dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN...

331
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH THÁI BÌNH SỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ HUYỆN THÁI THỤY

Transcript of dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN...

Page 1: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH THÁI BÌNHSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC

DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ HUYỆN THÁI THỤY

Năm 2017

Page 2: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

1. BQL : Ban quản lý

2. BCTMT : Ban công tác mặt trận

3. CLB : Câu lạc bộ

4. DSVH : Di sản văn hóa

5. DSVHPVT : Di sản văn hóa phi vật thể

6. DSVHQG : Di sản văn hóa quốc gia

7. ĐU : Đảng ủy

8. HD : Hướng dẫn

9. HĐND : Hội đồng nhân dân

10. HTX : Hợp tác xã

11. MTTQVN : Mặt trận tổ quốc Việt Nam

12. SVHTT&DL : Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch

13. Tp. : Thành phố

14. TT : Thông tư

15. TW : Trung ương

16. UBND : Ủy ban nhân dân

17. UNESCO : Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc

18. VHTT : Văn hóa, Thông tin

19. VHTT&DL : Văn hóa, Thể thao và Du lịch

20. VHNT : Văn hóa Nghệ thuật

Page 3: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

MỤC LỤC

I. THỜI GIAN THỰC HIỆN CÔNG TÁC KIỂM KÊ KHOA HỌC........1II. MỤC ĐÍCH CỦA VIỆC KIỂM KÊ KHOA HỌC DSVHPVT............1

2.1. Công tác kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể ở Việt Nam..........12.2. Mục đích kiểm kê DSVHPVT trên địa bàn huyện Thái Thụy...4

III. QUY ĐỊNH VỀ NHẬN DIỆN DSVHPVT Ở HUYỆN THÁI THỤY.....43.1. Tiêu chí nhân diện di sản văn hóa phi vật thể............................43.2. Tiêu chí về người nắm giữ di sản văn hóa phi vật thể...............53.3. Các loại hình di sản văn hóa phi vật thể.....................................5

IV. QUY TRÌNH KIỂM KÊ DSVHPVT Ở HUYỆN THÁI THỤY........74.1. Quy trình tổ chức kiểm kê DSVHPVT......................................74.2. Nguyên tắc kiểm kê....................................................................84.3. Hướng dẫn điền thông tin vào phiếu kiểm kê............................8

V. PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG TRONG KIỂM KÊ KHOA HỌC DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ..............................................................9VI. MỘT SỐ KHÓ KHĂN VÀ THUẬN LỢI TRONG CÔNG TÁC KIỂM KÊ DSVHPVT Ở HUYỆN THÁI THỤY...................................12VII. KẾT QUẢ ĐIỀU TRA KIỂM KÊ DSVHPVT TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THÁI THỤY............................................................................15

7.1. Về địa bàn bàn kiểm kê DSVHPVT.........................................157.2. Kết quả kiểm kê DSVHPVT của huyện Thái Thụy.................17

VIII. HIỆN TRẠNG DSVHPVT Ở HUYỆN THÁI THỤY...................208.1. Lễ hội truyền thống..................................................................208.2. Nghề thủ công truyền thống...................................................1808.3. Nghệ Thuật trình diễn dân gian..............................................207

IX. TỔNG KẾT VẤN ĐỀ BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY DSVHPVT......210

Page 4: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

I. THỜI GIAN THỰC HIỆN CÔNG TÁC KIỂM KÊ KHOA HỌC

Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Thái Bình (VHTT&DL), Phòng

Văn hóa Thông Tin huyện Thái Thụy (VHTT) tiến hành mở lớp tập huấn

kiểm kê dựa vào cộng đồng cho các cán bộ công chức văn hóa các xã/thị trấn

từ ngày mồng 3 đến ngày 4 tháng 11 năm 2017.

Từ ngày mồng 6 đến ngày 30 tháng 11 năm 2017, nhóm kiểm kê

được chia làm 05 nhóm gồm chuyên viên Sở VHTT&DL, Phòng VHTT

huyện, cán bộ công chức các xã có Di sản văn hóa phi vật thể (DSVHPVT)

tiến hành công tác kiểm kê Di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn các xã

của huyện Thái Thụy.

II. MỤC ĐÍCH CỦA VIỆC KIỂM KÊ KHOA HỌC DSVHPVT

2.1. Công tác kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể ở Việt Nam

Từ cuối những năm 70 của thế kỷ XX, công tác bảo tồn và phát huy giá

trị của di sản văn hóa phi vật thể ở Việt Nam đã được Bộ Văn hóa khi đó và Ty

văn hóa (sau này đổi thành Sở văn hóa) các địa phương quan tâm thực hiện

theo những nhu cầu và mục đích khác nhau, đặc biệt là nhiệm vụ kiểm kê các

di sản văn hóa vật thể và phi vật thể đã được xếp hạng cấp quốc gia và cấp tỉnh

bước đầu được triển khai thực hiện. Công tác kiểm kê di sản được dần dần

hoàn thiện, đầy đủ và khoa học hơn từ khi Việt Nam phê chuẩn Công ước 2003

của UNESCO vào năm 2005. Theo Công ước này, các quốc gia thành viên bắt

buộc phải thực hiện kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể trên toàn quốc gia và

thành lập danh mục kiểm kê quốc gia. Các yêu cầu, nội dung về kiểm kê di sản

văn hóa theo quy định của UNESCO đã được nhận thức và triển khai trong

thực tiễn. Luật DSVH (2001, sửa đổi và bổ sung 2009) cũng được cập nhận và

chú trọng đến công tác kiểm kê. Do vậy, ngày nay công tác kiểm kê là một

nhiệm vụ bắt buộc của các Sở VHTTDL thực hiện trong cộng đồng các dân

tộc, theo các đơn vị hành chính huyện, xã, thôn ở trong tỉnh.

Triển khai Luật di sản văn hóa, các cơ quan quản lý văn hóa từ Trung

ương đến cấp tỉnh và huyện đã bước đầu xác định được chiến lược và các

1

Page 5: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

hình thức triển khai công việc kiểm kê di sản văn hóa vật thể trên địa bàn.

Nhiệm vụ này đã được thực hiện với sự hợp tác giữa cộng đồng, các cơ quan

quản lý văn hóa, các cơ quan nghiên cứu và các tổ chức xã hội. Đặc biệt, sự

tham gia kiểm kê của cộng đồng được thúc đẩy và là một trong những nguyên

tắc kiểm kê di sản với sự tham gia ý kiến, sự đồng thuận và cùng thực hiện.

Với chức năng quản lý văn hóa nhà nước, Cục Di sản Văn hóa đã tổ chức

phổ biến và tập huấn Thông tư số 04/2010/TT- BVHTTDL của Bộ Văn hóa,

Thể thao và Du lịch quy định về việc kiểm kê và lập hồ sơ khoa học Di sản văn

hóa phi vật thể để đưa vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia cho

toàn ngành văn hóa trong cả nước. Tính đến tháng 12 năm 2017, sau 07 năm

triển khai thực hiện Thông tư số 04/2010/TT- BVHTTDL của Bộ trưởng Bộ

Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã có gần 100 ngàn di sản văn hóa phi vật thể

của 62/63 tỉnh thành/phố được kiểm kê và đó là cơ sở để các cấp có thẩm quyền

xét duyệt, tôn vinh các di sản có giá trị, theo các cấp quốc gia và cấp tỉnh (địa

phương). Tính đến tháng 09 năm 2017 đã có hơn 200 hồ sơ khoa học Di sản văn

hóa phi vật thể được công nhận trong Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc

gia.

Thông tư số 04/ 2010/TT- BVHTTDL của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du

lịch quy định một số nội dung cơ bản của công tác kiểm kê bao gồm khái

niệm và tiêu chí cũng như thiết lập phương pháp luận để nhận diện và kiểm

kê, phục vụ các hồ sơ ứng cử các chức danh khác nhau. Quá trình tiến hành

kiểm kê di sản, hiện nay, tại hầu khắp các địa phương đã có kế hoạch mở rộng

sự cộng tác giữa cán bộ và cộng đồng địa phương với các nhóm nghiên cứu,

các nhà quản lý văn hóa các cấp, đem lại hiệu quả khoa học và đáp ứng nhu

cầu thực tiễn đặt ra. Hiện tại, các cơ quan quản lý văn hóa, nghiên cứu văn

hóa như Cục Di sản văn hóa, Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam đã

và đang hợp tác với các địa phương tiến hành công tác kiểm kê theo quy định

của UNESCO. Đặc biệt, công tác kiểm kê đã bước đầu được hoàn thiện với sự

tham gia tích cực của cộng đồng trong hầu kết các khâu, từ việc tham gia thảo

2

Page 6: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

luận trong các buổi tập huấn về nhận diện, về phân loại di sản, về các biện pháp

bảo vệ di sản.

2.2. Mục đích kiểm kê DSVHPVT trên địa bàn huyện Thái Thụy

- Khảo sát và đánh giá thực trạng của các Di sản văn hóa phi vật trên

địa bàn các thôn tháng làng của các xã trong phạm vi huyện Thái Thụy.

- Bước đầu, tập hợp một cách có hệ thống những di sản cụ thể do cộng

đồng thực hành trên địa bàn.

- Các di sản được kiểm kê đảm bảo có đầy đủ thông tin về nhận diện, ý

nghĩa, chức năng của di sản, về thực trạng, bối cảnh thực hành, số lượng nghệ

nhân, biện pháp bảo vệ di sản.

- Đề xuất kế hoạch, biện pháp tiếp tục triển khai hoạt động sưu tầm, bảo

tồn, khai thác giá trị di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn huyện Thái Thụy.

III. QUY ĐỊNH VỀ NHẬN DIỆN DSVHPVT Ở HUYỆN THÁI THỤY

3.1. Tiêu chí nhân diện di sản văn hóa phi vật thể

- Phải là di sản đang tồn tại, đang sống trong cộng đồng vẫn được cộng

đồng thực hành thường xuyên.

- Được cộng đồng sáng tạo, duy trì và chuyển giao từ đời này sang đời khác.

- Được cộng đồng xem là một phần quan trọng trong đời sống, tạo nên

bản sắc của họ.

- Di sản phản ánh sự đa dạng văn hóa và tôn trọng lẫn nhau giữa các

cộng đồng và nhóm người.

3.2. Tiêu chí về người nắm giữ di sản văn hóa phi vật thể

- Là người am hiểu, có kỹ năng, kỹ thuật, bí quyết nổi bật.

- Là người có thâm niên trong thực hành di sản.

- Là người tham gia tổ chức, hoặc thực hiện DSVHPVT liên tục.

- Có đóng góp trong việc truyền dạy DSVHPVT.

- Được cộng đồng công nhận.

- Những người nắm giữa di sản không giới hạn tuổi, giới tính, nghề

nghiệp. Họ có thể là trưởng thôn, Mạnh bái, thợ cả, ông trùm phường, nghệ

nhân, võ sư, thầy cúng, v.v.., nhưng là những người có hiểu biết và thực

3

Page 7: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

hành di sản.

3.3. Các loại hình di sản văn hóa phi vật thể

a) Di sản truyền khẩu

Di sản được thực hành bằng cách truyền khẩu trong hình thức ngôn từ,

bao gồm các loại hình ngữ văn dân gian, văn hóa truyền miệng được truyền

tải bằng lời nói như sử thi, ca dao, dân ca, tục ngữ, hò, vè, câu đố, truyện cổ

tích, truyện trạng, truyện cười, truyện ngụ ngôn, hát ru, bài cúng và các biểu

đạt khác được chuyển tải bằng lời nói hoặc ghi chép bằng chữ viết.

b) Nghệ thuật trình diễn dân gian

Di sản được thực hành bằng hình thức trình diễn, diễn xướng dân gian,

bao gồm âm nhạc, múa, hát, sân khấu và các hình thức trình diễn dân gian

khác, ví dụ, hát chèo, múa giáo cờ, giáo quạt, múa đùng, múa rối nước, hát ca

trù, hát văn, múa sênh tiền, múa bát dật, múa lân, múa rồng, múa quạt, múa

rối cạn, tuồng, cải lương, v.v.

- Các trò chơi dân gian: Cờ tướng, cờ người, đi cà kheo, chọi gà, đánh

đu, đánh roi, bắt vịt, bắt dê, bắt lợn, đập niêu, v.v.

- Các môn thể thao dân gian: vật, vật cầu, võ truyền thống, kéo co, bơi

chải, đua thuyền, v.v.

- Các thú chơi nghệ thuật: chơi hoa, cây cảnh, chơi chim, chơi cá, chơi

gà chọi,v.v.v….

c) Tập quán xã hội

Các tập quán xã hội bao gồm luật tục, hương ước, chuẩn mực đạo đức,

nghi lễ và các phong tục khác. Thí dụ các tập tục và nghi lễ liên quan đến

vòng đời con người như sinh nở (những kiêng kị cho người mẹ, cách nhận

biết giới của trẻ sắp sinh, khi sinh, sau khi sinh, thôi nôi, đầy tháng, đầy năm,

đặt tên, đứa trẻ sơ sinh đi xa, bán khoán, v.v. cưới hỏi (xem ngày, giờ, các

nghi lễ, quy định của làng,v.v.v..), lễ lên lão tháng thượng thọ, các thực hành

và tín ngưỡng liên quan đến người chết, tang ma, lễ cầu siêu, chạp tổ, giỗ, các

tập tục và nghi lễ có liên quan đến chu kỳ mùa, lễ tết (dựng cây nêu, hạ nêu,

4

Page 8: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

lễ xuống đồng, tết nguyên đán, rằm tháng giêng, thanh minh, Hàn thực, Đoan

ngọ, Rằm tháng Bảy, Trung thu), các phong tục và nghi lễ khác (tục kết chạ,

ăn trầu, nhuộm răng, làm đẹp, cầu đảo, các tập tục liên quan đến tín ngưỡng

phồn thực, v.v.)

d) Lễ hội truyền thống

Lễ hội truyền thống ở các làng xã Việt Nam bao gồm lễ hội làng tưởng

nhớ các vị thành hoàng, những người có công với dân với nước, được thờ

cúng ở đình, đền, chùa, miếu, từ, ví dụ, Hội Hét, Hội làng Quang Lang, Hội

đền Hệ, Hội làng An Tiêm, v.v.

đ) Nghề thủ công truyền thống

Các làng nghề thủ công truyền thống được cộng đồng làng xã thực

hành từ nhiều năm qua, từ làm bằng tay thủ công, đến nay có sự kết hợp với

máy móc, công nghệ. Tuy nhiên, kỹ năng làm nghề vẫn chủ yếu bằng tay với

trí thức được trao truyền giữa các thế hệ như nghề làm muối, nghề đan vó

nghề làm chiếu, nghề đan nón, mây tre đan…

e) Tri thức dân gian

Các tri thức được tích lũy từ nhiều thế hệ và trao truyền cho thế hệ trẻ

bao gồm tri thức về thiên nhiên, về mùa màng, về thời tiết, về khí hậu, về gieo

hạt, về đi biển, đi rừng, về đời sống con người, lao động sản xuất, y, dược học

cổ truyền, ẩm thực, trang phục và các tri thức dân gian khác.

Tri thức dân gian bao gồm:

- Y học dân gian (cách chữa bệnh của ông lang, bà lang về gãy xương,

bong gân, hóc xương, đau răng, xơ gan, thần kinh, các bệnh ngoài da, tri thức

về dược học dân gian về các cây thuốc bài thuốc.

- Tri thức về nông nghiệp (dự báo thời tiết, sâu bọ, mùa màng, chăn

nuôi, nông lịch, bảo quản giống, v.v.).- Tri thức về môi trường tự nhiên,

thiên nhiên (cách tìm mạch nước, khoan giếng, xem trăng, xem sao, con

nước, hướng gió, v.v.).

- Kinh nghiệm chế tạo và sử dụng công cụ trong kinh tế và đời sống

5

Page 9: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

như; cày, bừa, cào cỏ, liềm hái, dao, kéo, búa, rìu, bẫy, dụng cụ săn bắt (đó,

đơm, vó, lờ, nơm, lưới, lưỡi câu, bẫy, trúm, v.v.), cách xử lý nguyên vật liệu

(ngâm tre, hun khói, gác bếp, hong khô, v.v.).

- Tri thức về cách lựa chọn chế biến, bảo quản nông, hải sản….

- Tri thức về cách chế biến và kết hợp nguyên liệu các món ẩm thực….

- Tri thức gắn với tập quán như ăn trầu, nhuộm răng, làm đẹp, gội đầu.

IV. QUY TRÌNH KIỂM KÊ DSVHPVT Ở HUYỆN QUỲNH PHỤ

4.1. Quy trình tổ chức kiểm kê DSVHPVT

- Mở lớp tập huấn, phổ biến kiến thức về DSVHPVT, Công ước 2003,

Luật DSVH, Thông tư 04. Tại lớp tập huấn, các cán bộ đã hướng dẫn cán bộ

văn hóa của các xã trên địa bàn huyện cách thức, nội dung, phương pháp kiểm

kê và hướng dẫn chi tiết hình thức điền thông tin vào mẫu phiếu kiểm kê do

Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thái Bình (Sở VHTT&DL) ban hành dựa

vào Mẫu phiếu của thông tư 04, phù hợp với tình hình di sản tại địa bàn

huyện.

- Cán bộ công chức văn hóa xã tháng thị trấn và Phòng Văn hóa

Thông tin huyện phối hợp với cộng đồng tổ chức khảo sát, điền thông tin

vào phiếu kiểm kê.

- Tổ kiểm kê (gồm 5 người: 01 cán bộ Phòng Nghiệp vụ Văn hóa của

Sở VHTT&DL; 01 cán bộ Phòng Văn hóa và Thông tin huyện; 01 cán bộ

công chức văn hóa xã, thị trấn; 01 cán bộ nghiên cứu; 01 chuyên gia về

DSVHPVT) chịu trách nhiệm đánh giá sơ bộ, thẩm định kết quả kiểm kê và

đề xuất danh mục, thỏa thuận với cộng đồng và huyện để hoàn thiện hồ sơ

kiểm kê.

- Tổng hợp kết quả kiểm kê của huyện Thái Thụy (gồm Báo cáo, Danh

mục di sản, hồ sơ kiểm kê) nộp về Sở VHTT&DL.

- Sở VHTT&DL tỉnh Thái Bình đánh giá, thẩm định danh mục và báo

cáo lãnh đạo tỉnh..

4.2. Nguyên tắc kiểm kê

6

Page 10: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

- Kiểm kê toàn bộ di sản đang tồn tại trên địa bàn huyện.

- Chú trọng điều tra thực trạng, bối cảnh thực hành, nguy cơ làm hủy

hoại đến di sản, lập danh sách những cá nhân nắm giữ di sản.

- Công tác kiểm kê phải đảm bảo sự đa dạng văn hóa, tôn trọng ý kiến

của cộng đồng.

- Lưu ý tính tổng thể của di sản, bao gồm các yếu tố của di sản, từ

không gian thực hành, địa điểm, điều kiện thực hành, người thực hành, các

thành tố (vật thể, phi vật thể, âm nhạc, ca từ, nghi lễ, v.v.).

- Lưu ý phạm vi về thời gian và không gian, và quy mô tồn tại của di

sản, đặc biệt là di sản nằm trên nhiều thôn, xã, để đảm bảo thôn tin về di sản

đầy đủ.

4.3. Hướng dẫn điền thông tin vào phiếu kiểm kê

* Nguyên tắc điền thông tin vào phiếu kiểm kê

- Phiếu kiểm kê phải được điền đầy đủ thông tin theo quy định của

Thông tư 04 và theo tinh thần của Luật DSVH và Công ước 2003.

- Phiếu kiểm kê phải được viết rõ ràng, không viết chữ in hoa, không

viết mực đỏ.

- Người cung cấp thông tin có thể là cá nhân, nhóm người địa phương

(thôn, làng) có am hiểu và nắm giữ DSVHPVT được kiểm kê, trong trường

hợp có thông tin khác biệt thì ghi lại tất cả các ý kiến.

- Ghi lại chính xác thông tin từ người cung cấp (trước khi ghi ra phiếu

các bí quyết, điều thiêng, đời tư cần phải có sự đồng ý và thỏa thuận của

người cung cấp thông tin hoặc cộng đồng).

- Thông tin cơ bản theo các mục trong phiếu kiểm kê, nhưng cần vận

dụng linh hoạt, đặt nhiều câu hỏi phụ và trao đổi để lấy thông tin từ người

được phỏng vấn.

