Bài 1 I. Hán Nôm là gì? Do những điều kiện lịch sử và địa lí nhất ...
Transcript of Bài 1 I. Hán Nôm là gì? Do những điều kiện lịch sử và địa lí nhất ...
Bài giảng Văn bản Hán văn Việt Nam (VNH) 1
Bài 1 BÀI MỞ ĐẦU*
I. Hán Nôm là gì?
Do những điều kiện lịch sử và địa lí nhất định, nền văn hóa Việt
Nam, bao gồm ngôn ngữ, văn học và nhiều lĩnh vực khác, đã tiếp thu có
chọn lọc những yếu tố của ngôn ngữ, văn học và văn hóa Trung Quốc. Trải
qua sàng lọc trong quá trình lịch sử, chúng đã trở thành một bộ phận của
tiếng Việt và của văn học Việt Nam, và nói chung là của nền văn hóa Việt
Nam.
Quá trình tiếp xúc với nền văn hóa Hán đã khởi đầu rất sớm từ thời
kì Âu Lạc. Lịch sử nước nhà đã ghi lại chiến công của nhân dân Âu Lạc
đập tan cuộc xâm lược qui mô lớn của nhà Tần (221 trước CN) và cuộc
xâm lược của Triệu Đà tiếp ngay sau đó.
Nhưng từ năm 179 trước công nguyên, Triệu Đà đã thôn tính được
nước Âu Lạc bằng cách kết hợp lực lượng quân sự với mưu mẹo gián điệp.
Từ đó bắt đầu một thời kì lịch sử đau thương và anh dũng của dân tộc ta
kéo dài đến hơn 10 thế kỉ. Hơn một ngàn năm bị phong kiến phương Bắc
thống trị là hơn một ngàn năm dân tộc ta chống lại sự thống trị đó với hàng
loạt cuộc khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng dân tộc. Trong thời kì đó,
nền văn hóa nói chung, nền ngôn ngữ văn tự Hán nói riêng đã có một ảnh
hưởng nhất định trên địa bàn Việt Nam, nhất là ở những nơi trung tâm của
chính quyền đô hộ. Trong giai cấp phong kiến Việt Nam cũng đã xuất hiện
một tầng lớp khá đông đảo am hiểu Hán học và thông qua Hán học nắm
được cả Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo.
Với chiến thắng Bạch Đằng lịch sử cuối năm 938, dân tộc ta giành
lại trọn vẹn non sông đất nước, độc lập chủ quyền và bảo tồn được cả nền
* Tham khảo Phan Văn Các (chủ biên), 1984, Giáo trình Hán Nôm, Nxb Giáo dục, tr.5-12
Bài giảng Văn bản Hán văn Việt Nam (VNH) 2
văn hóa riêng. Một thời kì lịch sử mới mở ra, oanh liệt và rực rỡ trong sự
nghiệp chống ngoại xâm cũng như trong sự nghiệp xây dựng đất nước.
Trong 6 thế kỉ thịnh đạt của nước Đại Việt (thế kỉ X - XV), dân tộc ta đã
hai lần phá Tống, ba lần bình Nguyên Mông và 20 năm đánh đuổi quân
Minh. Lịch sử dân tộc ghi thêm nhiều chiến công hiển hách: Chi Lăng, Như
Nguyệt, Bạch Đằng, Chi Lăng - Xương Giang. Cuối thế kỉ XVIII, trong
hoàn cảnh phức tạp của chế độ phong kiến suy tàn, dân tộc ta vẫn vươn lên
lập nên chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa, đại phá 20 vạn quân Thanh.
Trong những cơ sở quan trọng có ý nghĩa quyết định thắng lợi của
dân tộc ta, phải tính đến cơ sở văn hóa. Nền văn hóa dân tộc của ta đã rõ
sức sống mãnh liệt của nó qua nhiều phen đụng đầu với văn hóa đế chế
Trung Hoa nhất là qua các cuộc đấu tranh chống đồng hóa thời kì 10 thế kỉ
Bắc thuộc và thời kì bị nhà Minh thống trị.
Nhưng sức mạnh của văn hóa Việt Nam không phải chỉ ở khả năng
đề kháng đối với mọi âm mưu phá hoại từ bên ngoài, không phải chỉ ở chỗ
không bị đồng hóa vào một nền văn hóa khác, dầu đó là nền văn hóa của kẻ
thống trị có vũ lực lớn mạnh và có thủ đoạn vô cùng xảo quyệt. Sức mạnh
ấy còn là khả năng đồng hóa những thành tựu văn hóa tiếp thu được qua sự
giao lưu với nước ngoài.
Ông cha ta đã dùng chữ Hán làm phương tiện để sáng tạo nên một
nền văn học viết với nhiều tác phẩm có giá trị lớn về nội dung tư tưởng,
cũng như về hình thức nghệ thuật, mà ngày nay chúng ta có quyền tự hào.
Từ bài thơ Quốc tộ (vận nước) của nhà sư Pháp Thuận đến bài thơ
Nam quốc sơn hà, từ bài Thiên đô chiếu (chiếu dời đô) của Lí Thái Tổ đến
bài Hịch tướng sĩ văn của Trần Quốc Tuấn, từ Bình Ngô đại cáo của
Nguyễn Trãi đến Tức vị chiếu (chiếu lên ngôi) của Ngô Thì Nhậm, từ rất
nhiều bài thơ bài phú của Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Trung
Ngạn, Phạm Sư Mạnh, Trương Hán Siêu, Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Trãi,
Bài giảng Văn bản Hán văn Việt Nam (VNH) 3
Nguyễn Mộng Tuân, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Ngô Thì Nhậm,
Phan Huy Ích, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Cao Bá Quát, Phan Đình
Phùng, Nguyễn Quang Bích Nguyễn Xuân Ôn, Phạn Bội Châu, Nguyễn
Thượng Hiền cho đến Ngục trung nhật kí (Nhật kí trong tù) của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, các tác phẩm văn học viết bằng chữ Hán này đều gắn với
những chặng đường gian khổ mà vinh quang của lịch sử dân tộc.
Ngoài các sáng tác văn học, ông cha ta còn dùng chữ Hán để trước
tác trên nhiều lĩnh vực - lịch sử, địa lí, quân sự, y dược…, ở đó tàng trữ
một phần khá lớn di sản văn hóa tư tưởng, khoa học và nghệ thuật của dân
tộc ta trong lịch sử bốn ngàn năm văn hiến.
Đặc biệt phải kể đến thành tựu quan trọng của cha ông ta trong việc
sáng tạo ra một nền văn tự dân tộc: chữ Nôm. Chữ Nôm là thứ văn tự cấu
tạo trên cơ sở chữ Hán và những thành tố chữ Hán dùng để ghi âm tiếng
Việt. Trong điều kiện lịch sử lúc bấy giờ, việc sáng tạo ra chữ Nôm phải kể
là một chiến công xuất sắc trên mặt trận văn hóa, thể hiện tinh thần tự lực
tự cường của dân tộc. Các tập thơ quốc âm của Nguyễn Trãi, Lê Thánh
Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, các khúc ngâm Cung oán và Chinh phụ, các
truyện dài như Hoa tiên và Nhị độ mai, Truyện Kiều và Lục Vân Tiên, cùng
với thơ, phú của nhiều tác giả khác đều được ghi lại bằng chữ Nôm.
Mặt khác, những yếu tố của ngôn ngữ Hán cũng được tiếp nhận vào
tiếng Việt. Trong khi kiên quyết và bền bỉ chống lại âm mưu đồng hóa của
thế lực thống trị phong kiến phương Bắc, giữ gìn bản sắc của ngôn ngữ dân
tộc, cha ông ta đã làm giàu thêm tiếng nói của mình bằng một khối lượng
đáng kể từ vựng vay mượn của tiếng Hán. Tất nhiên, cha ông ta đã cải tạo
những yếu tố vay mượn ấy, Việt hóa chúng, thay đổi cách phát âm (thường
gọi là âm Hán Việt), thay đổi cách kết cấu, hoặc thay đổi ý nghĩa, cách
dùng, sắc thái tu từ… của chúng để phục vụ đắc lực nhu cầu giao tiếp của
mình.
Bài giảng Văn bản Hán văn Việt Nam (VNH) 4
Trong tiếng Việt hiện đại có một số khá lớn từ ngữ bắt nguồn từ
tiếng Hán. Tiếng Việt còn sử dụng các yếu tố Hán để tạo ra những từ mới.
Sức sống của dân tộc đã giúp cha ông ta chống chọi một cách thắng
lợi chính sách đồng hóa về ngôn ngữ của kẻ thù trong một hoàn cảnh hết
sức gay go. Đồng thời, sức sống ấy cũng đã cho phép tiếng Việt tiếp thu
một cách có chọn lọc các yếu tố Hán để làm giàu cho mình.
