BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf ·...

121
i BTHƯƠNG MI BÁO CÁO HIN TRNG THƯƠNG MI ĐIN TVIT NAM NĂM 2004 HÀ NI, THÁNG 4 NĂM 2004

Transcript of BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf ·...

Page 1: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

i

BỘ THƯƠNG MẠI

BÁO CÁO

HIỆN TRẠNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ VIỆT NAM NĂM 2004

HÀ NỘI, THÁNG 4 NĂM 2004

Page 2: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

ii

LỜI MỞ ĐẦU Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại điện tử, hàng năm Bộ Thương mại tiến hành điều tra hiện trạng về thương mại điện tử nhằm cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách, các doanh nghiệp, các nhà nghiên cứu và đông đảo các đối tượng khác bức tranh chân thực về tình hình phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam. Báo cáo Hiện trạng phát triển Thương mại điện tử ở Việt Nam năm 2003 cho thấy thương mại điện tử đã hình thành và phát triển khá nhanh, đồng thời chỉ ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết ở tầm vĩ mô. Báo cáo Hiện trạng phát triển Thương mại điện tử ở Việt Nam năm 2004 do Vụ Thương mại điện tử chủ trì đã phản ánh nhiều khía cạnh liên quan tới tình hình phát triển thương mại điện tử trong năm 2004 ở nước ta. So sánh với năm 2003 chúng ta có thể thấy rõ thương mại điện tử ở nước ta đã vươn lên tầm cao mới, góp phần nhất định vào sự phát triển thương mại của đất nước. Một số bộ ngành, các cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức từ trung ương tới địa phương, đặc biệt là Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt nam, đã phối hợp, giúp đỡ Vụ Thương mại điện tử xây dựng Báo cáo này. Rất nhiều doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực kinh doanh trên phạm vi cả nước đã nhiệt tình tham gia hoạt động điều tra, phỏng vấn. Thay mặt lãnh đạo Bộ Thương mại tôi xin bày tỏ lòng cám ơn chân thành tới tất cả các tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân đã giúp đỡ chúng tôi hoàn thành Báo cáo này. Chúng tôi cũng xin cám ơn các ý kiến góp ý cho Báo cáo Hiện trạng phát triển Thương mại điện tử năm 2004 để rút kinh nghiệm cho hoạt động này của năm 2005 được tốt hơn. Mùa Xuân năm 2005

Lê Danh Vĩnh

Thứ trưởng Bộ Thương mại

Page 3: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

iii

MỤC LỤC

Lời mở đầu Mục lục hộp minh hoạ Mục lục bảng Mục lục đồ thị Tổng quan tình hình thương mại điện tử Việt Nam năm 2004

Phần thứ nhất Tổng quan về CNTT và viễn thông gắn với thương mại điện tử

1. Công nghệ thông tin 1.1. Tình hình ban hành chính sách 1.2. Tình hình phát triển và triển khai các chính sách về CNTT

2. Viễn thông và Internet 2.1. Tình hình ban hành chính sách 2.2. Tình hình hạ tầng viễn thông 2.3. Tình hình Internet

3. Một số công nghệ liên quan tới phát triển CNTT và Internet 3.1. Trao đổi dữ liệu điện tử (EDI) 3.2. Chữ ký điện tử và chứng thực điện tử 3.3. Phần mềm nguồn mở

4. Một số vấn đề khác 4.1. Sở hữu trí tuệ 4.2. An ninh mạng

Phần thứ hai

Môi trường chính sách và pháp luật về Thương mại điện tử 1. Tình hình chung 2. Tình hình xây dựng các chiến lược, kế hoạch liên quan tới TMĐT

2.1. Chiến lược phát triển Công nghệ thông tin và Truyền thông (CNTT&TT) 2.2. Kế hoạch tổng thể Phát triển Thương mại điện tử giai đoạn 2006 – 2010 2.3. Kế hoạch tổng thể phát triển CPĐT tới năm 2010

3. Pháp lệnh thương mại điện tử và Luật giao dịch điện tử 3.1. Pháp lệnh thương mại điện tử 3.2. Luật giao dịch điện tử

4. Một số luật và chính sách liên quan tới TMĐT 4.1. Pháp luật về quảng cáo 4.2. Luật Kế toán 4.3. Bộ luật Dân sự (sửa đổi) 4.4. Luật Thương mại (sửa đổi) 4.5. Luật Công nghệ thông tin

5. Một số văn bản pháp lý khác 5.1. Nghị định về chữ ký số và dịch vụ chứng thực điện tử 5.2. Nghị định về nghiên cứu, sản xuất, kinh doanh và sử dụng mật mã bảo vệ

ii vii viii ix ix

1 1 4 5 5 6 7 14 14 16 19 20 20 21

23 24 24 25 25 26 26 27 28 28 29 29 30 31 32 32 33

Page 4: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

iv

thông tin không thuộc phạm vi bí mật nhà nước 6. Các chính sách liên quan tới cung cấp dịch vụ gắn với TMĐT

6.1. Nghị định số 55/2001/NĐ-CP về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet

6.2. Thanh toán điện tử 6.3. Thủ tục hải quan, thuế điện tử 6.4. Các thủ tục cấp phép điện tử cho các hoạt động đầu tư, thương mại 6.5. Pháp luật về sở hữu trí tuệ 6.6. Pháp luật về chứng cứ 6.7. Tội phạm trên mạng

Phần thứ ba

Tình hình ứng dụng thương mại điện tử trong doanh nghiệp 1. Tổng quan tình hình ứng dụng CNTT và TMĐT

1.1. Tình hình ứng dụng CNTT trong doanh nghiệp 1.1.1. Kết nối Internet 1.1.2. Cơ cấu đầu tư CNTT 1.1.3. Phát triển nguồn nhân lực cho CNTT và TMĐT trong doanh nghiệp

1.2. Các công ty thiết lập website TMĐT 1.2.1. Tình hình chung 1.2.2. Tính năng TMĐT của trang web 1.2.3. Lựa chọn mô hình kinh doanh TMĐT 1.2.4. Hiệu quả đầu tư cho TMĐT

2. Các hình thức tổ chức website 2.1. Website công ty 2.2. Siêu thị trực tuyến (bán hàng tổng hợp)

3. Những hàng hóa phổ biến trên mạng hiện nay 3.1. Sản phẩm có độ tiêu chuẩn hóa cao 3.2. Sản phẩm số hóa 3.3. Sản phẩm thông tin 3.4. Thiếp, hoa, quà tặng 3.5. Hàng thủ công mỹ nghệ

4. Những dịch vụ ứng dụng TMĐT 4.1. Dịch vụ CNTT 4.2. Dịch vụ du lịch 4.3. Dịch vụ thông tin 4.4. Dịch vụ tư vấn 4.5. Dịch vụ giáo dục và đào tạo trực tuyến

Phần thứ tư

Một số dịch vụ hỗ trợ thương mại điện tử 1. Dịch vụ “chợ” trên mạng (các website cung cấp dịch vụ trung gian mua bán,

còn gọi là sàn giao dịch TMĐT)

33 33

34 35 37 38 38 39

41 42 42 44 45 45 46 48 48 49 50 50 54 59 59 60 62 63 63 65 65 67 68 70 72

74

Page 5: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

v

1.1. Tình hình phát triển chung 1.1.1. Về số lượng 1.1.2. Về trình độ tổ chức 1.1.3. Về hoạt động giao dịch thực tế tiến hành trên sàn

1.2. Các đơn vị đứng ra tổ chức và quản lý sàn 1.2.1. Tổ chức phi lợi nhuận 1.2.2. Doanh nghiệp nhà nước 1.2.3. Doanh nghiệp tư nhân

1.3. Hình thức tổ chức sàn 1.3.1. Cổng thông tin về cơ hội giao thương (B2B) 1.3.2. Trung tâm thương mại (B2B và B2C) 1.3.3. Website đấu giá (C2C)

1.4. Tính chuyên môn hóa 1.5. Hiệu quả kinh tế của dịch vụ sàn giao dịch điện tử

2. Dịch vụ thanh toán điện tử 2.1. Trao đổi dữ liệu tài chính điện tử 2.2. Thanh toán ngoại tuyến (thanh toán bằng thẻ tại các điểm bán hàng/dịch

vụ) 2.3. Thanh toán trực tuyến

2.3.1. Giao dịch ngân hàng trực tuyến 2.3.2. Thanh toán mua hàng trên Internet bằng tài khoản hoặc thẻ của ngân

hàng Việt Nam 2.3.3. Hệ thống lập và thanh toán hóa đơn điện tử

2.4. Thanh toán di động

Phần thứ năm Kết luận và khuyến nghị

1. Kết luận 1.1. Phát triển CNTT và Internet 1.2. Ứng dụng TMĐT của các doanh nghiệp 1.3. Sự phát triển của các chợ “ảo” 1.4. Môi trường pháp lý 1.5. Các chính sách liên quan tới TMĐT 1.6. Vai trò của nhà nước còn mờ nhạt

2. Khuyến nghị 2.1. Cần hoàn thành và công bố rộng rãi Kế hoạch tổng thể phát triển TMĐT 2.2. Nhanh chóng tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi cho TMĐT 2.3. Thay đổi một số chính sách 2.4. Cung cấp các dịch vụ công trực tuyến 2.5. Phát triển nguồn nhân lực 2.6. Hỗ trợ nghiên cứu và chuyển giao công nghệ 2.7. Đầu tư cho thương mại điện tử 2.8. Kinh doanh điện tử và TMĐT

76 76 77 78 81 81 83 84 85 85 86 87 88 90 91 91 93

93 93 94

96 97

98 98 99 100 101 102 103 103 103 104 104 104 105 105 105 106

Page 6: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

vi

Phụ lục

Phụ lục 1: Tổng quan tình hình phát triển TMĐT trên thế giới Phụ lục 2: Ước tính số doanh nghiệp Việt Nam có trang web năm 2004 Phụ lục 3: Mẫu phiếu điều tra Phụ lục 4: Danh sách doanh nghiệp điều tra Phụ lục 4: Tóm tắt kết quả phỏng vấn ở các đơn vị và doanh nghiệp Phụ lục 5: Tóm tắt kiến nghị của doanh nghiệp qua phiếu điều tra

Page 7: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

vii

Mục lục hộp minh họa Hộp 1.1 1.2 1.3 1.4 1.5 1.6 1.7 1.8 2.1 2.2 2.3 2.4 2.5 2.6 2.7 2.8 2.9 2.10 2.11 3.1 3.2 3.3 3.4 3.5 3.6 4.1 4.2 4.3 4.4 4.5 4.6 4.7 4.8

Tình hình thực hiện các Quyết định của Thủ Tướng Chính phủ về thống kê CNTT và TT Mối quan hệ giữa trang web và TMĐT Sự chưa hợp lý của các quy định về quản lý tên miền Việt nam Quy định “Thiết lập website phải xin phép” và Thương mại điện tử Nhiều doanh nghiệp có nguy cơ bị phạt vì không có giấy phép thiết lập website Ứng dụng UN/EDIFATCT tại Bộ Thương mại Một hãng đi tiên phong trong lĩnh vực bảo mật Ý kiến về quy định đảm bảo an toàn, an ninh trong hoạt động Internet Quyết định của Quốc hội dừng triển khai Pháp lệnh TMĐT Ngừng ban hành Pháp lệnh TMĐT là một sự kiện CNTT năm 2004 Xu hướng xây dựng pháp luật về GDĐT trên thế giới Hành lang pháp lý cho giao kết hợp đồng điện tử Dự thảo Luật Thương mại (sửa đổi) và TMĐT Hội thảo về Nghị định chữ ký số Một dịch vụ thanh toán trực tuyến Triển khai thí điểm hệ thống kê khai hải quan điện tử Cam kết quốc tế về sở hữu trí tuệ của Việt nam Quy định về giá trị chứng cứ của thông điệp dữ liệu Tội phạm trên mạng Ước tính tỉ lệ kết nối Internet trong doanh nghiệp Trang chủ của website giới thiệu Công ty Xuất nhập khẩu Hòa Bình Catalogue máy tính trên Website của công ty Netsoft Đơn đặt hàng trực tuyến trên website của Công ty da giầy Hà Nội Minh họa về siêu thị trực tuyến của một công ty thương mại Minh họa về siêu thị trực tuyến của một công ty hoạt động dịch vụ Minh hoạ về hạ tầng công nghệ của một sàn TMĐT B2B Tình hình hoạt động của một sàn giao dịch thành lập trước năm 2004 Giới thiệu một sàn giao dịch mới thành lập trong năm 2004 Minh họa về một sàn giao dịch do tổ chức phi lợi nhuận thành lập Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ TMĐT tham gia tuyên truyền đào tạo T Một sàn giao dịch TMĐT tổ chức theo hình thức trung tâm thương mại Quy trình thanh toán của một số thẻ trả trước do doanh nghiệp phát hành Một mô hình thanh toán thẻ cho giao dịch trực tuyến

Trang

Page 8: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

viii

Mục lục bảng

Bảng 1.1 1.2 1.3 1.4 1.5 3.1 3.2 3.3 3.4 3.5 3.6 3.7 3.8 3.9 3.10 3.11 3.12 3.13 3.14 3.15 3.16 3.17 3.18 3.19 4.1 4.2

Một số mốc lớn về đường lối, chính sách CNTT Một số mốc lớn về đường lối, chính sách viễn thông và Internet Số người sử dụng Internet trên 10.000 dân Giá trị giao dịch thương mại sử dụng EDI (tỷ USD) Các nước dẫn đầu về vi phạm bản quyền năm 2003 Nhóm đối tượng điều tra chung phân theo ngành nghề kinh doanh Nhóm doanh nghiệp có website phân theo ngành nghề kinh doanh Cơ cấu đầu tư CNTT trong các doanh nghiệp Tỷ lệ website phân theo nhóm sản phẩm/dịch vụ Tính năng thương mại điện tử của các website doanh nghiệp Việt Nam Các hình thức quảng bá website của doanh nghiệp Tỉ trọng chi CNTT trong tổng chi phí hoạt động thường niên của Doanh nghiệp Ước tính mức đóng góp vào tổng doanh thu của ứng dụng TMĐT trong doanh nghiệp Tỷ lệ website có các tính năng TMĐT - so sánh giữa website hàng hóa và dịch vụ Mức độ thường xuyên cập nhật của các loại website Cho điểm các tác dụng của website đối với hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp Giới thiệu một số siêu thị trực tuyến của Việt Nam Một số website kinh doanh thíêt bị điện tử và viễn thông Một số website cung cấp sản phấm số hóa Một số website kinh doanh sách trực tuyến Một số website kinh doanh hoa và quà tặng Một số website hàng thủ công mỹ nghệ Một số website du lịch Một số website cung cấp dịch vụ thông tin Danh sách các sàn thương mại điện tử của Việt Nam Xếp hạng một số sàn giao dịch theo tiêu chí của Alexa

Trang

Page 9: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

ix

Mục lục đồ thị

Hình 3.1 3.2 3.3 3.4 3.5 3.6 3.7 3.8 3.9 3.10 4.1 4.2

Các doanh nghiệp có website phân theo quy mô Hình thức truy cập website của các doanh nghiệp nói chung Hình thức truy cập Internet của các doanh nghiệp có website Tỷ trọng chi CNTT trong chi phí hoạt động thường niên của DN Các hình thức đào tạo CNTT trong doanh nghiệp Tỷ lệ website phân theo năm thành lập Tỷ lệ trang web tên miền Việt Nam và quốc tế trong từng thời kỳ Ước tính thời gian hoàn vốn cho đầu tư TMĐT của doanh nghiệp So sánh các tính năng TMĐT của nhóm website công ty và siêu thị trực tuyến Tỷ lệ các doanh nghiệp tham gia xây dựng siêu thị trực tuyến Tỷ lệ các website dịch vụ TMDT So sánh giải pháp liên kết tập trung và liên kết riêng lẻ cho hệ thống thanh toán thẻ trực tuyến

Trang

Từ viết tắt và giải thích từ ngữ

B2B: Giao dịch TMĐT giữa doanh nghiệp và doanh nghiêp B2C: Giao dịch TMĐT giữa cá nhân và doanh nghiệp C2C: Giao dịch TMĐT giữa cá nhân với cá nhân CA: Nhà cung cấp dịch vụ chứng thực điện tử (Certification Authority) CNTT: Công nghệ thông tin EDI: Chuẩn trao đổi dữ liệu điện tử (Electronic Data Interchange) GDDT: Giao dịch điện tử (Luật) PMNM: Phần mềm nguồn mở TMĐT: Thương mại điện tử

Page 10: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

x

TỔNG QUAN

TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ NĂM 2004

Về khía cạnh kinh doanh, thương mại điện tử ở Việt nam năm 2004 đã phát triển đáng kể so với năm 2003 trên nhiều lĩnh vực, từ hạ tầng CNTT và Internet tới các chợ “ảo” và thiết lập website của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, về khía cạnh tạo lập môi trường pháp lý thì năm 2004 chứng kiến việc xây dựng nhiều dự thảo văn bản pháp quy nhưng cuối cùng chưa có văn bản quan trọng nào được ban hành. Phát triển CNTT và Internet

Hạ tầng viễn thông đã tiến một bước lớn trong năm 2004. Kết nối quốc tế thông qua 6 hướng với tổng dung lượng tăng từ 1038 Mbps vào tháng 12/2003 lên 1892 Mbps vào tháng 12/2004. Đối với kết nối trong nước, từ năm 2003 các doanh nghiệp IXP đã thực hiện kết nối đồng cấp thông qua VNNIC của Trung tâm Internet Việt nam.

Đã có sự cạnh tranh đáng kể trong lĩnh vực viễn thông và Internet. Tới cuối năm 2004 đã có 6 doanh nghiệp được cấp phép cung cấp dịch vụ kết nối Internet (IXP) và 15 doanh nghiệp được cấp phép cung cấp dịch vụ truy nhập Internet, trong đó có 7 doanh nghiệp đã cung cấp dịch vụ cho khách hàng.

Tổng số thuê bao Internet đạt khoảng trên 2 triệu và số IP đã cấp là 0,45 triệu, thuê bao chủ yếu là dial-up. Đã có 4 nhà cung cấp dịch vụ ADSL cho khách hàng và có khoảng 35.000 thuê bao truy nhập Internet sử dụng băng thông rộng. Các loại hình dịch vụ truy nhập Internet mới như WiFi và GPRS cũng bắt đầu phát triển.

Số người sử dụng Internet đạt khoảng 6,2 triệu, mật độ người sử dụng Internet đạt khoảng 7,4%. Nếu so với số người sử dụng Internet vào cuối năm 2003 là 3,2 triệu người thì có thể thấy trong năm 2004 số người sử dụng đã tăng gần gấp đôi.

Số tên miền Việt nam đã tăng từ 2.300 năm 2002 lên 5.510 năm 2003 và 9.037 vào tháng 12/2004 với số tên miền cấp hai .COM và .NET khoảng 84%. Như vậy tốc độ tăng trưởng tên miền .VN năm 2004 khoảng 64%. Tuy nhiên sự tăng trưởng này chưa phản ánh sự tăng trưởng chung của số tên miền và số website của các doanh nghiệp Việt nam. Nếu tính cả các website có tên miền quốc tế thì tổng số doanh nghiệp có trang web vào cuối năm 2004 khoảng 17.500.

Về mặt công nghệ hỗ trợ cho TMĐT, cho tới năm 2004, trao đổi dữ liệu điện tử (EDI) hầu như chưa được áp dụng tại Việt nam trừ một số doanh nghiệp trong ngành ngân hàng, tài chính, vận tải biển đã sử dụng EDI để giao dịch với các đối tác nước ngoài và thực hiện các hoạt động nghiệp vụ trong nội bộ ngành. Năm 2004 đã chứng kiến sự quan tâm xây dựng chính sách, kế hoạch, tiêu chuẩn về EDI của các cơ quan quản lý nhà nước.

Trong năm 2004 nhiều công ty tin học trong nước cũng đã đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu, cung cấp dịch vụ liên quan tới vấn đề an toàn, bảo mật trong các

Page 11: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

xi

giao dịch TMĐT với công nghệ PKI và một số tổ chức, đơn vị đã đi tiên phong trong việc sử dụng công nghệ này trong các hoạt động chuyên môn trong bối cảnh chưa có văn bản pháp quy về chữ ký điện tử và chứng thực điện tử.

Nhiều công ty tin học đã ứng dụng mạnh mẽ phần mềm nguồn mở trong các hoạt động phát triển phần mềm phục vụ TMĐT. Tương tự như việc ứng dụng chữ ký điện tử, doanh nghiệp đã đi tiên phong trong ứng dụng công nghệ tiên tiến khi nhà nước chưa có chính sách rõ ràng và sự hỗ trợ cần thiết. Ứng dụng TMĐT của các doanh nghiệp

Kết quả khảo sát 303 doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực kinh doanh khác nhau cho thấy một tỉ lệ khá cao các doanh nghiệp đã có đầu tư bước đầu về ứng dụng CNTT, với 82,9% doanh nghiệp được hỏi có kết nối Internet và 25,32% đã thiết lập website. Có tới 16% các công ty có dự án phát triển TMĐT. Đây là tỷ lệ khá cao trong bối cảnh chung của nền kinh tế Việt nam.

Trong lĩnh vực công nghiệp CNTT và dịch vụ CNTT, có tới 54% doanh nghiệp đã thiết lập website để bán hàng và cung cấp các dịch vụ hỗ trợ khách hàng, 100% doanh nghiệp đã sử dụng email trong các giao dịch kinh doanh.

Với sự phát triển mau lẹ của dịch vụ truy cập Internet băng rộng với giá phải chăng, cách truy cập Internet của các doanh nghiệp trong năm 2004 đã thay đổi lớn so với năm 2003. Cụ thể, trong số doanh nghiệp được khảo sát có tới 16% doanh nghiệp có đường truyền riêng, 70% sử dụng ADSL và chỉ còn 14% doanh nghiệp sử dụng dial-up.

Trong năm 2004 cũng chứng kiến sự thay đổi về cơ cấu đầu tư cho CNTT của các doanh nghiệp. Tỷ lệ đầu tư cho phần cứng, phần mềm và đào tạo của các doanh nghiệp được điều tra tương ứng là 62%; 29% và 12%. Thay vì chú trọng đầu tư vào phần cứng như trước đây, các doanh nghiệp đã đầu tư nhiều hơn cho phần mềm và đào tạo. Tuy nhiên, số liệu điều tra cho thấy các tỷ lệ này còn chưa hợp lý và trong các năm tới cần đảo ngược tỷ lệ đầu tư cho phần cứng và phần mềm.

Trong khi số doanh nghiệp xây dựng website tăng rất nhanh thì có sự phân

tán lớn giữa các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực kinh doanh. Tỷ lệ doanh nghiệp sản xuất thiết lập website thấp hơn nhiều so với các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ. Thực tế là các doanh nghiệp dịch vụ, không kể quy mô, hiện đang là lực lượng năng động nhất triển khai ứng dụng TMĐT trong hoạt động kinh doanh của mình.

Kết quả điều tra 230 doanh nghiệp có website cho thấy trên 90% website này

mới chỉ dừng ở mức giới thiệu doanh nghiệp và sản phẩm. Khoảng trên 40% website có cung cấp thông tin về giá cả sản phẩm và cho phép liên hệ đặt hàng. Tuy nhiên, số website cho phép thanh toán trực tuyến bằng thẻ tín dụng hoặc chuyển khoản chỉ chiếm hơn 10%, phần lớn trong số này là các siêu thị trực tuyến và website cung cấp dịch vụ du lịch, ngân hàng, dịch vụ tin học và viễn thông.

Page 12: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

xii

Khi thiết lập website, 73,9% doanh nghiệp được hỏi cho biết đối tượng họ hướng tới là các công ty và tổ chức, còn những doanh nghiệp chú trọng tới đối tượng đại chúng chiếm một tỷ lệ thấp hơn. Điều này phù hợp với xu thế chung của thế giới là TMĐT B2B chiếm ưu thế vượt trội so với B2C trong lựa chọn chiến lược kinh doanh TMĐT của doanh nghiệp.

Đa số doanh nghiệp khi xây dựng website đã có ý thức quảng bá website của mình bằng nhiều hình thức như đăng ký website với một công cụ tìm kiếm trực tuyến, đăng ký vào danh bạ website do một tổ chức trong nước đứng ra tập hợp, quảng cáo website qua các phương tiện thông tin đại chúng và trao đổi liên kết (link) với những trang web khác. Tuy nhiên vẫn còn khoảng gần 20% doanh nghiệp chưa áp dụng biện pháp nào để quảng bá website.

Có tới 43,6% các công ty đánh giá chỉ mất dưới 2 năm để hoàn vốn cho đầu tư vào TMĐT, 39,7% cần 2 tới 5 năm. Chỉ có 16,7% các công ty đánh giá phải cần trên 5 năm để thu hồi vốn đầu tư. Như vậy, có thể thấy hiệu quả đầu tư cho TMĐT là cao.

Những hàng hoá và dịch vụ được giới thiệu, mua bán trên mạng nhiều nhất là: 1) những sản phẩm có độ tiêu chuẩn hoá cao như máy tính và linh kiện máy tính, thiết bị điện tử và viễn thông; 2) những sản phẩm có hàm lượng thông tin cao như sách báo, đĩa nhạc; 3) hàng hoá biểu trưng như vé máy bay, vé xem phim, thẻ quà tặng; 4) hàng thủ công mỹ nghệ; và 5) văn hoá phẩm và quà tặng. Sự phát triển của các chợ “ảo”

Đây là các website cung cấp dịch vụ trung gian mua bán hàng hoá dịch vụ. Những website này cung cấp dịch vụ trung gian mua bán được xây dựng không nhằm giới thiệu, quảng bá hay bán hàng của một công ty riêng lẻ, cũng không để bổ sung cho hệ thống phân phối sẵn có của một công ty thương mại dịch vụ, mà nhằm tạo ra một không gian chung kết nối nhiều người mua và nhiều người bán. Tham gia vào các website này sẽ có nhiều nhà cung cấp hàng hoá hay dịch vụ, nắm quyền chủ động tương đối cao với những thông tin sản phẩm của mình đưa trên chợ và có thể tự do tương tác với khách hàng là doanh nghiệp hoặc cá nhân cùng tham gia chợ.

Tình hình chung của các chợ “ảo” này trong năm 2004 là phát triển mạnh so với năm 2003 cả về số lượng, trình độ tổ chức, nền tảng công nghệ và hoạt động giao dịch thực tế tiến hành trên sàn. Nhìn chung hiệu quả kinh tế của các chợ này còn thấp, chưa đem lại nguồn thu cho các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ. Do đây là một lĩnh vực đầu tư mạo hiểm với thời gian hoàn vốn đòi hỏi khá dài, phần lớn doanh nghiệp triển khai dịch vụ sàn giao dịch điện tử phải dựa trên nền tảng là những hoạt động kinh doanh khác để tự nuôi sống mình. Môi trường pháp lý

Trước 2000, TMĐT còn là thuật ngữ pháp lý mới. Hệ thống pháp luật Việt Nam có quy định nhưng chưa thể hiện được bản chất và tầm quan trọng của TMĐT. Bộ Thương mại, Bộ Tư pháp cũng đã có một số nghiên cứu và đề xuất xây dựng chính sách và pháp luật lên Chính phủ. Tuy nhiên, chưa có văn bản pháp quy về

Page 13: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

xiii

TMĐT nào của Chính phủ hoặc Thủ Tướng Chính phủ được ban hành và trở thành nền tảng pháp lý hỗ trợ cho sự phát triển của TMĐT.

Trong giai đoạn 2000-2003, một số văn bản pháp lý chuyên ngành đã có những quy định khá cụ thể về giao dịch điện tử như Bộ luật Hình sự năm 2000, Luật Hải quan năm 2001, Pháp lệnh Quảng cáo năm 2001, những văn bản dưới luật trong lĩnh vực ngân hàng. Tuy nhiên, do nhận thức chưa toàn diện về TMĐT, các chế định pháp lý trên còn thiếu cơ sở pháp lý cụ thể, vì vậy dẫn tới việc khó áp dụng trên thực tế.

Những sự kiện đáng chú ý nhất liên quan tới việc tạo lập môi trường pháp lý trong năm 2004 liên quan tới việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật sau: * Pháp lệnh Thương mại điện tử

Tháng 1 năm 2002, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo Bộ Thương mại chủ trì Dự án Pháp lệnh TMĐT. Cuối năm 2003, Bộ Thương mại đã hoàn thành xong dự thảo cuối cùng (Dự thảo 6) của Pháp lệnh TMĐT và chuẩn bị thủ tục trình Chính phủ và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Văn bản này có mục đích tạo cơ sở pháp lý cho việc sử dụng thông điệp dữ liệu trong các hoạt động thương mại, từ đó gián tiếp thúc đẩy các ứng dụng khác nhau của TMĐT. Cuối năm 2003, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2004, trong đó không có Pháp lệnh TMĐT. Nghị quyết đã bổ sung Dự án Luật Giao dịch điện tử vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khoá XI (2002-2007). Tháng 10 năm 2004, Văn phòng Quốc hội đã thông báo ý kiến chỉ đạo của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về việc ngừng xây dựng Pháp lệnh TMĐT và thu hút nội dung Pháp lệnh vào Luật Giao dịch điện tử.

Có nhiều ý kiến khác nhau đối với quyết định ngừng ban hành Pháp lệnh TMĐT. Một số ý kiến cho rằng nên ban hành Pháp lệnh TMĐT vì đã hoàn thành về cơ bản nội dung Dự thảo, mặt khác, việc thi hành Pháp lệnh trên thực tế sẽ là kinh nghiệm quý giúp cho việc xây dựng Luật GDĐT mang tính khả thi hơn.

* Luật Giao dịch điện tử

Đầu năm 2004, Uỷ ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội khởi động Dự án xây dựng Luật Giao dịch điện tử (GDĐT). Tới cuối năm 2004, Ban Soạn thảo đã hoàn thành Dự thảo 6. Nếu kế hoạch xây dựng Luật Giao dịch điện tử được thực hiện tốt thì cuối năm 2005 Quốc hội sẽ thông qua Luật này. Đây được coi là thời điểm lịch sử của các giao dịch điện tử tại Việt nam, bao gồm các giao dịch điện tử trong lĩnh vực thương mại. Khi đó có thể coi thương mại điện tử sẽ chuyển từ giai đoạn hình thành và được chấp nhận chính thức sang giai đoạn ứng dụng rộng rãi và phát triển.

* Bộ luật Dân sự (sửa đổi)

Bộ luật Dân sự sửa đổi do Bộ Tư pháp soạn thảo, hiện đã hoàn thành dự thảo và trình lên Quốc hội. Dự kiến, Quốc hội sẽ xem xét, thông qua Bộ luật này giữa năm 2005. Dù đã đề cập tới hình thức giao dịch điện tử nhưng Dự thảo còn chưa phân biệt sự khác nhau giữa hình thức giao dịch bằng văn bản và hình thức giao

Page 14: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

xiv

dịch bằng thông điệp dữ liệu. Hơn nữa, các quy định về thông điệp dữ liệu trong Bộ luật Dân sự được xây dựng khá độc lập với Luật GDĐT, điều này tiềm ẩn khả năng sẽ có sự không thống nhất trong cách tiếp cận cùng một vấn đề.

* Luật Thương mại (sửa đổi)

Bộ Thương mại đã trình Chính phủ và Quốc hội Dự thảo Luật Thương mại (sửa đổi), trong đó đưa ra nguyên tắc thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu trong các hoạt động thương mại và yêu cầu Chính phủ hướng dẫn chi tiết khía cạnh kỹ thuật. Hiện Quốc hội đang xem xét Dự luật này và có khả năng sẽ thông qua trong kỳ họp giữa năm 2005.

Để cụ thể quy định mang tính nguyên tắc trong Luật Thương mại (sửa đổi) và Luật GDĐT, Bộ Thương mại đã đăng ký xây dựng Nghị định về TMĐT. Nghị định sẽ quy định chi tiết việc thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu trong các hoạt động thương mại. Theo kế hoạch, Nghị định sẽ được trình Chính phủ cuối năm 2005, tạo cơ sở pháp lý cho các ứng dụng TMĐT.

* Nghị định về chữ ký số và chứng thực điện tử

Đây là văn bản rất quan trọng đối với việc đảm bảo an toàn, bảo mật cho các giao dịch điện tử, trong đó có TMĐT. Nghị định này do Bộ Bưu chính Viễn thông chủ trì xây dựng sẽ tạo cơ sở pháp lý cho việc phát triển thị trường dịch vụ chứng thực điện tử qua việc thừa nhận giá trị pháp lý của chữ ký số trong các giao dịch điện tử.

Xuất phát từ quan điểm cần có định hướng phát triển của nhà nước, Nghị định quy định khá chặt chẽ đối với hoạt động cung cấp dịch vụ chứng thực điện tử. Còn khá nhiều ý kiến chưa thống nhất với các quy định trên, đặc biệt từ góc độ của các doanh nghiệp muốn tham gia kinh doanh dịch vụ chứng thực điện tử.

Bộ Bưu chính Viễn thông đã hoàn thành dự thảo Nghị định và trình Chính phủ vào tháng 12 năm 2004. Theo kế hoạch, Nghị định sẽ được ban hành trong năm 2005. Các chính sách liên quan tới TMĐT

Trong năm 2004 các doanh nghiệp và cộng đồng sử dụng Internet tranh luận rất nhiều về các quy định trong hai văn bản pháp quy liên quan chặt chẽ tới Internet và TMĐT. Đó là Quyết định số 92/2003/QĐ-BCVT của Bộ Bưu chính Viễn thông ban hành ngày 26/5/2003 Quy định về quản lý và sử dụng tài nguyên Internet. Những vấn đề chưa hợp lý liên quan tới sở hữu tên miền và các quyền liên quan như mua bán, quyền sở hữu trí tuệ như thương hiệu và chỉ dẫn địa lý, thủ tục đăng ký tên miền, giải quyết tranh chấp và phí đăng ký và sử dụng tên miền.

Văn bản thứ hai là Quyết định số 27/2002/QĐ-BVHTT ngày 10/10/2002 của Bộ Văn hoá Thông tin về Quy chế quản lý và cấp phép cung cấp thông tin, thiết lập trang thông tin điện tử trên Internet. Chính vì các quy định không phù hợp với thực tiễn nhưng lại không được cơ quan ban hành lắng nghe dư luận và sửa đổi nên Quyết định số 27/2002/QĐ-BVHTT là một trong những ví dụ điển hình về việc coi thường pháp luật của doanh nghiệp. Hầu hết các website vẫn tồn tại và phát triển

Page 15: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

xv

mà không cần tới giấy phép của Bộ Văn hoá Thông tin. Tuy nhiên, mọi doanh nghiệp và cá nhân muốn có một quy định mới, tránh cho họ tình trạng luôn luôn vi phạm pháp luật. Vai trò của nhà nước còn mờ nhạt

Báo cáo Hiện trạng phát triển thương mại điện tử năm 2003 đã nêu bật bốn kiến nghị của doanh nghiệp đối với các cơ quan quản lý nhà nước nhằm thúc đẩy mạnh mẽ TMĐT ở Việt nam. Bốn kiến nghị đó là: 1) tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi cho TMĐT; 2) Ban hành các chính sách hỗ trợ cho ứng dụng và triển khai TMĐT; 3) Đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, đào tạo về TMĐT và 4) Phát triển hạ tầng viễn thông và Internet.

So sánh với các kiến nghị của cộng đồng doanh nghiệp năm 2003, có thể nhận thấy năm 2004 hạ tầng viễn thông và Internet cũng như hoạt động phổ biến, tuyên truyền và đào tạo về TMĐT đã có nhiều tiến bộ. Tuy nhiên hoạt động tạo lập môi trường pháp lý và ban hành chính sách hỗ trợ cho TMĐT còn nhiều lúng túng và cản trở sự phát triển TMĐT.

Page 16: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

1

PHẦN THỨ NHẤT TỔNG QUAN VỀ CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ VIỄN THÔNG

GẮN VỚI THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ

Công nghệ thông tin (CNTT) và truyền thông (TT) là nền tảng cho sự phát triển của của TMĐT. Phần này sẽ giới thiệu tổng quan về tình hình phát triển công nghệ thông tin và truyền thông có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới phát triển TMĐT trong năm 2004.

1. Công nghệ thông tin 1.1. Tình hình ban hành chính sách

Sau khi một loạt đường lối, chính sách lớn về CNTT được ban hành từ năm 2000 đến năm 2002, việc ban hành chính sách về CNTT đã chững lại trong năm 2003 và năm 2004.

Tuy nhiên, năm 2004 đã chứng kiến sự ra đời của ba văn bản quan trọng. Về phát triển nguồn nhân lực CNTT, Thủ Tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 331/QĐ-TTg ngày 6/4/2004 phê duyệt “Chương trình phát triển nguồn nhân lực về CNTT từ nay đến năm 2010”. Về ứng dụng CNTT, Thủ Tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 235/2004/QĐ-TTg ngày 2/3/2004 phê duyệt Dự án tổng thể “Ứng dụng và phát triển phần mềm nguồn mở ở Việt nam giai đoạn 2004 – 2008”, Quyết định số 179/2004/QĐ-TTg ngày 6/10/2004 về việc Phê duyệt Chiến lược ứng dụng và phát triển CNTT tài nguyên và môi trường đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020.

Có thể nhận thấy có sự hẫng hụt trong việc ban hành các chính sách, giải pháp cụ thể triển khai các đường lối, chính sách lớn về CNTT đã được ban hành trong giai đoạn đầu của kế hoạch 5 năm 2001 -2005.

Bảng 1.1 Một số mốc lớn về đường lối, chính sách CNTT

Năm 2000 – 2002 6/2000 Nghị quyết số 07/2000/NQ-CP về việc xây dựng và phát triển công

nghiệp phần mềm giai đoạn 2000 – 2005.

10/2000 Chỉ thị số 58/CT-TW của Bộ Chính trị về việc đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá.

11/2000 Quyết định số 128/2000/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính phủ về một số chính sách và biện pháp nhằm khuyến khích đầu tư và phát triển công nghiệp phần mềm.

2/2001 Quyết định số 19/2001/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính phủ về việc bổ sung sản phẩm máy tính vào danh sách các sản phẩm công nghiệp mũi nhọn được hỗ trợ theo Quyết định số 37/2000/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính phủ ngày 24/3/2000.

Page 17: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

2

5/2001 Quyết định số 81/2001/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch hành động thực hiện Chỉ thị 58/CT-TW về việc ứng dụng và phát triển CNTT trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá giai đoạn 2001 – 2005.

5/2001 Thông tư số 31/2001/TT-BTC của Bộ Tài chính về một số chỉ dẫn thực hiện ưu đãi thuế theo Quyết định số 128/2000/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính phủ.

5/2001 Thông tư số 27/2001/TT-BVHTT của Bộ Văn hoá Thông tin về việc hướng dẫn thực hiện Nghị định số 76/CP ngày 29/11/1996 và Nghị định số 60/CP ngày 6/6/1997 của Chính phủ về việc hướng dẫn thực hiện một số qui định về bản quyền trong Bộ Luật Dân sự.

6/2001 Quyết định số 112/2001/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án tin học hoá quản lý hành chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2005.

8/2001 Quyết định số 987/2001/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành Quy chế quản lý, cung cấp và khai thác sử dụng thông tin tín dụng điện tử.

12/2001 Quyết định số 1557/2001/QĐ-NHNN về việc ban hành Quy chế thanh toán bù trừ điện tử liên ngân hàng.

3/2002 Quyết định số 44/2002/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính phủ về việc sử dụng chứng từ điện tử như là chứng từ kế toán trong việc tính toán và thanh toán vốn tại các tổ chức cung cấp dịch vụ thanh toán.

3/2002 Quyết định số 212/2002/QĐ-NHNN về việc ban hành Quy trình kỹ thuật nghiệp vụ thanh toán bù trừ điện tử liên ngân hàng (Quyết định này sửa đổi, bổ sung Quyết định số 1557/2001/QĐ-NHNN ngày 14/12/2001 về việc ban hành Quy chế thanh toán bù trừ điện tử liên ngân hàng).

5/2002 Quyết định số 543/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc ban hành các quy định về xây dựng, cấp phát, quản lý và sử dụng chữ ký số đối với các chứng từ điện tử trong thanh toán điện tử liên ngân hàng.

7/2002 Quyết định số 95/2002/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính phủ Phê duyệt Kế hoạch tổng thể ứng dụng và phát triển CNTT đến năm 2005.

11/2002 Nghị định số 90/2002/NĐ-CP của Chính phủ, trong đó quy định chức năng quản lý nhà nước về CNTT của Bộ Bưu chính Viễn thông.

12/2002 Quyết định số 176/2002/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính phủ về việc thành lập Ban Chỉ đạo Chương trình hành động triển khai Chỉ thị số 58/CT-TW (Ban Chỉ đạo 58).

Page 18: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

3

Năm 2003 5/2003 Công văn số 2236/TCHQ-CNTT hướng dẫn chi tiết khai báo bằng

phương tiện điện tử trong khâu đăng ký hồ sơ hải quan.

6/2003 Quyết định số 119/2003/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch tổng thể ứng dụng CNTT ngành tài chính tới năm 2010.

Năm 2004

3/2004 Quyết định số 235/2004/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính phủ phê duyệt Dự án tổng thể “Ứng dụng và phát triển phần mềm nguồn mở ở Việt nam giai đoạn 2004 – 2008”.

4/2004 Quyết định số 331/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính phủ phê duyệt “Chương trình phát triển nguồn nhân lực về CNTT từ nay đến năm 2010”.

10/2004 Quyết định số 179/2004/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược ứng dụng và phát triển CNTT tài nguyên và môi trường đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020.

Hai sự kiện CNTT và TT nổi bật trong năm 2004 là Hội thảo Quốc gia về

CNTT và TT lần thứ 2 và Tuần lễ tin học Việt nam lần thứ 13. Hội thảo Quốc gia về CNTT và TT lần thứ 2 tổ chức vào tháng 8 năm 2004 tại Đà nẵng với chủ đề “Ứng dụng CNTT và TT trong các doanh nghiệp”. Hội thảo đã nêu bật được một số thành công trong việc ứng dụng CNTT và TT của nhiều doanh nghiệp trên phạm vi cả nước, đồng thời chỉ ra nhiều khó khăn mà các doanh nghiệp gặp phải, từ môi trường pháp lý, chính sách tới nguồn nhân lực. Hội thảo đã nhận được sự quan tâm của các nhà lãnh đạo chủ chốt của Chính phủ về CNTT và TT như Phó Thủ Tướng Chính phủ, Trưởng Ban Chỉ đạo quốc gia về CNTT (Ban Chỉ đạo 58), Phạm Gia Khiêm, Bộ trưởng Bộ Bưu chính Viễn thông, Phó Trưởng Ban chỉ đạo 58, Đỗ Trung Tá. Tham dự Hội thảo còn có rất nhiều đại biểu từ các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp liên quan tới hoạch định chính sách, ứng dụng và kinh doanh trong lĩnh vực CNTT và TT của cả nước.

Tuần lễ Tin học Việt Nam lần thứ 13 (IT Week 13) tổ chức vào tháng 10 năm 2004 tại Hà nội với chủ đề “Hướng tới Chính phủ điện tử”. Đây là hoạt động tích cực của giới CNTT-TT Việt Nam nhằm biểu dương lực lượng, thể hiện tiềm năng và cơ hội trong quá trình Hội nhập và Phát triển. Sáng kiến của Hội Tin học Việt nam (VAIP) trao Giải thưởng CUP Vàng CNTT-TT Việt Nam được tổ chức trong khuôn khổ IT WEEK đã nhận được sự ủng hộ tích cực. Giải thưởng CUP vàng có mục đích tôn vinh và khuyến khích các sản phẩm, cá nhân, tập thể đã đóng góp nhiều cho sự nghiệp phát triển và ứng dụng CNTT-TT Việt Nam. Các sản phẩm được được xét chọn và trao CUP vàng tại IT WEEK 13 thuộc các lĩnh vực giải pháp, sản phẩm ứng dụng cấp ngành, máy tính thương hiệu Việt Nam, phần mềm đóng gói – phần mềm thương phẩm, phần mềm xuất khẩu và gia công phần

Page 19: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

4

mềm xuất khẩu, báo điện tử và trang thông tin điện tử và sản phẩm, dịch vụ TMĐT. Các sản phẩm, giải pháp, dịch vụ được trao CUP vàng đã thể hiện bước tiến đáng kể của CNTT và TT Việt nam năm 2004. Đáng chú ý là từ năm 2003 thương mại điện tử đã được coi là một lĩnh vực ứng dụng CNTT và TT quan trọng và được VAIP chọn là một trong các lĩnh vực trao giải CUP vàng trong các IT Week 12 và 13. (http://www.vaip.org.vn, http://www.itweek.org.vn)

1.2. Tình hình phát triển và triển khai các chính sách về CNTT Theo Báo cáo Toàn cảnh CNTT Việt nam năm 2004 (7/2004) của Hội Tin

học Thành phố Hồ Chí Minh, tốc độ tăng trưởng thị trường CNTT Việt nam năm 2003 là 28.8% và đạt 515 triệu USD, bao gồm 410 triệu USD phần cứng và 105 triệu USD phần mềm và dịch vụ, xuất khẩu được 730 triệu USD, bao gồm 700 triệu USD phần cứng và 30 triệu USD phần mềm. Số máy tính tiêu thụ trên thị trường lên tới 1 triệu chiếc với máy tính có thương hiệu chiếm khoảng 20%. Số nhân lực làm phần mềm tăng 150%, năng suất làm phần mềm đạt tới 10000 USD/người/năm.

Theo TS. Nguyễn Minh Dân, Vụ trưởng Vụ Khoa học công nghệ Bộ Bưu chính viến thông1, tổng giá trị các mặt hàng điện tử, CNTT tiêu thụ trong năm 2004 đạt 1,3 tỷ USD, tăng 38,5% so với năm 2003, trong đó nhóm sản phẩm CNTT và điện thoại di động chiếm tỷ trọng 45,6%, tương đương 592,8 triệu USD.

• Tổng giá trị xuất khẩu linh kiện điện tử, máy tính trong năm 2004 đạt hơn 1 tỷ USD, tăng khoảng 60% so với cùng kỳ năm 2003.

• Công nghiệp phần mềm đạt doanh thu 150 triệu USD, trong đó xuất khẩu đạt trên 30 triệu USD. Từ những con số trên, có thể ước tính sơ bộ giá trị thị trường CNTT Việt

Nam 2004 đạt mức 713 triệu USD (bao gồm 593 triệu USD phần cứng và 120 triệu USD phần mềm - dịch vụ), tăng 38,4% so với năm 2003

Việc ứng dụng và phát triển CNTT đạt được một số tiến bộ đáng khích lệ nhưng có thể thấy về tổng thể không đạt được các mục tiêu lớn mà một loạt đường lối, chính sách và giải pháp đã đề ra, đặc biệt là về các lĩnh vực chính phủ điện tử, thương mại điện tử, phát triển nguồn nhân lực CNTT, xuất khẩu phẩn mềm, v.v...

Mặc dù chưa có báo cáo đánh giá chính thức về việc triển khai một loạt chính sách và giải pháp lớn về CNTT nhưng có thể nhận thấy việc triển khai các quyết định của Thủ Tướng Chính phủ liên quan tới CNTT không được sáng sủa. Trong khi việc triển khai Đề án 112 về tin học hoá quản lý nhà nước đã góp phần nhất định tới việc hình thành và phát triển chính phủ điện tử (eGovernment) thì nhiều ý kiến cho rằng hiệu quả triển khai chưa cao. Việc triển khai Kế hoạch tổng thể ứng dụng và phát triển CNTT tới 2005 theo Quyết định số 95/2002/QĐ-TTg hầu như không tiến triển. Tình hình triển khai các hoạt động về phần mềm nguồn mở của Dự án tổng thể “Ứng dụng và phát triển phần mềm nguồn mở ở Việt nam giai đoạn 2004 – 2008” theo Quyết định số 235/2004/QĐ-TTg cũng khá chậm chạp. 1 Bài trình bày tại Khóa đào tạo “Nâng cao năng lực hoạch định và thực thi chính sách phát luật cho Thương mại điện tử” do Bộ Thương mại phối hợp với Dự án Canada về hỗ trợ thực thi chính sách (PIAP) tổ chức tại Hà Nội ngày 4-7 tháng 4/2005

Page 20: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

5

Hộp 1.1 Tình hình thực hiện các Quyết định của Thủ Tướng Chính phủ

về thống kê CNTT và TT

Thống kê CNTT và TT Việt nam hầu như chưa triển khai hoạt động thống kê về CNTT. Rất khó có thể có được số liệu thống kê đáng tin cậy từ các cơ quan chính phủ về mọi tiêu chí liên quan tới CNTT và TT bao gồm thống kê về thương mại điện tử. Điều này gây khó khăn rất lớn cho việc xây dựng và sửa đổi chính sách vĩ mô liên quan đến CNTT và TT. Đồng thời, số liệu thống kê vừa thiếu vừa ít tin cậy cũng cản trở cho việc xây dựng kế hoạch kinh doanh của các doanh nghiệp.

