ĐỀ TÀI THIẾT KẾ BẪY BẮT GIÁN BẰNG PHEROMONE TRÊN CƠ...
Transcript of ĐỀ TÀI THIẾT KẾ BẪY BẮT GIÁN BẰNG PHEROMONE TRÊN CƠ...
1
ĐỀ TÀI
THIẾT KẾ BẪY BẮT GIÁN BẰNG PHEROMONE
TRÊN CƠ SỞ TẬP TÍNH CỦA CHÚNG
Lĩnh vực: Khoa học động vật
2
TÓM TẮT NỘI DUNG DỰ ÁN
1. Lí do chọn đề tài
Gián nhà một số loài côn trùng thuộc bộ Blattodea mà có thể gây hại cho con
người. Chúng còn là động vật trung gian mang truyền và phát tán nhiều nguồn bệnh
và giun sán ký sinh truyền bệnh, ảnh hưởng đến sức khỏe của con người [11].
Hiện nay, ở nước ta đã và đang sử dụng rất nhiều phương pháp khác nhau để
bắt và diệt gián. Tuy nhiên, hầu hết các phương pháp diệt trừ hiện đang sử dụng
thường chứa các chất hóa học. Chúng ảnh hưởng không tốt tới môi trường, gây hại
đến các côn trùng có ích, gây sự mất cân bằng sinh học và ảnh hưởng đến sức khỏe
con người [13]. Mặt khác, một số loại bẫy bắt gián hiện nay không chỉ bắt gián mà
còn gây hại và tiêu diệt những động vật có ích khác.
Vậy, làm thế nào để có được loại bẫy chỉ bắt gián mà không ảnh hưởng đến
môi trường, đến các loài động vật khác, đặc biệt là sinh vật có lợi? Xuất phát từ ý
tưởng này, dựa trên cơ sở tập tính của côn trùng và loài gián, chúng em muốn tìm
ra một phương pháp thu bắt gián nhà, vừa hiệu quả lại vừa loại bỏ được chúng mà
vẫn đảm bảo phát triển bền vững môi trường. Vì thế, chúng em đã lựa chọn đề tài
“Thiết kế bẫy bắt gián bằng pheromone trên cơ sở tập tính của chúng”.
2. Ý tƣởng nghiên cứu
Tìm biện pháp khoa học và thân thiện với môi trường để thu bắt loài côn
trùng gián nhà gây hại cho con người, nhưng không ảnh hưởng đến sinh vật có ích
khác.
3. Câu hỏi nghiên cứu
- Thế nào là tập tính động vật nói chung và tập tính của gián nhà nói riêng?
- Có thể thu bắt được gián dựa vào tập tính của chúng không?
- Cơ sở khoa học của tập tính của gián trong việc thiết kế bẫy thân thiện với
môi trường và thu bắt tiệu diệt chúng có chọn lọc?
6. Lợi ích đề tài mang lại
- Bẫy chỉ bắt gián mà không bị lẫn các sinh vật khác.
3
- Không gây hại đến côn trùng có ích, bảo vệ môi trường, phát triển bền
vững.
- Có thể sử dụng nguồn gián bắt được để phục vụ cho quá trình học tập.
7. Những công việc chính đã thực hiện
- Tổng quan tài liệu nghiên cứu tìm hiểu về gián, tập tính của gián,
pheromone…
- Thực nghiệm bắt, mổ, phân loại gián bắt được, tìm tuyến pheromone.
- Phân tích thành phần pheromone của loài gián thu thập được.
- Thiết kế bẫy bắt gián bằng pheromone và thực nghiệm.
8. Kết quả
- Thiết kế được bẫy bắt gián bằng cách sử dụng pheromone của gián.
9. Điểm mới của đề tài
- Thiết kế bẫy bắt gián có chọn lọc bằng cách lợi dụng nguồn pheromone do
gián cái tiết ra.
- Bẫy chỉ bắt gián chứ không giết chết gián, giúp chủ động trong việc giám
sát sự phát triển của quần thể gián.
- Có thể sử dụng lượng gián thu bắt được vào các công việc có ích như học
tập, nghiên cứu…
- Bước đầu xác định được thành phần hóa học của pheromone ở gián Úc, tạo
điều kiện để chúng em tiếp tục nghiên cứu tìm cách chế tạo pheromone nhân tạo.
10. Tính sáng tạo
- Dựa vào tập tính sinh sản của gián để thiết kế bẫy bắt gián có chọn lọc, góp
phần bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.
- Tận dụng được các nguyên liệu dễ kiếm, rẻ tiền, thân thiện với môi trường
để chế tạo bẫy bắt gián.
- Bẫy bắt gián dễ làm, dễ áp dụng rộng rãi.
MỤC LỤC
4
Nội dung Trang
Tóm tắt nội dung dự án...………………………………………….
Mục lục……………………………………………………………
2
4
Phần 1. Giới thiệu và tổng quan về vấn đề nghiên cứu…………...
1.1. Giới thiệu vấn đề nghiên cứu…………………………...
1.2. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu…………………….....
5
5
7
Phần 2. Phương pháp nghiên cứu…………………………………
2.1. Đối tượng nghiên cứu ………………………………….
2.2. Phương pháp nghiên cứu ………………………………
12
12
12
Phần 3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận ...……………………....
3.1. Xác định đối tượng nghiên cứu và phân loại gián …….
3.2. Thiết kế bẫy bắt gián ……………………………...........
3.3. Bẫy bắt gián bằng pheromone………………………….
15
15
17
18
Phần 4. Kết luận …………………………………………………..
Lời cảm ơn...………………………………………………………
Tài liệu tham khảo ………………………………………………..
