Ảnh Hưởng Của Tỉ Giá Tới Hoạt Động Xnk

56
BÀI THẢO LUẬN MÔN HỌC: TÀI CHÍNH QUỐC TẾ Đề tài: ẢNH HƯỞNG CỦA TỶ GIÁ ĐẾN HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU 1

description

XNK

Transcript of Ảnh Hưởng Của Tỉ Giá Tới Hoạt Động Xnk

Page 1: Ảnh Hưởng Của Tỉ Giá Tới Hoạt Động Xnk

BÀI THẢO LUẬN

MÔN HỌC: TÀI CHÍNH QUỐC TẾ

Đề tài:

ẢNH HƯỞNG CỦA TỶ GIÁ ĐẾN HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU

1

Page 2: Ảnh Hưởng Của Tỉ Giá Tới Hoạt Động Xnk

MỤC LỤC

1. TỔNG QUAN VỀ TỶ GIÁ VÀ HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU

1.1. Tổng quan về tỷ giá

1.1.1. Khái niệm

1.1.2. Các loại tỷ giá

1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ giá

1.2. Khái niệm, đặc điểm của hoạt động xuất nhập khẩu

1.2.1. Khái niệm

1.2.2. Đặc điểm

2. ẢNH HƯỞNG CỦA TỶ GIÁ ĐẾN HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP

KHẨU

2.1. Cơ sở lý luận

2.1.1. Tác động của biến động tỷ giá lên hoạt động xuất khẩu

2.1.2. Tác động của tỷ giá hối đoái lên hoạt động nhập khẩu

2.1.3. Tuyến J trong ngắn hạn và dài hạn

2.2. Thực trạng tại Việt Nam từ năm 1989 đến nay

2.2.1. Giai đoạn 1989-1992

2.2.2. Giai đoạn 1993-1996

2.2.3. Giai đoạn 1997-1999

2.2.4. Giai đoạn 2000-2006

2.2.5. Giai đoạn 2007-nay

3. NHỮNG KHÓ KHĂN, HẠN CHẾ TRONG VIỆC ĐIỀU HÀNH

CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ ẢNH HƯỞNG ĐẾN XUẤT NHẬP KHẨU TẠI

VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP

3.1. Những khó khăn hạn chế trong việc điều hành chính sách tỷ giá ảnh

hưởng đến xuất nhập khẩu tại Việt Nam

3.1.1. Khó khăn, hạn chế xuất phát từ bên trong

3.1.2. Khó khăn, hạn chế xuất phát từ bên ngoài

2

Page 3: Ảnh Hưởng Của Tỉ Giá Tới Hoạt Động Xnk

3.2. Giải pháp

3.2.1. Nhà nước

3.2.2. Doanh nghiệp

3

Page 4: Ảnh Hưởng Của Tỉ Giá Tới Hoạt Động Xnk

ẢNH HƯỞNG CỦA TỶ GIÁ ĐẾN HOẠT ĐỘNG

XUẤT NHẬP KHẨU TẠI VIỆT NAM

1. TỔNG QUAN VỀ TỶ GIÁ VÀ HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP

KHẨU

1.1. Tổng quan về tỷ giá

1.1.1. Khái niệm

Tỷ giá (tỷ giá hối đoái) là giá cả của một đồng tiền này được biểu thị

thông qua đồng tiền khác. Nói cách khác, tỷ giá là số đơn vị đồng tiền định giá

trên một đơn vị đồng tiền yết giá. Tại Việt Nam sử dụng phương pháp yết giá

trực tiếp, nghĩa là đồng ngoại tệ đóng vai trò là đồng tiền yết giá (số đơn vị = 1),

còn đồng nội tệ đóng vai trò là đồng tiền định giá.

1.1.2. Các loại tỷ giá

Có rất nhiều loại tỷ giá khác nhau tùy thuộc vào từng tiêu thức phân loại

khác nhau.

* Căn cứ vào chế độ quản lý ngoại hối, tỷ giá hối đoái bao gồm:

- Tỷ giá chính thức: là tỷ giá do ngân hàng trung ương của mỗi nước công

bố. Tỷ giá hối đoái này được công bố hàng ngày vào đầu giờ làm việc của ngân

hàng trung ương. Dựa vào tỷ giá này các ngân hàng thương mại và các tổ chức

tín dụng sẽ ấn định tỷ giá mua bán ngoại tệ giao ngay, có kỳ hạn, hoán đổi. Ở

một số nước như Pháp tỷ giá hối đoái chính thức được ấn định thông qua nhiều

giao dịch vào thời điểm xác định trong ngày.

- Tỷ giá kinh doanh (bao gồm tỷ giá mua, tỷ giá bán): là tỷ giá dùng để

kinh doanh mua bán ngoại tệ do các ngân hàng thương mại hay các tổ chức tín

dụng đưa ra. Cơ sở xác định tỷ giá này là tỷ giá chính thức do ngân hàng trung

ương công bố xem xét đến các yếu tố liên quan trực tiếp đến kinh doanh như:

4

Page 5: Ảnh Hưởng Của Tỉ Giá Tới Hoạt Động Xnk

quan hệ cung cầu ngoại tệ, tỷ suất lợi nhuận, tâm lý của người giao dịch đối với

ngoại tệ cần mua hoặc bán. Biên độ dao động hiện nay của tỷ giá kinh doanh so

với tỷ giá chính thức là 1%.

- Tỷ giá chợ đen: tỷ giá được hình thành bên ngoài thị trường ngoại tệ

chính thức.

* Căn cứ vào tiêu thức thời điểm thanh toán

- Tỷ giá giao ngay: là tỷ giá mua bán ngoại tệ mà việc giao nhận ngoại tệ

được thực hiện ngay trong ngày hôm đó hoặc một vài ngày sau. Loại tỷ giá này

do tổ chức tín dụng yết giá tại thời điểm giao dịch hoặc do hai bên thỏa thuận

nhưng phải đảm bảo trong biểu độ do Ngân hàng nhà nước quy định. Việc thanh

toán giữa các bên phải được thực hiện trong vòng hai ngày làm việc tiếp theo

sau ngày cam kết mua bán.

- Tỷ giá giao nhận có kỳ hạn: là tỷ giá giao dịch do tổ chức tín dụng yết

giá hoặc do hai bên tham gia giao dịch tự tính toán và thỏa thuận với nhau

nhưng phải đảm bảo trong biên độ quy định về tỷ giá kỳ hạn hiện hành của ngân

hàng nhà nước tại thời điểm ký hợp đồng.

Thường là giá mua bán ngoại tệ mà việc giao nhận ngoại tệ được thực

hiện theo hợp đồng (1,3,6 tháng…)

- Tỷ giá mở cửa: Tỷ giá mua bán ngoại tệ của chuyến giao dịch đầu tiên

trong ngày.

- Tỷ giá đóng cửa: Tỷ giá mua bán ngoại tệ của hợp đồng ký kết cuối

cùng trong ngày.

* Căn cứ vào tiêu thức giá trị của tỷ giá:

- Tỷ giá danh nghĩa là tỷ giá được yết và có thể trao đổi giữa hai đồng

tiền mà không đề cập đến tương quan sức mua giữa chúng.

- Tỷ giá thực là tỷ giá đã được điều chỉnh theo sự thay đổi trong tương

quan giá cả của nước có đồng tiền yết giá và giá cả hàng hóa của nước có đồng

tiền định giá.

Er = En* Pb/ Pf

5

Page 6: Ảnh Hưởng Của Tỉ Giá Tới Hoạt Động Xnk

En: Tỷ giá hối đoái danh nghĩa.

Er:Tỷ giá hối đoái thực.

Pb: Giá cả ở nước có đồng tiền yết giá

Pf: Giá cả ở nước có đồng tiền định giá.

* Căn cứ vào phương tiện chuyển ngoại hối, tỷ giá được phân thành

hai loại:

- Tỷ giá điện hối: là tỷ giá chuyển ngoại hối bằng điện. Đây là tỷ giá cơ

sở để xác định các loại tỷ giá khác.

- Tỷ giá thư hối là tỷ giá chuyển ngoại hối bằng thư.

* Căn cứ vào phương tiện thanh toán quốc tế, tỷ giá được chia ra làm

5 loại:

- Tỷ giá séc là tỷ giá mua bán các loại séc ngoại tệ

- Tỷ giá hối phiếu trả tiền ngay là tỷ giá mua bán các loại hối phiếu trả

tiền ngay bằng ngoại tệ.

- Tỷ giá hối phiếu có kỳ hạn là tỷ giá mua bán các loại hối phiếu có kỳ

hạn bằng ngoại

tệ.

- Tỷ giá chuyển khoản là tỷ giá mua bán ngoại hối bằng cách chuyển

khoản qua ngân hàng.

- Tỷ giá tiền mặt là tỷ giá mua bán ngoại hối được thanh toán bằng tiền

mặt.

1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ giá

1.1.3.1. Tình hình cán cân thanh toán quốc tế

Cán cân thanh toán của một quốc gia có thể rơi vào một trong ba trạng

thái sau: Cân bằng, thâm hụt hay thặng dư, ảnh hưởng trực tiếp hay nhạy bén

đến tỷ giá. Do vậy, nếu cán cân thanh toán quốc tế dương thì tỷ giá hối đoái có

chiều hướng giảm hoặc giữ vững. Ngược lại nếu BOP âm thì tỷ giá hối đoái có

xu hướng tăng.

6

Page 7: Ảnh Hưởng Của Tỉ Giá Tới Hoạt Động Xnk

1.1.3.2. Mức độ tăng trưởng hay suy thoái của nền kinh tế

Mức độ tăng, giảm GDP thực tế của một nước so với nước khác, trong

điều kiện các nhân tố khác không thay đổi, sẽ làm tăng hay giảm nhu cầu về

hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu, do đó sẽ làm cho nhu cầu ngoại hối để thanh toán

hàng nhập khẩu sẽ tăng lên hay giảm xuống từ đó tác động đến cung cầu về

ngoại tệ từ đó làm cho tỷ giá hối đoái của đồng tiền trong nước so đồng tiền

nước ngoài giảm đi hoặc tăng lên.

1.1.3.3. Sự chênh lệch lạm phát của đồng tiền quốc gia

Khi tỷ lệ lạm phát ở một quốc gia tăng lên hay giảm xuống sẽ làm giá trị

của đồng tiền nước đó thay đổi dẫn tới tỷ giá hối đoái của đồng tiền nước đó so

với nước ngoài bị biến động.