Với chính sách ngôn ngữ đúng đắn của Đảng ta, với sự quan tâm
chăm sóc của Bác Hồ và Nhà nước ta cuộc đấu tranh để giữ gìn và phát huy
tính trong sáng của tiếng Việt ngày càng giành được những thắng lợi to lớn,
làm cho tiếng Việt trở thành một ngôn ngữ phong phú đủ sức diễn tả mọi
tình cảm, tư tưởng, khái niệm được dùng trong mọi lĩnh vực văn học nghệ
thuật, khoa học tự nhiên cũng như khoa học xã hội. Tóm lại, các thư tịch
bằng chữ Hán và chữ Nôm của cha ông ta để lại cùng với các tri thức được
ghi lại trong đó làm thành đối tượng nghiên cứu của bộ môn Hán Nôm.
II. Mục đích yêu cầu và nội dung của bộ môn Hán Nôm ở trường Đại học
Bộ Giáo dục nước CHXHCN Việt Nam đã quyết định “từ năm học
1980 - 1981 bắt đầu dạy môn Hán Nôm ở Khoa Văn-Sử các trường ĐHSP
và CĐSP”1. Từ đó, bộ môn Hán Nôm được xác định là “môn học ngữ văn
cơ sở có vị trí quan trọng trong việc đào tạo giáo viên ngữ văn Việt Nam”2.
Vậy sinh viên ĐH học Hán Nôm để làm gì? Như đã nói, các tri thức Hán
Nôm là một bộ phận của tri thức phổ thông Việt Nam. Người Việt Nam tốt
nghiệp bậc phổ thông, tất yếu phải có những tri thức phổ thông thuộc lĩnh
vực Hán Nôm. Các giáo viên ngữ văn ở nhà trường phổ thông cần được
trang bị một trình độ cơ sở về Hán Nôm để bảo đảm cho việc giảng dạy các
tri thức đó tránh được sai sót và có khả năng đạt tới một độ sâu nhất định
trong việc bình giảng các tác phẩm sáng tác bằng chữ Hán và chữ Nôm. 1 Quyết định số 1268/QĐ ngày 27-9-1980 của Bộ Giáo dục nước CHXHCN Việt Nam. 2 Kết luận của Hội nghị liên tịch giữa Cục đào tạo bồi dưỡng (Bộ Giáo dục), trường ĐHSP Hà Nội, trường ĐHSP Ngoại ngữ và trường CĐSP Hà Nội, nghiên cứu việc thực hiện quyết định nói trên.
Bài giảng Văn bản Hán văn Việt Nam (VNH) 5
Đồng thời, một cách hết sức tự nhiên, thông qua việc học tập những
tri thức có quan hệ với chữ Hán, các giáo sinh sẽ có những hiểu biết sâu sắc
và toàn diện hơn về một mảng rất quan trọng trong tiếng Việt, nhất là tiếng
Việt văn hóa (mảng từ Hán Việt) và do đó có điều kiện sử dụng tiếng Việt
tốt hơn, có khả năng phát huy tích cực hơn vai trò của mình trong sự
nghiệp giữ gìn và nâng cao tính trong sáng của tiếng Việt.
Nói chung, trên cơ sở trình độ Hán Nôm được vũ trang bước đầu ở
nhà trường sư phạm, khi ra trường, nếu chịu khó tiếp tục tự học thêm, các
giáo sinh có thể dần dần tự nâng mình lên trình độ các chuyên gia Hán
Nôm có năng lực góp phần vào việc khai thác di sản văn hóa phong phú và
độc đáo của dân tộc.
Trong điều kiện thời gian hết sức hạn chế của chương trình một khóa
học, chúng ta có thể và cần phải phấn đấu để đạt được một cơ sở tối thiểu
về Hán Nôm, thể hiện ở các mặt sau:
a) Có những tri thức cơ sở về nguyên tắc cấu tạo hệ thống văn tự
biểu ý của người Hán (chữ Hán), nhận diện được khoảng 800-1000 chữ
Hán thường dùng, trong đó nắm được khoảng 400 chữ cơ bản với khoảng
100 bộ thủ thường gặp. Trình độ này đảm bảo cho chúng ta sử dụng được
các tài liệu tham khảo đơn giản, tự mình phân biệt được những tiếng Hán
Việt đồng âm với nhau hoặc cùng âm với những tiếng thuần Việt.
b) Nắm chắc ý nghĩa của khoảng trên 300 từ tố Hán Việt thường
dùng và có sức sinh sản cao, nhờ đó có thể giải thích chính xác và phân biệt
rạch ròi những trường hợp đồng âm khác nghĩa có liên quan.
c) Nắm vững (trước hết là về phương diện ngôn ngữ) một số tác
phẩm tiêu biểu trong văn học Việt Nam sáng tác bằng chữ Hán.
d) Có những hiểu biết sơ giản về chữ Nôm.
e) Nắm được các tri thức thông thường về văn hóa cổ Việt Nam và
những tri thức văn hóa cổ Trung Quốc có liên quan đến nền văn hóa Việt Nam.
Bài giảng Văn bản Hán văn Việt Nam (VNH) 6
III. Phương châm và phương pháp học tập bộ môn Hán Nôm
Hán Nôm là một bộ môn đầy sức hấp dẫn, nhưng còn mới và khó,
muốn học tập có kết quả tốt, người học phải tuân theo những phương châm
và chú ý đầy đủ những đặc điểm của phương pháp học tập bộ môn dưới đây:
1. Phương châm:
a) Quán triệt đường lối quan điểm Marx-Lenin của Đảng ta trong
việc tiếp thu có phê phán vốn văn hóa truyền thống của dân tộc, đề phòng
cả hai khuynh hướng lệch lạc là tự ti dân tộc (coi thường vốn cũ) và tư
tưởng phục cổ mù quáng.
b) Hơn ở đâu hết, lĩnh vực Hán Nôm phản ánh sinh động cuộc đấu
tranh lâu dài, gian khổ và phức tạp của dân tộc chống âm mưu đồng hóa tàn
bạo và nham hiểm của chủ nghĩa bành trướng bá quyền phương Bắc để bảo
vệ và xây đắp nền văn hóa dân tộc, đồng thời làm phong phú nó bằng cách
gạn lọc, hấp thu những yếu tố có ích trong văn hóa nước ngoài. Học Hán
Nôm, chúng ta càng phải bồi đắp cho mình lòng yêu nước và tự hào dân tộc
chính đáng.
c) Việc học tập Hán Nôm phải phối hợp chặt chẽ với việc học tập các
bộ môn ngôn ngữ học, tiếng Việt, lịch sử văn học Việt Nam, lịch sử văn
học Trung Quốc, trích giảng văn học Việt Nam, phương pháp giảng dạy bộ
môn văn học… để phát huy tác dụng hỗ trợ qua lại giữa các bộ môn có liên
quan.
2. Những điều cần chú ý về phương pháp học tập:
a) Mỗi bài trong giáo trình (trừ bài mở đầu) là một thể thống nhất
chứa đựng các tri thức ngôn ngữ, văn tự, văn học và văn hóa xoay quanh
một tác phẩm văn học (toàn văn hoặc trích đoạn). Các tri thức về văn tự, từ
vựng và ngữ pháp đều gắn với câu văn câu thơ cụ thể3. Phải qua từ, chữ mà
3 Riêng về ngữ pháp, song song với việc giải thích các hiện tượng ngữ pháp xuất hiện trong từng bài, các giáo sinh sẽ được học một giáo trình Ngữ pháp tiếng Hán cổ tóm tắt và có hệ thống.
Bài giảng Văn bản Hán văn Việt Nam (VNH) 7
hiểu sâu tác phẩm, đồng thời chính tác phẩm sẽ là chỗ dựa đáng quí cho ta
học từ, học chữ được dễ dàng hơn.
b) Cũng như nhiều bộ môn khác, học Hán Nôm cần quán triệt
phương châm lí luận kết hợp với thực hành: cần dành thời gian thích đáng
để làm hết các bài tập được chỉ dẫn.
c) Trong khi đề cao việc học tập một cách thông minh, khoa học, biết
so sánh, phân tích và tổng hợp, chúng ta không coi nhẹ việc học thuộc lòng
một số tri thức cơ sở, nhất là các tác phẩm được trích giảng.
