0
PHẬT THUYẾT
PHẬT ĐỈNH TÔN THẮNG ĐÀ LA NI KINH
1
(Kinh số 971 trích trong Đại chính tân tu tạng kinh)
Đại Đường Tam tạng Sa môn Nghĩa Tịnh phụng chế dịch
Dịch Hán-Việt: Ratnasiddhārthadhyāna
Tôi nghe như vậy: Một thời, Đức Thế Tôn ngự tại
thành Thất La Phiệt, vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kì Đà(1)
,
cùng với chúng đại Tì kheo một nghìn hai trăm năm mươi
vị, chúng Bồ Tát Ma ha tát một vạn hai nghìn vị. Bấy giờ,
trong Thiên chúng cõi Tam thập tam có một vị Thiên tử tên
Thiện Trụ(2)
, cùng với các vị Thiên tử và Thiên nữ vây
quanh trước sau, hưởng thụ cảnh tôn quý, dạo chơi vui vẻ,
đủ các loại Thiên nhạc cùng nhau đàn tấu vui vẻ, vô cùng
an vui.
Bấy giờ, Thiện Trụ lúc buổi đêm nghe có tiếng nói:
“Thiện nam tử, bảy ngày tới mệnh ngươi chắc chắn hết, sau
khi chết rồi sinh cõi Nam thiệm bộ châu, trở về thân súc
vật, rồi đoạ địa ngục, ra khỏi địa ngục khó được làm người,
sinh vào nhà hèn hạ, ở trong thai mẹ không có hai mắt.”
Thiên tử Thiện Trụ nghe xong lời ấy, lông trên người dựng
đứng, vô cùng kinh hãi, lo buồn không yên, hoảng hốt
tuyệt vọng, liền nhanh chóng đến chỗ Đế Thích(3)
, khóc lóc
kêu thương, đỉnh lễ hai chân Thiên Đế, rồi bạch Thiên Đế
rằng:
- Xin nguyện Thiên Tôn lắng nghe lời con nói. Con
cùng chư vị Thiên nữ đang vây quanh, lúc đang vui hưởng
khoái lạc thì nghe thấy tiếng này: “Thiên tử Thiện Trụ, bảy
ngày tới mệnh ngươi chắc chắn hết, sau khi chết rồi sinh
cõi Nam thiệm bộ châu, trở về thân súc vật, rồi đoạ địa
ngục, ra khỏi địa ngục khó được làm người, sinh vào nhà
hèn hạ, ở trong thai mẹ không có hai mắt.” Làm sao khiến
con được thoát khổ nạn này?
2
Bấy giờ, Thiên Đế Thích nghe Thiện Trụ nói rồi, vô
cùng kinh ngạc, tập trung quán xét về việc bảy ngày nữa
Thiện Trụ sẽ chịu thân ác thú. Trong giây lát an trụ, tập
trung quán chiếu, liền thấy Thiện Trụ trong bảy ngày tới sẽ
chịu thân ác thú – chó lợn, dã can(4)
, di hầu(5)
, mãng xà, kên
quạ – ăn đồ bẩn thỉu tanh tưởi. Bấy giờ, Đế Thích quán
chiếu Thiện Trụ trong bảy ngày sẽ đoạ ác đạo rồi, vô cùng
xót thương, khởi tâm từ bi, buồn thương khổ não, thân tâm
thống khổ, tập trung nghĩ cách, tìm chốn quy y, nghĩ xem
ai có thể phù hộ, khiến thoát khỏi nỗi khổ này. Lại nghĩ
rằng: “Chỉ có Đức Như Lai, Ứng Chính Đẳng Giác, người
cha đại từ bi mới giúp Thiện Trụ thoát khỏi nỗi khổ này.”
