03 bác sỹ; năm 2006
nhận bồi dưỡng nghiệp vụ xét nghiệm ba tháng cho 03 kỹ thuật viên của tỉnh
93
Bôlykhămxay. Đồng thời, tỉnh Hà Tĩnh đã tiếp nhận đào tạo dài hạn 19 học
viên của tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn tại trường Cao đẳng Y tế Hà Tĩnh,
trong đó, 18 học viên đã tốt nghiệp ra trường [148].
Ngành y tế Hà Tĩnh đã trao tặng 01 máy dập viên thuốc cho ngành Y tếtỉnh Bôlykhămxay; 65 giường bệnh, 01 máy thở ô xy cho bệnh viện huyện
Căm Cợt và trạm xá Bản Thồng Pẹ; tiếp nhận khám và chữa bệnh cho hàng
trăm lượt cán bộ cốt cán và nhân dân của tỉnh Bôlykhămxay tại Bệnh viện Đakhoa Cửa khẩu Cầu Treo; cấp thuốc và khám miễn phí cho hằng ngàn lượt
đồng bào các bộ tộc Lào vùng biên giới; giúp đỡ lương thực, thực phẩm trị
giá hàng trăm triệu đồng. Năm 2007, tỉnh Hà Tĩnh đã đầu tư xây dựng trạm xá
quân dân y kết hợp tại bản Thồng Pẹ huyện Căm Cợt trị giá 400 triệu đồng.
Thực hiện thỏa thuận hợp tác giữa tỉnh Hà Tĩnh và Bôlykhămxay, từ
tháng 7/2003 đến tháng 7/2004, ngành Y tế tỉnh Hà Tĩnh đã cử 3 Đoàn cánbộ, bác sỹ, y tá sang tỉnh bạn trao đổi kinh nghiệm khám chữa bệnh; hỗ trợ
một số máy châm cứu đông y và trực tiếp hướng cho cán bộ tỉnh bạn sử dụng
thiết bị. Trung tâm y học dự phòng, Trung tâm Phòng chống sốt rét, côn trùng
và ký sinh trùng Hà Tĩnh đã hỗ trợ thuốc và trang thiết bị y tế cho ngành Y tế
tỉnh bạn phòng chống bệnh sốt rét, phòng chống dịch SARS, tổng trị giá 400
triệu đồng; đồng thời tổ chức đào tạo tại chỗ cho cán bộ làm công tác y học
dự phòng của tỉnh bạn [137].
Về khoa học - công nghệ: Bước sang giai đoạn 2001 - 2010, hợp tác về
khoa học công nghệ giữa tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn
được quan tâm đúng mức. Căn cứ thực trạng tình hình, nhất là hướng ưu tiên
trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của các tỉnh bạn, các dự án hợp tác
về khoa học công nghệ giữa ba tỉnh chủ yếu tập trung vào lĩnh vực nông
nghiệp, phát triển nông thôn, miền núi.
Thực hiện văn bản hợp tác đã ký vào tháng 8/2003, về phát triển cây gió
trầm và chuyển giao công nghệ chiết xuất tinh dầu trầm, Hà Tĩnh đã chuyển
cho tỉnh Bôlykhămxay 500 cây giống gió trầm theo công nghệ nuôi cấy mô và
hướng dẫn trồng thử nghiệm. Đồng thời, Hà Tĩnh đã giúp bạn 100 kg nguyên
94
liệu gỗ gió trầm và chiết xuất thử thành công đạt 15 cm3 tinh dầu. Theo kết quảthử nghiệm này, nếu trồng 1 ha cây gió trầm sẽ thu được 10 tỷ đồng trong thời
gian 10 năm [109]. Từ năm 2006, ngành Khoa học và Công nghệ tỉnh Hà Tĩnh
tiếp tục triển khai thực hiện nhân rộng các mô hình đã chuyển giao; hỗ trợ giúp
tỉnh Bôlykhămxay xây dựng mạng lưới hoạt động, quản lý khoa học công
nghệ, triển khai và chuyển giao dự án xử lý nước sinh hoạt và năng lượng mới
(gồm năng lượng mặt trời và khí biôga), chuyển giao công nghệ tái chế nhựa
PE, công nghệ định hình sinh khối sản xuất khí đốt [109].
Tỉnh Hà Tĩnh tiếp tục hỗ trợ và thực hiện các dự án chuyển giao khoa
học - công nghệ cho Uỷ ban Khoa học - Công nghệ - Môi trường của Lào: Dựán chuyển giao công nghệ, xây dựng các trạm xử lý nước, hầm khí Biogas,
năng lượng mặt trời cho hai tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn với kinh phí
795 triệu đồng; Dự án chuyển giao công nghệ sinh học nuôi cấy mô tế bào
thực vật sản xuất các giống cây chuối, cây mía, cây chỉ xác, Paulownia, với số
vốn 250 triệu đồng; Dự án chuyển giao công nghệ sản xuất than tổ ong bằng
nguyên liệu than Lào với nguồn vốn 290 triệu đồng; nghiên cứu xây dựng dựán khả thi về hệ thống quản lý đo lường với 350 triệu đồng [90]. Đặc biệt, Sở
Khoa học và Công nghệ tỉnh Hà Tĩnh đã phối hợp với Ban Khoa học và Công
nghệ tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn triển khai thực hiện dự án "Xây dựng
mô hình thuỷ điện nhỏ và mô hình sản xuất giống cây gió trầm cho tỉnh
Bôlykhămxay và Khămmuộn" [85].
Đến năm 2010 tỉnh Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tỉnh Hà Tĩnh đã
triển khai thực hiện xong dự án "Xây dựng mô hình thuỷ điện nhỏ và vườn
ươm sản xuất giống cây gió trầm cho tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn", với
tổng kinh phí 2,05 tỷ đồng; đã tiến hành xây dựng xong hai mô hình vườn
ươm giống cây gió trầm tại tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn; Dự án chuyển
giao công nghệ xây dựng các trạm xử lý nước, hầm khí Biogas, năng lượng
mặt trời cho tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn. Từ năm 2010, Sở Khoa học
và Công nghệ tỉnh Hà Tĩnh xây dựng kế hoạch hỗ trợ tỉnh Bôlykhămxay và
Khămmuộn một số giống lúa năng suất, chất lượng cao và quy trình kỹ thuật,
95
vật tư nông nghiệp cần thiết để tiến hành trồng thử nghiệm; thiết bị kiểm định
công tơ điện; tổ chức các lớp tập huấn về tiêu chuẩn - đo lường - chất lượng
cho cán bộ khoa học và công nghệ tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn [112].
Song song với việc triển khai thực hiện các dự án, chuyển giao công
nghệ, tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn thường xuyên tổ chức
cho các các cơ quan khoa học, các doanh nghiệp, nhất là đội ngũ các cán bộ
chuyên gia kỹ thuật các ngành, các địa phương qua lại nghiên cứu, khảo sát,
trao đổi kinh nghiệm và ký kết các văn bản hợp tác về khoa học công nghệ,
đào tạo chuyên gia, cung cấp thông tin, nắm bắt nhu cầu tiêu thụ sản phẩm
sang thị trường Lào theo sự thoả thuận giữa các bên.
Trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng và công tác biên giới: Nhận thức
được vị trí, vai trò, tầm quan trọng đặc biệt của nhiệm vụ hợp tác trong lĩnh
vực an ninh, quốc phòng và công tác bảo vệ an ninh biên giới, Đảng bộ, chính
quyền tỉnh Hà Tĩnh đã phối hợp với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn kịp thời
tăng cường chỉ đạo thực hiện các nội dung thỏa thuận đã ký kết, phù hợp với
diễn biến tình hình quốc tế, khu vực, tình hình trong nước và ba tỉnh trong
từng thời kỳ.
Tại cuộc hội đàm cấp cao tháng 6/2001, tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh
Bôlykhămxay đã thống nhất giao các ngành quân sự, công an, bộ đội biên
phòng và các ngành liên quan tăng cường việc giao ban định kỳ, trao đổi nắm
chắc tình hình, bảo vệ an ninh biên giới, đấu tranh phòng chống có hiệu quả
nạn buôn bán ma túy, vũ khí và vượt biên trái phép; đồng ý về chủ trương mởthông tuyến đường từ xã Sơn Hồng (huyện Hương Sơn) đi Nậm Xắc (huyện
Căm Cợt) [110].
Sau cuộc họp lần thứ X (tháng 7//2000) giữa Đoàn đại biểu biên giới hai
nước Việt Nam - Lào, từ đầu năm 2001, UBND tỉnh Hà Tĩnh đã tổ chức các
cuộc họp các thành viên Ban Biên giới, đại diện lãnh đạo các Sở, Ban, ngành
cấp tỉnh, thủ trưởng các ngành liên quan, các huyện và các xã biên giới đểđánh giá tình hình thực hiện Quy chế biên giới từ kỳ họp thứ IX đến kỳ họp
thứ X và các vấn đề liên quan đặt ra sau kỳ họp thứ X.
96
Nhìn chung, bước sang năm 2001, quan hệ hợp tác giữa tỉnh Hà Tĩnh với
tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn tiếp tục được tăng cường, thu được những kết
quả đáng phấn khởi. Những vấn đề liên quan đến công tác biên giới đều được
giải quyết trên cơ sở tình hữu nghị đặc biệt, đúng pháp luật mỗi nước và
thông lệ quốc tế.
Tỉnh ủy, UBND tỉnh Hà Tĩnh tiếp tục chỉ đạo cấp ủy, chính quyền các
huyện biên giới, các ngành, đoàn thể, tiếp tục tăng cường công tác tuyên
truyền, tổ chức cho nhân dân học tập, nâng cao nhận thức và thực hiện tốt
Quy chế Biên giới, phòng ngừa, ngăn chặn có hiệu quả tình trạng vượt biên
trái phép, tranh chấp, vi phạm pháp luật, ảnh hưởng đến trật tự an ninh biên
giới. Tính riêng từ tháng 8/2000 đến tháng 5/2001, đã tổ chức 16 buổi học tập
Hiệp định Quy chế Biên giới, với 2000 lượt người tham gia; phối hợp lực
lượng địa phương tiến hành truy quét, trục xuất 350 đối tượng cư trú bất hợp
pháp; xử lý 42 vụ, 60 đối tượng vi phạm quy chế khu vực biên giới; 14 vụ, 26
đối tượng vi phạm thủ tục xuất nhập cảnh; 2 vụ mua bán tàng trử vũ khí trái
phép; 12 vụ, 40 đối tượng buôn lậu, tịch thu hàng hóa trị giá hàng trăm triệu
đồng; phía tỉnh bạn trao trả cho các tỉnh của Việt Nam 8 đợt với 67 hộ, 276
người vượt biên trái phép [33].
Để tiếp tục chỉ đạo triển khai thực hiện thắng lợi các mục tiêu, yêu cầu
và nhiệm vụ NQ 08-NQ/TW của Bộ Chính trị (Khóa VIII) về chiến lược an
ninh quốc gia, NQ Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV, đặc biệt là NQ 04-
NQ/TU, gắn với việc tăng cường quan hệ hợp tác với nước bạn Lào, BTV
Tỉnh ủy đã thành lập Ban chỉ đạo thực hiện NQ để trực tiếp theo dõi, kiểm tra,
đôn đốc chỉ đạo việc thực hiện ở các huyện thị và các cơ quan, đơn vị. Thực
hiện chỉ đạo của tỉnh, nhiều địa phương, đơn vị đã kịp thời triển khai học tập
và xây dựng chương trình hành động cụ thể, tập trung triển khai thực hiện các
nhiệm vụ, giải pháp các NQ đã đề ra, kịp thời giải quyết những vấn đề phát
sinh thuộc địa phương, đơn vị mình. Các đồng chí trong Ban chỉ đạo tỉnh đã
bám sát địa bàn, nắm chắc tình hình cơ sở, đôn đốc các ngành, các địa
phương tập trung giải quyết những vấn đề phức tạp liên quan đến quốc phòng
97
an ninh đang nổi lên tại địa bàn. Trong quá trình thực hiện, các ngành chức
năng như: Công an, Quân sự, Biên phòng, Hải quan đã chủ động phối hợp
triển khai nắm tình hình nội và ngoại biên, chủ động đối phó với những phức
tạp mới ở Lào tác động vào vùng biên giới của tỉnh. Tăng cường phối hợp lực
lượng triển khai các phương án chống xâm nhập qua biên giới, ngăn chặn các
hoạt động vi phạm quy chế biên giới [103].
Trước thực trạng nhận thức của một số cấp ủy đảng, chính quyền vềnhiệm vụ quốc phòng - an ninh trong tình hình mới chưa đầy đủ, thậm chí có
nơi, có lúc chủ quan, mất cảnh giác, chưa gắn nhiệm vụ quốc phòng an ninh
với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt, trước những diễn biến phức
tạp mới ở Lào đã tác động đến tình hình trong tỉnh trong năm 2003 và năm
2004, nhất là hoạt động xâm nhập của các loại đối tượng trong các tổ chức
phản động lưu vong, tình hình di dịch cư của người Mông, hoạt động phỉ ởLào và các loại tội phạm [102], BTV Tỉnh ủy Hà Tĩnh đã tổ chức Hội nghị sơ
kết 3 năm (1999 - 2003) thực hiện NQ 08-NQ/TW và NQ 04-NQ/TW, nhằm
đánh giá những kết quả đạt được và đề ra phương hướng, nhiệm vụ tiếp tục
thực hiện NQ trong những năm tiếp theo.
Thực hiện các nội dung thỏa thuận cấp cao đã ký giữa tỉnh Hà Tĩnh với
tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn, các bên chủ động phối hợp tổ chức thực hiện
tốt các nội dung Biên bản cuộc họp lần thứ XX của Ủy ban Biên giới quốc gia
giữa hai nước Việt Nam và Lào ngày 27/12/2010 tại tỉnh Luông Pha Băng
nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào, Văn bản Thoả thuận “Hà Nội” ngày14/9/2007 giữa hai Chính phủ và các văn bản ký kết giữa chính quyền tỉnh Hà
Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn.
Ngay sau khi Biên bản cuộc họp lần thứ XX của Ủy ban Biên giới quốc
gia giữa hai nước Việt Nam - Lào được ký kết, BTV Tỉnh ủy đã chỉ đạo
UBND tỉnh Hà Tĩnh tổ chức hội nghị quán triệt nội dung Biên bản và chỉ đạo
Ban biên giới, Ban chỉ đạo cắm mốc tỉnh và các ngành, các cấp liên quan triển
khai thực hiện. Sở Ngoại vụ, Bộ chỉ huy Biên phòng tỉnh, Bộ chỉ huy quân sự
tỉnh, Công an tỉnh và ba huyện Hương Khê, Hương Sơn, Vũ Quang đã tập
98
trung tăng cường tuyên truyền giáo dục nhân dân trong khu vực biên giới học
tập, thực hiện tốt nội dung Biên bản, các Hiệp định, Quy chế Biên giới, Nghị
định 34/NĐ-CP của Chính phủ; tăng cường chỉ đạo các cơ quan chức năng,
các địa phương biên giới thực hiện tốt công tác biên giới. Ban Biên giới, các
ngành, các huyện biên giới và các đồn Biên phòng tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh
Bôlykhămxay, Khămmuộn duy trì chế độ giao ban định kỳ, chế độ tuần tra
song phương nhằm quản lý, bảo vệ đường biên giới, hệ thống mốc quốc giới;
phát hiện và xử lý kịp thời các phát sinh; phối hợp chặt chẽ cung cấp thông tin
đấu tranh phòng chống các âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản
động, các loại tội phạm, đặc biệt là tội phạm buôn bán vận chuyển ma túy, vũkhí qua biên giới; ngăn chặn và giải quyết kịp thời các vụ việc vi phạm Quy
chế Biên giới.
Kết quả nổi bật nhất trong hợp tác an ninh quốc phòng giữa tỉnh Hà
Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn trong giai đoạn này là giữ vững an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, đập tan âm mưu phá hoại của các thếlực thù địch.
Lực lượng cảnh sát hình sự, cảnh sát kinh tế, cảnh sát phòng chống ma
túy, cảnh sát điều tra, an ninh điều tra phối hợp với các lực lượng liên quan đã
phát hiện bắt giữ nhiều vụ buôn bán, vận chuyển ma túy lớn. Sự hợp tác chặt
chẽ giữa bộ lực lượng vũ trang tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay,
Khămmuộn là cơ sở đảm bảo ổn định an ninh chính trị, giữ vững chính quyền
trên mỗi địa phương, tạo điều kiện thuận lợi để ba tỉnh hợp tác phát triển kinh
tế, văn hóa xã hội, góp phần quan trọng cho việc ổn định và phát triển của hai
nước Việt Nam - Lào.
Bộ đội Biên phòng, Công an tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay,Khămmuộn đã nghiêm túc thực hiện quy chế phối hợp và thường xuyên hỗ
trợ nhau trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, trao đổi và cung cấp
thông tin, tình hình liên quan đến an ninh trật tự trên địa bàn vùng biên, nhất
là đấu tranh phòng chống tội phạm buôn bán, vận chuyển chất ma túy, vũ khí,
buôn bán phụ nữ, trẻ em, xuất nhập cảnh trái phép... Tiêu biểu như phối hợp
99
với Công an tỉnh Bôlykhămxay thực hiện thắng lợi chuyên án 708M, bắt 3 đối
tượng, thu 20 bánh hêroin (trọng lượng 6,5 kg), Chuyên án 412-LV, bắt quả
tang tên Phu Viêng, thu giữ 9 bánh hêroin (trọng lượng 3,15 kg) và 30.000
viên ma túy tổng hợp.
Hằng năm, chính quyền các tỉnh bạn đã tổ chức trao trả người di cư tự do
cho các cơ quan chức năng của Hà Tĩnh và các tỉnh khác của Việt Nam qua
cửa khẩu Cầu Treo. Năm 2000 - 2001, qua cửa khẩu Cầu Treo, các tỉnh của
Lào trao trả người của các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình, Thừa
Thiên Huế di cư tự do sang Lào, gồm 7 đợt, 76 hộ, với 272 người thuộc dân
tộc H’mông [136]. Năm 2002, phía bạn trao trả 3 đợt, với 74 người [46].
Theo báo cáo của UBND tỉnh Hà Tĩnh, nhờ sự nỗ lực của các địa phương, các
ngành liên quan của hai nước, từ năm 2002, tình hình di cư trái phép đã giảm
dần [144]. Định kỳ hằng năm và đột xuất khi xảy ra những vấn đề phát sinh,
Ban Biên giới tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn thường xuyên
tổ chức gặp mặt, hội đàm để trao đổi tình hình, đồng thời thống nhất những
biện pháp giải quyết các trường hợp vi phạm. Với tinh thần tương trợ, giúp đỡnhau trong việc thực hiện Hiệp định biên giới, hai tỉnh đã thống nhất xây
dựng trạm kiểm tra liên hợp ở cửa khẩu Quốc tế Cầu Treo [31].
Một trong những kết quả nổi bật trong công tác biên giới của ba tỉnh là
đã xác định, bảo vệ, tu bổ, giữ nguyên hiện trạng và quản lý bảo vệ tốt hệthống mốc quốc giới đảm bảo quy định của Hiệp định Quy chế biên giới.
Thực hiện Hiệp định Quy chế biên giới quốc gia, về phía Việt Nam, 12
mốc quốc giới được giao cho 4 đồn Biên phòng quản lý, bảo vệ. Trong đó, Đồn
cửa khẩu Quốc tế Cầu Treo phụ trách đoạn biên giới dài 56 km, gồm 4 mốc:
N1, N2, N13, N14; Đồn 567 phụ trách đoạn biên giới dài 44 km, gồm 2 mốc:
N3, N4; Đồn 571 phụ trách đoạn biên giới dài 28 km, gồm 4 mốc: N5, N6, N7,
N8; Đồn 575 phụ trách đoạn biên giới dài 17 km, gồm 2 mốc: N9, N10. Do
mốc quốc giới được cắm trên núi cao núi cao, dộ dốc lớn, địa hình hiểm trở,
kích cỡ cột mốc quá nhỏ nên rất khó khăn trong công tác bảo vệ. Nhìn chung,
các mốc quốc giới vẫn được giữ nguyên hiện trạng, không bị xê dịch. Từ khi
100
được tìm thấy đầy đủ, hệ thống mốc quốc giới được thường xuyên kiểm tra,
bảo vệ và quản lý theo đúng quy định của Hiệp định hai nước đã ký. Tỉnh Hà
Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn đã cùng với Uỷ ban biên giới quốc gia
hoạch định phân mốc biên giới và đã được hai bên chấp thuận theo đúng luật
pháp và thông lệ quốc tế. Đây là cơ sở pháp lý để Hà Tĩnh và Bôlykhămxay,
Khăm muộn có điều kiện phối hợp cùng nhau xây dựng đường biên giới hoà
bình, ổn định, hữu nghị và hợp tác lâu dài giữa hai nước.
Thực hiện thỏa thuận giữa hai Chính phủ Việt Nam - Lào về triển khai
Kế hoạch tổng thể tăng dày và tôn tạo hệ thống mốc quốc giới Việt Nam -
Lào, Ban Chỉ đạo cắm mốc tỉnh Hà Tĩnh đã phối hợp với Ban Chỉ đạo cắm
mốc tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn chỉ đạo Đội cắm mốc triển khai thực
hiện có hiệu quả kế hoạch đề ra, đã hoàn thành xây dựng 24 mốc quốc giới
giữa tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay, là cặp tỉnh đầu tiên của 10 cặp tỉnh
giữa hai nước xây dựng xong sớm nhất, đã được Uỷ ban biên giới quốc gia
hai nước biểu dương, khen ngợi. Ban Chỉ đạo cắm mốc tỉnh Hà Tĩnh tiếp tục
phối hợp với Ban Chỉ đạo cắm mốc hai tỉnh Khămmuộn, Xavẳnnakhệt và Đội
cắm mốc triển khai công tác cắm mốc đoạn biên giới giữa Hà Tĩnh với tỉnh
Khămmuộn. Năm 2010, đã hoàn thành công tác khảo sát đơn phương 26/29
mốc; song phương 22/29 mốc; hoàn thành cắm mốc tại thực địa 18/29 mốc và
đang triển khai thi công tại thực địa 04 mốc tiếp theo.
Là lĩnh vực hợp tác có ý nghĩa chiến lược, được sự quan tâm sâu sắc của
Đảng bộ, chính quyền, đặc biệt là sự nỗ lực của cán bộ chiến sỹ các lực lượng
vũ trang, hợp tác an ninh - quốc phòng giữa tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh
Bôlykhămxay, Khămmuộn trong giai đoạn 1991- 2010 đã thu được kết quả to
lớn, toàn diện trên các lĩnh vực. Sự phối hợp chặt chẽ, kịp thời, đồng bộ và
hợp đồng tác chiến nhịp nhàng, hiệu quả giữa các lực lượng vũ trang của mỗi
địa phương đã tạo nên sức mạnh đảm bảo sự ổn định chính trị và trật tự an
toàn xã hội trên toàn tuyến biên giới, góp phần quan trọng trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ quốc phòng an ninh, xây dựng thế trận quốc phòng toàn
dân và an ninh nhân dân vững mạnh của tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay,
101
Khămmuộn. Kết quả của việc hợp tác về vấn đề an ninh biên giới giữa tỉnh
Hà Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn đã góp phần bảo vệ biên giới của
Việt Nam ở phía Tây và biên giới của Lào ở phía Đông, góp phần tăng thêm
tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân hai nước.
Tiểu kết chương 2:Trong giai đoạn 2001 - 2010, quan hệ hợp tác giữa tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh
Bôlykhămxay, Khămmuộn có những bước phát triển đáng phấn khởi so với
giai đoạn 1991- 2000, đặc biệt so với giai đoạn 1986 - 1990. Giai đoạn này,
bên cạnh hợp tác trong lĩnh vực chính trị, an ninh quốc phòng được xác định là
cơ sở và nền tảng, nhiệm vụ hợp tác trên lĩnh vực kinh tế, thương mại thực sựđược xem là lĩnh vực trọng tâm, tạo động lực cho quan hệ hợp tác trên các lĩnh
vực khác phát triển lên một bước mới. Trong quan hệ hợp tác giữa tỉnh Hà
Tĩnh với các tỉnh bạn Lào đã chuyển từ bao cấp, viện trợ một chiều, sang hợp
tác bình đẳng cùng có lợi, đa dạng hơn, chú trọng khai thác tiềm năng lợi thế
của nhau nhiều hơn. Một số chương trình, dự án có nguồn vốn lớn, thu hút
đông lực lượng lao động được triển khai thực hiện mang lại hiệu quả cao. Bên
cạnh đó, hợp tác về văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học công nghệ được quan tâm
đúng mức và thu được những kết quả đáng phấn khởi; các hoạt động xã hội,
giao lưu hữu nghị nhân dân đã được tăng cường với nội dung và hình thức
phong phú, đa dạng, thiết thực vun đắp tình đoàn kết và hữu nghị đặc biệt giữa
Đảng bộ và nhân dân tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn.
Về phương thức lãnh đạo, ở giai đoạn này, phương thức lãnh đạo của
Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh trong việc tăng cường quan hệ hợp tác với tỉnh
Bôlykhămxay, Khămmuộn tiếp tục có sự đổi mới theo hướng quán triệt các
quan điểm, phương hướng về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong
điều kiện mới được đề cập trong Văn kiện Đại hội IX và X của Đảng cũng
như các NQ của BCH Trung ương khoá IX và X. Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh đã
chú trọng đúng mức việc lãnh đạo chính quyền thể chế hoá các quan điểm,
phương hướng của Đảng bộ về tăng cường quan hệ hữu nghị với tỉnh
Bôlykhămxay, Khăm muộn, thành các chương trình, kế hoạch, dự án cụ thể,
102
đồng thời đã chú trọng phát huy sức mạnh của bộ máy chính quyền vào việc
triển khai thực hiện các chương trình, kế hoạch, đề án đã được xây dựng và
thông qua. Một số chương trình dự án có vốn đầu tư lớn, nhất là trong lĩnh
vực công nghiệp, xây dựng, giao thông, khoa học công nghệ được chuẩn bịkhá công phu và triển khai thực hiện bước đầu mang lại hiệu quả cao, tạo
bước chuyển biến đáng kể nhằm thực hiện quan điểm lấy kinh tế làm trọng
tâm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ tăng cường hợp tác giữa tỉnh Hà Tĩnhvới tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn.