Nếu mức lạm phát của một nước này cao hơn mức lạm phát của nước

khác thì sức mua của nội tệ sẽ giảm so với ngoại tệ. Lạm phát cao càng kéo dài,

đồng tiền càng mất giá, sức mua của nó càng giảm nhanh,sức mua của tiền

trong nước giảm thì sức mua đối ngoại của nó cũng giảm làm cho tỷ giá hối

đoái tăng lên.

1.1.3.4. Mức chênh lệch lãi suất giữa các nước

Ở thị trường nào có mức lãi suất ngắn hạn cao hơn thì những luồng vốn

ngắn hạn có xu hướng đổ về thị trường đó làm cho cung về ngoại tệ tăng lên,

cầu về ngoại tệ giảm do đó tỷ giá hối đoái có xu hướng giảm.

1.1.3.5. Các nhân tố có khả năng tác động cung cầu ngoại tệ khác

Một số nhân tố khác cũng có tác động gián tiếp đến tỷ giá thông qua cung

cầu ngoại tệ như: yếu tố chính trị, kinh tế xã hội, thiên tai chiến tranh, hoạt

động đầu cơ…

Ví dụ:

7

Page 8: Ảnh Hưởng Của Tỉ Giá Tới Hoạt Động Xnk

- Nếu có sự đình công, biểu tình thì các nhà đầu tư nước ngoài sẽ rút vốn

làm cho ngoại tệ trở nên khan hiếm làm cho cung ngoại tệ giảm do vậy tỷ giá

giảm.

- Hoạt động của những người đầu cơ ngoại tệ tác động mạnh đến tỷ giá

hối đoái.

Khi nhà đầu cơ dự đoán giá của một loại ngoại tệ nào đó sẽ lên, họ sẽ

dùng nội tệ để mua một số lượng lớn ngoại tệ, làm cho ngoại tệ này ở trên thị

trường trở nên khan hiếm, cung sẽ nhỏ hơn cầu về ngoại tệ đó dẫn đến giá của

loại ngoại tệ đó tăng do đó tỷ giá hối đoái tăng lên.

1.2.Khái niệm, đặc điểm của hoạt động xuất nhập khẩu

1.2.1.Khái niệm

Hoạt động xuất nhập khẩu là sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các nước

thông qua hành vi mua bán. Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan hệ xã

hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về nền kinh tế giữa những người sản

xuất hàng hoá riêng biệt của các quốc gia khác nhau trên thế giới.

Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu có một vị trí và vai trò vô cùng to

lớn trong quá trình phát riển kinh tế của mỗi quốc gia. Xuất khẩu là hoạt động

kinh doanh đem lại lợi nhuận lớn và là phương tiện về thức đẩy nền kinh tế phát

triển. Nhập khẩu cho phép bổ sung những sản phẩm hàng hoá trong nước chưa

sản xuất được hoặc sản xuất không hiệu quả và đem lại lợi ích cho các bên tham

gia.

1.2.2. Đặc điểm

Xuất khẩu thể hiện sự kết hợp chặt chẽ và tối ưu các ngành khoa học

quản lý với các nghệ thuật kinh doanh, giữa nghệ thuật kinh doanh với các yếu

tố khác của mỗi quốc gia như yếu tố về pháp luật và các yếu tố về kinh tế văn

hoá. Hoạt động xuất khẩu nhằm khai thác lợi thế so sánh cho từng nước, khai

thác các nguồn lực cho phát triển, góp phần cải thiện đời sống nhân dân gia tang

tiến bộ xã hội và góp phần đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế thế giới và

8

Page 9: Ảnh Hưởng Của Tỉ Giá Tới Hoạt Động Xnk

quốc tế hoá. Lợi thế so sánh đó là các lợi thế về vị trí địa lý, về lao động, về tài

nguyên và sở hữu phát minh sang chế. Hiện nay hoạt động xuất khẩu của nước

ta một trong những mục tiêu cấp bách hàng đầu được chú trọng. Bởi nó đem lại

lợi ích vô cùng to lớn cho sự phát triển của nước tao, tạo sự thuận lợi cho giao

lưu quốc tế, đẩy mạnh sự phát triển kinh tế văn hoá của mỗi quốc gia.

Nhập khẩu cũng là một hoạt động diễn ra giữa hai hay nhiều quốc gia

khác nhau ở trong các điều kiện môi trường và bối cảnh khác nhau. Nhập khẩu

tác động một cách trực tiếp và quyết định đến sản xuất kinh tế, đời sống của mỗi

người trong mỗi một quốc gia. Nhập khẩu là để tăng cơ sở vật chất kỹ thuật,

công nghệ tiên tiến hiện đại cho sản xuất và các hàng hoá tiêu dùng mà trong

nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất không hiệu quả.

Mỗi một nước đều có một thế mạnh khác nhau, có thể tự sản xuất ra

nhiều loại hàng hoá khác nhau nhưng không thể không có sự trao đổi hàng hoá

với các quốc gia khác. Một quốc gia muốn phát triển được thì phải có một nền

kinh tế mở, thực hiện giao lưu trao đổi hàng hoá với các nước jkhác mà cụ thể ở

đây là phải thực hiện các hoạt động xuất nhập khẩu.

9

Page 10: Ảnh Hưởng Của Tỉ Giá Tới Hoạt Động Xnk

2. ẢNH HƯỞNG CỦA TỶ GIÁ ĐẾN HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP

KHẨU

2.1. Cơ sở lý luận

2.1.1. Tác động của biến động tỷ giá lên hoạt động xuất khẩu

*Ảnh hưởng của biến động tỷ giá lên kim ngạch xuất khẩu:

Khi tỷ giá hối đoái giảm, giá đồng nội tệ tăng lên, lượng ngoại tệ thu về

từ hoạt động xuất khẩu sẽ giảm xuống, doanh thu từ hoạt động xuất khẩu tính ra

đồng nội tệ bị thu hẹp, xuất khẩu không được khuyến khích hay xu thế chung

thường gặp là một sự sút giảm trong hoạt động xuất khẩu.

Bên cạnh đó, khi tỷ giá hối đoái tăng, giá đồng nội tệ giảm xuống thì một

tương lai tươi sáng lại mở ra cho các nhà xuất khẩu, do lượng ngoại tệ thu về

đổi ra được nhiều ngoại tệ hơn, kim ngạch xuất khẩu tăng lên, kích thích hoạt

động xuất khẩu tăng trưởng và phát triển với điều kiện các chi phí đầu vào của

sản xuất hàng xuất khẩu không tăng lên tương ứng.

*Ảnh hưởng của biến động tỷ giá lên cơ cấu hàng xuất khẩu:

Đối với cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, các mặt hàng nông sản, thô sơ chế

dường như nhạy cảm hơn đối với mọi biến động tăng, giảm của tỷ giá hối đoái

so với các mặt hàng như máy móc, thiết bị toàn bộ, xăng dầu…Lý do được đưa

ra nhằm giải thích cho vấn đề này đó là độ co giãn của các mặt hàng nông sản,

thô sơ chế đối với giá xuất khẩu hoặc tỷ giá hối đoái áp dụng là rất cao, do đây

là các mặt hàng có thể thay thế được trong khi độ co giãn của các mặt hàng máy

móc, thiết bị toàn bộ, các mặt hàng không thể thay thế được như xăng, dầu … là

rất thấp. Tỷ giá hối đoái giảm đi khiến giá hàng xuất khẩu bị đắt tương đối, các

mặt hàng dễ bị thay thế là danh mục đầu tiên bị loại ra khỏi danh sách sử dụng

của người tiêu dùng ngoại quốc và các mặt hàng này cũng sẽ mất dần trong cơ

cấu các mặt hàng xuất khẩu. Trái lại, khi tỷ giá hối đoái tăng, cơ cấu mặt hàng

xuất khẩu có thể sẽ trở nên phong phú hơn do tính cạnh tranh về giá, sự tăng

doanh thu xuất khẩu khiến các nhà xuất khẩu đa dạng hóa mặt hàng…Đối với

10

Page 11: Ảnh Hưởng Của Tỉ Giá Tới Hoạt Động Xnk

các mặt hàng không thể thay thế như xăng dầu thì tỷ giá có tăng hay giảm cũng

hầu như không ảnh hưởng gì mấy đến cơ cấu cũng như tỷ trọng các mặt hàng

này.

*Ảnh hưởng của biến động tỷ giá lên tính cạnh tranh của xuất khẩu:

Đối với cạnh tranh về giá hàng xuất khẩu, một sự tăng lên của tỷ giá hối

đoái sẽ khiến hàng hóa xuất khẩu nước này trở nên cạnh tranh do giá cả rẻ hơn,

ngược lại nếu giá đồng nội tệ tăng tức tỷ giá hối đoái giảm sẽ khiến giá hàng

xuất khẩu trở nên đắt tương đối, tính cạnh tranh về giá giảm đi. Trong cùng một

thị trường tiêu thụ nếu chất lượng hàng hóa như nhau thì xu hướng chung,

người tiêu dùng sẽ sử dụng sản phẩm nào rẻ hơn. Và giả sử chi phí sản xuất tại

các quốc gia quy về cùng một đồng tiền là ngang nhau thì nước nào có mức

giảm tỷ giá đồng tiền nước mình so với giá nội tệ của thị trường tiêu thụ lớn hơn

thì tính cạnh tranh về giá của nước đó cao hơn, nước đó có cơ hội phát triển

xuất khẩu nhiều hơn.

Tóm lại, giá đồng nội tệ giảm có lợi cho xuất khẩu, giá đồng nội tệ tăng

ngược lại sẽ gây bất lợi. Xu hướng này hầu như đúng đối với các quốc gia thực

thi chế độ tỷ giá thả nổi hoặc thả nổi có quản lý, nơi tỷ giá danh nghĩa sát hoặc

tiến sát giá trị thực, còn đối với các quốc gia theo chế độ tỷ giá cố định, việc

giảm, tăng tỷ giá chính là giảm, tăng tỷ giá danh nghĩa, không phải tỷ giá thực,

do đó nếu một sự tăng tỷ giá hối đoái mà vẫn khiến tỷ giá danh nghĩa thấp hơn

tỷ giá thực thì đồng nội tệ vẫn bị xem là định giá cao hơn giá trị thực, tác dụng

thúc đẩy xuất khẩu sẽ không nhiều.

