Đường cong lãi suất chuẩn

37
Xây dựng đường cong lãi suất chuẩn của Việt Nam I - Các mô hình xây dựng đường cong lãi suất chuẩn 1.1. Các đường cong lãi suất hoàn vốn Đường cong lãi suất hoàn vốn (yield curve): được hình thành bằng cách minh họa các mức lãi suất hoàn vốn của các trái phiếu chỉ khác nhau về kỳ hạn đáo hạn trên cùng một đồ thị. Đường cong lãi suất hoàn vốn đến kỳ đáo hạn (yield-to-maturity yield curve): được hình thành bằng cách minh họa các mức lãi suất hoàn vốn đến kỳ đáo hạn của các trái phiếu chỉ khác nhau về kỳ hạn đáo hạn trên cùng một đồ thị. Đường cong lãi suất hoàn vốn đến kỳ đáo hạn của các trái phiếu có cùng mức coupon (coupon yield curve): minh họa lãi suất hoàn vốn đến kỳ đáo hạn của các trái phiếu có cùng mức coupon và chỉ khác nhau về kỳ hạn đáo hạn lên cùng một đồ thị. Đường cong lãi suất hoàn vốn của trái phiếu được giao dịch với giá bằng mệnh giá (par yield curve): minh họa các mức lãi suất hoàn vốn đến kỳ đáo hạn của các trái phiếu hiện hành chỉ khác nhau về kỳ hạn và đều được giao dịch ở mức gần bằng mệnh giá. Cấu trúc kỳ hạn của lãi suất (the term structure of interest rates): chính là đường cong lãi suất hoàn vốn của trái phiếu chiết khấu (zero-coupon yield curve) hay đường cong lãi suất hoàn vốn giao ngay (spot yield curve). 1.2. Các mô hình xây dựng đường cong lãi suất chuẩn 1.2.1. Mô hình một nhân tố Mô hình một nhân tố là loại mô hình cho phép xây dựng được một cấu trúc kỳ hạn hoàn chỉnh từ một loại lãi suất ngắn hạn. Gồm có: (1) Mô hình Vasicek; (2) Mô hình Merton; (3) Mô hình Cox- Ingersoll-Ross (CIR). 1.2.2. Các mô hình tự do chênh lệch giá Mô hình tự do chênh lệch giá có mục đích là xây dựng nên một cấu trúc kỳ hạn lý thuyết tương thích với cấu trúc thực tế quan sát được để khiến cho lãi suất hoàn vốn quan sát trên thị trường thì có giá trị bằng với lãi suất hoàn vốn được tính toán trên cơ sở mô hình. Bao gồm các mô hình: (1) Mô hình Ho-Lee; (2) Mô hình Hull-White; (3) Mô hình Black-Derman-Toy (BDT).

description

ĐCLSC

Transcript of Đường cong lãi suất chuẩn

Xây dựng đường cong lãi suất chuẩn của Việt Nam

I - Các mô hình xây dựng đường cong lãi suất chuẩn

1.1. Các đường cong lãi suất hoàn vốn

Đường cong lãi suất hoàn vốn (yield curve): được hình thành bằng cách minh họa các mức lãi suất hoàn vốn của các trái phiếu chỉ khác nhau về kỳ hạn đáo hạn trên cùng một đồ thị.

Đường cong lãi suất hoàn vốn đến kỳ đáo hạn (yield-to-maturity yield curve): được hình thành bằng cách minh họa các mức lãi suất hoàn vốn đến kỳ đáo hạn của các trái phiếu chỉ khác nhau về kỳ hạn đáo hạn trên cùng một đồ thị.

Đường cong lãi suất hoàn vốn đến kỳ đáo hạn của các trái phiếu có cùng mức coupon (coupon yield curve): minh họa lãi suất hoàn vốn đến kỳ đáo hạn của các trái phiếu có cùng mức coupon và chỉ khác nhau về kỳ hạn đáo hạn lên cùng một đồ thị.

Đường cong lãi suất hoàn vốn của trái phiếu được giao dịch với giá bằng mệnh giá (par yield curve): minh họa các mức lãi suất hoàn vốn đến kỳ đáo hạn của các trái phiếu hiện hành chỉ khác nhau về kỳ hạn và đều được giao dịch ở mức gần bằng mệnh giá.

Cấu trúc kỳ hạn của lãi suất (the term structure of interest rates): chính là đường cong lãi suất hoàn vốn của trái phiếu chiết khấu (zero-coupon yield curve) hay đường cong lãi suất hoàn vốn giao ngay (spot yield curve).

1.2. Các mô hình xây dựng đường cong lãi suất chuẩn

1.2.1. Mô hình một nhân tố

Mô hình một nhân tố là loại mô hình cho phép xây dựng được một cấu trúc kỳ hạn hoàn chỉnh từ một loại lãi suất ngắn hạn. Gồm có: (1) Mô hình Vasicek; (2) Mô hình Merton; (3) Mô hình Cox-Ingersoll-Ross (CIR).

1.2.2. Các mô hình tự do chênh lệch giá

Mô hình tự do chênh lệch giá có mục đích là xây dựng nên một cấu trúc kỳ hạn lý thuyết tương thích với cấu trúc thực tế quan sát được để khiến cho lãi suất hoàn vốn quan sát trên thị trường thì có giá trị bằng với lãi suất hoàn vốn được tính toán trên cơ sở mô hình. Bao gồm các mô hình: (1) Mô hình Ho-Lee; (2) Mô hình Hull-White; (3) Mô hình Black-Derman-Toy (BDT).

1.2.3. Mô hình đa nhân tố

Mô hình đa nhân tố cho phép giải thích được dạng thức thay đổi phi song song hoặc những thay đổi về độ dốc của đường cong. Trong nhóm này có: (1) Mô hình hai nhân tố; (2) Mô hình đa nhân tố Heath-Jarrow-Morton (HJM).

1.2.4. Các kỹ thuật sử dụng phương pháp tham số

- Mô hình Nelson-Siegel: Bản chất của kỹ thuật này là mô hình hóa lãi suất kỳ hạn bằng cách sử dụng hàm số hóa.

- Mô hình hàm nối trục bậc ba (cubic spline model): Mô hình hàm nối trục ra đời với mục đích là để phát huy ưu điểm của mô hình tham số trong việc mô phỏng tốt các mức lãi suất hoàn vốn của các kỳ hạn đáo hạn dài đồng thời khắc phục nhược điểm của mô hình tham số ở các kỳ hạn đáo hạn ngắn.

- Mô hình hàm nối trục cơ bản (B-spline): Bên cạnh công thức tổng quát của hàm nối trục bậc ba như trên, người ta cũng thường tạo ra các đường nối trục bằng cách kết hợp tuyến tính các đường nối trục cơ bản lại với nhau.

1.3. Điều kiện áp dụng các mô hình xây dựng đường cong lãi suất chuẩn

1.3.1. Yêu cầu của mô hình xây dựng đường cong lãi suất chuẩn

- Mô hình có thể đưa ra được một đường cong lý thuyết khớp với số liệu hiện hành trên thị trường.

- Mô hình có thể phản ánh được diễn biến của lãi suất theo thời gian và diễn biến này phải theo dõi được thông qua việc tính toán cụ thể trên cơ sở các hàm toán học trực quan.

- Mô hình phải đảm bảo tính hiệu quả và kịp thời trên cơ sở các nguồn lực có sẵn như mức độ có sẵn và đáng tin cậy của số liệu, năng lực xử lý số liệu của máy tính,...

Từ những yêu cầu nói trên, ta có thể thấy rằng mô hình được sử dụng sẽ đưa ra kết quả chính xác khi: (i) Lãi suất đầu vào phản ánh tính khách quan của thị trường, (ii) Các thông tin về thị trường là minh bạch, và (iii) Phải có thị trường trái phiếu phát triển với các kỳ hạn đa dạng và khối lượng phát hành đủ lớn.

1.3.2. Điều kiện áp dụng của các mô hình xây dựng đường cong lãi suất chuẩn

Việc nghiên cứu các mô hình xây dựng đường cong lãi suất chuẩn cho thấy mỗi mô hình sẽ phát huy hiệu quả riêng biệt trong việc xây dựng đường cong lãi suất chuẩn của từng quốc gia.

1.4. Bài học từ việc xây dựng đường cong lãi suất chuẩn của các nước

1.4.1. Kinh nghiệm của các nước:

Nghiên cứu thực tế xây dựng đường cong lãi suất chuẩn của các nước Mỹ, Malaysia, Singapore cho thấy, mỗi mô hình được xây dựng trên một giả định riêng và các nước khi lựa chọn mô hình đều xem xét sự phù hợp của các giả định đối với trường hợp của riêng mình. Việc lựa chọn mô hình để xây dựng đường cong lãi suất chuẩn của các nước này phụ thuộc vào mức độ phát triển của thị trường trái phiếu, mức độ đa dạng về các kỳ hạn của trái phiếu chính phủ, khối lượng các đợt phát hành, tính hiệu quả của thị trường cũng như sự sẵn có của số liệu …

1.4.2. Lựa chọn mô hình cho Việt Nam

Từ quá trình nghiên cứu trên, tiếp cận từ giác độ NHTW thì chúng ta có thể xây dựng cấu trúc kỳ hạn của lãi suất hay đường cong lãi suất hoàn vốn giao ngay hoặc đường cong lãi suất của trái phiếu chiết khấu.

II - Đặc điểm thị trường các công cụ nợ của Việt Nam

2.1. Thị trường trái phiếu Chính phủ

2.1.1. Thực trạng thị trường trái phiếu Chính phủ

- Hiện thời, trái phiếu Chính phủ bao gồm: Tín phiếu Kho bạc; Trái phiếu Kho bạc; Trái phiếu công trình trung ương; Trái phiếu đầu tư; Công trái xây dựng Tổ quốc; Trái phiếu ngoại tệ. Từ năm 2007, KBNN đã triển khai đề án phát hành TPCP lô lớn. Bộ Tài chính đã xây dựng kế hoạch phát hành hàng năm và lịch trình phát hành TPCP từng quí. TPCP được phát hành qua các kênh: Bán lẻ qua hệ thống Kho bạc Nhà nước; Phát hành tín phiếu kho bạc qua đấu thầu tại NHNN; Phát hành TPCP qua đấu thầu tại Sở giao dịch chứng khoán; Bảo lãnh phát hành TPCP; Phát hành qua kênh Bảo hiểm Xã hội mua.

- Trên thị trường mở, đến năm 2009 có 58 tổ chức tín dụng được cấp giấy chứng nhận là thành viên nghiệp vụ thị trường mở; trong đó có 5 NHTM Nhà nước và ngân hàng cổ phần Nhà nước nắm cổ phần chủ yếu, 34 NHTM cổ phần, 3 ngân hàng liên doanh, 14 chi nhánh NH nước ngoài, 1 Công ty tài chính và QTD Trung ương. Doanh số trúng thầu từ năm 2000 đến 2005 hàng năm bình quân tăng gấp khoảng 3 lần so với năm trước.

2.1.2. Đặc điểm thị trường trái phiếu Chính phủ

2.1.2.1. Tính thanh khoản của thị trường

- Tính thanh khoản tại sở giao dịch chứng khoán Hà Nội thấp.

- Tính thanh khoản trong giao dịch thị trường mở tương đối cao, thể hiện ở tần suất và số lượng các phiên giao dịch thị trường mở liên tục tăng.