Bài giảng Văn bản Hán văn Việt Nam (VNH) 8
Bài 2
ĐẠI CƯƠNG VỀ CHỮ HÁN
I. Lịch sử hình thành chữ Hán
Trước khi có chữ viết, loài người thông qua ngôn ngữ để tiến hành
giao lưu, mà ngôn ngữ lại bị hạn chế bởi không gian và thời gian, không
thể truyền đi xa và truyền về sau. Vì vậy mà loài người trong quá trình sinh
tồn và phát triển, trải qua nhiều cố gắng trong chuỗi thời gian rất dài, họ đã
thoát khỏi sự hạn chế này, đó là biết sử dụng một số phương tiện để ghi lại
ý nghĩ của mình về một sự kiện hay một tin tức nào đó. Chữ viết được hình
thành. Và ngày càng từng bước hoàn thiện. Chữ viết biến tín hiệu âm thanh
thành tín hiệu phù hình, ghi chép theo một thể nhất định. Như vậy, nó đã
phá vỡ được sự hạn chế về thời gian và không gian, đồng thời có thể truyền
đi xa, truyền cho muôn đời sau.
Vì vậy, chúng ta có thể định nghĩa chữ viết như sau: Chữ viết là kí
hiệu ghi chép ngôn ngữ của loài người, là công cụ giao lưu tư tưởng, truyền
đạt thông tin của loài người. Chữ Hán chính là là kí hiệu ghi chép tiếng
Hán, là công cụ dùng để giao lưu tư tưởng, truyền đạt thông tin của dân
tộc Hán từ xưa đến nay.
Chương Hệ từ trong Dịch kinh có nói: “Người xưa thắt nút dây (kết
thằng) để nhớ sự việc, về sau bậc thánh nhân mới đổi thành chữ khắc vạch
(thư khế)”. Những nhà triết học tư tưởng thời Xuân thu Chiến quốc trở về
sau đều qui công lao sáng tạo ra văn tự cho bậc “thánh nhân”. Rồi theo thư
tịch Tần - Hán, bậc thánh nhân này cụ thể là Thương Hiệt, sử quan của vua
Hoàng Đế, “đầu rồng, bốn mắt sáng như đèn, miệng to như cái chậu”. Ông
đã “nhìn vết chân chim muông, thấy phân biệt được giống loài, liền theo đó
mà tạo ra chữ viết”. Lúc ấy “thóc lúa trên trời tuôn xuống như mưa, đêm
Bài giảng Văn bản Hán văn Việt Nam (VNH) 9
đêm quỉ khóc ma kêu…” Dựa vào những ghi chép ấy (tuy là truyền thuyết),
chúng ta thấy rằng: chữ Hán ra đời khi xã hội Trung Quốc cổ đại đã phát
triển đến một trình độ nhất định, với chế độ công xã thị tộc, trên cơ sở nông
nghiệp và các hoạt động văn hoá đã tiến bộ. Lúc đầu, chắc nó còn thô sơ,
nhưng về sau, thấy được giá trị tuyệt vời của nó, người ta bèn thần thánh
hoá nó. Chữ viết ở Trung Quốc được nâng lên thành những vật thiêng
liêng, là đối tượng thờ cúng. Người ta cho rằng không phải ai cũng viết
được chữ Hán. Chỉ có một số người nào đó mới ghi lại được lời của Thánh
mà thôi. Với người Trung Quốc xưa, chữ Hán đã vượt ra ngoài chức năng
của một văn tự thông thường.
Dấu vết xưa. Hiện nay ở Viện bảo tàng lịch sử Bắc Kinh Trung Quốc,
người ta còn giữ được rất nhiều văn bản cổ xưa, viết bằng chữ Hán, viết
trên những chất liệu khác nhau; dáng kiểu chữ trên mỗi loại chất liệu ấy
cũng khác nhau. Có thể thấy mấy loại chính như sau:
1. Chữ viết trên mai rùa, trên xương thú:
Vào những năm cuối thế kỉ XIX, người ta đã phát hiện ra ở vùng Ân
Khư, tỉnh Hà Nam hàng vạn mảnh mai rùa và xương thú có khắc những
hình vẽ. Ân Khư là khu vực kinh đô triều Thương (1711 TCN - 1066 TCN),
các nhà khảo cổ học, các nhà văn tự học khẳng định rằng những mảnh mai
rùa và xương thú có khắc những hình vẽ ấy chính là những văn bản của
triều Thương để lại: những “hình vẽ” trên xương chính là tiền thân của chữ
Hán hiện đại. Quả như vậy, người ta đã so sánh và đọc được các văn bản ấy.
Loại chữ viết - hình vẽ ấy gọi là “giáp cốt văn”, tức văn tự giáp cốt (chữ
viết trên mai rùa, xương thú). Nếu căn cứ vào niên đại ghi trên các văn bản
giáp cốt ấy, và lấy đó làm mốc thời gian thì tuổi của chữ Hán tính đến nay
cũng đã trên 3000 năm. Có nhiều nhà khoa học cho rằng chữ Hán có sớm
hơn, ít ra cũng không dưới 5000 năm.
Bài giảng Văn bản Hán văn Việt Nam (VNH) 10
2. Chữ viết trên chuông, vạc đồng
Người ta đã sưu tầm được một số đồ dùng bằng đồng, trên có đúc
hoặc khắc chữ. Đó là những di tích triều Chu, kế triều Thương. Loại chữ đó
được gọi là “chung đỉnh văn” hay “kim văn” (chữ trên chuông, vạc, trên đồ
đồng). Các nhà khảo cổ cho rằng chung đỉnh văn có sau giáp cốt văn
khoảng ba thế kỉ. Chung đỉnh văn vẫn là hình vẽ kiểu giáp cốt, song về
hình thể có phần vuông vắn hơn, ngay ngắn hơn một chút.
3. Chữ trên trống đá
Người Trung Quốc cổ xưa còn khắc chữ lên đá. Người ta đã đọc
được ở những tảng đá có hình cái trống, những bài thơ chữ Hán. Cứ theo
như niên đại lưu ở văn bản thì những tác phẩm này được sáng tác vào
khoảng thế kỉ thứ VII - VIII trước công nguyên. Người ta gọi loại chữ này
là “thạch cổ văn”. So với hai loại trên thì thạch cổ văn cũng có khác một
chút về mặt hình thể, hình dáng gọn hơn.
4. Chữ trên tre trúc
Vào cuối triều Chu (khoảng thế kỉ II - III trước công nguyên), người
ta có lẽ đã dùng một vật nhọn, một que tre vót nhọn chẳng hạn, chấm vào
“mực”, có lẽ là sơn, rồi viết lên trên “giấy” là những thanh tre, mảnh trúc.
Kể từ thời này, chữ Hán mới được tạm gọi là “viết” ra (chứ không phải
khắc, đúc như xưa).
Phương tiện viết chữ thay đổi dẫn đến sự thay đổi hình thể chữ. Ở
thời kì này, chữ Hán đã có vẻ đơn giản hơn, rõ ràng hơn, ít mang dáng dấp
của hình vẽ. Đường nét bắt đầu có qui luật hơn, chữ có vẽ cân đối hơn.
II. Quá trình diễn biến của chữ Hán
Chữ viêt ngày nay so với chữ viết thời cổ đại khác nhau xa về mặt
hình thể. Chữ viết cổ đại trải qua nhiều diễn biến, nhiều lần thay đổi hình
thể, mới có loại chữ viết ngày nay. Căn cứ vào những tài liệu có được,
người ta cho rằng kể từ khi ra đời cho tới cuối triều Hán (khoảng thế kỉ II),
Bài giảng Văn bản Hán văn Việt Nam (VNH) 11
chữ Hán đã trải qua ba giai đoạn thay đổi hình thể chủ yếu: (1) Giai đoạn
vẽ hình, (2) Giai đoạn vạch thành đường, (3) Giai đoạn viết thành nét; và
có bảy thể chữ chính như sau (gọi theo thuật ngữ văn tự học truyền thống
Trung Quốc): (1) Giáp cốt văn, (2) Chung đỉnh văn (kim văn), (3) Triện thư,
(4) Lệ thư, (5) Khải thư, (6) Thảo thư, (7) Hành thư.
Trong từng loại ấy, người ta còn chia thành những tiểu loại như: tiểu
triện, đại triện; chương thảo, kim thảo; tiểu khải, chính khải; hoặc gọi một
bằng những tên gọi khác nhau: bát phân (Hán lệ), lựu thư (đại triện)
Giai đoạn (1), dấu vết còn ghi lại nơi giáp cốt, nơi chung đỉnh. Hình
thể chữ không khác hình vẽ mấy. Đó là thời kì chữ Hán chưa ổn định “tự
dạng”, tuỳ nơi tuỳ lúc mà thêm thắt, bớt xén những chi tiết, những đường
nét. Chính vì thế, loại chữ này rất khó “viết”, rất khó nhớ; phạm vi sử dụng
của chúng cũng vì thế mà cực kì hẹp, khó lòng đảm nhận vai trò ghi chép
lại ngôn ngữ bằng lời.