Các Quyết định số 81/2001/QĐ-TTg và số 95/2002/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính phủ đã chỉ rõ cần phải đẩy mạnh hoạt động thống kê về CNTT và TT, nhưng cho tới cuối năm 2004 Việt nam vẫn chưa có tiến bộ đáng kể nào trong việc triển khai hoạt động này.

2. Viễn thông và Internet

2.1. Tình hình ban hành chính sách

Hai văn bản đầu tiên khai phá cho các hoạt động Internet chính thức ở Việt nam là Quyết định số 848/1997/QĐ-BNV(A11) của Bộ Nội vụ ban hành tháng 10 năm 1997 quy định về biện pháp và trang thiết bị kiểm tra, kiểm soát đảm bảo an ninh quốc gia trong hoạt động Internet ở Việt Nam và Quyết định số 705/1998/QĐ-TCBĐ của Tổng cục Bưu điện ban hành tháng 11 năm 1998 về việc ban hành Quy định tạm thời việc quản lý, phân bổ tên miền và địa chỉ Internet.

Trong các năm 2001 và 2002 môi trường pháp lý cho các hoạt động Internet đã được xác lập với việc nhiều văn bản pháp quy được ban hành, trong đó có Nghị định số 55/2001/NĐ-CP của Chính phủ tháng 8 năm 2001 về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet.

Năm 2003 chỉ có một văn bản pháp quy về Internet được ban hành, nhưng đây lại là văn bản gây ra rất nhiều tranh luận về một số quy định chưa hợp lý. Đó là Quyết định số 92/2003/QĐ-BCVT của Bộ Bưu chính Viễn thông tháng 5 năm 2003 ban hành Quy định về quản lý và sử dụng tài nguyên Internet.

Tương tự như tình hình ban hành chính sách về CNTT, năm 2004 có tới 6 văn bản pháp quy về viễn thông và Internet được ban hành, trong đó một số quy định về quản lý Internet thu hút sự chú ý rộng rãi về tính khả thi của chúng.

Bảng 1.2 Một số mốc lớn về đường lối, chính sách viễn thông và Internet

Năm 2000 – 2002

8/2001 Nghị định số 55/2001/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet.

10/2001 Quyết định số 158/2001/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển Viễn thông tới năm 2010 và định hướng tới 2020.

Page 21: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

6

11/2001 Thông tư 04/2001/TT-TCBĐ của Tổng cục Bưu điện hướng dẫn thi hành Nghị định số 55/2001/NĐ-CP về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet.

2/2002 Quyết định số 33/2002/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch phát triển Internet Việt Nam giai đoạn 2001-2005.

5/2002 Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông.

10/2002 Quyết định số 27/2002/QĐ-BVHTT của Bộ Văn hoá Thông tin ban hành Quy chế quản lý và cấp phép cung cấp thông tin, thiết lập trang thông tin điện tử trên Internet.

Năm 2003 5/2003 Quyết định số 92/2003/QĐ-BCVT của Bộ Bưu chính Viễn thông ban

hành Quy định về quản lý và sử dụng tài nguyên Internet.

Năm 2004 1/2004 Quyết định số 71/2004/QĐ-BCA(A11) của Bộ Công an ban hành quy

định về đảm bảo an toàn, an ninh trong hoạt động quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet tại Việt Nam.

3/2004 Chỉ thị số 07/2004/CT-BBCVT của Bộ Bưu chính Viễn thông về việc tăng cường công tác quản lý đại lý Internet công cộng.

5/2004 Chỉ thị 06/2004/CT-BBCVT của Bộ Bưu chính Viễn thông tăng cường đảm bảo an toàn, an ninh thông tin Bưu chính, Viễn thông và Internet trong tình hình mới

6/2004 Quyết định số 26/2004/QĐ-BBCVT của Bộ Bưu chính Viễn thông ban hành Chương trình triển khai công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về bưu chính, viễn thông và CNTT đến năm 2007.

9/2004 Nghị định số 160/2004/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Bưu chính, Viễn thông về viễn thông.

12/2004 Thông tư số 05/2004/TT-BBCVT của Bộ Bưu chính Viễn thông hướng dẫn thực hiện một số điều về xử lý vi phạm hành chính và khiếu nại, tố cáo quy định tại Chương IV Nghị định số 55/2001/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet.

2.2. Tình hình hạ tầng viễn thông2 Về hệ thống chuyển mạch, các tổng đài cửa ngõ quốc tế (International

Gateway Switch) thuộc thế hệ tổng đài hiện đại trên thế giới, các tổng đài quá giang (National Transit Switch) là các tổng đài hiện đại, đủ khả năng chuyển mạch trung kế cho lưu lượng thông tin trên mạng trục quốc gia. Tổng đài tadem nội hạt (Local Tadem Switch) đặt tại Hà nội và TP. Hồ Chí Minh, nhiều tổng đài nội hạt (Local Switch) tại các tỉnh, thành phố và các tổng đài vệ tinh, các bộ tập trung thuê bao. Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông Việt nam (VNPT) đã triển khai mạng thế hệ 2 Phần này tham khảo và trích dẫn nhiều thông tin từ “Báo cáo Hiện trạng hạ tầng viễn thông”, Hà nội, tháng 12 năm 2004 do tác giả Nguyễn Xuân Trụ chủ trì (Vụ Viễn thông, Bộ Bưu chính Viễn thông).

Page 22: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

7

mới NGN và chuyển dần lưu lượng PSTN sang khai thác trên mạng NGN cũng như cung cấp nhiều dịch vụ ứng dụng NGN cho khách hàng.

Về mạng truyền dẫn, các hệ thống truyền dẫn quốc tế bao gồm ba trung tâm viễn thông quốc tế với các hệ thống tổng đài, truyền dẫn kỹ thuật số kết nối mạng viễn thông Việt nam với mạng viễn thông thế giới. Các tổng đài quốc tế được kết nối tới nhiều nước khác nhau và chuyển tiếp tới tất cả các nước còn lại thông qua cáp quang và vệ tinh. Ba trung tâm viễn thông quốc tế được liên kết với nhau bằng hệ thống cáp quang có khả năng tự động xử lý sự cố, tự sửa chữa cho chính mình. Đối với truyền dẫn liên tỉnh có mạng truyền dẫn tuyến trục Bắc – Nam bằng cáp quang 20 Gbps trên quốc lộ 1A và trên đường dây 500 KV đảm bảo độ an toàn cao và băng thông rộng. Tuyến đường trục này còn có thêm hệ thống vi ba số 140 Mbps để dự phòng. Ngoài ra còn có một số tuyến đường trục khác của Vietel, ETC. Truyền dẫn liên tỉnh hầu hết đã được cáp quang hoá. Mạng truyền dẫn nội tỉnh được mở rộng và đang được cáp quang hoá. Mạng truy cập bao gồm ba loại là mạng cáp nội hạt, hệ thống thuê bao vô tuyến và hệ thống VSAT. Mạng cáp nội hạt gồm mạng cáp đồng và mạng cáp quang để cung cấp dịch vụ viễn thông đến hộ thuê bao. Hệ thống thuê bao vô tuyến hỗ trợ cho mạng cáp nội hạt và rất có hiệu quả đối với các nhà cao tầng và địa bàn khó triển khai mạng cáp đồng. Hệ thống VSAT được sử dụng cho các vùng miền núi và hải đảo.

Về thông tin di động, có bốn nhà khai thác đã cung cấp và hai nhà khai thác khác đang chuẩn bị cung cấp dịch vụ di động toàn quốc. MobiFone và Vinaphone của VNPT sử dụng công nghệ GSM với tổng số khoảng 4,4 triệu thuê bao và có khả năng chuyển vùng tới hơn 84 nước. SPT sử dụng công nghệ CDMA1x cung cấp dịch vụ từ 7/2003 và hiện có khoảng 0,14 triệu thuê bao, Vietel sử dụng công nghệ GSM cung cấp dịch vụ từ 10/2004 và hiện có khoảng 0,15 triệu thuê bao. Trong năm 2004 các mạng S_Fone, MobiFone và Vinaphone đã chính thức cung cấp dịch vụ nhắn tin chéo mạng nên thúc đẩy sự phát triển của thông tin di động. MobiFone và Vinaphone sử dụng công nghệ GSM đã chính thức cung cấp dịch vụ GPRS/MMS chuẩn bị cho chiến lược tiến lên 3G. Hanoi Telecom sử dụng công nghệ CDMA2000 đang chuẩn bị tham gia thị trường. VP Telecom sử dụng công nghệ CDMA450 đang thử nghiệm mạng lưới và dịch vụ cho cung cấp dịch vụ vô tuyến cố định. Đối với thông tin di động nội vùng bao gồm điện thoại vô truyến cố định và điện thoại di động nội vùng sử dụng hệ thống IPAS với công nghệ PHS-IP đã được cung cấp tại Hà nội và Thành phố Hồ Chí Minh từ 12/2002.

Mạng truyền dẫn số liệu và chuyển mạch gói sử dụng cộng nghệ X25 với 3 tổng đài chuyển mạch tại Hà nội, Đà nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh với các dịch vụ X25, X28 và X32.

Mạng Telex sử dụng 3 tổng đài đặt tại Hà nội, Đà nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh có xu hướng ngừng phát triển.

2.3. Tình hình Internet

Kết nối quốc tế thông qua 6 hướng với tổng dung lượng tăng từ 1038 Mbps vào tháng 12/2003 lên 1892 Mbps vào tháng 12/2004. Đối với kết nối trong nước, từ năm 2003 các doanh nghiệp IXP đã thực hiện kết nối đồng cấp thông qua VNNIC của Trung tâm Internet Việt nam.

Page 23: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

8

Có 6 doanh nghiệp được cấp phép cung cấp dịch vụ kết nối Internet (IXP) là VNPT, Vietel, FPT, SPT, ETC và Hanoi Telecom. Có 15 doanh nghiệp được cấp phép cung cấp dịch vụ truy nhập Internet, trong đó có 7 doanh nghiệp đã cung cấp dịch vụ cho khách hàng là VNPT, FPT, SPT, Netnam, vietel, OCI và Hanoi Telecom.

Theo VNNIC, cuối năm 2004 tổng số thuê bao Internet đạt khoảng trên 2 triệu và số IP đã cấp là 0,45 triệu, thuê bao chủ yếu là dial-up. Dịch vụ truy nhập Internet băng rộng đã được cung cấp từ năm 1997 với nhiều loại hình như ISDN, leased line, VSAT nhưng số khách hàng vẫn không nhiều và chủ yếu là doanh nghiệp do nguyên nhân chính là giá cước cao. Từ giữa năm 2003 khi VNPT đã cung cấp dịch vụ ADSL tới nay đã có thêm 3 nhà cung cấp dịch vụ này cho khách hàng là FPT, Vietel và SPT, hiện có khoảng 35000 thuê bao truy nhập Internet sử dụng băng thông rộng. Các loại hình dịch vụ truy nhập Internet mới như WiFi và GPRS cũng bắt đầu phát triển.

Số người sử dụng Internet đạt khoảng 6,2 triệu, mật độ người sử dụng Internet đạt khoảng 7,4%. Nếu so với số người sử dụng Internet vào cuối năm 2003 là 3,2 triệu người thì có thể thấy trong năm 2004 số người sử dụng đã tăng gần gấp đôi.

Bảng 1.3 Số người sử dụng Internet trên 10.000 dân

Năm 2001 2002 2003 2004

Việt nam 124 184 430 740 Trung quốc 257 460 632 - Thái lan 577 776 965 - Các nước phát triển - 4474 4495 - Các nước đang phát triển - 429 501 -

Nguồn: VNNIC và Tổ chức viễn thông quốc tế (ITU)

Cùng với số thuê bao và số người sử dụng Internet, số tên miền Internet phản ánh mức độ phổ cập Internet và hơn thế là mức độ ứng dụng Internet trong các hoạt động kinh tế, xã hội.

Theo VNNIC số tên miền Việt nam đã tăng từ 2300 vào tháng 12/2002 lên 5510 vào tháng 12/2003 và 9037 vào tháng 12/2004 với số tên miền cấp hai .com và .net khoảng 84%. Như vậy tốc độ tăng trưởng tên miền .vn năm 2004 khoảng 64%.

Tuy nhiên sự tăng trưởng này chưa phản ánh sự tăng trưởng chung của số tên miền và số trang web của các doanh nghiệp Việt nam vì chưa tính tới các tên miền quốc tế. Căn cứ trên số tên miền .vn, thông tin về tên miền quốc tế tại http://www.webhosting.info, ý kiến của các nhà chuyên môn tại một số công ty cung cấp dịch vụ web hosting, thông tin về các doanh nghiệp trong Báo cáo Hiện trạng phát triển TMĐT năm 2003 và các doanh nghiệp tham gia điều tra cho Báo cáo này, có thể ước tính tổng số doanh nghiệp có trang web vào cuối năm 2004 khoảng 17.500.

Page 24: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

9

Hộp 1.2 Mối quan hệ giữa trang web và TMĐT

Mối quan hệ giữa số trang web và thương mại điện tử

Hầu hết doanh nghiệp sử dụng Internet cho mục đích kinh doanh tiến hành trao đổi thông tin và các giao dịch qua email, truy cập vào các trang web và thiết lập trang web của mình. Các trang web là nơi tiến hành hầu hết giao dịch dạng B2B lẫn B2C. Do đó sự tăng trưởng của số trang web là một tiêu chí có ích để đánh giá sự tăng trưởng của thương mại điện tử. Từ tháng 6/2003 tới 6/2004, số trang web trên thế giới tăng 26,1%.

Báo cáo TMĐT và Phát triển, UNCTAD 2004

Trong năm 2004 chủ đề quản lý tên miền và trang tin điện tử thu hút sự quan

tâm lớn của các nhà hoạch định chính sách cũng như doanh nghiệp.

* Quản lý tên miền: Ngày 26/5/2003, Bộ Bưu chính Viễn thông đã ra Quyết định số

92/2003/QĐ-BCVT ban hành Quy định về quản lý và sử dụng tài nguyên Internet. Quy định này điều chỉnh việc quản lý và sử dụng tài nguyên Internet đối với mọi tổ chức, cá nhân trong nước; tổ chức, cá nhân nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực Internet tại Việt Nam. Theo Điều 4 của Quyết định, tài nguyên Internet bao gồm hệ thống các tên và số dùng cho Internet được ấn định thống nhất trên phạm vi toàn cầu: tên miền (DN), địa chỉ Internet (IP), số hiệu mạng (ASN), số và tên khác được các tổ chức quốc tế có thẩm quyền về tài nguyên Internet quy định.

Quyết định này đã góp phần tích cực đối với sự phát triển của tên miền Việt nam .VN. Tuy nhiên nó chưa khuyến khích và hỗ trợ kinh doanh trên môi trường Internet trong bối cảnh kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Những vấn đề chưa hợp lý nhiều nhất liên quan tới sở hữu tên miền và các quyền liên quan như mua bán, quyền sở hữu trí tuệ như thương hiệu và chỉ dẫn địa lý, thủ tục đăng ký tên miền, giải quyết tranh chấp và phí đăng ký và sử dụng tên miền.3 Có thể liệt kê một số quy định còn chưa hợp lý như sau :

Điều 2: Tài nguyên Internet Nghiêm cấm việc chuyển nhượng, cho thuê, bán lại tài nguyên Internet dưới bất kỳ hình thức nào. Nhận xét: Quyết định không chỉ rõ tên miền quốc tế (gTLD) như .COM, .NET có thuộc phạm vi điều chỉnh hay không. Trên thực tế các tên miền, có thể cả tên miền Việt nam (.VN), đang được mua bán.

Điều 6: Quyền và nghĩa vụ của các cơ quan , tổ chức, cá nhân sử dụng tài nguyên Internet

3 Có thể nhận thấy một số chính sách của Việt nam còn nặng về quản lý hành chính và chưa phù hợp với các quy luật của kinh tế thị trường. Quy định nghiêm cấm việc chuyển nhượng, cho thuê, bán lại tài nguyên Internet dưới bất kỳ hình thức nào không phải là trường hợp duy nhất. Trên lĩnh vực thương mại, một trong những vấn đề được tranh luận nhiều nhất trong năm 2004 là việc các doanh nghiệp dệt may có quyền được mua bán, cho vay, chuyển nhượng đối với hạn ngạch xuất khẩu sang Hoa Kỳ hay không.

Page 25: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

10

3. Các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp có trách nhiệm trả lại tài nguyên Internet cho Trung tâm Internet Việt nam khi không còn nhu cầu sử dụng nữa. Nhận xét: Tính khả thi của quy định này rất thấp.4 6. Các tổ chức, cá nhân chỉ được sử dụng tên miền dưới tên miền dùng chung (gTLD) sau 24 giờ kể từ khi thông báo cho VNNIC biết tại website http://www.gtld.info.vn. Nhận xét: Quy định này còn khó khả thi hơn quy định trên.

Điều 9 : Nguyên tắc đăng ký tên miền 4. Tên miền chỉ được cấp phát khi có đầy đủ thông tin về máy chủ tên miền mà nó được đặt hoặc tên miền đích mà nó trỏ tới. 5. Tổ chức, cá nhân xin đăng ký tên miền phải giải thích rõ mối liên quan của tên miền xin đăng ký với hoạt động của mình (doanh nghiệp phải tự đăng ký tên miền, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ web không được đăng ký thay) Nhận xét: Các quy định này hoặc không phù hợp với thực tế và/hoặc không khả thi.

Điều 10: Thủ tục đăng ký, sử dụng tên miền 1. Hồ sơ gửi cho VNNIC gồm đơn xin đăng ký tên miền, giấy phép đăng ký kinh doanh, quyết định thành lập, v.v... 4. Tên miền đã được cấp phát phải đi vào hoạt động sau thời hạn tối đa là 60 ngày, quá thời hạn này tên miền đó sẽ bị thu hồi, nếu không có lý do chính đáng. Nhận xét: Một số doanh nghiệp cung cấp dịch vụ web không thể đăng ký tên miền .VN cho khách hàng ngay cả khi có uỷ quyền của khách hàng. Họ cho rằng điều này gây phiền hà cho khách hàng muốn thuê dịch vụ trọn gói. Ngoài ra, quy định thu hồi tên miền đã cấp nếu không hoạt động trong vòng 60 ngày cũng không khả thi.

Điều 20: Giải quyết khiếu nại 1. Nếu khiếu nại có liên quan đến việc giải quyết tranh chấp tên miền giữa các bên, VNNIC cần khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các bên tự thoả thuận giải quyết tranh chấp. Trong trường hợp các bên không tự thoả thuận được, VNNIC xem xét quyết định trên cơ sở các quy định hiện hành của pháp luật. 2. Nếu không đồng ý với kết quả giải quyết của VNNIC, các bên có liên quan có thể yêu cầu các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền gảiiquyết theo quy định của pháp luật về khiếu nại.

4 Trong trường hợp quản lý hạn ngạch dệt may xuất khẩu sang Hoa Kỳ, cơ quan quản lý nhà nước về thương mại đưa ra quy định doanh nghiệp nào không còn nhu cầu sử dụng hạn ngạch phải trả lại hạn ngạch. Trên thực tế không có doanh nghiệp dệt may nào trả lại hạn ngạch đã được cấp. Tình hình có thể xảy ra như vậy đối với việc quản lý tên miền và tính khả thi của quy định này. Khi chủ sở hữu tên miền có được tên miền có giá trị thương mại cao họ sẽ mọi cách để bán tên miền đó mà không trả lại cho cơ quan quản lý nhà nước về tên miền.

Page 26: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

11

Nhận xét: giải quyết tranh chấp về tên miền liên quan tới nhiều quy định pháp luật khác, đặc biệt là các quy định về quyền sở hữu trí tuệ.

Hộp 1.3 Sự chưa hợp lý của các quy định về quản lý tên miền Việt nam

Nhịp Sống Số Thứ Hai, 02/08/2004, 17:27 (GMT+7) Quản lý tên miền Việt Nam: cần nhiều cải tiến

TTO - Trong thời đại số, tên miền đồng nghĩa với thương hiệu và là một tài sản quan trọng của doanh nghiệp. Tuy nhiên, các quy định về việc đăng ký và giải quyết tranh chấp của hệ thống tên miền .vn của Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế. Đây là vấn đề nổi cộm được các chuyên gia trong và ngoài nước tranh luận sôi nổi tại hội thảo bàn tròn “Tên miền Internet và tranh chấp tên miền” vừa được tổ chức tại Hà Nội.

Quy định chưa rõ ràng, nhiều bất cập khi đăng ký

Quy định về quản lý và sử dụng tài nguyên Internet được ban hành theo Quyết định số 92/2003/QĐ-BBCVT ngày 26 tháng 5 năm 2003 của Bộ trưởng Bộ Bưu chính Viễn thông là cơ sở pháp lý quan trọng giúp phát triển hệ thống tên miền quốc gia .vn. Trong đó quy định việc đăng ký tên miền là “tổ chức, cá nhân đăng ký trước được xét cấp trước”. Kể từ thời điểm Quy định ra đời, đến tháng 6 năm 2004, đã có 7.454 tên miền được đăng ký với Trung tâm Thông tin Internet Việt Nam (VNNIC). Đây có thể nói là một bước tiến đáng kể trong việc phát triển hệ thống tên miền quốc gia.

Tuy nhiên, theo các chuyên gia, quy định trên còn một số vấn đề bất cập cần được sửa đổi như: nguyên tắc ai đăng ký trước được cấp phát trước cũng như việc đăng ký trực tuyến chưa được triển khai, chưa có các quy định về giải quyết tranh chấp tên miền, trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp tên miền chưa được quy định rõ ràng, và mâu thuẫn với các quy định về sở hữu trí tuệ của Bộ Văn hóa.

Ông Vũ Thái Hà, Công ty Cty Sở hữu trí tuệ D&N nhận xét: “Quyết định quản lý tên miền hiện nay có những điểm gây cản trở phát triển tên miền. Cụ thể việc đăng ký các tên miền liên quan tới tên các địa danh, các tên chung của một ngành kinh tế, chủng loại hàng hoá, sản phẩm, tên các loại dược phẩm vẫn còn bị hạn chế (khoản 3 Điều 9 của Quy định) trong khi các tên miền này là các tên miền có giá trị sử dụng cao đối với các tổ chức kinh doanh thương mại điện tử“.

“Phí đăng ký và duy trì tên miền quá cao so với các nước trên thế giới. Ví dụ trong một năm đầu là 930.000đ, cho các năm tiếp theo là 450.000đ, mỗi lần thay đổi thông số tên miền đều phải trả phí 250.000đ mà việc thay đổi này (ví dụ như chuyển giao máy chủ) là công việc kỹ thuật thường xuyên của chủ sở hữu tên miền” ông Hà nói thêm.

Ngoài ra việc không được chuyển nhượng tên miền cũng là vấn đề gây khó khăn cho các doanh nghiệp. Ông Lê Hồng Hà, Hội Tin học-Viễn thông Hà Nội đặt câu hỏi: “Tên miền là một tài nguyên tương tự như đất đai. Chủ thể được quyền sử dụng và chuyển nhượng đất, vậy tại sao chuyển nhượng tên miền lại không được?

Bổ sung cho ý kiến này, Đào Việt Cường, một đại diện khác của D&N nói: “Hiện nay tên miền có giá trị lên vài triệu USD, ví dụ như : business.com có trị giá lớn 7.5 triệu USD, casino.com - 5.5 triệu USD… Vậy có ai chịu bỏ nhiều tiền đầu tư phát triển tên miền nếu biết rằng khi công ty của họ sáp nhập với doanh nghiệp khác thì tên miền sẽ không được chuyển giao”. Theo ông Cường, việc hạn chế chuyển giao tên miền sẽ cản trở sự đầu tư vào lĩnh vực thương mại điện tử của các tổ chức và cá nhân.

Sẽ sửa đổi quy định 92 và xây dựng quy chế giải quyết tranh chấp

Trả lời cho những thắc mắc trên, ông Nguyễn Lê Thúy, Giám đốc VNNIC, cho biết trong thời gian tới cơ quan này sẽ tiến hành sửa đổi quy định 92 và cuối năm nay hoàn thành đưa ra dự thảo. Trong đó sẽ đặc biệt chú ý tới việc xây dựng quy chế giải quyết tranh chấp tên miền .vn và điều chỉnh mức phí chung.

http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=43762&ChannelID=16 * Quản lý trang tin điện tử (website):

Mặc dù các quy định về quản lý tên miền Việt nam còn nhiều điểm chưa hợp lý nhưng đã góp phần đáng kể vào sự phát triển trang web với tên miền .VN của các doanh nghiệp thể hiện qua tốc độ tăng trưởng cao của tên miền .VN trong năm 2004. Đáng lưu ý là cơ quan quản lý nhà nước về tên miền đã nghiêm túc lắng nghe ý kiến của khách hàng và thông báo công khai dự định sửa đổi, bổ sung Quyết định số 92/2003/QĐ-BBCVT.

Page 27: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

12

Trong khi đó một quyết định được ban hành trước đó gây cản trở đáng kể tới phát triển trang web, hầu như không có khả năng thực thi và không thể hiện sự đổi mới trong phương pháp quản lý nhà nước vẫn tiếp tục có hiệu lực. Hơn thế, cho tới cuối năm 2004 cơ quan ban hành quyết định này và các cơ quan quản lý nhà nước liên quan chưa có bất cứ thông báo nào về kế hoạch sửa đổi các quy định gây cản trở kinh doanh của nó. Đó là Quyết định số 27/2002/QĐ-BVHTT ngày 10/10/2002 của Bộ Văn hoá Thông tin về Quy chế quản lý và cấp phép cung cấp thông tin, thiết lập trang thông tin điện tử trên Internet.

Hộp 1.4 Quy định “Thiết lập website phải xin phép” và Thương mại điện tử

Lập trang web Vì sao Internet ở Việt nam phát triển chậm? Có nhiều nguyên nhân, tôi chỉ muốn nói một khía cạnh quan trọng: Khoảng 90% nội dung trên Internet là bằng tiếng Anh. Trong khi đó các quy định cụ thể lại không khuyến khích, thậm chí còn cản trở việc phát triển nội dung. Theo Quyết định 27 của Bộ Văn hoá Thông tin (không bàn đến các mục khác và các tờ báo trực tuyến, chỉ nói đến các trang web): Cá nhân không được lập trang web. Chỉ các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức mới được lập trang web (Điều 3) và thủ tục cấp phép rất rườm rà (Điều 6, Điều 7, Điều 8).

Phải chăng chính các quy định như vậy giải thích vì sao nội dung tiếng Việt trên Internet lại nghèo nàn, đó là chưa nói đến sự cản trở và tác hại của nó đối với hoạt động sản xuất kinh doanh, cản trở thương mại điện tử.

Theo tôi sửa điều này không khó. Chỉ cần nêu thêm một điều đơn giản vào quyết định, đó là phạm vi điều chỉnh của nó chỉ cho các đơn vị làm báo điện tử. Các tổ chức kinh doanh dịch vụ nội dung hay ứng dụng khác thì phải chịu các quy định của các ngành đó, còn các website không có mục đích kinh doanh thông tin như của cá nhân, doanh nghiệp, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức ngoại giao, v.v... không bị điều chỉnh.

Tiến sĩ Nguyễn Quang A, Báo Lao động số357 ra ngày 22/12/2004

Một số quy định không nhận được sự ủng hộ của đông đảo cộng đồng sử dụng Internet, đặc biệt là các doanh nghiệp, là:

Điều 1: Bộ Văn hoá Thông tin là cơ quan thực hiện chức năng quản lý Nhà nước và cấp giấy phép cung cấp thông tin trên Internet (ICP), thiết lập trang tin điện tử trên Internet.

Điều 2: 1. Đơn vị cung cấp thông tin trên Internet là cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp được Bộ Văn hoá Thông tin cấp giấy phép thực hiện việc cung cấp thông tin trên Internet thông qua nhà cung cấp dịch vụ Internet. 2. Trang tin điện tử (Website) là loại hình bản tin thực hiện trên mạng Internet.

Điều 3: 1. Cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp trong nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp nước ngoài, các pháp nhân có yếu tố nước ngoài tại Việt nam cung cấp thông tin trên Internet, thiết lập trang tin điện tử trên Internet chịu sự điều chỉnh của Quy chế này.

Page 28: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

13

Điều 4: 4. Không được cung cấp thông tin trên Internet, thiết lập trang tin điện tử trên Internet khi chưa có giấy phép của Bộ Văn hoá Thông tin. Điều 8: Mọi cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp tại Việt nam có nhu cầu muốn cung cấp thông tin trên Internet, thiết lập trang tin điện tử trên Internet tại Việt nam phải làm thủ tục xin phép gửi Bộ Văn hoá Thông tin (Vụ Báo chí).

Nhận xét: - Quy định rất mơ hồ về «cung cấp thông tin trên Internet » và « trang tin điện tử ». Về bản chất thiết lập website là để cung cấp thông tin. Do đó tất cả pháp nhân, bao gồm các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, thiết lập và duy trì website đều thuộc phạm vi điều chỉnh của Quyết định và phải xin phép Bộ Văn hoá Thông tin!5 - Không có quy định đối với cá nhân! - Trong khi Luật Doanh nghiệp và hệ thống các văn bản khác đã tạo ra cách quản lý thông thoáng cho doanh nghiệp theo hướng quy định rõ những hoạt động cấm kinh doanh, kinh doanh có điều kiện, ngoài ra doanh nghiệp được phép kinh doanh, đồng thời chuyển cách quản lý từ cấp phép sang đăng ký, thì Quyết định này vẫn duy trì cách quản lý gây khó khăn cho doanh nghiệp.6

Điều 6: Điều kiện cấp phép 1. Cơ quan xin cấp phép phải xác định rõ loại hình thông tin cung cấp, nội dung, các chuyên mục, tần số cập nhật thông tin. Có đủ phương tiện kỹ thuật phục vụ cho việc cung cấp thông tin, có địa chỉ miền trên Internet hợp lệ.

Điều 7: Hồ sơ xin cấp phép 1. Đề án hoạt động, kế hoạch chi tiết về cung cấp thông tin trên Internet (các loại hình thông tin sẽ cung cấp, nội dung, các chuyên mục) Sơ yếu lý lịch người chịu trách nhiệm chính về nội dung và các thành viên phụ trách việc cung cấp thông tin có chứng nhận của cơ quan chủ quản.

Nhận xét:Các quy định này đều rất xa rời thực tiễn thiết lập và duy trì hoạt động của website và hoàn toàn không có tính khả thi.

Chính vì các quy định không phù hợp với thực tiễn nhưng lại không được cơ quan ban hành lắng nghe dư luận và sửa đổi nên Quyết định số 27/2002/QĐ-BVHTT là một trong những ví dụ điển hình về việc coi thường pháp luật của doanh nghiệp: hầu hết các website vẫn tồn tại và phát triển mà không cần tới giấy phép của Bộ Văn hoá Thông tin. Tuy nhiên, mọi doanh nghiệp và cá nhân muốn có một quy định mới, tránh cho họ tình trạng luôn luôn vi phạm pháp luật.7

5 Điều 7 quy định rõ hồ sơ đối với các cơ quan đại diện tổ chức kinh tế..., các công ty, xí nghiệp của nước ngoài; các tổ chức kinh tế, công ty, xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. 6 Năm 2004, ý định cấm kinh doanh dịch vụ giải trí Karaoke của cơ quan quản lý nhà nước về văn hoá thông tin đã gặp phải sự phản ứng mạnh mẽ của dư luận. Rất nhiều ý kiến phê phán cách làm "không quản lý được thì cấm". 7 Tính tới cuối năm 2004 tổng số website được cấp phép khoảng 2500, hầu hết website này là của các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội. Con số này rất nhỏ so với tổng số website đang tồn tại.

Page 29: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

14

Hộp 1.5 Nhiều doanh nghiệp có nguy cơ bị phạt vì không có giấy phép thiết lập website

Phạt Công ty TiTan tại Vũng Tầu

Ngày 12/12/2003, UBND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu ra quyết định 12399 xử phạt vi phạm hành chánh 50 triệu đồng đối với Công ty TiTan (trụ sở 545 Trương Công Định, P.7, TP Vũng Tàu) vì Công ty TiTan đã: thiết lập hệ thống thiết bị và cung cấp dịch vụ Internet không có giấy phép; thiết lập trang tin điện tử trên Internet khi chưa có giấy phép của Bộ Văn hóa - Thông tin; nội dung của công ty cung cấp thông tin trên trang tin điện tử không đúng...

Trong quyết định 12399 của UBND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu không ghi rõ trang tin điện tử mà Công ty TiTan vi phạm là website nào nhưng căn cứ theo các site mà TiTan đang sở hữu thì có thể biết đó là: www.bariavungtau.com, www.bariavungtau.net, www.bariavungtau.org, www.vungtaucity.org.

Xung quanh chuyện xử phạt trên, có nhiều điều chưa ổn: Là doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghệ thông tin không thể không có hệ thống thiết bị. Theo Nghị định 55/2001, dịch vụ Internet (điều 12) gồm có dịch vụ kết nối Internet (IXP), dịch vụ truy cập Internet (ISP), dịch vụ ứng dụng Internet (OSP).

Trong đó, dịch vụ thông tin Internet là một loại hình OSP, bao gồm dịch vụ phát hành báo chí (báo nói, báo hình, báo điện tử), phát hành xuất bản phẩm trên Internet và các loại hình tin tức điện tử khác trên Internet. TiTan không phải là IXP, ISP, cơ quan báo chí. Trên thực tế, hàng chục ngàn website trong nước được các công ty thiết kế và đưa nội dung lên mạng hầu hết đều không cần xin giấy phép của Bộ Văn hóa - Thông tin. Chung quy lại, điều mà UBND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu không “bằng lòng” chính là tên miền bariavungtau.com đã bị công ty TiTan đăng ký.

Điều cơ bản nhất mà mọi người đều biết, hoạt động của Internet là không biên giới. Những website trên đều được TiTan đăng ký tại nước ngoài chứ không phải trong nước. Nguyên tắc pháp lý và luật chơi của đăng ký tên miền rất rõ ràng (cả quốc tế và Việt Nam): ai đăng ký trước được cấp trước. Mọi người truy cập mạng thường xuyên hiện nay cũng đều thấy địa danh Hà Nội đã bị đăng ký trước từ lâu: www.hanoi.com, www.hanoi.net, www.hanoi.org. Nhưng UBND thành phố Hà Nội không thể ra quyết định xử phạt các công ty sở hữu những tên miền trên bởi họ đều đã đăng ký quốc tế.

http://www.bariavungtau.com/modules/news/article.php?storyid=1292 3. Một số công nghệ liên quan tới phát triển CNTT và Internet 3.1. Trao đổi dữ liệu điện tử (EDI)

Trao đổi dữ liệu điện tử (Electronic Data Interchange) có ý nghĩa quyết định đối với giao dịch thương mại điện tử quy mô lớn giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp. EDI là hình thức phổ biến nhất để trao đổi dữ liệu có cấu trúc giữa hệ thống máy tính của các doanh nghiệp. Sử dụng EDI, doanh nghiệp sẽ giảm được lỗi sai sót do con người gây nên, giảm thời gian xử lý thông tin trong các giao dịch kinh doanh, tiết kiệm thời gian và chi phí so với trao đổi dữ liệu phi cấu trúc.

EDI được ứng dụng rất phổ biến trong nhiều ngành công nghiệp trên thế giới và sẽ còn tăng mạnh trong một vài năm tới. Thứ nhất, sự phát triển mạnh mẽ của Internet đã tạo ra một phương tiện hữu hiệu cho việc sử dụng EDI thay vì phải thực hiện qua các mạng giá trị gia tăng (VAN). Thứ hai, các ngôn ngữ lập trình hiện đại mới xuất hiện như XML làm cho EDI trở nên dễ thiết kế và dễ sử dụng hơn.

Vào giữa những năm 1990, một số lượng lớn các công ty bắt đầu cung cấp dịch vụ EDI trên Internet. Các công ty vốn cung cấp mạng giá trị gia tăng truyền

Page 30: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

15

thống nay đưa ra dịch vụ EDI trên Internet, cùng với rất nhiều các công ty mới gia nhập vào thị trường dịch vụ EDI trên Internet. EDI trên Internet được gọi là EDI Internet hoặc Web EDI. Cấu trúc mở của Internet cho phép các đối tác thương mại có được cơ hội tiềm tàng trong việc trao đổi thông tin có cấu trúc với các công cụ mới như XML/ebXML.

Bảng 1.4 Giá trị giao dịch thương mại sử dụng EDI (tỷ USD)

2001 2002 2003 2004 2005

3.227 3.250 3.443 3.608 3.783 Nguồn: OECD và ước tính của Tập đoàn thông tin Giga cho các năm 2003 - 2005

Cho tới năm 2004, EDI hầu như chưa được áp dụng tại Việt nam trừ một số doanh nghiệp trong ngành ngân hàng, tài chính, vận tải biển đã sử dụng EDI để giao dịch với các đối tác nước ngoài và thực hiện các hoạt động nghiệp vụ trong nội bộ ngành. Việc áp dụng EDI đòi hỏi các doanh nghiệp phải được tin học hoá ở một mức độ khá cao và quy trình quản lý doanh nghiệp tiên tiến.

Hộp 1.6 Ứng dụng UN/EDIFATCT tại Bộ Thương mại

Hệ thống truyền dữ liệu visa điện tử (ELVIS) Từ tháng 3/2004, Bộ Thương mại đã vận hành hệ thống truyền visa điện tử cho hàng dệt may xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Hệ thống này sử dụng chuẩn UN/EDIFACT để trao đổi dữ liệu hạn ngạch với Hải quan Hoa Kỳ. Hệ thống ELVIS giúp việc quản lý hạn ngạch hàng dệt may sang Hoa Kỳ hiệu quả và tránh được gian lận thương mại hơn so với phương pháp quản lý hạn ngạch bằng giấy truyền thống.

Các cơ quan quản lý nhà nước về CNTT và TMĐT đã nhận thức được tầm quan trọng của lỗ hổng về tiêu chuẩn trao đổi dữ liệu điện tử và đã có một số hoạt động nhằm thúc đẩy sự ứng dụng EDI ở nước ta. Ngày 23/12/2002 Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ đã ban hành Quyết định số 1035/QĐ-BKHCN về việc thành lập Tổ công tác xây dựng dự thảo Tiêu chuẩn “Trao đổi dữ liệu điện tử - EDI” (gọi tắt là Tổ công tác EDI) gồm đại diện của nhiều cơ quan và doanh nghiệp. Trong năm 2004, Tổ công tác này đã triển khai nhiều hoạt động nhằm nâng cao nhận thức trong toàn xã hội về EDI và tiếp tục công tác nghiên cứu xây dựng dự thảo Khung tiêu chuẩn EDI như : - Cập nhật thường xuyên thông tin về EDI tại http://www.edivn.gov.vn, tổ chức các lớp học và trình bày về EDI tại một số hội thảo. - Triển khai xây dựng Bộ từ điển thuật ngữ EDI áp dụng cho các lĩnh vực hành chính, thương mại, tài chính - ngân hàng, hải quan và giao thông vận tải của Việt Nam. - Tổ chức và điều phối việc thực hiện các nội dung của Dự án Tương thích tiêu chuẩn EDI của châu Âu và Pháp vào Việt Nam (EA2) do EU tài trợ và EDIFRANCE là đơn vị chủ trì. Tổ chức đoàn chuyên gia Việt Nam sang khảo sát về Khung chính sách công nghệ và tiêu chuẩn trao đổi dữ liệu điện tử của Anh, tham dự Hội thảo tại Berlin về ứng dụng Chuẩn lưu trữ tài liệu OpenOffice.org

Page 31: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

16

XML và các dịch vụ đăng ký trực tuyến đưa các dịch vụ hành chính công lên mạng thông qua công nghệ tự động nhập liệu e-form.

Tổ kỹ thuật tiêu chuẩn CNTT thuộc Tổng cục Tiêu chuẩn – Đo lường – Chất lượng thuộc Bộ KH&CN đang khẩn trương xây dựng Bộ tiêu chuẩn EDI Việt Nam dựa trên Bộ UN/EDIFACT, dự kiến có thể ban hành vào cuối năm 2005.

Bộ Thương mại hợp tác với một số tổ chức về TMĐT như AFACT nhằm thiết lập chuẩn EDI cho các giao dịch thương mại, hậu thuẫn cho sự phát triển mạnh của TMĐT Việt nam trong những năm tới.

3.2. Chữ ký điện tử và chứng thực điện tử Việc kết nối qua mạng Internet hiện nay chủ yếu sử dụng giao thức TCP/IP.

TCP/IP cho phép các thông tin được gửi từ một máy tính này tới một máy tính khác thông qua một loạt các máy trung gian hoặc các mạng riêng biệt trước khi nó có thể đi tới đích. Tính linh hoạt này của giao thức TCP/IP đã tạo cơ hội cho “bên thứ ba” có thể thực hiện các hành động bất hợp pháp, cụ thể là:

- Nghe trộm: thông tin vẫn không bị thay đổi, nhưng sự bí mật của nó thì không còn. Ví dụ, số thẻ tín dụng hoặc các thông tin cần bảo mật bị lộ.

- Giả mạo: các thông tin trong khi truyền đi bị thay đổi hoặc thay thế trước khi đến người nhận. Ví dụ, đơn đặt hàng hay lý lịch của một cá nhân bị thay đổi.

- Mạo danh: thông tin được gửi tới một cá nhân mạo nhận là người nhận hợp pháp theo hai hình thức. Hình thức thứ nhất là bắt chước, tức là một cá nhân có thể giả vờ như một người khác như dùng địa chỉ mail của một người khác hoặc giả mạo một tên miền của một trang web. Hình thức thứ hai là xuyên tạc, tức là một cá nhân hay một tổ chức có thể đưa ra những thông tin không đúng sự thật về họ như một trang web mạo nhận chuyên về kinh doanh trang thiết bị nội thất, nhưng thực tế lại là một trang chuyên ăn cắp mã thẻ tín dụng và không bao giờ gửi hàng cho khách.

Sự phát triển thương mại điện tử gắn chặt với việc đảm bảo an toàn thông tin được trao đổi trên mạng và sự tin cậy của bên tham gia giao dịch. Công nghệ phổ biến hiện nay chống đỡ có hiệu quả những hành động bất hợp pháp nêu trên và đảm bảo sự tin cậy của các bên là chữ ký số và chứng thực điện tử. Công nghệ này cho phép:

- Mã hoá và giải mã: cho phép hai đối tác giao dịch với nhau trên mạng có thể che giấu thông tin. Người gửi mã hoá các thông tin trước khi gửi chúng đi, người nhận sẽ giải mã trước khi đọc. Trong khi truyền, các thông tin sẽ không bị lộ.

- Chống lại sự giả mạo: cho phép người nhận có thể kiểm tra thông tin có bị thay đổi hay không. Bất kỳ một sự thay đổi hay thay thế nội dung của thông tin gốc đều bị phát hiện.

- Xác thực: cho phép người nhận có thể xác định danh tính của người gửi.

- Không thể chối cãi: người gửi không thể chối cãi việc gửi thông tin.

Page 32: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

17

Mặc dù Việt nam chưa chính thức có quy định pháp lý về việc cung cấp dịch vụ chữ ký số và chứng thực điện tử nhưng một số công ty đã năng động trong việc nghiên cứu và đưa vào ứng dụng công nghệ này.

Từ giữa năm 2003, Công ty Misoft đã đưa ra thị trường sản phẩm thương mại MiCA sử dụng để cấp phát, quản lý chứng chỉ số, các chứng chỉ số này được lưu trữ trong các thiết bị chuyên dụng như iKey, SmartCard. Đồng thời thực hiện chuyển giao công nghệ trong việc tích hợp chứng chỉ số vào các hệ thống tin học trên nền Web, Mail cũng như các phần mềm phát triển xây dựng trên các ngôn ngữ lập trình khác nhau như Microsoft.Net, DELPHI, Visual Basic, C++, ASP, JSP,… Ngoài ra, Misoft còn thực hiện các khóa đào tạo về áp dụng chứng chỉ số trong thương mại điện tử cho các cơ quan, đơn vị. Đội ngũ chuyên gia của Misoft được đào tạo, cấp chứng chỉ từ các hãng lớn trên thế giới như Entrust. Misoft cũng là nhà phân phối sản phẩm về hệ thống cấp phát chứng chỉ của EnTrust tại Việt Nam.

Misoft có khả năng cung cấp, chuyển giao các sản phẩm chứng chỉ số liên quan đến thương mại điện tử cho mọi mức độ khách hàng khác nhau, từ các hệ thống giao dịch nội bộ tới các hệ thống diện rộng, phân cấp, xác thực chéo. Misoft đã thực hiện cung cấp sản phẩm, đào tạo cho các khách hàng lớn như Ngân hàng Nhà nước, Bộ tài chính.

Song song với các hệ thống cấp phát chứng chỉ số, Misoft còn là nhà cung cấp giải pháp an toàn an ninh mạng nói chung và thương mại điện tử nói riêng. Các giải pháp chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực như: dò tìm, đánh giá điểm yếu (Found Stone); các hệ thống tường lửa (CheckPoint); hệ thống phát hiện và phòng chống xâm nhập (Internet Security Systems); hệ thống phòng chống virus tập trung (TrendMicro). Các hệ thống này đã được kiểm chứng thực tế từ các khách hàng lớn như Công ty Thông tin Di dộng (VMS), Vietnam Airline, Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Công Thương Việt Nam, Bộ Tài chính.

Hộp 1.7 Một hãng đi tiên phong trong lĩnh vực bảo mật

Entrust - một trong những hãng đi đầu về phát triển PKI.

Giải pháp của EnTrust không những đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về hệ thống CA mà còn cung cấp thêm nhiều các ứng dụng của chứng chỉ số, tích hợp chúng trong các ứng dụng khác như e-mail, mã hoá file thư mục…

Các sản phẩm của Entrust tập trung cho việc nhận dạng và quản lý truy nhập bằng sử dụng xác thực mạnh, phân quyền, chữ ký điện tử và mã hoá các dịch vụ bảo mật cho các doanh nghiệp sử dụng giao dịch điện tử qua hệ thống mạng nội bộ, mạng WAN, mạng Internet, các dịch vụ Web, VPN. Chứng chỉ số do Entrust cung cấp tuân theo chuẩn X509 V3, ngoài ra còn tuân theo các chuẩn quốc tế về mã hoá như PKCS, RFC.

Sơ đồ hệ thống (trang tiếp)

Page 33: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

18

Công ty VASC đã xây dựng thành công hệ thống quản lý và cấp chứng chỉ số của mình từ tháng 4/2002 và từ 8/2002 đã chính thức phục vụ khách hàng. Chứng chỉ số VASC CA được dùng trong các giao dịch trên môi trường mạng hoặc Internet để: - Chứng thực các đối tượng sử dụng - Đảm bảo an toàn và bảo mật thông tin - Cung cấp bằng chứng pháp lý nếu xảy ra tranh chấp VASC CA cung cấp ba loại chứng chỉ số: chứng chỉ số cho cá nhân, chứng chỉ số cho máy chủ (server) và chứng chỉ số cho phát triển phần mềm.

Trung tâm tin học Nacencom đã nghiên cứu và triển khai thành công việc cấp và quản lý chứng chỉ số dùng thẻ thông minh “PKI SmartCard” cho các đối tượng tham gia trong môi trường giao dịch điện tử, bao gồm các cá nhân, tổ chức và các hệ thống TMĐT.

Thẻ thông minh PKI SmartCard của Nacencomm như một máy tính thu nhỏ, là một công cụ cơ động với khả năng chống giả mạo, an toàn cho các khoá mã hoá, khoá xác thực và các thông tin nhậy cảm, hoạt động độc lập với máy tính trong xác thực, chữ ký điện tử và trao đổi khoá. Thẻ tuân theo chuẩn quốc tế ISO 7816, EN 726-3 và hỗ trợ đa ứng dụng. Cặp khoá được sinh bên trong thẻ, khoá riêng được bảo mật tuyệt đối trong thẻ với thuật toán mã hoá RSA 1024 bit. Thẻ được bảo vệ bằng PIN, hỗ trợ nhiều chứng thực và cặp khoá lưu trong thẻ. Ngoài ra, thẻ hỗ trợ giao tiếp với các hệ thống quản lý chứng thực số khác. Việc cấp chứng thực số tuân theo chuẩn X509 quy định cấu trúc của chứng thực số do Liên minh viễn thông quốc tế (ITU) ban hành.

