H co su cac nuoc an do hoa o vien dong
description
Transcript of H co su cac nuoc an do hoa o vien dong
1
CCổổ ssửử ccáácc nnưướớcc ẤẤnn ĐĐộộ hhooáá
ởở VViiễễnn ĐĐôônngg
2
Lời nói đầu
Cuốn sách này được ra mắt trong tập “Lịch sử Thế giới” xuất bản ở Pari tại
nhà xuất bản E. đơ Bôca, dưới sự giám sát của Giáo sư E. Cavainhắc. Đó là tập bổ
sung cho cuốn “Các triều đại và lịch sử Ấn Độ từ Canitxơkha đến thời kỳ xâm lược
của người Hồi”(Tập VI) của L.đờ Lu Valê Putxanh xuất bản năm 1935. Trong cuốn
đó vấn đề này đã được nêu lên trong một số bị chú chủ yếu và những thư mục (Phụ
lục 2: Hàng hải và sự xâm chiếm thuộc điạ, trang 291-297). Đáng lẽ tôi cũng nên
theo một phương pháp và một bút pháp như ông Putxanh, nghĩa là cung cấp cho bạn
đọc một tấm phích kèm theo lời nhận xét và khi có thể được cho vài nhận định khái
quát. Việc nghiên cứu lịch sử Đông Dương và vùng quần đảo còn rất mới so với
việc nghiên cứu lịch sử Ấn Độ, cho nên việc viết thành một câu chuyện liên tục và
chặt chẽ về những sự kiện chưa được biết thật đầy đủ thì có thể còn quá sớm. Tuy
nhiên tôi cũng phải làm vì ý định của tôi nhằm trình bày một cách tổng hợp các yếu
tố khác nhau tác động lẫn nhau như thế nào hơn là trình bày lịch sử với tất cả những
chi tiết của nó.
Vùng địa lý ở đây được gọi là “ngoại Ấn” gồm vùng quần đảo (trừ
Philippin), Đông Dương hay Ấn Độ bên ngoài Sông Hằng với bán đảo Mã Lai và
Miến Điện (trừ xứ Átxam là mảnh đất kéo dài của Ấn Độ và Bănggalơ, trừ Bắc kỳ
và Bắc trung kỳ Việt Nam là những vùng mà lịch sử đã phát triển ngoài ảnh hưởng
của Ấn Độ).
Những tài nguyên thiên nhiên và vị trí địa lý của vùng trên tạo cho nó một
địa vị có tầm quan trọng hàng đầu. Vào thời kỳ đầu công nguyên sau khi là “xứ
vàng” của những nhà hàng hải Ấn Độ, Đông Dương và nhất là vùng quần đảo, vài
thế kỉ sau, vùng này trở thành xứ hương liệu, long não và gỗ thơm (hương mộc) đối
với người Ả Rập và người Âu châu trước khi trở thành một trong những nơi sản
xuất cao su, thiếc và dầu hỏa quan trọng nhất. Mặt khác, do vị trí vùng quần đảo và
các đảo Xông đơ là bến đỗ bắt buộc đối với các nhà hàng hải đi từ phương Tây và
Ấn Độ sang Trung Quốc hay nguợc lại, nên nó có tầm quan trọng đối với việc buôn
bán bằng đường biển.
Về mặt văn hóa, ngoại Ấn hiện nay có đặc điểm về những vết tích ít hay
nhiều sâu sắc về sự Ấn Độ hóa trước kia: sự quan trọng của yếu tố chữ Phạn trong
từ vựng các thứ ngôn ngữ ở vùng này, gốc Ấn Độ của những chữ cái trước đây hoặc
hiện nay vẫn dùng, ảnh hưởng của luật pháp và tổ chức hành chính của Ấn Độ, sự
lưu truyền một vài truyền thuyết Bàlamôn ngay trong những nước đã cải giáo theo
đạo Hồi hay đạo Phật Xâylan, sự có mặt của một số công trình kiến trúc có liên
3
quan về mặt kiến trúc và điêu khắc đối với nền mỹ thuật Ấn Độ và có mang các bút
tích bằng chữ Phạn.
Sự bành trướng của nền văn minh Ấn Độ “về những miền và những đảo ở
phía Đông mà nền văn minh Trung Quốc hình như đến trước đó do một sự tương
ứng hiển nhiên”.1 Sự bành trướng đó là một giai đoạn nổi bật trong lịch sử thế giới,
một trong những giai đoạn đã quyết định số phận một phần nhân loại đáng kể.
X. Lêvi viết “là xứ sở của trí khôn, Ấn Độ đã cung cấp cho các nước láng
giềng những chuyện ngụ ngôn của mình, và các nước này lại đi truyền dạy cho cả
thế giới. Là xứ sở của tín ngưỡng và triết học, Ấn Độ cho ba phần tư châu Á một vị
thần, một tôn giáo, một chủ nghĩa, một nền nghệ thuật. Ấn Độ mang đến một ngôn
ngữ thần thánh, một nền văn học và một nền giáo dục của nó vào vùng quần đảo
cho tới giới hạn của thế giới đã được biết, và từ đó nhảy về Mađagatxca, và có thể
vào cả miền ven biển châu Phi, ở đó hiện nay làn sóng di thực của những người Ấn
Độ hình như đi theo vết tích đã mờ của quá khứ”.2
Người ta có thể đo được tầm quan trọng của sự tác động của nền văn minh
Ấn Độ trong một nhận xét đơn giản sau: chỉ xét về những đặc điểm về cơ thể một
người nông dân Campuchia không khác một người Ponông hay một người Xamre.
Nhưng những người Ponông hay những người Thượng ở Việt Nam vẫn ở trong giai
đoạn tổ chức bộ lạc: họ giải quyết những sự xung đột theo tục lệ khẩu truyền, về tôn
giáo họ chỉ có thuyết linh hồn thô sơ, trong đó các yếu tố có thay đổi từ bộ lạc này
sang bộ lạc khác; vũ trị luận của họ còn rất ấu trĩ, họ chưa có chữ viết. Trong khi đó
người Campuchia chậm phát triển nhất cũng nằm trong guồng máy của một quốc
gia đã phân chia đẳng cấp mạnh mẽ; họ chịu quyền quản hạt của những tòa án và
những tòa án này xét xử theo luật viết. Họ nhiệt tâm theo một tôn giáo đã có giáo lý,
thánh kinh và tăng lữ, đồng thời tôn giáo đó đã cho họ những quan niệm chặt chẽ về
tổ chức thế giới loài người và thế giới bên kia, là những quan niệm của phần rất lớn
những người châu Á; cuối cùng họ đã đặt ra một hệ thống chữ viết, nó giúp cho họ
đi tới một nền văn học rộng rãi và cho phép họ có thể truyền đi xa trong những
người đồng chủng. Tất cả điều đó họ phải nhờ ở Ấn Độ, và để tóm tắt nhận thức đó
trong một nhận thức hơi thô thiển, người ta có thể nói người Campuchia là một
người Pônông đã được Ấn Độ hóa. Nếu thay đổi một số từ trong công thức đó,
người ta có thể áp dụng cho người Miến Điện, người Thái phương Nam, người
Chàm xưa, người Malai và người Giava trước khi có Hồi giáo. Từ sự Ấn Độ hóa đó
nảy sinh ra một loạt những vương quốc, những nước này mới đầu là những quốc gia
1 X. Lê vi “Ấn Độ khai hóa”. Tr.136
2 X. Lêvi, sách trên. Tr. 30.
4
Ấn Độ thực sự, sau đó, dưới sự phản ứng của thổ dân địa phương, nó đã phát triển
tùy theo sáng kiến riêng từng nơi, nhưng vẫn giữ được trong các biểu hiện về văn
hóa cái phong thái gần gũi mà họ đã tiếp nhận từ cùng một nguồn gốc: Campuchia,
Chàm, các nước nhỏ ở bán đảo Malai, các vương quốc ở Xumatơra, Giava, Bali, các
vương quốc Miến Điện và Thái và cuối cùng các nước đó đã tiếp nhận nền văn hóa
Ấn Độ qua sự trung gian của người Mông và người Khơme.
Điều kỳ lạ là chính nước Ấn Độ đã mau chóng quên rằng nền văn hóa của họ
đã lan truyền về phía Đông và Đông Nam trên những miền rộng lớn như vậy.
Những nhà bác học Ấn Độ đã từng biết đến điều đó cho tới thời gian gần đây và
phải đến khi có một số nhóm nhỏ học tiếng Pháp và tiếng Hà Lan ở các trường Đại
học Pari và Lâyđơ mới khám phá ra, trong các công trình nghiên cứu của chúng ta
và của các đồng nghiệp Hà Lan và Giava, lịch sử cái mà hiện nay họ đã tự hào một
cách chính đáng gọi bằng danh từ “Đại Ấn Độ”.
Chương đầu tiên tên là “Xứ sở và dân cư” trình bày một sơ đồ địa lý cực kỳ
vắn tắt, và một bản tóm tắt những hiểu biết hiện nay về tiền sử và nhân chủng về
Đông Dương và vùng quần đảo. Thực ra cũng cần có một số quan niệm về cơ sở
trên đó nền văn minh Ấn Độ đã lan tràn.
Chương hai nghiên cứu các nguyên nhân, thời kỳ, các hình thái, các kết quả
đầu tiên của sự Ấn Độ hoá một cách tích cực trên phạm vi các miền đã quy định
trong chương trên.
12 chương sau kể lại những sự kiện nổi bật đã tạo nên đường nét của lịch sử
cổ miền ngoại Ấn cho tới khi người Âu châu tới.
Muốn chia thành chương mục một vấn đề vừa rộng vừa phức tạp như vậy,
phương pháp đơn giản nhất là có lẽ là cắt ra thành đoạn theo chiều thẳng dọc hoặc
khoanh vùng địa lý như người ta đã làm, thí dụ R. Gơrutxê trong các tác phẩm của
ông3 và tóm tắt lại rồi nêu ra những khảo chứng mới nhất như công trình của E.
Aymôniê,4 P. Penliô,
5 G. Matxpêri,
6 B. R. Sáttergi
7 về Phù Nam và Campuchia, của
G. Matxpêri8 và R. C. Magiumđar
9 về Chàm, c ủa A. P. Phayrơ
10 và G. E. Hácvây
11
3 “Lịch sử châu Á” Paris-Coretx, 1922: “Lịch sử viến Đông” Paris-Gớt, 1929 “Các nền văn minh phương
Đông” Pari, Coret, 1929-1930. 4 “Nước Campuchia” Tập III: “Nhóm Ăngco và lịch sử”. Pari, 1901.
5 “Nước Phù Nam” BEFEO III, tr. 248-303.
6 “Đế quốc Khơme, lịch sử và tài liệu” Pônông Pênh-1904.
7 “Ảnh hưởng nền văn hoá Ấn Độ ở Campuchia”, Calcutta , 1928.
8 “Vương quốc Chăm” Pari, Van oét, 1928.
9 “Thuộc địa cũ của Ấn Độ ở Viễn Đông”. I. Chăm, 1927
10 “Lịch sử Miến Điện” Luân đ ôn. Tơrupnơ, 1883.
11 “Lịch sử Miến Điện” Luân đôn, Yoong man Gơria, 1925.
5
về Miến Điện, của W.A.R.Útđơ12
và P. N. Bôđơ13
về Thái Lan, của P. Lơ Bnhăng
giê về Lào14
, của G. Pherăng15
, của R. C. Magiumđar16
, Nilacăngta Xatxtơri17
, R. O.
Uynxtét18
, R. Bơratđin19
về Malai và của N. J. Cơrôm20
về các đảo Xông đơ.
Phương pháp đó bắt buộc phải liên tục nhắc lại mọi trường hợp nói về mối
liên hệ giữa các quốc gia hay giản đơn hơn, về những sự kiện có quan hệ đến nhiều
nước một lúc, cho nên tôi thích phương pháp coi ngoại Ấn là một khối và cắt vấn đề
ra theo chiều ngang hoặc theo niên biểu.
Cách chia cắt đó dễ hơn người ta tưởng vì các nước khác nhau trong vùng
quần đảo và Đông Dương đã được Ấn Độ hoá, do vị trí địa lý của nó, cũng quy tụ
về trung tâm chính trị Trung Quốc. Phần lớn các nước đó chịu ảnh hưởng của các
chấn động lớn đã làm rung chuyển bán đảo Ấn Độ và Trung Quốc. Sự chinh phục
của Sandragúpta trong thung lũng sông Hằng và ở Trung Ấn vào thế kỷ IV, chính
sách bành trướng của các vua Chola ở Tanjour vào thế kỷ XI, đã có những sự phản
xạ bên kia bờ vịnh Bănggalơ. Hơn thế nữa, các biến cố ở Trung Quốc đã ảnh hưởng
một cách rõ rệt đến lịch sử ngoại Ấn. Các triều đại lớn ở Trung Quốc không bao giờ
nhìn với con mắt thiện cảm sự hình thành các cường quốc ở vùng biển phía nam và
đáng chú ý là các thời kỳ phát triển cao của Phù Nam, Campuchia và các vương
quốc Giava, Xumatơra lại thường trùng hợp với các thời kỳ suy yếu của các triều
đại lớn ở Trung Quốc. Mặt khác, các nước ngoại Ấn đã đoàn kết với nhau do một
loạt rằng buộc về địa lý và kinh tế, và mỗi cuộc cách mạng ở một nước nào, trong
khi làm rung chuyển cả khối, đã có phản xạ trong các nước khác. Sự phân biệt của
đế quốc Phù Nam, sự nảy sinh ra vương quốc Xumatơra thời Xrivijaya, việc lên
ngôi của Anôrattha ở Pagan hay Suryavaruman II ở Ăngco, sự thành lập vương
quốc Thái ở Sukhôthai, đều có ảnh hưởng ra ngoài biên giới những nước đương sự.
Vì vậy có những niên hiệu đáng ghi trong lịch sử ngoại Ấn tương đương với những
“bước ngoặt” thực sự, và nó cho phép cắm mốc một số thời kỳ, mỗi thời kỳ có bộ
mặt riêng của nó, in dấu của một nhân vật có uy lực lớn, hay nổi bật về ưu thế chính
trị của một quốc gia hùng mạnh.
12
. “Lịch sử Xiêm” Luânđôn Phít sơ Unuyn, 1926. 13
“Thuộc điạ Ấn Độ ở Xiêm” Punjap Oriental (Phạn) XêriXIII. Lahore 1927 14
“Lịch sử Lào thuộc Pháp” Pari, Pơlông, 1930. 15
“Đế quốc Xumatơra của Xrivigiaia”-Báo Á châu, 1922. 16
“Thuộc địa của Ấn Độ ở Viễn Đông II”-Xuvácnátvipa Đắcca, 1937. 17
“Xrivigiaya” BEFEO XL, tr. 239-313. 18
“Lịch sử Mã lai” Báo Mã lai thuộc RAS. XIII-1935. 19
“Lời nói đầu của việc nghiên cứu thời kỳ cổ của bán đảo Mã lai và Malăcca”-như trên-XIII (1935) và tiếp
sau. 20
“Lịch sử Ấn Độ - Giava” Lahay Nijop, 1926 (xuất bản lần 2, 1931).
6
Chương cuối cùng để kết luận nhằm dựng lên một mục lục vắn tắt về món
gia tài của Ấn Độ, do quá trình khai hoá đã để lại cho những nước được thừa hưởng
trong hơn một nghìn năm.
Thường theo ý muốn riêng của tôi, bản này bao trùm một tính cách triều đại
biên niên và tạo ra một cảm giác bộ xương không có thịt. Điều đó do tính chất các
nguồn tài liệu sử dụng (biên niên Trung Quốc, các minh văn) và cũng do tình trạng
tiến triển của các công cuộc nghiên cứu về Đông Dương và Anhđônêdiêng. Nhiệm
vụ cấp thiết nhất đặt ra cho các nhà nghiên cứu là hạn định các địa danh cổ và xác
định các niên hiệu triều đại, tóm lại là vạch ra một cái khung địa lý và một cái
khung niên đại. Những cái đó hầu như được vẽ lên một cách hoàn toàn cho phần lớn
các nước, và tương đối đầy đủ cho nhiều nước. Tôn giáo và nghệ thuật bắt đầu được
hiểu biết nhiều, nhưng cũng còn nhiều việc phải làm về lịch sử các chế độ chính trị
và về nền văn minh vật chất. Trên các vấn đề đó, minh văn học có khả năng cung
cấp một số tài liệu khi sự thuyết minh các văn bản bằng thổ ngữ được tiến triển hơn,
việc đó thường không thú vị và không hấp dẫn đối với một số không ít những nhà
nghiên cứu.
Một khuyết điểm khác chắc làm độc giả chú ý không kém là sự khác biệt về
ngữ điệu, gần như về bút pháp giữa những đoạn trong cùng một chương. Như khi
vương quốc Pagan xuất hiện hồi thế kỷ XI, người ta có ấn tượng là lịch sử của nó
sinh động hơn nhiều so với lịch sử Campuchia; cũng như vậy một số thời kỳ lịch sử
của Campuchia cũng ít sự kiện chính trị có ngày tháng chính xác so với lịch sử
Chàm. Sự thiếu thống nhất giữa các phần khác nhau trong tập này là kết quả của
ngay các nguồn tư liệu được sử dụng. Lịch sử Campuchia hiện nay được xây dựng
trước hết trên cơ sở các minh văn. Còn lịch sử Chàm được thừa hưởng một tư liệu
phong phú nhất trong các cuốn sử biên niên của Trung Quốc và Việt Nam. Và lịch
sử Miến Điện cũng dựa vào các tư liệu biên niên cũ. Nếu đối với Campuchia người
ta cũng có sử ký đã tiểu thuyết hoá (dã sử) như ở Miến Điện thì có thể những hình
ảnh mờ nhạt của Yacovarman hay một Suryavaruman II sẽ nổi lên hơn và làm sống
lại cuộc đời của các ông vua đó, cũng lẫm liệt hùng cường như cuộc đời của các ông
vua ở Pagan. Chứng cớ là nhân cách vua Jayavarman VII do sự ghi chép không theo
lối tu từ thần thoại thông thường để thuật lại các hành trạng một cách chính xác, nên
đã cô đúc lại để có thể vẽ lên một chân dung sinh động.
Những tài liệu dùng để dựng lên lịch sử các quốc gia bị Ấn Độ hoá ở Đông
Dương và vùng quần đảo: sử ký, sử biên niên địa phương, sự liên lạc với nước
ngoài (Trung Quốc, Ả rập, châu Âu) đều được liệt kê trong các tác phẩm chung đã
kể trên. Từ bản liệt kê đó toát ra hai nguồn tư liệu lớn tức là sử biên niên Trung
7
Quốc và các sử ký. Giá trị của các nguồn đó phần nhiều ở sự chính xác về niên biểu
nhưng lại có nhiều thiếu sót. Nó chỉ phù hợp với một số loại sự kiện: những quan hệ
ngoại giao hay thương mại giữa Trung Quốc và các nước phương Nam, việc thành
lập các tôn giáo... Sự phong phú của nó ở thời kỳ này hay sự nghèo nàn ở một thời
kỳ khác thường tạo ra nguy cơ cung cấp những quan niệm sai về sự thật, và lý lẽ
“thà im lặng là hơn” lại càng nguy hiểm. Thí dụ triều Jayavarman II, vua
Campuchia từ 802 đến 854 không để lại sử ký, cho nên nếu kết luận rằng triều dại
đó không có gì thú vị là sai. Còn về nguồn tài liệu Trung Quốc, sự im lặng của nó
đối với một nước nào đó không có nghĩa là nước đó bị lép vế mà thường do kết quả
của sự suy yếu nhất thời trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc
Từ khi châu Âu bắt đầu chú ý đến các nước ngoại Ấn - thường vì lý do xâm
chiếm thuộc địa - những cuộc tìm hiểu trên các mảnh đất đó và các công trình
nghiên cứu lịch sử đã được đẩy mạnh một cách không đều nhau trên các miền khác
nhau.
Việc sưu tầm khảo cổ ở Campuchia, Chàm và Giava đã làm rạng danh những
người tham gia vào việc đó, song nó còn lâu mới được hoàn thành và mỗi năm
người ta còn thấy trên đất Ăngco rất nhiều bút tích mới. Việc tìm tòi mối manh mới
bắt đầu ở Xumatơra, nó còn rất muộn màng ở Xiêm và đặc phát ở bán đảo Mã Lai.
Minh văn học đã phát triển khá tốt ở khắp nơi, tìm ở Miến điện còn thiếu nhiều bản
phiên dịch. Việc khai thác tài liệu Trung Quốc được hoàn thành đối với các nước
Phù Nam, Chàm, một số bộ phận ở vùng quần đảo, nhưng còn rất không đầy đủ đối
với Campuchia, Miến Điện, các nước Thái.
Sự thiếu kết hợp trong việc tìm tòi và sử dụng các tài liệu là hậu quả không
tránh khỏi của việc phân chia vùng ngoại Ấn ra thành nhiều quốc gia hay thuộc địa,
có nhiều chế độ khác nhau và phát triển không đồng đều. Thêm vào tình trạng rời
rạc và hỗn tạp của các nguồn tài liệu kể trên, thật là khó khăn và có lẽ là quá sớm
khi viết công trình đầu tiên này nhằm dựng lên một lịch sử tổng hợp của các nước
vùng ngoại Ấn.
Tới nay, người ta sẽ thứ lỗi cho tôi khi cung cấp cho phần sử Campuchia nói
chung nhiều chi tiết với nhiều chú thích hơn các nguồn tài liệu gốc. Không phải do
méo mó nghề nghiệp mà tôi dành ưu thế cho lịch sử dân tộc Khơme mà chính vì đối
với nước Chàm và Giava chẳng hạn, người ta có thể đọc các luận văn lịch sử của G.
Matxpơrô và N. J. Cơrôm, các ông này đã cho một bản tóm tắt đầy đủ những kiến
thức hiện đại, trong lúc Campuchia không có được như vậy. Trong một chừng mực
nào đó tôi nghĩ rằng nếu bổ xung lỗ hổng bằng cách rải ra trong các chương của
8
cuốn sách này những tài liệu chính xác về cổ sử Campuchia lấy trong các công trình
nghiên cứu mới nhất.
Không phải chỉ nhằm viết cho quảng đại độc giả mà còn nhằm viết cho các
nhà sử học, ngôn ngữ học, nhân chủng học, đối với họ còn thiếu một bảng mục lục
các sự kiện lịch sử của phần trái đất này, tôi cũng không ngần ngại khi có dịp đưa ra
một bản khái yếu các ý kiến tranh luận hiện nay về một số vấn đề tế nhị hay đang
bàn cãi.
Ở đó, tính chất kỹ thuật sẽ chậm lại, nhưng sự im lặng hay ngược lại, một sự
khẳng định quá rõ ràng có thể dẫn tới những hình thức sai. Nên cuốn sách này mang
lại một chút lợi ích bằng cách tổng cộng những điều từ nay đã thu được21
và chỉ ra
các điểm còn tối mò cần đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu tìm tòi, thì tôi mong
rằng độc giả sẽ miễn thứ cho các khuyết điểm của nó.
*
* *
Để thuận lợi cho việc in cuốn sách này, việc sao lại các danh từ riêng và các
từ thuộc ngôn ngữ Ấn Độ - Đông Dương và vùng quần đảo đã được đơn giản hoá
bằng mọi cách có thể được. Các địa danh hiện đại trừ một vài trường hợp hiếm hoi,
đều được ghi với thứ chữ quen thuộc với độc giả Pháp.
Bản phiên tiếng Trung Quốc đã được trường Viễn Đông Pháp Quốc công
nhận đều được sao lại nguyên văn. Nhưng đối với tiếng An-nam (tiếng Quốc ngữ)
thì phần lớn đều bỏ dấu và những gì thuộc về ngữ điệu thì bỏ hẳn. Chữ đ cũng bỏ
dấu ngang. Dấu chữ ơ và ư được thay bằng dấu „„. Tôi xin lỗi bạn đọc An nam về
những sự cắt bỏ đó.
Việc Latinh hoá chính thức tiếng Campuchia, tiếng Lào và Thái cũng được
đơn giản hoá bằng cách như vậy.
Còn đối với chữ Phạn và chữ Pali thì có những thay đổi sau: dấu kéo dài
được thay bằng dấu mũ; - những (tr.11) âm c và ch được viết bằng ch và ch‟- những
âm lưỡi và âm não được đánh dấu bằng một chấm dưới dưới dấu âm răng (xỉ âm)
thì được viết ngả trong chữ latinh và ngược lại (pandita, pandita); đối với chữ
annusvarra (m) và visarga (h) cũng vậy; những âm mũi đặt trước một bế tử âm
không được phân biệt bằng một dấu nào cả và việc phát âm được bế tử âm chi phối
(Gangâ: âm mũi và âm cổ họng, pancha: âm mũi (tr.11) (nasale palatale), nhưng khi
21
Các thư mục ghi trong các chú thích không nhằm khảo cứu đến ngọn nguồn. Nó chỉ kê ra những công trình
chủ yếu mà độc giả có thể thấy từ đó những (thiếu)__
9
cần chính xác, âm cổ họng được ghi bằng ng, âm (tr.12) được ghi bằng n‟; - âm lưỡi
kêu thường được viết ra bằng chữ s có một chấm ở dưới và viết là sh.
10
Chương I:
Xứ sở và dân cư
1. Địa lý khái quát
Đây không phải là vấn đề cung cấp một cuốn địa chí chi tiết về miền này,
một miền vừa rộng vừa phức tạp trên đó lan tràn nền văn minh Ấn Độ bắt đầu từ bờ
biển phía đông của Ấn Độ. Người ta sẽ thấy trong tập thứ hai “Á châu gió mùa” của
J. Xiông, dưới đầu đề: Phần bốn: “Đông Dương và quần đảo Nam Dương” một bức
tranh rất oai nghiêm về khoảng đất này của thế giới. Ở đây chỉ cần nêu ra một số nét
chung đã tạo nên một sự thống nhất nào đó của miền này và sự hiểu biết những nét
đó rất cần thiết cho việc thông hiểu những biến cố lịch sử đã diễn ra ở đây.
Bán đảo Đông Dương và quần đảo Nam Dương là những xứ nhiệt đới chịu
ảnh hưởng của gió mùa. Mặc dầu những biến đổi từ năm này qua năm khác, có thể
rất tai hại đối với việc trồng trọt, sự luân lưu của những mùa khô và mùa mưa đã tạo
nên điều kiện sinh sống của dân định cư, và sự luân lưu của mùa gió chủ yếu đã
quyết định hướng đi của ngành giao thông bằng thuyền buồm.
Nhờ Miến Điện, bán đảo Mã Lai và đảo Xumatơra, miền ngoại Ấn có bộ mặt
phía Tây quay về Ấn Độ dương mà ở đó, theo lời Xinvanh Lêvi, “chế độ các luồng
nước và chế độ gió định kỳ vẫn điều khiển việc giao thông đường thuỷ, đã duy trì từ
rất lâu đời một quy tắc trao đổi mà miền duyên hải châu Phi, nước Arập, vịnh
Perơxicơ, Ấn Độ, Đông Dương và sau nó là Trung Quốc, đã liên tiếp trao đi và
nhận lại phần của mình”22
.
Ở phía bên kia hàng rào thiên nhiên do bán đảo Mã Lai và các đảo liền sau
đó tạo nên, thật sự là một “Địa Trung Hải” hình thành bởi biển Trung Hoa, vịnh
Thái Lan và biển Giava. Miền nội hải đó, mặc dầu có nhiều bão và đá ngầm, vẫn là
cái mối liên kết hơn là vật chướng ngại đối với nhân dân miền bờ biển. Từ rất lâu
trước khi những nhà hàng hải nước ngoài tới, nhân dân ở đây đã có ngành hàng hải
của mình, và nhờ việc trao đổi liên tục, họ đã phát triển một nền văn hoá chung mà
ta sẽ nói đến sau. Nền văn hoá tiền Ấn Độ đó đã phát triển ở miền ven biển, trong
các thung lũng và các châu thổ các sông lớn: Mê Kông, Mê Nam, Inraoađi và
Saluyn, trong các miền đồng bằng trũng ở Giava và trong lưu vực các sông phát
nguyên gần bờ biển ở Việt Nam, bán đảo Mã Lai, Xumatơra, những sông đó không
thuận lợi lắm cho việc giao thông nhưng rất tốt cho việc tưới ruộng. J. Xiông đã viết
(trang 513): “Ở đó người dân văn minh, chủ yếu và duy nhất là người ở miền đồng
bằng, họ bỏ lại cho người thổ dân, miền núi không phải là nghèo nàn lắm, trong lúc
22
Về lịch sử của Ramayana - Nhật báo Á châu- tháng 1 và tháng 2, 1918, tr. 147.
11
họ đã có từ lâu cách sử dụng, khai thác nhờ họ có kê, một vài thứ lúa và các đàn gia
súc”. Sự thoái hoá của người thổ dân và của “người kém văn minh” về phía núi có
lẽ là một hiện tượng rất xa xưa, hành động đó còn tiếp diễn trong nhiều thế kỷ và
đặc biệt rất dễ thấy trong thời kỳ Ấn Độ hoá. Nó giải thích trong một phạm vi rộng
môn địa tầng nhân chủng học của các nước thuộc ngoại Ấn. Miền núi vẫn là miền
của những người dân thường khi du canh du cư, sống bằng săn bắn, hái quả và phát
rẫy, điều đó đến giữa thế kỷ XX, vẽ lên một bức tranh kém phát triển của thời đại
đồ đá mới.
2. Tiền sử
Mặc dầu các công trình của H. Măngxuy23
, M.Côlani24
, E. Pattơ25
, J.
Fơrômagiê và E Xôranh26
, P. Lêvi27
về Đông Dương, I. H. N. Êvăng28
, P. V. Van
Sten Canlăngfen29
, A. N. J. TH. Ath Van Đe Hốp30
, R. Fôncơ Nitôn31
về Mã Lai và
quần đảo Nam Dương, F. Xarađanh32
về Thái Lan, J. Côganh Bơrao33
, T. O. Môrit34
về Miến Điện, tiền sử miền ngoại Ấn vẫn còn ở trạng thái nghiên cứu và những luận
văn xuất sắc của R. Fôn Hennơ - Ghenđerơ35
cũng vẫn chỉ mới được coi như là
những giả thiết.
23
“Tiền sử ở Đông Dương”. Pari, 1931, triển lãm thuộc địa quốc tế: Đông Pháp, khu khoa học (gồm một thư
mục các công trình); “Tiền sử và cận sử” trong Đông Dương của G. Matxpơrô, tập I, tr. 83-92. 24
Thêm vào các công trình kể trong tác phẩm trước: “Tìm hiểu tiền sử Đông Dương” (EFEO. XXV- XXVI);
“Việc sử dụng đá thời cổ xưa”, Hà Nội, 1940 (Tập san Những người bạn của Huế cổ). 25
“Ghi chép về tiền sử Đông Dương” Thông báo của Sở địa chất Đông Dương, 1923 – 1932; “Đông Dương
tiền sử”, Tạp chí nhân loại học, 1936, tr. 277-314. 26
“Ghi chép mở đầu về sự hình thành dãy Trường Sơn và miền thượng Lào” (Địa tầng, Tiền sử, Nhân chủng)
Thông báo của Sở Địa chất Đông Dương XXII, 3,1936 - Về những phát hiện sau thời gian này, xem các
công trình của cùng một tác giả trong “Hồ sơ của Hội nghị lần thứ ba của những nhà nghiên cứu tiên sử Viễn
Á” Xinggapo 1938. Tr. 51-90. 27
“Nghiên cứu tiền sử vùng Mlu Plây, kèm theo những so sánh khảo cổ”, Hà Nội, IOEO, 1943 (EFEO,
XXX). 28
“Bút ký về nhân chủng và khảo cổ ở bán đảo Mã lai” Cambơritgiơ, 1927; một số lớn bài trong “Nhật báo
Viện bái vật liên bang Mã Lai”VII, IX, XII, XV. 29
“Báo cáo về sự khai quật ở Pêrắc” Uđây Canđích, Verxlay, 1926, tr. 184-193 và “Nhật báo Viện bái vật
liên bang Mã Lai” XII, 1928; “Ghi chép mở đầu về những khai quật dưới đá ở Sampung” Batavia, 1932;
“Góp phần vào việc dựng niên đại sử thời đại đồ đá mới ở Đông Nam châu Á” Vexlac 1926, tr. 174-180;
“Góp nhặt tài liệu tiền sử ở Korte Gids” K. Batgin Jacbôec II, 1934, tr. 69-106 và một số bài trong thông báo
của Viện bái vật Raptơn, Xinggapo, Loại B. 30
“Cự thạch bi ở vùng Nam Xumatơra” Tienơ Đutfen, 1932. 31
“Về thời dại đồ đá cũ ở Giava” Titcơrit K. Nêđe, 1936, tr. 41-44; “Đồ đá mới ở vùng lân cận Băngđung”-
sách trên -L XXV, 1935, tr. 324-419. 32
“Tìm hiểu về tiền sử nước Xiêm” Nhật báo Hội Xiêm XXVI, 1933, tr. 171-20, “Tìm hiểu về tiền sử nước
Xiêm-Nhân chủng học” XLIII, 1933, tr. 1 - 40 33
“Tìm hiểu về cổ sử Miến Điện”, Nhật báo Hội Miến Điện XXI, 1935, tr. 33-51. 34
“Tài liệu về tiền sử Miến Điện” Sách trên-XXV, 1935, tr.1-39; “Cổ vật bằng sắt và đồng ở Miến Điện”
Sách trên -XXVIII, 1938, tr. 95-99. 35
“Quê hương đầu tiên và những cuộc di thực lớn nhất của người Nam Đảo” Tạp chí Nhân chủng XXVII,
1932; “Đóng góp vào niên đại thời đại đồ đá mới ở Đông Nam châu Á”, Kỷ niệm P. W. Xunít, 1928; “Tìm
hiểu tiền sử Inđônêxia” Niên lịch thư mục của Ấn Độ khảo cổ viện, 1934-IX, tr. 26-38; “Cơ sở tiền sử của
nền nghệ thuật Ấn Độ thuộc địa” Wiener Beitrage Zur Kunst và Knetur Geschichte Asiens-VIII, 1934.
12
Cần hạn định ở đây việc nhắc lại các sự kiện có thể mang lại một quan niệm
phỏng chừng về nền văn hoá và sự phân bố cổ xưa của các nhóm nhân chủng mà
nền văn minh Ấn Độ đã tác động vào, theo một tiến trình được nghiên cứu ở
chương sau.
Từ thời kỳ rất xa xăm, dân cư vùng ngoại Ấn đã bao gồm nhiều yếu tố rất bất
đồng, một số có họ hàng với người Nêgơritô và người Vétđát, một số khác gần gũi
người Úc và người Papua Mêlanêdiêng36
. Kết luận sáng sủa nhất rút ra từ điểm đó
là những cư dân nguyên thuỷ ở Đông Dương và quần đảo Nam Dương có mối liên
hệ với những cư dân hiện nay ở các đảo vùng Thái Bình Dương, và yếu tố Mông Cổ
chỉ là một nguồn gốc rất gần đây. Điều quan trọng ở đây không phải là các chủng
tộc người mà là các loại văn hoá.
Những cư dân cổ xưa đã để lại những đồ dùng bằng đá, bằng xương hay kim
khí, những mảnh đồ gốm, đồ thuỷ tinh, và ở một số vùng họ còn để lại những khối
cự thạch. Niên đại của các vết tích đó còn lâu mới được dựng nên một cách hoàn
hảo. Không những việc xác định thời gian tuyệt đối gặp khó khăn mà việc xếp đặt
thứ tự thời gian của các dụng cụ cũng chưa được xây dựng. Việc các đồ đá mài
thường kết hợp với đồ dùng bằng sắt chứng tỏ rằng thời kỳ tiền sử ở đây kéo dài rất
lâu, lâu hơn ở châu Âu. Và người ta có thể nói không ngoa rằng trong những thế kỷ
cuối cùng trước công nguyên, khi mà nền văn minh Trung Quốc và Ấn Độ bắt đầu
tác động một cách sâu sắc, thì cư dân miền ngoại Ấn mới bắt đầu sử dụng kim khí
như đồ dùng thông thường, dưới ảnh hưởng của các nước láng giềng.
Gác lại những vết tích tìm thấy về thời kỳ cách tân ở Giava (Vượn người ở
Trinin, người Nêanđéctan ở Xôlô, người cổ xưa ở Wajắc) ra ngoài phạm vi quyển
sách này vì nó quá cổ xưa, ta sẽ hạn định chỉ nêu ra ở đây những thời kỳ chính trong
tiền sử Đông Nam châu Á và Đông Dương.
Thời kỳ thứ nhất có đặc điểm về những đồ đá đẽo và sự vắng mặt hầu như
hoàn toàn về đồ gốm, đã để lại những dấu vết ở Bắc Kỳ (Tỉnh Hoà Bình), Bắc
Trung Kỳ, Lào (Luông phrabăng), Thái Lan (Chiềng Ray, Lop buri, Rát buri), Mã
Lai (Guakécbâu, Pêrắc). Trên miền bờ biển phía đông của Xumatơra, những cái rìu
ghè trên một mặt cũng hình như ở cùng một thời kỳ này. Những tác giả nào muốn
dành riêng thuật ngữ “thời đại đồ đá cũ” cho kỹ nghệ Sen của những người ở thời
kỳ cách tân ở Giava, đều gọi là “thời kỳ đồ đá giữa” nền văn minh mà người ta gọi
chung là “Hoà Bình”.
36
P. Huya và E. Xôrang “Tình trạng hiện nay về môn học Xương sọ học ở Đông Dương” Thông báo của Sở
Địa chất Đông Dương-XXV, I, 1938
13
Trong một số địa điểm, những công cụ bằng đá đẽo có lẫn với những công cụ
đá mài ở lưỡi là đặc điểm của kỹ nghệ Bắc Sơn (Phát hiện ở dãy núi Bắc Sơn - Bắc
Kỳ), và cả một số ít đồ gốm và dụng cụ bằng xương.
Những hài cốt tìm thấy ở Hoà Bình và Bắc Sơn có những đặc điểm gần gũi
với những giống người Úc và Papu Mêlanêdiêng. Ngược lại, những người nào gắn
với nền kỹ nghệ mảnh tước và đồ đá nhỏ đã được xác nhận ở Xumatơra, Giava,
Boocnêô và Xêlipbô thì hình như gốc từ người Nêgơritô và Vétđắc.
Một hình thức sau cùng của nền văn hoá thời kỳ đồ đá cũ hay đồ đã giữa
muộn, có đặc điểm về những đồ dùng bằng xương và được xác nhận ở Đông
Dương, Thái Lan, Mã Lai, từ Xumatơra đến Nhật Bản qua Giava, Xêlipbô,
Boócnêô, Philippin, Đài Loan, Đảo Riukiu, có thể có liên quan đến sự di dân của
một giống người nào đó cần phải xác định.
Kỹ nghệ thời đại đồ đá mới mà người ta thấy vết tích ở hầu khắp mọi nơi ở
Viễn Đông có thể do những người mới đến đem lại từng phần, có lẽ bởi người
Anhđônêdiêng là những người hiện nay cấu thành một phần lớn cư dân ở miền
ngoại Ấn. Rất phong phú về đồ gốm có hình vẽ thường khi gợi lại các kiểu của
Trung Quốc cổ và của phương Tây, nền văn minh thời đại đồ đá mới không mất đi
khi đồ kim khí ra đời: hầu như người ta có thể nói rằng tinh thần của nó còn tồn tại
trong một số nhóm người ở miền núi và ở nội địa.
Vào thời đại đồ đá mới, người ta nhận thấy giữa các vùng phía bắc và phía
trung của diện tích địa lý nghiên cứu ở đây, một sự tách ra, có lẽ vì sự di thực của
những yếu tố di thực Mông Cổ hay đã Mông Cổ hoá đầu tiên. Miền Trung Đông
Dương hay miền Nam Trung Quốc và Đông Bắc Ấn Độ là những vùng có các loại
rìu có chuôi tra cán, là dụng cụ đặc biệt của những cư dân nói tiếng gần gũi với
tiếng Nam Á37
trong lúc ở những nước nói tiếng Anhđônêdiêng ở phía Nam chỉ biết
tới những cái rìu đục có tiết diện hình tam giác hay bán nguyệt.
Do những công cụ đi theo các cự thạch rải rác trong tất cả các miền ngoại Ấn
đều đã thuộc về thời đại kim khí, tức là thời kỳ thự sử. Ở một số cự thạch cổ nhất,
người ta thấy ngoài sắt ra chỉ có đồng thau, là các trác thạch ở Đông Giava và phát
triển lên thành các quan tài đá ở Bali. Dù là trác thạch, hầm mộ (miền Trung Giava,
Nam Xumatơra, Pêrăc)38
, dù là những cái chum làm bằng nguyên khối đá (Thượng
Lào), hay các trường thạch (Thượng Lào, Mã Lai, Xumatơra, Giava), tất cả đều liên
quan đến các công trình mai táng, có liên hệ với việc thờ cúng tổ tiên hay các thủ
37
L. Phinô “Tiền sử Đông Dương”-Á châu thuộc Pháp, Tháng 2, tháng 7/1919. 38
R. O. Uyn xtét “Slab-grraves and iron implements” Manchester, 1918.
14
lĩnh đã mất. Nhận xét đó đã gợi lên nhiều học thuyết rất táo bạo39
. Người ta có thể
tự hỏi có đáng nói đến một “thời đại đồng thau” ở ngoại Ấn không? Việc sử dụng
đồ đá được giữ lại rất lâu, còn đồ sắt thì xuất hiện gần như cùng một thời điểm với
đồ đồng thau. Không nên quên rằng dưới triều Hán ở Trung Quốc vào hai thế kỷ
cuối cùng trước công nguyên, các vũ khí còn làm bằng đồng thau và đồ sắt chỉ mới
nhập vào gần đây40
. Nền văn hoá Đông Sơn tương ứng với thời kỳ đồ đồng ở Bắc
Kỳ và Bắc trung Kỳ41
(có thể là trung tâm phân bố các trống đồng) không để lại cái
gì có thể coi như trước các thế kỷ cuối cùng trước công nguyên. P. V. Van Sten
Canlenphenx đề nghị xếp việc du nhập đồ đồng thau ở Đông Dương vào năm 600;42
vào vùng quần dảo năm 300 trước công nguyên, nhưng những niên biểu đó có lẽ
quá sớm43
.
Trong nhiều trường hợp người ta có thể đi qua không có sự chuyển tiếp từ
thời đại đồ đá mới sang thời đại có những vết tích Ấn Độ. Trên bờ biển An Nam và
Campuchia, không có sự chuyển tiếp nào giữa một bên là các đồ đá mới ở Sa
Huỳnh44
, ở Xamrôngxen45
và cự thạch ở Xuân Lộc46
với một bên là những kiến trúc
đầu tiên ở Chàm và Campuchia. Trường học Ấn Độ ở Cuala Xơlinxing (nước Pê rắc
ở Mã Lai)47
đã cho rất nhiều vật dụng bằng đồ đá mài, và cũng ở đó có con dấu
khắc một tên phạn bằng chữ Panlava. Ở Xêlipbơ, một pho tượng Phật bằng Đồng
thau thuộc về trường phái Amaravati đã được tìm thấy ở Xanpaga dưới một di chỉ
đồ đá mới48
. Người ta có thể nói không ngoa rằng các dân tộc ở ngoại Ấn đều còn ở
giữa thời đại văn hoá đồ đá mới muộn màng trong lúc nền văn hoá Phật giáo –
Bàlamôn ở Ấn Độ đến tiếp xúc.
3. Nền văn hoá Nam Á
Nhưng vấn đề không quan hệ ở chỗ tiếp xúc đầu tiên. Sự lan rộng của nhiều
loại văn hoá kể trên, nhất là sự phong phú của các hạt pha lê gốc Ấn Độ tìm thấy
trong các di chỉ thời đại đồ đá mới ở Đông Dương và quần đảo chứng minh rằng, 39
W. J. Pery “Nền văn hoá cự thạch ở Inđônêxia” xuất bản lần thứ hai, Luân đôn, 1927 40
C. B. Xêlich Gơman và H. C. Beck: “Thuỷ tinh Viễn Đông: vài nguồn gốc Tây phương” Thông báo Viện
Bảo tàng 10, 1938, tr. 49-50. 41
V. Gôlubiu: “Thời đại đồ đồng thau ở Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ” BEFEO-XXIX, tr. 1-46. 42
“Niên đại của trống đồng” Thông báo Viện Bảo tàng, số 3, tr. 150. 43
V. Gulubiu “Cái trống đồng bằng kim khí ở Hoàng Hà” BEFEO XL, tr. 396, số 1. 44
H. Pắcmăngchiê “Nơi tàng trữ chum ở Sa Huỳnh-Quảng Ngãi-trung Bộ Việt Nam” BEFEO XXIV, tr. 321-
343; M. Côlani “Cự thạch ở vung Thượng Lào” II, tr237. 45
A. Măngxuy “Vị trí tiền sử của Xamrôngxen và Longpơrao (Campuchia)”, Hà nội, 1902; “Kết quả của
những cuộc khảo cứu mới tiến hành ở khu di chỉ tiền sử Xamrôngxen (Campuchia)” Báo cáo của Sở địa chất
Đông Dương, X, 1. 46
H. Pắcmăngchiê “Vết tích cự thạch ở Xuân Lộc” BEFEO, XXVIII, tr. 479-495.; E. Gatxpácđônơ “Khu mộ
ở Xuân Lộc” Báo của Hội Đại Ấn Độ, IV, 1937, tr. 26-35. 47
I. H. N. Êvăng có viết nơi này trong Nhật báo Viện Bảo tàng Liên bang Mã Lai, XII và XV.
9. F. D. K. Bôtxsơ “Tượng Phật bằng đồng đỏ ở Xêlipbơ”, Niên báo Thư mục Ấn Độ cổ ngữ VIII, 1933,
tr.35.
15
ngay thời tiền sử những mối liên lạc đường biển đã có không những giữa các bộ
phận thuộc ngoại Ấn mà còn giữa ngoại Ấn với chính nước Ấn Độ. Điều đó cũng
được nêu lên trong các nhận xét của A. M. Hôcác49
và P. Muytx50
về sự giống nhau
của một số tín ngưỡng căn bản và một số nghi lễ chủ yếu trong tất cả vùng Á châu
gió mùa. Dường như Ấn Độ trước Arien51
một bên với Đông Dương và một bên với
Inđônêxia có một nền văn hoá chung được các dụng cụ và từ vựng52
chứng nhận.
Theo một số người53
thì một hoặc nhiều đợt di thực có nguồn gốc từ Đông
Dương và các đảo tràn vào Ấn Độ trước khi có sự xâm lược của người Arien. Theo
một số khác54
thì ngược lại, người Đơravidiêng hay Arien vào Ấn Độ từ phía Tây
Bắc và dồn các thổ dân về phía Trung và Đông Ấn Độ khiến họ phải tràn về Đông
Dương và các đảo mà ở đó họ thực hiện một thứ Ấn Độ hoá tiền Arien đầu tiên ở
các vùng này, trong khi đó, về phía mình, người Anhđônêdiêng cũng rời lục địa đến
ở các đảo55
. Tốt hơn hết hiện nay là không nên xác định mà nên dùng công thức
thận trọng của J. Pơdilutxki56
“vào thời kỳ đồ đồng thứ hai (Âu châu) Đông Dương
đã bước vào quỹ đạo của nền văn minh đường biển gồm Đông Nam châu Á và
Inđônêdi”.
Dù từ nguồn gốc nào, nền văn minh đó được người Anhđônêdiên mang tới
tận Mađagatxca trước57
hoặc sau khi đã Ấn Độ hoá.58
Có thể nền văn minh đó còn lan tới Nhật Bản, ở đó các mối liên hệ với các
nước phía Nam đã nhiều lần được nêu lên qua các công cụ tiền sử59
, qua ngôn ngữ60
và qua nền văn học dân gian61
.
49
“Kingship” Đại học Oxfod, 1927; “Ấn Độ và Thái Bình Dương” Nhật báo Khoa học Xâylan 1,2, tr. 61-84. 50
“Ấn Độ nhìn từ phía Đông, sự thờ cúng ở Ấn Độ và dân cư bản xứ ở Chăm” BEFEO XXXIII, tr. 367-410. 51
Công trình của S. Lêvi, của J. Pzilutxki và J. Bơlôtsơ về nền văn minh tiền Arien và tiền Đờravidiên ở Ấn
Độ và được P. C. Basi tổng hợp lại trong một cuốn, xuất bản ở Calcutta, 1929. 52
W. Ximít “Các dân tộc Môn-Khơme, gạch nối giữa các dân tộc trung Á và Úc” BEFEO, VII, tr. 213-263,
VIII, tr.1-35; Các bản phê bình của G. Đơ Hevexi trong Finnish-Ugrissches ans Indien, xuất bản ở Viên,
1932. 53
J. Hoócnen “The Origins and ethnological significance of Indian boat designs” Mem. Asiat. Soc. Benfal.
VII, 1920; N. J. Krrom “Hindoe-Javanoche Gesch”, tr. 38. 54
S. Lêvi “Tiền Arien và tiền Đờravidiêng ở Ấn Độ” Báo Á châu, tháng 7, 9/1923, tr. 55-57; H. Kéc
“Verspreide Geschriften” XV, tr. 180; P. Pơdilutxki “Người Uđumbara” Báo Á châu, tháng 1-3/1926, tr.1-
59; “Người Xahva” Báo trên, tháng 4-6/1929, tr. 311-354; A. M. Hôcác-R. C. Majumdda “Nước Mã Lai”
Báo Hội Đại Ấn III-1936, tr. 86-96. 55
H. Kéc “TaalKundige gegevens ter bepaling van hat satnland der Maleish Polynesische Talen” VI, tr. 105. 56
Trong “Đông Dương” dưới sự giám sát của S. Lêvi, tr. 54 57
Thuyết của N. J. Cơrôm, Sách đã dẫn. 58
G. Pherăng “Ảnh hưởng của văn hoá Anhđônêdiêng vào Đông Phi châu” Báo của Viện Nhân chủng học
Hoàng gia, 1934, tr. 315, có ý định đưa lên sớm hơn. 59
P.V.Van Sten Canlenfelx “Die Aufgaben der Japanischen Prehistorie im Rahenen der internationalen
Forsehung” Shizengaku Zanshi IV, 1932, tr. 6. 60
N. Matxumôtô “Tiếng Nhật Bản và các ngôn ngữ Nam Á” (Nam Á I) Pari - Gớtne 1928; O. Giecman
“Tiếng đồng âm giữa tiếng Ainu và các ngôn ngữ khác” Thế giới Á đông, XX, 1926, tr. 29. 61
N. Matxumôtô “Thử nghiên cứu về thần thoại Nhật Bản” (Nam Á II) Pari, Gớtne 1928
16
Người ta đề nghị62
gắn nền văn hoá phức tạp Nam Á vào hệ thống “Nam
Đảo”, có đặc trưng trong việc dùng cung, chế độ mẫu quyền và bái vật giáo.
Cần phòng ngừa việc xếp lại một cách quá hệ thống trong những cái chung
quá cứng rắn trong đó người ta gò ép một sự thật sinh động và mềm dẻo63
một cách
không phải là không có tổn hại. Tuy nhiên ở đây có thể chỉ ra những đặc điểm của
nền văn minh tiền Arien, thí dụ: Về mặt vật chất, việc canh tác ruộng nước, việc
thuần dưỡng trâu bò, việc sử dụng một cách thô sơ các kim loại, kỹ xảo trong việc
đi bằng thuyền; Về mặt xã hội, sự quan trong của địa vị của người phụ nữ và huyết
thống theo mẫu hệ, tổ chức xã hội do kết quả của nhu cầu canh tác ruộng tưới nước;
Về mặt tôn giáo, thuyết linh hồn, việc thờ cúng tổ tiên và thần đất, việc dựng miếu
thờ ở các điểm cao, việc mai táng người chết trong các chum, các mộ đá; Về mặt
thần thoại, vũ trụ nhị nguyên thần luận trong đó đối lập núi với biển, giống có cánh
với giống dưói nước, người trên núi với người ở bờ biển64
; Về mặt ngôn ngữ, việc
sử dụng tiếng nói đơn âm có nhiều khả năng chuyển hoá nhờ tiền từ, hậu từ và trung
từ.
Có lẽ một phần lớn sự thống nhất về văn hoá đó đã đưa người Trung Quốc
tới chỗ thâu tóm mọi dân tộc khác nhau ở ngoại Ấn được sự thống trị của Côn lôn
(K‟ouen-Louen)65
. Thực ra tên đó thuộc về thời kỳ trước khi có sự Ấn Độ hoá và
người ta có thể nghĩ rằng đó là sự thống nhất của nền văn hoá Ấn Độ. Luận điểm đó
có thể lấy bằng chứng trong việc người Trung Quốc nói tới “chữ viết Côn-lôn”, một
thứ chữ vốn là yếu tố chủ yếu trong tài sản Ấn Độ. Nhưng khi họ nói tới ngôn ngữ
Côn lôn và “thương nhân và kẻ cướp Côn lôn” thì hình như họ áp dụng từ đó vào
một thực thể ngôn ngữ nhân chủng học. Từ Côn lôn được cắt nghĩa bằng nhiều
cách. Từ công trình nghiên cứu của G. Pherăng, người ta có thể rút ra ý nghĩ rằng
phải dịch bằng nhiều thổ ngữ khác nhau những từ dùng lẫn lộn trong cách sử dụng
của Trung Quốc. Xinvanh Lêvi đã nhận ra một sự tương tự giữa từ phạn dvĩpântara
với “dân ở đảo”66
. Về phía mình N. J. Cơrôm đã nêu lên khả năng có thể có của
62
G. Môngtanđông “Bàn về nhân chủng học văn hoá” Pari, Payô, 1934. 63
Nên thận trọng khi chứng minh với một sự chính xác quá cao những yếu tố hợp thành một nền văn minh
trong đó các tài liệu cũ còn quá tản mạn ở nhiều vùng, và người ta chỉ mới có thể có ý niệm qua nền văn học
dân gian hoặc qua nhân chủng học. N. J. Cơrôm, khi phác hoạ trong cuốn “Ấn Độ, Giava” trang 47 và tiếp
theo, một bức tranh về nền văn minh Anhđônêdiêng ở Giava trước khi người Ấn Độ tới đã kể đến ảo – đăng
coi như một trong những đặc điểm của nó. Thế mà ảo đăng (châyanataku) đã được các nhà lý luận san khấu
của Ấn Độ biết trong ngôn ngữ phạn (R. Pitsen Dar indishche Schattenspiel, Sitzungber Akad. Berlin 1906,
tr. 482-502; O. Giacốp Geschichte dé Schattenthealers, 1925; F. Roy. As. Soc 1930, tr. 627 và historry of
Davian and Indonesian art, tr. 89). Ảo đăng (tr.28) hay là vốn chung? người ta có thể đặt câu hỏi như vậy
cho nhiều sự kiện văn hoá khác. 64
J. Pơdilutxki trong “Đông Dương”, Sdd. 65
G. Pherăng “K‟ouen-Louen và việc vượt biển cổ xưa trong các biển phía nam” Báo Á châu 1919, tháng 3,
4, tr. 239-333, tháng 5, 6, tr. 431-492, tháng 7, 8, tr. 5-68, tháng 9, 10, tr. 201-241. 66
“K‟ouen-Louen và Dvĩpântira” Bijdr, 88, 1931, tr. 621-627.
17
phương trình Côn lôn = Mã Lai67
; và những giả thiết gần đây của R. C. Madumdar68
đã xét đến việc đối chiếu đó và cho rằng hơi giả tạo, những giả thiết đó đã cung cấp
một cách nhìn vững vàng, ổn định hơn bằng cách cho yếu tố “Mã Lai”, tức là yếu tố
Anhđônêdiêng phát triển do sự tiếp xúc với người nước ngoài gốc Mông Cổ, một vị
trí ưu thế coi như trực tuyến của nền văn minh Nam Á.
Người Ấn Độ đã tìm thấy trước mắt họ không phải những người man rợ, mà
những xã hội có tổ chức và có một hình thức văn minh không phải là không có
những nét chung với nền văn minh Ấn Độ mà một số cư dân miền núi và chậm tiến
ở Đông Dương và Mã Lai có thể cung cấp những quan niệm đại lược.
Sự thống nhất về hình thức của những yếu tố mà chúng ta đã biết trong đó
ngôn ngữ là yếu tố quan trọng nhất, rất có thể ẩn dấu một sự khác nhau lớn về
chủng tộc, bất kể những kết luận của P. W. Xmit trong một số lý luận về cách đo
người.
Nền văn hoá Nam Á đã trùm lên các dân tộc đã tồn tại từ lâu hoặc còn tồn tại
trên các đảo nhỏ, bằng cách vay mượn hoặc đồng hoá một số yếu tố vật chất hay
tinh thần. Cái chung của mọi nhóm nhân chủng khác nhau ở miền này thường là
một sự kiện của một nhóm, hay là một thực thể chung đã biến mất. Và những nhận
xét của P. Rivê về tính chung của các ngôn ngữ mà ông gọi là “đại dương ngữ”69
hình như có thể áp dụng được, không phải chỉ đối với ngôn ngữ mà đối với những
yếu tố khác của nền văn minh Nam Á rất phức tạp.
4. Lược khảo về nhân chủng
Bây giờ ta hãy xét đến những dân tộc nào70
, dù ít hay nhiều thấm nhuần nền
văn hoá đó, mà nền văn minh Ấn Độ Arien đã tác động vào.
Ở thời kỳ khoảng đầu công nguyên, những cuộc di thực tiền sử lớn của người
Mêlanêdiêng, Anhđônêdiêng và Úc-Á đã chấm dứt: về phía Nam bán đảo Đông
Dương và ở miền đảo, những nhóm nhân chủng chủ yếu về đại thể đã chiếm lĩnh
các vùng cư trú hiện nay. Thực thế, khi vừa xuất hiện những bút tích đầu tiên viết
bằng thổ ngữ, người ta nhận thấy việc sử dụng chữ Khơme ở Campuchia, chữ chàm
ở các tỉnh Chàm thuộc Trung kỳ, chữ Malai ở Xumatơra, chữ Giava ở Giava.
67
“Ấn Độ - Giava” Gesch, tr. 1107. 68
“Mã Lai” Báo Hội Đại Ấn III-1936, tr. 86. 69
“Nhóm đại dương”. Báo cáo của Hội ngôn ngữ học XXVII, tr. 152: “Rất có thể những nét chung của ngôn
ngữ những dân tộc rất khác nhau như vậy (người Úc và người Mêlanidiêng, người Anhđônêdiêng và người
Polinêdiêng) là một hiện tượng thứ yếu và có thể chính ngôn ngữ của một trong những dân tộc trên đã buộc
các dân tộc khác phải thừa nhận vì những lý do và điều kiện mà hiện nay ta chưa biết”. 70
Cần thống nhất với nhau rằng những từ nhân chủng dùng ở đây và về sau bao giờ cũng dùng để chỉ những
nhóm ngôn ngữ hay nhân chủng-ngôn ngữ, chứ không bao giờ chỉ “giống người” theo nghĩa vật chất của nó.
Vì thiếu những luận cứ nhân chủng chính xác, người ta buộc phải định nghĩa một cách tạm thời 1 nhóm nhân
chủng bằng cách dựa vào ngôn ngữ họ nói và y phục họ mặc.
18
Ngược lại, ở phía Trung và phía Bắc bán đảo, trong thời kỳ lịch sử, người ta chứng
kiến việc thoái lui của người Chàm trước người Việt, của người Mông ở Mênam và
Iraoađi trước người Thái và người Miến.
Cái gọi là “sức đẩy về phía Nam”71
đó, do sự hấp dẫn của các miền đồng
bằng và biển, là một sự kiện rất xưa. Nó cắt nghĩa sự phân bố rải rác hiện nay của
các nhóm nhân chủng ở Đông Dương và trên một số điểm nào đó ở các đảo vì như
trên đã nói, những đảo có phải nhận từ đất liền số dân di thực và nền văn hoá phức
tạp của họ.
Nếu thực sự các cuộc di thực chỉ có thể vào Đông Dương bằng các thung
lũng nhỏ hẹp của nhưng sông bắt nguồn từ Trung Quốc và của miền giáp ranh với
dãy núi Tây Tạng, người ta có thể nhầm khi trình bày những cuộc di thực đó như
một dòng người chảy đi dẫn tới việc hình thành các nhân chủng giáp nhau trên bề
mặt. Theo tôi có lẽ đó là một quan niệm sai lầm, thực ra do tình trạng các bản đồ
nhân chủng hiện nay tạo nên. Một khi đã tới miền đồng bằng ở Đông Dương hay
các đảo, các dòng người liên tục đó tản ra và trùm dòng nọ lên dòng kia.
Vả lại trong một số trường hợp cần xét tiến trình đó như sự bành trướng của
một nền văn hoá, một ngôn ngữ hơn là một cuộc di thực thực sự.
Hình như những cuộc di thực thực sự dẫn tới kết quả là những thổ dân tiếp
nhận ngôn ngữ và các phong tục của kẻ xâm lược hoặc tầng lớp thống trị mới hơn là
bị thủ tiêu hoặc bị tước đoạt hoàn toàn. Thí dụ như sự bành trướng của người Thái
nhất là về phía nam của bán đảo, không phải là kết quả của sự di chuyển của một
khối lớn người mà là của một tầng lớp quý tộc hiếu chiến đã biết cưỡng ép dùng
ngôn ngữ của họ, điều đó đã tạo nên dấu vết giữa các nhóm dị chủng.
Mặt khác, những dòng nhân chủng ngôn ngữ liên tục thực sự không phải
trùm dòng nọ lên dòng kia. Có dòng đã vượt qua dòng trước theo một hướng nhất
định và không tới được giới hạn cực điểm của hướng khác, đã né tránh một số đỉnh
cao, một số đảo nhỏ, một số rìa lãnh thổ. Chính vì vậy mà người Môn-khơme không
chồng chéo một cách nghiêm ngặt lên người Anhđônêdiêng, và đến lượt họ cũng
không bị người Thái hoàn toàn trùm lên. Người Việt Nam luồn theo dọc bờ biển và
các dòng sông để lan toả ra ở vùng đồng bằng. Những thổ dân có họ hàng với người
Nêgơritô, người Vetđát hay người Đơraviđiêng còn lưu lạc vào miền nội sơn các
đảo và ở bán đảo Mã Lai.
71
Từ của J. Xiông “Á châu gió mùa” II, tr. 403.
19
Nơi nào có các dòng nhân chủng chồng chéo lên nhau, ở đó có sự lai giống
với sự bảo lưu những đặc điểm vật chất và những sự kiện văn hoá thuộc về những
lớp cổ đại nhất.
Những nhận xét đó đủ để cắt nghĩa sự giàu có và vô cùng phong phú của yếu
tố nhân chủng Đông Dương và các đảo. Trong cuốn sách này có nền văn hoá phụ
thuộc vào nước Ấn Độ, những bộ lạc chậm tiến và bị đẩy lùi vào miền núi mà ở đó
sự Ấn Độ hoá không tới được, không có vai trò nào cả. Chính chỉ tính đến những
nhóm nhân chủng được nền văn minh Ấn Độ tác động tới nên người ta mới có thể
dựng nên một lược đồ về sự phân bố và vị trí địa lý của nó vào thời kỳ đầu công
nguyên.
Sau khi định hướng cho “sức đẩy về phía Nam” những nhóm nhân chủng ở
xa phía nam nhất có nhiều may mắn làm chủ miền cư trú hiện thời. Do đó, người
Anhđônêdiêng vốn là cơ sở của cư dân các đảo72
rất có thể đã có ở đó từ thời đại đồ
đá mới. J. Xiông viết (tr 483): “Người Anhđônêdiêng có thể là người Mã Lai
nguyên sơ mà sự cư trú của họ ở vùng nội địa các đảo cho phép họ giữ được nhiều
hơn tính chất thuần khiết về nòi giống mặc dầu có sự phối giao với những thổ dân
như người **** ở Xumatơra, người Đaiắc ở Boócnêô, người Anphua ở Xêlêbơ và
Môluýchcơ. Người Mã Lai chỉ là người Anhđônêdiêng ở ven biển bị lai tạp đi rất
nhiều..., đó là một giống hỗn hợp rất lớn vì nó phân tán rộng, rất phức tạp vì nó có
nhiều loại”. Có lẽ như người ta đã thấy, những nhà hàng hải Trung Quốc và Ấn Độ
đã gọi những người Mã Lai ven biển đó là K‟onen-lonen và Đvĩpântara-Đó là
những người Mã Lai ở Xumatơra, người Xunđan, người Giava và Mađuara ở Giava,
người Bali... là những nhân tố chủ yếu để tiếp thu và truyền bá nền văn hoá Ấn Độ
ở vùng quần đảo. Trong cuốn lịch sử Ấn-Giava, N. J. Cờrôm đã dựng cho nền văn
minh Mã Lai, và đặc biệt là nền văn minh Giava một bản đồ73
trong đó chứa đựng
một phần lớn là giả thiết, vì ông thường căn cứ vào nhân chủng học hiện nay về
người Anhđônêdiêng không Ấn Độ hoá. Chính vì vậy ông đã xếp vào trong các yếu
tố đặc biệt của nền văn hoá vật chất của họ: Việc dẫn nước vào ruộng, việc nhuộm
vải bằng phương pháp gọi là “batíc”, cấu tạo của dàn nhạc “gamơlăng”, nhà hát ảo
đăng74
. Về tổ chức xã hội, các sách về tập quán thu thập một cách cẩn thận ở vùng
đảo bởi người Hoà Lan75
tạo thành những tài liệu rất có giá trị.
72
J. P. Cơlâytéc dơ Doan “Thể chất nhân chủng học ở quần đảo Ấn Độ và vùng tiếp cận”, 1923; J. H.
Nietxen “Các chủng tộc ở Giava” Welterrelen, 1929. 73
“Hindoe-Javaansche Geschiedenis”, chương II. 74
“Về ảo đăng” Sđd tr. 10, số 2. 75
In dưới đầu đề Adatrechibundel. La Hay, 1911.
20
Trên bán đảo, người Mã Lai chính cống phần lớn là những người di cư từ
Xumatơra và Giava vào thời kỳ tương đối gần, có lẽ người Ấn Độ đã gặp ở ven biển
người Mã lại nguyên sơ, người Anhđônêdiêng đã được Mông Cổ hoá rất mạnh mà
dòng dõi ngày nay được gọi là Giacun76
.
Trên bán đảo Đông Dương, người Ấn Độ đã gặp:
- Trên bờ biển Việt Nam miền trung và miền nam, người Chàm nói tiếng Mã
Lai Polinêdiêng, mà những dòng dõi cuối cùng hiện còn ở một số vùng phía nam
trung kỳ (Phan Rang-Phan Thiết)
- Ở vùng đồng bằng Nam kỳ, Campuchia hiện nay và châu thổ miền trung
sông Mêkông, người Khơme hiện nay còn bị người Việt Nam chiếm đoạt một phần
ở Nam kỳ, và người Thái dồn ép ở phía Bắc77
- Trong thung lũng sông Mênam và miền thấp của Miến Điện, người Mông
còn gọi là người Pégouans hay Talaing78
, họ hàng gần gũi với người Khơme, hiện
nay ở biệt trong vùng đồng bằng sông Iraoađi và sông Tơnutxơrim hoặc bị hất sang
Thái Lan
- Ở lưu vực sông Iraoađi và Xittang, đội xung kích của các dân tộc Tạng
Miến mà yếu tố quan trọng nhất được người Mông rất kính trọng là người Pyus đã
biến mất từ lâu hoặc tan ra trong các đợt di thực liên tiếp của người Miến và người
Thái.
Đó là những nhóm nhân chủng trên đó chúng ta sẽ thấy sự tác động của nền
văn minh Ấn Độ.
76
Xkit và Bơlắcden “Chủng tộc Pagan ở bán đảo Mã Lai”, London, Macmilan, 1906. 77
Về nhân chủng học ở Đông Pháp, xem Bonifaxi “Bài giảng về nhân chủng học ở Đông Pháp”, Hà Nội
IDEO 1919.; G. Matxperô “Đông Dương” tập I, Pari, 1929; J. Pơdilutxki “Dân cư ở Đông Pháp”-Đông
Dương, Pari, 1931 tr 47-60; A. Bigô “Sơ lược nhân chủng học ở Đông pháp” Tôpanh, 1938, tr 33-58; L.
Manlơrê “nhóm nhân chủng ở Đông Pháp” Sài Gòn, 1937 78
C. C. Lô uytx “Các bộ lạc ở Miến Điện” Răng gun, 1910; R. Hanliday “Người Talaing” Răng gun, 1917.
21
Chương II:
Sự Ấn Độ hoá
2. Định nghĩa sự Ấn Độ hoá
Lịch sử về sự bành trướng của nền văn minh Ấn Độ về phía Đông, về tổng
thể chưa được nghiên cứu. Người ta bắt đầu nhận ra những hậu quả ở một số nước
nếu tách riêng ra, nhưng về nguồn gốc, tiến trình của nó người ta đặt ra nhiều giả
thiết. Trong những trang sau tôi không có ý định đưa ra một bản giải đáp về vấn đề
này mà chỉ là tập hợp các kết quả đã thu được và xác định một số nét chung cho tất
cả các nước được Ấn Độ hoá ở vùng ngoại Ấn.
Để tiện cho việc trình bày, cho tới nay tôi dùng từ “Ấn Độ hoá”, “sự bành
trướng của nền văn hoá Ấn Độ”, dường như đó là một sự kiện lịch sử đơn giản ở
một thời kỳ đã xác định. Cách nhìn đó cần được nhìn sáng tỏ hơn. Từ chương trên
ta đã thấy những sự liên hệ giữa Ấn Độ chính cống và ngoại Ấn có từ thời tiền sử,
nhưng từ một thời gian nào đó, mối liên hệ này hình thành nên những vương quốc
Ấn Độ trên bán đảo Đông Dương và các đảo. Những vết tích khảo cổ cổ xưa nhất
do các nước đó để lại không nhất thiết là những bằng chứng của đợt khai hoá đầu
tiên đó. Có lẽ, theo lối diễn dịch, khi những người thày tu đã cống hiến những giáo
đường Bàlamôn hay Phật giáo đầu tiên và những người trí thức đã khảo ra những
bút ký chữ Phạn đầu tiên đều đến sau những nhà hàng hải, thương nhân, hoặc dân di
thực, là những người sáng lập ra các thuộc địa Ấn Độ đầu tiên. Những thuộc địa đó,
đến lượt nó, không phải bao giờ cũng được dựng nên một cách hoàn chỉnh ngay, và
trong nhiều trườngg hợp (Kuala Selinsing ở Pêrăc, Sempaga ở Xêlipơ vv...) nó được
xây dựng trên các bối cảnh thời đồ đá mới mà những nhà hàng hải từ Ấn Độ tới
thường lai vãng từ 1 thời không nhớ được.
Việc người Ấn Độ đến Đông Dương và các đảo không thể ví với việc người
Âu châu đến châu Mỹ vì đối với vùng này họ không phải là những người lạ mặt đến
khám phá ra những vùng đất mới. Ở một thời đại nào đó cần được xác định, sau
những trường hợp, người ta có thể thử xác định, một đợt những thương nhân và dân
di thực và dẫn tới kết quả là thành lập nên các vương quốc Ấn Độ có nền nghệ
thuật, tập quán và tôn giáo Ấn Độ và dùng chữ Phạn như thánh ngữ. A. Phusê79
đã
viết: “Hình như nhiều người di cư - giống như những người hiện nay còn tràn vào
Đông phi châu - chỉ gặp đằng trước họ những người dã man “ở truồng”. Cái mà họ
đã du nhập vào các vùng đồng bằng trù phú và các đảo giàu có này chỉ có nền văn
minh của họ hoặc ít nhất là bản sao của nó; đó là những phong tục, luật lệ, chữ cái,
79
“Nghê thuật Phật giáo HiLạp ở Găngđara” II, tr.618
22
ngôn ngữ bác học của họ, đó là tất cả tình hình xã hội và tôn giáo với một hình ảnh
gần gũi càng nhiều càng tốt đối với đẳng cấp và tín ngưỡng của họ. Tóm lại, đây
không phải là một ảnh hưởng đơn giản mà theo tất cả sức mạnh của từ đó chính là
một cuộc xâm thực thật sự”.
Ở phần dưới nữa người ta sẽ rất cần nghĩ thế nào về “sự xâm thực” đó, một
sự xâm thực không có những ràng buộc về chính trị với Mẫu quốc. Còn đối với
những người thổ dân, việc “ở truồng” của họ không phải là tiêu chuẩn của “sự dã
man”, và nó chỉ có ở người mọi (thượng) ở miền Nam Trung kỳ. Ở trên ta đã thấy,
người Ấn Độ không phải là đã gặp những người “dã man” không có một chút văn
hoá nào mà trái lại họ đã có một nền văn minh nhất định, nền văn minh không phải
là không có những nét chung với nền văn minh Ấn Độ tiền Arien. Việc truyền bá
nền văn minh của người Ấn Độ đã Arien hoá, được nhanh chóng và dễ dàng có lẽ
đã cắt nghĩa một phần rằng người thổ dân ở đây đã tìm thấy trong các phong tục và
tín ngưỡng của dân di cư một cái nền chung, đã được phủ một lớp sơn Ấn Độ cho
tất cả miền Á châu gió mùa.
Vì vậy, đây không phải là sự tiếp xúc với những kẻ xa lạ, cũng không phải là
một sự tiếp xúc đầu tiên. Nếu vào thời kỳ đầu công nguyên, sự Ấn Độ hoá miền
ngoại Ấn xuất hiện như một sự kiện mới mẻ, chính vì người Ấn Độ đến rất đông và
lần dầu tiên kèm theo những nhân tố tri thức có khả năng truyền bá các tôn giáo và
nghệ thuật của Ấn Độ bằng ngôn ngữ Phạn. Sự Ấn Độ hoá miền ngoại Ấn là sự tiếp
tục của “Bà la môn hoá” bên kia các biển vốn có trung tâm nguyên thuỷ ở Tây Bắc
Ấn Độ, và nó được “bắt đầu từ trước rất lâu khi có Phật giáo, đang tiếp diễn ngày
nay ở Bănggan cũng như ở phía nam”80
. Cho nên, những bút tích cổ xưa nhất bằng
chữ Phạn ở ngoại Ấn không có sau nhiều lắm so với những bút tích chữ Phạn đầu
tiên ở chính Ấn Độ.
Sự Ấn Độ hoá chủ yếu được coi là sự truyền bá một nền văn hoá có tổ chức,
xây dựng theo quan niệm Ấn Độ về vương quyền, có đặc điểm về những lễ nghi Ấn
Độ hoặc Phật giáo, thần thoại Purana, quy tắc Dharmasastras và có phương tiện
biểu hiện là chữ Phạn.
2. Những bằng chứng đầu tiên về sự Ấn Độ hoá ở ngoại Ấn
Người ta muốn tìm thấy trong một đoạn của tác phẩm Arthasastra, là một
bản luận văn chính trị và hành chính của ông Kautilya, người Bà la môn, thượng thư
của triều Chandragupta (cuối thế kỷ IV đầu thế kỷ III TCN) - chứng cớ để chứng
minh rằng sự xâm thực ở miền ngoại Ấn ít nhất cũng có từ thời các hoàng đế
80
L. Đờ la Valê Putxanh “Các triều đại và lịch sử Ấn Độ” tr. 360.
23
Maurya. L. Phinô81
đã thừa nhận luận điểm đó căn cứ vào một văn bản mà tính chất
cổ xưa không được chắc chắn lắm. Ngay trong Arthasastra cũng chỉ nhắn nhủ cho
vua “di thực một nước cũ hay mới bằng cách chiếm đoạt lãnh thổ một nước khác
hoặc di bớt phần dân số dư thừa của nước mình”, cũng không chứng minh đuợc
điều gì nhiều hơn, và còn kém rõ ràng, minh bạch hơn Jatakas với các truyện về
những người đi biển và Ramayana82
với sự đề cập đến Giava và có lẽ cả Xumatơra.
Tập Niddesa là cuốn giáo quy Pali vào những thế kỷ đầu Công nguyên đã cung cấp
những tài liệu tốt hơn. Nó kê ra một loạt những địa đanh bằng chữ Phạn hay đã
Phạn hoá mà S. Lêvi83
đã đề nghị đồng nhất với các địa phương miền ngoại Ấn. Với
tình trạng hiểu biết hiện nay, những tài liệu khảo cổ và minh văn hay các nguồn tài
liệu khác không cho phép vượt quá những tài liệu trong Niddesa. Nếu lẫn sang
chương sau một tí, ta sẽ thấy ở đây đâu là những bằng chứng cũ nhất về sự tồn tại
của các vương quốc Ấn Độ ở ngoại Ấn.
Ở Miến Điện là một nước mà do sự trừu tượng hoá của phái đoàn tôn giáo
các nhà sư theo đạo Phật Sona và Uttara do Hoàng đế Asoka cử đến Suvamabhumi
từ thế kỷ III TCN, một “xứ vàng” đã được đồng hoá, một cách đúng hay sai không
rõ , với xứ Mông hay đặc biệt với tỉnh Thaton - người ta không thấy vết tích gì về
sự thâm nhập của Ấn Độ trước những mẩu giáo quy Pali tìm thấy ở Moza và
Maungun trên di chỉ ở Prome, vào khoảng năm 500 sau công nguyên84
. Ở lưu vực
sông Mê Nam, di chỉ P‟ra Pathom, và quá về phía Tây, di chỉ Pona Tuk trên bờ
sông Kanburi đã cung cấp những nền lâu đài và đồ chạm khắc Phật giáo theo kiểu
Gupta85
, một pho tượng Phật giáo nhỏ bằng đồng thuộc về trường phái Amaravati86
cho phép đi ngược lên thế kỷ III hoặc IV sau công nguyên87
.
81
“Nguồn gốc sự xâm thực Ấn Độ ở Đông Dương” BEFEO XII, 8, tr. 1-4
82 S.Lêvi “Lịch sử Ramayana” Báo Á châu, tháng 1 và 2/1918, tr. 80.... 83
“Ptôlêmê, Niddesa và Britacata” Báo Á châu II 84
Sách đã dẫn tr. 77. 85
Giai đoạn Gupta bắt đầu ở Ấn Độ từ thế kỷ V sau công nguyên. Ở P‟ra Pathom người ta tìm thấy nhiều
“bánh xe pháp luật” bằng đá tượng trưng cho một tục cổ của Phật giáo, nhưng nhìn vào trang trí của nó thì nó
không thể có trước thế kỷ VI. 86
Amaravati ở không xa cửa sông Krishna (A. Phusê viết trong “Nghệ thuật Hy Lạp - Phật giáo II, tr. 617”)-
hình như là một trong những bến xếp hàng của ảnh hưởng Hy Lạp - Phật xuất đi Đông Dương và quần đảo.
Trường phái nghệ thuật Amaravati nở hoa ở Ấn Độ từ thế kỷ II đến thế kỷ IV sau công nguyên. Chính nhờ
nó mà có những tượng Phật thường ở tư thế đứng, mặc áo cà sa có nếp, tạo nên trong nhiều trường hợp
những bằng chứng cổ xác thực nhất về sự du nhập của người Ấn đến ngoại Ấn. Những bức tượng đó giới
thiệu Phật Dipankura, mà tên gọi gợi đến các đảo Dipa, Dripa và hình như là thần hộ mệnh của dân miền
biển. (Phusê “Hoạ tượng học Phật giáo” tr. 77- 84). Từ “nghệ thuật Amaravati” dừng ở đây và sau này không
loại trừ khả năng cho rằng những tượng Phật đó có nguồn gốc từ Xanhgan 87
Không nói tới một cái đèn La Mã, bằng chứng của sự liên hệ với phương Tây có thể vào thời kỳ mà người
Trung Quốc ghi lại về cuộc hành trình của những nhạc sĩ và nghệ sĩ nhào lộn La Ma từ Mã Lai đến Trung
Quốc (120 sau CN) và gọi là “sứ thần” của Marc Aurele (166 sau CN)
24
Những tượng Bàlamôn Sitep trên sông Nam Sak có lẽ không cổ hơn như tôi
tưởng khi viết lần thứ nhất năm 193288
, nhưng những bút tích ở cùng một di chỉ đó
không thể có trước thế kỷ V và VI sau CN89
. Một pho tượng Phật nhỏ bằng đồng
của trường phái Amaravati đã được tìm thấy ở vùng Cò rạt90
.
Ỏ Campuchia, người Trung Quốc xếp vào thế kỷ I sau công nguyên, sự
thành lập vương quốc Phù Nam do người Bàlamôn Cônđinia, nhờ nó họ bắt đầu liên
lạc với nhau trong nửa đầu thế kỷ III sau công nguyên, một thời kỳ cổ nhất của một
trong bốn bút tích Phạn mà nước này đã để lại91
.
Ở vương quốc Chàm trên bờ biển Trung kỳ (Việt Nam) hiện nay, người
Trung Quốc đã nói tới từ năm 190-193 sau công nguyên. Vết tích khảo cổ cũ nhất
hiện nay tìm thấy ở xứ Chàm là tượng Phật ở Đông Dương (Quảng Nam) là một
trong những mẫu đẹp nhất của nghệ thuật Amaravati92
.
Trên bán đảo Mã Lai, người Trung Quốc xếp các nước nhỏ đã Ấn Độ hoá bắt
đầu từ thế kỉ II sau công nguyên. Những bút tích chữ Phạn không vượt quá thế kỷ
IV.
Ở vùng quần đảo, những bút tích chữ Phạn của Mulavarman ở vùng Kutry ở
Boócnêô, bắt đầu từ thế kỷ V sau công nguyên. Nhưng những tượng Phật theo kiểu
Amaravati tìm thấy ở Sampaga (Xêlípbơ)93
, phía Nam tỉnh Jember (đông Giava)94
trên đồi Seguntang ở Palembang (Xumatơra)95
lại cổ xưa hơn. Đối với người Trung
Quốc, sự ghi chép về Giava (Ye-tiao = Yaradvipa) từ năm 132 sau công nguyên.
Tóm lại, tất cả những điều đó không làm cho ta đi ngược quá Ptôlêmê (thế kỷ
II sau công nguyên)96
mà mục lục địa lý đối với Ấn Độ bên kia sông Hằng đã ghi
đầy địa danh theo âm Phạn, và trong “Hàng hải quanh biển Erythtée” mới biết một
cách mơ hồ là một “xứ vàng”, “Chryse” ở bên kia sông Hằng.
88
“Nghiên cứu về chủ nghĩa Phương Đông” tr. 159 - 164 89
“Nghệ thuật và văn học Ấn Độ ”tr. 66-85; “Sự bành trướng của nền văn hoá Ấn - Arien” Báo Hội Á châu
Băng gan. I, 1935, tr. 54-55 90
Báo Hội Xiêm XXI-1928. 91
Về Phù Nam, Chàm, Mã Lai và quần đảo Nam Dương xem chú thích ở chương sau. 92
V. Rugiê “Những phát hiện mới về Chàm ở Quảng Nam” Báo cáo Khảo cổ học Đông Dương, 1912, tr.212-
213; BEFEO, XI, tr. 417; XXI, tr. 72; A. K. Cumaratsxoami “Lịch sử nghệ thuật Ấn Độ và Anhđônêdiêng”,
tr. 197. 93
Xem chú thích tr. 11 94
W. Cohn “Buddha in der Kunst des Ostens” Leipzig, 1925, tr. 28. 95
F. M. Schnitger “Khảo cổ về Xumatơra Ấn Độ” Lâyđơ, 1937. 96
Bản để tra về Ấn Độ và Viễn Đông là bản ủa L. Rơnu “Địa lý Ptôlêmê, Ấn Độ” (VII, 1-4)Pari-Sămpiông,
1925; Những cuộc thử dựng lại bản đồ Ptôlêmê và sự đồng nhất các địa danh ở Ấn Độ bên kia sông
Hằng.Xem G. E. Giêrini “Nghiên cứu về bản đồ Ptôlêmê ở Đông Á” London, 1909; A. Béctơlô “Á châu
miền Trung và miền Đông Nam theo Ptôlêmê” Pari Payô, 1930; A. Hécman “Das Land der seide und Tibet
im Lichte der Antike” Lepzích, 1938 - Những kết quả dựa vào những tình toán toán học rất là lừa dối, chỉ có
ngôn ngữ học cho đến nay cho ta những sự đồng nhất đáng hài lòng.
25
Mặc dầu vậy, G. Pherăng nhận xét rằng Giava đã Ấn Độ hoá từ 132 và giả
định rằng “sự Ấn Độ hoá ở Giava chỉ có thể tiến hành chậm chạp trong nhiều năm”
và kết luận “thời kỳ đầu của Ấn Độ giáo ở Ấn Độ bên kia sông Hằng và ở Inđônêdi
phải xảy ra trước công nguyên”97
. Kết luận đó không thuyết phục người ta với một
sự rõ ràng minh bạch. Như vậy, nếu ngưòi ta không nhớ lại về những điều và nói về
sự cố cựu và thường xuyên của mối tiếp xúc giữa Ấn Độ chính quốc với những
nước ở bên ngoài sông Hằng. Chỉ cần một đợt lớn hơn gồm những người di cư và
thương nhân kèm theo những sư sãi và trí thức là có thể thành lập rất nhanh những
vương quốc Ấn Độ ở những nước trước đó chỉ có những bộ lạc thổ dân. Bút tích
Phạn cổ xưa nhất ở Phù Nam chỉ chậm hơn một thế kỷ rưỡi so với người Trung
Quốc xác định cho sự thành lập xứ Phù Nam bằng cách ghép một người Bàlamôn
với một phụ nữ “ở truồng”. Theo tôi nên thận trọng nói một cách đơn giản rằng sự
xâm thực của Ấn Độ mạnh mẽ vào thế kỷ II và III, đã lưu lại hệ quả cho đến thế kỷ
IV và V.
Người ta có thể thêm rằng ở bờ biển trung Việt Nam và Xêlipbơ, tượng Phật
gốc Ấn Độ trước thế kỷ IV là một bằng chứng về sự phong phú của các chuyến đi
đã đưa người Ấn Độ đến giới hạn cực điểm mà sự xâm thực của họ có thể đạt đựoc
ngay hồi các thế kỷ đầu công nguyên.
3. Những nguyên nhân của sự bành trướng của Ấn Độ
Nguyên nhân nào có thể quy cho sự phát triển bằng đường biển một dân tộc
mà việc vượt vùng “nước đen” và sự tiếp xúc với những người man rợ Mơlécka đã
kéo theo nó nhiều vết nhơ? Người ta đã đi tìm nguyên nhân sâu xa vào thế kỷ III
trước công nguyên, trong cuộc chinh phục đẫm máu miền Kalinga mà trong sự di
trú của cư dân mà nó tạo ra: nhưng người ta có quyền hỏi tại sao những hậu quả đó
chỉ được cảm thấy sau ba thế kỷ? Người ta có thể giả định rằng những người tị nạn,
nếu có, có thể mở đường cho một cuộc di cư quan trọng về sau không?
Người ta đã nghĩ đến sức ép của sự xâm lược của người Kushana vào thế kỷ
đầu công nguyên98
đối với khối dân chúng Ấn Độ, điều đó về mặt niên biểu có thể
chấp nhận được. Đây cũng mới chỉ là một giả thiết mà chưa có một sự kiện rõ ràng
nào làm chỗ dựa.
Ngược lại, người ta lại có một loạt chứng tích chỉ rõ sự bành trướng của Ấn
Độ vào các thế kỷ đầu công nguyên mang nguồn gốc thuơng mại.
97
Báo Á châu tháng 7 và 8 năm 1919, tr. 20. 98
L. đờ la Valê Putxanh “Ấn Độ thời kỳ Môria và những người man rợ, người Hy lạp, người Xittơ, Péctơ và
Iuê chi” (Lịch sử thế giới, VI, I) Pari, 1930. S. Lêvi “Canitera và Xatavahana” Báo Á châu tháng 1 và 3,
1936, tr. 94.
26
Sự tiếp xúc giữa thế giới Địa Trung Hải với phương Đông sau những cuộc
chinh chiến của Alêchxăngđơrơ, sự thành lập ở Ấn Độ đế quốc Asôka và đế quốc
Kanishka về sau, sự nảy sinh ở phương Tây đế quốc Seleucides và đế quốc La Mã
đã tạo cho việc buôn bán các “xa xỉ phẩm” một sự phát triển99
mà những nhà đạo
đức Latinh thế kỷ I thường phàn nàn. Những loại hương liệu, những loại gỗ có mùi
thơm (bạch đàn, gỗ đại bàng), những loại dầu thơm (long não, an tức hương) đều
được kể trong các đặc sản các nước và các đảo ở ngoài sông Hằng: Takola “cho sa
nhân”, Karpuradvipa “đảo long não”, Narikeladvipa “đảo dừa” và địa danh Phạn
tương tự, chứng tỏ rằng những lợi ích nào đã lôi cuốn người Ấn Độ tới các miền
này.
Nhưng sức hấp dẫn của nó có thể không lớn như vậy nếu nó không nổi tiếng
về nguồn vàng mà Hy Lạp và Latinh đã nghe thấy tiếng vang xa xôi.
X. Lêvi100
viết “Về Kanakapuri, “thành phố vàng”, tôi muốn nhấn mạnh vai
trò của việc đi tìm vàng trong sự bành trướng của Ấn Độ vào Đông Dương và
Anhđônêdi; Đó không phải chỉ là những tên gọi cổ điển mà Suvarnadhumi và
Suvarnadvipa dùng để chứng minh; tên các sông ngòi do Ptôlêmê ghi trong “Biểu”
gợi lên dưới nhiều biến cải gốc thổ âm, có lẽ đã làm lộ rõ sự phong phú về nguồn
gốc những người đi tìm vàng “thứ kim loại phi thường” mà cát Anhđônêdiêng đã
không ngừng cuốn theo. Chính vàng đã lôi cuốn Ấn Độ tới lạc viên của Viễn
Đông”.
Đối với chúng ta, thế kỷ XIX đã phát hiện ra những lớp mỏ giàu có ở
Californie và Nam Phi, khả năng về vàng của ngoại Ấn hình như chưa đủ để chứng
minh “sự xô đẩy lẫn nhau đi tìm vàng” như vậy. Nhưng vàng lúc đó rất hiếm và sự
kiện quan trọng hình như không có liên hệ với việc Ấn Độ hoá miền ngoại Ấn -
trước công nguyên một chút, Ấn Độ vừa mất nguồn nhập cảng chủ yếu về kim loại
quý. Ấn Độ mua vàng của Xibêri, ở đó các đoàn thương nhân mang đến cho nó
bằng con đường vượt qua Bactriane. Những biến động lớn của các dân tộc Trung Á
vào hai thế kỷ trước công nguyên101
rõ ràng đã đưa lại kết quả là cắt đứt con đường
đó và làm Ấn Độ thiếu vàng mà Ấn Độ đang cần. Đó là lý do tại sao vào thế kỷ đầu
công nguyên, Ấn Độ tìm cách nhập từ đế quốc La Mã các đồng tiền mà nó đã cung
cấp nhiều mẫu102
và một phần nấu lên để dùng vào các việc thông thường. Nhưng
Hoàng đế Vetxpaxiêng (69-79 TCN) đã thành công trong việc ngăn chặn việc chảy
99
E. H. Dácmintơn “Sự buôn bán giữa đế quốc La Mã và Ấn Độ” Cambridge, 1928. 100
“K‟ouen lonen và Đvipăngtara” 88, 1931, tr. 627. 101
L. đờ la Valê Putxanh-Sách đã dẫn 102
R. Xơoen “Roman coin found in India”, 1904, tr 591-638; W. W Tácnơ “người Người Hi Lạp ở Bactriane
và Ấn Độ”, tr. 591-63?.
27
tiền đó, nó đã làm cho nền kinh tế hoàng gia bị tổn hại nghiêm trọng nhưng cũng có
thể khát vọng muốn tìm ra một nguồn khác là một trong những nguyên nhân của
việc di thực của những người thám hiểm về “xứ vàng”.
Những chuyến đi hải ngoại xa xưa của họ gặp thuận lợi do 2 lý do có bản
chất rất khác nhau: Lý do thứ nhất thuộc về vật chất: đó là sự phát triển của các hải
thuyền Ấn Độ và Trung Quốc103
và việc đóng thuyền đi biển có thể chở từ 600 đến
700 hành khách, theo kỹ thuật thường dùng ở vịnh Pecxico104
.
Sự mô tả chi tiết trong một văn bản Trung Quốc vào thế kỷ III sau công
nguyên105
cho biết đồ đạc dùng trong thuyền cho phép, trong một chừng mực nhất
định, hướng thuyền đi gần ngược chiều gió, đó là một cải cách cơ bản trong nghệ
thuật hàng hải. Mặt khác, người ta còn biết rằng vào giữa thế kỷ I đầu công nguyên,
thuỷ thủ Hy Lạp Hippalle đã phát hiện ra sự luân lưu định kỳ của gió mùa mà người
Ả rập đã biết nhưng còn giữ bí mật. Từ đó dẫn tới một sự phát triển kỳ diệu của
ngành thương mại đường biển giữa Ấn Độ và các cảng thuộc Hồng Hải, cửa ngõ
phương Tây. S. Lêvi viết106
“phải 14 thế kỷ sau mới gặp một cuộc cách mạng kinh
tế có thể so sánh với cuộc cách mạng này khi mà người Bồ Đào Nha thay đổi từ đầu
đến cuối tất cả các đường thương mại ở toàn bộ châu Á”. Việc thông thương bằng
đường biển trừ Ấn Độ với vùng đất và các đảo phương Đông chắc cũng chịu ảnh
hưởng.
Lý do thứ hai thuộc về tinh thần, là sự phát triển của Phật giáo: Trong khi
xoá bỏ cho các tín đồ của mình những hàng rào đẳng cấp và nỗi lo âu quá đáng về
sự thuần khiết giống nòi, Phật giáo đã thủ tiêu trong cùng một lúc nỗi lo ngại của
người Ấn Độ đã cải theo tôn giáo mới, về sau sự ô uế do tiếp xúc với những người
man rợ, mối lo ngại đó có từ trước đây do các chuyến hàng hải của họ.
Như vậy, người ta được dẫn tới chỗ hình dung sự bành trướng của nền văn
minh Ấn Độ về phương Đông vào đầu công nguyên như là kết quả của những quan
hệ thương mại, một làn sóng liên tục của những người đi biển vốn được tuyển mộ
trong giới “hải thương” mà rất nhiều loại đã được mô tả trong văn học Phật giáo cổ
và hình như có một sự sùng bái đặc biệt107
đối với Phật Dipankara “làm yên sóng
gió”. S. Lêvi viết108
: “Một số lớn truyện ở Giacata thiên về các cuộc phiêu lưu trên
103
“Về những sự liên lạc bằng đường biển đầu tiên giữa Ấn Độ và Trung Quốc” Penliô XIII, 1912, tr. 457-
461 và Nilacăngta Xatxtơri, mà kết luận còn phải bàn cãi nhưng nó cho nhiều tài liệu tham khảo. 104
Penliô “Văn bản Trung Quốc về vấn đề Đông Dương Ấn Độ hoá” EFEO II, tr. 261. 105
Sách trên, tr. 255. 106
“Ấn Độ khai hoá” tr. 159. 107
“Những “hải thương” và vai trò của họ trong Phật giáo nguyên sơ” B/c Hội những người bạn của phương
Đông. Số 3-1929, tr. 19-39. 108
“Manimekhala, phần biển” Báo cáo Viện Hàn lâm Văn chương Beldíchcơ, 1930, tr 282.
28
biển, biển và hàng hải hiển nhiên đã giữ một vị trí lớn trong cuộc sống của Ấn Độ
vào thời kỳ mà các truyện đó đều là truyện tưởng tượng”.
4. Phương thức hình thành các (thực dân địa) thuộc địa Ấn Độ đầu tiên
Do tiến trình nào mà những thương nhân đi tìm kiếm hương liệu và những
thám hiểm đi tìm vàng, đã đi tới chỗ hình thành nên những cộng đồng khá thuần
nhất và có tổ chức khá chặt chẽ để làm nảy sinh các vương quốc Ấn Độ thực sự?
Người ta không thể có một quan niệm về việc đó nếu quan sát những việc
xảy ra ở ngoài và trong thời gian khác nhau, nhưng trong những trường hợp tương
tự.
G. Pherăng đã viết về sự Ấn Độ hoá ở Giava nhiều trang có thể áp dụng cho
những nước khác ở ngoại Ấn mà tôi xin trích vài đoạn109
:
“Sự thật có thể gần như thế này: hai hay ba thuyền từ Ấn Độ cùng đi với
nhau lần lần đến Giava. Họ liên hệ với những thủ lĩnh ở đó, được ưu đãi nhờ nhiều
tặng phẩm, nhờ sự săn sóc đối với những ngưòi ốm và nhờ những bùa chú. Ở tất cả
những nước có nền văn minh thái cổ mà tôi đã sống từ vịnh Ađen, từ bờ biển phía
đông châu Phi đến Trung Quốc, những phương tiện thâm nhập hoà bình hiệu quả
nhất bao giờ và ở đâu cũng như nhau: tặng phẩm, phân phát thuốc chữa và phòng
các chứng đau và nguy hiểm có thực hay trừu tượng. Khách lạ phải là người hoặc
trở thành người giàu có, chữa bệnh tốt và biết làm phù thuỷ. Không ai có thể sử
dụng những phương pháp đó khéo hơn người Ấn Độ. Họ có thể tự xưng là xuất thân
Hoàng gia hay vương tử, điều mà chủ nhân ấn tượng một cách rất có lợi”.
“Di cư đến “miền đất không ai biết đến” này, người Ấn Độ không cần phiên
dịch. Họ phải học thổ ngữ là thứ tiếng rất khác với ngôn ngữ của họ và phải vượt
qua trở ngại đầu tiên đó để được hưởng quyền thị dân giữa những người Mêlétcha.
Sau đó đến việc lấy những con gái của thủ lĩnh110
, và cũng chỉ từ đó ảnh hưởng khai
hoá và tín ngưỡng của khách mới tiếp cận tới một số cơ hội thành công. Những
người vợ thổ dân đó nhờ vậy được hiểu biết, trở thành những người tuyên truyền
xuất sắc những tư tưởng và đức tin mới. Các công chúa hay con gái quý tộc khi đã
khẳng định các cái mới hơn hẳn những phong tục, tập quán và tín ngưỡng thừa kế
của tổ tiên thì dân chúng của họ không thể nói trái lại được”
“Về việc truyền bá những điều mới mẻ về xã hội, luân lý và tín ngưỡng,
người Giava không có những từ tương đương, nên không biết được. Cho nên phải
109
“Xứ K‟ouen louen” Báo Á châu 7-8/1919, tr. 15. 110
Về các cuộc hôn nhân lai giống được xác nhận trong nhiều văn bản-Sách đã dẫn, tr. 29.
29
xếp các thuật ngữ Ấn Độ vào mọi lĩnh vực của họ - thuật ngữ mà người ta còn dùng
ở Anhđônêdiêng sau 2.000 năm”.
G. Pherăng dựa vào kinh nghiệm bản thân về sự thâm nhập của Hồi giáo vào
dân Xacalavơ ở Mađagatxca làm cơ sở khôi phục lại giả thiết đó. Một người am
hiểu về thế giới Anhđônêdiêng, R. O. Uynxtet, đã chú giải đoạn này trong “Lịch sử
Mã Lai”111
và thêm vào nhiều đối chiếu khác. Ông viết: “Với thời gian, một vài
người Ấn Độ lấy vợ trong các gia đình lớn Anhđônêdiêng và đưa những quan niệm
Ấn Độ về vương quyền vào, giống y như 1.000 năm sau người Hồi giáo Tamouls
kết hôn với những gia đình vua chúa hay Bendaharas ở Malăcca. Sự có mặt của
người Ấn Độ vào Mã Lai hình như cũng tương tự như sự có mặt sau này của người
Hồi giáo Ấn Độ và Hadramout, một người Bàlamôn giữ vị trí mà sau này Sayid
chiếm đoạt”.
Có lẽ giai đoạn đầu của sự Ấn Độ hoá là như vậy. Sự nghiệp cá nhân hay tập
thể kia là những cuộc di dân từng khối lớn đã làm thay đổi nhiều hơn những tiêu
hình vật chất của các dân tộc Úc-Á và Anhđônêdiêng ở ngoại Ấn.
Nhưng sau những thương nhân và có thể gọi là theo dấu chân họ, cần dành
một vị trí rộng rãi cho các yếu tố tri thức thuộc về 2 đẳng cấp đầu, nếu không người
ta sẽ không hiểu nổi sự nảy nở của nền văn minh ngoại Ấn, Khơme, Chàm, Ấn Độ -
Giava vốn thấm nhuần sâu sắc tôn giáo Ấn Độ và văn học Phạn. Người ta đã có
chứng cớ về vương quốc đầu tiên mà người Trung Quốc đã cho những chỉ dẫn rõ
ràng: Ở Phù Nam, một số công chức là ngưòi Ấn Độ, có thể nhận ra được ở chỗ họ
mang tên họ bằng một từ nhân chủng Chu112
. Bằng họ đó, người Trung Quốc chỉ
những người gốc ở Ấn Độ. Nhưng càng không chắc rằng, những người di cư đó tuy
có địa vị xã hội cao hơn những nhà hàng hải đầu tiên, đều là người Ấn Độ thuần
nhất thuộc gốc Arien mà khi đến xứ mới, mặt đối mặt với người thổ dân, họ thường
tự xưng là thuộc về những đẳng cấp xã hội đã từ bỏ họ ở Ấn Độ chính quốc.
Ở trên tôi đã chỉ ra những ảnh hưởng của Phật giáo đối với sự phát triển của
việc buôn bán đường biển và người ta đã thấy trong nhiều trường hợp những bằng
chứng cổ nhất về sự Ấn Độ hoá là những bức tuợng Phật Dipankara, thuộc về
trường phái Amaravati, mà những nhà hàng hải thường đi về các đảo phía Nam rất
chuộng. Vai trò Phật giáo không thể chối cãi được: hình như nó đã mở đường nhờ
tinh thần truyền giáo và không có thiên kiến chủng tộc của nó. Nhưng phần lớn
những vương quốc tạo nên vùng ngoại Ấn đã tiếp nhận một cách không chậm chế
111
“Lịch sử Mã Lai”, 1935, tr. 18. 112
Viết tắt chữ Tiền-Chu, “Ấn Độ”, Penliô “Nước Phù Nam” BEFEO, III, tr. 252 - số 4.
30
quan niệm về Ấn Độ Xiva của vương quyền, dựa theo cặp Bàlamôn-Kờsatơria và
biểu hiện trong việc thờ dương vật thần Xiva.113
Nilacangta Xatxtơria114
viết: “cũng như ở Hy Lạp, những đoàn thựuc dân
mang theo họ ngọn lửa ở chính quốc như một dấu hiệu về lòng quyến luyến xứ sở
họ vừa rời bỏ để đi tìm nơi ở mới, giống như những đoàn thực dân Ấn Độ đã mang
theo họ việc thờ phụng thần Xiva, người giữ vai trò bảo vệ đất nước, nhờ những hậu
lễ của mục sư Bàlamôn trong hoàng cung”.
Việc thành lập các vương quốc như vậy, việc biến đổi một chi điếm thương
mại thành một quốc gia chính trị có tổ chức có thể được thừa nhận bằng 2 cách:
hoặc là một người Ấn Độ buộc phải nhận mình là thủ lĩnh của dân thổ dân ít hay
nhiều có yếu tố cốt Ấn Độ, hoặc là một thủ lĩnh bản xứ tiếp nhận nền văn minh của
khách và củng cố quyền lực bằng cách Ấn Độ hoá. Cả 2 trường hợp đều có thể xảy
ra, nhưng trong trường hợp thứ nhất, và giả dụ rằng triều đại đó từ nguồn gốc là Ấn
Độ thuần tuý, nó ít có khả năng giữ như vậy một cách lâu dài do các cuộc hôn nhân
lai giống mà người Ấn Độ tự thấy bị ép buộc. Chính những loại hôn nhân đó là
nguồn gốc triều đại đầu tiên ở Phù Nam, theo lời thuật lại của người Trung Quốc.
Nhưng việc nâng các thủ lĩnh thổ dân lên hàng Kờsatơria nhờ nghi lễ Bàlamôn về
việc kết nạp những người nước ngoài vào cộng đồng chính thống115
phải là một
nguyên tắc mà minh văn học đã cung cấp nhiều thí dụ. Vua Muylavacman, người đã
để lại ở Boócnêô những bút tích chữ Phạn vào đầu thế kỷ V116
có bố là
Acvavacman, tên đó thuần tuý là chữ Phạn nhưng người ông của vua lại mang tên
Cunđuga thì lại không phải chữ Phạn. Xangiaia sáng lập ra triều đại Giava ở
Mataram117
vào thế kỷ VIII, là cháu một người tên là Xannaha, cái tên như sư Phạn
hoá một cái tên Giava.
Cùng cách đó, cơ sở xã hội Ấn Độ do chế độ đẳng cấp thống trị hình như đã
chịu nhiều thay đổi khi tiếp xúc với các xã hội bản xứ. Những nhà Phả hệ học ở
Campuchia xưa thường đưa ra một sự hỗn hợp kỳ lạ những tên chữ Phạn với những
tên Khơme, khiến ông A. Barth nhận xét rằng người Bàlamôn ở Campuchia “dường
như không thận trọng trong sự manh khiết về huyết thống”118
. Chính vì những
người Bàlamôn nếu họ muốn có con cháu, họ buộc phải làm tổn hại nghiêm trọng
113
A. D. K. Bôtsơ “Việc thờ cúng dương vật thần Xiva” 1924, tr. 227 - ? 114
“Agatxtia”, 1936, tr. 503 115
Putxanh “Ấn Độ - Âu tây và Ấn Độ - Arien”tr. 168-178; “Triều đại và lịch sử Ấn Độ”, tr. 361; S. lêvi
“Nước Nêpan”, tr 220; L. Rơnu “Thư mục Vệ đà”, 1931, tr. 153-334. 116
Sách đã dẫn, tr. 21-Sách dẫn dưới tr. 63. 117
Sách dẫn dưới, tr. ? 118
“Bút tích Phạn ở Campuchia” tr. 159, số 10. Nhận xét của Barth dẫn chứng trong một văn bản của thế kỷ
XI nhưng sự hỗn hợp tên đã được nói tới từ trước rất lâu
31
những quy tắc quần hôn (đồng tộc kết hôn). Một văn bản ở Trung Quốc thế kỷ V
khẳng định rằng “Trong vương quốc Tuen-Xiun có hơn 1.000 Bàlamôn Ấn Độ. Dân
Tuen-Xiun theo đạo của họ và gả con gái cho họ, vì vậy nhiều Bàlamôn không dời
bỏ đi nữa”.119
Về điểm đó người ta có thể dẫn ra thí dụ của miền Nam Ấn Độ, ở đó, những
người Bàlamôn nghiêm ngặt nhất, về thể chất đều là những người Đraviđiêng thuần
tuý. Dựa vào những chú thích thư mục, Putxanh đã phác ra một bản đồ về vai trò
phân định cho người Bàlamôn trong các bộ lạc ở Bănggan “về vụ án Bàlamôn hoá”
và chỉ ra “người Bàlamôn làm các việc về linh hồn cho thị tộc, hoặc vì sự cứng rắn
của thời đại đồ sắt bắt buộc họ phải nhượng bộ, hoặc vì thị tộc thực sự tiếp thu
những yêu cầu của một chính giáo khoan nhã”120
Về phía mình, S. Lêvi121
xét thấy công việc của đạo Bàlamôn “một tôn giáo
không định hình, không có thủ lĩnh, không có tăng lữ, không có giáo lý, không có
chương trình”, nhưng đã thống nhất được Ấn Độ, vẫn đang tiếp diễn dưới mắt
chúng ta. “Nó thu nạp không mệt mỏi nhiều tín đồ mới. Những bộ lạc trong rừng
sâu cũng mong muốn có đạo Bàlamôn; nhờ sự quyến rũ hay nhờ sự cướp bóc dẫn
đi, người Bàlamôn bắt đầu được công nhận ở trong các bái vật của thị tộc như sự
giáng lâm được dấu mặt của các vị thần, sau đó nó khám phá ra một phổ hệ dùng
cho các thủ lĩnh của thị tộc. Phổ hệ đó gắn chặt họ vào các chu kỳ hùng tráng;
ngược lại, nó buộc người ta chấp nhận các cách tu hành, nhất là sự tôn trọng con bò
cái, một điều khoản mở đầu của tín điều ”.
Những suy luận có thể rút ra trong những việc vẫn diễn ra ở Ấn Độ dưới mắt
ta càng khẳng định các nguồn tài liệu cổ ở Trung Quốc; theo nó thì những nét chung
ở các xứ thuộc miền biển phía Nam là xứ đó không phải là những thuộc địa di dân
của Ấn Độ mà là những xã hội bản xứ được Ấn Độ hoá.
Xituttéchem viết về Bali:122
“nhờ đó xuất hiện các nước nhỏ do các ông
hoàng Ấn Độ hay đã Ấn Độ hoá cai trị, ở đó chỉ những thành viên của triều đình là
phải có dòng máu Ấn Độ. Khối dân chúng vẫn là Anhđônêdiêng. Ngày nay ba đẳng
cấp bên trên (tơrivamxa) chiếm 7% dân số, số còn lại là người Côla (đày tớ) hay
Xuđờra”
119
Tuen-Xiun là một nước phụ thuộc vào Phù Nam, có thể trên bán đảo Mã Lai-Sách đã dẫn, tr. 46-Văn bản
này vẫn quan trọng nếu những người “Pelômen” trong văn bản của Trung Quốc không phải đều là thuộc
đẳng cấp Bàlamôn. 120
“triều đại và lịch sử Ấn Độ”, tr. 361 121
“Ấn Độ khai hoá”, tr. 23. 122
“Anh hưởng của Ấn Độ tới nền nghệ thuật cổ Bali”, london, Hôi Ấn Độ, 1935, tr.6.
32
Tiến trình đó tiếp diễn trong nhiều thế kỷ, lợi cho việc trao đổi mà sự thành
lập những vương quốc Ấn Độ đầu tiên ở ngoại Ấn đã lợi dụng và mở rộng, những
bút ký và văn bản Trung Quốc đã lưu lại. Tôi cố ý gọi là “sự trao đổi” “vì hình như
song song với những chuyến đi của người Ấn Độ về các xứ phương Đông, có thể
vào một thời kỳ nào đó phải tính đến việc du nhập Ấn Độ của những thương nhân
Đông Dương vào Anhđônêdiêng, hợp lại thành “thực dân địa” ở một số cảng lớn.
Cho nên trong sự thâm nhập của văn minh Ấn Độ, có thể người ta phải dành chỗ
cho một yếu tố mà hình như người ta không thấy: tôi muốn nói tới hành động của
các thổ dân Đông Dương và Anhđônêdiêng mà sau khi ở hải ngoại một thời gian trở
về, họ đã đóng góp một phần lớn vào việc truyền bá trong nước họ những phong tục
và tín ngưỡng của Ấn Độ”.
Nếu có thể căn cứ vào các việc xảy ra gần đây ở Á châu để xét đoán, người
ta thấy các kiểu tập quán phương Tây, y phục, các dấu hiệu bề ngoài của phép lịch
sự, thị hiếu về một số hình thức nghệ thuật, văn chương và giải trí, đều được du
nhập một cách nhanh hơn và dễ dàng hơn trong dân chúng do khối người Á châu từ
châu Âu, châu Mỹ trở về hơn là do chính người châu Âu đem đến. Có thể cũng như
vậy xưa kia ở các nước ngoại Ấn, sự thâm nhập của nền văn hoá Ấn Độ có thể từng
bộ phận là công trình của các thổ dân đã say mê một nền văn minh cao hơn.
