Các Vấn Đề Pháp Lý Về Chuyển Nhượng Dự Án Trong Đầu Tư, Kinh Doanh Bất...
-
Upload
langtuthangpr0 -
Category
Documents
-
view
48 -
download
5
description
Transcript of Các Vấn Đề Pháp Lý Về Chuyển Nhượng Dự Án Trong Đầu Tư, Kinh Doanh Bất...
LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng tri ân sâu sắc tới các thầy giáo, cô giáo trường Đại học Luật
Hà Nội, những người đã hết lòng chỉ bảo, giúp đỡ em trong suốt bốn năm học
vừa qua.
Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy giáo PGS.TS Nguyễn Quang
Tuyến, người đã tận tình giúp đỡ em hoàn thiện khóa luận tốt nghiệp này!
Trong quá trình hoàn thiện, khóa luận chắc chắn không tránh khỏi những thiếu
sót. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 5 tháng 5 năm 2012
Sinh viên
BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT
BĐS: bất động sản
SDĐ: sử dụng đất
MỤC LỤC
Mở đầu.....................................................................................................................................1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN NHƯỢNG DỰ ÁN
TRONG ĐẦU TƯ, KINH DOANH BẤT ĐỘNG SẢN.......................................................5
1.1. Khái niệm đầu tư, kinh doanh bất động sản.................................................................5
1.1.1. Khái niệm đầu tư bất động sản.....................................................................................5
1.1.2. Khái niệm kinh doanh bất động sản.............................................................................8
1.1.3. Vai trò của hoạt động đầu tư, kinh doanh bất động sản trong thị trường bất
động sản...................................................................................................................................13
1.2. Khái niệm chuyển nhượng dự án trong đầu tư, kinh doanh bất động sản................13
1.2.1. Khái niệm chuyển nhượng dự án.................................................................................13
1.2.2. Chuyển nhượng dự án trong đầu tư, kinh doanh bất động sản..................................17
1.3. Cơ sở của việc chuyển nhượng dự án trong đầu tư, kinh dopanh bất động sản
..................................................................................................................................................19
1.4. Mục đích, ý nghĩa của chuyển nhượng dự án trong đầu tư, kinh doanh bất
động sản...................................................................................................................................20
1.4.1. Mục đích của chuyển nhượng dự án trong đầu tư, kinh doanh bất động sản...........20
1.4.2. Ý nghĩa của chuyển nhượng dự án trong đầu tư, kinh doanh bất động sản.............21
1.5. Sự cần thiết của việc điều chỉnh hoạt động chuyển nhượng dự án trong đầu tư,
kinh doanh bất động sản bằng pháp luật.............................................................................22
Chương 2: PHÁP LUẬT VỀ CHUYỂN NHƯỢNG DỰ ÁN TRONG
ĐẦU TƯ, KINH DOANH BẤT ĐỘNG SẢN......................................................................24
2.1. Nội dung cơ bản của pháp luật về chuyển nhượng dự án trong đầu tư, kinh
doanh bất động sản.................................................................................................................24
2.1.1. Nội dung các quy định về nguyên tắc chuyển nhượng dự án trong đầu tư, kinh
doanh bất động sản.................................................................................................................24
2.1.2. Nội dung các quy định về chủ thể được phép chuyển nhượng dự án trong đầu
tư, kinh doanh bất động sản...................................................................................................26
2.1.3. Nội dung các quy định về đối tượng dự án đầu tư, kinh doanh bất động sản
được chuyển nhượng..............................................................................................................30
2.1.4. Nội dung các quy định về điều kiện chuyển nhượng dự án trong đầu tư, kinh
doanh bất động sản.................................................................................................................32
2.1.5. Nội dung các quy định về trình tự, thủ tục chuyển nhượng dự án trong đầu tư,
kinh doanh bất động sản.........................................................................................................33
2.1.6. Nội dung các quy định về hợp đồng chuyển nhượng dự án trong đầu tư, kinh
doanh bất động sản.................................................................................................................37
2.1.7. Nội dung các quy định về xử lý vi phạm pháp luật về chuyển nhượng dự án
trong đầu tư, kinh doanh bất động sản..................................................................................39
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về chuyển nhượng dự án trong đầu tư, kinh
doanh bất động sản.................................................................................................................40
2.2.1. Những thành tựu, kết quả đạt được.............................................................................40
2.2.2. Những tồn tại, hạn chế.................................................................................................42
2.2.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế....................................................................44
Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHUYỂN NHƯỢNG
DỰ ÁN TRONG ĐẦU TƯ, KINH DOANH BẤT ĐỘNG SẢN.........................................47
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về chuyển nhượng dự án trong đầu tư,
kinh doanh bất động sản........................................................................................................47
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về chuyển nhượng dự án trong đầu tư, kinh doanh bất
động sản phải phù hợp với quan điểm và định hướng phát triển thị trường bất động
sản của Đảng ta.......................................................................................................................47
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về chuyển nhượng dự án trong đầu tư, kinh doanh bất
động sản dựa trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc công khai, minh bạch trong kinh doanh
bất động sản.............................................................................................................................49
3.1.3. Hoàn thiện pháp luật về chuyển nhượng dự án trong đầu tư, kinh doanh bất
động sản phải dựa trên việc tham khảo và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm và thực
tiễn pháp lý của nước ngoài về vấn đề này............................................................................50
3.1.4. Hoàn thiện pháp luật về chuyển nhượng dự án trong đầu tư, kinh doanh bất
động sản phải đặt trong tổng thể cải cách hệ thống pháp luật về đầu tư, kinh doanh
nói chung và pháp luật về đầu tư, kinh doanh bất động sản nói riêng................................50
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về chuyển nhượng dự án trong đầu tư, kinh
doanh bất động sản.................................................................................................................51
3.2.1. Sửa đổi, bổ sung các quy định về nâng cao khả năng kiểm soát thị trường bất
động sản của Nhà nước..........................................................................................................51
3.2.2. Hoàn thiện quy định về vốn chủ sở hữu của nhà đầu tư, kinh doanh bất động
sản............................................................................................................................................53
3.2.3. Tạo ra cơ chế huy động vốn dài hạn cho thị trường bất động sản.............................54
Kết luận...................................................................................................................................57
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT
BĐS: bất động sản
SDĐ: sử dụng đất
1
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong bối cảnh thị trường bất động sản (BĐS) hoạt động trầm lắng
như hiện nay; hàng hóa BĐS dường như khó có khả năng thanh khoản cao.
Hơn nữa, một bộ phận không nhỏ các nhà đầu tư, kinh doanh BĐS ở nước
ta có năng lực tài chính hạn chế. Muốn có đủ nguồn vốn đáp ứng nhu cầu
đầu tư, kinh doanh, họ thường tìm đến các ngân hàng thương mại, các tổ
chức tín dụng để vay vốn. Tuy nhiên, trong điều kiện chịu sự tác động tiêu
cực của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu và thực hiện Nghị quyết số 11
của Chính phủ về kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và thực hiện an
sinh xã hội thì các ngân hàng thương mại đã thắt chặt, tạm dừng việc cho
vay vốn đầu tư vào lĩnh vực BĐS. Do thiếu vốn đầu tư, nhiều doanh nghiệp
kinh doanh BĐS buộc phải tiến hành chuyển nhượng dự án và hiện nay xu
hướng chuyển nhượng dự án trong đầu tư, kinh doanh BĐS ngày càng diễn
ra phổ biến. Đây là một vấn đề còn tương đối mới ở nước ta, được quy định
trong Luật kinh doanh BĐS năm 2006. Do còn là lĩnh vực pháp luật non trẻ
và đang trong quá trình hoàn thiện nên thực tiễn thi hành cho thấy vẫn còn
thiếu các quy định cụ thể điều chỉnh hoạt động chuyển nhượng dự án đầu
tư, kinh doanh BĐS. Mặt khác, những quy định về vấn đề này được ban
hành khi đi vào cuộc sống đã bộc lộ một số điểm bất cập, không phù hợp
với thực tế cuộc sống. Để khắc phục những thách thức này và góp phần
khai thông những “điểm nghẽn” trong hoạt động chuyển nhượng dự án đầu
tư, kinh doanh BĐS thì việc nghiên cứu, đánh giá một cách toàn diện pháp
luật thực định về vấn đề này là rất cần thiết. Từ đó mới nhận diện những
tồn tại, bất cập cũng như nguyên nhân của những khiếm khuyết trong nội
dung các quy định về chuyển nhượng dự án đầu tư, kinh doanh BĐS để có
thể đưa ra một số giải pháp hoàn thiện là việc làm có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn trong giai đoạn hiện nay. Với những lý do trên, em lựa chọn đề
2
tài: “Các vấn đề pháp lý về chuyển nhượng dự án trong đầu tư, kinh
doanh bất động sản” làm khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu chủ yếu của khóa luận, bao gồm:
- Hệ thống hóa, phân tích và góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận và
thực tiễn về chuyển nhượng dự án trong đầu tư, kinh doanh BĐS xem xét
dưới góc độ pháp lý.
- Đánh giá thực trạng và đưa ra một số giải pháp hoàn thiện pháp luật
về chuyển nhượng dự án trong đầu tư, kinh doanh BĐS ở nước ta.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên thì nhiệm vụ nghiên cứu của khóa luận
được đặt ra là:
- Phân tích khái niệm và đặc điểm của dự án đầu tư, kinh doanh
BĐS; phân tích khái niệm và đặc điểm của khái niệm chuyển nhượng dự án
đầu tư, kinh doanh BĐS.
- Lý giải sự cần thiết và ý nghĩa của việc chuyển nhượng dự án đầu
tư, kinh doanh BĐS.
- Luận giải sự cần thiết của việc pháp luật điều chỉnh hoạt động
chuyển nhượng dự án đầu tư, kinh doanh BĐS.
- Phân tích, bình luận nội dung pháp luật về chuyển nhượng dự án
đầu tư, kinh doanh BĐS.
- Đánh giá thực trạng pháp luật về chuyển nhượng dự án đầu tư, kinh
doanh BĐS và đưa ra định hướng và các giải pháp hoàn thiện.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận, bao gồm:
- Nghiên cứu, giải mà bản chất pháp lý của các khái niệm đầu tư,
kinh doanh BĐS; khái niệm dự án đầu tư, kinh doanh BĐS; khái niệm
chuyển nhượng dự án trong đầu tư, kinh doanh BĐS.
3
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về chuyển
nhượng dự án trong đầu tư, kinh doanh BĐS.
- Nghiên cứu thực trạng áp dụng pháp luật về chuyển nhượng dự án
đầu tư, kinh doanh BĐS.
- Nghiên cứu quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước về thị trường BĐS nói chung và về chuyển nhượng dự án đầu tư, kinh
doanh BĐS nói riêng …
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trên thực tế, hoạt động chuyển nhượng dự án đầu tư, kinh doanh
BĐS diễn ra rất sôi động, phong phú và đa dạng. Pháp luật về chuyển
nhượng dự án đầu tư, kinh doanh BĐS là lĩnh vực pháp luật có nội hàm
rộng liên quan đến nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau như pháp luật đầu
tư, pháp luật thương mại, pháp luật đất đai, pháp luật xây dựng, pháp luật
nhà ở và pháp luật dân sự v.v. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của một bản
khóa luận cử nhân luật, Khóa luận giới hạn phạm vi nghiên cứu ở các quy
định về chuyển nhượng dự án đầu tư, kinh doanh BĐS của Luật kinh doanh
BĐS năm 2006 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
5. Phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở kết hợp giữa phương pháp luận
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử với các phương pháp nghiên cứu
khoa học cụ thể như: Phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp
quy nạp và diễn giải; phương pháp lịch sử và logic;… Tất cả các phương
pháp này đều được kết hợp và sử dụng để lý giải những vấn đề đặt ra trong
nội dung khóa luận. Cụ thể, khi một luận điểm được đưa ra thì kèm theo đó
là các luận cứ để chứng minh, phân tích luận điểm đó. Sau khi phân tích,
tác giả sẽ tổng hợp lại vấn đề và đưa ra kết luận. Trong quá trình phân tích,
tác giả có thể kết hợp sử dụng phương pháp quy nạp và diễn giải. Phương
pháp lịch sử được sử dụng để chỉ ra sự phát triển của hoạt động chuyển
nhượng dự án trước và sau khi được pháp luật quy định. Sự gắn kết giữa
4
các chương của khóa luận được thể hiện bằng phương pháp logic. Nếu như
Chương 1 nghiên cứu các vấn đề lý luận, khái quát chung thì Chương 2 đi
sâu phân tích nội dung của vấn đề. Chương 3 đề xuất giải pháp cụ thể nhằm
khắc phục những tồn tại, chỉ ra những phương hướng mới nhằm đáp ứng
yêu cầu đề ra.
6. Bố cục khóa luận
Ngoài mục lục, phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo, bố cục của khóa luận gồm ba chương:
- Chương 1. Một số vấn đề lý luận về chuyển nhượng dự án trong
đầu tư, kinh doanh bất động sản.
- Chương 2. Pháp luật về chuyển nhượng dự án trong đầu tư, kinh
doanh bất động sản.
- Chương 3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về chuyển nhượng dự án
trong đầu tư, kinh doanh bất động sản.
5
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN NHƯỢNG DỰ ÁN
TRONG ĐẦU TƯ, KINH DOANH BẤT ĐỘNG SẢN
1.1. Khái niệm đầu tư, kinh doanh bất động sản
1.1.1. Khái niệm đầu tư bất động sản
1.1.1.1. Định nghĩa và đặc điểm của đầu tư bất động sản
Nghiên cứu về đầu tư BĐS, chúng ta không thể không tìm hiểu khái
niệm đầu tư nói chung. Đầu tư là một thuật ngữ được sử dụng phổ biến
trong đời sống xã hội và được giải thích trong các cuốn từ điển.
- Theo Từ điển tiếng Việt thông dụng: “Đầu tư: Bỏ vốn vào việc sản
xuất, kinh doanh để được hưởng phần lợi, lãi”1.
- Theo Từ điển Luật học: “Đầu tư: Việc cá nhân, tổ chức đưa các loại
tài sản vào làm vốn để thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh”2 v.v.
Như vậy, hiểu theo nghĩa chung nhất, đầu tư là việc tổ chức, cá nhân
bỏ vốn hoặc tài sản vào hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục đích
kiếm lợi.
Trong lĩnh vực kinh doanh BĐS, để tạo ra BĐS hàng hóa, chủ thể
kinh doanh phải bỏ vốn, thời gian, chất xám và công sức vào quá trình quy
hoạch đất đai, xây dựng nhà, công trình xây dựng. Hoạt động này được gọi
là hoạt động đầu tư BĐS. Đầu tư BĐS được ghi nhận trong nội dung các
quy định của Luật kinh doanh BĐS năm 2006. Mặc dù vậy, thuật ngữ này
lại không được giải thích trong Luật kinh doanh BĐS năm 2006. Từ khái
niệm chung về đầu tư, chúng ta có thể hiểu đầu tư BĐS là việc tổ chức, cá
nhân (gọi chung là chủ đầu tư) bỏ vốn vào lĩnh vực BĐS nhằm thu được
một lợi ích lớn hơn nguồn vốn ban đầu. Nguồn vốn ban đầu mà chủ đầu tư
bảo ra bao gồm: Một khoản tiền, thời gian, công sức, kinh nghiệm, sự hiểu
biết hoặc chất xám v.v. Kết quả của hoạt động đầu tư BĐS mà chủ đầu tư 1 Nguyễn Như Ý (chủ biên): Từ điển tiếng Việt thông dụng, Nxb Giáo dục, Hà Nội - 2001, tr. 2552 Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội -1999, tr. 152
6
có thể thu được bao gồm: BĐS hàng hóa (nhà ở, công trình xây dựng,
quyền sử dụng đất); thương hiệu, danh tiếng; kỹ năng, kiến thức hoặc kinh
nghiệm mới tích lũy được; đội ngũ nguồn nhân lực có chất lượng cao v.v.
Bên cạnh những đặc trưng của hoạt động đầu tư nói chung, đầu tư
BĐS còn mang một số đặc điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất, đầu tư BĐS là loại hình đầu tư đòi hỏi phải có vốn đầu tư
lớn. Do đặc điểm của BĐS là tài sản có giá trị lớn, nên nhà đầu tư cần phải
bỏ một nguồn vốn lớn trong quá trình tạo lập ra một lượng hàng hóa BĐS.
Thứ hai, hoạt động đầu tư BĐS đòi hỏi phải huy động một nguồn
vốn lớn nên không có bất kỳ một nhà đầu tư nào có thể có đủ vốn. Vì vậy,
để tiến hành hoạt động này, nhà đầu tư phải huy động vốn từ các kênh khác
nhau như vay vốn của ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng, quỹ đầu
tư tài chính; huy động vốn ứng trước của khách hàng; huy động vốn góp
của các cổ đông; hợp tác, liên doanh, liên kết với các đối tác trong và ngoài
nước; phát hành cổ phiếu, trái phiếu v.v.
Thứ ba, hoạt động đầu tư BĐS thường diễn ra trong một thời gian
dài được tính bằng tháng hoặc năm. Điều này có nghĩa là từ khi bắt đầu đến
khi kết thúc một dự án đầu tư BĐS thường kéo dài hàng năm. Trong thời
gian này sẽ có rất nhiều biến động, vì vậy, yêu cầu nhà đầu tư phải dự đoán
được biến động có thể xảy ra. Ví dụ: Biến động về thị trường BĐS, biến
động về giá nguyên vật liệu, biến động về sự phát triển của nền kinh tế - xã
hội; biến động về giá đất v.v. Bên cạnh đó, do thời gian thực hiện đầu tư
dài nên các nhà đầu tư cần phải quản lý, phân bổ và huy động các nguồn
vốn một cách hiệu quả, hợp lý.