Bấy giờ, Đế Thích nghĩ như vậy rồi, lúc đầu đêm dùng đủ
các loại hoa, thiên y thượng diệu mà tự trang nghiêm thân
mình rồi cầm hoa, hương đi đến rừng Kì Đà, đến chỗ Đức
Thế Tôn cung kính cúng dưỡng, đỉnh lễ hai bàn chân Phật,
đi nhiễu bảy vòng rồi quỳ dài, chắp tay bạch Phật rằng:
- Thiên tử Thiện Trụ nghe có tiếng nói rằng: “Bảy
ngày tới mạng tận sẽ lại sinh vào cõi súc sinh, chịu thân ác
thú.” Nghe được lời này rồi tâm vô cùng khổ sở, đau đớn.
Thế Tôn đại từ, thương xót cho lợi ích, làm sao để được
thoát khỏi nạn khổ này?
Bấy giờ, Đức Thế Tôn nghe lời này xong, liền có
tiếng cười khẽ ở trên đỉnh đầu ngài, từ đó phóng mọi loại
hào quang chiếu khắp Tam thiên đại thiên thế giới, rồi
quay về chỗ Phật ngự. Nếu Đức Thế Tôn giảng về chuyện
quá khứ, ánh sáng hoà vào lưng ngài; nếu giảng về chuyện
vị lai, ánh sáng hoà vào ngực ngài; nếu giảng về chuyện
địa ngục, ánh sáng hoà dưới lòng bàn chân ngài; nếu giảng
về chuyện súc sinh, ánh sáng hoà vào gót chân ngài; nếu
giảng về chuyện ngạ quỷ, ánh sáng hoà vào ngón chân ngài;
3
nếu giảng về chuyện người, ánh sáng hoà vào đầu gối ngài;
nếu giảng về vua chúa, ánh sáng hoà vào bàn tay trái ngài;
nếu giảng về Chuyển luân vương, ánh sáng hoà vào bàn tay
phải ngài; nếu giảng về chuyện trời, ánh sáng hoà vào rốn
ngài; nếu giảng về chuyện Thanh văn, ánh sáng hoà vào
miệng ngài; nếu giảng về chuyện Độc giác, ánh sáng hoà
vào lông mày ngài; nếu giảng về chuyện A nậu đa la Tam
miệu Tam bồ đề, ánh sáng hoà vào nhục đỉnh ngài. Bấy giờ,
ánh sáng quay trở về chỗ Đức Phật, nhiễu quanh Phật ba
vòng rồi hoà vào miệng ngài. Bấy giờ, Thế Tôn nói với Đế
Thích rằng:
- Thiên Đế, có một Đà la ni tên là “Như Lai Phật
Đỉnh Tôn Thắng” có thể tịnh trừ hết thảy khổ não sinh tử
trong ác đạo, lại có thể tịnh trừ hết thảy khổ não của việc
đoạ sinh cõi địa ngục, Diễm ma vương, lại có thể phá tan
hết thảy nghiệp địa ngục, giúp sinh vào cõi thiện. Thiên Đế,
Đà la ni Phật Đỉnh Tôn Thắng này không thể nghĩ bàn, có
đại thần lực. Nếu có người một lần được nghe, đời trước dù
tạo đủ mọi loại ác nghiệp cũng đều được tiêu trừ hết thảy,
sẽ được thân thanh tịnh thắng diệu, tuỳ chốn sinh mà trì giữ
không quên, từ một cõi Phật đến một cõi Phật, từ một cõi
Thiên đến một cõi Thiên, cho đến khắp cõi Tam thập tam,
sinh ở chốn nào cũng trì giữ không quên. Lại nữa, Thiên
Đế, nếu có người mệnh sắp hết, trong giây lát nhớ lại Đà la
ni này lại được tăng thọ, thân khẩu ý thanh tịnh không còn
đau khổ, mọi công đức đều tuỳ ý, hưởng mọi sự yên ổn, lại
được chiêm bái hết thảy chư Như Lai, hết thảy Thiên thần
thường hộ vệ, người người kính trọng, ác chướng tiêu trừ,
hết thảy chư vị Bồ Tát đều cùng gia hộ. Lại có kẻ nam
người nữ trong giây lát đọc tụng, trì Đà la ni này, nên biết
người đó khổ gì trong ba đường ác cũng đều bị tiêu trừ phá
4
tan, không còn để lại chút gì, cõi Tịnh độ của chư Phật cho
đến chốn Thiên cung, hết thảy hạnh nguyện thâm sâu của
chư vị Bồ Tát đều tuỳ ý du nhập, hết thảy không chướng
ngại.
