[YRC 2013] Xác định tiềm năng các ngành hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Liên...
-
Upload
prince-arthas -
Category
Documents
-
view
49 -
download
0
Transcript of [YRC 2013] Xác định tiềm năng các ngành hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Liên...
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
---------o0o---------
Công trình tham dự Cuộc thi
Sinh viên nghiên cứu khoa học Trường Đại học Ngoại thương 2013
Tên công trình
Xác định tiềm năng các ngành hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Liên minh
Châu Âu dựa trên mô hình hấp dẫn
Nhóm ngành: KD2
Hà Nội, tháng 5 năm 2013
1
MỤC LỤC A. LỜI MỞ ĐẦU ...................................................................................................................................3
B. NỘI DUNG .......................................................................................................................................7
Chương I:Thực trạng xuất khẩu của Việt Nam vào EU ...............................................7
1. Thị trường EU và tình hình xuất khẩu chung của Việt Nam vào EU .......................................7
2. Các ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang EU .............................................................11
2.1 Thuỷ hải sản……………………………………………………………………………………………………………………11
2.2 Cà phê……………………………………………………………………………………………………………………………17
2.3 Giày dép…………………………………………………………………………………………………………………………20
2.4 Hàng dệt may………………………………………………………………………………………………………………….22
2.5 Xuất khẩu đồ gỗ và nội thất……………………………………………………………………………………………26
Chương II: Mô hình hấp dẫn cho các ngành hàng xuất khẩu của Việt Nam
vào EU ............................................................................................................................................ 33
1.Giới thiệu về mô hình hấp dẫn ...................................................................................................33
1.1 Khái niệm và tính chất…………………………………………………………………………………………………….33
1.1.1 Giới thiệu…………………………………………………………………………………………………………33
1.1.2 Phân tích các yếu tố của mô hình…………………………………………………………………….35
1.1.2.1 Biến phụ thuộc…………………………………………………………………………………35
1.1.2.2 Biến độc lập…………………………………………………………………………………... 36
a. Các biến có ảnh hưởng cố định…………………………………………………. 36
b. Các yếu tố hấp dẫn…………………………………………………………….37
c. Ma sát thương mại…………………………………………………………….37
d. Chính sách thương mại………………………………………………………37
1.2 Tổng quan nghiên cứu về mô hình hấp dẫn……………………………………………………………………37
1.2.1 Biến giá trị xuất nhập khẩu………………………………………………………………………….39
2
1.2.2 Biến khoảng cách…………………………………………………………………………………………47
1.2.3 Biến dân số………………………………………………………………………………………………….49
1.2.4 Biến GDP……………………………………………………………………………………………………..50
2.Ước lượng ....................................................................................................................................52
Chương III: Kết quả nghiên cứu ....................................................................................... 53
1. Mô tả và đánh giá diễn biến xuất nhập khẩu của Việt Nam vào EU ..........................................53
1.1 Dân số…………………………………………………………………………………………………………………………….54
1.2 GDP…………………………………………………………………………………………………………………………………55
2. Các vấn đề còn tồn tại và kiến nghị ............................................................................................62
2.1 Tồn tại…………………………………………………………………………………………………………………………….63
2.2 Kiến nghị…………………………………………………………………………………………………………………………70
C. KẾT LUẬN .................................................................................................................................... 77
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................................... 80
3
A. LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong thập kỷ vừa qua, Việt Nam đã tăng cường mở rộng quan hệ thương
mại với các nước trên thế giới, trong đó nổi lên mối quan hệ hợp tác ngày càng
có hiệu quả của Việt Nam và EU. Hai bên đã bình thường hóa quan hệ (10-1990)
và cao hơn nữa là Hiệp định khung (17/7/1995) là nền tảng, cơ sở pháp lý cho
việc thúc đầy quan hệ, đặc biệt là quan hệ thương mại với sự gia tăng nhanh
chóng của các mặt hàng xuất khẩu từ Việt Nam sang EU. Mối quan hệ giữa Việt
Nam và EU đã nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, góp phần phát
triển kinh tế và đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng như sự
hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam thời gian gần đây.
Tuy nhiên, trong trao đổi thương mại với thị trường EU, đặc biệt là lĩnh vực
xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ, bên cạnh những lợi ích trông thấy, chúng ta cũng
gặp phải nhiều khó khăn, thách thức bởi EU là một trong những đối tác chịu ảnh
hưởng nặng nề nhất của khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu và tương đối
khó tính trong lĩnh vực nhập khẩu. Chính vì vậy việc tìm hiểu mối quan hệ
thương mại tiềm năng này bằng việc đánh giá ngành nào, mặt hàng xuất khẩu
nào mang lại lợi thế cho Việt Nam trong bối cảnh hiện nay là vô cùng cấp thiết
và quan trọng. Hiện nay mô hình lực hấp dẫn với tính ưu việt của nó đã trở thành
một trong những công cụ hữu ích giúp phân tích hiệu quả nhiều biến số kinh tế,
mang lại tính ứng dụng trong nhiều lĩnh vực trong đó có thương mại nói chung
và xuất nhập khẩu nói riêng.
Từ việc nhận thức được tầm quan trọng của quan hệ thương mại giữa Việt
Nam với EU cũng như những lợi ích trong việc nghiên cứu các ngành xuất khẩu
của nước ta sang thị trường này và dựa trên những hiểu biết về mô hình lực hấp
4
dẫn, nhóm nghiên cứu chọn đề tài: ”Đánh giá hiệu quả các ngành xuất khẩu của
Việt Nam sang EU dựa trên mô hình hấp dẫn”.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Mô hình hấp dẫn là một mô hình thực nghiệm thành công trong kinh tế. Cuộc
khảo sát Leamer và Levisohn (1995) nhận định quan điểm mô hình hấp dẫn đã
đưa ra được những phát kiến nổi bật nhất trong kinh tế. Thành công của mô hình
là đưa ra cách lý giải và đánh giá tác động của các nhân tố tới quan hệ thương
mại giữa hai quốc gia, khu vực. Bắt đầu với Timbergan(1962), qua nửa thế kỉ
phát triển, mô hình hấp dẫn đã được đề cập tới qua rất nhiều bài nghiên cứu bao
phủ rất nhiều lĩnh vực, vùng miền và thời gian. Anderson (1979) đã đưa ra lý
thuyết nền tảng cho mô hình này, sau đó mô hình được phát triển với nhiều biến
số và kết quả mới với các tác giả như Bergstrand và cộng sự (2001) với nghiên
cứu về sự phát triển của thuế quan, chi phí vận chuyển, thu nhập tương đồng
trong quan hệ thương mại thế giới; Keithand JohnRies (2008) vớii nghiên cứu về
đầu ra của thị trường lý thuyết và thực tế; hay Bergrstrand và cộng sự (2011) với
nghiên cứu về mô hình hấp dẫn và va chạm kinh tế trong nền kinh tế thế giới…
Tuy các tài liệu nghiên cứu về mô hình này khá nhiều nhưng lại chưa có tác giả
nào nghiên cứu dưới góc nhìn về ngành hàng xuất khẩu, trong khi việc nghiên
cứu này có vai trò đánh giá, dự đoán quan trọng cho chiến lược xuất khẩu, đó
cũng là một trong số những lý do nhóm nghiên cứu chọn đề tài này.
3. Đối tượng nghiên cứu và mục tiêu nghiên cứu
* Đối tượng nghiiên cứu: các ngành xuất khẩu của VN sang EU: hàng may sẵn,
hàng thủy sản, giày dép, gạo, cà phê , hàng thủ công mỹ nghệ, hàng mỹ nghệ,
cao su, than đá, hàng rau quả, đặc biệt là các ngành chủ lực là giầy dép, thủy hải
5
sản, đồ nội thất, may mặc và cà phê, đây là những ngành tiêu biểu và chiếm tỉ
trọng lớn trong xuất khẩu của Việt Nam sang EU.
*Mục tiêu: đánh giá các ngành xuất khẩu về tính hiệu quả mà Việt Nam đã và
đang thực hiện cũng như đưa ra những đánh giá, dự báo, đề xuất dựa trên mô
hình hấp dẫn.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu có kế thừa và sử dụng kết quả nghiên cứu về các mô hình hấp
dẫn ,sử dụng phần mềm stata để tính toán và ước lượng hiệu quả xuất khẩu của
Việt Nam và EU làm cơ sở lý luận và tham khảo.
Hiệu quả xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang thị trường EU chịu tác động của
nhiều yếu tố,phương pháp được sử dụng chủ yếu đồng thời kết hợp thu thập dữ
liệu,nghiên cứu trường hợp,tình huống cụ thể để đánh giá.
5. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu thuộc chuyên ngành KT&KDQT, tập trung vào đánh giá hiệu
quả của các ngành xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường EU.
Về không gian: Chủ yếu tập trung vào tình hình xuất khẩu của Việt Nam vào 7
nước châu Âu chủ yếu là Đức, Anh, Hà Lan, Pháp, I ta li a, Tây Ban Nha, Bỉ.
Bên cạnh đó, nghiên cứu muốn xác định giá trị xuất khẩu của Việt Nam vào
những nước gia nhập sau nhằm đánh giá trên phương diện trước và sau khi nước
đó gia nhập EU.
Về thời gian: Tính từ năm 1986, tập trung chủ yếu vào các cột mốc kinh tế quan
trọng : năm 1995, Việt Nam gia nhập ASEAN, năm 1997 khủng hoảng tàu chính
Châu Á, năm 2006 gia nhập WTO, năm 2008 khủng hoảng kinh tế thế giới từ
năm 2011 đến nay cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu
6
6. Kết cấu của đề tài
Chương I:Thực trạng xuất khẩu của Việt Nam vào EU
1. Thị trường EU và tình hình xuất khẩu chung của Việt Nam vào EU
2. Các ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang EU
Chương II: Mô hình hấp dẫn cho các ngành hàng xuất khẩu
của Việt Nam vào EU
1. Giới thiệu về mô hình hấp dẫn
2. Ước lượng
Chương III: Kết quả nghiên cứu
1. Mô tả và đánh giá diễn biến xuất nhập khẩu của Việt Nam vào EU
2. Các vấn đề còn tồn tại và kiến nghị
7
B. Nội dung
Chương I:Thực trạng xuất khẩu của Việt Nam vào EU
1. Thị trường EU và tình hình xuất khẩu
chung của Việt Nam vào EU
Trong giai đoạn từ 2011 – 2013, Việt Nam được hưởng ưu đãi thuế quan
(GSP) với mức thuế suất giảm trung bình 3,5 điểm %, với tỷ trọng mặt hàng
đang được hưởng GSP là khoảng 25% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam
vào EU. EU cũng đang có ý định xem xét và điều chỉnh quy định GSP cho giai
đoạn 2013 theo xu hướng giảm ưu đãi cho những nước có khả năng cạnh tranh,
tạo điều kiện cho doanh nghiệp ở các nước đang phát triển (trong đó có Việt
Nam) nâng cao tính cạnh tranh.
Như ở bảng sau cho thấy cả hàng xuất khẩu và nhập khẩu đều tăng đáng kể:
xuất khẩu tăng 20,31% và nhập khẩu tăng 13,48%. Năm 2011, xuất khẩu của
Việt Nam vào EU đạt 16,5 tỷ USD và nhập khẩu đạt 7,74 tỷ USD trong khi năm
2012 là 20,32 và 8,79 tỷ đồng.
Kim ngạch XNK Việt Nam - EU
2012 2011 Tăng/giảm
XK 20.320,82 16.545,28 20,31%
NK 8.791,34 7.747,06 13,48%
Tổng KN 29.094,16 24.292,34 19,77%
Nguồn: Bộ công thương
Các nước EU là một trong những đối tác thương mại hàng đầu của Việt
Nam, kim ngạch hai chiều luôn tăng trưởng ở mức cao. Trong năm 2011, các
mặt hàng xuất khẩu sang EU chủ yếu là giày dép 2,61 tỷ USD, dệt may 2,57 tỷ
8
USD, thủy sản 1,36 tỷ USD, cà phê 1,07 tỷ USD, vali, ví,túi xách, mũ & ô dù
441 triệu USD... Do phát huy được lợi thế so sánh của mình trong việc tập trung
xuất khẩu một số mặt hàng có thế mạnh vào thị trường EU, kim ngạch xuất khẩu
hàng hóa của Việt Nam sang EU không ngừng tăng với tốc độ khá cao, năm
2001 đạt 3 tỷ USD, đến năm 2004 đạt trên 4,9 tỷ USD và năm 2005 đạt 5,5 tỷ
USD. Trong 6 tháng đầu năm 2012, tổng kim ngạch thương mại giữa EU và
Việt Nam đạt hơn 10 tỷ euro, trong đó, VN nhập khẩu từ EU đạt hơn 2 tỷ euro,
còn xuất khẩu từ Việt Nam vào EU đạt hơn 8 tỷ, tăng 41,43% so với cùng kì
năm 2011.
Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang EU trong năm 2012
bao gồm: giày dép đạt khoảng 1,6 tỷ USD, dệt may đạt 2,4 tỷ USD, điện thoại và
linh kiện đạt 5,3 tỷ USD, cà phê đạt 1,3 tỷ USD, hải sản đạt 1,25 tỷ USD, máy vi
tính và linh kiện đạt 1,6 tỷ USD, gỗ và các sản phẩm từ gỗ đạt 698 triệu USD.
Kim ngạch xuất khẩu sang các nước EU năm 2012
THỊ
TRƯỜNG
T12/2012 Năm 2012
Trị giá (USD) Trị giá (USD)
Đức 377.522.974 4.095.247.034
Anh 302.286.162 3.033.585.926
Hà Lan 244.424.456 2.476.305.760
Italia 164.885.906 1.876.669.404
Tây Ban
Nha
203.968.510 1.793.732.814
Pháp 233.935.975 2.163.596.623
9
Áo 153.517.947 1.065.231.610
Thụy Điển 82.349.737 673.769.525
Ba Lan 31.0302.214 328.165.106
Slovakia 31.836.301 290.935.399
Đan Mạch 26.817.570 276.068.019
Séc 15.348.707 180.053.491
Bồ Đào
Nha
19.016.028 173.337.007
Ixraen 25.218.377 170.750.038
Hy Lạp 16.222.865 150.576.368
Phần Lan 8.099.039 99.695.311
Rumani 7.178.633 80.605.700
Latvia 5.713.544 72.513.943
Hungari 4.951.216 57.576.917
Bungari 3.081.478 37.016.279
Lítva 2.034.856 36.880.978
Slôvenia 4.687.521 35.445.672
Lucxămbua 2.151.097 29.073.657
Manta 1.660.919 19.843.409
Síp 1.603.697 17.661.448
Extonia 1.337.501 11.538.125
Các mặt hàng nhập khẩu chính của Việt Nam từ EU trong năm 2012 bao gồm:
máy móc và thiết bị đạt 2,1 tỷ USD, dược phẩm đạt 932 triệu USD, sữa và sản
10
phẩm sữa đạt 301 triệu USD, sản phẩm hoá chất đạt 364 triệu USD, phương tiện
vận tải đạt 1,26 tỷ USD.
Cán cân thương mại hàng hoa của Việt Nam với EU luôn đạt thặng dư và
tăng liên tục qua các năm.Cụ thể, mức xuất siêu với các nước thành viên EU
trong năm 2005 chỉ là 2,92 tỷ USD, đến năm 2010 con số này đã lên đến hơn 5
tỷ USD, tăng gấp gần 2 lần so với năm 2010 và năm 2011 mức thặng dư đạt gần
8,8 tỷ USD, tăng 75% so với năm trước.
Tính đến hết năm 2012, cán cân thương mại của Việt Nam với EU đạt con
số thặng dư lên đến 11,51 tỷ USD, tăng 30,8% so với năm 2011.Trong tổng số
27 thị trường của khối EU thì có tới 23 thị trường Việt Nam xuất siêu (dẫn đầu là
4 thị trường Anh, Hà Lan, Đức, Tây Ban Nha với tổng mức xuất siêu đạt 7,49 tỷ
USD, chiếm 65,1% mức thặng dư của Việt Nam với tất cả thành viên EU) và chỉ
có 3 thị trường nhập siêu (nhập siêu từ Ailen đứng đầu với 566 triệu USD) .
Cán cân thương mại của Việt Nam với các thị trường thuộc khối EU năm
2012
11
Nguồn: Tổng cục Hải quan
Trong giai đoạn kinh tế thế giới đang gặp khó khăn, một số nước thành viên EU
đang phải đối diện với khủng hoảng nợ công, việc kim ngạch hai chiều tiếp tục
tăng trưởng và hai Bên chính thức tiến hành đàm phán Hiệp định Thương mại tự
do là các tín hiệu tích cực, cho thấy sự hợp tác giữa EU và Việt Nam đang ngày
càng phát triển.
2. Các ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang EU
2.1 Thủy hải sản
12
Việt Nam nằm trong số mười nước xuất khẩu thuỷ hải sản hàng đầu thế giới.
Việt Nam có đường bờ biển dài khoảng 3300km và có vùng thuỷ triều lớn, tạo ra
những điều kiện thuận lợi cho ngành đánh bắt hải sản. Việt Nam cũng sở hữu
những vùng nước ngọt và nước lợ phù hợp cho nuôi trồng thuỷ sản. Việt Nam
nuôi trồng thuỷ sản ngoài khơi, vùng bờ biển và vùng nước ngọt. Hải sản bao
gồm cá, tôm, động vật thân mềm như bạch tuộc và mực, và các loại động vật
thân mềm khác. Ngành thuỷ sản có đóng góp lớn cho nền kinh tế Việt Nam.
Lĩnh vực này rất quan trọng trong việc thu hút nhân công, với lực lượng lao động
khoảng 3,4 triệu người và có vai trò tích cực trong xoá đói giảm nghèo cho cư
dân vùng biển. Hoạt động trong ngành này chủ yếu là những doanh nghiệp tư
nhân cỡ nhỏ.