Page 34: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

19

3.3. Phần mềm nguồn mở Báo cáo Thương mại điện tử và Phát triển năm 2003 của UNCTAD đã nhấn

mạnh tác động to lớn của Internet đối với phát triển kinh tế, đồng thời vạch ra lợi ích tiềm tàng của phần mềm nguồn mở (PMNM) đối với sự phát triển của CNTT nói chung và TMĐT nói riêng.

Theo đánh giá của Dự án Phần mềm nguồn mở quốc gia thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ, phần mềm nguồn mở (PMNM) đã và đang phát triển mạnh mẽ và là một trong những hướng phát triển có triển vọng trong thời gian tới trong lĩnh vực CNTT. Đó là do tính ưu việt rất cơ bản của PMNM là phần mềm được phát triển, chia sẻ, hoàn thiện và đóng góp của hàng ngàn người trên thế giới. PMNM cho phép người dùng quyền tự do chạy chương trình với bất kỳ mục đích nào, quyền nghiên cứu và sửa đổi chương trình, quyền sao chép và phân phối lại mà không phải xin phép và trả tiền bản quyền. PMNM là tài sản trí tuệ của của cả cộng đồng trên phạm vi toàn thế giới và được chia sẻ tự do, đây là một trong những lợi thế mà những nước đi sau như Việt Nam có thể có cơ hội để phát triển, do vậy Việt Nam chúng ta cần nhanh chóng tiếp cận và phát triển lĩnh vực này.

PMNM đã vào Việt Nam từ những năm 90’ phục vụ mục đích nghiên cứu. Được sự ủng hộ của những người tiên phong và hoà nhập với phong trào phát triển PMNM trên thế giới, Năm 2000 Bộ Khoa học và Công nghệ và Môi trường (nay là Bộ Khoa học và Công nghệ) đã tổ chức Hội thảo Quốc gia lần thứ nhất về PMNM và tiếp theo là các Hội thảo Quốc gia lần 2 năm 2002 và lần 3 năm 2004. Tháng 3/2004, Bộ Khoa học và Công nghệ đã đăng cai tổ chức Diễn đàn Châu Á lần thứ 3 về PMNM với 17 nền kinh tế trong Châu lục tham dự.

Hoà nhịp với xu thế phát triển PMNM trên thế giới, Việt Nam cũng đã có những nỗ lực trong việc ứng dụng và phát triển PMNM và đạt được những kết quả nhất định trong công tác đào tạo và nghiên cứu, ứng dụng và phát triển cũng như nhận thức của toàn xã hội về PMNM ngày càng được nâng cao và phát triển cụ thể:

- Viện Tin học Pháp ngữ (IFI) đã hoàn toàn sử dụng PMNM phục vụ công tác giảng dạy và học tập cho tất cả giáo viên và sinh viên của Viện. Một số hệ thống máy tính thuộc Trường Đại học quốc gia HCM đã có sử dụng Linux nhiều năm qua khẳng định độ tin cậy và an toàn. Một số trường đại học như Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Cần thơ, Đại học Huế cũng đã có kế hoạch sử dụng hệ điều hành này trong công tác giảng dạy và học tập.

- Khoảng hơn 20 công ty Việt Nam đã tham gia phát triển và cung cấp các sản phẩm trên nền nguồn mở và đưa vào thực tế triển khai như: Ứng dụng cho máy để bàn, các sản phẩm này đã được các nhà sản xuất máy tính thương hiệu Việt Nam cài đặt trong máy xuất xưởng, đưa vào hệ thống giáo dục trong các trường phổ thông (5.000 máy cho hơn 100 trường phổ thông trên cả nước)... ; Ứng dụng cho các hệ thống thông tin và máy chủ như dịch vụ viễn thông, Interrnet, thương mại điện tử, ngân hàng, cơ sở dữ liệu, cổng thông tin, hệ thống thông tin quản lý...

- Văn phòng Trung ương Đảng đã quyết định chuyển đổi hệ thống thông tin của Đảng từ Trung ương đến địa phương dựa trên Lotus Note sang giải pháp dựa trên PMNM. Việc chuyển đổi này đáp ứng nhu cầu tác nghiệp cũng như mở rộng hệ thống và làm chủ công nghệ. Hiện Văn phòng Trung ương đang nhân rộng xuống các tỉnh thành phố.

Page 35: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

20

- Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ký thoả thuận với SUN về việc đưa vào sử dụng StarOffice 7 như một ứng dụng văn phòng chuẩn trong ngành giáo dục. Bản StarOffice (bản thương mại của SUN) và bản OpenOffice - Phần mềm nguồn mở (SUN tặng cộng đồng nguồn mở) đều do SUN phát triển, có đôi chút khác biệt giữa hai phiên bản này là bản StarOffice hoàn toàn do SUN phát triển, còn bản OpenOffice thì có sự đóng góp của cộng đồng. Điều này có nghĩa, một người sử dụng thành thạo StarOffice thì cũng sẽ sử dụng thành thạo OpenOffice, như vậy việc Bộ Giáo dục ký thảo ước với SUN về dung bản StarOffice sẽ là bước đệm rất quan trọng trong việc chuyển từ sử dụng các ứng dụng nguồn đóng (Microsoft) sang các ứng dụng nguồn mở (Linuxx) trong ngành giáo dục.

- Tổ chức các nước sử dụng tiếng Pháp (Francophonie) đã hỗ trợ thành thành lập Trung tâm hỗ trợ PMNM và đưa PMNM vào triển khai thử nghiệm tại 03 trường Đại học tại Việt Nam (Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Bách khoa TP. Hồ Chí Minh và Đại học Cần Thơ)

- Các Trung tâm APTECH đào tạo về CNTT (khoảng 15 Trung tâm) đã đưa nội dung đào tạo về PMNM vào trong các khoá học của Trung tâm. APTECH dự kiến đến cuối năm 2004 sẽ đưa ra các khoá đào tạo chuyên sâu về PMNM.

- Đã có thêm nhiều công ty định hướng và cam kết tham gia vào phát triển các ứng dụng PMNM. Nổi bật nhất là công ty TMA đang tích cực chuẩn bị cho việc chuyển đổi sang sử dụng và phát triển các ứng dụng trên nền nguồn mở.

Tuy chưa thành một tổ chức lớn, nhưng trong nước đã hình thành các cộng đồng về phần mềm nguồn mở chủ yếu là trong một số trường đại học lớn. Cuối tháng 08/2004 Đại học Bách Khoa Hà Nội tổ chức ngày hội về PMNM để hưởng ứng ngày quốc tế về PMNM và phần mềm tự do. Đây là một dấu ấn trong việc phát triển cộng đồng PMNM ở Việt Nam.

Ngày 02/03/2004 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 235/QĐ-TTg về việc phê duyệt Dự án tổng thể “Ứng dụng và phát triển phần mềm nguồn mở ở Việt Nam giai đoạn 2004-2008” với mục tiêu chủ yếu là đẩy nhanh việc ứng dụng và phát triển PMNM, góp phần bảo vệ bản quyền tác giả và giảm chi phí mua sắm phần mềm, thúc đẩy phát triển công nghiệp CNTT nói chung và công nghiệp phần mềm nói riêng của Việt Nam. Bộ Khoa học Công nghệ đang cùng nhiều cơ quan, tổ chức từ trung ương tới địa phương và cộng đồng doanh nghiệp CNTT tích cực triển khai Quyết định này. Đồng thời Bộ Khoa học và Công nghệ đã xây dựng trang web http://www.oss.gov.vn cung cấp thông tin phong phú về PMNM.

4. Một số vấn đề khác 4.1. Sở hữu trí tuệ

Tình trạng vi phạm bản quyền phần mềm ở Việt Nam vẫn ở mức cao và chưa có sự tiến bộ đáng kể nào so với năm 2003. Theo báo cáo năm 2003 và 2004 của Liên minh phần mềm doanh nghiệp (BSA) và IDC, năm 2002 tỷ lệ vi phạm bản quyền của Việt nam là 94% - đứng đầu trong danh sách các nước có tỷ lệ cao nhất, năm 2003 Việt Nam cùng Trung Quốc có tỷ lệ vi phạm là 92% và tiếp tục đứng đầu danh sách trên.

Page 36: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

21

Bảng 1.5 Các nước dẫn đầu về vi phạm bản quyền năm 2003

Việt Nam 92% Trung Quốc 92% Ucraina 91% Indonesia 88% Nga 87% Zimbabue 87% Algieri 87% Nigieria 84% Pakistan 83% Paraguay 83% Tunisia 82% Thailand 80%

Nguồn: First Annual BSA and IDC Global Software - Piracy Study 07/2004

Nguyên nhân chính của việc vi phạm bản quyền là do giá thành chi cho một công trình nghiên cứu phần mềm quá lớn trong khi các sản phẩm được sao chép đem bán ở thị trường lại rẻ mạt. Ví dụ hãng Microsoft trung bình mỗi năm phải chi 3 tỷ USD để đầu tư nghiên cứu phát triển phần mềm, vậy mà khi thành phẩm của họ bị sao chép, in lậu và bán ra thị trường, giá chỉ khoảng 10.000 đồng/đĩa tại thị trường Việt Nam. Ngoài lý do trên, sự thiếu hiểu biết về luật pháp, sự kém rành mạch, cụ thể trong hệ thống hành lang pháp lý cộng với việc kém gương mẫu của ngay chính các cơ quan nhà nước cũng dẫn đến tình trạng vi phạm quyền bảo hộ phần mềm nói trên. Nếu tình trạng cứ tái diễn như hiện nay thì ngành công nghiệp phần mềm còn non trẻ của Việt Nam rất khó mà phát triển. Các nhà đầu tư nước ngoài cũng giảm bớt nhiệt tình đầu tư vào lĩnh vực này ở Việt Nam.

4.2. An ninh mạng Ngày 29/1/2004, Bộ Công an đã ra Quyết định số 71/2004/QĐ-BCA về việc

ban hành Quy định về đảm bảo an toàn, an ninh trong hoạt động quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet tại Việt Nam.

Quyết định này đặt ra yêu cầu về cấp phép, trang thiết bị, nhân sự, cơ chế hoạt động, vấn đề bảo mật, trách nhiệm báo cáo đối với các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet (gồm cả các nhà cung cấp dịch vụ truy nhập, dịch vụ ứng dụng, dịch vụ cung cấp thông tin trên Internet) và đại lý cung cấp dịch vụ Internet. Người sử dụng Internet và tổ chức tham gia hoạt động Internet cũng phải có trách nhiệm thông báo cho cơ quan công an về nội dung thông tin gây phương hại tới an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội… Những hành vi vi phạm sẽ chịu các mức phạt tiền tuỳ vào các mức độ nghiêm trọng. Tổng cục An ninh của Bộ Công an chịu trách nhiệm giám sát việc thực hiện. Quyết định 71 thể hiện quan điểm thắt chặt quản lý nhà nước đối với các loại hình dịch vụ Internet. Có khá nhiều ý kiến không thống nhất với quan điểm này, coi cách quản lý như vậy sẽ cản trở các ứng dụng Internet.

Page 37: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

22

Hộp 1.8

Ý kiến về quy định đảm bảo an toàn, an ninh trong hoạt động Internet

… Vài năm trở lại đây trong các văn bản quản lý viễn thông nói chung và Internet nói riêng đã có thay đổi về nhận thức, lấy phục vụ người dùng làm trung tâm, và điều này thể hiện ở cách nói "quản lý phải theo kịp sự phát triển". Tuy vậy vẫn còn những bất cập.

Ví dụ, Điều 8 của Quyết định số 71/2004/QĐ-BCA về trách nhiệm của đại lý Internet có ghi: "Đại lý Internet có trách nhiệm: ... 2. Thông tin liên quan đến người sử dụng dịch vụ phải được lưu giữ lại tại máy chủ của đại lý trong thời gian 30 ngày,... 3. Có sổ đăng ký sử dụng dịch vụ thống kê đầy đủ chi tiết thông tin về khách hàng gồm: Họ tên, địa chỉ, số CMND hoặc hộ chiếu, thời gian sử dụng dịch vụ. Phải có giải pháp ngăn chặn việc truy cập đến các trang web có nội dung xấu trên Internet và cài đặt chương trình phần mềm để quản lý tức thời nội dung thông tin của khách hàng". Theo tôi, các quy định như vậy là hoàn toàn bất khả thi và cản trở hoạt động kinh doanh và cũng không giúp được gì cho cơ quan quản lý. Do bất khả thi nên chẳng ai thực hiện và cơ quan quản lý đành phải nhắm mắt làm ngơ. Tuy vậy chúng lại biến rất nhiều người lương thiện thành kẻ phạm pháp mà không bị trừng trị (nhưng có thể bị bất cứ lúc nào nếu cơ quan quản lý muốn và như thế có thể tạo điều kiện cho lạm quyền và tham nhũng); tạo tâm lý coi thường pháp luật trong dân chúng. Lưu ý là tôi không phản đối việc kiểm soát, nhiều khi kiểm soát là tốt như chống phát tán thư rác, v.v..., song tôi cho rằng cách kiểm soát như nêu trên là không có hiệu quả. Tiến sĩ Nguyễn Quang A, Báo Lao động số 357 ra ngày 22/12/2004

Page 38: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

23

PHẦN THỨ HAI MÔI TRƯỜNG CHÍNH SÁCH VÀ PHÁP LUẬT

VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ

1. Tình hình chung

Trước 2000, TMĐT còn là thuật ngữ pháp lý mới. Hệ thống pháp luật Việt Nam có quy định nhưng chưa thể hiện được bản chất và tầm quan trọng của TMĐT. Luật Thương mại năm 1997 nhắc tới hình thức hợp đồng bằng phương tiện điện tử như fax, telex, thư điện tử và coi chúng là văn bản (Điều 49). Quy định này chỉ mang tính hình thức và chưa cụ thể hoá các khía cạnh kỹ thuật đủ cho việc áp dụng hiệu quả. Một số vụ án kinh tế liên quan tới giá trị chứng cứ của thư điện tử, bản fax trong giao dịch hợp đồng nhưng các quy định pháp lý chưa đủ để giải quyết.

Trong thời gian này, Bộ Thương mại, Bộ Tư pháp cũng đã có một số nghiên cứu và đề xuất xây dựng chính sách và pháp luật lên Chính phủ. Tuy nhiên, chưa có văn bản pháp quy về TMĐT nào của Chính phủ hoặc Thủ Tướng Chính phủ được ban hành và trở thành nền tảng pháp lý hỗ trợ cho sự phát triển của TMĐT.

Trong giai đoạn 2000-2003, một số văn bản pháp lý chuyên ngành đã có những quy định khá cụ thể về giao dịch điện tử như Bộ luật Hình sự năm 2000, Luật Hải quan năm 2001, Pháp lệnh Quảng cáo năm 2001, những văn bản dưới luật trong lĩnh vực ngân hàng. Tuy nhiên, do nhận thức chưa toàn diện về TMĐT, các chế định pháp lý trên còn thiếu cơ sở pháp lý cụ thể, vì vậy dẫn tới việc khó áp dụng trên thực tế.

Tháng 5 năm 2001, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 81/2001/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình hành động, triển khai Chỉ thị số 58-CT/TW về việc đẩy mạnh ứng dụng và phát triển CNTT phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Theo Quyết định này, Bộ Thương mại có trách nhiệm triển khai kế hoạch phát triển thương mại điện tử của Việt Nam.

Tháng 1 năm 2002, Chính phủ đã giao Bộ Thương mại chủ trì xây dựng Pháp lệnh TMĐT nhằm hình thành cơ sở pháp lý toàn diện cho TMĐT. Sau gần hai năm xây dựng, tới cuối năm 2003, Bộ Thương mại đã hoàn thành Dự thảo 6 của Pháp lệnh và chuẩn bị trình Chính phủ. Tuy nhiên, do tầm quan trọng của giao dịch điện tử đối với mọi mặt của kinh tế xã hội nên Quốc hội đã quyết định xây dựng Luật Giao dịch điện tử bao trùm nội dung của Pháp lệnh TMĐT.

Hộp 2.1 Quyết định của Quốc hội dừng triển khai Pháp lệnh TMĐT

Ngày 18/10/2004, Văn phòng Quốc hội đã ra Quyết định số 1791/VPQH-KHCNMT thông báo ý kiến của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo Bộ Thương mại và các cơ quan liên quan với 02 nội dung sau:

1. Kết thúc nhiệm vụ của Ban Soạn thảo Dự án Pháp lệnh TMĐT; tiến hành tổng kết, quyết toán kinh phí các hoạt động của Ban Soạn thảo đến thời điểm hiện tại; chuyển giao cho Ban Soạn thảo Dự án Luật GDĐT dự thảo và các tài liệu liên quan của Pháp lệnh TMĐT để nghiên cứu, tiếp thu đưa nội dung này vào Dự thảo luật.

Page 39: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

24

2. Để kịp thời với tiến độ soạn thảo và đảm bảo thực thi Luật GDĐT khi thực hiện các giao dịch (nhất là trong lĩnh vực thương mại) trong nước cũng như quốc tế, trân trọng đề nghị Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành hữu quan chuẩn bị các dự thảo Nghị định đi kèm Luật GDĐT thuộc lĩnh vực mà Bộ, ngành mình quản lý.

2. Tình hình xây dựng các chiến lược, kế hoạch liên quan tới TMĐT 2.1. Chiến lược phát triển Công nghệ thông tin và Truyền thông (CNTT&TT)

Mặc dù đường lối lớn về CNTT đã hình thành trong giai đoạn 2000 – 2002 nhưng Việt nam vẫn cần phải ban hành một chiến lược phát triển dài hạn cụ thể hoá đường lối đã vạch ra.

Ngay sau khi được thành lập và được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước về CNTT, từ năm 2003 Bộ Bưu Chính Viễn thông đã tập trung xây dựng Chiến lược phát triển CNTT và TT tới năm 2010. Trong năm 2004 Dự thảo Chiến lược đã được đưa ra thảo luận tại một số cuộc họp của Ban Chỉ đạo 58.

Theo Dự thảo Chiến lược, CNTT&TT được xác định là nòng cốt cho Việt Nam chuyển đổi nhanh cơ cấu kinh tế - xã hội, trở thành nước có trình độ tiên tiến về phát triển xã hội thông tin trong khu vực ASEAN.

Với tầm nhìn trên, Chiến lược đề ra quan điểm phát triển, thể hiện trên bốn khía cạnh gồm: (a) coi CNTT&TT là công cụ quan trọng hàng đầu để thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ, từng bước hình thành xã hội thông tin - cơ sở để rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; (b) coi Công nghiệp CNTT&TT là ngành kinh tế mũi nhọn, được nhà nước ưu tiên hỗ trợ và khuyến khích phát triển; (c) ưu tiên phát triển hạ tầng thông tin và truyền thông, tạo cơ sở cho các ứng dụng CNTT&TT trong mọi lĩnh vực của toàn xã hội; (d) phát triển nguồn nhân lực có chất lượng, đồng bộ, chuyển dịch nhanh về cơ cấu theo hướng tăng nhanh tỷ lệ nguồn nhân lực có tri thức, phát triển mạnh mẽ năng lực công nghệ quốc gia.

Dự thảo Chiến lược xác định bốn trụ cột phát triển là xã hội điện tử, chính phủ điện tử, kinh doanh điện tử và thương mại điện tử. Các tiêu chí phát triển khá cụ thể, bao gồm: (1) 1 triệu máy tính cá nhân giá rẻ cho cộng đồng; (2) xóa mù tin học cho 20 triệu người dân; (3) đào tạo, bồi dưỡng 1.000 cán bộ lãnh đạo phụ trách CNTT và truyền thông; (4) chứng minh thư điện tử cho toàn dân; (5) thúc đẩy 50% doanh nghiệp ứng dụng CNTT và truyền thông để nâng cao năng lực cạnh tranh; (6) 100% trường trung học sử dụng Internet; (7) điện tử hóa 50% văn bản nhà nước; (8) 1 triệu trang thông tin điện tử phục vụ công ích; (9) 50% dịch vụ hành chính công cơ bản trực tuyến; (10) 30.000 chuyên gia CNTT và truyền thông.

Giai đoạn cuối năm 2003 và đầu năm 2004 hoạt động xây dựng Chiến lược phát triển CNTT và TT thu hút được sự chú ý đáng kể của các bộ ngành và dư luận. Tuy nhiên, nửa cuối năm 2004 hoạt động xây dựng Chiến lược trở nên trầm lắng. Cho tới cuối năm 2004 không thấy có thông báo chính thức nào từ Bộ Bưu Chính Viễn thông về kế hoạch hoàn thành và trình Chính phủ Chiến lược này. Điều đáng lưu ý khác là Dự thảo Chiến lược chưa được công bố rộng rãi nhằm thu hút các ý kiến góp ý từ đông đảo các tổ chức, doanh nghiệp và công dân.

Page 40: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

25

2.2. Kế hoạch tổng thể Phát triển Thương mại điện tử giai đoạn 2006 - 2010

Thực hiện chức năng thống nhất quản lý nhà nước về TMĐT và Quyết định số 81/2001/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính phủ, năm 2004 Bộ Thương mại bắt đầu xây dựng Kế hoạch tổng thể phát triển TMĐT giai đoạn 2006 - 2010. Tháng 12 năm 2004, Bộ Thương mại đã hoàn thành Dự thảo 1 của Kế hoạch tổng thể và xin ý kiến chỉ đạo tại Phiên họp 8 của Ban Chỉ đạo quốc gia về CNTT. Theo Chương trình công tác năm 2005 của Chính phủ và Thủ Tướng Chính phủ, Bộ Thương mại phải hoàn thành Kế hoạch này và trình Thủ Tướng Chính phủ xem xét vào giữa năm 2005.

Với quan điểm coi TMĐT là động lực quan trọng giúp tăng trưởng kinh tế - thương mại và góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, Dự thảo xác định bốn mục tiêu phát triển TMĐT tới năm 2010 gồm: (1) Phần lớn (khoảng 70%) các doanh nghiệp lớn tiến hành giao dịch doanh nghiệp tới doanh nghiệp (B2B) và ứng dụng TMĐT ở mức cao; (2) Hầu hết (khoảng 90%) các doanh nghiệp vừa và nhỏ biết tới lợi ích của TMĐT và có ứng dụng nhất định; (3) Một bộ phận đáng kể (khoảng 15%) hộ gia đình và cá nhân có thói quen mua hàng trên mạng (B2C); và (4) Tất cả các chào thầu mua sắm chính phủ được công bố trên các trang tin điện tử của các cơ quan Chính phủ và 30% mua sắm chính phủ được tiến hành trên mạng (B2G).

Để đạt được mục tiêu trên, nhà nước sẽ đẩy mạnh tuyên truyền, đào tạo về TMĐT cho các doanh nghiệp, kịp thời xây dựng môi trường pháp lý thuận lợi cho TMĐT và phát huy vai trò tiên phong của các cơ quan nhà nước trong việc ứng dụng TMĐT trong mua sắm công.

Dự thảo đề ra sáu chính sách lớn. Chính sách thứ nhất là triển khai mạnh mẽ và liên tục hoạt động phổ biến, tuyên truyền, đào tạo về TMĐT. Chính sách thứ hai là nhanh chóng tạo lập môi trường thuận lợi cho TMĐT với việc ban hành đầy đủ và đồng bộ các văn bản quy phạm pháp luật liên quan tới TMĐT. Chính sách tiếp theo là các cơ quan chính phủ ở mọi cấp cần phải đi tiên phong trong việc hỗ trợ và ứng dụng TMĐT. Chính sách thứ tư và thứ năm là phát triển hạ tầng kỹ thuật cho TMĐT trên cơ sở chuyển giao công nghệ từ nước ngoài, tổ chức thực thi các quy định pháp luật liên quan tới TMĐT một cách cương quyết, kịp thời. Cuối cùng, chính sách thứ sáu là tích cực tham gia các hoạt động hợp tác quốc tế về TMĐT.

Trên cơ sở các chính sách lớn này, Dự thảo đã đề xuất nhiều chương trình, dự án cụ thể. Mỗi chương trình, dự án sẽ do một cơ quan chịu trách nhiệm chủ trì song song với sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan khác. Kinh phí triển khai các chương trình, dự án chủ yếu huy động từ toàn xã hội và nguồn ngân sách hàng năm cấp cho từng cơ quan nhà nước. Dự thảo cũng đề xuất Nhà nước cần thiết lập Quỹ phát triển TMĐT từ ngân sách nhà nước để tài trợ cho những dự án khó xác định thuộc thẩm quyền của một cơ quan cụ thể, hoặc những dự án chỉ cần đầu tư nhỏ nhưng sẽ kích thích mạnh mẽ mọi đối tượng ứng dụng TMĐT.

2.3. Kế hoạch tổng thể phát triển CPĐT tới năm 2010 Thực hiện chức năng quản lý nhà nước về CNTT năm 2004 Bộ Bưu chính

Viễn thông đã tích cực xây dựng Kế hoạch tổng thể phát triển CPĐT tới năm 2010. Cuối năm 2004 Dự thảo Kế hoạch đã hoàn thành. Dự thảo này đề ra các quan

Page 41: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

26

điểm sau: (1) coi CPĐT là công cụ giúp Chính phủ trong sạch, minh bạch, hiệu lực và hiệu quả hơn ; (2) lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm ; (3) gắn với hoạt động cải cách hành chính ; (4) coi CPĐT là động lực thúc đẩy quá trình đổi mới, nâng cao năng lực và chất lượng cuộc sống.

Dự thảo đặt ra các mục tiêu nhằm nâng cao năng lực điều hành, quản lý của các cơ quan Chính phủ; phục vụ người dân và doanh nghiệp; huy động nguồn vốn nhà nước (1% ngân sách từ năm 2006) cho phát triển Chính phủ điện tử. Dự thảo cụ thể các nhóm kế hoạch thực hiện gồm: (1) nâng cao năng lực điều hành, quản lý của cơ quan Chính phủ; (2) cung cấp thông tin cho các cơ quan, người dân và doanh nghiệp; (3) xây dựng dịch vụ công phục vụ người dân và doanh nghiệp; (4) xây dựng hạ tầng và môi trường pháp lý. Tương ứng từng nhóm kế hoạch thực hiện là những dự án trọng điểm.

Dự kiến Bộ Bưu chính Viễn thông sẽ trình Dự thảo Kế hoạch tổng thể Phát triển Chính phủ điện tử lên Thủ tướng Chính phủ xem xét vào đầu năm 2005.

Thực hiện chính phủ điện tử là một yếu tố không thể tách rời với thương mại điện tử vì rất nhiều dịch vụ công liên quan tới thương mại điện tử do các cơ quan chính phủ thực hiện như hải quan điện tử, thuế điện tử, cấp phép xuất nhập khẩu điện tử, mua sắm công điện tử, v.v...

3. Pháp lệnh TMĐT và Luật GDĐT

3.1. Pháp lệnh Thương mại điện tử

Tháng 1/2002, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo Bộ Thương mại chủ trì Dự án Pháp lệnh TMĐT. Để thực hiện nhiệm vụ được giao, Bộ Thương mại đã thành lập Ban soạn thảo và Tổ Biên tập Pháp lệnh TMĐT với thành viên là cán bộ, chuyên viên và chuyên gia từ các Bộ, Ngành và khối doanh nghiệp liên quan. Cuối năm 2003, Bộ Thương mại đã hoàn thành xong dự thảo cuối cùng (Dự thảo 6) của Pháp lệnh TMĐT và chuẩn bị thủ tục trình Chính phủ và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Văn bản này có mục đích tạo cơ sở pháp lý cho việc sử dụng thông điệp dữ liệu trong các hoạt động thương mại, từ đó gián tiếp thúc đẩy các ứng dụng khác nhau của TMĐT. Tuy nhiên, cuối năm 2003, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2004, trong đó không có Pháp lệnh TMĐT. Nghị quyết đã bổ sung Dự án Luật Giao dịch điện tử vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khoá XI (2002-2007). Tháng 10/2004, Văn phòng Quốc hội đã thông báo ý kiến chỉ đạo của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về việc ngừng xây dựng Pháp lệnh TMĐT và thu hút nội dung Pháp lệnh vào Luật Giao dịch điện tử.

Hộp 2.2 Ngừng ban hành Pháp lệnh TMĐT là một sự kiện CNTT năm 2004

Doanh nghiệp mong có luật về TMĐT

Một trong 10 sự kiện CNTT-VT năm 2004 do Tạp chí Thế giới vi tính B số tháng 1/2005 bình bầu là việc "Dừng soạn thảo Pháp lệnh TMĐT, chuyển sang soạn thảo Luật Giao dịch điện tử, trong khi doanh nghiệp TMĐT đang mỏi mắt chờ luật".

Page 42: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

27

Có nhiều ý kiến khác nhau đối với quyết định ngừng ban hành Pháp lệnh TMĐT. Một số ý kiến cho rằng nên ban hành Pháp lệnh TMĐT vì đã hoàn thành về cơ bản nội dung Dự thảo, mặt khác, việc thi hành Pháp lệnh trên thực tế sẽ là kinh nghiệm quý giúp cho việc xây dựng Luật GDĐT mang tính khả thi hơn.

3.2. Luật Giao dịch điện tử Đầu năm 2004, Uỷ ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội

khởi động Dự án xây dựng Luật Giao dịch điện tử (GDĐT). Tới cuối năm 2004, Ban Soạn thảo đã hoàn thành Dự thảo 6 với cấu trúc gồm 09 chương, 57 điều, quy định về: (1) giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu; (2) giá trị pháp lý của chữ ký điện tử và thị trường chứng thực điện tử; (3) hợp đồng điện tử; (4) GDĐT của các cơ quan nhà nước; (5) vấn đề bảo mật, an toàn, an ninh; (6) vấn đề sở hữu trí tuệ trong GDĐT thuộc các lĩnh vực dân sự, thương mại, hành chính và lĩnh vực khác do pháp luật quy định.

Nếu kế hoạch xây dựng Luật Giao dịch điện tử được thực hiện tốt thì cuối năm 2005 Quốc hội sẽ thông qua Luật này. Đây được coi là thời điểm lịch sử của các giao dịch điện tử tại Việt nam, bao gồm các giao dịch điện tử trong lĩnh vực thương mại. Luật GDĐT sẽ thừa nhận giá trị pháp lý của các thông điệp dữ liệu và chữ ký điện tử được sử dụng trong các quan hệ dân sự, thương mại và hành chính; đồng thời cụ thể hoá các quy định áp dụng cho hợp đồng điện tử và các giao dịch điện tử của khối cơ quan nhà nước. Tổ chức, cá nhân sẽ yên tâm khi tiến hành các giao dịch điện tử, vừa giảm các chi phí giao dịch, tiết kiệm thời gian xử lý và vẫn có thể yêu cầu toà án bảo vệ quyền lợi của mình một khi có tranh chấp xẩy ra.

Hộp 2.3 Xu hướng xây dựng pháp luật về GDĐT trên thế giới

Pháp luật về GDĐT quy định ba nhóm vấn đề cơ bản: (1) Thừa nhận các giao dịch điện tử (qua việc thừa nhận giá trị pháp lý của các thông điệp dữ liệu) ; (2) Thừa nhận chữ ký điện tử (chữ ký số) nhằm đảm bảo tính an toàn và bảo mật của các hệ thống thông tin ; (3) quy định về những khía cạnh liên quan tới GDĐT gồm: quyền và nghĩa vụ của các nhà cung cấp dịch vụ mạng; thanh toán trực tuyến, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trên mạng, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trên mạng, bảo vệ bí mật cá nhân trên mạng, tội phạm, vi phạm trên mạng và cơ chế giải quyết tranh chấp trên mạng.

Tuỳ thực tế phát triển của mình, từng nước sẽ hình thành các chế định pháp lý về GDĐT theo năm khuynh hướng sau:

1. Xây dựng một luật độc lập bao quát cả 03 nhóm vấn đề nêu trên. Cách này tránh khỏi việc sửa đổi, bổ sung những văn bản luật hiện hành và kịp thời đưa ra các quy định điều chỉnh các GDĐT. Tuy nhiên, một luật như trên liên quan tới nhiều lĩnh vực, việc xây dựng không đơn giản, do đó đòi hỏi trình độ lập pháp cao. Hàn Quốc đã xây dựng Luật cơ bản về TMĐT bao quát cả 03 nhóm vấn đề trên, tuy nhiên đối tượng điều chỉnh chỉ là các giao dịch thương mại, không mở rộng cho mọi GDĐT.

2. Xây dựng nhiều luật độc lập quy định về từng vấn đề cụ thể trong 03 nhóm vấn đề trên. Điển hình là Malaysia với các luật chữ ký số, luật chữa bệnh từ xa, luật truyền thông và đa phương tiện… Cách này không đòi hỏi phải sửa đổi pháp luật chuyên ngành, có khả năng nhanh chóng xây dựng các văn bản pháp lý điều chỉnh các khía cạnh khác nhau của GDĐT. Tuy nhiên, đòi hỏi phải hình thành một cơ quan chuyên nghiên cứu và đề xuất chính sách liên quan tới CNTT (Malaysia đã thành lập MSC - Multimedia Super Corridor có trách nhiệm đề xuất và xây dựng nội dung các vấn đề pháp lý liên quan tới CNTT).

Page 43: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

28

3. Xây dựng luật riêng thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu và/hoặc chữ ký điện tử (chữ ký số). Các vấn đề khác liên quan tới GDĐT được quy định bằng cách sửa đổi, bổ sung pháp luật chuyên ngành. UNCITRAL (Uỷ ban Liên hợp quốc về pháp luật thương mại quốc tế) khuyến nghị các nước theo hướng này với việc ban hành luật mẫu về TMĐT (phạm vi điều chỉnh có thể được mở rộng cho mọi GDĐT) và Luật mẫu về chữ ký điện tử. Phillippines cũng theo hướng này với việc hợp nhất nội dung 02 luật mẫu của UNCITRAL.

4. Xây dựng luật riêng thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu và/hoặc chữ ký điện tử (chữ ký số). Luật này cũng bao gồm cả một số vấn đề được coi là quan trong như quyền và nghĩa vụ của các nhà cung cấp dịch vụ trực tuyến, thanh toán điện tử. Các vấn đề còn lại liên quan tới GDĐT được quy định bằng cách sửa đổi, bổ sung pháp luật chuyên ngành. Điển hình là Mỹ với Luật Thống nhất giao dịch điện tử (1999) và Luật eSign (Luật về chữ ký điện tử trong pháp luật thương mại quốc gia và quốc tế), Canada, Úc, Singapore...

5. Không xây dựng luật mới mà chỉ sửa đổi, bổ sung pháp luật hiện hành và đưa các quy định dưới luật. Pháp đã sửa đổi Bộ luật Dân sự (Điều 1316-4) để thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu và chữ ký điện tử, dựa vào Điều 1316-4 và Chỉ thị về chữ ký điện tử của Châu Âu, Pháp cũng đã xây dựng một Nghị định về chữ ký điện tử.

4. Một số luật và chính sách liên quan tới TMĐT

4.1. Pháp luật về quảng cáo Ngày 16/11/2001, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh Quảng

cáo 39/2001/PL-UBTVQH, trong đó Điều 9 đề cập tới phương tiện quảng cáo Báo điện tử và Mạng thông tin máy tính, Điều 10 quy định: “Báo điện tử được quảng cáo như đối với báo in” và Điều 11 đưa ra yêu cầu đối với việc quảng cáo trên mạng thông tin máy tính. Ngày 31/3/2003, Chính phủ ban hành Nghị định 24/2003/NĐ hướng dẫn Pháp lệnh có những quy định tạo cơ sở cấp giấy phép quảng cáo trên mạng thông tin máy tính. Ngày 21/11/2002, Bộ Văn hoá Thông tin cũng đã ban hành Quyết định số 28/2002/QĐ-BVHTT ban hành Quy chế xuất bản bản tin, tài liệu, tờ rơi ; phát hành thông cáo báo chí ; đăng, phát bản tin trên màn hình điện tử của các cơ quan, tổ chức nước ngoài, pháp nhân có yếu tố nước tại Việt Nam. Ba văn bản trên đã quy định về quảng cáo trên mạng, tuy nhiên, mới mang tính hình thức, đề cập dưới góc độ quản lý nhà nước trong quảng cáo nói chung. Quảng cáo thương mại với ý nghĩa là một hoạt động thương mại chưa có quy định pháp lý điều chỉnh cụ thể.

Bộ Thương mại đang xây dựng Dự thảo Luật Thương mại (sửa đổi), trong đó quy định về hoạt động quảng cáo thương mại. Đây sẽ là cơ sở pháp lý chung cho phát triển dịch vụ quảng cáo trực tuyến. Tuy nhiên, để định hướng, khuyến khích quảng cáo trực tuyến, sẽ cần những quy định cụ thể hơn.

Hiện nay tại Việt nam đã có nhiều hình thức tiến hành quảng cáo trực tuyến. Doanh nghiệp có thể hình thành một website riêng, đặt đường dẫn website của mình tại những trang web có nhiều người xem, đăng hình quảng cáo tại những website tin tức nổi tiếng hay trực tiếp gửi thư điện tử tới từng khách hàng, đối tác tiềm năng…

Phần lớn các công ty đã xây dựng website riêng nhằm quảng bá hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Những công ty có website riêng hoạt động trên nhiều lĩnh vực khác nhau từ sản xuất hàng hoá tới cung cấp dịch vụ. Nhiều doanh nghiệp đã tận dụng chi phí cực rẻ của hình thức quảng cáo nhờ thư điện tử bằng

Page 44: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

29

cách mua hoặc liệt kê danh sách khách hàng tiềm năng có địa chỉ email từ những nhà cung cấp dịch vụ Internet như FPT, VDC, Saigonnet, rồi gửi thư điện tử quảng cáo. Chi phí quảng cáo trên các trang web như www.vnexpress.net, www.vdc.com.vn, www.vnn.vn rất thấp so với việc quảng cáo trên các phương tiện truyền hình, đài phát thanh. Vì vậy, việc tiến hành quảng bá trên những website có số lượng truy cập lớn cũng đang trở thành một chiến lược quan trọng của nhiều doanh nghiệp. 4.2. Luật Kế toán

Tháng 6/2003, Quốc hội đã ban hành Luật Kế toán với những quy định khá cụ thể về hình thức điện tử của chứng từ kế toán. Điều 18 thừa nhận giá trị pháp lý của hình thức chứng từ kế toán điện tử nếu đáp ứng được các yêu cầu kỹ thuật như : thể hiện dưới dạng dữ liệu điện tử, được mã hoá mà không bị thay đổi trong quá trình truyền gửi qua máy tính hoặc trên các vật mang tin. Các điều 19 và 20 cũng quy định khá rõ về việc lập chứng từ điện tử và đòi hỏi phải có chữ ký điện tử đối với các chứng từ điện tử. Điều 21 thừa nhận hình thức hoá đơn điện tử trong các giao dịch mua bán hàng hoá, dịch vụ.

Tuy nhiên, Luật Kế toán vẫn đưa ra đòi hỏi phải lưu trữ bản in ra giấy của chứng từ điện tử. Ngoài ra, do chưa có các văn bản hướng dẫn cụ thể về các khía cạnh kỹ thuật trong soạn thảo, xử lý, mã hoá, lưu trữ chứng từ điện tử, hoá đơn điện tử nên việc sử dụng chứng từ điện tử trong các nghiệp vụ kế toán vẫn ít được thực hiện. Mặt khác, hoá đơn, chứng từ kế toán được sử dụng trong nhiều mối quan hệ rộng hơn hoạt động kế toán như thương mại (hoá đơn sử dụng trong hợp đồng mua bán hàng hoá, dịch vụ), quản lý nhà nước trong những lĩnh vực khác nhau (hành chính, đầu tư, ngân hàng …), vì vậy quy định về chứng từ điện tử trong Luật Kế toán chưa đủ tầm bao quát. Các hạn chế trên giới hạn khả năng áp dụng của Luật Kế toán. 4.3. Bộ luật Dân sự (sửa đổi)

Bộ luật Dân sự sửa đổi do Bộ Tư pháp soạn thảo, hiện đã hoàn thành dự thảo và trình lên Quốc hội. Dự kiến, Quốc hội sẽ xem xét, thông qua Bộ luật này giữa năm 2005. Dự thảo có ba quy định liên quan tới hình thức giao dịch dân sự, gồm: Điều 115 (Hình thức giao dịch dân sự) giới hạn 03 hình thức giao dịch dân sự là lời nói, văn bản và hành vi cụ thể, trong đó coi thư điện tử và các hình thức thông tin điện tử khác là một dạng văn bản; Điều 373 (Thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực) quy định “hiệu lực của đề nghị giao kết hợp đồng phát sinh khi đề nghị ở dạng thông điệp dữ liệu được đưa vào hệ thống thông tin chính thức của bên được đề nghị”; và Điều 384 (Hình thức hợp đồng) quy định “hợp đồng có thể được giao kết bằng văn bản, hành vi cụ thể, lời nói hoặc thông điệp dữ liệu”.

Dù đã đề cập tới hình thức giao dịch điện tử nhưng Dự thảo còn chưa phân biệt sự khác nhau giữa hình thức giao dịch bằng văn bản và hình thức giao dịch bằng thông điệp dữ liệu, dẫn tới sự mâu thuẫn trong quy định tại Điều 115 với các Điều 373 và 384. Thông điệp dữ liệu cần phải được coi là một hình thức giao dịch độc lập với hình thức văn bản, đây cũng chính cơ sở lý luận để xây dựng Luật GDĐT (xem phần về Luật GDĐT) giúp thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ

Page 45: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

30

liệu. Ngoài ra, các quy định về thông điệp dữ liệu trong Bộ luật Dân sự được xây dựng khá độc lập với Luật GDĐT, điều này tiềm ẩn khả năng sẽ có sự không thống nhất trong cách tiếp cận cùng một vấn đề.

Hộp 2.4 Hành lang pháp lý cho giao kết hợp đồng điện tử

Nhà máy B có một trang web giới thiệu sản phẩm. Qua đó, công ty A biết B có thể là đối tác cung cấp hàng hóa cho mình nên gửi một thư điện tử (e-mail) cho B đề nghị mua hàng. Đại diện B trả lời bằng một e-mail chấp nhận bán hàng. Hai thư điện tử trên đều sử dụng một phần mềm (PM) cho phép biết chính xác địa chỉ người gửi và đảm bảo nội dung thư không bị thay đổi. Đúng theo thỏa thuận, B giao hàng và nhận tiền qua một tài khoản ngân hàng. B không phải gặp mặt A trong suốt quá trình giao dịch. Giao kết hợp đồng giữa A và B diễn ra một cách tự nhiên vì cả hai đều có bằng chứng để tòa án bảo vệ mình nếu bên kia không thực hiện theo đúng thỏa thuận.

Có lẽ trên đây là một giao dịch mơ ước của hầu hết doanh nghiệp (DN) vì nó giúp giảm thời gian, chi phí đi lại và thuận tiện. Mơ ước này đã thành hiện thực tại Mỹ, Hàn Quốc, Canada, Singapore từ vài năm gần đây do các nước này đã có đủ cơ sở pháp lý bên cạnh một hạ tầng kỹ thuật tiên tiến.

Tại Việt Nam, giả sử hạ tầng kỹ thuật đã sẵn sàng, vậy cần các cơ sở pháp lý gì để biến ước mơ trên thành hiện thực?

Năm 1996, Ủy Ban Liên Hợp Quốc về Pháp Luật Thương Mại Quốc Tế (UNCITRAL) đã ban hành luật mẫu về Thương Mại Điện Tử (TMĐT). Thực tế, nhiều nước đã xây dựng văn bản pháp luật quốc gia dựa trên luật mẫu này. Điểm quan trọng nhất của các văn bản luật đó là thừa nhận thông điệp dữ liệu điện tử có các thuộc tính tương đương văn bản giấy, được tin cậy và có giá trị pháp lý. UNCITRAL gọi cách quy định này là phương pháp điều chỉnh tương đương thuộc tính.

Những thuộc tính cơ bản nhất của một văn bản giấy bao gồm: (1) Khả năng có thể đọc được ; (2) Không bị thay đổi nội dung theo thời gian ; (3) Cho phép tái tạo một tài liệu sao cho mỗi bên đều có bản sao của tài liệu ban đầu ; (4) Cho phép xác thực tài liệu bằng chữ ký ; và (5) Được cơ quan nhà nước và tòa án chấp nhận.

Chúng ta hãy thử xem thư điện tử của A và B trong ví dụ trên có đáp ứng được những thuộc tính như của văn bản giấy hay không? A và B đều đọc được nội dung thư điện tử của nhau, vậy thuộc tính thứ nhất được đáp ứng. Để thực hiện giao dịch điện tử, cả A và B đều sử dụng PM cho phép tạo và giải mã các dữ liệu, qua đó nhận dạng người gửi và chứng minh người gửi đã chấp nhận nội dung thư. Trên thư điện tử, người gửi có thể "ký" vào thư và gửi cho người nhận. Hành vi "ký" điện tử không khác về bản chất so với hành vi ký tay vì đều giúp biết người ký là ai và chứng minh được anh ta đã chấp nhận nội dung thư mình ký. Có nghĩa, A không thể từ chối việc đã gửi thư với nội dung xác định cho B và ngược lại. Vậy là đáp ứng các thuộc tính thứ hai và thứ tư.

A và B có nhiều cách để lưu giữ an toàn tất cả thư điện tử của toàn bộ quá trình giao dịch và xuất trình khi cần thiết, tức là thỏa mãn thuộc tính thứ ba. Cuối cùng, khi xảy ra bất kỳ tranh chấp nào, nếu A hoặc B được phép sử dụng các thư điện tử trên để yêu cầu cơ quan nhà nước hoặc tòa án bảo vệ quyền lợi của mình thì thuộc tính thứ năm được thỏa mãn (vấn đề thuần túy pháp lý).

Như vậy, một thông điệp điện tử hoàn toàn có thể tương đương một văn bản giấy ở cả khía cạnh kỹ thuật và pháp lý. Vấn đề là cần phải thừa nhận những thuộc tính này trong hệ thống pháp luật quốc gia.

Vũ Đình Thành, Thế giới vi tính số tháng 6/2004

4.4. Luật Thương mại (sửa đổi)

Bộ Thương mại đã trình Chính phủ và Quốc hội Dự thảo Luật Thương mại (sửa đổi), trong đó đưa ra nguyên tắc thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu trong các hoạt động thương mại và yêu cầu Chính phủ hướng dẫn chi tiết khía

Page 46: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

31

cạnh kỹ thuật. Hiện Quốc hội đang xem xét Dự luật này và có khả năng sẽ thông qua trong kỳ họp giữa năm 2005.

Về bản chất, TMĐT là việc tiến hành hoạt động thương mại qua các hệ thống thông tin. Các quy định về TMĐT trong Luật Thương mại (sửa đổi) theo hướng đó, tức chỉ thừa nhận việc sử dụng thông điệp điện tử như một hình thức tiến hành các hoạt động thương mại.

Để cụ thể quy định mang tính nguyên tắc trong Luật Thương mại (sửa đổi) và Luật GDĐT, Bộ Thương mại đã đăng ký xây dựng Nghị định về TMĐT. Nghị định sẽ quy định chi tiết việc thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu trong các hoạt động thương mại ; cụ thể các trường hợp thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu trong giao kết các hợp đồng thương mại ; đề cập tới các khía cạnh nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, quyền sở hữu trí tuệ, bảo vệ bí mật cá nhân trong TMĐT ; và quy định một số loại hình ứng dụng TMĐT như sàn giao dịch TMĐT, website bán hàng, đấu thầu trực tuyến, đấu giá trực tuyến, v.v... Theo kế hoạch, Nghị định sẽ được trình Chính phủ cuối năm 2005, tạo cơ sở pháp lý cho các ứng dụng TMĐT.

Hộp 2.5 Dự thảo Luật Thương mại (sửa đổi) và TMĐT

Dự thảo Luật Thương mại sửa đổi: Nhiều khái niệm mới

Thông điệp dữ liệu cũng là một trong những khái niệm mới được dự thảo quy định là thông tin được tạo, gửi, nhận và lưu trữ bằng phương tiện điện tử, quang học hay tương tự như trao đổi dữ liệu điện tử (EDI), thư điện tử. Đây là khái niệm cơ bản của hoạt động thương mại điện tử. Với quy định này của dự thảo sẽ là cơ sở pháp lý cho hoạt động thương mại điện tử. việc dự thảo đưa ra quy định về thông điệp dữ liệu thể hiện sự theo kịp của pháp luật thương mại với sự phát triển của các quan hệ thương mại trong xã hội.

