- 1 -
PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC DU LỊCH ĐỂ THÍCH ỨNG
VỚI CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ
TS. Nguyễn VănLưu - Nguyên Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ,
Tổng cục Du lịch; Hàm vụ trưởng Vụ
Đào tạo, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch.
Tóm tắt:Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) đang làm thay
đổi căn bản nền sản xuất và đời sống xã hội của thế giới, tạo ra những thách thức
và cơ hội lớn đan xen cho mỗi quốc gia, địa phương, từng cơ quan, đơn vị,
doanh nghiệp và mỗi cá nhân. Việt Nam cũng không đứng ngoài những tác động
đó ở mọi lĩnh vực, khía cạnh khác nhau của đời sống xã hội. Phát triển nguồn
nhân lực, trong đó có phát triển nguồn nhân lực du lịch được “các chuyên gia
4.0” cho rằng là một trong những lĩnh vực chịu sự tác động mạnh mẽ và trực
tiếp nhất từ CMCN 4.0. Tham luận này được soạn thảo dựa trên yêu cầu của Sở
Khoa học và Công nghệ tỉnh Sóc Trăng tại Công văn số 564/SKHCN-QLKHCN
ngày 06/9/2019, đi vào khái quát về CMCN 4.0; phản ánh, phân tích những vấn
đề đặt ra và đề xuất một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực du lịchđể Du lịch
Việt Nam thích ứng CMCN 4.0.
1. Khái quát về cuộc cách mạng 4.0
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (CMCN 4.0) đang được hình
thành trên nền tảng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 3 (cách mạng số và
máy tính). Khái niệm CMCN 4.0 được hiểu là một cụm thuật ngữ cho các công
nghệ và khái niệm của tổ chức trong chuỗi giá trị đi cùng với các hệ thống vật lý
trong không gian ảo, internet kết nối vạn vật (IoT) và internet của hệ thống và
các dịch vụ (IoS).
Cuộc CMCN 4.0dựa trên những công nghệ xóa nhòa ranh giới giữa các
lĩnh vực vật lý, số hóa và sinh học cả trong đời sống, sản xuất và trong lĩnh vực
giáo dục. Khác với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 3, cuộc CMCN 4.0 có
sự ứng dụng rộng rãi và tốc độ ứng dụng rất nhanh đang tác động và làm biến
đổi mạnh mẽ tới mọi mặt đời sống kinh tế, xã hội, chính quyền, doanh nghiệp, tổ
chức, cá nhân, an ninh… Đối với kinh tế, CMCN 4.0 thay đổi tăng trưởng, việc
làm và bản chất công việc; Đối với chính quyền (thường gọi là chính phủ),
CMCN 4.0 tác động tới chỉ đạo và điều hành trong thời đại số, sự tương tác giữa
chính quyền và người dân; Đối với doanh nghiệp và kinh doanh, CMCN 4.0 tác
động đến kỳ vọng của người tiêu dùng, đến dữ liệu và thông tin sản phẩm, đến
sự hợp tác đổi mới, đến mô hình hoạt động, dịch vụ và mô hình kinh doanh; Đối
với xã hội, CMCN 4.0 có thể sẽ tạo ra sự bất bình đẳng giữa các cộng đồng; Đối
với cá nhân, CMCN 4.0 sẽ làm cho quan hệ giữa người với người, vấn đề đạo
đức, quản lý thông tin cá nhân,… có những thay đổi lớn.
- 2 -
Nhân loại đã và sẽ chứng kiến sự ứng dụng của các công nghệ của CMCN
4.0 trong mọi mặt của đời sống xã hội từ quản lý nhà nước của chính quyền về
tất cả các lĩnh vực, đến quản trị nhà máy; từ quản lý ngôi nhà, bếp ăn của mỗi
gia đình, đến hoạt động của từng cá nhân. Trong cuộc CMCN 4.0, ngành Du lịch
sẽ bị tác động mạnh mẽ và toàn diện. Năm công nghệ chính của CMCN 4.0 tác
động đến ngành Du lịch là: internet kết nối vạn vật; trí tuệ nhân tạo và robot
thông minh; thực tế ảo và thực tế tăng cường; dữ liệu lớn và điện toán đám mây;
và chuỗi khối.
1) Internet kết nối vạn vật (IoT): Khả năng kết nối các thiết bị với internet
và dữ liệu số dựa trên công nghệ điện toán đám mây; các thiết bị có thể tự liên
hệ với nhau, thu thập dữ liệu và giao tiếp với môi trường xung quanh. IoT đã
phát triển vượt qua giới hạn các máy tính, điện thoại thông minh, mở rộng đến
mọi vật.Đối với du lịch, IoT đang tác động mạnh đến cách tương tác của khách
với sản phẩm và cách vận hành nội tại của từng cơ sở cung cấp dịch vụ du lịch.
Thách thức lớn nhất đối với các nhà phát triển công nghệ và hoạch định chính
sách trong du lịch là bảo mật thiết bị; do có quá nhiều thông tin, việc xác định
chính xác những thông tin đáng tin cậy để xử lý cho cả các nhà quản lý, quản trị,
cung cấp dịch vụ du lịch và du khách.
2) Trí tuệ nhân tạo và Robot thông minh: Trí tuệ nhân tạo (AI) là phân
ngành của khoa học máy tính để lập trình thực hiện các nhiệm vụ đòi hỏi trí tuệ
con người trong học tập, nhận thức, giải quyết vấn đề, hiểu ngôn ngữ và suy
luận. Robot thông minh là cầu nối giữa Robot thông thường đảm nhiệm các
nhiệm vụ lặp đi lặp lại đơn giản và AI. Đây là các Robot được điều khiển bởi AI
để thực hiện các nhiệm vụ phức tạp. Công nghệ này tác động mạnh mẽ đến dịch
vụ phục vụ du khách, phân tích dữ liệu và trao đổi thông tin trực tiếp với du
kháchđể dự đoán trước và đáp ứng nhu cầu của họ; có thể đánh giá chất lượng,
phản hồi và tìm ra thông tin có ý nghĩa trong nâng cao sự hài lòng của du khách;
tư vấn và gợi ý ngẫu nhiên từ ứng dụng.
3)Thực tế ảo/Virtual Reality (VR) và Thực tế tăng cường/Augmented
Reality(AR): VR là công nghệ sử dụng kỹ thuật thị giác, hỗ trợ người xem quan
sát và tạo một môi trường nhân tạo dựa trên thực tế và sự tương tác với xung
quanh. AR là công nghệ sử dụng kỹ thuật thị giác dựa trên video thực tế, sau đó
hỗ trợ bằng đồ họa để dễ nhận biết hơn. Nhóm công nghệ này tác động đến du
lịch: Một là thử nghiệm trước khi mua, giúp khách khám phá điểm đến trong
môi trường 3D trước khi lựa chọn; Hai là giúp kiểm tra cơ sở lưu trú, so sánh
trước khi quyết định đặt buồng lưu trú; Ba là giới thiệu đầy đủ các điểm đến;
Bốn là điện thoại thông minh có thể trở thành thiết bị VR giúp khám phá điểm
đến; Năm là kỳ vọng của khách về điểm đến và dịch vụ khi có thông tin đầy đủ
và thử trải nghiệm không gian ảo; và Sáu là điểm đến và dịch vụ sẽ tăng cường
giới thiệu, quảng bá để cạnh tranh.