Bấy giờ, Đế Thích một lòng xin nghe. Lúc đó, Đức
Thế Tôn quán sát niệm trong tâm Đế Thích, ngài dùng tâm
đại từ bi thuyết Đà la ni pháp này.
Liền thuyết chú rằng:
Nam mô Bạc già phạt đế, điệt lí lô chỉ dã, bát lạt đế
bì thất sắt trá dã bột đà dã, bạc già phiệt đế, đãn điệt tha:
Án, bì thâu đà da, táp ma tam mạn đa, a bà bà sa, táp bát la
noa, yết đế, hát na toả bà bà bì thú thê a bì sân giả đổ mạn
tô yết đa bạt ra bạt giả na, a mật lật đa bỉ sư kế kha hát ra
kha hát ra kha dũ san đà lạt nhĩ thâu đà dã thâu đà dã già
già na bì thú đệ ô sắt nị sa bì thệ dã thú đệ, tác ha tát la hạt
lạt thấp nhị, san châu đệ đế tát bà đãn tha yết đa a địa sắt sá
na a địa sắt sỉ đế một điệt lệ bạt chiết la ca dã tăng hát đán
na thú đệ, tát bà kha phạt thứ noa bì thú đệ bát lạt đế bạt
đái dã, a dũ thú đệ tam ma da a địa sắt sỉ đế mạt nhĩ mạt
nhĩ ma ha mạt nhĩ đãn thát đa bộ đa cô tri bát rị thú đệ tị tốt
bố trá bột tha thú đệ, thệ dã thệ dã tị thệ dã tị thệ dã tam
mạt ra tam mạt ra tát bà bộ đà a địa sắt sỉ đa thú đệ phạt
chiết lệ phạt chiết ra yết bỉ phạt chiết lam bà phạt đổ ma ma
a mục yết tả (tự xưng tên) tát bà tát đoá nan giả ca dã bì thú
đệ tát bà yết đế bát rị thú đệ tát bà đãn tha yết đa, tam ma
thú hoà sa a địa sắt sỉ đế bột đà bột đà bồ đà dã bồ đà dã
tam mạn đa bát rị thú đệ tát bà đãn tha yết đa a địa sắt sá na
a địa sắt sỉ đế sa ha.
5
नमो भ्गवत ेत्रलैोक्य प्रतततवतिष्टय बदु्धाय भगवत ेतद्यथा:
ॐ तविोधय सम समन्तावभास स्फरण गतत गहन स्वभाव तविदु्ध े
अतभतिञ्चत ुम ंसगुत वचन अम ृ तातभिकैे आहर आहर आयुुः
सधंारणी िोधय िोधय गगन तविदु्ध े उष्णीितवजया िदु्ध ेसहस्र
रश्मम सञ्चोतदत ेसवव तथागत अतधष्ठनातधतष्ठत ेमदु्री वज्रकाय
सहंतन िदु्ध ेसवाववरण तविदु्ध ेप्रतततनवतवय आयुुः िदु्ध ेसमयातधतष्ठत े
मतण मतण महामतण तथाता भतू कोटि पटरिदु्ध ेतवस्फुि बटुद्ध िदु्ध े