Cuối cùng phải tính đến khuynh hướng của người Ấn Độ muốn chuyển mọi
vẻ của nền văn minh đó thành quy ước (Xatxtơra), từ pháp luật (đácmaxatxtơra) và
chính trị (Áctaxatxtơra) đến việc tìm sự giải trí (Camaxatxtơra). Không yêu cầu như
người ta đã làm123
rằng “toàn bộ nền văn hoá Ấn Độ ở Anhđônêdiêng đều được thu
vào các sách, người Ấn Độ chỉ giữ một vai trò không đáng kể hay có thể không có
vai trò gì”, chắc chắn rằng tất cả nền văn học chuyên môn và giáo huấn đó bằng chữ
Phạn đã làm dễ dàng rất nhiều cho sự thâm nhập của văn hoá Ấn Độ vào các nước
hải ngoại.
5. Những điểm xuất phát và những đường đi của sự bành trướng của Ấn
Độ
Những dòng di cư đã theo những đường nào, và ở Ấn Độ, đâu là những trung
tâm mà nền văn minh đó toả ra trên bán đảo Đông Dương và các đảo phía Nam?
Đối với miền Nam quần đảo thì sự thâm nhập bằng đường biển là tất nhiên,
nhưng còn đối với vùng bán đảo, người ta có thể tự hỏi đường bộ có giữ vai trò như
vậy không?
123
Xtuttechem “Ảnh hưởng của Ấn Độ vào các vùng đất ở Thái Bình Dương ”, tr. 4-5.
33
Người ta đã miêu tả Đông Dương được bán đảo Mã Lai và quần đảo kéo dài
ra như một “hàng rào” thiên nhiên; “các tàu thuyền từ phương Tây đến qua Ấn Độ
Dương, hoặc các tàu từ phương Đông đến qua biển Trung Hoa chỉ có thể đi qua
những lạch tương đối hẹp như lạch Singgapo hay eo biển ở các đảo Xôngđơ, mà
người ta có thể nhảy từ bờ này qua bờ kia”. Tác giả những dòng trên, cha H.
Becna124
thêm: “Những đường bộ đi tắt, thời xưa không dùng được vì các châu thổ
sông Iraoađi, Saluin, Mênam, Mêkông, sông Hồng thường bị các loại thực vật nhiệt
đới làm cho nghẽn lối, đều dựa lưng vào một nước trung tâm, đất không bằng phẳng
và không ở được, chỉ có thể vượt qua dễ dàng từ khi ngành hàng không phát triển”.
Nhưng các bình nguyên ở Đông Dương và những cây đước không ngăn cản
được những người phiêu lưu đi tìm vàng, những sa mạc ở Trung Á hay băng tuyết ở
Pamia không ngăn được những người buôn bán lụa hay các khách hành hương đạo
Phật đi thỉnh kinh.
Những chướng ngại địa lý thường không đáng sợ bằng các loại giặc biển. Và
rõ ràng là sự sản sinh ra cướp ở các eo biển, và sau này nền chính trị thương mại
chuyên chế của vương quốc Palembang125
đã trao cho các đường bộ một vai trò
quan trọng thực sự. Điều đó được các hiện vật khảo cổ xác minh.
Vả lại còn gì hấp dẫn cho bằng việc tránh các đường quanh co bằng đi qua
eo biển Malăcca (tôi không nói tới eo biển Xông đơ ở xa về phía Nam so với Ấn
Độ, vào thời cổ đại cũng thỉnh thoảng được sử dụng, nó chỉ có tầm quan trọng thực
sự bắt đầu từ khi có những cuộc đi biển lớn qua mũi Hảo Vọng (Boune Esperance))
và lợi dụng địa thế hẹp của eo đất Kra và bán đảo Mã Lai để “tăng bo” hàng qua
những đường thiên nhiên mà ngày nay có thể đi lại “dễ dàng bằng xe đạp từ biển
này đến biển nọ trong vài giờ”126
Những người đi biển từ Nam Ấn đi về các xứ vàng đã tránh việc đi dọc theo
bờ biển Bănggan và liều vượt qua biển khơi, có thể mượn đường lạch sông các vĩ
tuyến 10 độ giữa Anđaman và Nicôba, hoặc quá về phía Nam, lạch giữa Nicôba và
mỏm Achila. Những người đầu tiên cập vào bán đảo về phía Takupa, những người
thứ nhì cập vào Kedah, hai di chỉ mà những cuộc khai quật khảo cổ đã đưa ra ánh
sáng nhiều hiện vật cổ127
.
Người ta đi một cách dễ dàng từ Kedah đến Xingơra, từ Tơrang đến
Patalung, đến thành cổ Ligơ hay Banđôn, từ Kra đến Chumpoa, và nhất là từ Tacua
124
“Để hiểu Đông Dương và phương Tây”, Hà Nội-Tôpanh, 1939, tr. 51. 125
Xem chú thích tr. 165-181, 239. 126
L. đờ Lajông Kiêrơ “Lãnh địa khảo cổ ở Xiêm”, 1909, tr. 289. 127
-nt-; H. G. Quarit Uônlitxơ “Cuộc nghiên cứu mới về con đường bành trướng của nền văn hoá Ấn Độ
cổ”, 1935, tr. 1-31; v.v...
34
Pa đến Chaia, mà những cuộc tìm kiếm khảo cổ đã phát hiện tầm quan trọng và tính
cổ xưa128
.
Đối với những người đi từ trung Ấn Độ đến, và đối với những người đi theo
dọc các bờ biển, việc qua lại vịnh Xiêm và từ đó đến biển Trung Quốc, còn có thể
đi từ Tavoi, vượt qua các núi qua eo Ba ngôi chùa rồi xuống đồng bằng sông
Mênam bằng sông Canbury mà trên bờ người ta đã giới thiệu ở phần trên. Danh
thắng cổ Pông túc, ở gần một danh thắng khác không kém cổ xưa là Pơra Pathom.
Quá về phía Bắc, việc qua lại sông Mênam có thể thực hiện được từ phía Đông
bằng con đường hiện nay nối liền bến Munmen với tỉnh Raheng trên một nhánh của
sông Mênam.
Cuối cùng, người ta còn thỉnh cầu có một con đường nối liền Mênam với
Mêkông vượt cao nguyên Cò rạt qua Xitép, một danh thắng cổ và thung lũng
Mun129
. Xứ sở của vương quốc Ấn Độ Campuyat ở Bat xắc thuộc miền trung sông
Mê Kông130
, ngăn miền hạ lưu Mê Kông và biển bằng thác Khôn không thể vượt
qua được, như vậy đã tạo nên điểm chót của con đường này.
Quá về phía Bắc hơn nữa truớc đây có một con đường nối liền với Trung
Quốc qua At xam, vùng cao Miến Điện và Vân Nam. Việc sử dụng nó được xác
nhận bắt đầu được xác nhận từ thế kỷ II sau công nguyên131
nhưng có thể quá về thế
kỷ II trước công nguyên, và nhờ nó mà ảnh hưởng Ấn Độ, sau khi tác động vào
miền cao Miến Điện, đã tới vùng người Thái ở Nam Chiao132
.
Người Ấn Độ từ đâu di cư đến ngoại Ấn và đáp tàu từ đâu? Đó là một câu
hỏi đối với nhiều công cuộc tìm kiếm. Khổ thay, những nhà sử học Ấn Độ là người
quan tâm nhất đến vấn đề đó, cũng không phải bao giờ cũng khách quan, vì họ sinh
trưởng ở Mađơra hay Cancútta, nên họ thường trao vinh dự đó cho xứ Tamun hay
Bănggan đã khai phá được miền “Đại Ấn Độ”.
Không kể một bút tích Tamun ở Xumatơra133
và hai cái ở bán đảo Mã Lai134
,
nó cho phép trường học ở Mađơratx ghi một điểm, nhưng không bản nào ghi chép
ngày tháng những thời kỳ bắt đầu của sự Ấn Độ hoá. Những người thực dân không
để lại ở hải ngoại những tài liệu viết bằng thổ ngữ, nó cho phép chỉ dẫn về xứ sở
gốc của họ. Những nguồn tài liệu của chúng tôi là những văn bản của các nhà địa lý 128
J. Y. Cơlay “Khảo cổ ở Xiêm”, BEFEO, XXXI, tr. 378. 129
H. G. Quarit Uônlitxơ “Về Ăngco”, tr.111. 130
Xem chú thích tr. 79-80. 131
P. Penliô “Hai cuộc hành trình” BEFEO IV, tr. 142-143; G. H. Luytxơ và Pr Môngtin “Từ Miến Điện đến
Pagan” XXIX, 1939, tr. 264. 132
P. Penliô, Sách trên, tr. 154, “Nguồn gốc tên “Trung Hoa”” Tung Pao, XIII, 1912, tr. 733-734. 133
Bút tích ở Labua Tua gần Barôtx từ 1088, tr. 304. 134
Bút tích về Khaopôra Narai ở Tacua Pa từ VII-IX và của Patát ở Ligo từ X-XI. (Sưu tập bút tích ở Xiêm)
II, tr. 49 và 57.
35
và các nhà du lịch âu châu hoặc Trung Quốc, và cuối cùng là các địa danh vựng tập,
các phong tục, chữ viết, nghệ thuật tạo hình của vùng ngoại Ấn có thể cho phép
chúng tôi biết về nguuồn gốc đó.
“Tất cả những cảng phía Đông của Ấn Độ đến Tamralipti (Tamlíc) đều đóng
góp vào sự bành trướng của Ấn Độ, nhưng miền Nam đóng góp lớn nhất” (L. đơ la
Valê Putxanh viết)135
.
Quả vậy, trong lúc “Cuộc hành trình quanh biển Êritê” đặt ở Camara (Khabri
của Ptôlêmê = Kaviri-Pattinam ở cửa sông Caveri)136
, ở Pôđukê (Pôngđisêri)137
và ở
Xôpatma, ba cảng lớn nhất ở cạnh nhau, từ đó các thuyền lớn gọi là Côlăngđia138
căng buồm đi Cơrikê, thì Ptôlêmê (VII, 1, 15) đặt quá khứ về phía bắc, gần
Sicacôlơ139
, bến cảng xuất phát (Aphơtêriông) của những hành khách đi Secxôneđơ
vàng. Ở Tamralipti (Tamlic trên cửa sông Hằng) là nơi khách hành hương Trung
Quốc xuống tàu, như Pháp Hiển vào đầu thế kỷ V và Ixing vào cuối thế kỷ VII
trong chuyến du lịch từ Ấn Độ trở về Trung Quốc. Có lẽ cũng tại Tamralipti mà
ngay từ thời kỳ khởi thảo của Giatacatx, những thương nhân đi từ Bênaritx hay từ
Chàm, trong thung lũng sông Hằng, mượn đường biển đi đến Xuvanabumi, đất
vàng140
. Cuối cùng chắc chắn rằng những cảng lớn ở bờ biển phía Tây:
Bơharacacha (tiếng Hi Lạp Barigađa, biến thể của Bơrôato), Xuyaparaca (Xuppara,
Xôpara) đều có liên lạc với xứ vàng.
Những hiểu biết người ta có thể rút ra từ các tập địa danh Ấn Độ di thực đến
ngoại Ấn không thể cứ được (dùng làm căn cứ) vì việc chọn những tên như Chàm,
Đơvaravati, Ayôdia và nhiều tỉnh nổi tiếng trong truyền thuyết cổ, không nhất thiết
chứng minh được nguồn gốc Ấn Độ (sông Hằng) của những người đã đem đến
nước ngoài. Bằng chứng của tập địa danh rất có ích khi nói về những tên ít nổi
tiếng. Thí dụ, người ta có thể nêu lên một sự so sánh giữa Taruyma, tương ứng
trong một bút tích cổ ở Giava, với một địa phương ở đảo đó và một địa phương
cùng tên mũi Cômôranh. Cũng như việc dùng từ Uytxa (Ôđơra = Ôritxa) đối với
Pêgu, và Xơritxhêtơra (= Puyri) như tên cổ của Pơrômơ ở Miến Điện, có lẽ đã chỉ ra
mối liên lạc giữa các nước đó với Ôritxa. Tên Calinhga có tiếng vang trong tên
Hôlinh là tên người Trung Quốc đặt cho một vương quốc nhỏ ở Giava, và trong tên
135
“Triều đại và lịch sử Ấn Độ”, tr. 293. 136
“Lịch sử Ấn Độ” I, tr. 212-Xem đoạn mô tả cảng này lúc nó hưng thịnh, trong văn học Xangam;
Nilacăngta Xattri “Côlax”, tr. 96-99. 137
G. Ginvô Đuybôrơi “Puđukê - Pôngđisêri” (đăng trong tạp chí Đông đisêrinăm 1938, tr. 139-142; “Phế
tích La Mã ở Pôngđisêri” BEFEO XL, tr. 448 - 450). 138
Từ chữ “Côla” xác nhận trong các bản chữ Phạn Phật giáo. 139
S. Lêvi “Ghi chép về địa lý cổ Ấn Độ” Báo Á châu, tháng 1-3, 1925, tr. 46-57. 140
“Xamkhagiataca” số 442; “Mahagianacagiataca” số 539.
36
Cơlinh mà người Mã Lai và Campuchia dùng để chỉ người Ấn Độ. Tên Talaninh mà
người Miến Điện dùng để gọi người Mông hình như đã chỉ ra rằng trong một thời
kỳ nào đó, người ta có thể nhớ lại sự tồn tại của các tên nhân chủng: Côla, Păngđia,
Panlava, Malaialam ở người Carô-Batăcx ở Xumatơra, những tên đó đều có nguồn
gốc ở Ấn Độ Đơraviđiêng141
. Các truyền thuyết về các triều đại có thể cung cấp
nhiều tài liệu quý. Người ta đã tìm mối liên hệ giữa người Xailăngđơratx ở Giava và
Xumatơra với người Xailatx ở Ôritxa142
, một sự đối chiếu không thoả đáng bằng sự
đối chiếu truyền thuyết về các triều đại các vua ở Phù Nam với truyền thống cai ma
Panlavatx ở Kăngchi (Cônggiơvơram)143
. Người sáng lập và người Ấn Độ hoá các
nuớc Phù Nam, cả hai đều thuộc tộc Bàlamôn Cônđinia, gốc ở Bắc Ấn Độ, mà một
ngành của nó có ảnh hưởng lớn đến Mixorơ vào thế kỷ II144
.Những ghi chép của
nhà hiền triết Agatxtia và việc thờ cúng ông ở ngoại Ấn đã dẫ tới sự đóng góp vào
công trình Ấn Độ hoá của người Pânđiatx ở cực Nam Ấn Độ145
. Việc nghiên cứu
chữ cổ cũng đem lại những sự sáng tỏ có ích: nhờ vậy, ta biết được một đợt ảnh
hưởng Bănggalơ vào cuối thế kỷ VIII và đầu thế kỷ IX đã được xác nhận nhờ việc
sử dụng chữ tiền-Nagari146
. Khổ thay các loại chữ Ấn Độ càng ít khác biệt lại càng
cổ. R. C. Magiumđa đã thử chỉ ra rằng147
bút tích Phạn cổ nhất ở Đông Dương (vào
thế kỷ III, gốc ở Phù Nam chứ không ở Chàm) là sự chuyển hoá chữ của người
Cusanatx dùng ở miền Trung Nam Ấn Độ. Nhưng sáng kiến cách mạng đó bị lý lẽ
rất hay của Nilacăngta Xatxtơri148
đánh đổ. Ông này bảo vệ luận thuyết cổ điển,
theo đó các chữ cài ngoại Ấn đều gốc ở Nam Ấn với ưu thế ảnh hưởng của chữ
Panlavatx149
.
Nghệ thuật tạo hình không đem lại nhiều lợi ích vì những vết tích cổ xưa
nhất thường lại có sau nhiều thế kỷ đã Ấn Độ hoá, trừ các tranh, tượng Phật ở
Anarati có ở nhiều nơi trên vùng ngoại Ấn như ta đã nói tới ở phần trên. Nếu nghệ
thuật tạo hình chứng minh được ưu thế ở phía Nam thời kỳ đầu của sự Ấn Độ hoá,
những ảnh hưởng của nghệ thuật Gupta, rồi Pala và Xơna mà người ta đã nhận thấy
trong các đồ chạm khắc150
, nghệ thuật Ôritxa trong các tranh Ấn Độ ở Miến Điện và
141
H. Kecnơ “Đravdische volksnamen op Sumatra” Verspa. Geschr III, tr. 67-72. 142
RC. Magiumđa “Xuvácnátsvipa”I, tr. 226-227. 143
G. Xơđét “Truyền thuyết xứ Nađi” BEFEO XI, tr. 391. 144
K. P. Giaiatxuôn “Lịch sử Ấn Độ”, tr. 169; B. R. Sáttécgi “Những tiến bộ mới nhất về việc nghiên cứu
Campuchia”, tr. 139. 145
Nilacăngta Xatxtơri “Agatxtia”, tr. 503-504. 146
K. Bôtsơ “De inscripti van Keloera”, 1929, tr. 3-16. 147
“Nghiên cứu chữ cổ ở Chàm” BEFEO XXXII, tr. 124-139. 148
“Nguồn gốc chữ cái Chàm” BEFEO XXXV, tr. 233-241. 149
Vôghen “Bút tích Gúppa---tr.66--- Mulavacman ở Côtây (Đông Boócnêô)”, 1918, tr. 222-232. 150
Anăngđa K. Chomaratxoami “Lịch sử nghệ thuật Ấn Độ và Anhđônêdiêng”, London 1927; “ảnh hưởng
của nghệ thuật Ấn Độ”, 1927; R. Gơrutxê “Nghẹ thuật Pân và Xơna ở ngoại Ấn” I, tr. 277-285; A. J. Becnet
Kempơ “Đồ đồng ở Nalanđa và nghệ thuật Ấn Độ Giava”, 1933.
37
Giava151
cho ta một quan niệm về sự phức tạp của các nhân tố đã tạo thành và thúc
đẩy sự phát triển của nó.
Có thể rút ra một kết luận trong việc nghiên cứu về kiến trúc, nếu chúng ta
có những vết tích trước thế kỷ VI. Trong tình trạng tài liệu hiện nay, những công
trình kiến trúc ở ngoại Ấn rất khác biệt nhau và đã rất xa với nguyên hình Ấn Độ và
người ta có thể viết rằng: Mối quan hệ giữa những công trình kiến trúc ngoại Ấn
đầu tiên với các công trình kiến trúc Ấn Độ hiện nay hay cổ xưa, còn xa mới gợi lên
được xúc cảm; thiếu những hình ảnh và bút tích, các văn bản đều bị mất mát, nên
không ai có thể ngay từ đầu so sánh những đến chùa ngoại Ấn với đền chùa Ấn Độ
được. Quá lắm người ta chỉ có thể cảm thấy giữa chúng có một dáng chung, chứ
không hề có mối quan hệ trực tiếp”. Tác giả các dòng này152
quy việc đó cho sự
biến mất của nền kiến trúc bằng nguyên liệu nhẹ và không bền mà nếu chúng ta biết
được thì có thể hiểu được mối quan hệ mà ta đang tìm kiếm. Theo ý kiến chung,
những ngôi đền cự thạch bi ở Mamanlapuyram xây dựng từ đầu thế kỷ VI bởi các
vua Panlavatx có quan hệ gần gũi nhất so với các công trình cổ Ấn Độ ở vùng ngoại
Ấn. Nhưng không phải chỉ miền Nam Ấn Độ mới có thể nhận phần phát huy ảnh
hưởng của Ấn Độ vào nền kiến trúc Đông Dương và quần đảo Nam Dương, và
người ta có thể sớm xúc cảm trước sự giống nhau của các tháp bằng gạch ở
Campuchia trước thời kỳ Ăngco hay của nước Chàm cổ với một số công trình bằng
gạch ở Trung Ấn153
và nhất là với ngôi đền Bitacgaông xây từ thời Gupta ở thung
lũng sông Hằng154
.
Sơ lược điểm qua một cách không đầy đủ các nguồn tài liệu về nguồn gốc
của sự bành trướng của Ấn Độ về phía Đông, người ta có cảm tưởng có thể tóm tắt
lại trong công thức mà Valê Putxanh đã nêu ra, chỉ cần hơi sửa đi một chút: Tất cả
các miền của Ấn Độ đều đóng góp ít hay nhiều vào sự bành trướng đó, và chính
miền Nam giữu phần lớn nhất. Có thể người ta có khuynh hướng khuếch đại vai trò
của miền Nam Ấn bằng cách gán cho người Panlva một ảnh hưởng quá đáng155
. Trừ
Phù Nam, sự xuất hiện của những bản minh vănđầu tiên và của những vết tích khảo
cổ xưa nhất trùng hợp với sự đi len của triều đại Palava và người ta đã chuyển thành
mối liên hệ về nguyên nhân thành mối liên hệ về hệ quả, điều chỉ có thể xảy ra đồng
151
Đơvapơrasat Gôts “Sự di thực của nghệ thuật trang trí Ấn Độ”, tr. 37-46; “Mối liên hệ giữa Phật ở Ôritxa
và Giava”, 1933. 152
H. Pacmăngliê “Nguồn gốc chung của những công trình kliến trúc Ấn Độ và Viễn Đông” EFEO. II, tr.
200. 153
Sự so sánh do R. S. Lơmay đề nghị “Nghệ thuật Phật giáo ở Xiêm”, tr. 63-65. 154
A. Cunnichgam “Kiến trúc Ấn Độ” XI, 1875-1878, tr. 40-46; Côran Rêmuyđa “Nguồn gốc chung của các
--------- của Ấn Độ Palava và của chữ Khơme trước Ăngco” Tập san nghệ thuật Á châu VIII, 1934, tr. 249. 155
B. CH. Chabơra “Sự bành trướng của văn hoá Ấn Độ - Arien trong thời kỳ Panlava và sự hiển nhiên qua
các bút tích” Báo Hội Á châu I, 1935.
38
thời. Ở chương sau người ta sẽ thấy ít nhiều đối với Phù Nam, có lẽ phải tính đến
ảnh hưởng từ Tây Bắc Ấn Độ mà cho đến nay chưa đề cập tới. Nói chung ảnh
hưởng của miền Nam Ấn Độ rất có ưu thế156
.
Nhưng tôi nhắc lai sự bành trướng của Ấn Độ không phải là một sự kiện lịch
sử có giới hạn rõ ràng trong không gian và thời gian. Đó là một hiện tượng đã chạm
đến những miền rộng lớn và khác nhau, và kéo dài trong nhiều thế kỷ. Nó đã dung
nạp nhiều đợt liên tiếp những địa phương có nguồn gốc khác nhau. Nó được sự giúp
đỡ của những trung tâm truyền bá tạo nên do các vương quốc Ấn Độ đầu tiên ở bán
đảo Mã lai, một chặng tiếp xúc giữa Ấn Độ chính quốc và ngoại Ấn. Người
Bàlamôn Cônđinia, người Ấn Độ khai hoá thứ hai ở Phù Nam, từ vương quốc Bàn
Bàn ở trên bán đảo phía Nam Xuamtơra, Palembang vào thế kỷ VII, là một trung
tâm truyền bá lớn của Phật giáo, ở đó những nhà bác học nước ngoài như nhà bác
học Trung Quốc I. Txing đến nghiên cứu.
Cuối cùng, trong việc đi tìm các nguồn gốc của sự bành trướng của Ấn Độ
đó, không nên không nhìn thấy rằng những nguồn tài liệu của chúng ta phần lớn do
các bằng cứ của Đông Dương và Anhđônêdiêng cung cấp, nó chỉ cho ta biết kết quả
chứ rất hiếm khi cho ta biết mối liên hệ của các sự kiện đã tạo ra các bằng cớ đó.
Sau khi xác định tính chất của các tài liệu về sự Ấn Độ hoá miền ngoại Ấn
vào những thế kỷ đầu công nguyên, người ta có thể nói bắt đầu từ lúc mà minh văn
học, khảo cổ học và các nguồn tài liệu nước ngoài bắt đầu cho phép viết lịch sử
miền đó, nhưng rất ít lịch sử sự bành trướng của nền văn hoá Ấn Độ, càng ít lịch sử
các nguồn gốc của nó hơn là lịch sử sự phát triển và sự biến đổi của nó trong khi
tiếp xúc với các xã hội bản xứ, và cuối cùng là sự thụt lùi của nền văn minh ấy.
6. Mức độ thâm nhập của nền văn minh Ấn Độ vào các xã hội thổ dân
Nền văn minh Ấn Độ thâm nhập vào khối cư dân Đông Dương và
Anhđônêdiêng đến mức nào hay nó vẫn là một đặc quyền của giới thương lưu? Sự
suy tàn của nền văn minh đó vào thế kỷ XIII có phải là do nó ngày càng được đông
đảo các thổ dân chấp nhận làm cho nó mất dần bản sắc riêng, hay do sự biến mất
của tầng lớp quý tộc tinh tế thấm nhuần một nền văn hoá xa lạ với số đông dân
chúng? Về những câu hỏi đó, những nguồn tài liệu của chúng ta, nhất là minh văn
học thường cho ta biết về tôn giáo và tổ chức các triều đình và tầng lớp thống trị,
không mang lại những điều cần biết mong muốn
156
W. F. Xtuttechem “ảnh hưởng của Ấn Độ trên các vùng đất ở Thái Bình Dương” Lanhga làm tôi chú ý
đến một đoạn của Đacmaxatxtơra của Bôđaiana ------- kể đến thói quen đi du lịch bằng đường biển, một
trong những phong tục đặc biệt của người Bàlamôn ở phía Bắc.
39
Những nhà sử học thống nhất với nhau chấp nhận rằng, dưới một lớp sơn Ấn
Độ, xã hội vẫn giữ những nét chủ yếu của đặc tính riêng của nó. Ít ra đó cũng là ý
kiến của N. J. Cơrôm về Giava; Về Bali, Xtuttechem nói rằng “Ấn Độ giáo bao giờ
cũng là và vẫn còn là nền văn hoá của các giai cấp trên, và không bao giờ hoàn toàn
trở thành nền văn hoá của khôi đông dân chúng gắn liền với thuyết linh hồn
Anhđônêdiêng hay với việc thờ cúng tổ tiên”157
.
Ở Campuchia cũng như vậy, thời kỳ suy tàn ở thế kỷ XIV hình như do
nguyen nhân xuống dốc của giới quý tộc Bàlamôn vào thế kỷ XIII ghi trong bút tích
của Xukhôtai158
.
Ấn Độ giáo dưói dạng đặc biệt là tín ngưỡng của hoàng gia ở vùng ngoại Ấn,
là một tôn giáo chủ yếu của quý tộc, không phải của khối đông. Điều đó cắt nghĩa
tại saonhan dân chấp nhận Phật giáo Xanhgale và Hồi giáo một cách dễ dàng và
nhanh chóng đúng vào lúc mà thế giới Ấn Độ bị rung chuyển bởi sự xâm chiếm của
Mông Cổ và Hồi giáo.
Ngay trong những nước mà những truyền thống bản xứ phản ứng lại mạnh
mẽ và làm tróc lớp sơn Ấn Độ ra, chính điều đó biểu hiện sức thấm của nền văn hoá
Ấn Độ mà gia tài nó để lại không thể coi thường được. Trong phần kết luận, người
ta sẽ thấy nó gồm chữ viết, một phần lớn ngôn ngữ, âm-dương lịch, thần thoại về vũ
trụ mới biến dạng, những vấn đề lớn hùng tráng (sử thi, anh hùng ca) của Ramayana
và Puyrana, một số công thức nghệ thuật, những quan lại hành chính và tư pháp,
một tình cảm rất sâu sắc về đẳng cấp xã hội, vết tích cuối cùng của chế độ đẳng cấp.
Người ta rất ngạc nhiên khi thấy ở những miền gần với Trung Quốc như vậy,
có những mối quan hệ thương mại và ngoại giao ngay từ những thế kỷ đầu công
nguyên, mà ảnh hưởng văn hoá của Trung Quốc lại không đáng kể, trong lúc ảnh
hưởng đó lại rất mạnh mẽ ở các vùng đồng bằng Bắc kỳ và Bắc Trung kỳ Việt Nam.
Người ta rấ ấn tượng về sự khác nhau cơ bản về những kết quả của nền văn minh
Trung Quốc và Ấn Độ ở các xứ Viễn Đông.
Nguyen nhân do sự khác nhau căn bản trong phương pháp xâm thực của
người Trung Quốc và người Ấn Độ. Người Trung Quốc dùng sự chinh phục và thôn
tính: quân đội chiếm đóng đất đai, và các quan chức “truyền bá văn minh của vương
quốc”. Còn sự thâm nhập của Ấn Độ hầu như bao giờ cũng diễn ra một cách hoà
bình và không kèm theo những sự phá hoại đã làm ô danh đoàn kỵ mã Mông Cổ
hay sự chinh phục châu Mỹ của người Tây Ban Nha159
. Còn lâu mới bị kẻ xâm lược 157
“Ảnh hưởng của Ấn Độ đến nền nghệ thuật Bali cổ”, tr. 7. 158
“Bia của Nagara Gium năm 1357” G. Xơđetx; “Góp nhặt những bút tích ở Xiêm” I, tr. 85. 159
Điểm này đã được đưa ra ánh sáng do S. K. Sattơgi “Văn hoá Ấn Độ và Đại Ấn” trong “Gia tài văn hoá
của Ấn Độ” Cancútta III, tr. 87- 96.
40
tiêu diệt, các thổ dân tìm thấy trong xã hội Ấn Độ di cư đến một khuôn khổ mềm
dẻo và thuần thục mà các xã hội cũ của họ có thể gia nhập và phát triển.
Người Ấn Độ không thực hành việc chinh phục bằng quân sự và sự thôn tính
dưới danh nghĩa một quốc gia hay một chính quốc, và các vương quốc Ấn Độ tạo
thành ngoại Ấn trong nhiều thế kỷ của công nguyên chỉ có những mối liên hệ về
truyền thống chứ không có sự phụ thuộc về chính trị đối với các triều đại trị vì ở Ấn
Độ chính quốc. Sự trao đổi sứ thần giữa hai bờ vịnh Băngalơ được thực hiện một
cách bình đẳng, trong lúc Trung Quốc bao giờ cũng yêu sách “dân man rợ phương
Nam” phải thừa nhận vương quyền của họ bằng cách phải triều cống thường xuyên.
Những đất phong Trung Quốc ở Bắc Đông Dương đều do quan lại Trung
Quốc cai trị, trong lúc các vương quốc Ấn Độ ở ngoại Ấn lại do các vua chúa gốc
thổ dân hoặc đã lai máu cai trị, quanh họ có các cố vấn Ấn Độ hoặc đã Ấn Độ hoá.
Cho nên những sự biến ở Trung Quốc có nhiều phản xạ chính trị ở những nước
thuộc ngoại Ấn hơn là những sự biến ở Ấn Độ chính quốc mà sự tác động thường là
về mặt văn hoá.
Vì vậy cho nên mặc dù trong nhiều thế kỷ Trung Quốc đã thi chế độ bảoohoj
chính trị ít hay nhiều có hiệu quả trên các nước ngoại Ấn, nên văn minh của nó
không được truyền bángoài những vùng nó chinh phục bằng quân sự. Trên miền bờ
biển phía Đông của Đông Dương, nó không vượt qua giới hạn mà nhà Hán đã cử
Mã Viện đến trừng trịvào năm 44 sau công nguyên. Sau nó tiếp tục bành trướng
xuống phía Nam cho tới đồng bằng sông Mê Kông, nhưng cũng bằng con đường
chinh phục; đó là sự chính phục của người An nam, người thừa hưởng nền văn hoá
vật chất và tinh thần của Trung Quốc. Sự thâm nhập hoà bình của nền văn minh Ấn
Độ ngược lại đã đạt được ngay từ đầu tới những giạn mà các thương thuyền của họ
cập đến.
Những nước do Trung Quốc xâm chiếm bằng quân sự phải tiếp nhận hoặc
sao chép lại những chế độ, phong tục, tôn giáo, ngôn ngữ và chữ viết của Trung
Quốc. Ngược lại, những nước do Ấn Độ xâm chiếm một cách hoà bình bằng ưu thế
của nền văn hoá, vẫn bảo tồn được tinh hoa của những đặc tính riêng và phát triển
nó lên, mỗi nước theo sáng kiến riêng của họ. Điều đó cắt nghĩa tại sao đối diện với
sự đồng nhất về văn hoá ở các nước đó, còn có sự khác biệt, và trong một chừng
mực nào đó, tính độc đáo của nền văn minh Khơme, Chàm, Giava, mặc dầu nó có
một nguồn gốc chung từ Ấn Độ.
41
Chương III:
Những vương quốc Ấn Độ đầu tiên
1. Những thời kì đầu của Phù Nam (Thế kỉ I Sau CN).
2. Những quốc gia Ấn Độ ở bán đảo Malay (Trong những thế kỉ đầu CN).
3. Phù Nam (Thế kỉ II và III).
4. Những thời kì đầu của nước Champa - Lâm Ấp (Cuối thế kỉ II đến giữa thế
kỉ IV).
Những yếu tố phân tích trong chương trên dẫn tới kết quả hình thành những
tiểu quốc gia Ấn Độ, do những thủ lĩnh mang tên chữ Phạn cai trị. Nó bắt đầu biểu
hiện sự tồn tại của nó từ thế kỉ II Sau CN, như bản Ptoleme đã khẳng định.
Những quốc gia đó để lại rất ít vết tích khảo cổ hay minh văn trước thế kỉ V.
Đối với phần lớn những nước đó, trước thế kỉ V, người ta chỉ biết tới tên khác do
Ptoleme ghi lại trong Nitdơxa160
và nhất là trong niên biểu triều đại Trung Quốc
trong đó ghi cẩn thận những đoàn sứ thần từ các nước ở khu vực Nam Hải tới.
Trong nhiều trường hợp, định xứ của các nước ấy còn mơ hồ hoặc chỉ là phỏng
chừng.
Qua thời gian, những nước nhỏ nhất phải lao vào quỹ đạo của những vương
quốc hùng mạnh hơn là những nước có tương lai rực rõ hơn mà những tài liệu
Trung Quốc và minh văn học có thể phác họa ra lịch sử của chúng.
1. Những thời kì đầu của Phù Nam (Thế kỉ I Sau CN)
Trong các vương quốc trên, nước quan trọng nhất không cần bàn cãi là nước
mà người Trung Quốc gọi là Phù Nam. Đó là tên gọi theo lối phong kiến hiện đại
hai từ đời xưa gọi là Biu Nam161
phiên từ tiếng Khơmer cổ Bnam, nay là Pernong =
“núi”. Các vua nước này có hiệu là “vua núi”, chữ Phạn là Parvatabupala hay
Xailaraja, tiếng Khơme là Curung Bnam162
và theo vương hiệu mà người Trung
Quốc có thói quen gọi nước đó.
160
Tác phẩm này không phải là một cuốn sách về địa lí mà là một luận văn lịch sử. Trong chương này và
những chương sau, tôi chỉ ghi những tên mà quanh nó người ta có thể tập hợp một số liệu niên biểu hay triều
đại, người ta sẽ tìm thấy trong “Nghiên cứu về thời kì cổ của bán đảo Malay” của O.R. Brátdel, báo Malay,
XIV, 1939, III, tr. 13-39 và XV, 1937, tr. 103-114, một cuộc tranh luận rất lớn về những ý kiến xác định các
địa danh của Ptoleme. 161
Phiên âm của thời Đường, theo B. Kargơrin, “Từ điển phân tích chữ Trung Quốc và Trung - Nhật”, số 41
và 650. 162
L. Finot, “Về vài truyền thống Đông Dương”, tr. 203; G. Xodetx, “Về nguồn gốc người Xailăngdra ở
Indonexia”, báo hội Đại Ấn Độ, I, 1934, tr. 67.
42
Trung tâm của nó ở vào hạ lưu và vùng đồng bằng sông Mekong, nhưng lãnh
thổ của nó vào thời kì cao nhất gồm cả Miền Nam Việt Nam và một phần lớn thung
lũng sông Menam và bán đảo Malay. Trong một số thời kì, thủ đô của nó là
Viadapura “Thành phố của những người săn bắn”163
, tiếng Trung Quốc là Toma, có
lẽ do phiên âm chữ Khơmer (Max, Dulmax) có cùng một nghĩa đó164
. Thành phố ở
vùng quanh đồi Bapernong và làng Banam, 2 địa danh của Cămpuchia mà tỉnh
Preivieng hiện nay giữ tên cổ đó.
Những hiểu biết đầu tiên về Phù Nam để lại do sự liên tục của phái đoàn
Trung Quốc do Khang Thái và Chu Ứng đến thăm nước này vào giữa thế kỉ thứ
III165
. Nguyên bản câu chuyện của họ đã mất, nhưng còn lại các mẩu rải rác trong
những cuốn biên niên sử và các cuốn bách khoa, với một bút tích bằng chữ Phạn hồi
thế kỉ thứ III, đã tạo thành cơ sở cho những tài liệu của chúng tôi về lịch sử của
vương quốc này vào hai thế kỉ đầu CN.
Theo Khanh Thái, vua đầu tiên của Phù Nam có thể là Hỗn Điền nào đó,
nghĩa là Condinia từ Ấn Độ hoặc từ Malai hay các đảo ở Nam Hải đến166
. Ông này
nằm mơ thấy thần hộ mệnh của ông giao cho một cái cung thần và ra lệnh cho ông
xuống một chiếc thuyền buôn lớn, sáng sớm đi đến ngôi đền mà ở đó ông sẽ thấy
cái cung ở một gốc cái cây thần. Ông liền xuống thuyền vượt biển và thần đã đưa
ông đến xứ Phù Nam. Nữ hoàng xứ đó là Liễu Diệp muốn cướp và chiếm lấy
thuyền. Hỗn Điền liền dùng cung thần bắn một mũi tên xuyên qua thuyền Liễu
Diệp, bà này sợ hãi chịu thuần phục và Hỗn Điền lấy nàng làm vợ, nhưng vì không
bằng lòng lấy nàng trần truồng, ông gấp một tấm vải buộc nàng thắt cổ. Sau đó ông
cai trị xứ này và truyền lại quyền cho con cháu.
Đó là thuyết của Trung Quốc về nguồn gốc của triều đại Phù Nam. Có thể đó
là biến thể của một truyền thuyết Ấn Độ, được ghi lại một cách trung thành hơn
trong một bút tích chữ Phạn ở Champa167
. Theo thuyết này, người Balamon
Condinia khi nhận được một cái bao của Arvatthaman, con của Drona, liền phóng ra
để ấn định địa điểm cho kinh đô sau này, xong ông lấy công chúa Xoma con vua xứ
Nagát và từ đó đẻ ra cả một dòng họ vua. Cuộc hôn phối thần bí đó còn được kỉ
niệm ở Tiền Ăngko vào cuối thế kỉ XIII bằng một buổi lễ do sứ giả Trung Quốc là
163
G. Xodetx, BEFEO, XXVIII, tr. 127. 164
G. Xodetx, “Bút tích ở Cămpuchia”, II, tr. 110, số 5. 165
P. Pelliot, “Nước Phù Nam”, BEFEO, III, tr. 303; “Vài văn kiện Trung Quốc về xứ Đông Dương Ấn Độ
hóa”, BEFEO, II, tr. 264. 166
P. Pelliot, “Văn bản Trung Quốc về Đông Dương Ấn Độ hóa”, BEFEO, II, tr. 246-249; R.G. Satécghi,
“Vài tiến triển mới nhất trong việc nghiên cứu về Cămpuchia”, báo Đại Ấn, VI – 139, tr. 139. 167
L. Finot, “Những bút tích ở Mĩ Sơn”, số 3, BEFEO, IV, tr. 923; G. Xodetx, “Bút tích ở Bakasei
Chamkrong”, Báo Á châu, số 5-6, 1909, tr. 476-478.
43
Câu Đạt Quan168
tường thuật lại, và biên niên sử Cămpuchia hiện đại còn ghi nhớ169
nó giống in như chuyện về nguồn gốc của các vua Panlava ở Căngri - Nam Ấn
Độ170
. Ý kiến về nguồn gốc xa xưa của truyền thuyết này còn rất phân tán171
.
Dù thế nào những biến cố lịch sử được tiểu thuyết hóa không thể có sau thế
kỉ I, và ngay từ thế kỉ sau đó, người ta thấy ở Phù Nam những nhân vật lịch sử mà
tính hiện thực đã được minh văn học và các sử gia Trung Quốc xác nhận.
Theo Lương sử, một trong những người kế tục Hỗn Điền, tên Trung Quốc là
Hỗn Bàn Huống, chết lúc 90 tuổi. Người kế tục ông là “người con thứ hai tên là Bàn
Bàn, đã giao phó quyền bính cho đại tướng Phan Mạn”172
mà tên đầy đủ là Phạm Sư
Man. Theo Tấn thư173
:
“Sau 3 năm trị vì, Bàn Bàn mất, triều thần nhất trí cử Phạm Sư Man làm vua.
Ông này rất dũng cảm và nhiều tài năng. Lập tức ông đi chinh phục các nước lân
bang, nhờ sức mạnh của quân ông ấy, tất cả đều tự nhận là chư hầu, riêng ông lấy
danh hiệu là Đại hoàng đế Phù Nam. Rồi ông cho đóng nhiều thuyền lớn, đi khắp
miền biển bao la, tiến đánh hơn 10 vương quốc trong đó có Đô Kôn, Cửu Trì, Điển
Tôn. Ông đã mở mang bờ cõi từ 5 đến 6 ngàn lí”174
2. Những quốc gia ấn độ ở bán đảo Malay (Trong những thế kỉ đầu CN)
Nước Điển Tôn có lẽ trùng với Touensiun mà một văn bản ở thế kỉ V-VI đã
tả như một xứ phụ thuộc của Phù Nam175
. Người ta đã xác định địa điểm của nó
hình như có thật, trên bán đảo Malay176
và vài tư liệu hiếm hoi mà người ta quy cho
2 nước kia cũng dẫn tới cùng một hướng177
. Những cuộc chinh phục của Phạm Sư
Man đã động đến từng phần trên bán đảo mà các văn kiện Trung Quốc khác đã phát
hiện ra sự tồn tại ở thời kì trước những tiểu quốc gia Ấn Độ hóa.
168
P. Pelliot, “Hồi kí về những tập quán ở Cămpuchia”, BEFEO, III, tr. 145. 169
L. Finot, Về vài truyền thống ở Đông Dương, tr. 205 170
G. Xodetx, “Truyền thuyết Nađi”, BEFEO, XI, tr. 391. 171
V. Golubep, “Những truyền thuyết về Nađi và Apsara”, BEFEO, XXIV, tr. 501-510 cho là từ phương tây
sang, trong lúc F. Pdilút, “Công chúa ngư hương và Nadi trong truyền thống Á Đông” BEFEO, II, tr. 265-
284, cho là có trong miền biển ở Đông Nam Á. 172
P. Pelliot, “Nước Phù Nam”, BEFEO, III, tr. 265: Bàn là tên họ mà người Trung Quốc đặt cho hầu hết các
vua ở Phù Nam cũng như ở Champa cũng cùng một nghĩa với hậu âm Varman mà họ cho là họ của một
dòng; G. Maspéro, “Vương quốc ”, BEFEO, XXVIII, Paris, 1928, tr. 53, số 7; G. Pherăng, “Ye ấn cao, Sien
tiao và Giava”, báo Á châu số 11-12, năm 1916, tr. 524-530. 173
P. Pelliot, “Nước Phù Nam”, BEFEO, III, tr. 257. 174
1 lí = 576m. 175
P. Pelliot, “Nước Phù Nam”, BEFEO, III, tr. 274. 176
P. Pelliot, “Nước Phù Nam”, BEFEO, III, tr. 263. 177
P. Pelliot, “Nước Phù Nam”, BEFEO, III, tr. 266; G.H. Luýtxơ, “Miền lân cận Mianma”, báo hội Mianma,
XIV, 1924, tr.147-151.
44
Nước nhỏ nhất có lẽ là nước Lang Ya Sieou mà Lương sử (502-556) đã nêu
ra thời gian thành lập “từ hơn 400 năm”178
, tức là vào đầu thế kỉ thứ II, vương quốc
này lại xuất hiện lần nữa vào thế kỉ thứ VII dưới tên Lang Kia Chou, và vào thế kỉ
thứ XII là Lang Ya Sieou Kia, trong biên niên sử Malay và Giava có tên là
Lancaxuca179
, mà tên đó xuất hiện trong địa lí hiện đại là tên một nhánh thượng
nguồn sông Pêrac180
. Nó phải nằm ngay trên bán đảo và thông ra vịnh Xiêm và vịnh
Bănggulơ, nhờ vậy nó kiểm soát một trong những đường bộ mà ở chương trên đã
nói tới.
Nước Tamboralinga, tên Trung Quốc là Tan Mei Lieou, mà ta sẽ nhắc tới sau
này, có trung tâm ở miền Longor181
, từ đó có bút tích Phạn từ thế kỉ VI cho đến sau
này182
. Phật điển Pali (Nitdơxa) ghi là Tambalinsgam183
chứng tỏ rằng vương quốc
này đã có vào khoảng thế kỉ thứ II.
Đó là trường hợp Tắccola184
nên trong một văn bản Phật khác tên là
Milanhdapangha, người ta đặt tỉnh đó ở Tacnapa, trên bờ phía tây của eo đất Cra,
nhưng có lẽ ở quá về phía nam185
. Bến đó phiên sang tiếng Trung Quốc là T‟eou
Kia Li; các phái đoàn sứ giả ở Phù Nam đi Ấn Độ xuống thuyền ở đây.
Nếu trừ những ngôi mộ cổ thạch bi ở Pêrac và Pahung và các hạt ngọc trai
Ấn Độ và “La Mã” ở Cota Kinhgi vùng Giohora186
nó thuộc về lĩnh vực đầu lịch sử,
những vết tích minh văn và khảo cổ xưa nhất về bán đảo Malay đều thấy ở vùng
Kêrac và Pêrac.
Những vết tích khảo cổ tìm thấy ở Kêrac thuộc về những thời kì khác nhau.
Nó chứng minh tính cổ đại nơi đây mà ta sẽ gặp lại sau này dưới một cái tên chữ
Phạn Cataha, và tên Trung Quốc Kie Teh‟a. Cũng như các bút tích và vật khảo cổ
178
P. Pelliot, “Hai cuộc hành trình”, BEFEO, 1903, IV, tr.320, số 7; G. Pherăng, “Malacca, Malayu và
Malayur”, III, báo Á châu, số 7-8 năm 1918, tr. 139; G.H. Luýtxơ, “Miền lân cận Mianma”, báo hội Mianma,
XIV, 1924, tr. 161-169. 179
G.H. Luýtxơ, “Miền lân cận Mianma”, báo hội Mianma, XIV, 1924, tr. 143; S. Levi, “Tiền Arien và tiền
Dravidiêng ở Ấn Độ”, báo Á châu, số 7-9 năm 1923, tr. 37 180
R.O. Nyutxtet, “Lịch sử Malay”, báo hội Malay, XIII, 1935, tr. 21. 181
BEFEO, XVIII, 6, tr. 17; S. Levi, “Tiền Arien và tiền Dravidiêng ở Ấn Độ”, báo Á châu, số 7-9 năm
1923, tr. 45. 182
G. Xodetx, “Bút tích ở Xiêm”, II, tr. 51, số XXVIII, niên hiệu thế kỉ VII-IX mà A. Barth viện ra là quá
thấp, chữ viết cũng giống như chữ ở bút tích cuối cùng ở Phù Nam; Nicacangta Satsteri, “Agatstier”, LXXVI,
1936, tr. 508-509. 183
S. Levi, “Ptoleme, Nitdơxa và Brihátcatha”, tr. 26. 184
S. Levi, “Ptoleme, Nitdơxa và Brihátcatha”, tr. 3. 185
O.R. Brátdel, “Bán đảo Malay thời cổ”, báo Malay, XVII, 1939, I, tr. 204-206. 186
Về các dang thắng đó, O.R. Brátdel, “Bán đảo Malay thời cổ”, báo Malay, XVII, 1939, I; H.G. Quaritsơ
Uênlétx, “Những cuộc tìm kiếm khảo cổ về sự chinh phục cổ của Ấn Độ ở Malay”, XVIII, I, tr. 56-73 và
XIX, 1941, I, tr. 93-98.
45
khác187
, nó không vượt qua thời kì đã nêu trong Ptoleme, Nitdơxa hay các văn kiện
Trung Quốc, nghĩa là thời kì chinh phục của Phù Nam lên bán đảo
3. Nước Phù Nam (Thế kỉ II - III)
Rất khó xác định phạm vi những cuộc chinh phục của Phạm Sư Man. Người
ta có lí khi coi nó như những cuộc chinh phục của vua Crimara được ghi lại trong
tấm bia đáng kính bằng chữ Phạn ở Võ Cạnh (Nha Trang)188
mà từ lâu người ta cho
là bút tích Champa189
, nhưng đến 1927, L. Finot cho là của một nước chư hầu của
Phù Nam190
. Nếu sự đồng nhất đó là đúng, bút tích do một người kế tục Crimara trị
vì vào thế kỉ thứ III, phải được coi là một trong những nguồn tài liệu về lịch sử của
Phù Nam. Bằng chứng đó chỉ ra rằng, vào thời đại nó được khắc lên và địa phương
đó được dựng, nghĩa là Khánh Hòa hiện nay, đạo Phật giữ vai trò bảo trợ cho vua,
và chữ Phạn là chữ chính thống của vương pháp.
Những văn bản Trung Quốc đã kể trên cho ta biết nhà chinh phục vĩ đại
Phạm Sư Man đã chết trong một cuộc viễn chinh chống nước Kim Tân hay Biên
Giới Vàng mà người ta có thể coi như trùng hợp với Xuvannabumi. Đất vàng trong
các văn bản Pali, hay tốt hơn nữa trùng với Xuvarnaquydia, Thành vàng trong các
bản chữ Phạn (Hạ Mianma hay bán đảo Malay)191
. Một người cháu của Phạm Sư
Man đã giết thái tử Kim Sinh và tiếm đoạt quyền bính. Nhưng hai chục năm sau,
Phạm Chiên bị một người con của Phạm sư Man tên là Trường ám sát. Cuộc báo
thù đó không có kết quả vì đến lượt Trường lại bị tướng Phạm Tần giết chết rồi
xưng vua.
Những biến cố đó đại thể xảy ra giữa các năm 225 đến 250192
. Trong thời
Phạm Chiên trị vì, và chính lúc đó nước Phù Nam bắt đầu giao lưu với triều đại Ấn
Độ Murunda và cử phái đoàn sứ thần đầu tiên sang Trung Quốc. P. Pelliot viết:
“Triều Phạm Chiên rất quan trọng, chính kẻ tiếm ngôi đó là người đầu tiên
giao thiệp chính thức và trực tiếp với các vua Ấn Độ. Một văn bản thế kỉ thứ V kể
lại rằng, một người tên là Kia Siang Li, quê tại xứ thuộc T‟an Yang hình như ở về
phía tây Ấn Độ, đã vào Ấn Độ và từ đó vào Phù Nam. Chính ông ta đã cho Phạm
Chiên biết những kì quan của xứ xa lạ đó đối với khách du lịch, nhưng hành trình
thì rất dài, vừa đi vừa về có thể đến ba bốn năm. Vua Phạm Chiên có siêu lòng về
187
Thí dụ những đồ đồng kiểu Gúpta ở Pêrac; H.G. Quaritsơ Uênlétx, “Những cuộc tìm kiếm khảo cổ về sự
chinh phục cổ của Ấn Độ ở Malay”, XVIII, I, tr. 50. 188
G. Xodetx, “Niên hiệu của bút tích ở Võ Cạnh”, 1940. 189
A. Barth A. Bergaigne, “Bút tích Phạn ở Champa và Cămpuchia”, XX, tr. 191. 190
L. Finot, báo Á châu, số 1-3, 1927, tr. 186, BEFEO, XXVIII, tr. 286-287 191
S. Levi, “Ptoleme, Nitdơxa và Brihátcatha”, tr. 29; G.H. Luýtxơ, “Miền lân cận Mianma”, báo hội
Mianma, XIV, 1924, tr. 151-158. 192
P. Pelliot, “Nước Phù Nam”, BEFEO, III, tr. 303.
46
những câu chuyện của Kia Siang Li hay không? Ít nhất chúng ta cũng biết rằng ông
ta cử làm sứ thần ở Ấn Độ một người trong họ có tên là Sou Wou. Ông này khởi
hành tại bến T‟eou Kia Li, có lẽ là Tắccola, điều đó chỉ ra rằng ảnh hưởng của Phù
Nam đã lan tới Ấn Độ Dương. Sứ thần đến cửa sông Hằng đi ngược sông lên kinh
đô, có lẽ thuộc triều đại Murunđa như S. Levi xác nhận. Vua Ấn Độ cho đưa phái
đoàn sứ thần đi thăm khắp vương quốc rồi cho về nước kèm theo tặng vật cho vua
Phù Nam gồm 4 con ngựa giống Ấn Độ - xitơ và cử một người Ấn Độ tên là Tch‟en
Song đi theo. Khi Sou Wou về đến Phù Nam, tính ra đã 4 năm kể từ lúc ra đi”
Theo Tam quốc chí, cũng chính Phạm Chiên năm 243 “đã cử một đoàn (sang
Trung Quốc) mang cống vật gồm nhiều nhạc công và sản vật193
”
Có phải chính ông ta là tác giả của các bút tích Phạn kể trên và trong văn bản
đó nêu lên là một nhân vật của gia đình Crimara không? Điều đó không thể không
xảy ra và Phạm Chiên là con của chị vua Crimara, có thể có quyền xưng là họ hàng
với tiền nhân.
Kẻ tiếm quyền, Phạm Tần, sau khi đã giết con Phạm Sư Man, đã tiếp nhận
vào khoảng 245 - 250 phái đoàn Trung Quốc của Khang Thái và Chu Ứng. Đoàn
này gặp sứ giả của Murunđa ở trong triều.
Đoàn Trung Quốc này đã hoàn thành việc giao hiếu với Phù Nam, điều đó
dẫn đến kết quả là một loạt các sứ thần được Pham Tần cử đi Trung Quốc từ năm
268 đén năm 287 và có ghi trong Tấn thư194
. Có lẽ nhờ Khang Thái người ta mới tài
liệu đầu tiên về nước này: “Có những thành quách bằng gạch, những lâu đài và nhà
ở. Đàn ông đều xấu và đen, tóc xoăn; họ đi chân đất, bản chất họ giản dị và họ
không phải là những tên kẻ trộm. Họ chuyên về canh nông, cày cấy. Họ gieo hạt 1
năm và gặt trong 3 năm. Hơn nữa họ thích trạm khắc các đồ trang sức. Nhiều đồ
dùng để ăn đều bằng bạc. Thuế thu bằng vàng, bạc, ngọc trai và hương liệu. Họ có
sách, kho lưu trữ và nhiều cái khác. Chữ viết của họ giống chữ viết của người Hồ
(nghĩa là người Trung Á dùng chữ gốc Ấn Độ)”195
4. Những thời kì đầu của nước Champa: Lâm ấp (Từ cuối thế kỉ II đến
giữa thế kỉ IV)
Tấn thư ghi thêm trong tiểu sử của Đào Hoàng quan cai trị Trung Quốc ở
Bắc Kì một bản báo cáo trong đó viên quan này than phiền về những cuộc xâm lược
của Lâm Ấp vào năm 280. Ông ta nói: “Vương quốc đó phía nam chạm tới Phù
193
P. Pelliot, “Nước Phù Nam”, BEFEO, III, tr. 303 194
P. Pelliot, “Nước Phù Nam”, BEFEO, III, tr. 252. 195
P. Pelliot, “Nước Phù Nam”, BEFEO, III, tr. 255.
47
Nam, những bộ lạc của họ rất đông; những đồng minh của họ sẵn sàng tương trợ lẫn
nhau, lợi dụng địa hình hiểm trở họ không thần phục (với Trung Quốc)”196
.
Lâm Ấp là một nước Champa, đi vào lịch sử vào hồi cuối thế kỉ thứ II. Các
văn bản Trung Quốc cho là nó thành lập vào năm 192197
, một người tên là Khu Liên
lợi dụng sự suy yếu của nhà Hậu Hán, tách một vùng ra khỏi sự thống trị của Trung
Quốc ở Nhật Nam (giữa cửa Annam và đèo Hải Vân), tự xưng làm vua, trong một
quận ở cực nam, quận Tượng Lâm, tương tự với phía nam tỉnh Thừa Thiên bây giờ.
Hình như Lâm Ấp “Kinh đô Lâm” là chữ Tượng Lâm Ấp “Kinh đô của Tượng
Lâm” viết tắt198
. Sự sáng lập ra vương quốc Lâm Ấp năm 192 còn xảy ra sau âm
mưu của Tượng Lâm nửa thế kỉ trước vào năm 137 do một toán độ 1.000 rợ ở
phương nam bên kia biên giới Nhật Nam lại, tên nó là Khu Liên, viết bằng nhiều
chữ khác nhau, không có lẽ là sự phân ly tên của người sáng lập ra Lâm Ấp. Những
người đó có thể từ Quảng Nam ngày nay đến, họ đã Ấn Độ hóa chưa? Văn bản
trung quốc này có gì để khẳng định điều đó, nhưng những địa danh có âm thanh
Phạn trong một đoạn của Ptoleme hình như tương ứng với vịnh Annam, điều đó làm
cho sự vật có thể là có thực.
Mặc dù thế nào, gần như chắc chắn rằng, “những rợ ở bên kia biên giới Nhật
Nam” là những người Champa, nếu họ chưa Ấn Độ hóa thì cũng sắp sửa. Quảng
Nam ngày nay với các di chỉ khảo cổ Trà Kiệu, Mỹ Sơn, Đồng Dương, có thể là đất
thánh của nước Champa199
. Pho tượng Phật bằng đồng đỏ rất đẹp, thuộc về nghệ
thuật Amaravati, tìm thấy ở Đồng Dương, là bằng chứng về tính chất cổ đại của sự
thâm nhập của Ấn Độ vào vùng này, 1 vùng mang tên Amaravati có phải là một sự
ngẫu nhiên thuần túy không?
Theo dõi sử của nó người ta thấy nước Champa chia ra thành một số tỉnh tự
nhiên tương ứng với các đồng bằng ven biển. Ở phía nam Amaravati những trung
tâm chính ghi trong minh văn là Vijaya trong tỉnh Bình Định hiện nay; Kauthana ở
đồng bằng Nha Trang; Panduganda ở Phan Rang. Các bút tích xác nhận vào thế kỉ
thứ VIII, người ta nói tiếng Champa ở các tỉnh phía nam, nhưng nguyên lai các tỉnh
đó là một bộ phận của Phù Nam như bút tích từ thế kỉ thứ III đã chứng minh sự có
mặt ở Nha Trang một vị vua Phù Nam, dòng dõi Crimara = Phạm Sư man.
196
P. Pelliot, “Nước Phù Nam”, BEFEO, III, tr. 255. 197
Cả đoạn này - trừ chỉ dẫn do nguồn khác – G. Maspéro, “Vương quốc ”, BEFEO, XXVIII, Paris, 1928,
tr..43-59. 198
L. Oruts, BEFEO, XIV, 9, tr. 27. 199
H. Parmentier, “Mục lục họa hình các công trình kiến trúc Champa ở Annam”, I, tr. 241-505; J.Y. Claeys,
“Vào đề trong việc nghiên cứu Annam và Champa”, tr. 46-48.
48
Không như đối với Phù Nam, người ta không có những bằng chứng cổ về sự
Ấn Độ hóa người Champa và về các truyền thống triều đại các vua của họ. Người
Trung Quốc này nói gì về hai điểm đó và chỉ trong một bút tích ở thế kỉ thứ IX, lần
đầu tiên mới xuất hiện cái tên Mahacxi Brigu, nhân vật triều Mahapkaruta, danh tổ
của triều nhà Bargava, từ đó có thể ngược lên là triều các vua Champa. Ngay tên
Champa, từ đó có tên người Champa. Tuy không xuất hiện trong minh văn đầu thế
kỉ VII, nhưng có thể tin rằng nó có từ lâu.
Con cháu của Khu Liên từ nay người ta có thể xếp là vua xứ Champa, lợi
dụng sự phân tranh ở Trung Quốc sau khi nhà Hán sụp đổ, để lan về phía Bắc. Giữa
các năm 220-230, một trong các vua Champa đã cử đến Lã Đại-quan cai trị Quảng
Đông và Giao Chỉ (Bắc Kì) một phái đoàn sứ thần, từ đó lầ đầu tiên tên Lâm Ấp
xuất hiện trong văn bản Trung Quốc cùng một thời với tên Phù Nam. Tam quốc chí
ghi: “Lã Đại cử những Ts‟ong Che đi truyền bá văn minh (khai hóa) ở phía nam và
các vua ngoài biên giới: Phù Nam, Lâm Ấp, T‟ang Niang (?) mỗi nước cử một đoàn
sứ thần đến nộp cống”200
. Thật là hoàn toàn hình thức, vì năm 248 quân của Lâm
Ấp đến cướp phía Bắc và chiếm đất Cửu Chân, tức là vùng Huế201
.
Cuối cùng vua Phạm Hùng, cháu Khu Liên lại đánh chiếm vào năm 270, có
vua Phù Nam là Phạm Tần giúp sức như đã nói ở trên. Phải mất 10 năm, Đào
Hoàng mới đuổi được người Champa về nước. Ngay từ đầu, những âm mưu bành
trướng của người Champa về phía Bắc đã vấp phải sức đẩy của người Annam về
phía Nam. Cuộc đấu tranh giữa hai địch thủ đại diện cho hai nền văn minh Ấn Độ
và Trung Quốc diễn ra từ cửa Annam đến đèo Hải Vân, kết quả là người Champa
vĩnh viễn rút lui vào thế kỉ XIV.
Năm 284, Phạm Dật cử một đoàn sứ thần đầu tiên sang Trung Quốc nên
người ta từng kể đến đoàn đã đến gặp quan cai trị Giao Chỉ giữa các năm 220 - 230.
Vào nửa sau của thời gian sau 50 năm trị vị, Phạm Dật có một người cố vấn tên là
Phạm Văn, người gốc Dương Châu - Trung Quốc, thuộc Kiang Sou, ông này đến ở
Lâm Ấp sau năm 315 một ít. Ông ta đã giúp cho Phạm Dật những hiểu biết về nền
văn minh vật chất của Trung Quốc. Được vua tín nhiệm, ông ta làm đến chức
Thống soái và đã truất được các người kế vị để lên ngôi. Sau khi Phạm Dật chết
năm 316, ông ta lên ngôi.
Phạm Văn dẹp yên các bộ lạc dã man và năm 342, cử một đoàn sứ thần đến
gặp hoàng đế Tấn để xin công nhận biên giới phía bắc của vương quốc ấn định ở
núi Hoành Sơn, tức là cửa Annam. Hoàng đế do dự bỏ những đất phì nhiêu ở Nhật
200
P. Pelliot, “Nước Phù Nam”, BEFEO, III, tr. 251. 201
L. Oruts, BEFEO, XIV, 9, tr. 23-32.
49
Nam cho Phạm Văn, nên Phạm Văn đã thôn tính miền đó đến năm 347, tạo cho
nước mình có ranh giới như lời ông đã xin. Năm 349 ông đã chết trong một cuộc
viễn du về phía bắc của biên giới mới.
50
Chương IV:
Sự Ấn Độ hóa lần thứ hai ở Đông Dương
và quần đảo Nam Dương
(Giữa thế kỉ IV đến giữa thế kỉ VI)
1. Nước Phù Nam: Triều vua Ấn Độ Tchan T’an (357)
2. Nước Champa: Những bút tích Phạn đầu tiên tiên ở Bhadravarman (Quý
3 của thế kỉ IV)
3. Các quốc gia ở bán đảo Malay và quần đảo Nam Dương (Từ thế kỉ IV
đến thế kỉ VI)
4. Sự bành trướng của công cuộc di thực Ấn Độ và sự Ấn Độ hóa lần thứ
hai ở Phù Nam (Vào thế kỉ thứ V)
5. Nước Champa (Từ cuối thế kỉ IV đến 472)
6. Những vua cuối cùng của Phù Nam (480-540) và của Champa (484-529)
7. Những bằng chứng cổ xưa nhất về người Piu ở Iranadi và về người Mon
ở Menam
1. Nước Phù Nam: triều vua ấn Độ Tchan T’an (357)
Năm 357, trong một trường hợp nào chưa rõ, nước Phù Nam rơi vào tay một
người nước ngoài thống trị. Những tháng đầu của năm đó, như Tấn thư và Lương
thư (Tấn và Lương ?) viết: “Tây Trúc Chiên Đàn, vua Phù Nam đem cống những
con voi đã thuần”202
. Tây Trúc là tên Trung Quốc của người Ấn Độ và từ Tây Trúc
Chiên Đàn nghĩa là “Chiên Đàn người Ấn Độ”. S. Levi đã chỉ ra203
rằng Chiên Đàn
là phiên âm chữ Chan Đan, một vương hiệu thường dùng ở người Ynetche hay Ấn
Độ-xítơ và đặc biệt ở người Quysana trong dòng họ Kanistsa. “Tây Trúc Chiên Đàn
hay Trúc Chiên Đàn là một vị vua gốc tích Ấn Độ, danh hiệu Chiên Đàn đã gắn vào
cùng một gốc với Kanistsa. Sự trùng hợp đó không có gì là bất ngờ. Một thế kỉ
trước, Trúc Chiên Đàn, vào thời kì nhà Ngô (220 - 264) theo tính toán của P. Pelliot
là vào khoảng từ năm 240 đến 245, vua Phù Nam cử một người trong họ làm sứ
thần ở Ấn Độ dưới triều vua Murunda trị vì trên miền sông Hằng, và ngược lại vua
Murunda tặng vua Phù Nam 4 con ngựa giống Ynetche. Chúng ta biết mối dây liên
202
P. Pelliot, “Nước Phù Nam”, BEFEO, III, tr. 252, 255 và 269. 203
S. Levi, “Kanitsca và Satavahana”, báo Á châu, 1-3, 1936, tr. 61-121.
51
hệ chặt chẽ nào đó đã đoàn kết người Murunda với người Ynetche, người ta đi tới
chỗ cho rằng204
Murunda là triều danh của Quysana. Ta cũng biết người Kouchang
đã mở rộng sự thống trị của họ trên miền sông Hằng, ít nhất cũng tới Benaret, ở đó
họ thiết lập lên thể chế độ Thái thú. Năm 357, dưới triều đại hoàng đế
Samadragupta, toàn bộ miền Bắc Ấn Độ thuần phục triều Gupta, những kẻ xâm
lược từ đảo Xítơ đều bị đẩy lui. Không lẽ nào một ngành của dòng họ Kouchang bị
hất ra từ bờ sông Hằng, lại làm nên ở bên ngoài vịnh Bănggaler, trên miếng Đất
Vàng đó (Xmarnabuni, Crise) một miếng đất mở ra cho những nhà phiêu lưu từ Ấn
Độ tới”. S. Levi đã viết như vậy205
.
Người ta có quyền tự hỏi các triều đại của người ngoại quốc đó có sau những
cuộc trao đổi sứ thần với người Murunda, có phải nguồn gốc của một số mẫu họa
tượng của nghề tạc tượng Khơmer cổ nhất, hình như nó đã phản lại những nét tinh
tế Iranieng, tỉ như cái áo ngắn trong hình ảnh mặt trời206
, cái mũ ngọc hình trụ của
các tượng Visnu. Quả thực cái mẫu trực tiếp của loại mũ đó có trong nghệ thuật
chạm trổ Panlava, nhưng người ta biết rằng nguồn gốc chạm trổ phương bắc của các
loại mũ đó đã được cả một trường phái chủ trương rằng nó thuộc người Parther207
những người hậu thế của người Panlava208
. Lại còn một bức tượng bí mật của Xarca
hay Xarcabratmana “người Balamon Xítơ” nó được kể đến 4 hay 5 lần trong các bút
tích Khơmer thời Ăngko209
. Cuối cùng Cămbuygia thừa tự nước Phù Nam, có thể
giao hiếu với người Cămbogia Iranieng210
. Hiện nay thật là thiếu thận trọng nếu
đem đẩy mạnh sự đối chiếu đó, nhưng nó cũng đáng được nêu ra.
Triều vua Chandan Ấn Độ hay Ấn Độ Xítơ tạo cho lịch sử Phù Nam một
khoảng đệm giữa hai đợt giải lao. Niên hiệu 357 là niên hiệu duy nhất người ta
được biết về triều đó và người ta không nghe thấy nói tới Phù Nam trước khi kết
thúc thế kỉ IV hoặc đầu thế kỉ sau nữa.
2. Nước Chapma, những bút tích Phạn đầu tiên của Bhadravarman
(Quý 3 của thế kỉ IV)
Con của Phạm Văn là Phạm Phật (tên do các sử gia Trung Quốc đặt cho) tiếp
tục đường lối chính trị cổ truyền là bành trướng về phía bắc. Nhưng sau những thảm
204
K.P. Giaiátxuôn, XVI, tr. 287-289, 301-303. 205
S. Levi, “Kanitsca và Satavahana”, báo Á châu, 1-3, 1936, tr. 82. 206
V. Golubep, “Hình ảnh Xuyriu ở Cămpuchia”, BEFEO, số 22, 1940, tr. 38-42. 207
P. Duypont, “Visnu đội mũ ở Tây Đông Dương”, BEFEO, XLI, tr. 249 208
Chú thích của R. Gopalan trong “Lịch sử người Panvala ở Căngri”, 1928, chương II; C. Minacsi, “Sự cai
trị và đời sống xã hội của người Panvala”, 1938. 209
BEFEO, XXVII, tr. 105; XXXII, tr. 73.; G. Xodetx, “Bút tích ở Cămpuchia”, I, tr. 195 trong
“Mahapharata”, VI, 436, một người Balamon ở Xacatvipamaga tên là Maga = giáo sĩ thờ phụng mặt trời. 210
S. Levi, “Tiền Orien”, tr. 53. Về người Cămpuchia chú thích của B.C. Lâu, “Vài bộ lạc Ấn Độ cổ”, I, tr.
386 và Cônốp, “Ghi chép về người Xaca”, II, tr. 189.
52
bại vào năm 351 và 359, ông luôn phải hoàn lại Nhật Nam cho Trung Quốc mà ông
cử sứ thần tới vào những năm 372 và 377211
.
Người ta thường đồng nhất Phạm Hồ Đạt con và kế nghiệp Phạm Phật với
Bhadravarman, vua đầu tiên của nước Champa mà người ta biết được tên thật nhờ
những bút tích chữ Phạn ông ta để lại ở Quảng Nam212
và Phú Yên213
. Sự đồng nhất
đó dựa trên niên hiệu phỏng chừng của các bút tích214
mà A. Bécghenhơ215
và L.
Finot216
ấn định vào khoảng năm 400. Nhưng một tác giả khác trước đây đã đưa ra
nhiều bằng chứng cổ tự học rất đúng đắn và có khuynh hướng làm nó muộn đi hàng
chục năm217
. Vì vậy, người ta có thể gán những điều trên cho Phạm Phật mà cái tên
hình như do bút tích Trung Quốc phiên từ chữ Bhadravarman, điều đó không giống
như trường hợp của Phạm Hồ Đạt218
Bhadravarman là người sáng lập ra ngôi đền đầu tiên ở thung lũng tròn Mĩ
Sơn để thờ Shiva Bhadravarman, cái tên đó theo tập quán mà người ta sẽ thấy lại ở
phần sau, gợi lên tên của người sáng lập ra. Người ta sẽ thấy ngôi đền đó vào thế kỉ
XVI bị một đám cháy thiêu hủy.
Kinh đô phải dời về phía đông Mĩ Sơn, nay là Trà Kiệu, và “vài chi tiết trong
bút tích Trung Quốc hình như được áp dụng một cách kì lạ cho danh thắng này và
các di tích của nó”219
.
Vùng phụ cận Trà Kiệu đó cung cấp ba bút tích bằng đá mà chữ viết giống y
như các bia trên hai phiến220
ghi địa giới của vùng dành cho vua Bhadravarman,
phiến Húi Ka221
là một văn bản cổ được viết bằng tiếng Champa và bằng cả thổ âm
Anhdonedieng ghi một lời nguyền ra lệnh phải kính trọng “Nagar của vua”, có lẽ là
vị thần bảo hộ một con suối hoặc một cái cây.
211
G. Maspéro, “Vương quốc Champa”, BEFEO, XXVIII, Paris, 1928, tr. 58-61. 212
L. Finot, BEFEO, II, tr. 187; R.C. Magiumda, “Thuộc địa Ấn Độ ở Champa”, số 4; B.Ch. Salơva, “Sự
bành trướng của nền văn hóa Ấn Độ - Arien”, báo hội Á châu, Bănggaler, I, 1935, tr. 50. 213
A. Barth A. Bergaigne, “Bút tích Phạn ở Champa và Cămpuchia”, số XXI, tr. 199; L. Finot, BEFEO, II, tr.
186; R.C. Magiumda, “Thuộc địa Ấn Độ ở Champa”, số 2; B.Ch. Salơva, “Sự bành trướng của nền văn hóa
Ấn Độ - Arien”, báo hội Á châu, Bănggaler, I, 1935, tr. 47. 214
G. Maspéro, “Vương quốc Champa”, BEFEO, XXVIII, Paris, 1928, tr. 63. 215
G. Maspéro, “Vương quốc Champa”, BEFEO, XXVIII, Paris, 1928, tr. 203, 205. 216
BEFEO, II, tr. 186. 217
F.Ph. Voghen Bijdr, 74, 1918, tr. 232. 218
Phát âm cổ của chữ Phật là chữ dùng để định từ Phật (Buddha) là B‟inat rất có thể chuyển thành Hadra,
ngược lại Hồ Đạt đọc là Huệ D‟ât là một cách phát âm chưa được thỏa mãn lắm. 219
H. Parmentier, “Mục lục họa hình các công trình kiến trúc Champa ở Annam”, II, tr. 376, số 6; L. Oruts,
BEFEO, XIV, 9, tr. 33-34. 220
Những phiến đá ở Hòn Cụt (L. Finot, BEFEO, II, tr. 186; R.C. Magiumda, “Thuộc địa Ấn Độ ở Champa”,
số 6, tr. 9) và ở Chiên Sơn (L. Finot, BEFEO, XVIII, 10, tr. 13; R.C. Magiumda, “Thuộc địa Ấn Độ ở
Champa”, số 5, tr. 8) 221
Bút tích ở Đông Yên Châu (G. Xodetx, “Bút tích tiếng Champa cổ nhất”, tr. 46-49.)
53
Sau tượng Phật ở Đồng Dương, nó đã chứng minh sự thâm nhập xưa của
Phật giáo vào xứ Champa, những bút tích của Bhadravarman là những tài liệu đầu
tiên người ta có được về tín ngưỡng của triều đình. Nó phát hiện cho ta biết “ưu thế
của việc thờ cúng thần Shiva Uma không làm tổn hại đến việc thờ cúng hai vị thần
khác trong ba vị thần”222
. Những bút tích sau tìm thấy ở Mĩ Sơn cho ta biết thần
Bhadravarman được thể hiện bằng cái Linga (dương vật). Đó là cái dương vật cổ
nhất được xác nhận ở ngoại Ấn.
Sau đây là vài tài liệu về phong tục nước Champa, trích của Mã Đoan
Lâm223
:
“Dân chúng xây tường nhà bằng gạch nung, trát một lần vữa. Các nhà đều có
nóc hoặc sân thượng gọi là can lan224
. Các cửa thường đặt về hướng bắc, đôi khi về
hướng đông hay hướng tây, không có quy tắc cố định… Đàn ông hoặc đàn bà mặc
một cáo le bằng vải kipei quấn quanh người. Họ xuyên lỗ tai để đeo những cái vòng
nhỏ. Những người cao nhã thì đi giày da, còn bình dân đi chân đất. Đó cũng là
những tập tục ở Phù Nam và tất cả các vương quốc bên ngoài Lâm Ấp. Nhà vua đội
một cái mũ cao, gắn hoa bằng vàng, khi đi ra ngoài vua cưỡi voi, có lọng bằng vải
kipei che, đi hộ giá có những quân hầu vác cờ bằng cùng thứ vải đó, có người đánh
trống và thổi tù và …
Các cuộc hôn lễ bao giờ cũng cử hành vào tuần trăng hái lượm225
. Nhà gái
phải đến nhà giai xin cưới với lẽ là con gái bị coi như thuộc loại hạ cấp226
. Người
cùng họ cũng được lấy nhau không bị cấm đoán. Dân này tính tình hiếu chiến và tàn
ác. Họ trang bị cung tên, kiếm giáo và nỏ tre. Nhạc cụ của họ giống những nhạc cụ
của chúng ta: đàn 6 dây; nhị 2 dây, sáo… Họ cũng dùng cả tù và với trống để báo
hiệu cho dân chúng. Mắt họ sâu, mũi thẳng và rõ nét, tóc đen và quăn. Đàn bà tết
búi to trên đỉnh đầu theo hình cái búa… Tang lễ nhà vua được cử hành 7 ngày sau
khi vua mất; các quan to thì 3 ngày, còn dân thì ngày hôm sau. Ai chết trong điều
kiện nào xác cũng được khâm niệm cẩn thận rồi được đưa ra bờ biển hoặc bờ sông
trong tiếng trống kèm theo các điệu múa, rồi đem thiêu trong ngọn lửa mà những
người đi đưa đám nhóm lên.
Xương cốt còn lại được cất vào một cái lọ bằng vàng và ném xuống biển nếu
là một ông vua. Xương cốt của các quan thì được đưa vào lọ bằng bạc và ném
222
L. Finot, sđd, tr. 190. 223
Mã Đoan Lâm, “Người phương Nam”, bản dịch của Hekvei dơ Saintdơnit, tr. 422-425. 224
Tiếng Champa gọi là ka lan. 225
Tháng gặt. 226
Lương sử, G. Maspéro, “Vương quốc Champa”, BEFEO, XXVIII, Paris, 1928, tr. 31, cắt nghĩa tập quán
này một cách ngược lại và có lí hơn: “Đàn ông không quan trọng bằng đàn bà”.
54
xuống cửa sông. Đối với người thường thì xương cốt được cho vào lọ sành và ném
xuống xông. Thân nhân bên nội và bên ngoại đều đi đưa đám và cắt tóc trước khi đi
xa bờ, đó là dấu hiệu duy nhất của sự để tang rất ngắn ngủi. Tuy nhiên người ta vẫn
thấy vài phụ nữ để tang suốt đời bằng hình thức thả tóc không búi khi nó đã mọc lại.
Đó là những bà goá nguyện suốt đời không tái giá”.
3. Những quốc gia của bán đảo Malay và quần đảo Nam Dương (Vào thế
kỉ IV đến thế kỉ VI)
Sự xuất hiện những bút tích Phạn đầu tiên ở Champa vào nửa sau của thế kỉ
IV có trước một ít những bút tích đồng loại ở bán đảo Malay, Boocneo và Giava.
Những mẩu bút tích trên đá tìm thấy ở trước mặt Pinama, Cherok Tekun
được xếp vào thế kỉ thứ IV227
. Bút tích ở Bukit Mericun, ở Kedanh ghi lại hai câu
kinh Phật, cũng thuộc cùng một thời kì hoặc sau một chút228
. Những cuộc tìm tòi
khảo cổ ở vùng phụ cận Crat đã phát hiện ra một bút tích ở thế kỉ V - VI ghi ba câu
kinh Phật bằng chữ Phạn229
.
Tài liệu quan trọng nhất tìm thấy ở phía bắc tỉnh Wellesley230
. Đó là bút tích
khắc ở phía trên một cái cột, ở mỗi bên một cai stupa có một cái lọng bảy tầng. Văn
bản chữ Phạn gồm một câu kinh Phật, một lời chúc thành công trong một chuyến đi
của ông chủ Huyền (Mahanavita) Buddhagupta ở sứ đất đỏ (Raktamrittuca). Bút
tích chỉ ra thời gian giữa thế kỉ V.
Xứ đất đỏ này231
người Trung Quốc gọi là Tche T‟ou, phải ở vào vịnh Xiêm,
vùng P‟at‟alung232
, người Trung Quốc chỉ nói tới nó vào năm 607233
nhưng nó đã
tồn tại ít nhất từ 1 thế kỉ rưỡi trước đó vì nó được ghi trong bút tích Buddhagupta
như ta vừa thấy.
Ở Perac, di chỉ cổ thạch bi Kunla Solixing có thể bị những nhà hàng hải Ấn
Độ chiếm từ lâu, đã cung cấp 1 con ấn bằng mã não, khắc tên Xri Vishnuvarman đã
làm chảy rất nhiều mực234
, bút tích đó dường như có trước thế kỉ VI.
Về Touen Siun mà người ta đã biết ở chương trên, 1 văn bản Trung Quốc thế
kỉ V - VI cho 1 số tài liệu đúng được nêu lên: “khi họ ốm, họ cầu mong được các
227
R.C. Magiumda, “Xuvarnatvipa”, I, tr. 88-89. 228
R.C. Magiumda, “Xuvarnatvipa”, I, tr. 90; B.Ch. Salơva, “Sự bành trướng của nền văn hóa Ấn Độ -
Arien”, báo hội Á châu, Bănggaler, I, 1935, tr. 15. 229
H.G. Quaritsơ Uênlétx, “Sưu tầm khảo cổ về những xâm chiếm thuộc địa cũ”, tr. 8-10. 230
B.Ch. Salơva, “Sự bành trướng của nền văn hóa Ấn Độ - Arien”, báo hội Á châu, Bănggaler, I, 1935, tr.
16-20 (Bút tích lưu lại Viện Bác cổ Ấn Độ ở Calcutta). 231
G. Pherăng, “Curen Lura”, báo Á châu, số 3-4, 1919, tr. 256; G.H. Luýtxơ, “Miền lân cận Mianma”, báo
hội Mianma, XIV, 1924, tr. 173-178. 232
F.L. Moen, “Criviginia, Iava và Cataha”, LXXVII, 1937, tr. 343-344. 233
P. Pelliot, “Hai cuộc hành trình”, BEFEO, 1903, IV, tr. 276 số 4. 234
Tóm tắt 2 cuộc tranh luận của O.R. Brátdel, XVII, 1929, tr. 168.
55
chim đem an táng. Với các lời ca điệu múa, người ta đưa họ ra ngoài thành và ở đó
có các chim muông đến ăn thịt cái xác đó. Những xương còn lại được đem đốt
thành than đựng trong 1 cái bình và đem vứt xuống biển. Nếu chim muông không
ăn hết thì người ta đặt xác vào trong 1 cái thúng rồi ném vào đống lửa, gio tàn được
để vào 1 cái bình và đem chôn, và người ta cúng lễ không có thời hạn nào cả”235
.
Ở Lang Ya Sieou hay Lankaruka, đã ghi trong chương trên, đến năm 515,
vua mang tên là Bhagadatta. Những mối liên hệ với người Trung Quốc của ông có
từ năm 515236
. Lương sử viết: “dân chúng, đàn ông và đàn bà để tóc buông, mặc
quần áo không có ống và được may bằng vải kaman, dệt bằng sợi dây kipei. Vua và
quan còn khoác thêm 1 miếng vải màu đỏ mặt trời mọc để che phần trên lưng giữa 2
vai, họ thắt 1 cái dây lưng bằng vàng và đeo khuyên vàng ở tai. Vợ họ trang sức
bằng những cái khăn đẹp có đính ngọc. Những tường thành ở xứ này đều xây bằng
gạch. Nhà ở có 2 cánh cửa và những lầu có sân thượng. Khi ra ngoài vua cưỡi voi,
có lọng che màu trắng, đi hộ giá có trống, cờ và quân lính có dáng rất dữ tợn”.
Ở phía bắc nó giáp giới với xứ Pan Pan237
, bên vịnh Xiêm mà sứ thần của
Trung Quốc đến vào khoảng 424 - 253238
. Chính từ đó người ta thấy vào cùng 1 thời
kì Condinia khác, nhà khai hóa Ấn Độ thứ hai ở Phù Nam, Mã Đoan Lâm239
viết:
“Dân chúng thường ở ven biển. Dân dã man đó không biết xây tường thành, họ chỉ
dựng các hàng rào. Vua nửa nằm, nửa ngồi trên 1 cái giường dát vàng có hình 1 con
rồng. Các quan cận thần quỳ ở trước mặt vua, lưng thẳng, tay khoanh lại, 2 bàn tay
đặt lên vai. Trong triều, người ta thấy nhiều người Balamon từ Ấn Độ tới để lợi
dụng lòng hào hiệp và sự sủng ái của vua… Những mũi tên ở vương quốc Pan Pan
làm bằng đá rắn, các mũi giáo đều có bịt sắt. Nước này có 10 tu viện của sư nam và
sư nữ, họ nghiên cứu kinh Phật, ăn thịt nhưng không uống rượu. Có cả 1 tu viện của
đạo lão, quy tắc của tu viện này chặt chẽ hơn: họ không ăn thịt và cũng không uống
rượu".
Ở Boocneo, 4 bút tích trên cột tìm thấy ở vương quốc Ctay hình như vào
khoảng năm 400240
. Nó gốc tự 1 ông vua Muylavarman, cháu của Kunduga (có lẽ
theo tên Anhdonedieng, chắc chắn không phải tên Phạn) con của Acvavarman, được
tôn là người sáng lập ra triều đại đó (Vamsakartri). Những bút tích này thuộc về 1
235
P. Pelliot, “Nước Phù Nam”, BEFEO, III, tr. 279. 236
G. Pherăng, “Malacca, Malayu và Malayur”, III, báo Á châu, số 7-8 năm 1918, tr. 140. 237
P. Pelliot, “Hai cuộc hành trình”, BEFEO, 1903, IV, tr. 129. 238
P. Pelliot, BEFEO, III, tr. 269, số 2. 239
P. Pelliot, “Hai cuộc hành trình”, BEFEO, 1903, IV, tr. 463-464. 240
Voghen, “Bút tích Gupta ở vương quốc Muylavarman từ Ctay (vùng Boocneo)”, 1918, tr. 167-132; R.G.
Satécghi, “Ấn Độ và Giava”, II, tr. 8-19.
56
ngôi đền mang tên Vaplakavara, trong đó người ta muốn nhận ra hoặc là Shiva,
hoặc thần Agastya, hoặc 1 thần thổ địa, nếu nó không phải là 1 nhà mồ241
.
Ở nơi khác, Boocneo còn nhiều dấu vết rải rác ít hay nhiều rõ nét đã được
Ấn Độ hóa, suốt dọc các sông Kapuhas, Rata và Mahacam. Một pho tượng bằng
đồng đỏ rất đẹp theo phong cách Gupta đã được tìm thấy ở Banggun242
thuộc tỉnh
Ctay. Ngoài những bút tích đã nêu, tỉnh này còn cho ta những cảnh Balamon và
Phật thuộc niên hiệu chưa xác định243
trong một cái động ở núi Kombeng và ở cửa
sông Rata.
Người ta đề nghị đặt ở Boocneo tên Barhinatvipa nêu lên trong
Vaigupuarana (XLVIII, 12)244
. Trên đó gợi lại tên Poni mà người Trung Quốc gọi
Boocneo bắt đầu từ thế kỉ IX245
. Nhưng đó chỉ là 1 sự đối chiếu mỏng manh. Còn
chữ Poni của Trung Quốc, ở đó có 1 ông vua có học Condinia, đã cử sứ thần sang
Trung Quốc vào những năm đầu thế kỉ thứ VI246
, nếu không phải là đảo Bali thì
cũng trùng với Boocneo.
Đảo Giava có thể được nêu lên trong Ramayana (Iavatvipa)247
, trong Ptoleme
(Inbadia) và trong Hán thư vào năm 132 (Ye Tiao, cách đọc cũ là Fapdiev)248
nhưng
sau 1 hiện tượng ngăn trở kì lạ, các nhà bác học táo bạo nhất trong việc đối chiếu
ngữ âm đột nhiên hình như trở nên dè dặt một cách khó hiểu khi họ đứng trước 1
địa danh tương tự 1 cách xa hoặc gần, thậm chí rất gần ở Giava, họ tìm mọi cớ để
xác định địa danh đó ở ngoài đảo Giava. Quả thật Giava là Sumatra thường được
coi là 1 cái đảo như Marco Polo gọi Sumatra là Giava nhỏ. Nhưng đấy có phải là lí
do đầy đủ để tránh Giava và khăng khăng thủ tiêu tất cả những bằng chứng về
những xứ tên là Giava, Iava (Vipa), Yetiao, Yeteofi, Chopo, không chỉ ở Sumatra
mà đôi khi còn ở Boocneo và ngay cả ở bán đảo Malay nữa?
Ở Giava, ngoài pho tượng Phật mang phong cách Amaravati tìm thấy ở phía
đông và đã được dẫn, những vết tích của sự không thâm nhập Ấn Độ nghĩa là vùng
đất trong của eo đất Songder. Nhà đại học xuất bản những bút tích này249
viết: “thật
là rất có ý nghĩa, những dấu vết cổ của 1 thuộc địa Ấn Độ được tìm thấy đúng vào
241
Poecbutgiaraca, “Agastya ở vùng quần đảo”, Leider, 1926. 242
Oudheidkundig Verslag, 1925, tr. 142. 243
Oudheidkundig Verslag, 1925, tr. 132; Gangoly, “Về một số di tích Ấn Độ ở Boocneo”, báo hội Đại Ấn,
III, 1936, tr. 97. 244
Rupam, 1926, tr. 114. 245
P. Pelliot, “Hai cuộc hành trình”, BEFEO, 1903, IV, tr. 296. 246
P. Pelliot, “Hai cuộc hành trình”, BEFEO, 1903, IV, tr. 283. 247
S.Levi, “Lịch sử Ramayana”, báo Á châu, 1-2, 1918, tr. 80. 248
P. Pelliot, “Hai cuộc hành trình”, BEFEO, 1903, IV, tr. 266. 249
Voghen, “Những bút tích về phía đông của Giava”, 1925, tr. 18-35; R.G. Satécghi, “Ấn Độ và Giava”, II,
tr. 20-27.
57
phần đảo này, ở đó những thương nhân Hòa Lan đã thành lập những đại lí đầu tiên
và nó trở thành trung tâm, từ đó thế lực Hòa Lan lan ra khắp quần đảo. Vị trí địa lí
của miền ven biển có tỉnh Batavia so với Sumatra và với lục địa Ấn Độ. những
thuận lợi đặc biệt về hình thể đối với việc đi lại bằng thuyền và đối với việc thương
mại là những trường hợp để cắt nghĩa 1 cách dễ dàng sự trùng hợp, sự trùng hợp đó
không phải chỉ là ngẫu nhiên”.
Những bút tích chữ Phạn đó hơi muộn hơn so với chữ của Muylavarman ở
Boocneo, có thể có vào khoảng năm 450, tác giả là Puýcnavarman vua nước
Taruyma. Trên đó còn giữ đến ngày nay để chỉ tên sông Chitarum, trong vùng
Bangdung, và còn được thấy ở phía nam Ấn Độ cách múi Cororanh250
độ 20km,
những bút tích đó nói lên rằng vua Puýcnavarman kể đến cha và ông mình mà
không nêu tên, nhận xét những lễ nghi Balamon, và quan tâm đến các công việc dẫn
nước vào ruộng trong vương quốc của ông. Hai trong số các vết tích in dấu chân của
ông: người ta đề ra, có thể có đôi chút có thật, rằng đó là biểu hiện của việc chiếm
lĩnh các vùng lân cận của Buytendooc, là nơi người ta đã phát hiện ra các vết tích
đó251
. Vương quốc Taruyma còn tồn tại đến thế kỉ VII, nếu đúng nó mang tên là
Tolomo là nước đã cử sứ thần sang Trung Quốc năm 666 - 669252
như cuốn Tân
Đường thư đã ghi.
Ở Sumatra cũng như ở Giava và Selepber vết tích khảo cổ Ấn Độ cổ nhất là
pho tượng Phật theo phong cách Amaravati253
tìm thấy ở phía tây Palembang, vùng
lân cận đồi Sguntang. Đặc điểm của nó là làm bằng đá hoa cương, một thứ đá không
được biết tới ở Palembang; do đó nó phải từ chỗ khác đem đến, có lẽ ở Bangca -
một hòn đảo ở ven biển phía đông Sumatra, ở đó các nhà hàng hải Ấn Độ thường
lui tới từ lâu, nếu đúng nó là Vanga254
như trong Nitdơxa, Fuli đã kể đến.
Sự có mặt của pho tượng Phật đó ở Palembang là một điều bảo đảm tính cổ
đại của sự thâm nhập Ấn Độ vào xứ này.
Người ta đã tranh luận nhiều về vấn đề xác định vị trí ở Giava 3 nước do
người Trung Quốc nêu tên từ thế kỉ thứ V: Ye Po Ti (Yavadvipa), nơi đây nhà hành
hương Pháp Hiển đã đi qua năm 414 trong chuyến đi Ấn Độ trở về Trung Quốc và
cũng ở đây ông đã thăm những nhà tu hành nhưng lại ít thấy dấu vết đạo Phật255
;
250
F.M. Schuitger, “Taruymanagara”, LXXIV, 1934, tr. 187; G.F. Stúttéchem, LXXIX, 1939, tr. 83. 251
G.F. Stúttéchem, “De Voetufdrukken van Purnavarman”, Tijd. Bat. Gen, 89, 1932, tr. 288. 252
P. Pelliot, “Hai cuộc hành trình”, BEFEO, 1903, IV, tr. 284. 253
F.M. Schuitger, “Khảo cổ học ở Ấn Độ - Sumatra”, Leider, 1937, tr. 2-3; N.J. Crom, “Đồ cổ ở
Palembang”, Niên báo khảo cổ thư mục Ấn Độ, 1931, tr. 29-33. 254
S. Levi, “Ptoleme, Nitdơxa và Brihátcatha”, tr. 27: ở bờ biển phía tây Baroc được ghi trong Ptoleme dưới
tên Barusai. 255
“Xiyuki”, bản dịch của S. Bin, I, tr. LXXXI.
58
Cherpo là nơi nhà sư Gunnavarman, cựu vương xứ Casermia, đã thuyết giáo trước
năm 424 một chút, và đã cử các sứ thần sang Trung Quốc các năm 433, 435256
;
Holotan mà trong trong Tống sử đặt trên đảo Cherpo và cũng cử sứ thần giữa những
năm 430 và 452257
. Những xuộc tìm tòi mới nhất có xu hướng xếp 3 xứ đó lên bán
đảo Malay258
, theo ý tôi, đánh dấu một sự thụt lùi so với những đánh giá của P.
Penio, theo ông này các xứ đó ứng với toàn bộ hoặc một bộ phận của đảo Giava.
Còn như xứ Kan To Li ghi trong Lương sử bắt đầu từ giữa thế kỉ V, người ta
thường nhất trí xếp nó ở Sumatra259
. Vào năm 454 - 464, ông vua ở Kan To Li, tên
Trung Quốc là Sri Varanarenra, đã cử xứ thần Ấn Độ Rudra sang Trung Quốc; năm
502 nhà vua Gautama Subhadra, theo đạo Phật, có con là Vijayavarman đã cử sứ
thần sang.
4. Sự bành trướng mạnh mẽ của cuộc di thực ấn Độ và sự ấn Độ hóa lần
thứ hai nước Phù Nam (Vào thế kỉ V)
Tóm lại, những bằng chứng khảo cổ và thư tích cổ Trung Quốc chỉ ra rằng,
sự thâm nhập của Ấn Độ cổ xưa vào các đảo cũng như bán đảo vào nửa đầu thế kỉ
V, với những bút tích của Muyavarman ở Boocneo và của Puýcnavarman ở Giava,
và với sự phát triển của các cuộc giao hảo với Trung Quốc đã cho ta chứng kiến một
sự bành trướng mạnh mẽ của việc Ấn Độ hóa miền ngoại Ấn mà người ta có thể gán
cho, nếu không phải là một đợt di cư thì ít ra cũng là ảnh hưởng của các yếu tố văn
hóa mà các vết tích cho phép ta coi như có nguồn gốc từ phía đông hoặc phía nam
Ấn Độ.
Người ta đã tìm trong lịch sử Ấn Độ chính quốc những nguyên nhân trực tiếp
về cuộc vận động đó và người ta đã tiêu phí nhiều tưởng tượng để gán ghép những
triều đại mới ở ngoại Ấn với những dòng vua Ấn Độ. Tôi không theo những tác giả
nào tưởng có thể phiêu lưu trên mảnh đất chuyển động đó260
. Tuy nhiên người ta coi
là có thể được, những cuộc chinh phục của Samadragupta (vào khoảng 335 - 375) ở
miền nam Ấn Độ và sự thuần phục của vua Panlava và các phó vương của ông261
,
nó đã tạo nên những sự đảo lộn nghiêm trọng đưa lại kết quả là di chuyển một số
yếu tố của quý tộc phía nam sang các nước phương đông. Người ta đã thấy, chính
do cuộc chinh phục thung lũng sông Hằng của Samadragupta mà S. Levi đã nêu lên
256
P. Pelliot, “Hai cuộc hành trình”, BEFEO, 1903, IV, tr. 274-275. 257
P. Pelliot, “Hai cuộc hành trình”, BEFEO, 1903, IV, tr. 271-272. 258
F.L. Moen, “Criviginia, Iava và Cataha”, Tijd. Bat. Gen, LXXVII, 1937, tr. 317-486: dịch sang tiếng Anh
trong báo của Hội Malay, 1940, II; Nicacangta Satsteri, “Ghi chép về lịch sử địa lí bán đảo Malay và quần
đảo”, báo Đại Ấn, VII, 1940, tr. 15-42. 259
G. Pherăng, “Xứ Kan To Li (tên gọi III của Konen Lonen)”, báo Á châu, 9-10, 1919, tr. 238-241. 260
F.L. Moen, “Criviginia, Iava và Cataha”, Tijd. Bat. Gen, LXXVII, 1937. 261
Dlavale Putsanh, “Triều đại và lịch sử Ấn Độ”, tr. 40.
59
sự có mặt bất ngờ của người Ấn Độ - Xíttơ lên ngôi vua ở Phù Nam năm 357. Có lẽ
giai đoạn đó chỉ là một màn giáo đầu cho một cuộc vận động chung hơn, từ giữa thế
kỉ IV đến giữa thế kỉ V, nó đã đưa tới bán đảo và các đảo đã Ấn Độ hóa rồi và có
mối liên hệ thường xuyên với Ấn Độ, những ông hoàng, những người Balamon,
những người trí thức, nhờ họ mới có sự phát triển của minh văn học bằng chữ Phạn
trước hết ở Champa, rồi ở Boocneo và Giava. Cũng trong cùng thời kì đó và có lẽ
cũng do một nguyên nhân, nước Phù Nam đã được tiêm một liều văn hóa Ấn Độ
mới, nó có giá trị là một bút tích cổ xưa nhất ở Phù Nam sau tấm bia ở Võ Cạnh.
Lương thư cho ta biết một trong những người kế tục của Chiên Đàn Ấn Độ là
Kiao Tchen Gon (Condinia): “Ông ta gốc là 1 người Balamon ở Ấn Độ. Tiếng 1 vị
thần đã bảo ông: “Cần phải đến trị vì ở Phù Nam”. Condinia rất vui sướng trong
lòng. Về phía nam ông đã tới Bàn Bàn. Dân Phù Nam đã biết ông và học ông, cả
vương quốc sung sướng đứng dậy, đến trước mặt ông và tôn ông làm vua. Ông đã
thay đổi tất cả các quy tắc theo phương pháp của Ấn Độ. Condinia mất, một trong
những người kế tục ông là Trì Lê Đà Bạt Ma (Sri Indravarman hay Srestavarman)
vào thời hoàng đế Văn nhà Tấn? (424 - 453) đã đưa ra một lời thỉnh nguyện và đem
cống nhiều sản phẩm địa phương”262
. Đó là các sứ thần mà Tấn thư đã xếp vào năm
434, 435 và 438. Có lẽ cùng một tác phẩm đó đã nói tới vua Trì Lê Đà Bạt Ma năm
431-432: “Nước Lâm Ấp muốn đánh bại nước Giao Châu (Bắc Kì) và mượn quân
của vua nước Phù Nam. Vua Phù Nam không chấp thuận”263
.
5. Nước Champa (Từ cuối thế kỉ IV đến năm 472)
Trước khi theo dõi lịch sử Phù Nam mà từ khoảng năm 480 đã phát triển một
cách đều đều, cần nói vài lời về những việc xảy ra ở nước Champa.
Sau khi Phạm Phật (Badravarman) mất, người con hoặc cháu ông Phạm Hồ
Đạt lên kế vị năm 380, xâm lược Nhật Nam năm 399, nhưng bị thất bại. Lợi dụng
sự hỗn loạn ở Trung Quốc trong lúc nhà Tấn suy yếu, Phạm Hồ Đạt lại tiếp tục xâm
lấn vào các năm 405 và 407, và đến năm 413 lại tiến hành một cuộc viễn chinh mới
ở địa phận phía bắc Nhật Nam, và ở đó ông không về nữa.
Con của Phạm Hồ Đạt, theo Lương thư là Địch Chân lên nối ngôi nhưng lại
thoái vị để nhường ngôi cho cháu và đi Ấn Độ. Có lẽ chính ông là Gungaraja mà
một bút tích ở thế kỉ thứ VII264
đã nêu lên, nổi tiếng “về những đức tính vương giả
là óc khoa học và lòng dũng cảm. Khó từ bỏ vương quyền (ông bèn thoái vị), ông tự
nhủ: “Nhìn thấy sông Hằng là một niềm vui lớn” và ông đã đi từ chỗ này đến sông
262
P. Pelliot, “Nước Phù Nam”, BEFEO, III, tr. 269. 263
P. Pelliot, “Nước Phù Nam”, BEFEO, III, tr. 255. 264
L. Finot, BEFEO, IV, tr. 922.
60
Hằng”. Hình như người kế vị ông là một người cháu mà trong bút tích thế kỉ VII gọi
là Mamorathavarman265
. Những gì xảy ra sau đó đều không được biết nữa. Vào năm
420 xuất hiện một ông vua gốc bí mật, tự xưng là Dương Mai “Hoàng tử vàng”. Sau
một chuyến thâm nhập thất bại vào Giao Châu, năm 421 ông cầu phong với Trung
Quốc. Cũng năm đó ông mất, con trai ông 19 tuổi lên ngôi, mang cùng tên và tiếp
tục đi xâm lược phương bắc. Năm 431, ông cử hơn 100 chiến thuyền đi cướp phá
bờ biển Nhật Nam, người Trung Quốc phản ứng mãnh liệt đến bao vây Khu Túc
(Huế) trong lúc vua đi vắng, nhưng bị bão nên không lợi dụng triệt để được thắng
lợi và phải tháo vây. Chính lúc đó Dương Mai bị thất bại trong việc mượn quân của
Phù Nam “để đánh bại Giao Châu”, và đến năm 433, ông xin thần phục Trung
Quốc, nhưng yêu cầu của ông không có kết quả. Những cuộc xâm lược của Champa
càng tăng lên làm cho Đàm Hòa Chi, tân Thái thú ở Giao Châu tiến hành một cuộc
trấn áp nặng nề vào năm 446. Trong khi thương lượng, người Champa đã có dấu
hiệu không thành thật, Đàm Hòa Chi liền xóa bỏ cuộc thương lượng và bao vây
Khu Túc. Một cuộc huyết chiến khác xảy ra ở kinh đô Shimhapura (Trà Kiệu), quân
Trung Quốc đã lấy được 10 vạn đồng tiền vàng nguyên chất. Nhà vua Champa đã
chết vì buồn phiền.
Kế vị ông là con hoặc cháu tên là Phạm Thần Thành, ông này đã cử sứ thần
đi vào những năm 456, 458 và 472.
6. Những vua cuối cùng ở Phù Nam (480-540); nước Champa (484-529)
Mười năm sau niên hiệu đó, Nam Tề thư lần đầu tiên nói đến vua Phù Nam là
Đồ Già Bạt Ma (Jayavarman) có họ là Kiều Trần Như nghĩa là dòng dõi của
Condinia266
. P. Pelliot viết267
: “Ông hoàng đó đã cử thương nhân đến Quảng Châu,
những người này khi trở về bị dạt lên bờ bể Lâm Ấp (Champa) cùng một ông sư Ấn
Độ Nagasra đi đường tắt đến Phù Nam và năm 484, vua Jayavarman phái ông đi
cống hoàng đế Trung Quốc và đồng thời xin viện trợ để thắng nước Lâm Ấp. Từ
một vài năm, một tên chiến đoạt đã tranh lấy ngôi vua ở xứ này, văn bản Lâm Ấp
gọi là Tang Ken Tchouen, con vua Phù Nam. Vua Jayavarman coi y là một trong
những kẻ tôi tớ, đạt tên là Cựu Thù La268
. Hoàng đế Trung Quốc cám ở Jayavarman
đã tiến cống, nhưng không cử binh sang giúp ông đánh Lâm Ấp. Qua những lời
trống rỗng đôi khi tối nghĩa của bản thỉnh cầu (sớ), ít nhất ta cũng nhận xét thấy hai
điều: trước hết là việc thờ cúng Shiva giữ địa vị thống trị ở Phù Nam, nhưng đồng
265
G. Maspéro, “Vương quốc Champa”, BEFEO, XXVIII, Paris, 1928, tr. 288. 266
P. Pelliot, “Nước Phù Nam”, BEFEO, III, tr. 257. 267
P. Pelliot, “Nước Phù Nam”, BEFEO, III, tr. 294. 268
G. Maspéro, “Vương quốc Champa”, BEFEO, XXVIII, Paris, 1928, tr. 75, số 2, cho nhiều lí lẽ rất tốt để
nhập hai nhân vật đó làm một.
61
thời người ta cũng theo đạo Phật, bản thỉnh cầu phần lớn là Phật giáo và do 1 nhà sư
Ấn Độ tạm trú ở Phù Nam trao cho. Hơn nữa, dưới triều Jayavarman, hai nhà sư
gốc Champa sang ở Trung Quốc269
; cả hai cùng biết chữ Phạn nên suốt đời được
dùng vào việc dịch kinh”.
Cùng một đoạn trong cuốn Nam Tề thư là cuốn sánh mà P. Pelliot đã trích
những ý trên, còn cho biết thêm một số tài liệu đáng được trích lại về nền văn minh
vật chất Phù Nam:
“Dân Phù Nam rất láu cá và xảo quyệt. Họ dùng sức bắt dân các thành lân
cận không chịu thuần phục đem về làm nô lệ. Về hàng hóa, họ có vàng bạc, tơ lụa.
Con cái những nhà quyền thế may sarong bằng gấm; phụ nữ trùm qua đầu một tấm
vải để mặc. Dân nghèo che thân bằng một mảnh vải. Dân Phù Nam còn biết làm
nhẫn và vòng bằng vàng, bát đĩa bằng bạc. Họ đốn các cây về làm nhà. Vua ở nhà
gác, họ rào nhà bằng giậu gỗ. Ở bờ bể mọc 1 loại tre lớn, lá dài tới 8 - 9 chân270
. Họ
tết lá của nó để lợp nhà. Dân chúng cùng ở các nhà có nền cao. Họ đóng thuyền dài
8 - 9 trượng271
ngang 6 - 7 chân, đầu và đuôi thuyền giống như đầu và đuôi 1 con
cá. Khi ra ngoài, vua cưỡi voi. Đàn bà cũng được cưỡi voi. Để giải trí, dân thường
chơi chọi gà hay chọi lợn. Họ không có nhà tù. Trong trường hợp tranh chấp nhau,
họ ném nhẫn vàng hay trứng vào nước sôi và buộc phải lấy ra. Hoặc nung đỏ 1 cái
xích mà người ta phải cầm trong tay và đi bảy bước. Tay thủ phạm hoàn toàn bị bóc
ra, người vô tội thì không bị bong. Hoặc họ còn đem dìm cả hai xuống nước, ai phải
thì ấn cũng không chìm, ai trái thì chìm ngỉm”272
.
Một văn bản trước nữa, cuốn Lương sử273
thêm các chi tiết sau:
“Họ không đào giếng nơi họ ở. Nhiều chục hộ có chung một cái bể lấy
nước274
. Tập quán của họ là thờ phụng các thần trên trời. Họ đúc các tượng thần
bằng đồng đỏ, vị thì 2 mặt 4 tay, vị có 4 mặt 8 tay. Mỗi tay cầm 1 vật, khi thì là đứa
bé con, hoặc là con chim con thú, hay mặt trời mặt trăng. Khi đi hoặc về, vua cưỡi
voi; các phi tần hay cân thần cũng vậy. Khi vua ngồi, ông ta co chân phải lại, thõng
chân trái xuống tận đất275
. Họ trải ra trước mặt vua một tấm vải, trên đó có đặt
những bình bằng vàng và các lư hương. Khi có tang, tập quán của họ là cắt râu và
269
Đó là Xănggapala và Mandraxena trong văn bản Trung Quốc Tripitaka - P. Pelliot, “Nước Phù Nam”,
BEFEO, III, tr. 284-285. 270
Chân (hay thước) là đơn vị đo lường = 0,3248m, ở đây có thể là cây dừa (ND). 271
Trượng = 10 chân. Đoạn này trong Nam Tề thư nói về các đàn dựa vào 1 đoạn chi tiết hơn trong chuyện
của Khang Thái trích trong “Thái Bình dự lãm” và P. Pelliot, “Văn bản Trung Quốc về Đông Dương Ấn Độ
hóa”, BEFEO, II, tr. 252-253. 272
P. Pelliot, “Văn bản Trung Quốc về Đông Dương Ấn Độ hóa”, BEFEO, II, tr. 261-262. 273
P. Pelliot, “Văn bản Trung Quốc về Đông Dương Ấn Độ hóa”, BEFEO, II, tr. 269-270. 274
Đó là nguyên tắc Trapeang hiện nay vẫn dùng ở Cămpuchia. 275
Đó là kiểu “thoải mái của vua” thường được trình bày trong họa tượng học.
62
tóc đi. Đối với người chết, có 4 loại mai táng: “thủy táng” tức là ném xác chết
xuống sông; “hỏa táng” tức là đem thiêu thành gio; “mai táng” tức là đem chôn
dưới đất và “thiên táng”276
tức là bỏ thi thể ngoài đồng cho chim rỉa”.
Triều vua Jayavarman đó đánh dấu cho một thời kì hùng cường của Phù
Nam, và được phản ánh trong sự kính nể của hoàng đế Trung Quốc vào dịp sứ thần
tới năm 503: “Vua Condinia Jayavarman nước Phù Nam ở vào giáp giới đại dương.
Cha truyền con nối, nhà vua sẽ cai quản sứ sở miền nam xa xôi. Lòng thành thật của
vua đã truyền đi xa qua vô số những người thông ngôn, nhà vua đã đem cống nhiều
lễ vật; nhà vua rất xứng đáng được hưởng hoàng ân và được tặng danh hiệu vinh
quang. Có thể là danh hiệu Thống soái phía nam đã được bình định, vua của nước
Phù Nam”277
.
Người ta đã thấy 1 người con hay đầy tớ của Jayavarman trốn sang nước
Lâm Ấp và xưng vua sau khi Trần Thành mất, và năm 484 Jayavarman đã thất vọng
khi cầu cứu hoàng đế Trung Quốc giúp ông trừng trị kẻ chiếm đoạt. Người ta không
rõ Jayavarman đã làm gì. Điều chắc chắn là năm 491, kẻ tiếm ngôi vẫn trị vì dưới
tên là Phạm Đường Cân Thuần và được triều đình Trung Quốc phong vương ở Lâm
Ấp. Nhưng năm sau, 492, y bị truất ngôi do một người con cháu của Dương Mai tên
là Chư Nông. Ông này trị vì 6 năm và bị chết đuối ở biển năm 498. Với những
người nối ngôi sau ông: Phạm Văn Khoản, Phạm Thiên Khải (có thể là Dravarman)
và Phạt Tuyên Bạt Ma (Vijayavarman) người ta chỉ có những niên hiệu sứ thần vào
các năm: 502 và 527. Đến năm 527, một triều đại mới nắm quyền mà nguồn gốc và
lịch sử sẽ được vẽ lại trong chương sau.