Sản xuất chủ yếu phục vụ thị trường nội địa, tuy nhiên xuất khẩu của Việt Nam
cũng phát triển khá nhanh. Hiện nay thuỷ sản là một trong những mặt hàng xuất
khẩu đem lại doanh thu lớn nhất cho Việt Nam, bên cạnh dầu thô, hàng may mặc
và giày dép. Từ khi thực hiện chính sách “Đổi mới” từ giữa những năm 1980,
xuất khẩu hải sản hàng năm đều tăng. Tỷ lệ tăng trưởng trung bình mỗi năm từ
năm 1990 đến 2004 khoảng 20%. Theo các số liệu thống kê của Việt Nam, năm
2004 Việt Nam đã xuất khẩu hải sản trị giá xấp xỉ 2,4 triệu USD.
Phân tích SWOT mặt hàng thuỷ hải sản
Điểm mạnh
Các điều kiện tự nhiên thuận lợi cho
đánh bắt và nuôi trồng hải sản:
đường bờ biển dài (3.260km) và các
Điểm yếu
Thiếu nguồn nguyên liệu giữa hai
mùa thu hoạch
Giá trị gia tăng thấp, do Việt Nam
13
vùng nước ngọt, nước lợ lớn
Việt Nam có nhiều loại thuỷ sản có
giá trị cao như tôm, cá vây, các loài
động vật thân mềm
Nhiều công ty đáp ứng được yêu cầu
của các thị trường quốc tế về chất
lượng, mức độ an toàn vệ sinh thực
phẩm, an toàn hải sản, đáp ứng các
tiêu chuẩn HACCP
Có kinh nghiệm trong nuôi trồng các
sản phẩm hữu cơ (đặc biệt tôm hùm,
hiện nay đã có kinh nghiệm trong
nuôi trồng nhiều sản phẩm khác)
Ngành nuôi trồng thuỷ sản dự định
sẽ phát triển một cách bền vững và
ứng dụng các thực tiễn nuôi trồng
thuỷ sản hiệu quả và Luật quản lý
nuôi trồng thuỷ sản.
chủ yếu xuất khẩu hải sản dưới dạng
nguyên liệu thô
Hiện nay chất lượng sản phẩm vẫn
còn chưa đồng nhất
Chỉ có khoảng 60% các nhà máy chế
biến đáp ứng các tiêu chuẩn về vệ
sinh và các quy định về an toàn hải
sản
Những khó khăn trong kiểm soát vi
lượng kháng sinh, chất cặn trong hải
sản xuất khẩu
Thiếu hợp tác giữa các nhà xuất
khẩu, do đó không có thế mạnh trong
việc mặc cả giá
Các đặc điểm về đóng gói và tiện lợi
của sản phẩm chưa phù hợp
Hầu như không có thương hiệu, và
hầu như không có danh tiếng
Hầu như không có những thông tin
về thị trường nhập khẩu
Thiếu kinh nghiệm và kỹ năng trong
14
các kế hoạch sản xuất dài hạn
Thiếu vốn đầu tư
Cơ hội
Các nguồn tài nguyên biển ở độ sâu
lớn vẫn chưa được khai thác
Sản xuất nuôi trồng thuỷ sản có thể
tăng gấp đôi
Nhập khẩu hải sản vẫn đang tăng
trên các thị trường quốc tế
Nhu cầu ngày càng tăng về các mặt
hàng thuỷ sản sạch và hữu cơ ở các
thị trường phương tây
Đa dạng hoá sản phẩm để thích nghi
với nhu cầu đang thay đổi (các sản
phẩm ăn liền hoặc đã chế biến đóng
gói nhỏ để bán tại các cửa hàng bán
lẻ)
Sự tăng trưởng của các nền kinh tế
Trung Quốc và Ấn Độ đã làm tăng
nhu cầu trong dài hạn (nhưng không
tăng sự cạnh tranh)
Thách thức
Cạnh tranh toàn cầu ngày càng tăng
Giá hải sản có xu hướng giảm
Các vụ kiện chống phá giá đối với cá
da trơn của Việt Nam (tra hoặc basa)
và tôm
15
Uỷ ban Thuỷ sản EU quyết định hạn
chế hạn ngạch đánh bắt tự do
EU là đối tác tiêu thụ thủy sản lớn nhất của Việt Nam. Việt Nam cung cấp
nhiều loại sản phẩm khác nhau đến thị trường này, tuy nhiên xuất khẩu cá tra
chiếm ưu thế tuyệt đối và góp phần gia tăng giá trị xuất khẩu từ Việt Nam vào
EU, đưa EU trở thành thị trường tiêu thụ cá tra lớn nhất của Việt Nam. Cá tra
xuất khẩu sang EU tương đối ổn định về sản lượng, song giá biến động theo
chiều hướng ngày càng thấp hơn. Năm 2011 là năm đầu tiên trong vòng 3 năm
qua, xuất khẩu cá tra sang thị trường này giảm hơn 1 %.
Bù lại, xuất khẩu tôm vào EU đã có dấu hiệu tốt trong 2 năm gần đây và dự
báo sẽ tiếp tục tăng nhanh trong những năm tới. Năm 2011, xuất khẩu tôm vào
EU tăng 20,3% so với năm 2010, đưa Việt Nam vào vị trí thứ 5 trong nhóm xuất
khẩu tôm hàng đầu vào EU với thị phần tăng từ 6, 1% năm 2010 lên 7,5% năm
2011.
Cơ cấu các mặt hàng XK vào EU năm 2011: cá tra 39,5% (-1%), tôm 31%
(+20,3%), cá ngừ 5,97% (+19,2%), mực bạch tuộc 9.28% (+29,6%); nhuyễn thể
2 mảnh vỏ 3.87% (-6,89%); hải sản khác: 10.38% (tính theo giá trị).
16
Theo số liệu của Hải quan và tổng hợp của VASEP, Giá trị xuất khẩu thủy
sản 8 tháng đầu năm 2012 sang EU và Nga vẫn tiếp tục sụt
giảm, lần lượt là 13,7% và 19,5% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó,
xuất khẩu thủy sản sang 5 nước nhập khẩu chính trong khối EU (Đức, Italia, Hà
Lan, Tây Ban Nha và Pháp) đều giảm từ 7 – 19% về giá trị so với cùng kỳ năm
trước. Đáng chú ý là kể từ đầu năm xuất khẩu thủy sản sang 5 Việt Nam chỉ tăng
trong tháng 2, còn lại các tháng khác đều giảm, dẫn đến nhập khẩu thủy sản của
EU từ Việt Nam tiếp tục sụt giảm, trong 8 tháng đầu năm chỉ đạt 755,3 triệu
USD, giảm 19,5% so với cùng kỳ năm 2011 . Đây là một trong những lý do
khiến Mỹ vượt EU trở thành thị trường nhập khẩu hàng đầu của thủy sản Việt
Nam với giá trị đạt 809,6 triệu USD, tăng 10,8% so với cùng kỳ năm ngoái.
17
Eu là thị trường lớn thứ 2 sau Mĩ nhập khẩu cá ngừ của Việt Nam, trong đó
Tây Ban Nha là thịtrường có tốc độ tăng trưởng giá trị NK cá ngừ từ Việt Nam
mạnh nhất, lên tới 4 con số. Ngoài ra, Đức và Italy là hai thị trường lớn trong
khối EU cũng tăng giá trị NK mặt hàng này từ Việt Nam lần lượt là 141,4% và
82,2% so với cùng kỳ năm ngoái. Tính chung, giá trị XK cá ngừ sang EU trong
tháng 8 tăng tới 75,9% và 8 tháng đầu năm nay tăng 51,5% so với cùng kỳ năm
2011.
Trái với xu hướng đi lên của cá ngừ, xuất khẩu 2 mặt hàng chủ lực là tôm
và cá tra liên tục giảm và chưa có dấu hiệu phục hồi
2.2 Cà phê
Cà phê là một trong những mặt hàng nông sản xuất khẩu quan trọng nhất của
Việt Nam. Năm 2001, ngành cà phê thu hút 600.000 lao động lâu dài và
khoảng gần 1 triệu lao động bán thời gian, vì thế góp phần giảm đói nghèo ở
khu vực nông thôn. Lĩnh vực cà phê của Việt Nam luôn hướng về xuất khẩu,
với lượng hàng xuất khẩu chiếm tới 95% sản lượng. Sản xuất cà phê, chủ yếu
là cà phê Robusta, đã tăng rất nhanh kể từ cuối những năm 1980 và có một
thời kỳ ngắn, Việt Nam là quốc gia lớn trong số các nước xuất khẩu của cả
thế giới. Hiện nay Việt Nam là nước xuất khẩu lớn thứ hai xét về mặt khối
lượng (sau Brazil với thị phần trên thế giới khoảng 15%) và là nước xuất
khẩu lớn thứ ba xét về mặt giá trị (sau Brazil và Columbia).
Việt Nam là một nước sản xuất và xuất khẩu cà phê có khả năng cạnh tranh
cao do điều kiện khí hậu và môi trường thuận lợi, chi phí sản xuất thấp, và
sản lượng thuộc dạng lớn nhất trên thế giới. Tuy nhiên, cà phê Việt Nam vẫn
ở thứ hạng thấp do các thiết bị sấy khô và chế biến và công nghệ hậu thu
hoạch nghèo nàn; cà phê Việt Nam không có thương hiệu và các nhà xuất
18
khẩu vẫn còn hạn chế về kỹ năng marketing. Do đó, cà phê Việt Nam có giá
thấp hơn so với mức trung bình của thế giới. Việt Nam có tiềm năng nâng cao
chất lượng của cà phê xanh xuất khẩu thông qua đầu tư nghiên cứu, đầu tư
vào công nghệ hậu thu hoạch, dự trữ và chế biến, và bằng cách chuyển sang
sản xuất các loại cà phê Arabica là loại cà phê có giá cao hơn. Có những lựa
chọn khác như những loại cà phê ngách như cà phê hữu cơ, nhưng số lượng
còn nhỏ. Chế biến nội địa cà phê hoà tan đang được phát triển.
Do Việt Nam có vị trí quan trọng trên thị trường thế giới và có nhiều cơ hội
nhằm nâng cao chất lượng trong quá trình chế biến và hậu thu hoạch, tiềm
năng xuất khẩu của ngành cà phê được coi là cao, tuy nhiên nhu cầu phát
triển xuất khẩu chỉ ở mức trung bình.
Phân tích SWOT cho cà phê và các sản phẩm từ cà phê Việt Nam
Điểm mạnh
Các điều kiện tự nhiên phù hợp cho
cà phê
Chi phí sản xuất và lao động thấp
Sản lượng cao do đất đai màu mỡ
Có kinh nghiệm trong trồng cà phê
Sản xuất tập trung gần cảng
Khoảng cách vận chuyển trên đất
liền ngắn ảnh hưởng tích cực đến
Điểm yếu
Thiếu hệ thống tưới tiêu, lạm dụng
thuốc trừ sâu và phân bón
Diện tích trồng cà phê quá bành
trướng
Thiếu phương tiện dự trữ, dịch vụ
marketing
Thiếu quản lý rủi ro (ví dụ bảo hiểm
cho người trồng cà phê)
Thị trường tương lai, sàn giao dịch
19
phần thu từ giá xuất khẩu mà người
nông dân Việt Nam nhận được
Thị phần xuất khẩu lớn, đặc biệt là
cà phê Robusta
Phát triển xuất khẩu tư nhân
kém phát triển
Các tiêu chuẩn Việt Nam chưa tương
xứng với các tiêu chuẩn quốc tế
Không có thương hiệu cho cà phê
xuất khẩu, vì thế xuất khẩu qua trung
gian
Cơ hội
Sự phục hồi của thị trường thế giới
Đa dạng hoá thị trường xuất khẩu
Phát triển kỹ thuật chế biến ướt
Hỗ trợ của chính phủ để phát triển
thương hiệu, xúc tiến thương mại
Thách thức
Sự cạnh tranh từ các mặt hàng khác
Sự cạnh tranh từ các nước xuất khẩu
khác
Diện tích trồng cà phê Robusta quá
bành trướng
Kế hoạch phát triển cà phê Arabica
không hiệu quả
Giá xuất khẩu không ổn định
Hạn hán
Hạn chế nguồn nước
EU là thị trường chiếm tỉ trọng 40-50% kim ngạch xuất khẩu cà phê của
VN. Nổi bật là năm 2003, cà phê Việt Nam xuất khẩu sang thị trường này là
391.000 tấn, đạt 262 triệu USD, chiếm trên 50% tỷ trọng cà phê xuất khẩu.
20
lượng cà phê xuất khẩu trong tháng 5/2012 là hơn 203 nghìn tấn, tăng 21%
so với tháng trước. Tổng lượng xuất khẩu nhóm hàng này của nước ta trong 5
tháng qua là 904 nghìn tấn, trị giá là 1,89 tỷ USD, tăng 12,9% về lượng và tăng
8% về trị giá so với 5 tháng/2011.
Biểu đồ: Lượng xuất khẩu cà phê các tháng từ năm 2010 đến tháng 5/2012
Nguồn: Tổng cục Hải quan
Thuế nhập khẩu của EU đối với nhom mặt hàng cà phê là rất thấp (
cà phê hạt là 0%) . Như vậy là cà phê là mặt hàng tiềm năng, giúp đẩy
mạnh xuất khẩu vào EU, nhất là đối với nguyên liệu và bán thành phẩm
2.3 Giày dép:
Xuất khẩu da giày của Việt Nam đã trải qua một quá trình tăng trưởng
mạnh mẽ kể từ đầu những năm 90. Trong chưa đầy một thập kỷ, ngành da giày
đã nổi lên như là một trong những ngành xuất khẩu quan trọng nhất của Việt
21
Nam. Năm 2003 kim ngạch xuất khẩu đạt 2.9 tỷ USD, khiến Việt Nam trở thành
nhà xuất khẩu giày dép lớn thứ tư trên thế giới. Từ năm 1999 đến 2003 tăng
trưởng trung bình đạt tới mức kỷ lục là 18%/năm, điều này khá quan trọng xét về
đặc thù là ngành có khả năng cạnh tranh cao. Theo các số liệu thống kê của Việt
Nam, năm 2004 xuất khẩu da giày đã vượt mục tiêu tới 100 triệu USD. Thị
trường xuất khẩu hàng đầu là EU, chiếm khoảng 80% tổng kim ngạch xuất khẩu
của Việt Nam. Việt Nam là nhà sản xuất có khả năng cạnh tranh cao trên thị
trường EU, đứng thứ hai sau Trung quốc. Sau khi Hoa kỳ thực hiện chế độ tối
huệ quốc MFN đối với Việt Nam, khối lượng giày dép xuất khẩu của Việt Nam
sang thị trường này đã tăng đột biến.
Tính cạnh tranh của Việt Nam nằm trong sự kết hợp của một bên là chi phí
nhân công thấp nhất Châu á và một bên là lực lượng lao động có trình độ văn
hóa, dễ đào tạo và có tính kỷ luật. Tuy nhiên, năng suất trong ngành công nghiệp
này của Việt Nam được xem là khá thấp, tạo thành một cái vòng luẩn quẩn: để
duy trì cạnh tranh thì tiền lương vẫn tiếp tục thấp. Ngành công nghiệp da giày
của Việt Nam dựa phần lớn vào hợp đồng gia công, các đối tác đang dẫn đầu thị
trường này cung cấp kiểu dáng, nguyên vật liệu và đôi khi là cả máy móc. Da
giày là một ngành công nghiệp lệ thuộc nhiều vào nhập khẩu, tỷ lệ nhập khẩu
chiếm khoảng 80% trị giá đầu ra.
Theo Hiệp hội Da giày Việt Nam, tiềm năng xuất khẩu da giày được coi là
cao, mặc dù ngành này sẽ phải tập trung vào những sản phẩm chủ chốt, có khả
năng cạnh tranh và hợp thời trang, nhằm giành được mục tiêu tăng trưởng xuất
khẩu. Ngành công nghiệp này đã yêu cầu Chính phủ ban hành các chính sách ưu
đãi nhằm thu hút đầu tư nước ngoài trong sản xuất nguyên vật liệu thô và các
22
phụ kiện trong nước, nhằm làm giảm chi phí đầu vào. Phát triển xuất khẩu cần
phải tập trung tăng cường cung cấp đầu vào trong nước để sản xuất, nâng cao
năng suất, đa dạng hóa sản xuất để có được những sản phẩm có giá trị cao hơn,
khai thác các kỹ năng của lao động Việt Nam bằng việc nâng cao khả năng thiết
kế, giảm chi phí, tạo thương hiệu riêng cho sản phẩm và tăng cường hoạt động
marketing.
Phân tích SWOT đối với ngành da giày
Điểm mạnh
- Chí phí nhân công thấp
- Chất lượng sản phẩm cao
- Chi phí cho các phương tiện
giao thông vận tải và chuyên
chở quốc tế hợp lý
- Tăng cường sản xuất da thuộc
từ năm 2004
Điểm yếu
- Ngành công nghiệp non trẻ với
sự thiếu hụt về kinh nghiệm,
thiếu bí quyết trong thiết kế và
marketing
- Chi phí sản xuất cao bởi nhập
khẩu hóa chất, máy móc và
phụ kiện
- Kỹ thuật nghèo nàn lạc hậu
Cơ hội
- Được đối xử ưu đãi thuế quan
phổ cập từ EU (GSP)
- Thuế suất thấp trong thị
trường AFTA tới năm 2006
- Thuế quan cực kỳ thấp trong
thị trường Hoa Kỳ nhờ vào
Thách thức
- Sự cạnh tranh mạnh mẽ từ
Trung quốc bởi chi phí sản
xuất của nước này thấp
23
hiệp định thương mại song
phương (USBTA)
Giày dép là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ đạo của Việt Nam
vào thị trường EU. Từ ngày 01/07/1999, bằng việc được hường chế độ ưu đãi
thuế phổ cập GPS, giày dép Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EU được hưởng
mức thuế nhập khẩu thấp hơn các nước khác, chỉ bằng 70% mức thuế thông
thường. Chính điều này đã giúp giày dép của Việt Nam nâng cao sức cạnh tranh
về giá cả cũng như các lợi thế so sánh khác. Theo thống kê của Tổng cục hải
quan, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này 6 tháng đầu năm 2011 lên đến gần 920
triệu euro, và đạt gần 960 triệu euro trong 6 tháng đầu năm 2012, tăng 4,2% so
với cùng kì năm trước. Có thể nói, EU cũng đồng thời là thị trường trọng tâm,
tiêu thụ số lượng lớn nhất hàng giày dép của Việt Nam so với các thị trường lớn
khác như Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản.
