y Chờ Thiên Định - kinhsamthatson.files.wordpress.com fileám chỉ mỏ dầu khí Biển...

6
y ChThiên Định BU châu công luyện chn non thn, SƠN thy môn giang bo giác dân. Kquái chnơi thiên nht định, Nhn chcơ thiên định mc ai chê cười HƯƠNG nng dành thưởng ktròn ân. Đợi màn kết cuc srõ. Tbi hai chsc nâu sng, Gng chí dạy đời chng tiếc công. Vn bĩ xa chcâu thnh thi, Nhẫn đợi thi cơ Bun ai châm chích chcay nng. Mc ai chê bai Thy khùng điên (Đức Huỳnh Giáo Chủ viết tại Hòa Hảo năm Kỉ Mão 1939) Những tài liệu minh ha li dặn dò của Đức Thy Huỳnh Giáo Chủ: Hãy Chờ Thiên Định. Chký của Đức Thy Huỳnh Phú Sổ đêm 16-4-1947 Đốc Vàng Chký thiên cơ Bát Môn Đồ Trn gm 3 cuc chiến chống Pháp Mỹ Tàu Chký Bát Môn Đồ Trn của Đức Hunh Giáo Chủ đêm 16-4-1947 Đốc Vàng. Nét số 3 ct ngang gia chS tiên tri ám chỉ vĩ tuyến 17 chia hai đất nước năm 1954 ; nét 4 và 5 là chữ O ám chỉ mdu khí Biển Đông, và những nét 6,7,8 ám chỉ trn chiến Biển Đông sắp ti. Nét số 3 là hai cuộc chiến chống Pháp và Mỹ (chống Tây U; Sm Kim CKQuan của Ông Ba Nguyễn văn Thi viết năm 1915 tiên tri: Tây chưa mãn tới vic U Phân ); những nét còn lại là cuộc chiến chng gic Tàu sắp ti. Chký của Đức Thầy là biểu đồ gm c3 cuc chiến chống Pháp Mỹ Tàu. Theo Sấm Truyn Bu Sơn Kỳ Hương, dân tộc VN toàn thắng cba cuc chiến chng gic ngoại xâm. Những kli dng thời cơ móc ngoc vi gic ngoại bang hãy coi chừng, đừng di dt phn bi TQuc! Phần cõi hữu vi, Đức Thầy ký thác cho đảng Cng Sản đánh 3 cuộc chiến chống Pháp Mỹ Tàu; phần cõi vô vi Thầy chhuy tt c3 cuc chiến đi đến thng lợi hoàn toàn. Ai làm trái lời Thy dặn dò trong bức thư đêm 16-4-1947, sblut Tri pht nng; những ai làm trái lời Thy, sbpht theo luật Thiên Đình, nếu trách Trời trách Phật càng thêm tội. Đức Thy cảnh cáo trong bức thư như sau: Cm chđồn đãi, cấm chkéo quân đi tiếp cu. Hãy đóng quân y tại ch. Sáng ngày tôi sẽ cùng ông Bửu Vinh điều tra klưỡng ri vsau. Phi triệt để tuân lịnh! Phi chlnh Thầy, hãy chờ cơ Thiên Định. Môn đồ nào cả gan cãi lịnh Thy, sbthiên đình xử tội. Nên nhớ rằng trước khi ra đi, Thầy nhc nh: Phi triệt để tuân lịnh! Có những kẻ nói Đức Thầy bị gạt trong đêm 16-4-1947 ở Đốc Vàng, nhưng không ngờ Thầy đã biết trước Ông Trần văn Soái và Nguyễn Giác Ngộ, Tôi vừa hi hip với ông Bửu Vinh, bỗng có sự biến cố, tôi và ông Vinh suýt chết. Chưa rõ nguyên nhân, còn điều tra. Trong mấy anh em phòng vệ không biết chết hay chạy đi; nếu có ai chạy vbáo cáo rằng tôi bị bắt hay mưu sát thì các ông đừng tin và đừng náo động. Cm chđồn đãi, cấm chkéo quân đi tiếp cu. Hãy đóng quân y tại chỗ. Sáng ngày tôi sẽ cùng ông Bửu Vinh điều tra klưỡng ri vsau. Phi triệt để tuân lịnh. 16 4 -47 - 9gi15 đêm Ký tên - S

Transcript of y Chờ Thiên Định - kinhsamthatson.files.wordpress.com fileám chỉ mỏ dầu khí Biển...