Jayavarman, “Ông vua lớn nước Phù Nam” chết năm 514. Ta không có bút
tích của ông, nhưng chánh cung hoàng hậu Kulaprabhavatti và con ông là
Gunnavarman mỗi người đã để lại một bút tích chữ Phạn vào nửa đầu thế kỉ thứ V.
Trên một tấm bia tìm thấy ở Cămpuchia về phía nam tỉnh Takeo, hoàng hậu
Kulaprabhavatti muốn sống ẩn dật, đã nêu ra việc thành lập 1 tu viện gồm một nhà
ở và một bộ phận chứa nước278
. Bài thơ đầu văn bản phỏng theo Visnu.
Một bút tích Vishnu khác viết bằng chữ cổ hơn được khắc vào 1 cái cột trụ
của một cái trạm ở Tháp Mười trong Cánh Đồng Cói ở Nam Kì, theo lệnh vua
Gunnavarman con của Jayavarman “mặt trăng của dòng họ Condinia”. Tấm bia đó
để tưởng niệm sự thành lập “trên một vùng được chinh phục trên một đống bùn
276
BEFEO, XL, tr. 320. 277
P. Pelliot, “Nước Phù Nam”, BEFEO, III, tr. 269. 278
G. Xodetx, “Bút tích ở Phù Nam”, báo Đại Ấn, IV, 1937, tr. 117-121.
63
lầy”. Vua Gunnavarman “tuy còn trẻ” là thủ lĩnh. Một ngôi đền có vết chân của
Visnu có tên là Chakratiathasvamin279
.
Vậy mà ở Giava, dấu chân của Puýcnavarman, so với dấu chân của Visnu
như trên đã nói, có thể là dấu hiệu chiếm lĩnh một xứ sau một cuộc chinh phục bằng
quân sự, còn ở đây là một cuộc chinh phục hòa bình sau những công cuộc dẫn nước
và đắp đất từng phần ở cái nơi mà cho đến nay vẫn còn nhiều bùn lầy và ngập nước
1 thời gian trong năm280
.
Có thể mẹ của Gunnavarman chính là hoàng hậu Kulaprabhavatti, vợ của
Jayavarman281
và cũng có thể Gunnavarman là con của Jayavarman282
mà theo
Lương sử283
đã bị đoạt ngôi sau khi cha ông mất năm 514 và bị người em là Lieou
Topano (Rudravarman), con người thiếp của Jayavarman ám sát.
Rudravarman đã cử sang Trung Quốc nhiều sứ thần giữa các năm 517 và
năm 539. Ông là vua cuối cùng của Phù Nam. Một bút tích Phạn ở tỉnh Bati284
cho
ta biết ông vua này trị vì trong lúc thành lập Phật giáo, như đã ghi trong tài liệu đó.
Một tấm bia ở thế kỉ VII coi ông là tiền nhân của Bavavarman I, ông vua đầu tiên
của Cămpuchia thời kì trước Ăngko285
. Một bút tích ở thế kỉ thứ X coi ông là người
đứng đầu một ngành vua có nguồn gốc từ cặp Condinia Xoma, đã trị vì sau
Sritavarman và Srétthavaman, dòng dõi của Cămbu286
. Trong chương sau, chúng ta
sẽ thấy cần phải nghĩ đến truyền thống phổ hệ. Chỉ cần nói ở đây việc lên ngôi bất
chính của Rudravarman hình như đã gây ra cuộc nổi dậy của hai anh em
Bavavarman và Sterasna ở các tỉnh miền trung sông Mekong đã dẫn tới sự phận
chia nước Phù Nam trong khoảng giữa những năm 540 đến 550.
Trong 5 thế kỉ, nước này là một cường quốc thống trị trên bán đảo. Sau khi
sụp đổ nó còn để lại trong một khoảng thời gian lâu dài một ấn tượng lớn trong các
thế hệ sau. Các vua nước Cămpuchia thời kì trước Ăngko đã chấp nhận truyền
thuyết lịch sử của nó, như ta sẽ thấy ở chương sau. Những ai đã trị vì ở Ăngko đều
279
G. Xodetx, “Hai bút tích Phạn ở Phù Nam”, BEFEO, XXXI, tr. 1-12. 280
Về vùng này, xem E. Aymonier, “Nước Cămpuchia”, I, tr. 138-139. 281
Đối với tôi hình như sự thực là ông vua trị vì trong bút tích ở Tháp Mười mà các tên không đầy đủ bắt đầu
bằng chữ Ja kèm theo một chữ bị hủy một phần nhưng giống như chữ Ya, không phải ai khác ngoài
Jayavarman. 282
Giả thiết này, tôi đã nêu lên (báo hội Đại Ấn, 1937, tr. 119) về hình thức mâu thuẫn với sự kiện mà bút
tích của Jayavarman, theo cổ tự thì có trước bút tích của hoàng hậu Kulaprabhavatti. Bút tích ở Tháp Mười
được viết lên khi Jayavarman còn rất trẻ, còn bút tích kia có khi hoàng hậu đã nghĩ đến việc đi ở ẩn: điều đó
có thể là do hậu quả của vụ án giết con bà và của sự tiếm đoạt ngôi vua của con kẻ tình địch với bà. 283
P. Pelliot, “Nước Phù Nam”, BEFEO, III, tr. 270. 284
G. Xodetx, “Hai bút tích Phạn ở Phù Nam”, BEFEO,, số XI, tr. 66. 285
A. Barth A. Bergaigne, “Bút tích Phạn ở Champa và Cămpuchia”, số XI, tr. 66 286
G. Xodetx, “Bút tích ở Bakasei Chamkrong”, Báo Á châu, số 5-6, 1909, tr. 479; BEFEO, XXVIII, tr. 31,
39; G. Xodetx, “Bút tích ở Cămpuchia”, II, tr. 10, 15.
64
cố gắng gắn liền nguồn gốc của họ với Adriaja hay vua tối cao của Viadrapura287
và
những ông vua ở Giava thế kỉ VIII làm sống lại danh hiệu Sailendra “Vua của miền
núi”.
Ở phần trên nữa tôi đã thuật lại các đoạn trích trong lịch sử triều đại Trung
Quốc, nó đã cho ta biết một chút về tình trạng xã hội và phong tục của dân Phù
Nam. Về mặt tín ngưỡng, những việc thờ phụng của Ấn Độ cũng được xác nhận kế
tiếp nhau hoặc đồng thời ở đây. Hai vua dòng Condinia đã Ấn Độ hóa xứ này đều là
người Balamon, họ phải đem nhập vào đất này những lễ nghi Shiva, nó vốn rất rực
rỡ vào thế kỉ thứ V. Dưới triều đại vua Jayavarman, Nam Tề thư viết: “Tập quán của
xứ này là thờ phụng thần Mahervera (Shiva). Thần đã luôn giáng xuống núi
Motan288
”. Có lẽ đây là ngọn núi thần mà ở đó các vua ngay nước đó cũng lấy làm
tên mình. Ở cạnh kinh đô và là trung tâm của vương quốc, nó là nơi trời đất gặp
nhau. Đó là lí do tại sao “thần luôn luôn giáng hạ xuống đấy”. Có lẽ nó được vật thể
hóa dưới hình thức cái dương vật của Shiva Girixa289
“đã lai vãng miền núi”. Một
đoạn trong Lương thư kể trên nói về hình ảnh có 2 mặt 4 tay, có thể là thần
Haribana hay Visnu và Shiva hợp lại thành một. Sự tồn tại của việc thờ cúng theo
tín ngưỡng Vishnu toát ra từ các bút tích của Gunnavarman và của mẹ ông. Cuối
cùng Phật giáo tiểu thừa bằng chữ Phạn, xác nhận từ thế kỉ III, nở rộ vào thế kỉ IV
và VI dưới triều vua Jayavarman và Rudravarman.
Về nghệ thuật kiến trúc, hình như không còn lại chút gì. Nhưng một giả
thiết290
đáng chú ý cho phép nghĩ rằng, nếu tất cả đã bị thiêu hủy, thì ít nhất một vài
công trình kiến trúc theo nghệ thuật Tiền Ăngko, có mái nhiều tầng nhỏ có mái
trang trí nhiều khám con để bày tượng, cũng phản ánh lại những đặc điểm chính của
các công trình kiến trúc ở Phù Nam. Cái Mukhalinga hay cái dương vật có mặt mũi,
theo giả thiết, phải gắn chặt với nền kiến trúc đó.
Còn về việc tạc tượng, những tượng Phật theo phong cách Gupta291
, các
Visnu đội mũ và các Harihana của Cămpuchia trước Ăngko292
nhất là tượng của
Xurya tìm thấy ở Nam Kì293
tuy nó có sau khi Phù Nam suy sụp, nhưng đã gợi lên
một số quân niệm về nghệ thuật tạc tượng của nó.
7. Những bằng chứng cổ nhất về dân Piu ở Iranadi và dân Mon ở Menam
287
G. Xodetx, “Truyền thống gia hệ của các vua đầu tiên ở Ăngko”, BEFEO, XXVIII, tr. 127-131. 288
P. Pelliot, “Nước Phù Nam”, BEFEO, III, tr. 260. 289
BEFEO, XXVIII, tr. 128-130. 290
H. Parmentier, “Phỏng đoán về nghệ thuật của Champa”, BEFEO, XXXII, tr. 183-189. 291
G. Gơrotxlie, “Ghi chép về nghệ thuật chạm khắc Khơmer cổ”, BEFEO, I, tr. 297-314. 292
P. Duypont, “Visnu đội mũ ở Tây Đông Dương”, BEFEO, XLI, tr. 233-254. 293
L. Malleret. “Mục lục Viện Viễn đông bác cổ ở Labrotx”, số 68 và 70.
65
Còn phải nói vài lời về các quốc gia Ấn Độ ở Tây Đông Dương. Hình như do
vị trí địa lí, nền văn hóa Ấn Độ vào các nước này sớm hơn và sâu sắc hơn ở Phù
Nam, và các vương quốc khác trong vùng ngoại Ấn; tuy vậy nó chỉ cung cấp một
số vết tích khảo cổ cũng như minh văn hiếm hoi và muộn màng về thời kì trước
trung thế kỉ VI. Nhưng nếu căn cứ vào bằng chứng hầu như không có gì đó mà kết
luận rằng nó được Ấn Độ hóa chậm hơn thì thật là sơ suất, vì nhiều trường hợp khác
nhau có thể dẫn tới việc làm biến mất hoặc chậm phát hiện các dấu tích cổ xưa hơn.
Còn như sự im lặng hầu như hoàn toàn của các nguồn sử liệu Trung Quốc về thời kì
đó là do các sứ giả Trung Quốc được phái về các vương quốc phương nam đều đi
bằng đường biển và các nước ở xa Trung Quốc nhất theo đường biển là những nước
sau cùng đặt liên hệ với nó294
.
Tuy nhiên hình như ngay từ thế kỉ thứ III, người Trung Quốc, qua Vân Nam,
đã đặt liên lạc với vương quốc Piao, tương ứng với vùng lưu vực sông Iranadi.
Phiên âm Trung Quốc là Piu295
. Bộ lạc dân Piu là đội xung kích của đợt di cư dân
Tạng - Miến và tự đặt cho mình cái tên Tiếcsun296
, chiếm vùng xung quanh Promo.
Những danh thắng cũ của vùng ngoại vi thành này đã cho những mẫu văn bản về
quy pháp bằng tiếng Pali mà ngữ pháp có vào khoảng năm 500297
. Những tài liệu đó
chứng thực sự tồn tại của một đất di thực Phật giáo gốc ở phía nam trong một miền
mà các khách hành hương Trung Quốc thế kỉ VII gọi là Srikshatra và một triều đại
vua mang tên phạn trị vì ở đó vào thế kỉ thứ VIII.
Dân Piu, ở phía bắc giáp người Mianma, ở phía nam giáp người Mon. Sử
biên niên địa phương đã ghi sử của dân tộc này vào thời Phật thân hành đến đây. Nó
cung cấp một bảng liệt kê rất dài những tên vua298
mà khó có thể kiểm tra được, và
thí dụ về sử biên niên Cămpuchia về thời kì Ăngko không có một chút liên hệ với
hiện thực được minh văn học phát hiện ra, điều đó không khuyến khích việc coi các
danh sách Mianma là những tài liệu có thể tin được. Các niên hiệu, qua các văn bản,
294
Cần trừ Giava ra, đây là nước mà người Trung Quốc biết từ năm 132 dưới tên là Yetiao; và trước nữa còn
có những nước bí hiểm Hoang Tche và Foukantoulou (P. Pelliot, “Toung Pao”, XIII, 1912, tr. 475-461)
người ta tưởng có thể đồng nhất Foukan với Pangan ở Mianma (G.H. Luýtxơ, “Fukantulu”, Báo hội Mianma,
XIV, 1924, tr. 91-99). 295
P. Pelliot, “Hai cuộc hành trình”, BEFEO, 1903, IV, tr. 172-173. 296
G.H. Luýtxơ, “Thành trì ở Piu”, Báo hội Mianma, XXII, 1930, tr. 90; XXVII, 1937, tr. 241 và XXIX,
1939, tr. 269. 297
Lập lắc vàng của Mongun ghi câu “Ye dchamma, itiporso” và kể ra 19 loại, do Tun Nyeiu ấn hành, chỉ
dẫn minh văn, V, tr. 101 và L. Finot, Báo Á Châu, 7-8, 1912, tr. 132; Ba mẫu bút tích trên đá hay đất nung
của Bologyi gần Moja, gồm 1 mẫu của Vibhanga, L. Finot ấn hành, tr. 135, 7-8, 1913; Hộp đựng thánh tích
của Moja ghi tên 4 ông Phật và 4 môn đệ, niên báo Khảo cổ Ấn Độ 1926 - 1927, tr. 175; 1 lá vàng tìm thấy ở
Kyundoju có ghi âm Iti piao; sách trên, 1928 - 1929, tr. 108-109; 20 lá vàng tìm thấy ở Moja, ghi các trích
đoạn của quy pháp Pali, in trong báo Khảo cổ Mianma, 1938 - 1939, tr. 12-22; Xem Nihar Ranjan Ray, “Phật
giáo chữ Phạn ở Mianma”, Calcutta, 1936, tr. 3-4. 298
A.P. Phuyrer, “Lịch sử Mianma”, London, 1883.
66
đều không có sự nhất trí một cách lạ thường. Về thời kì trước thế kỉ VI, chỉ cần ghi
nhớ sự tồn tại ở phía bắc, trong miền đồng lúa trù phú ở Kyocs và ở vùng Pagan, là
những trung tâm mà Mianma tiếp nhận Phật giáo từ Bắc Ấn đến299
sự có mặt của
các đất di thực Ấn Độ gốc ở Oritxa, ở miền hạ Mianma, từ những đất di thực này
mà đất chính là ở Sudhamavatti (hay Puyara) nghĩa là Tha Tôn ở cửa sông Sittang,
một truyền thuyết địa phương đã sinh ra và làm chết đi Buddhagosa người cha nổi
tiếng của nhà thờ Xây Lan vào thế kỉ V300
.
Ở lưu vực sông Menam, những nơi duy nhất có nước trong thế kỉ VI là
Xitep301
; Prapathom302
và Preituk 303
. Người ta đã không biết tới những vương quốc
đã từng để lại các dấu tích trên; người ta không biết tới tên nước tên vua các nước
đó. Tất cả điều người ta có thể nói được là các nước đó đều ít hay nhiều thần phục
nước Phù Nam. Những thắng cảnh Phật giáo ở Prapathom và Preituk, từ thế kỉ VII,
là 1 bộ phận của vương quốc Mon của Dvaravatti mà người ta không rõ nó đã có từ
thế kỉ V hay VI. Còn về Xitep, nơi có nhiều tượng Visnu nằm trong đế quốc
Khơmer vào thời mà các vua xứ Ăngko phát triển quyền thống trị về phía tấy.
Thời kì đầu tiên của lịch sử ngoại Ấn chấm dứt vào năm 540 đã cho ta thấy
sự nảy sinh ra một loạt các vương quốc Ấn Độ hoặc Ấn Độ hóa trên những vùng
như châu thổ Iranadi, thung lũng hạ lưu sông Mekong, các đồng bằng miền Trung
Trung Kì, qua nhiều thế kỉ là nơi trú ngụ của các vương quốc, và trên những danh
thắng trời ban cho như Crat, Palembang, cực tây đảo Giava, mà lịch sử hiện nay đã
xác nhận ưu thế về kinh tế, thương mại và chiến lược.
Trong phần lớn các trường hợp, hình như Phật giáo đã mở đường cho sự xâm
nhập của nền văn hóa Ấn Độ vào. Những tượng Phật theo phong cách Amaravati
tìm thấy ở Thái Lan (Pray Tuk và Cò Rạt), ở Trung Kì (Đồng Dương), ở Sumatra
(Palembang), ở Giava và Boocneo… đã cắm mốc đến cực điểm biên giới vùng mà
ngay từ đầu đã được Ấn Độ hóa. Quốc giáo Shiva với việc thờ vượng dương vật chỉ
được xác nhận về sau ít lâu. Còn đạo Visnu cũng không xuất hiện trước thế kỉ V.
299
L. Fnot, “Tài liệu mới về đạo Phật ở Mianma”, báo Á châu, 7-8, 1912, tr. 121-130; Ch. Ruyroudenlơ,
“Người Ari ở Mianma”, niên báo Khảo cổ Ấn Độ, 1915-1916, tr. 80. 300
Về giá trị của truyền thuyết này, xem L. Finot, “Truyền thuyết Buddhagosa”, 1921, tr. 101-119. 301
H.G. Quaritsơ Uênlétx, “Sự khai quật Sridơva, một thành phố Ấn Độ cổ ở Đông Dương”, X, 1936, tr. 61-
99; “Nghệ thuật mới của Ấn Độ ở rừng Xiêm”, III, London tin tức, 30-01-1937, tr. 174-176; “Ăngko”,
London, 1937, chương VII. 302
Chú thích của R. S. Lơmay, “Nghệ thuật Phật giáo ở Xiêm”, Cambrigd, 1938; “những cuộc khai quật mới
đây của Duypont”, BEFEO, XXXVII, tr. 688-689; XXXIX, tr. 351-365; XL, tr. 503-504. 303
G. Xodetx, “Công cuộc khai quật ở Preituk”, báo hội Xiêm, XXI, tr. 195-209; niên báo thư viện khảo cổ
Ấn Độ, 1927, tr. 16-20; H.G. Quaritsơ Uênlétx, “Khai quật ở Preituk”, nghệ thuật và văn học Ấn Độ, X,
1936, tr. 42-48.
67
Về những vương quốc đó người ta chỉ biết đến tên do các sử gia Trung Quốc
ghi lại trong những dịp cử sứ thần đi sứ. Riêng có Phù Nam và từ lâu đã có giao
hảo với Trung Quốc là có một lịch sử tương đối liên tục.
Trước khi thành một quốc gia có tổ chức vào cuối thế kỉ II, dân chúng nói
tiếng Anhdonedieng hợp thành trung tâm của dân tộc ở vùng thung lũng Quảng
Nam, họ đã tìm cách lan về phía Bắc, trong những tỉnh Trung Kì thuộc Trung Quốc:
đó là màn đầu của tấn thảm kịch trong 15 thế kỉ những người tiên khu của nền văn
hóa Ấn Độ với những người đại diện cho nền văn hóa Trung Quốc.
Còn về nước Phù Nam, mà trong những lúc nhất định có bộ mặt một đế quốc
thực sự, nền văn minh do nó khởi thảo ở thung lũng sông Mekong chuẩn bị cho sự
nảy nở của nền văn minh Khơmer, một trong những bông hoa đẹp nhất mà nền văn
minh Ấn Độ đã ghép nên ở miền Ấn Độ bên ngoài sông Hằng.
68
Chương V:
Sự chia cắt Phù Nam
(Giữa thế kỉ VI đến cuối thế kỉ VII)
1. Thời kì cuối cùng của Phù Nam và thời kì bắt đầu của Cămpuchia hay
Chân Lạp (540 - 630).
2. Nước Champa (529 - 686).
3. Nước Cămpuchia thời kì Tiền Ăngko (639 - 685).
4. Vương quốc của người Mon ở Dvaravati.
5. Vương quốc của người Piu ở Srikshatra.
6. Những quốc gia ở bán đảo Malay (Thế kỉ VII).
7. Quần đảo Nam Dương: Holing ở Giava và Malaiu ở Sumatra.
1. Thời kì cuối cùng của Phù Nam và thời kì bắt đầu của Cămpuchia
hay Chân Lạp (540 - 630)
Sứ thần cuối cùng của Rudravarman ở Trung Quốc vào năm 539. Tân Đường
thư còn ghi chú về các sứ thần của Phù Nam vào nửa đầu thế kỉ VII304
, nhưng nó
cũng chỉ rõ trong thời gian đó có nhiều thay đổi trong nước: “Kinh đô của vua ở
Tomon. Bất thình lình mới đó đã bị người Chân Lạp thiêu hủy, nên vua phải rời về
phía nam trong tỉnh Nafuma”
Văn bản cổ nhất nói về Chân Lạp là Tùy thư: “Vương quốc Chân Lạp ở vào
phía nam Lâm Ấp, nó vốn là một nước chư hầu của Phù Nam… Họ nhà vua là Cát
Lợi (Kshatriya), tên vua là Chất Đà Tư Nã (Sitơraxơna); tổ tiên của ông đã tăng
cường sức mạnh của quốc gia. Chất Đà Tư Nã xâm chiếm Phù Nam và bắt phải
thuần phục”305
.
Tên Chân Lạp mà người Trung Quốc gọi 1 cách không thay đổi nước
Cămpuchia, ta không biết 1 chữ Phạn hay chữ Khơmer nào tương ứng với âm cổ
Chân Lạp. Nhưng người ta có thể xác định vị trí quốc gia đó trên miền trung sông
Mekong và vùng Bát Xắc, gần danh thắng Vatphu306
.
Quả vậy, Tùy thư khi cho những tài liệu về thời kì trước năm 589, nghĩa là
trước sự chinh phục hoàn toàn nước Phù Nam và trước sự dời đô của Chân Lạp về
304
P. Pelliot, “Nước Phù Nam”, BEFEO, III, tr. 274. 305
P. Pelliot, “Hồi kí về những tập quán ở Cămpuchia”, BEFEO, III, tr. 23; P. Pelliot, “Nước Phù Nam”,
BEFEO, III, tr. 272. 306
G. Xodetx, “Di chỉ nguyên thủy ở Tchenla”, BEFEO, XVIII, 9, tr. 1-3, BEFEO, XXVIII, tr. 124.
69
phía nam, đã viết: “Gần kinh đô là một quả núi có tên Lingkiapopo, trên đỉnh có
một ngôi đền thường xuyên có 1000 lính gác, dành để thờ thần Potoli, lễ vật cúng là
người. Hàng năm vua đến đền làm lễ dâng vật hy sinh (người) cho thần về ban
đêm”307
.
Trên đỉnh trái núi bao trùm danh thắng Vatphu có một khối đá lớn, tương tự
như khối đá ở Varenla, tên Trung Quốc là Ling (Lingaparvata)308
, tên Âu châu hiện
nay trong các tài liệu Bồ Đào Nha, dùng để chỉ các ngôi chùa309
. Còn về Potoli,
người ta có thể nhận ra hai âm đầu của Badravatca đúng là tên của vị thần được thờ
ở Vatphu310
.
Theo truyền thuyết, triều đại được giữ lại trong một bút tích ở thế kỉ X311
,
nguồn gốc của vua ở Cămpuchia có từ sự phối hợp của thày tu
Cămbuyxvaygambura, danh tổ người Cămbuygia, với nữ thần Mera do Shiva ban
cho, và các tên có lẽ định hư cấu ra để cắt nghĩa tên của người Khơmer. Truyền
thuyết đó hỏi có họ hàng với chuyện thần thoại về phổ hệ Panlava ở Căngri
(Conggiơvơram) hoàn toàn khác với thần thoại phổ hệ của Nadi312
.
Từ cặp Cămbuy - Mera đẻ ra một dòng vua có tên là Sritavarman và con ông
là Cretsthavarman313
. Tên vua thứ hai này dùng để đặt tên cho tỉnh Sretsthapura,
còn tồn tại trong thời kì Ăngko, ít nhất cũng là tên một khu ở vùng Bát Xắc. Những
ông vua đó mà thời đại chưa được xác định, theo cùng một bút tích, là người “giải
phóng thổ dân khỏi xiềng xích cống vật” nghĩa là đạt tới một mức độ độc lập nhất
định ít hay nhiều hiện thực đối với Phù Nam, hay là như văn bản Trung Quốc viết:
“tăng cường sức mạnh của quốc gia”. Họ tự cảm thấy khá mạnh vào giữa thế kỉ VI
để có thể tấn công đế quốc phía nam. Vua nước Chân Lạp bấy giờ là Bavavarman,
con của Viravarman và cháu của vua Sarvabauma314
, nghĩa là vua nước Phù Nam.
Một bản minh văn, có muộn hơn một chút, nhưng người ta không có lí để xóa bỏ
bằng chứng đi, đã thêm một chi tiết quan trọng rằng ông ta là chồng của công chúa
theo họ mẹ của Cretsthavarman315
.
Vậy là Bavavarman thuộc về một hoàng gia ở Phù Nam và trở thành vua
nước Chân Lạp nhờ lấy công chúa nước đó. Người ta hiểu tại sao bút tích thế kỉ X
307
Theo Matouanliu, bản dịch của Harvei de Xanh Dennit, tr. 483. 308
P. Pelliot, “Hai cuộc hành trình”, BEFEO, 1903, IV, tr. 217. 309
Iulơ và Buyóocnen, “Hốpxơn Giốpxơn”. 310
G. Xodetx, “Di chỉ nguyên thủy ở Tchenla”, BEFEO, XVIII, 9, tr. 124 311
Bút tích ở Bacsei Sumkrong, XI - XII, báo Á châu , 5-6, 1909, tr. 496-497. 312
V. Golubep, “Những truyền thuyết về Nađi và Apsara”, BEFEO, XXIV, tr. 508. 313
Bia ở Taperom, BEFEO, VI, tr. 71. 314
Bút tích của Vincăngten; A. Barth A. Bergaigne, “Bút tích Phạn ở Champa và Cămpuchia”, tr. 30; Bút
tích ở cửa sông Mun, BEFEO, XXII, tr. 57-58 và 385. 315
Bia ở Taperom, BEFEO, IX, tr. 71.
70
nói trên lại nói là dòng dõi Cămbuy là tập hợp dòng giống mặt trời, nó đòi hỏi dòng
giống mặt trăng là dòng giống nước Phù Nam. Người ta cũng hiểu tại sao sau
Cruytavarman và những người nói dòng Cămbuy, nó đưa lên ngôi những ông vua
dòng dõi của Condinia và Nadi - Xoma, có thủ lĩnh đầu ngành là Ruydravarman,
tức là các vua cuẩ Phù Nam. Cuối cùng người ta hiểu tại sao các vua ở Chân Lạp,
những người kế vị các vua của Phù Nam chấp nhận truyền thuyết triều đại của
Condinia và Nadi316
. Tóm lại là họ đã gìn giữ những tài sản của chính họ vì
Bavavarman là một ông hoàng của Phù Nam.
Sau một số trường hợp nào, họ có thể làm cho quyền bá chủ của Phù Nam
sang Chân Lạp không có, hình như có thực, cơ hội đó do việc lên ngôi một cách bất
chính của Rudravarman con một người thiếp và là thủ phạm đã ám hại người kế vị
hợp pháp, tạo ra, và hai giả thiết được đưa ra: hoặc là Bavavarman, con của
Viravarman, đại diện cho ngành chính hệ và lợi dụng việc Rudravarman biến mất
mà đoạt lấy quyền của mình; hoặc là ngược lại Bvavarman, cháu của Rudravarman
bảo vệ quyền thừa kế của người ông chống lại âm mưu phục hồi của ngành chính
hệ. Giả thiết thứ hai có vẻ thực hơn vì trong giả thiết đầu, người ta hiểu sai tại sao
Rudrvarman, vua cuối cùng của một đế quốc suy sụp, sau này lại có thể được coi là
“thủ lĩnh đầu ngành”, còn trong giả thiết thứ hai, ông đại diện cho mối quan hệ gắn
bó Bavavarman và các người thừa kế với nước Phù Nam317
.
Vào khoảng 540 - 550, Bavavarman và em trai là Stơraxơna tấn công Phù
Nam và đẩy mạnh cuộc viễn chinh ít ra cũng tới Krachie trên sông Mekong,
Buyriram, giữa Mun và Đăngréc, và tới Mongkolborei ở phía tây Biển Hồ, nếu ta
xét đó theo các bút tích của họ. Nước Phù Nam phải rời đô ở Tomou (Vyadapuyra
tức là Bapernong) về một phương ở quá về phía nam tên là Nafuma. Người ta có thể
nghĩ tới việc xác định địa điểm tỉnh đó ở Ăngkoborei, một danh thắng khảo cổ rất
giàu những vết tích cổ, mà tên và địa danh có vẻ như chỉ ra ở đấy có một kinh đô318
.
Điều đó có thể có, nhưng nếu Ăngkoborei trở thành trung tâm của những cái gì còn
lại của Phù Nam trong nửa sau thế kỉ VI, nó không thể và như vậy nửa ở nửa đầu
thế kỉ VII, luác mà theo Tân Đường thư đã ghi về những sứ thần cuối cùng của đế
quốc đang hấp hối; vì ở thời đó người ta đã tìm thấy ở trong vùng những bút tích
mang tên vua Isanavarman, người kế vị thứ hai của Bavavarman. Vả lại, người ta đã
nhìn sai, sau khi đã xác định hình thể cho nước này, làm sao Phù Nam có thể giữ
được lâu dài ở Ăngkoborei đối diện với Chân Lạp là nước đã chiếm cứ khắp miền
316
L. Finot, “Về vài truyền thống Đông Dương”, tr. 209-210. 317
L. Finot, “Về vài truyền thống Đông Dương”, tr. 211. 318
Người ta coi kinh đô này là của Phù Nam trước khi suy sụp (L. Finot, “Về vài truyền thống Đông Dương”,
tr. 211-212) còn tôi đã chỉ ra rằng nó là Bapernong.
71
bắc. Cho nên, người ta đã đề nghị, với ít nhiều sự thực, là xếp Nafuma về phía Đông
Nam Kì319
, ở đó nước Phù Nam có thể sống vất vưởng một thời gian trong một tỉnh
cũ của nó.
Lấy cớ và nhân dịp một xích mích triều đại, sự chinh phục của Chân Lạp đối
với Phù Nam trong thực tế chỉ là một giai đoạn đầu, qua đó người ta đã chứng kiến
“sức đẩy về phía nam” mà người ta đã thấy tính chất ngấm ngầm và mối đe dọa
thường xuyên giữa các miền đất cao của cao nguyên vùng trung sông Mekong và
các bình nguyên phù sa ở Cămpuchia, cũng có những sự đối lập giữa những thung
lũng cao và thung lũng thấp của sông Menam và sông Iranadi. Sự cố gắng của các
vua ở Cămpuchia cũng như ở Xiêm và Mianma, thường xuyên động đến sự thống
nhất hai miền đối lập nhau về địa lí, kinh tế và đôi khi về nhân chủng, giữa các miền
đó, sự chia cắt lại có cơ xảy ra mỗi khi chính quyền trung ương có những dấu hiệu
suy yếu.
Từ Bavavarman I “đã nắm chính quyền một cách kiên quyết” như một bản
bút tích đã ghi320
, cho đến nay người ta chỉ có một tài liệu minh văn duy nhất: đó là
bút tích chữ Phạn ở vùng lân cận Monconborei, kỉ niệm sự thành lập một đền thờ
dương vật321
.
Người ta không biết kinh đô của Bavapura ở đâu, người ta càng không biết
ông ta trị vì bao lâu. Có lẽ dưới triều ông, em ông là Stơraxơna đã cho khắc những
bút tích ngắn bằng chữ Phạn, ghi lại việc thành lập các đền thờ dương vật khác dọc
sông Mekong, ở vùng Krachie và Xtung Cheng322
và ở phía tây Buyriram, giữa
Mun và Đăngréc323
. Vậy đó là một địa hạt bao gồm những miền rộng rãi mà
Bavavarman truyền lại cho con, ông này sau khi lên ngôi đã lấy danh hiệu là
Mahangdravarman.
Ngoài những bút tích khắc hồi còn mang tên Stơraxơna, vua
Mahangdravarman còn để lại nhiều bút tích khác ở cửa sông Mun đổ vào sông
Mekong324
và ở Xuyranh giữa Mun và Đăngréc325
, ghi lại sự thành lập đền thờ
dương vật của Shiva “sơn thần” (Girica) và tượng con bò đực Nadi. Việc thành lập
các đền thờ được thực hiện trong dịp “chinh phục tất cả vùng” và người ta có thể
319
L. Finot, báo Á châu, 1-3, 1927, tr. 186, giả thiết của F.L. Moen cho là Nafuma thuộc về Ligo thì khó có
thực. 320
A. Barth và A. Bergaigne, “Bút tích ở Pernong Bantay Neang”, tr. 69 321
A. Barth và A. Bergaigne, “Bút tích ở Pernong Bantay Neang”, tr. 26-28. 322
BEFEO, III, tr. 212; BEFEO, IV, tr. 739. 323
BEFEO, XXII, tr. 92. 324
BEFEO, III, tr. 442; BEFEO, XXII, tr. 57-68 và 385. 325
BEFEO, XXII, tr. 59.
72
kết luận là Mahangdravarman đã nối tiếp sự nghiệp của anh. Người ta còn biết ông
đã cử sứ thần sang “để thắt chặt sự giao hiếu giữa hai nước”326
.
Không một tài liệu minh văn, không một tài liệu Trung Quốc nào xác định
được niên hiệu rõ ràng về triều đại của hai anh em này và tất cả những điều người ta
có thể nói được, là nó được xếp vào khoảng năm 540, niên hiệu cao nhất mà Tùy
thư cho phép xác định công cuộc giải phóng của Chân Lạp, và năm 616, niên hiệu
mà người kế vị các ông đã cử sứ thần sang Trung Quốc.
Ông này là con Mahangdravarman, lấy tên là Ixanavarrman. Ông hoàn thành
việc thôn tính những đất cũ của Phù Nam, điều đó đã dẫn Tân Đường thư quy cho
ông đã chinh phục nước này327
. Trong lúc người ta không thấy bút tích của
Mahangdravarman ở nam Krachie, người ta lại có những bút tích về Ixanavarman từ
các tỉnh Congpong Cham và Preivieng328
, từ Căngdan329
và cả Takeo330
. Về phía
tây, lãnh vực bị chinh phục ít nhất lan đến Santabun331
.
Niên hiệu cổ nhất về triều vua Ixanavarman là niên hiệu của sứ thần đầu tiên
sang Trung Quốc năm 616 - 617332
, niên hiệu cuối cùng và chắc chắn là niên hiệu
ghi trong bút tích tôn vinh ông làm vua năm 626333
. Cựu Đường thư ghi tiếp hai sứ
thần vào năm 623 và 628, cho phép nghĩ rằng ông còn trị vì đến năm đó, và Tân
Đường thư quy cho ông đã chinh phục Phù Nam vào đầu thời kì 627 - 649334
để lại
giả thiết rằng triều đại của ông ít nhất còn kéo dài đến năm 630 / 635.
Kinh đô của Ixanavarman tên là Ixanapura, là tên mà nhà hành hương Huyền
Trang hồi giữa thế kỉ VII gọi nước Cămpuchia335
, người ta đồng nhất tỉnh đó với
những tỉnh Sambopreikuk ở phía nam Congpongthom336
, ở đó những bút tích của
Ixanavarman nhiều một cách đặc biệt337
. Hình như dưới triều ông bắt đầu xây dựng
những công trình đầu tiên của Pernong Bugia trong tỉnh Takeo338
.
326
A. Barth và A. Bergaigne, “Bút tích Phạn”, tr. 69. 327
P. Pelliot, “Nước Phù Nam”, BEFEO, III, tr. 275. 328
A. Barth và A. Bergaigne, “Bút tích Phạn”, VI, tr. 38 và IX, tr. 51. 329
A. Barth và A. Bergaigne, “Bút tích Phạn”,VII, tr. 44. 330
A. Barth và A. Bergaigne, “Bút tích Phạn”, VII, tr. 47. 331
BEFEO, XXIV, tr. 357. 332
P. Pelliot, BEFEO, II, tr. 124 và III, tr. 272. 333
A. Barth và A. Bergaigne, “Bút tích Phạn”, tr. 38 334
P. Pelliot, “Nước Phù Nam”, BEFEO, III, tr. 275. 335
“Hồi kí về miền tây”, bản dịch của S. Giuylieng, II, tr. 83. 336
H. Parmentier, “Nghệ thuật nguyên thủy Khơmer”, I, tr. 44-92. 337
L. Finot, “Những bút tích mới ở Cămpuchia”, báo cáo khảo cổ Đông Dương, 1912, tr. 184-189. 338
A. Barth và A. Bergaigne, “Bút tích Phạn”, V, tr. 31; Lơdetx, “Bút tích ở Cămpuchia”, I, tr. 252; H.
Moger, “Pnom Bayiang”, BEFEO, XXXVII, tr. 239-262.
73
Tiếp tục đường lối chính trị của cha ông đối với nước , ông giữ được mối
giao hỏa tốt đối với nước đó, mối quan hệ này như người ta đã thấy, được củng cố
bằng một sự kết thông gia giữa hai hoàng gia.
2. Nước Champa (Từ 529 - 686)
Từ một thế kỉ, nước do một triều đại mới cai trị. Năm 529, sau khi
Vijayavarman mất, ngôi vua do con một người Balamon và cháu gái
Manothavarman giữ. Ông ta là con trai nhà vua đi hành hương ở bờ sông Hằng; đối
với tiên đế trực tiếp, ông ta chỉ hơi có liên quan họ hàng thôi. Ông ta lấy tên triều
đại là Rudravarman339
và đến năm 530 thụ phong với Trung Quốc, năm 534, ông cử
sứ thần đi.
Năm 543, cũng như các tiên đế, ông định tiến về phía bắc nhưng bị Phạm Tu,
đại tướng của Lí Bôn đánh bại. Lí Bôn vừa thành lập triều tiền Lí và làm chủ Giao
Châu. Có thể dưới triều ông đã xảy ra đám cháy ở Mĩ Sơn làm thiêu hủy ngôi điện
đầu tiên của Badrécxara340
. Người ta không biết ngày mất của Rudravarman I,
nhưng người ta quy cho ông đã cử sứ thần sang Trung Quốc vào những năm 568 và
572341
, vì người ta sợ rằng đã gán một triều đại dài quá mức cho con ông và là
người kế vị ông tức là Sambhuvarman mất năm 629.
Đối diện với Trung Quốc, ông vua mới Sambhuvarman (văn bản Trung Quốc
gọi là Phạm Phạn Chế) lợi dụng sự suy yếu của nhà Tấn (557 - 589) “để giải phóng
khỏi sự phụ thuộc chư hầu. Nhưng khi thấy đế quốc lại hùng cường dưới tay Dương
Kiên (Dương Kiên tự xưng vua nhà Tùy năm 589) thì ông nghĩ khôn ngoan hơn hết
là nối lại ngay mối quan hệ và lại triều cống từ năm 595”342
. Nhưng 10 năm sau,
hoàng đế cử Lưu Phương, là tướng vừa chiếm lại Bắc Kì, đi đánh . Cuộc kháng cự
của Sambhuvarman trở nên vô ích, và một lần nữa quân Trung Quốc lại chiếm đóng
Khu Túc và kinh đô. Ở đó nó đã thu được rất nhiều chiến lợi phẩm. Khi quân Trung
Quốc rút đi, Sambhuvarman trở về nước và xin lỗi hoàng đế. Rồi ông chểnh mảng
trong việc triều cống, nhưng sau khi nhà Đường lên ngôi (618), ông đã cử ít nhất ba
sứ thần sang vào các năm 623, 625 và 628.
Có thể Sambhuvarman đã tiếp thượng thư Cămpuchia Sinhadva do vua
Mahangdravarman cử sang để thắt chặt mối giao hảo giữa hai nước. Suốt triều đại
khá dài của ông chấm dứt vào năm 629, ông đã dựng lại đền thờ Badrécxara, móc
tên ông vào tiên đế xa xôi là Badravarman343
. Từ lâu người ta đã đồng hóa ngôi đền
339
L. Finot, “Những bút tích ở Mĩ Sơn”, BEFEO, IV, tr. 922. 340
L. Finot, “Bia Sambruvarman ở Mĩ Sơn”, BEFEO, III, tr. 2. 341
G. Maspéro, “Vương quốc Champa”, BEFEO, XXVIII, Paris, 1928, tr. 81, số 4. 342
G. Maspéro, “Vương quốc Champa”, BEFEO, XXVIII, Paris, 1928, tr. 82. 343
L. Finot, “Bia Sambruvarman ở Mĩ Sơn”, BEFEO, III.
74
mới với tháp lớn ở Mĩ Sơn344
, nhưng niên biểu về nghệ thuật do Ph. Stern duyệt lại
đã quy cho công trình đó một niên đại thấp hơn nhiều345
.
Sambhuvarman có người con kế vị tên là Kandharpadharma (người Trung
Quốc gọi là Phạm Đầu Lệ). Triều đại ông rất thái bình, năm 630 và 631 đã triều
cống rất hậu choàng đế Thái Tôn nhà Đường.
Từ triều Bhasadharma (Phạm Trấn Long) con của Kandharpadharma kế ngôi
cha vào một niên hiệu chưa ai biết, người ta chỉ biết hai sứ thần do ông cử đi vào
năm 640 và 642. Ông bị một quan thượng thư ám sát vào năm 645.
Sau triều đại khá ngắn ngủi của Badrécvaravarman, con người Balamon
Satyakausikasvamin và người em gái của Bhasadharma, ngôi vua trở về dòng chính
thống, vào tay một người em gái khác của Bhasadharma, con gái một người vợ
chính cung của Kandharpadharma. Theo Cựu Đường thư, vị công chúa này lên ngôi
vua346
, nhưng các bút tích không nói đến một lời. Nó chỉ ghi là một người con gái
của Kandharpadharma có một người cháu gọi bằng bà tên là Jagiaddharma đã tới
Cămpuchia347
và lấy công chúa Sarvami, con gái vua Ixanavarman. Từ đám cưới đó
sinh ra một người con tên là Prakasadharma, ông này lên ngôi năm 653 lấy tên là
Vikrantavarman348
. Ông vua này dùng triều đại khá dài và yên ổn của mình vào việc
xây dựng nhiều đền chùa ở Mĩ Sơn, Trà Kiệu và nhiều nơi khác ở Quảng Nam:
nhiều ngôi đền đã chứng minh sự tồn tại ở nước Champa vào thời đó việc thờ cúng
Visnu mà “hình như nó thuộc loại văn chương hơn là nhiệt tín”349
.
Một bút tích trên đá tìm thấy ở Khánh Hòa, ở phía bắc Nha Trang350
chứng
thực rằng quy mô thống trị của ông ta đã lan đi xa về phương nam. Ông cử sứ thần
sang Trung Quốc vào các năm 653, 657, 669 và 670. Trừ phi gán cho triều đại của
ông một thời gian dài quá đáng, cần phải công nhận rằng, năm 686 ông có người kế
vị cũng mang tên ông, Vikrantavarman II, mà người ta biết được độ 15 sứ thần sang
Trung Quốc giữa các năm 686 - 731.
3. Nước Cămpuchia thời kì Tiền Ăngko (639 - 685)
344
L. Finot, BEFEO, IV, tr. 910. 345
“Lịch sử nghệ thuật thế giới (L. Reo), IV - nghệ thuật hồi Viễn Đông”, tr 238. 346
G. Maspéro, “Vương quốc Champa”, BEFEO, XXVIII, Paris, 1928, tr. 89, số 1 - tôi không làm sao hiểu
được tác giả đã khẳng định hai lần (tr 89 và tr. 91) rằng công chúa này được gả cho Bhasadharma trong lúc
xác định mẹ bà là cô của ông này. Theo sự hiểu biết của tôi, không có nguồn tài liệu nào ám chỉ đến đám
cưới như vậy, mà G. Maspéro có lẽ đã bịa ra để biện bạch cho việc lên ngôi của Prakasadharma. 347
“Sau một sai lầm”, Tân Đường thư viết. Còn bút tích ghi một cách dè dặt hơn sau một số trường hợp nào
đó. 348
L. Finot, “Những bút tích ở Mĩ Sơn”, BEFEO, IV, tr. 923-924; Hatber, “Bút tích ở Trà Kiệu”, BEFEO,
XI, tr. 263. 349
P. Muýta, “Bút tích ở Varmiki của Prakasadharma”, BEFEO, XXVIII, tr. 152. 350
L. Finot, “Bút tích mới của Prakasadharma”, BEFEO, XV, 2, tr. 112.
75
Sau khi vua Ixanavarman I thôi trị vì vào năm 630, những bút tích ở
Cămpuchia cho ta biết một vua mới tên là Bavavarman, người ta không rõ mối liên
hệ họ hàng của ông này với ông trước. Một bút tích duy nhất của ông này ghi năm
639 do vùng Takeo cung cấp351
. Với đôi chút sự thực, người ta quy cho ông làm
ngôi tháp lớn Pernong Bayiang352
và Pernong Pereat Vihia ở Congpong
Chernong353
. Có lẽ chính ông chứ không phải Bavavarman I như người ta tưởng từ
lâu, đã được ghi vào hai bút tích đầu tiên in trong tập góp nhặt của A. Barth và A.
Bergaigne.
Hai văn bản đó nói về một người con của Bavavarman đã kế vị ông. người
đó phải là Jayavarman I mà niên hiệu cũ nhất được biết đến là năm 657354
và có lẽ
ông bắt đầu lên ngôi vài năm trước đấy355
. Những bút tích khác trong thời gian ông
trị vì có khá nhiều ở tỉnh Takeo. Người ta có thể suy luận ra rằng, một thời gian ông
ngụ ở Ăngkoborei. Nhưng ông không lơ là với các kinh đô cũ, nên đã cho xây dựng
nhiều công trình ở vùng Viadpura (Bapernong)356
và ở ngôi đền cổ của
Lingaparvata ở Vatphu357
. Về mối liên hệ với Trung Quốc
Cựu Đường thư nói một cách chung chung về các sứ thần của nước Chân
Lạp được hoàng đế Cao tông nhà Đường (650 - 683) tiếp mà không đề rõ ngày
tháng. Triều vua Jayavarman I hình như được thái bình kéo dài 30 năm và chấm dứt
sau 681358
.
Từ những cuộc chinh phục của Bavavarman I ở cùng triều vua Jayavarman I,
người ta nhận thấy sự củng cố ngày càng tăng tiến quyền hành của các vua khi trên
lãnh thổ của Phù Nam cũ ở thung lũng hạ lưu sông Mekong và vùng Biển Hồ. Từ
thời đại tiền Ăngko đó trong lịch sử Cămpuchia, còn lại nhiều di tích khảo cổ học:
lâu dài, điêu khắc, bút tích. Nghệ thuật kiến trúc có đặc điểm về những tháp đứng
giêng hoặc thành nhóm, hầu hết bằng gạch359
với những khung cửa bằng đá đã được
ông H. Parmentier nghiên cứu một cách kĩ càng trong “Nghệ thuật Khơmer nguyên
thủy”360
. Nghệ thuật tạc tượng đã tạo ra vài tác phẩm đúng chủ ý, còn giữ được vài
nét của nguyên mẫu Ấn Độ nhưng nó cũng chỉ ra những khuynh hướng thiên về
những đường nét thẳng cứng và đối xứng là đặc điểm của nghệ thuật Cămpuchia so 351
G. Xodetx, “Bút tích của Bavavarman II”, BEFEO, IV, tr. 691-697. 352
G. Xodetx, “Bút tích ở Cămpuchia”, I, tr. 252. 353
G. Xodetx, “Bút tích ở Cămpuchia”, I, tr. 3 354
L. Finot, “Bút tích Congpong Ruxi”, BEFEO, XVIII, 10, tr. 15. 355
G. Xodetx, “Bút tích ở Cămpuchia”, II, tr. 193. 356
A. Barth và A. Bergaigne, “Bia ở Vatphu”, BEFEO, II, tr. 235 - 240. 357
G. Xodetx, “Bút tích ở Cămpuchia”, I, tr. 40. 358
G. Xodetx, “Bút tích ở Cămpuchia”, I, tr. 40. 359
Trong những ngoại lệ đáng chú ý nhất là Átxnam Maxoxay, xem H. Moxe, BEFEO, XXXVI, tr. 65-95. 360
BEFEO, XXI-XXII, Paris, 1927; xem H. Parmentier, “Về nghệ thuật Khơmer nguyên thủy”, BEFEO,
XXXVI, tr. 1-115.
76
với nghệ thuật nước khác vùng ngoại Ấn. Nghệ thuật chạm khắc trang trí đã biểu
hiện một sự phong phú làm cho cảm thấy trước sự phồn thịnh của thời kì Ăngko.
Những bút tích khắc trên bia hay các trụ đỡ các cửa đều được viết bằng chữ
Phạn khá đúng mẹo và bao giờ cũng bằng thơ. Bút tích bằng chữ Khơmer bắt đầu
xuất hiện khá nhiều và giữ được tính chất cổ âm của nó, và trong 14 thế kỉ nó ít biển
đổi hơn các tiếng Ấn Độ Á châu trong cùng thời gian đó. Những bản minh đó tạo
nên nguồn tài liệu chính về lịch sử và trình độ văn minh của nước này. Nó phát hiện
ra một nền cai trị rất mạnh và cả một hệ thống quan lại mà người ta biết rõ về chức
tước hơn là về quyền hạn.
Thường nó cho ta biết nhiều hơn về đời sống tín ngưỡng. Những câu thơ mở
đầu gồm một bài cầu đảo các thần linh ở đền đó. Về mặt này nó rất bổ ích. Những
môn phái Ấn Độ chủ yếu hình như cũng tồn tại ở Cămpuchia cũng như ở Ấn Độ
chính quốc, trong số đó người ta đã thấy ghi môn phái Shiva của người Paxuypata
và môn phái Visnu của người Păngsaratera361
. Mỗi môn phái trong phạm vi của
mình đã giữ vai trò hàng đầu trong thời kì Ăngko. Minh văn học và họa tượng học
hòa hợp với nhau để đánh dấu tầm quan trong của thời đại đó trong việc thờ thần
Harihana hay Visnu - Shiva hợp nhất trong một cơ thể mà người ta không hề nghe
nói tới trong những thế kỉ sau. Việc thờ thần Shiva, nhất là dưới hình thức dương
vật, được triều đình ưu đãi và gần thành ra quốc giáo. Ngoài những tượng Phật theo
phong cách Gupta được ghi lại cho nước Phù Nam chỉ để lại một bút tích duy nhất
ghi tên hai tăng lữ (Bícxhu)362
. Đạo Phật dường như đã thoái hóa nếu như người ta
nhớ lại sự ưu đãi nó được hưởng ở Phù Nam vào thế kỉ V - VI. Tuy nó đem lại bằng
chứng về Phù Nam (nó được gọi là Ponan), có lẽ chính là nước Chân Lạp mà nhà
hành hương Nghĩa Tĩnh đã quan sát vào cuối thế kỉ VII, khi ông viết: “Lề luật của
Phật rất thịnh vượng và lan tràn. Nhưng ngày nay nhà vua độc ác đã phá hủy và
không còn sư nữa”363
. Nền văn học do các bút Phạn làm chứng đã dựa vào các bản
anh hùng ca lớn của Ấn Độ: Ramayana và Mahabharata, và vào bản Puyrana364
, nó
đã cung cấp cho các nhà thơ chính thống những chất liệu thần thoại rất phong phú.
Về mặt xã hội, vài bản minh văn chững tỏ tầm quan trọng của hệ thống mẫu
hệ365
mà người ta lại thấy ở thời kì Ăngko nhân việc giao chuyển nhiệm vụ sang
nhiều gia đình giáo chức lớn366
. Chế độ mẫu hệ ở gia đình là một chế độ phổ biển ở
361
G. Xodetx, “Bút tích ở Cămpuchia”, I, tr. 5; II, tr. 195. 362
A. Barth và A. Bergaigne, “Bút tích Phạn”, số X, tr. 63. 363
P. Pelliot, “Nước Phù Nam”, BEFEO, III, tr. 184. 364
Những bản viết tay về các tài liệu này được ghi trong các bút tích thời đó, xem A. Barth và A. Bergaigne,
“Bút tích Phạn”, IV, tr. 130; BEFEO, XI, tr. 39. 365
A. Barth và A. Bergaigne, “Bút tích Phạn”, IV, tr. 29, X, tr. 63. 366
A. Barth và A. Bergaigne, “Bút tích Phạn”, tr. 124-126.
77
khắp Indonexia và được thực hiện ở nhiều nhóm nhân chủng ở Đông Dương367
. Ở
Cămpuchia cổ, có thể nó được nhập từ Ấn Độ là nơi nó được người Naiar và người
Balamon Nămbuytiri368
xác nhận.
Để hiểu biết nền văn minh vật chất ở Cămpuchia vào thế kỉ VII, người ta có
thể xem một đoạn trong Tùy thư, nó tương ứng với triều đại vua Ixanavarman và
được Mã Đoan Lâm tường thuật nguyên văn trong cuốn “Nhân chủng học các dân
tộc ở ngoại Trung Hoa” viết hồi thế kỉ VII. Tôi thấy nên kể lại theo bản dịch của
Hầu tước Harvei de Xanh Dennit369
:
“Ông vua đó ngự ở thành Ychona, nơi đó gồm hơn 2 vạn hộ. Giữa thành là
một cung lớn để vua cho bệ kiến và thiết triều. Vương quốc có hơn 30 tỉnh, mỗi tỉnh
có hàng ngàn hộ và đều có quan lại cai trị, các choc tước của quan lại nước này
giống như nước Lâm Ấp”.
“Ba ngày một lần, vua trịnh trọng ra cung tiếp kiến, ngồi trên giường làm
bằng năm tấm gỗ thơm có chạm các vật quý. Bên trên giường có căng một cái lọng
lộng lẫy, cột bằng gỗ vân và thành cột bằng ngà điểm hoa bằng vàng. Toàn bộ cái
giường và cái lọng họp thành 1 cái lâu đài nhỏ, ở sát trong cùng có treo một cái đĩa
có tia vàng theo hình các ngọn lửa, như ở T‟che T‟ou. Một lư hương bằng vàng do 2
người giữ, được đặt ở phía trước. Nhà vua đeo một cái thắt lưng bằng vải kipei mầu
đỏ mặt trời mọc, rủ xuống tận chân. Ông ta chùm đầu bằng một cái mũ nạm vàng và
kim cương có những hoa ngọc trai. Chân ông đi dép bằng da và đôi khi bằng ngà,
tai ông đeo hoa vàng. Bao giờ áo ông mặc cũng được làm bằng loại vải trắng rất
mịn gọi là ptie. Khi ông để đầu trần, người ta không thấy tóc ông đính ngọc. Y phục
các vị quan ta cũng gần giống như của vua. Những quan to đó – hoặc là thượng thư
– gồm 5 vị: vị thứ nhất mang chức Kouloyeou; còn 4 vị kia theo thứ bậc mang các
chức vị sau: Siangkaoping, Pohotoling, Chomoling và Jianloleou. Số lượng các hạ
quân rất lớn”.
“Những người đến trình vua phải chạm trán xuống đất 3 lần ở bậc thềm của
ngai. Nếu vua gọi đến họ và cho họ lên bậc thì họ qùy xuống, hai tay để chéo lên
vai. Rồi họ ngồi thành vòng quanh vua để bàn luận về quốc sự. Khi buổi chầu đã
tan, họ lại quỳ xuống lạy rồi ra về. Hơn 1.000 lính hộ vệ mặc áo giáp, cầm giáo xếp
thành hàng ở chân bậc ngai, trong các phòng ở cung vua, ở các cửa và ở các cột
hiên…”.
367
M. Ne, “Tổ chức gia đình ở xứ mọi”, Sở Địa lí xã hội Hà Nội, số 15, 1928; “ở xứ mẫu hệ”, BEFEO, XXX,
tr. 533; F.S. Fuýcnivan, “Vết tích mẫu hệ ở Mianma”, báo hội Mianma, I, 1912, tr. 15-30. 368
E. Thớcxtơn, “Đẳng cấp ở Nam Ấn”, Mandrit, 1909, V. 369
E. Thớcxtơn, “Đẳng cấp ở Nam Ấn”, Mandrit, 1909, V, tr. 477-481.
78
“Dân chúng có tập quán mặc áo giáp, cầm vũ khí đi ra ngoài, và vậy chỉ một
xích míc nhỏ cũng dẫn tới những cuộc đổ máu”.
“Con cái các hoàng hậu, vợ chính thức của vua, mới có quyền nối ngôi.
Ngày đăng quang của tân quân, người ta đem cắt một bộ phận của các người anh em
vua mới. Người bị cát một ngón tay, người bị cắt mũi. Rồi họ cung cấp cho những
người đó sinh sống, mỗi người một nơi cách nhau và không bao giờ giao cho trong
trách nào cả”.
“Đàn ông vóc người nhỏ, nước da đen, nhưng nhiều đàn bà có nước da trắng.
Tất cả đều cuốn tóc và đeo hoa tai. Họ có dáng dấp nhanh nhẹn và lực lưỡng. Nhà ở
và đồ đạc của họ giống như của người ở T‟che T‟ou. Họ coi tay phải là tinh khiết và
tay trái là uế tạp. Mỗi sáng họ làm lễ rửa tội, đánh răng bằng gỗ bạch dương và
không quên tụng kinh. Trước khi ăn cơm họ lại làm lễ rửa tội, sau khi ăn xong họ
dùng tăm làm bằng gỗ bạch dương để xỉa răng và tiếp tục đọc kinh. Thức ăn của họ
có nhiều bơ, sữa đông, đường bột, gạo và cả kê mà họ làm thành một thứ bánh ăn
chấm với nước thịt ở đầu bữa cơm”.
“Ai muốn lấy vợ, trước hết phải đem đồ lễ đến nhà người con gái mình định
hỏi, sau đó gia đình nhà gái chọn ngày lành để đưa dâu theo bà mối về nhà giai. Cả
gia đình nhà giai và nhà gái ở nhà 8 ngày không ra ngoài. Đèn thắp sáng đêm. Khi
lễ thành hôn chấm dứt, chú rể nhận một phần gia sản của bố mẹ và ra làm nhà ở
riêng. Khi cha mẹ chết, nếu các con chưa lập gia đình thì chúng được hưởng phần
tài sản còn lại; nếu tất cả đều lập gia đình và hưởng hồi môn rồi thì tài sản của cha
mẹ còn lại đều sung vào công khố”.
“Đám tang tiến hành như sau: con cái người chết nhịn ăn 7 ngày, cạo đầu để
tang và kêu gào ầm ĩ. Họ hàng tụ họp lại cùng các sư nam và sư nữ Fo và nhà tu
hành Tao đến đưa đám, vừa hát vừa cử nhạc. Xác chết được thiêu trên 1 đống củi
gồm đủ các loại gỗ thơm; gio tàn được cho vào một cái bình vàng hoặc bạc rồi đem
ném xuống chỗ nước sâu. Nhà nghèo thì dùng bình bằng đất nung sơn nhiều màu
khác nhau. Cũng có người bằng lòng để xác trên núi cho thú rừng ăn thịt”.
“Miền bắc Chân Lạp là một nơi có núi xen kẽ các thung lũng. Miền giữa có
nhiều đồng lầy, khí hậu nóng đến nỗi chẳng bao giờ người ta nhìn thấy tuyết hoặc
sương muối. Đất ở đó bốc lên những hơi độc truyền nhiễm và nhung nhúc sâu bọ có
nọc độc. Ở vương quốc này người ta cấy lú, lúa mạch, một ít mì và kê hạt to”.
4. Vương quốc của người Mon ở Dvaravati
79
Ở phía tây Ixanapura, nghĩa là Cămpuchia, nhà hành hương Trung Quốc
Huyền Trang giữa thế kỉ VII đã đặt vương quốc Tolopoli370
ở đó. Cái tên này với
các biến thể khác371
, tương ứng với nước Dvaravati mà ngoài các văn bản Trung
Quốc, người ta chưa tìm thấy sự ghi chép của thời cổ, nhưng nó lại được lưu trong
các tên chính thức của các kinh đô Xiêm372
: Ayuthia thnàh lập năm 1350, Băngkok
năm 1781. Ở dưới nữa, người ta sẽ thấy Ayuthia được lập nên sau việc rời bỏ một
thành phố ở miền Supan, và hình như có lí khi suy luận rằng tên Dvaravati là tên dự
phòng trong tên các kinh đô nối tiếp nhau của người Thái ở hạ lưu sông Menam, lúc
khởi đầu được dùng cho một thành phố ở vùng đó373
. Mặt khác, châu thổ phía dưới
sông Menam từ bắc Lopbuyri đến tây Ratbuyri và đông Prachin có tàng trữ nhiều
vết tích khảo cổ và minh văn gốc Phật Giáo, giữa chúng có nhiều sự tương quan dẫn
đến chỗ phải coi chúng là những di tích của một quốc gia: vương quốc Dvaravati374
mà sự ra đời có thể trùng với sự chia cắt nước Phù Nam mà hầu như người ta không
biết được tí gì. Một bút tích ở Lopbuyri bằng tiến cổ Mon375
làm cho ta nghĩ rằng,
vốn dân cư của nó là người Mon376
. Ở nơi khác, một truyền thuyết có đôi chút tính
lịch sử đã quy cho một đạo dân di cư từ Lavo (Lopbuyri) đến do nữ hoàng
Chammadevi lãnh đạo, đã lập nên thành phố Haripunjaya (Lampun). Ở đó, người ta
sẽ thấy vào thế kỉ VII, một triều đại được biết tới nhiều bút tích bằng tiếng Mon377
.
5. Vương quốc của người Piu ở Srikshetra
Ở phía tây Dvaravati, Huyền Trang378
và Nghĩa Tĩnh379
xếp vương quốc
Chelitchatalo, tức là Srikshetra là tên của Prômơ (tiếng Mianma là
370
“Hồi kí”, bản dịch của X. Giuyliêng, II, tr. 83; H. Luýtxơ, “Vùng lân cận Mianma”, báo hội nghiên cứu
Mianma, XIV, 1924, tr. 138-182. 371
Tchounan Lopoti và Tolopati (Yi Tsing), P Penlio, “Hai cuộc hành trình”, BEFEO, IV, tr. 223, 232, 360,
số.1 372
Đami Nivát, “Thành Thaoaraoadi Xpi Ayudia”, báo hội Xiêm, XXXI, 1939, tr. 47. 373
H.G. Quaritsơ Uênlétx, “Vài ghi chép về vương quốc Dvaravati”, báo hội Đại ấn Độ, V, 1938, tr. 24-30;
“Nhìn quanh Ăngko”, tr. 132-146. 374
L. dơ. Lagiongkierơ, “Phạm vi khảo cổ ở Xiêm”, báo cáo khảo cổ Đông Dương, 1909, tr. 200-237; “Lược
luận về mục lục khảo cổ ở Xiêm”, 1912, tr. 100-127; G. Xôđéta, “Bàn thờ Phật ở Xiêm”, BEFEO, I, tr. 152,
số 1; “Những sưu tập khảo cổ của Bảo tàng Quốc gia ở Băngkok”, nghệ thuật á châu, XII, tr. 20-24; “Sưu tập
bút tích ở Xiêm”, XX, tr. 1-4. P. Duypong, “Bảo tàng Guyme – mục lục sưu tập Đương Dương phía tây”,
BEFEO, XLI, tr. 233-254; “Truyền đạo ở Xiêm”, BEFEO, XXXVII, tr. 686-693; R. S. Lơmay, “Nghệ thuật
Phật giáo ở Xiêm”, Cambrigd, báo đại học, 1938, tr. 21-34. 375
G. Xôđéta, BEFEO, XXV, TR. 186; “Sưu tập các bút tích ở Xiêm”, II, tr. 17-19; R. Hanliday, “Bút tích
Mon ở Xiêm”, BEFEO, XXX, tr. 82-85. 376
P. Pellio, “Hai cuộc hành trình”, BEFEO, IV, tr. 231, đã cảm thấy điều đó dựa vào việc nghiên cứu các bộ
xương đã khai quật ở Pongtuk; H.G. Quaritsơ Uênlétx cho là đã có những người Thái ở đây vào thời cổ xưa
(Man, 06-1937, tr. 113); nhưng thuyết đó bị E. Xayden Faden đánh đổ, báo hội Xiêm, XXX, 1938, tr. 245. 377
G. Xôđéta, BEFEO, XXV, TR. 186; “Sưu tập các bút tích ở Xiêm”, II, tr. 17-19; R. Hanliday, “Bút tích
Mon ở Xiêm”, BEFEO, XXX, tr. 82-85. 378
“Hồi kí”, II, tr. 82. 379
“Một kỉ lục”, Bản dịch của Tacacura, tr. 9.
80
Thayekhettapa)380
. Ở chương trên, người ta đã thấy địa điểm của cố đô người Piu
tiêu biểu là danh thắng khảo cổ Moja ở gần Prômơ381
. Thành phố có một bức thành
gạch bao quanh. Các tượng Phật người ta tìm thấy ở đó đều thuộc phong cách
Gupta sau này. Cạnh tranh với đạo Phật Thravada được xác nhận ngay từ cuối thế kỉ
V qua các bút tích Pali, người ta thấy đến thế kỉ VII, nhất là trong các tác phẩm của
Nghĩa Tĩnh, những chứng cớ về sự tồn tại ở Srikshetra môn phái Hynayana của
Mulasaravartivadins bằng chữ Phạn, có thể là gốc từ Magadha382
Vùng lân cận Prômơ cũng cho những bình táng chứa gio người chết. Người
Piu thiêu người chết và giữ gio lại trong các bình bằng đất nung, nhưng với vua thì
bằng đá, các bình đều có ghi tên người chết383
. Những bình đã tìm được thuộc về
các vua đã trị vì từ cuối thế kỉ VII và đầu thế kỉ VIII sẽ được nói đến ở chương sau.
6. Những quốc gia ở bán đảo Malay (Thế kỉ VII)
Ở phía tây Dvaravati và đông nam Srikshetra, Huyền Trang đặt vị trí nước
Kamalanka384
“ở gần một cái vịnh lớn” có lẽ trùng với Lengkiachou của Nghĩa
Tĩnh, tức là Lankasuka385
bằng mọi cách ta phải tìm nó trên bán đảo Malay. Nhà
hành hương lón không cho một chi tiết nào về miền mà ông không tới thăm và
những tài liệu lịch sử mà người ta có thể rút ra từ các văn bản khác nhau thì lại tản
mạn.
Mãi đến đầu thế kỉ VII mới có những tài liệu mà Mã Đoan Lâm dùng trong
chương nói về Tchetou hay xứ Đất Đỏ đã nêu trong chương trên. Sau đây là một vài
đoạn trích, nó cho ta một quan niệm về nền văn minh của các tiểu quốc Ấn Độ ở
trên bán đảo trong thời đại đó386
:
“Họ vua xứ Tchetou là Kiutan387
và tên húy là Lifoutosi. Người ta không rõ
từ thời đại nào xuất hiện lịch sử của tổ tiên ông hoàng này. Người ta chỉ kể rằng,
cha ông đã bỏ ngôi để đi tu, đã trao cho ông vương quyền lúc ông 16 tuổi388
. Vua
Lifoutosi có 3 người vợ thì cả 3 đều là công chúa các nước láng going. Ông ở
Xengki (Sengtche), thành phố có 3 lần lũy, mỗi cửa cách nhau 100 bước. Trên mỗi
380
P. Pellio, “Hai cuộc hành trình”, BEFEO, IV, tr. 174-223; G.H. Luýtxơ, “Miền lân cận Mianma”, Báo hội
Mianma, XIV, 1924, tr. 160-161. 381
L. dơ Baylie, “Kiến trúc cổ ấn Độ ở Viễn Đông”, tr. 238, về những nơi khai quật ở Prômơ, xem mục lục
đặc sắc của G.H. Luýtxơ, Báo hội nghiên cứu Mianma, XXIX, 1939, tr. 278, số 19. 382
Nihar Ranjan Ray, “Phật giáo chữ Phạn ở Mianma”, Calcutta, 1936, tr. 19-30. 383
G.H. Luýtxơ, “Nước Piu cổ”, Báo hội nghiên cứu Mianma, XXVII, 1937, tr. 247. 384
“Hồi kí”, II, tr. 82. 385
P. Pellio, “Hai cuộc hành trình”, BEFEO, IV, tr. 406; G. Pherăng, “Malắcca, Malayu và Malayur”, III,
Báo á châu, số 7-8 năm 1918, tr. 134-145; S. Lêvi, “Tiền Arien và tiền Đôravidiêng ở ấn Độ”, Báo á châu, số
7-9 năm 1923, tr. 37. 386
“Người Phương nam”, bản dịch của Xanh Dnítx, tr. 467-479. 387
Gautama 388
Những tài liệu này có thể vào năm 609 là niên hiệu có 1 phái đoàn Trung Quốc đến nước này.
81
cửa có chăng một hàng chuông vàng có chạm trổ, và trên cửa, người ta vẽ hình các
Bồ tát và các vị Bất tử đang bay trên không trung… Các lâu đài trong cung chỉ có
một tầng. Các cửa đều trên cùng một đường và ngoảnh về phương bắc. Vua ra đó
thường mặc áo mặt trời mọc. Mũ của vua có đính hoa bằng vàng và nạm ngọc. Bốn
thiếu nữ đứng hầu ở bên, lính hộ vệ có khoảnh 100 người. Sau ngai vằng là một cái
khám lớn làm bằng 5 thứ gỗ thơm nạm vàng và bạc, ở trong khám có treo một cái
đĩa tỏa tia vàng theo hình ngọn lửa. Ở mỗi bên bục có đặt hai cái gương lớn bằng
kim khí, trước mỗi cái gương đặt một cái chậu bằng vàng, trước mỗi chậu là một cái
lư hương cũng bằng vàng. Dưới chân bục có một con bò bằng vàng nằmg dưới một
cái tán kèm thêm nhiều cái quật. Vài trăm Balamon ngồi thành hàng hai đối mặt
nhau ở bên phải và bên trái bục tham dự buổi chầu”.
“Các quan chức lớn chịu trọng trách điều khiển các việc của vương quốc,
gồm 1 tể tướng mang danh hiệu Xatokialo389
, 2 người mang danh hiệu Tonata390
và
3 người phụ chính mang danh hiệu Kialimikia391
. Việc trừng trị các vụ trọng tội
được đặc biệt ủy nhiệm cho 1 quan tòa mang danh hiệu Kialomodi392
. Cuối cùng,
mỗi thành phố được đặt dưới quyền 2 quan chính gọi là Nayakia393
và Poti394
”.
“Về đám cưới, trước hết người ta chọn ngày lành, 5 ngày trước hạn định,
người ta dùng để chơi bời, ăn uống. Đến ngày thứ 6, người cha cầm tay con gái đặt
vào tay con rể395
và ngày thứ 7 đám cưới hoàn thành. Hôn lễ xong, mọi người cáo
lui và đôi vợ chồng mới ra ở riêng, trừ phi người chồng còn bố, anh ta sống chung
với ông ấy”.
“Người nào đã mất bố thì mẹ và anh em họ đều cạo đầu và mặc quần áo
trắng. Họ dựng trên mặt nước một cái lều bằng tre trong chất gỗ vụn và xác chết
được đặt vào đấy. Họ dựng cờ, thắp hương, thổi tù và, đánh trống… trong lúc đó
lửa bén vào gỗ và thiêu hủy xác… Cuối cùng tất cả biến xuống nước. Tang lễ đó
không bao giờ thay đổi. Không có sự phận biệt giữa đám tang một quan chức lớn
với đám tang một người dân thường, chỉ trừ đối với vua, người ta tổ chức hỏa táng
bằng cách nào để lấy được gio, rồi họ để vào một cái bình vàng và đem đặt trong
một cái lăng396
”. 389
Xaduykara = làm việc thiện hoặc Xacdakara = người cộng tác. 390
Danyada hay Danyadatri = phân phối hạt. 391
Karmika = viên chức. 392
Quylapati = chủ gia đình, là danh hiệu xác nhận trong minh văn Cămpuchia để chỉ nhân vật cao cấp trong
tổ choc tôn giáo. 393
Nayaka = người hướng dẫn, được xác nhận trong một bút tích ở Lopbuyri (G. Xôđéta, “Sưu tập các bút
tích ở Xiêm”, II, tr. 14). 394
Pati = thủ tướng, còn được dùng trong chức vị Giava. 395
Lễ “cầm tay” (Panigơrahana) là lễ nghi chủ yếu trong đám cưới Ấn Độ. 396
Các lễ nghi đó đều “Ấn Độ” một cách nghiêm ngặt; về việc xây dựng lăng cho một ông vua, xem thêm G.
Xôđéta, “Việc sử dụng vào đám tang các công trình lớn ở Khơme”, BEFEO, XL, tr. 315-343.
82
7. Quần đảo Nam Dương: Holing ở Giava và Malaiu ở Xuymatra
Người ta đã biết những cuộc tranh luận về địa điểm nước Holotan mà đoàn
sứ thần cuối cùng sang Trung Quốc vào năm 452. Sự mơ hồ đó cũng tồn tại đối với
nước Holing mà 3 đoàn sứ thần đầu tiên sang Trung Quốc vào những năm 640, 648
và 666397
. Một lí luận gần đây định đặt nó ở bán đảo Malay, một vị trí hòa hợp khá
tốt với một số dữ kiện địa lí theo nguồn gốc Trung Quốc398
. Nhưng nó cũng nêu lên
những khó khăn nghiêm trọng, những khó khăn này sẽ không có nếu người ta chấp
nhận nước Holing ở giữa Giava399
. Những vết tích cổ của thời kì đó, buồn thay, lại
rất hiếm, và người ta chỉ có thể kể đến bút tích ở Tứcmatx, có thể vào giữa thế kỉ
VII400
, và có lẽ cả những công trình cổ nhất trên cao nguyên Điêng401
.
Nước Holing mà Tân Đường thư đã ca ngợi sự giàu có402
, hồi giữa thế kỉ VII
là một trung tâm văn hóa Phật giáo. Đó là đất nước quê hương của Nanabrakadra,
người đã lãnh đạo biên dịch sang tiếng Trung Quốc những văn bản Phạn Tiểu
thừa403
. Người ta đồng ý với nhau, coi tên Holing tương ứng với Kalinga và người
ta sẵn lòng dựng lên mối quan hệ giữa sự xuất hiện một quốc gia mang tên đó ở các
biển phía nam giữa thế kỉ VII với những cuộc chinh phục của các ông hoàng Ấn Độ
Pulakesin II và Harsha ở Kalinga trên bờ biển phía đông Ấn Độ vào cùng một thời
này404
. Những cuộc chinh phục đó giống như những cuộc chinh phục của người Ấn
Độ – Xittơ và Samadragupta trước kia, đã gây nên cuộc di cư về vùng ngoại Ấn, ở
đó “những ông hoàng bị đi đầy” đã lập ra ở Giava (hay trên bán đảo) một nước
Kalinga mới.
Gần cùng thời gian với đoàn sứ thần của Holing vào năm 640, Tân Đường
thư ghi đoàn sứ thần đầu tiên của nước Moloyeoun405
vào năm 644 – 645. Đó là
nước Malyau ở bờ biển phía đông Sumatra và tập trung ở vùng Giambi. Nhà hành
hương Nghĩa Tĩnh đã dừng chân ở đó năm 671406
. Trong hồi kí của ông, ông cho
biết giữa các năm 689 và 692, nước Malayu trở thành Chelifoche (Srivijaya)407
397
P. Pellio, “Hai cuộc hành trình”, BEFEO, IV, tr. 286. 398
F.L. Moen, “Cơriviginia, Iava và Cataha”, LXXVII, 1937, tr. 286. 399
P. Pellio, “Hai cuộc hành trình”, BEFEO, IV, tr. 265; trước đó cũng là lí luận của E. Savamơ, “Người
sùng đạo phi thường”, tr. 42, số 2. 400
H. Kecnơ, “Vespr Geschr”, VII, tr. 199-204; B.Ch. Salơva, “Sự bành trướng của nền văn hóa Ấn Độ -
Arien”, báo hội Bănggalơ, 1935, tr. 33-34; B.R. Sắttécgi, “Ấn Độ và Giava”, II, tr. 28. 401
N.F. Crom, “Ấn Độ - Giava - Gesch”, tr. 127. 402
W.P. Gơroennơven, “Ghi chép về quần đảo Malay”, Verh. Bat. Gen, XXXIX, 1880, tr. 13. 403
E. Savamơ, “Người sùng đạo phi thường”, tr. 60. 404
Putxanh, “Triều đại và lịch sử Ấn Độ”, tr. 80-82 và tr. 197. 405
P. Pellio, “Hai cuộc hành trình”, BEFEO, IV, tr. 324. 406
E. Savamơ, “Người sùng đạo phi thường”, tr. 116 -120. 407
P. Pellio, “Hai cuộc hành trình”, BEFEO, IV, tr. 342.
83
nước này có lẽ đã xuất hiện dưới cái tên sai là Kinlipiche trong một bản dựa vào các
dữ kiện có trước hành trình của Nghĩa Tĩnh408
.
Việc phát triển hàng hải, phần lớn nhờ các thương nhân Arap409
, những
chuyến hành hương Phật giáo và các cuộc trao đổi ngày càng nhiều các sứ thần giữa
Trung Quốc và các nước phía nam đã đem lại cho ta bằng chứng410
, đã trao cho
miền biển đông nam Sumatra một tầm quan trọng đặc biệt. ậ cùng một khoảng cách
so với Xongdơ và eo Malakca, hai cái lỗ hổng của hàng rào tự nhiên do Đông
Dương và quần đảo Nam Dương tạo thành, nó trở thành nơi cập bền thông lệ của
các tầu từ Trung Quốc đến nhờ gió mùa đông bắc. Sự sụp đổ vĩnh viễn của nước
Phù Nam vào đầu thế kỉ VII, là nước trong 5 thế kỉ có sức mạnh thống trị ở các biển
phía nam, đã để mặc cho sự phát triển của một quốc gia mới, nước này đã lợi dụng
những thuận lợi do việc nắm giữ các cửa sông và các hải cảng Sumatra để kiểm soát
việc buôn bán giứa Ấn Độ và Trung Quốc. Nhờ những thời cơ thuận lợi đó, vương
quốc Srivijaya đã phát triển nhanh tróng vào thế kỉ thứ VIII.
408
P. Pellio, “Hai cuộc hành trình”, BEFEO, IV, tr. 324 và số 5. 409
Họ đã có từ thế kỉ IV, một thương điếm ở Căngton (Hoócnen, hồi kí hội Bănggalơ, VII, 1920, tr. 199).
Người Trung Quốc gọi họ là Tache tương ứng với tên Tagica là tên gọi họ ở Ấn Độ. 410
G. Pherăng, “K‟ounlomen và các cuộc hàng hải xuyên đại dương cổ ở các biển phía nam”, báo á châu
1915, số 5-6, tr. 450-492 và số 7-8, tr. 5-68.
84
Chương VI:
Sự phát triển của nước Srivijaya; sự tấn công nước Cămpuchia
và sự xuất hiện triều Xailăngdra ở Giava
(Từ cuối thế kỉ VII đến đầu thế kỉ IX)
1. Thời kì đầu của vương quốc Srivijaya (Cuối thế kỉ VII).
2. Sự phận chia nước Cămpuchia: Lục Chân Lạp và Thủy Chân Lạp (Đầu
thế kỉ VIII).
3. Nước Dvaravati và Sriksktra (Thế kỉ VIII).
4. Giava, Xăngjaya (732) và những người Xailăngdra theo đạo Phật (Cuối
thế kỉ VIII).
5. Nước Cămpuchia: hai nước Chân Lạp (Nửa sau thế kỉ VIII).
6. Nước Chăm miền nam hay Hoàn Vương (Nửa sau thế kỉ VIII).
7. Nước Mianma: sự chinh phục của người Namtchao (Khoảng 760) và sự
suy tàn của Prômơ.
8. Sự bành trướng của Phật giáo Mahayana (Thế kỉ VIII).
1. Thời kì đầu của vương quốc Srivijaya (Cuối thế kỉ VII)
Khi nhà hành hương Nghĩa Tĩnh tiến hành cuộc du lịch đầu tiên vào năm 671
từ Trung Quốc sang Ấn Độ, sau 20 ngày rời Căngtông, nơi dừng chân đầu tiên của
ông là Foche. Ông ở đó 6 tháng để nghiên cứu ngữ phaps Phạn411
. Ông viết: “Trong
thành phố chiến lũy Foche, có hơn 1.000 tăng lữ và tâm lí luôn luôn hướng về việc
nghiên cứu và làm điều thiện. Họ thăm dò và nghiên cứu mọi vấn đề có thể được,
đúng như ở Madyadesa (Ấn Độ); những quy tắc và lễ nghi cũng y như nhau. Nếu
một tăng lữ Trung Quốc muốn đi phương tây để nghe và đọc (những văn bản Phật
411
E. Savamơ, “Người sùng đạo phi thường”, tr. 119.
85
giáo nguyên văn), tốt hơn hết là ông ta nên đến Foche trong 1 hoặc 2 năm để thực
hành một cách chu đáo mọi luật lệ ở đó rồi ông ta có thể về miền trung Ấn Độ”412
.
Từ Ấn Độ về (ông đã qua 10 năm ở trường Đại học Nalanda của Ấn Độ),
Nghĩa Tĩnh lưu trú tại Foche giữa các năm 685 và 689, trong 4 năm đó ông sao lại
và dịch ra chữ Trung Quốc những văn bản Phật giáo chữ Phạn. Năm 689, sau một
chuyến du lịch ngắn ngủi ở Căngtong, ở đó ông triệu thêm được 4 người cộng tác,
ông trở lại Foche và viết cuốn “Hồi kí”; “Về những nhà sùng đạo phi thường đi tìm
luật trong các nước phương Tây” và “Về nội luật, từ các biển phương nam gửi tới”.
Năm 692, ông gửi bản thảo về Trung Quốc, và ông cũng trở lại Trung Quốc
vào năm 695. Trải qua những ngày lưu trú lần cuối đó, ông đã ghi trong tác phẩm
thứ hai rằng, nước Moloyou “nay đã đổi thành nước Chelifoche”413
là nơi ông có
ghé thăm vào năm 671 và đã ở đó 2 tháng.
Một nhóm bút tích bằng tiếng Malay cổ414
, 3 cái tìm thấy ở Sumatra (2 cái ở
Palembang và 1 cái ở Carăng Bahi trên thượng lưu sông Batang Huyri), và cái thứ
tư ở Kota Kapur trên đảo Băngka, xác nhận rằng, năm 683 – 686 ở Palembang tồn
tại một nước theo đạo Phật, nước này đã đi chinh phục miền đất sâu của Giămbi và
đảo Băngka, và chuẩn bị lao vào cuộc viễn chinh chống Giava. Vương quốc này
mang tên Srivijaya, nó hoàn toàn tương ứng với (Cheli) Foche của Nghĩa Tĩnh415
.
Bút tích cổ nhất trong hai cái ở Palembang, khắc trên hòn đá cuội lớn tìm
thấy ở Kedukan Bukit, ở chân đồi Sguntang, cho ta biết ngày 13 tháng 4 năm
683416
, một ông vua không nêu tên đã xuống tàu đi tìm sức mạnh huyền bí
(siddhahayatra) và ngày mồng 8 tháng 5, ông rời cửa sông với một đội quân 2 vạn
người; sau đó ông đã đem lại cho nước Srivijaya thắng lợi, sức mạnh và giàu có.
Văn bản này đã làm chảy nhiều mực (để tranh luận - ND). Người ta muốn qua đó
thấy một hành động ghi lại sự thành lập kinh đô Srivijaya417
vào năm 683 do một
người từ ngoài đến, có thể từ bán đảo Malay418
, và người ta cũng tưởng có thể đọc
412
J. Tacacuxuy, “Một kỉ lục của Nghĩa Tĩnh”, tr. XXXIV. 413
J. Tacacuxuy, “Một kỉ lục của Nghĩa Tĩnh”, tr. 10. 414
G. Xôđéta, “Bút tích Malay ở Srivijaya”, BEFEO, XXX, tr. 29-80; G. Pherăng, “Bốn bản minh văn Malay
chữ Phạn ở Sumatra và Băngka”, báo á châu, số 10-12, 1932, tr. 271. 415
Việc đặt địa điểm Cheli Foche ở Palembang được S. Bin đề nghị ngay từ 1886 trong “Vài nhận xét về địa
điểm Cheli Foche” trong “Sách về các kì quan ở Ấn Độ”, Nxb Vander Lith và M. Devic, Leyde, 1883 –
1886, tr. 251-253. Gần đây H.G. Quaritsơ Uênlétx thử xếp nó ở Chaiya trên vịnh Băngdon trong phần đất
Xiêm trên bán đảo Malay (Nghệ thuật và văn học Ấn Độ, IX, 1935, tr. 1-31). Nhưng xem G. Xôđéta, “Về
một lí thuyết mới về Srivijaya”, báo hội hoàng gia Miến, XIV, 1936, tr. 1-9. 416
Hai niên hiệu này do W.E. Van Wijk trình ra (xem W.J. Wenlan, “Srivijaya”, Tijd. Aurdrijksk. Gen, LI,
1934, tr. 363). 417
Ph. S. Vanrongken, “Ghi chép mở đầu về hai bút tích malay cổ ở Palembang”, Arta Orientalia, II, 1924, tr.
21; N.J. Crom, “Ấn Độ – Giava - Gesch”, tr. 121. 418
F.L. Moen, “Srivijaya, Yava và Cataha”, Tijd. Bat. Gen, LXXVII, 1937, tr. 333-335.
86
trên hòn đá đó rằng địa điểm nguyên sơ của Malayu là ở Palembang419
đã mang tên
Srivijaya sau cuộc viễn chinh đó. Thế là chồng chất nhiều giả thuyết mỏng manh
trên một hòn đá, nó chỉ phân biệt với các hòn khác tìm thấy ở ngay Palembang420
và
ở Băngka421
nhờ nhân cách của tác giả của bút tích và hoàn cảnh mà nó đã được
khắc nên. Tất cả những điều người ta có thể nói là hòn đá sỏi đó giống như những
hòn đồng loại ngắn ngủn hơn, có mục đích kỉ niệm một chuyến hành hương đến
một nơi thiêng liêng, nơi đó cs thế lực huyền bí mà người Arap gọi là Baraka422
.
Năm 683, nhà vua cùng đạo quân đi tìm thành tích và thắng lợi cho nước Srivijaya
ở nơi thiêng liêng này, có thể đến đó trước một mưu đồ quân sự mà ông muốn bảo
đảm thành công.
Ông vua nổi danh đó hầu như là Jayanaxa (hay Jayanaga) mà năm sau đã lập
ra ở Talang Turo, phía tây Palembang, cách Sguntang 5km, một cái vườn xây công
cộng, và nhân dịp đó, cho khắc một bản bày tỏ lòng mong ước rằng công trạng của
sự thành lập nên vườn hoa đó và các công việc tốt khác nữa là của chung của mọi
người và mọi người đáng được lên thiên khải.
Còn về hai bút tích kia, một cái năm 686, người ta có thể hỏi xem những
cuộc chinh phục nó ám chỉ có phải là kết quả của mưu đồ đã được chuẩn bị trước
bằng chuyến hành hương do hòn sỏi ở Kedukan Bukit kỉ niệm không? Hai bản đó
có những phần giống nhau, nói lên những lời đe dọa và nguyền rủa những người
dân ở thượng lưu sông Batang Huyri (con sông Giămbi mà châu thổ đã tạo nên lãnh
thổ nước Malayu) và ở đảo Băngka, đã có hành động không chịu khuất phục đối với
đức vua và các quan choc được vua cử đến cai trị ở vùng đó. Bút tích ở Băngka kết
thúc bằng lời ghi ngày khởi hành năm 686 của một cuộc viễn chinh chống một nơi
không thuần phục ở Giava423
. Có lẽ là vương quốc Taruyura424
, ở phía bên kia eo
đất Xôngdơ mà người ta không nói tới sau lần sứ thần đi vào năm 666 – 669425
.
Tuy rằng vua Jayanaxa chỉ được nêu tên ở 1 trong 4 bút tích, nhnưg có lẽ
đúng sự thực là cả 4 bút tích đều xuất phát từ ông ta: cuộc hành hương năm 683
nhằm đạt thắng lợi trong các mưu đồ quân sự, việc thành lập năm 684 một công
419
N.J. Crom, “De heiligdommen van Palembang”, Med. Hon. Akad. Welensch. Afa. Letterk. N.A.I, số 7,
1938, tr. 25-26; xem K.A. Nila Căngta Xátxtơri, “Srivijaya”, BEFEO, XL, tr. 249. 420
F. M. Schuitger, “Ondheidkemdige vondsten in Palembang”, Bijlage A; xem N.J. Crom, “De
heiligdommen van Palembang”, tr. 8 421
B.Ch. Salơva, “Sự bành trướng của nền văn hóa Ấn Độ – Arien”, báo hội á châu Băngalơ, 7, 1935, tr. 31. 422
BEFEO, XXXIII, tr. 1003-1004; K.A. Nila Căngta Xátxtơri, “Xitdayatra”, báo hội Đại Ấn Độ, IV, 1937,
tr. 128-136. 423
Một lần nữa biểu thị sự ghê tởm là coi Giava trong sự thụ lĩnh đầu tiên đương nhiên trong ?; P.V.
Vanxtanh Canlenfena đã đề nghị coi chữ đó không phải là một danh từ riêng mà là một tính từ nghĩa là “ở
ngoài”: đây là một cuộc viễn chinh “ở nước ngoài”, BEFEO, XXX, tr. 656. 424
F.L. Moen, “Srivijaya, Yava và Cataha”, Tijd. Bat. Gen, LXXVII, 1937, tr. 363. 425
P. Pellio, “Hai cuộc hành trình”, BEFEO, IV, tr. 284.
87
trình lợi ích công cộng, việc khẳng định năm 686 quyền lực của ông ở đông bắc và
tây nam vương quốc và việc cử quân viễn chinh sang Giava, đánh dấu những chặng
đường trong nghề làm vua của một người mà người ta định xác nhận là kẻ chinh
phục nước Malayu. Có lẽ cũng chính ông đã cử sứ thần sang Trung Quốc năm
695426
, là đoàn đầu tiên người ta được biết được niên hiệu. Trước đó người ta chỉ có
những lời ghi mơ hồ về các đoàn sứ thần bắt đầu từ 670 – 673427
; sau đoàn đầu tiên
đó, người ta biết đến các đoàn năm 702, 716, 724 do vua Cheli Tolopamo (Sri
Indravarman) cử, và các năm 728, 742 do vua Lieoutengweikong428
cử đi.
Sự bành trướng của Srvijaya từ tây bắc về Malakka và từ đông nam về phí eo
Xôngdơ là một sự chỉ dẫn rất rõ ràng về ý hướng nhằm vào 2 lối đi lớn giữa Ấn Độ
Dương và biển Trung Hoa, nếu chiếm được 2 nơi ấy sẽ đảm baotrong nhiều thế kỉ
quyền bá chủ về thương mại với ngoại Ấn.
Bút tích năm 684, một bằng chứng đầu tiên có niên hiệu từ lúc có Phật giáo
Đại thừa ở ngoại Ấn, xác nhận những lời của Nghĩa Tĩnh nói về tầm quan trọng của
Srivijaya như một trung tâm đạo Phật429
, và về các loại trường Phật giáo ở khu vực
biển phía nam. Nó khẳng định rằng, Muylasarvastivada, một trong những môn phái
lớn nhất của phái Tiểu thừa chữ Phạn430
, gần như nói chung được tiếp nhận ở đó,
nhưng nó lại ghi nhận có những tín đồ công khai của phái Đại thừa ở Malayu431
, và
nhận xét sự tồn tại ở Srivijaya tác phẩm Yogaharyabhumisastra432
, một trong những
công trình chủ yếu của Asanga, người sáng lập ra trường thần học Yogacharya hay
Vijnanavadin433
.
Vả lại, lời ước nguyện (pranadhana) của vua Jayanaxa cầu choc cho thần dân
được hưởng một loạt hạnh phúc mà những hạnh phúc đầu tiên hoàn toàn thuộc về
vật chất, nhưng được dâng dần lên diện tinh thần và diện thần bí cho tới thiên khải,
lời ước nguyện đó tạo cho L. dơ la Valeputxanh “có cảm tưởng như tính cả đền trên
kế hoạch của Sarvartivadarmahaya434
”. Người ta cũng có thể nghĩ rằng, đạo lí được
phả ánh trong lời nguyện đó có thể đã nhuốm màu đạo phù chú435
.
426
P. Pellio, “Hai cuộc hành trình”, BEFEO, IV, tr. 334. 427
P. Pellio, “Hai cuộc hành trình”, BEFEO, IV, tr. 334. 428
P. Pellio, “Hai cuộc hành trình”, BEFEO, IV, tr. 335 429
Một trong những người thầy của Nghĩa Tĩnh là Xakiakiếcti đã sống ở đó (J. Tacacuxuy, “Một kỉ lục của
Nghĩa Tĩnh”, LVIII, LIX, tr. 184). Về những nhà hành hương khác ở đó hay ghé vào đó, xem E. Savamơ,
“Người sùng đạo phi thường”, tr. 63-64, 126, 144, 159. 430
J. Tacacuxuy, “Một kỉ lục của Nghĩa Tĩnh”, LVIII, LIX, tr. 10. 431
J. Tacacuxuy, “Một kỉ lục của Nghĩa Tĩnh”, LVIII, LIX, tr. 11. 432
E. Savamơ, “Người sùng đạo phi thường”, tr. 76-77. 433
R. Gơrutse, “Triết học Ấn Độ”, II, tr. 7-149. 434
BEFEO, XXX, tr. 656. 435
G. Xôđéta, “Bút tích Malay ở Srivijaya”, BEFEO, XXX, tr. 55-67, sự có mặt của đạo ở Sumatra ngay cuối
thế kỉ VII không có gì đáng ngạc nhiên. Sự thâm nhập của nó có thể từ thời Darmapali ở Căngsi, cùng thời
với nhà hành hương Huyền Trang, nếu quả thực người kế tục tinh thần của nhà lí luận học (logic học)
88
Công trình khảo cổ ở vùng Palembang436
tuy rằng khá nghèo nàn nhất là về
vết tích kiến trúc, đã xác nhận bằng chứng của Nghĩa Tĩnh và những dữ kiện của
minh văn học. Đồ chạm khắc tìm được đều thuộc về Phật giáo, ưu thế rất rõ ràng
của những tượng Phật Bodidatva, nhưng nói chung nó đều có sau thời kì nghiên cứu
ở đây.
Sau năm 742, niên hiệu của đoàn sứ thần cuối cùng của Cheli Foche ghi
trong văn bản Trung Quốc437
, những nguồn tài liệu của chúng ta đều câm lặng cho
đến năm 775: đến năm này, một bút tích Phạn khắc trên mặt trước của tấm bia ở
Vatsmamura438
đã phát hiện ra rằng, vương quốc Xumatra đã đặt chân lên bán đảo
Malay ở Ligo, ở đó vua nước Srivijaya đã cho xây một ngôi chùa thờ Phật và các
Bodidatva (Bồ tát ?), Patmapani, Varapani, và các công trình khác. Tóm lại, từ năm
732, điều bổ ích tập trung ở miền trung Giava; nhưng trước khi thuật lại những gì đã
xảy ra, cần phải nói một chút về những biến cố xảy ra trên bán đảo Đông Dương từ
cuối thế kỉ VII, đến giữa thế kỉ VIII.
2. Sự phận chia nước Cămpuchia: Lục Chân Lạp và Thủy Chân Lạp
(Đầu thế kỉ VIII)
Ở Cămpuchia, Đường thư439
cho ta biết, sau năm 706, nước đó chia làm hai
“nửa phía bắc đầy núi và thung lũng gọi là Lục Chân Lạp, nửa phía nam có miền
biển và đầy ao hồ gọi là Thủy Chân Lạp”440
.
Về Lục Chân lạp: người ta chỉ biết vào nửa đầu thế kỉ VIII, có 1 đoàn sứ thần
vào năm 717441
và 1 cuộc viễn chinh sang trung kì vào năm 722 để giúp 1 thủ lĩnh
bản xứ nổi dậy chống lại Trung Quốc442
.
Dinhaga, một học trò của Axănga, sau 30 năm dạy ở đại học Nalăngda, đã từ bỏ và rời đến Xumácvatvipa
(Sumatra hay Malay). (A. Siepnon, “Taranathas geschichte des Buddhismus in Indien”, 1869, tr. 160). Bằng
chứng đó làm Fak. Botsơ nghi ngờ (Tijd. Bat. Gen, LXV, 1925, tr. 559, số 80) ngay nếu năm 684, phù chú
giáo chưa chạm đến Srvijaya. 30 năm sau, nó phải tiếp nhận cuộc viếng thăm của Varabodi, người Ấn Độ,
người đã du nhập đạo đó sang Trung Quốc, ông ta đã dừng chân ở Srivijaya năm 717 (P. Pellio, “Hai cuộc
hành trình”, BEFEO, IV, tr. 336). 436
N.J. Cơrôm, “Đồ cổ ở Palembang”, Niên báo khảo cổ thư mục ấn Độ, 1931, tr. 29-33; F.M. Sơnítgơ,
“Khảo cổ học ở Ấn Độ - Xuymatơra”, Leidơ, 1937; Dvaperasat Gotser, “Nghệ thuật ở Srivijaya”, báo hội Đại
ấn Độ, i, 1934, tr. 31-38; “Nguồn tài liệu về nghệ thuật ở Srivijaya”, nt, IV, tr. 50-56; “Hai ảnh Bodidatva từ
Seilan và Srivijaya”, nt, IV, 1937, tr. 125-127; W.F. Stuttéchem, “Ghi chép về những nghệ thuật và văn học
ấn Độ”, XI, 1937, tr. 105-109. 437
P. Pellio, “Hai cuộc hành trình”, BEFEO, IV, tr. 335. 438
G. Xôđéta, “Vương quốc Srivijaya”, BEFEO, XVIII, 5, tr. 29-31; “Sưu tập bút tích ở Xiêm”, II, số XXIII,
tr. 35-39; “Nguồn gốc người Xailăngdơra ở Indonedia”, báo Đại Ấn Độ, I, 1934, tr, 64-68; B.R. Sắttécgi,
“Ấn Độ và Giava”, II, tr. 40-44; B.Ch. Salơva, “Sự bành trướng của nền văn hóa Ấn Độ – Arien”, báo hội á
châu Băngalơ, I, 1935, tr. 20-27; Nicacăngta Xátxtơri, “Srvijaya”, BEFEO, XV, tr. 252-254, có lẽ pho tượng
nhỏ Loketvara có trong thời này, được tìm thấy trong một mỏ thiếc vùng Pêrắc có liên hệ không cãi được với
nghệ thuật Srivijaya (“Niên báo thư mục khảo cổ Ấn Độ”, XII, 1937, tr. 41). 439
P. Pellio, “Hai cuộc hành trình”, BEFEO, IV, tr. 211. 440
Mã Đoan Lâm, “Người phương Nam”, bản dịch của Hekvei dơ Saintdơnit, tr. 483. 441
P. Pellio, “Hai cuộc hành trình”, BEFEO, IV, tr. 212. 442
G. Maspéro, “Biên giới Trung Kì và Cămpuchia thế kỉ VIII đến thế kỉ XIV”, BEFEO, XVIII, 3, tr. 29.
89
Về thủy Chân Lạp: hình như nó cũng bị chia thành nhiều công quốc. Công
quốc Aninditapura ở phía nam có thủ lĩnh là Baladitya nào đó, ở một niên hiệu
không được xác định rõ, có lẽ ông này đã lấy tên mình đặt cho tỉnh Baladityapura
mà người Trung Quốc gọi là Polotipo như là kinh đô thực sự của nước Thủy Chân
Lạp443
. Baladitya tự xưng là dòng dõi của nhà Balamon Condinia và Nagi Xoma, và
sau này cũng được các ông vua Ăngko xưng là ông tổ, qua đó mà họ gắn được với
cặp thần trên444
: vậy thì họ phải là dòng dõi hoặc là các vua nước Phù Nam, hoặc là
triều đại Bavavarman I. Nhìn sự giống nhau giữa cái tên, người ta có thể giả thiết là
giữa các người kế vị đó, có một ông Nripaditya nào đó đã để lại ở phía tây Nam Kì
một bút tích Phạn không đề ngày tháng445
, nhưng có thể ở vào khoảng thế kỉ VIII,
nghĩa là thời kì đầu của cuộc chia cắt. Một quốc gia khác có trung tâm ở
Sambhupura, danh thắng được giới thiệu qua nhóm di vật khảo cổ ở Sămbo trên
sông Mekong, miền thượng Kratie446
. Nếu nước đó bao gồm miền bắc Biển Hồ,
năm 713 nó do một nữ hoàng trị vì có thể là vợ góa vua Jayavarman I, tên là
Jayadevi. Về bà, người ta có một bút tích tìm thấy ở Ăngko447
ghi những vật bà tặng
cho đền thời Shiva Tripurantaka do con gái vua Jayavarman I lập nên, cô này lấy
một người Balamon theo đạo Shiva tên là Sakrasvamiu sinh ở Ấn Độ.
Cùng thời đó, một ông hoàng xứ Ananhdiyapura tên là Pushkaraksha hay
Rutskaratxa trở thành vua nước Sambuypura448
. Năm 716, ông cho khắc một bút
tích ở vùng Sămbo449
. Người ta giả thiết rằng, ông nắm được vương quyền “nhờ kết
hôn”450
. Thật là táo bạo nếu khẳng định rằng công chúa mà ông ta lấy, nếu có công
chúa đó lại là bà Jayadevi nói trên, đó là điều có thể xảy ra. Cũng có thể xảy ra việc
Pushkaraksha, sau khi chết mang tên là Indraloka, được ghi trong một bút tích ở
Sămbo, như là tên một người cụ thể một bà hoàng trị vì năm 803451
. Tiếp đó là đêm
tối mịt mù cho đến giữa thế kỉ.
3. Nước Dvaravati và Sriksktra (Thế kỉ VIII)
443
G. Xôđéta, “Về nước Thủy Chân Lạp”, BEFEO, XXXVI, tr. 8-11. 444
BEFEO, XXXIII, tr, 137-138; XXXVI, tr. 11; G. Xôđéta, “Bút tích ở Cămpuchia”, I, tr. 74. 445
“Bút tích của Pnong Bate”, BEFEO, XXXVI, tr. 7. 446
E. Aymôniê, “Nước Cămpuchia”, I, tr. 299-310; A. Lơclerơ, “Một chiến dich khảo cổ ở Cămpuchia”,
BEFEO, IV, tr. 737-749; H. Parmentier, “Nghệ thuật nguyên thủy Khơme”, I, tr. 213. 447
ở phía tây xứ Barei, BEFEO, XXXIX, tr. 341. 448
Báctơ và Bécghenho, “Bút tích Phạn”, tr. 369, nếu có một chút liên quan nào giữa tên Sambuypura với tên
vua Sambuyvarman, ông này đã để lại ở Tháp Mười một bút tích liên quan đến việc thành lập ngôi đền ở
Pushkaraksha, nó có thể là một ngẫu tượng Visnu có liên quan với Pushkaraksha năm 716, phải thừa nhận
rằng tỉnh Sămbuypura mang tên đó sau triều vua Pushkaraksha mà người kế vị là Sămbuyvarman. Tất cả
những điều này chủ yếu vẫn là giả thiết, BEFEO, XXXVI, tr. 9-10. 449
L. Finot, “Bút tích của Prêat Thêat Cơvan Piar”, BEFEO, IV, tr. 675. 450
Báctơ và Bécghenho, “Bút tích Phạn”, tr. 356. 451
Indraloka cũng được ghi trong bia ở Bacông (G. Xôđéta, “Bút tích ở Cămpuchia”, I, tr 35).
90
Người ta không có chút tài liệu rõ ràng nào về Dvaravati thế kỉ VIII. Điều
người ta có thể nói được là vài đồ chạm khắc mà người ta đã gán cho nước đó một
cách đúng hoặc sai, những đồ chạm khắc đó có thể ở cùng thời kì này452
.
Ở Promo các truyền thuyết bằng tiếng Piu khắc trên những cái bình di hài
vua chúa cho ta biết tên tuổi 3 ông vua với những niên hiệu biểu thị một thời kì453
.
Nếu người ta thừa nhận rằng, thời kì đó là năm 638, nó có thể có gốc từ Mianma và
sau đó lan đến người Thái và sang Cămpuchia. Người ta có những niên hiệu sau:
673………...........
688, vua Saryavikrama mất, thọ 64 tuổi.
695, vua Haryvikrama mất, thọ 41 tuổi.
718, vua Sihavikrama mất, thọ 44 tuổi…..
Ngoài ra, người ta còn biết, với những niên hiệu không rõ ràng, tên các vua
Prabhruvarman và Jayachandravarman, mà mới nhìn âm cuối là “varman”, người ta
có thể cho rằng, nó cùng thuộc một triều đại khác với triều dại các vua
“vikrama”454
. Nhưng một bút tích Phạn khắc trên bệ một pho tượng Phật455
cho ta
biết Jayachandravarman chính là anh cả của Haryvikrama, và để chấm rứt sự tranh
chấp giữa hai an hem, ông thầy tinh thần của họ cho xây một tỉnh sinh đôi cho hai
người ở cách biệt nhau ra456
.
Cũng trong thời kì này, người ta quy cho việc xây dựng các công trình Phật
giáo ở Prômơ mà phế tích mang tên Bobogii, Payama, Payagi. Đạo Phật Thravadar
được các mẫu chi tiết bằng tiếng Pali ghi ở trên xác nhận trước thế kỉ VII, nếu
không bị choán mất thì cũng bị đẩy xuồng thứ yếu bởi một trường phái thi tiết Phạn,
có lẽ là trường phái Muylaxácvativada mà người ta thấy Nghĩa Tĩnh khẳng định ưu
thế của nó ở vùng ngoại Ấn457
. Nhưng quá về phía bắc, ở Pagan, môn phái
Mahayana hình như đã cắm rễ một cách vững chắc bằng cách mang dáng đạo phù
chú dưới ảnh hưởng của Băngalơ.
4. Giava, Xăngjaya (732) và những người Xailăngdra theo đạo Phật
(Cuối thế kỉ VIII)
Giava là nước mà bản bút tích Tukmas là những bút tích không có niên đại
chắc chắn vàcó giá trị lịch sử rất ít ỏi, đã để riêng ra, nước đó không cung cấp
452
P. Duypong, “Visnu đội mũ ở Tây Đông Dương”, BEFEO, XLI, tr. 233-254. 453
C.O. Brátđen, “Bút tích người Piu”, Minh văn Đông Dương, XII, tr. 127-132; báo hội nghiên cứu
Mianma, VII, 1917, tr. 37-44; L. Finot, BEFEO, XV, 2, tr. 132-134. 454
C. Duyroaden lơ, “Khảo cổ Ấn Độ”, 1926 - 1927, tr. 176, số 2. 455
C. Duyroaden lơ, “Khảo cổ Ấn Độ”, 1927 - 1928, tr. 128, 145. 456
Nihar Ranjan Ray, “Phật giáo chữ Phạn ở Mianma”, Calcutta, 1936, tr. 19-30. 457
Nihar Ranjan Ray, “Phật giáo chữ Phạn ở Mianma”, Calcutta, 1936, tr. 19-30.
91
những tài liệu minh văn kể từ khi các bút tích của Purnavarman từ phương tây tới
và vào giữa thế kỉ thứ V, đã trở lại sân khấu với một bút tích Phạn năm 732 tìm thấy
ở vùng giữa đảo trong các phế tích của ngôi đền Shiva ở Changan, trên đồi Wurker
ở đông nam Borobrudur458
, tác giả là Săngjaya con hoặc cháu (con cô con cậu)459
của Sunna hay Sămaha tên đó hình như là tên bản xứ đã Phạn hóa nó thuật lại sự
thiết lập thờ dương vật ở đảo Yana “giàu về hạt và mỏ vàng”, ở hạt Kunjarakunja.
Tuy rằng Giava không sản xuất vàng, bản liên lạc460
văn ngăn cản việc đi tìm
đảo Yana ở nơi khác. Tuy nhiên, người ta đã đề nghị đồng nhất Yana và bán đảo
Malay, và tưởng tượng ra nhờ các nguồn gốc Ấn Độ của Xăngayaja, triều của ông
trên bán đảo, chuyến đi chốn của ông sang Giava ở đó ông trở thành chư hầu của
triều đại Xailăngdra. Triều này bị Srivijaya đuổi ra khỏi Palembang tất cả là một
cuốn tiểu thuyết461
và một bàu phê bình đã chỉ ra tính chất tưởng tượng cao độ462
.
Còn về Cunjaracunja, cách đọc sai văn bản đã đi tới giả thiết rằng đó là một
địa điểm xa lạ, ở đó các linga được đem tới, và từ cách giải thích sai lầm đó người
ta đã chất đống các giả thiết có liên quan đến mối quan hệ giữa Giava và xứ Păngdia
ở nam Ấn Độ463
: quả vậy ở miền bên giới Travankore và Tianervelly có một địa
phương mang tên đó, ở đó rõ ràng có ngôi đền thờ nhà thông thái Agdatura, người
ta đã Ấn Độ hóa miền nam Ấn Độ rất được kính trọng ở Giava dưới dạng Bhatara
Guru, rậm râu, bong phệ. Nhưng việc sửa lại cách đọc thực sự464
đã cho phép chứng
minh rằng Cunjaracunja là tên một hạt, ở đó Xăngjaya đã cho xây dựng đền thờ
ông, nghĩa là tất cả hoặc một phần của đồng bằng Kơdu, điều đó không ngăn cản
việc đối chiếu tên hạt ở Giava với một cái tên như vậy ở phía nam Ấn Độ.
Một văn bản muộn màng465
quy cho Xăngjaya những cuộc chinh phục kì lạ ở
Bali, Xumatrra, Cămpuchia và sang cả Trung Quốc. Một bút tích năm 907, giới
thiệu Xăngjaya, gợi lên nhiều sự tin cậy hơn466
, giới thiệu Xăngjaya như một ông
hoàng ở Mataram (phần miền nam Trung Giava) và như ông vua đầu tiên cả hàng
loạt vua mà người thứ hai Maharaja Panangkaran lên ngôi năm 778, đã được một
bút tích của Chandi Kalaran đánh giá là “niềm vinh dự của triều đại Xailăngdra”
458
H. Kecnơ, “Vespr Geschr”, VII, tr. 115-128; R.R. Satécghi, “Ấn Độ và Giava”, II, tr. 29-34. 459
B.Ch. Salơva, “Sự bành trướng của nền văn hóa Ấn Độ- Arien”, báo hội á châu Băngalơ, I, 1935, tr. 37. 460
Liên lạc văn (Contexte) = bản văn dùng để dẫn giải một đoạn văn chính (N.D). 461
J.L. Moen, “Srivijaya, Yava và Cataha”, Tijd. Bat. Gen, LXXVII, 1937, tr. 426-435. 462
K.A. Nila Căngta Xátxtơri, “Cataha”, báo hội Đại Ấn Độ, IV, 1938, tr. 128-146. 463
K.A. Nila Căngta Xátxtơri, “Nguồn gốc người Xailăngtra”, Tijd. Bat. Gen, LXXV, 1935, tr. 611;
“Agatxtia”, Tijd. Bat. Gen, LXXV, 1936, tr. 500-502. 464
G.F. Stúttéchem, “Ghi chép về sự liên hệ về văn hóa giữa nam Ấn Độ và Giava”, Tijd. Bat. Gen, LXXIX,
1939, tr. 73-84. 465
R.Ng. Poécbátgiaraca, “De Tjarita Parahijangan”, Tijd. Bat. Gen, LIX, 1920, tr. 403-416. 466
W.F. Sutttéchem, “En belangrijke oorkonde nit de kedoe”, Tijd. Bat. Gen, LXVII, 1927, tr. 172-215.
