ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

88
1 BGIÁO DC VÀ ĐÀO TO TRƯỜNG ĐẠI HC THƯƠNG MI Bmôn kinh tế thương mi --------***------- ĐỀ CƯƠNG BÀI GING KINH TTHƯƠNG MI ĐẠI CƯƠNG Hà ni tháng 2/2006

Transcript of ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

Page 1: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

Bộ môn kinh tế thương mại --------***-------

ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

Hà nội tháng 2/2006

Page 2: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI Bộ môn kinh tế thương mại

--------***-------

ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

Chủ biên: TS. Ngô Xuân Bình Tham gia biên soạn: TS. Ngô Xuân Bình TS. Thân Danh Phúc TS. Hà Văn Sự

Hà nội tháng 2/2006

Page 3: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

3

Chương 1: chương mở đầu 1.1. Bản chất kinh tế của thương mại 1.1.1. Lịch sử về sự ra đời của thương mại Thương mại là một phạm trù kinh tế ra đời và tồn tại gắn liền với sự ra đời và tồn tại của Kinh tế hàng hóa. Về mặt lịch sử, kinh tế loài người đã trải qua hai quá trình là Kinh tế tự nhiên và kinh tế hàng hóa. Xã hội loài người bắt đầu bằng kinh tế tự nhiên. Trong nền kinh tế tự nhiên con người sản xuất ra các sản phẩm với mục đích phục vụ cho nhu cầu của bản thân họ,vì thế chưa có trao đổi hàng hóa và dịch vụ. Trao đổi hàng hóa chỉ xuất hiện trong nền kinh tế hàng hóa khi phân công lao động xã hội đã tương đối phát triển và chế độ tư hữu hình thành. Trong lịch sử phát triển loài người trao đổi hàng hóa xuất hiện vào giai đoạn cuối của xã hội cộng đồng nguyên thủy và thời kỳ đầu của chế độ chiếm hữu nô lệ. Lúc đầu trao đổi mang tính ngẫu nhiên và được tiến hành trực tiếp theo hình thức hàng đổi hàng (H-H’). Khi xã hội xuất hiện tiền tệ thì từ đó trao đổi được tiến hành thông qua môi giới của tiến tệ (H- T – H’) và lưu thông hàng hóa ra đời. Lưu thông hàng hóa là hình thái phát triển của trao đổi hàng hóa, đó là sự trao đổi hàng hóa thông qua môi giới của tiền tệ. Lưu thông hàng hóa ra đời làm cho quá trình mua bán trao đổi dễ dàng hơn, thuận tiện , mở rộng hơn về không gian và thời gian. Nó đã thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của trao đổi và đưa đến sự phủ định trao đổi hàng hóa trực tiếp. Tuy nhiên sự tách rời giữa quá trình mua bán cũng làm xuất hiện mầm mống của mâu thuẫn giữa sản xuất và tiêu dùng. Do vậy cũng làm nảy sinh những điều kiện dẫn tới khủng hoảng sản xuất và tiêu thụ. Trong trao đổi hàng hóa trực tiếp và lưu thông hàng hóa, chủ thể của hoạt động trao đổi là những người sản xuất và những người tiêu dùng, không có sự tham gia của những người trung gian (thương nhân) . Mục đích của hoạt động trao đổi là giá trị sử dụng. Sự phát triển ngày càng cao của phân công lao động xã hội đã làm xuất hiện một tầng lớp xã hội mới, đó là những người thương gia. Khác với những người sản xuất trực tiếp và những người tiêu dùng trực tiếp, thương gia bỏ tiền ra mua hàng hóa của những người sản xuất, sau đó bán lại để kiếm lời trong hoạt động buôn bán. Hoạt động kinh tế của những người thương gia thông qua mua bán để kiếm lời chính là hoạt động thương mại (T - H - T').

Page 4: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

4

Khác với trao đổi hàng hóa trực tiếp và lưu thông hàng hóa, hoạt động thương mại bắt đầu bằng tiền với hành vi mua và kết thúc cũng bằng tiền với hành vi bán. mục đích của hoạt động thương mại không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị cụ thể là nhằm vào lợi nhuận. Lưu thông hàng hóa ra đời đã phủ định trao đổi hàng hóa trực tiếp, ngược lại thương mại ra đời không đưa đến sự phủ định lưu thông mà trái lại nó làm cho lưu thông hàng hóa phát triển ở một trình độ cao hơn. Như vậy, sự xuất hiện của hoạt động thương mại gắn liền với sự xuất hiện của thương gia. Về lịch sử, những người thương gia xuất hiện vào cuối chế độ công xã nguyên thủy và đầu chế độ phong kiến Những hoạt động thương mại lúc đầu chỉ giới hạn chủ yếu trong lĩnh vực trao đổi các sản phẩm hữu hình (thương mại hàng hóa), sau đó được mở rộng sang các sản phẩm vô hình (thương mại dịch vụ), và trong nền kinh tế hiện đại, thương mại còn liên quan rất chặt chẽ với các hoạt động đầu tư và sở hữu trí tuệ. Những người thương gia ngày càng đông trong xã hội như là kết quả tất yếu của quá trình phân công lao động xã hội ngày càng mở rộng và chuyên sâu . Khi đó, một bộ phận lao động xã hội tách khỏi sản xuất, độc lập với sản xuất, chuyên làm chức năng lưu thông làm xuất hiện một ngành kinh tế mới đó là ngành Thương mại. Ngành thương mại ra đời như là kết quả tất yếu của sự phát triển trao đổi và phân công lao động xã hội. Phân công lao động lần thứ nhất bằng việc tách chăn nuôi ra khỏi trồng trọt đã thúc đẩy sự phát triển của trao đổi và tiền tệ xuất hiện trong giai đoạn này. Phân công lao động lần thứ hai bằng việc tách thủ công nghiệp khỏi nông nghiệp, sản xuất hàng hóa hình thành. Phân công lao động lần thứ ba với việc tách riêng chức năng tiêu thụ khỏi chức năng sản xuất, đã làm xuất hiện một ngành kinh tế chuyên làm chức năng trao đổi, mua bán nhằm vào mục đích kiếm lời trong nền kinh tế đó là ngành thương mại. Phân công lao động xã hội vẫn tiếp tục phát triển và tạo ra nhiều ngành mới. Trong lĩnh vực thương mại, ngoài ngành phân phối là ngành chuyên cung cấp các dịch vụ mua bán hàng hóa hữu hình gồm bán buôn và bán lẻ, còn có các ngành thương mại dịch vụ chuyên đảm nhận việc cung ứng dịch vụ cho thị trường thông qua các hoạt động thương mại vì mục đích lợi nhuận (hiện nay theo phân loại của WTO, lĩnh vực thương mại dịch vụ được phân thành 12 ngành, trong đó có 155 tiểu ngành dịch vụ khác nhau). Ngành thương mại ra đời vừa là sự tiến bộ của lịch sử, vừa là điều kiện thúc đẩy sự phát triển một bước cao hơn nữa của sản xuất hàng hóa. Sản xuất hàng hóa và lưu thông hàng hóa là 2 yếu tố cơ bản hợp thành Kinh tế hàng hóa. Kinh tế hàng hóa tất nhiên sản sinh và hình thành thị trường. Vì thế, nói tới thương mại, nói đến kinh tế hàng hóa, không thể tách rời phạm trù thị trương và kinh tế thị

Page 5: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

5

trường. Kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường, cũng như thương mại và thị trường đó là những mặt không thể tách rời nhau của cùng một sự vật. 1.1.2. Bản chất kinh tế của thương mại 1.1.2.1. Một số cách tiếp cận khi nghiên cứu bản chất kinh tế của Thương mại Nghiên cứu bản chất kinh tế của Thương mại chúng ta có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Trong giáo trình này chúng tôi sẽ đề cập tới 3 cách tiếp cận cơ bản nhất: a. Thương mại - hoạt động kinh tế. Nếu nhìn dưới góc độ một hoạt động kinh tế thì thương mại là một trong những hoạt động kinh tế cơ bản và rất phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Mọi hoạt động thương mại đều bắt đầu bằng hành vi mua hàng và kết thúc bằng hoạt động bán.Mục đích của hoạt động thương mại là nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Có thể tóm tắt hoạt động thương mại bằng công thức sau: T - H - T' . Đối tượng của các hoạt động thương mại là các hàng hóa vá dịch vụ. Chủ thể của hoạt động thưong mại gồm những người bán (người sản xuất hàng hóa, người cung ứng dịch vụ, thương gia ) và những người mua( người sản xuất, thương gia, những người tiêu dùng).Tuy nhiên tham gia vào hoạt động thương mại còn có một số người khác như : người môi giới, người đại lý thương mại ... Hoạt động thương mại xảy ra trong khâu lưu thông, trên thị trường với những điều kiện kinh tế, xã hôi, luật pháp, chính tri, và môi trường vật chất cụ thể. Trong hành vi mua, người ta chuyển đổi hình thái giá trị của hàng hóa từ hình thái tiền tệ sang hình thái hiện vật và cùng với quá trình này là sự chuyển đổi về sở hữu, người mua đổi quyền sở hữu tiền tệ để có được quyền sở hữu hàng hóa. Nhờ vậy mà có được quyền sử dụng sản phẩm cho việc thỏa mãn nhu cầu. Trong hành vi bán hàng, quá trình diễn ra hoàn toàn ngược lại. Hoạt động thương mại là một quá trình bao gồm các hoạt động cơ bản là mua và bán. Ngoài các hoạt động cơ bản còn có các hoạt động hỗ trợ cho các hoạt động mua bán, người ta gọi chung các hoạt động này là dịch vụ thương mại. Dịch vụ thương mại gồm tất cả những hoạt động thương mại ngoài hoạt động thương mại cơ bản (hoạt động mua và bán ), chúng phát sinh gắn với mua bán, hỗ trợ cho mua bán được thực hiện nhanh chóng và có hiệu quả. Hoạt động thương mại được tiến hành theo nguyên tắc tự nguyện, tự thỏa thuận và cùng có lợi. Vì thế quá trình mua bán vừa là quá trình cạnh tranh vừa là quá trình hợp tác giữa người bán và người mua. Thông qua các hoạt động thương mại, người bán đạt được giá trị nhằm mục đích lợi nhuận, người mua có được giá trị sử dụng để thỏa mãn các nhu cầu tiêu dùng khác nhau.

Page 6: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

6

Chính nhờ hoạt động thương mại mà sản xuất và tiêu dùng nối liền với nhau trong điều kiện của kinh tế hàng hóa. b. Thương mại - khâu trao đổi (lưu thông) của quá trình tái sản xuất xã hội Tái sản xuất xã hội gồm 4 khâu cơ bản: Sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Bốn khâu này có quan hệ mật thiết và tác động qua lại với nhau trong đó mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng là mối quan hệ cơ bản nhất. Là hình thái phát triển của trao đổi và lưu thông hàng hóa, thương mại được coi là một khâu cơ bản của tái sản xuất. Thương mại chính là khâu trao đổi nằm trung gian giữa sản xuất và tiêu dùng. Trong điều kiện xã hội hóa sản xuất và lưu thông hàng hóa ngày một phát triển, hàng hóa được tạo ra trong khâu sản xuất, sau đó được chuyển sang khâu lưu thông qua các giai đoạn khác nhau của khâu lưu thông: Mua ---> Vận chuyển ---> Dự trữ ---> Bán. Kết thúc khâu lưu thông, hàng hóa sẽ được chuyển sang lĩnh vực tiêu dùng. Trong điều kiện kinh tế hàng hóa, đại bộ phận các sản phẩm và dịch vụ được sản xuất ra đều phải trải qua khâu lưu thông, thông qua hoạt động mua bán bằng tiền mới có thể chuyển sang lĩnh vực tiêu dùng để thỏa mãn nhu cầu khác nhau của xã hội. Vì thế khâu lưu thông rất quan trọng. Nó là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng. Nền kinh tế hàng hóa giống như một cơ thể sống. Trong đó, lưu thông hàng hóa, thương mại được xem như hệ tuần hoàn. Thương mại phát triển, lưu thông hàng hóa thông suốt là biểu hiện của nền kinh tế lành mạnh, thịnh vượng. c. Thương mại - ngành kinh tế Nếu nhìn dưới giác độ phân công lao động xã hội thì thương mại được coi là một ngành kinh tế độc lập của nền kinh tế. Ngành thương mại chuyên đảm nhận chức năng tổ chức lưu thông hàng hóa và cung ứng các dịch vụ cho xã hội thông qua việc thực hiện mua bán nhằm sinh lợi. 1.1.2.2. Bản chất kinh tế của Thương mại Nghiên cứu Thương mại dưới các góc độ cơ bản: Hoạt động kinh tế, khâu của quá trình tái sản xuất xã hội cũng như góc độ ngành kinh tế của nền kinh tế quốc dân, chúng ta đều nhận thấy đặc trưng chung nhất của Thương mại là buôn bán, trao đổi hàng hóa và cung ứng dịch vụ gắn với tiền tệ và nhằm mục đích lợi nhuận. Từ đó có thể rút ra bản chất kinh tế chung của Thương mại là: Thương mại là tổng hợp các hiện tượng, các hoạt động và các quan hệ kinh tế gắn và phát sinh cùng với trao đổi hàng hóa và cung ứng dịch vụ nhằmi mục đích lợi nhuận. Thương mại, tiếng Anh là “Commerce” , ngoài ra còn có thuật ngữ khác là Trade, tiếng Pháp “Commerce”, tiếng Latinh “Commercium”, ... về cơ bản các từ này đều được hiểu là buôn bán hàng hóa với mục đích sinh lợi. Luật Thương mại của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng ghi:

Page 7: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

7

Hoạt động Thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi bao gồm: mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động sinh lợi khác. 1.1.3. Phân loại Thương mại 1.1.3.1. Theo phạm vi hoạt động thương mại Người ta phân thành Thương mại nội địa (nội thương) và Thương mại Quốc tế (ngoại thương) Thương mại nội địa có thể được phân thành: Thương mại thành thị và Thương mại nông thôn, Thương mại vùng đặc biệt,thương mại biên giới, thương mại vùng sâu, vùng xa, ... Thương mại nội địa phản ánh những quan hệ kinh tế thị trường của các chủ thể kinh tế của một quốc gia. Các hoạt động thương mại nội địa về cơ bản diễn ra trong phạm vi biên giới của một quốc gia. Thương mại Quốc tế bao gồm việc mua bán hàng hóa và dịch vụ qua biên giới quốc gia có thể ở phạm vi toàn cầu (WTO), có thể ở phạm vi khu vực (EU, ASEAN ...) hoặc thương mại song phương giữa 2 quốc gia. Thương mại quốc tế phản ánh những mối quan hệ kinh tế thương mại giữa các chủ thể kinh tế của các quốc gia với nhau. Chúng tuân thủ những luật lệ và những thông lệ buôn bán toàn cầu, khu vực và các hiệp định thương mại ký kết song phương giữa các quốc gia. Trong hoạt động ngoại thương, xuất khẩu là việc bán hàng hóa và dịch vụ cho nước ngoài và nhập khẩu là việc mua hàng hóa và dịch vụ của nước ngoài. Ngoại thương là hoạt động kinh tế đã có từ rất lâu, nhưng ngoại thương chỉ thực sự phát triển trong thời đại Tư bản chủ nghĩa. Ngày nay toàn cầu hóa kinh tế thế giới và tự do hóa thương mại là một xu hướng phổ biến, thì sự phát triển ngoại thương hết sức mạnh mẽ. Ngoại thương không chỉ có ý nghĩa đơn thuần là sự trao đổi buôn bán với bên ngoài mà thực chất cùng với các quan hệ kinh tế đối ngoại khác ngoại thương tham gia vào phân công lao động quốc tế. Thương mại nội địa diễn ra trên thị trường nội địa, ngoại thương là hoạt động thương mại diễn ra trên thị trường quốc tế. Thị trường thế giới và thị trường nội địa là những thị trường khác nhau vì vậy thương mại nội địa và ngoại thương được thực hiện theo những hình thức và phương pháp hoàn toàn không giống nhau. 1.1.3.2. Theo các khâu của quá trình lưu thông Người ta phân thành Thương mại bán buôn và thương mại bán lẻ. Thương mại bán buôn chủ yếu xảy ra trong lĩnh vực buôn bán các sản phẩm vật thể. Chủ thể của hoạt động thương mại bán buôn là những nhà sản xuất và thương gia. Chúng phản ánh các mối quan hệ kinh tế thương mại giữa những nhà sản xuất, giữa nhà sản xuất với thương gia và giữa những người thương gia với nhau. Khi hoàn thành các hoạt động

Page 8: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

8

mua bán buôn, hàng hóa vẫn chưa kết thúc quá trình lưu thông, chúng nằm lại trong khâu sản xuất để sau khi kết thúc sản xuất lại tiếp tục quay trở lại lưu thông hoặc vẫn nằm trong lưu thông để chờ bán cho người tiêu dùng cuối cùng. Thương mại bán lẻ: phản ánh mối quan hệ buôn bán hàng hóa và các dịch vụ giữa những nhà sản xuất, nhà cung ứng dịch vụ hoặc các thương gia với bên kia là những người tiêu dùng cuối cùng. Khi hoàn thành các hoạt động mua, bán lẻ hàng hóa sẽ kết thúc quá trình lưu thông và đi vào lĩnh vực tiêu dùng để thỏa mãn những nhu cầu khác nhau của xã hội. Sự phân biệt giữa thương mại bán buôn và thương mại bán lẻ dựa chủ yếu về sự khác biệt theo các khâu của quá trình lưu thông của sản phẩm. Bất kỳ mối quan hệ thương mại nào mà một bên có sự tham gia của người tiêu dùng cuối cùng quan hệ thương mại đó thuộc về thương mại bán lẻ và ngược lại thì đó là thương mại bán buôn. Các hoạt động bán buôn diễn ra ở các chợ đầu mối, thị trường với trung tâm buôn bán trong nước và quốc tế… Ngược lại, hoạt động bán lẻ diễn ra ở các chợ, các cửa hàng chuyên doanh, tổng hợp, các siêu thị, hội chợ thương mại… 1.1.3.3. Theo đối tượng của hoạt động thương mại Ngưới ta phân thành thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ. Thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ là những khái niệm phân biệt với nhau chủ yếu dựa vào sự khác biệt về đối tượng của hoạt động trao đổi trong thương mại. Nếu thương mại hàng hóa về cơ bản là trao đổi các sản phẩm hữu hình thì Thương mại dịch vụ là lĩnh vực trao đổi, mua bán các sản phẩm “vô hình” . Thương mại dịch vụ là lĩnh vực rất rộng và phức tạp. Trong nền kinh tế hiện đại, thương mại dịch vụ ngày càng phát triển mạnh mẽ. Thương mại dịch vụ tồn tại song song cùng thương mại hàng hóa và ngày càng giữ vị trí quan trọng trong đời sống kinh tế của xã hội hiện đại. Thương mại hàng hóa gồm thương mại hàng tư liệu sản xuất và thương mại hàng tiêu dùng. Người ta có thể phân chia thương mại theo từng nhóm hàng. Ví dụ: Thương mại về hàng công nghiệp, hàng nông sản, thực phẩm, thủy sản,hay theo mặt hàng Ví dụ như: gạo, cà phê, chè hay sắt thép, máy nông nghiệp... 1.1.3.4. Theo kỹ thuật trao đổi, buôn bán Người ta phân thành thương mại truyền thống và thương mại điện tử. Sự phân biệt giữa hai khái niệm này dựa trên sự khác biệt về các phương thức mua bán trong thương mại. Các phương thức mua bán trong thương mại truyền thống được xẩy ra trong môi trường tự nhiên ở đó người mua, người bán thường tiếp xúc trực tiếp trên thị trường dưới nhiều hình thức khác nhau.Trong thương mại truyền thống người

Page 9: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

9

mua người bán gặp gỡ trực tiếp, tiến hành các giao dịch mua bán ở các chợ, siêu thị, trung tâm thương mại, hội chợ triển lãm... thương mại truyền thống đã có từ rất lâu cùng với sự ra đời của trao đổi . Ngược lại, thương mại điện tử là một phương thức trao đổi mua bán bằng phương pháp điện tử trong môi trường điện tử. Thương mại điện tử chỉ xuất hiện trong xã hội hiện đại. Hiện nay thương mại điện tử đang phát triển rất nhanh chóng trên toàn thế giới và đó là xu hướng phát triển tất yếu vừa là yếu tố hợp thành của nền kinh tế số hóa. Theo định nghĩa phổ biến hiện nay, thương mại điện tử là phương thức hoạt động thương mại bằng các phương pháp điện tử, là việc trao đổi thông tin thương mại thông qua các phương tiện công nghệ điện tử mà không cần phải in ra giấy trong bất cứ công đoạn nào của quá trình giao dịch. Các phương tiện điện tử được sử dụng trong phương thức mua bán này rất đa dạng: điện thoại, máy fax, truyền hình,các hệ thống thiết bị công nghệ thanh toán điện tử, các mạng nội bộ (intranet), mạng ngoại bộ (extranet), mạng toàn cầu internet… Cần lưu ý rằng “Thương mại điện tử” còn được hiểu theo nghĩa rộng hơn so với cách hiểu thông thường chỉ là buôn bán các hàng hóa và dịch vụ. Trong thực tế, áp dụng thương mại điện tử sẽ làm thay đổi hình thái hoạt động của gần như tất cả các hoạt động kinh tế. Thương mại điện tử sẽ trở thành phương thức thương mại phổ biến trong xã hội tương lai, tuy nhiên thương mại truyền thống vẫn giữ nguyên giá trị về kinh tế và văn hóa, nó vẫn tồn tại song song cùng với thương mại điện tử mặc dù kinh tế thị trường và thương mại thế giới không ngừng mở rộng và phát triển. 1.1.3.5. Phân loại theo mức độ cản trở thương mại Người ta phân thành thương mại có bảo hộ và thương mại tự do hóa. Thương mại bảo hộ thường được các quốc gia áp dụng trong một số lĩnh vực nhạy cảm để bảo vệ các lợi ích quốc gia hoặc để bảo vệ sản xuất trong nước, nhất là đối với những ngành công nghiệp non trẻ, mới hình thành. Các biện pháp thường được sử dụng trong thương mại bảo hộ là thuế quan và các biện pháp phi thuế quan như: các biện pháp hành chính, cấm nhập khẩu, hạn ngạch, giấy phép, các quy định kỹ thuật, các tiêu chuẩn... đồng thời các quốc gia còn có thể áp dụng nhiều chính sách ưu đãi đối với sản xuất trong nước. Thương mại tự do hóa được thể hiện qua việc xóa bỏ và giảm thiểu hàng rào thuế quan, dỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan, bảo đảm quyền tự do kinh doanh cho các thương nhân, tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hóa trong nước và quốc tế lưu thông thông suốt. Thương mại tự do hóa có nhiều cấp độ và hình thức khác nhau.

Page 10: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

10

1.2. Những lý thuyết cơ bản và lợi thế so sánh trong thương mại 1.2.1. Lý thuyết của Adam Smith Lý thuyết về lợi thế so sánh tuyệt đối ra đời vào cuối thế kỷ XVII và đầu thế kỷ XIX. Người đề xướng đầu tiên là David Hume (1752) tiếp đến là Adam Smith (1723-1790) và sau đó được tiếp tục phát triển bởi những người kế tục của ông. Lợi thế tuyệt đối đề cập tới số lượng của một loại sản phẩm có thể được sản xuất, khi sử dụng cùng một nguồn lực ở hai nước khác nhau. Lợi thế tuyệt đối trong việc sản xuất một loại sản phẩm có thể do các lợi thế tự nhiên hoặc các lợi thế có được do kỹ thuật và sự lành nghề. Theo lý thuyết lợi thế so sánh tuyệt đối thì các quốc gia nên chuyên môn hóa sản xuất những sản phẩm mà họ có lợi thế tuyệt đối sau đó bán những hàng hóa này sang quốc gia khác để đổi lấy các sản phẩm mà nước ngoài có lợi thế hơn. Bằng việc chuyên môn hóa sản xuất những sản phẩm có lợi thế tuyệt đối cả hai quốc gia đều có lợi khi quan hệ thương mại với nhau. Ví dụ: Nước Mỹ có điều kiện tự nhiên thuận lợi trong việc trồng lúa mì. Ngược lại nước Anh có nhiều thuận lợi trong sản xuất vải vóc. Khi đó nước Mỹ sẽ chuyên môn hóa sản xuất lúa mì còn nước Anh sẽ chuyên môn hóa sản xuất vải vóc. Nước Anh sẽ sản xuất được nhiều vải vóc hơn và nước Mỹ cũng sẽ sản xuất được nhiều lúa mì hơn so với khi hai nước đó còn ở tình trạng tự túc tự cấp. Nước Mỹ sẽ tiến hành trao đổi một phần lúa mì để đổi lấy một lượng vải vóc của nước Anh. Người ta cũng chứng minh được rằng cả 2 nước Mỹ và Anh sẽ cùng được hưởng lợi nhờ quan hệ thương mại với nhau. 1.2.2. Lý thuyết của D. Ricardo hay còn gọi là lý thuyết về lợi thế so sánh Nhược điểm của lý thuyết về lợi thế so sánh tuyệt đối của A. Smith là không lý giải được hoạt động thương mại khi một trong hai nước có lợi thế tuyệt đối sản xuất tất cả các mặt hàng. David Ricardo đã phát triển và đưa ra một lý thuyết tổng quát hơn về thương mại so với lý thuyết của A. Smith đó là Lý thuyết lợi thế so sánh. Lý thuyết này được trình bày trong tác phẩm “những nguyên lý của kinh tế chính trị học 1817”. Theo D. Ricardo thương mại giữa 2 nước dựa trên lợi thế tương đối. Lợi thế tương đối hay còn gọi là lợi thế so sánh đề cập tới việc các quốc gia có thể sản xuất ra khối lượng các mặt hàng giống nhau khi sử dụng các nguồn lực như nhau nhưng với chi phí khác nhau. Do sự không đồng đều về lợi thế tuyệt đối, nếu mỗi nước chuyên môn hóa vào sản xuất mặt hàng có lợi thế tuyệt đối lớn hơn và dùng một phần để trao đổi với nước khác bằng mặt hàng có lợi thế tuyệt đối nhỏ hơn thì cả 2 nước sẽ cùng thu được lợi ích thông qua thương mại. Ví dụ:

Page 11: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

11

Có 2 nước X và Y và cùng có 2 loại hàng dệt may và lúa mì.

Chi phí sản xuất hàng dệt may của nước X a =

Chi phí sản xuất hàng dệt may của nước Y

Chi phí sản xuất lúa mì của nước X b =

Chi phí sản xuất lúa mì của nước Y Nếu a < b thì nước X nên chuyên môn hóa vào sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may và ngược lại nước Y chuyên môn hóa vào sản xuất và xuất khẩu lúa mì. Sau quá trình chuyên môn hóa và thương mại, tổng sản phẩm hàng dệt may và lúa mì mà 2 nước sản xuất đều tăng lên và số lượng hàng hóa mà người dân của mỗi nước có thể tiêu dùng đều được cải thiện. 1.2.3.Lý thuyết của Haberler về lợi thế so sánh Lợi thế tương đối là một khái niệm rất quan trọng của kinh tế học. Hạn chế của David Ricardo ở chỗ mới chỉ đề cập đến khái niệm lợi thế tương đối trên cơ sở lý thuyết về lao động, trong khi đó lao động lại chỉ là một yếu tố của sản xuất. Haberler đã đưa ra cách giải thích toàn diện hơn dựa trên lý thuyết về chi phí cơ hội. Theo Haberler, chi phí cơ hội của hàng hóa là số lượng các hàng hóa khác phải cắt giảm để nhường lại đủ các nguồn tài nguyên để sản xuất thêm 1 đơn vị hàng hóa thứ nhất. Một nước có lợi thế tương đối về sản xuất một mặt hàng nào đó so với nước khác khi nó có thể sản xuất mặt hàng đó với chi phí cơ hội thấp hơn so với nước khác. Ví dụ: ở 2 nước X và Y khi không có thương mại quốc tế thì X phải bỏ đi 2/3 số đơn vị của vải để sản xuất thêm 1 đơn vị của thép. Như thế chi phí cơ hội sản xuất thép ở X là 1 thép = 2/3 đơn vị vải vóc. Còn ngược lại, chi phí cơ hội về thép ở nước Y là 1 thép = 2 vải. Vậy là nước X có lợi thế về sản xuất thép còn nước Y có lợi thế tương đối trong sản xuất vải. Theo lập luận của lý thuyết này thì mỗi quốc gia đều có lợi thế so sánh so với một quốc gia khác trong việc sản xuất một sản phẩm khi mà chi phí cơ hội để sản xuất sản phẩm này ở quốc gia này là rẻ hơn so với quốc gia khác. Và theo đó, mỗi quốc gia nên chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm mà mình có lợi thế so sánh để đổi lấy các sản phẩm mà nước khác sản xuất rẻ hơn một cách tương đối. Người ta cũng chứng minh được rằng trong quan hệ thương mại này cả 2 quốc gia đều cùng có lợi. 1.2.4.Lý thuyết của Heckscher – Ohlin Hai nhà kinh tế học Thụy Điển Eli Heckscher (1919) và Recto Ohlin (1933) đưa ra một cách giải thích khác về nguồn gốc của lợi thế so sánh. Theo hai ông, lợi thế so sánh của một quốc gia xuất phát từ sự khác biệt về mức độ sẵn có của các yếu tố sản xuất. Các yếu tố sản xuất mà lý thuyết này đề cập là: đất đai, lao động và tư bản.

Page 12: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

12

Trên cơ sở lý thuyết về lợi thế tương đối, Heckscher và Ohlin đã phân tích ảnh hưởng của các yếu tố sản xuất tiềm tàng đến thương mại và giải thích các động thái thương mại xuất phát từ sự khác nhau về mức độ sẵn có của các yếu tố sản xuất. Một quốc gia sẽ chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng mà việc sản xuất chúng sử dụng nhiều yếu tố sản xuất mà nước đó tương đối dư thừa và rẻ, đồng thời sẽ nhập khẩu những mặt hàng khi sản xuất chúng đòi hỏi sử dụng nhiều yếu tố sản xuất mà nước đó tương đối khan hiếm và đắt. Cụ thể một quốc gia tương đối dư thừa lao động, nhưng lại thiếu vốn sẽ sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng cần nhiều lao động và nhập khẩu những mặt hàng cần nhiều vốn. Heckscher và Ohlin cũng cho rằng trong trường hợp này, quan hệ thương mại làm lợi cho cả 2 quốc gia tham gia vào trao đổi 2.3. Đối tượng, nội dung và phương pháp nghiên cứu môn học Kinh tế thương mại 2.3.1. Đối tượng, nội dung và kết cấu của môn học kinh tế thương mại Kinh tế thương mại là môn học kinh tế, môn kinh tế ngành. Giống như kinh tế chính trị học và kinh tế học là những môn khoa học nghiên cứu các nguyên lý, các quy luật kinh tế chi phối và vận động nền kinh tế quốc dân. Kinh tế thương mại dựa trên những nguyên lý mà kinh tế chính trị học, kinh tế học đã phát hiện để đi sâu nghiên cứu các nguyên lý, các quy luật kinh tế nhằm bổ sung và cụ thể hóa chúng trong lĩnh vực lưu thông hàng hóa và dịch vụ. Đối tượng nghiên cứu của kinh tế thương mại là tất cả các hiện tượng, các hoạt động và các mối quan hệ kinh tế trong lĩnh vực buôn bán trong một quốc gia và của quốc gia đó với bên ngoài. Các hiện tượng, các hoạt động và các mối quan hệ kinh tế trong buôn bán nội địa và buôn bán quốc tế luôn vận động theo những quy luật và tính quy luật nhất định. Kinh tế thương mại nghiên cứu chúng nhằm tìm ra bản chất kinh tế của chúng, cũng như tìm ra các quy luật chung hoặc tính quy luật vận động của chúng. Trên cơ sở đó xây dựng cơ sở khoa học cho việc tổ chức và quản lý các hoạt động thương mại phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Các hiện tượng, các hoạt động và các mối quan hệ thương mại một mặt vận động theo những quy luật chung, phổ biến, tuy nhiên những biểu hiện của chúng trong những điều kiện cụ thể, những quốc gia khác nhau và ở mỗi thời kỳ khác nhau của lịch sử đều có những nét riêng, đặc thù. Kinh tế thương mại không chỉ nghiên cứu những vấn đề chung, những nguyên lý chung và các quy luật chung trong lĩnh vực buôn bán mà nó còn nghiên cứu những vấn đề đặc thù trong những hoàn cảnh cụ thể, các quốc gia cụ thể và các giai đoạn lịch sử cụ thể. Việc nghiên cứu những biểu hiện cụ thể của các nguyên lý, các quy luật chung trong lĩnh vực thương mại trong điều kiện của Việt Nam trong giai đoạn chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa (tập trung, quan liêu, bao cấp) sang nền kinh

Page 13: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

13

tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt nam hiện nay cũng là một nội dung nghiên cứu quan trọng của kinh tế thương mại. 2.3.2. Kết cấu của môn học kinh tế thương mại Kinh tế thương mại được chia làm 2 học phần: Học phần thứ nhất: Kinh tế thương mại đại cương. Học phần này nhằm trang bị cho sinh viên những kiến thức căn bản nhất về Kinh tế thương mại. Những khái niệm, phạm trù, nguyên lý và những quy luật trình bày trong học phần này là những vấn đề chung và có tính phổ biến cho mọi nước, mọi nền kinh tế. Học phần này bắt đầu nghiên cứu các khái niệm, phạm trù nhằm chỉ rõ bản chất kinh tế của thương mại. Tiếp đó là các vấn đề liên quan tới chức năng và các tác động của thương mại trên các mặt kinh tế, xã hội và môi trường. Những vấn đề tiếp sau là những vấn đề cốt lõi nhất của kinh tế thương mại hàng hóa, kinh tế thương mại dịch vụ và các khía cạnh thương mại có liên quan tới đầu tư và quyền sở hữu trí tuệ theo cách tiếp cận của WTO. Từ đó tiếp tục nghiên cứu các vấn đề nguồn lực phát triển thương mại và hiệu quả thương mại theo cách tiếp cận phát triển bền vững. Học phần 2: Kinh tế thương mại. Học phần này chủ yếu nghiên cứu những vấn đề cơ bản nhất và đặc thù của kinh tế thương mại Việt nam trong giai đoạn chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Học phần này bắt đầu từ việc nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển thương mại Việt nam nhằm tổng kết và rút ra những bài học từ lịch sử. Tiếp đến là nghiên cứu những nội dung chủ yếu của quá trình chuyển đổi thương mại từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt nam từ năm 1986. Phần cuối của học phần sẽ nghiên cứu những vấn đề cốt lõi và đặc thù của kinh tế thương mại Việt nam như: thương mại và thị trường nông thôn, hội nhập thương mại Việt nam với thế giới và khu vực, kế hoạch hóa thương mại vĩ mô... Khi đề cập đến nội dung của môn học, có thể có rất nhiều những ý kiến khác nhau. Những nội dung đề cập đến trong giáo trình này trước hết dựa vào chương trình môn học đã được hội đồng khoa học trường Đại học Thương mại thông qua. Ngoài ra những người biên soạn cố gắng chú trọng trình bày những vấn đề có tính chất phổ biến, và những vấn đề đặc trưng nhất, thiết yếu nhất của kinh tế thương mại Việt nam trong giai đoạn hiện nay. 2.3.3. Phương pháp nghiên cứu môn học và vị trí của môn học Kinh tế thương mại Kinh tế thương mại là môn học kinh tế ngành. Là môn khoa học xã hội nên các phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử được sử dụng nghiên cứu kinh tế thương mại.