2.1.2. Tác động của tỷ giá hối đoái lên hoạt động nhập khẩu

*Ảnh hưởng của biến động tỷ giá lên kim ngạch nhập khẩu:

Trên phương diện kim ngạch nhập khẩu, xu hướng chung thường thấy là

khi giá đồng nội tệ tăng hay tỷ giá hối đoái giảm, nhập khẩu sẽ được khuyến

khích do giá nhập khẩu trở nên rẻ tương đối, chi phí nhập khẩu giảm, lượng

11

Page 12: Ảnh Hưởng Của Tỉ Giá Tới Hoạt Động Xnk

nhập khẩu tăng lên dẫn đến sự tăng lên trong kim ngạch nhập khẩu. Bên cạnh

đó, khi tỷ giá hối đoái tăng (đồng nội tệ giảm giá) sẽ gây bất lợi cho nhập khẩu,

giá nhập khẩu trở nên đắt hơn, việc các nhà nhập khẩu phải bỏ nhiều tiền hơn để

mua một lượng ngoại tệ như cũ sẽ dẫn đến việc giảm lợi nhuận các nhà nhập

khẩu. Một khi lợi nhuận không đủ bù đắp chi phí, cầu nhập khẩu giảm xuống,

do đó kim ngạch nhập khẩu giảm.

*Ảnh hưởng của biến động tỷ giá lên cơ cấu nhập khẩu:

Trên phương diện cơ cấu nhập khẩu, một sự tăng tỷ giá hối đoái sẽ khiến

các nhà quản lý cân nhắc xem sẽ phải nhập khẩu những mặt hàng gì, những

mặt hàng như nông sản có thể sẽ bị hạn chế, các mặt hàng như xăng, dầu, máy

móc, thiết bị toàn bộ có thể sẽ chiếm tỷ trọng lớn trong danh mục nhập khẩu

(điều này đặc biệt đúng với các nước đang phát triển hướng về xuất khẩu), còn

một sự tăng trong tỷ giá hối đoái sẽ cho chiều hướng ngược lại.

*Ảnh hưởng của biến động tỷ giá lên tính cạnh tranh của hàng nhập

khẩu:

Xét về tính cạnh tranh nhập khẩu, không một quốc gia nào muốn sản

phẩm nhập khẩu lại có tính cạnh tranh cao hơn sản phẩm trong nước, khi tỷ giá

tăng lên, sản phẩm nhập khẩu có lợi thế trong khi sản phẩm trong nước lại bất

lợi về giá, khi tỷ giá giảm, cạnh tranh về giá của sản phẩm nhập khẩu không

còn, việc tỷ giá giảm tương đương với việc đánh thuế lên hàng nhập khẩu do đó

hàng nhập khẩu trở nên đắt hơn, nếu tình trạng này kéo dài, hàng hóa nhập khẩu

từ thị trường này có thể được thay thế bằng hàng hóa thị trường khác hoặc sản

phẩm trong nước.

2.1.3.Tuyến J trong ngắn hạn và dài hạn

Khi giá hàng hóa nhập khẩu tăng, theo lý thuyết người tiêu dùng sẽ

chuyển sang dùng hàng hóa thay thế trong nước.Tuy nhiên việc điều chỉnh ưu

12

Page 13: Ảnh Hưởng Của Tỉ Giá Tới Hoạt Động Xnk

tiên hàng thay thế cần phải mất một thời gian nhất định. Do đó có thể nói rằng

cầu trong ngắn hạn có độ co giãn thấp hơn so với cầu trong dài hạn. Vì vậy sau

khi đồng nội tệ giảm giá, giá hàng hóa nhập khẩu sẽ tăng nhưng người tiêu dùng

trong nước vẫn tiếp tục mua hàng nhập khẩu với hai lý do sau:

- Người tiêu dùng vẫn chưa điều chỉnh ngay việc ưu tiên mua hàng nội

địa thay vì mua hàng nhập khẩu (cầu nhập khẩu không co giãn).

- Các nhà sản xuất trong nước cần phải có một thời gian nhất định đểsản

xuất được hàng có thể thay thế hàng nhập khẩu (cung không co giãn).

Như vậy chỉ sau khi những nhà sản xuất trong nước thực sự cung cấp

hàng thay thế nhập khẩu và người tiêu dùng ưu tiên dùng hàng nội thay vì dùng

hàng ngoại thì cầu về hàng hoá nhập khẩu mới giảm.

Tương tự như vậy, sau khi đồng nội tệ giảm giá, việc mở rộng xuất khẩu

chỉ trở thành hiện thực khi các nhà sản xuất đã sản xuất được nhiều hàng hóa

hơn để xuất khẩu và người tiêu dùng nước ngoài đã thực sự chuyển hướng ưu

tiên mua hàng hoá của nước này.

*Tuyến J

Hiệu ứng tuyến J trong trường hợp đồng tiền của 1 nước giảm giá đối

với cán cân thương mại của nước đó: Theo thời gian, cán cân thương mại có

hình dáng như chữ J nếu độ co giãn của cầu nhập khẩu và cung xuất khẩu nhỏ

hơn trong thời gian ngắn hạn so với thời gian dài hạn.

Vì cầu nhập khẩu và cung về xuất khẩu có độ giãn trong ngắn hạn thấp

hơn so với dài hạn, nên khi đồng nội tệ giảm giá thì cán cân thương mại trở nên

xấu đi trong ngắn hạn, nhưng sau đó sẽ được cải thiện. Theo thời gian, sự thay

đổi của cán cân thương mại được mô tả như hình a.

13

Page 14: Ảnh Hưởng Của Tỉ Giá Tới Hoạt Động Xnk

Hình này nói lên, đồng tiền giảm giá tại thời điểm 0, và sau do người

tiêu dùng tạm thời chi tiêu nhiều hơn cho hàng nhập khẩu, xuất khẩu cũng tăng

nhưng chỉ bù đắp phần chi tiêu phụ trội cho nhập khẩu, do đó cán cân thương

mại trở nên xấu hơn ngay sau khi đồng nội tệ giảm giá. Sau một thời gian, khi

nhập khẩu và xuất khẩu co giãn, thì cán cân thương mại dần dần được cải thiện

và cuối cùng là tăng lên. Điều này được mô tả bằng tuyến J trên hình a và còn

được gọi là hiệu ứng tuyến J.

Hình b diễn tả những gì xảy ra trong trường hợp khi động nội tệ lên giá

so với những ngoại tệ khác. Sau khi đồng nội tệ tăng giá tại thời điểm 0, giá

14

Page 15: Ảnh Hưởng Của Tỉ Giá Tới Hoạt Động Xnk

hàng hoá nhập khẩu giảm, nên chi tiêu để mua hàng nhập khẩu giảm. Nếu giá trị

xuất khẩu giảm ít hơn so với giá trị nhập khẩu, thì cán cân thương mại trở nên

tốt hơn, đây cũng là điều thường được dự tính trong thực tế sau khi đồng tiền

lên giá.Tuy nhiên, sau một thời gian nhất định, xuất khẩu và nhập khẩu trở nên

co giãn hơn, dẫn đến tốc độ tăng giá trị nhập khẩu nhanh hơn tốc độ giảm giá và

xuất khẩu giảm đủ để cho cán cân thương mại trở nên xấu đi. Chúng ta thấy

rằng tuyến J trong trường hợp đồng nội tệ lên giá, như hình b và ngược lại với

tuyến J trên hình a trong trường hợp đồng nội tệ giảm giá. Qua phân tích trên ta

thấy rằng tuyến J xuất hiện đồng thời: tỷ giá không bình ổn và cán cân thương

mại tạm thời trở nên xấu đi hay tốt lên hơn sau khi đồng tiền giảm giá hoặc lên

giá.

Tóm lại, tác động của tỷ giá với hoạt động xuất nhập khẩu thường có

những hiệu ứng tích cực nhanh chóng trong điều kiện nền kinh tế thị trường

phát triển tương đối cao, đồng bộ, nguyên tắc thị trường được đảm bảo, không

có sự can thiệp của nhà nước vào quá trình xuất nhập khẩu.

Trong điều kiện Việt Nam ảnh hưởng của việc tăng giảm tỷ giá

USD/VND chưa thể so sánh với ảnh hưởng của sự biến động của tỷ giá hối đoái

tới hoạt động xuất nhập khẩu của một số cặp tỷ giá như USD/JPY, USD/NDT

vì điều kiện thị trường chưa cao, vì chính sách can thiệp bảo hộ sản xuất, vì

năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam, đặc biệt vì năng lực sản xuất hàng

hoá xuất khẩu của Việt Nam khác xa so với điều kiện của Mỹ, Nhật do đó chính

sách tỷ giá của Việt Nam thường bị động, không phát huy hết tác dụng như

mong muốn.

2.2. Thực trạng tại Việt Nam từ năm 1989 đến nay

2.2.1. Giai đoạn 1989-1992

15

Page 16: Ảnh Hưởng Của Tỉ Giá Tới Hoạt Động Xnk

Chỉ thị 271-CT ban hành tháng 10/1988 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng

với nội dung xác lập một mức tỷ giá đồng Việt Nam đối với khu vực ngoại tệ

chuyển đổi phù hợp với mức tỷ giá thị trường trong biên độ dao động 10-20%

chính là biện pháp đầu tiên trong việc thực hiện chính sách đổi mới tỷ giá của

Chính phủ. Tháng 3/1989, Nhà nước bãi bỏ hệ thống tỷ giá kết toán nội bộ, tiến

tới thực hiện thống nhất một mức tỷ giá duy nhất cho toàn bộ hoạt động của nền

kinh tế - tỷ giá chính thức. Từ đó, động lực phát triển ngoại thương được khôi

phục, kinh tế Việt Nam cũng như hoạt động xuất nhập khẩu có cơ hội phát triển

mạnh.

Thật vậy, tỷ giá hối đoái cũng đã thể hiện vai trò quan trọng trong việc

thúc đẩy hoạt động ngoại thương trên tất cả các phương diện từ kim ngạch cho

đến cơ cấu, thị trường xuất nhập khẩu.