Hãy Chờ Thiên Định BỬU châu công luyện chốn non thần, SƠN thủy môn giang bảo giác dân. KỲ quái chờ nơi thiên nhứt định, Nhẫn chờ cơ thiên định mặc ai chê cười

HƯƠNG nồng dành thưởng kẻ tròn ân. Đợi màn kết cuộc sẽ rõ.

Từ bi hai chữ sắc nâu sồng, Gắng chí dạy đời chẳng tiếc công. Vận bĩ xa chờ câu thạnh thới, Nhẫn đợi thời cơ

Buồn ai châm chích chữ cay nồng. Mặc ai chê bai Thầy khùng điên

(Đức Huỳnh Giáo Chủ viết tại Hòa Hảo năm Kỉ Mão 1939)

Những tài liệu minh họa lời dặn dò của Đức Thầy Huỳnh Giáo Chủ: Hãy Chờ Thiên Định.

Chữ ký của Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ đêm 16-4-1947 ở Đốc Vàng Chữ ký thiên cơ Bát Môn Đồ Trận gồm 3 cuộc chiến chống Pháp Mỹ Tàu

Chữ ký Bát Môn Đồ Trận của Đức Huỳnh Giáo Chủ đêm 16-4-1947 ở Đốc Vàng.

Nét số 3 cắt ngang giữa chữ S tiên tri ám chỉ vĩ tuyến 17 chia hai đất nước năm 1954 ; nét 4 và 5 là chữ O

ám chỉ mỏ dầu khí Biển Đông, và những nét 6,7,8 ám chỉ trận chiến Biển Đông sắp tới.

Nét số 3 là hai cuộc chiến chống Pháp và Mỹ (chống Tây U; Sấm Kim Cổ Kỳ Quan của Ông Ba Nguyễn văn

Thới viết năm 1915 tiên tri: Tây chưa mãn tới việc U Phân); những nét còn lại là cuộc chiến chống giặc Tàu sắp tới. Chữ ký của Đức Thầy là biểu đồ gồm cả 3 cuộc chiến chống Pháp Mỹ Tàu. Theo Sấm Truyền Bửu Sơn Kỳ Hương, dân tộc VN toàn thắng cả ba cuộc chiến chống giặc ngoại xâm. Những kẻ lợi dụng thời cơ móc ngoặc với giặc ngoại bang hãy coi chừng, đừng dại dột phản bội Tổ Quốc! Phần cõi hữu vi, Đức Thầy ký thác cho đảng Cộng Sản đánh 3 cuộc chiến chống Pháp Mỹ Tàu; phần cõi vô vi Thầy chỉ huy tất cả 3 cuộc chiến đi đến thắng lợi hoàn toàn. Ai làm trái lời Thầy dặn dò trong bức thư đêm 16-4-1947, sẽ bị luật Trời phạt nặng; những ai làm trái lời Thầy, sẽ bị phạt theo luật Thiên Đình, nếu trách Trời trách Phật càng thêm tội. Đức Thầy cảnh cáo trong bức thư như sau: Cấm chỉ đồn đãi, cấm chỉ kéo quân đi tiếp cứu. Hãy đóng quân y tại chỗ. Sáng ngày tôi sẽ cùng ông Bửu Vinh điều tra kỹ lưỡng rồi về sau. Phải triệt để tuân lịnh!

