Bèo dạt Mây trôi Hà Nội ơi ngày ấy anh vềltahcc.com/lt93/lt93_27.pdf · bị tan ra...
Transcript of Bèo dạt Mây trôi Hà Nội ơi ngày ấy anh vềltahcc.com/lt93/lt93_27.pdf · bị tan ra...
SỐ 93 - THÁNG 08/2009 TRANG 73
Bèo dạt Mây trôi - Hà Nội ơi ngày ấy anh về.
U Tà
Lời nói đầu: Những gì tôi ghi nhận dưới đây
đã xảy ra cách đây 13 năm cho nên không có
tính cách thời sự. Hà nội năm 2000 tôi thăm
viếng lại đã thay đổi quá xa và kể như không
thua chi Sài Gòn. Những chuyện ghi dưới đây
chỉ có tính cách đọc cho vui thôi. Không chê
bai mà cũng không khen theo kiễu bợ đ….
* * *
I am Going Home!
“Tung cánh chim tìm về tổ
ấm” (Hoàng Trọng) và con
chim sắt đây là Air VietNam
với các cô tiếp viên đẹp
người Bắc. Năm 1975 ra đi
với nhục nhã ê chề, nhục mất
nước, nhục vì thân phận
không bằng con nhỏ ở lấy
Mỹ vì tụi nó được coi là vợ
con của Mỹ trong lúc đó gia
đình tôi là thứ dân vượt biên!
Bây giờ, 1994 tôi trở về tổ
quốc mà tôi đã bỏ ra đi.
Tôi bay từ Jakarta qua
Singapore. Từ Singapore tôi
về Hà Nội bằng Air VN.
Năm 1993 tôi có về VN thăm
bà con từ Huế đến Sài Gòn
nên việc đi máy bay về VN
năm 1994 không còn hồi hộp
như chuyến đầu vào năm
1993.
Năm 1954 sau khi đậu tú tài toàn phần dự
tính ra Hà Nội học đại học thì đất nước bị chia
đôi bởi hiệp định Genève, rứa là mộng đi Hà
Nội xem các cô gái Bắc (và biết đâu…) gặp các
cô bán vải ở Hàng Đào, xem hồ Hoàn Kiếm v.v
bị tan ra thành mây khói. Còn đâu là Khái
Hưng với Gánh Hàng Hoa, Nửa Chừng Xuân
v.v. Năm 1975 thì kể như vĩnh viễn bỏ xứ ra đi
không bao giờ trở lại Việt Nam chớ đừng nói
Hà Nội, rứa mà: “Hà Nội ơi, … biết đâu ngày
ấy anh về”.
Máy bay bay vòng trên sông Hồng làm như
để cho tôi chiêm ngưỡng nước sông Hồng “đỏ
vì chờ mong” trước khi đáp xuống phi trường
mà sau này tôi mới biết là Nội Bài, cứ tưởng là
Gia Lâm vì đó là phi trường duy nhất của Hà
Nội vào thời 1950. Trên đường đáp xuống nhìn
hai bên đồng ruộng toàn là hố bom, mặt đất
trông giống như các người bị bịnh đậu mùa!!.
Đến phi trường tôi chỉ thấy
toàn là máy bay jet loại
Airbus, không còn thấy
máy bay Liên Xô mà tôi đã
từng đi từ Huế vào SGN
năm 1993. Trước khi đi,
cô thư ký Úc cho tôi biết là
cô ấy đả giữ phòng cho tôi
ở khách sạn Dong Noi (
không có dấu). Tôi đoán là
Đồng Nội nên ghi tên này
vào Giấy Báo Nhập Cảnh
và đưa nộp giấy nhâp cảnh
cùng giấy giới thiệu của Bộ
Xây Dựng. Anh Công An
nhập cảnh đóng dấu vào
giấy nhập cảnh rồi cười
nói: “Ở đây không có
khách sạn nào tên là Đồng
Nội hết” (Lúc trước và nếu
tôi là thường dân cắc ké
chắc là sẽ bị trả giấy để
khai lại!). Sau này tôi mới
nhớ lại là người Bắc không nói được vần „l‟
như vậy khách sạn tên là Đồng Lợi! Phi cảng
hơi xập lết cở hạng phi cảng Phú Bài vào năm
1975. Tôi được đón và đưa về khách sạn Quốc
Hoa ở đường Bát Đàn nằm gần Hàng Thiếc và
Hàng Gà. Trời ơi tôi đang ở trong lòng của Hà
Nội 36 phố phường. Sau khi tắm rửa xong
xuôi, tôi hỏi đường đi ra Hồ Hoàn Kiếm và
đường Hàng Đào. Thì ra khách sạn chỉ cách hồ
Hoàn Kiếm chừng 1 km và tôi đi bộ chừng
mươi lăm phút là đã thấy hồ Hoàn Kiếm.