जय जय तवजय तवजय स्मर स्मर सवव बदु्धातधतष्ठत िदु्ध ेवज्री
वज्रगभ ेवजै्रां भवत ुमम अमोघष्य ... सवव तथागत सम श्वास
अतधतष्ठत ेबदु्ध बदु्ध बदु्धाय बदु्धाय समन्त पटर िदु्ध ेसवव तथागत
अतधष्ठनातधतष्ठत ेस्वाहा ॥ Namo bhagavate trailokya prativiśiṣṭaya buddhāya
bhagavate tadyathā: Oṃ viśodhaya sama samantāvabhāsa
spharaṇa gati gahana svabhāva viśuddhe abhiṣiñcatu maṃ
sugata vacana amṛtābhiṣekai āhara āhara āyuḥ saṃdhāraṇī
śodhaya śodhaya gagana viśuddhe uṣṇīṣavijayā śuddhe
sahasra raśmi sañcodite sarva tathāgata adhiṣṭhanādhiṣṭhite
mudrī vajrakāya saṃhatana śuddhe sarvāvaraṇa viśuddhe
pratinivartaya āyuḥ śuddhe samayādhiṣṭhite maṇi maṇi
mahāmaṇi tathātā bhūta koṭi pariśuddhe visphuṭa buddhi
6
śuddhe jaya jaya vijaya vijaya smara smara sarva
buddhādhiṣṭhita śuddhe vajrī vajragarbhe vajrāṃ bhavatu
mama amoghaṣya (tên…) sarva sattvānāṃ ca kāya
viśuddhe sarva gati pariśuddhe sarva tathāgata sama śvāsa
adhiṣṭhite buddha buddha buddhāya buddhāya samanta
pariśuddhe sarva tathāgata adhiṣṭhanādhiṣṭhite svāhā.
ན་མོ་བྷ་ག་ཝ་ཏེ་ཏྲཻ་ལོ་ཀྱ་པྲ་ཏི་ཝི་ཤི་ཥྚ ་ཡ་བུ་དྡྷཱ་ཡ་བྷ་ག་ཝ་ཏེ་ཏ་དྱ་ཐཱ། ༀ་བི་ཤོ་དྷ་ཡ་ས་མ་ས་མ་ན ྟཱ་ཝ་བྷཱ་ས་སྥ་ར་ཎ་ག་ཏི་ག་ཧ་ན་སྭ་བྷཱ་ཝ་བི་ཤུ་དེ་ཨ་བྷི་ཥི་ཉྩ་ཏུ་མཾ་སུ་ག་ཏ་ཝ་ཙ་ན་ཨ་མྲྀ་ཏཱ་བྷི་ཥེ་ཀྲཻ་ཨཱ་ཧ་ར་ཨཱ་ར་ཧ་ཨ་ཡུཿ་སཾ་དྷཱ་ར་ཎི་ཤོ་དྷ་ཡ་ཤོ་དྷ་ཡ་ག་ག་ན་བི་ཤུ་དེ་ཨུ་ཥ ྟཱི་ཥ་ཝི་ཛ་ཡཱ་ཤུ་དེ་ས་ཧ་སྲ་ར་ཤ ི་ས་ཉྩོ་དི་ཏེ་ས་རྭ་ཏ་ཐཱ་ག་ཏ་ཨ་དིྷ་ཥྛ་ནཱ་དྷི་ཥྛི་ཏེ་མུ་དྟཱི་བ་ཛྲ་ཀཱ་ཡ་སཾ་ཧ་ཏ་ན་ཤུ་དེ་ས་རྟཱ་ཝ་ར་ཎ་བི་ཤུ་དེ་པྲ་ཏི་ནི་ཝ་རྟ་ཡ་ཨཱ་ཡུཿ་ཤུ་དེ་ས་མ་ཡཱ་དྷི་ཥྛི་ཏེ་མ་ཎི་མ་ཎི་མ་ཧཱ་མ་ཎི་ཏ་ཐཱ་ཏཱ་བྷཱུ་ཏ་ཀོ་ཊི་པ་རི་ཤུ་དེ་བི་ས ྥུ་ཊ་བུ་དི་ཤུ་དེ་ཛ་ཡ་ཛ་ཡ་ཝི་ཛ་ཡ་ཝི་ཛ་ཡ་སྨ་ར་སྨར་ས་རྭ་བུ་དྡྷཱ་དྷི་ཥྛི་ཏ་()་ས་རྭ་ཏ་ཐཱ་ག་ཏ་ས་མ་ཤྭཱ་ས་ཨ་དིྷ་ཥྛི་ཏེ་བུ་ད་བུ་ད་བུ་དྡྷཱ་ཡ་བུ་དྡྷཱཡ་ས་མ་ནྟ་པ་རི་ཤུ་དེ་ས་རྭ་ཏ་ཐཱ་ག་ཏ་ཨ་དིྷ་ཥྛ་ནཱ་དྷི་ཥྛི་ཏེ་སྟཱ་ཧཱ༎ (Chú thích trong bản tiếng Hán: Chú này có nhiều
bản phiên âm khác nhau tuỳ theo mỗi thầy truyền pháp.