Công tác kiện toàn tổ chức bộ máy và công tác cán bộ được chú trọng
đúng mức hơn. Các tổ công tác, tổ giúp việc tại tỉnh và các ngành các địaphương liên quan được thành lập, kiện toàn và đi vào hoạt động có hiệu quả,
góp phần tạo chuyển biến mạnh trong công tác tham mưu, chỉ đạo, tổ chức
thực hiện các nội dung hợp tác. Công tác tham mưu của các ban, ngành, các
cơ quan chuyên trách giúp cấp ủy chính quyền nâng cao hiệu lực, hiệu quả
công tác lãnh đạo điều hành có nhiều chuyển biến tích cực. Công tác tham
mưu, phối hợp giữa cấp ủy, chính quyền địa phương với các bộ, ban, ngành
Trung ương được quán triệt và thực hiện khá kịp thời, đồng bộ, mang lại hiệu
quả thiết thực.
Công tác kiểm tra, sơ kết, tổng kết việc thực hiện bước đầu đã được coi
trọng; đã chú ý phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân,
các tổ chức kinh tế xã hội trong việc triển khai các hoạt động theo đúng chức
năng, nhiệm vụ nhằm tăng cường mối quan hệ hữu nghị, hợp tác với tỉnh
Bôlykhămxay, Khămmuộn…
Những đổi mới về phương thức lãnh đạo nói trên của Đảng bộ tỉnh Hà
Tĩnh đã từng bước khắc phục những hạn chế, khuyết điểm về phương thức
lãnh đạo ở giai đoạn trước; đồng thời, phù hợp với quá trình đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn mới. Nhờ vậy, đã góp phần nâng cao
hiệu quả lãnh đạo của Đảng bộ trên tất cả các lĩnh vực, trong đó có nhiệm vụtăng cường mối quan hệ hữu nghị hợp tác với tỉnh Bôlykhămxay,
Khămmuộn.
103
Chương 3NHẬN XÉT VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM
3.1. NHẬN XÉT
3.1.1. Về quá trình hoạch định chủ trương và chỉ đạo thực hiện quan
hệ hữu nghị, hợp tác toàn diện với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn của
Đảng bộ tỉnh Hà TĩnhNhìn lại quá trình nghiên cứu, ban hành chủ trương tăng cường quan hệ
hợp tác với Đảng bộ và nhân dân tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn của Đảng
bộ tỉnh Hà Tĩnh, có thể nhận thấy:
Một là, chủ trương tăng cường quan hệ hợp tác lâu dài, toàn diện và có
hiệu quả trên tất cả các lĩnh vực với Đảng bộ và nhân dân tỉnh Bôlykhămxay,Khămmuộn đã được tiếp tục khẳng định ngay sau ngày tái lập tỉnh, kế tục và
phát huy được những thành tựu đã đạt được trước đây của Đảng bộ và nhân
dân tỉnh Nghệ Tĩnh.Ngay sau khi tái lập tỉnh, NQ Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII, và các
NQ chuyên đề của BTV, BCH Tỉnh ủy, các văn bản thỏa thuận tại các cuộc
Hội đàm cấp cao ba tỉnh đã khẳng định quyết tâm tiếp tục tăng cường quan hệhợp tác lâu dài, toàn diện và có hiệu quả trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính
trị, văn hóa - xã hội, an ninh quốc phòng, giao lưu hữu nghị nhân dân... với
Đảng bộ và nhân dân tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn; không ngừng “Vun đắp
mối quan hệ hữu nghị đặc biệt và hợp tác toàn diện được đơm hoa kết trái,
không ngừng phát triển” [150]; “Trong quan hệ với bạn, bảo đảm sự gắn bó
thủy chung giữa nhân dân và lực lượng vũ trang ba tỉnh, đặc biệt giữa tỉnh ta
với các tỉnh bạn Bôlykhămxay và Khămmuộn nhằm xây dựng tuyến biên giới
hòa bình, hữu nghị và hợp tác phát triển, không để các thế lực thù địch lợi
dụng chia rẽ và tạo cớ phá hoại” [101]; coi đây là tài sản vô giá, là điều kiện
đảm bảo cho cho sự ổn định chính trị và an ninh và việc thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của ba tỉnh.
Chủ trương tăng cường hợp tác với các tỉnh bạn Lào của Đảng bộ tỉnh
được tiếp tục khẳng định tại Đại hội lần đầu tiên sau ngày tái lập tỉnh và ngay
104
sau đó, chủ trương này được tiếp tục khẳng định trong chuyến thăm các tỉnh
bạn của lãnh đạo tỉnh Hà Tĩnh đã thể hiện lập trường, quan điểm trước sau
như một của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Hà Tĩnh luôn coi trọng và không
ngừng nỗ lực vun đắp tình hữu nghị và hợp tác toàn diện với các tỉnh bạn Lào
cùng chung biên giới. Những chủ trương đó vừa thể hiện sự kế thừa, tiếp nối
những thành quả đã đạt được của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Nghệ tĩnh trước
đây, vừa thể hiện quan điểm, quyết tâm của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Hà
Tĩnh tiếp tục vun đắp mối quan hệ hữu nghị bền chặt thủy chung với Đảng bộ
và nhân dân các bộ tộc Lào anh em, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng
trong tình hình mới.
Hai là, chủ trương tăng cường hợp tác với các tỉnh bạn Lào của Đảng
bộ tỉnh Hà Tĩnh đã cụ thể hóa kịp thời và góp phần làm phong phú, sinh động
thêm chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác
đối ngoại.
Công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo
đã giành được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Trong đó, quá trình
đổi mới công tác đối ngoại, trước hết là đổi mới về đường lối, chính sách đối
ngoại là bộ phận rất quan trọng trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước.
Bằng sự nhạy cảm chính trị, kinh nghiệm lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã hình thành và phát triển đường lối, chính sách đối ngoại đổi
mới nói chung và đường lối chính sách đối ngoại đối với nước CHDCND Lào
nói riêng, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước trong
từng thời kỳ, phù hợp với bối cảnh tình hình khu vực, thế giới và xu thế phát
triển của thời đại, phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng của hai nước
trong từng thời kỳ. Trong những thành tựu có ý nghĩa lịch sử của công cuộc
đổi mới có đóng góp to lớn của công tác đối ngoại. Các hoạt động đối ngoại
đã góp phần giữ vững môi trường hòa bình, tạo các điều kiện quốc tế thuận
lợi cho công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát triển kinh tế -
xã hội, tăng cường ổn định chính trị - xã hội, củng cố an ninh, quốc phòng,
105
đưa đất nước vượt qua những thách thức và đi vào giai đoạn phát triển mới; vịthế của Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng nâng cao.
Trên cơ sở đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước về công tác đối
ngoại nói chung và đối với nước CHDCND Lào nói riêng, từ ngày tái lập tỉnh
đến nay, với tình cảm quốc tế và anh em thủy chung, trong sáng, Đảng bộ tỉnh
Hà Tĩnh đã kịp thời quán triệt, cụ thể hóa và ban hành chủ trương tăng cường
tình đoàn kết, hữu nghị hợp tác, đoàn kết gắn bó với Đảng bộ và nhân dân các
tỉnh bạn Lào cùng chung biên giới.
Những chủ trương và giải pháp nêu trên đã cụ thể hóa quan điểm, chủ
trương và chính sách về công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta trong
tình hình mới, phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, an
ninh quốc phòng, đáp ứng yêu cầu của Đảng bộ, nhân dân tỉnh Hà Tĩnh và
tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn trong việc tiếp tục tăng cường mối quan hệ,
hợp tác toàn diện trong tình hình mới.
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII, XIV, XV, XVI, XVII và
các NQ chuyên đề của Tỉnh ủy Hà Tĩnh từ năm 1991 - 2010 tiếp tục khẳng
định chủ trương tiếp tục tăng cường tình đoàn kết, hữu nghị và hợp tác toàn
diện với Đảng bộ và nhân dân tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn, coi đây là
nhân tố quan trọng đảm bảo bảo thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế xã
hội và an ninh quốc phòng của mỗi tỉnh; là nghĩa vụ quốc tế cao cả; đồng thời
thể hiện tình cảm gắn bó thủy chung giữa Đảng bộ và nhân dân ba tỉnh.
Phương châm hợp tác với các tỉnh bạn tiếp tục được khẳng định là toàn diện,
có hiệu quả, phù hợp với điều kiện cụ thể của mỗi tỉnh, trên nguyên tắc bình
đẳng, cùng có lợi, phù hợp với cơ chế thị trường nhưng luôn luôn dành cho
nhau những ưu tiên, ưu đãi hợp lý trong quá trình hợp tác đầu tư sản xuất,
kinh doanh; nhiệm vụ tăng cường tình hữu nghị hợp tác với các tỉnh bạn là
trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và cả hệ thống chính trị, đặc biệt là các
địa phương trên địa bàn vùng biên giới.
Ba là, chủ trương tiếp tục tăng cường tình đoàn kết, hữu nghị và hợp tác
toàn diện với Đảng bộ và nhân dân tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn của Đảng
106
bộ tỉnh Hà Tĩnh qua từng thời kỳ không ngừng được bổ sung, phát triển, phù
hợp với yêu cầu nhiệm vụ và điều kiện cụ thể của tỉnh.
Trên cơ sở quan điểm, chủ trương chung về nhiệm vụ công tác đối
ngoại, đặc biệt là đối với các tỉnh có chung đường biên giới, nhiệm vụ tăngcường hợp tác với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn được tiếp tục khẳng định
và thể hiện cụ thể trong nhiều Nghị quyết chuyên đề trên các lĩnh vực khác
nhau của BCH, BTV. Nội dung, chương trình hợp tác với các tỉnh bạn từng
bước được nghiên cứu đưa vào các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế
xã hội và an ninh quốc phòng của tỉnh.
Nếu như giai đoạn 1986 - 1990, quá trình hợp tác giữa tỉnh Hà Tĩnh với
tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn chủ yếu tập trung trong lĩnh vực chính trị, an
ninh quốc phòng, các lĩnh vực khác chưa thực sự được coi trọng, quy mô nhỏ
lẻ, rời rạc, hiệu quả kinh tế thấp, thì giai đoạn 1991 - 2000, quan hệ hợp tác
được thực hiện một cách toàn diện, đồng bộ, hiệu quả cao hơn trên nhiều lĩnh
vực; hợp tác kinh tế từng bước được xác định là nhiệm vụ trọng tâm và bước
đầu mang lại những kết quả đáng khích lệ trên một số lĩnh vực.
Bước sang thế kỷ XXI, quán triệt sâu sắc chủ trương chủ động và tích
cực hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế của Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX của Đảng, Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh đề ra phù hợp với bối cảnh tình hình
quốc tế, khu vực, tình hình trong nước cũng như yêu cầu phát triển kinh tế xã
hội của tỉnh trong tình hình mới. Chủ trương đó đáp ứng yêu cầu tiếp tục đẩy
mạnh và phát triển quan hệ hợp tác với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn nhằm
khai thác có hiệu quả tiềm năng và lợi thế của mỗi tỉnh, phục vụ đắc lực
nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an
ninh quốc phòng trong điều kiện mới.
Giai đoạn 2001 - 2010 chủ trương của Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh có bước
phát triển mới. Đó là: Trên cơ sở quan điểm, chủ trương chung về nhiệm vụ
công tác đối ngoại, đặc biệt là đối với các tỉnh có chung đường biên giới,
nhiệm vụ tăng cường hợp tác với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn được tiếp
tục khẳng định và thể hiện cụ thể trong nhiều Nghị quyết chuyên đề trên các
107
lĩnh vực khác nhau của BCH, BTV. Nội dung, chương trình hợp tác với các
tỉnh bạn từng bước được nghiên cứu đưa vào các chương trình, kế hoạch phát
triển kinh tế xã hội và an ninh quốc phòng của tỉnh. Quan điểm, chủ trương
trong hợp tác được khẳng định là chủ động, tích cực, toàn diện và có chiều
sâu. Đây là bước phát triển mới trong nhận thức cũng như quá trình xây dựng
chủ trương, hoạch định các chương trình, kế hoạch cụ thể của Đảng bộ và
chính quyền địa phương nhằm tiếp tục tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác
với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn trong tình hình mới.
Trong quá trình xây dựng chủ trương, so với giai đoạn trước đây, việc
nắm bắt thông tin, nghiên cứu tình hình thực tiễn, nhất là điều kiện các nguồn
lực đảm bảo thực thi các chủ trương hợp tác của các bên được quan tâm hơn.
Đặc biệt, trong hoạt động của các chuyến thăm cấp cao giữa lãnh đạo tỉnh Hà
Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn, việc đi nghiên cứu thực tế tại các địaphương nơi đến thăm, nhằm hiện thực hóa việc gắn kết ngoại giao với kinh tế,
ngoại giao mở đường cho kinh tế và phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế được
quan tâm hơn. Ngoài các chuyến thăm làm việc giữa các đoàn đại biểu cấp
cao ba tỉnh, các chuyến công tác, tham vấn, dự các phiên làm việc với các
đồng chí lãnh đạo cấp cao Đảng, Chính phủ hai nước nhằm kiến nghị đề xuất
ban hành chủ trương, chính sách, cơ chế, nhất là hỗ trợ nguồn lực đảm bảo
thực hiện các chương trình, nội dung hợp tác giữa ba tỉnh liên quan đến các
nội dung thỏa thuận chiến lược, góp phần thực thi nhiệm vụ tăng cường hợp
tác giữa hai nước, đã được lãnh đạo Đảng, chính quyền ba tỉnh quan tâm hơn.Bốn là, Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh đã chú trọng cụ thể hóa các chủ trương
cũng như chỉ đạo quán triệt các cấp, các ngành thực hiện nhiệm vụ quan hệhữu nghị, hợp tác với hai tỉnh cùng biên giới
Sau khi quán triệt chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà
nước phù hợp với đặc điểm thực tiễn của địa phương, Đảng bộ Hà Tĩnh đã
từng bước chú trọng chỉ đạo chính quyền thể chế hoá các quan điểm, phươnghướng về tăng cường quan hệ hữu nghị với tỉnh Bôlykhămxay, Khăm muộn
của Đảng bộ, thành các chương trình, kế hoạch, dự án cụ thể. Đồng thời, chú
108
trọng phát huy sức mạnh của bộ máy chính quyền vào việc triển khai thực
hiện các chương trình, kế hoạch, đề án đã được xây dựng và thông qua. Đặc
biệt khi bước sang giai đoạn 2001 - 2010, một số chương trình dự án có vốn
đầu tư lớn, nhất là trong lĩnh vực công nghiệp, xây dựng, giao thông, khoa
học công nghệ được chuẩn bị khá công phu và triển khai thực hiện bước đầu
mang lại hiệu quả cao, tạo bước chuyển biến đáng kể nhằm thực hiện quan
điểm lấy kinh tế làm trọng tâm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ tăng cường
hợp tác giữa ba tỉnh.
Bên cạnh đó, công tác kiện toàn tổ chức bộ máy và công tác cán bộ thực
hiện nhiệm vụ đối ngoại của tỉnh được quan tâm. Các tổ công tác, tổ giúp việc
tại tỉnh và các ngành các địa phương liên quan được thành lập, kiện toàn và đi
vào hoạt động có hiệu quả, góp phần tạo chuyển biến mạnh trong công tác
tham mưu, chỉ đạo, tổ chức thực hiện các nội dung hợp tác. Công tác tham
mưu của các ban, ngành, các cơ quan chuyên trách giúp cấp ủy chính quyền
nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác lãnh đạo điều hành có nhiều chuyển biến
tích cực. Công tác tham mưu, phối hợp giữa cấp ủy, chính quyền địa phươngvới các bộ, ban, ngành Trung ương được quán triệt và thực hiện khá kịp thời,
đồng bộ, mang lại hiệu quả thiết thực.
Công tác kiểm tra, sơ kết, tổng kết việc thực hiện bước đầu đã được coi
trọng; đã chú ý phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân,
các tổ chức kinh tế xã hội trong việc triển khai các hoạt động theo đúng chức
năng, nhiệm vụ nhằm tăng cường mối quan hệ hữu nghị, hợp tác với tỉnh
Bôlykhămxay, Khămmuộn…
Những đổi mới về phương thức lãnh đạo nói trên của Đảng bộ đã từng
bước khắc phục những hạn chế, khuyết điểm về phương thức lãnh đạo ở giai
đoạn trước; đồng thời, phù hợp với quá trình đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng trong giai đoạn mới. Nhờ vậy, đã góp phần nâng cao năng lực,
hiệu quả lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh trên các lĩnh vực qua từng thời kỳ, trong
đó có nhiệm vụ tăng cường mối quan hệ hữu nghị hợp tác với tỉnh
Bôlykhămxay, Khămmuộn.
109
Sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh trong việc thực hiện nhiệm vụxây dựng quan hệ hữu nghị, hợp tác với tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn có
một số đổi mới trên các phương diện, nhất là trong hoạch định chủ trương
cũng như trong chỉ đạo tổ chức thực hiện các nhiệm vụ hợp tác với các tỉnh
bạn. Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng, quá trình lãnh đạo của Đảng bộ trong
việc xây dựng mối quan hệ hợp tác hữu nghị với tỉnh Bôlykhămxay,
Khămmuộn còn một số tồn tại, khuyết điểm. Cụ thể là, tại một số thời điểm,
việc ban hành các Nghị quyết chuyên đề về xây dựng quan hệ hợp tác hữu
nghị với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn còn chậm; công tác tuyên truyền
chưa được quan tâm đúng mức nhằm tạo sự thống nhất trong toàn Đảng bộ và
cả hệ thống chính trị về vấn đề này; công tác kiện toàn tổ chức, nâng cao tinh
thần trách nhiệm, hiệu quả, hiệu lực điều hành của bộ máy và đội ngũ cán bộ
thực thi nhiệm vụ trên các lĩnh vực công tác chưa thật sự được coi trọng; việc
lãnh đạo chính quyền thể chế hoá các quan điểm, phương hướng về xây dựng
quan hệ hữu nghị hợp tác với Bôlykhămxay, Khămmuộn của Đảng bộ thành
các chương trình, kế hoạch, đề án, dự án cụ thể có lúc, có nơi còn thiếu kịpthời, có nơi, có lúc còn chưa được coi trọng; công tác kiểm tra, tổng kết việc
thực hiện nhằm rút kinh nghiệm và khắc phục kịp thời những tồn tại vướng
mắc chưa đạt yêu cầu.
3.1.2. Kết quả thực hiện mối quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa Hà
Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn
3.1.2.1. Thành tựu nổi bật- Nhìn lại quan hệ hữu nghị hợp tác giữa tỉnh Hà Tĩnh với các tỉnh bạn
Lào cùng chung biên giới từ năm 1991 đến năm 2010, có thể thấy những
chặng đường phát triển của mối quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa ba tỉnh:
Trong giai đoạn 1986 - 1990, quan hệ hữu nghị hợp tác giữa ba tỉnh diễn
ra trong bối cảnh hai nước và các địa phương đang gặp nhiều khó khăn, thách
thức, nhất là trong điều kiện kinh tế tỉnh còn nghèo, chưa thoát khỏi cơ chếquan liêu bao cấp, lại vừa phải đối phó với âm mưu chống phá thâm độc của
các thế lực thù địch trong và ngoài nước. Tuy nhiên, nhờ sự nỗ lực của Đảng
110
bộ và nhân dân ba tỉnh, với truyền thống đoàn kết gắn bó lâu đời và những ưuđãi đặc biệt giành cho nhau, nhìn chung, quan hệ hữu nghị hợp tác giữa tỉnh
Hà Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn tiếp tục được tăng cường và thu
được những kết quả đáng phấn khởi, nhất là hợp tác về chính trị và an ninh
quốc phòng. Đặc biệt, sự quan tâm, giúp đỡ về chuyên gia, cung ứng cơ sở
vật chất, trang thiết bị thiết yếu phục vụ sản xuất, đời sống đã giúp các tỉnh
bạn giải quyết kịp thời những khó khăn trước mắt. Hoạt động ngoại thươnggiữa tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn chủ yếu diễn ra dưới
hình thức hữu nghị và ưu đãi đặc biệt, được bao cấp bằng ngân sách nhà nước
[163]. Trong thời kỳ khó khăn, hàng hoá của Việt Nam đến với các bản làng
của các tỉnh bạn, nhất là địa bàn vùng sâu, vùng xa đã khắc phục được một
phần thực trạng hết sức khan hiếm hàng hoá của các tỉnh bạn, góp phần ổn
định tình hình, nâng cao đời sống cho nhân dân.
Tuy nhiên, trong giai đoạn này, những kết quả đạt được trong quá trình
triển khai thực hiện các thỏa thuận hợp tác đã được các bên thống nhất còn
thấp so với yêu cầu, mong muốn và tiềm năng của ba tỉnh. Nhiều nội dung
hợp tác đã được đề ra nhưng thực hiện thiếu kịp thời, có nơi, có lúc thiếu tính
khả thi. Quan hệ hợp tác chủ yếu đang diễn ra ở khu vực kinh tế Nhà nước,
trong đó, lĩnh vực được chú trọng nhất là nông - lâm nghiệp. Do đó, nhìn
chung việc hợp tác giữa ba tỉnh đem lại hiệu quả chưa cao, cả chiều rộng lẫn
chiều sâu, nặng tính chất bao cấp, phiến diện; chưa khơi dậy, phát huy được
tiềm năng, thế mạnh của ba tỉnh. Tuy nhiên, kết quả và những kinh nghiệm
bước đầu trong quá trình hợp tác giữa ba tỉnh trong những năm đầu thực hiện
đường lối đổi mới đã tạo cơ sở, tiền đề quan trọng giúp Đảng bộ, chính quyền
và nhân dân ba tỉnh tiếp tục tăng cường hợp tác trong những năm sau này đạt
hiệu quả cao hơn.
Trong giai đoạn 1991 - 2000, quan hệ giữa tỉnh Hà Tĩnh, Bôlykhămxay,
Khămmuộn có nhiều chuyển biến trên các lĩnh vực hợp tác, từ quan hệ chủyếu về chính trị, an ninh quốc phòng trong thập niên 70, 80 từng bước chuyển
sang quan hệ hợp tác toàn diện trên tất cả các lĩnh vực. Trong đó, hợp tác kinh
111
tế, chính trị ngày càng có vị trí quan trọng. Cùng với hợp tác kinh tế, các lĩnhvực hợp tác khác cũng không ngừng phát triển và đạt được nhiều kết quả.
Bước sang giai đoạn 2001 - 2010, quan hệ hữu nghị hợp tác giữa tỉnh Hà
Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn có những chuyển biến lớn, cả chiều
rộng và chiều sâu so với giai đoạn trước đây. Quán triệt đường lối đối ngoại
của Đại hội của Đảng, trong giai đoạn 2001 - 2010, trước đòi hỏi tăng cường
hơn nữa quan hệ thương mại, đầu tư và đáp ứng sự phát triển không ngừng của
hợp tác kinh tế, Việt Nam và Lào đã ký Hiệp định bảo hộ đầu tư và tránh đánh
thuế hai lần cùng nhiều văn kiện khác trên tất cả các lĩnh vực hợp tác. Đồng
thời, hai nước đã xây dựng các Thỏa thuận chiến lược hợp tác kinh tế, văn hóa,khoa học kỹ thuật cho các giai đoạn 5 năm, 10 năm. Hàng loạt Hiệp định, Nghị
định thư và các thỏa thuận hợp tác khác cũng đã được ký kết, tạo thành một hệ
thống cơ chế hợp tác và văn bản pháp lý để các Bộ, ngành, địa phương hai bênáp dụng, thực hiện các chương trình, đề án hợp tác cụ thể [50].
Phát huy những nhân tố đảm bảo cho mối quan hệ hữu nghị hợp tác giữa
tỉnh Hà Tĩnh với hai tỉnh bạn, trong giai đoạn 1991 - 2010, tình hữu nghị và
sự hợp tác toàn diện giữa Đảng bộ và nhân dân tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh
Bôlykhămxay và Khămmuộn ngày càng được tăng cường, đạt nhiều thành tựu
quan trọng trên các lĩnh vực và đang diễn ra sôi động, hiệu quả, có chiều sâu
trên nhiều lĩnh vực [175]. Trong giai đoạn này, bên cạnh hợp tác trong lĩnh
vực chính trị, an ninh quốc phòng được xác định là cơ sở và nền tảng, nhiệm
vụ hợp tác trên lĩnh vực kinh tế, thương mại thực sự được xem là lĩnh vực
trọng tâm, tạo động lực cho quan hệ hợp tác trên các lĩnh vực khác phát triển
lên một bước mới. Một số chương trình, dự án có nguồn vốn lớn, thu hút
đông lực lượng lao động được triển khai thực hiện mang lại hiệu quả cao. Bên
cạnh đó, hợp tác về văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học công nghệ được quan
tâm đúng mức và thu được những kết quả đáng phấn khởi; các hoạt động xã
hội, giao lưu hữu nghị nhân dân đã được tăng cường với nội dung và hình
thức phong phú, đa dạng, thiết thực vun đắp tình đoàn kết và hữu nghị đặc
biệt giữa Đảng bộ và nhân dân ba tỉnh [177].