TRANG 74 ÁI HỮU CÔNG CHÁNH
Trước khi đi ra Hồ Hoàn Kiếm thì tôi tạt
qua Hàng Đào để chiêm ngưỡng dung nhan của
các cô bán vải mà các tác giả của Tự Lực Văn
Đoàn đã tả trong các cuốn sách mà mọi người
cùng lứa tuổi của tôi đọc lui đọc tới không thấy
chán. Thất vọng, thất vọng! Hàng vải bây giờ
không còn hàng vải mà chỉ bán toàn hàng lưu
niệm, và các cô bán hàng quá xấu, vừa đen vừa
ăn nói chanh chua. Hồ Hoàn Kiếm thì nhỏ tí teo
đi một vòng chưa hết 15 phút là đã giáp vòng.
Tuy nhiên cầu Thế Húc và Tháp Rùa nằm chơ
vơ ngoài hồ vẫn còn nên thơ. Đền kỷ niệm ở
đảo được cầu Thế Húc nối liền với đất liền có
chưng bày xác một con rùa to lớn mà bảng ghi
nói là lượm được khi xả cạn hồ. Đảo được che
kín bởi nhiều cây cổ thụ. Chung quanh hồ có
nhiều cây phượng vĩ nhưng vì tôi đến sau mùa
Hè nên không còn bông. Tôi trở về khách sạn
và hỏi cô tiếp viên khá đẹp tên Thủy “sao mà
các cô bán hàng ở ngoài Hàng Đào xấu thế,
không bằng một góc của T.” Cô ta cười và đáp,
bằng một giọng Bắc khá yểu điệu “Thưa Chú1,
cháu cám ơn Chú quá khen, các cô đẹp mà Chú
hỏi đã vào Nam từ năm 1954 và mới đây 1975.
Các cô mà Chú thấy là dân ngoài Hà Nội như
Phú Thọ, Phủ Lý đấy”. À ra thế, nhưng mà
theo Khái Hưng thì Phú Thọ, Phủ Lý cũng khá
đẹp đâu có thể tệ như tôi mới vừa thấy. Sau
này khi đi xem các cô nữ sinh trường Trưng
Vương mới hỡi ôi thấm thía vì thiếu ăn, thiếu
mặc và vì “lao động là vinh quang” nên các cô
đen thui, ốm yếu. Ngoài ra nghe các cô ăn nói
1 Ở VN chỉ có một Bác duy nhất còn lại là Chú. Danh từ này
nghe rất thân mật và rất phổ thông. Những ai đã đọc “Yêu” của
Chu Tử thì chắc còn nhớ Chú Đạt yêu cháu Thủy.
quá chanh chua chát chuối! không còn cái
thanh lịch của các cô Bắc Kỳ di cư vào năm
1954 mà tôi từng quen biết ở Lycée Yersin vào
các năm 1953-54.
Hà Nội 36 phố phường.