Page 14: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

14

Phương pháp duy vật biện chứng đòi hỏi phải nghiên cứu các sự vật và các hiện tượng trong sự vận động và trong mối quan hệ tác động qua lại với các hiện tượng và sự vật khác. Phép biện chứng duy vật coi nguồn gốc của sự phát triển là sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, và quá trình phát triển không ngừng của các hiện tượng và sự vật là sự tích lũy những biến đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất. Trong khi đó, phương pháp duy vật lịch sử đòi hỏi nghiên cứu sự vật, hiện tượng ở thực tại nhưng có mối liên hệ chặt chẽ với quá khứ, lịch sử của sự vật và hiện tượng đó. Nhờ vậy mà có thể dự báo được xu hướng vận động và phát triển của sự vật và hiện tượng trong tương lai. Thương mại là một hệ thống kinh tế với sự tham gia của nhiều yếu tố cấu thành. Vì vậy phương pháp tiếp cận hệ thống cũng cần thiết sử dụng làm phương pháp nghiên cứu môn học. Ngoài ra môn học còn sử dụng nhiều phương pháp khác như điều tra xã hội, phân tích thống kê và mô hình hóa nhằm phân tích tổng hợp, diễn dịch và quy nạp...nhằm làm rõ nội dung và đặc thù của môn học. Trong kinh tế thương mại cũng như các môn khoa học xã hội nói chung, phương pháp trừu tượng hóa khoa học có ý nghĩa rất to lớn. Trừu tượng hóa cho phép gạt bỏ những yếu tố cụ thể, ngẫu nhiên, rời rạc, để tìm thấy những cái điển hình, bền vững, ổn định, có tính phổ biến, trên cơ sở đó chỉ ra bản chất của các hiện tượng, phát hiện ra các quy luật và tính quy luật vận động của các hiện tượng các mối quan hệ kinh tế thương mại. Kinh tế thương mại là môn học chuyên môn chính trong chương trình đào tạo cử nhân kinh tế thương mại của trường đại học Thương mại. Ngoài ra kinh tế thương mại đại cương giữ vị trí của môn học cơ sở của các chuyên ngành quản trị kinh doanh, kinh doanh quốc tế, tài chính và kế toán thương mại và các chuyên ngành khác của trường đại học thương mại. Kinh tế thương mại có quan hệ chặt chẽ với các môn khoa học khác như kinh tế học, kinh tế chính trị học, kinh tế phát triển, lịch sử các học thuyết kinh tế... Kinh tế thương mại sử dụng các khái niệm và phạm trù đó trong lĩnh vực lưu thông và trao đổi buôn bán các hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế thị trường.

Page 15: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

15

Chương 2: chức năng và Những tác động của thương mại 2.1. Chức năng của thương mại 2.1.1. Chức năng chung của thương mại Được hình thành trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất và trình độ phân công lao động xã hội nên chức năng của thương mại mang tính khách quan. Thương mại đã từng tồn tại trong nhiều hình thái kinh tế xã hội khác nhau. Bản chất kinh tế xã hội của các hình thái kinh tế xã hội này mặc dù có sự khác nhau nhưng chức năng chung của thương mại là giống nhau. Con người chỉ có thể nhận thức và vận dụng các chức năng của thương mại chứ không thể tùy tiện áp đặt hoặc thay đổi các chức năng đó. Trong mọi hình thái kinh tế xã hội còn tồn tại sản xuất và lưu thông hàng hóa chức năng của thương mại là thực hiện lưu thông hàng hóa và cung ứng dịch vụ thông qua mua bán bằng tiền. Tuy nhiên cũng cần phân biệt chức năng thương mại với các tư cách là khâu của tái sản xuất, hoạt động kinh tế và ngành kinh tế. Là hoạt động kinh tế thương mại thực hiện chức năng mua bán hàng hóa và các dịch vụ bằng tiền. Là một khâu của tái sản xuất thương mại thực hiện chức năng cầu nối giữa sản xuất với tiêu dùng thông qua trao đổi, đảm bảo thực hiện tái sản xuất nhanh chóng, hiệu quả trong điều kiện của kinh tế hàng hóa. Là một ngành kinh tế, thương mại thực hiện chức năng tổ chức lưu thông hàng hóa và cung ứng dịch vụ, thông qua mua bán để gắn liền sản xuất với thị trường trong và ngoài nước nhằm thỏa mãn nhu cầu thị trường về hàng hóa và dịch vụ với chi phí thấp nhất. 2.1.2. Biểu hiện chức năng của thương mại trong lĩnh vực thương mại hàng hóa Trong thương mại hàng hóa, chức năng của thương mại có thể được chia thành 2 nhóm chức năng cơ bản sau: 2.1.2.1. Chức năng thay đổi hình thái giá trị, thực hiện giá trị Thương mại có chức năng thay đổi hình thái giá trị từ tiền sang hình thái vật chất trong hành vi mua (T - H) và ngược lại trong hành vi bán. Cùng với việc thay đổi hình thái giá trị là quá trình chuyển đổi quyền sở hữu về hàng hóa và tiền tệ. Quyền sở hữu tiền tệ chuyển từ người mua sang người bán và ngược lại, quyền sở hữu hàng hóa chuyển từ người bán sang người mua.

Page 16: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

16

Nhờ chức năng này của thương mại mà người bán đạt được giá trị nhằm tìm kiếm lợi nhuận, người mua có được các giá trị sử dụng để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng khác nhau của họ. Để thực hiện được chức năng này, thương mại phải tiến hành hàng loạt những hoạt động gắn với việc thay đổi hình thái giá trị và chuyển đổi quyền sở hữu như: mua hàng, bán hàng, xúc tiến thương mại, tiếp thị, quảng cáo... Về lý thuyết, các hoạt động này không tạo ra giá trị mới, không làm tăng giá trị sử dụng của hàng hóa nhưng nó rất cần thiết và có ích cho xã hội. 2.1.2.2. Chức năng tổ chức quá trình phân phối hàng hóa, đưa hàng hóa từ lĩnh vực sản xuất đến thị trường và tiếp tục hoạt động sản xuất trong lĩnh vực lưu thông Sản xuất với tiêu dùng thường không ăn khớp với nhau về không gian, thời gian, số lượng, chủng loại... Vì vậy, thương mại cần thực hiện việc đưa các sản phẩm được sản xuất ra đến các thị trường nơi mà con người có nhu cầu phù hợp các đòi hỏi của thị trường về số lượng, cơ cấu, thời gian và không gian với chi phí thấp nhất. Nhờ có chức năng này mà thương mại có thể tiếp tục thực hiện chức năng thay đổi hình thái giá trị, thực hiện giá trị hàng hóa mà chúng ta vừa đề cập ở trên. Cũng thông qua chức năng này thương mại giải quyết được những mâu thuẫn vốn có giữa cung, cầu, sản xuất và tiêu dùng trong điều kiện kinh tế hàng hóa. Chức năng này của thương mại được thực hiện qua hàng loạt những hoạt động khác nhau. Hoạt động vận tải nhằm di chuyển sản phẩm từ nơi sản xuất đến thị trường và những dịch vụ có liên quan đến vận tải như: làm các thủ tục vận tải, giao nhận hàng hóa... Hoạt động giữ gìn, bảo quản hàng hóa. Những hoạt động này nhằm bảo vệ giá trị sử dụng của hàng hóa về số lượng, chất lượng trong quá trình vận chuyển cũng như lưu kho phát sinh do sự không ăn khớp giữa sản xuất và đòi hỏi của thị trường về không gian và thời gian. Các hoạt động tiếp tục sản xuất trong lĩnh vực lưu thông như: phân loại, chia nhỏ, đóng gói, bao bì sản phẩm và các hoạt động gia công, chế biến, hoàn thiện sản phẩm trước khi bán cho người tiêu dùng... Các hoạt động thương mại thực hiện nhóm chức năng này là các hoạt động sản xuất. Chúng xảy ra trong khâu lưu thông và được thực hiện bởi ngành thương mại. Chúng góp phần làm tăng giá trị hàng hóa, bảo vệ và làm tăng giá trị sử dụng. Hoạt động thương mại xét về góc độ này trực tiếp góp phần tạo ra thu nhập quốc dân.

Page 17: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

17

2.1.2.3. Sự phát triển nhận thức về chức năng thương mại hàng hóa trong xã hội hiện đại Trong xã hội hiện đại cùng với việc phồn thịnh về kinh tế, nhu cầu của con người ngày càng gia tăng và đa dạng hơn. Việc thoả mãn những nhu cầu ngày càng tăng và đa dạng của xã hội làm nảy sinh mâu thuẫn trong phân bổ và sử dụng quĩ thời gian của con người. Để thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng và đa dạng của con người, đòi hỏi một mặt phải không ngừng sản xuất ra ngày càng nhiều của cải và dịch vụ , mặt khác phải tăng quĩ thời gian sử dụng cho cho việc tiêu dùng các của cải và các dịch vụ. Mâu thuẫn là ở chỗ quĩ thời gian tự nhiên của mỗi con người là một hằng số trong khi đó xã hội càng phát triển quĩ thời gian dành cho tiêu dùng trong tổng quĩ thời gian tự nhiên đòi hỏi ngày càng gia tăng. Để gia tăng thời gian cho tiêu dùng trong điều kiện quĩ thời gian tự nhiên không đổi thì vấn đề tiết kiệm và sử dung hợp lý quĩ thời gian trong tiêu dùng trở nên rất bức thiết. Việc mở rộng các dịch vụ bán hàng đặc biệt là các dịch vụ trước, trong và sau bán hàng như: dịch vụ hoàn thiện sản phẩm , các dịch vụ chuẩn bị sẵn sàng nhất cho người tiêu dùng và các dịch vụ liên quan đến quá trình tổ chức phục vụ quá trình tiêu dùng cá nhân nhằm tạo sự thoải mái, thuận tiện, tiết kiệm thời gian cho người tiêu dùng đang ngày gắn với hoạt động buôn bán và trở thành các hoạt động thuộc chức năng của thương mại trong xã hội hiện đại. Kinh tế thị trường hiện đại với các đặc trưng không phải là “khan hiếm” mà “dư thừa” làm cho cạnh tranh khốc liệt ngày càng buộc các doanh nghiệp thương mại cần phải nhận thức sâu sắc hơn xu hướng thay đổi này trong chức năng của thương mại. 2.1.3. Biểu hiện các chức năng thương mại trong lĩnh vực dịch vụ Do những đặc tính riêng biệt của dịch vụ: tính vô hình, sản xuất và tiêu dùng đồng thời,... nên chức năng của thương mại cũng có sự biểu hiện khác so với thương mại hàng hóa. Thương mại dịch vụ thực hiện đồng thời cả chức năng sản xuất, chức năng lưu thông và chức năng tổ chức tiêu dùng các sản phẩm dịch vụ. Nghĩa là trong thương mại dịch vụ các doanh nghiệp không chỉ thuần túy thực hiện việc mua bán, ngoài việc thực hiện chức năng thương mại nó còn đồng thời thực hiện chức năng sản xuất ra các dịch vụ và tổ chức cả quá trình tiêu dùng các dịch vụ cho khách hàng. Các chức năng này vế cơ bản được thực hiện đồng thời ở cung một không gian và trong cùng một thời gian. Trong thương mại dịch vụ về cơ bản không có các hoạt động vận tải, bảo quản, dự trữ... Việc thay đổi hình thái giá trị, quá trình chuyển đổi sở hữu tiền tệ và sở hữu sản phẩm có những đặc thù so với thương mại hàng hóa.

Page 18: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

18

Việc nhận thức đúng và vận dụng đúng các chức năng của thương mại có ý nghĩa to lớn không chỉ trong tổ chức hoạt động cung ứng dịch vụ ở phạm vi doanh nghiệp mà nó còn có ý nghĩa rất quan trọng trong việc quản lý nhà nước đối với thương mại dịch vụ ở phạm vi vi mô. 2.2. Cơ sở luận nghien cứu và phân loại các tác động của thương mại 2.2.1. Cơ sở luận nghiên cứu tác động thương mại Khi nghiên cứu tác động thương mại cần quán triệt các vấn đề lí luận cơ bản sau: Thứ nhất: Thương mại là một hoạt động kinh tế cơ bản và phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Là một hoạt động kinh tế cơ bản, thương mại có liên quan mật thiết và ảnh hưởng đến những hoạt động kinh tế khác như: kinh doanh, đầu tư,... Là hoạt động kinh tế phổ biến vì thế thương mại tác động đến nhiều chủ thể kinh tế và các quan hệ kinh tế khác nhau trong nền kinh tế thị trường. Thứ hai: Thương mại là khâu lưu thông trong quá trình tái sản xuất xã hội Thương mại là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng và có liên hệ mật thiết với khâu phân phối. Một mặt thương mại chịu sự chi phối của sản xuất và tiêu dùng, mặt khác thương mại cũng có những tác động đến quy mô, cơ cấu và sự phát triển của sản xuất và tiêu dùng xã hội. Thứ ba: Thương mại là một ngành kinh tế rất quan trọng của nền kinh tế. Theo nghĩa rộng, ngành thương mại không chỉ gồm những doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bán buôn, bán lẻ hàng hóa mà gồm cả những doanh nghiệp cung ứng các dịch vụ đa dạng trong nhiều ngành dịch vụ vì mục tiêu lợi nhuận. Đó là lĩnh vực rất rộng, bao gồm nhiều ngành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Ngành thương mại thông qua hoạt động mua bán hàng hóa và dịch vụ với mục đích lợi nhuận có liên quan và tác động to lớn tới nhiều ngành, nhiều lĩnh vực đa dạng của nền kinh tế. Thứ tư: Thương mại còn được xem như một hệ thống kinh tế. Thương mại là một tập hợp các yếu tố có mối liên hệ qua lại thực hiện việc trao đổi mua bán hàng hóa và các dịch vụ thông qua tiền tệ vì lợi nhuận. Hệ thống thương mại được hình thành bởi 2 hệ thống con là cung và cầu. Các hệ thống này hoạt động và liên hệ với nhau qua hoạt động của người mua, người bán trên thị trường. Đó là một hệ thống kinh tế mở với môi trường kinh tế, chính trị, luật pháp, công nghệ, xã hội và môi trường tự nhiên bên ngoài. Thương mại một mặt chịu sự chi phối của các yếu tố môi trường nói trên, những yếu tố này có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của thương mại nhưng ngược lại thương mại cũng tác động trở lại làm biến đổi những yếu tố môi trường.

Page 19: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

19

Vì thế tác động thương mại không chỉ thuần túy mang tính chất kinh tế, thương mại còn có tác động mang tính chất xã hội, chính trị, pháp luật, công nghệ và ảnh hưởng mật thiết với môi trường tự nhiên. 2.2.2. Phân loại tác động của thương mại Tác động của thương mại rất phức tạp và đa chiều. Chúng ta có thể phân loại tác động thương mại trên một số tiêu chí cơ bản sau: 2.2.2.1. Theo xu hướng ảnh hưởng của tác động Tác động của thương mại được phân thành các tác động tích cực và tác động tiêu cực. Những tác động của thương mại mà kết quả của ảnh hưởng có thể là những lợi ích (vật chất hoặc tinh thần) hoặc tạo ra sự thúc đẩy vận động của các quá trình kinh tế-xã hội theo chiều hướng tiến bộ. Đó là những tác động tích cực. Ngược lại những tác động của thương mại mà kết quả mang lại là những tổn thất (về vật chất và tinh thần) hay tạo ra xu hướng kìm hãm, đẩy lùi sự vận động của các quá trình kinh tế - xã hội được coi là những tác động tiêu cực. Cần lưu ý rằng: Một hoạt động thương mại cụ thể, một chính sách thương mại nhất định có thể vừa chứa đựng trong đó những tác động tích cực và cả những tác động tiêu cực. Rất ít trường hợp tác động thương mại chỉ thuần túy mang tính tích cực hay tiêu cực. 2.2.2.2. Theo phạm vi ảnh hưởng Tác động của thương mại được phân thành các tác động vi mô và vĩ mô. Những tác động vi mô là ảnh hưởng của thương mại trong phạm vi doanh nghiệp, hộ gia đình. Những tác động thương mại vĩ mô là những tác động mà ảnh hưởng của nó vượt ra ngoài khuôn khổ các doanh nghiệp, các đơn vị kinh doanh, những tác động này có thể ở phạm vi toàn cầu, hoặc một khu vực kinh tế (ASEAN, EU,...), phạm vi quốc gia hoặc địa phương trong mỗi quốc gia. Hoạt động kinh doanh ở đơn vị kinh tế ngoài việc xem xét tác động vi mô cần phải tính đến các tác động vĩ mô mà nó có thể ảnh hưởng. Ngược lại, quản lý nhà nước ở phạm vi vĩ mô với hoạt động thương mại cần xem xét toàn diện ảnh hưởng của tác động thương mại ở cả phạm vi vi mô và vĩ mô một cách hài hòa. 2.2.2.3. Dựa theo lĩnh vực tác động Tác động của thương mại được phân thành các tác động kinh tế, tác động xã hội (xã hội, chính trị, văn hóa) và tác động môi trường tự nhiên. Tác động kinh tế bao gồm những ảnh hưởng của thương mại đến tốc độ tăng trưởng kinh tế , sự thay đổi cơ cấu kinh tế, hoạt động đầu tư, các cân đối kinh tế vi mô trong nền kinh tế...

Page 20: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

20

Tác động xã hội bao gồm những ảnh hưởng của thương mại tới sự ổn định chính trị quốc gia, tới thực hiện đường lối, chính sách của nhà nước, ảnh hưởng tới hệ thống luật pháp của quốc gia.Ngoài ra nó còn bao gồm cả những tác động thương mại tới yếu tố dân cư, hôn nhân và tổ chức gia đình, mức sống và trình độ giáo dục, phong tục, tập quán, lối sống, hệ thống giá trị ...trong xã hội. Tác động môi trường tự nhiên bao gồm những ảnh hưởng của thương mại tới môi trường sống: bảo tồn các yếu tố tự nhiên (khí hậu, nguồn nước, khoáng sản, hệ thực vật, động vật...), các yếu tố hạ tầng (giao thông vận tải, hệ thống thông tin, truyền thông...) Con người càng ngày càng nhận thức sự cần thiết và quan trọng của sự phát triển bền vững. Vì vậy nghiên cứu các tác động thương mại cần xem xét toàn diện không chỉ ảnh hưởng về kinh tế mà cả những khía cạnh tác động thương mại về xã hội, môi trường cũng ngày càng được chú trọng trong việc hoạch định chiến lược và chính sách thương mại phát triển của các quốc gia. 2.2.2.4. Các cách phân loại khác Ngoài các cách phân loại cơ bản trên, người ta còn có thể phân loại tác động thương mại theo nhiều tiêu thức khác như: Tác động trực tiếp hoặc gián tiếp, tác động có thể lượng hóa được (đo lường được) và những tác động khó đo lường được (nhiều tác động thương mại có thể cảm nhận được bằng định tính song rất khó định lượng). Một số tác động thương mại mà hậu quả của nó có thể khắc phục được dễ dàng, nhưng cũng có nhiều tác động mà hậu quả lại có thể là vĩnh viễn không khắc phục được hoặc nếu sửa chữa được thì phải tốn kém nhiều tiền của, sức lực và thời gian. 2.2.3. ý nghĩa của việc nghiên cứu những tác động của thương mại Nghiên cứu những tác động của thương mại rất quan trọng, nó không chỉ giúp cho việc thúc đẩy hoạt động thương mại ở phạm vi doanh nghiệp đạt được những mục tiêu kinh doanh mà còn có tầm quan trọng đối với việc quản lý hoạt động thương mại ở phạm vi vi mô một cách có kết quả và hiệu quả, góp phần đảm bảo hiệu quả kinh tế xã hội của thương mại cũng như đáp ứng những đòi hỏi của sự phát triển kinh tế bền vững. 2.3. Những tác động của thương mại về kinh tế, xã hội và môi trường 2.3.1. Những tác động kinh tế của thương mại 2.3.1.1. Thương mại với tăng trưởng kinh tế Tăng trưởng kinh tế là mức tăng lượng của cải vật chất của cải của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định. Mức gia tăng của cải có thể được tính bằng hiện vật hoặc tiền (giá trị).

Page 21: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

21

Các yếu tố tác động đến tăng trưởng kinh tế: lao động, vốn đầu tư, khoa học công nghệ, thông tin, cơ chế chính sách... Các yếu tố này có vai trò không giống nhau đối với tăng trưởng kinh tế trong một thời kỳ. Thương mại có thể tác động mạnh mẽ đến tăng trưởng kinh tế của quốc gia trong một giai đoạn nhất định trên các mặt: số lượng và chất lượng của tăng trưởng. Tác động của thương mại đến tăng trưởng thể hiện ở chỗ: Thương mại tạo khả năng huy động các nguồn lực sẵn có của quốc gia cũng như tác động tới việc di chuyển các yếu tố sản xuất giữa các quốc gia. Nhờ vậy mà góp phần to lớn vào mở rộng quy mô sản xuất của mỗi quốc gia Thương mại còn tác động đến tăng khả năng tiêu dùng của một nước và gián tiếp sản xuất ra các sản phẩm có hiểu quả hơn là tự sản xuất (điều này đã được chứng minh trong các lý thuyết của A. Smith, D. Recardo và các lý thuyết khác của Heckscher Ohlin). Thương mại tác động đến chất lượng của tăng trưởng ở phương diện nâng cao hiệu quả sản xuất. Thứ nhất, nhờ lợi thế về quy mô do các công ty có thể tiếp cận với các thị trường rộng lớn hơn ở nước ngoài. Thương mại cho phép các công ty tiếp cận được với các công nghệ hiện đại hóa, do vậy năng suất lao động được cải thiện. Ngoài ra việc mở cửa thị trường trong nước cho các công ty nước ngoài làm cho cạnh tranh gia tăng trên thị trường nội địa và nhờ vậy có tác dụng kích thích các công ty trong nước nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình. Thương mại một mặt trực tiếp làm gia tăng GDP nhờ chính hoạt động của mình, mặt khác gián tiếp tác động đến việc gia tăng GDP của các ngành khác nhờ ảnh hưởng có tính chất lan truyền như đã phân tích trong các lí thuyết của kinh tế học hiện đại. 2.3.1.2. Thương mại với vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế Cơ cấu kinh tế được hiểu là cách thức liên kết, phối hợp giữa các phân tử cấu thành hệ thống kinh tế biểu hiện quan hệ tỷ lệ cả về mặt lượng và chất của các phần tử hợp thành của hệ thống kinh tế. Cơ cấu kinh tế thường được xem xét trên các phương diện: cơ cấu lãnh thổ, cơ cấu ngành và cơ cấu thành phần của nền kinh tế. Thương mại có thể tác động làm thay đổi cơ cấu thành phần kinh tế theo hướng đa dạng hóa thành phần kinh tế, thay đổi vai trò của các thành phần kinh tế xu hướng biến đổi có thể không giống nhau trong các nền kinh tế. ở Việt nam sự biến đổi theo xu hướng xuất hiện nhiều thành phần kinh tế, kinh tế tư nhân, kinh tế vốn đầu tư nước ngoài ngày càng chiếm tỷ trọng gia tăng vai trò ngày càng lớn trong nền kinh tế quốc dân. Thương mại có thể tác động làm biến đổi cơ cấu lãnh thổ của nền kinh tế theo xu hướng làm xuất hiện những vùng kinh tế trọng điểm, các vùng kinh tế đặc biệt có tác động lớn tới nền kinh tế, làm thay đổi cơ cấu kinh tế thành thị, nông thôn, kích thích phát triển kinh tế của các vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế biên giới...

Page 22: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

22

Thương mại có thể tác động làm biến đổi cơ cấu kinh tế ngành của nền kinh tế. Xu hướng chung tác động thương mại là kích thích phát triển những ngành kinh tế có lợi thế so sánh, kích thích phát triển các ngành dịch vụ đặc biệt là các ngành dịch vụ hạ tầng của nền kinh tế như: vận tải, viễn thông, ngân hàng... và các ngành dịch vụ đáp ứng nhu cầu nâng cao chất lượng cuộc sống: y tế, giáo dục, thể thao, giải trí, du lịch...Nhờ vậy mà làm biến đổi cơ cấu khu vực sản xuất và lĩnh vực dịch vụ theo hướng tăng tỷ trọng ngành dịch vụ và công nghiệp, giảm dần tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp. 2.3.1.3. Thương mại với cán cân thanh toán quốc gia Cán cân thanh toán quốc gia là một bảng cân đối hay một bản báo cáo thống kê tổng kết tất cả các giao dịch tài chính với nước ngoài mà một quốc gia tham gia trong 1 thời gian nào đó. Cán cân thanh toán quốc gia mô tả mối quan hệ giữa 2 luồng thanh toán vận hành liên tục một vào và một ra mà một đất nước phải có. Cán cân thương mại là một bộ phận rất quan trọng của cán cân thanh toán quốc gia. Đó là mức chênh lệch của giá trị xuất khẩu và nhập khẩu các hàng hóa và các dịch vụ và giá trị nhập khẩu của chúng trong một thời kỳ nhất định. Nếu giá trị xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ của 1 quốc gia lớn hơn so với giá trị nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ thì cán cân thương mại dương (hay thặng dư). Điều đó sẽ làm cải thiện cán cân thanh toán của quốc gia và ngược lại. Thương mại quốc tế là một nhân tố quan trọng góp phần làm tăng dự trữ ngoại tệ của một quốc gia. Thiếu ngoại tệ gây ra những hạn chế về nguồn tài chính cho sự phát triển kinh tế của một đất nước. Vấn đề này càng có ý nghĩa quan trọng đối với những nền kinh tế của các nước đang phát triển. Thông thường chính sách của các quôc gia đều cố gắng khai thác tối đa các lợi thế so sánh của đất nước mình nhằm đẩy mạnh xuất khẩu không chỉ hàng hóa mà cả các dịch vụ kể cả trên thị trường quốc tế và xuất khẩu tại chỗ nhằm tăng nguồn thu về ngoại tệ. Với nguồn ngoại tệ này có thể bù đắp được những nhu cầu nhập khẩu của quốc gia mình. Và nếu thặng dư thì nguồn ngoại tệ dư thừa có thể bù đắp về thâm hụt ngoại tệ do những nhu cầu khác hoặc tăng cường dự trữ quốc gia. Việc đánh giá tác động của thương mại đối với việc cải thiện cán cân thanh toán của một quốc gia không giống với các quốc gia khác và ngay cả các thời kỳ khác nhau của một quốc gia cũng cần phải được đánh giá một cách thận trọng. 2.3.1.4. Những tác động kinh tế khác của thương mại Ngoài những tác động nói trên, thương mại còn có những tác động kinh tế khác như: thúc đẩy phân công lao động quốc tế, thúc đẩy quá trình mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.

Page 23: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

23

Tác động của thương mại hết sức to lớn tới quá trình phân công lao động không chỉ ở phạm vi từng quốc gia mà ảnh hưởng tới quá trình phân công lại lao động sâu hơn giữa các quốc gia trong phạm vi toàn cầu và phạm vi các khu vực của nền kinh tế thế giới. Thương mại thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình phát triển đan xen của các nền kinh tế trên thế giới, hình thành nên các mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình khách quan thể hiện mức độ phù hợp của quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất ở quy mô toàn cầu và khu vực. Hội nhập kinh tế quốc tế đang ngày càng hoàn thiện và góp phần tích cực vào dàn xếp các quan hệ kinh tế giữa các nước trong từng khu vực và trên phạm vi toàn cầu. Hội nhập kinh tế quốc tế bắt đầu từ hội nhập về thương mại, tiếp đó là vốn và cuối cùng là sản xuất kinh doanh. Điều này nói lên ảnh hưởng quan trọng của thương mại đối với quá trình này. Thực tiễn của hội nhập kinh tế của tất cả các quốc gia đều khẳng định tác động to lớn và không thể bỏ qua của sự phát triển và hội nhập về thương mại. 2.3.2. Những tác động xã hội của thương mại Thuật ngữ “tác động xã hội” ở đây được hiểu là những tác động của thương mại trên các mặt văn hóa, chính trị, luật pháp và xã hội. 2.3.2.1. Thương mại và các vấn đề văn hóa Thương mại và văn hóa có mối quan hệ rất mật thiết. Một mặt các yếu tố văn hóa chi phối các hoạt động thương mại của mọi cá thể, địa phương và từng quốc gia. Tuy nhiên sự phát triển thương mại cũng có tác động ảnh hưởng rất lớn đến văn hóa của từng cá thể, cộng đồng và mỗi quốc gia ở những mức độ rất khác nhau. Sự phát triển các mối quan hệ trao đổi mua bán hàng hóa và các dịch vụ trong thương mại không chỉ đơn thuần là sự trao đổi các yếu tố vật chất thông thường mà nó còn hàm chứa trong đó và đi liền với nó là những yếu tố và các quan hệ mang tính văn hóa. Các yếu tố văn hóa chứa đựng trong bản thân các hàng hóa và các dịch vụ cụ thể, các thông tin quảng cáo, hoạt động tiếp thị, xúc tiến thương mại cũng như trong các hoạt động giao dịch thương mại của con người... Các yếu tố này sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng tới văn hóa, tôn giáo, phong tục tập quán, phong cách, lối sống, đạo đức, niềm tin, hệ thống các giá trị... của mỗi cá thể, cộng đồng và các quốc gia. Ngày nay quá trình hội nhập thương mại quốc tế đang diễn ra hết sức mạnh mẽ thì phạm vi ảnh hưởng và cường độ tác động của thương mại tới văn hóa cũng gia tăng rất nhanh chóng trên phạm vi toàn cầu. Sự giao thoa của các nền văn hóa, sự mong muốn bổ sung các yếu tố “tốt” của nền văn hóa khác loại bỏ các yếu tố “xấu” thông qua ảnh hưởng của thương mại làm cho văn

Page 24: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

24

hóa nhân loại trở nên phong phú và đa dạng hơn. Tuy nhiên không phải tất cả các tác động này đều “bổ ích” và mang tính tích cực. Thương mại cũng mang lại nhiều yếu tố “ngoại lai’ thậm chí “độc hại”, những tác động này không loại trừ bất kỳ ai và bất kỳ quốc gia nào. Tuy nhiên, ảnh hưởng sâu sắc và đáng chú ý nhất về văn hóa của thương mại là đối với các nước đang phát triển và các dân tộc lạc hậu. 2.3.2.2. Thương mại và các vấn đề luật pháp Các hoạt động thương mại bao giờ cũng diễn ra trong môi trường luật pháp và thể chế nhất định. Luật pháp và thương mại có mối quan hệ rất chặt chẽ. Luật pháp gồm luật thành văn và luật bất thành văn. Luật thành văn là các đạo luật do nhà nước ban hành, các đạo luật này nằm trong các ấn bản luật thành văn. Luật bất thành văn được tạo ra bởi các phong tục tập quán của con người. Chúng chi phối các hoạt động thương mại trong nước và cả ở phạm vi buôn bán quốc tế. Một mặt thương mại chịu sự chi phối của luật pháp và các luật lệ do xã hội quy định. Tuy nhiên thương mại cũng có tác động mạnh mẽ trở lại tới luật pháp. Luật pháp là một khung các nguyên tắc và luật lệ do xã hội quy định để điều tiết các hành vi và các thành viên của nó trong đó có các hoạt động buôn bán, thương mại. Các hoạt động kinh tế, hoạt động thương mại không ngừng vận động và phát triển vì thế luật pháp cũng phải không ngừng phát triển và hoàn thiện như là kết quả của những thay đổi các chuẩn mực và các giá trị của xã hội. Tác động của thương mại tới luật pháp có thể nhận thấy rất rõ trong quá trình hội nhập kinh tế và thương mại quốc tế. Sự phát triển của các mối quan hệ thương mại giữa các quốc gia, quan hệ thương mại giữa các quốc gia trong từng khu vực kinh tế và ở phạm vi toàn cầu đang hình thành nên 1 hệ thống đa dạng những định ché, những luật lệ thương mại mới ở phạm vi toàn cầu, khu vực cũng như đối với các quốc gia để điều chỉnh những mối quan hệ thương mại ngày càng đa dạng và phức tạp và không ngừng biến đổi trong nền kinh tế thị trường của xã hội hiện đại. Tác động thương mại tới luật pháp cũng thấy rất rõ đối với quốc gia như Việt nam từ 1986 đến nay khi mà Việt nam chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế thương mại với thế giới và khu vực. 2.3.2.3. Thương mại và các vấn đề chính trị Thương mại và chính trị cũng có mối liên hệ rất chặt chẽ. Đặc trưng nổi bật về chính trị thể hiện ở định hướng chính trị mà mỗi chế độ chính trị nhằm đạt tới. Sự ổn định chính trị là điều kiện hết sức quan trọng trong sự phát triển thương mại, nó tạo ra môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh doanh, đảm bảo an toàn về đầu tư, về quyền sở hữu các tài sản... Đó là điều kiện thuận lợi để thúc đẩy thương mại phát triển.