Năm 2006, Việt Nam bị EU áp đặt thuế chống bán phá giá lên mặt hàng
giày dép, thuế này hết hạn vào 1/4/2011. Tuy nhiên khi trở lại thế cạnh tranh
công bằng với các nước xuất khẩu giày dép trên thị trường EU, kim ngạch xuất
khẩu mặt hàng này vẫn tăng trưởng khá chậm, nguyên nhân là do sự canh tranh
của các mặt hàng đến từ Trung Quốc, với ưu điểm là sự đa dạng và đẹp về mẫu
mã, trong khi công nghệ của chúng ta chưa cao, sản phẩm chưa có sự khác biệt
lớn.
Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng chủ lực vào EU giai đoạn 2009-2010
Đơn vị tính: Kim ngạch: triệu USD; tăng %
24
Nội dung Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 2009-2010
Trị giá Tăng Trị giá Tăng Trị giá Tăng Trị giá tăng
Tổng KN XK
vào EU
10.000 17,6 10.600 6,0 12.100 14,2 22.700 6,7
KNXK các
mặt hàng chủ
lực
6.990 17,6 7.430 6,3 8.300 11,7 15.730 6,0
Dệt May 1.750 20,7 1.850 5,7 2.100 13,5 3.950 6,4
Giày dép 2.600 21,3 2.750 5,8 3.000 9,1 5.750 5,0
Thuỷ sản 1.100 20,6 1.250 13,6 1.450 16,0 2.700 9,9
Cà phê 820 -2,4 800 -2,4 850 6,3 1.650 1,3
Sản phẩm gỗ 720 20,0 780 8,3 900 15,4 2.400 7,9
Hiện nay, cần thiết phải có sự tăng cường xuất khẩu giày dép vào thị trường
EU, vì một số lí do sau:
- Eu là một thị trường lớn, tiêu thụ hàng đầu mặt hàng giày dép của Việt
Nam, là một trong những mục tiêu quan tâm hàng đầu của các nước trên thế giới.
- EU là một thị trường rất khó tính với các hàng rào kĩ thuật và thị hiếu
người tiêu dung tương đối cao, nhu cầu giày dép để đi lại thì ít mà làm đẹp thì
nhiều. Vì vậy, nếu đáp ứng được các yêu cầu của thị trường nêu trên, không
những chúng ta có chỗ đứng trong thị trường EU mà còn dễ dàng thâm nhập các
thị trường khác trên thế giới, đây là phương pháp đi vòng mà Nhật Bản đã từng
áp dụng.
25
- Xuất khẩu giày dép đã và đang đóng một vai trò quan trọng trong tổng
kim ngạch của Việt Nam, mang lại nguồn thu ngoại tệ dồi dào, chỉ đứng sau dầu
khí và dệt may.
2.4 Hàng dệt may.
May mặc là một trong những lĩnh vực xuất khẩu quan trọng nhất của Việt Nam.
Với hơn 2 triệu nhân công, khoảng ¼ tổng số lao động trong các ngành công
nghiệp, ngành công nghiệp dệt may đóng vai trò là một nguồn việc làm then
chốt, đặc biệt đối với lao động nữ, và đây cũng là ngành công nghiệp dẫn đầu
cho sự tăng trưởng toàn ngành và quá trình công nghiệp hóa. Mặc dù Việt Nam
phải đối mặt với các điều kiện thâm nhập thị trường có phân biệt đối xử ở một số
nước, nhưng thành tích xuất khẩu của Việt Nam trong lĩnh vực này đầy ấn
tượng.
Xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam được thực hiện hầu hết dưới hình thức
gia công cho các công ty nước ngoài. Tiền lương của nhân công trong ngành dệt
may của Việt Nam thuộc hàng thấp nhất trên thế giới, và sản lượng dường như
cũng thấp hơn so với Trung quốc và các đối thủ cạnh tranh khác trong khu vực
Châu á. Hơn thế nữa, các ngành công nghiệp phụ trợ trong nước cũng không đáp
ứng được nhu cầu của ngành may: ngành dệt trong nước không có khả năng
cung cấp nguyên vật liệu cần có cho sản xuất hàng may mặc (70-80% nhập khẩu
từ nước ngoài), điều này phần nào giải thích được tại sao quá trình sản xuất hàng
may mặc của Việt Nam dài hơn so với Trung quốc.
Cho đến nay, sự thành công của Việt Nam trong lĩnh vực dệt may dựa trên chi
phí nhân công thấp và là một điạ chỉ hấp dẫn trong việc thuê nhân công sản xuất
từ các nhà sản xuất Châu á, nhưng nhiều thay đổi lớn đang diễn ra trên thị trường
toàn cầu đặc biệt kể từ khi Hiệp định dệt may (ATC) hết hiệu lực vào đầu năm
26
2005. Hiện nay ngành may mặc Việt Nam đang phải đối mặt với sự cạnh tranh
mạnh mẽ từ Trung quốc và Ấn độ. Hơn nữa, cho tới khi Việt Nam gia nhập tổ
chức thương mại thế giới WTO, các quốc gia nhập khẩu vẫn có thể tiếp tục duy
trì hạn ngạch đối với Việt Nam mà không vi phạm vào các qui định của WTO.
Sự gia nhập WTO là cơ hội nhằm nâng cao cơ hội thâm nhập của Việt Nam vào
thị trường thế giới.
Phân tích SWOT đối với ngành may
Điểm mạnh
- Chi phí nhân công thấp
- Thị trường nội địa được bảo
hộ
- Lực lượng lao đông lành nghề
đối với mặt hàng thủ công (ví
dụ hàng thêu)
- Vải tơ lụa nguyên liệu có chất
lượng cao
Điểm yếu
- Hầu hết sản xuất theo hợp
đồng ủy thác cho các đối tác
nước ngoài
- Năng suất thấp
- Thiếu lao động và kỹ thuật
viên lành nghề
- Kỹ năng quản lý kinh doanh
yếu và không có sự quản lý ở
tầm trung
- Các ngành công nghiệp phụ
trợ trong nước yếu kém
- Quá trình sản xuất tốn nhiều
thời gian hơn so với các đối
thủ cạnh tranh khác trong cùng
khu vực
- Phân bổ hạn ngạch gặp nhiều
27
vấn đề khó khăn
- Chi phí vận chuyển cao hơn
Trung quốc 20%
Cơ hội
- Thâm nhập vào thị trường Hoa
Kỳ
- Sự gia nhập WTO
- Qui mô sản xuất nhỏ với các
hợp đồng nhỏ cho những mặt
hàng cần kỹ thuật tinh xảo (thị
trường ngách)
Thách thức
- Hiệp định dệt may hết hiệu lực
- Ngành công nghiệp may mặc
Trung quốc
- Sự cạnh tranh gay gắt trong thị
trường nội địa
Theo số liệu từ tổng cục hải quan Việt Nam, trong tháng 5/2012 xuất khẩu nhóm
hàng này đạt 1,24 tỷ USD, tăng mạnh 20,7% so với tháng trước, nâng tổng kim
ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước trong 5 tháng/2012 lên 5,46 tỷ
USD, tăng 11% so với cùng kỳ năm trước.
Tuy Mỹ là thị trường lớn nhất của hàng may mặc Việt Nam, nhưng EU
cũng chiếm thị phần đáng kể của ngành hàng này. Xuất khẩu dệt may vào EU đạt
giá trị kim ngạch lớn thứ 2 chỉ sau giày dép, biến EU trở thành một trong những
miền đất hứa với dệt may Việt Nam.
Sau năm 1992, khi Việt Nam và EU thiết lập mối quan hệ thương mại với
nhau, xuất khẩu dệt may sang EU tăng nhanh.. Kim ngạch xuất khẩu sang thị
trường này năm 1996 đạt 223 triệu USD.. Năm 1997, dù ở trong cuộc khủng
hoảng chung khu vực, kim ngạch xuất khẩu dệt may sang EU vẫn tăng lên 366
triệu USD.
28
Năm 2005, bằng việc được dỡ bỏ quota, hàng may mặc Việt Nam được tự
do xuất khẩu sang thị trường EU, tạo cơ hội lớn để được canh tranh công bằng
với các mặt hàng đến từ các nước khác. Tổng giá trị xuất khẩu hàng dệt may xuất
sang EU năm 2005 đạt 800 triệu USD, chiếm khoảng 1% tổng trị giá nhập khẩu
may mặc của EU. Năm 2006, xuất khẩu may mặc sang thị trường này đạt 1,243
tỷ USD. Đến năm 2011, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của nước ta đạt
14,04 tỷ USD, trong đó xuất sang thị trường EU tới 2,57 tỷ USD chiếm 33,6%.
Trong 6 tháng đầu năm 2012 đạt 737.363.532, tăng 2,15% so với cùng kì năm
trước.
Nhìn chung, hàng dệt may Việt Nam đang dần tìm được chỗ đứng trên thị
trường châu Âu, từng bước chứng tỏ được uy tín trên thị trường EU. Sản phẩm
của Việt Nam được đánh giá là có chất lượng tốt, giá thành cạnh tranh, đa dạng
về chủng loại, lực lượng tham gia xuất khẩu ngày càng được mở rộng.
Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng nợ công gần đây tại các nước châu Âu EU đã
đặt ra nhiều thách cho các doanh nghiệp xuất khẩu may mặc Việt Nam. Người
dân tại các nước EU chi tiêu dè sẻn hơn, họ đòi hỏi cao hơn về chất lượng và giá
thành (giá thành vừa phải nhưng vẫn đạt được chất lượng tốt). Bên cạnh đó, các
sản phẩm dệt may Việt Nam bị cạnh tranh gay gắt bởi hàng Trung Quốc trên thị
trường Pháp, trong khi đó các đối thủ khác là Bangladesh, Campuchia là hai
nước được xuất khẩu hàng dệt may vào EU với thuế suất bằng 0, sắp tới đây có
thêm Mianmar. Trong thời gian tới, EU sẽ áp dụng những quy định về bảo vệ
sức khỏe người tiêu dung, và nghiêm ngặt hơn trong việc bảo vệ môi trường sản
xuất.
2.5 Xuất khẩu đồ gỗ và nội thất
Là nước nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam có
vẻ tương đối yếu. Theo dữ liệu từ TradeMap data, Việt Nam xuất khẩu gỗ và các
29
sản phẩm gỗ trị giá gần 140 triệu đô năm 2003. Với thị phần 0.2%, Việt Nam chỉ
chiếm một phần nhỏ lượng cung thế giới. Tuy nhiên, tình hình của Việt Nam
trong giai đoạn 1999-2003 lại trái ngược với thế giới: lượng xuất khẩu tăng
chậm, chỉ 3%/năm nhưng giá trị lại tăng với mức đáng kể, 23%/năm. Gần ¾
lượng xuất khẩu của Việt Nam là sang các nước láng giềng Đông Á: Nhật Bản
(hơn 50%), Trung Quốc và Đài Loan. Việt Nam có thể đa dạng hóa thị trường
xuất khẩu sang các nền kinh tế chuyển đổi đang phát triển ở Châu Âu như
Croatia và Hungary.
Xuất khẩu lâm sản của Việt Nam đạt hơn 1 tỉ đô năm 2004, trong đó sản phẩm
gỗ chiếm gần 95% theo thống kê của Việt Nam. Tuy nhiên, Việt Nam phải nhập
một lượng lớn nguyên liệu đầu vào (chủ yếu là gỗ), chiếm khoảng 60% giá trị
xuất khẩu. Chính phủ Việt Nam cũng có kế hoạch hỗ trợ mặt hàng nông sản.
Từng là nước có diện tích rừng che phủ lớn, Việt Nam đã có thời kì phai chịu
nạn chặt phá rừng từ những năm 50 đến những năm 80. Trong những năm 90,
Việt Nam đã ngăn chặn được nạn chặt phá rừng và là một trong số các nước
thành công trên thế giới trong vấn đề tăng diện tích trồng rừng. Chương trình “5
triệu ha rừng tái tạo” đã phần vào thành công này.
Thị trường EU là một mảnh đất màu mỡ với ngành xuất khẩu đồ gỗ và nột
thất. Năm 2003, EU tiêu thụ đồ nội thất lớn nhất thế giới, đồng thời tiêu thụ gỗ
và các mặt hàng gỗ đứng thứ 2 (sau Mỹ). Không những thế, nhu cầu nhập khẩu
đồ gỗ của EU ngày một tăng lên, không chỉ để phục vụ cho tiêu dung nội bộ mà
còn để chế biến và tái xuất khẩu. Năm 2002, tổng kim ngạch nhập khẩu của EU
chiếm trên 50% tổng kim ngạch nhập khẩu đồ nội thất trên thế giới.
Nhập khẩu đồ nội thất từ Việt Nam theo nhóm sản phẩm
30
Đ ơn vị tính: 1000 EUR/tấn
Tên mặt hàng 2000 2001 2002
Giá trị Sản
lượng
Giá trị Sản
lượng
Giá trị Sản
lượng
Nội thất phòng ăn và phòng
khách
24868 8994 29888 11035 37113 14207
Ghế chưa nhồi đệm 86840 33352 72364 27244 77619 29836
Nội thất phòng ngủ 5457 2104 7550 3087 8875 3591
Nội thất mây 24700 8659 34169 11515 29857 10548
Các loại nội thất khác 55352 22662 59175 23390 75856 33372
Phụ kiện 6624 2617 3586 1873 3560 2501
Tổng cộng 203.84
1
78.388 206.73
2
78.144 232.88
0
94.055
Trong số 27 thành viên EU, các nước Đức, Pháp, Anh, Tây Ban Nha, Italia,
Hà Lan, Thụy Điển là những thị trường nội thất lớn nhất châu Âu. Năm 2004,
các nước trên chiếm 80% tổng tiêu dùng hàng nội thất của EU, đạt 70 tỷ USD.
Hiện nay, Trung Quốc là nước dẫn đầu về xuất khẩu gỗ vào thị trường EU.
Đồ gỗ Việt Nam đang hưởng mức thuế GSP với mức thuế suất chủ yếu là
0% (một số mặt hàng là 2,1%), từ đó giúp Việt Nam có những lợi thế nhất định
về giá khhi cạnh tranh với các nước Trung Quốc, Indonesia, Braxin, Malaysia...,
do các Việt Nam không được hưởng GSP.
Kim ngạch xuất khẩu hàng gỗ Việt Nam vào EU trong thời gian qua có mức
tăng trưởng trung bình 15%/năm, tập trung vào đồ gỗ nội thất và đồ dùng ngoài
31
trời. Trong năm 2006 đạt 501,9 triệu USD, chiếm 26,4% tổng kim ngạch xuất
khẩu cả nước, riêng 3 tháng đầu năm 2007 đạt 200,72 triệu USD. Tuy nhiên so
với mặt bằng chung và nhu cầu nhập khẩu của Eu thì mức xuất khẩu đồ gỗ và
nội thất của Việt Nam còn rất khiêm tốn và chưa phản ánh hết tiềm năng.
Ngoài ra, về lĩnh vực xuất khẩu này, Eu cũng đặt ra những quy định về bảo
vệ an toàn, sức khỏe cho người lao động, các yêu cầu về môi trường sinh thái và
đặc biệt là bảo vệ và phát triển bền vững diện tích rừng.
Xét tất cả các mặt hàng, trong năm 2012, Việt Nam chủ yếu xuất sang EU
các nhóm hàng chính như: điện thoại các loại & linh kiện, giày dép, dệt may,
máy vi tính sản phẩm điện tử & linh kiện, cà phê, hàng thủy sản, máy móc thiết
bị dụng cụ & phụ tùng,...Đa số các sản phẩm xuất khẩu sang EU có tỷ trọng khá
cao trong tổng kim ngạch sản phẩm đó của nước ta xuất sang tất cả các thị
trường trên thế giới.
Kim ngạch, tỷ trọng xuất khẩu một số nhóm mặt hàng chính
của Việt Nam sang EU năm 2012
Stt Mặt hàng Kim ngạch
(TriệuUSD)
Tốc độ
tăng/giảm
(%)
Tỷ
trọng
1 (%)
Tỷ
trọng
2 (%)
1 Điện thoại các loại & linh kiện 5.663 93,0 27,9 44,5
2 Giày dép 2.650 1,6 13,1 36,5
3 Dệt may 2.456 -4,5 12,1 16,3
4 Máy vi tính, sản phẩm điện tử &
linh kiện 1.601 98,3 7,9 20,4
5 Cà phê 1.298 22,3 6,4 35,3
6 Hàng thủy sản 1.133 -16,7 5,6 18,6
32
7 Máy móc thiết bị dụng cụ & phụ
tùng 653 47,1 3,2 11,8
8 Gỗ & sản phẩm từ gỗ 654 7,2 3,2 14,0
9 Túi xách, ví, vali, mũ & ôdù 437 -1,0 2,2 28,8
10 Sản phẩm từ chất dẻo 427 3,9 2,1 26,8
11 Hàng hóa khác 3.331 1,1 16,4 6,9
Tổng cộng 20.303 22,7 100,0 17,7
Ghi chú: 1.Tốc độ tăng/giảm là tốc độ tăng/giảm nhóm hàng đó năm 2012 so
với năm 2011
2. Tỷ trọng 1 là tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của từng mặt hàng trong
tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU
3. Tỷ trọng 2 là tỷ trọng trị giá xuất khẩu nhóm hàng của Việt Nam sang
EU so với kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng đó của cả nước sang tất cả các thị
trường.
33
Chương II: Mô hình hấp dẫn cho các ngành hàng xuất khẩu của Việt Nam
vào EU
1. Giới thiệu về mô hình hấp dẫn
1.1. Khái niệm, tính chất
1.1.1 Giới thiệu
Năm 1929, Jan Tinbergen nhận bằng tiến sĩ vật lý từ trường Đại học Leiden với
đề tài mang tên “Tối thiểu hóa những vấn đề giữa vật lý và kinh tế” dưới sự
hướng dẫn của Paul Ehrenfest – một người bạn thân của Albert Einstein’s.