Minh Nguyệt (Công ty cổ phần tư vấn đầu tư DCI), Báo Diễn đàn Doanh nghiệp số 86, 2004

4.5. Luật Công nghệ thông tin

Thực hiện Nghị quyết về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2004 của Quốc hội, từ giữa năm 2004, Chính phủ giao Bộ Bưu chính Viễn thông chủ trì xây dựng Dự thảo Luật Công nghệ thông tin. Luật này được kỳ vọng sẽ tạo nền tảng pháp lý cho việc phát triển công nghiệp CNTT và các ứng dụng của CNTT trong mọi mặt của đời sống xã hội. Cho tới nay, nhiều vấn đề liên quan tới đối tượng, phạm vi điều chỉnh, cấu trúc và nội dung cơ bản của Luật còn đang thảo luận. Theo những dự thảo ban đầu, Luật CNTT sẽ chủ yếu đề cập tới những chính sách hỗ trợ phát triển các ngành công nghiệp CNTT như công nghiệp nội dung thông tin số, công nghiệp phần cứng, công nghiệp phần mềm. Luật cũng đề cập tới những khía cạnh ứng dụng CNTT như Chính phủ điện tử và TMĐT, tuy nhiên, ranh giới điều chỉnh của Dự thảo chưa rõ, có khả năng gây chồng chéo với Dự luật Giao dịch điện tử và những lĩnh vực ứng dụng CNTT chuyên ngành, bao gồm TMĐT. Tuy nhiên, Bộ Bưu chính dự kiến sẽ đẩy nhanh tiến độ xây dựng Luật CNTT để trình Chính phủ trong tháng 6/2005.

Page 47: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

32

5. Một số văn bản pháp lý khác

5.1. Nghị định về chữ ký số và dịch vụ chứng thực điện tử

Đây là văn bản rất quan trọng đối với việc đảm bảo an toàn, bảo mật cho các giao dịch điện tử (trong đó có TMĐT). Văn bản này hiện do Bộ Bưu chính Viễn thông chủ trì xây dựng nhằm sẽ tạo cơ sở pháp lý cho việc phát triển thị trường dịch vụ chứng thực điện tử qua việc thừa nhận giá trị pháp lý của chữ ký số trong các giao dịch điện tử.

Nghị định gồm 08 chương, 57 điều, quy định về giá trị pháp lý của chữ ký số và thông điệp dữ liệu được ký số , tổ chức và quản lý thị trường dịch vụ chứng thực điện tử, hoạt động cung cấp dịch vụ chứng thực điện tử và các vấn đề khác về chức năng quản lý nhà nước, giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm hành chính.

Hộp 2.6 Hội thảo về Nghị định chữ ký số

Ngày 7/12/2004, với sự tài trợ của Tổ chức Sáng kiến Chính sách Internet Toàn cầu, Bộ Bưu chính Viễn thông đã tổ chức Hội thảo xin ý kiến góp ý cho Dự thảo Nghị định Chữ ký số và dịch vụ chứng thực điện tử tại Hà Nội. Theo đánh giá của cơ quan chủ trì qua tham khảo pháp luật của một số nước trên thế giới như Hàn Quốc, Singapore, Nhật Bản, Nghị định Chữ ký số sẽ là một trong những cơ sở quan trọng hỗ trợ cho các ứng dụng CNTT trên mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó có thương mại điện tử (TMĐT) và chính phủ điện tử. Chính vì vậy, Nghị định Chữ ký số dành được sự quan tâm đặc biệt không chỉ của các doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ ứng dụng CNTT mà còn của nhiều tổ chức, cá nhân có nhu cầu tiến hành các giao dịch điện tử an toàn. Dự thảo xin góp ý lần này là dự thảo lần thứ 18 và là dự thảo đầu tiên xin góp ý chính thức từ công chúng. Các phát biểu tại hội thảo đã đánh giá cao sự nỗ lực của Bộ Bưu chính Viễn thông trong quá trình dự thảo Nghị định, tuy nhiên cũng còn nhiều vấn chưa thống nhất trong nội dung dự thảo. Các đại biểu đặc biệt góp ý cho nội dung Điều 13 (cấp phép dịch vụ chứng thực điện tử) và Điều 25 (thẩm quyền quy định giá cước dịch vụ chứng thực điện tử), nhiều ý kiến cho rằng cách quy định trong dự thảo dành quá nhiều đặc quyền cho Bộ Bưu chính Viễn thông và gây cản trở cho phát triển thị trường dịch vụ chứng thực điện tử. Một số vấn đề khác cũng được thảo luận sôi nổi như thừa nhận giá trị pháp lý của dịch vụ chứng thực điện tử nước ngoài; mức độ quy định về kỹ thuật cho doanh nghiệp cung cấp dịch vụ chứng thực điện tử; mối quan hệ với các văn bản khác như Luật Giao dịch Điện tử, Nghị định về Mật mã trong lĩnh vực dân sự; thủ tục trình lên Chính phủ, v.v... Hội thảo đã kết thúc trong tinh thần xây dựng. Bộ Bưu chính - Viễn thông đánh giá cao những góp ý thẳng thắn và thực tế của các đại biểu và cam kết sẽ cân nhắc, xem xét và chỉnh sửa nội dung dự thảo để Nghị định Chữ ký số thực sự trở thành một công cụ pháp lý hỗ trợ phát triển các giao dịch điện tử. http://www.mot.gov.vn

Xuất phát từ quan điểm cần có định hướng phát triển của nhà nước, Nghị định quy định khá chặt chẽ đối với việc hoạt động cung cấp dịch vụ chứng thực điện tử. Chương III (Quản lý tổ chức chứng thực điện tử) đưa ra cơ chế cấp phép đối và yêu cầu về điều kiện hoạt động đối với các tổ chức, cá nhân muốn cung cấp và sử dụng dịch vụ chứng thực điện tử. Ngoài ra, Bộ Bưu chính Viễn thông được giao quyền ban hành cơ chế quản lý giá dịch vụ chứng thực điện tử. Còn khá nhiều

Page 48: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

33

ý kiến chưa thống nhất với các quy định trên, đặc biệt từ góc độ của các doanh nghiệp muốn tham gia kinh doanh dịch vụ chứng thực điện tử (Hộp 2.7).

Bộ Bưu chính Viễn thông đã hoàn thành dự thảo Nghị định và trình Chính phủ vào cuối tháng 12/2004. Theo kế hoạch, Nghị định sẽ sớm được ban hành trong năm 2005.

5.2. Nghị định về nghiên cứu, sản xuất, kinh doanh và sử dụng mật mã bảo vệ thông tin không thuộc phạm vi bí mật nhà nước

Ban Cơ yếu chính phủ đang dự thảo Nghị định về nghiên cứu, sản xuất, kinh doanh và sử dụng mật mã bảo vệ thông tin không thuộc phạm vi bí mật nhà nước. Nghị định được xây dựng trên quan điểm coi các sản phẩm mật mã là đối tượng đặc biệt cần phải có sự kiểm soát chặt chẽ từ phía cơ quan quản lý chuyên ngành. Văn bản này được xây dựng trên cơ sở Điều 40 của Pháp lệnh Cơ yếu. Ban Cơ yếu đã hoàn thành Dự thảo, đang chuẩn bị trình Chính phủ trong quý I/2005. Dự kiến, Nghị định sẽ được ban hành trong quý II/2005, tạo cơ sở pháp lý cho các hoạt động nghiên cứu, sản xuất, kinh doanh và sử dụng mật mã bảo vệ thông tin không thuộc phạm vi bí mật nhà nước.

Do quan điểm coi mật mã là đối tượng cần có sự kiểm soát đặc biệt, Nghị định đưa ra cơ chế cấp phép khá chặt chẽ. Tổ chức, cá nhân muốn tiến hành các hoạt động nghiên cứu, sản xuất, kinh doanh hoặc sử dụng mật mã phải xin phép Ban Cơ yếu, Bộ Công an và những cơ quan quản lý chuyên ngành khác. Trong đó, Bộ Bưu chính viễn thông sẽ quản lý và đưa ra cơ chế cấp phép đối với hoạt động sử dụng mật mã bảo vệ thông tin không thuộc phạm vi bí mật nhà nước.

6. Các chính sách liên quan tới cung cấp dịch vụ gắn với TMĐT

6.1. Nghị định số 55/2001/NĐ-CP về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet

Ngày 23/8/2001, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 55/2001/NĐ-CP về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet. Nghị định này xác định các hình thức cung cấp dịch vụ Internet ; đưa ra đòi hỏi cấp phép đối với các tổ chức cung ứng dịch vụ Internet ; quy định về cơ chế quản lý nhà nước đối với các tổ chức, cá nhân cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet.

Nghị định 55 đã có tác động tích cực sau 3 năm được triển khai thực hiện. Bộ Bưu chính Viễn thông đã cấp phép cho nhiều doanh nghiệp tham gia thị trường Internet (gồm các ISPs, IXPs và các nhà cung cấp dịch vụ nội dung thông tin số trên Internet), phá bỏ thế độc quyền của Tổng công ty Bưu chính Viễn thông (VNPT). Giá cước Internet giảm nhiều, Nhà nước chỉ quản lý giá trần và giá sàn cho dịch vụ Internet, giá cước cụ thể do doanh nghiệp tự cân đối quy định. Số lượng điểm dịch vụ Internet tăng cao, đặc biệt tại các thành phố lớn. Mặt khác, Nghị định 55 đã trở thành cở sở pháp lý quan trọng cho việc ban hành một số văn bản cấp thấp hơn điều chỉnh hoạt động ứng dụng và cung cấp dịch vụ Internet như Quyết định 27/QĐ-BVHTT của Bộ Văn hoá Thông tin về quy chế cấp phép cung cấp thông tin trên Interrnet và xây dựng trang tin điện tử, Quyết định số

Page 49: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

34

92/2003/QĐ-BCVT của Bộ Bưu chính Viễn thông ban hành Quy định về quản lý và sử dụng tài nguyên Internet và Quyết định 71/QĐ-BCA của Bộ Công an về an ninh mạng.

Tuy nhiên, sự phát triển ngày càng nhanh các ứng dụng Internet đã bộc lộ sự cần thiết sớm sửa đổi, bổ sung Nghị định 55 hoặc nâng cấp ban hành một văn bản pháp lý có hiệu lực cao hơn, quy định theo hướng khuyến khích phát triển các loại hình dịch vụ trên Internet cả đối với doanh nghiệp cung cấp dịch vụ và người sử dụng dịch vụ.

6.2. Thanh toán điện tử

Thanh toán điện tử Việt Nam đang trong giai đoạn thử nghiệm ứng dụng, đặc biệt với sự hỗ trợ của Ngân hàng Thế giới với Dự án "Hiện đại hoá ngân hàng và các hệ thống thanh toán", được khởi động từ tháng 5/1994, bắt đầu thực hiện từ năm 1997 và hoàn thành giai đoạn I vào cuối năm 2003. Năm 2004 Dự án này tiếp tục được triển khai tại một số ngân hàng thương mại. Các thử nghiệm ban đầu tạo cơ sở cho Ngân hàng Nhà nước ban hành một số văn bản thừa nhận chứng từ điện tử và chữ ký điện tử áp dụng cho một số nghiệp vụ thanh toán nội bộ hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, nhóm các văn bản này chưa mở rộng áp dụng ra ngoài hệ thống các ngân hàng.Trước năm 2004 Ngân hàng Nhà nước đã ban hành một số văn bản liên quan tới thanh toán điện tử. Trong năm 2004 không có văn bản mới nào về lĩnh vực này được ban hành. - Thông tư số 08/2003/TT-NHNN ngày 5/8/2003 hướng dẫn thực hiện một số quy định tại Nghị định số 55/2001/NĐ-CP ngày 23/8/2001 của Chính phủ về Internet. Các tổ chức tín dụng phải xin giấy phép từ Ngân hàng Nhà nước khi xây dựng hệ thống thông tin xử lý các nghiệp vụ tài chính - ngân hàng. - Quyết định số 543/2002/QĐ-NHNN ngày 29/5/2002 Ban hành quy định về xây dựng, cấp phát, quản lý và sử dụng chữ ký điện tử trên chứng từ điện tử trong thanh toán điện tử liên ngân hàng. - Quyết định số 44/2002/QĐ-TTg ngày 21/3/2002 về việc sử dụng chứng từ điện tử làm chứng từ kế toán để hạch toán và thanh toán vốn của các tổ cung ứng dịch vụ thanh toán. - Quyết định số 212/2002/QĐ-NHNN ngày 20/3/2002 về việc ban hành Quy trình kỹ thuật nghiệp vụ thanh toán bù trừ điện tử liên ngân hàng (Quyết định này sửa đổi, bổ sung Quyết định số 1557/2001/QĐ-NHNN ngày 14/12/2001 về việc ban hành Quy chế thanh toán bù trừ điện tử liên ngân hàng. Quyết định số 456/2003/QĐ-NHNN ngày 12/5/2003 sửa đổi, bổ sung Khoản 1, Điều 1 Quyết định số 1557/2001/QĐ-NHNN).

Một số ngân hàng đã triển khai dịch vụ thanh toán điện tử cho khách hàng như Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng Công thương. Những ngân hàng này tự xây dựng quy chế hoạt động cho cung ứng dịch vụ thanh toán điện tử, thường có điều khoản giới hạn trách nhiệm của mình khi tranh chấp xẩy ra, vì vậy chưa thực sự tạo niềm tin cho người sử dụng dịch vụ.

Page 50: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

35

Hộp 2.7 Một dịch vụ thanh toán trực tuyến

Dịch vụ thanh toán trực tuyến của Ngân hàng Á Châu (ACB) ACB cung cấp dịch vụ Homebanking (eBanking) qua website www.acb.com.vn, người sử dụng dịch vụ có thể thông qua website để thực hiện các tiện ích như chuyển khoản, thanh toán hoá đơn, chuyển tiền hoặc xem số dư tài khoản. Khách hàng sử dụng dịch vụ thanh toán trực tuyến của ACB chủ yếu do tin tưởng vào uy tín của Ngân hàng và sẽ dựa vào các thông tin hướng dẫn và cam kết bảo mật trên website. Về mặt pháp lý, nếu có tranh chấp thì sẽ căn cứ vào quy chế của ACB, do ACB tự soạn thảo, để xử lý. Đây cũng là tình trạng chung của các dịch vụ thanh toán trực tuyến của những ngân hàng khác như Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng Công thương, Ngân hàng ANZ, v.v... Điều này gây e ngại cho khách hàng vì họ sợ rằng các ngân hàng sẽ tự xây dựng những quy chế chỉ có lợi cho riêng ngân hàng, trong khi môi trường Internet tiềm ẩn nhiều rủi ro khó đoán định trước.

Thanh toán điện tử là lĩnh vực có sự tham gia rộng rãi của nhiều chủ thể

kinh tế, bên cạnh các tổ chức tín dụng. Việc thừa nhận giá trị pháp lý của các giao dịch có thanh toán điện tử sẽ nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của ngành ngân hàng. Vì vậy, cần xây dựng một văn bản do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ ban hành mới đủ hiệu lực áp dụng toàn diện. Dự kiến, sau khi Luật Giao dịch điện tử dược thông qua sẽ có một nghị định hướng dẫn riêng cho lĩnh vực tài chính - ngân hàng. Nghị định này sẽ thừa nhận giá trị pháp lý của các chứng từ và chữ ký điện tử sử dụng trong mọi giao dịch tài chính điện tử, trong đó có thanh toán điện tử.

6.3. Thủ tục hải quan, thuế điện tử Luật Hải quan năm 2001 đã có một số quy định về hình thức hải quan điện tử. Khoản 2, Điều 9 (Hiện đại hoá quản lý hải quan) yêu cầu : "Chính phủ quy định cụ thể về hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật trao đổi số liệu điện tử, giá trị pháp lý các chứng từ điện tử…”; Khoản 3, Điều 20 quy định: “Người khai hải quan được sử dụng hình thức khai điện tử…” ; và Điều 39 (xuất, nhập khẩu hàng hoá bằng phương thức TMĐT).

Page 51: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

36

Nghị định 101/2001/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hải quan về thủ tục hải quan, chế độ kiểm tra, giám sát hải quan. Điều 7.4.d quy định: “Người khai hải quan được khai hải quan bằng cách khai trên máy tính của mình được nối với mạng máy tính với cơ quan hải quan theo quy định của pháp luật…”. Tổng cục Hải quan đã ban hành Công văn số 2236/TCHQ-CNTT ngày 19/5/2003 hướng dẫn chi tiết khai báo bằng phương tiện điện tử trong khâu đăng ký hồ sơ hải quan. Công văn hướng dẫn chi tiết các Cục Hải quan thực hiện khai điện tử, lựa chọn phương án thích hợp và mở rộng khai điện tử cho các loại hình khác.

Hộp 2.8 Triển khai thí điểm hệ thống kê khai hải quan điện tử

Từ đầu năm 2002, Tổng cục Hải quan áp dụng thí điểm khai hải quan điện tử đối với loại hình gia công XNK tại 5 Cục Hải quan: TP Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Đồng Nai, Bình Dương với 3 hình thức: truyền số liệu qua mạng điện thoại tới máy tính của Hải quan; chuyển dữ liệu khai báo qua đĩa mềm; khai báo tại máy tính của cơ quan Hải quan (đối với đơn vị có điều kiện về mặt bằng và trang thiết bị). Tính tới thời điểm tháng 10/2004, phương thức khai hải quan điện tử vẫn chưa thể mở rộng và thu hút được đông đảo các doanh nghiệp tham gia, cả nước mới chỉ có 38 doanh nghiệp đăng ký khai báo hải quan điện tử nối mạng, với số lượng tờ khai chưa đến 50.000 tờ. Trong cuộc Hội thảo về khai hải quan điện tử tháng 10/2004 do Cục CNTT và Thống kê hải quan tổ chức, nhiều ý kiến cho rằng lý do khai hải quan điện tử chưa thể phát triển vì chưa có một cơ sở pháp lý đầy đủ cho hoạt động giao dịch điện tử như những quy định pháp lý về dữ liệu điện tử, chữ ký, chứng từ điện tử … Mặt khác, Tổng cục Hải quan cũng chưa có một đề án tổng thể để thực hiện khai hải quan điện tử một cách toàn diện về quy trình, văn bản pháp lý và hạ tầng công nghệ. Theo dự kiến trong thời gian tới, Tổng cục Hải quan sẽ trình Bộ Tài chính ban hành một cơ chế cho phép thực hiện khai hải quan điện tử ở mức độ cao hơn nhằm cụ thể hoá kịp thời quy định của Luật Hải quan. Đây sẽ là căn cứ pháp lý cho việc công nhận giá trị pháp lý của tờ khai điện tử, chữ ký điện tử và là cơ sở pháp lý cho việc trang bị phương tiện kỹ thuật, con người cần thiết phục vụ quá trình khai hải quan điện tử. Trong trường hợp này, tờ khai điện tử sẽ được công nhận có giá trị như bản gốc và không bị phân biệt đối xử với tờ khai dạng văn bản trong suốt quá trình từ khai báo cho đến thông quan hàng hoá. Sau khi cơ quan hải quan quyết định thông quan hàng hoá, người khai hải quan in tờ khai hải quan từ máy tính và đóng dấu của doanh nghiệp cùng với thẻ ưu tiên, lệnh giải phóng hàng in ra từ máy tính để xuất trình khi có các lực lượng kiểm tra trên đường vận chuyển hàng hoá xuất khẩu. Về vấn đề này, Hải quan sẽ phối hợp với các ngành có liên quan ban hành văn bản hướng dẫn thống nhất nhằm tránh tình trạng gây phiền hà cho những doanh nghiệp khai điện tử trong khi vận chuyển hàng hoá trên đường. Việc xử lý vi phạm đối với hình thức khai hải quan điện tử cũng được tiến hành tương tự như các trường hợp khai hải quan bằng giấy tờ truyền thống. Theo kế hoạch từ ngày 10/2004 đến tháng 3/2005, ngành Hải quan sẽ hoàn tất các công việc chuẩn bị như xây dựng quy trình thủ tục khai điện tử và phương án quản lý hồ sơ điện tử trong quản lý hải quan ; triển khai việc cấp thẻ ưu tiên, xây dựng tờ khai điện tử, chữ ký điện tử ; ban hành mô hình kỹ thuật và chuẩn trao đổi dữ liệu để các doanh nghiệp xây dựng phần mềm, xúc tiến triển khai các dịch vụ điện tử về khai hải quan ; đảm bảo hạ tầng mạng WAN cho các đơn vị thí điểm ; nâng cấp website và cài đặt trên Internet ; đào tạo sử dụng cho cán bộ hải quan và doanh nghiệp … Từ tháng 3/2005, mô hình khai báo hải quan điện tử mới sẽ được ngành hải quan triển khai thí điểm tại Cục Hải quan Đồng Nai (kết nối với Cục Hải quan TP.Hồ Chí Minh và Bình Dương để theo dõi tiến trình tờ khai thông quan điện tử về vấn đề xác thực xuất).

Tin học tài chính số 17 tháng 11/2004

Page 52: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

37

Bộ Tài chính đang xây dựng Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hải quan, trong đó chú trọng tới các quy định về hình thức tiến hành các thủ tục hải quan điện tử và phương thức tổ chức quản lý hoạt động hải quan qua các phương tiện điện tử. Kết hợp với những quy định của Luật Giao dịch điện tử (dự kiến sẽ ban hành cuối năm 2005) và trên cơ sở rút kinh nghiệm thực tế triển khai thí điểm hệ thống kê khai hải quan điện tử, Bộ Tài chính sẽ đề nghị Chính phủ cho dự thảo các văn bản hướng dẫn về hải quan điện tử trong những năm tới.

Song song với việc triển khai thực hiên khai hải quan điện tử, Bộ Tài chính cũng khá tích cực trong việc triển khai thí điểm kê khai nộp thuế điện tử. Đã có một số đề tài nghiên cứu và dự án thử nghiệm, tuy nhiên, lý do lớn nhất vẫn là chưa có hành lang pháp lý. Dự kiến, một Nghị định về giao dịch điện tử trong lĩnh vực tài chính, bao gồm các thủ tục kê khai nộp thuế, sẽ được soạn thảo và ban hành để thưc hiện Luật Giao dịch điện tử.

6.4. Các thủ tục cấp phép điện tử cho các hoạt động đầu tư, thương mại

Thủ tục cấp phép cho các hoạt động kinh doanh bao gồm : (1) thủ tục cấp phép đầu tư ; (2) đăng ký kinh doanh ; (3) thủ tục cấp các giấy phép kinh doanh, chứng chỉ hành nghề, chứng chỉ về điều kiện kinh doanh.

Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 (sửa đổi, bổ sung năm 2000), Luật khuyến khích đầu tư trong nước năm 1994 (sửa đổi, bổ sung năm 1998) và các văn bản hướng dẫn thi hành là cơ sở pháp lý cho việc tiến hành các thủ tục cấp phép đầu tư (theo phương thức truyền thống), do Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì thực hiện. Cho tới cuối năm 2004 chưa có văn bản pháp lý chính thức thừa nhận hình thức cấp phép đầu tư điện tử. Thực tế cũng chỉ có một số tỉnh, thành phố thí điểm việc cấp phép qua website (Khu kinh tế mở Chu Lai thuộc tỉnh Quảng Nam, Sở Kế hoạch và Đầu tư TP.Hồ Chí Minh) như một công cụ nhằm giảm tiêu cực, đơn giản hoá thủ tục hành chính hoặc để khuyến khích các nhà đầu tư.

Luật Doanh nghiệp năm 2000 và các văn bản hướng dẫn thi hành quy định về hoạt động đăng ký kinh doanh, theo đó các phòng đăng ký kinh doanh thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư thuộc tỉnh, thành phố thống nhất thực hiện cấp phép đăng ký kinh doanh. Việc đăng ký kinh doanh qua mạng đã được thí điểm áp dụng tại một vài địa phương nhưng chưa có văn bản pháp lý thừa nhận. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang dự thảo Luật Doanh nghiệp thống nhất, đây có thể là cơ hội lồng những quy định chi tiết về thủ tục đăng ký kinh doanh qua mạng.

Nhóm thủ tục cấp phép (3) do nhiều cơ quan quản lý nhà nước thực hiện và tuân theo các quy định pháp lý chuyên ngành. Chẳng hạn, Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông quy định về cấp phép lĩnh vực bưu chính, viễn thông; Pháp luật về y tế quy định các hình thức cấp phép trong lĩnh vực kinh doanh dược phẩm, khám chữa bệnh, v.v... Vì vậy, muốn hình thành các quy định pháp lý thừa nhận hình thức cấp phép điện tử trong từng ngành, lĩnh vực thì cần có kế hoạch sửa đổi, bổ sung đối các văn bản pháp lý tương ứng. Tất nhiên, việc này phải đồng bộ với hoạt động tin học hoá của từng khối cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành.

Page 53: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

38

Dự thảo Kế hoạch tổng thể về Chính phủ điện tử đặt ra các mục tiêu và kế hoạch hình thành các hệ thống cấp phép điện tử, tuy nhiên, vẫn cần thiết phải ban hành các quy định mới như đề cập ở trên mới đủ tạo căn cứ pháp lý cho các thủ tục cấp phép qua mạng. 6.5. Pháp luật về sở hữu trí tuệ

Những văn bản pháp luật hiện hành của Việt Nam về sở hữu trí tuệ gồm có Bộ Luật dân sự năm 1995 (Phần sáu) và hai nghị định hướng dẫn Bộ luật Dân sự là Nghị định số 76 ngày 29/11/1996 về Quyền tác giả và Nghị định số 63/CP ngày 24/10/1996 quy định chi tiết về sở hữu công nghiệp (được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 06/2001/NĐ-CP ngày 01/02/2001). Đối tượng sở hữu trí tuệ thuộc pham vi điều chỉnh của Bộ luật Dân sự đã bao gồm các sản phẩm CNTT, tuy nhiên chỉ mới quy định chung, chưa đủ cụ thể cho việc bảo vệ hiệu quả các quyền sở hữu trí tuệ trong các lĩnh vực ứng dụng CNTT và TMĐT.

Cùng với việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật Dân sự, Bộ Khoa học và Công nghệ đang dự thảo Luật Sở hữu trí tuệ theo hướng quy định chi tiết theo từng lĩnh vực của quyền sở hữu trí tuệ, trong đó bao gồm các sản phẩm CNTT và TMĐT. Dự kiến Luật Sở hữu trí tuệ sẽ tạo ra cơ sở tăng cường cơ chế quản lý đối với lĩnh vực sở hữu trí tuệ, giúp giảm tỷ lệ vi phạm các quyền về sở hữu trí tuệ như hiện nay. Dự kiến Quốc hội sẽ xem xét và thông qua Luật Sở hữu trí tuệ cuối năm 2005. Đáng lưu ý là trong Hiệp định thương mại song phương Việt nam – Hoa Kỳ và đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới, Việt nam phải cam kết tuân thủ các quy định về bảo vệ sở hữu trí tuệ theo Hiệp định TRIPS của WTO. Đây vừa là thách thức, vừa là cơ hội cho Việt nam trên con đường xây dựng nền kinh tế tri thức nói chung cũng như phát triển công nghiệp phần mềm và TMĐT nói riêng.

Hộp 2.9 Cam kết quốc tế về sở hữu trí tuệ của Việt nam

Những cam kết quốc tế về sở hữu trí tuệ mà Việt Nam tham gia:

- Hiệp ước hợp tác Bằng sáng chế - PCT (năm 1970)

- Công ước Paris về Bảo hộ Sở hữu công nghiệp (năm 1883)

- Thoả ước Madrid về Đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hoá (năm 1989)

- Công ước Berne về Bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật (1896)

- Chương II của Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ về Sở hữu trí tuệ (năm 2000)

6.6. Pháp luật về chứng cứ

Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, chứng cứ được quy định trong Bộ luật Tố tụng Hình sự (Chương V - Chứng cứ) được ban hành cuối năm 2003 và Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2004 (Chương VII - Chứng minh và Chứng cứ). Cả hai bộ luật này đều xác định chứng cứ là những "tài liệu nghe được, đọc được hoặc nhìn được" ; đó có thể là bản gốc hoặc bản sao có công chứng hoặc có xác nhận bằng văn bản về việc ghi hình, ghi âm chứng cứ đó. Tuy nhiên, hai bộ luật trên đều chưa cụ thể các hình thức chứng cứ ở dạng điện tử. Với những quy định trong các dự

Page 54: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

39

thảo Luật Giao dịch điện tử về giá trị chứng cứ tương đương như văn bản, các thông điệp dữ liệu (thư điện tử, chứng từ điện tử, dữ liệu được ghi âm, ghi hình, v.v...) có thể được coi là chứng cứ đáng tin cậy.

Tuy nhiên, sẽ cần những văn bản hướng dẫn chi tiết hơn về chứng cứ ở dạng thông điệp dữ liệu, trong đó phải cụ thể những thuộc tính để một thông điệp dữ liệu được coi là chứng cứ, ví dụ thông điẹp dữ liệu phải kèm theo chữ ký điện tử hoặc được lưu trữ theo những quy trình đáng tin cậy.

Hộp 2.10 Quy định về giá trị chứng cứ của thông điệp dữ liệu

Để được coi là chứng cứ, pháp luật một số nước như Canada, Mỹ, Hàn Quốc đều có những quy định khá chi tiết về yêu cầu kỹ thuật của một thông điệp dữ liệu, gồm:

Quy định về Thiết bị lưu trữ: những bản ghi (thông điệp dữ liệu được lưu trữ lại) trong máy tính hoặc trong những thiết bị tương tự (máy điện thoại di động, thiết bị cầm tây, USB, đĩa mềm, đĩa cứng, thẻ thông minh tích hợp chíp và các loại thẻ khác …).

Quy định về Định dạng dữ liệu: các thông điệp dữ liệu ở dưới định dạng chuẩn quốc tế và được chấp nhận sử dụng phổ biến (MicrosoftWord, PDF, Excel, thông điệp XML …).

Quy định về Công nghệ xác thực: được xác thực bằng các công nghệ chữ ký số của Verisign, VASC … (theo Nghị định về Chữ ký số của Bộ bưu chính viễn thông), công nghệ sinh trắc học (chưa hình thành chuẩn tại Việt Nam), công nghệ mã số nhận dạng cá nhân (PIN), các công nghệ xác thực khác.

Quy định về Phương thức hệ thống thông tin tạo, lưu trữ, truyền gửi TĐDL có an toàn không: xem xét thủ tục kiểm soát khả năng truy cập, các đặc điểm về an toàn của hệ thống, quy tắc về xác thực, biểu thời gian về lưu trữ và huỷ bỏ TĐDL … Toà án có thể tiến hành những phương thức thử nhất định để kiểm nghiệm tính an toàn của hệ thống.

Ngoài ra, cũng cần hướng dẫn về những trường hợp đặc biệt thừa nhận giá trị chứng cứ của thông điệp dữ liệu như : (1) Trường hợp một bản gốc ở dạng giấy được chuyển thể thành dạng thông điệp dữ liệu (ví dụ dùng máy quét hoặc dựa vào công nghệ sao lưu, nhận dạng hình ảnh chuyển văn bản giấy thành định dạng PDF): có thể coi là chứng cứ không ? ; (2) Trường hợp không có bản ghi chính thức (ví dụ trường hợp nói chuyện điện thoại Internet, chat trực tuyến mà không thiết lập chế độ ghi dọng nói hoặc lưu nội dung): có được coi có giá trị chứng cứ không ? (cần người làm chứng không ?) ; (3) Tài liệu ở dạng giấy được in ra từ một thông điệp dữ liệu có nên coi là chứng cứ có giá trị pháp lý không ? …

Để hình thành các quy định này, các nhà lập pháp sẽ cần nghiên cứu thực tiễn phát triển của TMĐT trong những năm tới (sau khi Luật GDĐT có hiệu lực), đồng thời cũng cần tư vấn các nhà kỹ thuật để lập một danh sách đầy đủ nhất. Vì công nghệ thay đổi nên danh sách này cũng thay đổi theo.

Một vấn đề khác là hiệu lực pháp lý của Luật Giao dịch điện tử thường bị coi nhẹ hơn hai bộ luật tố tụng trên, vì thế việc kết hợp áp dụng các quy định của Luật GDĐT và những quy định trong pháp luật tố tụng có thể gặp nhiều khó khăn.

6.7. Tội phạm trên mạng Bộ luật Hình sự năm 2001 đã có 4 quy định liên quan trực tiếp tới tội phạm

trong lĩnh vực CNTT, đó là: Điều 125 (quy định về tội chiếm đoạt thư tín điện tử

Page 55: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

40

hoặc xâm phạm bí mật, an toàn thư tín điện tử) ; Điều 224 (quy định về tội tạo và và làm lan truyền, phát tán các chương trình virus tin học) ; Điều 225 (quy định về tội vi phạm các quy định về vận hành, khai thác và sử dụng mạng máy tính điện tử) ; và Điều 226 (quy định về tội sử dụng trái phép thông tin trên mạng và trong máy tính).

Các quy định trên chưa đầy đủ và thiếu tính khả thi. Sau hơn 4 năm thi hành Bộ luật Hình sự, có rất ít hành vi vi phạm thuộc nhóm tội này bị truy cứu trách nhiệm hình sự, dù số lượng các hành vi ứng dụng CNTT xâm hại lợi ích của nhà nước, tập thể và cá nhân ngày một tăng. Trong thời gian tới, cần nhanh chóng sửa đổi, bổ sung các quy định về nhóm tội phạm trong ứng dụng CNTT.

Hộp 2.11 Tội phạm trên mạng

“Tội phạm trên mạng” hay tội phạm máy tính chỉ hành vi vi phạm liên quan tới việc sử dụng máy tính. Tội phạm trên mạng có thể được phân thành những nhóm lớn sau:

1. Tội phạm trên mạng chống lại con người bao gồm việc truyền gửi thư điện tử chứa nội dung văn hoá phẩm độc hại hoặc quấy rối tình dục, quay các đoạn phim đồi truỵ, phát tán ảnh, phim trái với thuần phong mỹ tục … Loại tội phạm này đang có hướng tăng cao tại Việt Nam, điển hình như các vụ công khai hình ảnh khoả thân của ca sĩ Hồng Nhung.

2. Tội phạm trên mạng chống lại tài sản bao gồm việc xâm phạm máy tính bất hợp pháp qua không gian trên mạng, mang tính phá hoại hệ thống máy tính, truyền gửi những chương trình gây hại, và sở hữu những thông tin máy tính bất hợp pháp. Hành vi xâm nhập và bẻ khoá nằm trong số những hành vi nguy hiểm nhất của loại tội phạm trên mạng cho tới nay. Việc tạo và truyền bá những chương trình máy tính gây hại hoặc virus trong hệ thống máy tính là một dạng khác của tội phạm trên mạng chống lại tài sản. Sao chụp phần mềm bất hợp pháp cũng là một dạng đặc biệt của tội phạm trên mạng thuộc nhóm này. Loại tội phạm này đã xuất hiện khá thường xuyên tại Việt Nam, tuy nhiên, chưa có những báo cáo thông kê đầy đủ về tình trạng phát triển.

3. Tội phạm trên mạng chính phủ với điển hình là nạn khủng bố trên mạng, trong đó không gian ảo bị sử dụng bởi cá nhân và tổ chức để đe doạ chính phủ và khủng bố người dân của một nước. Loại tội phạm này có hình thức của những cá nhân xâm nhập vào một trang web của cơ quan chính phủ hoặc quân đội. Loại tội phạm này chưa thực sự phát triển tại Việt Nam, tuy nhiên đang có xu hướng tăng cao trên thế giới.

Mặt khác, chế tài hành chính đối những hành vi vi phạm trong ứng dụng CNTT và TMĐT chưa mang tính hệ thống. Nghị định 55/2001/NĐ-CP về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet; Quyết định số 27/2002/QĐ-BVHTT của Bộ Văn hoá Thông tin ; Quyết định số 71/2004/QĐ-BCA của Bộ Công an đã đưa ra những mức phạt hành chính (chủ yếu phạt tiền), tuy nhiên, vẫn cần một văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn, xác định rõ các hành vi vi phạm, các hình thức và mức phạt, cơ chế xử phạt, v.v... Văn bản này có thể là Nghị định về xử lý vi phạm hành chính trong ứng dụng CNTT.

Page 56: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

41

PHẦN THỨ BA TÌNH HÌNH ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ

TRONG DOANH NGHIỆP

1. Tổng quan tình hình ứng dụng CNTT và TMĐT Xét thực tế gần 70% số doanh nghiệp đăng ký kinh doanh ở Việt Nam tập

trung tại ba thành phố lớn: Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh 8, và ba thành phố này hiện chiếm hơn 90% dung lượng kết nối Internet của toàn quốc9, Báo cáo hiện trạng thương mại điện tử năm 2004 sẽ tập trung phân tích tình hình ứng dụng TMĐT trong các doanh nghiệp trên ba địa bàn này.

Để có được một bức tranh toàn cảnh về hiện trạng ứng dụng CNTT nói chung trong doanh nghiệp, đồng thời đi sâu tìm hiểu những đơn vị đã bước đầu triển khai TMĐT, nhóm khảo sát đã sử dụng hai mẫu phiếu sau:

- Loại phiếu thứ nhất nhằm thu thập thông tin về tình hình ứng dụng CNTT và TMĐT trong các doanh nghiệp nói chung. Đối tượng điều tra được chọn theo phương thức lấy ngẫu, thuộc nhiều quy mô và loại hình doanh nghiệp khác nhau, hoạt động trong những lĩnh vực kinh doanh khá đa dạng từ cơ khí xây dựng, nông lâm thủy sản cho đến công nghiệp nhẹ và thương mại dịch vụ. Kết quả thu được 303 phiếu từ các doanh nghiệp được phân bổ theo ngành nghề kinh doanh như sau.

Bảng 3.1 Nhóm đối tượng điều tra chung phân theo ngành nghề kinh doanh

Ngành SX kinh doanh

Cơ khí XD

Nông lâm thủy sản

Điện tử Viễn thông CN nhẹ Thủ công

mỹ nghệ TM-DV Khác

Tỷ lệ doanh nghiệp 15,51% 6,93% 17,82% 19,14% 6,93% 48,51% 22,77%

* một doanh nghiệp có thể đồng thời hoạt động trong hai hoặc ba lĩnh vực, do đó tỷ lệ cộng gộp sẽ lớn hơn 100%

- Loại phiếu thứ hai tập trung điều tra những doanh nghiệp đã thiết lập website nhằm quảng bá, xúc tiến bán hàng và hỗ trợ giao dịch mua bán ở các mức độ khác nhau. Các doanh nghiệp được chọn làm đối tượng khảo sát phải là những đơn vị đã có hoặc đang trong quá trình xây dựng website. Những số liệu và phân tích trong phần “Các doanh nghiệp có website” là dựa trên kết quả của 227 phiếu hợp lệ thu về từ nhóm này.

Bảng 3.2 Nhóm đối tượng có website phân theo ngành nghề kinh doanh

Ngành SX kinh doanh

Cơ khí XD

Nông lâm thủy sản

Điện tử Viễn thông CN nhẹ Thủ công

mỹ nghệ TM-DV Khác

Tỷ lệ doanh nghiệp 7,39% 2,17% 16,09% 14,78% 11,30% 34,78% 42,17%

8 Theo số liệu của Cục Doanh nghiệp nhỏ và vừa, Bộ Kế hoạch Đầu tư, tháng 2/2005 9 Báo cáo hiện trạng ứng dụng CNTT tại Việt Nam và các vấn đề có liên quan đến Luật Giao dịch diện tử - Ủy ban Khoa học công nghệ và môi trường của Quốc hội

Page 57: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

42

Với sự phân bổ khá đa dạng về quy mô và ngành nghề kinh doanh, hai nhóm đối tượng điều tra nêu trên sẽ phản ánh một bức tranh mang tính đại diện cho tình hình ứng dụng CNTT và TMĐT của các doanh nghiệp tại ba thành phố.

Hình 3.1

Các doanh nghiệp có website phân theo quy mô

30 - 50 nhân viên; 11,27%50 - 100 nhân

viên; 13,73%

Trên 300 nhân viên; 24,02%

30 nhân viên trở xuống; 32,84%

100 - 300 nhân viên; 18,14%

1.1. Tình hình ứng dụng CNTT trong doanh nghiệp Kết nối Internet

Kết quả khảo sát 303 doanh nghiệp thuộc nhóm thứ nhất cho thấy một tỉ lệ khá cao đã có những đầu tư bước đầu về ứng dụng CNTT, với 82,9% doanh nghiệp được hỏi có kết nối Internet và 25,32% đã thiết lập website.

Xét thực tế các công ty được điều tra đều tập trung ở những thành phố lớn, nơi hạ tầng công nghệ thông tin và viễn thông phát triển hơn cả so với những địa phương khác10, có thể ước tính tỉ lệ kết nối Internet của doanh nghiệp trên toàn quốc ở mức 50% - 60% (Xem hộp dưới). Với gần 160.000 doanh nghiệp hiện đăng ký kinh doanh tại Việt Nam, số lượng thuê bao Internet của khối doanh nghiệp theo tỷ lệ tương ứng sẽ vào khoảng 90.000 -100.000, chiếm trên dưới 5% tổng số thuê bao quy đổi do VNNIC thống kê vào tháng 12/2004 (2.012.926 thuê bao cho mọi đối tượng khách hàng).

Hộp 3.1 Ước tính tỉ lệ kết nối Internet trong doanh nghiệp

Theo thống kê của Cục Phát triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa – Bộ Kế hoạch Đầu tư, vào tháng 2/2005 trên toàn quốc có 164.000 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh, phân bổ theo các loại hình như sau:

Loại hình doanh nghiệp Số lượng đăng ký kinh doanh Doanh nghiệp tư nhân 65.307 Công ty TNHH 79.718 Công ty cổ phần 15.136 Doanh nghiệp nhà nước 4.200 Tổng 164.361

10 Theo báo cáo hiện trạng ứng dụng CNTT tại Việt Nam và các vấn đề có liên quan đến Luật Giao dịch diện tử - tr47, Hà Nội và Tp. HCM chiếm tới 86% tổng số thuê bao qua modem và toàn bộ các thuê bao qua kênh thuê riêng của cả nước.

Page 58: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

43

Cũng theo con số thống kê được, ước lượng khoảng 65% số doanh nghiệp này tập trung ở ba thành phố lớn: Hà Nội, Đà Nẵng, Tp. Hồ Chí Minh.

Địa bàn Công ty TNHH Công ty cổ phần Toàn quốc 79.718 15.136 Hà Nội 19.188 6.520 Đà Nẵng 1.781 206 Tp. HCM 32.591 3.059 Tỷ lệ tập trung tại 3 TP 67,19% 64,65%

Như kết quả khảo sát tình hình ứng dụng CNTT trong các doanh nghiệp ở ba thành phố trên cho biết, 82,9% số doanh nghiệp này có kết nối Internet. Kết hợp với thông tin đưa ra ở báo cáo “Hiện trạng ứng dụng CNTT tại Việt Nam và các vấn đề có liên quan đến Luật Giao dịch điện tử”: riêng Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh đã chiếm tới 86% tổng số thuê bao Internet trên cả nước, có thể ước tính tỷ lệ kết nối Internet của doanh nghiệp toàn quốc đạt:

(65% * 82,9%) / 90% = 59,9%

Đây là một bước tiến vượt bậc về trình độ tiếp cận CNTT của doanh nghiệp trong năm 2003-2004 nếu so với số liệu do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đưa ra vào tháng 4/2003: năm 2002 có khoảng 30% doanh nghiệp được kết nối với Internet và không đến 10% doanh nghiệp có trang Web riêng giới thiệu về dịch vụ và các hoạt động của doanh nghiệp mình11.

Hình 3.2 Hình thức truy cập website của các doanh nghiệp nói chung

Đường truyền riêng; 12,36% Quay số; 33,71%

ADSL; 53,93%

Nhìn vào tỷ lệ các hình thức truy cập Internet của hơn 500 doanh nghiệp

được điều tra (300 doanh nghiệp thuộc nhóm thứ nhất và hơn 200 doanh nghiệp thuộc nhóm thứ hai), có thể giải thích một trong những yếu tố đưa đến sự tăng trưởng nhanh chóng về tỷ lệ kết nối Internet trong năm 2003-2004 là sự ra đời của dịch vụ ADSL. 54% các doanh nghiệp có kết nối Internet trong nhóm doanh nghiệp điều tra tổng quan cho biết họ truy cập Internet bằng ADSL, và tỷ lệ này ở nhóm doanh nghiệp có website (là những doanh nghiệp đã đạt đến một trình độ ứng dụng CNTT nhất định) còn cao hơn nữa: chiếm 70% các hình thức truy cập website, so với tỷ lệ 13,57% của hình thức quay số và 16,29% của hình thức đường truyền thuê riêng.

11 Báo cáo hiện trạng ứng dụng CNTT tại Việt Nam và các vấn đề có liên quan đến Luật Giao dịch điện tử - Tiến sỹ Mai Anh, thành viên Ban soạn thảo Dự án Luật Giao dịch điện tử của Ủy ban thường vụ Quốc hội

Page 59: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

44

Hình 3.3 Hình thức truy cập Internet của các doanh nghiệp có website

ADSL; 70,14%

Đường truyền riêng; 16,29%

Quay số; 13,57%

Ngoài ra, việc giảm giá 12 loại cước viễn thông và Internet ngày 1/4/2003

với mức giảm bình quân từ 10 đến 40% cũng là yếu tố khích lệ các doanh nghiệp dành một phần của chi phí hoạt động thường niên cho đầu tư kết nối viễn thông, một tiền đề quan trọng của việc ứng dụng phát triển CNTT và TMĐT trong tương lai.

Cơ cấu đầu tư công nghệ thông tin Kết quả điều tra tổng quan tình hình ứng dụng CNTT trong các doanh

nghiệp cho thấy: tỷ trọng chi CNTT trên tổng chi phí hoạt động thường niên vẫn còn rất thấp. 63,19% các công ty được khảo sát chi dưới 5% cho việc triển khai ứng dụng CNTT phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị mình, và chỉ khoảng 6% số công ty cho biết đang dành trên 15% chi phí hoạt động thường niên để đầu tư cho CNTT (bao gồm cả chi phí viễn thông, đầu tư phần mềm, bảo dưỡng hệ thống, và đào tạo ứng dụng CNTT.

Hình 3.4

Tỷ trọng chi CNTT trong tổng chi phí hoạt động thường niên

Từ 5%-15%; 30,22%

Trên 15%; 6,59%

Dưới 5%; 63,19%

Phân tích sâu hơn tình hình đầu tư ứng dụng CNTT trong các doanh nghiệp

được khảo sát, có thể thấy cơ cấu đầu tư hiện vẫn còn mất cân đối, với tỷ trọng đầu tư bình quân cho phần cứng là 62% trong khi phần mềm chỉ chiếm 29% và đào tạo chiếm 12% tổng đầu tư CNTT của doanh nghiệp.

Page 60: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

45

Bảng 3.3 Cơ cấu đầu tư CNTT trong các doanh nghiệp

Khoản mục đầu tư Tỷ trọng bình quân Tổi thiểu Tối đa Phần cứng 61,6% 35% 100% Phần mềm 29,2% 4% 55% Đào tạo 12,3% 0% 40%

Mặc dù mức đầu tư 29% dành cho phần mềm đã cho thấy một tiến bộ đáng kể so với tỷ lệ 21% của năm 2003 12, đây vẫn là tỷ lệ tương đối thấp nếu so với mức bình quân của thế giới trong năm 2003 là 49% 13. Hiện tượng này phản ánh một thực tế:

- Các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa chú trọng đúng mức đến đầu tư phần mềm và đào tạo kỹ năng cho người lao động, mặc dù đây là những yếu tố quyết định hiệu quả đầu tư cho hạ tầng kỹ thuật CNTT nói chung cũng như ứng dụng CNTT nói riêng trong từng doanh nghiệp.

- Tình trạng vi phạm bản quyền ở Việt Nam rất cao, các phần mềm thường được cung cấp từ những nguồn không chính thống nên chi phí thấp (và do đó có thể ảnh hưởng đến chất lượng phần mềm cũng như hiệu suất khai thác của người sử dụng).