Giai đoạn (2), do sự thúc đẩy của nhu cầu ghi chép, người ta không
thể không cải tạo tình trạng bất tiện do chữ viết hình vẽ gây ra trong sử
dụng. Thế là loại chữ Triện ra đời.
Ban đầu là loại đại triện, xuất hiện khoảng thế kỉ IX - VIII trước
công nguyên. Một điều kiện cho loại chữ này ra đời là, lúc đó người ta đã
chế ra sơn, nên viết nhẹ tay hơn là khắc. Kế đó là loại tiểu triện, xuất hiện
vào cuối thời Xuân thu Chiến quốc (thế kỉ V - III trước công nguyên). Đó
là lối chữ Hán do nhà Tần qui định để thống nhất trong các nước chư hầu.
Tiểu triện tiến bộ hơn đại triện một bước: đường nét rõ ràng, hình dạng
thống nhất, đơn giản hơn. Đây cũng là một bước ngoặt quan trọng trong
lịch sử hình thành và phát triển của chữ Hán.
Giai đoạn (3) là giai đoạn chữ Hán đi vào ổn định hoá về hình thể
với sự xuất hiện của “lệ thư”. Loại chữ này được các viên quan nhỏ sử
dụng, ghi chép cho nên gọi là lệ thư. Lệ thư đã thay thế triện thư vì nó đơn
Bài giảng Văn bản Hán văn Việt Nam (VNH) 12
giản hơn, vuông vắn, đẹp và dễ viết hơn. Điều đáng được lưu ý là các
đường cong trong triện thư đã được thay bằng các “nét’ thẳng hoặc gãy góc.
Lệ thư được lưu hành rộng rãi từ triều Hán (thế kỉ II TCN - II). Về hình thể,
lệ thư gần giống với chữ Hán ngày nay. Lệ thư còn chia ra cổ lệ và kim lệ.
Loại chữ cổ lệ được thông dụng ở cuối đời Tần đầu đời Hán cho nên gọi là
Tần lệ. Kim lệ cũng gọi là Hán lệ, vì nó được dùng ở đời Tây Hán đến đầu
đời Tấn. Kim lệ chỉ khác cổ lệ ở chỗ, nó được gia công nghệ thuật cho đẹp
hình chữ.
Cùng với lệ thư còn có “Thảo thư”. Đó là lối chữ được sáng tạo trên
cơ sở lệ thư, và do yêu cầu cần phải viết nhanh nên số nét được bỏ bớt hoặc
nhiều nét viết liền một mạch. Loại chữ này viết nhanh nhưng phải luyện
công phu mới viết được; là loại chữ khó đọc, khó lưu hành rộng rãi được.
Cuối triều Hán (đầu thế kỉ III) lại xuất hiện một kiểu chữ mới gọi là
“Khải thư”, với lối viết rõ ràng từng nét, ngang bằng sổ thẳng, đơn giản, dễ
viết hơn lệ thư. Thực ra, khải thư là hình thức cải tiến của lệ thư. Với
những đặc điểm trên, khải thư còn được gọi là “chân thư” (chân phương, rõ
ràng). Khải thư được coi là lối viết chính qui của chữ Hán, lưu hành rộng
rãi, thông dụng cho đến ngày nay.
Ngoài ra còn có loại “hành thư” xuất hiện sau khi khải thư đã được
phổ biến. Hành thư như một hình thức trung gian giữa khải thư và thảo thư:
viết nhanh mà vẫn không phải khó đọc như thảo thư. Nó được nhiều người
thích và sử dụng.
III. Cấu tạo chữ Hán
Chữ Hán là phù hiệu ghi chép tiếng Hán, nó là loại hình văn tự khối
vuông (văn tự biểu ý), hình chữ có quan hệ mật thiết với nghĩa của chữ.
Các nhà văn tự học đã căn cứ vào hình chữ để khảo cứu nghĩa gốc của chữ.
Với chúng ta, nắm vững kết cấu chữ Hán là một trong những điều kiện cần
thiết để nhớ và viết đúng chữ Hán.
Bài giảng Văn bản Hán văn Việt Nam (VNH) 13
Ở Trung Quốc, việc nghiên cứu hình thể chữ Hán đã có lịch sử lâu
đời. Trong thời đại Xuân thu, có học giả đã đề cập đến việc phân tích chữ
Hán. Như chữ “武 vũ”, làm thành bởi chữ “止 chỉ”, và bộ “戈 qua” (Tả
truyện. Tuyên Công thập nhị niên); chữ “蠱 cổ”, làm thành bởi bộ “蟲
trùng” và bộ “皿 mãnh” (Tả truyện. Chiêu Công nguyên niên). Qua đó
chúng ta có thể thấy, từ thời xa xưa người Trung Quốc đã nhận thức được
hai chữ đều là cấu tạo bởi hai thành tố. Và trong cách cấu tạo chữ Hán
người xưa có tên gọi là lục thư.
Ở thời Chiến quốc, căn cứ vào thực tế chữ Hán, người xưa đã qui
nạp thành 6 phương thức cấu tạo chữ Hán: Tượng hình, chỉ sự, hội ý, hình
thanh, chuyển chú, giả tá.
Tượng hình là vẽ giống hình vật thực đã được cách điệu hoá, đơn
giản hoá. Chẳng hạn, các chữ tượng hình “mặt trời, mặt trăng, nước…” lúc
đầu là hình vẽ , , … đã được cách điệu hoá, đơn giản hoá thành các
chữ “日 nhật”, “月 nguyệt”, “水 thuỷ…”
Tuy nhiên, do kinh qua thời gian quá dài, qua nhiều lần sửa đổi, dấu
vết sự ra đời của chữ tượng hình đã mờ nhạt, ngày nay không dễ gì tìm
thấy sự giống nhau giữa chữ Hán hiện đại và vật thật.
Chỉ sự, lối vẽ biểu thị ý nghĩa trừu tượng, nó đối lập với loại tượng
hình biểu thị ý nghĩa cụ thể. Sách Thuyết văn giải tự ghi: “Chỉ sự là nhìn có
thể biết, xét mà thấy ý”. Nó là những kí hiệu tượng trưng qui ước. Nó chủ
yếu là những kí hiệu để ghi các con số, các quan hệ không gian khác nhau.
Ví dụ: “一 nhất” (= một), “ thượng” (= trên), “� hạ” (= dưới), “左 tả”
(= trái), “ hữu” (= phải).
Hội ý là những phù hiệu phức, ghép bởi vài ba kí hiệu tượng hình để
biểu thị ý nghĩa của từ. Ví dụ:
“明 Minh”: 日 nhật (= mặt trời) + 月 nguyệt (= mặt trăng) = sáng
Bài giảng Văn bản Hán văn Việt Nam (VNH) 14
“休 Hưu”: 亻 bộ nhân (= người) + 木 mộc (= cây) = nghỉ ngơi
“聞 Văn”: 門 môn (= cửa) + 耳 nhĩ (= tai) = nghe, nghe trộm
Hình thanh, do chữ tượng hình kết hợp lại, trong đó có một thành tố
biểu âm và một thành tố biểu ý. Thành tố biểu âm thường gọi là thanh phù
hoặc thanh bàng hoặc phần thanh, thành tố biểu ý thường gọi là ý phù hoặc
hình bàng hoặc phần hình. Ví dụ các chữ: “想 tưởng”, “詞 từ”, “姑 cô”.
Trong đó các chữ tương, tư, cổ là thanh phù; còn các chữ “心 tâm”, “言
ngôn”, “女 nữ” là ý phù.
Chuyển chú, ở sách Thuyết văn giải tự, Hứa Thận ghi: “Chuyển chú
là đặt chữ cùng bộ thủ, cùng ý như nhau, như chữ 考 khảo, 老 lão”. Nói
một cách đơn giản, chuyển chú tức là lối đặt chữ có cùng bộ thủ, thanh âm
gần nhau, ý nghĩa giống nhau và có thể chú thích cho nhau. Như hai chữ
“lão” và “khảo” đều thuộc bộ “lão”, thanh âm gần nhau, ý nghĩa hoàn toàn
giống nhau, nên có thể chuyển chú.