Nghiên cứu về các lý thuyết vật lý là nghề kiếm cơm của ông cho tới khi ông bắt
đầu chú ý tới nguyên nhân của sự nghèo khổ của tầng lớp lao động ở nơi ông
sống, điều đó khiến ông chuyển sang lĩnh vực kinh tế. Ông đề xuất thành lập một
nhóm những người bạn ở trường đại học, cùng nghiên cứu về việc xác định mô
hình thông thường hay tiêu chuẩn của thương mại quốc tế sẽ chiếm ưu thế nếu
như không có các rào cản thương mại. Tinbergen đã nảy ra một ý tưởng về một
mô hình kinh tế lượng dựa trên định luật trọng lực của Newton. Năm 1962, bảy
năm trước khi đạt giải Nobel Kinh tế , trong khi đang xây dựng một phân tích
thực nghiệm trong báo cáo tài chính cho một quỹ từ thiện của New York, công
việc này gợi cho ông nhớ lại ý tưởng từ thời sinh viên.
Bất cứ một ý tưởng nào dù đơn giản hay phức tạp, đều có câu chuyện của riêng
nó. Và sinh ra nó cũng có sự đóng góp của rất nhiều người. Trước Tinbergen,
Ravenstien (1885) và Zipf (1946) đã sử dụng định nghĩa về trọng lực vào mô
hình dòng chảy di cư. Độc lập với Tinbergen, Pöyhönen (1963), được truyền
cảm hứng bởi Leo Tornqvist, cũng đã công bố một bài nhiên cứu với cùng một
cách tiếp cận. Sinh viên của Tinbergen đồng thời cũng là thành viên trong
nhóm, Hans Linnemann, cũng công bố nghiên cứu tiếp theo mở rộng và thảo
34
luận về nền tảng lý thuyết của mô hình trọng lực sử dụng mô hình Walrasian.
Những năm 1970, mô hình trọng lực nhận được sự quan tâm lớn. Cuốn sách nổi
tiến về thương mại quốc tế của Edward Leamer và Robert dành gần như cả một
chương viết về nó. Tóm lại, từ những bước đi đầu tiên của Tinbergen (1962), mô
hình trọng lực đã được sử dụng rất nhiều trong phân tích thực nghiệm thương
mại giữa các quốc gia. Mô hình trọng lực được định nghĩa như là một
“workhouse”(thứ được người khác trông cậy để làm nhiều việc nặng nhọc) của
thương mại quốc tế và được quan tâm như là thực tế của cuộc sống trong lĩnh
vực nghiên cứu này (Deardorff, 1998). Năng lực của mô hình này trong việc ước
lượng gần đúng dòng chảy thương mại song phương khiến cho nó trở thành một
trong những tương quan thực nghiệm ổn định nhất (Leamer và Levinsohn,
1995).
Trong phiên bản của Tinbergen, Xij là kích cỡ của dòng chảy thương mại giữa
bất kì cặp nước nào được xác định ngẫu nhiên bằng:
o Mi : lượng hàng xuất khẩu mà nước i có khả năng cung cho nước j, phụ
thuộc và kích cỡ của nền kinh tế (được đo lường bởi GNP quy theo đồng
US dollars)
o Mj : kích cỡ của thị trường nhập khẩu (được đo lường bởi GNP quy theo
đồng US dollars)
o ᶲij: khoảng cách địa lý giữa hai nước trên 1000 hải lý, nó là một phương
pháp thô sơ đo chi phí vận chuyển hoặc một chỉ số thông tin về thị trường
xuất khẩu
Mô hình được thể hiện ở dạng log-log, nên độ co giãn của dòng chảy thương mại
là hằng số (a1, a2,a3) với mối tương quan đến ba biến giải thích. Dòng chảy
35
thương mại được đo bởi cả xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa. Kết quả đưa ra
không có sự khác nhau nhiều giữa việc sử dụng xuất khẩu hay nhập khẩu. Đất
nước láng giềng có vẻ như có cường độ thương mại lớn hơn là chỉ xét riêng về
mặt khoảng cách, sự liền kề được đại diện bởi biến giả Nij lấy giá trị 1 nếu hai
nước có chung đường bien giới trên đất liền. Cuối cùng, phương trình được thêm
vào các yếu tố chính trị hay nửa kinh tế như biến giả Vij đại diện cho hàng hóa
được nhận những đối xử ưu đãi của nước nhập khẩu. Thông thường, biến ngẫu
nhiên ᶓij được thêm vào.
Dạng của phương trình:
Ln Xij = ln G + a1ln M i + a2 ln M j +a3 ᶲ ij + a 4 N ij + a5 V ij +ᶓ ij
1.1.2 Phân tích các yếu tố của mô hình
1.1.2.1 Biến phụ thuộc
Có hai vấn đề liên quan tới biến nằm ở vế trái của phương trình. Một là vấn đề
về hoán đổi giá trị xuất nhập khẩu và lạm phát. Hai là loại hàng hóa hay hoạt
động kinh tế được tính đến trong định nghĩa của dòng chảy thương mại: nhập
khẩu, xuất khẩu, thương mại hàng hóa hay bất yếu tố gì trong mối quan hệ
thương mại giữa 2 nước i và j.
o Bắt đầu với vấn đề về loại hàng hóa, biến phụ thuộc trong đa số các
nghiên cứu đều là sự đo lường thương mại hàng hóa song phương. Có ba
sự lựa chọn cho việc đo dòng chảy thương mại khi các nhà nghiên cứu
chọn biến phụ thuộc trong mô hình trọng lực cổ điển: giá trị xuất khẩu, giá
trị nhập khẩu hoặc dòng chảy thương mại song phương trung bình. Dòng
chảy thương mại song phương trung bình là trung bình của giá trị xuất
khẩu từ nước i sang nước j và giá trị xuất khẩu của nước j sang nước i. Vì
36
mỗi dòng chảy thương mại đều được quan sát ở khía cạnh xuất khẩu bởi
nước chủ nhà và nhập khẩu ở nước đến, mà hầu hết các nước đều xuất
khẩu nhập khẩu từ cùng đối tác thương mại, do đó bốn giá trị điển hình
này được lấy trung bình và xét dưới dạng tuyến tính logarit:
Tij = E (xij, xji, mij, mji)
Nhầm lẫn có thể xảy ra ở đây nếu người nghiên cứu sử dụng log của tổng giá trị
thương mại ở vế trái thay cho tổng của các log. Rất nhiều nghiên cứu trong lĩnh
vực phân tích thương mại, bao gồm nhiều nghiên cứu gần đây cũng có gặp lỗi sai
này. Sự nhầm lẫn này sẽ không gây sai lệch nếu thương mại song phương là cân
bằng. Trong những trường hợp khác, dùng log của tổng (sai trình tự) đã đánh giá
cao hơn so với tổng của log ( trình tự đúng)
o Chuyển sang vấn đề về hoán đổi tiền tệ, vấn đề đầu tiên trong hai vấn đề
kể trên, thương mại được ước tính theo giá trị danh nghĩa và nó nên được
biểu diễn dưới dạng một đơn vị tính toán thông thường. Số liệu thương
mại không nên được giảm trừ theo chỉ số giá. Giảm trừ theo chỉ số giá
không chỉ sai về mặt nền tảng lý thuyết mà còn dẫn đến sự biến chứng
trong thực nghiệm và thiếu sót. Thực tế là không thể có một chỉ số giá
hàng hóa đủ tốt cho thương mại song phương, thậm chí là ở mức trung
bình.
1.1.2.2 Biến độc lập
a. Các biến có ảnh hưởng cố định
Lợi thế của sử dụng biến này là ở chỗ đây là giải pháp đơn giản nhất để kiểm tra
mô hình trọng lực: chúng cho phép sử dụng phương pháp OLS và không yêu cầu
phải thực hiện phép thử ad-hoc phức tạp.
37
Tuy nhiên cũng nên cẩn trọng khi sử dụng hiệu ứng cố định trong xử lý số liệu.
Hiệu ứng cố định của nước xuất và nhập khẩu có thể biến thiên theo thời gian.
Cặp hiệu ứng cố định (nước xuất khẩu-nước nhập khẩu) có thể được sử dụng nếu
sự có mặt của nó không gây ra tính cộng tuyến với các biến giải thích khác.
b. Các yếu tố hấp dẫn
Các yếu tố hấp dẫn phản ánh sự tiêu dùng ở nước đến và cung ở nước chủ nhà.
GDP, GNP và dân số thường được sử dụng. GDP trên đầu người (Frankel, 1997)
và ước tính về sự phát triển của cơ sở hạ tầng (Limao và Venables, 2001) cũng
được sử dụng.
Nên lưu ý rằng, hầu hết các yếu tố hấp dẫn nhìn chung đều biến thiên chậm theo
thời gian. Vì lý do này mà người nghiên cứu cần thận trọng khi đưa chúng vào
hiệu ứng cố định.
c. Ma sát thương mại
Một trong những quy tắc đầu tiên của địa lý được Waldo Tobler phát biểu: “bất
kì thứ gì đều có mối quan hệ tới mọi thứ khác, tuy nhiên những thứ gần nhau sẽ
liên quan chặt chẽ với nhau hơn là xa nhau”. Vậy tại sao? Như ta nói ở đầu, ý
tưởng của Tinbergen là khoảng cách địa lý là một phương pháp đo lường thô sơ
cho chi phí vận chuyển và chi phí thông tin. Ước lượng kinh tế lượng cho hệ số
co giãn của thương mại với khoảng cách thường ở khoảng -0,7 và -1,2 (Disdier
and Head 2008) và sự ảnh hưởng của khoảng cách rất bền bỉ theo thời gian(Brun
et al. 2005).
Trong những năm đầu của nghiên cứu thực nghiệm thương mại song phương,
nhiều nhà nghiên cứu tập trung vào ước tính chính xác khoảng cách thương mại
38
hơn là khoảng cách trong hình học Euclidean giữa hai đối tác thương mại. Tuy
nhiên, không có lý do nào để khẳng định khoảng cách và khối lượng thương mại
liên hệ với nhau bằng một hàm tuyến tính. Chi phí thương mại phụ thuộc nhiều
vào đặc điểm của hàng hóa như tính dễ vỡ, dễ hỏng, kích cỡ, khối lượng… Thêm
vào đó, chi phí thương mại còn phụ thuộc vào mỗi quốc gia cụ thể, phụ thuộc
vào khoảng cách và chuyên môn hóa giữa các vùng miền.
d. Chính sách thương mại
Phân tích sự hiện diện của các khu vực mậu dịch tự do hay bất kì chế độ chính
sách thương mại ưu đãi nào ( GSP – Generalised System of Preferences, ACP –
African, Caribbean and Pacific partnership, EU – European Union). Trong tất cả
các trường hợp, ảnh hưởng của chính sách ưu đãi tới thương mại là ảnh hưởng
cận biên của biến giả lấy giá trị một nếu chính sách thương mại ưu đãi có ảnh
hưởng đến nhập khẩu từ nước j đến nước i. Lợi thế của chiến lược này là việc dễ
dàng thực hiện. Nhược điểm là ở chỗ ta đã coi các nước trong liên kết kinh tế ta
đang xét chịu ảnh hưởng như nhau bởi các chính sách này, điều này chỉ đúng
trong đối xử Non – discrimination của WTO. Hơn nữa, câu hỏi về ảnh hưởng
của tự do hóa trong các chính sách thương mại không thể được trả lời nếu dùng
biến giả và tính co giãn của thương mại đối với sự thay đổi chính sách cũng
không được ước lượng. Hiện nay, các nhà nghiên cứu cũng đang chuyển hướng
từ sử dụng biến giả sang biến liên tục
Tóm lại, trên đây là những giới thiệu căn bản nhất về mô hình trọng lực, những
kết quả trong nghiên cứu của các nhà khoa học dựa trên mô hình sẽ được đề cập
trong phần Tổng quan tài liệu.
1.2 Tổng quan nghiên cứu về mô hình hấp dẫn
39
Nếu như trong vật lý học, lực hấp dẫn giữa hai vật phản ánh sự tương tác
của chúng phụ thuộc vào khoảng cách và khối lượng thì trong kinh tế học, mô
hình lực hấp dẫn là công cụ dự đoán trao đổi thương mại song phương giữa hai
nền kinh tế trong mối quan hệ với khoảng cách, quy mô và các biến số phụ thuộc
khác đặc trưng cho mỗi quốc gia hay vùng lãnh thổ. Chính vì sự hữu ích và tính
ứng dụng cao trong thực tiễn bối cảnh thương mại quốc tế đang phát triển sâu và
rộng như hiện nay nên mô hình lực hấp dẫn (Gravity model) đã trở thành đề tài
nghiên cứu của không ít các tác giả, các nhà kinh tế tên tuổi trên thế giới. Nhìn
lại quá trình tìm hiểu của các học giả đi trước để phân tích và đánh giá hoạt động
xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường châu Âu thông qua mô hình trọng lực,
chúng tôi sẽ phân chia các bài nghiên cứu theo các biến số kinh tế như sau:
1.2.1 Biến giá trị xuất nhập khẩu
Giovanni Dell’ariccia (1999) trong bài viết “Exchange rate of Fluctuations
and Trade flows: Evidence from European Union”, trên cơ sở dữ liệu của 15
nước thành viên EU và Thuỵ Sỹ, tổng cộng là 2100 quan sát viên trong 20 năm
(từ năm 1975 đến năm 1994) và bằng phương pháp Fixed effect và Random
effect, đã chỉ ra rằng: Trong những lĩnh vực hoạt động xuất khẩu đòi hỏi đầu tư
lớn, thương mại được chứng minh là nhạy cảm với biến động của tỷ giá hối đoái
hơn trong các lĩnh vực hoạt động xuất khẩu ngắn hạn.
Trong “Trade flows and spatial effects: The gravity model revisted”, Tiến
sỹ A. Pororan(2000) đã căn cứ vào số liệu của EU, đặc biệt là các thành viên
tiềm năng, bằng phương pháp ước lượng OLS, để chứng tỏ rằng:
Một là, khi hiệu ứng không gian về vốn có trong dữ liệu được sử dụng để
ước tính được kết hợp trong phân tích, thay đổi đáng kể xảy ra ở độ lớn
40
và có ý nghĩa thống kê của các ước tính các thông số. Lượng vốn dẫn tới
sự thay đổi về các quyết đinh chính sách dựa trên mô thức thương mại.
Hai là, những ước lượng tham số càng chính xác thì việc đánh giá hiểu
quả thương mại càng chính xác qua việc hội nhập khu vực cũng như tiềm
năng thương mại.
Celine Carrere(2002) thông qua phương pháp OLS để số liệu của 130 nước
từ năm 1962 đến năm 1996, đã nhận định rằng: Các thỏa thuận thương mại khu
vực làm tăng xuất nhập khẩu giữa các nước thành viên, tuy nhiên phần còn lại
của thế giới thì phải trả giá cho sự tăng lên đó trong ”Revisiting the effects of
regional trade agreements on trade flows with proper specification of the gravity
model”
Cùng năm 2002, “Augmented gravity model: An empirical application to
Mercosur - European Union Trade flows” ( Inmaculada Martinez - Zarzoso và
cộng sự, 2002) trên cơ sở nghiên cứu số liệu của 20 quốc gia (Chile, 4 quốc gia
thuộc Mercosur và 15 quốc gia thược EU) bằng phương pháp Fixed effect và
Random effect đã nêu lên được những điểm chính sau:
Thứ nhất, thu nhập của cả nước xuất và nhập khẩu có ảnh hưởng tích cực
đến giá trị xuất nhập khẩu
Thứ hai, dân số của nước xuất khẩu có ảnh hưởng lớn và tiêu cực với giá
trị xuất khẩu, trong khi đó dân số nước nhập khẩu có ảnh hưởng lớn và
tích cực đến giá trị xuất khẩu. Nước lớn hơn nhập khẩu nhiều hơn nước
nhỏ.
Thứ ba, vai trò của các biến cơ sở hạ tầng, sự khác biệt thu nhập và tỷ giá
hối đoái là rất quan trọng đối với xuất nhập khẩu.
41
Cuối cùng, đối với quan hệ thương mại Mercosur - EU có vẻ như chỉ cơ
sở hạ tầng của nước xuất khẩu mới thúc đẩy thương mại, do đó đầu tư cải
thiện cơ sở hạ tầng đối tác kinh doanh không có lan tỏa lợi ích cho nhà
đầu tư của nước xuất khẩu.
Tuy nhiên, nghiên cứu chưa xem xét đến sự khác nhau của tác động tạo lập
thương mại và chuyển hướng thương mại.
Chan Huyn Sohn và Yokohama(2005) thì lại tạo dựng mô hình thương mại
Hàn Quốc áp dụng theo mô hình Hecksher – Ohlin bằng phương pháp ước lượng
OLS trong “Korea's trade flows” . Với sô liệu về quan hệ thương mại song
phương giữa Hàn Quốc và 30 nước đối tác chủ yếu trong 23 ngành năm 1995, họ
đã chứng tỏ rằng: Dòng thương mại của Hàn Quốc phụ thuộc nhiều vào các yếu
tố như lợi thế so sánh, sự khác biệt thu nhập và các giai đoạn phát triển khác hơn
là quy mô kinh tế hay sự đa dạng sản phẩm. Dòng thương mại đó phụ thuộc chủ
yếu vào ngành công nghiệp liên thương mại và một mức độ thấp hơn về thương
mại nội ngành theo chiều dọc.
Thierry Mayer và Soledad Zignago(2005) đã thu thập số liệu từ 67 nước
phát triển và đang phát triển trong giai đoạn 1976-1999 và ước lượng chúng
bằng gravity model border effect. Trong “Market Access in Global and Regional
Trade”, các tác giả đã đưa ra những đánh giá của mình:
Thứ nhất, phát triển phương pháp đánh giá mới độ mở cửa của thị trường
giữa các quốc gia có nhiều điểm chung( cùng là nước PT hoặc đang PT)
giữa các ngành công nghiệp và giữa các năm
42
Thứ hai, khó khăn phải đối mặt về phát triển xuất khẩu và thâm nhập thị
trường nội địa các nước phát triển của các nước đang phát triển là cao
hơn so với các nước xuất khẩu phía Bắc.