Thứ tư, kết quả của hoạt động đầu tư BĐS thường là các công trình
xây dựng gắn liền với đất (có vị trí cố định), gắn với điều kiện tự nhiên,
kinh tế - xã hội, môi trường nhất định. Vì vậy, hoạt động đầu tư BĐS phải
nắm vững các đặc điểm tự nhiên, kinh tế, môi trường ảnh hưởng đến hoạt
động đầu tư. Mặt khác, BĐS hàng hóa là thành quả của hoạt động đầu tư
7
thường có vị trí cố định nên chúng có giá trị sử dụng lâu dài. Do đó, trong
đầu tư cần phải chú ý đến chất lượng của các công trình, từ khâu chọn
nguyên vật liệu, cân đối các khoản mục thi công công trình, đến khâu thi
công, hoàn thiện, bảo hành …
Thứ năm, để một hoạt động đầu tư đảm bảo mang lại hiệu quả kinh
tế - xã hội cao, cần làm tốt công tác quản lý, bởi nguồn lực phục vụ cho
công tác đầu tư là rất lớn. Các nhà đầu tư cần quan tâm đúng mức đến việc
chuẩn bị cho hoạt động đầu tư như lập dự án đầu tư, triển khai thực hiện dự
án,…
Thứ sáu, BĐS là tài sản có giá trị lớn nên hoạt động đầu tư BĐS
mang lại cho nhà đầu tư lợi nhuận lớn. Điều này có nghĩa là tỷ suất đầu tư
trên một đơn vị BĐS là rất cao. Ngược lại, hoạt động này cũng tiềm ẩn
nhiều rủi ro và nguy cơ thu lỗ lớn khi thị trường BĐS “đóng băng”, tính
thanh khoản của thị trường BĐS thấp.
Thứ bảy, hoạt động đầu tư BĐS liên quan đến lợi ích của nhiều
người. Nó không chỉ liên quan đến lợi ích của bản thân nhà đầu tư mà còn
liên quan đến lợi ích của khách hàng (đối tượng thụ hưởng BĐS hàng hóa);
lợi ích của bên cho vay vốn (ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng, quỹ
đầu tư tài chính); các doanh nghiệp sản xuất nguyên, vật liệu xây dựng; đội
ngũ công nhân xây dựng; Nhà nước và các đối tác của chủ thể đầu tư BĐS
v.v. Vì vậy, đầu tư BĐS là loại hình đầu tư có điều kiện. Điều này có nghĩa
là không phải bất cứ tổ chức, cá nhân nào cũng được phép đầu tư BĐS mà
chỉ những tổ chức, cá nhân có đủ các điều kiện do pháp luật quy định mới
được hoạt động đầu tư BĐS.
Thứ tám, hoạt động đầu tư BĐS không chỉ mang lại lợi ích kinh tế
mà còn đem lại lợi ích xã hội. Nó góp phần giải quyết nhu cầu về chỗ ở cho
người dân, tạo lập các cơ sở y tế, văn hóa, xã hội … để bảo đảm vấn đề an
sinh của xã hội …
1.1.1.2. Các loại hình đầu tư bất động sản.
8
Trên thực tế hoạt động đầu tư BĐS được tiến hành với các loại hình
rất phong phú và đa dạng. Chúng ta có thể phân loại một số loại hình đầu
tư BĐS chủ yếu sau đây:
- Đầu tư vào các khu dân cư: Khu dân cư ở đây có thể là nhà ở,
khung chung cư, khu nghỉ dưỡng ... Đầu tư vào khu dân cư có nghĩa là nhà
đầu tư sẽ bỏ vốn tạo lập nhà ở, khu chung cư thương mại; nhà ở xã hội, khu
nghĩ dưỡng v.v. Hoạt động này còn được gọi là hoạt động đầu tư vào thị
trường địa ốc.
- Đầu tư theo ngành: Là việc nhà đầu tư có thể sử dụng BĐS làm
mặt bằng để đầu tư vào một ngành khác. Loại hình này thường có hai yếu
tố là “phí” và “dịch vụ”. “Phí” là tiền sử dụng mặt bằng, còn “dịch vụ” là
những hình thức đi kèm mà nhà đầu tư có thể cung cấp để làm tăng thêm
thu nhập.
- Đầu tư mặt bằng bán lẻ: Bao gồm đầu tư xây dựng các trung tâm
mua sắm, cửa hàng bán lẻ,… Nhà đầu tư có thể sở hữu chúng hoặc cho
người khác thuê để kinh doanh bán lẻ. Do đó, ngoài việc nhận được tiền
cho thuê định kỳ, nhà đầu tư còn có thể được nhận phần trăm hoa hồng
theo doanh số của các cửa hàng khi luôn giữ cho BĐS trở thành nơi kinh
doanh uy tín.
- Đầu tư bất động sản hỗn hợp: Nhà đầu tư có thể kết hợp bất kỳ
hình thức nào ở trên vào một dự án duy nhất. Sử dụng BĐS hỗn hợp là hình
thức đầu tư phổ biến với những nhà đầu tư có nguồn vốn đáng kể vì điều
này sẽ giúp họ thực hiện đa dạng hóa các yếu tố thiết yếu để kiểm soát rủi
ro.
1.1.2. Khái niệm kinh doanh bất động sản
1.1.2.1. Định nghĩa kinh doanh bất động sản
Theo Luật Kinh doanh BĐS năm 2006: “Kinh doanh bất động sản: là
việc bỏ vốn đầu tư tạo lập, mua, nhận chuyển nhượng, thuê, thuê mua bất
động sản để bán, chuyển nhượng, cho thuê lại, cho thuê mua nhằm mục
9
đích sinh lợi” (Khoản 2 Điều 4). Như vậy, pháp luật nước ta quan niệm
kinh doanh BĐS bao gồm các hành vi sau đây nhằm mục đích sinh lợi: (i)
Mua bán, chuyển nhượng BĐS; (ii) Cho thuê BĐS; (iii) Thuê mua BĐS.
- Hành vi mua bán, chuyển nhượng BĐS được thực hiện dưới các
dạng sau:
Một là, mua bán BĐS là việc chủ sở hữu BĐS hoặc người được chủ
sở hữu BĐS ủy quyền, để lại thừa kế (bên bán) chuyển giao quyền sở hữu,
quyền sử dụng BĐS cho bên nhận (bên mua) và người này phải trả cho chủ
sở hữu BĐS một khoản tiền tương ứng với giá trị của BĐS để được sở hữu
hoặc sử dụng BĐS.
Hai là, giao dịch BĐS có liên quan đến kinh doanh BĐS là việc mua
bán, chuyển nhượng, thuê, thuê mua BĐS giữa tổ chức, cá nhân không kinh
doanh BĐS với tổ chức, cá nhân kinh doanh BĐS3.
Ba là, đấu giá BĐS là việc bán, chuyển nhượng BĐS công khai để
chọn người mua, nhận chuyển nhượng BĐS trả giá cao nhất theo thủ tục
đấu giá tài sản4.
Bốn là, mua bán, chuyển nhượng BĐS trả chậm, trả dần là việc mua
bán, chuyển nhượng BĐS mà bên mua, bên nhận chuyển nhượng được trả
chậm hoặc trả dần tiền mua, tiền chuyển nhượng BĐS trong thời hạn thỏa
thuận trong hợp đồng5.
Năm là, mua bán nhà, công trình xây dựng hình thành trong tương
lai là việc mua bán nhà, công trình xây dựng mà tại thời điểm ký hợp đồng,
nhà, công trình xây dựng đó chưa hình thành hoặc đang hình thành theo hồ
sơ dự án, thiết kế bản vẽ thi công và tiến độ cụ thể6.
- Cho thuê BĐS là việc chủ sở hữu BĐS hoặc người được chủ sở
hữu BĐS ủy quyền, để lại thừa kế (bên cho thuê) thỏa thuận chuyển giao
quyền sở hữu, quyền sử dụng BĐS cho người có nhu cầu sử dụng (bên 3 Khoản 4 Điều 4 Luật kinh doanh BĐS năm 20064 Khoản 4 Điều 6 Luật kinh doanh BĐS năm 20065 Khoản 7 Điều 4 Luật kinh doanh BĐS năm 20066 Khoản 8 Điều 4 Luật kinh doanh BĐS năm 2006
10
thuê) trong một thời hạn nhất định và người này phải trả một khoản tiền
thuê cho chủ sở hữu BĐS trong thời hạn thuê và trả lại BĐS khi hết thời
hạn thuê BĐS.
- Thuê mua nhà, công trình xây dựng là hình thức kinh doanh BĐS,
theo đó bên thuê mua trở thành chủ sở hữu nhà, công trình xây dựng đang
thuê mua sau khi trả hết tiền thuê mua theo hợp đồng thuê mua7.
1.1.2.2. Đặc điểm của kinh doanh bất động sản
Bên cạnh những đặc điểm của hoạt động kinh doanh nói chung, kinh
doanh BĐS còn mang một số đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, pháp luật nước ta quy định chủ thể kinh doanh BĐS phải
có vốn pháp định là 6 tỉ đồng (Khoản 1 Điều 3 Nghị định số 153/2007/NĐ-
CP ngày 15/10/2007 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Kinh
doanh BĐS (sau đây gọi là Nghị định số 153/2007/NĐ-CP). Theo đó,
doanh nghiệp, hợp tác xã kinh doanh BĐS phải có vốn pháp định là 6 tỉ
đồng. Việc xác nhận vốn pháp định này được thực hiện theo quy định của
pháp luật về doanh nghiệp, hợp tác xã và đăng ký kinh doanh.
Hơn nữa, đối với dự án khu đô thị mới, dự án hạ tầng kỹ thuật khu
công nghiệp, chủ đầu tư dự án phải có vốn đầu tư thuộc sở hữu không thấp
hơn 20% tổng mức đầu tư của dự án đã được phê duyệt. Đối với dự án khu
nhà ở thì không thấp hơn 15% tổng mức đầu tư của dự án có quy mô sử
dụng đất (SDĐ) dưới 20 ha, không thấp hơn 20% tổng mức đầu tư của dự
án có quy mô SDĐ từ 20 ha trở lên đã được phê duyệt (Điều 5 Nghị định số
153/2007/NĐ-CP).
Thứ hai, hoạt động kinh doanh BĐS khác với hoạt động kinh doanh
dịch vụ BĐS; cụ thể:
Kinh doanh bất động sản Kinh doanh dịch vụ bất động sản
7 Khoản 12 Điều 4 Luật kinh doanh BĐS năm 2006
11
- Về quan hệ chủ thể: Bao gồm 2
bên (bên bán và bên mua; bên nhận
chuyển nhượng và bên chuyển
nhượng; bên thuê và bên cho
thuê;...).
- Về đối tượng kinh doanh: (i) Mua
- Bán BĐS; (ii) Chuyển nhượng -
Nhận chuyển nhượng BĐS; (iii)
Thuê - Cho thuê BĐS; (iv) Thuê
mua BĐS.
- Về điều kiện kinh doanh: Không
cần chứng chỉ hành nghề kinh
doanh BĐS.
- Về quan hệ chủ thể: bao gồm 3 bên
(bên bán/bên cho thuê, bên mua/bên
thuê và chủ thể kinh doanh dịch vụ
BĐS).
- Về đối tượng kinh doanh: (i) Môi
giới BĐS; (ii) Tư vấn BĐS; (iii)
Định giá BĐS; (iv) Đấu giá BĐS;
(v) Quảng cáo BĐS; (vi) Quản lý
BĐS; (vii) Sàn giao dịch BĐS.
- Về điều kiện kinh doanh: Người
môi giới, định giá BĐS phải có
chứng chỉ hành nghề mới được kinh
doanh. Người quản lý, điều hành sàn
giao dịch BĐS phải có giấy chứng
nhận đã qua lớp đào tạo về quản lý
sàn giao dịch BĐS.
1.1.2.3. Các loại hình kinh doanh bất động sản
Tìm hiểu hoạt động kinh doanh BĐS cho thấy trên thực tế, hoạt động
này được thực hiện dưới các loại hình cơ bản sau đây:
- Đất trống: Do nhu cầu SDĐ đai ngày càng tăng, trong khi quỹ đất
đai là có hạn, cho nên kinh doanh đất thường có lợi nhuận cao hơn cả. Tuy
nhiên, đất là một tài sản có tính thanh khoản thấp, kinh doanh đất thường
có độ rủi ro cao hơn kinh doanh các BĐS khác và rất khó vay vốn để đầu tư
vào loại hình BĐS này.
- Nhà ở cho thuê hoặc để bán: So với các BĐS khác, kinh doanh nhà
ở có nhiều lợi thế hơn như: nhu cầu xã hội về nhà ở tăng lên không ngừng
12
do sự tăng dân số, công việc kinh doanh không đòi hỏi quá nhiều công sức
và tính chuyên nghiệp, công chúng có một sự hiểu biết tương đối về loại
BĐS này, tính thanh khoản của nó cao hơn v.v. Do vậy, kinh doanh nhà ở
thường sôi động hơn so với các loại hình kinh doanh BĐS khác.
- Các toà nhà cho thuê văn phòng: Loại hình này đòi hỏi một lượng
vốn đầu tư ban đầu lớn, trình độ quản lý cao và phải cung cấp nhiều dịch
vụ với chất lượng tốt cho nhu cầu làm việc của các doanh nghiệp. Loại
BĐS này có tính thanh khoản thấp, việc kinh doanh phụ thuộc nhiều vào
tình hình phát triển của nền kinh tế và kỳ vọng trong tương lai của các nhà
đầu tư.
- Kho chứa hàng cho thuê: Kinh doanh loại BĐS này chịu ảnh
hưởng lớn từ các hoạt động sản xuất công nghiệp và thương mại ở khu vực,
do vậy nó cũng có rủi ro. Yêu cầu của loại BĐS này là phải gần các trục
giao thông chính, có lối ra vào cho các xe vận tải. Việc kinh doanh không
đòi hỏi vốn đầu tư lớn và trình độ quản lý cao.
- Các trung tâm thương mại: Yêu cầu chung là phải gần các trục giao
thông chính, ra vào thuận lợi, gần các khu dân cư, các khu văn phòng làm
việc. Việc quản lý là rất phức tạp, đòi hỏi tính chuyên nghiệp cao. Kinh
doanh BĐS loại này phụ thuộc nhiều vào sức mua của dân cư. Do vậy, nó
phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế của cộng đồng trong khu vực.
- Khách sạn: Việc quản lý đòi hỏi tính chuyên nghiệp cao. Đầu tư
vào loại hình BĐS này đòi hỏi một lượng vốn lớn, do vậy giá trị của khách
sạn rất lớn và tính thanh khoản không cao. Hoạt động kinh doanh khách
sạn phụ thuộc nhiều vào sự phát triển của nền kinh tế, sự ổn định chính trị,
an ninh xã hội và cảnh quan, môi trường của địa phương.
- Các hoạt động dịch vụ liên quan: Là những hoạt động hỗ trợ cho
kinh doanh BĐS và thị trường BĐS, bao gồm hoạt động môi giới, tư vấn,
định giá BĐS v.v. Những người hoạt động trong lĩnh vực này là những
13
chuyên gia về BĐS, giúp cho người tham gia vào thị trường BĐS có thể
đưa ra những quyết định đúng đắn.
1.1.3. Vai trò của hoạt động đầu tư, kinh doanh bất động sản trong thị
trường bất động sản
Đầu tư, kinh doanh BĐS là một hiện tượng kinh tế khách quan trong
nền kinh tế hàng hóa. Khi nền kinh tế hàng hóa phát triển, đầu tư, kinh
doanh BĐS được mở rộng cả về phạm vi, quy mô và hình thức. Mặt khác,
một nền kinh tế hàng hóa không thể tồn tại nếu không có hoạt động sản
xuất hàng hóa, trong đó, BĐS là một loại hàng hóa đặc biệt. Khác với các
loại hàng hóa thông thường khác, hàng hóa BĐS sẽ cung cấp cho người sử
dụng tính hữu ích và tiện nghi, làm nền tảng cho các hoạt động khác. Bên
cạnh đó, nó còn tạo ra lợi nhuận cho nhà đầu tư và những người hỗ trợ cho
hoạt động kinh doanh BĐS. Do đó, có thể thấy, vai trò của hoạt động đầu
tư, kinh doanh BĐS thể hiện ở hai khía cạnh sau:
Thứ nhất, thỏa mãn nhu cầu của người sử dụng.
Thứ hai, các dự án đầu tư BĐS phải nằm trong chương trình phát
triển kinh tế - xã hội chung của toàn quốc và của từng địa phương, gắn liền
với công trình phát triển quốc gia. Vì vậy, hoạt động đầu tư, kinh doanh
BĐS một mặt vì lợi nhuận của nhà đầu tư, mặt khác để đạt lợi nhuận của
nhà đầu tư phải trên cơ sở nhu cầu của xã hội.
1.2. Khái niệm chuyển nhượng dự án trong đầu tư, kinh doanh bất
động sản
1.2.1. Khái niệm chuyển nhượng dự án
1.2.1.1. Định nghĩa và đặc điểm của dự án
Dự án (Project) là tập hợp những đề xuất về việc bỏ vốn để tạo mới,
mở rộng hoặc cải tạo những đối tượng nhất định nhằm đạt được sự tăng
trưởng về số lượng, cải tiến hoặc nâng cao chất lượng của sản phẩm hay
dịch vụ nào đó trong một khoảng thời gian xác định.
