Địa chỉ: Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh
Điện thoại: +84 3 827 3069; Fax: +84 3 827 3070
Email: [email protected] ; website: www.ria1.org
Đại hội Chi hội Nữ Trí thức Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản I lần thứ nhất
Hội nghị Đảng bộ Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản I
Thử nghiệm sản xuất cá rô phi đơn tính đực vụ thu đông xuân ở miền Bắc Việt Nam
Nghiên cứu ứng dụng công nghệ biofloc trong nuôi thâm canh tôm thẻ chân trắng
Penaeus (Litopenaeus) vannamei quy mô sản xuất
Đánh giá mức độ an toàn vệ sinh thực phẩm về vi sinh của rô phi thương phẩm
nuôi bằng công nghệ biofloc
BẢN TIN
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN I
ISSN 1859-4174
Số 9
Tháng 2-4/2013
2 Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 9 (Quý I/2013)
Giấy phép xuất bản số:37/GP-XBBT ngày 25/4/2011 của Cục Báo chí – Bộ Thông tin và Truyền thông
Bản quyền thuộc Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I
Cấm sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý của Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I
Ban biên tập
Trưởng ban
Phan Thị Vân
Phó Trưởng ban
Nguyễn Hữu Ninh
Ủy viên
Nguyễn Hữu Nghĩa
Mai Văn Tài
Nguyễn Thị Thu Hiền
Nguyễn Thị Diệu Phương
Vũ Thị Ngọc Liên
Hoàng Nhật Sơn
Trần Thị Kim Chi
Trần Anh Tuấn
Chu Chí Thiết
Thư ký
Hoàng Thu Thủy
Trang bìa: Nữ Tri thức Viện I chụp ảnh lưu niệm tại Đại hội
Ảnh: Nguyễn Tiến Dũng
Trong số này
Thư ngỏ 4
Tin tức 5
Thử nghiệm sản xuất cá rô phi đơn tính đực vụ thu đông xuân ở miền Bắc 12
Nghiên cứu ứng dụng công nghệ Biofloc trong nuôi thâm canh tôm thẻ chân trắng Penaeus (Litopenaeus) vannamei quy mô sản xuất 13
Thử nghiệm thành công cấy ghép tinh trên tôm thẻ chân trắng Penaeus (Litopenaeus) vannamei 15
Đánh giá mức độ ATVSTP về vi sinh của rô phi thương phẩm nuôi bằng công nghệ biofloc 16
Hội thảo chuyên đề Hướng dẫn và thảo luận cách sử dụng một số phần mềm phân tích số liệu di truyền phân tử trong chọn giống thủy sản 18
Chuyến thăm và làm việc của Giáo sư Kazuya Nagasawa tại Viện I 18
Lãnh đạo Viện tiếp đoàn công tác của Tổ chức Nông Lương Liên hợp quốc (FAO) 19
Hội nghị giao ban công tác đào tạo khối các Viện Nghiên cứu thuộc Bộ NN&PTNN 20
4 Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 9 (Quý I/2013)
Thư ngỏ
Kính thưa quý độc giả,
Năm 2013 là năm
đánh dấu chặng
đường 50 năm phát
triển và trưởng thành
của Viện Nghiên cứu
Nuôi trồng thủy sản 1.
50 năm là một chặng đường dài với nhiều
sự kiện lịch sử cũng như các thành tựu đột
phá của rất nhiều thế hệ cá nhân và tập thể
của Viện tạo nên. Để lập thành tích chào
mừng kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Viện,
ngay từ những ngày đầu năm, toàn thể cán
bộ viên chức lao động Viện 1 đã thể hiện
quyết tâm hoàn thành tốt những nhiệm vụ
mà Nhà nước giao phó, xứng đáng là Viện
đầu ngành trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản
ở Việt Nam.
Các chủ nhiệm đề tài dự án trong nước và
hợp tác quốc tế đã và đang nghiêm túc triển
khai các hoạt động theo đúng kế hoạch đã
đặt ra. Viện 1 cũng đã chú trọng và khuyến
khích các cán bộ nghiên cứu của Viện tập
trung hơn nữa thời gian và trí tuệ vào xây
dựng các đề cương, thuyết minh nghiên cứu
để tham gia đấu thầu cho năm 2014. Ngoài
các hoạt động chuyên môn, hòa cùng với
niềm vui chung của phụ nữ cả nước, cán bộ
Viện 1 đã tổ chức rất nhiều các hoạt động
ngoại khóa sôi nổi, bổ ích để chào mừng
ngày quốc tế phụ nữ 8/3.
Xin trân trọng giới thiệu tới quý vị Bản tin số
9 với lời chào trân trọng.
Phan Thị Vân
Trưởng ban Biên tập
Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 9 (Quý I/2013) 5
Tin tức
Đại hội Chi hội Nữ Trí thức Viện Nghiên
cứu Nuôi trồng thủy sản I lần thứ nhất
Nguyễn Thị Diệu Phương
Chi hội Nữ trí thức Viện NC NTTS I (CH NTT
Viện I) thành lập theo Quyết định số 129/QĐ-
HNTTVN ngày 1/3/2013 của Hội Nữ trí thức Việt
Nam. Mục tiêu của Chi hộị là tập hợp, đoàn kết
nữ trí thức Viện I nhằm phát huy tiềm năng, vai
trò, sức mạnh của nữ trí thức, đóng góp tích cực
cho phát triển tri thức, phát triển ngành thủy sản
và nền kinh tế của Việt Nam.
Vào sáng ngày 5/3, CH NTT Viện I đã tổ chức
thành công Đại hội lần thứ nhất (nhiệm kỳ 2013-
2016). Tham dự Đại hội, về phía khách mời có
GS. TSKH Phạm Thị Trân Châu - Chủ tịch Hội
NTT Việt Nam và các đại biểu đại diện cho BCH
Hội NTT Việt Nam, Công đoàn ngành NN&PTNT
cùng với đại diện của Đảng ủy, Ban Lãnh đạo,
BCH Công đoàn, Hội Cựu chiến binh, Đoàn
Thanh niên, Lãnh đạo các Phòng, Trung tâm
thuộc Viện I và các thành viên của Chi hội. CH
NTT Viện I hiện có 22 thành viên, Đại hội đã bầu
ra Ban chấp hành gồm 3 thành viên, TS. Phan
Thị Vân - Chi hội trưởng, 02 Ủy viên là ThS.
Nguyễn Thị Diệu Phương và TS. Trần Thị Thúy
Hà.
Phát biểu tại Đại hội, GS. TSKH Phạm Thị Trân
Châu đã chúc mừng thành công của Đại hội và
khen ngợi Ban vận động đã hoạt động hiệu quả,
tổ chức Đại hội bài bản và nghiêm túc. Bên cạnh
đó bà đã chia sẻ kinh nghiệm để nữ trí thức
Quang cảnh tại Đại hội. Ảnh Hoàng Thủy
thành công hơn nữa, giới thiệu một số quỹ tài
năng sáng tạo dành cho nữ và mong rằng
ngành thủy sản sẽ có nữ khoa học được vinh
danh trong thời gian tới.