Tiếp tục các nghiên cứu trong năm 2005, Scott L. Baier và Jeffrey H.
Bergstrand với các dữ liệu của 96 nước trong các năm 1960, 1965, 1970, ...và
2000 đồng thời sử dụng Fixed effect, Random effect và OLS đã cho ra đời “Do
Free Trade Agreements Actually Increase Members’ International Trade?”. Mục
đích của bài viết này là để trả lời các câu hỏi đặt ra trong tiêu đề: “Hiệp định
thương mại tự do có làm tăng giá trị xuất nhập khẩu của các thành viên?” và câu
trả lời là có. Ước tính cho thấy rằng: Một FTA trung bình tăng thương mại hai
nước thành viên khoảng 86% sau 15 năm.
Sử dụng phương pháp OLS trong nghiên cứu: “The impact of rules of
origin on trade flows” (Patricia Augier và cộng sự, 2005) đã đi đến kết luận:
Quy tắc xuất xứ thương mại gây cản trở thương mại thế giới, việc cắt
giảm và hạn chế quy tắc này có thể làm thương mại thế giới tăng 50%.
Có bằng chứng cho thấy rằng việc thiếu tích lũy là quan trọng đối với
thương mại trung gian hơn là so với thương mại sản xuất.
Mức thuế càng cao càng có tác động càng nhỏ với tích lũy.
Claudio Montenegr và Isidro Soloaga(2006) đã dùng Fixed effect và OLS
để phân tích bộ số liệu của 120 nước chiếm hơn 90% thương mại thế giới từ năm
1988 đến năm 2003 và cho ra đời “NAFTA’S trade effect: New evidence with a
gravity model”. Trong đó, hai tác giả đã chỉ ra rằng:
43
Trước tiên là trước và sau khi có NAFTA, nhập khẩu của Mỹ từ Mexico,
Canada, và từ CARICOM Andean, MERCOSUR cho thấy không có sự
thay đổi có ý nghĩa thống kê, trong khi nhập khẩu của Mỹ từ các quốc
gia CACM tăng.
Thứ đến là chuyển hướng thương mại có lợi cho Mexico và Canada, bất
lợi cho Mỹ Latinh và các nước vùng Caribe.
Với số liệu của 178 nước giai đoạn 1950 – 2005 và phương pháp ước lượng
OLS, Shujiro Urata và Misa Okabe (2007) đã viết “The Impacts of Free Trade
Agreements on Trade Flows: An Application of the Gravity Model Approach”
và nhận thấy FTA mang lại hiệu ứng tạo ra thương mại và rằng hiệu ứng chuyển
hướng thương mại bị hạn chế. Bên cạnh đó, họ nhận ra tác động chuyển hướng
thương mại cho nhiều sản phẩm trong trường hợp của EU, NAFTA và
MERCOSUR nhưng không phải đối với trường hợp của AFTA.
Cùng năm đó, với “Singapore's Bilateral Merchandise Trade Linkages with
Japan and the United States: Trends, Patterns and Comparisons”, (Ramkishen S.
Rajan, 2007) đã đưa ra một số khẳng định dựa trên việc ước lượng OLS thông
qua số liệu giao thương của Singapore với Mỹ và Nhật Bản. Tác giả đã có những
liên kết khá sâu sắc của Singapore với Mỹ và Nhật đồng thời khẳng định sự phát
triển mạnh mẽ gần đây của Singapore cũng một phần nhờ sự suy yếu của kinh tế
các nước nam Á:
Sự chuyển hướng thương mại có thể giảm xuông tối thiểu với những
chính sách giảm thuế suất cỉa Singapore, tuy nhiên trên thực tế Singapore
lại là nước nhập khẩu thuế quan bên ngoài của Mỹ (điều này khá giống
với trường hợp của NAFTA).
44
Trong trường hợp của FTA với Nhật Bản, một số nền kinh tế Đông Á
thực sự có thể tồi tệ hơn.Điều này là doNhật Bản Đã cung cấp các ưu đãi
thương mại rộng lớn với một số các nền kinh tế Đông Á trên cơ sở GSP
(Generalised Preference System of Preferences), và với một FTA, những
lợi ích này có thể bị thu hồi cùng với sự hạ thấp các mức thuế.
“Trade and migration flows between some CEE countries and the UK”
(Subrata Ghatak và cộng sự, 2008) lại khẳng định: Số dân di cư là một yếu tố
quan trọng cho dòng chảy của di dân mới và xuất khẩu từ Vương quốc Anh có
thể bị ảnh hưởng bởi sự tích tụ của việc di cư nhờ vào số liệu của một số nước
CEE gia đoạn 1996-2003 và phương pháp Fixed effect.
Năm 2008 cũng là thời điểm ra đời “The Determining Role of EU in
Turkey’s Trade Flows: A Gravity Model Approach” (Erkan Erdil, 2008). Với sự
hỗ trợ dữ liệu từ Viện thống kê Thổ Nhĩ Kỳ 1992 – 2006 và phương pháp Fixed
effect, tác giả đã đưa ra một số khẳng định:
Thương mại Thổ Nhĩ Kì phụ thuộc lớn vào xu thế toàn cầu hóa và khu
vực hóa.
Quy mô kinh tế của Thổ Nhĩ Kỳ và các đối tác thương mại của nó ảnh
hưởng tích cực và quan trọng trong xác định dòng chảy thương mại của
Thổ Nhĩ Kỳ, dân số có ảnh hưởng tiêu cực và quan trọng, và mức độ
khác biệt về thu nhập bình quân đầu người là không đáng kể. Các hiệu
ứng cố định cho thấy khoảng cách địa lý giữa các quốc gia có ý nghĩa.
“Assessing the impact of the main East-Asian free trade agreements using a
gravity model” (Laetitia Guilhot, 2010) đã sử dụng số liệu của 3 khu vực
45
ASEAN, ASEAN-China, ASEAN-South Korea trong giai đoạn 1985-2007 cùng
với phương pháp Specific effect cũng như Fixed effect để làm rõ: AFTA kích
thích xuất nhập khẩu trong khu vực, tác động của nó đối với thương mại với
phần còn lại của thế giới thay đổi theo loại dòng chảy thương mại: đó là tích cực
trong trường hợp xuất khẩu và tiêu cực trong trường hợp nhập khẩu. Tác động
tổng thể của AFTA về thương mại đa phương là tích cực. Nó có thể được coi là
một khối xây dựng. Tuy vậy, các hiệp định thương mại tự do được ký kết giữa
các nước ASEAN,Trung Quốc và Hàn Quốc chưa được coi là yếu tố trong khu
vực.
Marie M Stack và Eric J Pentecost(2010) với nghiên cứu “Trade creation
and diversion revisited: Accounting for model uncertainty and natural trading
partner effects” lại xuất phát từ dữ liệu Ghosh và Yamarik (2004) và dữ liệu
Subramanian và Wei (2007) đồng thời sử dụng Bayesian Model Averaging
(BMA) để cụ thể hoá nghiên cứu của mình. Theo tác giả, sự tạo lập của PTA
thương mại là mạnh mẽ và tạo ra các hệ số dự đoán giúp giải quyết một số câu
đố thực nghiệm. Nghiên cứu đã đạt được một số thành tựu, đó là:
Khẳng định lại tác động mạnh mẽ của PTA với dữ liệu của Ghosh and
Yamarik;
Cho thấy ảnh hưởng của PTA phản ánh sự đa dạng của PTA và những
cấp độ cắt giảm thuế quan kèm theo chúng.
Dựa vào cơ sở dữ liệu thương mại qua các năm và phương pháp phân tích
các yếu tố, “The returns to exporting: evidence from UK firms” (Richard Kneller
và Mauro Pisu, 2010) đã:
46
Đánh giá tác động của xuất khẩu đến một vài cách thức vận hành của
một vài cấp độ công ty: xuất khẩu cho phép các công ty nắm vai trò cao
hơn về định giá và nó có ảnh hưởng đến sự tận dụng năng suất lao động;
Cho thấy lợi ích từ việc xuất khẩu không bị hạn chế với những nhà xuất
khẩu mới.
Tuy thế, thiếu sót của bài viết là kết quả đạt được chưa thực sự đạt được câu
trả lời rõ ràng bởi số liệu chưa được đầy đủ và chi tiết.
Dựa vào số liệu xuất khẩu của các hãng ở Pháp từ năm 1992, Thomas
Chaney (2011) đã hoàn thành “The Gravity Equation in International Trade: An
Explanation”và đi đến kết luận: Các công ty chỉ có thể xuất khẩu vào các thị
trường mà ở đó họ có một mối liên hệ. Họ có được sự liên hệ này bằng cách
thông qua cá mối liên hệ khác. Doanh thu cao trong xuất khẩu, với các công ty
thường là ở khối tư nhân, và khoảng cách địa lý gây cản trở cho việc liên lạc ban
đầu, sau đó khi đã có quan hệ thương mại, giá trị xuất nhập khẩu tỷ lệ thuận với
kích thước đất nước, và tỉ lệ nghịch với khoảng cách.
Hai tác giả Việt Nam: Võ Trí Thanh và Nguyễn Ánh Dương (2011) cũng có
bài nghiên cứu “Revisiting Exports and Foreign Direct Investment in Vietnam”
dựa trên các cơ sở dữ liệu thương mại và các con số thống kê tài chính của IMF
và phân tích CMS. Theo như bài viết này, cùng các cải cách mạnh mẽ trong thực
hiện chính sách thương mại va FDI, Việt Nam đã thực hiện khá tốt xuất khẩu.
Điều này cho thấy lợi ích từ việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Cơ cấu về
xuất khẩu cũng có những chuyển biến tích cực hơn mặc dù tỉ lệ mặt hàng tài
nguyên vẫn còn cao Sự đa dạng trong xuất khẩu của Việt Nam đang ngày càng
gần với xu hướng chung của thế giới, hàng hóa có khả năng thâm nhập tốt vào
các thị trường như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc. Lợi thế năng động và lợi thế so
47
sánh ngày càng được phát huy Vốn FDI có hiệu quả tích cực trong việc kích
thích xuất khẩu của Việt Nam.
Một nghiên cứu khá gần đây của tác giả Surya Bahadur Thapa (2012) mang
tên “Nepal's Trade Flows: Evidence from Gravity Model” đã sử dụng Fixed
effect trên cơ sở số liệu Chỉ số phát triển thế giới năm 2011,
website:www.indo.com/distanceand
và website:www.cepii.fr để đưa ra các đánh giá và nhận định.
Nghiên cứu này được thực hiện để đánh giá tiềm năng thương mại của
Nepal bằng cách sử dụng mô hình lực hấp dẫn. Mô hình hấp dẫn ở đây
giải thích rằng khối lượng thương mại giữa các cặp của các nước bị ảnh
hưởng tích cực bởi kích thước của hai nước và tiêu cực bởi khoảng cách
giữa chúng
Kết quả ước tính giá trị xuất nhập khẩu của Nepal cho thấy Nepal đã
vượt quá tiềm năng thương mại với 10 đối tác kinh doanh, bao gồm cả
các nước láng giềng khổng lồ Ấn Độ và Trung Quốc, và vẫn còn tiềm
năng thương mại với 9 đối tác thương mại bao gồm nước láng giềng
Bangladesh.
1.2.2 Biến khoảng cách
Chan Hyun Sohn (Viện Chính sách kinh tế quốc tế Hàn Quốc và Đại học
quốc gia Yokoham) (2005)với số liệu của 30 đối tác thương mại lớn nhất của
Hàn Quốc trong 23 ngành chính từ năm 1995 cùng phương pháp ước lượng OLS
đã cho ra đời bài viết “Does the gravity model explain South Korea’s trade
flows” . Nghiên cứu đã đo lường ảnh hưởng của khoảng cách tương đối của các
quốc gia và chỉ ra rằng quan hệ thương mại với các quốc gia có vị trí địa lý xa
48
xôi làm giảm thương mại với các nước gần gũi hơn về mặt địa lý , trong khi đó
thương mại với các nước ở gần lại tăng nhanh hơn so với các nước ở xa.
Trong “Market Access in Global and Regional Trade”, Thierry Mayer và
Soledad Zignago(2005) đã lấy số liệu từ 67 nước phát triển và đang phát triển từ
năm 1976 - 1999 và ước lượng bằng phương pháp OLS để chứng tỏ rằng: Hệ số
khoảng cách ở nơi khác nhau có sự khác nhau lớn; Nhật Bản, Mỹ và Canada
nhạy cảm hơn với khoảng cách hơn là các nước EU trong mô hình thương mại
của họ với các nước đang phát triển.
Bài viết “The Puzzling Persistence of the Distance Effect on Bilateral
Trade” của tác giả Anne-C´elia Disdier và Keith Head (2006) đã sử dụng 1467
ước lượng và 103 bài viết cùng với 3 phương pháp ước lượng: Fixed effect,
Random effect và OLS. Theo đó, sử dụng ước tính kéo dài hơn một thế kỷ,
chúng ta thấy rằng hiệu ứng khoảng cách giảm nhẹ từ năm 1870 đến 1950và sau
đó bắt đầu tăng lên. Những phát hiện này là một thách thức cho những người tin
rằng sự thay đổi công nghệ đã cách mạng hóa nền kinh tế thế giới làm tác động
của sự chia tách bởi không gian giảm hoặc biến mất.
Với số liệu của 3 khu vực ASEAN, ASEAN-China và ASEAN - South
Korea trong giai đoạn 1985 – 2007, phương pháp Specific effect và Fixed effect,
Laëtitia Guilhot LEPII-CNRS (2011) đã viết bài nghiên cứu “Assessing the
impact of the main East-Asian free trade agreements using a gravity model” và
chỉ ra rằng: Khoảng cách địa lý đại diện cho sự ảnh hưởng của chi phí vận
chuyển đối với thương mại. Các biến địa lý được sử dụng ở đây có tính đến
khoảng cách giữa hai thủ đô đo bởi tỷ lệ dân số của những người sống ở thủ đô.
Không giống như khoảng cách tiêu chuẩn đo đạc, tính toán này xem xét phân bố
49
địa lý của dân số, và do đó, làm suy giảm ảnh hưởng của thủ đô từ đó cung cấp
một ý tưởng thực tế hơn về việc phân phối các dòng chảy thương mại giữa các
quốc gia. Hai nước xa nhau về mặt địa lý với những nước khác có xu hướng
tham gia thương mại với nhau hơn hơn hai quốc gia bị chia cách bởi cùng một
khoảng cách tuyệt đối, nhưng lại gần về mặt địa lý gần gũi hơn với các thị
trường khác.
1.2.3 Biến dân số
“Augmented gravity model: An empirical application to Mercosur -
European Union Trade flows”, do tác giả Inmaculada Martinez - Zarzoso (Đại
học Jame I) và Felicitas Nowak - Lehmann (Đại học Goettinggen) (2001) viết
trên cơ sở số liệu của 20 quốc gia gồm Chile, 4 quốc gia thuộc Mercosur và 15
quốc gia thuộc EU, đã sử dụng Fixed effect, Random effect và Linder effect làm
phương pháp ước lượng. Theo như bài nghiên cứu này, dân số của nước xuất
khẩu có ảnh hưởng lớn và tiêu cực với giá trị xuất khẩu, trong khi đó dân số
nước nhập khẩu có ảnh hưởng lớn và tích cực đến giá trị xuất khẩu. Nước lớn
hơn nhập khẩu nhiều hơn nước nhỏ.
Inmaculada Martinez – Zarzoso (2003) đã chứng tỏ: Biến dân số nước xuất
khẩu có tác động tiêu cực, kích thước của nước xuất khẩu càng lớn, giá trị xuất
khẩu càng thấp. Tuy nhiên, hệ số ước tính tương ứng với dân số nước nhập khẩu
chỉ tiêu cực cho đến năm 1990. Từ năm 1991 trở đi, dấu hiệu này tích cực và có
tầm quan trọng ngày càng tăng với quy mô và kích thước thị trường. Nhận định
này của tác giả được thể hiện trong “Gravity Model: An Application to
TradeBetween Regional Blocs”, một bài nghiên cứu ước lượng bằng phương
pháp Fixed effect và OLS và lấy số liệu của 47 nước từ năm 1980 đến năm 1999.
50
Subrata Ghatak (Khoa Kinh tế, Đại học Kingston, Luân Đôn, Anh và cộng
sự (2008)đã cùng nhau cho ra đời bài nghiên cứu ”Trade and migration flows
between some CEE countries and the UK”. Họ đã đi đến kết luận: Số dân di cư
là một yếu tố quan trọng cho dòng chảy của di dân mới và xuất khẩu từ Vương
quốc Anh có thể bị ảnh hưởng bởi sự tích tụ của việc di cư trên cơ sở ước lượng
Fixed effect từ số liệu của một số nước CEE gia đoạn 1996 - 2003.
Từ việc nghiên cứu nhóm D8 trong giai đoạn 1995 – 2010 và bằng việc kết
hợp 2 phương pháp ước lượng Random effect và Fixed effect, “The
Determinants of Trade Flows between D-8 Group Members through Gravity
Mode” của Somayeh Razzaghi và cộng sự (2012) đã đạt được một số thành công
nhất định. Theo như nghiên cứu này, Biến dân số có hệ số tiêu cực đối với các
nước, trong đó lưu ý sự tồn tại của hiệu ứng thay thế nhập khẩu: kích thước ngày
càng tăng của thị trường khuyến khích sản xuất trong nước. Ngoài ra sự tồn tại
của hiệu ứng hấp thụ cũng được ghi nhận. Nó có nghĩa rằng mặc dù dân số tăng
lên và có lợi sản xuất, nhưng hàng hoá được sản xuất ra được tiêu thụ ở thị
trường nội địa thay vì xuất khẩu ra nước ngoài.