25
26
27
5
PHẦN 1. GIỚI THIỆU VÀ TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Giới thiệu đề tài nghiên cứu
1.1.1. Lí do chọn đề tài
Gián nhà một số loài côn trùng thuộc bộ Blattodea mà có thể gây hại cho con
người. Chúng còn là động vật trung gian mang truyền và phát tán nhiều nguồn bệnh
và giun sán ký sinh truyền bệnh, ảnh hưởng đến sức khỏe của con người [11].
Hiện nay, ở nước ta đã và đang sử dụng rất nhiều phương pháp khác nhau để
bắt và diệt gián. Tuy nhiên, hầu hết các phương pháp diệt trừ hiện đang sử dụng
thường chứa các chất hóa học. Chúng ảnh hưởng không tốt tới môi trường, gây hại
đến các côn trùng có ích, gây sự mất cân bằng sinh học và ảnh hưởng đến sức khỏe
con người [13]. Mặt khác, một số loại bẫy bắt gián hiện nay không chỉ bắt gián mà
còn gây hại và tiêu diệt những động vật có ích khác.
Vậy, làm thế nào để có được loại bẫy chỉ bắt gián mà không ảnh hưởng đến
môi trường, đến các loài động vật khác, đặc biệt là sinh vật có lợi? Xuất phát từ ý
tưởng này, dựa trên cơ sở tập tính của côn trùng và loài gián, chúng em muốn tìm
ra một phương pháp thu bắt gián nhà, vừa hiệu quả lại vừa loại bỏ được chúng mà
vẫn đảm bảo phát triển bền vững môi trường. Vì thế, chúng em đã lựa chọn đề tài
“Thiết kế bẫy bắt gián bằng pheromone trên cơ sở tập tính của chúng”.
1.1.2. Giả thuyết khoa học
Lợi dụng tập tính của gián để bắt gián có chọn lọc bằng cách sử dụng
pheromone của gián.
1.1.3. Mục đích nghiên cứu
- Dựa vào tập tính của gián để thiết kế bẫy bắt gián có chọn lọc bằng chất dẫn
dụ sinh dục pheromone của chính loài gián ta muốn bắt.
1.1.4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Hạn chế việc sử dụng các chất hóa học để diệt gián, góp phần bảo vệ môi
trường và phát triển bền vững.
- Bắt gián có chọn lọc, không gây hại đến côn trùng có ích và con người.
6
- Có thể sử dụng nguồn gián bắt được làm mẫu vật để phục vụ cho quá trình
học tập của học sinh.
- Bẫy bắt gián được thiết kế đơn giản, dễ làm, thân thiện với môi trường, dễ
áp dụng rộng rãi.
- Kết quả nghiên cứu tạo tiền đề cho các đề tài nghiên cứu tổng hợp
pheromone nhân tạo làm mồi bắt gián, vấn đề còn ít được nghiên cứu ở Việt Nam.
1.1.5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Ý tưởng nghiên cứu: từ tháng 07/2015.
- Lập kế hoạch nghiên cứu và tổng quan tài liệu: tháng 07/2015 ÷ 08/2015.
- Thời gian nghiên cứu và thực nghiệm: tháng 09/2015 ÷ 01/2016.
- Giới hạn nghiên cứu: loài gián Úc (Periplanete australasiae) sống ở khu
dân cư phường Cẩm Bình - Cẩm Phả - Quảng Ninh.
1.1.6. Điểm mới của đề tài
- Bắt gián có chọn lọc bằng chất hấp dẫn sinh dục pheromone của chính loài
gián ta muốn bắt.
- Bẫy chỉ bắt gián chứ không giết chết gián, giúp chủ động trong việc giám
sát sự phát triển của quần thể gián.
- Thiết kế được bẫy bắt gián đơn giản, dễ làm, thân thiện với môi trường, dễ
áp dụng rộng rãi.
- Đã xác định được thành phần pheromone của gián Úc (Periplanete
australasiae), tạo điều kiện để chúng em tiếp tục nghiên cứu tìm cách tổng hợp
pheromone nhân tạo.
1.1.7. Tính sáng tạo
- Thiết kế bẫy bắt gián có chọn lọc dựa vào tập tính sinh sản của chúng.
- Tận dụng được các nguyên liệu dễ kiếm, rẻ tiền, thân thiện với môi trường
để chế tạo bẫy bắt gián.
- Bẫy bắt gián dễ làm, dễ áp dụng rộng rãi.
1.2. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
7
1.2.1. Đặc điểm sinh học của loài gián nhà
Gián nhà được coi là loài gây hại, ảnh hưởng đến cuộc sống sinh hoạt hàng
ngày và sức khỏe của con người. Chúng ăn nhiều loại đồ vật trong nhà như quần
áo, giấy, thức ăn của con người và cả các chất thải trong thùng rác nhà bếp. Sau khi
ăn thực phẩm bị ô nhiễm, vi khuẩn và động vật nguyên sinh có thể tồn tại trong hệ
thống tiêu hóa của gián trong một tháng hoặc hơn. Sau đó, thực phẩm hoặc đồ dùng
có thể bị nhiễm phân gián và nguồn bệnh được lan truyền khi gián di chuyển, kiếm
ăn và thải phân [12].
Gián có cơ thể dẹt hướng lưng bụng, thông thường có đôi cánh trước bằng
kitin, phủ lên đôi cánh thứ hai và ôm kín lưng. Đầu được dấu dưới phần ngực tròn
to. Râu dài và nhiều đốt. Miệng kiểu gặm nhai. Chân thích hợp cho việc chạy. Kích
thước cơ thể của chúng khác nhau theo loài. Có thể dài từ 2-3 mm đến 80 mm.
Toàn thân có màu nâu sáng hoặc đen [12].