Giả tá là dùng những chữ đồng âm để thay thế cho những từ có
nghĩa mới mà không cần sáng tạo chữ mới. Ví dụ: chữ “長 trưởng” vốn là
chữ tượng hình giống hình đầu tóc mọc dài ra. Sau này, vì âm thanh giống
nhau cho nên mượn làm chữ “trường” trong từ “trường đoản” (= dài ngắn);
mượn làm chữ “trưởng” trong từ “huyện trưởng”. Cách dùng từ đồng âm
để đại biểu cho nghĩa mới theo cách gọi của truyền thống là giả tá.
Theo sách Hán thư. Nghệ văn chí thì Lục thư là cơ sở của việc tạo
chữ. Cách nói này thực ra chưa rõ ràng lắm. Trong lục thư chỉ có tượng
hình, chỉ sự, hội ý, hình thanh mới là những cách cấu tạo chữ; còn chuyển
chú, giả tá là cách dùng chữ. Vì căn cứ vào nguyên tắc thì chuyển chú và
giả tá không sản sinh ra chữ mới. Do đó, chuyển chú, giả tá không có liên
quan đến cấu tạo chữ Hán.
Bài giảng Văn bản Hán văn Việt Nam (VNH) 15
IV. Cách viết chữ Hán
1. Nắm vững các nét
Như trên đã giới thiệu, chữ Hán là loại hình văn tự khối vuông, nó
cấu tạo bởi các nét. Do đó, khi tập viết chữ Hán, chúng ta cần nắm vững
các nét chủ yếu sau đây:
Nét chấm ; nét ngang: ; nét sổ: ; nét phẩy: : nét mác: ;
nét hất: ; nét gập: ; nét móc:
2. Qui trình viết
Cách viết chữ Hán đều theo một qui tắc nhất định (qui tắc bút thuận):
- Trên trước, dưới sau:
- Trái trước phải sau:
- Ngang trước, sổ sau:
- Ngoài trước, trong sau:
- Vào trước đóng sau:
- Giữa trước, hai bên sau:
3. Bố cục
Người mới bắt đầu học chữ Hán, khi viết thường không cân đối, có nét
cao quá, có nét thấp quá, có chữ to quá, có chữ bé quá, có chữ nghiêng
lệch… Đó là người viết chưa nắm được tính cân đối trong cấu tạo chữ Hán.
Chữ Hán là loại chữ hình khối vuông, cho nên mỗi chữ đều nằm gọn
trong một ô vuông. Bất cứ một chữ Hán nào, cấu tạo của nó về độ cao, độ
rộng, ít nét, nhiều nét đều theo một tỉ lệ cân đối.
V. Cách nhớ chữ Hán và cách tra từ điển
1. Cách nhớ chữ Hán
- Hiểu và nắm vững hình, âm, nghĩa của chữ
- Vận dụng Lục thư
- Viết thường xuyên
- Trải nghiệm thực tế nhiều (đọc dịch các văn bản Hán Nôm)
Bài giảng Văn bản Hán văn Việt Nam (VNH) 16
- Sử dụng các phương pháp khác4
2. Cách tra từ điển
- Tra theo nét
- Tra theo bộ thủ
- Tra theo âm
- Tra theo số của bốn góc chữ
- Tra theo chú âm
4 Xem Nguyễn Hoàng Thân, Một số phương pháp ghi nhớ chữ Hán, ĐHSP Huế, 1999
Bài giảng Văn bản Hán văn Việt Nam (VNH) 17
214 BỘ THỦ CHỮ HÁN THÔNG DỤNG ( Sắp xếp theo thứ tự số nét)
Số nét Số TT
Bộ thủ
Tên gọi Ý nghĩa
01 nét
1 一 Nhất một
2 丨 Cổn sổ
3 丶 Chủ Chấm
4 丿 Phiệt Phẩy
5 乙 Ất cong
6 亅 quyết Móc
02 nét
7 二 Nhị Hai
8 亠 Đầu trên cùng, nắp
9 人亻 Nhân Người
10 儿 Nhi (nhân)
Người
11 入 Nhập Vào
12 八 Bát Tám
13 冂 Quynh giới hạn, khuôn khổ
14 冖 Mịch che ở trên
15 冫 Băng băng, lạnh
16 几 Kỉ Ghế, chân
17 凵 Khảm hố, lõm
18 刀� Đao Dao
19 力 Lực sức, mạnh
20 勹 Bao bao bọc
21 匕 Tỉ (chuỷ)
Thìa, muôi
22 匚 Phương đồ để chứa
23 匸 Hễ hạp
24 十 Thập Mười
25 卜 Bốc bói toán
26 卩 Tiết dấu ấn
27 厂 Hán vách núi
28 厶 Tư riêng tư
29 又 Hựu lại (tay)
03 nét
30 口 Khẩu miệng
31 囗 Vi vây quanh
32 土 Thổ đất đai
33 士 Sĩ học trò, kẻ sĩ
34 夊 Truy đến sau, muộn
35 夊 Tuy chậm chạp
36 夕 Tịch đêm, tối
37 大 Đại to lớn
38 女 Nữ nữ giới
39 子 Tử con, con trai
40 宀 Miên mái nhà, nhà cửa
41 寸 Thốn tấc
42 小 Tiểu bé nhỏ
43 尢 Uông què quặt
44 尸 Thi thể xác
45 屮 Triệt mầm non
46 山 Sơn Núi
47 巛川 Xuyên sông
48 工 Công công việc, người thợ
49 己 Kỉ (bản thân) mình
50 巾 Cân khăn, vải vóc
51 干 Can xâm phạm
52 幺 Yêu nhỏ bé
53 广 Nghiễm mái che, nhà cửa
54 廴 Dẫn bước (dài)
55 廾 Củng hai tay (cùng làm)
56 弋 Dặc bắn (bằng tên có dây)
Bài giảng Văn bản Hán văn Việt Nam (VNH) 18
57 弓 Cung (cái) cung
58 彐彑 Kí đầu con nhím
59 彡 Sam Lông, tóc
60 彳 Xích bước (ngắn)
04 nét
61 心忄 Tâm trái tim, suy tư
62 戈 Qua giáo mác, vũ khí
63 戶户 Hộ cửa (một cánh)
64 手扌 Thủ Tay
65 支 Chi nhánh, ngành
66 攴攵 Phốc khẽ đánh
67 文 Văn nét, văn
68 斗 Đấu (cái) đấu
69 斤 Cân (cái) rìu
70 方 Phương vuông vức, phương hướng
71 无旡 Vô Không
72 日 Nhật mặt trời