Phải chờ lịnh Thầy, hãy chờ cơ Thiên Định. Môn đồ nào cả gan cãi lịnh Thầy, sẽ bị thiên đình xử tội. Nên nhớ rằng trước khi ra đi, Thầy nhắc nhở: Phải triệt để tuân lịnh!

Có những kẻ nói Đức Thầy bị gạt trong đêm 16-4-1947 ở Đốc Vàng, nhưng không ngờ Thầy đã biết trước

Ông Trần văn Soái và Nguyễn Giác Ngộ,

Tôi vừa hội hiệp với ông Bửu Vinh, bỗng có sự biến cố, tôi và ông Vinh suýt chết. Chưa rõ nguyên nhân, còn điều tra. Trong mấy anh em phòng vệ không biết chết hay chạy đi; nếu có ai chạy về báo cáo rằng tôi bị bắt hay mưu sát thì các ông đừng tin và đừng náo động. Cấm chỉ đồn đãi, cấm chỉ kéo quân đi tiếp cứu. Hãy đóng quân y tại chỗ. Sáng ngày tôi sẽ cùng ông Bửu Vinh điều tra kỹ lưỡng rồi về sau. Phải triệt để tuân lịnh. 16 – 4 -47 - 9giờ 15 đêm

Ký tên - Sổ

tất cả. Ngay trong đêm 16-4-1947 ở Đốc Vàng, Đức Thầy đã ký thác cho Việt Minh {Cộng Sản} đánh 3 cuộc chiến: chống Pháp, Mỹ và Tàu {chữ ký Bát Môn Đồ Trận}. Thầy biết sau cuộc chiến chống Pháp, còn cuộc chiến khốc liệt chống Mỹ, rồi chống Tàu càng khốc liệt hơn nữa! Thầy cho biết rõ cuộc chiến chống Tàu đúng vào đầu thế kỉ 21 {sáng ngày}. Câu sấm viết: Sáng ngày tôi sẽ cùng ông Bửu Vinh điều tra kỹ lưỡng rồi về sau. Cụm từ sáng ngày ám chỉ đầu thế kỉ 21, vì lúc Thầy viết lá thư vào giữa thế kỉ 20. Đức Thầy dặn môn đồ hãy nhẫn chờ cơ Thiên Định:

KỲ quái chờ nơi Thiên nhứt định, Người trí chờ cơ khiến kẻ ngu không hiểu chê bai nhún trề, ví như Hàn Tín lòn trôn giữa chợ HƯƠNG nồng dành thưởng kẻ tròn ân. Hiền sĩ nhẫn chờ đến hồi kết cuộc sẽ rõ

Dân tộc VN phải trả quả bằng 3 cuộc chiến; và riêng Đức Thầy {hậu kiếp Đức Trạng Trình} phải vào Đốc Vàng cho Bửu Vinh chặt làm 3 khúc để trả cái quả vì ngày xưa Trạng Trình lập kế cho Nguyễn Hoàng trên đường Nam tiến với câu sấm bất hủ: Hoành Sơn nhất đái vạn đại dung thân; Thầy trả cái quả 3 chủng tộc bị nhà Nguyễn diệt chủng gồm có dân tộc Chàm, Thủy Chân Lạp, và Tây Nguyên. Luật nhân quả thật là sòng phẳng. Đức Thầy thuyết trong quyển Khuyến Thiện: Luật nhân quả thật là cao viễn, Suốt cổ kim chẳng lọt một ai.

Thật vậy, Đức Thầy là Bồ Tát giáng trần cứu thế cũng phải trả quả vào Đốc Vàng cho Bửu Vinh chặt 3 khúc đêm 16-4-1947. Sau khi cả dân tộc VN trả quả bằng 3 cuộc chiến chống Pháp, Mỹ, và Tàu, thì giống Hồng Lạc mới thấy thái bình vĩnh cửu trong thời Di Lạc sắp tới. Đức Thầy thuyết: Thiên cơ ai dám nói thừa, Mà trong bá tánh chẳng ưa Điên Khùng! (Khuyên Người Đời Tu Niệm, Đức Huỳnh Giáo Chủ viết năm 1939).