4)Dữ liệu lớn và Điện toán đám mây: Dữ liệu lớn là khái niệm hình thành
dựa trên sự phát triển của công nghệ điện toán đám mây, hỗ trợ phát triển các
công nghệ số với chi phí và hiệu quả tối ưu. Nhiều dữ liệu được sinh ra hàng
- 3 -
ngày trên môi trường số, được lưu trữchung trên internet tạo thành dữ liệu lớn,
thúc đẩy khoa học tổng hợp, phân tích dữ liệu với các mục đích khác nhau.
Công nghệ này tạo ra thách thức cho ngành Du lịch và khách du lịch là: Khó xác
định và tổng hợp thông tin, kiến thức cần trong số lượng lớn các dữ liệu; Phải
khai báo nhiều thông tin riêng tư nhạy cảm như số thẻ tín dụng, địa chỉ và các
thông tin khác, lo ngại về bảo mật thông tin; và do đó dễ bị tấn công. Tuy nhiên,
công nghệ này có ưu điểm là nhanh và linh hoạt do có nhiều kho lưu trữ ảo,
chuyển đổi nhanh chóng từ cơ sở dữ liệu này sang cơ sở dữ liệu khác; giá cả phù
hợp do dữ liệu lớn có thể được lưu trữ ở những kho dữ liệu riêng, tách biệt; và
phân tích dữ liệu thuận lợi do điện toán đám mây làm quá trình xử lý thông tin
trong du lịch đơn giản và nhanh hơn.
5) Chuỗi khối (Blockchain): Là cơ sở dữ liệu phân cấp lưu trữ thông tin
trong các khối thông tin được liên kết với nhau bằng mã hóa và mở rộng theo
thời gian. Mỗi khối thông tin đều chứa thông tin về thời gian khởi tạo và liên kết
với khối trước đó, kèm mã thời gian và dữ liệu giao dịch. Nó được thiết kế để
chống lại sự thay đổi dữ liệu, khi đã được mạng lưới chấp nhận thì không có
cách nào thay đổi được.Chuỗi khốicó thể coi là “Sổ cái” tạo ra nguồn thông tin
tin cậy cho các chủ thể tham gia.
2. Những vấn đề đặt ra cho phát triển nguồn nhân lực du lịch
a. Những vấn đề đặt ra cho ngành Du lịch:
Vấn đề nổi bật đặt ra cho ngành Du lịch trong CMCN 4.0 là kết nối giữa
các chủ thể du lịch. Du khách và các nhà cung cấp du lịch kết nối với nhau trên
nền tảng số, nên rất cần sự tham gia tích cực của chủ thể phát triển điểm đến du
lịch và cơ quan quản lý nhà nước về du lịch. Cơ quan quản lý nhà nước về du
lịch thông tin về điểm đến; hướng dẫn các quy định, chính sách du lịch; phát
triển và định hướng các ứng dụng; quản lý, điều phối và hỗ trợ các chủ thể du
lịch. Trong khi đó,cơ quan quản lý điểm đến phải cung cấp thông tin số; cung
cấp sản phẩm số; phát triển các ứng dụng số; tập hợp ý kiến và phản hồi thông
tin số.CMCN 4.0 tác động đến Du lịch Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực: Quản
lý điểm đến; Thông tin và marketing du lịch; Kinh doanh du lịch; Phát triển
nguồn nhân lực; và Hỗ trợ doanh nghiệp, hoạch định chính sách phát triển du
lịch.
Nhìn chung, CMCN 4.0 mang lại nhiều thách thức và cơ hội lớn đan xen,
tác động nhiều chiều đến ngành Du lịch Việt Nam. Thách thức nổi bật là: Du
lịch Việt Nam phải thích ứng kịp thời với sự thay đổi hành vi của khách; Giảm
sự tập trung khách; Tạo ra giá trị gia tăng số; Đảm bảo an ninh, an toàn; và Phải
cung cấp thông tin và tương tác hiệu quả với khách du lịch. Trong khi đó ngành
Du lịch cũng có cơ hội trong quản lý điểm đến du lịch, trong thông tin và
marketing du lịch, trong kinh doanh du lịch, trong phát triển nguồn nhân lực và
hỗ trợ doanh nghiệp.
Trong bối cảnh đó, Du lịch Việt Nam bộc lộ những điểm yếu là: Chính
sách phát triển du lịch trong CMCN 4.0 còn hạn chế; Nhận thức về CMCN 4.0
chưa đầy đủ; Chưa có mã hóa số cung ứng toàn cầu; Số hóa chưa đồng bộ toàn
- 4 -
quốc; Nguồn nhân lực CMCN 4.0 hạn chế; và Chất lượng môi trường cạnh tranh
chưa phù hợp. Nhưng, Du lịch Việt Nam có những thuận lợi và điểm mạnh như:
Kiến tạo và hỗ trợ tích cực của chính phủ; Ngành Du lịch đã hội nhập quốc tế
sâu và toàn diện; Nhận thức toàn ngành về CMCN4.0 đã chuyển biến và đã có
những ứng dụng một số công nghệ của CMCN 4.0; Việt Nam là điểm đến hấp
dẫn và tăng trưởng mạnh…
b. Những vấn đề đặt ra cho nguồn nhân lực du lịch và phát triển nguồn
nhân lực du lịch Việt Nam:
Cuộc CMCN 4.0 đã, đang và sẽ làm thay đổi nhanh chóng cơ cấu lao
động và thị trường lao động du lịch. Tuy hoạt động du lịch rất khó cơ giới hóa
và tự động hóa, nhưng 5 công nghệ của cuộc CMCN 4.0 sẽ thay thế dần lao
động sống, nhất là lao động thủ công trong toàn bộ dây chuyền của hoạt động du
lịch, máy móc và trí tuệ nhân tạo thay thế sức người, nhu cầu sử dụng nguồn
nhân lực du lịch chất lượng cao tăng lên trong khi nhu cầu sử dụng lao động
năng lực thấp ngày càng giảm. Điều này sẽ tạo áp lực lớn đối với thị trường lao
động du lịch Việt Nam, sẽ phải đối mặt với tình trạng dư thừa lao động và gia
tăng thất nghiệp.
CMCN 4.0 có thể tạo ra nguy cơ phá vỡ thị trường lao động du lịch. Khi
tự động hóa thay thế con người trong hoạt động du lịch, lao động sẽ dư thừa và
làm trầm trọng khoảng cách giữa lợi nhuận với đồng vốn và sức lao động.