73 曰 Viết Nói
74 月 Nguyệt mặt trăng
75 木 Mộc cây, gỗ
76 欠 Khiếm thở hơi ra, muốn
77 止 Chỉ (chân) dừng
78 歹 Đãi xấu
79 殳 Thù vũ khí cổ
80 毋 Vô không nên, đừng nên
81 比 Tỉ so sánh
82 毛 Mao Lông
83 氏 Thị họ
84 气 Khí hơi, khí
85 水氵 Thuỷ nước
86 火灬 Hoả lửa, nóng
87 爪爫 Trảo móng, vuốt
88 爻 Hào Giao nhau
89 父 Phụ Cha
90 爿丬 Tường tấm phản
91 片 Phiến mảnh, tấm
92 牙 Nha Răng
93 牛牜 Ngưu bò, trâu
94 犬犭 Khuyển Chó
05 nét
95 玄 Huyền đen, bí ẩn, huyền diệu
96 玉王 Ngọc ngọc
97 瓜 Qua (quả) dưa
98 瓦 Ngoã ngói
99 甘 Cam ngọt
100 生 Sinh sinh sôi nảy nở
101 用 Dụng Dùng
102 田 Điền ruộng nương
103 疋 Thất, sơ tấm vải
104 疒 Nạch, bịnh
ốm đau, bệnh tật
105 癶 Bát chân chữ “bát”, dạng chân
106 白 Bạch trắng
107 皮 Bì Da
108 皿 Mãnh bát, đĩa, chậu
109 目 Mục mắt
110 矛 Mâu vũ khí cổ, giáo
111 矢 Thỉ mũi tên
112 石 Thạch đá
113 示礻 Thị thần cúng tế, chỉ bảo
114 禸 Nhữu dấu chân
115 禾 Hoà (cây) lúa
116 穴 Huyệt hang, lỗ,
Bài giảng Văn bản Hán văn Việt Nam (VNH) 19
hốc 117 立 Lập đứng
06 nét
118 竹 Trúc Trúc, tre
119 米 Mễ gạo
120 糸纟糹
Mịch sợi tơ
121 缶 Phẫu (cái) vò
122 网罒 Võng lưới
123 羊 Dương (con) dê
124 羽 Vũ Lông (vũ)
125 老耂 Lão Già
126 而 Nhi mà (liên từ)
127 耒 Lỗi nông cụ
128 耳 Nhĩ Tai
129 聿肀 Duật (cái) bút
130 肉月 Nhục thịt
131 臣 Thần bề tôi
132 自 Tự tự mình
133 至 Chí đến, tới
134 臼臽 Cữu cối
135 舌 Thiệt lưỡi
136 舛 Suyễn trái ngược
137 舟 Chu Thuyền
138 艮 Cấn xuềnh xoàng, mộc mạc
139 色 Sắc màu sắc, sắc đẹp
140 艸艹 Thảo cỏ
141 虍 Hô vằn vện
142 虫 Trùng sâu bọ
143 血 Huyết Máu
144 行 Hành Đi
145 衣衤 Y Áo
146 襾西覀
Á cái nắp, đậy
07 nét
147 見见 Kiến thấy
148 角 Giác sừng
149 讠訁 Ngôn nói
150 谷 Cốc hang
151 豆 Đậu dụng cụ chứa đựng
152 豕 Thỉ lợn
153 豸 Trãi loài thú
154 貝贝 Bối vỏ sò, tiền của, của quí
155 赤 Xích đỏ
156 走 Tẩu chạy
157 足 Túc Chân
158 身 Thân thân, mình
159 車车 Xa xe
160 辛 Tân Cay
161 辰 Thần giờ, lúc
162 辵辶 Xước đi, vận chuyển
163 邑阝 Ấp đô thị, đô ấp
164 酉 Dậu thuộc về rượu
165 釆 Biện phân tích
166 里 Lí làng quê
08 nét
167 金钅釒
Kim vàng, kim loại
168 長长 Trường dài
169 門门 Môn cửa (hai cánh)
170 阝阜 Phụ gò đống
171 隶 Đãi kịp
172 隹 Chuy chim non
173 雨 Vũ mưa
174 靑 Thanh xanh
175 非 Phi không phải
09 nét
Bài giảng Văn bản Hán văn Việt Nam (VNH) 20
176 面 Diện mặt
177 革 Cách Da
178 韦韋 Vi da mềm, da thuộc
179 韭 Cửu hành hạ
180 音 Âm tiếng
181 頁页 Hiệt đầu người
182 風风 Phong Gió
183 飛飞 Phi Bay
184 食饣飠
Thực Ăn
185 首 Thủ (cái) đầu
186 香 Hương Mùi thơm
10 nét
187 馬马 Mã ngựa
188 骨 Cốt xương
189 高 Cao Cao
190 髟 Bưu tóc dài
191 鬥 Đấu đánh nhau
192 鬯 Sưởng ủ rượu, ngâm ủ
193 鬲 Cách nồi, chõ
194 鬼 Quỷ Ma
11 nét
195 魚鱼 Ngư Cá
196 鳥鸟 Điểu Chim
197 鹵 Lỗ muối, mặn
198 鹿 Lộc hươu nai
199 麦 Mạch Lúa
200 黄 Hoàng (màu vàng)
12 nét
201 黍 Thử lúa nếp
202 齒齿 Xỉ Răng
203 麻 Ma (cây) gai
204 黑黒 Hắc đen, tối
13 nét
205 黹 Trĩ (chỉ) thêu thùa
206 黽黾 Mãnh loài bò sát
207 鼎 Đỉnh đỉnh vạc
208 鼓 Cổ trống
14 nét
209 鼠 Thử chuột
210 鼻 Tị Mũi
15 nét
211 齊齐 Tề đều đặn, bằng nhau
16 nét
212 龍龙 Long rồng
17 nét
213 龜龟 Qui rùa
214 龠 Dược ống sáo
Bài giảng Văn bản Hán văn Việt Nam (VNH) 21
Bài 3
THƠ CHỮ HÁN HỒ CHÍ MINH
獄獄獄獄 中中中中 日日日日 記記記記 題題題題 詞詞詞詞 身 体 � 獄 中
精 神 � 獄 外
欲 成 大 事 業
精 神 更 要 大
暮暮暮暮 倦 鳥 歸 林 尋 宿 樹
孤 雲 慢 慢 渡 天 空
山 村 少 女 磨 # 粟
# 粟磨 完 爐 已 紅
望望望望 月月月月
獄 中 無 酒 亦 無 花
對 此 良 宵 奈 若 何
人 5 窗 7 看 明 月
月 從 窗 隙 看 詩 家
���� 捷捷捷捷
月 推 窗 @ 詩 成 未
軍 C 仍 忙 未 做 詩
山 樓 鍾 I 驚 秋 L
正 是 聯 P Q 捷 時
Bài giảng Văn bản Hán văn Việt Nam (VNH) 22
Bài 4
NAM QUỐC SƠN HÀ
���� ���� 山山山山 河河河河
� � 山 河 � 帝 居
截 然 定 � � 天 書
如 何 逆 虜 � 侵 犯
汝 等 行 看 � 敗 虛
Bài 5
CẢM HOÀI
感感感感 懷懷懷懷
世 事 悠 悠 奈 老 何
無 窮 天 $ 入 酣 歌
時 � 屠 釣 成 , 易
運 / 英 雄 飲 恨 多
致 主 有 怀 扶 $ 軸
洗 < 無 路 挽 天 河
� 讎 未 A 頭 C 白
幾 度 龍 泉 帶 月磨
鄧 容
Bài giảng Văn bản Hán văn Việt Nam (VNH) 23
Bài 6
CÁO TẬT THỊ CHÚNG
���� 疾疾疾疾 示示示示 眾眾眾眾
春 � 百 花 落
春 � 百 花 開
事 逐 眼 � 過
老 從 頭 � �
莫 謂 春 殘 花 落 盡
庭 � 昨 夜 一 枝 梅
滿 觉 禪 師 ! 李 長
Bài 7
GIANG THÔN THU VỌNG
江江江江 村村村村 秋秋秋秋 望望望望
披 衣 獨 自 立 江 阡
秋 色 誰 相 � 眼 邊
旅 雁 行 行 過 3 浦
客 帆 點 點 落 晴 天
溪 頭 佛 寺 依 紅 葉
竹 外 人 家 隔 淡 煙
日 暮 誰 知 J K 處
綠 雲 暗 野 看 豐 年
裴 宗 讙