Mỗi buổi chiều và cuối tuần tôi đi xem tất
cả các vùng Hà Nội và ngoại ô. Tôi đã tìm đến
chùa Một Cột. Chùa nhỏ bé tí teo còn thua
chùa Một Cột ở Thủ Đức và không thấy cái thi
vị như tôi thường thấy trong các truyện đã đọc
lúc xưa. Tôi đã viếng đền Tướng Quân Quán
Thánh mà theo truyền khẩu dân gian ai rờ chân
của ông tướng sẽ được phúc lộc cho nên cái
chân của ông tướng luôn luôn bóng lướt. Tôi
cũng đi ăn Bánh Tôm Tây Hồ, tôi không biết
nó ngon cái gì, thật ra nhìn cách phục vụ và vệ
sinh nơi ăn uống làm tôi không còn có một chút
hứng thú gì để ăn hết. À tôi quên nói là tôi đã
gặp lại ông chú ruột của tôi sau gần nửa thế kỷ
chia cách. Chú lấy vợ người Bắc Ninh nên
trắng trẻo khá đẹp. Thím ăn „giầu‟ mà lại hành
nghề hớt tóc. Tôi đưa đầu cho Thím cắt mà cứ
sợ dính bã trầu, cắt xong thằng em Chú Bác
mới hỏi “anh có cần gội đầu lước lóng không?”
Tôi ngẩn tò te một chốc mới nhớ lại người Bắc
nói đớt, chữ N thì đọc thành L và ngược lại như
tôi đã kể trên về KS Đồng Nợi. Lước lóng là
nước nóng dùng gội đầu! Viết đến đây tôi mới
nhớ đến giai thoại tiếng Bắc tiếng Trung mà tôi
đã gặp phải. Tôi thuê nhà và nhờ thằng em chú
bác thuê dùm cho một người giúp việc quê ở
Hải Dương, một tỉnh lỵ nổi tiếng về bánh đậu
xanh Bảo Hiên Rồng Vàng.
Hôm ấy chị ta dọn cơm cho tôi ăn, một món
thịt bò. Tôi hỏi chị cho tôi cái nỉa. Chị ta hỏi
cái nỉa là cái gì, tôi lấy cái nỉa đưa cho chị ta
xem thì chị ấy bảo à “đấy là cái xiên”. Tôi nhờ
chị ấy lấy cho tôi một cái muỗng thì chi ấy lại
không hiểu, và khi thấy tôi đưa cái muỗng ra
thì chị ấy bảo “à đây là cái cùi dià hoặc là cái
thià” À cùi dìa là tiêng Pháp phiên âm cuillère.
Đến khi múc canh thấy tôi nhìn quanh thì chị
ấy hỏi tôi “anh cần cái môi thì em đưa?” Tôi
giật mình nhìn cái môi của chị đen thâm như
hai con đĩa mà đòi đưa môi cho tôi thì té ra
“môi” là cái muỗng múc canh! Ăn xong chị
hỏi “anh có uống chè không?” Ở trong Nam
chỉ có ăn chè làm gì có uống chè! Thì ra chè là
SỐ 93 - THÁNG 08/2009 TRANG 75
trà! Đại khái như vậy gần mấy tuần hai người
mới hiểu ngôn ngữ của nhau. Gần khách sạn có
tiệm phở Gia Truyền ở đường Hàng Nón, phở
rất ngon nhưng cách phục vụ thì như self-
service. Vào tiệm đứng sắp hàng trước mặt anh
chủ tiệm, anh ta vừa thái thịt vừa thu/thối tiền,
như anh Hoà bán phở trước Viện Pasteur. Một
người chuyên bốc phở vào tô, anh chủ tiệm bỏ
thịt bò sống rồi đưa qua người khác bỏ các thứ
thịt khác như nạm, gầu, sách v.v. kế đến là
người múc nước dùng vào bát phở, xong rồi
mình tự bưng bát phở đến bàn ngồi ăn. Bàn gỗ
chắc là làm từ thời kỳ Tây thuộc điạ, nghĩa là
rất cũ và chả có nước sơn gì hết, nước mắm là
nước „chè‟ pha muối và bột ngọt, nhưng phở thì
rất ngon nước ngọt không phải nhờ bột ngọt.
