BÀI 7 TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA, ĐẠO ĐỨ XÂY...

20
Bài 7: Tư tưởng HChí Minh vvăn hóa, đạo đức và xây dng con người NEU_PHH_Bai7_v1.0013101215 99 BÀI 7 TƯ TƯỞNG HCHÍ MINH VVĂN HÓA, ĐẠO ĐỨC VÀ XÂY DNG CON NGƯỜI Hướng dn hc Để hc tt bài hc này, hc viên cn thc hin các phương pháp hc cơ bn sau: Hc đúng lch trình ca môn hc theo tun, làm các bài luyn tp đầy đủ và tham gia tho lun trên din đàn. Đọc tài liu: Giáo trình Tư tưởng HChí Minh, NxbCTQG, Hà Ni 2011, tr204-228. Giáo trình Tư tưởng HChí Minh, (Hi đồng Lý lun Trung ương), Nxb CTQG, Hà Ni, 2010. HChí Minh vđạo đức, Nxb Chính trQuc gia, Hà Ni, 1993. HChí Minh vgiáo dc và đào to, Nxb Lao động, Hà Ni, 2007. Hc viên làm vic theo nhóm và trao đổi trc tiếp vi ging viên trên lp hc hoc qua email. Thông qua trang web môn hc. Ni dung: Khái quát nhng ni dung cơ bn ca tư tưởng HChí Minh vvăn hóa, đạo đức và xây dng con người mi. Qua đó, thy được nhng đóng góp vlý lun và thc tin ca HChí Minh. Mc tiêu: Cung cp cho hc viên nhng biu biết cơ bn vtư tưởng HChí Minh vvăn hóa, đạo đức và xây dng con người mi. Giúp hc viên xác định rõ phương hướng, bin pháp hc tp tư tưởng văn hóa, đạo đức, làm theo tm gương đạo đức HChí Minh, phn đấu trthành con người mi theo tư tưởng HChí Minh.

Transcript of BÀI 7 TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA, ĐẠO ĐỨ XÂY...

Bài 7: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, đạo đức

và xây dựng con người

NEU_PHH_Bai7_v1.0013101215 99

BÀI 7 TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA, ĐẠO ĐỨC VÀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI

Hướng dẫn học

Để học tốt bài học này, học viên cần thực hiện các phương pháp học cơ bản sau:

Học đúng lịch trình của môn học theo tuần, làm các bài luyện tập đầy đủ và tham gia thảo luận trên diễn đàn.

Đọc tài liệu:

Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, NxbCTQG, Hà Nội 2011, tr204-228.

Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, (Hội đồng Lý luận Trung ương), Nxb CTQG, Hà Nội, 2010.

Hồ Chí Minh về đạo đức, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993.

Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo, Nxb Lao động, Hà Nội, 2007.

Học viên làm việc theo nhóm và trao đổi trực tiếp với giảng viên trên lớp học hoặc qua email.

Thông qua trang web môn học.

Nội dung:

Khái quát những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, đạo đức và xây

dựng con người mới. Qua đó, thấy được những đóng góp về lý luận và thực tiễn của Hồ

Chí Minh.

Mục tiêu:

Cung cấp cho học viên những biểu biết cơ bản về tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, đạo đức và xây dựng con người mới.

Giúp học viên xác định rõ phương hướng, biện pháp học tập tư tưởng văn hóa, đạo đức, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, phấn đấu trở thành con người mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

Bài 7: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, đạo đức

và xây dựng con người

100 NEU_PHH_Bai7_v1.0013101215

Tình huống dẫn nhập

“Văn hóa soi đường cho quốc dân đi” luận điểm trên là của ai và nội dung của luận điểm đó muốn đề cập đến vấn đề gì?

Đạo đức là gốc của người cách mạng? Nếu không có đạo đức thì có thể trở thành người cách mạng được không?

Con người là “vốn quý nhất”. Muốn phát huy “vốn quý nhất” trong xây dựng đất nước thì đòi hỏi Đảng và nhà nước cần phải làm gì?

Nắm vững những nội dung kiến thức trong bài 7 “Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, đạo đức và xây dựng con người mới” sẽ giúp chúng ta có cơ sở lý luận và thực tiễn để luận giải được những vấn đề nêu trên.

Bài 7: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, đạo đức

và xây dựng con người

NEU_PHH_Bai7_v1.0013101215 101

7.1. Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về văn hóa

7.1.1. Định nghĩa về văn hóa và quan điểm về xây dựng nền văn hóa mới

7.1.1.1. Định nghĩa về văn hóa

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, văn hóa được hiểu theo 3 nghĩa rộng, hẹp, rất hẹp:

Theo nghĩa rộng: Hồ Chí Minh nêu văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do loài người sáng tạo ra. Năm 1943 Người viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát triển ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở, và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”.

Theo nghĩa hẹp: Văn hóa là những giá trị tinh thần. Người viết: “trong công cuộc kiến thiết nước nhà, có bốn vấn đề cần chú ý đến, cũng phải coi là quan trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa. Nhưng văn hóa là một kiến trúc thượng tầng”.

Theo nghĩa rất hẹp: Văn hóa đơn giản chỉ là trình độ học vấn của một người được đánh giá bằng cấp học phổ thông, thể hiện ở việc Hồ Chí Minh yêu cầu mọi người “phải đi học văn hóa”, xóa mù chữ…

7.1.1.2. Quan điểm về xây dựng nền văn hóa mới

Năm 1943, khi đất nước chưa giành được độc lập, cùng với định nghĩa về văn hóa, Hồ Chí Minh còn đưa ra năm quan điểm lớn định hướng xây dựng nền văn hóa của dân tộc. Đây là một trong những định hướng rất quan trọng cho việc phát triển văn hóa của dân tộc. Bởi lẽ thông qua các định hướng này nền văn hóa nước ta đã xác định rõ được hướng đi, phục vụ đắc lực cho công cuộc kháng chiến của dân tộc. Đặc biệt là sau khi giành được độc lập cho dân tộc (sau cách mạng Tháng Tám năm 1945), trong chế độ dân chủ mới, những quan điểm định hướng xây dựng nền văn hóa mới càng tỏ ra quan trọng. Dưới đây là 5 định hướng:

Thứ nhất, xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường;

Thứ hai, xây dựng luân lý: biết hi sinh mình, làm lợi cho quần chúng;

Thứ ba, xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội;

Thứ tư, xây dựng chính trị: dân quyền;

Thứ năm, xây dựng kinh tế.

Ngay từ rất sớm Hồ Chí Minh đã quan tâm đến văn hóa, thấy được vị trí vai trò quan trọng của văn hóa đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Người đã sớm có quan điểm để chỉ đạo xây dựng một nền văn hóa của dân tộc, phục vụ sự nghiệp cách mạng.