Nhưng cũng phải khẳng định rằng: công việc an toàn và thu nhập du lịch sẽ cao
hơn có thể gia tăng khi công nghệ thay thế dần con người. Trong tương lai gần,
nguồn nhân lực du lịch, chứ không phải nguồn vốn tài chính, sẽ trở thành nhân
tố cốt lõi, quyết định của ngành Du lịch. Điều đó tạo nên sự gia tăng trong thị
trường việc làm du lịch và thị trường lao động du lịch ngày càng phân hóa thành
hai nhóm: Nhóm năng lực thấp thì lương thấp và nhóm năng lực cao thì lương
cao. Lao động giá rẻ không còn là lợi thế cạnh tranh của các thị trường mới nổi
như Việt Nam. Cuộc CMCN 4.0 không chỉ đe dọa việc làm của lao động du lịch
trình độ thấp mà ngay cả lao động du lịch có kỹ năng bậc trung cũng bị ảnh
hưởng, nếu như họ không được trang bị những kỹ năng mới - kỹ năng sáng tạo
cho du lịch trong bối cảnh tác động đa chiều của CMCN 4.0.
Đến nay, Du lịch Việt Nam hoạt động chủ yếu dựa nhiều sử dụng lao
động giá rẻ và khai thác tài nguyên du lịch có sẵn; năng lực thực hiện của nguồn
nhân lực du lịch, nhất là nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao, chưa phải đã
cao. Đây là một trong những thách thức lớn nhất khi phát triển ngành Du lịch trở
thành ngành kinh tế mũi nhọn trong thời đại 4.0. Mặc dù đang ở trong thời kỳ cơ
cấu “dân số vàng”, thời kỳ mà dân số trong độ tuổi lao động cao nhất (Theo số
liệu của Cục Việc làm, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội: Năm 2018, lực
lượng lao động của cả nước đạt khoảng 55,16 triệu người, chiếm khoảng
56,91% tổng dân số, ước tính đến 31/12/2018 là 96.963.958 người), nhưng
nguồn nhân lực du lịch Việt Nam, nhất là nguồn nhân lực du lịch chất lượng
cao, thiếu hụt về số lượng, hạn chế về chất lượng, bất cập về cơ cấu và các điểm
yếu này càng bộc lộ rõ hơn trong CMCN 4.0.
- 5 -
Công tác quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực du lịch trong bối
cảnh hội nhập quốc tế sâu, rộng và tác động của CMCN 4.0 ngày càng thể hiện
sự bất cập.Định hướng chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển nguồn nhân
lực du lịch chưa cụ thể, còn manh mún và thiếu đồng bộ.Công tác dự báo nhu
cầu nguồn nhân lực du lịch, nhất là nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao,
mangtính dài hạn cho phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn cũng
hạn chế.Cơ cấu giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp du lịchtheo ngành,
nghề, trình độ, vùng miền, độ tuổi, giới tính chưa được quy hoạch lâu dài. Các
cơ sở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp du lịch không đủ thông tin về
cầu - cung trên thị trường lao động du lịch nên không khỏi “mò mẫm” trong xây
dựng chương trình cụ thể cho ngành, nghề, cho xác định chỉ tiêu và trình độ đào
tạo hằng năm được sát với thực tế.
Việc tuyển dụng, sử dụng nguồn nhân lực du lịch chưa theo nguyên tắc
đúng người, đúng việc, đúng chuyên môn. Việc đãi ngộ lao động, thu hút và giữ
chân người tài trong du lịch, nhất là nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao, cũng
chưa tương xứng với tiềm năng và sức sáng tạo của họ. Hiện tượng mất nhân tài
du lịch ở nhiều vị trí không thể tránh khỏi. Con số thiệt hại sẽ không hề nhỏ khi
nguồn nhân lực du lịch năng lực cao “nhảy việc” chiếm một tỷ trọng khá lớn và
ngày càng tăng.
3. Định hướng, quan điểm và giải pháp phát triển nguồn nhân lực du
lịch thích ứng với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư
a. Định hướng và quan điểm phát triển nguồn nhân lực du lịch thích
ứng với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư:
1) Định hướng: Do tác động của CMCN 4.0 đến du lịch, rõ nhất là đến
phát triển nguồn nhân lực du lịch, đặc biệt là nguồn nhân lực du lịch chất lượng
cao, rất nhiều chiều, nên phải tập trung nguồn lực để có được nguồn nhân lực du
lịch đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng và hợp lý về cơ cấu thích ứng tốt
nhất với cuộc CMCN 4.0; Là một nhiệm vụ xuyên suốt của ngành Du lịch trong
trước mắt và lâu dài, đi đầu làm nòng cốt trong sự nghiệp phát triển nguồn nhân
lực của các cấp, các ngành; Làm tốt việc phát triển nguồn nhân lực du lịch, nhất
là nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao, thích ứng cao với cuộc CMCN 4.0 để
sớm đưa du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước.
2) Quan điểm:Một là Lấy khách hàng làm trung tâm; Hai là Đảm bảo chữ
tín, tôn trọng pháp luật quốc gia và quốc tế; Ba là Đề cao yếu tố con người ở tất
cả các khâu trong phát triển nguồn nhân lực; Bốn là Khai thác tối đa yếu tố hiện
đại nhưng không quên truyền thống trong phát triển nguồn nhân lực du lịch;
Năm là Nâng cao tính chuyên nghiệp và chất lượng dịch vụ giáo dục đại học và
giáo dục nghề nghiệp du lịch; và Sáu là Khai thác và sử dụng hợp lý các nguồn
lực với phương châm “kết hợp hài hòa công tư bền vững” cho phát triển nguồn
nhân lực du lịch, để theo kịp và thích ứng tốt nhất với cuộc CMCN 4.0.
- 6 -
b. Giải phápphát triển nguồn nhân lực du lịch thích ứng với cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư:
1) Nâng cao nhận thức về CMCN 4.0: Nâng cao nhận thức của toàn ngành
Du lịch, của các cấp, các ngành và toàn xã hội về CMCN 4.0 trong du lịch và
trong phát triển nguồn nhân lực du lịch. Xác định cuộc CMCN 4.0 tác động tất
cả các lĩnh vực trong du lịch, trong đó có phát triển nguồn nhân lực du lịch; tạo
ra thách thức lớn, cơ hội không nhỏ và đan xen, chuyển hóa lẫn nhau, tạo nhiều
việc làm và nhu cầu phát triển nhân lực lớn hơn, cao hơn và tạo động lực cho
các lĩnh vực khác của toàn ngành Du lịch; có hiệu quả nhiều mặt về kinh tế, văn
hóa xã hội, chính trị, đối ngoại và an ninh, quốc phòng. Phải làm cho toàn ngành
Du lịch và các ban, ngành các cấp liên quan đổi mới tư duy phát triển nguồn
nhân lực một cách thông minh, nhất quán từ quan điểm, mục tiêu, đến chương
trình hành động.