- Không hỏi những câu hỏi mang tính “gợi ý” câu trả lời. Không bỏ sót

các câu hỏi. Những câu hỏi không có thông tin thì ghi rõ “Không có thông tin”.

- Phiếu được lập bằng máy tính, cần nộp cả hai bản in có chữ ký và bản

7

Page 11: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

mềm (định dạng MS.Word).

- Người lập phiếu và Tổ trưởng tổ kiểm kê chịu trách nhiệm về nội

dung và chất lượng, yêu cầu của phiếu kiểm kê.

- Phiếu nộp cho Ban kiểm kê phải có đầy đủ chữ ký của người lập

phiếu và tổ trưởng tổ kiểm kê.

V. PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG TRONG KIỂM KÊ KHOA HỌC DI

SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ

Các phương pháp được sử dụng để thu thập thông tin kiểm kê gồm

phỏng vấn bảng hỏi, phỏng vấn sâu, quan sát, ghi chép thông qua thảo luận

nhóm, hồi cố, thống kê và theo quan điểm tôn trọng tiếng nói của cộng đồng

trong việc đồng thuận với nội dung giới thiệu về di sản văn hóa do chính cộng

đồng sáng tạo và bảo tồn trong lịch sử.

- Rà soát tài liệu lưu trữ: Là việc ra soát các báo cáo, các nghiên cứu,

phim tư liệu, ảnh, bản đồ, tư liệu liên quan đến các DSVHPVT để tránh trùng

lặp gây mất thời gian và để kiểm chứng thông tin thu được từ cộng đồng. Kết

hợp sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành (thư tịch học, khảo cổ học,

văn bản học, bảo tàng học) trong việc phân tích, đối chiếu, so sánh các nguồn

tư liệu để xác định đối tượng khảo sát, kiểm kê.

- Phương pháp quan sát và ghi chép: Đây là hữu ích cho việc thu thập

kiến thức địa phương và các loại hình DSVHPVT cụ thể. Quan sát bao gồm

việc lưu tâm đến ngôn từ và hành động của con người, bao gồm cả cách

cộng đồng sử dụng không gian riêng, không gian chung và các gợi ý họ đưa

ra xung quanh việc kiểm kê. Người quan sát cần hiểu được khả năng thu

thập thông tin “thiên kiến”, ví như “thấy những gì ta muốn thấy”. Nói cách

khác, các định kiến sẵn có có thể làm thiên lệch kết quả quan sát do thiếu đi

cái nhìn toàn diện về sự việc. Người quan sát cũng cần phải công minh trong

việc đưa ra các quyết định cuối cùng về những sự việc nhất định. Đặc biệt là

cần phải tránh xét đoán chủ quan và chỉ ‘thấy những thứ ta muốn thấy’.

Đáng chú ý nhất là các trường hợp đánh giá DSVHPVT, khi các quan sát

8

Page 12: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

viên muốn tỏ ra thành công, họ có thể đưa ra đánh giá không chính xác (vô

tình hoặc cố ý) để phù hợp với những mục đích cá nhân. Việc lưu trữ chi tiết

và cẩn thận các ghi chép điền dã rất quan trọng, kể cả đối với những cuộc

kiểm kê không sử dụng quan sát và ghi chép nhưng một phương pháp chính

để tạo thông tin. Ghi chép điền dã được dùng để ghi lại những quan sát trực

tiếp, để thu thập bất cứ loại hình DSVHPVT nào được sử dụng và các ý

tưởng phát sinh xung quanh các loại hình đó.

- Phương pháp phỏng vấn: Là đối thoại giữa hai hay nhiều người với

mục đích để khám phá ra một đề tài hay một chủ đề cụ thể, để cung cấp thông

tin về một loại hình DSVHPVT. Trong các cuộc phỏng vấn, người phỏng vấn

là người đặt câu hỏi, người được phỏng vấn trả lời câu hỏi. Phỏng vấn là một

khía cạnh không thể tách rời của các phương pháp tạo thông tin.

- Chụp ảnh: Là phương thức hiệu quả trong việc thu thập thông tin

liên quan đến bản chất sống động và tiếp biến của DSVHPVT, bằng cách

ghi lại đồng thời các hoạt động cũng như các trải nghiệm hay cách lý giải

của các bên liên quan. Hơn thế, các bức ảnh không chỉ là những tư liệu lưu

trữ và nghiên cứu mà còn là những công cụ hữu ích để quảng bá di sản. Sử

dụng các bức ảnh có thể giúp tăng cường tính trực quan sinh động và nội

dung của hoạt động kiểm kê. Các thành viên cộng đồng và những người

khác có liên quan đến việc thu thập và trình bày thông tin về các loại hình

DSVHPVT có thể chụp lại hình ảnh của người, địa điểm, vật hay sự kiện.

Ảnh tư liệu lịch sử hay ảnh lấy từ các bộ sưu tập cá nhân của thành viên

cộng đồng cũng có thể được sử dụng.

- Quay phim: Là phương pháp hữu ích trong việc truyền tải sự kiện,

tình cảm hay những hoạt động hàng ngày giúp hình thành nên đặc điểm của

các loại hình DSVHPVT trong một bối cảnh nhất định. Thông qua việc sử

dụng phim, các thành viên cộng đồng có thể dễ dàng mô tả các hành động, tập

quán hay niềm tin liên quan đến loại hình DSVHPVT, những thứ khó có thể

được truyền tải hay giải thích đầy đủ bằng các tư liệu khác. Hơn thế nữa, việc

9

Page 13: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

sử dụng phim có thể phổ biến các loại hình DSVHPVT trong các nhóm người

không cùng sử dụng một ngôn ngữ nói hay viết, và từ đó góp phần đóng góp

vào việc nâng cao nhận thức của người dân về di sản (một trong những mục

tiêu chính của Công ước). Việc sử dụng phương pháp quay phim tất nhiên sẽ

đòi hỏi một chi phí nhất định (như chi phí cho thiết bị và thời gian để đào tạo

sử dụng thiết bị quay phim). Tuy nhiên, các thước phim có thể cung cấp cho

một phương tiện thu thập và trình bày cách thức cộng đồng trải nghiệm và

thực hành DSVHPVT.

- Ghi âm: Là một kỹ thuật có thể được áp dụng cho nhiều phương pháp

tạo thông tin khác nhau thí dụ như; Được dùng để thu thập các loại hình

DSVHPVT khi mà âm thanh là thành tố chính (âm nhạc, khiêu vũ, ca hát…);

Được dùng kết hợp với ảnh và phim để tạo ra những câu chuyện kỹ thuật số;

Được dùng để tạo ra các tape âm thanh kỹ thuật số, tiếp cận được nhiều đối

tượng khán giả hơn qua mạng internet; Được dùng trong phỏng vấn để ghi lại

suy nghĩ, phản hồi của các thành viên cộng đồng liên quan đến loại hình

DSVHPVT và việc kiểm kê; Được dùng kết hợp trong các dự án quay phim

và tháng hoặc hỗ trợ nâng cao nhận thức; Được dùng cho các mục đích lưu

trữ (sẽ có giá trị lớn đối với cộng đồng sau này); Được dùng cho những mục

đích khác mà tại thời điểm hiện tại có thể chưa xác định được. Mỗi tư liệu có

thể được ghi lại với một mục đích nhất định, nhưng cũng có thể sẽ được dùng

để giải quyết các vấn đề khác trong tương lai.

- Lập bản đồ: Được tiến hành để lưu giữ tư liệu về cảnh quan văn hóa

và lãnh thổ của một cộng đồng và các loại hình DSVHPVT có liên quan. Lập

bản đồ cảnh quan văn hóa (và không chỉ cảnh quan lãnh thổ) liên quan đến

việc xác định các nét đặc trưng hình thành nên giá trị xã hội, các chuẩn tắc,

tập quán và tâm linh của một cộng đồng, và loại hình DSVHPVT có liên

quan; ví dụ như các địa điểm linh thiêng, địa điểm ca múa, địa điểm hội hè, và

rộng hơn là sự hiểu biết mang tính văn hóa về các cảnh quan trên. Việc lập

bản đồ có thể giúp thu thập thông tin về cách thức mà các địa phương tương

10

Page 14: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

tác với các loại hình DSVHPVT và có thể đem lại thông tin hữu ích về quy

hoạch không gian cho các cơ quan bên ngoài, cũng như ghi lại và lưu trữ kiến

thức địa phương liên quan đến một loại hình DSVHPVT cụ thể. Rộng hơn,

việc lập bản đồ tạo cơ hội để công nhận rộng rãi hơn di sản văn hóa truyền

miệng và di sản phi vật thể; nhờ đó có thể giải thích mối quan hệ bền chặt

giữa các di sản văn hóa với lãnh thổ và các bối cảnh tài nguyên thiên nhiên,

trong đó chúng xuất hiện và tồn tại, được truyền đến các thế hệ tương lai.

Việc lập bản đồ cũng có thể củng cố khả năng quản lý các DSVHPVT của các

cộng đồng, đồng thời khuyến khích sự tôn trọng và thấu hiểu từ các nhóm đa

số trong xã hội.

VI. MỘT SỐ KHÓ KHĂN VÀ THUẬN LỢI TRONG CÔNG TÁC

KIỂM KÊ DSVHPVT Ở HUYỆN THÁI THỤY

6.1. Một số khó khăn

Biến đổi văn hóa được hiểu là quá trình vận động của tất cả các xã hội,

trong sự gia tăng hội nhập kinh tế, chính trị, xã hội và giao lưu văn hóa mạnh

mẽ của quá trình toàn cầu hóa như hiện nay. Biến đổi văn hóa là xu hướng tất

yếu trong quá trình toàn cầu hóa và sự biến đổi ấy đã và đang diễn ra ở nhiều

cấp độ, theo nhiều chiều hướng khác nhau và các DSVHPVT cũng không nằm

ngoài quy luật ấy. Trên bước đường phát triển của lịch sử xã hội và những biến

đổi của cơ tầng địa lí tự nhiên, của nhiều giai đoạn tổ chức hành chính khác

nhau, nhiều địa danh đã bị biến đổi, nhiều địa danh cũ đã bị thay thế bằng thứ

ngôn ngữ hiện đại, người am hiểu không còn, thế hệ trẻ không được tiếp nhận

một cách hệ thống và bền vững từ những hình thức trao truyền bằng văn bản

học, nhiều cương vực hành chính đã biến cải, thay đổi hoặc mở rộng (cả về địa

vực cư trú lẫn tên gọi hành chính), nhiều tập tục sinh hoạt tín ngưỡng và thực

hành lễ hội bị mai một so với thời kỳ cách đây vài chục năm (đặc biệt là so với

năm 1945 trở về trước), bên cạnh sự lấn át của văn hóa đương đại đối với văn

hóa cổ truyền. Sự tiếp nối sinh hoạt văn hóa truyền thống giữa các thế hệ bị

ngắt quãng do chiến tranh và điều kiện lịch sử - xã hội.

11

Page 15: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

- Trong quá trình tiến hành điều tra trực tiếp tại các địa phương, chúng

tôi nhận thấy, rất nhiều DSVHPVT đã bị mai một như nghề rèn ở thôn Cao

Dương, nghề trồng mía ở thôn Thu Cúc xã Thụy Hưng, nghề dệt chiếu ở thôn

Hóa Tài xã Thụy Duyên, nghề trồng dâu nuôi tằm ở thôn An Cúc, xã Thụy

Việt, nghề mây tre đan của thôn Hòa Nha xã Thụy Chính, nghề đan vó xã

Thụy Dũng, tục thi lợn ‘Hống’ trong lễ hội đền Hệ xã Thụy Ninh, tục vật cầu

trong lễ hội đình Lạng, xã Thụy Chính cũng không còn được duy trì.

- Tại hầu khắp các xã được kiểm kê, đội ngũ cán bộ công chức văn hóa

và cán bộ lãnh đạo cấp xã do kiêm nhiệm nhiều việc, năng lực chuyên môn về

văn hóa truyền thống còn hạn chế hoặc yếu kém, không đáp ứng được nhu cầu

quản lý văn hóa và giúp cộng đồng sưu tầm, kiểm kê, nghiên cứu, bảo tồn

DSVHPVT của địa phương. Chính vì vậy, nhiều di tích có giá trị bị xuống cấp,

các loại hình DSVHPVT của các làng tháng thôn tháng khu chưa được quan

tâm để lập kế hoạch phục hồi (thông qua hình thức xã hội hóa) hoặc đề đạt các

cấp có thẩm quyền thẩm định, cấp kinh phí phục dựng, sửa chữa, tôn tạo.

- Trong khoảng hai mươi năm trở lại đây (từ 1996), hầu hết các địa bàn

dân cư nguyên là xóm, trại, làng đã được chuyển đổi tháng phân chia thành

các thôn tháng khu dân cư. Thực tế đó vô hình chung đã xóa dần một cách tự

nhiên tên gọi truyền thống của hàng loạt các xóm, làng, những tự danh vốn đã

đi theo cộng đồng dân cư hàng nghìn năm, ăn sâu vào tiềm thức văn hóa con

người, gắn với đặc điểm, ngọn nguồn xuất xứ lập xóm, lập làng cùng hàng

loạt các giá trị văn hóa phi vật thể truyền thống của cộng đồng. Bên cạnh đó,

có những làng tháng thôn, do diện tích cư trú rộng, dân cư đông, đã được

chính quyền địa phương chia thành nhiều thôn tháng khu dân cư và như vậy,

gần như chỉ có khu dân cư trực tiếp hiện tồn DSVHPVT di tích tín ngưỡng là

quan tâm, hiểu biết (ở những mức độ khác nhau) về DSVHPVT ở địa phương

mình. Các khu dân cư khác lâm vào tình trạng tâm lý bị xa rời di tích, tín

ngưỡng, DSVHPVT và ý thức cùng trách nhiệm dần phai nhạt, mang tính

khách thể hóa.

12

Page 16: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

- Do thời gian thực hiện việc kiểm kê, điều tra eo hẹp và số cán bộ

chuyên môn thực hiện có hạn nên việc tập hợp, khai thác tư liệu cùng cộng

đồng còn hạn chế. Điều này phần nào ảnh hưởng tới kết quả kiểm kê, nghiên

cứu, đặc biệt là việc thẩm định những biểu hiện của đặc trưng di sản văn hóa

phi vật thể cùng hệ thống ngôn ngữ cổ, gắn với sinh hoạt lễ hội, nghề thủ

công truyền thống, các loại hình diễn xướng dân gian, tri thức dân gian và

sinh hoạt văn hóa cộng đồng làng xã nói chung.

6.2. Một số thuận lợi

- Trong thời gian tiến hành kiểm kê của nhóm nghiên cứu, chính quyền

và đội ngũ cán bộ công chức văn hoá xã, huyện và đội ngũ các trưởng thôn,

trưởng BQL các di tích đã thường xuyên trực tiếp và quan tâm chỉ đạo, giúp đỡ

cụ thể, tạo điều kiện thuận lợi để đáp ứng mọi yêu cầu đặt ra của công việc

kiểm kê. Đặc biệt, các trưởng thôn, các bí thư chi bộ, BQL di tích thuộc các

thôn tháng khu tại hầu hết các xã đã trực tiếp tham gia tổ chức nhóm thảo luận

tại địa phương, tham gia chủ động giải quyết mọi vấn đề nảy sinh trong quá

trình thảo luận nhóm đại diện cộng đồng, nhằm cung cấp thông tin cho việc

điều tra kiểm kê.

- Những người dân trong cộng đồng bao gồm các bậc cao niên, các

thành viên trong các ban khánh tiết, trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào công

việc cung cấp thông tin tại đa số các thôn đều nhiệt tình, có quan điểm đồng

thuận với nhu cầu bảo tồn, khai thác và trao truyền di sản văn hóa phi vật thể

tại địa phương. Nhiều bậc cao niên đã cung cấp những tư liệu quý do cá nhân

tự sưu tầm, biên soạn hoặc biên dịch, làm tài liệu tham khảo tốt cho quá trình

trả lời phiếu điều tra, kiểm kê. Sự giúp đỡ tận tình, chu đáo của các vị trong các

Ban quản lý di tích, hội người cao tuổi tại các thôn về công tác tổ chức, tham

gia điều hành thảo luận nhóm đạt yêu cầu chất lượng đề ra của nhóm nghiên

cứu, điều tra.

Dựa vào những thuận lợi và khắc phục những khó khăn trên, nhóm

nghiên cứu đã thu được những kết quả kiểm kê nhất định. Nguồn tài liệu và

13

Page 17: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

thông tin do nhóm đại diện cộng đồng cung cấp, thông qua phiếu điều tra đã

được tập hợp, cho phép khẳng định: Đây là nguồn tư liệu tương đối phong

phú, có nhiều thông tin mới, có hệ thống về các loại hình DSVHPVT trong

địa bàn huyện Thái Thụy.

VII. KẾT QUẢ ĐIỀU TRA KIỂM KÊ DSVHPVT TRÊN ĐỊA BÀN

HUYỆN THÁI THỤY

7.1. Về địa bàn bàn kiểm kê DSVHPVT

Thái Bình là một tỉnh có nhiều di tích, di sản văn hóa vật thể và phi vật

thể của người Việt ở châu thổ Bắc Bộ. Tính đến cuối năm 2014 tỉnh Thái

Bình có hơn 400 lễ hội làng, hơn 30 loại trò chơi, trò đua tài, thi khéo dân

gian và hơn 20 loại diễn xướng dân gian đặc sắc1. Tiêu biểu có chiếu chèo

“làng Khuốc”, trò múa rối nước làng Nguyên Xá, Đông Các, lễ hội đền Trần,

đền Tiên La (Hưng Hà), đền A Sào, đền Đồng Bằng, lễ hội đền Lộng Khê,

(Quỳnh Phụ), lễ hội làng Quang Lang (Thái Thụy) đã được đưa vào Danh

mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Toàn tỉnh có hơn 3.000 thiết chế văn

hóa, tín ngưỡng bước đầu đã được kiểm kê, trong số đó có 111 di tích được

xếp hạng di tích quốc gia; di tích chùa Keo huyện Vũ Thư, di tích các Vua

Trần huyện Hưng Hà được xếp hạng quốc gia đặc biệt; 520 di tích được xếp

hạng di tích cấp tỉnh. Công tác bảo vệ và phát huy các giá trị di sản văn hóa

phi vật thể của địa phương đang được đẩy mạnh, các loại hình lễ hội dân gian,

diễn xướng dân gian đã từng bước được khôi phục và phát huy.

Thái Thụy là một huyện đồng bằng ven biển nằm ở phía Đông Bắc của

tỉnh Thái Bình, có hiện tích tự nhiên là 26.844 ha, trong đó có 15.235 ha đất

sản xuất nông nghiệp, 5.227 ha đất chuyên dùng, 374 ha đất lâm nghiệp,

2.035 ha là diện tích đất ở. Dân số huyện Thái Thụy có 248,9 nghìn người,

mật độ bình quân 927 người tháng km22. Địa giới hành chính của huyện Thái

Thụy được bao bọc bởi 3 mặt sông và 1 mặt biển. Phía Bắc có sông Hóa chảy

qua và đối ngạn với huyện Vĩnh Bảo của thành phố Hải Phòng. Sông Hóa nối 1 Nguyễn Thanh (2016), Hội làng truyền thống ở Thái Bình, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội, tr. 10.2 Cục Thống kê tỉnh Thái Bình (2016), Niên giám thống kê tỉnh Thái Bình năm 2015, Nxb. Thống kê, Hà Nội.

14

Page 18: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

liền với sông Hồng bằng sông Luộc hợp lưu với sông Thái Bình cùng đổ ra

biển tại nơi giáp kề với bờ bãi các xã Thụy Tân, Thụy Trường. Phía Nam là

hạ lưu sông Trà Lý cùng phân dòng chảy từ sông Hồng tại cửa Phạm Lỗ của

huyện Hưng Hà rồi đổ ra biển bằng cửa Trà Lý. Phía Tây tiếp giáp với các

huyện Quỳnh Phụ, Đông Hưng được phân chia ranh giới bằng hệ thống sông

Cô ở phía Bắc và sông Hoài ở phía Nam. Bờ biển Thái Thụy trông ra vịnh

Bắc Bộ có chiều dài hơn 27 km. Sông Diêm Hộ chảy qua huyện theo hướng

Tây – Đông chia huyện thành hai nửa gần tương đương về diện tích rồi đổ

ra cửa Diêm Điền hình thành nên cảng biển giao thương với các tỉnh trong

vùng. Cùng với hệ thống sông ngòi, cảng biển, tỉnh lộ 218 nối cảng Diêm

Điền với quốc lộ 10 cũng góp phần quan trọng trong việc giao lưu thông

thương bằng đường bộ với các trung tâm kinh tế trong và ngoài tỉnh.