Các đại biểu tham dự đại hội đã phát biểu,
khẳng định với truyền thống 50 năm nữ trí thức
có vai trò quan trọng trong nghiên cứu, quản lý
và sự phát triển của Viện I. Đặc biệt đại hội tin
tưởng rằng TS Phan Thị Vân - Phó Viện trưởng
phụ trách viện, Bí thư Đảng ủy, đồng thời cũng
là Chi hội trưởng là điều kiện vô cùng thuận lợi
cho các nữ trí thức Viện I phát triển, trưởng
thành hơn về khoa học và quản lý trong thời
gian tới.
Hoạt động chào mừng 103 năm ngày
Quốc tế phụ nữ 8-3 và 1973 năm khởi
nghĩa Hai Bà Trưng
Nguyễn Thị Hà, Nguyễn Tiến Dũng, Trần Thị
Kim Chi
Hòa cùng với không khí chung của Phụ nữ cả
nước, Phụ nữ Viện I đã tổ chức môt số hoạt
6 Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 9 (Quý I/2013)
Tin tức
động phong trào bổ ích và có ý nghĩa để chào
mừng 103 năm ngày Quốc tế phụ nữ 8/3 và
1973 năm Khởi nghĩa Hai Bà Trưng.
Ngày 01/02/2013 Ban Nữ công cùng với tổ
Công đoàn TT Nghiên cứu thủy sản nước lạnh
Sa pa đã tổ chức trao quà đợt 3 cho 42 cháu
học sinh cụm trường tiểu học Đồi Dù và 11
cháu mẫu giáo của xã San Sả Hồ (Lào Cai). Đợt
trao quà tình nghĩa này mang nhiều ý nghĩa
được các thầy, cô giáo và các cháu học sinh nơi
đây đón nhận với lòng cảm ơn sâu sắc tới các
CBVC-LĐ Viện.
Các cháu học sinh tiểu học vui mừng nhận những món quà của các CBVC-LĐ Viện I. Ảnh Trần Thị Kim Chi
Được sự đồng ý của Đảng ủy, Lãnh đạo Viện và
Công đoàn Viện, ngày 08/3/2013, Ban Nữ công
đã long trọng tổ chức mít tinh kỷ niệm 103 năm
ngày Quốc tế phụ nữ và 1973 năm khởi nghĩa
Hai Bà Trưng đồng thời ghi nhận những thành
tích đóng góp to lớn của toàn thể cán bộ nữ của
Viện. Qua đó động viên các chị em không
ngừng phấn đấu vươn lên hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ được giao, xứng đáng là người phụ
nữ Việt Nam giỏi việc nước, đảm việc nhà.
Đến dự buổi lễ mít tinh có đại diện Đảng ủy,
Lãnh đạo Viện, đại diện các đoàn thể và các
đồng chí Trưởng/Phó của các Phòng, Trung tâm
là nam giới. Sự có mặt của các đồng chí thể
hiện sự quan tâm, ủng hộ và ghi nhận những
đóng góp quan trọng của chị em vào sự phát
triển chung của Viện I.
Xen lẫn giữa mít tinh là những tiết mục văn nghệ
đặc sắc của các đoàn viên thanh niên Viện, thay
cho lời chúc mừng tới các chị em phụ nữ nhân
ngày 8/3.
Đồng chí Nguyễn Thị Hà - Trưởng ban Nữ công thay mặt chị em nhận hoa chúc mừng của các đơn vị. Ảnh Trần Nga
Tại lễ mít tinh, bà Nguyễn Thị Hà - Trưởng ban
Nữ công đã giới thiệu tóm tắt lịch sử ngày kỷ
niệm 8/3 và Khởi nghĩa Hai Bà Trưng, tiếp đó là
đến phần trình bày Báo cáo tổng kết hoạt động
năm 2012, kế hoạch hoạt động năm 2013, trong
đó có một số hoạt động nổi bật như phát động
toàn thể CBVC-LĐ nữ tham gia các phong trào
Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 9 (Quý I/2013) 7
Tin tức
thi đua do Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam
và Công đoàn ngành tổ chức, các hoạt động
chào mừng 50 năm ngày thành lập Viện; và
chuẩn bị cho đại hội Công đoàn Viện lần thứ 25
đã được toàn bộ đại biểu tham dự tán thành.
Không khí trong hội trường rộng lớn càng nóng
lên khi cuộc thi văn hóa - văn nghệ diễn ra với
chủ đề ca ngợi phụ nữ Việt Nam, ca ngợi tình
yêu quê hương đất nước với 3 nội dung thi:
Gương mặt thân quen là ca sỹ, Gương mặt thân
quen là Lãnh đạo Viện và phần thi năng khiếu.
Phần thi gương mặt thân quen là Lãnh đạo Viện. Ảnh Trần Nga
Phần thi văn nghệ tại buổi lễ. Ảnh Trần Nga
Cuộc thi này được đánh giá là thành công lớn
với những tiết mục đặc sắc, chất lượng, có sáng
tạo mang lại những tiếng cười sảng khoái cho
những người tham dự. Sau 3 tiếng đồng hồ,
Ban giám khảo của cuộc thi đã chấm và lựa
chọn được các đội xuất sắc và giải phong trào
được trao cho tất cả các đội tham dự.
Các đội được trao giải. Ảnh Nguyễn Tiến Dũng
Lễ mít tinh và thi văn nghệ đã kết thúc, để lại
những kỷ niệm đẹp trong lòng toàn thể CBVC-
LĐ của Viện.
Hội nghị Đảng bộ Viện Nghiên cứu Nuôi
trồng thủy sản I
Nguyễn Tiến Dũng
Ngày 20/03/2013, Ban Thường vụ Đảng ủy phối
hợp với Ban Lãnh đạo tổ chức Hội nghị đảng bộ
Viện NC NTTS I. Nội dung bao gồm quán triệt và
triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 6 (khoá XI) cho cán bộ, đảng viên các cơ
quan, đơn vị trực thuộc. Làm lễ tặng Huy hiệu 30
năm tuổi đảng cho 3 đồng chí đảng viên và lễ
phát Thẻ đảng viên cho các đảng viên mới.
8 Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 9 (Quý I/2013)
Tin tức
Tới tham dự có Đồng chí Trần Thiện Biên -
Trưởng ban tổ chức Thị ủy Từ Sơn; Đồng chí
Trần Viết Ninh - Trưởng Ban dân vận Thị ủy Từ
Sơn; Đồng chí Dương Thanh Văn - chuyên viên
Ban tổ chức Thị ủy Từ Sơn. Đại diện phía Viện I
có Đồng chí Phan Thị Vân - Bí thư Đảng ủy, Phó
Viện trưởng Phụ trách Viện cùng toàn thể Ban
thường vụ Đảng ủy, Ban Lãnh đạo và toàn bộ
đảng viên của Viện.
Nội dung triển khai thực hiện Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 6 (khoá XI) gồm các chuyên
đề: tình hình kinh tế - xã hội năm 2012 và dự
báo bối cảnh; mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp
năm 2013; tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật
về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện
công cuộc đổi mới, tạo nền tảng đến năm 2020
nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại; tiếp tục sắp xếp, đổi mới,
nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước;
phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều
kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế; đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục đào tạo, đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và hội nhập quốc tế; nâng cao năng lực lãnh
đạo của đảng đối với bảo hiểm xã hội và bảo
hiểm y tế giai đoạn 2012 - 2020.