112
- Trong quá trình thực hiện các chương trình, nội dung hợp tác, tuy còn
bộc lộ không ít khó khăn, hạn chế do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách
quan khác nhau, song những kết quả đạt được trong giai đoạn này đã góp
phần quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị, kinh tế xã
hội, an ninh quốc phòng của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh
Bôlykhămxay, Khămmuộn.
Quán triệt chủ trương, đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà
nước, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh và các NQ chuyên đề của BTV, BCH
Tỉnh ủy Hà Tĩnh từ 1991- 2010 đã khẳng định quyết tâm trước sau như một
tiếp tục tăng cường quan hệ hợp tác lâu dài, toàn diện và có hiệu quả trên tất
cả các lĩnh vực với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn. Nhiều chủ trương, giải
pháp về hợp tác, đặc biệt là các thỏa thuận tại các cuộc hội đàm nhân các
chuyến thăm thường niên đã được lãnh tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay,Khămmuộn thống nhất và được quán triệt, cụ thể hóa thành các chương
trình, nội dung hợp tác cụ thể trên các lĩnh vực, phù hợp với điều kiện thực
tế mỗi tỉnh và được kịp thời quán triệt và triển khai thực hiện ở các cấp, các
ngành, các địa phương và đã thu được những kết quả khá toàn diện, đồng
đều trên các lĩnh vực, đóng góp tích cực vào việc thực hiện nhiệm vụ chính,
kinh tế xã hội, an ninh, quốc phòng của mỗi địa phương; góp phần làm
phong phú, sinh động thêm mối quan hệ đặc biệt, sự hợp tác toàn diện giữa
Đảng, Nhà nước và nhân dân hai nước Việt Nam - Lào anh em. Những kết
quả trong hợp tác về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, an
ninh, quốc phòng, công tác biên giới... đã đóng góp quan trọng vào việc thực
hiện nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng của mỗi địa phương; góp
phần quan trọng tiếp tục tăng cường tình đoàn kết gắn bó keo sơn, tình hữu
nghị đặc biệt hiếm có giữa Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Hà Tĩnh
với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn. Kết quả này càng có vị trí vai trò đặc
biệt trong bối cảnh các thế lực thù địch đang dùng nhiều âm mưu, thủ đoạn
hết sức thâm độc ra sức chống phá sự nghiệp cách mạng, chia rẽ tình đoàn
kết hữu nghị đặc biệt của Đảng và nhân dân hai nước. Lào và Việt Nam là
113
hai nước trong số ít quốc gia còn kiên định mục tiêu CNXH, mỗi nước một
mặt phải phát huy tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, mặt khác rất
cần đẩy mạnh và tăng cường quan hệ truyền thống đặc biệt giữa hai Đảng,
nhân dân hai nước, nhằm đảm bảo giữ vững định hướng và mục tiêu CNXH,
đưa sự nghiệp đổi mới đi đến thành công, đáp ứng nguyện vọng, lợi ích cơ
bản và lâu dài của nhân dân hai dân tộc, phù hợp với xu thế hoà bình, phát
triển của khu vực và trên thế giới.
- Thông qua việc thực hiện các chương trình, nội dung hợp tác với tỉnh
Bôlykhămxay, Khămmuộn đã góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo của các
cấp ủy Đảng, hiệu lực, hiệu quả điều hành của chính quyền, sự phối hợp
hoạt động của các ngành, đoàn thể và hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sởcủa tỉnh Hà Tĩnh.
Nhân các chuyến thăm và tại các cuộc hội đàm, lãnh đạo tỉnh Hà Tĩnh và
tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn đã thông báo cho nhau tình hình thực hiện
nhiệm vụ chính trị kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng của mỗi tỉnh; những
nội dung trọng tâm mà các bên quan tâm trong chiến lược phát triển kinh tếxã hội an ninh, quốc phòng, công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị.
Lãnh đạo tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn cũng đã thảo luận,
chia sẻ, tiếp thu lẫn nhau những ý kiến đóng góp, những bài học kinh nghiệm
trong công tác lãnh đạo chỉ đạo, nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng
và hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị các cấp. Các bên cũng
đã tổ chức các buổi gặp mặt, tọa đàm về những vấn đề lý luận và thực tiễn,
nhất là những vấn đề mới đặt ra tại địa phương mỗi tỉnh trong từng thời kỳ.
Hàng loạt các chuyến thăm, khảo sát thực tế tại địa phương, các mô hình, điển
hình tiên tiến trên các lĩnh vực, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh
tế sản xuất kinh doanh có hiệu quả đã được tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh
Bôlykhămxay, Khămmuộn quan tâm tổ chức. Đây là cơ sở thực tiễn sinh
động, thuyết phục để lãnh đạo tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay,
Khămmuộn tổng kết, đánh giá, trên cơ sở đó, nghiên cứu, từng bước bổ sung
và xây dựng thành chủ trương, đường lối phát triển kinh tế - xã hội phù hợp
114
với điều kiện cụ thể của mỗi tỉnh. Việc thực hiện các thỏa thuận hợp tác giữa
tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn, nhất là trong lĩnh vực chính
trị, giao lưu hữu nghị nhân dân đã góp phần nâng cao năng lực hoạch định
chủ trương và phương thức lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, năng lực điều hành
của chính quyền các cấp và góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các
đoàn thể, các tổ chức kinh tế xã hội của mỗi tỉnh qua từng thời kỳ.
Ngoài ra, việc cụ thể hóa, triển khai thực hiện các thỏa thuận hợp tác đã
góp phần nâng cao năng lực của các cơ quan liên quan trong việc thể chế hoá
các quan điểm, chủ trương của Đảng bộ tỉnh về tăng cường quan hệ hợp tác
với các tỉnh bạn, thành chương trình, kế hoạch, dự án cụ thể, đồng thời, phát
huy sức mạnh của bộ máy chính quyền, các ngành, đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở
triển khai thực hiện. Thông qua việc thực hiện các thỏa thuận hợp tác, công
tác kiện toàn tổ chức bộ máy và công tác cán bộ được chú trọng hơn. Các tổcông tác, tổ giúp việc tại tỉnh và các ngành các địa phương liên quan được
thành lập, kiện toàn và đi vào hoạt động, góp phần tạo chuyển biến mạnh mẽ
trong công tác chỉ đạo, tổ chức thực hiện các nội dung hợp tác. Công tác tham
mưu của các ban, ngành, các cơ quan chuyên trách giúp cấp ủy chính quyền
nâng cao hiệu quả công tác lãnh đạo, điều hành có nhiều chuyển biến tích
cực. Công tác kiểm tra, sơ kết, tổng kết việc thực hiện bước đầu đã được coi
trọng; đã chú ý phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân,
các tổ chức kinh tế xã hội trong việc triển khai các hoạt động theo đúng chức
năng, nhiệm vụ nhằm tăng cường mối quan hệ hữu nghị, hợp tác với tỉnh
Bôlykhămxay, Khăm muộn…
- Về thành tựu hợp táctrên các lĩnh vực cụ thể:
Hợp tác trong lĩnh vực kinh tế:
Trong giai đoạn 1991 - 2010, nhiệm vụ tăng cường hợp tác trong lĩnh
vực kinh tế với hai tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn là yêu cầu và nhiệm vụ
trọng tâm luôn được đặt ra đối với Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Hà
Tĩnh. Nhiều chủ trương, giải pháp về hợp tác kinh tế, đặc biệt là các thỏa
thuận tại các cuộc hội đàm cấp cao qua các chuyến thăm thường niên đã được
115
lãnh đạo tỉnh thống nhất và được quán triệt, cụ thể hóa thành các chươngtrình, nội dung hợp tác cụ thể trên các lĩnh vực, phù hợp với điều kiện thực tế
mỗi tỉnh và được kịp thời triển khai thực hiện ở các cấp, các ngành, các địa
phương và đã thu được những kết quả khá toàn diện, đồng đều trên các lĩnhvực, đóng góp tích cực vào việc thực hiện nhiệm vụ chính, kinh tế xã hội, an
ninh, quốc phòng của địa phương, góp phần làm phong phú, sinh động thêm
mối quan hệ đặc biệt, sự hợp tác toàn diện giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân
hai nước Việt Nam - Lào anh em trong thời kỳ mới. Từ năm 1991 đến năm
2010, giữa tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn đã có những
chuyến biến nhanh chóng theo hướng liên doanh, hợp tác cùng có lợi, phù
hợp với cơ chế thị trường và xu thế hội nhập khu vực và quốc tế. Nếu giai
đoạn 1991 - 2000 hợp tác kinh tế quy mô còn nhỏ lẻ, dàn trải, thiếu những
chương trình, dự án quy mô lớn, hiệu quả thấp thì giai đoạn 2001 - 2010 hợp
tác kinh tế đã có những bước chuyển biến mạnh mẽ cả về chiều rộng và chiều
sâu. Đặc biệt, nhiều chương trình, dự án có vốn đầu tư lớn của tỉnh Hà Tĩnh
nhất là trong lĩnh vực công nghiệp, xây dựng, giao thông, khoa học công nghệđược chuẩn bị khá công phu và triển khai thực hiện trên địa bàn các tỉnh bạn
bước đầu mang lại hiệu quả cao, tạo bước chuyển biến đáng kể góp phần quán
triệt quan điểm lấy kinh tế làm trọng tâm trong quá trình thực hiện nhiệm vụtăng cường hợp tác giữa tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn,
góp phần không nhỏ vào việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, an
ninh, quốc phòng của các tỉnh bạn.
Hợp tác trong lĩnh vực nông - lâm nghiệp, giai đoạn 1991 - 2010, tỉnh
Hà Tĩnh đã tăng cường hợp tác, đầu tư, từng bước giúp tỉnh bạn giải quyết
những khó khăn, đẩy mạnh phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn
mới, góp phần nâng cao đời sống cho nhân dân các bộ tộc Lào, nhất là các địa
phương giáp biên giới giữa ba tỉnh. Việc thực hiện có hiệu quả các thỏa thuận
hợp tác trong nông nghiệp đã thiết thực giúp các tỉnh bạn nâng cao trình độkhoa học kỹ thuật, đưa những giống cây trồng vật nuôi có giá trị kinh tế cao
vào sản xuất, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất lương thực, thực phẩm,
116
khai thác chế biến lâm sản, cây công nghiệp. Nhiều mô hình trọng điểm lúa,
mô hình kinh tế nông - lâm kết hợp được xây dựng và tiếp tục được nhân ra
diện rộng. Tỉnh Hà Tĩnh đã tổ chức ngày càng nhiều các đoàn cán bộ, chuyên
gia có kinh nghiệm trong nông lâm nghiệp sang các tỉnh bạn để trao đổi kinh
nghiệm trong sản xuất; chuyển giao công nghệ kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi;
giúp bạn làm thí điểm mô hình kinh tế vườn đồi, kinh tế hộ gia đình; triển
khai dự án phối hợp trồng cây cao su. Ba tỉnh đã xúc tiến thực hiện việc quy
hoạch, kết hợp giữa khai thác và bảo vệ, phát triển tài nguyên rừng; thực hiện
chương trình trồng rừng, nhân diện rộng các mô hình giao đất, giao rừng cho
hộ nông dân quản lý, nhằm từng bước phủ xanh đất trống đồi trọc. Việc thực
hiện các mô hình này, một mặt giúp bảo vệ phát triển rừng một cách bền
vững, mặt khác giúp đồng bào nâng cao đời sống, gắn bó, bảo vệ rừng một
cách có hiệu quả [140].
Hợp tác trong lĩnh vực thương mại và du lịch: giai đoạn 1991 - 2010,
nhất là giai đoạn 2001 - 2010, hoạt động thương mại giữa ba tỉnh đã không
ngừng phát triển, cả chiều rộng và chiều sâu, đóng góp quan trọng vào nhiệm
vụ phát triển kinh tế - xã hội của ba tỉnh. Ba tỉnh đã chỉ đạo và tạo điều kiện
thuận lợi cho các doanh nghiệp đầu tư sản xuất và kinh doanh trên địa bàn
[90]. Tỉnh Hà Tĩnh đã phối hợp với hai tỉnh bạn tổ chức thường xuyên các
Hội chợ thương mại, Hội chợ xuân… thu hút các doanh nghiệp của Việt Nam
và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn tham gia mở các gian hàng nhằm quảng
bá, giới thiệu sản phẩm hàng hóa, dịch vụ của mỗi tỉnh, tìm đối tác và cơ hội
đầu tư, thúc đẩy mối quan hệ kinh tế giữa các địa phương hai nước. Đặc biệt
tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay đã từng bước đầu tư hình thành các khu
kinh tế trọng điểm đối diện nhau qua cửa khẩu quốc tế Cầu Treo, từng bước
hình thành khu phi thuế quan với những cơ chế, chính sách ưu đãi đặc biệt về
thuế, tín dụng, đất đai và một số cơ chế, chính sách khác góp phần đẩy mạnh
các hoạt động kinh tế thương mại tại các địa bàn vùng biên giới. Đồng thời,
UBND tỉnh Hà Tĩnh đã triển khai công tác quy hoạch, xây dựng cơ sở hạ tầng
thiết yếu, đặc biệt là thành lập Công ty Cổ phần cảng Vũng Áng Việt - Lào
117
nhằm đẩy mạnh hoạt động về giao lưu thương mại giữa các tỉnh có chung
đường biên, hai nước và của các tỉnh có sử dụng Đường 8, Đường 12 của ba
nước Việt Nam - Lào - Thái Lan.
Cùng với các hoạt động thương mại, được sự quan tâm của cấp ủy, chính
quyền, các ngành liên quan của tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay và
Khămmuộn, hoạt động du lịch đã diễn ra khá sôi động. Ngành thương mại,
các công ty lữ hành tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn đã liên
kết, hình thành các tour, tuyến du lịch nội và ngoại vùng, nâng cấp mở rộng
và từng bước hiện đại hóa hệ thống dịch vụ, đầu tư quảng bá, giới thiệu tiềm
năng du lịch của mỗi địa phương, do đó lượng khách du lịch qua lại giữa ba
tỉnh ngày càng tăng.
Hợp tác trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng cơ bản: Trong lĩnh vực
đầu tư xây dựng cơ bản hợp tác giữa ba tỉnh chú trọng nhiệm vụ bảo trì,
nâng cấp, xây dựng mới hệ thống giao thông đường bộ nội tỉnh và xây dựng
các tuyến giao thông kết nối hai bên, hệ thống đường giao thông dọc tuyến
biên giới nhằm phục vụ nhu cầu dân sinh và đảm bảo quốc phòng an ninh;
đặc biệt là thông qua tuyến Đường 8, Đường 12, giúp bạn sử dụng các bến,
cảng biển tỉnh Hà Tĩnh nhằm đảm bảo vận tải hàng hoá quá cảnh của Lào
sang nước khác và vận chuyển hàng từ Việt Nam sang Lào.
Nhiều công ty, doanh nghiệp Hà Tĩnh đã đảm nhận thi công nhiều công
trình tại tỉnh bạn đảm bảo yêu cầu về chất lượng và tiến độ, được phía bạn
đánh giá cao. Đặc biệt, bằng nguồn vốn đầu tư của Chính phủ, tỉnh Hà Tĩnhvà tỉnh Bôlykhămxay đã phối hợp tiến hành tu sửa, nâng cấp con đường huyết
mạnh giữa hai tỉnh là đường 8A, đồng thời nâng cấp đoạn đường Gia Lách -
cảng Xuân Hải, phục vụ đắc lực việc thực hiện chủ trương giúp nước bạn Lào
“thông ra biển”. Cùng với việc tiếp tục đầu tư, nâng cấp cảng Vũng Áng và
xây dựng Đường 12, nối cảng Vũng Áng với Lào và các tỉnh Đông Bắc Thái
Lan, Hà Tĩnh đã ban hành chính sách ưu đãi trong việc giúp bạn sử dụng hệthống cầu cảng, bến bãi... tạo môi trường và điều kiện hết sức thuận lợi cho
tỉnh Bôlykhămxay và nước bạn Lào giao lưu, trao đổi hàng hóa, phát triển
118
kinh tế - xã hội, góp phần đắc lực giúp bạn thực hiện đường lối mở cửa, hội
nhập kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới. Chính phủ Việt Nam
đã có quy hoạch định hướng xây dựng cụm cảng Vũng Áng với các cảng tổng
hợp và cảng chuyên dùng, phục vụ công nghiệp cơ khí, luyện cán thép, đóngvà sửa chữa tàu thuỷ, hoá dầu. Đặc biệt, Công ty Cổ phần cảng Vũng Áng
Việt - Lào được thành lập với các cổ đông sáng lập là Bộ Tài chính Lào,
Công ty Xăng dầu Lào, Công ty Xăng dầu Viêng Chăn, Công ty Cổ phần Vận
tải Lào, Tập đoàn Than và Khoáng sản Việt Nam, Tổng Công ty Khoáng sản
và Thương mại Hà Tĩnh, Công ty Cổ phần Bảo hiểm Hàng không Việt Nam.
Đây là dự án quan trọng được lãnh đạo cấp cao hai nước ưu tiên tập trung chỉđạo, góp phần phát triển kinh tế khu vực Bắc miền Trung, phục vụ hàng hóa
quá cảnh của Lào và phục vụ hành lang phát triển kinh tế Đông - Tây [94].
Nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, giao lưu, trao đổi hàng hóa, dịch
vụ tại các địa phương miền núi dọc tuyến biên giới, đồng thời tăng cường
nhiệm vụ quốc phòng an ninh, ba tỉnh đã đầu tư xây dựng mới nhiều tuyến
đường dọc tuyến biên giới trị giá hàng trăm tỷ đồng.
Nhìn chung, hợp tác về công nghiệp, xây dựng cơ bản giữa tỉnh Hà Tĩnh
với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn giai đoạn 1991 - 2010 đã có nhiều chuyển
biến tích cực. Đặc biệt, so với giai đoạn 1991 – 2000, hợp tác trong lĩnh vực
công nghiệp, xây dựng giai đoạn 2001 – 2010 có quy mô ngày càng lớn, nội
dung hợp tác ngày càng phong phú, khai thác có hiệu quả hơn tiềm năng tài
nguyên, lao động, thị trường, thiết thực đóng góp vào quá trình phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội của các tỉnh bạn, nhất là ở các đại bàn vùng sâu vàng xa,
vùng biên giới.
Hợp tác trong lĩnh vực khoa học - công nghệ: Trong giai đoạn 1991 -
2000, hợp tác phát triển khoa học - công nghệ giữa ba tỉnh chưa được quan tâm
đầu tư đúng mức, do tiềm lực về vốn và trình độ khoa học công nghệ của ba
địa phương, nhất là trình độ, khả năng tiếp thu ứng dụng công nghệ phía tỉnh
bạn còn gặp nhiều khó khăn, bất cập. Bước sang giai đoạn 2001 - 2010, hợp tác
về khoa học công nghệ giữa ba tỉnh được quan tâm đúng mức. Tuy đây là lĩnh
119
vực khá mới mẻ, quá trình triển khai thực hiện gặp không ít khó khăn, nhất là
trình độ đội ngũ cán bộ chuyên gia của các tỉnh bạn còn nhiều bất cập, nhưng
với quyết tâm của Đảng bộ, chính quyền ba tỉnh, cùng với sự nỗ lực vượt qua
mọi khó khăn của đội ngũ cán bộ, chuyên gia ngành khoa học công nghệ, môi
trường, các bên đã đã tiến hành khảo sát, nghiên cứu tình hình thực tế, nắm bắt
nhu cầu, khả năng hợp tác và tiến hành thực hiện thành công nhiều dự án, nhất
là trong lĩnh vực nông nghiệp, phát triển nông thôn, miền núi.
Đặc biệt, các dự án với nguồn vốn lớn chuyển giao khoa học - công nghệ
cho Uỷ ban Khoa học - Công nghệ - Môi trường Lào và Ban Khoa học và
Công nghệ tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn được triển khai thực hiện đã
góp phần thiết thực nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho đồng bào các bộ
tộc Lào, đồng thời góp phần quan trọng vào việc nâng cao năng lực nghiên
cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ cho đội ngũ cán bộ, chuyên viên
công tác trong lĩnh vực khoa học, công nghệ các tỉnh bạn. Song song với việc
triển khai thực hiện các dự án, chuyển giao công nghệ, ba tỉnh thường xuyên
tổ chức cho các các cơ quan khoa học, các doanh nghiệp, nhất là đội ngũ cáccán bộ chuyên gia kỹ thuật các ngành, các địa phương qua lại nghiên cứu,
khảo sát, trao đổi kinh nghiệm và ký kết các văn bản hợp tác về khoa học
công nghệ, đào tạo chuyên gia, cung cấp thông tin, nắm bắt nhu cầu tiêu thụsản phẩm sang thị trường Lào theo sự thoả thuận của hai bên.
Hợp tác trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, giáo dục và y tế:
Phát huy truyền thống vốn có lâu đời trong lịch sử, xuất phát từ tình
cảm, nhu cầu giao tiếp và làm giàu thêm sắc thái văn hóa của mỗi dân tộc,
mỗi địa phương, được sự quan tâm chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền, đặc biệt
là sự nỗ lực của ngành văn hóa, các hoạt động hợp tác, giao lưu văn hóa giữa
ba tỉnh tiếp tục được đẩy mạnh. Ngành văn hóa ba tỉnh đã ký kết các văn bản
hợp tác, khuyến khích các cấp, các ngành, các địa phương, nhất là địa bàn
biên giới tăng cường các hoạt động giao lưu văn hóa nghệ thuật, thể dục thểthao, báo chí, nhằm tăng cường hiểu biết lẫn nhau, tăng cường tình đoàn kết
giữa nhân dân ba tỉnh.
120
Có thể nói, các hoạt động giao lưu văn hóa, thể thao giữa nhân dân tỉnh
Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn giai đoạn 1991- 2010, đặc biệt là
giai đoạn 2001- 2010, đã diễn ra sôi nổi, thường xuyên hơn trên tinh thần hữu
nghị, hợp tác và phát triển; thiết thực giúp các tỉnh bạn xây dựng và phát triển
đời sống văn hóa mới, loại bỏ dần những phong tục, tập quán lạc hậu đã tồn
tại bao đời nay, đồng thời thông qua đó, góp phần tăng thêm sự hiểu biết và
tin cậy lẫn nhau, góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội
của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn.
Về giáo dục và đào tạo, tuy còn bộc lộ nhiều khó khăn, hạn chế, chưa
đáp ứng được yêu cầu, mong muốn của các bên, song quan hệ hợp tác trên
lĩnh vực giáo dục đào tạo của ba tỉnh trong giai đoạn 1991 - 2010 đã đạt được
những kết quả đáng phấn khởi, thiết thực góp phần giúp các tỉnh bạn nâng cao
chất lượng giáo dục đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Nếu như trong giai đoạn 1991 - 2000,
tỉnh Hà Tĩnh chủ yếu hợp tác giúp đỡ tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn nâng
cao chất lượng giáo dục bậc học phổ thông, thì bước sang giai đoạn 2001 -
2010, tỉnh Hà Tĩnh còn quan tâm tăng cường giúp tỉnh bạn đào tạo, bồi dưỡng
học viên nhiều ngành, nghề mà tỉnh bạn chưa có khả năng đào tạo, nhất là về
kinh tế, tài chính, y tế, giáo dục, khoa học, công nghệ... Các nội dung hợp tác
khác được tiếp tục được tăng cường và có nhiều chuyển biến về chất so với
giai đoạn 1991 - 2000. Đặc biệt, hàng trăm cán bộ, học viên các tỉnh bạn được
đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ tại Trường Đại học Hà Tĩnh và các
trường Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp sau khi về các địa phương, đơn vị
công tác đã tiếp tục nỗ lực phấn đấu đóng góp thiết thực vào việc thực hiện
nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội. Điều này càng có ý nghĩa khi nguồn nhân
lực trong nhiều lĩnh vực của các tỉnh bạn đang còn nhiều bất cập, cả về số
lượng và chất lượng.
Cũng như các lĩnh vực khác, hợp tác về y tế giữa ba tỉnh trong giai đoạn
1991-2010 có những chuyển biến tích cực, nhất là từ năm 2001- 2010. Do
những khó khăn về điều kiện kinh tế, nguồn nhân lực, trong giai đoạn 1991 -
121
2000, hợp tác trong lĩnh vực y tế giữa tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay,Khămmuộn diễn ra chủ yếu dưới hình thức tỉnh Hà Tĩnh giúp các tỉnh bạn
khám chữa bệnh cho cán bộ, nhân dân các bộ tộc Lào, các lĩnh vực khác chưa
có điều kiện thực hiện, một số thỏa thuận đã ký nhưng không có điều kiện
thực hiện hoặc thực hiện đạt kết quả không như mong muốn của các bên. Tuy
nhiên, bước sang giai đoạn 2000 - 2010, hợp tác trong lĩnh vực y tế giữa tỉnh
Hà Tĩnh với hai tỉnh bạn được thực hiện một cách toàn diện hơn, quy mô hơn,nhất là hợp tác trong đào tạo nguồn nhân lực, việc triển khai các chương trình
dự án phòng chống dịch bệnh, cung cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế... Sự
hợp tác trong lĩnh vực này, nhất là sự giúp đỡ vô tư, đầy tình cảm và trách
nhiệm của Hà Tĩnh đã giảm bớt phần nào những khó khăn của ngành y tế,
nhất là trong lĩnh vực khám chữa bệnh, để lại những tình cảm sâu đậm trong
lòng đồng bào các bộ tộc Lào anh em.