92
Tên Xailăngdra, “vua miền núi” là một chữ tương ứng với (Shiva) Girisa và
có lẽ phiên ấm từ một chữ phỏng dịch của Ấn Độ về các tín ngưỡng Indonedieng,
tín ngưỡng đó đã đặt nơi ở của các thần trên núi467
. Một tác giả468
, tưởng rằng ông
đã chỉ ra nguồn gốc Ấn Độ của các người mới tới đó mà ông coi như họ hàng với
các vua Sailodbhava ở Calinga. Nhưng người ta đã đưa ra nhiều lập luận để bác bỏ
ý kiến trên về vấn đề này469
. Dù sao mặc lòng, sự xuất hiện ở các đảo phía nam
những người Xailăngdra với các danh hiệu hoànggia Maharaja là “một biến cố quốc
tế có tầm quan trọng hàng đầu” người ta có thể nói như vậy470
.
Người ta có thể tự hỏi, các “ông vua ở miền núi” có tìm cách phục hồi lại các
danh hiệu của các ông vua chúa tế cũ của Phù Nam, những người nhiệt tâm thờ
dương vật của Girisa471
và có tự nhận là vua của thế gian không? Điều chắc chắn là
việc lên ngôi của họ được đánh dấu bằng một sự phát triển bất ngờ của phái Phật
giáo Đại thừa.
Năm 778, Maharaja Panangkaran “niềm vinh dự của triều đại Xailăngdra”
theo yêu cầu của các thầy thần linh của ông, đã cho xây một ngôi chùa thờ Phật bà
Tara và cúng cả cái làng Kalasa472
vào việc ấy. Hiện nay nó là lâu đài Săngdi
Kalaxăng ở đồng bằng Pơrambanan, phía đông thành phố Jojakarta473
.
Năm 782, dưới triều một ông vua Xailăngdra được mệnh danh là “người giết
được những anh hùng đối phương” tên là Dharanindra, một ông thày xứ Gaudi (tây
Băngalơ), tên là Kumaraghosa ở Kelarak, không xa Kalaxăng, đã hiến một bức
tranh Phật Mangjusri, hỗn thành cùng một lúc 3 bản vật Phật giáo (Triratna), tam vị
nhất thể Balamon (trimuyrti) và tất cả các vị thần474
. Có lẽ về bề ngoài, kiểu cách
nhất thời của chữ viết miền Bắc Ấn Độ dùng trong các bút tíc ở Kalaxăng và
Kelarak, và sau này ở Cămpuchia đã chịu ảnh hưởng đó ở vùng tây Băngalơ và
trường đại học Nalăngda.
Nhìn sự đồng bộ của hai bút tích, dường như tên Panamgacram ở Kalaxăng
(dưới hình thức Phạn hóa là Panamkrana) là tên riêng của ông vua đã xuất hiện ở
467
J. Pdilutxki, “Người Xailăngdra”, báo hội Đại Ấn Độ, II, 1935, tr. 25-36. 468
R.C. Magiumda, “Xuvácnatvipa”, tr. 225-227. 469
K.A. Nila Căngta Xátxtơri, “Nguồn gốc người Xailăngdra”, Tijd. Bat. Gen, LXXV, 1935, tr. 610. 470
R.C. Magiumda, “Xuvácnatvipa”, tr. 159. 471
G. Xôđéta, “Về nguồn gốc người Xailăngdra ở Indonexia”, Báo hội Đại Ấn Độ, I, 1934, tr. 66-70. 472
Bút tích Phạn ở Kalaxăng bằng chữ Tiền Nagari đã được ông Bradơ in năm 1886, Tijd. Bat. Gen, XXXI,
1886, tr. 240-260; R.G. Bandarcur, báo hội hoàng gia Bombay, XVII, 1887-1889, II, tr. 1-10; F.D.K. Botsơ,
”De anscriplie van keloerak”,Tijd. Bat. Gen, LXVIII, 1928, tr. 57-62; R.G. Satécghi, “Ấn Độ và Giava”, II,
tr. 44-48. 473
Miêu tả trong “Inkiding tot de Hindao Javaansche Kurest”, N.J. Crom, Lahay, 1923, tr. 257-264; J.L.
Moen, “Srivijaya, Yava và Cataha”, Tijd. Bat. Gen, LXXVII, 1937, tr. 434, đã cho vẽ lại công trình đó một
sự cắt nghĩa hết sức tài tình, gợi từ lí thuyết nó có thể tả được của ông về nguồn gốc ấn Độ cua Xăngjaya. 474
F.D.K. Botsơ, ”De anscriplie van keloerak” Tijd. Bat. Gen, LXVIII, 1928, tr. 1-15
93
Kelarak với tên thụphong Dranindra, và danh hiệu “người giết được những anh
hùng đối phương”475
. Không một văn bản nào nói rõ mối liên hệ họ hàng của ông
với Xăngjaya, tên đó không có phần nào được định danh là Xailăngdra. Rất có thể
không có chút liên hệ nào và Xailăngdra Phật giáo Panăngkaran được nêu trong
danh sách thế kỉ X sau Shiva Xăngjaya chỉ vì một lí do duy nhất là ông đã lên ngôi
trị vì sau ông kia để cai quản đất nước mà từ thế kỉ X, nó mang tên là Mataram476
.
Chính từ thời kì đầu thành lập triều dại Xailăngdra ở Giava, đại khái vào nửa
sau thế kỉ VIII, những công trình Phật giáo lớn đã được xây dựng ở đồng bằng
Kedu mà niên biểu còn hơi bấp bênh. Kalaxăng, đề thờ Tara, làm từ năm 778 như
ghi trong bút tích, đã cho một tiêu điểm so sánh, từ đó người ta xác định các công
trình khác. Trước đó một chút người ta xếp Boroburduar477
, tiểu vũ trụn Phật giáo,
một cái Mandala thực sự bằng đá, có trang trí phù điêu minh họa một vài văn bản
lớn của Phật giáo Mahayana (Jatakarma, Lahitavistara, Gandaviuha,
Karmarvibhanga) với công trình phụ Săngdimendut thờ 3 vị Phật theo phong cách
thuần túy Gupta: Phật giảng đạo giữa hai Bồ tát. Săngdixari, tu viện có cả chùa, có
lẽ cùng thời với Kalaxăng, còn Săngdixari với 250 cái miếu, một loại Mandala bằng
đá phải xuất hiện sau một chút. Về mặt tín ngưỡng, toàn bộ khối đá đó thuộc về đạo
Phật bí truyền của Vajrayana, sau này được quy pháp hóa trong bản luận văn tên là
Sangkiang Karmarkayanikan.
Việc lên ngôi của dòng Xailăngdra theo đạo Phật hình như đã gây nên sự di
cư về phía Đông Giava những phần tử bảo thủ, trung thành với Ấn Độ và những
công trình kiến trúc cổ trên cao nguyên Đieng và bút tích Xăngjaya đã xác nhận sự
phồn thịnh vào thế kỉ VII và nửa đầu thế kỉ VIII . Những bằng chứng ở các nguồn
sử liệu Trung Quốc đã xếp việc dời đô Holing về phía đông và việc chuyển di
Chofo về Polonkiassen của vua Kiyen478
giữa các năm 742 và 755, đã được sự có
mặt một bút tích Phạn năm 760479
ở Dinaja, đông bắc Malang xác định. Đây là một
475
F.D.K. Botsơ, ”De anscriplie van keloerak” Tijd. Bat. Gen, LXVIII, 1928, tr. 36. 476
G. Xôđéta, “De eenheid der Mataramoche Dynartie Feestbundel”, Tijd. Bat. Gen, I, tr. 202-206; F.D.K.
Botso, G.F. Stúttéchem, “Một thời kì Giava trong lịch sử Sumatra”, Tijd. Bat. Gen, LXIX, 1929, tr. 153. 477
N.J. Crom, “Ấn Độ – Giava”, Gesch, tr. 152, về sự miêu tả và thư tích của các công trình đó, xem N.J.
Crom; về sự miêu tả Boroburduar, xem cuốn chuyên khảo rất đẹp của N.J. Crom và T. Van Erp, “Mô tả
Boroburduar”, Lahay, 1920; về cách giải thích xem bút kí của P. Muýtx, BEFEO, XXXII-XXXV. 478
P. Pellio, “Hai cuộc hành trình”, BEFEO, IV, tr. 285; G. Pherăng, “Sông Couenlonen”, báo Á châu, 3-4,
1919, tr. 304, số 3, đã công nhận trong cuốn Polonkiassen 1 thành ngữ Giava Warruh Gresik “Bãi biển cát”,
cũng là tên một cái cảng mới ở Xurabanga ở nơi thông thương là Grise, nhưng tất nhiên không phải địa
phương ấy. Cùng tên ấy có thể là danh thắng khác ở đông Giava; J.L. Moen, “Srivijaya, Yava và Cataha”,
Tijd. Bat. Gen, LXXVII, 1937, tr. 382-386, đề nghị xác định Polokiassen ở Baras, đông nam Cơjat là kinh đô
cũ. Sự đồng nhất đó về mặt âm thanh là không nhận được và thuyết đó bao hàm cả vị trí của Holing trên bán
đảo, điều đó gây ra nhiều khó khăn nghiêm trọng. 479
F.D.K. Botsơ, ”De Sanaskrít inscriptie of den steen van Dinaja (682 Saka)”, Tijd. Bat. Gen, LVII, 1916,
tr. 440-444; “Het Linga - Heiligdom van Dinaja” , Tijd. Bat. Gen, LXIV, 1924, tr. 227-286.
94
bản bút tích cổ nhất xuất hiện ở phía đông Giava480
. Nó ghi lại việc thành lập đền
thờ Ajatxtia do con vua Dvasimha làm, ông này tên là Jayayana. Điều đó làm người
ta đã đề nghị với nhiều vẻ có thực, công nhận Kiyen của nguồn tài liệu Trung Quốc.
Các ông hoàng sing bái Shiva, có thể có vài mối liên hệ họ hàng với
Xăngjaya, đều là người canh gác và bảo vệ một cái dương vật tên là Putikécman, nó
vật chất hóa bản thể của vương quyền: đó là một thí dụ mới về việc thờ phụng
dương vật mà cái tên là Badrécvarna ở Mĩ Sơn nước Chăm đã cho ta bằng chứng
chắc chắn đầu tiên và nó trở thành quốc giáo lớn sau này ở Cămpuchia vào thời đại
Ăngko.
Bút tích quan trọng ở Dinya đã chiếu vào lịch sử phần phía đông Giava, nửa
sau thế kỉ VIII, một ánh sáng lờ mờ, nó chỉ là một tia sáng lẻ loi trong đêm481
. Vào
phần tư cuối thế kỉ, sự chú ý tập trung vào dòng Xailăngdra ở giữa đảo.
Sự lên ngôi của họ được đánh dấu bằng sự phát triển của Phật giáo Đại thừa,
có đặc điểm ở bên ngoài bằng những cuộc xâm nhập và ý đồ xây dựng trên bán đảo
Đông Dương.
Năm 767, theo niên biểu Annam, Bắc Kì bị những toán từ Chofo (Giava) và
K‟ouen Lounen (nói chung là các đảo phía nam) tới. Thái thú Trương Bá Nghi đánh
cho đại bại ở gần Sơn Tây và hất họ xuống biển482
, năm 744, một bút tích Phạn ở
Pornagar (Nha Trang) viết483
: “những người sinh trưởng ở nước khác, sống bằng
những thức ăn kinh khủng hơn các xác chết, trông khủng khiếp, hoàn toàn đen và
gày, dữ tợn và độc ác như cái chết, đã đi thuyền tới” lấy trộm các dương vật và đốt
cháy ngôi đền. Họ bị “những chiến chiến thuyền tốt xung kích và bị đánh bại ở
biển” bởi vua Satiavarman. Năm 787, “những đội quân từ Giava đi tàu đến” đốt
một ngôi đền484
. Cũng thời kì đó, mặt sau của tấm bia do vua Srivijaya dựng ở Ligo
vào năm 775 nhận được phần mở đầu một bút tích còn dở dang, nhân danh một ông
vua “sát nhân của kẻ thù” như bút tích đã ghi “đã mang danh hiệu Maharaja vì ông
ta dòng dõi Xailăngdra”485
. Không còn hồ nghi gì nữa, đó là ông vua ở trong các bút
tích ở Kalaxăng và Kelarak, nghĩa là Maharaja Panangkaran tức Dravindra.
Trong một thời gian, người ta tưởng dòng Xailăngdra trị vì ở Srivijaya ngay
từ khởi đầu và trải qua nửa sau thế kỉ VIII và một phần lớn thế kỉ IX, miền trung 480
W.F. Suttéchem đã thông báo ở phía đông một bút tích ngắn không đề ngày tháng nhưng về mặt cổ tự học
thì nó cổ hơn, Bijdr, 95, tr. 1937, tr. 397-401. 481
Các tài liệu Trung Quốc chỉ ghi các đoàn sứ thần của Holing năm 767 và 768 (P. Pellio, “Hai cuộc hành
trình”, BEFEO, IV, tr. 286). 482
G. Maspéro, “Vương quốc ”, BEFEO, XXVIII, tr. 97-98. 483
Báctơ và Bécghenho, “Bút tích Phạn”, tr. 252. 484
Báctơ và Bécghenho, “Bút tích Phạn”, tr. 217. 485
G. Xôđéta, “Về nguồn gốc người Xailăngdra ở Indonexia”, Báo hội Đại Ấn Độ, I, 1934, tr. 65, số 1 và 67-
68.
95
Giava đã đặt dưới quyền thống trị của vương quốc Xumatra486
. Nhưng nếu thực ra
đến thế kỉ IX và có lẽ từ thế kỉ X, các vua Srivijaya đều là dòng Xailăngdra như
người ta sẽ thấy sau thì người ta không có một chứng cớ nào như trường hợp ở thế
kỉ VIII487
đã có.
R.C. Magiumda là người đầu tiên có công phân giải 2 mặt tấm bia ở Ligo488
,
trên đó người ta đã dựa vào để đưa 1 ông vua dòng Xailăngdralên trị vì ở Srivijaya
ngay từ năm 775, đã chấp nhận khả năng có thể có được là vị trí của vương quốc
trước đây ở bán đảo Malay489
. chỉ có điều, người ta không thấy nó ở địa phương nào
vì thế kỉ VIII là một thời kì những tài liệu Trung Quốc về vùng này rất nghèo
nàn490
. Người ta đã nghĩ tới Chaiya hình như vào thế kỉ VIII có một thời kì phồn
thịnh nếu người ta phán đoán vào phẩm chất các vết tích khảo cổ về thời đó491
.
Với tình trạng tài liệu hiện nay, chính Giava có vẻ là xứ sở gốc gác của dòng
họ Xailăngdra, hay ít ra là nơi mà các ông vua nay lần đầu tiên biểu thị sự tồn tại
của mình. Nhưng điều đó không bao hàm chút nào như người ta tưởng492
rằng,
Srivijaya bị phụ thuộc vào các nước láng giềng phía nam vào thế kỉ VIII -IX, vì
bằng chứng người ta có thể rút ra từ hiến chương Nalăngda, sẽ đề cập tới sau này
chỉ có giá trị cho nửa sau thế kỉ IX. Theo bản này, Suvarnadvipa (Xumatra với các
lãnh địa của nó trên bán đảo Malay) vào thời đó do một ông vua Balapuytra cai trị,
tức là “một người con thứ” của vua Samaragravarti, chính ông này cũng là con vua
Yanabumi (Giava), “niềm vinh dự của triều đại Xailăngdra là mang tên kèm theo
danh hiệu kẻ phá hoại những anh hùng của kẻ thù”. Cái ông vua Xailăngdra ở Giava
đó hình như cũng là ông ghi trong bút tích ở Kalaxăng, Kelarak và Ligo (mặt thứ
hai) và con ông là Samaragravira có thể đồng nhất với vua Samarottunga trị vì ở
Giava năm 847. Con thứ ông có lẽ cai quản Sumatra cho lợi ích và dưới quyền của
cha ông, gống hoàn cảnh người ta nhận xét ở Bali thế kỉ XI, ở đó một vài con thứ
của vua Giava là nhiệm vụ phó vương. Từ đó người ta có thể kết luận rằng, trong
nửa sau thế kỉ IX Giava và Xumatra từng hợp nhất dưới quyền một vua Xailăngdra
486
N.J. Crom, “De Sumatra ausche periode der Javaansche geschiedenis”, Leidơ, Brill, 1919 (Bản dịch tiếng
Pháp trong BEFEO, XIX, 5, tr. 127-135). 487
G. Xôđéta, “Về nguồn gốc người Xailăngdra ở Indonexia”, Báo hội Đại Ấn Độ, I, 1934, tr. 65. 488
“Các vua Xailăngdra ở Xuvácnátvipa”, BEFEO, XXXIII, tr. 126-127. 489
“Các vua Xailăngdra ở Xuvácnátvipa”, BEFEO, XXXIII, tr. 126-127. 490
“Hành trình” (hay Nhật kí) của Kiatan (P. Pellio, “Hai cuộc hành trình”, BEFEO, IV, tr. 231-233, 249-
264, 373) chỉ ghi Loyne ở vùng Giohovơ và Kolo ở vùng Cơdắc hay Cơra. Về nước này và Kolofouchalo,
xem G. Pherăng, báo á châu, 9-10, 1919, tr. 214, 238; và về mối liên hệ với Kokoulo và Kolochofen, xem
G.H. Luýtxơ, “Miền lân cận Mianma”, Báo hội Mianma, XIV, 1924, tr. 182-189. 491
Nhất là những tượng Loketvara bằng đồng đỏ rất đẹp ở Viện Bác cổ Băngkok có họ hàng với các tượng
Mandút ở Giava (G. Xôđéta, “Sưu tập khảo cổ của Viện Bảo tàng quốc gia Băngkok”, XII, tr. 15-17) 492
Stúttéchem, “Thời kì Giava trong lịch sử Sumatra”, Sumatra, 1929; xem báo cáo của Botso, Tijd.Bat.Gen,
LXIX, 1929, tr. 131-136.
96
trị vì ở Giava, nhưng chẳng có gì cho phép nghĩ rằng, từ cuối thế kỉ VIII nó đã như
vậy.
Ngược lại, có thể các vua Xailăngdra ở Giava có ý đồ với nước Cămpuchia
vào thế kỉ VIII, vì người ta sẽ thấy ở chương sau, người sáng lập ra triều Ăngko sẽ
mở đầu triều đại của ông bằng một buổi lễ dành cho việc giải phóng mọi sự phụ
thuộc đối với Giava. Sự phụ thuộc đó có thể do một sự ngẫu nhiên mà một tác giả
Arap đầu thế kỉ X đã đưa ra một thuyết đã được tiểu thuyết hóa493
: “Một ông vua
vua Khơmer bộc lộ ý muốn thấy ở trước mặt ông một cái đĩa đựng thủ cấp
Maharaja, vua nước Dabắc (Javaca), ý định đó lọt tới tai Maharaja. Lấy cớ đi du
ngoạn các đảo ở vương quốc, ông này cho chuẩn bị chiến thuyền định tiến hành một
cuộc viễn chinh sang Cămpuchia. Maharaja đi ngược sông đến kinh đô, bắt sống
vua Cămpuchia và chặt đầu, rồi ông giao đất nước Cămpuchia cho một ông thượng
thư tìm người kế vị. Khi trở về nước, Maharaja cho người ướp cái đầu lâu và gửi
cho người kế vị ngôi vua ở Cămpuchia kèm theo một bức thư rút ra bài học luân lí
của sự việc. Khi tin tức về các biến cố trên đến tai vua Ấn Độ và vua Trung Quốc,
vua Maharaja đã trở nên vĩ đại dưới mắt họ. Từ đó, các vua Khơmer, mỗi sáng ngủ
dậy quay mặt về hướng nước Dabắc, phủ phục xuống tận đất và hạ mình trước
Maharaja để tỏ lòng thần phục”
Nên thận trọng coi câu chuyện trên là một trang lịch sử. Tuy nhiên có thể nó
phỏng theo một kỉ niệm về một sự kiện lịch sử, và các vua Xailăngdra ở Giava đã
lợi dụng sự suy yếu của Cămpuchia trong thời kì tan rã để đòi lại quyền của các ông
chủ cũ ở xứ đó, “các vua miền núi”.
5. Nước Cămpuchia: hai nước Chân Lạp (Nửa sau thế kỉ VIII)
Nước Lục Chân Lạp cử sứ thần sng Trung Quốc năm 753 dưới sự lãnh đạo
của thái tử, và năm 771 dưới sự lãnh đạo của ông vua thứ hai tên là Pômi, và cuối
cùng là năm 799494
. Hành trình của Kiatan từ Trung Quốc sang Ấn Độ bằng đường
bộ495
đã xếp thủ đô của nước này từ cuối thế kỉ thứ VIII, ở một điểm rất giống vùng
Pakhinbun thuộc trung lưu Mekong496
. Có lẽ vào thời đó đã có bút tích nhân danh
vua Jayasimhavarman tìm thấy ở Phum Khiao Kao497
thuộc hạt Chaiyaphum, tỉnh
Cò Rạt.
493
P. Pellio, “Hai cuộc hành trình”, BEFEO, IV, tr. 212. 494
P. Pellio, “Hai cuộc hành trình”, BEFEO, IV, tr. 212. 495
P. Pellio, “Hai cuộc hành trình”, BEFEO, IV, tr. 213-215, 372. 496
G. Maspéro, “Biên giới Trung Kì và Cămpuchia thế kỉ VIII đến thế kỉ XIV”, BEFEO, XVIII, 3, tr. 30-42. 497
E. Seidenfaden, “Bổ sung vào bảng kê các công trình kiến trúc ở Cămpuchia”, BEFEO, XXII, tr. 90.
97
Từ nước Thủy Chân Lạp, người ta có một vài bút tích ở vùng Sămbo: hai
tấm năm 770 và 789498
của vua Jayavarman499
, một tấm năm 791 tìm thấy ở tỉnh
Xiêm Riệp500
ghi lại việc dựng tượng Bồ tát (Lokesvara), đó là bằng chứng đầu tiên
chắc chắn về sự tồn tại của Phạt giáo Đại thừa ở Cămpuchia. Người ta không biết
niên hiệu của một loạt các ông hoàng, tổ tiên của các ông đầu tiên ở Ăngko mà các
phổ hệ đã ban cho vương hiệu501
. Một nữ hoảng “trưởng nữ” Jyeshtharya, cháu gái
của Nripendradevi và chắt gái của Indraloka cũng lập nghiệp ở Sămbo năm 803502
,
một năm sau khi Jayavarman II lên ngôi.
Người ta sẽ nhầm nếu tưởng rằng vào thời kì đen tối đó của lịch sử
Cămpuchia, nền nghệ thuật Khơmer sẽ bị lu mờ, trái lại vào thế kỉ thứ VII, các nhà
nghiên cứu lịch sử nghệ thuật đã phải xếp hạng các tác phẩm đặc biệt quan trọng
của nghệ thuật nguyên sơ hay Tiền Ăngko, trung gian giữa phong cách Sămbpreituk
với phong cách Kulen503
.
6. Nước Chăm miền nam hay Hoàn Vương (Nửa sau thế kỉ VIII)
Thời kì giữa thế kỉ VIII được dánh dấu bằng việc lên ngôi của vua
Xailăngdra ở các biển phía nam, cũng là thời kì khủng hoảng đối với nước .
Năm 764, vua Rudravarman II lên ngôi là một nhân vật khó hiểu, mà người
ta chỉ biết tên qua việc cử một sứ thần sang Trung Quốc năm đó504
.
Cho đến lúc bấy giờ, trung tâm vương quốc ở Quảng Nam, nhưng đến giữa
thế kỉ VIII, người ta nhận thấy có sự di chuyển về phía nam, ở Panduranga (Phan
Rang) và ở Kauthara (Nha Trang): cùng thời đó năm 758, người Trung Quốc thôi
không nói đến Lâm Ấp mà thay bằng tên Hoàn Vương505
. Mặt khác triều đại mới ở
phía nam mở đầu việc dùng các tên thụy hiệu chỉ rõ nơi cư trú thiêng liêng của vua
sau khi chết, tức là vị thần mà nhà vua vừa quá cố đến kết bạn. Người ta không biết
nguồn gốc và các niên hiệu chính xác của ông vua đầu tiên Prithivindravarman,
thụy hiệu là Ruydraloka506
. Người ta biết người nối ngôi ông là cháu con bà chị
(hay em gái? - N.D) tên là Satiavarman (Isaraloka), ông phải chịu đựng sự xâm
nhập của Giava năm 774. sự xâm nhập đó đã phá hủy ngôi đền cổ là Ponarga ở Nha
498
Bút tích năm 770 xuất xứ từ Preat Theat Priat Srei ở Thbong khơmun (K.103); bút tích năm 781 tìm thấy
ở Loboc Sorot thuộc vùng Cơnachie, BEFEO, V, tr. 414. 499
Tôi đánh số 1b để không thay đổi số các vua Ăngko từ Jayavarman I tới VII. 500
L. Finot, “Lokesvara ở Đông Dương”, BEFEO, I, tr. 238. 501
BEFEO, XXXVI, tr. 12, số 1 502
E. Aymoniê, “Nước Cămpuchia”, I, tr. 305. 503
G. dơ Toran Remudat, “Nghệ thuật Khơme”, Paris, 1940, tr. 117; P. Duypong, “Visnu đội mũ ở Tây Đông
Dương”, BEFEO, XLI, tr. 233-254. 504
G. Maspéro, “Vương quốc Champa”, BEFEO, XXVIII, Paris, 1928, tr. 95. 505
G. Maspéro, “Vương quốc Champa”, BEFEO, XXVIII, Paris, 1928, tr. 95. 506
A. Barth và A. Bergaigne, “Bút tích Phạn”, tr. 224.
98
Trang mà việc xây dựng được quy cho ông vua truyền thuyết Visitrasagara507
. Sau
khi đẩy lui kẻ xâm lược Satiavarman cho xây dựng lại ngôi đền bằng gạch và khánh
thành năm 784508
.
Con ông là Indravarman lên kế vị hình như phải chinh chiến nhiều. Năm
787, ông cũng chịu đựng một cuộc xâm nhập của người Giava, nó đã phá hủy ngôi
đền Bhadradhipaticvara ở phía tây kinh đô Vijapura gần Phan Rang hiện nay509
.
Ông cử một sứ thần đi sang Trung Quốc năm 793510
và cho xây lại ngôi đền đó năm
799, ông còn trị vì đến năm 801511
.
7. Nước Mianma: sự chinh phục của người Namtchao (Khoảng 760) và
sự suy tàn của Promo
Về phía nước Mianma, sự thành lập vào nửa đầu thế kỉ VIII vương quốc
Thái ở Namtchao512
, gồm phía tây và tây bắc Vân Nam đã gây cho vương quốc Piu
nhiều hậu quả nghiêm trọng. Đồng minh với người Tây Tạng chống Trung Quốc,
Kolopong, vua thứ hai của Namtchao rất lo ngại sự thiết lập giao thiệp với phía tây,
do đó ông phải yên tâm về miền thượng Mianma. Giữa các năm 757 và 763, ông
chinh phục vùng thung lũng thượng lưu sông Iranadi513
. Người ta tự hỏi xem, vào
thời kì đó kinh đô của người Piu còn ở Promo không và nó có được di quá về phía
bắc ở Halin514
không? Nhưng thời kì đó của Mianma rất ít được biết tới. Sự tâm
nhập của Phật giáo Đại thừa có thể vào thời triều đại Vicơrama đã được xác nhận
bằng việc phát hiện ra các tượng Bồ tát và một số có thể có từ thế kỉ VIII515
.
8. Sự bành trướng của Phật giáo Mahayana (Thế kỉ VIII)
Sự bành trướng của đạo Phật Mahayana ở các nước ngoại Ấn về đại thể,
trùng với việc triều đại Pala lên ngôi ở Ấn Độ, ở Băngalơ và ở Magada vào giữa thế
kỉ VIII516
là sự kiện chủ yếu của thời kì nghiên cứu trong chương này.
Để riêng bút tích ở Palembang năm 684 mà bút tích của Mahayana hình như
và còn lại trong kế hoạch của Sarvastivada, một phái trong các phái Tiểu thừa theo
ngôn ngữ Phạn, thứ tự các sự kiện xảy ra như sau:
507
A. Barth và A. Bergaigne, “Bút tích Phạn”, tr. 252-256. 508
A. Barth và A. Bergaigne, “Bút tích Phạn”, tr. 253. 509
A. Barth và A. Bergaigne, “Bút tích Phạn”, tr. 217. 510
G. Maspéro, “Vương quốc Champa”, BEFEO, XXVIII, Paris, 1928, tr. 104. 511
A. Barth và A. Bergaigne, “Bút tích Phạn”, tr. 226. 512
P. Pelliot, “Hai cuộc hành trình”, BEFEO, 1903, IV, tr. 152. 513
P. Pelliot, “Hai cuộc hành trình”, BEFEO, 1903, IV, tr. 155-156, những trang sau cho những chỉ dẫn quan
trọng về sự thâm nhập của Ấn Độ vào Vân Nam qua đường Mianma. 514
G.H. Luýtxơ, “Nước Piu cổ”, Báo hội nghiên cứu Mianma, XXVII, 1937, tr. 244. 515
Nihar Ranjan Ray, “Phật giáo chữ Phạn ở Mianma”, Calcutta, 1936, tr. 41. 516
Putxanh, “Triều đại lớn lịch sử Ấn Độ”, tr. 45.
99
♦ Năm 775, trên bán đảo Malay, vua Srivijaya cho thiết lập ở Ligo đền thờ
Phật và Bồ tát Patdmapani và Vajrapani.
♦ Năm 778, ở Giava, vua Xailăngdra Panankaran xây dựng đền thờ Tara ở
Kalaxăng.
♦ Năm 782, ở Giava có lẽ cùng một triều vua, thiết lập ở Kelarak tượng của
Manjusri do ông thầy gốc ở Băngalơ.
♦ Năm 791, ở Cămpuchia, thiết lập ở Praxatakram tượng Bồ tát Lokesvara.
Những sự kiện đó chứng tỏ rằng trong phần tư thế kỉ VIII, có thể dưới ảnh
hưởng của triều Palava và các thầy ở trường đại học Nalăngda517
, đạo Phật Đại thừa
đã đặt chân một cách chắc chắn lên bán đảo và vùng quần đảo. Đặc điểm chủ yếu
của nó là: khuynh hướng ngả về chủ nghĩa thần bí, phù chú giáo của Vajrayana, phổ
cập ở Băngalơ ngay giữa thế kỉ VIII, việc hỗn hợp với các tín ngưỡng Ấn Độ, đã
được hiển thị trong bút tích ở Kelarak, được xác định rõ ràng ở Cămpuchia vào thời
kì Ăngko và sau này dẫn đến việc thờ Shiva - Phật ở Giava; sự quan trọng gắn với
việc chuộc tội cho linh hồn các người chết đã tạo cho đạo Phật ở Giava và Bali hình
dạng một sự thờ cúng tổ tiên thực sự.
517
H.B. Sarkar, “Sự tiếp xúc về văn hóa ”.
100
Chương VII:
Sự thiết lập vương quyền Ăngko
Dòng Xai lang đra ở Xumatra
(Ba phần tư đầu thế kỷ IX)
1. Thời kỳ đầu của vương quyền Ăngko: Jayavarman V (802- 854).
2. Nước miền nam: Parduyrangja (802 - 854).
3. Mianma: Vương quốc Piu và vương quốc Mitchen; sự thành lập nước
Pegu - Hamsavati (825) và nước Pagan - Arimatdanapura (849).
4. Bán đảo Malay.
5. Dòng Xailangdra ở Giava và Xumatra (813 - 863).
1. Thời kỳ đầu của vương quyền Ăngko: Jayavarman V (802- 854)
Việc giải phóng Campuchia ra khỏi quyền thống trị của Giava là sự nghiệp
của Giayavácman II, người sáng lập ra vương quyền Ăngko.
Ông gắn với các triều đại cũ ở Campuchia tiền - Ăngko bằng những mối dây
liên lạc khá lỏng lẻo; ông là chắt thuộc bên ngoại của Putxearatsa518
, ông hoàng sứ
Aninditapura đã kết hôn với người thuộc hoàng gia ở Sambo, và là cháu vua
Jayendradhipartivarman, mà người ta không biết chút nào về ông này519
. Một bút
tích đầu thế kỷ X520
đã nói về việc lên ngôi của ông “Vì sự phồn vinh của dân tộc, là
dòng dõi vương gia thuần tuý, một đóa hoa sen không còn cuống nữa, ngài hiện ra
như một mùa hoa mới nở rộ”. Chính dưới những lời ám dụ kiểu đó, những nhà
nghiên cứu phổ gia chính thức đã sẵn lòng che dấu những cuộc biến loạn thường 518
Xem bản phổ hệ các bút tích Yaxôvácman (A. Barth và A. Bergaigne, “Bút tích Phạn”, tr. 361) và của tấm
bia Pơrê Rúp (G. Xodetx, “Bút tích ở Cămpuchia”, I, tr.74. Về triều vua Giayavácman II cũng xem G.
Xodetx “Muốn hiểu Ăngko rõ hơn”, tr.149-172, có trích vài đoạn ở đây. 519
G. Xodetx, “Bút tích ở Cămpuchia”, I, tr. 37- 44. 520
A. Barth và A. Bergaigne, “Bút tích Phạn”, tr. 344- 345.
101
khi làm tới sự liên tục đều đặn về thứ tự của triều đại. Jayavarman II không để lại
một bút tích nào, đó gần như là một trường hợp duy nhất trong lích sử Cămpuchia;
hay có lẽ người ta chưa tìm ra chăng? May thay, những giai đoạn chính dưới triều
ông đều được ghi lại với một sự hơi xa phí về một bút tích trong thế kỷ XI521
. Bản
đó viết “Hoàng thượng đến Giava, trị vì ở thành Indrapuyra”. Gia đình Jayavarman
II có gắn với các triều đại thế kỷ VIII, Có thể trốn sang Giava trong thời kỳ phân
tranh hỗn loạn, nếu không phải là buộc phải đến đó sau một trong những chuyến
viễn du bằng đường biển mà ta đã nói ở chương trên.
Việc trở về Giava đó, có thể do sự suy yếu của dòng Xailangdra ở đảo, diễn
ra vào khoảng năm 800 vì ta có nhiều bằng chứng là triều đại này bắt đầu từ 802.
Đất nước đó làm mồi cho sự hỗn loạn hoàn toàn, bề ngoài hình như không có
vua522
, hoặc bị chia cắt giữa nhiều vương triều kình địch nhau và trước khi có thể tỏ
rõ quyền hành và ý đồ lên ngôi vua Cămpuchia, trước hết ông hoàng trẻ phải chinh
phục được ít nhất một phần đất nước.
Mới đây ông ta đến ở thành Indrapura mà những người đối chiếu minh văn
học cho phép xác định vị trí ở tỉnh Thbong Khmun, phía đông Congpong 523
: người
ta có thể nghĩ tới danh thắng Banteipreinoco mà cái tên đã chứng minh đấy là một
cố đô, và những công trình nghệ thuật tiền Ăngko ở đó đã đựơc báo trước bằng một
vài chi tiết theo phong cách thế kỷ IX524
.
Hình như chính ở Indrapura, vị vua trẻ đã dùng một đã dùng làm thầy tu
trong cùng một nhà bác học Balamon, Xivacaivalaya. Ông này phải đi theo vua đến
mọi nơi di chuyển mới và trở thành thầy tư tế đầu tiên của một đạo thờ cúng mới,
đạo thờ Vương thần.
Sau một thời gian ở Indrapura, Jayavarman II rời bỏ nơi đó, có
Xivacaivalaya và gia đình đi cùng, tiến về miền bắc Biển Hồ, ở đó một thế kỷ sau
thành phố Ăngko đầu tiên được xây dựng. Tấm bia ở Xdockakthom ghi: Khi họ tới
khu phía đông, nhà vua ban cho thầy tư tế và gia đình ông một khoảng đất và một
cái làng tên là Kuti. Khu phía đông đó chỉ miền đông Ăngko. Tên Kuti tồn tại trong
tên của Banteikdei, một công trình kiến trúc muộn màng được xây dựng bên cạnh
công trình cổ xưa hơn nhiều525
. Tấm bia ghi tiếp: “Sau đó nhà vua đóng đô ở
521
L. Finot “Bút tích ở Xdockakthom”, BEFEO, XV, 2, tr. 53-106. 522
Một bút tích năm 803 ghi chép sự thành lập triều đại các bà hoàng “cả” Lyesttharia trị vì ở Sambo. 523
G. Xodetx “Các kinh đô của Jayavarman II”, BEFEO, XXVII, tr. 117-119. 524
H. Parmentier, “Nghệ thuật nguyên thủy Khơmer”, I, tr . 206. 525
G.Xodetx “Các kinh đô của Jayavarman II”, BEFEO, XXVII, tr. 119-120; “Luận về các công trình kiến
trúc tiền Ăngko.”; Niên lịch thư mục khảo cổ Ấn Độ, 1930, tr. 14, 16, 17; H. Macsan “Quytíchvara”,
BEFEO, XXXVII, tr. 333-347.
102
Hariharalaya. Thầy tư tế cũng ở thành phố đó, và các thân nhân trong gia đình ông
cũng được phong làm nhân viên thị đồng”.
Hariharalaya tương ứng với những phế tích gọi là “nhóm Rolucs” ở cách
phía đông nam Xiemreap độ khoảng 15km và gần lâu đài Lolei cái tên đó là tiếng
vang yếu ớt của tên cũ Hariharalaya526
danh thắng này gồm nhiều lâu đài thuộc nền
nghệ thuật tiền Ăngko mà Jayavarman II bằng lòng tu bổ lại, và một số lâu đài mới
mà người ta quy cho ông xây dựng527
.
Tấm bia viết: “Sau đó nhà vua đi thành lập thành Amarangdrapura, và thầy
tư tế cũng đến ở thành phố đó để phục vụ nhà vua”.
Năm 1924, G. Grotxlie528
tưởng có thể lấy lại một giả thiết cũ của Aymonie 529
và đồng nhất Amarendrapura với ngôi đền lớn ở Banteisma; Nhưng hiện nay
người ta đã biết ngôi đền đó không thể có trước thế kỷ XII được. Những bằng
chứng địa lý đưa ra trước để xác định vị trí của Amarendrapura trong miền tây bắc
Cămpuchia vấn giữ một phần giá trị của nó, tuy nhiên vùng này không có những
công trình có thể gán cho triều vua Jayavarman II nếu căn cứ vào phong cách kiến
trúc hay trang trí của nó. Và người ta không hiểu tại sao khi cư trú ở miền Ăngko,
ông ta lại chọn một miền khá xa Biển Hồ như vậy và bao giờ nó cũng khô cằn.
Ngược lại khu đất ở ven đê phía tây Baray đã phát giác ra một loạt những thành
quách hoà hợp với những lâu đài thuộc thời kỳ đầu nghệ thuật Tiền Ăngko, trước
nền nghệ thuật Kulin, và có thể cả khối đó thuộc về thành phố Amarendrapura do
Jayavarman II dựng lên530
.
Tấm bia ghi tiếp: “Sau đó nhà vua đến đóng đô ở Mahangdraparvata và ngài
tư tế Xivacaivalaya cũng đến ở kinh đô để phụng sự nhà vua như trước kia. Thế rồi
một người Balamon tên là Hiranyadama rất tinh thông ảo thuật, đã tới nước đó, vì
nhà vua cho mời đến dịch một cuốn sách nghi thức để cho đất nước Cămpuchia
khỏi lệ thuộc vào Giava và trong vương quốc này chỉ còn một ông vua duy nhất là
Sacravartanh (vua thiên hạ) người Balamon viết cuốn nghi thức đó theo
thánhVanaxikha và kiến lập vương thần (chữ Phạn: Dvaraja; chữ Khomer:
Camratengjagattaraja). Người Balamon đó giảng về thánh Vinaxikha, về Nayotara,
526
G.Xodetx “Các kinh đô của Jayavarman II”, BEFEO, XXVII, tr. 121; “Bút tích ở Cămpuchia”, I, tr. 187. 527
Ph. Stern “Hariharalaya và Indrapura”, BEFEO XXXVIII, tr. 180-186 (thời kỳ thứ nhất và thứ nhì). 528
“Amarangdrapura trong Amoghapura”, BEFEO, XXIV, tr. 359-372. 529
E. Aymonier, “Nước Cămpuchia”, I, tr. 470. 530
Ph. Stern “Hariharalaya và Indrapura”, BEFEO, XXXVIII, tr. 180, đã tránh sự đồng nhất đó vì trong khối
này gồm Aryom, Vatkhnát, các phế tích chìm ngập trong vùng Baray phía tây và các phần đất cũ của
Praxatcocpo, “sự dùng lại tiền tài để sinh lợi của thời kỳ trước đến bất biến” thế mà Amarangdrapura đã được
vua Jayavarman “thiết lập” nên. Bằng chứng đó không thuyết phục tôi lắm. Việc thiết lập một thành phố,
nhất là do một ông vua du cư như Jayavarman II không loại trừ việc sử dụng các vật liệu lấy từ các lâu đài cổ
ở gần đó.
103
Xammoha, Xiracsoda. Ông ta đọc để viết từ đầu đến cuối các sách trên và giảng cho
ngài tư tế Xivacaivalaya. Và ông chỉ thị cho ngài tư tế Xivacaivalaya phải soạn sách
nghi thức về vương thần. Nhà vua và người Balamon Hiranyadama ăn thề sẽ dùng
gia đình ngài Xivacaivalaya để làm lễ thề vương thần và không cho phép ai khác
được hành lễ do ngài tư tế Xivacaivalaya đã đưa tất cả gia đình vào việc thờ phụng
này”.
Núi Mahangdra từ lâu đã đồng nhất với Pnongkulin531
, một vùng cao nguyên
sa thạch chế ngự phía bắc đồng bằng Ăngko. Những cuộc tìm kiếm mới đây532
đã
phát hiện ra một khối khảo cổ và không còn nghi ngờ gì nữa, khối này đã tương ứng
với cốt cách tín ngưỡng của thành phố của Jayavarman II vì phong cách533
của nó là
phong cách trung gian giữa những lâu đài tiền Ăngko gần đây nhất với những lâu
đài đầu tiên thuộc nghệ thuật Ăngko mà mới đây người ta xếp dưới tên gọi là nghệ
thuật Indravarman534
những việc xảy ra ở Ponongkulin đáng cho người ta dừng lại
một chút.
Ở chương trên ta đã thấy dòng Xailangdra ở Giava hình như tự nhận danh
hiệu hoàng đế của thiên hạ trước đây thuộc về nước Phù Nam. Điều đó cắt nghĩa cái
cách mà vua Jayavarman II khi từ Giava trở về535
đã thiết lập vương quyền của
mình ở Campuchia vào đầu thế kỷ IX. Để vượt qua sự gián thị của “vua miền núi”,
danh hiệu dành cho Maharaja hay Chakravartin, bản thân ông phải trở thành một
người như vậy bằng cách tiếp nhận từ tay một người Balamon, trên một trái núi, cái
dương vật thần Shiva kỳ diệu trong đó từ nay ngự trị thế lực vương quyền của các
vua Khmer. Đấy, tại sao ông đóng đô trên núi Mahangdra (Pnongkulin) và cho
mang “từ nước ông”, nghĩa là từ Ấn Độ nếu nói đến một nước Balamon, hoặc từ
Sambo trên sông Mekong (Sambuypura)536
. Nếu là một sứ của vua, một người
Balamon đã lập ra sách nghi thức thờ vương thần và đã dạy cho thầy tư tế “để cho
đất nước người Cămpuchia không lệ thuộc vào Giava và trong vương quốc này chỉ
còn một ông vua duy nhất là Chakravartin.
Nếu quyền bá chủ ít hay nhiều có hiệu quả cho nước Giava chỉ là kết quả của
những cuộc viễn chinh cuối thế kỷ trước thì hình như không cần tới nhiều lễ nghi
531
E. Aymonier, “Nước Cămpuchia”, I, tr. 428: BEFEO, XXVIII, tr. 122. 532
Ph. Stern, “Công việc tiến hành ở Pnong Quylen”, BEFEO, XXXVIII, tr. 151-173. 533
Ph. Stern, “Phong cách Quylen” trong “Công việc tiến hành ở Pnong Quylen”, BEFEO, III, tr. 149. 534
H. Parmentier, “Nghệ thuật Indravarman”, BEFEO, XIX, I, tr. 191. 535
Một bằng chứng rất tốt cho việc đồng nhất Giava trong bút tích ở Xdoccacthom với đảo Giava do bà Cran
Remuyda cung cấp đã nêu ra “những ảnh hưởng Giava trong nghệ thuật Rohnot”, báo Á châu, 7-8, 1933, tr.
190, xem “Nghệ thuật và văn học Ấn Độ”, tập VII, 1933, tr. 117. 536
Một bút tích ở Sambo năm 1001 ghi sự thiết lập ra vương thần ở Sambuypura dưới triều Jayavarman II,
(BEFEO, XXVIII, tr. 143). Nó không cho một sự minh xác nào về niên biểu cho phép ta biết xem sự thiết lập
đó có đi trước sự lập trị long trọng của đạo đó ở Pnong Quylen hay không?
104
như vậy để giải thoát khỏi nó ra. Nhưng nếu các vua Xailangdra ở Giava tự đặt
quyền thừa tự các chúa đất cũ, đấy lại là việc khác, và một nghi thức mới phối hợp
với một ngọn núi mới trở thành rất cần thiết537
.
Trong những vương quốc Ấn Độ hóa ở Đông Dương và Nam Dương, các
việc thờ cúng của Ấn Độ, đặc biệt việc thờ thần Shiva đã đánh dấu một khuynh
hướng mà nó đã biểu thị ở Ấn Độ và cuối cùng trở thành một vương giáo.
Cái tinh chất của vương quyền, hay nói như trong một số văn bản, cái “tôi
tinh tế” của nhà vua538
coi như ngự trị trong một cái dương vật hiva đặt trên một cái
kim tự tháp ở giữa kinh kỳ, được giả định là cái trục của thế giới539
. Cái dương vật
Shiva kì diệu đó, một thứ bảo chướng của vương quốc được coi như nhận từ thần
Shiva qua trung gian một người Balamon, ông này đã trao cho nhà vua, người sáng
lập ra triều đại540
. Lễ ban thánh thể giữa nhà vua và thần qua một trung gian thầy tu
được tiến hành một cách tự nhiên hay giả tạo trên ngọn núi thánh.
Ở Pnongkulin, công trình duy nhất trình bày một phần kiến trúc theo hình
Kim tự tháp là Cruytapreat Aramrongchen. Người ta có thể chấp nhận rằng nó
tương ứng với cái đền đầu tiên thờ vương thần và khi Jayavarman II và các người
kế vị ông thôi không đóng đô ở Mahangdraparvata nữa, các ông cho xây dựng các
sơn miếu khác ở giữa các kinh đô kế tiếp sau541
.
Sách nghi thức thờ vương thần do người Balamon Hiranyadama soạn dựa
vào nền tảng của 4 bản Vinaxikha, Nayotara, Xammoha, Xiracsoda mà phần chữ
Phạn trên bia gọi là “Bốn mặt của Tumburu” L. Finot, khi công bố bút tích, đã đưa
ý kiến là các văn bản trên có gốc từ phù chú giáo, và hai nhà bác học Ấn Độ542
đã
xác nhận điểm đó, phát hiện ra trong một tu viện ở Nepan một nhóm bùa chú mà
các tiêu đề có một số điều tương tự với các văn bản trên, nó được phát ra do bốn cái
mồm của Shiva, đại diện là Gandharivatrunburu, nhưng trong nội dung của nó
người ta không có được những sự chính xác đầy đủ để có một quan niệm về cái gọi
là nghi thức thiết lập trên núi Pnongkulin. Người ta vội dựng lên một sự so sánh có
lẽ là hão huyền, giữa Ciraccheda “Sự chém đầu” với lịch sử do nhà du lịch Ả Rập
537
G. Xodetx, “Về nguồn gốc người Xailangdra ở Indonexia”, Báo hội Đại Ấn Độ, I, 1934, tr. 70. 538
G. Xodetx, “Ghi chép về sự phong thần ở Cămpuchia”, trong “Báo cáo khảo cổ ở Đông Dương”, 1911,
tr..46. 539
R. Von Heine Geldern, “Weltbild and Banform in Sudestasien”, Wiener Beitra ge zur Kunst and Kultur
Asien, IV, 1930, tr. 28-78. 540
F.D.K. Botsơ, ”Het linga - heiligdom van Dinaja”, Tijd. Bat. Gen, LXIV, 1924, tr. 227-286. 541
Ph. Stern, “Sơn miếu Khơme, việc thờ dương vật Shiva và Dvaraja”, BEFEO, XXXIV, tr. 612-616. 542
R.G. Satécghi, “Ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ ở Cămpuchia”, Calcutta, 1928, tr. 273; “Phù chú giáo ở
Cămpuchia, Sumatra và Giava”, 1, 1930, tr. 80; P.C. Bắcghi, “Về vài văn bản phù chú giáo ở Cămpuchia”,
trong “Lịch sử Đông Dương”, V, 1929, tr. 754-769 và VI, tr. 97-107.
105
kể lại về việc Maharaja ở Dabac543
chém đầu vua Cămpuchia. Nếu quyền bá chủ
của Giava bắt nguồn từ một sự kiện loại đó, người ta hiểu khá rõ ràng cử chỉ chủ
yếu của việc thiết lập nghi thức nhằm chấm dứt sự áp chế Cămpuchia đã tồn tại
trong việc xử trảm bằng số tượng của ông vua bá chủ. Nhưng lại có một lối giải
thích khác. Người ta biết ở Ấn Độ có một tục tự tử bằng cách tự cắt đầu nhằm được
thần linh phù hộ cho một phần ba544
. Có thể cách tự tử như vậy, có thực hay giả tạo,
là một phần của nghi lễ thiết lập vương thần. Dù ở trường hợp nào, vai trò thần diệu
của việc cắt đầu, có thật hay giả tạo, đã được phổ cập545
để người ta có thể ngạc
nhiên khi thấy nó có nguồn gốc từ vương quyền Ăngko.
Người ta có thể tự hỏi tại sao vua Jayavarmam II không thực hiện tục đó
ngay từ khi mới lên ngôi, và ông ta lại đợi đến khi đã trị vì ở kinh đô trước khi
tuyên bố độc lập? Chính vì trước hết ông ta phải chiếm lại một bộ phận của vương
quốc546
củng cố lại quyền lực, phòng thủ chống người Champa, và bình định trước
khi nghĩ đến việc đưa xuống núi cái dương vật kì diệu, nguồn sức mạnh của vương
quyền. Sự thay đổi kinh đô phải kèm theo các hoạt động quân sự. Một bút tích thế
kỉ XI đã ám chỉ điều đó khi nói rằng nhà vua “giao nhiệm vụ cho các tướng lĩnh
chính đi bình định tất cả các khu”547
. Viên tướng thứ nhất là Prihivinarendra “như
ngọn lửa thiêu cháy quân thù” được giao cho việc chiếm lại Mabiang tức là vùng
nam Battambang548
.
Vào những thế kỉ sau, việc Jayavarman II đóng đô trên núi Pnong Quylen
được coi như một sự kiện lịch sử đánh dấu thời kỳ đầu của một thời đại mới: trong
các bút tích, Jayavarman II thường được gọi là “ông vua đã đóng đô trên đỉnh núi
Mahangdra”. Người ta không rõ thời gian ông ta lưu ở trên đỉnh núi Quylen. Bút
tích ghi tiếp “sau đó, nhà vua trở lại trị vì thành Hariharalaya và Vương thần được
rước đến đó; thầy tư tế và họ hàng vẫn làm chức vụ như cũ. Thầy tư tế đã mất dưới
triều vua này. Nhà vua mất ở Hariharalaya, nơi Vương thần ngự”.
Nhiều lâu đài thuộc nhóm Rotluotx hình như có từ thời gian cư trú thứ hai
của Jayavarman II ở Hariharalaya549
. Còn về địa điểm cung điện, người ta suy ra hai
khả năng. Nó có thể tương ứng hoặc với đại tứ diện hình (hình 4 mặt lớn) tên là
543
BEFEO, XIX, tr. 356-387. 544
F.Ph. Voghen, “Việc hiến đầu cho thần ở công trình chạm khắc Panlava”, báo cáo trường Phương Đông,
VI, 2, 1931, tr. 539-543. 545
G. Xodetx, “Tượng bị cắt đầu ở Xavancaloc”, báo cáo Viện Đông Dương - nghiên cứu về người, II, 1939,
tr. 190. 546
“Tân Đường thư” còn quy cho Thủy Chân Lạp một đoàn sứ thần năm 813, P. Pelliot, “Hai cuộc hành
trình”, BEFEO, 1903, IV, tr. 215; BEFEO, XXXVI, tr. 13. 547
BEFEO XIII, 6, tr. 33. 548
BEFEO XXXI, tr. 621 và XXXII, tr. 80, số 1. 549
Ph. Stern, “Hariharalaya và Jayavarman II”, BEFEO, XXXVIII, tr. 186-189 (thời kỳ thứ ba).
106
Preimonti, có thể gốc từ chữ Phạn “mangdira”, nghĩa chính xác là “hoàng cung”,
hoặc với tứ diện hình ở bộ phận phía đông nơi có các tháp Preakko, lăng vua
Jayavarman II và tổ tiên của người kế vị thứ hai của ông là Indravarman. Lăng đó,
theo tập quán, người ta thấy trong nhiều thí dụ khác, có thể dựng lên ở địa điểm
hoàng cung đó được cải dựng (dùng vào việc khác).
Jayavarman II chết ở Hariharalaya năm 854, sau 52 năm trị vì550
, nhận thụy
hiệu (tên nhận sau khi chết) là Paramefraha, đó là một thí dụ đầu tiên chắc chắn về
việc phong thần cho một ông vua ở Cămpuchia.
Thời gian trị vì trong 52 năm khá dài đó đã để lại cho đất nước một dấu vết
sâu sắc. Mặc dầu quyền hạn thực sự của ông không được ra ngoài miền Biển Hồ,
Jayavarman II bắt đầu bình định và thống nhất đất nước. Ông tìm địa điểm cho kinh
đô tương lai, ở vùng phụ cận với cái ao cá vô tận Tonlexap, hơi quá giới hạn mực
nước lên hàng năm, cách công trường sa thạch Pnong Quylen độ 30 km, và hơi gần
các lối đi tới cao nguyên Còrạt và lưu vực sông Menam. Ông đã dành cho
Yaxovarman là cháu và là người kế vị thứ ba của ông, xây dựng thành
Yaxodrapura, nó trở thành kinh đô của đế quốc Khomer trong 600 năm.
Jayavarman II thiết lập việc thờ cúng Vương thần, như tấm bia nói trên đã
ghi “ngự ở mọi kinh đô của các vua đã rước tới với tư cách là thần bảo hộ cho ngôi
các vua kế tục”. Có thể là cái điện hình kim tự tháp của ông dựng trên một trái núi
tự nhiên hay nhân tạo, đã đánh dấu trung tâm của kinh đô từ đó. Điện Bacong ở
Hariharalaya (Roluotx), điện Bakhen ở đỉnh đầu tiên của Ăngko, kim tự tháp lớn ở
Kotker, điện Phimeankas, điện Saphuon và cuối cùng là điện Bayon ở Ăngkothom.
Triều của vua Jayavarman II, một người nước ngoài nhưng về hình thái đã lo
lắng tới việc nối lại các truyền thống quốc gia, đã đánh dấu trong nghệ thuật một sự
chuyển tiếp giữa thời kỳ Tiền Ăngko mà ông còn gắn rất chặt với thời kỳ Ăngko mà
ông đã cho nhiều công thức mới.551
Người kế vị Jayavarman II là con ông, tên là Jayavardana552
, một nhà săn voi
nổi tiếng553
, tiếp tục đóng đô tại Hariharalaya. Ông trị vì từ 854 đến 877 dưới danh
hiệu Jayavarman III, có một số công trình xây dựng ở Ăngko554
. Khi mất, ông nhận
thụy hiệu Visnuloka.
2. Nước miền nam: Panduganda (802 - 854)
550
BEFEO XXVIII, tr. 116. 551
Ph. Stern, “Phong cách Quylen”, Sđd, G. Cran Remuyda “Nghệ thuật Khomer”, tr. 117-118 552
A. Barth và A. Bergaigne, “Bút tích Phạn ở Champa và Cămpuchia”, tr. 370. 553
E. Aymonier, “Nước Cămpuchia”, I, tr. 422; BEFEO, XIII, 6, tr. 34; XXVIII, tr. 116. 554
BEFEO, XXXVII, tr. 381; XXXVIII, tr. 186-189.
107
Ở nước Champa, các vua tục đóng đô ở Panduganda (thuộc tỉnh Phan Rang).
Harivarman I kế vị anh rể là Indravarman I 555
vào năm 802-ngay năm 803, ông
tung vào các tỉnh Trung Quốc một đoàn quân viễn chinh và thu được kết quả, và
năm 809 ông lại tiến hành lần nữa với kết quả ít hơn. Cùng thời kỳ đó, nghĩa là đầu
triều Jayavarman II, hình như nước Cămpuchia cũng đã phải chịu nhiều cuộc tấn
công của các tướng Xitnaraptipat556
Harivarman I còn trị vì đến năm 813557
và có lẽ
đến năm 817, niên hiệu nhà Xunapati đã xây dựng nhiều cơ sở ở Ponaga (thuộc tỉnh
Nha Trang)558
. Người kế tục là con ông chỉ biết một vài công trình ở Ponaga (thuộc
tỉnh Nha Trang) và ở Ponaga (thuộc Mông Đức)559
.
3. Mianma: Vương quốc Piu và vương quốc Mitchen; sự thành lập nước
Pegu - Hamsavati (825) và nước Pagan - Arimatdanapura (849)
Ở Mianma, việc nước Nam Chiếu thần phục Trung Quốc năm 791560
đã dẫn
tới việc thiết lập sự liên lạc bằng đường bộ giữa Trung Quốc với Vương Quốc Piu.
Năm 802, vua Yung Kiang, hiệu là Cunmochang cử sứ thần sang Trung Quốc do
con (hay em) ông là Xumandana561
dẫn đầu. Năm 807 ông lại cử sứ thần đi lần nữa.
Qua hai đoàn sứ thần đó Đường thư và “Mãn Châu” đã cho những tài liệu về vương
quốc Piu như sau:562
Khi đi đâu gần, vua thường dùng kiệu có dây vàng, còn đi xa thì dùng voi.
Ông có hàng trăm vợ và cung tần. Thành lũy bao quanh kinh đô dài 160 lý, xây
bằng gạch ngoài có men xanh, có hào cũng xây gạch; quanh thành có 12 cửa và ở
các góc thành có tháp canh. Dân chúng nhiều khi lên tới 1 vạn hộ. Nhà đều lợp bằng
tấm chì hay thiếc. Có hơn 100 tu viện Phật giáo có trang trí vàng, bạc và tranh nhiều
mầu, lại có phủ cả thảm thêu. Trong cung nhà vua có hai cái chuông, 1 bằng vàng, 1
bằng bạc để khi vương quốc bị nguy cơ xâm lược thì người ta gõ chuông bằng một
cách nào đó, rồi từ tiếng chuông mà rút ra điềm tốt hay xấu. Gần cung điện có bức
tranh một con voi trắng lớn cao 100 bước chân (= 0m33), các người đến hầu kiệu
phải quỳ trước đó để tự vấn về sự công minh hay bất chính của những lý do của họ.
Trong trường hợp quốc nạn, chính nhà vua quỳ lạy trước tranh voi, đốt hương và tự
thú những lỗi lầm của ông ta đã phạm phải. Đàn bà búi tóc trên đỉnh đầu thành
555
G. Maspéro, “Vương quốc Champa”, BEFEO, XXVIII, Paris, 1928, tr. 105, số 3. 556
A. Barth và A. Bergaigne, “Bút tích Phạn ở Champa và Cămpuchia”, tr. 269. 557
E. Aymonier, “Nghiên cứu đầu tiên về bút tích ”, Báo Á châu 172/1891, tr. 24 558
A. Barth và A. Bergaigne, “Bút tích Phạn ở Champa và Cămpuchia”, tr. 269. 559
A. Barth và A. Bergaigne, “Bút tích Phạn ở Champa và Cămpuchia”, tr. 231-237. 560
P. Pelliot, “Hai cuộc hành trình”, BEFEO, 1903, IV, tr. 153 561
P. Pelliot, “Hai cuộc hành trình”, BEFEO, 1903, IV, tr. 250, số 3. 562
Mã Đoan Lâm, “Người phương Nam”, Bản dịch của Harvei de Xanh Dennit, tr. 228-235; E.H. Pacco
“Quan hệ của Mianma với Trung Quốc”, Ranggun, 1893, tr. 12; G.H. Luýtxơ, “Nước Piu cổ”, Báo hội
nghiên cứu Mianma, XXVII, 1937, tr. 250-252.
108
những búi tó có gài hoa thiếc, ngọc và đá quý. Tất cả đều cầm quạt, những phụ nữ
nhà quyền quý đeo ở thắt lưng 5 - 6 cái quạt. Đến 7 tuổi, các thiếu niên và thiếu nữ
đều cạo trọc đầu và vào chùa hay các tăng viện. Họ ở đó cho đến 20 tuổi, học về
đạo Phật, sau đó trở về thế tục. Họ chỉ có mặc 1 cái áo dài trắng dệt bằng sợi bông,
thắt 1 thắt lưng mầu ráng mặt trời mọc. Họ thường không dùng lụa, cho rằng muốn
kiếm lấy lụa thì phải hại đến sinh mệnh. Dân chúng biểu thị tình yêu cuộc sống và
khiếp sợ giết chóc. Người ta không dùng xiềng xích gông cùm hay bất cứ 1 dụng cụ
khổ hình nào đối với kẻ bị cáo mà chỉ trói lại thôi. Những người bị kết tội là thủ
phạm bị đánh bằng gậy tre vào lưng, tội nặng thì 5 gậy, tội nhẹ 3 gậy. Tội sát nhân
thì bị xử tử. Họ không dùng mỡ hay dầu để đốt mà dùng nến bằng sáp ong tẩm
hương. Họ tiêu tiền bạc hình nửa vòng tròn. Họ buôn bán với các nước láng giềng:
họ bán vải trắng và các chum đất sét. Âm nhạc của họ rất đặc biệt và các điệu rất
tinh tế mà các nguồn tài liệu Trung Quốc cho nhiều chi tiết.
Trong cả nửa đầu thế kỉ IX, nước Nam Chiếu vẫn làm chủ miền thượng
Mianma. Năm 832, họ tách 3000 người Piu ở kinh đô đưa đi tăng thêm dân số cho
kinh đô phía đông của Nam Chiếu, tương ứng với Vân Nam bây giờ. Đó là thời kỳ
bắt đầu suy tàn.
Thành Promo hoàn thành việc giảm dân số vì lợi ích của Pagan
(Arimatdanapura), 1 địa phương do 19 làng hợp thành, ở gần chỗ hợp lưu sông
Iranadi và sông Sinduyn, trên ngã tư đường tới Annam, Vân Nam và miền hiện nay
do các quốc gia San563
ở, không xa cánh đồng Kiocxo, cái nôi của nước Mianma và
là trung tâm bành trướng của các người anh em dòng dõi người Piu từ biên cảnh
Tây Tạng xuống sau họ564
. Các biên niên sử địa phương cho là thành này có từ thế
kỉ II và cho một danh sách khá dài tên các thủ lĩnh mà ta có thể đánh giá tính xác
thực: Một trong những thủ lĩnh đó, nhà sư Poppa Xorahan, kẻ tiếm ngôi, đã thiết lập
kỷ nguyên Mianma từ năm 638. Những tìm tòi của Duroiselle565
về môn phái “Ari”
đã chứng minh rằng ở thời kì đó, đạo Phật Đại thừa đã thâm nhập vào Pagan, và
ngay từ thế kỉ VII ở vài tăng viện đã có mầu sắc phù chú giáo gồm các thuật phù
thủy và các lễ nghi dâm dật. Năm 849, Pagan dứt khoắt nhảy vào lịch sử với sự xây
dựng thành lũy của vua Pyinbia.
563
F.S. Focnivon, “Sự thành lập nước Pagan”, báo hội nghiên cứu Mianma, I, 2, 1911, tr. 6-9. 564
R. Gorant Braon, “Nguồn gốc người Mianma”, sách trên, II, 1912, tr. 17. O.H. Luýtxo, “Đời sống kinh tế
của nước Mianma xưa”, báo hội nghiên cứu Mianma XXX, 1940 , tr. 286-287. 565
“Nghệ thuật Mianma và đạo phù chú Phật giáo”. Niên báo hội khảo cổ Ấn Độ, 1915-1916, tr. 79-93; Về
ngữ nguyên chữ Ari, xem E. Hubơr, BEFEO, 1909, tr. 584; L. Finot, báo Á châu 7, 8/ 1912, tr. 123-128;
Mong Tin “Sự chuyển hóa của Ari”, báo hội nghiên cứu Mianma, IX, 1919, tr. 155 (và cuộc tranh luận tiếp
theo chú thích đó. Sách trên, X, 1920, tr. 28, 82, 158, 160).
109
Đầu thế kỉ IX, Tân Đường thư ghi rằng, trong các nước chư hầu của Piu,
vương quốc Mitchen cử sứ thần năm 805566
và đến năm 835 bị Nam Chiếu 567
thôn
tính. Theo một cuốn nhật ký ghi trong cùng cuốn sách đó568
nước Mitchen phải ở
vào cửa sông Iranadi.
Cùng thời, trong các truyện ký của những nhà du lịch và các tác phẩm của
những nhà địa lý Ả Rập và Ba Tư, xuất hiện tên vua mước Ratma. Đó là nước
Ramannadesa hay nước Mon 569
ở vùng hạ Mianma. Bút tích cổ nhất trong cuốn
“Sách về các đường xá và các tỉnh” của Ibn Khordadzbeh viết giữa các năm 844 và
848 ghi “Vua nước Ratma có 5 vạn con voi; nước này sản xuất vải bông nhung và
gỗ trầm hương loại Ấn Độ”570
. Năm 851, thương nhân Xulayman nhắc lại điều đó
và khuyếch đại lên; ông ta thêm “giữa dân chúng, việc trao đổi dùng bằng vỏ sò” và
tả vài dòng về con tê giác thấy ở xứ này571
.
Vào thời đó, trung tâm của vương quốc Mon đã chuyển về phía Tây: một
biên niên sử ghi vào năm 825, việc thành lập nước Pegu - Hamsavati do hai anh em
sinh đôi gốc Thatong572
là Xanala và Vimala. Niên hiệu đó hình như được ưa thích
hơn các niệu hiệu cổ hơn hoặc mới hơn do các văn bản khác573
cung cấp. Cũng như
đôi với nước Pagan, các biên niên sử cung cấp danh sách các vua ở Pegu574
mà
người ta khó có thể đánh giá tính xác thực của nó.
4. Bán đảo Malay
Trên bán đảo Malay, bằng chứng duy nhất để người ta có thể xếp vào đầu thế
kỉ IX là 1 bản bút tích ngắn bằng chữ Fanmun tìm thấy ở Iakua Pa, nó chỉ ra rằng “1
cái ao tên là Avaninaranam do thủ lĩnh xứ Nangur cho đào đã được đặt dưới sự bảo
hộ của vua Panlanva là Nandivarman III, trị vì từ 826 đến 849575
. Từ bút tích đó,
người ta có thể suy ra niên hiệu phỏng chừng, tuy giá trị lịch sử yếu ớt nhứng đáng
được ghi lại vì đó là một tài liệu hiếm hoi thảo trong một bản thổ ngữ ở Ấn Độ tìm
thấy ở vùng ngoại Ấn.
566
P. Pelliot, “Hai cuộc hành trình”, BEFEO, 1903, IV, tr. 172, số 1. 567
P. Pelliot, “Hai cuộc hành trình”, BEFEO, 1903, IV, tr. 156, số 4. 568
P. Pelliot, “Hai cuộc hành trình”, BEFEO, 1903, IV, tr. 233-234; G.H. Luýtxo. 569
C. O. Blacden, “Nước Mon và Ramannadesa”, báo Hội nghiên cứu Mianma, IV, 1914, tr. 59-60; “Môn,
Raman, Amara” , báo Hội nghiên cứu Mianma, V, 1915, tr. 27. 570
G. Pherăng, “Quan hệ du lịch và văn bản địa lý Ả Rập, Ba Tư và Thổ Nhĩ Kỳ”, I, tr. 29. 571
G. Pherăng, “Quan hệ du lịch và văn bản địa lý Ả Rập, Ba Tư và Thổ Nhĩ Kỳ”, I, tr. 43-45. 572
Họ là con Titxa Dammaja Xiharaja, theo truyền thuyết, cùng vợ ông từ con rồng nhảy xuống (F.S.
Focnivon, ghi chép về lịch sử Hanthanatdy - nt, III, 1913, tr. 167). 573
Mayung, “Biên niên sử Mianma”, nt, III, 1913, tr. 15-16; Xem R. Honkiday, “Lile Sming Asah ” nt, VII,
1917, tr. 205; Slapat Rayanang Datoa Sming Roug, “Lịch sử các vua”, nt, XIII, 1923, tr. 48, số 81. 574
A. P. Phayro “Lịch sử Mianma”, tr. 289; C.E. Harvay, “Lịch sử Mianma”, tr. 368. Manghla “Bản biên
niên sử các vua ở Mianma đã trị vì ở Thayekhittaya (Promo cũ) và ở Pagan”, báo hội nghiên cứu Mianma
XIII, 1923, tr. 82-94. 575
R. Gopalang “Lịch sử triều Panlava ở Căngsi”, Mafơráta, 1928, tr. 138.
110
5. Dòng Xailangdra ở Giava và Xumatra (813 - 863)
Ở Giava, các nguồn tài liệu Trung Quốc đã ghi những đoàn sứ thần cuối
cùng của nước Holinh576
vào các năm 813 hay 815 và 818, các đoàn của nước
Chopo vào các năm 820 và 831577
. Ta còn nhớ là Chopo vào thế kỉ V gồm tất cả
hoặc một phần đảo Giava, đến thế kỉ VIII trở thành tên kinh đô nước Holinh, và
giữa các năm 742 và 755 được bỏ đi thay bằng Plukiassơ, ở về phía đông: sự thay
đổi kinh đô đó do sự lên ngôi của triều Xailangdra Phật giáo ở trung tâm Giava.
Năm 820, sự tái hiện nước Chopo có thể do sự hợp nhất miền trung và đông dưới sự
bảo hộ của các vua Xailangdra, hoặc tựa hồ như một cuộc trở lại nắm quyền ở miền
trung đảo của các ông hoàng Shiva đã di cư về phía đông.
Về các người kế vị ở Panangcarang, vua Xailangdra sáng lập ra Kolasan,
người ta chỉ còn biết đến tên. Bút tích năm 907 kể trên đã liệt kê các vua Maharaja:
Pamungalan, Warak, Garung trị vì từ 829 đến 839 và Piketan trị vì năm 864578
nhưng không cho ta biết phổ hệ của họ.
Có phải một trong các vua đó đã mang tên đăng quang là Sumrottunga ghi
trong bút tích năm 847 không?579
Như người ta đã thấy, danh hiệu đó có thể là biến
thể của Sammaragravira, tên của con Xailangdra thuộc hiến chương Nalangda mà
người ta tưởng có thể đồng nhất với Panangcarang. Trong trường hợp đó, những
người kế vị của Panangcarang vừa được liệt kê lại vốn là những Xalangdra, họ vẫn
thực hiện quyền bá chủ, ít nhất là danh nghĩa ở Srivijaya, vì vào khoảng 850 - 860
vương quốc do một người “con thứ” (Balapuytra) của một trong các ông vua trên
cai trị. Lời ghi cổ nhất về Maharaja ở Dabac (Giavaca) của một tác giả Ả Rập (Ibn
Khordadzbeh)580
cũng áp dụng cho Xailangdra ở Giava.
Nhưng lúc mạt kỳ của thế lực dòng Xailangdra ở trung Giava kèm theo sự
hồi sinh của các đạo giáo Ấn Độ được xác nhận trong một bút tích ở vùng lân cận
Prambanang581
(863) đã đưa tới hậu quả củng cố vương quyền của họ ở Xumatơra
mà người ta thấy tiếng vang trong các tài liệu Ả Rập và Ba Tư, chắc chắn là đến thế
kỉ X, Dabac tương ứng với Xanfoxi của Trung Quốc, nghĩa là vương quốc Sumatra
ở Srivijaya.
576
P. Pelliot, “Hai cuộc hành trình”, BEFEO, 1903, IV, tr. 286. 577
P. Pelliot, “Hai cuộc hành trình”, BEFEO, 1903, IV, tr. 286-287. 578
N.J. Crom, “Ấn Độ - Giava”, Gesch, tr.156. 579
N.J. Crom, “Ấn Độ - Giava”, Gesch. 580
Tác giả này có tác phẩm ghi năm 844 - 848, đã nói đơn giản rằng “vua nước Dabac, một ông vua các đảo
ngoài biển Đông, gọi là Maharaja”; G. Pherăng, “Quan hệ dụ lịch là văn bản địa lý Ả Rập, Ba Tư và Thổ Nhĩ
Kỳ”, tr. 23-24, 29-30; “Đế quốc Sumatra Srivijaya”, báo Á châu, 7 + 8/ 1922, tr. 52-53. 581
“Bút tích ở Preng”, N.J. Crom, “Ấn Độ - Giava”, Gesch, tr. 165.
111
Tất cả những điều người ta biết về nó giữa thế kỉ IX582
là “Maharaja ở
Xumacunatvipa” là con trai thứ của vua Xilangdra “vua ở Giava và kẻ giết hại các
anh hùng đối phương” nghĩa là Panangcarang.
Nhờ mẹ ông là bà Tara, ông trở thành cháu vua Dharmasetu hay Vacmaxtuy
mà người ta muốn đồng nhất với Dharmapala thuộc triều Palava ở Banggalo583
,
nhưng rất có thể trị vì ở Srivijaya584
. Cái người “con trai thứ” (Balapuytra) đó có lẽ
là ông vua Xailangdra đầu tiên ở Srivijaya. Ông ta cho xây dựng tại Nalangda ở Ấn
Độ một tăng viện585
mà đến năm thứ 39 ở ngôi mình (820 - 860) vua Dvapala đã
hiến nhiều làng: đó là một lễ hiến làm đề mục cho hiến chương gồm những chú dẫn
phổ hệ về tình hình đã nói ở trang trên.
582
Nhờ hiến chương Nalangda do Hiranangdasatsxtri ấn hành “Bản sao hiến chương Nalanga ở Drapaladra”,
Minh văn học Ấn Độ, XVII, 1924, tr. 310-327. 583
G.F. Stúttéchem, “Thời kì Giava trong lịch sử Sumatra”, Sumatra, 1929, tr. 9-12. 584
K.A. Nila Căngta Xátxtơri, “Srivijaya”, BEFEO, XL, tr. 267. 585
Về việc xác định địa điểm của cái “Vihara” đó trong số các phế tích ở Nalangda, xem F.D.K. Botso “Een
vorkonde van het groote khooster te Nalanda”, Tifd. Bat. Gen. LXV, 1925, tr. 08-509.
112
Chương VIII:
Sự thịnh vượng của vương quyền ăngko
và của nước Srivijaya
(Cuối thế kỷ IX đến thế kỷ XV)
1. Thời kì đầu của vương quyền Ăngko (877 - 1001).
2. Triều đại Champa Indrapura.
3. Vương quốc Giava ở Mataram.
4. Nước Sangtotsi hay vương quốc Xumatra Srivijaya.
5. Nước Mianma.
1. Thời kỳ đầu của vương quyền Ăngko (877 - 1001)
Sau sự im lặng hơi kỳ dị của của Jayavarman II và Jayavarman III,
Indravarman lên ngôi năm 977 nối lại truyền thống minh văn có từ thời kỳ Tiền
Ăngko. Có lẽ chúng ta được hưởng tình trạng đáng mừng đó nhờ ảnh hưởng của
ông thầy tinh thần của nhà vua, một người Balamon tên là Xivaxoma, có họ hàng
với Jayavarman II 586
và môn đồ của nhà triết học Ấn Độ xuất sắc Xancarasaria,
người đã khôi phục lại đạo Balamon chính giáo587
. Hình như người phải là
Indravarman không có chút liên hệ họ hàng nào với 2 ông vua tiên đế. Những nhà
phổ hệ các triều sau cố gắng dù tốt dù xấu gì cũng gán cho ông là cháu ruột hàng
cháu họ của họ hàng vợ vua Jayavarman II588
nhưng đó là một kỳ vọng không có
trong bất cứ bút tích nào của ông ta. Ông là con vua Prithivindravarman và nhờ mẹ
586
Ông là cháu gọi bằng ông của vua Jayangdradipativarman, cháu vợ của Jayavarman II. 587
G. Xodetx “Bút tích ở Campuchia” I, tr. 37; Xem Nicacangta Satsteri, “Ghi chép về niên đại của
Xangcara”, báo Á châu Mandơratx, XI, III, tr. 285. 588
A. Barth và A. Bergaigne, “Bút tích Phạn ở Champa và Cămpuchia”, tr. 361; G. Xodetx, “Bút tích ở
Bakasei Chamkrong”, Báo Á châu, số 5-6, 1909, tr. 485.
113
ông, ông trở thành chắt của một ông vua khác tên là Nripatinaravarman589
; người ta
không biết chút gì về những người gọi là vua đó.
Ông tiếp tục đóng đô ở Hariharalaya (Rotuotx) và ngay năm đầu tiên 877,
ông cho xây dựng ở phía bắc kinh đô công trình Indrataca, một cái bể lớn (ngày nay
đã cạn), ở giữa có lâu đài Lolei điều đó khẳng định quyền ưu tiên của các công trình
dẫn nước ở một sứ có nhiều cát và vấn đề lớn nhất là nước. Năm 879 ông cống hiến
6 cái tháp bằng gạch giả cẩm thạch Preatco590
để thờ tượng cha mẹ, ông bà ngoại,
Jayavarman II và hoàng hậu, được phong thần dưới dạng các thần Shiva và Dvi591
.
Cuối cùng năm 881 ông khánh thành lâu đài lớn nhất xây bằng đá xây để thờ vượng
dương vật Indrecvara mà theo tập quán cái tên đá hợp tên của thần Ixvara (Shiva)
với tên vua sáng lập. Đó là kim tựu tháp Bakong592
, ở phía nam Preatco.
Triều đại hơi ngắn ngủi đó hình như được thanh bình. Quyền lực của
Indravarman vươn tới vùng Châu Đốc, ở đó ông đã cúng thần Shiva một cái
Vimana trong ngôi đền cũ ở Pnongbuyang593
. Ở tận cùng tây bắc Ubon, ở đó có một
bút tích Phật giáo năm 866 trong có ghi nhận ông là vua đương vị594
. ở ngoài thầy
ông là Xixaxoma thừa nhận rằng “sự trị vì của ông như một vòng hoa nhài trên các
cái đầu kiêu hãnh của các vua Trung Quốc, và Giava595
. Một sự tự thị là quá đáng
nhưng nó cho thấy vài quan niệm về cục diện ngoại giao của Cămpuchia thời bầy
giờ.
Năm 889 Indravarman mất thụy hiệu là Icvaraloca. Người nối ngôi ông là
Yaxovardama, con ông, mà người mẹ là Inpradơvi thuộc dòng dõi hoàng gia cũ ở
Vyadrapura (Phù Nam), Cambuypura và Aninditapura. Ông vua mới nhờ vậy đã nối
lại được với dòng chính thống tiền Ăngko596
. Hơn nữa ông có gia sư là người
Balamon Vamaisiva thuộc về gia đình giáo chức có thế lực được vua Jayavarman II
589
A. Barth và A. Bergaigne, “Bút tích Phạn ở Champa và Cămpuchia”, tr. 6; G. Xodetx, “Bút tích ở Bakasei
Chamkrong”, Báo Á châu, số 5-6, 1909, tr. 24. 590
Tên cũ của lâu đài là Paramecvara, thụy hiệu của Jayavarman II. Các tháp ở đó là một hình 4 cạnh ở phía
nam Indratataca và có thể tương ứng với cái Puyricuar Jayavarman II, những bút tích Phạn ở lâu đài đó đã
được A. Barth và A. Bergaigne xuất bản, tr. 297, và G. Xodetx - sđd - tr.18 - những bút tích Khơmer cung
cấp cung cấp danh sách rất dài tên các tôi tớ đã được E. Aymonier phân tích trong ”Nước Cămpuchia”, II, tr.
439 và tái đăng trong tập IV cuốn Corpuytx. 591
G. Xodetx, “Sự phong thần ở Cămpuchia”, báo cáo khảo cổ ở Đông Dương 1911, tr. 40. 592
Những công cuộc khai thông ở Bakong đã phát hiện ra tên địa điểm của ngôi đền (làm dở dang hoặc bị
huỷ hoại) thờ dương vật Indrecvara, ở đỉnh kim tự tháp, một cái tháp mới xây dựng lại vào thế kỷ XI. Tám
cái tháp giả cẩm thạch ở chân kim tự tháp và các công trình phụ đền xây cùng thời với ngôi đền. Những bút
tích ở Bakong đã được A. Barth và A. Bergaigne xuất bản - sđd - tr. 310 và G. Xoetx, “Bút tích ở
Cămpuchia”, I , tr..31. 593
A. Barth và A. Bergaigne - sđd, tr. 313. 594
BEFEO, XXII, tr. 63. 595
G. Xodetx - sđd- tr. 43. 596
G. Xodetx, “Truyền thống gia hệ của các vua đầu tiên ở Ăngko”, BEFEO, XXVIII, tr. 124 và tiếp theo;
“Về Thuỷ Chân Lạp” - nt - XXVI, tr. 1 và tiếp.
114
giao cho nhiệm vụ thờ phụng vương thần597
và qua thầy của ông là Xivaxoma mà
ông có liên quan tức nhà triết gia Ấn Độ lớn Xangkaracharya.
Triều vua Yaxovarman I giữ lời cam kết với hai dòng tiền nhân đó, vì
chương trình mà ông thực hiện sau này đều dùng làm kiểu mẫu cho những người kế
tục ông.
Cùng năm ông lên ngôi, 889, ông cho xây dựng ở các tỉnh trong vương quốc,
ở gần bên các điện cổ hoặc ở những nơi hành hương được ưa chuộng độ một trăm
lâu đài mà mỗi cái có một toà cung điện - hành cung (rajakuti) giành cho vua ở khi
đi ra ngoài598
. Chỉ những lâu đài được xây dựng một cách thoải mái nhẹ nhàng đó,
người ta nhận ta độ 1 tá địa điểm, mỗi nơi được đánh dấu một cái bia ở mặt sau có
bút tích Phạn bằng chữ thường, còn mặt kia là lời đáp lại bằng chữ miền bắc Ấn Độ
(tiền-nagari), giống như chữ đưa vào Giava từ một thế kỷ trước599
. Những tấm
“ápphíc bằng đá” đó như A. Bergaigne gọi, đều có cùng một bản minh văn và chỉ
phân biệt bia này với bia khác ở tên vị thần được thờ cúng ở đó. Sau một phổ hệ chi
tiết của Yaxovarman và lời tán tụng ông, như tác giả của bài tụng tuởng vậy, là sự
phối hợp của sức mạnh và sự mềm dẻo về thể chất với tất cả những đức tính của sự
thông minh, nó đã tạo dứơi hình thức vương mệnh (Xadana), quy tắc của tu sĩ, nhất
luật gọi là Yasodharacrama.
Năm 893, Yaxovarman đã dựng lên ở giữa Indơratataca, tức là giữa các bể
lớn do cha ông đào ở phía bắc kinh đô, một cung điện gồm bốn tháp bằng gạch, mà
có lẽ dự án đầu tiên định xây dựng 6 cái, dùng cho việc chứa các tượng của bố mẹ
và ông bà của ông600
giống như cung điện ở Preatco; ngày nay cung điện đó được
biết dưới cái tên Lobei, nó hình như gợi lại, như tôi đã nói, cung điện của
Hariharalaya.
Yaxôvacman người ở chốn kinh đô đó và có thể ngay khi lên ngôi có thể đã
có ý định dời chuyển thánh điện vương quyền và trụ sở của thế quyền - bản bút tích
ở Xadocacthom601
ghi “thế là nhà vua cho xây dụng thành phố Yaxodapura và rước
vương thần ra khỏi Hariharalaya để cố định ở kinh đô. Rồi nhà vua cho dựng núi
trung tâm. Ngài Xivacrama (biệt hiệu của thầy VamaShiva) dựng cái dương vật
thánh ở chính giữa”.
597
Đó là cháu ngoại của Xivacaivalya, tư tế của Jayavarman II (L. Finot, “Bút tích ở Xdoccacthom” BEFEO,
XV, 2, tr.80, 89). 598
G. Xodetx, “Tìm hiểu Yaxotdaracrama”, BEFEO, XXXI, tr. 84 và tiếp. 599
Về đặc điểm của thứ chữ này, xem chú thích của A. Bergaigne ở đầu “Bút tích Phạn ở Cămpuchia”, tr.
346. 600
Bút tích Phạn do A. Barth và A. Bergaigne xuất bản - tr. 319; Bút tích Khơme do E. Aymonier phân tích
“Nước Cămpuchia”, II , tr. 450 và in lại trong tập IV cuốn Crymuytx. 601
L. Finot - sđd - BEFEO, XV, 2, tr. 89.
115
Từ lâu người ta tưởng rằng bản đó phù hợp với việc thiết lập Ăngkothom và
Bayon. Trong một cuốn hồi ức đã trở thành cổ điển602
Ph. Stern đã chứng minh rằng
không thể dưa lên thế kỷ IX một công trình được xây dựng và trang trí như Bayon,
và về phía tôi, tôi cũng đã chỉ ra rằng Ăngkothom dưới dạng hiện nay không thể nào
có trước thời kỳ cuối thế kỷ XII603
được. Thành phố được Yaxovarman xây dựng
nên đã được V. Golubép đồng nhất với một hình 4 cạnh mà hai cạnh tây và nam
được ghi nhận bằng bức thành đất hiện còn có thể thấy được và một cái hào đã biến
thành ruộng, và cạnh phía tây đựơc ghi nhận bằng con sông Xiemreap đã đổi dòng
so với lúc nguyên sơ604
. Trung tâm của hình 4 cạnh được đánh dấu bằng cái đồi
Pnong Bakheng, trên có một lâu đài hình kim tự tháp mà phong cách đúng là phong
cách thời đại đó; một bút tích đã chỉ ra rằng nó chứa cái dương vật của
Yasodharecvana605
.
Những nguyên nhân nào đã gây lên sự dời đô đó và quyết định lựa chọn địa
điểm mới ?
Danh thắng Hariharalaya bề bộn những lâu đài xây từ các triều đại trước có
lẽ không sẵn sàng cho việc thực hiện những dự án kiến thiết đô thành của ông vua
trẻ tuổi. Mặt khác, nếu như tôi nghĩ, nếu đền thờ dương vật hoàng gia phải trở thành
phần mộ của kẻ lập ra nó, tất nó phải được xây dựng lại mỗi khi có sự đổi ngôi,
cùng với việc đổi tên của cái dương vật đó606
. Đối với cái dương vật Yaxovarman
muốn vượt cái dương vật Indrecxara của cha ông bằng cách xây dựng ngôi đền trên
một ngọn đồi thiên nhiên, điều đó không có gì đáng ngạc nhiên. Vả lại với ba ngọn
đồi ở vùng lân cận Hariharalaya, ngọn Pnongboc cao nhất và quá kềnh cành để đánh
dấu nơi trung tâm một thành phố, còn ngọn Pnongcrom thì lại quá gần Biển Hồ. Chỉ
còn ngọn Pnong Bakheng mà bề cao và kích thước đáp ứng được đầy đủ ý định của
nhà vua. Có lẽ vì vậy mà ông đã chọn nó, và bằng lòng xây dựng ở hai ngọn đồi kia,
mỗi ngọn ba ngôi đền thờ Tam vị chí thần 607
(Ba thần hợp nhất).
Cùng một lúc với việc chỉnh đốn lại kinh đô và nối với kinh đô cũ bằng một
đường dẫn từ cửa đông đến góc đông bắc của Indratataca, cái bể nước do ông đào,
ông cho xây dựng ở đông bắc kinh đô mới một cái bể lớn dài 7km, rộng 1,8km. Cái
bể đó tên là Yaxodatataca, có viền một con đê bằng đất cao, ở 4 góc có đặt các bia
602
“Tượng thần Bayon ở Ăngkothom và sự phát triển của nghệ thuật Khơmer”, Niên báo viện Bác cổ
Guymê, thư viện phổ cập, 1927, tr. 47. 603
“Niên hiệu của Bayon”, BEFFO, XXVIII, tr. 81. 604
“Núi Bakheng và thành Yaxovarman”, BEFEO, XXVIII, tr. 319; “Những tìm tòi mới quanh núi Bakheng”
- nt - XXXIV, tr. 576. 605
G. Xodetx, “Bút tích mới ở núi Bakheng”, BEFEO, XI, tr. 396. 606
Ph. Stern, “Sơn - tự Khơmer, việc thờ dương vật và Dvaraja”, BEFEO , XXXIV, tr. 611. 607
M. Gleder, “Việc dọn dẹp núi Crom”, BEFFO, XI, tr. 371.
116
với những minh văn Phạn viết bằng chữ tiền - Nagari thuật lại phổ hệ của ông, phát
triển bài tán tụng công đức của ông608
. Ở bờ nam của cai bể nước lớn đó, hiện nay
đã cạn và được biết dưới cái tên Baray phía đông, ông cho xây dựng một loạt tu
viện cho các môn phái khác nhau, và nhờ chủ nghĩa triết chung về tôn giáo ông có
thể phân phối đặc ân của mình cho tất cả các môn phái đó609
: phái Bratmanacrama
Shiiva đối với người Xaiva, Pasupatas và Tapasvino610
, phái Vaishnavacrama Visnu
cho người Pancharatras Bahagarvatas và Sattvatas611
và có lẽ cả phái Sangatacrama
Phật giáo mà cái bia đã được di chuyển khỏi vị trí nguyên thuỷ của nó, đã tìm thấy
ở Teppranam trong Ăngkothom612
.
Chính dưới triều Yaxovarman người ta đã xây dựng các ngôi đền Shiva thờ
Xikharicvara “thần Shiva trên đỉnh” ở Preat Vihia, và thờ Badrecvara ở Shivapura
(Pnong Xangdac)613
.
Việc thành lập Yaxodarapura trên danh thắng sau này trở thành kinh đô
Cămpuchia cho đến thế kỷ XV, cũng đủ để minh họa triều của vua Yaxovarman mà
lịch sử chính trị rất ít được biết tới. Những bút tích minh văn kép (bằng hai thứ chữ)
choán một phạm vi khá rộng, từ bắc Hạ Lào614
đến bờ vịnh Xiêm giữa vùng
Sangtabun615
đến Hà Tiên616
. Căn cứ vào một văn bản thế kỷ XII, mới đây người ta
quy cho ông một cuộc viễn chinh sang Champa đúng vào thời kỳ đó617
. Một bút tích
của cháu họ ông là Rujangdravarman618
đã quy định biên giới của vương quốc lên
tận Xucsma. Kamratas (phía Mianma) biển (vịnh Xiêm), nước Champa và Trung
Quốc. Về mặt Trung Quốc, cần hiểu là nước Nam Chiếu mà một văn bản Trung
Quốc đã rõ ràng coi là giáp giới với Cămpuchia trong nửa sau thế kỷ IX619
. Lời ghi
về một thuỷ chiến công “đánh bại hàng nghìn thuyền có buồm trắng”620
, nếu không
phải của người Champa thì có thể thuộc về một cuộc xâm lược mới của người
Indonedieng.
608
Do A. Barth và A. Bergaigne công bố - sđd, tr. 413 và tiếp. 609
Về các môn phái đó, xem Sharlereliot, “Ấn Độ giáo và Phật giáo”, tập II. 610
Tiêu biểu là phế tích Preipraxat do G.Trave khai quật, BEFEO, XXXII, tr. 113; Cái bia đã được A. Barth
và A. Bergaigne công bố - sđd, tr. 418, BEFEO, XXXII, tr. 85. 611
Tiêu biểu là phế tích Praxatcomnap; Xem G.Trave – nt - Tấm bia đã được tôi công bố - nt, tr. 89. 612
G. Xodetx, “Tấm bia ở Teppranam “, báo Á Châu, 3-4/1908, tr. 203. 613
Miêu tả các lâu dài đó trong „Nghệ thuật Khơmer cổ điển”, H. Parmentier, BEFEO, XXIX, 1939, tr. 136
và 270. 614
Bia Huaythamo, A. Barth và A. Bergaigne, sđd, tr. 389. 615
Bia Paníct (Thư mục G. Xodetx, K. 479). 616
Bia Cuyhia Preat, A. Barth và A. Bergaigne, sđd, tr. 388 (dưới cái tên Pnongtrotung). 617
BEFEO, XXIX, tr. 316. 618
G. Xodetx, “Bút tích ở Bakasei Chamkrong”, Báo Á châu, số 5-6, 1909, tr. 409. 619
G. Maspéro, “Biên giới Trung Kì và Cămpuchia thế kỉ VIII đến thế kỉ XIV”, BEFEO, XVIII, 3, tr. 32;
Xem G. Maspéro, “Địa lý chính trị của Đông Dương vào khoảng năm 960”, EFEO, II, tr. 94-95. 620
A. Barth và A. Bergaigne, sđd, tr. 492, số 3.
117
Người ta không biết niên hiệu chính xác về ngày mất của Yaxovarman. Nó
phải vào trước năm 910 vì một bút tích của Phimeanaca, có lẽ gốc ở Pnong
Bakheng621
có nói tới trong phần chữ Phạn, về niên hiệu đó coi như ông đã mất622
và đã mang thụy hiệu Paramaxivaloka623
.
Về hai người con kế vị của ông, người ta biết rất ít. Con cả là
HarshavarmanI, năm 912 làm lễ hiến thần ở kinh đô cũ của Phù Nam624
, là người
xây dựng một cái Sơn miếu nhỏ ở Bakasei Chamkrong, chân núi Pnong Bakheng625
.
Có lẽ ông còn trị vì đến năm 922626
và khi chết có thể trong những năm gần đó, đã
nhận thụy hiệu là Ruydraloka.
Người con thứ, Ixanavarman II mà người ta chỉ biết đến thụy hiệu là
Paramarudraloka, lên ngôi năm 925627
, nhưng ngay từ 921628
một người cậu đã “dời
thành Yaxodarapura để đi trị vì ở Chokgargiat mang vương thần đi theo”629
. Như
vậy, hình như ông cậu này đã tiếm quyền và lên ngôi đến Jayavarman IV. Một văn
bản sau đã xếp việc lên ngôi này vào năm 928630
, có lẽ là năm Icanavarman II mất,
nhờ đó mà ông cậu có thể có hoàn cảnh lên ngôi một cách hợp pháp.
Trên danh thắng Kokker631
hiện nay, ở giáp một cái hồ nước, Jayavarman IV
xây những cung điện mới với những lâu đài khổng lồ632
: cái đáng chú ý nhất là tòa
tháp 7 tầng hình kim tự tháp, trên đỉnh còn có cái bệ của vương dương vật
Tribhuvanecvara mà cái bút tích gọi là Kamrateng Jagattarayya “thần là vương
quyền” và việc xây dựng cao tới 35m là một kỳ tích chưa từng nghe thấy633
. Hai
năm sau, kinh đô mới đến lượt nó lại bị phế bỏ để trở về kinh đô cũ.
Jayavarman IV - thụy hiệu là Paramacivapada - lấy một người em gái
Yaxovarman tên là Jayadvi634
mà sinh được một người con giai. Người con này kế
621
L. Finot, “Một bút tích Visnu ở Ăngko”, BEFEO, XXXII, tr. 1; Việc khai quật Pnong Bakheng đã phát
hiện ra ở chân kim tự tháp một loạt những điện nhỏ bằng gạch, có thể là những điện cá nhân do những quần
thần nhà vua xây riêng (BEFEO, XXIX, tr. 517; XXX, tr. 218, 580). 622
A. Barth và A. Bergaigne, sđd, tr. 574. 623
E. Aymonier, “Nước Champa”, III, tr.139. 624
A. Barth và A. Bergaigne, sđd, tr. 551; BEFEO, XXVIII, tr. 127-128. 625
Báo Á Châu, 5+6/1909, tr. 500. 626
BEFEO, XXXI, tr. 547. 627
G. Xodetx, “ Một niên hiệu của Isamavarman II”,báo hội Đại Ấn Độ, III, 1936, tr. 65. 628
G. Xodetx, “Niên hiệu của Cotke”, BEFEO, XXXI, tr.21, cùng năm đó xây dựng công trình Visnu ở
Praxat Cravang ở đông Ăngko do nhiều nhà quyền quý nhất. 629
Bút tích ở Xdoccacthom, BEFEO, XV, 2, tr. 90. 630
Bút tích ở Praxat Neang Khơman, G. Xodetx, “ Bút tích ở Cămpuchia”, II, tr. 32; BEFEO, XXXI, tr. 17. 631
“Đảo vinh quang” biến thể của chữ Gargyar, tên cây Hopea họ Song quả, thường được biết tên Annam là
Sao. 632
H. Parmentier, “Nghệ thuật nguyên thủy Khơmer”, I, tr. 15 và tiếp; Về minh văn của Kocke, xem G.
Xodetx, “ Bút tích ở Cămpuchia”, I, tr. 47-71. 633
G. Xodetx, “ Bút tích ở Cămpuchia”, I, tr. 68, 71. 634
G. Xodetx, “ Bút tích ở Cămpuchia”, I, tr.75.
118
vị ông năm 941 hoặc 942635
dưới tên Hacsavarman (thụy hiệu là Brahmaloka) mà
chỉ ở ngôi từ 2 đến 3 năm.
Một người em gái lớn tuổi hơn của Yaxovarman là Mahendradevi đã lấy một
người nào đó tên là Mahangdravarman mà các nhà phổ hệ học đã gắn một cách rất
lỏng lẻo và rất đáng nghi vào triều đại xa xôi của nước Cămpuchia thời Tiền
Ăngko636
. Từ cuộc hôn nhân đó, sinh ra một người con giai, Ragiangdravarman, là
cháu họ Jayavarman IV và Yaxovarman và là em họ (bút tích ghi là anh em) của các
Hacsavarman II. Cái chết do tự nhiên hay bị sát hại của cậu này, lúc đó còn là một
đứa trẻ, đã dẫn tới kết quả đưa Ragiangdravarman lên ngôi. Ông này cũng còn rất
trẻ nhưng tư cách hình như đúng đắn hơn ông cậu và người anh họ ông ta. Ông thực
hiện ngay việc nối lại truyền thống Ăngko bằng cách trở về đóng đô ở
Yaxodarapura rước vương thần về đó637
“cũng như Kusa (con Rama và Xita) đã làm
đối với Ayoahya sửa sang lại thánh đô Yaxodarapura từ lâu đã trống rỗng làm cho
nó trở nên nguy nga tráng lệ nhờ việc xây dựng một lâu đài với cung điện bằng
vàng óng ánh như lâu đài của Mahangdra trên mặt đất này”638
. Có lẽ đó là tình trạng
đầu tiên của Phimeanaca như người ta nhận xét639
, ở vào chỗ giao nhau của trục bắc
nam Yaxodrapura puy tụ trên đồi Pnong Bakheng với trục đông tây Yaxodaratataca
(Baray phía đông), hai thành tựu lớn của Yaxovarman.
Theo gương ông này đã xây dựng vào giữa bể nước Indratataca do cha ông ta
là Indravarman đào, cái hồ Lolei dành cho việc thờ cúng cha mẹ đã đựoc phong
thần dưới dạng Xita và Uma, Ragiangdravarman cũng cho xây dựng, năm 952, ở
giữa bể nước Yaxodaratataca do chú ông là Yaxovarman xây nên, một cái đền màng
tên là Mebong phương đông. Trong năm cái tháp bằng gạch xây theo hình hoa mai,
ông đặt tượng cha mẹ ông dưới dạng thần Xita và Uma, cùng với tượng thần của
Visnu và Brama, và ở giữa là cái dương vật Ragiangdrecvara (có lẽ trong khi chờ
xây dựng một một nghi đền riêng trong kinh đô được trùng tu lại) cũng như ở
Bakong, có 8 cái tháp phụ xây quanh, chứa 8 dương vật của Shiva640
. Chín năm sau,
năm 961, có lẽ lần này ông bắt chước Preatco xây dựng ở phía nam Yaxodaratataca
một sơn tự Prerup gồm : ở giữa là giương vật Ragiangdravadrecvara mà cái tên vừa
gợi lên tên vua, vừa gợi lên tên thần Badrecvara một thứ quốc thần được tôn kính
trong chính phẩm cổ xưa ở Vát Phu, cái nôi của người Cambuygia, ở 4 tháp 4 góc
sân thượng trên, một cái dương vật khác tên là Ragiangdravarmecvara “được dựng
635
G. Xodetx, “ Bút tích ở Cămpuchia”, I, tr. 260, 261. 636
G. Xodetx, “ Bút tích ở Cămpuchia”, I, tr. 260, 261. 637
Bút tích ở Xdoccacthom, BEFEO, X, 2, tr. 91. 638
Bút tích ở Xdoccacthom, báo Á Châu, 9+10/ 1908, tr. 239 (Bản dich có sửa đổi). 639
Ph. Stern, “Tượng thần Bayon ở Ăngkothom”, tr. 55. 640
Bia ở Mekong, do L. Finot công bố, BEFEO, XXV, tr. 351; Xem như trên, XXVII, tr. 137, số 1.
119
lên nhằm đề cao sự phồn thịnh của vua và dường như nó chính là tính chất hoàng
gia”, một bức tranh của Visnu Ragiangdravisvarupa để tưởng nhớ tới tiền nhân xa
xăm, một tượng thần Shiva Ragiangdravarmadvecmara để tưởng nhớ tiên đế
Hacsavarman II và tượng nữ thần Uma cho bà cô là Jayadvi, mẹ của tiên đế, cuối
cùng là 8 hình Murtu của Shiva641
.
Nhiều công trình đã gắn với tên triều đại Ragiangdraepvarman642
. Phần lớn
tác giả là những quan chức hay thầy Balamon cao cấp, họ lợi dụng sụ ít tuổi của vua
để giành lấy những địa vị ưu đãi trong triều. Cái kiểu giám hộ quốc đó của vương
quyền do những nhà quyền quý nắm, tiếp tục được sử dụng ở những triều đại sau và
có cũng do một nguyên nhân: vua còn quá ít tuổi khi lên ngôi. Trong số những nhân
vật đáng chú ý dưới triều vua Ragiangdravarman trước tiên cần kể đến
Rajakuvamana “đại cố vấn hoàng gia”, hình như giữ vai trò phụ chính hay một tể
tướng643
, rồi đến Xivasarya, một người Balamon đã hầu cận các vua từ thời
Ixanavarman II như một “hotar”644
và cuồi cùng là mật sứ (Sara)
Kavindrarimathana mà vua đã uỷ nhiệm xây dựng cung điện và lăng tẩm ở đông
Mebong645
. Ông này là tín đồ Phật giáo. Trên ba cái tháp ở lâu đài Batchum do ông
xây để thờ tranh phật Buddha, Vajrapani và Prajana, ông cho nhắc các minh văn
Phạn. Xếp theo thứ tự biên niên giữa tấm bia ở Teppranam phản ánh sự thành lập
một cái Acrama phật giáo của Yaxovarman và tấm bia ở Vát Xích Thổ, những minh
văn đó chứng minh sự liên tục, trong một số hoàn cảnh của đạo Phật Mahayang
trong các tín đồ mà các ông vua theo đạo Shiva không thèm tuyển dụng.
Tất cả những điều mà minh văn học cho ta biết và lịch sử chính trị ở
Cămpuchia dưới triều Ragiangdravarman là “ánh hào quang của ông đốt cháy
những vương quốc thù địch, bắt đầu từ nước Champa”646
. Có thể đó là sự ám chỉ
cuộc viễn chinh năm 945 - 946, qua đó như người ta sẽ thấy, quân đội Khơmer đã
cướp được tượng vàng ở đền Ponaga (Nha Trang).
Ragiangdravarman thôi trị vì năm 968 và nhận thuỵ hiệu là Shivaloca. Trong
năm cuối cùng ở ngôi bán, 967, ngôi đền thờ Tribuyvanamahecvara ở Icvarapuyra
(Bantay Sray) được xây dựng hoặc khánh thành bởi Yajavaraha, một người cháu
của Hacsavarman I, mà ở văn bia Khơmer ở Bantay Sray, tên là “thánh gia sư”:
641
G. Xodetx, “Bút tích ở Champa”, tr.73 và tiếp. 642
E. Aymonier, “Nước Champa”, III, tr. 490-491. 643
Tên ông tiếp tục xuất hiện trong các bút tích của Jayavarman V, là con kế vị Ragiangdravarman. 644
BEFEO, XXV, tr. 362, ông thuộc một gia đình giáo chức mà bút tích ở Vátthípdei cho ta biết. Khi in bút
tích đó trong tập “Pha trộn S. Levi”, (tr. 213) Tôi tưởng đã đồng nhất được Shiva saria với một người
Balamon khác cùng tên ghi nhận trong bút tích ở Xdoccacthom, như một thầy Tư tế của vương thần dưới
triều Jayavarman V và Xriavarman I (BEFEO, XV, 2, tr. 365). 645
G. Xodetx, “Bút tích ở Batchum”, báo Á Châu, 9+10/1908; tr. 251. 646
“Bút tích ở Batchum”, tr. 2 45.
120
(Xtengan) Vrah Guru Y. Không thể nào chính nhà bác học Balamon này đến triều
sau lại được thăng lên chức “Camrateng an” Vrat Guru.
Dù trường hợp nào, một quan chức lớn mang chức vị đó đã xuất hiện nhiều
lần trong các bút tích minh văn của Jayavarman V và hình như giữ một vai trò có
quyền lực lớn ở thời kỳ đầu triều đại.
Jayavarman V, con Ragiangdravarman, có thể còn rất trẻ tuổi khi lên ngôi
năm 968, và mãi 6 năm sau, năm 974, ông mới hoàn thành việc học tập dưới sự phụ
giáo của Vrat Guru647
. Ông trị vì được 30 năm , mà về mặt chính trị ít được biết hơn
các triều đại trước. Ba mươi năm đó được đánh dấu bằng việc xây dựng cung điện
tên là Jayangdranagarima mà các công việc thi công tiến hành năm 978648
, trung
tâm được đánh dấu bằng “ngọn núi vàng” hay “cái sừng vàng” (Hemagiri,
Hemacringagiri tên cổ điển của Meru) mà người ta định xếp ở Takeo, sơn miếu làm
dở dang ở phía tây con đê phía tây của đông Baray649
.
Jayavarman V gả em gái Indrakshmi cho người Balamon Ấn Độ tên là
Dvakarabatta sinh ở sông Yamuna, tác giả của nhiều công trình Shiva650
, và dưới
triều ông, người ta thấy hai người Balamon “ngoại quốc” (paradxa), có lẽ là người
Ấn Độ, đã tậu đất và dựng đền thờ Shiva651
. Các quan chức lớn ghi trong các bút
tích minh văn phần lớn cũng như nhà vua, đều là tín đồ đạo Shiva chính thống.
Nhưng cũng như các triều trứơc, đạo Phật tiếp tục được các quan chức cao cấp theo
nhiều. Những bút tích minh văn652
đã cho một quan niệm nào đó về đạo Phật mà về
mặt giáo lý nó tự cho mình là kẻ kế thừa của trường phái Yogachara và là người đại
diện của những “giáo lý thuần khiết của sắc và không” được phục hồi ở Cămpuchia
nhờ những cố gắng của Kiectipandita, nhưng trong thực hành nó mượn một phần
của nghi lễ Ấn Độ và tồn tại nhiều nhất trong việc thờ cúng bồ tát Lokecvera653
.
Jayavarman V mất năm 1001, nhận thuỵ hiệu là Paramaviraloka. Người kế vị
ông là cháu ông tên gọi Uydyadtyavarman I, ông này chỉ ở ngôi vài tháng654
.
647
G. Xodetx, “Bút tích ở Cămpuchia”, I, tr. 148; Về Bantay Sray, xem “Đền thờ Icvarapura”, Hồi ký khảo
cồ, BEFEO, I; G. Xodetx, “Niên hiệu của Bantay Sray”, BEFEO, XXIX, tr. 289. 648
BEFEO, XXXVII, tr. 383 và 386. 649
G. de Cray Reruyda, V. Golubep và G. Xodetx, “Niên hiệu của Takeo”, nt, XXXIV, tr. 401; Xem BEFEO,
XXXI, tr. 18-22; XXXVII, tr. 383-384, 411. 650
Preat Anhcoxay ở Xiemreap (A. Barth và A. Bergaigne, “Bút tích Phạn ở Champa và Cămpuchia”, tr. 77)
và Preat Comphuytx ở Mluy Pnong (G. Xodetx, “Bút tích ở Cămpuchia”, I, tr. 159. 651
“Bút tích ở Xdoccacthom, BEFEO, XV, 2, tr. 94. 652
E. Xnac, “Một bút tích phật giáo ở Cămpuchia”, Tạp chí Khảo cổ, 1883, tr. 82; G. Xodetx, “Một tài liệu
cơ bản về Đông Dương; tấm bia ở Vatxichtho”, Nghiên cứu Phật giáo ở Nhật Bản, IV, 1942, tr. 110; H. Kec,
“Over den annhep eener buddixtischi inscripticnit Battoambon Versl”, En Mededell Akad, Amstecdam,
1899, tr. 66 (do Putxanh dịch trong Mudéong, 1906, tr. 46); G. Xodetx, “Bút tích ở Cămpuchia”, II, tr. 202. 653
L. Finot, “Lokecvera ở Đông Dương”, BEFEO, I, tr. 227. 654
G. Xodetx, “Một bút tích của Uydayadityavarman I”, BEFEO, XI, tr. 400.
121
Các triều đại từ Indravarman đến Jayavarman V gần hơn một thế kỷ, tạo
thành một thời kỳ húng tráng, tương ứng từng phần với thời kỳ hỗn loạn trong lịch
sử Trung Quốc: cuối đời Đường và thời kỳ ngũ đại. Trải qua thời kỳ quân hoành
trong lịch sử, nền văn minh Ăngko mà vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của
miền trung Đông Dương và uy lực của nó đã gây lên những ảnh hưởng lớn trên các
vương quốc Thái ở Mekong và Menam, nó đã có một bộ mặt riêng và giữ được các
tính cách riêng cho đến thời kỳ suy tàn vào thế kỷ XIV. Ở đây không phải là vấn đề
miêu tả một cách chi tiết. Việc này E. Aymonier đã làm với những nguồn tài liệu
mà ông có655
. Tài liệu rất không đầy đủ: ngay về tính chất của nó, các bút tích minh
văn hầu như không cho người ta biết chút gì về đời sống dân chúng, về nền văn
minh vật chất, và các tín ngưỡng, các tập quán. Phải đến cuối thế kỷ XIII mới thấy
được trong bút kỳ của đại sứ Trung Quốc là Chu Đạt Quan một bức tranh khá sinh
động về nước Cămpuchia và dân chúng của nó trước ngày nó suy sụp. Những triều
đại mà các bút tích từ thế kỷ IX đến thế kỷ XII cho ta biết thường là về phái tăng lữ
cao cấp của tôn giáo chính thống, các nhân vật của triều đình với tư cách hoạt động
hướng về việc xây dựng có tính chất tôn giáo. Những bản lưu trữ, những tài liệu
viết trên da hay trên olle? Không còn lại chút gì, và vì ngoài mấy cái cầu, tất cả các
công trình kiến trúc Khơmer đều là các công trình về tôn giáo và người ta buộc phải
nghiên cứu nền văn minh Ăngko trên những tấm gương méo mó đó.