Tại phần hai của chương trình Hội nghị, thay mặt
Đảng ủy khối các Cơ quan, đồng chí Phan Thị
Vân - Bí thư thường trực Đảng ủy khối đã trao
Huy hiệu 30 năm tuổi Đảng cho 03 đồng chí:
Nguyễn Tiến Sỹ- Chánh văn phòng Viện, Nguyễn
Dương Dũng và Hồ Sỹ Lân và trao tặng Thẻ
đảng viên cho 10 đảng viên mới.
Ba đồng chí được nhận Huy hiệu 30 năm tuổi Đảng. Ảnh Nguyễn Tiến Dũng
Phát biểu tại buổi Lễ, thay mặt cho các đồng chí
đảng viên được trao tặng Huy hiệu đảng, đồng
chí Nguyễn Tiến Sỹ cho rằng, đây là niềm vinh
dự to lớn mà các đồng chí nhận được, do đó,
bản thân đồng chí cũng như các đồng chí đảng
viên được trao Huy hiệu đảng sẽ tiếp tục giữ gìn
phẩm chất đạo đức, đấu tranh chống tư tưởng
suy thoái về chính trị, luôn xứng đáng là người
đảng viên gương mẫu để đội ngũ đảng viên trẻ
noi theo.
Trao tặng thẻ cho 10 đảng viên mới. Ảnh Nguyễn Tiến Dũng
Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 9 (Quý I/2013) 9
Tin tức
Thông qua việc nghiên cứu, quán triệt nội dung
các nghị quyết, kết luận Hội nghị Trung ương 6
giúp các cán bộ, đảng viên nắm vững nội dung,
quan điểm và chủ trương của Đảng, trên cơ sở
đó tổ chức thực hiện và vận dụng nội dung nghị
quyết vào thực tiễn để hoàn thành tốt nhiệm vụ,
góp phần phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương.
Tập huấn kiến thức Phòng cháy chữa
cháy năm 2013
Nguyễn Tiến Dũng
Thực hiện luật phòng cháy chữa cháy và Nghị
định số 35/2003/NĐ-CP ngày 04/4/2003 của
Chính phủ và nhằm đảm bảo an toàn PCCC,
chủ động khi có cháy nổ xảy ra, sẵn sàng chữa
cháy kịp thời, bảo vệ an toàn tài sản, tính mạng
và trật tự xã hội trong phạm vi cơ quan, ngày
22/03/2013, Viện I phối hợp với Phòng cảnh sát
PCCC Công an Tỉnh Bắc Ninh tập huấn kiến
thức PCCC cho cán bộ, viên chức, và người lao
động trong cơ quan.
Tới tham dự và giảng tại buổi tập huấn có Đồng
chí Nguyễn Thế Đức đại diện Phòng cảnh sát
PCCC Công an Thị xã Từ Sơn đã giới thiệu một
số nội dung cơ bản như: Luật, nghị định về công
tác PCCC; vị trí, tầm quan trọng, nguyên tắc,
tính chất của công tác PCCC; trách nhiệm
PCCC của cơ quan, tổ chức, hộ gia đình và cá
nhân; một số kiến thức cơ bản về PCCC, tình
hình phòng chống cháy nổ tại địa phương và
trên cả nước.
Bên cạnh đó các cán bộ, viên chức, và người
lao động trong cơ quan còn được trực tiếp thực
hành các kỹ thuật phòng, chữa cháy cơ bản
như: sử dụng vòi phun, sử dụng bình chữa cháy
loại bình khí CO2 và bình chữa cháy loại bột để
dập tắt đám cháy và cách thức xử lý nhanh các
tình huống có thể xảy ra.
Hướng dẫn và thực hành sử dụng bình chữa cháy. Ảnh Nguyễn Thị Diệu Phương
Qua lớp tập huấn đã nâng cao kiến thức và ý
thức trách nhiệm về công tác PCCC cho mỗi
cán bộ, viên chức và người lao động trong cơ
quan để từ đó chủ động trong công tác PCCC
khi có sự cố xảy ra tại đơn vị cũng như gia đình.
10 Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 9 (Quý I/2013)
Tin tức
Hoạt động chào mừng 82 năm ngày
thành lập Đoàn TNCS Hồ Chí Minh của
Viện I
Phạm Hồng Nhật
Ngày 25/3, Đoàn Thanh niên Viện I đã tổ chức
buổi mít tinh ôn lại truyền thống của Đoàn nhân
dịp kỷ niệm 82 năm ngày thành lập tại Hội
trường lớn. Tham dự buổi mít tinh có các đồng
chí Ngô Văn Thuận - Phó Bí thư Thị đoàn Từ
Sơn và đ/c Mẫn Văn Huy - UV BCH Thị đoàn Từ
Sơn; đ/c Nguyễn Tiến Sỹ - Phó Bí thư Đảng bộ,
đ/c Nguyễn Thị Diệu Phương - UV BCH Công
đoàn,các đ/c Nguyễn Thị Hạnh Tiên, Tống Hoài
Nam, Đàm Thị Mỹ Chinh - thành viên BCH đoàn
Viện khóa cũ và toàn thể đoàn viên thanh niên
(ĐVTN) trong Viện.
Phó Bí thư Nguyễn Hùng Hải báo cáo tại buổi lễ. Ảnh Nguyễn Thị Hạnh Tiên
Mở đầu buổi lễ, đồng chí Nguyễn Hùng Hải -
Phó Bí thư đoàn Viện đã báo cáo tổng kết hoạt
động của Đoàn thanh niên Viện trong năm 2012
và quý I/2013, trong đó nổi bật là hoạt động
phong trào về văn hóa - văn nghệ - thể thao kỷ
niệm những ngày lễ lớn của đất nước; chương
trình tập huấn tin học, sử dụng phần mềm xử lý
số liệu trong nghiên cứu khoa học cho ĐVTN;
phong trào giữ gìn, bảo vệ cảnh quan môi
trường; giao lưu với các đơn vị bạn và hoạt
động tình nguyện. Trong năm hoạt động vừa
qua, Đoàn Thanh niên Viện đã đạt được nhiều
thành tích đáng khích lệ, đã được Tỉnh đoàn
trao tặng “Bằng khen đơn vị xuất sắc trong hoạt
động đoàn và thanh thiếu nhi”, Thị đoàn trao
tặng cờ Thi đua “Đơn vị dẫn đầu trong hoạt
động” của thị xã Từ Sơn và đặc biệt 3 đề tài
nghiên cứu đã đạt giải cao trong cuộc thi “Sáng
tạo trẻ tỉnh Bắc Ninh năm 2012”.