2.1.2.2. Lãi suất TPCP

a/ Tính thị trường của lãi suất TPCP:

- Tính thị trường của lãi suất TPCP mới phát hành thấp:

b/ Mức độ nhạy cảm của lãi suất đối với sự tác động của Ngân hàng Trung ương:

- Lãi suất nghiệp vụ thị trường mở chịu sự chi phối bởi cặp lãi suất chỉ đạo của NHNN. Tuy nhiên, tại những thời điểm nhất định lãi suất TTM đã biến động ra khỏi cặp lãi suất chỉ đạo, thể hiện ở các phiên thực hiện theo phương thức đấu thầu lãi suất.

- Lãi suất phát hành TPCP hầu như không chịu sự chi phối bởi mức lãi suất chỉ đạo của NHNN mà theo mục đích huy động vốn cho NSNN trong từng thời kỳ.

- Lãi suất TPCP đôi khi tăng cao, hơn cả lãi suất tín dụng ngân hàng.

2.2. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp

2.2.1. Thực trạng thị trường trái phiếu doanh nghiệp

- Giá trị vốn huy động của các doanh nghiệp qua TTCK rất thấp, chỉ đạt 15-20% lượng vốn doanh nghiệp huy động

- Trong số chứng khoán doanh nghiệp phát hành, trái phiếu là công cụ được các doanh nghiệp lựa chọn trong vài năm trở lại đây.

- Tỷ trọng giá trị trái phiếu doanh nghiệp phát hành so với tổng vốn huy động qua TTCK nhỏ, đặc biệt năm 2008 tỷ lệ này chỉ đạt 4,07%.

- Tỷ trọng giá trị trái phiếu doanh nghiệp phát hành trong tổng giá trị trái phiếu phát hành rất thấp, khoảng 23-37%, thậm chí chỉ chiếm 5,28% trong năm 2008.

2.2.2. Đặc điểm thị trường trái phiếu doanh nghiệp

- Thị trường trái phiếu doanh nghiệp có tính thanh khoản thấp

- Lãi suất trái phiếu doanh nghiệp: lãi suất TPDN phần nào chịu sự chi phối bởi lãi suất chỉ đạo của NHNN, song qui mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp quá nhỏ bé, lãi suất trái phiếu doanh nghiệp không phải là mức lãi suất tiêu biểu của thị trường.

2.3. Thị trường tín dụng ngân hàng

2.3.1. Thị trường giữa tổ chức tín dụng và doanh nghiệp, cá nhân (thị trường 1)

2.3.1.1. Thực trạng thị trường

- Tín dụng ngân hàng là hoạt động truyền thống, là kênh huy động và cung ứng vốn chủ yếu ở Việt Nam.

- Với vai trò là trung gian tín dụng trên thị trường tài chính, các tổ chức tín dụng, đặc biệt là các Ngân hàng thương mại đã thực hiện việc huy động vốn và đáp ứng phần lớn nhu cầu vốn của các doanh nghiệp và cá nhân trong nền kinh tế. Khối lượng vốn huy động và cho vay tăng liên tục qua các năm.

2.3.1.2. Đặc điểm thị trường

- Thị trường tín dụng ngân hàng có tính thanh khoản rất cao.

- Mức độ tự do hoá lãi suất ngày càng cao. Từ đầu năm 2009, các cơ chế kiểm soát hành chính dần dần được dỡ bỏ. Tuy nhiên, trong những thời điểm nhất định, tính thị trường của lãi suất bị hạn chế do được khống chế bởi trần lãi suất và sự can thiệp của Hiệp hội ngân hàng.

- Lãi suất tín dụng ngân hàng đã phản ánh sự tác động CSTT của NHNN. Hiện nay NHNN Việt Nam ấn định các loại lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm, lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc để điều hành lãi suất thị trường. Bên cạnh đó còn sử dụng các công cụ CSTT để tác động đến lãi suất liên ngân hàng, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở, từ đó ảnh hưởng đến lãi suất của các NHTM, nhằm thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ và mục tiêu kinh tế vĩ mô trong từng thời kỳ.

2.3.2. Thị trường tiền tệ liên ngân hàng (thị trường 2)

2.3.2.1. Thực trạng hoạt động thị trường

- Năm 1992, NHNN ban hành Chỉ thị số 07/CT-NH1 ngày 7/10/1992, là văn bản pháp lý đầu tiên quy định về hoạt động về quan hệ tín dụng giữa các TCTD. Từ năm 2001 đến nay, NHNN tiếp tục ban hành đồng bộ các văn bản thể chế đối với hoạt động của thị trường, từng bước tiến gần hơn tới thông lệ quốc tế.

2.3.2.1. Đặc điểm của thị trường

- Doanh số giao dịch trên thị trường nhìn chung có sự tăng trưởng mạnh theo từng năm, đặc biệt là trong khoảng 10 năm trở lại đây.

- Tính thanh khoản của thị trường liên ngân hàng rất cao, các giao dịch trên thị trường liên ngân hàng diễn ra hàng ngày với doanh số giao dịch lớn, đặc biệt trong những thời điểm các ngân hàng căng thẳng về vốn khả dụng.

- Lãi suất liên ngân hàng có tính thị trường cao, ngày càng phản ánh sát thực hơn cung cầu vốn khả dụng của các ngân hàng.

- Lãi suất liên ngân hàng có quan hệ chặt chẽ với lãi suất huy động, cho vay trên thị trường 1 song có mức biến động mạnh.

- Lãi suất liên ngân hàng cũng bị khống chế bởi trần lãi suất.

- Lãi suất liên ngân hàng phản ánh rõ tác động của NHNN đến dự trữ của các ngân hàng.

- Lãi suất liên ngân hàng đôi khi ít chịu tác động bởi lãi suất chỉ đạo của NHNN.

III- Xây dựng đường cong lãi suất chuẩn của Việt Nam

3.1. Quan điểm và thực tế xây dựng đường cong lãi suất hoàn vốn của Việt Nam

* Xuất phát từ yêu cầu hình thành một hệ thống các chỉ báo kinh tế cho công tác dự báo và định hướng kỳ vọng của thị trường là rất cần thiết trong khi NHNN Việt Nam vẫn còn bắt buộc phải kiểm soát trực tiếp mặt bằng lãi suất khiến xu hướng biến động lãi suất và khả năng dự báo xu hướng hầu như bị bóp méo, nhóm nghiên cứu chủ trương triển khai xây dựng đường cong lãi suất chuẩn của VN trên quan điểm sau:

<!--[if !supportLists]-->· <!--[endif]-->Xây dựng 1 đường cong lãi suất có tác dụng là lãi suất tham khảo trong hệ thống ngân hàng.

<!--[if !supportLists]-->· <!--[endif]-->Đường cong lãi suất mang đặc điểm riêng của Việt Nam.

<!--[if !supportLists]-->· <!--[endif]-->Hoàn thiện dần theo chuẩn mực quốc tế.

* Hiện nay có hai tổ chức chính thức công bố lãi suất hoàn vốn đối với trái phiếu chính phủ Việt Nam là hãng tin tài chính Bloomberg và Ngân hàng phát triển châu Á. Trên website của một số công ty chứng khoán cũng công bố lãi suất hoàn vốn của trái phiếu chính phủ trên cơ sở trích dẫn số liệu được cung cấp bởi Bloomberg.

3.2. Xây dựng đường cong lãi suất chuẩn của Việt Nam

3.2.1. Lựa chọn mô hình xây dựng đường cong lãi suất chuẩn cho Việt Nam

3.2.1.1. Xác định đường cong lãi suất hoàn vốn mục tiêu

Tiếp cận của góc độ NHNN và từ đặc điểm thị trường công cụ nợ Việt Nam, việc sử dụng cách tính lãi suất hoàn vốn giao ngay là thích hợp. Các mô hình đã nghiên cứu cho phép việc mô phỏng cấu trúc kỳ hạn của lãi suất về mặt lý thuyết dựa trên các dữ liệu quan sát được.

3.2.1.2. Lựa chọn mô hình xây dựng đường cong lãi suất chuẩn

Xuất phát từ điều kiện áp dụng các mô hình xác định đường cong lãi suất điển hình, mô hình điểm cân bằng một nhân tố sẽ là thích hợp với điều kiện của Việt Nam. Trong đó chúng tôi kiến nghị sử dụng mô hình Vasicek và/hoặc CIR bởi khả năng ứng dụng trực tiếp với bộ số liệu Việt Nam cũng như độ chính xác nhất định của mô hình đối với trường hợp các thị trường đang phát triển. Việc sử dụng mô hình CIR sẽ chỉ được đặt ra khi kết quả ước lượng mô hình Vacisek cho các giá trị lãi suất âm.

3.2.2. Lựa chọn lãi suất đầu vào cho mô hình Vacisek

Khi sử dụng mô hình Vacisek để xây dựng đường cong lãi suất chuẩn cho Việt Nam, dữ liệu đầu vào đòi hỏi phải là loại lãi suất ngắn hạn. Căn cứ vào đặc điểm thị trường các công cụ nợ Việt

Nam nhóm đề tài đưa ra ba phương án lựa chọn lãi suất đầu vào là lãi suất nghiệp vụ thị trường mở 14 ngày, lãi suất liên ngân hàng qua đêm và sử dụng phối hợp cả 2 loại lãi suất.

3.3. Thử nghiệm xây dựng đường cong lãi suất chuẩn của Việt Nam

3.3.1. Hệ thống dữ liệu

- Trong thử nghiệm này, lãi suất liên ngân hàng qua đêm là loại lãi suất thỏa mãn điều kiện là lãi suất hoàn vốn giao ngay (on the run), thỏa mãn điều kiện của mô hình đường cong lãi suất. Giai đoạn nghiên cứu lãi suất trải dài từ 22/6/2005 tới 8/3/2010 là giai đoạn thị trường liên ngân hàng hoạt động tích cực thể hiện ở doanh số giao dịch, tính đa dạng của thời hạn và mức độ biến động của lãi suất, đặc biệt lãi suất qua đêm.

- Giai đoạn nghiên cứu của lãi suất giao dịch nghiệp vụ thị trường mở thời hạn 14 ngày trong thời gian 2 năm trở lại đây được lựa chọn bởi đây là giai đoạn hoạt động OMO tích cực nhất, NHNN sử dụng khá thường xuyên công cụ OMO để chi phối thanh khoản của hệ thống NHTM.

3.3.2. Xác định các thông số của mô hình

Việc ước lượng các tham số a,b,σ và r (0) từ bộ dữ liệu đầu vào để làm cơ sở tính toán cấu trúc kỳ hạn thường dựa trên một số phương pháp như OLS, GMM và ML. Từ tập dữ liệu đã có, ta sẽ chọn ra tập dữ liệu phù hợp như sau:

- Loại bỏ có các quan sát có số lượng nhỏ nhất.

- Có trung bình lớn nhất.

Từ tập dữ liệu đầu vào ta sử dụng phương pháp MLE (maximum likehood estimator) để thiết lập các thông số.

3.3.3. Đường cong lãi suất mô phỏng

Giả sử ta đang ở thời điểm 8/03/2010. Chúng ta sẽ dự đoán đường cong lãi suất của ngày 9/03/2010 với mô hình đường cong Vasicek bằng việc sử dụng thông tin đến ngày 08/03/2010. Để dự đoán được, trước tiên ta phải xác định các tham số a và b của ngày 8/3/2010 theo mục 3.3.2 ở trên.