Nhà vua656
mà việc lên ngôi nhằm “ăn vương quyền” (như một quan cai trị
ăn tỉnh của ông ta) xuất hiện với chúng ta như một vị thần trên mặt đất hơn một vị
nhà cai trị. Kinh đô của ông với các hào luỹ, là một vũ trụ thu nhỏ lại có dãy núi
Sanravala và đại dương bao quanh657
. Trung tâm của nó đựơc đánh dấu bởi một cái
sơn tự tức là hình ảnh của Mruy và ở trên đỉnh là vương thần (Dvarugia, Camrateng
giagat taragia), cái vương dương vật nhận của Shiva qua trung gian một người
Balamon. Người ta không biết cái dương vật đó chứa đựng “tính chất của vương
quyền”, “cái tôi tinh tế của vua” có tồn tại là cái duy nhất qua các triều đại kế tiếp
nhau không658
và trong trường hợp ngược lại, những cái dương vật khác nhau do
655
E. Aymonier, “Nước Cămpuchia”, I, tr. 530 – 598. 656
Sụ kế tục triều vua hình như bình thường theo nam giới, theo trình tự con cả trở xuống: Jayavarman III là
con của Jayavarman II; Yaxovarrman là con Indravarman, và kế vị ông là con ông, Hacsavarman I, con cả,
Ixanavarman II, con thứ. Kế vị Jayavarman IV là con ông, Hacsavarman II, kế vị Ragiangdravarman là
Jayavarman V, con ông. Những ngoại lệ và sự xem xét chuyên cần các phỏ hệ đã chứng tỏ tầm quan trọng
của huyết thồng theo mẫu hệ. Nó là quy tắc trong các gia đình giáo chức lớn. Nhờ mẹ mà Yaxovarrcman gắn
với những triều đại Tiền Ăngko cũ vì ông đã lấy một trong những người chị của ông đó, và cũng vì mẹ ông là
chị (hay em gái của Yaxovảman mà Ragiangdravarman đòi lên ngôi. Một cách chung, những kẻ tiếm đoạt
chính thức hoá việc cướp ngôi bằng cách lấy con gái hoặc vợ của ông vua trước. 657
R. Von Heinơ Gendecr, “Weltbild and Bunform in Sudostasien Wiener Beitrage zur kunot and kultur
Asiens” IV, 1930, tr. 28. 658
Không có khả năng, thậm chí không thể có thể nói là không có thể có được việc cái dương vật lớn xây
dựng trên làm kin tự tháp Kocke và được quy là của vương thần qua các minh văn, đã được Jayavarman IV
122
các nhà vua hiến cho việc lên ngôi của mình và mang tên các vua đó (Indrecvara,
Yaxodarecvera, Ragiangdrecvera...) có tương ứng hay không với Dvaragia. Mỗi
ông vua có thời gian và phương tiện xây dựng sơn tự của mình ở giữa kinh đô và
người ta có lý khi nghĩ đến lúc chết, cái đền riêng đó trở thành cái lăng của chính
ông vua làm ra nó; đồng thời nhà vua còn nhận một thụy hiệu chỉ rõ ông sẽ thăng về
khoảng trời nào (Svacgata) và sẽ nhập vào vị thần nào?
Chính quyền của đất nước nắm trong tay của một thiểu số quan liêu, các
chức trọng đều do một hoàng gia nắm giữ. Các chức vụ tư tế của vua, tư tế các
vương thần, quốc sư của các hoàng tử... đều giành cho các nhân vật thuộc các gia
đình giáo chức lớn, mà sự truyền nối chức nghiệp được thực hiện theo hệ người mẹ,
người thừa kế bình thường là con trai của chị (hay em gái) hoặc con giai thứ. Các
gia đình Balamon thường kết chặt với hoàng gia; các cuộc hôn nhân giữa người
Balamon với Satơria hình như rất phổ biến. Hai đẳng cấp đó ở trên khối quấn
chúng, tạo thành một giai cấp riêng biệt đại biểu cho nhân tố trí thức và văn hoá Ấn
Độ, nhưng không nên kết luận rằng về mặt chủng tộc, tầng lớp quý tộc đó lại khác
biệt với số dân chúng còn lại, những tên Khơmer được dùng nhiều trong các nhân
vật thuộc hoàng gia và cả trong các tôn giáo. Những bút tích của tầng lớp quí tộc đó
là những tác phẩm văn chương duy nhất đến với chúng ta, đã cho ta một quan niệm
về bề rộng của nền văn hoá Phạn của họ, nó dần dần được đổi mới nhờ sự xâm nhập
của người Balamon từ Ấn Độ tới, như nó đã có ghi lại.
Về ngành cai trị dân sự, hình như nó rất hình thức và sử dụng một số nhân
viên rất đông chọn ra từ các tổ chức cấp bậc, những bút tích không cho ta biết trực
tiếp chút gì, những việc phanh phui tỉ mỉ nó ra cũng cho ta dựng lên được những nét
lớn và biết được guồng máy chính.
Tôn giáo trong các giai cấp lãnh đạo không bao giờ được thống nhất. Đạo
Shiva thống trị từ thế kỷ IX đến thế kỷ X, mãi đến thế kỷ XII, song song với những
việc xảy ra ở Ấn Độ, đạo Visnu trở nên khá mạnh để có thể tạo lên những công
trình xây dựng lớn, có tầm quan trọng cỡ Ăngkovat. Còn Phật giáo cũng không
ngừng nhập thêm tín đồ mới, và vào các thế kỷ sau người ta sẽ thấy các vua lớn như
Suriavarman I và nhất là Jayavarman VII đã chính thức bảo trợ nó. Sự khoan dung
lẫn nhau đó có khi đi đến một chủ nghĩa hỗn hợp thực sự, được bộc lộ ra trong nghệ
thuật điêu khắc và các bản minh văn659
, không phải là riêng ở Cămpuchia660
, nó
rước từ Ăngko về và từ đó Ragiangvarman lại đem đi. Ở thế kỷ XI, các bút tích có nói có một dương vật
bằng vàng. 659
Bút tích ở Teppraman, báo Á Châu, 3+4/ 1908 , tr. 205; Bút tích ở Batchum, nt, 9+10/ 1908, tr. 223-225;
và cho các thế kỷ sau. Bút tích ở Tuonpraxat, “Bút tích ở Cămpuchia”, II, tr. 97; Bút tích ở Taprom, nt, VI, tr.
70, số 4. 660
Người ta sẽ thấy việc thờ Shiva và Phật ở Giava.
123
được cắt nghĩa bằng ngay cấu trúc của xã hội vùng ngoại Ấn. S. Lêvi661
đã nhận xét
rất tốt rằng: ở Đông Dương, quần đảo Nava dường như việc ở gần các tôn giáo
Balamon không tạo lên một sự nguy hiểm nào đối với sự tồn tại của đạo Phật. Đạo
Shiva, đạo Visnu, cũng như đạo Phật ở đó đều giống như các vật phẩm nhập khẩu
xa lạ đối với người nước đó. Các vua, quý tộc có thể chấp nhận nó như một nền văn
hoá duyên dáng và tế nhị, nó không phải là một nền văn minh đã thấm sâu vào số
đông dân chúng. Cuộc sống xã hội tiếp tục diễn ra không có sự bận tâm của Mruy
và các quy phạm Balamon khác. Nhưng ở Ấn Độ lại khác. Đạo Balamon biến đổi
cùng trật tự xã hội và nhập làm một. Từ đó có sự khoan dung với Đạo phật, một
hiện tượng mà người ta chỉ thấy dấu vết ở Cămpuchia từ thế kỷ XIII, sau sự cuồng
tín đạo Phật của Jayavarman VII.
Từ thế kỷ IX đến thế kỷ XII một loạt liên tục các bằng chứng đã chứng minh
sự tồn tại của một đạo thờ cúng các tranh mang đặc điểm của những nhân vật lớn
của vạn thần miếu Balamon hay Phật giáo, những cái tên của nó gợi lại các chức vị
và dung mạo những nhân vật đã mất và cả những nhân vật còn sống nữa. Trong vô
số tượng Visnu, Shiva, Harihara, Lacxmi, Parvati, Bdidatva và nước Cămpuchia cũ
đã để lại cho chúng ta, chỉ một ít là đại diện một cách ghi nhận nhân cách các nhân
vật lớn của vạn thần Ấn Độ. Phần lớn tượng thần đó là tranh các vua, các ông hoàng
trong các quan chức lớn biểu thị dưới dạng các thần mà họ sẽ nhập vào khi chết đi.
Trên các tượng đó thường là sự hỗn hợp tên của nhân vật với tên thần, điều đó chỉ
ra rằng đó là một sự thờ cúng cá nhân662
.
Phần nhiều các cộng trình kiến trúc Khơmer lớn đều giành cho việc thờ cúng
quý tộc đó. Nó không có nguồn gốc trong tín ngưỡng của bình dân. Đó là những
công trình của vua, các ông hoàng, hay quan lại, dùng làm phần mộ, trong đó đảm
bảo cả việc thờ cúng cha mẹ, tổ tiên đã mất, những phần mộ đó có thể do những
người còn sống sẽ được thờ ở đó. Chính tay xây dựng lên và trông nom 663
.
Mục đích của những công trình đó cắt nghĩa tính chất tượng trưng của nghệ
thuật kiến trúc664
. Các thần Ấn Độ ngự trên đỉnh cao và di chuyển trong các lâu đài
bay. Phần kiến trúc thành hình kim tự tháp chắc chắn nhằm gợi lên hình quả núi.
Nếu thiếu kim tự tháp cao thì năm cái tháp xếp theo hình hoa mai gợi lên năm ngọn
núi Mruy. Còn về các lâu đài trên không trung, chỉ cần trang trí ở nền những cái cột
661
“Ấn Độ và thế giới”, tr. 121. 662
G. Xodetx, “Việc phong thần ở Cămpuchia”, báo cáo khảo cổ Đông Dương, 1911, tr. 28; “Để hiểu Ăngko
hơn”, tr. 43-65. 663
G. Xodet, ”Mục đích an táng của các công trình kiến trúc lớn Khơmer”, BEFEO, XI, tr. 315. 664
G. Xodet, “Hiểu Ăngko hơn”, tr. 85-118.
124
bằng các hình chim chóc là có thể tạo ra ngay đựơc một quan niệm tưởng tượng
được (ám thị).
Đó là những nét chủ yếu của nền văn minh Ăngko mà thế kỷ IX và X, với
các ngôi đền Quylen, Roluot, Bakheng, các công trình lớn Cotke, Mebong phía
đông, Prerup, Bantay Sray, Khơbang, Takheom đã đánh dấu về mặt nghệ thuật một
đỉnh cao mà chỉ Ăngkovat mới vượt lên được.
Người ta không có chút tài liệu nào về những việc xảy ra trong thời đó ở hạ
lưu sông Menam, vùng của vương quốc cổ Dvaravati. Chỉ có một bằng chứng ở đó
là một bút tích minh văn bằng chữ Phạn và chữ Khơmer tìm thấy ở đảo Ayuthia665
ghi hiệu năm 937, nó cho ta biết một dòng các ông hoàng ở Sanaxapuyra: người thứ
nhất là vua Bagadatta, rồi sau một thế hệ không xác định được, đến vua
Sundraparakrama, rồi con ông ta là Xundaravacman, và cuối cùng là vua
Narapatisimhavarman và Mangalavarman, tác giả của bản minh văn, đã hiến một
pho tượng Devi, hình tượng của mẹ ông. Tên của các ông này không có trong minh
văn Cămpuchia, nhưng bút tích bằng chữ Khơmer đã cho một danh sách các nô lệ,
chứng minh rằng ba phần tư thế kỷ trước khi nhập vào nước Cămpuchia, người
Khơmer đã thay người Mon là người đã ở đây vào thếkỷ VII.
2. Triều đại Champa Indrapura
Ở nước Champa, sau một khoảng trống về tài liệu khoảng 20 năm, đột nhiên
đến năm 875 người ta thấy một triều đại mới trị vì ở phía bắc666
, ở Indrapura thuộc
Quảng Nam hiện nay, cùng một lúc các nhà sử gia Trung Quốc một lần nữa đổi tên
nước này là Chiêm Thành667
“Thành Chiêm” (Champapura).
Người sáng lập ra triều đại Indravarman II, có tên huý là Laksmandra
Bhumicvara Gramasvamin. Ông tự cho mình là dòng dõi thần Urogia và khoác cái
áo vua cho ông là Ruydravarman và cha ông là Badravarman, ông nhấn mạnh trong
bút tích minh văn về việc “vương quyền không phải do cha ông để lại mà chỉ nhờ số
mệnh may mắn và nhờ công đức của tổ tiên”. Có thể ông được Vicrantavarman III
chỉ định ra làm vua theo yêu cầu của các quan to trong triều668
, vì Vicrantavarman
III mất mà không có người nối dõi.
Hình như triều đại này khá yên ổn, điều đó được đánh dấu bằng việc cử sứ
thần sang Trung Quốc năm 877. Hai năm trứơc 875, một công trình xây dựng lớn 665
G. Xodet, “Bút tích mới ở Ayuthia”, báo hội nghiên cứu Thái Lan, XXXV, 1944, tr. 73. 666
L. Finot, “Tấm bia đầu tiên ở Đồng Dương”, BEFEO, IV, tr. 84. 667
G. Maspéro, “Vương quốc Champa”, BEFEO, XXVIII, Paris, 1928, tr. 96 viết lầm là Tcheng Cheng. 668
Vấn đề là tìm hiểu xem người ông hay là bố Indravarman đã trị vì, hay chính ông ta đã sáng tạo ra triều
đại này. Điều đó gây lên một cuộc tranh luận giữa L. Finot và G. Maspéro. Theo tôi hình như cuộc tranh luận
đó kết thúc có lợi cho G. Maspéro, những thời hạn nhà vua dùng để phản ánh những hoàn cảnh lên ngôi của
ông, đối với tôi có lẽ là hình thức.
125
của Phật giáo đã chứng nhận lần đầu tiên sự tồn tại của Đại thừa ở, đó là tăng viện
Lacsmindralokecvara mà cái tên gợi lên tên người sáng lập ra nó. Tu viện này tương
ứng với phế tích Phật Giáo ở Đồng Dương, phía đông nam Mỹ Sơn669
.
Indravarman II mất và nhận thụy hiệu là Paramabutdaloca. Cháu ông lên kế
vị tên là Jayasimhavarman I mà người này chỉ biết hai niên hiệu, 892 và 902 trong
các bút tích phản ánh sự xây dựng các tượng vạn thần dưới triều ông670
. Cũng trong
thời kỳ này một người bà con của hoàng hậu Tribuyvanadvi tên là Pokhung Pilih
Raiadvara, ông này vẫn giữ trọng trách lớn dưới ba triều vua sau, đã sang hành
hương tận Giava (Yavatvipapura)671
.
Bút tích của ông này cho biết người kế vị Jayasimhavarman I là Jayavarman,
con ông mà người ta không biết chút gì nếu không phải là ông ta ở ngôi quá ngắn
ngủi. Người kế vị tiếp sau là Bhadravarman nhưng người ta không rõ mối quan hệ
họ hàng của ông này với các vua trước như thế nào. Hình như đây là một sự lên
ngôi đầy sóng gió. Ông trị vì năm 908 đến 910672
.
Con ông là Indravarman III mà minh văn ca ngợi những kiến thức văn học và
triết học673
của ông, đã hiến một pho tượng Bagavari bằng vàng vào năm 918 ở
Ponaga thuộc Nha Trang. Dưới triều ông, kéo dài khoảng hơn 40 năm, năm 945 -
946 ông đã đẩy lùi được cuộc xâm lược của ngưới Khơmer ở vùng Nha Trang,
tượng bằng vàng bị bọn xâm lược cướp mất. Bọn này là bọn mà “lòng tham và các
tính xấu khác chế ngự”, nhưng cuối cùng Ragiangdravarman đã phải chịu một cuộc
thất bại đẫm máu674
. Trước khi chết vào khoảng 959, Indravarman có thời gian nối
lại với Trung Quốc, mối liên lạc này trước đây bị gián đoạn trong thời kỳ rối loạn
vào cuối thời kỳ ngũ đại và năm 951, 958, 959 các sứ thần được cử đến nhà hậu
Chu675
.
Năm 906, người kế vị là Jayaindravarman I đã đem đồ cúng cho hoàng đế
thứ nhất triều Tống, mà việc lên ngôi của ông này cũng trùng với việc lên ngôi của
ông. Năm sứ thần lần lượt từ 962 đến 971 đã chứng minh mối liên hệ giữa hai
669
H. Parmentier, “Mục lục họa hình các công trình kiến trúc Champa ở Annam”, I, tr. 349; Về hình dạng
riêng của Mahayana ở Đông Dương, xem L. Finot, “Lokecvera ở Đông Dương”, BEFEO, I, tr. 232. 670
Bút tích ở Banlanh do L. Finot xuất bản, BEFEO, IV, tr. 99 và ở Châu Sa, do Huybơz xuẩt bản, nt, XI,
tr..282. 671
E. Huybơz khi dịch tấm bia ở Nhan Biên, BEFEO, XI, tr. 299 đã dùng thuật ngữ “học ảo thuật”. Chữ
Xichdayatra dùng để chỉ một cuộc hành hương ở một nước rất linh thiêng và nhiều ma lực. 672
Bút tích ở Phú Lương và Lạc Thanh do Huybơz xuất bản, BEFEO, XI, tr. 283, 285. 673
A. Barth và A. Bergaigne, “Bút tích Phạn ở Champa và Cămpuchia”, tr. 247. 674
A. Barth và A. Bergaigne, “Bút tích Phạn ở Champa và Cămpuchia”, tr. 260. 675
G. Maspéro, “Vương quốc Champa”, BEFEO, XXVIII, Paris, 1928, tr. 119.
126
nước676
. Năm 965, Jayaindravarman I khánh thành điện Ponaga trước đây 60 năm bị
ngưới Khơmer cướp phá và đã đặt lại một tượng đá nữ thần vào đó677
.
Năm 972 trên ngài vàng nước Champa lại xuất hiện một ông vua mới mà
người ta không có một bút tích nào, và tên ông ta theo văn tự pháp Trung Quốc phải
là Paravecveravarman678
. Ông tỏ ra rất đứng đắn trong mối quan hệ với Trung
Quốc. Ông đã cử đi ít nhất 7 sứ thần từ 972 đến 979. Đó là ông vua Champa đầu
tiên có quan hệ lôi thôi với vương quốc Annam, như là một quốc gia quân chủ.
Trước đó một chút nước Annam đã giải phóng khỏi ách thống trị của Trung Quốc
và người sáng lập ra triều đại độc lập nhà Đinh bị ám sát năm 979, một người nhà
Ngô trốn ở nước Champa đã yêu cầu Paravecveravarman giúp ông ta khôi phục lại
ngôi báu mà gia đình ông này đã chiếm giữ từ 939 đến 965. Một đoàn thuyền viễn
chinh tổ chức ra năm 979, tiến gần đến Hoa Lư, kinh đô nhà Đinh679
thì bị một trận
cuồng phong nhấn chìm tất cả trừ thuyền của vua 680
Champa.
Năm sau, một biến cố ở cung đình đã đưa Lê Hoàn lên ngôi vua Annam. Ông
sáng lập ra triều Tiền Lê. Ông cử ngay sứ giả đi sang Champa. Vua
Paravecveravarman đã khờ dại giam giữ sử thần Annam lại. Lê Hoàn liền tổ chức
một cuộc viễn chinh trừng trị, chém đầu vua, thiêu huỷ kinh đô nước đó năm 982.
Tân quân mà theo chữ Trung Quốc tương ứng với tên Indravarman IV, kịp thời dời
Indrapura trốn về phía nam, ở đó đến năm 985 ông cầu cứu một cách thất vọng sự
viện trợ của hoàng đế Trung Quốc.
Cũng trong thời gian đó, ở phía bắc nước Champa, một người Annam tên là
Lưu Kế Tôn chiếm được quyền hành và năm 983 đã chống cự thắng lợi sự chừng
phạt của Lê Hoàn. Sau khi Indravarman III chết Tôn chính thức tuyên bố làm vua
nước Champa và năm 986 cáo thị việc đó với triều đình Trung Quốc. Quyền thống
trị trong tay một người ngoại quốc đã gây nên trong một số dân chúng một cuộc
thiên di về Hải Nam và Quảng Châu681
.
Năm 988, người Champa tập hợp nhau lại quanh một người trong nước họ.
Họ tôn ông này làm vua ở Vijaya, nay thuộc Bình Định và nhân năm sau Lưu Kế
Tôn chết, họ công bố ông vua mới với tên là Harivarman II, vừa lên ngôi ông này
đã phải hứng chịu một cuộc xâm lược của nước Annam ở phía bắc vương quốc vào
năm 990. Sau một thời kỳ hoà bình được đánh dấu bằng việc xây dựng ở Mỹ Sơn
676
G. Maspéro, “Vương quốc Champa”, BEFEO, XXVIII, Paris, 1928, tr. 120. 677
A. Barth và A. Bergaigne, “Bút tích Phạn ở Champa và Cămpuchia”, tr. 260. 678
G. Maspéro, “Vương quốc Champa”, BEFEO, XXVIII, Paris, 1928, tr. 121, số 1. 679
Hiện nay thuộc tỉnh Ninh Bình. 680
H. Maspéro, “Sự bảo hộ toàn bộ nước Annam dưới triều Đường”, BEFEO, X, tr. 678. 681
Về thời kỳ này các nguồn tài liệu minh văn đều không nói tới cho biết qua văn bản Trung Quốc, G.
Maspéro, “Vương quốc Champa”, BEFEO, XXVIII, Paris, 1928, tr. 121 và tiếp sau.
127
môt công trình tên là Ixanabadrecvera682
, bằng việc trao đổi với hoàng đế Trung
Quốc năm 992 và bằng việc giải phóng 336 tù nhân bị giam ở Bắc Kỳ trong cùng
năm đó, sự xích mích với Lê Hoàn lại bắt đầu, lần này do người Champa đã tăng
cường những cuộc cướp phá suốt dọc biên giới phía bắc vào các năm 995 và 997.
Harivarman II lại đóng đô ở Indrapura, nhưng người kế vị ông mà người ta
chỉ biết tới một cái tên không đầy đủ là Yang Puy Quy Vijaya Cri ông này lên ngôi
từ 999683
đã viễn chinh bỏ lại kinh đô quá sơ hở đó năm 1000 để dời về Vijaya, hiện
nay là thành Chà Bàn, có ghi dấu ở giữa bằng một cái tháp gạch gọi là “Tháp
đồng”684
nước Champa không ngừng phải chịu đựng sức ép ngày càng mạnh của
nước láng giềng phía bắc và bắt đầu từ thế kỷ XI, mặc dầu vài lúc nhẩy giật lên, lịch
sử nước Champa chỉ là lịch sử sự thoái lui của nền văn minh Ấn Độ trước nền
văn minh Trung Quốc.
3. Vương quốc Giava ở Mataram
Sự suy tàn của thế lực dòng Xailangdra Phật Giáo ở trung Giava đã được xác
nhận, như người ta đã thấy, bằng sự có mặt ở phần Brambanam một bút tích Shiva
năm 863, có lẽ có liên quan đến việc thờ cúng thần Agtatya685
. Đầu thế kỷ X, việc
xây dựng các công trình Ấn Độ thuộc nhóm Brambanam686
đã củng cố thêm bằng
chứng đó, nhưng không nên kết luận rằng đạo Phật đã hoàn toàn biến mất ở vùng
này: những kiến trúc Phật giáo ở Plaosam và Sajivan687
đã chứng minh ngược lại và
nhiều chứng tích đã chỉ ra sự khoan dung lẫn nhau giữa đạo Phật và Ấn Độ giáo và
một số trường hợp, sự hỗn hợp giữa hai đạo đó lại đã được ghi nhận ở Giava cũng
như ở Cămpuchia688
.
Về phía Trung Quốc, những đoàn sứ thần do nước Chopo cử đi năm 860 và
873 là những nguồn tài liệu mà Tân Đường thư nói về xứ sở và cư dân của nó689
:
Họ làm những thành lũy bằng gỗ và ngay những ngôi nhà lớn cũng lợp bằng lá gồi.
Họ có những giường bằng ngà voi và chiếu bằng vỏ tre. Nước này sản xuất đồi mồi,
vàng, bạc, sừng tê giác và ngà voi... Họ có chữ cái và hiểu biết về thiên văn... Có
682
Bút tích ở Mỹ Sơn do L. Finot công bố, BEFEO, IV, tr. 113; Về niên hiệu trong bút tích, xem BEFEO,
XV, tr. 49, và G. Maspéro, “Vương quốc Champa”, BEFEO, XXVIII, Paris, 1928, tr. 126, số 3. 683
G. Maspéro, “Vương quốc Champa”, BEFEO, XXVIII, Paris, 1928, tr. 129. 684
H. Parmentier, “Mục lục họa hình các công trình kiến trúc Champa ở Annam”, I, tr. 198. 685
H. Kecnơ, “Veropr Geseh”, VI, tr. 277; N.J. Crom, “De inscriptie van Pereng”, Bijdr, 75, 1919, tr. 16;
Poecpatgiaraca, “Agatxtya”, tr. 45. 686
N. J. Crom, N.J. Crom, “Ấn Độ - Giava”, Kunst, I, tr. 440; “Ấn Độ - Giava”, Gesch, tr. 172. 687
N.J. Crom, “Ấn Độ - Giava”, Gesch, tập II, tr. 4; Gesch, tr. 171. 688
Nt- xem chú thích trên, T182, 193, 197. 689
W.P. Gronovent, “Ghi chép về bản đồ Malay”, Verh.Bát.Gen, XXXIX, tr. 13.
128
những người con giái có nọc độc; nếu đi lại với họ, người ta sẽ bị nhiều ung sang
(nhọt sâu) đau đớn và chết, nhưng xác không bị rữa ra690
.
Vua sống ở thành Chopo nhưng ki yên, tổ tiên lại ở quá về phía đông, trong
thành Polukiassen ở rải rác đây đó có 28 vương quốc nhỏ chịu thuần phục Chopo.
Nước Chopo có 32 thượng thú mà người đứng đầu là Tasacanghiong691
.
Minh văn cho ta biết năm 879 đến 882, vua Rake Kayuvanggi, tức Xagianot
xavatuga692
trị vì.
Năm 886 vua Datuyhumalang693
trị vì.
Năm 892 vua Limus tức tức Dvangdra, có lẽ trị vì ở phía đông694
và ở Guas
gri Kieectivardana.
Tất cả các ông hoàng đó đã để lại bút tích ở đồng bằng Keduy, vùng lân cận
Prambanang. Chính ở vùng này có thành phố kiểu mới Yogiacata, người ta đã đặt là
trung tâm của quốc gia Mataram. Cái tên đó áp dụng ngược về trước cho vương
quốc Xangiaya695
đến thế kỷ X trở thành tên chính thức của quốc gia hợp nhất vùng
trung tâm và vùng phía đông của đảo dưới một chủ quyền, để sau này lại dùng để
gọi có vùng phía đông thôi. Tuy nhiên, tất cả các kiến trúc của vùng phía nam đều
có tính chất tang lễ, nên có thể cung điện của các vua Kraton ở quá về phía bắc696
.
Với Balitung, người ta ra khỏi một thời kỳ nói chung được biết rất ít để lại
đặt chân lên một miếng đất chắc chắn hơn. Vài chứng tích cho ta nghĩ rằng ông ta
sinh trưởng ở vùng phía đông của đảo và nhờ lấy vợ mà ông ta có được quyền hành
ở miền trung697
. Chính trong các bút tích của ông, từ 898 đến 910698
lần đầu tiên
xuất hiện cái tên Mataram, và trong các bút tích đó lấy việc lên ngôi của Xanggiaya
như điểm khởi đầu cho một kỷ nguyên được dùng trong vài tài liệu của người kế vị
ông699
. Hình như về phần ông, ông có mục đích nối lại truyền thống Shiva trước đây
bị cắt quãng bởi việc nhảy vào sân khấu lịch sử của dòng Xailangdra Phật giáo, vì
lợi ích của mối liên hệ triều đại có thực hoặc tưởng tượng ra.
690
Về các cái Visahamyaca ở Ấn Độ, xem Taunay, “Lịch sử Đại Dương”, nhà xuất bản Penger, 1924, II,
tr..275. 691
Có lẽ dịch âm tên của Dacsa, ông này trước khi kế vị Batiung năm 915, đã xuất hiện trong các hiến
chương của vua như một quan chức cao cấp của triều đình, xem Poecbatgiaraca, sđd, tr. 110. 692
N.J. Crom, “Ấn Độ - Giava”, Gesch, tr.179; nt, tr. 181. 693
Nt, tr. 182; G.F. Stúttéchem, “Oudh Aanteck”, Bijdr, 90, 1923, tr. 296. 694
N.J. Crom, “Ấn Độ - Giava”, Gesch, tr. 182. 695
G.F. Stúttéchem, “Oudh Aanteck”, Bijdr, tr. 278 (1932) và 287 (1933). 696
N.J. Crom, “Ấn Độ - Giava”, Gesch, tr. 187. 697
Các chứng tích gọi ông là Raco Datuykuyra, ngài Balitung phương Đông, và Cri Icvakecxava
Titxavatunga(hay Xamarot tunga Dacmodaya Mahaxambu ở vùng trung). 698
G.F. Stúttéchem, “Wanagiri (M.N) 903 A.D”, Tijd. Bat. Gen, 74, 1934, tr. 296. 699
N.J. Crom, “Ấn Độ - Giava”, Gesch, tr. 191, số 1; R. Gorita, “De eenheid der Mataramsche dynastie”,
Feestbundel Bat Gen, 1929, I, tr. 202.
129
Khoảng năm 915, người kế vị Batitung là Daksha ngay từ 910 ông này đã
xuất hiện trong các hiến chương của Batitung như một người có chức cao nhất
(Rakryanri Hino, Mapatihi Hino)700
như Batitung, Daksha hợp nhất vùng trung và
vùng đông Giava dưới quyền của mình và đóng đô ở vùng Yogiacacta. Có lẽ ông là
người cho xây ở Prambanang công trình Lorrogiaygiogiang như một cái lăng của
Balitung701
, mà nguồn gốc phía đông đã cắt nghĩa sự tinh tế trong nghệ thuật của
nhóm đó cùng với nghệ thuật phía đông của đảo702
.
Triều vua Daksha cũng ngắn như các triều tiên đế của ông.
Tunlodong mà người ta được biết các niên hiệu 919 - 921, hình như vẫn còn
tự vì cùng một lúc ở miền trung và miền đông703
. Ngay từ 919 đã xuất hiện tên một
trong những bút tích của ông cái tên Raco Halu, ngài Xindok704
có thể là cháu của
Daksha. Ông này 10 năm sau sẽ lên ngôi.
Dawa lên ngôi năm 924. Viên quan cao cấp nhất vẫn là Xinhdoc (Xri Ixanavi
Crama)705
. Dưới triều Dawa nơi xuất sứ tài liệu minh văn chỉ ra rằng trung tâm hành
chính của vương quốc đã chuyển về phía đông, nhưng người ta cũng không thể định
được rằng phần trung của đảo đã bị từ bỏ. Dù trường hợp nào, các bút tích đó đều từ
phía đông đưa lại.
Vào khoảng 927, Dawa quy y dưới cái tên Vagicvara706
nhưng có thể về
danh nghĩa vẫn trị vì, vì hành động đầu tiên của người kế vị ông là Xinhdoc bắt đầu
từ 929.
Việc lên ngôi của Xinhdoc đánh dấu sự dời đô vĩnh viễn về phía đông, giữa
các nước Smeru và Wilis. Nguyên nhân của sự di chuyển đó biểu thị ra, trong khảo
cổ học bằng sự suy tàn rồi bỏ hẳn vùng trung và sự này nở ra nhiều công trình ở
vùng đông, điều đó cũng chưa hoàn toàn được sáng tỏ. Ngưới ta đã nghĩ tới việc có
thể những trận động đất và trận dịch nào đó đã tàn phá vùng trung của đảo707
.
Người ta lại giả thiết là có một phó vương đã giành độc lập ở phía đông và nhập vào
quốc gia quân chủ708
như nước Chân Lạp hay những hạt của người Cămbuygia đã
làm đối với nước Phù Nam. Cuối cùng người ta đã nghĩ tới việc tấn công trở lại của
dòng Xailangdra ở Sumatra, hay ít nhất là như ý nguyện của các vua Giava muốn
700
R. Gorita, “De eenheid der Mataramsche dynastie”, Feestbundel Bat Gen, 1929, I, tr. 188. Tên đầy đủ của
ông là Dacsottama Bahuyvajratijiacsacsaya. 701
R. Gorita, “De eenheid der Mataramsche dynastie”, Feestbundel Bat Gen, 1929, I, tr. 206. 702
R.Gôritx-nt. 703
N.J. Crom, “Ấn Độ - Giava”, Gesch, tr. 194. 704
N.J. Crom, “Ấn Độ - Giava”, Gesch, tr. 196. 705
N.J. Crom, “Ấn Độ - Giava”, Gesch, tr. 199. 706
G.F. Stúttéchem, “Een Dorkonde van Koning Puwagicwara uit 927 AD”, Rijd.Bat.Gen, 75, 1935, tr. 420. 707
Ijdecman, “Beschr der oudheden”, tr. 5. 708
Vet, “Giava”, I, tr. 45; Brander, “Enc Ned Judie”, III, tr. 132.
130
rời xa các kẻ kình địch nguy hiểm bao giờ cũng sẵn sàng đòi lại cái nôi cũ của
quyền lực của họ709
. Có điều này là chắc chắn: nếu có sự từ bỏ miền trung Giava thì
cũng không có sự cắt đứt về tinh thần, và các vua trị vì ở miền đông vẫn tiếp tục cầu
thần ở Mataram.
Tuy rằng Xinhdoc có thể, như tôi đã nói, là cháu Daksha, đến thế kỷ XIII,
người ta vẫn coi ông, dưới cái tên Xri Ixana (Vikramadakarmottungadva) là người
sáng lập ra thế lực Giava ở phía đông của đảo. Những bút tích của ông lần lượt từ
929 đến 947 tạo thanh nguồn tài liệu quý giá nhất trong việc nghiên cứu tổ chức và
chế độ của nước này, các bút tích đó đều xuất xứ từ miền thung lũng cao Brangtax,
vì người ta có thể quy cho ông đã xây dựng ở vùng sau một số công trình (ở
Belahang, Gunung Giangsir, Sangariti)710
mà không cái nào có thể so sánh với các
kiến trúc do các vua trước dựng lên ở đồng bằng Kedu.
Chính giữa triều ông sau này đã hình thành tác phẩm Ramayana của Giava711
và mặc dầu tình chất Ấn Độ rõ nét của các bút tích và các công trình, cũng vẫn dưới
triều ông này và đã quy việc biên soạn, do Sambharasaryavarana, tác phẩm tên là
Sang hyang Kamahayanikan712
, một luận văn Phật giáo ghi chú, vô cùng quý giá
đối với việc hiểu biết về đạo Phật Giava và đối với việc thuyết minh nghệ thuật kiến
trúc và tiếu tượng học.
Kế vị Xinhdoc là con giái ông tên là Ixanavijaya, cô này lấy một người tên là
Lokapala người ta có đọc một bút tích vào năm 950713
. Hai vợ chồng có con kế vị là
Makutavarmavarahana mà người ta không hiểu chút gì, ngoài việc con gái ông này
tên là Mahendradatta lấy một ông hoàng ở Bali, như người ta sẽ thấy.
Từ thế kỷ VIII hay IX, đảo Bali có những dấu vết Phật giáo, có lẽ có nguồn
gốc ở Giava hay Sumatra, nhưng cũng có thể là kết quả một sự du nhập trực tiếp từ
Ấn Độ vào. Trước lúc lên ngôi của Xinhdoc một chút ở Giava, người ta đã thấy
xuất hiện những tài liệu đầu tiên có niên hiệu. Nó cho biết một ông hoàng tên là
Ugrasena (915 - 942) trị vì ở Xinhamangdava hay Xinhatvalapuara và phát giác ra
xã hội Ấn Độ - Bali, độc lập đối với Giava, dùng thổ âm riêng ở đảo và theo cả hai
đạo Shiva và Phật cùng một lúc714
.
709
N.J. Crom, “Ấn Độ - Giava”, Gesch, tr. 28; F.L. Moen, “Criviginia, Iava và Cataha”, Tijd. Bat. Gen,
LXXVII, 1937, tr. 441-442. 710
N.J. Crom, “Inleiding”, II, tr. 27-35 và 307-309. 711
Poecbatgiaraca, “Niên hiệu của cuốn Ramayana nam giava”, Gedenkschs. Kon.Inst, 1926, tr. 256. 712
Do Y. Catx xuất bản, Lahay, 1990; xem N.J. Crom, “Ấn Độ - Giava”, Gesch, tr. 219. 713
Trên bút tích này ông mang chức Cri buyvanecvera Vitxnuxacalatmaca Dichvigiaya Paracramottungadva
(N.J. Crom, “Ấn Độ - Giava”, Gesch, tr. 222). 714
G.F. Stúttéchem, “Ondheden van Bali”, I, 1929; “ảnh hưởng nghệ thuật Ấn Độ vào nghệ thuật Bali cổ”,
hội báo Ấn Độ, 1935, R. Gorita, “Enkele mededeelingen nopens de oorkonden gestel in het ond - balisch”,
Ojawa, XVI, 1936, tr. 88-101.
131
Từ 955 đến 983715
, minh văn Bali phản ánh một triều đại mà các vua cùng có
âm tận cùng bằng varmadva.
955 và 967: Tabanadravavarmadva và Subhadrikavarmadva.
962: Chamdrabhayasimhavarmadva.
975: Ganasadhuvarmadva.
983: Srivijayavarmadva.
Sau đó, từ 989 đến 1022, các bút tích mang tên vua Udayana (Dharumo -
dayyanavarmadva) và hoàng hâu Mahangdradatta (Guynapriyadarma - patni) mà
người ta sẽ thấy, là con gái Maquytavam- xavardana, cháu của Xinhdoc. Đám cưới
Giava đó có kết quả là Ấn Độ giáo thâm nhập càng rộng ở Bali, mở đầu của nền văn
hoá Giava và nhất là Phù chú giáo. Ngoài ra đám cưới đó còn có kết quả sinh ra
Erlangga, ông vua Giava tuơng lai mà lịch sử sẽ được thuật lại ở chương sau.
Cùng thời kỳ đó (977) các tài liệu Trung Quốc cổ nhất nói về đảo Boocneo
(Puni)716
mà người ta nhớ lại là nó đã được nền văn hoá Ấn Độ đụng tới từ rất sớm.
Nhưng chúng ta hãy trở lại Giava.
Vào năm 991, một người con gái hoặc con rể của Nakuvamca717
đã kế vị ông
này và mở đầu một đường nối chính trị (gây chiến) xâm lược đối với Srivijaya. Đó
là điều tối thiểu toát lên từ tài liệu của do đoàn sứ thần ở Giava và Srivijaya tâu lên
triều đình Trung Quốc, nói về sự xâm lược của Chopo vào Sanfosi và sự xung đột
liên tục giữa hai nước718
. Ở chương sau người ta sẽ thấy kết quả cuộc xâm lược của
Giava có thể là một sự phản công của vương quốc Sumatra mà người ta có nhiều lý
do đứng đắn để quy trách nhiệm cho cuộc viễn chinh năm 1006 - 1007, cho cái chết
của vua Giava và cho sự phá huỷ cung điện của ông.
4. Nước Sangtotsi hay vương quốc Sumatra Srivijaya
Trong một đoạn trong cuốn “Lịch sử Ấn Độ - Giava” của mình719
, N.J. Crom
đã nêu bật đặc tính của những nhu cầu mà vương quốc Sumatra bị ép buộc phải bảo
vệ vị trí ưu đãi của nó. Đối với những nhà hằng hải ở quần đảo này, việc lựa chọn
một bến đỗ rất hạn chế vì bến đỗ phải có đầy đủ các điều kiện sau: là nơi trung tâm
có trình độ văn minh nhất định, thoả mãn được một số yêu cầu về địa lý, có một cái
715
Có lẽ từ 917 có một người tên là Xscarivarmadva đồng thời Vgraxna; nhưng niên hiệu dó không chắc
chắn; xem R. Gorita, “Enkele mededeelingen nopens de oorkonden gestel in het ond - balisch”, Ojawa, XVI,
1936, tr. 95. 716
W.P. Groenvent, “Ghi chép về quần đảo Malay”, 39, tr. 108. 717
Cho đến gần đây các nhà sử học gần như đã nhầm khi gán cho ông này cái tên Darmavamxa, tên đó thực
ra là tên con rể ông ta Erlangga; Xem C.C. Berg, “De Arjunawiwaha”, 97, 1938, tr. 75. 718
W.P. Groenvent, “Ghi chép về quần đảo Malay”, 39, tr. 18, 65; G. Pherăng, “Đế quốc Sumatra Srivijaya”,
báo Á Châu, 7+11/ 1922, tr. 18-19. 719
Sđd, tr. 113-114.
132
bến được bảo vệ tốt, thí dụ như ở cửa con sông, và có chỗ thả neo được chắc chắn.
Nhưng việc có được và bảo vệ được một cái bến cảng như vậy không thể không dựa
vĩnh viễn vào sức mạnh. Muốn bảo tồn được sự độc quyền, người chủ của bến đó
phải trung lập hoá các địch thủ hoặc thu phục họ để nắm chặt nền thương mại ở
vùng eo biển bằng cách làm cho mọi người cảm thấy thế lực của mình ở đôi bờ.
Đối với những người thương nhân sáng suốt như người Ảrap - Batư720
, việc
chiếm hữu đôi bờ các eo biển tạo nên sức mạnh cho Maharagia (vua) xứ Dabac.
Qua câu chuyện họ kể, sự khẳng định rằng Maharagia trị vì cùng một lúc cả Kalah
(Kra = bán đảo Malay), Sribuda (Srivijaya = Palembang = Sumatra) trở lại như một
chủ đề. Sau đây là đoạn như nhà địa lý học Batư Abu Zayd Hasan viết vào năm 916,
một phần theo chuyến du lịch mà thương nhân Ảrap Sulayman đã thực hiện năm
815 ở Ấn Độ và Trung Quốc721
.
“Thành Dabac ở trước mặt nước Trung Quốc. Khoảng cách giữa hai nơi đó
là một tháng đường biển hoặc ít hơn nếu thuận buồm suôi gió. Vua ở thành đó gọi
là Maharagia. Người ta nói diện tích của thành này là 900 dặm Batư722
. Ông vua
này đồng thời là chúa tể một số lớn đảo rải rác trên hơn 1000 dặm hoặc hơn nữa.
Trong các quốc gia này ông ta trị vì, có hòn đảo Sribuda diện tích 400 dặm và đảo
Rami (Asin, bắc Sumatra) diện tích 800 dặm... Thuộc về quyền chiếm hữu của
Maharagia còn có Calat, một hải quốc ở vào khoảng giữa đường từ Trung Quốc đi
Ảrap... Chính ở bến cảng này các tàu ở Oman cập tới và cũng từ bến cảng này các
tàu đi Oman khởi hành. Quyền lực của các vua tác động trên các đảo. Trên hòn đảo
vua ở, đất cũng phì nhiêu như những đất màu mỡ khác, và các nơi có người ở thì
nối nhau không gián đoạn. Một người có chứng cớ đáng tin cậy đã thuật lại rằng khi
những con gà trống gáy lúc bình minh, như nó đã làm ở Ảrap, thì tiếng gáy đáp nối
tiếp nhau khắp xứ này trên một bề mặt tới 100 dặm hay hơn nữa, vì các làng ở nối
tiếp hết làng nọ đến làng kia không gián đoạn...”.
Năm 995 nhà địa lỳ Maxudi đã nói bằng những từ khoa trương về “vương
quốc của Maharagia, vua các đảo xứ Dabac, trong đó có đảo Calac và Sribuda và
nhiều bể khác trên bể Trung Hoa. Người ta gọi tất cả các ông vua là Maharagia. Cái
đế quốc của Maharagia này có một dân số khổng lồ và những đạo quân đông vô kể,
không ai có thể, trong hai năm, với những chiếc thuyền nhanh nhất, đi khắp các đảo
có người ở. Vua của họ có nhiều loại hương liệu và nước hoa hơn bất cứ ông vua
720
Về các bản đó, xem G. Pherăng, “Liên lạc du lịch và văn bản địa lý Ảrap, Batư, Thổ Nhĩ Kỳ”, Pari, 1913. 721
G. Pherăng, “Liên lạc du lịch và văn bản địa lý Ảrap, Batư, Thổ Nhĩ Kỳ”, Pari, 1913, tr. 82-83; “Đế quốc
Sumatra Srivijaya”, báo Á Châu, 7+9/1922, tr. 56-57. 722
Mỗi dặm Batư bằng 6km1/4.
133
nào khác. Đất của họ sản xuất ra long não, trầm hương, đinh hương, bạch đàn, nhục
đậu khấu, bạch đậu khấu (sa nhân) màng tang...723
Đối với người Trung Quốc, nước Chelifoche trở thành Sanfosi 724
bắt đầu từ
904 / 905 nó cử nhiều sứ thần sang Trung Quốc. Đó là người chủ không chối cãi
được của các eo biển, qua đó toàn bộ nền thương mại từ Trung Quốc sang Ấn Độ
phải lưu thông725
.
Trong khi trở thành một cường quốc về kinh tế, Srivijaya hình như đã bỏ lẵng
những giá trị về tinh thần nó đã hấp dẫn nhà hành hương Trung Quốc Nghĩa Tĩnh
vào thế kỷ VII. Qủa vậy, các vua Giava phủ kín các hòn đảo của họ bằng những
công trình tôn giáo thì các vua ở Srivijaya, vì bận tâm coi giữ việc thông thương ở
các eo biển hơn là xây dựng các công trình bền vững lâu dài, nên các ông chỉ để lại
cho chúng ta những tháp bằng gạch không đáng kể và một số bút tích ít ỏi.
Trong số các vua đó, Tống sử726
cho biết năm 960, hai bút tích
Slihutahialitang và năm 962 Cheliwouye có lẽ của cùng một ông vua Sriudayaditya
(Varman)727
. Những sứ thần các năm 971, 972, 974, 975 không cho biết tên vua, sứ
thần năm 980 và 983 cho biết vua Hiatso, tiếng Malay là Hagi, chỉ là một vương
hiệu đơn giản mà thôi.
Tống sử viết: năm 988, một sứ thần đến với ý định mang đồ cống tới dâng.
Vào mùa đông năm 922, người ta được biết từ Cangtong rằng sứ thần đó rời kinh đô
Trung Quốc cách đây 2 năm, đã được tin là phía nam nước ông đã bị người Chopo
chiếm và do hậu quả của biến cố đó, ông ở lại Cangtong 1 năm. Vào mùa xuân 922,
sứ thần đã đáp thuyền riêng về nước, nhưng ở đó ông không thu được tin tốt lành
nên đã trở lại Trung Quốc và xin nhà vua sắc lệnh đặt Sanfosi dưới quyền bảo hộ
của Trung Quốc”.
Người ta đã thấy các phái viên Giava cùng năm đó đã mang đến Trung Quốc
những tin tức trùng hợp nói rằng nước họ tiếp tục có chiến tranh với Sanfosi, những
điều mà họ không nói là cuộc xâm lược từ Giava tới. Có lẽ sự bảo hộ của Trung
Quốc ít hay nhiều có kết quả, hay có lẽ chỉ là sự bằng lòng ngầm của Trung Quốc
723
G. Pherăng, “Liên lạc”, tr. 109-110; “Đế quốc Sumatra Srivijaya”, báo Á Châu, 7+9/1922, tr. 63. 724
Việc phiên âm này chưa được giải thích hoàn toàn thoả mãn. Orutxo muốn chứng minh chữ Xan như một
tiếp vị ngữ của một chữ đáng lễ phải được là Sơ = Cơri (BEFEO, XXIII, tr. 447) điều đó hình như chưa
thuyết phục được các nhà nghiên cứu chữ Trung Quốc. Dù sao thì Fosi chắc chắn là tương ứng với Vijaya. 725
Thương điếm cho ngành thương mại đường thuỷ mở ở Cangtong năm 971 đã tiếp nhận các người ở
Sanfosi trong số các người ngoại quốc (W.W. Rockhin, “Ghi chép về sự liên lạc ở Trung Quốc”, tùng báo,
XV, 1914, tr. 421). Năm 980, Tống sử đã ghi nhận việc cập bến của một thương nhân Sanfosi ở Triều Châu,
cũng cuốn đó thuật lại một toán thuần tuý về thương mại cũng từ Sanfosi tới. 726
W.P. Groenvent, “Ghi chép về quần đảo Malay”, 39, tr. 62- 68; G. Pherăng, “Đế quốc Sumatra Srivijaya”,
báo Á Châu, 7+9/1922, tr. 15- 22 727
F.L. Moen, “Criviginia, Iava và Cataha”, Tijd. Bat. Gen, LXXVII, 1937, tr. 457.
134
đã khuyến khích Srivijaya làm cho nước này đánh cho Giava những trận trả thù mà
chương sau sẽ bàn tới.
5. Nước Mianma
Ở Mianma, trong thời kỳ nói trong chương này, những biên niên bản sứ tiếp
tục cung cấp danh sách các ông vua728
của Pagan cũng như của Pguy, mà các bằng
cớ không thể kiểm tra được vì thiếu sự giao tiếp với minh văn hay trong biên niên
sử Trung Quốc. Những sự vay mượn ở truyền thuyết hay ở nền văn học dân gian
cuả các biên niên ký đó là hiển nhiên. Như vậy đến năm 931 nó đặt lên ngôi nước
Pagan một tay chiếm đoạt tên là Niungusorahan. Đó là một người làm vườn cũ đã
giết vua Theihao (Singho) vì ông này đã hái dưa chuột trong vườn của bác ta729
: thế
mà, cũng chuyện đó cũng là nguồn gốc của triều đại Cămpuchia đương đại và người
ta còn biết nhiều chuyện khác730
.
Theo biên niên ký Mianma 731
, người làm vườn tiếm ngôi, đến lượt bác ta lại
bị lật đổ năm 964 do một ngưới tên là Kunsho Kyaungphyu, đại diện cho dòng
chính thống, ông này đã lấy làm 3 bà hoàng hậu của 3 vua trước. Nhưng đến năm
986, hai người con giái của bác làm vườn và hai bà hoàng hậu đã dẫn nhà vua đến
một tăng viện và buộc ông đi tu. Sau 6 năm trên ngôi, người anh cả là Kyiso, bị chết
trong khi đi săn. Người em là Sokkate kế vị năm 992, bị con của Kunsho
Kyaungphyu và bà hoàng hậu thứ ba giết năm 1044, người con đó là Duoratha tài
giỏi (Anuruddha) mà lịch sử được kể lại trong chương sau.
728
A.P. Phuyrer, “Lịch sử Mianma”, London, 1883, tr. 280; G.E. Harvei, “ Lịch sử Mianma”, tr. 364, 368;
Mang Hla, “ Bản biên n iên”, báo hội nghiên cứu Mianma, XIIII, 1923, tr. 93. 729
G.E. Harvei, “ Lịch sử Mianma”, tr. 18. 730
G.E. Harvei, “ Lịch sử Mianma”, tr. 315; Xun Huyber, “Người làm vườn giết vua trở thành vua”, BEFEO,
V, tr. 176; Rarada, “Người Xamre”, nt, XLI, tr. 11. 731
G.E. Harvei, “ Lịch sử Mianma”, tr. 19. Niên hiệu 10 tác giả này cho hình như cao quý vì nó dẫn tới chỗ
triều của Xoccatter dài một cách quá đáng và làm cho Auoratha mất gần 1 trăm tuổi.
135
Chương IX:
Ba ông vua lớn:
Suryavarman I ở Cămpuchia, Erlangga ở Giava, Anoratha ở Mianma
(Ba phần tư đầu thế kỷ XI )
1. Nước Cămpuchia: Suryavarman I (1002 - 1050) và sự bành trướng về
phía tây; Vdayadityavarman II (1050 - 1066).
2. Nước Champa (1000 - 1074).
3. Srivijaya và mối quan hệ của nó với người Cola ở Tanggiua (1003 -
1030).
4. Giava: Erlangga (1006 - 1049).
5. Srivijaya và người Cola (1067 - 1069).
6. Nước Mianma: Anoratha (1044 - 1077).
1. Nước Cămpuchia: Suryavarman I (1002 - 1050) và sự bành trướng về
phía tây; Vdayadityavarman II (1050 - 1066)
Cả minh văn Khơmer lẫn tài liệu Trung Quốc đều không giúp ta ước đoán
được nguyên nhân nào đã đưa lên ngôi vua ở Cămpuchia Suryavarman I, một ông
vua thuộc dòng dõi mặt trời mà mối liên hệ họ hàng với các vua trước thuộc dòng
dõi mặt trăng có thể là sự bịa đặt hoàn toàn của các nhà tổ hệ học chính thức.
Những biên niên ký muộn màng ở các hạt người Thái vùng thung lũng phượng sông
Menam viết ở Chiengmai vào thế kỷ XV, XVI cũng dữ cho vào dữ kiện về sự bành
136
trướng của thế hệ Khơmer ở lưu vực sông Menam, đối với những dữ kiện đó thật là
khinh suất nếu cho nó một sự tín dụng quá đáng.
Minh văn Khơmer trong 10 năm đầu thế kỷ XI đã đưa ra 3 ông vua mà sự
liên hệ không được rõ ràng lắm nhưng hình như đối địch nhau.
Năm 1001 là năm lên ngôi của cháu Jayvarman V, Vayadityavarman I mà
chỉ có 2 bút tích được biết, 1 cái ở Cocke732
, cái nữa ở Mluprei733
. Năm đó một ông
vua có tên là Suryavarman, hiệu là Canvan hình như chuyển từ danh hiệu Malay
“tuan” sang, đã được ghi vào 1 bút tích ở Sambo trên sông Mekong734
và trong 1 bút
tích ở Sambo lân cận Congpongthom735
. Năm sau, 1002 ta lại có 2 bút tích về ông
này ở vùng đó736
. Vì 1003 đến 1006 xuất hiện một ông vua tên là Jayaviravarman
mà câu bút tích của ông737
nêu lên như là ông đã trị vì ở Ăngko từ 1002 sau đó
Suryavarman trở thành người chủ không chối cãi được ở kinh đô và năm 1011 ông
ta cha khắc trên các lỗ cửa của ngọ môn công thức của lời truyện thệ kèm theo tên
các quan tỉnh trưởng, giả làm chữ ký của họ738
.
Điều mà người ta có thể rút ra từ các bút tích đó739
là việc lên ngôi của
Udayadityavarn I năm 1001 gây nên cuộc cạnh tranh giữa Jayaviravarman trị vì ở
Ăngko ít nhất từ 1003 đến 1006 với Suryavarman đóng đô ở miền đông. Giữa các
năm 1005 và 1007, Suryavarman cầm đầu 1 đoàn quân tiễu phạt, nó đã tàn phá các
nơi thánh và người ta còn thấy tiếng vang trong các bút tích740
. Một bút tích ghi741
:
“Ông ta đạt vương quốc của 1 ông vua giữa 1 đám những ông vua khác”. Cuộc
chiến tranh kéo dài 9 năm742
và sự thiết lập vương quyền của Suryavarman ở Ăngko
phải bắt đầu vào khoảng 1010, nhưng sau này, trong các bút tích của ông, ông cho
ghi sớm lên vào 1002 nghĩa là vào lúc Vdaydityavarman chết hoặc mất tích.
Ông tự xưng là dòng dõi bên ngoại Indravarman743
và nhờ vợ ông là
Viralacsmi với con Yaxovarman744
. Điểm trên không có gì xác minh được. Còn
điểm dưới, tên Viralakshmi hình như chỉ ra rằng bà công chúa đó trước tiên lấy
732
BEFEO, XXX, tr. 15, số 2. 733
Bút tích của Praxat Khna, nt, XI, tr. 400. 734
Nt, XXVIII, tr. 142. 735
Bút tích Robang Romeat, nt, XXXIV, tr. 422. 736
Bút tích Robang Romeat, nt, XXXIV, tr. 422. 737
Bút tích Robang Romeat, nt, XXXIV, tr. 423 và A. Barth và A. Bergaigne, “Bút tích ở Cămpuchia”, I,
tr..189. 738
E. Aymonier, “Nước Cămpuchia”, III, tr. 139; BEFEO, XIII, 6, tr. 14. 739
BEFEO, XXXIV, tr. 425.
740
BEFEO, XXXIV, tr. 425. 741
Bút tích Preatkhan ở Congpongxvei, nt, IV, tr. 646. 742
Nt, XXXIV, tr. 427. 743
G. Xodetx, “Hai bút tích ở Vatthipday”, tr. 216. 744
G. Xodetx, “Hai bút tích ở Vatthipday”, tr. 216 và “Bút tích ở Cămpuchia”, I, tr. 196.
137
Jayaviravarman, và ở đây người ta có một thí dụ mới về sự chính thống hoá vương
quyền bị chiếm đoạt bằng cách lấy người vợ của vua trước.
Tuy danh hiệu Canvan không phải lần đầu tiên được ông ta đưa vào hệ hàm
tước745
, song lễ nghi của nó có nhiều đặc điểm nên người ta định tìm chứng cớ để
xác minh ông này gốc ở Malay. Điều đó cắt nghĩa sự ưu đãi của ông đối với đạo
Phật phong huy hiệu là Niecranapada. Đó là đạo phật hỗn hợp, nó ngăn cản việc
tiếp tục thờ Vương thần. Bút tích của Xdoccacthom746
ghi: “dưới triều ông, các
thành viên trong gia đình (của các tư tế của Dvaragia) vẫn làm lễ cúng Vương thần
như trước kia”. Ông ta chọn ngay trong gia đình đó một người cháu của thày đại tư
tế Sivararya tên là Xadaixva, cho ông ta phải phá giới, gả 1 người em dâu cho và
đưa ông lên chức Conxtengsrijayangdrapangdita, bước đầu của một tiền đồ cực kỳ
chói chói lọi dưới triều vua sau tiếp tục sự nghiệp của chú, Xadaxivajayangdita “tu
bổ lại các công trình bị phá huỷ khi nhà vua dẫn quân đi”747
.
Sự đóng đô của Suryavarman I ở Ăngko, như tôi trả nói, có kèm theo lễ
truyền lệch thận trọng của các quan lại hàng tỉnh; công thức truyền lệch đó được
đánh dấu bằng việc hoàn thành công trình Phimeanaca và Takeo748
và việc xây
dựng các công Gopura ở Hoàng cung749
. Như các công trình quan trọng khác, người
ta có thể gán cho ông xây đựng đền Pnong Sixo750
mà cái tên gợi lại tên cũ của cái
đồi, trên đó nó được xây dựng (Suryaparvata “núi mặt trời hay núi của Surya” ), vài
bộ phận của Preat Vihia751
và của Preat Khan ở Congpong Xvei752
, các lâu đài ở
Vatec và ở Baxe trong vùng Battambang753
. Tất cả những công trình đó gắn với tên
các nhà bác học Balamon có địa vị cao mà các bản minh văn cho ta biết 754
.
Về vấn đề bành trướng của Khơmer trong lĩnh vực sông Menam, các biến cố
được thuật lại 1 cách như sau, do những biên niên ký Pali viết ở Chiengmai:
Samdơvivamxa (viết đầu thế kỷ XV)755
, Gianacalamalini (hoàn thành năm 1516)756
và Muylaxana757
.
745
G. Xodetx, “Bút tích ở Cămpuchia”, II, tr. 112, số 9. 746
BEFEO, XV, 2, tr. 91. 747
BEFEO, XV, 2, tr. 91. 748
G. De Crang Reumda, V; Golubep và G. Xodetx, “Niên biểu Takeo”, BEFEO, XXXIV, tr. 401. 749
Do H. Macsan miêu tả, “Cửa vào hoàng cung ở Ăngkothom”, BEFEO, II, tr. 57. 750
G. Gnotxlie, “Đền Pnong Sixo”, Nghệ thuật và Khảo cổ học Khơmer I, tr. 65. 751
H. Parmentier, “Nghệ thuật nguyên thủy Khơmer”, I, tr.338. 752
H. Mogie, “Preat Khan ở Congpong Xvei”, BEFEO, XXXIX, tr. 197. 753
L. De Lagiong Kiere, “Mục lục các công trình ở Cămpuchia”, III, tr. 427, 423. 754
E. Aymonier, “Nước Cămpuchia”, III, tr. 500, 502. 755
G. Xodetx, “Tài liệu về lịch sử chính trị và tôn giáo ở phía tây Lào”, BEFEO, XXV, tr. 158; C. Nottong,
“Biên niên sử Xiêm”, II, tr. 34-35. 756
G. Xodetx, “Tài liệu về lịch sử chính trị và tôn giáo ở phía tây Lào”, BEFEO, XXV, tr. 80. 757
Có lẽ trước 2 bản kia, Bangkok, 1939, tr. 182-183.
138
Một ông vua ở Haripungiay (Lamxpun) tên là Atoraxatc (biến thể của
Trabaca, Baca) tấn công Lavo (Lopbuyri) là nơi Vecsitthacarcavatti (biến thể của
Vesitta) trị vì. Giứa lúc ông vua sắp giao chiến một ông vua ở Srdmmanagara
(Ligo), tên là Sugita (biến thể của Giavaca Vararagia) đến trước Lavo với một đạo
quân và một đoàn chiến thuyền rất lớn. Trước tên kẻ cắp thứ ba này, 2 người đối
địch nhau vội chạy trốn về phía Haripungiaya: Ucsittha đến trước, xưng làm vua ở
đó và lấy vợ của địch thủ, ông này xuống thuyền rút về miền nam. Sugita, vua sứ
Ligo, làm chúa ở Lavo. Sau 3 năm, con ông là Cambogiaragialao đi tìm Vecsittha ở
Hari pungiay nhưng bị đánh đuổi và phải trở về kinh đô của ông.
Trong tấm bi kịch nhỏ này, những người ta thấy, có ba nhân vật chính: hai
ông vua kình địch tranh nhau chiếm cứ sứ Lavo758
và một ông vua nước ngoài, từ
phương nam đến, quyết định sự phân tranh bằng cách chính mình chiếm cứ nơi đó,
và sau này người con “vua của dân Cămbogia” mở một cuộc viễn chinh thám lại
chống ông vua cũ xứ Lavo đóng đô ở nước mới của ông. Người ta định đồng nhất
người con vua ở Livo vì xâm chiếm Lavo là Cămbogiaragia với Cămvan
Suriavarman I, vì ngay nếu cuộc xung đột giữa Cămpuchia và vương quốc Mon ở
Haripyngiaya, phản ánh trong các biên niên kể trên, tưởng tượng ra, thì việc bành
trướng của Cămpuchia vào vùng hạ lưu Menam vào thế kỷ XI vẫn được một nhóm
bút tích Khơmer ở Loptuyri759
xác nhận, một trong những bút tích đó là của
Suryavarman I. Sự phát triển của vương quyền hay quyền bá chủ của vua xứ Ăngko
có đi về phương bắc về và đi tới đâu? Những biên niên địa phương dã ghi lại kỷ
niệm sự chiếm đóng của Khơmer bao trùm tất cả lưu vực sông Menam và sông
Mekong đến Chienxen, và có thể quá nữa760
, nhưng các vết tích khảo cổ sau thế kỷ
XI mà người ta quy cho ảnh hưởng của Khơmer lại không vượt quá
Luangprabang761
trên sông Mekong và Xuhotai. Sarvancloc trên sông Menam và
thời đại của Suryavarman I, nên thận trọng như dựa vào sự chính xác của các minh
văn ở Lopbuyri. Bút tích 1022 - 1025 cho ta biết dưới triều ông, ở Lavo có những
nhà sư thuộc về 2 trường của đạo phật (Mahayama, Xthavira) sống cạnh người
Balamon theo phái Du già. Một bút tích Khơmer khác mà niên hiệu đã mất nhưng
nó phải ở gần cùng thời kỳ đó, lại thuộc đạo Visnu. “Tóm lại, minh văn đã xác nhận
rằng các đạo giáo được thực hành trong đế quốc Khơmer, có những tăng nữ và đền
chùa ở Lavo, nhưng ở Loplruyri, ưu thế của các kiến trúc và tượng Phật chứng tỏ
758
Đầu thế kỷ IX, trước sự xâm lược của Cămpuchia, Lavo còn là một quốc gia độc lập (kế thừa các vương
quốc Dvaravati ?) được Tống sử ghi năm 1001 (BEFEO , IV, tr. 233). 759
G. Xodetx, “Sưu tầm bút tích ở Xiêm”, II, tr. 21-31. 760
G. Maspéro, “Địa lý chính trị ở Đông Dương”, BEFEO, tr. 94-103; C. Nottong, “Biên niên sử ở Xiêm”, I,
Paris, 1926. 761
S. Levi, “Dầu vết thâm nhập đạo Phật vào Luangprabang”, BEFEO, XL, tr. 411.
139
rằng, dưới cùng một nền thống trị Khơmer, đạo Phật vẫn giữ được địa vị quan trọng
mà nó đã có hồi vương quốc Dvravadi” 762
.
Đầu năm 1006763
, Suryavarman I chết, con ông là UdaydilyavarmanII lên nối
ngôi, phong tước cân hoàng gia Duligieng (bụi ở chân) Vratcamratengando
Srijayangdravarman cho thầy tư tế cũ của vương - thần tên là
Xadaxiajayangdrapangdita, ông này trở thành chú của vua nhờ lấy em gái hoàng
hậu Viralacsomi và cũng là người thầy tinh thần nữa764
.
Có lẽ do lời khuyên của vị chức phẩm cao cấp này thuộc danh gia các thày tư
tế của vương thầm mà Udaydilyavarman quyết định xây dựng 1 sơn tự đẹp hơn các
cái trước để thờ vượng dương vật. “Thấy ở giữa Giambaytipa, nơi chúng thần ở, nổi
nên ngọn núi bằng vàng (Mruy), như để ganh đua, ông cho xây dựng ở trung tâm
kinh đô một cái núi bằng vàng. Trên đỉnh núi đó, trong một cái đền cũng bằng vàng
lóng lánh như ánh hào quang trên trời, ông dựng lên một cái dương vật thần Shiva
bằng vàng”765
. Công trình “trang trí ba thế giới đó” chính là Baphuon766
“mà khi
nhìn thấy sẽ có ấn tượng thực sự rất mạnh”. Đó là lời một người Trung Quốc, Chu
Đạt Quan 767
hồi cuối thế kỷ XIII. Lâu đài này đánh dấu nói trung tâm 1 thành phố
mà đồ án gần trùng với Ăngcothom hiện nay. Kinh đô chưa có những tường thành
bằng đá vàng, công trình của Jayavarman VII, nhưng đã có nhiều sông đào ngang
dọc mà người ta đã tìm thấy mạng lưới 768
.
Cùng thời đó, nhà vua cho đào ở phía tây kinh đô một cái bể lớn dài 8 km;
rộng 2km2, to hơn cái bể Yaxodaartaca của Yaxovarman hay cái bể Baray phía
đông có lẽ đã có dấu hiệu khô cạn dần. Ở giữa cái Baray phía tây đó ông cho xây
một cái đền trên một cái đảo nhỏ, cạnh đó đặt một pho tượng khổng lồ bằng đồng
đỏ tượng trưng thần Visnu đắm chìm trong giấc ngủ vũ trụ và nằm nghỉ trên làn
sóng đại dương769
.
Triều của ông kéo dài 16 năm, trong thời gian đó Vdayatavarman II phải
chống lại hàng loạt cuộc nổi dậy nà cuộc đàn áp được giao cho tướng Xanggirama.
Nó được thuật lại bằng một giọng văn hùng tráng bằng chữ khắc trên một tấm bia
đặt ở chân đền Baphuon, ngôi đền thờ vượng dương vật mà viên tướng đã hiến dâng
chiến quả của mình.
762
G. Xodetx, “Sưu tầm bút tích ở Xiêm”, II, tr. 10. 763
Mồng 8 âm lịch 971 theo bút tích ở Praxat Roluc (E. Aymonier, “Nước Cămpuchia”, II, tr. 36). 764
Bút tích ở Xdoccacthom, BEFEO, XV, 2 , tr. 93. 765
A. Barth và A. Bergaigne, “Bút tích Phạn ở Champa và Cămpuchia”, tr. 139. 766
G. Xodetx, “Niên biểu ở Baphuon”, BEFEO, XIX, tr. 18. 767
BEFEO, II, tr. 142. 768
G. Lubep, “Vành đai kép và các đường phố ở Ăngkothom”, BEFEO, số 14, 1938, tr. 33; “Thuỷ lợi ở
thành phô và cho việc canh nông của thời đại các vua ở Ăngko”, báo cáo kinh tế Đông Dương, 1914, tr. 15. 769
BEFEO, XXXIV, T.611.
140
Cuộc nổi dậy mới nhất xảy ra năm 1051, nó diễn ra ở phía nam, thủ lĩnh là
Aravanhdatrada “mộd người tinh thông nghệ thuật bắn cung, thủ lĩnh một đội quân
anh hùng, với uy lực của mình mang gánh nặng của nửa trái đất trên miền nam đất
nước”. Bị Sangrama đánh bại, nhà nổi loạn này nhanh chóng trốn về một tỉnh của
nước Champa”.
Năm 1065, năm cuối cùng của triều này cũng có 2 cuộc nổi dậy nữa. Ở phía
Tây Bắc770
“một trung thần tài hoa của vua, người anh hùng dũng cảm tên là Camvo
mà nhà vua đã phong làm tướng thống lĩnh quân đội, bị mù quáng trước ánh vinh
quang về sự vĩ đại của mình và suy nghĩ trong tâm về sự thay đổi của kẻ được sự vĩ
đại đó, ông liền đem quân ra khỏi kinh đô”. Sau khi làm Sangrama bị thương, ông
bị giết vì ba mũi tên.
Một thời gian sau, ở phía đông một người tên là Svat, em của ông ta là
Xitdicara và một chiến binh thứ ba tên là Xaxangtibuvana đã khuấy động những
cuộc nổi dậy mới. Sangrama nhanh chóng dẹp yên và làm lễ mừng chiến công bằng
nhiều công trình thành tín.
Người ta không biết huy hiệu của Udayadifayavacman II. Năm 1066771
em
ông là Harsavarman III lên nối ngôi.
2. Nước Champa (1000 - 1074)
Trong chương trên chúng ta đã chứng kiến ở nước Champa cuộc thoái lui lần
thứ nhất của kinh đô trước sức ép của người Annam từ phía Bắc. Thế kỷ XI cho
thấy sự tăng cường của sức ép đó, nó đã gây nên việc bỏ hẳn các tính phía bắc của
người Champa. Cho đến giữa thế kỷ, minh văn đều câm tịt nhà sử học chỉ còn biết
dựa vào các nguồn tài liệu Trung Quốc và Annam.
Vua Yang Puy Quy Vijaya lên ngôi vào những năm cuối cùng của thế kỷ X
và đã tản cư khỏi Inforafura (Quảng Nam) vào năm 1000 để đến đóng đô ở Vijaya
(Bình Định), đến năm 1004 - 1005 đã cử sứ thần sang Trung Quốc để báo tin về sự
dời đô đó772
.
Trước 1010 người kế vị ông là một ông vua mà tên bằng chữ Trung Quốc có
thể phiên từ chữ Harivarman (III). ông này cũng trị vì khoảng 10 năm773
.
Đến năm 1021, Paramecvaravarman II774
trước đấy ba năm đã cử sứ thần
sang Trung Quốc, thấy biên thùy phía bắc tức là Quảng Bình hiện nay, bị con cả Lý
770
E. Aymonier, “Nước Cămpuchia”, I, tr. 507. 771
G. Xodetx, “Bút tích ở Cămpuchia”, II, tr. 222. 772
G. Maspéro, “Vương quốc Champa”, BEFEO, XXVIII, Paris, 1928, tr. 132. 773
G. Maspéro, “Vương quốc Champa”, BEFEO, XXVIII, Paris, 1928, tr. 132. 774
Một sự bổ sung đáng nghi, nt, tr. 132.
141
Thái Tổ (sáng lập ra triều đại nhà Lý ở Annam) tên là Lý Phật Mã tấn công (Lý
Phật Mã sẽ kế vị cha vào năm 1028 tên là Lý Thái Tông). Quân Champa bị đánh
thua và chịu đựng một cuộc xâm lược mới vào năm 1026.
Giữa các năm 1030 đến 1041, vua Vicranfavarman IV trải qua một triều đại
tối tăm và giông gió, năm 1042 con ông là Xinhavarman II775
xin cầu phong với
triều đình Trung Quốc. Năm sau ông đi cướp phá miền ven biển nước Annam. Để
trả thù, vua Lý Thái Tông chuẩn bị một cuộc viễn chinh bằng đường biển do ông
thân chinh chỉ huy năm 1044. Mới đầu có lẽ ở Thừa Thiên hiện nay, quân Champa
đã bị thua chạy, vua Champa bị chém đầu ngay trên chiến trường Lý Thái Tông tiến
chiếm Vijaya và bắt các cung phi đem về nước776
.
Kế vị Jayaxinhavarman II là một chiến tướng dòng dõi quý tộc; khi lên ngôi
ông lấy tên là Jayparmecvaravarman I, và với ông các bút tích lại bắt đầu xuất hiện
ở phía nam. Dân ở Payduyangga “phóng đãng độc ác, luôn luôn nổi loạn chống lại
vua của họ” đã từ chối không công nhận ông này, nhà vua phải cử cháu là Yuragia
Sri Doragavia đến chinh phục họ vào năm 1050777
. Để mừng thắng lợi, Yavaragia
cho dựng một cái dương vật ở phố Pokhanggarai và một cột chiến thắng778
. Về phía
mình, cùng năm đó vua cho trùng tu đền Ponaga ở Nha trang và cùng một số nô lệ,
trong số này có người Khơmer, người Trung Quốc dân ở Pucam (Mianma xứ
Pagan) và người Xiêm779
. Lo lắng về việc giữ hoà hiếu với các nước láng giềng phía
bắc, từ năm 1050 - 1056 ông cử ba sứ thần sang Trung Quốc, và từ năm 1047 -
1060780
, cử 5 sứ thần sang Annam.
Tất cả những điều người ta biết về người kế vị ngắn ngủi của ông là
Badravarman III lên ngôi năm 1061781
. Cuối năm đó em ông ta là Ruydiravarman
III lên nối ngôi. Ông này cử sứ thần sang Trung Quốc năm 1062, và 3 sứ thần sang
Annam năm 1063, 1065 và 1068. Nhưng ngay từ khi mới lên ngôi, ông ta đã chuẩn
bị tiến đánh Annam, và ông mở cuộc tấn công năm 1068. Vua Lý Thánh Tông phản
công rất nhanh, dẫn chiến thuyền đến trận SriBanoi gần sát kinh đô Champa ông đã
chiến thắng quân Champa vẫn chờ ông ở nội địa. Ruydravarman đang đêm dời bỏ
kinh thành, dẫn chúng quy thuận hoàng đế Annam nên ông này vào thành không
gặp khó khăn gì.
775
Một sự bổ sung cũng chỉ là giả thiết, nt, tr. 134. 776
Một sự bổ sung đáng nghi, nt, tr. 132. 776
Một sự bổ sung cũng chỉ là giả thiết, nt, tr. 134-136. 777
L. Finot, “Dangduyrangga”, BEFEO, III, tr. 645. 778
L. Finot, “Dangduyrangga”, BEFEO, III, tr. 646. 779
E. Aymonier, “Nghiên cứu đầu tiên về bút tích Champa”, báo Á Châu, 1+2/ 1891, tr. 29. 780
G. Maspéro, “Vương quốc Champa”, BEFEO, XXVIII, Paris, 1928, tr. 138-139. 781
G. Maspéro, “Vương quốc Champa”, BEFEO, XXVIII, Paris, 1928, tr. 139-140.
142
“Ông liền cử ngay quân đi được theo vua Champa, bắt được ông này và cầm
tù trên địa giới Cămpuchia (tháng 4/1069). Tháng 6, ban yến tiệc cho tất cả các
quan thượng thư tại ngay cung điện vua Champa, và để đánh dấu việc ông đã chiến
thắng và tiêu huỷ hoàn toàn, và ông cho cầm mộc nhảy múa và đá cầu ngay trên bậc
của chính điện. Đồng thời ông gấp rút phi báo tin thắng trận và bắt sống vua
Champa cho hoàng đế Trung Quốc Tống Chân Tông. Cuộc điều tra dân số cho biết
tổng cộng có 2.500 hộ ở đó. Nhà vua ra lệnh cho đốt cháy tất cả những nhà xây
trong thành và ở ngoại ô Vijaya”782
.
Sau khi đưa vua Ruydravarman III và gia quyến ông này về cầm tù ở Bắc
Kỳ, đến năm 1069 ông cho thả về, đổi lấy ba tỉnh phía bắc, tương ứng với Quảng
Bình, Quảng Trị ngày nay. Người ta không nói, sau khi được bắt và trở về, vua
Champa có hồi phục lại đất nước bị náo động và suy yếu sâu sắc không? Điều chắc
chắn là triều của ông bắt đầu từ 1044 và cũng tắt đi với ông năm 1074.
3. Srivijaya và mối quan hệ của nó với người Cola ở Tanggiua (1003 -
1030)
Người ta đã thấy ở chương trên vào mười năm cuối cùng thế kỷ X Srivijaya
đã phải chịu đựng cuộc xâm lược của Giava và phải cầu cứu Trung Quốc đầu thế kỷ
XI, vua Sulamamivarmadva tiếp tục giữ được quan hệ tốt nhất với Trung Quốc.
“Năm 1003, vua Xxeulichuloumiphomatiaohua cử hai sứ thần đi triều cống. Họ đã
kể rằng ở nước họ, một ngôi chùa đã được dựng nên để cầu cho Hoàng Đế (Trung
Quốc) được trường thọ. Họ xin Hoàng Đế ban cho một cái tên và những cái chuông;
Hoàng Đế chỉ ra rằng họ đã có thiện ý. Người ta ban bố một sắc lệnh đặt tên cho
ngôi chùa là “Tiếp Thiên Vạn tuế” và các cái chuông được đúc ngay để ban cho sứ
thần783
.
Cùng thời gian đó, khoảng 1051, vua nước Srivijaya bắt chước tiên đế
Balaycuyr ở Nalangda xứ Bangaler cho xây dựng ở Nagifattana (Negapatam trên bờ
biển Cromangden) một ngôi chùa mang tên là Sulamanivarmanhavihara784
mà
Colaragiaragia I đã cống toàn bộ thu nhập của một làng lớn.
Thái độ khả ái đó của Sulamanivarmanhavihara đối với hai cường quốc lớn
của thời đại này Trung Quốc và Cola ở Tanggiua785
nước này tuy ở xa nhưng có thể,
như sau này sẽ chứng minh là một kẻ địch nguy hiểm - đã cho phép ông thay con
782
G. Maspéro, “Vương quốc Champa”, BEFEO, XXVIII, Paris, 1928, tr. 141-142. 783
W.P. Groennovent, “Ghi chép về quần đảo Malay”, Verh.Bát.Gen, XXXIX, tr. 65; G. Pherăng, “Đế quốc
Sumatra”, báo Á Châu, 7+9/ 1922, tr. 19. 784
Có thể nó còn đến giữa thế kỷ vừa rồi (“Đồ cổ Ấn Độ”, VII, tr. 224) và bị người Giato phá huỷ năm 1868;
Xem K.V. Subratmanya Ayer, “Minh văn Ấn Độ”, XXII, tr. 229. 785
Về người Cola, từ đó có tên bờ biển Cromangden (Clamangdala) mà sự đi lên, phụ thuộc vào người
Palama, bắt đầu từ giữa thế kỷ XI; xem Vale Putxanh, “Triều đại và lịch sử Ấn Độ”, tr. 271.
143
ông là Mavarigiayottangavarman được rảnh tay để trả thù một cách mãnh liệt cuộc
xâm lược của Giava năm 992. Nếu thực sự tai họa đến với Giava năm 1006, về vấn
đề này người ta biết rất ít, là hậu quả sự trả thù của Srivijaya, thì người ta có thể tự
hỏi trách nhiệm về ai trong hai ông vua đó. Câu hỏi đó, với những tài liệu người ta
có hiện nay, không thể giải đáp được. Mavarigiayottangavarman lên ngôi năm 1008
là năm ông gửi đồ triều cống sang Trung Quốc786
; và dưới chiều Ragiangdra Cola I
bắt đầu từ năm 1011 mà bút tích được viết dưới cái tên “Đại hiến dương Layder”787
cho ta biết là vua mới ở Cola cho thảo một sắc chỉ cho cái làng mà cha ông là
Ragiangdra đã cúng chùa Suliamanivarmavihara được tôn là “dòng dõi hoàng gia
Xailangfamun, vua của Srivijaya (Palembang) và Cataha (có đất trên bán đảo
Malay) xác nhận một cách dễ cảm thấy những bằng chứng của các nhà địa lý học
Ảrap, đối với họ vua Maharagia nước Dabac là chủ vùng Sribuda và Clat (Cra). Hai
vực của đế quốc, Sumatra và bán đảo Malay trong cả hai trường hợp đều là một vua
Maharagia nắm cả hai bờ của eo biển.
Nhưng đường lỗi chính trị bành trướng và các thủ đoạn thượng mại mà các
vua ở Srivijaya buộc phải áp dụng để tự duy trì trong cái vị trí được ưu đãi đó, sớm
đưa họ tới chỗ xung đột với tầng lớp quý tộc ngoài biển của người Cola, ngay khi
họ không cần tạm thời thoả hiệp để thực hiện ý đồ xâm lược của họ đối với Giava.
Ngay từ 1007, Rugiaragia đã khoe là chinh phục được 12.000 đảo788
. mười
năm sau, con ông là Ragiangdra Cola I có lẽ định thử một chuyến đầu tiên chống
Cataha789
. Nghĩa là chống lại quyền sở hữu trên bán đảo của các vua Xailangdra ở
Sumatra790
.
Nếu cuộc viễn chinh đó có thật nó chỉ là mở màn cho một chuyến lớn xảy ra
năm 1025 mà chi tiết được ghi trong một bút tích của Ragiangdra Cola ở Tanggiua
năm 1030 - 1031. Sau khi cử nhiều chiến thuyền đến giữa biển động và bắt được
vua nước Cadaram là Xanggramavijyottungavarman ông lần lượt chinh phục
được791
:
786
Tống sử gọi tắt là Xxenli Malopi = Srimaravi. Về sự đồng nhất tên này và tên ông vua trước; Xem G.
Xodetx, „Vương quốc Srivijaya”, BEFEO, XVIII, tr. 7. 787
K.V. Subratmanya Ayer, “Minh văn Ấn Độ”, XXII, tr. 213; Xem Nicacangta Satsteri, BEFEO, XL, tr.
213. 788
R.C. Magiumda, “Xuvanatvipa”, Canguitta 1937, tr. 171. 789
R.C. Magiumda, “Xuvanatvipa”, Canguitta 1937, tr. 171, số 2. 790
Ông vua đã cử sứ thần sang Trung Quốc năm 1017 được Tống sử gọi tên là Hiachexuu Chapuni tức Hagi
Sumatrabuni “vua nước Sumatra” (W.P. Croenevent, sđd, tr. 65; G. Pherăng, sđd, tr. 19-20). 791
Bản danh sách này do G. Xodetx nghiên cứu, sđd, tr. 9 và tiếp theo; G. Rupfia, “Đế quốc Malacca như thế
nào năm 1400 A.D”, Bijds, 77, 1921, tr. 76 và tiếp; G. Pherăng, sđd, tr. 45; R.C. Magiumda, sđd, tr. 175 và
tiếp; Trong bút tích, mỗi tên đều kèm một hình dung từ mà giá trị tài liệu rất đáng nghi, vì các hình dung từ
đó tạo nên nhiều đồng âm dị nghĩa dùng làm từ địa lý. Chỉ kể 2 thí dụ Talettaccolam nghĩa là “do các người
vĩ đại thông thái trong Khoa học Shuê” vì chữ Tamun calai = khoa học và Tacco = bác học; và
144
Srivijaya (Palembang).
Pamai (Paner trên bờ biển phía đông Sumatra, trước mặt Malacca).
Malaryu (nước Malayuy thế kỷ VII tức là Giambi).
Mayirudingan (người Trung Quốc gọi là Feloting792
, ở đâu trên đảo Malay).
Illangasoga, (Langcaxuyca).
Mappapalam (Papphala theo biên niên Xangale xếp vào Mahavamxa trên bờ
biển Peguy).
Mevilinbangam (đồng nhất với Cacmarawngga hay Camalangca trên eo biển
Ligo793
).
Valaippanduru (có lẽ là Pangdua (anga), ở Champa794
đứng sau chữ Tanun
Valai = thành luỹ, hoặc chữ Palay = làng).
Talaittakkolam (Taccola của Ptoleme và của Milanhdapangha, trên eo biển
Kra).
Madamalingam (Tambralanhga795
tiếng Trung Quốc là Tanmalinh, trung tâm
ở Ligo).
Illamurideam (Lamuyri của Ai Cập, Lampri theo Marco Polo796
ở cực bắc
Sumatra).
Manakkavaram (các đảo Nicoba).
Kadaram (Cdat).
Không chắc rằng khi thứ tự trong bảng kê này tương ứng với sự diễn biến
của các biến cố, nhưng nếu là trường hợp như trên, nó chứng tỏ rằng sau cuộc tấn
công vào kinh đô của bán đảo Srivijjaya = Palembang và sau khi bắt sống vua
Xanggramavijyottungavarman, vua Cola chiếm vài điểm ở trên bờ biển phía đông
Sumatra rồi đến các lãnh địa khác của Maharagia trên bán đảo Malay 797
rồi đến
Asia và Nicoba, cuối cùng là Cdat, kinh đô lục địa. Có lẽ chuyến đi đó đã để lại vài
dấu vết trong ký ức của người Malay trên bán đảo mà các biên niên sử thuật lại vua
Taman Ragia Colang (hay Surang) đã tàn phá Gianganagara trên sông Dindinh như
Valaippangdura được miêu tả như là “làm chủ cả đất trồng trọt lẫn đất hoang” vì Vilaippauy = gieo hạt và
Turuy = bụi cây. 792
Ma, ở đây và trong các chữ khác trong danh sách = chữ phạn Maha = lớn. 793
S. Levi, “Tiền Arien và tiền Dravidieng ở Ấn Độ”, báo Á châu, số 7-9 năm 1923, tr. 43. 794
Rupfia, Bijdr, 77, 1921, tr. 78, 81; F.L. Moen, “Criviginia, Iava và Cataha”, Tijd. Bat. Gen, LXXVII,
1937, tr. 468. 795
Tanmay liêu đã cử sứ thần sang Trung Quốc (BEFEO, IV, tr. 233). 796
Về tên đó, xem H.K. Cooan, “Lamuyri”, Bijdr, 90, 1933, tr. 422. 797
Pangduranga - Phan Rang ở vòng ngoài, nhưng sự đồng nhất Valaippangdura không có gì chắc chắn.
145
thế nào, cũng như tàn phá một cái thành trên sông Lendiu, một nhánh của sông
Gionogervà cuối cùng chiếm lĩnh Tumanik, Xanhgapo tương lai798
.
Thế nào mặc lòng, cuộc viễn chinh của Ragiangdra Cola I hình như không có
hậu quả chính trị lâu dài , nhiều nhất là việc bắt sống Xanggramavijyottungavarman
có phải đã đưa tới kết quả là được lên ngôi của một ông vua mới, ông này cử sứ
thần sang Trung Quốc năm 1028 Tống sử gọi ông là Slitihua, nghĩa là Sridva799
.
Tuy nhiên sự chấn động mà Srivijaya cảm thấy làm cho nó nhích gần lại địch
thủ của nó: người ta sẽ thấy sự hoà hợp lại với Giava có thể được gắn lại bằng cuộc
hôn nhân.
Mặc dù Albiruni, năm 1030 nói rằng các đảo của Dabac đều gọi là Ấn Độ
Sumarndib (Suvarnatvipa)800
có thể tự hỏi có phải chính là ở Sumatra không, từ
1011 đến 1023, Atixa nhà cải cách tương lai của đạo Phật Tây Tạng đã đến theo học
Darrmakiecti người đứng đầu Hội Phật ở đảo Suvarnatvipa, dưới triều vua
Darmapala cái tên đó không tương ứng với bất kỳ một cái tên hoàng gia nào mà các
văn bản Trung Quốc và minh văn học cho ta biết ở Srivijaya. Có thể đó là tước (bảo
vệ luật pháp) của Maravigiayottungavarman hay người kế vị ông. Trừ phi đối với
nguồn tài liệu Tây Tạng mà người ta rút ra sự hiểu biết đó801
Suvarnatvipa chỉ
Mianma802
hay bán đảo Malay 803
điều đó lại khó có thể được. Dù trường hợp nào,
sự kiên trì của đạo phật Mahayanna ở Sumatra được xác nhận ở Tapamyli, trên bờ
biển phía tây, nhờ năm 1024 việc đúc một pho tượng Locanatha, nghĩa là bồ tát
Lokecvera, trình bày đứng giữa hai tượng của Tara804
và một bản thảo tiếu tượng
học Nepan đầu thế kỷ XI đã xác nhận sự nổi tiếng trong giới Phật giáo một pho
tượng của Locanatha ở Srivijayapura805
.
4. Giava: Erlangga (1006 - 1049)
Người ta đã thấy vua Udayanna nước Bali đã lấy công chúa Giava
Mahangdradatta, chắt gái của Xinhdoc và đám cưới đó năm 991 sinh ra một đứa
con giai ở Bali tên là Erlangga, từ khi còn trẻ măng đã được mời đến806
đính hôn
798
F. Layden, “Biên niên của Malay”, London, 1921. 799
W.D. Groenevent, sđd, tr. 65; G. Pherăng, sđd, tr. 20. 800
G. Pherăng, sđd, tr. 64. 801
“Buyxtong” do Xarat Sangdra Dat dịch, 1893, tr. 50. 802
Nt, Taoxanhco, “Tài liệu khảo cổ Xuyecvei”, Mianma, 1919, tr. 17. 803
F.L. Moen, “Criviginia, Iava và Cataha”, Tijd. Bat. Gen, LXXVII, 1937; R.C. Magiumda, “Xuvanatvipa”,
Canguitta 1937. 804
Brander, Not.Bat.Gen, 1887, tr. 176. 805
A. Phuse, “Nghiên cứu về tiếu tượng học Phật giáo ở Ấn Độ”, Thư viện trường Cao đẳng, XIII, 1900, tr.
105 và 193, số 23. 806
Có lẽ tình thế đã đưa lại cho ông cái tên Erlangga mà nghĩa gần sự thật nhất là “người đã vượt nước” tức
là do biển ngăn Giava với Bali; Xem Poecbatgiaraca, “Erlangga”, X, 1930, tr. 163 trong đó có tóm tắt các
chú thích trên.
146
với một công chúa con một ông vua lúc đó trị vì ở phía đông Giava807
. Ông ta đến
triều vua này giữa lúc xảy ra các biến cố bi thảm năm 1006 nguyên nhân của tai hoạ
dẫn đến việc tàn phá kinh thành và cái chết của nhà vua đã làm cớ cho nhiều ước
đoán vừa nhiều vừa khác nhau cũng như những ước đoán về sự dời đô từ trung tâm
về phía đông 75 năm trước. Giả thiết gần sự thật nhất và được nhiều người chấp
nhận là nước Srivijaya, yên ổn về phía Ấn Độ và ít nhiều được Trung Quốc bảo hộ
một cách có hiệu quả năm 1006 đã trả thù sự xâm lược của Giava năm 992: sự chấn
hưng lại nước Giava trùng hợp với sự suy yếu tạm thời của vương quốc Sumatra
sau đợt tấn công của Cola năm 1025808
. Vai trò của Srivijaya năm 1006 có thể đóng
khung trong việc gây ra hay ủng hộ một cuộc nổi loạn ở nước Giava. Người xung
kích chủ yếu là ông một ông hoàng nước Darioari mà người ta muốn cho là từ bán
đảo Malay 809
tới nhưng có lẽ ông ta chỉ là một thủ lĩnh địa phương810
.
Sau cuộc “phá sản” (Pralaya), như bản bút tích Giava thuật về các biến cố
năm 1006811
chàng Erlangga trẻ tuổi, lúc đó lên 16, trốn ở nhà các thầy tu trên núi
Vanagiri trong 4 năm. Đến 1010, các thân hào, các người Balamon đến yêu cầu ông
lên ngôi như người kế vị của bố vợ, và năm 1019 ông chính thức đăng quang với
hiệu là Rakehaluy Srilokecvara Darvavamra Erlangga Anantavi Cramottungadva.
Quyền lực của ông ở trong một bán đảo nhỏ bé ở phía bắc của bán đảo, giữa
Surabaya và Pasuruhan. Ông phải đợi 10 năm nữa trước khi bắt đầu chiếm lại đất
nước, một nhiệm vụ, tôi nhắc lại, có lẽ cũng dễ dàng nhờ sự suy yếu của Srijaya nạn
nhân của sự xâm lược của Côla năm 1025.
Có thể ngay từ 1022 Erlangga đã kế vị cha ông ở Bali, ở đó thảm họa 1006
không có phản ứng lại nhưng điều đó không chắc chắn, và Darmavam Kavardana
Maracatapang Cagiatthanottungadva. Mà người ta có bút tích ở Bali từ 1022 đến
1025, chắc là một nhân vật hoàn toàn khác với Erlangga có thể là một phó vương trị
vì dưới tên ông812
.
Erlangga bắt đầu chinh chiến ở Giava năm 1028 - 1029 nhằm thu hồi lại
vương quốc lúc đó bị chia vào tay nhiều địch thủ. Nếu như mới đầu ông tấn công
vào Bitsmapirabava là con một ông vua rồi đến 1030 đánh vào Vijaya, ông hoàng
807
C.C. Berg, “De Arjunawiwaha”, Bijdr, 97, 1938, tr. 49-64. 808
V.V.Van Xten Canlenfenx, “De veroveraar van Dharmmawangca Kraton”, Indheidk, Verslag, 1919, tr.
156. 809
G.P. Rupfia, “Cái gì đã xảy ra ở đế quốc Malacca năm 1400 A.D”, Bijdr, 77, 1921. 810
N.J. Crom, “Ấn Độ - Giava”, Gesch, tr. 241-242. 811
H. Kecn, “De steen van den berg Penanggungan (Surabanga) thans int Indian Museum te Calentta”,
Verspr. Geschr, VII, tr. 83; R.G. Satécghi, “Ấn Độ và Giava”, II, tr. 63-74. 812
C.C. Berg, “De Arjunawiwaha”, Bijdr, 97, 1938, tr. 82.
147
xứ Oengke (đồng bằng Madium) ông này tạm thời bị thua. Năm 1031, ông thắng
Adamapamya và thiêu huỷ nơi ở của ông này
Năm 1023 đã diệt trừ cho đất nước một người đàn bà “có một sức khoẻ
khủng khiếp, giống như một con quỷ” và ông đã tàn phá vùng phía nam bằng cách
“đốt cháy bằng một cái lưỡi như một con rắn lửa” có thể là ông còn phải vật lộn với
ông hoàng xứ Ayravali. Còn về Vijaya ông hoàng xứ Oengke bị dánh thua và buộc
phải chạy chốn “ bỏ cả vợ cả con, kho tàng, xe cộ” và bị chính quân lính của mình
bắt giữ, ông đã chết năm 1035813
.
Năm 1037 Erlangga “đã đặt chân lên đầu các kẻ thù, đã ngồi lên chiếc ngai
vàng sư tử có nạm ngọc. Quốc gia của ông đã mở rộng ra một cách phi thường, ông
đóng đô ở phía đông ở Cahuyripang mà người ta chưa xác định được là ở đâu bây
giờ.
Sau những chiến thắng, Erlangga lập ra một tu viện ở Puysanggang (tên Phạn
là Pugavat “núi của những cây cau” không phải ở Penanggungan814
như người ta
tưởng mà ở Pusanggang vùng đồng bằng Brantas815
. Lễ cung hiến tiến hành năm
1041816
có lẽ nhân dịp một bà công chúa từ trần, bà này từ 1030 đến 1041 được ghi
trong sắc chỉ của Erlangga là người có chức tước cao nhất trong chiều (Racriang
Mahamang Trihino)817
. Tên bà ta là Sanggrama Vijaya Darnapraxadottungadvi, tên
đó nói lên mối liên hệ chặt chẽ với tên vua Srivijaya Sangrama Vijaya
Ottunggavarman, ông này bị bắt sống trong đợt tấn công của Cola năm 1025. Sau
các biến cố đó sự có mặt ở Giava một bà công chúa mang cái tên gợi lại chức vị
Sumatra và sự thành lập của Erlangga năm 1035 một tu viện mang tên
Srivijayarama818
hình như đã chỉ ra sự xích gần lại nhau giữa hai quốc gia kình địch
sự suy yếu của Srivijaya và sau việc Erlangga lên nắm quyền chính. Còn về mối dây
liên lạc đã gắn bà công chúa với cái tên đồng âm một mặt và gắn với Erlangga mặt
khác quan niệm tương đối gần sự thật nhất là: bà công chúa đó là con gái
Xanggramavijyottungavarman mà Erlangga lấy làm vợ vào khoảng 1030819
. Từ thời
kỳ đó có một sự thăng bằng nào đó giữa hai quốc gia từ lâu vẫn kình địch nhau:
Srivijaya vẫn giữa ưu thế chính trị ở miền Tây quần đảo820
, còn Giava có ưu thế ở 813
H. Kecn, “De steen van den berg Penanggungan (Surabanga) thans int Indian Museum te Calentta”,
Verspr. Geschr, VII. 814
G.P. Ruppia, Not. Bat.Gen, 1909, tr. 180. 815
G.F. Stúttéchem, “Oudh Aanteek”, Bijdr, 95, 1937, tr. 406. 816
G.F. Stúttéchem, Djawa, 1938, tr. 307. 817
C.C. Berg, “De Arjunawiwaha”, Bijdr, 97, 1938, tr. 92. 818
N.J. Crom, “Ấn Độ - Giava”, Gesch, tr. 262. 819
C.C. Berg, “De Arjunawiwaha”, Bijdr, 97, 1938, tr.64. Người ta có thể nghĩ đến vợ goá vua
Xanggramavijyottungavarman, mà theo tập quá mà người ta thường thấy trong nhiều thí dụ ở trên, Erlanga
đã lấy để hợp pháp hoá những ý định bất thần về Srivijaya. 820
Ngay ở phía tây Giava vì đến đầu thế kỷ XIII, nước Xunda vẫn là chư hầu của Srivijaya.
148
phía Đông, nhưng các tài liệu hiện nay chỉ ra rằng các quan hệ thương mại của
Giava cũng lan ra cả miền Tây. Các bút tích821
đã ghi sự có mặt của người Clinh
(Ấn Độ ở Calanhga), Arya (Ấn Độ không phải là Dravidieng), Gola (Goda ở
Bangaler), Sanghala, Carnadaka, Colika (Cola ở Cromangden), Mahyala (Malabar),
Pangdikra (Pangdia và Kra), Dravida (Tamun), Champa, Rmen (Mon hay Malay ở
Rami = Asin), Cmia (Khơmer)... họ đến đây bằng các bến ở cửa sông Branbatx ở
vịnh Surabaya và quá về phía bắc, phía Tuban.
Những bút tích ghi lại 3 môn phái tín ngưỡng: Saiva (Shiva), Sogata (Phật)
Rishi (đạo khổ hạnh), hoặc Sogata Machervara, Mahabratmana, nó đã chứng minh
sự cùng tồn tại, sự chung sống giữa Phật giáo và Ấn Độ giáo Shiva, cũng như ở
Cămpuchia cùng thời kỳ đó. Cũng như các tiên đế, Erlangga làm cho người ta tưởng
mình là sự giáng thân của Visnu.
Bắt đầu từ 1042, có thể ông vừa đi tu vừa giữ quyền trị vì. Khi ông chết vào
năm 1049822
người ta chôn ông ở một nơi gọi là “sự tắm gội của Blahang” trên triền
phía Đông núi Pnangguygang trước đây ở đó người ta thấy một pho tượng rất đẹp
của Visnu trên Garuyda ở giữa hai tượng của Lacsmi, có thể tiêu biểu cho vua và
hai trong số vợ của ông ta, và một hòn đá mang một cái niên biểu ký, dưới hình
thức đố chữ, nó cho biết một niên hiệu 971 xaca = 1049823
.
Triều vua Erlangga có tầm quan trọng to lớn về mặt chính trị như vậy, cũng
được đánh dấu bằng những hoạt động văn học rất lớn. Điều đó ngày nay cùng xác
thực để có thể phải xếp dưới triều ông nhiều tác phẩm trước kia xếp nhầm vào triều
ông vua trước, mà người ta đã gán một cách lầm danh hiệu Darmavamxa
Anangtavicrama, thực ra chính là bản thân Erlangga824
. Trong số những tác phẩm
đáng chú ý nhất, người ta có thể kể: Xivaxana, pháp điển Giava cổ825
những cải
biên bằng thổ ngữ 3 hồi chính của tác phẩm Mahabarata: Adiparva826
,
Virataparva827
, Bhishmasparva và nhất là cuốn Argunavivaha828
“đám cưới
821
H. Kecn, “De steen van den berg Penanggungan (Surabanga) thans int Indian Museum te Calentta”, III, tr.
71; VII, tr. 30; N.J. Crom, “Ấn Độ - Giava”, Gesch, tr. 264. 822
G.F. Stúttéchem, “Oudh Aanteek”, Bijdr, 92, 1934, tr. 196. 823
G.F. Stúttéchem, “Oudh Aanteek”, Bijdr, 92, 1934, tr. 196; “Debeelden van Belahan”, Dfoawa, 1938,
tr..299. 824
Về nền văn học bằng tiếng Giava cổ, xem Himaxngu Buyxang Xacca “Ảnh hưởng Ấn Độ vào nền văn
học Giava và Bali”. Nghiên cứu đại ấn Độ, I, 1934. 825
N.J. Crom, “Ấn Độ - Giava”, Gesch, tr. 230. 826
Do Qiuy Bon xuất bản , 1906. 827
Do Qiuy Bon xuất bản , 1912. 828
Do Gongda xuất bản, 1936.
149
Arjuno”829
viết năm 1035 của thi sĩ Canva giả là bài thư chúc hôn cho đám cưới của
Erlangga với công chúa Sumatra830
.
Trước khi chết, Erlangga đã chia vương quốc ra làm hai và sự chia đôi đó về
lý thuyết tồn tại đến cuối thời kỳ Ấn Độ - Giava. Người ta sẽ chìm ngập vào các
phỏng đoán về những nguyên nhân đã gợi lên cách xử trí như vậy đối với một người
mà tất cả hoạt động đều nhằm thực hiện sự thống nhất đất nước. Người ta không
biết về người con hợp pháp của ông831
và người ta giả thiết là để tránh sau khi ông
chết, một sự xung đột giữa hai người con của các phi tần sinh ra có cùng quyền lợi
ngang nhau, ông liền giải quyết bằng cách tự quyết định ngay khi ông còn sống832
.
Biên giới giữa hai vương quốc Gianggala và Panggialuy được đánh dấu bằng
hoặc là một bức tượng người ta còn thấy phế tích giữa núi Cany và bờ biển phía
nam của đảo833
hoặc bằng con sông Brangtatx834
ở phía Đông, Gianggala có kinh đô
là Cahuyripang, tức là kinh đô Erlangga trước và gồm các miền Malang, đồng bằng
Brangtatx với các bến Surabaya, Rembang và Paxuyrruyhang ở phía Tây,
Langgialuy, được biết nhiều hơn dưới cái tên Cadiri, có kinh đô là Daha Daha (bây
giờ là Cdiri), gồm nơi ở của Cdiri và Madium với một lối thông ra biển trên vịnh
Surabaya. Nhưng trong đó có quyền ngồi trên và là người kế vị trên lý thuyết của
vương quốc Erlangga, nước Gianggala chẳng bao lâu đã bị nước Panggialuy835
thôn
tính.
Về đảo Bali từ 1049 đến 1077, các bút tích836
nói về một nhân vật được gọi
là Anacungxuy nghĩa là “con thứ” (Balapruytra) hay có thể là “con rể” rất có thể là
bà con với Erlangga như vậy là em thứ hoặc em rể của ông này.
5. Srivijaya và người Cola (1067 - 1069)
Các nguồn tài liệu đều câm tịt về những việc xảy ra ở Srivijaya từ 1030 đến
1064. Vào niên hiệu đó, người tên là Darmvira nào đó lại có tên ở Solok, phía tây
829
Do Poccbatgiaraca xuất bản, Birdj, 82, 1926, tr. 181. 830
C.C. Berg, “De Arjunawiwaha Erlangga,s levenloop en bruiloktshiejd”, Bijch 97, 1938, tr. 19.
831 Trừ khi giả thiết của C.C. Berg được công nhận (sđd, tr.92) theo nó Mahamang Trihino
Crixamaravijayadarma... Scuyparcan... Uttunggadva, bắt đầu từ 1037 đã thay trong hiến chương của
Erlangga, nàng công chúa Sumatra, chỉ là con gái của bà này chứ không phải ai khác 832
N.J. Crom, “Ấn Độ - Giava”, Gesch, tr. 272 và tiếp theo. 833
N.J. Crom, “Ấn Độ - Giava”, Gesch, tr. 272 và II, tr. 50. 834
G.F. Stúttéchem, “Oudh Aanteek”, Bijdr, 89, 1932, tr. 101. 835
Từ Ganggala người ta chỉ có những tài liệu minh văn với những niên hiệu đáng nghi là 1060 (?) một mệnh
lệnh liên quan đến công cuộc lấn nước của vua Rake Haluy, ngài Giuyrung Crixamarotxaha Carnakacxana
Darmavanxa Kiectixinha Jayangtacatungadva. 836
P.V.Van. Xtanh Canlangfenx, “Minh văn Bali”, Verh.Bat.Gen, LXVI, 3, 1926; G.F. Stúttéchem, “Oudh
Aanteek”, Bijdr, I, 1929, tr. 190.
150
Giambi, trên một bức tượng Macara mà phong cách hình như chịu ảnh hưởng của
nghệ thuật Giava837
.
Năm 1067 một vị chức sắc cao nhất của Sangfotri mà Tống sử gọi là
Tihuakieco838
theo lời phiên âm thông thường chữ Divacara, đã sang tới Trung
Quốc. Vài tác giả lại thấy ở đó một lại thấy ở đó một cách dịch chữ Dvakula bằng
cách căn cứ vào việc vua Cola Ragiangdradvaguyottunga (tức Khlottunga) cử sứ
thần sang Trung Quốc 10 năm sau, 1077 mà Tống sử gọi bằng một cái tên gần
tương tự (Tihuakialo)839
theo họ, trong cả 2 trường hợp chỉ là một người.
Còn một người con gái của Ragiangdracola và của Ragiaragia I ở Vengi840
trước khi lên ngôi năm 1070, ông ta đã giữ những chức lớn ở Srivijaya, hoàn cảnh
mà hình như ông từ ám chỉ đến trong những bút tích đầu tiên dưới triều ông.
Dù thế nào, năm sau năm sứ thần đi (1067) ta thấy người Cola lại tiến hành
một cuộc xâm lược mới vào bán đảo Malay. Trong năm thứ 7 của triều mình, 1068 -
1069, Ragiangdracola là người đã cầm đầu cuộc viễn chinh năm 1025, và chinh
phục Cadaram cho ông vua đến cầu cứu ông và giao cho xứ đó cho vua841
. Có thể
theo lời khuyên của quan thượng thư Cola Dvaluyca842
nếu tất cả những tên đó là
đúng, mà vua Srivijaya đã nhờ vào sự giúp đỡ của Viraragiangdra để đè bẹp một
cuộc nổi loạn hay một âm mưu chia rẽ trên bán đảo. Có thể sự có mặt của một
người cố vấn Cola ở triều Srivijaya, và tính hay chiều lòng của vua Cola để chiếm
lại các lãnh thổ cho nước đó, đã làm cho các nhà sử học Trung Quốc tưởng rằng trải
qua thời kỳ 1068 đến 1077 “nước Chu Liên (Cola) là chư hầu của Sangfosi ?”843
.
6. Nước Mianma: Anoratha (1044 - 1077)
G.E. Harvei844
viết “khi nào người ta viết lịch sử cổ điển của Mianma, cần
phải chia đôi triều đại của một ông vua như Anoratha: nửa thứ nhất dành cho các
nguồn tài liệu, đưa ra ánh sáng những bút tích về sự tồn tại thực sự của ông và việc
ông ta đã làm, nửa thứ hai là các truyền thuyết về Anoratha. Hiện nay chưa có dịp
viết một cuốn lịch sử như vậy và trong các dòng sau đây, những tài liệu nghèo nàn
837
Brander, Not.Bat.Gen, 45, 1902, tr. 128; Not.Bat.Gen, 1902, tr. 34; N.J.Crom, “Inleiding”, II, tr. 425. 838
W.P. Groenevent, “Ghi chép ở bán đảo Malay”, Verh.Bát.Gen, XXXIX, 1880, tr. 66. G. Pherăng, “Đế
quốc Suvarnatvipa”, tr. 186; K.A. Nila Căngta Xátxtơri, “Srivijaya”, BEFEO, XL, tr. 290. 839
Hiecter và Rockhin, “Laugiuycua”, tr. 100. 840
Nước ở giữa Gdavari và Critxua. 841
Chú thích đúng của bản này, xem ; K.A. Nila Căngta Xátxtơri, “Srivijaya”, BEFEO, XL, tr. 289, số 1. 842
Tihuakielo năm 1067 ở Trung Quốc vì lợi ích của Sangfosi, tôi không thấy như thế nào mà X.K. Agangca,
“Ấn Độ cổ”, tr. 130 và K.A. Nila Căngta Xátxtơri, “Srivijaya”, BEFEO, XL, tr. 290, có thể giả thiết rằng
Dvaquyla tức Ragiangdra Dvaquylottunga tương lai có thể đến Malay vì lợi ích của cuộc viễn chinh của
Viraragiangdra xẩy ra ở năm sau. 843
Mã Đoan Lâm, “Người phương Nam”, bản dịch của Hekvei dơ Saintdơnit, tr. 586. 844
“Lịch sử Mianma”, tr. 17.
151
rút từ một bản minh văn chưa được nghiên cứu đầy đủ845
lẫn lộn với những yếu tố ít
gần sự thật nhất của truyền thuyết846
.
Trong phần cuối chương trước người ta đã thấy Anoratha là con vua Kunsbo
Kyaungphyu847
và một trong ba công chúa trước đây đã lấy người người làm vườn
giết vua. Ông ta trải qua thời thanh niên trong tu viện mà cha ông bị buộc phải ở đó.
Một hôm xích mích với người anh họ vua Soccatter ông này đã giết anh trong một
cuộc chiến ở Myincava gần Pageng ngôi vua để trống, ông liền dâng cho cha là
người chuộng ở lại tu viện hơn.
Lên ngôi vua năm 1044848
Anoratha mở mang lãnh thổ của vương quốc
Ragang lúc đầu vốn còn nhỏ hẹp. Ở trong nước, hai công trình đáng chú ý nhất của
ông là việc sáng chế cho một hệ thống trước ruộng ở phía đông kinh đô, ở vùng
đồng bằng cây lúa Kyocxv, nó trở thành vựa thóc của miền bắc Mianma849
và sự
chuyển hoán nước này theo đạo Phật Travada nó kéo theo sự thất sủng đối với Aritx
và sự suy tàn của phù chú giáo.
Sự du nhập vào Pagan đạo phật Travada, theo truyền thuyết, là kết quả của
chiến dịch năm 1507 chống Sudammavadi (Thaton, ở Peguy).