Bảng 1: Tỷ giá hối đoái và xuất nhập khẩu giai đoạn 1986-1992

Năm

Tỷ giá chính thức (USD/VND)

Xuất khẩu Nhập khẩu Cán cân thương mạiTỷ giá thị trường

(USD/VND)

Mức tỷ giá

(đồng)

%Tăng, giảm

Kim ngạch (triệu USD)

% Tăng, giảm

Kim ngạch (triệu USD)

% Tăng, giảm

Giá trị (triệu USD)

% Tăng, giảm

Mức tỷ giá

(đồng)

% Tăng, giảm

1986 80 100 789,1 100 2155,1 100 -1366 100 425 369,56

1987 368 460 854,2 108,25 2455,1 113,92 -1600,9 117,20 1270 298,82

1988 3000 815,21 1038,4 121,56 2756,7 112,29 -1718,3 107,33 5000 393,70

1989 3900 130 1320 127,12 2565,8 93,08 -1245,8 72,50 4100 82

1990 6300 161,54 2404 182,12 2752,4 107,27 -348,4 27,96 6500 158,54

1991 9767 155,03 2087,1 86,82 2338.4 84,96 -251,3 72,13 11975 184,23

1992 10720 109,75 2580,7 123,65 2540,7 108,65 40 -15,92 10550 88,1

Nguồn: Tính toán dựa trên số liệu Tổng Cục Thống Kê

16

Page 17: Ảnh Hưởng Của Tỉ Giá Tới Hoạt Động Xnk

Bảng 1 cho thấy giá trị danh nghĩa đồng Việt Nam sụt giảm mạnh và liên

tiếp trong suốt giai đoạn 89-92. Từ mức tỷ giá 1USD = 3000VND năm 1989,

đồng VND đã giảm xuống 10720 đồng/đôla năm 1992. Trong vòng 3 năm, tỷ

giá đã sụt giảm gần 4 lần. Sự sụt giảm này đã tác động mạnh mẽ đến hoạt động

ngoại thương Việt Nam, đặc biệt là trên phương diện kim ngạch xuất-nhập khẩu

trong quan hệ buôn bán với các quốc gia.

Ta có thể nhận thấy trước thời điểm 1989, khi Nhà nước càng cố gắng hạ

giá đồng nội tệ thì nhập siêu lại càng lớn. Nếu nhập siêu năm 1987 khoảng 1,6

tỷ thì sang năm 1988, khi tỷ giá bị hạ xuống thấp hơn so với năm trước đó 8 lần

thì nhập siêu lại lên đến hơn 1,7 tỷ. Điều này cho thấy việc hạ giá đồng Việt

Nam trong bối cảnh vẫn áp dụng tỷ giá kết toán nội bộ không kích thích được

ngoại thương mà còn làm cho nhập siêu trầm trọng hơn.

Trong thời kỳ 86-89, tổng độ co giãn xuất nhập khẩu chỉ đạt 0,003 (giai

đoạn 89-92, chỉ số này đạt 0,46), điều đó thể hiện rằng nền kinh tế tăng trưởng

không bền vững. Trung bình giá đồng nội tệ giảm 1 đồng thì xuất khẩu chỉ tăng

có 0,195 đồng và nhập khẩu giảm 0,192 đồng. Nhưng do lượng hàng xuất khẩu

luôn nhỏ hơn lượng hàng nhập khẩu nên tình trạng kim ngạch nhập khẩu lớn

gấp hai, ba lần kim ngạch xuất khẩu diễn ra liên tục trong 3 năm 1986-1989.

Nguyên nhân chính là trong khi sản xuất hàng xuất khẩu sụt giảm, động lực

xuất khẩu bị thủ tiêu do tính cứng nhắc của tỷ giá, thì nhập khẩu lại tăng lên để

phục vụ nhu cầu tiêu dùng thiết yếu, nhu cầu mà sản xuất trong nước chưa thể

đáp ứng nổi.

Năm 1989, sau khi xóa bỏ tỷ giá kết toán nội bộ, thực hiện thống nhất tỷ

giá, lĩnh vực ngoại thương nhanh chóng có chuyển biến rõ nét. Mặc dù mức giá

đồng ngoại tệ chỉ tăng 30% ( ít hơn so với giai đoạn trước đó) song nhập khẩu

đã giảm xuống chỉ bằng 93% so với năm trước, xuất khẩu được kích thích tăng

trưởng nên kim ngạch đã đạt được 1,3 tỷ đô la, thu hẹp khoảng cách nhập siêu

xuống còn 1,2 tỷ đô la (so với mức 1,7 tỷ đô la năm 1988).

17

Page 18: Ảnh Hưởng Của Tỉ Giá Tới Hoạt Động Xnk

Mặt khác, do tỷ giá chính thức được điều chỉnh sát với tỷ giá thị trường,

hình thành theo quy luật cung cầu nên tác động của tỷ giá đến hoạt động thương

mại- xuất nhập khẩu trở nên rõ ràng hơn. Giá đồng nội tệ giảm xuống thực sự

kích thích tăng trưởng xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu. Năm 1989 nếu tỷ giá giảm

1 đồng, xuất khẩu lập tức tăng lên 0,97 đồng, thì bước sang năm 1990 sau khi

giảm tỷ giá xuống trên 60% thì 1 đồng giảm của tỷ giá lại khiến xuất khẩu tăng

những 1,13 đồng, một mức tăng khá lớn, ta thấy được xuất khẩu co giãn hoàn

toàn với tỷ giá do đó có tác động tích cực lên hoạt động xuất khẩu. Trong bốn

năm 1989-1992 tác động của tỷ giá đến hoạt động nhập khẩu thể hiện qua thực

trạng: mức giảm giá đồng nội tệ càng lớn thì mức tăng nhập khẩu càng giảm.

Như năm 1989, mức giảm giá 30%, trong đó 1 đồng giảm giá kéo theo mức

tăng 0,71 đồng thì bước sang năm 1990, tỷ giá giảm đến 60% đã lập tức giảm

mức tăng nhập khẩu xuống còn 0,66 đồng.

Đặc biệt, sự kiện tỷ giá danh nghĩa giảm thấp hơn 7,04% so với tỷ giá thị

trường cuối năm 1991 cùng với quyết định bãi bỏ “tỷ giá nhóm hàng” trong

thanh toán ngoại thương năm 1992 đã khiến ngoại thương Việt Nam xuất siêu

liên tục trong 6 tháng đầu năm 1992. Vào cuối năm 1992, cán cân thương mại

thặng dư 40 triệu đô la. Nguyên nhân xuất siêu chính là do tỷ giá năm 1992 bởi

tại thời điểm 92 giá thành sản xuất hàng Việt Nam còn cao, chất lượng còn thấp,

công tác xúc tiến thương mại cũng chưa được coi trọng và cạnh tranh về giá

được xem là yếu tố duy nhất đưa ngoại thương Việt Nam đạt thành tích trên.

Nếu đầu năm 1991, buôn lậu qua biên giới Việt Nam -Trung Quốc tăng mạnh

do hàng hóa của Trung Quốc được duy trì ở mức giá thấp hơn nhiều so với mức

giá hàng hóa của nước ta thì cuối năm 1991, khi đồng Việt Nam bị phá giá

mạnh so với đô la 50% từ khoảng 7000VND/đô la xuống 14500 VND/đô la thì

tỷ giá đồng Việt Nam so với nhân dân tệ của Trung Quốc cũng bị sụt giảm

mạnh. So với năm 1991, đồng nhân dân tệ đã tăng giá 50%, mức tăng giá này đã

kéo theo tình trạng hàng hóa Trung Quốc bị tăng cao, gặp khó khăn trong tiêu

18

Page 19: Ảnh Hưởng Của Tỉ Giá Tới Hoạt Động Xnk

thụ trên thị trường Việt Nam. Nhiều mặt hàng Việt Nam có cơ hội cạnh tranh

với giá thấp hơn các sản phẩm nội địa trên thị trường Trung Quốc.

Về tác động của tỷ giá lên cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu giai đoạn

1989-1992, cùng với sự tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu trên cơ sở giảm giá

VND, nền kinh tế đã tích lũy được một số vốn sử dụng trong việc đầu tư, mở

rộng sản xuất. Sản xuất lương thực trong nước đối với một số mặt hàng nhờ có

vốn đã bắt đầu đủ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước. Số lượng gạo nhập

khẩu giảm, thay vào đó là các mặt hàng thuộc danh mục tư liệu sản xuất,

nguyên nhiên vật liệu. Cơ cấu xuất khẩu cũng có sự thay đổi, danh mục các mặt

hàng xuất khẩu được mở rộng. Năm 1989, Việt Nam bắt đầu xuất khẩu dầu thô

với sản lượng 1,5 triệu tấn, đó là chưa kể đến hàng loạt các nhà máy cũ được

đổi mới, các nhà máy mới được xây dựng nhằm phục vụ công tác xuất khẩu.

Ngoại thương được đa dạng hóa ở mức cao, tạo ra được gần 10 mặt hàng chủ

lực có kim ngạch xuất khẩu trên 100 triệu USD.

Đối với thị trường xuất nhập khẩu, do tỷ giá hối đoái neo với đồng đô la

được xem là chuẩn mực nên khu vực thị trường xuất nhập khẩu cũng có xu thế

chuyển hướng sang những khu vực sử dụng đồng đô la trong thanh toán. Tỷ

trọng xuất nhập khẩu từ khu vực đồng Rúp giảm hẳn, chỉ còn khoảng 15% năm

1989 so với 85% năm 1987. Thị trường Đông Âu không còn giữ vai trò chủ

đạo, mà thị trường Châu Á dần được coi trọng hơn trong hợp tác thương mại

với Việt Nam trên lĩnh vực xuất nhập khẩu.

Chúng ta có thể nhận thấy rằng việc xóa bỏ tỷ giá kết toán nội bộ, thống

nhất tỷ giá, đưa tỷ giá chính thức tiến gần tỷ giá thị trường nhằm đạt được mức

tỷ giá hợp lý những năm cuối thập niên 80 và đầu thập niên 90 thế kỷ trước là

một chủ trương đúng đắn. Chủ trương này đã có ảnh hưởng tích cực đến hoạt

động nhập khẩu, giúp cải thiện cán cân thương mại và đặc biệt tạo điều kiện cho

nền kinh tế Việt Nam trong phát triển kinh tế thông qua xuất khẩu.

2.2.2. Giai đoạn 1993-1996

19

Page 20: Ảnh Hưởng Của Tỉ Giá Tới Hoạt Động Xnk

Tình hình xuất siêu năm 1992 kéo dài không lâu. Ngay trong năm 1992,

trong khi 6 tháng đầu năm xuất siêu do tỷ giá diễn biến có lợi cho xuất khẩu thì

6 tháng cuối năm, nhập siêu liên tục diễn ra. Trong khi báo chí ra sức cảnh báo

việc tăng giá nội tệ sẽ hủy hoại xuất khẩu thì tỷ giá lại tiếp tục bị điều chỉnh

theo hướng lên giá và ngày càng lệch xa khỏi trục tỷ giá thực.