Tiếp theo buổi lễ, Đoàn Thanh niên đã tổ chức
buổi tọa đàm “Kinh nghiệm về công tác đoàn -
Thanh niên với nghiên cứu khoa học” và “Đảng
với thanh niên - Thanh niên với Đảng”. Buổi tọa
đàm diễn ra sôi nổi, thu hút được sự tham gia
của đông đảo ĐVTN, đã giúp các ĐVTN hiểu rõ
hơn vai trò quan trọng của Đảng, ĐVTN cần
phải phấn đấu và rèn luyện để được đứng trong
hàng ngũ của Đảng. Bên cạnh đó, ĐVTN cũng
được chia sẻ những kinh nghiệm đáng quý trong
hoạt động đoàn như làm thế nào để cân bằng
giữa hoạt động xã hội, gia đình và nghiên cứu
khoa học; kinh nghiệm học Tiếng Anh, thi IELTS
và xin học bổng; cách thức để gây quỹ cho đoàn
thanh niên. Đại điện Đảng bộ Viện, đồng chí
Nguyễn Tiến Sỹ đã phát biểu khen ngợi những
thành tích của Đoàn Thanh niên trong năm vừa
Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 9 (Quý I/2013) 11
Tin tức
qua và mong rằng đoàn sẽ phát huy thế mạnh
xung kích trong nhiều hoạt động hướng tới Đại
hội Công đoàn Viện và Kỷ niệm 50 năm ngày
thành lập Viện. Kết thúc buổi lễ, đại điện Thị
đoàn Từ Sơn đã trao tặng Bằng khen, Cờ thi
đua cho Đoàn Thanh niên Viện và Bằng khen
cho các Chi đoàn và ĐVTN xuất sắc của Viện.
Các đoàn viên thanh niên xuất sắc Viện I nhận Bằng khen của Thị đoàn Từ Sơn. Ảnh Nguyễn Thị Hạnh Tiên
Nằm trong khuôn khổ hoạt động của “Tháng
thanh niên”, Đoàn Thanh niên Viện cũng tổ chức
nhiều hoạt động bổ ích như phong trào “Giữ gìn
bảo vệ cảnh quan môi trường nơi làm việc”,
“Hành trình xanh” - trồng cây xanh bảo vệ môi
trường, “Tô thắm màu cờ Tổ quốc” - tặng cờ Tổ
quốc gửi tặng đồn biên phòng, nhân dân và
chiến sỹ quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Đặc
biệt, đoàn thanh niên đã chủ động tìm nguồn
kinh phí tham gia xây dựng nông thôn mới với
công trình thanh niên “Thắp sáng đường quê”, lễ
khánh thành công trình đã được tổ chức cùng
ngày tại xã Tương Giang với chiều dài 1km,
tổng kinh phí 15 triệu đồng.
Công trình thanh niên của Đoàn Thanh niên Viện I. Ảnh Ngô Phú Thỏa
12 Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 9 (Quý I/2013)
Khoa học và Công nghệ
Thử nghiệm sản xuất cá rô phi đơn tính
đực vụ thu đông xuân ở miền Bắc
Ngô Phú Thỏa và Nguyễn Hữu Ninh
Cá Rô phi vằn Oreochromis niloticus là đối
tượng nuôi có giá trị kinh tế cao. Sản lượng và
diện tích nuôi đối tượng này tăng lên rất nhanh
trong những năm gần đây nhất là tại các tỉnh
phía Bắc. Nhu cầu cá rô phi giống ở các tỉnh
phía Bắc ước đạt hơn 300 triệu con/năm, tập
trung vào tháng 3-4 hàng năm. Trong khi đó,
mùa vụ sản xuất giống cá rô phi ở miền Bắc
thường bắt đầu vào tháng 4, tập trung từ tháng
5 đến tháng 6, vì vậy có sự lệch pha giữa cung
và cầu. Thêm vào đó, các cơ sở sản xuất giống
tại miền Bắc mới chỉ đáp ứng được khoảng 25-
30% nhu cầu giống cá rô phi giai đoạn đầu vụ
nuôi. Việc nhập giống từ miền Nam và Trung
Quốc có thể đáp ứng được sự thiếu hụt này, tuy
nhiên do công tác kiểm soát chất lượng và kiểm
dịch chưa chặt chẽ nên đã làm giảm hiệu quả
nuôi. Yêu cầu đặt ra là phải sản xuất con giống
tại chỗ và đáp ứng được nhu cầu cá giống đầu
vụ của người nuôi tại các tỉnh miền Bắc. Trước
thực trạng đó, Bộ Nông nghiệp & Phát triển
nông thôn đã giao cho Viện Nghiên cứu nuôi
trồng thủy sản I chủ trì thực hiện nhiệm vụ
“Nghiên cứu sản xuất giống rô phi quy mô hàng
hóa trong điều kiện nhiệt độ thấp phía Bắc” với
mục tiêu là xây dựng được quy trình công nghệ
nhằm đáp ứng được nhu cầu về giống cá rô phi
đơn tính đực cho người nuôi các tỉnh phía Bắc.
Đề tài đã thử nghiệm sản xuất giống cá rô phi
trong các ao có mái che hấp thụ nhiệt, sử dụng
bóng đèn sợi đốt công suất lớn nhằm kéo dài
quang kỳ (1 bóng 60W/200m2, 2-4 giờ/ngày) và
bơm nước giếng khoan nhằm nâng giữ nhiệt và
tạo điều kiện sinh thái phù hợp (bổ sung 15-25%
thể tích nước trong ao/ngày). Hệ thống sục khí
được bố trí nhằm đảm bảo cung cấp đủ ôxy
hòa tan; phương pháp thu cá bột được áp dụng,
thay thế phương pháp thu trứng nhằm giảm chi
phí và tăng hiệu quả mô hình. Thời gian thử
nghiệm từ tháng 10 năm 2012 đến tháng 3 năm
2013. Một số yếu tố môi trường trong quá trình
thí nghiệm như nhiệt độ, pH, ôxy hòa tan được
theo dõi định kỳ vào 8 giờ và 14 giờ hàng ngày.
Các kết quả về thời điểm thu được cá bột, năng
suất cá bột, tỷ lệ sống trong quá trình chuyển
giới tính của mô hình thí nghiệm được so sánh
với mô hình đối chứng (ghép cá bố mẹ sinh sản
và thu trứng trong giai ở ao có mái che, thu
trứng và ấp trứng…).
Bảng. ết quả theo i một số chỉ tiêu
Chỉ tiêu theo dõi Mô hình
thí nghiệm
Mô hình
đối chứng Ghi chú
Số cá đực (con) 210 210
Số cá cái (con) 450 450 Kích cỡ: 0,5-0,7 kg/con
Số lượng cá bột (con)
520.000 147.000
Năng suất bột (con/kg cá cái)
~ 1.857 ~ 525
Số cá đơn tính 21 ngày tuổi (con)
342.000 65.000
Tỷ lệ sống (%) 65,8 ± 5,0a 44,2 ± 9,3
b
Tỷ lệ đơn tính đực (%)
98,0-100,0 96,0-97,0
Kết quả theo dõi một số yếu tố môi trường cho
thấy: nhiệt độ nước trong ao thí nghiệm dao
Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 8 (2012 - 1/2013) 13
Khoa học và Công nghệ
động trong khoảng 210C đến 27,50C; Trong khi
đó, nhiệt độ nước của ao đối chứng dao động
lớn hơn, trong khoảng từ 150C đến 28,50C. Hàm
lượng ôxy hòa tan và pH ở ao thí nghiệm và ao
đối chứng đều phù hợp, lần lượt trong khoảng
4,0 - 5,5 mg/l và 7,6 - 8,1. Số lượng cá bột thu
được ở mô hình thí nghiệm gấp hơn 3,5 lần số
lượng cá bột thu được ở mô hình đối chứng lần
lượt là 520.000 con và 147.000 con. Thêm vào
đó, tỷ lệ sống của cá đơn tính 21 ngày tuổi ở mô
hình thí nghiệm trung bình đạt 65,8±5,0% trong
khi ở mô hình đối chứng chỉ đạt 44,2±9,3%
(P<0,05); Số cá rô phi đơn tính đực 21 ngày tuổi
ở mô hình thí nghiệm và mô hình đối chứng lần
lượt là 342.000 và 65.000 con.