Bài 7: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, đạo đức

và xây dựng con người

102 NEU_PHH_Bai7_v1.0013101215

7.1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về các vấn đề chung của văn hóa

7.1.2.1. Quan điểm về vai trò và vị trí của văn hóa trong đời sống xã hội

Văn hóa là đời sống tinh thần của xã hội, thuộc kiến trúc thượng tầng.

Đây là một quan điểm của chủ nghĩa Mác-lênin về văn hóa được tiếp thu và truyền bá theo phương thức của chủ tịch Hồ Chí Minh. Khác với tất cả các quan niệm văn hoá trước kia của các nhà nho, của các trí thức tư sản đã tách văn hóa ra khỏi đời sống kinh tế, trính trị, xã hội và coi lĩnh vực văn hóa gắn liền với những cách sống cao thượng của tầng lớp trên, chủ tịch Hồ Chí Minh khảng định rằng “Văn hóa không thể đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính trị”. Văn hóa trong tư tưởng Hồ Chí Minh là một bộ phận hợp thành của toàn bộ đời sống xã hội. Nó cùng với kinh tế, chính trị tạo nên đời sống của dân tộc ta.

Văn hóa là 1 trong 4 vấn đề cơ bản của xã hội: Chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Văn hóa có mối quan hệ mật thiết với 3 vấn đề (chính trị, kinh tế, xã hội).

Trong quan hệ với chính trị, xã hội: Hồ Chí Minh cho rằng, chính trị, xã hội có được giải phóng thì văn hóa mới được giải phóng. Chính trị giải phóng sẽ mở đường cho văn hóa phát triển. Người nói: “Xã hội thế nào, văn hóa thế ấy… Dưới chế dộ thực dân và phong kiến, nhân dân ta bị nô lệ, bị kìm hãm, không thể phát triển được”.

Trong quan hệ với kinh tế, Hồ Chí Minh chỉ rõ kinh tế là thuộc cơ sở hạ tầng, là nền tảng của việc xây dựng văn hóa. Người viết: “Văn hóa là một kiến trúc thượng tầng; nhưng cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi, văn hoá mới kiến thiết được và có đủ điều kiện phát triển được”.

Văn hóa không thể đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính trị, phải phục vụ nhiệm vụ chính trị và thúc đẩy sự phát triển kinh tế.

Văn hóa phải ở trong kinh tế và chính trị, có nghĩa là Văn hóa phải tham gia thực hiện nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy xây dựng và phát triển kinh tế. Quan điểm này không chỉ định hướng cho việc xây dựng một nền văn hóa mới ở Việt Nam mà con định hướng cho mọi hoạt động văn hóa.

Văn hóa ở trong kinh tế và chính trị, điều đó cũng có nghĩa là kinh tế và chính trị cũng phải có tính văn hóa, điều mà chủ nghĩa xã hội và thời đại đang đòi hỏi.

7.1.2.2. Quan điểm về chức năng của văn hóa

Chức năng văn hóa mới rất phong phú, đa dạng. hồ chí minh cho rằng, văn hóa có ba chức năng chủ yếu sau:

VVă hó hảải ởở t hí h t ị ã

Bài 7: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, đạo đức

và xây dựng con người

NEU_PHH_Bai7_v1.0013101215 103

Một là, bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp.

Văn hóa thuộc đời sống tinh thần của xã hội. tư tưởng và tình cảm là vấn đề chủ yếu nhất của đời sống tinh thần của xã hội và con người. vì vậy, theo Hồ Chí Minh, văn hóa phải thấm sâu vào tâm lý quốc dân để thực hiện chức năng hàng đầu là bồi dưỡng nâng cao tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp cho con người, đồng thời loại bỏ những tư tưởng sai lầm, tình cảm thấp hèn.

Hồ Chí Minh chỉ rõ văn hóa phải làm cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, tự cường, độc lập, tự do; phải làm cho quốc dân "có tinh thần vì nước quên mình, vì lợi ích chung mà quên lợi ích riêng".

Đó là lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Mỗi khi con người đã phai nhạt lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH thì không còn ý nghĩa gì đối với cuộc sống cách mạng.

Tình cảm lớn, theo Hồ Chí Minh là lòng yêu nước, thương dân, thương nhân loại bị đau khổ áp bức. Đó là tính trung thực, thẳng thắn, thủy chung; đề cao cái chân, cái thiện, cái mỹ... Tình cảm đó thể hiện trong nhiều mối quan hệ: với gia đình, quê hương, dân tộc, nhân loại, với bạn bè, đồng chí, quan hệ thầy trò...

Tư tưởng và tình cảm có quan hệ gắn bó với nhau. Tình cảm cao đẹp là con đường dẫn đến tư tưởng đúng đắn; tư tưởng đúng làm cho tình cảm cao đẹp hơn, làm cho con người ngày càng hoàn thiện.

Văn hóa còn góp phần xây đắp niềm tin cho con người, tin ở bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tin vào nhân dân, tin vào tiền đề của cách mạng.

Hai là, nâng cao dân trí

Văn hóa luôn gắn với dân trí. Không có văn hóa không có dân trí. Văn hóa nâng cao dân trí theo từng nấc thang, phục vụ mục tiêu cách mạng trước mắt và lâu dài. Mục tiờu nõng cao dân trí của văn hóa trong từng giai doạn cách mạng có thể có nhưng điểm chung và riêng. Song, tất cả đều hướng vào mục tiêu chung là giành độc lập dân tộc và chủ nghĩa xó hội. Nâng cao dân trí là để nhân dân có thể tham gia sáng tạo và hưởng thụ văn hóa, góp phần cùng Đảng “biến một đất nước dót nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui”.

Nâng cao dân trí bắt đầu từ việc làm cho người dân biết đọc, biết viết. Tiếp đến là sự hiểu biết các lĩnh vực khác nhau về chính trị, kinh tế, văn hóa... Từng bước nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ, khoa học kỹ thuật, thực tiễn Việt Nam và thế giới...

Tùy từng giai đoạn cách mạng mà mục đích của nâng cao dân trí có điểm chung và riêng, nhưng tất cả đều nhằm mục tiêu chung là độc lập dân tộc và CNXH; phải biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước có văn hóa cao và đời sống tươi

Bài 7: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, đạo đức

và xây dựng con người

104 NEU_PHH_Bai7_v1.0013101215

vui hạnh phúc. Mục tiêu đó hiện nay là "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".

Ba là, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, những phong cách, lối sống lành mạnh, luôn hướng con người vươn tới cái chân, cái thiện, cái mỹ, không ngừng hoàn thiện bản thân mình.