Huyện Thái Thụy được thành lập ngày 17 tháng 6 năm 1969 trên cơ sở

hợp nhất của hai huyện Thái Ninh và Thụy Anh theo Quyết định số 93 tháng

CP của Hội đồng Chính phủ. Toàn huyện có 48 đơn vị hành chính gồm 1 thị

trấn Diêm Điền và 47 xã là: Thụy Dân, Thụy Dương, Thụy Ninh,Thụy

Duyên, Thụy Văn, Thụy Bình, Thụy Thanh, Thụy Phúc, Thụy Hà, Thụy

Trường, Thụy Liên, Thụy Hồng, Thụy Việt, Thụy Lương, Thụy Dũng, Thụy

Chính, Thụy Sơn, Thụy Phong, Thụy Hưng, Thụy Xuân, Thụy Trình, Thụy

Quỳnh, Thụy Hải, Thụy Tân, Thụy An, Thái Thượng, Thái Học, Thái

Nguyên, Thái Hồng, Thái Tân, Mỹ Lộc, Thái Hà, Hồng Quỳnh, Thái Thành,

Thái Thuần, Thái Phúc, Thái Thịnh, Thái Thủy, Thái Giang, Thái Sơn, Thái

Thọ, Thái An, Thái Đô, Thái Hòa, Thái Xuyên, Thái Hưng, Thái Dương.

Huyện Thái Thụy là địa phương có nhiều di tích lịch sử văn hóa gắn

liền với đời sống văn hóa vật thể và phi vật thể tiêu biểu của người Việt. Tính

đến cuối năm 2017 theo thống kê, kiểm kê của Sở VHTT&DL tỉnh Thái Bình

thì huyện Thái Thụy có 100 di tích lịch sử văn hóa bước đầu đã được kiểm kê,

trong số đó có 24 di tích được xếp hạng di tích quốc gia có thể kể đến đình An

Cố có giá trị điêu khắc gỗ cuối thế kỷ 17 và là nơi thờ thần Nam Hải đại

15

Page 19: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

vương; 76 di tích được xếp hạng cấp tỉnh.

7.2. Kết quả kiểm kê DSVHPVT của huyện Thái Thụy

Công tác bảo vệ và phát huy các giá trị di sản văn hóa phi vật thể của địa

phương đang được đẩy mạnh, các loại hình lễ hội dân gian, diễn xướng dân

gian đã từng bước được khôi phục và phát huy. Các DSVHPVT tiêu biểu của

địa phương đang được phục hồi và phát huy mạnh mẽ như lễ hội đền Hét của

xã Thái Thượng, hội bơi Chải ở thị trấn Diêm Điền, lễ hội đình miếu thôn Lễ

Củ xã Thụy Duyên, lễ hội đền Hệ xã Thụy Ninh…, hàng năm vẫn được đông

đảo cộng đồng nhân dân địa phương tổ chức thường xuyên. Bên cạnh đó nhiều

làng nghề truyền thống cũng đang được bảo tồn phát triển như nghề làm hương

Lai Triều xã Thụy Dương, nghề rèn làng An Tiêm xã Thụy Dân, nghề làm

muối xã Thụy Hải. Năm 2016 lễ hội làng Quang Lang xã Thụy Hải đã được Bộ

trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục VHPVT Quốc gia

theo Quyết định số 4036/QĐ-BVHTTDL ngày 21 tháng 11 tháng 2016.

Kết quả kiểm kê là các tư liệu mô tả thực trạng DSVHPVT của các xã

được chúng tôi trình bày cụ thể, kết hợp với việc giới thiệu một số thông tin

chung về kết quả xử lý định lượng thông qua các cuộc thảo luận nhóm tại 48

xã/thị trấn với sự tham gia của những người thực hành di sản thuộc các nhóm

tuổi khác nhau.

Bảng: Thống kê loại hình DSVHPVT huyện Thái Thụy năm 2017

TT Xã tháng thị trấn

Tổng số DSPVT

Lễ hội truyền thống

Nghề thủ

công truyền thống

Nghệ thuật trình diễn dân gian

Tri thức dân gian

Tập quán xã hội

Ngữ văn dân gian

1 Diêm Điền 2 1 1 0 0 0 0

2 Thụy Dân 2 1 1 0 0 0 0

3 Thụy Dương 1 0 1 0 0 0 0

4 Thụy Ninh 1 1 0 0 0 0 0

16

Page 20: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

5 Thụy Duyên 5 2 3 0 0 0 0

6 Thụy Văn 2 2 0 0 0 0 0

7 Thụy Bình 2 2 0 0 0 0 0

8 Thụy Thanh 3 2 1 0 0 0 0

9 Thụy Phúc 1 1 0 0 0 0 0

10 Thụy Hà 2 2 0 0 0 0 0

11 Thụy Trường 1 1 0 0 0 0 0

12 Thụy Liên 1 1 0 0 0 0 0

13 Thụy Hồng 1 1 0 0 0 0 0

14 Thụy Việt 2 2 0 0 0 0 0

15 Thụy Lương 2 2 0 0 0 0 0

16 Thụy Dũng 3 2 1 0 0 0 0

17 Thụy Chính 5 4 1 0 0 0 0

18 Thụy Sơn 4 3 1 0 0 0 0

19 Thụy Phong 2 2 0 0 0 0 0

20 Thụy Hưng 3 3 0 0 0 0 0

21 Thụy Xuân 6 6 0 0 0 0 0

22 Thụy Trình 1 0 1 0 0 0 0

23 Thụy Quỳnh 6 6 0 0 0 0 0

24 Thụy Hải 4 2 1 1 0 0 0

25 Thụy An 1 1 0 0 0 0 0

26 Thái Thượng 3 3 0 0 0 0 0

27 Thái Học 1 1 0 0 0 0 0

28 Thái Nguyên 2 2 0 0 0 0 0

29 Thái Hồng 1 1 0 0 0 0 0

30 Thái Tân 2 2 0 0 0 0 0

31 Mỹ Lộc 5 5 0 0 0 0 0

32 Thái Hà 1 1 0 0 0 0 0

33 Hồng Quỳnh 1 1 0 0 0 0 0

17

Page 21: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

34 Thái Thành 4 4 0 0 0 0 0

35 Thái Thuần 1 1 0 0 0 0 0

36 Thái Phúc 2 2 0 0 0 0 0

37 Thái Thịnh 1 1 0 0 0 0 0

38 Thái Thủy 1 1 0 0 0 0 0

39 Thái Giang 1 1 0 0 0 0 0

40 Thái Sơn 2 2 0 0 0 0 0

41 Thái Hòa 1 1 0 0 0 0 0

42 Thái Xuyên 3 2 1 0 0 0 0

43 Thái Hưng 1 1 0 0 0 0 0

44 Thái Dương 1 1 0 0 0 0 0

45 Thái Thọ 0 0 0 0 0 0 0

46 Thái An 0 0 0 0 0 0 0

47 Thụy Tân 0 0 0 0 0 0 0

48 Thái Đô 0 0 0 0 0 0 0

Tổng số 96 82 13 1

Tỉ lệ % tháng TS

100% 85% 14% 1,0%

Qua công tác kiểm kê cho thấy hiện nay trên địa bàn toàn huyện Thái

Thụy có 44/48 xã/thị trấn có di sản văn hóa phi vật thể với tổng số 96

DSVHPVT, trong đó lễ lễ hội truyền thống có 82 di sản (chiếm 85%), nghề

thủ công truyền thống có 13 di sản (chiếm 14 %), nghệ thuật trình diễn dân

gian có 01 di sản (chiếm 1,0%), 03 xã là Thái Thọ, Thái An, Thụy Tân và

Thái Đô là những xã không có DSVHPVT. Trong đó có 01 di sản được ghi

vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

VIII. HIỆN TRẠNG DSVHPVT Ở HUYỆN THÁI THỤY

8.1. Lễ hội truyền thống

1. THỊ TRẤN DIÊM ĐIỀN

18

Page 22: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

- Hội bơi chải Diêm Điền

(Thị trấn Diêm Điền, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên Ông Nguyễn Xuân Ban

Sinh năm: 1952 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Cán bộ hưu trí

Địa chỉ liên lạc: Khu dân cư số 8 Thị trấn Diêm Điền, huyện Thái

Thụy, tỉnh Thái Bình

(2) Họ và tên: Ông Nguyễn Thanh Hùng

Sinh năm: 1956 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Hưu trí

Địa chỉ liên lạc: Khu dân cư số 5 Thị trấn Diêm Điền, huyện Thái

Thụy, tỉnh Thái Bình

(3) Họ và tên: Bà Đỗ Thị Nhung

Sinh năm: 1983 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Công chức văn hóa

Địa chỉ liên lạc: UBND thị trấn Diêm Điền, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình

(4) Họ và tên: Hoàng Trọng Khánh

Sinh năm: 1999 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Ngư dân

Địa chỉ liên lạc: Khu dân cư số 7 Thị trấn Diêm Điền, huyện Thái

Thụy, tỉnh Thái Bình

Nhận diện hội bơi chải Diêm Điền:

Hội bơi chải theo các bậc cao niên ở thị trấn Diêm Điền thì nó đã có từ

rất lâu đời gắn liền với di tích đình Bơi, miếu Bơi. Trước năm 1940 của thế kỷ

XX, đình miếu bị phá dỡ, đồ thờ, tượng thờ được nhân dân đi cất gửi và chôn

giấu nên hội cũng từ đó mai. Đến năm 1990 nhân dân địa phương đã khôi

phục lại lễ hội như ngày nay. Hàng năm, cứ đến ngày 12 tháng Giêng nhân

dân thị trấn Diêm Điền lại tổ chức lễ hội bơi chải để cầu mong cho một năm

19

Page 23: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

đi biển an toàn, bình yên trở về với thành quả lao động dồi dào, tôm cá đầy

thuyền. Sau tết nguyên Đán ngày mồng 6 tháng Giêng là các đội chải đã bắt

đầu tập trung luyện tập. Xưa mỗi giáp huy động một chải nhưng ngày nay

được phân theo từng khu dân cư. Trước đây các nghi lễ do cụ tiên chỉ và bô

lão trong làng thực hiện, ngày nay do Ban tổ chức lễ hội của UBND thị trấn

đứng ra tổ chức. Ngày 11 tháng Giêng nhân dân trong 8 khu dân cư tập chung

tại nhà truyền thống Ban khánh tiết tổ chức tế dâng hương thủy thần, tế nam

quan, tế nữ quan trước khi hội bơi bắt đầu.

Sau hiệu lệnh khai cuộc, các chải nhanh chóng rời bến vào cuộc đua

với 3,5 vòng, tổng chiều dài khoảng 7 km dọc sông Diêm Hộ. Người dân địa

phương và du khách thập phương đứng kín hai bên bờ sông, cùng đánh trống

và hò vang cổ vũ cho các chải thi đấu. Hiện nay có 8 khu dân cư, và hiệp hội

vận tải mỗi khu dân cư tham gia 1 chải, mỗi chải có 15 người: 1 ông lái (ông

trưởng chải), 1 ông mõ (người tiếp sức quân sỹ), 1 tát nước, 12 tay dầm. Hơn

120 người tham gia, còn khá giả người tham gia cổ vũ thì đông không rõ bao

nhiêu người, có năm kéo dài đến vài km. Lễ hội được duy trì và thực hành

hàng năm với sự tham gia đông đảo của dân làng và bà con xa quê về dự hội.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Lễ hội bơi chải là dịp cộng đồng thể hiện tính tập thể, sự kết nối và sự

phối hợp trong các đường đua. Đồng thời, lễ hội thể hiện văn hóa sông nước,

thờ cúng vị thần đi biển và cầu mong đánh bắt thủy hải sản được mùa bội thu.

Với sự tin tưởng thần linh phù hộ cho con cháu một năm đi biển an toàn, nhân

dân toàn thị trấn nói chung và các gia đình ngư dân nói riêng luôn có một đức

tin và mong đợi tham dự lễ hội để có dịp gửi gắm tới các đấng thần linh

những ước vọng của mình. Nhân dân trong vùng và bà con xa quê luôn luôn

đón chờ ngày hội, cổ vũ tinh thần thượng võ, kiên cường, đoàn kết của những

ngư dân bám biển.

Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát

huy di sản văn hóa phi vật thể:

20

Page 24: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Hiện nay công tác tổ chức hội Bơi chải hàng năm được UBND thị trấn

chỉ đạo các ban ngành, đoàn thể, mặt trận, phụ nữ, thanh thiếu niên và nhân

dân thị trấn cùng phối hợp thực hiện. Thanh niên nhiệt tình tham gia các đội

bơi chải, những người có kinh nghiệm chỉ bảo kỹ thuật, động tác bơi chải cho

những người mới vào đội. Họ cùng nhau luyện tay chèo để đua nhanh thể

hiện khí thế và tinh thần đồng đội, sự đoàn kết trong ngày hội.

Trong những ngày hội chính quyền địa phương cùng các doanh nghiệp,

tổ chức chính trị xã hội trên địa bàn đã đóng góp thêm vật chất, kinh phí tham

gia tổ chức lễ hội.

Nhân dân thị trấn Diêm Điền đang mong muốn các cấp chính quyền địa

phương khôi phục lại di tích miếu và đình Bơi để có thiết chế văn hóa thờ tự

nghiêm trang trong những dịp lễ hội.

2. XÃ THỤY DÂN

- Hội đình An Tiêm

(Thôn An Tiêm, xã Thụy Dân, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Ông Lê Quý Truyền

Sinh năm: 1955 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Cán bộ hưu trí

Địa chỉ liên lạc: Thôn An Tiêm 1, xã Thụy Dân, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(2) Họ và tên: Ông Trịnh Trọng Nam

Sinh năm: 1958 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Hưu trí

Địa chỉ liên lạc: Thôn An Tiêm 2, xã Thụy Dân, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(3) Họ và tên: Ông Nguyễn Thị Anh

Sinh năm: 1990 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Cán bộ công chức Văn hóa xã hội

21

Page 25: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Địa chỉ liên lạc: UBND xã Thụy Dân, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình

(4) Họ và tên: Ông Lê Xuân Muôn

Sinh năm: 1945 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Nông nghiệp

Địa chỉ liên lạc: Thôn An Tiêm 3, xã Thụy Dân, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(5) Họ và tên: Bà Lê Minh Nguyệt

Sinh năm: 1958 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Hưu trí

Địa chỉ liên lạc: Thôn An Tiêm 2, xã Thụy Dân, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

Nhận diện hội đình An Tiêm:

Đình An Tiêm thờ Thành hoàng là Dũng Tướng Đại Vương và Mãnh

Tướng Đại Vương cùng phối thờ Ngũ vị tổ sư nghề rèn tại gian bên trái đình

làng. Không chỉ là nơi thờ tự linh thiêng, trong những năm kháng chiến, đình

An Tiêm có lúc trở thành căn cứ địa cách mạng, ngày nay đình An Tiêm trở

thành nơi diễn ra những sinh hoạt văn hoá tâm linh của cả làng. Năm 2003,

đình An Tiêm được UBND tỉnh Thái Bình xếp hạng di tích lịch sử văn hóa

cấp tỉnh, ngày 14 tháng 4 năm 2011, đình vinh dự được Bộ văn hoá, Thể thao

và Du lịch xếp hạng Di tích cấp Quốc gia.

Lễ hội diễn ra trong ba ngày từ ngày 14 đến ngày 16 tháng 3 âm lịch.

Về hình thức lễ hội được tổ chức theo hai phần: Phần nghi lễ diễn ra hoạt

động rước Thành Hoàng quanh làng và lễ dâng hương. Phần hội bao gồm các

trò chơi giải trí. Điểm khác biệt trong lễ hội đình An Tiêm đó là sự khai thác

tính truyền thống và những giá trị văn hoá cổ truyền. Ban tổ chức lễ hội đã

khéo léo chọn lọc những trò chơi dân gian như: đập niêu, bịt mắt bắt vịt, kéo

co. Trong ngày diễn ra lễ hội có cuộc thi rèn giữa các đội rèn trong làng gắn

với làng nghề rèn An Tiêm đã nổi tiếng. Cuộc thi nghề rèn vừa mang tính chất

giáo dục đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, vừa mang tính tuyên truyền, cổ động

phát triển nghề rèn truyền thống. Bên cạnh đó, lễ hội đình An Tiêm hoàn toàn

22

Page 26: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

mang tính truyền thống chứ không hề bị yếu tố kinh tế xen lấn như một số lễ hội

hiện nay. Hàng năm vào dịp tổ chức lễ hội, nhân dân trong làng con cháu đi làm

ăn xa đều về lễ thánh.

Xưa các cụ có tục “tiễn thuyền” tái hiện lại các trận chiến của các

tướng quân. Mỗi mùa lễ hội kết thúc, sau 15 ngày nghĩa là vào đêm 1 tháng 4

các cụ tổ chức lễ tiễn thuyền. Các phe giáp tập trung làm các hình nộm tượng

trưng cho các lính, quan…tập trung làm từ rằm tháng giêng, đến ngày làng

vào đám mở hội dâng vào đình cho dự lễ cùng dân làng. Đến giờ tí đêm ngày

mồng 1 tháng 4 âm lịch làm lễ rước quán bến đầu làng (đầu dòng sông) thả

xuống. Giờ rước thuyền tục truyền rằng đi lặng lẽ, dân phảo tránh xa, không

ai được xem, hay đến gần sẽ không tốt.

Trong quá trình tổ chức các ban ngành đoàn thể như: Ủy ban nhân dân

thị trấn, mặt trận, phụ nữ, thanh thiếu niên và toàn thể nhân dân trong xã Thụy

Dân đều tham gia ủng hộ nhiệt tình. Các cụ có trong ban quản lý di tích trực

tiếp phụ trách công việc lễ nghi, phục vụ bà con nhân dân tại cụm di tích. Ông

tháng bà chủ tế và đội bồi tế được các cụ hợp bàn lựa chọn kỹ lưỡng theo các

tiêu chuẩn lệ xưa như: Người có đạo đức, gia đình song toàn, không có thành

viên vi phạm pháp luật, không vướng tang bụi. Đội tế nam quan và nữ quán

hàng năm thực hành công việc tế thánh tại đền và đình có 24 người tháng đội.

Việc truyền dạy cho thế hệ trung niên kế tiếp thực hành các nghi lễ, lễ

tiết tại quê hương đều do các cụ trong làng tự bảo con cháu, nhìn theo mà làm

khi các cụ thực hành trong mỗi dịp hội làng. Hàng năm tổ chức lễ hội đều có

các đôi trung, thanh thiếu niên ra hỗ trợ các công việc làng cùng với các cụ

trong ban lễ khánh tiết cũng như nhân sự Ban tổ chức lễ hội tại địa phương.

Hiện tại hàng năm đều có thực hành thường xuyên. Đền An Tiêm là

niềm tự hào của mỗi người con Thụy Dân xã quê. Đức tin lớn và ý thức cao,

chính quyền và nhân dân Thụy Dân đang bảo tồn và phát huy giá trị di sản

của mình tại địa phương rất tốt. Hiện tại bằng vốn xã hội hóa dân làng An

Tiêm mới phục hồi được giếng trước đình, đang tu bổ sửa chữa nhiều hạng

23

Page 27: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

mục của ngôi đình.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Đình An Tiêm là niềm tự hào của mỗi người con Thụy Dân xã quê.

Đức tin lớn và ý thức cao cũng như thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn, ơn

các cụ xưa mang nghề rèn về dạy dân… chính quyền và nhân dân Thụy Dân

đang bảo tồn và phát huy giá trị di sản của mình tại địa phương rất tốt.

Các biện pháp bảo vệ và phát huy đã và đang triển khai và đề xuất của

chủ thể để bảo vệ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể:

Đảng ủy, ủy ban nhân dân và các đoàn thể cùng các cấp chính quyền

đều tham gia trong công tác tổ chức lễ hội: Từ Mặt trận, hội lão ông, lão bà,

hội cựu chiến binh, hội chữ thập đỏ, hội phụ nữ, đoàn thanh niên, được Ban tổ

chức lễ hội phân công từng việc: Ban tiếp tân, ban hậu cần, ban lễ nghi, đội

rước, đội tế nam quan, đội tế nữ quan.