Đến chiều đi ngang qua
hàng thì thấy một đống
xương bò nằm ngổn ngang
sau khi thịt đã bị bóc hết để
làm phở thịt „dừ‟. Ăn xong
thì phải qua hàng kế cạnh
uống chè vì tiệm phở chỉ
phục vụ phở mà thôi. Còn
như muốn uống cà phê, lúc
đó là 1994, thì phải đi hết cả
phố Hà Nội mới có một tiệm
cà phê. Nói về bột ngọt thì
dân Bắc lúc đó dùng bột
ngọt thả dàn. Ông chú của
tôi đã từng pha bột ngọt để
uống cho bổ óc! Sau này tôi
mới nghĩ ra là bột ngọt ngoài
Bắc có pha trộn không nguyên chất như trong
Nam chứ nếu uống một „thìa‟ cà phê bột ngọt
nguyên chất chắc là sẽ bị phản ứng ngay! Tôi
có dịp đi ăn phở ở một quán phở khác. Tôi
nhìn thấy cứ sau khi bốc bánh phở và thịt vào
tô phở thì chị lại vích một muỗng cà phê đầy
bột ngọt vào tô trước khi múc nước lèo vào tô.
Tôi vì dị ứng bột ngọt nên bảo chị ấy đừng bỏ
bột ngọt vào tô, nhưng vì thói quen chị ấy vích
vào tô một thìa bột ngọt. Tôi bảo xin chị tô
phở khác thì chị ấy chỉ vớt bột ngọt ra rồi múc
nước phở đổ vào cho tan bột ngọt xong chắt
(thổ ngữ Huế = đổ) bỏ nước ấy. Tôi không
dám ăn, gọi tô khác và kỳ này sẵn sàng cái tay
để chận cái tay vích bột ngọt của chị. Tô phở
kia thì tôi biếu không cho một thực khách trong
quán. Ở Hà Nội vài tháng tôi mới thấy thông
cảm cái điêu ngoa của dân buôn bán, không ai
tin ai nên chị thay vì hoà tan bột ngọt trong
nước phở thì người bán phở lại cho bột ngọt
sau cùng để chứng tỏ cho thực khách là họ thật
sự có dùng bột ngọt trong tô phở. Tôi cũng đi
ăn bánh cuốn nhân thịt tại một quán chuyên về
món này tại gần Hồ Hoàn Kiếm bánh cuốn rất
ngon ăn hấp dẫn, có cà cuống thứ thiệt, một
chút nước dính vào đầu tăm tre, tôi không còn
nhớ giá bao nhiêu nhưng rất đắt so với dân bản
xứ. Nói cho ngay, bánh cuốn Tây Hồ ở Đa
Kao vẫn ngon hơn nhiều. Tôi cũng đi ăn món
chả cá Lã Vọng ở đường Chả Cá. Quán xập lết
ọp ẹp vậy mà thực khách ngoại quốc đông ra
phết vì họ đọc quảng cáo
qua mấy cuốn sách du lịch rẻ
tiền.
Mỗi lần ông khách tây trắng
đi lên lầu là tôi có cảm
tưởng lầu sẽ sập. Chả cá
thật ra là cá lóc (cá tràu
bông2 xắt lát, thực khách tự
chiên vào một chảo gang đặt
trên lửa than hồng, ăn với
bún rau sống hoặc chiên
chung với cá và rau thì là, và
mắm ruốc. Tôi cũng từng đi
ăn „bò né trứng chiên‟ với
các em chú bác ở gần chợ
Hôm. Gọi là né vì chảo
gang bỏ rất nhiều mỡ heo,
yes mỡ heo không phải là dầu ăn như trong
Nam, chảo đun nóng nên khi bỏ trứng và thịt
bò vào thì mỡ văng tứ tung phải tránh né và vì
vậy sàn nhà rất trơn phải coi chừng không thì bị
trợt té mà không được liability insurance đền
bù. Còn có một món ăn khác khá hấp dẫn vì nó
thơm ơi là thơm, đó là món bún chả (hình như
ở đường Hàng Lược hay Quạt gì đó không nhớ
rõ). Chả là thịt heo bằm có thêm gia vị (có thể
là gia truyền) ăn đệm với bún, rau và nước
mắm chua ngọt có xắt su hào thay cho đu đủ.
Khách được đưa lên lầu với cầu thang cũng
2 Xem Bizarre food, VN của Zimmer ở Travel Channel
TRANG 76 ÁI HỮU CÔNG CHÁNH
thuộc loại ọp ẹp, chả thì nướng than ở dưới nhà
mùi thơm bốc lên lầu làm tăng thêm cái ngon
của món bún chả này.