Vậy nên chưa ai có thể dựa vào âm vận con chữ mà suy
xét đến cùng để tìm ra nguyên gốc một bản Phạn văn rõ
ràng thống nhất)
7
Bấy giờ, Đức Thế Tôn thuyết Đà la ni này rồi, nói
với Đế Thích rằng:
- Đà la ni này còn tên là “Tịnh trừ nhất thiết ác thú
Phật Đỉnh Tôn Thắng Đà la ni pháp”, cũng có thể trừ diệt
hết thảy tội nghiệp chướng ngại, có thể tiêu trừ hết thảy
khổ đau cõi uế ác. Thiên Đế, Đà la ni này do tám mươi tám
hằng hà sa số câu chi trăm nghìn Đức Phật cùng tuyên
thuyết, tuỳ hỉ thụ trì, lại được Đại Nhật Như Lai ấn khả để
phá hết thảy lưới ba cõi ác của chúng sinh, khiến hết thảy
chúng sinh cõi địa ngục, súc sinh, Diễm ma vương được
giải thoát, khiến chúng hữu tình bị mọi thứ khổ đau bức
bách đoạ sinh biển sinh tử được giải thoát, lại khiến chúng
sinh đoản mệnh, bạc phúc, không người cứu hộ, khiến
chúng sinh thích tạo nhiều ác nghiệp được tăng ích lợi. Đà
la ni này vô cùng uy lực ở cõi Nam thiệm bộ châu, lại
khiến chúng sinh tà kiến, không tin thiện ác, ba cõi ác, lưu
chuyển mọi nẻo sinh tử khổ não, bạc phúc, quên mất
đường chính… những loại không được lợi ích như vậy, tất
cả được giải thoát khỏi mọi khổ đau.
Phật nói với Thiên Đế:
- Ta nay thuyết Đà la ni này, giao phó cho ngài. Ngài
nên truyền lại cho Thiên tử Thiện Trụ, giúp ông ấy có thể
thụ trì đọc tụng tư duy, ái kính cúng dưỡng, nhớ niệm
không quên. Cũng khiến hết thảy chúng sinh cõi Nam
thiệm bộ mà ta quảng tuyên lưu bố Đà la ni lợi ích vô
lượng này, cũng vì hết thảy chư Thiên mà ta thuyết đại Đà
la ni ấn này giao phó cho ngài. Thiên Đế, ngài nên dùng
chính niệm mà ghi nhớ, thường gia hộ, đừng để quên mất.