Thu cá bột trong mô hình thí nghiệm. Ảnh Ngô Phú Thỏa
Thời gian thu được cá bột ở mô hình thí nghiệm
sớm hơn ở mô hình đối chứng 35 ngày. Hạch
toán có thể thấy mô hình thí nghiệm mang lại
hiệu quả cao hơn do giảm thiểu được các chi
phí như nhân công, trang thiết bị bao gồm giai
cá bố mẹ, hệ thống ấp trứng và các dụng cụ phụ
trợ đi kèm. Kết quả thu được cho thấy có thể
sản xuất được cá rô phi đơn tính đực vụ thu
đông xuân ở miền Bắc góp phần đảm bảo và
đáp ứng nhu cầu về con giống đầu vụ cho người
nuôi. Phản biện TS. Nguyễn Văn Tiến
Nghiên cứu ứng dụng công nghệ Biofloc
trong nuôi thâm canh tôm thẻ chân trắng
Penaeus (Litopenaeus) vannamei quy mô
sản xuất
Nguyễn Thị Thu Hiền, Nguyễn Văn Huấn
Nuôi thâm canh tôm thẻ chân trắng có thể bị tác
động bởi các yếu tố tiêu cực như ô nhiễm môi
trường, tảo bùng phát do chất thải giàu chất
dinh dưỡng nitơ và phốt pho như thức ăn dư
thừa, chất thải từ tôm vào môi trường ao nuôi.
Công nghệ Biofloc (BFT) tạo điều kiện thuận lợi
để các vi khuẩn dị dưỡng sử dụng các chất thải
này chuyển hóa thành sinh khối vi khuẩn (các
hạt floc) và tôm có thể sử dụng làm thức ăn.
Mục tiêu của công nghệ Biofloc nuôi thâm canh
tôm thẻ chân trắng là giảm ô nhiễm môi trường
(chủ yếu là dinh dưỡng nitơ) và giảm hệ số
chuyển hóa thức ăn.
Thực hiện nghiên cứu nuôi thâm canh tôm thẻ
chân trắng ở quy mô sản xuất với 03 ao nuôi
công nghệ Biofloc, diện tích mỗi ao là 2500m2,
01 ao đối chứng. Các ao nuôi đảm bảo tiêu
chuẩn nuôi an toàn sinh học. Mật độ nuôi 100
con/m2, tôm giống (P15, tôm 15 ngày tuổi), kích
thước 12 - 15mm, thời gian nuôi 90 ngày. Sử
14 Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 9 (Quý I/2013)
Khoa học và Công nghệ
dụng thức ăn CP có độ đạm ≥42%, (giảm 20%
theo tiêu chuẩn). Tỷ lệ các bon/nitơ (C/N) trong
ao nuôi là 12:1. Nguồn bổ sung các bon vào ao
nuôi từ rỉ đường (37% các bon). Theo dõi và
đánh giá các thông số môi trường (TAN là tổng
nitơ dạng amoni, Nitrit); thông số đánh giá chất
lượng Biofloc gồm có FVI (chỉ số thể tích floc
được viết tắt từ floc volume index), TSS (Tổng
chất rắn lơ lửng được viết tắt từ total suspended
solids), VSS (tổng chất rắn dạng dễ hòa tan viết
tắt từ volatile suspended solid) và các thông số
kỹ thuật nuôi tôm như trọng lượng tôm, tỷ lệ
sống, hệ số chuyển hóa thức ăn và tốc độ tăng
trưởng.
Bổ sung nguồn các bon vào ao nuôi BFT. Ảnh: Nguyễn Thị Thu Hiền
Kết quả cho thấy thông số môi trường có nồng
độ amoni tổng số (TAN) trong các ao BFT luôn
thấp hơn 0,5 mg/l trong khi đó ao đối chứng giá
trị TAN thường lớn hơn 1mg/l. Hàm lượng nitrit
có chu kỳ tăng trong 4-5 tuần đầu vụ nuôi ở các
ao BFT (0,01-1,2 mg/l), sau đó nồng độ giảm
dần (1,2 xuống 0,05mg/l). Ở ao đối chứng nồng
độ nitrit tăng dần theo thời gian nuôi (nồng độ
0,01 - 3,5mg/l). Sự giảm nồng độ rõ rệt của TAN
và nitrit so với ao đối chứng chứng minh khả
năng chuyển hóa chất dinh dưỡng dư thừa
trong ao nuôi.
Đánh giá công nghệ Biofloc của ao nuôi tôm
thông qua các thông số đánh giá chất lượng
Biofloc FVI, TSS và VSS cho thấy: theo thời
gian nuôi FVI dao động 0,3-4,1ml/l (tốt nhất là
<5ml/l theo Hiền và ctv, 2011), ao đối chứng là
0,1-0,5ml/l; TSS dao động trong khoảng 0,15-
0,80mg/l (tốt nhất là <1mg/l theo Hiền và ctv,
2011), ao đối chứng 0,01-0,20mg/l. VSS trong
khoảng 0,08-0,55mg/l, ao đối chứng VSS rất
thấp 0,01-0,1mg/l.
Lấy mẫu kiểm tra chỉ số FVI. Ảnh: Nguyễn Thị Thu Hiền
Kết quả thông số kỹ thuật nuôi tôm sau 90 ngày
cho thấy trọng lượng tôm, tỷ lệ sống, tốc độ tăng
trưởng của ao nuôi công nghệ BFT đều cao hơn
so với ao đối chứng, hệ số chuyển hóa thức ăn
thấp hơn so với ao đối chứng (bảng).
Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 9 (Quý I/2013) 15
Khoa học và Công nghệ
Bảng. Thông số kỹ thuật nuôi tôm ao nuôi công nghệ Biofloc
Ao nuôi Ao BFT Ao ĐC
Trọng lượng tôm trung bình khi thu (g/con)
20,36 ± 1,18
(18,7 - 22,23) 12,65
Tỷ lệ sống (%) 85.43 ± 3,77
( 78,0 - 90,3) 42,2
Hệ số chuyển hóa thức ăn (FCR)
0,77 ± 0,02
(0,73 - 0,79) 1,25
Tốc độ tăng trưởng ngày (g)
0,23 ± 0,01
(0,20 - 0,24) 0,14
Như vậy, với các kết quả của thông số môi
trường nước, thông số Biofloc và thông số kỹ
thuật nuôi tôm trong ao nuôi tôm thẻ chân trắng
ứng dụng công nghệ Biofloc đã đạt được mục
tiêu giảm ô nhiễm môi trường và giảm hệ số
chuyển hóa thức ăn, giảm trên 20% lượng thức
ăn. Phản biện TS. Nguyễn Quang Huy
Thử nghiệm thành công cấy ghép tinh
trên tôm thẻ chân trắng Penaeus
(Litopenaeus) vannamei
Trần Thị Thúy Hà, Lê Văn Nhân, Nguyễn
Tùng Lâm, Nguyễn Phương Toàn, Nguyễn
Thành Trung
Tôm chân trắng Penaeus (Litopenaeus)
vannamei có nguồn gốc từ Nam Mỹ, là loài có
tốc độ sinh trưởng nhanh, thời gian nuôi ngắn
và có thể nuôi ở mật độ cao và đưa lại hiệu quả
kinh tế lớn cho người nuôi. Nghiên cứu này trình
bày thử nghiệm kỹ thuật cấy ghép tinh trên tôm
thẻ chân trắng. Nội dung chính của chuyên đề
bao gồm: thử nghiệm, lựa chọn và đánh giá
phương pháp cấy ghép tinh nhân tạo trên tôm
thẻ chân trắng.