Hai món chả cá và bò né tôi không dám đụng
tới lần thứ nhì vì mỡ heo và quán xập lết tuy nó
đại diện cho HÀ NộI 36 phố phường. Tôi cũng
còn đi ăn Ốc Bươu hấp thuốc Bắc ở Hồ Tây.
Món ăn chả có gì đặc sắc nhưng ngồi ăn ngay
bờ hồ, hai chân dầm xuống nước cho mát cũng
có cái thú vị của nó. Nhân dịp đi qua đê Yên
Phụ tôi mới biết đây là một khu chuyên thịt
„cầy‟. Tất cả các quán đều mang tên Anh Tú,
nào là A.T. gầy, A.T cao, A.T. mập v.v. thì ra ở
Hà Nội không có áp dụng bản quyền nên tha hồ
thiên hạ copier nhãn hiệu cũng như Ốc Bươu
Ông Già ở Hồ Tây, hoặc bánh Bảo Hiên Rồng
Vàng ở Hải Dương, ai cũng là BHRV thứ thiệt
hết! Trong cuộc rong chơi tôi đã có dịp viếng,
ngoài đền Quán Thánh còn có chùa Trấn Quốc
ngay bờ hồ Tây, và cạnh đường Cỗ Ngư __
tên
mới: Thanh Niên nhưng không ai thèm dùng.
ngay cả bản đồ đường sá Hà Nội cũng không
nói đến __
chia Hồ Tây với Hồ Trúc Bạch, rôi
Phủ Tây Hồ.
Muốn đi đến chỗ này phải đi qua một số
vườn hoa Hồng và cây Kim Quất. Nghe thì
nên thơ nhưng phân bón là phân người nên đi
ngang chỉ có nín thở! Nín thở xong đi qua một
vùng toàn là mùi thơm béo ngậy với hàng quán
bán đủ thứ thức ăn với các cô bán hàng đon đả
„mời Bác vào xơi bún chả quán em‟ hoặc bún
ốc hoặc nem „rán‟, bánh tôm Tây Hồ.
Tuy thơm ngon thật nhưng quán hàng vệ
sinh thấy không bảo đãm với sợ bột ngọt nên
tôi chỉ cười trừ rồi vào Phủ Tây Hồ. Tôi không
biết tại sao lại gọi là Phủ vì đây là một cái đền
nằm ở đầu mõm của một bán đảo thuộc Hồ Tây
(West Lake). Phủ có am Cô, am Cậu và đền
thờ (??) với cảnh địa ngục. Ai ế chồng xin đến
cầu Cô, ai ế vợ đến cầu Cậu, ai muốn xin xỏ
làm ăn thì đến đền thờ thánh ? Nhìn các bà ăn
trầu xây mâm quả phẩm gồm trầu cau và một ít
quả mới thấy tín ngưỡng ăn sâu vào trong huyết
quản của dân Bắc.
Tôi cũng đi thăm trường Trưng Vương
nhưng trưòng này bây giờ không còn là trường
nữ sinh mà là nam nữ hỗn hợp. Nhìn các cô bé
nữ sinh thấy tôi nghiệp, gầy (theo tiêu chuẩn
“Vịch” Kiều) đen thui và ăn nói chanh chua
không còn cái cảnh cỗ kính của thời 54, răng
thì bị ố vàng vì thuốc trụ sinh gì gì đó
(aureomycine chăng?)3. Trường Bưởi cũng vậy
thôi, nổi tiếng nhờ các nhân vật chứ trường
cũng chỉ là kiến trúc mẫu của các trường Tây
để lại. Trường Albert Sarraut thì bị chính phủ
trưng dụng làm Phủ Chủ Tịch, thành nội thì bị
Bộ Quốc Phòng chiếm làm đại bản doanh. Cột
cờ cũng còn đó nhưng không hùng tráng như
cột cờ ở Huế. Cửa thành ngoại chỉ còn có một
cái duy nhất (cửa Bắc) ở đường Hàng Chiếu
gần cầu Paul Doumer4. Cầu cho xe đi lại là
một cầu khác, cầu Chương Dương, nghe nói là
được làm với sắt thép còn dư của viện trợ Liên
Xô. Lục lạo Hà „Lội‟ gần hết tôi bèn bung ra đi
viếng các thắng cảnh ngoài Hà Nội.