Phụ lục 1: Thủ bút và chữ ký của Bồ Tát Huỳnh Phú Sổ đêm 16-4-1947 ở Đốc Vàng tỉnh Long Xuyên

Chữ ký Sổ phía dưới bên góc mặt của Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ đêm 16-4-1947 ở Đốc Vàng

Chữ ký Bát Môn Đồ Trận do Đức Thầy ký thác cho đảng Cộng Sản lãnh đạo chống 3 đế quốc Pháp Mỹ Tàu.

Phụ lục 2: Chị Hằng Nga

Thầy TIÊN môn đệ tục, Tiên Trưởng Đạo chánh tín đồ tà; Cha hiền sanh con dữ, Tức bụng chị Hằng Nga.

Hằng Nga bóng vẫn sáng, Mặc dù nhiều mây áng; Khi ngọn gió thổi qua, Ánh TRĂNG huờn tỏ rạng.

Tỏ rạng là ánh TRĂNG, Mây không thể cản ngăn; Cản ngăn chỉ phí sức, Không thắng nổi Chị Hằng. dè dè

Chị Hằng soi thế gian, Cho kẻ tối thấy đàng; Không vì câu danh lợi, Vạn cổ vẫn minh quang.

Minh quang tánh của TRĂNG, Như minh quang đạo Hằng; Khoảng thế gian càng tối, Ánh quang minh càng tăng.

(Lá Thơ Đông Kinh Q. 1, tr.132, Bồ Tát Thanh Sĩ viết ở Tokyo ngày 10-6-1964; tìm hiểu thêm Chị Hằng Nga, độc giả tham khảo bài xướng họa Hằng Nga do Huỳnh Giáo Chủ viết ngày 14-6-Canh Thìn 1940 ở làng Nhơn Nghĩa; màn cuối Hạ Nguơn, Thầy về mượn xác Nữ {Hằng Nga})

*** Phụ lục 3: Hằng Nga

Bàn tay lật ngửa vậy mà, Chớ đừng lật sấp vì Thầy tái sanh.

Đi xa thì phải dặn rành… (Đức Huỳnh Giáo Chủ viết ở làng Nhơn Nghĩa {Xà No}, ngày rằm tháng 6 Canh Thìn 1940)

Trong cảnh Hạ Nguơn dầu sổi lửa bỏng, giặc giã khói lửa mịt mù, Bồ Tát giáng trần không có thì giờ nhàn rỗi ngồi uống trà run đùi ngâm thơ vịnh nguyệt. Mỗi hành động, mỗi lời nói của Đức Thầy Huỳnh Giáo Chủ đều khế hợp với thiên cơ đạo lý. Ngày 14-6- Canh Thìn (1940) tại làng Nhơn Nghĩa, Đức Thầy có làm thơ vịnh Hằng Nga dụng ý gởi một thông điệp quan trọng cho đệ tử hậu lai biết rằng Thầy sẽ mượn xác tái sanh thời cuối Hạ Nguơn như sau:

Thơ xướng.

Khen ai cắc cớ bấm trời tây, Từ cõi Niết Bàn Phật Tỉnh giấc HẰNG NGA khéo vẽ mày Hằng Nga là mặt Trăng = Xác Nữ = xác cô

Một phiến linh đinh trôi mặt biển, Tại sao Cô mà lại xưng Cậu?

Nửa vừng lửng đửng dán trên mây. và tại sao xưng Cậu mà lại là Cô? Cá ngờ câu thả tơi bời lội, Người đạo thấy xác Nữ sợ đạo tà,

Chim tưởng cung trương sập sận bay; vội vã bỏ Thầy

Nên một nên hai còn bé tuổi, Mười lăm mười bảy bốn phương hay.

Thơ họa.