Bài giảng Văn bản Hán văn Việt Nam (VNH) 24
Bài 8
QUY HỨNG
歸歸歸歸 興興興興
老 桑 葉 落 蠶 方 盡
早 稻 花 香 蟹 正 肥
見 說 � 家 貧 亦 好
江 � 雖 樂 不 如 歸
阮 忠 彥
Bài 9 TIỄN SỨ GIẢ LÝ GIÁC
餞餞餞餞 使使使使 者者者者 李李李李 觉觉觉觉
祥 " 風 好 錦 帆 張
遙 望 神 仙 復 帝 鄉
萬 重 山 水 涉 滄 浪
九 天 歸 路 長
情 慘 ;
對 離 觴
攀 戀 使 星 郎
願 將 深 意 為 邊 疆
K 明 奏 我 皇 P 真 流
Bài giảng Văn bản Hán văn Việt Nam (VNH) 25
Bài 10
HÓA THÀNH THẦN CHUNG
���� ���� 晨晨晨晨 鍾鍾鍾鍾
遠 遠 從 � 寺
� � 落 客 篷
潮 生 天 曉
月 白 又 江 空
阮 非 �
Bài 11 NGUYÊN ĐÁN
���� 日日日日 旅 館 客 仍 �
� 年 春 復 �
歸 期 何 日 是
老 盡 故 ( 梅
黎 景 詢
Bài giảng Văn bản Hán văn Việt Nam (VNH) 26
Bài 12
SƠ HẠ
���� 夏夏夏夏 山 宇 寥 寥 晝 � �
微 涼 一 線 起 庭 槐
燕 尋 故 � 相 將 �
蟬 � 新 聲 斷 續 �
點 水 溪 蓮 無 俗 態
$ 籬 野 筍 不 ) 材
棲 梧 靜 極 還 成 懶
案 3 殘 書 風 自 開 朱 文 安
Bài 13
ĐỘC TIỂU THANH KÍ
讀讀讀讀 小小小小 聲聲聲聲 記記記記 西 湖 花 苑 盡 成 A
獨 弔 窗 E 一 紙 書
脂 粉 有 神 憐 死 後
文 章 無 O 累 焚 餘
S 今 恨 事 天 難 Y
風 韻 奇 \ 我 自 居
不 知 ` 百 餘 年 後
天 c 何 人 泣 素 如
阮 攸
Bài giảng Văn bản Hán văn Việt Nam (VNH) 27
Bài 14
ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH ĐỀ TỪ
斷斷斷斷 腸腸腸腸 新新新新 聲聲聲聲 題題題題 辭辭辭辭 佳 人 不 是 � 錢 �
世 煙 花 未 � 玉 面 豈 應 � 水 �
� 心 自 � 對 金 郎
斷 腸 裏 根 緣 了 薄 & 琴 終 怨 恨 長
一 片 才 情 0 1 累 新 聲 � 底 為 誰 8
范范范范 貴貴貴貴 適適適適
Bài 15 TỤNG GIÁ HOÀN KINH SƯ
從從從從 駕駕駕駕 還還還還 京京京京 師師師師 9 槊 章 陽 渡
擒 胡 鹹 子 關 太 平 須 致 力
(須 /當,致 /L ) 萬 1 此 江 山
陳 S T
Bài giảng Văn bản Hán văn Việt Nam (VNH) 28
Bài 16
THUẬT HOÀI
述述述述 怀怀怀怀
橫 槊 江 山 恰 幾 秋
軍 貔 虎 氣 � 牛
男 兒 未 了 � � �
羞 聽 人 間 說 武 侯 范 伍 老
Bài 17
THIÊN ĐÔ CHIẾU
遷遷遷遷 都都都都 詔詔詔詔 ���� 李李李李 太太太太 祖祖祖祖 Lyï Thaïi Täø (974 - 1028)
昔 " 家 至 盤 庚 五 遷, * 室 逮 成 王 徙0
豈 代 之 數 5 俱 徇 己 私 妄 自 遷 徙? 以 > 宅
中 A 大, 為 萬 E 世 子 孫 之 計0 J 謹 天 M N
O 民 願, 苟 便 輒 改, 故 W 祚 延 長, 風 俗 富
阜0 而 丁 黎 二 氏 乃 徇 己 私,忽 天 M, 罔 蹈
" * 之 跡, 常 安 k 邑 于 茲; 致 世 代 弗 長,
算 數 短 促, 百 姓 耗 損, 萬 物 失 宜0 朕 甚 痛
之, 不 得 不 徙0 況 高 王 故 都 大 羅 �, 宅 天
� � � 之 中, 得 龍 蟠 虎 踞 之 �, 正 � � 東
西 之 位, 便 江 山 � 背 之 宜; > � 廣 而 �
Bài giảng Văn bản Hán văn Việt Nam (VNH) 29
平, � 土 高 而 爽 愷, 民 居 蔑 昏 � 之 �, 萬
物 極 蕃 阜 之 豐� 遍 覽 越 邦, 斯 為 � �� 誠
! 方 輻 輳 之 要 會 , 為 萬 世 帝 王 之 * 都 � 朕
欲 . 此 � 0 以 定 � 居, 3 等 以 為 何 如 ?
Bài 18
BẠCH ĐẰNG GIANG PHÚ
白白白白 滕滕滕滕 江江江江 賦賦賦賦 ���� 張張張張 漢漢漢漢 超超超超 客 有﹕ 掛 汗 漫 之 風 ?, 拾 浩 蕩 之 海 月,
朝 戛 舷 H 沅 湘, 暮 幽 探 H 禹 穴� 九 江 五
湖, T U 百 粵� 人 跡 所 至, 靡 不 經 閱, 胸
a 雲 c 者 數 百, 而 ! 方 f 志 猶 闕 如 也� 乃
舉 楫 H 中 流, 從 子 長 之 遠 游� 涉 大 灘 口,
溯 東 潮 頭, 抵 白 藤 江, 是 泛 是 浮� 接 鯨 波
於 無 際, 蘸 鷂 尾 之 相 繆� 水 天 一 色, 風 景
T 秋� 渚 荻 岸 蘆, 瑟 瑟 颼 颼� 折 戟 沉 江,
枯 骨 盈 邱� 慘 然 不 樂, ¤ 立 ¦ 眸� 念 豪 ª
之 已 往, 蹤 跡 之 空 留� 江 邊 父 老 謂 我 何
求? 或 扶 蔾 杖, 或 掉 孤 舟, 楫 余 而 言 曰﹕
此 重 興 二 聖 擒 烏 馬 兒 之 戰 �, 與 昔 時 U 主
破 Ð 弘 操 之 故 洲 也� 當 Ö﹕ 舳 艫 Ù 里, 旌
旗 旖 旎� 貔 貅 á 軍, ã ä 蜂 起, 雌 雄 未
決, ë ì 對 î� 日 月 昏 H 無 ð, 天 � ñ H
將 毀� 彼 必 烈 之 ÷ 疆, Ð 龔 之 計 詭� 自 謂
投 鞭, � 掃 ë 紀� 既 而﹕ 皇 天 � 順, � 徒
Bài giảng Văn bản Hán văn Việt Nam (VNH) 30
披 靡� 孟 德 赤 � 之 師, 談 笑 飛 灰� 苻 � �
淝 之 陣, 須 臾 送 死� 至 今 江 流, 終 不 雪
恥� ! 造 之 #, $ % 稱 美� 雖 然﹕ 自 有 宇
宙, / 有 江 山� 信 天 3 之 設 險, 賴 人 8 以
奠 安� 孟 津 之 會, 鷹 揚 若 A� 濰 水 之 戰,
E 士 如 韓� 惟 此 江 而 大 捷, 由 大 王 之 賊
閑� 英 風 T 想, 口 碑 不 X� 懷 % 人 Z 隕
涕, 臨 江 流 Z ^ 顏� 行 且 歌 曰﹕“大 江 Z
滾 滾, 洪 濤 巨 浪 Z 朝 宗 無 盡� 仁 人 Z 聞
p, q 人 Z 俱 泯�” 客 從 而 賡 歌 曰﹕ “ 二
聖 Z z 明, 就 此 江 Z 洗 甲 �� 胡 � 不 敢 �
Z, $ % 昇 平� 信 知﹕ 不 � 關 河 之 險 Z,
惟 � 懿 德 之 莫 京 �
Bài 19
DỤ CHƯ TÌ TƯỚNG HỊCH VĂN
諭諭諭諭 諸諸諸諸 裨裨裨裨 將將將將 檄檄檄檄 文文文文 ���� 陳 � 俊
余 常 聞 之 ﹕ 紀 信 以 身 代 死 而 脫 高 帝 ,
由 于 以 背 � 戈 而 蔽 昭 王 , 豫 讓 � 炭 而 復 主
讎 , 申 蒯 斷 臂 而 赴 E 難 ; 敬 德 一 小 生 也 ,
身 翼 太 宗 而 得 ± 世 ³ 之 ´ , 杲 ¶ 一 遠 臣
也 , 口 罵 祿 山 不 從 逆 賊 之 計 � 自 % 忠 臣
義 土 以 身 殉 E , 何 代 之?
設 使 數 Å Å 為 兒 女 子 之 態 , 徒 死 牖
Í , 烏 能 p z 竹 帛 与 天 Ó 相 為 不 朽 Ö ?
Bài giảng Văn bản Hán văn Việt Nam (VNH) 31
汝 等 世 為 將 种 , 不 曉 文 義, 既 聞 �
說 , 疑 信 相 � ; � � 之 事 , 姑 且 �
論 , 今 余 以 宋 韃 之 事 言 之 % 王 ' ( 何 人
也 ? � 裨 將 阮 文 立 又 何 人 也? 以 釣 魚 鎖 鎖
斗 大 之 6 當 蒙 9 : : 百 < 之 鋒 , 使 宋
之 生 靈 至 今 B 賜 % 骨 殆 F 郎 何 人 也 ?
� 裨 將 斥 修 斯 又 何 人 也? K 瘴 癘 於 < 里
之 途 , 蹶 R 詔 於 數 旬 之 頃 , 使 韃 之 W
長 至 今 留 Z % 況 余 与 汝 等 生 於 撓 攘 之
秋 , 長 於 艱 難 之 際 , c 見 e 使 往 g 道
途 旁 j 掉 鴞 烏 之 寸 舌 而 q 辱 朝 廷 , 委
犬 羊 之 尺 軀 而 倨 傲 宰 輔 , 托 蒙 � 主 之
� 而 索 玉 帛 以 事 無 己 之 誅 求 , 假 雲 R
王 之 號 而 需 金 銀 以 偈 有 限 之 帑 庫 , 譬
猶 以 肉 投 餒 虎, 寧 能 � 迻 患 也 � ?