1.2.4 Biến GDP
Chan Hyun Sohn (Viện Chính sách kinh tế quốc tế Hàn Quốc và Đại học
quốc gia Yokoham) (2005) với số liệu từ 30 đối tác thương mại lớn nhất của Hàn
Quốc trong 23 ngành chính từ năm 1995 đã ước lượng OLS và chỉ ra trong bài
nghiên cứu “Does the Gravity Model explain South Korea’s Trade Flows?” rằng:
Khối lượng thương mại gia tăng cùng với sự gia tăng về quy mô kinh tế. Tuy
nhiên, hệ số ước lượng cho thấy, các yếu tố khác không đổi, tăng 1 phần trăm
trong GDP sẽ dẫn đến tăng khoảng 0,72 phần trăm trong dòng chảy thương mại
song phương của Hàn Quốc.
51
Bài viết “Assessing the impact of the main East-Asian free trade
agreements using a gravity model”, do Laëtitia Guilhot LEPII-CNRS (2010)
bằng phương pháp Specific effect và Fixed effect và lấy số liệu của 3 khu vực
ASEAN,ASEAN-China,ASEAN-South Korea trong giai đoạn 1985 – 2007, đã
nhìn nhận như sau: GDP của nước xuất khẩu hoặc nước nhập khẩu có ảnh hưởng
đáng kể và tích cực đối với sự chỉ đạo của dòng chảy thương mại giữa 34 quốc
gia. Sự hiện diện của các thỏa thuận khu vực ở Đông Á củng cố ảnh hưởng của
kích thước của nền kinh tế. Như vậy, trong giai đoạn 1985-2007, tăng 1% trong
GDP của nước xuất khẩu dẫn đến tăng 1,45% trong thương mại với các nước
nhập khẩu.
Kết hợp thành công OLS, Random GLS và Robust để nghiên cứu các chỉ
số kinh tế của Trung Quốc, Hồng Kông, Ma Cao, Hàn Quốc và Nhật Bản giai
đoạn 2004 – 2008, Shasha Yu và Eui Burm Park (2011) đã viết “East Asian
Trade Flows of Cultural Goods: A Gravity Model Approach” và cho rằng: Tính
chất đặc biệt nhất của hàng hóa di sản văn hóa là GDP của cả nước xuất và nhập
khẩu đều không có ảnh hưởng đáng kể đến thương mại của họ. Bởi vì hàng hóa
Di sản Văn hóa bao gồm cả văn hoá vật thể, chẳng hạn như xây dựng, tác phẩm
nghệ thuật và đồ tạo tác, chúng thường duy nhất và không thể thay thế nên chính
phủ luôn luôn cố gắng hết sức bảo vệ chúng khỏi sự trao đổi.
Somayeh Razzaghi và cộng sự (2012) đã chỉ ra rằng tác động của GDP là
tích cực và đáng kể và kết quả này cho thấy các nước giàu hơn tham gia vào
thương mại quốc tế nhiều hơn nhờ vào việc nghiên cứu nhóm D8 trong giai đoạn
1995 – 2010 với phương pháp Random effect và Fixed effect trong bài viết “The
52
Determinants of Trade Flows between D-8 Group Members through Gravity
Model” của mình.
Như vậy, trong những năm qua đã có không ít các nghiên cứu của các tác
giả khác nhau về Mô hình trọng lực và tính ứng dụng của nó trong thúc đẩy quan
hệ thương mại song phương, khu vực và đa phương. Mặc dù mỗi bài viết mới chỉ
đánh giá những khía cạnh nhỏ trong mối quan hệ quốc tế phức tạp của bối cảnh
hội nhập và toàn cầu hoá cũng như còn nhiều hạn chế trong đánh giá các tác
động nhưng chúng đã đóng góp những tư liệu đáng kể cho quá trình nghiên cứu
tiếp theo.
2. Ước lượng
Phương trình trọng lực cho xuất khẩu Việt Nam vào EU được tính trong giai
đoạn 1997-2011 do sự sẵn có của các số liệu thống kê thương mại song phương
trong giai đoạn này.Các số liệu thương mại song phương được thu thập với 27
nước đối tác thương mại ở EU từ cơ sở dữ liệu thống kê của ngân hàng thế
giới,tổng cục thống kê và tổng cục hải quan.Các nước đối tác thương mại này
chiếm trên 90% kim ngach xuất khẩu của Việt Nam sang châu Âu,cho thấy mô
hình trọng lực bao quát khá tốt hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam
trong những năm vừa qua.Số liệu về GQP,dân số được thu thập từ dữ liệu của
ngân hàng thế giới còn số liệu về khoảng cách giữa các nước được thu thập từ
CEPII
Kết quả của mô hình trọng lực được trình bày trong bảng,Kết quả ước tính này
cho thấy các hệ số đều có dấu như dự tính.Hệ số R-squared là 0,803 cho thấy mô
hình trọng lực giải thích khá tốt thương mại của Việt Nam,về mặt xuất khẩu sang
EU,trong những năm vừa qua.
53
Biến GDP thể hiện quy mô của nền kinh tế có dấu dương trong phương trình,cho
thấy tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam và ở nước đối tác đều có tác động dương
đến thương mại Việt Nam.Bên cạnh đó biến khoảng cách thì có dấu âm phù hợp
với phân tích của mô hình trọng lực.Nhìn vào phương trình có thể thấy thương
mại liên ngành chiếm ưu thế trong thương mại Việt Nam,hay trong những năm
vừa qua thì xuất khẩu của Việt Nam dựa trên sự khác biệt của các yếu tố sản
xuất.Nhìn vào biến giả Việt Nam gia nhập WTO thì thấy có dấu dương cho thấy
việc gia nhập WTO tác đông tích cực đến thương mại của Việt Nam
Chương III: Kết quả nghiên cứu
1. Mô tả và đánh giá diễn biến xuất nhập khẩu của Việt Nam vào EU
Các hệ số thì đều có ý nghĩa thông kê ở mức 1% (***)
Số quan sát là 395 với 27 nước châu Âu trong 1997-2011 (15 năm)
Mô hình
Ln export= -19.9384 - 0.386986 ln distance + 0.530076 ln population +0.713777
ln gdp + 1.07943 wto
Model 1: OLS, using observations 1-395
Dependent variable: l_TradeValue_in_1000_USD
Heteroskedasticity-robust standard errors, variant HC1
Coefficient Std. Error t-ratio p-value
const -19.9384 2.63303 -7.5724 <0.00001 ***
l_distance -0.386986 0.330318 1.1716 0.24209
l_pop 0.530076 0.111034 4.7740 <0.00001 ***
54
l_gdp 0.713777 0.0828774 8.6124 <0.00001 ***
wto 1.07943 0.107866 10.0072 <0.00001 ***
1.1 Dân số
Dân số đông thì nhập khẩu năm mặt hàng chính từ Việt Nam tăng ( tương ứng
với xuất khẩu của Việt Nam sang EU tăng)
Dân số tăng 1% thì nhập khẩu năm mặt hàng chính từ Việt Nam của bên EU
(tương ứng với xuất khẩu của Việt Nam sang EU) tăng 1000.0,530076=530,076
USD
Biểu đồ về dân số và giá trị xuất nhập khẩu của EU từ Việt Nam (2001-2011)
475000000
480000000
485000000
490000000
495000000
500000000
505000000
0
2000000
4000000
6000000
8000000
10000000
12000000
14000000
16000000
18000000
dân số
giá trị nhập khẩu từ VN
55
1.2 GDP
GDP nước đối tác lớn thì cũng nhập khẩu lớn (hay xuất khẩu VN tăng) GDP của
cả khối EU tăng 1% thì giá trị xuất khẩu từ Việt Nam sang EU 713,777 USD
Biểu đồ giá trị xuất khẩu cảu Việt Nam sang EU và GDP của toàn khối EU
(2001-2011)
Biểu đồ giá trị xuất khẩu của Việt Nam sang Đức và GDP của Đức (1997-2011)
0
2E+12
4E+12
6E+12
8E+12
1E+13
1.2E+13
1.4E+13
1.6E+13
1.8E+13
2E+13
0
2000000
4000000
6000000
8000000
10000000
12000000
14000000
16000000
18000000
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011
giá trị nhập khẩu
gdp
56
Từ các biểu đồ trên ta thấy sau năm 2008, GDP của EU giảm, giá trị nhập khẩu
từ Việt Nam cũng giảm theo, điều tương tự đúng với cả quá trình từ 2001 đến
2011. Những biến động gần như tương đồng cũng xuất hiện trong số liệu về
GDP và giá trị nhập khẩu của Đức với Việt Nam (1997-2011)
0
5E+11
1E+12
1.5E+12
2E+12
2.5E+12
3E+12
3.5E+12
4E+12
0
500000
1000000
1500000
2000000
2500000
3000000
3500000
4000000
giá trị nhập khẩu
gdp
57
Biểu đồ GDP các nước trong khối EU (2007)
GDP 2007
Austria
Belgium
Bulgaria
Cyprus
Czech Republic
Germany
Denmark
Spain
Estonia
Finland
France
United Kingdom
Greece
Hungary
Ireland
Italy
Lithuania
Latvia
Malta
Netherlands
58
Biểu đồ giá trị nhập khẩu từ Việt Nam năm 2007
Trong năm 2007, sáu nước dẫn đầu về giá trị nhập khẩu hàng hóa từ Việt Nam là
Đức, Anh, Ba Lan, Pháp,Bỉ và Tây Ban Nha cũng đồng thời là những nước dẫn
đầu về GDP. Năm 2008 chúng kiến hiện tượng tương tự nhưng có sự thay thế
của Hà Lan với Ba Lan trong sáu nước dẫn đầu.
Austria1%
Belgium9%
Bulgaria0%
Cyprus0%
Czech Republic1%
Germany20%
Denmark2%Spain
8%
Estonia0%Finland
1%
France10%
United Kingdom16%
Greece1%
Hungary1%
Ireland1%
Italy9%
Lithuania0%Latvia
0%
Malta0%
Netherlands0%
Poland13%
Portugal2%
Romania1%
Slovak Republic
0%Slovenia
1%0%
2%
giá trị nhập khẩu 2007
59
Biểu đồ GDP các nước trong khối EU (2008)
GDP 2008
Austria
Belgium
Bulgaria
Cyprus
Czech Republic
Germany
Denmark
Spain
Estonia
Finland
France
United Kingdom
Greece
Hungary
Ireland
Italy
Lithuania
Latvia
Malta
Netherlands
60
Biểu đồ giá trị nhập khẩu từ Việt Nam (2008)
Bảng thống kê tổng kim ngạch, tỷ trọng & thứ hạng của một số thành viên
EU trong thương mại với Việt Nam năm 2012
Kim ngạch, tỷ
trọng & thứ
hạng
Đức Pháp Anh Hà
Lan
Itali
a
Tây
Ban
Nha
Bỉ Áo Thụy
Điển
Ai
len
Austria1%
Belgium9%
Bulgaria1%
Cyprus0% Czech Republic
1%
Germany19%
Denmark2%
Spain9%
Estonia0%
Finland1%
France9%
United Kingdom14%
Greece1%
Hungary1%
Ireland0%
Italy9%
Lithuania0%
Latvia0%
Malta0%
Netherlands14%
Poland2%
Portugal1%
Romania1% Slovak Republic
1%Slovenia0%
2%
giá trị nhập khẩu 2008
61
Xuất nhập khẩu
Kim ngạch
(Triệu USD) 6.473 3.752 3.576 3.180 2.849 2.077 1.558 1.223 915 728
Tỷ trọng so với
tổng các thị
trường EU của
Việt Nam (%)
22,2 12,9 12,3 10,9 9,8 7,1 5,4 4,2 3,1 2,5
Thứ hạng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Xuất khẩu
Kim ngạch
(Triệu USD) 4.096 2.163 3.034 2.476 1.877 1.794 1.147 1.065 674 81
Tỷ trọng so với
tổng các thị
trường EU của
Việt Nam (%)
46,6 24,6 34,5 28,2 21,3 20,4 13,0 12,1 7,7 0,9
Thứ hạng 1 4 2 3 5 6 7 8 9 10
Thống kê số liệu xuất nhập khẩu năm 2012 của Tổng cục Hải quan cho thấy,
chiếm 85% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với các thành viên EU
tập trung ở 8 thị trường lớn: Đức, Pháp, Anh, Hà Lan, Italia, Tây Ban Nha, Bỉ
và Áo.
Trong đó, Đức là thị trường dẫn đầu về nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam với
kim ngạch đạt gần 4,1 tỷ USD, tiếp theo là Anh: 3,03 tỷ USD, Hà Lan: 2,48 tỷ
USD, Pháp: 2,16 tỷ USD,...
1.3 WTO
Trước năm 2007, cả khối chỉ có Áo đã gia nhập WTO, từ năm 2007, cả khối đều
62
gia nhập WTO. Sau sự gia nhập này, có sự tăng lên về giá trị nhập khẩu từ Việt
Nam, nhưng tác động này không kéo dài được đến 2009 do cuộc khủng hoảng
nợ công. Tuy nhiên, theo mô hình, việc gia nhập WTO của các nước EU mang
lại tác động dương cho giá trị xuất khẩu của Việt Nam sang EU.
3. Các vấn đề còn tồn tại và kiến nghị
Mặc dù bị ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng toàn cầu, song kim ngạch thương mại
giữa Việt Nam và EU trong năm 2009 đã đạt 15,2 tỷ USD, tăng hơn so với mục
tiêu ban đầu 15 tỷ USD. Thị trường EU vẫn luôn là một trong những thị trường
nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam.
Trong những năm gần đây, EU đã có nhiều chinh sách tích cực trong quan hệ
thương mại với Việt Nam, mặc dù EU vẫn có những ưu tiên hơn đối với Châu
0 5000000 10000000 15000000 20000000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
giá trị nhập khẩu
giá trị nhập khẩu
63
Phi, Caribê và nhóm các nước thuộc Thái Bình Dương. Với hệ thống ưu đãi thuế
quan phổ cập, dành cho các nước kém phát triển dành cho năm nước thuộc
ASEAN như Singapore, Thái Lan, Indonesia, Malaysia và Philippines. Vì vậy,
doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động hơn trong quan hệ thương mại với EU.
EU với 27 nước thành viên, thói quen tiêu dùng cũng như văn hóa kinh doanh
khác nhau, quy định trong nhập khẩu hàng hóa của EU là khá phức tạp và tương
đối khó hiểu so với với các nước trong các khu vực khác nhau. Như mới đây, EU
đưa ra quy định về chống khai thác và đánh bắt thủy hải sản bất hợp pháp (IUU),
mỗi đơn hàng đều phải có cam kết của nhà máy về nguồn gốc đánh bắt thủy hải
sản, điều này đã gây không ít cản trở đối với các ngư dân, các công ty chế biến
và xuất khẩu thủy sản Việt Nam. Để có thể hợp tác tốt, doanh nghiệp
Việt Nam nên tập trung nghiên cứu nội dung của các quy định này trước khi tiến
hành một đơn hàng cụ thể. Để đẩy mạnh xuất khẩu sang EU trong thời gian tới,
theo ông Matthias Duchn – Giám đốc của EuroCham cho biết doanh nghiệp Việt
Nam nên xem xét nhu cầu của khách hàng, có thể tập trung vào những sản phẩm
tốt cho sức khỏe và môi trường.
Việt Nam đang khởi động đàm phán Hiệp định tự do thương mại (FTA) với các
nước EU, theo đó, đây sẽ là cơ hội mới cho các nhà xuất khẩu trong việc đơn
giản hóa các thủ tục, giảm thuế và các rào cản khác khi đưa hàng hóa Việt Nam
vào thị trường đầy tiềm năng này.
Đánh giá tiềm năng xuất khẩu và xác định chính sách cụ thể cho ngành
hàng có thể chỉ là một phần của những hoạt động tầm cỡ hơn nhiều nhằm giải
quyết những vấn đề thực tế đang có Thách thức xảy ra ở Việt Nam. Hiện đang có
sự tranh cãi giữa các chuyên gia và những nhà lập pháp về lợi ích của việc “dọn
64
sẵn cỗ” (picking winners), nghĩa là nâng đỡ một số khu vực ngành hàng nhưng
lại làm phương hại đến những lĩnh vực khác, chứ không phải là thuần túy “tạo ra
một sân chơi bình đẳng” nhằm cải thiện môi trường kinh doanh cho tất cả các
ngành. Trên thực tế, có nhiều chính phủ đang thực hiện cách tiếp cận rất thực
dụng, đó là lách vào giữa hai tình thế và như vậy sẽ có được cả hai yếu tố. Cho
dù ở trong trường hợp cụ thể nào đi chăng nữa, chẳng hạn như trong trường hợp
thất bại trên thị trường thì sẽ có những can thiệp mang tính mục tiêu nhằm vào
những ngành hàng cụ thể để điều chỉnh và cũng sẽ có những ưu tiên nhất định để
tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nhân cả ở trong và ngoài nước.
Do vậy, chính phủ nên đề ra các chiến lược cho ngành hàng cùng với các chính
sách thích hợp nhằm đối phó với những vấn đề lớn đang nổi lên.
2.6 Những vấn đề chính còn tồn tại
Mặc dù đã gặt hái nhiều thành công trong các năm gần đây, nhưng các nhà
xuất khẩu của Việt Nam đang phải đối mặt với những thách thức lớn. Trong các
cuộc phỏng vấn đã tiến hành với các các doanh nghiệp và các các cán bộ từ các
hiệp hội ngành hàng, tất cả đều nêu ra một số những lĩnh vực đang gặp trở ngại
mà phần lớn những vấn đề lại này lại liên quan đến phía nhà cung cấp hàng trong
nước (bảng 43), đó là:
- Chất lượng thấp và sản phẩm không đa dạng: Một trong số những cản
trở chính đối với sự tăng trưởng xuất khẩu ở một số khu vực (dầu và một
số loại nông sản) đó là những sản phẩm này được xuất khẩu ở dạng thô
hoặc chỉ được sơ chế. Việc xuất khẩu như vậy vô hình chung hạn chế khả
năng tăng giá trị gia tăng và sự đa dạng của sản phẩm. Khi mà sự cạnh
tranh và những yêu cầu về giảm giá thành sản phẩm ngày càng mạnh mẽ
65
thì vấn đề về sản phẩm chất lượng thấp chính là điều cấn cá ở một số khu
vực sản xuất, đặc biệt là đối với sản phẩm công nghiệp. Chất lượng thấp
và sản phẩm đơn điệu không chỉ liên quan đến khía cạnh kỹ thuật sản xuất
(như sự lạc hậu về công nghệ) mà còn là sự yếu kém về phương thức quản
lý, thiết kế và marketing.