Đa số các loài gián ít khi bay, song chúng bò rất nhanh. Cho đến nay, có
khoảng 3500 loài gián thuộc 6 họ đã được biết đến trên toàn thế giới, song chỉ có
một số loài gián nhà được chú ý vì chúng đã thích ứng sống trong nhà ở của chúng
ta. Những loài gián nhà thường gặp ở Việt Nam là: Gián Đông phương (Blatta
orientalis), Gián Đức (Blattella germanica), Gián Mỹ (Periplanete americana),
Gián Úc (Periplanete australasiae), …
- Gián Đông phương (Blatta orientalis): Gián Đông phương thường được
gặp ở vùng khí hậu mát mẻ. Loài này có kích thước cơ thể nhỏ, dài 20 ÷ 27 mm, có
màu thẫm đen. Ổ trứng xếp thành hàng 10 ÷ 12 mm và có 16 ÷ 18 trứng.
- Gián Đức (Blattella germanica): Loài gián Đức được gặp ở hầu hết các
vùng trên thế giới. Cơ thể dài 10 ÷ 15 mm, có màu nâu vàng sáng. Gián cái thường
mang ổ trứng cho tới khi gần nở thành gián con. Ổ trứng có màu sáng, dài 7 ÷ 9
mm và có 40 trứng.
- Gián Mỹ (Periplanete americana): Loài gián này xuất hiện ở hầu hết các
khu dân cư trên toàn thế giới. Chúng là loại lớn nhất, cơ thể dài 30 ÷ 40 mm, có
8
màu cánh dán đậm hoặc nhạt hơn, mặt trên phần bụng có màu nâu nhạt và vàng. Cả
con đực và con cái đều có cánh. Cánh của con đực hơi kéo dài hơn phần bụng,
trong khi đó cánh của con cái thì vừa bằng với phần bụng.
- Gián Úc (Periplanete australasiae): Gián Úc được gặp chủ yếu ở các vùng
nhiệt đới và cận nhiệt đới. Gián Úc cũng giống loài gián Mỹ, nhưng cơ thể nhỏ
hơn, dài 31 ÷ 37 mm, và màu sắc đen hơn. Loài gián này có 2 sọc vàng nhạt từ hai
bên gốc cánh kéo xuống 1/3 chiều dài của cánh trước. Gián trưởng thành có kích
thước khoảng 32 ÷ 37mm; chiều ngang bụng khoảng 10 ÷ 12mm.
*Tập tính của gián
Tập tính là thuộc tính cơ bản nhất của mọi cơ thể sống. Tập tính không đơn
thuần là những hoạt động bản năng, mà nó còn bao gồm những hoạt động thứ sinh,
học tập được qua giao tiếp, trong đời sống, hoạt động bầy đàn, cồng đồng, xã hội.
Tập tính là một chuỗi những hoạt động, cách sống, phản ứng của cơ thể động
vật trả lời kích thích từ môi trường (bên trong hoặc bên ngoài cơ thể), phụ thuộc và
chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố vô sinh và hữu sinh của môi trường sống, nhờ đó
động vật thích nghi với môi trường sống xung quanh để tồn tại và phát triển [2].
Cơ chế hình thành và điều khiển tập tính chính là cơ chế hoạt động của hệ
thần kinh gồm cơ quan tiếp nhận cảm giác (trong và ngoài), cơ quan vận động và
cơ quan điều khiển [6].
“Gián nhà là loài côn trùng sống cùng người. Chúng có tập tính sống thành
bầy đàn và thường hoạt động về đêm. Suốt ngày chúng chui rúc, ẩn náu trong các
khe, kẽ tối tăm, ẩm ướt và kín đáo như kẽ cửa, kẽ tủ, trong nhà tắm, chạn bát, ống
nước, chuồng nuôi súc vật, cống rãnh thoát nước, v.v... Ban ngày thậm chí có muốn
cũng khó mà tìm ra bóng dáng của một con gián nào. Thế nhưng chỉ cần bóng đêm
Kích thích ngoài
hoặc trong
Cơ quan
thụ cảm
Hệ thần
kinh
Cơ quan
thực hiện
Hành
động
9
mới bắt đầu, lập tức bọn côn trùng đáng ghét này lại túa ra sục sạo, tìm kiếm và
ngửi liếm đồ ăn thức uống ở khắp mọi nơi”. [5]
Ở gián biểu hiện các tập tính như tập tính dinh dưỡng, tập tính di cư - phát
tán, tập tính sinh sản, …
- Tập tính dinh dƣỡng
Gián ăn chất thải rất mất vệ sinh ở các khu dân cư. Ban đêm chúng thường
tìm thức ăn trong bếp, trong chạn, nơi thùng rác, cống rãnh thoát nước. Nếu ban
đêm ta bật đèn sáng ở bếp, gián có thể chạy loạn xạ trên bát đĩa, đồ dùng nấu ăn,
sàn nhà để tìm nơi trú ẩn.
“Gián mang phần phụ miệng kiểu nguyên thủy nhất của côn trùng là phụ
miệng kiểu nghiền. Kiểu phụ miệng này đáp ứng cho tập tính ăn tạp. Gián nhà ăn
mọi loại thức ăn cho dù là cứng hay lỏng. Chúng khéo léo sục sạo đồ ăn và thức
uống từ trong bếp, rồi chạn bát đĩa, cho đến nhà kho. Chúng không những liếm láp
cả đồ ăn thừa trong thùng nước gạo, thùng rác, mà còn ở cả nhà vệ sinh và còn có
thể chén cả xác thực vật, động vật thối rữa. Khi đói, gián nhà còn có thể gặm thủng
cả quần áo, chăn màn và sách vở”. [5]
Gián nhà thuộc loài phàm ăn, chúng rất thích chất bột đường như sữa, bơ,
bánh ngọt, bột đường, sô-cô-la ngọt. Gián cũng ăn bìa gáy sách, tủ trần có bột, đế
giầy, lót giầy, ăn cả xác lột của chúng, gián chết, máu khô, máu tươi, phân, ăn cả
móng tay, móng chân trẻ em, người ngủ hoặc người ốm.