Phát triển nguồn nhân lực cho CNTT và TMĐT trong doanh nghiệp Tỷ lệ 12,3% đầu tư CNTT dành cho đào tạo mới chỉ nói lên phần nào thực

trạng phát triển nguồn nhân lực ứng dụng CNTT và TMĐT trong doanh nghiệp, bởi đây là con số tính bình quân cho tất cả các đơn vị tham gia khảo sát. Trong thực tế, tỷ lệ phân bổ chi phí đào tạo giữa các doanh nghiệp có sự chênh lệch khá lớn, phản ánh sự phát triển không đồng đều trong nhận thức của doanh nghiệp đối với vấn đề này. 28,4% doanh nghiệp được hỏi, chiếm hơn 1/4 nhóm đối tượng khảo sát, không có bất cứ hình thức đào tạo công nghệ thông tin nào cho đội ngũ nhân viên của mình. Với những doanh nghiệp bắt đầu có nhận thức về tầm quan trọng của nguồn nhân lực CNTT, việc đào tạo cũng chưa mang tính chuyên nghiệp hoặc đi vào quy củ. Hơn 40% đơn vị được hỏi cho biết hình thức đào tạo kỹ năng CNTT duy nhất cho người lao động là đào tạo tại chỗ, theo nghĩa nhân viên tự học hỏi và hướng dẫn lẫn nhau khi phát sinh vấn đề trong công việc. Chỉ một tỷ lệ rất ít doanh nghiệp kết hợp được một cách bài bản các hình thức đào tạo khác nhau như mở khoá huấn luyện, gửi nhân viên đi học, và đào tạo theo công việc.

Xét trình độ CNTT của người lao động trong các doanh nghiệp hiện vẫn còn tương đối sơ đẳng (tỷ lệ nhân viên biết sử dụng máy tính trong hơn 300 đơn vị được khảo sát bình quân là 51%; mục đích sử dụng máy tính thường chỉ dừng ở mức soạn thảo văn bản, chỉ có 64% đơn vị cho biết đã bước đầu ứng dụng CNTT vào phục vụ một số hoạt động tác nghiệp như tài chính kế toán, quản lý nội bộ…), thì mức độ nhận thức và triển khai đào tạo như trên là chưa thể đáp ứng được nhu cầu nâng cao năng lực ứng dụng CNTT trong doanh nghiệp. Từ kết quả khảo sát, có thể nhận thấy một mối tương quan khá rõ rệt giữa tỷ lệ nhân viên biết sử dụng 12 Báo cáo hiện trạng ứng dụng CNTT tại Việt Nam và các vấn đề có liên quan đến Luật Giao dịch điện tử - Tiến sỹ Mai Anh, thành viên Ban soạn thảo Dự án Luật Giao dịch điện tử của Ủy ban thường vụ Quốc hội 13 -nt-

Page 61: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

46

máy tính với hoạt động đào tạo trong doanh nghiệp. Những đơn vị không triển khai bất cứ hình thức đào tạo nào về CNTT thường có tỷ lệ nhân viên biết sử dụng máy tính từ dao động từ 20% - 50%, trong khi những đơn vị đã áp dụng một hoặc nhiều hình thức đào tạo có tỷ lệ này đạt mức bình quân là 75%.

Hình 3.5 Các hình thức đào tạo CNTT trong doanh nghiệp

Phân bổ tỷ lệ công ty áp dụng các hình thức đào tạo khác nhau về CNTTT

0,00%

10,00%

20,00%

30,00%

40,00%

50,00%

60,00%

Mở lớp Gửi đi học Tại chỗ Không đào tạo

Hình thức đào tạo

Mứ

c độ

triể

n kh

ai tr

ong

doan

h ng

hiệp

Ngoài hoạt động đào tạo, thì việc bố trí cán bộ chuyên trách về công nghệ thông tin cũng là một chỉ tiêu phản ánh mức độ nhận thức và trình độ tổ chức triển khai ứng dụng CNTT trong doanh nghiệp. Kết quả khảo sát cho thấy 32,92% công ty bước đầu đã có cán bộ chuyên trách về CNTT, một tỷ lệ hợp lý trong tương quan 25,32% doanh nghiệp có website và 82,9% doanh nghiệp được kết nối Internet. Tuy nhiên, để tạo động lực tăng trưởng mạnh về số lượng website trong những năm tới, đồng thời đưa việc ứng dụng TMĐT đi vào chiều sâu và đem lại hiệu quả thực tế cho doanh nghiệp, thì lực lượng nhân sự nòng cốt đóng một vai trò thiết yếu. Tỷ lệ doanh nghiệp có cán bộ chuyên trách về CNTT phải vượt trên tỷ lệ doanh nghiệp có website một khoảng cách đủ xa để tạo ra được lực đẩy cần thiết. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng nên quan tâm lựa chọn mô hình kinh doanh và cơ cấu tổ chức hợp lý cho việc tham gia TMĐT. Hiện nay, mới chỉ có một tỉ lệ thấp (16,5% trong số gần 300 công ty được khảo sát) đã xác định hoặc đang bắt tay vào triển khai dự án phát triển ứng dụng TMĐT cho đơn vị mình. 1.2. Các công ty thiết lập website TMĐT Tình hình chung:

Trong số 230 doanh nghiệp có website được khảo sát, chọn theo phương thức lấy ngẫu, những doanh nghiệp trực tiếp sản xuất ra hàng hóa chiếm tỷ lệ không nhiều (ước tính khoảng 20%), còn lại chủ yếu là các công ty thương mại và dịch vụ. Phân bổ ngành nghề của những doanh nghiệp sản xuất cũng khá tập trung, với hai phần ba số doanh nghiệp thuộc lĩnh vực dệt may và thủ công mỹ nghệ, một phần ba trong lĩnh vực nông lâm thủy sản hoặc cơ khí điện máy. Con số này phản ánh một hiện tượng thực tế là các doanh nghiệp thương mại dịch vụ, không kể quy mô, đang trở thành lực lượng năng động nhất triển khai ứng dụng TMĐT trong hoạt động kinh doanh của mình.

Page 62: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

47

Bảng 3.4 Tỷ lệ website phân theo nhóm sản phẩm/dịch vụ

Nhóm sản phẩm/dịch vụ Tỷ lệ website *Hàng hoá tổng hợp 5,65% Điện tử viễn thông 15,65% Tiêu dùng 11,74% Thủ công mỹ nghệ 12,61% Dệt may giày dép 16,09% Sách, đĩa nhạc 3,91% Dịch vụ du lịch 10,00% Dịch vụ tài chính 6,96% Luật, tư vấn 9,57% Khác 38,26%

* Trên một website có thể kết hợp giới thiệu vài nhóm sản phẩm dịch vụ, do đó con số cộng gộp sẽ lớn hơn 100%

Có một điểm đáng lưu ý là trong số những website này, riêng các website thành lập từ năm 2003 trở lại đây đã chiếm đến 35,68%. Sự nở rộ về số lượng website trong một thời gian ngắn cho thấy nhận thức và ứng dụng TMĐT của doanh nghiệp đã có những bước tiến dài trong hai năm gần đây, đồng thời là kết quả của việc cải thiện chất lượng dịch vụ Internet và phát triển các dịch vụ hỗ trợ TMĐT tại Việt Nam kể từ khi ADSL ra đời.

Hình 3.6 Tỷ lệ website phân theo năm thành lập

Trước 2003; 64,32%

2003 trở lại đây; 35,68%

Nhìn vào cơ cấu website phân theo tên miền Việt Nam và tên miền quốc tế của các doanh nghiệp được khảo sát, có thể nhận thấy tỷ lệ trang web tên miền Việt Nam đang có xu hướng giảm đi. Trong số các website thành lập từ năm 2003 đến nay, chỉ có 32,76% đăng ký tên miền .vn, giảm hơn 1/4 so với tỷ lệ 45,9% của những websie thành lập trước năm 2003. Các doanh nghiệp được phỏng vấn cho biết mặc dù website tên miền .vn có độ an toàn cao hơn (không phải chịu khả năng tên miền bị hacker chiếm dụng), nhưng thủ tục đăng ký rất phức tạp, bất tiện và tốn thời gian. Hơn nữa, nhiều doanh nghiệp lo ngại tên miền Việt Nam sẽ dễ bị phát hiện và kiểm soát trong trường hợp Bộ Văn hóa Thông tin muốn xiết chặt quy định về quản lý cấp phép website. Do đó, xu thế phổ biến hiện nay là doanh nghiệp sẽ chọn mua tên miền quốc tế và các công ty cung cấp dịch vụ thiết kế web cũng thường tư vấn cho khách hàng của mình đăng ký một tên miền .com hoặc .net.

Page 63: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

48

Hình 3.7

Tỷ lệ trang web tên miền Việt Nam và quốc tế trong từng thời kỳ

32,76% 45,90%

67,24% 54,10%

0,00%20,00%40,00%60,00%80,00%

100,00%120,00%

2003 trở lại đây Trước 2003

Tỷ lệ tên miền .vn Tỷ lệ tên miền QT

Tính năng TMĐT của trang web

Tính năng TMĐT của các website doanh nghiệp ở Việt Nam hiện vẫn còn ở mức tương đối sơ khai. Kết quả điều tra 230 công ty đã xây dựng website cho thấy, đa phần những website này mới chỉ dừng ở mức giới thiệu công ty và sản phẩm dịch vụ (92,17%). Khoảng trên 40% website đã tiến thêm một bước là có cung cấp thông tin về giá cả sản phẩm và cho phép liên hệ đặt hàng. Tuy nhiên, số website cho phép thanh toán trực tuyến (bằng thẻ tín dụng hoặc chuyển khoản) chỉ chiếm hơn 10%, phần lớn trong số này là các siêu thị trực tuyến và website dịch vụ (du lịch, ngân hàng, dịch vụ tin học và viễn thông)

Bảng 3.5 Tính năng thương mại điện tử của các website doanh nghiệp Việt Nam

Tỷ lệ website có các tính năng TMĐT Sản phẩm Giá cả Đặt hàng Thanh toán trực tuyến Dvụ khách hàng

92,17% 47,83% 40,43% 10,47% 47,83%

Lựa chọn mô hình kinh doanh TMĐT

73,91% doanh nghiệp được hỏi cho biết đối tượng họ hướng tới khi thiết lập website là các công ty và tổ chức, còn những doanh nghiệp chú trọng tới đối tượng website là đại chúng chiếm một tỷ lệ thấp hơn: 56,09%. Điều này phù hợp với xu thế chung của thế giới là TMĐT B2B chiếm ưu thế vượt trội so với B2C trong lựa chọn chiến lược kinh doanh TMĐT của doanh nghiệp.

Đa số doanh nghiệp khi xây dựng website đã có ý thức quảng bá trang web của mình bằng nhiều hình thức. 52,61% đơn vị được hỏi cho biết có đăng ký website với một công cụ tìm kiếm trực tuyến, như Yahoo, Google hay danh bạ website do một tổ chức trong nước đứng ra tập hợp. Trên 50% doanh nghiệp có quảng cáo website qua các phương tiện thông tin đại chúng và trao đổi link với những trang web khác, tuy nhiên vẫn còn khoảng gần 20% doanh nghiệp chưa áp dụng biện pháp nào để quảng bá website.

Page 64: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

49

Bảng 3.6 Các hình thức quảng bá website của doanh nghiệp

Phương tiện đại chúng Liên kết website Quà tặng Không quảng cáo 50,43% 53,04% 21,34% 16,52%

Hiệu quả đầu tư TMĐT

Kết quả khảo sát nhóm doanh nghiệp có website, là những doanh nghiệp đã bắt đầu triển khai ứng dụng TMĐT ở các mức độ khác nhau, cho thấy tỷ trọng đầu tư CNTT có sự phân tán khá lớn, với 38,1% đơn vị được hỏi cho biết hàng năm dành dưới 5% tổng chi phí hoạt động cho ứng dụng CNTT, 39,29% chi từ 5 đến15%, và 22,62% chi trên 15% cho lĩnh vực này.

Do ứng dụng CNTT đòi hỏi một số hạ tầng kỹ thuật nhất định với chi phí tối thiểu được cố định không kể quy mô doanh nghiệp, đầu tư CNTT sẽ chiếm một tỷ trọng lớn hơn trong tổng chi phí hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, xét tương quan vốn của loại hình doanh nghiệp này so với các doanh nghiệp lớn. Kết quả điều tra cũng phần nào phản ánh được thực trạng này. Khoảng 30% doanh nghiệp ở quy mô 50 nhân viên trở xuống cho biết hàng năm chi trên 15% về những khoản mục liên quan đến CNTT, so với tỷ lệ 16% các doanh nghiệp lớn (từ 100 nhân viên trở lên) đầu tư ở mức độ này.

Bảng 3.7 Tỉ trọng chi CNTT trong tổng chi phí hoạt động thường niên

Quy mô doanh nghiệp Tỷ trọng chi CNTT Từ 30 nv

trở xuống 30-50 nv 50-100 nv 100-300 nv Trên 300 nv Tính chung

Dưới 5% 30,36% 33,33% 50,00% 37,50% 45,24% 38,10%Từ 5% - 15% 42,86% 33,33% 25,00% 46,88% 38,10% 39,29%Trên 15% 26,79% 33,33% 25,00% 15,63% 16,67% 22,62%

Mặc dù tỷ trọng đầu tư cho CNTT và TMĐT như vậy là tương đối cao,

nhưng hiệu quả thực tế do đầu tư này mang lại vẫn được doanh nghiệp đánh giá khá dè dặt. 58,87% các doanh nghiệp cho rằng ứng dụng TMĐT đóng góp dưới 5% vào tổng doanh thu của đơn vị, và chỉ có 13,71% đánh giá phần đóng góp này đạt trên 15%. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ, với quy mô vốn hạn chế, phải chịu sức ép chi phí lớn hơn khi triển khai ứng dụng CNTT nhưng lại thu được hiệu quả thấp hơn từ những ứng dụng này. Nhóm doanh nghiệp nhỏ (có 30 nhân viên trở xuống) tỏ qua bi quan hơn cả: có đến 63,83% đơn vị được hỏi cho biết ứng dụng CNTT - TMĐT chỉ đóng góp dưới 5% vào việc tạo doanh thu, so với trên 50% các doanh nghiệp lớn có cùng nhận định này.

Bảng 3.8 Ước tính mức đóng góp vào tổng doanh thu của ứng dụng TMĐT trong doanh nghiệp

% doanh thu từ ứng dụng TMĐT % doanh thu do ứng dụng TMĐT đem lại 30 nv trở

xuống 30-50 nv 50-100 nv 100-300 nv Trên 300 nv Tính chung

Dưới 5% 63,83% 53,85% 58,82% 52,38% 57,69% 58,87%Từ 5%-15% 21,28% 15,38% 29,41% 42,86% 30,77% 27,42%Trên 15% 14,89% 30,77% 11,76% 4,76% 11,54% 13,71%

Page 65: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

50

Từ kết quả khảo sát trên, có thể thấy doanh nghiệp vừa và nhỏ đang là đối

tượng cần được hỗ trợ để triển khai ứng dụng TMĐT một cách hiệu quả nhất. Nhà nước cần có chính sách hợp lý, tạo điều kiên cho các doanh nghiệp này vừa tiếp thu được những kỹ thuật tiên tiến của thế giới, vừa không chịu sức ép quá lớn về chi phí đồng thời thu được hiệu quả kinh tế thật sự đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

Thời gian hoàn vốn cũng là một yếu tố các doanh nghiệp phải cân nhắc khi triển khai đầu tư ứng dụng TMĐT trong đơn vị. Kết quả điều tra cho thấy nhận định của doanh nghiệp về mức độ thu hối vốn của đầu tư TMĐT là khả quan: 43,58% ước đoán thời gian hoàn vốn từ 1 đến 2 năm, và chỉ có 16,76% doanh nghiệp được hỏi dự tính phải mất trên 5 năm để đầu tư TMĐT bắt đầu đem lại hiệu quả kinh tế thực sự.

Hình 3.8 Ước tính thời gian hoàn vốn cho đầu tư TMĐT của doanh nghiệp

Ước tính thời gian hoàn vốn cho đầu tư TMĐT của doanh nghiệp

0,00%

5,00%10,00%

15,00%20,00%

25,00%

30,00%35,00%

40,00%45,00%

50,00%

Từ 1-2 năm Từ 2-5 năm Trên 5 năm

Tỷ lệ

doa

nh n

ghiệ

p nh

ận địn

h

2. Các hình thức tổ chức website

2.1. Website công ty

Đây là loại hình website đang phát triển mạnh nhất hiện nay, và chiếm phần lớn (hơn 90%) trong tổng số website doanh nghiệp được khảo sát. Trong trào lưu hội nhập kinh tế và nhằm thích ứng với sự vận động của xã hội thông tin, nhiều doanh nghiệp giờ đã coi một địa chỉ trên Internet như phần không thể thiếu của chiến lược xây dựng thương hiệu công ty. Tuy nhiên, đa phần các website hiện nay mới dừng ở mức cung cấp những thông tin giới thiệu cơ bản nhất; và chưa thể được coi là những website TMĐT theo đúng nghĩa (cho phép có sự tương tác giữa doanh nghiệp với khách hàng để tiến hành một số khâu của quy trình giao dịch). Bảng sau so sánh các tính năng TMĐT của website giữa hai nhóm công ty kinh doanh hàng hoá và kinh doanh dịch vụ, dựa trên kết quả điều tra gần 230 doanh nghiệp.

Page 66: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

51

Bảng 3.9 Tỷ lệ website có các tính năng TMĐT - so sánh giữa website hàng hóa và dịch vụ

Tính năng Website hàng hóa Website dịch vụ Thông tin sản phẩm 98,82% 89,80% Thông tin giá cả 51,76% 53,06% Liên hệ đặt hàng 45,88% 40,82% Thanh toán trực tuyến 5,88% 24,49% Dịch vụ khách hàng 40% 63,27%

Nhìn vào các số liệu ở bảng trên, nổi bật lên một điểm đáng lưu ý là tỷ lệ

website dịch vụ cho phép thanh toán trực tuyến cao hơn hẳn các website bán hàng (24,49% so với 5,88%). Loại hình dịch vụ đi đầu trong ứng dụng này là dịch vụ du lịch, và công nghệ thông tin (bao gồm cả dịch vụ phần mềm, dịch vụ Internet và các dịch vụ giá trị gia tăng khác) Mặc dù tỷ lệ website “cho phép thanh toán trực tuyến” chưa phản ánh được tỷ lệ thực tế các giao dịch tiến hành có sử dụng biện pháp thanh toán trực tuyến, con số này cũng phần nào nói lên một xu hướng phát triển TMĐT hiện nay: các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩn vực dịch vụ có nhận thức cao và đang đi trước một bước trong việc triển khai ứng dụng TMĐT để phục vụ trực tiếp hoạt động kinh doanh của mình. Điều này còn được thể hiện trong việc tỷ lệ website có dịch vụ khách hàng (theo nghĩa cho phép trao đổi thông tin, tư vấn giữa doanh nghiệp và khách hàng) của khu vực kinh doanh dịch vụ cao gấp rưỡi khu vực kinh doanh hàng hoá: 63,27% website dịch vụ có tính năng này, so với tỷ lệ 40% của website hàng hoá.

Tính tích cực và chủ động của doanh nghiệp trong việc phát huy các tính năng TMĐT của website còn được thể hiện ở mức độ cập nhật thông tin trên trang web. Và lại một lần nữa các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ tỏ rõ ưu thế trên khía cạnh này. 41,3% các website dịch vụ được cập nhật thông tin hàng ngày, so với 26,83% website hàng hoá. Tỷ lệ website hàng tháng mới được cập nhật một lần của các công ty kinh doanh hàng hoá cao gấp 2,5 lần các công ty kinh doanh dịch vụ (28,05% so với 10,87%). Xét thông tin là yếu tố cốt lõi của một website, không chỉ về sự đa dạng, chi tiết của thông tin mà còn cả tính kịp thời và liên tục, thì cường độ cập nhật website của các công ty dịch vụ cũng cho thấy cách thức triển khai CNTT và TMĐT mang tính chuyên nghiệp cao hơn. Đây sẽ là nền tảng để doanh nghiệp phát huy được hiệu quả ứng dụng TMĐT trong tương lai, khi mà môi trường pháp lý và chính sách cho thương mại điện tử ở Việt Nam trở nên hoàn thiện hơn.

Bảng 3.10 Mức độ thường xuyên cập nhật của các loại website

Mức độ cập nhật Website hàng hóa Website dịch vụ Không xác định

Hàng ngày 26,83% 41,30% 26,51% Hàng tuần 21,95% 26,09% 34,94% Hàng tháng 28,05% 10,87% 15,66% Thỉnh thoảng 23,17% 21,74% 22,89%

Tuy nhiên, ở thời điểm hiện nay thì hiệu quả thực tế của ứng dụng TMĐT,

cụ thể là của website công ty, đối với hoạt động kình doanh của doanh nghiệp vẫn còn khá hạn chế. Với thang điểm từ 0 đến 4 cho những tác dụng mà website mang lại, điểm bình quân cao nhất (gần 3,2) là dành cho việc “Xây dựng hình ảnh công

Page 67: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

52

ty”, còn tác động “tăng doanh số” hay “tăng lợi nhuận và hiệu quả hoạt động” nhận được điểm bình quân gần xấp xỉ nhau (1,85 và 1,96) từ các doanh nghiệp được khảo sát. Trong khi nhiều doanh nghiệp đánh giá cao website như một phương tiện để xây dựng hình ảnh công ty, mở rộng kênh tiếp xúc với khách hàng hiện có và thu hút khách hàng mới bằng cách cho điểm 4 (điểm tối đa) những tác dụng này, thì điểm cao nhất cho hai tác dụng “tăng doanh số”, “tăng lợi nhuận và hiệu quả hoạt động” cũng chỉ được đến 3 và cho bởi một số rất ít công ty được hỏi.

Bảng 3.11 Cho điểm các tác dụng của website đối với hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp

(4 là mức tác dụng cao nhât)

Tác dụng Điểm bình quân Điểm tối thiểu Điểm tối đa Mở rộng kênh tiếp xúc với khách hàng hiện có 2,869565 0 4 Thu hút khách hàng mới 2,578378 0 4 Xây dựng hình ảnh công ty 3,165775 0 4 Tăng doanh số 1,854749 0 3 Tăng lợi nhuận và hiệu quả hoạt động 1,960452 0 3

Việc đánh giá cho điểm này phản ánh một thực tế: đa phần doanh nghiệp

hiện có website mới chỉ coi đây như một kênh tiếp thị bổ sung để quảng bá hình ảnh công ty và giới thiệu sản phẩm. Với cách nhìn nhận như vậy, doanh nghiệp chưa thể chú trọng đầu tư theo chiều sâu để khai thác hết những lợi ích tiềm năng mà ứng dụng này mang lại. Nhiều website hiện nay giống như tấm danh thiếp công ty hơn là một phương tiện hữu hiệu để doanh nghiệp giao tiếp với khách hàng và mở rộng phạm vi phân phối sản phẩm, dịch vụ của mình.

Tùy theo cấu trúc và tính năng của website, có thể tạm phân các website hiện có theo ba cấp độ sau: Website giới thiệu công ty và lĩnh vực kinh doanh

Đây là loại hình website đơn giản nhất, với cấu trúc tĩnh, thông tin mang tính khái quá và rất ít khi phải cập nhật. Chi phí thiết kế cũng như duy trì các website loại này tương đối thấp. Khảo sát một số công ty chuyên cung cấp dịch vụ và giải pháp TMĐT cho thấy tỷ lệ website loại này chiếm từ 50% đến 80% tổng số website doanh nghiệp mà họ từng thiết kế. Dưới đây là minh hoạ về một website giới thiệu công ty, website này bao gồm 29 trang web tĩnh với một số hình ảnh và thông tin khái lược về công ty và sản phẩm.

Hộp 3.2 - Trang chủ của website giới thiệu Công ty Xuất nhập khẩu Hòa Bình

Page 68: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

53

Catalogue sản phẩm Ở một cấp độ cao hơn website giới thiệu công ty, loại website catalogue sản

phẩm có thể được kết nối với một cơ sở dữ liệu và cho phép thường xuyên cập nhật các thông tin trên website thông qua phần mềm nhập liệu. Để quản lý cũng như phát huy tối đa hiệu quả của những website loại này, doanh nghiệp cần có một số kiến thức và kỹ năng nhất định về CNTT. Theo kết quả khảo sát các công ty cung cấp dịch vụ thiết kế web, catalogue sản phẩm chỉ chiếm từ 15% đến 30% tổng số website được doanh nghiệp đặt hàng thiết kế.

Một ví dụ về loại catalogue trực tuyến này là trang web của công ty Netshop, cung cấp cho người xem các thông số kỹ thuật, giá cả sản phẩm và thông tin liên hệ đặt hàng. Tuy nhiên, website chưa cho phép đặt hàng trực tuyến.

Hộp 3.3 - Catalogue máy tính trên Website của công ty Netsoft

Cho phép đặt hàng trực tuyến

Mặc dù chưa thể gọi là những website Thương mại điện tử theo đúng nghĩa, loại hình website này hiện là hình thức phát triển cao nhất của các website công ty tại Việt Nam, bước đầu tạo điều kiện để doanh nghiệp và khách hàng tương tác với nhau trong môi trường trực tuyến. Ngoài những thông tin chung giới thiệu công ty và thông tin chi tiết về sản phẩm, trên trang web có một mẫu đơn đặt hàng cho phép người mua điền và gửi trực tuyến. Nhưng phần còn lại của giao dịch, từ khâu xác thực đơn hàng cho đến ký hợp đồng và thanh toán sẽ phải thực hiện bên ngoài website. Tuy cao hơn một nấc so với hai loại website trên về tính năng TMĐT, về mặt kỹ thuật những website loại này vẫn có thể có cấu trúc tương đối đơn giản. Kết quả khảo sát cho thấy những website cho phép đặt hàng trực tuyến hiện chiếm khoảng 10%-15% tổng số website mà các công ty dịch vụ web tại Việt Nam nhận thiết kế.

Page 69: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

54

Hộp 3.4 Đơn đặt hàng trực tuyến trên website của Công ty da giầy Hà Nội.

2.2. Siêu thị trực tuyến (bán hàng tổng hợp) Siêu thị trực tuyến được tách riêng ra khỏi nhóm website công ty do đây là

một hình thái phát triển khá chuyên biệt của mô hình kinh doanh TMĐT B2C. Trên thế giới, các website bán hàng tổng hợp hiện là xu thế vượt trội, chiếm từ 60% đến 70% doanh số bán lẻ qua Internet ở những nước có nền TMĐT phát triển. Còn ở Việt Nam, các siêu thị trực tuyến hiện cũng đang là mô hình ứng dụng B2C năng động và thu hút nhiều sự quan tâm nhất của dư luận cũng như người tiêu dùng.

Đặc thù của loại hình siêu thị trực tuyến là sản phẩm giới thiệu trên website do nhiều nhà sản xuất khác nhau cung cấp, nhưng đơn vị quản lý website sẽ chịu trách nhiệm cập nhật thông tin, tiến hành giao dịch với khách hàng, và tổ chức khâu phân phối sản phẩm. Ở Việt Nam, đây hiện là những website gần hơn cả với tiêu chuẩn website TMĐT của thế giới, xét về nền tảng kỹ thuật khá tiên tiến, thông tin đa dạng cập nhật, lượng giao dịch tương đối cao và tạo ra doanh thu thực tế cho doanh nghiệp chủ trì website.

Hinh 3.9

0,00%

20,00%

40,00%

60,00%

80,00%

100,00%

Thông tinsản phẩm

Thông tingiá cả

Đặt hàngtrực tuyến

Thanh toántrực tuyến

Dvụ kháchhàng

So sánh các tính năng TMĐT của nhóm website công ty và siêu thị trực tuyến

Website công ty Siêu thị trực tuyến

Page 70: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

55

Mặc dù chỉ chiếm hơn 5% trong tổng số website doanh nghiệp, các siêu thị trực tuyến đang là hình thức ứng dụng TMĐT B2C hứa hẹn nhiều tiềm năng phát triển, do những lợi thế sau mà các website bán hàng công ty không có được: - Chủng loại sản phẩm phong phú, đáp ứng được các nhu cầu mua sắm đa dạng tại một điểm dừng duy nhất, tiết kiệm thời gian tìm kiếm và truy nhập Internet cho khách hàng. - Thông tin giá cả và sản phẩm được cập nhật, tiện cho việc so sánh đối chiếu giữa các chủng loại mặt hàng khác nhau - Đơn vị quản lý những website dạng này thường có đội ngũ giao hàng tận nơi để hoàn tất quy trình giao dịch bắt đầu từ khâu đặt hàng qua thông tin trên web.

Bảng 3.12 Giới thiệu một số siêu thị trực tuyến của Việt Nam

Công ty TNHH G.O.L Co. www.golmart.com.vn Vietnamshops.com www.vietnamshops.com Công ty Tư vấn và Đầu tư P.H.I www.camnangmuasam.com Công ty VietNet www.netasie-shop.com/ Trung tâm tin học Bưu điện Cần Thơ http://shopping.cantho1260.net Công ty TNHH TM&DV mua bán http://muaban.netcenter-vn.net Công ty TNHH Dịch vụ và Siêu thị tại nhà www.sieuthitainha.com.vn/ Nhà sách Tiền Phong www.tienphong-vdc.com Siêu thị điện máy Chợ Lớn http://stdienmay.netcenter-vn.net Trung tâm điện máy và nội thất Thiên Hoà www.thienhoaelectric.com/ Công ty H&B Co., Ltd www.megabuy.com.vn/ Công ty phát triển Tin học và Công nghệ DTIC www.dtic.com.vn

Công ty cổ phần dịch vụ thương mại EQ www.eqmuaban.com Công ty TGN www.westcom.com.vn Công ty TNHH NetCom www.netcom.com.vn Công ty Thuận Quốc www.thuanquoc.com.vn Công ty Vĩnh Trinh www.vinhtrinh.com.vn Công ty CP kinh doanh máy và thiết bị phụ tùng www.seatech.com.vn

Quy trình kinh doanh đặc thù của một siêu thị ảo: - Thông tin về mặt hàng: Doanh nghiệp đăng tải thông tin giới thiệu mặt hàng lên trang web của mình. Thông tin được chia theo danh mục mặt hàng hoặc doanh nghiệp, ứng với mỗi mặt hàng có giới thiệu chi tiết về chất lượng, giá cả, điều kiện mua hàng. - Lựa chọn hàng: Người tiêu dùng tìm hàng hoá mình cần, nhập vào giỏ hàng điện tử, phần mềm giỏ hàng sẽ giúp tính tiền và hỏi xem có chấp nhận mua hàng hay không.

Page 71: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

56

- Chấp nhận mua hàng: Người mua nhập các thông tin liên hệ (địa chỉ, số điện thoại, email, v.v...) rồi gửi thông điệp chấp nhận mua hàng (nhấn vào nút thanh toán). - Xác thực đơn hàng: Siêu thị sẽ kiểm chứng việc mua hàng bằng cách gọi điện thoại xác nhận lại với khách hàng. Trong tương lai nếu có một hệ thống chứng thực điện tử cho phép xác thực được người gửi thông điệp thì Công ty bán hàng sẽ có thể bỏ qua khâu này. - Thanh toán: khách hàng thanh toán cho đơn hàng bằng nhiều phương thức khác nhau như trực tiếp (trả tiền khi nhận được hàng); qua ngân hàng (chuyển khoản, thẻ tín dụng hoặc thẻ trả trước); chuyển tiền bưu điện... Phương thức thanh toán trực tiếp với người giao hàng hiện đang được sử dụng phổ biến hơn cả. - Dịch vụ hậu mãi: hàng hóa bán trên siêu thị trực tuyến có chế độ bảo hành giống như ở các cửa hàng kinh doanh thông thường. Giấy bảo hành (thường là của nhà sản xuất) được phát khi giao hàng, ngoài ra chủ siêu thị không chịu thêm bất kỳ trách nhiệm nào với những hàng hóa đã giao.

Hình 3.10

Tỷ lệ doanh nghiệp tham gia xây dựng các siêu thị trực tuyến

Công ty dịch vụ khác

Công ty Thương mại

Một điểm đáng lưu ý là hiện nay chưa có tập đoàn kinh doanh siêu thị nào ở Việt Nam thiết lập một hệ thống bán hàng song hành trên mạng. Các website siêu thị trực tuyến thường do một trong hai đối tượng doanh nghiệp sau đứng ra tổ chức:

- Các công ty thương mại, sẵn có trong tay một mạng lưới cung ứng và nguồn hàng ổn định. Khi đó siêu thị trực tuyến sẽ giống như một cửa hàng trưng bày và giới thiệu sản phẩm mở rộng. Lợi thế của những công ty này là tự chủ được về nguồn hàng vì duy trì quan hệ thường xuyên với các nhà cung cấp của kênh bán hàng truyền thống. Nhưng cũng vì dựa trên mạng lưới phân phối sẵn có cho hoạt động kinh doanh của công ty, chủng loại mặt hàng trên website sẽ phần nào bị hạn chế. Phổ biến nhất hiện nay là những “Siêu thị máy tính” và “Siêu thị điện máy” do các công ty kinh doanh thiết bị tin học và điện tử lập ra.

Hộp 3.5 Minh họa về siêu thị trực tuyến của một công ty thương mại

Siêu thị thiết bị văn phòng www.megabuy.com.vn của Công ty H&B Co., Ltd

H&B Co., Ltd là công ty chuyên kinh doanh vật liệu xây dựng và thiết bị trường học. Công ty có một văn phòng và hai cửa hàng tại Hà Nội, cùng một đội ngũ nhân viên khoảng trên 20 người. Website www.megabuy.com.vn được khai trương vào tháng 10/2004 như một kênh bán lẻ mở

Page 72: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

57

rộng: ngoài nguồn hàng của chính công ty, trên website còn đưa thông tin về sản phẩm của một số công ty khác chuyên về thiết bị tin học và máy văn phòng.

Khi nhận được đơn đặt hàng, nhân viên H&B sẽ liên hệ với công ty đối tác, cử người đến lấy hàng rồi giao cho khách và hưởng phần hoa hồng trên giá gốc sản phẩm. Ngoài đội ngũ chuyên chở nghiệp dư của cửa hàng, H&B còn đăng ký dịch vụ COD (Cash on Delivery – nhờ thu khi giao hàng) với Bưu điện thành phố Hà Nội để chuyển phát những đơn hàng có kích thước lớn hoặc khoảng cách xa. Tuy nhiên, do cước vận chuyển còn tương đối cao (chiếm từ 1-2% giá trị bưu kiện), đây chưa thực sự là một phương thức phân phối hiệu quả cho hoạt động kinh doanh TMĐT của doanh nghiệp.

Trên website hiện có khoảng 2000 sản phẩm, trong đó vài trăm mặt hàng có giá cả thường xuyên biến động và phải liên tục cập nhật, đặt dưới quyền quản lý của 3 nhân viên. Lãnh đạo công ty cho biết, từ khi khai truong trang web, lượng khách hàng gọi điện thoại hỏi về sản phẩm tăng 20% và ước đoán giao dịch trên website sẽ đạt tốc độ tăng bình quần 5-10%/năm. Tuy nhiên, chưa có thống kê chính xác về số đơn hàng phát sinh, lượng giao dịch thực tế và phần trăm đóng góp cho doanh thu của các sản phẩm giới thiệu trên website. Có khoảng 50% đơn đặt hàng qua mạng không xuất phát từ ý định mua hàng nghiêm túc. - Nhóm đối tượng thứ hai tham gia xây dựng loại hình siêu thị trực tuyến là những doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực dịch vụ có liên quan như vận tải giao nhận, tiếp thị quảng cáo, bưu chính viễn thông… Dựa trên thế mạnh là lực lượng vận chuyển sẵn có hoặc quan hệ đối tác với một số nhà cung cấp, những công ty này thiết lập các siêu thị điện tử như một lĩnh vực kinh doanh mở rộng nhằm tạo thêm doanh số cho công ty mà không cần đầu tư vào hệ thống cửa hàng kho bãi. Điển hình cho loại đối tượng này là Công ty TNHH Công nghệ Thông tin G.O.L, Công ty Tư vấn và Đầu tư P.H.I, Công ty VietNet, Trung tâm tin học Bưu điện Cần Thơ, và sắp tới là Công ty Tin học bưu điện Sài Gòn (Netsoft).

Hộp 3.6 Minh họa về siêu thị trực tuyến của một công ty hoạt động dịch vụ

Mô hình thành công: siêu thị điện tử www.golmart.com.vn

Công ty TNHH TM-DV Công nghệ Thông tin G.O.L thành lập vào tháng 4/2002, có chức năng kinh doanh trong lĩnh vực Công nghệ Thông tin như sản xuất và cung cấp các phần mềm quản lý chuyên dụng, tư vấn các giải pháp quản lý tổng thể bằng CNTT, thiết kế in ấn các sản phẩm quảng cáo, catalog điện tử, tổ chức hội chợ, xúc tiến thương mại...

Siêu thị điện tử www.golmart.com.vn ra đời vào cuối năm 2003 trên nền kỹ thuật là những giải pháp TMĐT do chính G.O.L thiết kế, dựa vào mạng lưới các nhà cung cấp mà công ty đã tạo lập

Page 73: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

58

quan hệ đối tác từ những lĩnh vực kinh doanh khác, và kết hợp với sức mạnh của hệ thống vận tải giao nhận của công ty mẹ là Công ty dịch vụ giao nhận Uy Tín (Weixin Cargo Services Co., Ltd)

Sau hơn một năm hoạt động, danh mục sản phẩm trên golmart đã được mở rộng lên 7500 sản phẩm, số tài khoản đăng ký đạt trên 300 thành viên (bao gồm cả doanh nghiệp và cá nhân). Định hướng siêu thị bán lẻ đã trở nên rõ nét hơn với việc doanh số từ các đơn hàng của doanh nghiệp giảm và của cá nhân tăng lên. Công ty cũng tạo được các quan hệ đối tác bền vững hơn với một số nhà cung cấp (thể hiện qua những chương trình khuyến mãi và hợp đồng đại lý trực tiếp mà G.O.L được chỉ định, VD như với Unilever hay Thái Tuấn). Với chiến lược kinh doanh nhằm vào cộng đồng người Việt ở nước ngoài (mua hàng cho người thân ở Việt Nam) và lấy các chương trình khuyến mãi làm điểm thu hút khách, với chính sách giao hàng tận nơi trong vùng phục vụ miễn phí mà không giới hạn giá trị đơn đặt hàng, hiện Golmart đang có mức giao dịch thực hiện khá cao (bình quân từ 50 đến 70 đơn hàng/ngày). Mặc dù những lợi thế căn bản như chi phí đầu tư thấp (không phải thuê không gian trưng bày sản phẩm, không phải dự trữ sẵn nguồn hàng...) và yếu tố vận hành kỹ thuật cũng không quá phức tạp, hình thức kinh doanh siêu thị trực tuyến hiện vẫn chưa đưa lại hiệu quả thực tế do một số khó khăn căn bản sau: - Phương thức bán hàng trực tuyến chỉ phù hợp với đối tượng khách hàng ít thời gian dành cho mua sắm và đã quen tiếp xúc với các ứng dụng công nghệ thông tin. Đa phần người tiêu dùng vẫn chưa có thói quen và chưa tin cậy vào chất lượng sản phẩm, dịch vụ khi mua hàng qua mạng. - Thủ tục mua bán còn phức tạp do người quản lý website phải kiểm chứng độ tin cậy của từng đơn đặt hàng bằng phương pháp thủ công (gọi điện thoại, gửi fax hoặc email) trước khi tiến hành xử lý đơn hàng. - Hệ thống thanh toán của các ngân hàng Việt Nam hiện nay chưa hỗ trợ tốt cho thanh toán trực tuyến. Thói quen dùng thẻ của người dân cũng chưa được hình thành. Để khắc phục trở ngại này, một số siêu thị trực tuyến đã phải phát minh ra rất nhiều hình thức thanh toán khác nhau cho khách hàng lựa chọn. Ví dụ siêu thị Golmart của công ty G.O.L đưa ra cho khách hàng 9 phương thức thanh toán khi mua hàng : từ tiền mặt, chuyển khoản, dịch vụ chuyển tiền, cho đến thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ, thẻ trả tiền trước, và các loại thẻ khác. Việc phân tán nguồn lực thời gian và con người để giải quyết khâu thu tiền theo nhiều cách thức khác nhau như vậy khiến hiệu quả kinh doanh đạt được thấp, chưa kể gây khó khăn cho quy trình kế toán thu chi của doanh nghiệp và có thể làm chậm trễ việc giao hàng.

Page 74: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

59

Về phía người tiêu dùng, phương thức mua hàng trực tuyến cũng chưa thực sự hấp dẫn do giá cả hàng hóa trên website thường cao hơn bên ngoài, và cơ chế định giá cũng chưa linh hoạt. Nhiều siêu thị trực tuyến chỉ chấp nhận những đặt hàng có giá trị vượt trên một ngưỡng nhất định (VD: siêu thị Tiền Phong VDC không nhận giao những đơn hàng dưới 50.000đ). Điều này có thể gây tâm lý không thoải mái cho khách hàng khi lần đầu tiếp cận với dịch vụ và do đó không tạo động lực để quay lại lần thứ hai.

Như đã nói ở trên, thị trường siêu thị trực tuyến hiện vẫn chưa có sự tham gia của những nhà kinh doanh siêu thị thực sự. Các siêu thị trực tuyến đa phần do những công ty thương mại - dịch vụ với quy mô nhỏ và nguồn hàng tương đối hạn chế đứng ra tổ chức. Hiện nay một số tập đoàn siêu thị đang xem xét việc xây dựng các siêu thị trực tuyến để mở rộng thêm kênh bán hàng, như hai hệ thống siêu thị Maximark và Saigon CoopMart trong Tp. Hồ Chí Minh. Có thể tin rằng đến khi những siêu thị lớn vào cuộc, với thế mạnh của hệ thống phân phối sẵn có, nguồn hàng đa dạng và tiềm lực tài chính dồi dào, người mua hàng trên Internet sẽ có nhiều lựa chọn cũng như tiện ích hơn khi tìm tới các siêu thị trực tuyến để đáp ứng nhu cầu mua sắm hàng ngày của mình. 3. Những hàng hóa phổ biến trên mạng hiện nay

3.1. Sản phẩm có độ tiêu chuẩn hóa cao Với những sản phẩm đạt mức độ tiêu chuẩn hóa cao, thông qua các thông số

kỹ thuật, người mua có thể đánh giá một cách toàn diện và có ý niệm tương đối đầy đủ về sản phẩm mà không cần phải giám định một cách trực quan. Do đặc thù này, những sản phẩm kỹ thuật tiêu chuẩn hóa rất phù hợp với hình thức kinh doanh trực tuyến, khi người mua không có điều kiện trực tiếp tiếp xúc và đánh giá sản phẩm. Một số nhóm hàng sau đây đã được triển khai rộng rãi trong kinh doanh trực tuyến trên thế giới và bước đầu thử nghiệm thành công ở Việt Nam:

- Máy tính và linh kiện máy tính - Thiết bị điện tử và viễn thông (Đồ điện tử gia dụng, máy ảnh, điện thoại,

v.v…) 70% các siêu thị điện tử của Việt Nam hiện nay nhận cung cấp máy tính,

linh kiện máy tính và điện thoại di động. Có những siêu thị chuyên doanh như chợ máy tính www.cantho.mart.com của Trung tâm Tin học bưu điện Cần Thơ, và có siêu thị tổng hợp như www.vietnamshops.com với các gian hàng lớn dành cho thiết bị điện tử và tin học. Thành công nhất hiện nay là những “siêu thị mobile”, do đối tượng khách hàng hướng tới là giới trẻ và giới có thu nhập khá trở lên, là tầng lớp phần nào đã quen thuộc với các ứng dụng tiên tiến của CNTT và mạng Internet. Mặc dù tỷ lệ bán hàng trực tuyến vẫn còn thấp do trở ngại về thanh toán, nhưng những siêu thị này là kênh thu hút khách hàng rất hiệu quả của các công ty kinh doanh điện thoại di động. Chiến lược xây dựng website của các công ty này là cung cấp những thông số kỹ thuật rất chi tiết về sản phẩm, đa dạng hoá chủng loại mặt hàng trưng bày, và thường xuyên cập nhật giá cả trên website. Những thông tin này, một khi đã thuyết phục được khách hàng, sẽ trực tiếp dẫn đến việc đặt hàng (qua điện thoại hoặc đến cửa hàng). Một số công ty kinh doanh điện thoại di động cho biết 20% đến 30% lượng hàng bán ra là xuất phát từ việc khách hàng tìm hiểu thông tin trên website của công ty.

Page 75: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

60

Bảng 3.13 Một số website kinh doanh thíêt bị điện tử và viễn thông

Thiết bị điện tử Công ty TNHH Thương Mại Dịch Vụ & Phát Triển Thị Trường TÂN PHÁT http://www.tanphat.com.vn

Công ty mạng máy tính truyền thông VN http://www.iccvn.com Công ty TGN http://www.westcom.com.vn Netcom Co., Ltd http://www.netcom.com.vn Công ty TNHH Tin học Mai Hoàng http://www.maihoang.com.vn Công ty TNHH tin học điện tử và viễn thông Âu Lạc http://www.aulacco.com/ Công ty Công nghệ và Thông tin Bạch Mai http://bachmainet.com/

Công ty Phúc Anh http://www.phucanh.com Công ty Thương mại Bắc Mỹ http://www.naco.com.vn Công ty máy tính VTB http://www.vtb.com.vn Viettronics Tan Binh http://www.vtb.com.vn

Công ty liên doanh Thiết bị tổng đài http://www.vkx.com.vn/

Công ty Cổ phần Hỗ trợ Phát triển Tin học - HiPT http://www.hipt.com.vn

Công ty 3C (Computer Communication Control Inc) http://www.3c.com.vn/Products

Điện thoại di động

Trung tâm phân phối điện thoại di động Minh Quang http://www.quangmobile.com.vn/

Công ty TNHH Thương mại Duy Linh www.duylinhmobile.com

Công ty TM & DV Kỹ thuật Nhật Cường http://www.nhatcuong.net/

Thắng Huyền Ltd www.huyen.com.vn

3.2. Sản phầm số hoá

Hàng hóa số hóa là sản phẩm trực tiếp của công nghệ số, được sản xuất và lưu trữ trên nền tảng kỹ thuật của công nghệ thông tin và truyền thông, được tiêu thụ trong môi trường ảo, do đó thích hợp hơn cả với hình thức kinh doanh điện tử. Một ưu thế của loại sản phẩm này khi ứng dụng trong thương mại điện tử là tiết kiệm hoàn toàn chi phí vận chuyển, do giá trị của các hàng hoá số hoá chính là nội dung được truyền tải. Tuy nhiên, điểm bất lợi cơ bản của hàng hoá số hoá là rất dễ sao chép và có thể bị ăn cắp bản quyền bất cứ lúc nào. Việt Nam bị coi là nước đứng đầu về nạn vi phạm bản quyền. Có thể dễ dàng thấy những cửa hiệu bán băng, đĩa trên các phố Lý Nam Đế, khu Bách Khoa với giá chỉ khoảng 8 - 9 nghìn đồng, rẻ hơn nhiều lần giá trị thật của sản phẩm. Và các nhà sản xuất phần mềm Việt Nam cũng không bị loại trừ khỏi đối tượng phải chịu thiệt hại từ tệ nạn này, một ví dụ tiêu biểu là phần mềm từ điển Lạc Việt: đĩa CD của phần mềm này được chào bán ngoài thị trường với giá 8 nghìn/đĩa trong khi giá gốc khoảng 300 nghìn.

Page 76: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

61

Tuy nhiên, việc kinh doanh loại hình sản phẩm này cũng đang dần phát triển. Sau đây là một số ví dụ về sản phẩm số hoá của Việt Nam có thể tìm thấy trên mạng Internet:

Bảng 3.14 Một số website cung cấp sản phấm số hóa

Sản phẩm phần mềm

www.phanmemvietnam.com Là nơi tập hợp các sản phẩm công nghệ phần mềm của nhiều doanh nghiệp Việt Nam, hướng tới trở thành một sàn giao dịch về phần mềm.

Công ty Lạc Việt www.lacviet.com.vn

Từ điển đa phương tiện Lạc Việt cho phép dịch nhiều thứ ngôn ngữ như tiếng Anh, Pháp, Trung.

Công ty Vietkey www.vietkeygroup.com

Phần mềm đánh chữ việt tiếng Việt.

Công ty Cổ phần Misa www.misa.com.vn

Giới thiệu và cho phép đặt hàng trực tuyến các phần mềm kế toán do công ty phát triển.

Sách điện tử Nhà sách Kim Đồng http://www.book-vn.com

Chủ yếu phục vụ các độc giả ở nước ngoài. Thanh toán bằng thẻ tín dụng và qua hệ thống trả tiền an toàn

Thư viện điện tử - e.lib http://ebooks.vdcmedia.com/

Cho phép tải miễn phí sách thuộc nhiều lĩnh vực và chủ đề khác nhau, do công ty VDC liên kết với Nhà sách Đông Tây và NXB Thanh Niên cung cấp.