Bên cạnh đó, nguyên nhân chính của việc chỉ đạo lên giá nội tệ lại được

cho rằng là tình trạng lạm phát cao đang diễn ra, do đó cần nâng tỷ giá hối đoái

để tăng cường tiêu dùng, giảm tỷ lệ lạm phát. Sau đó mức lạm phát đã giảm từ

17,5% năm 1992 xuống còn 5,2% năm 1993. Thế nhưng khi lạm phát tăng đột

biến từ 5,2% năm 1993 lên 14,4% năm 1994 thì ảnh hưởng của việc nâng giá

tiền tệ lại không được coi trọng. Tuy nhiên động lực làm giảm lạm phát trong

thời kỳ này không phải là nâng giá tiền tệ mà do độ trễ trong xuất siêu 1992.

Chính việc sự kiện phá giá giai đoạn 89-91 đã thúc đẩy xuất khẩu, một lượng

ngoại tệ lớn được thu hút vào nước ta đã nâng sức mua thực tế của đồng Việt

Nam cao hơn, từ đó lạm phát giảm xuống. Quan điểm chỉ đạo nâng giá nội tệ

trong bối cảnh kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, khi chiến lược hướng về xuất

khẩu vừa được thực hiên thực sự là vấn đề đối với hoạt động ngoại thương Việt

Nam giai đoạn này.

Đồ thị 1: Diễn biến tỷ giá danh nghĩa và tỷ giá thực (USD/VND) 1993-1999

0

5000

10000

15000

20000

1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999

Năm

Đồng

Tỷ giá danh nghĩa Tỷ giá thực

Nguồn: Vụ ngoại hối, NHNN

20

Page 21: Ảnh Hưởng Của Tỉ Giá Tới Hoạt Động Xnk

Trong suốt thời kỳ 93-96, tỷ giá danh nghĩa (USD/VND) liên tục ở mức

cao tương đối so với tỷ giá thực. Trong khi tỷ giá thực giảm đáng kể thì tỷ giá

danh nghĩa hầu như không đổi. Có thể thấy rõ điều này trong biểu đồ 5, khoảng

cách giữa tỷ giá thực và tỷ giá danh nghĩa ngày càng lớn dần, năm có độ khoảng

cách lớn nhất chính là 1996, đây cũng là năm tổng kim ngạch nhập khẩu tăng

đột biến do nhập siêu đạt mức kỷ lục. Trên góc độ tài chính-tiền tệ, cách điều

hành tỷ giá trong giai đoạn đầu thập niên 90 còn mang nặng tính chủ quan, việc

ấn định tỷ giá còn quá đơn giản, không gần với thực tế bởi ngân hàng trung

ương đã coi việc giảm tỷ giá danh nghĩa là phá giá đồng tiền mà không tính đến

tương quan chỉ số giá tiêu dùng cũng như mức lạm phát giữa Việt Nam với các

quốc gia khác. Năm 1994, tỷ lệ lạm phát nội tệ 14,4% và USD 3% tức USD

tăng giá 11,4% so với VND song ngân hàng trung ương chỉ chỉ đạo tăng giá

1,8%. Việc giảm 1,8% được giải thích là đã phá giá nhẹ đồng nội tệ, làm sai

lệch cơ chế điều hành tỷ giá vốn dựa trên qui luật thị trường và tiếp tục ảnh

hưởng xấu đến hoạt động thương mại.

Những năm 90, có ý kiến cho rẳng tỷ giá không hề ảnh hưởng gì đến hoạt

động xuất-nhập khẩu nói riêng cũng như ngoại thương nói chung, rằng hoạt

động này chịu sự chi phối hoàn toàn của các chiến lược phát triển ngoại thương,

cách quản lý hạn ngạch, cách áp đặt thuế suất và nhất là chất lượng sản phẩm.

Nhưng thực tế cho thấy trong khi Bộ Thương Mại cùng các cơ quan chức năng

đang ra sức củng cố, mở rộng thị trường xuất khẩu, đầu tư mới dây chuyền-công

nghệ nhằm nâng cao chất lượng sản xuất hàng xuất khẩu thì mức tăng kim

ngạch xuất khẩu lại sụt giảm. Cán cân thương mại thâm hụt nghiêm trọng, từ 1

tỷ năm 1994, rồi trên 2 tỷ năm 1995 và gần 4 tỷ năm 1996. Ngoại thương Việt

Nam phát triển chậm trong giai đoạn này với thâm hụt cán cân lên đến hàng tỷ

USD.

21

Page 22: Ảnh Hưởng Của Tỉ Giá Tới Hoạt Động Xnk

Bảng 3: Xuất-nhập khẩu Việt Nam trong tương quan với tỷ giá 1993-1999

Năm

Tỷ giá chính thức (USD/VND)

Xuất khẩu Nhập khẩu Cán cân thương mại Hệ số co giãn

Mức tỷ giá

%Tăng, giảm

Kim ngạch (triệu USD)

% Tăng, giảm

Kim ngạch (triệu USD)

% Tăng, giảm

Thâm hụt (triệu USD)

% Tăng, giảm

Xuất khẩu (ηx)

Nhập khẩu (ηn)

1993 10640 100 2985,2 100 3924 100 938,8 100

1994 10955 102,9 4054,3 135,8 5825,8 148,5 1771,5 143,7 1,32 -1,44

1995 10970 100,1 5448,9 134,4 8155,4 140 2706,5 149,7 1,34 -1,40

1996 11100 101,2 7255,9 133,2 11143,6 136,6 3887,7 153,6 1,32 -1,35

1997 11175 100,7 9185 126,6 11592,3 104 2407,3 126,2 1,26 -1,03

1998 12985 116,2 9360 101,9 11499,6 99,2 2139,6 122.9 0,88 -0,85

1999 14004 107.848 11541.4 123.306 11742.1 102.109 200.7 101,7 1,14 -0,94

Nguồn: Tính toán theo số liệu WB, Tổng Cục thống kê, Vụ ngoại hối-Ngân hàng nhà nước.

Với các số liệu tính toán từ bảng 3 trên đây, việc tỷ giá dao động với biên

độ +/- 0,5% trong giai đoạn 93-96 đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động

nhập khẩu. Nhập siêu tăng gần gấp đôi trong năm 93, 94. Đặc biệt năm 1996,

khi tỷ giá danh nghĩa bị ấn định so với tỷ giá thực ở mức cao nhất 28% thì nhập

siêu cũng đạt mức kỷ lục: 3,8 tỷ đô la. Trung bình giai đoạn 94-96, cứ 1 đồng

tăng giá nội tệ kéo theo hàng nhập khẩu rẻ đi 1,4 đồng trong khi xuất khẩu sụt

giảm 1,3 đồng. Điều này cho thấy tác động của tỷ giá hối đoái lên ngoại thương

Việt Nam trong bối cảnh tỷ giá hối đoái nội tệ bị ấn định cao hơn so với giá trị

thực vận động theo xu thế lí luận chung. Tỷ giá tăng đã kéo lùi tốc độ tăng xuất

khẩu, đẩy nhanh tốc độ nhập siêu và gây thiệt hại đến sản xuất trong nước.

Đối với cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu, việc tỷ giá lên cao tạo điều kiện

thuận lợi cho các mặt hàng nhập khẩu hơn. Tỷ giá danh nghĩa được định cao

hơn tỷ giá thực bao nhiêu thì giá hàng nhập khẩu cũng được rẻ đi bấy nhiêu.

Trước tình trạng hàng trong nước cạnh tranh không nổi, năm 1994, nhà nước

phải có chính sách cấm nhập khẩu 17 mặt hàng nhằm bảo vệ sản xuất trong

22

Page 23: Ảnh Hưởng Của Tỉ Giá Tới Hoạt Động Xnk

nước. Ví như giá đường trong nước năm 1993 nếu qui đổi ra USD là 544

USD/tấn trong khi giá đường nhập khẩu chỉ có 400USD/tấn thì cấm nhập khẩu

đường là tất yếu. Thời điểm này,hàng hóa xuất khẩu lại gặp bất lợi . Trong 3

năm 1993-1995, nếu lấy năm 1992 làm mốc thì đồng Việt Nam đã lên giá 24%

và giá hàng xuất khẩu đã bị đẩy đắt lên 24% trên các thị trường ngoại quốc. Nếu

một đô la xuất khẩu gạo trả theo tỷ giá thực năm 1995 là 13.992 (hay chỉ 12.000

theo cách xóa dần tình trạng lên giá đồng nội tệ) thì nông dân sản xuất hàng

xuất khẩu cũng như các doanh nghiệp xuất khẩu sẽ không bị lỗ đến hơn 1000

đồng/đôla. Giá tơ tằm xuất khẩu quy theo USD giai đoạn 93-96 tăng từ 18 USD

lên 26 USD/kg làm sao có thể địch nổi giá tơ 21 USD/kg của Trung Quốc.

Ngoài ra, việc đồng Việt Nam tăng giá so với đồng đô la cũng góp phần

khiến đồng Việt Nam tăng giá so với các đồng tiền khác như Nhân dân tệ, Yên

Nhật...Điều này cũng khiến việcmở rộng thị trường trở nên khó khăn. Tuy nhiên

do việc giới thiệu sản phẩm Việt Nam tại thị trường nước ngoài bắt đầu được

thực hiện mạnh mẽ nên qui mô thị trường ngày càng được mở rộng. Ta nhận

thấy thời kỳ này tỷ giá không ảnh hưởng lớn đến hoạt động xuất-nhập khẩu

2.2.3. Giai đoạn 1997-1999

Giai đoạn 1997-1999 là giai đoạn nền kinh tế Việt Nam chịu những tác

động mạnh mẽ của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á. Đồng USD lên giá

mạnh so với tất cả các đồng tiền trong khu vực Đông Nam Á. Trong tình hình

đó, ngân hàng Trung Ương đã tiến hành điều chỉnh tỷ giá đồng Việt Nam: tăng

biên độ tỷ giá giao dịch lên +/-0,5% rồi +/-10%, đồng thời giảm giá đồng tiền

Việt Nam nhằm tạo một mức tỷ giá mới sát với mức tỷ giá thực tế.

Tác động từ chính sách tỷ giá:

Chính sách tỷ giá mới đã khiến cho đồng Việt Nam giảm giá 16% chỉ

trong vòng một năm, khoảng cách giữa tỷ giá thực và tỷ giá danh nghĩa cũng

được thu hẹp. Điều này đã đem lại những tác động tích cực cho cán cân thương

mại Việt Nam: kim ngạch nhập khẩu tăng chậm, mức nhập siêu giảm xuống còn

23

Page 24: Ảnh Hưởng Của Tỉ Giá Tới Hoạt Động Xnk

2,4 tỷ USD (giảm 36,8% so với năm trước). Đặc biệt trong năm 1999 mức nhập

siêu chỉ còn 200 triệu USD.