Xác định rõ phát triển nguồn nhân lực du lịch trong thời đại CMCN 4.0 là
một nhu cầu cấp thiết, tuân thủ quy luật thị trường, phải có thể chế, chính sách
phù hợp để đáp ứng yêu cầu thích ứng với CMCN 4.0 của ngành Du lịch Việt
Nam, trong đó có sự nghiệp phát triển nguồn nhân lực du lịch, nhất là phát triển
nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao, để theo kịp và không bị bật ra ngoài lề,
không bi bỏ lại phía sau của sự phát triển du lịch theo xu hướng chung của khu
vực và toàn thế giới. Cần làm tốt công tác giáo dục, tuyên truyền, tạo sự chuyển
biến mạnh mẽ về nhận thức của các cấp, các ngành và mỗi người dân về vị trí,
tầm quan trọng, mục tiêu, nội dung và phương hướng phát triển nguồn nhân lực
du lịch của đất nước dưới tác động của cuộc CMCN 4.0 hiện nay và trong tương
lai. Xác định rõ đây là nhiệm vụ chính trị trọng tâm của cả hệ thống chính trị,
các cấp, các ngành và toàn xã hội, mà ngành Du lịch với vai trò nòng cốt, trong
nghiên cứu, hoạch định và tổ chức thực hiện chiến lược, chính sách, quản lý nhà
nước về phát triển du lịch, trong đó có phát triển nguồn nhân lực du lịch, dưới
tác động của CMCN 4.0. Toàn xã hội, từng người dân, mọi doanh nghiệp, cơ
quan, tổ chức liên quan đến hoạt động du lịch và bản thân nguồn nhân lực du
lịch cần hiểu biết đầy đủ và sâu sắc về CMCN 4.0 và tác động của nó đến du
lịch.
Chỉ có nhận thức đầy đủ và đúng đắn về phát triển nguồn nhân lực du lịch
trong bối cảnh hội nhập quốc tế và tác động của CMCN 4.0 thì mới có cách ứng
xử, có định hướng và tư duy phát triển phù hợp. Từ đó xác định trách nhiệm
chung, trách nhiệm mỗi người trong giáo dục du lịch cộng đồng, trong hướng
nghiệp, giáo dục nghề nghiệp và đại học du lịch để tạo nguồn, tuyển chọn, bố trí,
sử dụng hợp lý, đãi ngộ, thu hút và giữ chân nhân tài du lịch. Dứt khoát không
được chủ quan, xem nhẹ sự tác động của CMCN 4.0 trong phát triển nguồn nhân
lực du lịch, nhưng cũng không tự ti, mặc cảm, phải xuất phát từ cái có sẵn để
vươn lên. Tăng cường quảng bá để nâng cao nhận thức của thế hệ trẻ, thu hút
sinh viên vào học các ngành khoa học và công nghệ liên quan đến du lịch; nuôi
dưỡng tài năngtrẻ phục vụ đắc lực cho phát triển nguồn nhân lực du lịch để phát
triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn trong thời đại CMCN 4.0 và hội nhập
quốc tế sâu rộng.
- 7 -
2) Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược phát triển nguồn nhân lực du
lịch trong bối cảnh hợp tác quốc tế và cách mạng công nghiệp 4.0:Đây là nhóm
giải pháp mang tính “rà soát”, “dự báo” và “đề xuất” phương án, giải pháp phát
huy nguồn lực cho phát triển nguồn nhân lực ít nhất 10 năm tới. Thực hiện tốt
nhóm giải pháp này sẽ góp phần khắc phục căn bản tình trạng thiếu hụt về số
lượng, hạn chế về chất lượng, bất hợp lý về cơ cấu nguồn nhân lực du lịch, nhất
là nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao. Mặc dù “Quy hoạch phát triển nhân
lực du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” đã được phê duyệt
và đang triển khai thực hiện, thu được những kết quả tích cực ban đầu, nhưng
bối cảnh và điều kiện thực hiện, nhất là bối cảnh hội nhập quốc tế và tác động
của CMCN 4.0, đã thay đổi rất nhiều; đồng thời thời gian thực hiện chỉ còn một
năm (2019). Vì vậy phải triển khai ngay xây dựng một chiến lược tổng thể để
phát triển nguồn nhân lực du lịch, trong đó có nguồn nhân lực du lịch chất lượng
cao, đáp ứng yêu cầu của cuộc CMCN 4.0và thực hiện mục tiêu của Nghị quyết
số 08/NQTW ngày 16/01/2017 của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn.
Đây là một nhiệm vụ rất quan trọng và phức tạp, đòi hỏi cần phải được
nghiên cứu kỹ lưỡng, thận trọng với một tư duy đột phá và tầm nhìn lâu dài, phù
hợp với thực tiễn.Chiến lược này phải xác định rõ mục tiêu, quy mô, lộ trình và
những chính sách, cơ chế tổng thể phát triển nguồn nhân lực du lịch. Trong đó,
chiến lược phải ưu tiên khắc phục mâu thuẫn giữa phát triển về số lượng, chất
lượng và cơ cấu; xác định quy mô, số lượng và cơ cấu của từng nhóm nhân lực
du lịch (nhân lực quản lý nhà nước; nhân lực nghiên cứu, đào tạo, truyền thông;
nhân lực quản trị kinh doanh; và nhân lực trực tiếp phục vụ du khách) cho phù
hợp. Chiến lược ấy phải có lộ trình thực hiện hợp lý, có tính dự báo cao, xây
dựng và hoàn thiện chính sách, cơ chế đặc thù và đặt trong dự báo các rủi ro có
thể xảy ra do biến động của điều kiện thực hiện, nhất là những biến động do
cuộc CMCN 4.0 mang lại, để phát triển nguồn nhân lực du lịch một cách toàn
diện, đồng bộ và bền vững.
3) Đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính sách, cơ chế phát triển nguồn nhân
lực du lịch:Thiết kế mô hình phát triển chung thống nhất, định hướng các hoạt
động du lịch, trong đó có hoạt động phát triển nguồn nhân lực du lịch, trên cơ sở
hợp tác công tư để thích ứng CMCN 4.0. Mô hình ấy được vận hành bởi hệ
thống chính sách, cơ chếphát triển nguồn nhân lực du lịch thông minh, có vai trò
rất quan trọng, tác động trực tiếp hoặc gián tiếp, tạo động lực thúc đẩy hoặc
giảm lực cản kìm hãm sự phát triển của du lịch nói chung và phát triển nguồn
nhân lực du lịch nói riêng.
Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách, cơ chếtác động tích cực
đến phát triển nguồn nhân lực.Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, một số chính
sách, cơ chế bộc lộ những bất cập, hiệu quả chưa cao. Do đó, để tiếp tục phát
triển nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực du lịch nói riêng có hiệu quả,
đòi hỏi cần phải điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện nhằm tạo hành lang pháp lý
thuận lợi cho việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trước tác động của
cuộc CMCN 4.0.
- 8 -
Những chính sách vĩ mô phát triển nguồn nhân lực, trong đó có nguồn
nhân lực du lịch, cần rà soát, sửa đổi, bổ sung bao gồm: Chính sách về giáo dục
- đào tạo; chính sách bảo vệ - chăm sóc sức khoẻ nguồn nhân lực; chính sách
phát triển thể chất và tầm vóc con người Việt Nam; chính sách phát triển thể dục
thể thao quần chúng (còn gọi là thể dục thể thao cho mọi người); và chính sách
về lao động và việc làm; chính sách bảo hiểm xã hội cho nguồn nhân lực, trong
đó có nguồn nhân lực du lịch.