Page 25: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

25

Ngược lại sự thịnh vượng thương mại là yếu tố quan trọng đưa lại sự thịnh vượng kinh tế cho các quốc gia, các khu vực kinh tế. Do vậy, đây là yếu tố tác động quan trọng đến sự ổn định chính trị. Vì suy cho đến cùng kinh tế quyết định chính trị. Hội nhập kinh tế thương mại quốc tế là quá trình mở rộng giao lưu kinh tế giữa nhiều quốc gia với các chế độ chính trị khác nhau. Chính thương mại như một nhân tố quan trọng tác động liên kết lợi ích của các quốc gia. Nhờ vậy mà mang lại những lợi ích to lớn cho sự chung sống hoà bình giữa các quốc gia có thể chế chính trị khác nhau thậm chí đối lập (ASEAN là một ví dụ điển hình). Thương mại là nhân tố tạo nên sự ổn định chính trị thế giới và khu vực. Tuy nhiên thương mại mà bản chất của nó là vì lợi nhuận luôn đi cùng với cạnh tranh khốc liệt, đó là những cuộc cạnh tranh không khoan nhượng giữa các quốc gia nên cũng là nguyên nhân trực tiếp hoặc sâu xa của nhiều mâu thuẫn và xung đột chính trị. 2.3.2.4. Thương mại và các vấn đề xã hội Các yếu tố xã hội như các đặc điểm về dân số (quy mô, cơ cấu dân cư, mức tăng dân số), hôn nhân và tổ chức gia đình, mức sống và chất lượng cuộc sống của dân cư... đều có ảnh hưởng trực tiếp đến thương mại. Ngược lại thương mại cũng có những ảnh hưởng rất to lớn đến các yếu tố xã hội nói trên. Thứ nhất, thương mại tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới, những việc làm mà thương mại tạo ra trực tiếp và trước hết là ở những doanh nghiệp thương mại và các đơn vị liên quan trực tiếp tới các hoạt động mua bán, xuất nhập khẩu hàng hoá và những đơn vị cung ứng dịch vụ vì mục đích lợi nhuận trong nền kinh tế. Tuy nhiên xét rộng hơn, thương mại còn tạo thêm nhiều việc làm cho các ngành và các lĩnh vực có liên quan. Cần lưu ý đến một đặc điểm là: Thương mại là lĩnh vực sử dụng nhiều lao động sống và lao động phổ thông. Các lĩnh vực thương mại dịch vụ lại càng sử dụng nhiều lao động hơn, lao động sử dụng trong lĩnh vực này thường rất đa dạng. Điều này có ý nghĩa quan trọng đối với tất cả các quốc gia nhưng đặc biệt quan trọng với những nước đang phát triển nơi mà có nhiều lao động dư thừa và vì vậy phát triển thương mại như một giải pháp quan trọng giải quyết vấn đề dư thừa lao độngvà nạn thất nghiệp. Thứ hai, sự phát triển thương mại góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế nhiều vùng lạc hậu, vùng sâu, vùng xa của đất nước, tạo cơ hội thuận lợi và thúc đẩy phát triển kinh tế nhiều quốc gia đang phát triển, nhiều khu vực kinh tế kém phát triển của kinh tế thế giới. Như vậy thương mại như một nhân tố quan trọng tác động rút ngắn chênh lệch khoảng cách phát triển giữa các quốc gia, các vùng, các khu vực kinh tế trong nền kinh tế thế giới. Phát triển thương mại đặc biệt là thương mại dịch vụ có ý nghĩa rất to lớn trong việc ổn định và nâng cao mức sống và đặc biệt là chất lượng cuộc sống của dân cư.

Page 26: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

26

Phát triển thương mại cũng là nhân tố quan trọng mở rộng hội nhập giao lưu văn hoá, củng cố hoà bình, xây dung tình hữu nghị giữa các quốc gia và các dân tộc trên thế giới. Thương mại cũng là nhân tố tác động quan trọng tới những sự thay đổi quy mô, cơ cấu dân cư, hôn nhân tổ chức gia đình và các yếu tố xã hội khác một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Những tác động xã hội của thương mại không chỉ bao gồm những yếu tố tích cực. Do bản chất kinh tế của thương mại có thể gây ra nhiều tác động tiêu cực về xã hội như động cơ tìm kiếm lợi nhuận có thể đưa đến nguy cơ xâm nhập lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền, du nhập lối sống ngoại lai xa lạ với lối sống và bản sắc văn hoá của dân tộc. Phân phối bất bình đẳng của thị trường có thể tác động phân hoá giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, chênh lệch giàu nghèo giữa các quốc gia, cạnh tranh để chiếm lĩnh thị trường, chiếm lĩnh các nguồn tài nguyên nhiều khi là nguyên nhân trực tiếp của các xung đột giữa các dân tộcvà các quốc gia. 2.3.3. Những tác động môi trường của thương mại Bất kỳ một hoạt động kinh tế nào trong đó có hoạt động thương mại đều diễn ra trong một môi trường vật chất cụ thể. Vì thế, một mặt thương mại chịu sự ảnh hưởng của các yếu tố môi trường tự nhiên. Vị trí địa lý, các khí hậu, khoáng sản, đất đai, rừng biển, tài nguyên thiên nhiên, hệ động thực vật... Những yếu tố này có thể tác động thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triển thương mại của một quốc gia. Ngược lại thương mại cũng tác động trở lại rất mạnh mẽ tới môi trường tự nhiên ở các khía cạnh như sau: Tác động thương mại tới việc khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên. Thương mại phát triển thúc đẩy mở rộng và phát triển sản xuất. Thương mại càng phát triển thì càng làm cho sản xuất hướng vào nhu cầu tiêu dùng, tức là sản xuất để bán sản phẩm cho thị trường. Tài nguyên thiên nhiên là yếu tố không thể thiếu trong quá trình sản xuất ra của cải phục vụ đời sống con người. Thương mại càng phát triển, kinh tế càng phát triển thì quy mô sản xuất càng mở rộng, điều đó làm giảm tổng lượng tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho việc sản xuất hàng hóa vì mục đích thương mại. Tài nguyên thiên nhiên thì luôn có giới hạn mà nhu cầu của con người thì vô hạn, hơn nữa dân số trong hành tinh của chúng ta ngày càng gia tăng. Sự phát triển thương mại, phát triển kinh tế tự phát theo điều tiết của thị trường có thể đưa đến sự khai thác cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên vốn có hạn. Sự phát triển thương mại không chỉ gia tăng sử dụng tài nguyên thiên nhiên mà đòi hỏi gia tăng sử dụng khai thác yếu tố thuộc kết cấu hạ tầng như: giao thông vận tải, bưu chính viễn thông... Vì vậy một mặt thương mại phát triển sẽ thúc đẩy sự phát triển hệ

Page 27: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

27

thống kết cấu hạ tầng của nền kinh tế mặt khác nếu sự phát triển này thiếu kế hoạch có thể làm quá tải và hư hỏng hệ thống hạ tằng đặc biệt đối với các nước đang phát triển. Khai thác sử dụng tài nguyên thiên nhiên cũng như các yếu tố kết cấu hạ tầng nền kinh tế luôn gắn bó hữu cơ với việc bảo vệ môi trường sinh thái. Phát triển thương mại có thể là nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường sinh thái: nguồn nước, không khí, tiếng ồn, ... phá hủy hệ sinh thái, quần thể động thực vật. Vì thế cùng với sự phát triển thương mại cần phải có hệ thống luật pháp, chính sách về khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên, chính sách bảo vệ môi trường, chính sách khuyến khích phát triển sản xuất sạch, tiêu dùng sản phẩm sạch nhằm đảm bảo yêu cầu của phát triển bền vững.

Page 28: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

28

Chương 3. thương mại hàng hóa 3.1. Bản chất và các phương thức mua bán chủ yếu trong thương mại hàng hóa. 3.1.1.Bản chất và phân loại thương mại hàng hóa 3.1.1.1. Khái niệm thương mại hàng hoá Thương mại hàng hoá ra đời từ rất lâu trong lịch sử. Hoạt động trao đổi thông qua mua bán gắn liền với sự xuất hiện của tiền tệ và có trước thương mại với tư cách là ngành kinh tế. Thương mại hàng hoá là lĩnh vực trao đổi hàng hoá hữu hình, bao gồm tổng thể các hoạt động mua bán hàng hoá và các hoạt động hỗ trợ của các chủ thể kinh tế nhằm thúc đẩy quá trình trao đổi đó diễn ra theo mục tiêu đã xác định. Đó là hình thức hoạt động kinh tế của các chủ thể người bán và người mua. Người bán, người mua trong thương mại hàng hoá chính là nhà sản xuất, người tiêu dùng và thương nhân. Do vậy, quan hệ trao đổi trong thương mại hàng hoá bao gồm các quan hệ chủ yếu giữa nhà sản xuất với sản xuất, nhà sản xuất với thương nhân, thương nhân với nhau, nhà sản xuất và thương nhân với người tiêu dùng. Ngoài ra, chủ thể tham gia vào thương mại hàng hoá còn có các nhà môi giới, tư vấn, giao nhận, quảng cáo,… Họ là những nhà cung cấp các dịch vụ hỗ trợ và thúc đẩy thương mại hàng hoá phát triển. Trong thương mại hàng hoá, quan hệ giữa người bán và người mua được thể hiện trên thị trường thông qua hình thức trao đổi hàng hoá-tiền tệ hoặc hàng đổi hàng. Các quan hệ trao đổi hàng hoá được thực hiện bởi các phương thức mua bán khác nhau và diễn ra không chỉ trong phạm vi thị trường nội địa mà còn mở rộng trên phạm vi thị trường khu vực và toàn cầu. Xét về bản chất, thương mại hàng hoá là đó là thương mại, nhưng đối tượng trao đổi là sản phẩm hữu hình. Thương mại hàng hoá là lĩnh vực hoạt động kinh té khác với thương mại dịch vụ cần có định chế riêng để hướng dẫn, điều chỉnh và kiểm soát cho phù hợp (WTO đưa ra Hiệp định chung về thương mại và thuế quan - GATT). 3.1.1.2. Phân loại thương mại hàng hoá. Nghiên cứu các cách phân loại thương mại hàng hoá có các ý nghĩa sau: Trên tầm vĩ mô, giúp cho việc xây dựng các quy định về chính sách, khung khổ pháp lý để hướng dẫn và điều tiết các hoạt động trao đổi mua bán hàng hoá cụ thể ở phạm vi từng quốc gia, từng khu vực và toàn cầu. Trên tầm vi mô, các chủ thể kinh doanh đầu tư và sử dụng các nguồn lực trong lĩnh vực thương mại hàng hoá phù hợp với môi trường thể chế. a. Theo công dụng của hàng hoá

Page 29: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

29

Thương mại hàng sản xuất, là phản ánh quan hệ mua bán hoặc xuất nhập khẩu các hàng hoá với tư cách là các đầu vào của sản xuất kinh doanh, bao gồm vật tư, nguyên nhiên vật liệu, máy móc thiết bị, phụ tùng… Thương mại hàng tiêu dùng, là sự trao đổi mua bán hàng lương thực, thực phẩm và hàng công nghiệp tiêu dùng nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống và sinh hoạt của con người, nhu cầu tái sản xuất sức lao động. b. Theo phạm vi trao đổi Thương mại hàng hoá trong nước, phản ánh quan hệ trao đổi hàng hoá giữa các chủ thể trong nước tham gia thị trường trong giới hạn lãnh thổ quốc gia. Thương mại hàng hoá trong nước lại được phân nhỏ hơn thành thương mại hàng hoá ở thành thị, nông thôn, miền núi, cửa khẩu, biên giới, các vùng. Thương mại hàng hoá quốc tế, phản ánh hoạt động trao đổi ngoại thương(XNK) giữa một quốc gia với các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới hoặc quan hệ trao đổi giữa các chủ thể thương mại một nước với nước ngoài diễn ra tại lãnh thổ của nước đó. Thương mại hàng hoá quốc tế cũng được phân chia thành thương mại hàng hoá khu vực và toàn cầu. c. Theo đặc điểm của lưu chuyển hàng hoá Thương mại hàng hoá bán buôn, là sự trao đổi mua bán hàng hoá giữa các nhà sản xuất với sản xuất, sản xuất với thương nhân hoặc nội bộ thương nhân. Hoạt động bán buôn hàng hoá diễn ra chủ yếu ở các chợ đầu mối, đầu nguồn, các thị trường, trung tâm bán buôn trong nước và quốc tế. Thương mại hàng hoá bán lẻ, phản ánh quan hệ trao đổi mua bán trực tiếp về hàng hoá giữa những người sản xuất hoặc thương nhân bán lẻ với người tiêu dùng cuối cùng không có sự tham gia của trung gian. Hoạt động mua bán lẻ diễn ra trên thị trường bán lẻ bao gồm các chợ, cửa hàng chuyên doanh, bách hoá, tổng hợp, các siêu thị, hội chợ,... d. Theo mức độ rào cản và hướng điều tiết vĩ mô Thương mại bảo hộ, là trao đổi buôn bán hàng hoá trong trường hợp có hàng rào bảo hộ thông qua thuế quan, trợ cấp hoặc các biện pháp phi thuế, sự nâng đỡ của chính phủ nhằm cản trở hàng hoá nhập khẩu khi thâm nhập vào thị trường quốc nội. Thương mại tự do, là trao đổi buôn bán hàng hoá có rất ít hoặc không gặp trở ngại nào về rào cản thương mại, tạo thuận lợi cho thương mại của 2 bên được tư do, mở rộng và phát triển. Thương mại tự do thường gắn liền với sự mở cửa về thị trường hàng hoá trong quá trình hội nhập. e. Theo nhóm hàng kinh doanh Thương mại hàng nông sản, hàng thuỷ sản, hàng dệt may, hàng giày dép, hàng thủ công mỹ nghệ, hàng điện tử,...

Page 30: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

30

Mỗi nhóm hàng đều có đặc điểm riêng, có lợi thế thương mại và vị trí quan trọng khác nhau trong nền kinh tế. Trong mỗi nhóm hàng lại phân ra những mặt hàng cụ thể, trong đó có những mặt hàng chủ yếu. Thông thường những nhóm, mặt hàng chủ yếu được hiểu là những nhóm, mặt hàng có khả năng cạnh tranh, tỷ trọng thương mại lớn, đóng góp quan trọng vào quá trình hội nhập thương mại và phát triển. 3.1.2. Những đặc điểm cơ bản của thương mại hàng hóa 3.1.2.1. Tính hữu hình của đối tượng trao đổi Sản phẩm đưa ra thị trường trao đổi tồn tại ở dạng vật thể hữu hình, nên các chủ thể thương mại có thể dùng các giác quan để cảm thụ về hàng hoá. Nhà kinh doanh, người tiêu dùng và cơ quan quản lý nhà nước đều có thể dễ dàng hơn trong việc nhận biết sản phẩm về số lượng, chất lượng, mức độ công năng, lợi ích và sự an toàn của sản phẩm đối với người sử dụng. 3.1.2.2. Sự chuyển quyền sở hữu sản phẩm trong trao đổi Dù các giao dịch có đa dạng thế nào chăng nữa, trong thương mại hàng hoá, kết thúc quá trình mua bán quyền sở hữu về sản phẩm sẽ chuyển từ người bán sang người mua. Tuy nhiên, người mua không được sở hữu về tài sản trí tuệ hay bản quyền, nhãn hiệu sản phẩm đó. 3.1.2.3. Lưu thông hàng hoá tách rời sản xuất và tiêu dùng Chức năng sản xuất, lưu thông và tiêu dùng đối với hàng hoá tương đối độc lập với nhau. Đối với nhà sản xuất, có thể sản xuất ra bán ngay hoặc chưa bán, người tiêu dùng mua hàng hoá nhưng chưa sử dụng, còn đối với nhà thương mại có thể mua nhưng chưa bán, hoặc bán nhưng lại chưa mua. 3.1.2.4. Tính thống nhất và mâu thuẫn giữa các khâu của quá trình lưu thông Quá trình lưu thông hàng hoá bao gồm quá trình mua, bán, vận chuyển và dự trữ kho hàng. Nhìn nhận tổng thể quá trình lưu thông, hàng hoá chỉ thoát khỏi quá trình sản xuất và vân động tới tiêu dùng nếu có sự thống nhất và kết hợp các quá trình bộ phận lưu chuyển hàng hoá (mua, bán) và giao nhận (vận chuyển và kho hàng). Tuy nhiên, ở từng khâu của quá trình lưu thông lại có sự mâu thuẫn và tách rời giữa lưu chuyểnhàng hoá và giao nhận, hoặc mâu thuẫn trong từng quá trình bộ phận đó. 3.1.3. Các phương thức mua bán chủ yếu trong thương mại hàng hóa Có nhiều phương thức mua bán được sử dụng trong thương mại hàng hoá. Mỗi phương thức mua bán, trao đổi thương mại đều có đặc điểm riêng, bao gồm những hình thức cụ thể và có ý nghĩa thực tiễn ở các góc độ nghiên cứu khác nhau. Đối với nhà kinh doanh, đòi hỏi vận dụng các phương thức mua bán hoặc xuất nhập khẩu phù hợp với từng loại hàng hoá, điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp và hoàn cảnh cụ thể của môi trường thương mại .

Page 31: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

31

Đối với nhà nước, cần có chính sách khuyến khích phát triển các phương thức kinh doanh tiến bộ, đa dạng, tạo thuận lợi về hành lang pháp lý cho doanh nghiệp sử dụng các phương thức đó mà không gặp các trở ngại, rủi ro trong chính sách thương mại, đồng thời bảo vệ quyền lợi chính đáng của người bán và người mua, nhà sản xuất và người tiêu dùng. Dưới đây là một số phương thức mua bán chủ yếu: 3.1.3.1. Mua bán buôn và mua bán lẻ Mua bán buôn là phương thức trao đổi hàng hoá giữa các chủ thể nhà sản xuất, thương nhân nhưng hàng hoá vẫn còn trong khâu lưu thông, chưa đến lĩnh vực tiêu dùng. Mua bán buôn và dự trữ kho hàng thường với khối lượng lớn. Thời gian chu chuyển hàng hoá và thu hồi vốn nhanh. Thanh toán thông qua ngân hàng thương mại và sử dụng các chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt. Mua bán lẻ là phương thức trao đổi giưã các chủ thể người sản xuất, thương nhân và người tiêu dùng, hàng hoá ra khỏi lưu thông và bắt đầu đến lĩnh vực tiêu dùng. Mua bán lẻ và dự trữ kho hàng với khối lượng nhỏ. Chu chuyển hàng hoá và thu hồi vốn chậm. Thanh toán trực tiếp và sử dụng tiền mặt trong thanh toán là chủ yếu. 3.1.3.2. Mua bán trực tiếp và qua trung gian Mua bán trực tiếp là phương thức mà các chủ thể người mua, người bán trực tiếp quan hệ, giao dịch và trao đổi hàng hoá-tiền tệ, không có sự xuất hiện của người thứ 3. Mua bán trực tiếp có phân biệt giữa hoạt động nội thương và ngoại thương (về trụ sở của người giao dịch, đồng tiền thanh toán, sự di chuyển của hàng hoá). Mua bán trực tiếp diễn ra trên cả thị trường bán buôn và bán lẻ, trong các cửa hàng, trung tâm thương mại, siêu thị và các chợ. Mua bán qua trung gian. Trong thương mại không phải các nhà sản xuất và người tiêu dùng đều có điều kiện để thiết lập quan hệ mua bán trực tiếp, mà phải tiến hành giao dịch thương mại qua trung gian, tức người thứ 3. Nhiều hàng hoá xuất khẩu không qua chế biến, ở dạng thô, hàng nguyên liệu công nghiệp hay dây chuyền công nghệ không tiếp cận được thị trường nguồn… đều phải mua bán qua trung gian thương mại. 3.1.3.3. Mua bán qua đại lý và môi giới Mua bán qua đại lý. Người sản xuất muốn trao đổi mua bán với nhau hoặc với người tiêu dùng, trong trường hợp này phải qua đại lý. Đại lý là người đại diện mua, bán hoặc xuất, nhập khẩu hàng hoá cho người khác. Họ không bỏ tiền ra mua, bán hàng và không chịu những rủi ro trong kinh doanh thương mại thay người uỷ thác. Họ có thể là pháp nhân hay thể nhân tiến hành một hoặc một số hành vi thương mại theo sự uỷ thác của người uỷ thác. Quan hệ giữa họ và người uỷ thác thể hiện trong các hợp đồng đại lý. Họ được hưởng một khoản hoa hồng nhất định theo kết quả mua bán theo thoả thuận

Page 32: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

32

trong hợp đồng. Những mặt hàng áp dụng phương thức mua bán này thường có quy mô sản xuất lớn, tính chuyên môn hoá cao và được tiêu chuẩn hoá. Mua bán qua môi giới. Trong trường hợp nay giữa người mua và người bán không tiến hành các quan hệ và giao dịch trực tiếp mà thông qua môi giới. Người môi giới cũng không bỏ vốn ra kinh doanh như người đại lý, mà chỉ chắp nối các quan hệ trao đổi thông qua cung cấp các thông tin, tư vấn, làm cầu nối cho người mua, người bán tiếp xúc, ký kết hợp đồng và triển khai hoạt động thương mại có hiệu quả. Họ được hưởng hoa hồng từ cả người bán và người mua theo thoả thuận của mỗi lần giao dịch với người uỷ thác. Người môi giới có thể được người bán hoặc người mua uỷ thác cả công việc bán và mua hàng hoá. Phương thức này thường được áp dụng trong trường hợp người bán không biết người mua hoặc ngược lại, ngoài ra còn có những yếu tố khác như năng lực giao dịch trực tiếp bị hạn chế… 3.1.3.4. Mua bán truyền thống và qua mạng internet Mua bán truyền thống. Đây là phương thức phổ biến, mang tính truyền thống lâu đời trong lịch sử. Người bán và người mua phải tiếp xúc với nhau tại các địa điểm nhất định để thực hiện các giao dịch mua bán và thanh toán. Các quan hệ mua bán diễn ra theo hợp đồng hoặc không nhất thiết phải có thoả thuận từ trước. Mua bán qua mạng internet. Khác với phương thức mua bán truyền thống, phương thức trao đổi này sử dụng mạng internet để tiến hành các giao dịch mua bán hoặc xuất nhập khẩu. Phương thức này luôn luôn phải dựa vào nền tảng công nghệ thông tin, viễn thông. Trong nền kinh tế số hoá, khi thương mại điện tử phát triển, các giao dịch thương mại về cơ bản sẽ không cần đến giấy tờ. Trên thực tế, mua bán qua mạng có thể khép kín từ khâu đầu đến khâu cuối cùng, nhưng cũng có thể kết hợp với các giao dịch của phương thức thương mại truyền thống (chẳng hạn, tìm kiếm thông tin, đặt hàng qua mạng nhưng giao hàng và thanh toán thì người mua trả tiền trực tiếp cho người bán hoặc người được uỷ quyền). Các hình thức cụ thể về mua bán qua mạng tuỳ thuộc vào hạ tầng của thương mại điện tử và thói quen của các chủ thể kinh doanh. 3.1.3.5. Mua bán thanh toán ngay và mua bán chịu Mua bán thanh toán ngay có thể áp dụng cho toàn bộ lô hàng hoặc cả hợp đồng hoặc giao hàng đén đâu thanh toán đến đó. Mua bán chịu áp dụng trong trường hợp giao hàng trước thanh toán sau. Ngoài ra trong thương mại hàng hoá quốc tế còn có các kỹ thuật thanh toán khác. 3.1.3.6. Các phương thức khác Trong thương mại hàng hoá còn có các phương thức khác như:

Page 33: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

33

Tạm nhập tái xuất: Là phương thức xuất khẩu trở lại nước ngoài (ở nước tái xuất) đối những sản phẩm trước đây đã nhập khẩu, nhưng chưa qua chế biến. Phương thức mua bán này phản ánh giao dịch thương mại của 3 bên: nước xuất khẩu, nhập khẩu và nước tái xuất. Hàng hoá đi từ nước xuất khẩu sang nước tái xuất rồi đi tiếp đến nước nhập khẩu. Nước tái xuất trả tiền cho nước xuất khẩu và thu tiền của nước nhập khẩu. Phương thức này bao gồm cả hình thức chuyển khẩu (hàng hoá đi thẳng từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu). Buôn bán đối lưu: Là phương thức hàng đổi hàng trong đó hoạt động mua và bán kết hợp chặt chẽ với nhau, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng trao đổi tương đương với nhau về giá trị. Phương thức này phản ánh hoạt động không phải vì mục đích tiền tệ, mà là một lượng hàng hoá có giá trị tương đương. Yêu cầu cơ bản của giao dịch thương mại là sự cân bằng (về mặt hàng, giá, tổng trị giá, điều kiện giao hàng). Buôn bán đối lưu còn có các hình thức bù trừ, bồi hoàn). Xuất nhập khẩu tại chỗ: Là phương thức mua bán giữa một bên trong nước với một bên nước ngoài nhưng thông qua thể nhân hoặc pháp nhân của nước này đang hiện diện ở nước bên kia và ngược lại. Trong trường hợp này, hàng hoá không có sự di chuyển qua biên giới của nước có quan hệ trao đổi thương mại. Phương thức này phù hợp và áp dụng ngày càng phổ biến ở các nước tham gia vào tiến trình mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế. Gia công thương mại: Là phương thức trao đổi mà bên nhận gia công tiếp nhận vật tư, nguyên liệu do bên đặt gia công giao hoặc bán cho, cùng bản vẽ thiết kế và tiến hành lắp ráp, chế tạo sản phẩm theo yêu cầu kỹ thuật đã quy định trước, sau đó giao hoặc bán lại hàng hoá cho bên đặt gia công. Bên nhận gia công sẽ nhận được một khoản thù lao (gọi là phí gia công) theo thoả thuận trong hợp đồng. Đây là phương thức thường được áp dụng trong thương mại quốc tế đối với các nước đang phát triển (nơi có nhiều lao động, giá nhân công thấp ) trong một số lĩnh vực như dệt may, da giày,... Đấu giá: Là phương thức mua bán đặc biệt, trong đó hàng hoá được tổ chức bán công khai tại một địa điểm nhất định, những người mua được xem trước hàng hoá, tự do cạnh tranh về giá và cuối cùng hàng hoá được bán cho người trả giá cao nhất. Những mặt hàng áp dụng phương thức mua bán này thường là những hàng hoá khó tiêu chuẩn hoá. Đấu thầu: Là phương thức mua bán đăc biệt, trong đó người mua (là người gọi thầu) công bố các điều kiện mua hàng để người bán (người dự thầu) báo giá cả và các điều kiện trả tiền, sau đó người mua sẽ chọn mua của người báo giá rẻ nhất và điều kiện về tín dụng, giao hàng phù hợp hơn cả so với yêu cầu mà người mua đã đưa ra. Phương thức này áp dụng phổ biến trong mua sắm (đấu thầu mua hàng) và thi công (đấu thầu dịch vụ xây lắp) cấc công trình.

Page 34: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

34

3.2. Những vấn đề cơ bản của kinh tế thương maị hàng hóa 3.2.1. Nhu cầu có khả năng thanh toán về hàng hóa 3.2.1.1. Nhu cầu có khả năng thanh toán, quỹ mua và sức mua hàng hoá Nhu cầu có khả năng thanh toán là một bộ phận của nhu cầu nói chung. Đó là nhu cầu về hàng hoá bị giới hạn bởi khả năng thanh toán bằng tiền hay các tài sản thanh toán của dân cư và xã hội. Nhu cầu có khả năng thanh toán luôn được thể hiện trên thị trường ở tổng số và cơ cấu hàng hoá mà xã hội và dân cư đòi hỏi thị trường phải thoả mãn trong một khoảng thời gian nhất định. Thu nhập bằng tiền của dân cư và xã hội dùng để mua hàng hay thanh toán hàng hoá chính là quỹ mua hàng hoá. Sức mua hàng hoá trên thị trường phản ánh khối lượng hàng hoá mà người tiêu dùng nhận được khi sử dụng quỹ mua để thanh toán tiền hàng trong điều kiện giá cả xác định. Sức mua hàng hoá trên thị trường phụ thuộc vào sức mua của đồng tiền và quỹ mua của dân cư và xã hội. Giữa nhu cầu có khả năng thanh toán, quỹ mua và sức mua trên thị trường có quan hệ tỷ lệ thuận. Giá cả hàng hoá tỷ lệ nghịch với sức mua và nhu cầu có khả năng thanh toán về hàng hoá. 3.2.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng tới nhu cầu có khả năng thanh toán a. Nhóm yếu tố thuộc về nhu cầu nói chung Nhu cầu là cơ sở của nhu cầu có khả năng thanh toán, do vậy các nhân tố ảnh hưởng tới nhu cầu cũng tác động tới quy mô, cơ cấu nhu cầu có khả năng thanh toán của dân cư và xã hội. Các yếu tố về dân cư, điều kiện sinh hoạt và lao động của con người: Nhìn chung số dân càng đông, số người trong mỗi gia đình càng lớn thì nhu cầu về hàng hoá càng tăng. Thay đổi quy mô dân số và số người trong mỗi gia đình còn ảnh hưởng tới cơ cấu nhu cầu có khả năng thanh toán. Thông thường thu nhập thấp, nhưng số dân đông, số thành viên trong gia đình lớn thì hướng chi tiêu cho hàng lương thực, thực phẩm sẽ cao. Trong trường hợp ngược lại, sẽ chi tiêu cho mua hàng phi lương thực, thực phẩm nhiều hơn. Các sở thích, tập quán, thói quen tiêu dùng: Các yếu tố tâm lý, sở thích của con người, tập quán, thói quen tiêu dùng của dân cư, kỳ vọng của người tiêu dùng có thể ảnh hưởng theo hướng kích thích hoặc hạn chế nhu cầu có khả năng thanh toán của xã hội. Các điều kiện về tự nhiên: Sự biến đổi của môi trường tự nhiên, thời tiết khí hậu… đều có ảnh hưởng tới nhu cầu và nhu cầu có khả năng thanh toán. b. Nhóm yếu tố về thu nhập và phân phối thu nhập của dân cư, của xã hội Thu nhập bằng tiền tăng lên, thì thường nhu cầu có khả năng thanh toán sẽ mở rộng và cơ cấu của nhu cầu cũng thay đổi theo hướng sử dụng nhiều hàng phi lương thực, thực phẩm hơn và ngược lại.