Miền hạ Mianma một xứ cực điểm người Mon, là một trong những miền
theo đạo Phật lâu nhất, và khi đạo này bắt đầu suy ở Ấn Độ, chính là với Ấn Độ
miền nam (Cangsi, Conggiovonang) và với Saylan, đất thành của Tiểu thừa mà
người Mon đã giữ mối quan hệ tinh thần. Năm 1056 nhà sư Shin Arahan850
con một
người Balamon ở Thatong và có lẽ học trò trường Cangsi tới Pagang và đã thuyết
phục được nhà vua theo đạo của mình nên nhà vua đã đập tan các thế lực của người
Aritx
Muốn có một bộ thánh kinh Pali, Anoratha cử một quan thượng thư đến
Thaton851
xin, nhưng vua Mamayha đã từ chối. Anoratha liền cử binh sang đánh
845
Người ta không có những bút tích nguyên bản xác thực từ triều Anoratha nếu người ta loại ra các truyền
thuyết ngắn về các bài vị hiến thần (Chuyên ban khảo cổ Xuyecvei Mianma, 1906, tr. 10; 1912, tr. 19; 1915,
tr. 15). 846
Cô đúc trong “Hinannan Yagawin”, bản dịch Pmangtin và G.H. Luýtxơ, “Tấm gương biên niên”, 1923. 847
Cách gọi của Mianma đó tương ứng với âm Bali là Amugruytda có nghĩa là “Bình định, dẹp yên”, nhưng
trên các bài vị hiến thần, được gọi là Aniruytda có nghĩa là “Không trở ngại”. 848
Các niên hiệu Anoratha khác nhau trong các văn bản. Các niên hiệu ở đây dựa vào minh văn, được các
nhà sử học chấp nhận. Ximang Hela, “Bản biên niên sử các vua Mianma”, báo hội nghiên cứu Mianma XIII,
1923, tr. 82. 849
F.A. Xtiuoact, “Tưới ruộng ở Kyoxv trong lịch sử Mianma”, báo hội nghiên cứu Mianma XII, 1921, số 1. 850
Shin Arahan là một danh hiệu. Tên đi tu của ông hình như là Xilabutdi hay Dammadatxi. (Pmangtin và
G.H. Luýtxơ, “Tấm gương biên niên”, 1923, tr. 71, 72, 74). 851
Lịch sử người Mon được biết tới rất sai. Xmit đã ấn hành năm 1906, trong Xitzungber, thuộc Viện hàn
lâm Vienn (Tập CLI), gần đây Hanlidang dịch trong báo hội nghiên cứu Mianma XIII, 1923, tr. 1; Hai cuốn
Sudarmavatiragiavamxa và Xitharagiavamxa được xuất bản năm 1910 ở Baclat và cuốn Dammatcata năm
1912, các bản này còn chờ một dịch giả.
152
người láng giềng khó tính đó, và năm 1057 sau ba tháng đã chiếm được thành
Thaton852
. Ông thấy ở đó 30 bộ kinh Tripitaca liền cho đưa về Pagang cùng với vua
Hamayha các thượng thư, các ông sư và một số lớn thợ thủ công.
Việc chinh phục Thaton đã đưa tới kết quả về mặt chính trị cả vùng đồng
bằng853
và các hạt Ấn Độ đều khâm phục, mở ra cho người Ấn Độ một cái cửa sổ ra
biển, về mặt văn hoá, sự chuyển hoán xứ Pagang theo đạo phật Travada về sự suy
tàn của phù chú giáo Hahagana, có lẽ đạo này buộc phải dời các đền thờ của nó ra
ngoại ô, và cuối cùng là ảnh hưởng của nền văn minh tinh tế của người Mon vào số
dân chúng Mianma hãy còn thô kệch. Số đông đảo tù nhân đưa từ Thaton về đã dạy
cho người Mianma văn học nghệ thuật và nhất là chữ viết của họ. Bút tích đầu tiên
bằng tiếng Mianma, viết bằng chữ Mon, có ngay sau cuộc chinh phục: 1058854
. Hai
công trình kiến trúc cổ nhất ở Ragang là Nangpaya và Manuha đều do nhà vua bị
bắt Mamayha xây dựng nên855
.
Anoratha chắc chắn là một nhà chinh phục lớn. Không bằng lòng đạt được
quyền cai trị của mình tất cả vùng đồng bằng sông Iranadi, ông ta đã đánh sang các
nước láng giềng. Rủi thay người ta có rất ít tài liệu chính xác về con đường viễn
chinh của ông mà các truyền thuyết đã nắm được. Về phía đông chinh phục miền
bắc nước Aracang và hình như đẩy tới Sittugong856
. Về phía Cămpuchia các biên
niên sử các hạt Thái ở thượng lưu sông Menam857
đã gán cho ông một chiến dịch
mà người ta không thấy tiếng vang theo tài liệu Khơmer hiện đại về phía bắc, ông đi
tới bên ngoài Bamo, tới Tali thuộc Nam Chiếu, định tìm chiếc răng Phật và chỉ
mang về được một pho tượng ngọc858
.
Danh tiếng của ông lan tới Seilan. Vua Vijayalahuy I (1059 - 1114) nước đầu
viện binh của ông để đẩy lùi sự xâm lược của người Cola859
nhưng sau khi tự lực
chống cự được, năm 1071, ông ta chỉ xin Anoratha các nhà sử và các bản chi tiết
nhằm phục hồi lại các sự tàn phá do chiến tranh gây ra860
. Để đòi lại các phái viên
852
Duyroadenler, “Minh văn Mianma”, I, tr. 6. 853
Có lẽ trừ Pruy mà các biên niên không ghi và ở đó các dân di cư ở Haripuygiaya, mới bắt đầu định cư ở
Thaton, sau trốn đi trong đợt Anoratha chiếm đóng thành đó. (G. Xodetx, “Tài liệu”, BEFEO, XXV, tr. 24-
80). 854
Cricstara (Promo) và 4 hạt ở trong vùng Ranggun: Pockharavati, Trihacumba, Axitanggiana,
Rammanagara (Minh văn Mianma, I, tr. 6). 855
Gốc các bút tích này đã được xác nhận. Nó không được chấp nhận trong tập I cuốn, “Bút tích ở Mianma”
của Pmangtin và G.H. Luýtxơ, xem “Minh văn Mianma”, I, tr. 67, 73. 856
G.E. Harvei, “Lịch sử Mianma”, tr. 29-30. 857
Sulavamxa, LVIII, bản dịch của W. Giaygier I, tr. 202. 858
G.E. Harvei, “Lịch sử Mianma”, tr. 30. 859
Sulavamxa, LVIII, bản dịch của W. Giaygier I, tr. 202. 860
Nt, LX, tr. 214; C. Raxanayagam Muydaliyar, “Bút tích Vijaya Bahuy ở Polonnaruyoa”, báo hội hoàng
gia Seilan, XXIX, 1924, tr. 274; “Minh văn Seilan”, II, tr. 246, 253-254.
153
Mianam đưa về Pagang một mô hình các răng Phật nổi tiếng ở Seilan và đặt vào
ngôi chùa lớn Siudigong xây dựng từ 1059861
.
Anoratha mất năm 1077 do một tai nạn trong khi đi săn. Ông đã để lại một
vương quốc kéo dài từ Bamo đến vịnh Martabang, gồm miền bắc Aracang và miền
bắc Tnatsrim, có hàng loạt thành phố chiến luỹ bảo vệ862
, một vương quốc mà đạo
phật Travada đã chinh phục được, mà ảnh hưởng nghệ thuật và văn hoá Mon đã
thống trị, từ nay có thể tỏ mặt là một cường quốc trên bán đảo Đông Dương.
Trong chương này người ta chú ý nhấn mạnh vào các vua Suryavarman I,
Erlangga và Anoratha. Triều đại của các ông này, sau khi loại trừ thế lực người
Mon ở châu thổ sông Menam và Iranadi có lợi cho người Khơmer và người
Mianma, và sau khi phục hồi lại thế lực Giava đã có những hậu quả chính trị rộng
lớn. Thời kỳ này đã đánh dấu sự rút lui của người Champa trước người Annam mà
họ đã phải bỏ lại các tỉnh phía Bắc và biểu lộ những dấu hiệu mệt mỏi đầu tiên của
Srivijaya là nước bị rung động vì sự xâm lược của người Giava vào thế kỷ trước và
vì những chuyến xâm lấn của người Cola, Mianma, Cămpuchia, Giava lợi dụng sự
suy yếu của nhà Tống ở Trung Quốc, từ nay trở thành 3 thủ lĩnh lớn trong lịch sử
ngoại Ấn.
Chương X:
Triều đại Mahiđarapuyra ở Cămpuchia, triều đại Miến Điện ở Pagăng
và vương quốc Giava ở Cađiri
(cuối thế kỷ XI và ba phần tư đầu thế kỷ XII)
1. Nước Cămpuchia: những ông vua đầu tiên thuộc triều đại Mahiđarapuyra
(1082-1112); 2. Nước Chàm từ 1074 đến 1113; 3. Nước Miến Điện: các vua ở Pa
găng, kế vị Amôrata (1077-1112); 4. Quần đảo Nam Dương từ 1078 đến 1109-
Vương quốc Cađiri; 5. Nước Cămpuchia: từ lúc Xurayavácman II lên ngôi (1113)
đến việc người Chăm chiếm Ăngco (1117); 6. Nước Chăm từ 1113 đến 1117; 7.
Nước Miến Điện từ 1113 đến 1173; 8. Quần đảo Nam Dương từ 1115 đến 1178-
Vương quốc Cađiri.
1. Nước Cămpuchia: những ông vua đầu tiên thuộc triều đại
Mahiđarapuyra (1082-1112)
861
Pmangtin và G.H. Luýtxơ, “Tấm gương biên niên”, tr. 87; Xcotconno, sđd, tr. 247. L. de Baylie, sđd,
tr..255. 862
Pmangtin và G.H. Luýtxơ, “Tấm gương biên niên”, tr. 96-97.
154
Harshavarman III lên ngôi năm 1066, lo lắng đến việc khôi phục lại các phế
tích do các cuộc chiến tranh ở thế kỷ trước gây ra863
. Giữa những năm 1074 và
1080, xẩy ra sự xung đột giữa người Khơme và Chăm, và vua Harivácman IV đã
nói: “đã đánh bại quân Cămpuchia ở Somecvara và bắt sống tướng chỉ huy là ông
hoàng Xori Cri Năngđavoimađơva, (Nandavarmadeva) ông này được cử đi với tư
cách là một Xơnapati”864
. Có lẽ trong chiến dịch này, ông hoàng Pâng, em của vua
Chăm, sau này cũng làm vua dưới tên Paramabodhisattva, “đã chiếm của
Cămpuchia thành Cambhupura (Sambor trên sông Mêkông), phá huỷ tất cả đền
chùa và đem những người Khơme bắt được cho các đền cho chùa khác nhau cho
Xori Ixannabađorécvara (ở Mỹ Sơn)865
.
“Năm 1076, người Trung Quốc quyết định đưa quân sang đánh Bắc kỳ, đã
lôi cuốn các nước láng giềng của nước này vào vòng chiến: trong lúc quân của Kou
k‟ onei tiến về Hà Nội qua đường Lạng Sơn, quân Chăm và Cămpuchia tràn vào
Nghệ An. Quân Trung Quốc bị thất bại đã làm cho quân đồng minh phải rút lui. Về
điểm này ta chưa có tài liệu”866
.
Hácsavácman III, thuỵ hiệu là Xađixivapađa, ít nhất đã trị vì đến năm
1089867
. Nhưng 7 năm trước niên hiệu đó đã xuất hiện ở phía Bắc dẫy Đằng réc, tên
ông vua kế vị là Giayavácman VI868
. Phổ hệ của ông này, như ghi trong bút tích của
cháu ông tên là Xuryavácman II869
đã không chỉ ra được mối quan hệ họ hàng với
triều đại do-Xuryavácman I dựng lên cũng như với triều đại trước nữa. Ông là con
Hiranyavácman, gốc ở Ksitinđơrazơrama (Kshitôndragrâma), một địa phương
không biết là ở đâu, và của bà Harynyalắcsơmi, sau này, các bút tích của
Giayavácman VII nói rằng ông thuộc tầng lớp quý tộc ở Mahidarapuyra870
, một
kinh thành mà cần xác định vị trí của nó. Có thể đó là một chức tước cao, cấp tỉnh
trưởng, ông này đã lợi dụng sự suy yếu của vương quyền trung ương sau triều đại
sóng gió của Uđayađivavácman II, giành độc lập ở phía Bắc, ở đó các công trình
xây dựng của ông và các người kế vị ông đặc biệt có rất nhiều. Hình như trong việc
thực hiện các ý đồ của mình, ông được nhà tu hành Đivacarapăngđita giúp đỡ, ông
này sau một thời gian phục vụ Hácsavácman III, đã gắn mình vào vận mệnh của
863
Bác Fo, Bút tích Phạn ở Cămpuchia, tr. 176, Aymônio, Nước Cămpuchia, III, tr. 508; G. Xođéta, Bút tích
ở Cămpuchia, I, tr. 221 864
L.Phinô, Bút tích ở Mỹ Sơn, BEFEO, V, tr. 938 865
L.Phinô, Bút tích ở Mỹ Sơn, BEFEO, V, tr. 945 866
H. Matxpirô, Biên giới Annam và Cămpuchia thế kỷ VII đến IX, BEFEO, XVIII, tr. 33 867
Bút tích ở Xăm rông (Agurônie, Nước Cămpuchia, II, tr. 391) 868
Bút tích ở Nôm vang (G. Kôđetx, Những dữ kiện biên niên và phổ hệ mới về triều đại Mahiđarapuyra,
BEFEO, XXIX, tr. 299, số 1) 869
Bia ở Buông Rung (nt, tr. 300-301) 870
BEFEO, VI, tr. 72; XXXIX, tr. 297, số 1
155
những người mới đến, tham dự các lễ thụ phong của Giayavácman VI và các người
kế vị ông và cũng nhận các chức tước của hoàng gia ban cho871
.
Không chắc Giayavacman VI đã trị vì ở Ăngu là nơi ông không để lại bút
tích872
, và ở đó có lẽ Hácsavácman có một người kế vị mình, trong minh văn không
biết tới, ông này đã trị vì đến tận 1113. Người ta sẽ thấy Xuryavácman III định
cướp quyền của hai ông vua trong niên hiệu đó. Một là Daraminđơravácman I, chú
ông, ông này cũng không để lại bút tích trong nhóm Ăngko873
, và ông vừa có thể là
người kế vị của Hácsavácman III. Ông này bị giữ lại ở kinh đô cho đến đầu thế kỷ
XI.
Người ta biết rất ít về triều vua Giayavácman IV. Các bút tích của những
người kế vị ông, nhất là của người bàlamôn Đivacara, đã gắn tên ông vào các công
trình thờ Xiva ở Pơnông Xăngđắc, Pơrêát Vihia, Vátphu874
và với chùa thờ Phật ở
Pimai. Các công trình như đền Pơrêát Palilay ở Ăngcothom và Beng Mealea có lẽ
bắt đầu được xây dựng dưới triều ông Paramakaivalyapada. Khi mất, ông nhận thuỵ
hiệu là Paramakaivalyapada.
Về hai người anh em của ông, người em thứ nhận trước Yuvaraja hay thái tử
Đicavara đưa lên ngôi. Bút tích ghi “Không ham ngôi báu, khi người em thứ về
chầu trời, do lòng trắc ẩn và do nhượng bộ trước những lời cầu khẩn của muôn dân
không người che chở, ông đã cai trị một cách rất thận trọng, khôn ngoan”875
. Ông
tiếp tục cho xây dựng các công trình của triều trước và đẩy mạnh chủ nghĩa cổ
truyền đến mức lấy cả hoàng hậu Vijayandralakshomi làm vợ, bà này vốn đã lấy
thái tử chết trước khi lên ngôi, rồi lại lấy Giayaráman IV876
.
Năm năm từ lúc ông lên ngôi, người cháu họ ngoại, như bút tích đã ghi “còn
rất trẻ, sau khi học xong, cảm thấy khát khao chức phẩm vương giả của gia đình
nhưng lúc đó việc ấy phụ thuộc vào hai người chủ”877
. Đó là Xuryavácman II mà sự
nghiệp rực rỡ sẽ được nói đến ở phần sau.
2. Nước Chăm từ 1074 đến 1113
871
Aymôniô, Nước Cămpuchia, I, tr. 395-396; III, tr. 510 872
Ngoài bút tích Nôm văn năm 1082, còn hai cái thuộc triều này: một cái năm 1101 ở Pơrêát Pơuông cách
Tây Bắc Ăngko 50 km, cái thứ hai là một bút tích chưa công bố ở Pơuôngđa ở cực nam, có từ 1106, năm cuối
cùng của triều này 873
Các bút tích mang tên ông từ Pơnông Xăngđắc tới (thư mục Xođétse, tr. 141) và từ Pinai (1109, BEFEO,
XXIX, tr. 345) ở phía Bắc, từ Pơrasát Tơ rê (1109) ở 30km Tây Bắc Ăngko và từ Pơnông Bayăng (1170) ở
cực Nam Cămpuchia. Sự có mặt ở vùng này các bút tích của Giayarácman IV và Đaraminđơrarácman I bắt
buộc phải xem lại ý kiến của tôi về sự phân bố các vùng thuộc quyền lực Hácsarácman III và các kình địch
của ông. Các công trình chủ yếu của họ thấy ở phía Bắc. 874
Các lâu đài này được miêu tả trong Nghệ thuật Khơme cổ điển của Pácnăngdaiê (EFO XXIX, Pari, 1939). 875
L. Phinô, Bút tích ở Bản Thát, BEFEO, XII, 2, tr. 26. 876
BEFEO, XXIX, tr. 302, số 1. 877
Bút tích ở Bản Thát, sđd, tr. 27.
156
Ở Chăm, hoàng tử Thông Vitxan là Madhara hay Devatâmurê (Đơvâtmuyêti)
dòng dõi cha, thuộc họ cây Dừa (Naricôfaramxa (Narikeicuramca) dòng dõi mẹ
thuộc họ cây Cau (Wramycavamxa (Kramukavamca), xưng làm vua năm 1074,
dưới tên là Harivácman IV878
. Ngay sau khi mới lên ngôi ông đã đánh lui một cuộc
tấn công của người Annam879
và như người ta đã thấy ở trên, ông đã chiến thắng
người Khơme và đã đưa chiến tranh sang đất họ cho đến tận sông Mêkông, năm
1076 ông đã tham gia một cách bỏ lửng vào khối liên minh do người Trung Quốc
điều khiển để chống nước Annam là nước mà năm sau ông lại triều cống880
.
Harivácman IV đã dùng phần lớn thời gian ở ngôi của mình để “trả cho nước
Chăm vẻ huy hoàng thuở trước”881
, phục hồi lại Chăm pa và Ximhapuyra (ở Quảng
Nam) và cho xây dựng nhiều công trình ở Mỹ Sơn. Năm 1080, ông làm lễ thụ
phong cho con trai là hoàng tử Vắc mới lên 9 tuổi, với tên là Giaya Inđơravácman
II, và năm sau ông mất ở nơi ẩn dật của mình882
. Vì ông vua trẻ “không biết thế nào
là tốt hay xấu để cai quản vương quốc và đã làm những việc trái ngược với quy tắc
của vương quyền”883
nên trong một tháng phải tìm cho được một người phụ chính.
Ông hoàng Păng, chú của vua được chọn làm việc đó. Ông này dưới triều trước đã
chiến thắng người Khơme ở Xambuypuyra. Ông lên ngôi vua dưới danh hiệu
Paramabôđidátxa (Paramabodshisattva). Ở đây hình như xảy ra một sự tiếm quyền
thực sự vì sau 6 năm ở ngôi, ông chú đã hàng năm triều cống nước Annam884
và đã
trấn áp âm mưu giành tự trị của Pângđuyraga ương ngạnh885
, bè cánh của ông ta lên
ngôi bằng bạo lực năm 1086886
.
Ngay lúc phục ngôi, Giây Inđơruvácman II nối lại quan hệ với Trung Quốc
và gửi đều đặn đồ cống sang Annam cho đến năm 1091. Sau một thời gian cắt
quãng trong vài năm, điều đó làm ông bị cảnh cáo phải quay lại trật tự, ông lại bắt
đầu triều cống vào các năm 1095 và 1102, nhưng đến năm 1103, do sự xúi dục của
một người Annam trốn sang đó, ông ta tưởng có thể thu hồi lại được ba tỉnh Chăm ở
phía Bắc năm 1069, nhưng ông ta chỉ giữ được trong vài tháng. Sau đó ông trị vì
một cách bình yên cho tới năm 1113, tiếp tục phục hồi lại các công trình của tiên đế
và cho xây dựng nhiều công trình ở Mỹ Sơn.
3. Nước Miến Điện: các vua nước Pagăng kế vị của Anôrafa (1077-1112)
878
L. Phinô, Bút tích ở Mỹ Sơn, BEFEO; IV, tr. 937 - 938 879
G. Matxpơrô, Vương quốc Chăm, tr. 143 880
Sđd, tr. 145 881
L. Phinô, Sđd, tr. 940 882
G. Matxpơrô, Sđd, tr. 147 883
L. Phinô, Sđd, tr. 949 884
Aymônie, Nghiên cứu đầu tiên về bút tích Chăm, Báo Á châu, 1-2/1891, tr. 33-36 885
G. Matxpơrô, Sđd, tr. 148 - 149 886
G. Matxpơrô, Sđd, tr. 150
157
Về những người kế vị Anôrafa trị vì ở Pagăng, các biên niên sử đã thuật lại
nhiều giai thoại, thường là hoang đường, đôi khi lại xấu xa, nó vượt ra ngoài lĩnh
vực lịch sử. Minh văn học cho phép xác định niên hiệu lên ngôi của các ông vua đó
và các công trình đã tạo nên cho kinh đô thành một trong những nơi danh thắng
khảo cổ phong phú nhất của bán đảo Đông Dương887
.
Mất năm 1077, Anôrafa để lại hai người con: Xôluy (Sôlu) là con một người
vợ ông lấy trước khi lên ngôi888
và Kyangdittha (Kyangittha), con một công chúa
Ấn Độ hay aracăng889
tên là Păngsakalyani (Panchakalyani), nhưng có lẽ là con một
viên quan đuợc uỷ cho việc đưa nàng về Pagăng890
. Sau khi, trong những năm đầu,
suýt bị chết trong cuộc “tàn sát những người vô tội” theo lệnh của vua cha891
,
Kyăngdittha bị nghi là nhân tình của hoàng hậu Manisăngđa (Manichanda) hay
Săngdadivi (Chandadivi), con gái vua Pơguy, đã bị trục xuất ra khỏi cung đình892
.
Xôluy đã lên cầm quyền năm 1077 và bắt đầu bằng việc lấy mẹ vợ, hoàng
hậu nước Pơguy, phong tước Khin Uy cho bà này, cho gọi anh Kyăngđittha về,
nhưng chẳng bao lâu ông này lại bị đưa đi phát vãng vì cùng một lý do như kỳ
trước893
. Giá trị không gì sánh được của ông làm cho ông lại được triệu về giúp vua
trấn áp cuộc nổi dậy của một người em của Xôluy tên là Ramăng Căng là người
được giao cho cai quản miền Pơguy894
. Xôluy không thắng được, và qua nhiều sự
ngẫu nhiên hoang đường, đã bị Ramăng Căng giết chết895
.
Kyăngdíttha được chọn lên nối ngôi năm 1084896
. Trước hết, ông chiếm lại
Pơguy do người Môn chiếm. Ramăng Căng phải ẩn náu ở một nơi sau này là thành
Avra. Kyăngdíttha tập trung quân ở vùng đồng bằng cấy lúa Kyốcxô, tiến về
Pagăng, dễ dàng đánh đuổi người Pơguy chạy dài. Ramăng Căng đã chết trong cuộc
rút lui897
.
Kyăngdíttha làm lễ đăng quang, có thể vào năm 1086898
, do Sin Arahăng
(Shin Arahan) đưa lên, dưới vương hiệu Tơribuyvanađitra Đammaragia
(Tribhuvanaditra Dhammaraja), một vương hiệu mà các triều vua sau cũng cứ giữ
887
L. Đơ Bâyliê, Kiến trúc Ấn Độ ở Viễn Đông, tr. 252-312 888
PơmângTin và G. H. Luýtav, Tấm gương biên niên, tr. 65 889
G. E. Hacvây, Lịch sử Miến Điện, tr. 316; Minh văn Miến Điện, tr. 4, 155 890
Kiến trúc biên niên, tr. 66 891
Không thấy có trong bản gốc 892
Kiến trúc biên niên, tr. 93 893
Nt, tr. 100 894
Nt, tr. 101 895
Nt, tr. 104 896
Bút tích Miến Điện, I, tr. 4, 89. 897
Kiến trúc biên niên, tr. 104. 898, 898
Mô hình khảo cổ Xuyếcvây - Miến Điện, 1916-17, tr. 19; “Minh văn Miến Điện”, I, tr. 4. Các trường
hợp trước 1093 (Minh văn Miến Điện III, tr. 3).
158
mãi. Sau bố và em mình, đến lượt ông Khin Uy (Khin U)899
mà việc hôn nhân đã
hợp pháp hoá quyền bá chủ của vua nước Pagăng đối với xứ người Anôn. Suyanhthi
(Shueinthi) là con gái duy nhất của ông do hoàng hậu Abâyađana (Abeyadana)
(Abavaratana) cưới trước khi lên ngôi, sinh ra, đã lấy Xôyun (Soyun) là con Xôluy
(Solu). Cô ta có một người con trai tên là Alângxithu (Alaung Sithu) (Giayaxuyra)
(Jayasura) mà ngay khi mới sinh ra đã được Kyăngdíttha phong làm vua, còn mình
làm phụ chính900
. Ngoài ra, khi còn bị phát vãng dưới triều bố mình là Anôrapha,
Kyăngdíttha có một đứa con trai với Xămbruyla (Sambrula), cháu một người ẩn sĩ
mà ông ta gặp ở trong rừng901
. Bà này trở về triều902
được ông ta nhận làm hoàng
hậu thứ tư với danh hiệu Tơrilôcavaphamxica (Trilokavafamsica) (tên Miến Điện là
Uyxócpăng)903
và giao cho con Ragiănghymara (Rajakhmara) quyền cai quản vùng
Đannavati (Dhannavati) (Bắc Aracăng) dưới danh hiệu Giơyakhéttara
(Jeyakhettara)904
.
Công trình lớn của Kyăngdíttha, riêng nó đã làm cho ông ta nổi tiếng, là việc
xây dựng đền Anăngđa ở Pagăng, theo truyền thuyết905
thì nó mô phỏng cái động
Năngđamula trên núi Găngđamađama. Người ta muốn đồng nhất nơi đó với đền
Uđayayvu (Udayayvu) ở Ôrítxa906
mà nhà vua được nghe thuật lại qua các tín đồ
Ấn Độ từ Miến Điện tới để chạy trốn khỏi sự hành hạ đối với Phật giáo ở nước đó.
Nhưng cũng có thể đó là đền Pahácpuara (Paharpur) ở phía Bắc Bănggalo, ngôi đền
này dùng làm mẫu cho kiến trúc sư ở Anăngđa907
. Ông này không được quyền sống
cho đến lúc khánh thành năm 1090. Một đứa bé bị chôn sống với ông để làm thần
giữ đền908
.
Trong nhiều công trình khác, Uyăngdíttha hoàn thành ngôi chùa Suydigông,
ở đó có một bút tích quan trọng của ông909
, cho sửa lại các đền Bốtgaya (Bodhgaya)
ở Ấn Độ910
. Ông cho xây dựng cung điện mới vào khoảng 1101-1102911
và nhắc
nhiều bút tích tiếng Môn, thời đó được coi là tiếng nói văn minh912
.
899
Kiến trúc biên niên, tr. 105. 900
Nt, tr. 105. 901
Nt, tr. 93. 902
Nt, tr. 107. 903
Minh văn Miến, I, tr. 5. 904
Nt, tr. 6. 905
Kiến trúc biên niên, tr. 110, Bâyliê, sđd, tr. 265. 906
Hác vây, Lịch sử Miến Điện, tr. 40 907
Đuyroadenlo, Đền Anăngđa ở Pagăng, Hồi ký khảo cổ Xuyếc vây ở Ấn Độ, tr. 56, 1937 908
Hác vây, Sđd, tr. 41 909
Minh văn Miến, I, tr. 90 910
Minh văn Miến, I, tr. 154, 164 911
Minh văn Miến, II, tr. 5 912
Minh văn Miến, I, tr. 74-Như vậy các truyền thuyết giải thích các sự việc xảy ra rút từ Giataca được biểu
hiện trên các mảnh đồ gốm đã trang trí Anăngđa và in trong Minh văn Miến, tập II, là bằng tiếng Môn. Xem
Huy bơ, Phù điêu thấp ở đền Anăngđa ở Pagăng, BEFEO, XI, tr. 1-5
159
Không nghi ngờ gì nữa, người trùng tu Bốtgaya, người xây dựng Anăng đa,
ở đó ông ta cho đặt pho tượng của mình trong tư thế ngồi tụng kinh913
lại không
phải là một tín đồ sùng bái đạo Phật. Ông thân hành làm lễ quy y và đã cải giáo cho
một ông hoàng Côlanhi khi đi qua Miến Điện bằng cách gửi một bản liên quan đến
tam pháp bảo mà ông ta sáng tác ra và viết trên một lá vàng914
. Nhưng dưới triều
ông, người ta còn thấy nhiều dấu vết của Ấn Độ giáo915
và người ta Bàlamôn ở
trong triều còn giữ vai trò hàng đầu trong các quốc lễ916
.
Năm 1103, Kyăngdittha cử sứ thần đầu tiên sang Trung Quốc và được ghi
trong lịch sử nhà Tống917
. Ba năm sau, vào năm 1106, “các phái viên của vương
quốc Pucang (PouKan) (Ragăng) đến triều cống, hoàng đế trước hết ra lệnh đón tiếp
họ và đối xử như đối với các sứ thần của Côla, nhưng ông chủ tịch Hội đồng bộ Lễ
đã trình bày những nhận xét sau: Nước Côla là chư hầu của Xăngfôtsi918
; cho nên
trong các năm Hininh (1068-1077) người ta bằng lòng viết cho vua nước đó trên
giấy bìa, phong bì bằng vải màu. Vua Pucăng, ngược lại lại là bá chủ một vương
quốc lớn các người Phăng (Fan) (Bàlamôn, tức là các nước Ấn Độ) không nên coi
khinh họ. Cần phải cho họ hưởng các vinh dự như đối với các vua Tache (Ả Rập)
và Kiarche (Bắc Kỳ) bằng cách viết trên lụa có hoa vàng và mặt sau để trắng, một
bức thư đặt trong một cái hộp viền vàng với khoá bạc và bọc hai lần bằng tơ và
satanh. Hoàng đế chấp thuận các nhận xét đó và quyết định làm như vậy919
”. Tôi cố
ý thuật lại cả đoạn này vì 62 năm sau việc lên ngôi của Anirata là người sáng lập
thực sự ra vương quốc Pagăng, ông ta đã để lại ấn tượng về nước Pagăng một cách
sâu sắc đối với triều đình Trung Quốc là nước luôn luôn lo lắng đến việc duy trì một
tôn ti chính xác giữa ông vua nước ngoài.
Năm 1112 Kyăngdittha mất hoặc sau đó một ít, vì chắc là nhân dịp ông ốm
sắp chết, người con của ông đã cho đúc một pho tượng Phật bằng vàng, trên có khắc
bốn thứ chữ (Pali, Pin, Môn, Miến Điện) bản bút tích quý giá ở cái cột của Miadơđi,
phía nam Pagăng920
.
4. Quần đảo Nam Dương từ 1078 đến 1109-Vương quốc Cađiri
Về thời kỳ một phần tư cuối thế kỷ XI và 10 năm đầu thế kỷ XII, lịch sử
Xăngfôtsi chỉ thu gọn trong những lời ghi trong cuốn Lịch sử nhà Tống về một loạt
913
Bâyliê, Sđd, tr. 267 914
Minh văn Miến, I, tr. 164 - 165 915
Niha Rănggiăng Ray, Thần Bàlamôn ở Miến Điện, 1932. 916
Minh văn Miến, III, tr. 4 917
Hiếc to và Rốckhin, Chan fu kua tr. 59-Tôi không rõ Hác vây dựa trên cái gì ,(Lịch sử Miến Điện, III,
tr.43) để nói rằng sứ thần này người đi qua Vân Nam 918
Xem chú thích tr. 239 919
An tuan Lin, Người Phương Nam, bản dịch của Héc vây Xanh Đơnitx, tr. 586 920
Minh văn Miến Điện, I, tr. 1
160
các sứ thần từ 1078 đến 1097921
. Ngoài ra, mối liên hệ giữa Xumatơra và Ấn Độ
phía Nam đã được một bút tích tamun tìm thấy ở gần Barôt trên bờ phía tây đảo xác
nhận: có từ 1088, nó nói lên một phường buôn lớn ở Ấn Độ phía nam922
. Năm
1089-1090, theo yêu cầu của vua Kiđaram, vua Côla Quylốttunga (Kulottunga) I923
chấp thuận ban một bản hiến chương mới cho Xori Xrilăngđơrusuđamanivácuranihara
(ri Cailendrâchudamanivarmavihâra924
tức là cho cái điện xây ở Nêgapatam theo lệnh
của Xailăngđơra Suđamanivácman vào khoảng 1005925
.
Cũng trong thời kỳ đó, những tài liệu về Giava và Bali cũng không nhiều
hơn là bao nhiêu.
Về Giava, các bằng chứng Trung Quốc thế kỷ XI cho ta cảm giác rất ít ỏi, nó
là sự phân chia của vương quốc Erlăngga cũ thành 2 quốc gia mà người ta có thể giả
thiết là Kađiri là nước duy nhất đã để lại những dấu vết minh văn, đã chiếm tất cả
các biến cảng và một mình nó đại diện cho nước Chöpô đối với các thương nhân từ
Trung Quốc tới. Vương quốc này cử sứ thần đi năm 1109926
.
Từ Kađiri người ta có được một số khá lớn những bút tích nó cho ta biết tên
các vua với các niên hiệu, nhưng nó chứa đựng rất ít chất liệu lịch sử. Dưới triều
Giayavacsa Digjaya Xatxtơrutôrabuy (Jayavrsha Digjaya Castraprabhu), mà người
ta có một bút tích năm 1104927
Tơriguyua (Triguard) sáng tác ra tác phẩm
Cơritxnayana (Krishnayana)928
một bản anh hùng ca liên quan đến truyền thuyết về
Cơritxna (Krishna) được minh hoạ bằng các phù điêu thấp ở Săng đi Giagô (Chandi
Jago)929
và ở Panađarăng (Panadaran)930
.
Ở Bali, năm 1098, xuất hiện một ông vua tên là Xacalăngđơki mà người ta
đề nghị đồng nhất với Xuradipa (Surashipa) (1115-1119)931
: danh hiệu này đã chỉ ra
mối liên quan triều đại với dòng dõi Erlăngga932
.
Năm 1082, Lịch sử nhà Tống đã ghi về một sứ thần của vua Xơri Maharagia
ở Pôni, tức là bờ biển phía tây đảo Boócnêô933
921
W.P. Gơrôăngven Ghi chép về quần đảoMã Lai , tr.66-67 922
Bút tích ở Labuy Tuoa. KA Nila căngtaxatxtori, Phường buôn Tamin ở Xumatơra, Tijd. Bah. Gen, 72,
1932, tr. 314. 923
Xem chú thích trên, tr, 238 - 239 924
Bút tích được biết dưới tên Tiểu hiến chương Lâyđơ, do Ayơ xuất bản; Minh văn Ấn Độ, XXII, tr. 267.
Xem Xatxtơri, Xơ ri Vigiaya, BEFEO XL, tr, 289. 925
Xem chú thích trên tr. 226 926
Gơroănvent, Sđd, tr. 19 927
N. J. Cơrôm, Ấn Độ - Giava, tr. 288 928
Himăngxuy Buyxăng Xaccam, Ảnh hưởng Ấn Độ vào văn học Giava, tr. 322-323. 929
Bơrandơ, Giăng đi Giagô, tr. 77 930
N. J. Cơrôm, Inleiding, II, tr. 250; Côlenfen Tijd. Batzen, 64, 1925, tr. 196 931
F.H. Van Niêcxen, Tijd Bat zen, 77, 1936, tr. 106, chú thích dưới tr. 275-276. 932
N. J. Cơrôm, Ấn Độ - Giava, tr. 280 933
Gơrôăngvent, Sđd, tr. 110
161
5. Nước Cămpuchia: từ việc lên ngôi của Xuryavácman II (1113) đến lúc
người Chăm chiếm Ăngko (1117)
Ở Cămpuchia, việc Xuryavácman II lên ngôi hoàn toàn trùng hợp với việc
vua Chăm Giaya InSơravácman II, và vua Kyăngdittha ở Pagăng chết. Nếu người ta
biết rõ hơn mối liên hệ giữa các nước đó, người ta có thể đi tới việc tìm mối liên hệ
từ nguyên nhân đến kết quả giữa cái chết của hai ông vua hùng mạnh đó và việc
nắm quyền của ông vua Khơme đầy tham vọng đã đi xâm chiếm cả phía đông lẫn
phía tây.
Người ta thấy rằng Xuriavácman II đã “nắm lấy vương quyền bằng cách
thống nhất hai vương quốc lại”934
. Người ta biết một cách chắc chắn rằng một trong
hai ông vua là Daraninđơravácman I: “sau một trận chiến đấu trong một ngày, vua
Cơri Xuryavácman đã cướp phá vương quốc không có phòng vệ của vua Cori
Daramidơravácman”935
. Cuộc chiến đấu chắc là rất ác liệt: “Cả chiến địa đội quân
trùng điệp cuồn cuộn như đại dương, ông ta nhảy vào cuộc giao chiến khủng khiếp,
nhảy phắt lên đầu voi của vua đối phương, ông ta giết chết ông vua đó như
Garuyda nhẩy xuống đỉnh núi để giết một con rắn”936
. Đaraminđơravácman I nhận
thuỵ hiệu là Paramaditsơcalapada (Paramanishkalapada).
Người ta không rõ ông vua kia tên là gì, nhưng như đã nói ở trên937
, có thể
ông ta là dòng dõi của Hácsavácman III- nhà Bàlamôn không thể bãi miễn là
Divacara đã hợp pháp hoá cuộc đảo chính của Xuryavácman II bằng cách tổ chức lễ
đăng quang của ông này năm 1113938
.
Ông vua mới đã nối lại không chậm chễ sự liên hệ với Trung Quốc hình như
bị gián đoạn từ nhiều triều đại trước. Lịch sử nhà Tống đã ghi nhận các sứ thần đến
vào những năm 1116 và 1120.
Xuryavácman II là một nhà chinh phục lớn đã đưa quân Khơme đi xa hơn
bất cứ thời nào trước đây. “Ông ta thấy những ông vua các nước mà ông muốn
chinh phục đem đồ cống đến. Ông thân hành đến các nước thù địch, làm mờ cái
vinh quang của Raguy (Raghu) (tổ tiên của Rama)”939
Về những chiến dịch chống nước Annam và Chăm, G. Matxpơrô đã cho
những chi tiết rất rõ ràng trong cuốn Vương quốc Chăm (tr. 155 – 156) chỉ cần chép
lại ở đó ra.
934
Bút tích ở Vat Phu, BEFEO, XXIX, tr. 303 - 304 935
Bút tích ở Vat Phu, BEFEO, XXIX, tr. 307 936
Bút tích ở Banahat, BEFEO, XII, 2, tr. 27 937
Xem chú thích trên tr. 221- 222 938
BEFEO, XXIX, tr. 303 - 304 939
Bút tích ở Bản Thát, Sđd, tr. 27
162
“Ngay từ khi lên ngôi, Xuryavácman II bắt đầu quấy rối nước Chăm. Năm
1023 và 1024, nước Đại Việt (Annam) không ngừng giúp đỡ các toán người
Cămpuchia và Chăm tản cư lên đất mình chống lại sự truy lùng của kẻ địch. Năm
1128, Xuryavácman dẫn 2 vạn quân đánh Đại Việt. Bị Lý Công Bình đuổi ra khỏi
Nghệ An, mùa thu năm sau ông cử một đoàn chiến thuyền gồm hơn 700 chiếc đến
cướp phá miền bờ biển Thanh Hoá và từ đó không ngừng quấy rối nước này,
thường kéo theo cả nước Chăm vào cuộc dù nước này muốn hay không. Vì vậy mà
vương quốc này, hồi đầu 1131 còn nộp cống cho vua Lý Thần Tôn mà năm sau đã
cùng quân Khơme xâm chiếm Nghệ An940
. Nhưng họ bị các đồn binh ở Nghệ An và
Thanh Hoá hợp lại dưới sự chỉ huy của Đương Anh Nha đánh đuổi. Giaya
Inđơravácman III không muốn tiếp tục phiêu lưu nên đến 1136, lại làm tròn nghĩa
vụ chư hầu đối với Lý Thần Tôn. Ông không tham gia vào chiến dịch do
Xuryavácman tiến hành chống nước Đại Việt941
năm 1138. Vua Khơme bị thua đã
trút tất cả dã tâm xâm lược vào nước Chăm, chiếm Vigiaya và làm chủ vương quốc.
Giaya Inđơravácman III mất tích, có thể bị kẻ địch bắt giam hoặc chết trên trận
địa”.
Sự chiếm đóng của người Khơme trên phần bắc nước Chàm, tập trung ở
Vigiaya (Bình Định) kéo dài đến 1149. Một ông vua mới tên là Giaya Harivácman
I, năm 1147 xưng vương ở phía nam Păngduyrăngga942
. Xurayavácman II cử quân
đi đánh gồm người Khơme và người Chàm dưới quyền chỉ huy của Xơnáphti
Xăngzura (Sehapati Cankara), nhưng bị đánh ở Hina ở đồng bằng Ragiapuyra năm
1148943
. Một đội quân “nghìn lần mạnh hơn” cũng chịu cùng một số phận ở
Virapuyra944
. Vì vậy Xuryavácman II phong làm vua nước Chàm ở Vigiaya cho một
“kasatorya (kshatria), ông hoàng Hariđơva, anh rể vua đồng thời cũng là em của
người vợ thứ nhất của vua945
. Giaya Harivácman I tiến vào Vigiaya và vùng đồng
bằng Mahika “đánh và giết chết Hariđơva, tiêu diệt cả nhà vua lẫn các Xơnapati,
tiêu diệt cả nhà vua lẫn các Xơnapati Chàm và Cămpuchia cùng các đội quân của
họ, tất cả đều chết hết”946
. Vua Chàm vào Vigiaya và làm lễ gia miện năm 1149947
.
Đó là lúc chấm dứt sự chiếm đóng của Khơme.
940
H. Matxpơrô, Biên giới Annam và Cămpuchia, BEFEO, XVIII, 3, tr. 34, cắt nghĩa rằng: “người
Cămpuchia từ Chăm đến có thể vượt qua dãy Trường Sơn qua Lao Bảo (Xavanmakhet - Huế)” 941
H. Matxpơrô, Sđd, ngờ rằng lần này người Cămpuchia phải đi qua “đường Hạ Trại (đèo Keo Nứa) hay có
thể là đèo Mụ Giạ vì người Chăm không cho đi qua nước họ. 942
Bút tích ở Đanê hay Batan Tabơlát (Aymôniê) báo Á châu 1 – 2/1891, tr. 39 943
Bút tích ở Mỹ Sơn (L. Finô, BEFEO, IV, tr. 465) 944
Aymôniê, Sđd, tr. 40 945
L.Phinô, Sđd. 946
L.Phinô, Sđd 947
Về 2 niên hiệu này, xem Phinô, BEFEO, XV, 2, tr. 50
163
Sau thất bại đó, Xuryavácman II lại khai chiến với Annam và “năm 1150 lại
cử quân sang đánh. Nhưng kết quả càng xấu hơn trước. Đoàn quân viễn chinh lên
đường mà không lo lắng gì đến thời tiết. Những trận mưa tháng 9 và tháng 10 thật
tai hại. Vượt núi Uven tức là dẫy Trường Sơn, đoàn quân bị những trận tốt tấn công
và tới Nghệ An nó bị suy yếu đi nhiều nên tự phải rút lui không đánh chác gì cả”948
.
Về những chiến dịch ở phía Tây, người ta có được vài chỉ dẫn trong biên
niên sử các hạt người Thái ở thượng lưu sông Mênam. Những chỉ dẫn đó phản ánh
những cuộc chiến đấu xẩy ra giữa người Cămbogia ở Lavô (Lốp buyri) với người
Ramana (Môn) ở Haripungiaya (Lămpun); vùng thượng lưu sông Mênam này thiết
lập từ thế kỷ VII bởi người Môn từ Lavô đến949
đã tham gia vào những vụ rối loạn
đánh dấu sự lên ngôi của Xuryavácman I950
. Từ thế kỷ trước, Lavô đã là một bộ
phận của vương quốc Khơme. Cần hiểu rằng “vua xứ Lavô” là một phó vương hay
một quan cai trị Cămpuchia, hoặc chính là ông vua Cămpuchia. Các biên niên sử
đã gán vào miệng người Cămbogia ở Lavô một số từ ngữ Khơme thuần tuý951
.
Theo văn bản thì các cuộc chiến tranh đó do Adityaragia (Adityaraja), người xây
dựng ra Mahabalasotiya (Vat Kukut) và sáng lập ra Đại thánh tích Lămpun952
gây
nên. Sau một loạt những ông vua không có sử ký, ông này lên nắm quyền chậm
nhất là năm 1150953
. Ông đã tới tận Lavô khiêu khích người Khơme nhưng bị họ
đánh bại và đuổi đến tận chân tường Haripungiaya (Haripunjaya). Không chiếm
được thành và phải quay về, người Khơme đã trở lại hai lần: lần đầu, cuộc viễn
chinh kết thúc bằng một hiệp ước với Ađityaragia (Adityaraja) và bằng sự thành lập
một làng Khơme tên là Cămbôgiagama ở đông nam Haripungiaya; hiệp ước đó
không được vua Cămpuchia chấp thuận, người Khơme lại phải tiến hành một cuộc
viễn chinh nữa, nhưng lần này bị thất bại hoàn toàn954
.
Vì biên niên sử không được chắc chắn lắm, nên chưa chắc những biến cố
trên đều xảy ra dưới triều Xuryavácman II. Người ta cũng đã từng bị xúc động trước
cuộc chiến tranh thất bại chống người Môn ở thượng lưu Mênam, cũng như các
chiến dịch chống người Chàm. Nhưng người ta chỉ biết được các sự kiện đó qua các
nguồn tài liệu thù địch ở Cămpuchia, có lẽ nó đã bị cố tình xuyên tạc đi. Dù sao
mặc lòng, sự bành trướng rộng lớn của vương quyền Cămpuchia trên bán đảo Đông
948
H. Matxpơrô, Sđd, tr. 34 949
H. Matxpơrô, Sđd, tr. 86 950
H. Matxpơrô, Sđd, tr. 218 - 219 951
G. Xơđetx, Tài liệu về lịch sử miền tây nước Lào, BEFEO XXV, tr. 168. 952
G. Xơđetx, Tài liệu về lịch sử miền tây nước Lào, BEFEO XXV, tr. 83 -86; Nôt tông, Biên niên sử Xiêm,
II, tr. 39, 53; J. J. Cơlây, Khảo cổ học ở Xiêm, BEFEO, XXXI, tr. 429-453. 953
G. Xơđetx, Sđd, tr. 23 954
G. Xơđetx, Sđd, tr. 82 – 83 và 162 – 171. C. Nôt to, Biên niên sử Xiêm, II, tr. 36-40.
164
Dương vào giữa thế kỷ XII đã được ghi trong Lịch sử nhà Tống955
, theo nó, nước
Chân Lạp (Cămpuchia) có biên giới giáp biên thuỳ phía nam của Tchan-tchuy
(Chàm) về phía bắc, phía đông giáp biển, phía tây giáp Pucăng (vương quốc
Pagăng), ở phía giữa giáp Kialôhi (Gơrahi ở vùng Saiya và vịnh Băng đông trên bờ
biển phía đông bán đảo Mã Lai)956
.
Năm 1128, hoàng đế Trung Quốc “đã ban nhiều chức tước cao cho vua nước
Chân Lạp tên là Kinpiupinsen957
, ông này được công nhận là đại chư hầu của đế
quốc. Một số khó khăn liên quan đến việc buôn bán đã được nghiên cứu và giải
quyết ngay sau đó “vào khoảng giữa các năm 1131 và 1147”958
.
Bên trong nước, triều đại của vua Xuryavácman II, như nó xuất hiện trong
minh văn, được đánh dấu bằng việc thiết lập nên Pơnông Sixo (Chisor), Pơ nông
Xăng đắc ở Vát Phu, Pơrêát Vihia và một loạt những công trình xây dựng khác,
trong đó người ta xếp những yếu tố chính của Pơrêát Pituy (Pithu) trong Ăngco
Thom, Châu sa Têvôđa (Chau Sav Tevoda) và Thômmanông (Thommanon) ở phía
đông thành phố, Ban tây Xamre (Banteay Samre) ở đông nam Baray phía đông,
phần giữa của Pơrêát whan ở Côngpông Xvay (Svay)959
và cuối cùng là một kiệt tác
của nghệ thuật Khơme: Ăngco Vát960
, xây từ lúc vua còn sống để làm lăng cho ông
ta khi ông ta mất961
, trong đó ông ta được thần thánh hoá dưới dạng tượng Vítxnu
với thuỵ hiệu là Para mavítsơnylôca.
Tên đó là bằng chứng về sự ưu đãi đạo Vítxnu ở trong triều, một bằng chứng
được biểu hiện ra bằng việc trang trí các công trình phần lớn phỏng theo vùng
truyền thuyết Vítxnu – Cơritxna 962
hơn là việc xây dựng các đền thờ Vítxnu.
Lòng say mê thì một thứ đạo giáo, đạo này trước kia, hơn cả đạo Xiva, có thể
khuyến khích lòng ham muốn thoát tục để linh hồn bay về cõi u linh, cùng thời đó
cũng thấy có ở Giava, ở đó các ông vua nước Cađari đã biến mình cho sự hoá thân
của Vítxnu. Nó cũng đồng thời với cuộc vận động tín ngưỡng ở Ấn Độ đầu thế kỷ
XII do Ramanuygia (Ramanuya) đề xướng, ông này là người sáng lập ra đạo Vítxnu
mới963
.
955
Do Matvanlin thuật lại Người phương Nam bản dịch của Héc vây Xanh ĐơmiLx, tr. 487. 956
Xem chú thích dưới, tr. 198, 300, 305. 957
Về tên này, thực ra là một danh vị hay một công thức lịch sự mà vua Khơme tự xưng trong các thông điệp,
BEFEO, XXIX, tr. 304. 958
Mã Đoan Luân (Matoanlin), Sđd, tr. 487 959
C. Do Côray Rênuyđa, Nghệ thuật Khơme, tr. 130” 960
C.Xôđét, Về niên hiệu xây dựng Ăngco Vát, Báo Á Châu, 1- 3/1920, tr.96 961
C. Xôđét – BEFEO, XL, tr.339 và tiếp theo (với thư mục các công trình về vấn đề đó). 962
Xem 5 tập về nghệ thuật trạm trổ trang trí và gian phù điêu thấp trong “Đền Ăngcôvát” về bản khảo cổ .
BEFEO II. 963
R. Gôrutxê, Triết học Ấn độ, chương XI.
165
Thời kỳ cuối của triều Xuryavacman II rất mờ mịt và ngày chết của ông cũng
chưa được biết. Bút tích cuối cùng mang tên ông là vào năm 1145964
nhưng có thể
tin rằng ông là người xúi giục gây lên cuộc giao tranh năm 1150 với Bắc kỳ và vì
vậy, ít nhất ông cũng trị vì đến năm đó.
Sứ thần sang Trung Quốc năm 1155965
không ghi một chút thay đổi nào về
ngôi vua nhưng điều đó không nói lên cái gì cả, và có thể ngược lại việc đưa sang
cống 10 con voi nhà vào hồi đó sau 17 năm ngắt quãng trong mối liên hệ giữa hai
nước, hình như trùng hợp với việc lên ngôi của người kế vị Xuryavácman II.
Ông này tên là ĐaraninđơravácmanII (Sharamôndravarman) không phải là
dòng dõi trực tiếp của Xuryavácman II, mà là anh em họ 966
.Có thể ông trở thành
vua nhờ một cuộc cách mạng trong cung đình, điều đó cắt nghĩa sự im lặng của
minh văn về những năm cuối cùng của Xuryavácman II. Vả lại, ông vua mới là
người theo đạo Phật 967
và vì vậy đã cắt đứt một truyền thống chính thống lâu đời
theo đạo Ấn Độ, đạo này trước đây đã có đôi chút khoan dung đối với Phật giáo.
Tất cả những điều người ta biết được về ông là ông đã lấy con gái của Hácsavácman
III, công chúa Sudamam (Chudamam), và đến năm 1125 thì sinh được một đứa con
trai, sau này lên ngôi dưới cái tên Giayavácman VII968.
Đaraminđơravácman II có người kế vị là Yaxôvácman II mà phổ hệ không
được biết tới. Triều ông được đánh dấu bằng một bi kịch ngẫu nhiên được ghi trong
bút tích ở ngôi đền Bantây Sơma và được hình dung trong hàng phù điêu thấp ở
cùng ngôi đền đó. Một nhân vật bí mật mà văn bản cho một cái tên – và điêu khắc
đã hình dung ra - là Rahu (tức là Axuyra đã ngốn mặt trời và mặt trăng trong lúc
nhật thực) đã tấn công nhà vua nhưng vua được một hoàng tử trẻ cứu thoát, có lẽ
hoàng tử đó là con của Giayavácman VII tương lai.
Khoảng 1165, Yaxôvácman II bị một viên quan giết chết. Viên quan này tự
xưng là vua dưới cái tên Tơribuyvanađiyavácman (Tribhuvanâdityavarman). Cùng
thời kỳ đó, một người khác cũng tiếm ngôi vua ở nước Chàm, khoảng 1166 – 1167,
dưới cái tên là Giaya Inđơravácman IV. Sau khi đã hoà hoãn với Annam năm 1170,
ông ta quay về phía Cămpuchia. Bút tích ghi 969
“Vua chàm Giaya Inđơravácman,
kiêu kỳ như Ravana, dùng xe chuyển quân đến đánh nước Cămtruy giống như mặt
964
Bút tích (đã mất) của Vát X la két – Angmôniê, Nước Cămpuchia, II, tr.287. 965
Lịch sử nhà Tống (theo lời chỉ dẫn của ông Trần Văn Giáp). 966
Cha ông, Mahiđarađitya, là anh của Varăng - đơrnhắcsơmi, mẹ của XuryavácmanII. Bà này là con một
người chị vua Giayavácman VI và đaramin – đơravácmanI (BEFEO XXIX, tr.301) 967
Chi tiết 17 trong bút tích của Giayavácman VII. BEFEO VIII, tr.72, và XII, tr.185 968
Về triều này và triều sau, xem B. Xôđéta, Những dữ kiện mới về biên niên và phả hệ của triều
Mahiđarapuyra, BEFEO XXIX, tr.304 và tiếp theo. 969
BEFEO XXIX, tr.124
166
trời”. Nhưng cuộc giao tranh không phân thắng bại, thay đổi kế hoạch, Giaya
Inđơravácman bất ngờ tấn công Cămpuchia bằng đường biển, năm 1177970
. Dọc
theo bờ biển, hạm đội Chàm do một người Trung Quốc bị đắm thuyền hướng dẫn,
tới cửa sông Mêcông đi ngược tới biển hồ Ăngco bị bất ngờ, tên tiếm đoạt
Tơribuyvanađitya (Tribhuvanâditya) bị giết chết, thành phố bị cướp phá. Đất nước
hình như khó nhọc lắm mới phục hồi được sau những thảm hoạ như vậy, trải qua
20 năm nội loạn.
6. Nước Chàm từ 1113 đến 1177.
Giaya Inđơravácman II, vua nước Chàm mất vào khoảng 1113, có người
cháu là Harivácman V kế vị một cách thanh bình, tiếp tục các công trình ở Mỹ Sơn,
quan hệ rất tốt với Trung Quốc và Annam, đã trao đổi nhiều sứ thần từ 1116 đến
1126971
. Thiếu người có thể nối ngôi mình, hình như năm 1133 ông phải nhận làm
thái tử một ông hoàng có nguồn gốc không chắc chắn, sinh năm 1106. ông này lên
nối ngôi năm 1139 dưới danh hiệu Giaya Inđơravácman III972
. Những công trình
của ông vua mới ở Mĩ Sơn năm 1140 973
và ở PôNaga (Nha Trang) năm 1143 974
chứng tỏ rằng uy quyền của ông được công nhận ở phía bắc cũng như ở phía nam.
Ở trên người ta đã thấy năm 1131 sau khi giúp người Khơme đánh Nghệ An ông ta
đã giảng hoà với Annam rồi sau đó chịu đựng sự xâm lược của Khơme năm 1145 và
mất tích như thế nào.
Kinh đô và phần lớn đất nước vào tay người Khơme. Dân xứ Păngđuyraga
đã cho vua mới Ruyđơravácman IV (Rudravácman) ẩn náu. Ông này được công
nhận năm 1145 và trốn ở phía nam, nhưng chẳng bao giờ ở ngôi và nhận thuỵ hiệu
là Bôrắcmalôca (Prahmaloka)975
. Con ông là Rátnabunuvigiaya
(Ratnabhumivijaya), tức là hoàng tử Xivanăngđana (Çivanandana), dòng dõi
Paramabôđidátva, bị đi đầy dưới triều Harivácman V và Giaya Inđonavácman III.
“Mới đầu ông rời tổ quốc ra đi và từ lâu phải chịu đựng vận may rủi ở xứ
người; rồi ông trở về đất Chàm” ông đã theo cha đi trốn ở Păngđuyzăngga, ở đó các
người dân tôn ông làm vua năm 1147 dưới danh hiệu Giaya Harivácman I976
. Chính
ông, năm 1148 đã chủ trương một cách thắng lợi cuộc tấn công của Xuryavácman
II, và năm 1149 đã chiếm lại từ tay hoàng tử Khơme Hariđơva, kinh đô của Vigiaya
970
Xem chú thích tr. 270. 971
G. Hatxphơrô, Vương quốc Chàm, tr.151 972
L.Phinô, Bút tích ở Mỹ Sơn, BEFEO IV, tr.954. 973
- nt- 974
Aymôniê, Nghiên cứu đầu tiên và bút tích Chàm, Báo Á châu, 1+2/1891. tr.37 975
L. Phinô, Sđd, tr.959, 961. Người miê, Sđd. tr.39 976
L. Phinô, Sđd, tr.959, 961. Người miê, Sđd. tr.39
167
và ông đã lên ngôi ngay ở đó, nhưng nhiệm vụ của ông mới là bắt đầu vì trải qua 17
năm trên ngôi, ông không ngừng chinh chiến để giữ lấy vương quyền: mới đầu
chống người Kirata tức là dân miền núi “Rađê, Mađa và dân dã man khác (Melécsa)
(Mlecch‟a)” tập hợp lại dưới sự chỉ huy của người anh rể bất hợp pháp của vua là
Vamxa-xagia (Vamsaraya)977
. Ông này bị đánh thua năm 1150, đã cầu cứu vua An
Nam và được vua An Nam cho 5000 quân lấy ở Thanh Hoá và Nghệ An978
. Một bút
tích ở Mỹ Sơn ghi: “Vua An Nam, do được tin vua nước Cămpuchia gây ra những
trở ngại cho Giaya Harivácman nên đã đưa lên ngôi một người ở nước Chàm:
Vamxaragia; ông cấp cho ông này nhiều Xơnapati Yavana với những quân Yavana
rất tinh nhuệ, đông tới 10 vạn 1 nghìn người... Đoàn quân tiến về đồng bằng Đanva
(Dalva) và Lavang. Giaya Harivácman đã dẫn tất cả quân ở Vigiaya ra. Hai bên
giao chiến ác liệt. Giaya Harivácman đã đánh bại Vamxaragia. Quân Yavana chết
rất nhiều”979
. Tiếp tục việc bình định đất nước, ông đã chinh phục vùng Amaravati
(Quảng Nam) năm 1151980
, rồi Păngđuyrăngga năm 1160 sau năm năm giao
tranh981
.
Thắng lợi trên khắp chiến tuyến, ông cho xây dựng nhiều công trình ở Mỹ
Sơn và PôNaga982
, 2 vùng đất thánh lớn nhất của vương quốc. Năm 1155 ông cử sứ
thần sang Trung Quốc và một loạt sứ thần sang An Nam từ 1152 đến 1166983
.
Ở triều ông có 1 viên chức phẩm cao tên là Giaya Inđơravácman ở
Gơramapuyra, “tinh thông võ nghệ... thông thạo mọi xắtxtora, biết ngữ pháp, thiên
văn..., hiểu biết tất cả các chủ nghĩa triết học, biết chủ nghĩa Mahayana, v.v... thành
thạo tất cả đácmaxátxtơra, nhất là Narađiya (Naradiya) và Bácgavrya (Bhargaviya);
ưa thích đácma (dharma)...”984
. Năm 1163 - 1165, người ta thấy ông cho xây dựng
các công trình ở Mỹ Sơn985
.
Người ta không biết chắc chắn những gì đã xảy ra sau khi Giaya Harivácman
I mất năm 1166 - 1167. Không chắc là con ông, Giaya Harivácman II đã lên ngôi986
.
Dù sao mặc lòng, Giaya Inđơravácman ở Gơramapuyra (Grâmapura) đã thành công
977
L.Rhinô, Sđd, tr.965, Aymôniê, Sđd, tr.42 978
Mátxpơrô, Sđd. tr.158
979
L.Phinô, Sđd, tr.965 980
Aymôniê, Sđd, tr.42, Mátxpơrô, Sđd, tr.159 981
Aymôniê, Sđd, tr.41 982
L.Phinô, Sđd, tr.965, 966, 968. Aymôniê, Sđd, tr.42 983
G.Mátxpơrô, Sđd, tr.160 984
L.Phinô, Sđd, tr.973 985
G.Mátxpơrô, Sđd, tr.162 986
G.Mátxpơrô, Sđd, tr.162
168
trong việc phế bỏ ông này và năm 1167 đã xin thụ phong với triều đình Trung
Quốc987
.
Cả thời kỳ đầu triều của ông đều bận vào việc chinh chiến chống nước
Cămpuchia, và dự phòng trước điều đó nên ông hoà hoãn với hoàng đế An Nam
bằng cách mang lễ vật đến biếu vào năm 1170988
. Năm 1177, do một người chìm
thuyền Trung Quốc dẫn đường989
, “vua nước Tchan Tcheng (Chiêm Thành) đột
kích bất ngờ vào kinh đô nước Chân Lạp bằng một hạm đội mạnh, cướp bóc kinh
thành, giết chết vua nước đó không cần nghe bất cứ một đề nghị giảng hoà nào. Từ
đó nảy sinh ra mối hận thù lớn, nó mang lại hậu quả vào năm 1199990
.
7. Nước Miến Điện từ 1113 đến 1173
Ở Pagăng, Kyăngdíttha mất vào khoảng 1112 - 1113, người kế vị ông là một
người cháu tên là Alâng Xithuy Giayaxura (Alaung Sithu) mà ông đã nuôi dạy từ bé
để làm vua. Ông vua mới, cháu nội của Xôluy, thuộc cả về họ nội lẫn họ mẹ, vì ông
là chắt của Anôrata. Triều ông kéo dài 55 năm. Vào thời kỳ đầu ông phải chiến đấu
chống một cuộc nổi dậy ở nam Aracăng, và tỏ rõ uy quyền của mình tới tận
Tơnátxơrim991
ở đó, tấm bia Mécgưi dưới tên vua Vajrabarana trị vì ở
Aramátđana992
đã chứng tỏ rằng thế kỷ trước, chủ quyền của Pagăng đã lan tới miền
xa xôi này.
Khi chinh chiến trở về, Alâng Xithuy đã chứng kiến cái chết của Sin
Arahăng thọ 81 tuổi. Ông này hồi 60 năm trước đã cải hoán Anôrata theo đạo Phật
Tơravađa và đã gián tiếp gây nên việc chinh phục Thatông993
.
Năm 1118994
, Alâng Xithuy tái lập ngôi vua cho Aracăng Lơtyaminnăng, con
của ông vua chính thống đã bị truất ngôi do một kẻ tiếm đoạt; để đền đáp công ơn
đó995
Lơtyaminnăng đã tiến hành tu bổ các điện, miếu ở Bốtgaya (Bodhgaya) ở Ấn
Độ996
.
Biên niên sử đã quy cho Alâng Xithuy một loạt những cuộc viễn du qua các
quốc gia của ông, việc tiến hành nhiều công trình phúc lợi công cộng và việc xây
dựng một số lớn lâu đài. Ông đã đi Mã Lai, vào các đảo ở bờ biển Aracăng, ở 987
G.Mátxpôrô, Sđd, tr.163 988
Theo một lời ghi trong “Ling vai tai ta” do Mátxpơrô dẫn, Sđd, tr.164 989
Ma Toan lin, Người phương Nam, bản dịch của Hécvây Xanh Donitx, tr.557 990
Ma toan lin, Người phương Nam, tr.557 991
Pơmângvin và Luýtxơ, Vấm phương biên niên, tr.119 992
L.Phinô, Bút tích ở Xiêm và bán đảo Mã Lai, Báo cáo Khảo cổ Đông Dương 1910, tr.153 993
Xem chú thích trang 241 994
Khảo cổ Xuyếcvây ở Miến Điện 1919, tr.22 995
Kiến trúc biên niên, tr.120, 121 996
Khảo cổ Xuyếcvây Miến Điện 1911, tr.18
169
Líttagông (Chittagong) và có lẽ tới cả Bănggalơ trong những khu rừng ở hạt Bamô.
Ngay từ 1115, ông đã cử sứ thần đi Nantchao và sau đã thân hành đến thử lấy cái
răng Phật997
trước đây Anôrata đã tìm kiếm, nhưng cũng thất bại.
Những công trình xây dựng chính ở Kinh đô dưới triều ông là đền Sơquy
năm 1140998
, Thátbyinnyuy (Thatbyinnyu) Xápbanuy (Sabbamu), toàn năng)999
.
Năm 1144 - 1154, việc biên soạn cuốn ngữ pháp Pali nổi tiếng Xátđanata do
Agavamxa1000
người Miến Điện tiến hành đã chứng tỏ rằng một thế kỷ sau khi đạo
Phật Tơravađu thâm nhập vào, Pagăng trở thành một trung tâm quan trọng nghiên
cứu về Pali.
Minsinxô (Minshinsô), con cả vua, con hoàng hậu Yađanabông
(Yadanabon), hung bạo và ngỗ ngược, bị đưa đi đầy1001
, người con thứ là Naratuy
(Naraxura) con một người con gái quan Thượng thư triều vua Kyăngdítta lên nắm
quyền. Năm 11671002
khi Alâng Xithuy 81 tuổi bị ốm, Naratuy không ngần ngại làm
cho ông già chết nhanh hơn1003
.
Từ đó bắt đầu một loạt những cuộc ám sát. Sau ba năm trị vì đẫm máu, đánh
dấu bằng việc giết anh Minsinxô, một số lớn quý tộc, công chức, các tôi tớ và công
chúa Pataycaya1004
, Naratuy cùng bị mật sứ của cha nàng công chúa nói trên giết
chết1005
. Trước khi tắt thở và để làm dịu niềm hối hận day dứt, ông còn thời gian để
xây dựng công trình Đammayăng (Dhammayan), lâu đài to nhất Pagăng1006
.
Con của Naratuy là Narathanhkha (Naratheinkha), (Naraxinhga), cũng chỉ ở
ngôi 3 năm, từ 1170 đến 1173 và bị em trai của mình là Narapatixiuy
(Narapatisithu) (Narapatigiayaxura) giết chết vì ông đã cướp vợ của em1007
. Người
ta sẽ thấy ông vua mới.
8. Quần đảo Nam Dương từ 1115 đến 1178 - Vương quốc Cađiri
Bên cạnh những cuộc chiến tranh của người Cămpuchia và người Chàm và
các thảm kịch Miến Điện, lịch sử các quốc gia ở quần đảo Nam Dương qua thời kỳ
đó đặc biệt rất mờ nhạt.
997
Xanh xông, Nan Tchao – ye – ye, tr. 102 998
Bút tích Pali do Pơmângtin công bố trong Báo Hội nghiên cứu Miến Điện 1920, tr.67. 999
Bâyliê, Kiến trúc Ấn Độ ở Viễn Đông, tr.278. Xcốt Ô Conno, Măngđalay, tr.257,259,263. 1000
M.H.Bôđơ, Văn học Pali ở Miến Điện, tr.16; Henmơ Xmít, Ngữ pháp Pali của Agavamxa, 1928 1001
Kiến trúc biên niên, tr. 126 1002
Khảo cổ Xuyếcvây Miến 1919, tr.22 1003
Kiến trúc biên niên, tr.127 1004
Công chúa này do cha nàng vua Alâng Xituy và sau đó có lẽ theo tập quán đã được Naratuy lấy làm vợ.
Pataycaya (Paticara) đôi khi ở phía tây hay tây nam Pagăng nhưng có lẽ đúng hơn là ở Bắc Líttagông, ở hạt
Típpơrát (Hácvây, Lịch sử Miến Điện, tr.326; Niha Rănggiăng Ray, Bút tích ở Miến Điện, tr.93,94). 1005
Kiến trúc biên niên, tr.133 1006
Bâyliê, Sđd, tr.287; Scốt ô.Conno, Sđd, tr.221 1007
Kiến trúc biên niên, tr.134 - 138.
170
Về nước Xăngfôtsi, người ta chỉ có những lời ghi trong Lịch sử nhà Tống về
một sứ thần do vua Xơri Maharagia cử sang Trung Quốc năm 1156, và một đoàn
khác năm 11781008
. Matoanlin kể một sứ thần thứ ba năm 1176 và thuật rằng ông
vua đã cử đoàn sứ thần năm 1178 là ông vua bắt đầu trị vì từ 11691009
. Các nhà địa
lý Ả Rập tiếp tục nói về Dabắc và Maharagia, nhưng chỉ là chép lẫn nhau chứ
không cho thêm được hiểu biết gì so với những người đi trước. Năm 1154, Fơđơrixi
(Fdrisi) đã cung cấp một chi tiết quan trọng: “Người ta kể rằng khi tình hình Trung
Quốc rối loạn vì những cuộc nổi dậy và sự chuyên chế và hỗn độn tăng mạnh ở Ấn
Độ, người Trung Quốc đã chuyển việc buôn bán về Dabắc và các đảo phụ thuộc
khác, liên hệ và làm quen với dân ở đó nhờ tính công bằng chính trực, cách đối xử
tử tế, tính thuần nhã của phong tục và tính dễ dãi trong công việc. Vì vậy hòn đảo
đó quá đông dân và được người ngoại quốc lui tới luôn”1010
Ở Giava, người ta chỉ có tên một loạt vua nước Cuđiri ghi trong các hiến
chương các cuộc thiết lập1011
.
Cumécvara I (1115 - 1130)1012
nhận được sự biệt đãi của hoàng đế Trung
Quốc năm 1129 và 11321013
. Chính dưới triều ông, Đácmagia (Dharmaya) sáng tác
tác phẩm thơ bằng tiếng Giava “Xinaradahama” (Smaraldahama) vẽ lại truyền
thuyết ái tình bị Xiva đốt cháy1014
. Vợ Camécvara (Ramecvara) là một công chúa ở
Giănggala (Gangala), và có lẽ là một cặp được dùng làm nền tảng cho những
chuyện của Rađen Păngi (Raden Pangi)1015
nổi tiếng dưới cái tên Inao (tiếng Giava
là Hinô) và phổ cập tới các xứ Thái1016)
\ và sang cả Cămpuchia1017
.
Đácmécvcara tức Gayabaya (Gayabhaya) (1135 - 1157)1018
có lẽ là con của
Camécvara. Dưới triều ông nhà thơ Xơđát (Sedar), năm 1157 bắt đầu viết bằng
tiếng Giava tác phẩm Baratayútđa1019
(Bharatayuddha), một cuốn sử về các cuộc
1008
W.P.Gơrôăngvent, Ghi chép về quần đảo Mã Lai, tr.67; G. Pherăng, Đế quốc Xuymatơra, Báo Á châu số
7, 9 năm 1922, tr.22. 1009
Người Phương Nam, bản dịch của Xanh Đơnitx, tr.566 1010
G.Pherăng , Sđd, tr.66 1011
N.J.Cơrôm, Ấn Độ - Giava, tr.289 - 297 1012
Tên đầy đủ là Cơri Camécvara Xalalápbuyvanatuysơticarana Xuyranivaxyaviya Paracơrama Đícgia
yốttungađơva. 1013
W.P.Gơrôăngvent, Sđd, tr.19 1014
Công bố và dịch do Pôécbátgiaraca - Thư viện Giava 3-1931 - Xem Himăngxu Buyxăng Xáccar, Ảnh
hưởng Ấn Độ vào văn học Giava, tr.307 1015
Pôécbátgiaraca, Panagi- Verhalen, Thư viện Giavanica, 9.1940 1016
Đoạn còn lại của tấn bi kịch do vua Pơra Pútta Lốtla biên soạn đầu thế kỷ XIX được in ở Băng Cốc năm
1921 do hoàng tử Đamrông với một lời tựa lịch sử. 1017
J.Nuara, Vương quốc Cămpuchia, II, tr.416,445 1018
Xơri Đácmécvara Mađuyxuđânvataraninđita Xútrítxinhga Paracorama Đícgiayốttungađơva 1019
Cunninh xuất bản 1903. Xem Xácca , Sđd, tr.249
171
chiến đấu của Mahabarata và do Pannyluýt (Panuluh) hoàn thành, ông này là tác giả
cuốn Harivamxa1020
hay là sưu tập các truyền thuyết liên quan đến Vítxnu,
Xácvécvara1021
(Sarvecvara) trị vì năm 1160, Aryécvara (Aryecvara)1022
năm
1171 và Cơrôngsariađipa (tức Găngđơra1023
(Gandra) sau niên hiệu ấy.
Ở Bali người ta chỉ biết đến tên của Xuriđipa (Curadhipa) năm 1115 - 1119
và Giaycơxáct (Jayasakti) năm 1131 - 11501024
.
Chương XI:
Thời kỳ phồn thịnh của Cămpuchia
Sự xâm nhập của đạo Phật Xanhgalé vào Miến Điện và
Vương quốc Giava Xanhgaxari
(Một phần tư cuối thế kỷ XII và hai phần ba thế kỷ XIII)
1. Nước Cămpuchia: Giayavácman VII (Yayavarman VII) (1181 - sau 1200)
và sự thôn tính nước Chàm
2. Nước Miến Điện: Narapatixituy (Narapatisithu) (1173 - 1210) và sự thâm
nhập của đạo Phật Xanhgale.
3. Quần đảo Nam Dương cuối thế kỷ XII: Sự suy yếu của nước Xơrivigiaya
(Srivigaya) (Palembang) có lợi cho Malayu (Giămbi).
4. Nước Cămpuchia nửa đầu thế kỷ XIII.
1020
Xácca, Sđd, tr.261 1021
Xôri Xácvécvara Gianácđanavatara Vigiayagơragia Xamaxinganađanivaryavirya Paracorama Đícgiayốt-
tungađơva. 1022
Xơri Ary écvara Maduyxuđancevatararigiaya Paracơramốttungađơva 1023
Xơri Cơrôngsaryađipa Hăngđabuyvanapalaca Paracơramaninđita Đícgiayốttungađơva 1024
P.V.Van Xtanh Callăngfen, Bút tích Bali, tr.33,35
172
5. Nước Chàm sau khi chấm dứt sự chiếm đóng của Khơme (1220 - 1257)
6. Nước Miến Điện: Những ông vua cuối cùng của Pagăng (1210 - 1274).
7. Xơrivigiaya trước lúc bị chia cắt (1225 - 1270).
8. Giava: Thời kỳ cuối của vương quốc Cađiri (Kadiri) (1222) và thời kỳ đầu
của vương quốc Xanhgaseari cho đến 1268.
1. Nước Cămpuchia: Giayavácman VII (1181 - sau 1200) và sự thôn tính
nước Chàm.
Chính Giayavácman VII đã có trọng trách kéo nước Cămpuchia ra khỏi
“biển khổ mà nó đã đắm chìm vào”1025
do sự xâm lược của Chàm năm 1177 gây
nên.
Nhờ bố ông là Daraninđơravácman II (Dharanândravarman), ông thành em
họ Xuryavácman II (Sûryavarman) và nhờ mẹ ông là Suđamani (Chûdâmani) con
gái của Hácsavácman III (Harshavarman) ông thuộc dòng dõi của các ông vua thuộc
triều đại mà nguồn gốc nước ngoài đã trị vì ở nước này gần hết cả thế kỷ XI và có
mối liên hệ với các vợ vua xưa kia của nước Cămpuchia tiền Ăngco.
Sinh khoảng năm 1120, chậm lắm là năm 11251026
dưới triều Xuryavácman
II, có lẽ lúc còn trẻ, ông đã lấy công chúa Giayaragiađơvi (Jayarajadevi), bà này
hình như có ảnh hưởng lớn đối với ông.
Vào một niên hiệu không xác định, Giayavácman rời Cămpuchia dẫn quân đi
viễn chinh sang Chàm, ở Vigiaya (Bình Định) ở đó ông được tin cha ông bị mất,
Yaxôvácman II (Yasovarman) lên ngôi rồi bị Tơribuyvamađitya (Tribhuvanâditya)
tiếm đoạt. Tấm bia ở Phimanacátx ghi: “Ông vội trở về để cứu cha Yaxôvácman”.
Người ta có thể giả thiết như vậy để tôn cái quyền lên ngôi vua của ông. Tấm bia
ghi tiếp: “Nhưng Yaxôvácman bị kẻ tiếm đoạt chiếm mất vương quyền và cả cuộc
sống nên Giayavácman phải ở lại Cămpuchia để cứu lấy mảnh đất nặng nề đầy
những sự chém giết, trong khi chờ đợi thời cơ thuận lợi”. Ông phải chờ 15 năm.
Khi sự xâm lược của Chàm đã giải thoát đất nước ra khỏi bàn tay tên tiếm
ngôi, Giayavácman hiểu rằng giờ của ông đã điểm. Nhưng trước khi xưng vua, ông
cần giải phóng đất nước khỏi tay bọn xâm lược. Ông đã nhiều phen giao chiến với
quân Chàm và nhất là 1 trận thuỷ chiến được vẽ lại gần như thật trên tường đền thờ
1025
Bút tích ở Phimanacátx (Phimeanakas) “Bút tích ở Cămpuchia, II, tr.117 1026
Về những chi tiết thuộc tiểu sử tiếp theo, xem G.Xơđétx, Những dữ kiện biên niên và phổ hệ mới về triều
Mahiđơrapuyra (Mahidhapura), BEFEO XXIX, tr.304 - 328 và Để hiểu Ăngco hơn, Hà Nội 1943, tr.173 và
tiếp theo.
173
Bayông (Bayon) và Bantayxơma (Banteay Ch‟mar) và đã giải phóng hoàn toàn đất
nước1027
.
Bốn năm sau cuộc xâm lược, từ 1177 đến 1181, nước Cămpuchia đã trở lại
yên bình và Giayavácman lên ngôi, đồng thời cho khôi phục lại Kinh đô, đào hào,
xây bể tạo thành một vành đai của Ăngco Thom hiện nay1028(4)
.
Thời kỳ xâm chiếm của Chàm, Matoanlin1029
(Mã Đoan Lâm) kể lại,
Giayavácman đã “thề sẽ trả thù một cách vang dội, đó là điều mà ông thực hiện
được sau 18 năm ẩn náu kiên trì”.
Nhưng trước khi giữ lời thề và đem chiến tranh đến nước Chàm, ở trong
nước ông phải đương đầu với một cuộc nổi loạn nổ ra ở Malyang (Malyang), phía
nam tỉnh Báttămbăng hiện nay1030
.
Để dẹp yên, ông phải nhờ một ông hoàng trẻ tuổi người Chàm lánh nạn ở đó.
Về vấn đề này một bút tích Chàm ở Mỹ Sơn1031
diễn tả như sau:
“Lúc còn thiếu thời, năm 1104 lịch Xaca (1182 sau công nguyên) hoàng tử
Viđianăngđana (Vidyânandama) đến nước Cămpuchia. Vua nước này thấy hoàng tử
có đủ 33 dấu hiệu (của người được Trời định sẵn) nên đem lòng yêu mến và ra sức
dạy dỗ các môn khoa học và võ nghệ cho, như dạy một ông hoàng. Khi hoàng tử
còn ở Cămpuchia, ở vương quốc này có một thành tên là Malyang, dân cư gồm
những phần tử xấu đã chiếm cứ lấy thành này và nổi loạn chống lại vua Cămpuchia.
Thấy hoàng tử tinh thông võ nghệ, nhà vua sai ông đem quân đi chiếm lại. Ông này
tuân lệnh và chinh phục được thành Malyang theo ý muốn của nhà vua. Nhà vua
thấy rõ giá trị của ông, đã phong tước Yuvaragia (Yuvarâja) cho ông và còn ban cho
mọi khoái lạc và mọi tài sản có trên vương quốc Cămpuchia”.
Ông hoàng trẻ tuổi người Chàm được Giayavácman dùng làm công cụ trả thù
nước Chàm. Sự trả thù đó, là kết quả của nhiều năm “ẩn náu kiên trì”, được chuẩn
bị bằng cách đảm bảo sự trung lập của Lý Cao Tông, hoàng đế nước An Nam năm
11901032
, và chỉ còn phải chờ thời cơ thuận lợi. Thời cơ đó đã đến ngay năm đó,
nhân việc vua Chàm Giaya Inđơravácman (Jaya Indravarman) Ong Vatuýp (Ong
Vatuv)1033
mở một cuộc tấn công mới vào Cămpuchia.
1027
G.Xôđétx, Vài lời khuyên về phương pháp nên theo để phân tích những phù điêu Chàm ở Bantay Xôma
và ở hành lang trong ở đền Bayông, BEFEO XXXII, tr.76,78. 1028
G.Xôđétx, Niên hiệu của đền Bayông, BEFEO XXXVIII, tr.88,89
1029
Người Phương Nam, bản dịch của Hécvay Xanh Đơnítx, tr.487 1030
BEFEO, XXXII, tr.80, số 1. 1031
BEFEO IV, tr.974 1032
Aymôniê, Nước Cămpuchia, III, tr.527. 1033
L.Phinô, Bút tích ở Mỹ Sơn, BEFEO IV, tr.975; G.Matxpơrô, Vương quốc Chàm, tr.161 đồng nhất Giaya
Inđơravácman Ong Vatuýp với Giaya Inđơravácman (IV) ở Gơramapuyra, tác giả của cuộc xâm lược năm
174
Ông có thân chinh đánh Chàm hay không ? Không chắc lắm, tuy rằng một
bút tích ở đền Pô Nagar ở Nha Trang viết “ông đã chiếm Kinh đô Chàm và cướp về
tất cả các dương vật thờ ở đó”1034
. Trong mọi trường hợp, ông đều giao quyền chỉ
huy quân đội cho ông hoàng trẻ tuổi Vyđyanăngđana. Ông này đã chiếm Kinh đô
Vigiaya (Bình Định), bắt sống vua Giaya Inđơravácman và đem về giam ở
Cămpuchia. Ông ta đưa lên ngôi ông hoàng Anh (In), anh rể của vua Giayavácman
VII, dưới danh hiệu Xuryagiayvácmađơva (Suryajayavarmadeva) và ông cũng lập
ra một vương quốc ở phía nam ở Pangdurăngga, và lên ngôi dưới danh hiệu
Xuryavácmađơva (Suryavarmadeva). Vì vậy nước Chàm bị chia vào tay 2 vua, một
người có họ hàng bà con với vua Cămpuchia, còn người kia được ông này phong
cho.
Tình trạng đó không kéo dài được bao lâu. Ủng hộ một cuộc nổi dậy ở
Vigiaya nhằm đuổi về Cămpuchia người anh rể của Giayavácman VII, và đưa
hoàng tử Chàm Rasuypati (Rashupati) (Giaya Inđơravácman V) lên thay, vua
Vidyanandana tức Xuryavácmađơva (Vidyânandana Alias Suryavarmadeva) làm
chủ ở Phmrang đã thoát khỏi ách của vua Cămpuchia và thống nhất được đất nước
sau khi lần lượt giết 2 Giaya Inđơravácman, 1 người ở Vigiaya (Rasuypati) và 1
người nữa vốn là cầm tù ở Cămpuchia mà Giayavácman VII có thể thả ra để chống
lại ông này.
Năm 1192, Vidyanăngđana - Xuyavácmađơva lên ngôi “không có gì đối lập”
trên đất nước đã thống nhất1035
. Năm 1193 và 1194, Giayavácman VII thử bắt ông
thần phục nhưng không có kết quả1036
. Mãi đến năm 1203 chú ruột ông là
Yuvaragia Ong Danapatigơrama, ăn lương của Cămpuchia, mới gạt được ông
xuống1037
. Viđya- năngđana Xuryavácmađơva cầu cứu một cách vô hiệu hoàng đế
An Nam mặc dầu ông này đã phong vương cho vua Chàm năm 1199. Vua Chàm đã
mất tích không để lại dấu vết. Từ 1203 đến 1220 nước Chàm trở thành một tỉnh
Khơme, dưới quyền cai trị của Yuvaragia Ong Danapatigiơrama. Ông này cũng
không chậm trễ, đã tìm gặp cháu vua Giaya Harivácman I, hoàng tử Ăngxaragia ở
Tuyray-vigiaya (Angsaraja de Turai-vijaya) được nuôi dạy ở triều vua Cămpuchia
Giayavácman VII và được vua Cămpuchia phong năm 1201 danh hiệu Yuvaragia
(Yuvaraja)1038
. Hoàng tử này đã dẫn một đạo quân Cămpuchia và các đội trưng binh
1177: L.Phinô, BEFEO, XV, 2, tr.50, số 2 đã nêu ra nghi vấn về sự đồng nhất đó, tuy nó hình như đúng sự
thực. 1034
Aymôniê, Nghiên cứu đầu tiên, Báo Á châu số 1+2 năm 1891, tr.48 1035
Những sự kiện này được thuật lại trong một bút tích ở Mỹ Sơn, do L.Phinô dịch - BEFEO, IV, tr.975 1036
Những sự kiện này được thuật lại trong một bút tích ở Mỹ Sơn, do L.Phinô dịch - BEFEO, IV, tr.975 1037
Những sự kiện này được thuật lại trong một bút tích ở Mỹ Sơn, do L.Phinô dịch - BEFEO, IV, tr.940. Về
niên hiệu, xem G.Mátxpơrô, Sđd, tr.367 1038
Anymôniê, Sđd, tr.48.
175
Miến Điện và Xiêm chống lại nước An Nam năm 12071039
. Người ta sẽ thấy đến
năm 1226, ông hoàng này sẽ thành vua nước Chàm dưới cái tên Giaya
Paramécvaravácman II (Jaya Paramecvaravarman II).
Những cuộc đụng chạm của Giayavácman VII với những nước láng giềng
phía tây không ngăn cản ông đẩy biên giới nước mình lùi về phía bắc. Chính dưới
triều ông, người ta đã có những bút tích Cămpuchia ở cực bắc, như ở XayFong trên
sông MêKông, ở trước mặt Viêng Sang (Viêng Chan) năm 1186. Danh sách các
nước phụ thuộc của Chân Lạp do Tchao Jou Kona cho năm 12251040
, từng phần đã
lấy xong Ling Wai Tai Ta năm 1178, chứng minh rằng Cămpuchia đã làm bá chủ, ít
nhất là về danh nghĩa một phần bán đảo Mã Lai và tới tận Miến Điện. Cùng một
dòng tư tưởng đó, một bút tích năm 11911041
cho ta biết nước làm lễ rửa tội hàng
ngày đã được các “người Bàlamôn bắt đầu từ Xuryabátta (Suryabhatta), đến vua
Giava, vua ở Yavana, và hai ông vua Chàm” cung đốn. Người Bàlamôn Xuryabátta
có lẽ là thủ lĩnh các người Bàlamôn trong triều. Vua người Yavana là hoàng đế An
Nam lên ngôi năm 1175 dưới cái tên Lý Cao Tôn và trị vì đến 1210. Vua nước
Giava có lẽ là Camécvara II (Kamecvara II). Hai ông vua Chàm là, như người ta đã
thấy, Xuryagiayavácmađơva làm vua ở Vigiaya (Bình Định), anh rể của
Giayavácman VII, và Xuryavácmađơva vua ở Pangđuyrăngga (Phan Rang) nguyên
là hoàng tử Viđyanăngđana, người được Giayavácman VII bảo hộ.
Người ta biết rằng nước rửa tội đem cống là dấu hiệu tỏ lòng thần phục và
trung thuận. Nếu nó là mặc nhiên đối với hai ông vua Chàm, thì chưa chắc là mặc
nhiên đối vớiâhi ông vua kia.
Sau khi Giayaragiađơvi (Jayarajadevi) mất, nhà vua ban tước hoàng hậu thứ
nhất cho chị cả bà này là Inđơrađơvi (Indradevi), “đã vượt tất cả về khoa triết lý” và
phong làm giáo sư trưởng trong một tu viện Phật, ở đó bà này giảng dạy cho các bà
phụ nữ. Chính bà này đã sáng tác bằng chữ Phạn rất nhuần nhuyễn bút tích
Phiminacátx một bài tán tụng em gái, từ đó người ta rút ra phần lớn các tài liệu về
tiểu sử nó về công việc của Giayavácman VII.
Người ta không biết ngày mất chính xác của ông này. Người ta chỉ biết chắc
rằng ông còn trị vì đến 1200 là năm ông cử sứ thần sang Trung Quốc1042
. Hình như
ông còn ở ngôi một thời gian sau đó nữa. Khi mất ông nhận thuỵ hiệu là
Mahaparramaxôgata1043
(Mahaparamasaugata).
1039
Anymôniê, Sđd, tr.51 1040
Hướctơ và Rốckhin, Chau Yu Kua, tr.53, 54. 1041
Cái ở Pơrêát Khan. BEFEO, XLI, tr.299 1042
BEFEO XXIX, tr.328. 1043
L.Phinô, Ngôi đền Ícvarapuyra (Icvarapura), BEFEO 1, tr.91, số 2
176
Về thể chất, ông là 1 người to lớn, dáng dấp nặng nề, tóc búi lên đỉnh đầu.
Các chi tiết đó hiện lên rõ rệt trên các phù điêu chìm1044
ở hai pho tượng, một thấy ở
Ăngco Thom1045
, một ở Pimai và hiện được giữ ở Băng Cốc1046
. Có thể hai pho
tượng đó cùng biểu hiện một người và là hai bức tượng của Giayavácman VII.
Qua những tài liệu đặc biệt đầy đủ đó, hiện lên hình ảnh một con người kiên
nghị, nhiều tham vọng, sau nhiều năm chờ đợi và thử thách, đã cứu nước mình ra
khỏi cảnh hoang tàn và đưa đến cảnh phồn thịnh, tạo cho thế lực của mình đạt tới
đỉnh cao. Các bút tích đều mô tả ông là một người sùng đạo Phật, mà niềm tin được
truyền lại từ bố ông là Daraninđơravácman II là người đã cắt đứt truyền thống Ấn
Độ giáo của tiên đế, đã “tìm thấy sự thoả mãn trong thứ mật hoa tức là đạo của
Thích Ca Mầu Ni (Cakyamuni)1047
.
Đó là đạo Phật Đại thừa, trong đó sự sùng bái Lôkécvara nở rộ, mà các nghi
lễ chúng thần cho phép hỗn hợp với việc thờ cúng những người đã chết, và ngay cả
người sống, được thần thánh hoá dưới dạng của một vị Bồ tát từ bi.
Nếu người ta không nghi ngờ rằng Giayavácman VII theo đạo Phật, người ta
nhận xét thấy người Bàlamôn tiếp tục giữ một vai trò đáng kể ở trong triều; một bút
tích ở Ăngco Thom1048
cho ta thấy bộ mặt kỳ lạ của một nhà bác học Bàlamôn, ông
này “khi được tin ở Cămpuchia có nhiều người không thạo về Vệ Đà, đã tới nước
đó để thực hành khoa học của mình”. Tên ông ta là Hrítxhikécxa (Hrishikeca),
thuộc phái Bàlamôn Barútvagia (Bhuradvaja), nguyên quán ở Narapatiđơxa
(Narapatideca) “mà người ta có thể đồng nhất với Miến Điện, ở đó rõ ràng vua
Narapatixituy trị vì” (Narapatisithu)1049
. Giayamuhupơrađana (Jayamahapradhana).
Ông này còn tiếp tục phục vụ dưới hai triều vua kế tiếp Giayavácman VII.
Nhân cách Giayavácman VII hiện lên qua các bút tích, đã bộc lộ ấn tượng
đầy đủ trong các công trình kiến trúc ông đã để lại. Đó là Ăngco Thom với các
đường luỹ, hào, năm cái cửa và đền Bayông ở giữa; đó là Bantây Cơđây (Banteay
Kdei), Tà Pơrôm (Tà Prohm), Pơrêát Khan (Preah Khan), Nêắc Pin (Neak Peân) ở
quanh Kinh đô, và ở cả một tổng thể đền, điện có tầm quan trọng ít hơn: Bantay
Sơma (Banteay Ch‟mar) ở Tây bắc, VátNôco (VatNokor) ở Côngpông Chàm, Ta
Pơrôm (Ta Preochun) ở BaTi, hầu hết đều có đặc điểm có những tháp có trang trí
1044
Chú thích trong BEFEO, XXXII, tr.71 và tiếp 1045
Đầu in trong Muốn hiểu rõ Ăngco của G.Xơđétx 1046
G.Xôđétx, Sưu tầm khảo cổ ở Bảo tàng Quốc gia Băng Cốc, Nghệ thuật Á châu XII, tr.18,19. 1047
G.Xôđétx, Sưu tầm khảo cổ ở Bảo tàng Quốc gia Băng Cốc, Nghệ thuật Á châu XII, tr.18,19. 1048
Bút tích ở Pơrêát Khan (Preah Khan), BEFEO, XLI, tr.285 1049
L.Phinô, Bút tích ở Ăngco, BEFEO XXV, tr.402.
177
những hình mặt người rất lớn1050
, đó là những nhà nghỉ trên những đường đắp, mà
nhiều cái có thể do chính nhà vua đã vẽ ra; đó là 102 bệnh viện rải rác khắp vương
quốc.
Đứng trước khả năng bề ngoài hình như không thể thực hiện được một
chương trình xây dựng như vậy trong 20 năm trị vì, người ta có thể tự hỏi có phải
trong nhiều trường hợp ông ta đã tiếp tục hoàn thành những công trình do các vua
trước chưa làm xong hoặc ngược lại, nhiều công trình do ông khởi công nhưng lại
do người kế vị ông hoàn thành nốt sau này ? Về giả thiết thứ nhất có điều này là trái
ngược: Cuối triều vua Xuryavácman II, tác giả Ăngco Vát, đầu triều vua
Giayavácman VII, đất nước bị làm mồi cho hàng loạt cuộc nổi dậy, không thuận lợi
cho việc xây dựng những khối kiến trúc lớn như vậy.
Giả thiết thứ hai cũng vấp phải việc các người kế vị Giayavácman VII trở về
với dòng chính thống Ấn Độ, đã huỷ hoại các công trình bằng cách đập phá một
cách tỉ mỉ các tượng Phật và người ta không thể quy cho họ đã hoàn thành các ngôi
đền mà Giayavácman VII đã khởi công xây dựng, nhà sử học trong lúc này đành
phải ghi nhận các niên hiệu trong các bia khánh thành tìm thấy ở các công trình đó.
Cái đầu tiên có lẽ ở Bantay Cơđây, xây dựng ở phía đông Kinh đô trên danh
thắng cũ Quyti (Kuti) và tiếp vào phía đông của cái bể tráng lệ hãy còn đầy nước cả
bốn mùa mà người ta gọi là Xrátx Xrung (Sras Srang) hay “ngự chảo” (sự tắm gội
của vua). Thiếu một cái bia có thể cho biết tên cũ của nó, người ta giả thiết rằng
Bantay Cơđây tương ứng với Ruyếcvatagata (Purvatathagata) hay “Phật phương
Đông” trong các bút tích1051
.
Kế cận với Batay Cơđây mà góc phía đông nam gần chạm góc tây bắc,
Ragiavihara (Rajavihara), bây giờ là Ta Pơrôm (Ta Prohm) được xây dựng năm
1186 để thờ tượng hoàng hậu Giayaxagiasuđamani (Jayarajachudamami) dưới dạng
thần Pơrajnaparumita (Prajan‟aparamita), sự hoàn hảo của sự tinh khôn, mẹ các
Phật, và tượng của vua Gayamănggalácta (Jayamangalartha), của vua1052
năm 1191,
năm năm sau Ta Pơrôm, nhà vua đã khánh thành ở phía bắc Kinh đô, ngôi đền
Giayaxơri (Jayacri), bây giờ mang tên là Pơrêát Khan (Preah Khan), giành để thờ
tượng của cha ông, vua Daraninđơravácman II (Dharanindravarman II), được thần
hoá dưới dạng bồ tát Lôkécvara (Lokecvara) và dưới tên Giayavácmécvara
(Jaravarmecvara)1053
.
1050
Việc miêu tả nó, xem Aymôniê, Nước Cămpuchia, III; Lagiôngquiêrơ, Thư mục, III; Hướng dẫn khảo cổ
Ăngco của Cômmayơ (1912), Macsan (1928), Bácmăngchiê (1936) , Gơlaidơ (1944)... 1051
BEFEO, XLI, tr.298, số 2. 1052
G. Xôđétx, Bia ở Ta Pơrôm, BEFEO, VI, tr. 75 1053
G.Xôđétx, Bia ở Pơrêat Khan ở Ăngco, BEFEO, XLI, tr.288.
178
Trong những công trình phụ ở Pơrêát Khan, tấm bia dựng công của công
trình xây dựng ở giữa một cái bể lớn đào ở phía đông ngôi đền nhỏ Ragiaxơri
(Rajyacri) được biết dưới cái tên Nêác Pin (Neak Pean) và được miêu tả như “một
hòn đảo siêu phàm, rọi vẻ diễm lệ trên những bể nước và gột rửa bùn nhơ cho
những kẻ tội lỗi nào đến gần đó”. Đó là cách trình bày kiến trúc của hồ Anvatápta
(Anvatapta) ở về phía giáp ranh dẫy Himalaya theo truyền thống Ấn Độ, và nước
thoát ra qua những ống máng hình đầu các giống vật1054
.
Vào những năm cuối triều, đền Bayông được xây dựng ở giữa thành phố đã
được trùng tu bao quanh những lâu đài cổ, nhưng điều căn bản nhất là bức tường
thành dài 12 km và ngôi đền ở giữa lại là những công trình mới làm. Tuy rằng kiến
trúc tượng trưng của nó bị mờ nhạt vì đồ án xây dựng nó bị hại và có lẽ là ba lần
sửa đổi trong khi thi công1055
, người ta tin vẫn có thể khẳng định rằng khối trung
tâm của nó tương ứng với những cái núi trung tâm của các cố đô. Chỉ có điều là
đáng lẽ các Dơvaragia (Devaraja) của các triều trước được tượng trưng bằng các
dương vật bằng vàng, ngôi điện ở giữa có đặt một pho tượng Buđaragia (Buddaraja)
lớn bằng đá1056
, thay thế cho tượng Đơvaragia hoặc Vua thần Xiva cũ, đồng thời
một pho tượng phong thần của ông vua sáng lập có lẽ đặt ở đỉnh các tháp dưới dạng
Bồ tát Lôkécvara Xamăngtamykha (Lokesvara Samantamukha) “4 phía đều có
mặt”1057
. Những hành lang trong và ngoài đền Bayông đều có phù điêu chìm rất quý
đối với việc tìm hiểu đời sống vật chất của người Khơme thế kỷ XII1058
.
Những bút tích khắc vào cửa vào tiểu giáo đường ở đền Bayông1059
chứng tỏ
rằng đó là một kiểu điện thờ chúng thần, ở đó tập trung việc thờ cúng theo địa
phương của đất nước: Cũng như thành phố với bức luỹ bao quanh và ngọn núi ở
giữa cho là hình ảnh thu nhỏ của vũ trụ, đền thờ Bayông cũng là hình ảnh thu nhỏ
của vương quốc.
Từ đền Bayông đi ra bốn phía là bốn con đường giao nhau, lại thêm một
đường thứ năm đi từ cửa cũ của Hoàng cung, thừa tự của các triều đại trước, và
hướng về phía đông. Nó đổ ra năm cái cửa đồ sộ, phỏng lại ở bốn phía tượng, ý căn
bản của ngôi đền ở giữa tức là cái tháp có hình mặt người. Thềm vào với các lan
can hình con rắn naga tượng trưng cầu vòng, theo truyền thống Ấn Độ, là cái gạch
1054
L.Phinô và V.Gôlubép, Chủ nghĩa tượng trưng ở Nêát Pin, BEFEO XXIII, tr.401. 1055
Pácmăngtiê, Những sửa đổi ở đền Bayông trong quá trình thi công, BEFEO XXVII, tr.149. 1056
Phát hiện năm 1933. BEFEO, XXXIII, tr.1117 1057
P.Muýtx, Chủ nghĩa tượng trưng ở Ăngco Thom. Bút tích Hàn lâm viện 1936, tr.57. Hoặc việc trang trí
mặt người có lẽ là truyền thống gốc Ấn Độ, được Yi Tsíng xác nhận ở Nalăng đa (BEFEO, X, tr.206, số 1). 1058
Do Hội đồng Khảo cổ Đông Dương ấn hành 1059
G.Xôđétx, Các bút tích ở Bayông, BEFEO XXVIII, tr.104.
179
nối thế giới loài người với thế giới các thần, mà đại diện ở dưới đất là thành phố của
vua ở1060
.
Trong số nhiều những công trình tôn giáo của vua kể trong tấm bia ở Pơrêát
Khan1061
có 23 pho tượng tên là Giayabútđamnhanatha (Jayabuddanahanatha) được
bảo tồn ở từng ấy tỉnh trong đó có Lốpbuyri (Lop‟buri), Xuypăng (Sup‟an) Rátbuyri
(Ratburi), Pêcsabuyri (P‟ech‟aburi) và Mường Xinh (Muong Sing) hiện nay đều
thuộc lãnh thổ Xiêm. Có lẽ để thờ các tượng đó, mà cái tên gợi lại tên vua, người ta
đã xây dựng một số điện, đền ở địa phương mà phong cách cho phép xác định vào
triều Giayavácman VII; thí dụ VátNôco ở Công Pông Chàm và Ta Pơrôm ở Bati1062
.
Còn về Bantây Sôma1063
, đó là 1 ngôi đền dành cho một người con của
Giayavácman VII, hoàng tử Cơranhđơraquymara (Crindrakn‟mara) và 4 người bạn
chiến đấu đã cứu sống hoàng tử trong cuộc giao chiến với quái vật Rahuy (Râhu)1064
trong một cuộc viễn chinh ở Chàm.
Tấm bia ở Pơrêát Khan1065
ghi 121 “nhà có lửa”, nơi trú chân, cách nhau độ
15km, do Giayavácman VII cho xây dựng các đường đi trên vương quốc: 57 cái
trên con đường từ Ăngco đến Kinh đô Chàm (Phan Rang hay Bình Định), 17 (trong
đó 8 cái đã tìm thấy) trên con đường từ Ăngco đi Pimai trên cao nguyên Cò Rạt, 44
trên đường vòng các tỉnh mà vị trí còn chưa được biết chắc chắn lắm, 1 cái ở
Pơnông Sixo (Pnom Chisor), 2 cái khác còn phải xác minh. Một thế kỷ sau, cách tổ
chức đó vẫn tồn tại và làm phái viên Trung Quốc Tcheon Ta Konan (Chu Đạt
Quan) chú ý, có những nơi nghỉ chân tương tự như các trạm tiếp thư của chúng
ta”1066
.
Việc phát minh ra các trạm trú chân đó đi đôi với việc thành lập 102 bệnh
viện1067
rải rác trên khắp nước. Người ta biết chắc được độ 15 cái nhà, việc khám
phá ra những cái bia khánh thành bằng chữ Phạn, mà văn bản gần như nhau ở khắp
nơi1068
. Những cách cấu trúc tương tự với những vết tích nơi có các bia đó còn được
tìm thấy ở 17 công trình khác, có lẽ cùng một thời kỳ. Người ta có thể nói đã biết
được vị trí của 33 trong số 102 bệnh viện của Giayavácman VII, tức là gần 1 phần
31069
những bia khánh thành cho ta biết nhiều tài liệu về tổ chức các công trình đó 1060
P.Muýtx, Ăngco dưới thời Giayavácman VII, Nghệ thuật và văn học Ấn Độ XI, 1937, tr.65. 1061
BEFEO, XLI, tr.295,296. 1062
Lagiôngquiêrơ, Thư mục, I, tr.37, 92 1063
Lagiôngquiêrơ, Thư mục, I, tr.391 1064
Về triều này và triều sau xem G.Xôđétx, Những dữ kiện mới về biên niên và phổ hệ của triều
Mahiđarajuyra, BEFEO XXIX, tr.304 và tiếp theo. 1065
BEFEO, XLI, tr.296, 297 và Xôđétx, Các trạm trú chân, BEFEO, XL, tr.347. 1066
BEFEO II, tr.173. 1067
Số lượng do bia ở Ta Pơrôm cung cấp, BEFEO, VI, tr.80. 1068
L. Phinô, Bút tích chữ Phạn ở Xang Phong, BEFEO, III, tr.18. 1069
G.Xôđétx, Những bệnh viện của Giayavácman VII, BEFEO, XL, tr.344.
180
đặt dưới sự cầu đảo Phật cứu khổ cứu nạn Baisagiayguyruy Vaiđuryapơraba (Bhai-
shajyaguru Vaiduryaprabha) “người thầy của các toa thuốc trị bệnh, toả sáng ngọc
thạch” là một ông Phật bình dân nhất hiện còn được biết nhiều ở Trung Quốc và
Tây Tạng1070
.
Đó là tóm tắt một cách sơ lược sự nghiệp của Giayavácman VII, quá nặng nề
với một dân tộc đã kiệt quệ vì chiến tranh và vì các công trình xây dựng của
Xuryavácman II, và từ nay nó tự thấy không còn đủ lực lượng chống lại sự tấn công
của các nước láng giềng.
2. Nước Miến Điện: Narapaxithuy (Narapatisithu) (1173 - 1210) và sự
thâm nhập của đạo Phật Xanhgale.
Narapatixithuy (Narapatigiayaxura) làm vua ở Pagang từ năm 1173 sau khi
giết anh cả là Narathanhkha (Naratheinkha) (Naraxanhga - Narasingha), bắt đầu
triều đại mình bằng cách thủ tiêu thủ phạm vụ án mà chính ông đã gây ra cùng với
việc trừ bỏ viên quan cận thần chủ yếu của vua trước1071
.
Vào đầu triều đại này, ông xích mích với đại diện vua Xâylan
Paracơramabahuy I (Parakrâmbahu I), ông này ở một trong các bến cảng ở vùng
đồng bằng, có lẽ là Bátxanh (Bassein). Việc làm khó dễ của nhà vua đi tới chỗ bắt
giam cả những phái viên và thương nhân Xanhgale, tịch thu các hàng hoá của họ, và
cuối cùng là việc bắt giữ công chúa xước Xâylan trên đường về Cămpuchia đã đi
qua Miến Điện. Kết quả là Paracơramabahuy cử quân đánh báo thù năm 1180. Bị
bão, các hạm thuyền của ông bị tan tác, một trong các chiến thuyền đó cập được vào
Cacatipe (Kâkatupa - Đảo Quạ), 5 chiếc nữa vào Quyxuymi (Kusumi) ở Bátxanh,
và viên chỉ huy lại dạt vào Pápphala (Papphala) những người Xanhgale đổ bộ lên bờ
liền cướp bóc, đốt phá, tàn sát và bắt nhiều tù binh mang đi1072
.
Cuộc tấn công đó không ngăn cản sự liên hệ giữa Xâylan và Miến Điện
nhằm thắt chặt với nhau trên kế hoạch về tinh thần - Păngthaguy (Panthagu), người
kế tục Sin Arahăng ( Shin Arahan) đứng đầu giới tăng lữ đạo Phật, đã rời Pagăng
năm 1167 sau các vụ ám sát vua Narathuy và lui về ở Xâylan1073
, ở đó ông trở lại
sau khi Narapatixithuy lên ngôi. Ông chết ở Pagăng, thọ 90 tuổi, sau năm 1173, sau
khi đã tán dương sự tuyệt mĩ của đạo Phật Xanhgale. Đạo này vừa được chấn hưng
nhờ vua Paracơramabahuy I (1153-1186), ông này đã công nhận sự chính thống của
phái Mahavihara (Mahaviharu)1074
. Người kế tục Păngthaguy là Úttaragiava
1070
G.Xôđétx, Y tế ở Cămpuchia cuối thế kỷ XII, Tạp chí Y học Pháp ở Viễn Đông, số 3 - 4/19041, tr.405. 1071
Pơmâng Tin và Luýtxơ, Kiến trúc biên niên, tr.138, 139. 1072
Sulavamxa, LXXVI, bản dịch của Giâydơ (Geiger) II, tr.65, 70. 1073
Kiến trúc biên niên, tr.133. 1074
Sulavamxa, LXXVII, Sđd, tr.103.
181
(Uttarajiva) một người Môn, đổ bộ vào Xâylan năm 11801075
cùng một đoàn tín đồ,
những người mang thông điệp hoà bình gửi tới vua của đảo1076
. Ông để lại 1 người
Môn mới đi tu, tuổi mới 20, tên là Sapata (Chapata), anh này ở lại đảo 10 năm rồi
lại trở lại đảo này năm 1190 cùng 4 người tu hành khác là những người đã nhận lễ
thụ phong tăng chức theo nghi lễ của Mahavihara: Một trong số đó, Tamalanhđa
(Tamalinda) là con vua Cămpuchia1077
; có lẽ là con Giayavácman VII. Việc ông ta
trở về có nguồn gốc từ sự ly gián trong nhà thờ Miến Điện, mà người ta nhớ lại,
được Xin Arahăng lập nên, ông này là đệ tử trường Căngsi (Kânchi). Đó là lúc bắt
đầu cắm rễ vĩnh viễn đạo Phật Xanhgale vào bán đảo Đông Dương1078
. Sapata tức
Xátđammagiôtipala (Saddhammajotipala) là tác giả một loạt tác phẩm Pali, trước
hết là cuốn bàn về ngữ pháp Xúttanítđơxa (Suttamiddesa) và cuốn
Xăngkhơpavamana (Sankhepavannama) bản bình luận một cuốn trích yếu siêu hình
học tên là Abiđammathaxănggaha (Abhidhaumathasangaha)1079
.
Một nhà tu hành người Môn khác cùng môn phái tên là Dammavilaxa
(Dhammavilasa) theo đạo Xariputta (Sariputta) là tác giả cuốn sưu tập đầu tiên các
luật pháp lập ra ở xứ Môn, cuốn Dammavilaxa Dammathát (Dhammavilasa
Dhammathat), viết bằng chữ Pali, được biết qua bản dịch bằng chữ Miến Điện vào
thế kỷ XVIII1080
.
Narapatixithuy có quyền lực lan tới tận Mécguy (Mergui) và vào các nước
San (Shans) hình như có một triều đại khá thanh bình và thịnh vượng, nó cho phép
ông phát triển các công trình tưới nước vào ruộng1081
. Ông đã làm giầu cho Kinh đô
bằng nhiều lâu đài, mà 2 cái chính là Gôđơpalanh (Gôdôpalin) và Xuylamani
(Sulamani)1082
.