Bên cạnh đó phải chú trọng đổi mới những chính sách cơ bản về phát
triển nhân lực du lịch gồm: Một là Chính sách phát triển du lịch với những mục
tiêu, định hướng phát triển ngành Du lịch theo ngành, lãnh thổ liên quan đến số
lượng, chất lượng, cơ cấu nguồn nhân lực du lịch và nguồn nhân lực du lịch chất
lượng cao; với những quy định cụ thể về những tiêu chuẩn nghề nghiệp du lịch,
tiêu chuẩn định mức kinh tế - kỹ thuật du lịch, chương trình đào tạo, dạy nghề,
huấn luyện và bồi dưỡng chuyên ngành du lịch; Hai là Chính sách xác định quy
chuẩn về cơ sở vật chất kỹ thuật; về chương trình đào tạo, dạy nghề, huấn luyện
và bồi dưỡng du lịch; về tiêu chuẩn giảng viên, giáo viên, đào tạo viên và chế độ
với giáo viên, giảng viên, đào tạo viên, cán bộ quản lý đào tạo, dạy nghề và học
viên, học phí; quy định tuyển sinh, tốt nghiệp...; Ba là Chính sách thu hút và sử
dụng nhân tài du lịch với những quy định chế độ làm việc, điều tiết quan hệ và
điều kiện lao động, đãi ngộ, bảo hiểm, tiền lương, tiền thưởng...; Bốn là Chính
sách đặc thù phát triển nhân lực ở các lĩnh vực và khu vực lãnh thổ đặc biệt như
chính sách phát triển nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao trong khu vực quản
lý nhà nước về du lịch, trong khu vực khoa học - công nghệ du lịch; chính sách
phát triển, thu hút, đãi ngộ nhân tài du lịch; chính sách phát triển đội ngũ doanh
nhân du lịch; chính sách phát triển nhân lực du lịch ở vùng sâu, vùng xa có điều
kiện kinh tế - xã hội khó khăn, nhưng lại có điều kiện thuận lợi trong phát triển
du lịch, vùng dân tộc thiểu số,...
Việc sửa đổi, bổ sung hoàn thiện và đổi mới chính sách, cơ chế để tạo
động lực cho sự phát triển nguồn nhân lực du lịch trong bối cảnh hội nhập quốc
tế và CMCN 4.0 cần được thực hiện đồng bộ trên nhiều phương diện. Đặc biệt,
trong thời đại CMCN 4.0, các nhà lãnh đạo, quản lý du lịch, quản trị kinh doanh
du lịch cần mạnh dạn sử dụng nguồn nhân lực du lịch trẻ chất lượng cao; lôi
cuốn họ nỗ lực áp dụng kiến thức chuyên môn được đào tạo và tích lũy thông
qua những chính sách sử dụng, đãi ngộ hợp lý trên cơ sở tài năng, đi đôi với tôn
vinh nhân tài kèm theo cơ chế khuyến khích lợi ích vật chất trên cơ sở cống hiến
mang lại lợi ích thiết thực cho cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, toàn Ngànhvà xã
hội.
Đảng ta đã xác định: “Hoàn thiện thể chế về phát triển, ứng dụng khoa
học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực
chất lượng cao” và “Phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn”. Vì vậy
cần tiếp tục đổi mới thể chế, hoàn thiện môi trường pháp lýthuận lợi trong phát
triển nguồn nhân lực du lịch; khuyến khích phát triển thị trường lao động du
lịch, nhất là phân khúc nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao; thị trường và sản
phẩm khoa học - công nghệ phục vụ du lịch theo hướng hội nhập; xây dựng môi
- 9 -
trường pháp lý cho phát triển các ngành, nghề kinh doanh du lịch mới ở Việt
Nam nảy sinh từ cuộc CMCN 4.0.
Nhà nước cần có chính sách thỏa đáng để tạo nguồn lực và khai thác có
hiệu quả nguồn lực mới, nhất là trong du lịch với vai trò ngành kinh tế mũi
nhọn; nâng cao chất lượng hoạt động của các vườn ươm công nghệ và doanh
nghiệp công nghệ cao; có chính sách hỗ trợ hình thành và phát triển các vườn
ươm khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trong các cơ sở giáo dục đại học và giáo dục
nghề nghiệp về công nghệ lồng ghép với đào tạo chuyên ngành du lịch, đẩy
mạnh hợp tác quốc tế trong nghiên cứu phát triển và chuyển giao công nghệ phát
triển nguồn nhân lực du lịch trong bối cảnh CMCN 4.0. Ưu tiên tài trợ cho các
tổ chức, cá nhân có công trình khoa học - công nghệ xuất sắc ứng dụng các công
nghệ và thành tựu của cuộc CMCN 4.0 phục vụ phát triển du lịch nói chung và
phát triển nguồn nhân lực du lịch nói riêng.
4) Đẩy mạnh hợp tác quốc tế, trước tiên là áp dụng tiêu chuẩn kỹ năng
nghề du lịch trong đào tạo theo tiêu chuẩn ASEAN:Trong bối cảnh hội nhập
quốc tế sâu rộng và tác động đa chiều với tốc độ cao của CMCN 4.0, sự nghiệp
phát triển nguồn nhân lực du lịch Việt Nam phải tích cực chủ động đẩy mạnh
hợp tác quốc tế để có thêm nguồn lực tài chính và kinh nghiệm, công nghệ trong
tất cả các khâu phát triển nguồn nhân lực du lịch. Trước tiên phải hội nhập thị
trường lao động du lịch trong khu vực bằng việc thực hiện Thỏa thuận Thừa
nhận lẫn nhau về các nghề du lịch trong ASEAN (MRA-TP). Áp dụng tiêu
chuẩn kỹ năng nghề du lịch trong đào tạo theo tiêu chuẩn ASEAN thực chất là
chuyển đổi chương trình, nội dung đào tạo theo tiêu chuẩn về kiến thức, kỹ
năng, thái độ được quy định trong MRA-TP của ASEAN, với các nội dung: Một
là Rà soát, xác định chuẩn đầu ra cho từng nghề đã công bố nhằm xác định
chính xác các tiêu chí đã đặt ra, nhất là các tiêu chí về kiến thức, kỹ năng đối với
khối chuyên ngành đáp ứng mục tiêu đào tạo cụ thể đối với từng nghề; Hai là
Thiết kế chương trình đào tạo, dạy nghề du lịch tiếp cận theo chuẩn đầu ra -
năng lực cốt lõi của mỗi vị trí việc làm gắn với thị trường lao động du lịch.