Sau đó sử dụng công thức:

<!--[if !vml]--><!--[endif]--> & (1.6)

<!--[if !vml]--><!--[endif]--> & (1.7)

<!--[if !vml]--><!--[endif]--> & (1.8)

Và cuối cùng chúng ta tính toán được cấu trúc hoàn chỉnh:

<!--[if !vml]--><!--[endif]--> & (1.9)

Với dữ liệu là lãi suất liên ngân hàng 1MD thì ta có được bảng dữ liệu các thông số và đồ thị của đường cong lãi suất như sau:

&

Với dữ liệu là lãi suất liên ngân hàng loại OND thì ta có được bảng dữ liệu các thông số và đồ thị của đường cong lãi suất như sau:

&

Với dữ liệu là lãi suất trái phiếu chính phủ thời hạn 14 ngày với 143 quan sát thì ta có được bảng dữ liệu các thông số và đồ thị của đường cong lãi suất như sau:

&

3.3.4. Kiểm định mô hình

Để kiểm định tính chính xác của mô hình, giải pháp là tách bộ dữ liệu đầu vào thành hai phần, một phần dùng để tính toán các giá trị tối ưu, một phần dùng để kiểm định năng lực dự báo của mô hình. Đối với bộ phận dữ liệu thứ nhất, chúng ta sẽ sử dụng để tìm ra bốn tham số quan trọng bằng phương pháp tối ưu hóa như đã nêu trên. Từ bốn tham số này sẽ hình thành được cấu trúc kỳ hạn lý thuyết. Dùng cấu trúc kỳ hạn lý thuyết để tính toán các giá trị lý thuyết tương ứng với thời gian của bộ số liệu thứ hai. Cuối cùng so sánh các giá trị lý thuyết với giá trị thực tế của bộ số liệu thứ hai. Tổng bình phương độ lệch càng nhỏ thì chứng tỏ độ chính xác của mô hình càng cao.

3.4. Kết luận

Việc thử nghiệm xây dựng đường cong lãi suất chuẩn với 3 loại lãi suất ngắn hạn: lãi suất liên ngân hàng qua đêm, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở 14 ngày tham khảo thêm lãi suất liên ngân hàng 1 tháng trên cơ sở sử dụng mô hình Vacisek một nhân tố cho thấy hình dạng tương tự của đường cong lãi suất ở cả 3 loại lãi suất. Xu hướng dốc lên trên theo dạng thông thường thể hiện chính xác xu hướng biến động của lãi suất nếu nghiên cứu diễn biến lãi suất trong thời gian nghiên cứu. Tuy vậy, quá trình nghiên cứu nảy sinh một số vấn đề liên quan đến hệ thống dữ liệu, tính thị trường của lãi suất cũng như mức độ liên hệ thấp giữa các thị trường. Những hạn chế này làm cho đường cong lãi suất không thể phản ánh nội dung thông tin một cách chính xác. Để có một đường cong lãi suất hoàn hảo hơn, cần cải thiện các điều kiện thị trường của lãi suất liên quan đến hệ thống thông tin, mức độ và phương thức can thiệp vào thị trường tài chính cũng như sự phát triển của thị trường trái phiếu chính phủ.

Trước mắt, thử nghiệm này mới dừng lại ở việc mô phỏng một mô hình đường cong lãi suất với hệ thống dữ liệu chưa đầy đủ. Đường cong lãi suất của Việt nam chưa thể gọi là đường cong chuẩn có tác dụng định hướng kỳ vọng của thị trường và làm căn cứ xác định đường cong lãi suất của các chủ thể phát hành công cụ nợ trên thị trường tài chính. Đường cong lãi suất mô phỏng cho biết xu hướng vận động của lãi suất và cung cấp một căn cứ tham khảo cho các chủ thể tham gia trên thị trường tài chính. Đối với NHNN, việc quan sát diễn biến hai đường cong lãi suất cho phép đánh giá được mức độ chênh lệch giữa lãi suất mục tiêu và lãi suất thị trường- đối tượng cần kiểm soát. Trên cơ sở đó có thể điểu chỉnh mức độ can thiệp cần thiết./.

Phòng Nghiên cứu và quản lý KH

Đường cong lãi suất đã quay trở lại đúng quy luật

Sau một thời gian thẳng băng, đường cong lãi suất đã bắt đầu xu hướng uốn trở lại theo đúng quy luật. Các kỳ hạn gửi tiền dài lãi suất cao hơn kỳ hạn ngắn.

Theo quy định mới của Ngân hàng Nhà nước, mức trần 9%/năm sẽ chỉ được áp dụng cho các khoản tiền gửi kỳ hạn ngắn từ 1-12 tháng. Còn đối với các kỳ hạn trung–dài hạn trên 12 tháng các ngân hàng được tự thỏa thuận mức lãi đối với khách hàng gửi tiền.

Chính vì vậy, hai ngày sau khi mức lãi suất huy động 9%/năm có hiệu lực, các ngân hàng đã có sự điều chỉnh đáng kể trên bảng niêm yết lãi suất của mình. Đến nay, hầu hết các ngân hàng đều tự ấn định mức lãi suất ở các kỳ hạn dài từ 9,5-12%.

Cụ thể, biểu lãi suất của ACB đã tăng mạnh lãi suất huy động VND ở các kỳ hạn dài, từ 12-36 tháng từ 10,4%-12%/năm; riêng mức cao nhất 12%/năm lĩnh lãi cuối kỳ có ở kỳ hạn 36 tháng.

Tại Sacombank, biểu lãi suất cập nhật trong ngày 13/6 cũng có mức cao nhất 12%/năm lĩnh lãi cuối kỳ ở các kỳ hạn 24 và 36 tháng; mức 11%/năm có ở kỳ hạn 13, 15 và 18 tháng.

Biểu lãi suất của VPBank áp dụng từ ngày 11/6, các kỳ hạn tiền gửi từ 12 tới 36 tháng đều ở mức 10,5%/năm. Thậm chí, nhà băng này còn trưng biểu lãi suất cao nhất 10,5%/năm để "câu khách."

Như vậy, sau hơn hai năm đường cong lãi suất tại các ngân hàng thương mại mới được thiết lập trở lại đúng theo quy luật, kỳ hạn gửi càng cao thì lãi suất cao, kỳ hạn ngắn lãi suất thấp...

Tuy nhiên, cũng có khá nhiều ngân hàng đang thận trọng thăm dò thị trường chỉ áp dụng các mức lãi suất từ 9-10,5%.

Một số chuyên gia cho rằng, việc đường cong lãi suất được tái lập cho thấy thanh khoản của các ngân hàng đã được cải thiện đáng kể. Đây cũng là dấu hiệu tốt nhen lên hy vọng khi lãi suất về mức hợp lý sẽ giải quyết được bài toán lãi suất cho vay giữa ngân hàng và doanh nghiệp./.

Đường cong lãi suất và các dạng phổ biến(Vietstock) – Theo thông báo của Sở GDCK Hà Nội (HNX), Hệ thống Đường cong lãi suất cho thị trường trái phiếu chính phủ sẽ được công bố vào tháng 3/2012.

* Tháng 3/2012 sẽ công bố Hệ thống Đường cong lãi suất

Như vậy, sau một thời gian chờ đợi, thị trường sắp đón

nhận một chỉ báo kinh tế rất quan trọng cho công tác

điều hành, dự báo giá trị thị trường của các công cụ tài

chính.

Đường cong lãi suất là gì?

Đường cong lãi suất là đồ thị mô tả mối quan hệ giữa

lãi suất và kỳ hạn của một công cụ nợ (cùng mức và

chất lượng tín dụng). Đồ thị này bắt đầu với mức lãi

suất ở kỳ hạn thấp nhất và mở rộng ra theo thời gian,

thường là đến kỳ hạn 30 năm.    

Đường cong lãi suất có thể được tạo cho bất cứ công cụ nợ nào, nhưng người ta thường chọn

đường cong lãi suất Trái phiếu Chính phủ (TPCP) làm chuẩn do đặc tính rủi ro thấp (gần như

không rủi ro) và sự đa dạng của các kỳ hạn trái phiếu.

Đường cong lãi suất chuẩn đóng vai trò quan trọng trong việc tạo lãi suất tham chiếu cho hoạt

động phát hành, giao dịch và đầu tư trên thị trường trái phiếu.

Ngoài ra, nó cũng được xem là công cụ quan trọng trong việc cung cấp thông tin cho công tác

quản lý, điều hành thị trường tài chính nhờ vào nội dung thông tin phản ánh.  

Biểu đồ bên dưới minh họa đường cong lãi suất trái phiếu chính phủ ở hai quốc gia là Mỹ và

Brazil. 

Các dạng đường cong lãi suất

Hầu hết các nhà kinh tế học đều đồng ý rằng hai yếu tố chính ảnh hưởng đến độ dốc của đường

cong lãi suất là kỳ vọng lãi suất trong tương lai và phần bù rủi ro (risk premium) để nắm giữ trái

phiếu dài hạn. Độ dốc của đường

cong lãi suất càng lớn thì khoảng

cách giữa lãi suất ngắn và dài hạn

càng lớn.

Có ba dạng đường cong lãi suất

chính là bình thường (normal),

ngược (inverted) và phẳng hoặc có

bướu (flat hoặc humped).

Đặc điểm của dạng đường cong lãi

suất bình thường (normal) là lãi suất trái phiếu dài hạn (longer-term yield) cao hơn so với lãi suất

trái phiếu ngắn hạn (shorter-term yield) do những rủi ro liên quan đến thời gian. Đây là dạng

đường cong được thấy nhiều nhất vì thị trường thường mong chờ nhiều “ưu đãi” đối với các loại

dài hạn hơn do rủi ro cao.

Ngược lại, ở dạng đường cong lãi suất ngược (inverted), lãi suất trái phiếu ngắn hạn cao hơn lãi

suất trái phiếu dài hạn.

Trong khi đó, ở dạng đường cong lãi suất phẳng hay có bướu, lãi suất ngắn và dài hạn rất gần với

nhau; và đó cũng là chỉ báo của quá trình chuyển đổi kinh tế.   

Hình dạng nào cho Đường cong lãi suất Trái phiếu?

So với các nước trên thế giới, thị trường trái phiếu Việt Nam được đánh giá là khá non trẻ khi giá

trị còn nhỏ, tính thanh khoản chưa cao và kỳ hạn trái phiếu chưa đa dạng…

Tuy vậy, cùng với sự phát triển và hội nhập của thị trường trái phiếu, việc đưa ra một đường

cong lãi suất mang tính định hướng kỳ vọng của thị trường là điều cần thiết.

Trong nghiên cứu “Xây dựng đường cong lãi suất chuẩn của Việt Nam” của Ngân hàng Nhà

nước, các tác giả đã mô tả hình dạng đường cong lãi suất bình thường (normal). Thực tế cũng

cho thấy, lãi suất trái phiếu dài hạn trong thời gian gần đây đều nhỉnh hơn so với mức lãi suất ở

các kỳ hạn ngắn hơn.

Nhưng cần lưu ý rằng hình dạng đường cong lãi suất sẽ luôn được điều chỉnh để phản ánh những

biến động của kỳ vọng thị trường.