Mây hồng năm sắc ở phương Tây, Từ cõi Niết Bàn Phật

Sáng suốt Ô KIM bởi vẹn mày; Ô Kim nói lái là Kim Ô là mặt Trời = Hồn Nam = Đức Cậu

Miệng nhỏ tiếng to vang bốn biển, Trổi giọng đờn kêu ngâm nga ca kệ

Lưỡi mềm lời lớn dậy rồng mây. truyền rao trầm bổng giọng Lôtô

Lòng trong Thánh Kệ tình bơi lội, Trò đừng sợ, chính Thầy trở về ứng khẩu thuyết Dạ sạch Phật Kinh ý luyện bay; chánh pháp Kinh Phật

Dầu cho thân Mỗ thanh xuân tuổi, Thức giấc đời mê phải được hay.

Mở đầu bài thơ xướng bằng câu: Khen ai cắc cớ bấm trời tây, một chữ là một nhiệm mầu! Cụm từ cắc cớ có nghĩa là không thường, lạ đời, dị kỳ, dị sự. Nhưng thật đó chính là dị pháp, diệu pháp huyền cơ. Chữ khen là điều tốt lành, ý nói điềm lành đến từ cõi Tây phương Cực Lạc {bấm trời Tây}. Chữ bấm nghĩa là bấm quẻ coi điềm lành cắc cớ đó là gì.

Câu thứ nhì giải đáp rõ: Tỉnh giấc Hằng Nga khéo vẽ mày, cụm từ Tỉnh giấc Hằng Nga, nghĩa là sau một thời gian vắng bóng, nay Đức Thầy tái thế mượn xác nữ {Cô = Hằng Nga}; cụm từ Tỉnh giấc ám chỉ sự tái

sanh tái thế. Cụm từ cắc cớ có cái lý đặc biệt là Đức Thầy tái thế thay vì như xưa nhiều lần mượn xác Nam, thì nay

cắc cớ mượn xác Nữ, khiến phần đông bổn đạo không thể nào ngờ, không dè, mượn xác Cô mà tại sao xưng Cậu? {Kim Ô mà nói đảo ngược là Ô Kim}. Vì vậy họ lo sợ Ngài là tà ma và xa lánh, ví như cá sợ mắc lưỡi câu và chim sợ cung tên bắn.

Cá ngờ câu thả tơi bời lội, Chim tưởng cung trương sập sận bay.

Những chữ cá chim là những từ ám chỉ người trong bổn đạo. Vì nghịch cảnh, tà ma lộng hành, cắc cớ Đức Thầy về phải mượn xác nữ nhằm tạo điều kiện tiếp cận người đạo, nhưng lại khiến người đạo vô cùng bàng hoàng lo sợ, không những họ tránh xa Ngài, mà họ còn chê bai, khinh bỉ nhún trề…Chỉ có những ai đại căn mới hiểu được chuyện cắc cớ này! Đây là cơ sàng lọc tuyển chọn: Chấp tướng chấp danh là rớt!

Bài thơ họa cũng cho biết từ Tây phương Đức Thầy tái thế, khẳng định hồn linh Ngài là Ô Kim nói lái đảo ngược từ chữ Kim Ô nghĩa là Mặt Trời {Cậu}. Ngài tái thế mượn xác Người Thiện Nữ học hành chưa thông, ứng khẩu thuyết Phật pháp thiên cơ đạo lý thao thao bất tuyệt, ai muốn theo Ngài học đạo phải dùng tai nghe:

Miệng nhỏ tiếng to vang bốn biển, Lưỡi mềm lời lớn dậy rồng mây. Lòng trong Thánh kệ tình bơi lội, Dạ sạch Phật kinh ý luyện bay

Câu sấm: Sáng suốt Ô Kim bởi vẹn mày, tại sao không viết đúng là Kim Ô mà lại cố ý viết đảo ngược lại là Ô Kim? Đức Thầy dụng ý là: Vì hoàn cảnh Hạ nguơn mạt pháp tà ma lộng hành, tùy cơ ứng biến Thầy về mượn xác Nữ {Cô} mà phải xưng là Cậu (Đức Cậu) để nhắc cho đệ tử nhớ rằng Thầy trở về, Cô Cậu, Cậu Cô; Ô Kim, Kim Ô. Phải chăng đây là trường hợp dị sự như Ông Ba Nguyễn văn Thới tiên tri:

Ai biết nước xuôi nuôi nước ngược, Bịnh căn vô dược được thọ trường. Dị thế dị thường tường dị lộ, Phật Trời cứu độ ngộ Phật Trời. Dị cư dị thời lời dị thuyết, Dị đoan dị tiếc kiết dị minh. Dị sự dị ninh linh dị pháp, Vô nhơn đối đáp pháp thinh không. Đức Thầy Đức Ông công Đức Cậu, * Hội Đồng cơ hậu đậu trào Minh. Phép phép linh linh ninh quốc sự, Nhơn dân vô lự tự an khương. An quốc an Vương khương thới nhạc, Di Đà Di Lạc đạt Vi Vô. (Kim Cổ Kỳ Quan, Cáo Thị 83: 85, Ông Ba Nguyễn văn Thới viết năm 1915)

Ông Ba Thới tiên tri gần ngày Tận Thế và Hội Long Hoa, sẽ có một đấng Bồ Tát xưng ĐỨC CẬU giáng trần với hành trạng nhiều đặc điểm: dị thế, dị thường, dị lộ, dị thuyết, dị pháp, dị cư, dị thời, dị sự, và hành đạo tưởng như dị đoan tà giáo, nhưng mà có phép mầu dị linh khiến người dân được an khương thời Di Lạc Phật Vương sắp tới. Thánh địa Di Lạc ở miền Nam VN. Dị thế là Bồ Tát ra đời thuyết pháp nhằm thời ma chướng hoành hành; Dị thường là Bồ Tát có hành trạng kỳ lạ, ví như mượn xác Nữ mà xưng là Đức Cậu; Dị thuyết là thuyết pháp khác thường, khi ngâm nga ca hát, khi rao đờn, khi rao giọng lôtô; Dị pháp là pháp khác thường, kỳ lạ tưởng chừng như dị đoan nhưng có phép linh nhiệm mầu khó nghĩ bàn; Dị cư là Bồ Tát thuyết pháp mà mang hành trạng Cư Sĩ tại gia xưng khùng điên, không xuất gia ở chùa; Dị sự là Bồ Tát làm những chuyện kỳ cục khó hiểu, hư hư thực thực… Tất cả những điều dị kỳ đó của Đức Cậu kết hợp thành pháp linh rất mầu nhiệm.

Dị sự dị ninh linh dị pháp, Vô nhơn đối đáp pháp thinh không. Đức Thầy Đức Ông công Đức Cậu, * Hội Đồng cơ hậu đậu trào Minh.

Phụ lục 4: Chị Hằng đâu mất

…Tình duyên gặp gỡ muôn thuở nào phai, Lô tô một bài tặng ban đồng đạo. Giờ này TA thảo bút nọ TA nghiên, Thương kẻ cuồng điên tới Đời không biết. Từ đây TA thuyết để lại một bài, Chúa Thánh lập Đài ra tay trừng trị. Ai người dũng sĩ có trí ráng tường, Phong cảnh thê lương dọn đường cho gấp. Chớ rồi Trời sắp thanh toán nợ nần, Tất cả hầu gần Các Lân cũng rụi. Thương thay Chú Cuội ngồi Gốc Đa Già, Gốc Đa Già= Đạo Phật vô vi

Khổ sở kia cà ôm mơ Hằng mộng. Bổn đạo ngóng trông Phật Thầy Thấy rồi nghiệp cộng sinh chúng liên miên, Tận thế cận kề