Giá trị gia tăng hạn chế do phụ thuộc lớn vào nhập khẩu nguyên liệu thô
và nguyên liệu trung gian. Ở một số lĩnh vực, sản phẩm được xuất khẩu
dưới dạng đã được chế biến nhưng phải nhập khẩu nguyên liệu thô và các
nguyên liệu trung gian. Như vậy, do thuế nhập khẩu cao và chi phí vận
chuyển lớn dẫn tới giá thành sản phẩm tăng và nguồn cung cấp hàng
không được đảm bảo ổn định. Các loại sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của
Việt Nam như quần áo và giầy dép đều phụ thuộc lớn vào nhập khẩu
nguyên liệu, giá trị gia tăng thấp. Hiện tại, Việt Nam chủ yếu vẫn hoạt
động với vai trò là một nhà thầu phụ, không có những mối liên hệ trực tiếp
với thị trường.
- Lạc hậu về kỹ thuật. Kỹ thuật chế biến sử dụng ở nhiều lĩnh vực đã lỗi thời mà
nguyên do là vì khả năng tài chính eo hẹp của các doanh nghiệp.
- Khả năng tiếp cận với các nguồn tài chính. Nhiều công ty, đặc biệt là các
doanh nghiệp vừa và nhỏ ở khu vực tư nhân đều thiếu vốn để mở rộng quy mô
đầu tư, mua máy móc và đầu tư cho nguồn nhân lực. Các doanh nghiệp cũng cần
có sự hỗ trợ để xây dựng kế hoạch kinh doanh hoặc xây dựng chiến lược cùng
những chỉ dẫn cụ thể để thực hiện đúng các quy trình của các tổ chức tài chính.
- Cơ sở hạ tầng không tương xứng. Chẳng hạn như hạ tầng cho vận chuyển hàng
quần áo đắt hơn khoảng 20% so với Thái Lan và Trung Quốc. Các hệ thống cơ
66
sở hạ tầng hỗ trợ khác như kho bãi và giữ lạnh không đáp ứng được yêu cầu của
hàng nông sản. Ví dụ như đối với gạo, những thất thoát sau khi thu hoạch rất lớn,
chiếm khoảng 10-12% vụ mùa mà chủ yếu là do công nghệ thu hoạch lạc hậu,
phương tiện vận chuyển thô sơ và cơ sở hạ tầng cũ kỹ.
- Giá cả không cạnh tranh. Ở một số khu vực sản xuất, hàng xuất khẩu của Việt
Nam còn nhiều mặt hạn chế do giá thành sản xuất cao mặc dù chi phí nhân công
rẻ. Chính phủ và các bên hữu quan cần lưu ý đến hai nhân tố chi phí chính trong
đó bao gồm cả sức cạnh tranh của Việt Nam là: chi phí theo đơn vị lao động (chi
phí nhân công theo đơn vị sản phẩm, là phương thức cân bằng với tỉ lệ chi phí
nhân công và năng xuất lao động) và các chi phí khác như nguyên liệu trung gian
và vận chuyển. Chẳng hạn như sản phẩm giầy dép, chi phí nhân công thấp nhưng
chi phí sản xuất lại cao do phải nhập khẩu các hoá chất, máy móc và phụ kiện.
Trong khi trên thế giới cả chi phí nhân công và năng xuất có xu hướng giảm đi
thì chi phí cho lao động có tay nghề cao ở một số khu vực sản xuất lại cao hơn so
với các nước khác ở khu vực.
Phân tích SWOT cho các ngành hàng xuất khẩu ở Việt Nam
Điểm mạnh (để xây dựng)
Ổn định tài chính, xã hội và chính trị
Vị trí địa lý thuận lợi, nằm trong khu
vực năng động
Các nhân tố cho sản xuất rất phong phú
Điểm yếu (để khắc phục)
Nạn tham ô và tham nhũng.
Chi phí lao động có tay nghề cao hơn
so với các nước khác trong khu vực.
Năng xuất thấp.
Sản phẩm chất lượng thấp.
67
(nhân công, nông nghiệp, lâm nghiệp
và ngư nghiệp)
Chi phí nhân công khá rẻ
Lực lượng lao động có kỷ luật.
Công nghệ sản xuất lạc hậu.
Giá trị gia tăng trong sản xuất ít do hạn
chế về nguồn nguyên liệu thô và
nguyên phụ liệu.
Cơ sở hạ tầng không tương xứng.
Chi phí vận chuyển nội địa cao so với
các nước khác trong khu vực.
Hạn chế về bí quyết trong thiết kế và
marketing.
Khoảng cách giữa các ngành ở nông
thôn và thành thị khá lớn.
Quá trình giảm bớt thuế VAT của
chính phủ còn chậm.
Chưa xây dựng được thương hiệu cho
hàng nông sản
Cơ hội (để nắm bắt)
Gia nhập WTO
Hội nhập khu vực (đáng chú ý là Hiệp
định Khu vực Tự do Thương mại
ASEAN - AFTA) và các hiệp định
thương mại song phương trong tương
Thách thức (để đối phó)
Sức cạnh tranh tăng cả ở thị trường nội
địa và quốc tế do giảm bớt bảo hộ cho
các ngành trong nước.
Không còn rào cản về thuế quan.
68
lai.
Đa dạng về thị trường và sản phẩm.
Chuyển giao công nghệ do đầu tư trực
tiếp nước ngoài.
Cải tiến chất lượng sản phẩm và cơ sở
hạ tầng
- Kiến thức thị trường nước ngoài và tình hình thương mại quốc tế còn
hạn chế. Thông tin về thị trường quốc tế có vai trò rất quan trong đối với những
doanh nghiệp mong muốn xuất khẩu trực tiếp sang các thị trường quan trọng như
Hoa Kỳ và Liên minh Châu Âu. Tuy nhiên, nhiều nhà xuất khẩu vẫn rất còn rất
hạn chế về kiến thức thị trường nước ngoài và vẫn cần phải qua khâu trung gian
ở rất nhiều ngành hàng. Theo kết quả của quá trình tự do hoá thương mại ở Việt
Nam, sức tăng trưởng ngày càng mạnh ở những doanh nghiệp cả tư nhân và nhà
nước là do hoạt động thương mại hướng vào xuất khẩu. Tuy nhiên, những doanh
nghiệp này đang phải đối mặt với hàng loạt những vấn đề và khó khăn như thiếu
thông tin thị trường và không có khả năng sử dụng những nguồn thông tin một
cách có hiệu quả. Mặt khác, cơ sở hạ tầng về thông tin của Việt Nam vẫn bị xem
là yếu kém và đắt đỏ cho dù đã có nhiều cải tiến tiến trong những năm gần đây.
Phương thức quản lý bán hàng vẫn còn nhiều hạn chế, các doanh nghiệp vẫn có
thói quen chờ đợi khách hàng một cách thụ động chứ không phải là tự mình đi
tìm kiếm một cách tích cực để nắm bắt nhanh những cơ hội mới. Sự phối hợp
giữa các cơ quan và chính quyền địa phương đã được cải thiện đáng kể, tuy
nhiên sự phối hợp này vẫn còn lỏng lẻo.
69
- Chưa hoàn toàn cởi mở đối với các nhà đầu tư quốc tế. Mặc dù Việt
Nam đã tiếp nhận những luồng đầu tư trực tiếp nước ngoài quan trọng, nhưng
các công ty nước ngoài vẫn gặp phải nhiều vấn đề về thủ tục hành chính và
khung pháp lý của trong nước. Hơn nữa, hệ thống thuế quan chưa tạo điều kiẹn
thuận lợi cho đầu tư và cơ sở hạ tầng về thông tin còn nhiều yếu kém và đắt đỏ.
2.7 Một số khuyến nghị chính
Các doanh nghiệp ở Việt Nam phải phải tìm cách thích nghi để ứng phó
với tình hình quốc tế đang có nhiều biến động và những thách thức chủ yếu như
đã đề cập ở trên. Điều này đặc đặc biệt quan trọng nếu Việt Nam muốn đạt được
vị thế hàng đầu ít nhất là đối với một vài sản phẩm hay quy trình sản xuất đạt
chất lượng cao. Với sự gia tăng các luồng đầu tư trực tiếp nước ngoài cùng với
quá trình cải cách đang được thúc đẩy nhanh chóng ở khu vực doanh nghiệp nhà
nước và sự nổi lên của các doanh nghiệp tư nhân, hoạt động kinh doanh ở Việt
Nam thường xuyên có sự biến đổi. Điều này có nghĩa là một lĩnh vực không thể
giải quyết được tất cả những vẫn đề có Thách thức, tuy nhiên, lĩnh vực đó lại có
thể nêu bật lên những hoạt động được lựa chọn để ưu tiên nhằm cải thiện hơn
nữa khả năng cạnh tranh và tiềm năng xuất khẩu của các ngành hàng đã được
khảo sát.
- Cải tiến chất lượng sản phẩm và thiết kế. Cho đến nay, đối với nhiều
ngành hàng, chiến lước chủ yếu của Việt Nam vẫn là chuyên về tiêu chuẩn hoá
và sản xuất hàng loạt các sản phẩm. Đối với những sản phẩm này, giá cả là tiêu
chuẩn lựa chọn chính trên thị trường và việc giảm giá là chiến lược duy nhất mà
các doanh nghiệp sử dụng làm công cụ để cạnh tranh trên thị trường, là nơi mà
sự cạnh tranh quốc tế rất mạnh mẽ. Tuy nhiên, nhiều sản phẩm có thể được phân
70
biệt bởi chất lượng (không chỉ liên quan đến những nhân tố khách quan như độ
tin cậy và dịch vụ sau bán hàng mà còn có những tiêu chuẩn mang tính chủ quan
như thiết kế và tiếng tăm) và điều này làm tăng sự lựa chọn cho các công ty đối
với những lĩnh vực họ mong muốn cạnh tranh. Một tỉ lệ về chất lượng-giá cả hợp
lý có thể được tìm thấy ở những khu vực thị trường có bình diện thấp và cao.
Trong khi các công ty ở những nước phát triển có xu hướng theo đuổi mục tiêu
về giá cao, chất lượng tốt tại một số khu vực (ở khu vực đó, việc trả lương cũng
phải cao), thì các công ty ở các nước đang phát triển lại thường phải lựa chọn
khu vực giá cả thấp, chất lượng thấp và trả lương cũng thấp. Các công ty của
Việt Nam cần phải củng cố hơn nữa sự chuyên môn hoá của mình. Tuy nhiên,
việc chuyên môn hoá cũng phụ thuộc vào nhiều yếu tố như đầu tư một cách thích
hợp vào chất lượng nguyên liệu thô, kỹ thuật sản xuất, cơ sở hạ tầng, quản lý
hiệu quả và nguồn nhân lực.
- Thích ứng tiêu chuẩn của Việt Nam với tiêu chuẩn quốc tế và giảm thiếu
những Thách thức ảnh hưởng đến sức khoẻ của hàng nông sản. Chất lượng
không đáp ứng được yêu cầu phần lớn là do thiếu tiêu chuẩn chất lượng và
không có các cơ quan chức năng thực hiện việc kiểm tra. Cần phải có phương
thức phù hợp để thích nghi hoá tiêu chuẩn của Việt Nam phù hợp với tiêu chuẩn
quốc tế. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các sản phẩm nông sản và thuỷ sản
là những sản phẩm mà thị trường thế giới áp dụng những quy định rất khắt khe
về an toàn và vệ sinh thực phẩm cũng như nguồn gốc xuất xứ. Trong những năm
gần đây, những hàng rào phi thuế quan, đặc biệt là những rào cản kỹ thuật trong
thương mại (TBT) và những quy định về vệ sinh trong Hiệp định SPS đóng vai
trò ngày càng quan trọng do tâm lý lo ngại của khách hàng (đặc biệt ở những
nước phát triển) về những ảnh hưởng của môi trường và vệ sinh. Bên cạnh đó,
71
còn có những vấn về liên quan đến sức khoẻ như cúm gia cầm và SARs. Điều
quan trọng là cần có biện pháp nhằm giảm thiểu những Thách thức ảnh hưởng
đến sức khoẻ và môi trường thiên nhiên bằng cách thiết lập một hệ thống hiệu
quả về thú y, hệ thống bảo vệ thực vật và cảnh báo thiên tai. Để thực hiện được
việc này, các nhà chế biến và sản xuất cần phải nâng cao khả năng quản lý chất
lượng thông qua dây chuyền đáng tin cậy từ việc canh tác/nuôi trồng và thu
hoạch/đánh bắt đến vận chuyển và chế biến. Việc nâng cao chất lượng và tiêu
chuẩn hoá cũng cần thiết đối với sản phẩm công nghiệp. Các hãng sản xuất cần
thực hiện theo quy trình quản lý chất lượng (ISO).
- Xây dựng thương hiệu. Nâng cao khả năng nhận thức về tầm quan trọng
của nhãn mác và số lượng nhãn hiệu thương mại của sản phẩm được xuất khẩu là
điều hết sức cần thiết. Chẳng hạn như có khoảng 90% sản phẩm nông sản của
Việt Nam được xuất khẩu sang thị trường nước ngoài nhưng không có nhãn mác,
điều này có nghĩa là nền kinh tế Việt Nam hàng năm mất đi hàng trăm triệu đôla
Hoa Kỳ. Nguyên nhân chính là do các doanh nghiệp xuất khẩu không có đủ
thông tin về thị trường xuất khẩu, không nhận thức đúng về tầm quan trọng của
nhãn mác thương mại và không hiểu rõ quy trình và chi phí về đăng ký thương
hiệu, tên tuổi và nhãn mác.
- Đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng và khoa học & công nghệ. Một hệ thống
cơ sở hạ tầng kém hiệu quả chính là một trở ngại nghiêm trọng cho xuất khẩu
của Việt Nam. Ví dụ như đối với ngành thuỷ sản và nông nghiệp, hiện có nhu
cầu về đầu tư vào các khâu sau khi thu hoạch và vào lĩnh vực chế biến. Chẳng
hạn như vấn đề lớn hiện nay là trang thiết bị của kho giữ lạnh hoặc giữ ấm còn
nghèo nàn. Theo như khảo sát vào năm 2002 của Viện Nghiên cứu Chính sách
lương thực quốc tế (IFPRI) thì chưa đến 3% công ty kinh doanh rau quả của Việt
72
Nam có kho giữ lạnh. Đối với sản phẩm thuỷ sản, một phần ba giá trị cá đánh bắt
được bị mất đi do thiếu trang thiết bị giữ lạnh và phương tiện vận chuyển. Đối
với ngành này, cần nâng cấp loại hình cơ sở hạ tầng hiện đại như cầu cảng cùng
các biện pháp đảm bảo an toàn cho ngư dân như hệ thống báo bão và lũ. Điều
cần nữa là đầu tư vào các máy móc hiện đại và công nghệ mới để cải thiện sản
lượng và chất lượng sản phẩm đồng thời làm tăng giá trị gia tăng. Chẳng hạn như
nghiên cứu về lĩnh vực sản phẩm lương thực có thể cải tiến chất lượng và đề xuất
ra những kỹ thuật sản xuất có hiệu quả hơn.
- Nhận thức được tầm quan trọng của những ngành hỗ trợ và cải thiện hiệu suất
của những ngành này. Các công ty tiên tiến thường tập trung vào những mảng
mà họ có khả năng thực hiện tốt nhất và mua những nguyên liệu và dịch vụ khác
trên thị trường. Mục tiêu của những ngành hỗ trợ này là làm tăng sức cạnh tranh
của các hãng lắp ráp, do đó, điều quan trọng là những công ty này có thể đáp ứng
được tiêu chí về chất lượng, chi phí và chuyển giao. Mặc dù những ngành hỗ trợ
đang bắt đầu triển khai ở Việt Nam, nhưng những nhà hoạch định chính sách và
doanh nghiệp, cả công ty nhà nước và tư nhân cần phải hiểu được tầm quan
trọng của những ngành hỗ trợ để vừa có sự sáng tạo và vừa triển khai những
ngành này bằng nỗ lực của chính mình. Do đó, cần làm rõ và dễ hiểu về những
nhân tố liên quan như pháp luật, các biện pháp xúc tiến có hiệu quả và các chính
sách hỗ trợ. Theo các chuyên gia từ Bộ Công nghiệp, ngành thiết bị gia dụng là
ngành có tiềm năng và đã trở thành ngành trụ cột ban đầu nâng đỡ cho những
ngành hỗ trợ ở Việt Nam. Nguyên liệu trung gian của ngành này tương đương
với 70-80% sản phẩm. Những ngành có nhu cầu lớn về ngành hàng hỗ trợ là
hàng điện tử nghe nhìn trong tiêu dùng hàng ngày và ngành công nghiệp tự động
73
hiện trong nước đang có nhu cầu và cũng là ngành đòi hỏi trình độ công nghệ
khá cao.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển đồng bộ nhóm đối tượng. Sức
cạnh tranh phụ thuộc vào việc các doanh nghiệp sử dụng những tài sản hiện có
của mình và có được phương thức tiếp cận với những nguồn mới hiệu quả như
thế nào thông qua hợp tác với những hãng và tổ chức khác. Chính phủ nên cân
nhắc việc tổ chức và triển khai đồng bộ cho nhóm các nhà chế tạo và các công ty
cùng nằm ở một khu vực địa lý, cùng có những khách hàng chung và những nhà
cung cấp nguyên liệu hoặc dịch vụ chung. Các công ty có thể chuyên vào sản
xuất công cụ, phụ kiện và trang thiết bị hoặc là những nguyên phụ liệu khác.
Hợp tác khu vực sẽ trở thành một nhân tố quan trọng cho Việt Nam.