Page 35: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

35

Ngoài ra, hướng sử dụng thu nhập bằng tiền sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới quy mô và cơ cấu chi tiêu của dân cư, của xã hội để mua hàng hoá trên thị trường. Nếu dân cư giảm dự trữ hoặc không gửi tiết kiệm tiền mặt thì chi tiêu mua hàng hoá và thanh toán dịch vụ sẽ tăng lên. Nếu giảm chi tiêu cho dịch vụ thì nhu cầu có khả năng thanh toán của dân cư và xã hội về hàng hoá sẽ tăng và ngược lại. c. Nhóm yếu tố về sản xuất, cung ứng Sản xuất và cung ứng có sự phù hợp về quy mô, cơ cấu và chất lượng hàng hoá cũng như tính đều đặn, đảm bảo tiến độ thời gian giao hàng theo yêu cầu của thị trường sẽ làm tăng nhu cầu có khả năng thanh toán của xã hội và ngược lại. Hoạt động sản xuất, cung ứng với tính ổn định càng cao và chi phí càng thấp càng kích thích làm tăng nhu cầu có khả năng thanh toán. d. Nhóm yếu tố về giá cả, thị trường và cạnh tranh Giá hàng tiêu dùng tăng thông thường làm hạn chế hoặc giảm nhu cầu có khả năng thanh toán của dân cư và ngược lại. Giá các mặt hàng bổ sung gia tăng sẽ không kích thích nhu cầu có khả năng thanh toán. Giá mặt hàng thay thế giảm sẽ làm chuyển dịch nhu cầu có khả năng thanh toán của dân cư sang mặt hàng thay thế đó. Hạ tầng của thị trường về kỹ thuật, về dân cư và pháp lý, dung lượng thị trường, quan hệ cung cầu, xu hướng cạnh tranh về chất lượng, về dịch vụ hỗ trợ như quảng cáo, tư vấn, giao nhận, … đều ảnh hưởng tới nhu cầu có khả năng thanh toán của dân cư và xã hội. e. Nhóm yếu tố về chính sách điều tiết vĩ mô của chính phủ Chính sách của chính phủ có thể điều tiết cung, cầu và mối quan hệ đó, cũng như giá cả. Xu hướng các tác động từ chính sách vĩ mô của chính phủ là nhằm kích cung hoặc kích cầu và cải thiển mối quan hệ đó, bình ổn giá cả để đáp ứng tốt hơn các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. 3.2.1.3. Hoạt động mua hàng trên thị trường Nhu cầu có khả năng thanh toán của xã hội thể hiện thông qua thị trường, thương mại mà cụ thể ở hoạt động mua hàng của người tiêu dùng và các doanh nghiệp. Hoạt động mua hàng là bộ phận cấu thành của hoạt động thương mại. Trên thị trường diễn ra hoạt động mua hàng của nhà sản xuất, người tiêu dùng và thương nhân bán buôn, bán lẻ với tư cách là người đại diện cho cả sản xuất và tiêu dùng. Hoạt động mua hàng luôn phản ánh một cách trực tiếp hoặc gián tiếp nhu cầu có khả năng thanh toán của dân cư, của xã hội và doanh nghiệp. Đối với thương nhân, hoạt động mua hàng (T-H) bao giờ cũng là khởi đầu của hoạt động thương mại. Mua hàng có ảnh hưởng trực tiếp đén bán hàng và kết quả hoạt động thương mại. Hoạt động mua hàng vừa tuân theo các quy luật của thị trường, vừa chịu sự

Page 36: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

36

hướng dẫn, điều tiết của chính phủ. Chính phủ hướng dẫn bằng các chính sách và điều chỉnh đối với các hoạt động mua hàng trên thị trường thông qua hệ thống chế định, pháp luật. 3.2.2. Cung ứng và nguồn cung ứng hàng hóa 3.2.2.1. Khái niệm và các nhân tố ảnh hưởng tới cung ứng hàng hoá a. Khái niệm Cung ứng hàng hoá là tổng trị giá và cơ cấu hàng hoá hiện có và sẽ có bán trên thị trường đề đáp ứng nhu cầu có khả năng thanh toán trong một khoảng thời gian nhất định. Cung ứng hàng hoá bao gồm những hàng hoá là các thành phẩm đã kết thúc quá trình sản xuất, những bán thành phẩm sẽ được hoàn tất quá trình sản xuất để đưa vào lưu thông. Cung ứng hàng hoá thể hiện ở cả tổng trị giá và lượng hàng hoá đưa ra thị trường từ các nguồn hàng khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu có khả năng thanh toán của dân cư và xã hội trong một khoảng thời gian xác định. b. Các yếu tố ảnh hưởng tới cung ứng hàng hoá bao gồm Yếu tố về sản xuất như năng lực sản xuất trong nước thể hiện ở quy mô vốn, nhân lực và trình độ công nghệ, chu kỳ sống của sản phẩm. Các yếu tố đó ảnh hưởng tới sự phát triển nguồn hàng trong nước, ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng, quy mô và cơ cấu cũng như thời gian cung ứng hàng hoá trên thị trường. Ngoài ra, yếu tố sản xuất còn phụ thuộc vào công tác nghiên cứu và triển khai, phát triển sản phẩm. Yếu tố về nguồn hàng nhập khẩu. Quy mô, cơ cấu, khoảng cách địa lý và tính ổn định hay sự thay đổi của nguồn hàng nhập khẩu có ảnh hưởng trực tiếp đến cung ứng hàng hoá trong nước. Ngoài ra, năng lực, uy tín của các nhà cung cấp nước ngoài và yếu tố xuất khẩu cũng ảnh hưởng tới hoạt động cung ứng đối với các hàng hoá nhập khẩu để lưu thông trên thị trường nội địa. Yếu tố về thị trường. Giá cả hàng hoá và các sản phẩm thay thế, những thay đổi của nhu cầu, tình hình cạnh tranh trong nước và quốc tế, … có thể ảnh hưởng tới quy mô hay cơ cấu cung ứng hàng hoá trên thị trường. Các chính sách vĩ mô đối với cung và nguồn hàng bao gồm các chính sách thương mại, đầu tư, tài chính, đất đai, tài nguyên môi trường, …và quy hoạch phát triển nguồn hàng. 3.2.2.2. Nguồn hàng cung ứng trên thị trường a. Khái niệm Nguồn hàng là nguồn tạo ra hàng hoá để cung ứng trên thị trường. Đó là nơi phát ra các luồng hàng hoá vận động trên thị trường trong nước và quốc tế, là nơi cung ứng hàng hoá phục vụ nhu cầu tiêu dùng, sản xuất nội địa và xuất khẩu. Tuy nhiên, nguồn hàng không phải đơn thuần là khái niệm chỉ vị trí địa lý, nơi khởi nguồn các dòng chảy

Page 37: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

37

của hàng hoá vào kênh phân phối, mà còn hàm chứa quy mô, cơ cấu và sự phân bố nguồn hàng, tiềm năng đưa hàng hoá ra thị trường trong một khoảng thời gian nhất định. b. Tạo lập nguồn hàng cung ứng trên thị trường Nguồn hàng có 2 loại: nguồn hàng trong nước và nguồn nhập khẩu. Mỗi nguồn hàng có vị trí, vai trò quan trọng khác nhau đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Một mặt quy mô, cơ cấu và sự phân bố nguồn hàng có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động cung ứng hàng hoá trên thị trường. Mặt khác, sự phát triển của nguồn hàng phụ thuộc vào sản xuất, các quy hoạch phát triển kinh tế và chính sách vĩ mô của chính phủ về tài chính, thương mại và đầu tư cũng như các hỗ trợ khác về hạ tầng cơ sở, các yếu tố của môi trường quốc tế. Nhà nước cần phải có chính sách tạo lập và phát triển nguồn hàng, đảm bảo nguồn hàng mang tính ổn định, hợp lý và cân đối. Doanh nghiệp cũng cần chủ động tham gia đầu tư vào các khu vực nguồn hàng để tạo ra cơ sở vật chất cho hoạt động cung ứng liên tục, mang tính cạnh tranh và có hiệu quả, nhất là trong điều kiện hội nhập quốc tế. 3.2.2.3. Hoạt động bán hàng của các nhà cung ứng Chủ thể của hoạt động bán hàng trên thị trường là các nhà sản xuất hoặc thương nhân trong và ngoài nước (gọi chung là các nhà cung ứng). Hoạt động bán hàng có ảnh hưởng tới tính liên tục của dòng chảy hàng hoá từ nguồn hàng ra thị trường và vận động tới người tiêu dùng. Đối với thương nhân, bán hàng (T-H’) là khâu kết thúc của hoạt động thương mại, có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả và hiệu quả thương mại. Chính phủ phải có chính sách, quy hoạch phát triển mạng lưới bán hàng và hệ thống kênh phân phối hàng hoá trong nước và xuất nhập khẩu để khơi thông các luồng hàng, thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hoá trên cả thị trường trong và ngoài nước. 3.2.3. Dự trữ hàng hóa trong lưu thông 3.2.3.1. Khái niệm và sự cần thiết của dự trữ hàng hoá a. Khái niệm dự trữ hàng hoá Dự trữ hàng hoá là một hình thái dự trữ sản phẩm xã hội, bao gồm toàn bộ hàng hoá cần thiết đang vận động trong các khâu khác nhau của quá trình lưu thông. Đó là những hàng hoá đã thoát khỏi quá trình sản xuất nhưng chưa đi vào lĩnh vực tiêu dùng. Các hình thái dự trữ sản phẩm xã hội bao gồm: dự trữ trong sản xuất, trong lưu thông và trong tiêu dùng. Dự trữ trong lưu thông là dự trữ hàng hoá, có quan hệ ảnh hưởng tới dự trữ trong sản xuất và tiêu dùng. Dự trữ trong lưu thông bao gồm hàng hoá ở kho thành phẩm của nhà sản xuất, kho trạm của mạng lưới thương mại bán buôn, bán lẻ và hàng đang đi trên đường, hàng gửi bán. Dự trữ hàng hoá khác tồn kho ở chỗ nó chủ

Page 38: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

38

động hình thành và cần thiết cho lưu thông, luôn đổi mới không ngừng trong quá trình vận động. Tồn kho còn bao gồm cả hàng hoá do hậu quả của lưu thông để lại. b. Sự cần thiết của dự trữ hàng hoá Dự trữ hàng hoá là điều kiện cần thiết của lưu thông, đảm bảo cho lưu thông hàng hoá diễn ra liên tục thông suốt. Không có dự trữ hàng hoá thì không có lưu thông hàng hoá. Tuy nhiên, dự trữ hàng hoá phải hợp lý mới rút ngắn thời gian lưu thông, thúc đẩy nhanh quá trình tái sản xuất và tiết kiệm chi phí. Dự trữ hàng hoá hình thành là do quan hệ cung cầu, giá cả và tình hình cạnh tranh thị trường, do yêu cầu xử lý mâu thuẫn giữa sản xuất và tiêu dùng, nhằm đảm bảo cho quá trình lưu thông hàng hoá diễn ra liên tục, thông suốt. Mặt khác, dự trữ hàng hoá là cần thiết còn do vai trò của nó trong các công cụ, chính sách điều tiết vĩ mô của chính phủ, thông qua đó để nắm bắt, khai thác các cơ hội thị trường và giảm thiểu các nguy cơ rủi ro. 3.2.3.2. Phân loại dự trữ hàng hoá a. Theo công dụng của hàng hoá dự trữ Dự trữ hàng sản xuất bao gồm toàn bộ hàng hoá vật tư, nguyên, nhiên phụ liệu, máy móc thiết bị, phụ tùng, công nghệ... là những “đầu vào” phục sản xuất được lưu thông trên thị trường. Dự trữ hàng tiêu dùng bao gồm hàng lương thực, thực phẩm và hàng công nghiệp tiêu dùng được lưu thông trên thị trường phục vụ tiêu dùng đời sống dân cư. b. Theo mục đích sử dụng Dự trữ thường xuyên bao gồm toàn bộ những hàng hoá thường xuyên phải có bán trên thị trường. Nếu thiếu hàng sẽ gián đoạn lưu thông, gây khó khăn trở ngại cho sản xuất và đời sống (Ví dụ: xăng dầu, phân bón, sắt thép, xi măng, lương thực, thực phẩm...). Dự trữ thời vụ, là những hàng hoá được hình thành ở vào thời vụ của sản xuất và tiêu dùng nhằm tận dụng tối đa các cơ hội trong mua và bán hàng hoá hoặc khắc phục tính thời vụ của sản xuất và tiêu dùng (chẳng hạn, kinh doanh hàng nông sản, hàng thuỷ sản ở vào mùa thu hoạch, hàng tiêu dùng trong các dịp lễ, tết, … và chính sách vĩ mô của chính phủ đối với dự trữ lưu thông đối với các mặt hàng có tính thời vụ đó) . Dự trữ bảo hiểm là loại dự trữ đề phòng những rủi ro, bất trắc xảy ra (chẳng hạn, do bán nhanh hết hàng, do vận chuyển hàng đến chậm, do thiên tai, do chiến tranh ...). c. Các phân loại khác (theo quy mô, thời gian, hình thức biểu hiện và sự vận động của dự

trữ)

Theo quy mô gồm có dự trữ thấp nhất, cao nhất và bình quân. Theo thời gian gồm có dự trữ đầu kỳ, cuối kỳ. Theo hình thức biểu hiện có dự trữ hiện vật, trị giá dự trữ và thời gian (số ngày) dự trữ hàng hoá. Theo quá trình vận động gồm hàng hoá dự trữ trong

Page 39: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

39

các kho hàng, hàng hoá đang trên đường đi, hàng gửi bán hoặc quảng cáo tại các hội chợ thương mại. 3.2.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới dự trữ hàng hoá Các yếu tố thuộc về sản xuất như quy mô, cơ cấu, trình độ, tính chất và sự phân bố sản xuất. Hệ thống giao thống và hạ tầng kỹ thuật: số lượng, chất lượng, cơ cấu các loại tuyến đường và phương tiện giao thông cũng như sự phân bố hạ tầng giao thông. Các hạ tầng kỹ thuật khác như thông tin, viễn thông, ngân hàng, điện năng,... Mạng lưới thương mại và hệ thống phân phối bao gồm cửa hàng, kho hàng, trung tâm thương mại, siêu thị, hội chợ triển lãm, các chợ bán buôn, bán lẻ,... Cơ sở vật chất kỹ thuật thương mại gồm các phương tiện kinh doanh trong các khâu mua bán, kho hàng và vận chuyển hàng hoá. Tình hình thị trường và cạnh tranh trong thương mại. Quan hệ cung cầu hàng hoá, giá cả, mức độ cạnh tranh và xu hướng biến động của các yếu tố và quan hệ đó. Chính sách kinh doanh của doanh nghiệp và cơ chế quản lý nhà nước đối với hàng hoá lưu thông. Các yếu tố khác (điều kiện tự nhiên, những bất trắc khác). 3.2.4. Chi phí lưu thông hàng hóa 3.2.4.1. Khái niệm chi phí lưu thông Chi phí lưu thông là biểu hiện bằng tiền toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá phục vụ cho việc tổ chức và quản lý quá trình lưu thông hàng hoá trong nền kinh tế. Các hao phí về lao động vật hoá bao gồm các bộ phận cấu thành chủ yếu như hao mòn vật chất về tài sản, phương tiện trong các khâu mua, bán, kho hàng và vận chuyển hàng hoá, hao hụt, tổn thất hàng hoá. Ngoài ra, còn bao gồm những hao phí vật chất ở các cơ quan quản lý nhà nước về thương mại. Hao phí về lao động sống bao gồm hao phí sức lao động của nhân sự thực hiện các công việc ở các khâu lưu thông nói trên và công tác quản lý thương mại. Chi phí lưu thông trong nền kinh tế bao gồm chi phi lưu thông của nhà sản xuất trong mua các yếu tố “đầu vào”, tiêu thụ sản phẩm “đầu ra”, chi phi lưu thông của nhà thương mại và chi phí thời gian mua sắm của người tiêu dùng, trong đó chi phí lưu thông của thương mại là bộ phận lớn nhất. 3.2.4.2. ý nghĩa của việc hạ thấp chi phí lưu thông trong nền kinh tế Hạ thấp chi phí lưu thông được hiểu là giảm thấp tỷ suất chi phí chứ không phải giảm quy mô, khối lượng chi phí phục vụ quá trình lưu thông hàng hoá. Hạ thấp chi phí lưu thông có ý nghĩa như sau:

Page 40: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

40

Tiết kiệm chi phí và vốn đầu tư của nhà nước, của xã hội và doanh nghiệp vào lĩnh vực lưu thông, dành vốn ưu tiên cho các lĩnh vực khác trong nền kinh tế. Nâng cao hiệu quả thương mại và sức cạnh tranh của hàng hoá, của doanh nghiệp cũng như của cả nền kinh tế. Tiết kiệm chi phí thời gian và tiền bạc trong quá trình mua sắm hàng hoá của người tiêu dùng.

3.2.4.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới chi phí lưu thông Khối lượng và cơ cấu hàng hoá lưu thông. Quy mô lưu chuyển hàng hoá tăng làm khối lượng chi phí cũng tăng lên, nhưng tỷ lệ chi phí lưu thông có xu hướng giảm, nhờ tiết kiệm các chi phí cố định. Mỗi loại hàng, nhóm hàng có đặc điểm kinh doanh khác nhau, đòi hỏi hao phí trong quá trình trao đổi khác nhau, do vậy, sự chuyển dịch cơ cấu hàng hoá lưu chuyển sẽ làm thay đổi quy mô và cơ cấu chi phí lưu thông. Dự trữ hàng hoá và thời gian lưu thông. Dự trữ hàng hoá càng lớn, thời gian lưu thông hàng hoá càng kéo dài chi phí càng tăng và thậm chí gây lãng phí lớn tiền vốn đầu tư vào lĩnh vực thương mại. Giá cả hàng hoá và giá các dịch vụ. Tỷ suất chi phí lưu thông có quan hệ tỷ lệ nghịch với giá cả và tỷ lệ thuận với giá các dịch vụ. Sử dụng các phương thức mua bán, các phương tiện kinh doanh thích hợp vừa thúc đẩy chu chuyển hàng hoá, vừa giảm thấp chi phí trong lưu thông nói chung và chi phí khâu thanh toán tiền hàng. Công tác quản lý cũng như trình độ nguồn nhân lực, thủ tục thương mại đều có ảnh hưởng đến quy mô và cơ cấu chi phí lưu thông trong nền kinh tế. Các yếu tố khác như điều kiện tự nhiên, những bất trắc do chiến tranh, xung đột sắc tộc, dịch bệnh, thiên tai. 3.2.5. Kết quả trong thương mại hàng hóa 3.2.5.1. Khái niệm kết quả thương mại Đó là phạm trù kinh tế phản ánh kết cục hoạt động thương mại của chủ thể nào đó trong một thời kỳ nhất định. Kết quả thương mại thường được xác định trên tầm vĩ mô và doanh nghiệp. Kết quả phản ánh mục tiêu mà hoạt động thương mại cần hoặc đã đạt được trong khoảng thời gian xác định. Kết quả và hiệu quả thương mại có quan hệ tỷ lệ thuận với nhau. Tuy nhiên hiệu quả bao giờ cũng phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực để đạt được kết quả thương mại theo mục tiêu đã đặt ra, không thể đồng nhất với kết quả. 3.2.5.2. Các chỉ tiêu chủ yếu biểu hiện kết quả trong thương mại hàng hoá Tổng mức lưu chuyển hàng hoá.

Page 41: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

41

Kết quả hoạt động thương mại nội địa hay lưu thông hàng hoá trong nước được thể hiện ở tổng mức lưu chuyển hàng hoá. Trong trường hợp này, toàn bộ kết quả hoạt động trao đổi được tính theo trị giá, đo lường theo đồng nội tệ (bản tệ). Tổng mức lưu chuyển hàng hoá bao gồm tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán buôn và bán lẻ. Tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán buôn phản ánh kết quả dưới hình thái giá trị các giao dịch thương mại diễn ra trên thị trường giữa các nhà doanh nghiệp với nhau trong hoạt động mua bán buôn, hàng hoá vẫn nằm trong khâu lưu thông, chưa kết thúc khâu bán lẻ để tới người tiêu dùng cuối cùng. Tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ (hay tổng mức bán lẻ xã hội). Đó là chỉ tiêu phản ánh kết quả cuối cùng của hoạt động lưu thông hàng hoá trong nước. Tất cả kết quả các giao dịch mua bán giữa chủ thể người bán với người tiêu dùng cuối cùng trên thị trường dưới hình thái giá trị đều được phản ánh qua chỉ tiêu tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ. Chỉ tiêu này rất cần thiết cho các phân tích kinh tế vĩ mô về cân đối cung cầu, quỹ mua và nhu cầu có khả năng thanh toán của dân cư và xã hội. Đây là chỉ tiêu quan trọng và là bộ phận hợp thành chủ yếu của tổng mức lưu chuyển hàng hoá trong nền kinh tế. Kết quả thương mại còn được biểu hiện dưới hình thức hiện vật, đó là khối lượng hàng hoá lưu chuyển. Thông thường những mặt hàng quan trọng, thiết yếu thuộc cân đối lớn trên tầm vĩ mô của quốc gia, cần phải thống kê và phân tích theo cả 2 hình thức giá trị và hiện vật để phục vụ cho công tác hoạch định chính sách kinh tế và quản lý thương mại của nhà nước. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu phản ánh toàn bộ hoạt động thương mại quốc tế hai chiều (ngoại thương) của một quốc gia, bao gồm kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu. Đơn vị sử dụng trong đo lường kết quả hoạt động ngoại thương là đồng ngoại tệ (có thể là đồng tiền chung quốc tế USD hay các đồng tiền của đối tác thương mại). Chỉ tiêu này cũng phản ánh qui mô và cơ cấu cán cân thương mại của quốc gia trong từng thời kỳ cụ thể. Nó cho phép đánh giá chiến lược, chính sách thương mại, cũng như phân tích các xu hướng tăng trưởng, phát triển kinh tế, vị thế của thương mại từng quốc gia trong nền thương mại toàn cầu và khu vực. Kim ngạch xuất khẩu phản ánh kết quả hoạt động ngoại thương một chiều xuất khẩu của quốc gia trong một thời kỳ nhất định. Kim ngạch nhập khẩu phản ánh kết quả hoạt động ngoại thương trong trường hợp ngược lại khi nhập hàng từ nước ngoài về. Ngày nay, do mở cửa thị trường và tự do hoá thương mại, hoạt động ngoại thương của một nước có thể diễn ra ngay tại thị trường trong nước, đó là trường hợp xuất nhập khẩu tại chỗ.

Page 42: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

42

Để tính toán và phân tích kết quả hoạt động thương mại nói chung của quốc gia, cần phải quy đổi ra một đơn vị tiền tệ thống nhất các kết quả thương mại trên thông qua lựa chọn đúng đắn quan hệ tỷ giá chuyển đổi giữa đồng nội tệ và ngoại tệ. Chỉ tiêu phản ánh toàn bộ kết quả hoạt động thương mại của quốc gia, đó tổng trị giá thương mại hay tổng thương mại. Giá trị gia tăng trong thương mại hàng hoá. Chỉ tiêu này phản ánh khoảng cách chênh lệch tuyệt đối giữa kết quả đạt được và chi phí nguồn lực bỏ ra trong trao đổi thương mại hàng hoá của quốc gia. Giá trị gia tăng có phân biệt khi mua bán hàng hóa và dịch vụ trên thị trường nội địa và quốc tế. Giá trị gia tăng là chỉ tiêu phản ánh kết quả tăng trưởng kinh tế của quốc gia. Nó cho phép phân tích, đánh giá sự tham gia, đóng góp của thương mại vào thu nhập quốc dân của nền kinh tế. Nếu so sánh tương quan (số tương đối) giữa giá trị gia tăng với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó thì đây còn là thước đo về hiệu quả và sức cạnh tranh của thương mại. Ngoài ra, còn có chỉ tiêu trị giá thương mại hàng gia công. Trong thương mại, ngoài kết quả trao đổi theo các giao dịch thông thường, còn có gia công, lắp ráp, chế biến sản phẩm. Kết quả của các hoạt động này tuy mang tính chất sản xuất nhưng lại diễn ra trong khâu lưu thông nên được tính vào giá trị thương mại. Trị giá hàng hoá gia công trong thương mại quốc tế được coi là kim ngạch xuất khẩu. Chỉ tiêu này có ý nghĩa quan trọng trong đánh giá hiệu quả xã hội của thương mại thể hiện ở thu hút việc làm, khai thác lợi thế về nhân công dồi dào, giá rẻ. 3.2.5.3. Đặc điểm phát triển có tính quy luật trong thương mại hàng hoá (1) Quy mô thương mại hàng hoá ngày càng tăng lên trên cả thị trường nội địa và thị trường xuất khẩu, tỷ trọng thương mại có xu hướng giảm trong tổng thương mại. Cơ sở: Do nhu cầu tiêu dùng cho sản xuất và đời sống xã hội ngày càng tăng lên. Sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển với trình độ khoa học và công nghệ tiên tiến. Chiến lược và các chính sách phát triển kinh tế và thương mại của quốc gia ngày càng phù hợp với quá trình tự do hoá thương mại và toàn cầu hoá kinh tế thế giới. Sự phát triển của thương mại dịch vụ và thương mại điện tử. Biểu hiện: Tổng mức lưu chuyển hàng hoá trên thị trường nội địa, kim ngạch xuất nhập khẩu ngày càng gia tăng, năm sau cao hơn năm trước về trị giá thương mại. Các nước phát triển sẽ gia tăng thương mại đối với những hàng hoá có yêu cầu đổi mới công nghệ và chuyển giao kỹ thuật, phát triển quy mô thương mại ở thị trường nước ngoài.

Page 43: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

43

Các nước đang và chậm phát triển tăng quy mô thương mại trên cở sở khai thác quá trình thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tiếp nhận chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm kinh doanh quản lý quốc tế. Thương mại hàng hoá không chỉ tăng lên về quy mô, mà còn có khả năng gia tăng tốc độ, tuy nhiên tốc độ tăng trưởng không đều, tỷ trọng có xu hướng giảm trong tổng thương mại. (2) Cơ cấu thương mại hàng hoá ngày càng thay đổi theo hướng đa dạng hơn, phong phú hơn và đáp ứng ngày càng nhanh hơn, tốt hơn nhu cầu thị trường. Cơ sở: Do yêu cầu cuả thị trường ngày càng cao về chất lượng, đa dạng về chủng loại, nhanh chóng về thời gian cung cấp. Do chu kỳ sống của sản phẩm ngày càng rút ngắn nhờ tiến bộ khoa học công nghệ. Do cạnh tranh ngày càng quyết liệt đòi hỏi phải nâng cao chất lượng và hiệu quả thương mại. Do những xu hướng tiêu dùng, do ảnh hưởng của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đến phân bổ nguồn lực thương mại, phát triển và thay đổi các luồng thương mại quốc tế. Biểu hiện: Những hàng hoá đã qua chế biến, hàng hoá có hàm lượng lao động kĩ thuật, chất xám cao, các hàng hoá đắt tiền, có giá trị lớn ngày càng gia tăng làm thay đổi cơ cấu, tỷ trọng thương mại. Những hàng hoá có tính mốt gia tăng nhanh và rất đa dạng. Kiểu mốt hàng hoá thay đổi nhanh chóng. Xu hướng này diễn ra trên cả thị trường trong và ngoài nước. Hàng hoá có giá trị dinh dưỡng cao, an toàn vệ sinh, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng cuộc sống ngày càng được quan tâm và chiếm vị trí quan trọng trong đời sống, tiêu dùng xã hội. (3) Hàng hoá ngày càng phong phú về nhãn hiệu, có xuất xứ ngày càng đa dạng và được tiêu chuẩn hoá. Cơ sở: Do đòi hỏi ngày càng cao của người tiêu dùng và sản xuất ngày càng phát triển. Do cạnh tranh và hội nhập trong thương mại quốc tế thúc đẩy sự đa dạng của hàng hoá, nâng cao uy tín thương hiệu, nhãn hiệu. Do yêu cầu đặt ra của hệ thống luật pháp cũng như các thông lệ buôn bán quốc tế. Biểu hiện: Nhiều nhãn hiệu sản phẩm mới ra đời và được cung ứng trên thị trường. Sản phẩm đạt tiêu chuẩn chất lượng, chứng nhận ISO ngày càng gia tăng. Sản phẩm trao đổi ngày càng chú trọng đến các tiêu chuẩn về lao động, vệ sinh, môi trường.

Page 44: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

44

Sản phẩm có xuất xứ đa dạng, khác nhau, nhưng rõ ràng về nguồn gốc là xu hướng mang tính phổ biến trong thương mại hàng hoá quốc tế. Bên cạnh những đặc điểm trên, thương mại hàng hoá toàn cầu hiện nay đang gặp phải những khó khăn trở ngại rất lớn là vấn đề hàng giả và buôn bán phi pháp, nhất là trong điều kiện hội nhập quốc tế. 3.3. Hiệp định GATT và các xu hướng tự do hóa, các vấn đề bảo hộ trong thương mại hàng hóa 3.3.1. Hiệp định chung về thương mại và thuế quan (GATT) và những hiệp định có liên quan tới GATT cuả WTO 3.3.1.1. Mục tiêu của GATT Tổ chức việc xây dựng và đề ra các nguyên tắc đa phương về thương mại hàng hoá nhằm tạo ra một hệ thống thương mại tự do và thông thoáng, nhờ đó các doanh nghiệp từ các nước thành viên có thể buôn bán với nhau trong điều kiện cạnh tranh lành mạnh. Tạo môi trường kinh doanh an toàn, ổn định và có thể dự đoán trước, đồng thời đảm bảo cạnh tranh công bằng, không phân biệt đối xử. Khuyến khích thúc đẩy phát triển thương mại, đầu tư, sản xuất trên cơ sở sử dụng tốt hơn các nguồn lực của thế giới và đảm bảo việc làm, tăng thu nhập giữa các quốc gia thành viên. 3.3.1.2. Quy tắc cơ bản Để đạt mục tiêu trên, GATT đưa ra 4 quy tắc cơ bản sau đây: (1) Bảo hộ ngành sản xuất trong nước thông qua thuế quan. Các nước thành viên có thể sẽ bảo vệ sản xuất trong nước chống lại cạnh tranh nước ngoài. Sự bảo hộ đó được thực hiện thông qua hệ thống thuế quan. Việc sử dụng các biện pháp hạn chế định lượng sẽ bị cấm, trừ trong một số trường hợp hạn chế (chẳng hạn khi các quốc gia gặp khó khăn trong cán cân thanh toán quốc tế được phép hạn chế nhập khẩu nhằm đảm bảo tình hình tài chính đối ngoại của mình). Các nước phát triển, nhiều nước không áp dụng quy tắc chống hạn chế định lượng như trong lĩnh vực nông nghiệp và thương mại hàng dệt may (tuy nhiên, đối với hàng dệt may có sự khác biệt nhất định với hàng nông sản bởi Hiệp định đa sợi MFA cho phép hạn chế nhập khẩu trong những điều kiện nhất định). Các nước đang phát triển, bên cạnh việc đánh thuế (bảo hộ) cao còn áp dụng các hạn chế định lượng đối với hàng nhập khẩu ở cả lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp. Hệ thống pháp lý của WTO củng cố nguyên tắc chống sử dụng hạn chế định lượng bằng cách thuế hoá trong lĩnh vực nông nghiệp và xoá bỏ dần những hạn chế (hạn ngạch) về hàng dệt may.

Page 45: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

45

Tóm lại, thuế quan tỷ lệ thuận với mức độ bảo hộ về hàng hoá trong nước và tỷ lệ nghịch với mở cửa thị trường cho hàng hoá nhập khẩu. Để bảo hộ hàng hoá trong nước, ngày nay nhiều nước không chỉ áp dụng quy tắc này mà còn sử dụng các biện pháp phi thuế. (2) Ràng buộc về thuế quan (giảm thuế và cam kết không tăng thêm). Các nước đều thúc đẩy việc cắt giảm và ở đâu nếu có thể thì loại bỏ bảo hộ sản xuất trong nước bằng cách giảm thuế và loại bỏ các rào cản về thương mại khác trong đàm phán thương mại đa biên. Việc cắt giảm thuế nằm trong danh mục cam kết quốc gia của mỗi nước thành viên và nó sẽ bị bắt buộc không được tăng lên nữa. Đây chính là một bộ phận trong hệ thống pháp lý của GATT. Trong đàm phán thương mại, một nước có thể ràng buộc thuế suất dương (chẳng hạn 10%) hoặc thuế suất hiện hành bằng 0 hoặc giảm thuế suất (chẳng hạn từ 10% xuống còn 5%) và ràng buộc thuế suất đã giảm. Tóm lại, cắt giảm thuế quan và duy trì không tăng lên gắn liền với đàm phán thương mại của từng quốc gia thành viên. Điều đó cho phép nhận biết mức độ thay đổi bảo hộ và mở cửa thị trường của quốc gia đó. (3) Đối xử tối huệ quốc (MFN). Đây là nguyên tắc không phân biệt đối xử (không kém ưu đãi hơn) đối với các hàng hoá có xuất xứ từ các nước khác nhau. Nó đòi hỏi thuế quan và các quy định khác sẽ được áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu hay xuất khẩu không được phân biệt đối xử giữa các nước thành viên (không đánh thuế vào hàng hoá của nước này với thuế suất cao hơn thuế suất được áp dụng cho hàng hoá nhập khẩu của nước khác). Tuy nhiên vẫn có những ngoại lệ, chẳng hạn thương mại giữa các nước thành viên của các thoả thuận thương mại khu vực được hưởng thuế suất ưu đãi hoặc miễn thuế; hay trong Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) các nước phát triển áp dụng thuế suất ưu đãi hoặc miễn thuế cho hàng hoá nhập khẩu từ các nước đang phát triển, nhưng lại áp dụng thuế suất MFN cho hàng hoá nhập khẩu từ các nước khác. (4) Đối xử quốc gia (NT) Nguyên tắc này cấm các nước phân biệt đối xử giữa các sản phẩm nhập khẩu và các sản phẩm tương tự được sản xuất trong nước (kể cả trong việc đánh thuế nội địa như thuế doanh thu, thuế VAT và áp dụng các quy định trong nước). Đây là nguyên tắc không được đối xử kém ưu đãi hơn đối với hàng hoá nhập khẩu so với hàng hoá có xuất xứ trong nước. 3.3.1.3. Các hiệp định khác có liên quan tới GATT Ngoài các quy tắc trên, GATT còn quy định các quy tắc áp dụng tại biên giới liên quan tới 4 Hiệp định về xác định trị giá tính thuế hải quan, về rào cản kỹ thuật đối với

Page 46: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

46

thương mại, về áp dụng các biện pháp kiểm dịch động thực vật và về các thủ tục cấp phép nhập khẩu. Hệ thống đa biên của GATT còn có các quy tắc điều tiết sử dụng trợ cấp liên quan tới Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng nhằm hạn chế hoặc cấm sử dụng nó làm bóp méo thương mại và cạnh tranh. Các biện pháp (tự vệ và chống phá giá) mà chính phủ nước nhập khẩu có thể thực hiện nếu ngành sản xuất nội địa yêu cầu liên quan tới Hiệp định về các biện pháp tự vệ và về các hành động chống bán phá giá (thuế chống bán phá giá và thuế đối kháng), các quy định trong Hiệp định TRIMs, Quy tắc xuất xứ đều có liên quan tới thương mại hàng hoá. Ngoài ra, còn có một số văn kiện quan trọng giải thích và các quyết định. Ví dụ, văn kiện về Quy tắc và thủ tục giải quyết tranh chấp trong thương mại hàng hoá, Quyết định về thương mại và môi trường, Cơ chế rà soát chính sách thương mại… Trong thương mại hàng hoá, WTO cũng như chính phủ các nước rất quan tâm tới thương mại hàng nông sản và hàng dệt may, do vị trí, ý nghĩa của các sản phẩm này đối với đời sống con người và tầm quan trọng của các ngành nông nghiệp và công nghiệp dệt may đối với sự phát triển kinh té và xã hội. Do vậy, cùng với Hiệp định GATT, WTO còn có các Hiệp định chuyên ngành về nông nghiệp và hàng dệt may. Hiệp định về nông nghiệp quy định những trường hợp trong đó mở cửa thị trường có thể bị hạn chế và sự hỗ trợ trong nước không bị coi là rào cản chính đối với thông lệ hạn chế thương mại. Mặt khác, trợ cấp xuất khẩu sẽ giảm dần nhờ việc thực hiện những cam kết trong các vòng đàm phán của WTO. Thường các nước đang phát triển có xuất siêu được hưởng lợi nhiều hơn từ hiệp định trên. Chính sách thương mại và nông nghiệp ở các nước đang phát triển đều phải nhằm mục đích không chỉ thúc đẩy xuất khẩu, mà còn phải bảo vệ sản xuất trong nước và đảm bảo an ninh lương thực trong quá trình phát triển. Các nước phát triển chưa thật thống nhất, sẵn sàng giúp các nước nghèo thông qua nới lỏng các điều kiện tiếp cận và mở rộng thị trường nhập khẩu hàng nông sản. Điều đó lý giải những đàm phán về nông nghiệp gần đây của WTO thường gặp nhiều thách thức và tiến triển chậm chạp. Hiệp định về hàng dệt may (ATC) về cơ bản chính là sự quy định loại bỏ dần hạn ngạch đối với dệt may do Mỹ, EU và Canada đặt ra từ Hiệp định Đa sợi (MFA) trước đó nhằm không phân biệt đối xử hàng dệt may đối với các hàng hoá khác theo quy định của GATT. Đồng thời hạ thấp thuế suất hàng dệt may ở các nước đang phát triển để ATC mang tính chất có đi có lại và các nhà sản xuất ở các nước phát triển có thể chấp nhận được. ATC cũng quy định những biện pháp bảo hộ trong những trường hợp cụ thể đối với ngành công nghiệp dệt may trong nước.