Chú Cuội như điên mơ màng TRĂNG sáng. Chờ Thầy về

Thấy rồi quý đáng không biết làm sao, Chú Cuội khóc gào Chị Hằng đâu mất. Chú Cuội = Bổn Đạo Thật là tin tấc {tức} những chuyện lạ kỳ, CHỊ HẰNG = Phật Thầy Cậu nói vô vi trong bài mầu nhiệm. Hiểu rồi ráng kiếm có hiếm nghe dân, Rộ rộ rần rần Cậu phân rồi biết. Bài này Cậu thuyết đạm bạc buổi trưa, Phú Thuận nên chừa ngăn ngừa tất cả. Thì rồi hối hả xem đạo ra sao, Ngăn ngỏ đón rào từ đây mới thấy. Bài này mành giấy ký bút nên thơ, Sự tới bây giờ tràn bờ như thác. Mượn danh Bồ Tát Cậu tá hồng trần, Ở đây nhiều phần mau mau dẹp dọn. Từ rày cả bọn sắp tới kia kìa, Chắc ta phải lìa chia hai tất cả. Luận bài rồi đã lý nọ càng phân, Kêu bớ người dân Tân Dân gần đến. Thuyền cầu cặp bến Cậu gởi đến xem, Kêu chị kêu em đừng thèm nghĩ nữa. Binh trời khói lửa cháy giữa không gian, Thế Chiến Ba

Sự thế rõ ràng lan tràn sắp tới. Khắp miền thế giới bốn biển năm châu, Nó cũng luận hầu xây đầu hết trọi. Ngọc Hoàng đang gọi tụi nó bó tay, Ray rứt không hay nước nào cũng đánh. Có CHIM vổ cánh thì nó tung tăng, chim = Chiến đấu cơ và hỏa tiễn nguyên tử

Thấy khổ khó khăn lăng nhăng hết trọi. Chắc rằng không khỏi tôi mọi chúng sinh, Cậu nói thất kinh ráng nhìn cho kỹ. Từ đây anh chị chắc bị câu lưu, Cậu nói nó thù người tu quá sức. Ráng về lập tức triệu ức bỏ mau… từ bi bố thí giải nghiệp kịp thoát đại nạn

(Hằng Nga Sấm Truyền tr. 26-27, Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh ứng khẩu thuyết ở Phú Thuận ngày 28-3-Tân Mùi 1991, kết tập băng Phú Thuận 3, Thiền Tịnh Bửu Sơn ấn tống 2007) Sydney, 29-3-2017, Kỳ Vân Cư Sĩ biên khảo (Facebook Mõ Tre & Blog Kinh Sam That Son)

https://kinhsamthatson.wordpress.com/

https://kiengxluu.wixsite.com/kinhsambuuson

Sống để coi nếu ai nói đúng, Mùi Dậu Thân rơi rụng đầy đường. Con Gà bay chẳng qua mương,* Tí te tiếng gáy vấn vương não sầu!

(Thiên Lan Khảo Bút tr. 27, Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh thuyết, Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney ấn tống)

Niên như điển, nguyệt như thoi, Vần xây thế giới luân hồi chẳng chơi.

Có Người Thiện Nữ truyền lời, Nhứt vân thiên lộ máy trời thinh thinh.

………………………………………………………

Non đoài giữ dạ tín thành, Thầy cho CƯ SĨ học hành chưa thông.

Anh em ai có phục tòng, Theo TÔI học đạo phải dùng tai nghe.

(Sấm Truyền Đức Phật Thầy Tây An tr. 103 & 109, lưu ở đình Tòng Sơn năm 1849, Nguyễn văn Hầu biên khảo ấn tống năm 1973)

Đức Phật Thầy tái thế mượn xác Người Thiện Nữ

học hành chưa thông, dốt viết không rành văn tự, dụng thần thông ứng khẩu thuyết pháp thiên cơ đạo lý thao thao bất tuyệt, ai muốn theo Ngài học đạo phải dùng tai nghe. Thời đại văn minh có phương tiện máy ghi âm cassette, băng đĩa… Khi Bồ Tát thuyết, bạn đạo dùng máy ghi âm hoặc đưa lên trang mạng quảng bá rộng rãi cho bá tánh nghe.