- Đề xuất với nhà nước hỗ trợ chi trả thêm kinh phí cho người quản lý

di tích để toàn tâm toàn ý ra giúp làng.

- Hàng năm tổ chức lễ hội thường xuyên, các cấp chính quyền hỗ trợ

thêm kinh phí, và công tác an ninh để bà con có những mùa lễ hội ý

nghĩa, an toàn.

3. XÃ THỤY NINH

- Hội đền Hệ

(Xã Thụy Ninh, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Đỗ Văn Huynh

Sinh năm:1973 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Cán bộ xã

Địa chỉ liên lạc: UBND xã Thụy Ninh, Thái Thụy, Thái Bình

(2) Họ và tên: Bùi Văn Cương

Sinh năm: 1967 Dân tộc: Kinh

24

Page 28: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Nghề nghiệp: Cán bộ xã

Địa chỉ liên lạc: UBND xã Thụy Ninh, Thái Thụy, Thái Bình

(3) Họ và tên: Phạm Ngọc Bích

Sinh năm:1954 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Trưởng ban khánh tiết nhà đền

Địa chỉ liên lạc: Thôn Hệ, xã Thụy Ninh, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình

(4) Họ và tên: Phạm Xuân Lập

Sinh năm:1927 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Hệ, xã Thụy Ninh, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình

(5) Họ và tên Phạm Xuân Vấn

Sinh năm:1934 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Hệ, xã Thụy Ninh, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình

(6) Họ và tên: Nguyễn Duy Lịch

Sinh năm:1931 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Hệ, xã Thụy Ninh, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình

(7) Họ và tên: Nguyễn Khắc Duy

Sinh năm:1955 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Hệ, xã Thụy Ninh, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình

(8) Họ và tên: Phạm Văn Nam

Sinh năm:1944 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Hệ, xã Thụy Ninh, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình

Nhận diện hội đền Hệ:

Đền Hệ thờ hai vị là đức Ngô Đồng đại vương và Bà Ả Đại đồng phu

nhân. Lễ hội đền Hệ diễn ra từ ngày mồng 10 đến ngày 15 tháng 3 âm lịch

25

Page 29: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

hàng năm (trước đây trong lễ hội có thi “lợn hống” và tổ chức lễ rước của các

đình trong các thôn về đền Hệ còn gọi là lễ rước “Tứ xã Bát đình”). Ngày

nay, dân các làng trong xã tổ chức lễ dâng hương, tế thần và nhiều trò chơi

dân gian như múa hát chèo, vật võ.

Trong ngày mồng 10 tháng 03 đền Hệ tổ chức tế hàng tổng của bốn

đình mỗi đình cử ra 4 người tham gia vào việc tế lễ trong những ngày hội. Khi

tế các cụ chuẩn bị lễ vật gồm có gà luộc, xôi, trầu cau, rượu, cỗ chè, cỗ nước.

Bày ban để chuẩn bị tế bao gồm ngai, bát hương, chấp kính bai bên, 2 bàn

mịch 2 bên 2 cây quán tẩy. Người tham gia tế có Mạnh bái, thông xướng, hạ

xướng, đọc văn, hàng ròng, bồi tế (bồi phải số chẵn), cuối cùng là người múa

phụ họa, đội nhạc tế. Số người trong ban tế từ 26 đến 32 người. Ngày nay

ngoài các đoàn tế nam quan, nữ quan trong xã còn một số đoàn tế nam quan

ngoài xã cũng về tết thánh tại đền trong những ngày diễn ra lễ hội.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Lễ hội tổ chức nhằm tri ân các bậc tiền nhân có công phò vua dựng

nước chống giặc xâm lược và xây dựng quê hương. Đồng thời, lễ hội cũng là

dịp giáo dục con cháu đời đời ghi nhớ công ơn các bậc tiền nhân, gìn giữ quê

hương, đất nước và bản sắc văn hóa dân tộc.

Các biện pháp bảo vệ và phát huy đã và đang triển khai và đề xuất của

chủ thể để bảo vệ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể:

Hiện nay các cấp, các ngành tại địa phương từ Phòng VHTT, UBND xã

đã quan tâm bảo vệ lưu truyền giá trị văn hóa phi vật thể của địa phương

trong đó có lễ hội đền Hệ.

Hàng năm UBND xã Thụy Ninh đã làm công tác tuyên truyền, động

viên, khích lệ các tổ chức, cá nhân tham gia truyền dạy các nghi thức tế lễ tại

đình cho những người trung niên trong làng để có thể lưu giữ việc tế trong

đền, đình một cách quy củ.

Người dân thôn Hệ và chính quyền xã Thụy Ninh mong muốn được sự

giúp đỡ của Phòng VHTT, Sở VHTT&DL tỉnh để khôi phục lại nghi lễ rước

kiệu từ các đình về đền Hệ trong ngay chính hội như trước đây.

26

Page 30: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

4. XÃ THỤY DUYÊN

- Hội làng Lễ Củ

(Thôn Lễ Củ, xã Thụy Duyên, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Nguyễn Viết Tiến

Sinh năm:1952 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Bí thư chi bộ

Địa chỉ liên lạc: Thôn Lễ Củ, xã Thụy Duyên, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(2) Họ và tên: Phạm Thị Xứng

Sinh năm: 1957 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Lễ Củ, xã Thụy Duyên, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(3) Họ và tên: Trần Thị Kỉnh

Sinh năm:1952 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Lễ Củ, xã Thụy Duyên, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(4) Họ và tên: Nguyễn Thị Phương

Sinh năm:1958 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Trưởng thôn

Địa chỉ liên lạc: Thôn Lễ Củ, xã Thụy Duyên, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(5) Họ và tên: Nguyễn Đức Ân

Sinh năm:1938 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Thủ từ

Địa chỉ liên lạc: Thôn Lễ Củ, xã Thụy Duyên, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

27

Page 31: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Nhận diện hội làng Lễ Củ:

Từ Nam thờ Đức thánh Vũ Mãnh cùng mẹ là bà Nguyễn Thị Cầu, cha

là ông Vũ Công Minh, Từ Tây thờ Đức Thánh Khổng Từ, đình làng Lễ Củ

thờ Bản Cảnh Thành Hoàng.

Lễ hội làng Lễ Củ diễn ra từ ngày 10 đến ngày 13 tháng 3 âm lịch,

hàng năm đều tổ chức hội lệ và tổ chức 3 năm tổ chức rước lớn một lần.

Sáng ngày 10 tháng 3 âm lịch đoàn rước Thánh gồm cờ, bát âm, bát

bửu, chấp kích, kiệu thánh, đoàn tế nam quan, đoàn tế nữ quan cùng nhân dân

trong làng xuất phát từ Miếu Tây qua Miếu Nam đến đình làng kiệu xoay một

vòng sau đó sang đình làng Hóa Tài đón hoàng bà Nguyễn Thị Cầu về đình

Lễ Củ thờ trong những ngày hội. Trong những ngày diễn ra lễ hội dân làng

làm lễ dâng hương, tế thần hai buổi sáng chiều. Lễ hội còn có nhiều trò chơi

như chọi gà, đập niêu.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Trong những ngày diễn ra lễ hội là dịp để cho người dân trong làng Lễ

Củ tỏ lòng thành kính đối với đức thánh; Cầu mong mưa thuận, gió hòa, đức

thánh phù hộ che chở cho họ trong đời sống thường ngày, cũng như trong

công việc làm ăn buôn bán.

Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát

huy di sản văn hóa phi vật thể:

Trong những năm vừa qua đã được Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Viên

Ngọc Quý, đại diện là bà Nguyễn Thị Nhung Giám đốc đã tài trợ xây dựng

đường xá dẫn vào khu di tích, ngoại cảnh quan của Từ Nam và đóng góp hỗ

trợ công tác tổ chức lễ hội hàng năm. Hàng năm lễ hội được đông đảo nhân

dân trong xã tham gia công đức tiền của, vật lực trong những ngày lễ hội.

Các cấp chính quyền địa phương cần tiếp tục tăng cường công tác quản

lý nhà nước về lễ hội, bồi dưỡng và đào tạo các hạt nhân có tâm huyết, tuyên

truyền rộng rãi về ý nghĩa của lễ hội.

- Hội đền Hóa Tài

(Thôn Hóa Tài, xã Thụy Duyên, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

28

Page 32: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Nguyễn Văn Hạnh

Sinh năm:1958 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Hóa Tài, xã Thụy Duyên, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(2) Họ và tên: Bùi Văn Tám

Sinh năm: 1964 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Bi thư chi bộ thôn

Địa chỉ liên lạc: Thôn Hóa Tài, xã Thụy Duyên, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(3) Họ và tên: Bùi Duy Tải

Sinh năm:1956 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Trưởng ban khánh tiết

Địa chỉ liên lạc: Thôn Hóa Tài, xã Thụy Duyên, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(4) Họ và tên: Phạm Xuân Nghiêm

Sinh năm:1964 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Trưởng thôn

Địa chỉ liên lạc: Thôn Hóa Tài, xã Thụy Duyên, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(5) Họ và tên: Trịnh Tiến Sáu

Sinh năm:1934 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Chủ tế

Địa chỉ liên lạc: Thôn Hóa Tài, xã Thụy Duyên, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(6) Họ và tên: Nguyễn Thị Thanh

Sinh năm:1956 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Tế nữ quan

29

Page 33: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Địa chỉ liên lạc: Thôn Hóa Tài, xã Thụy Duyên, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

Nhận diện hội đền Hóa Tài:

Đền Hóa Tài thờ tứ vị Thượng Đẳng Thần là: đệ nhất thượng đẳng đại

vương Cao Sơn Sùng Công; đệ nhi thượng đẳng đại vương Vũ Công Minh; đệ

tam thượng đẳng đại vương Hoàng Bà Lý nương Nguyễn Thị Cầu; đệ tứ

thượng đẳng đại vương Vũ Công Mãnh.

Cứ ba năm, làng Hóa Tài tổ chức hội chính một lần diễn ra từ ngày 10

đến ngày 15 tháng 3 âm lịch, hàng năm vẫn tổ chức hội lệ. Những năm mở

hội lớn dân làng tổ chức rước kiệu thánh đi vòng quanh làng. Trong ngày lễ

hội dân làng tổ chức tế lễ, dâng hương và rước kiệu đi quanh làng. Trò chơi

trong lễ hội có chọi gà, bịt mắt bắt lợn, đạp niêu, đi cầu neo.

Hàng năm trong những ngày làng mở hội nhân dân và những người con

xa quê, khách thập phương đến tham dự và tham gia công đức để tôn tạo

trùng tu di tích và bảo tồn lễ hội.

Lễ hội hàng năm vẫn được duy trì đều đặn bằng công sức và tiền của

của nhân dân trong làng.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Trong tiềm thức của nhân dân thôn Hóa Tài, xã Thụy Duyên ngôi đền

và lễ hội là một chốn linh thiêng nơi thờ thành hoàng làng đã có công đánh

giặc, giúp dân làng có cơm no, áo ấm. Ngày hội là dịp người dân tỏ lòng

thành kính đối với đức thánh; cầu xin đức thánh phù hộ che chở cho họ trong

đời sống thường ngày, cũng như trong công việc làm ăn buôn bán.

Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát

huy di sản văn hóa phi vật thể:

Lễ hội thôn Hóa Tài hàng năm được sự quan tâm chu đáo của UBND

xã cùng các cấp chính quyền, Mặt trận thôn trong công tác quản lý và tổ chức

lễ hội. Ban công tác mặt trận thôn (CTMT) cùng Ban QLDT đứng ra thành

lập BTC phân công các tiểu ban chăm lo các công việc trong ngày hội.

30

Page 34: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Trong những năm vừa quan các cấp chính quyền từ UBND xã, CTMT

thôn và BTC lễ hội và bà con nhân dân đã có ý thức tuyên truyền rộng rãi về

ý nghĩa của lễ hội.

5. XÃ THỤY VĂN

- Hội đền Tứ Giành

(Thôn An Định, xã Thụy Văn, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Nguyễn Công Thận

Sinh năm:1936 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Trưởng làng

Địa chỉ liên lạc: Thôn An Định, xã Thụy Văn, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(2) Họ và tên: Bùi Đức Mùi

Sinh năm: 1940 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Ban khánh tiết

Địa chỉ liên lạc: Thôn An Định, xã Thụy Văn, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(3) Họ và tên: Đào Viết Lợi

Sinh năm:1950 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Thủ từ

Địa chỉ liên lạc: Thôn An Định, xã Thụy Văn, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(3) Họ và tên: Bùi Đức Niên

Sinh năm:1957 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Ban quản lý di tích

Địa chỉ liên lạc: Thôn An Định, xã Thụy Văn, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

Nhận diện hội đền Tứ Giành:

Đền Tứ Giành thờ Tứ vị đại vương là Hợi Hội đại vương, La Nha Viên

31

Page 35: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Miếu đại vương, Hãn Định đại vương, Phụ quốc thượng tướng quân Tả gia

Hưng Nghĩa. Lễ hội truyền thống hàng năm diễn ra từ ngày mồng 10 đến

ngày 12 tháng 8 âm lịch. Nghi thức chính chiều ngày mồng 9 lễ tế mở cửa

đền, sáng ngày mồng 10 dân làng rước thánh từ đền Tứ Giành về đình làng

An Định cúng tế trong những ngày hội, chiều ngày 12 rước trở về đền làm lễ

tế tạ. Trò chơi trong hội có tổ tôm, cờ tướng thu hút được đông đảo người dân

trong thôn An Đinh tham gia.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Nhân dân thôn An Định tổ chức lễ hội nhằm tưởng nhớ và tôn vinh các

vị Thành hoàng có công với dân làng. Trong ngày lễ hội cũng là dịp dân làng

An Định cùng nhau tưởng nhớ tới các vị Thành hoàng, như là sợi dây kết nối

cộng đồng. Đến với lễ hội người dân An Định ai cũng cầu mong được Thần

hoàng phù độ cho được may mắn gia đình ấm no, hạnh phúc.

Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát

huy di sản văn hóa phi vật thể:

Lễ hội đền Tứ Giành được Ban quản lý di tích, Ban khánh tiết, Ban

công tác mặt trận thôn cùng các đoàn thể, các tổ chức chính trị, xã hội, nhân

dân trong thôn, bà con trong xã, con em xa quê và khách thập phương tham

gia tổ chức hàng năm. Để duy trì tổ chức lễ hội hàng năm Ban quản lý di tích

lên Kế hoạch chương trình lễ hội, lập Tờ trình lên UBND xã, thành lập BTC

để tổ chức sắp xếp các công việc trong ngày lễ hội được thông suốt.

Cộng đồng tích cực tham gia thực hành với sự hỗ trợ, giúp đỡ nhiệt tình

của các cấp chính quyền, đoàn thể.

- Hội làng Hoành Sơn

(Thôn Hoành Sơn, xã Thụy Văn, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Lễ Sĩ Khang

Sinh năm:1954 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Trưởng ban khánh tiết

32

Page 36: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Địa chỉ liên lạc: Thôn Hoành Sơn, xã Thụy Văn, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(2) Họ và tên: Nguyễn Đức Quyền

Sinh năm: 1948 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Phó ban quản lý di tích

Địa chỉ liên lạc: Thôn Hoành Sơn, xã Thụy Văn, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(3) Họ và tên: Nguyễn Đức Tuyến

Sinh năm: 1958 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Thủ từ

Địa chỉ liên lạc: Thôn Hoành Sơn, xã Thụy Văn, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(4) Họ và tên: Vũ Hữu Diển

Sinh năm:1946 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Hoành Sơn, xã Thụy Văn, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(5) Họ và tên: Lê Sĩ Chấn

Sinh năm:1948 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Hoành Sơn, xã Thụy Văn, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(6) Họ và tên: Vũ Xuân Chính

Sinh năm:1950 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Hoành Sơn, xã Thụy Văn, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(7) Họ và tên: Lê Sĩ Đông

Sinh năm:1938 Dân tộc: Kinh

33

Page 37: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Hoành Sơn, xã Thụy Văn, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(8) Họ và tên: Nguyễn Thị Tuất

Sinh năm:1938 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Hoành Sơn, xã Thụy Văn, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

Nhận diện hội làng Hoành Sơn:

Từ làng Hoàng Sơn thờ thành hoàng làng là Đông Hải thượng đẳng đại

vương, Nam Hải thượng đẳng đại vương, Chính Miếu Túy Mục đại vương,

Đông Hồ trung đẳng đại vương, Khổng Thành Doan kính đại vương, Phạm

Tu, Vũ Phi Trước, Lê Quý Căn. Lễ hội hàng năm diễn ra từ ngày mồng 6 đến

ngày mồng 8 tháng 3 âm lịch. Những nghi thức chính trong lễ hội có lễ mở

cửa đền, lễ rước kiệu đi quanh làng, dâng hương, tế thánh. Các trò chơi trong

hội có tổ tôm điếm, cờ tướng, đập niêu.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Hội làng Hoành Sơn có giá trị tăng cường mối đoàn kết, gắn bó giữa

các thành viên trong làng, giữa các thôn xóm, giá đình, từ việc chuẩn bị lễ vật,

cho đến các hoạt động nói chung của lễ hội. Đây chính là chất kết dính của

các thế hệ, của các cộng đồng dân cư, là phương tiện cho việc đối thoại, cùng

nhau chia sẻ, hưởng thụ và trân trọng các giá trị văn hóa truyền thống. Hội

làng Hoàng Sơn là môi trường bảo tồn, giáo dục và lưu truyền văn hóa truyền

thống, là biểu tượng của sự cố kết cộng đồng và biểu dương sức mạnh tập thể

mà ở thời điểm nào cũng cần gìn giữ và phát huy.

Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát

huy di sản văn hóa phi vật thể:

- Các cấp Ủy đảng, chính quyền địa phương và ngành văn hóa chủ

quản tạo điều kiện cho cộng đồng thực hành hội.

34

Page 38: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

6. XÃ THỤY BÌNH

- Hội Từ Trung

(Thôn Trà Hồi, xã Thụy Bình, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Nguyễn Thị Hoa

Sinh năm:1965 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Đội 1 Thôn Trà Hồi, xã Thụy Bình, huyện Thái Thụy

(2) Họ và tên: Trịnh Thị Thiết

Sinh năm: 1960 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Đội 1 Thôn Trà Hồi, xã Thụy Bình, huyện Thái Thụy

(3) Họ và tên: Bùi Thị Ngát

Sinh năm:1966 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Đội 1 Thôn Trà Hồi, xã Thụy Bình, huyện Thái Thụy

Nhận diện hội Từ Trung:

Từ Trung thờ Khương Thủ hiển hoàng Huệ Hóa đoan túc phu nhân. Lễ

hội hàng năm diễn ra từ ngày mồng 6 đến ngày mồng 8 tháng 2 âm lịch lễ vật

dâng thánh có lợn đen, bánh trắng tròn, xôi, rượu. Trong ngày lễ hội dân làng

làm lễ dâng hương, tế nữ quan và tổ chức các trò chơi dân gian như chọi gà,

cờ tướng. Nghi thức tế nữ quan đã có từ rất lâu đời trải qua quá trình lịch sử

của cách mạng đến nay tế nữ quan của làng Trà Hồi mới được khôi phục lại,

đang được nhiều người tích cực hướng ứng tham gia. Hiện tại trong làng có 3

đội tế nữ quan phục vụ tế lễ dâng hương tại các đình, từ, chùa trong làng mỗi

khi có dịp lễ hội hoặc ngày lệ của dân làng. Mỗi khi thực hành tế dâng hương

đội tế đứng chắp tay và đi theo tiếng trống tế. Đọc văn khấn và lần lượt dâng

hương, hoa, rượu, và các vật phẩm trong ngày tế lễ. Thời gian thực hàng mỗi

lần tế thường khoảng 60 phút. Số lượng 20 người tham gia một đội tế.

35

Page 39: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Các biện pháp bảo vệ và phát huy đã và đang triển khai và đề xuất của

chủ thể để bảo vệ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể:

Hiện nay thôn đã thành lập 3 đội tế nữ quan để tế lễ dâng hương trong

các dịp lễ hội tại thôn làng. Bên cạnh đó đội tế nữ đã tổ chức nhiều buổi dạy

cho các chị em phụ nữ trong thôn, đội biết và tham gia.

Chính quyền địa phương đã động viên mọi người tích cực tham gia ủng

hộ hình thức tế lễ trong ngày hội.