Chính phủ các nước chưa phải là thành viên WTO cũng có những chính sách thương mại cụ thể đối với các nhóm hàng, mặt hàng khác trên đây nhằm hướng dẫn và

Page 47: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

47

điều tiết các hoạt động thương mại phù hợp với các thoả thuận, cam kết trong các hiệp định thương mại song phương và khu vực đã ký. 3.3.2. Vấn đề bảo hộ trong thương mại hàng hóa 3.3.2.1. Căn cứ của chính sách bảo hộ trong thương mại hàng hoá Do năng lực cạnh tranh trong nước về hàng hoá còn hạn chế. Do yêu cầu bảo vệ sản xuất nội địa đối với các ngành, nhóm hàng nhạy cảm, ngành sản xuất non trẻ đòi hỏi phải có sự hỗ trợ trong nước. Do yêu cầu khác (về an ninh kinh tế, vấn đề việc làm và thất nghiệp). 3.3.2.2. Các biện pháp và rào cản của chính sách bảo hộ trong thương mại hàng hoá Bảo hộ hàng hoá trong nước tránh sự thâm nhập của hàng nhập khẩu bao gồm nhiều hình thức khác nhau như thuế, trợ cấp, lãi suất, thưởng và hỗ trợ tài chính khác. Đồng thời chính phủ các nước có thể sử dụng các hình thức phi kinh tế để hạn chế hàng nhập khẩu trong những trường hợp cần thiết, nhất là các nước đang phát triển, chưa là thành viên của WTO. Biện pháp của chính sách bảo hộ thông qua thuế suất cao là biện pháp có tính ngăn chặn, trong khi đó trợ cấp trực tiếp và hỗ trợ gián tiếp có tác dụng nâng đỡ để nâng cao khả năng cạnh tranh, đẩy mạnh tiêu thụ hàng hoá trong nước nhờ chính sách của chính phủ. Các công cụ phi thuế tuy không phải là quy tắc của GATT đưa ra, nhưng những thành quả của đàm phán thời gian qua của WTO theo quy tắc thứ 2 đang làm thay đổi cách thức bảo hộ hàng hoá trong nước. Đó là sự chú trọng bảo vệ sản xuất nội địa thông qua các biện pháp phi thuế như rào cản kỹ thuật, tiêu chuẩn môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm, các thủ tục hành chính, pháp lý và điều kiện thương mại khác. 3.3.2.3. ảnh hưởng và hạn chế của chính sách bảo hộ trong thương mại hàng hoá Tác động tích cực: Bảo vệ ngành sản xuất mới, non trẻ, các ngành nhạy cảm và liên quan tới an ninh kinh tế và an ninh quốc gia. Bảo vệ lợi ích kinh doanh nhỏ và quyền lợi người tiêu dùng. Chuẩn bị các điều kiện cho hội nhập và cạnh tranh. Hạn chế: Bóp méo thương mại và cạnh tranh, phân biệt đối xử. Có nguy cơ tạo nên sự trì trệ, thiếu năng động, không thúc đẩy đổi mới và phát triển nếu bảo hộ không hợp lý, không có giới hạn. 3.3.3. Xu hướng cơ bản về hội nhập trong thương mại hàng hóa quốc tế 3.3.3.1. Đơn phương mở cửa thị trường, hợp tác song phương và tự do hoá thương mại hàng hoá Một số nước phát triển đơn phương mở cửa thị trường, tự do hoá thương mại trên cơ sở các mối quan hệ hợp tác song phương. Họ khởi xướng và kêu gọi các nước đang phát triển noi gương họ và tham gia vào quá trình này để tìm kiếm lợi ích. Họ ở thế mạnh nên thường áp đặt luật choiư trong quá trình tổ chức lại thị trường trong phạm vi toàn cầu.

Page 48: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

48

Quan hệ thương mại giữa các nước là quan hệ song phương theo xu hướng này thường được thể hiện trong các hiệp định thương mại hoặc hiệp định thương mại tự do. 3.3.3.2. Khu vực hoá và tự do hoá thương mại khu vực Sự hình thành các Khu vực thương mại tự do (FTAs) và các Thoả thuận Thương mại khu vực (RTAs) gia tăng nhanh chóng. Đến nay, đã có trên 250 hiệp định thương mại tự do song phương và khu vực đã ký. Khu vực Đông á có ASEAN/FTA, FTA ASEAN+1 (Trung Quốc): ACFTA, tương lai sẽ có các FTA giữa ASEAN với Mỹ, Hàn Quốc, ấn Độ, Nhật Bản và ASEAN+3 (TQ, Hàn Quốc và Nhật Bản). Bảy nước là ấn Độ, Pakistan, Nêpan, SriLanka, Maldives, Banglades và Butan (chiếm 1/4 dân số thế giới, với cam kết giảm thuế tư 25-30% xuồng 0-5%) đã ký thoả thuận thành lập Khu vực thương mại tự do Nam á . FTA Bắc Mỹ (NAFTA) và Mỹ La tinh (LAFTA) gồm 33 nước với trên 911 triệu dân, GDP trên 11 nghìn tỷ USD. EU mở rộng sang phía Đông bao gồm 25 thành viên với số dân 455 triệu người, GDP khoảng 9 nghìn tỷ USD. 3.3.3.3. Tăng cường hợp tác, thực hiện các cam kết và thoả thuận đa phương WTO là tổ chức thương mại đa phương lớn nhất hành tinh, là “một Liên hợp quốc trong lĩnh vực thương mại”, hiện đã có 150 thành viên và hơn 20 nước đang đàm phán gia nhập. Thương mại hàng hoá của các thành viên WTO chiếm gần 90% tổng thương mại hàng hoá toàn cầu. WTO ngày càng có vai trò hấp dẫn hơn đối với các nền kinh tế đang phát triển và ngày càng có nhiều nước xin gia nhập (Việt Nam, Nêpan, CH Liên bang Nga, ...). Một số nước đã rút ngắn quá trình đàm phán, thậm chí bỏ qua hầu hết các bước để nhanh chóng được kết nạp. Nhìn chung các nước có bối cảnh và điều kiện kinh tế, xã hội khác nhau, nhưng lựa chọn chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế đều phải nhận thức và vận dụng đúng đắn các xu hướng trên. Đồng thời, tính toán, cân nhắc, thận trọng, kỹ lưỡng những trường hợp, những đối tượng, vấn đề cụ thể để ứng xử thông qua chính sách (mở cửa, tự do hoá và bảo hộ) một cách hợp lý để mang lại thành công và hiệu quả.

Page 49: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

49

Chương 4: thương mại dịch vụ , thương mại quyền sở hữu trí tuệ và thương mại liên quan đến đầu tư

4.1. Thương mại dịch vụ 4.1.1. Bản chất của thương mại dịch vụ 4.1.1.1. Khái niệm về thương mại dịch vụ a. Khái niệm về thương mại dịch vụ Thương mại dịch vụ là một khái niệm phân biệt với khái niệm thương mại về hàng hoá. Nếu thương mại hàng hoá về cơ bản là mua bán các sản phẩm hữu hình, thì thương mại dịch vụ về cơ bản là trao đổi về các sản phẩm vô hình. “Bất kỳ thứ gì mua bán trong thương mại mà không thể rơi vào chân bạn đó là dịch vụ”. Trên thị trường dịch vụ được cung cấp thông qua các phương thức khác nhau để đổi lấy tiền công trả cho việc cung cấp các dịch vụ đó. Dịch vụ có thể được cung cấp trên thị trường như một sản phẩm độc lập (ví dụ cung cấp một khoá học tiếng anh), một số trường hợp chúng được cung cấp nhu một tập hợp nhiều dịch vụ riêng lẻ có tính chất bổ sung lẫn nhau (ví dụ một tour du lịch bao gồm: dịch vụ vận chuyển, dịch vụ lưu trú, dịch vụ nhà hàng…), trường hợp khác chúng phải đi kèm cùng với các sản phẩm hàng hoá (ví dụ các dịch vụ nhà hàng luôn đi kèm với thức ăn, đồ uống). Cần lưu ý rằng không phải bất kỳ sự cung ứng dịch vụ nào trong xã hội cũng có tính thương mại. Thương mại dịch vụ chỉ bao gồm những hoạt động mua bán và trao đổi nhằm vào mục đích lợi nhuận. Vậy thương mại dịch vụ là toàn bộ những hoạt động cung ứng dịch vụ trên thị trường thông qua mua bán nhằm mục đích lợi nhuận. 4.1.1.2. Đặc điểm của thương mại dịch vụ a. Tính đặc thù về đối tượng trao đổi trong thương mại dịch vụ Sự khác biệt rõ nhận thấy nhất giữa thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ chính là ở đối tượng của hoạt động trao đổi. Trong thương mại hàng hóa đối tượng trao đổi là các sản phẩm vật thể còn trong thương mại dịch vụ chúng là các sản phẩm phi vật thể. Mặc dù có sự khác biệt nhưng dịch vụ và hàng hóa vẫn có những điểm giống nhau: Là sản phẩm của lao động vì vậy dich vụ mang giá trị. Trong trao đổi giá trị dịch vụ thể hiện thông qua giá cả thị trường. Dịch vụ cũng có giá trị sử dụng, giá trị sử dụng của dịch vụ hay công dụng của chúng chính là các lợi ích mà người tiêu dùng nhận được và thỏa mãn khi tiêu dùng chúng.

Page 50: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

50

Vì dịch vụ vô hình nên so với hàng hoá chúng khó thương mại hoá hơn, điều này lý giải vì sao cho mãi đến thập niên 70 các nhà kinh tế học vẫn cho rằng: “ngành dịch vụ là tập hợp chủ yếu của những hoạt động phi thương mại” (theo UNCTAD). Cũng chính vì thế mà cho đến nay tỷ trọng của các ngành dịch vụ trong GDP khá cao nhưng giá trị kim ngạch dịch vụ cho xuất khẩu hoặc trao đổi là tương đối nhỏ. Đối với các nước phát triển tỷ trọng của ngành dịch vụ trong GDP chiếm khoảng hai phần ba nhưng kim ngạch thương mại dịch vụ trong nền kinh tế chỉ chiếm khoảng một phần năm (theo Service Economy). Vì dịch vụ vô hình nên khi xẩy ra mất cân đối cung cầu theo thời gian người ta không dự trữ chúng lại trong các kho hoặc nếu có sự mất cân đối cung cầu theo không gian người ta không thể điều hoà bằng cách vận chuyển chúng từ nơi này qua nơi khác bằng các phương tiện vận tải nhằm điều tiết cung cầu như trong trường hợp thương mại hàng hoá. Trong thương mại dịch vụ để thoả mãn đòi hỏi của khách hàng người ta luôn phải đảm bảo sự sẵn sàng cung ứng tại nơi và thời điểm mà thị trường có nhu cầu. Mâu thuẫn là ở chỗ cầu về dịch vụ thường có tính đàn hồi cao và mang tính thời vụ lớn trong khi cung dịch vụ lại có tính “cứng”. Điều này dẫn tới những mâu thuẫn về cung cầu. Đây là bài toán nan giải trong nhiều ngành dịch vụ. Ví dụ: khả năng truyền tải mạng điện thoại di động hay mạng Internet thì có hạn nhưng cầu lại biến động và mang tính thời vụ rất cao nên thường xẩy ra tình trạng “quá tải” do có nhiều người cùng sử dụng vào những giờ cao điểm hoặc ngược lại có những lúc lại có rất ít người sử dụng như ban đêm hay ngày nghỉ cuối tuần. b. Tính đặc thù về các phương thức cung cấp trong thương mại dịch vụ Do những đặc trưng của sản phẩm dịch vụ nên các giao dịch trong thương mại dịch vụ giữa người mua, người bán thường đòi hỏi phải có sự tiếp xúc trực tiếp. Trao đổi các dịch vụ có thể xảy ra trong các trường hợp sau: dịch vụ được chuyển dịch trực tiếp từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng (trong thương mại hàng hóa hoạt động trao đổi này là phổ biến thì trong thương mại dịch vụ chỉ có một số ít dịch vụ được thực hiện theo cách này. Ví dụ như chuyển tiền qua ngân hàng…). Các trường hợp giao dịch phổ biến trong lĩnh vực dịch vụ là: nhà cung cấp dịch vụ dịch chuyển đến nơi có người tiêu dùng (ví dụ các bác sỹ đến khám bệnh tại nhà) hoặc người tiêu dùng di chuyển đến nơi có nhà cung cấp dịch vụ (ví dụ bệnh nhân đến bệnh viện để khám, chữa bệnh) hoặc nhà cung cấp dịch vụ và người tiêu dùng cùng di chuyển đến một địa điểm thứ ba, ví dụ: một doanh nghiệp của Pháp mở bệnh viện ở Việt Nam (bệnh viện Việt Pháp) để khám, chữa bệnh cho một bệnh nhân đến từ Nhật Bản.

Page 51: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

51

Trong buôn bán quốc tế dịch vụ được cung cấp giữa các quốc gia theo một trong bốn phương thức sau: - Phương thức 1: di chuyển qua biên giới của các sản phẩm dịch vụ (các dịch vụ có thể truyền qua phương tiện viễn thông như chuyển tiền qua ngân hàng). - Phương thức 2: di chuyển của người tiêu dùng sang nước khác( khách du lịch sang thăm một nước khác). - Phương thức 3: thiết lập hiện diện thương mại tại một nước để cung cấp dịch vụ (thành lập chi nhánh hay công ty con ở nước ngoài). - Phương thức 4: di chuyển tạm thời của thể nhân sang một nước khác để cung cấp dịch vụ tại đó (các luật sư hay bác sỹ di chuyển đến nước khác để làm việc). c. Tính liên ngành của các dịch vụ Lĩnh vực dịch vụ có một đặc điểm nổi bật là sự liên kết cao giữa các ngành và phân ngành dịch vụ. Một mặt, sự phát triển của mỗi ngành kinh doanh dịch vụ phụ thuộc chặt chẽ vào các ngành dịch vụ khác như là các yếu tố đầu vào. Mặt khác do tính chất của nhiều loại nhu cầu của dịch vụ mà sự thoả mãn chúng đòi hỏi sản phẩm dịch vụ không chỉ là những dịch vụ riêng lẻ mà chúng như là một tổ hợp gồm nhiều dịch vụ có tính chất bổ sung lẫn nhau. Để tạo ra một sản phẩm dịch vụ loại này phải là sự liên kết và phối hợp hoạt động của nhiều ngành dịch vụ khác nhau cùng tạo ra và cung ứng các dịch vụ (ví dụ như sản phẩm du lịch). d. Tính đa dạng cúa các loại hình dịch vụ Dịch vụ là lĩnh vực rất rộng, đa dạng về quy mô và tính chất kinh doanh. Bên cạnh một số ngành dịch vụ quy mô kinh doanh lớn: vốn đầu tư lớn, công nghệ hiện đại, lao động chuyên môn cao như dịch vụ viễn thông, dịch vụ tài chính, dịch vụ hàng không, vận tải biển, vận tải đường sắt… còn có vô số những ngành dịch vụ kinh doanh nhỏ, linh hoạt, phân tán, lao động giản đơn, thích hợp với loại hình kinh doanh nhỏ, hộ gia đình và doanh nghiệp nhỏ. Những ngành dịch vụ này tồn tại khách quan do nhu cầu đời sống như trông xe, giữ trẻ, xe ôm, giúp việc gia đình… cho dù sự phát triển ở trình độ nào của nền kinh tế thì chúng vẫn tồn tại như là một bộ phận không thể thiếu được của nền kinh tế xã hội và vai trò của chúng không nhỏ, nhất là trong việc thỏa mãn nhu cầu muôn màu, muôn vẻ của đời sống xã hội và tạo công ăn việc làm cho dân cư. Sự đa dạng về vai trò của dịch vụ đối với đời sống và sản xuất: có nhiều ngành dịch vụ là những ngành quan trọng cung cấp yếu tố đầu vào của sản xuất kinh doanh và trình độ của những ngành dịch vụ này có ảnh hưởng rất lớn tới sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ của quốc gia ví dụ dịch vụ vận tải, dịch vụ viễn thông…Nhiều ngành dịch vụ không chỉ đáp ứng nhu cầu sản xuất mà cả nhu cầu sinh hoạt của dân cư như dịch vụ điện thoại. Ngoài ra có một số dịch vụ hoàn toàn chỉ đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của dân cư .

Page 52: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

52

e. Tính chất nhạy cảm về tác động của dịch vụ với đời sống kinh tế, xã hội, chính trị và môi trường Thương mại dịch vụ là lĩnh vực hoạt động kinh tế có sự phụ thuộc chặt chẽ và đặc biệt nhậy cảm vấn đề chính trị, an ninh, quốc phòng. Ngược lại, cũng là lĩnh vực mà hoạt động của chúng có tác động rất phức tạp và khó dự báo đối với đời sống xã hội. 4.1.1.3. Phân loại thương mại dịch vụ Ngày nay, dịch vụ là một lĩnh vực bao gồm những hoạt động hết sức rộng lớn. Ban thư ký WTO đã chia các hoạt động dịch vụ khác nhau thành 12 ngành (trong đó gồm 155 tiểu ngành): 1. Các dịch vụ kinh doanh 2. Dịch vụ bưu chính viễn thông 3. Dịch vụ xây dựng và các dịch vụ kỹ thuật liên quan 4. Dịch vụ phân phối 5. Dịch vụ giáo dục 6. Dịch vụ môi trường 7. Dịch vụ tài chính 8. Các dịch vụ xã hội và liên quan đến y tế 9. Các dịch vụ du lịch và dịch vụ liên quan đến lữ hành 10. Các dịch vụ giải trí, văn hoá, thể thao (ngoài dịch vụ nghe nhìn) 11. Dịch vụ vận tải 12. Các dịch vụ khác chưa được thống kê ở trên Cần lưu ý rằng ngoài 11 ngành dịch vụ chính, nhóm dịch vụ thứ 12 (nhóm các dịch vụ khác) là vô số những loại dịch vụ tồn tại một cách khách quan do nhu cầu của đời sống. Những dịch vụ này rất đa dạng và hiện vẫn chưa được xét đến trong thống kê thương mại. 4.1.2. Vai trò của thương mại dịch vụ Trong thời đại ngày nay, thương mại dịch vụ có một ví trí ngày càng quan trọng trong buôn bán toàn cầu và trong cơ cấu kinh tế của các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia phát triển. ở nhiều nước, một số ngành dịch vụ được xem là ngành kinh tế có vị trí mũi nhọn, ngành công nghiệp không ống khói. Theo thống kê của WTO, tổng giá trị thương mại dịch vụ của những năm đầu thế kỷ XI đã tăng gấp 4 lần so với tổng giá trị thương mại dịch vụ năm 1980. Giá trị thương mại dịch vụ năm 2002 đạt 2.900 tỷ USD, chiếm 20% tổng giá trị thương mại thế giới (1). ở các nước phát triển, các ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng khoảng 60-70% GNP, như Anh, Pháp, Đức khoảng 65%, riêng Hoa Kỳ chiếm gần 80%, và ở các nước đang phát triển tỷ trọng này cũng chiếm khoảng 50%. Mỹ, EU

(1) Nguồn: www.ilo.org

Page 53: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

53

và Nhật Bản là những quốc gia có sức cạnh tranh cao trong các ngành dịch vụ, đặc biệt là tài chính, viễn thông, vận tải. Các nước này đang tăng cường vị trí của mình trong thương mại dịch vụ nhiều hơn thương mại hàng hóa. Với vị trí đó, thương mại dịch vụ đã đem lại những vai trò đặc biệt quan trọng cho các quốc gia trong thời đại ngày nay, cụ thể: - Thương mại dịch vụ có vai trò thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đóng góp vào GNP của nền kinh tế các quốc gia. Vai trò của thương mại dịch vụ với tăng trưởng kinh tế không những thể hiện ở sự tăng trưởng nhanh chóng của bản thân những ngành dịch vụ mà vai trò này còn thể hiện ở việc thúc đẩy, hỗ trợ các ngành kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân, đặc biệt là vai trò của các ngành dịch vụ như bưu chính - viễn thông, tài chính - ngân hàng, giao thông - vận tải… Với khả năng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đó, những đóng góp của thương mại dịch vụ vào GNP cũng ngày càng được khẳng định. Theo WTO, giai đoạn 1980-2002, hàng năm bản thân thương mại dịch vụ trên thế giới có tốc độ tăng trưởng bình quân 9%, cao hơn tốc độ tăng 6% của thương mại hàng hóa. Về đầu tư, khoảng 60% giá trị đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện nay đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ. (2) - Vai trò của thương mại dịch vụ với tăng cường hội nhập khu vực và quốc tế, cải thiện cán cân thương mại của các quốc gia. Xu thế tự do hóa thương mại không chỉ còn diễn ra ở lĩnh vực thương mại hàng hóa, mà tự do hóa thương mại dịch vụ cũng đang từng bước mở ra. Hiện nay, các nước phát triển đang chú trọng vào phát triển và tìm cơ hội xuất khẩu ở các ngành dịch vụ như tài chính, viễn thông, y tế và giáo dục. Các nước này thường thu được lợi ích rất cao nhờ vào những ngành dịch vụ và thường gây sức ép đòi hỏi các nước mở cửa hơn đối với thị trường này. Mặc dù các nước đang phát triển và chậm phát triển thường có nhiều bất lợi khi mở của thị trường dịch vụ, song họ cũng đang khai thác những lợi thế so sánh của mình để hội nhập và cải thiện cán cân thương mại thông qua các ngành dịch vụ như du lịch, xuất khẩu lao động. - Vai trò của thương mại dịch vụ với việc thúc đẩy phân công lao động và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Ngày nay, cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội, các ngành dịch vụ mới không ngừng ra đời và phát triển nhanh chóng. Do vậy, lĩnh vực dịch vụ đã ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu của nền kinh tế quốc dân. Đồng thời, một số ngành dịch vụ ra đời đã thúc đẩy tích cực trao đổi hàng hóa và dịch vụ giữa các vùng, giữa các quốc gia, đưa đến xu thế phân bổ nguồn lực theo nguyên lý cân bằng hiệu quả cận biên (Marginal Efficiency). Những tác động đó đã góp phần thúc đẩy mạnh mẽ quá trình phân công lao động xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong phạm

(2) Nguồn: www.ilo.org

Page 54: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

54

vi từng quốc gia, cũng như trên phạm vi toàn thế giới phù hợp với lợi thế so sách của từng vùng và từng quốc gia. - Vai trò của thương mại dịch vụ đối với việc tạo ra công ăn việc làm cho xã hội. Một mặt, qui mô của lĩnh vực dịch vụ ngày càng được mở rộng sẽ đem lại công ăn việc làm ngày càng nhiều cho xã hội. Mặt khác, đối với một số ngành dịch vụ, sự phát triển nó sẽ đem lại số lượng công ăn việc làm mới cả về số tương đối và tuyệt đối. Đây là những lĩnh vực dịch vụ có cấu tạo hữu cơ mà việc sử dụng lao động sống có xu hướng tăng nhanh hơn lao động vật hóa. Tại nhiều quốc gia trên thế giới, nhất là các quốc gia phát triển, tỷ trọng lao động của các ngành dịch vụ chiếm khoảng 60-70% công ăn việc làm trong xã hội. Chỉ tính riêng ngành du lịch, năm 2002 đã thu hút khoảng 204 triệu lao động trên toàn thế giới (ước tính cứ 9 lao động thì có 1 lao động làm việc trong lĩnh vực du lịch), chiếm khoảng 10,6% lực lượng lao động thế giới. (3) - Vai trò của thương mại dịch vụ đối với việc nâng cao chất lượng cuộc sống của con người. Trước hết, xuất phát từ những vai trò của thương mại dịch vụ nói trên mà nó đã góp cải thiện tích cực thu nhập cho xã hội và người lao động. Theo đó việc cải thiện thu nhập được xem là một yếu tố quan trọng cho phép con người nâng cao chất lượng cuộc sống của họ. Mặt khác, thực tế ngày nay ở hầu hết các quốc gia thì chất lượng cuộc sống đang phụ thuộc chủ yếu vào khả năng thỏa mãn nhu cầu về các sản phẩm dịch vụ, đặc biệt là các dịch vụ liên quan đến chăm sóc sức khỏe, nâng cao dân trí, giải trí hay phục vụ cho các nhu cầu sinh hoạt hàng ngày. Ngoài ra, thương mại dịch vụ còn đóng vai trò quan trọng trong việc tăng cường giao lưu văn hóa, chuyển giao công nghệ… 4.1.3. Các Hiệp định liên quan đến thương mại dịch vụ 4.1.3.1. Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (General Agreement on Trade in Sevice - GATS) Thương mại dịch vụ là một lĩnh vực mới mẻ song đã có sự phát triển mạnh mẽ và ngày càng có những đóng góp quan trọng vào nhiều mặt của đời sống kinh tế - xã hội của loại người. Vì vậy, vấn đề tự do hóa thương mại dịch vụ trên phạm vi toàn cầu cũng đã được đặt ra. Trên cơ sở GATT 1994, GATS đã được đưa ra thương thảo ở vòng đàm phán Urugoay và đã trở thành một hiệp định quan trọng của WTO. - Mục tiêu của GATS: Mở của thị trường dịch vụ để kích thích cạnh tranh nhằm tạo ra nhiều dịch vụ sẵn sàng hơn, rẻ hơn, chất lượng hoàn hảo hơn nhằm thỏa mãn các nhu cầu sản xuất - kinh doanh và nâng cao mức sống cho con người.

(3) Nguồn: www.ilo.org

Page 55: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

55

- Phạm vi áp dụng của GATS: Ngoại trừ các dịch vụ được cung cấp thuộc phạm vi các hoạt động chức năng của cơ quan Chính phủ, cụ thể là việc cung cấp dịch vụ không mang tính chất thương mại và cạnh tranh với bất cứ nhà cung cấp nào. Các loại dịch vụ khác đều thuộc phạm vi điều chỉnh của GATS. Theo GATS các loại dịch vụ được chia thành 12 ngành và 155 phân ngành. - Nội dung chủ yếu của GATS: Nội dung chủ yếu của GATS là các nước thành viên đưa ra cam kết về mở của thị trường dịch vụ thông qua đàm phán và tự do hóa từng bước thương mại dịch vụ. Do thương mại dịch vụ là một lĩnh vực mới mẻ và có nhiều đặc thù so với thương mại hàng hóa mà quá trình thực hiện tự do hóa đối lĩnh vực này cũng có nhiều điểm khác biệt. Vì vậy, nội dung của GATS được dựa trên những nguyên tắc chung được đưa ra ở GATT 1994, đồng thời có sự vận dụng cho lĩnh vực đặc thù của thương mại dịch vụ. Những nội dung chủ yếu của thương mại dịch vụ: + Đãi ngộ tối huệ quốc (MFN): Qui tắc đãi ngộ tối huệ quốc của GATS qui định rằng nghĩa vụ bắt buộc của một nước thành viên là phải dành ngay lập tức và không điều kiện cho dịch vụ và người cung cấp dịch vụ của bất kỳ thành viên nào khác sự đãi ngộ không kém phần thuận lợi hơn sự đãi ngộ mà thành viên này dành cho dịch vụ và người cung cấp dịch vụ tương tự của bất kỳ nước nào khác. + Đãi ngộ quốc gia (NT): GATS qui định một thành viên phải dành cho dịch vụ và người cung cấp dịch vụ của bất kỳ thành viên nào khác sự đãi ngộ không kém thuận lợi hơn sự đãi ngộ mà thành viên đó đã dành cho dịch vụ và người cung cấp dịch vụ của chính mình. Tuy nhiên, nguyên tắc này được thực hiện thông qua đàm phán và các cam kết về tiến trình tự do hóa thương mại dịch vụ giữa các nước thành viên, thể hiện ở những lĩnh vực được ghi trong danh mục cam kết và tùy thuộc vào các điều kiện và tiêu chuẩn được ghi trong danh mục đó. + Cam kết mở cửa thị trường: Việc mở cửa thị trường thương mại dịch vụ được thực hiện thông qua các qui tắc về đãi ngộ tối huệ quốc, đãi ngộ quốc gia, tiếp cận thị trường… Đối với việc tiếp cận thị trường, GATS qui định một thành viên phải dành cho dịch vụ hoặc người cung cấp dịch vụ của các thành viên khác sự đãi ngộ không kém phần thuận lợi hơn sự đãi ngộ theo những điều kiện, điều khoản và hạn chế đã được thỏa thuận và qui định tại danh mục cam kết cụ thể. Danh mục cam kết cụ thể của một lĩnh vực dịch vụ nào đó phải bao gồm các qui định sau: 1. Điều khoản, giới hạn và điều kiện tiếp cận thị trường; 2. Điều kiện và tiêu chuẩn về đãi ngộ quốc gia; 3. Việc thực hiện những cam kết bổ sung ;

Page 56: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

56

4. Lộ trình thực hiện các cam kết đó (nếu có thể) và 5. Thời hạn các cam kết đó có hiệu lực. + Tự do hóa từng bước thương mại dịch vụ: Nói chung, GATS mới đạt được một số kết quả về mức độ mở của thị trường dịch vụ. Các điều khoản đã đạt được trong GATS mới chỉ có tính chất ban đầu, làm nền móng và tiền đề cho khuân khổ pháp lý chung về thương mại dịch vụ giữa các nước thành viên. Vì vậy, một trong những đặc điểm quan trọng của GATS là các nước thành viên cùng ghi nhận một mong muốn tiếp tục đạt được mức độ tự do hóa thương mại dịch vụ ngày càng cao hơn thông qua việc tổ chức tiếp những vòng đàm phán đa biên. + Tăng cường sự tham gia của các nước đang phát triển: Với mong muốn tạo thuận lợi để các nước đang phát triển tham gia ngày càng nhiều vào thương mại dịch vụ và mở rộng xuất khẩu dịch vụ của mình. Hiệp định cũng qui định lộ trình tự do hóa thương mại dịch vụ cần tiến hành với sự quan tâm đúng mức đến các mục tiêu chính sách quốc gia và trình độ phát triển của mỗi nước thành viên. Sự linh hoạt thích đáng dành cho các thành viên là các nước đang phát triển trong việc mở cửa thị trường với ít lĩnh vực hơn, tự do hóa ít loại hình giao dịch hơn để dần dần mở rộng việc tiếp cận thị trường phù hợp với tình hình phát triển. + Một số ngoại lệ: Cùng với mục tiêu tăng cường tự do hóa thương mại dịch vụ, GATS cũng chấp nhận nguyên tắc tự do hóa dần dần thông qua tiếp tục các vòng đàm phán, tạo thuận lợi để các nước đang phát triển tham gia ngày càng nhiều vào thương mại dịch vụ. Do vậy, một nội dung quan trọng của GATS là thừa nhận quyền của các thành viên trong việc điều chỉnh, ban hành những qui chế mới về cung cấp dịch vụ trên lãnh thổ của mình nhằm: 1. Đạt được mục tiêu chính sách quốc gia và 2. Xuất phát từ sự chênh lệch hiện có về trình độ phát triển của cơ chế điều chỉnh dịch vụ tại các nước khác nhau; 3. Đáp ứng nhu cầu riêng của các nước đang phát triển đối với việc thực thi được quyền này. Từ những mục tiêu mang tính nguyên tắc trên, GATS đã dành tương đối nhiều ngoại lệ cho các thành viên. Thực chất, đây là những qui định xuất phát từ những đặc thù của thương mại dịch vụ nhằm tạo điều kiện để các thanh viên có thể thực hiện được quá trình mở cửa, tự do hóa thị trường này. Những ngoại lệ đó bao gồm những ngoại lệ chung để bảo vệ đạo đức, trật tự, cuộc sống, sức khỏe cộng đồng, bí mật cá nhân, đảm bảo việc thực hiện đánh thuế và thu thuế công bằng… và những ngoại lệ về lý do an ninh, về qui chế đãi ngộ tối huệ quốc, hội nhập kinh tế, hạn chế cán cân thanh toán… 4.1.3.2. Các Hiệp định khác liên quan đến thương mại dịch vụ

Page 57: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

57

- Các Hiệp định chuyên ngành về thương mại dịch vụ: GATS là một hiệp định đa biên, các điều khoản đã đạt được trong GATS mới chỉ có tính chất ban đầu, làm nền móng và tiền đề cho khuân khổ pháp lý chung về thương mại dịch vụ giữa các nước thành viên. Vì vậy, bên cạnh GATS, để cụ thể hóa và tạo ra nguyên tắc phù hợp hơn với từng lĩnh vực nhằm thúc đẩy tự do hóa thương mại dịch vụ, việc đưa ra các Hiệp định mang tính chuyên ngành trong lĩnh vực này là cần thiết. Tuy chưa hình thành những Hiệp định độc lập như trong thương mại hàng hóa, song đối với các lĩnh vực chuyên ngành các nước đã bổ sung vào GATS các phụ lục để đưa ra một số qui tắc bổ sung về chi tiết hóa theo ngành, và hướng dẫn tiếp tục đàm phán nhằm đạt được tự do hóa cao hơn. Các phụ lục đó bao gồm: Phụ lục về các dịch vụ vận tải hàng không; Phụ lục về các dịch vụ tài chính; Phụ lục thứ hai về dịch vụ tài chính; Phụ lục về đàm phán các dịch vụ vận tải đường biển; Phụ lục về Viễn thông; Phụ lục về đàm phán các dịch vụ về viễn thông cơ bản… - Các Hiệp định khu vực và song phương liên quan đến thương mại dịch vụ: Trên cơ sở các điều khoản mang tính chất ban đầu về khuân khổ pháp lý chung đối với thương mại dịch vụ giữa các nước thành viên của WTO, các khu vực và các quốc gia có thể tiến hành đàm phán để đưa ra những cam kết cho quá trình tự do hóa thương mại dịch vụ. Những cam kết này chủ yếu được đưa ra trong các Hiệp định thương mại khu vực và song phương. Các Hiệp định thương mại khu vực và song phương dựa vào những đặc thù về điều kiện và trình độ phát triển của khu vực và quốc gia mình đàm phán để thúc đẩy mở cửa thị trường cho lĩnh vực thương mại dịch vụ. Các hiệp định khu vực liên quan đến thương mại dịch vụ như Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ (ASEAN Framework Agreement on Services - AFAS); Hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ (North American Free Trade Agreement - NAFTA)… Các hiệp định song phương liên quan đến thương mại dịch vụ như Hiệp định thương mại song phương Việt – Mỹ (U.S –Vietnam BTA) hay Hiệp định thương mại Trung Quốc và Hoa Kỳ; Hiệp định thương mại Nhật Bản và Hoa Kỳ; Hiệp định thương mại Nga và ấn Độ; Hiệp định thương mại Thái Lan và Singapore… 4.2. Thương mại quyền sở hữu trí tuệ 4.2.1. Bản chất của thương mại quyền sở hữu trí tuệ 4.2.1.1. Khái niệm tài sản trí tuệ, quyền sở hữu trí tuệ và thương mại quyền sở hữu trí tuệ a. Khái niệm tài sản trí tuệ Tài sản trí tuệ là sản phẩm của óc sáng tạo của con người, tri thức của nhân loại. Các sản phẩm trí tuệ gồm: Các ý tưởng sáng tạo, phát minh sáng chế, công nghệ, các tác phẩm văn học nghệ thuật...