Bồi dưỡng tư tưởng đạo đức đúng đắn và tình cảm cao đẹp cho con người. Chức năng cao quý nhất của văn hóa là bồi dưỡng, nêu cao tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp cho nhân loại, bỏ được những sai lầm và thấp hèn có thể có trong tư tưởng, tình cảm mỗi người.

Để thực hiện chức năng này văn hóa phải tham gia chống được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ, chống sự lạm dụng quyền lực, tham quyền cố vị dẫn tới sự tha hóa con người. Văn hóa giúp cho con người phân biệt cái tốt với cái xấu, cái lạc hậu và cái tiến bộ. Từ đó văn hóa hướng con người vươn tới cái chân, cái thiện, cái mỹ.

7.1.2.3. Quan diểm về tính chất của văn hóa

Tính dân tộc của văn hóa là sự thể hiện chủ nghĩa yêu nước và tinh thần độc lập, tự cường của dân tộc trong lĩnh vực văn hóa, nên trước hết nó phải được thể hiện ở nội dung tuyên truyền cho “lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do” và “tinh thần vì nước quên mình”.

Tính dân tộc của văn hóa đòi hỏi phải thể hiện được cốt cách và tâm hồn người Việt Nam, đó là truyền thống yêu nước, cần cù, dũng cảm,đoàn kết, tương thân tương ái… Tóm lại là tất cả những gì cao đẹp nhất trong tâm hồn người Việt Nam đã được đúc kết trong hàng ngàn năm lịch sử dân tộc.

Tính dân tộc của văn hóa còn được thể hiện ở hình thức và phương tiện diễn đạt, ở ngôn ngữ… Ví dụ: thơ, ca, hò, vè, trò chơi dân gian…

Tính khoa học: Nhấn mạnh giá trị truyền thống của dân tộc, đồng thời Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ trong truyền thống có mặt tích cực và mặt tiêu cực. Một trong những thiếu hụt của văn hóa truyền thống là chưa hình thành được một truyền thống khoa học. Trong tư duy truyền thống của dân tộc là một loại tư duy kinh nghiệm, không mở đường cho khoa học tự nhiên phát triển. Trong điều kiện đó mê tín dị đoan có đất để phát triển.

Hồ Chí Minh đòi hỏi phải đấu tranh chống lại những gì trái với khoa học, phản tiến bộ và phải truyền bá tư tưởng mácxít, đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm thần bí, mê tín, dị đoan, kế thừa truền thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Người giao cho ngành giáo dục phải dạy bảo các cháu thiếu niên về khoa học và kỷ luật.

Tính đại chúng của văn hóa: Đây là vấn đề thuộc về tính nhân dân, về đối tượng phục vụ của văn hóa. Trước kia trong xã hội cũ, văn hóa nghệ thuật được coi là món ăn tinh thần sang trọng, chỉ dành riêng cho một thiểu số người ăn trên ngồi

Bài 7: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, đạo đức

và xây dựng con người

NEU_PHH_Bai7_v1.0013101215 105

trốc. Đó là một trong những điều bất công của xã hội cũ. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử: Quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra mọi của cải vật chất và giá trị tinh thần, sáng tạo ra văn hóa, do đó họ phải là người được hưởng thụ các giá trị văn hóa.

Từ đó người đặt vấn đề: “văn hóa phục vụ ai” và người khẳng định dứt khoát: văn hóa phải phục vụ đa số nhân dân, phải hướng về đại chúng, phải phán ánh được tâm tư nguyện vọng của nhân dân.

Hồ Chí Minh đòi hỏi các nhà hoạt động văn hóa phải tăng cường liên hệ với thực tế, đi sâu vào cuộc sống của nhân dân vừa để tìm hiểu và phản ánh nỗi lo âu, suy nghĩ, khát vọng của nhân dân, vừa để đem ánh sáng văn hóa đến mọi người, mọi nhà, nhất là vùng sâu, vùng xa.

7.1.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về một số lĩnh vực chính của văn hóa

7.1.3.1. Văn hóa giáo dục

Từ khi ra di tìm đường cứu nước đến khi vĩnh biệt cuộc đời này. Hồ Chí Minh không ngừng quan tâm toàn diện đến trình độ học vấn cũng như nhu cầu giáo dục của nhân dân ta. Hồ Chí Minh rất quan tâm xây dựng nền giáo dục mới của nước Việt Nam độc lập. Người xác định, xây dựng một nền giáo dục mới là một nhiệm vụ cấp bách, có ý nghĩa chiến lược, vì nó góp phần làm cho dân tộc ta xứng đáng với nước Việt Nam độc lập. Văn hóa giáo dục là một mặt trận quan trọng trong công cuộc xây dựng CNXH và đấu tranh thống nhất nước nhà.

Theo Người:

Mục tiêu của văn hóa giáo dục là thực hiện cả ba chức năng của văn hóa bằng giáo dục, có nghĩa là bằng dạy và học. Đó là đào tạo ra những con người toàn diện vừa có đức vừa có tài, biết làm và đủ điều kiện làm chủ để xây dựng và bảo vệ đất nước.

Chương trình, nội dung dạy và học thật khoa học, thật hợp lý, phù hợp với những bước phát triển của nước ta, phản ánh được mục tiêu không chỉ dạy và học chữ mà phải dạy và học làm người.

Học đi đôi với hành, lý luận liên hệ với thực tế, học phải kết hợp với lao động. Có như vậy văn hóa giáo dục mới có tính định hướng đúng đắn, rõ ràng, thiết thực.

Phải tạo tạo ra được môi trường giáo dục lành mạnh, dân chủ, trường phải ra trường, lớp phải ra lớp, thầy ra thầy trò ra trò. Đồng thời phải phối hợp cả ba khâu nhà trường, gia đình và xã hội.

Phương châm, phương pháp của giáo dục là:

Phương châm học đi đôi với hành, lý luận liên hệ với thực tế; học tập kết hợp với lao động; phối hợp nhà trường - gia đình - xã hội; thực hiện dân chủ, bình đẳng trong giáo dục; học suốt đời. Coi trọng việc tự học, tự đào tạo và đào tạo lại. Học ở mọi lúc, mọi nơi, học mọi người.

Phương pháp giáo dục phải xuất phát và bám chắc vào mục tiêu giáo dục. Giáo dục là một khoa học nên cách dạy phải phù hợp với lứa tuổi; dạy từ dễ đến khó; kết hợp học tập với vui chơi có ích, lành mạnh; giáo dục phải dùng phương pháp nêu gương; giáo dục phải gắn liền với thi đua.