Tôi đi Vịnh Hạ Long, đúng là một kỳ quan
quốc tế điều đáng tiếc là các ghe buồm làm ăn
quá luộm thuộm và ma giáo, một phần cũng vì
cảnh sát đã làm ngơ cho các cò mồi lộng hành.
Nếu đi Hạ Long mà không đi theo Tour đến đó
mới thuê thuyền như chúng tôi5 đã làm thì chỉ
rước khổ vào thân. Cò mồi bắt mối trả giá xong
xuống thuyền thì chủ thuyền nói không biết
mấy người cò là ai, phải trả giá lại. Họ nhận đi
trong hai giờ xem sơ. Khi hai bên thỏa thuận
nhau thì họ ra đi nhưng chỉ chạy với tốc độ rùa
3 Sau năm 2000 tôi trở lại thì các cô nữ sinh mới lớn lên sau
này trông trắng trẻo đẹp gái ra phết. Đúng là gái Bắc theo như
TLVĐ đã tả trong các truyện như Hồn Bướm Mơ Tiên, Gánh
Hàng Hoa v.v. 4 Cầu bị bom sập chỉ tạm sửa lại cho sự di chuyễn dân bộ
hành. 5 Hai bà người Úc thuộc phái bộ viện trợ Úc, anh Cẫn (P.G. Đ
Cty thiết kế), M. Nguyệt và tôi
SỐ 93 - THÁNG 08/2009 TRANG 77
bò. Tôi tính là nếu với tốc độ này thì chỉ chưa
xem gì được hết là phải quay về. Thế là lại ngã
gíá thêm một lần thứ hai với chủ thuyền và sau
đó thì thuyền chạy vèo vèo. Đúng là dân điêu
ngoa, họ chỉ cần nói trước là đi 2 giờ sẽ không
xem được gì hết có phải là êm chuyện không!
Quán ăn sáng thì chưa biết làm oeuf sur plat,
chỉ biết làm chứng chiên, thế là Nguyệt, bạn gái
tôi cũng là Việt kiều, lại phải lăn vào bếp tự
làm lấy món chứng ốp la. Đường đi từ Hà Nội
về Bãi Cháy thuộc vịnh Hạ Long còn xấu6, hẹp
và đi qua vùng mỏ than Uông Bí tỉnh Quảng
Ninh. Đi qua đây mới thấy tội nghiệp cho dân
làm than, đúng là lầm than! Phố xá, nhà cửa,
cây cối và dân phu làm than đều bị phủ một lớp
bụi than đen. Nói và viết ở đây về Hạ Long
cũng bằng thừa vì Hạ Long là một cảnh trí
thiên nhiên được UNESCO công nhận là thắng
cảnh thiên nhiên hoàn cầu. Chỉ cần ghi là tôi
đã có dịp đi viếng Hạ Long 4 lần rồi mà vẫn
còn muốn đi nữa như vậy mới biết được Hạ
Long có hấp lực không thua chi hấp lực của
Đoàn Dự trong tiểu thuyết Kim Dung!
Tôi cũng lần mò đi viếng Hoa Lư, tỉnh
Ninh Bình, nơi Đinh Bộ Lĩnh khởi nghiệp đế
đánh quân Tàu. Đền đài sơ sài chỉ có một cái
đền thờ nằm dưới thung lũng không có cái
hùng vĩ của một Đế Vương, và lẽ tất nhiên thua
xa các lăng tẩm của triều đại nhà Nguyễn ở
Huế. Mộ của vua Đinh Tiên Hoàng, nằm trên
núi trông xuống thung lũng và chỉ là một ngôi
mộ thường mà tôi tự hỏi không biết người giữ
mộ có biết đó là mộ thật hay mộ giả được đưa
6 Sau này đường cao tốc by-pass vùng “lầm than” này
ra để câu du-khách? Hoa Lư ngược lại có
thắng cảnh gọi là Tam Cốc Động.