Page 58: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

58

Tài sản trí tuệ có 4 đặc trưng cơ bản sau: - Tính vô hình. - Mang đặc tính của hàng hóa, dịch vụ công - Tính phái sinh - Tinh tương đối Tài sản trí tuệ về bản chất là vô hình, nhưng nói chung nó được chứa đựng trong một hình thái hữu hình cố định. Tuy nhiên, những vật thể này thường chẳng bao giờ có một giá trị tương đương với giá trị của những ý tưởng được tổ chức mà vật thể đó thể hiện. b. Khái niệm quyền sở hữu trí tuệ Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của các tổ chức, cá nhân đối với các tài sản trí tuệ. Quyền sở hữu trí tuệ cho phép chủ sở hữu quyền lựa chọn ai có thể tiếp cận và sử dụng tài sản của mình và bảo vệ nó trước việc sử dụng không được phép. Quyền sở hữu trí tuệ được trao cho chủ sở hữu về ý tưởng, phát minh và những biểu hiện có đặc điểm sáng tạo mang tính chất của tài sản (tài sản trí tuệ). Như vậy, quyền sở hữu trí tuệ là quyền hợp pháp đối với kết quả của các hoạt động trí óc trong các lĩnh vực khoa học, công nghiệp và văn học nghệ thuật. Quyền sở hữu bao gồm quyền sử dụng, quyền hưởng dụng và quyền định đoạt đối với một tài sản, các quyền lợi này gọi là các quyền lợi đối vật vì được hành xử trên các vật hữu hình. Tuy nhiên, bên cạnh quyền lợi đối vật và các quyền lợi đối nhân (nghĩa vụ dân sự) còn có một quyền lợi thứ ba gọi là các quyền lợi tinh thần (quyền nhân thân) như quyền được bảo vệ danh dự, quyền đối với bí mật đời tư, quyền được xác định tử hệ… Các quyền lợi này có tính chất phi tài sản, không thể giá trị bằng tiền bạc và đương nhiên chúng không thể đem ra trao đổi. Quyền sở hữu trí tuệ có tính chất đặc biệt, nó vừa là một quyền lợi về tài sản, vừa là phi tài sản. Khi nói đến quyền sở hữu nói chung người ta thường nghĩ đến các quyền lợi tài sản của chủ sở hữu. Song đối với quyền sở hữu tài sản trí tuệ thì các quyền lợi phi tài sản (quyền lợi tinh thần) lại có tính trội yếu. Quyền sở hữu trí tuệ hiện được đề cập chủ yếu bao gồm: Quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với người gây giống. Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tác hoặc sở hữu. Quyền liên quan đến quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa.

Page 59: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

59

Quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạng tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh. Quyền đối với người gây giống là quyền của tổ chức, cá nhân đối với giống mới do mình chọn tạo hoặc phát hiện và phát triển hoặc được hưởng quyền sở hữu. Những quyền sở hữu trí tuệ chỉ có giá trị trong nền kinh tế thị trường. Những quyền này tạo ra một cơ chế cho những vật không thể sờ thấy được (sản phẩm vô hình) để được buôn bán trên thị trường và quan hệ cung cầu trên thị trường sẽ quyết định giá trị của tài sản trí tuệ. Việc thực thi bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ sẽ góp phần tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội thông qua việc thúc đẩy sự sáng tạo, phổ biến và sử dụng kết quả của hoạt động trí óc và khuyến khích trao đổi công bằng. c. Khái niệm thương mại quyền sở hữu trí tuệ Thương mại quyền sở hữu trí tuệ có thể được hiểu là toàn bộ những hiện tượng, hoạt động và những quan hệ kinh tế phát sinh gắn với việc mua bán, chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ mang tính thương mại trên thị trường. Trong trường hợp này quyền sở hữu đối với những tài sản trí tuệ là đối tượng của hoạt động thương mại. Trong thực tế, không phải mọi hoạt động chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ đều mang tính thương mại, chẳng hạn việc chuyển nhượng đó chỉ đơn thuần là việc hiến, tặng của tác giả cho người khác, hoặc cho xã hội mà việc chuyển nhượng này không mang tính cạnh tranh và không vì lợi ích kinh tế. Đồng thời, việc chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ cũng chỉ được xem là có tính thương mại khi người nhận chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ phải sử dụng và khai thác các quyền đó liên quan đến mục đích sinh lợi. Các chủ thể tham gia vào hoạt động thương mại quyền sở hữu trí tuệ cũng bao gồm người người bán (người chuyển nhượng) và người mua (người nhận chuyển nhượng). Người bán có thể là bất kỳ cá nhân, tập thể hoặc tổ chức nào có quyền sở hữu đối với một tài sản trí tuệ. Người bán có thể là tác giả (trường hợp tác giả và chủ sở hữu tài sản trí tuệ là một) hoặc có thể người bán chỉ là người chủ sở hữu tài sản trí tuệ mà không đồng thời là tác giả (ví dụ: Một tổ chức thuê người nghiên cứu ra phát minh sáng chế thì người phát minh sáng chế là tác giả nhưng chủ sở hữu tài sản trí tuệ lại thuộc về tổ chức thuê nghiên cứu). Người mua có thể là cá nhân hoặc tổ chức có nhu cầu đối với một tài sản trí tuệ nào đó nhằm mục đích chủ yếu là khai thác giá trị của tài sản này để kiếm lợi.

Page 60: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

60

Thương mại quyền sở hữu trí tuệ có thể diễn ra trong các lĩnh vực sau: Chuyển nhượng quyền sở hữu các tác phẩm văn học nghệ thuật; Chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp; Chuyển nhượng quyền sở hữu giống cây trồng. Cùng với sự phát triển của thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ, thương mại quyền sở hữu trí tuệ cũng ngày càng phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là thương mại quyền sở hữu công nghiệp liên quan đến chuyển giao công nghệ từ những nước phát triển sang các nước đang phát triển. 4.2.1.2. Đặc điểm của thương mại quyền sở hữu trí tuệ a. Đặc điểm của đối tượng chuyển nhượng (mua, bán) trong thương mại quyền sở hữu trí tuệ - Đối tượng chuyển nhượng trong thương mại quyền sở hữu trí tuệ là quyền sở hữu đối với những tài sản trí tuệ, những tài sản do lao động trí óc của con người tạo ra. - Quyền sở hữu trí tuệ về cơ bản chỉ thực sự trở thành đối tượng chuyển nhượng khi quyền sở hữu đối với các tài sản trí tuệ được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thừa nhận và bảo hộ. Lẽ đương nhiên, quyền sở hữu trí tuệ sẽ không được thừa nhận là đối tượng chuyển nhượng trong thương mại quyền sở hữu trí tuệ nếu quyền sở hữu tài sản đó đã hết thời gian bảo hộ. - Quyền sở hữu trí tuệ với tư cách là đối tượng chuyển nhượng chỉ là quyền về tài sản. Như đã nói ở trên, quyền sở hữu trí tuệ có tính chất đặc biệt, nó vừa là một quyền lợi về tài sản, vừa là phi tài sản. Trong thương mại quyền sở hữu trí tuệ, các quyền nhân thân (hay quyền phi tài sản) không phải là đối tượng chuyển nhượng. Chẳng hạn, trong lĩnh vực văn học nghệ thuật, khi tác giả chuyển nhượng tác phẩm của mình cho người khác thì người này chỉ trở thành chủ sở hữu các quyền lợi tài sản đối với tác phẩm mà thôi, các quyền phi tài sản vẫn thuộc về tác giả. Do đó, sau khi chuyển nhượng, người chủ sở hữu cho phép người khác khai thác tác phẩm thì vẫn phải được sự chấp thuận của tác giả. Nói cách khác, đối tượng chuyển nhượng ở đây chỉ là các quyền lợi tài sản của tác giả trên tác phẩm mà không phải là quyền tác giả đối với tác phẩm. - Không phải mọi quyền sở hữu trí tuệ đều có thể trở thành đối tượng của hoạt động chuyển nhượng nói chung và chuyển nhượng mang tính thương mại nói riêng. Những quyền sở hữu đối với tài sản trí tuệ chỉ mang tính phân biệt chung về xuất xứ nơi sản xuất và địa phương có điều kiện về con người và tự nhiên đặc biệt cho việc sản xuất ra sản phẩm thì không thể đưa ra chuyển nhượng, đó là tên gọi xuất xứ hoặc chỉ dẫn địa lý của hàng hóa. b. Đặc điểm về chủ thể tham gia vào quá trình chuyển nhượng trong thương mại quyền sở hữu trí tuệ

Page 61: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

61

- Do đối tượng chuyển nhượng trong thương mại quyền sở hữu trí tuệ chỉ là quyền tài sản nên người nhận chuyển nhượng (người mua) trong quan hệ thương mại này phải tôn trọng các quyền nhân thân (quyền phổ biến, quyền về sự tôn trọng tên tuổi, quyền về sự tôn trọng tác phẩm) của tác giả. Người nhận chuyển nhượng phải nêu rõ tên hoặc bút hiệu của tác giả trên tác phẩm; phải tôn trọng sự toàn vẹn của tác phẩm, không được thay đổi, thêm bớt, sửa chữa tác phẩm nếu không được tác giả đồng ý. - Trong thương mại quyền sở hữu trí tuệ, người nhận chuyển nhượng phải thực hiện trả thù lao (mức giá cả) cho tác giả tài sản trí tuệ hoặc theo một tỷ lệ phần trăm trên thu nhập từ việc khai thác tài sản trí tuệ hoặc là một khoản tiền khoán nhất định. Tuy nhiên, phương thức phổ biến là trả theo tỷ lệ phần trăm. Bởi vì, nếu trả một khoản tiền khoán nhất định cho tác giả có thể đem lại sự rủi ro và thiệt thòi cho một trong hai bên hoặc người khai thác hoặc tác giả. c. Đặc điểm liên quan đến điều kiện chuyển nhượng trong thương mại quyền sở hữu trí tuệ - Việc thực hiện các hoạt động thương mại quyền sở hữu trí tuệ chỉ có thể diễn ra trong môi trường pháp lý có thực thi nghiêm túc sự bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của Nhà nước. Bởi vì nếu không có sự bảo hộ này các tài sản trí tuệ sẽ trở thành hàng hóa công, và do vậy các hoạt động chuyển nhượng mang tính thương mại sẽ không thể diễn ra. - Việc chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ chủ yếu được thực hiện thông qua hợp đồng chuyển nhượng bằng văn bản với những điều khoản chủ yếu như quyền lợi được chuyển nhượng (quyền sao chép, in ấn, trình diễn…); Thời hạn khai thác; Hành vi vi phạm phát sinh trong quan hệ thương mại giữa các bên;… Đặc điểm này bắt nguồn từ tính dễ gian lận và đặc thù của đối tượng chuyển nhượng. d. Các đặc điểm khác Như là ính nhạy cảm trong thương mại quyền sở hữu trí tuệ đối với những sản phẩm trí tuệ liên quan đến bảo vệ sức cạnh tranh của nền kinh tế, đến các cuộc chạy đua vũ trang; tính cạnh tranh; giá cả… trong thương mại quyền sở hữu trí tuệ. 4.2.1.3. Phân loại thương mại quyền sở hữu trí tuệ a. Căn cứ vào đối tượng của hoạt động thương mại - Thương mại quyền sở hữu các tác phẩm văn học nghệ thuật, đó là hoạt động mua bán các quyền đối với các tài sản trí tuệ là: + Các tác phẩm văn chương (tiểu thuyết, hồi ký, tùy bút, thơ, bài báo, sách giáo khoa…); + Các tác phẩm âm nhạc; + Các tác phẩm nghệ thuật (tác phẩm sân khấu và các loại hình biểu diễn, tác phẩm điện ảnh, Video, kiến trúc, tạo hình, mỹ thuật ứng dụng, nhiếp ảnh…);

Page 62: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

62

+ Phần mền máy tính (các chương trình máy tính, tài liệu mô tả chương trình, tài liệu bở trợ, cơ sở dữ liệu). - Thương mại quyền sở hữu công nghiệp, đó là hoạt động mua bán các quyền đối với các tài sản trí tuệ là: + Sáng chế và giải pháp hữu ích; + Kiểu dáng công nghiệp; + Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn; + Nhãn hiệu; + Tên thương mại; + Bí mật kinh doanh… - Thương mại quyền sở hữu giống. b. Căn cứ vào phạm vi của hoạt động thương mại - Thương mại quyền sở hữu trí tuệ trong nước. - Thương mại quyền sở hữu trí tuệ quốc tế. Ngày nay, với sự phát triển của tự do hóa thương mại, đầu tư và sự trợ giúp đắc lực của những tiến bộ khoa học kỹ thuật, các hoạt động thương mại của quyền sở hữu trí tuệ giữa các quốc gia cũng không ngừng gia tăng. Trong điều kiện đó, những vấn đề liên quan đến hệ thống thực thi quyền sở hữu trí tuệ giữa các quốc gia được đặt ra để không những tạo ra những thuận lợi cho hoạt động chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ, mà còn để chống lại những hành vi vi phạm những quyền này gây tổn hại đến lợi ích, uy tín của người chủ sở hữu tài sản trí tuệ. Những vi phạm này chủ yếu liên quan đến những vấn đề làm hàng giả, hàng nhái, ăn cắp bản quyền tác giả… c. Căn cứ vào số lượng bên nhận chuyển nhượng tham gia khai thác một quyền sở hữu trí tuệ - Chuyển nhượng cho duy nhất một bên độc quyền khai thác. ở đây bên nhận chuyển nhượng quyền sở hữu đối với một tài sản trí tuệ là một bên duy nhất và họ được độc quyền khai thác quyền này. Những tài sản trí tuệ có sự rủi ro về lợi ích rõ rệt hoặc khó kiểm soát hay dự đoán trong khai thác khi có sự tham gia của nhiều bên thường được chuyển nhượng theo hình thức này. - Chuyển nhượng cho nhiều bên cùng đồng thời khai thác. Trong trường hợp này, một quyền sở hữu tài sản trí tuệ có thể được chuyển nhượng cho nhiều đối tác cùng đồng thời khai thác. Việc chuyển nhượng thương hiệu hàng hóa cho nhiều bên khai thác là ví dụ cho trường hợp này. d. Căn cứ vào hình thức chuyển nhượng - Hình thức chuyển nhượng từng phần một quyền sở hữu công nghiệp. - Hình thức chuyển nhượng toàn bộ một quyền sở hữu công nghiệp.

Page 63: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

63

Thông thường các quyền sở hữu trí tuệ được chuyển nhượng toàn bộ do các thành phần của tài sản trí tuệ đó có tính liên kết chặt chẽ mà khi tách ra không thể đem lại giá trị trong khai thác. Tuy nhiên, đối với một số tài sản trí tuệ thì các thành phần có tính tương đối độc lập và mỗi thành phần đó có thể có những giá trị khai thác nhất định. Chẳng hạn, một tác phẩm âm nhạc có thể tách làm hai phần là phần nhạc và phần lời, phần nhạc có thể được chuyển nhượng để sử dụng trong sản xuất một tác phẩm điện ảnh. 4.2.2 Vai trò của thương mại quyền sở hữu trí tuệ - Vai trò kích thích các hoạt động sáng tạo của con người. Một thực tế là nếu hoạt động lao động mà không đem lại lợi ích, đặc biệt là lợi ích về kinh tế thì hoạt động lao động đó rất khó diễn ra và diễn ra có chất lượng. Các hoạt động thương mại quyền sở hữu trí tuệ đem lại quyền lợi kinh tế thỏa đáng cho người sáng tạo ra những tác phẩm nghệ thuật hay những sáng chế, giải pháp hữu ích. Thông qua các hoạt động thương mại, tác giả của những tài sản trí tuệ có thể chuyển nhượng sản phẩm của mình trên thị trường theo quan hệ cung cầu. Trong thời đại ngày nay, do hoạt động thương mại quyền sở hữu trí tuệ được phát triển và mở rộng đã đang đem lại cho loài người một khối lượng sản phẩm trí tuệ ngày càng nhiều trong hầu hết các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, y tế, bưu chính viễn thông… Chính vì vậy, sự hình thành và phát triển của nền kinh tế tri thức ngày nay có một vai trò rất quan trọng của thương mại quyền sở hữu trí tuệ. - Vai trò thúc đẩy ứng dụng các tiến bộ về công nghệ, gống cây trồng và phổ biến các tác phẩm nghệ thuật. Ngày nay, tiến bộ xã hội chủ yếu dựa vào việc ứng dụng những tài sản trị tuệ trong đời sống văn hóa, tinh thần và kinh tế. Nếu các tác phẩm văn chương, nghệ thuật có vai trò làm giàu, đẹp đời sống văn hóa, tinh thần của con người thì các sáng chế, các giải pháp hữu ích… lại góp phần làm giàu của cải vật chất cho xã hội. Tuy nhiên, những tài sản trí tuệ đó chỉ có thể phục vụ hiệu quả cho con người khi nó có một cơ chế khai thác thích hợp. Việc chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ thông qua thương mại cho phép người có nhu cầu ứng dụng, khai thác các tài sản trí tuệ được thuận lợi hơn trong tìm kiếm, lựa chọn các tài sản phù hợp. Đồng thời, trong quá trình chuyển nhượng này cũng đòi hỏi những người khai thác phải sử dụng một cách triệt để và có hiệu quả tài sản mà mình đã mua. Thực tế, những sáng tạo của con người là vô hạn và nó có thể đem lại sự tiến bộ nhanh chóng về công nghệ, cũng như những giá trị khoa học khác. Điều này còn đòi hỏi người khai thác phải đẩy nhanh sự ứng dụng thì mới có thể đem lại hiệu quả cho đầu tư của mình. - Vai trò thúc đẩy chuyển giao công nghệ, giao lưu văn hóa. Hiện nay với sự phát triển mạnh mẽ của thương mại mà đặc biệt là thương mại quốc tế, hoạt động chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ mang tính thương mại ở trong từng quốc gia và giữa các quốc gia theo đó cũng đã phát triển rất sôi động. Quá trình này đã giúp các quốc gia giao

Page 64: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

64

lưu và hội nhập nhiều hơn về văn hóa, công nghệ, kinh tế... Việc chuyển nhượng những ứng dụng khoa học công nghệ và phổ biến các tác phẩm nghệ thuật phục vụ các ngành công nghiệp, nông nghiệp, y tế, giáo dục, viễn thông, điện ảnh, âm nhạc… giữa các quốc gia đã góp phần không nhỏ làm giảm bớt khoảng cách chênh lệch về trình độ phát triển giữa các quốc gia và các khu vực. - Các vai trò khác, như vai trò đối vấn đề giải quyết việc làm, thúc đẩy phát triển văn minh nhân loại... 4.2.3. TRIPs và các Hiệp định khác liên quan đến thương mại quyền sở hữu trí tuệ 4.2.3.1. Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (Agreement on Trade Related Aspects of Interllectual Property Rights – TRIPs) Với sự phát triển mạnh mẽ của quá trình tự do hóa thương mại, việc xây dựng hệ thống nguyên tắc chung điều chỉnh các hoạt động thương mại quyền sở hữu trí tuệ là cần thiết nhằm thúc đẩy tự do hóa thương mại nói chung và chuyển giao, phổ biến các sản phẩm trí tuệ nói riêng. Đồng thời đảm bảo tính thống nhất khi giải quyết những tranh chấp và bảo vệ lợi ích chính đáng cho các bên trong các quan hệ thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ, chẳng hạn như hành vi sản xuất và buôn bán hàng giả, hàng vi phạm bản quyền... Đó chính là những lý do dẫn đến sự ra đời của TRIPs. - Mục tiêu của TRIPs là nhằm thúc đẩy việc bảo hộ một cách có hiệu quả và thích hợp các quyền sở hữu trí tuệ và đảm bảo rằng các biện pháp và thủ tục thực thi quyền sở hữu trí tuệ không trở thành các trở ngại cho hoạt động thương mại. Đồng thời, TRIPs cũng nhấn mạnh việc bảo hộ và thực thi các quyền sở hữu trí tuệ phải góp phần đổi mới, chuyển giao và phổ biến công nghệ, góp phần đem lại lợi ích chung cho người tạo ra và sử dụng kiến thức công nghệ, đem lại lợi ích xã hội và lợi ích kinh tế và tạo ra sự cân bằng giữa quyền lợi và nghĩa vụ. - Phạm vi điều chỉnh của TRIPs: Bao gồm các đối tượng : + Quyền tác giả; + Thương hiệu; + Chỉ dẫn địa lý; + Kiểu dáng công nghiệp; + Văn bằng bảo hộ sáng chế; + Thiết kế bố trí mạch tích hợp; + Bảo hộ thông tin bí mật; + Kiểm soát các hoạt động chống cạnh tranh trong hợp đồng Li-xăng. - Nội dung cơ bản của TRIPs: Cũng giống như các cơ chế và luật lệ điều tiết khác trong khuân khổ của WTO, TRIPs đưa ra các qui định về việc thúc đẩy việc bảo hộ và các đảm bảo về thực thi các

Page 65: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

65

biện pháp bảo hộ sở hữu trí tuệ theo hướng tạo thuận lợi hơn, tự do hơn, mở cửa và công bằng hơn. Trong các qui chế của TRIPs, có 2 qui chế quan trọng là Qui chế đãi ngộ tối huệ quốc và Qui chế đãi ngộ quốc gia. Quy chế đãi ngộ tối huệ quốc của TRIPs đòi hỏi một nước thành viên của WTO dành những ưu đãi, ưu tiên hoặc miễn trừ áp dụng bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến hoạt động thương mại cho công dân của một quốc gia thì cũng phải dành những điều kiện tương tự cho các công dân của tất cả các quốc gia thành viên khác thuộc WTO. Quy chế đãi ngộ quốc gia của TRIPs đòi hỏi mỗi quốc gia thành viên WTO cho các công dân của các quốc gia thành viên khác những đối xử không kém thuận lợi hơn về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ có liên quan đến thương mại so với công dân của nước mình. Hai quy chế trên có thể không phải áp dụng trong các trường hợp ngoại lệ (qui định miễn trừ nghĩa vụ tuân thủ Hiệp định TRIPs của WTO). Các trường hợp ngoại lệ được qui định cụ thể trong: Công ước Paris; Công ước Berne; Công ước Rome; Hiệp ước Washington. - Thời hạn thực hiện TRIPs: Thời hạn cần thiết để thực hiện chuyển đổi hệ thống luật của quốc gia phù hợp với nội dung của Hiệp định TRIPs là: + Đối với các nước công nghiệp phát triển là 1 năm sau khi hiệp định TRIPs có hiệu lực (tức 01/04/1995); + Đối với các nước đang phát triển là 5 năm; + Đối với các nước kém phát triển là 11 năm. 4.2.3.2. Các Hiệp định khác liên quan đến thương mại quyền sở hữu trí tuệ - Ngoài TRIPs, liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ còn có các Hiệp ước và Công ước điều chỉnh trong từng lĩnh vực như sau: + Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp; + Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật; + Công ước Rome về bảo hộ người biểu diễn, người sản xuất bản ghi âm và các tổ chức phát thanh truyền hình; + Hiệp ước Washington về sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực mạch tích hợp. - Tương tự như các lĩnh vực khác, các vấn đề liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ còn được đề cập trong các Hiệp định thương mại khu vực và song phương. 4.3. Thương mại liên quan đến đầu tư 4.3.1. Bản chất của thương mại liên quan đến đầu tư 4.3.1.1. Đầu tư và thương mại liên quan đến đầu tư a. Khái niệm về đầu tư Đầu tư nói chung là việc bỏ các nguồn lực ở hiện tại vào một lĩnh vực hoạt động nào đó nhằm thu được kết quả lớn hơn trong tương lại so với các nguồn lực đã bỏ ra.

Page 66: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

66

Nguồn lực bỏ ra có thể là: - Hiện vật hữu hình: Tư liệu sản xuất, nhà xưởng, hàng hóa, mặt đất, mặt nước, mặt biển, tài nguyên… - Hàng hóa vô hình: Sức lao động, công nghệ, bí quyết công nghệ, bằng phát minh, nhãn hiệu, biểu tượng, uy tín hàng hóa… - Các tài sản tài chính: Các ngoại tệ mạnh và tiền nội địa, cổ phiếu, hối phiếu, vàng bạc, đá quí… Những kết quả sẽ đạt được có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường sá, bệnh viện, trường học…), tài sản trí tuệ (trình độ văn hóa, chuyên môn, quản lý, khoa học kỹ thuật, sáng chế, giải pháp hữu ích…) và nguồn nhân lực đủ điều kiện làm việc với năng suất lao động cao hơn trong nền kinh tế xã hội. Tùy theo từng tiêu chí phân loại hay mục đích nghiên cứu, hoạt động đầu tư có thể bao gồm các loại hình như đầu tư trực tiếp hay đầu tư gián tiếp; Đầu tư trong nước hay đầu tư nước ngoài; Đầu tư vào lĩnh vực tài chính, thương mại hay vào tài sản vật chất và sức lao động. Các hoạt động đầu tư có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền sản xuất xã hội, đặc biệt là đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, chuyển giao công nghệ, giải quyết việc làm. b. Khái niệm về thương mại liên quan đến đầu tư Trong nền kinh tế thị trường, phần lớn hoạt động đầu tư đều gắn liền với các hoạt động thương mại trên thị trường. Thương mại liên quan đến đầu tư là toàn bộ những hiện tượng, hoạt động và các mối quan hệ kinh tế mang tính thương mại phát sinh và gắn và gắn liền với các hoạt động đầu tư trong nền kinh tế. Trong thời đại ngày nay, kinh tế thị trường và tự do hóa thương mại đang ngày càng đem lại sự thuận lợi nhiều hơn cho việc di chuyển các nguồn lực không những trong phạm vi mỗi quốc gia mà còn ở phạm vi toàn cầu. Bên cạnh nguồn lực tài chính, các nguồn lực về công nghệ, con người cũng ngày càng di chuyển dễ dàng hơn dưới hình thức thương mại thông qua con đường đầu tư. 4.3.1.2. Nội dung của các khía cạnh thương mại liên quan đến đầu tư Thương mại liên quan đến đầu tư có thể diễn ra ở những khía cạnh chủ yếu sau: a. Cung ứng các dịch vụ Các dịch vụ được cung ứng phục vụ cho các hoạt động đầu tư bao gồm: - Cung ứng các dịch vụ tư vấn trong đầu tư. Trong lĩnh vực đầu tư, tư vấn được hiểu là việc cung ứng những kinh nghiệm, chuyên môn cần thiết cho chủ đầu tư trong quá trình xem xét, kiểm tra và ra các quyết định cho toàn bộ các giai đoạn của một dự án đầu

Page 67: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

67

tư từ chuẩn bị đầu tư đến tổ chức thực hiện dự án. Ngoài ra, tư vấn còn cung ứng các dịch vụ khác như thu xếp tài chính, tư vấn các vấn đề pháp luật… - Cung ứng các dịch vụ xây lắp. Quá trình xây lắp được triển khai ở giai đoạn thực hiện dự án. Hoạt động này chủ yếu được thông qua các nhà thầu xây lắp để thực hiện xây dựng các công trình, hạng mục công trình và lắp đặt thiết bị cho công trình. ở đây quan hệ thương mại diễn ra giữa nhà đầu tư (bên mời thầu) và các nhà thầu xây lắp. - Cung cấp các dịch vụ hỗ trợ và tư vấn công nghệ, chẳng hạn dịch vụ hỗ trợ kỹ thuật, hướng dẫn lắp đặt, vận hành chạy thử dây truyền công nghệ, đào tạo huấn luyện chuyên môn… - Cung ứng các dịch vụ khác, như dịch vụ vận chuyển, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ sửa chữa, bảo hành… b. Cung ứng hàng hóa Để tiến hành các hoạt động đầu tư, các nhà đầu tư phải thực hiện các hoạt động thương mại trên thị trường nhằm đáp ứng các nhu cầu về hàng hóa, như máy móc, thiết bị, nguyên nhiên vật liệu, thành phẩm, bán thành phẩm…

c. Chuyển giao công nghệ Mua công nghệ hiện đang là cách thức có nhiều ưu điểm nhằm nhanh chóng ứng dụng những thành tựu công nghệ hiện đại và phù hợp cho các dự án đầu tư. Nội dung của chuyển giao công nghệ bao gồm những vấn đề cơ bản sau: - Chuyển giao quyền sở hữu hay sử dụng các sáng chế, các giải pháp hữu ích hoặc các đối tượng sở hữu công nghiệp khác như kiểu dáng công nghiệp, thương hiệu hàng hóa… - Chuyển giao thông qua việc mua bán, cung cấp các bí quyết hoặc các kiến thức kỹ thuật chuyên môn dưới dạng các phương án, các qui trình công nghệ, các tài liệu thiết kế, các công thức, bản vẽ, sơ đồ…

d. Chuyển nhượng các dự án đầu tư Nếu đối với các hoạt động thương mại trên, thương mại chỉ liên quan đến đầu tư thông qua việc cung ứng các yếu tố và điều kiện cho hoạt động đầu tư, thì trong trường hợp này, các dự án đầu tư là đối tượng của hoạt động thương mại. Thực tế, khi chủ đầu tư có ý tưởng nhưng do một hạn chế nào đó (có thể do hạn chế về tài chính hoặc kỹ thuật) mà không thể tiến hành chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư hoặc thậm chí cả vận hành kết quả của đầu tư thì chủ đầu tư có thể chuyển nhượng mang tính thương mại lại cho một đối tác thực hiện ý tưởng của mình và sau đó có thể bàn giao lại dự án vào một thời điểm được thỏa thuận giữa hai bên. Việc chuyển nhượng các dự án đầu tư cũng có thể là sự chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ dự án. Việc chuyển nhượng các dự án đầu tư chủ yếu thông qua dạng chìa khóa trao tay, như dự án BOT (build, operate and transfer), dự

Page 68: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

68

án BTO (build, transfer and operate), dự án BT (build and transfer)… Đối với loại hình này, đối tượng mà bên nhận chuyển nhượng (bên mua) là toàn bộ một dự án chứ không phải một phần công việc nào. 4.3.2. TRIMs và các Hiệp định khác về thương mại liên quan đến đầu tư 4.3.2.1. Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (Agreement on Trade Related Investment Measures - TRIMs) Để thu hút đầu tư và định hướng đầu tư vào những lĩnh vực ưu tiên, chính phủ các quốc gia đã đưa ra những biện pháp đầu tư theo hướng phục vụ mục tiêu này. Tuy nhiên, nhiều biện pháp đã cản trở, bóp méo thương mại hay còn gọi là các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại. Xuất phát từ thực tế đó, Hiệp định TRIMs được đưa ra ở vòng đàm phán Urugoay nhằm cấm các quốc gia sử dụng các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại. Những biện pháp đó được xem là không nhất quán với các qui tắc GATT về đối xử quốc gia và các qui tắc chống lại việc sử dụng những hạn chế về số lượng. - Mục tiêu của TRIMs là xóa bỏ các biện pháp đầu tư gây cản trở đến thương mại. - Phạm vi điều chỉnh của TRIMs: Chỉ áp dụng các biện pháp liên quan đến thương mại hàng hóa của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trực tiếp. - Nội dung cơ bản của TRIMs: Là yêu cầu các nước phải xóa bỏ các biện pháp đầu tư gây cản trở đến thương mại. Cụ thể: + Cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được hưởng nguyên tắc đối xử quốc gia (NT) trong hoạt động đầu tư sang các nước thành viên thuộc WTO. + Loại bỏ (không áp dụng) các biện pháp thương mại gây trở ngại cho hoạt động đầu tư. Các biện pháp đầu tư được coi là gây trở ngại đến thương mại khi các biện pháp đó: 1) Trái (vi phạm) nguyên tắc đãi ngộ quốc gia (nghĩa là các công ty nước ngoài được hưởng các quyền lợi tương tự như các công ty trong nước về đầu tư, thành lập, hoạt động trong nội địa) hoặc: 2) Hạn chế số lượng (vi phạm nguyên tắc tự do hóa, không hạn chế số lượng). Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (gây cản trở cho thương mại) bị cấm là: 1) Yêu cầu về tỷ lệ nội địa hóa hay hàm lượng nội địa hóa, tức là yêu cầu doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải mua hoặc sử dụng một tỷ lệ nhất định các sản phẩm sản xuất trong nước hoặc từ nguồn do các doanh nghiệp trong nước cung cấp để làm đầu vào của sản xuất. 2) Yêu cầu cân đối xuất nhập khẩu, tức là yêu cầu doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ được nhập khẩu một khối lượng hàng hóa tương ứng với khối lượng và giá trị hàng hóa mà doanh nghiệp này xuất khẩu;

Page 69: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

69

3) Yêu cầu cân đối ngoại tệ, tức là khống chế việc nhập khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thông qua qui định các doanh nghiệp này chỉ được sử dụng một tỷ lệ nhất định trong tổng số ngoại tệ doanh nghiệp thu được từ xuất khẩu hoặc từ các nguồn khác; 4) Yêu cầu hạn chế hối đoái, tức là hạn chế các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tiếp cận ngoại hối; 5) Yêu cầu tiêu thụ nội địa, tức là yêu cầu doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài buộc phải bán một tỷ lệ nhất định sản phẩm trên thị trường nội địa. Yêu cầu này cũng đồng nghĩa với việc hạn chế xuất khẩu. - Thời hạn thực hiện TRIMs: Thời gian chuyển tiếp cho việc loại bỏ dần, tiến tới chấm dứt các biện pháp nêu trên được yêu cầu đối với các nước như sau: + Các nước công nghiệp phát triển là 2 năm sau khi TRIMs có hiệu lực (01/01/1995); + Các nước đang phát triển là 5 năm; + Các nước chậm phát triển là 7 năm. 4.3.2.2. Các Hiệp định khác về thương mại liên quan đến đầu tư - Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng. - Hiệp định chung về thương mại dịch vụ. - Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ.