Đường cong lãi suất báo hiệu tiền gửi bất ổn

Thứ sáu, 07-09-2012 | 11:19:36 GMT+7

Bản in

Email

Để “tri ân” khách hàng, một ngân hàng vừa đưa ra mức lãi suất 14%/năm đối với sản phẩm “tiền gửi linh hoạt ngày”...

Có vẻ như có sự trùng hợp nhưng không hoàn toàn ngẫu nhiên là khi dòng tiền vào ngân hàng sụt giảm thì thị trường chứng khoán tăng điểm.

Để “tri ân” khách hàng, một ngân hàng vừa đưa ra mức lãi suất 14%/năm đối với sản phẩm “tiền gửi linh hoạt ngày”

Ngay sau Ngân hàng Nhà nước kiên quyết thiết lập trần lãi suất tiền gửi 14%, một ngân hàng tung ra thị trường mức lãi suất huy động một ngày 14%/năm.

“Một cây không thể tả cả rừng”, nhưng cùng với các số liệu khác, cho thấy nguồn tiền gửi trên hệ thống đang gặp bất ổn, cả về cơ cấu lẫn doanh số.

Đường cong lãi suất thẳng băng...

Trong thông báo phát đi, ngân hàng nói trên cho biết, để “tri ân” khách hàng, kể từ 12/9/2011, họ đưa ra mức lãi suất 14%/năm đối với sản phẩm “tiền gửi linh hoạt ngày”, áp dụng cho tất cả khách hàng cá nhân lẫn doanh nghiệp với kỳ hạn từ 1-2-3-4-5-6 ngày.  

Theo đó, sản phẩm này không chỉ giúp khách hàng nhận  được mức lãi suất cao và hấp dẫn mà còn giúp khách hàng linh hoạt trong việc sử dụng nguồn vốn của mình.

Mặc dù ngân hàng này cho rằng, đây là sản phẩm đặc thù chỉ có duy nhất trong hệ thống và lần đầu tiên được triển khai, nhưng thực tế, rất nhiều ngân hàng khác đã duy trì mức lãi suất 14%/năm đối với cả tiền gửi thanh toán. Trong khi, tiền gửi thanh toán là loại tiền gửi mà khách hàng chỉ lưu lại bất chợt trong hệ thống ngân hàng, thậm chí với thời gian mấy tiếng đồng hồ.

Mổ  xẻ về loại “tiền gửi một ngày lãi suất 14%/năm”, bà Nguyễn Thị Thanh Hương, Tổng biên tập tạp chí Ngân hàng, nguyên Phó vụ trưởng Vụ Kế toán - Ngân hàng Nhà nước cho biết: “Xét về bản chất, mức lãi suất này đã vi phạm chỉ đạo trần lãi suất tiền gửi 14%/năm của Ngân hàng Nhà nước”.

Cụ  thể, 14%/năm là lãi suất của năm, nếu quản lý  theo dòng tiền “lãi đẻ ra lãi” thì  lãi suất của sản phẩm trên đã vượt trần quy định, thậm chí còn lên tới 15% - 16%/năm. Và đó là tiểu xảo để lách trần lãi suất.

Lách ở chỗ: khách hàng gửi tiền tính theo lãi suất ngày thì ngân hàng sẽ trả lãi ngay trong ngày đó, và khách hàng nhập lãi này vào gốc và nói “lãi đẻ ra lãi” là vì thế.

Chung ý kiến với bà Hương, cán bộ nguồn vốn một ngân hàng thương mại nhà nước nói: “Tiền gửi kỳ hạn 3 tháng, 4 tháng, với lãi suất 14%/năm đã là lách luật, nay nếu gửi một ngày mà cũng 14%/năm thì càng quá quắt!”.

Theo vị này, việc Ngân hàng Nhà nước chưa khống chế mức lãi suất tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi thanh toán, tiền gửi ngắn hạn như sản phẩm tiền gửi nói trên là sơ hở. Theo vị cán bộ này, đối với các loại tiền gửi đó, chỉ nên duy trì mức lãi suất 2%/năm.

Thứ  hai là vấn đề thanh khoản của các ngân hàng. Một chuyên gia ngân hàng cho rằng, đã gọi là kỳ hạn một ngày hay “không kỳ hạn”, hoặc “tiền gửi thanh toán” thì bản chất là một, nếu xét về mặt kỳ hạn.

“Theo thông lệ quốc tế, “tiền gửi thanh toán” còn chẳng được trả một xu lãi suất nào, chứ đừng nói đến 14%/năm. Điều đó cho thấy, mức độ cần vốn của ngân hàng đó rất lớn và không loại trừ thanh khoản đang gặp vấn đề”, vị này cho biết.

Mở rộng một chút, nếu xét về nguyên lý đường cong lãi suất “gửi càng lâu, lãi suất càng cao”  thì diễn biến trên thị trường đang theo chiều ngược lại: lãi suất kỳ hạn ngắn dài đều như nhau,  tiền gửi một ngày và tiền gửi trên một năm hay lâu hơn đều thẳng băng cùng mức 14%/năm. Điều này đã làm cho nguồn vốn của ngân hàng tỏ ra bất ổn về cơ cấu kỳ hạn và phản ánh sự khát thanh khoản.   

...và bất ổn tiền gửi

Ngày 15/9, tại cuộc họp của tất cả các tổ chức tín dụng trên  địa bàn Hà Nội, Ngân hàng Nhà nước chi nhánh Hà Nội cho biết, tính đến 31/8/2011, tổng nguồn vốn huy động của các tổ chức tín dụng tại khu vực này đạt trên 820 nghìn tỷ đồng, tăng 3,2% so với 31/12/2010, chiếm trên 1/3 so với tổng nguồn huy động toàn hệ thống ngân hàng.

Trong đó, nguồn tiền gửi VND chiếm tỷ trọng 73,1%, ngoại tệ chiếm 26,9% của tổng nguồn.

Một trong những thế mạnh của Hà Nội là huy động vốn nhưng trong ba tháng 5 - 6 - 7, nguồn huy động giảm so với cuối 2010. Trong tháng 8, huy động tăng chút ít nhưng hiện tại, việc huy động vốn bắt đầu trở nên khó khăn.

Liên quan đến vấn đề cơ cấu tiền gửi, lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước chi nhánh Hà Nội cho biết, tiền gửi tiết kiệm chiếm tỷ trọng trên 34%, tăng 5% so với 31/12/2010; phát hành giấy tờ có giá chiếm trên 11%, tăng tương ứng 8,7%, còn nguồn tiền gửi thanh toán chiếm tới 54,6%.

Như  nói trên, do tiền gửi thanh toán chiếm tỷ trọng cao nên đã gây bất ổn đến cơ cấu nguồn vốn ổn định cho ngân hàng, làm cho việc cấp tín dụng ra nền kinh tế rất khó khăn. Điều này lý giải vì sao, khách hàng muốn vay dài hạn thì rất khó so với vay ngắn hạn và nếu vay được thì phải chịu mức lãi suất rất cao.

Thứ  hai, tổng dư nợ tín dụng của các tổ chức tín dụng trên  địa bàn Hà Nội đến 31/8/2011 đạt khoảng 568,5 tỷ đồng, tăng gần 11,5%; trong đó, dư nợ VND tăng gần 7%, trong đó dư nợ ngoại tệ tăng trên 21%.

Như  vậy, so sánh tốc độ tăng của huy động vốn (3,2%) và tốc độ tăng tín dụng 11,5% đã có sự  chênh lệch rất lớn và đặt ra mối lo về cân  đối nguồn và sử dụng nguồn. Vì thế, các tổ chức tín dụng đã huy động bằng mọi giá và khi trần lãi suất tiền gửi bị khống chế ở mức 14%/năm thì họ sẵn sàng san bằng lãi suất cho tất cả các kỳ hạn.

Thứ  ba, theo tìm hiểu của người viết thì vốn huy động toàn hệ thống trong mấy ngày qua đã có biểu hiện sụt giảm so với trước khi thiết lập lại trần lãi suất 14%/năm.

Có vẻ như có sự trùng hợp nhưng không hoàn toàn ngẫu nhiên là khi dòng tiền vào ngân hàng sụt giảm thì thị trường chứng khoán tăng điểm. Rất có thể một phần trong đó đã được giải ngân cho thị trường chứng khoán và tạo nên vài đợt sóng ngắn hạn vừa qua. Hiện tượng này cũng chứng minh một thực tế: “ngân hàng hãm tín dụng thì chứng khoán đỏ, nới lỏng tín dụng thì chứng khoán xanh”.

Liên quan đến câu chuyện vốn huy động toàn hệ thống bắt đầu sụt giảm kể từ sau 7/9 (ngày Ngân hàng Nhà nước ban hành Chỉ thị 02, nghiêm cấm lách trần lãi suất), tại cuộc họp của tất cả tổ chức tín dụng trên địa bàn Hà Nội sáng 14/9, hàng loạt lãnh đạo ngân hàng thương mại kêu ra rả khách hàng rút tiền khỏi ngân hàng. Mặc dù không đưa ra lý do nhưng những ý kiến này đều ngầm ý đổ lỗi cho trần lãi suất tiền gửi 14%/năm.

Điều này cũng đồng nghĩa, một áp lực đang hiện dần lên chính sách trừng phạt xé rào lãi suất và ứng xử của Ngân hàng Nhà nước như thế nào trước vấn đề này sẽ còn phải chờ thêm ít ngày tới.

Còn trước mắt, Ngân hàng Nhà nước vẫn thẳng tay với hai ngân hàng vi phạm trần lãi suất tiền gửi.

Trong thông báo phát đi chiều muộn 14/9, Ngân hàng Nhà nước cho biết, thứ nhất, kỷ luật nặng hai cán bộ của Ngân hàng Đông Á và cấm ngân hàng này trong vòng một năm không được mở chi nhánh, phòng giao dịch, đặt máy ATM trong phạm vi toàn quốc.

Thứ hai, kỷ luật hai cán bộ của một ngân hàng khác vì đã tự ý lấy tiền túi tặng thêm cho khách gửi tiền và thưởng ngoài lãi suất cho khách hàng.

Năm ngoái, Techcombank cũng bị Ngân hàng Nhà nước kỷ luật lách trần lãi suất bằng hình thức không được mở chi nhánh, phòng giao dịch, đặt máy ATM trong vòng một năm.

Tái xuất hiện đường cong lãi suất hợp lý

Nguồn tin: Vnexpress | 13/04/2012 9:10:00 CH

In tin |

Lưu vào sổ tay |

RSS |

Chia sẻ Facebook

Sau khi trần lãi suất huy động về 12% một năm, nhiều ngân hàng đồng loạt điều chỉnh giảm lãi suất tiết kiệm, thay vì cào bằng tối đa 12%, giờ đã có sự phân hoá theo kỳ hạn hợp lý hơn.

Đi đầu trong việc giảm lãi suất huy động và thiết lập lại đường cong lãi suất là Ngân hàng Xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank). Nhà băng này đã đưa đường cong lãi suất về bình thường, tức kỳ hạn càng dài thì lãi suất càng cao.

 

 

 

Đường màu hồng thể hiện đường cong lãi suất hợp lý. Ảnh: PV

 

Theo đó, không kỳ hạn dao động 3,6%, 1 ngày đến 3 tuần 4%, còn những kỳ hạn ngắn 1-11 tháng lãi suất là 11,95% một năm và chỉ áp mức lãi suất tối đa 12% cho kỳ hạn dài từ 12 đến 60 tháng. Đây là nhà băng đầu tiên thiết lập lại đường cong lãi suất bình thường sau khoảng thời gian dài thị trường tài chính Việt Nam chứng kiến những đường lãi suất thẳng tắp.