Lại nữa, Thiên Đế, nếu lại có kẻ trong chốc lát được nghe
Đà la ni này, nghìn kiếp đã qua tích tập tội nghiệp rất nặng,
sẽ phải lưu chuyển mọi nẻo trong sinh tử, chịu thân địa
8
ngục, ngạ quỷ, súc sinh, Diễm ma vương, A tu la cùng quỷ
thần, thân Bố đơn na, Yết trá bố đơn na, A ba sa ma ra,
ruồi muỗi, rùa chó, mãng xà, mọi loài chim chóc cùng
mãnh thú, hết thảy chúng sinh cho đến thân loài kiến…
không còn phải chịu thân ấy mà được chuyển sinh, cùng
chư Phật Thế Tôn, Bồ Tát một đời thành Phật vân tập một
chốn, hoặc được sinh nhà quý tộc Bà la môn, hoặc sinh
dòng Sát đế lợi hay sinh nhà hào phú tối thắng, Thiên Đế,
thân người… Sinh nơi thắng xứ như vậy đều nhờ được
nghe Đà la ni này, tuỳ chỗ sinh đều được thân thanh tịnh
thắng diệu. Thiên Đế, quả báo như vậy cho đến cảnh Bồ đề
tối thắng, tất cả đều do tán thán công đức thù thắng của Đà
la ni này. Thiên Đế, Đà la ni này tên là Cát tường vì có thể
trừ diệt hết thảy ba đường ác. Đà la ni Phật Đỉnh Tôn
Thắng này như ngọc Nhật tạng Ma ni, sạch không vết tì
như trong hư không ánh sáng toả chiếu vô cùng không hạn
lượng. Nếu có kẻ tịnh tâm trì tụng Đà la ni này thì cũng lại
như vậy, như ánh sáng tốt đẹp dịu nhẹ không bị ô nhiễm uế
ác khiến người muốn thấy, cũng như hoa sen không dính
bụi bay. Thiên Đế, kẻ trì tụng Đà la ni này cũng lại như vậy,
nhờ tịnh nghiệp này ắt sẽ sinh thiện đạo. Thiên Đế, tuỳ nơi
có Đà la ni này, nếu có thể viết chép thụ trì như vậy, lắng
nghe, tán tụng, cung kính cúng dưỡng thì mọi ác đạo sẽ
đều trở nên thanh tịnh, mọi nỗi khổ địa ngục đều nhanh
chóng tiêu trừ. Thiên Đế, nếu có người nam kẻ nữ viết
chép Đà la ni này rồi treo cao dải phướn, hoặc đặt ở nơi núi
cao, hoặc đặt trong lâu đài, cho đến đặt trong stūpa; Thiên
Đế, nếu có Tì kheo, Tì kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di hay kẻ
nam người nữ trước dải phướn đó…, hoặc từ xa trông thấy,
hoặc đến gần bóng của nó chạm vào thân, hoặc lại gió thổi
Đà la ni này, bụi nhẹ trên phướn bay đến thân; Thiên Đế,
9
những kẻ đó dù có tội nghiệp, đáng đoạ ác đạo địa ngục,
ngạ quỷ, súc sinh, cõi Diễm ma vương, thân A tu la… thì
mọi khổ đau đều không còn phải chịu, lại không bị tội cấu
ô nhiễm. Thiên Đế, những chúng sinh này đều được hết
thảy chư Phật thụ kí, đều chứng Bất thoái chuyển nơi quả
vị A nậu đa la Tam miệu Tam bồ đề; Thiên Đế, huống gì
lại còn dùng mọi loại vòng hoa, hương bôi, hương bột,
chàng phan, lọng hoa, quần áo trang sức, cử tấu nhã nhạc,
đủ mọi loại trang nghiêm, ở nơi ngã tư đường tạo stūpa, an
trí Đà la ni, chắp tay cung kính, đi vòng xung quanh tháp,
quy mệnh lễ bái. Thiên Đế, kẻ đó có thể cúng dường như
vậy nên gọi là Ma ha tát đoá(6)
, thực sự là con Phật, là trụ
cột trì giữ giáo pháp của Phật, tháp đó lại là tháp đựng toàn
thân xá lợi của Như Lai.
Bấy giờ, Diễm ma Pháp vương trong lúc đêm sớm
đến chỗ Phật, dùng mọi loại quần áo thượng diệu, mọi loại
hoa hương, hương bôi hương bột, chiên đàn trầm thuỷ cung
kính cúng dưỡng, nhiễu quanh Phật bảy vòng, lễ hai chân
Phật rồi liền bạch rằng:
- Con nghe Như Lai giảng về Đại lực Đà la ni pháp,
tán trì công đức không thể nghĩ bàn. Thế Tôn, đại từ
thương xót cho lợi ích của chúng sinh tội khổ. Thế Tôn,
con thường theo cùng mà thủ hộ, không để người trì chú
này đoạ vào địa ngục, xin tuỳ thuận lời dạy của Như Lai
mà hộ niệm.