Mặc dù vậy, đồng Việt Nam vẫn còn bị định giá cao so với các nước

trong khu vực,khiến cho giá hàng hoá Việt Nam tăng cao. Hàng hoá Việt Nam

khó có thể cạnh tranh được với các nước trong khu vực nên hoạt động xuất khẩu

phần nào bị hạn chế (tốc độ tăng xuất khẩu ở mức tương đối thấp: 1,9% trong

năm 1998).

Bên cạnh đó, việc đồng Việt Nam bị định giá cao trong khu vực cũng

khiến cho cơ cấu thị trường xuất khẩu của Việt Nam chuyển dịch từ khối

ASEAN sang thị trường châu Âu.Cuộc khủng hoảng kinh tế khiến cho các quốc

gia châu Á phải hạn chế nhập khẩu để dữ trữ ngoại tệ cũng là một phần nguyên

nhân của hiện tượng này.

Nói tóm lại, trong giai đoạn này, việc điều chỉnh tỷ giá ở Việt Nam đã

mang lại những kết quả hết sức tích cực: kiểm soát được nhập khẩu đồng thời

mở ra những cơ hội mới khi thay đổi thị trường xuất khẩu. Có thể nói đây là

một giai đoạn thành công trong điều hành tỷ giá ở Việt Nam.

2.2.4. Giai đoạn 2000-2006

Giai đoạn này được đánh dấu bằng việc đồng EUR được lưu hành thống

nhất trên tất cả các quốc gia EU và trờ thành đối thủ nặng ký của USD. Trong

bối cảnh này, Việt Nam đã áp dụng cơ chế neo tỷ giá có điều chỉnh, đồng thời tỷ

giá Việt Nam được gắn với một “rổ tiền tệ” trong đó tỷ trọng của EUR được

nâng lên.

Trong giai đoạn này, biên độ tỷ giá được nới rộng từ +/-0,1% lên +/-

0,25% đối với nghiệp vụ giao ngay và từ +/-0,4% lên +/0,5% đối với nghiệp vụ

kì hạn ngày 1/7/2002.Tỷ giá nội tệ bị ép cao hơn giá trị thực khiến đồng Việt

Nam bị định giá cao hơn USD từ 10-20%.

24

Page 25: Ảnh Hưởng Của Tỉ Giá Tới Hoạt Động Xnk

Tác động của chính sách tỷ giá:

Xuất khẩu Việt Nam thời kỳ này gặp nhiều khó khăn do không cạnh tranh

được với hàng hoá Trung Quốc. Kim ngạch xuất khẩu tăng chậm (thấp nhất là

hơn 3% năm 2001), đồng thời tốc độ tăng xuất khẩu luôn nhỏ hơn tốc độ tăng

nhập khẩu, dẫn đến tình trạng nhập siêu ở mức cao: đến tháng 10/2003, mức

nhập siêu là 4,55 tỷ USD. Bên cạnh đó, việc định giá cao đồng Việt Nam cũng

dẫn đến tình trạng nhập khẩu hàng loạt, kể cả những mặt hàng trong nước có thể

sản xuất được do mức giá nhập khẩu rẻ hơn mức giá hàng hoá trong nước.

Việc đồng Việt Nam lên giá cùng với những biến động bất thường về tỷ

giá của USD, EUR… đã gây tổn hại lớn cho các dónh nghiệp xuất nhập

khẩu.Thời kỳ này có nhiều ngoại tệ mạnh khác nhau được khuyến khích trong

thanh toán, do đó rủi ro tỷ giá càng lớn hơn.Ví dụ như tháng 9/2002, đồng EUR

mất giá mạnh từ 0,94USD xuống còn 0,84USD để làm cho các doanh nghiệp

xuất khẩu chịu thiệt hại một khoản 0,1EUR/USD. Trong vòng 2 tháng từ tháng

1/2003 đến tháng 3/2003, đồng EUR đột ngột tăng giá so với USD khiến cho

chi phí nhập khẩu phát sinh cao, điển hình là công ty giày da thời trang T&T đã

phải trả thêm 700 triệu đồng để mua 700.000EUR thanh toán cho việc nhập

khẩu thiết bị sản xuất. Trong khi đó tại thị trường Mỹ, việc đồng Việt Nam bị

định giá cao hơn 20% giá trị thực so với giá USD cũng làm cho các doanh

nghiệp xuất khẩu phải chịu tổn thất lớn.

Nói tóm lại, trong thời gian này, mặc dù trên danh nghĩa Việt Nam áp đặt

cơ chế tỷ giá thả nổi có sự điều tiết của nhà nước nhưng trên thực tế đồng Việt

Nam bị neo giữ một cách cứng nhắc gây ra những tổn thất trong kim ngạch xuất

nhập khẩu của Việt Nam.

2.2.5. Giai đoạn 2007-nay

Năm 2007, chính phủ tiếp tục thực hiện chính sách tỷ giá theo hướng

khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu. Tuy nhiên, trong bối cảnh đồng

25

Page 26: Ảnh Hưởng Của Tỉ Giá Tới Hoạt Động Xnk

USD đang giảm giá so với các ngoại tệ mạnh và các dòng vốn lớn đang vào

Việt Nam làm phức tạp thêm nỗ lực ngăn cản VND lên giá.

So với cuối năm 2007, tỷ giá USD/VND năm 2008 đã tăng khoảng 9%,

vượt xa mức thay đổi quanh 1% những năm gần đây, trong khi đồng USD vẫn

chiếm tỷ trọng chi phối trong thanh toán quốc tế (khoảng 70%).Mức tăng vượt

trội này đẩy chi phí nhập khẩu, chi phí sản xuất kinh doanh của những ngành

hàng có đầu vào lớn từ nguyên liệu nhập khẩu, chi phí vay nợ ngoại tệ tăng cao.

Đây cũng là năm nổi bật khi trong báo cáo tài chính của nhiều doanh nghiệp chi

phí của tỷ giá tăng đột biến.

Biến động khó lường của tỷ giá còn thể hiện ở sự trái chiều trong nửa đầu

năm 2008 (giảm mạnh những tháng đầu năm, tăng đột biến ngay sau đó), gây

xáo trộn kế hoạch sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp.5 tháng đầu năm

2008, nhập siêu đạt mức quá cao (14,4 tỷ USD), cao hơn mức nhập siêu cả năm

2007 (14 tỷ USD).Nửa đầu năm 2008 lạm phát và nhập siêu gia tăng đã khiến

nhiều người dân và doanh nghiệp chuyển tài sản từ VND sang USD. Tỷ giá hối

đoái trên thị trường tự do có lúc đã lên đến mức 19.000 VND/USD, thậm chí

20.000VNĐ, trong khi đó giá USD trong các ngân hàng thương mại vẫn là trong

khoảng 16.000 – 17.000 VND.

Trên thực tế, có doanh nghiệp nhập khẩu đầu tháng vay USD của ngân

hàng để nhập nguyên liệu được tính tỷ giá 16.243 đồng/USD, cuối tháng, doanh

nghiệp mua USD để trả nợ vay chỉ với tỷ giá 16.015 đồng/USD, nhờ tỷ giá

giảm doanh nghiệp được lãi. Trong khi đó, có doanh nghiệp xuất khẩu thu về

100.000 USD, nếu doanh nghiệp thu tiền xuất khẩu trong tháng 8/2007 thì sẽ

được chuyển ra VND với tỷ giá 16.245 đồng/USD, nhưng xuất khẩu tại thời

điểm tháng 1/2008 thì chỉ còn 15.599 đồng/USD, doanh nghiệp sẽ thất thu 26

triệu đồng.

Với sự biến động mạnh mẽ của tỷ giá trong năm 2008 đã ảnh hưởng rất

lớn đối với nền kinh tế, trước nhất là hoạt động xuất nhập khẩu

26

Page 27: Ảnh Hưởng Của Tỉ Giá Tới Hoạt Động Xnk

Bảng 4: Tình hình xuất nhập khẩu Việt Nam từ năm 2007-2009

(Nguồn: Ngân hàng phát triển Châu Á – ADB)

Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá trong năm 2008 đạt 143,4 tỷ

USD, tăng 28,9% so với năm 2007, trong đó xuất khẩu đạt 62,69 tỷ USD, tăng

29,1% so với năm trước, vượt 7% kế hoạch năm và nhập khẩu là 80,71 tỷ USD,

tăng 28,8%. Hết tháng 12 năm 2008, nhập siêu của Việt Nam là 18,03 tỷ USD

đạt con số kỷ lục từ trước đến nay, tăng 27,7% so với con số 14,12 tỷ USD của

năm 2007.

Hoạt động xuất nhập khẩu năm 2009 vẫn còn chịu những ảnh hưởng rất

lớn từ cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, làm cho nhu cầu nhập khẩu hàng hóa

của Việt Nam và giá cả quốc tế giảm sút mạnh. Đồng thời, các nước gia tăng

các biện pháp bảo hộ mới, đặt ra nhiều hơn các rào cản phi thuế. Do đó, hoạt

động xuất khẩu chịu nhiều tác động tiêu cực.Tuy nhà nướcđã chủ động tạo điều

kiện đẩy mạnh xuất khẩu, phần lớn mặt hàng đã có khối lượng xuất khẩu tăng

hơn năm 2008 (lượng XK tăng làm tăng kim ngạch khoảng 1,5 tỷ USD), nhưng

do tốc độ giảm giá lớn hơn (khoảng 11 tỷ USD, tương đương giảm 17 - 18%

kim ngạch xuất khẩu, trong đó: nhóm nông sản, thủy sản giảm 2,7 tỷ USD;

27

Page 28: Ảnh Hưởng Của Tỉ Giá Tới Hoạt Động Xnk

nhóm nhiên liệu khoáng sản giảm 4,6 tỷ USD; nhóm công nghiệp chế biến giảm

3 - 4 tỷ USD) nên tổng kim ngạch xuất khẩu cả năm bị giảm 9,7% so với năm

2008.

Bước sang năm 2010,tỷ giá USD/VND tăng cao trong khi đó Việt Nam

vẫn trong tình trạng nhập siêu còn khá lớn.Mặc dù theo lý thuyết, tỷ giá

USD/VND tăng (USD lên giá còn VND giảm giá) sẽ thúc đẩy hoạt động xuất

khẩu gia tăng, hạn chế nhập khẩu.