- Cải thiện việc tiếp cận thông tin. Thông tin cập nhật và phù hợp thực sự
thiết yếu đối với sự sống còn ở những thị trường cạnh tranh mạnh mẽ. Những
nhà sản xuất, chế biến và xuất khẩu cần thông tin về thị trường quốc tế như mẫu
mã, xu hướng sản xuất (ví dụ như xu hướng về nguồn nguyên liệu, màu sắc và
kiểu dáng), tiêu dùng, thị trường, những đặc trưng, tiếp cậnh thị trường (các hàng
rào thuế quan và phi thuế quan), kênh phân phối, kho bãi, đóng gói và nhãn mác,
giá cả và triển vọng về thị trường. Nếu tập trung được những thông tin cập nhật
và cung cấp cho các công ty sẽ hỗ trợ cho họ rất nhiều trong kinh doanh.
- Đa dạng hoá các thị trường và triển khai các hoạt động xúc tiến thương
mại. Các hoạt động xuất khẩu của Việt Nam ở một số khu vực có hình thức rất
tập trung theo vị trí địa lý. Do tính đa dạng của thị trường, cần thiết phải có
phương thức làm giảm đi sự nhạy cảm của những cú sốc về nguồn cầu ở những
thị trường đơn lẻ. Ví dụ như vào năm 2003, chiến tranh ở I-rắc làm mất đi nhu
74
cầu chè của Việt Nam ở nước này. Các hoạt động xúc tiến thương mại cần thúc
đẩy hơn nữa nhằm mở rộng những thị trường hiện có và tìm kiếm được những
khách hàng mới. Các ngành hàng nên tập trung vào những hoạt động marketing
ở những thị trường chính (Hoa Kỳ, Nhật Bản và EU) và ở những thị trường tiềm
năng được lựa chọn và ở những thị trường đó nhập khẩu đóng vai trò quan trọng
hoặc có sức tăng trưởng nhanh, đồng thời đó là những thị trường mở hoặc có
những hiệp định thương mại ưu đãi với Việt Nam.
- Đảm bảo tiếp cận nguồn nguyên liệu thô. Ở một số ngành hàng, cung
cấp nguyên liệu thô và nguyên liệu trung gian cho sản xuất trong nước không
đáp ứng được nhu cầu dẫn đến chi phí cho sản xuất tăng (thuế nhập khẩu và chi
phí cho vận chuyển cao) và đôi khi làm gián đoạn hoạt động sản xuất vì nguồn
cung từ nước ngoài không ổn định. Để đảm bảo việc cung cấp cho các ngành chế
biến, cần có kế hoạch cụ thể nhằm tạo ra và phát triển nguồn nguyên liệu thô ổn
định. Đối vói sản phẩm ngư nghiệp, đã có kế hoạch về đầu tư vào nghề nuôi
trồng thuỷ sản. Đối với sản phẩm thủ công mỹ nghệ, nội thất và chế tạo sản
phẩm từ gỗ, chương trình trồng cây gây rừng không chỉ đảm bảo một nguồn
nguyên liệu thô ổn định với chi phí thấp mà còn cải thiện được điều kiện sinh
thái, nâng cao sức khỏe cộng đồng, giảm thiên tai và tạo thêm thu nhập cho
người nông dân. Cần phải có một tổ chức có uy tín và đủ đủ năng lực để chứng
nhận rằng rừng được quản lý đúng và có đủ điều kiện được cấp chứng chỉ FSC.
- Thiết lập quan hệ hợp tác chặt chẽ và linh hoạt giữa các bên hữu quan
và củng cố vai trò của các hiệp hội kinh doanh. Chính phủ, hiệp hội ngành hàng
và doanh nghiệp phải cùng làm việc nhằm giải quyết những vấn đề đang có
Thách thức xảy ra và củng cố sức cạnh tranh của Việt Nam. Điều quan trọng là
tất cả các bên trong một ngành cụ thể như những người nông dân, nhà chế biến
75
và các nhà xuất khẩu cần hoạt động gắn kết cùng nhau và cùng do một Bộ và
hiệp hội ngành hàng điều phối. Do đó, vai trò của hiệp hội có thể cũng được
nâng lên khi mà hoạt động của nó là để phục vụ những quyền lợi chung của các
thành viên, hơn thế, hiệp hội còn có vai trò đầu mối, thay mặt cho ngành đệ trình
những mong muốn, những đề xuất và khuyến nghị lên chính phủ hay các cấp có
thẩm quyền liên quan đến chính sách và thực hiện các quy định pháp luật.
- Thu hút đầu tư nước ngoài. Sự cạnh tranh giữa các nước đang phát triển
nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) rất khốc liệt, ví dụ như đầu tư -
đầu tư chung dưới hình thức liên doanh hoặc 100% doanh nghiệp vốn nước
ngoài – đang ngày một tăng và được nhìn nhận như một công cụ chủ yếu cho
phát triển kinh tế, tiềm năng kinh tế và là dấu hiệu của hưng thịnh của toàn bộ
nên kinh tế quốc gia. FDI là một hình thức có hiệu quả nhằm nâng cấp công
nghệ sản xuất, kỹ năng quản lý và chuyển giao bí quyết trong kinh doanh với
những tác động lan toả không chỉ đơn thuần bên trong khuôn khổ các doanh
nghiệp nước ngoài nữa. Bên cạnh đó, FDI có xu hướng kích thích hội nhập kinh
tế và mang đến phương thức tiếp cận cùng với các kênh phân phối và marketing
toàn cầu, đặc biệt khi đầu tư hướng vào xuất khẩu và công ty mục tiêu nằm trong
hệ thống sản xuất thống nhất của công ty đầu tư. Mặc dù Việt Nam đã rất thành
công trong việc thu hút đầu tư FDI và đầu tư lại chủ yếu vào chất lượng và chi
phí cho các nguồn nhân lực, nhưng Việt Nam cần phải khắc phục những hạn chế
cố hữu nếu muốn trở thành một địa điểm hấp dẫn, thu hút đầu tư cần. Đó là việc
thiếu sự minh bạch và tính nhất quán về khung chính sách và pháp lý, ví dụ như
những vấn đề liên quan đến thuế, những trở ngại đối với đầu tư, môi trường kinh
doanh chung, các thủ tục còn cồng kềnh, nạn quan liêu và hối lộ.
76
- Đầu tư vào con người. Rõ ràng, lực lượng lao động dồi dào, có kỷ luật
và có chất lượng của Việt Nam là một tài sản quan trọng và quí giá nhất. Tuy
nhiên, do lực lượng lao động thiếu đi những năng lực về mặt kỹ thuật nên đã cản
trở nhiều sức cạnh tranh toàn diện. Chẳng hạn như, hầu hết tất cả những nhà máy
chế biến thuỷ sản ở Việt Nam hiện nay đang cần những công nhân được đào tạo
và có tay nghề với khả năng về kỹ thuật và những kiến thức về vệ sinh, an toàn
thực phẩm… để đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế. Trong tương lai, nguồn
cung thiết yếu về nguồn nhân lực được đào tạo, đặc biệt là tầng lớp kỹ sư và thợ
cơ khí là thực sự cần thiết đối với sự phát triển của bất kỳ ngành nào. Một chiến
lược trọng điểm để thúc đẩy xuất khẩu đó là củng cố hơn nữa nguồn nhân lực
thông qua việc tiếp tục đầu tư vào tất cả các cấp độ giáo dục và đào tạo: giáo dục
cơ sở, đào tạo nghề và ngôn ngữ, đặc biệt là tiếng Anh và đào tạo ở bậc đại học.
Chính phủ nên đề ra chiến lược đào tạo ở hai cấp độ: đào tạo nghề cho công
nhân ở các nhà máy nhằm giảm các chi phí cho doanh nghiệp và đào tạo các nhà
quản lý để họ có thể thúc đẩy hoạt động kinh doanh của mình một cách có hiệu
quả. Các hoạt động đào tạo có thể được tổ chức hoặc thực hiện thông qua các
hiệp hội ngành hàng riêng.
- Đầu tư vào Việt Nam đến 2050. Lợi thế cạnh tranh của Việt Nam tạm
thời là những hoạt động “do yếu tố định hướng” (dựa vào khả năng của nguồn tài
nguyên và lực lượng lao động dồi dào, xem bảng 16) và “các hoạt động do đầu
tư định hướng” (chính phủ có thể vẫn nắm giữ vai trò lãnh đạo trong khi đưa ra
quyết định ngành nào là mũi nhọn và tập trung vốn để đầu tư). Việc thực các
hoạt động “do qúa trình đổi mới định hướng” của Việt Nam tạm thời vẫn xếp
bên lề. Tuy nhiên, khả năng sáng tạo, phân bổ và khai thác kiến thức và thông tin
hiện nay được coi như một nhân tố chính làm nền tảng cho sức tăng trưởng của
77
kinh tế và khả năng cạnh tranh của các công ty ở nhiều nước phát triển (OECD,
2001). Những tài sản không nhìn thấy được của một công ty như đầu tư cho
nghiên cứu và phát triển (R&D), nguồn nhân lực (đào tạo), phần mềm máy tính,
sự thay đổi về tổ chức và marketing và những sản phẩm hay hoạt động phi vật
chất khác được đem ra so sánh với những tài sản có thể nhìn thấy được như đầu
tư vào các trang thiết bị và nhà máy. Những nhân tố không nhìn thấy được đang
ngày càng thay thế những yếu tố sản xuất truyền thống như nguồn tài nguyên
(thiên nhiên), nguồn vốn (sức khoẻ) và lao động (bằng tay) và những nhân tố này
có vai trò quan trọng đối với khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp ở những
nước tiên tiến. Sự tăng trưởng kinh tế là do bắt nguồn từ những ý tưởng chứ
không phải là sự phân bổ những nguồn tài nguyên khan hiếm. Chính phủ Việt
Nam hoàn toàn có thể lựa chọn tiến trình này cho Việt Nam. Nền kinh tế dựa
trên cơ sở tri thức không đơn thuần là một sự thay đổi về nền kinh tế mà còn
kích thích sự thay đổi cả về văn hoá (cách chúng ta nghĩ) và cách thức tổ chức
(cách trao đổi kiến thức và thông tin). Tự do hoá về tự do tri thức và sáng kiến
trong lĩnh vực tư nhân có thể là một nhân tố quan trọng nhất nếu Việt Nam mong
muốn tạo ra những bước tiến đối với những ngành dựa vào tri thức và đặt nền
móng cho một Việt Nam đổi mới và sáng tạo trong thế kỷ 21.
C. KẾT LUẬN
Trong những năm qua, hai bên đã không ngừng tạo cho nhau những thuận
lợi, ưu tiên trong thương mại cũng như các lĩnh vực khác, như EU công nhận
Việt Nam là nước có nền kinh tế thị trường, tạo thuận lợi cho hàng hoá của Việt
Nam khỏi sự phân biệt, hưởng qui chế tối huệ quốc (MFN), GSP. Bên cạnh đó
một việc làn hết sức có ý nghĩa là EU sẽ mở cửa thị trường hơn nữa cho hàng
hoá xuất khẩu của Việt Nam, ủng hộ Việt Nam vào WTO. Đây là những việc
78
làm mà phía đối tác mong muốn được qua hệ lâu dài và toàn diện với Việt Nam,
từng bước tạo cho Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Hai bên đã coi
nhau là những đối tác quan trọng phía Việt Nam cũng đã đóng góp to lớn cho
mối quan hệ song phương này như với cương vị là chủ tịch của ASEAN , là
thành viên của APEC, Việt Nam ngày càng chứng tỏ vị thế quan trọng của mình
trong khu vực là cầu nối cho mối quan hệ hợp tác á- Âu và ASEAN. Đồng thời
việc EU thiết lập mối quan hệ với Việt Nam, EU sẽ có lợi thế quan trọng tại khu
vực Đông Nam Á, rộng hơn châu Á-Thái Bình Dương. Thông qua Việt Nam, EU
sẽ mở rộng quan hệ thương mại với các nước trong khu vực cũng như những ảnh
hưởng vè chính trị. Một Liên minh châu Âu sẽ mạnh hơn trong thời gian tới
không thể không tăng cường hợp tác với Việt Nam.
Trên cơ sở nhận thức sâu sắc vị thế cũng như tầm quan trọng trong quan hệ
thương mại Việt Nam-EU, chung ta tin tưởng rằng mối quan hệ này sẽ được phát
triển mạnh hơn và mở rộng hơn trong thời gian tới. Bởi vì nó được can cứ vào
những việc làm thực tiễn mà hai bên đã đạt được đó là Hiệp định khung về hợp
tác đã được hai bên ký kết ngày 17/7/1995 tạo ra một khuôn khổ pháp lý cho sự
hợp tác lâu dài. Đồng thời, cả Việt Nam và Liên minh châu Âu sẽ không thể
thiếu nhau trong một thế giới đang có những chuyển mình mạnh mẽ trong thế kỷ
21-xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá ngày càng đan xen lợi ích chặt chẽ hơn
trên tinh thần các bên cùng có lợi.
Tuy nhiên mối quan hệ thương mại Việt Nam-EU trong thời gian tới sẽ
không gặp ít những trở ngại cũng như những thách thức mà cần đến sự dỡ bỏ và
hợp tác chặt chẽ của đôi bên để đưa ra những giải pháp phù hợp. Đây là những
việc làm cần phải được xúc tiến ngay từ bây giờ. Có như vậy chúng ta mới tin
79
tưởng mối quan hệ thương mại sẽ có những kết quả cao hơn nữa trong thời gian
tới.
Quan hệ hợp tác quốc tế nói chung và với EU nói riêng có vai trò hết sức
quan trọng trong phát triểu kinh tế, xã hội của Việt Nam. Hiệp định hợp tác giữa
Cộng đồng châu Âu và Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã tạo cơ hội cho
quan hệ hợp tác toàn diện của hai bên tốt đẹp. Các cuộc gặp cấp cao, những cuộc
họp làm việc của các quan chức cấp cao Chính phủ hai phía, các doanh nhân tìm
hiểu thị trường.. đang từng bước làm vững chắc và nâng cao hiệu quả quan hệ
hợp tác.
80
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Celine Carrere, Revisiting the effects of regional trade agreements on
trade flows with proper specification of the gravity model, 2002
2. Shujiro Urata* and Misa Okabe, The Impacts of Free Trade Agreements
on Trade Flows: An Application of the Gravity Model Approach, 2007
3. Inmaculada Martinez-Zarzoso & Felicitas Nowak-Lehmann, Augmented
gravity model: An empirical application to Mercosur _ European Union
Trade flows, 2002
4. Subrata Ghatak, Monica loana Pop Silaghi & Vince Daly, Trade and
migration flows between some CEE countries and the UK, 2008
5. Laetitia Guilhot(LEPII-CNRS), Assessing the impact of the main East-
Asian free trade agreements using a gravity model, 2010
6. GIOVANNI DELL'ARICCIA* (IMF), Exchange Rate Fluctuations and
Trade Flows: Evidence from the European Union, 1999
7. Dr. A. Porojan, Trade flows and spatial effects: the gravity model
revisited, 2000
8. Surya Bahadur Thapa, Nepal's Trade Flows: Evidence from Gravity
Model, 2012
9. Thomas Chaney, The Gravity Equation in International Trade:An
Explanation, 2011
10. .Chan huyn sohn & Yokohama, Korea's trade flows, 2005
81
11. 1.Claudio Montenegro & Isidro Soloaga, NAFTA’S trade effect: new
evidence with a gravity model, 2006
12. Thierry Mayer & Soledad Zignago, Market Access in Global and
Regional Trade, 2005
13. Scott L. Baier & Jeffrey H. Bergstrand, Do Free Trade Agreements
Actually Increase Members’ International Trade?, 2005
14. Patricia Augier, Michael Gasiorek, Charles Lai Tong, The impact of rules
of origin on trade flows, 2005
15. Ramkishen S. Rajan, Singapore's Bilateral Merchandise Trade Linkages
with Japan and the United States: Trends, Patterns and Comparisons,
2007
16. Marie M Stack& Eric J Pentecost, Trade creation and diversion revisited:
Accounting for model uncertainty and natural trading partner effects,
2010
17. Vo Tri THANH, Nguyen Anh DUONG, Revisiting Exports and Foreign
Direct Investment in Vietnam, 2011
18. Richard Kneller, Mauro Pisu, The returns to exporting: evidence from UK
firms, 2010
19. Erkan Erdil, The Determining Role of EU in Turkey’s Trade Flows: A
Gravity Model Approach, 2008
20. LEPII-CNRS, Assessing the impact of the main East-Asian free trade
agreements using a gravity model., 2010
82
21. CHAN-HYUN SOHN-Korea Institute for International Economic Policy
and Yokohama National University, DOES THE GRAVITY MODEL
EXPLAIN SOUTH KOREA’S TRADE FLOWS, 2005
22. Thierry Mayer&Soledad Zignago, Market Access in Global and Regional
Trade, 2005
23. Anne-C´elia Disdier & Keith Head, The Puzzling Persistence of the
Distance Effect on Bilateral Trade, 2006
24. Inmaculada Martinez-Zarzoso (University Jame I) and Felicitas Nowak-
Lehmann (University of Goettinggen), Augmented gravity model: An
empirical application to Mercosur _ European Union Trade flows, 2002
25. 1.Subrata Ghatak (School of Economics,Kingston
University,London,UK)
2.Monica loana Pop Silaghi (Economics and Business
Administration,Babes-Bolyai University,Cluj-Napoca,Romania)
3.Vince Daly (School of Economics,Kingston University,London,UK),
Trade and migration flows between some CEE countries and the UK
26. INMACULADA MARTINEZ-ZARZOSO, INMACULADA
MARTINEZ-ZARZOSO, Gravity Model: An Application to Trade
Between Regional Blocs2003
27. Somayeh Razzaghi & Motafakker ,Azad Yusef Sofi, The Determinants of
Trade Flows between D-8 Group Members through Gravity Model, 2012
83
28. PGS.TS Đinh Công Tuấn (Viện Nghiên cứu châu Âu) , Quan hệ kinh tế
Việt Nam – EU năm 2007: Thực trạng và triển vọng
29. Tiến sỹ Võ Văn Quyền - Vụ trưởng Vụ Thị trường trong nước, Bộ Công
Thương, Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh và mở rộng thị
trường tiêu thụ nông sản Việt Nam
30. Hải quan Việt Nam, http://www.customs.gov.vn/default.aspx
31. Tổngcụcthốngkê Việt Nam, http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=217
32. World bank group, http://www.worldbank.org/