Bấy giờ, Hộ thế Tứ đại Thiên vương nhiễu quanh
Phật ba vòng rồi ngồi trước mặt Phật, bạch Phật rằng:
- Thế Tôn, xin nguyện Như Lai vì chúng con mà
rộng tuyên Đà la ni pháp.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói với bốn vị Thiên vương
rằng:
10
- Các vị hãy lắng nghe. Ta sẽ vì các vị mà nói pháp
tu trì Đà la ni này, vì chúng sinh đoàn mệnh mà nói. Nếu
muốn thụ trì nên tắm rửa, mặc áo mới sạch, bắt đầu từ ngày
mùng một tháng trắng cho đến hết ngày rằm, trai giới một
lòng tụng Đà la ni đủ một nghìn biến, đoản mệnh lại được
gia tăng, sau đó mãi mãi lìa bệnh khổ, hết thảy tội chướng
đều được tiêu trừ. Hết thảy khổ địa ngục, hết thảy loài chim
thú cho đến loài hữu tình nghe được Đà la ni này, tai nghe
một lần thì đến khi thân sắp hoại cũng không còn phải chịu
đựng khổ đau.
Đức Phật nói:
- Lại nếu có người bỗng nhiên gặp ác bệnh, khổ não
bức bách, nghe Đà la ni này rồi liền được mãi mãi xa lìa
mọi ác bệnh, mọi khổ não đều tiêu trừ; nếu đáng đoạ ác
đạo cũng được giải thoát, liền được vãng sinh thế giới Diệu
Hỉ(7)
. Sau khi mệnh hết rồi cũng không còn chịu thân bào
thai, hoá sinh trong hoa sen, tuỳ chốn sinh ra mà thường
chứng túc mệnh thông, nhớ trì không quên.
Phật nói:
- Nếu lại có người trước đây tạo đủ mọi tội rất nặng,
mệnh sắp hết, vì những ác nghiệp này nên sẽ đoạ địa ngục,
hoặc đoạ cõi súc sinh, Diễm ma vương, cõi ngạ quỷ cho
đến đoạ cõi Nại lạc ca, hoặc sinh trong nước, hoặc đủ các
thân cầm thú, lấy một nắm đất sạch, đọc chú này hai mươi
mốt biến rải lên xương, người chết sẽ được sinh Thiên.
Phật nói:
- Nếu người có thể mỗi ngày đọc tụng chú này hai
mươi mốt biến, sẽ nhận được hết thảy đồ cúng dường thù
thắng của thế gian, hết thân này vãng sinh cõi Cực Lạc(8)
.
Nếu thường tụng niệm được tăng thọ mệnh, hưởng nhiều
khoái lạc, hết thân này rồi liền được vãng sinh vào các cõi
11
Phật đầy vi diệu, thường cùng chư Phật ở chung một xứ,
hết thảy Như Lai thường diễn thuyết Pháp vi diệu, hết thảy
chư Phật thụ kí Bồ đề tâm, thân thường toả ánh sáng chiếu
đến hết thảy cõi Phật, cho đến chứng được Vô thượng Niết
bàn. Lại nữa, nếu muốn tụng Đà la ni này, trước tượng Phật,
trước hết lấy đất sạch làm một cái đài, tuỳ nghi rộng hẹp
làm một đài hình vuông; dùng mọi loại cỏ hoa rải trên đài,
đốt các loại hương quý, hai đầu gối quỳ sát đất; hoặc ngồi
xuống, tâm thường niệm Phật, nhớ nghĩ ấn Đà la ni, trước
hết co ngón trỏ rồi dùng ngón cái đè lên, sau đó mới chắp
tay, đọc Đà la ni này một trăm linh tám biến, trong đàn như
mây mưa, đủ các loại hoa có thể cúng dường tám mươi tám
câu chi hằng hà sa số na dữu đa trăm nghìn Đức Phật. Chư
Phật Thế Tôn mới khen rằng: “Lành thay, lành thay! Đó
thật là một vị Phật tử hiếm có, chứng được Vô chướng ngại
trí tam muội vô ngại và Bồ đề tâm trang nghiêm tam
muội.” Kẻ trì Đà la ni này nên làm như vậy.