Gián có mùi hôi rất khó chịu, huỷ hoại thức ăn, gặm nhấm đồ vật. Chúng vừa
ăn vừa nôn mửa những thức ăn mà chúng đã tiêu hóa một phần và đào thải phân rải
rác khắp nơi. Các chất bài tiết, nôn mửa từ miệng gián, các tuyến trên cơ thể của
gián có mùi hôi đặc biệt, rất khó chịu và đọng lại rất lâu trên những vật dụng mà nó
đã đi qua. Một số người bị dị ứng với gián sau khi thường xuyên va chạm. Gián có
thể giữ mang mầm bệnh đường ruột, như ỉa chảy, kiết lỵ, thương hàn, tả. [12]
- Tập tính di cƣ, phát tán
10
Có một số loài gián có thể di cư thành đàn do sự phát triển đông đúc. Chúng
di cư đến địa điểm mới bằng cách bò hay bay. Chúng thường chui vào trong nhà,
ẩn náu vào các hộp rỗng, chai, túi đựng thực phẩm và trở thành động vật có mặt
thường xuyên ở nơi cất giữ thức ăn. Gián có thể được đưa đi xa nhờ các phương
tiện như máy bay, tàu biển và các loại xe cộ khác.
- Tập tính sinh sản
Đây là một tập tính phức tạp và quan trọng giúp động vật duy trì và phát
triển nòi giống. [2]
Trong tập tính sinh sản, loài gián có hương thơm đặc biệt là pheromone,
những con cái sẽ phát ra mùi hương đó khi chúng chuẩn bị tỏ tình và sinh nở. Khi
đến tuổi động dục, con cái sẽ đứng trên bề mặt cao trong đêm, nâng cánh lên và tỏa
ra mùi đó. Con đực hít phải mùi hương và sẽ tiến đến trong chốc lát. Thông thường,
một lần giao phối cung cấp cho con cái lượng tinh trùng đủ để dự trữ và đẻ ra một
mớ trứng dùng cho cả đời mà không phải giao phối lần nữa. Loại "dục tình hương"
này có thể quyến rũ con đực từ một khoảng cách rất xa, thường được các loài động
vật và côn trùng sử dụng như tín hiệu gọi tình, phân biệt bầy đàn và cảnh báo nguy
hiểm. [15]
Như vậy, loài gián có thể hấp dẫn đồng loại do tác động của pheromone do
chúng tiết ra. Chất này khi được tiết ra ngoài cơ thể có thể gây ra những phản ứng
chuyên biệt cho các cá thể cùng loài. Sự truyền bá pheromone tương đối chậm
nhưng tín hiệu này được duy trì lâu và xa. Hoạt chất pheromone giúp gián nhận biết
nhau, là chất hấp dẫn sinh dục, chất quyết định cho việc bị lôi cuốn những con cùng
loài tới những nơi có đồng loại và tụ tập lại thành đàn. []13
Bằng cách sử dụng phương pháp sắc kí khí điều chế cặp với phương pháp
phát hiện bằng sóng radio (preparative gas chromatography coupled with
electroantennographic detection), Satoshi Nojima cùng các cộng sự đã phân lập và
xác định cấu trúc của pheromone giới tính ở gián Đức (Blattella germanica). Chất
này được đặt tên là blattellaquinone. [13]
11
Tuyến tạo ra pheromone này được phát hiện vào 1993. Nhưng chất này
không bền với nhiệt nên các nhà nghiên cứu chưa phân lập được chất chúng.
Việc tìm ra cấu trúc cũng như tổng hợp hóa học của pheromone này đã tạo
ấn tượng lớn cho lĩnh vực nghiên cứu hành vi và dẫn dụ. Đồng thời, các kết quả
nghiên cứu trên cũng hứa hẹn cung cấp các công cụ mới cho việc phát hiện, giám
sát và kiểm soát quần thể gián.
Giáo sư Wendell Roelofs cho biết: "Vì loài gián có tập quán thường sống
thành bầy, nên khả năng quyến rũ số đông và tiêu diệt tập thể rất dễ dàng". Sau một
thời gian tìm kiếm Giáo sư Roelofs và các đồng sự đã phát hiện một tuyến có liên
quan dục tình hương pheromone nằm ngay cuối bụng con cái. Chính cơ quan “bé
tí” này đã khiến cho biết bao lũ gián đực tìm đến bất chấp mọi khoảng cách không
gian và nguy hiểm. [15]
Sau khi phát hiện ra yếu điểm ở con cái, các nhà khoa học bắt đầu tìm kiếm
nguyên lý nhận tín hiệu ở con đực và đã nhận diện được cơ quan tiếp nhận loại hóa
chất đặc biệt này: Đó là một cột ăng-ten thu sóng sinh học độc nhất vô nhị, có thể
cho chủ thể biết khi có tín hiệu kích thích. Cột ăng-ten này là hai chiếc lông dài ở
cuối đuôi, giúp lũ gián đực xác định nơi phát ra tín hiệu một cách chính xác. [15]
Con người nghiên cứu tập tính của động vật không chỉ nhằm tìm hiểu, lí giải
những cơ chế sinh học của nó, mà quan trọng hơn là từ những cơ sở tập tính sống
của động vật chúng ta có thể ứng dụng vào đời sống con người. [2]
Chúng ta có thể dựa vào đặc tính sinh thái, tập tính hoạt động, trú ẩn và kiếm
thức ăn của gián để tiến hành các biện pháp giám sát sự phát triển của gián phù
hợp. Đồng thời tùy từng mục đích khác nhau, áp dụng các phương pháp giám sát
gián khác nhau.
12
PHẦN 3. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là loài gián nhà có tên gọi là Periplaneta
australasiae (gián Úc).