Về hoạt động tình nghĩa: Qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
và đế quốc Mỹ, hàng ngàn cán bộ, chiến sỹ, chuyên gia tình nguyện Việt Nam
và Hà Tĩnh đã anh dũng hy sinh trên các chiến trường Lào. Thực hiện chủtrương của Đảng và Nhà nước, Bộ Chỉ huy Quân sự Hà Tĩnh đã thành lập các
Đội quy tập đặc biệt, thực hiện nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập, cất bốc hài cốt
các liệt sỹ đã hy sinh tại Lào đưa về nước. Từ năm 1999 đến năm 2010, nhờsự nỗ lực của các cán bộ chiến sỹ trong các đội quy tập và sự quan tâm giúp
đỡ của cấp ủy chính quyền và nhân dân các bộ tộc Lào, đặc biệt là tỉnh
Bôlykhămxay, thủ đô Viêng Chăn, tỉnh Viêng Chăn, hơn 500 hài cốt Liệt sỹlà chuyên gia, quân tình nguyện Việt Nam hy sinh tại Lào đã được tìm thấy,
cất bốc và đưa về an táng tại Hà Tĩnh [146].
Trong điều kiện nhân dân dọc tuyến biên giới của bạn gặp khó khăn, tỉnh
Hà Tĩnh đã chỉ đạo các cơ quan chức năng giúp đỡ về hàng hoá, lương thực,
thực phẩm, khám và chữa bệnh, cấp thuốc miễn phí giúp nhân dân bạn trị giá
hàng trăm triệu đồng; chỉ đạo các huyện có chung đường biên giới với các
huyện bạn cử cán bộ, kỹ sư trực tiếp hướng dẫn kỹ thuật canh tác, chăm sócvà hỗ trợ giống, phân bón để xây dựng mô hình sản xuất nông nghiệp, giúp
đỡ những gia đình gặp hoạn nạn, khó khăn.
122
Tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn đã thống nhất chủtrương và tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành, các địa phương, các tổ chức
kinh tế xã hội tổ chức giao lưu, kết nghĩa, phối hợp tổ chức biểu diễn văn
nghệ, thi đấu thể thao; tổ chức tọa đàm, trao đổi kinh nghiệm sản xuất, công
tác, nhằm tăng cường hơn nữa sự hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân tỉnh Hà
Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn.
Hợp tác trong lĩnh vực an ninh - quốc phòng và công tác biên giới:
Qua các nhiệm kỳ đại hội của Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh từ năm 1991 đến
2010 đều nhấn mạnh vị trí, vai trò, tầm quan trọng đặc biệt của nhiệm vụ hợp
tác an ninh, quốc phòng với hai tỉnh bạn và kịp thời đề ra chủ trương, nhiệm
vụ và các giải pháp nhằm tăng cường an ninh quốc phòng, xây dựng nền quốc
phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững mạnh, phù hợp với diễn biến tình
hình quốc tế, khu vực, tình hình trong nước và tỉnh Bôlykhămxay,Khămmuộn trong từng thời kỳ.
Các bên tăng cường phối hợp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh biên
giới, ngăn chặn các hoạt động tội phạm, vượt biên trái phép, buôn lậu qua
biên giới, nhất là buôn lậu ma túy; tiêu diệt tận gốc các ổ phỉ, các băng nhóm
chống đối có vũ trang; giải quyết một cách thỏa đáng những vấn đề phát sinh.
Lực lượng vũ trang ba tỉnh thường xuyên tổ chức các buổi giao ban định kỳ,
báo cáo tình hình phối hợp thực hiện các biện pháp bảo vệ an ninh quốc
phòng và biên giới quốc gia, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân
qua lại buôn bán, trao đổi hàng hoá, giao lưu, thăm hỏi lẫn nhau…Các lực lượng Biên phòng, Công an, phối hợp với chính quyền và nhân
dân vùng biên giới tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn đã tiến
hành rà soát các địa bàn, mục tiêu, tuyến, lĩnh vực, đối tượng trọng điểm.
Trên cơ sở đó, lực lượng ba bên đã xây dựng và triển khai các phương án, kế
hoạch, chủ động phối hợp chặt chẽ với nhau trong việc phát hiện, phòng ngừa
và đấu tranh kịp thời, trấn áp có hiệu quả những hành động xâm nhập, phá
hoại của các thế lực thù địch, làm thất bại âm mưu bạo loạn của bọn phỉ và
bọn phản động lưu vong, ngăn chặn các hoạt động tội phạm, vượt biên trái
123
phép, buôn lậu qua biên giới, nhất là buôn lậu ma túy; tiêu diệt tận gốc các ổphỉ, các băng nhóm chống đối có vũ trang [46], giữ vững an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội, đập tan âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch.
Sự phối hợp chặt chẽ, kịp thời, đồng bộ và hợp đồng tác chiến nhịpnhàng, hiệu quả giữa các lực lượng vũ trang của mỗi địa phương, đặc biệt là
giữa tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn đã tạo nên sức mạnh
đảm bảo sự ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội trên toàn tuyến biên
giới, góp phần quan trọng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ quốc phòng an
ninh, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững mạnh;
tạo điều kiện thuận lợi để ba tỉnh hợp tác phát triển kinh tế, văn hóa xã hội,
góp phần quan trọng cho việc ổn định và phát triển của hai nước Việt - Lào.
Các cấp ủy Đảng, chính quyền, các ngành liên quan, đặc biệt là lực
lượng Quân sự, Biên phòng, Công an tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay,Khămmuộn đã tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục, giúp nhân dân
nâng cao nhận thức, thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật Nhà nước, đặc biệt là tích cực tham gia nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc
gia; bảo vệ, tu bổ, giữ nguyên hiện trạng và quản lý bảo vệ tốt hệ thống mốc
quốc giới đảm bảo quy định của Hiệp định Quy chế biên giới; phát huy vai
trò, sức mạnh to lớn của nhân nhằm xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân,
an ninh nhân dân và biên phòng toàn dân vững mạnh; củng cố và xây dựng hệ
thống phòng thủ vững chắc đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Là lĩnh vực hợp tác có ý nghĩa chiến lược giữa tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh
Bôlykhămxay, Khămmuộn, được sự quan tâm sâu sắc của Đảng bộ, chính
quyền, đặc biệt là sự nỗ lực của cán bộ chiến sỹ các lực lượng vũ trang, công
tác an ninh - quốc phòng trong giai đoạn 1991- 2010 luôn được cấp ủy,
chính quyền các cấp, các ngành tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay,
Khămmuộn đặc biệt quan tâm và đã thu được những kết quả đáng phấn
khởi, góp phần làm phong phú, sinh động thêm mối quan hệ đặc biệt, sự hợp
tác toàn diện giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân hai nước Việt Nam - Lào
anh em trong thời kỳ mới. Sự phối hợp chặt chẽ, kịp thời, đồng bộ và hợp
124
đồng tác chiến nhịp nhàng, hiệu quả giữa các lực lượng vũ trang tỉnh Hà
Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn đã tạo nên sức mạnh đảm bảo sự ổn
định chính trị và trật tự an toàn xã hội trên toàn tuyến biên giới, góp phần
quan trọng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ quốc phòng an ninh, xây
dựng thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững mạnh của ba
tỉnh. Kết quả của việc hợp tác về vấn đề an ninh biên giới giữa ba tỉnh đã
góp phần bảo vệ biên giới của Việt Nam ở phía Tây và biên giới của Lào ởphía Đông, góp phần tăng thêm tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân hai
nước. Những thành tựu này đã góp phần vun đắp thêm mối quan hệ hữu
nghị truyền thống đặc biệt giữa hai nước Việt - Lào nói chung và tỉnh Hà
Tĩnh với các tỉnh bạn Lào nói riêng [41, tr 148].
Hợp tác về chính trị, ngoại giao và giao lưu hữu nghị nhân dân:
Từ năm 1991 đến năm 2010, các bên đã duy trì và tăng cường các
chuyến thăm hữu nghị và tiến hành các cuộc hội đàm cấp cao giữa lãnh đạo
ba tỉnh theo định kỳ và thỏa thuận giữa các bên. Tỉnh Hà Tĩnh đã cử hàng
chục Đoàn Đại biểu cấp cao sang thăm chính thức và làm việc tại tỉnh
Bôlykhămxay và Khămmuộn. Tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn cũng đã cử
hàng chục Đoàn Đại biểu cấp cao sang thăm chính thức và làm việc tại tỉnh
Hà Tĩnh. Các bên đã thông báo cho nhau tình hình thực hiện nhiệm vụ chính
trị kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng của mỗi tỉnh; những thuận lợi, khó
khăn, thời cơ và thách thức đang đặt ra; những nội dung trọng tâm trong chiến
lược phát triển kinh tế xã hội, công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị.Trên cơ sở đó, hai bên cùng tiến hành thảo luận, chia sẻ những bài học kinh
nghiệm trong công tác lãnh đạo của Đảng, điều hành của Nhà nước, hoạt
động của các đoàn thể, các tổ chức kinh tế xã hội; bàn các biện pháp cụ thểnhằm nâng cao hiệu quả hợp tác trên các lĩnh vực, nhất là hợp tác về kinh tế,
đầu tư, thương mại và hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Nhân các chuyến thăm và làm việc, Đoàn đại biểu cấp cao tỉnh Hà Tĩnh và
tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn đã dành thời gian đi thăm các mô hình, điển
hình tiên tiến trên các lĩnh vực tại các địa phương; các doanh nghiệp thuộc
125
các thành phần kinh tế sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Đây là thực tiễn sinh
động để lãnh đạo các bên tổng kết, đánh giá, trên cơ sở đó, nghiên cứu, bổ
sung và xây dựng chủ trương, đường lối phát triển kinh tế - xã hội phù hợp
với điều kiện cụ thể của mỗi dịa phương.Ngoài tổ chức các chuyến thăm và làm việc chính thức của các Đoàn đại
biểu cấp cao, quán triệt chủ chủ trương của Tỉnh ủy, Ban cán Đảng HĐND,
UBND tỉnh kịp thời chỉ đạo các cơ quan chức năng xây dựng chương trình,
kế hoạch công tác đồng thời trực tiếp sang thăm và làm việc với tỉnh bạn phối
hợp triển khai thực hiện. Đây là những việc làm cụ thể thiết thực nhằm thực
hiện có hiệu quả các nội dung thỏa thuận giữa lãnh đạo cấp cao tỉnh Hà Tĩnhvà tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn, kịp thời giải quyết những vấn đề phát sinh
đột xuất trong từng thời kỳ. Đặc biệt, lãnh đạo tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh
Bôlykhămxay, Khămmuộn đã kịp thời sang thăm, chia sẻ và tặng quà cho
đồng bào những vùng xảy ra lũ lụt thiên tai, để lại những tình cảm sâu đậm
trong lòng các tầng lớp nhân dân [145].
Về phía các tỉnh bạn, ngoài các chuyến thăm hữu nghị chính thức và ký
kết các thỏa thuận hợp tác của lãnh đạo cấp cao, hằng năm, các tỉnh bạn đã
cử nhiều Đoàn đại biểu đại diện cấp ủy, chính quyền, các ngành, đoàn thể,
các địa phương trong tỉnh sang làm việc nhằm phối hợp giải quyết những
vấn đề phát sinh trong quan hệ hợp tác giữa các bên và tham quan học hỏi
kinh nghiệm.
Từ năm 1991 - 2010, lãnh đạo cấp cao tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh
Bôlykhămxay, Khămmuộn đã ký kết hơn 20 văn bản thỏa thuận hợp tác. Đây
là cơ sở pháp lý để các cấp ủy Đảng, chính quyền, các ngành, đoàn thể, các tổ
chức kinh tế xã hội liên quan từ tỉnh đến cơ sở, căn cứ chức năng nhiệm vụcủa mình, tiến hành xây dựng chương trình, kế hoạch triển khai thực hiện.
Các ban ngành, các hoạt động giao lưu hữu nghị nhân dân thường xuyên
được tổ chức ngày càng phong phú đa dạng. Đây là những hoạt động hết sức
có ý nghĩa, thắt chặt thêm tình đoàn kết, gắn bó keo sơn, đáp ứng nguyện
vọng của các tầng lớp nhân dân ba tỉnh.
126
Hàng năm, Hội hữu nghị Việt - Lào ba tỉnh đã tổ chức các đoàn sangthăm, giao lưu hữu nghị, trao đổi tình hình về công tác Hội tại tỉnh
Bôlykhămxay. Hội hữu nghị Việt - Lào tỉnh đã tham mưu cho UBND tỉnh và
các ngành liên quan tổ chức Hội thảo thu thập thông tin để hội viên nguyên là
các chuyên gia, quân tình nguyện chia sẻ thông tin, góp phần giúp tỉnh bạn
biên soạn lịch sử; phối hợp với Liên hiệp các tổ chức hữu nghị tỉnh Hà Tĩnhtổ chức đoàn đi cho những cán bộ, chiến sỹ nguyên là chuyên gia, quân tình
nguyện sang thăm cơ sở cũ, chiến trường xưa; Hội hữu nghị Việt - Lào và các
chi hội đã tổ chức đón Tết Té nước cho kiều bào và cán bộ, học viên Lào
đang học tập và sinh sống trên địa bàn Hà Tĩnh [90]. Sở Ngoại vụ phối hợp
với Hội Việt - Lào tham mưu cho Tỉnh uỷ, UBND tỉnh và phối hợp với các
đơn vị liên quan tổ chức nhiều hoạt động thiết thực. Phát huy truyền thống
đoàn kết keo sơn giữa nhân dân tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay,Khămmuộn, đặc biệt là các địa phương hai bên tuyến biên giới, trong những
năm qua, các hoạt động kết nghĩa giữa các ngành, các địa phương, giao lưu,hữu nghị nhân dân đã được tổ chức ngày càng phong phú đa dạng. Nhiều xã,
thôn, bản, đồn biên phòng, cơ quan, đơn vị thuộc các huyện biên giới đã tổchức kết nghĩa và ký kết giao ước thi đua thường xuyên qua lại, thăm hỏi lẫn
nhau, tổ chức các hoạt động giao lưu, phối hợp giữ gìn bảo vệ đường biên
giới hòa bình, hữu nghị, giải quyết những vấn đề phát sinh liên quan đến công
tác biên giới [37].
Thông qua các chuyến thăm và làm việc, ngoài việc giúp các bên đẩy
mạnh việc thực hiện các thỏa thuận hợp tác, qua trao đổi, nắm bắt tình hình
thực tế tại các địa phương đơn vị nơi đến thăm, đã giúp đội ngũ lãnh đạo,
chuyên viên các ngành, các lĩnh vực đúc rút những kinh nghiệm và bài học quý
báu trong công tác lãnh đạo, quản lý điều hành, nhất là đối với các bạn Lào.
3.1.2.2. Một số hạn chế, bất cập trong quá trình thực hiện- Kết quả hợp tác kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu và
mong muốn của Đảng bộ và nhân dân ba tỉnh. Một số nội dung hợp tác tuy
đã được thống nhất ký kết nhưng hoặc là chậm được triển khai, hoặc là chưađược triển khai.
127
Trong giai đoạn 1991 - 2010, hợp tác kinh tế đã được Đảng bộ, chính
quyền tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn từng bước xác định là
nhiệm vụ trọng tâm. Tinh thần và nội dung hợp tác kinh tế luôn được nhấn
mạnh và thể hiện khá đầy đủ, kịp thời, phù hợp với tình hình cụ thể qua các
kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh, các NQ chuyên đề và nhất là trong văn bản thỏa
thuận tại các cuộc gặp giữa lãnh đạo cấp cao tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh
Bôlykhămxay, Khămmuộn. Trong quá trình tổ chức thực hiện chủ trương đó,cấp ủy, chính quyền, các ngành, các địa phương liên quan đã có nhiều cố
gắng khắc phục khó khăn và đã đạt được những thành quả quan trọng, thiết
thực góp phần vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của ba tỉnh
trong từng thời kỳ. Tuy nhiên, kết quả việc thực hiện nội dung đã ký kết trong
lĩnh vực hợp tác kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của mỗi tỉnh
và yêu cầu, mong muốn của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh
Bôlykhămxay, Khămmuộn. Một số nội dung hợp tác tuy đã được thống nhất
ký kết, thậm chí được đưa vào văn bản thỏa thuận hợp tác nhiều lần nhưng
chậm được triển khai, hoặc là chưa được triển khai.
- Chất lượng nguồn nhân lực để thực hiện các chương trình dự án, nhất
là đội ngũ cán bộ, chuyên gia lành nghề trên các lĩnh vực của ba tỉnh, đặc
biệt là phía tỉnh bạn còn yếu và thiếu, ảnh hưởng lớn đến việc triển khai thực
hiện, cũng như quá trình tiếp nhận, chuyển giao công nghệ, kỹ thuật một sốchương trình, dự án.
Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản ảnh hưởng lớn đến tiến độ,
chất lượng, hiệu quả và việc nhân diện rộng các mô hình trên các lĩnh vực
hợp tác, nhất là trong nông nghiệp, lâm nghiệp, khoa học công nghệ.
Đối với các doanh nghiệp, trong quá trình thực hiện các dự án, do phía
tỉnh bạn thiếu hụt cán bộ, công nhân kỹ thuật và lao động có tay nghề nên
phải tuyển chọn và đưa lao động từ Việt Nam sang, nên chi phí đầu vào cũng
như giá thành sản phẩm tăng cao, ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng hóa
sản xuất tại Lào so với hàng hóa sản xuất ở nước khác, nhất là hàng hóa nhập
khẩu từ Thái Lan, Trung Quốc và các nước trong khối ASEAN. Điều này đã
128
và đang gây ra nhiều khó khăn, trở ngại cho các doanh nghiệp khi triển khai
các dự án hợp tác đầu tư tại các tỉnh bạn Lào.
- Trình độ, năng lực, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, chuyên gia trong
lĩnh vực đối ngoại nói chung và kinh tế đối ngoại nói riêng còn nhiều bất cập,
chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu trong lĩnh vực đối ngoại của các
ngành, các địa phương phần lớn chưa được bồi dưỡng, đào tạo nghiệp vụchuyên ngành, thiếu kinh nghiệm trong công tác đối ngoại, trình độ ngoại ngữ
còn nhiều bất cập (nhất là phía Hà Tĩnh); lúng túng trong nắm bắt, xử lý các
tình huống cụ thể phát sinh trong quá trình thực hiện nhiệm vụ; công tác tham
mưu còn nhiều bất cập. Đặc biệt, trong quá trình thực hiện các nội dung hợp
tác trên một số lĩnh vực, việc phối hợp trao đổi thông tin, nắm chắc tình hình,
trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp, tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn…của các bên chưa được quan tâm đúng mức, thiếu kịp thời và thường xuyên.
- Việc tìm hiểu, điều tra nắm chắc tình hình, nhất là khả năng, yêu cầu
về nguồn nhân lực, cơ sở vật chất, nguồn vốn, điều kiện tự nhiên, kinh tế xã
hội khác… nhằm đảm bảo tính khả thi của các nội dung, chương trình hợp
tác chưa được quan tâm đúng mức trước khi ký kết các thỏa thuận hợp tác.
Đây cũng chính là nguyên nhân dẫn tới việc trong quá trình tổ chức thực
hiện gặp không ít khó khăn, ảnh hưởng đến tiến độ, chất lượng, hiệu quả việc
thực hiện các thỏa thuận hợp tác, thậm chí có những nội dung thiếu tính khả
thi, không đảm bảo điều kiện để tổ chức thực hiện.
Bên cạnh đó, việc phân tích, dự báo tình hình còn bộc lộ nhiều hạn chế,
ảnh hưởng không nhỏ đến việc hoạch định chủ trương cũng như trong việc
thực thi các nội dung hợp tác cụ thể trong từng thời kỳ.
- Việc huy động các nguồn lực nhất là nguồn vốn để thực hiện các
chương trình, dự án trên các lĩnh vực, nhất là kinh tế, thương mại, dịch vụcòn gặp nhiều khó khăn; Công tác quảng bá, giới thiệu tiềm năng cơ hội đầu
tư nhằm thu hút các doanh nghiệp, các nhà đầu tư ba tỉnh đầu tư vốn, liên kết
sản xuất kinh doanh chưa được quan tâm đúng mức.
129
Việc huy động các nguồn lực nhằm đảm bảo thực thi các nội dung hợp
tác, nhất là nguồn vốn là yêu cầu cấp bách trong từng thời kỳ. Tuy nhiên, tỉnh
Hà Tĩnh đang còn là một tỉnh nghèo trong khu vực Bắc Trung bộ, điều kiện
kinh tế còn gặp rất nhiều khó khăn, nên việc cân đối ngân sách, bố trí kinh phí
thực hiện các nội dung hợp tác, nhất là những chương trình, dự án đòi hỏi
nguồn vốn lớn đang là một thách thức trong quá trình thực thi các thỏa thuận
hợp tác. Một số thỏa thuận hợp tác tuy đã được ký kết nhưng việc bố trí
nguồn vốn hằng năm còn gặp nhiều khó khăn nên hoặc triển khai chậm, thiếu
đồng bộ, không đảm bảo tiến độ, hoặc chưa được triển khai. ...
- Những bất cập trong quan hệ thương mại, giữa hai nước, giữa các địaphương: cơ chế thanh toán, thu phí quá cảnh qua cửa khẩu, thủ tục xuất nhập
cảnh, xuất nhập khẩu còn rườm rà, chậm được giải quyết, ảnh hưởng đến hoạt
động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp; quá trình xúc tiến thương mại,
đầu tư xây dựng các trung tâm buôn bán, trưng bày giới thiệu hàng hóa, quảng
bá tiềm năng, cơ hội đầu tư… ở tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay,
Khămmuộn chưa được quan tâm đúng mức. Ngoài ra, tuy đã có những ưu tiênưu đãi hợp lý trong lĩnh vực xuất nhập khẩu hàng hóa giữa hai nước và ba tỉnh
nhưng nhìn chung, cơ chế, chính sách chưa thoả đáng để khuyến khích đầu tư,
thương mại... Thủ tục qua lại cho người, phương tiện, vật tư, hàng hoá, quácảnh qua biên giới còn rườm rà. Kiểm soát hải quan liên quan đến đấu tranh
chống buôn lậu, gian lận thương mại, buôn bán ma tuý còn bộc nhiều bất cập.
Đặc biệt, tình trạng buôn lậu qua các cửa khẩu và các đường tiểu ngạch diễn ra
khá phức tạp, thủ đoạn của các đối tượng tham gia ngày càng tinh vi; điều kiện
địa hình khu vực biên giới lại hiểm trở, thuận lợi cho việc vận chuyển trái phép
hàng hóa qua biên giới… đang là thách thức lớn đối với các cơ quan chức năngcủa tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn.
- Trong việc thực hiện các hợp đồng, thỏa thuận giữa các bên liên quan,
nhất là thực thi các điều khoản về huy động vốn, thanh quyết toán các khoản
nợ, về cung cấp nguyên vật liệu, nhân lực, dịch vụ… chưa được thực hiện đầy
đủ, kịp thời.
130
Mặc dầu hợp tác kinh tế trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, nhưngcác bên luôn dành cho nhau những ưu tiên ưu đãi hợp lý, nhất là phía tỉnh Hà
Tĩnh. Cho nên, trong quá trình hợp tác, các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế
tỉnh Hà Tĩnh khi tiến hành đầu tư, sản xuất kinh doanh trên địa bàn các tỉnh
bạn luôn dành cho đối tác những điều kiện thuận lợi, cơ chế hợp tác thông
thoáng. Tuy nhiên, một số doanh nghiệp, tập thể và cá nhân phía tỉnh bạn đã
lạm dụng những ưu đãi, ưu tiên, gây không ít khó khăn cho phía tỉnh Hà Tĩnhtrong việc huy động vốn, thanh quyết toán các khoản nợ, cung cấp nguyên vật
liệu, nhân lực… Đây là nguyên nhân khiến không ít các nhà đầu tư ngày càng
thiếu mặn mà trong quá trình hợp tác, hoặc ngừng, hoặc thu hẹp quy mô sản
xuất kinh doanh. Điều này đã và đang gây ảnh hưởng lớn đến chất lượng, hiệu
quả việc thực hiện các thỏa thuận hợp tác trong lĩnh vực kinh tế thương mại,
đầu tư giữa tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn.
- Công tác quản lý, nâng cao năng lực vận hành, tiếp nhận các chươngtrình, dự án, các mô hình còn nhiều bất cập.
Đối với một số chương trình dự án và các nguồn đầu tư viện trợ không
hoàn lại từ ngân sách dành cho tỉnh bạn, do một số nguyên nhân chủ quan và
khách quan khác nhau, đặc biệt là buông lỏng trong khâu quản lý, thiếu năng
lực trong khâu tiếp nhận, vận hành đưa vào sử dụng nên hiệu quả kinh tế chưacao, nhanh chóng bị xuống cấp, gây thất thoát, lãng phí. Một số chương trình
đầu tư, mô hình trong lĩnh vực nông lâm nghiệp, khoa học công nghệ chậm
được nhân diện rộng nên hiệu quả phát triển bền vững không đạt mục tiêu và
mong muốn của các bên. Đặc biệt, mục tiêu nâng cao năng lực cho đội ngũ
cán bộ, chuyên gia cũng như các tập thể cá nhân, kể cả nông dân các tỉnh bạn
khi được thụ hưởng những chính sách đầu tư, viện trợ ưu đãi… đã và đang làvấn đề nan giải, cần kịp thời tổng kết rút ra những bài học kinh nghiệm, làm
cơ sở để tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách hợp tác, đề ra các giải pháp cụ
thể, hữu hiệu để nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác trong thời gian tới.
- Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện hợp tác có nơi, có lúc việc
quán triệt, thực thi các nội dung đã ký kết chưa nghiêm, thiếu kịp thời, đồng
131
bộ, chồng chéo; phân công phân nhiệm thiếu cụ thể, tính đồng thuận chưacao; công tác kiểm tra, sơ kết, tổng kết chưa được chú trọng; còn có biểu hiện
đùn đẩy trách nhiệm lẫn nhau giữa các cơ quan liên quan, giữa những cán bộ
thừa hành công vụ, giữa các địa phương trên cùng một địa bàn, giữa các địabàn và kể cả giữa các ngành, các địa phương tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh
Bôlykhămxay, Khămmuộn… làm giảm hiệu quả hợp tác trên các lĩnh vực.
- Công tác tuyên truyền giáo dục, thông tin đối ngoại, công tác đối ngoại
nhân dân còn nhiều bất cập, chưa được quan tâm đầu tư đúng mức.
Công tác tuyên truyền giáo dục, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng
viên và nhân dân về truyền thống đoàn kết, tình hữu nghị đặc biệt và hợp
tác toàn diện giữa hai nước, giữa các địa phương; về tiềm năng cơ hội hợp
tác đầu tư; về yêu cầu, nhiệm vụ, quyền và bổn phận của mỗi tập thể, cá
nhân; về vị trí và tầm quan trọng đặc biệt của nhiệm vụ tiếp tục tăng cường
tình đoàn kết, hợp tác giữa Đảng bộ, nhân dân tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh
Bôlykhămxay, Khămmuộn trong thời kỳ mới… chưa được quan tâm đúng
mức, thiếu thường xuyên. Hợp tác trong lĩnh vực văn hóa thiếu chiều sâu,
cơ hội và điều kiện để nhân dân ba tỉnh hiểu biết, thụ hưởng những giá trị
văn hóa vật thể và phi vật thể, tìm hiểu, tiếp thu những nét đẹp truyền
thống văn hóa; tôn vinh bảo tồn những giá trị, bản sắc văn hóa tiến bộ, đấu
tranh loại trừ những thủ tục lạc hậu…chưa được chú trọng. Công tác đối
ngoại nhân dân còn bộc lộ nhiều bất cập, thiếu sự chỉ đạo thường xuyên; số
lượng đoàn ra, đoàn vào chưa nhiều, số người tham gia còn hạn hẹp, chủyếu tập trung vào cán bộ, công chức, những người đã và đang thi hành
công vụ; đầu tư kinh phí còn ít; nội dung, hình thức tổ chức chậm được đổi
mới, nặng về tham quan, tìm hiểu mô hình, chưa coi trọng giao lưu nângcao hiểu biết về lịch sử, văn hóa truyền thống, thông qua đó, tạo cơ hội và
điều kiện cho các tầng lớp nhân dân ba tỉnh gắn bó, hiểu biết lẫn nhau.
Công tác thông tin đối ngoại, đặc biệt là việc phát huy vai trò nhiệm vụ của
các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là phát thanh truyền hình còn
nhiều bất cập, chưa được đầu tư đúng mức.
132
3.1.3. Một số đặc điểm chủ yếu về mối quan hệ giữa tỉnh Hà Tĩnh với
tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn
Nhìn lại quá trình hoạch định chủ trương và triển khai tổ chức thực
hiện nhiệm vụ hữu nghị, hợp tác của Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh
Bôlykhămxay, Khămmuộn giai đoạn 1991 - 2010 có thể rút ra một số đặc
điểm chủ yếu như sau:
- Mối quan hệ giữa tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn
mang những đặc trưng chung của quan hệ đặc biệt, trong sáng, mẫu mực
hiếm có và ngày càng được củng cố, phát triển giữa hai nước, hai dân tộc
Việt Nam - Lào. Trong tổng thể mối quan hệ đặc biệt giữa hai Đảng, Nhà
nước và nhân dân hai nước Việt Nam - Lào, quan hệ hợp tác giữa tỉnh Hà
Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn là một bộ phận cấu thành rất quan
trọng. Sự phát triển không ngừng của quan hệ hữu nghị đặc biệt hợp tác toàn
diện Việt Nam - Lào là nhân tố cực kỳ quan trọng, bảo đảm vững chắc cho
mối quan hệ hợp tác lâu dài giữa các địa phương hai nước, nhất là các tỉnh có
chung đường biên giới. Trên cơ sở mối quan hệ đặc biệt giữa hai nước, quan
hệ hữu nghị hợp tác toàn diện giữa các tỉnh có chung đường biên giới giữa
hai nước ngày càng được củng cố và không ngừng phát triển, góp phần làm
phong phú, sâu đậm thêm tình đoàn kết, hữu nghị hiếm có giữa hai dân tộc và
nhân dân hai nước.
- Quan hệ hợp tác giữa tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn
là sự cụ thể hóa chủ trương, đường lối, quan điểm, đồng thời bổ sung, phát
triển và góp phần làm phong phú thêm quan hệ đặc biệt giữa hai Đảng,
Chính phủ và nhân dân hai nước. Quán triệt đường lối đối ngoại của Đảng và
Nhà nước, thấm nhuần tư tưởng “giúp nhân dân nước bạn tức là tự giúp
mình” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh luôn xác định việc
tiếp tục tăng cường tình đoàn kết hữu nghị và hợp tác toàn diện với các tỉnh
bạn Lào cùng chung biên giới là nguyên tắc và là yêu cầu, nhiệm vụ có ý
nghĩa chiến lược; coi đây là nghĩa vụ quốc tế cao cả, đồng thời thể hiện tình
cảm cách mạng thủy chung, trong sáng mà Đảng và nhân dân các tỉnh dành
133
cho nhau. Tình cảm đó là sự kế tục truyền thống đoàn kết được khởi nguồn từnghìn xưa và đã được tiếp nối và thể hiện sinh động trong lịch sử gần một thế
kỷ đấu tranh trường kỳ chống giặc ngoại xâm và dựng xây đất nước của nhân
dân hai nước nói chung và nhân dân tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay,Khămmuộn nói riêng, như khẳng định của cố Tổng Bí thư Đảng NDCM Lào
Cayxỏn Phômvihản:
Suốt trong quá trình lịch sử, hai đảng anh em chúng ta luôn kề vai
sát cánh với nhau. Sự giúp đỡ của Việt Nam hết sức tận tình và vô
tư. Các đồng chí đã giúp chúng tôi kinh nghiệm, vật chất và cảxương máu. Máu của Việt Nam đã nhuộm đỏ khắp nơi trên đất
nước Lào, vì nền độc lập tự do của Lào [4, tr.246].
Phát huy những nhân tố đảm bảo cho mối quan hệ hữu nghị hợp tác giữa
các tỉnh cùng chung bên giới, trong những thập niên qua, tình hữu nghị và sựhợp tác toàn diện giữa Đảng bộ và nhân dân tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh
Bôlykhămxay, Khămmuộn ngày càng được tăng cường, đạt nhiều thành tựu
quan trọng trên các lĩnh vực. Những thành tựu này đã góp phần vun đắp thêm
mối quan hệ hữu nghị truyền thống đặc biệt giữa hai nước Việt Nam - Lào.
- Do có những điểm tương đồng về điều kiện tự nhiên, kinh tế, truyền
thống văn hóa, lịch sử, do đó quan hệ hợp tác giữa tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh
Bôlykhămxay, Khămmuộn có những điểm khá “tương đồng” so với quan hệhợp tác giữa một số tỉnh khu vực Bắc Trung bộ của Việt Nam với một số tỉnh
của nước bạn Lào cùng chung biên giới.
Tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn, tỉnh Thanh Hóa với
tỉnh Hủa Phăn, tỉnh Nghệ An với tỉnh Xiêng Khoảng, tỉnh Quảng Bình với
tỉnh Khămmuộn, tỉnh Quảng Trị với tỉnh Xavẳnnakhệt đều là những tỉnh gần
gũi nhau về địa lý và có những điểm tương đồng về lịch sử, văn hóa truyền
thống, điều kiện kinh tế - xã hội. Đó là cơ sở, cội nguồn sâu xa và bền vững
để Đảng bộ, nhân dân các tỉnh có chung đường biên giữa hai nước tiếp tục
chung sức chung lòng, đoàn kết bên nhau tiếp tục giữ vững những thành quảđã đạt được và tiếp tục ra sức phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ cách mạng trong
từng thời kỳ.
134
Trong bối cảnh tình hình quốc tế, khu vực đã và đang có những diễn biến
phức tạp, tạo ra nhiều thời cơ, vận hội mới nhưng cũng đang đặt ra không ít
khó khăn, thách thức đối với mỗi nước; quan hệ hữu nghị hợp tác hai nước
đang đi vào chiều sâu; cùng với yêu cầu đặt ra trong chiến lược phát triển kinh
tế xã hội của mỗi tỉnh, nhiệm vụ tăng cường quan hệ hợp tác truyền thống giữa
các tỉnh cùng chung biên giới đang đặt ra hết sức cấp thiết, không chỉ chỉ vì
mục tiêu tăng trưởng kinh tế, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội
của mỗi địa phương, mà còn góp phần quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi
các thỏa thuận chiến lược giữa Đảng, Chính phủ hai nước Việt Nam - Lào.
Trên tinh thần đó, trong những thập niên qua Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh và
một số tỉnh trong khu vực Bắc Trung bộ như: Thanh Hóa, Quảng Bình, Quảng
Trị... đã kịp thời hoạch định chủ tương và từng bước đề ra phương hướng,
nhiệm vụ và các giải pháp cụ thể, phù hợp trong thời kỳ, đồng thời tăng cường
lãnh đạo Nhà nước, các ngành, đoàn thể, các tổ chức kinh tế xã hội và các địa
phương, cơ sở triển khai tổ chức thực hiện, biến những chủ trương, nhiệm vụ
đó thành hiện thực sinh động, đưa quan hệ hợp tác giữa một số tỉnh khu vực
Bắc Trung bộ của Việt Nam với một số tỉnh của nước bạn Lào cùng chung
biên giới ngày càng phát triển cả chiều rộng và chiều sâu. Đặc biệt, các bên
luôn giành cho nhau những ưu tiên, ưu đãi hợp lý, sự giúp đỡ chân thành, vô
tư, đầy nghĩa tình anh em. Trong bối cảnh hai nước Việt Nam và Lào tiếp tục
thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hợp tác và phát triển, đa phương
hóa và đa dạng hóa quan hệ đối ngoại; tích cực và chủ động hội nhập kinh tếquốc tế; đặc biệt là việc thực hiện Hiệp ước Hữu nghị và hợp tác, các nội dung
hợp tác mang tính chiến lược Việt Nam - Lào đang đi vào chiều sâu, nhiệm vụ
xây dựng mối quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện giữa giữa các tỉnh Bắc
Trung bộ của Việt Nam với một số tỉnh của nước bạn Lào cùng chung biên
giới ngày càng được chú trọng đẩy mạnh và tăng cường.
Nhìn lại quá trình xây dựng chủ trương và tổ chức chức thực hiện nhiệm
vụ hợp tác với tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn của Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh,
những thành tựu đạt được, những khó khăn, bất cập... đang đặt ra trong quá
135
trình hợp tác; từ những đặc điểm nổi bật trong quan hệ hợp tác như đã đề cập
trên đây, so với quan hệ hợp tác giữa một số tỉnh khu vực Bắc Trung Bộ của
Việt Nam với một số tỉnh của nước bạn Lào cùng chung biên giới, như tỉnh
Thanh Hóa với tỉnh Hủa Phăn, tỉnh Nghệ An với tỉnh Xiêng Khoảng, tỉnh
Quảng Bình với tỉnh Khămmuộn, tỉnh Quảng Trị với tỉnh Xavẳnnakhệt chúng
ta có thể nhận thấy những điểm tương đồng.
- Bên cạnh những điểm tương đồng, quan hệ hợp tác giữa tỉnh Hà Tĩnhvới tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn có những nét đặc thù so với quan hệ hợp
tác giữa một số tỉnh khác trong khu vực Bắc Trung bộ với các tỉnh bạn Lào
cùng chung biên giới, đó là:Trên tuyến biên giới giữa tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay,
Khămmuộn thường ít xảy ra những vụ việc liên quan đến xâm canh, xâm cư,việc kết hôn trái quy định giữa cư dân hai nước và một số vấn đề liên quan
đến an ninh biên giới.
Cùng chung dãy Trường Sơn, nên cư dân Việt Nam và Lào trên tuyến
biên giới ít nhiều chịu sự tác động qua lại của những biến động cư dân trongtiến trình lịch sử. Tuy nhiên, điểm khác biệt trong cơ cấu dân cư trên tuyến
biên giới giữa tỉnh Hà Tĩnh với các tỉnh bạn Lào so với cơ cấu dân cư trên
tuyến biên giới các tỉnh khác, đó là: Trên tuyến biên giới giáp các tỉnh bạn
Lào, về phía nội biên, số đồng bào các dân tộc thiểu số có số lượng ít (gồm
328 hộ với 1.506 nhân khẩu) lại sống tập trung và xen ghép trên địa bàn
không rộng (7 thôn, bản thuộc 3 huyện: Hương Khê, Hương Sơn, Vũ Quang).Từ đặc điểm này, cùng với những nỗ lực của Đảng bộ, chính quyền và các lực
lượng vũ trang ba tỉnh trong công tác biên giới nên tình trạng xâm canh, xâm
cư, vượt biên trái phép, việc kết hôn trái quy định giữa cư dân Việt Nam với
cư dân Lào và ngược lại (chủ yếu diễn ra tại các địa bàn có đông đồng bào
dân tộc ít người) trên tuyến biên giới tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay,
Khămmuộn ít phức tạp hơn so với địa bàn biên giới các địa phương khác,nhất là so với địa bàn biên giới tỉnh Nghệ An - Xiêng Khoảng, tỉnh Thanh
Hóa - Hủa Phăn.
136
Cụm cảng Vũng Áng được xây dựng với hệ thống các cảng tổng hợp và
cảng chuyên dùng, phục vụ đắc lực sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, đồng
thời giúp nước bạn Lào “thông ra biển”; xuất, nhập khẩu hàng hoá, mở rộng
buôn bán với các nước. Đây là dự án quan trọng được lãnh đạo cấp cao hai
nước ưu tiên tập trung chỉ đạo, góp phần phát triển kinh tế khu vực Bắc miền
Trung, phục vụ hàng hóa quá cảnh của Lào và phục vụ hành lang phát triển
kinh tế Đông - Tây [94]. Đặc biệt, Vũng Áng là nơi đầu tiên được Chính phủhai nước chọn xây dựng cảng chuyên dụng phục vụ việc xuất nhập khẩu hàng
hóa cho nước bạn Lào. Theo đó, Công ty Cổ phần cảng Vũng Áng Việt - Lào
được thành lập và đi vào hoạt động. Việc thực hiện dự án này, đặc biệt là việc
thành lập Công ty Cổ phần cảng Vũng Áng Việt chắc chắn sẽ tạo động lực
mới, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác giữa tỉnh Hà Tĩnh với
tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn trong thời gian tới.
3.2. KINH NGHIỆM CHỦ YẾU
Nghiên cứu quá trình lãnh đạo xây dựng quan hệ hợp tác với tỉnh
Bôlykhămxay, Khămmuộn của Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh từ năm 1991 - 2010, có
thể rút ra một số kinh nghiệm chủ yếu sau đây:
3.2.1. Tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thứccho cán bộ đảng viên và các tầng lớp nhân dân về quan hệ đặc biệt giữaViệt Nam - Lào và các địa phương hai nước, trong đó có tỉnh Hà Tĩnh vàtỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn
Công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng
viên và nhân dân hiểu rõ được vị trí, tầm quan trọng của việc tăng cường xây
dựng quan hệ hữu nghị hợp tác đặc biệt giữa tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh
Bôlykhămxay, Khămmuộn; coi đây là yêu cầu khách quan và là nhân tố quyết
định đảm bảo cho việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng của hai nước
và của ba tỉnh. Việc thực hiện thắng lợi các thỏa thuận hợp tác vừa góp phần
giúp các tỉnh bạn Lào hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế, xã hội, an
ninh, quốc phòng, vừa góp phần giúp Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh “tự giúp mình”hoàn thành việc thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng
trong từng thời kỳ.
137
Lịch sử đã ghi lại những trang sử vàng về tình đoàn kết gắn bó keo sơngiữa Đảng, Nhà nước, quân và dân hai nước, giữa các địa phương cùng chung
biên giới trong cuộc đấu tranh trường kỳ chống giặc ngoại xâm và dựng xây
đất nước. Đồng chí Cayxỏn Phômvihản đã khẳng định:
Trong lịch sử thế giới đã có nhiều tấm gương sáng chói về tinh thần
quốc tế vô sản, nhưng chưa bao giờ và chưa ở đâu có sự đoàn kết
liên minh chiến đấu đặc biệt lâu dài và toàn diện như vậy. Hơn bamươi năm đã qua, mà vẫn trong sáng như xưa... Đó là một thực tế
khách quan, một quy luật của sự phát triển của cách mạng hai nước.
[49, tr.121]
Thực tiễn thật hào hùng và rất đỗi tự hào về tình hữu nghị đặc biệt giữa
hai dân tộc, giữa tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn là nền tảng,
là cội nguồn sâu xa và là nhân tố khách quan, bền vững để nhân dân hai nước,
ba tỉnh tiếp tục chung sức chung lòng, đoàn kết bên nhau tiếp tục giữ vững
những thành quả đã đạt được và tiếp tục phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ cách
mạng trong giai đoạn mới.
Quá khứ hào hùng và thực tiễn sinh động trong quan hệ hữu nghị hai
nước, ba tỉnh cần phải được tuyên truyền, ngợi ca để cán bộ, đảng viên và các
tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ thanh, thiếu niên hiểu, nhận thức ngày càng
sâu sắc và điều quan trọng hơn là biến nhận thức đó thành hành động cụ thể
để cùng chung sức chung lòng phấn đấu tiếp tục tô thắm thêm trang sử mới về
tình đoàn kết hữu nghị đặc biệt hiếm có giữa Đảng, nhân dân hai nước và
nhân dân tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn trong thời kỳ mới.
Thực tế, do nhiều nguyên nhân khác nhau, công tác tuyên truyền giáo
dục trong lĩnh vực này thời gian qua chưa được quan tâm đúng mức. Nội
dung, phương thức tuyên truyền, nhân lực, phương tiện và các điều kiện đảm
bảo phục vụ công tác tuyên truyền giáo dục còn nhiều bất cập, chưa được
quan tâm đúng mức. Các ấn phẩm, nhất là sách, báo, tạp chí, tư liệu phục vụcông tác học tập, nghiên cứu, còn thiếu, chưa đến được với đông đảo quần
chúng nhân dân. Hợp tác trong lĩnh vực này, nhất là phát thanh, truyền hình
138
giữa tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn còn nhiều hạn chế,
chưa kịp thời, thường xuyên, toàn diện; còn nặng về sự vụ, thiếu chiều sâu.
Do đó, nhận thức của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên và nhân dân
về lịch sử, truyền thống vẻ vang của hai dân tộc, ba tỉnh; về thực trạng tình
hình, vị trí, vai trò, yêu cầu nhiệm vụ tăng cường tình hữu nghị đặc biệt Việt -
Lào nói chung và Hà Tĩnh - Bôlykhăm xay, Khămmuộn nói riêng còn nhiều
bất cập, thiếu sâu sắc, phiến diện.
Thực tế quan hệ hữu nghị hợp tác toàn diện giữa tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh
Bôlykhămxay, Khămmuộn đang đặt ra nhiều vấn đề cần có sự quan tâm đúng
mức, nhiều việc cần phải làm, nhiều khó khăn trở ngại phải vượt qua, thiết
nghĩ, chăm lo công tác tuyên truyền giáo dục nhằm nâng cao nhận thức, tạo
sự đồng thuận, đồng sức, đồng lòng trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân
và cả hệ thống chính trị, nhất là thế hệ trẻ, học sinh, sinh viên... qua đó, đểkhơi dậy, phát huy sức mạnh các cấp các ngành và toàn xã hội cùng chung
sức, đồng lòng viết tiếp những trang sử mới về tình đoàn kết, thủy chung và
hợp tác ngày càng hiệu quả với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn và nước bạn
Lào anh em là việc làm có ý nghĩa hết sức to lớn và sâu sắc. Điều đó càng có
vị trí vai trò đặc biệt trong bối cảnh các thế lực thù địch đã và đang dùng
nhiều âm mưu thâm độc ra sức chống phá, chia rẽ hai dân tộc. Trong công tác
tuyên truyền, cần chú trọng mục tiêu giúp mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân
thực sự thấm nhuần tư tưởng “giúp nhân dân nước bạn tức là tự giúp mình”
[72; tr.401] theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh; là thực hiện nghĩa vụquốc tế vô sản, là nguyên tắc chiến lược, như khẳng định của Tổng Bí thư
ĐCS Việt Nam Nông Đức Mạnh và Tổng Bí thư, Chủ tịch nước CHDCND
Lào Chummaly Xaynhaxỏn, trong cuộc hội đàm ngày 23/4/2009 tại Hà Nội,
“là quy luật phát triển và là nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc của mỗi nước” [21]; đồng thời là tình cảm cách mạng của
Đảng và nhân dân Việt Nam. Trong quan hệ hợp tác, trước hết, tăng cường
giúp bạn một cách toàn diện cả về kinh tế, chính trị, quốc phòng an ninh, giáo
dục y tế, khoa học công nghệ... để tạo ra sức mạnh tổng hợp giữa hai nước,
139
hai dân tộc trên con đường đi lên theo định hướng XHCN. Trên cơ sở đó,chuyển dần từ việc giúp đỡ trực tiếp sang hợp tác hai bên cùng có lợi, để bạn
chủ động sử dụng được tiềm năng về tài nguyên và nhân lực sẵn có, phát huy
nội lực trong xây dựng đất nước; giúp bạn nhưng “cán bộ Việt Nam tuyệt đối
tránh bao biện” [125, tr.28, 128], để bạn “tự làm lấy được”, như lời căn dặn
của Chủ Tịch Hồ Chí Minh.
3.2.2. Nâng cao năng lực, hiệu quả điều hành của Nhà nước, sự phốihợp giữa các ngành, đoàn thể, các tổ chức kinh tế xã hội từ tỉnh đến cơ sởtrong quá trình thực hiện các thỏa thuận hợp tác
Sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng là nhân tố quyết định đảm bảo
thắng lợi nhiệm vụ cách mạng qua các thời kỳ lịch sử. Những thành tựu quan
trọng trong quan hệ hợp tác giữa tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay,
Khămmuộn trong những thập niên qua gắn liền với sự nỗ lực của các cấp ủy
Đảng từ tỉnh đến cơ sở trong việc hoạch định chủ trương, đường lối và lãnh
đạo, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị tổ chức thực hiện nhiệm vụ
hợp tác trên các lĩnh vực trong từng thời kỳ. Thực tế cho thấy, ở đâu, lúc nàosự lãnh đạo của Đảng được tăng cường thì nhiệm vụ hợp tác giữa tỉnh Hà
Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn đạt hiệu quả cao, ngược lại, ở đâu,
lúc nào Đảng buông lỏng công tác lãnh đạo thì trên thực tế, việc thực hiện các
thỏa thuận hợp tác hoặc triển khai chậm, hoặc hiệu quả thấp, thậm chí không
được triển khai.
Từ thực tế nêu trên, để thực hiện thắng lợi chủ tương tăng cường hợp tác
toàn diện giữa tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn trong thời kỳ
mới, đòi hỏi các cấp ủy Đảng phải đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ
đạo, nhất là tăng cường lãnh đạo phát huy vai trò điều hành của nhà nước và
sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, động viên các tầng lớp nhân dân nỗ
lực phấn đấu đóng góp sức mình vào việc tăng cường xây dựng, vun đắp tình
hữu nghị và đoàn kết đặc biệt giữa Đảng bộ và nhân dân tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh
Bôlykhămxay, Khămmuộn.
140
Đường lối của Đảng đã rõ, nhưng vấn đề có ý nghĩa quyết định là khâu
tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối đó trong thực tiễn. Để đảm bảo thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ hợp tác giữa tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay,
Khămmuộn, đòi hỏi sự quản lý, chỉ đạo, điều hành kịp thời, đồng bộ và có
hiệu quả của chính quyền các cấp, các ngành liên quan trong tỉnh và sự phối
hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan chức năng các địa phương trong quá trình
thực hiện các thỏa thuận hợp tác.
Thực tế cho thấy, tuy đã có nhiều cố gắng và tạo được bước chuyển biến
đáng phấn khởi nhưng nhìn chung, công tác điều hành của các cấp, các
ngành, các cơ quan hữu quan trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ được
giao thuộc lĩnh vực mà mình phụ trách còn nhiều lúng túng, thiếu kịp thời,
đồng bộ; công tác phối hợp giữa các cơ quan liên quan chưa được quan tâm
đúng mức; có lúc có nơi còn buông lỏng, hiệu quả thấp; còn có biểu hiện né
tránh, đùn đẩy trách nhiệm; thiếu sự quản lý thống nhất chặt chẽ và sự phối
hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể và doanh nghiệp.
Việc rút ra những bài học kinh nghiệm, khắc phục những hạn chế, yếu kém
trên đây đồng thời với việc kịp thời đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác điều hành, chỉ đạo của các cấp các ngành, các cơ
quan liên quan từ tỉnh đến cơ sở là nhân tố quan trọng, đảm bảo thực hiện có
hiệu quả các chương trình, dự án hợp tác trên các lĩnh vực giữa ba tỉnh trong
những năm tiếp theo.