Một số ngân hàng khác, tuy chưa tạo ra đường cong lãi suất hợp lý nhưng cũng không còn tình trạng cào bằng mà có sự phân hóa rõ rệt. Tại Ngân hàng Đông Á, lãi suất huy động các kỳ hạn 13-36 tháng chỉ còn 10% một năm, các kỳ hạn ngắn hơn như 1 tháng 11,89% và lãi suất cao nhất 11,99% áp cho kỳ hạn 9-12 tháng. Tương tự, Vietinbank áp lãi suất cao nhất 12% cho kỳ hạn 1-11 tháng, kỳ hạn 12-24 tháng chỉ 9%, riêng kỳ hạn trên 36 tháng còn 8%.

Lãnh đạo của Eximbank cho rằng, thanh khoản hiện giờ tốt hơn và việc huy động vốn đã đến lúc trở lại quy luật cũ, "đường cong lãi suất" phải được thiết lập lại.

Theo ông, thời gian trước đây do thiếu thanh khoản đã xuất hiện những hình thức huy động kỳ hạn rất ngắn theo tuần, thậm chí theo ngày nhưng lại được hưởng lãi suất cao. Trong khi đó, các kỳ hạn huy động dài lại có lãi suất thấp hơn, đường cong lãi suất của thị trường không còn.

"Những hình thức huy động trên không đúng với bản chất hoạt động của ngân hàng, người gửi tiền kỳ hạn dài phải được hưởng lãi suất cao hơn kỳ hạn ngắn", ông nhấn mạnh.

Một chuyên gia kinh tế tại TP HCM nhìn nhận, trước đây, lãi suất tất cả các kỳ hạn tiền gửi hầu như đều cào bằng quanh mức 14% rồi 13% một năm, tức sát trần huy động. Đây là dấu hiệu bất thường của thị trường tiền tệ khiến các rủi ro về thanh khoản, rủi ro lãi suất và các rủi ro liên quan đến tài sản của các ngân hàng thương mại lớn hơn bao giờ hết. "Những hoạt động huy động vốn không đúng bản chất này cần phải xóa bỏ ngay", ông nói.

Theo chuyên gia kinh tế Lê Trọng Nhi, việc xuất hiện các kỳ hạn ngắn lãi suất cao chỉ giải quyết vấn đề lúc cấp bách "lấy chỗ ngắn bù chỗ dài" khi thiếu thanh khoản. Việc áp dụng hình thức huy động này cũng gây khó khăn rất lớn cho các ngân hàng vì bị thiếu trầm trọng nguồn tiền gửi dài hạn, dẫn đến các khoản cho vay trung dài hạn phải giảm bớt.

Do đó, không ít hợp đồng tín dụng trung dài hạn phải bị hủy bỏ do ngân hàng thiếu nguồn. Đó là chưa kể các ngân hàng khó có thể sử dụng được nguồn vốn quá ngắn này kiếm lời trong khi vẫn phải trả người gửi tiền lãi suất cao.

Hiện nay, lãi suất huy động đang giảm dần, việc huy động vốn có dấu hiệu trở lại bình thường như trước kia sẽ giúp lãi suất cho vay tiến đến một mặt bằng mới thấp hơn. "Khi nào giải quyết được đường cong lãi suất huy động hợp lý thì ắt sẽ giải quyết được bài toán lãi suất cho vay và doanh nghiệp mới hy vọng sống được", ông Nhi nói.

Ngân hàng ANZ cũng hy vọng Ngân hàng Nhà nước sẽ giữ nguyên chính sách lãi suất trong quý 2 để có thời gian đánh giá những ảnh hưởng của đợt cắt giảm lãi suất vừa rồi đối với tốc độ phát triển. Với những thay đổi gần đây trong chính sách nới lỏng tiền tệ, nhà băng này dự đoán lãi suất sẽ tiếp tục được cắt giảm thêm khoảng hơn 4% trong cả năm nay. "Tuy nhiên, vẫn cần quan sát kỹ các biến động của lạm phát để có chính sách hợp lý nhất", ANZ nhận định.

 

LỆ CHI

Đường cong lãi suất: Chỉ báo quan trọng cho thị trường TPCPXem tin gốc 

StockBiz - 20 tháng trước 184 lượt xem

Ngày 19/4, tại Hà Nội, Sở GDCK Hà Nội (HNX) đã tổ chức Hội thảo giới thiệu về đường cong lợi suất chuẩn của thị trường trái phiếu chính phủ (TPCP), một trong những chỉ báo quan trọng của thị trường TPCP.

Facebook Twitter 0 bình chọn Viết bình luận Lưu bài này

Đường cong lợi suất chuẩn là đồ thị phản ánh mối quan hệ giữa lãi suất và kỳ hạn của một công cụ nợ (cùng mức tín dụng và chất lượng), có vai trò quan trọng trong việc tạo lãi suất tham chiếu cho hoạt động phát hành, giao dịch và đầu tư trên thị trường trái phiếu, cung cấp thông tin phục vụ công tác quản lý và điều hành thị trường đồng thời tăng tính minh bạch và thanh khoản cho thị trường giao dịch.

Theo HNX, sau hơn 1 năm đi vào hoạt động, tính đến cuối năm 2010, thị trường TPCP Việt Nam đã có những bước phát triển đáng ghi nhận, quy mô niêm yết toàn thị trường đạt hơn 225 nghìn tỷ đồng, tương đương 12% GDP năm 2010, tăng 41% so với năm 2009. Trên thị trường sơ cấp, trong năm 2010, hoạt động đấu thầu trái phiếu huy động được 28 nghìn tỷ đồng (tăng 11 lần so với năm 2009 và chiếm 50% tổng nguồn thu ngân sách từ phát hành TPCP năm 2010).

Tuy nhiên, có thể nhận thấy quy mô thị trường TPCP vẫn còn nhỏ, chưa tương xứng với tiềm năng, hàng hóa trên thị trường còn manh mún với số lượng mã trái phiếu lớn trong khi giá trị niêm yết bình quân từng mã trái phiếu nhỏ. Ngoài ra, tính thanh khoản trên thị trường thứ cấpchưa cao, giao dịch trái phiếu tập trung chủ yếu tại các kỳ hạn ngắn và trung hạn.

Một trong những nguyên nhân của tình trạng trên là thị trường thiếu còn thiếu những chỉ báo, thước đo giúp định hướng, khuyến khích các hoạt động giao dịch và đầu tư trái phiếu. Do đó, HNX, với vai trò là đơn vị đầu mối trong vận hành thị trường TPCP Việt Nam đã đầu tư nghiên cứu để phát triển đường cong lợi suất.

HNX cho biết, đường cong lợi suất chuẩn cho thị trường TPCP Việt Nam dựa kiến sẽ được thử nghiệm xây dựng với phương pháp Svensson có áp dụng trọng số trong tính toán các tham số cho mô hình xây dựng nhằm tối thiểu hóa những sai sót về lợi suất/giá giữa các trái phiếu có kỳ hạn ngắn và dài (Wi=(1/Di)2), qua đó giúp đường cong lợi suất phản ánh chính xác hơn diễn biến của thị trường. Việc thử nghiệm phương pháp xây dựng đường cong lợi suất sẽ được tiến hành trong vòng 6 tháng nhằm tính chỉnh cách thức xử lý dữ liệu trước khi chính thức giới thiệu.

Cuối quý II/2012 sẽ có đường cong lãi suấtTại cuộc gặp mặt với các thành viên thị trường trái phiếu cuối tuần qua, Sở giaos khoán dịch chưng Hà Nội (HNX) cho biết, đường cong lãi suất đã được HNX đưa vào chạy thử và cho kết quả khả quan.

Dự kiến cuối quý II/2012, HNX sẽ đưa vào vận hành, nhằm tạo thuận lợi cho thị trường trái phiếu phát triển chuyên nghiệp.

Cũng vào thời gian này, hệ thống giao dịch - thông tin, sau khi được nâng cấp sẽ được HNX đưa

vào vận hành, qua đó, cho phép giao dịch da tiền tệ, đa thị trường. Vào cuối tháng 5/2012, HNX dự kiến sẽ tổ chức giao dịch tín phiếu kho bạc Nhà nước.

Thông tư 17/2012/TT-BTC hướng dẫn phát hành trái phiếu chính phủ tại thị trường trong nước, có hiệu lực từ ngày 26/3 sẽ tạo thuận lợi cho nhà đầu tư tham gia thị trường, bởi lịch phát hành rái phiếu ổn định và công khai. Theo đó, kho bạc Nhà nước sẽ phát hành trái phiếu kỳ hạn trên 1 năm vào ngày 15 và ngày cuối cùng hàng tháng; tín phiếu kho bạc nhà nước được phát hành vào ngày thứ 3 hàng tuần.

Nguồn ĐTCK

Thị trường tiền tệ Việt Nam: Đường cong lãi suất đang bất thường

Lãi suất tất cả các kỳ hạn tiền gửi đều quanh mức 11%/năm, đây là dấu hiệu bất thường của thị trường tiền tệ khiến các rủi ro về thanh khoản, rủi ro lãi suất và các rủi ro liên quan đến tài sản, công nợ của các NHTM đang lớn hơn bao giờ hết.Đường cong lãi suất là gì?

Trong lời kêu gọi, Hiệp hội Ngân hàng VN (VNBA) hay nhắc nhở các thành viên “tạo đường cong lãi suất (LS) hợp lý”. Tuy nhiên, đa phần bạn đọc chưa hiểu rõ lắm thế nào là đường cong LS hợp lý? Có thể giải thích đơn giản: Thời hạn (kỳ hạn) của một khoản tiền gửi (tiết kiệm) được xác định từ ngày gửi tiết kiệm (ở VN phổ biến từ không kỳ hạn đến 36 tháng). Thời hạn gửi càng dài thì LS càng phải cao vì nhiều rủi ro (lạm phát, biến động tỉ giá...). Mối quan hệ giữa LS và thời hạn được gọi là đường cong LS. Có nhiều dạng đồ thị (trục tung là LS, trục hoành là thời hạn) biểu hiện mối quan hệ này, phổ biến là 4 dạng: Thông thường, dốc, đảo ngược và dạng phẳng.

 Đuờng cong LS có chiều như thế nào thì phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Kỳ vọng lạm phát trong tuơng lai là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến đường cong LS. Ở dạng đường cong LS thông thường, mức LS ngắn hạn là thấp nhất sau đó tăng dần lên và tới đoạn cuối thì đường LS gần như nằm ngang. Đường cong LS thông thường cho thấy dấu hiệu một nền kinh tế ổn định, thị trường tài chính có xu hướng ổn định (tuy nhiên đường cong LS là một chỉ báo, không phải là dự báo).

Bất thường

Theo đề nghị của VNBA đối với các ngân hàng thành viên về việc giảm LS huy động VND xuống mức không vượt quá 11%/năm, trong tuần qua, nhiều NHTM đã công bố biểu LS mới với giới hạn trên là 11%/năm. Tuy nhiên, người ta đang chứng kiến một diễn biến đáng lo ngại ở LS huy động VND khi các kỳ hạn từ 1đến 12 tháng đồng loạt được áp dụng một mức lãi suất xấp xỉ hoặc bằng 11%/năm, chỉ có sự khác biệt ở các kỳ hạn dưới 1 tháng và sau 12 tháng, nhưng mức khác biệt sau 12 tháng đến 36 tháng không đáng kể. Ví dụ, LS VND kỳ hạn 1 tháng của ACB là 10,88%/năm và LS kỳ hạn 36 tháng là 11%/năm. Như vậy đồ thị đường cong LS của các NHTM VN hiện nay gần như thẳng đứng.