Bài 7: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, đạo đức

và xây dựng con người

106 NEU_PHH_Bai7_v1.0013101215

7.1.3.2. Văn hóa văn nghệ

Văn nghệ là mặt trận, nghệ sĩ là chiến sĩ, tác phẩm văn nghệ là vũ khí sắc bén trong đấu tranh cách mạng, xây dựng xã hội mới, con người mới... Quan điểm này được thể hiện ở giai đoạn trước khi giành được chính quyền thì văn hóa văn nghệ phải có nhiệm vụ thức tỉnh quần chúng, tập hợp lực lượng, cổ vũ cho thắng lợi tất yếu của cách mạng. Sau khi có chính quyền, văn nghệ phải tham gia vào công cuộc xây dựng và bảo vệ chế độ mới, con người mới.

Văn nghệ phải gắn với thực tiễn đời sống nhân dân, theo Hồ Chí Minh là từ thực tiễn của đất nước, bằng tài năng sáng tạo và tinh thần nhân văn của mình, văn nghệ sĩ có thể nhào nặn, thăng hoa, hư cấu, tạo nên những tác phẩm nghệ thuật trường tồn cùng dân tộc và nhân loại.

Phải có những tác phẩm văn nghệ xứng đáng với thời đại mới của đất nước, của dân tộc. Đó là những tác phẩm mà theo Hồ Chí Minh phải kế thừa được những tinh hoa của văn hóa dân tộc, mang hơi thở của thời đại, vừa phản ánh chân thật những gì đã có trong đời sống, vừa phê phán cái dở, cái xấu, cái sai, hướng nhân dân tới cái chân, thiện, mỹ, vươn tới cái lý tưởng – đó chính là sự phản ánh có tính hướng đích của văn nghệ. Theo người, một áng văn chương không cứ dài mới là hay. Khi nào tác phẩm ấy chỉ diễn đạt vừa đủ những điều kiện đáng nói, khi nó được trình bày sao cho mọi người ai cũng hiểu được và khi đọc xong độc giả phải suy ngẫm, thì tác phẩm mới xem như một tác phẩm hay.

7.1.3.3. Văn hóa đời sống

Văn hóa là bộ mặt tinh thần của xã hội, nhưng bộ mặt tinh thần ấy không phải là cái gì cao siêu, mà lại được thể hiện ra ngay trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người, rất dễ hiểu, dễ thấy. Đó chính là văn hóa đời sống.

Đạo đức mới, theo Hồ Chí Minh là thực hành đời sống mới trước hết là thực hành đạo đức các cách mạng cần, kiệm, liêm, chính. Người nói: “Nếu không giữ được cần, kiệm, liêm, chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân”.

Lối sống mới, đó là lối sống có lý tưởng có đạo đức, văn minh, tiên tiến, kết hợp hài hòa truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hóa của nhân loại. Do đó, để xây dựng lối sống mới, Hồ Chí Minh yêu cầu phải sửa đổi năm cách: “cách ăn, cách mặc, cách ở, cách đi lại.

Phong cách sống, theo Hồ Chí Minh là phải khiêm tốn, giản dị, chừng mực, ngăn nắp, vệ sinh, yêu lao động, quý trọng thời gian, ít lòng ham muốn vật chất. Trong quan hệ với nhân dân, bạn bè, đồng chí phải chân tình, cởi mở, ân cần, tế nhị; giầu tình yêu thương, quý mến… Phong cách làm việc, theo Người là phải sửa đổi sao cho có tác phong quần chúng, tác phong tập thể - dân chủ, tác phong khoa học.

Bài 7: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, đạo đức

và xây dựng con người

NEU_PHH_Bai7_v1.0013101215 107

Nếp sống mới, theo Hồ Chí Minh phải làm cho lối sống mới dần dần trở thành nền nếp, thói quen, ổn định ở mỗi con người, thành phong tục tập quán của tập thể hay cả cộng đồng, trong khu vực hay cả nước, thường gọi là nếp sống mới hay nếp sống văn hóa.

Hồ Chí Minh dạy chúng ta chẳng những biết kế thừa mà còn phải biết phát triển những thuần phong mỹ tục, đồng thời phải biết cải tạo những phong tục tập quán lạc hậu. Vừa sửa đổi những thói quen, phong tục tập quán lạc hậu, vừa xây dựng những cái tốt đẹp, đây là công việc vô cùng khó khăn phức tạp.

7.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức

7.2.1. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức

7.2.1.1. Quan điểm về vai trò và sức mạnh của đạo đức

Đạo đức là cái gốc của người cách mạng

Khái niệm đạo đức: Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội dùng để đánh giá hành vi của con người.

Đạo đức có từ rất sớm, trong bất kỳ xã hội nào cũng có một chuẩn mực đạo đức nhất định. Trong xã hội mới cũng cần xây dựng một chuẩn mực đạo đức mới.

Hồ Chí Minh khẳng định đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người, như gốc của cây, ngọn nguồn của sông suối. Người nói: “cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”.

Hồ Chí Minh coi đạo đức là sức mạnh, là tiêu chuẩn hàng đầu của cán bộ, đảng viên. Người nói: “sức có mạnh mới gánh được nặng và đi xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”.

Chính đạo đức yêu nước, thương dân của Bác Hồ là động lực to lớn góp phần làm nên sự nghiệp cách mạng phi thường của Người. Ngược lại, sự suy thoái về đạo đức là khởi điểm của mọi suy thoái. Tha hóa về đạo đức sớm muộn sẽ dẫn đến tha hóa về chính trị.

Đạo đức là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội, theo Hồ Chí Minh sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội chưa phải là ở lý tưởng cao xa, ở mức sống vật chất dồi dào, mà trước hết là ở những giá trị đạo đức cao đẹp, ở phẩm chất của những người cộng sản ưu tú, bằng tấm gương sống và hành động của mình, chiến đấu cho lý tưởng đó thành hiện thực.

Cũng như Lênin, tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh chẳng những có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với toàn thể nhân dân Việt Nam mà còn có ảnh hưởng sâu rộng trên toàn thế giới.

Đạo đức là động lực, là sức mạnh nội sinh của con người.

Bài 7: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, đạo đức

và xây dựng con người

108 NEU_PHH_Bai7_v1.0013101215

Đạo đức là nhân tố để thúc đẩy con người phát triển, giúp người cách mạng vượt qua mọi khó khăn gian khổ để giành những thắng lợi mới. Hồ Chí Minh nói nhờ có sức mạnh đó đã giúp cho người cách mạng vượt qua mọi khó khăn gian khổ, ngay cả khi cách mạng đã thành công.

Đạo đức là thước đo lòng cao thượng của con người.