Khi tỷ giá USD/VND tăng không những xuất khẩu tăng mà nhập khẩu

cũng tăng, đáng chú ý mức tăng của nhập khẩu mạnh hơn mức tăng của xuất

khẩu (khoảng 0.83%), nghĩa là cán cân thương mại vẫn thâm hụt. Đó là do ở

Việt Nam có sự phụ thuộc quá cao giữa xuất khẩu và nhập khẩu. Chính vì có sự

phụ thuộc quá nhiều của xuất khẩu vào nhập khẩu nên khi tỷ giá tăng xuất khẩu

tăng thì nhập khẩu cũng tăng theo và tăng nhiều hơn mức tăng của xuất khẩu,

điều này lý giải tại sao cán cân thương mại vẫn thâm hụt mặc dù xuất khẩu có

gia tăng khi VND giảm giá.

28

Page 29: Ảnh Hưởng Của Tỉ Giá Tới Hoạt Động Xnk

3. NHỮNG KHÓ KHĂN, HẠN CHẾ TRONG VIỆC ĐIỀU HÀNH

CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ ẢNH HƯỞNG ĐẾN XUẤT NHẬP KHẨU TẠI

VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP

3.1. Những khó khăn hạn chế trong việc điều hành chính sách tỷ giá ảnh

hưởng đến xuất nhập khẩu tại Việt Nam

3.1.1. Khó khăn, hạn chế xuất phát từ bên trong

3.1.1.1. Cơ cấu các mặt hàng xuất nhập khẩu

Hiện nay, Việt Nam có quan hệ thương mại với rất nhiều quốc gia trên

thế giới, và Việt Nam cũng có tiếng là một nước xuất khẩu. Tuy nhiên, cán cân

thương mại của Việt Nam lại thường xuyên có xu hướng thâm hụt, và Việt Nam

là một nước nhập siêu. Một phần lý do có thể hiểu là xuất phát điểm của nền

kinh tế Việt Nam thấp nên tuy xuất khẩu nhiều, nhưng những mặt hàng chúng ta

xuất đi chủ yếu là nguyên liệu thô, chưa qua chế biến, gia công thuê: vàng thô,

dầu thô, bô-xít, hàng nông sản, da giầy, dệt may…Đó là những mặt hàng có

hàm lượng trí tuệ thấp, không hiếm, khả năng thay thế cao, lợi nhuận thu về trên

một đơn vị sản phẩm thường không cao, nên mặc dù xuất nhiều, nhưng lượng

ngoại tệ thu được lại không nhiều. Nói nôm na thì đây là hiện tượng “thu không

đủ bù chi”.

29

Page 30: Ảnh Hưởng Của Tỉ Giá Tới Hoạt Động Xnk

Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu năm 2010

Trong khi đó, Việt Nam lại nhập khẩu chủ yếu các mặt hàng như: dây

chuyền công nghệ, máy móc, xăng dầu, ô tô, xe máy, điện thoại, laptop, sắt

thép, mỹ phẩm…Đó là những mặt hàng thiết yếu không tự sản xuất được, có

hàm lượng trí tuệ cao, giá thành đắt. Cá biệt có một số mặt hàng không cần

thiết, không khuyến khích nhập vẫn được nhập khẩu gây lãng phí nguồn ngoại

tệ của đất nước như: tăm tre, rượu, thuốc lá…Việc chênh lệch về giá trị hàng

xuất khẩu - nhập khẩu gây nên thiếu hụt cán cân thương mại thường xuyên, tạo

áp lực điều chỉnh tỷ giá đảm bảo nhu cầu ngoại tệ.

Ngoài ra, theo số liệu thống kê, trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt

Nam, có đến 93% các mặt hàng xuất khẩu sử dụng các tư liệu sản xuất từ nhập

30

Page 31: Ảnh Hưởng Của Tỉ Giá Tới Hoạt Động Xnk

khẩu. Câu chuyện về ngành tôm là một ví dụ. Tôm sú là mặt hàng được ưa

chuộng trên thế giới, và hiện chỉ có Việt Nam và Ấn Độ còn cung cấp sản phẩm

này. Tuy nhiên, do quy trình nuôi trồng và đặc biệt là nguồn nguyên liệu nhập

khẩu đắt đỏ, nhiều người nuôi trồng thủy sản Việt Nam đã chuyển từ nuôi tôm

sú sang tôm thẻ, khiến tỷ lệ này giảm xuống chỉ còn 50-50, thay vì 80-20 như

trước kia. Một câu chuyện khác vềngành dệt may -ngành được coi là ngành xuất

khẩu chủ lực của Việt Nam. Theo Hiệp hội dệt may, trong khi kim ngạch xuất

khẩu 6 tháng đầu năm 2011 đạt được con số khá ấn tượng là 6,16 tỷ USD nhưng

đã phải nhập tới 5,76 tỷ USD nguyên phụ liệu, do đó, giá trị gia tăng tạo ra chưa

đầy 500 triệu USD.

Quay trở lại vấn đề, để đáp ứng những quy định ngặt nghèo về các tiêu

chuẩn chất lượng của các thị trường khác nhau trên thế giới thì việc sử dụng

nguồn nguyên liệu nhập khẩu là điều cần thiết, nhất là khi nguồn nguyên liệu

trong nước chưa thể đáp ứng cả về mặt số lượng và chất lượng. Đó là một trong

những nguyên nhân mặc dù cán cân thương mại thường xuyên thâm hụt, nhưng

Ngân hàng Nhà nước không thể mạnh tay điều chỉnh tăng tỷ giá theo lý thuyết

vì việc điều chỉnh tỷ giá cũng sẽ làm tăng chi phí sản xuất, gây khó khăn cho cả

các doanh nghiệp xuất khẩu.

3.1.1.2. Xuất phát từ chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương

Ngân hàng Trung ương ở mỗi nước có vai trò quản lý nhà nước về tiền tệ

và thực thi chính sách tiền tệ. Chính sách tỷ giá là một trong những công cụ của

chính sách tiền tệ. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã công bố Việt Nam theo

đuổi chính sách tỷ giá thả nổi có điều tiết. Tuy nhiên, những biểu hiện của Ngân

hàng Nhà nước lại cho thấy chúng ta dường như đang nghiêng về sử dụng chính

sách tỷ giá cố định: đặt ra một mức tỷ giá cố định trong một khoảng thời gian

khá dài với biên độ dao động hẹp (khoảng 1%). Theo quan hệ cung cầu ngoại

tệ, việc áp đặt một mức tỷ giá trần cố định sẽ gây ra sự thiếu hụt ngoại tệ, từ đó

31

Page 32: Ảnh Hưởng Của Tỉ Giá Tới Hoạt Động Xnk

tất yếu làm xuất hiện thị trường chợ đen về ngoại tệ. Điểm tích cực của thị

trường chợ đen là có thể đáp ứng cơn khát ngoại tệ của các đối tượng không thể

tiếp cận được nguồn ngoại tệ chính thức từ hệ thống ngân hàng, và tỷ giá trên

thị trường này thường phản ánh đúng quan hệ cung cầu về ngoại tệ trong nền

kinh tế. Tuy thế, mặt trái của thị trường chợ đen là nó tiếp tay cho các hoạt động

kinh tế bất hợp pháp như buôn lậu, tham nhũng, rửa tiền…Ngoài ra sự tồn tại

của thị trường chợ đen còn dẫn đến việc chảy máu ngoại tệ. Lấy ví dụ, theo con

số thống kê, lượng ngoại tệ bị thất thoát do nhập lậu vàng vào năm 2009 tương

đương 9 tỷ USD, vào năm 2010 con số này là 3 tỷ USD. Mặc dù đây là nguồn

cung cho các doanh nghiệp trong trường hợp không thể mua trong hệ thống

ngân hàng, nhưng việc thất thoát một lượng ngoại tệ lớn như vậy thật sự là lãng

phí trong bối cảnh cầu về ngoại tệ luôn nóng.

Việc siết chặt tín dụng ngoại tệ theo chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước

cũng đang gây khó khăn không nhỏ đối với các doanh nghiệp. Tính riêng 6

tháng đầu năm 2011, tăng trưởng tín dụng ngoại tệ đã đạt 22%, trong khi tăng

trưởng tín dụng của cả nền kinh tế chỉ đạt 7,05%. Hiện tượng bất thường này

xảy ra bởi lẽ trong một thời gian dài, Ngân hàng Nhà nước đã duy trì mức trần

lãi suất tiền gửi bằng ngoại tệ quá thấp, khiến cho nhiều doanh nghiệp vay ngoại

tệ, hoặc để giảm chi phí hoặc sau đó bán lại vào ngân hàng lấy VNĐ gửi tiết

kiệm, kiếm lời từ chênh lệch lãi suất (lãi suất cho vay USD chỉ là 5,5-8%, thấp

hơn nhiều so với lãi suất huy động VNĐ 14-18%, và càng thấp hơn lãi suất cho

vay VNĐ 22-25%). Thời điểm cuối năm đến cũng là lúc cầu về ngoại tệ tăng

mạnh do nhu cầu nhập khẩu, và nhu cầu trả nợ ngân hàng khi các hợp đồng cho

vay đáo hạn. Sức ép từ lực cầu khủng khiếp tạo áp lực buộc phải Ngân hàng

Nhà nước phải điều chỉnh tăng tỷ giá, bên cạnh siết chặt tín dụng. Biện pháp

này là điều cần thiết, tuy nhiên, nó lại gây trở ngại cho các doanh nghiệp có nhu

cầu thật sự.