Sản phẩm giải trí Công ty phần mềm và truyền thông VASCwww.vnn.vn

Cung cấp hình nền, nhạc chuông cho điện thoại… trên cơ sở thu phí

Mạng âm nhạc trực tuyến của Trung tâm hỗ trợ phát triển tài năng Hà Nội www.giaidieu.net

Cung cấp miễn phí các bản nhạc và thông tin liên quan tới âm nhạc.

Công ty Bến Thành Audio http://www.mp3-vn.com

Bán và giao hàng trực tuyến các bản nhạc MP3. Thanh toán qua thẻ tín dụng.

Việc kinh doanh trực tuyến các sản phẩm số hoá ở Việt Nam còn đang trong quá trình thử nghiệm và còn khiêm tốn về phạm vi hoạt động. Nhưng đáng chú ý có một số đơn vị đã bắt đầu xây dựng những mô hình kinh doanh khá bài bản, hướng tới việc tận dụng mạng Internet làm kênh phân phối tiếp thị chính cho loại sản phẩm này.

Hộp 3.7 Tiền đề của một sàn TMĐT kinh doanh phần mềm trực tuyến

Phanmemvietnam.com là nơi tập hợp các sản phẩm công nghệ phần mềm của nhiều doanh nghiệp Việt Nam, hướng tới tạo dựng một cầu nối về sản phẩm phần mềm phục vụ cho doanh nghiệp Việt Nam và Quốc Tế. Đây là nơi tìm kiếm các đối tác gia công phần mềm, cung ứng sản phẩm phần mềm với công nghệ và các ngôn ngữ cơ bản sau :

• C++, Java, Javascript, Java Bean, Enterprise Java Bean, htm • VC++, Visual Age, Interdev, ASP, SQL Server, VB, Access, MS Exchange, MS

Studio.NET.

Page 77: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

62

• Lotus Notes, Domino, Lotusscript, Lotus Sametimes, Workflow • DB2, Net.Commerce, Websphere, Cybercash, SSL, SET ...

Thông tin trên phần mềm Việt Nam.Com tập trung vào các lĩnh vực sau: 1. Danh bạ phần mềm: tập trung giới thiệu các sản phẩm phần mềm ứng dụng trong quản lý, mã nguồn mở, các ứng dụng cho ngân hàng, học tập giải trí, các giải pháp mạng và internet.... Ngoài việc đưa thông tin liên hệ về nhà cung cấp của từng sản phẩm, mục danh bạ còn được thiết kế để cho phép người xem liên hệ trực tiếp với nhà cung cấp thông qua một phần mềm email tích hợp tại website. Mặt khác nhà cung cấp – thông qua Username va Password đuợc cấp – có thể truy cập và xem trực tiếp các đơn đặt hàng trên mạng, cập nhật thông tin, giá cả của sản phẩm do đơn vị cung cấp. Trong tương lai, các hình thức thanh toán và download trực tuyến sẽ đuợc sử dụng. Trước mắt thì các phương thức đặt hàng truyền thống qua email, telephone và thanh tóan thông qua ngân hàng, điện chuyển tiền sẽ đuợc áp dụng hoặc do nhà cung cấp sản phẩm phần mềm quyết định. 2. Cung ứng nguồn nhân lực CNTT: là nơi nhà cung ứng và các ứng viên tìm việc gặp gỡ nhau. Hiện trang mục này vẫn hoàn toàn miễn phí, các ứng viên và tuyển dụng có thể cập nhật thông tin lên trang web. Các thông tin trên đuợc phân lập theo khu vực, và công việc. 3. Tìm kiếm đối tác: đây là diễn đàn thông tin cho thành viên và khách thăm website, nơi gặp gỡ và trao đổi các ý tưởng về phần mềm.

Trong thời gian tới nếu các quy định pháp luật về bản quyền được thực hiện nghiêm minh thì khả năng phát triển của mảng kinh doanh này sẽ rất lớn. Các công ty có thể dự tính tới việc trở thành nhà phân phối cho những loại trò chơi kỹ thuật thịnh hành trên thị trường thế giới và đã được ưa thích tại Việt Nam.

3.3. Sản phẩm thông tin (Sách, báo, tạp chí, đĩa phim, đĩa nhạc) Là hàng hoá chuyển tải nội dung, sách, phim, đĩa nhạc là những mặt hàng

mà người mua có thể tìm hiểu về sản phẩm không cần qua tiếp xúc trực quan; việc vận chuyển cũng đơn giản và không đòi hỏi chi phí cao. Do đó đây là nhóm hàng rất thích hợp để áp dụng phương thức kinh doanh trực tuyến. Ngoài ra, mô hình cửa hàng trực tuyến còn tận dụng được tối đa khả năng thông tin của mạng Internet để cập nhật những chi tiết liên quan đến sản phẩm, kết nối với nhiều nhà cung cấp khác nhau và mở rộng phạm vi lựa chọn cho khách hàng - một lợi điểm không nhỏ với người tiêu dùng của loại hàng hoá mang hàm lượng thông tin cao độ này.

Bảng 3.15 Một số website kinh doanh sách trực tuyến

Công ty TNHH Thiên Kỳ www.nhasachvn.com

Nhà sách Minh Khai www.minhkhai.com.vn

Công ty xuất nhập khẩu sách báo Việt Nam www.xunhasaba.com.vn

Nhà xuất bản Khoa học Kỹ thuật http://www.nxbkhkt.com.vn

Công ty cổ phần Sách giáo dục Hà Nội www.nxbgd.com.vn

Nhà sách Tiền Phong www.vietnambook.com.vn www.tienphong-vdc.com.vn

Công ty VietNet http://www.netasie-vn.com/bookvn/

Một tập hợp các nhà sách khác nhau http://www.hieusach.net/

Page 78: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

63

3.4. Thiếp, hoa, quà tặng Đây là những sản phẩm gọn nhẹ, giá thành không cao, chi phí vận chuyển

thấp nên khá thích hợp với phương thức bán hàng trực tuyến. Một đặc điểm nổi bật nữa khiến nhóm hàng này trở nên phổ biến trong các giao dịch trên mạng là thường người mua không phải người tiêu thụ sản phẩm cuối cùng. Hàng hóa được mua để tặng nên nếu người bán kiêm luôn dịch vụ chuyển phát thì tiết kiệm được công sức và thời gian cho người mua hàng. Chi phí vận chuyển trong trường hợp này không phải là chi phí phát sinh (nếu người tặng quà và người nhận quà ở xa nhau thì phí bưu điện có thể còn cao hơn phí chuyển quà của cửa hàng) Ngoài ra, lợi thế của cửa hàng trực tuyến là có thể chuyển những loại quà dễ hỏng (như hoa, bánh ngọt) trong trường hợp người nhận quà ở trong cùng thành phố.

Nhu cầu tặng quà của giới trẻ hiện nay rất lớn. Đây đồng thời cũng là đối tượng khá nhanh nhạy với các ứng dụng CNTT và TMĐT, nên tiềm năng thị trường cho nhóm sản phẩm này tương đối rộng. Dưới đây là ví dụ về một số trong những cửa hàng quà tặng mới nở rộ trên mạng Internet trong thời gian gần đây:

Bảng 3.16 Một số website kinh doanh hoa và quà tặng

Flowers & Gifts delivery in Vietnam http://www.vinaGifts.net

Giao hoa tươi và quà tặng ở hầu hết các thành phố lớn ở Vietnam. Nhận thanh toán bằng visa, master...

Công ty TNHH G.O.L www.golgift.com

Kinh doanh các loại quà tặng, có dịch vụ giao hàng

Công ty Thương hiệu http://www.chibaoshop.com

Dịch vụ đặt hoa và quà trực tuyến, giao hàng miễn phí trong Tp. Hồ Chí Minh

Dịch vụ hoa tươi và quà tặng trực tuyến http://www.chipchip.com/

Bán thiếp điện tử, hoa tươi và và quà tặng

Công ty Hoa Việt http://www.hoaviet.com/

Dịch vụ hoa đóng gói, nhận giao hàng trong địa bàn Hà Nội

Công ty quảng cáo Kiến Vàng http://www.kienvanggreetingcards.com

Bán thiếp điện tử, hoa tươi, hoa khô và quà tặng, cho phép thanh toán trực tuyến

Công ty Hoa Xinh http://www.hoaxinh.com/

Giá cả tính bằng USD, hướng tới đối tượng khách hàng ở nước ngoài tặng quà cho người trong nước.

Công ty VietNet http://www.netasie-shop.com

Giới thiệu và bán một số các mặt hàng: hoa, quà tặng, sách, thư pháp... người mua có thể trả tiền trực tiếp trên mạng

3.5. Hàng thủ công mỹ nghệ Là một trong những sản phẩm xuất khẩu mũi nhọn của Việt Nam và là mặt

hàng được nhà nước ưu tiên hỗ trợ do mang lại hiệu quả xã hội cao, nhóm hàng thủ công mỹ nghệ hiện đang rất phổ biến trên các website TMĐT của Việt Nam. Sàn giao dịch điện tử www.vnemart.com.vn ra đời thoạt tiên như một sáng kiến thúc đẩy xuất khẩu trong khuôn khổ dự án “Hỗ trợ phát triển thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ các làng nghề truyền thống Việt Nam”. Nhóm hàng này cũng

Page 79: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

64

chiếm những không gian lớn trên một loạt website TMĐT khác như www.goodsonline.com, www.vnmarketplace.net, và gần 12% các công ty có website được tiến hành khảo sát năm nay hoạt động trong lĩnh vực sản xuẩt kinh doanh đồ thủ công mỹ nghệ.

Mặc dù không có những đặc tính lý tưởng của loại hình sản phẩm dành cho phương thức kinh doanh TMĐT như hàng hoá số hoá hay thiết bị điện tử viễn thông, mức độ phổ biến của nhóm hàng thủ công mỹ nghệ trên các website TMĐT Việt Nam là một nét phát triển riêng biệt, phù hợp với đặc điểm của nền sản xuất tiểu thủ công nghiệp cũng như định hướng thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng này tại Việt Nam. Sự nở rộ các website của doanh nghiệp kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ với giao diện chủ yếu bằng tiếng Anh còn cho thấy nhu cầu thị trường nước ngoài với mặt hàng này là tương đối lớn, đủ để tạo động lực khiến doanh nghiệp đầu tư xây dựng những trang web mang tính chuyên nghiệp khá cao so với mặt bằng chung của các website công ty khác.

Dưới đây là minh họa về một số website của doanh nghiệp kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ, trong đó có những trang web với giao diện rất đẹp và thiết kế khá công phu như www.minhlong.com

Bảng 3.17 Một số website hàng thủ công mỹ nghệ

Tên giao dịch của công ty Địa chỉ website MINHLONG COMPANY LTD. www.minhlong.com BATTRANG CERAMIC ONLINE www.gomsubattrang.com ARTEX THANGLONG www.artextlvietnam.com PHU VINH JOINT STOCK COMPANY www.phuvico.com XUAN THUY CERAMIC COMPANY www.xuanthuyceramicbattrang.com QUANG VINH CO., LTD www.quangvinh.com.vn PHUONG HOA CERAMIC COMPANY LIMITED www.phuonghoa.com.vn TIEN PHUONG PRODUCTION ENTERPRISE OF BAMBOO & RATTAN WARES FOR EXPORT www.tienphuong.com.vn

HUNG THINH PRODUCING AND TRADING Co.,Ltd www.hungthinh.com.vn

Công ty TNHH Thành Vinh www.thanhvinhfurniture.com/

www.DTwoodVN.com CÔNG TY CỔ PHẦN CHẾ BIẾN ĐỒ GỖ ĐỨC THÀNH www.DTwood.com.vn

Page 80: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

65

4. Những dịch vụ ứng dụng TMĐT

Ngành kinh doanh dịch vụ, với đòi hỏi cao về hàm lượng thông tin và mức độ tương tác giữa khách hàng với nhà cung cấp, rất thích hợp cho môi trường thương mại điện tử. Cùng với tốc độ tăng trưởng nhanh của thị trường dịch vụ tại Việt Nam, các sản phẩm dịch vụ ngày càng xuất hiện nhiều hơn trên mạng. Nhiều cấp độ cung cấp dịch vụ khác nhau được phát triển, từ việc xây dựng trang web quảng cáo, gửi thư điện tử, hoặc hình thành những dịch vụ trực tuyến thực sự.

Tuy nhiên, do nhiều hạn chế khác nhau như môi trường pháp lý chưa hoàn thiện, kỹ năng của doanh nghiệp còn thiếu, các phương tiện thanh toán trực tuyến chưa phát triển, nên thị trường dịch vụ trực tuyến còn cần thời gian để thực sự trở thành một lĩnh vực thu hút sự tham gia của nhiều doanh nghiệp.

Sau đây là tình hình phát triển một số loại hình dịch vụ hiện đang ứng dụng mạnh TMĐT:

4.1. Dịch vụ CNTT và truyền thông Với bản chất của dịch vụ là hỗ trợ các đối tượng khác trong xã hội triển khai ứng dụng CNTT và TMĐT, những doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực dịch vụ CNTT hiện là bộ phận đi tiên phong ứng dụng TMĐT để phục vụ việc kinh doanh của bản thân mình. Từ danh sách 1320 doanh nghiệp CNTT trong niên giám CNTT Việt Nam 200514, có thể thấy 54% đơn vị đã thiết lập website và 100% đơn vị có địa chỉ email giao dịch. Đây là tỷ lệ tính chung cho cả doanh nghiệp kinh doanh thiết bị và phần mềm – dịch vụ. Nếu tách riêng nhóm doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực phần mềm – dịch vụ, thì mức độ ứng dụng TMĐT còn cao hơn rất nhiều.

Hình 3.11 Sự tăng trưởng số lượng các đơn vị kinh doanh

phần mềm - dịch vụ

0100200300400500600

1999 2000 2001 2002 20030,00%

10,00%

20,00%

30,00%

40,00%

50,00%

Số lượng các đơn vị phần mềm - dịch vụ

Tốc độ tăng trưởng các đơn vị làm phần mềm - dịch vụ

* Nguồn: dựa trên số liệu của Niên giám CNTT Việt Nam 2005

Kết quả khảo sát sơ bộ 50 doanh nghiệp cung cấp những dịch vụ CNTT khác nhau như dịch vụ Internet - Intranet, dịch vụ thiết kế website và quảng cáo trực tuyến, dịch vụ phần mềm và giải pháp TMĐT, dịch vụ web hosting, dịch vụ đào tạo và tư vấn CNTT… cho thấy 85% doanh nghiệp đã thiết lập website và coi

14 Niên giám này do Hội Tin học TP. Hồ Chí Minh và Tạp chí Thế giới Vi tính biên soạn (Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh - 2005, bản trực tuyến xem tại http://www.pcworld.com.vn)

Page 81: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

66

đây là một kênh quảng bá tiếp thị quan trọng để thu hút khách hàng tiềm năng. Với sự tăng trưởng mạnh của khối doanh nghiệp kinh doanh phần mềm – dịch vụ trong những năm gần đây (tỷ lệ tăng bình quân 35%/năm) và tỷ trọng ngày càng lớn của phần mềm/dịch vụ trong tổng giá trị thị trường CNTT, dịch vụ công nghệ thông tin sẽ là ngành dịch vụ mũi nhọn về ứng dụng TMĐT và thúc đẩy ứng dụng TMĐT của cả cộng đồng doanh nghiệp.

Bảng 3.18 Tăng trưởng thị trường phần mềm / dịch vụ

Năm Thị trường phần mềm/dịch vụ

Tổng giá trị thị trường CNTT

Tỷ trọng phần mềm /dịch vụ

2000 50 300 16,67% 2001 60 340 17,65% 2002 75 400 18,75% 2003 105 515 20,4%

* Nguồn: Niên giám CNTT Việt Nam 2005

Sau đây là danh sách một số doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ phần mềm và giải pháp thương mại điện tử

Bảng 3.19 Một số doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ CNTT

Công ty Tinh Vân www.tinhvan.com Công ty Viet Software www.vietsoftware.com Công ty cổ phần phần mềm thương mại điện tử Nhất Vinh www.nvecom.com

Công ty cổ phần Phần mềm Hà Nội www.hanoisoftware.com Công ty Tin học Sài Gòn www.sic.com.vn Công ty Giải pháp Công nghệ tin học (IT Solution Co. Ltd) www.itsolution2b.com Công ty TNHH Giải pháp Trực tuyến (ESC) http://escvn.com/ Công ty cổ phần kết nối truyền thông Việt Nam VINALINK www.vinalink.com/ Công ty TNHH Đầu tư và Phát triển Phần mềm mạng VN http://vnnetsoft.com Công ty TNHH Phát triển Tin học IDC www.idcvn.com.vn Công ty xúc tiến Thương mại điện tử ECP www.ecpvn.com Công ty TNHH Thiết kế Việt www.vietnamebusiness.com/ Công ty cổ phần Minh Việt www.minhviet.com.vn Công ty Silkroad Vietnam Ltd www.silkroad-net.com Công ty Công nghệ phần mềm và Thương mại điện tử www.netasie-vn.com/vietnet Vinacomm www.icms.com.vn Công ty Đầu tư và chuyển giao công nghệ ASP www.asp.com.vn Công ty Tin học Sa Lan www.salan.net/gioithieu.html Công ty TNHH phần mềm trí tuệ trẻ www.vnyi.com Công ty TNHH P.A Việt Nam www.pavietnam.com Công ty TNHH Tin học PT www.pt-software.com Công ty TNHH TM DV Kỹ thuật SGC www.sgcsolutions.com Công ty CNNTT Tâm Đạt www.tdasolution.com Công ty cổ phần phần mềm LCK www.lcksoftware.com

Page 82: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

67

Công ty giải pháp và dịch vụ hệ thống thông tin (i3s) www.i3s.com.vn Công ty phát triển phần mềm Pyramid www.pyramidsoftwares.com Công ty Mắt bão www.matbao.com Công ty cổ phần thiết kế và chuyển giao công nghệ mạng www.technet.com.vn

4.2. Dịch vụ du lịch: Trong lĩnh vực dịch vụ phi CNTT, khối doanh nghiệp du lịch là những đơn

vị tỏ ra năng động nhất trong việc khai thác tối đa kênh thông tin - tiếp thị Internet. Hầu hết các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ du lịch (đặc biệt là dịch vụ lữ hành quốc tế) đều đã xây dựng trang web nhằm quảng bá sản phẩm dịch vụ của mình. Khách hàng trong nước và quốc tế có thể truy cập vào những trang web này để tìm kiếm thông tin về tour du lich, giá cả, khách sạn, mô tả về các danh lam thắng cảnh cùng nhiều dạng dịch vụ khác.

Bảng sau đây giới thiệu một số trang web của những doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ du lịch trong nước và quốc tế:

Bảng 3.20 Một số website du lịch

Doanh nghiệp Đặc điểm Tổng Công ty Du lịch Sài Gòn http://www.saigontourist.com.vn/

Cung cấp chọn gói nhiều loại sản phẩm du lịch và các dịch vụ đi kèm.

Công ty du lịch dịch vụ Đà Nẵng http://www.danangpt.vnn.vn/danatours

Công ty du lịch Danatours cung cấp dịch vụ du lịch theo lộ trình có sẵn và theo chuyến tự do; các chuyến du lịch thám hiểm, cắm trại, du lịch kỳ bí...

Công ty du lịch Hà Nội http://hanoitourism.com.vn/

Cung cấp thông tin về dịch vụ du lịch như khách sạn, các tour du lịch trong và ngoài nước...

Amistours www.amistours.topcities.com Website du lịch cung cấp thông tin bằng tiếng Pháp.

Trang web du lịch đầu tiên ở Việt Nam giới thiệu bằng tiếng Nga http://www.anfriendlytours.com

Giới thiệu tóm tắt lịch sử, địa lý, dân tộc, văn hoá, danh lam thắng cảnh... Việt nam bằng 2 ngôn ngữ: tiếng Anh và tiếng Nga.

Công ty Vietrantour http://vietrantour.com

Tour du lịch trong nước cho người nước ngoài. Có trang web bằng tiếng Anh, Pháp và Đức.

Ben Thanh Tourist http://www.bttvn.com

Thông tin về du lịch dành cho khách du lịch trong nước và quốc tế

Công ty Viet Marketing & eCommerce http://www.bookingvietnam.com

Website đặt phòng khách sạn, vé máy bay, dịch vụ du lịch trực tuyến tại Việt Nam.

Phòng phát triển dịch vụ trực tuyến - VDC www.vdctravel.vnn.vn

Khai trương tháng 4/2004. Cung cấp dịch vụ đặt vé máy bay qua mạng.

www.vietnamrooms.com Thông tin tổng hợp về giá cả các khách sạn lớn tại một số thành phố chính của Việt Nam và cho phép liên hệ đặt phòng

www.hotels.com.vn Quảng cáo dịch vụ khách sạn

Page 83: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

68

Là ngành dịch vụ hướng về xuất khẩu và có tính chất hội nhập quốc tế cao, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này phải rất chú trọng đến chiến lược quảng bá nhằm thu hút khách hàng ngoài nước. Vì vậy, nhiều trang web được thiết kế công phu theo tiêu chuẩn quốc tế và được trình bày bằng tiếng nước ngoài. Bên cạnh hầu hết các trang web có phần giao diện bằng tiếng Anh, một số trang web phục vụ đối tượng khách du lịch tại những nước cụ thể như website www.amistours.topcities.com của Công ty Amistours cung cấp thông tin cho khách du lịch nói tiếng Pháp. Trang web giới thiệu các sản phẩm du lịch bằng tiếng Nga http://www.anfriendlytours.com.

Các dịch vụ trên website có thể được cung cấp với nhiều cấp độ khác nhau, một số trang web cho phép khách du lịch đặt vé, đưa ra yêu cầu về lộ trình, thoả thuận giá cả, lựa chọn khách sạn và thụ hưởng một số dịch vụ giá trị gia tăng. Thanh toán qua thẻ tín dụng được chấp nhận. Website www.netasie-vn.com/travel, cho phép đặt phòng và thanh toán bằng thẻ tín dụng. Website http://www.bookingvietnam.com cho phép đặt vé máy bay, đặt phòng khách sạn và cung cấp các dịch vụ du lịch trực tuyến tại Việt Nam.

Cùng với việc phát triển các website về dịch vụ du lịch trên mạng, nhiều khách sạn, nhà hàng cũng xây dựng cho mình website riêng nhằm quảng bá dịch vụ và nhận đặt phòng, đặt tiệc. Tất cả khách sạn đạt tiêu chuẩn quốc tế từ 3 sao trở lên ở Việt Nam hiện đều đã có trang web, và một số khách sạn nhỏ cũng bắt đầu chú ý đầu tư cho kênh tiếp thị khá hiệu quả này. Khách sạn Lao Cai cung cấp thông tin trên website http://www.laocaihotel.com giúp khách hàng có thể liên hệ và đặt phòng. Website http://denlongdont.ifrance.com của Nhà hàng Đèn Lồng Đỏ ở Nhà Trang được thiết kế khá công phu giới thiệu về món ăn và dịch vụ của nhà hàng.

Các công ty du lịch địa phương cũng chú trọng việc giới thiệu về những sản phẩm du lịch nổi tiếng của mình nhằm thu hút khách du lịch. Trang web www.sgphuquocresort.com.vn của Công ty Sài gòn Phú Quốc về địa điểm du lịch Đảo Phú Quốc. Trang web http://www.vungtautourist.com.vn của Công ty du lịch tỉnh Bà rịa Vũng Tàu giới thiệu các tour du lịch tại Vũng tầu. Trang thông tin du lịch về Cố đô Huế http://huetour.net/ cung cấp miễn phí thông tin du lịch tại Huế.

Việc khai thác Internet như một kênh quảng cáo và giao dịch đã có tác động rất tích cực đối với tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp du lịch Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp tìm được đối tác và tăng lượng khách hàng qua kênh thông tin này.

4.3. Dịch vụ thông tin Trong thời đại thông tin hiện nay, thông tin đang trở thành một lợi thế cạnh

tranh đồng thời là lĩnh vực kinh doanh đầy tiềm năng cho doanh nghiệp. Với khả năng cập nhật liên tục và không bị giới hạn về dung lượng, với tính tiện lợi để truy xuất và tổng hợp thông tin, mạng Internet là một phương tiện lý tưởng để các doanh nghiệp cung cấp dịnh vụ này khai thác. Dựa trên đặc thù của thông tin, có hai phương thức kinh doanh cơ bản sau:

- Với thông tin tổng hợp – là loại thông tin phổ cập, dễ phát tán và có thể tìm thấy trên nhiều nguồn khác nhau – doanh nghiệp cung cấp dịch vụ thông tin thường không tạo nguồn thu từ phí truy cập thông tin mà cố gắng mở rộng phạm vi người đọc để kinh doanh dịch vụ quảng cáo.

Page 84: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

69

- Với thông tin chuyên ngành – là loại thông tin phục vụ cho các nhu cầu chuyên biệt hoặc hướng tới một nhóm đối tượng có chọn lọc – doanh nghiệp cung cấp dịch vụ thông tin sẽ tạo ra giá trị gia tăng từ việc thu thập, tổng hợp và tổ chức thông tin theo cấu trúc. Các thông tin dạng này thường có thu phí.

Phần lớn thông tin trên các website Việt Nam hiện nay vẫn được cung cấp miễn phí, tuy một số đơn vị đã bắt đầu hình thành dịch vụ cung cấp thông tin thu phí, nhằm vào nhóm đối tượng có nhu cầu cụ thể. Bảng sau đây liệt kê danh sách một số website cung cấp thông tin dưới nhiều hình thức khác nhau:

Bảng 3.21 Một số website cung cấp dịch vụ thông tin

Thông tin tổng hợp Công ty FPT www.vnexpress.net

Công ty VASC www.vnn.vn

Báo Tuổi trẻ Online www.tuoitre.com.vn

Báo Thanh Niên www.thanhnien.com.vn

Thông tin kinh tế thương mại Thời báo kinh tế Việt Nam http://www.vneconomy.com.vn

VinaNet http://www.vinanet.com.vn

Công ty cổ phần đầu tư kinh tế Sài Gòn http://www.viet-trade.com/thuongmai

Sở thương mại Thành phố Hồ Chí Minh http://www.trade.hochiminhcity.gov.vn/

Thông tin chuyên biệt Cơ sở dữ liệu Luật Việt Nam www.vietlaw.com.vn

Công ty cổ phần chứng khoán Đệ Nhất http://www.fsc.com.vn

Công ty chứng khoán Bảo Việt http://www.bvsc.com.vn

Công ty chứng khoán Mêkông http://www.mekongsecurities.com.vn

Phần lớn thông tin trên các website này được cung cấp miễn phí. Nhiều đơn vị hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ thông tin chỉ dựa vào nguồn quảng cáo để tạo doanh thu hoặc được hỗ trợ kinh phí từ các hoạt động kinh doanh khác. Những trang thông tin tổng hợp được ưa thích nhất hiện nay (xét theo số độc giả và lượng truy cập) là www.vnexpress.net và www.vnn.vn, đều được quản lý bởi hai công ty có quy mô lớn, tiềm lực tài chính mạnh và lĩnh vực kinh doanh đa dạng là FPT và VASC.

Một số tổ chức, doanh nghiệp đã bắt đầu hình thành dịch vụ cung cấp thông tin có thu phí như Trung tâm thông tin thương mại hay Công ty Phần mềm và truyền thông VASC. Trang web www.vietlaw.com.vn của Công ty VASC là mô hình khá thành công trong việc khai thác một dịch vụ thông tin mang tính đặc thù – cơ sở dữ liệu các văn bản pháp lý – với mức phí 45 nghìn/tháng.

Tuy nhiên, để khai thác một cách tối ưu và đem lại doanh thu thực tế cho doanh nghiệp thì dịch vụ thông tin hiện chưa phải là lĩnh vực kinh doanh có hiệu quả. Việc biến mất trong năm 2004 hai website thông tin mang tính chuyên biệt:

Page 85: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

70

http://www.basao.com.vn của Công ty Tân Đồng Minh (chuyên về bản đồ, thông tin chỉ dẫn) và www.vietnamcredit.com của Công ty Giải pháp Việt Nam (chuyên cung cấp các báo cáo kinh doanh tổng hợp về doanh nghiệp trên cơ sở thu phí) cho thấy các đơn vị vẫn còn gặp khó khăn trong việc tổ chức nguồn thông tin để nuôi sống dịch vụ và tìm được thị trường đầu ra cho các dịch vụ này.

Website www.vietnamcredit.com trước khi đóng cửa

4.4. Dịch vụ tư vấn Tư vấn là một lĩnh vực đòi hỏi phải có chất lượng dịch vụ cao, bên cạnh đó,

các doanh nghiệp trong lĩnh vực này cũng cần biết quảng bá chính mình cho đối tác và khách hàng. Tuy nhiên, thực tế là nhiều công ty tư vấn tại Việt Nam đã không biết lợi dụng một kênh quảng bá thông tin rất quan trọng là Internet. Một số công ty mới thành lập như Luật Gia Phạm (www.giapham.com) đã biết tận dụng Internet như một kênh quảng bá thông tin chiến lược, công ty này đăng ký rất nhiều tền miền khác nhau và dễ dàng được tìm thấy qua các công cụ tìm kiếm trên Internet. Đó là một lợi thế của công ty trong việc nâng cao hình ảnh và tiếp cận những khách hàng mới, so với những đối thủ đã hoạt động nhiều năm trong lĩnh vực tư vấn những không chú ý tới kênh tiếp thị này.

Sau đây là danh sách một số công ty tư vấn có trang web quảng bá hoạt động của mình:

Bảng 3.22 Một số website của công ty cung cấp dịch vụ tư vấn

Doanh nghiệp Địa chỉ website

Tư vấn pháp lý Công ty Tư vấn Luật Việt (TP.HCM) http://www.luatviet.com/index

Công ty Luật Leadco (Hà Nội) http://www.leadcolawyers.com/

Công ty tư vấn đầu tư Investconsult http://www.investconsultgroup.com

Công ty tư vấn về sở hữu trí tuệ D&N www.dnlaw.com.vn

Page 86: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

71

Công ty tư vấn Luật Gia Phạm (Hà Nội) www.giapham.com

Công ty cổ phần đầu tư kinh tế Sài Gòn http://www.vietnam-lawyers.com

Tư vấn đầu tư, kinh doanh

Công ty tư vấn Mekongeconomics http://www.mekongeconomics.com

Công ty Tầm nhìn và Liên doanh www.vision-associates.com

AXISCO-RESEARCH - Market Research Survey Vietnam

http://www.axisco-research.com

Tư vấn kinh doanh bất động sản Công ty Nhã Đạt (hoạt động kinh doanh thuần túy tiến hành qua website)

www.nhadat.com

Công ty TNHH Tư vấn – TM - DV Địa Ốc Hoàng Quân

http://www.hoangquan.com.vn

Công ty TNHH Thương Mại Điện Tử C.A.T

http://www.nhasaigon.com

Dịch vụ thuê nhà tại Hà Nội http://www.hanoihousing.com

Công ty cổ phần đầu tư kinh tế Sài Gòn http://www.viet-trade.com/NhaDat/index.htm

Công ty TNHH VP 31 http://www.ttbatdongsan.com/

Trang web thông tin về nhà đất

www.landhousing.hochiminhcity.gov.vn

www.batdongsanvietnam.com

Tư vấn việc làm Trung tâm dịch vụ việc làm sinh viên - học sinh

http://www.profec-vn.com/

Trung tâm dịch vụ việc làm thanh niên TP.HCM

http://laodongtre.netcenter-vn.net/

Trang web về cơ hội việc làm http://www.thegioivieclam.com/

Hội chợ việc làm http://www.hoichovieclam.com.

Trong lĩnh vực tư vấn, hầu hết các công ty chỉ dừng lại ở mức xây dựng trang web giới thiệu hoạt động của mình, chưa coi Internet như một công cụ cho phép tương tác với khách hàng. Việc tư vấn trực tuyến chỉ mang tính hình thức, việc tư vấn thu phí qua Internet chưa phát triển.

Các công ty tư vấn trong những lĩnh vực như bất động sản, pháp lý, đầu tư, nghiên cứu thị trường dẫn đầu trong việc ứng dụng Internet trong hoạt động kinh doanh của mình. Lý do có lẽ vì khách hàng của các loại hình tư vấn này thường là những đối tượng biết sử dụng máy tính và có điều kiện tiếp cận Internet, mặt khác Internet là kho dữ liệu khổng lồ cho phép thu thập thông tin nhanh chóng về nhiều lĩnh vực liên quan, đặc biệt là các thông tin về pháp lý và kinh doanh.

Các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ ở TP.Hồ Chí Minh tỏ ra năng động hơn trong việc khai thác Internet như một kênh quảng cáo thông tin và tìm kiếm khách hàng. Đặc biệt trong lĩnh vực bất động sản, rất nhiều trang web của những trung tâm tư vấn nhà đất đã được xây dựng với lượng thông tin phong phú như http://www.nhadat.com/hochiminh, http://www.ttbatdongsan.com, …

Page 87: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

72

4.5. Dịch vụ giáo dục và đào tạo trực tuyến Đào tạo trực tuyến là việc tiến hành một phần hoặc toàn bộ quy trình giao

tiếp giữa người dạy và người học trên các phương tiện điện tử. Đào tạo trực tuyến được coi là một phương thức đào tạo mới và hứa hẹn đem lại nhiều lợi ích cho người học như tiết kiệm thời gian, chi phí, không bị giới hạn về không gian (không phải tới tận lớp học vẫn có thể tham gia các khoá học từ xa), tận dụng công nghệ, lựa chọn được thứ mình cần học, nâng cao khả năng tổng hợp kiến thức, tiếp cận dễ dàng với những mô hình đào tạo hiện đại…

Loại hình dịch vụ này đang được phát triển khá nhanh trong những năm gần đây. Cho đến nay trên cả nước có khoảng 300 trang tin điện tử cung cấp thông tin tư vấn về giáo dục, luyện thi trực tiến, đào tạo từ xa, thí điểm thi trực tuyến, phục vụ tuyển sinh…15

Nhiều trung tâm giáo dục và đào tạo trong nước và liên doanh với nước ngoài bắt đầu chú ý tới loại hình đào tạo trực tuyến. Một trong những tên tuổi được biết đến khá nhiều là Trung tâm đào tạo CNTT APTECH, với một số chương trình đào tạo được cung cấp trực tiếp qua website www.onlinevarsity.com.

Công ty phát triển phần mềm VASC và Công ty tư vấn đầu tư TMC phối hợp cung cấp chương trình luyện thi đại học trực tuyến đầu tiên của Việt Nam qua trang web www.truongthi.com.

Hộp 3.8 Giới thiệu về chương trình đào tạo trực tuyến của www.truongthi.com

Hệ thống chương trình luyện thi đại học này gồm 3 phần chính là kiến thức, tư vấn – hướng nghiệp và câu lạc bộ thư giãn. Học sinh có thể chọn thầy, chọn chương trình, tự do trao đổi thông tin với thầy và các bạn trên toàn quốc. Ngoài ra, các học sinh nhận được thông tin miễm phí về giáo dục, giải đáp các thắc mắc xung quanh vấn đề tuyển sinh. Để trở thành thành viên của lớp học trực tuyến trên mạng, học sinh chỉ cần thực hiện việc đăng ký rất đơn giản: khai báo thông tin cá nhân, nạp mã thẻ và vài phút sau là có thể tham dự vào lớp học. Thẻ cào của công ty có hình thức gần giống với thẻ cào internet và đang được bán rất rộng rãi trên thị trường. Trung bình học sinh phải chi khoảng 50 đồng cho một phút học trực tuyến và mất 3000 đồng cho một giờ học, bên cạnh chi phí vào internet. Chi phí và thành toán cho loại hình dịch vụ này bằng phương thức tiền mặt trả trước, giống như thẻ internet trả trước.

15 Trình bày của tiến sỹ Nguyễn Minh Dân, Vụ trưởng Vụ KHCN – Bộ Bưu chính viễn thông, tại khóa đào tạo “Nâng cao năng lực hoạch định và thực thi chính sách, pháp luật cho thương mại điện tử” từ 4-7/4/2005

Page 88: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

73

Tập đoàn CISCO và Intel đã giới thiệu những mô hình đào tạo trực tuyến cấp chứng chỉ tại Việt Nam vào cuối năm 2003 và đang hướng tới việc hình thành quan hệ đối tác với Bộ Giáo dục và Đào tạo nhằm phát triển Đào tạo trực tuyến. Công ty VDC kết hợp với Netlearner (Singapore) hình thành dịch vụ đào tạo từ xa bán E-learning chuyên về lĩnh vực CNTT, công ty FPT đã xây dựng một chương trình đào tạo tiếng Anh trực tuyến giới thiệu trên địa chỉ www.elearning.com.vn. Công ty Hà Thành cũng phối hợp với Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông cung cấp dịch vụ trên trang web www.khoabang.com. Ngoài ra còn có những trang web cung cấp những dịch vụ mang tính chất đào tạo trực tuyến như www.danangpt.vnn.vn/tnghiem của Bưu điện Đà nẵng, http://testonline.netcenter-vn.net của Công ty Bưu điện Netsoft, và http://www.vinecovn.com/ của Trung tâm tư vấn giáo dục quốc tế (VINECO).

Nhiều dự án quốc tế hỗ trợ cho mô hình đào tạo trực tuyến cũng đang được tiến hành với sự hỗ trợ về tài chính và kỹ thuật của nước ngoài như Dự án Trung tâm đào tạo trực tuyến Việt-Nhật của khu công nghệ cao Hoà Lạc, Trung tâm đào tạo trực tuyến của Tập đoàn HP, Dự án mạng e-learning châu Á do Chính phủ Nhật tài trợ. Những dự án này sẽ là động lực thúc đầy việc nhân rộng và phổ cập mô hình giáo dục còn khá mới mẻ này tại Việt Nam

Page 89: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

74

PHẦN THỨ TƯ MỘT SỐ DỊCH VỤ HỖ TRỢ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ

1. Dịch vụ “chợ” trên mạng (các website cung cấp dịch vụ trung gian mua bán)

Khác với báo cáo năm 2003, báo cáo năm 2004 sẽ tách nhóm website chuyên cung cấp dịch vụ trung gian mua bán (“chợ” trên mạng) ra khỏi những website bán hàng tổng hợp (dạng siêu thị điện tử), do hoạt động mang tính đặc thù TMĐT cao hơn hẳn của các chợ ảo này.

Những website cung cấp dịch vụ trung gian mua bán được xây dựng nhằm tạo ra một không gian chung kết nối nhiều người mua và nhiều người bán, tạm hình dung như những sàn giao dịch thương mại trên mạng Internet. Đơn vị quản lý website không trực tiếp tham gia vào các giao dịch và cũng không chịu trách nhiệm về việc phân phối sản phẩm quảng bá trên website. Họ chỉ chịu trách nhiệm duy trì một môi trường kỹ thuật cho người mua và người bán, đồng thời điều phối các hoạt động diễn ra trong môi trường đó. Tham gia vào các sàn TMĐT này sẽ có nhiều nhà cung cấp hàng hoá hay dịch vụ khác nhau, nắm quyền chủ động tương đối cao với những thông tin sản phẩm của mình đưa trên sàn, và có thể tự do tương tác với khách hàng là doanh nghiệp hoặc cá nhân cùng tham gia sàn giao dịch.

Qua một quá trình thu thập thông tin trên Internet và khảo sát thăm dò trực tiếp, nhóm điều tra thống kê được một số sàn thương mại điện tử như sau:

Bảng 4.1 Danh sách các sàn thương mại điện tử của Việt Nam

Đơn vị chủ trì Loại hình tổ chức

Hình thức sàn Địa chỉ website

B2B www.vnb2b.com/ Công ty điện toán và truyền số liệu - VDC

Doanh nghiệp nhà nước B2C www.vdcsieuthi.vnn.vn

www.vnemart.com.vn www.camau.com.vn www.kitra-emart.com

Trung tâm xúc tiến phát triển phần mềm doanh nghiệp – Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI)

Tổ chức phi lợi nhuận B2B

www.vietnamchinalink.com Công ty phần mềm và truyền thông (VASC)

Doanh nghiệp nhà nước B2B www.exim-pro.com

Công ty cổ phần VNet Doanh nghiệp tư nhân B2B và B2C www.vnet.com.vn

Hội Tin học VN Tổ chức phi lợi nhuận B2B và B2C www.evnb2b.com/

Hiệp hội dệt may Tổ chức phi lợi nhuận B2B www.vietnamtextile.org.vn

Trung tâm KHCN – Bộ KHCN Tổ chức phi lợi nhuân B2B www.vista.gov.vn

Trung tâm Công nghệ phần mềm Đà Nẵng (Softech)

Doanh nghiệp nhà nước B2B và B2C www.vn-ebiz.com

Bưu điện tình Quảng Nam Doanh nghiệp nhà nước B2B www.vietoffer.com

Page 90: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

75

Công ty G.O.L Co., Ltd Doanh nghiệp tư nhân B2B và B2C www.goodsonlines.com

Công ty TNHH Âu Việt Doanh nghiệp tư nhân B2B www.export.com.vn

Sở khoa học công nghệ và môi trường TP.HCM - Trung tâm Thông tin

Tổ chức phi lợi nhuận B2B www.techmart.hochiminhcity.

gov.vn/

Công ty B2B Technology Co.,Ltd.

Doanh nghiệp tư nhân B2B www.WorldTradeB2B.com

Công ty V.E.C Doanh nghiệp tư nhân B2B và B2C www.vnmarketplace.net

Một số sàn TMĐT B2B và B2C thiết lập bởi các nhóm doanh nhân quốc tế B2B www.aecvn.com

B2B www.bizviet.net

B2B www.vietnamtrade.org

B2C www.thitruongtinhoc.com/

B2C www.muagiodau.com

Một số trang thông tin xúc tiến thương mại của các tổ chức khác Cổng Thông tin điện tử tỉnh Ninh Bình www.ninhbinh.gov.vn/

Sở Thương mại tỉnh Quảng Ninh www.quangninhtrade.gov.vn

Cổng giao tiếp điện tử Bắc Ninh www.bacninh.gov.vn/

Cổng giao tiếp điện tử Hà Nội www.hanoi.gov.vn

Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc www.vinhphuc.gov.vn

Cổng thông tin tỉnh Thái Bình www.thaibinhtrade.com

Trung tâm xúc tiến TM Cần Thơ www.canthotrade.com

Sở Thương mại Thành phố Hồ Chí Minh www.trade.hochiminhcity.gov.vn

SQ Nhật Bản tại Việt Nam www.jvbm.vietnamembassy.jp/

Công ty TM-DV Đa Năng www.ovop.com

Công ty xúc tiến thương mại Việt Mỹ www.bvom.com

Công ty xúc tiến thương mại Việt Âu (VietEuro Co. Ltd) www.vieteuronet.com

Công ty phát triển thuong mại Việt Úc (VBD) www.vbd.com.vn

Một số sàn TMĐT C2C

Website đấu giá www.heya.com.vn www.saigonbids.com www.bidvietnam.com

Website rao vặt www.raovatxehoi.com www.tinraovat.net www.azraovat.com www.webmuaban.com www.cohoimuaban.com www.chohanoi.com/ www.e-raovat.com/ http://sohoa.net http://e-raovat.com

www.chodientu.com.vn www.webraovat.com www.raovat.net www.muabanraovat.com www.thitruongvn.com www.raovat.com www.thegioimobi.com www.raonhanh.com

Page 91: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

76

Từ kết quả khảo sát những sàn TMĐT trên đây, có thể rút ra một số nhận định chung:

Tình hình phát triển: Các sàn TMĐT trong năm 2004 có sự khởi sắc rõ rệt so với năm 2003 cả về số lượng, trình độ tổ chức, nền tảng công nghệ và hoạt động giao dịch thực tế tiến hành trên sàn.

Đơn vị chủ trì: Trong khi tất cả website TMĐT C2C đều do doanh nghiệp tư nhân hoặc cá nhân thành lập, thì phần lớn các sàn TMĐT B2B và B2C (12 trong số 17 website hiện đang hoạt động và xác minh được nguồn gốc) là do các tổ chức phi lợi nhuận hoặc doanh nghiệp nhà nước đứng ra chủ trì.

Hình thức tổ chức: Đa phần website mới chỉ dừng ở mức một sàn thông tin về cơ hội giao thương hoặc một trung tâm thương mại trưng bày và giới thiệu sản phẩm. Các website này chưa thực sự cung cấp được cho doanh nghiệp những tiện ích của một sàn giao dịch TMĐT theo đúng nghĩa: tư vấn, kết nối người mua và người bán (đối với phương thức thức B2B), hay cho phép các đối tác tiến hành trọn gói các khâu của một quy trình giao dịch từ đặt hàng cho đến thanh toán (với cả phương thức B2B, B2C và C2C).

Tính chuyên môn hoá: Trừ hai “chợ công nghệ” www.vista.gov.vn và www.techmart.hochiminhcity.gov.vn, các sàn TMĐT B2B hiện nay chưa đi theo hướng chuyên môn hoá: tập trung kết nối các doanh nghiệp trong cùng một lĩnh vực sản xuất hoặc trong những ngành hàng có quan hệ mật thiết với nhau, qua đó nâng cao hiệu quả hoạt động của dây chuyền cung ứng và tính kinh tế của cả một ngành sản xuất.

Hiệu quả kinh tế: Dịch vụ sàn giao dịch TMĐT chưa đem lại nguồn thu cho các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ. Do đây là một lĩnh vực đầu tư mạo hiểm với thời gian hoàn vốn đòi hỏi khá dài, phần lớn doanh nghiệp triển khai dịch vụ sàn giao dịch điện tử phải dựa trên nền tảng là những hoạt động kinh doanh khác để tự nuôi sống mình.

Những khó khăn trong việc tổ chức và triển khai mô hình sàn giao dịch điện tử: Tổng kết ý kiến từ các đơn vị được phỏng vấn, khó khăn thường được nhắc đến nhiều nhất là vấn đền nguồn nhân lực, tiếp đến là nhận thức và kỹ năng của doanh nghiệp, thứ ba mới đến môi trường pháp lý. Các đơn vị đều chung một nhận xét: hạ tầng công nghệ thông tin và viễn thông của Việt Nam hiện nay, mặc dù chưa đạt đến mức như mong muốn, cũng đã đủ để cộng đồng và doanh nghiệp tiến hành thương mại điện tử.

1.1. Tình hình phát triển chung

1.1.1. Về số lượng Mặc dù có sự biến mất hoặc ngừng trệ của một số website TMĐT được nhiều người biết đến từ năm 2003 như www.ecommerce.com, www.basao.com, trong năm 2004 một loạt sàn giao dịch mới đã được nghiên cứu và đưa vào triển khai khá thành công như www.vn-ebiz.com của Trung tâm Công nghệ phần mềm Đà Nẵng, www.vietoffer.com của Bưu điện tình Quảng Nam, www.vnmarketplace của Công ty V.E.C, www.WorldTradeB2B.com của Công ty TNHH Công nghệ B2B, www.heya.com.vn và www.saigonbid.com của các nhóm doanh nghiệp trẻ

Page 92: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

77

mới thành lập... Sự đa dạng về loại hình tổ chức cũng như sự phong phú về nội dung thông tin trên các sàn giao dịch cho thấy xu hướng phát triển không ngừng của loại hình dịch vụ còn khá mới mẻ này tại Việt Nam.

Hình 4.1

Tỷ lệ các sàn TMĐT phân theo hình thức tổ chức

23%

37%

34%

6%

Trung tâm thương mại (B2B và B2C) Cơ hội giao thương (B2B)

Website rao vặt (C2C) Website đấu giá (C2C)

1.1.2. Về trình độ tổ chức

Không chỉ tăng thêm về số lượng, các sàn TMĐT trong năm 2004 còn tiến thêm một bước về quy mô hoạt động, cách thức tổ chức mô hình kinh doanh và đầu tư cho nghiên cứu triển khai (R&D). Sàn www.vnemart.com của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam lúc khai trương vào tháng 4/2003 mới chỉ có 27 thành viên là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thủ công mỹ nghệ, sau một năm hoạt động đã mở rộng thêm 9 ngành hàng khác trong đó chủ yếu là các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như: dệt may, da giầy, thuỷ hải sản, nông sản, thực phẩm chế biến, nhựa… Quy chế hoạt động của các doanh nghiệp tham gia sàn cũng được hoàn thiện theo hướng vừa mở vừa chặt chẽ hơn (cơ chế kiểm soát thành viên VIP chặt chẽ hơn, nhưng cơ chế kiểm duyệt thành viên basic lại trở nên đơn giản hơn, mở rộng cho mọi đối tượng tham gia)

Nếu như các sàn TMĐT hoạt động trong năm 2003 mới dừng ở mức những sàn thông tin giới thiệu doanh nghiệp cho người tiêu dùng và đối tác tiềm năng (kết hợp B2B, B2C), thì những sàn mới ra đời trong năm 2004 đã có hướng chuyên sâu và đa dạng hóa dịch vụ hơn. Ngoài các website thông tin về cơ hội giao thương hay xúc tiến thương mại, đã có những sàn thiết lập một chiến lược kinh doanh rõ ràng về TMĐT B2B như www.worldtradeb2b.com, hay cung cấp một dịch vụ C2C đặc thù – đấu giá trực tuyến – như www.heya.com.vn. Các công ty xây dựng những website mang tính chuyên biệt cao này đã đầu tư khá bài bản cho việc nghiên cứu các công nghệ phù hợp và triển khai mô hình kinh doanh tương ứng để đem lại hiệu quả hoạt động cao nhất trong tương lai.