- Hội đình Hạ Tập

(Thôn Hạ Tập, xã Thụy Bình, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Phạm Văn Thủ

Sinh năm:1942 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Hạ Tập, xã Thụy Bình, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(2) Họ và tên: Phạm Văn Sứ

Sinh năm: 1960 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Hạ Tập, xã Thụy Bình, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(3) Họ và tên: Phạm Văn Hải

Sinh năm:1962 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Hạ Tập, xã Thụy Bình, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(4) Họ và tên: Bùi Văn Mè

Sinh năm:1943 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Ban quản lý di tích

Địa chỉ liên lạc: Thôn Hạ Tập, xã Thụy Bình, huyện Thái Thụy, tỉnh

36

Page 40: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Thái Bình

(5) Họ và tên: Trịnh Bảo Ngọc

Sinh năm:1964 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Ban khánh tiết

Địa chỉ liên lạc: Thôn Hạ Tập, xã Thụy Bình, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

Nhận diện hội đình Hạ Tập:

Đình làng Hạ tập thờ Thành hoàng bản cảnh. Một năm đình Hạ Tập có

hai ngày tiết lệ là ngày mồng 10 tháng 8 âm lịch và ngày mồng 1 tháng 12 âm

lịch. Nghi thức chính dân làng tổ chức lễ tế nam quan theo những thức truyền

thống. Đội tế nam quan thôn Hạ Tập hiện tại có 10 người. Hàng năm vào

ngày lệ đình 10 tháng 8 âm lịch hoặc ngày giỗ tổ 1 tháng 12 âm lịch. Đội tế

nam tổ chức tế (tế cổ) dâng hương tại đình làng. Thời gian một lần thường

trên 60 phút. Hình thức tế, con trai chắp tay bái trước mặt đi nhún theo điệu

trống nhạc tế lễ tổ chức tế cổ dâng hương, hoa, rượu, vật phẩm trong ngày lễ.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Hội đình Hạ Tập có giá trị tâm linh sâu sắc đối với cộng đồng người

dân thôn Hạ Tập, qua nghi thức tế lễ thể hiện sự tôn kính biết ơn của cộng

đồng tới những người đã có công xây dựng thôn làng.

Các biện pháp bảo vệ và phát huy đã và đang triển khai và đề xuất của

chủ thể để bảo vệ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể:

Trong những năm vừa qua thôn Hạ Tập đã cùng Hội người cao tuổi,

Ban khánh tiết của đình Hạ Tập thành lập đội tế nam quan để tế dâng hương

trong các ngày tiết lệ và trong những ngày hội làng.

Các thành viên tham gia đội tế thường xuyên luyện tập, truyền dạy lại

các nghi thức tế lễ cho những thành viên mới tham gia góp phần vào việc gìn

giữ những giá trị văn hóa riêng của cộng đồng.

7. XÃ THỤY THANH

37

Page 41: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

- Hội đền Vô Hối

(Thôn Vô Hối, xã Thụy Thanh, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Pham Văn Duẩn

Sinh năm:1954 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Vô Hối, xã Thụy Thanh, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình.

(2) Họ và tên: Nguyễn Tiến Tuân

Sinh năm: 1957 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Vô Hối, xã Thụy Thanh, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình.

(3) Họ và tên: Nguyễn Duy Vê

Sinh năm:1950 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Vô Hối, xã Thụy Thanh, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình.

(4) Họ và tên: Đàm Thị Luống

Sinh năm: Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Vô Hối, xã Thụy Thanh, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình.

(4) Họ và tên: Nguyễn Quang Cù

Sinh năm: Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Vô Hối, xã Thụy Thanh, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình.

Nhận diện hội đền Vô Hối:

38

Page 42: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Đền Vô Hối thờ Ả Nương công chúa con gái bà Đào Thị Thành người

trang Vô Hối có công giúp Hai Bà Trưng đánh giặc ngoại xâm. Lễ hội Vô Hối

hàng năm diễn ra từ ngày 12 đến 14 tháng 9 âm lịch. Trong ngày chính hội có

các nghi thức như rước thánh đi quanh làng, nghi thức tế lễ của đội tế nam

quan, đội tế nữ quan. Phần lễ với các nghi thức trang nghiêm, lễ vật là những

đặc sản được chế biến từ nông sản của địa phương được dâng lên Thánh. Đội

tế nam quan và nữ quan thực hành các nghi thức nghiêm cẩn, với những bài

văn tế nêu rõ công trạng của đức Thánh đã che chở cho dân làng được phong

đăng hòa cốc. Đây cũng là dịp để các dòng họ và nhân dân trong làng ra đền

thành kính dâng hương cầu xin đức Thánh ban cho được nhiều may mắn

trong năm. Ngoài ra nhân dân còn được tham gia vào các trò chơi dân gian

như tổ tôm, cờ tướng, chọi gà...

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Ngày nay, với sự chuyển đổi mạnh mẽ của kinh tế thị trường và công

tác tuyên truyền quảng bá về hội đền Vô Hối còn hạn chế, nên nhận thức của

thế hệ trẻ còn chưa hiểu rõ về giá trị của di sản văn hóa phi vật thể nên chưa

có trách nhiệm cao trong việc tham gia tổ chức lễ hội. Nhưng trong tiềm thức

của nhân dân thôn Vô Hối ngày lễ hội đền Vô Hối là một ngày đặc biệt, là dịp

để người dân tỏ lòng thành kính đối với đức thánh; Cầu mong mưa thuận, gió

hòa, đức thánh phù hộ che chở cho họ trong đời sống thường ngày, cũng như

trong công việc làm ăn buôn bán.

Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát

huy di sản văn hóa phi vật thể:

Hiện nay hội đền Vô Hố đã được cấp ủy chính quyền các ban ngành

đoàn thể xã Thụy Thanh, ban công tác Mặt trận tổ quốc thôn, Ban quản lý di

tích, Ban Khánh tiết nhà đền các dòng họ và nhân dân trong thôn tham gia tổ

chức hàng năm.

Trong ngày lễ hội con em xa quê và khách thập phương cũng tham gia

công đức công sức, tiền của vào việc tổ chức lễ hội.

- Hội miếu Khúc Mai

39

Page 43: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

(Thôn Khúc Mai, xã Thụy Thanh, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Nguyễn Văn Long

Sinh năm:1940 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Khúc Mai, xã Thụy Thanh, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

(2) Họ và tên: Đỗ Xuân Hộ

Sinh năm: 1952 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Cán bộ hưu trí

Địa chỉ liên lạc: Thôn Khúc Mai, xã Thụy Thanh, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

(3) Họ và tên: Nguyễn Văn Tặng

Sinh năm:1940 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Khúc Mai, xã Thụy Thanh, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

(4) Họ và tên: Đỗ Văn Xung

Sinh năm: Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Khúc Mai, xã Thụy Thanh, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

(5) Họ và tên: Đỗ Văn Riện

Sinh năm: Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Khúc Mai, xã Thụy Thanh, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

Nhận diện hội miếu Khúc Mai:

Miếu Khúc Mai thờ Triệu Ả Nương và Triệu Nhị Ả Nương là hai nữ

40

Page 44: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

tướng dưới thời Hai Bà Trưng. Hàng năm lễ hội diễn ra từ ngày 16 đến ngày

18 tháng 8 âm lịch. Nghi thức chính trong lễ hội có rước kiệu, dâng hương, tế

nam quan, tế nữ quan, hát chèo, hầu đồng. Các trò chơi có đi cầu noi, cờ

tướng, tổ tôm điếm.

Trước khi tổ chức lễ hội được UBND xã ra quyết định thành lập ban tổ

chức lễ hội và phân công cụ thể tới các ban ngành đoàn thể và chi hội viên để

tổ chức triển khai thực hiện do đó đã thu hút được đông đủ các tầng lớp nhân

dân về dự lễ hội và cổ vũ động viên.

Trong ngày lễ hội đoàn tế thôn Khúc Mai, đoàn tế nữ quan họ Đỗ thôn

Khúc Mai, xã Thụy Thanh tham gia các nghi thức tế lễ tại đền.

Thôn Khúc Mai có số nhân khẩu ít, mặt khác trong thôn có 30% là giáo

dân nên số người trẻ tuổi ít chưa tích cực tham gia vào các hoạt động của lễ

hội điều đó cũng đã đem lại không ít khó khăn cho công tác tổ chức lễ hội.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Lễ hội miếu Khúc Mai là lễ hội chịu tác động ảnh hưởng lớn tới cộng

đồng dân cư trong thôn và nó thỏa mãn sự tự do tín ngưỡng của cộng đồng

dân cư, đáp ứng với văn hóa tâm linh mà cộng đồng dân cư đặt niêm tin vào

sự ngưỡng mộ của hai nữ tướng.

Các biện pháp bảo vệ và phát huy đã và đang triển khai và đề xuất của

chủ thể để bảo vệ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể:

Hàng năm UBND xã đều có quyết định kiện toàn ban quản lý, Ban tổ

chức lễ hội, ban khánh tiết để duy trì các hoạt động tại lễ hội. Dưới sự chỉ đạo

của Cấp ủy, chính quyền, các ban ngành đoàn thể, ban Quản lý di tích, Ban

khánh tiết đã tích cực duy trì phát huy những giá trị của di sản. Đồng thời

tuyên truyền vận động nhân dân, con em xa quê và các nhà hảo tâm để giữ gìn

và phát huy các giá trị văn hóa tại lễ hội truyền thống miếu Khúc Mai.

8. XÃ THỤY PHÚC

- Hội làng Bái Thượng

(Thôn Bái Thượng, xã Thụy Phúc, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

41

Page 45: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Nguyễn Văn Nơi

Sinh năm: 1937 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Bái Thượng, xã Thụy Phúc, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

(2) Họ và tên: Nguyễn Phú Gia

Sinh năm: 1947 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc thôn Bái Thượng, xã Thụy Phúc, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(3) Họ và tên Nguyễn Văn Hảo

Sinh năm:1945 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc thôn Bái Thượng, xã Thụy Phúc, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(4) Họ và tên Nguyễn Tiến Phẩm:

Sinh năm: 1950 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc thôn Bái Thượng, xã Thụy Phúc, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(5) Họ và tên: Đoàn Xuân Lượng

Sinh năm: Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Cán bộ xã (Chủ tịch UBND xã Thụy Phúc)

Địa chỉ liên lạc: UBND xã Thụy Phúc – Thái Thụy – Thái Bình

Nhận diện hội làng Bái Thượng:

Đền Bái Thượng thờ Bắc Hải đại vương, Tứ vị Đại càn thánh Mẫu và

phối thờ các vị tướng thời Nguyễn là Nguyễn Việt, Nguyễn Nghiễm, Nguyễn

Siêu. Lễ hội hàng năm diễn ra vào ngày mồng 04 tháng 8 âm lịch. Nghi thức

42

Page 46: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

chính trong lễ hội có lễ dâng hương, rước kiệu thánh đi quanh làng, tế nữ

quan, tế nam quan. Các trò chơi có đu vòng, kéo co, bịt mắt bắt lợn, tổ tôm

điếm. Nghi lễ tế nam quan mới được phục hồi năm 2013 hiện tại có 3 người

có thể truyền dạy các nghi thức tế lễ là: ông Vũ Đình Khoa 86 tuổi, ông

Nguyễn văn Hảo 72 tuổi, ông Nguyễn Phú Gia 70 tuổi. Hiện nay nghi thức tế

nam quan có nguy cơ mai một vì đối tượng trẻ và người trung tuổi không

muốn tham gia do nhiều nguyên nhân khác nhau.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Lễ hội làng Bái Thượng cùng với nghi thức tế nam quan hiện nay được

cộng đồng đón nhận rất tích cực, đây được coi là di sản văn hóa của cha, ông

để lại cho cộng đồng dân cư. Trong ngày lễ hội người dân tham gia vào các

trò chơi dân gian đã đáp ứng được nhu cầu vui chơi giải trí của cộng đồng.

Các biện pháp bảo vệ và phát huy đã và đang triển khai và đề xuất của

chủ thể để bảo vệ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể:

Cùng với sự quan tâm của các cấp ủy Đảng, Chính quyền địa phương,

BQL di tích, BTC lễ hội đã phát động kêu gọi sự ủng hộ của cá nhân và tổ

chức tập trung nguồn lực để bảo tồn các nghi thức tế lễ trong ngày hội.

Ban công tác mặt trận thôn đã động viên, khích lệ những người trung

tuổi trong làng Bái Thượng tham gia vào các đội tế nam quan, nữ quan để lưu

giữ lại những nét văn hóa truyền thống của địa phương.

9. XÃ THỤY HÀ

- Hội đền Cả

(Thôn Bao Hàm, xã Thụy Hà, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Lê Văn Ngự

Sinh năm: 1959 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Trưởng thôn, phó ban Di tích đền

Địa chỉ liên lạc: Thôn Bao Hàm, xã Thụy Hà, huyện Thái Thụy, tỉnh

43

Page 47: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Thái Bình

(2) Họ và tên: Lê Văn Kiên

Sinh năm: 1966 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Bí thư chi bộ, TBCTMT, phó ban Di tích đền

Địa chỉ liên lạc: Thôn Bao Hàm, xã Thụy Hà, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(3) Họ và tên: Nguyễn Văn Phước

Sinh năm:1942 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: ban quản lý di tích

Địa chỉ liên lạc:

Thôn Bao Hàm, xã Thụy Hà, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

(4) Họ và tên: Lê Thị Ngà

Sinh năm:1965 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Bao Hàm, xã Thụy Hà, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình.

Nhận diện hội đền Cả:

Đền Cả được xây dựng từ thời Lê, năm 1869 đền được xây dựng lại,

năm 2008 đền được trung tu sửa chữa như ngày nay. Đền Cả thờ tứ vị thành

hoàng là: Tuấn Lương chi thần, Bảo An chi thần, Công Tuyên Quang chi

thần, Đạt Đạo chi thần. Lễ hội hàng năm diễn ra từ ngày 12 đến 14 tháng 8

âm lịch. Trong ngày chính hội UBND xã khai hội, sau đó là màn tế lễ, dâng

hương của các cấp chính quyền địa phương, của các dòng họ, nhân dân trong

xã. Đan xen với hoạt động của đoàn tế nam và tế nữ là các trò chơi dân gian

như: cờ tướng, chọi gà, kéo co. Buổi tối có hoạt động giao lưu văn nghệ của

các đội văn nghệ địa phương.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Lễ hội đền Cả thôn Bao Hàm là dịp người dân trong thôn tưởng nhớ

công lao, tài đức của các bậc thánh nhân được thờ phụng trong đền, đồng thời

44

Page 48: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

cầu cho một năm quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu,

mọi người sống đoàn kết, nhà nhà bình an.

Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát

huy di sản văn hóa phi vật thể:

UBND xã đứng ra tổ chức lễ hội, thành lập Ban Tổ chức, thôn Bao

Hàm thành lập Ban Khánh tiết, đảm bảo an ninh trật tự trong quá trình diễn

ra lễ hội.

Kinh phí tổ chức lễ hội chủ yếu là của nhân dân trong xã, con em xa

quê đóng góp công đức để tu sửa di tích, tham gia công tác chuẩn bị lễ hội.

- Hội đền Mai Diêm

(Thôn Mai Diêm, xã Thụy Hà, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Đỗ Đức Bình

Sinh năm:1954 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: thủ nhang

Địa chỉ liên lạc: Thôn Mai Diêm, xã Thụy Hà, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình.

(2) Họ và tên: Trần Thế Đức

Sinh năm:1950 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Ban quản lý di tích

Địa chỉ liên lạc: Thôn Mai Diêm, xã Thụy Hà, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình.

(3) Họ và tên: Nguyễn Văn Vương

Sinh năm:1968 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: xã Thụy Hà, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

Nhận diện hội đền Mai Diêm:

Đền Mai Diêm được xây dựng vào đầu thời Nguyễn, gần cửa sông

Diêm Hộ, gồm 2 tòa mỗi tòa 3 gian. Đền thờ Ngọc Nương thánh mẫu và

người con thứ ba của bà là Bích Ba Đông Hải đại vương (Ngọc Nương thánh

45

Page 49: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

mẫu có ba người con là Bát Hải đại vương được thờ ở đền Đồng Bằng (huyện

Quỳnh Phụ), Hỗn Xuyên Uyên Tế đại vương hiện được thờ ở xã Thụy

Thanh), đền còn phối thờ tướng quân Phạm Ngũ Lão. Hàng năm đền có hai

kỳ lễ hội vào ngày mồng 8 tháng giêng và từ ngày 12 đến 14 tháng 3 âm lịch

hàng năm. Trước kia vào kỳ lễ chính thì có tổ chức rước kiệu quanh làng

(cách ngày nay 10 năm). Trình tự của lễ hội (kỳ chính): sau khi UBND xã

khai hội là màn tế lễ, dâng hương của các cấp chính quyền địa phương, của

các dòng họ, của nhân dân trong xã. Đan xen với hoạt động của đoàn tế nam

và tế nữ là các trò chơi dân gian như: cờ tướng, chọi gà, kéo co. Buổi tối có

hoạt động giao lưu văn nghệ của các đoàn văn nghệ địa phương. Các kỳ còn

lại chỉ tổ chức dâng hương, tế lễ.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Hội đền Mai Diêm là dịp người dân tưởng nhớ công lao của các vị

thánh, thần được thờ tự trong đền, đồng thời cầu mong thánh thần ban cho

một năm sức khỏe dồi dào, làm ăn tấn tới, tài lộc sung túc. Hội làng cũng là

lúc người dân được nghỉ ngơi, tham gia các hoạt động tế lễ, các trò chơi dân

gian, thỏa mãn nhu cầu tâm linh.

Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát

huy di sản văn hóa phi vật thể:

Hội đền Mai Diêm hàng năm được UBND xã Thụy Hà quan tâm, giao

cho cán bộ công chức văn hóa xã phối hợp với Ban khánh tiết, BQL di tích

xây dựng chương trình, kế hoạch tổ chức.

UBND xã cũng giao cho Ban công an xã đảm bảo an ninh trật tự trong

những ngày diễn ra lễ hội.

BTC lễ hội cùng đội thông tin truyền thông của xã tuyên truyền đến

người dân ý nghĩa của lễ hội và tuyên truyền bảo vệ môi trường, cảnh quan,

không xả rác bừa bãi trong khu vực di tích và lễ hội.

10. XÃ THỤY TRƯỜNG

- Hội đền Chòi

(Thôn Chỉ Bồ, xã Thụy Trường, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

46

Page 50: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Những người đại diện:

(1) Họ và tên Bùi Hữu Đặng

Sinh năm: 1945 Dân tộc Kinh

Nghề nghiệp: Cán bộ nghỉ hưu

Địa chỉ liên lạc: Thôn Chỉ Bồ, xã Thụy Trường, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(2) Họ và tên Bùi Sỹ Luyết

Năm sinh 1987 Dân tộc kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Chỉ Bồ xã Thụy Trường, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(3) Họ và tên: Nguyễn Hữu Tuyển

Sinh năm:1947 Dân tộc kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Chỉ Bồ xã Thụy Trường, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

Nhận diện hội đền Chòi:

Đền Chòi tọa lạc trên một gò đất cao nơi cửa biển Đại Bàng (nay là cửa

biển Thái Bình), đền Chòi hay còn gọi là đền Dinh, đền Tam Toà của xã Thụy

Trường được biết đến là chốn linh thiêng lâu nay được rất nhiều du khách

trong và ngoài tỉnh ghé thăm. Đền Chòi là một trong những công trình nằm

trong cụm di tích lịch sử cấp Quốc gia bao gồm đền Chòi, chùa Bến, chùa Chỉ

Bồ được Bộ Văn hoá Thông tin cấp bằng công nhận vào năm 1989, nhờ lưu

giữ nhiều giá trị lịch sử văn hoá và có quy mô kiến trúc rất độc đáo. Trong hồ

sơ đề nghị công nhận đền Chòi là di tích lịch sử cấp Quốc gia đã khẳng định:

“Trải qua 700 năm ở một nơi đầu sóng ngọn gió, dấu vết thành luỹ trên mặt

đất không còn song những truyền thuyết, ký ức dân gian có liên quan đến đền

Chòi cũng như những trận chiến oanh liệt của quân và dân thời Trần tại cửa

biển Đại Bàng vẫn còn ghi lại qua các thần phả, của ngôi đình, đền lân cận.

47

Page 51: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Hiện tại, quanh khu vực gò đất cao của ngôi đền này còn tồn giữ được nhiều

dấu vết của hệ thống giếng nước thời Trần.