14
Một dự án có thể được xác định theo nhiều cách khác nhau. Các dự
án có thể do các Bộ, ngành hữu quan đề xuất, có thể bắt nguồn từ quá trình
xây dựng các kế hoạch kinh tế quốc gia hay các doanh nghiệp tư nhân hoặc
Nhà nước cũng có các dự án đòi hỏi Chính phủ phải trợ giúp hoặc phê
chuẩn trước khi thực hiện.
Khi thực hiện một dự án bao giờ cũng có sự mâu thuẩn tiềm ẩn về lợi
ích giữa những người thực hiện dự án và toàn xã hội. Lý do ở đây là bởi lợi
ích của dự án và các chương trình công cộng chỉ tập trung cho một bộ phận
dân chúng. Hay nói một cách khác, một dự án đầu tư chỉ giúp ích cho một
bộ phận cộng đồng nào đó mà thôi. Những đối tượng do nhận biết lợi ích
do dự án mang lại cho mình nên có xu hướng ủng hộ mạnh mẽ. Đồng thời,
nếu các chi phí của dự án được cung cấp phần lớn bằng tiền ngân sách
chung của Chính phủ, là kinh phí được phân bố rộng rãi cho toàn xã hội, thì
sẽ không có một nhóm người nào thấy mình phải chịu phần lớn gánh nặng
chi phí của dự án. Kết quả có thể đoán trước được là những người được
hưởng lợi từ dự án có xu hướng tạo thành một nhóm lên tiếng ủng hộ mạnh
mẽ dự án, trong khi có nhóm người thua thiệt (là những người gánh chịu
chi phí dự án) lại quá phân tán và những mất mát cá nhân trong số họ quá
nhỏ, nên họ không thể trở thành đối trọng có hiệu quả để chống lại nhóm
đối tượng hưởng lợi mang tính tập trung cao. Nói cụ thể, một dự án có thể
chi phí cao 100% trong khi mức lợi ích chỉ là 50% nếu xét trên toàn xã hội,
nhưng nếu nhóm hưởng lợi chỉ chịu 5% mức tổng chi phí của dự án, họ sẽ
thấy đó là 1 dự án vô cùng tốt và sẽ gây áp lực mạnh mẽ để dự án được
thực hiện. Chính vì vậy mà chúng ta cần sớm có hệ thống thẩm định dự án
tốt nhằm bảo vệ tốt lợi ích của cả quốc gia. Tuy nhiên, câu chuyện không
chỉ dừng tại đó bởi trong thực tế cũng có các áp lực ủng hộ dự án và các
chương trình phát sinh từ chính trong bộ máy chính quyền. Các Bộ, ngành
chức năng thường đề xuất các dự án và việc họ coi trọng các dự án mà họ
nghĩ là phục vụ cho lợi ích chung, cũng là một điều tự nhiên và phù hợp.
15
Tuy nhiên, sự hăng hái của các quan chức này chưa đủ bảo đảm là các dự
án mà họ đề xuất thực sự có hiệu quả về mặt kinh tế và xã hội. Chúng ta
cần các qui trình thẩm định chính thức, vì hệ thống này sẽ giúp chúng ta
tránh được những lưạ chọn đầu tư sai lầm. Chỉ có những suy nghĩ ảo tưởng
mới khiến chúng ta cho rằng nhiệt tình của các cơ quan trong chính quyền,
của các quan chức đối với dự án mà họ xây dựng và đệ trình lại không là
nguyên nhân đáng kể có thể đưa đến sai lầm.
Một dự án thường có những đặc điểm cơ bản như sau:
- Dự án là một công việc không thường kỳ.
- Các hoạt động của dự án có liên quan với nhau theo một trật tự thời
gian nhất định. Ví dụ: Một công việc mới chỉ có thể bắt đầu khi một hoặc
một số công việc khác đã kết thúc hoặc là có những mốc thời gian đánh dấu
những giai đoạn chính của dự án.
- Một dự án phải có những mục tiêu rõ ràng và cụ thể, hơn nữa nó
phải có hạn chót. Các kết quả phải thực hiện được mục tiêu đã đề ra của dự
án.
- Một dự án thường phải có ba điều kiện chính ràng buộc là ngân
sách, kết quả và thời hạn.
1.2.1.2. Khái niệm và đặc điểm của chuyển nhượng dự án
Trong ngôn ngữ thông thường, chuyển nhượng và chuyển giao là
những thuật ngữ đồng nghĩa được sử dụng nhằm chỉ hành vi bàn giao vật
hay một việc gì đó cho người khác. Theo từ điển tiếng Việt thông dụng:
“Chuyển giao: Giao, bàn giao lại cho người khác”8. Như vậy, từ khái niệm
chung về chuyển nhượng, chúng ta có thể hiểu chuyển nhượng dự án là
việc chuyển nhượng toàn bộ quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp đối với dự
án từ chủ đầu tư cũ sang chủ đầu tư mới phù hợp với quy định của pháp
luật.
Chuyển nhượng dự án có những đặc điểm cơ bản như sau:
8 Từ điển tiếng Việt thông dụng, Sdd, tr.175
16
Thứ nhất, chuyển nhượng dự án thuộc thẩm quyền của chủ đầu tư.
Thứ hai, theo Nghị định số 108/2006/NĐ-CP quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật đầu tư năm 2005 có phân chia
chuyển nhượng dự án theo hai trường hợp:
- Chuyển nhượng dự án không gắn với việc chấm dứt hoạt động của
tổ chức kinh tế chuyển nhượng thì việc chuyển nhượng sẽ tuân thủ các điều
kiện và thủ tục chuyển nhượng vốn quy định tại Điều 65 Nghị định số
108/2006/NĐ-CP.
- Chuyển nhượng dự án gắn với việc chấm dứt hoạt động của tổ chức
kinh tế chuyển nhượng thì việc chuyển nhượng dự án phải tuân thủ quy
định về điều kiện và thủ tục sáp nhập, mua lại doanh nghiệp tại Điều 56
Nghị định số 108/2006/NĐ-CP.
Ở đây chúng ta cần có sự phân biệt giữa chuyển nhượng dự án và
chuyển nhượng vốn trong doanh nghiệp, sáp nhập, mua lại doanh nghiệp;
theo đó:
Một là, chuyển nhượng dự án hoàn toàn khác với chuyển nhượng
vốn trong doanh nghiệp. Chuyển nhượng dự án thực chất là chuyển nhượng
tài sản của doanh nghiệp cho bên thứ ba. Chuyển nhượng vốn trong doanh
nghiệp là chuyển nhượng quyền sở hữu của các cổ đông, thành viên trong
doanh nghiệp. Việc chuyển nhượng này có thể làm thay đổi chủ sở hữu
doanh nghiệp (hoặc tỷ lệ sở hữu) mà không đương nhiên dẫn đến thay đổi
bất kỳ nội dung nào trong dự án mà doanh nghiệp đó thực hiện. Bởi vì
doanh nghiệp là một thực thể pháp luật độc lập với cổ đông, thành viên của
nó.
Hai là, chuyển nhượng dự án có mối quan hệ với việc sáp nhập, mua
lại doanh nghiệp nhưng không trùng nhau. Đối với việc sáp nhập doanh
nghiệp, thì doanh nghiệp được sáp nhập sẽ kế thừa toàn bộ quyền và nghĩa
vụ của doanh nghiệp bị sáp nhập. Do đó, sau khi hoàn tất thủ tục sáp nhập
thì doanh nghiệp bị sáp nhập sẽ chấm dứt tồn tại và các dự án của doanh
17
nghiệp này (nếu có) sẽ đương nhiên tiếp tục được thực hiện bởi doanh
nghiệp được sáp nhập. Việc sáp nhập được thực hiện theo các quy định
tương ứng của Luật doanh nghiệp. Việc mua lại doanh nghiệp có thể thực
hiện thông qua việc mua lại 100% cổ phần, phần vốn góp của doanh nghiệp
thực hiện dự án.
1.2.2. Chuyển nhượng dự án trong đầu tư, kinh doanh bất động sản
1.2.2.1. Khái niệm dự án đầu tư, kinh doanh bất động sản
Dự án đầu tư, kinh doanh BĐS là một dạng cụ thể của dự án đầu tư
nói chung, nên về cơ bản nó mang những đặc trưng của một dự án đầu tư
và được điều chỉnh bởi pháp luật đầu tư. Tuy nhiên bên cạnh đó, dự án đầu
tư, kinh doanh BĐS còn có một số nét đặc trưng riêng sau đây:
- Các dự án đầu tư, kinh doanh BĐS thường yêu cầu nguồn vốn đầu
tư lớn và dài hạn. Do đó, các nhà đầu tư phải tiến hành huy động vốn từ
nhiều kênh khác nhau để phát triển dự án. Các kênh huy động vốn ở đây
bao gồm: vốn tự có (nguồn vốn từ chủ sở hữu) và vốn thương mại (nguồn
vốn huy động từ ngân hàng, các tổ chức tín dụng; từ khách hàng; thị trường
chứng khoán;…).
- Các dự án đầu tư, kinh doanh BĐS thường mang tính “địa điểm”
và “địa phương” cao. Với cùng một dự án nhưng ở những vị trí hoặc
những địa phương khác nhau thì giá trị của chúng cũng khác nhau. Do đó,
cần phải có sự điều chỉnh của Nhà nước thông qua việc chủ động dự báo và
lên kế hoạch cụ thể.
- Các chủ thể tham gia hoạt động của thị trường BĐS ngày càng đa
dạng. Hoạt động đầu tư, kinh doanh BĐS được mở rộng ra với mọi thành
phần kinh tế (bao gồm cả người Việt Nam định cư ở nước ngoài; tổ chức,
cá nhân nước ngoài). Do đó, hàng loạt dự án đầu tư có chất lượng cao đã
được ra đời, góp phần đáng kể vào việc thúc đẩy sự phát triển của nền kinh
tế v.v.
Qua những phân tích ở trên đây, có thể hiểu khái quát dự án đầu tư,
kinh doanh BĐS là một dạng của dự án đầu tư, có chủ thể đầu tư rất đa
18
dạng, có nguồn vốn đầu tư lớn và dài hạn để phát triển dự án; giá trị của dự
án phụ thuộc rất lớn vào vị trí của dự án.
1.2.2.2. Khái niệm chuyển nhượng dự án trong đầu tư, kinh doanh bất động
sản.
Trong lĩnh vực đầu tư, kinh doanh BĐS, việc chuyển nhượng dự án
thường gắn với việc chuyển nhượng quyền SDĐ, bởi đặc trưng của lĩnh
vực đầu tư, kinh doanh BĐS là phải gắn liền với một địa điểm cố định.
Thông qua hoạt động này, thị trường sẽ phân chia thành các loại doanh
nghiệp có nhu cầu chuyển nhượng dự án khác nhau. Cụ thể:
Một là, các doanh nghiệp gặp khó khăn về tài chính do bị tác động
bởi khủng hoảng kinh tế, nền kinh tế thị trường rơi vào tình trạng khủng
hoảng,… Những tác động này có ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh
của họ. Do đó, họ có nhu cầu chuyển nhượng để duy trì “sự sống”.
Hai là, các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực khác nhưng
có đầu tư, kinh doanh BĐS khi thấy thị trường này khó khăn thì họ quyết
định chuyển nhượng dự án để tập trung vào ngành kinh doanh chính của
họ.
Ba là, các doanh nghiệp có mục đích ban đầu là tạo lập dự án để sau
đó chuyển nhượng.
Theo Nghị định số 153/2007/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành Luật kinh doanh BĐS năm 2006 thì: “Chuyển nhượng toàn bộ dự
án khu đô thị mới, dự án khu nhà ở, dự án hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp
là việc chuyển nhượng toàn bộ quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp từ chủ
đầu tư cũ sang chủ đầu tư mới thông qua hợp đồng bằng văn bản và được
cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép” (khoản 1 Điều 6). Còn chuyển
nhượng một phần dự án đầu tư, kinh doanh BĐS là việc chuyển nhượng
một phần quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp từ bên chuyển nhượng sang
bên nhận chuyển nhượng. Hệ quả pháp lý của hợp đồng chuyển nhượng
này là cả bên chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng đều trở thành
đồng chủ đầu tư của dự án.
19
1.3. Cơ sở của việc chuyển nhượng dự án trong đầu tư, kinh doanh bất
động sản
Tìm hiểu vấn đề chuyển nhượng dự án trong đầu tư, kinh doanh
BĐS, chúng ta thấy rằng lĩnh vực này xuất hiện là bởi các nguyên nhân cơ
bản sau đây:
Thứ nhất, thị trường tài chính, tiền tệ đang thực hiện theo hướng thắt
chặt mức lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại ngày một tăng,
gây áp lực cho nhiều hoạt động kinh doanh, trong đó kinh doanh BĐS cũng
bị tác động đáng kể. Để đầu tư, kinh doanh một dự án BĐS cần có nguồn
vốn lớn, trong khi vốn tự có của phần lớp doanh nghiệp lại rất hạn chế, đa
phần phải dựa vào nguồn vốn vay của các ngân hàng thương mại. Bên cạnh
đó, thị trường BĐS lại luôn có sự biến động, ví dụ như tạo nên một cơn sốt
đẩy giá BĐS lên quá cao so với giá trị thực của BĐS. Ngược lại, khi thị
trường BĐS rơi vào trạng thái “đóng băng” thì tính thanh khoản của BĐS
ở mức độ rất thấp. Điều này có nghĩa là việc xác lập các giao dịch về mua
bán BĐS rất khó thực hiện. Phần lớn các chủ đầu tư BĐS vừa và nhỏ ở
nước ta có năng lực tài chính rất hạn chế. Để có vốn đầu tư, họ thường vay
vốn của các ngân hàng thương mại. Thị trường BĐS “đóng băng” thường
rơi vào thời điểm nền kinh tế gặp khủng hoảng. Khi đó, để bảo toàn nguồn
vốn vay thì các ngân hàng thương mại sẽ hạn chế cho vay đầu tư BĐS và
tiến hành thu hồi lại vốn cho các nhà đầu tư vay kinh doanh BĐS. Tất cả
những yếu tố trên, sẽ làm cho người dân e dè trong việc mua bán BĐS và
khiến cho các chủ đầu tư có tiềm lực kinh tế yếu sẽ khó có thể trụ vững trên
thị trường. Chính vì vậy, điều tất yếu là phải chuyển nhượng dự án cho nhà
đầu tư khác thực sự có tiềm lực tài chính lớn hơn.
Thứ hai, cũng có một số dự án được lập và triển khai không tuân
theo quy luật cung - cầu trong dài hạn, mà chạy theo xu hướng đầu cơ, “xí
phần”, tồn tại của dự án trong ngắn hạn dựa vào kỳ vọng sinh lời “ngay
tức thì” của “đám đông”. Do vậy, khi các dòng tiền được điều chỉnh, khối
lượng tiền lớn bị rút khỏi lưu thông thì các nhu cầu thực sự trên thị trường
20
mới phản ánh được quan hệ cung - cầu, một số dự án “giảm nhiệt” và từ
đó, xuất hiện nhiều hơn việc chuyển nhượng dự án.
Thứ ba, kể từ tháng 11/2007, nước ta trở thành thành viên chính thức
thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Điều này đánh dấu quá
trình hội nhập hoàn toàn của Việt Nam vào nền kinh tế thế giới. Hiện nay,
kinh tế thế giới vẫn chưa vượt qua khỏi cuộc khủng hoảng. Lạm phát và nợ
công là những thách thức to lớn mà các nước trên thế giới đang phải nỗ lực
giải quyết; đặc biệt là các nước trong khu vực Euro Zon. Trong bối cảnh
đó, kinh tế nước ta cũng chịu nhiều tác động tiêu cực của cuộc khủng
hoảng kinh tế thế giới. Việc thắt chặt tiền tệ trong điều kiện nguồn vốn đầu
tư nước ngoài vào Việt Nam sụt giảm là một trong những giải pháp mà
Chính phủ thực hiện nhằm bình ổn kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội.
Trong điều kiện đó, nhiều doanh nghiệp kinh doanh BĐS, chủ đầu tư dự án
BĐS thiếu vốn trong thể tiếp tục thực hiện dự án đã buộc phải chuyển
nhượng dự án đầu tư, kinh doanh BĐS …
1.4. Mục đích, ý nghĩa của chuyển nhượng dự án trong đầu tư, kinh
doanh bất động sản
1.4.1. Mục đích của chuyển nhượng dự án trong đầu tư, kinh doanh bất
động sản
Khi tiến hành chuyển nhượng dự án trong đầu tư, kinh doanh BĐS,
chủ đầu tư nói chung và doanh nghiệp kinh doanh BĐS sẽ đạt được những
mục đích cơ bản sau:
Một là, sớm rút khỏi những dự án có tính rủi ro cao, kinh doanh
không hiệu quả. Ở đây có thể là dự án đang triển khai nhưng doanh nghiệp
cạn vốn nên cần chuyển nhượng, hoặc là dự án đã xây dựng xong nhưng
không bán được hàng, buộc chủ đầu tư phải bán đứt cả dự án với giá rẻ để
thu hồi vốn đầu tư,…
Hai là, tiến hành chuyển nhượng một phần dự án để tăng năng lực
thực hiện dự án, phần tài chính thu được sẽ giúp doanh nghiệp giải quyết
áp lực tài chính đang đè nặng. Trường hợp này là do doanh nghiệp chưa
21
giải quyết được bài toán thiếu vốn, trong khi các ngân hàng thương mại lại
hạn chế cho vay. Do đó, giải pháp tối ưu là phải chuyển nhượng một phần
dự án.