Trước khi chết năm 1210, ông chọn làm hoàng thái tử là người con ông
Dâyathanhkha (Zeyatheinkha), con một người thiếp1083
và ông đã thành công trong
việc làm cho các người con lớn ở bậc trên phải thừa nhận1084
.
3. Quần đảo Nam Dương cuối thế kỷ XII: Sự suy yếu của Xơrivigiaya
(Palembang) có lợi cho Malayuy (Giămbi).
1075
Kiến trúc biên niên, tr.142 1076
Sulavamaxa, LXXVI, Sđd, tr.70 1077
Kiến trúc biên niên, tr.143. 1078
Tao Xencô, Nghiên cứu sơ bộ về bút tích Calyami, Bác cổ Ấn Độ, XXII, 1893, tr.17, 29, 31. 1079
M.H.Bôđơ, Văn học Pali ở Miến Điện, tr.17, 18. 1080
F.Foóchammơ, tr.35, 36 1081
Kiến trúc biên niên, tr.141 1082
Bâyliê, Kiến trúc Ấn Độ ở Viễn Đông, tr.271 1083
Kiến trúc biên niên, tr.141, 151. 1084
Kiến trúc biên niên, tr.141, 151.
182
Ở trên ta đã ghi việc sứ thần Xăngphôtsi sang Trung Quốc năm 1178, là phái
đoàn cuối cùng được ghi trong Lịch sử nhà Tống. Năm đó cũng là năm xuất bản
cuốn “Ling Wai Tai Ta De” của Tcheou K‟ui Fei mà phần lớn nội dung được in lại
năm 1225 trong cuốn Tchou Fan Fche của Tchao Jou Kona. Đọc cuốn này, người ta
có cảm tưởng là vương quốc Xuymatơra bắt đầu phân ly ra: Sun Pây (Tchan Pei)
(Giămbi) tức là Malayuy cũ, không còn là một trong những nước phụ thuộc của
San-fôtsi, và cuốn “Ling Wai Tai Ta” đã viết rằng ngay từ 1079 rồi đến năm 1082
và 1088, nước này đã tự mình cử sứ thần sang Trung Quốc1085
. Tanmaling, Ling ya
sseu Kia, Pôlôun, Sintô, Kienpi, Lan wou li (Asin), từng được ghi trong danh sách
các nước phụ thuộc Sanfôtsi đều là những nước có tiểu sử riêng rẽ nhau1086
; đối với
Kienpi (Cămpe), nguyên văn được ghi là “trước kia là một xứ phụ thuộc Sanfôtsi,
nhưng sau một trận giao chiến, xứ đó đã tôn một người lên làm vua một cách độc
lập”1087
.
Nếu nói đến sự suy sụp của Xơrivigiaya, ngay từ 11781088
là quá sớm, thì
phải tính đến những nhân tố mới ở hòn đảo lớn này, nhất là ở Malayuy (Giămbi)
ngay thời kỳ này phải trở thành trọng tâm của đế quốc Maharagia, làm tổn hại đến
Palembang1089
. Năm 1183, một ông vua tên là Tơrailôkyaragia
Môlibuysanavácnơađơva (Trailokyaraja Manlibhushanavarmadeva) đã đúc một pho
tượng Phật bằng đồng đỏ của Gơrahi (Grahi)1090
ở Saya (Ch‟aiya) trên vịnh
Băngđông (Bandon). Tên ông vua này gợi lên một cách đáng chú ý chức tước
thường dùng ở Malayuy1091
và người ta có thể tự hỏi người sáng lập ra nước này ở
bán đảo Mã Lai có phải là một ông vua ở Malayuy hay không?
Dù trung tâm của nó ở Palembang hay ở Giămbi, vương quốc Xuymađơva
mà người Trung Quốc gọi là Sanfôtsi còn là một cường quốc lớn, như Tcheou Kiu
Fei nói “một ngã tư quan trọng trên đường biển cho những người ngoại quốc đi
sang Trung Quốc hay trở về”1092
, vẫn tiếp tục phát huy sức mạnh của nó trong việc
chiếm lĩnh 2 bờ của eo biển.
1085
Hướctơ và RốcKhin, Chau Ju Kua, số 18, tr.66. 1086
Hướctơ và RốcKhin, Chau Ju Kua, số 18, tr.67, 72 1087
Hướctơ và RốcKhin, Chau Ju Kua, số 18, tr.71 1088
Như tôi đã làm năm 1927, Bàn về sự suy sụp của Xơrivigiaya, Bijdr 83, tr.459; Maginmđa,
Xuyvácnátvipa, tr. 197; Xát xtơri, Xơrivigiaya, BEFEO XI, tr.296 đề nghị làm trẻ lại niên hiệu đó. 1089
Điều đó cắt nghĩa tên Sanpây ([vua của] Giămbi) do Lịch sử nhà Tống đặt cho vua Sanfôtsi
(Gơrôăngnơvin, Ghi chép, tr.63). Pherăng, Đế quốc Xuymađơva, Báo Á Châu số 7 - 9/1922, tr.66); Penbiô,
Những chuyến đi biển lớn của Trung Quốc, T‟oung Pao XXX, 1933, tr.376; Môenx, Cơrivigiaya, Yara ở
Catalin, Tijd.Bat.Gen. số 77, 1937, tr.459. 1090
Xôđétx, Vương quốc de Cơrivigiaya” BEFEO, XVIII, số 6, tr.34 và Sưu tập các bút tích ở Xiêm. Tượng
Naga là thuộc thời này, còn tượng Phật có sau (Duypông, Tượng Phật ở Gơrahi, BEFEO, XLII, tr.125). 1091
Xem chú thích dưới, trang 327 - bản gốc. 1092
Hướctơ và Rốckhin, Chau Ju Kua, tr.23
183
Ở Giămbi, vào những năm 20 năm đầu thế kỷ XII, người ta được biết tên 2
ông vua ở Cađiri:
- Chmécvara II (Kamecvara II) lên ngôi năm 11851093
, dưới triều ông,
Tanacung (TanaKung) soạn bản luận văn về âm luật học, tên là
Vơrittaxăngsonga1094
(Vrittasanchaya).
- Xơranhga (Cringa) tức Xácvécvara II, (Sarvecvara II) mà người ta có 5 bút
tích từ 1194 đến 12001095
.
Sự phồn thịnh về thương mại ở Giava trong thời đó toát lên từ một nhận xét
của Tcheon Kin Fei trong “Ling Wai Tai Ta” (1178): “Trong tất cả các nước ngoài
giầu có những khối lượng hàng hoá lớn và quý giá, không nước nào vượt được
vương quốc Tasơ (Ta-che là Ả Rập), rồi đến Chơpô, và nước thứ ba là Sanfôtsi”1096
.
Ở Bali, những bút tích nhân danh: Giayapăngguýtx (Jayapangus) năm 1181,
Xucalăngduy (Çukalendu) năm 1201, Paramécvara (Paramecvara) và
Ađicuntijacơtana (Adhikuntijaketana) năm 12041097
. Chính thời kỳ này có những
khu lăng tẩm và nhà tu kín bằng đá ở Tampắc Xirinh (Tampak Siring), một kỳ quan
khảo cổ ở đảo1098
.
4. Nước Cămpuchia nửa đầu thế kỷ XIV
Tình huống trong đó xẩy ra việc kế vị một cách nặng nề Giayavácman VII ở
Ăngco còn rất tối tăm. Ông này có nhiều con mà người ta biết được ít nhất 4 người:
Xuryaguymara (Suryakumara) tác giả bút tích ở Ta Pơrôm1099
; Viraguymara
(Virakumara) con hoàng hậu Ragiăngđơrađơvi, tác giả bút tích ở Pơrêát Khan1100
;
Inđơravácman, con hoàng hậu Giayaragiađơvi (Jayarajadevi) cai quản xứ Lavô1101
;
và cuối cùng là Xơranhđơraguymara (Crindrakumara) mà pho tượng có 4 người bạn
chiến đấu quây chung quanh được đặt ở giáo đường trung tâm ở Bantây Cơma1102
.
Có phải chính ông này đã nối ngôi cha dưới cái tên là Inđơravácman II không? Sự
trùng tên này chứng tỏ điều gì lớn. Vả lại không có gì chỉ ra rằng Inđơravácman II
1093
N.J.Cơrôm, Ấn Độ Giava, tr.298. 1094
Fơriơđơritsơ ấn hành XXII, 1848 - Xem Kécnơ, Versjir. Gesch, IX, tr.70; Xăngca, Ảnh hưởng Ấn Độ vào
nền văn học Giava, tr.115, 117. 1095
N.J.Cơrôm, Sđd, tr.299, 301. 1096
Hướctơ và Rốckhin, Sđd, tr.23. 1097
P.V.Vanxtanh Canlăngfenx, Văn minh Bali, tr.35 - 59 1098
N.J.Cơrôm, Inleiding, II, tr.52, 420; Xtúttéchem, Indneden Van Bali, tr.86, 145, 192 coi nơi này như lăng
vua “con thứ” (xem trang 189 bản gốc). 1099
BEFEO, VI, tr.81 1100
BEFEO, XLI, tr.269, 301 1101
Bút tích ở Cămpuchia, II, tr.176, BEFEO XXIX, tr.326. 1102
BEFEO, XXIX, tr.309, 319.
184
là người kế vị trực tiếp của Giayavácman VII, là người mà ta không biết ngày mất.
Cuối cùng, nếu theo bút tích ở Bantây Sôma1103
thì Xơranhđơraguymara đang ở tuổi
giúp vua Yaxôvácman II chống lại Rahuy trước năm 1165, nên khó mà cho ông ta
sống tới 1243 là năm Inđơravácman II mất1104
. Sự khiếm khuyết của minh văn về
thời kỳ đầu thế kỷ XIII đã dẫn tới chỗ mù mịt.
Về phía Trung quốc và An Nam, người ta được biết rằng năm 1216 và 1218
“lần cuối cùng, quân Cămpuchia vào tận Nghệ An qua đường nước Chàm cùng với
một đội quân của nước này; liên quân đó lại bị đánh thua và phải rút lui”1105
. Năm
1220, người Cămpuchia rút ra khỏi nước Chàm1106
, trả lại ngôi vua nước này cho
một hoàng tử Chàm tên là Ăngxaragia ở Tuyrai-vigiaya (Angcaraja de Turai-
vijaya): Đó là con cả Giaya Harivácman II, là người mà như người ta biết, được
nuôi dạy trong triều vua Giayavácman VII và trở về nước thời kỳ chiếm đóng của
Khơme.
Trong tác phẩm Tchon fan Tche xuất bản năm 1225, Tchao Jou Kona đã ám
chỉ đến những cuộc chiến tranh giữa Cămpuchia và Chàm trong 1 phần 4 cuối cùng
của thế kỷ XII và đến sự xâm lấn của Cămpuchia vào Chàm1107
. Theo tác giả đó, đất
nước này về phía nam giáp Kiabôhi (Gơsahi), một nước chư hầu của Sanfôtsi, như
người ta thấy, ở trên bán đảo Mã Lai ngay vịnh Băngđông những xứ phụ thuộc nó
gồm:
Teng Liêu Mây (Teng lieou mei) trên bán đảo Mã Lai1108
Pô sơ lan (Pơ sseu lan) trên bờ vịnh Xiêm Lô hu (Lo hou tức là Lavô,
Lốpbuyri)
Xăng lu (San-lou tức là nước Xyâm trên vùng thượng Mênam).
Sen li fu (Tchen li fou) trên bờ vịnh Xiêm
Ma lô oen (Ma lo wen, có lẽ là Malyang ở phía nam Báttămbăng).
Lu yang (Lou Yang?).
Tu en li fu (T‟onen li fou?).
Pu căng (Pa-găng)
Oa li (Wa-li, miền thượng Miến Điện). 1103
BEFEO, XXIX, tr.309, 319. 1104
BEFEO XXV, tr.296, 394. 1105
Mátxpơrô, BEFEO XVIII, 3, tr.35. 1106
Aymôniê, Nghiên cứu đầu tiên về những bút tích Chàm, Báo Á Châu 1 - 2/1891, tr.51. 1107
Hướctơ và Rốckhin, Chau Ju Kua, tr.53. 1108
P.Penbiô, Hai cuộc hành trình, BEFEO, IV, tr.233. Nếu nước này đồng nhất với Tan mây liêu (Tan mei
l‟eou tức là Tâmbralingu) (điều đó không chắc vì nước sau này được Tchao Jou Kona gọi là Tan ma ling), thì
phải thừa nhận là nó đã nhập vào Kiabôhi tức là Gơrahi, là việc đã làm năm 1230, vì người ta không thấy
nhiều Gơrahi phụ thuộc Sanfôtsi như thế nào nếu Tambơralanhga (Ligo) đã ra khỏi Cămpuchia.
185
Xi-peng (Sifieng?).
Tu hoai Xinn (Ton houai Sinn?).
Bảng liệt kê này chứng tỏ rằng trước khi có sự dồn ép của người Thái, nước
Cămpuchia vẫn còn làm chủ vùng châu thổ sông Mê Nam và một phần bán đảo Mã
Lai. Ý đồ dòm ngó nước Miến Điện đã đi cùng quân đội Cămpuchia trong các cuộc
viễn chinh năm 1207 chống nước An Nam1109
.
Về vua Inđơravácman II, người ta chỉ biết một niên hiệu, đó là 1243 năm ông
mất1110
.
5. Nước Chàm sau thời kỳ chiếm đóng Khơme (1220 - 1257)
Đối với những người kế vị Giayavácman II, việc không thể giữ được mối liên
kết chặt chẽ giữa các bộ phận của đế quốc, đã diễn ra ở Chàm từ năm 1220. Một bút
tích ghi rằng, trong năm đó “người Khơme đi vào đất thánh và dân Chàm đến
Vigiaya”1111
. Cuộc di cư đó, tự nguyện hay bắt buộc, sáu năm sau được tiếp diễn
bằng việc lên ngôi của ông hoàng Ăngxaragia ở Turai-vigiaya (Ăngcaraja de Turai-
vijaya) dưới danh hiệu Giaya Paramécvaravácman II1112
, như người ta đã biết, là
cháu của Giaya Harivácman I và được nuôi dạy ở triều vua Giayavácman VII.
Mátxpơrô viết1113
: “Thế là chấm dứt cuộc chiến tranh 100 năm giữa người Chàm và
người Khơme. Người Khơme từ nay bị một kẻ thù mới chiếm đóng, nước Xiêm,
không còn mơ tưởng đến việc chinh phục nước Chàm nữa. Trải qua nhiều thế kỷ họ
chỉ còn đóng khung trong việc theo dõi các biến cố xảy ra ở vương quốc này, và
những người phiêu lưu thèm khát danh lợi, đứng đầu các toán quân ô hợp, đã đem
sức ra phục vụ những kẻ tấp tểnh chiếm ngôi vua và đã tham gia một cách rộng rãi
vào tất cả những cuộc nội chiến”. Một phần lớn những thời gian dưới triều Giaya
Paramécvaravácman II phải dùng vào việc phục hồi lại các công trình tưới ruộng và
dựng lại các nơi bị tàn phá khắp đất nước. “Ông đã cho dựng lại tất cả các cái
dương vật ở phía nam, trong đó có cái ở Yang Puy Nagara (Yang Pu Nagara tức Pô
Naga ở Nha Trang) và các dương vật ở phía bắc, trong đó có những cái ở
Xơrixanabađơxécvara (Sricunabhadresvara - Mỹ Sơn)”1114
.
Vào cuối triều ông, ông đã xung đột với nước An Nam, nước này từ 1225 đã
có một triều đại mới, nhà Trần. Hoàng đế Trần Thái Tông đã khiển trách vua Chàm
vì những vụ cướp bóc liên tiếp xảy ra ở bờ biển An Nam. Vua Chàm liền trả lời
1109
Những sự kiện này được thuật lại trong một bút tích ở Mỹ Sơn, do L.Phinô dịch. BEFEO, IV, tr.975. 1110
BEFEO, XXV, tr.296, 394. 1111
Aymôniê, Nghiên cứu đầu tiên, Báo Á Châu, số 1- 2/1891, tr.51. 1112
Aymôniê, Nghiên cứu đầu tiên, Báo Á Châu, số 1- 2/1891, tr.51. 1113
Vương quốc Chàm, tr.169. 1114
G.Mát xpơrô, Sđd, tr.172.
186
bằng việc đòi lại 3 tỉnh phía bắc, 3 tỉnh đó là miếng mồi bất hoà vĩnh cửu giữa hai
nước. Năm 1252, hoàng đế An Nam thân chinh cầm quân đi trừng phạt nước Chàm,
bắt được nhiều tù binh, trong đó có nhiều quan lại cao cấp và cung tần mĩ nữ1115
.
Có thể cuộc chiến tranh đó đã làm vua Chàm chết vì sau đó người ta thấy
hoàng tử Hariđơva ở Xacăng-vijaya (em thứ của vua) lên ngôi. Ông này năm 1249
đã từng cầm quân đi đánh Păngđuyrăngga dưới danh nghĩa của Yuvaragia1116
. Ông
vua mới này “hiểu biết mọi khoa học và tinh thông triết học của mọi trường
phái”1117
, ông ta lên ngôi dưới danh hiệu Giaya Inđơvavácman VI. Triều đại ông
ngắn ngủi vì đến năm 1257 ông bị người cháu tên là Hariđơva ám sát1118
.
6. Nước Miến Điện: Những ông vua cuối cùng của Pa găng (1210 - 1274)
Người ta còn nhớ tới trước khi chết, năm 1210, vua Narapatixithuy đã chọn
làm người kế vị mình, con một người thiếp. Hoàng tử này còn trẻ, tên là
Dơyathanhkha tức Năngđơngmya. Các anh của hoàng tử ở bậc cao hơn đều chấp
nhận, vì “cái lọng hoàng gia đã cúi chào một cách kỳ lạ” trước hoàng tử, từ đó có
cái tên là Tilômanhlô (T‟ilônimlo) để chỉ ông. Ông vua mới có tài khéo léo tước bỏ
quyền hành trong tay các anh, điều đó làm ông ta tránh được nhiều mối lo âu1119
.
Triều của ông chấm dứt năm 1254, được đánh dấu bằng hai công trình lớn cuối
cùng ở Kinh đô, đền Mahabôdi (Mahabodhi)1120
, là một sự đáp lại ngôi đền nổi
tiếng Bốtgaya ở Ấn Độ, và điển Tilômanhlô1121
dựng ở nơi mà chiếc lọng đã ngả
xuống.
Tilômanhlô có người kế vị là hoàng tử Kyôdơoa (Kyôzwa), con ông, một
người rất sùng đạo đã từ bỏ quyền binh cho con mình là Udana (Ugana) để sống với
các ông sự đạo Phật1122
. Triều ông được đánh dấu bằng một vài hoạt động vănn học,
nhất là về ngữ pháp1123
. Ông mất năm 1250. Udana nối ngôi trong 4 năm thì chết vì
một tai nạn lúc đi săn1124
.
Sau khi ông mất năm 1254, người kế vị hợp pháp là Thanhgathuy
(Thingathu) (Singhasura) bị Naratihapatơ (Narathihapate), (Narasihapati) con một
người thiếp, lên 16 tuổi tiếm đoạt ngôi vua. Thượng thư Yadathanhkyang
1115
Aymôniê, Sđd, tr.57. Về niên hiệu, xem L.Phinô, BEFEO, XV, 2, tr.51. 1116
L. Phinô, BEFEO IV, tr.954. 1117
BEFEO, XV, 2, tr.51, số 1. 1118
Thiếu chú thích ở bản gốc 1119
Kiến trúc biên niên, tr.153. Biên niên Pali Jinakalamalinô gán cho ông sáng tác năm 1203 một bài bình
luận về Bôđivanxa (G.Xôđétx, Tài liệu về lịch sử miền Tây nước Lào). BEFEO XXV, tr.11). 1120
L.đơ Bâyliê, Kiến trúc Ấn Độ ở Á đông, tr.299; Xcốt ô.Côno, Măngđalay, tr.221, 270, 275. 1121
Xcốt ô Côno, Sđd, tr.200 1122
Kiến trúc biên niên, tr.155, 156. 1123
M.H.Bôdơ, Văn học Pali ở Miến Điện, tr.25. 1124
Kiến trúc biên niên, tr.156, 158.
187
(Yajathinkyan) (Ragisankrama) là người nuôi dạy ông bị đẩy đi xa “như người ta
tháo dàn giáo ra khi ngôi chúa đã hoàn thành”1125
. Nhưng ông lại được vời ra ngay
để đi trấn áp các cuộc nổi loạn ở Máctabăng (Martaban) và Aracăng (Arakan)1126
.
Năm 1274, nhà vua cho xây dựng ngôi đền Manhgaladơđi (Mingalazedi)
(Mangalachotiya) để đặt các tượng các hoàng tử và công chúa của triều đại, và các
thầy bói đã đoán rằng việc hoàn thành ngôi đền đánh dấu thời kỳ cuối cùng của
vương quốc. Quả nhiên, Pagăng chẳng bao lâu đã rơi vào tay người Mông Cổ.
7. Xơrivigiaya trước lúc bị chia cắt (1225 - 1270)
Mặc dầu có những dấu hiệu báo trước một sự chia cắt gần gũi, nước Sanfôtsi
hồi đầu thế kỷ XIII vẫn còn là một cường quốc. Tchao Jou Kona đã ghi tới 15 nước
chư hầu của nó:
Peng long (Pahang)
Teng Ya nong (Tơrengamuy- Trenganu)
Lingyasseu-kia (Lankasuka)
Kilantan (Kelantan?)
Foloan (P‟át‟alung?).
Yelot‟ing (trên bờ phía đông bán đảo?)
Ts‟ien mai (?)
Pat‟a (Nước Batak ở Xuyunađơra?)
Tanmaling (Tambralinga, vùng Ligo)
Kialohi (Grahi, trên vịnh Băngđông)
Palinfong (Palembang).
Sinto (Sunda, tây Giava)1127
Kienpu (Kampe, trên bờ đông Xuymatơri)
Silan (Ceylan?)
1125
Kiến trúc biên niên, tr.71. 1126
Hướctơ và Rốckhin, Chau Ju Kua, tr.62; Pherăng, Đế quốc Xuymađơra, Báo Á Châu, 7 - 9/1922, tr.13.;
Magiumđa. Xuyranátvipa, tr. 193; Xútxđơri, Xơri Vigiaya, BEFEO, XI, tr. 294 1127
Tchao Jou Kona chấm dứt lời chú thích về Sanfôtsi như sau “miền đông nước này giáp với Yong Ya
Lou”, nghĩa là Yangala. Người ta sẽ thấy ở thời đó, năm 1225, nước Yangala cũ lúc đầu bị Panjalu sức
Candiri lấn át, đã phục hồi được ưu thế với Kinh đô là Tumapen. Điều đó không nói lên rằng các thuộc quốc
của Sanfôtsi gồm miền tây và miền Trung đảo Giava cho tới biên giới Yangala, vì Tchao Jou Kona chỉ nêu
tên Sinto-Sunda trong số các nước chư hầu. Đối với ông, Yong Ya lou tức là Yangala có lẽ tương ứng với tất
cả vương quốc Giava thừa hưởng của Éclăngga. Xem Y.L.Môenx, Xơrivigiaya, Yavavà Cataha,
Tijd.Bat.Gen, 77, 1937, tr.410, 414.
188
Danh sách này bao trùm toàn bộ bán đảo Mã Lai ở phía nam vịnh Băngđông,
và tất cả miền tây bán đảo: Vua Maharagia vẫn tận dụng quyền lực nhờ việc chiếm
cứ hai bờ eo biển Xơrivigiaya - Cataha hoặc Xơribuyda - Cátla.
Đại dương quốc này hình như đã tha hoá thành một công ty cướp bóc thật sự.
Tchao You Kona viết1128
: “Nước này ở vùng đại dương và làm chủ eo biển qua đó
các chuyến hàng hải bằng đường biển và đường bộ hai chiều đều phải đi qua... nếu
một chuyến thương thuyền khác nào phải qua đó mà không dừng lại, các chiến
thuyền sẽ ra tấn công theo một kế hoạch tính trước; dân ở đấy sẵn sàng liều chết (để
thực hiện mưu kế của họ). Chính vì lẽ đó mà nước này trở thành một trung tâm
hàng hải quan trọng”.
Ở chương trên ta đã thấy ngay từ cuối thế kỷ XI, Cămpơ và Malayuy (Kampe
et Malâyu) trên bờ phía đông Xuyuratơra, đã tách ra khỏi Xirivigiaya. Năm 1230,
chính trên bán đảo Mã Lai người ta nhận thấy sự suy yếu của nó. Vào thời này, vua
nước Tambơralanhga là Đácmaragia Săngđơrabanuy (Dharmaraja Chandrabhanu)
đã cho khắc ở Saiya (Ch‟aiya), trên danh thắng Sơrahi cũ có lẽ mới sát nhập vào,
một bút tích1129
có vẻ nói về một ông vua độc lập1130
. Săngđơrabanmy được nêu tên
trong Mahavamka xanhgale với hình dung từ vua của người Giavacátx, và có lẽ
cũng chính ông đã xuất hiện trong văn minh người Pangdyátx (Pandyas) ở cực nam
Ấn Độ1131
với danh hiệu là Xavacăng (Çavakan). Việc so sánh các văn bản đó1132
và
biên niên sử Pali Jinakalamalim1133
cho phép viết rằng năm 1247, Săngđơrabanuy
đã cử sang Xâylan, có lẽ vì mong muốn hoà bình có được một thánh tích hoặc một
bức tượng Phật, một phái đoàn và sau đó dẫn đến một thuộc địa của Yavacátx. Vào
khoảng 1263, Giatavácman Vira Pangduya (Yatavarman Vira Pandya) được gọi về
Xâylan để trấn áp các cuộc nổi loạn xẩy ra sau khi thiết lập quyền bá chủ của
Pangdya lên đảo năm 1258, của anh ông ta là Yatavácman Xunđara Păngđia
(Yatavácman Sunđara Pandya). Ông phải chiến đấu với hai ông hoàng Xâylan và
một ông hoàng Giavaca, có lẽ là con của Săngđơrabanuy đóng ở Xâylan mà ông đã
chấp nhận sự thần phục. Khoảng 1270 lại xảy ra một cuộc viễn chinh thứ hai của
Săngđơrabanuy đi đổi chiếc răng và cái bát của Phật: nhưng ông lại bị thảm bại.
1128
Hướctơ và Rốckhin, Sđd, tr.62; G.Pherăng, Sđd, tr.13. 1129
G.Xôđétx, Sưu tập các bút tích ở Xiêm, II, tr.41 1130
Có lẽ ông cũng nhận quyền bá chủ của Cămpuchia nếu nước Teng lieou mei, như Tchao Jou Kona ghi thì
số các nước phụ thuộc vào Cămpuchia, là đồng nhất với Tan mei lieou tức Tâmbralinga, điều đó không có gì
chắc chắn. 1131
L. đơ la Valê Pútxanh, Triều đại và lịch sử Ấn Độ từ Kaniskha, tr.251 và tiếp theo. 1132
Các bản tranh luận trong: N.J.Cơrôm, Deondergang Van Çrevijaya, Md. Kon. Akad, V. Wet. Afd.
LetterKunde, 62, 1926, 8, số 5; G.Xôđétx, Bàn về sự suy sụp của vương quốc Xơrivijaya, Bijdr 83, 1927,
tr.459; Nila-căngtaxát xtơri, Xơrivigiaya, Cangđơrabanuy và Vira Păngđya, Tijd.Bat.Gen, 77,1937, tr.251 1133
G.Xôđétx, Tài liệu về lịch sử miền tây nước Lào, BEFEO, XXV, tr.99.
189
Sự suy yếu của Tambơralanhga, xứ phụ thuộc quan trọng nhất của
Xơrivigiaya trên bán đảo, chỉ còn liên hệ một cách lỏng lẻo với chính quốc
Xuymađơra. Hai mươi năm sau đã làm thuận lợi cho việc chinh phục của người
Thái. Với họ, Săngđơrabanuy hình như có quan hệ láng giếng tốt1134
bao hàm cả
việc mang ơn sự bảo hộ của Xuykhôthai1135
. Những đòn đầu tiên do Giava giáng
vào Xơrivigiaya, và nay cần vẽ lại lịch sử của nó trong 3 phần 4 đầu thế kỷ XIII.
8. Giava: Thời kỳ cuối của vương quốc Cađiri (1222) và thời kỳ đầu của
vương quốc Xanhgaxarri cho đến 1268
Đầu thế kỷ, ngai vàng nước Cađiri do Cơritagiaya (Kritajaya) nắm giữ.
Người ta có một bút tích năm 1266 về ông này1136
. Thời cuối triều ông, một người
quỷ quyệt tên là Ăngrốc (Angrok) sau khi đã giữ chắc quyền ở đông bắc Malang, đã
bắt nước Giănggala cũ (Yangala) thần phục mình. Rồi ông lợi dụng cơ hội đầu tiên
để nổi lên chống chủ của mình là vua Cađiri. Sự thiết lập một triều đại mới ở
Tuymapen (Tumapel) trong nước Giănggala được coi như đánh dấu sự thống nhất
hai vương quốc Giănggala và Pănggialuy (Panjalbu tức Kndiri), tạo nên hai nửa của
vương quốc Erlăngga: nhưng Giănggala lúc đầu bị Cađiri lấn át, và sự hỗn hợp đã
trở thành một việc đã rồi từ rất lâu, nhưng vì Giănggala gồm có Kinh đô cũ nên kẻ
tiếm đoạt, khi xưng vua ở phần quan trọng nhất trên 2 nửa của vương quốc
Erlăngga, đã gây ấn tượng nối lại với những truyền thống của một quốc gia Giava
cũ.
Chỉ dẫn về Giava trong cuốn Tchon Fan Khe năm 1225 đã phản ánh sự rối
loạn trong 10 năm thứ 2 của thế kỷ XIII, và những mâu thuẫn của Tchao You Koua
có nguyên nhân từ sự phát triển nhanh chóng của tình hình đó cho đến lúc Cađiri
suy rụp hoàn toàn năm 1222.
Trong chương 141137
, Tchao Jou Kona gọi tên cũ là Chôpô, tức Pou Kia long
(Pekalougan), và cho nhiều tư liệu phần lớn rút trong Ling Wai Tai Ta năm 1178,
và ông kết luận rằng muốn ngăn chặn sự xuất khẩu lậu các tiền bằng đồng khỏi
nước Trung Quốc. “Triều đình đã nhiều lần cấm buôn bán (với Chôpô) nhưng các
thương nhân nước ngoài, để lừa dối chính quyền, đã đổi tên nước này và gọi là
Xukităng (Sonkitan)”. Chính dưới cái tên đó, Tchao Jou Kona đã miêu tả vương
quốc Giava này trong chương 15.
1134
G.Xôđétx, Tài liệu về lịch sử miền tây nước Lào, BEFEO, XXV, tr.99. 1135
Ít ra đó là giả thiết của F.H. Giles, Truyền thống Kahlak, báoHội Xiêm XXX, 1938, tr.18, 21. 1136
N. J.Cơrôm, Ấn Độ - Giava, tr.301 1137
Hướctơ và Rốckhin, Chan Ju Kua, tr.82.
190
Tên Xukităng có nhiều tên đồng nhất mà cái gần sự thực nhất là Xuycađana
(Sukadana), ở lân cận Xuyrabaya1138
(Surabaya), nó tương ứng với một lãnh thổ hơi
khó xác định vì các tài liệu Tchao Jou Kona cung cấp lại mâu thuẫn nhau. Lý do là
vì nó có niên hiệu khác nhau và những tài liệu gần nhất hình như có trước thời kỳ
Cađiri suy sụp. Chính vì vậy mà ở đầu chương, ông nói rằng Xukităng giáp phía tây
Xanhtô (Sint‟o) (Xunđu tức Sunda) và phía đông giáp Tapăng (Tapan, Tuban,
Tumapel), điều đó tương ứng nhiều với lãnh thổ Cađiri, bớt đi xứ Giănggala đã trở
nên một xứ độc lập, nhưng trong bản kê các thuộc quốc của Xukităng1139
, ông đã
gộp cả Tapăng và Giôngyalu (Young Ya Lou tức Yanggala hay Vjung Galuh, một
hải cảng trên đồng bằng Bơrantátx) điều đó nói nên tình trạng những việc thuộc về
thời kỳ trước; thế mà ở cuối chương nói về Sanfôtsi1140
ông lại miêu tả xứ này
(trong đó có Xanhtô tức Xunđa trong những thuộc quốc) phía đông giáp Giôngyalu,
điều đó chỉ có nghĩa là Giănggala không những trở thành một xứ độc lập mà còn
thôn tính cả Cađiri.
Ngoài Ta-păng và Giônggalu, Tchao Jou Kona còn ghi những thuộc quốc
của Xukităng trên đảo Giava như sau:1141
Po hon yuan (?)
Matong (Medang)
Hi ning (?)
Tong Tche (mũi phía đông)
và trên các đảo lân cận:
Ta Kang (?)
Houang ma tchon (?)
Mali (Bali ?)
Nieou lonen (?)
Tan jong wou lo (Tanjong Pura, tây nam Boócnêô)
Ti wou (Timor)
P‟ing ya yi (Bangai, phía đông Xêlépbơ)
Wou won kou (Mêhiyecơ)(4)
.
1138
B.Schriek, Tijd. Bat.Gen, 65, 1925, tr.126, số 36.
1139
Hướctơ và Rốckhin, Sđd, tr.83. 1140
Hướctơ và Rốckhin, Sđd, tr.62. 1141
Bản kê này đã được Hướctơ và Rốckhin nghiên cứu, Sđd, tr.86; G.Roufaer, Was Malaka en emporium,
Big‟dr. 87, 1921, tr.137; N. J.Cơrôm, Ấn Độ - Giava, tr.309. (4)
Về hai tên này, xem G.Pherăng, Báo Á Châu số 3 và 4/1919, T.281.
191
Với Ăng rốc, người sáng lập ra vương quốc Tuymapen, lịch sử Giava có một
bộ mặt mới và nó giữ được cho đến thời kỳ Ấn Độ. Phần lớn nó được dựng lên trên
2 biên niên sử chữ Giava, cuốn Nagarakritagama của Prapancha (1365)1142
và cuốn
Pararaton vào cuối thế kỷ XV1143
, nó cũng giống như biên niên Miến Điện, nêu lên
tiểu sử các vua chúa và quần thần, đời tư của họ và cả những cuộc xích mích và các
bi kịch trong triều và các chi tiết mà văn minh kỹ biết tới.
Ăngrốc là con gia đình nông dân, nhưng sau tự xưng là con Phật Xiva
Girankđa (Siva Girinda tức Xiva vua núi)1144
, một hình dung từ gợi lên một cách cố
tình, danh hiệu cổ Xailăngđơra. Trải qua thời thanh niên làm kẻ trộm đường dài,
ông ta vào phục vụ Tungun Amotung (Tungul Ametung), người cai quản xứ
Tuymapen, rồi ám sát ông này rồi lấy luôn vợ ông ta tên là Dedes1145
. Ông củng cố
vị trí ở phía đông núi Gauy (Kawi), rồi lợi dụng sự xưng đột giữa vua Cơritagiaya
và tăng lữ, đã xưng vua dưới danh hiệu Ragiaxa (Râjasa)1146
.
Năm 1222, ông tiến về Cađiri và tham gia một cuộc giao tranh quyết định ở
Giăngtơ (Ganter)1147
mà địa danh chưa được xác minh. Cơritagiaya chạy trốn và
mất tích, không để lại dấu vết gì. Cađiri từ đó thành một bộ phận của vương quốc
Tuymapen, sau này được biết nhiều hơn dưới cái tên chỉ Kinh đô của nó là
Xanhgaxari (Singhasari), lúc đầu được gọi là Luytaragia (Kutaraja).
Sau 6 năm trị vì yên ổn, Ragiaxa bị ám sát năm 1227 do Anuysapati
(Anushapati) con hoàng hậu Dedes và cựu toàn quyền sứ Tuymapen xúi giục, để trả
thù việc giết hại cha anh ta1148
.
Anuysapati tức Anuysanata (Anushanatha) lên nối ngôi và trị vì đến 1248.
Năm đó, trong một lần chọi gà, đến lượt ông lại bị Tốtgiaya (Tohjaya) con của
Ragiaxa và một người thiếp1149
giết chết. Lăng của ông tên là Săngđi Kiđan (Chandi
Kidal)1150
, ở đông nam Malang, một công trình kiến trúc còn thấm nhuần truyền
thống Giava cổ điển.
Tốtgiaya chỉ ở ngôi vài tháng năm 1248 và bị chết trong một cuộc nổi loạn
trong cung do 2 người cháu là Răngga Uyni (Ranga Wuni) con Anuysanata, và
1142
Do Brandes ấn hành, Verh.Bat.Gen 54, 1902 và Keécni dịch, Veesfor. Gesch. VII và VIII (Cơrôm in lại
năm 1919
1143
Do Brandes ấn hành, 49, 1896 (Cơrôm in lại năm 1920). 1144
Nagarakritâgama (H.Keécnơ Verspr. Gesch. VIII), tr.7. 1145
Pararaton, tr.61.Có lẽ là người đàn bà được trình bày dưới dạng Praju‟âpâramitâ ở Bảo tàng Lâyđơ
(Leyde). N.J.Cơrôm, Ấn Độ - Giava, tr. 54. 1146
Pararaton, tr.62 1147
Pararaton, tr.63 1148
Pararaton, tr. 64 - 65 1149
Pararaton, tr. 72 1150
N.J.Cơrôm, Ấn Độ - Giava, II, tr.55.
192
Mihisa Sămpaca (Mahisha Champaka) cháu của Ragiaxa1151
xúi giục. Hai ông
hoàng này cùng ở ngôi chung, người trên lấy danh hiệu là Vítxnuyvácđana
(Vishauvardhana) và người thứ hai lấy danh hiệu là Naraximhamuyếcti (Narasimha-
murti)1152
. Biến cố chính dưới triều Vítxnuyvácđana (1248 - 1268) dù việc trấn áp
cuộc nổi loạn của một người tên là Lanhgapati1153
ngay từ 1254, ông ta giao hẳn
vương quyền cho con là Cơritanagara (Kritanagara), và từ năm đó Kinh đô
Luytaragia mang tên là Xanhgaxari1154
. Năm 1268 ông mất, được phong thần dưới
dạng Xiva ở Oalơri (Wal‟eri) (Mơlơri gần Bơlita tức Meleri meo de Bhitar) và dưới
dạng Amôgapaxa (Amoghapaxa) (một dạng của bồ tát Avalokitecvara) ở Giagiaguy
(Jajaghu) (Săngđigiagô tức Chandi Jago)1155
. Ngôi đền nổi tiếng đó có trang trí phù
điêu chìm minh hoạ các phần trong những bài thơ Ấn Độ - Giava khác nhau:
Kunjarakarna1156
, Parthayajn‟a1157
, Arjunavivâh1158
và Krishnayana1159
, có phong
cách Inđônêdiây hơn các lăng trước1160
. Sự xuống dốc của văn hoá Ấn Độ và sự
quay về với truyền thống tổ tiên của thực thể bản địa là một hiện tượng chung ở
ngoại Ấn hồi thế kỷ XIII.
Về những nguyên nhân bên trong của sự xuống dốc đó đã được ghi ở
trên1161
, ở đây có thể thêm 2 cái: Sự xâm nhập của người Hồi vào Ấn Độ sau khi đã
gây ra một cuộc di trú các phần tử trí thức ra nước ngoài1162
, một thời gian làm cạn
nguồn văn hoá mà các thuộc địa Ấn Độ cần phải được tôi lại; và các cuộc chinh
phục của Mông Cổ kéo theo sự tàn phá các vương quốc được Ấn Độ hoá cũ như
người ta sẽ thấy ở chương sau.
1151
Pararaton, Sđd, tr.73, 76 1152
Pararaton, Sđd, tr.77 1153
Nagarak, Sđd, tr.12. 1154
Nagarak, Sđd, tr.13. Về các di chỉ khảo cổ của nó, xem Brandes, Beschrijving van Tjandi Singasari,
1909; N.J.Cơrôm Inleiding, tr.68, 93; Yessy Blom, Những đồ cổ ở Lingasari, Leyde, 1939. 1155
Nagarak, Sđd, tr.14. 1156
H.Keécnơ.Verspr.Gesch.X, tr1, 76; Himamsu Bhusan Sarkar, Ảnh hưởng Ấn Độ vào văn học Giava,
tr.83,87. 1157
Sarkar, Sđd, tr.224, 278. 1158
Sarkar, Sđd, tr.224, 278. 1159
Sarkar, Sđd, tr. 322, 323 1160
Brandes, Beschrijving van de ruine bij de desa Toempang, genaamd Tjandi Djago, 1904; N.J.Cơrôm
Inleiding, tr.95, 136. 1161
Xem chú thích trang 70, bản gốc. 1162
“Taramatha” nói, vào thời người Turushkas chinh phục Ấn Độ (tức là sự xâm nhập của Mnhammad -i-
Bakhtiyar cuối thế kỷ XII), nhiều nhà bác học Phật giáo, gồm Sungama Srijn‟âra, Ravicribhadra,
Chandrakaragupta, 16 mahanta và 200 tiểu lãnh tụ giáo phái đã trốn về Pukkkam (Pagan), Munjan
(Haripunjaya ?), Kamboja và các vùng khác. Xem. Nihar Ranjan Ray “Phật Phạn ở Miến Điện”, T.76, 81, 85.
193
Chương XII:
Sự phản xạ của các cuộc chinh phục của Mông Cổ
(một phần ba cuối thế kỷ XIII)
1. Người Thái
2. Nước Cămphuchia: Thất bại của một âm mưu của Mông Cổ năm 1282
3.Nước Chăm: Sự xâm nhập của Mông Cổ (1283- 1285)
4. Nước Miến Điện: Từ 1271 người Mông Cổ chiếm cứ Pagăng (1287)
5. Công cuộc giải phóng của người Thái ở MêNam nửa cuối thế kỷ XIII:
Thời kỳ đầu của vương quốc Xuykhôthai (Sukhốt ai) (khoảng 1260- 1292)
6. Giava: Thời kỳ cuối của vương quốc Thời kỳ cuối của vương quốc
Xanhgaxari (Singhasâri), cuộc viễn chinh vương quốc Mông Cổ năm 1293và sự
thành lập của vương quốc Môngiôpahít(Mojopahít)
7. Xuymatơra và các thuộc quốc vào thời kỳ Mác xôpôlô (Marco Polo); thời
kỳ đầu của Itxlam
8. Vương quốc Thái Xuykhô thai: Rama Camhèng (Râma ixlam hèng)
9. Vương quốc Thái Lanna: Sự thành lập Chiêng Mai (1296)
194
10. Người Thái ở Miến Điện
11. Nước Cămpuchia: Mối liên hệ của Tcheou- Kruan (Chu Đạt Quan)
(1296)
12. Nước Chăm cuối thế kỷ XIII
Khắp Âu Á, thế kỷ XIII đều đặt dưới dấu vết của Mông Cổ. Ngoại ấn cũng
không thoát khỏi sức ép đó vì ngay từ 1260, Nhi Cubilaikhan lên kế ngôi
Giănggitxkhan và chinh phục Trung Hoa, thành lập nên nhà Nguyên năm 1280,
ông ta tìm cách buộc các ông vua nước ngoài tuyên thệ thần phục như tục lệ trước
đây đối với triều đại Trung Quốc nhà Tống. Tuy rằng Trung-Mông đến các nước đó
chỉ gặp toàn vận rủi hoặc những thắng lợi không có tương lại, sự đụng chạm của nó
đã gây ra ở các nước đó nhiều phản xạ sâu sắc mà cái quan trọng nhất là sự thành
lập cường quốc người Thái ở lưu vực sông Mê Nam và ở Miến Điện, với tất cả hậu
quả xảy ra ở Cămpuchia, ở các nước chính trên sông MêCông và ở bán đảo Mã Lai.
1. Người Thái
2. Người Thái định trú ở Vân Nam, từ thế kỷ VIII và lập ra vương quốc Nam
Tchao(Nam Chiêm), mãi lâu về sau mới giành được độc lập ở vùng thung lũng
trung Đông Dương và Miến Điện. Đôi lúc người ta nói về: “sự xâm lược của người
Thái”, hậu quả của “sức ép Mông Cổ thế kỷ XIII”. Thực ra đó là một sự thâm nhập
chậm chạp, và có lẽ từ rất lâu từ suốt dọc các sông ngòi, theo dòng chuyển lưu
chung của các cư dân từ phía Bắc đến phía Nam, tạo nên đặc điểm của cư dân trên
bán đảo Đông Dương. Nhưng nửa đầuthế kỷ thế kỷ XIII đã diễn ra sự kích khởi ở
tận cùng phía Vân Nam. Theo những niên hiệu truyền thống ghi ở đây với tất cả sự
thận trọng, Vương quốc Thái Môgâng(Mogaung) ở Bắc Bamô (Bhamo) được thành
lập từ 1215, vương quốc Mônê (Moné) hay Mường Nai trên nhánh phải sông
Slakuyn (Saluơin) năm 1223, và nước átxam bị chinh phục năm 1229 (1) Cũng thời
gian đó 1163
các thủ lĩnh người Thái ở Chiềng Rung và Ngơn Yang (Ngôn Yang)
(thuộc Chiềng Xên) hay thượng lưu sông Mê Công, liên minh với nhau bằng cách
gả con gái cho nhau(1)1164
. Đúng là cùng thời kỳ đó có ghi truyền thuyết hạ giáng
của Khum Bô rôm và việc ào đến từng khối lớn theo sông Nậm U ở Luông
Pơrabang (2)1165
. Giữa thế thế kỷ XIII, người Thái đã tập trung rất mạnh các nhóm
Khơme, môn và Miến Điện đã ấn Độ hoá ở các thung lũng phía Nam, và khi họ đạt
được một sự kết hợp nào đó, lãnh tụ của họ, đối với tổ chức bên trong của công
quốc cũng như về đường lối chính trị đối với nền văn minh cổ Ấn độ ở các thung
1163
1 P.Lefêvre. Pontalis: “Người Younes (vân) ở vương quốc Lanxa hay Papơ “Tùng Báo, XI, 1910, Tr.107- 1164
C. Nutton “Biên niên sử Xiêm III, T 20 1165
“Nhiệm vụ Parie- Nghiên cứu linh tinh “ II. T. 7-17- L. Phinô “Tìm hiểu văn học Lào” BEFEO, XVII. 5,
T.160-164
195
lũng và đồng bằng, đã theo gương người Mông Cổ mà sự phông thịnh kỳ diệu của
nó đã tác động mạnh vào trí tưởng tượng của họ. Người ta sẽ thấy bút tích của
RamaCamheng nhà chinh phục lớn người Xiêm vào cuối thế kỷ 13, đôi khi rung lên
tiếng vang của Hốt Tất Liệt (Giăng gitx khan). Về phía mình người Mông Cổ, từ lúc
xâm nhập vào Vân Nam năm 1253, không thể nhìn một cách ác ý sự thiết lập ra,
dựa trên các vương quốc cổ đã bị ấn độ hoá, hàng loạt công quốc Thái, những nước
này dể được giữ lại trong quỹ đạo của Trung Quốc. Nhưng thời cơ chính trị đó đưa
tới kết quả là tầng lớp thống trị gốc Thái lên nắm quyền hơn là một sự đảo lộn đột
nhiên trong nhân dân trên bán đảo. ở Miến Điện việc chinh phục nước Pagăng của
người Mông Cổ năm 1287 đã tạm thời làm biến mất vương quyền Miến Điện, và
nước này bị chia làm nhiều công quốc do các vua Thái cai trị. ở thượng lưu sông
Mênam, một thủ lĩnh người Thái từ ChiềngRay tới đã dưới triều đại Môn ở
Haribumgiaya đi và lập nên một kinh đô mới, Chiềng Mai, ở gần kinh đô cũ. Khi
Xuykhôthái (Sukhôdaya), việc tuyên bố độc lập tiếp theo một cuộc chinh phục
nhanh chóng, dẫn tới hậu quả chinh quyền người Thái được thay thế bằng chính
quyền Khơme ở châu thổ sông Mênam trên thượng lưu sông Mêcông
Người Thái chỉ đi vào lịch sử ngoại ấn vào thế kỷ XI với việc ghi vào văn
minh Chăm việc bắt nô lệ hay tù binh Xiêm (Syâm), bên cạnh người Trung Quốc,
người An Nam, người Campuchia và người Miến Điện vào thế kỷ XII, các phù điêu
chìm ở ĂngCovát trình bày ở đầu đoàn người ở hành lang phía Nam, một nhóm
chiến binh màu áo hoàn toàn khác với người Khơme và hai bút ký ngắn ngủi xác
nhận họ là người Xyâm (Syâm)(1)1166
, rất có thể đó là người Thái ở trung Mênam vì
chính ở thế kỷ XIII, người Trung Quốc gọi vương quốc Xuykhôthái bằng cái tên
Sien.
“Bọn dã man”đó như người ta đôi lúc gọi người Xyâm ở Ăngcovát, chỉ “dã
man” trong y phục. Họ phải có một tổ chức xã hội mà một vài vết tích vẫn tồn tại ở
Vương Quốc Lào(2) 1167
và các chế độ phong kiến của người Mường ở thượng du
Bắc kỳ và Thanh Hoá đã gây nên một quan niệm gần gũi (1) 1168
sống từ lâu ở Vân
Nam trong quỹ đạo của nền văn minh Trung Quốc, không những họ có một nền văn
minh vật chất khá tiến bộ mà còn có sự tiếp xúc với ấn độ và Phật giáo bằng con
đường nối biển ấn độ với Trung Quốc qua Át-xam và Vân Nam (2)1169
, điều đó cắt
nghĩa ảnh hưởng rõ nét của nghệ thuật người Pala và người Xônaơ ở Băngalo vào
nghệ thuật Phật giáo của người Thái bao giờ cũng là người đồng hoá xuất sắc:
Không cần phải làm gì, họ có thể cái gì mà trong nền văn minh của các nước láng 1166
“Đền Ăngcovát”. Hồi ký khảo cổ EFEO, T1 559, 572, 573. 1167
Y. Rispand “Những danh từ có yếu tố chỉ ..của các công quốc Thái” Báo Hội Xiêm, 29-1937, T. 77.
P.Lðvy “Đối ngữ đặc lưu danh từ ở Lào”. B/c viện nghiên cứu về người ở Ấn... Dương”. V, 1942, T.139. 1168
Ơ grossin “Tỉnh Mường ở Hoà Bình” Hà Nội 1926 - C17. Rôbequain “Tỉnh Thanh Hoá” Tập I (EFEO,
XXIII, 1929) 1169
Pelliot “Hai cuộc hành trình” BEFEO, IV, T. 162
196
giềng có thể làm cho họ đấu tranh thắng lợi. Những thành công nhanh chóng của họ
ở lưu vực lưu vực sông Mênam1170
, nhưng người ta sẽ thấy là hậu quả của sự suy
yếu của Cămpuchia, và sự xuống dốc rồi suy sụp của Miến điện dưới những đòn
của Mông Cổ.
1. Nước Cămpuchia: Sự thất bại trong một âm mưu của Mông Cổ năm
1282
Ở cămpuchia, Inđơracman II mà người kế vị có lẽ không phải ngay lập tức ,
là Giayavácnan VIII, dưới triều ông, người Mông cổ đã biểu xuất ở Cămpuchia một
cách khá hoà nhã. Năm 1268, hoàng đế Annam khiếu nại với Hốt Tất Liệt về những
cuộc tấn công của Cămpuchia và Chàm. Hốt Tất Liệt ra lệnh cho ông phải chốg cự
với sự giúp đỡ của quân Miến Điện (4)1171
Nhưng chỉ 15 năm lãnh thổ Cămpuchia
mới bị toán quân Mông Cổ tràn đến, toán quân này do Xagatu (Sagatou) chỉ huy,
vào năm 1283 sẽ vào phía Bắc và miền trung nước Chàm.Ông ta cử đi có lẽ vì
đường từ Quảng Trị đến Xavanakhét (1)1172
một tướng chỉ huy 100 quân và một
tướng chỉ huy 1000 quân tên là Xôlâyman (Sollyman) đi và các tướng này “bị bắt
và không trở lại nữa(2)1173
. ít ra là nước Cămpuchia xét thấy lo xa hơn bằng cách
triều cống Hốt Tất Liệt vào năm 1285 (3)1174
. Người ta sẽ thấy Giayavaiman VIII
còn khổ hơn đối với người Thái ở MêNam
2. Nước Chàm: Sự xâm lược của Mông Cổ (1283-1285)
Ở Chàm, Hariđơva (4)1175
là người “đòi hỏi vương quyền” mang vương hiệu
Giava Xinhavácman (Jaya Sihavarman) đến năm 1266, trong lễ đăng quang, đã đổi
là Inđôravácman(V) (5)1176
.Lo lắng đến việc giữ quan hệ tốt với nước An Nam, từ
1266 đến 1270 ông đã cử ít nhất 4 sứ thần sang đi, nhưng chẳng bao lâu ông lại bị
hoạ Mông Cổ (6). Năm 1278 rồi 1280, ông được triệu về trình diện ở triều đình Bắc
Kinh. Nhờ sứ thần và đồ lễ, ông thoát được điều đó, bỗng đến năm 1281 Xagatu vf
Licon Cheng được lệnh đi “giữ gìn an ninh” ở Chàm. Do thái tử Hariíit xúi giục,
dân chúng Chàm chấp nhận một cách khó khăn sự bảo hộ đó, và các phái viên của
Hốt Tất liệt phải quay về. Hốt Tất liệt liền tổ chức một cuộc viễn chinh dài trong 2
năm (1283- 1285). Chi tiết của nó ra ngoài phạm vi cuốn sách này, được biết rất rõ,
Việc rút lui cuả nhà vua vào rừng núi (1)1177
và người An Nam từ chối không cho
1170
G. Coeseô: “Nghệ thuật á đông” XII, T.31 1171
Lịch sử nhà Nguyên (Theo một tài liệu của Ông Trương Văn Giáp) 1172
H. Môtxpôrô BEFEO XVIII, 3, 7.35 1173
Theo Tcheou ta koran- Xem Pellot
3 -Nt- 1174
L. Finot. BEFEO, IV, T. 51, số 1 1175
Aymonier:Báo á châu 1-2 /1891, T. 58. Về các niên hiệu, xem Finot BEFEO, Iv, T. 81 1176
Về hồi này, xem Muspero “Vương quốc Chàm”, T. 175- 187 1177
Marco Polo đã đến thăm nước Chàm năm 128j5 (Benedetto xuất bản, T. 167- 168) Cái tên Accambula,
thoe Bero detto, được Marco gọi là vua Chàm là một sự nhầm lẫn. Quan niệm đó được Fc A.C. Moule và
Pellot đồng tình “Marco Polo” I, T.366, số 5
197
quân Mông Cổ mượn đường đó làm cho cuộcviễn chinh khó khăn đó kéo dài và
không được lòng dân.
Việc Tôgăng (Togan) con của Hốt Tất Liệt tràn vào Bắc Kỳ, tuy rằng chiếm
được kinh đô năm 1285, nhưng lại phát triển một cách rất xấu và cuối cùng bị Trần
Nhân Tôn đánh bại ở Thanh Hoá. Tô găng dồn về phía bắc, và Xagatu từ phía nam
lên tiếp viện sau khi đổ bộ vào nước Chàm, đã bị giết và cắt đầu “Nhờ đó nước
Chàm được giải phóng khỏi ách Mông cổ, vì quân Nguyên đã tốn nhiều quân quan
ở đó mà không rút ra được ích lợi gì đáng kể. Inđơravácman V muốn tránh việc
quân Nguyên trở lại, đã cử sử thần đến cống Hốt Tất liệt ngày 6/10/1285, cùng với
một phái viên Cămpuchia”(2) 1178
In đơravacman V “đã nhiều tuổi” một thời gian sau đó đã chết.
Nước Miến Điện: Từ 1271 đến lúc quân Mông Cổ chiếm được Pagăng
(1287).
Quân Mông cổ đã thôn tính Vân Nam năm 1253 và đến 1271 tỉnh trưởng
Vân Nam, dưới danh nghĩa Hốt Tất Liệt đã cử phái đoàn đến Miến Điện đòi đồ
cống (1)1179
Vua Naratihapatơ (narathihapate = Narâ- Xihapati)không tiếp và cho về,
đồng thời cử một quan chức mang một bức thư hữu nghị sang đưa Hốt Tất Liệt.
Năm 1273, một sứ thần của Hốt Tất Liệt đến Pagăng kèm theo một bức thư
đòi Miến Điện phải cử ngay một đoàn các hoàng tử và thượng thư đến triều Trung
Quốc. Nhà vua phải giết sứ thần. Tỉnh trưởng Vân Nam đã báo cáo việc đó về Bắc
Kinh nhưng hoàng đế quyết định hoãn cuộc trả thù lại
Năm 1277, người Miến Điện tràn vào quốc gia Răng Vàng trên Taping, miền
thượng lưu Bamô là nước đã thần phục Hốt Tất Liệt. Vua nước này cầu cứu Hốt Tất
Liệt. Hốt đã quyết định hành động và giao cho quân địa phương thi hành ý định của
mình.
Frd. Huber viết (2)1180
: “Trận giao chiến đầu tiên xảy ra vào mùa xuân năm
1277 ở thung lũng sông Nậm U; đó là trận Ngãâng Kiam (Nga Saung Kyam) theo
biên niên Miến Điện, và là trận mà MáccôPôlơ đã gán nhầm cho Naxia ét Đin
(Nâgir el Din)vinh dự chiến thắng của Trung Quốc “Mùa đông năm 1277- 1278,
một chuyến viễn chinh thứ hai của Trung Quốc do Naxia ét Đin chỉ huy đã đi tới
việc chiếm Câng Xin (KaungSin), nơi yếu điểm bảo vệ đường vào Bamô… Hai
chuyến viễn chinh đó không thành công vì nó không chọc sâu được vào quá bức
màn mà những tiểu quốc Thái hiện nay còn ngăng cách Vân Nam với nước Miến
1178
G. Maspero- sdd. T. 186. 1179
Về quan hệ giữa Miến Điện và Mông Cổ là sự suy sụp của Pagăng, xem Huber “Thời kỳ chấm dứt của
triều đại Pagăng” BEFEO IX, 633. 1180
“Li Milione” Benedelto T. 121.
198
Điện chính cống. Thảm hoạ cuối cùng xảy ra năm 1283 khi đoàn viễn chinh thứ 3
do Xi-ang- u-ta-ơn (Siang wou ta enl= Singtour) chỉ huy, chiếm thành Câng xin và
thọc sâu vào phía nam thung lũng irauađi, tuy nhiên không tới được Pagăng. Vua
Narlxihapati rời khỏi Pagăng trước sự tới gần rất cấp bách của quân Nguyên, và
chốn vào vùng đồng bằng. Cuộc đàm phán để thiết lập sự bảo hộ của Trung Quốc
được tiến hành năm 128, nhưng năm sau, vua Nakaxihapati bị chính con mình la
Xihaxuyra (Sêhasâra)đầu độc chết ở Pơrơmô (Pơrơme)
Năm 1287, một chuyến viễn chinh thứ tư do hoàng tử Ye xinTi mua (ye-sin
Ti mour) chỉ huy cuối cùng đã tới được Pagăng sau khi bị thiệt hại rất nặng nề.
Chúng ta không rõ kinh đô có bị đau khổ rên xiết trước sự có mặt của quân Trung
Quốc (1) 1181
. Cùng năm đó
Kyôdơoa (Kyjua) con Naraxihapati lên ngôi, nhưng quyền bính thực sự
chuyển vào tay của tỉnh trưởng người Thái ở Min xaing (Myin saing) tên là
axamkhaya (Athinkhaya), ông này ở triều trước đã giữ một địa vị thần thế trong
triều Pagăng cùng với các em ông Ragiaxam-cơrôma(Rêjasamkrama=
Yagathinkyan) và Xihaxuyra (Sôhasêra= Thihathu)
Không phải chỉ riêng đối với người Thái ở Miến Điện sự suy sụp cảu Pagăng
đã gây nên những cuộc đảo lộn mà người ta sẽ trở lại sau, mà người ta còn thấy sự
phản xạ của nó ở người Thái vùng Mênam
3. Công cuộc giải phóng người Thái ở Mênam trong nửa cuối thếkỷ XIII
Người ta còn nhớ rằng lưu vực sông Mênam lúc khởi thuỷ có người Môn cư
trú và trở thành trung tâm của vương quốc Dvaravati (Dvâravatê) vào thế kỷ VII.
Đến thế kỷ XI, người Khơme đến lập nghiệp ở Lavô, và thế kỷ XII, họ đã
phát triển sự đô hộ tới biên giới vương quốc Hari-pungiaya, giao tranh với vua
Ađityaragia. Đầu thế kỷ XIII, vương quốc này vẫn do người Môn cai trị. Một trong
những ông vua ghi trong biên niên sử của Haripungiaya đãđể lại ở Lăngum, trên
danh thắng Hari-pungiaya trước kia, những bút tích tiếng Môn xen kẽ với những
đoạn chữ Bal: Người ta có hai bút tích của Sapba- đixitđi (Sabbâdihisddhi) từ năm
1213, 1218, 1219. Nó phản ánh những sự thiết lập của các chùa chiền(1)1182
,như
Vátcucút (VátKukút) tương ứng với Mahabalasơtya( mahâbalachetiya)do
Ađityaragia xây dựng. Sau Sápbađixítđi cho tới lúc người Thái đến xâm chiếm, các
biên niên sử đã cung cấp một danh sách các vua mà người ta chỉ biết đến tên (2)1183
.
1181
Các bích hoạ của lăng tên là: “Hầm của Kyăngdita ở gần đèo Shave gigon ở Pagăng, còn giữ nhiều các
biểu hiện kỳ lạ về một tướng Mông Cổ và một người bắn cung. (Bản sao khảo cổ Xuyêc vây Miến Điện 1922 1182
G. Xiđetz “ Tài liệu về lịch sử Tây Lào” BEFEO XXV, T. 19- 22, 189- 194- Rhalliday “các bút tích Môn
ở Xiêm: BEFEO XXX. T. 86 1183
G. Xiđetz- sdd- T. 86
199
Họ có những láng giềng ở phía Đông bắc là những ông hoàng Lào ở Ngôn
Yang (Chiềng Xen)mà người cuối cùng là Mangơray (Mangray) sinh năm 1239, kế
ngôi cha năm 1261. Năm sau dời đô về phía nam lập ra Chiềng Ray. Rồi mở mang
quyền lực về phía đông bắcvà tây nam, ông đã chiếm Chiềng Không năm 1269 và
lập nên Mường Phang năm 1273 (1)1184
. Năm 128, một văn bản cổ ghi lại,
Mangôzay ở Chiềng Ray và Ngăm Mường ở Mường Payao(trên thượng lưu sông
Mêcông )và Rơma Căm heng vua Xuykhôthái “ đã họp ở một nơi thuận tiện ký kết
một hiệp ước hữu nghị rồi ai lại trở về xứ người ấy”(2)1185
Không phải là một sự trùng hợp đơn giản nếu mối liên minh của 3 ông vua
đó xảy ra cùng một lúc với việc quân Trung Quốc- Mông Cổ chiếm Pagăng. Trong
10 năm liên tiếp sau người ta sẽ thấy Măngray đã chấm dứt sự đô hộ của người Môn
ở Haripungiaya và lập nên ở gần đó kinh đô mới của người Thái là Chiềng Mai.
Còn Rama Camhèng có thế lực rạng rỡ hơn nữ, và sau đây là nguồn gốc triều đại
của ông.
Trên miền trung Mênam, người Thái được các nước láng giềng gọi là Xiâm,
đã đặt chân lên đó từ lâu đời. Các vết tích Khơme còn thấy ở Xuykhôthái và
Xavancalốc (Savankalôk) (3)1186
chứng minh sự lan rộng của quyền đô hộ KhơMe
trên vùng này, có lẽ từ thời Xuryvácman II, và chắc là từ thời Giayavácman VII.
Vào giữa thế kỷ XIII, người Xiêm ở Xuykhôthái giành được độc lập trong những
trường hợp mà một bút tích sau đó chừng một thế kỷ đã nêu ra (1)1187
Một ông hoàng Thái tên là PhaMường, cai quản Mường Rạt (2)1188
, và có lẽ
là còn một thủ lĩnh cũ người Thái ở Xuykhôthái dưới thờ KhơMe đô hộ, đã được
vua Cămpuchia phong cho tước Camrateng AnXơri Inđôrápatênđrâditya)và đã lấy
công chúa Khơ Me Xikhara- urahâđơvi (Sikharahađevr), ông kết giao với một
hoàng Thái khác tên là Bang Clang Tao (Bang klang T‟ao) cai quản xứ Bang Yang.
Sau những biến cố chưa được xác định đúng, hai thủ lĩnh Thái đã giao chiến với
viên quan KhơMe ở Xutykhôthái (Bây giờ là Xavancalốc), hai ông hoàng đồng
minh đã đuổi viên công sứ Campuchia ra khỏi Xuykhôthái. PhaMường đã tôn người
bạn mình lên làm vua và trao cho cái tước của chính ông ta là Camrateng An Pha
Mường Xơri Inđôrapatênđơrađitya.
Người ta không có niên hiệu chính xác về bất cứ các giai đoạn nào dính đến
sự tham dự của người Thái ở Xuykhôthái vào nền độc lập chính trị và đã dẫn tới
việc đưa Inđôrađitya lên ngôi. Nhưng cũng như Pamacamhèng, người con thứ 3 của
1184
-nt-T. 87 1185
-nt-T. 88 1186
Y. Y. Claeys “Khảo cổ ở Xiêm” XXXI, T. 410- 420. 1187
C. Xôdetz “Nguồn gốc triều đại Xuykhôđaya” Báo á châu 4+6/1920. T. 233; “Sưu tập các bút tích ở
Xiêm” I, T7- 49 1188
Địa phương chưa được xác định vị trí, có lẽ là ở miền thượng lưu Nậm Sắc
200
ông là người kế vị thứ hai đã trị vì vào khoảng 20 năm sau cùng của thế kỷ đó,
người ta có thể xác định năm lên ngôi của Inđôratya vào khoảng 1250/1260. Một
thời gian sau xứ Laò vô hình như cũng tách khỏi Campuchia vì từ năm 1289 đến
1299, người ta thấy nó cử xứ thần sang Trung Quốc (1)1189
. Người ta sẽ thấy khoảng
nưả thế kỷ sau, nó do một ông hoàng Thái cai trị. Từ Inđôđrađya và người kế vị trức
tiếp của ông, người ta cũng biết đúng như đoạn đầu tấm bia của Ramacamhèng năm
1292 đã ghi (2)1190
. Bút tích nổi tiếng này nói về thời trẻ của ông ta có nhiều chi tiết
đáng kể lại:
Cha tôi tên là Xôri Inđôratyia, mẹ tôi tên là Nang Xương, anh cả tôi là Ban
Mương. Chúng tôi có năm anh em ruột: ba trai, hai gái. Anh cả tôi mất lúc còn nhỏ.
khi tôi lớn lên, đến 19 tuổi, Khum Xam Son (Khum Sam Ch‟on)m thủ lĩnh ở
Mường Sốt (Mương Ch‟ốt) đếm tấn công Mường Tắc (M. Tak) (3)1191
. Cha tôi đánh
họ ở phía trái; Khum Sam Son đến từ phía phải và tấn công ào ạt. Quân của cha tôi
chạy chốn và tan tác hoàn toàn. Tôi, tôi không chạy chốn, mà nhảy lên mình con voi
aufcapông (Anekap‟on= Anekala: sức khoẻ vô biên) và tôi đã thúc nó đến mặt cha
tôi. Tôi lao vào cuộc đấu voi tay đôi với Khum XomSon: Tôi đã đánh cho con voi
của y tên là Ma Mương (vàng của đất nước). KhumSam Son chạy trốn.
Thế là cha tôi đặt biệt hiệu cho tôi là Pơna Rama Cămhèng (lực sĩ Rama) vì
tôi đã đánh thắng con voi của Khum Sam Son.
“Lúc sinh thời cha tôi, tôi hầu hạ cha, hầu hạ mẹ. Nếu bắt được một con thú,
một con cá tôi mang đến cho cha tôi; nếu hái được một trái quả, chát hay ngọt, ngon
và dễ ăn, tôi mang đến cho cha tôi. Nếu tôi đi săn voi và bắt được nó, tôi cũng mang
đến cho cha tôi. Nếu đi đánh một cái làng hay một cái thành nào mà bắt được nhiều
voi, con trai, con gái, bạc vàng tôi đều gửi cho cha tôi (1)1192
“Cha tôi mất, tôi còn anh cả (2)1193
. Tôi tiếp tục phục vụ anh tôi như đã phục
vụ cha. Anh tôi mất, cả vương quốc về tay tôi tất”
Lát nữa người ta sẽ thấy sự nghiệp sáng chói của ông vua này, dưới triều ông
đạo Phật Xanhgale và nền văn minh KhơMe đã hoàn thành việc nhào nặn vương
quốc Thái trẻ trung này mà không làm mất đi những nét có họ hàng với người
Mông Cổ trong cơ cấu xã hội cuả nó.
1189
P. Palliot: “Hai cuộc hành trình” BEFEO IV. T. 241 1190
G. Xơđetz “Sưu tập bút tích ở Xiêm” I. T. 37 1191
Nay là Pahèng. Mường Jốt tương đương với Mè Sốt hiện nay ở bắc Rahèng 1192
Đoạn này gợi lại một cách rất đúng và bất ngờ lời thề của những tuyển hầu của Hốt Tất Liệt: “Chúng tôi
đi đầu trong chiến trận; nếu bắt được đàn bà, con gái chúng tôi đều xin dâng lên hoàng đế. Chúng tôi cũng
dẫn đầu trong các cuộc săn bắn; nếu được thú chúng tôi xin dâng lên hoàng đế”
(R. Grousset” Đế quốc thảo nguyên “ T. 258 1193
Ở trên gọi là Ban Mương “người bảo hộ vương quốc”, là Pâbrâja trong biên niên sử Pali. G Xôđetx “Tài
liệu về triều đại Xuykhôđaya” BEFEO, XVII2, T.34- 44
201
Cũng như trên đĩnh xã hội Mông Cổ có một “gia đình vàng” ngự trị của thủ
lĩnh tối cao là Khan và các hoàng tử con của Khan(1)1194
,Rama Camhèng sẽ là
pôkhun, người cha các Khun, các hoàng tử và các chức sắc cao cấp sẽ là lúc Khun
(luk khun) hay con của khun. Cũng như là quý tộc Mông Cổ xếp khung các giai cấp
xã hội, “chiến binh hay các người trung thành là những người tự do tuyệt đỉnh,
người bình dân tạo thành lớp dân thường, và cuối cùng là tầng lớp nô lệ, về nguyên
tắc không thuộc giống Mông Cổ” (2)1195
, quý tộc chiến binh Thái về điểm này phân
biệt với dân chúng nơi bị chiếm bằng từ nhân chủng học “Thái‟, theo nghĩa tiếng
Xiêm là “người tự do”(3)1196
đối lại với các thổ dân được xếp là nô lệ trong xã hội
Thái.
Cuối cùng sự phân bố dân chúng Mông Cổ có thể cầm vũ khí thành từng đội
10, 100, 1000 hay hàng vạn người theo lệnh chỉ huy theo từng lớp quý tộc
“noyan”1197
(4) ban ra rất giống với tổ chức quân sự và hành chính Mông Cổ(5)1198
Người ta không biết tới niên hiệu của lên ngôi của Rama Cam hèng, con của
ma sáng lập ra triều đại Xuykhô thá, và người kế vị là người anh cả Ban Mương.
Bút tích của ông(6)1199
chỉ ghi lại 3 niên hiệu:
1283, sáng tạo ra chữ Xiêm, hay đúng hơn thứ chữ dùng trong bút tích.
“Trước đây không có chữ Thái. Năm 1205 (=1283), năm con dê (mùi) ma Rama
Căm hèng đem hết tâm lực ra sáng tạo nên chữ Thái, và các chữ đó có được vì nhà
vua sáng tạo ra”. Người ta biết rằng các chữ đó là sự phát triển thêm của chữ tiền
Xiêm, chính thứ chữ này cũng phỏng theo chữ thảo Khơme thế kỷ XIII thông dụng
trong ngôn ngữ Thái (1)
1285, Xây dựng ở trung tâm Xi Xasanalai (Si Sachanalai =Sri Sajjanâlaya=
Sanvank‟alôk) một cái stypa, việc này kéo dài 6 năm (2)
1292, làm ở Xuykhôthái một cái ngai bằng đá tên là Manang-xilapatơroa(3)
“đặt ở đây để cho mọi người có thể chiêm ngưỡng vua Rama Cam hèng, con vua
XơriIndoraditya, bá chủ ở MươngXi Xasanalai và Xuykhôthái, và cả các dân ma,
Kao, Lào, Thái ở dưới vòm trời, các người Thái ở doc sông Nậm U và sông Mê
Công, đều đến đó để chúc tụng vua”
Từ những dữ kiện biên niên đó toát lên việc Rama Camhèng lên nắm quyền
năm 1283, nhưng như lời ghi đầu tiên của Siên trong “Lịch sử nhà Nguyên” ghi
1194
R. Grousset, sđd, T. 281 1195
-nt- 1196
Cũng là sự phát triển nhân chủng của chữ “ Frane” đầu thời kỳ phong kiến. Vì chỉ riêng những người tự
do tạo nên “ populus Francorum= dân Fơrăng”, chữ đồng âm cuối cùng từ lập nên tên quốc gia và có tính
pháp lý. Xem Maro Bloch “Xã hội phong kiến” (Sự tiến hoá của nhân loại” Tập 34) T. 390 1197
R. Grousset, sđd, T. 282 1198
H. G Quaritch Wales “Chính phủ và tổ chức hành chính ở Xiêm” Luân Đôn, 1934. Có thể hệ thống này
góc ở ấn độ 1199
G. Coedes “Sưu tập bút tích ở Xiêm” I, T. 37
202
năm 1282 (4)1200
, có thể việc sáng lập ra chữ này xảy ra gần cùng với việc lên ngôi
của ông vua mới. Nếu niên hiệu ghi năm 1281 đúng là năm Macatơ lên nắm quyền
ở Máctabăng (Maktaban) (5)1201
cần phải đưa việc lên ngôi của Rama camhèng lên
trước nữa.
4. Nước Gia Va: Thời kỳ cuối cùng của vương quốc Xanhxagari (1269-
1292), cuộc viễn chinh của Mông Cổ năm 1293 và sự thành lập vương quốc
(Môjopahit)
Vua GiaVa Cơritangrra( Kritanagara), sau này được biết dưới tên Xiva-
Phật, là vua Giăngala (Jangala) và Pănggialuy (Pajalu) hợp lại và các bút tích năm
1266 và 1269, cho ta một số quan niệm về việc cai trị hồi đó(1)1202
Đối nội: một lần nữa, ông phải chiến đấu chống các cuộc nổi dậy: Bayaragia
năm 1270, Mahisa Giăngcát (Mahisha Rangkah) năm 1280 (2)
Đối ngoại: Triều đại của ông được đánh dấu bằng một sự bành trướng ghê
gớm về tất cả mọi giá. Năm 1275, lợi dụng lúc suy tàn của Xơrivigiaya, ông cử về
phía Tây một đoàn quân, lập nên quyền bá chủ của GiaVa ở Malayuy (3)1203
và có
thể cả ở Xunàn, Maduyra và một phần bán đảo Mã lai, vì Pahang là một trong
những thuộc quốc của Cơritanagara ghi trong Nagaracơritaganna
(Nâgarakritâgama) (4)1204
.
Sau khi ổn định quyền hành ở Xuymatơra, Coritanagara quay về Bali và bắt
sống vua ở đó đem về Giava năm 1284 (5)1205
. Cơritanagara cảm thấy mình đã khá
hùng mạnh, và nhất là ở khá xa Trung Quốc, nên có thể cầm cự với yêu cầu của
Mông Cổ, từ 1279 đòi ông phải cử một người hoàng gia sang triều
Bắc Kinh. Những phái đoàn năm 1280, 1281 không có kết quả. Năm 1289,
hình như phái viên của Hốt Tất Liệt bị người GiaVa ngược đãi, và chính để trả thù
mối nhục đó mà Hốt Tất Liệt quyết định năm 1292 cử một đoàn viễn chinh sang
GiaVa tí nữa sẽ được nói tới(1)1206
Vua Cơritanagara, mà người ta có thể thấy được pho tượng dưới dạng Phật
acsôbia (Akasho bhya) (2)1207
là một nhân vật mà nguồn tài liệu lịch sử, cuốn
NâgaraKritâgama và Pararaton, đã cho nhiều nhận xét rất bất đồng, lúc thì ông được
trình bày như một nhà trí thức tế nhị, lúc thì như một người say rượu. Điều chắc
chắn là nhiệt tình của ông đối với việc mở rộng quyền lực của GiaVa lên những
1200
J.Burnayva G. Coedes: “Nguồn gốc chữ viết của Xuykhôđaya” Báo Hội Xiêm, XXI, 1928, T.87 1201
Có lẽ là Vát Ch‟ang Lom. Xem J.Y Clarys “Khảo cổ học ở Xiêm”BEFEO, XXXI, T.411, 412 1202
Do vua Mong kút Mang về Băng Cốc cùng một thời gian với tấm bia và bảo tồn ở hoàng cung (Báo Hội
Xiêm XVII, 1923, T117-118)dùng các lễ đăng quang 1203
P.Peelliot “Hai cuộc hành trình” BEFEO, IV, T240- 341 1204
Làm chú thích trang 333 1205
N.J. Kron “ấn Độ- Gia Va” T. 328- 330 1206
“Nâgarak” (H. Keru. Verspr. Gesch. VIII) T. 15- 16; “ Pararaton” Verh. Bat. Gen. 62, T79 1207
- Nt-
203
vùng lân cận và nhiệt tâm đối với đạo Phật phù chú dưới dạng Calaracơra
(kâlachakra). Đạo này phát triển vào cuối triều đại Pala ở Băngalo đã lan tràn vào
Tây tạng, Nêpan, vùng quần đảo, lan tới GiaVa, hỗn hợp với sùng bái Xiva Bairava
(Siva Bharaiva), việc thờ cúng Xiva Phật(3)1208
được áp dụng trong thờ cúng linh
hồn người chết, đã tìm thấy trong tín ngưỡng tổ tiên người Inđônêdiêng một miếng
đất thuận lợi.
Cơritanagara bị chết trong những trường hợp bi thảm. Ông đã nuôi dưỡng và
phong chức cho arya Viraragia, một người tầm thường, nhưng thấy không được yên
lòng, ông đã đưa đi xa triều đình, phong làm quan cai trị phía đông đảo Mađuyara
(4)1209
. Mặt khác phó vương Cađiri từ 1271 là một người nào đó tên là
Giayacatuang (Jayakatwang) (5)1210
có lẽ là dòng dõi các vua trước mình có tham
vọng nắm quyền tối cao. Ông kết liên với Viraragia và báo trước thời cơ thuận lợi
cho ông này để tấn công Coritaungara. Chiến cuộc xảy ra năm 1292 và sau nhiều
kịch trên kể lại trong Paratông (1)1211
, đã đi tới việc chiếm lấy hoàng cung và vua
Cơritanagara bị chết.
Giayacatuang làm chủ Giava, đã trở thành người sáng lập ra vương quốc
Cađiri mới, nó chỉ tồn tại một cách thoáng qua vì cuộc viễn chinh của quân Mông
Cổ nhằm trừng trị Cơritaungara đã đưa tới hậu quả là trả lại ngai vàng cho người
chủ nhân chính thống của nó
Làm chủ Xanhgaxari, Giayacatuang gặp ngay sự phản đối của RađenVigiaya
(2)1212
, cháu của Mahisa Sămpara (Mahêska Champaka) và chắt của Ragiaxa. ông
hoàng này thuộc dòng dõi trực tiếp với người sáng lập nên triều đại Xangaxari, đã
lấy thêm Gayatơri (Gâyatri= rajapatru) con gái vua Cơritaungara mà cuộc nổi loạn
của Giayacatuang đã giết chết. Cùng với ácđaragia (ardhrâja) con của
Giayacáttuang và cũng là con rể Cơritanagara năm 1292, trước khi ông chết, tiến về
phía bắc để dẹp loạn quân cánh quân của Giaya cáttuang chưa gặp được
Vigiaya tấn công họ và đánh họ thua 3 trận, nhưng những thắng lợi của ông
không có tương lai và hoàn cảnh lúc đầu thuận lợi cho Vigiaya sau bị đảo lộn khi
Cađivi được viện trợ binh tới cộng thêm tác động tinh thần nên bởi tin tức về việc
Xanhgaxari thất thủ (1)1213
buộc phải chạy trốn , Vigiaya về đảo Mađuyara cầu cức
Viraragia mà ông không biết tới sự phản bội và từ nay không được dựa vào ông
này. Với sự giúp đỡ của Vraragia, ông trở lại cùng một đoàn quân người Mađuyara,
1208
Sđd- T.17 1209
“ Nâgarak”- sđd- T17 1210
1211
1212
1213
“Nâgarắc” sđd- T..24
204
đóng ở vùng thung lũng thấp Brantáta (2)1214
, trên danh thắng Môgiôpatrit, nơi này
sẽ trở thành kinh đô của vương quốc Giava phục hưng.
Việc này xảy ra vào những tháng cuối cùng của năm 1292, trong lúc Hốt Tất
Liệt đã tung một đoàn quân viễn chinh trừng phạt Cơritanagara mà ông chưa biết lại
đã chết. Nghe tin quân Nguyên tới, Vigiaya nảy ra ý định thần tình dùng quân
Trung Quốc.
Chương XIII:
Sự suy tàn của vương quốc Ấn Độ
(Nửa đầu thế kỷ XIV)
1- Thời kỳ cuối cùng của vương quốc Thái Xuykhôthai và sự thành lập nước
Ayuthia (1350).
2- Sự thành lập vương quốc Lào Lan sang (Lan Ch’ang) (1353).
3- Vương quốc Thái Lan na.
4- Nước Miến Điện dưới sự đô hộ của người Thái.
5- Nước Cămpuchia: những ông vua cuối cùng ghi trong minh văn.
6- Nước Chàm. 7- Bán đảo Mã Lai và Xuymatơra: sự tiến triển của đạo Hồi.
8- Nước Giava: vương quốc Môgiapahit cho đến lúc vua Hayam Uyrúc
(Hayam Wuruk) lên ngôi (1350).
1214
205
Trong chương trên người ta đã thấy những sự phản xạ về chính trị do việc
lên ngôi của người Mông Cổ ở Trung Quốc. Nó kèm theo nhiều thay đổi trong lĩnh
vực tinh thần. Đầu thế kỷ XIV, nền văn hoá Phạn suy sụp hoàn toàn và những bút
tích Phạn cuối cùng có ở Chàm năm 1253, ở Campuchia khoảng năm 1330, ở
Xuymatơra năm 1378. Trong lưu vực sông Mê công, những gì còn lại của Ân Độ
giáo và Phật giáo Đại thừa đã nhường chỗ cho đạo Phật dòng chính thống Xâylan
(Xanhgale) tiếng Pali, do người Môn ở Miến Điện mang vào bán đảo Đông Dương
và người Thái truyền bá. Ở Xuymatơra, đạo Hồi bắt xuất hiện ở Giava và Bali, phù
chủ giáo Ấn Độ, ít nhất trong từ ngữ văn học và nghệ thuật của nó đã ảnh hưởng
mạnh do bản thể của thổ dân Anhđônêdiêng.
Thời kỳ ấn độ trong lịch sử vùng ngoại Ấn đã tới chỗ tận cùng của nó do
việc làm giảm các sự trao đổi văn hoá với Ân Độ chính quốc tiếp theo việc xâm
nhập của Hồi giáo vào nước này.
1. Thời kỳ cuối cùng của vương quốc Thái Xuykhôthai và sự thành lập
nước Ayuthia (1350)
Người ta không rõ ngày mất chính xác của Rama Camhèng. Trong một đoạn
của “Lịch sử nhà Nguyên”, có thể đoán ông mất khoảng giữa năm 1295 và 1299 là
hai năm có sứ thần sang Trung Quốc. Quả thật hai năm đó, vua nước Xiêm “đã trình
lên một điều thỉnh cầu nói rằng vào thời mà cha ông trị vì, triều đình đã đồng ý tặng
ông ta những con ngựa bạch với yên cương ývà quần áo dệt bằng sợi vàng, và ông
đòi người ta cũng tặng ông những thứ như của cha ông”. Bản thỉnh cầu đó kèm theo
sự khước từ từng phần có vẻ như phát lộ ra một ông vua mới. Tuy nhiên, việc người
kế vị Rama Camhèng lên ngôi trước 1299 hình như khó ăn khớp với những dữ kiện
trong Ragiađiragia (Râjâdhirâja) hay lich sử Máctabăng, theo sử đó, vua Oarơruy
(Wareru) mất năm 1313, người kế vị nhân từ Praruang danh hiệu Ramapơra tisơta
(Râmapratishtha) nghĩa là “do Râma lập nên” và chỉ có thể do Râma Cămhèng1215
Vả lại, nếu con của Rama Camhèng kế vị cha năm 1299 thì ông ta trị vì vào
khoảng 50 năm, như vậy hình như hơi lâu đối với một ông vua mà người ta biết đến
rất ít. Đúng hơn có lẽ là Camhèng thôi trị vì trước 1318 một chút, đó là niên hiệu
vua nước Máctabang xâm lược Tavoy và Tơnatsơrim (Tenasserim)1216
Nếu sự phỏng đoán đó là đúng, cũng chính Camhèng năm 1313 đã gây nên
sự xâm lấn ở Chàm mà biên niên sử An nam có nói tới1217
. Do đó quân của ông phải
đi qua lãnh thổ trước kia thuộc Cămpuchia và nước này đã bị mất hoặc không còn
thống trị được trước một kẻ láng giềng ghê gớm. Truyền thuyết muốn rằng Pơra
1215
Ông hoàng Damrong “ Siamese history prio to the founding of Ayudhyâ” Báo Hội Xiêm XIII, 1919,
T.51 1216
- nt- T.52 1217
Maspero “ Vương quốc Chăm”, T.196 - 197
206
Ruang bị mất tích trong các dòng thác ở sông Xavancalốc1218
. Khó mà nói rằng
truyền thuyết đó dựa trên một sự kiện lịch sử, và…… nó áp dụng cho Rama
Camhèng hay một ông vua nào khác thuộc triều đại đó. Rama Camhèng có người
con kế vị là Lo Thái (Lo T‟ai), mà sau này do lỗi trong cách đọc1219
, từ lâu người ta
vẫn gọi là Xua Thái, nghĩa là “con hổ của người Thái”: ngẫu tượng đó ngày càng
xuất hiện trên các sách.
Cái tên Lô Thái chỉ có thể kết hợp với rất ít biến cố lịch sử:
Về phía Miến Điện, hình như đã lợi dụng những sự rối loạn của Máctabang
để chiếm lại Tavoy và Tơnatxơrim1220
. Nhưng họ ít may mắn khi họ tìm cách báo
thù vụ giết hại cháu họ trước đây định chiếm quyền ở Máctabang: quân của họ bị
thua và Máctabang không công nhận quyền bá chủ của họ nữa1221
.
Cũng chính Lô Thái năm 1335 đã cử đến đèo Cửa Rào trên dãy Trường Sơn
một phái đoàn để chào mừng hoàng đế Annam Trần Hiếu Tôn, lúc đó đang thân
chinh đi đánh vương quốc Thái Ai Lao (Tây nam Vân nam)1222
Khoảng 1340, Lô Thái đã cử con là Lư Thái làm phó vương ở Xixasanalai
(Si Sach‟analai = Savank‟alôk) và rất có thể mất năm 13471223
. Lòng sùng đạo Phật
và các công trình tín ngưỡng của ông làm ông xứng đáng với danh hiệu Đacmragia
hay Đácmikaragia (Dharmaraja ou Dharmikarâja), “ông vua sùng đạo”1224
, mà các
ông vua sau này cũng mang danh hiệu đó. Ông đã xây dựng nhiều “dấu chân Phật”,
làm phỏng theo dấu chân được thờ phụng ở Xâylan trên đỉnh núi Xuymanaquyta
(Sumanakuta)1225
hay Píc Ađam.
Mối quan hệ giữa Xuykhôthái và chính quốc Phật giáo càng mở rộng dưới
triều Lô Thái, một phần do hành động của một ông vua Thái mặc áo màu vàng, đi
du hành sang Ân Độ và Xâylan và mang về nhiều Phật tích kỳ diệu. Ông hoàng đó,
sau chuyến viễn du, nhận danh hiệu Mahatơra Xơri Xrađaragia- Sulamryni Xơri
Ratanalăngcađipa Mahaxami ( Mahathera Cri Sradhârâjachulâmuni Sri
Ratanalankâdipa Mahasâmi) là cháu của Pha Mương là người đã đưa Xuykhôthái,
bố của Rama Camhèng lên ngôi. Sau thời kỳ tuổi trẻ thế tục “lúc thì làm điều thiện,
lúc thì làm điều ác, lúc cười, lúc khóc, lúc thắng, lúc thua, lúc sung sướng, lúc đau
khổ, quay đi, đi thẳng và trở lại, trái tim lo âu giữa thế giới trần gian này”, hình như
khi 30 tuổi,ông mất một đứa con và cái tang đó làm ông hiểu rằng “thế giới trần tục 1218
Nôtton “Truyền thuyết về Xiêm và Cămpuchia”, T.26 1219
Coedès “Tài liệu về triều Sukhodaya” BEFEO XVII, 2, T.5 1220
A.P.Phayre “Lịch sử Miến Điện”, T.66 1221
- nt- T.67 1222
Maspero “Biên giới Annam và Cămphuchia” BEFEO XVIII, 3, T.35 1223
Coedès “Tài liệu về triều đại Sukhodaya” BEFEO XVII, 2, T.9 và 45 1224
Tôi chấp nhận kết luận của Praya Nakôn Prah Ram về điểm này “Who was Dharmaraja of Sukhothai”
Báo Hội Xiêm XXVIII, 1935, T.214 1225
Coedès “Sưu tập bút tích ở Xiêm” I, T.89 - 90, 127 - 129. Đồng ý với mục kể trong ghi chép trên, tôi cho
là nếu xây dựng các vết chân đó là do Lô Thái chứ không phải do con ông là Lư Thái
207
này không bền vững, phù du và ảo tưởng”.Sau khi đã thực hành sự hoàn thiện của
tính khoáng đạt theo gương Phật trong thời kỳ tồn tại cuối cùng ở thế gian “ông đã
khoác cà sa và từ bỏ mọi người mang theo chiếc bát tộ đeo chéo trên vai”. Thật là
bộ mặt kỳ lạ của “một ông hoàng thầy tu” như nước Xiêm đã từng biết nhiều cho
đến giữa thế kỷ XX. Một bút tích dài ở Xuykhôthái có những đoạn trích dẫn ở trên,
kể lại sự nghiệp của ông1226
. Có lẽ một bút tích khác1227
cũng nói về cùng nhân vật
này, theo nó, ông đẫ đI du hành về phía Bắc, ở Mương Phang, Prê, Lăm pun, Tắc
rồi sang Ân Độ “vào vương quốc Calanhga, Patalipuytơra (Pâtaliputra),
Côlamăngđala (Cholamandala), vương quốc người Manlatx (Mallas) và đến đảo
Lăngca để thử tìm kiếm các Phật tích quy giá”.
Những công trình xây dựng mà hai bút tích đó đã quy cho ông được nêu ra
rất mơ hồ, khó mà xác định được chắc chắn. Nhiều công trình được mở rộng và
trùng tu dưới sự chăm sóc của ông trong một lâu đài tương ứng với Vát Mahatát ở
Xuykhôthái1228
. Những công trình đó được thi công từng phần bởi những người thợ
đem từ Xâylan đến: từ đó người ta có một trích dẫn quyý báu về một trong những
nguồn gốc có thể có được về ảnh hưởng của Xâylan được phát hiện ra trong nghệ
thuật Xuykhôthái1229
Lô Thái có người con kế vị là Lư Thái, phó vương ở Xi Xasanalai
(Xavânclốc). Ông này là một trí thức, năm 1345 đã biên soạn một luận văn lớn nói
về vũ trụ luận Phật giáo, cuốn Traibhumikhatha, nó đến ta dưới cái tên Traiphum
Pra Ruang trong bản Xiêm cổ1230
mà các bản dịch hiện đại hiện nay làm cơ sở cho
sự hiểu biết phổ cập ở Thái Lan và Campuchia.
Năm 1347, ông đến Xuykhôthái, nơi mà hình như các vụ biến loạn nổ ra, có
lẽ sau khi cha ông mất. Ông chiếm thành và lên ngôi vua với niên hiệu Xơri
Xuryavamxa Rama Mâhađácmaragiađiragia (Cri Suryavam ca Rama
Mahađharmarâjâdhirâja)1231
Một khi đã lên ngôi, Lư Thái hình như càng chăm lo đến luân ly và tín
ngưỡng của thần dân hơn là việc chinh chiến. Một bản bút tích ghi: “Hoàng thượng
đã nghiên cứu nguyên bản các thánh kinh. Người đã nghiên cứu kinh Vinaya và
Abiđácma theo phương pháp của các thầy truyền thống, bắt đầu từ các nhà
Bàlamôm và các nhà khổ hạnh. Nhà vua biết kinh Vệ đà, các luận văn và truyền
thuyết,luật pháp và châm ngôn, bắt đầu từ các luận văn về thiên văn… Tri thức của
Người không ai sánh kịp… Người biết những năm thiếu và những năm nhuận,
1226
- nt - T.49 - 75 1227
- nt - T. 145 - 149 - Praya Nakôn Prahram, sđd, T218 - 220 1228
L. Fournereau “Nước Xiêm cổ” I, T.257 (dưới cái tên Vatfai) 1229
R.S. Le May “nghệ thuật đạo Phật ở Xiêm”, T.114 - 119 1230
Ấn hành ở Băng cốc năm 1912- xem Coedès “Tài liệu về triều đại Xuykhôdaya” BEFEO XVII, 2, tr.4 - 6 1231
- nt- tr.13, 45
208
những ngày, những tuần trăng. Sử dụng quyền lực của mình, Người đã cải cách
lịch1232
.
Một bút tích khác ghi: “nhà vua trị vì theo 10 quy tắc hoàng gia. Người rất
thương dân. Thấy lúa của thiên hạ người không tước đoạt, thấy của cải của thiên hạ,
người không tức giận… Bắt được kể gian giảo và hỗn láo, những kẻ bỏ thuốc độc
vào cơm để làm cho Người bị bệnh mà chết, không bao giờ Người giết hoặc đánh
đập, mà còn khoan dung đối với ai tỏ ra xấu đối với Người. Lýy do để Người ức chế
trái tim và trí não, không nổi giận khi cần chính là Người khao khát được thành
Phật và muốn đưa chúng sinh ra khỏi biển khổ của thế gian” 1233
.
Khổ thay cho ông, một ông vua bác học và sùng đạo, đã cải cách lịch và tha
thứ mọi sự lăng nhục, lại có một người láng giềng hung bạo. Người ta không biết gì
về những việc xảy ra trong thế kỷ XIII ở vương quốc Lavô, mà trong “lịch sử nhà
Nguyên” gọi là Lô hu (Lo hou), có ghi nhiều sứ thần đến từ 1289 đến 1299 1234
.
Theo truyền thuyết không có cơ sở lịch sử 1235
, một thủ lĩnh người Thái tên là
Giayaxitri (Jayacri), dòng dõi một ông hoàng ở Chiêng xèn, lên ngôi ở Pơra Pathom
và lấy làm rể một thủ lĩnh ở Mường U Tun, một thành cổ và vết tích còn thấy được
ở vùng Xuypang (Supan)1236
Khoảng 1347, sau một trận dịch tả ông hoàng U Tong lúc đó đã kế vị ngôi
vua của anh rể từ bỏ nơi ở và lập một kinh đô mới cách Lavô 50 km 1237
, trên một
hòn đảo ở sông Mênam, ở ngã tư sông. Ông đặt tên cho nơi đó là Đvaravati Xơri
Ayuđia (Dvâravati Sri Ayudhya) 1238
và đồng thời làm lễ đăng quang năm 1350
dưới danh hiệu Ramađipati. Năm trước 1350,1239
ông đã đưa quân lên phía Bắc và
không phải đánh chác gì đã buộc Xuykhôthái với ông vua sùng đạo của nó phải
thuần phục, và tính chất hoà bình của nó có lẽ đã ảnh hưởng tới quyết định của
người sáng lập ra Ayudhya. Bị mất quyền độc lập. Vua Lư Thái càng quay về với
tôn giáo, xây dựng đên chùa, tu viện, đón tiếp các tín đồ từ Xâylan sang và cuối
cùng hoàn toàn thụ giới năm 1361.
Chính ở Xuykhôthía giữa 1250 và 1350, đã chuẩn bị tạo ra những đặc điểm
của nền văn minh Xiêm, của các học viện cũng như của nền nghệ thuật.. Thành phố
1232
Coedès “Sưu tập bút tích ở Xiêm” I.Ttr..98 - 99 1233
-nt- tr..107 1234
Cuốn “Tao yi kha lio” của Wang Ta Yuan (1350) kể ra, trong số các thuộc quốc rất khó xác minh, những
nước ở thế kỷ trước là thuộc quốc của Cămpuchia trong cuốn “Tchou fan fche” của Tchao Fou Koua. 1235
Tóm tắt lại và bình luận do ông hoàng Damrong “Siamese history prio to the founding ò Ayudhya” Báo
Hội Xiêm XIII, 1919, tr.39 - 40. 1236
Quaritch Wales “2 Ăng co”, chương IX, tr.132 - 146. 1237
Ông hoàng Damrong – sđd – T.63 -66 1238
Về tên này, tôi nghĩ rằng lại thấy sự tồn tại của các tên của các vương quốc Dơvarati mà trung tâm của nó
ở vào hạ lưu Mênam ông hoàng Đhani Nivat “ Thành phố Thavaravađi xơri Ayudhya” Báo Hội Xiêm XXXI,
1939, T.147 1239
Niên hiệu do “Tao yi tche lio” cung cấp – E.Huber BEFEO, IX, T.586 – về các bằng chúng của biên niên
pali nói về cuộc viễn chinh này, xem Coedès “TàI liệu về triều Xuykhôđaya” BEFEO, XVII, 2, T.40 và 43
209
này ở vào giữa vùng ảnh hưởng của Khơme và vùng ảnh hưởng Môn và Miến Điện.
Nhở sống Mêyom nó liwn lạc dễ dàng với Lốpbuyri và các tính Khơme cũ ở hạ lưu
sông Mênam. Mặt khác, nó ở vào cửa con đường từ hạ Miến đến, đảm bảo việc liên
lạc với phương tây, trước hết với Xâylan.
Từ Cămpuchia, người Xiêm đồng hoá tổ chức chính trị, nền văn minh vật
chất, chữ viết, một số từ rất lớn. Các nghệ sỹ Xiêm vào các trường của các nghệ sỹ
Khơme và thay đổi nền nghệ thuật Khơme theo sáng kiến riêng của họ, nhất là dưới
ảnh hưởng của việc tiếp xúc với các người láng giềng phương tây, người Môn và
người Miến Điện. Người Xiêm nhận được của họ những truyền thống pháp lýy gốc
Ấn Độ, và nhất là đạo Phật Xâylan và các truyền thống nghệ thuật.
2. Sự thành lập vương quốc Lào Lan Sang (1353)
Người ta đã thấy rằng đầu thế kỷ XIV, toàn bộ lãnh thổ hiện này của Thái
Lan thuộc quyền thống trị của người Thái ở Xuykhôthái, trừ các tỉnh phía đông còn
thuộc Camphuchia. Nhưng các tỉnh này đến lượt nó cũng sớm rơi từng phần vào sự
thống trị của một nghành Thái khác mà người ta gọi là Lào.
Người ta còn nhớ cuối thế kỷ XII, nền đô hộ của Khơme lan ra trên sông
Mêcông cho đến Viengchan, vì một tấm bia của những y viện của Giayavácman VII
đã được tìm thấy ở Say Fong. H. Mátxpơrô 1240
viết: “người ta biết rằng Viengchan
thuộc quyền đô hộ Xiêm vào những năm cuối cùng thế kỷ XIII, do Rama Camhèng
chinh phục có lẽ từ tay người Campuchia, khổ thay sự im lặng trong các tài liệu
Annam và Trung Quốc trong thế kỷ XIII không cho phép xác định sự việc một cách
chính xác. Điều chắc chắn là ngay sau khi mất Viêngchan, người Cămpuchia một
thời gian lâu còn làm chủ miền hạ lưu, bắt đầu từ khuỷ lớn sông Mêcông, và họ còn
chiếm giữ được đến nửa đẩu thế kỷ XIV. Cần có sự thành lập một quốc gia Lào khá
mạnh nhờ kết hợp hai hạt Mường Chairi nay là Luang Pơrabang với Viêngchan,
mới có thể đẩy họ về phía nam và thu nhỏ dần dần lãnh thổ Cămpuchia lại”.
Sự thành lập quốc gia Lào cũng thuận lợi là Xuykhôthái bị suy yếu và có lẽ
không phải ngẫu nhiên mà vương quốc Viengchan được thành lập bởi Fa…… năm
1353 1241
, bốn năm sau sự kiện Xuykhôthía chịu thuần phục vương quốc trẻ
Ayuthya.
L.Phinô viết: “Truyền thuyết bản xứ không biết gì về thời kỳ từ thần Khun
Lô (con của thần Khun Bôrom) đấn thế kỷ XIV. Nó chỉ giữ lại được có một bản
danh sách các thủ lĩnh mới đầu có danh hiệu là Khun, rồi sau là Tao, cuối cùng là
Praya. Có 15 khun và 6 tao. Tao cuối cùng là Tao Tavang có con là Praya Lang là 1240
“Biên giới Annam và Cămpuchia” BEFEO, XVIII, 3, T.36 1241
Masspero ghi “Biên niên sử Viengchan và Luang Prbang đã quy sự chinh phục Viengchan cho vua Fa
………… vào nửa sau thế kỷ XIV. Vì rằng, kế vị vua Fa…… là Sam ven Tai nhân tước Trung Quốc Siuan
wei che năm 1404, nên niên hiệu trong biên niên Lào là không đúng. Các tài liệu nước ngoài đó bổ xung cho
nhau cho phép xác nhận ít ra là tương đối đúng, thời kỳ chấm dứt của nền đô hộ Cămpuchia trên đất Lào”
210
ông Praya đầu tiên: chính người Lào đã có nhiều kỷ niệm về ông trong lịch sử của
mình. “Praya Lang trị quốc rất kém nên bị đầy vào núi (hoặc bị giam ở Pak u theo
truyền thuyết khác) và con là Praya Kamphong lên thay. Khi ông này có một con,
ông gửi thư cho nhà vua bị mất ngôi để hỏi xem ông ta muốn đặt tên cho cháu nội là
gì. Ông già bị chọc tức không trả lời gì cả nếu không là ba chữ “phi fa pha!” nghĩa
là “giời đánh chết mày!”. Nhận được câu trả lời đó Praya Kamphong không áy náy
gì cả gọi con là “Phi Fa” nghĩa là “Chiến thần”. Cái tên hoa mỹ đó không được xác
minh. Phi Fa chỉ có mối liên hệ với thần và ông mang tên bằng sự thèm khát rất
nhạy với phụ nữ và đến mức không dừng lại ở cửa khuê phòng của cha, ông bị đuổi
và không được lên ngôi. Trước khi bị tống đi, ông có một đứa con, ……… là Praya
Fa Ngum, năm 1316”.
Ông hoàng bị đi đày đã tìm được chổ ẩn dưới triều vua Cămpuchia lúc đó
phải là Giayavácmaparamécvara, lên ngôi năm 1327. Chàng Fa Ngum trẻ tuổi được
một nhà bác học sùng đạo nuôi dạy ở kinh đô mà các biên niên Lào gọi là Maha
Pasaman chao (Pra Mâhasamana). Khi ông lên 16 tuổi, vua Cămpuchia gả công
chúa Kèo hay yết Kèo, hay Kèo Lot Fa Cho, rồi đến một niên hiệu khoảng giữa
1340 đến 1350, giao cho ông một đội quân nhằm chiếm lại vương quốc của cha
ông.
Biên niên Lào Nitan Khun Borom 1242
kể một cách tỉ mỉ mà tính chất của sự
thực lịch sử cần được những bằng chứng khác xác nhận, sự tiến quân thắng lợi dọc
theo thung lũng Mêcông qua Bassắc, Kammun, Trấn ninh, Hứa Pan (ở đó ranh giới
với Annam được dòng sông Hồng và sông Mêcông, rồi xuống Chiềng Đông Chiềng
Tông (Luang Prabang) ở đó Fa Ngum xưng làm vua – cũng do nguồn tài liệu ấy, Fa
Ngum lại đi ngược sông Mêcông; đánh thắng vua Sam Paya nước Lan Na. Ông vua
này sau khi thử chống cự lại ở Chiềng Sèn, phải trốn về Chiềng Ray và kyýýý hoà
ước với Fa Ngum ở đó. Khi trở về, ông đã chinh phục dân khu còn lại Viêngchan
mà cuộc hành trình của ông đến lúc đó vẫn tránh. Nhờ mưu mẹo cổ điển dùng tên
đạn bằng vàng và bạc bắn ra, rồi giả bộ rút lui, sau đó nhảy xổ vào quân địch đúng
lúc nó bỏ vũ khí để nhặt thứ kim loại quyý, ông đã chiếm được Viêngchan. Sau đó,
Fa Ngum tiến lên cao nguyên Còrạt cho tới Roi Ét, rồi trở về Chiềng Đông Chiềng
Tông qua Viêngchan để làm lễ đang quang. Theo cuốn Nitan Khun Borom phân
tích mộtrong cách sơ lược sự dễ dàng việc Fa Ngum chinh phục được các thủ lĩnh
các nước mà ông chiếm và tình giao hảo giữa các vua chúa láng giềng có nguyên
nhân trong mối tình cảm cùng chung một nguồn gốc. Các phái viên ở Trấn Ninh nói
với ông: “như bệ hạ chúng tôi đều là dòng dõi Khum Borom”. Viên thủ lĩnh Lư ở
Síp Long Pan Na nói: “nhờ Khum Borom chúng ta là anh em và chúng ta không nên
đánh nhau”. Ngay vua Ayuthya, muốn ngăn bước tiến của Fa Ngum lên cao nguyên
1242
Dịch trong “Mission Pavie” – nghiên cứu linh tinh II, T.1 – 77 – về Fa Ngum, T. 17 - 38
211
Còrạt, cũng gợi lại cho Fa Ngum biết họ là “anh em từ thời Borom”, hiến cho ông
này một số đất đai và hứa gả con gái cho. Đó là một thí dụ mới về mối tình đồng
chủng ở những thủ lĩnh người Thái mà ta đã nêu ở trên.
Một tài liệu khác, cuốn Pongsavadan1243
, ghi lại hành trình của chuyến viễn
chinh đó ngắn hơn, cho ông đi thẳng từ Trấn Ninh đến Chiềng Đông Chiềng Tông
và ghi là sau khi đăng quang mới có sự thương lượng với nước Annam để quy định
biên giới và mới có chiến dịch của ông trên cao nguyên Còrạt.
Dù sao mặc lòng, niên hiệu 1353, do nhiều văn bản cung cấp để nói về lễ
dăng quang trọng thể của Fa Ngum để đánh dấu sự thành lập vương quốc Lan Sang 1244
, có nhiều may mắn được truyền bá một cách đúng đắn. Theo sự hiểu biết của
tôi, một điều ghi duy nhất về Fa Ngum trong một tài liệu minh văn ở một bút tích ở
Xuykhôthái có trước năm 1359: nó nói rằng, quốc gia này ở phía đông, trên sông
Mêcông giáp với nước Chao Praya Fa Ngum 1245
.
Việc lên ngôi của Fa Ngum rất quan trọng, không phải chỉ vì nó đánh giấu sự
thành lập một quốc gia có vai trò chính trị hàng đầu ở vùng trung Đông Dương mà
còn vì nó đem lại hậu quả là đưa được vào miền thượng lưu Mêcông nền văn hoá
Khơme và đạo Phật Xâylan bằng tiếng Pali, qua trung gian Cămpuchia. Sau khi ông
lên ngôi một chút, quả thật Fa Ngum đã mời từ Cămpuchia sang một đoàn do ông
thầy học tinh thần cũ của ông là Maha Pasaman, gồm các thầy tu và thợ thủ công:
ngoài một số bản kinh ông còn đem theo pho tượng Pra Bang nổi tiếng về và nó trở
thành tên của kinh đô nước Lan Sang. Phái đoàn này càng có nhiều thắng lợi khi nó
hoạt động trên một mảnh đất mà đạo Phật Cămpuchia đã để lại dấu vết 1246
.
3. Vương quốc Thái Lan Na
Người ta vừa thấy trong chuyến xâm lược vào Lan Na, Fa Ngum đã tiến đến
tận Chiềng Ray nơi vua Sam Paya ẩn trốn. Xem niên hiệu thì đó là vua Phayu, chắt
của Mangray.
Mangray mất khoảng 1315 1247
sau 50 năm trị vì, là dấu hiệu cạnh tranh giữa
các người thừa kế. Trong ba người con ghi trong biên niên, ông đã loại trừ người
con cả 1248
, đẩy đi xa người còn trẻ nhất bằng cách cử sang vùng người Thái ở
thượng lưu Saluyn, ở đó ông lập nên hạt Mường Nai (Mônê) 1249
. Còn người con
thứ hai tên là Grâma (Khun Kam) hay Giayaxăng grama, đã tham dự vào chiến dịch
1243
Do P.Le Bonlanger dùng “Lịch sử Lào thuộc Pháp”, T.41 -51 1244
Về tên này, xem Coedès “Về những tên cũ của Luang Prabang” BEFEO, XVIII, 10, T.9 - 11 1245
Coedès “ Sưu tập bút tích ở Xiêm”, I, T.129 1246
Năm 1311 theo Jinakalamalini ( Coedès “Tài liệu” BEFEO XXV, T. 91), năm 1317 theo “Biên niên
Chiềng Mai” C.Notton “Biên niên ở Xiêm” III, T.74 1247
“Biên niên” , T. 72 1248
Jinak , T.92 – Số 2 – Biên niêrn, T.73 1249
Biên niên T.71
212
chống Yiva, ông vua cuối cùng của Haripungiaya1250
,chính ông đã kế vị Mamgray,
nhưng trong vài tháng ấy, ông cho con là Sèn Phu lên thay ở Chiềng Mai, đồng thời
cử hai con khác lập cư ở Mường Fang và Chiềng Không, rồi tự rút lui về Chiềng
Ray.1251
Nhưng khi được tin cha mình là Mangray mất, hoàng tử Mường Nai đến
nhòm ngó ngôi vua hay ít nhất cũng đòi phần của mình trong việc kế vị ngôi vua.
Sèn Phu và em là Nam Tuen, ông hoàng ở Chiềng Không trốn về với cha ở Chiềng
Ray trong lúc chú của các ông chiếm Haripunragiaya1252
.