Muốn viếng nơi này phải đi đò chèo tay do
các phụ nữ trong vùng đảm trách. Các phụ nữ
lao động chân tay nên nước da khá đen, gọi là
đen dòn, ăn nói cũng lễ phép và không có giọng
chanh chua như giọng gái Hà Nội mà tôi đã ghi
trên (hay là vì Customer Service nên phải ăn
nói ngọt ngào?). Đò chèo theo dòng sông nhỏ,
hai bên bờ là vách đá vôi dựng với nhiều hình
thù do thiên nhiên tạo nên, nào là Mỏ Phượng
Hoàng, Voi Đứng v.v. hình như có luôn cả xe
tăng VN Giáp? Đi một chút thì đò chui vào
hang, ra khỏi hang lại chui vào hang, 3 lần như
vậy nên mới gọi là Tam (3) Cốc Động.
TRANG 78 ÁI HỮU CÔNG CHÁNH
Kể ra thì lạ mắt chớ hùng vĩ thì ở ngoài đá
dựng hay hơn. Ninh Bình là một vùng đá vôi
(région karstique) nhờ vậy mà cảnh trí rất hùng
vĩ nhờ có sông lạch và vách núi đá vôi dựng
đứng, như những hình ảnh quen thuộc mà
chúng ta thường thấy trong các hình vẽ quá
quen thuộc của vùng Tô Châu, Hàng Châu bên
Tàu. Thuyền ghé bến thì khách lại đi viếng 3
chùa gọi là Chùa Hạ, Chùa Trung và Chùa
Thượng. Gọi là Hạ, Trung Thượng vì 3 chùa
này ở 3 độ cao khác nhau. Hạ vì Chùa nằm ở
dưới chân núi, Trung vì Chùa nằm ở lưng
chừng núi và Thượng vì Chùa nằm trên đỉnh
núi. Cảnh trí thì khá hùng vĩ và nhờ vây mà tụi
Pháp kéo máy móc đến đó quay phim
Indochine, hình như do Catherine De Neuve
đóng.
Hết Tam Cốc Động thì tôi lại đi Chùa
Hương. Theo thơ Nguyễn Nhược Pháp thì
“Hôm nay em đi chùa Hương, cây cỏ còn ngậm
hơi sương v.v. Muốn đi đến Chùa thì cũng
phải đi đò do các thôn nữ chèo, tuyệt đối không
có thuyền máy. Chúng tôi may mắn được một
cô chèo đò biết ăn nói và biết làm thơ nên
chuyến đi rất thoải mái. Cô có bốn con, vượt
chỉ tiêu nhưng vẫn còn muốn đẻ vì nếu không
thì “chồng em đi lấy vợ bé!” À thì ra phép
Đảng còn thua lệ làng! Đò ngược đò xuôi gặp
nhau cũng A Di Đà Phật, kể ra hay hay. Đò
vừa đến bến thì thấy cảnh không hay vì bến đò
có bán cầy, thịt chó!! Từ bến đò lên đến chùa
kể ra hơn cả cây số vừa đi vừa leo dốc vì Chùa
nằm trong động Hương Tích khá cao trên núi.
Chúng tôi đi trước Tết hơn một tháng nên mọi
người đang lo làm trại căng lều để cho người đi
chùa cầu kinh có chỗ nghỉ ngơi. Nhìn những
người vác cây tre đực chạy te te trong lúc đó
chúng tôi đi tay không mà còn thấy mệt mới
phục sức chịu đựng của những người này, chắc
là dân đi bộ đội làm đường mòn HCM!
Đến chùa thì mới bị vỡ mộng vì chùa nằm
trong hang đá không có gì gọi là thắng cảnh,
nhưng nghĩ lại phải phục các sư hàng trăm năm
trước đã không ngại sơn lam chướng khí và thú
dữ đến đây dựng chùa tu hành. Người Bắc có
tục lệ cứ Tết đến là phải đi viếng thập tự7 nên
chung quanh chùa Hương có nhiều chùa đang
xây dựng mà mục đích duy nhất là lấy tiền chứ
không phải để thờ Phật!
Hang động Chùa Hương
Còn tiếp. Kỳ sau:
Bà Chuá Kho
Cổ Loa
Quan họ Bắc Ninh
Sapa v.v.
7 10 chùa