Phật nói với Đế Thích:
- Ta dùng phương tiện thiện xảo, nếu có hết thảy
chúng sinh đáng bị đoạ địa ngục liền khiến được giải thoát,
hết thảy ác đạo cũng đều trở nên thanh tịnh, tiêu trừ không
sót, lại khiến người trì chú được tăng ích thọ mệnh. Thiên
Đế, ngài nay nắm giữ pháp Đà la ni này của ta, dạy lại cho
Thiên tử Thiện Trụ, khiến ông ấy trì tụng đủ bảy ngày. Sau
đó ngài và Thiện Trụ hãy cùng đến gặp ta.
Bấy giờ, Thiên Đế Thích ở trước Đức Thế Tôn, lãnh
thụ pháp Đà la ni rồi, phụng trì nhớ niệm quay về bản cung,
dạy lại cho Thiên tử Thiện Trụ.
Bấy giờ, Thiên tử Thiện Trụ thụ trì được Đà la ni
này rồi, sau khi đủ sáu ngày sáu đêm theo pháp thụ trì đầy
đủ, hết thảy khổ cõi ác đáng phải chịu trước đây liền được
12
giải thoát, trụ Bồ đề phần, tăng ích thọ mệnh, vô lượng
phúc nghiệp đều vân tập, vui mừng vô cùng, cao giọng nói
rằng:
- Hiếm thay Như Lai thuyết diệu pháp này. Hiếm
thay sự linh ứng thật khó lường. Đức Thế Tôn đại từ có thể
vì chúng con và chúng hữu tình mà thuyết thần chú này,
khiến con được giải thoát khỏi khổ đau cõi ác.
Bấy giờ, Thiên Đế Thích sau khi hết bảy ngày rồi,
cùng Thiên tử Thiện Trụ và Thiên chúng cầm trang sức,
vòng hoa, cầm diệu hương, bảo chàng, phan cái, thiên y,
anh lạc vi diệu trang nghiêm đến chỗ Phật cúng dưỡng,
dùng diệu y cõi trời và anh lạc dâng lên Đức Thế Tôn, đi
xung quanh ngài trăm nghìn vòng, phấn chấn hoan hỉ, ngồi
trước mặt chiêm ngưỡng tôn dung ngài mà mắt không từng
dứt.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn duỗi cánh tay màu hoàng kim
của ngài, dùng trăm tướng phúc trang nghiêm đầy đủ vô uý,
tay phải xoa đầu Thiên tử Thiện trụ mà thuyết Pháp, thụ kí
Bồ đề. Phật nói với Thiện Trụ rằng:
- Đà la ni ấn này tên là “Tịnh trừ nhất thiết ác thú
Phật Đỉnh Tôn Thắng Đà la ni”. Ngài nên thụ trì.
Bấy giờ, Thiên tử Thiện Trụ cùng Thiên Đế Thích và
Thiên chúng, hết thảy đại hội nghe Phật thuyết rồi đều vô
cùng hoan hỉ, tin lĩnh phụng hành.
(1)
Jetav’anāthapiṇḍika (2)
Devaputra Susthita (3)
Śakra (4)
một loài thú gần giống chồn (5)
tên khoa học là khỉ Macaca (6)
Mahāsattva
13
(7) Abhirati
(8) Sukhāvatī
Tâm chú khẩu truyền Tây Tạng:
ॐ भ् ू ंस्वाहा । ॐ अमतृ आयदुवद ेस्वाहा ॥ Oṃ bhrūṃ svāhā. Oṃ amṛta āyurdade svāhā.
ༀ་བཾ་སྟཱ་ཧཱ། ༀ་ཨ་མྲྀ་ཏ་ཨཱ་ཡ་རྡ་དེ་སྟཱ་ཧཱ༎
14
Top Related