Hàng năm lễ hội đền Chòi được tổ chức từ ngày mồng 08 đến ngày

mồng 10 tháng 07 âm lịch. Theo lời các bậc cao niên, ngôi đền này rất linh

thiêng, trước ngày mở và sau ngày đóng hội đền đều có những trận mưa rào

rất lớn. Vào dịp lễ hội, hàng ngàn du khách ở khắp các tỉnh thành trong cả

nước tìm về dâng hương tế lễ, tìm hiểu những giá trị văn hoá, giá trị lịch sử

của ngôi đền. Trong lễ hội, chính quyền địa phương còn tổ chức các hoạt

động văn hoá, văn nghệ, thể thao, các trò chơi dân gian tạo không khí vui

tươi, phấn khởi để nhân dân cùng tham gia, tăng thêm tình đoàn kết xóm làng.

Trong ngày chính hội là lễ rước bộ từ đền quanh làng và lễ rước có các

chú Hỗng (lợn đã thịt để cả con) để lên kiệu trang trí cầu kỳ và được rước về

đình làng làm lễ. Ý nghĩa của rước lợn về đình là ngày xưa hàng giáp tổ chức

để thi lợn xem dòng họ nào có lợn to được dâng ra đình để cúng tế thờ thành

hoàng làng cầu cho mưa thuận giá hoà, cầu cho quốc thái dân an. Sau khi

rước về sân đình tổ chức tế lễ trước sân đình gồm từ 15-20 người. Ngoài tổ

chức rước có các trò chơi trò diễn khác như: múa hát, nhảy sạp, hát chèo, hát

dân ca và các hoạt động thể dục thể thao. Trong ngày hội làng có tổ chức canh

hầu đồng. Số lượng người tham gia lễ hội lên đến hơn 500 người (tham gia

rước cờ, có kiệu, có long đình bát biểu, có kỳ lân sư tử và đoàn tế nam quan

nữ qua theo sau). Hiện nay cộng đồng dân cư, học sinh các tổ chức cá nhân và

nhân dân trong làng đang nỗ lực tham gia tổ chức lễ hội. Trước ngày tổ chức

lễ hội đại diện các khu dân cư và đại diện dòng họ ra tập tế tại sân đình.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Lễ hội hàng năm được tổ chức tạo nên không khí vui tươi phấn khởi,

tạo nên sự cố kết trong cộng đồng làng xã.

Các biện pháp bảo vệ và phát huy đã và đang triển khai và đề xuất của

chủ thể để bảo vệ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể:

Những năm qua, nhờ tấm lòng công đức của người dân địa phương,

48

Page 52: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

con em xa quê, khách thập phương, xã Thụy Trường đã đầu tư hơn 1 tỷ đồng

tu bổ, nâng cấp nhiều hạng mục công trình của khu di tích đền Chòi. Ông Đỗ

Đức Nam, Phó Chủ tịch UBND xã Thụy Trường cho biết hội đền Chòi hiện

nay được tổ chức rất trang nghiêm, thành kính, không chỉ là lễ hội của riêng

người dân Thụy Trường mà là của nhiều người dân quê biển tưởng nhớ tri ân

những vị thần linh, tướng quân có công dẹp giặc cứu nước, cứu dân và giáo

dục truyền thống yêu nước cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau. Thời gian tới,

Thụy Trường sẽ huy động thêm các nguồn lực từ nhân dân địa phương, con

em xa quê, khách thập phương đồng thời cũng mong muốn Nhà nước hỗ trợ

thêm kinh phí tu bổ, nâng cấp các hạng mục công trình, mở rộng khuôn viên

của ngôi đền cho xứng tầm với một công trình có ý nghĩa lớn về lịch sử và

văn hoá tâm linh. Cùng với đó, xã sẽ khai thác thế mạnh vùng ven biển, nơi

có hơn 1.300 ha rừng ngập mặn để đưa Thụy Trường trở thành một điểm du

lịch sinh thái, tâm linh hấp dẫn không chỉ của riêng Thái Thụy mà của cả Thái

Bình, thu hút nhiều khách du lịch đến thăm quan, góp phần thúc đẩy kinh tế-

xã hội địa phương phát triển.

11. XÃ THỤY LIÊN

- Hội đền Đồng Nhân

(Thôn Hoàng Quan, xã Thụy Liên, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

(1) Họ và tên: Nguyễn Huy Tưởng

Sinh năm:1940 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Trưởng ban khánh tiết nhà đền.

Địa chỉ liên lạc: Thôn Hoàng Quan, xã Thụy Liên, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

(2) Họ và tên: Nguyễn Văn Duy

Sinh năm: Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Công chức văn hóa

Địa chỉ liên lạc: UBND xã Thụy Liên, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

Nhận diện hội đền Đồng Nhân:

49

Page 53: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Tương truyền đền Đồng Nhân có từ Lý, ngôi đền hiện nay được trùng

tu vào năm 1995 trên khuôn viên 1800m2. Đền Đồng Nhân thôn Hoàng Quan

thờ nhị vị đức thánh là Tráng Đảng Thần Dương Đức Long và bà Nguyễn Thị

Xuân Dung làm Thành hoàng làng.

Hàng năm nhân dân thôn Hoàng Quan tổ chức lễ hội đền Đồng Nhân

diễn ra trong hai ngày từ ngày mồng 8 đến ngày mồng 9 tháng Giêng âm lịch

hàng năm. Trong ngày khai hội đại diện BTC lên giới thiệu đại biểu, đọc diễn

văn khai mạc lễ hội với nội dung ôn lại công lao của các vị thành hoàng làng

đối với nhân dân thôn Hoàng Quan. Sau lễ khai mạc là lễ dâng hương, tế nữ

quan của người dân trong thôn. Trong những ngày hội người dân trong thôn

Hoàng Quan được tham gia vào các trò chơi dân gian như cờ tướng, chọi gà,

tổ tôm, kéo co, bắt vịt, đi cầu kiều.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Lễ hội đền Đồng Nhân mang lại niềm tin của người dân đối với sự phù

trợ của đức thánh. Trong ngày lễ hội nhân dân trong làng đều có lễ vật ra đình

lễ thánh để cầu may mắn và sức khỏe cho con em học tập và công tác tốt.

Các biện pháp bảo vệ và phát huy đã và đang triển khai và đề xuất của

chủ thể để bảo vệ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể:

Hội đền Đồng Nhân được sự tham gia, đóng góp công đức tiền của

nhân lực của nhân dân địa phương và những người con xa quê mỗi khi lễ hội

được tổ chức.

UBND xã Thụy Liên quan tâm đến lễ hội đền Đồng Nhân, hàng năm

chỉ đạo Ban công tác mặt trận thôn và BTC lễ hội Lễ hội, lên kế hoạch,

Chương trình tổ chức lễ hội chu đáo, quy củ tạo điều kiện thuận lợi cho người

dân tham gia hành hội.

12. XÃ THỤY HỒNG

- Hội đình Tu Trình

(Thôn Tu Trình, xã Thụy Hồng, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

50

Page 54: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

(1) Họ và tên: Trần Đình Thùy

Sinh năm: 1956 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Tu Trình, xã Thụy Hồng, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(2) Họ và tên: Đoàn Duy Uyên

Sinh năm: Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Công chức văn hóa

Địa chỉ liên lạc: Xã Thụy Hồng, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình

Nhận diện hội đình Tu Trình:

Đình làng Tu Trình được xây dựng từ thế kỷ X bên bến sông Mát còn

có tên gọi là đình Bến hay đình 5 gian. Trong thời kỳ chống giặc Nguyên

Mông, Đình là nơi đồn trú của vua quân nhà Trần. Theo thần phả của làng

vào năm 1288 khi đi thị sát tuyến Đông Bắc, Quốc công tiết chế Hưng Đạo

Đại Vương đã qua đây được Lục vị Thành Hoàng đã về báo mộng âm phù

cho đánh trận đại thắng trên sông Bạch Đằng. Đình Tu Trình thờ 6 vị thành

hoàng là Đệ nhất Bắc Hải, Đệ nhị Thiên Quang, Đệ tam Hải Tôn, Đệ tứ Nam

Bồ, Đệ ngũ Hồ Quốc, Đệ lục Cương Hào Minh Chương.

Hàng năm đình làng Tu Trình diễn ra hai kỳ lễ hội vào ngày mồng 5

tháng Giêng và ngày mồng 8 tháng 8 âm lịch. Lễ hội đình Tu Trình do dân

làng đứng ra tổ chức với những nghi thức chính như dâng hương, tế lễ. Nghi

thức tế do đội tế 12 người của thôn thực hiện với nghi thức truyền thống để

cầu mong đức thánh phù trợ cho dân làng bình an, mạnh khỏe con cháu học

hành thành đạt, cho mùa màng tươi tốt, bội thu.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Với mục đích chung tìm lại những truyền thống trong nền văn hóa dân

tộc và nét độc đáo ở mỗi vùng quê, hàng năm Đình Bến thôn Tu Trình được

tổ chức lễ hội để làm tăng thêm sức mạnh, niềm tin cho dân làng, là để mọi

người góp phần mình vào việc xây dựng quê hương ngày một giàu đẹp, văn

51

Page 55: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

minh. Mỗi mùa lễ hội được tổ chức lại giúp cho đời sống tinh thần của người

dân trong thôn làng đoàn tụ, đoàn kết, phát huy sức mạnh truyền thống tinh

thần quê hương đất nước.

Các biện pháp bảo vệ và phát huy đã và đang triển khai và đề xuất của

chủ thể để bảo vệ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể:

Hội đình Tu Trình hàng năm được nhân dân đồng tình ủng hộ đóng góp

nhân lực vật lực để cùng nhau tổ chức, được Cấp ủy địa phương quan tâm hỗ

trợ chỉ đạo Ban công tác mặt trận thôn, Hội người cao tuổi cùng BQL di tích

phối hợp thành lập BTC lễ hội để quản lý điều hàng các công việc diễn ra

trong ngày lễ hội được diễn ra an toàn tốt đẹp.

13. XÃ THỤY VIỆT

- Hội đền Gọc Chợ

(Thôn An Cúc Tây, xã Thụy Việt, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Nguyễn Đình Nhường

Sinh năm:1957 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Trưởng thôn An Cúc tây – trưởng ban khánh tiết.

Địa chỉ liên lạc: Thôn An Cúc Tây, xã Thụy Việt, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

(2) Họ và tên: Phạm Văn Cư

Sinh năm: 1932 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Trông coi bảo vệ di tích, thường trực mở cửa đền hàng ngày

Địa chỉ liên lạc: Thôn An Cúc Tây, xã Thụy Việt, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

(3) Họ và tên: Phạm Công Khương

Sinh năm:1961 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Phó ban quản lý di tích

Địa chỉ liên lạc: xã Thụy Việt, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình

(4) Họ và tên: Phạm Phú Đài

52

Page 56: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Sinh năm: 1954 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: xã Thụy Việt, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình

Nhận diện hội đền Góc Chợ:

Ngôi đền Gọc Chợ ngày nay được phục hồi năm 2003 là nơi thờ tả

tướng quân Ngô Đức Thuật người có công giữ yên bỡ cõi dọc tuyến sông Hóa

dưới thời nhà Trần. Lễ hội hàng năm diễn ra từ ngày mồng 12 đến ngày 14

tháng 8 âm lịch. Những nghi lễ chính trong lễ hội: 5 năm dân làng tổ chức

rước quanh làng một lần, sau đó Ban Khánh tiết làm lễ dâng hương tế thần.

Các trò chơi trong hội có chọi gà, bịt mắt đập niêu, cờ tướng, kéo co.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Dân trong làng mỗi khi có việc như con em đi học, đi công tác xa hay

gia đình có công việc lớn đều đến đền để dâng hương cầu đức Thánh phù hộ.

Người ốm chữa bệnh không khỏi cũng đến thắp hương xin thuốc thánh. Do

vậy lễ hội hàng năm được tổ chức có ý nghĩa quan trọng đối với đời sống của

cộng đồng làng xã. Ngày hội đã trở thành một dịp để nhân dân cầu nguyện

xin đức Thánh phù hộ cho gia đình con cháu học tập thành đạt, sức khỏe tốt.

Trong những ngày này mọi người dân trong làng ai ai cũng có lễ để dâng

hương lễ Thánh.

Các biện pháp bảo vệ và phát huy đã và đang triển khai và đề xuất của

chủ thể để bảo vệ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể:

Năm 2017 đền Gọc Chợ được nhân dân trong làng và những người con

đi làm ăn xa quê ủng hộ, đóng góp công đức tiền của để trùng tu sửa chữa nhà

tiền tế, khuôn viên để cho không gian tổ chức lễ hội được sạch đẹp.

Hiện nay hội đền Gọc Chợ được cấp Ủy thôn và nhân dân làng An Cúc

Tây đứng ra tổ chức thường xuyên theo đúng phong tục tập quán địa phương.

- Hội đền Tứ Xã

(Thôn Cao Trại, xã Thụy Việt, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

53

Page 57: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

(1) Họ và tên: Nguyễn Tăng Viêng

Sinh năm:1944 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Trưởng ban khánh tiết.

Địa chỉ liên lạc: Thôn Cao Trại, xã Thụy Việt, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(2) Họ và tên: Đỗ Trọng Cống

Sinh năm: 1936 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Trông coi bảo vệ di tích đền Tứ Xá

Địa chỉ liên lạc: Thôn Cao Trại, xã Thụy Việt, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(3) Họ và tên: Vũ Văn Nhạ

Sinh năm:1938 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Chủ tế

Địa chỉ liên lạc: Thôn Thu Cúc, xã Thụy Hưng, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(4) Họ và tên: Đỗ Trọng Cẩn

Sinh năm: 1931 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Cao Trại, xã Thụy Việt, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(5) Họ và tên: Đỗ Viết Dền

Sinh năm: 1935 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Trông coi bảo vệ di tích đền Tứ Xá

Địa chỉ liên lạc: Thôn Cao Trại, xã Thụy Việt, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

Nhận diện hội đền Tứ Xá:

Đền Tứ xã còn được gọi là chính từ Cao Trại tương truyền được xây

dựng vào năm Quý Mão 1599 thờ Thái phó Nghĩa Quận Công Đặng Huấn.

Ngôi đền ngày nay được trùng tu sửa chữa vào năm 1997.

54

Page 58: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Trong những năm chính hội dân của 04 thôn tiến hành mở hội từ ngày

mồng 10 đến ngày 13 tháng 3 âm lịch hàng năm, hội lệ được mở vào ngày 18

tháng 06 âm lịch vào ngày hóa của đức thánh do dân làng Cao Trai cúng tế.

Những năm mở hội chính nhân dân của 04 thôn là An Cúc, Cao Trai, Hòa

Đồng, Thu Cúc rước tượng Đức thánh từ đền Tứ Xã về nơi đóng đám, nên cứ

sau 3 năm mỗi xã mới được đóng đám một lần. Hết ngày lễ hội lại rước Đức

Thánh về đền Tứ Xã thờ cúng. Trong lễ nhập tịch dân làng tổ chức tế nam

quan hàng tổng, do 4 thôn cùng nhau thực hiện với lễ vật là xôi, thủ lợn, hoa

quả, trầu rượu. Các trò chơi trong hội có hát chèo, hát văn, chọi gà, tổ tôm, cờ

tướng, đập niêu, đi cầu treo.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Lễ hội hàng năm được tổ chức là nguyện vọng của cộng đồng cùng

nhau tham gia và lễ hội đã đi vào tiềm thức của nhân dân, nên năm nào cũng

được nhân dân và chính quyền địa phương tổ chức để cho con em trong làng

và khách thập phương đến dâng hương, cầu nguyện mong một năm có sức

khỏe may mắn. Các gia đình có công việc quan trọng, con em đi học, đi làm

xa đều ra đền làm lễ cầu xin Đức Thánh phù hộ học tập thành đạt công việc

hanh thông.

Các biện pháp bảo vệ và phát huy đã và đang triển khai và đề xuất của

chủ thể để bảo vệ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể:

Hội đền Gọc Chợ chủ yếu huy động nguồn lực tham gia từ sự đóng góp

công đức của nhân dân địa phương, con em quê hương công tác xa quê, công

ty doanh nghiệp hoạt động tại địa phương. Năm 2017, anh Nguyễn Văn

Thắng người thôn Cao Trại ủng hộ 10 triệu để sửa chữa cánh cửa tòa tiền tế

để cho ngôi đền được khang trang.

14. XÃ THỤY LƯƠNG

- Hội đình Hổ Đội

(Thôn 3, xã Thụy Lương, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

55

Page 59: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

(1) Họ và tên: Trần Đăng Ninh

Sinh năm:1969 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Phó chủ tịch xã

Địa chỉ liên lạc: xã Thụy Lương, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình

(2) Họ và tên: Nguyễn Tiến Tranh

Sinh năm: 1959 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Thủ từ

Địa chỉ liên lạc: Xã Thụy Lương, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình

(3) Họ và tên: Bùi Thị Thu

Sinh năm:1938 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Xã Thụy Lương, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình

(4) Họ và tên: Nguyễn Hữu Hải

Sinh năm: 1943 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Mạnh bái

Địa chỉ liên lạc: Xã Thụy Lương, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình

(5) Họ và tên: Đỗ Công Ước

Sinh năm: 1943 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Ban khánh tiết

Địa chỉ liên lạc: Xã Thụy Lương, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình

Nhận diện hội đình Hổ Đội:

Đình làng Hổ Đội thờ ba vị thành hoàng là Phùng Thế Kỳ, Phùng Đỗ

và Công Chúa Thiên Hương. Lễ hội hàng năm diễn ra từ ngày mồng 6 đến

ngày mồng 8 tháng 8 âm lịch. Tên làng Hổ Đội có nghĩa là một đội quân dũng

mãnh như Hổ, tương truyền đội quân này được xây dựng từ thời nhà Trần

chống lại Hồ Quý Ly. Hổ Đội quân do tướng quân Phùng Thế Kỳ cùng các

tướng sĩ trong đó có 12 vị thủy tổ làng Hổ Đội, sự nghiệp không thành công

của ông đã khiến ông cùng công chúa Thiên Hương rời đất Thăng Long để

vùng đất này sinh sống.

56

Page 60: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Hàng năm vào các ngày 6,7, 8 tháng 8 âm lịch lễ hội đình Hổ Đội lại

được tổ chức. Cứ 3 năm UBND xã đứng lên tổ chức lễ hội lớn một lần còn

những năm lệ do dân làng đứng ra tổ chức. Những năm xã tổ chức dân làng

làm lễ rước kiệu và thần tượng đi vòng quanh làng. Nhiều năm trở lại đây chỉ

rước kiệu và mũ ngai không rước thần tượng để giữ gìn tài sản đã bảo tồn qua

nhiều năm. Trong những ngày diễn ra lễ hội Ban tổ chức còn tổ chức các trò

chơi như chọi gà, bịt mắt bắt dê.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Ngôi đình Đông và lễ hội truyền thống làng Hổ Đội là nét đẹp văn

hóa có từ lâu đời của người dân làng Hổ Đội. Đây cũng là khu sinh hoạt

văn hóa tâm linh, là nơi cố kết cộng đồng, tăng thêm đoàn kết góp phần

xây dựng bảo tồn phát huy các giá trị văn hóa dân quân. Nhằm giúp cho thế

hệ hôm nay và mai sau biết được ra đời hình thành làng và công lao to lớn

của các bậc tiền nhân

Các biện pháp bảo vệ và phát huy đã và đang triển khai và đề xuất của

chủ thể để bảo vệ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể:

Trong những năm vừa qua UBND xã Thụy Lương cùng các cấp các

ngành địa phương đã tăng cường công tác quản lý nhà nước về tôn giáo tín

ngưỡng, có các biện pháp bảo tồn các đồ thờ tự có giá trị liên quan đến sự

hình thành của Đình. Ngôi đình cũng đã được trùng tu tôn tạo các hạng

mục kiến trúc của công trình xuống cấp trầm trọng.