Những việc gì sảy ra sau đó đều mơ hồ, nhưng chỉ cần nêu ra ở đây việc
Nam Tuen đã đuổi được kẻ xâm lược và lấy lại Haripunragiaya. Nhưng cha ông
không để ông ở đó mà cử ông đến Chiềng Tung1253
rồi cử Sen Phu lên ngôi ở
Chiềng Mai năm 1322 hoặc 13241254
Sèn Phu vội lập tự cho con là Kam Fu ở Chiềng Mai để có thể đến Chiềng
Ray săn sóc cha (Jayasangrâma) mất năm 1326 hoặc 1327.1255
Sèn Phu nắm toàn bộ quyền hành trên toàn bộ lãnh thổ. Năm 1325 hoặc
13281256
ông lập nên thành phố Chiềng Sèn trên một danh thắng cổ. Năm 1334 1257
ông mất và con là Kam Fu lên thay, ông này chỉ ở ngôi vào năm và mất ở Chiềng
Ray.1258
Sau khi lên ngôi ở Chiềng Ray, con ông là Pha Yu sau ba năm đã trở lại
Chiềng Mai mở rộng và củng cố nơi này.1259
Ở giữa thành ông cho xây một ngôi
đền để đặt nắm tro hài cốt của cha1260
: ngôi đền này sau mang tên là Vat Pra Sing
khi người ta đặt ở đó một pho tượng Pra Sing hay Pra Sihing “Phật Xâylan”.1261
Ngày chết của Pha Yu không được biết đến một cách chắc chắn.1262
4. Miến Điện dưới ách đô hộ của người Thái
Nhiều biến cố phức tạp xảy ra ở Miến Điên nửa đầu thế kỷ XIV trong các hạt
người Thái, chỉ cần nêu ra một số việc sau:
Ở phía Nam, việc ám sát Dareruy là dấu hiệu cho một loạt xung đột với
vương quốc Xuykhôthái,mà nó đã ám chỉ tới. Dòng dõi của thủ lĩnh Thái định cư từ
1250
Jinak T.91 – 92 – Biên niên T.71 1251
Jinak T.92 – Biên niên T.75 1252
Jinak T.92 – Biên niên T.75 1253
Jinak T.92,93 – Biên niên T.75 - 77 1254
Niên hiệu đầu là trong Jinakâlâmâlim, T..93. Niên hiệu sau là trong “Biên niên sử Chiềng Mai”, T.77s 1255
- nt - 1256
- nt - 1257
Jinak T.93 – Biên niên T.80 1258
Năm 1336 theo Jinak, năm 1345 theo “Biên niên” 1259
Jinak, T.94 1260
- nt – Biên niên T.84, 85 – Cái bình đựng tro đã tìm thấy 1925. 1261
Chuyện pho tượng kỳ diệu này được kể trong Jinak, T.97 - 103 1262
Năm 1355 theo Jinak, T.94 – năm 1367 theô Biên niên,T.85
213
Binnya U (1353 – 1385) đến Hamsavati (Pegu)1263
, họ trị vì ở đó cho đến lúc vua
Miến Điện ở Lăngguy đến chiếm thành phố năm 1539.
Ở trung tâm, hai trong số ba anh em trước đây đã chia nhau vùng Kiốcxơ, đã
mất; người trẻ nhất là Thihathu (Sihasura) còn lại một mình làm chủ tình thế. Năm
1312 ông chọn Pinya làm ……..1264
và dòng dõi ông tiếp tục trị vì ở đó cho đến
1364.
Một người con của ông là Sôyun định sở ở Sagaing, năm 1315 để cai quản cả
vùng phía Bắc và phía Tây1265
. Một người con cháu sót dòng của một ngành ở
Sagaing tên là Thađôminbya, năm 1364 đã xây dựng trên sông Irauađi, ở cửa đồng
bằng Kíôcxơ, thành phố Ava1266
, nó trở thành kinh đô trong năm thế kỷ.
Cuối cùng ở phía Đông, thành Tônguy (Tanngu) được xây dựng năm 1280,
vẫn là nơi trú ẩn của người miến Điện muốn tránh khỏi sự đô hộ của người Thái,
năm 1347 trở thanh kinh đô ccủa một quốc gia Miến Điện mới khi Thanhkhaba
(Thinkhaba) xưng vua ở đó1267
. Một người dòng dõi ông năm 1539 đã chiếm
Hamfavati (Pegu) và lập nên một quốc gia Miến Điện hùng mạnh.
5. Nước Cămpuchia: những ông vua cuối cùng ghi trong minh văn
Ở Ăngco, vua Xơrinđơravácman trị vì vào thời kỳ ……..ta konan đến thăm,
đã ở ngôi cho đến 1307 là niên hiệu ông “thoái vị để nhường ngôi cho thái tử
(Yuvarâja) và lui về rừng ở”1268
. Nhờ ông mà ta có một bút tích cổ nhất bằng tiếng
pali ở Cămpuchia: nó kỷ niệm sự thành lập một cái vihâra và một pho tượng năm
1309, hai năm sau khi vua thoái vị.1269
.
Người ta không biết tới mối quan hệ họ hàng của ông vua mới với
Xơrinđơravácman. Một bút tích nói ông có họ hàng (Vamca) mà không cụ thể hoá
hơn. Khi lên ngôi, ông lấy danh hiệu là Giaya Mănggalácta (Gaya Mangalârtha),
ông mất năm 104 tuổi1270
. Ngoài việc một phái đoàn Trung quốc sang Cămpuchia
năm 1320 để mua voi đã thuần1271
, người ta không biết một sự kiện nào khác để có
thể gắn với tên của Xơrinđơragiayavácman.
Năm 1327, Giayavácmađiparamécvara1272
(Jayavarmâdiparamcevara) thay
ông, nhưng người ta không biết mối quan hệ họ hàng giữa hai người. Người ta chỉ
biết ông vua này nhờ một bút tích Khơme ở đền Bayông1273
và nhờ một bút tích 1263
A.P.Phayre “ Lịch sử Miến Điện” T.67, 68. Harvey “Lịch sử Miến Điện” T.111, 112 1264
Phayre – sđd – T.59 – Harvey – sđd – T.78, 79 1265
-nt - - nt - T.79 1266
A.P.Phayre – sđd – T.63 – Harvey – sđd – T.80 1267
A.P.Phayre – sđd – T.83. Harvey – sđd – T. 123 1268
Coedès – BEFEO XXXVI, T.15 1269
- nt – T.14- 21 1270
L.Finot “Bút tích ở Ăngco” BEFEO XXV, T.403 – 406 – Hồi ky khảo cổ I, T.103 - 106 1271
Pelliot “Hai cuộc hành trình” BEFEO IV, T.240, số 5 1272
Coedès “Niên hiệu lên ngôi của Jayavarmaparamcevara” BEFEO XXXIII, T.145 1273
Coedès “Bút tích ở Cămpuchia” II, T.187
214
Phạn ở Ăngcovát1274
, thực ra là ở một nơi trước kia gọi là Capilapuyra (Kapilapura),
ở Đông Bắc ngôi đền1275
. Bút tích này gốc tự một nhà bác học bàlamôn tên là
Viđyơxađimăng (Vidyecadimant), kẻ hầu hạ các vua Xinđơravácman,
Xirinđơragiayavácman và Giayavácmađiparamécvera1276
, là bút tích chữ phạn cuối
cùng ở cămpuchia. Thấm nhuần thần bí giáo Xiva, nó chứng tỏ rằng trong một nước
mà đạo Phật Xâylan đã phát triển‟‟. Ấn Độ giáo tìm thấy ở triều đình những vua kế
vị Giayavácman VII một nơi trú ẩn cuối cùng. Sáu thế kỷ không đuổi nó đi nổi vì
trong các buổi tế lễ của hoàng gia nước Cămpuchia hiện đại, những người Bakô hay
bàlamôn của triều đình vẫn tiếp tục hành lễ.1277
Người ta không rõ Giayavácmađiparamécvara trị vì trong bao lâu. Có lẽ
chính ông, năm 1330 đã cử xứ thần sang Trung Quốc1278
và năm 1335 cử gấp đến
đèo Cửa Rào để chào đón hoàng đế Annam Trần Hiến Tôn, một phái đoàn và phái
đoàn ấy đã gặp Xuykhôthái ở đấy. Hiện nay chưa thể phân tích mối quan hệ giữa
Giayavácmađipamécvara, ông vua cuối cùng được ghi trong bút tích ở Ăngcovát, và
là ông vua đầu tiên trong biên niên Cămpuchia, bắt đầu từ 1350 có thuỵ hiệu là
Mahanippin (Mahânippean) hay Nippin bat = Niếcvanapađa (Nippean bat =
Nirvânâpda)1279
chỗ đứt quãng giữa các vua trong minh văn cổ và biên niên hiện
đang là tuyệt đối.
Điều quan trọng cần ghi là giữa thế kỷ XIV, trước lúc thành lập Ayuthia và
làm lễ đăng quang cho ông vua đầu tiên của triều đại Xiêm đó đã hoàn thành phế
tích Ăngco, Wang Ta Yuan viết trong cuốn “Tao yi tche lio” rằng nước này được
gọi một cách nhất tứ là “Chân Lạp giầu có” và “nước của một trăm ngôi chùa”1280
6. Nước Chàm
Ở Chàm, người “con của Xơri Harijít” tức là của Giayaximhavácman III và
hoàng hậu Batxcarađơvi (Bhâskaradevi) lên ngôi năm 1307, mới 23 tuổi.
G.Maypero1281
đã gán cho ông ta một cách hơi độc đoán, cái tên
Giayaximhavácman IV. Biên niên sử Annam gọi là Chế Chỉ. Những cuộc mưu phản
xảy ra một cách kinh niên ở những tỉnh Chàm cũ thuộc phía Bắc đèo Hải Vân và
nhượng cho Annam để đổi lấy công chúa (Huyền Trân), buộc hoàng đế Trần Anh
Tôn phải thân chinh đi năm 1312. Kết quả là đã bắt được vua Chàm, ông vua này bị
đem ra Bắc và chết ở Bắc Kỳ năm 13131282
. Em ông được cử lên cai trị nước như
1274
Do Barth và Bergaigne ấn hành “Bút tích phạn ở Cămpuchia”, T.500 - 588 1275
L.Finot BEFEO XXV, T.365 1276
Barth và Bergaigne – sđd – T.585 - 588 1277
A.Leclère “Cămpuchia, các lễ dân sự và tôn giáo” (Biên niên bảo tàng gnimet, T.42) 1278
P.Pelliot – sđd – T.240, số 5 1279
Xem chú thích dưới trang 386 1280
W.W.Rokhill “Notes on the relations and trade of china” ………Báo XVI, 1935, T.106 1281
“Vương quốc Chàm” T.193 1282
G.Maspero – sđd – T.195
215
“một ông hoàng được phong vào hàng thứ hai”. Lấy tư cách là bá chủ bảo hộ nước
Chàm, hoàng đế Annam đã bảo vệ nó chống lại cuộc xâm lược của Xiêm năm, 1313
như đã nêu ở trên.
Năm 1314, vua Anh Tôn thoái vị nhường ngôi cho con là Trần Minh Tôn,
tạo điều kiện cho “ông hoàng được phong” mà biên niên Annam gọi là Chế Nang
một cơ hội để thử thu hồi lại các tỉnh phía Bắc và giành độc lập. Bị thua năm 1318,
ông phải trốn sang Giava1283
.
Hoàng đế Annam liền đặt lên ngôi Chàm một thủ lĩnh quân sự mà biên niên
Annam gọi là Chế Anan,ông này cũng định dựa vào quân Mông Cổ để tự giải
phóng. Năm 1326, ông thắng quân Annam một trận và điều đó cho phép ông không
phải đối xử như một nước chư hầu nữa1284
. Tiếp đó là một thời kỳ yên ổn, được
đánh dấu bằng việc tu sĩ dòng thánh Phơrăngxoa tên là Odoric de Perdenone sang
thăm. Ông này trong tập bút kểý về chuyến đi đã dành một đoạn1285
cho “vương
quốc mang tên Campo1286
, một nước rất đẹp vì ở đó người ta thấy mọi cách sinh
hoạt với nhiều tài phú dồi dào”.Ông đã gán cho nhà vua ở đó sinh được 200 con, “vì
ông ta có nhiều vợ và nàng hầu”. Ông ghi chép về nguồn giầu có về hàng luồng cá
thường lai vãng ở bờ biển “để chào nhà vua của nước này”. Nét quan trọng nhất
trong bút kýýy của ông là việc ám chỉ đến một tục lệ Ấn Độ gọi là “suttec”: “khi
một người đàn ông nào bị chết ở xứ này, người ta chôn cả vợ anh ta theo1287
vì họ
nói rằng chị ta có quyền sống chung với anh ta ở thế kỷ khác”.
Năm 1342 Chế Anan mất con rể ông là Trà hoa Bồ đề như người Annam gọi,
đã thành công trong việc loại trừ người kế vị hợp pháp là Chế Mô, là người mà ông
phải đấu tranh trong khoảng mười năm mới loại hẳn được. Thắng lưọi ông giành
được đối với quân Annam đã xúi dục ông thử chiếm lại vùng Huế năm 1353, nhưng
ông đã thất bại. Người ta không biết niên hiệu chấm dứt triều đại của ông1288
, nó
được đánh dấu bằng việc một nhà du lịch người Bðcberơ tên là Ip Batuta (Ibn
Batuta) ghé thăm, nếu có thật như người ta đề nghị1289
thì đúng là nước Tavalivi
(Tawâlisi) như ông này đã ghi trong nhật kýy của ông, tương ứng với nước Chàm.
7. Bán đảo Mã lai và Xuymatơra: sự phát triển của đạo Hồi
Trên bán đảo Mã Lai, những lời nhắn của Hốt Tất Liệt năm 1295 cho người
Thái ở Xuykhôthái “đừng làm điều xấu đối với người Mã Lai để giữ lời hứa” hình 1283
- nt - T.197, 198 1284
- nt - T.199, 200 1285
“những chuyến du lịch sang Á châu thế kỷ XIV của linh mục tốt số Ođôríc đờ Pécđơnonơ” H.Cordier
XB, T.187 1286
Các bản latinh và ýY ghi là Zampa, Zapa, Campa, Canpa, Capa. 1287
Bản latinh kể một cách cho tiết hơn là người ta thiêu sống người vợ cùng với người chồng; Xem ghi chú
của Cordier trong “Cathay and the way thithier”, tập II, T.167 1288
G.Maspero – sđd – T.201 - 203 1289
T.Yamamoto “On Tawâlisi described by Ibn Batuta” taval “lúc đó thông dụng ở Chàm, rõ ràng được
phiên ra là Trà hoa (Bồ đề = pati) do các nhà viết sử Annam
216
như không giữ được lâu nếu người ta tin ở Wang Ta Yuan như ông viết trong “Tao
yi tche lio” vào giữa thế kỷ XIV: “người nước Xiêm ham mê đi cướp bóc… Trong
những năm gần đây, họ đã dùng bảy mươi thuyền lớn đem quân đến đánh
Tanmaxi1290
và đánh vào hào của thành này.Thành này đã đóng cửa và tổ chức
phòng vệ, cầm cự được một tháng và quân Xiêm không dám xung phong nữa”.Ở
đoạn khác, tác giả còn ghi tên những nước Ting Kia lon (………….)1291
, Peng heng
(Pâhng)1292
, Kilantan (Kilantan)1293
, Tan ma ling (Tâmhalinga)1294
, Long ya si Kiao
(Lankasuka)1295
và nhiều đảo khác mà ông kê các sản phẩm chứ không cho một
chút chi tiết lịch sử nào. Ở Trengame trên bờ biển của bán đảo, một bút tích Mã lai
mà người ta giả thiết có từ 1326 hoặc 1327 nhưng có thể muôn hơn, là tài liệu cổ
nhất có liên quan đến việc Hồi giáo hoá vùng bán đảo này.1296
Ngược lại vào khoảng 1345 hoặc 1346 Ip Batuta, phái viên của quốc vương
ở Đơli (Delhi, Ân Độ) tên là Amghammát Ip Tôgơlúc (Mahammad Ilp Toghluk)
đến thăm Kakula (Takkôla cũ?) nhân chuyến đi Trung quốc, đã nói về vua xứ Muyn
Dgiava (Mul Djâwa) (tên gọi bán đảo Mã lai như một người dị giáo1297
: người ta đã
thấy trong chương trên rằng đối với Xuymatơra, các bằng chứng về việc Hồi giáo
thâm nhập vào bắt đầu từ thế 1281. Ip Batuta nói rằng, ông được vua Xuymatơra là
Malíc ag Dahia (Malik ag Zâhir) tiếp, lời nói đó đáng nghi1298
. Dù sao mặc lòng, bút
kýy của Ip Batuta chứa đựng một chi tiết quan trọng , nó nói lên rằng nhà vua là
một tín đồ thuộc môn phái Safi íttơ (Chafiyites) và có nhiều kẻ dị giáo ở xung
quanh. “Ông thường gây chiến tranh, nhất là đối với kẻ dị giáo… Thần dân của ông
cũng theo tục lệ Safi íttơ; họ thích đánh người theo tà giáo và vui lòng đi theo quốc
vương của họ. Họ đã chiến thắng những người dị giáo ở gần, và những người này
phải nộp cống để được yên ổn”1299
Hình như đạo Hồi được nhập vào Xuymatơra chủ yếu do các người từ
Guygiarát (Gujarat) và ở vịnh Cambay tới1300
. Đến giữa thế kỷ XIV, còn lâu nó mới
chinh phục được tất cả các công quốc nhỏ ở phía Bắc đảo, trong đó Ôđôríc đờ
Pócđơnomơ ghi năm 13211301
: Lamori (Asin), ở đó “tất cả phụ nữ là của chung”, và
1290
Tumasik = xanhgapo 1291
W.W.Rockhill – sđd – T. 118 1292
- nt - T.120 1293
- nt - T.121 1294
- nt - T. 123 1295
- nt - T. 125 1296
H.S.Paterson “Angười early Malay inser from Trenggame” Báo Hội hoàng gia Mã Lai II, 1924. T.752 –
C.O.Blagden A note on the Trenggame insoription”, T.258 1297
G..Ferrand “Liên hệ du lịch và văn bản địa lýy Ả rập, Ba tư và Thổ Nhĩ Kỳ” II, T.450 1298
F.P.Moquette. Rapp. Outh. Dieust. 1913, T.11. Ferrand”Malaku, Malâyu et malâyur” Báo Á châu 5 +
6/1918, T.474 - 475 1299
Ferrand “Quan hệ du lịch và văn bản địa lýy Ả rập…” II, T.440 1300
F.P.Moquette De graafsteenen Pasé en grissee vergeleken met dergelijke momunenken nit Hindoestan”
Tijd. Bat. gen. 54, 1912, T.536 – 548. 1301
H.Cordier “Những chuyến đi sang Á châu…”, T.136
217
dân còn “ăn thịt người”; Xuymôntơra (Sumoltra), dân ở đó “thường lấy săt nung đỏ
dí vào mặt ở nhiều nơi, cả phụ nữ cũng làm như vậy” 1302
. Còn Oang Ta Yuan lại
kể, năm 1350, cũng những nước đó dưới cái tên Nanwouli1303
, Souwentala1304
và
thêm Tan yang1305
(tức là Tamiang mà Máccô Pôlô gọi là Dagroian) nhưng ông chỉ
điểm qua các sản phẩm của nó chứ không nói rõ vị trí chính trị. Ở miền Trung và
miền Nam của đảo, ông chỉ biết hai nước: Sanfôtsi1306
, theo ông tương ứng với
thung lũng sông Giămbi1307
, tức là Malayu cũ, như người ta đã thấy đến thế kỷ XIII
đã trở thành trung tâm của đế quốc Mahargia cổ, và Kieou Kiang “cửa sông cũ kỹ”
đại diện cho nước Palembang. Còn minh văn thì chỉ ra rằng Malayu vẫn là nước
Xuymatơra duy nhất còn có tầm quan trọng về chính trị nào đó và nó trở thành đối
diện với các vua phương Bắc đã Hồi giáo hoá hoặc đang sắp cải giáo, nơi trú ẩn của
văn hoá Ấn Độ. Nhưng trung tâm của nó có chiều hướng ngày càng đi xa bờ biển
phía Đông của đảo để dấn sâu vào nội địa về phía sau này là Minangkabau.
Nhiều bút tích cho ta biết ở vùng này vào giữa thế kỷ XIV, một “ông vua của
đất vàng” (Kanakamedinindru)1308
tên là Ađityavácman, con của Átvayavácman
(Advayavarman). Tên ông xuất hiện ở Giava ngay năm 1343 trên một tượng bồ tát
Manjuxơri(Manjucri) trước kia đặt ở Săngđi Giagô (Chandi Jago) 1309
ở đó sự có
mặt của nó hình như chỉ ra rằng vào niên hiệu nó, nhà vua tương lai, có đôi chút họ
hàng với hoàng hậu Ragiapátni (Râjapatni) vợ của Cơritaragiaxa (Kritarâjasa) sống
ở triều của Môgiôpahít (Mojopahit)1310
Năm 1347, ông ở Malayupuyra và cho hắc một văn bản chữ phạn1311
lên
lưng của pho tượng Amôgapaxa (Amoghapâca) tìm thấy ở Rambahan, mà bút tích ở
Pađang Rôsô (Padang Rocho) nói là mang từ Giava về năm 1286. Ở đó ông mang
vương hiệu là Udayađityavácman (Uđayâdityavarman) hay Ađityavacmôđaya
(Adityavarmodaya) Pratâpaparacơramaragiăngđơra Môlimalivácmađơva
(Pratâpaparâkramajendra manlimâlivarmadeva) trong đó người ta tưởng có thể phát
hiện ra một ý đồ hoà hợp các vương hiệu truyền thống thường dùng ở Xơrivigiaya
và ở Malayu1312
.
1302
- nt - T.153 1303
Rockhill “Ghi chép” Tùng báo XVI, 1915, T.148 1304
- nt - T.151 1305
- nt - T.143 1306
- nt - T.134 1307
Pelliot “Những chuyến hàng hải lớn của Trung Quốc” Tùng báo XXX, 1933, T.376 1308
H. Kern, Vespr. Gesch, VII, T.219 1309
Brandes “Tjandi Singasari” T.99 - 116 1310
N.F.Krom “ấn Độ – Giava”, T.392 - 393 1311
H.Kern “De wij – inseriptré of het Amoghapâca- becld van Padang chandi” Verpr. Gesch, VII, T.163 –
B.R.Chatterji “Ấn Độ và Giava” II, T.79 - 84 1312
J.L.Moens “Crivijaya, Yava en Katâha” Tijd Bat. Gen. 77, 937, T.457
218
Ngoài ra, bút tích đó đã cho nhiều chỉ dẫn quan trọng về các nghi lễ phù chủ
giáo thịnh hành ở Inđônêdi thế kỷ XIV và nhiều cái còn tồn tại ở Bali ngày nay1313
.
Đạo Phật của vua Ađityavácman, người mà được coi là Lôhervara giáng sinh, thuộc
về đạo của các vua ở Môgiôpahít theo hệ thống calasacora (Kâlachakra)1314
Một bút tích khác cùng niên hiệu nhưng không có giá trị lịch sử, được tìm
thấy ở Pagar Rayung ở trung tâm Minamhkaban. Vùng này đã cung cấp nhiều bút
tích khác thuộc về triều đại khá dài này, nó kéo đến ít nhất là tận năm 1375.
8. Giava: vương quốc Môgiôpahít cho đến lúc Hayam Uyrúc lên ngôi
(1350)
Ở trên người ta đã thấy, theo một biên niên sử mới1315
, triều vua Cơritagiaxa
mà người ta tưởng là yên bình, ngược lại đã bị khấy động vì hàng loạt cuộc nổi loạn
trước kia được xếp vào thời của triều vua sau là Giayanagara. Năm 1295, là cuộc
nổi loạn xẩy non của một người bạn chiến đấu của ông, ông này trở thành một
người có chức cao trong triều; tên ông ta là Răngga Laoơ (Ranga Lawe), nổi lên ở
vùng Tuybăng (Tuban)1316
. Rồi đến ông già Viraragia tuyên bố độc lập ở
Luymagiăng (Lumajang)1317
ở phía Đông Giava, phía Nam đảo Mađuyara. Các năm
1298 và 1300 phải dành để chống lại Xuyra (Sura), một người bạn chiến đấu khác
của nhà vua, ông này cuối cùng bị thua và bị giết. Rồi đến Nămbi, con của
Viraragia rút về Lembát (Lembah) và củng cố thành luỹ ở đó. Cuối cùng năm 1302
là cuộc nổi loạn của Giuruy Đơmung (Juru Demung), một người đồng loã với Xôra
(Sora)1318
.
Cơritaragia mất năm 1309. Lăng của ông xây ở Simping1319
, đã cho ta pho
tượng rất đẹp để ở bảo tàng Bafaria, dưới dạng thần Harihara.1320
Con ông là
Giayanagara lấy vương hiệu là Xơri Xunđarapândyađơvađiécvara (Cri
Sunđarapânyadevâdhicvara) Vicơramốttungađơva (Vikramottungadeva) đã nhấn
mạnh mối quan hệ tinh thần giữa Giava và các nước Pangđia ở cực Nam Ân Độ,
được xác nhận từ thời Xănggiaya 1321
. Hai năm sau khi ông lên ngôi, ông già
Viraragia mất, ông đã từng gây ra nhiều nỗi khổ cho người dân. Năm 1312, nhà vua
tham dự vào việc mai táng Cơritanagara ở Puyếcva Patapar1322
, ông này mất từ 20
1313
S.Lévi “Văn bản chữ phạn ở Bali” (Gaekwad‟s or. Ser. 67, 1933) 1314
F.L.Moens “Het buddhisme of Yaun en Sumatra in zijn luatste bloei – periode” Tijd. Astrong. Gen. 64,
1924, T.558 - 579 1315
C.C.Berg “Gunerkingen over de chronologie van de oudste geschiedenis van Maja – pahit” Bijdr. 97,
1938, T.135. Và “Ye middeljavaansche histrische traditie”, 1927 1316
“Pararaton” NXB Brandes (Verh. Bat. Gan. 62, 1920) T.125 – CC Berg “Rangga Lawe” 1930 1317
“Pararaton” - nt - 1318
- nt - T.125 - 126 1319
N.F.Krom, T.159 – 166 – sđd - 1320
- nt - T.65 1321
Nilakanta sastri “Agastya” Tijd. Bat. Gen. 76, 1936, T.502 – và 75, 1935, T.611 1322
“Pararaton” – sđd – T.125 - địa điểm chưa được xác định đúng. N.F.Korm “ Ân Độ – Giava”, T.345
219
năm nay . Năm sau, ông thanh toán được địch thủ khác của cha mình tên là Giuyruy
Domung, nổi loạn năm 1302, nhưng đến năm 1314 một cuộc nổi loạn khác lại sảy
ra, do một người đồng mưu khác của Xôxa tên là Gagiát Biruy (Gajah Biru)1323
.
Năm 1316 sau khi Giămbi chết và hạt Luymagiăng chịu thuần phục1324
,
người ta tưởng sự thanh bình trở lại , nhưng đến 1319, sảy ra cuộc nổi dậy của
Quyti (Kuti) làm nhà vua phải tạm thời bỏ kinh đô, cùng 25 người hộ vệ do Gagiát
Mađa1325
chỉ huy, ông sau này sẽ thành nhân vật phụ chính lớn (1328 – 1350). Mặc
dầu các cuộc nổi dậy đó làm lệch đường của biên niên, thế lực của Môgiôpalút được
củng cố và Ôđôríc đơ Pócđơnorơ qua thăm Giava năm 1321 đã cho ta bức tranh
miêu tả quan trọng về hòn đảo đó “có tới 3000 tháp. Các vua của hòn đảo này ccó
tới 7 vị. Hòn đảo này ở tốt và là nơi thứ hai ở trên đời này… Vua của đảo ở một lâu
đàI kỳ diệu rất to… Đại hoàng đế ở Cathay là ông vua của tất cả người Táctơrơ
(Tartres) thường gây chiến với ông vua này nhưng bao giờ cũng bị thua”.1326
Từ 1325 đến 1328, Giayanagara cử đều đặn sứ thần hàng năm đến Trung
Quốc1327
. Một trong các sứ thần năm 1325 là Sengkiliye, đồng nhất với
Sengkialieyulan mà người ta sẽ thấy năm 1375 làm vua ở Xuymatrơra.1328
Năm 1328, Giayanagara bị ám sát chết do tay một nhà quýy phái mà ông ta
đã quyến rũ vợ1329
. Từ triều của ông bắt đầu một phần lớn nhóm Panatarăng1330
.
Vì ông không có con trai nên ngai vàng trở về tay con gái của Cơritanagara
tên là Rugiapátni Gayatơri (Râjapatni Gâyatri), vợ cả của Cơritaragiaxa, nhưng bà
này theo đạo như một bicsumi (bhikshumi)1331
, và con gái bà là Tơribuyvana
(Tribhuvanâ) điều khiển mọi việc dưới danh nghiã của bà1332
. Năm 1329 – 1330,
con gái bà lấy một nhà quýy phái tên là Sacơrađara (Chakradhara)1333
hay
Sakrécvera (Chakrecvara), lấy tên là Cơritavácđana (Kritavardhana) với vương hiệu
Xanhgaxari1334
. Năm 1334, nàng sinh một con trai tên là Hayam Uyrúc (Hayam
Wuruk)1335
sau này làm vua khi bà của ông mất năm 1350.
1323
“Pararaton” – sđd - T.126 1324
- nt - T.126 – 127 – “Nâgarakritâgama”, T.34 1325
- nt - T.127 - 128 1326
H. Cordier “Những cuộc du lịch sang Á châu…”, T.161 - 162 1327
Rockhill “Note on the Relations…” Tuỳ báo, XV, 1914, T.446 - 447 1328
Xem chú thích ở dưới, trang 401 1329
“Pararaton” - sđd – T.128 - 129 1330
N.F.Krom “Andosiam” II, T.245 – 284
M.E.Lulins van goor “Ghi chép về phế tích Panataran” BEFEO II, T.375 1331
Nagarakritâgama – sđd – T.257 1332
Với vương hiệu Tribhuvanittungadevi Jayavishmuvardhani – N.F.Krom, “ Ấn Độ – Giava”, T.383.
“Nagarak” - nt - 1333
Pararaton – sđd – T.129 1334
N.F.Krom - sđd - T.384 1335
Pararaton – sđd – T.139
220
Nhân vật lớn của triều đại là Gagiát Mađa mà ở trên ta đã thấy ông theo đuổi
sự nghiệp của vua Giayanagara khi ông này phải lánh nạn trước vụ nổi loạn của
Quyti.
Mới đầu làm tể tướng ở Kahuyripăng (Kahuripan) rồi ở Daha, năm 1331 ông
trở thành tể tướng ở Môgiôpahít, tức là tể tướng của vương quốc1336
. Những cố gắng
không ngừng của ông nhằm bành trướng ưu thế của Giava trong vùng quần đảo.1337
Như vậy ở Bali mà các kết quả chiến trận của Tơritanagara năm 1284 bị xoá
bỏ và trở thành một nước độc lập, cuộc viễn chinh năm 1343 dẫn tới việc tàn phá
hoàng gia địa phương 1338
và một sự Giava hoá đảo này đã được mở rộng dưới triều
vua Hayam Uyrúc.
Về phần Trung Quốc, “Lịch sử nhà Nguyên”1339
đã ghi một đoàn sứ thần
Giava sang năm 1332 do Seng Kia Lo dẫn đầu, và hình như là cùng một người đó
năm1325. Đến 1350 Wang Ta Yuan 1340
đã miêu tả Giava (Tchao wa) như một nước
thịnh vượng, mầu mỡ, mật độ dân số đông đúc và thanh bình, được gọi là “dân man
ri loại nhất ở vùng biển phía Đông”.
Năm 1350, cái chết của bà già Ragiapátni đã chấm dứt chế độ phụ chính của
con gáibà và bà này đã rút lui để cho con trai mình là Hayam Uyrúc trị vì dưới
vương hiệu Ragiaxanagara (Râjasanagara).
Chương XIV:
Mãn kỳ của các vương quốc Ấn Độ từ giữa thế kỷ XIV
đến lúc người Bồ Đào Nha chiếm đóng Malắcca (1511)
1. Nước Campuchia: từ 1350 đến lúc bỏ Ăngco giữa thế kỷ XV
2. nước Chàm từ Chế Bồng Nga lên ngôi (1360) đến lúc từ bỏ vĩnh viễn
Vigiaya (1471)
3. Giava: Từ lúc Hayam Uyrúc = Ragiakamagara lên ngôi (1350) đến mãn
kỳ của vương quốc Môgiôpahít (khoảng 1520)
4. Xuymatora: những người thừa kế vương quốc cổ Maharagia ở giữa thế kỷ
XIV
1336
N.F.Krom – sđd – T.387 1337
- nt - T.390 1338
- nt – T.391 – Nagarak (H.Kern. Verop. Gesch VIII), T.37 1339
W.W.Rockhill “ghi chép” Tùng báo XV, 1914, T.447 1340
- nt - XVI, 1915, T.236 - 237
221
5. Malắcca: từ lúc thành lập năm 1403 đến lúc người Bồ Đào Nha xâm
chiếm năm 1511.
Thời kỳ giữa thế kỷ XIV tương ứng với một thứ điểm mốc trong lịch sử
ngoại Ấn. Năm 1347 được đánh dấu vừa bằng sự thành lập vương quốc Miến Điện
Tôn Guy (Taungu), từ đó đến thế kỷ XVI nẩy sinh ra người sáng lập ra quốc gia
hùng mạnh Miến Điện Pô Guy (Pegu), vừa bằng sự thành lập vương quốc
Kuymatôra của Ađibyavácman (Adityavarman) vẫn mang tên là Malayu, nhưng đã
tương ứng với Minangcabô (Minangkabau) tương lai. Năm 1353 được thấy sự thành
lập vương quốc Lào Lan Sang của Fangum và sự phục hưng Hamxavati (Pegu)
Binnya V.
Nhờ một sự gặp gỡ kỳ lạ, việc lên ngôi của Hayam Uyrúc năm 1350, ông
này là ông vua lớn nhất của Môgiôpahit đã mở rộng quyền bá chủ đến giới hạn cực
điểm, cũng là năm lên ngôi của Ramađipati, người sáng lập ra Ayuthaya, người đã
thống nhất được các nước ở Xyâm (Xuynhôthái) và Lavô (Láp buyri). Aguthya và
Môgiôpahit trở thành 2 cực, nước trên ở lục địa, nước dưới ở vùng quần đảo, ở
ngoại Ấn mà phần lớn chia ra thành 2 vùng ảnh hưởng. Danh sách các thuộc quốc
của Ayuthya và Môgiôpahít trùm lên cả phía nam bán đảo Mã Lai.
Việc tập hợp các tiểu quốc lại giữa 2 luồng ảnh hưởng của 2 cường quốc rất
có ý nghĩa khi nó xẩy ra đúng vào lúc triều đại Mông Cổ suy sụp và ngược lại xu
hướng chính trị của nó khuyến khích việc lập ra các tiểu quốc để dễ bề khống chế.
Lịch sử các nước sinh ra quanh năm 1350, vương quốc Ayuthya và Lan
Sang, vương quốc Miến Điện Tôn Guy và Ava, lịch sử đó ra ngoài khuôn khổ tác
phẩm này chỉ dành cho thời kỳ cổ đại của vùng ngoại Ấn. Chỉ cần theo dõi cho đến
lúc chấm dứt các vương quốc Ấn Độ ở Đông Dương và Nam Dương bằng cách
phản ánh sơ lược những điều xảy ra ở Campuchia cho đến lúc người Annam xâm
chiếm năm 1470, ở Mã Lai và vùng quần đảo cho đến lúc người Bồ Đào Nha xâm
chiếm Malắcca năm 1511.
1. Nước Cămpuchia: từ 1350 cho đến lúc từ bỏ Ăngco giữa thế kỷ XV
Trong các vương quốc cổ, đến giữa thế kỷ XIV1341
Cămpuchia là nước duy
nhất có các ông vua trị vì ở các kinh đô cũ của nó là Yaxôđarapuyra (Ăngco), 1
Về những sự hiệu đính của biên niên Cămpuchia xem G. Coedès “Thử xếp loại các tài liệu lịch sử
Cămpuchia lưu trữ ở thư viện EFEO” BEFEO, XVIII, 9, T.15. Việc hiệu đính của Vongsa Sarpech Nong
(1818) đã được Garnier dịch ra. Báo Á châu, 10+12/1871, T. 336. Xem cả Maspero “Đế quốc Khơme” Pnom
Penh 1904, A. Leclère “Lịch sử Cămpuchia” Pari1914; về tài liệu Trung Quốc, xem Resumat “Sự hốn hợp
mới ở Á châu” I. T. 90 - 97. Các niên hiệu ở dưới đây đều cần xét lại, trừ các niên hiệu do tài liệu Trung quốc
cho.
222
nhưng ở đó học không được bảo đảm chắc chắn. Ngay từ 1352, Ramađipati, người
sáng lập và là ông vua đầu tiên của Ayuthya đến đóng đô ở thành phố 1342
mà
Lampong-ragia, con của Niếcvanapađa (1346-1351) đã trị vì. Năm sau Ăngco bị
chiếm và vua Xiêm đặt lên ngôi một người con của ông, ông này mất ngay sau lúc
đó. Hai vua Xiêm khác kế vị nhau đến 1357 là năm 1 người em của Lampong-ragia,
trước kia trốn ở Lào, đã quay lại chiếm được thành phố và lên ngôi dưới vương hiệu
Xuryavamka Ragiađiragia1343
(Suryavamỗa Râjâdhirâja).
Ông đã bảo vệ nước ông chống lại những cuộc xâm lược mới của Xiêm và
hình như đa giữ được biên giới của mình đến Còrạt ở phía bắc và đến Pórasanh
(Prachim) ở phía Tây. Có thể chính ông năm 1370 đã tiếp nhận của hoàng đế đầu
tiên nhà Minh lệnh phải thần phục và gửi ngay đồ cống sang: “Lịch sử nhà Minh”
gọi ông là Hou enl na 1344
. Ông ở ngôi khoảng 20 năm và người kế vị là cháu ông,
con của Lampong-ragia, danh hiệu là Paramarama.
Năm 1379, trong “Lịch sử nhà Minh”1345
xuất hiện một ông vua mới Tsanta
Kanwou tchotchetatche, Samdach Kambujâdhirâja, có lẽ cần đồng nhất với
Paramarama mà người ta không biết chút gì.
Khoảng năm 1380 em ông là Dhammsâ - sokarâjâdhirâja1346
kế vị, ông này
xuất hiện trong “Lịch sử nhà Minh” năm 1387 dưới cái tên Tsan lie Paopisie
Kanpoutche, Samdach Chao Ponhea Kamunja.
Năm 1393, vua Xiêm Ramexuen (Ramesuen = Râmécvara) xâm lược
Campuchia và đóng quân ở trước kinh đô, năm sau thì kinh đô bị chiếm1347
. Vua
Dhammasôka bị giết và được thay bằng con của vua Xiêm Suđaragia, ông này cũng
bị ám sát ngay sau đó1348
.
Năm 1404 “Lịch sử nhà Minh”1349
ghi tên vua Tsanlie Popiya, Samdach
Chao Ponhea mà xuất xứ còn mơ hồ1350
. Cái chết của ông được triều Trung Quốc
loan báo năm 1405, và con ông lên kế vị tên là Tsan lie Tchaopingya1351
, chắc là
tương ứng với Chao Ponhea Yat1352
. Ông này khi lên ngôi đã lấy danh hiệu vinh
1342
W. A. R. Wood “Lịch sử Xiêm” T. 65. 1343
F. Garnier - sđd. T. 341 - 342. A. Leclère - sđd. T. 195 - 207. 1344
A. Rémnsat - sđd. T.91. 1345
- nt - T. 92. 1346
F. Garnier - sđd. T. 343 - A. Leclè re - sđd. T. 21 1347
A. Rémusat - sđd. T. 93 1348
W. A. R. Wood - sđd. T. 76 1349
F. Garnier - sđd. T. 344 1350
A. Rémusat - sđd. T. 95 1351
A. Rémusat - sđd. T. 96 1352
F. Garnier - sđd. T. 344 - G. Maspero “Đế quốc Khơme” T. 56 - A.Leclère - sđd. T. 216
223
quang của triều Xuryavácman. Trải qua suốt triều đại khá dài gần 50 năm và khó
bảo vệ. Sau một thời gian ngắn ở Basan (Srei Santhor), nạn lụt đã đuổi ông đi đến ở
vùng Bốn nhánh, trên danh thắng hiện nay là Pnông Penh1353
.
2. Nước Chàm: từ triều Chế Bồng Nga (1360-1390) đến việc từ bỏ
Vigiaya vĩnh viễn (1471).
Trong cuốn “Vương Quốc Chàm” của G.Maspero, chương IX đã kể lại triều
của Chế Bồng Nga, và đặt tên là “thời kỳ thịnh đạt”. Từ ngữ đó có thể đưa lại một
quan niệm hoàn toàn không đúng về tầm quan trọng của triều đại 1 ông vua mạo
hiểm, có nhiều chiến tích mà người ta có thể ví với tia sáng màu lục của mặt trời
lúc hoàng hôn. Đứng trước sức bật của người Annam và sức ép của về nhân khẩu
của họ qua nhiều thế kỷ, những âm mưu khôi phục lại của Chế Bồng Nga hình như
không hợp thời và đã bị kết án trước là không có ngày mai.
Người ta không biết gì về nguồn gốc nhân vật đó mà “Lịch sử nhà Minh” gọi
là Ngota Ngotchô, và hình như còn sống lại trong truyền thuyết của người Chàm
dưới cái tên Binasuor1354
. Triều của ông phải bắt đầu từ 1360. Trước hết lợi dụng sự
suy sụp của Mông Cổ, rồi hòa hoãn với nhà Minh đầu tiên là người công nhận ông
là vua nước Chàm năm 13691355
, từ năm 1361 đến 1390 Chế Bồng Nga tiến hành 1
cách liên tục hàng loạt chiến dịch thắng lợi chống lại: 1365, cướp phá bến Du Lí1356
,
1368 người Annam thua ở chỗ gọi là Hang Chàm, thuộc Quảng Nam17
; 1371 xâm
chiếm đồng bằng Bắc Kỳ và cái túi (cái bị) Hà Nội 18
; 1377, người Annam thua ở
Vigiaya (Chà Bàn) thuộc Bình Định, và vua Trần Duệ Tôn chết, tiếp theo là cuộc
xâm chiếm Bắc Kỳ lần thứ 2 và lại cướp phá Hà Nội19
; 1380 cướp phá Nghệ An và
Thanh Hóa20
; 1384, tấn công Bắc Kỳ bằng đường bộ21
; 1389, chiến dịch mới thắng
lợi ở Bắc Kỳ đã đưa người Chàm đến tỉnh Hưng Yên hiện nay22
.
“Chính lúc đó sự bội phản của 1 sỹ quan cấp dưới đã chặn đứng việc tiến
quân thắng lợi của người Chàm và đã cứu nước Annam ra khỏi họa xâm lược từ đó
nó có thể uy hiếp nền độc lập của nước này”23
. Chế Bồng Nga bị vây trong thuyền
và bị giết chết (2 - 1390), quân Chàm phải rút lui.
Một trong các tướng của ông mà người. Annam gọi là La Khải, và một bút
tích Chàm ở Bình Định gọi là Giaya Ximhavacman24
, đã kế vị sau khi loại trừ được
1353
G. Coedès “Sự thành lập Pnông Pênh”. BEFEO XIII, 6, T.6. 1354
E. Aynuonier “Truyền thuyết lịch sử Chàm” XIV, Số 32 1355
G. Maspero - Vương quốc Chàm” T. 203 1356
,17, 18, 19, 20, 21, 22, 23
- nt - trang 204, 205, 206, 209 - 210, 211 - 212, 214, 216 - 217, 217 24
L. Finot. BEFEO XV, 2. T.13 - 14; XXVIII, T. 291
224
con ông. Ông vua mới phải bỏ lại cho nước Annam tất cả lãnh thổ ở phía Bắc đèo
Hải Vân, tương đương với các tỉnh hiện nay là Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên
mà tiền nhân ông đã thu hồi lại được25
.
Ông mất năm1400,con ông lên thay, tên là Ngôốc Cơlâng Vigiaya (Ngank
Klang Vijaya) mới đầu lấy tên là Virabađơravacman (Virabhadravarman) và đến
năm 1432,sau khi đăng quang,lại lấy vương hiệu là Inđơravácman26
“Lịch sử nhà
Minh” gọi ông là Tchangpatilai (Champâdhirâja) và Biên niên sử Annam gọi là Bá
Địch Lai.
Triều của ông mở đầu rất xấu vì năm 1402 để tránh một cuộc chiến tranh với
Annam,ông phải nhượng lại tỉnh Inđơrapuyra ở phía Bắc nước của Amaravati27
,
tương ứng với Quảng Nam hiện nay, và ở đó trái tim của nước Chàm cổ xưa còn
đập trong các cung điện của Bađơrecvara (Mĩ Sơn). Năm 140728
ông đã lấy lại được
tỉnh đó, nhờ sự giúp đỡ của Trung Quốc khi quân của họ sang nhằm mục đích thuần
túy và đơn giản là thôn tính nước Annam bằng cách trừ bỏ triều nhà Hồ đã chiếm
đoạt ngôi vua (1400 - 1407).
Được rảnh tay ở phía Bắc, vua Chàm quay về phía Campuchia do
Pônghoayát (Ponheayat), ông vua cuối cùng ở Ăngco trị vì, và năm 1421 ông đã kỷ
niệm những chiến thắng của ông đối với người Khơme bằng bút tích Víkim ở Biên
Hòa29
.
Lê Lợi, người giải phóng nước Annam,lên ngôi năm 1428 đã đánh dấu sự
phục hồi lại quan hệ hòa bình giữa Chàm và người láng giềng phía Bắc30
.
Một truyền thuyết Giava, rất khó hòa hợp với các bằng chứng cuối cùng của
minh văn Chàm hãy còn mang tính chất Ấn Độ, muốn rằng đầu thế kỷ XV, Hồi giáo
đã được đưa vào Giava do một công chua Chàm, em gái vua, đã lấy một trong các
ông vua ở Môgiôpahit31
. Người ta không có một chút bằng chứng quyết đoán nào để
nói rằng đạo Hồi đã thâm nhập nước Chàm trước khi người Chàm mất Vigiaya năm
1471.
Sau một triều đại dài và khá sung sướng, Ngôốc Cơlâng Vigiaya tức
Inđravacman VI, chấm dứt năm 1441,sự suy sụp của đất nước này tiến triển rất
25
G. Maspero - sđd - T..220 26
L. Finot - sđd - 27
G. Maspero - sđd - T. 221 28
- nt - T. 224 29
A. Cabaton “Bút tích Chàm ở Biên Hòa” BEFEO IV, T. 687. 30
G. Maspero - sđd - T. 226 - 227. 31
- nt - T. 228. N. J. Krom “Ấn Độ - Giava”, T. 452
225
nhanh. Trong 30 năm, 5 ông vua kế tục nhau giữa những cuộc nội chiến và sự xâm
lấn của người Annam thuộc các triều Lê Nhân Tôn và Lê Thánh Tôn32
Kinh đô
Chàm Vigiaya ở Bình Định (Chà Bàn) lần đầu tiên bị chiếm năm 144633
rồi được
lấy lại. Năm 1471, nó mất hẳn vào tay người Annam với 6 vạn người bị chết, 3 vạn
người bị cầm tù trong đó nhà vua và 50 người trong hoàng gia34
. Nước Chàm, từ
nay bị thu hẹp trong lãnh thổ ở về phía nam mũi Varienla, ở đó nó còn sống vất
vưởng 1 thời gian, và ngày nay còn sót lại những di tích cuối cùng của dân tộc
Chàm35
.
3. Giava: từ lúc Hayam Uyrúc = Ragiaxanagara lên ngôi đến mãn triều
vương quốc Môgiôpahít (khoảng 1520).
Ở Giava, triều đại khá dài của Ragiaxanagaru (1350 - 1389) đánh dấu thời kỳ
cực thịnh của vương quốc Môgiôpahít. Nó mở đầu bằng 1 thảm kịch đẫm máu trong
đó 1 ông vua Maharagia nào đó bị chết,mà bút tích 133336
coi như là người sáng lập
ra vương quốc Pagiaragiăng (Pajajaran), vương quốc Xunđăng mà đến đầu thế kỷ
XVI còn chiếm phần phía tây đảo Giava37
. Năm 1357 ông tới Môgiôpahit, đem theo
con gái đi, sau này nàng lấy Rugiaxanagara, rồi đóng ở Buybát (Bubat), phía bắc
kinh đô. Ông nghĩ rằng đây là sự hôn phối bình đẳng, môn đăng hộ đối, nhưng tể
tướng Gagiátmađa lại coi cô dâu như 1 công chúa chư hầu được đem đến làm đồ
cống. Cuộc tranh cãi chuyển hóa thành cuộc xung đột vũ trang trong đó ông vua
Xunđăng và tùy tùng bị giết chết38
.
Sự bành trướng của quyền bá chủ của Giava ở thời Ragiaxanagara toát lên từ
danh sách các thuộc quốc của Môgiôpahít truyền lại trong cuốn Nagaraciritagama39
.
Nó bao gồm hầu hết Ấn Độ Nêéclăngđe (có lẽ trừ phía bắc Xêlepbơ) và một phần
bán đảo Mãlai40
, nhưng không kéo dài tới Philippin.
32
Bicai (Trung Quốc = Pikai = Vigiaya), cháu Inđơravácman VI (1441 - 1446); Quy lai (TQ: Konei - Lai)
con Inđơravácman VI (1449 - 1449); Quido (TQ: Konei Yeou) em của ông trên (1449 - 1458); Bunlatrà
nguyệt (TQ: Panloyne) con rể Vigiaya (1438 - 1460); Bàn La Trà Toan (TQ: Panlo Tontaiuan), em ông trên
(1400 - 1471) (G. Maspero - sđd - T. 230 - 239) 33
- nt - T. 231 34
- nt - T. 237 - 239 35
J. Leuba “Người Chàm và nghệ thuật của họ” Paris 1923 36
Bút tích của Batu Tulis ở Buitenrorg. Viẹc làm gần đây nhất về bút tích này, 1 thứ bút tích được biết cổ
nhất, là của ông R. N. Poerbatjiaraka, Taijd. Bat. Gen. 59, 1921, T. 380 37
Barros “De Asia” IV, I, chương 12. 38
Paraton. Brandes xbản. Verh. Bat. Gen. 62, 1920, T. 157 - 158 - ccBerg “Kidung Sunda - Bijdr. 83.1927,
T. 1 - N. Y. Krom “Ấn Độ - Giava” T. 402 - 404. 39
H. Kern “Vespr. Gesch”. T. 240 - 242, 278 - 279 40
Xem trang (403) danh sách các thuộc quốc ở Xuymatơra và trên bán đảo, tương ứng với lãnh địa cũ của
Xirivigiaya.
226
Ở Bali, các hiến chương 1384-1386 mang danh nghĩa vua Vigiayaragiaka tức
Bhe Wengker41
hình như chỉ ra rằng các ông chú của Ragiaxanagara đó có vai trò như
một thứ phó vương, nếu không nói là có thực quyền bá chủ. Sự Giava hóa một cách
rộng lớn đảo Bali ở thế kỷ XIV, có nguyên nhân hàng đầu là việc chinh phục năm
1343, càng quan trọng đối với số phận sau này của hòn đảo hơn là sự di thực lớn của
người Giava vào thế kỷ sau42
.
Một bít tích Giava thời đó tìm thấy ở đảo Xumbava (Sumbawa)43
tạo nên
bằng chứng xác thực về sự bành trướng của Môgiôpahit ở phía đông quần đảo.
Theo Nagarakritâgama44
thì các nước có mối giao hiếu tốt với Môgiôpahit là
Xiăngcayôđuyapuyra (Syangkâyodhuyapura) (tức nước Xiêm + Ayuthya),
Đácmanagari (Ligor), Marutna (Máctabăng), Ragiapuyra (?), Xanhganagari (?),
Chàm, Cămpuchia và Yavana (Annam). Mối quan hệ giữa Ragiaxanagara với
Trung Quốc được chứng nhận trong “Lịch sử nhà Minh”45
ghi vào năm 1370 đến
1381 nhiều sứ thần của vua Patanapanawon = Bhatara Prabhu, 1 vương hiệu đơn
giản. Giữa các sứ thần năm 1377 và 1379, văn bản Trung Quốc chép rằng ở đảo
Giava, có một ông vua ở phía tây và một ông vua ở phía đông; ông trên tên là
Woulaopowou, 1 cách phiên chữ Bhatara (đúng hơn là Bhra) Prabhu; ông thứ 2 là
Wonyuanlaowangkie46
theo ý tôi đại diện cho Bhre Wengker tức Vigiayaragiaxa mà
người ta vừa ghi lại những sắc chỉ ở Bali năm 1384-1386. Nếu các tài liệu do “Lịch
sử nhà Minh” đúng là vào thời kỳ 1377-1379, cần phải kết luận rằng việc chia
vương quốc ra làm hai có ảnh hưởng rất bất lợi cho triều đại sau, đã có từ thời
Ragiaxanagara là người đã giao phó cho chú mình cai trị 1 phần của đất nước. Cuốn
sử thi Nagarakritagama được sáng tác dưới triều này do Prapancha47
đã cho 1 quan
niệm về việc cai trị đối nội của nước này lúc đầu triều đại48
. Ở giữa, nhà vua có cha
là Critavácđama và chú là Vigiayaragiaxa kèm 2 bên, rồi đến môt bộ máy quan
chức có phẩm trật, đứng đầu là một hội đồng gồm 5 quanThượng thư. Thượng thư
chính là mapatít (mahâpati) là ông già Gagiát Mađa đã biến khỏi sân khấu chính trị
41
W. F. Stutterheim “Vudheden van Bali” I, T. 191 - ccBerg “de Middejar. hist. Fraditic” T. 9 42
N. J. Krom “Ấn Độ - Giava” T. 410 43
G. P. Rongfear Not. Bat. Gen. 1910 - T. 110 - 113 44
sđd - T. 279 45
W. P. Groenveldt “Ghi chép về quần đảo Mãlai” Verh. Bat. Gen. 39. 1888. T. 35 - 36. Pararaton T. 164 46
W. P. Groenveldt - sđd - khôi phục lại Bogindo Bongkit và G. Ferrand nhfục Bkara Wangye. Cả hai tên đó
không tương ứng với cái gì đã biết cả. G. Ferrand nghĩ rằng chữ thứ hai yuan cần phải bỏ đi, điều đó có lẽ
đúng sự thực. Wangkie cólẽ là phiên từ chữ Wengker. 47
No. H. Kern xuất bản và dịch “Verspreide Geschrifton VII và VIII. Xem Himansu Bhusan Sarkar “Ảnh
hưởng Ấn Độ vào văn học Yana” T. 385 48
N. J. Krom “Ấn Độ Giava” T. 419 - 421.
227
năm 1364 sau nửa thế kỷ cống hiến cho triều đại. Tên tuổi của ông gắn liền với việc
soạn ra bộ luật mà người ta chỉ còn lại bản đúc lại muộn màng49
.
Ngoài Prapoencha tác giả Nagarakrifagan triều vua Ragaxannagara, về mặt
văn học, còn nổi danh nhờ nhà thơ Tantular, tác giả của Arjunavijaya và
Purushâđacanta (hay Sutáoma) rất quý để hiểu về hỗn thành giáo Xiva Phật50
.
Các công trình xây dựng tôn giáo của triều này có rất nhiều. Cái duy nhất
đáng ghi lại ở đây là một ngôi đền trung tâm ở Panatarăng, với hàng phù điêu nổi
tiếng trình bày các cảnh trong Ramayana và Krishnâyana: bắt đầu từ 1347 dưới chế
độ nhiếp chính, nó được Ragiaxanagara bổ sung vì đối với ông ta, đó là ngôi đền
ông ưa thích nhất .
Ragiaxanagara mất năm 1389 và người kế vị là Vicoramavácđana vừa là
cháu vừa là con rể ông. Bắt đầu từ triều này, Môgiôpahit suy tàn dần và càng đến
người kế vị sau càng suy nhanh. Nguyên nhân chính là sự phát triển của Malắcca
như trung tâm thương mại và truyền bá đạo Hồi,mới đầu nhập vào vùng bờ biển51
,
và mau chóng thâm nhập vào nội địa. Bằng chứng cũ nhất về sự có mặt của đạo Hồi
ở đảo là bút tích ở Lơrăng (Leran), có từ 1082 hay 110252
, nhưng là một tài liệu
hoàn toàn đơn độc. Rồi đến bút tích năm 1419 ở Gorơxic (Gresik)53
trên mộ Malíc
Ibrahim, có lẽ là một người truyền đạo mới.
Một lý do nữa về sự suy yếu là chiến tranh giữa Viciramavácdana với anh rể
là Virabuni, con của Ragiaxanagara với một người thiếp, đứng ở phía đông như ông
chú Vijayaragiaxa (Bhre Wengker) đã làm trước kia.
Chiến sự bắt đầu từ 1401 và chấm dứt năm 1406 vì Virabuni chết54
.
49
Pararaton - sđd - T. 196 50
Himansu Bhusan Sarkar - sđd - T. 230, 318 - 322 51
Trong cuốn “Ying yai chung lan” Mahonan đi theo quan thị TchengHono trong chuyến đi năm 1413 phân
biệt 3 loại dân ở Giava: Người Tây phương (Hồi giáo) đến cư trú như là những thương nhân, người Trung
Quốc theo tập quán người Hồi và thổ dân (Rockhill - sđd - XVI, 1915 - T. 242) 52
Moquetti “Hand. Yste Congress” 1919, T. 31. Ravaisse - Tifd. Bat. Gen. 65, 1925, T.668 53
Scprieke “Het bvek van Bonang” 1916, T. 28. 54
Pararaton-sđd-T. 177. N. J. Krom “Ấn Độ-Java” T. 430-432-“Lịch sử nhà Minh” (Groenveldt - sđd - T. 36;
Pararaton sđd-T. 180) ghi chép rằng năm 1403 việc chia đôi nước ra giữa vua mièn tây Toumapan ở Tumapel
và Poulinh Taha ở Bhreng Đaha. Quan thị Tcheng Hounou, phái viên của Hoàng đế Yong Lo nhà Minh,
trong chuyến đi đầu tiên ra nước ngoài, năm 1406 thấy sự suy sụp của vương quốc phía đông và nhận lời xin
lỗi của kẻ thắng trận vì đã giết chết mất 170 người tùy tùng của ông (W. P. Groemeldt - sđd - T. 36 - 37)
Kết luận lại từ văn bản đó là Tvumapan (Tumapel) phải đồng nhất với Vikramavácđana, hay có lẽ với con
ông mang danh hiệu Bhre Tumapel, và Ponlinh Taha (Putreng Daha) chỉ Virabumi (N. J.Krom - sđd - T. 431
- 432). Các dữ kiênh rậm rạp và rối mù trong pararaton về các mối liên hệ phổ hệ nối liền các nhân vật trong
hoàng gia ở Môgiôpahít làm cho việc dựng lại lịch sử hồi này thêm khó khăn. Vì lẽ đó R. C. Majumdar
(Suvaruadvipa T. 339 – 345) đã dựng lên một giả thuyết là năm 1400 Vikramavácđana đã thoái vị, nhường
cho vợ, mất năm 1429 - ông đã nắm lại quyền bính năm 1415là năm “ Lịch sử nhà Minh” nói rằng nhà vua
lấy tên là Yang Weisicha, Hyang Vicesha, là một trong những tên của Vikramavácđana. Ông trị vì đến 1436,
228
Cuộc nội chiến đó đưa lại kết quả trước hết là sự suy yếu của vương quốc
Môgiôpahit, và gián tiếp là sự thành lập Malắcca năm 1402, nếu thật là người sáng
lập ra trung tâm chính trị và thương mại mới đó, Paramécvara, lúc đầu là một trong
những người chủ xướng ra tấn thảm kịch và sau trốn sang Giava và ẩn náu ở
Tumasik. Vả lại, dưới triều hoàng đế Yong Lo, Trung Quốc cố gắng hất cẳng Giava
trong việc chiếm quyền bá chủ trên bán đảo và vùng quần đảo: đó là một trong
những lý do của các sứ mệnh nổi tiếng mà quna thị Tcheng Hono55
phải thực hiện
nó dẫn tới hậu quả là hàng loạt nước chư hầu cũ của Môgiôpahít phải triều cống và
cử xứ thần sang Trung Quốc56
.
Xuyhita (Suhitâ), con gái Vicơramavácđana (Vikramavardhama), trị vì đến
1447 và người kế vị là em bà ta tên là Boro Tuymapen (Bhre Tumapel) tức
Critarigiaya (KriTavijaya) (1447 - 1451)57
. Ngay từ thời đó, hình như trước sự phát
triển của đạo Hồi, các tín ngưỡng Ấn Độ pha lẫn các nghi lễ của thổ dân, đã rút về
miền núi, những nơi này phần lớn trước kia theo các tín ngưỡng Inđonêdiêng tiền
Ấn. Quả thực người ta đã thấy được công trình xây dựng trên Ponanggungan
(Penangungan) năm 1334 - 1442; trên núi Uylitx (Wilis)bnăm 1449, trên Mécbahuy
(Merbahu) năm 1438 và 144958
.
Về những ông vua cuối cùng, Ragiaxavácđana(Râjasavardhana 1451 - 1453),
Ruyếcvavixétsa (Pũrvaviỗeska 1456 - 1466) Xinhgaricricramavácđana (Singhavi
Kramavardhama 1466 - 1478)59
, những mối liên hệ phổ hệ còn lờ mờ và có nhiều
niên hiệu cần xét lại.
Năm 1478, Môgiôpahít bị xâ lược mà nguồn gốc còn đang được bàn cãi60
, và
bắt đầu từ 1486, Giranhđơravácđana (Girindravardhama), vẫn còn thuộc văn hóa ấn
Độ như các hiến chương của nó đã chứng nhận61
. Đoàn sứ thần cuối cùng từ Giava
chứ không phải đến năm 1429 như người ta tưởng, và đến năm đó người kế vị là con gái ông tên là Bhre
Daha là tên khác của công chúa Suhitâ. 55
Về các chuyến đi của Tcheng Hono giữa 1405 và 1433, xem Griemeldt - sđd - T. 41 - 45; WW Rockhill
“Notes on the relution and trade of China “Tùng báo XVI, 1915, T. 81 - 85; J. J. L. Dupendak “Ma Huan re-
examined “Verh d. Kon. Akad. d. Viet Amsterdam, 1933, XXXII, số 3; P.Pelliot “Những chuyến hàng hải
lớn của Trung Quốc đầu thế kỷ XV” Tùng báo XXX, T. 1933, T. 237; T. Yamamoto “ Chêng Ho‟s
expeditions to the south sea under the Minh dynastie” Toyo Gakuho, XXXI, 1934, T. 374 - 404 và 506 - 554;
P. Pelliot “Ghi chép thêm về Tcheng Hono và các chuyến đi của ông” Tùng báo XXXI, 1935, T. 274; J. J. L.
Duyvendak “The true dates of the Chinese maritime expediction in the early fifteenth century” Tùng báo,
XXX, 1938, T. 341. 56
N. J. Krom - sđd - T. 439. 57
Pararaton “Sđd T. 177 – 190. N. J. Krom sđd. T. 429, 432, 444 - 446 58
N. J. Krom “Ấn Độ - Giava” II, T. 325... W. F. Stuterheim “Những cuộc khai quật ở núi Pơnanggungan”
Niên bảo thi viện khảo cổ Ấn Độ Xi, 1936, 25 - 30. 59
“Pararaton” sđd T. 199 - N. J. Krom “Ấn Độ - Giava” T. 448 60
N. J. Krom - sđd - T. 449 - 450 61
- nt - T. 450 - 451
229
sang Trung Quốc đi vào năm 149962
. Đạo Hồi phát triển rất mạnh, và những bằng
chứng chắc chắn cuối cùng về sự tồn tại của Ấn Độ giáo ở Giava có vào năm 1513 -
151563
, trước lúc người Bồ Đào Nha xâm chiếm Malắcca.
Vương quốc Môgiôpahít kết thúc vào giữa những năm 1513 và 1528. Nền
văn hóa Ấn Độ lẩn trốn vào một số vùng phía đông và nhất là ở Bali. Chính vì vậy
mà hòn đảo này trở nên một trung tâm văn hóa, nó đã bảo tồn được đến ngày nay
những điều cơ bản của văn học và tín ngưỡng Ấn Độ - Giava mà đạo Hồi đã làm
cho biến mất ở Giava. Ở Inđônêxia, Bali đã giữ vai trò bảo tồn cũng như Tây Tạng
đối với Ấn Độ Phật giáo.
4. Xuymatơra: Những người thừa kế vương quốc cổ Maharagia ở thế kỷ
XIV.
Ở Xuymatơra, vùng minangcabô (Minangkabau), Ađityavácman tiếp tục trị
vì ít nhất là đến nam 1375 là niên hiệu của bút tích cuối cùng mà người ta có được
của ông64
.
Có lẽ chính ông vua này mà ở trên người ta đã thấy có nhiều nhiệt tình đối
với đạo Phật phù chú Kalasacơra (Kâlachakra), đã được trình bày dưới dạng Xiva-
Baivara trong pho tượng rất đẹp ở Sungây Langxát (Sungei Langsat)65
.
Con ông là thái tử Anangavácman, không rõ có kế vị ông không66
.
Trên bờ phía đông của đảo, người ta thiếu tài liệu giữa các năm 1350 (năm
có quyển Taoyitchelio) và 1370 là năm hoàng đế đầu tiên nhà Minh cử sứ thần đi
các nước ngoài để đòi triều cống.
Năm 1371 “Lịch sử nhà Minh” ghi ởSanfôtsi, mà trung tâm lúc đó là
Giămbi, tên vua Mahalasa palapu (tức Mahârâja Prabhu)67
, và 2 năm sau tên vua
Tamasunaatchoo (Tamachanaatcho)68
, ông này đến 1376 được con ông là Manatchô
Uli (Manatchử Wonli = Mahârâgia Manli...) kế vị69
.
62
W. P. Groemeldt - sđd - T. 39 63
N. J. Krom - sđd - T. 458 64
H. Kerm “Vespr. Gesch” VI, T. 257 - 261 65
F. M. Schuitger “Khảo cổ học ở Xuymatơra Ấn Độ” T. 8. XIII - XVI 66
N. J. Krom. Versl. en hed. d. K. Skad. v. Wet. Amsterdam, Afd. Lutterkumde 1916, T. 338 67
W. P. Groeneveldt “Ghi chép về quần đảo Mã Lai” Verh. Bat. Gen. 39, 1880, T. 68. G. Ferrand “Đế quốc
Xuymatơra” Báo Á châu 7 + 9/1922, T. 24 68
Tên này có lẽ phiên từ chữ Mahârâja đã được được J. L. Moensphucj hồi lại (“ầrâvijaya, yâva và katâha”
Tijd. Bat. Gen. 77, 1937, T. 456) bằng Haji Dharmâỗraya, với việc lộn 2 từ lại theo quy tắc tiếng Trung
Quốc. Người ta còn nhớ rằng Dharmâỗraya chỉ vùng thượng Bađang Hari mà năm 1286 và dựng tượng
Amoghapâỗa mang từ Giava về. 69
W. P. Groemeldt - sđd - T. 69. G. Ferrand - sđd - T. 25
230
Nhưng thời đó, nước này chia vào tay 3 ông vua70
: 2 ông kia là Manaha
Pavlinpang (Mnhârâja Palembang) đã cử một sứ thần đi năm 1374, và
Sangkialeynlan71
cũng cử sứ thần đi năm 1375. Người thấy ông thứ hai này có lẽ là
sứ thần Giava cũ được triều đình Môgiôpahít cử sang Trung Quốc năm 1325 và
1332.
Người ta không biết 3 ông vua đã chia nhau lãnh thổ ầrâvijaya cũ như thế
nào. Danh hiệu Maharagia Palembang cũng đủ để xác định địa điểm và danh hiệu
Maharaja Môli ... chỉ ra người thừa kế của Môlivácmađơva ở Malayu,ở đó một ông
vua đã trị vì ở vùng Giămbi và thung lũng BađangHari. Năm 1376, ông này được
hoàng đế Trung Quốc phong cho vương hiệu “vua nước Sanfôtsi”, nhưng “Lịch sử
nhà Minh” viết: “Vào thời đó, Sanfôtsi đã bị Tchaowa (Giava) chiếm. Vua nước
này được tin hoàng đế Trung Quốc phong 1 người làm vua Sanfôtsi thì rất tức giận;
ông ta cho người đi mai phục và ám sát các phái viên của hoàng đế”.
Công cuộc chinh phục của Giava nói ở đấy, hình như là 1 cuộc hành quân
trừng phạt đối với một ông vua chư hầu có xu hướng muốn giành độc lập72
. “Lịch
sử nhà Minh” viết thêm: “Sau đó, Sanfôtsi ngày càng bần cùng và không triều cống
nữa”73
Ở đoạn dưới viết: “Vào thời đó, Giava đã xâm chiếm toàn bộ Sanfôtsi và đổi
tên là Kieou Kiang (cửa sông cũ (sông Muysi) = Palempang)74
. Khi Sanfôtsi bị đánh
bại, khắp nước rối loạn và người Giava không thể chiếm cứ hoàn toàn được. Vì vậy,
người Hoa kiều ở đó cũng nổi lên, và một người Căngtông quên Nam Hải tên là
Lương Tao Minh, 1 thời gian dài sống và lang thang trên mặt bể, được hàng nghìn
người ở Phúc Kiến và Căngtùng ủng hộ, đã được họ chòn làm thủ lĩnh75
.
Tôi dừng lại ở đây lịch sử của vương quốc Xuymatơra cổ, nghèo nàn, đang
suy sụp hoàn toàn và rơi vào tay bọn cướp Trung Quốc. Người ta đã thấy rằng các
thuộc quốc trước của nó đã được Xiêm và Giava chia nhau. Một đạo luật Xiêm năm
1358, thực ra phải vào thế kỷ XV76
, đã nêu lên như những thuộc quốc của Ayuthya
các nước sau đây: Uyong Tanah (Johre). Malâkâ, Malâyu,Varavâri77
. Còn muốn
Najarakrifogama năm 1365 cũng kể ra các thuộc quốc của Môgiôpahít, trên bán đảo
70,
72
N. J. Krôm “Ấn Độ - Giava” Gesch. T. 412 71
W. P. Groemaldt - sđd - T. 69 - G. Ferrand. sđd. T. 26
73 W. P. Groemaldt - sđd - T. 69 - G. Ferrand. sđd. T. 26
74 Về sự đổi tên này, xem P. Pelliot “những chuyến hàng hải lớn của Trung Quốc” Tùng báo XXX, 1933, T.
274, 372 - 379 75
W. P. Groenereldt, sđd, T. 71 - G. Ferrand sđd. T. 27 - 28 76
Đó là luật khẩu cái (Kot Mandirapâla) in ở tập I, nhà xuất bản Bradley, và tập I, T. 58 nhà xuất bản R.
Lingat – Xem G. E. Gerini “Điều tra về địa lý Ptôlêmy” T. 531 – 532; c. o. Blagden, báo Roy. As. Soc. 1928,
T. 915. 77
Về địa danh này còn phải xác minh
231
Mãlai, các nước sau78
: Pahang, Hujung Tarah (Johore), Lengkaruka, Sai (Saiburi),
Kalanten, Tringgano, Nagor (Patani ?), Paka (ở phía Nam Dungun), Muwar (tây bắc
Johore), Dungun (phía nam Trengann), Tumasik (Singapour), Sang Hyang Hujung
(mũi Rahado), Kelang (Trang), Keda, Jere (Gumeng Jerai, gần Kedah), Kanjap (?)
Niran (?); và ở Xuymatơra: Giămbi, Palembang, Karitang (phía nam Indragiri),
Teba (= Toba, thượng Giămbi), Dharavamâỗraya (thượng Batang Hari), Kandis
(phía bắc Dharamaỗraya), Kahwas (phía tây Kadis), Manangkabo, siyak, Rekân
(Rokan phía nam Pane), Kâmpar, Pane, Kampe, Haru (ở phía nam Kampe),
Mandahiling, Tumiheng, Parlâk, Barat (bờ biển phía tây Achin), Lawas (phía nam
Perlak), Samudra, Lamuri, Balàn (?), Lampung, Barus79
.
Nhưng người thừa kế thực sự nền thương mại phồn thịnh ở Xvrivijaya là
người Ảrập, họ đã độc quyền hóa việc buôn bán hương liệu, và trở thành đồng minh
và người bảo hộ cho các tiểu quốc Mãlai, trong lúc nước Trung Quốc, sau nhiều
chuyến hàng hải lớn dưới triều Yonglo, đã tự xét mình và từ nay bằng lòng chỉ có
nền bá chủ chính trị trên danh nghĩa đối với các nước phương nam.
Cùng với người Ảrập làm chủ nền thương mại, đạo Hồi trước đây đã cắm
chân ở Xuymatơra, trong nước Perlak (Marcôpôlô) rồi ở Xuymatơra (Ibu Batuta),
đã nhanh chóng được truyền bá trong đảo. Đầu thế kỷ XV, Ma Hounan, người
Bàlamôn Trung Quốc đi theo quan thị Tcheng Hono năm 1413, ghi trong cuốn
“Ying yai cheng lan” sự tồn tại của đạo Hồi trong các quốc gia Alon (Haru) và
Nanpôli (Lambri)80
. Tầm quan trọng của phần bắc đảo Xuymatơra như một trung
tâm truyền bá đạo Hồi, là do thế kỷ XIII, Pasè, lân cận của Xuymatơra, đã thay,
Kedah trên bán đảo như một trung tâm thương mại. Vào thế kỷ XV, Malắcca hất
cẳng Pasè, nhưng sau khi Malắcca đổ, Xuymatơra với Asin lại trở thành trung tâm
thương mại Hồi giáo chính81
.
78
H. Kern “Vespr. Gesehr: VII, T. 241, 278 - 279 - N. J. Krom “Ấn Độ - Giava” T. 416 - 417 - những tên
còn dùng hoặc dễ nhận ra thứ không có chú giải kèm theo. 79
Về lịch sử 1 vài nước nhỏ ở Xuymatơra vào nửa thế kỷ XV, người ta thấy vài chi tiết trong “Lịch sử nhà
Minh”, cũng như trong cuốn “Yingyaichenglan” của Ma Havan, và cuốn “Singtchachuylan” của Feisin viết
sau chuyến đi của quan thị Tcheng Hono (W. P. Groenveldt - sđd. T. 77 - 101; W. W. Rockhill “Ghi chép về
các mối liên lạc của Trung Quốc” Tùng báo XVI, 1915, T. 129 - 159; P. Pellivt “Những chuyến hàng hải lớn
của Trung Quốc” Tùng báo XXX, 1933, T. 275, 290 - 294. 80
W. W. Rockhill - sđd - T. 141, 150 81
R. O. Winstedt “The advent of Muhammadanims in the Malay Peninsnla and Archipelago” Báo Straito
Branch RAS 77, 12/1917, T. 171.Về việc truyền bá đạo Hồi ở Xuymatơra, tác giả còn thêm rằng từ Achin,
đạo Hồi lan sang Ulakan rồi tới Minangkabau. Đến thế kỷ XVII, dân ở vùng biển xứ Lampong bắt đầu theo
đạo Hồi, vào đến thế kỷ XVIII, đạo Hồi lan vào nội địa. Giữa thế kỷ XVI, 1 thày tu ở Palempang đi Boócnêô
và truyền đạo ở Sukadana và Madan. Năm 1606, 1 thương nhân ở Minangkabau cải giáo raja Pallo ở Xêlêbơ.
232
5. Malắcca: từ lúc thành lập năm 1403 đến lúc rơi vào tay người Bồ Đào
Nha năm 1511
Cả Máccô Pôlô, Ôđôríc đờ Poócđơnonơ, Íp Batuyta, và cả trong
Nagarakritagama (1365)82
đều không nói đến Malắcca. Rất có thể trên nơi đó đã có
một quốc gia gốc Xuymatơra, còn để lại, vết tích bằng đá ở Xanh Pôn Hin83
. Nhưng
thực sự Malắcca chỉ thành trung tâm chính trị và thương mại vào những năm đầu
của thế kỷ XV. Việc thành lập Malắcca do một người tên là Paramécvara
(Paramaỗvara) gốc ở Palempang như Albuquerque tưởng, nhưng đúng hơn là ở
Giava, và trong mọi trường hợp, đều là chồng 1 công chúa của Môjôpahít84
. Trong
thời kỳ nội chiến ở Giava năm 1401, ông ta trốn ở Tumaxíc (Singapour), giết chết
thủ lĩnh ở đó và trở thành chư hầu của Xiêm. Năm 1402 bị vua Xiêm đuổi ra khỏi
Tumaxíc, đúng hớn là do một trong các nước chư hầu của Xiêm (Pahang hay
Patani) đuổi, ông trốn về Malắcca, ở đó quan thị Yin King đã thấy ông từ 140385
.
Ông mất khoảng giữa các năm 1412 và 1414, để lại cho các người kế vị cơ sở của
một quốc gia thịnh vượng86
.
Con ông là Raja Bơxa Muyđa (Raja Bésar Muda = Muhammad Iskandar
Shah) sang Trung Quốc báo tang năm 1414. Năm 1419 ông lại cùng gia đình sang
Trung Quốc87
để nhờ giúp đỡ chống lại nước Xiêm, là nước thường xuyên xung đột
với Malắcca. Vương quốc Ayuthia muốn thay quyền bá chủ của Môjôpahít đang
suy tàn. Muhammad Iskandar Shah lấy con gái vua Pasè mới theo đạo Hồi, và ông
cũng cải giáo theo88
. Con ông là Xơri Maharagia (Sri Maharaja) lên kế vị năm 1424,
cũng sang Trung Quốc năm lên ngôi. Năm 1443 ông cùng gia đình sang TRung
Quốc lần nữa, và sau đó cử sứ thần đi cho đến năm 143589
. Năm 1444 ông mất và
con ông là Raja Ibrahim lên thay90
, “Lịch sử nhà Minh” gọi là Sili Pamisiwaenl
tieonpacha91
(Sri Paramesvaradeva Shah)92
.
82
C. O. Blagden “The mediaeval chrollogy of Malacca” Actes XI Conpès int. Orient. Paris 1897, II, T. 239 -
253 - G. Ferrand “Malaka, le Malâyu et Malâyur” Báo Á Châu 5 + 6/1918, T. 391 - 484 và 7 + 8/1918, T. 51
- 154. G. F. Rouffacer “Was Malaka emporium voor 1400 A. D. “ Bijd. 77, 1921, T. 1 - 174, 359 - 604 -
Wilkinson “The Malacca Sultanate” Báo Mal. Br. RAS, XIII, 2, 1935, T. 22 - 67. 83
“Hướng dẫn lịch sử Malắcca” 1936, T. 25 84
N. J. Krom “ấn Độ – Giava” T. 436 – 437. Ro. Winstedt “Lịch sử Mãlai” Báo Mal. Branch RAS XIII,
1935, T. 38 - PV. ran Stein Callenfels “Sự thành lâpk Malăcca” - nt - XV, 1937, T. 160. 85
P. Pelliot “Các chuyến hàng hải lớn của Trung Quốc” Tùng báo XXX, 1933, T. 397 - “Lịch sử nhà Minh”
gọi là Pailimíonla (nt. T. 389) và một bản khác thế kỷ XVI gọi là Silapaenlsonla (Duyvendak Tùng báo 1938,
T.368, số 3) 86
P. Pelliot - sđd - 87
Miêu tả trong “Ying yai chay Can” W. W. Rockhill - sđd - T. 114 - 117 88
N. J. Krom - sđd - T. 438 - 439 - R. O. Winstedt - sđd - T. 43 89
P. Pelliot - sđd - T. 398 “Lịch sử nhà Minh” (W. P. Groenreldt - nt; G. Ferrand, nt - ) gọi là Sili mahala. 90
R. O. Winstedt - nt - T. 44 91
W. P. Groenereldt - sđd - T. 131
233
Hai năm sau ông này bị giết chết trong một cuộc nổi loạn trong triều,và
người em khác mẹ là Raja Kasim, con người thiếp một con gái một thương nhân
Tamun Bàlamôn ở Pasè93
lên thay. Raja Kasim lấy danh hiệu và Mugaffar Shah94
và
trị vì 13 năm, cho đến năm 1459.
Con ông là Xuyntan Manxua Sát (Sultan Mansur Shah)95
đã mở mang bờ
cõi, nhưng đã làm mồi cho những biến loạn ở nội cung96
. Năm 1477 ông mất, con
ông là Alaútđin Riayát Sát (Alá uddin Riayat Shah) đã chết một cách bí mật năm
1488 và em ông ta là Mátmút (Mahmud), ông vua cuối cùng của Malắcca, lên
thay97
.
Malắcca trở thành một cường quốc chính trị hàng đầu, có thể chống cự lại
sức ép của Xiêm, là một trung tâm thương mại và một trung tâm truyền bà đạo Hồi
rất mạnh. Chính là thời Vátxcô đờ Gama (Vasco de Gama), sau khi hai lần qua mũi
hy vọng, đã đến Calicút (1498), mở một con đường mới để buôn bán hương liệu,
làm giàu cho người Ảrập và người Vênixiêng. Người Bồ Đào Nha đã nhanh chóng
tiến mạnh về phía đông, đi tìm một trung tâm sản xuất thứ vật phẩm hiếm hoi đó ở
châu Âu. Ngày 1/8/1509, những chiến thuyền Bồ Đào Nha đầu tiên đã vào Malắcca
dưới sự chỉ huy của đô đốc Điêgô Lôpê de Xôkêita (Diego Lopeg de Sequeira. Để
trả thù cho việc ngược đãi một vài nhân viên, 2 năm sau Affôngxô Anbuyquéccơ
(Affonso d‟Albuquecque) người chinh phục xứ Goa (25/11/1510), đã đến trước
Malắcca. Lợi dụng các cuộc nổi loạn trong thành, ông này đã chiếm thành ngày
10/8/1511. Đó là niên hiệu đánh dấu 1 thời kỳ mới trong lịch sử các nước ở Viễn
đông.
Kết Luận
Đi tới phần chót của tập sách này, nhìn ngược lại lịch sử 14 thế kỷ tạo nên
thực thể nó giúp ta nắm được sự kế tục và mối liên hệ của các sự việc nổi lên nhất.
Đồng thời người ta thấy rằng 12 chương dành cho nó (chương III đến chương XIV),
như tôi đã nói trước trong lời nói đầu, phần lớn tương ứng với bằng ấy thời kỳ được
cắm mốc bởi những thời kỳ khủng hoảng có liên quan tới những biến cốdiễn ra ở
Ấn Độ và nhất là ở Trung Quốc.
92
G. Ferrand - sđd - T. 404 93
R. O. Winsteldt - sđd - T. 45 94
Đó là “Sonlontan Wontafouna cha trong “Lịch sử nhà Minh” (Groeneveldt, sđd - T. 131 - 132 - G. Ferrand
- sđd - T. 404) 95
Sontan Mangsou cha (nt) 96
N. J. Krom - sđd - T. 453 - R. O. Winstedt - sđd - T. 47 97
N. J. Krom - sđd - T. 453 - 454 - R. O. Winstedt - sđd - T. 50 - 52 - Lịch sử nhà Minh gọi là Mahamou cha
(W. P. Groemveldt - sđd - T. 133. G. Ferrand - sđd T. 18)
234
Lịch sử các vương quốc Ấn Độ đầu tiên ở Đông Nam châu Á bắt đầu từ thế
kỷ thứ II sau công nguyên. Những vương quốc cổ nhất và được hiểu biết nhiều nhất
nhờ các sử gia Trung Quốc là nước Fù Nam và Lâm Ấp. Nước Fù Nam, tiền thân
của nước Cămpuchia ở hạ lưu sông Mê Kông, đến thế kỷ thứ II đã mở rộng sự
chinh phục tới tận bán đảo Mãlai, và hình như tạo nên một thứ đế quốc hay liên
bang các tiểu quốc Ấn Độ hóa mà quốc vương của họ mang danh hiệu “Sơn
Vương” (Vua núi). Nước Lâm Ấp hay nước Chàm cổ mà trung tâm ở vùng Quảng
Nam hiện nay, tìm cách phát triển về phía Bắc và đã vấp phải sức ép của người
Annam theo chiều ngược lại và sự phản kháng về chính trị của Trung Quốc. Đó là
bản tự ngôn của tấn thảm kịch trong nhiều thế kỷ đã đối lập người Chàm có nền văn
hóa Ấn Độ với người Annam được Trung Quốc khai hóa (C. III).
Giữa thế kỷ IV, các cuộc chinh phục của hoàng đế Xamuyđơragiúpta ở thung
lũng sông Hằng và phía Nam Ấn Độ đã gây nên một cuộc di thực mới về phía đông,
đưa tới kết quả là ở Fù Nam, một người Ấn Độ - xittơ lên nắm quyền, và ở nơi khác
là sự bành trướng chung của việc Ấn Độ hóa các nước hải ngoại trong đó người
Panlava ở Căngsi (Pallavas de Kânchi) hình như giữ vai trò ưu thế.MInh văn hầu
như không có trước thế kỷ IV, đã phát hiện ra vào thế kỷ V sự có mặt của các tiểu
vương quốc Ấn Độ ở Boócnêô và Giava, và cho phép, từ thế kỷ IV đến thế kỷ VI,
giao tiếp với các dữ kiện của biên niên sử Trung Quốc có liện quan đến Fù Nam và
Lâm Ấp (Chương IV).
Cả thời kỳ đó được đánh dấu bằng sự hơn hẳn của Fù Nam, phần lớn tương
ứng với một thời kỳ rối ren trong lịch sử Trung Quốc: thời kỳ Tam Quốc và thời kỳ
Lục Đại.
Giữa thế kỷ VI, đế quốc Fù Nam sụp đổ và trên đống hoang tàn của nó mọc
lên vương quốc của người Khơme hay Cămbuygia trong thung lũng hạ lưu sông Mê
Kông. Đồng thời hai cường quốc mới xuất hiện ở phía tây bán đảo Đông Dương:
vương quốc người Môn ở hạ lưu sông Mê Nam, trung tâm của vương quốc
Đvaravati, và vương quốc người Piu ở châu thổ sông Irauađi. Sự suy yếu của các
triều đại nhà Tần và Tấn ở Trung Quốc tạo điều kiện thuận lợi cho sự củng cố
vương quyền của các ông vua Chàm ở hai triền của đèo Hải Vân. Sự xuất hiện ở
Giava một quốc gia mang tên Hôling (Kalinga) trong sử Trung Quốc có lẽ là sự
phản xạ của các cuộc chinh phục của các ông vua Ấn Độ Puylacơxanh (Pulakeỗin)
và Hácsa (Harsha) ở Calanhga trên bờ phía đông Ấn Độ, tiếp theo là một cuộc di
thực mới về phía đông của một số nhân tố dân chúng (chương V).
235
Sự nảy sinh và bành trướng nhanh chóng của vương quốc Xuymatơra
Xơrivigiaya (Palembang) vào cuối thế kỷ VII, là hậu quả xa xôi của việc phân tán
nước Fù Nam, đã đánh dấu bước khởi đầu của một kỷ nguyên mới. Ở Cămpuchia,
trong suốt thế kỷ VIII, là thời kỳ hỗn loạn và phân tranh giữa vùng thượng và vùng
đồng bằng; ở Chàm quyền lực trung ương quay về phía nam. Nửa sau thế kỷ VIII đã
chứng kiến sự xuất hiện ở trung phần Giava, một triều đại Phật giáo đã đột nhiên
thay thế cho một ông vua theo đạo Xiva, và đã khôi phục lại được vương hiệu “Sơn
vương” (Xailăngđơra = ầailendra), đã phủ lên khắp nước những kiến trúc Phật giáo
lớn và hình như đã thực hiện ở vùng biển phía Nam một thứ bá quyền lan tới tận
Cămpuchia. Đồng thời, hàng loạt cuộc viễn chinh đường biển, khởi hành từ các đảo
Xôngđơ, đến tàn phá từ bắc chí nam vùng bờ biển bán đảo Đông Dương. Thời kỳ
sóng gió tiếp liền sau việc lên ngôi của nhà Đường ở Trung Quốc và đồng thời với
thời kỳ phồn thịnh của triều đại Phật giáo đó cũng là thời kỳ bành trướng của đạo
Phật Mahayana ở ngoại Ấn dưới ảnh hưởng của triều đại Ấn Độ Pala và trường đại
học Nalăngđa (Nalanda) ở Bănggali (Chương VI).
Sự phục hưng của vương quốc Khơme năm 802, việc giải phóng nó ra khỏi
bá quyền Giava và sự thành lập vương quyền Ăngco sau này trong 4 thế kỷ trở
thành một trong những cường quốc thống trị ở vùng ngoại Ấn, đã gặp thuận lợi cho
việc các “Sơn vương” Xailăngđơra Phật giáo lùi dần ở Giava. Điều đó kèm theo ở
vùng trung tâm của đảo sự tái sinh đạo Xiva có gốc từ phía đông, là nơi các ông
hoàng của triều đại Xiva cũ đã lui về ở đó. Về phía mình, các Xailăngđơra, đến giữa
thế kỷ IX đã cai trị nước Xơrivigiaya như một thuộc quốc, đã dựng lên sau đó, trong
nhiều thế kỷ, trung tâm vương quyền của họ.Trong một phần tư thế kỷ IX, hai thủ
lĩnh tương lai của lịch sử Miến Điện, vương quốc Môn Pơguy (Pegu) và vương
quốc Miến Pagăng (Pagan) đã lần lượt xây dựng kinh đô của họ cách nhau vài năm
(Chương VII).
Sự nở rộ của nền văn minh Ăngco vào cuối thế kỷ IX và trong thế kỷ X, sự
tái lập trung tâm vương quyền Chăm ở vùng Quảng Nam với triều đại vua
Inđơrapuyra (Indrapuyras), sự phát triển thế lực trên biển của Xơrivigiaya nhờ việc
làm chủ các eo biển, đã trùng hợp với sự suy yếu của quyền lực Trung Quốc cuối
triều nhà Đường và dưới thời Ngũ Đại. Cuối thế kỷ X, nước Trung Hoa phục
hưngnhờ việc lên ngôi của nhà Tốnglại tìm cách can thiệp vào vùng biển phía
namvà tham gia vào các cuộc xích mích giữa các Xailăngđơra ở Xuymatơra và các
ông vua Giava ở vương quốc Makaram thành lập một cách chắc chắn ở phía đông
của đảo (Chương VIII).
236
Ba phần tư đầu của thế kỷ XI là thời kỳ xuất hiện nhiều nhân vật hùng mạnh
và nhiều biến cố có ảnh hưởng lớn. Ở Cămpuchia, Xuryavácman I (Suryavarman I)
năm 1002 sáng lập ra một triều đại mới, mở mang quyền lực đến tận sông Mê Nam
làm thiệt hại đến người Môn trước đây đã chiếm cứ vùng thung lũng này. Triều của
ông gần như hoàn toàn trùng với triều của Erlăngga (Airlanga) là người đã kéo
Giava ra khỏi tình trạng hỗn độn,chìm ngập trong đường lối chính trị xâm lược của
Xơrivigiaya, đã mở mang bờ cõi của đất nước vừa chiếm lại được, và lợi dụng sự
suy yếu tạm thời của Xirivigiaya sau chuyến viễn chinh xâm lược Côla (Chola) năm
1025 để đẩy xa kẻ địch thủ cũ ở Xuymatơra bằng cách buộc phải liên minh với
mình. Vào lúc mà Erlăngga và Xuryavácman I sắp biến khỏi vũ đài lịch cử giữa thế
kỷ XI, Anôrata (Anôratha), vua nước Pagăng đã đẩy mạnh công cuộc chinh phục
của mình vào vùng đồng bằng sông Inranađi, và đã mang nền văn minh môn với
đạo Phật tiểu thừa về cắm chắc ở đất nước của ông (Chương IX).
Sự suy yếu của triều đại nhà Tống vào cuối thế kỷ XI rất thuận lợi cho dã
tâm tham lam của các ông vua Khơme, Chàm và Miến Điện. Ở Cămpuchia, một
triều đại mới được thiết lập năm 1082 lần đầu tiên đã đưa thế lực của đất nước đến
cực điểm dưới triều ông vua chinh phục Xuryavácman II, người xây dựng nên
Ăngcovát. Nhưng những cuộc biến loạn xảy ra sau khi ông mất đã đưa đất nước của
ông đến bờ suy sụp và năm 1177 đã dẫn đến chỗ mất Ăngco vào tay người Chàm. Ở
Miến Điện, các vua kế vị Auôrata mở mang đất nước họ, và xây dựng nhiều công
trình kiến trúc khắp nơi. Ở vùng quần đảo Nam Dương, vương quốc Xuymatơra
tiếp tục là một cường quốc mặt biển, còn ở Giava, vương quốc Cađiri (Kađiri), kế
thừa các quốc gia của Erlăngga, cũng tiếp tục tồn tại một cách thanh bình (Chương
X).
Cuối thế kỷ XII,nước Cămpuchia, nhờ một sự vươn mình khá kỳ diệu, cùng
với ông vua theo đạo Phật Giayavácman VII (Jayavarman VII), 1 nhà xây dựng đền
chùa nổi tiếng, lần thứ hai đã đạt tới đỉnh cao trong quyền uy của mình và đã thôn
tính nước Chàm trong khoảng 20 năm: rồi sau những sự mệt mỏi do đã nỗ lực phi
thường, nó bắt đầu xuống giốc. Ở Miến Điện, ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ tác động
vào qua vai trò trung gian của Xâylan: đạo Phật Xâylan, nhờ vua Paracoramabahuy
(Parâkramabâhu) cách tân trong đảo ở thế kỷ XII, đã thâm nhập vào Miến Điện và
tạo thành một trung tâm để sau này tỏa ra trên khắp bán đảo Đông Dương. Ở quần
đảo Nam Dương, nước Malayu (Giămbi) sẵn sàng tiếp nhận gia sản của Xơrivigiaya
(Palembang) nước này bắt đầu có những dấu hiệu già nua và rã rời. Ở Giava, sự
xuất hiện vương quốc Xanhgaxari (Singhasâri) tiếp theo nước Cađiri năm 1222,
237
đánh dấu bước đầu sự rút lui của nền văn hóa Ấn Độ trước tình trạng khẩn cấp trở
lại của thực thể Inđônêdiêng (Chương XI).
Công cuộc chinh phục của Mông Cổ ở thế kỷ XIII và những âm mưu chiếm
bá quyền của Hốt Tất Liệt, người kế tục các hoàng đế nhà Tống, lên các biển phía
nam bắt đầu từ 1260, đã gây nên nhiều phản xạ nghiêm trọng lên các nước này.
Những chiến dịch của các thủ lĩnh quân sự Mông Cổ ở Chàm, Miến Điện và Giava
và đường lối chính trị quân sự của triều đình Bắc Kinh có lợi cho sự tan rã của các
quốc gia Ấn Độ cũ thành những tiểu công quốc thổ dân, đã gây nên vào giữa thế kỷ
XIII sự giải phóng của người Thái ở trung lưu sông Mê Nam trước kia và thần phục
người Khơme, và thành lập nên vương quốc Xiêm Xuykhôthái (Sukhốtai). Mười
lăm năm cuối cùng của thế kỷ XIII đã chứng kiến sự sụp đổ của vương quốc Pagăng
bị quân Mông Cổ tàn phánăm 1287, sự bành trướng của người Thái sang Miến
Điện. ở vùng thung lũng cao thuộc các nhánh sông Mê Nam có hai chi người Môn,
ở hạ lưu sông đó và trên sông Mê Kông có hại cho người Khơme. Đồng thời, người
Chàm bỏ các tỉnh phía bắc đèo Hải Vân, và ở Giava vương quốc Môgiôpahít
(Môjopahit) thành lập năm 1292 đã thực hiện kên vương quốc Xuymatơra một sức
ép mà cộng với sự bành trướng của người Thái ở Xuykhôthái vào bán đảo Mãlai, đã
dẫn tới sự tan rã của đế quốc Maharagia cũ. Những cuộc xâm nhập của người Hồi
giáo vào Ấn Độ chính quốc và sự phát triển của Hồi giáo ở vùng quần đảo Nam
Dương gióng lên hồi chuông cáo tử cho nền văn hóa Ấn Độ ở vùng ngoại Ấn. Tuy
nhiên đạo Phật Xâylan thâm nhập vào từ Miến Điện qua Xiêm, đã tiến triển rất
nhanh ở những nước ven bờ sông Mê Nam và sông Mê Kông (Chương XII).
Trong nửa đầu thế kỷ XIV, người Thái củng cốvị trí trên bán đảo Đông
Dương, ở đó, họ đã làm chủ nước Miến Điện và vùng thung lũng thượng lưu sông
Mê Nam (vương quốc Xuykhôthái và Lanna), họ đã thiết lập nên trên sông Mê
Kông vương quốc Lào Lan Sang (Lan Ch‟ang), và sau đó châu thổ hạ lưu sông Mê
Nam vương quốc Ayuthya, nó đã thôn tính vương quốc Xuykhôthái, người láng
giềng phía bắc của nó. Bị các nước chư hậu cũ đe doạ, nước Cămpuchia, nhờ vết
tích của uy lực cũ, đã truyền lại cho các nước đó những gì còn lại của nền văn hóa
Ấn Độ. Nước Chàmthì ngày càng bị sức ép của người Annam ở phía bắc. Ở phía
nam, Môgiôpahít thực hiện bá quyền không chối cãi được vì Xơrivigiaya đã có
được thực quyền đó (hoặc là đã trải qua). Thời kỳ Ấn Độ của vùng ngoại Ấn chấm
dứt (Chương XIII).
Sự suy tàn của triều đại Mông Cổ vào nửa sau thế kỷ XIV rất có lợi cho việc
tập hợp các tiểu quốc đứng giưa hai luồng ảnh hưởng của 2 thế lực lớn: Ayuthya và
238
Môgiôpahít. Việc bỏ Ăngco của các vua Khơme vào giữa thế kỷ XV, việc bỏ
Vigiaya của người Chàm vào năm 1471 đã đánh dấu sự rút lui vĩnh viễn của 2
vương quốc đã Ấn Độ hóa già cỗi trước sưvs ép về phía Nam của người Thái và
người Annam. Ở quần đảo Nam Dương, đạo Hồi thắng thế ở Giava vào khoảng
1520 và nền văn hóa ấn Độ phải trốn về đảo Bali. Malắcca, từ đầu thế kỷ XV đã
thừa hưởng thế lực thương mại của các vương quốc Xuymatơra, đến năm 1511 đã
rơi vào tay người châu Âu (chương XIV)
Từ bản tóm tắt này toát lên rằng vùng ngoại Ấn đã cảm thấy ảnh hưởng của
các biến cố chính trị xảy ra ở Ấn Độ và nhất là ở Trung Quốc, đã trải qua nhiều thế
kỷ đã nhận nhiều luồng tinh thần từ Ấn Độ tràn vào.
Các cuộc cách mạng xay ra ở vùng này ngược lại không gây nên 1 phản xạ
đáng kể đối với lịch sử thế giới, và ngoài lĩnh vực nghệ thuật, nó không làm giàu
thêm được 1 tác phẩm bậc thầy nào cho di sản tinh thần của nhân loại.
Chính vì tính chất thuận túy thụ cảm đó mà vùng ngoại Ấn từ lâu bị lãng
quên. Nó chỉ đi vào lịch sử khi nó được Ấn Độ khai hóa. Không có ấn Độ, quá khứ
của nó hầu như không được biết tới và người ta không biết gì đến quá khứ của
Tântâylan và Úc.
Nếu các nước mà lịch sử được phác qua trong cuốn sách này phải lấy của Ấn
Độ tất cả các tước vị quý tộc và đến cả đặc quyền có được một lịch sử, thì rõ ràng là
bất công nếu bỏ qua những điều mà gián tiếp nó đã trả lại. Trước hết đối với người
Ấn Độ, họ có quan niệm, với sự tiếp nhận một cách cao quý của từ ngữ này,là một
dân tộc thực dân lớn, mặc dầu mọi trở ngại về nghi thức và mọi thiên kiến chủng
tộc hình như ngăn cấm nó. Sức mạnh bành trướng của nền văn hóa và sưvs bật của
nền văn minh của nó, mà hình như chưa bao giờ có ý thức rõ ràng, đã nở tung ra ở
mọi nước mà nó gieo rắc.
Rồi đến việc nó là một tài liệu quý báu mà sự nghiên cứu nó không thể
không làm cho sự hiểu biết về Ấn Độ cổ đại được tiến triển hơn. Việc nhận xét
chung đã cho ta biết rằng các thuộc địa còn giữ lại trong phong tục, tín ngưỡng,
ngôn ngữ nhiều nét cổ xưa ngược về nguồn gốc của công cuộc thực dân và không
còn dùng nữa ở chính quốc. Ngoài Ấn không thoát ra ngoài lệ đó, và việc nghiên
cứu Ấn Độ “Nhìn từ phía đông”98
vừa được mở mối99
hình như sẽ đi tới nhiều kết
quả phong phú.
98
Từ ngữ của P. Mus “Ấn Độ nhìn từ phía đông, lễ nghi Ấn Độ và bản sứ ở Chàm” BFEO, XXXIII, T. 367
239
Nhưng ích lợi của việc nghiên cứu các nước bị Ấn Độ hóa ở đông nam châu
Á mà , xin nhắc lại, chưa hề bao giờ là những thuụoc quốc chính trị của Ấn Độ,
nhưng lại là những thuộc địa văn hóa, lợi ích đó có lợi trước hết ở việc quan sát sự
phản ứng va chạm nhau giữa nền văn minh Ấn Độ và các nền văn minh nguyên
thủy. Tác phẩm này không có mục đích nào khác ngoài ngoài việc cho ta mộ cái
khung lịch sử và biên niên trong đó đã bắt đầu và tiếp tục theo đuổi việc biến đổi
của nền văn hóa Ấn Độ trong sự tiếp xúc với các xã hội thổ dân. Người ta đo được
sức mạnh của sự thâm nhập của nền văn hóa đó cho đến tầm quan trọng của những
gì tồn tại ở các nước mà, trừ nước Xiêm, sớm hay muộn đều rơi vào sự đô hộ của
châu Âu và một phần lớn đã quy theo Hồi giáo.
Trừ ở đảo Bali100
và vài nhóm người Chàm101
, tín ngưỡng ấn Độ dưới hình
thức cũ: đạo Xiva, đạo Vítxun, đạo Phật tiểu thừa bằng tiếng phạn, đạo Phật tiểu
thừa đều biến mất, nhưng không phải không để lại dấu vết. Ở Pơnông Pêng và
Băngcốc, người Bàlamôn đã lai tạp nhiều, là tín đồ của đạo Phật nhưng lại mang búi
tó và sợi dây Bàlamôn, làm chủ lễ mọi cuộc lễ lớn trong triều mà nghi thức đã thừa
hưởng của thời kỳ Ấn Độ102
. Nhưng đó chỉ là sự thượng tồn nó chỉ có quan hệ tới
triều đình chứ không động đến đại chúng nhân dân.
Vào thế kỷ XII - XIII, nó đã nhận được tài sản mới của Ấn Độ dưới hình
thức Phật giáo Xâylan mà chắc chắn là đã thâm nhập vào số đông dân chúng: ở
Cămpuchia, Xiêm, Lào, Miến Điện, lý luận về nguồn gốc vũ trụ và bản thân vũ trụ
của đạo Phật (Vũ trụ khai tịch luận và vũ trụ luận), thuyết báo ân báo oán và luân
hồi đã cắm rễ sâu sắc vào các giai cấp hèn mọn nhất nhờ sự truyền dạy của các ông
sư đạo Phật.
Khó mà nói rằng điều gì đã xảy ra ở quần đảo Nam Dương nếu đạo Hồi
không tới cắt đứt mối liên hệ tinh thần với Ấn Độ Bàlamôn. Người ta thường gán
tính chất dịu dàng và lòng vị tha của đạo Hồi ở Giava cho tính tình của nhân dân
Giava103
. Nhưng do nguồn gốc của nó, dân tộc này không khác về căn bản với các
dân tộc Anhđônêdiêng khác, Batăc (Bataks) ở Xuymatơra, Duyắc (Dayaks) ở
99
Người ta thấy nhiều chỉ dẫn quý báu trong K. A. Nilakanta Sastri “Agastya”, Tijd. Bat. Gen. 76, 1936, T.
553 - W. F. Stutterhiem. Bull. Raffles Muséum. Ser. B. tập I, 1937, T. 148. 100
W. F. Stutterheim “ảnh hưởng ấn Độ vào nghệ thuật Bali cổ” Luânđôn - 1935 - K. C. Crucq “Bijdrage tot
de Kimis van het Balish Doodenritueel” 1928 - P. de Kat Augelino “Mudrâs anf Bali” Lu Haye 1923 - R.
Goris “Bijdrage tot de Kemis der oud. Favaansche en Balineesche Theologie” Leyde, 1926 - S. Lévi “Văn
bản phạn từ Bali” Gaekwad‟s or. Ser. 67, 1973. 101
A. Cabaton “Những nghiên cứu về người Chàm” 1901 (EFEO II). J. Lenba “Người Chàm và nghệ thuật
của họ” Paris, 1923. 102
A. Leclerè “Cămpuchia, các ngày lễ dân sự và tôn giáo” 1907. Niên lịch bảo tàng quimet 42. H. G.
Quaritch Wales “Lễ nghi ở Xiêm” Luânđôn 1931. 103
W. F. Stutterheim “Râma. Legenden und Râma – Reliefs in Indonesien” Ammich, 1925.
240
Boócnêô, Mọi ở dẫy Trường Sơn không được nổi tiếng vê sự dịu dàng trong phong
tục của họ. Vì vậy người ta có thể tự hỏi có phải cái vẻ đặc biệt mà đạo Hồi có được
ở Giava là nhờ ở ảnh hưởng trong hơn mười thế kỷ mà các tôn giáo ấn Độ đã tác
động vào tính tình của dân chúng trên đảo này không?
Di sản văn học Ấn Độ còn rõ ràng hơn là di sản tín ngưỡng. Trong suốt thời
kỳ Ấn Độ, tập Ramayana và Mahabarata, tập Hariramxa và Puyrana đều là những
nguồn cảm hứng chính, nếu không phải là duy nhất, của nền văn học địa phương.
Trong tất cả vùng Đông Dương Ấn Độ, ở Mãlai, Giava, nền văn học anh hùng ca và
truyền thuyết đó còn tạo nên đường nét của sân khấu cổ điển, các điệu nhảy múa, ảo
đăng và múa rối. Từ cực này đến cực kia của vùng ngoại Ấn, các khán giả tiếp tục
khóc về nỗi khổ đau của Rama và Xita.
Ảnh hưởng của luật pháp Ấn Độ cũng không kém phần sâu sắc. Các
đácmaxátxtơra (Dharmaỗâstras) và nhất là đạo luật nổi tiếng nhất được biết dưới cái
tên “Luật Manuy” đã tạo thành cái khung trong đó các phong tục địa phương của
các nước bị Ấn Độ hóa được xếp đặt vào: nó hới giống luatạ Latinh đối với các xã
hội dã man được dựng lên trên đống hoang tàn của đế quốc Lamã.
Về phía khác, các áctaxátxtơra (Arthaỗâstras) hay là các luận văn chính trị đã
đóng góp vào việc đào luyện nên khuôn khổ hệ thống cai trị của các quốc gia vùng
ngoại Ấn, do nhà vua trị vì mà phẩm hạnh còn được chỉ đạo trên lý thuyết bằng các
quy tắc của rajanati hay “Nương hạnh”.
Tuy rằng các đám thực dân Ấn Độ chắc chắn là đã nói đến các thổ ngữ prakít
hay các ngôn ngữ đơraviđiêng, nhưng tiếng phạn, một ngôn ngữ bác học, đã được
dùng để làm giàu cho từ vựng của các ngôn ngữ của thổ dân một khối lượng từ ngữ
khổng lồ hiện nay còn được dùng. Ngược với điều người ta thường nói, không phải
nó chỉ mượn các từ tôn giáo, xã hội và trừu tượng. Còn có các từ kỹ thuật của đời
sống vật chất, và điều rất quan trọng là các phụ ngữ văn phạm mà việc vay mượn
nhằm mục đíchlàm cho thuần thục các ngôn ngữ đơn âm đó, và giúpnó trong cách
phô diễn một tư tưởng quen với những ngôn ngữ có biến cách ở vị ngữ.
Ngôn ngữ Úc - Ấn không chỉ được Ấn Độ làm cho phong phú và thuần thục,
mà nó còn được ổn định nhờ việc dùng chữ Ấn Độ, và nguồn gốc chung của các
chữ Môn, Miến, Thái, Khơme, Chàm, Giava, Bali vẫn còn có thể nhận ra được.
Cuối cùng, ảnh hưởng tốt đẹp của một nền văn minh cao đẳng được chấp
nhận 1 cách tự do đã được bộc lộ 1 cách rõ ràng trong lĩnh vực nghệ thuật, vì Ấn
241
Độ, như S. Lévi104
viết “chỉ tạo ra những tác phẩm được xác định dưới sự tác động
của người nước ngoài hoặc trên đất nước ngoài.... Về kiến trúc, chính ở nước
Cămpuchia và Giava xa xôi mà người ta tìm thấy hai kỳ quan xuất phát từ thiên tài
Ấn Độ: Ăngco và Bôrôbuđua (Boro - boudour) Giava và trong nhiều nước khác,
thẩm mỹ học Ấn Độ đã nảy sinh ra nền nghệ thuật khơme, Giava và nhiều nền nghệ
thuật Ấn Độ khác ở Viễn Đông? Đấy là một vấn đề tế nhị nhất đối với các nhà khảo
cổ105
. Trong việc nghiên cứu nguồn gốc Ấn Độ chung của các nền nghệ thuật đó,
không nên quên rằng giữa lúc bắt đầu có sự Ấn Độ hóa đến thời kỳ đầu công
nguyên và những công trình đầu tiên được biết, nó không lên quá thế kỷ VI, trong
tài liệu có một lỗ hổng lớn. Những đặc thù nổi bật, ngay từ những công trình kiến
trúc cổ nhất và trong nền chạm khắc Chàm, Cămpuchia, Giava, đã phân biệt một
cách rõ ràng các nền nghệ thuật đó với nghệ thuạt của Ấn Độ chính quốc, làm cho
ta ít ngạc nhiên hơn nhiều nên chúng có những điều môi giới mà chúng ta thiếu
những môi giới đó, về kiến trúc, chắc chắn là bằng những vật liệu nhẹ.
Trong lĩnh vực này, ảnh hưởng của thực thể thổ dân thường là về hình thức
bề ngoài; vì vậy, trước tiến, nó đập vào mắt ta hơn là những mối quan hệ bên trong
đã gắn liền với Ấn Độ các nền nghệ thuật tạo hình của vùng ngoại Ấn. Người ta
không thấy ở Ấn Độ những công trình tương tự, dù là một cách xa xôi, với dền
Bayông ở Ăngco Thom hay với Bôrôbuyđua. Vậy mà nó đều là những sản phẩm
thuần tuý theo thiên tài Ấn Độ mà ý nghĩa sâu sắc của nó chỉ hiện lên dưới con mắt
của những người nghiên cứu về Ấn Độ106
.
Cũng như ở các lĩnh vực khác, về tín ngưỡng, văn học, pháp luật, và dưới
mọi vẻ khác nhau của các nền văn minh vùng ngoại Ấn, dưới vẻ độc đáo bề ngoài
mà nguyễn nhân đã được giải thích trong chương II, đó là dấu vết của thiên tài Ấn
Độ nó đã cho những nước được nghiên cứu trong tập sách này một cái vẻ họ hàng
và đối lập rõ ràng với những nước được Trung Quốc khai hóa.
104
“Ấn Độ khai hóa” T. 28 105
F. D. K. Bosch “Een hypothese oumirent den oorspôung der Hindoe – Javaansche Kunst” Conges
Welterreden, 1921 (bản dịch tiếng Anh trong Rupam, XVII, 1924). H. Parmentier “nguồn gốc chung của kiến
trúc Ấn Độ và Viễn Đông” EFEO II, T. 199 - 251 - A. K. Coomaraswamy “Lịch sử nghệ thuật ấn Độ và
Inđônễia” 1927, chương VI. 106
P. Mus “Barabudur” BEFEO XXXII - XXXIV; “Chủ nghĩa tượng trưng ở Ăngco Thom” Biên bản viện
hàn lâm Inscr. và B. L. 1936, T. 57 - 69 - G. Coedès “Muốn hiểu Ăngco hơn” Hà Nội 1943.
242