32

Page 33: Ảnh Hưởng Của Tỉ Giá Tới Hoạt Động Xnk

Một chính sách khác của Ngân hàng Nhà nước đó là cho phép các ngân

hàng thương mại bán vàng để bình ổn giá vàng trong nước, tạo tiền đề ổn định

tỷ giá. Tuy nhiên cách bán của chúng ta có vấn đề.Điểm quan trọng nhất đó là

giá bán không phải do NHNN ấn định dựa trên giá quốc tế cộng thêm phí nhập

khẩu và chênh lệch 400.000 đồng/lượng như ý định ban đầu của cơ quan quản

lý. Thay vào đó giá bán do 5 ngân hàng và Công ty SJC (tạm gọi là 5+1) quyết

định. Sau này thêm hai ngân hàng là Phương Nam và Việt Á được tham gia bán

vàng, thì nhóm 5+1 chuyển thành 7+1. Các ngân hàng và SJC là những doanh

nghiệp, và mục tiêu của họ trước hết phải là lợi nhuận. Hơn nữa thì cách bán

vàng nhỏ giọt, dè chừng, khiến cho tâm lý chung luôn ở trạng thái chờ đợi, chỉ

có chiều mua vào và không bán ra. Thoạt đầu, giá vàng được giữ ở mức 43-44

triệu đồng/lượng trong 1-2 tuần của tháng 10, nhưng những ngày gần đây, giá

vàng đã tăng mạnh trở lại, lên mốc gần 47 triệu đồng/lượng. Một khi mục tiêu

bán vàng can thiệp không thực hiện được, thị trường chỉ có một chiều mua, các

ngân hàng muốn có thêm vàng chỉ còn cách nhập từ nước ngoài mà không thể

huy động trong dân. Nhập khẩu vàng sẽ làm tăng cầu ngoại tệ, thâm hụt thương

mại sẽ càng tăng, ngoại tệ càng khan khiếm. Lúc này, nền kinh tế Việt Nam sẽ

chịu áp lực lớn, cùng với mức lạm phát, thâm hụt ngân sách đều cao, trong khi

dự trữ ngoại hối thấp sẽ dẫn đến kỳ vọng phá giá nội tệ ngày càng lớn, gây ảnh

hưởng mạnh đến các doanh nghiệp xuất nhập khẩu.

3.1.1.3. Lạm phát

Lạm phát ở Việt Nam luôn ở mức 2 con số trong những năm gần đây.

Năm 2010, tỷ lệ lạm phát (được công bố) là 11.75%, trong khi tỷ lệ tăng GDP

chỉ là 6%. Năm 2011, dự báo của IMF cho biết lạm phát của Việt Nam sẽ xấp xỉ

20%, nằm trong top 4 thế giới, trong khi tăng trưởng tương ứng chỉ đạt 5,5-6%.

Sự mất giá mạnh của VNĐ khiến cho Ngân hàng nhà nước buộc phải điều chỉnh

tăng tỷ giá mạnh, mặc dù USD cũng mất giá. Sự điều chỉnh tăng tỷ giá lại tạo áp

lực tăng tỷ giá do sự lo ngại về sự mất giá trong ngắn hạn của VNĐ. Vòng xoay

33

Page 34: Ảnh Hưởng Của Tỉ Giá Tới Hoạt Động Xnk

này lặp đi lặp lại khiến các doanh nghiệp phải gánh chịu rất nhiều chi phí tăng

thêm do giá cả nguyên liệu đầu vào tăng, các khoản nợ bằng ngoại tệ cũng

tăng…

3.1.2. Khó khăn, hạn chế xuất phát từ bên ngoài

Khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu bắt đầu từ năm 2007, nhưng đến

thời điểm hiện tại là năm 2011, nền kinh tế thế giới vẫn đang phải chiến đấu để

tránh lan rộng và khắc phục những hệ lụy khủng khiếp mà nó đem lại. Giá vàng,

giá dầu thô thế giới đều tăng do sự mất giá của USD và lo ngại về triển vọng

của nền kinh tế thế giới. Khủng hoảng nợ công của Mỹ và một số nước thuộc

khối Eurozone càng khiến cho những nền kinh tế này gặp khó khăn về tài chính,

người dân cũng phải cắt giảm chi tiêu cá nhân, dẫn đến cầu về sản phẩm sẽ sụt

giảm, đơn hàng ít. Lượng cầu từ thị trường quốc tế sụt giảm sẽ làm sự cạnh

tranh với các công ty nước ngoài ngày càng gay gắt. Khi đó giá bán và sự khác

biệt sản phẩm sẽ được đưa ra làm tiêu chuẩn lựa chọn của người tiêu dùng.

Trung Quốc, Ấn Độ…là những nước rất mạnh, gây rất nhiều khó khăn cho

chúng ta.

3.2. Giải pháp

3.2.1. Nhà nước

3.2.1.1. Định hướng lại cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu:

Về dài hạn, để tránh nhập siêu và phụ thuộc vào sự biến động tỷ giá,

chúng ta cần điều chỉnh cơ cấu hàng xuất khẩu định hướng giảm tỷ trọng sản

phẩm thô và sơ chế, tăng tỷ trọng sản phầm chế biến sâu và tinh trong hàng xuất

khẩu; nâng cao tỷ trọng phần giá trị gia tăng; chú trọng đầu tư vào các ngành có

hàm lượng chất xám cao có giá trị xuất khẩu như điện tử,, tin học, liên lạc viễn

thông chế tạo máy…

34

Page 35: Ảnh Hưởng Của Tỉ Giá Tới Hoạt Động Xnk

Theo ước tính gần đây của Bộ Công Thương nhiều ngành công nghiệp

hiện nay đã lệ thuộc 80% nguyên liệu phụ tùng nhập khẩu chẳng hạn ngành ô tô

mới nội địa hóa khoảng 5-10%, ngành xe máy khá hơn các ngành khác cũng chỉ

đạt 40-50%. Bởi lẽ tới nay những nhà cung cấp linh kiện phụ tùng chủ yếu vẫn

là những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và vẫn đang còn khoảng cách

tiêu chuấn chất lượng khá lớn giữa các nhà cung cấp linh kiện trong và ngoài

nước. Do đó, việc phát triển công nghiệp phụ trợ là cần thiết để tạo điều kiện

cung cấp linh kiện phụ tùng cho các doanh nghiệp lắp ráp trong nước.

Cùng với đó, cơ cấu quản lí nhập khẩu cần phải được hoàn thiện theo

hướng tăng cường quản lí nhà nước, nhất là đối với mặt hàng nhập khẩu công

nghệ và hàng tiêu dùng thông qua hệ thống các biện pháp thuế quan và phi thuế

quan, kết hợp chặt chẽ với các biện pháp về tổ chức và giám sát hoạt động nhập

khẩu để hạn chế những mặt hàng có thể sản xuất được hoặc mặt hàng xa xỉ độc

hại cho nền kinh tế như rượu, bia, thuốclá, .…

3.2.1.2. Điều chỉnh hoạt động của Ngân hàng Nhànước

Như đã phân tích ở trên, việc áp dụng một mức tỷ giá cố định trong điều

kiện các yếu tố khác không đổi sẽ dẫn tới sự thiếu hụt ngoại tệ trên thị trường.

Hiện tại Ngân hàng Nhà nước đang niêm yết tỉ giá liên ngân hàng ở mức 20.803

VND/USD sau 15 lần điều chỉnh liên tiếp trong tháng 10. Tuy nhiên mức tỉ giá

này vẫn được đánh giá là thấp hơn so với mức cân bằng thực của thị trường

(22.500-23.000 VND/USD) điều này làm cho thị trường chợ đen vẫn tồn tại và

ngày càng sôi động. Chúng ta nên linh hoạt hơn trong chính sách tỷ giá, nhưng

không có nghĩa là đồng nhất với việc thả nổi hoàn toàn mà cần quản lí thực hiện

tỷ giá một cách gián tiếp thông qua việc kiểm soát lượng vốn gián tiếp đổ vào

thị trường Việt Nam và đặt ra biên độ hợp lí, điều chỉnh tăng dần tỷ giá mà

không mang lại xáo trộn lớn. Về lâu về dài, nếu thị trường cho thấy sự ổn định

và minh bạch, Ngân hàng Nhà nước nên trả lại việc xác lập tỷ giá theo quan hệ

35

Page 36: Ảnh Hưởng Của Tỉ Giá Tới Hoạt Động Xnk

cung cầu trên thị trường, bởi chỉ có như thế, tình trạng hai tỷ giá mới có thể giải

quyết được.

Ngân hàng Nhà nướccũng nên điều chỉnh lãi suất huy động tiền gửi bằng

ngoại tệ hấp dẫn hơn, kéo gần hơn tới mức lãi suất của đồng nội tệ. Việc điều

chỉnh này sẽ đem lại rất nhiều hiệu quả. Thứ nhất, thu hút một lượng ngoại tệ

lớn ứ đọng trong dân chúng cung ứng cho nền kinh tế đặc biệt là các doanh

nghiệp xuất nhập khẩu. Thứ hai, điều này sẽ làm giảm tình trạng đầu cơ găm

giữ ngoại tệ. Thứ ba, hạn chế tình trạng vay ngoại tệ gửi nội tệ hưởng chênh

lệch lãi suất.

Ngân hàng Nhà nước cũng cần chỉ đạo các ngân hàng thương mại sàng

lọc các đối tượng có nhu cầu vay ngoại tệ thực sự để có chính sách hỗ trợ các

doanh nghiệp xuất nhập khẩu giảm thiểu rủi ro do biến động tỷ giá và lãi suất,

có thể bằng một số phương pháp như: mua ngoại tệ với giá ưu đãi, hưởng lãi

suất thấp hơn lãi suất niêm yết, tư vấn thực hiện các nghiệp vụ phái sinh…

Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước cũng nên thay đổi cơ cấu dự trữ ngoại hối

quốc gia theo hướng chuyển dần sang vàng hay các tài sản khác an toàn hơn .

Hiện tại, dự trữ ngoại hối của Việt Nam hầu hết bằng USD (khoảng 13tỷ

USD !?), và không ngoa khi nói chỉ “một cơn ho” của nền kinh tế Mỹ cũng

khiến Việt Nam lao đao. Cho đến nay, vàng được xem là thứ tài sản luôn giữ

được giá trị qua mọi thời đại của lịch sử. Vàng có thể thay thế ngoại tệ mạnh

trong thanh toán quốc tế. Hơn nữa, việc dự trữ vàng sẽ giúp chúng ta chủ động

hơn trước sự biến động đột ngột của giá vàng, giảm bớt sự phụ thuộc vào Mỹ.

3.2.2. Doanh nghiệp

Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cũng cần có những biện pháp tự bảo vệ

mình trước những biến động không lường trước được. Một số biện pháp khả thi

các doanh nghiệp có thể tham khảo như: thực hiện các nghiệp vụ phái sinh, yêu

cầu thanh toán bằng “rổ” ngoại tệ để phân tán rủi ro…Hơn hết, trong bối cảnh

36

Page 37: Ảnh Hưởng Của Tỉ Giá Tới Hoạt Động Xnk

hiện nay, các doanh nghiệp cần tự nâng cao khả năng cạnh tranh của mình để có

thể tự chủ động trong mọi tình huống .

37