- Hội đền Mẫu Chợ

(Xã Thụy Lương, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Nguyễn Duy Tuấn

Sinh năm: Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Công chức văn hóa xã

Địa chỉ liên lạc: Xã Thụy Lương, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình

(2) Họ và tên: Lê Tiến Đức

57

Page 61: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Sinh năm: 1950 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Thủ nhang

Địa chỉ liên lạc: Xã Thụy Lương, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình

Nhận diện hội đền Mẫu Chợ:

Đền Mẫu thờ bà Mai Thị Ngọc Miêu là vương phi của chúa Trịnh Tùng

người có công dựng nên chợ Gú của xã Thụy Lương nên được nhân dân

phụng thờ. Bà tên thật Mai Thị Ngọc Miêu người ở vùng Hà Trung, Thanh

Hóa vốn là Vương phi của chúa Trịnh Tùng nhưng bà không có con, chán

cạnh tranh giành quyền lực trong triều bà về sống với anh ở huyện Thụy Anh

nay là huyện Thái Thụy để làm nghề buôn bán và lập ra chợ Gú của xã Thụy

Lương ngày nay. Chợ Gú trước có tên là chợ “Hú” vì chợ được họp vào ban

đêm chỉ bằng những tiếng “Hú” để gọi nhau, sau gọi chệch ra là chợ Gú. Chợ

trước được họp ở đường 391 khu vực Ngân hàng Đông Á K6 thị trấn Diêm

Điền ngày nay họp 1 phiên duy nhất vào ngày 27 tháng 12 âm lịch. Năm 1959

huyện đào sông sau chợ được chuyển về thôn 1, chợ họp quanh năm là nơi

giao thương buôn bán nhiều mặt hàng.

Hàng năm tưởng nhớ đến công đức của bà dân làng và các tiểu thương

ở chợ Gú tổ chức lễ hội từ ngày 16 đến ngày 17 tháng 2 âm lịch với các nghi

thức tế lễ, dâng hương để tri ân công đức của Bà.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Hội đền Mẫu Chợ hàng năm được mở ra để giúp cho nhân dân và du

khách gần xa hiểu và biết thêm về sự ra đời của chợ Gú, tôn trọng đọa lý

‘uống nước nhớ nguồn’, biết ơn người đã có công sáng lập ra chợ Gú, để giao

thương buôn bán các mặt hàng.

Các biện pháp bảo vệ và phát huy đã và đang triển khai và đề xuất của

chủ thể để bảo vệ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể.

Hội đền Mẫu Chợ hàng năm được UBND xã Thụy Lương chỉ đạo Ban

công tác mặt trận thôn, BQLDT thành lập BTC lễ hội để tổ chức duy trì

thường xuyên nhằm giữ gìn phát huy giá trị văn hóa tốt đẹp đã được lưu

58

Page 62: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

truyền nhiều năm của nhân dân xã Thụy Lương.

15. XÃ THỤY DŨNG

- Hội đền Chiêu Quân

(Thôn Diêm Tỉnh, xã Thụy Dũng, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên Ông Vũ Công Hoa

Sinh năm: 1966 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Cán bộ

Địa chỉ liên lạc: UBND, xã Thụy Dũng, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình

(2) Họ và tên: Ông Hoàng Quốc Phin

Năm sinh: 1930 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Hưu trí

Địa chỉ liên lạc: Thôn Diêm Tỉnh, xã Thụy Dũng, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

(3) Họ và tên: Ông Phạm Thế Ngọ

Sinh năm: 1956 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Diêm Tỉnh, xã Thụy Dũng, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

(4) Họ và tên: Ông Nguyễn Thanh Oai

Sinh năm: 1964 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Cán bộ công chức VHXH

Địa chỉ liên lạc: UBND xã Thụy Dũng, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình

(5) Họ và tên: Bà Nguyễn Thị Đặng

Sinh năm: 1957 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Diêm Tỉnh, xã Thụy Dũng, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

(7) Họ và tên: Ông Hoàng Bá Dương

59

Page 63: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Sinh năm: 1936 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Diêm Tỉnh, xã Thụy Dũng, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

Nhận diện hội đền Chiêu Quân:

Đền Chiêu Quân thờ “Vi Thái Tỷ Công Chúa” được vua Lê Ý Tông sắc

phong cho 12 ngôi đền trong Bát đụn trang (gồm Diêm Tỉnh, Vạn Đồn, Lưu

Đồn, An Cố, Phương Man, Tu Trình, Ô Trình, Quảng Nạp) lập đền thờ cúng.

Hội đền Chiêu Quân được tổ chức vào hai dịp lễ tiết trong năm là ngày

13 tháng Chạp (ngày hóa) và ngày 12 tháng 3 âm lịch (ngày sinh) của bà

Chiêu Quân. Đảng ủy, ủy ban nhân dân và các đoàn thể cùng các cấp chính

quyền đều tham gia trong công tác tổ chức lễ hội: Từ Mặt trận, hội lão ông,

lão bà, hội cựu chiến binh, hội chữ thập đỏ, hộ phụ nữ, đoàn thanh niên, được

Ban tổ chức lễ hội phân công từng việc: Ban tiếp tân, ban hậu cần, ban lễ

nghi, đội rước, đội tế nam quan, đội tế nữ quan. Số người tham gia lễ hội

khoảng 800 - 1000 người trực tiếp tham tham trực tiếp và trong đoàn rước.

Hiện nay các ban ngành đoàn thể như Ủy ban nhân dân, mặt trận, phụ nữ,

thanh thiếu niên và toàn thể nhân dân trong xã Thụy Dũng đều tham gia tổ

chức lễ hội.

Trong hội tại đền bà Chúa tế nữ quan là nghi thức đặc sắc và quan

trong nhất. Để trở thành “nữ quan”, người đảm đương chức vụ đó phải là

người rất am hiểu về nghi lễ, trình tự của một cuộc tế. Thành phần đội tế gồm

17 cô gái với trang phục truyền thống. Để được vào đội tế, những cô gái trên

phải đáp ứng được rất nhiều điều kiện và phải thường xuyên tham gia các

buổi tập luyện. Đội tế bao giờ cũng có đội nhạc (phường bát âm) phù trợ, và

toàn bộ cuộc tế đó diễn ra trong tiếng nhạc, bắt đầu từ mệnh lệnh “khởi chinh

cổ” (nổi chiêng trống) cho đến lễ tạ. Vào các dịp lễ hội tại các đền miếu lớn,

các đội tế nữ quan này thường tổ chức những màn tế rất bài bản, đẹp mắt,

trước là lễ thánh, sau là giao lưu, khiến cho các lễ hội thêm phần sinh động.

60

Page 64: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Việc truyền dạy các nghi thức tế lễ cho các thế hệ trung niên kế tiếp thực

hành các nghi lễ, lễ tiết tại quê hương đều do các cụ trong làng tự bảo con

cháu, nhìn theo mà làm khi các cụ thực hành trong mỗi dịp hội làng. Hàng

năm tổ chức lễ hội đều có các đôi trung, thanh thiếu niên ra hỗ trợ các công

việc làng cùng với các cụ trong ban lễ khánh tiết cũng như nhân sự Ban tổ

chức lễ hội tại địa phương.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Hiện tại hàng năm đều có thực hành thường xuyên, đền Chiêu Quân là

niềm tự hào của mỗi người con Thụy Dũng. Hàng năm vào dịp tổ chức lễ hội

đền Chiêu quân, nhân dân trong làng con cháu đi làm ăn xa đều về lễ thánh.

Các biện pháp bảo vệ và phát huy đã và đang triển khai và đề xuất của

chủ thể để bảo vệ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể:

Hàng năm tổ chức lễ hội thường xuyên, các cấp chính quyền hỗ trợ

thêm kinh phí, và công tác an ninh để bà con có những mùa lễ hội ý nghĩa, an

toàn. UBND xã thường xuyên kiện toàn Ban quản lý di tích. Phân công giao

nhiệm vụ cho từng thành viên Ban khánh tiết duy trì việc tổ chức lễ hội hàng

năm và báo cáo xin phép về lễ rước quanh làng 5 năm một lần. Huy động các

nguồn lực xã hội hóa để tu bổ di sản và truyền dạy cho thế hệ trẻ kế tiếp.

- Hội đền Đông Dương

(Thôn Đông Dương, xã Thụy Dũng, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên Ông Vũ Công Hoa

Sinh năm: 1966 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Cán bộ

Địa chỉ liên lạc: UBND, xã Thụy Dũng, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình

(2) Họ và tên: Ông Lê Văn Tỉnh

Năm sinh: 1953 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Hưu trí

Địa chỉ liên lạc: Thôn Đông Dương, xã Thụy Dũng, huyện Thái Thụy,

61

Page 65: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

tỉnh Thái Bình

(3) Họ và tên: Ông Nguyễn Ngọc Đê

Sinh năm: 1947 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Đông Dương, xã Thụy Dũng, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

(4) Họ và tên: Ông Nguyễn Thanh Oai

Sinh năm: 1964 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Cán bộ công chức VHXH

Địa chỉ liên lạc: UBND xã Thụy Dũng, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình

Nhận diện hội đền Đông Dương:

Đền Đông Dương thờ Đô Thiên tả tưởng quân húy gọi là Kiều và Đô

Thiên hữu tướng quân húy là Tô và đức thánh Trần Hưng đạo đại vương.

Hội đền Đông Dương tổ chức vào ngày 20 tháng 8 âm lịch hàng năm.

Sáng ngày 20 tháng 8 âm lịch nhân thôn Đông Dương tổ chức lễ mộc dục,

rước bát hương từ các miếu về đền, tổ chức tế nam quan, tế nữ quan, chiều

rước bát hương từ các miếu trở về đình an vị. Lễ vật dâng cúng Thánh bắt

buộc có trâu đen, lợn đen, gà và có tổ chức xướng ca đủ 3 ngày. Quy định

màu quần áo tế chỉ mặc màu xanh và màu vàng, kiêng kỵ hết các màu khác.

Thôn Đông Dương hàng năm vào dịp tổ chức lễ hội, nhân dân trong làng con

cháu đi làm ăn xa đều về lễ thánh. Đảng ủy, UBND và các đoàn thể cùng các

cấp chính quyền đều tham gia trong công tác tổ chức lễ hội: Từ Mặt trận, Hội

lão ông, lão bà, Hội cựu chiến binh, Hội chữ thập đỏ, Hội phụ nữ, Đoàn thanh

niên được Ban tổ chức lễ hội phân công từng công việc cụ thể như Ban tiếp

tân, Ban hậu cần, Ban lễ nghi, đội rước, đội tế nam quan, đội tế nữ quan. Hơn

300 người trực tiếp tham tham trực tiếp, đoàn rước kéo dài đến hàng cây số.

Trong ngày lễ hội các cụ trong Ban quản lý di tích trực tiếp tham gia phụ

trách công việc lễ nghi, phục vụ bà con nhân dân đề lễ tại hai cụm di tích.

Ông tháng bà chủ tế và đội bồi tế được các cụ hợp bàn lựa chọn kỹ lưỡng theo

62

Page 66: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

các tiêu chuẩn lệ xưa như: Người có đạo đức, gia đình song toàn, không có

thành viên vi phạm pháp luật, không vướng tang bụi. Đội tế nam quan và nữ

quan hàng năm thực hành công việc tế thánh tại đền và đình có 45 người

tháng đội. Tục kiêng trang phục tế chỉ được mặc màu vàng và đỏ, chỉ được

phép mặc màu xanh (áo tế, mũ tế tất cả một màu xanh). Trong ngày lễ hội tất

cả mọi người đi dự lễ và nhân dân trong thôn hoàn toàn cấm kỵ hai từ KIỀU

& TÔ (tên húy của nhân vật thờ tự). Việc truyền dạy cho thế hệ trung niên kế

tiếp thực hành các nghi lễ, lễ tiết tại quê hương đều do các cụ trong làng tự

bảo con cháu, nhìn theo mà làm khi các cụ thực hành trong mỗi dịp hội làng.

Hàng năm tổ chức lễ hội đều có các đôi trung, thanh thiếu niên ra hỗ trợ các

công việc làng cùng với các cụ trong ban lễ khánh tiết cũng như nhân sự Ban

tổ chức lễ hội tại địa phương.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Hiện tại hàng năm đều có thực hành thường xuyên. Đền Đông Dương

là niềm tự hào của mỗi người con Thụy Dũng xã quê. Đức tin lớn và ý thức

cao, chính quyền và nhân dân Thụy Dũng đang bảo tồn và phát huy giá trị di

sản của mình tại địa phương rất tốt.

Các biện pháp bảo vệ và phát huy đã và đang triển khai và đề xuất của

chủ thể để bảo vệ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể:

Hội đền Đông Dương được tổ chức lễ hội thường xuyên, chính quyền

và nhân dân xã Thụy Dũng kết hợp với Ban quản lý di tích tổ chức lễ hội

theo các nghi thức truyền thống như; Tế cáo yết mở cửa đền, lễ mộc dục, tế

dâng hương, tế nam quan, tế nữ quan, rước kiệu thánh từ Đền đi quanh làng

ra các miếu.

Ban QLDT được các cấp chính quyền địa phương hỗ trợ thêm kinh phí,

và công tác an ninh để bà con có những mùa lễ hội ý nghĩa, an toàn.

16. XÃ THỤY CHÍNH

- Hội đình Lạng

(Thôn Miếu, xã Thụy Chính, Thái Thụy, Thái Bình)

63

Page 67: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Nguyễn Văn Hãn

Sinh năm:1953 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Trưởng ban khánh tiết đình Lạng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Miếu – Thụy Chính – Thái Thụy – Thái Bình

(2) Họ và tên: Vũ Trọng Kiểm

Sinh năm: 1974 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Trưởng thôn – Thôn Miếu

Địa chỉ liên lạc: Thôn Miếu – Thụy Chính – Thái Thụy – Thái Bình

(3) Họ và tên: Nguyễn Văn Đãi

Sinh năm:1955 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Bí thư chi bộ, trưởng ban công tác dân vận thôn Miếu.

Địa chỉ liên lạc: Thôn Miếu – Thụy Chính – Thái Thụy – Thái Bình

(4) Họ và tên: Vũ Ngọc Toán

Sinh năm:1955 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Miếu – Thụy Chính – Thái Thụy – Thái Bình

(5) Họ và tên: Chu Văn Kháng

Sinh năm:1941 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Thủ nhang

Địa chỉ liên lạc: Thôn Miếu – Thụy Chính – Thái Thụy – Thái Bình

(6) Họ và tên: Vũ Đức Xuân

Sinh năm:1943 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Miếu – Thụy Chính – Thái Thụy – Thái Bình

Nhận diện hội đình Lạng:

Đình Lạng thờ đức thánh Cường Bạo đại vương. Lễ hội hàng năm diễn

ra từ ngày 9 đến ngày 11 tháng 3 âm lịch. 3 năm làng mỏ hội chính một lần

vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu với những nghi thức chính là lễ mở cửa

64

Page 68: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

đình, lễ rước bộ, lễ tạ. Trước đây trong lễ hội dân làng còn tổ chức vật cầu

bằng củ chuối hột nhưng đến nay không còn. Trong những ngày diễn ra lễ hội

dân làng cùng du khách thập phương về dâng hương và xin thẻ thuốc chữa

bệnh tại đền.

Ngày nay lễ hội đình Lạng được toàn dân tham gia bao gồm già trẻ, trai

gái mọi lứa tuổi. Bên cạnh đó lễ hội được các cấp Ủy đảng, chính quyền quản

lý điều hành, các đoàn thể và nhân dân trong thôn tham gia.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Lễ hội hàng năm được tổ chức có ý nghĩa quan trọng đối với đời sống

cộng đồng của nhân dân trong thôn làng. Ngày hội là dịp để họp mặt dân làng

và con em xa quê về dự hội.

Các biện pháp bảo vệ và phát huy đã và đang triển khai và đề xuất của

chủ thể để bảo vệ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể:

Lễ hội truyền thống được chính quyền chỉ đạo, quan tâm và tạo mọi

điều kiện để cộng đồng duy trì thường xuyên, ba năm tổ chức một lần theo

quy định về tổ chức lễ hội của địa phương.

- Hội đình Cả

(Thôn Hòe Nha, xã Thụy Chính, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Nguyễn Văn Thanh

Sinh năm:1955 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Trưởng ban công tác mặt trận thôn

Địa chỉ liên lạc: Thôn Hòe Nha, xã Thụy Chính, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình.

(2) Họ và tên: Lê Xuân Hạnh

Sinh năm: 1975 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Trưởng thôn

Địa chỉ liên lạc: Thôn Hòe Nha, xã Thụy Chính, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình.

65

Page 69: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

(3) Họ và tên: Phạm Ngọc Nam

Sinh năm:1955 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Trưởng ban Khánh tiết Đình cả

Địa chỉ liên lạc: Thôn Hòe Nha, xã Thụy Chính, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình.

(4) Họ và tên: Nguyễn Duy Nặc

Sinh năm:1951 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Hòe Nha, xã Thụy Chính, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình.

(5) Họ và tên: Nguyễn Quang Trung

Sinh năm:1947 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Hòe Nha, xã Thụy Chính, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình.

(6) Họ và tên: Nguyễn Hải Triều

Sinh năm:1950 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Hòe Nha, xã Thụy Chính, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình.

Nhận diện hội đình Cả:

Đình Cả thờ Tứ vị đại vương là Khúc Giang Công, Triệu Vương Công,

Thiên Vương Công, Ngô Vương Công và Nhất vị thánh bà là chúa Ả Trinh

Tiết công chúa. Lễ hội hàng năm diễn ra từ ngày mồng 10 đến ngày 13 tháng

3 âm lịch với những nghi lễ chính là rước kiệu thánh vòng quanh làng, dâng

hương, tế nam quan, tế nữ quan. Trong ngày hội còn có các trò chơi dân gian

truyền thống như đập niêu, đi cầu treo.

Trong những ngày diễn ra lễ hội đình Cả được các cấp Ủy đảng, chính

66

Page 70: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

quyền quản lý điều hành, các đoàn thể và nhân dân trong thôn tham gia. Lễ

hội đình Cả đang được duy trì thường xuyên 3 năm tổ chức hội 1 lần theo quy

định của địa phương.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Lễ hội đình Cả diễn ra có ý nghĩa nhân văn sâu sắc đối với đời sống của

nhân dân trong thôn Hòe Nha, góp phần gìn giữ vốn văn hóa truyền thống của

địa phương. Lễ hội cũng là dịp để người dân thể hiện lòng tôn kính tới vị

thành hoàng và tri ân những người có công với dân với nước.

Các biện pháp bảo vệ và phát huy đã và đang triển khai và đề xuất của

chủ thể để bảo vệ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể:

Lễ hội đình Cả được nhân dân địa phương tham gia bảo vệ và phát huy

giá trị của di sản thông qua các hoạt động tổ chức lễ hội hàng năm. Hiện nay,

lễ hội được UBND xã Thụy Chính chỉ đạo, nhân dân thôn Hòe Nha đã

khuyến khích lớp trẻ tham gia hành hội và lễ rước. Trong ngày lễ hội con em

xa quê và khách thập đã hảo tâm công đức, ủng hộ tiền của để tổ chức lễ hội

hàng năm. Người dân trong thôn tự nguyện tham gia các hoạt động trong lễ

hội như đám rước thánh, đội tế và trò chơi.

- Hội đền Mẫu

(Thôn Hòa Nha, xã Thụy Chính, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Nguyễn Văn Thanh

Sinh năm:1955 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Bí thư chi bộ, trưởng ban công tác mặt trận thôn.

Địa chỉ liên lạc: Thôn Hòa Nha, xã Thụy Chính, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình.

(2) Họ và tên: Lê Xuân Hanh

Sinh năm: 1975 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Trưởng thôn Hòe Nha

Địa chỉ liên lạc: Thôn Hòa Nha, xã Thụy Chính, huyện Thái Thụy, tỉnh

67

Page 71: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Thái Bình.

(3) Họ và tên: Bùi Quang Trinh

Sinh năm: 1959 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Trưởng ban khánh tiết đền Mẫu

Địa chỉ liên lạc: Thôn Hòa Nha, xã Thụy Chính, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình.

(4) Họ và tên: Nguyễn Trọng Hinh

Sinh năm: Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Phó chủ tịch xã

Địa chỉ liên lạc: Thôn Hòa Nha, xã Thụy Chính, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình.

Nhận diện hội đền Mẫu:

Đền Mẫu thờ Quận Hoa Công chúa, bà được phong là Tràng giang

Ninh trấn Hiển ứng tôn thần. Lễ hội đền Mẫu được nhân dân thôn Hòa Nha

phục hồi vào tổ chức lại từ năm 2006. Lễ hội diễn ra từ ngày 15 đến ngày 17

tháng 7 âm lịch hàng năm. Những nghi thức chính trong lễ hội có tế lễ, dâng

hương, hát văn, lên đồng. Lễ hội đền Mẫu được toàn thể nhân dân thôn Hòa

Nha tham gia, được chính quyền, đoàn thể địa phương quan tâm tổ chức.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Lễ hội đền Mẫu có giá trị văn hóa quan trọng đối với nhân dân trong

thôn Hòa Nha, tôn thờ nữ thần, người có công bảo vệ dân làng. Lễ hội cũng là

dịp để cộng đồng địa phương thể hiện sự tôn kính tới Mẫu, góp phần bồi đắp

vốn văn hóa truyền thống của người người Việt thờ cúng nữ thần.