2.2. Các phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu lí thuyết, phương pháp thực nghiệm và xin ý kiến
tư vấn của các nhà khoa học chuyên ngành.
2.2.1. Phƣơng pháp phân loại đối tƣợng nghiên cứu
Để phân loại đối tượng nghiên cứu (xác định tên loài), chúng em kết hợp
giữa nghiên cứu lí thuyết với thực nghiệm, so sánh, phân tích và xin ý kiến tư vấn
của các nhà khoa học chuyên ngành.
Chúng em đã tiến hành qua các bước sau:
- Bước 1: Tổng quan lí thuyết, tìm hiểu đặc điểm sinh học và tập tính của các
loài gián sống ở Việt Nam.
- Bước 2: Chúng em tiến hành bắt rồi quan sát, phân tích các đặc điểm hình
thái của gián ở xung quanh khu vực dân cư sinh sống, so sánh với lý thuyết để phân
loại.
- Bước 3. Xin ý kiến tư vấn của các chuyên gia nghiên cứu về côn trùng, từ
đó xác định chính xác tên loài gián đang nghiên cứu.
2.2.2. Phƣơng pháp tìm tuyến pheromone ở gián
Để xác định chính xác vị trí tuyến pheromone trên cơ thể gián, chúng em đã
tiến hành qua các bước như sau:
*Bước 1. Thực hành mổ gián để phân loại chính xác con đực và con cái.
*Bước 2. Xác định vai trò của pheromone trong dẫn dụ sinh dục bằng cách:
- Thí nghiệm 1: Bắt gián cái cho vào bẫy làm mồi dẫn dụ gián.
- Thí nghiệm 2: Bắt gián đực cho vào bẫy làm mồi dẫn dụ gián.
-> Mục tiêu: xác định tuyến pheromone có trên cơ thể gián đực hay gián cái
và vai trò của pheromone trong hấp dẫn sinh dục.
13
*Bước 3. Xác định tuyến vị trí tuyến pheromone trên cơ thể gián bằng cách
tách riêng 2 phần đầu và bụng của gián đực và gián cái rồi lần lượt sử dụng chúng
làm mồi.
- Đặt mồi vào bẫy và để trong lồng thí nghiệm trong suốt có kích thước
50x60x60cm.
-> Mục tiêu: Xác định vị trí tuyến pheromone có ở phần đầu hay phần bụng
của gián.
*Bước 4. Phân tích thành phần pheromone của gián
- Tách chiết pheromone từ gián bằng dung môi etyl axetat và rượu metylic.
- Mẫu vật: 3 gián đực và 3 gián cái đã trưởng thành.
- Tiến hành:
+ Mổ gián, loại bỏ ruột.
+ Tách riêng phần đầu và phần bụng của gián cái. Đối với gián đực thì gộp
phần đầu và bụng.
+ Ngâm riêng 3 mẫu vật thí nghiệm vào dung dịch etyl axetat (hoặc rượu
metylic), mỗi mẫu được ngâm trong 25ml dung dịch.
+ Đưa 3 mẫu thí nghiệm vào máy chiết suất dạng sóng siêu âm trong 10
phút.
- Phân tích thành phần pheromone của gián bằng hệ thống sắc kí khí - khối
phổ liên hợp (GC-MS) tại khoa Hóa học, trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
-> Mục tiêu: Xác định chính xác vị trí tuyến pheromone ở gián và tìm hiểu
thành phần của pheromone.
2.2.3. Phƣơng pháp thiết kế bẫy bắt gián
Để thiết kế được bẫy bắt gián theo đúng mục tiêu đặt ra, chúng em đã tiến
hành như sau:
- Bước 1. Tham khảo, phân tích, tìm hiểu nguyên lí hoạt động của các loại
bẫy bắt gián trên thị trường hiện nay.
14
- Bước 2. Thiết kế các loại bẫy bắt gián đơn giản bằng cách tận dụng vật liệu
dễ kiếm, thân thiện với môi trường.
+ Nguyên vật liệu làm bẫy: các vỏ hộp (hộp bánh kẹo, hộp sữa …), bìa
carton, ruột bút bi hết mực, tăm tre, băng dính, keo...
- Bước 3. Thực nghiệm và xác định liều lượng mồi phù hợp trong bẫy.
+ Đặt bẫy vào giữa phòng thực nghiệm có diện tích 12,25m2.
+ Mồi: gián cái trưởng thành. Lượng mồi thí nghiệm lần lượt từ 1 đến 6 gián
cái.
-> Mục tiêu: xác định liều lượng mồi phù hợp đặt trong bẫy.
2.2.4. Phƣơng pháp xác định hiệu quả chọn lọc của bẫy
Để xác định hiệu quả bắt gián có chọn lọc của bẫy, chúng em đã thiết kế
thêm một số loại bẫy bắt gián khác làm đối chứng dựa trên tập tính dinh dưỡng của
chúng. Cụ thể như sau:
- Bước 1. Lựa chọn mồi
+ Chúng em lựa chọn mồi là thức ăn gồm mật ong, hoa quả, cơm. Đây là
những loại thức ăn thường có trong nhà bếp, nơi sống yêu thích của gián.
- Bước 2. Thiết kế bẫy. Chúng em đã thiết kế 3 thí nghiệm:
+ Thí nghiệm 1: dùng mồi là mật ong
+ Thí nghiệm 2: dùng mồi là hoa quả có vị ngọt và thơm
+ Thí nghiệm 3: dùng mồi là cơm
- Bước 3. Đặt bẫy trong phòng có diện tích 12,25m2 và quan sát hiệu quả của
bẫy.
-> Mục tiêu: xác định hiệu quả bắt gián có chọn lọc của bẫy đã thiết kế.