Đồng thời, hướng đến tính “mở”, “linh hoạt”, phù hợp cho việc áp dụng vào
từng đối tượng, địa chỉ cụ thể; Ba là Biên soạn chương trình môn học, bài giảng,
giáo trình, các học phần/môn học/mô-đun theo hướng tích hợp giữa lý thuyết và
thực hành. Trong đó, thời lượng dành cho phần thực hành chiếm tỷ lệ từ 70-75%
tổng thời gian học tập; từng bước số hóa bài giảng, mô phỏng thực hành nghề để
hình thành cơ sở dữ liệu bài giảng điện tử nhằm hiện đại hóa công tác dạy và
học, tiến tới hình thành cơ sở dữ liệu bài giảng điện điện tử, tài nguyên xây dựng
bài giảng điện tử hỗ trợ cho giảng dạy các nghề; Bốn là Thay đổi phương pháp
dạy của giảng viên/giáo viên, cách học của học sinh, sinh viên và học viên theo
hướng tích cực, chủ động. Nội dung bài giảng phải được thiết kế mang tính trực
quan, sinh động và cụ thể với các mẫu, phiếu, biểu, hình ảnh, phim…gắn với
thực tế nghề nghiệp, gắn với từng doanh nghiệp du lịch; Năm là Thay đổi
phương pháp kiểm tra, đánh giá cuối kỳ trên cơ sở đánh giá “năng lực”, gồm cả
3 yêu cầu: kỹ năng, kiến thức, thái độ, thay vì thi viết, người học được thi thực
hành và vấn đáp để kiểm tra “năng lực” đã học. Tập trung chủ yếu vào việc đánh
- 10 -
giá “năng lực” chuyên môn nghiệp vụ và giao tiếp ngoại ngữ, sử dụng tin học.
Đây chính là cách đánh giá rất sát thực với lực học của người học; Sáu là Gắn
kết cơ sở giáo dục du lịch(cả giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp du lịch)
với doanh nghiệp du lịch trong đào tạo, thực hành, thực tập của học sinh, sinh
viên, học viên và kiến tập của giáo viên, giảng viên du lịch, để tạo thu hẹp
khoảng cách giữa đào tạo và sử dụng lao động sau tốt nghiệp; Bảy là đầu tư xây
dựng thư viện điện tử, hệ thống đào tạo trực tuyến; khuyến khích các cơ sở giáo
dục đại học và giáo dục nghề nghiệp du lịch xây dựng phòng học đa phương
tiện, phòng chuyên môn hóa; hệ thống thiết bị ảo mô phỏng, thiết bị thực tế ảo,
thiết bị dạy học thuật và các phần mềm ảo mô phỏng thiết bị dạy học thực tế
trong dạy học.
5) Tăng cường hợp tác công tư, đẩy mạnh liên kết Nhà nước - Nhà trường
- Nhà doanh nghiệp du lịch trong phát triển nguồn nhân lực du lịch:
- Đối với Nhà nước: Tăng cường năng lực hoạch định chính sách, hình
thành khung pháp lý và cơ chế cho phát triển nhân lực du lịch; nâng cao năng
lực của đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước, cán bộ, viên chức đơn vị sự
nghiệp, cán bộ chính quyền địa phương liên quan đến du lịch và các nhà quản trị
du lịch thuộc mọi thành phần kinh tế; chú trọng phát triển đội ngũ cán bộ chuyên
trách về phát triển nguồn nhân lực du lịch; xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng nhân lực du lịch hàng năm; tăng cường kiểm tra, thanh tra liên ngành và
chuyên ngành các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực du
lịch trên từng địa bàn và xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về nguồn nhân lực cho
ngành Du lịch của các tỉnh, thành phốvà cả nước nhằm kết nối hiệu quả giữa tốt
nghiệp sinh đang tìm việc làm với các doanh nghiệp du lịch đang có nhu cầu
tuyển dụng. Trong cuộc CMCN 4.0, Nhà nước cần hiện đại hóa hạ tầng công
nghệ thông tin từ trung ương tới địa phương, phục vụ công tác quản lý nhà nước
về du lịch, về phát triển nguồn nhân lực du lịch và điều hành số lĩnh vực giáo
dục đại học và giáo dục nghề nghiệp du lịch; xây dựng trung tâm tích hợp dữ
liệu phát triển nguồn nhân lực du lịch; trung tâm quản lý, điều hành tổng thể về
giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp, trong đó có giáo dục đại học và giáo
dục nghề nghiệp du lịch; khuyến khích và hỗ trợ đầu tư các thiết bị, hệ thống
thông tin quản lý; ứng dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động quản lý dạy,
học tại các cơ sở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp du lịch.
- Đối với Nhà trường: Lĩnh vực chủ yếu tạo nguồn và có ảnh hưởng quyết
định trực tiếp chất lượng nguồn nhân lực du lịch chính là giáo dục đại học và
giáo dục nghề nghiệp du lịch. Vì vậy, trước tiên cần phát triển mạng lưới cơ sở
đào tạo, bồi dưỡng về du lịch đảm bảo liên kết chặt chẽ và cân đối giữa các bậc
đào tạo, ngành nghề đào tạo, chú trọng mở rộng đào tạo trình độ đại học và sau
đại học tại các cơ sở đào tạo du lịch hiện có, mặt khác mở rộng phát triển giáo
dục nghề nghiệp du lịch. Đầu tư mọi mặt cho các cơ sở giáo dục đại học và giáo
dục nghề nghiệp du lịch, có cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp liên kết với
Nhà trường mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng tại chỗ, tại các cơ sở giáo dục du lịch
công lập, ngoài công lập và các cơ sở có vốn đầu tư của nước ngoài theo quy
định của pháp luật Việt Nam.
- 11 -
Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục, giảng viên, giáo viên
du lịch bằng nhiều hình thức cả ở trong và ngoài nước; thu hút các công chức,
viên chức, các nhà quản lý, các nhà khoa học có trình độ, các doanh nhân, nghệ
nhân, chuyên gia, các công nhân kỹ thuật tay nghề bậc cao tham gia đào tạo du
lịch; đẩy mạnh đào tạo sau đại học về du lịch. Thực hiện chế độ bồi dưỡng luân
phiên về kiến thức chung và kiến thức liên quan đến CMCN 4.0, cho giáo viên,
giảng viên, đào tạo viên và thẩm định viên du lịch. Phát triển chương trình, nội
dung đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch toàn diện đáp ứng các yêu cầu của
ngành và tiêu chuẩn phù hợp với các hệ thống tiêu chuẩn quốc tế để tạo điều
kiện cho hội nhập quốc tế về lao động trong du lịch. Chương trình đào tạo phải
đảm bảo tính liên thông lên trình độ cao hơn và có sự tham gia của các doanh
nghiệp nhằm đảm bảo tính thực tiễn, khả dụng và tiên tiến. Tăng cường cơ sở
vật chất đặc biệt là cơ sở thực hành như: Nâng cấp và đầu tư mới cơ sở vật chất
phục vụ dạy và học, cơ sở thực hành cho phù hợp với thực tế. Tạo điều kiện để
các cơ sở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp du lịch thành lập cơ sở sản
xuất, cơ sở dịch vụ phù hợp ngành nghề đào tạo để học sinh, sinh viên và học
viên có điều kiện thực hành; đồng thời tạo thêm kinh phí đào tạo cho nhà
trường. Tiếp tục đẩy mạnh hợp tác quốc tế để thu hút vốn đầu tư và công nghệ
tiên tiến nước ngoài phục vụ đào tạo nguồn nhân lực du lịch. Mở rộng quan hệ
hợp tác quốc tế trong việc đào tạo, phát triển nguồn nhân lực du lịch, nhất là
nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao, thông qua hợp tác đào tạo, nghiên cứu
học tập trao đổi kinh nghiệm và phối hợp hiệu quả với các dự án đào tạo du lịch
của nước ngoài.