Ba là, bên cạnh đó, chuyển nhượng dự án trong đầu tư, kinh doanh
BĐS cũng có thể giúp doanh nghiệp được hưởng lợi nhuận trực tiếp từ việc
chuyển nhượng dự án. Trường hợp này thường là những doanh nghiệp chủ
định tạo lập dự án để sau đó chuyển nhượng…
1.4.2. Ý nghĩa của chuyển nhượng dự án trong đầu tư, kinh doanh bất
động sản
Từ những mục đích nêu trên, có thể thấy rằng hoạt động chuyển
nhượng dự án trong đầu tư, kinh doanh BĐS mang một số ý nghĩa quan
trọng chủ yếu như sau:
Thứ nhất, chuyển nhượng dự án sẽ giúp giải quyết tình trạng dự án
“treo”. Khi các nhà đầu tư, kinh doanh BĐS vì một số lý do chủ quan như
thiếu vốn, mục đích đầu tư không rõ ràng,… hoặc do một số lý do khách
quan khác như điều kiện tự nhiên, việc bồi thường, giải phóng mặt bằng,
thủ tục phiền hà của các cơ quan Nhà nước,…mà không tiếp tục đầu tư sẽ
dẫn đến tình trạng dự án bị ngưng trệ (hay còn gọi là dự án treo), gây lãng
phí về tiền của, đất đai. Khi đó, chuyển nhượng dự án sẽ là biện pháp tối ưu
để giải quyết tình trạng trên, giúp cho thị trường BĐS luôn vận động một
cách liên tục.
Thứ hai, chuyển nhượng dự án sẽ giúp các nhà đầu tư giải quyết
được bài toán về vốn. Một khi doanh nghiệp vì lý do nào đó mà không đủ
nguồn lực tài chính để tiếp tục “theo” dự án đến cùng. Hoặc dự án đã hoàn
thành nhưng lại gặp khó khăn trong khâu bán ra,…. Khi đó, chuyển
nhượng dự án là giải pháp tốt nhất giúp doanh nghiệp thu hồi vốn, giải
quyết được áp lực tài chính đang đè nặng.
Thứ ba, việc chuyển nhượng dự án đầu tư, kinh doanh BĐS còn giúp
cho việc thực hiện dự án có hiệu quả hơn; tạo điều kiện đẩy nhanh tốc độ
chu chuyển dòng vốn đầu tư và góp phần thúc đẩy tính hấp dẫn của môi
22
trường đầu tư, kinh doanh ở nước ta. Điều này có nghĩa là khi doanh
nghiệp thiếu vốn đầu tư hoặc đầu tư kém hiệu quả dẫn đến việc dự án BĐS
bị ngưng trệ, dở dang. Hậu quả là một diện tích đất không nhỏ bị bỏ hoang
và một lượng tiền vốn đầu tư “bị chôn” trong đất làm “tắc nghẽn” sự vận
hành của thị trường vốn và tác động tiêu cực đến sự phát triển của thị
trường BĐS. Việc chuyển nhượng dự án đầu tư, kinh doanh BĐS cho chủ
thể đầu tư khác có điều kiện hơn sẽ khắc phục được những hệ quả này.
Thứ tư, việc chuyển nhượng dự án đầu tư, kinh doanh BĐS từ chủ
đầu tư cũ sang chủ đầu tư mới có khả năng và điều kiện kinh doanh có hiệu
quả hơn sẽ bảo đảm duy trì công ăn, việc làm cho người lao động trong
ngành xây dựng; góp phần thực hiện an sinh xã hội.
Mặt khác, hoạt động này còn góp phần giải quyết tình trạng ứ đọng
sản phẩm của các ngành sản xuất vật liệu xây dựng như xi măng, gạch, đá,
cát, sỏi, sắt, thép v.v.
1.5. Sự cần thiết của việc điều chỉnh hoạt động chuyển nhượng dự án
trong đầu tư, kinh doanh bất động sản bằng pháp luật.
Ngày nay, ở hầu hết các nước có thị trường BĐS phát triển, mọi vấn
đề liên quan đến chuyển nhượng dự án đầu tư, kinh doanh BĐS đều được
điều chỉnh bằng pháp luật. Điều này được lý giải bởi những nguyên nhân
cơ bản sau đây:
Thứ nhất, pháp luật mang những đặc trưng cơ bản mà các biện pháp
quản lý khác không thể có được, đó là tính quy phạm, tính bắt buộc chung,
tính cưỡng chế và tính tự điều chỉnh. Chính những đặc trưng cơ bản này đã
làm cho pháp luật trở thành biện pháp quản lý xã hội có hiệu quả nhất được
sử dụng để điều chỉnh hoạt động chuyển nhượng dự án trong đầu tư, kinh
doanh BĐS.
Thứ hai, hoạt động chuyển nhượng dự án là một trong những hoạt
động quan trọng của đầu tư, kinh doanh BĐS. Vì vậy, muốn cho thị trường
BĐS nói chung và hoạt động đầu tư, kinh doanh BĐS nói riêng phát triển
và đi vào nề nếp, đòi hỏi Nhà nước phải quản lý chặt chẽ bằng pháp luật.
23
Do đó, việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh doanh BĐS
sẽ góp phần tạo ra hành lang pháp lý vững chắc cho hoạt động đầu tư, kinh
doanh BĐS phát triển lành mạnh.
Thứ ba, khi có sự điều chỉnh của pháp luật, quyền và nghĩa vụ của
các bên trong quan hệ chuyển nhượng sẽ được đảm bảo trên thực tế, ngăn
ngừa tình trạng vi phạm của các bên trong quá trình thực hiện hoạt động
chuyển nhượng dự án trong đầu tư, kinh doanh BĐS.
Thứ tư, một khi thị trường BĐS ở trong tình trạng thiếu minh bạch,
hoạt động chuyển nhượng dự án trong đầu tư, kinh doanh BĐS thiếu một
khuôn khổ pháp lý để điều chỉnh, khi đó, sẽ là môi trường thuận lợi cho các
hành vi tham nhũng, tiêu cực, các nhà đầu tư cố tình tạo ra các dự án “ma”
sau đó tiến hành chuyển nhượng nhằm trục lợi,… Hậu quả sẽ khiến thị
trường Việt Nam dần mất đi niềm tin với nhà đầu tư nước ngoài, làm giảm
dòng vốn đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam. Do đó, để khắc phục tình
trạng trên, rất cần thiết phải điều chỉnh hoạt động chuyển nhượng dự án đầu
tư, kinh doanh BĐS bằng pháp luật.
Hơn nữa, việc chuyển nhượng dự án BĐS trong bối cảnh kinh tế thế
giới đang có nhiều diễn biến phức tạp theo chiều hướng bất lợi cho sự phát
triển của nền kinh tế nước ta. Vì vậy, hoạt động này cần phải được Nhà
nước quản lý chặt chẽ bằng pháp luật để ngăn ngừa những “cú sốc” cho sự
vận hành thông suốt của hoạt động sản xuất - kinh doanh.
Chương 2
PHÁP LUẬT VỀ CHUYỂN NHƯỢNG DỰ ÁN TRONG
ĐẦU TƯ, KINH DOANH BẤT ĐỘNG SẢN
2.1. Nội dung cơ bản của pháp luật về chuyển nhượng dự án trong đầu
tư, kinh doanh bất động sản
24
2.1.1. Nội dung các quy định về nguyên tắc chuyển nhượng dự án trong
đầu tư, kinh doanh bất động sản
Chuyển nhượng dự án là một trong những hoạt động đầu tư, kinh
doanh BĐS. Do đó, hoạt động này cũng phải tuân theo những nguyên tắc
của hoạt động kinh doanh BĐS. Cụ thể:
Thứ nhất, các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động chuyển nhượng
dự án trong đầu tư, kinh doanh BĐS bình đẳng trước pháp luật; tự do thỏa
thuận trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia
thông qua hợp đồng, nhưng không được trái với quy định của pháp luật.
Nguyên tắc trên xác định địa vị pháp lý của chủ thể chuyển nhượng
dự án. Dù là tổ chức kinh tế, cá nhân trong nước hay tổ chức, cá nhân nước
ngoài,… thì trong phạm vi kinh doanh của mình đều được Nhà nước bảo
hộ các quyền và lợi ích hợp pháp, đảm bảo quyền tự do kinh doanh theo
quy định của Hiến pháp năm 1992 và không bị phân biệt, đối xử giữa các
thành phần kinh tế khác nhau. Các chủ thể tham gia phải tuân thủ các quy
định của Luật Kinh doanh BĐS năm 2006 và các quy định khác của pháp
luật có liên quan. Qua đó, quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng và của
doanh được Nhà nước bảo hộ bằng pháp luật.
Thứ hai, BĐS được đưa ra chuyển nhượng phải đủ điều kiện theo
quy định của pháp luật.
Theo quy định của Luật Kinh doanh BĐS năm 2006 thì BĐS được
phép đưa vào kinh doanh bao gồm hai loại chủ yếu; đó là, nhà ở, công trình
xây dựng và quyền SDĐ. Nhà ở, công trình xây dựng phải là nhà ở, công
trình xây dựng đủ các điều kiện theo quy định của Luật Nhà ở năm 2005,
Luật Xây dựng năm 2003; còn quyền SDĐ được phép đưa vào chuyển
nhượng phải tuân thủ quy định của Luật Đất đai năm 2003. Trong các văn
bản pháp luật này không chỉ đưa ra khái niệm về nhà ở, công trình xây
dựng và quyền SDĐ nói chung mà còn đề cập rõ loại nhà, công trình xây
dựng, quyền SDĐ nào được phép đưa vào kinh doanh. Do đó, trong hoạt
25
động chuyển nhượng, các nhà đầu tư phải tìm hiểu kỹ các điểu kiện liên
quan đến BĐS được đưa ra chuyển nhượng.
Thứ ba, hoạt động chuyển nhượng dự án trong đầu tư, kinh doanh
BĐS phải công khai, minh bạch.
Nguyên tắc này chính là cơ sở để Điều 11 Luật Kinh doanh BĐS
năm 2006 yêu cầu các chủ thể kinh doanh phải cung cấp đầy đủ thông tin
cho khách hàng trong các giao dịch về BĐS nói chung và trong chuyển
nhượng dự án nói riêng. Nguyên tắc này được thể hiện như sau:
- Các nhà đầu tư phải công khai thông tin về BĐS khi đưa vào
chuyển nhượng.
- Thông tin về BĐS được công khai tại sàn giao dịch BĐS.
- Hoạt động chuyển nhượng phải được giao dịch qua sàn giao dịch
BĐS.
- Người điều hành sàn giao dịch BĐS phải có chứng chỉ kinh doanh
dịch vụ với quy mô theo quy định.
Do đó, các nhà đầu tư khi tiến hành hoạt động chuyển nhượng phải
thực hiện qua sàn giao dịch BĐS. Việc không giao dịch qua sàn giao dịch
BĐS của chủ thể kinh doanh là hành vi vi phạm pháp luật và phải chịu các
chế tài theo luật định.
Với những nguyên tắc nêu trên sẽ là tiền đề giúp cho hoạt động
chuyển nhượng dự án trong đầu tư, kinh doanh BĐS được thực hiện một
cách lành mạnh, tuân thủ các quy định của pháp luật và đảm bảo đầy đủ lợi
ích của Nhà nước, lợi ích của nhà đầu tư và khách hàng.
2.1.2. Nội dung các quy định về chủ thể được phép chuyển nhượng dự
án trong đầu tư, kinh doanh bất động sản
Chủ thể được phép chuyển nhượng và nhận chuyển nhượng phải đáp
ứng các điều kiện về chủ thể kinh doanh BĐS quy định tại Điều 8 Luật
Kinh doanh BĐS năm 2006 và Điều 3 Nghị định 153/2007/NĐ-CP. Theo
đó, các tổ chức, cá nhân chuyển nhượng và nhận chuyển nhượng dự án
26
BĐS phải là doanh nghiệp hoặc hợp tác xã, phải có vốn pháp định là 6 tỷ
đồng Việt Nam và có đăng ký kinh doanh BĐS theo quy định của pháp
luật.
Có thể phân loại chủ thể được phép chuyển nhượng dự án trong đầu tư,
kinh doanh BĐS dựa trên những căn cứ sau:
Thứ nhất, căn cứ vào quốc tịch. Chủ thể chuyển nhượng dự án sẽ bao
gồm: nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài.
Điều 24 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 quy định tổ
chức kinh tế trong nước được chuyển nhượng dự án có SDĐ cho tổ chức
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong các trường hợp sau: 1) Dự án đầu tư
kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất, cụm công nghiệp và khu
kinh doanh tập trung khác có cùng chế độ SDĐ quy định tại Khoản 1 và
Khoản 2 Điều 35 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP; 2) Dự án đầu tư thuộc khu
kinh tế, khu công nghệ cao, dự án đầu tư kết cấu hạ tầng khu đô thị, khu
dân cư nông thôn; 3) Dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh; 4) Dự án đầu tư
xây dựng, kinh doanh nhà ở đã hoàn thành đầu tư xây dựng đồng bộ hạ
tầng dùng chung của dự án. Việc nhận chuyển nhượng dự án có SDĐ kể
trên được thực hiện theo quy định của pháp luật về kinh doanh BĐS, cụ
thể:
- Trường hợp dự án được chuyển nhượng mà bên chuyển nhượng là
tổ chức kinh tế trong nước được Nhà nước giao đất, được nhận chuyển
nhượng quyền SDĐ mà tiền SDĐ, tiền nhận chuyển nhượng đã trả không
có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước thì giá trị quyền SDĐ được tính chung
trong tổng giá trị hợp đồng chuyển nhượng dự án, tổ chức kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài.
- Trường hợp bên chuyển nhượng là tổ chức kinh tế trong nước nêu
trên nhưng số tiền đã trả có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước hoặc đất thuê
của Nhà nước hoặc đất được Nhà nước giao không thu tiền SDĐ để góp
vốn bằng quyền SDĐ thì giá trị quyền SDĐ không được tính trong tổng giá
27
trị hợp đồng chuyển nhượng dự án; tổ chức nước ngoài lập thủ tục thuê đất
của Nhà nước dưới hình thức trả tiền thuê đất hàng năm hoặc trả tiền thuê
đất một lần cho cả thời gian thuê.
- Trường hợp đất của dự án đã nhận chuyển nhượng và tiền đã trả
không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước và là đất được sử dụng có thời
hạn thì thời hạn thuê đất của tổ chức nước ngoài là thời gian còn lại của
thời hạn SDĐ trước khi nhận chuyển nhượng; trường hợp đất có nguồn gốc
là đất được sử dụng ổn định lâu dài thì thời hạn thuê đất là 70 năm kể từ
ngày hợp đồng chuyển nhượng dự án được ký kết và nếu có nhu cầu thì
được gia hạn sử dụng nhiều lần, mỗi lần không quá 70 năm, tổ chức kinh tế
đầu tư nước ngoài không phải nộp tiền thuê đất cho thời gian được gia hạn.
Với quy định như trên, có thể thấy, những dự án trong đầu tư, kinh
doanh BĐS được phép chuyển nhượng khá đa dạng, không chỉ được
chuyển nhượng dự án kết cấu hạ tầng khu công nghiệp; dự án thuộc khu
kinh tế, khu công nghệ cao mà còn được chuyển nhượng các dự án khu đô
thị; dự án kinh doanh nhà ở; dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh,…
Bên cạnh những quy định trên thì quyền chuyển nhượng dự án của
nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài vẫn còn có một số khác
biệt như sau:
Một là, về đối tượng giao đất, đối tượng thuê đất. Nhà đầu tư nước
ngoài chỉ có một hình thức SDĐ duy nhất là thuê đất mà không được giao
đất như các nhà đầu tư trong nước. Do vậy, sau khi nhận chuyển nhượng
dự án của nhà đầu tư trong nước, nhà đầu tư nước ngoài lại phải làm thủ
tục thuê đất của Nhà nước. Điều 13 Nghị định số 69/2009 ngày 13/8/2009
quy định: “Người được Nhà nước cho thuê đất và trả tiền thuê đất một lần
cho cả thời gian thuê thì số tiền thuê đất phải nộp một lần để được sử dụng
đất trong trường hợp này được tính bằng với số tiền sử dụng đất phải nộp
như trường hợp giao đất có thu tiền sử dụng đấy có cùng mục đích sử dụng
đất và cùng thời hạn sử dụng đất”.
28
- Điều 9, 10 Luật Kinh doanh BĐS năm 2006 quy định về phạm vi
hoạt động kinh doanh BĐS. Trong đó, quy định tổ chức, cá nhân trong
nước được nhận chuyển nhượng quyền SDĐ, đầu tư công trình hạ tầng để
chuyển nhượng,… quyền SDĐ đã có hạ tầng, nhưng lại không quy định
cho tổ chức, cá nhân nước ngoài có quyền này.
Hai là, căn cứ vào loại dự án, có thể phân thành chủ thể chuyển
nhượng dự án trong khu đô thị mới, dự án khu nhà ở, dự án hạ tầng kỹ
thuật khu công nghiệp và chủ thể chuyển nhượng những dự án khác trong
đầu tư, kinh doanh BĐS.