Theo đó, sau khi thống nhất chủ trương, ký kết các thỏa thuận tại các
chuyến thăm thường niên, cần kịp thời thông báo kết quả, nhất là những nội
dung hợp tác, đồng thời chính quyền cần xây dựng chương trình, nội dung, kế
hoạch, đề án cụ thể để chỉ đạo các cấp, các ngành liên quan tổ chức triển khai
thực hiện. Các ngành, các địa phương, các tập thể cá nhân liên quan, theo chức
năng nhiệm vụ và thẩm quyền được giao, căn cứ nội dung, yêu cầu hợp tác
được giao trong từng thời kỳ cần kịp thời triển khai thực hiện. Những bất cập,
khó khăn, vướng mắc làm ảnh hưởng đến hiệu quả, chất lượng, tiến độ thực
hiện các nhiệm vụ được giao, cần được nghiên cứu và đề xuất các cấp có thẩm
141
quyền giải quyết kịp thời, nhằm đảm bảo thông suốt trong quá trình thực hiện,
khắc phục tình trạng trì trệ, khơi thông các "điểm nghẽn" trong quá trình thực
thi nhiệm vụ của các tập thể, cá nhân liên quan tại các địa phương, đơn vị.
Cần tăng cường trao đổi thông tin giữa các địa phương, các ngành liênquan nhằm tăng cường phối hợp để giải quyết kịp thời những vấn đề mới,
những phát sinh, vướng mắc trong quá trình thực hiện các nội dung hợp tác,
tránh tình trạng đùn đẩy cho nhau, thậm chí để những vướng mắc đó tồn tại lâu
dài không được giải quyết, làm chậm, thậm chí không thể triển khai thực hiện
được nhiệm vụ được giao theo yêu cầu về chất lượng, hiệu quả và tiến độ.
3.2.3. Chú trọng công tác kiểm tra, nắm chắc tình hình, kịp thời tổngkết thực tiễn, bổ sung chủ trương giải pháp kịp thời trong từng thời kỳ
Nhiệm vụ tăng cường công tác kiểm tra việc tổ chức thực hiện nhằm bổ
sung, hoàn thiện chủ trương, nghị quyết, nội dung hợp tác, giải pháp tổ chức
thực hiện, cơ chế chính sách hợp tác giữa ba tỉnh phù hợp trong từng thời kỳ,
nhất là trong lĩnh vực kinh tế thương mại, nhằm giải quyết, tháo gỡ kịp thời
những khó khăn vướng mắc trong quá trình chỉ đạo thực hiện là yêu cầu cấp
bách đặt ra đối với các cấp ủy Đảng, chính quyền và các ngành liên quan.
Thực tế cho thấy, một số chủ trương, nội dung hợp tác đã được đề ra
nhưng thiếu tính khả thi vì thiếu nguồn lực, nhất là vốn để thực hiện. Nguyên
nhân chủ yếu dẫn đến tình hình này là do thiếu điều tra, nắm chắc tình hình,
công tác dự báo kém, duy ý chí trong quá trình xây dựng chủ trương, kế
hoạch hợp tác. Một số chủ trương, kế hoạch khi tiến hành tổ chức thực hiện
lại gặp nhiều vướng mắc, nhất là do cơ chế chính sách hợp tác, đầu tư ban
hành thiếu kịp thời, đồng bộ; thủ tục hành chính còn rườm rà.
Trong quá trình thực hiện các nội dung hợp tác, nhất là các chương trình,
dự án đầu tư dưới hình thức viện trợ, không hoàn lại, cần quan tâm nắm thông
tin về phía các tỉnh bạn, nhất là nhu cầu; điều kiện về nguồn nhân lực; khả
năng tiếp nhận (vốn, công trình, công nghệ...); dự báo những thuận lợi khó
khăn khi triển khai thực hiện; những yêu cầu của bạn... Việc nắm chắc những
thông tin trên và khi cần thiết có thể đưa ra những cảnh báo cho các bên liên
142
quan trước khi triển khai sẽ góp phần đảm bảo hiệu quả bền vững của các
chương trình, dự án đầu tư.
Tình hình trên đặt ra yêu cầu đối với các cấp ủy Đảng, chính quyền, các
ngành cần tăng cường hơn nữa việc nắm chắc tình hình, nhất là những vấn đềmới phát sinh trong từng thời kỳ, trên cơ sở đó, tùy chức năng, nhiệm vụ,
thẩm quyền được phân công, thống nhất các giải pháp giải quyết kịp thời
những khó khăn, vướng mắc, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn cuộc sống. Các
cơ quan liên quan của tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn cần
thường xuyên, định kỳ có những đánh giá chính xác, ghi nhận những kết quả
đạt được, thẳng thắn đưa ra những vấn đề còn tồn tại, thiếu sót trong quan hệhợp tác để có những giải pháp thực tế hơn. Các bên cần thực sự cầu thị, khách
quan mới có thể lựa chọn được những giải pháp sát hợp. Đây là điều rất quan
trọng trong tiến trình đổi mới, nâng cao chất lượng trong quan hệ hợp tác giữa
tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn. Nếu kịp thời và kiên trì
thực hiện tốt những vấn đề đặt ra nêu trên, chắc chắn các chủ trương, nhiệm
vụ về hợp tác giữa tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn sẽ được
thực hiện kịp thời, mang lại hiệu quả cao hơn.
3.2.4. Chủ động bố trí các nguồn lực, nhất là vốn đảm bảo tính khả thicác chương tình nội dung hợp tác trong từng thời kỳ; chú trọng việc đảmbảo tính bền vững trong các chương trình, dự án hợp tác đầu tư
Nhìn lại quá trình thực hiện các thỏa thuận hợp tác đã ký kết, một số nội
dung hoặc thiếu tính khả thi, hoặc triển khai không đảm bảo tiến độ, chất
lượng hiệu quả chưa cao; có nội dung hợp tác được thể hiện nhiều lần trong
các văn ban thỏa thuận nhưng vẫn không được triển khai thực hiện. Có nhiều
nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau, nhưng nguyên nhân cơ bản,
ảnh hưởng trực tiếp đến thực trạng trên đây là do việc cân đối, bố trí các
nguồn lực để thực hiện, nhất là vốn, thiếu kịp thời, đồng bộ; có nơi, có lúc
không có vốn để triển khai thực hiện.
Vấn đề đặt ra là, việc cân đối, bố trí nguồn lực, nhất là vốn phải được
xem xét hết sức kỹ lưỡng và phải được đặt trong chiến lược phát triển kinh tế
143
xã hội cũng như kế hoạch phân bổ ngân sách hằng năm của tỉnh và các địaphương, đơn vị. Muốn vậy, cần phải nghiên cứu, xây dựng chiến lược hợp
tác, trên cơ sở đó, xây dựng chương trình, kế hoạch trong từng thời kỳ, từng
giai đoạn cụ thể. Theo đó, việc xây dựng nội dung hợp tác cùng với việc đảm
bảo nguồn lực, nhất là vốn để thực hiện phải được tính toán, xem xét hết sức
công phu trước, trong hoặc ngay sau khi tiến hành hội đàm và ký kết các văn
bản thỏa thuận cấp cao giữa tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn.
Đối với các tỉnh bạn, trong điều kiện kinh tế xã hội còn gặp nhiều khó
khăn, thiếu thốn, trong quá trình hợp tác, việc giúp đỡ bạn thông qua viện trợ,
giúp đỡ trực tiếp hoặc có cơ chế ưu tiên ưu đãi hợp lý trong hợp tác đầu tư sản
xuất kinh doanh là việc làm hết sức có ý nghĩa. Điều này thể hiện tình đoàn
kết hữu nghị đặc biệt hiếm có giữa nhân dân hai nước, giữa tỉnh Hà Tĩnh với
tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn trong quá khứ, hiện tại cũng như trong tươnglai. Trong quá trình hợp tác cần chú trọng mục tiêu củng cố tăng cường quan
hệ đặc biệt giữa hai nước, ba tỉnh; loại bỏ những ảnh hưởng tiêu cực từ cơ chế
thị trường; đặt lợi ích lâu dài trong quan hệ đặc biệt lên trên lợi ích trước mắt
và lợi ích kinh tế đơn thuần; giảm thiểu đến mức tối đa những lãng phí trong
sử dụng ngân sách nhà nước dành cho hợp tác đầu tư. Tuy nhiên, song song
với việc giúp đỡ, viện trợ trực tiếp, một chiều bằng nguồn ngân sách, cần hết
sức chú trọng hợp tác song phương trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi
trong đầu tư, sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế.
Trong quá trình thực hiện các chương trình dự án trên địa bàn các tỉnh
bạn, cần coi trọng việc giúp đỡ bạn nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất
là đội ngũ cán bộ chuyên gia thuộc các lĩnh vực đã và đang hợp tác. Mặt
khác, đối với những nội dung, phần việc thuộc trách nhiệm về phía các tỉnh
bạn, cần kịp thời thông tin, bàn bạc một cách thẳng thắn để giải quyết kịp
thời, tránh nể nang, xuôi chiều... ảnh hưởng không tốt đến hiệu quả thực thi
các nội dung hợp tác.
Đây là nhân tố quan trọng đảm bảo cho việc vận hành, bảo quản, sử
dụng có hiệu quả các công trình dự án sau khi đã hoàn thành và tiến hành bàn
144
giao cũng như đảm bảo cho quá trình chuyển giao công nghệ, nhân rộng các
mô hình được thực hiện theo đúng mục tiêu đã đề ra, đảm bảo tính bền vững
của các chương trình dự án hợp tác đầu tư. Đối với các chương trình, dự án
hợp tác đầu tư phát triển, cần đặt ra yêu cầu đào tạo cán bộ, công nhân kỹthuật trước và trong quá trình triển khai; từng bước chuyển giao chức năng
quản lý dự án để cho phía bạn đảm bảo khả năng tiếp nhận dự án sau khi rút
cán bộ, chuyên gia.
3.2.5. Chú trọng công tác bồi dưỡng, nâng cao năng lực, nghiệp vụcho đội ngũ cán bộ, chuyên gia trong lĩnh vực đối ngoại; nâng cao chấtlượng hiệu quả hoạt động của cơ quan chuyên trách công tác đối ngoại
Thực trạng đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác đối ngoại cũng như cán
bộ làm công tác tham mưu của các ngành, các cấp còn bộc lộ nhiều hạn chế
về năng lực, nghiệp vụ và trình độ ngoại ngữ. Trong quá trình thi hành công
vụ, tính chủ động, sáng tạo, nhanh nhạy trong việc nắm bắt tình hình và xử lý
thông tin của một bộ phận cán bộ chưa cao; khả năng tổng hợp, phân tích,
đánh giá tình hình còn chậm, chưa toàn diện và sâu sắc; công tác tham mưuthiếu kịp thời, chất lượng thấp; còn bộc lộ nhiều hạn chế trong giao tiếp, ứng
xử, lễ tân ngoại giao. Những bất cập trên đây của đội ngũ cán bộ đã ảnh
hưởng rất lớn đến chất lượng hiệu quả hoạt động của cơ quan chuyên tráchcông tác đối ngoại cũng như các cơ quan làm công tác tham mưu trên các lĩnh
vực của các cấp, các ngành, các địa phương.
Điều đó đặt ra yêu cầu cần tăng cường hơn nữa việc tuyển dụng, đào tạo,
bố trí đội ngũ cán bộ làm công tác ngoại vụ có đủ phẩm chất và năng lực cùng
với việc đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả của cơ quan làm công tác đối
ngoại. Theo đó, cơ quan làm công tác đối ngoại cần phát huy hơn nữa vai trò là
cơ quan tham mưu đắc lực cho cấp ủy, chính quyền và là cầu nối, phối hợp
chặt chẽ với các ngành, các địa phương trong việc tham mưu xây dựng chủ
trương và tổ chức thực hiện nhiệm vụ công tác đối ngoại. Đặc biệt, cần đẩy
mạnh hoạt động ngoại giao phục vụ kinh tế của các cơ quan tham gia hoạt
động đối ngoại; thực sự coi nhiệm vụ ngoại giao phục vụ xây dựng và phát
145
triển kinh tế là một nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn hiện nay. Đối sách
ngoại giao của chúng ta trong thời kỳ mới cần hết sức uyển chuyển, vừa giữ
nguyên tắc vừa linh hoạt, tranh thủ các đối tượng khác nhau vì lợi ích của sự
nghiệp phát triển đất nước, không ngừng tăng cường quan hệ nhiều mặt, đặc
biệt là các quan hệ kinh tế, chính trị. Do đó, cần mạnh dạn đổi mới tư duy,
nâng cao tầm trí tuệ, phong cách, lề lối làm việc của các tập thể cá nhân làm
công tác ngoại vụ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ ngày càng cao trong trong thời
kỳ mới, phù hợp với xu thế mở cửa, hội nhập khu vực và quốc tế của đất nước.
3.2.6. Tăng cường phối hợp và hỗ trợ lẫn nhau giữa các hoạt độngchính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại, chú trọng công tác ngoại giao phụcvụ kinh tế
Trong những năm qua, thực hiện đường lối đổi mới, đa phương hóa, đa
dạng hóa quan hệ quốc tế của Đảng và Nhà nước ta, trong quá trình hợp tác
với các tỉnh bạn, tỉnh Hà Tĩnh đã từng bước đẩy mạnh hoạt động chính trị đối
ngoại đồng thời với hoạt động kinh tế đối ngoại, kết hợp hai loại hình này với
nhau nhằm thực hiện các mục tiêu chính trị, kinh tế xã hội, an ninh quốc
phòng. Những hoạt động chính trị đối ngoại được đẩy mạnh góp phần củng cố
và tăng cường quan hệ hợp tác, mở đường và tạo điều kiện thuận lợi để phát
triển quan hệ hợp tác trên các lĩnh vực, đặc biệt là kinh tế. Sự phối hợp giữa
các hoạt động chính trị đối ngoại với các hoạt động kinh tế đối ngoại của các
ngành, các cấp trong thời gian qua, trong đó, đáng chú ý là những nỗ lực thúc
đẩy các hoạt động ngoại giao phục vụ kinh tế với nhiều hình thức khá phong
phú và ngày càng mang lại hiệu quả thiết thực, đã góp phần tích cực vào
những thành tựu trong quan hệ hợp tác giữa tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh
Bôlykhămxay, Khămmuộn trong những thập niên qua.
Tuy nhiên, bên cạnh những tiến bộ đáng khích lệ đã đạt được, công tác
phối hợp giữa chính trị đối ngoại với kinh tế đối ngoại của chúng ta còn bộc
lộ những hạn chế, thể hiện chủ yếu ở việc chưa gắn kết thường xuyên và chặt
chẽ hai loại hình hoạt động này với nhau, chưa chú ý thích đáng việc nâng
cao hiệu quả hoạt động chính trị đối ngoại phục vụ mục tiêu kinh tế và chưa
146
đáp ứng kịp thời những đòi hỏi ngày càng cao của thực tiễn hoạt động kinh tếđối ngoại. Tuy đã đạt được những thành tựu đáng phấn khởi nhưng quan hệ
về hợp tác kinh tế, khoa học - kỹ thuật, giáo dục đào tạo giữa tỉnh Hà Tĩnh và
tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn còn nhiều bất cập, vướng mắc cần tháo gỡ,
chưa thật tương xứng với quan hệ chính trị. Điều này có thể ảnh hưởng trực
tiếp đến quan hệ hữu nghị hợp tác đặc biệt giữa ba tỉnh nói riêng và hai nước
Việt - Lào nói chung, nhất là trong tình hình hiện nay, khi các bên đang chịusự tác động sâu sắc của quá trình hội nhập kinh tế khu vực, thế giới và nhất là
đang phải đối phó với âm mưu phá hoại, chia rẽ của các thế lực thù địch.
Trong thực tế, các hoạt động chính trị đối ngoại có vai trò định hướng, mởđường, tạo dựng môi trường, điều kiện thuận lợi và các khuôn khổ pháp lý cần
thiết cho việc phát triển các mối quan hệ, nhất là về quan hệ kinh tế giữa ba
tỉnh; hỗ trợ đắc lực các quá trình đàm phán, trao đổi, ký kết các dự án, các hợp
đồng kinh tế - thương mại giữa ba tỉnh, nhất là đối với các doanh nghiệp. Như
vậy, sự phối hợp đồng bộ, kịp thời giữa hoạt động chính trị đối ngoại và kinh tế
đối ngoại vừa mở rộng, củng cố và phát triển quan hệ chính trị, vừa tăngcường, nâng cao hiệu quả quan hệ kinh tế, phục vụ đắc lực sự nghiệp phát triển
kinh tế xã hội và đảm bảo an ninh quốc phòng. Điều này đặt ra yêu cầu khách
quan cần nhìn nhận đúng thực tế, nhằm đưa quan hệ kinh tế lên ngang tầm và
tương xứng với quan hệ chính trị; bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ và tăng
cường sự bổ trợ lẫn nhau giữa chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại cũng như
giữa các hoạt động cụ thể trong hai lĩnh vực. Các hoạt động chính trị đối ngoại
do các cơ quan của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể ở các cấp khác nhau tiến
hành cần bảo đảm sự hài hòa giữa mục tiêu chính trị và mục tiêu kinh tế và
hướng vào mục tiêu phục vụ kinh tế, trước hết là góp phần mở rộng và tăngxuất khẩu hàng hóa, dịch vụ, lao động, thu hút đầu tư, hợp tác sản xuất kinh
doanh; giảm bớt những hoạt động mang tính xã giao hình thức, không đưa lại
lợi ích thiết thực. Đây là nhiệm vụ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng của Đảng bộ,
chính quyền tỉnh Hà Tĩnh trong quá trình thực hiện nhiệm vụ tăng cường hợp
tác toàn diện với các tỉnh bạn trong thời gian tới.
147
KẾT LUẬN
1. Hà Tĩnh và Bôlykhămxay, Khămmuộn là ba tỉnh gần gũi nhau về địa
lý và có những điểm tương đồng về lịch sử, văn hóa truyền thống, điều kiện
kinh tế - xã hội. Trên cơ sở mối quan hệ đặc biệt giữa hai nước, mối quan hệ
hữu nghị hợp tác toàn diện giữa tỉnh Hà tĩnh và Bôlykhămxay, Khămmuộn
ngày càng được củng cố và không ngừng phát triển. Quan hệ giữa tỉnh Hà
Tĩnh với tỉnh tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn được thể hiện sinh động trong
lịch sử gần một thế kỷ đấu tranh trường kỳ chống giặc ngoại xâm và dựng xây
đất nước của nhân dân hai nước nói chung và nhân dân tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh
Bôlykhămxay, Khămmuộn nói riêng. Đó là nền tảng, là cội nguồn sâu xa và
là nhân tố khách quan, bền vững để Đảng bộ, nhân dân tỉnh Hà Tĩnh tiếp tục
chung sức chung lòng, đoàn kết với nhân dân tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn
nhằm giữ vững những thành quả đã đạt được và tiếp tục ra sức phấn đấu hoàn
thành nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới.
2. Quán triệt đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước, thấm nhuần tư
tưởng “giúp nhân dân nước bạn tức là tự giúp mình” của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh luôn xác định việc tiếp tục tăng cường tình đoàn
kết hữu nghị và hợp tác toàn diện với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn là
nguyên tắc và là yêu cầu, nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược; coi đây là nghĩa vụ
quốc tế cao cả, đồng thời thể hiện tình cảm cách mạng thủy chung, trong sáng
mà Đảng và nhân dân tỉnh Hà Tĩnh dành cho tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn.
Trong bối cảnh tình hình quốc tế, khu vực có những diễn biến phức tạp,
tạo ra nhiều thời cơ, vận hội mới nhưng đặt ra không ít khó khăn, thách thức
đối với mỗi nước; quan hệ hữu nghị hợp tác hai nước đang đi vào chiều sâu;
cùng với yêu cầu đặt ra trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của mỗi
tỉnh, nhiệm vụ tăng cường mối quan hệ hợp tác truyền thống giữa tỉnh Hà
Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn đang đặt ra hết sức cấp thiết, không
chỉ chỉ vì mục tiêu tăng trưởng kinh tế, giữ vững an ninh chính trị của mỗi địa
148
phương, mà còn góp phần quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi các thỏa
thuận chiến lược giữa hai nước.
Trên tinh thần đó, ngay sau khi tái lập tỉnh, Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh khóa
XIII và các khóa XIV, XV, XVI, XVII giai đoạn 1991 - 2010 đã kịp thời
hoạch định chủ tương và từng bước đề ra phương hướng, nhiệm vụ và các
giải pháp cụ thể trong thời kỳ, đồng thời tăng cường lãnh đạo Nhà nước, các
ngành, đoàn thể, các tổ chức kinh tế xã hội và các địa phương, cơ sở triển
khai tổ chức thực hiện, biến những chủ trương, nhiệm vụ đó thành hiện thực
sinh động, đưa quan hệ hợp tác giữa tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay,
Khămmuộn ngày càng phát triển cả chiều rộng và chiều sâu.
3. Thực tiễn Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh lãnh đạo xây dựng, phát triển quan hệ
hữu nghị, hợp tác với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn từ năm 1991 đến năm
2010 cho thấy: Quan hệ hợp tác giữa tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay,
Khămmuộn giai đoạn 1991 - 2000 có nhiều chuyển biến trên các lĩnh vực: từ
quan hệ hợp tác chủ yếu về chính trị, an ninh quốc phòng, các lĩnh vực khác
quy mô còn nhỏ lẻ, rời rạc, hiệu quả kinh tế thấp trong những thập niên 70,
80, từng bước chuyển sang quan hệ hợp tác toàn diện trên tất cả các lĩnh vực.
Trong đó, hợp tác kinh tế, chính trị ngày càng có vị trí quan trọng. Cùng với
hợp tác kinh tế, các lĩnh vực hợp tác khác cũng không ngừng phát triển và
bước đầu mang lại những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, kết quả hợp tác
mà các bên mang lại chưa cao. Đặc biệt, trong lĩnh vực kinh tế, tuy đã được
hai nước Việt Nam, Lào và tỉnh Hà Tĩnh, Bôlykhămxay, Khămmuộn xác định
là lĩnh vực hợp tác trọng tâm, nhưng trong thực tế, hợp tác trong lĩnh vực này
hiệu quả còn thấp, chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu phát triển kinh tế
và mong muốn của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay,
Khămmuộn.
Quan hệ hữu nghị hợp tác giữa tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay,
Khămmuộn giai đoạn 2001 - 2010: nội dung, phương thức hợp tác có những
chuyển biến mạnh mẽ so với những thập niên trước đây: từ quan hệ hợp tác
149
chủ yếu về chính trị, an ninh quốc phòng, chuyển sang quan hệ hợp tác toàn
diện trên tất cả các lĩnh vực. Bên cạnh hợp tác trong lĩnh vực chính trị, an
ninh quốc phòng được xác định là cơ sở và nền tảng, nhiệm vụ hợp tác trên
lĩnh vực kinh tế, thương mại thực sự được xem là lĩnh vực trọng tâm, tạo
động lực cho quan hệ hợp tác trên các lĩnh vực khác phát triển lên một bước
mới. Bên cạnh đó, hợp tác về văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học công nghệ
được quan tâm đúng mức và thu được những kết quả đáng phấn khởi; các
hoạt động xã hội, giao lưu hữu nghị nhân dân đã được tăng cường với nội
dung và hình thức phong phú, đa dạng, thiết thực vun đắp tình đoàn kết và
hữu nghị đặc biệt giữa Đảng bộ và nhân dân tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh
Bôlykhămxay, Khămmuộn. Từ quan hệ mang tính chất tương trợ, một chiều,
từng bước chuyển sang quan hệ đối tác kinh tế hai chiều, liên kết sản xuất,
kinh doanh bình đẳng, cùng có lợi, vận hành theo cơ chế thị trường, phù hợp
với cơ chế mở cửa, xu thế hội nhập và đường lối, chính sách đối ngoại của hai
Đảng, hai Nhà nước. Tuy nhiên, trên cơ sở tuân thủ những nguyên tắc, pháp
lý, các bên luôn giành cho nhau những ưu tiên, ưu đãi hợp lý, sự giúp đỡ chân
thành, vô tư, đầy nghĩa tình anh em, đáp ứng nguyện vọng của Đảng bộ và
nhân dân ba tỉnh. Do vậy, giai đoạn này quan hệ hữu nghị hợp tác giữa tỉnh
Hà Tĩnh với hai tỉnh bạn đạt được những kết quả khá toàn diện trên các lĩnh
vực và ngày càng đi vào chiều sâu.
4. Trong quá trình thực hiện các chương trình, nội dung hợp tác, tuy còn
bộc lộ không ít khó khăn, hạn chế do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách
quan khác nhau, đặc biệt là tiềm lực kinh tế ba tỉnh còn nghèo, cơ chế, chính
sách, môi trường đầu tư còn nhiều bất cập; hiện còn nhiều vấn đề đang đặt ra
ảnh hưởng lớn đến chất lượng, hiệu quả hợp tác, đầu tư cần kịp thời có biện
pháp tháo gỡ… song những kết quả đạt được trong giai đoạn này đã góp phần
quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị, kinh tế xã hội, an
ninh quốc phòng của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh
Bôlykhămxay, Khămmuộn. Thành tựu và những bài học kinh nghiệm rút ra
150
trong quá trình hợp tác trong giai đoạn này sẽ tạo cơ sở, tiền đề quan trọng và
là nguồn cổ vũ động viên lớn giúp Đảng bộ và nhân dân ba tỉnh tiếp tục phấn
đấu vươn lên giành những thành tựu to lớn hơn nữa trong quá trình hợp tác
trong thời gian tới, góp phần vun đắp thêm tình đoàn kết hữu nghị truyền
thống đặc biệt, sự hợp tác toàn diện giữa hai nước Việt - Lào.
151
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
CỦA TÁC GIẢ LUẬN ÁN
1. Nguyễn Trọng Tứ (2006), Phát huy tinh thần bình đẳng, đoàn kết và tươngtrợ giữa các dân tộc là vấn đề chiến lược của cách mạng Việt Nam. Nội san
Nghiên cứu- Trao đổi- Thông tin, Trường Chính trị Trần Phú Hà Tĩnh, Số 6.