Hồ Chí Minh nói: mỗi con người trong xã hội có vị trí khác nhau, tài năng khác nhau, đạo đức là thước đo chuẩn mực của con người. Người nói: đạo đức cũ như người đầu chổng xuống đất, hai chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người đầu ngẩng lên trời, hai chân đứng vững dưới đất.

7.2.1.2. Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng

Trung với nước, hiếu với dân

Đây là chuẩn mực đạo đức quan trọng nhất, Hồ Chí Minh luôn đặt lên hàng đầu. Trong các quan hệ đạo đức, thì quan hệ với nước, với dân là quan hệ lớn nhất, do đó, “trung với nước, hiếu với dân” cũng là chuẩn mực chung nhất, bao trùm nhất.

Khái niệm “trung”, “hiếu” ra đời và tồn tại trong xã hội phong kiến. Trong xã hội phong kiến đây là phẩm chất quan trọng hàng đầu. Nội dung của khái niệm “trung” và “hiếu” đó là “trung với vua, hiếu với cha mẹ”.

Đối tượng của chữ “trung” trong xã hội phong kiến, đó là trung với vua, nội dung bó hẹp.

Đối tượng của chữ “hiếu” trong xã hội phong kiến, đó là hiếu với cha mẹ. Phải tuân thủ những lời của cha mẹ.

Hồ Chí Minh đã tiếp thu những quan niệm đạo đức cũ và đã đưa vào trong khái niệm đó một nội hàm mới. Theo Người thì “trung” và “hiếu” không chỉ đơn thuần là “trung với vua”, “hiếu với cha mẹ”, mà có nghĩa rộng hơn là “trung với nước” và “hiếu với dân”.

Nội dung của trung với nước (đối tượng là Tổ quốc)

Thứ nhất, đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, của cách mạng lên trên hết;

Thứ hai, quyết tâm phấn đấu thực hiện mục tiêu của cách mạng;

Thứ ba, thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Nội dung của hiếu với dân (đối tượng là nhân dân)

Yêu dân, kính trọng nhân dân, tôn trọng nhân dân, lấy dân làm gốc.

Khẳng định vai trò sức mạnh thật sự của nhân dân.

Tin dân, lắng nghe dân, học dân, tổ chức động viên nhân dân cùng thực hiện tốt chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Phải luôn quan tâm đến đời sống của nhân

Bài 7: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, đạo đức

và xây dựng con người

NEU_PHH_Bai7_v1.0013101215 109

dân, chăm lo cải thiện đời sống cho dân; khi dân còn thiếu thì mình không có quyền đòi hỏi sung sướng cho riêng mình.

Tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nâng cao dân trí, để dân biết và sử dụng được quyền làm chủ của mình.

Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư

Đạo đức phong kiến cũng đề cập đến cần, kiệm, liêm, chính, nhưng giai cấp phong kiến nêu ra chỉ để cho quần chúng nhân dân thực hiện. Hồ Chí Minh nêu ra cần, kiệm, liêm, chính trong đạo đức mới là để trước hết cho cán bộ, đảng viên sau đó đến nhân dân cùng thực hiện.

Nội dung của cần, kiệm, liêm, chính:

Cần là lao động cần cù, siêng năng, lao động có kế hoạch, sáng tạo năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại.

Cần là chuẩn mực đạo đức của dân tộc Việt Nam. Hồ Chí Minh kế thừa truyền thống của dân tộc, Người đã đưa thêm vào trong đó một nội dung mới. Cần không chỉ là yêu lao động mà lao động phải có kỷ luật, có kỹ thuật, có chất lượng, có năng suất.

Để có được lao động như vậy thì cần phải gắn với kế hoạch. Ví như người thợ mộc đóng bàn thì cần phải chuẩn bị gỗ… Kế hoạch phải đi với phân công, phân công trách nhiệm theo đúng năng lực chuyên môn.

Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của nhân dân của đất nước, của bản thân. Tiết kiệm từ cái nhỏ đến cái to; “Không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi”.

Trong tiết kiệm về tiền của Người phân biệt với người chi đúng và người bủn xỉn. Cần và kiệm có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, cần mà không kiệm thì như “gió vào nhà trống”, ngược lại kiệm mà không cần thì “lấy gì mà kiệm”.

Liêm là luôn tôn trọng của công và của dân. Phải “trong sạch, không tham lam” tiền của, địa vị, danh tiếng.

Người liêm là người không ham sung sướng, tiền tài địa vị, mà chỉ có một thứ ham, “ham học, ham tiến bộ”.

Chính là thẳng thắn, đứng đắn, không tà.

Người chính là người: đối với mình thì khiêm tốn, học hỏi; đối với người khác, không nịnh hót người trên, không coi thường người khác; đối với việc, việc công đặt lên trên việc tư, tránh xa việc xấu.

Cần, kiệm, liêm chính có mối quan hệ chặt chẽ với nhau tác động qua lại nhau tạo nên phẩm chất cần có ở mỗi con người, nhất là đối với người cách mạng.

Chí công vô tư

Chí công là yêu cầu phải rất mực công minh, chính trực, công bằng, công tâm; Vô tư là không được thiên tư, thiên vị; Chuẩn mực này nhắc nhở người lãnh

Bài 7: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, đạo đức

và xây dựng con người

110 NEU_PHH_Bai7_v1.0013101215

đạo, cầm cân nảy mực phải hết sức công bằng, không được có lòng riêng mà thiên tư, thiên vị.

Khi nhấn mạnh đến tầm quan trọng của đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh đã đúc kết:

“Trời có bốn mùa xuân, hạ, thu đông

Người có bốn đức cần, kiệm, liêm, chính

Thiếu một mùa không thành trời

Thiếu một phương thì không thành đất

Thiếu một đức thì không thành người”.

Thương yêu con người, sống có tình có nghĩa

Dân tộc Việt Nam có truyền thống yêu thương, kính trọng con người: “Thương người như thể thương thân”, “Lá lành đùm lá rách”… Hồ Chí Minh đã thiếp thu những giá trị truyền thống này của dân tộc. Đây là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Hồ Chí Minh nói, người cách mạng là người giầu tình cảm, có tình cảm cách mạng thì mới đi làm cách mạng. Vì yêu thương nhân dân, yêu thương con người mà chấp nhận mọi gian khổ hi sinh để đem lại độc lập tự do, cơm áo ấm no hạnh phúc cho mọi người.

Nội dung yêu thương con người của Hồ Chí Minh có những điểm mới:

Đó là một tình cảm rộng lớn giành cho những người nghèo khổ, bị áp bức không phân biệt giai cấp.

Tình yêu thương đó phải được xây dựng trên lập trường giai cấp công nhân và được thể hiện trong các mối quan hệ hàng ngày với bạn bè, đồng chí, anh em.