Đối với chủ đầu tư dự án khu đô thị mới, dự án khu nhà ở, dự án hạ
tầng kỹ thuật khu công nghiệp thì ngoài điều kiện về vốn pháp định của chủ
thể đầu tư, kinh doanh BĐS thì còn phải tuân theo điều kiện riêng của chủ
đầu tư dự án là phải có vốn thuộc sở hữu của mình để thực hiện dự án theo
quy định: Đối với dự án khu đô thị mới và dự án hạ tầng kỹ thuật khu công
nghiệp thì không thấp hơn 20% tổng mức đầu tư của dự án đã được phê
duyệt; đối với dự án khu nhà ở thì không thấp hơn 15% tổng mức đầu tư
của dự án có quy mô SDĐ dưới 20 ha, không thấp hơn 20% tổng mức đầu
tư của dự án có quy mô SDĐ từ 20ha trở lên đã được phê duyệt.
Việc chuyển nhượng dự án khu đô thị mới, dự án khu nhà ở, dự án
hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp được quy định khá cụ thể tại các văn bản
pháp luật như: Nghị định số 153/2007/NĐ-CP; Nghị định số 02/2006/NĐ-
CP về quy chế quản lý khu đô thị mới và các thông tư hướng dẫn khác.
Trong khi đó, việc chuyển nhượng các dự án khác trong đầu tư, kinh doanh
BĐS thì không quy định cụ thể, thống nhất như trên mà nằm rải rác trong
nhiều văn bản pháp luật khác nhau.
Ba là, căn cứ vào quy mô dự án được chuyển nhượng, có thể phân
chia thành chủ thể chuyển nhượng toàn bộ dự án và chủ thể chuyển nhượng
một phần dự án.
29
Đối với chuyển nhượng toàn bộ dự án BĐS: Chuyển nhượng toàn bộ
dự án khu đô thị mới, dự án khu nhà ở, dự án hạ tầng kỹ thuật khu công
nghiệp được quy định tại Điều 6, 7 Nghị định số 153/2007/NĐ-CP. Theo
đó, chuyển nhượng toàn bộ dự án khu đô thị mới, dự án khu nhà ở, dự án
hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp là việc chuyển nhượng toàn bộ quyền,
nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp từ chủ đầu tư cũ sang chủ đầu tư mới thông
qua hợp đồng bằng văn bản và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho
phép.
Trong trường hợp dự án khu đô thị mới, dự án khu nhà ở, dự án hạ
tầng kỹ thuật khu công nghiệp đang thực hiện dở dang mà chủ đầu tư gặp
khó khăn, không đủ điều kiện để tiếp tục thực hiện dự án theo đúng tiến độ
và nội dung đã được phê duyệt hoặc chủ đầu tư không còn nhu cầu tiếp tục
thực hiện dự án thì chủ đầu tư lập hồ sơ báo cáo Ủy ban nhân dân (UBND)
cấp tỉnh xem xét, cho phép chuyển nhượng toàn bộ dự án đó cho chủ đầu tư
khác.
Chủ đầu tư cũ có trách nhiệm thông báo kịp thời, đầy đủ, công khai
và giải quyết thỏa đáng quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng và các bên
liên quan khác. Chủ đầu tư mới có trách nhiệm thực hiện toàn bộ nghĩa vụ
và được hưởng mọi quyền, lợi ích của chủ đầu tư dự án theo quy định tại
Điều 19, 20 Luật Kinh doanh BĐS năm 2006, các quy định trong văn bản
cho phép đầu tư của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và hợp đồng chuyển
nhượng dự án do hai bên ký kết.
Đối với chuyển nhượng một phần dự án BĐS: Điểm a Khoản 8 Điều
2 Nghị định số 17/2006/NĐ-CP ngày 27/1/2006 của Chính phủ về sửa đổi,
bổ sung một số điều của Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004
về thi hành Luật Đất đai năm 2003 quy định: “Chủ đầu tư được chuyển
nhượng quyền sử dụng đất cho tổ chức kinh tế đối với diện tích đất đã hoàn
thành việc đầu tư xây dựng đồng bộ hạ tầng theo dự án được xét duyệt hoặc
theo dự án thành phần của dự án đầu tư đã được xét duyệt; tổ chức kinh tế
30
nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải sử dụng đất đúng mục đích,
đúng nội dung xây dựng và tiến độ ghi trong dự án đó”. Luật Kinh doanh
BĐS năm 2006 quy định tổ chức, cá nhân trong nước được: “Nhận chuyển
nhượng quyền sử dụng đất, đầu tư công trình hạ tầng để chuyển nhượng…
quyền sử dụng đất có hạ tầng”. Bên cạnh đó, Điều 17 Luật Đầu tư năm
2005 cũng quy định nhà đầu tư có quyền chuyển nhượng, điều chỉnh vốn
hoặc dự án đầu tư. Trường hợp chuyển nhượng có phát sinh lợi nhuận thì
bên chuyển nhượng phải nộp thuế thu nhập theo quy định của pháp luật về
thuế. Việc chuyển nhượng dự án được thực hiện theo quy định tại Điều 66
của Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư.
Như vậy, nhà đầu tư được phép chuyển nhượng dự án thành phần
trong dự án đầu tư, kinh doanh BĐS và phải tuân thủ các quy định về
chuyển nhượng BĐS được quy định tại Luật Kinh doanh BĐS năm 2006,
Luật Đầu tư năm 2005, Luật Đất đai 2003 và các văn bản hướng dẫn thi
hành khác.
2.1.3. Nội dung các quy định về đối tượng dự án đầu tư, kinh doanh bất
động sản được chuyển nhượng
Dự án có SDĐ của các tổ chức kinh tế trong nước là đối tượng được
chuyển nhượng giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài bao
gồm:
- Dự án đầu tư kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất, cụm
công nghiệp và khu kinh doanh tập trung khác có cùng chế độ SDĐ quy
định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều 35 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP;
- Dự án đầu tư thuộc khu kinh tế, khu công nghệ cao;
- Dự án đầu tư kết cấu hạ tầng khu đô thị, khu dân cư nông thôn;
- Dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh;
- Dự án đầu tư xây dựng, kinh doanh nhà ở đã hoàn thành đầu tư xây
dựng đồng bộ hạ tầng dùng chung của dự án.
31
Ngoài ra, dự án có SDĐ còn phải tuân thủ một số quy định sau:
Một là, dự án được chuyển nhượng mà trong đó tổ chức kinh tế của
Việt Nam được Nhà nước giao đất có thu tiền SDĐ hoặc nhận chuyển
nhượng quyền SDĐ mà tiền SDĐ, tiền nhận chuyển nhượng quyền SDĐ đã
trả không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước thì giá trị quyền SDĐ được
tính chung trong tổng giá trị quyền SDĐ được tính chung trong tổng giá trị
hợp đồng chuyển nhượng dự án, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
lập thủ tục thuê đất nhưng không phải trả tiền thuê đất.
Hai là, trường hợp tiền SDĐ đã trả có nguồn gốc từ ngân sách nhà
nước hoặc đất giao không thu tiền SDĐ thì giá trị quyền SDĐ không tính
chung trong tổng giá trị hợp đồng chuyển nhượng dự án, nhà đầu tư nước
ngoài lập thủ tục thuê đất và chọn hình thức trả tiền thuê đất hàng năm
hoặc trả tiền thuê đất một lần.
Ba là, dự án có SDĐ mà đất sử dụng có thời hạn thì thời hạn SDĐ
của nhà đầu tư nước ngoài là thời hạn còn lại của thời hạn SDĐ, nếu đất có
nguồn gốc sử dụng ổn định lâu dài thì thời hạn thuê đất là 70 năm kể từ
ngày hợp đồng chuyển nhượng dự án được ký kết. Nếu nhà đầu tư có nhu
cầu thì được gia hạn SDĐ, mỗi lần không quá 70 năm và không phải nộp
tiền thuế đất trong thời gian gia hạn.
Bốn là, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài nhận chuyển
nhượng dự án đầu tư xây dựng nhà ở của tổ chức kinh tế trong nước với
thời hạn sử dụng ổn định lâu dài và tiền trả cho Nhà nước không có nguồn
gốc từ ngân sách nhà nước thì khi bán nhà không phải nộp cho Nhà nước
số tiền chênh lệch giữa tiền SDĐ và tiền thuê đất. Trong trường hợp ngược
lại, nếu nhà đầu tư trong nước được giao đất có thu tiền SDĐ hoặc nhận
chuyển nhượng quyền SDĐ mà các khoản tiền này có nguồn gốc từ ngân
sách nhà nước thì khi nhà đầu tư nước ngoài bán nhà, họ phải nộp cho Nhà
nước khoản tiền chênh lệch giữa tiền SDĐ và tiền thuê đất.
2.1.4. Nội dung các quy định về điều kiện chuyển nhượng dự án trong
đầu tư, kinh doanh bất động sản
32
Điều kiện chuyển nhượng đối với toàn bộ dự án khu đô thị mới, dự
án khu nhà ở, dự án hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp được quy định tại
Điều 21 Luật Kinh doanh BĐS năm 2006 và được hướng dẫn chi tiết tại
Điều 7 Nghị định số 153/2007/NĐ-CP. Theo đó, dự án được chuyển
nhượng toàn bộ khi có đủ các điều kiện sau:
- Dự án không thuộc đối tượng bị xử lý theo Điều 10 Nghị định số
153/2009/NĐ-CP;
- Dự án đã được phê duyệt theo quy định của pháp luật;
- Chủ đầu tư đã có quyền SDĐ thông qua hợp đồng thuê đất hoặc
quyết định giao đất hoặc giấy chứng nhận quyền SDĐ.
- Phải hoàn thành công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng của toàn
bộ dự án hoặc theo giai đoạn và phải có các công trình hạ tầng kỹ thuật
tương ứng với nội dung, tiến độ thực hiện dự án đã được phê duyệt.
- Chủ đầu tư mới phải đáp ứng các điều kiện về chủ thể kinh doanh,
về tài chính do pháp luật quy định đối với chủ đầu tư dự án BĐS. Cụ thể,
chủ đầu tư mới phải là tổ chức, cá nhân kinh doanh BĐS có các điều kiện
theo quy định tại Khoản 1 Điều 8 Luật Kinh doanh BĐS năm 2006 và Điều
3 Nghị định số 153/2007/NĐ-CP; đáp ứng điều kiện về tài chính đối với
chủ đầu tư dự án theo quy định tại Điều 5 Nghị định số 153/2007/NĐ-CP;
chủ đầu tư nhận chuyển nhượng phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của chủ
đầu tư đã chuyển nhượng dự án, có văn bản cam kết thực hiện dự án theo
đúng tiến độ được phê duyệt.
Ngoài ra, nếu chủ đầu tư có nhu cầu cần chuyển nhượng dự án,
nhưng lại chưa có quyết định giao đất hoặc hợp đồng thuê đất, có hành vi
vi phạm các quy định về đầu tư xây dựng, quy hoạch, kiến trúc, quản lý đất
đai mà không có giải pháp khắc phục kịp thời; không thực hiện đúng nội
dung dự án, dự án “treo”,… thì theo quy định của pháp luật cũng không
được phép chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ dự án trong đầu tư, kinh
doanh BĐS. Bởi lẽ, pháp luật quy định chặt chẽ về điều kiện chuyển
nhượng dự án như vậy là để tránh tình trạng nhiều nhà đầu tư không có khả
33
năng thực hiện, chỉ “chạy” dự án, đầu cơ đất rồi chuyển nhượng hòng kiếm
lời, làm chậm trễ và nâng cao giá thành đầu tư vào dự án. Tuy nhiên, trên
thực tế có rất nhiều dự án muốn chuyển nhượng nhưng lại không đủ điều
kiện chuyển nhượng kể trên do những vướng mắc về thủ tục pháp lý, về
giải phóng mặt bằng; trong khi đó, những dự án tốt, đủ điều kiện chuyển
nhượng thì nhà đầu tư dù khó khăn cũng thường cố gắng để triển khai dự
án.
Từ những phân tích trên đây, có thể nhận thấy, quy định về quyền
chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án trong đầu tư, kinh doanh BĐS
là một bước tiến mới, tích cực, cho phép nhà đầu tư được tự chủ, linh hoạt
trong các quyết định đầu tư, kinh doanh của mình. Tuy vậy, các quy định
của pháp luật còn thiếu thống nhất, thiếu đồng bộ, phân tán, tản mát ở
nhiều văn bản pháp luật của nhiều ngành luật khác nhau. Pháp luật quy
định khá chi tiết về chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án khu đô
thụ mới, dự án khu nhà ở, dự án hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp, nhưng
lại chưa có những quy định cụ thể, rõ ràng về chuyển nhượng các loại dự
án BĐS khác, ví dụ như dự án đầu tư khu du lịch, trung tâm thương mại,
khách sạn,…
2.1.5. Nội dung các quy định về trình tự, thủ tục chuyển nhượng dự án
trong đầu tư, kinh doanh bất động sản
2.1.5.1. Trình tự, thủ tục chuyển nhượng toàn bộ dự án trong đầu tư, kinh
doanh bất động sản
Trình tự, thủ tục chuyển nhượng toàn bộ dự án khu đô thị mới, dự án
khu nhà ở, dự án hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp được quy định tại Điều
8 Nghị định số 153/2007/NĐ-CP và Thông tư số 13/2008/TT-BXD. Theo
đó, cơ quan cho phép đầu tư là cơ quan cho phép chuyển nhượng dự án.
Đối với dự án do UBND cấp tỉnh cho phép đầu tư thì UBND cấp tỉnh xem
xét, giải quyết. Đối với dự án do Thủ tướng Chính phủ cho phép đầu tư thì
UBND cấp tỉnh lấy ý kiến các cơ quan liên quan để báo cáo Thủ tướng
Chính phủ quyết định.
34
Trước khi ra quyết định cho phép chuyển nhượng toàn bộ dự án, hồ
sơ xin chuyển nhượng dự án phải được đơn vị chuyên môn trực thuộc cơ
quan cho phép chuyển nhượng thẩm định. Đối với dự án khu đô thị mới, dự
án nhà ở, cơ quan đầu mối thẩm định cấp tỉnh là Sở Xây dựng. Đối với dự
án hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp, cơ quan đầu mối thẩm định do Chủ
tịch UBND cấp tỉnh quy định.
Chủ đầu tư gửi hồ sơ xin chuyển nhượng toàn bộ dự án đến UBND
cấp tỉnh nơi có dự án. Hồ sơ xin chuyển nhượng toàn bộ dự án bao gồm: 1)
Đơn xin chuyển nhượng toàn bộ dự án; 2) Tình hình thực hiện đầu tư dự
án; 3) Đề xuất chủ đầu tư mới; 4) Phương án giải quyết quyền lợi, nghĩa vụ
của khách hàng và các bên liên quan; 5) Văn bản cho phép đầu tư của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền; 6) Hồ sơ dự án đã được phê duyệt theo quy
định của pháp luật; 7) Hợp đồng thuê đất hoặc quyết định giao đất hoặc
giấy chứng nhận quyền SDĐ; 8) Cam kết của chủ đầu tư mới.
Trong thời hạn 45 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, UBND cấp
tỉnh có trách nhiệm xem xét, trả lời bằng văn bản cho chủ đầu tư về việc
cho phép hoặc không cho phép chuyển nhượng toàn bộ dự án. Chậm nhất
là 30 ngày, kể từ khi có quyết định cho phép chuyển nhượng, chủ đầu tư
mới và chủ đầu tư cũ phải ký kết hợp đồng chuyển nhượng dự án và hoàn
thành việc bàn giao dự án. Trước khi làm thủ tục bàn giao, chủ đầu tư cũ
phải thông báo bằng văn bản cho tất cả khách hàng (nếu có) và thông báo
trên phương tiện thông tin đại chúng trước 15 ngày về việc chuyển nhượng
dự án và quyền lợi của khách hàng. Doanh nghiệp nhận chuyển nhượng
phải có cam kết thực hiện đúng quy hoạch và tiến độ dự án ban đầu (trừ
trường hợp được gia hạn).
2.1.5.2. Trình tự, thủ tục chuyển nhượng một phần dự án trong đầu tư, kinh
doanh bất động sản
Chuyển nhượng một phần dự án trong đầu tư, kinh doanh BĐS đối
với những khu đô thị mới được quy định cụ thể tại Nghị định số
35
02/2006/NĐ-CP ngày 18/8/2006. Theo đó, chủ đầu tư dự án khu đô thị mới
được chuyển nhượng quyền SDĐ để thực hiện các dự án cấp 2 tại khu đô
thị mới khi đã có các công trình hạ tầng kỹ thuật phù hợp với dự án đã
được phê duyệt.
Chủ đầu tư thực hiện chuyển nhượng quyền SDĐ thông qua các hình
thức: 1) Đấu thầu thực hiện dự án do chủ đầu tư kêu gọi đầu tư; 2) Đấu giá
quyền SDĐ; 3) Thỏa thuận chuyển nhượng trực tiếp. Việc chuyển nhượng
quyền SDĐ phải được thực hiện đúng pháp luật. Sau khi dự án khu đô thị
mới đã được phê duyệt, thì những dự án cấp 2 có quy mô nhóm A được đầu
tư vào dự án khu đô thị mới nếu tuân thủ đúng quy hoạch chi tiết xây dựng
tỉ lệ 1/500 đã được phê duyệt. Chủ đầu tư các dự án này không phải thực
hiện thủ tục xin phép đầu tư mà chỉ cần gửi thiết kế cơ sở tới cơ quan nhà
nước có thẩm quyền theo quy định hiện hành của pháp luật về xây dựng để
tổ chức thẩm định trước khi phê duyệt dự án.