2. Nguyễn Trọng Tứ (2009), Tình đoàn kết chiến đấu của quân dân tỉnh Hà
Tĩnh và Bôlykhăm xay trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đếquốc Mỹ. Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế Các sự kiện lịch sử Trung Lào trong quan
hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam và Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng NDCM Lào.
3. Nguyễn Trọng Tứ (2009), Quan hệ hữu nghị hợp tác giữa tỉnh Hà Tĩnh và
Bôlykhăm xay (2001-2007). Tạp chí Lịch sử Đảng, Viện Lịch sử Đảng, Học
viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Số 6.
4. Nguyễn Trọng Tứ (2009), Liên minh đoàn kết chiến đấu của quân dân Hà
Tĩnh- Bôlykhăm xay (Lào) trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và
đế quốc Mỹ. Nội san Nghiên cứu- Trao đổi- Thông tin, Trường Chính trịTrần Phú Hà Tĩnh, Số 14.
5. Nguyễn Trọng Tứ (2009), Quan hệ hữu nghị hợp tác Hà Tĩnh- Bôlykhămxay(Lào) giai đoạn 1991- 2007. Nội san Nghiên cứu- Trao đổi- Thông tin,
Trường Chính trị Trần Phú Hà Tĩnh, Số 14.
6. Nguyễn Trọng Tứ (2009), Những bài học kinh nghiệm trong quá trình lãnh
đạo xây dựng mối quan hệ hữu nghị hợp tác với tỉnh Bôlykhămxay (Lào) của
Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh. Nội san Nghiên cứu- Trao đổi- Thông tin, Trường
Chính trị Trần Phú Hà Tĩnh, Số 15.
7. Nguyễn Trọng Tứ (2010), Những đóng góp của quân dân tỉnh Hà Tĩnh đối
với chiến trường Lào trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Kỷ yếu
Hội thảo Quốc tế Tình đoàn kết Việt Nam – Lào trong xây dựng và phát triển
khu kháng chiến Tây Bắc Lào, Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng Cộng sản
Việt Nam và Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng NDCM Lào.
152
8. Nguyễn Trọng Tứ (2010), Quá trình phát triển đường lối đối ngoại của Đảng
trong thời kỳ đổi mới. Tạp chí Thông tin Đối ngoại, Ban chỉ đạo công tác
thông tin đối ngoại - Ban Tuyên Giáo Trung ương, Số 5 (74).
9. Nguyễn Trọng Tứ (2010), Một số kinh nghiệm của tỉnh Hà Tĩnh trong quátrình lãnh đạo xây dựng mối quan hệ hữu nghị hợp tác với tỉnh Bôlykhămxay(CHDCND Lào) từ 1991 đến nay. Thông tin Nghiên cứu Quốc tế, Viện Quan
hệ Quốc tế - Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Số 1
(39).
10. Nguyễn Trọng Tứ (2010), Nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền đápứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nội san
Nghiên cứu- Trao đổi- Thông tin, Trường Chính trị Trần Phú Hà Tĩnh, Số 16.
11. Nguyễn Trọng Tứ (2011), Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tưtưởng lý luận dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội XI của Đảng. Nội san
Nghiên cứu- Trao đổi- Thông tin, Trường Chính trị Trần Phú Hà Tĩnh, Số 19.
12. Nguyễn Trọng Tứ (2011), Quá trình phát triển đường lối đối ngoại của Đảng
trong thời kỳ đổi mới (1986 - 2011). Nội san Nghiên cứu- Trao đổi- Thông
tin, Trường Chính trị Trần Phú Hà Tĩnh, Số 21.
13. Nguyễn Trọng Tứ (2012), Tăng cường xây dựng mối quan hệ hữu nghị hợp
tác với tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn (CHDCND Lào) đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ trong tình hình mới. Nội san Nghiên cứu- Trao đổi- Thông tin,
Trường Chính trị Trần Phú Hà Tĩnh, Số 22.
14. Nguyễn Trọng Tứ (2013), Hợp tác trong lĩnh vực an ninh quốc phòng và
công tác biên giới giữa tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn
(CHDCND Lào) từ năm 1991- 2011. Nội san Nghiên cứu- Trao đổi- Thông
tin, Trường Chính trị Trần Phú Hà Tĩnh, Số 24.
15. Nguyễn Trọng Tứ (2013), Hợp tác về chính trị ngoại giao và giao lưu hữu
nghị nhân dân giữa tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn
(CHDCND Lào) từ năm 1991- 2011. Nội san Nghiên cứu- Trao đổi- Thông
tin, Trường Chính trị Trần Phú Hà Tĩnh, Số 25.
153
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT:
1. Ban Biên giới Hà Tĩnh (1996), Báo cáo sơ kết một năm thực hiện Hiệp
định quy chế biên giới và Biên bản cuộc họp lần thứ năm giữa hai Đoànđại biểu biên giới Việt Nam - Lào, Lưu tại TTLT tỉnh Hà Tĩnh.
2. Ban Biên giới Hà Tĩnh (1996), Báo cáo sơ kết thực hiện Quy chế biên
giới, ngày 8 tháng 6 năm 1996, Lưu tại TTLT tỉnh Hà Tĩnh.3. Ban Biên giới Hà Tĩnh (1999), Báo cáo việc thực hiện công tác biên giới
chín tháng đầu năm 1999, Lưu tại TTLT tỉnh Hà Tĩnh.4. Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (1995), Tổng
kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thắng lợi và bài học, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Ban Đối ngoại Hà Tĩnh (1997), Báo cáo kết quả chuyến đi công tác của
Đoàn cán bộ Hà Tĩnh tại nước CHDCND Lào (Kèm theo biên bản làm
việc).
6. Ban Kinh tế Đối ngoại (1995), Báo cáo kết quả làm việc tại các tỉnh
thuộc nước CHDCND Lào theo quyết định số 229-QĐ/UB, ngày16/2/1995. Ngày 14/3/1995. Tài liệu lưu tại Phòng lưu trử - VP Tỉnh ủy
Hà Tĩnh.7. Ban Kinh tế Đối ngoại Hà Tĩnh (1992), Báo cáo tình hình biên giới quốc
gia giữa Hà Tĩnh với hai tỉnh bạn Lào, Lưu tại TTLT tỉnh Hà Tĩnh.8. Ban Kinh tế Đối ngoại Hà Tĩnh (1994), Báo cáo tình hình biên giới, ngày
1 tháng 4 năm 1994, Lưu tại TTLT tỉnh Hà Tĩnh.9. Ban Đối ngoại tỉnh Hà Tĩnh (1996), Báo cáo kết quả việc tổ chức thực hiện văn
bản ghi nhớ về mối quan hệ hợp tác giữa Đoàn đại biểu cấp cao Hà Tĩnh và
tỉnh Khămmuộn ký ngày 6/5/1995, ngày 9/7/1996. Lưu tại Trung tâm lưu trửHà Tĩnh.
10. Ban Đối ngoại tỉnh Hà Tĩnh (1997), Báo cáo tình hình quan hệ hệ hợp tác
giữa Hà Tĩnh với hai tỉnh Bôlykhămxay-Khăm muộn và tập đoàn HPKD,
ngày 22/6/1997. Tài liệu lưu tại Phòng lưu trử - VP Tỉnh ủy Hà Tĩnh
154
11. Ban Kinh tế Đối ngoại Hà Tĩnh (1993), Báo cáo tình hình về mối quan hệ hợp
tác giữa Hà Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay, tỉnh Khămmuộn và Chương trình
phát triển kinh tế miền núi Bộ Quốc phòng Lào, Lưu tại TTLT tỉnh Hà Tĩnh.12. Ban Kinh tế Đối ngoại (1995), Báo cáo kết quả việc tổ chức thực hiện văn
bản ghi nhớ về quan hệ hợp tác giữa Hà Tĩnh với Khămmuộn, ngày
9/7/1996. Tài liệu lưu tại Phòng lưu trử - VP Tỉnh ủy Hà Tĩnh.13. Ban Kinh tế Đối ngoại Hà Tĩnh (1996), Báo cáo kết quả làm việc với hai
tỉnh bạn Lào, Lưu tại TTLT tỉnh Hà Tĩnh.14. Ban Kinh tế Đối ngoại Hà Tĩnh (1996), Báo cáo về tình hình mối quan hệ
hợp tác giữa hai tỉnh Hà Tĩnh - Bôlykhămxay và Công ty Phát triển kinh
tế miền núi Lào, Lưu tại TTLT tỉnh Hà Tĩnh.15. Ban Kinh tế Đối ngoại Hà Tĩnh (1996), Báo cáo tình hình quan hệ hợp
tác hai tỉnh Hà Tĩnh và Bôlykhămxay, ngày 16 tháng 11 năm 1996, Lưutại TTLT tỉnh Hà Tĩnh.
16. Ban Kinh tế Đối ngoại Hà Tĩnh (1998), Báo cáo công tác đối ngoại năm1998, Lưu tại TTLT tỉnh Hà Tĩnh.
17. Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương (2004), Những vấn đề lớn của thế giới
và quá trình hội nhập, phát triển của nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
18. Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh (1993), Tài liệu biên soạn
lịch sử Đảng bộ Hà Tĩnh.
19. Ban Hợp tác kinh tế văn hóa với Lào, tỉnh Nghệ Tĩnh (1987), Báo cáo vềhợp tác kinh tế văn hóa giữa tỉnh Nghệ Tĩnh với tỉnh Xiêng khoảng và tỉnh
Bôlykhămxay 6 tháng đầu năm 1987 và đề nghị bổ sung kế hoạch 6 tháng
cuối năm 1987, ngày 16/6/1987. Tài liệu lưu tại Trung tâm lưu trử tỉnh NghệAn.
20. Ban hợp tác kinh tế văn hóa với nước ngoài tỉnh Bôlykhămxay (1987),Biên bản họp công việc hợp tác với tỉnh Nghệ Tĩnh năm 1987 và kế hoạch
1988, Số 01/KH.TC, ngày 29 tháng 8 năm 1987. Tài liệu lưu tại Vănphòng tỉnh Nghệ An.
21. Báo Nhân Dân (2009), số ra ngày 24 tháng 4 năm 2009.
155
22. Báo Nhân Dân (1991), ngày 25/6/1991.
23. Đặng Duy Báu (Chủ biên), (2000), Lịch sử Hà Tĩnh, tập 1, Nxb Chính trịquốc gia, Hà Nội.
24. Đặng Duy Báu (Chủ biên), (2001), Lịch sử Hà Tĩnh, tập 2, Nxb Chính trịquốc gia, Hà Nội.
25. Đặng Duy Báu (Chủ biên), (1997), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh, tập 1,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Đặng Duy Báu (Chủ biên), (1997), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh, tập 2,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Nguyễn Đức Bình (Chủ biên), (2003), Góp phần nhận thức thế giới
đương đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương (11-2001), Nghị quyết số 07 Vềhội nhập kinh tế quốc tế, Tài liệu lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
29. Bộ Ngoại giao (1995), Hội nhập quốc tế và giữ vững bản sắc, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
30. Bộ Ngoại giao (2003), Ngoại giao Việt Nam (1945 - 2000), Nxb Chính trịquốc gia, Hà Nội.
31. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Hà Tĩnh (1998), Hà Tĩnh 30 năm kháng chiến.
Hà Tĩnh.32. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Hà Tĩnh (1994), Hà Tĩnh kháng chiến chống Mỹ
cứu nước, Hà Tĩnh.33. Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng Hà Tĩnh (2001), Báo cáo tình hình, kết
quả hoạt động bảo vệ biên giới từ tháng 8 năm 2000 đến tháng 5 năm2001, Lưu tại Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Hà Tĩnh.
34. Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng Hà Tĩnh (2003), Báo cáo tình hình công tác
biên giới năm 2003, Lưu tại Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Hà Tĩnh.35. Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng Hà Tĩnh (1997), Báo cáo kết quả thực
hiện Hiệp định quy chế biên giới Việt Nam - Lào và biên bản giữa hai
đoàn đại biểu biên giới lần thứ 6 giữa hai nước, Lưu tại Bộ chỉ huy Bộđội biên phòng tỉnh Hà Tĩnh.
156
36. Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng Hà Tĩnh (1997), Báo cáo tình hình thực
trạng đường biên mốc giới và công tác bảo vệ của Bộ đội Biên phòng,
Lưu tại Trung tâm Lưu trữ tỉnh Hà Tĩnh.37. Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng Hà Tĩnh (2001), Báo cáo tình hình và kết
quả hoạt động bảo vệ biên giới từ tháng 8 năm 2000 đến tháng 5 năm2001, Lưu tại Trung tâm Lưu trữ tỉnh Hà Tĩnh.
38. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Hà Tĩnh (1985), Tài liệu biên soạn lịch sử Hà
Tĩnh 30 năm kháng chiến, Hà Tĩnh.49. Cay xỏn Phôm vi hản (1980), Xây dựng một nước Lào hoà bình, độc lập
và CNXH, Nxb Sự thật, Hà Nội.
40. Cục Hàng hải Việt Nam (2007), Biên bản Hội nghị lần thứ 5 của Tổ công
tác phối hợp Việt - Lào nghiên cứu về quản lý và khai thác cảng VũngÁng, ngày 3/12/1997. Tài liệu lưu tại Phòng Tổ chức - Hành Chính, Cảng
vụ Hà Tĩnh.41. Lê Văn Chất (2007), Mở rộng liên kết giao lưu quốc tế”, Đặc san “Việt
Nam - Lào 45 năm hợp tác hữu nghị, Báo Thế giới và Việt Nam.
42. Chính phủ nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào (1973), Tuyên bố của
Chính phủ Lào ngày 22 tháng 2 năm 1973, Tài liệu lưu tại Phòng Lưu trữ,
Văn phòng Tỉnh uỷ Hà Tĩnh.43. Công an tỉnh Hà Tĩnh (1995), Báo cáo kết quả chuyến đi công tác tại
nước CHDCND Lào, Lưu tại TTLT tỉnh Hà Tĩnh.44. Công an tỉnh Hà Tĩnh (1996), Báo cáo một số tình hình có liên quan đến
công tác an ninh thời gian qua tại hai tỉnh Khămmuộn và Bôlykhămxay(Lào), Lưu tại TTLT tỉnh Hà Tĩnh.
45. Công an tỉnh Hà Tĩnh (2000), Báo cáo kết quả công tác bảo vệ an ninh
biên giới năm 2000, Lưu tại TTLT tỉnh Hà Tĩnh. Lưu tại Phòng Lưu trữ,
Văn phòng Tỉnh uỷ Hà Tĩnh.46. Công an tỉnh Hà Tĩnh (2002), Báo cáo tình hình, kết quả công tác biên
giới, Lưu tại TTLT tỉnh Hà Tĩnh.47. Công an tỉnh Hà Tĩnh (1996), Báo cáo kết quả làm việc (kèm theo bản ghi
nhớ) với Đoàn đại biểu tỉnh Bôlykhămxay), Lưu tại TTLT tỉnh Hà Tĩnh.
157
48. Đặng Ích Chính (2006), “Tổng kết 43 năm lực lượng vũ trang quân khu 4làm nhiệm vụ quốc tế ở Lào 1945 - 1988”, Nxb Quân đội nhân dân.
49. Lê Duẩn (1981), Tình hình thế giới và chính sách đối ngoại của Đảng ta,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
50. Nguyễn Tấn Dũng (2009), Đặc san báo Thế giới và Việt Nam.
51. Đại hội IV Đảng Nhân dân cách mạng Lào (1987), Nxb Sự thật, Hà Nội,
1987.
52. Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh (1948), NQ Hội nghị tháng 6 năm 1948.
53. Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh (1992), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà
Tĩnh lần thứ XIII.
54. Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà
Tĩnh lần thứ XIV.
55. Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà
Tĩnh lần thứ XV.
56. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (1987), Chỉ thị Ban Bí thư Trung ươngĐảng NDCM Lào số 24/BBT, ngày 20/5/1987 về việc triển khai kết quảcuộc hội đàm giữa Bộ Chính trị Đảng NDCM Lào với Bộ Chính trị ĐCSViệt Nam, Tài liệu lưu tại Kho lưu trữ Trung ương ĐCS Việt Nam.
57. Đảng bộ tỉnh Bôlykhămxay (1998), Tài liệu Đại hội Đảng bộ tỉnh
Bôlykhămxay lần thứ III, Bôlykhămxay.58. Đảng bộ tỉnh Bôlykhămxay (2005), Tài liệu Đại hội Đảng bộ tỉnh
Bôlykhămxay lần thứ IV, Bôlykhămxay.59. Đảng bộ tỉnh Bôlykhămxay (2010), Tài liệu Đại hội Đảng bộ tỉnh
Bôlykhămxay lần thứ V, Bôlykhămxay.60. Đảng bộ tỉnh Khămmuộn (2010), Tài liệu Đại hội Đảng bộ tỉnh
Khămmuộn lần thứ VIII, Khămmuộn.
61. Đảng Cộng sản Việt Nam (1976), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ IV, Nxb Sự thật, Hà Nội.
62. Đảng Cộng sản Việt Nam (1982), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ V, tập III, Nxb Sự thật, Hà Nội.
158
63. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
64. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc
giữa nhiệm kỳ, Khóa VII, (Tài liệu lưu hành nội bộ).
65. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
66. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
67. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
68. Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2011), Lịch
sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam 1930 - 2007, Nxb
CTQG - Sự thật, Hà Nội.
69. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Chỉ thị Ban Bí thư Trung ương ĐCS Việt
Nam số 09-CT/TW, ngày 03/7/1987 về việc quan hệ Đảng ta với Đảng Lào
và Đảng Cămpuchia,, Tài liệu lưu tại Kho lưu trữ Trung ương ĐCS Việt
Nam.
70. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011.
71. Nguyễn Trọng Điều (1987), Lào - Đất nước con người, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
72. Hồ Chí Minh (1986), Toàn tập, tập 6, Nxb Sự thật, Hà Nội.
73. Hồ Chí Minh, (1986), Toàn tập, tập 5, Nxb Sự thật, Hà Nội.
74. Hội đồng lý luận Trung ương (2013), Một số vấn đề lý luận - thực tiễn
chủ yếu trong quá trình đẩy mạnh công cuộc đổi mới ở Việt Nam và Lào.
Nxb CTQG, HN. 2013.
75. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hà Tĩnh (2007), Báo cáo công tác Hội năm2007, phương hướng nhiệm vụ năm 2008, Lưu tại Văn phòng Hội Liên
hiệp Phụ nữ tỉnh Hà Tĩnh .76. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hà Tĩnh (2008), Báo cáo công tác Hội năm
2008, phương hướng nhiệm vụ năm 2009, Lưu tại Văn phòng Hội Liên
hiệp Phụ nữ tỉnh Hà Tĩnh.
159
77. Học viện Quan hệ Quốc tế (1995), Kỷ yếu Hội thảo khoa học “50 nămngoại giao Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam”.
78. HĐND tỉnh Hà Tĩnh (1997), Thư công tác ngày 30 tháng 5 năm 1997 của
Phó Chủ tịch HĐND tỉnh Hà Tĩnh. Lưu tại TTLT tỉnh Hà Tĩnh.79. Huyện Đoàn Hương Sơn (2007), Báo cáo tình hình công tác Đoàn và
phong trào thanh thiếu nhi năm 2007. Lưu tại Văn phòng Huyện ĐoànHương Sơn.
80. Đinh Xuân Lý (Chủ biên), (2005), Tìm hiểu vai trò lãnh đạo của Đảng
đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
81. Đỗ Mười (1996), Việt Nam muốn là bạn của các nước trong cộng đồng
thế giới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
82. Trịnh Nhu (2009), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ đặc biệt Việt Nam
- Lào", Tạp chí Lịch sử Đảng, (số 6), tr 16.
83. Nguyễn Di Niên (2001), "Thế giới năm qua và nhiệm vụ đối ngoại của
Đảng ta trong năm 2001", Tạp chí Cộng sản, (số 2), tr 8.
84. Sở Văn hoá Thông tin Hà Tĩnh (2005), Báo cáo tình hình hợp tác giữa
Ngành văn hoá thể thao Hà Tĩnh và Bôlykhămxay từ năm 2000 đến năm2005, Lưu tại Phòng Hành chính - Tổng hợp.
85. Sở Khoa học và Công nghệ Hà Tĩnh (2008), Báo cáo tổng kết hoạt động
khoa học công nghệ năm 2008, Lưu tại Phòng Hành chính - Tổng hợp.
86. Sở Văn hoá Thể thao và Du lịch Hà Tĩnh (2008), Báo cáo tổng kết hoạt
động của Ngành văn hoá thể thao và Du lịch năm 2007, Lưu tại Phòng
Hành chính - Tổng hợp.
87. Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Hà Tĩnh (2010), Báo cáo đánh giátình hình hợp tác với Lào trong năm 2010, ngày15/10/2010. Tài liệu lưutại Văn phòng Sở Văn hóa TT - DL tỉnh Hà Tĩnh.
88. Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Hà Tĩnh (2010), Báo cáo đánh giátình hình hợp tác với Lào và Căm pu chia 2010, ngày 15/12/2010. Tài liệu
lưu tại Văn phòng Sở Văn hóa TT - DL tỉnh Hà Tĩnh.
160
89. Sở Y tế Hà Tĩnh (1997), Bản ghi nhớ hợp tác y tế hai tỉnh Hà Tĩnh và
Bôlykhămxay về chăm sóc sức khoẻ cán bộ và nhân dân hai tỉnh, Lưu tại
Phòng Hành chính.
90. Sở Ngoại vụ Hà Tĩnh (2007), Báo cáo tổng kết tình hình hợp tác của Hà
Tĩnh với CHDCND Lào, Lưu tại Văn phòng Sở Ngoại vụ Hà Tĩnh.91. Sở Ngoại vụ Hà Tĩnh (2010), Báo cáo kết quả thực hiện các nội dung đã
ký giữa tỉnh Hà Tĩnh với các tỉnh bạn Lào và phương hướng nhiệm vụthời gian tới, Lưu tại Văn phòng Sở Ngoại vụ Hà Tĩnh.
92. Sở Ngoại vụ Hà Tĩnh (2012), Báo cáo tình hình hợp tác với các tỉnh của nước
CHDCND Lào, ngày 15/4/2012. Tài liệu lưu tại Văn phòng Sở Ngoại vụ Hà
Tĩnh.93. Tỉnh uỷ Hà Tĩnh (2010), Báo cáo kết quả lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ
chính trị và công tác xây dựng Đảng năm 2010; nhiệm vụ giải pháp năm2011, Lưu tại Phòng Lưu trữ, Văn phòng Tỉnh uỷ Hà Tĩnh.
94. Tỉnh uỷ Hà Tĩnh (2010), Báo cáo Sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị14/2005/CT-TTg, ngày 14/4/2005 của Thủ tướng Chính phủ về hợp tác
xây dựng tuyến biên giới Việt Nam - Lào ổn định và phát triển. Lưu tại
Phòng Lưu trữ, Văn phòng Tỉnh uỷ Hà Tĩnh.95. Tỉnh uỷ Hà Tĩnh (4 - 2009), Báo cáo tổng kết 05 năm thực hiện NQ Hội
nghị Trung ương lần thứ Bảy, khoá IX, Lưu tại Phòng Lưu trữ, Văn phòng
Tỉnh uỷ Hà Tĩnh.96. Tỉnh Bôlykhămxay (1994), Thông báo tiếp nhận vật tư xây dựng Nhà
khách. Số 621/TB, ngày 13 tháng 4 năm 1994. Lưu tại Văn phòng tỉnh
Bôlykhămxay.97. Tỉnh uỷ Hà Tĩnh (1954), Báo cáo tình hình, tháng 1 năm 1954, Lưu tại
Phòng Lưu trữ, Văn phòng Tỉnh uỷ Hà Tĩnh.98. Tỉnh uỷ Hà Tĩnh (1993), Báo cáo công tác xây dựng Đảng và hệ thống
chính trị ngày 1 tháng 3 năm 1993, Lưu tại Phòng Lưu trữ, Văn phòng
Tỉnh uỷ Hà Tĩnh.
161
99. Tỉnh uỷ Hà Tĩnh (1994), Nghị quyết của BCH Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh vềtình hình kinh tế - xã hội năm 1993 và nhiệm vụ chính trị năm 1994, Lưutại Phòng Lưu trữ, Văn phòng Tỉnh uỷ Hà Tĩnh.
100. Tỉnh uỷ Hà Tĩnh (1995), NQ số 13 của BCH Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh vềphát triển kinh tế - xã hội năm 1996, Lưu tại Phòng Lưu trữ, Văn phòng
Tỉnh uỷ Hà Tĩnh.101. Tỉnh uỷ Hà Tĩnh (2001), NQ số 04 của BCH Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh về
tiếp tục tăng cường lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ quốc phòng an ninh
trong tình hình mới, Lưu tại Phòng Lưu trữ, Văn phòng Tỉnh uỷ Hà
Tĩnh.102. Tỉnh uỷ Hà Tĩnh (2003), Báo cáo chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
đến năm 2005 và tầm nhìn đến năm 2010, Lưu tại Phòng Lưu trữ, Vănphòng Tỉnh uỷ Hà Tĩnh.
103. Tỉnh uỷ Hà Tĩnh (2004), Báo cáo sơ kết thực hiện NQ Trung ương Támcủa Bộ Chính trị và NQ 04 của BCH Trung ương về quốc phòng và an
ninh, Lưu tại Phòng Lưu trữ, Văn phòng Tỉnh uỷ Hà Tĩnh.104. Tỉnh uỷ Hà Tĩnh (2001), NQ số 04 của BCH Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh về
tiếp tục tăng cường lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ quốc phòng an ninh
trong tình hình mới, Lưu tại Phòng Lưu trữ, Văn phòng Tỉnh uỷ Hà
Tĩnh.105. Tỉnh uỷ Hà Tĩnh (2005), NQ của BCH Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh về triển
khai thực hiện NQ số 39 - NQTW của Bộ Chính trị, Lưu tại Phòng Lưutrữ, Văn phòng Tỉnh uỷ Hà Tĩnh.