- Đối với Nhà doanh nghiệp du lịch: Doanh nghiệp du lịch là nơi tiếp
nhận và sử dụng nguồn nhân lực du lịch do các cơ sở giáo dục đại học và giáo
dục nghề nghiệp du lịch cung cấp. Do vậy, cần phải phát huy vai trò và nâng cao
trách nhiệm của doanh nghiệp du lịch trong hoạt động đào tạo, nghiên cứu du
lịch bao gồm: Thu hút doanh nghiệp tham gia vào xây dựng tiêu chuẩn kỹ năng
nghề và chương trình, giáo trình đào tạo du lịch; tạo cơ sởthực tập cho học sinh
và sinh viên, kiến tập và chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa học cho giáo
viên, giảng viên du lịch; hỗ trợ kinh phí cho người học, tiếp nhận học sinh, sinh
viên đến thực tập và tiếp nhận tốt nghiệp sinh vào làm việc. Khuyến khích và
chú trọng phát triển các cơ sở đào tạo nhân lực du lịch trong các doanh nghiệp,...
Để thực hiện thắng lợi liên kết 3 nhà, ngoài việc tăng cường quản lý nhà
nước về phát triển nhân lực du lịch, thì việc liên kết đào tạo giữa nhà trường và
doanh nghiệp là rất quan trọng, là trách nhiệm của các bên, là yêu cầu khách
quan của phát triển nguồn nhân lực du lịch, nhất là nhân lực chất lượng cao,
trong bối cảnh hội nhập quốc tế và tác động tốc độ cao, đa chiều của CMCN 4.0
theo nguyên lý giáo dục “Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản
xuất, giáo dục của nhà trường gắn liền với giáo dục của gia đình và giáo dục của
xã hội” và để thực hiện phương châm “Nhà trường đào tạo cái Nhà doanh
nghiệp du lịch và “các nhà” trong xã hội cần chứ không phải đào tạo cái Nhà
trường có”.
- 12 -
6) Số hóa công tác quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực du lịch,
đặc biệt là xây dựng cơ sở dữ liệu về nguồn nhân lực du lịch và phát triển nguồn
nhân lực du lịch:Sử dụng các công nghệ và thành tựu của cuộc CMCN 4.0 để số
hóa công tác quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực du lịch.Xây dựng cơ
sở dữ liệu về nguồn nhân lực du lịch và phát triển nguồn nhân lực du lịch là
công cụ hết sức cần thiết giúp cơ quan quản lý nhà nước, các cơ sở giáo dục đại
học và giáo dục nghề nghiệp du lịch, các doanh nghiệp hoạch định quy hoạch
phát triển du lịch, kế hoạch phát triển kinh doanh và kế hoạch đào tạo nguồn
nhân lực trong cuộc CMCN 4.0. Đồng thời cũng là cơ sở để kết nối hiệu quả
giữa tốt nghiệp sinh đang tìm việc làm với các doanh nghiệp du lịch đang có nhu
cầu tuyển dụng.
Để có cơ sở dữ liệu chính xác, đầy đủ, kịp thời thì: Các cơ sở đào tạo và
các doanh nghiệp du lịch định kỳ hàng năm cung cấp thông tin về số lượng học
sinh, sinh viên tốt nghiệp (số lượng, trình độ, ngành nghề), về hiện trạng nhân
lực và nhu cầu tuyển dụng lao động, nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng tại các doanh
nghiệp để cung cấp cho Sở Du lịch, Sở Văn hóa Thể Thao và Du lịch tại địa
phương, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Tổng cục Du lịch và các cơ quan liên
quan đến phát triển nguồn nhân lực du lịch, cập nhật lên trang web của ngành và
cơ quan. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Tổng cục Du lịch, Sở Du lịch, Sở
Văn hoá, Thể thao và Du lịch chủ trì thực hiện việc điều tra thống kê, đánh giá
tình hình nhân lực du lịch của từng địa phương và toàn quốcvề số lượng, chất
lượng và cơ cấu, thông báo lại cho các doanh nghiệp du lịch và các cơ sở giáo
dục đại học và giáo dục nghề nghiệp du lịch đểcơ sở giáo dục và doanh nghiệp
định hướng đào tạo, thiết kế các chương trình đào tạo, chương trình bồi dưỡng
và đào tạo lại phù hợp.
7) Nâng cao năng lực của nguồn nhân lực làm công tác phát triển nguồn
nhân lực du lịch:Để đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực du lịch trong bối cảnh
hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng và tác động của CMCN 4.0 đang diễn ra
hàng ngày, thì việc nâng cao năng lực nguồn nhân lực (cả kiến thức, kỹ năng và
thái độ) làm công tác phát triển nguồn nhân lực du lịch là khâu then chốt, quyết
định.
Việc trước tiên là Phải xác định đúng và đủ đội ngũ nhân lực này. Nhân
lực tham gia phát triển nguồn nhân lực du lịch ở Việt Nam giai đoạn hiện nay
theo nghĩa hẹp là tất cả những người tham gia vào bộ máy tổ chức phát triển
nguồn nhân lực du lịch của đất nước, gồm: Công chức của bộ máy tổ chức quản
lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực du lịch ở Trung ương; công chức của
bộ máy tổ chức quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực du lịch ở địa
phương; công chức và viên chức của bộ máy tổ chức quản lý về phát triển nguồn
nhân lực du lịch cấp cơ sở; và tất cả viên chức, người lao động của hệ thống các
đơn vị là những đối tượng của quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực du
lịch. Theo nghĩa rộng, có thể coi nhân lực phát triển nguồn nhân lực du lịch là
tất cả những người tham gia vào hệ thống tổ chức bộ máy phát triển nguồn nhân
lực. Toàn thể đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và người lao động làm công
tác phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch thực hiện việc nghiên cứu tham
- 13 -
mưu cụ thể hoá chính sách của nhà nước, hoạch định chính sách và tổ chức thực
hiện các hoạt động phát triển nguồn nhân lực du lịch.