15
PHẦN 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Xác định đối tƣợng nghiên cứu và phân loại gián
Sau một thời gian thực nghiệm, quan sát hình thái của tất cả gián bắt được,
chúng em đều nhận thấy:
Tất cả gián sống trong khu dân cư phường Cẩm Bình, Cẩm Phả, Quảng Ninh
đều loại gián lớn, hầu hết có kích thước cơ thể khoảng từ 30 đến 37 mm, có màu
cánh dán đậm và đều có cánh. Trên cánh của gián này có 2 sọc vàng nhạt từ hai bên
gốc cánh kéo xuống 1/3 chiều dài của cánh trước.
Dựa trên các quan sát thực nghiệm và mổ gián, chúng em chia chúng thành 2
loại:
+ Gián cái: có kích thước nhỏ hơn một chút, cánh dài vừa bằng với phần
bụng, bụng bè hơn, tận cùng bụng có máng đẻ trứng. Khi mổ thấy bên trong bụng
có trứng.
+ Gián đực: có kích thước lớn hơn, cánh kéo dài hơn phần bụng, phần bụng
hình bầu dục, thon gọn. Tận cùng phần bụng có 2 gai nhỏ. Khi mổ thấy trong bụng
có 1 tuyến màu trắng sữa chạy dọc trong khoang bụng.
Trên cơ sở quan sát thực nghiệm, so sánh với lí thuyết chúng em nhận định
loài gián mà chúng em đang nghiên cứu mang các đặc điểm trùng khớp với loài
gián Úc (Periplanete australasiae).
Để có kết luận chính xác, chúng em đã xin ý kiến tư vấn của GS.TSKH. Vũ
Quang Mạnh, Giám đốc trung tâm NCGD đa dạng sinh học CEBRED - trường
ĐHSP Hà Nội. Giáo sư khẳng định đó là loài gián Úc (Periplanete australasiae).
Theo GS.TSKH. Vũ Quang Mạnh: tốc độ sinh sản của loài gián này rất nhanh,
chúng là nhóm động vật gây hại cho con người.
3.2. Thiết kế bẫy bắt gián
Chúng em đã tận dụng các vật liệu dễ kiếm như các loại vỏ hộp bằng kim
loại, bằng nhựa hoặc bìa carton để thiết kế những loại bẫy bắt gián khác nhau. Mỗi
bẫy được cấu tạo gồm 2 phần chính:
16
+ Thân bẫy: là các vỏ hộp. Để dễ quan sát gián vào bẫy, chúng em dùng nắp
bẫy làm bằng meca trong suốt.
+ Phần cửa: có thể dùng giấy bìa, ruột bút (đã hết mực), tăm tre, keo dính.
Ngoài ra có thể thêm phần hộp phụ màu tối (đen hoặc nâu) để thu gián.
Qua thực nghiệm, chúng em nhận thấy các loại bẫy bắt gián được thiết kế
đều phù hợp và đạt được mục tiêu đã đặt ra.
3.3. Bẫy bắt gián bằng pheromone
Mẫu vật: gián đực và gián cái đã trưởng thành.
Không gian thí nghiệm: Đặt bẫy trong lồng thí nghiệm bằng meca trong suốt
kích thước 50x60x60cm.
3.3.1. Thí nghiệm xác định vai trò của pheromone
*Thí nghiệm 1: Chúng em đã bắt lần lượt từ 1 ÷ 3 con gián cái cho vào bẫy
làm mồi. Mỗi thí nghiệm được tiến hành với số lần lặp lại 5 lần, thời gian cho một
thí nghiệm là 3 giờ. Sau một thời gian thực nghiệm, chúng em nhận thấy tất cả gián
chui vào bẫy đều là gián đực. Kết quả thí nghiệm được chúng em trình bày trong
bảng 1.
Bảng 1. Kết quả thực nghiệm mồi gián cái
TN Số lƣợng mồi Tổng số gián vào bẫy Thời gian gián vào bẫy sớm nhất
1 1 gián cái 3 23 phút sau khi cho mồi
4 2 gián cái 9 16 phút sau khi cho mồi
6 3 gián cái 11 15 phút sau khi cho mồi
Kết quả trên cho thấy, gián cái có khả năng thu hút gián đực vào bẫy. Lượng
mồi tối thiểu trong lồng thí nghiệm kích thước 50x60x60cm là 1 gián cái.
*Thí nghiệm 2: Lần lượt bắt 1 ÷ 3 con gián đực cho vào bẫy làm mồi. Mỗi
thí nghiệm cũng được tiến hành với số lần lặp lại 5 lần, thời gian cho một thí
nghiệm là 3 giờ. Sau một thời gian thực nghiệm, chúng em không thấy chỉ có 1 thí
nghiệm duy nhất với bẫy dùng mồi 1 gián đực, có 1 gián đực vào bẫy. Các thí
17
nghiệm khác hoàn toàn không có gián vào bẫy. Thí nghiệm này đã chứng tỏ, gián
đực hầu như không có vai trò làm mồi thu hút gián.
Qua thí nghiệm 1 và 2, chúng em sơ bộ kết luận: pheromone chỉ có ở gián
cái, có tác dụng hấp dẫn những cá thể gián đực.
3.3.2. Thí nghiệm xác định vị trí tuyến pheromone trên cơ thể gián cái
*Thí nghiệm 1
+ Mổ 3 gián cái, tách lấy phần đầu, nghiền nát và cho vào bẫy. Đặt bẫy trong
lồng thí nghiệm kích thước 50x60x60cm.
+ Lặp lại thí nghiệm 5 lần, mỗi lần được tiến hành trong 3 giờ.
+ Kết quả: không thấy gián vào bẫy.
-> Như vậy, phần đầu ngực của gián cái có thể không có hoặc có rất ít tuyến
pheromone nên không có khả năng thu hút gián đực.
*Thí nghiệm 2
+ Mổ 3 gián cái, bỏ ruột, tách lấy phần bụng, nghiền nát và cho vào bẫy. Đặt
bẫy trong lồng thí nghiệm kích thước 50x60x60cm.