Yêu thương con người đi liền với tôn trọng, tìm mọi cách nâng con người lên, dù đó là những con người thất thời lầm lạc… Người dạy: “Hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin là phải sống với nhau có tình, có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác – Lênin được”. Trong Di chúc, Người dặn lại: “Phải có tình đồng chí yêu thương lẫn nhau”.

Yêu thương không phải là chín bỏ làm mười, bao che cho nhau cả lỗi lầm, trở thành phe cánh, phường hội… Như vậy, chỉ có đưa đến tổn thất cho cách mạng, cho tổ quốc.

yêu thương con người phải gắn với hành động cụ thể. Bản thân Hồ Chí Minh là một tấm gương cho tinh thần ấy.

Có tinh thần quốc tế trong sáng

Bài 7: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, đạo đức

và xây dựng con người

NEU_PHH_Bai7_v1.0013101215 111

Yêu nước, nhân ái vốn là truyền thống dân tộc, nhưng yêu nhân dân mình, đồng thời lại biết yêu, giải phóng nhân dân các dân tộc bị áp bức… thì phải đến thời đại Hồ Chí Minh mới được đề ra và giáo dục đầy đủ. Đây là đạo đức hoàn toàn mới, có ở trong cuộc cách mạng mới của chúng ta. Vì chỉ có giải phóng triệt để con người thì mới có. Đây là một trong những phẩm chất quan trọng nhất của đạo đức cộng sản chủ nghĩa.

Nội dung cơ bản của phẩm chất này là:

Tôn trọng tất cả các dân tộc trên thế giới dù đó là dân tộc lớn hay nhỏ; có tinh thần hòa bình, hữu nghị, hợp tác giữa các dân tộc; Có tinh thần bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ giữa các dân tộc.

Trong suốt cuộc đời mình, Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp, xây dựng tình đoàn kết, hữu nghị giữa Việt Nam với các nước trên thế giới.

7.2.1.3. Quan điểm về những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới

Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức

Hồ Chí Minh coi đây là nguyên tắc quan trọng nhất trong xây dựng một nền đạo đức mới ở nước ta. Nó đối lập với thói đạo đức giả của giai cấp bóc lột, nói một đằng làm một nẻo, thậm chí nói mà không làm.

Nêu gương về đạo đức là một nét đẹp của truyền thống văn hóa phương Đông. Nói đi đôi với làm phải gắn liền với nêu gương về đạo đức. Người nói: “Lấy gương người tốt, việc tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới” trong đó có đạo đức.

Người lưu ý:

Trong gia đình: ông bà, cha mẹ phải làm gương cho con cháu.

Trong cơ quan: người lãnh đạo phải làm gương cho cấp dưới, người này có thể nêu gương cho người khác.

Ngoài xã hội: đảng viên phải nêu gương cho quần chúng: “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”.

Một tấm gương sống còn có giá trị hơn trăm bài diễn thuyết.

Người phê phán: “một số cán bộ hình như mải làm công tác hành chính sự vụ hơn là để tâm sức xây dựng con người. Cho nên không chịu theo dõi việc làm hàng ngày của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Ai làm tốt không kịp nêu gương, ai làm xấu không kịp thời giúp đỡ… Đó là những cán bộ không biết việc”.

Bài 7: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, đạo đức

và xây dựng con người

112 NEU_PHH_Bai7_v1.0013101215

Xây đi đôi với chống

Xây là xây cái mới, cái tốt đẹp, phù hợp với đạo đức mới, là biểu dương, giáo dục những phẩm chất, chuẩn mực đạo đức mới, những tấm gương đạo đức cao đẹp, nảy sinh từ các phong trào cách mạng của quần chúng, qua đó khơi dậy ý thức đạo đức lành mạnh để mỗi người tự trau dồi, rèn luyện.

Chống là phải đấu tranh chống lại các biểu hiện, các hành vi vô đạo dức trong đời sống hàng ngày. Muốn vậy, phải sớm phát hiện để đấu tranh, lên án. Nhưng quan trọng hơn là cần dự báo để phòng chống ngăn chặn.

Cả xây và chống đều đưa lên thành phong trào quần chúng rộng rãi, gây dư luận xã hội lành mạnh để phê phán. Xây và chống phải đi liền với nhau vì trong đời sống hàng ngày cái tốt và cái xấu đan xen lẫn nhau.

Trong chống Người cũng lưu ý: trong đời sống hàng ngày nếu phát hiện cái xấu ta phải chống ngay, không để đến khi nó phát triển mới chống thì không có hiệu quả. Như vậy thì sẽ tốn thời gian, tốn sức lao động, tốn tiền của của nhân dân.

Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời

Hồ Chí Minh từng nói: Đạo đức không phải từ trên trời rơi xuống mà từ trong đấu tranh rèn luyện mà ra. Xây dựng đạo đức đã khó nhưng giữ gìn được phẩm chất đạo đức cách mạng lại càng khó khăn hơn.

Tu dưỡng đạo đức cách mạng trong mỗi con người được Hồ Chí Minh coi như là một công việc gian khổ, trường kỳ, chỉ sao nhãng một chút là có thể sa sút, hư hỏng. Cho nên việc tu dưỡng đạo đức phải thường xuyên liên tục, giống như việc “đánh răng, rửa mặt hàng ngày”, phải tu dưỡng suốt đời.

Vì: lúc này ta là người tốt nhưng trong điều kiện hoàn cảnh khác ta sẽ trở thành người xấu.

Trong tu dưỡng, rèn luyện đạo đức mỗi người cần phải nhìn thẳng vào mình, kiên trì rèn luyện, tu dưỡng suốt đời như việc rửa mặt hàng ngày.

Việc tu dưỡng đạo đức của mỗi người phải được thể hiện qua mọi hành động thực tiễn.

Bác đã nêu ra hai phẩm chất cần có của người cách mạng đó là: đức và tài.

“Người có tài mà không có đức cũng trở thành vô dụng

Người có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”

Người yêu cầu phải chống các bệnh như, công thần, quan cách mạng, quan liêu…

Bài 7: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, đạo đức

và xây dựng con người

NEU_PHH_Bai7_v1.0013101215 113

7.2.2. Sinh viên học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

7.2.2.1. Học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh

Xác định đúng vị trí, vai trò của đạo đức đối với cá nhân.

Tu dưỡng đạo đức theo các phẩm chất đạo đức Hồ Chí Minh:

Yêu tổ quốc, yêu nhân dân;

Cần cù sáng tạo trong học tập;

Sống nhân nghĩa có đạo lý.