Hai phương pháp cấy ghép tinh đuợc thử
nghiệm: cấy ghép tinh đôi và cấy ghép tinh đơn.
Cấy ghép tinh đôi là phương pháp ghép cả hai
tinh nang của tôm đực cho tôm cái; cấy ghép
tinh đơn là phương pháp tách tinh trùng ra khỏi
một túi tinh nang của tôm đực để ghép cho tôm
cái. Kết quả sinh sản sau khi cấy ghép tinh đôi
và tinh đơn được so sánh với tôm giao vĩ tự
nhiên. Mỗi phương pháp được tiến hành ngẫu
nhiên trên 30 cá thể tôm cái có khả năng tham
gia sinh sản với trọng lượng ≥50g/cá thể và tôm
đực được tuyển chọn kỹ và có trọng lượng
≥45g/cá thể. Quá trình cấy ghép được thực hiện
khi tuyến sinh dục của tôm mẹ được lựa chọn
đạt ở giai đoạn IV, khi kích thước buồng trứng
đạt cực đại và có chất lượng tốt nhất và tuyến
sinh dục của tôm đực ở giai đoạn III với túi tinh
phồng lên, có màu trắng sữa và ở giai đoạn này
tôm sẵn sàng giao vĩ. Thức ăn cho tôm nuôi là
mực và hồng trùng tần suất 2 lần/ngày và lượng
cho ăn 25% trọng lượng thân. Trong suốt quá
trình thực hiện thí nghiệm, các yếu tố môi
trường luôn được giữ ở khoảng tối ưu, nhiệt độ
nước: 28-300C; độ mặn: 28-32‰; pH: 7,5-8,5;
DO ≥4mg/l. Khoảng 30 phút sau khi cho tôm ăn,
thức ăn thừa và cặn bã đuợc siphon ra khỏi bể.
Hàng ngày, thay khoảng 80% lượng nước trong
các bể nuôi vỗ. Kết quả thử nghiệm cấy ghép
tinh được đánh giá bởi các chỉ tiêu: tỷ lệ đẻ, sức
sinh sản, tỷ lệ thụ tinh và tỷ lệ nở. Số liệu thí
nghiệm được phân tích bằng phần mềm
Microsoft Excel 2007 và GraphPad Prism 4.0
16 Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 9 (Quý I/2013)
Khoa học và Công nghệ
Cấy ghép tinh đôi cho tôm thẻ chân trắng. Ảnh Trần Thị Thúy Hà
Cấy ghép tinh đơn cho tôm thẻ chân trắng. Ảnh Trần Thị Thúy Hà
Số liệu thí nghiệm của các phương pháp cấy
ghép tinh và đối chứng được trình bày ở bảng.
Bảng. ết quả sinh sản tôm chân trắng với các phương pháp khác nhau
Chỉ tiêu Cấy ghép tinh đôi
Cấy ghép tinh đơn
Giao vĩ tự nhiên
Tỷ lệ đẻ (%) 60,0 66,7 73,3
Sức sinh sản
(x103 trứng/cá
thể)
(134,8 ± 7,0c) (147,9 ± 7,5
b) (161,5 ± 8,7
a)
Tỷ lệ thụ tinh (%)
42,11 ± 5,54c 57,05 ± 8,55
b 68,32 ± 5,65
a
Tỷ lệ nở (%) 67,37 ± 6,09c 70,95 ± 5,16
b 77,05 ± 5,86
a
Kết quả nghiên cứu cho thấy có sự sai khác có ý
nghĩa (P<0,05) ở cả các chỉ tiêu, sức sinh sản,
tỷ lệ thụ tinh và tỷ lệ nở (%), ở lô giao vỹ tự
nhiên cao hơn so với hai phương pháp cấy tinh
nhân tạo. Phương pháp cấy ghép tinh đơn cho
kết quả cao hơn phương pháp cấy ghép tinh đôi
với mức ý nghĩa thống kê P<0,05. Tỷ lệ đẻ, sức
sinh sản, tỷ lệ thụ tinh và tỷ lệ nở đối với
phương pháp cấy ghép tinh đơn lần lượt là
66,7%; 147,9 x 103; 57,05% và 70,95%. Trong
khi đó, các chỉ tiêu này lần lượt là 60,0%; 134,8
x 103; 42,11% và 67,37% đối với phương pháp
cấy ghép tinh đôi. Kết quả này tương tự với kết
quả nghiên cứu của Steve (1993), với tỷ lệ tôm
đẻ của phương pháp cấy tinh đôi và tinh đơn,
lần lượt là 58,0% và 84,0%. Kết quả nghiên cứu
này có ý nghĩa khoa học và thực tiễn, giúp chủ
động sinh sản nhân tạo và hỗ trợ cho các
chương trình chọn giống tôm chân trắng. Phản
biện TS. Lê Văn Khôi
Đánh giá mức độ ATVSTP về vi sinh của
rô phi thương phẩm nuôi bằng công
nghệ biofloc
Nguyễn Thị Biên Thùy, Nguyễn Thị Niên, Vũ
Hồng Sự, Nguyễn Xuân Khá và Nguyễn Văn
Khanh
Rô phi đang là một trong những đối tượng nuôi
chủ lực của nước ta bởi thịt thơm ngon không
có xương dăm, giàu protein. Tuy nhiên sản
phẩm thủy sản nói chung và rô phi nói riêng
cũng ẩn chứa nhiều rủi ro liên quan đến vấn đề
an toàn vệ sinh thực phẩm (ATVSTP). Nguyên
nhân chủ yếu gây ngộ độc thực phẩm là do vi
sinh vật, chiếm 42,2%, đặc biệt là những vi
khuẩn như Salmonella, Escherichia coli (E.coli),
Staphylococcus spp, Fecal coliform. Trong xu
thế hội nhập như hiện nay, để cá rô phi có chỗ
đứng ổn định trên thị trường thì vấn đề đảm bảo
ATVSTP là hết sức cần thiết. Do đó, việc nghiên
cứu ứng dụng các mô hình nuôi vừa đảm bảo
ATVSTP, vừa cho năng suất cao là mục tiêu cần
Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 9 (Quý I/2013) 17
Khoa học và Công nghệ
hướng tới. Nuôi rô phi ứng dụng công nghệ
biofloc là tạo điều kiện tối ưu để vi sinh vật dị
dưỡng phát triển chiếm ưu thế, vi sinh vật dị
dưỡng sử dụng các bon hữu cơ làm thức ăn
đồng thời hấp thụ ni tơ vô cơ để tạo protein
trong sinh khối và hình thành biofloc. Đây cũng
là công nghệ nuôi nhằm hướng tới mục tiêu
tăng hiệu quả kinh tế, giảm ô nhiễm môi trường
và đảm bảo chất lượng sản phẩm. Chính vì vậy,
việc đánh giá một số chỉ tiêu vi sinh về ATVSTP
trên cá rô phi thương phẩm, nuôi bằng công
nghệ biofloc được thực hiện, nhằm xác định
được mức độ nhiễm một số vi sinh vật ảnh
hưởng đến ATVSTP, qua đó đánh giá được
mức độ an toàn của sản phẩm so với quy định
hiện hành của Việt Nam và trên thế giới.