Sau khi chuyển nhượng quyền SDĐ theo thỏa thuận hợp đồng
chuyển nhượng, một trong hai bên làm thủ tục chuyển quyền SDĐ từ chủ
đầu tư cấp 1 sang chủ đầu tư cấp 2 tại cơ quan quản lý đất đai của địa
phương. Chủ đầu tư cấp 1 không có thẩm quyền giao đất cho chủ đầu tư
cấp 2.
Thông tư số 14/2008/TTLT-BTC-BTNMT ngày 31/1/2008 hướng
dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày
25/5/2007, Mục 5 quy định về việc nhận chuyển nhượng dự án trong đầu
tư, kinh doanh BĐS có SDĐ. Theo đó, bên chuyển nhượng nộp hợp đồng
chuyển nhượng dự án và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ)
tại Văn phòng đăng ký quyền SDĐ. Việc đăng ký sang tên quyền SDĐ và
các tài sản gắn liền với đất do Sở Tài nguyên và Môi trường hoàn thiện thủ
tục và trình UBND cấp tỉnh quyết định cấp mới GCNQSDĐ, quyền sở hữu
nhà ở và các tài sản khác gắn liền với đất.
36
Trường hợp tổ chức kinh tế trong nước đã trả tiền SDĐ, tiền nhận
chuyển nhượng hoặc tiền thuê đất cho nhiều năm mà có nguồn gốc từ ngân
sách nhà nước; hoặc thuê đất trả tiền thuê đất hàng năm; đất được Nhà
nước giao không thu tiền SDĐ để góp vốn bằng quyền SDĐ thì nộp hồ sơ
tại Văn phòng đăng ký quyền SDĐ thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường để
thực hiện như đối với trường hợp bán tài sản gắn liền với đất theo quy định
tại Điều 158 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004. Sau khi các
bên chuyển nhượng dự án hoàn thành nghĩa vụ tài chính, Sở Tài nguyên và
Môi trường trình UBND cấp tỉnh quyết định thu hồi đất đối với bên chuyển
nhượng dự án và quyết định cho thuê đất; trình UBND cấp tỉnh cấp Giấy
chứng nhận cho bên nhận chuyển nhượng dự án; ký hợp đồng thuê đất với
bên nhận chuyển nhượng dự án.
Khi chuyển nhượng dự án có SDĐ, ngoài các thủ tục đăng ký chuyển
nhượng, sang tên trước bạ như các trường hợp chuyển nhượng quyền SDĐ
khác theo quy định của pháp luật đất đai, thì còn phải làm các thủ tục xin
phép chuyển nhượng dự án, thẩm định dự án chuyển nhượng, xin phép đầu
tư. Cơ quan cho phép đầu tư, kinh doanh là cơ quan cho phép chuyển
nhượng dự án. Trước khi cho phép chuyển nhượng, cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền phải tiến hành thẩm định về lý do chuyển nhượng, điều kiện
được chuyển nhượng của dự án (xem xét mức độ đã đầu tư của dự án, vấn
đề bồi thường, giải phóng mặt bằng, dự án có được thực hiện đúng quy
định hay không, việc chấp hành pháp luật đất đai,…), năng lực của chủ đầu
tư mới, phương pháp thực hiện dự án của chủ đầu tư mới,…
Như vậy, pháp luật hiện hành mới chủ yếu tập trung quy định về
trình tự, thủ tục chuyển nhượng toàn bộ dự án khu đô thị mới, dự án khu
nhà ở, dự án hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp mà chưa có các quy định về
trình tự, thủ tục chuyển nhượng nhiều dự án trong đầu tư, kinh doanh BĐS.
Điều này, gây khó khăn cho các doanh nghiệp khi tiến hành làm thủ tục
chuyển nhượng nhiều dự án khác trong đầu tư, kinh doanh BĐS.
37
2.1.6. Nội dung các quy định về hợp đồng chuyển nhượng dự án trong
đầu tư, kinh doanh bất động sản
Nghị định số 153/2007/NĐ-CP quy định về hợp đồng chuyển
nhượng toàn bộ dự án khu đô thị mới, dự án khu nhà ở, dự án hạ tầng kỹ
thuật khu công nghiệp tại Điều 9. Theo đó, hợp đồng chuyển nhượng toàn
bộ dự án phải do hai bên tự thỏa thuận. Trong hợp đồng phải xác định rõ
chủ đầu tư mới có trách nhiệm thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của chủ đầu
tư cũ với khách hàng, các bên liên quan và các nghĩa vụ khác theo nội dụng
dự án đã được phê duyệt.
Việc chuyển nhượng một phần dự án trong đầu tư, kinh doanh BĐS
được thực hiện dưới dạng một hợp đồng hợp tác kinh doanh. Hợp đồng hợp
đồng hợp tác kinh doanh là hình thức đầu tư được ký kết giữa các nhà đầu
tư nhằm hợp tác kinh doanh phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm mà
không thành lập pháp nhân. Các yếu tố như: đối tượng, nội dung hợp tác,
thời hạn kinh doanh, quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi bên, quan hệ
hợp tác giữa các bên và tổ chức quản lý do các bên thỏa thuận và ghi trong
hợp đồng.
Ngoài ra, trong hợp đồng chuyển nhượng quy định rõ quyền và nghĩa
vụ của bên chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, quyền và nghĩa vụ của bên chuyển nhượng dự án.
- Quyền của bên chuyển nhượng dự án
(i) Yêu cầu bên nhận chuyển nhượng trả đủ tiền, đúng thời hạn ghi
trong hợp đồng;
(ii) Yêu cầu bên nhận chuyển nhượng nhận bà giao toàn bộ dự án
đúng thời hạn ghi trong hợp đồng;
(iii) Các quyền lợi khác do hai bên thỏa thuận.
- Nghĩa vụ của bên chuyển nhượng dự án
38
(i) Bàn giao toàn bộ dự án trên thực địa và toàn bộ hồ sơ dự án cho
bên nhận chuyển nhượng, trường hợp không bàn giao hoặc chậm bàn giao
thì phải bồi thường thiệt hại;
(ii) Bảo vệ, quản lý toàn bộ dự án trong thời gian chưa bàn giao xong
dự án (trên hồ sơ + trên thực địa);
(iii) Thông báo cho khách hàng và các bên liên quan về việc chuyển
nhượng dự án;
(iv) Giải quyết dứt điểm những cam kết đã thỏa thuận với khách
hàng trước khi chuyển nhượng dự án. Cùng với bên nhận chuyển nhượng
thống nhất với từng khách hàng về những vấn đề mà chủ đầu tư mới phải
có trách nhiệm giải quyết không làm thiệt hại đến quyền lợi của khách
hàng;
(v) Các nghĩa vụ khác do hai bên thỏa thuận.
Thứ hai, quyền và nghĩa vụ của bên nhận chuyển nhượng dự án.
- Quyền của bên nhận chuyển nhượng dự án
(i) Nhận bàn giao toàn bộ dự án trên thực địa và toàn bộ hồ sơ dự án
nêu tại Hợp đồng chuyển nhượng theo đúng thời gian quy định trong hợp
đồng;
(ii) Yêu cầu bên chuyển nhượng tạo điều kiện và cung cấp các giấy
tờ có liên quan đến việc thực hiện tiếp dự án;
(iii) Cùng bên chuyển nhượng bàn bạc với khách hàng về việc giải
quyết quyền lợi và nghĩa vụ của khách hàng sau khi đã nhận chuyển
nhượng;
(iv) Các quyền lợi khác do hai bên thỏa thuận.
- Nghĩa vụ của bên nhận chuyển nhượng dự án
(i) Thanh toán đầy đủ, đúng thời hạn tiền chuyển nhượng dự án cho
bên chuyển nhượng đã ghi trong Hợp đồng chuyển nhượng;
(ii) Thực hiện và đáp ứng đầy đủ quyền lợi của bên chuyển nhượng
và của khách hàng mà các bên đã thống nhất;
39
(iii) Tiếp nhận toàn bộ dự án tại thực địa và hồ sơ dự án đúng thời
hạn đã thỏa thuận;
(iv) Thực hiện tiếp dự án theo đúng nội dung dự án đã được cấp có
thẩm quyền phê duyệt;
(v) Các nghĩa vụ khác do hai bên thỏa thuận.
2.1.7. Nội dung các quy định về xử lý vi phạm pháp luật về chuyển
nhượng dự án trong đầu tư, kinh doanh bất động sản
Điều 10 Nghị định số153/2007/NĐ-CP quy định về việc xử lý đối
với các dự án khu đô thị mới, dự án khu nhà ở kỹ thuật, dự án hạ tầng kỹ
thuật khu công nghiệp khi chủ đầu tư có vi phạm. Theo đó, chủ đầu tư sẽ bị
cơ quan có thẩm quyền quyết định thu hồi văn bản cho phép đầu tư hoặc
giấy chứng nhận đầu tư dự án để giao cho chủ đầu tư khác tiếp tục thực
hiện dự án trong các trường hợp sau:
- Chủ đầu tư vi phạm các quy định của pháp luật về đầu tư xây dựng,
quy hoạch, kiến trúc, quản lý đất đai mà không có giải pháp khắc phục kịp
thời theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Chủ đầu tư không thực hiện đúng nội dung dự án hoặc sau 12
tháng, kể từ tháng nhận bàn giao đất mà không triển khai thực hiện dự án
hoặc chậm tiến độ quá 24 tháng so với tiến độ được duyệt.
Khi chủ đầu tư có dự án bị thu hồi theo quy định tại Khoản 1 Điều
10 Nghị định số 153/2007/NĐ-CP thì sẽ không được làm chủ đầu tư các dự
án kinh doanh BĐS mới khác trong thời gian 02 năm, kể từ ngày dự án
trước bị thu hồi.
Bên cạnh đó, cơ quan có thẩm quyền quyết định thu hồi văn bản cho
phép đầu tư hoặc giấy chứng nhận đầu tư phải có trách nhiệm: (i) Yêu cầu
chủ đầu tư cũ giải quyết những tồn tại của dự án, đảm bảo quyền lợi, nghĩa
vụ, trách nhiệm của khách hàng và các bên có liên quan; (ii) Thông báo và
tổ chức lựa chọn chủ đầu tư mới để tiếp tục thực hiện dự án.
40
Tóm lại: Quy định quyền chuyển nhượng dự án trong đầu tư, kinh
doanh BĐS nhằm tạo điều kiện thuận lợi, chủ động cho các doanh nghiệp
đầu tư, kinh doanh BĐS trong việc quyết định đầu tư dự án. Lựa chọn được
những nhà đầu tư thực sự có tiềm năng tài chính, có kinh nghiệm quản lý
cao, khai thác có hiệu quả nhất các dự án BĐS. Việc đưa ra quyết định
chuyển nhượng dự án BĐS là những quyết định rất lớn trong đầu tư, có tác
động trực tiếp đến sự thành bại của doanh nghiệp. Do vậy, hành lang pháp
lý phải rõ ràng, minh bạch, tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư có năng lực
thực hiện các quyết định của mình. Do đó, cần tạo môi trường pháp lý bình
đẳng cho các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài trong việc chuyển
nhượng dự án BĐS. Ngoài ra, cần hoàn thiện cơ chế định giá BĐS làm cơ
sở cho các bên thỏa thuận chuyển nhượng dự án và thực hiện nghĩa vụ tài
chính với Nhà nước khi chuyển nhượng dự án đầu tư, kinh doanh BĐS.
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về chuyển nhượng dự án trong đầu
tư, kinh doanh bất động sản
2.2.1. Những thành tựu, kết quả đạt được
Tìm hiểu thực tiễn thi hành pháp luật về chuyển nhượng dự án trong
đầu tư, kinh doanh BĐS cho thấy việc áp dụng đã đạt được những kết quả
chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, quy định cho phép nhà đầu tư được chuyển nhượng dự án
là một trong những quy định quan trọng nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng
mắc cho các nhà đầu tư trong quá trình đầu tư, kinh doanh BĐS, được quy
định cụ thể trong Luật Kinh doanh BĐS năm 2006, Nghị định số
153/2007/NĐ-CP, Thông tư số 13/2008/TT-BXD và nhiều văn bản có liên
quan khác. Trên thực tế, các chủ đầu tư khi tiến hành hoạt động đầu tư,
kinh doanh BĐS đều mong muốn thực hiện dự án đến cùng nhưng vì nhiều
nguyên nhân mà phải chuyển nhượng để thu hồi vốn. Nếu chủ đầu tư
không được chuyển nhượng dự án thì có thể dẫn đến hậu quả là dự án bị
đình trệ, doanh nghiệp BĐS lâm vào tình trạng phá sản. Hậu quả là thị
41
trường BĐS bị tác động tiêu cực. Do vậy, quy định cho phép các chủ đầu
tư được chuyển nhượng dự án vừa giúp cho các nhà đầu tư, kinh doanh
BĐS giải quyết khó khăn, vừa giúp cho thị trường phát triển ổn định, bền
vững.
Thứ hai, việc chuyển nhượng dự án là một trong những biện pháp
thúc đẩy tiến bộ thực thi các dự án. Nhiều dự án phát triển nhà ở, khu công
nghiệp, văn phòng, khách sạn,… đã được triển khai đầu tư xây dựng nhằm
đáp ứng nhu cầu về chỗ ở của người dân cũng như nhu cầu phát triển của
kinh tế, xã hội của đất nước, đồng thời, góp phần làm thay đổi bộ mặt đô
thị, nông thôn trong cả nước.
Thứ ba, quy định này cũng là giải pháp loại khỏi thị trường những
nhà đầu tư yếu kém, không đủ năng lực thực hiện dự án, giúp cho thị
trường BĐS hoạt động ngày càng chuyên nghiệp và hiệu quả hơn, loại bỏ
bớt những giao dịch BĐS mang tính chất “lướt sóng”.
Thứ tư, đối với việc chuyển nhượng một phần dự án. Chuyển
nhượng này sẽ chính thức được công nhận khi hai bên thực hiện thủ tục
chuyển quyền SDĐ phần diện tích được chuyển nhượng vào lúc dự án đã
xong các hạng mục hạ tầng kỹ thuật tương ứng và được nghiệm thu. Quy
định này là cần thiết vì thực tế thời gian qua cho thấy nhiều chủ dự án thực
hiện xong khâu bồi thường, giải phóng mặt bằng là đã cạn vốn, trong khi
khoản đầu tư cho hạ tầng kỹ thuật của dự án vẫn còn khá lớn.
Thứ năm, trên thực tế thị trường cũng đã ghi nhận một số chủ đầu tư
đang tìm đối tác để chuyển nhượng lại dự án của mình do hoạt động sản
xuất - kinh doanh kém hiệu quả trong thời gian vừa qua. Có thể kể đến một
số thương vụ được công bố trong thời gian qua như Công ty Cổ phần Đầu
tư Kinh doanh Địa ốc Đất Xanh mua lại dự án của Công ty TNHH Hà
Thuận Hùng và biến khu đất rộng hơn 3.700 m2 thành dự án căn hộ cao 14
tầng Phú Gia Hưng Apartment tại quận Gò Vấp - Tp.HCM; hoặc Công ty
Đông Dương cũng đã mua lại quyền sử dụng lô đất 2.700 m2 tại khu Nam
42
Sài Gòn từ Công ty Cổ phần TM-XD BĐS Hòa Bình với giá 11,9 triệu
USD. Bên cạnh đó, theo một số nhà đầu tư thì việc chuyển nhượng dự án
có thể là những thương vụ đem lại lợi nhuận cho họ, chứ không hẳn đồng
nghĩa với việc sang nhượng là tháo chạy khỏi dự án. Ví dụ như: trường hợp
Công ty Kinh Đô, việc rút vốn tham gia xây dựng tòa nhà SJC Tower là để
tập trung vốn vào các dự án trọng điểm trong lĩnh vực thực phẩm, sáp nhập
các công ty thực phẩm khác vào Kinh Đô và đầu tư các dự án BĐS nhà ở
của mình. Vụ chuyển nhượng này đã đem về một khoản lợi nhuận 425 tỉ
đồng cho Kinh Đô.
2.2.2. Những tồn tại, hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc áp dụng các quy định về
chuyển nhượng dự án trong đầu tư, kinh doanh BĐS còn bộc lộ một số hạn
chế, tồn tại cơ bản sau đây:
Thứ nhất, việc thực hiện các quy định về trình tự, thủ tục chuyển
nhượng toàn bộ dự án trong đầu tư, kinh doanh BĐS còn gặp nhiều khó
khăn, gây tốn kém, mất thời gian cho các nhà đầu tư.
Luật Kinh doanh BĐS năm 2006 ra đời cùng với các văn bản pháp
luật kèm theo như Nghị định số 153/2007/NĐ-CP, Thông tư số
13/2008/TT-BXD đã chính thức quy định về vấn đề chuyển nhượng dự án
trong đầu tư, kinh doanh BĐS. Cùng với việc thừa nhận các quyền của chủ
đầu tư thì Nhà nước đã tạo ra cơ chế để họ thực hiện đầy đủ quyền của
mình. Tuy nhiên, trên thực tế, để được chuyển nhượng dự án thì các chủ
đầu tư phải trải qua rất nhiều thủ tục phức tạp và mất thời gian. Theo nhiều
chủ đầu tư thì việc các dự án triển khai chậm chưa hẳn là do thiếu vốn mà
do thủ tục hành chính của một số địa phương quá phức tạp, cán bộ hướng
dẫn làm thủ tục không tận tình, đôi khi còn gây nhiều phiền hà. Thực tế
nhiều địa phương đã áp dụng cơ chế “một cửa liên thông” nhưng nhiều chủ
đầu tư vẫn phải đến từng cơ quan chuyên môn để giải quyết từng loại thủ
tục đầu tư, do đó sẽ mất rất nhiều thời gian. Đây là một trở ngại rất lớn đối
43
với các nhà đầu tư trong quá trình thực hiện chuyển nhượng dự án trong
đầu tư, kinh doanh BĐS.