Đây là một điều bất thường vì nó không giống dạng đồ thị phổ biến nào. Một bạn đọc có ý kiến: “Lãi suất ngắn hạn có thể cao hơn lãi suất dài hạn và ngược lại, nhưng căn cứ những thông tin hiện có, tôi cho rẳng đường cong LS phải là âm, do vậy điều mà VNBA khuyến nghị các thành viên là không có cơ sở khoa học mà cũng chẳng được thực tiễn ủng hộ”.

Hệ lụy

Trên thị trường tài chính, ứng xử về LS của các thành viên tham gia là khác nhau tùy

thuộc vào đặc thù cân đối nguồn và sử dụng vốn của mỗi thành viên và đánh giá khác nhau về triển vọng kinh tế vĩ mô. Vì vậy, việc đề nghị các NHTM cùng đưa hết LS huy động VND về mức từ 11%/năm trở xuống của VNBA là duy ý chí.

Đường cong LS hiện nay trên thị trường tiền tệ đang gây ra những bất hợp lý và tiềm ẩn nhiều rủi ro. Gần đây nhất ông Jayant Menon, Vụ Hội nhập Kinh tế Khu vực Ngân hàng Phát triển Châu Á nêu vấn đề làm thế nào để phi USD hóa ở VN cho rằng cần áp dụng tỉ lệ LS khác biệt để khuyến khích việc gửi tiền dài hạn bằng VND, tránh việc gửi ngắn hạn, sau đó rút ra có thể gây nên tình trạng bất ổn, giảm các biến động đột xuất hoặc sự bất ổn tỉ giá ngắn hạn.

 Đáng lo ngại hiện nay là hầu hết số dư tiền gửi tiết kiệm trong hệ thống ngân hàng đều là tiền gửi ngắn hạn (dưới 12 tháng) hoặc tiền gửi không kỳ hạn vì cùng một mức LS 11% thì người gửi tiền chỉ chọn gửi kỳ hạn ngắn, khiến việc quản trị rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất và các loại rủi ro khác gắn liền với tài sản và công nợ của từng NHTM và hệ thống trở nên hết thức khó khăn.

Đường cong LS là một đường thẳng còn triệt tiêu khả năng cạnh tranh giữa các ngân hàng. Có thể giải thích như sau: Khả năng huy động vốn với mức LS nào phụ thuộc vào uy tín, quy mô của NH đó. Nếu cùng một mức LS 11%/năm thì người gửi tiền sẽ chọn gửi ở các NH lớn, NH nhỏ sẽ lại càng khó khăn hơn trong việc huy động. 

Lao Động

Số lượt đọc: 305  -  Cập nhật lần cuối: 23/10/12 09:09:37

Theo thông báo của Sở GDCK Hà Nội (HNX), sau khi thực hiện lấy ý kiến thành viên thị trường và báo cáo cơ

quan quản lý, HNX đã tiến hành xây dựng Hệ thống Đường cong lãi suất cho thị trường trái phiếu chính phủ.

Đến thời điểm này, hệ thống đã hoàn thành 2 phiên bản đường truyền mạng Wan và Web. Trong tháng 12/2011, các

thành viên thị trường đăng ký tham gia thí điểm và Sở sẽ xếp lịch, cài đặt và hướng dẫn sử dụng thử hệ thống.

Tháng 1/2012, thống nhất các điều khoản trong Biên bản thảo thuận yết giá 2 chiều để xây dựng đường cong lãi

suất, tháng 2/2012 chạy thử hệ thống và tháng 3/2012 sẽ công bố chính thức Hệ thống trên ra thị trường.

Như vậy, nếu không có gì thay đổi, đến 3/2012, lần đầu tiên Việt Nam có thể xây dựng và đưa vào sử dụng Đường

cong lãi suất. Trước kia, việc xây dựng Đường cong lãi suất gặp nhiều khó khăn, trong đó có 2 nguyên nhân là dữ

liệu không đầy đủ và diễn biến lãi suất ngược với thông lệ chung

Đường cong lãi suất bị bẻ thẳng: Dấu hiệu bất ổn tiền gửiKhởi tạo bởi : tinkinhte |  Đăng bởi : tinkinhte  | Cập nhật: 20/09/2011 20:15 E-mail | Bản in | Lưu xem sau

Ngay sau Ngân hàng Nhà nước kiên quyết thiết lập trần lãi suất tiền gửi 14%, một ngân hàng tung ra thị trường mức lãi suất huy động một ngày 14%/năm.

“Một cây không thể tả cả rừng”, nhưng cùng với các số liệu khác, cho thấy nguồn tiền gửi trên hệ thống đang gặp bất ổn, cả về cơ cấu lẫn doanh số. 

Đường cong lãi suất thẳng băng...

Trong thông báo phát đi, ngân hàng nói trên cho biết, để “tri ân” khách hàng, kể từ 12/9/2011, họ đưa ra mức lãi suất 14%/năm đối với sản phẩm “tiền gửi linh hoạt ngày”, áp dụng cho tất cả khách hàng cá nhân lẫn doanh nghiệp với kỳ hạn từ 1-2-3-4-5-6 ngày.

Theo đó, sản phẩm này không chỉ giúp khách hàng nhận  được mức lãi suất cao và hấp dẫn mà còn giúp khách hàng linh hoạt trong việc sử dụng nguồn vốn của mình.

Mặc dù ngân hàng này cho rằng, đây là sản phẩm đặc thù chỉ có duy nhất trong hệ thống và lần đầu tiên được triển khai, nhưng thực tế, rất nhiều ngân hàng khác đã duy trì mức lãi suất 14%/năm đối với cả tiền gửi thanh toán. Trong khi, tiền gửi thanh toán là loại tiền gửi mà khách hàng chỉ lưu lại bất chợt trong hệ thống ngân hàng, thậm chí với thời gian mấy tiếng đồng hồ.

Mổ  xẻ về loại “tiền gửi một ngày lãi suất 14%/năm”, bà Nguyễn Thị Thanh Hương, Tổng biên tập tạp chí Ngân hàng, nguyên Phó vụ trưởng Vụ Kế toán - Ngân hàng Nhà nước cho biết: “Xét về bản chất, mức lãi suất này đã vi phạm chỉ đạo trần lãi suất tiền gửi 14%/năm của Ngân hàng Nhà nước”.

Cụ  thể, 14%/năm là lãi suất của năm, nếu quản lý  theo dòng tiền “lãi đẻ ra lãi” thì  lãi suất của sản phẩm trên đã vượt trần quy định, thậm chí còn lên tới 15% - 16%/năm. Và đó là tiểu xảo để lách trần lãi suất.

Lách ở chỗ: khách hàng gửi tiền tính theo lãi suất ngày thì ngân hàng sẽ trả lãi ngay trong ngày đó, và khách hàng nhập lãi này vào gốc và nói “lãi đẻ ra lãi” là vì thế.

Chung ý kiến với bà Hương, cán bộ nguồn vốn một ngân hàng thương mại nhà nước nói: “Tiền gửi kỳ hạn 3 tháng, 4 tháng, với lãi suất 14%/năm đã là lách luật, nay nếu gửi một ngày mà cũng 14%/năm thì càng quá quắt!”.

Theo vị này, việc Ngân hàng Nhà nước chưa khống chế mức lãi suất tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi thanh toán, tiền

gửi ngắn hạn như sản phẩm tiền gửi nói trên là sơ hở. Theo vị cán bộ này, đối với các loại tiền gửi đó, chỉ nên duy trì mức lãi suất 2%/năm.

Thứ  hai là vấn đề thanh khoản của các ngân hàng. Một chuyên gia ngân hàng cho rằng, đã gọi là kỳ hạn một ngày hay “không kỳ hạn”, hoặc “tiền gửi thanh toán” thì bản chất là một, nếu xét về mặt kỳ hạn.

“Theo thông lệ quốc tế, “tiền gửi thanh toán” còn chẳng được trả một xu lãi suất nào, chứ đừng nói đến 14%/năm. Điều đó cho thấy, mức độ cần vốn của ngân hàng đó rất lớn và không loại trừ thanh khoản đang gặp vấn đề” -  vị này cho biết.

Mở rộng một chút, nếu xét về nguyên lý đường cong lãi suất “gửi càng lâu, lãi suất càng cao”  thì diễn biến trên thị trường đang theo chiều ngược lại: lãi suất kỳ hạn ngắn dài đều như nhau,   tiền gửi một ngày và tiền gửi trên một năm hay lâu hơn đều thẳng băng cùng mức 14%/năm. Điều này đã làm cho nguồn vốn của ngân hàng tỏ ra bất ổn về cơ cấu kỳ hạn và phản ánh sự khát thanh khoản.   

...và bất ổn tiền gửi

Ngày 15/9, tại cuộc họp của tất cả các tổ chức tín dụng trên  địa bàn Hà Nội, Ngân hàng Nhà nước chi nhánh Hà Nội cho biết, tính đến 31/8/2011, tổng nguồn vốn huy động của các tổ chức tín dụng tại khu vực này đạt trên 820 nghìn tỷ đồng, tăng 3,2% so với 31/12/2010, chiếm trên 1/3 so với tổng nguồn huy động toàn hệ thống ngân hàng.

Trong đó, nguồn tiền gửi VND chiếm tỷ trọng 73,1%, ngoại tệ chiếm 26,9% của tổng nguồn.

Một trong những thế mạnh của Hà Nội là huy động vốn nhưng trong ba tháng 5 - 6 - 7, nguồn huy động giảm so với cuối 2010. Trong tháng 8, huy động tăng chút ít nhưng hiện tại, việc huy động vốn bắt đầu trở nên khó khăn.

Liên quan đến vấn đề cơ cấu tiền gửi, lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước chi nhánh Hà Nội cho biết, tiền gửi tiết kiệm chiếm tỷ trọng trên 34%, tăng 5% so với 31/12/2010; phát hành giấy tờ có giá chiếm trên 11%, tăng tương ứng 8,7%, còn nguồn tiền gửi thanh toán chiếm tới 54,6%.

Như  nói trên, do tiền gửi thanh toán chiếm tỷ trọng cao nên đã gây bất ổn đến cơ cấu nguồn vốn ổn định cho ngân hàng, làm cho việc cấp tín dụng ra nền kinh tế rất khó khăn. Điều này lý giải vì sao, khách hàng muốn vay dài hạn thì rất khó so với vay ngắn hạn và nếu vay được thì phải chịu mức lãi suất rất cao.

Thứ  hai, tổng dư nợ tín dụng của các tổ chức tín dụng trên  địa bàn Hà Nội đến 31/8/2011 đạt khoảng 568,5 tỷ đồng, tăng gần 11,5%; trong đó, dư nợ VND tăng gần 7%, trong đó dư nợ ngoại tệ tăng trên 21%.