Ở chừng mực nhất định về mức độ chính xác, có thể tính đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức và người lao động làm công tác phát triển nguồn nhân lực
du lịch bao gồm: 1) Công chức trực tiếp phụ trách công tác phát triển nguồn
nhân lực du lịch, trong đó có nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao:Đội ngũ này
bao gồm hai nhóm công chức: Một là nhóm các công chức làm công tác phát
triển nguồn nhân lực và liên quan của cơ quan quản lý nhà nước về du lịch là
cán bộ làm công tác phát triển nguồn nhân lực du lịch của Tổng cục Du lịch, Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch; và hai là nhóm các công chức trực tiếp làm công
tác phát triển nguồn nhân lực du lịch và liên quan của các Sở Du lịch, Sở Văn
hoá, Thể thao và Du lịch ở địa phương; 2) Viên chức trực tiếp làm công tác phát
triển nguồn nhân lực du lịch:Đội ngũ này bao gồm các chuyên gia, giáo viên,
giảng viên, đào tạo viên, thẩm định viên, nghiên cứu viên, hướng dẫn viên, các
nghệ nhân tham gia giảng dạy và cán bộ quản lý đào tạo, dạy nghề, huấn luyện
và bồi dưỡng du lịch. Đây là lực lượng cung cấp dịch vụ tư vấn, kinh nghiệm,
chất xám, thực hiện việc giảng dạy, huấn luyện, bồi dưỡng, nghiên cứu và quản
lý giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp du lịch, trực tiếp tác động vào quá
trình phát triển nguồn nhân lực du lịch chất lượng, nhất là nguồn nhân lực bổ
sung cho đội ngũ nhân lực du lịch trực tiếp hiện đang làm việc trong ngành Du
lịch, nâng cao năng lực cho người học. Đội ngũ chuyên gia, nghiên cứu viên,
giáo viên, giảng viên và cán bộ quản lý đào tạo, dạy nghề du lịch giữ vai trò đặc
biệt quan trọng đối với chất lượng của nguồn nhân lực du lịch và nguồn nhân lực
du lịch chất lượng cao; 3) Nhóm nhân lực gián tiếp làm công tác phát triển nhân
lực du lịch: Bên cạnh 2 nhóm nhân lực trực tiếp này, phải kể đến nhóm nhân lực
gián tiếp phát triển nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao. Nhóm nhân lực này
bao gồm các công chức, viên chức ở các cơ quan quản lý nhà nước mang tính
tổng hợp là các Bộ chuyên ngành liên quan đến quản lý phát triển nguồn nhân
lực nói chung và nhân lực du lịch nói riêng, gián tiếp quản lý hoạt động giáo dục
đại học và giáo dục nghề nghiệp du lịch. Nhóm công chức này làm nhiệm vụ
liên quan đến nhiệm vụ phát triển nhân lực của đất nước, nhưng tác động rất
mạnh đến phát triển nguồn nhân lực du lịch, trong đó có nguồn nhân lực du lịch
chất lượng cao. Họ làm việc ở các Bộ, ngành tổng hợp như Bộ Kế hoạch và Đầu
tư, Bộ Tài chính, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ, Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội…; và 4) Bên cạnh đó cũng cần tính đến các chuyên gia, nghiên
cứu viên, giảng viên, giáo viên, huấn luyện viên, nghệ nhân tham gia giảng dạy,
đào tạo viên, thẩm định viên trong các cơ sở giáo dục đại học và giáo dục nghề
nghiệp khác tham gia đào tạo, dạy nghề du lịch; nhân lực làm nhiệm vụ quản lý,
quản trị phát triển nhân lực ở các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp kinh doanh du
lịch. Cũng phải lưu ý rằng sự phân định nêu trên cũng chỉ mang tính tương đối.
Trong thực tế khó phân biệt và cũng không nên phân định rạch ròi hai nhóm
nhân lực này, vì vai trò của họ không khác nhau bao nhiêu.
Việc thứ hai là Rà soát, đánh giá để có cơ sở tiếp tục thực hiện các hoạt
động đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên hàng năm theo hình thức tập trung hoặc tại
- 14 -
chỗ ở cơ quan, nhà trường và doanh nghiệp(thường gọi là đào tạo bổ túc, tại
chức) ở các cấp trình độ, chuyên ngành khác nhau, cập nhật kiến thức, nhất là
kiến thức liên quan đến CMCN 4.0 và tác động của nó đến lĩnh vực công tác của
các nhóm nhân lực.
Việc thứ ba là Các cơ quan nhà nước chủ quản ở các bộ, ngành, địa
phương, các nhà trường, viện nghiên cứu và các doanh nghiệp du lịch cần lập kế
hoạch đào tạo, định hướng đào tạo, bồi dưỡng, thiết kế các chương trình đào tạo
phù hợp để nâng cao nghiệp vụ cho nhân lực phát triển nguồn nhân lực du lịch
của mình.
Việc thứ tư là Tăng cường chính sách khuyến khích phát triển nguồn nhân
lực, xã hội hóa công tác giáo dục và đào tạo du lịch, tạo điều kiện để các cơ
quan nhà nước chủ quản ở các bộ, ngành, địa phương, các nhà trường, viện
nghiên cứu và các doanh nghiệp du lịch, doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh
vực dịch vụ du lịch tự đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch, nhất là nguồn nhân
lực du lịch chất lượng cao.
Việc thứ năm là Chuẩn hóa nguồn nhân lực, phát triển nguồn nhân lực du
lịch trên cơ sở chức danh nghề nghiệp, gắn với vị trí việc làm. Trong hội nhập
quốc tế và CMCN 4.0, đội ngũ này phải có đủ năng lực làm việc trong môi
trường sáng tạo cao và tự chịu trách nhiệm. Do vậy, cần căn cứ tiêu chuẩn công
chức, viên chức để tuyển dụng, sử dụng và đào tạo, bồi dưỡng (cả trong nước và
ngoài nước) để đáp ứng được yêu cầu công việc; đồng thời có cơ chế sàng lọc để
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực làm công tác phát triển nguồn nhân lực du
lịch và hiệu quả công tác./.
- 15 -
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
1. Ban Thư ký ASEAN, (2016) Thỏa thuận lẫn nhau về các nghề du lịch
(MRA-TP).
2. Ban Tuyên giáo Trung ương: Tài liệu nghiên cứu các Văn kiện Hội nghị lần
thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, Nxb. Chính trị quốc
gia - Sự thật, Hà Nội, 2017.
3. Nguyễn Đình Bắc, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng, (5/2018)Phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta trước tác động của cách mạng
công nghiệp lần thứ tư.
4. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội: Bản tin thị trường lao động, số 13,
Quý I/2017.
5. Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, (2011) Quy hoạch phát triển nguồn nhân
lực du lịch giai đoạn 2011 - 2020, Hà Nội.
6. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, (2016), Đề án “Đổi mới và nâng cao
chất lượng GDNN giai đoạn 2016-2020”.
7. Phan Văn Ca (2016), Vai trò của IOT trong CMCN lần thứ 4.
8. Nguyễn Văn Lưu, (2013) Phát triển nguồn nhân lực du lịch - Yếu tố quyết
định phát triển du lịch bền vững, Nxb Văn hóa - Thông tin.
9. Đàm Quang Minh - Phạm Hiệp: “Cách mạng công nghiệp 4.0 và nguy cơ
“thua trắng” của đại học truyền thống”, Báo Tuổi trẻ điện tử,7-9-2016.
10. TS. Nguyễn Hồng Minh: “CMCN 4.0 và những vấn đề đặt ra cho hệ thống
giáo dục nghề nghiệp hiện nay”, Tạp chí Khoa học dạy nghề, số 40+41 tháng
1+2-2017.
11. Kaus Schwab, (2016) Cách mạng công nghiệp 4.0, Diễn đàn kinh tế thế giới
tại Davos Thụy Sĩ, tháng 1/2016.
12. Nguyễn Thái (2016), Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Thụy sĩ.
13. Thủ tướng Chính phủ (2014), Quyết định phê duyệt Đề án “Ứng dụng
CNTT trong quản lý hoạt động dạy và học nghề đến năm 2020”
14. Đường Vinh Sường: “Giáo dục đào tạo với phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 4-12-
2014Alvin Toffler: Làn sóng thứ ba, Nxb Thanh Niên, 1993.
- 16 -
Top Related