Rô phi thương phẩm được thu trước khi thu
hoạch 10-15 ngày để định lượng vi khuẩn hiếu
khí tổng số, Staphylococcus spp, Salmonella
spp, E.coli và Fecal Coliform. Các chỉ tiêu vi sinh
vật này được định lượng bằng phương pháp
MPN (Most Probable Number technique) trên
môi trường Lauryl Triptose broth, theo tiêu
chuẩn TCVN 4882:2007; TCVN 6846:2007 và
phương pháp định lượng vi khuẩn (đếm số
khuẩn lạc trực tiếp trên môi trường nuôi cấy)
của Millar và Frerchs (Stirling, 1984, 1993).
Kết quả cho thấy, 100% mẫu rô phi thương
phẩm đều có mặt của vi khuẩn hiếu khí tổng số,
với hàm lượng trung bình trong 1g thịt cá dao
động từ 2,02.104 đến 3,71.104 cfu/g. 44/60 mẫu
cá nguyên liệu dương tính với F.coliform chiếm
Bảng. Kết quả chỉ tiêu vi sinh trên sản phẩm rô phi thương phẩm nuôi bằng công nghệ biofloc
TT Chỉ tiêu vi sinh
Mật độ trung bình trong 1g thịt cá
Giới hạn cho phép của Việt
Nam
Giới hạn cho phép trên thế
giới
1 Vi khuẩn hiếu khí tổng số (cfu/g)
2,02.104
- 3,71.10
4
106 <5,0. 10
4
2 Staphylococcus spp (cfu/g)
0,16. 102 -
0,38.102
102 <10
2
3 Fecal coliform
(MPN/g) 29,2 - 50,4 <10
2 <10
2
4 E. coli (MPN/g) 0,12.10
2 -
0,23.102
102 <10
2
5 Salmonella spp (cfu/g)
Không có Không có Không có
tỷ lệ 73%, lượng F.coliform trong 1g thịt dao
động từ 29,2-50,4 MPN/g. 31/60 mẫu có kết quả
dương tính với E.coli, trung bình nhiễm trên
50%, lượng E.coli trung bình trong 1g thịt cá dao
động từ 0,12.102-0,23.102 MNP/g. 37/60 mẫu
cá thương phẩm dương tính với Staphylococcus
spp, với mật độ dao động trung bình từ
0,16.102-0,38.102 cfu/g và 100% mẫu cá
nguyên liệu âm tính với vi khuẩn Salmonella.
Mặc dù hầu hết mẫu cá nguyên liệu có bị nhiễm
vi sinh vật ảnh hưởng đến an toàn vệ sinh thực
phẩm nhưng mức độ nhiễm đều nằm trong giới
hạn cho phép theo quy định của thế giới và theo
quy định của Việt Nam (Quyết định số
46/2007/QĐ-YT ngày 19/12/2007 của Bộ Y tế).
Kết quả bước đầu đã đánh giá được cá rô phi
thương phẩm nuôi bằng công nghệ biofloc tại
thời điểm nghiên cứu đã đạt được yêu cầu về
an toàn vệ sinh thực phẩm đối với chỉ tiêu vi
sinh theo tiêu chuẩn thế giới và Việt Nam. Phản
biện ThS. Mai Văn Tài
18 Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 9 (Quý I/2013)
Đào tạo - Tập huấn - Hợp tác quốc tế
Hội thảo chuyên đề Hướng dẫn và thảo
luận cách sử dụng một số phần mềm
phân tích số liệu di truyền phân tử trong
chọn giống thủy sản
Khánh Trường
Nhằm hỗ trợ và nâng cao chuyên môn cho các
cán bộ khoa học trẻ của Viện, Ban chấp hành
Đoàn Thanh niên và Ban chuyên đề Khoa học
Viện phối hợp tổ chức buổi Hội thảo chuyên đề
“Hướng dẫn và thảo luận cách sử dụng một số
phần mềm phân tích số liệu di truyền phân tử
trong chọn giống thủy sản” tại phòng họp nhà
đào tạo vào ngày 27/02/2013.
Buổi Hội thảo đã có nhiều cán bộ trẻ trong Viện
đến tham dự. Dưới sự hướng dẫn của ThS. Ngô
Phú Thỏa - Phó trưởng phòng và NCV Lưu Thị
Hà Giang thuộc phòng Di truyền và Chọn giống,
nội dung chính của buổi hội thảo là hướng dẫn
sử dụng các phần mềm chuyên sâu phân tích,
xử lý dữ liệu trong nghiên cứu di truyền và chọn
giống. Các phần mềm phân tích di truyền số
lượng và các phần mềm phân tích di truyền
phân tử (GeneMaker, Arlequin, Mega…), đều sử
dụng các thuật toán phức tạp tính toán cấu trúc
di truyền quần thể, huyết thống, giá trị chọn
lọc… trong các thế hệ chọn giống.
Đây là các phần mềm đang được sử dụng rộng
rãi và hỗ trợ hiệu quả cho các chương trình
chọn giống. Ngoài ra, các cán bộ Viện còn được
học cách tìm kiếm tài liệu liên quan đến các kỹ
thuật trong phòng thí nghiệm sinh học phân tử,
trên một số trang web chuyên ngành.
ThS. Ngô Phú Thỏa hướng dẫn tại buổi tập huấn. Ảnh hánh Trường
Kết thúc buổi Hội thảo các cán bộ tham dự đã
nâng cao được một số kỹ năng cần thiết phục
vụ cho công tác nghiên cứu khoa học và nhất trí
đề xuất BCH Đoàn Thanh niên nên tiếp tục phối
hợp với Ban chuyên đề Khoa học Viện cùng tổ
chức nhiều hội thảo chuyên môn hơn nữa nhằm
giúp các nhà khoa học trẻ nâng cao được khả
năng và kinh nghiệm làm việc.
Chuyến thăm và làm việc của Giáo sư
Kazuya Nagasawa tại Viện I
Phạm Hồng Nhật, Ngô Phú Thỏa
Từ ngày 12-19/3/2013, Giáo sư Kazuya
Nagasawa (chuyên ngành ký sinh trùng) thuộc
Trường Đại học Hiroshima, Nhật Bản đã tới
thăm và làm việc tại Viện I theo lời mời của Tiến
sỹ Trần Thị Thúy Hà - Trưởng phòng Di truyền
Chọn giống.