Tu dưỡng theo các nguyên tắc đạo đức Hồ Chí Minh:

Kiên trì tu dưỡng đạo đức cách mạng;

Nói và làm đi đôi với nhau;

Kết hợp cả xây đạo đức mới với chống các biểu hiện suy thoái đạo đức.

7.2.2.2. Nội dụng học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

Học trung với nước, hiếu với dân, suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.

Học cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị và đức khiêm tốn phi thường.

Học đức tin tuyệt đối vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân dân, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, luôn nhân ái, vị tha, khoan dung và nhân hậu với con người.

Học tấm gương về ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, quyết tâm vượt qua mọi thử thách, gian nguy để đạt được mục đích cuộc sống.

7.3. Tư tưởng hồ chí minh về xây dựng con người mới

7.3.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người

7.3.1.1. Con người được nhìn nhận như một chỉnh thể, đa chiều

Hồ Chí Minh xem xét con người như một chỉnh thể thống nhất về tâm lực, thể lực và các hoạt động của nó. Con người luôn có xu hướng vươn lên cái chân – thiện – mỹ, mặc dù “có thế này, thế khác”. Con người được nhìn nhận ở các phương diện:

Phương diện tự nhiên: HCM nhìn nhận con người như một thực thể sinh học, cho nên con người phải tuân theo các quy luật tự nhiên.

Con người xã hội: HCM nhìn nhận con người với tư cách là một cá nhân. Cá nhân con người này nằm trong mối quan hệ giữa cá nhân với xã hội, và tồn tại trong vô số các quan hệ.

Hồ Chí Minh còn nhìn nhận con người ở cả tâm lực và thể lực. Phải có sự thống nhất chặt chẽ giữa tâm lực và thể lực trong mỗi con người. Đó chính là tâm lý, ý thức và thể chất của con người.

Bài 7: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, đạo đức

và xây dựng con người

114 NEU_PHH_Bai7_v1.0013101215

Hồ Chí Minh xem xét con người trong sự thống nhất của hai mặt đối lập: thiện và ác, hay và dở, tốt và xấu… bao gồm cả tính người – mặt xã hội và tính bản năng – mặt sinh học. Phải làm cho cái tốt nảy nở như hoa mùa xuân, cái xấu bị xóa bỏ.

7.3.1.2. Con người lịch sử cụ thể

HCM cho rằng con người là sản phẩm của những điều kiện lịch sử cụ thể. Ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định sẽ tạo nên kiểu con người nhất định.

Hồ Chí Minh dùng khái niệm “con người” theo nghĩa rộng trong một số trường hợp (“phẩm giá con người”, “giải phóng con người”, “người ta”, “con người”, “ai”…), nhưng đặt trong bối cảnh cụ thể và một tư duy chung, còn phần lớn Người xem xét trong các mối quan hệ xã hội, quan hệ giai cấp; theo giới tính (thanh niên, phụ nữ), lứa tuổi (phụ lão, nhi đồng), nghề nghiệp (công nhân, nông dân, trí thức), trong khối thống nhất của cộng đồng dân tộc (sĩ, nông, công, thương) và quan hệ quốc tế (bầu bạn năm châu, các dân tộc bị áp bức, bốn phương vô sản). Đó là những con người hiện thực, cụ thể, cảm tính, khách quan.

7.3.1.3. Bản chất con người mang tính xã hội

Mác cho rằng: bản chất của con người là tổng hòa của các mối quan hệ trong xã hội. Hồ Chí Minh đã tiếp thu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và từ đó người đã khẳng định: bản chất của con người là mang tính xã hội, khác hẳn với con vật.

Tính xã hội được thể hiện:

Để sinh tồn, con người phải lao động sản xuất. Trong quá trình lao động sản xuất, con người dần dần nhận thức được các hiện tượng, quy luật của tự nhiên, của xã hội; cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội để phục vụ cuộc sống của mình; hiểu về mình và hiểu biết lẫn nhau… xác lập các mối quan hệ giữa người với người; Con người vừa là chủ thể, vừa là sản phẩm của lịch sử; Con người là sự tổng hợp của các quan hệ xã hội từ hẹp đến rộng.

7.3.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người

Con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng.

Theo Người, “trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân, trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Vì vậy, “vô luận việc gì, đều do người dân làm ra và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả”. Người cho rằng: “việc dễ mấy không có nhân dân cũng chịu, việc khó mấy có dân liệu cũng xong”.

Nhân dân là yếu tố quyết định thành công của cách mạng. “Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi”.

Bài 7: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, đạo đức

và xây dựng con người

NEU_PHH_Bai7_v1.0013101215 115

Con người không chỉ là sản phẩm của tự nhiên và xã hội mà còn là chủ thể của tự nhiên và xã hội.

Với tư cách là chủ thể của tự nhiên: con người bằng hành động cụ thể của mình không ngừng tác động vào tự nhiên, cải biến tự nhiên để cho phù hợp với nhu cầu của mình thông qua hoạt động sản xuất vật chất.

Với tư cách là chủ thể xã hội: con người bằng hành động của mình đã làm lên lịch sử, không ngừng biến đổi xã hội, đưa xã hội loài người phát triển đi lên từ thấp đến cao thông qua các cuộc cách mạng xã hội.

Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng, phải coi trọng, chăm sóc, phát huy nguồn lực con người.

Vì sống gần nhân dân, hiểu rõ dân tình, dân tâm, dân ý. Hồ Chí Minh thấy rõ yêu cầu giải phóng dân tộc, giải phóng con người, giải phóng xã hội. Nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Do vậy, Hồ Chí minh thấy rõ trách nhiệm của mình cũng như của Đảng và chính phủ là phải “làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.

Con người là mục tiêu của cách mạng

Vì mục tiêu cao nhất của cách mạng là giải phóng triệt để con người và tạo mọi điều kiện để con người được phát triển một cách toàn diện. Nên mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, chính phủ đều vì lợi ích chính đáng của con người. Có thể là lợi ích lâu dài, lợi ích trước mắt. Với hoạt động thực tiễn thì việc gì có lợi cho dân, dù nhỏ mấy ta phải hết sức làm. Việc gì hại cho dân- dù nhỏ mấy ta phải hết sức tránh”.

Tiến trình cách mạng được chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ ra: giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người. Khi tiếp thu quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin Hồ Chí Minh đã khẳng định tiến trình cách mạng của Việt Nam: giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Như vậy con người luôn là mục tiêu cuối cùng của cuộc cách mạng.

Tuy nhiên theo Hồ Chí Minh không phải mọi con người đều là động lực của cách mạng, mà phải là những con người được giác ngộ và tổ chức, phải có trí tuệ, bản lĩnh, đạo đức được nuôi dưỡng trên nền truyền thống lịch sử văn hóa Việt Nam.