Như  vậy, so sánh tốc độ tăng của huy động vốn (3,2%) và tốc độ tăng tín dụng 11,5% đã có sự   chênh lệch rất lớn và đặt ra mối lo về cân  đối nguồn và sử dụng nguồn. Vì thế, các tổ chức tín dụng đã huy động bằng mọi giá và khi trần lãi suất tiền gửi bị khống chế ở mức 14%/năm thì họ sẵn sàng san bằng lãi suất cho tất cả các kỳ hạn.

Thứ  ba, theo tìm hiểu của người viết thì vốn huy động toàn hệ thống trong mấy ngày qua đã có biểu hiện sụt giảm so với trước khi thiết lập lại trần lãi suất 14%/năm.

Có vẻ như có sự trùng hợp nhưng không hoàn toàn ngẫu nhiên là khi dòng tiền vào ngân hàng sụt giảm thì thị trường chứng khoán tăng điểm. Rất có thể một phần trong đó đã được giải ngân cho thị trường chứng khoán và tạo nên vài đợt sóng ngắn hạn vừa qua. Hiện tượng này cũng chứng minh một thực tế: “ngân hàng hãm tín dụng thì chứng khoán đỏ, nới lỏng tín dụng thì chứng khoán xanh”.

Liên quan đến câu chuyện vốn huy động toàn hệ thống bắt đầu sụt giảm kể từ sau 7/9 (ngày Ngân hàng Nhà nước ban hành Chỉ thị 02, nghiêm cấm lách trần lãi suất), tại cuộc họp của tất cả tổ chức tín dụng trên địa bàn Hà Nội sáng 14/9, hàng loạt lãnh đạo ngân hàng thương mại kêu ra rả khách hàng rút tiền khỏi ngân hàng. Mặc dù không đưa ra lý do nhưng những ý kiến này đều ngầm ý đổ lỗi cho trần lãi suất tiền gửi 14%/năm.

Điều này cũng đồng nghĩa, một áp lực đang hiện dần lên chính sách trừng phạt xé rào lãi suất và ứng xử của Ngân hàng Nhà nước như thế nào trước vấn đề này sẽ còn phải chờ thêm ít ngày tới.

Còn trước mắt, Ngân hàng Nhà nước vẫn thẳng tay với hai ngân hàng vi phạm trần lãi suất tiền gửi.

Trong thông báo phát đi chiều muộn 14/9, Ngân hàng Nhà nước cho biết, thứ nhất, kỷ luật nặng hai cán bộ của Ngân hàng Đông Á và cấm ngân hàng này trong vòng một năm không được mở chi nhánh, phòng giao dịch, đặt máy ATM trong phạm vi toàn quốc.

Thứ hai, kỷ luật hai cán bộ của một ngân hàng khác vì đã tự ý lấy tiền túi tặng thêm cho khách gửi tiền và thưởng ngoài lãi suất cho khách hàng.

Năm ngoái, Techcombank cũng bị Ngân hàng Nhà nước kỷ luật lách trần lãi suất bằng hình thức không được mở chi nhánh, phòng giao dịch, đặt máy ATM trong vòng một năm. Theo VneconomyHNX xây dựng đường cong lợi suất chuẩn cho trái phiếu Chính phủHNX là đơn vị tổ chức thị trường cũng mong muốn xây dựng một đường cong lợi suất thiên về phục vụ cho việc phân tích, định giá xu hướng lãi suất thị trường và phân tích vĩ mô.

Mặc dù có sự tăng trưởng không ngừng trong nhiều năm qua, nhưng thị trường trái phiếu chính phủ (TPCP) vẫn chưa thực sự hấp dẫn NĐT. Nguyên nhân của thực trạng này một phần xuất phát từ việc thị trường thiếu các công cụ chỉ báo tin cậy, giúp giới đầu tư trái phiếu thuận tiện trong việc theo dõi diễn biến thị trường và có những đánh giá chính xác, kịp thời về cơ hội đầu tư.

ĐTCK đã có cuộc trao đổi với bà Nguyễn Thị Hoàng Lan, Phó tổng giám đốc Sở GDCK Hà Nội (HNX) xung quanh việc nghiên cứu và xây dựng đường cong lợi suất chuẩn - một chỉ báo quan trọng cho thị trường TPCP.

Bà đánh giá như thế nào về quy mô của thị trường TPCP hiện nay?

Tính đến cuối năm 2010, thị trường TPCP đã có những bước phát triển đáng ghi nhận, quy mô niêm yết toàn thị trường đạt hơn 225.000 tỷ đồng, tương đương 12% GDP năm 2010, tăng 41% so với năm 2009. Trên thị trường sơ cấp, trong năm 2010, hoạt động đấu thầu trái phiếu huy động được 28.000 tỷ đồng, tăng 11 lần so với năm 2009 và chiếm 50% tổng nguồn vốn huy động qua kênh phát hành TPCP năm 2010.

Tuy nhiên, xét tổng thể đối với nền kinh tế, quy mô thị trường TPCP hiện nay vẫn còn khá khiêm tốn. Ngoài ra, cấu trúc hàng hóa trên thị trường còn nhiều bất cập, thể hiện trên các khía cạnh: manh mún về số lượng mã trái phiếu đang lưu hành (với hơn 500 mã trái phiếu niêm yết), trong khi quy mô mã niêm yết bình quân nhỏ, chưa hình thành được các mã trái phiếu đại diện; hơn nữa, kỳ hạn trái phiếu chủ yếu tập trung ở kỳ hạn ngắn nên đang tạo áp lực, gây mất cân bằng trong cơ cấu nợ của Chính phủ.

Được biết, HNX đang nghiên cứu, chuẩn bị công bố đường cong lợi suất chuẩn của thị trường TPCP. Vì sao HNX lại chọn chỉ báo này để tập trung nghiên cứu, thưa bà?

Đường cong lợi suất chuẩn là đồ thị phản ánh mối quan hệ giữa lãi suất và kỳ hạn của một công cụ nợ (cùng mức tín dụng và chất lượng), có vai trò quan trọng trong việc tạo lãi suất tham chiếu cho hoạt động phát hành, giao dịch và đầu tư trên thị trường trái phiếu, cung cấp thông tin phục vụ công tác quản lý và điều hành thị trường, đồng thời tăng tính minh bạch và thanh khoản cho thị trường giao dịch.

Trong hoạt động quản lý kinh tế, đường cong lợi suất là một công cụ hữu hiệu phục vụ việc phân tích dự báo xu hướng biến động của các điều kiện kinh tế vĩ mô, hoạch định chính sách, đánh giá được những diễn biến tài chính - tiền tệ quan trọng trong nền kinh tế, cũng như đo lường, tìm hiểu được những phản ứng của thị trường với các thay đổi trong chính sách tài chính - tiền tệ.

Trong hoạt động đầu tư, đây là công cụ phổ biến giúp các NĐT xác định giá trị thị trường của các công cụ tài chính cùng kỳ hạn một cách chính xác; quản lý được rủi ro thông qua việc xác định giá trị danh mục đầu tư; ước định được mục tiêu có tính định lượng hữu hiệu nên hỗ trợ tốt trong việc triển khai các chiến lược đầu tư.

Từ thực tiễn thị trường trái phiếu Việt Nam và với những lợi ích không thể phủ nhận của đường cong lợi suất, yêu cầu về việc xây dựng chỉ báo lãi suất này đang trở nên cấp thiết. Việc hình thành một đường cong lợi suất có tính thực tiễn cao tại Việt Nam sẽ phù hợp với lợi ích và mục tiêu phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam trong ngắn hạn, cũng như dài hạn.

Hiện tại, đã có một số tổ chức trong và ngoài nước xây dựng và công bố đường cong lợi suất TPCP Việt Nam, nhưng chủ yếu phục vụ cho mục đích định giá trái phiếu. HNX là đơn vị tổ chức thị trường cũng mong muốn xây dựng một đường cong lợi suất thiên về phục vụ cho việc phân tích, định giá xu hướng lãi suất thị trường và phân tích vĩ mô.

Bà có thể cho biết cách tính toán đường cong lợi suất chuẩn mà HNX đang nghiên cứu?

Đường cong lợi suất chuẩn cho TPCP Việt Nam dự kiến sẽ được thử nghiệm xây dựng với phương pháp Svensson, có áp dụng trọng số trong tính toán các tham số cho mô hình xây dựng, nhằm tối thiểu hóa những sai sót về lợi suất/giá giữa các trái phiếu có kỳ hạn ngắn và dài, qua đó giúp đường cong lợi suất phản ánh chính xác hơn diễn biến của thị trường.

Phương pháp Svensson là một trong những phương pháp thuộc dòng Parsimonious (là dòng phương pháp sử dụng ít tham số, biểu diễn một hàm duy nhất trên toàn trục số) trong nhóm phương pháp sử dụng mô hình tính thực tế (Empirical Models).

Dòng phương pháp này thường được các tổ chức quốc tế so sánh, cân nhắc với việc sử dụng dòng Splines (là dòng phương pháp chứa nhiều tham số, xây dựng nhiều hàm khác nhau trên các đoạn kỳ hạn còn lại khác nhau). Mỗi dòng đều có những ưu và nhược điểm khác nhau, được phát triển để khắc phục những tồn tại trong kết quả tạo ra khi sử dụng bộ dữ liệu xây dựng đường cong chưa hoàn hảo.

Tại Việt Nam, với thực trạng thị trường hiện nay, tính thanh khoản kém, chưa hình thành được những mã trái phiếu chuẩn, do đó tạo nên chất lượng dữ liệu đầu vào xây dựng đường cong lợi suất chưa cao, thì dòng phương pháp Parsimonious là một điểm khởi đầu thích hợp trong việc phát triển và tiến tới hoàn thiện đường cong lợi suất cho thị trường trái phiếu Việt Nam.

Phương pháp Svensson trong dòng phương pháp này được xem là một lựa chọn tốt, vì đây là một phương pháp có độ linh hoạt cao, xử lý hiệu quả với các bộ dữ liệu đầu vào chưa hoàn hảo và quan trọng hơn, giúp đường cong lợi suất tạo ra phản ánh sát với thực trạng thị trường, không hoặc ít làm biến dạng, méo mó đường cong lợi suất.

Tuy nhiên, có một lưu ý rằng, dù sử dụng phương pháp nào thì chất lượng của dữ liệu đầu vào có ảnh hưởng lớn nhất đến chất lượng của đường cong lợi suất tạo ra. Phương pháp Svensson sẽ phát huy tối đa hiệu quả khi huy động, tập hợp các chủ thể đầu tư, giao dịch trái phiếu, công cụ nợ nói chung cùng tham gia xây dựng thông qua việc đóng góp chia sẻ thông tin về giá/lợi suất giao dịch.

Tính cộng đồng, chia sẻ thông tin của các đối tượng tham gia thị trường là điểm mấu chốt tác động tới chất lượng của đường cong lợi suất trong bối cảnh tính thanh khoản thị trường không cao, giao dịch không đồng đều trên các kỳ hạn.

Có thể khẳng định rằng, chỉ khi thị trường thấy được sự cần thiết, mong muốn có một đường cong lợi suất có tính ứng dụng cao và các thành viên tích cực tham gia đóng góp, chia sẻ thông tin thì đường cong lợi suất vẽ theo phương pháp Sevenson sẽ có tính thực tiễn và ứng dụng cao nhất.

Có nhiều cách tính toán để ra một đường cong lợi suất chuẩn cho thị trường TPCP. Phương pháp của HNX liệu có nhận được sự đồng thuận của các thành viên thị trường?