Bài 20
BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO
平平平平 ���� 大大大大 ���� ���� 阮 廌
代 天 行 ¢ 皇 ¤ 若 曰%
蓋 聞﹕ 仁 義 之 舉, 要 ¬ 安 民, 弔 伐 之 師
莫 � ³ 暴% 惟, 我 大 越 之 ¸, 實 為 文 獻 之
邦% 山 川 之 封 ¿ 既 殊, R Á 之 風 俗 亦 異%
自 趙 丁 李 陳 之 肇 造 我 ¸, 與 漢 Ï 宋 Ð 而 Ñ
Bài giảng Văn bản Hán văn Việt Nam (VNH) 32
帝 一 方� 雖 強 弱 時 有 不 � 而 豪 � 世 未 常
乏� 故 � 龔 貪 � 以 � 敗, 而 趙 � 好 大 以 促
亡� # 都 既 擒 於 鹹 子 關, 烏 馬 又 殪 於 白 藤
海� 嵇 諸 往 5, 6 有 明 徵� 頃 : 胡 政 之 煩
苛� 至 使 人 心 之 怨 E� 狂 明 伺 隙, : 以 毒
我 民; 惡 黨 懷 奸, 竟 以 賣 我 S� 焮 蒼 生 於
虐 焰, 陷 赤 子 於 禍 \� 欺 天 罔 民, 詭 計 蓋
c 萬 狀; 連 g 結 釁 稔 惡 殆 二 十 年� 敗 義 p
仁, 乾 s 幾 乎 欲 息; 重 科 z 歛, 山 澤 靡 有
孑 遺� 開 金 � � � 嵐 瘴 而 斧 山 淘 沙, 採 明
珠 � 觸 蛟 龍 而 緪 腰 汆 海� 擾 民 設 玄 鹿 之 陷
阱, 殄 物 織 翠 禽 之 網 羅� 昆 虫 草 木 皆 不 得
以 遂 ¦ 生, 鰥 寡 顛 連 俱 不 獲 以 安 ¦ 所� 浚
生 靈 之 血 以 潤 桀 黠 之 ´ 牙; 極 土 木 之 � 以
崇 ¹ 私 之 廨 宇� 州 里 之 征 徭 重 Á, 閭 閻 之
杼 柚 皆 空� 決 東 海 之 水 不 足 以 濯 ¦ 污, 罄
Î 山 之 竹 不 足 以 書 ¦ 惡� 神 民 之 所 Ò 憤,
天 Ô 之 所 不 容� 予 × 跡 藍 山, 棲 身 荒 野�
念 世 讎 豈 á Ò 戴, 誓 逆 賊 難 與 俱 生� 痛 心
疾 首 者 ì 十 餘 年, î 膽 臥 薪 者 蓋 非 一 日�
發 憤 忘 食, 每 研 覃 韜 略 之 書, ü 5 驗 今,
細 推 究 興 亡 之 理� � � 之 志 寤 寐 不 忘� 當
義 旗 起 之 時, 正 賊 � 方 張 之 日� 奈 以﹕
人 才 秋 葉, 俊 � 晨 星� 奔 走 � 後 者 既 乏 ¦
人, 謀 謨 帷 幄 者 又 寡 ¦ "� 特 以 救 民 之
Bài giảng Văn bản Hán văn Việt Nam (VNH) 33
念, 每 鬱 鬱 而 欲 東; 故 於 待 賢 之 車, 常 汲
汲 已 虛 左� 然 � 得 人 之 效 茫 若 望 洋, 由 己
之 誠 甚 於 拯 溺� 憤 & 徒 之 未 滅, 念 * 步 之
遭 迍� 靈 山 之 食 盡 2 旬, 瑰 縣 之 眾 無 一
旅� 蓋 天 欲 < 我 以 降 @ 任, 故 予 益 D 志 以
濟 于 難� 揭 竿 為 旗, 氓 隸 之 徒 O 集 ; 投 醪 饗
士, 父 子 之 X 一 心� 以 弱 [ 彊, 或 攻 人 之
不 `; 以 寡 敵 眾 常 設 伏 以 e 奇� g 能 以 大
義 而 k & 殘, 以 至 仁 而 易 彊 暴� 蒲 藤 之 霆
驅 電 掣, 茶 麟 之 竹 破 灰 飛� 士 氣 以 之 益
~, 軍 聲 以 之 大 振� 陳 智 山 � 聞 風 而 褫
魄, 李 安 方 政 假 息 以 偷 生� 乘 k 長 驅, 西
京 既 為 我 有; 選 鋒 進 �, 東 都 盡 復 舊 疆�
寧 橋 之 血 成 川, 流 腥 萬 里; 窣 洞 之 屍 積
野, 遺 臭 ¯ 年� 陳 洽 賊 之 腹 心, 既 梟 �
首; 李 亮 賊 之 奸 蠹, 又 暴 @ 屍� 王 通 理 ½
而 焚 者 益 焚, 馬 瑛 救 鬥 而 怒 者 益 怒� 彼 智
窮 而 力 盡, 束 手 待 亡; 我 謀 伐 而 心 攻, 不
戰 自 屈� 謂 彼 必 易 心 而 改 慮, 豈 意 復 作 孽
以 速 辜� Ú 一 己 之 見 以 嫁 禍 於 他 人, 貪 一
時 之 á 以 貽 笑 於 天 ä� 遂 令 宣 德 之 狡 童,
黷 X 無 ì; 仍 î 晟 昇 之 懦 將, 以 油 救 焚�
丁 未 九 月 柳 昇 遂 引 X 猶 邱 溫 而 進, 本 年 十
月 木 晟 又 � 途 自 雲 � 而 �� 予 � 既 選 X �
險 以 摧 � 鋒, 予 後 � 調 X 截 路 以 斷 � 食�
Bài giảng Văn bản Hán văn Việt Nam (VNH) 34
本 月 十 八 日 柳 昇 為 我 軍 所 攻, 計 � 於 支 稜
之 野; 本 月 二 十 日 柳 昇 又 為 我 軍 所 敗, 身
死 於 馬 鞍 之 山� 二 十 五 日 保 定 伯 梁 銘 陣 陷
而 ) 軀, 二 十 八 日 尚 書 李 慶 計 窮 而 0 首�
我 遂 迎 4 而 解, 彼 自 倒 戈 相 攻� 繼 而 < 面
添 ? 以 A B, 期 以 十 月 中 旬 而 殄 滅� 爰 選
貔 貅 之 士, 申 N 爪 牙 之 臣� 飲 象 而 河 水
乾, 磨 刀 而 山 石 鈌� 一 鼓 而 黥 ^ 鱷 斷, a
鼓 而 鳥 散 麇 驚� 決 潰 蟻 於 崩 j, 振 l 風 於
稿 葉� 都 督 崔 聚 膝 行 而 送 款, 尚 書 黃 福 面
縛 以 就 擒� } 屍 � 諒 江 諒 山 之 途, 戰 血 赤
昌 江 平 灘 之 水� 風 雲 為 之 變 色, 日 月 慘 以
無 �� � 雲 � ? 為 我 軍 所 扼 於 梨 花, 自 恫
疑 虛 � 而 � 以 破 腑; � 沐 晟 眾 聞 柳 昇 為 我
軍 所 敗 於 芹 站, 遂 躪 藉 奔 潰 而 ¤ 得 脫 身�
§ 溝 之 血 杵 漂, 江 水 為 之 « ¬; 丹 舍 之 屍
山 積, 野 草 為 之 殷 紅� ³ 路 救 ? 既 不 旋 踵
而 俱 敗, » ¼ 窮 寇 亦 將 解 甲 以 Á 降� 賊 首
成 擒, 彼 既 掉 餓 虎 乞 憐 之 尾; 神 武 不 殺,
予 亦 體 Ð 帝 孝 生 之 心� Õ 將 方 政, Ø 官 馬
騏, � 給 艦 五 百 餘 艘, 既 渡 海 而 猶 且 魂 飛
魄 散; 總 ? 王 通, Õ 政 馬 瑛, 又 給 馬 數 ì
餘 í, 已 還 ð 而 益 自 股 慄 心 驚� 彼 既 畏 死
貪 生, 而 修 好 有 誠; 予 以 ú 軍 為 Ð, 而 欲
Bài giảng Văn bản Hán văn Việt Nam (VNH) 35
民 之 得 息� 非 惟 謀 計 之 極 � 深 遠, 蓋 亦 �
今 之 所 未 見 聞�
社 稷 以 之 奠 安 , 山 川 以 之 改 觀 � 乾 "
既 $ 而 復 泰 , 日 月 既 晦 而 復 明 � 于 以 開 萬
世 太 平 之 2 , 于 以 雪 天 5 無 窮 之 恥 � 是 由
天 5 祖 宗 之 靈 有 以 默 相 陰 佑 而 致 然 也 !
於 戲! 一 戎 大 定, 迄 成 無 競 之 P; R 海
永 清, 誕 布 維 新 之 誥� 播 \ 遐 邇, _ 使 聞
知