+ Lặp lại thí nghiệm 5 lần, mỗi lần 3 giờ.
+ Kết quả được thể hiện trong bảng 2.
Bảng 2. Kết quả thực nghiệm mồi là bụng gián cái
TN Số lƣợng gián vào bẫy Thời gian gián vào bẫy sớm nhất
1 2 (gián đực) Sau khi đặt bẫy 19 phút
2 2 (gián đực) Sau khi đặt bẫy 22 phút
3 1 (gián đực) Sau khi đặt bẫy 15 phút
4 3 (gián đực) Sau khi đặt bẫy 15 phút
5 2 (gián đực) Sau khi đặt bẫy 18 phút
+ Những kết quả trên cho thấy tuyến pheromone có khả năng nằm ở phần
bụng của con cái và chúng có sức hấp dẫn với con đực.
18
Như vậy, kết quả nghiên cứu thực nghiệm của chúng em bước đầu đã chỉ ra
phần bụng của gián cái có chứa nhiều tuyến pheromone.
3.3.3. Phân tích, xác định thành phần pheromone của gián cái
3.3.3.1. Tách chiết pheromone của gián cái
Chúng em đã tách chiết pheromone của gián bằng dung môi etyl axetat và
rượu metylic và phân tích mẫu tại khoa Hóa học trường ĐHSP Hà Nội.
Mẫu vật: 3 mẫu thí nghiệm
+ Mẫu 1: phần đầu và phần bụng gián đực.
+ Mẫu 2: phần đầu gián cái.
+ Mẫu 3: phần bụng gián cái.
Ngâm cả 3 mẫu vào dung môi và đưa vào máy chiết suất dạng sóng siêu âm
trong 10 phút rồi tiến hành phân tích mẫu sau 3 ngày.
Kết quả phân tích 3 mẫu thí nghiệm bằng dung môi etyl axetat như sau:
Hình 4: Sắc kí đồ dịch chiết EtOAc bụng gián cái.
19
Hình 5: Sắc kí đồ dịch chiết EtOAc đầu gián cái.
Hình 6: Sắc kí đồ dịch chiết EtOAc đầu và bụng gián đực.
Phân tích sắc kí đồ phổ sắc kí khí - khối phổ liên hợp (GC-MS) kết hợp với
việc so sánh phổ khối của từng chất với ngân hàng phổ khối cho chúng em thu
được kết quả sau:
Bảng 4: Thành phần hóa học của dịch chiết EtOAc bụng gián cái
STT Thời gian lƣu Hàm lƣợng % Hợp chất
1 3.175 13.30 Chưa xác định
2 3.727 1.02 Ethyl propanoate
3 6.243 1.94 n-Butyl acetate
4 17.371 37.70 p-allylanisole
5 21.450 0.99 Tetradecamethylcycloheptasiloxane
6 22.595 2.82 4-methoxy-Benzaldehyde
7 23.893 11.79 cis-α-Bergamotene
8 28.120 1.84 (-)-Cedreanol
9 30.710 2.27 Chưa xác định
10 31.511 4.82 Dimethyl phthalate
11 31.701 3.02 Texanol Isobutyrate
12 34.665 5.19 3-Methoxycinnamaldehyde
13 37.820 5.31 Chưa xác định
14 37.892 0.78 Chưa xác định
20
15 40.238 7.21 Chưa xác định
Như vậy, thành phần hóa học trong mẫu bụng gián cái có 15 hợp chất không
có ở mẫu đầu gián cái cũng như mẫu gián đực. Chúng em sơ bộ kết luận đó là
thành phần pheromone ở gián cái.
Dưới đây là cấu trúc một số thành phần chính:
O
p-allylanisole
cis-α-Bergamotene
OOO
O
Dimethyl phthalate
H3C
CH3
O
CH3H3C
CH3H3CO
O
CH3
CH3
O
Texanol Isobutyrate
O
O
H
3-Methoxycinnamaldehyde
Các phân tích bằng dung môi rượi metylic cũng cho kết quả tương tự.
Kết quả phân tích cho thấy pheromone chỉ nằm ở phần bụng của gián cái,
không có ở phần đầu của gián cái cũng như trong cơ thể gián đực. Kết quả này rất
phù hợp với các thí nghiệm mà chúng em đã tiến hành với mồi trước đó. Đồng thời
kết quả này cũng phù hợp với phát hiện của Giáo sư Roelofs và các đồng sự đó là
có một tuyến có liên quan dục tình hương pheromone nằm ngay cuối bụng con cái.
21
So sánh với nghiên cứu của Satoshi Nojima cùng các cộng sự ở gián Đức
(Blattella germanica) pheromone giới tính của chúng là blattellaquinone khác với
pheromone của gián Úc. [13, 14]
3.3.4. Thí nghiệm xác định liều lƣợng pheromone tối thiểu dùng đặt bẫy
Trong quá trình thực nghiệm, chúng em đã sử dụng gián cái làm mồi hấp dẫn
gián đực vào bẫy. Để xác định lượng pheromone phù hợp cho mỗi lần đặt bẫy,
chúng em đã thiết kế thí nghiệm như sau:
- Lần lượt đặt vào trong bẫy lượng mồi tương ứng từ 1 đến 6 gián cái trưởng
thành.
- Đặt bẫy vào phòng có diện tích 12,25m2.
- Dùng camera quan sát và ghi lại kết quả.
- Lặp lại mỗi thí nghiệm 5 lần, mỗi lần trong thời gian 3 giờ.
Kết quả thu được thể hiện trong bảng 5.