Như tôi vừa đề cập, tính cộng đồng, chia sẻ thông tin là một nhân tố quan trọng giúp phương pháp vẽ đường cong lợi suất - phương pháp Svenson phát huy tác dụng. Nhận thức được vấn đề này, từ kết quả nghiên cứu phương pháp, mô hình phát triển đường cong lợi suất, HNX đã tổ chức tham vấn và thường xuyên trao đổi đa chiều với các tổ chức kinh doanh, giao dịch, đầu tư, phân tích, các chuyên gia nghiên cứu về thị trường trái phiếu, nhằm thu thập ý kiến phản hồi, tinh chỉnh về phương pháp xây dựng.

Kết quả tham vấn này cho thấy, thị trường có chung nhận định rằng: trong điều kiện thị trường TPCP hiện nay, phương pháp Svenson giúp đạt được nhiều mục tiêu, phục vụ nhiều đối tượng từ nhà đầu tư, kinh doanh tới tổ chức phát hành, cơ quan quản lý. Do đó, đây là một khởi đầu tốt, nên Sở tiếp tục phối hợp với thị trường, xem xét khởi động và thử nghiệm xây dựng đường cong lợi suất từ phương pháp này theo một lộ trình cụ thể.

Ngoài ra, đã có rất nhiều kiến nghị liên quan đến việc phải thực hiện đồng bộ một số biện pháp khác để hỗ trợ cho việc xây dựng đường cong lợi suất như cải thiện tính thanh khoản trên thị trường (ví dụ, cơ cấu lại hàng hóa giao dịch), thúc đẩy hiệu quả hoạt động của thị trường phát hành (ví dụ, phối hợp thực hiện phát hành theo hình thức lô lớn, giảm thiểu thời gian niêm yết), phối với với cơ quan quản lý ứng dụng mô hình giao dịch giúp kiến tạo giá/lợi suất tốt hơn (ví dụ, hệ thống giao dịch PD), tổng hợp và khai thác thêm thông tin về tín phiếu để số liệu đầu vào được đầy đủ, toàn diện.

Với những ý kiến mang tính xây dựng trên đây của thị trường, HNX tin tưởng rằng, những công việc Sở đang triển khai hoàn toàn phù hợp với mục tiêu phát triển thị trường nói chung, cũng như mong muốn của các thành viên nói riêng. Do đó, Sở rất hy vọng và đang nỗ lực để phương án đường cong lợi suất mà Sở phối hợp với thị trường xây dựng sẽ mang lại kết quả khích lệ, sẽ là một công cụ tham chiếu hữu ích cho thị trường khi được ứng dụng chính thức.

Theo Thanh ĐoànĐTCK

Đường cong lãi suất đang… “thẳng” tuyệt đối!

Lãi suất huy động bình quân không hề giảm mà chỉ là sự nén chặt lại tính đa dạng và co giãn của lãi suất.

Hàng loạt ngân hàng vừa hưởng ứng lời kêu gọi giảm lãi suất lần hai của Hiệp hội Ngân hàng khi yết mức lãi suất huy động tối đa là 11%/năm hoặc công bố mức lãi suất cho vay thấp nhất, chẳng hạn, 11,5%/năm.

Thoạt nghe, có vẻ như mặt bằng lãi suất đang rục rịch hạ xuống. Nhưng thực chất, lãi suất huy động bình quân không hề giảm mà chỉ là sự nén chặt lại tính đa dạng và co giãn của lãi suất hay nói cách khác, đường cong lãi suất đang bị "duỗi thẳng" ra.

Ba ngân hàng lớn là Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam (Vietinbank) và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) nằm trong số những ngân hàng đầu tiên niêm yết biểu lãi suất mới.

Theo đó, lãi suất huy động tối đa đúng là 11%/năm như đã đồng thuận. Chỉ có điều, đó cũng là mức lãi suất được áp dụng cho hầu hết các khoản tiền gửi có kỳ hạn (xem biểu lãi suất huy động VND).

Nguồn: ĐTCK

Các ngân hàng còn có nhiều sản phẩm huy động khác như kỳ phiếu, tiền gửi tiết kiệm bậc thang, tiết kiệm lĩnh lãi định kỳ... hình thức có khác nhau để đáp ứng nhu cầu của nhiều loại khách hàng, song lãi suất tương đương vẫn ngang bằng mức trên, tức 11% với hầu hết các kỳ hạn.

Ứng với biểu lãi suất đó, biểu đồ mô tả mối quan hệ giữa lãi suất và kỳ hạn (đường cong lãi suất) được vẽ như hình trên. Dễ thấy, đường cong lãi suất đã thẳng tuyệt đối, một biểu hiện của sự bất thường trên thị trường tiền gửi.

Với biểu lãi suất này, người có ý định gửi tiền sẽ không dại gì chọn kỳ hạn dài, trừ khi có thêm khuyến mãi. Do đó, hoặc là ngân hàng chỉ huy động được tiền gửi kỳ hạn ngắn, hoặc là huy động được tiền gửi ở kỳ hạn dài nhưng lãi suất thực (gồm khuyến mãi) chắc chắn cao hơn mức 11%/năm.

Thực tế, mặc dù nhiều ngân hàng liên tục tung ra các hình thức khuyến mại đa dạng và không kém phần hấp dẫn, khách hàng vẫn có thiên hướng chọn gửi kỳ hạn ngắn hơn là gửi kỳ hạn dài kèm khuyến mãi do sự lấn át của những băn khoăn về sự ổn định của giá trị tiền đồng.

Vì vậy, cơ cấu nguồn vốn của các ngân hàng đang có xu hướng thiên về tăng tỷ trọng tiền gửi kỳ hạn ngắn (rút ngắn kỳ hạn trung bình). Hệ lụy của tình trạng này là doanh nghiệp khó tiếp cận các nguồn vốn trung và dài hạn, nguồn tài trợ quan trọng cho việc mở rộng sản xuất, kinh doanh hoặc tái cấu trúc doanh nghiệp - một trong những nhu cầu của doanh nghiệp nhằm tranh thủ cơ hội thời kinh tế suy giảm.

Hiệp hội Ngân hàng cũng đã thấy được tình trạng "duỗi thẳng" đường cong lãi suất và hậu quả của nó nên đã kêu gọi ngân hàng hạ lãi suất các kỳ hạn ngắn. Tuy nhiên, thực tế như đã thấy, đường cong lãi suất vẫn thẳng tuyệt đối. Nhất là khi mức "trần" lãi suất huy động được đồng thuận hạ từ 11,2%/năm xuống còn 11%/năm như hiện nay.

Như vậy, việc áp mức lãi suất trần huy động mà các ngân hàng đang thực hiện hoàn toàn khiên cưỡng, không chỉ mang tính hình thức mà còn gây ra hiệu ứng bóp méo thị trường.

Tính hình thức còn thể hiện ở các công bố lãi suất cho vay. Nhiều ngân hàng "khoe" đã hạ lãi suất cho vay với mức thấp nhất, chẳng hạn, tại Vietcombank là 11,5%/năm. Điều này thực tế không có nhiều ý nghĩa vì có thể chỉ một khoản vay cá biệt nào đó được áp dụng mức lãi suất này.

Khoản vay cá biệt đó có thể chỉ chiếm tỷ trọng không đáng kể trong tổng dư nợ của ngân hàng. Tác động tích cực của khoản vay "nhỏ xinh" đó đến lãi suất bình quân chỉ là "khẽ động đậy", chưa nói lên xu hướng hạ lãi suất của thị trường.

Thống kê của NHNN cho thấy, trong tuần trước, lãi suất cho vay phổ biến vẫn trong khoảng 13-14,5%/năm với kỳ hạn ngắn và 13,5-15,5 đối với kỳ hạn trung và dài; lãi suất cho vay doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp, nông thôn và xuất khẩu ở mức 11-13%/năm.

Nguyên lý kỳ hạn càng dài, lãi suất càng cao tạo nên một đồ thị đường cong lãi suất, rất tiếc nguyên lý này không còn đúng tại thị trường Việt Nam. Các ngân hàng không hề muốn một đường cong lãi suất "thẳng" như hiện nay bởi điều đó phản ánh tình trạng mất cân bằng trong cơ cấu nguồn vốn của ngân hàng, khiến chi phí hoạt động tăng lên do chi phí lãi vay tăng lên, dự trữ bắt buộc và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng nhiều hơn trên mức dư nợ cho vay ít hơn (vì bị giới hạn bởi tỷ lệ cho vay dài hạn bằng nguồn vốn ngắn hạn).

Mọi sự can thiệp thị trường tiền tệ mang tính khiên cưỡng chỉ làm cho bức tranh lãi suất bị bóp méo, "lõm" chỗ nọ thì "lồi" chỗ kia. Lần hạ lãi suất này không phải là quyết định hành chính của cơ quan quản lý, mà dựa trên sự "đồng thuận" của các ngân hàng thông qua tiếng nói chung là Hiệp hội Ngân hàng. Nhưng kết quả của sự "đồng thuận" là tạo nên một "mặt phẳng" lãi suất thì quả thật là…!

Lãi suất chính là giá vốn và do cung cầu vốn trên thị trường quyết định, trong đó, ý chí và kỳ vọng lãi suất của người gửi tiền là yếu tố tiên quyết để ngân hàng đưa ra mức lãi suất huy động của mình. Theo đó, với tình hình hiện tại, nếu một ngân hàng áp đặt "liều" một đường cong lãi suất, tiền gửi sẽ nhanh chóng rời bỏ ngân hàng này để chảy vào ngân hàng khác.

Việc người dân yêu cầu lãi suất tiền gửi cao, đồng thời ưa thích kỳ hạn gửi tiền ngắn cho thấy niềm tin vào tính ổn định của giá trị đồng nội tệ không cao. Để thay đổi điều này, cần đến một giải pháp tổng thể, thực hiện trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội và không thể trong một sớm một chiều.

Khi mà sự tác động có tính chủ quan không đem đến kết quả như mong muốn, hãy chọn cách khác để tác động vào thị trường, hoặc để thị trường tự quyết định.

Lãi suất cao đương nhiên có nhiều bất lợi, nhất là đối với việc duy trì hoặc mở rộng quy mô hoạt động của doanh nghiệp nhằm đảm bảo việc làm cho số lao động hiện tại và tạo mới việc làm cho hàng triệu người đến tuổi lao động mỗi năm ở nước ta.

Tuy vậy, lãi suất cao cũng có mặt tích cực của nó, như thúc giục doanh nghiệp thực hiện tiết kiệm, tối ưu hóa hoạt động sản xuất, kinh doanh, tìm kiếm sự phát triển ở chiều sâu tăng trưởng.

Hiện tượng thị trường bị "bóp méo", tương tự như việc "duỗi thẳng" đường cong lãi suất cũng đang xuất hiện trên thị trường ngoại hối. Tỷ giá USD/VND do bị "chặn trên" tại mức 19.500 nên áp lực thị trường (giá USD trên thị trường tự

do đã vượt ngưỡng 20.000 đồng/USD) đã "dồn" tỷ giá mua lên sát với tỷ giá bán, khiến cho các giao dịch ngoại tệ ngân hàng có vẻ như là "làm không công". Chẳng hạn, tại OceanBank, Vietinbank,... tỷ giá mua vào USD bằng với tỷ

giá bán ra, 19.500 đồng/USD.

Theo Quang HuyĐTCK