Page 93: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

78

Hộp 4.1 Minh hoạ về hạ tầng công nghệ của một sàn TMĐT B2B

Hạ tầng kỹ thuật của sàn giao dịch www.WorldTradeB2B.com 1. Hệ thống máy chủ:

o Máy chủ của website đặt tại Mỹ với tốc độ đường truyền 2MB/s cho phép hàng ngàn người truy cập đồng thời vào website, đồng thời được trang bị phần mềm FloodGuard™ của NetZentry nhằm ngăn chặn tình trạng hacker dùng phần mềm truy xuất tự động gây tắc nghẽn.

2. Cơ sở dữ liệu của website: o Website sử dụng cơ sở dữ liệu MSSQL Server 2000, có trang bị phần mềm

SQL_Overflow Detector với chức năng phát hiện và ngăn chặn các cuộc truy nhập trái phép vào cơ sở dữ liệu.

3. Mã nguồn của website: o Mã nguồn của website được mã hóa theo phương thức Script Encoder trước khi đưa ra

hoạt động. 4. Cơ chế hoạt động của website:

o Mỗi thành viên chỉ được đăng kí một lần (code xác nhận gửi qua mail) ứng với một địa chỉ email, và phải điền mã số từ ảnh vào mẫu đăng kí, nhằm tránh trường hợp hacker sử dụng phần mềm đăng kí tự động, gây ảnh hưởng đến trang web.

Cơ chế bảo mật: 1. Vấn đề thanh toán:

o Website có chức năng thanh toán trực tuyến, thông qua dịch vụ thanh toán Paypal. o Thông tin tài khoản của khách hàng được bảo mật bằng công nghệ SSL (Secure Socket

Layer: Giao thức web dùng để thiết lập bảo mật giữa máy chủ và máy khách theo chuẩn quốc tế)

2. Thông tin cá nhân: o Thông tin cá nhân của thành viên tham gia, được lưu trữ trong cơ sở dữ liệu của website,

phục vụ cho việc quản lí, chỉnh sửa. o Chỉ người đăng ký mới có thể chỉnh sửa thông tin cá nhân hay công ty, thông qua hệ

thống đăng nhập. Mật khẩu đăng nhập được mã hóa theo phương thức MD5, đảm bảo chỉ thành viên mới biết mật khẩu của mình, ngay cả quản trị web cũng không biết mật khẩu của thành viên.

1.1.3. Về hoạt động giao dịch thực tế tiến hành trên sàn Tuy việc đàm phán và ký kết hợp đồng trên sàn TMĐT hiện nay chưa phổ biến do tính năng hỗ trợ của các sàn chưa cao, giao dịch thực tế phát sinh từ những thông tin trên sàn cũng là một yếu tố khó lượng hóa được, nhưng một trong những tiêu chí để đánh giá hoạt động của các sàn TMĐT là lượng người truy cập và tần suất truy cập trung bình trên website. Bảng sau đây phản ánh thứ bậc của một số sàn TMĐT dựa trên lượng truy cập thống kê bởi Alexa – một công cụ xếp hạng website được nhiều người trên thế giới biết đến.

Bảng 4.2 Xếp hạng một số sàn giao dịch theo tiêu chí của Alexa

Đơn vị chủ trì Địa chỉ website Xếp hạng trên Alexa

Sở KH-CN Tp Hồ Chí Minh www.techmart.hochiminhcity.gov.vn 29.640*Công ty VASC www.exim-pro.com 104.558Công ty B2B Technology www.worldtradeb2b.com 262.841Công ty Heya www.heya.com.vn 319.150Công ty V.E.C www.vnmarketplace.net 359.294

Page 94: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

79

Công ty Vnet www.vnet.com.vn 366.956Bưu điện tình Quảng Nam www.vietoffer.com 472.797Phòng Thương mại và Công nghiệp VN www.vnemart.com 533.491Công ty VDC www.vnb2b.com 615.539Công ty G.O.L www.goodsonline.com 768.243Công ty Vietnet www.netasie-vn.com 1.119.971Trung tâm CN phần mềm Đà Nẵng www.vn-ebiz.com 1.755.051Cổng thương mại tỉnh Kiên Giang www.kitra-emart.com.vn 2.870.243Hội Tin học VN www.evnb2b.com 3.580.822Cổng Thương mại tỉnh Cà Mau www.camau.com.vn 4.693.283

* Alexa không thống kê được số lượt truy cập vào một tên miền thứ cấp, do đó 29.640 là thứ hạng của toàn bộ website đặt dưới tên miền cấp cao mã quốc gia www.hochiminhcity.gov.vn, chứ không phải của riêng web nhánh www.techmart.hochiminhcity.gov.vn.

Với những sàn TMĐT thành lập từ trước năm 2004, 70% đơn vị được hỏi cho biết lượng giao dịch trên sàn có tốc độ tăng bình quân từ 20% - 50%/năm. Ví dụ: hoạt động giao dịch tiến hành trên sàn Vnemart trong năm 2004 (đăng tin chào mua chào bán, liên hệ hỏi hàng giữa các đối tác,...) ước lượng tăng 40%; số thành viên đăng ký tăng 110% (trong đó thành viên VIP tăng 70%); các sàn còn lại tuy đưa ra một tỷ lệ tăng trưởng thấp hơn (khoảng 10%-20%) nhưng đều khằng định dịch vụ cung cấp trên sàn ngày càng đóng góp tích cực cho hoạt động xúc tiến thương mại của thành viên.

Bên cạnh chỉ số về mức tăng lượng giao dịch hay thành viên đăng ký, kết quả khảo sát một số sàn giao dịch cũng cho thấy sự ổn định và tiếp tục phát triển theo một định hướng rõ ràng hơn trong năm 2004.

Hộp 4.2 Tình hình hoạt động của một sàn giao dịch thành lập trước năm 2004

Sàn giao dịch B2B và B2C của Công ty cổ phần VNet www.vnet.com.vn khai trương giữa năm 2003, với tiêu chí tạo lập cho các doanh nghiệp thành viên một không gian ảo để trưng bày và tiếp thị sản phẩm theo phương thức tự quản lý. Từ đó đến nay, số doanh nghiệp tham gia sàn giao dịch dao động ở mức từ 500 cho đến 1000, nhưng lượng truy cập thì rất đều và tăng liên tục. Lãnh đạo Công ty cho biết mỗi ngày có trên 20.000 lượt truy cập vào dưới 90%.website, đa số từ các IP Việt Nam, với tỷ lệ khách đăng nhập thường xuyên trên

Page 95: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

80

Thời điểm đầu các thành viên tham gia sàn giao dịch được miễn phí hoàn toàn, nhưng về sau, để ràng buộc trách nhiệm của những doanh nghiệp tham gia, ban quản lý Sàn giao dịch quyết định áp dụng chế độ thu phí: 1 triệu đồng phí gia nhập và 50.000 đồng/tháng phí sử dụng dịch vụ. Mặc dù số lượng thành viên chính thức giảm đi, nhưng chất lượng dịch vụ tăng lên do những doanh nghiệp tham gia và đóng phí giờ đã quan tâm hơn tới việc cập nhật thông tin, chăm sóc gian hàng và giao tiếp với khách hàng

Giải thích cho lượng truy cập cao trên www.vnet.com.vn mặc dù lượng giao dịch thực tế chưa nhiều, giám đốc Công ty cổ phần VNet cho biết: hiện nay trong quy trình mua sắm, việc tìm hiểu hàng hóa là rất quan trọng. VNet đã đáp ứng nhu cầu của khách hàng về một kênh thông tin tư vấn tiêu dùng trực tuyến, cho phép tra cứu các tính năng cơ bản của sản phẩm đồng thời so sánh giá cả giữa các mặt hàng và thương hiệu khác nhau. Đây sẽ là ưu thế mà sàn giao dịch phải tập trung khai thác khi xây dựng chiến lược phát triển cho tương lai. Năm 2003 coi như năm hoạt động thử nghiệm, xây dựng hình ảnh và định hướng kinh doanh cho sàn TMĐT www.vnet.com.vn. Vượt qua giai đoạn đầu tư ban đầu, ban giám đốc công ty dự kiến sẽ thu hồi vốn sau 2 năm, khi VNet hoàn thiện hết các tính năng và ổn định hoạt động, đồng thời khi môi trường TMĐT Việt Nam đã hội đủ những điều kiện cần thiết cho doanh nghiệp kinh doanh TMĐT phát triển.

Với những sàn giao dịch mới thành lập trong năm 2004, đây đang là giai đoạn để thiết lập chỗ đứng trên thị trường và xác định mô hình kinh doanh phù hợp. Nhưng nhận định của các đơn vị chủ trì sàn đều cho thấy một triển vọng phát triển khả quan.

Hộp 4.3 Giới thiệu một sàn giao dịch mới thành lập trong năm 2004

Sàn giao dịch điện tử www.vnmarketplace.net do công ty V.E.C khai trương tháng 4/2004 theo mô hình một trung tâm thương mại trực tuyến, cho phép các doanh nghiệp thành viên thiết lập những gian hàng quảng bá giới thiệu sản phẩm và tìm đối tác tiềm năng qua mạng Internet. Cho đến nay Sàn giao dịch đã có 200 gian hàng với hơn 2000 sản phẩm trưng bày, 1132 thành viên đăng ký trên toàn thế giới, và bắt đầu xác lập quan hệ hợp tác chặt chẽ hơn với một số thành viên trọng điểm như Công ty gốm sứ Minh Long, Công ty thuốc lá Vinataba...

Page 96: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

81

Nhấn mạnh vào chức năng của sàn giao dịch như một kênh marketing và quảng bá hình ảnh doanh nghiệp, V.E.C tập trung đẩy mạnh việc kết nối với một số sàn TMĐT lớn của thế giới như www.Alibaba.com, tối ưu hoá liên kết của website với những công cụ tìm kiếm lớn như Google, Yahoo, và đang xem xét khả năng hợp tác với một công ty chuyên về marketing của nước ngoài để xây dựng chiến lược tiếp thị bài bản hơn. Ban giám đốc V.E.C cho biết một phiên bản mới của website đang được nghiên cứu triển khai nhằm khắc phục thiếu sót hiện thời của sàn giao dịch trong việc thích ứng với cơ sở dữ liệu thành viên ngày càng mở rộng.

1.2. Các đơn vị đứng ra tổ chức và quản lý sàn Ở Việt Nam hiện nay, các sàn thương mại điện tử B2B, B2C và C2C chưa đạt đến mức độ chuyên nghiệp hoá cao, cũng chưa có sự phân định rõ ràng về phương thức hoạt động. Nhưng xu hướng chung cho thấy sàn TMĐT B2B thường do các tổ chức phi lợi nhuận và doanh nghiệp nhà nước đứng ra xây dựng là chủ yếu. Trong khi đó, các sàn TMĐT C2C – bao gồm website rao vặt và sàn đấu giá – đều do doanh nghiệp tư nhân hoặc cá nhân tạo dựng.

1.2.1. Tổ chức phi lợi nhuận Do tính chất hoạt động mang tính xã hội cao, nền tảng tài chính tương đối

vững vàng và ít phải chịu sức ép về doanh thu, các tổ chức phi lợi nhuận (bao gồm cả cơ quan nhà nước cũng như tổ chức phi chính phủ) thường ở vị trí thuận lợi hơn khối doanh nghiệp khi triển khai những dự án đầu tư có tiềm năng về lợi ích xã hội nhưng đòi hỏi thời gian thu hồi vốn lâu và hiệu suất lợi nhuận ban đầu thấp như các sàn TMĐT B2B. Ngoài dự án thí điểm về siêu thị điện tử của Sở Thương mại Hà Nội www.ecommerce.com hiện đang trong giai đoạn nâng cấp và một loạt trang thông tin xúc tiến thương mại của các tỉnh thành ra đời trong năm 2004, có thể kể đến một số điển hình khá thành công như Chợ công nghệ www.techmart.hochiminhcity.gov.vn của Sở Khoa học và Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh hay sàn giao dịch www.vnemart.com.vn của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. Ngoài ra, Hiệp hội dệt may Việt Nam đang triển khai một sàn giao dịch cho các doanh nghiệp dệt may tại địa chỉ www.vietnamtextile.org.vn, và đề án Sàn giao dịch điện tử cho các doanh nghiệp TP. HCM cũng đang trong giai đoạn nghiên cứu tiền khả thi.

Minh hoạ điển hình: Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam – VCCI (một trong những đơn vị đi tiên phong xây dựng mô hình sàn giao dịch TMĐT theo phong cách chuyên nghiệp) Cho đến nay, VCCI đã chủ trì hoặc tham gia xây dựng một số sàn TMĐT B2B sau: www.vnemart.com.vn www.camau.com.vn www.kitra-emart.com.vn www.vietnamchinalink.com Trong những sàn này, www.vnemart.com.vn được xây dựng đầu tiên và cũng là sàn TMĐT do VCCI chủ trì quản lý, nhằm phục vụ cho hoạt động chính của tổ chức là hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp xúc tiến thương mại.

Page 97: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

82

Trong khuôn khổ dự án “Hỗ trợ phát triển thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ các làng nghề truyền thống Việt Nam”, tháng 4 năm 2003 VCCI khai trương Sàn giao dịch http://www.vnemart.com.vn cho các doanh nghiệp xản xuất, xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam. Từ tháng 1/2004 Sàn giao dịch VNemart mở rộng thêm 9 ngành hàng khác bao gồm những mặt hàng Doanh nghiệp Việt nam có thế mạnh về xuất khẩu: dệt may, da giầy, thuỷ hải sản, nông sản, thực phẩm chế biến, đồ nhựa…

Từ 27 doanh nghiệp thành viên vào thời điểm khai trương website (tháng 4/2003), đến nay số thành viên đăng ký trên Vnemart đã lên đến gần 2000, trong đó có 450 doanh nghiệp nước ngoài và 200 thành viên cao cấp – là những doanh nghiệp Việt Nam hiện đang kinh doanh theo 10 nhóm ngành hàng có trên sàn và qua một số khóa đào tạo do VCCI tổ chức

Hiện nay các hoạt động hỗ trợ thành viên vẫn được thực hiện miễn phí nhằm giúp doanh nghiệp tiếp cận dần với TMĐT. Đây vừa là một lợi thế đồng thời cũng là hạn chế của sàn Vnemart. Do chưa có nguồn thu nên các dịch vụ cung cấp trên sàn giao dịch – theo nhận định của cả người sử dụng cũng như đơn vị quản lý sàn – chưa thực sự phong phú để theo kịp với nhu cầu của doanh nghiệp.

Hộp 4.4 Minh họa về mô hình hoạt động của một sàn giao dịch

do tổ chức phi lợi nhuận thành lập Sàn giao dịch Vnemart hiện do Trung tâm xúc tiến và phát triển phần mềm doanh nghiệp - một đơn vị thuộc VCCI - quản lý. 13 nhân viên Trung tâm này đồng thời quản trị cả 3 sàn giao dịch khác do VCCI liên kết với các đối tác bên ngoài xây dựng và kiêm nhiệm thêm nhiều công việc thuộc về chức năng chuyên môn của đơn vị.

Sàn giao dịch Vnemart kết hợp thực hiện 5 chức năng chính nhằm đáp ứng các nhu cầu xúc tiến kinh doanh và tìm kiếm thị trường của doanh nghiệp:

Trung tâm triển lãm về sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của Việt nam trên mạng Internet.

Trung tâm giao dịch thương mại : thông qua cổng giao dịch các doanh nghiệp có thể tìm kiếm đối tác, bạn hàng và tiến hành đàm phán hợp đồng thương mại.

Trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp : thông qua cổng giao dịch, các doanh nghiệp sẽ được cập nhật thông tin về thị trường, giá cả, đối tác, các thông tin kinh tế, pháp luật, môi trường kinh doanh của Việt nam và một số thị trường quốc tế.

Page 98: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

83

Trung tâm đào tạo doanh nghiệp : Cổng giao dịch là nơi cung cấp, tư vấn các kiến thức về quản trị kinh doanh, về chính sách chế độ, các qui định và tập quán thương mại quốc tế nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh khi tham gia hội nhập kinh tế.

Diễn đàn cho các doanh nghiệp : Các doanh nghiệp được tạo điều kiện để trao đổi kinh nghiệm với nhau trên những vấn đề cùng quan tâm qua mục “Diễn đàn”.

Với tiêu chí “Sàn giao dịch chỉ tạo ra môi trường tiếp xúc cho doanh nghiệp và không can thiệp vào hoạt động giao dịch giữa các thành viên”, đơn vị quản lý Vnemart sẽ chỉ đóng vai trò điều phối viên, đảm nhiệm việc hỗ trợ khi thành viên cần sự trợ giúp của Ban quản lý Sàn.

1.2.2. Các doanh nghiệp nhà nước Một số doanh nghiệp nhà nước với ưu thế về tiềm lực tài chính và quy mô hoạt động cũng là những người đi tiên phong trong việc triển khai thí điểm các mô hình kinh doanh B2B và B2C tại Việt Nam. Đặc biệt, các doanh nghiệp thuộc ngành bưu chính viễn thông ở vị thế thuận lợi hơn cả về hạ tầng kỹ thuật cũng như khả năng kết nối với các nhà cung cấp dịch vụ khác để đứng ra tổ chức những sàn TMĐT này. Một vài ví dụ tiêu biểu là:

- Công ty phần mềm và truyền thông (VASC) - Công ty điện toán và truyền số liệu (VDC) - Bưu điện tỉnh Quảng Nam - Trung tâm công nghệ phần mềm Đà Nẵng (Softech)

Mặc dù có lợi thế như đã nói, nhưng là các đơn vị hạch toán độc lập, những doanh nghiệp này vẫn phải quan tâm nhiều tới vấn đề doanh số. Và khi việc đầu tư xây dựng sàn TMĐT chưa mang lại hiệu quả thực tế trước mắt, hầu hết doanh nghiệp còn chưa tập trung nguồn lực để phát triển lĩnh vực hoạt động này. Các sàn TMĐT hiện chỉ là dịch vụ phụ bên cạnh những hoạt động kinh doanh khác có hiệu suất thu hồi vốn cao hơn của doanh nghiệp như xây dựng phần mềm, tư vấn đào tạo, dịch vụ truyển thông... Minh hoạ điển hình: VASC www.vnexim.net; www.exim-pro.com Công ty Phần mềm và Truyền thông VASC là một công ty 100% vốn nhà nước trực thuộc Tổng công ty bưu chính viễn thông Việt Nam (VNPT), hoạt động trên 3 lĩnh vực: phần mềm, truyền thông và báo điện tử. Điểm mạnh của VASC: - Hạ tầng kỹ thuật và nguồn nhân lực CNTT sẵn có (nhân viên lập trình của

VASC có chuyên môn cao về phần mềm viễn thông và hệ thống phần mềm hỗ trợ doanh nghiệp, các dịch vụ gia tăng giá trị trên nền điện thoại di động, hướng tới nền tích hợp: điện thoại, Internet, TV, v.v….). Đây là những yếu tố thuận lợi để xây dựng khung kỹ thuật cho sàn giao dịch điện tử.

- Mạng lưới thông tin mang tính chuyên nghiệp cao được tổ chức trên cơ sở báo điện tử www.vnn.vn – một trong những website hàng đầu Việt Nam về lượng người truy cập truy cập. Điều này sẽ tạo lợi thế rất lớn cho sàn giao dịch trong việc quảng bá, thu hút doanh nghiệp tham gia, đồng thời tận dụng được năng lực xử lý và chuyển hóa thông tin sẵn có của công ty.

Page 99: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

84

- Là doanh nghiệp thành viên của VNPT, VASC có nhiều thuận lợi khi phối hợp với những công ty cung cấp dịch vụ có liên quan khác trong cùng hệ thống (như dịch vụ Internet, dịch vụ điện thoại di động, …) để tổ chức các hoạt động trên sàn giao dịch.

Tuy nhiên, với tất cả những ưu thế kể trên, sàn giao dịch www.vnexim-pro.com mới chỉ dừng ở mức một trang thông tin xúc tiến thương mại nhằm giúp doanh nghiệp tìm kiếm cơ hội giao thương, quảng bá hình ảnh và mở rộng khả năng tiếp cận thị trường. Trên website còn thiếu các công cụ hỗ trợ giao dịch và chưa có quy chế chặt chẽ cho thành viên tham gia. Nguồn thu chính của bộ phận quản lý website là từ hoạt động quảng cáo và một dịch vụ phụ trội không nằm trong khuôn khổ chức năng của sàn: dịch vụ nhắn tin khuyến mãi. Tuy nhiên, đây là một trong số ít sàn giao dịch hiện đang đạt mức hoà vốn, và điều này cũng nhờ vào mức đầu tư ban đầu thấp do sàn tận dụng được cơ sở vật chất và nguồn nhân lực sẵn có của VASC.

1.2.3. Doanh nghiệp tư nhân Doanh nghiệp tư nhân là lực lượng kinh doanh đầy năng động, đang nổi lên để khằng định vị trí của mình trong lĩnh vực dịch vụ TMĐT, đặc biệt với hình thức TMĐT C2C. Riêng trong năm 2004 đã có hai sàn giao dịch B2B, hai sàn đấu giá và một loạt website C2C ra đời do các công ty tư nhân xây dựng. Đó là www.worldtradeb2b.com, www.vnmarketplace.net, www.heya.com.vn, www.saigonbids.com, www.chodientu.com, v.v... Các sàn này đánh dấu một giai đoạn phát triển mới về chất của loại hình kinh doanh dịch vụ TMĐT, với sự tham gia của những doanh nghiệp thuần tuý TMĐT (nghĩa là không có hoạt động kinh doanh nào khác ngoài quản lý vận hành sàn giao dịch). Các doanh nghiệp tư nhân này rất năng động trong việc tìm hướng đi mới, khai thác những phương thức kinh doanh trước nay chưa có ở Việt Nam, đầu tư quy mô và bài bản cho việc xây dựng sàn, đồng thời xác định rõ mục tiêu và chiến lược phát triển cho từng giai đoạn để đem lại hiệu quả hoạt động tối ưu nhất.

Trong số các đơn vị cung cấp dịch vụ sàn TMĐT hiện nay, doanh nghiệp tư nhân cũng là nhóm đối tượng tích cực tham gia hoạt động quảng bá, tuyên truyền và đào tạo về TMĐT. Điển hình như các công ty VNet, GOL, và V.E.C đã chủ

Page 100: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

85

động soạn giáo trình, tài liệu về TMĐT để phổ biến trên website, hoặc tổ chức các khoá tập huấn về TMĐT cho đối tượng là sinh viên, doanh nghiệp, và những người có quan tâm.

Hộp 4.5 Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ TMĐT tham gia tuyên truyền đào tạo TMĐT

Chương trình khởi nghiệp của công ty G.O.L

Giám đốc công ty G.O.L cho biết đang lập đề án và vận động một số trường đại học liên kết triển khai chương trình khởi nghiệp cho sinh viên trong lĩnh vực ứng dụng TMĐT.

Một số trường đại học trong Tp. Hồ Chí Minh như ĐH Kinh tế, ĐH Bách khoa, ĐH KH Tự nhiên, Saigon Tech đã nhận lời tham gia chương trình này.

Theo chương trình đề xuất, G.O.L sẽ phối hợp với giáo viên các trường, lập hội đồng thẩm định và xét duyệt những dự án ứng dụng TMĐT do sinh viên gửi tham gia, chọn ra các dự án khả thi và cung cấp cho mỗi sinh viên được chọn một gian hàng ảo trên sàn giao dịch điện tử của công ty để thực hiện ý tưởng kinh doanh của mình. Mỗi gian hàng bao gồm 10 trang web với dung lượng chứa khoảng 100 sản phẩm, có mức phí 1 triệu đồng/năm. Những sinh viên này sẽ được G.O.L đào tạo miễn phí các kỹ năng về quản trị mạng và quy trình kinh doanh trực tuyến, đồng thời hỗ trợ trong quá trình triển khai hoạt động kinh doanh trên gian hàng.

Đây là một ý tưởng rất sáng tạo về đào tạo nguồn nhân lực cho TMĐT, vừa phát huy được khả năng sáng tạo tiềm tàng của lực lượng lao động trẻ, vừa nâng cao kỹ năng và trình độ thực tiễn về ứng dụng TMĐT, đồng thời tạo ra sức lan toả trong nhận thức của cả cộng đồng về những triển vọng mà TMĐT đem lại.

Hiện nay, nhóm doanh nghiệp tư nhân đang nắm giữ 30% số sàn TMĐT

B2B và B2C của Việt Nam, đồng thời độc chiếm toàn bộ mảng TMĐT C2C, bao gồm rất nhiều website rao vặt và một số ít sàn đấu giá trực tuyến mới thành lập. Sự thành bại của những sàn giao dịch này sẽ có ảnh hưởng không nhỏ đến diện mạo phát triển chung của nền TMĐT Việt Nam trong thời gian tới.

1.3. Hình thức tổ chức sàn Các sàn TMĐT B2B và B2C thường được thiết kế theo mô hình trung tâm thương mại với những gian hàng ảo cho từng doanh nghiệp, hoặc một cổng thông tin về cơ hội giao thương để doanh nghiệp tìm kiếm đối tác tiềm năng. Các sàn TMĐT C2C hiện chủ yếu là những website rao vặt, nơi cá nhân có thể đăng nhập thông tin về mọi nhu cầu mua bán. Gần đây mới xuất hiện thêm một số website đấu giá – một hình thức tổ chức khá chuyên biệt của dịch vụ TMĐT C2C.

1.3.1. Cổng thông tin về cơ hội giao thương (nhằm xúc tiến hoạt động thương mại giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp – B2B) Những sàn TMĐT tổ chức theo hình thức này hiện mới chỉ dừng ở mức

đăng tải thông tin về nhu cầu mua bán, không có cơ chế ràng buộc trách nhiệm hay một quy chế hoạt động chặt chẽ để đảm bảo lợi ích cho các thành viên tham gia. Thực tế, đây chỉ là những trang thông tin xúc tiến thương mại nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp tìm kiếm cơ hội giao thương và mở rộng khả năng tiếp cận thị trường. Trên những sàn loại này vẫn còn thiếu các tính năng hỗ trợ cho phép doanh nghiệp tiến hành giao dịch B2B trực tuyến hay tuỳ biến thông tin để phục vụ cho

Page 101: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

86

nhu cầu kinh doanh riêng biệt của mình. Điển hình cho cấu trúc này là các sàn www.vnb2b.com của công ty VDC và www.vnexim-pro.com của công ty VASC.

1.3.2. Trung tâm thương mại (cho phép tiến hành giao dịch B2B và B2C) Gần 80% các sàn TMĐT B2B và B2C hiện nay được tổ chức theo hình thức

“Trung tâm thương mại”, trên đó doanh nghiệp thành viên có những gian hàng ảo giới thiệu và trưng bày sản phẩm, cho phép khách hàng tìm hiểu các thông tin cơ bản về sản phẩm, giá cả, chi tiết liên hệ của công ty, hoặc thậm chí đặt hàng trực tuyến (với chức năng giỏ hàng). Những trung tâm thương mại kiểu này tạo điều kiện để doanh nghiệp tiến hành TMĐT theo hình thức kết hợp B2B và B2C, hướng tới cả hai đối tượng khách hàng là người tiêu dùng và doanh nghiệp. Khác với những sàn tổ chức theo kiểu “nhịp cầu giao thương”, các trung tâm thương mại này có quy chế thành viên khá nghiêm ngặt, nhằm tạo môi trường an toàn tối đa cho việc tiến hành giao dịch trên sàn. Về nguyên tắc, các doanh nghiệp thành viên của trung tâm thương mại ảo phải tự chịu trách nhiệm quản lý gian hàng của mình, như khi thuê địa điểm tại một trung tâm thương mại thật ngoài đời. Nhưng trong thực tế, đa phần các đơn vị quản lý sàn vẫn đang phải đảm đương nhiệm vụ này. Lý do một phần ở kỹ năng thương mại điện tử còn hạn chế của doanh nghiệp, một phần do doanh nghiệp chưa nhìn thấy hiệu quả tức thời nên chưa phân bổ nguồn lực đúng mức để tham gia các hoạt động trên sàn. 11 trong số 12 đơn vị quản lý loại hình sàn giao dịch này khi được hỏi đã cho biết nhân viên quản trị website phải thường xuyên giúp doanh nghiệp cập nhật các thông tin và hình ảnh sản phẩm lên gian hàng. Chỉ có một đơn vị (Trung tâm Công nghệ phần mềm Đà Nẵng) cho biết đang nỗ lực đào tạo các thành viên để họ sử dụng bộ công cụ trọn gói do Trung tâm cung cấp tự quản trị gian hàng của mình.

Hộp 4.6 Một sàn giao dịch TMĐT tổ chức theo hình thức trung tâm thương mại

Trung tâm Công nghệ phần mềm Đà Nẵng (Softech) bắt đầu triển khai xây dựng sàn TMĐT B2B www.vn-ebiz.com từ năm 2003 và hoàn thiện để đưa vào sử dụng đầu năm 2004. Đến nay trên sàn đã có 41 thành viên bao gồm 25 doanh nghiệp lập gian hàng (4 gian hàng chính thức, 21 gian hàng miễn phí) và 16 doanh nghiệp quảng bá thông tin, logo. Mỗi thành viên đăng ký gian hàng sẽ được trao cho một tên miền thứ cấp, một địa chỉ thư điện tử, và bộ công cụ trọn gói để tạo và quản trị gian hàng. Tiêu chí của sàn giao dịch là trao quyền tự chủ tối đa để doanh nghiệp có thể:

Page 102: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

87

o Tự tạo gian hàng giao dịch trên Internet (theo các cấp độ cao cấp và cơ bản) o Tự quản trị các hoạt động trên gian hàng: cập nhật sản phẩm mới, thay đổi giao diện, thông

tin,… o Tự quản lý các giao dịch, đơn hàng, qui trình thanh toán o Tự động thực hiện các báo cáo theo yêu cầu người dùng, tự tính thuế, cước vận chuyển

theo các điều kiện có sẵn. o Đảm bảo tính an toàn, bảo mật cho các giao dịch trên Internet.

Để thực hiện tiêu chí này, ban quản lý sàn đã phải lựa chọn những giải pháp kỹ thuật cho phép sự linh hoạt cao độ ở phần quản trị nội dung và hệ thống: o Ngôn ngữ lập trình trên Web: PHP hoặc JSP o Bộ mã tiếng Việt. TCVN 6909-2001, Font chữ chuẩn được chọn là Times New Roman,

Tahoma, Arial ; bộ gõ tiếng Việt là VietKey hoặc UniKey o Giải pháp ứng dụng: IBM, Domino Web Server o Giải pháp hệ thống: theo mô hình Cổng giao tiếp thông tin điện tử đối với phần quản trị nội

dung và hệ thống. CSDL thông tin chạy trên môi trườ̀ng Windows. Vì vậy, tính mở của hệ thống ở phần quản trị nội dung và hệ thống là rất cao.

o Hệ quản trị CSDL: IBM DB2. o Web server: WebSphere Application Server và hỗ trợ Java, Servlet engine, JSPs và EJB

Services xử lý thông tin trao đổi và các yêu cầu của nguời dùng, kết hợp với các Java APIs (Java Message Service - JMS, Java Naming and Directory Interface - JNDI,…). Kết nối với hệ cơ sở dữ liệu bằng JDBC hỗ trợ nhiều driver cho nhiều loại cơ sở dữ liệu khác nhau.

1.3.3. Website đấu giá (TMĐT C2C)

Đấu giá trực tuyến là một hình thức thương mại điện tử C2C khá đặc thù. Trên thế giới đã có những mô hình kinh doanh dịch vụ này đạt thành công vang dội như eBay, Amazon, UBid... Trong năm 2004, ở Việt Nam cũng xuất hiện một số website đấu giá trực tuyến do các doanh nhân trẻ (đa số đã từng ở nước ngoài) lập nên, với thiết kế mang tính chuyên nghiệp cao và ý tưởng kinh doanh khá táo bạo. Tuy nhiên, như các doanh nhân này cho biết, họ chưa thể mong thu hồi vốn đầu tư từ hoạt động của website trong ít ra là hai năm tới. Thành công của những sàn đấu giá này sẽ phụ thuộc vào quy mô thị trường mà nó tạo lập được: số người tham gia sàn càng đông thì hàng hoá càng phong phú và khi đó mới có khả năng phát sinh được giao dịch thực tế trên sàn. Nhưng với nhận thức và kỹ năng TMĐT như hiện nay của người tiêu dùng, thì vẫn còn rất nhiều hoạt động quảng bá tuyên truyền cần phải làm để đạt được mục tiêu đề ra về số lượng người tham gia vào các sàn này. Minh họa thực tiễn: website đấu giá của công ty Heya http://www.heya.com.vn

Page 103: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

88

Sàn đấu giá trực tuyến của công ty Heya khai trương vào tháng 10 năm 2004, sau một thời gian ngắn hoạt động số thành viên đăng ký đã lên tới 1.600 người. Tuy nhiên, như giám đốc công ty cho biết, lượng giao dịch thực tế trên sàn hiện vẫn chưa đáng kể, nhiều mặt hàng đưa ra được đặt giá quá cao nên không kích thích người mua trả giá. Hơn nữa, chủng loại mặt hàng cũng chưa phong phú, nhiều thành viên chưa có ý định mua bán nghiêm chỉnh mà chỉ coi đây như một sân chơi thử nghiệm. Tất cả những yếu tố này gây khó khăn không nhỏ cho việc xây dựng một thị trường thật sự lành mạnh và mang tính cạnh tranh để người tiêu dùng yên tâm lựa chọn.

Hiện nay, sàn giao dịch chưa thu phí thành viên. Chiến lược của ban giám đốc công ty là thu hút càng đông người tham gia sàn càng tốt, mục tiêu phấn đấu đạt con số 10.000 thành viên đăng ký, với ý tưởng tạo một nguồn hàng phong phú đủ để làm phát sinh các giao dịch thực tế. Khi đó, sàn giao dịch có thể bắt đầu thu phí thành viên và tính đến những bước tiếp theo của chiến lược kinh doanh dài hạn.

1.4. Tính chuyên môn hóa

Trừ hai chợ công nghệ của Bộ KH-CN và Sở KH-CN thành phố Hồ Chí Minh, các sàn TMĐT của Việt Nam hiện nay đều được xây dựng theo mô hình sàn tổng hợp, cho phép doanh nghiệp thành viên đưa lên giới thiệu các sản phẩm thuộc nhiều nhóm ngành hàng khác nhau. Lựa chọn cấu trúc này khiến cho nhiều sàn giao dịch có tính năng giống như một siêu thị trực tuyến, chưa phát huy được hết thế mạnh của mô hình TMĐT B2B. Khởi nguồn của các sàn giao dịch B2B là nhằm tối ưu hoá quy trình cung ứng trong một ngành sản xuất bằng cách kết nối các thành viên thuộc cùng hệ thống, tăng độ tập trung của thị trường và giảm chi phí tìm kiếm đối tác cho các bên tham gia. Bằng cách xây dựng những sàn TMĐT chuyên sâu về một hoặc một số ngành hàng có quan hệ chặt chẽ với nhau (ví dụ các ngành bông nguyên liệu, dệt may, phụ liệu), người mua và người bán sẽ tránh được hao tổn chi phí để tìm kiếm đối tác và nguồn hàng, rút ngắn thời gian tạo ra sản phẩm cuối cùng, đồng thời nâng cao hiệu quả sản xuất. Xã hội cũng được lợi vì một thị trường có độ tập trung thông tin cao sẽ mang tính cạnh tranh cao, giá cả không bị bóp méo và do đó chi phí sản xuất toàn xã hội cũng được tối ưu hoá.

Với những lý do trên, các sàn TMĐT phân theo nhóm hàng và ngành sản xuất hiện đang là mô hình được nhiều nước phát triển lựa chon. (ví dụ như Hàn Quốc, một trong những quốc gia có trình độ phát triển CNTT và TMĐT hàng đầu thế giới, thống kê được trong 2.896 siêu thị ảo thì có tới 2.451 siêu thị chuyên doanh16). Còn ở Việt Nam, sàn TMĐT mang tính chuyên môn hoá đầu tiên – “Chợ công nghệ” Techmart – chỉ xuất hiện từ năm 2002, do Sở Khoa học và Công nghệ TP. Hồ Chí Minh chủ trì xây dựng.

16 Báo cáo “Thương mại điện tử và Phát triển” năm 2003 của UNCTAD

Page 104: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

89

Chợ công nghệ Techmart www.techmart.hochiminhcity.gov.vn

Qua 3 năm hoạt động, chợ công nghệ- thiết bị của Sở Khoa học và Công nghệ TP. Hồ Chí Minh hiện vẫn dừng ở mức một cổng thông tin về cơ hội giao thương, nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực công nghệ quảng bá hình ảnh và tìm đối tác tiềm năng. Cho đến nay trên sàn có khoảng 1135 đơn vị đăng ký thành viên nhưng chỉ mới hơn 450 đơn vị có sản phẩm đưa lên chào bán trên sàn. Số chào mua còn ít hơn nữa: trong cả năm 2004 tổng cộng chỉ có khoảng 70 thông tin cần mua được đăng trên sàn.

Quản trị Chợ công nghệ Techmart cho biết lượng giao dịch trong năm 2004 (theo nghĩa người mua và người bán thông qua sàn liên hệ kết nối được với nhau) ước lượng đạt gần 1000. Nhưng bao nhiêu trong số 1000 giao dịch này thành công và dẫn đến giao kết hợp đồng thực sự thì hiện sàn không có cơ chế kiểm soát.

Ban giám đốc Trung tâm thông tin Khoa học công nghệ, đơn vị chủ trì Techmart, nhận định sàn giao dịch này là một hướng đi đúng, phù hợp với chủ trương đẩy mạnh phát triển thị trường CNTT của ngành. Xét thực trạng thị trường thiết bị công nghệ Việt Nam hiện còn phân tán và chưa mang tính hàng hóa cao (thiết bị được sản xuất đơn lẻ, không có thương hiệu, không theo quy chuẩn chất lượng, cơ chế định giá và các chỉ số giám định chưa rõ ràng), thì thông tin đang là vấn đề cốt lõi để nâng cao năng lực cạnh tranh của toàn ngành. Những đầu mối quy tụ các nhà sản xuất và kinh doanh thiết bị công nghệ như thế này sẽ tạo nên môi trường chia sẻ thông tin tích cực để doanh nghiệp kết nối với nhau, trao đổi cập nhật thông tin và tiến tới thực hiện giao dịch thực sự.

Từ nhận định trên về vai trò của sàn giao dịch đối với việc tạo lập thị trường công nghệ Việt Nam, Trung tâm thông tin Khoa học công nghệ đang triển khai đề án nâng cấp sàn giao dịch, nhằm bổ sung thêm một số tính năng hỗ trợ TMĐT và tư vấn chuyên môn cho thành viên tham gia sàn. Dự kiến đến năm 2005 sẽ đưa vào triển khai giai đoạn 1 của đề án này.

Page 105: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

90

1.5. Hiệu quả kinh tế của dịch vụ sàn giao dịch điện tử 70% các đơn vị quản lý sàn giao dịch cho biết vẫn chưa thu phí thành viên tham gia sàn, nguồn thu nếu có từ các sàn TMĐT này hiện chủ yếu là hoạt động quảng cáo trực tuyến, xúc tiến thương mại và dịch vụ ngoại tuyến cung cấp cho một số đối tác trọng điểm. Với một số ít sàn giao dịch đang áp dụng chế độ thu phí, nhìn chung có ba loại phí mà đơn vị quản lý sàn có thể đưa ra: - Phí gia nhập: mỗi doanh nghiệp khi đăng ký thành viên trên sàn sẽ nộp một khoản phí cố định (như Vnet thu 1.000.000 đồng/doanh nghiệp đăng ký) - Phí duy trì: các thành viên sẽ nộp một khoản phí hàng năm để duy trì gian hàng hoặc hưởng các dịch vụ gia tăng do ban quản trị sàn cung cấp. Mức phí này có thể rất khác nhau giữa các sàn tùy theo phạm vi và loại hình dịch vụ gắn với quy chế thành viên. VD: VNet hiện thu 50.000 đồng/năm cho mọi thành viên tham gia sàn, còn V.E.C có ba mức phí khác nhau tương ứng với thiết kế và dung lượng gian hàng, mức tối thiểu là 900.000 đồng/năm cho một gian hàng có 9 sản phẩm trưng bày. - Phí hoa hồng: thu theo % giá trị của một giao dịch tiến hành trên sàn. Hiện chỉ có www.vnet.com.vn có quy chế thu loại phí này. Tuy nhiên trên thực tế các sàn TMĐT của Việt Nam hiện nay đều chưa thiết lập được cơ chế giám sát giao dịch trên sàn, do đó chưa doanh nghiệp nào, kể cả VNet, tính tới việc tạo nguồn thu từ phí hoa hồng dịch vụ. 90% doanh nghiệp được hỏi ước lượng doanh thu từ sàn giao dịch chỉ chiếm dưới 10% tổng doanh số của công ty, phần lớn trong số này cho biết mảng hoạt động TMĐT của công ty hiện vẫn đang trong giai đoạn đầu tư và chỉ có thể thu hồi vốn sau ít nhất là 2 năm nữa.

Page 106: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

91

2. Dịch vụ thanh toán điện tử Thanh toán điện tử là một trong những điều kiện cốt lõi để phát triển TMĐT,

với vai trò là một khâu không thể tách rời của quy trình giao dịch và trong nhiều trường hợp còn là biện pháp xác thực việc ký kết hợp đồng giữa người bán và người mua trong một giao dịch TMĐT trên môi trường Internet.

Thực tế cho thấy những nước có nền TMĐT phát triển là những nước đã xây dựng được một hạ tầng thanh toán điện tử khá hoàn thiện. Ở Việt Nam, hệ thống thanh toán ngân hàng hiện vẫn chưa tạo điều kiện cho việc thanh toán trực tuyến, và kết quả khảo sát các doanh nghiệp kinh doanh TMĐT cho thấy đây là trở ngại lớn thứ hai thường được nhắc đến cho việc mở rộng và khai thác tối ưu hiệu quả của phương thức kinh doanh trực tuyến. Điều kiện cần để phát triển hệ thống thanh toán điện tử:

Hệ thống thanh toán ngân hàng hiện đại, trong đó đa phần các giao dịch được tiến hành thông qua phương tiện điện tử

Hạ tầng kỹ thuật của xã hội đạt trình độ tiên tiến, phần lớn các doanh nghiệp được nối mạng và kết nối với hệ thống ngân hàng.

Cơ sở pháp lý của thanh toán điện tử được thiết lập đồng bộ, giá trị pháp lý của thanh toán điện tử được thừa nhận và có những quy định tài chính kế toán tương ứng.

Hạ tầng an toàn bảo mật trong thanh toán điện tử được đảm bảo. Dưới đây xin giới thiệu sơ lược tình hình phát triển của các phương thức thanh toán điện tử tại Việt Nam 2.1. Trao đổi dữ liệu tài chính điện tử (thanh toán B2B):

Đây là phương thức thanh toán giữa các doanh nghiệp có quan hệ đối tác thường xuyên, có kết nối hệ thống trên cơ sở chuẩn trao đổi dữ liệu điện tử (EDI), cho phép hai bên theo dõi giá trị các giao dịch được thực hiện và tiến hành quyết toán định kỳ theo hình thức bù trừ tài khoản đối ứng. Phương thức thanh toán này đòi hỏi doanh nghiệp phải có một trình độ ứng dụng công nghệ thông tin ở mức cao và một mô hình tổ chức kinh doanh tương đối hoàn thiện. Việt Nam hiện vẫn chưa hội đủ điều kiện để phát triển hình thức thanh toán này. 2.2. Thanh toán ngoại tuyến (thanh toán bằng thẻ tại điểm bán hàng/dịch

vụ) Đây là phương thức thanh toán điện tử B2C sơ đằng nhất, đặt tiền đề quan

trọng cho việc phát triển hệ thống thanh toán trực tuyến hỗ trợ TMĐT. Một khi cơ sở hạ tầng và hệ thống kết nối giữa ngân hàng với các điểm bán hàng/dịch vụ đã đủ trình độ đáp ứng những yêu cầu của việc thanh toán bằng thẻ, thì chỉ cần hoàn thiện thêm một bước khung khổ pháp lý và hạ tầng an toàn bảo mật cho thanh toán trực tuyến là có thể tích hợp hệ thống thanh toán điện tử này với môi trường giao dịch TMĐT trên Internet.

Hiện nay ở Việt Nam, thói quen dùng thẻ mới bắt đầu được hình thành trong một tầng lớp cư dân tại những thành phố lớn. Các ngân hàng cũng đã đưa vào lưu hành một số loại thẻ thông dụng trên thế giới, nhưng chức năng thanh toán của những thẻ này vẫn còn tương đối hạn chế.

Page 107: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

92

Thẻ tín dụng17 Thẻ tín dụng xuất hiện ở Việt Nam từ năm 1991 với việc Ngân hàng Ngoại

thương Việt Nam thử nghiệm phát hành một loại thẻ tín dụng nội địa cho phép chủ thẻ thực hiện thanh toán với một số ít nhà cung cấp hàng hoá/dịch vụ có ký thoả thuận đối tác với ngân hàng. Năm 1996, thẻ tín dụng quốc tế bắt đầu được các ngân hàng phát hành ra thị trường. Cho đến nay đã có 10 ngân hàng tham gia vào mạng lưới đại lý thẻ của những liên minh tín dụng quốc tế như Visa, Master, American Express,... với số lượng phát hành là 125.000 thẻ thanh toán quốc tế, đạt tốc độ tăng trưởng 49% mỗi năm trong giai đoạn 2000-200418. Thẻ ghi nợ19

Thẻ ghi nợ nội địa ra đời chậm hơn, vào năm 2002, nhưng tốc độ tăng trưởng cao hơn rất nhiều, trung bình trên 200%/năm. Do điều kiện phát hành đơn giản, dễ sử dụng, phù hợp với tâm lý người tiêu dùng Việt Nam, đến nay đã có 760.000 thẻ nội địa của 15 ngân hàng được phát hành20.

Ngoài ra, các ngân hàng vẫn đang tiếp tục nghiên cứu để đưa ra giới thiệu những loại thẻ khác phù hợp với nhu cầu thanh toán ngày càng đa dạng của người dân. Ví dụ thẻ tiền mặt (cash card) của Ngân hàng công thương Việt Nam, thẻ đa năng của Ngân hàng Đông Á, Sài Gòn Công thương Ngân hàng, v.v...

Ngoài việc dùng thẻ để thanh toán trực tiếp tại những điểm bán hàng/dịch vụ chấp nhận phương thức này, chủ thẻ còn có thể thông qua hệ thống máy ATM để chuyển tiền thanh toán cho các công ty cung cấp dịch vụ cơ bản (điện, nước, điện thoại) và thực hiện những giao dịch chuyển khoản khác. Các ngân hàng cũng đang cố gắng mở rộng phạm vi dịch vụ cung cấp trên máy ATM để nó trở thành một cổng thanh toán đa tiện ích cho khách hàng.