Bảng 5. Kết quả nghiên cứu lượng mồi tối thiểu dùng trong bẫy thí nghiệm
TN Lượng mồi Tổng số gián vào bẫy Thời gian gián vào bẫy sớm nhất
1 1 0 -
2 2 01 3 phút
3 3 0 -
4 4 0 -
5 5 02 28 phút
6 6 14 26 phút
Kết quả trên cho thấy, nếu sử dụng 6 gián cái làm mồi thì mồi có hiệu quả
nhất. Gián chui vào bẫy sau 26 phút đặt bẫy.
3.3.5. Thí nghiệm xác định hiệu quả bắt gián chọn lọc của bẫy
Để xác định hiệu quả bắt chọn lọc của bẫy, chúng em đã thiết kế một số thí
nghiệm đối chứng với mồi là thức ăn gồm mật ong, hoa quả có vị ngọt và mùi
22
thơm, cơm. Mỗi thí nghiệm được lặp lại 5 lần với thời gian 1 lần đặt bẫy là 1 ngày
đêm. Kết quả thí nghiệm được chúng em trình bày tại bảng 6.
Bảng 6. Kết quả nghiên cứu với mồi là thức ăn
TN Mồi Tổng số gián vào bẫy Các động vật khác
1 Mật ong 19 (cả gián đực và cái) Kiến, thạch thùng
2 Hoa quả 14 (cả gián đực và cái) Kiến, thạch thùng
3 Cơm 8 (cả gián đực và cái) Kiến
Kết quả thí nghiệm đã cho thấy, nếu sử dụng mồi là thức ăn để bắt gián thì
loại thức ăn ưa thích của chúng là mật ong, tiếp đến các hoa quả có vị ngọt và mùi
thơm như táo, chuối và cuối cùng là cơm. Sử dụng thức ăn sẽ bắt được cả gián đực
và gián cái trong quần thể.
Đồng thời thí nghiệm cũng chỉ rõ, nếu sử dụng thức ăn thì ngoài bắt gián
chúng ta có thể bắt được các loại động vật khác như kiến, thạch thùng trong đó có
cả những động vật có ích cho con người.
So sánh với bẫy bắt gián bằng cách sử dụng gián cái tiết pheromone chúng
em nhận thấy: loại bẫy chúng em thiết kế có tính chất chọn lọc chỉ bắt gián đực,
không bắt các loại sinh vật khác; bẫy chỉ bắt gián chứ không giết chết chúng. Với
loại bẫy này có thể kiểm soát hiệu quả sự phát triển của quần thể gián.
So sánh với các bẫy bắt gián có sẵn trên thị trường hiện nay thì bẫy bắt gián
do chúng em thiết kế đơn giản, rất dễ làm từ các nguyên liệu dễ kiếm và dễ áp dụng
rộng rãi.
Tuy nhiên, trong quá trình thí nghiệm, chúng em gặp phải khó khăn sau:
- Mặc dù tuyến tạo ra pheromone này được phát hiện vào 1993. Nhưng chất
này không bền với nhiệt nên các nhà nghiên cứu rất khó phân lập được chất chúng.
Đồng thời, khi con vật gửi đi tín hiệu, lượng hoá chất đó cũng quá nhỏ để có thể
phát hiện và phân lập.
23
Vì vậy, trong quá trình thiết kế bẫy thí nghiệm, chúng em đã sử dụng gián
cái làm mồi để dẫn dụ và bắt gián đực.
24
PHẦN V. KẾT LUẬN
5.1. Gián cái có khả năng hấp dẫn và thu hút gián đực vào các bẫy bắt gián.
5.2. Lượng mồi phù hợp để bắt gián trong phòng thí nghiệm diện tích
12,25m2 là 6 gián cái trưởng thành.
5.3. Bẫy bắt gián phù hợp với phương pháp sử dụng pheromone của chính
loài gián cần bắt.
Hƣớng phát triển của đề tài:
- Tiếp tục phân tích, nghiên cứu liều lượng mồi phù hợp nhất trong bẫy bắt
gián.
- Tiếp tục nghiên cứu, phân tích pheromone của gián để hoàn thiện bẫy bắt
gián.
TÀI LIỆU THAM TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Mai Văn Hưng - Đỗ Quyết Thắng. Sinh học động vật. NXB ĐH quốc gia Hà
25
Nội. 2013.
2. Vũ Quang Mạnh. Tập tính học động vật. NBX Giáo dục. 2000.
3. Vũ Quang Mạnh - Trịnh Nguyên Giao. Hỏi đáp về tập tính động vật. NXB Giáo
dục. 2002.
4. Động vật không xương sống. NXB ĐH quốc gia Hà Nội. 2008.
5. Vũ Quang Mạnh - Nguyễn Thanh Thúy. Đời sống côn trùng quanh ta. NXB Giáo
dục. 2010.
6. Bộ GD&ĐT. Sinh học lớp 11. NXB Giáo dục. 2008
7. http://khoahoc.tv/bandoc/ban-doc/36841_gian-va-tac-hai-cua-gian.aspx
8. Vũ Quang Mạnh - Lê Xuân Huệ. Tập tính động vật và ứng dụng trong gây nuôi
cà cuống - bọ cạp. NXB Nông nghiệp. 1999.
9. http://www.youtube.com/watch?v=DIU6mtkIPZY
10. http://www.impe-qn.org.vn/impe-qn/vn/portal/InfoDetail.jsp?area=58&cat=1065&ID=958
11. https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1n_nh%C3%A0
12. http://www.nolavn.com/phun-diet-con-trung/gian-tac-hai-doi-voi-suc-khoe
13. http://forum.nhasinhhoctre.com
15. http://nld.com.vn/khoa-hoc/cam-bay-tinh-duoi-cai-nhin-khoa-hoc-116548.htm
16. The Nature and Development of Sex Attractant Specificity
in Cockroaches of the Genus Periplaneta. ROLLIE SCHAFER
Division of Biological Sciences, University ofMichigan, Ann Arbor,
Michigan48109