Page 70: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

70

ChƯƠNG 5:nguồn lực và hiệu quả thương mại 5.1. Nguồn lực thương mại 5.1.1. Khái niệm và phân loại nguồn lực thương mại 5.1.1.1. Khái niệm nguồn lực thương mại Thương mại, giống như các lĩnh vực khác trong nền kinh tế, cũng cần phải có nguồn lực để tồn tại và phát triển. Nguồn lực thương mại được hiểu là tất cả các yếu tố tài nguyên thiên nhiên, vốn, công nghệ và nhân lực là những yếu tố và điều kiện khách quan để tạo ra các yếu tố và những điều kiện cần thiết đảm bảo hoạt động mua bán, trao đổi hàng hoá và dịch vụ ở phạm vi vi mô cũng như quá trình tổ chức và quản lí hoạt động thương mại trong nền kinh tế diễn ra trên thị trường một cách liên tục, thông suốt và ngày càng phát triển. Các yếu tố trên do nhiều nguồn hình thành, nhưng suy cho cùng là do thiên nhiên “ban tặng” và con người tạo ra, do nội lực và các nguồn lực từ bên ngoài tạo nên. Các quốc gia trên thế giới đều coi đó là tài sản, nguồn lực của nền kinh tế và cần phải, khai thác sử dụng hợp lý để đáp ứng yêu cầu của đời sống kinh tế-xã hội và phát triển bền vững. Nguồn lực thương mại là một bộ phận hợp thành nguồn lực của toàn bộ nền kinh tế, bao gồm: (1) các nguồn tài nguyên rừng, biển, sông ngòi, đất đai, nước, khí hậu, khoảng không, vị trí địa lý được khai thác vào mục đích thương mại; (2) các nguồn vốn và nguồn lực khoa học - công nghệ phục vụ cho quá trình tái sản xuất các hoạt động trao đổi (bao gồm ở các khâu mua, bán, vận chuyển, dự trữ kho hàng,…); (3) nguồn nhân lực sử dụng trong các doanh nghiệp, đơn vị kinh doanh thương mại, dịch vụ. Theo nghĩa rộng, nguồn lực thương mại còn bao gồm các nguồn lực của nền kinh tế được khai thác, sử dụng nhằm phục vụ cho công tác tổ chức và quản lý nhà nước trên tầm vĩ mô đối với lĩnh vực thương mại. Như vậy, nguồn lực thương mại cũng chính là những bộ phận của sức sản xuất xã hội được đưa vào sử dụng trong lĩnh vực lưu thông và cung ứng dịch vụ trên thị trường. 5.1.1.2. Phân loại nguồn lực thương mại Phân loại các nguồn lực thương mại có ý nghĩa quan trọng trên tầm vĩ mô đối với quản lý nhà nước cũng như trên tầm vi mô đối với các nhà kinh doanh và người tiêu dùng. Trên tầm vĩ mô, nhà nước cần xây dựng các chiến lược, chính sách bảo vệ, phát triển và khai thác các nguồn lực sử dụng trong nền kinh tế, trong thương mại một cách đúng đắn, nhằm phát triển kinh tế đi đôi với cải thiện đời sống dân cư, đảm bảo công bằng và tiến bộ xã hội, đồng thời bảo vệ được môi trường bền vững.

Page 71: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

71

Trên tầm vi mô, các chủ thể hoạt động thương mại kết hợp sử dụng tối ưu các nguồn lực của quốc gia, quốc tế và nguồn lực tự tạo ra để nâng cao hiệu quả cũng như sức cạnh tranh trong kinh doanh thương mại. Người tiêu dùng với tư cách là người mua có sự lựa chọn tốt nhất các hàng hoá và dịch vụ để thoả mãn nhu cầu trên cơ sở phân tích mức độ tiện ích của các yếu tố nguồn lực thương mại. Tuỳ theo mục đích nghiên cứu có thể phân chia nguồn lực thương mại thành các loại khác nhau: a. Theo hình thái biểu hiện Nguồn lực thương mại có thể được biểu hiện dưới 2 hình thái: Nguồn lực hữu hình: Đây là nguồn lực thể hiện dưới dạng vật chất hữu hình, có thể lượng hoá bằng các đơn vị đo lường cụ thể. Một số loại nguồn lực thể hiện ở dạng tài sản lưu động như hàng hoá vật tư, tiền vốn, các tài sản tài chính khác. Một số loại khác tồn tại ở dạng tài sản cố định như đất đai, hệ thống giao thông, bến cảng, nhà cửa làm kho hàng, cửa hàng, cửa hiệu, trung tâm thương mại, hội chợ, trang thiết bị, công nghệ kinh doanh trong các khâu mua, bán, kho hàng, các phương tiện vận chuyển và công trình kiến trúc khác. Ngoài ra, còn có lực lượng lao động trong thương mại, bao gồm lao động làm việc trong các cơ sở kinh doanh và cơ quan quản lý nhà nước về thương mại. Nguồn lực vô hình: Bao gồm vốn sức lao động và chất xám, trí tuệ của các nhà kinh doanh, các nhà quản trị mua, bán, ... Ngoài ra, còn các nguồn lực vô hình khác, đó là uy tín, danh tiếng của thương hiệu doanh nghiệp, sự tín nhiệm đối với thương mại của quốc gia, vị trí địa lý, hệ thống giá trị và văn hoá, tinh thần doanh nhân, hệ thống thông tin thương mại … b. Theo nguồn hình thành Nguồn nhân, tài, vật lực trong thương mại được hình thành từ nguồn trong nước và từ nước ngoài. Nguồn lực trong nước bao gồm nguồn tài nguyên sẵn có từ nhiên nhiên, các nguồn lao động xã hội, các tài sản tích luỹ của quốc gia, của các tổ chức, cá nhân được sử dụng trong thương mại, các tài sản do các doanh nghiệp sáng tạo ra và các đầu tư của chính phủ, các yếu tố vô hình khác có ý nghĩa như nội lực trong thương mại. Nguồn lực trong nước được sử dụng trong thương mại có thể trên phạm vi cả nước hoặc ở từng địa phương và vùng lãnh thổ. Nguồn lực quốc tế bao gồm nguồn tài trợ tài chính và đầu tư quốc tế, các nguồn lực khoa học-công nghệ và chất xám thể hiện ở sự chuyển giao công nghệ, chuyển nhượng thương hiệu, bản quyền, sự thu hút các chuyên gia kinh tế, thương mại và kinh nghiệm kinh doanh, quản lý quốc tế. Ngoài ra, còn phải kể đến những thiện chí và sự ủng hộ quốc tế đối với thương mại của quốc gia.

Page 72: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

72

c. Theo đặc điểm các nguồn lực Nguồn lực vật chất tồn tại dưới dạng vật thể hữu hình, bao gồm tài nguyên thiên nhiên được sử dụng trong thương mại như đất đai để xây dựng mạng lưới thương mại (nhà kho, cửa hàng, cửa hiệu, siêu thị, chợ, trung tâm triển lãm, quảng cáo, sở giao dịch, …) và kết cấu hạ tầng của nền kinh tế như hệ thống giao thông, nhà ga, bến cảng, sân bay, bến bãi và các hạ tầng “mềm” sử dụng trong thương mại. Các nguồn lực vật chất khác như thiết bị, công nghệ và phương tiện kỹ thuật được đưa vào sử dụng ở các khâu nghiệp vụ mua bán, dự trữ kho hàng, vận tải giao nhận,… và quản lý thương mại của nhà nước. Nguồn vốn trong thương mại: Vốn trong thương mại biểu hiện bằng tiền của các tài sản sử dụng trong quá trình tổ chức lưu thông hàng hoá và cung ứng dịch vụ. Nó bao gồm vốn cố định và vốn lưu động được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau như nguồn vốn ngân sách, nguồn vốn từ dân cư và doanh nghiệp, từ hệ thống ngân hàng thương mại, từ quỹ hỗ trợ phát triển, xúc tiến thương mại, từ các nguồn vốn vay và tài trợ, đầu tư quốc tế. Nguồn nhân lực thương mại: Trên tầm vĩ mô, nguồn nhân lực thương mại chính là bộ phận nguồn nhân lực trong nền kinh tế đến độ tuổi lao động, đủ sức khoẻ và được đưa vào làm việc trong lĩnh vực thương mại. Nguồn nhân lực này bao gồm cả tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ . Đây là nguồn lực giữ vị trí then chốt trong các nguồn lực thương mại. Đầu tư nguồn nhân lực thương mại thực chất là đầu tư cho phát triển, vì lao động thương mại vừa là trung tâm và vừa là tác nhân, vừa là mục đích và vừa là động lực của sự phát triển. d. Theo khả năng phục hồi, tái tạo - Nguồn lực không tái tạo được. Trong quá trình sử dụng, có nguồn lực dần mất đi không tái tạo được như một số loại tài nguyên thiên nhiên (các mỏ kim loại, than đá, dầu) hoặc có loại tái tạo được rất ít hoặc rất khó khăn do sự khai thác thác thái quá các tài nguyên môi trường (chẳng hạn, chặt phá rừng bừa bãi, đánh bắt hải sản với phương pháp không phù hợp làm huỷ hoại các tài nguyên rừng và biển). Ngoài ra, môi trường xã hội trong điều kiện nạn dịch HIV, AIDS hoặc cúm gia cầm làm tổn hại tới nguồn lực vật chất và con người sử dụng trong nền kinh tế và thương mại. - Nguồn lực có khả năng tái tạo. Nguồn nhân lực và chất xám của con người là một trong những nguồn lực được tái tạo không ngừng. Do vậy, để phát triển thương mại cần phải đầu tư cho đội ngũ thương nhân và các nhà quản lý vĩ mô nhằm tái sản xuất sức lao động cả về quy mô và cơ cấu, về trình độ và chất lượng cũng như sự phân bố hợp lý nguồn nhân lực thương mại trong nền kinh tế.

Page 73: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

73

Trình độ lành nghề, kiến thức, năng lực và hệ thống giá trị của toàn bộ cuộc sống lao động thương mại có vị trí đặc biệt đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. 5.1.2. Vai trò của nguồn lực đối với sự phát triển thương mại 5.1.2.1. Thúc đẩy mở rộng quy mô, thay đổi cơ cấu thương mại và nâng cao chất lượng tăng trưởng Muốn đẩy mạnh các hoạt động thương mại, cần phải chuẩn bị các điều kiện về nguồn lực vật chất kỹ thuât, tài chính và con người phù hợp. Quy mô, cơ cấu, chất lượng và sự phân bố các nguồn lực đó có ảnh hưởng lớn tới quá trình đầu tư, khai thác và phát huy lợi thế so sánh, thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển thương mại của quốc gia. Nguồn lực trong thương mại còn tác động tới quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phân công lao động xã hội, phục vụ cho công cuộc CNH, HĐH đất nước. Tác động nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội của thương mại. Việc quản lý, sử dụng hợp lý các nguồn lực trong thương mại vừa đáp ứng được yêu cầu tiết kiệm chi phí lưu thông, vừa đẩy nhanh tốc độ trao đổi thương mại, nâng cao giá trị gia tăng của hàng hoá, dịch vụ trong tất cả các khâu của chuỗi cung ứng. Nguồn lực trong thương mại không chỉ tác động tới hiệu quả kinh tế, mà còn nâng cao hiệu quả về mặt xã hội, thu hút lao động và tạo việc làm, đáp ứng kịp thời và tốt nhất nhu cầu của dân cư ngày càng tăng lên trong xã hội. Nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, của ngành/doanh nghiệp và của nền kinh tế. Số lượng và chất lượng nguồn lực được sử dụng trong thương mại có ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của sản phẩm, cạnh tranh của bất cứ hoạt động kinh tế cụ thể nào (chẳng hạn, hoạt động mua hàng, bán hàng hay xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ) Nó còn tác động đến sức cạnh tranh của ngành/doanh nghiệp cũng như của cả nền kinh tế vĩ mô. Bởi vì, các nguồn lực sẽ gia nhập vào chi phí đơn vị sản phẩm, giá tiêu thụ và tác động tới cả tốc độ tiêu thụ, thời gian giao hàng hay cung ứng dịch vụ cũng như chất lượng của hoạt động trao đổi đó. Chất lượng nguồn lực trong thương mại vừa là bộ phận cấu thành, vừa là thước đo phản ánh mức độ ổn định, phát triển kinh tế – xã hội và tính cạnh tranh trên bình diện vĩ mô toàn bộ nền kinh tế, cũng như trong phạm vi ngành/doanh nghiệp. Vai trò đối với công tác hội nhập quốc tế. Một mặt hội nhập quốc tế đòi hỏi phải có sự chuẩn bị về hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật, mạng lưới thương mại, các yếu tố vật chất khác và con người. Mặt khác, việc đầu tư và khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong thương mại lại tạo điều kiện để đẩy nhanh quá trình hội nhập, phấn đấu đạt tới các chuẩn mực về yêu cầu và điều kiện thương mại quốc tế.

Page 74: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

74

Nguồn lực trong thương mại được quản lý, sử dụng có hiệu quả còn có tác động ảnh hưởng lớn tới việc nâng cao và phát triển các giá trị văn hoá, phát triển, mở mang các quan hệ kinh tế, cải thiện các quan hệ xã hội, tác động tích cực đến môi trường. Ngoài ra, thông qua bố trí hợp lý mạng lưới thương mại, kết cấu hạ tầng, nguồn lực lao động, tạo ra đội ngũ thương nhân có nghiệp vụ tình báo kinh tế nó còn có ý nghĩa quan trọng đối với vấn đề bảo vệ an ninh quốc gia và chủ quyền của dân tộc. 5.1.3. Chi phí nguồn lực thương mại 5.1.3.1. Khái niệm chi phí nguồn lực thương mại Đó là sự biểu hiện bằng tiền những hao phí cần thiết về vật chất như hao mòn tài sản, phương tiện và hao phí sức lao động cũng như chất xám của thương nhân, các chủ thể kinh doanh và các nhà quản lý thương mại trong quá trình tổ chức lưu thông hàng hoá và cung ứng dịch vụ trên thị trường. Phí tổn về nguồn lực thương mại bao gồm tổng số và cơ cấu chi phí được phân bổ vào quá trình lưu thông và trao đổi dịch vụ có sự phân biệt đối với hoạt động đầu tư và kinh doanh thường xuyên. Xác định, tính toán và phân tích phí tổn nguồn lực thương mại, có ý nghĩa quan trọng trong đánh giá khả năng cạnh tranh và hiệu quả thương mại của quốc gia trong từng thời kỳ. 5.1.3.2. Các loại chi phí nguồn lực thương mại Tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu, người ta phân chi phí nguồn lực thương mại thành nhiều loại theo các tiêu chí sau: - Theo chức năng thương mại, gồm chi phí phục vụ lưu chuyển hàng hoá (còn gọi chi phí lưu thông thuần tuý) và chi phí phục vụ vận động và giữ gìn, hoàn thiện giá trị sử dụng hàng hoá cho tiêu dùng (chi phí lưu thông bổ sung). Đối với thương mại dịch vụ, chi phí nguồn lực thương mại phục vụ cho cả mục đích sản xuất, phân phối cung ứng, marketing và tổ chức tiêu dùng các dịch vụ. - Theo đặc điểm hạch toán, gồm chi phí về khấu hao tài sản cố định, chi phí tiền lương và tiền công, thù lao trả cho người lao động, chi phí về tài chính như tiếp cận nguồn vốn, lãi vay, thuế, chí phí về tổn thất hàng hoá, hao mòn vô hình… - Theo tính chất của chi phí, gồm chi phí bất biến (các khoản chí phí tương đối ổn định so với kết quả thương mại) và khả biến (thay đổi theo kết quả thương mại). - Về phương diện kinh tế, có thể phân ra chi phí cần thiết cho lưu thông (hao tổn vật chất, hao phí sức lao động để tổ chức quá trình lưu thông) và chi phí không phải cần thiết, mà do chính lưu thông tạo nên (như các loại thuế, hao hụt hàng hoá). Mặt khác, ngoài chi phí được hạch toán thông thường còn bao hàm cả chi phí cơ hội của các nguồn lực, được khai thác hoặc sử dụng trong thương mại.

Page 75: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

75

- Theo nội dung hoạt động, gồm chi phí cho hoạt động thường xuyên và chi phí cho hoạt động đầu tư. Các hoạt động thường xuyên cần các nguồn lực chi phí mang tính trực tiếp, chẳng hạn khấu hao để bù đắp hao mòn tài sản cố định trong quá trình sử dụng, tiền lương gia nhập vào chi phí lưu thông phải được bù đắp trực tiếp từ giá bán hàng hoá. Các hoạt động đầu tư, không thể áp dụng cách bù đắp như vậy, mà cần lấy thu nhập từ GDP do thương mại tạo ra và GDP gián tiếp thương mại thúc đẩy các ngành, lĩnh vực khác tạo nên hoặc huy động nguồn vốn quốc tế để trang trải. - Theo thời gian gồm chi phí nguồn lực trong ngán hạn, trung hạn và dài hạn. Trên tầm vĩ mô các chi phí nguồn lực trong ngắn hạn khoảng 2-3 năm, trung hạn khoảng 5-7 năm và dài hạn từ 10-15 năm trở lên. 5.2. Hiệu quả thương mại 5.2.1. Bản chất và phân loại hiệu quả thương mại 5.2.1.1. Khái niệm hiệu quả thương mại Hiệu quả thương mại phản ánh quan hệ so sánh giữa kết quả đạt được với chi phí bỏ ra của quá trình trao đổi hàng hoá, dịch vụ trên thị trường. Thực chất, đó là trình độ sử dụng các nguồn lực trong thương mại nhằm đạt tới những mục tiêu đã xác định. ở đây, nguồn lực được hiểu là các phương tiện, còn kết quả chính là các mục tiêu, cái đích cần đạt tới của hoạt động thương mại. Do vậy, theo nghĩa rộng, hiệu quả thương mại được thể hiện ở mối quan hệ giữa mục tiêu và phương tiện tổ chức quá trình trao đổi hàng hoá, dịch vụ. Mục tiêu thể hiện ở những kỳ vọng cần phải đạt được hay kết quả trên thực tế đã đạt tới của quá trình trao đổi thương mại trong một khoảng thời gian xác định. Phương tiện là các nguồn lực và cách thức sử dụng các nguồn lực đó được thể hiện dưới hình thái giá trị hay chính là các chi phí cho quá trình trao đổi hàng hoá, dịch vụ nhằm đạt mục tiêu. Mục tiêu trong thương mại có nhiều loại như mục tiêu kinh tế và xã hội, mục tiêu trong ngắn hạn và dài hạn, mục tiêu số lượng và chất lượng, mục tiêu về quy mô và cơ cấu, mục tiêu duy trì và đổi mới phát triển, các mục tiêu tăng trưởng, ... Mục tiêu phản ánh các lợi ích đạt được từ thương mại, trong kinh tế nó bao hàm cả lợi ích trực tiếp và gián tiếp, lợi ích thực và ẩn. Phương tiện được sử dụng trong trao đổi hàng hoá, dịch vụ bao gồm nhiều loại như hạ tầng, mạng lưới, cơ sở vật chất kỹ thuật thương mại, lao động, ... được phản ánh dưới hình thức chi phí đầu tư hoặc chi phí kinh doanh. Hiệu quả thương mại không chỉ đơn thuần là hiệu quả kinh tế, nó còn được nghiên cứu là một phạm trù kinh té – xã hội tổng hợp trên cả tầm vĩ mô và phạm vi doanh nghiệp. Trên bình diện vĩ mô, hiệu quả thương mại phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực phục vụ cho hoạt động trao đổi, mua bán hàng hoá và cung ứng dịch vụ nói chung của cả nền

Page 76: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

kinh tế. Tác động về kinh tế, về xã hội và môi trường của thương mại được phản ánh qua các chỉ tiêu hiệu quả theo cách tiếp cận này. Do tính chất phức tạp và đa diện khi nghiên cứu hiệu quả, nên chương này giới hạn chủ yếu nghiên cứu hiệu quả kinh tế của thương mại. Công thức chung biểu hiện hiệu quả thương mại: K

H = , trong đó: H là hiệu quả thương mại C K là kết quả đạt được C là chi phí sử dụng nguồn lực 5.2.1.2. Phân loại hiệu quả thương mại a. Hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội - Hiệu quả kinh tế là một bộ phận quan trọng, cơ bản nhất của hiệu quả thương mại. Trên tầm vĩ mô, nó phản ánh quan hệ so sánh giữa kết quả kinh tế đạt được với chi phí về các nguồn lực tài chính, lao động và các yếu tố vật chất kỹ thuật khác trong quá trình tổ chức trao đổi hàng hóa và cung cấp dịch vụ trên thị trường. Các chỉ tiêu biểu hiện hiệu quả kinh tế của thương mại, tuỳ theo mục tiêu xác định có thể bao gồm lưu chuyển hàng hoá bán lẻ/vốn lưu thông (vòng quay), kim ngạch xuất khẩu/chi phí xuất khẩu, giá trị gia tăng/vốn đầu tư trong thương mại (mức đóng góp GDP trên vốn), kim ngạch xuất nhập khẩu/thu nhập quốc dân (“độ mở” nền kinh tế), thu nhập quốc dân sản xuất/thu nhập quốc dân sử dụng,... Trên tầm doanh nghiệp, các chỉ tiêu biểu hiện hiệu quả kinh doanh được xác định dựa vào các kết quả như mức lưu chuyển, giá trị gia tăng của hàng hoá, dịch vụ, lợi nhuận so với các chi phí về vốn cố định, vốn lưu động và vốn sức lao động. - Hiệu quả xã hội là bộ phận hiệu quả thương mại phản ánh kết quả đạt được theo mục tiêu hay chính sách xã hội so với các chi phí nguồn lực bỏ ra nhằm đạt mục tiêu đó. Hiệu quả xã hội của thương mại thể hiện ở tương quan giữa chi phí, nguồn lực bỏ ra nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của xã hội về hàng hoá, dịch vụ, đảm bảo chất lượng phục vụ và các giá trị văn hoá, nhân văn, việc thu hút lao động và giải quyết việc làm, mức độ hạn chế gia tăng thất nghiệp, ... Trong kinh tế và thương mại, trên tầm vĩ mô, việc tính toán kết quả và chi phí phải bao quát cả kết quả trực tiếp và gián tiếp, lợi ích trước mắt và trong dài hạn, lợi ích thực và lợi ích ẩn, chi phí thực và chi phí cơ hội. Do vậy, khi nghiên cứu, phân tích và đánh giá hiệu quả thương mại thường gặp nhiều khó khăn, phức tạp về mặt kỹ thuật và phương pháp tính toán, đo lường, nhất là đối với các chỉ tiêu hiệu quả xã hội. b. Hiệu quả chung và hiệu quả bộ phận

76

Page 77: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

77

- Hiệu quả chung là hiệu quả tổng quát về kinh tế hoặc xã hội theo mục tiêu xác định của thương mại trong từng thời kỳ hay chu kỳ kinh doanh cụ thể. Kết hợp hiệu quả chung về kinh tế và xã hội là hiệu quả tổng hợp của thương mại. Hiệu quả chung của thương mại bao quát toàn bộ các hiệu quả bộ phận và do các hiệu quả bộ phận hợp thành. Trên tầm vĩ mô, hiệu quả chung bao gồm hiệu quả về kinh tế, về xã hội. - Hiệu quả bộ phận là hiệu quả từng phần, bộ phận riêng biệt phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố nguồn lực cụ thể trong thương mại. Nó có ảnh hưởng trực tiếp đói với hiệu quả chung về kinh tế, về xã hội. Các bộ phận hợp thành hiệu quả chung về kinh tế bao gồm nhiều loại như hiệu quả sử dụng nguồn lực tài chính, hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực, hiệu quả sử dụng tài sản cố định và lưu động, hiệu quả vốn đầu tư trong thương mai... c. Hiệu quả thương mại theo cấp độ KTQD, ngành và doanh nghiệp - Theo cấp độ KTQD, hiệu quả thương mại phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực đầu tư cho thương mại hướng tới các mục tiêu vĩ mô về kinh tế, về xã hội, môi trường, ... như tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, sự tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái, phát triển các quan hệ quốc tế trong hội nhập và mở cửa nền kinh tế. Do vậy, đánh giá hiệu quả thương mại theo cấp độ KTQD phải dựa vào tất cả các mối quan hệ trao đổi, các hoạt động thương mại của các chủ thể thuộc mọi thành phần kinh tế trên cả thị trường nội địa và quốc tế. - ở cấp độ ngành, hiệu quả thương mại phải được nhìn nhận và đánh giá trên cơ sở hoạt động thương mại của hệ thống thương nhân với các nguồn lực mà họ đã bỏ ra để đạt các mục tiêu. Đó là bộ phận hợp thành chủ yếu của hiệu quả thương mại trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế. Hiệu quả thương mại ở cấp độ ngành được tạo ra bởi hiệu quả của các doanh nghiệp thương mại và cơ sở kinh doanh thuộc hệ thống thương mại của quốc gia. - Hiệu quả thương mại của doanh nghiệp là hiệu quả tổ chức quá trình mua, bán hàng hoá và dịch vụ. Đó chính là thước đo phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực của các công ty hay cơ sở kinh doanh trong khâu mua, bán hàng hoá, khâu vận chuyển và kho hàng hoặc trong sản xuất, phân phối, cung ứng và marketing các sản phẩm dịch vụ. Đối với các doanh nghiệp sản xuất, hiệu quả thương mại chính là hiệu quả mua các nhân tố “đầu vào”, và tiêu thụ sản phẩm ở “đầu ra”. Đối các doanh nghiệp thương mại, cấp độ hiệu quả này chính là hiệu quả kinh doanh thương mại. 5.2.2. Phương pháp phân tích, đánh giá hiệu quả kinh tế của thương mại 5.2.2.1. Quan điểm phân tích, đánh giá a. Quan điểm biện chứng

Page 78: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

78

Các quan hệ trao đổi hàng hoá, dịch vụ vừa tuân thủ những quy luật, nguyên tắc chung của kinh tế thị trường và hội nhập, vừa thể hiện tính đặc thù. Phân tích, đánh giá hiệu quả thương mại phải đặt trong mối quan hệ biện chứng với các yếu tố môi trường như chính trị, kinh tế, luật pháp trong nước và quốc tế, các tác nhân của thị trường như chính phủ, cơ quan thuế và các hệ thống kinh tế khác như các ngành sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ… Tính biện chứng phải thể hiện trong việc sử dụng các chỉ tiêu phân tích, phương pháp phân tích, đánh giá hiệu quả thương mại. b. Quan điểm hệ thống Khi phân tích, đánh giá hiệu quả thương mại, nếu chỉ dựa vào những phân tích từng bộ phận hoặc phân tích tổng quát đều dẫn đến những hạn chế hoặc làm mất đi ý nghĩa vốn có của nó. Do vậy, phân tích và đánh giá hiệu quả thương mại phải đảm bảo khả năng bao quát toàn bộ hệ thống thương mại của quốc gia, bao gồm hệ thống thương mại nội địa và xuất nhập khẩu, hệ thống thương mại của thành phần kinh tế nhà nước và ngoài nhà nước. Phải dựa vào hệ thống chỉ tiêu bao gồm chỉ tiêu tổng quát, chỉ tiêu bộ phận, chỉ tiêu phản ánh lợi ích kinh té và xã hội do thương mại tạo ra. c. Quan điểm lịch sử Hiệu quả thương mại được xem xét ở nhiều góc độ khác nhau như các cơ quan chính phủ, các doanh nghiệp và trên nhiều phương diện như về kinh tế, xã hội. Cơ chế quản lý cũng như các điều kiện môi trường của thương mại lại rất khác nhau qua các thời kỳ. Do vậy, bên cạnh các quan điểm trên, phải phân tích, đánh giá hiệu quả thương mại phù hợp với điều kiện lịch sử, gắn nó với bối cảnh và trạng thái phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, với đặc điểm của môi trường kinh doanh cụ thể trong từng thời kỳ. d. Quan điểm dựa theo các tiêu chuẩn Tiêu chuẩn hiệu quả là chuẩn mực cho phép cụ thể hoá chỉ tiêu để phân tích, đánh giá hiệu quả thương mại trên cả tầm vi mô và vĩ mô. Tiêu chuẩn hiệu quả thương mại phải thống nhất với tiêu chuẩn chung về hiệu quả của nền kinh tế và có quan hệ chặt chẽ với mục tiêu. Nó vừa thể hiện trình độ sử dụng các nguồn lực trong thương mại để đạt các mục tiêu về kinh tế, về xã hội, vừa phải thể hiện khả năng tối đa hoá lợi ích và tối thiểu hoá chi phí sử dụng các nguồn lực đó. Do vậy, khi đánh giá hiệu quả thương mại phải dựa vào các tiêu chuẩn đã xác lập trong từng thời kỳ cụ thể. 5.2.2.2. Yêu cầu phân tích, đánh giá a. Kết hợp các phân tích, đánh giá định tính và định lượng Phải kết hợp các phân tích định tính và định lượng, bởi vì trong thực tế, có những nhân tố ảnh hưởng, có những trường hợp hiệu quả thương mại có thể hoặc không thể đo lường được. Do vậy, sử dụng kết hợp, các chỉ tiêu định tính và định lượng sẽ bổ sung cho