Thứ hai, quy định về vốn chủ sở hữu của các chủ đầu tư còn nhiều
bất cập. Vốn thuộc sở hữu của chủ đầu tư là vốn thực có của chủ đầu tư
tính đến năm trước liền kề với năm chủ đầu tư thực hiện dự án khu đô thị
mới, khu nhà ở, dự án hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp được thể hiện
trong báo cáo tài chính của chủ đầu tư và phải được kiểm toán độc lập xác
nhận. Vốn chủ sở hữu của chủ đầu tư thể hiện trực tiếp khả năng tài chính
của họ, là nguồn vốn chủ động, bên cạnh các nguồn vốn khác (từ ngân
hàng, huy động của khách hàng,…). Tuy nhiên, hiện nay, Luật Kinh doanh
BĐS năm 2006 quy định tổ chức, cá nhân kinh doanh BĐS có mức vốn
pháp định là 6 tỷ đồng. Nhưng thực tế, để thực hiện những dự án có mức
đầu tư lên đến hàng trăm tỷ đồng thì mức vốn 6 tỷ đồng là rất nhỏ. Ngoài
ra, còn không kể đến các khoản chi phí phát sinh khác như giải phóng mặt
bằng, biến động về giá cả,… Do vậy, chuyển nhượng dự án trong đầu tư,
kinh doanh BĐS là một giải pháp tối ưu được các doanh nghiệp chọn lựa.
Bên cạnh đó, với quy định này, có nhiều doanh nghiệp mặc dù hạn
chế về năng lực thực hiện dự án, thiếu vốn đầu tư nhưng vẫn lao vào kinh
doanh BĐS, gây ra tình trạng lũng đoạn thị trường, các doanh nghiệp
không đủ sức cạnh tranh, tạo sự không chuyên nghiệp trong đầu tư, kinh
doanh BĐS. Chính vì vậy, pháp luật cần điều chỉnh mức quy định về vốn
pháp định để phù hợp hơn với tình hình thực tế.
Ngoài ra, pháp luật kinh doanh BĐS hiện nay chưa có những quy
định để sàng lọc các công ty BĐS nhỏ, lẻ ra khỏi “sân chơi” để khuyến
khích các doanh nghiệp hội tụ lại với nhau thành những doanh nghiệp lớn
có đầy đủ năng lực về chuyên môn, kiến thức và tài chính. Hơn nữa, việc
pháp luật quy định về vốn đầu tư thuộc chủ sở hữu của chủ đầu tư dự án
khu đô thị mới, dự án khu nhà ở, dự án hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp
44
thiếu chi tiết, cụ thể và rõ ràng nên thực chất các chủ đầu tư này có bao
nhiêu vốn thì chỉ có họ mới biết, Nhà nước không thể kiểm soát được.
Thứ ba, pháp luật quy định về huy động vốn chưa phù hợp với đặc
điểm của dự án trong đầu tư, kinh doanh BĐS.
Thị trường BĐS phụ thuộc nhiều vào thị trường vốn, mà các doanh
nghiệp bđs hiện nay thường sử dụng vốn đi vay là chủ yếu. Bởi, nguồn vốn
tự có của doanh nghiệp thì có hạn, mà việc huy động vốn của khách hàng
cũng bị khống chế bởi Luật Nhà ở năm 2005 và Luật Kinh doanh BĐS năm
2006. Do vậy, nguồn tài chính dành cho BĐS chủ yếu tập trung vào việc
vay vốn ngân hàng. Mà trong hoàn cảnh hiện nay, chính sách cho vay của
các ngân hàng thường không ổn định. Việc nguồn vốn cho BĐS phụ thuộc
vào ngân hàng khiến cho sự phát triển của thị trường này gặp rất nhiều bất
ổn. Hầu hết các dự án BĐS thường kéo dài trong nhiều năm. Vì vậy, các
doanh nghiệp sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi bị ngân hàng siết nợ trong giai
đoạn xảy ra khủng hoảng.
Do vậy, khi Nhà nước chủ trương thắt chặt tiền tệ, tín dụng cùng với
những khó khăn trong việc huy động vốn sẽ khiến các nhà đầu tư khó có
thể tiếp tục thực hiện dự án, buộc phải tìm cách chuyển nhượng dự án khi
chưa đủ điều kiện nhằm thu hồi vốn đầu tư.
2.2.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
2.2.3.1. Nguyên nhân chủ quan
Nguyên nhân chủ quan khiến cho việc chuyển nhượng dự án trong
đầu tư, kinh doanh BĐS hiện nay còn gặp một số khó khăn là do quy mô
thị trường BĐS Việt Nam chưa phải là lớn. Quá trình đô thị hóa mới đang
ở giai đoạn đầu, đặc biệt đối với các đô thị như Hà Nội, TP.HCM, thời
điểm chuyển nhượng BĐS thường tùy thuộc vào chiến lược cũng như
“hoàn cảnh” của từng nhà đầu tư.
Hơn nữa, pháp luật về kinh doanh BĐS nói chung và pháp luật về
chuyển nhượng dự án đầu tư, kinh doanh BĐS nói riêng là lĩnh vực pháp
45
luật còn khá non trẻ và đang trong quá trình xây dựng, hoàn thiện. Vì vậy,
chúng ta còn thiếu kinh nghiệm về thực tiễn pháp lý đối với việc điều chỉnh
các quan hệ về chuyển nhượng dự án đầu tư, kinh doanh BĐS. Điều này là
nguyên nhân làm cho một số nội dung quy định được ban hành chưa phù
hợp với thực tiễn; đồng thời, làm bộc lộ một số “khoảng trống” trong lĩnh
vực pháp luật về vấn đề này.
2.2.3.2. Nguyên nhân khách quan
Trên thực tế, khi chuyển nhượng dự án, các nhà đầu tư thường gặp
nhiều khó khăn bởi trong quá trình tiến hành phải trải qua nhiều khâu phức
tạp, mất thời gian, mà nguyên nhân chủ yếu là do các thủ tục hành chính
còn nhiều phiền hà. Cụ thể, trong quá trình thực hiện Đề án 30 của Chính
phủ về việc đơn giản hoá thủ tục hành chính nhà nước giai đoạn 2001-
2010, tính đến hết ngày 31/8/2009, thống kê của Nhóm chuyên trách về cải
cách thủ tục hành chính của Chính phủ cho thấy vẫn còn 5.700 thủ tục hành
chính, 7.870 văn bản quy định về thủ tục hành chính và 85.000 biểu mẫu
cần phải được rà soát để loại bỏ. Qua những thống kê trên có thể thấy, hiện
nay, mặc dù Nhà nước có chủ trương giảm thiểu các thủ tục hành chính,
nhưng trên thực tế, cụ thể trong chuyển nhượng dự án, các nhà đầu tư vẫn
phải đến từng cơ quan chuyên môn để giải quyết các loại thủ tục đầu tư
khác nhau. Không kể mỗi tỉnh, thành lại có một cơ chế khác nhau đối với
nhà đầu tư. Do vậy, hiện nay, thủ tục hành chính vẫn là một rào cản lớn,
gây hạn chế hiệu quả đầu tư của việc chuyển nhượng dự án trong đầu tư,
kinh doanh BĐS.
Ngoài ra, theo như phân tích ở trên thì nguồn vốn đầu tư, kinh doanh
BĐS chủ yếu của doanh nghiệp thường phụ thuộc vào các ngân hàng. Mà
thị trường hiện nay đang trong giai đoạn khó khăn, Chính phủ đang tập
trung chống lạm phát. Do đó, việc vay vốn đầu tư BĐS cũng gặp nhiều khó
khăn và nếu vay được thì lãi suất cũng khá cao. Bên cạnh đó, lạm phát, tỉ
giá ngoại tệ, giá cả vật tư đều có xu hướng tăng cao làm chi phí đầu tư và
46
giá thành sản phẩm BĐS sẽ tăng đáng kể. Hiện nay, các ngân hàng đang
tích cực thu hồi nợ và thúc ép các khoản vay liên quan đến BĐS. Một số
chủ đầu tư và nhà đầu tư mua bán BĐS sử dụng tỷ lệ vay tiền từ ngân hàng
cao sẽ bị ảnh hưởng lớn. Chính vì vậy, sẽ gây ra nhiều bất lợi đối với các
nhà đầu tư.
Chương 3
47
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHUYỂN NHƯỢNG
DỰ ÁN TRONG ĐẦU TƯ, KINH DOANH BẤT ĐỘNG SẢN
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về chuyển nhượng dự án
trong đầu tư, kinh doanh bất động sản
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về chuyển nhượng dự án trong đầu tư, kinh
doanh bất động sản phải phù hợp với quan điểm và định hướng phát
triển thị trường bất động sản của Đảng ta
Thị trường BĐS Việt Nam trong giai đoạn vừa qua đã có những
bước phát triển tích cực, góp phần đáng kể vào sự tăng trưởng chung của
nền kinh tế. Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
VII tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII đã xác định: “Tổ chức quản
lý tốt thị trường bất động sản, chăm lo giải quyết vấn đề nhà ở cho nhân
dân, nhất là ở các vùng đô thị, phát triển các doanh nghiệp nhà nước xây
dựng và kinh doanh nhà ở. Khuyến khích các thành phần kinh tế xây dựng
và kinh doanh nhà ở theo sự hướng dẫn và quản lý của Nhà nước”. Có thể
nói đây là một chủ trương lớn, có tầm chiến lược quan trọng cho sự phát
triển thị trường BĐS ở Việt Nam.
Để thực hiện mục tiêu đó, cần đảm bảo những định hướng cơ bản
sau:
Thứ nhất, về phía Nhà nước.
- Tập trung nghiên cứu hoàn thiện, ban hành, sửa đổi, bổ sung hệ
thống văn bản quy phạm về BĐS; đặc biệt là những quy định của pháp luật
về chuyển nhượng dự án trong đầu tư, kinh doanh BĐS, để thúc đẩy thị
trường BĐS phát triển lành mạnh, phù hợp với quy luật cung - cầu, thúc
đẩy nền kinh tế phát triển, đồng thời đảm bảo công bằng xã hội theo định
hướng XHCN, hạn chế tình trạng thị trường ngầm trong giao dịch về kinh
doanh BĐS.
48
- Đẩy mạnh công tác cải cách về cơ cấu tổ chức và hành chính trong
lĩnh vực đầu tư, kinh doanh BĐS, đặc biệt là trong chuyển nhượng dự án,
cần có cơ chế và chế tài phù hợp để đảm bảo thông tin liên quan tới thị
trường BĐS (quy hoạch, đất đai, vật liệu xây dựng, đầu tư xây dựng, chất
lượng công trình, đấu giá, định giá, mua bán, giao dịch, môi giới, đăng ký
thế chấp, sàn giao dịch...) phải được công khai, minh bạch để các chủ thể
tham gia dễ dàng và thuận lợi.
- Có cơ chế kiểm tra, giám sát, quản lý và điều tiết thị trường phù
hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ.
Thứ hai, về phía các chủ thể tham gia.
- Các tổ chức, cá nhân tham gia chuyển nhượng dự án trong đầu tư,
kinh doanh BĐS phải có trách nhiệm đảm bảo chất lượng hàng hóa là BĐS,
đảm bảo uy tín và thương hiệu của doanh nghiệp mình.
- Hoạt động chuyển nhượng dự án có thể mang lại lợi nhuận cao, tuy
nhiên lĩnh vực này cũng tiềm ẩn yếu tố rủi ro cũng rất lớn. Do đó, đòi hỏi
các đối tượng tham gia phải có tính chuyên nghiệp cao. Các chủ thể tham
gia thị trường phải đáp ứng các điều kiện quy định của pháp luật về kinh
nghiệm, năng lực tài chính, đào tạo nhân lực...
- Hàng hoá BĐS của các doanh nghiệp kinh doanh BĐS phải được
giao dịch thông qua sàn giao dịch BĐS đảm bảo công khai, minh bạch,
cạnh tranh lành mạnh.
Thị trường BĐS luôn là một thị trường quan trọng có tác động và chi
phối mạnh mẽ đến toàn bộ nền kinh tế. Việc lên hay xuống của thị trường
BĐS đôi khi còn phụ thuộc vào nhiều thị trường khác, như chứng khoán,
ngoại tệ, vàng,… Tuy nhiên, về lâu dài, những văn bản pháp quy trong lĩnh
vực BĐS cần được ban hành theo hướng tạo sự thuận lợi và phát triển bền
vững.
49
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về chuyển nhượng dự án trong đầu tư, kinh
doanh bất động sản dựa trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc công khai, minh
bạch trong kinh doanh bất động sản
Thị trường BĐS Việt Nam vẫn còn thiếu minh bạch, thông tin chưa
đầy đủ, chủ yếu phụ thuộc vào bên bán, do đó, các hoạt động giao dịch
ngầm, trao tay vẫn phổ biến, gây khó khăn trong việc quản lý nhà nước
cũng như thất thu cho ngân sách nhà nước, đồng thời tiếp tay cho tham
nhũng.
Điểm quan trọng nhất để minh bạch hóa thị trường BĐS chính là hệ
thống đăng ký BĐS. Hệ thống đăng ký BĐS là hệ thống thông tin ghi nhận
ai là chủ SDĐ, ai có tài sản gắn liền với đất ở đâu, từ đâu và làm gì,… theo
một mẫu thống nhất. Khi đã đăng ký, Nhà nước sẽ bảo vệ quyền lợi hợp
pháp của người đăng ký. Người sở hữu BĐS có trách nhiệm thực hiện
nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước. Điều đó sẽ làm cho thị trường BĐS
hoạt động năng động hơn, người kinh doanh BĐS sẽ thuận lợi hơn. Việc
đăng ký công khai BĐS trong một hệ thống thống nhất sẽ góp phần chủ yếu
để loại bỏ những điều thiếu minh bạch trên thị trường BĐS.
Ngoài ra, đồ án quy hoạch phải công khai hóa tất cả những dự án ưu
tiên và nguồn lực thực hiện. Cụ thể, việc công bố quy hoạch phân khu, các
dự án mời gọi đầu tư khu đô thị mới, khách sạn, văn phòng cho thuê, nhà ở
cao cấp tại các khu vực mở rộng,… đều phải được công khai. Khi đó,
quyền lựa chọn sẽ thuộc về các nhà đầu tư BĐS chuyên nghiệp. Đồng thời,
để tránh tình trạng xin - cho, cơ quan chức năng phải chuyển sang hình
thức đấu giá quyền SDĐ và đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư. Điều này sẽ tạo
ra “sân chơi” công bằng cho tất cả các nhà đầu tư và loại khỏi thị trường
những nhà đầu tư không có năng lực. Trên cơ sở quy hoạch, phải có cơ chế
phát triển quỹ đất, đầu tư đồng bộ hạ tầng kỹ thuật, tạo quỹ đất “sạch” sẵn
có để kêu gọi đầu tư và điều tiết thị trường khi cần thiết.
50
3.1.3. Hoàn thiện pháp luật về chuyển nhượng dự án trong đầu tư, kinh
doanh bất động sản phải dựa trên việc tham khảo và tiếp thu có chọn lọc
kinh nghiệm và thực tiễn pháp lý của nước ngoài về vấn đề này
Như phần trên đã đề cập, pháp luật về kinh doanh BĐS nói chung và
pháp luật về chuyển nhượng dự án đầu tư, kinh doanh BĐS nói riêng là
lĩnh vực pháp luật còn tương đối mới mẻ ở nước ta. Lĩnh vực pháp luật này
đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện. Trong khi đó, đối với các
nước có thị trường BĐS phát triển thì vấn đề này không còn là mới lạ. Các
nước này đã có ngót trăm năm kinh nghiệm trong việc quản lý thị trường
BĐS nói chung và chuyển nhượng dự án đầu tư, kinh doanh BĐS nói riêng
bằng pháp luật. Vì vậy, việc tham khảo và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm
và thực tiễn pháp lý của các nước về điều chỉnh quan hệ chuyển nhượng dự
án đầu tư, kinh doanh BĐS phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của
Việt Nam là rất cần thiết; góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh
doanh BĐS (trong đó có các quy định về chuyển nhượng dự án trong đầu
tư, kinh doanh BĐS).