Con người là động lực của cách mạng:

Động lực là những nhân tố thúc đẩy sự phát triển. Con người là động lực có nghĩa là: con người bằng hoạt động có ý thức, nhiệt tình, không ngừng thúc đẩy sự nghiệp cách mạng phát triển và đi đến thành công. Nói đến con người là nói đến vô số các cá nhân con người bằng tổng hợp mọi sự hoạt động của họ lại tạo thành động lực lớn của cách mạng. Nhưng con người chỉ có thể trở thành động lực của cách mạng khi hoạt động có tổ chức, có lãnh đạo. Do đó, cần phải có sự lãnh đạo của Đảng.

Bài 7: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, đạo đức

và xây dựng con người

116 NEU_PHH_Bai7_v1.0013101215

Đồng thời phải kiên quyết khắc phục các phản động lực trong con người và tổ chức. Đó là chủ nghĩa cá nhân. Thứ vi trùng rất độc này đẻ ra hàng trăm thức bệnh: thói quen truyền thống lạc hậu, tàn tích xã hội cũ để lại, bảo thủ, rụt rè khônggiám nói, không giám đề ra ý kiến, tóm lại không dám đổi mới và sáng tạo Tóm lại: con người vừa là mục tiêu và động lực của cách mạng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại nhau, thúc đẩy nhau. Bởi lẽ: Để thực hiện được mục tiêu giải phóng con người thì phải phụ thuộc vào động lực con người. Nếu con người tự giác, nhiệt tình cách mạng thì thúc đẩy sự nghiệp cách mạng thành công, nếu không sẽ ngược lại. Mặt khác khi xác định được mục tiêu cách mạng rõ ràng thì sẽ phát huy được động lực.

7.3.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chiến lược “trồng người”

Do vai trò quan trọng của con người như vậy lên chiến lược trồng người là quan trọng hàng đầu. Từ đó Hồ Chí Minh đã đánh giá:

Trồng người là yêu cầu khách quan, vừa cấp bách, vừa lâu dài của cách mạng.

Hồ Chí Minh rất quan tâm tới sự nghiệp giáo dục, đào tạo, rèn luyện con người. Người nói tới “lợi ích trăm năm” và mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội là những quan điểm mang tầm vóc chiến lược, cơ bản lâu dài, nhưng cũng rất cấp bách. Điều này liên quan tới nhiệm vụ “trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”. Tất cả những điều này phản ánh tư tưởng lớn về tầm quan trọng có tính quyết định nhân tố con người; tất cả vì con người, do con người.

Như vậy, con người phải đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển. Nó vừa nằm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước với nghĩa rộng, vừa nằm trong chiến lược giáo dục - đào tạo theo nghĩa hẹp.

Việc xây dựng con người mới là cả một quá trình lâu dài và phải song hành cùng với cuộc cách mạng. Bởi lẽ khi ta tiến hành cách mạng phải thực hiện đồng thời chiến lược xây dựng con người chứ không phải đợi đến khi cách mạng thành công.

Việc xây dựng con người mới phải được thực hiện ở tất cả các giai đoạn cách mạng. Bởi lẽ công cuộc cách mạng của dân tộc ta phải trải qua nhiều các giai đoạn khác nhau, mỗi giai đoạn cách mạng cần có những con người phù hợp để thực hiện nhiệm vụ cách mạng.

Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết phải có những con người xã hội chủ nghĩa.

Điều này có nghĩa là ngay từ đầu công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội cần phải đặt ra nhiệm vụ xây dựng con người có phẩm chất cơ bản, tiêu biểu cho con người mới xã hội chủ nghĩa, làm gương, lôi cuốn xã hội. Công việc này là một quá trình lâu dài không ngừng hoàn thiện, nâng cao thuộc về trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, gia đình và xã hội.

Con người mới XHCN cần phải có những phẩm chất sau: Quan điểm của Hồ Chí Minh về con người mới xã hội chủ nghĩa có hai mặt gắn bó chặt chẽ với nhau. Một

Bài 7: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, đạo đức

và xây dựng con người

NEU_PHH_Bai7_v1.0013101215 117

là kế thừa những giá trị truyền thống tốt đẹp của con người truyền thống. Hai là hình thành những phẩm chất mới như:

Có đạo đức cách mạng.

Có trình độ tri thức, đặc biệt nắm vững tri thức khoa học kỹ thuật.

Có tinh thần tập thể “mình vì mọi người”, có tấm lòng yêu thương, thân ái, nhân nghĩa, bao dung, độ lượng.

Có năng lực làm chủ: làm chủ bản thân gia đình, tự nhiên và xã hội.

Để đạt được những phẩm chất đó phải xây dựng được những con người mới phát triển toàn diện. Trong đó đặc biệt phải coi trong sự nghiệp giáo dục đào tạo.

Theo Hồ Chí Minh để thực hiện chiến lược “trồng người” cần có nhiều biện pháp, nhưng giáo dục – đào tạo là biện pháp quan trọng bậc nhất. Bởi vì giáo dục tốt sẽ tạo ra tính thiện, đem lại tương lai tươi sáng cho thanh niên. Ngược lại giáo dục tồi sẽ ảnh hưởng xấu tới thanh niên.

Nội dung và phương pháp giáo dực phải toàn diện, cả đức, trí, thể, mỹ, phải đặt đạo đức, lý tưởng và tình cảm cách mạng, lối sống chủ nghĩa xã hội lên hàng đầu. Hai mặt tài, đức phải thống nhất với nhau, không tách rời nhau, trong đó đức là “gốc”, là nền tảng cho tài phát triển.

Bài 7: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, đạo đức

và xây dựng con người

118 NEU_PHH_Bai7_v1.0013101215

TÓM LƯỢC CUỐI BÀI

Những sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh

o Hồ Chí Minh đã sớm thấy vai trò sức mạnh của văn hoá, đã sớm đưa văn hóa vào chiến lược phát triển của đất nước.

o Xác lập hệ thống các quan điểm có giá trị xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam.

o Đề cao vai trò của đạo đức, gắn đạo đức với sự tiến bộ của xã hội.

o Xác lập chuẩn hệ giá trị đạo đức cho con người Việt Nam.

o Coi trọng con người và xây dựng con người.

Ý nghĩa của việc học tập.

o Thấy rõ những cống hiến kiệt xuất của Hồ Chí Minh trong lĩnh vực văn hóa, đạo đức và xây dựng con người mới.

o Xác định rõ phương hướng, biện pháp học tập tư tưởng văn hóa, đạo đức, theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

o Nhận thức rõ biểu hiện cụ thể của chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh đặc biệt là sự quan tâm đến con người.