Page 79: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

79

nhau. Sự kết hợp trên cho phép đánh giá các xu hướng của hiệu quả thương mại một cách xác đáng hơn, có cơ sở khoa học hơn. b. Dựa vào hệ thống chỉ tiêu và tiêu chuẩn, mục tiêu và nhiệm vụ phân tích Hệ thống chỉ tiêu hiệu quả thương mại được xác lập và đưa vào phân tích phải dựa theo những chuẩn mực chung. Các tiêu chuẩn của hiệu quả thương mại chính là các chuẩn mực, cung cấp thước đo để so sánh. Trong thực tế các chuẩn mực này có thể lấy từ mốc của thời kỳ trước đó hoặc so với một hệ thống thương mại khác có điều kiện tương đồng mà không nhất thiết phải xây dựng. Các chuyên gia phải bám sát nhiệm vụ và mục tiêu phân tích đã đặt ra. Nếu xa rời yêu cầu đó sẽ gây lãng phí và không cung cấp thông tin, phục vụ thiết thực cho công tác quản lý nhà nước về thương mại. Nghĩa là, lợi ích của công tác phân tích, đánh giá không cho phép thoát ly yêu cầu trên. c. Phù hợp giữa năng lực cán bộ và kỹ thuật, công nghệ phân tích, đánh giá Mong muốn thường là cao, phân tích vừa phải sâu sắc, vừa phải toàn diện. Tuy nhiên, các yêu cầu có tính nguyên tắc trên đã cho thấy, vấn đề còn lại là lựa chọn công nghệ phân tích, kỹ thuật đo lường, đánh giá phải phù hợp với trình độ nguồn nhân lực. Nếu không đáp ứng tốt yêu cầu trên sẽ làm giảm hoặc mất đi những thông tin phân tích hiệu quả, vốn bản thân nó là linh hồn của quản lý thương mại. 5.2.2.3. Phương pháp phân tích, đánh giá a. Phương pháp so sánh Hiệu quả thương mại là phạm trù, tự nó đã phải so sánh kết quả đạt được với chi phí bỏ ra. Tuy nhiên, để lựa chọn phương án hay giải pháp tốt nhất trong công tác hoạch định thì phải so sánh các trường hợp hiệu quả. Khi phân tích hiệu quả thương mại của quốc gia trong một thời kỳ cụ thể có thể sử dụng phương pháp so sánh với một thời kỳ trước đó hoặc so sánh với một quốc gia khác có điều kiện tương đồng hoặc đối chiếu với các tiêu chuẩn đã xây dựng. b. Phương pháp chỉ số Phương pháp chỉ số cũng rất có ý nghĩa, bởi nó vừa cho phép đánh giá được hiệu quả, vừa có thể đánh giá được năng lực cạnh tranh trong thương mại của một quốc gia (chẳng hạn như chỉ số giá trị gia tăng trên vốn trong thương mại, tỷ phần thương mại của quốc gia so với khu vực hoặc thế giới). c. Phương pháp khác (đồ thị, mô hình hoá, sử dụng phần mềm, chuyên gia) Các chuyên gia phân tích có thể sử dụng các đồ thị, biểu hình hoặc các mô hình, phần mềm chuyên dụng nhờ sự hỗ trợ của máy tính và công nghệ thông tin để tiến hành các hoạt động phân tích, đánh giá hiệu quả thương mại. Thực tế, có thể sử dụng cả

Page 80: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

80

phương pháp chuyên gia bằng việc tranh thủ những kinh nghiệm, khả năng các chuyên gia giỏi quốc tế trong lĩnh vực phân tích này. 5.2.3. Nâng cao hiệu quả kinh tế thương mại 5.2.3.1. Sự cần thiết nâng cao hiệu quả thương mại - Xuất phát từ ý nghĩa, tầm quan trọng của vấn đề nâng cao hiệu quả thương mại. - Thực tiễn cuộc sống còn nhiều lãng phí các nguồn lực, nhất là vốn, chất xám, đặc biệt những nguồn lực tự nhiên ngày càng trở nên khan hiếm. - Những vấn đề về an ninh kinh tế, an ninh quốc gia và con người đòi hỏi. 5.2.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả thương mại Hiệu quả thương mại chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau. Nó tác động trên nhiều phương diện, tới kết quả, chi phí hoặc tác động đồng thời đến cả kết quả và các nguồn lực sử dụng, làm tăng hoặc giảm hiệu quả thương mại. Dưới đây là các nhóm nhân tố chủ yếu: a. Môi trường vĩ mô - Các nhân tố môi trường trong nước. Môi trường trong nước bao gồm rất nhiều các yếu tố như: địa kinh tế; sự ổn định chính trị và kinh tế vĩ mô; mức độ đầy đủ, đồng bộ và thống nhất của hệ thống pháp luật; sự ổn định, nhất quán và minh bạch của các chính sách; mức độ cải thiện các thủ tục hành chính; hiệu lực của bộ máy tổ chức và hiệu suất làm việc của đội ngũ công chức; độ mở, tính năng động và sức cạnh tranh của nền kinh tế trong nước. - Các nhân tố môi trường quốc tế. Môi trường quốc tế chứa đựng cả những cơ hội và thách thức, ảnh hưởng tới hiệu quả thương mại của doanh nghiệp, của ngành và nền kinh tế, bao gồm: Xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới làm thay đổi nhu cầu và cung ứng hàng hoá, dịch vụ thúc đẩy thương mại quốc tế và đầu tư nước ngoài; Cạnh tranh trong thương mại ngày càng quyết liệt, gay gắt hơn làm thay đổi vị trí dẫn đạo thị trường; hệ thống tài chính quốc tế phát triển tạo thuận lợi cho thương mại và đầu tư; xu hướng sáp nhập các công ty lớn, các tập đoàn đa quốc gia trong nhiều lĩnh vực để chi phối thị trường khu vực và toàn cầu; xu hướng các rào cản thương mại đan xen với quá trình tự do hoá thương mại diễn ra ở cả các nước phát triển và đang phát triển; những thay đổi trong đàm phán và các quy định của hệ thống WTO. b. Nhân tố về thị trường Đây là nhóm nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả thương mại của mỗi quốc gia, bao gồm: - Dung lượng thị trường.

Page 81: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

81

Xu hướng phát triển về quy mô, dung lượng và thay đổi cơ cấu thị trường của các nước nhập khẩu cũng như thị trường nội địa; sự mở cửa thị trường và giảm bớt rào cản kỹ thuật trong thương mại; sự phát triển các thị trường mới. - Khách hàng. Quy mô và cơ cấu nhu cầu; thu nhập và hướng sử dụng thu nhập, quyết định mua sắm và đầu tư của người tiêu dùng; sự ổn định và phát triển khách hàng; sự sẵn sàng mua và trả giá; tập quán thói quen và sự tín nhiệm của khách hàng; sự liên kết giữa khách hàng và các nhà cung cấp. - Các nhà cung cấp. Số lượng các nhà cung cấp; quy mô, cơ cấu, chất lượng, giá cả của hàng hoá; sự phát triển các dịch vụ hỗ trợ thương mại; tính ổn định của nguồn hàng và sự đa dạng các nhà cung cấp; năng lực tài chính, công nghệ và quản trị của nhà cung cấp; uy tín trong thực hiện hợp đồng và giao hàng đúng hạn. - Đối thủ cạnh tranh. Số lượng các đối thủ, các hình thức và thủ pháp cạnh tranh; những ưu thế và bất lợi thế cạnh tranh của đối thủ; những hỗ trợ thương mại, cạnh tranh trong nước và quốc tế; các xu hướng cạnh tranh đa phương. c. Sự phát triển của ngành và các doanh nghiệp - Sự phân công chuyên môn hoá, liên kết và hợp tác của ngành thương mại Sự phát triển của phân công chuyên môn hoá về các dịch vụ có tính chất sản xuất trong thương mại; mối quan hệ hợp tác giữa ngành thương mại với các ngành sản xuất vật chất và dịch vụ hỗ trợ; sự liên kết trong nội bộ ngành như bán buôn và bán lẻ, hệ thống thương mại nội địa và xuất nhập khẩu, thương mại của các chủ thể thuộc thành phần kinh tế nhà nước với các thành phần khác; sự liên kết hợp tác giữa hệ thống kinh doanh vừa và nhỏ với các doanh nghiệp lớn trong và ngoài nước trong chuỗi sản xuất, cung ứng và tiêu thụ sản phẩm; sự phát triển thương mại theo ngành, nhóm hàng và khu vực lãnh thổ. Đây là những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả thương mại cả về kinh tế và xã hội. Ngoài ra, sự phát triển các hình thức thương mại mới cũng là một trong những nhân tố thúc đẩy mơ rộng lưu thông hàng hoá, nâng cao hiệu quả thương mại của quốc gia. - Chiến lược và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Lợi thế so sánh của đất nước được khai thác và sử dụng có hiệu quả hay không suy cho cùng được thể hiện ở doanh nghiệp. Do vậy, hiệu quả hoạt động và chiến lược kinh doanh là nhân tố có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp là bộ phận của hiệu quả ngành và nền kinh tế. Nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp liên quan tới việc áp dụng các quy trình

Page 82: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

82

công nghệ mới; sử dụng nhiều nguồn cung ứng mới, đa dạng khác nhau; sử dụng các dịch vụ phân phối hợp lý, giao hàng đúng hạn; các biện pháp cải thiện về chất lượng và năng suất. Hiệu quả hoạt động có quan hệ chặt chẽ với chiến lược của doanh nghiệp. Chiến lược kinh doanh tạo nên các công cụ cạnh tranh hữu hiệu cho doanh nghiệp, không chỉ bằng chi phí mà phải bằng cả việc mang lại các lợi ích cho khách hàng trong các dịch vụ phân phối giá trị gia tăng. Xác định tầm nhìn chiến lược, mang tính dài hạn để định hướng, lựa chọn mục tiêu và mở rộng kinh doanh trên cả thị trường trong và ngoài nước trên cơ sở thay đổi cách tư duy cũ, phát huy nội lực. Tạo vị thế cạnh tranh khác biệt, xây dựng các nhãn hiệu sản phẩm, thương hiệu doanh nghiệp mang tầm quốc tế. - Trình độ, năng lực của đội ngũ doanh nhân Đây là nhân tố đóng vai trò chủ chốt đối với việc nâng cao hiệu quả thương mai. Doanh nhân có bản lĩnh kinh doanh vững vàng, có trình độ, năng lực chuyên môn và quản trị sẽ biết tìm kiếm, khai thác các nguồn lực và kết hợp chúng trong hoạt động của doanh nghiệp một cách tốt nhất nhằm mang lại hiệu quả. Doanh nhân cũng là lớp người xây dựng chiến lược kinh doanh để tận dụng cơ hội và vượt qua các thách thức của cuộc cạnh tranh nhằm vươn lên khẳng định vị thế của mình trên thị trường, góp phần nâng cao hiệu quả thương mại của ngành và nền kinh tế. 5.2.3.3. Con đường nâng cao hiệu quả thương mại - Chủ động mở cửa thị trường và thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Mở cửa thị trường và hội nhập quốc tế luôn chứa đựng những mặt thuận và không thuận lợi, nhưng rõ ràng những mặt thành tựu ghi nhận là khởi đầu tốt đẹp, đặc biệt là trong điều kiện môi trường quốc tế với những diễn biến về chính trị, xã hội diễn ra phức tạp làm méo mó thị trường và cạnh tranh. Những kinh nghiệm tốt về kinh doanh và quản lý, những trợ giúp về vốn và kỹ thuật, công nghệ, những cơ hội để khai thác các nguồn lực nội địa để tạo ra hàng hoá xuất khẩu, những triển vọng về thị trường ngoài nước và những quan hệ đối tác thân thiện, lâu dài, chiến lược, ... tạo dựng được trong thời gian qua chính là nhờ quá trình mở cửa nền kinh tế với những bước đi và đối sách thích hợp. Đó cũng là con đường đúng đắn mà Đảng và Chính phủ đã chọn để nâng cao hiệu quả thương mại, hiệu quả nền kinh tế quốc dân. Để chủ động mở cửa thị trường và hội nhập quốc tế cần phải có những giải pháp mang tính chiến lược, toàn diện và đồng bộ, trên cả cấp độ quốc gia, địa phương, ngành và doanh nghiệp, trong đó có những giải pháp khám phá, khai thác cơ hội, có những giải pháp phòng ngừa, hạn chế nguy cơ, rủi ro khi đi trên con đường đó. Việc xây dựng chiến lược mở cửa thị trường và lộ trình hội nhập một cách toàn diện, hợp lý đồng thời phải cải thiện môi trường kinh doanh thông qua các cải cách về chính sách, thủ tục hành chính, hoàn thiện hệ thống luật pháp, chuyển mạnh tiến trình hội nhập đến các doanh nghiệp và

Page 83: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

83

các đơn vị vi mô khác trong nền kinh tế có ý nghĩa hết sức cần thiết và đảm bảo các điều kiện để kết hợp tốt nhất các nguồn lực trong nước và quốc tế nhằm nâng cao hiệu quả thương mại của quốc gia. - Xây dựng, phát triển vững chắc thị trường trong nước và bảo vệ sản xuất nội địa. Thị trường nội địa được coi là tiền đề phát triển thị trường xuất khẩu, do vậy xây dựng và phát triển thị trường nội địa là con đường phải được nối liền với mở cửa thị trường và hội nhập quốc tế. Phát triển vững chắc thị trường nội địa để khai thác nguồn lực của đất nước tạo ra nhiều hàng hoá, dịch vụ có khả năng cạnh tranh, thoả mãn nhu cầu tại chỗ của các tổ chức và cá nhân trong nước cũng như nước ngoài đang hiện diện ở trong nước. Đó là con đường để phát triển thương mại có hiệu quả, cạnh tranh thắng lợi với các doanh nghiệp nước ngoài cùng sản phẩm của họ khi nhập khẩu vào thị trường nội địa. Có như vậy mới bảo vệ được thành quả về kinh tế, xã hội trong quá trình phát triển, đồng thời nâng cao vị thế của quốc gia trên trường quốc tế. Con đường này đòi hỏi phải có những chính sách và giải pháp vĩ mô nhằm tạo lập thị trường một cách đồng bộ, nhất là các thị trường dịch vụ bao gồm thị trường chứng khoán, thị trường lao động, thị trường khoa học công nghệ, thông tin, thị trường bất động sản,... đồng thời phát triển những thị trường đó phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế, thương mại trong điều kiện mở cửa thị trường và tự do hoá thương mại. Bảo vệ vững chắc sản xuất trong nước thông qua những nỗ lực từ phía doanh nghiệp nhằm đa dạng hoá, nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm chi phí, giảm giá thành, tổ chức, liên kết giữa các doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng để vừa nâng cao giá trị gia tăng, vừa tăng cường khả năng cạnh tranh sản phẩm. Bảo vệ sản xuất nội địa còn phụ thuộc vào các chính sách từ phía Chính phủ như các quy hoạch phát triển ngành, vùng kinh tế, các chính sách thu hút nguồn lực, khuyến khích, hỗ trợ và thúc đẩy phát triển sản xuất. Khai thác các lợi thế của quốc gia, các nguồn lực bên ngoài để phát triển kinh tế trong nước nhằm nâng cao hiệu quả thương mại là con đường rộng mở, có tính chiến lược luôn gắn với tầm nhìn dài hạn. - Bảo vệ, phát triển và phát huy lợi thế so sánh của quốc gia. Lợi thế của đất nước chủ yếu là tài nguyên thiên nhiên và con người, ngoài ra, còn có đặc điểm thuận lợi về vị trí địa lý. Tuy nhiên, lợi thế vô hình về trí tuệ, chất xám của con người ẩn chứa nhiều tiềm năng và cơ hội phát triển. Giữ gìn sự ổn định và bảo vệ hệ thống chính trị vững chắc, tăng cường năng lực hệ thống quản lý về kinh tế, thương mại không chỉ mang tính quốc gia mà còn vươn tới cấp độ khu vực và toàn cầu. Tạo lập, tôn trọng, nuôi dưỡng và phát triển đội ngũ doanh nhân với bản lĩnh kinh doanh vững vàng, với hệ thống giá trị, tinh thần doanh nghiệp và bản sắc nhân văn của dân tộc. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, chuyên gia, những người lao động có chuyên môn, kỹ thuật

Page 84: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

84

nghiệp vụ, có lòng đam mê nghề nghiệp làm việc trong một môi trường năng động và cơ chế khuyến khích sự sáng tạo. Tất cả những yếu tố đó phải được nhìn nhận như lợi thế so sánh của đất nước được thể hiện trong các quyết sách của Chính phủ về phát triển kinh tế, thương mại của quốc gia, thể hiện trong các quyết định chiến lược đầu tư và kinh doanh của các doanh nhân với những biểu tượng về nhãn hiệu hàng hoá và thương hiệu doanh nghiệp. Đây là con đường cho phép phát triển thương mại mang tính cạnh tranh và có hiệu quả theo tiếp cận phát triển bền vững. Điều đó có nghĩa là, khai thác các lợi thế so sánh để phát triển thương mại trong hiện tại nhưng không làm mất đi, mà còn duy trì, phát triển lợi thế so sánh trong tương lai để phát triển thương mại nhằm thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu ngày càng tăng lên của đời sống kinh tế và xã hội. 5.3. Khai thác và sử dụng nguồn lực thương mại theo hướng phát triển bền vững 5.1.1. Bản chất của phát triển bền vững 5.1.1.1. Tăng trưởng và phát triển Tăng trưởng và phát triển đôi khi được xem là đồng nghĩa, nhưng thực ra về bản chất chúng có những nội hàm khác nhau và có mối quan hệ với nhau. Theo cách hiểu phổ biến hiện nay thì, tăng trưởng là sự gia tăng thu nhập quốc dân và sản phẩm quốc dân hoặc thu nhập quốc dân và sản phẩm thu nhập quốc dân tính theo đầu người. Nếu như sản phẩm hàng hoá và dịch vụ hàng năm trong một quốc gia tăng lên, nó được coi là tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng cũng được áp dụng để đánh giá cụ thể đối với từng ngành sản xuất, từng vùng của một quốc gia. Trong khi đó, phát triển bao hàm ý nghĩa rộng hơn, phát triển bên cạnh sự tăng thu nhập bình quân đầu người còn bao gồm nhiều khía cạnh khác gắn với việc nâng cao phúc lợi của nhân dân, nâng cao các tiêu chuẩn sống, cải thiện giáo dục, sức khoẻ, đảm bảo bình đẳng xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái. Vì vậy, về bản chất tăng trưởng là một phương tiện cơ bản để có thể có được sự phát triển, nhưng bản thân nó chỉ là một đại diện, chưa phản ánh đầy đủ sự tiến bộ xã hội. Tăng trưởng và phát triển là hai mặt của sự phát triển xã hội có quan hệ chặt chẽ với nhau. Tăng trưởng diễn tả động thái của nền kinh tế, còn phát triển phản ánh sự thay đổi về chất của nền kinh tế và xã hội, để phân biệt các trình độ khác nhau trong sự tiến bộ xã hội. Theo đó, phát triển còn được quan niệm là sự phát triển bền vững về các tiêu chuẩn sống, bao gồm tiêu dùng vật chất, giáo dục, sức khoẻ và bảo về môi trường. 5.1.1.2. Bản chất của phát triển bền vững Từ những thập kỷ cuối của thế kỷ XX đến nay, hầu hết các quốc gia đang phải đối mặt với những thách thức lớn về nguồn lực, giảm cấp môi trường và những bất bình đẳng xã hội. Những vấn đề này càng trở nên trầm trọng hơn khi những tác động xấu của kinh tế thị trường và xu thế toàn cầu hóa đem lại ngày càng ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều mặt

Page 85: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

85

của quá trình phát triển ở mỗi quốc gia. Trước thực tế đó, một quan niệm mới về sự phát triển đã được đưa ra, đó là: Phát triển bền vững. Theo tiếp cận về khái niệm phát triển nói trên, phát triển bền vững về thực chất là một khái niệm mới của sự phát triển. Bản thân khái niệm "phát triển" không chỉ đơn thuần với ý nghĩa "tăng trưởng kinh tế". Mà, phát triển còn bao hàm cả việc "phân phối lại" để đảm bảo tính công bằng xã hội nhằm thoả mãn những "nhu cầu cơ bản" của con người về dinh dưỡng, sức khoẻ, nhà ở, giáo dục và việc làm... Trước đây, quan niệm về phát triển bền vững là khái niệm lồng ghép các quá trình sản xuất với bảo tồn thiên nhiên và làm tốt hơn về môi trường. Đến nay, phát triển bền vững mang một nội dung rộng hơn, vượt ra khỏi khuân khổ bảo vệ môi trường. Khái niệm được nêu ra trong báo cáo của Hội đồng thế giới về Môi trường và Phát triển (WCED) của Liên Hợp Quốc có chủ đề "Tương lai chung của chúng ta"(1987) hiện đang được sử dụng rộng rãi, chính thức trên thế giới là: "Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng những nhu cầu của hiện tại, nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai". Như vậy về bản chất, phát triển bền vững phải đáp ứng được các yêu cầu: - Đảm bảo hài hòa mối quan hệ lợi ích trong phát triển giữa hiện tại và tương lai về tất cả các khía cạnh: Kinh tế, xã hội, văn hóa và môi trường. - Lồng ghép một cách hài hòa các khía cạnh tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. 5.3.2. Những tiêu chí cơ bản của phát triển bền vững Những tiêu chí của phát triển bền vững là thước đo phản ánh sự phát triển bền vững của một quá trình. Với nội hàm của sự phát triển bền vững được trình bày ở trên những tiêu chí cơ bản phản ánh sự phát triển bền vững bao gồm: 5.3.2.1. Đảm bảo sự phát triển bền vững về kinh tế. Sự phát triển bền vững về kinh tế được thể hiện ở sự tăng trưởng và phát triển lành mạnh nền kinh tế, đáp ứng được yêu cầu nâng cao đời sống của nhân dân, tránh được sự suy thoái hay đình trệ trong tương lai, đặc biệt là không bị thâm hụt cán cân thương mại và cán cân thanh toán. Nhiều chuyên gia cho rằng, một quốc gia phát triển bền vững về kinh tế phải đạt được các yêu cầu sau: - Có tăng trưởng GDP và GDP bình quân đầu người cao và ổn định. Quốc gia càng nghèo, thu nhập càng thấp đòi hỏi sự tăng trưởng này càng cao. Trong điều kiện hiện nay, các quốc gia phải có thu nhập GDP tăng với tỷ lệ vào khoảng 5%/năm thì mới có thể xem là phát triển bền vững về kinh tế, nếu thu nhập thấp hơn thì nền kinh tế này không được xem là phát triển bền vững. Ngược lại nếu tăng trưởng trong một thời kì quá cao được coi là tăng trưởng nóng.

Page 86: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

86

- Cơ cấu GDP theo hướng tỷ lệ đóng góp của công nghiệp và dịch vụ trong GDP phải cao hơn nông nghiệp nhằm đảm bảo cho tăng trưởng GDP ổn định và lâu dài. - Có GDP hoặc GDP bình quân đầu người bằng hoặc cao hơn mức trung bình hiện nay của các nước đang phát triển. Nếu tăng GDP cao, nhưng GDP bình quân đầu người thấp thì vẫn coi là chưa đạt tới mức phát triển bền vững. 5.3.2.2. Sự phát triển bền vững về xã hội. Sự phát triển bền vững xã hội phải đáp ứng được yêu cầu duy trì và phát huy tính đa dạng về bản sắc dân tộc, giảm tình trạng đói nghèo, hạn chế khoảng cách giàu nghèo và sự bất bình đẳng trong xã hội. Tính bền vững về xã hội của một quốc gia được đánh giá qua các chỉ tiêu: Chỉ số phát triển con người (HDI), hệ số bình đẳng thu nhập, các chỉ số về giáo dục, dịch vụ y tế, hoạt động văn hoá. 5.3.2.3. Sự phát triển bền vững về môi trường Sự phát triển bền vững môi trường phải đáp ứng yêu cầu sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo tồn được sự đa dạng sinh học, hạn chế ô nhiễm, cải thiện được môi trường. Cụ thể, trong quá trình sử dụng, các yếu tố chất lượng môi trường sống của con người, như sự trong sạch của không khí, nước, đất, không gian vật lý, cảnh quan… không được làm giảm chất lượng các yếu tố xuống dưới giới hạn cho phép theo các qui định của Nhà nước và của xã hội. Chất lượng các yếu tố môi trường sau sử dụng phải lớn hơn hoặc bằng các chỉ tiêu qui định. Lượng sử dụng phải nhỏ hơn hoặc bằng với lượng thay thế, lượng thay thế phải nhỏ hơn khả năng tái sử dụng. 5.3.2.4. Sự kết hợp hài hòa và hợp lý ba mặt lợi ích kinh tế, xã hội và môi trường trong quá trình phát triển. Sự phát triển lâu dài và ổn định hay phát triển bền vững chỉ có thể đạt được khi quá trình phát triển đáp ứng được yêu cầu có một sự cân bằng nhất định của ba nội dung nói trên. Ba nội dung đó chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau, vừa thể hiện sự tác động qua lại, vừa chế ước lẫn nhau. Tính cân đối và sự hài hòa giữa các khía cạnh nói trên phải được thể hiện ở mọi khâu, ngay từ lúc xây dựng chủ trương và hoạch định các chiến lược phát triển. Nội dung này là tiền đề để thực hiện sự công bằng xã hội trong quá trình phát triển và nó phản ánh bản chất của phát triển bền vững. Đó là sự công bằng giữa các thành viên về khả năng tiếp cận các cơ hội và các giá trị lợi ích. Công bằng xã hội trong phát triển phải thể hiện cả ở sự công bằng trong cùng một thế hệ và công bằng giữa các thế hệ. Công bằng giữa các thế hệ của một xã hội là điều kiện cần thiết để xã hội đó phát triển lâu dài và ngày càng tốt đẹp hơn. Trong khi đó, công bằng giữa các thành viên trong cùng một thế hệ khi tiếp cận với các giá trị lợi ích từ sự phát triển là điều kiện cần thiết góp phần để mọi thành viên cùng đồng tâm hiệp lực cho sự phát triển bền vững của một xã hội.

Page 87: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

87

Tuy nhiên, trong từng giai đoạn phát triển cụ thể thì một mặt nào đó có thể được đưa lên vị trí ưu tiên số một, song mức độ và thời hạn của sự ưu tiên là có giới hạn. Chẳng hạn, giai đoạn đầu CNH, HĐH và hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay thì mục tiêu hàng đầu là tăng trưởng kinh tế và có thể phải tạm thời chấp nhận sự bất bình đẳng trong xã hội và một sự suy thoái môi trường nào đó. 5.3.3. Khai thác và sử dụng nguồn lực thương mại theo hướng phát triển bền vững 5.3.3.1. Sự cần thiết của việc khai thác và sử dụng nguồn lực thương mại theo hướng phát triển bền vững Việc khai thác và sử dụng nguồn lực thương mại theo hướng phát triển bền vững là sự cần thiết khách quan xuất phát từ những lý do cơ bản sau: - Các nguồn lực nói chung và các nguồn lực trong thương mại nói riêng là có giới hạn, do đó đặt ra yêu cầu cần thiết phải được khai thác tối đa và sử dụng có hiệu quả. - Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập, việc di chuyển các nguồn giữa các quốc gia ngày càng trở nên thuận lợi. Mặc dù các nguồn lực bên ngoài có vai trò rất quan trọng đối với quá trình phát triển thương mại, song các nguồn lực này cũng có thể gây ra sự không ổn định, gia tăng phụ thuộc vào bên ngoài và gây mất cân đối trong quá trình phát triển… - Việc khai thác các nguồn lực không có qui hoạch và kế hoạch có thể làm tổn hại đến sự phát triển của các thế hệ tương lại, đặc biệt là đối với các nguồn lực tự nhiên, nguồn lực từ bên ngoài. 5.3.3.2. Những nguyên tắc cơ bản của việc khai thác và sử dụng nguồn lực thương mại theo hướng phát triển bền vững - Khai thác mọi nguồn lực có thể, đặc biệt là nguồn lực vô hình để phát triển thương mại. Nhu cầu về nguồn lực cho sự phát triển luôn là vấn đề quan trọng đối với mọi lĩnh vực của nền kinh tế và các nguồn lực luôn luôn có hạn đối với nhu cầu của con người. Chính vì vậy, trong một điều kiện cụ thể việc huy động được mọi nguồn lực vào phát triển thương mại là một nguyên tắc hết sức quan trọng, nó cho phép tận dụng được mọi điều kiện, thời cơ để phát triển. Trong thời đại ngày nay, bên cạnh các nguồn lực vật chất, các nguồn lực vô hình là vô hạn và đem lại những đóng góp đặc biệt cho con người trong mọi lĩnh vực, trong đó có phát triển thương mại. Vì vậy, việc chú trọng khai thác và sử dụng rộng rãi nguồn lực vô hình còn cho phép hạn chế được nguy cơ làm cạn nguồn tài nguyên thiên nhiên và đáp ứng được yêu cầu sử dụng bền vững nguồn lực trong quá trình phát triển. Khả năng khai thác các nguồn lực lại phụ thuộc chủ yếu vào vai trò của hệ thống cơ chế, chính sách của Nhà nước có khả năng giải phóng được sức sản xuất hay không. Thực tế, nếu hệ thống cơ chế, chính sách của Nhà nước tạo được môi trường phát triển

Page 88: ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG

88

thương mại tốt, các nguồn lực của nền kinh tế sẽ được huy động tối đa. Đặc biệt, trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập hiện nay thì các nguồn lực phát triển thương mại từ bên ngoài cũng có thể được huy động với qui mô lớn và chất lượng cao. Việc khai thác không tối đa mọi nguồn lực cũng có thể đồng nghĩa với việc lãng phí và sử dụng thiếu bền vững nguồn lực trong quá trình phát triển. - Kết hợp sử dụng hợp lý nguồn lực trong nước với nguồn lực bên ngoài. Các nguồn lực trong nước và nguồn lực nước ngoài có mối quan hệ chặt chẽ, bổ sung và tác động lẫn nhau. Các nguồn lực bên ngoài có thể bao gồm vốn, công nghệ, đội ngũ chuyên gia… Đây là những nguồn lực thường có vai trò tạo ra sự đột phá quan trọng trong quá trình phát triển của thương mại, đặc biệt là sự phát triển về mặt qui mô và chất lượng. Tuy nhiên, để đảm bảo yêu cầu khai thác và sử dụng nguồn lực theo hướng phát triển bền vững thì việc kết hợp hợp lý hai nguồn lực này là đặc biệt quan trọng. Về nguyên tắc, các nguồn lực bên trong phải giữ vai trò quyết định, còn các nguồn lực bên ngoài là quan trọng, có vai trò thúc đẩy và tạo ra sự phát triển đột phá trong cạnh tranh và phát triển thương mại. - Khai thác các nguồn lực không gây cạn kiệt và suy thoái môi trường. Việc khai thác tối đa các nguồn lực để phát triển thương mại phải được tính đến khả năng không gây tổn hại đến sự phát triển của các thế hệ trong tương lai. Nhiều nguồn lực trong thực tế nếu việc khai thác không có qui hoạch và kế hoạch có thể đe dọa đến nguy cơ làm cạn kiệt nguồn tài nguyên và suy thoái môi trường gây trở ngại đến sự phát triển của các thế hệ tương lai, đặc biệt là các nguồn lực liên quan đến sử dụng các điều kiện tự nhiên, địa lý, nguồn nước… - Đảm bảo tính hiệu quả trong quá trình sử dụng các nguồn lực. Đảm bảo hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong thương mại về thực chất là đòi hỏi về mặt chất lượng sử dụng nguồn lực với yêu cầu mỗi đơn vị giá trị nguồn lực phải tạo ra được khối lượng kết quả cao nhất cho nền kinh tế và xã hội. Nguyên tắc này không chỉ đặt ra yêu cầu phải tiết kiệm trong sử dụng nguồn lực mà còn phải đảm bảo mở rộng qui mô và chất lượng phát triển thương mại nhằm đem lại những kết quả và sự đóng góp của thương mại cho nền kinh tế - xã hội ngày càng nhiều. Để sử dụng các nguồn lực thương mại có hiệu quả, trong quá trình khai thác và sử dụng cần thiết phải chú ý cả số lượng và chất lượng các nguồn lực, đặc biệt là chất lượng các nguồn lực. Thực tế, chất lượng nguồn lực tốt sẽ làm tăng thêm số lượng của nó. Phải kết hợp xem xét các nguồn lực cả ở trạng thái tĩnh và trạng thái động, trong đó phải chỉ rõ động thái, hướng phát triển của các nguồn lực nhằm nâng cao tối đa hiệu quả mà các nguồn lực này đem lại. Đồng thời, phải chú ý đến tổng l-ượng, cơ cấu, vai trò của các nguồn lực này và mối quan hệ lẫn nhau giữa các yếu tố liên quan…