Đây là một dấu hiệu khởi sắc cho việc phát triển phương thức thanh toán phi tiền mặt ở Việt Nam, phù hợp với trào lưu chung của thế giới. Nhưng thực tiễn triển khai cho thấy dịch vụ thanh toán điện tử này hiện nay chưa đủ đáp ứng nhu cầu thị trường. Hiện chỉ có khoàng 10.000 điểm chấp nhận thẻ và 800 máy ATM trên toàn quốc21, đa số tập trung ở những thành phố lớn, sân bay, khu du lịch. Việc 17 Thẻ tín dụng là một trong những phương tiện thanh toán điện tử xuất hiện sớm nhất trên thế giới (từ năm 1951) và phổ biến nhất hiện nay trong giao dịch thương mại điện tử giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng (B2C). Thẻ do ngân hàng phát hành và phản ánh một tài khoản tín dụng với giới hạn cho vay nhất định, chủ sở hữu thẻ được phép dùng thẻ để thanh toán với tổng giá trị thanh toán cộng dồn tại mỗi thời điểm (tương đương giá trị nợ ngân hàng) không vượt quá mức giới hạn này. Để được chấp nhận rộng rãi và có giá trị thanh toán quốc tế, thẻ tín dụng cần mang nhãn hiệu của một tổ chức thẻ được công nhận trên phạm vi toàn cầu như VISA, MASTER, American Express… 18 http://www.vnexpress.net/Vietnam/Kinh-doanh/2005/03/3B9DC4D6/ 19 Khác với thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ phản ánh khoản tiền mà chủ sở hữu thẻ có trong tài khoản cá nhân của minh. Khi dùng thẻ ghi nợ để thanh toán, số tiền sẽ được trừ trực tiếp vào tài khoản này, thông qua hệ thống kết nối giữa ngân hàng chủ sở hữu thẻ và ngân hàng người nhận thanh toán. Tương tự như thẻ tín dụng, trên thẻ ghi nợ có gắn một dải từ lưu trữ các số liệu khách hàng đã được mã hóa riêng, cho phép người nhận thanh toán – với sự trợ giúp của máy đọc thẻ được kết nối với hệ thống thông tin liên ngân hàng – xác minh tài khoản cá nhân/tín dụng của chủ sở hữu thẻ và tiến hành các khoản khấu trừ tương ứng. Hiện nhiều ngân hàng trên thế giới, nhằm tạo thuận lợi tối đa cho khách hàng trong việc thanh toán, đã phát hành những thẻ ghi nợ có nhãn hiệu MASTER hoặc VISA như một đảm bảo về giá trị thanh toán quốc tế của loại phương tiện này. 20 http://www.vnexpress.net/Vietnam/Kinh-doanh/2005/03/3B9DC4D6/ 21 http://www.vnexpress.net/Vietnam/Kinh-doanh/2005/03/3B9DC4D6/

Page 108: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

93

kết nối giữa các ngân hàng chưa được đồng bộ nên ở mỗi máy ATM chỉ có thể truy cập dịch vụ của một số ngân hàng, và do số lượng máy còn ít nên ở nhiều điểm giao dịch lớn, tình trạng quá tải thường xuyên xảy ra. Việc thanh toán bằng thẻ cũng còn nhiều bất tiện. Các nhà cung cấp hàng hoá/dịch vụ thường chỉ chấp nhận thanh toán bằng thẻ với một khoản tiền đạt giới hạn nhất định, và việc thu thêm phí từ khách hàng cho những khoản thanh toán có giá trị nhỏ là một hiện tượng thường xuyên xảy ra. Thẻ trả trước

Do việc mở rộng phạm vi lựa chọn về phương thức thanh toán cũng là một trong những tiêu chí nâng cao tính cạnh tranh của dịch vụ bán hàng, một số doanh nghiệp hiện đã liên kết với ngân hàng để tạo ra một phương tiện thanh toán mới cho khách hàng: thẻ đồng thương hiệu. Về chức năng sử dụng, những thẻ này tương tự với loại thẻ nạp tiền trước (prepaid card/stored value card), có tác dụng thanh toán như tiền mặt đối với những dịch vụ do công ty phát hành thẻ cung cấp.

Hộp 4.7 Quy trình thanh toán của một số thẻ trả trước do doanh nghiệp phát hành

Khách hàng có thể nạp tiền vào thẻ từ tài khoản cá nhân mở tại ngân hàng liên danh phát hành thẻ, và dùng thẻ để thanh toán cho hàng hoá hoặc dịch vụ của nhà cung cấp. Khi thanh toán, khách hàng đưa thẻ qua thiết bị kiểm soát đặt tại điểm bán hàng. Số tiền được khấu trừ trực tiếp từ giá trị của thẻ và chuyển sang thiết bị của người bán, sau đó sẽ chuyển vào tài khoản của họ ở ngân hàng. Loại thẻ này vừa có tác dụng thay tiền mặt, vừa có tác dụng của phiếu tính điểm giảm giá để khuyến khích khách hàng quay lại mua sản phẩm hoặc dịch vụ của doanh nghiệp.

Một số doanh nghiệp đã thử nghiệm phát hành loại thẻ này là Công ty du lịch Viet Travel, Saigontourist, Siêu thị Citymart, Saigon Coop Mart, Hãng taxi Mai Linh, Công ty Vera, và siêu thị điện tử www.golmart.com.vn

2.3. Thanh toán trực tuyến (Thanh toán trên môi trường Internet) 2.3.1. Giao dịch ngân hàng trực tuyến:

Ở Việt Nam hiện nay, một số ngân hàng đang bắt đầu triển khai dịch vụ ngân hàng trực tuyến, cho phép khách hàng tiến hành qua mạng Internet những giao dịch mang tính định kỳ như theo dõi số dư tài khoản, chuyển khoản trong cùng hệ thống ngân hàng, hoặc thanh toán hoá đơn dịch vụ cơ bản (điện, nước, điện thoại).

- Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (home banking và Internet banking) - Ngân hàng Công thương Việt Nam - Ngân hàng Cổ phần Kỹ thương (home banking) - Ngân hàng Á Châu (home banking và Internet banking)

Tuy nhiên, đến nay phạm vi áp dụng các dịch vụ này vẫn còn tương đối hạn chế. Đa số ngân hàng mới triển khai cung cấp dịch vụ trực tuyến cho khách hàng là những đối tác lớn, các tổ chức tín dụng trong cùng hệ thống, và đối tượng doanh nghiệp. Việc phát lệnh chuyển khoản qua Internet hiện mới chỉ thực hiện được nếu tài khoản nhận tiền thuộc cùng hệ thống ngân hàng. Việc chuyển khoản hoặc thanh toán hoá đơn mặc dù có thể tiến hành trực tuyến, nhưng chứng từ thanh toán vẫn

Page 109: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

94

đòi hỏi giấy tờ có xác thực bằng chữ ký thường, do đó quy trình thanh toán chưa phải là một quy trình hoàn toàn điện tử.

Dưới đây là minh hoạ về dịch vụ ngân hàng trực tuyến do Ngân hàng cổ phần Á Châu ACB cung cấp, bao gồm dịch vụ Home banking dành cho khác hàng doanh nghiệp và dịch vụ Internet banking dành cho khách hàng cá nhân.

Để thực hiện thanh toán qua website của ngân hàng, Sau khi đăng ký tài khoản và mật khẩu trên website www.acb.com.vn, khách hàng sẽ lập danh sách một số tài khoản mà hàng tháng thường phát sinh giao dịch (ví dụ: tài khoản của công ty điện, nước, điện thoại, dịch vụ Internet, hoặc một số tài khoản đối tác trong cùng hệ thống ACB), đề ra hạn mức tối đa cho khoản tiền có thể đặt lệnh thanh toán qua Internet, và những chữ ký điện tử cần để lệnh thanh toán có hiệu lực. Sau khi ngân hàng đã xác nhận những chi tiết này, hàng tháng doanh nghiệp có thể đăng nhập vào tài khoản Internet và phát lệnh chuyển tiền đến những tài khoản nói trên. Đến cuối tháng, ngân hàng sẽ lập một bản kê chung về các giao dịch phát sinh trong tháng, lấy chữ ký của khách hàng và lưu làm chứng từ thanh toán. Điểm khác nhau giữa dịch vụ Home banking và Internet banking là dịch vụ Home banking chỉ có thể thực hiện trên một số máy tính với địa chỉ IP nhất định (có đăng ký trước với ngân hàng), nhằm tạo mức bảo mật cao hơn cho khách hàng là các doanh nghiệp sử dụng dịch vụ này.

2.3.2. Thanh toán mua hàng trên Internet bằng tài khoản đặt tại ngân hàng Việt Nam hoặc thẻ do ngân hàng phát hành:

Ở Việt Nam hiện nay, do quy định về chứng từ chưa được điều chỉnh, những lệnh thanh toán truyền qua phương tiện điện tử (không có chữ ký xác nhận của chủ tài khoản) vẫn chưa có giá trị pháp lý và không được ngân hàng thừa nhận. Do đó, thẻ do các ngân hàng Việt Nam phát hành hiện vẫn chưa thể dùng để thanh toán trực tuyến. Đây là cản trở lớn cho việc thực hiện trọn vẹn một giao dịch mua hàng trên mạng Internment, khi toàn bộ tương tác giữa người bán và người mua đều được tiến hành trực tuyến và sử dụng các chứng từ điện tử.

Trong nỗ lực tạo điều kiện tối đa về thanh toán cho khách hàng, một số nhà cung cấp hàng hoá/dịch vụ đang tìm cách khắc phục trở ngại này bằng những giải pháp mang tính tình thế.

Page 110: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

95

Hộp 4.8 Một mô hình thanh toán thẻ cho giao dịch trực tuyến

Dự án hợp tác giữa ACB và VDC:

Dự án kết nối hệ thống giữa ACB và VCD bắt đầu triển khai từ tháng 6 năm 2004, đến nay đã hoàn tất về mặt kỹ thuật và đang hoàn thiện nốt khâu thủ tục để đưa vào sử dụng. Một khi chính thức vận hành, hệ thống này sẽ cho phép khách hàng trên những sàn TMĐT do VDC quản lý (như www.vdcsieuthi.com.vn hay www.tienphong-vdc.com) dùng thẻ do ngân hàng ACB phát hành để thanh toán cho giao dịch mua hàng .

Quy trình thanh toán sẽ diễn ra như sau: - Sau khi chọn hàng tại một trong các cửa hàng trực tuyến, khách hàng phát lệnh

thanh toán (thông qua phần mềm thanh toán cài sẵn trên website. - VDC chuyển số thẻ đến cho ACB để xác minh số dư tài khoản khách hàng đủ thanh

toán. - ACB chuẩn chi, ghi nợ tài khoản khách hàng và báo lại cho VDC. - VCD thực hiện việc giao hàng - Chứng từ giao hàng có chữ ký của người đặt hàng sẽ đồng thời là chứng từ thanh

toán. VCD chuyển chứng từ này cho ACB - ACB chuyển khoản tiền tương ứng vào tài khoản của VDC Trong thực tế, việc kết toán chứng từ và chuyển khoản sẽ thực hiện định kỳ (VD tháng một lần), trên cơ sở tổng kết tất cả các giao dịch phát sinh trong tháng.

Giải pháp tạo lập những liên kết riêng lẻ giữa nhà cung cấp hàng hoá/dịch vụ và ngân hàng để phục vụ thanh toán trực tuyến như ở trên, xét về mặt hiệu quả kinh tế toàn xã hội, là chưa thực sự tối ưu. Thay vì thông qua một cổng thanh toán chung thực hiện chức năng điều phối giao dịch – trên nền tảng một hệ thống đồng bộ cho mọi đối tượng tham gia, thì việc dàn xếp riêng rẽ giữa từng ngân hàng với từng nhà cung cấp sẽ tạo ra một số lượng lớn các hệ thống thanh toán với những đặc thù khác nhau, mỗi hệ thống đòi hỏi đầu tư và nghiên cứu lại từ đầu.

Hình 4.2 So sánh giải pháp liên kết tập trung và liên kết riêng lẻ

cho hệ thống thanh toán thẻ trực tuyến

Kết nối hệ thống trong mô hình liên kết tập trung

Kết nối hệ thống trong mô hình liên kết riêng lẻ

Ngân hàng A

Ngân hàng B

Ngân hàng C

Cổng thanh toán

Nhà cung cấp A

Nhà cung cấp B

Nhà cung cấp C

Ngân hàng A

Ngân hàng A

Ngân hàng A

Nhà cung cấp A

Nhà cung cấp A

Nhà cung cấp A

Page 111: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

96

Những hệ thống thiết lập chỉ để kết nối với một đối tượng cụ thể như vậy sẽ dẫn đến trùng lặp và lãng phí nguồn lực, trong khi tiện ích thực tế đem lại cho khách hàng cũng không cao. Quay trở lại ví dụ nêu trên, chỉ những khách hàng có thẻ ACB, tức là một tỉ lệ nhỏ những người dùng thẻ ở Việt Nam, mới dùng được dịch vụ thanh toán trực tuyến mà VDC cung cấp. Và ngay cả trong trường hợp này, do chứng từ giao hàng cần phải có chữ ký của người đặt hàng để làm bằng chứng thanh toán, giao dịch sẽ không thực hiện được nếu người nhận hàng không phải là người đặt mua (như trường hợp gửi quà hay mua hộ). Và do đó, các tiện ích của phương thức thanh toán bằng thẻ (như không cần có sự tiếp xúc trực tiếp giữa người mua và nhà cung cấp, đơn giản hoá thủ tục giao hàng, ...) đã không được phát huy.

Vậy để nâng cao vai trò của thẻ như một phương tiện đắc lực phục vụ thanh toán trực tuyến, giải pháp tối ưu là phải thiết lập chuẩn giao tiếp đồng bộ giữa các ngân hàng và xây dựng một cổng thanh toán chung đảm nhiệm chức năng điều phối thanh toán giữa toàn bộ hệ thống ngân hàng với các nhà cung cấp. Một điều kiện nữa không kém phần quan trọng là giá trị pháp lý của chứng từ và chữ ký điện tử phải được thừa nhận

2.3.3. Hệ thống lập và thanh toán hóa đơn điện tử (EBPP / electronic bill payment and presentment).

Ở nhiều nước phát triển, các nhà cung cấp dịch vụ cơ bản (điện, nước, điện thoại, Internet) thường tích hợp cơ sở dữ liệu khách hàng với hệ thống lập hoá đơn trong nội bộ công ty và kết nối lên mạng Internet. Do đó, khách hàng có thể đăng ký một tài khoản cá nhân tại website công ty rồi hàng tháng truy nhập vào để xem hoá đơn dịch vụ và tiến hành trả tiền trực tuyến, dùng thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ, hoặc tài khoản séc ngân hàng. Tiện ích này đối với khách hàng đồng thời còn giúp tiết kiệm chi phí in và gửi hoá đơn, rút ngắn quy trình thanh toán, cũng như tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Hệ thống lập và thanh toán hoá đơn điện tử hiện chiếm 70% tổng giá trị thanh toán cho dịch vụ điện thoại tại Mỹ, 30% còn lại được tiến hành bằng Séc và các phương tiện thanh toán khác.

Mô hình lập và thanh toán hoá đơn điện tử đầu tiên tại Việt Nam được triển khai thí điểm từ đầu năm 2004 bởi Công ty Tin học Bưu điện Tp. Hồ Chí Minh (NetSoft) kết hợp với Trung tâm hỗ trợ khách hàng của Bưu điện thành phố, tại địa chỉ www.ebill.com.vn. Mục tiêu dài hạn của hệ thống là kết nối với các nhà cung cấp dịch vụ khác nhau, tạo điều kiện để khách hàng có thể tra cứu thông tin về nhiều loại hóa đơn (điện, nước, điện thoại, Internet) tại một điểm dừng duy nhất. Tuy nhiên, ở thời điểm hiện tại, chỉ những khách hàng thuê bao dịch vụ do Bưu điện thành phố Hồ Chí Minh cung cấp (điện thoại, Internet) mới có thể xem hóa đơn trên eBILL, và hệ thống vẫn chưa cho phép thực hiện thanh toán trực tuyến.

Quy trình cập nhật dữ liệu cước dịch vụ định kỳ trên hệ thống eBILL:. - Định kỳ bộ phận quản lý cước xuất dữ liệu cước sang dạng file lưu trữ. Dữ liệu bao gồm cước phí và nợ cước của tất cả các thuê bao. - File cước được gửi đến hệ thống eBILL tuân theo quy trình chuyển giao dữ liệu giữa bộ phận phản lý cước và bộ phận quản trị hệ thống.

Page 112: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

97

- Toàn bộ dữ liệu được cập nhật vào hệ thống và phân bổ theo cấu hình định trước. Đồng thời cập nhật những thông tin quản lý để sẵn sàng cho khách hàng tra cứu thông tin.

2.4. Thanh toán qua điện thoại di động, PDA và các thiết bị di động khác (m-payment)

Thanh toán qua các thiết bị di động đang ngày càng trở nên phổ biến trên thế giới, hoà nhịp với một trào lưu phát triển mới của thương mại điện tử là thương mại di động. Những sản phẩm phù hợp với phương thức kinh doanh thương mại di động là phần mềm trò chơi, nhạc, và các dịch vụ tin nhắn – những sản phẩm vô hình có thể được tải về và tiêu thụ trực tiếp trên nền thiết bị di động của khách hàng mà không tốn chi phí vận chuyển. Do đặc thù này, cộng với giá thành sản phẩm thấp và khối lượng tiêu thụ lớn, nhà cung cấp không thể chọn phương thức thu tiền mặt, trừ thẻ tín dụng, hay chuyển khoản để thu hồi tiền bán sản phẩm/dịch vụ. Phương thức thanh toán hợp lý hơn cả là trừ trực tiếp vào phí điện thoại của khách hàng; và để thực hiện điều đó, nhà cung cấp phải kết nối chặt với hệ thống dịch vụ viễn thông sở tại.

Doanh nghiệp hiện đi tiên phong cung cấp loại hình dịch vụ này ở Việt Nam là Công ty Phần mềm và truyền thông VAS, với các dịch vụ giá trị gia tăng trên nền điện thoại di động. Khách hàng có thể dùng mobile gọi đến các số tổng đài dịch vụ của VASC để nhận thông tin khuyến mãi, hỏi tỷ số trận đấu, hoặc gửi nhạc, nhắn tin cho bạn bè. Phí dịch vụ sẽ được tự động trừ trực tiếp vào tài khoản điện thoại mỗi khi người dùng gọi đến những số tổng đài trên. Để thu hồi các khoản phí này, công ty VASC đã thiết lập kết nối hệ thống với Vina, Mobile, Viettel, S-Phone và các nhà cung cấp dịch vụ điện thoại di động khác, đồng thời xây dựng một cơ chế theo dõi và đối chiếu thu chi cho phép hai bên phân bổ thu nhập từ mô hình kinh doanh liên kết này. Xét thực tiễn hoạt động, cũng như mức độ phụ thuộc cao của thương mại di động vào hạ tầng viễn thông, các công ty cung cấp dịch vụ điện thoại di động hiện đang nắm lợi thế tuyệt đối trong vai trò trung gian dịch vụ thanh toán di động tại Việt Nam.

Page 113: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

98

PHẦN THỨ NĂM KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

Trên cơ sở phân tích các số liệu điều tra, phỏng vấn và đánh gía toàn diện về

tình hình phát triển TMĐT tại Việt nam năm 2004 có thể rút ra một số kết luận lớn. Mặc dù mục tiêu của Báo cáo này là phản ánh chân thực tình hình nhưng Báo cáo cũng cố gắng tổng hợp một số khuyến nghị từ cộng đồng doanh nghiệp và các đối tượng khác liên quan tới TMĐT. 1. Kết luận

Về khía cạnh kinh doanh, thương mại điện tử ở Việt nam năm 2004 đã phát triển đáng kể so với năm 2003 trên nhiều lĩnh vực, từ hạ tầng CNTT và Internet tới các chợ “ảo” và thiết lập website của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, về khía cạnh tạo lập môi trường pháp lý thì năm 2004 chứng kiến việc xây dựng nhiều dự thảo văn bản pháp quy nhưng cuối cùng chưa có văn bản quan trọng nào được ban hành.

1.1. Phát triển CNTT và Internet

Hạ tầng viễn thông đã tiến một bước lớn trong năm 2004. Kết nối quốc tế

thông qua 6 hướng với tổng dung lượng tăng từ 1038 Mbps vào tháng 12/2003 lên 1892 Mbps vào tháng 12/2004. Đối với kết nối trong nước, từ năm 2003 các doanh nghiệp IXP đã thực hiện kết nối đồng cấp thông qua VNNIC của Trung tâm Internet Việt nam.

Đã có sự cạnh tranh đáng kể trong lĩnh vực viễn thông và Internet. Tới cuối năm 2004 đã có 6 doanh nghiệp được cấp phép cung cấp dịch vụ kết nối Internet (IXP) và 15 doanh nghiệp được cấp phép cung cấp dịch vụ truy nhập Internet, trong đó có 7 doanh nghiệp đã cung cấp dịch vụ cho khách hàng.

Tổng số thuê bao Internet đạt khoảng trên 2 triệu và số IP đã cấp là 0,45 triệu, thuê bao chủ yếu là dial-up. Đã có 4 nhà cung cấp dịch vụ ADSL cho khách hàng và có khoảng 35.000 thuê bao truy nhập Internet sử dụng băng thông rộng. Các loại hình dịch vụ truy nhập Internet mới như WiFi và GPRS cũng bắt đầu phát triển. Số người sử dụng Internet đạt khoảng 6,2 triệu, mật độ người sử dụng Internet đạt khoảng 7,4%. Nếu so với số người sử dụng Internet vào cuối năm 2003 là 3,2 triệu người thì có thể thấy trong năm 2004 số người sử dụng đã tăng gần gấp đôi.

Số tên miền Việt nam đã tăng từ 2.300 năm 2002 lên 5.510 năm 2003 và

9.037 vào tháng 12/2004 với số tên miền cấp hai .COM và .NET khoảng 84%. Như vậy tốc độ tăng trưởng tên miền .VN năm 2004 khoảng 64%. Tuy nhiên sự tăng trưởng này chưa phản ánh sự tăng trưởng chung của số tên miền và số website của các doanh nghiệp Việt nam. Nếu tính cả các website có tên miền quốc tế thì tổng số doanh nghiệp có trang web vào cuối năm 2004 khoảng 17.500.

Về mặt công nghệ hỗ trợ cho TMĐT, cho tới năm 2004, trao đổi dữ liệu điện

tử (EDI) hầu như chưa được áp dụng tại Việt nam trừ một số doanh nghiệp trong

Page 114: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

99

ngành ngân hàng, tài chính, vận tải biển đã sử dụng EDI để giao dịch với các đối tác nước ngoài và thực hiện các hoạt động nghiệp vụ trong nội bộ ngành. Năm 2004 đã chứng kiến sự quan tâm xây dựng chính sách, kế hoạch, tiêu chuẩn về EDI của các cơ quan quản lý nhà nước.

Trong năm 2004 nhiều công ty tin học trong nước cũng đã đẩy mạnh hoạt

động nghiên cứu, cung cấp dịch vụ liên quan tới vấn đề an toàn, bảo mật trong các giao dịch TMĐT với công nghệ PKI và một số tổ chức, đơn vị đã đi tiên phong trong việc sử dụng công nghệ này trong các hoạt động chuyên môn trong bối cảnh chưa có văn bản pháp quy về chữ ký điện tử và chứng thực điện tử.

Nhiều công ty tin học đã ứng dụng mạnh mẽ phần mềm nguồn mở trong các

hoạt động phát triển phần mềm phục vụ TMĐT. Tương tự như việc ứng dụng chữ ký điện tử, doanh nghiệp đã đi tiên phong trong ứng dụng công nghệ tiên tiến khi nhà nước chưa có chính sách rõ ràng và sự hỗ trợ cần thiết.

1.2. Ứng dụng TMĐT của các doanh nghiệp

Kết quả khảo sát 303 doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực kinh doanh

khác nhau cho thấy một tỉ lệ khá cao các doanh nghiệp đã có đầu tư bước đầu về ứng dụng CNTT, với 82,9% doanh nghiệp được hỏi có kết nối Internet và 25,32% đã thiết lập website. Có tới 16% các công ty có dự án phát triển TMĐT. Đây là tỷ lệ khá cao trong bối cảnh chung của nền kinh tế Việt nam.

Trong lĩnh vực công nghiệp CNTT và dịch vụ CNTT, có tới 54% doanh

nghiệp đã thiết lập website để bán hàng và cung cấp các dịch vụ hỗ trợ khách hàng, 100% doanh nghiệp đã sử dụng email trong các giao dịch kinh doanh.

Với sự phát triển mau lẹ của dịch vụ truy cập Internet băng rộng với giá phải

chăng, cách truy cập Internet của các doanh nghiệp trong năm 2004 đã thay đổi lớn so với năm 2003. Cụ thể, trong số doanh nghiệp được khảo sát có tới 16% doanh nghiệp có đường truyền riêng, 70% sử dụng ADSL và chỉ còn 14% doanh nghiệp sử dụng dial-up.

Trong năm 2004 cũng chứng kiến sự thay đổi về cơ cấu đầu tư cho CNTT

của các doanh nghiệp. Tỷ lệ đầu tư cho phần cứng, phần mềm và đào tạo của các doanh nghiệp được điều tra tương ứng là 62%; 29% và 12%. Thay vì chú trọng đầu tư vào phần cứng như trước đây, các doanh nghiệp đã đầu tư nhiều hơn cho phần mềm và đào tạo. Tuy nhiên, số liệu điều tra cho thấy các tỷ lệ này còn chưa hợp lý và trong các năm tới cần đảo ngược tỷ lệ đầu tư cho phần cứng và phần mềm.

Trong khi số doanh nghiệp xây dựng website tăng rất nhanh thì có sự phân tán lớn giữa các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực kinh doanh. Tỷ lệ doanh nghiệp sản xuất thiết lập website thấp hơn nhiều so với các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ. Thực tế là các doanh nghiệp dịch vụ, không kể quy mô, hiện đang là lực lượng năng động nhất triển khai ứng dụng TMĐT trong hoạt động kinh doanh của mình.

Page 115: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

100

Kết quả điều tra 230 doanh nghiệp có website cho thấy trên 90% website

này mới chỉ dừng ở mức giới thiệu doanh nghiệp và sản phẩm. Khoảng trên 40% website có cung cấp thông tin về giá cả sản phẩm và cho phép liên hệ đặt hàng. Tuy nhiên, số website cho phép thanh toán trực tuyến bằng thẻ tín dụng hoặc chuyển khoản chỉ chiếm hơn 10%, phần lớn trong số này là các siêu thị trực tuyến và website cung cấp dịch vụ du lịch, ngân hàng, dịch vụ tin học và viễn thông.

Khi thiết lập website, 73,9% doanh nghiệp được hỏi cho biết đối tượng họ

hướng tới là các công ty và tổ chức, còn những doanh nghiệp chú trọng tới đối tượng đại chúng chiếm một tỷ lệ thấp hơn. Điều này phù hợp với xu thế chung của thế giới là TMĐT B2B chiếm ưu thế vượt trội so với B2C trong lựa chọn chiến lược kinh doanh TMĐT của doanh nghiệp.

Đa số doanh nghiệp khi xây dựng website đã có ý thức quảng bá website của

mình bằng nhiều hình thức như đăng ký website với một công cụ tìm kiếm trực tuyến, đăng ký vào danh bạ website do một tổ chức trong nước đứng ra tập hợp, quảng cáo website qua các phương tiện thông tin đại chúng và trao đổi liên kết (link) với những trang web khác. Tuy nhiên vẫn còn khoảng gần 20% doanh nghiệp chưa áp dụng biện pháp nào để quảng bá website.

Có tới 43,6% các công ty đánh giá chỉ mất dưới 2 năm để hoàn vốn cho đầu tư vào TMĐT, 39,7% cần 2 tới 5 năm. Chỉ có 16,7% các công ty đánh giá phải cần trên 5 năm để thu hồi vốn đầu tư. Như vậy, có thể thấy hiệu quả đầu tư cho TMĐT là cao.

Những hàng hoá và dịch vụ được giới thiệu, mua bán trên mạng nhiều nhất là: 1) những sản phẩm có độ tiêu chuẩn hoá cao như máy tính và linh kiện máy tính, thiết bị điện tử và viễn thông; 2) những sản phẩm có hàm lượng thông tin cao như sách báo, đĩa nhạc; 3) hàng hoá biểu trưng như vé máy bay, vé xem phim, thẻ quà tặng; 4) hàng thủ công mỹ nghệ; và 5) văn hoá phẩm và quà tặng.

1.3. Sự phát triển của các chợ “ảo”

Đây là các website cung cấp dịch vụ trung gian mua bán hàng hoá dịch vụ. Những website này cung cấp dịch vụ trung gian mua bán được xây dựng không nhằm giới thiệu, quảng bá hay bán hàng của một công ty riêng lẻ, cũng không để bổ sung cho hệ thống phân phối sẵn có của một công ty thương mại dịch vụ, mà nhằm tạo ra một không gian chung kết nối nhiều người mua và nhiều người bán. Tham gia vào các website này sẽ có nhiều nhà cung cấp hàng hoá hay dịch vụ, nắm quyền chủ động tương đối cao với những thông tin sản phẩm của mình đưa trên chợ và có thể tự do tương tác với khách hàng là doanh nghiệp hoặc cá nhân cùng tham gia chợ.

Tình hình chung của các chợ “ảo” này trong năm 2004 là phát triển mạnh so với năm 2003 cả về số lượng, trình độ tổ chức, nền tảng công nghệ và hoạt động giao dịch thực tế tiến hành trên sàn. Nhìn chung hiệu quả kinh tế của các chợ này còn thấp, chưa đem lại nguồn thu cho các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ. Do đây là một lĩnh vực đầu tư mạo hiểm với thời gian hoàn vốn đòi hỏi khá dài, phần lớn

Page 116: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

101

doanh nghiệp triển khai dịch vụ sàn giao dịch điện tử phải dựa trên nền tảng là những hoạt động kinh doanh khác để tự nuôi sống mình.

1.4. Môi trường pháp lý

Trước 2000, TMĐT còn là thuật ngữ pháp lý mới. Hệ thống pháp luật Việt

Nam có quy định nhưng chưa thể hiện được bản chất và tầm quan trọng của TMĐT. Bộ Thương mại, Bộ Tư pháp cũng đã có một số nghiên cứu và đề xuất xây dựng chính sách và pháp luật lên Chính phủ. Tuy nhiên, chưa có văn bản pháp quy về TMĐT nào của Chính phủ hoặc Thủ Tướng Chính phủ được ban hành và trở thành nền tảng pháp lý hỗ trợ cho sự phát triển của TMĐT.

Trong giai đoạn 2000-2003, một số văn bản pháp lý chuyên ngành đã có những quy định khá cụ thể về giao dịch điện tử như Bộ luật Hình sự năm 2000, Luật Hải quan năm 2001, Pháp lệnh Quảng cáo năm 2001, những văn bản dưới luật trong lĩnh vực ngân hàng. Tuy nhiên, do nhận thức chưa toàn diện về TMĐT, các chế định pháp lý trên còn thiếu cơ sở pháp lý cụ thể, vì vậy dẫn tới việc khó áp dụng trên thực tế.

Những sự kiện đáng chú ý nhất liên quan tới việc tạo lập môi trường pháp lý trong năm 2004 liên quan tới việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật sau: * Pháp lệnh Thương mại điện tử

Tháng 1 năm 2002, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo Bộ Thương mại chủ trì Dự án Pháp lệnh TMĐT. Cuối năm 2003, Bộ Thương mại đã hoàn thành xong dự thảo cuối cùng (Dự thảo 6) của Pháp lệnh TMĐT và chuẩn bị thủ tục trình Chính phủ và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Văn bản này có mục đích tạo cơ sở pháp lý cho việc sử dụng thông điệp dữ liệu trong các hoạt động thương mại, từ đó gián tiếp thúc đẩy các ứng dụng khác nhau của TMĐT. Cuối năm 2003, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2004, trong đó không có Pháp lệnh TMĐT. Nghị quyết đã bổ sung Dự án Luật Giao dịch điện tử vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khoá XI (2002-2007). Tháng 10 năm 2004, Văn phòng Quốc hội đã thông báo ý kiến chỉ đạo của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về việc ngừng xây dựng Pháp lệnh TMĐT và thu hút nội dung Pháp lệnh vào Luật Giao dịch điện tử.

Có nhiều ý kiến khác nhau đối với quyết định ngừng ban hành Pháp lệnh TMĐT. Một số ý kiến cho rằng nên ban hành Pháp lệnh TMĐT vì đã hoàn thành về cơ bản nội dung Dự thảo, mặt khác, việc thi hành Pháp lệnh trên thực tế sẽ là kinh nghiệm quý giúp cho việc xây dựng Luật GDĐT mang tính khả thi hơn. * Luật Giao dịch điện tử

Đầu năm 2004, Uỷ ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội khởi động Dự án xây dựng Luật Giao dịch điện tử (GDĐT). Tới cuối năm 2004, Ban Soạn thảo đã hoàn thành Dự thảo 6. Nếu kế hoạch xây dựng Luật Giao dịch điện tử được thực hiện tốt thì cuối năm 2005 Quốc hội sẽ thông qua Luật này. Đây được coi là thời điểm lịch sử của các giao dịch điện tử tại Việt nam, bao gồm các giao dịch điện tử trong lĩnh vực thương mại. Khi đó có thể coi thương mại điện tử sẽ chuyển từ giai đoạn hình thành và được chấp nhận chính thức sang giai đoạn ứng dụng rộng rãi và phát triển.

Page 117: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

102

* Bộ luật Dân sự (sửa đổi) Bộ luật Dân sự sửa đổi do Bộ Tư pháp soạn thảo, hiện đã hoàn thành dự thảo

và trình lên Quốc hội. Dự kiến, Quốc hội sẽ xem xét, thông qua Bộ luật này giữa năm 2005. Dù đã đề cập tới hình thức giao dịch điện tử nhưng Dự thảo còn chưa phân biệt sự khác nhau giữa hình thức giao dịch bằng văn bản và hình thức giao dịch bằng thông điệp dữ liệu. Hơn nữa, các quy định về thông điệp dữ liệu trong Bộ luật Dân sự được xây dựng khá độc lập với Luật GDĐT, điều này tiềm ẩn khả năng sẽ có sự không thống nhất trong cách tiếp cận cùng một vấn đề. * Luật Thương mại (sửa đổi)

Bộ Thương mại đã trình Chính phủ và Quốc hội Dự thảo Luật Thương mại (sửa đổi), trong đó đưa ra nguyên tắc thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu trong các hoạt động thương mại và yêu cầu Chính phủ hướng dẫn chi tiết khía cạnh kỹ thuật. Hiện Quốc hội đang xem xét Dự luật này và có khả năng sẽ thông qua trong kỳ họp giữa năm 2005.

Để cụ thể quy định mang tính nguyên tắc trong Luật Thương mại (sửa đổi) và Luật GDĐT, Bộ Thương mại đã đăng ký xây dựng Nghị định về TMĐT. Nghị định sẽ quy định chi tiết việc thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu trong các hoạt động thương mại. Theo kế hoạch, Nghị định sẽ được trình Chính phủ cuối năm 2005, tạo cơ sở pháp lý cho các ứng dụng TMĐT. * Nghị định về chữ ký số và chứng thực điện tử

Đây là văn bản rất quan trọng đối với việc đảm bảo an toàn, bảo mật cho các giao dịch điện tử, trong đó có TMĐT. Nghị định này do Bộ Bưu chính Viễn thông chủ trì xây dựng sẽ tạo cơ sở pháp lý cho việc phát triển thị trường dịch vụ chứng thực điện tử qua việc thừa nhận giá trị pháp lý của chữ ký số trong các giao dịch điện tử.

Xuất phát từ quan điểm cần có định hướng phát triển của nhà nước, Nghị định quy định khá chặt chẽ đối với hoạt động cung cấp dịch vụ chứng thực điện tử. Còn khá nhiều ý kiến chưa thống nhất với các quy định trên, đặc biệt từ góc độ của các doanh nghiệp muốn tham gia kinh doanh dịch vụ chứng thực điện tử.

Bộ Bưu chính Viễn thông đã hoàn thành dự thảo Nghị định và trình Chính phủ vào tháng 12 năm 2004. Theo kế hoạch, Nghị định sẽ được ban hành trong năm 2005.

1.5. Các chính sách liên quan tới TMĐT

Trong năm 2004 các doanh nghiệp và cộng đồng sử dụng Internet tranh luận rất nhiều về các quy định trong hai văn bản pháp quy liên quan chặt chẽ tới Internet và TMĐT. Đó là Quyết định số 92/2003/QĐ-BCVT của Bộ Bưu chính Viễn thông ban hành ngày 26/5/2003 Quy định về quản lý và sử dụng tài nguyên Internet. Những vấn đề chưa hợp lý liên quan tới sở hữu tên miền và các quyền liên quan như mua bán, quyền sở hữu trí tuệ như thương hiệu và chỉ dẫn địa lý, thủ tục đăng ký tên miền, giải quyết tranh chấp và phí đăng ký và sử dụng tên miền.

Văn bản thứ hai là Quyết định số 27/2002/QĐ-BVHTT ngày 10/10/2002 của Bộ Văn hoá Thông tin về Quy chế quản lý và cấp phép cung cấp thông tin, thiết lập

Page 118: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

103

trang thông tin điện tử trên Internet. Chính vì các quy định không phù hợp với thực tiễn nhưng lại không được cơ quan ban hành lắng nghe dư luận và sửa đổi nên Quyết định số 27/2002/QĐ-BVHTT là một trong những ví dụ điển hình về việc coi thường pháp luật của doanh nghiệp. Hầu hết các website vẫn tồn tại và phát triển mà không cần tới giấy phép của Bộ Văn hoá Thông tin. Tuy nhiên, mọi doanh nghiệp và cá nhân muốn có một quy định mới, tránh cho họ tình trạng luôn luôn vi phạm pháp luật.

1.6. Vai trò của nhà nước còn mờ nhạt

Báo cáo Hiện trạng phát triển thương mại điện tử năm 2003 đã nêu bật bốn

kiến nghị của doanh nghiệp đối với các cơ quan quản lý nhà nước nhằm thúc đẩy mạnh mẽ TMĐT ở Việt nam. Bốn kiến nghị đó là: 1) tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi cho TMĐT; 2) Ban hành các chính sách hỗ trợ cho ứng dụng và triển khai TMĐT; 3) Đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, đào tạo về TMĐT và 4) Phát triển hạ tầng viễn thông và Internet.

So sánh với các kiến nghị của cộng đồng doanh nghiệp năm 2003, có thể

nhận thấy năm 2004 hạ tầng viễn thông và Internet cũng như hoạt động phổ biến, tuyên truyền và đào tạo về TMĐT đã có nhiều tiến bộ. Tuy nhiên hoạt động tạo lập môi trường pháp lý và ban hành chính sách hỗ trợ cho TMĐT còn nhiều lúng túng và cản trở sự phát triển TMĐT. 2. Khuyến nghị

Mục tiêu chính của việc nghiên cứu, điều tra hiện trạng phát triển TMĐT là phản ánh được toàn cảnh tình hình phát triển TMĐT của đất nước một cách chân thực. Mọi đối tượng liên quan tới thương mại điện tử có thể tìm thấy thông tin có ích liên quan tới hoạt động của mình và có cơ sở tốt hơn để xác định hướng đi cho những năm tiếp theo.

Ngoài mục tiêu chính này, trên cơ sở tiếp thu ý kiến của nhiều đối tượng liên quan tới TMĐT và đánh giá tổng quan những hoạt động cần phải đẩy mạnh trong năm 2005 và các năm tiếp theo nhằm hỗ trợ tốt hơn cho sự phát triển TMĐT, có thể nêu ra một số khuyến nghị sau đối với các cơ quan quản lý nhà nước cũng như đối với cộng đồng doanh nghiệp. 2.1. Cần hoàn thành và công bố rộng rãi Kế hoạch tổng thể phát triển TMĐT

Thương mại điện tử có liên quan tới nhiều đối tượng, từ cơ quan lập pháp, tư pháp và hành pháp tới các doanh nghiệp, trường đại học, từ trung ương tới địa phương. Thương mại điện tử cũng là nơi giao thoa của nhiều lĩnh vực chuyên môn như CNTT, viễn thông, thương mại, sở hữu trí tuệ, v.v… Trong khi chưa xây dựng được chiến lược dài hạn phát triển thương mại điện tử cần gấp rút xây dựng và ban hành kế hoạch trung hạn. Kế hoạch tổng thể phát triển TMĐT không thể chỉ là sản phẩm của một cơ quan nào mà cần phải được đông đảo các đối tượng trên phạm vi cả nước tham gia góp ý và được cấp Thủ Tướng Chính phủ phê duyệt.

Page 119: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

104

Cũng cần phải thấy rõ CNTT và TT cũng như mọi hoạt động thương mại khác diễn ra hết sức mau lẹ, khi triển khai Kế hoạch tổng thể cần có sự linh hoạt cao, thường xuyên đánh giá tình hình và hàng năm điều chỉnh kế hoạch này cho phù hợp với thực tiễn. 2.2. Nhanh chóng tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi cho TMĐT

Cần cố gắng tới mức cao nhất để ban hành Luật Giao dịch điện tử vào cuối năm 2005. Có thể khẳng định khi giao dịch điện tử liên quan tới thương mại chưa được pháp luật thừa nhận có giá trị pháp lý thì TMĐT chưa thể phát triển mạnh. Trong tiến trình đổi mới hoạt động xây dựng và ban hành pháp luật, Uỷ ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc Hội đã trực tiếp chủ trì xây dựng Luật Giao dịch điện tử. Điều này có thể sẽ rút ngắn được thời gian so với việc Chính phủ chịu trách nhiệm xây dựng Luật và sau đó trình Quốc Hội thẩm định và thông qua.

Mặc dù Luật Giao dịch điện tử có vai trò cao nhất trong việc tạo lập môi trường pháp lý cho TMĐT nhưng cần phải sửa đổi, bổ sung nhiều luật khác trong hệ thống pháp luật hiện nay. Hai luật quan trọng khác là Bộ Luật Dân sự và Luật Thương mại cũng phải được ban hành và sớm đi vào cuộc sống.

Cũng cần phải sửa đổi các luật khác như Luật Kế toán, Luật Hải quan, Luật thuế giá trị gia tăng và ban hành mới hoặc sửa đổi nhiều nghị định và các văn bản pháp quy dưới luật khác. Chẳng hạn, Nghị định về chữ ký điện tử và chứng thực điện tử và Nghị định về thương mại điện tử có ý nghĩa rất lớn đối với việc thúc đẩy TMĐT trong năm 2005 và các năm tiếp theo. 2.3. Thay đổi một số chính sách

Cũng cần nhanh chóng sửa đổi một số văn bản pháp quy đã ban hành nhưng chưa phù hợp với thực tiễn. Cần phải nhìn nhận việc quản lý các hoạt động liên quan tới Internet có liên quan tới hầu như mọi mặt kinh tế - xã hội, trong đó có TMĐT. Các cơ quan ban hành chính sách cần có sự tiếp thu thường xuyên, liên tục phản hồi từ các đối tượng khác nhau đối với các chính sách do mình ban hành và phải cố gắng để việc quản lý cản trở thấp nhất tới sự phát triển.

Trong số các chính sách đã ban hành thì chính sách về quản lý cung cấp thông tin điện tử, thiết lập trang tin điện tử, quản lý tên miền Internet và an ninh mạng đòi hỏi sự nghiên cứu sửa đổi càng sớm càng tốt. 2.4. Cung cấp các dịch vụ công trực tuyến

Xét trên khía cạnh công nghệ và giải pháp thì tới cuối năm 2004 việc triển khai một số dịch vụ công trực tuyến như khai báo hải quan điện tử và khai báo thuế giá trị gia tăng điện tử là khả thi. Tuy nhiên, vì một số lý do như cơ sở pháp lý, nguồn nhân lực, tổ chức mà các dịch vụ này chưa được triển khai. Trong năm 2005 cần cố gắng để cung cấp hai dịch vụ này trực tuyến, góp phần giảm chi phí và nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp.

Page 120: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

105

Cũng cần nhanh chóng cung cấp một số dịch vụ công trực tuyến khác liên quan tới thủ tục xuất nhập khẩu như cấp phép nhập khẩu, cấp chứng nhận xuất xứ hàng xuất khẩu, v.v… 2.5. Phát triển nguồn nhân lực

Kết quả điều tra cho thấy nguồn nhân lực cho TMĐT ở nước ta rất khan hiếm. Phần lớn cán bộ hoạt động trong lĩnh vực thương mại điện tử cho tới cuối năm 2004 chưa qua mọi hình thức đào tạo nào mà đều trưởng thành từ thực tiễn.

Phát triển nguồn nhân lực là yếu tố quyết định sự thành công của thương mại điện tử. Trong khi chú trọng tới hình thức đào tạo chính quy tại các trường đại học nhằm xây dựng nguồn nhân lực cho trung hạn và dài hạn, cần đẩy mạnh các hình thức tuyên truyền, phổ biến và đào tạo khác, đặc biệt là việc sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng và đào tạo qua mạng Internet. Khuyến khích các doanh nghiệp tiên phong trong lĩnh vực thương mại điện tử tham gia đào tạo. 2.6. Hỗ trợ nghiên cứu và chuyển giao công nghệ

Không thể phát triển thương mại điện tử mà không nghiên cứu và ứng dụng nhiều công nghệ then chốt. Trước hết nhà nước cần nghiên cứu xây dựng và phổ biến các chuẩn trao đổi dữ liệu điện tử (EDI). EDI và ebXML là các công cụ quan trọng đặc biệt cho việc triển khai giao dịch thương mại điện tử quy mô lớn. Trong khi các công cụ này đã phổ biến trên thế giới thì thực tế cho thấy tới cuối năm 2004 hầu như chưa có doanh nghiệp hay tổ chức nào ở Việt nam ứng dụng vào hoạt động của mình.

Cũng cần hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng và phát triển các công nghệ về bảo đảm an toàn thông tin, đặc biệt là công nghệ hạ tầng khoá công khai (PKI) và thanh toán điện tử.

Phần mềm nguồn mở và miễn phí (FOSS) cũng mở ra cơ hội tiềm tàng cho việc phát triển phần mềm phục vụ cho thương mại điện tử. Nhà nước cần đẩy mạnh việc hỗ trợ các doanh nghiệp CNTT và các tổ chức ứng dụng phần mềm nguồn mở thông qua việc triển khai có hiệu quả Dự án tổng thể “Ứng dụng và phát triển phần mềm nguồn mở ở Việt nam giai đoạn 2004 – 2008” đã được Thủ Tướng Chính phủ phê duyệt năm 2004. 2.7. Đầu tư cho thương mại điện tử

Cho tới cuối năm 2004 các doanh nghiệp mới đầu tư rất ít cho TMĐT với hoạt động đầu tư chủ yếu là kết nối Internet, xây dựng và duy trì website với mục đích quảng bá sản phẩm và dịch vụ, hỗ trợ khách hàng, v.v… Kết quả điều tra cho thấy phần lớn doanh nghiệp tỏ ra hài lòng với việc đầu tư này.

Tuy nhiên, một số doanh nghiệp muốn cung cấp giải pháp hoặc kinh doanh các chợ “ảo” coi đầu tư của họ là đầu tư mạo hiểm. Nhiều doanh nghiệp cho rằng họ phải mất nhiều năm mới có cơ hội hoàn vốn đầu tư.

Page 121: BỘ THƯƠNG MẠI - osbholding.comosbholding.com/upload/attach/Bao cao TMDT 2004-v3b.pdf · Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại

106

Một mặt, nhà nước cần sớm có chính sách hỗ trợ đầu tư vào giải pháp, công

nghệ cho TMĐT. Mặt khác, các doanh nghiệp cũng cần đánh giá toàn diện hơn về hiệu quả đầu tư cho TMĐT, chú trọng đầu tư cho giải pháp kinh doanh trên mạng và đào tạo nguồn nhân lực hơn là đầu tư cho thiết bị CNTT. 2.8. Kinh doanh điện tử và TMĐT

Cho tới cuối năm 2004 một số doanh nghiệp đã ứng dụng có hiệu quả CNTT vào toàn bộ quá trình sản xuất của mình. Nếu đứng trên góc độ nội bộ doanh nghiệp thì có thể coi các doanh nghiệp này đã tin học hoá hoạt động kinh doanh ở mức cao và đã triển khai thành công kinh doanh điện tử (eBusiness). Tuy nhiên nếu hiểu theo nghĩa rộng là kinh doanh điện tử bao hàm cả thương mại điện tử thì có thể thấy các doanh nghiệp đó chưa tận dụng cơ hội do đầu tư lớn và kinh nghiệm ứng dụng CNTT trong nội bộ doanh nghiệp để mở rộng thị trường và giảm chi phí đầu vào nhờ triển khai TMĐT.

Tất nhiên việc triển khai tin học hoá trong nội bộ mỗi doanh nghiệp phụ thuộc không nhiều vào môi trường pháp lý, tức là phụ thuộc vào nhiều yếu tố vĩ mô ngoài tầm kiểm soát của doanh nghiệp. Nhưng nhận thức của nhiều doanh nghiệp về thương mại điện tử chưa đầy đủ cũng là một nguyên nhân quan trọng khiến cho họ đã thành công trong tin học hoá nội bộ doanh nghiệp của mình nhưng hầu như chưa chú ý đầu tư thoả đáng cho thương mại điện tử, nhất là hình thức thương mại điện tử quy mô lớn giữa các doanh nghiệp (B2B).