Trong thời gian làm việc tại Viện I, Giáo sư
Kazuya Nagasawa đã dành thời gian gặp mặt,
Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 9 (Quý I/2013) 19
Đào tạo - Tập huấn - Hợp tác quốc tế
trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm và hướng dẫn cho
cán bộ trẻ đến từ các phòng chuyên môn như Di
truyền Chọn giống, Sinh học thực nghiệm,
Nguồn lợi, Trung tâm NC Quan trắc
CBMT&PNDB Thủy sản của Viện những kỹ
năng nghiên cứu hữu ích. Tại buổi gặp mặt,
Giáo sư đã trình bày một số vấn đề liên quan
đến hiện trạng nuôi trồng thủy sản cũng như các
giải pháp như việc thả giống vào thủy vực tự
nhiên nhằm khôi phục, phát triển nguồn lợi đã
và đang được áp dụng ở Nhật Bản. Việc thả
giống vào tự nhiên có tác dụng: (i) Giảm thiểu
tác động của con người đến môi trường, (ii)
phục hồi nguồn lợi tự nhiên, (iii) duy trì sản
lượng khai thác ở mức tối đa có thể, (iv) bảo tồn
và phục hồi các loài có nguy cơ bị đe dọa tuyệt
chủng. Việc thả giống lại tự nhiên là vấn đề
không mới và đã được triển khai ở Việt Nam
nhiều năm qua tuy nhiên hiệu quả còn hạn chế.
Qua buổi trao đổi, rất nhiều kinh nghiệm quý báu
về quản lý cũng như giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả việc bảo vệ và khôi phục nguồn lợi
thủy sản đã được giáo sư Kazuya Nagasawa
chia sẻ. Cũng qua đó góp phần giúp các nghiên
cứu viên trẻ của Viện I có cái nhìn sâu sắc hơn
nữa về vấn đề bảo vệ nguồn lợi thủy sản trong
và ngoài nước. Mong rằng trong tương lai sẽ có
nhiều chương trình hợp tác giữa Việt Nam và
Nhật Bản nhằm bảo tồn, khôi phục và phát triển
nguồn lợi thủy sản.
Lãnh đạo Viện tiếp đoàn công tác của Tổ
chức Nông Lương Liên hợp quốc (FAO)
Hoàng Thủy
Ngày 28/3, đoàn công tác của Tổ chức Nông
Lương Liên hợp quốc (FAO), dẫn đầu là Ông
Daniel Salvini - cán bộ cao cấp, đã tới thăm và
làm việc với Viện I. Mục tiêu của buổi gặp mặt là
nhằm thảo luận những vấn đề về nuôi trồng thủy
sản và nắm bắt tình hình hoạt động của các dự
án đã kết thúc, đang thực hiện và sắp triển khai
được tài trợ bởi FAO tại Việt Nam.
Tham gia đón tiếp đoàn có TS. Phan Thị Vân -
Phó Viện trưởng phụ trách Viện, TS. Nguyễn
Quang Huy - Phó Viện trưởng, ThS. Nguyễn
Hữu Nghĩa - Trưởng phòng và ThS. Vũ Thị
Ngọc Liên Phó phòng TT - Hợp tác quốc tế - ĐT,
TS. Nguyễn Văn Tiến - Trưởng phòng Sinh học
thực nghiệm, TS. Trần Thị Thúy Hà - Trưởng
phòng Di truyền - Chọn giống và bà Trần Thị
Nga - Thư ký PVT phụ trách Viện.
Lãnh đạo Viện I đón tiếp đoàn công tác của FAO. Ảnh Hoàng Thủy
Tại buổi gặp mặt, thay mặt Ban Lãnh đạo Viện,
TS. Phan Thị Vân chào mừng đoàn công tác
20 Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 9 (Quý I/2013)
Đào tạo - Tập huấn - Hợp tác quốc tế
của FAO đã tới thăm và làm việc với Viện. Tiếp
đó PVT đã giới thiệu tóm tắt lịch sử và tình hình
hoạt động của Viện trong những năm gần đây,
đồng thời báo cáo kết quả của một số Dự án đã
và đang triển khai được FAO tài trợ.
Ông Daniel Salvini chúc mừng những thành quả
mà Viện đã đạt được, đặc biệt đánh giá cao
những kết quả của các Dự án do FAO tài trợ
trong những năm qua hoạt động hiệu quả, đạt
mục tiêu và tiêu chí của FAO. Bên cạnh đó hai
bên còn thảo luận những vấn đề liên quan đến
một số Dự án sắp được triển khai nằm trong
khuôn khổ Chương trình hợp tác Nam - Nam.
Ông Daniel Salvini hy vọng Viện I sẽ là cơ quan
tham gia tích cực cùng với FAO trong lĩnh vực
đào tạo, tập huấn về nuôi trồng thủy sản cho
một số nước thuộc Châu phi.
Kết thúc buổi gặp mặt, Ông Daniel Salvini cám
ơn sự đón tiếp nồng hậu của Viện I dành cho
đoàn, hy vọng Viện I và FAO luôn duy trì mối
quan hệ hợp tác lâu dài nhằm góp phần phát
triển ngành thủy sản đóng góp cho sự thành
công của nền nông nghiệp Việt Nam.
Hội nghị giao ban công tác đào tạo khối
các Viện Nghiên cứu thuộc Bộ NN&PTNN
Nguyễn Tiến Dũng
Sáng ngày 23/04/2013, Vụ Tổ chức Cán bộ (Bộ
NN&PTNT) phối hợp với Viện I tổ chức Hội nghị
giao ban công tác đào tạo khối các Viện Nghiên
cứu. Tới tham dự Hội nghị có Ông Nguyễn Minh
Nhạn - Vụ trưởng Vụ TCCB, Bà Phan Thị Vân -
Phó Viện Trưởng phụ trách Viện I cùng các lãnh
đạo các Viện Nghiên cứu thuộc Bộ NN&PTNT.
Trong phần mở đầu Hội nghị, Ông Phạm Hùng -
Phó Vụ trưởng Vụ TCCB đã có bài báo cáo chi
tiết về tình hình công tác đào tạo Đại học và Sau
Đại học của khối các Viện Nghiên cứu trực
thuộc Bộ. Mặc dù còn gặp rất nhiều khó khăn về
nguồn kinh phí lẫn nhân lực nhưng các đơn vị
trực thuộc Bộ đã hoàn thành tốt những nhiệm vụ
đề ra trong công tác đào tạo. Bên cạnh đó các
đại biểu cũng đã có những ý kiến về những tồn
tại trong công tác quản lý và sự phối hợp chưa
đồng đều giữa Bộ NN&PTNN và Bộ GD&ĐT
trong công tác đào tạo.
Quang cảnh Hội nghị. Ảnh: Nguyễn Tiến Dũng
Kết thúc Hội nghị, các đại biểu đã có cái nhìn
sâu hơn và khái quát hơn về tình hình đào tạo
của khối các Viện Nghiên cứu, đồng thời Ban
Lãnh đạo Bộ NN&PTNN hứa sẽ quan tâm giải
quyết những vướng mắc còn tồn tại ở các đơn
vị trực thuộc, mở ra những triển vọng mới trong
công tác đào tạo của các Viện nghiên cứu trong
tương lai.