3.1.4. Hoàn thiện pháp luật về chuyển nhượng dự án trong đầu tư, kinh
doanh bất động sản phải đặt trong tổng thể cải cách hệ thống pháp luật
về đầu tư, kinh doanh nói chung và pháp luật về đầu tư, kinh doanh bất
động sản nói riêng
Pháp luật về chuyển nhượng dự án trong đầu tư, kinh doanh BĐS là
một bộ phận của hệ thống pháp luật đầu tư, kinh doanh BĐS. Hơn nữa, nó
còn liên quan đến nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau như pháp luật về đầu
tư, pháp luật doanh nghiệp, pháp luật đất đai, pháp luật xây dựng và pháp
luật về nhà ở v.v. Do đó, hoàn thiện pháp luật về chuyển nhượng dự án
trong đầu tư, kinh doanh BĐS không thể tách dời với quá trình cải cách và
hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư, kinh doanh nói chung và pháp luật
về đầu tư, kinh doanh BĐS nói riêng. Bởi lẽ, các lĩnh vực pháp luật này có
mối quan hệ gắn bó, khăng khít và có tác động trực tiếp lẫn nhau. Vì vậy,
51
quá trình hoàn thiện pháp luật về chuyển nhượng dự án trong đầu tư, kinh
doanh BĐS muốn đạt được hiệu quả thì phải đặt trong mối quan hệ tổng
thể cải cách hệ thống pháp luật về đầu tư, kinh doanh nói chung và pháp
luật về đầu tư, kinh doanh BĐS nói riêng …
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về chuyển nhượng dự án trong đầu
tư, kinh doanh bất động sản
3.2.1. Sửa đổi, bổ sung các quy định về nâng cao khả năng kiểm soát thị
trường bất động sản của Nhà nước
Xét một cách tổng thể, hiện nay, Nhà nước chưa kiểm soát chặt chẽ
được thị trường chuyển nhượng các dự án đầu tư, kinh doanh BĐS. Các cơ
quan quản lý thị trường BĐS chưa nắm bắt được chính xác bao nhiêu dự án
(dưới mọi hình thức và loại hình sản phẩm) đang được khởi công, sản
phẩm của dự án đã và đang bán cho ai, giá cả cụ thể là bao nhiêu … Họ chỉ
biết được dự án nào được phê duyệt trên sổ sách, còn trên thực tế các dự
án triển khai hay chưa, làm đến đâu thì dường như thông tin, số liệu chậm
được cập nhật kịp thời. Công tác kiểm soát của cơ quan quản lý hiện nay
vẫn chỉ dừng lại ở bước khảo sát thị trường, học hỏi nghiệp vụ từ các đơn
vị tư vấn BĐS là chính. Do vậy, để nâng cao khả năng kiểm soát thị trường
chuyển nhượng trong đầu tư, kinh doanh BĐS, Nhà nước cần phải:
- Sớm triển khai áp dụng quy định bắt buộc và có chế tài xử lý để
thực hiện yêu cầu các doanh nghiệp kinh doanh phải bán sản phẩm hàng
hoá BĐS thông qua sàn giao dịch theo quy định của pháp luật nhằm tạo
điều kiện thuận lợi cho mọi tổ chức, cá nhân có nhu cầu đều có thể dễ dàng
tiếp cận và tham gia giao dịch.
- Quy định việc bắt buộc công khai các thủ tục dịch vụ công liên
quan đến việc chuyển nhượng dự án trong đầu tư, kinh doanh BĐS.
- Tổ chức tốt hệ thống cung cấp thông tin về BĐS theo nguyên tắc
công khai, minh bạch, trung thực và quy định bắt buộc việc công khai
52
thông tin về thị trường BĐS trên các kênh thông tin theo quy định để góp
phần lành mạnh hoá thị trường BĐS.
- Hoàn thiện cơ chế chuyển nhượng dự án qua sàn giao dịch và tăng
cường công tác quản lý, thanh tra, kiểm tra các giao dịch BĐS.
- Khuyến khích các giao dịch chuyển nhượng chính thức, đi đôi với
việc ban hành các chế tài đủ mạnh để hạn chế các giao dịch "ngầm" thông
qua việc giảm thuế chuyển dịch BĐS, giảm chi phí xác định sở hữu BĐS
để khuyến khích các chủ thể tham gia giao dịch chính thức.
- Tăng cường năng lực và hiệu lực bộ máy quản lý Nhà nước về thị
trường chuyển nhượng dự án BĐS theo hướng kết hợp với chủ trương cải
cách hành chính, ưu tiên cho công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao
năng lực quản lý của cán bộ, công chức nhà nước cũng như đối với nguồn
nhân lực của các thành phần kinh tế tham gia kinh doanh BĐS.
- Kiện toàn và củng cố hệ thống quản lý, điều hành thị trường BĐS
đồng bộ từ trung ương tới địa phương; tăng cường công tác nghiên cứu dự
báo và đưa các chỉ tiêu phát triển thị trường chuyển nhượng dự án BĐS.
- Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến rộng rãi pháp luật về chuyển
nhượng dự án trong đầu tư, kinh doanh BĐS.
Đối với những dự án được ưu đãi đầu tư thuộc chương trình khuyến
khích, thu hút đầu tư của một số tỉnh, hay được ưu đãi về lĩnh vực đầu tư,
địa bàn đầu tư, hay những dự án xây dựng nhà ở cho người có thu nhập
thấp,… thì Nhà nước cần phải có cơ chế kiểm soát chặt chẽ hơn nữa. Bởi
đối với những loại dự án này, nếu không được kiểm soát chặt thì các chủ
đầu tư có thể lợi dụng những chính sách này để trục lợi. Việc “trải thảm
đỏ” mời gọi đầu tư ồ ạt, tất yếu sẽ dẫn đến hậu quả là có nhiều dự án treo.
Trong số những tiêu chí đánh giá, mức độ thông thoáng của cải cách hành
chính có tốc độ thu hút vốn đầu tư cao. Vì vậy, không ít tỉnh đã phớt lờ yếu
tố chất lượng đầu tư để tăng hạng. Nhưng đằng sau những con số “tỷ đô”
53
được báo cáo đó là hàng loạt giấy phép đầu tư được cấp cho có, hàng loạt
dự án chuyển nhượng nhằm trục lợi. Để từng bước khắc phục những yếu
kém này cần bổ sung các quy định đề cập đến việc trước khi cho phép
chuyển nhượng, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xem xét mức độ đã
đầu tư của dự án như bồi thường, giải phóng mặt bằng, san nền hoặc đã đầu
tư một phần hạ tầng kỹ thuật. Ngoài ra, cũng cần xem xét các yếu tố như:
dự án có được thực hiện đúng quy hoạch hay không, việc chấp hành pháp
luật đất đai, việc đầu tư xây dựng của doanh nghiệp,…
3.2.2. Hoàn thiện quy định về vốn chủ sở hữu của nhà đầu tư, kinh
doanh bất động sản
Hiện nay, theo quy định của Luật Kinh doanh BĐS năm 2006, tổ
chức, cá nhân muốn kinh doanh BĐS chỉ cần có vốn pháp định tối thiểu 6
tỷ đồng là có thể được đăng ký thành lập công ty kinh doanh BĐS. Với quy
định này, hiện nay, các công ty kinh doanh BĐS “mọc lên như nấm”. Có
rất nhiều doanh nghiệp được thành lập với những tên hiệu rất hoành tráng,
song tài sản lại chỉ có đúng 6 tỷ đồng theo như đăng ký. Do hạn chế, yếu
kém về năng lực tài chính, các doanh nghiệp này chủ yếu hoạt động “chạy
dự án”, sau đó chuyển nhượng lại để kiếm lời. Điều này khiến cho thị
trường BĐS phát triển thiếu bền vững và gây ra nhiều tiêu cực trên thị
trường.
Đầu tư BĐS Việt Nam hiện nay đang ở giai đoạn “hỗn độn” khi có
rất nhiều doanh cùng lao vào lĩnh vực kinh doanh BĐS, cho dù khả năng
tài chính không đáp ứng đủ. Điều đó, khiến cho thị trường trở nên méo mó
và biến động ngoài quy luật. Tuy nhiên, qua những lần biến động như vậy,
những doanh nghiệp không đủ năng lực và không đáp ứng đủ điều kiện sẽ
bị loại ra khỏi cuộc chơi. Cụ thể, những doanh nghiệp kinh doanh BĐS
theo kiểu xin dự án bằng quan hệ, phụ thuộc chủ yếu vào vốn vay ngân
hàng,… sẽ là những doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn khi có biến động và
tất yếu họ cũng không đủ khả năng để đối phó với biến động và tiếp tục
54
thực hiện dự án của mình. Ngược lại, những nhà đầu tư lớn, với tiềm lực
kinh tế mạnh, họ sẽ đủ sức để vượt qua những giai đoạn khó khăn của thị
trường, có khả năng theo được những dự án đầu tư dài hạn. Thậm chí,
những nhà đầu tư này còn có thể dẫn dắt thị trường vượt qua khó khăn. Đây
mới thực sự là những nhà đầu tư cần đối với thị trường. Do vậy, để hạn chế
những bất cập trên và làm cho thị trường BĐS minh bạch, ổn định hơn,
thiết nghĩ cần phải bổ sung quy định tăng vốn pháp định của công ty BĐS,
hạn chế việc các nhà đầu tư nhỏ, lẻ không đủ năng lực tài chính cũng
“nhảy vào” lĩnh vực BĐS để kiếm chác.
3.2.3. Tạo ra cơ chế huy động vốn dài hạn cho thị trường bất động sản
Trên thực tế, các dự án BĐS hiện nay phụ thuộc vào nguồn vốn ngân
hàng, vốn tự có, vốn huy động từ thị trường thứ cấp. Nhưng đa phần đó đều
là những kênh huy động vốn không ổn định, doanh nghiệp khó tự chủ được
trong kinh doanh. Ví dụ như khi lãi suất thay đổi, ngay lập tức khiến các
doanh nghiệp gặp khó khăn, bởi, trong khi hệ thống ngân hàng thương mại
chủ yếu cung cấp nguồn vốn ngắn hạn thì thị trường BĐS lại cần nguồn
vốn trung và dài hạn. Trong điều kiện thị trường BĐS đang có nhiều biến
động như hiện nay thì các giải pháp huy động vốn cho đầu tư, kinh doanh
BĐS cần được thực hiện theo những giải pháp sau:
Thứ nhất, tháo gỡ vướng mắc trong hoạt động cho vay của ngân
hàng đối với kinh doanh BĐS.
Trong bối cảnh thị trường tài chính ở nước ta hiện nay, tín dụng ngân
hàng vẫn sẽ là kênh cung cấp vốn chủ yếu cho các doanh nghiệp kinh
doanh BĐS. Tuy nhiên, để việc huy động vốn theo kênh này hiệu quả hơn
cần phải tăng cường huy động vốn trung và dài hạn của các ngân hàng kết
hợp với nâng tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn.
Đồng thời, cần phải thiết lập và nâng cao chất lượng các kênh thông tin về
thị trường BĐS để làm cơ sở cho các ngân hàng thẩm định dự án, đánh giá
khả năng chi trả của các chủ đầu tư.
55
Hiện nay, Luật Đất đai dường như chưa có đầy đủ, đồng bộ các quy
định về căn cứ để xác định giao dịch BĐS (hợp pháp) để cho vay cũng như
những quy định về việc xác định giá trị tài sản là quyền SDĐ của các
doanh nghiệp Nhà nước được giao đất trước đây nay chuyển sang thuê
đất... đã khiến nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn
vốn từ các ngân hàng. Do đó, cần phải sớm hoàn thiện, sửa đổi và bổ sung
một số quy định trong hệ thống pháp luật về đất đai, BĐS tạo điều kiện
thuận lợi cho các hoạt động cho vay đầu tư, kinh doanh BĐS.
Thứ hai, cần "chứng khoán hóa" các dự án đầu tư, kinh doanh BĐS.
Hiện nay, lượng tiền nhàn rỗi trong dân cư rất lớn nhưng việc thu hút đầu
tư vào thị trường BĐS vẫn còn hạn chế. Lý do là bởi sản phẩm BĐS có giá
trị lớn, trong khi vốn nhàn rỗi của người dân thường lại nhỏ, lẻ, nên khó có
thể tham gia vào được. Do đó, giải pháp được xem là hữu hiệu nhất trong
việc huy động vốn nhàn rỗi trong nhân dân chính là phải làm sao "chứng
khoán hóa được các dự án BĐS".
Chứng khoán BĐS là một loại chứng khoán đặc biệt, kết hợp giữa
hình thức đầu tư chứng khoán và đầu tư BĐS, được đảm bảo bằng giá trị
BĐS mà nó đại diện; đồng thời, cho phép nhà đầu tư kiếm lời trên biến
động giá trị của BĐS này, nhưng không nhất thiết nắm giữ quyền sở hữu
trực tiếp một phần hay toàn bộ BĐS đó trong suốt quá trình sở hữu chứng
khoán. Theo PGS.TS Thái Bá Cẩn (Bộ Tài chính), hiện nay, nhiều chuyên
gia kinh tế đang đề xuất việc phát hành chứng chỉ BĐS nhằm giúp các
doanh nghiệp thiếu vốn đầu tư thực hiện dự án nhà ở có được công cụ huy
động vốn, đồng thời tạo thêm kênh đầu tư mới cho các tầng lớp dân cư.
Chứng chỉ BĐS sẽ được chuyển nhượng tự do để tăng tính thanh khoản và
ngân hàng sẽ đảm nhận giám sát việc giải ngân theo tiến độ thi công công
trình. Khi hoàn thành dự án, toàn bộ BĐS sẽ được đưa ra bán đấu giá và
chia cho các nhà đầu tư theo tỷ lệ nắm giữ chứng chỉ. Việc phát hành
chứng chỉ BĐS là khả thi và có nhiều ưu điểm hơn so với việc phát hành
56
trái phiếu công trình. Đồng thời, chứng chỉ BĐS cũng sẽ thu hút thêm
nguồn vốn từ xã hội, nhất là các nhà đầu tư địa ốc chuyên nghiệp để tập
trung vào các dự án trọng điểm, khai thông nguồn vốn cho thị trường BĐS.
Tuy nhiên, để có thể “hiện thực hóa” vấn đề này, Nhà nước cần nghiên
cứu, xây dựng và ban hành khung pháp lý cho việc “chứng khoán hóa” các
dự án đầu tư, kinh doanh BĐS.
57
Kết Luận
Hoạt động chuyển nhượng dự án trong đầu tư, kinh doanh BĐS ngày
càng đóng vai trò quan trọng trong các giao dịch về BĐS trên thị trường.
Pháp luật quy định về chuyển nhượng dự án trong đầu tư, kinh doanh BĐS
đã phần nào đáp ứng được nhưng yêu cầu từ thực tế nhưng chưa thực sự
hoàn thiện.
Với tầm quan trọng của hoạt động chuyển nhượng dự án trong đầu
tư, kinh doanh BĐS hiện nay, đòi hỏi nội dung các quy định của pháp luật
về vấn đề này cần hoàn thiện, đồng bộ hơn nữa, nhằm đáp ứng được nhu
cầu phát sinh trên thực tế.
Tuy nhiên, trên thực tế, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ
quan, trong thời gian qua hoạt động chuyển nhượng dự án trong đầu tư,
kinh doanh BĐS vẫn xảy ra nhiều vi phạm pháp luật trong quá trình hoạt
động, thị trường chuyển nhượng ngầm vẫn diễn ra, v.v… Các hạn chế này
có thể xuất phát chính từ phía các nhà đầu tư hoặc do nguyên nhân khách
quan từ sự biến động của thị trường BĐS. Như vậy, các quy định của pháp
luật cần hoàn chỉnh hơn nữa để đảm bảo cho hoạt động chuyển nhượng dự
án trong đầu tư, kinh doanh BĐS diễn ra được công khai, minh bạch.
58
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình, tài liệu tham khảo
1. TS. Trần Quang Huy – TS. Nguyễn Quang Tuyến (chủ biên) Pháp luật
về kinh doanh bất động sản, Nhà xuất bản Tư pháp – 2009.
2. Nguyễn Thị Nga (chủ nhiệm đề tài) Hoàn thiện pháp luật về quyền của
người sử dụng đất trong lĩnh vực đầu tư, đề tài nghiên cứu khoa học cấp
trường – 2010.
3. Lê Thùy Dương Hoàn thiện pháp luật về chuyển nhượng dự án đầu tư
kinh doanh bất động sản ở Việt Nam hiện nay, luận văn thạc sĩ luật học –
2011.
2. Văn bản pháp luật
1. Luật kinh doanh BĐS năm 2006
2. Nghị định số 153/2007/NĐ-CP ngày 15/10/2007 quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành Luật Kinh doanh BĐS
3. Nghị định số 108/2006/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của Luật đầu tư năm 2005
4. Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007
5. Nghị định số 69/2009 ngày 13/8/2009
6. Nghị định số 02/2006/NĐ-CP về quy chế quản lý khu đô thị mới
7. Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004
8. Nghị định số 17/2006/NĐ-CP ngày 27/1/2006 của Chính phủ về sửa đổi,
bổ sung một số điều của Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004
về thi hành Luật Đất đai năm 2003
9. Thông tư số 13/2008/TT-BXD
10. Thông tư số 14/2008/TTLT-BTC-BTNMT ngày 31/1/2008 hướng dẫn
thực hiện một số điều của Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007
59
3. Tài liệu Internet
1. http://loikhuyenchonhadautu.batdongsan.com.vn/cac-hinh-thuc-bat-
dong-san-zs1-huye72k1.html
2. http://phuockien.com.vn/news/detail/651
3.http://www.sanbatdongsan.net.vn/PortletBlank.aspx/
6154D269D9BC4B3CBABEE822FD662424/View/Kinh-doanh/
Nhung_van_de_co_ban_cua_dau_tu_kinh_doanh_bat_dong_san/?
print=56887229
4. http://620binhminh.com/?bm=newdetail&id=607
5. http://www.tinmoi.vn/Day-manh-cai-cach-thu-tuc-hanh-chinh-tai-doanh-
nghiep-0450676.html