106. Tỉnh uỷ Hà Tĩnh (1992), Quyết định cử Đoàn cán bộ tỉnh Hà Tĩnh đithăm và làm việc tại tỉnh Bôlykhămxay (Lào), Lưu tại Phòng Lưu trữ,
Văn phòng Tỉnh uỷ Hà Tĩnh.107. Tỉnh uỷ Hà Tĩnh (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ
XVI.
108. Tỉnh ủy Hà Tĩnh (2010), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà
Tĩnh lần thứ XVII ( nhiệm kỳ 2010 - 2015), Hà Tĩnh, tháng 10 - năm2010.
162
109. Tỉnh uỷ Hà Tĩnh (2006), Biên bản Hội đàm ngày 26 tháng 6 năm 2006,Lưu tại Phòng Lưu trữ, Văn phòng Tỉnh uỷ Hà Tĩnh.
110. Tỉnh uỷ Hà Tĩnh (2001), Biên bản Hội đàm giữa Đoàn đại biểu cấp cao
tỉnh Hà Tĩnh và Đoàn đại biểu cấp cao tỉnh Bôlykhămxay, Lưu tại Phòng
Lưu trữ, Văn phòng Tỉnh uỷ Hà Tĩnh.111. Tỉnh ủy Hà Tĩnh (2011), Báo cáo kết quả hợp tác với Lào và Căm
puchia năm 2011; phương hướng hợp tác năm 2012, ngày 14/11/2011.Lưu tại Phòng lưu trử - Văn phòng Tỉnh ủy Hà Tĩnh.
112. Tỉnh ủy Hà Tĩnh (2010), Báo cáo tình hình, kết quả quan hệ hợp tác
giữa tỉnh Hà Tĩnh với hai tỉnh Bô ly khăm xay và Khăm muộn nước
CHDCND Lào năm 2010, ngày 25/10/2010. Tài liệu lưu tại Phòng lưutrử - Văn phòng Tỉnh ủy Hà Tĩnh.
113. Tỉnh ủy Hà Tĩnh (2010), Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị14/2005/CT-TTg, ngày 14/4/2005 của Thủ tướng Chính phủ về hợp tác
xây dựng tuyến biên giới Việt Nam - Lào ổn định và phát triển toàn diện,
ngày 10/12/2010. Tài liệu lưu tại Phòng lưu trử - Văn phòng Tỉnh ủy Hà
Tĩnh.114. Tỉnh uỷ Nghệ Tĩnh (1985), Văn bản ký kết hợp tác giữa tỉnh Nghệ Tĩnh và
Bôlykhămxay, ngày 14 tháng 3 năm 1985, Lưu tại TTLT tỉnh Nghệ An.
115. Tỉnh ủy Nghệ Tĩnh (1987), Biên bản cuộc họp giữa Đoàn đại biểu tỉnh
Nghệ Tĩnh và Đoàn đại biểu tỉnh Bôlykhămxay, ngày 20/6/1987. Tài liệu
lưu tại Văn phòng Tỉnh ủy Nghệ An.
116. Tỉnh ủy Nghệ Tĩnh (1987), Báo cáo tình hình hợp tác kinh tế văn hóavới các tỉnh kết nghĩa Lào 10 năm qua và hướng hợp tác trong thời gian
tới, ngày 15/7/1987. Tài liệu lưu tại Văn phòng Tỉnh ủy Nghệ An.
117. Tỉnh ủy Nghệ Tĩnh (1989), Biên bản ký kết hợp tác giữa tỉnh Bô ly khămxay và tỉnh Nghệ Tĩnh, ngày 11/3/1989. Lưu tại Văn phòng Tỉnh ủy NghệAn.
118. Tỉnh ủy Nghệ Tĩnh (1990), Biên bản ký kết hợp tác giữa tỉnh Bô ly khămxay và Nghệ Tĩnh năm 1990 - 1991, ngày 20/5/1990. Lưu tại Văn phòng
Tỉnh ủy Nghệ An.
163
119. Tỉnh ủy Nghệ Tĩnh (1989), Biên bản ký kết hợp tác giữa tỉnh Bô ly khămxay và tỉnh Nghệ Tĩnh, ngày 11/3/1989. Lưu tại Văn phòng Tỉnh ủy NghệAn.
120. Tổ Công tác triển khai hợp tác với Lào và Thái Lan (2012), Báo cáo kết quảthực hiện các nội dung đã ký giữa tỉnh Hà Tĩnh với các tỉnh bạn Lào Thái Lan
và phương hướng nhiệm vụ thời gian tới, Lưu tại Văn phòng Sở Ngoại vụ Hà
Tĩnh.121. Tuyên bố chung Việt Nam - Lào ngày 16/8/1992, báo Nhân dân, ngày
17/8/1992.
122. Nguyễn Trọng Tứ (2009), Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh lãnh đạo xây dựng mối
quan hệ hợp tác với tỉnh Bôlykhămxay từ năm 1991 - 2007, Luận vănThạc sỹ, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
123. Tỉnh Đoàn Hà Tĩnh (2007), Báo cáo tình hình công tác Đoàn và phongtrào thanh thiếu nhi năm 2007 và phương hướng nhiệm vụ năm 2008,Lưu tại Văn phòng Tỉnh Đoàn Hà Tĩnh.
124. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà
Nội, (2003), Toàn cầu hoá và tác động đối với sự hội nhập của Việt
Nam, Nxb Thế giới, Hà Nội.
125. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà
Nội (1993), Quan hệ Việt - Lào, Lào - Việt, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
126. Ủy ban Nhân dân tỉnh Nghệ Tĩnh (1987), Báo cáo tình hình hợp tác với
Bôlykhămxay năm 1986, Lưu tại TTLT tỉnh Nghệ An.
127. Ủy ban Nhân dân tỉnh Nghệ Tĩnh (1987), Báo cáo tình hình hợp tác với
tỉnh Khămmuộn và Bôlykhămxay năm 1986 và các năm từ 1987 đến
1990, Lưu tại TTLT tỉnh Nghệ An.
128. Ủy ban Nhân dân tỉnh Nghệ Tĩnh (1986), Báo cáo tình hình hợp tác với
tỉnh Khămmuộn và Bôlykhămxay năm 1986, Lưu tại TTLT tỉnh NghệAn.
129. UBND tỉnh Hà Tĩnh (1993), Biên bản làm việc giữa Đoàn đại biểu Biên
giới tỉnh Hà Tĩnh và Đoàn đại biểu Ban Biên giới tỉnh Bôlykhămxay, ngày27 tháng 9 năm 1993. Tài liệu lưu tại Trung tâm lưu trử tỉnh Hà Tĩnh.
164
130. Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (1994), Quyết định về việc cử đoàn đicông tác tại nước CHDCND Lào, Lưu tại TTLT tỉnh Hà Tĩnh.
131. Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (1994), Báo cáo kết quả chuyến thăm vàlàm việc tại tỉnh Khămmuộn và Bôlykhămxay, Lưu tại TTLT tỉnh Hà Tĩnh.
132. Uỷ ban Nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (1998), Báo cáo một số tình hình cửa
khẩu Việt Nam - Lào (trên tuyến biên giới Hà Tĩnh với các tỉnh Bô ly
khăm xay, Khăm muộn), ngày 14/3/1998. Lưu tại Trung tâm lưu trử Hà
Tĩnh.133. Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (1996), Công văn số 1294 của UBND tỉnh Về
việc Đồng chí Chủ tịch UBND tỉnh đi công tác ở Lào, Lưu tại TTLT tỉnh Hà
Tĩnh.134. Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (1999), Báo cáo việc thực hiện công tác
biên giới 9 tháng đầu tnăm 1999, Lưu tại TTLT tỉnh Hà Tĩnh.135. Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (2000), Báo cáo tình hình thực hiện công
tác biên giới từ kỳ họp lần thứ X giữa hai Đoàn đại biểu biên giới Việt
Nam - Lào đến nay, Lưu tại TTLT tỉnh Hà Tĩnh.136. Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (2001), Báo cáo tình hình, kết quả thực
hiện công tác biên giới từ kỳ họp lần thứ X giữa hai Đoàn đại biểu biên
giới Việt - Lào đến nay, Lưu tại TTLT tỉnh Hà Tĩnh.137. Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (2004), Báo cáo kết quả hợp tác giữa hai
tỉnh Hà Tĩnh - Bôlykhămxay và định hướng công tác trong thời gian tới,
Lưu tại TTLT tỉnh Hà Tĩnh.138. Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (1996), Báo cáo sơ kết thực hiện Quy chế
biên giới, ngày 8 tháng 6 năm 1996, Lưu tại TTLT tỉnh Hà Tĩnh.139. Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (1998), Báo cáo tình hình công tác biên
giới, ngày 14 tháng 01 năm 1998, Lưu tại TTLT tỉnh Hà Tĩnh.140. Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (1998), Báo cáo tình hình công tác biên
giới, ngày 14 tháng 01 năm 1998, Lưu tại TTLT tỉnh Hà Tĩnh.141. Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (2001), Báo cáo tình hình, kết quả công tác
biên giới năm 2000 và một số nhiệm vụ chính năm 2001, Lưu tại TTLT tỉnh
Hà Tĩnh.
165
142. Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (1998), Công văn số 1474 CV/UB - NC
ngày 18 tháng 11 năm 1998 Về việc báo cáo người di cư Việt - Lào, Lưutại TTLT tỉnh Hà Tĩnh.
143. Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (1996), Báo cáo sơ kết 01 năm thực hiện
Hiệp định quy chế biên giới, Lưu tại TTLT tỉnh Hà Tĩnh.144. Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (2007), Báo cáo tình hình hợp tác với
nước CHDCND Lào, Lưu tại TTLT tỉnh Hà Tĩnh.145. Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (1994), Quyết định của UBND tỉnh Hà
Tĩnh Về việc giúp đỡ nhân dân huyện Cămcớt, tỉnh Bôlykhămxay bị thiên
tai, Lưu tại TTLT tỉnh Hà Tĩnh.146. Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (2007), Báo cáo của UBND tỉnh tại buổi làm
việc với Phó Thủ tướng Thường trực Lào, Lưu tại Văn phòng UBND tỉnh Hà
Tĩnh.147. Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (2007), Báo cáo tình hình phát triển kinh
tế - xã hội của tỉnh và hợp tác với nước CHDCND Lào, ngày 15 tháng 8
năm 2007. Lưu tại Văn phòng UBND tỉnh Hà Tĩnh.148. UBND tỉnh Hà Tĩnh (2009), Báo cáo tóm tắt tình hình KTXH tỉnh HT,
kết quả thực hiện văn bản thỏa thuận hợp tác giữa tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh
Bôlykhămxay từ năm 2008 đến nay, ngày 10/8/2009. Tài liệu Lưu tại
Văn phòng UBND tỉnh Hà Tĩnh.149. Ủy ban Nhân dân huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh (1999), Báo cáo 10
năm thực hiện Hiệp định Quy chế biên giới quốc gia, ngày 19 tháng 12
năm 1999. Lưu tại Văn phòng UBND huyện Hương Sơn.150. Văn phòng tỉnh uỷ Hà Tĩnh (1992), Biên bản Hội đàm giữa tỉnh Hà Tĩnh
và tỉnh Bôlykhămxay ngày 6 tháng 11 năm 1992, Lưu tại Phòng Lưu trữ.
151. Văn phòng Tỉnh ủy Hà Tĩnh (1994), Các Văn bản về chuyến đi Lào của
đồng chí Trần Quốc Thại và đồng chí Nguyễn Hoàng Trạch. Tài liệu lưutại Phòng lưu trử - Văn phòng Tỉnh ủy Hà Tĩnh.
152. Văn phòng tỉnh uỷ Hà Tĩnh (1994), Biên bản Hội đàm giữa tỉnh Hà Tĩnhvà tỉnh Bôlykhămxay ngày 5 tháng 3 năm 1994. Lưu tại Phòng Lưu trữ.
166
153. Văn phòng Tỉnh ủy Hà Tĩnh (1995), Biên bản Hội đàm giữa hai Đoànđại biểu tỉnh Bôlykhămxay - Hà Tĩnh, ngày 4 tháng 5 năm 1995. Tài liệu
lưu tại Phòng lưu trử - Văn phòng Tỉnh ủy Hà Tĩnh.154. Văn phòng Tỉnh ủy Hà Tĩnh (1995), Biên bản Hội đàm giữa hai Đoàn
đại biểu tỉnh Bôlykhămxay - Hà Tĩnh, ngày 4 tháng 5 năm 1995. Tài liệu
lưu tại Phòng lưu trử - Văn phòng Tỉnh ủy Hà Tĩnh.155. Văn phòng tỉnh uỷ Hà Tĩnh (1996), Biên bản Hội đàm giữa tỉnh Hà Tĩnh
và tỉnh Bôlykhămxay ngày 28 tháng 5 năm 1996, Lưu tại Phòng Lưu trữ.
156. Văn phòng tỉnh uỷ Hà Tĩnh (1997), Biên bản Hội đàm giữa tỉnh Hà Tĩnhvà tỉnh Bôlykhămxay ngày 24 tháng 4 năm 1997, Lưu tại Phòng Lưu trữ.
157. Văn phòng tỉnh uỷ Hà Tĩnh (1998), Biên bản Hội đàm giữa tỉnh Hà Tĩnhvà tỉnh Bôlykhămxay ngày 16 tháng 11 năm 1998, Lưu tại Phòng Lưutrữ.
158. Văn phòng tỉnh uỷ Hà Tĩnh (2003), Biên bản Hội đàm giữa tỉnh Hà Tĩnhvà tỉnh Bôlykhămxay ngày 9 tháng 7 năm 2003, Lưu tại Phòng Lưu trữ.
159. Văn phòng tỉnh uỷ Hà Tĩnh (2006), Biên bản Hội nghị cấp cao giữa
Đoàn đại biểu Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay ngày 26 tháng 6 năm 2006,Lưu tại Phòng Lưu trữ.
160. Văn phòng tỉnh uỷ Hà Tĩnh (2004), Biên bản Hội đàm giữa Đoàn đại biểu Hà
Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay ngày 2 tháng 8 năm 2004, Lưu tại Phòng Lưu trữ.
161. Văn phòng Tỉnh ủy Nghệ Tĩnh (1988), Biên bản ghi kết quả làm việc giữa
Đoàn chuyên viên cấp cao tỉnh Nghệ Tĩnh với Đoàn chuyên viên cấp cao
tỉnh Bôlykhămxay, ngày 6/4/1988. Tài liệu lưu tại Văn phòng Tỉnh ủy NghệAn.
162. Văn phòng Tỉnh ủy Nghệ Tĩnh (1988), Báo cáo kết quả về hợp tác kinh tế vănhóa giữa tỉnh Nghệ Tĩnh với tỉnh Xiêng khoảng và tỉnh Bôlykhămxay 6 tháng
đầu năm 1987, ngày 13/7/1987. Tài liệu lưu tại Văn phòng Tỉnh ủy Nghệ An.
163. Văn phòng Tỉnh ủy Nghệ Tĩnh (1988), Biên bản ghi kết quả làm việc giữa
Đoàn chuyên viên cấp cao tỉnh Nghệ Tĩnh với Đoàn chuyên viên cấp cao
tỉnh Bôlykhămxay, ngày 6/4/1988. Tài liệu lưu tại Văn phòng Tỉnh ủy NghệAn.
167
164. Văn phòng Tỉnh ủy Nghệ Tĩnh (1988), Lược ghi ý kiến của đồng chí Xi
xăm phon Lò văn xay, Ủy viên Bộ chính trị Trung ương Đảng NDCM
Lào, ngày 10/4/1988. Lưu tại Phòng Lưu trử Văn phòng Tỉnh ủy Hà
Tĩnh.165. Văn phòng Tỉnh ủy Hà Tĩnh (1996), Văn bản ghi nhớ Cuộc Hội đàm
giữa Đoàn Đại biểu Đảng chính quyền tỉnh Hà Tĩnh và Đoàn Đại biểu
Đảng chính quyền tỉnh Khămmuộn ngày 12 tháng 7 năm 1996. Tài liệu
lưu tại Trung tâm lưu trử - Văn phòng Tỉnh ủy Hà Tĩnh.166. Văn phòng tỉnh uỷ Hà Tĩnh (1997), Thông báo kết quả chuyến thăm và
làm việc tại nước CHDCND Lào của Đoàn Đại biểu tỉnh ta do đồng chí
Đặng Duy Báu, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh dẫn đầu từ ngày 21
đến 27 - 4- 1997, ngày 7 tháng 5 năm 1997, Lưu tại Phòng Lưu trữ - Vănphòng Tỉnh ủy Hà Tĩnh.
167. Văn phòng Tỉnh ủy Hà Tĩnh (2003), Văn bản Hội đàm giữa Đoàn Đại biểu
cấp cao tỉnh Hà Tĩnh và Đoàn Đại biểu cấp cao tỉnh Khăm muộn, ngày 6
tháng 8 năm 2003. Tài liệu lưu tại Trung tâm lưu trử - Văn phòng Tỉnh ủy
Hà Tĩnh.168. Văn phòng Tỉnh ủy Hà Tĩnh (2008), Văn bản Thỏa thuận hợp tác giữa
tỉnh Bôlykhămxay và tỉnh Hà Tĩnh, ngày 23/4/ 2008. Lưu tại Trung tâm
lưu trử - VP Tỉnh ủy Hà Tĩnh.169. Văn phòng Tỉnh ủy Hà Tĩnh (2009), Văn bản Thỏa thuận hợp tác giữa
tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay, ngày 12 tháng 8 năm 2009. Tài liệu
lưu tại Trung tâm lưu trử - Văn phòng Tỉnh ủy Hà Tĩnh.170. Văn phòng Tỉnh uỷ Hà Tĩnh (2010), Thông báo kết quả chuyến thăm và
làm việc tại nước CHDCND Lào của Đoàn Đại biểu tỉnh ta do đồng chí Lê
Văn Chất, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh dẫn đầu, tháng 7/2010,
Lưu tại Phòng Lưu trử - VP Tỉnh ủy Hà Tĩnh.171. Văn phòng Tỉnh ủy Hà Tĩnh (2010), Văn bản Thỏa thuận hợp tác giữa
tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Khămmuộn, ngày 22/10/2/ 2010. Lưu tại Trung tâm
lưu trử - VP Tỉnh ủy Hà Tĩnh.
168
172. Văn phòng Tỉnh ủy Hà Tĩnh (2011), Văn bản Thỏa thuận hợp tác giữa
tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay, ngày 2 tháng 4 năm 2011. Tài liệu
lưu tại Trung tâm lưu trử - Văn phòng Tỉnh ủy Hà Tĩnh.
TÀI LIỆU TIẾNG LÀO: (ເອກະສານພາສາລາວ)173. ກອງປະຊຸມໃຫຍ່ພັກປະຊາຊົນປະຕິວັດລາວຄັ້ງທີ່ IV
(1987), ຮັກສາສຳເນົາທີ່ຫ້ອງວ່າການປົກຄອງແຂວງບໍລິຄຳໄຊ.
174. ຫ້ອງວ່າການປົກຄອງແຂວງບໍລິຄຳໄຊ (1998),
ລາຍງານຕໍ່ກອງປະຊຸມໃຫຍ່ຄະນະພັກແຂວງບໍລິຄຳໄຊຄັ້ງທີ່ III, ບໍລິຄຳໄຊ.
175. ຫ້ອງວ່າການປົກຄອງແຂວງບໍລິຄຳໄຊ (2005),
ລາຍງານຕໍ່ກອງປະຊຸມໃຫຍ່ຄະນະພັກແຂວງບໍລິຄຳໄຊຄັ້ງທີ່ IV , ບໍລິຄຳໄຊ.
176. ຫ້ອງວ່າການປົກຄອງແຂວງບໍລິຄຳໄຊ (2010),
ລາຍງານຕໍ່ກອງປະຊຸມໃຫຍ່ຄະນະພັກແຂວງບໍລິຄຳໄຊຄັ້ງທີ່ V , ບໍລິຄຳໄຊ.
177. ຫ້ອງວ່າການປົກຄອງແຂວງຄຳມ່ວນ (2010),
ລາຍງານຕໍ່ກອງປະຊຸມໃຫຍ່ຄະນະພັກແຂວງຄຳມ່ວນຄັ້ງທີ່ VIII , ຄຳມ່ວນ.
178. ຫ້ອງວ່າການປົກຄອງແຂວງຄຳມ່ວນ (2010),
ລາຍງານສະພາບການຮ່ວມມືກັບແຂວງຮ່າຕີ້ງຕໍ່ການກອງປະຊຸມພົບປະຄັ້ງວັນທີ6/6/2010. ຮັກສາສຳເນົາທີ່ຫ້ອງວ່າການປົກຄອງແຂວງຄຳມ່ວນ.
179. ຫ້ອງວ່າການປົກຄອງແຂວງຄຳມ່ວນ(1999),
ລາຍງານສະພາບການຮ່ວມມືກັບບັນດາ ແຂວງແຮກສ່ຽວປີ1999. ຮັກສາສຳເນົາທີ່ຫ້ອງວ່າການປົກຄອງແຂວງຄຳມ່ວນ.
169
180. ຫ້ອງວ່າການປົກຄອງແຂວງຄຳມ່ວນ (2001),
ລາຍງານສະພາບການຮ່ວມມືກັບ ແຂວງຮ່າຕີ້ງ.ຮັກສາສຳເນົາທີ່ ຫ້ອງວ່າການປົກຄອງແຂວງຄຳມ່ວນ.
181. ຫ້ອງວ່າການປົກຄອງແຂວງບໍລິຄຳໄຊ (1997),
ລາຍງານຕໍ່ກອງປະຊຸມພົບປະລະຫວ່າງແຂວງຮ່າຕີ້ງ ແລະບໍລິຄຳໄຊ, ວັນທີ 24/4/1997. ຮັກສາສຳເນົາທີ່ຫ້ອງວ່າການປົກຄອງແຂວງບລິຄຳໄຊ.
182. ຫ້ອງວ່າການປົກຄອງແຂວງບໍລິຄຳໄຊ (2003),
ລາຍງານຕໍ່ກອງປະຊຸມພົບປະລະຫວ່າງແຂວງຮ່າຕີ້ງ ແລະບໍລິຄຳໄຊ, ວັນທີ 9/7/2003. ຮັກສາສຳເນົາທີ່ຫ້ອງວ່າການປົກຄອງແຂວງບລິຄຳໄຊ.
183. ຫ້ອງວ່າການປົກຄອງແຂວງບໍລິຄຳໄຊ (2006),
ລາຍງານຕໍ່ກອງປະຊຸມຂັ້ນສູງລະຫວ່າງແຂວງຮ່າຕີ້ງແລະ ບໍລິຄຳໄຊ, ວັນທີ 26/6/2006. ຮັກສາສຳເນົາທີ່ຫ້ອງວ່າການປົກຄອງແຂວງບລິຄຳໄຊ.
184. ຫ້ອງວ່າການປົກຄອງແຂວງບໍລິຄຳໄຊ (1988),
ລາຍງານການຮ່ວມມືກັບແຂວງເງ໋ ຕີ້ງ, ວັນທີ 06/4/1988.
ຮັກສາສຳເນົາທີ່ ຫ້ອງວ່າການປົກຄອງແຂວງບລິຄຳໄຊ.185. ຫ້ອງວ່າການປົກຄອງແຂວງຄຳມ່ວນ (1996),
ລາຍງານຕໍ່ກອງປະຊຸມພົບປະຄະນະຜູ້ແທນຄະນະພັກ,ອຳນາດການປົກຄອງແຂວງຄຳມ່ວນ ແລະຄະນະຜູ້ແທນແຂວງຮ່າຕີ້ງ., ວັນທີ 12/7/1996.ເອກະສານຮັກສາສຳເນົາທີ່ຫ້ອງວ່າການປົກຄອງແຂວງຄຳມ່ວນ
186. ຫ້ອງວ່າການປົກຄອງແຂວງຄຳມ່ວນ (1997),
ລາຍງານຕໍ່ກອງປະຊຸມກັບການນຳຂັ້ນສູງແຂວງຮ່າຕີ້ງ, ວັນທີ 26/4/1997.ຮັກສາສຳເນົາທີ່ ຫ້ອງວ່າການປົກຄອງແຂວງຄຳມ່ວນ
170
187. ຫ້ອງວ່າການປົກຄອງແຂວງຄຳມ່ວນ (2003),
ລາຍງານຕໍ່ກອງປະຊຸມພົບປະກັບຄະນະຜູ້ແທນຂັ້ນສູງແຂວງຮ່າຕີ້ງ,ວັນທີ 6/8/2003. ຮັກສາສຳເນົາທີ່ຫ້ອງວ່າການປົກຄອງແຂວງຄຳມ່ວນ
188. ຫ້ອງວ່າການປົກຄອງແຂວງບໍລິຄຳໄຊ (2009),
ລາຍງານການຜົນງານການຮ່ວມມືລະຫວ່າງແຂວງໄຊກັບແຂວງຮ່າຕີ້ງ, ເດືອນ 8/2009. ຮັກສາສຳເນົາທີ່ຫ້ອງວ່າການປົກຄອງແຂວງບລິຄຳໄຊ.
189. ຫ້ອງວ່າການປົກຄອງແຂວງຄຳມ່ວນ (2006),
ລາຍງານຜົນງານການຮ່ວມມືຕໍ່ກອງປະຊຸມຂັ້ນສູງລະຫວ່າງແຂວງຮ່າຕີ້ງ ແລະ ຄຳມ່ວນ, ວັນທີ 22/10/2010.ຮັກສາສຳເນົາທີ່ ຫ້ອງວ່າການປົກຄອງແຂວງຄຳມ່ວນ.