Các biện pháp bảo vệ và phát huy đã và đang triển khai và đề xuất của

chủ thể để bảo vệ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể:

Giống như hội đình Cả, hội đền Mẫu thôn Hòa Nha cũng được UBND

xã Thụy Chính chỉ đạo, nhân dân thôn Hòa Nha đã khuyến khích lớp trẻ tham

gia hành hội và lễ rước. Trong ngày lễ hội con em xa quê và khách thập đã

hảo tâm công đức, ủng hộ tiền của để tổ chức lễ hội hàng năm. Người dân

68

Page 72: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

trong thôn tự nguyện tham gia các hoạt động trong lễ hội như đám rước thánh,

đội tế và trò chơi.

- Hội đình Chính

(Thôn Chính, xã Thụy Chính, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Nguyễn Minh Sơn

Sinh năm: 1952 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Bí thư chi bộ, trưởng ban công tác mặt trận thôn.

Địa chỉ liên lạc: Thôn Chính, xã Thụy Chính, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình.

(2) Họ và tên: Nguyễn Xuân Hội

Sinh năm: 1955 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Trưởng thôn – Trưởng ban tổ chức lễ hội đình Chính

Địa chỉ liên lạc: Thôn Chính, xã Thụy Chính, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình.

(3) Họ và tên: Nguyễn Phú Việt

Sinh năm: Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Trưởng ban khánh tiết đình Chính

Địa chỉ liên lạc: Thôn Chính, xã Thụy Chính, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình.

(4) Họ và tên: Nguyễn Thiện Tích

Sinh năm:1941 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Chính, xã Thụy Chính, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình.

(5) Họ và tên: Nguyễn Phú Việt

Sinh năm: 1942 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Mạnh bái đội tế nam quan

Địa chỉ liên lạc: Thôn Chính, xã Thụy Chính, huyện Thái Thụy, tỉnh

69

Page 73: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Thái Bình.

(6) Họ và tên: Nguyễn Quang Bình

Sinh năm: 1957 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Chính, xã Thụy Chính, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình.

(7) Họ và tên: Nguyễn Thiện Tích

Sinh năm: 1941 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Chính, xã Thụy Chính, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình.

(8) Họ và tên: Trần Thị Huyền

Sinh năm: 1976 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Mạnh bái đội tế nữ quan

Địa chỉ liên lạc: Thôn Chính, xã Thụy Chính, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình.

(9) Họ và tên: Nguyễn Thị Lợi

Sinh năm:1956 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Chính, xã Thụy Chính, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình.

Nhận diện hội đình Chính:

Đình làng Chính thờ Tứ vị đại vương là An Trọng hầu Anh trung hoàng

Nghị đại vương, Trần Chính xứ huệ Thông tuần tiết đại vương, Triệu vương

Khoan Hồng uy liệt đại vương, Liễu Khánh uy lộc đại vương. Lễ hội đình

Chính cứ 3 năm làng mở hội chính một lần diễn ra từ ngày 10 đến ngày 15

tháng 11 âm lịch hàng năm.

Nghi thức chính trong lễ hội có rước kiệu thánh đi quanh làng, lễ dâng

hương, tế nam quan, tế nữ quan, lễ vật dâng lên đức thánh là cơm cá. Các trò

70

Page 74: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

chơi dân gian có đập niêu, chọi gà.

Lễ tế nam quan được thực hiện nghiêm trang thể hiện sự tôn kính đối

với các thánh thần, các bậc tiền nhân có công với nước với dân.

Lễ tế được thực hiện theo trình tự:

- Diễu hành: để dẹp hàng quân để tế.

- Vào quán tẩy: tẩy uế trước khi vào tế.

- Kiểm tra lễ vật, đèn nhang, hoa quả phẩm.

- Xếp hàng theo đội hình, theo nhiệm vụ của từng người: Chủ tế, bồi

tế, thông sướng, hậu cần đứng hai bên.

- Dâng hương, dâng đèn nhang (Mạnh bái và bồi tế).

- Dâng tửu bước 1 (mạnh bái và bồi tế) (mạnh bái cúng 4 cúng).

- Đọc chúc: Dâng chúc và đọc chúc trước hương án.

- Dâng tửu lần 2.

- Dâng tửu lần 3.

- Mạnh bái được thưởng rượu, trầu, thụ tộ.

- Hóa sớ (thần trúc).

Ngày nay lễ hội đình Chính được toàn dân tham gia bao gồm già trẻ,

trai gái đủ mọi lứa tuổi cùng tham gia. Lễ hội hàng năm được cấp Ủy chính

quyền địa phương tham gia quản lý điều hành tổ chức.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Lễ hội đình Chính hàng năm có ý nghĩa quan trọng đối với đời sống

cộng đồng của nhân dân trong thôn Chính. Ngày hội là dịp để hội tụ, gặp mặt

của nhân dân trong thôn làng của con em thôn làng, ở xa về tụ họp cùng nhau

nhớ lại công lao to lớn của các bậc tiền nhân đã có công trị quốc hộ dân.

Các biện pháp bảo vệ và phát huy đã và đang triển khai và đề xuất của

chủ thể để bảo vệ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể

Lễ hội đình Chính được UBND xã quan tâm, hỗ trợ và tạo điều kiện để

nhân dân địa phương duy trì, tổ chức 3 năm một lần theo quy định về tổ chức

lễ hội của địa phương.

71

Page 75: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Cộng đồng nhiệt tình tham gia đóng góp công sức, nhân lực vật lực để

tổ chức lễ hội.

17. XÃ THỤY SƠN

- Hội đền Hạ Đồng

(Thôn Hạ Đồng, xã Thụy Sơn, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Lê Đức Chọn

Sinh năm: 1958 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Hạ Đồng, xã Thụy Sơn, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình.

(2) Họ và tên: Ngô Văn Toản

Sinh năm: 1958 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Hạ Đồng, xã Thụy Sơn, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình.

(3) Họ và tên: Lê Văn Bảo

Sinh năm: 1957 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Hạ Đồng, xã Thụy Sơn, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình.

(4) Họ và tên: Lê Văn Hạng

Sinh năm: 1934 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Hạ Đồng, xã Thụy Sơn, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình.

(5) Họ và tên: Lê Thị Dậu

Sinh năm: 1966 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

72

Page 76: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Địa chỉ liên lạc: Thôn Hạ Đồng, xã Thụy Sơn, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình.

(6) Họ và tên: Nguyễn Văn Huân

Sinh năm: 1967 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Hạ Đồng, xã Thụy Sơn, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình.

Nhận diện đền Hạ Đồng:

Đền Hạ Đồng thờ đức thánh Mẫu Công Lương phu nhân đại vương

cùng 4 vị nhân thần có công đánh giặc ngoại xâm phò tá vương triều nhà

Thục. Năm 1990 đền được công nhận di tích lịch sử cấp quốc gia. Cứ ba năm

vào trung tuần tháng 9 âm lịch theo thần tích sắc phong để lại, cán bộ và nhân

dân xã Thụy Sơn tổ chức lễ hội truyền thống tưởng nhớ công ơn to lớn của

Thánh Mẫu và cá vị nhân thần đã có công chống giặc ngoại xâm giữ yên bờ

cõi. Hội đền Hạ Đồng tổ chức lễ hội chính một lần diễn ra từ ngày mồng 9

đến ngày 12 tháng 9 âm lịch với các nghi thức rước thánh từ đền Trung, từ

Dộc, đền Đông của thôn Ngọc Thanh về đền Hạ Đồng tế lễ, dâng hương.

Trong ngày lễ hội dân làng tổ chức các trò chơi dân gian như cờ tướng, kéo

co, bịt mắt bắt dê làm tăng thêm không khí vui tươi phấn khởi trong cộng đồng.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Hội đền Hạ Đồng thể hiện cuộc sống văn hóa, tín ngưỡng của nhân dân

trong làng. Hàng năm lễ hội được chính quyền và nhân dân địa phương tổ

chức nhằm tôn thờ các vị nữ thần, tri ân công đức của Bà, đồng thời thể hiện

tinh thần uống nước nhớ nguồn, thờ cúng những người có công với dân làng.

Các biện pháp bảo vệ và phát huy đã và đang triển khai và đề xuất của

chủ thể để bảo vệ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể:

Di tích đền Hạ Đồng hàng năm được nhân dân địa phương đóng góp

công đức trùng tu, Ban khánh tiết và bảo vệ nâng cấp nội thất và khuôn viên

hơn nữa để đền Hạ Đồng xứng danh với di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia.

73

Page 77: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

- Hội Kỳ an làng Thượng Phúc

(Thôn Thượng Phúc, xã Thụy Sơn, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Trần Văn Cự

Sinh năm: 1955 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Hưu trí

Địa chỉ liên lạc: Thôn Thượng Phúc, Thụy Sơn, Thái Thụy, Thái Bình

(2) Họ và tên: Bùi Văn Dụng

Sinh năm: 1960 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Thượng Phúc, xã Thụy Sơn, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

(3) Họ và tên: Đỗ Thị Lành

Sinh năm: 1972 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Thượng Phúc, xã Thụy Sơn, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

Nhận diện hội Kỳ an làng Thượng Phúc:

Đình Thượng Phúc thờ Tam vị đại vương là Đông Hải tôn thần, Nam

Hải tôn thần, Tây Hải tôn thần có công giúp dân làng quai đê lấn biển, mở

mang bờ cõi. Lễ hội hàng năm diễn ra vào ngày mồng 10 tháng 3 âm lịch với

các nghi lễ dâng hương, tế lễ của dân làng và các trò chơi dân gian như kéo

co, bắt vịt, cờ tướng, bịt mắt đánh trống.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Hội Kỳ an làng Thượng Phúc có giá trị quan trọng đối với dân làng,

đáp ứng nhu cầu văn hóa, tín ngưỡng của nhân dân. Lễ hội cũng là dịp để

cộng đồng địa phương thể hiện cuộc sống tinh thần, thờ cúng vị thần bảo trợ

cho dân làng.

Các biện pháp bảo vệ và phát huy đã và đang triển khai và đề xuất của

74

Page 78: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

chủ thể để bảo vệ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể:

- UBND và các ban ngành đứng ra chỉ đạo, cùng dân làng tổ chức lễ

hội một cách tốt đẹp

- Lễ hội hàng năm được nhân dân địa phương tham gia tổ chức và đóng

góp kinh phí trùng tu, khánh tiết và bảo vệ nâng cấp nội thất và khuôn viên

của khu di tích được khang trang sạch đẹp.

- Hội Kỳ an làng Nhạo Sơn

(Thôn Nhạo Sơn, xã Thụy Sơn, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Đỗ Ngọc Sơn

Sinh năm: 1954 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Nhạo Sơn, xã Thụy Sơn, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(2) Họ và tên: Đỗ Ngọc Bản

Sinh năm: 1937 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Nhạo Sơn, xã Thụy Sơn, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(3) Họ và tên: Nguyễn Văn Chế

Sinh năm: 1949 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Nghỉ hưu

Địa chỉ liên lạc: Thôn Nhạo Sơn, xã Thụy Sơn, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

Nhận diện Hội Kỳ an làng Nhạo Sơn:

Tương truyền đình được xây dựng năm 1898 và khánh thành vào

năm 1901, đến năm 1959 đình bị phá hủy, năm 2003 đình được xây dựng

lại như ngày hôm nay. Đình làng Nhạo Sơn thờ thành hoàng làng là đức

Nam Hải đại vương.

75

Page 79: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Lễ hội hàng năm diễn ra vào ngày mồng 10 tháng 3 âm lịch với các

nghi lễ dâng hương, rước thánh từ đình đến miếu, ra chùa rồi về đình tế lễ.

Các trò chơi dân gian như kéo co, đi cầu bắt vịt. Hội Kỳ an làng Nhạo Sơn

được mở ra là cầu cho dân an nước thịnh, mùa màng bội thu, nhân dân trong

làng được hạnh phúc ấm no mang đậm nét văn hóa truyền thống lúa nước của

cư dân châu thổ sông Hồng. Hiện nay lễ hội làng Nhạo Sơn được toàn dân

trong thôn tham gia bảo vệ, tổ chức hàng năm.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Lễ Kỳ an làng Nhạo Sơn đã phản ánh sinh động của truyền thống, bản

sắc văn hóa cộng đồng nhân dân thôn Nhạo Sơn. Người dân thôn Nhạo Sơn

cùng nhau tổ chức lễ hội, cùng nhau cộng cảm trong các hoạt động sáng tạo

và hưởng thụ văn hóa chung của cộng đồng. Thông qua lễ hội dân làng Nhạo

Sơn tôn vinh những vị Thành hoàng làng và biểu dương các giá trị văn hóa,

sức mạnh của cộng đồng, là chất kết dính tạo nên sự cố kết cộng đồng.

Các biện pháp bảo vệ và phát huy đã và đang triển khai và đề xuất của

chủ thể để bảo vệ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể:

BQLDT, BTC lễ hội đã biết huy động nguồn lực trong cộng đồng dân

cư, nhất là nhân dân địa phương để bảo tồn, phát huy giá trị các di tích lịch sử

và trong công tác tổ chức lễ hội. UBND xã Thụy Sơn đã có hình thức khen

thưởng kịp thời các tổ chức, cá nhân đóng góp tích cực đối với công tác bảo

tồn, phát huy giá trị các di tích và lễ hội hàng năm.

18. XÃ THỤY PHONG

- Hội đền Đông Hồ

(Thôn Đông Hồ, xã Thụy Phong, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Hà Thị Chụt

Sinh năm: 1945 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc:

76

Page 80: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Thôn Đông Hồ, xã Thụy Phong, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

(2) Họ và tên: Vũ Đình Thắng

Sinh năm: 1963 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc:

Thôn 2 Đông Hồ, xã Thụy Phong, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

(3) Họ và tên: Đặng Nhật Quang

Sinh năm: 1970 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: UNBD xã Thụy Phong, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

Nhận diện hội đền Đông Hồ:

Làng Đông Hồ trước kia có tên là Đông Triều, thời cổ thuộc hương Cổ

Lũ, thời Trần thuộc Tây Quan, thời Hậu Lê đổi thành Đông Quan. Từ Đông triều

đổi thành Đông Hồ không có tư liệu để lại, chỉ biết thời Mạc Mậu Hợp, năm

Niên Thành thứ 7 đã xuất hiện tên Đông Hồ. Đền làng Đông Hồ thờ thần Đao

Giang Tân Độ. Tương truyền bà là người lái đò trên sông Diêm, có công đưa

quân Mã của triều đình nhà Lê qua sông đánh giặc, được vua Lê sắc chuẩn cho

dân lập đền thờ, năm 2008 Đền lập chân linh Đức Thánh Trần. Đền làng Đông

Hồ được xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh ngày 12 tháng 10 năm 2016.

Lễ hội hàng năm diễn ra trong 03 ngày từ ngày 19 đến 21 tháng 8 âm

lịch hàng năm. Trước kia trong ngày lễ hội có tổ chức lễ rước nhưng ngày nay

không còn tổ chức thường xuyên mà chỉ tổ chức rước 5 năm một lần và xã

đứng ra tổ chức. Chương trình lễ hội ngoài lễ dâng hương, lễ tế nam quan, tế

nữ quan còn tổ chức các trò chơi dân gian như chọi gà, cờ tướng, kéo co, tổ

tôm, tổ điếm. Các nguồn lực khác tham gia bảo vệ: Toàn thể nhân dân, con

em xa quê và khách thập phương tham gia công đức để tôn tạo trùng tu di tích

và bảo tồn lễ hội.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử, ngôi đền vẫn được nhân

77

Page 81: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

dân đời này nối tiếp đời kia giữ gìn, tôn tạo và bảo tồn cả những giá trị văn

hóa phi vật thể và vật thể. Đây là niềm phấn khởi, tự hào của nhân dân làng

Đông Hồ nói riêng và nhân dân xã Thụy Phong nói chung. Từ đây chúng ta

phải giữ gìn và ngày càng phát huy truyền thống tốt đẹp và những giá trị văn

hóa của Đền để nơi đây ngày càng phát triển, là điểm đến đáp ứng hoạt động

văn hóa tâm linh của nhân dân trong vùng và khách thập phương.

Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát

huy di sản văn hóa phi vật thể:

UBND xã Thụy Phong trong những năm qua đã tiếp tục tăng cường

công tác quản lý nhà nước về lễ hội như thành lập Ban QLDT, BTC lễ hội hàng

năm để điều hành tổ chức lễ hội theo đúng nội duy, quy định của nhà nước.

Chi ủy, Ban công tác mặt trận thôn cùng Ban QLDT hàng năm bồi

dưỡng, vận động những hạt nhân có tâm huyết, hiểu biết tham gia vào BTC lễ

hội để lễ hội được duy trì phát triển.

Ban văn hóa xã Thụy Phong đã tích cực tuyên truyền rộng rãi về ý

nghĩa của lễ hội đền Đông Hồ đến toàn thể người dân trong và ngoài xã.

- Hội đình Đồng Hòa.

(Thôn Đồng Hòa, xã Thụy Phong, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Đặng Văn Xô

Sinh năm: 1962 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Trưởng ban quản lý di tích

Địa chỉ liên lạc: Thôn Đồng Hòa, xã Thụy Phong, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình.

(2) Họ và tên: Trần Đình Chủ

Sinh năm: 1952 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Cán bộ hưu trí

Địa chỉ liên lạc: Thôn Đồng Hòa, xã Thụy Phong, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình.

78

Page 82: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

(3) Họ và tên: Đỗ Xuân Bình

Sinh năm: 1950 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Đồng Hòa, xã Thụy Phong, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình.

Nhận diện hội đình Đồng Hòa:

Đình Đồng Hòa là một công trình kiến trúc nghệ thuật thời Nguyễn

được bảo tồn khá nguyên vẹn. Năm 1993 tu sửa hậu cung. Năm 1999 tu bổ

mái tòa Tiền tế. Đình thờ 03 vị thành hoàng làng là: Nam Hải Đại Vương,

Công Nương phu nhân, Tiến sĩ Phạm Thế Hiển. Lễ hội truyền thống được tổ

chức 03 ngày từ ngày 12 đến ngày 14 tháng 8 âm lịch.

Vào ngày 12 tháng 8, nhân dân trong làng và các xã lân cận tập trung

tại đình để chuẩn bị lễ rước kiệu quanh làng. Kiệu được rước từ đình sang từ

đường danh nhân tiến sĩ Phạm Thế Hiển qua lăng mộ của ông rồi đi xung

quanh làng. Đi theo đoàn rước kiệu là đoàn hồng kỳ, kiệu thần, cờ thần, đoàn

tế nam, đoàn tế nữ và toàn thể nhân dân. Số lượng người tham gia hành hội

bao gồm 30 người khiêng kiệu phải là nam nữ đồng trinh, nhưng hiện nay thì

chỉ cần là những người khỏe mạnh, có phẩm chất đạo đức, tư cách tốt, đoàn tế

nữ quan gồm 44 người, đoàn tế nam quan 20 người. Sau khi đoàn rước kiệu

về tới đình, sẽ tiến hành khai hội. Đan xen với hoạt động của đoàn tế nam và

tế nữ là các trò chơi dân gian như: cờ tướng, chọi gà, kéo co. Các hoạt động tế

lễ, dâng hương diễn ra đan xen với các trò chơi dân gian. Các buổi tối có hoạt

động giao lưu văn nghệ của các đoàn văn nghệ địa phương và các xã bạn. Lễ

hội tổ chức quy mô lớn 2 năm một lần, năm còn lại thì nhân dân chỉ tổ chức

dâng hương, tế lễ và cúng bái.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Lễ hội được tổ chức nhằm ôn lại những giá trị lịch sử văn hóa của quê

hương Thụy Phong. Cầu cho một năm quốc thái dân an, cầu mong mưa thuận

gió hòa, mùa màng bội thu, cầu mong mọi người sống đoàn kết, nhà nhà bình

79

Page 83: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

an. Chính vì vậy mà trong tâm thức của người dân xã Thụy Phong luôn háo

hức chờ mong lễ hội đình Đồng Hòa diễn ra. Quy mô của lễ hội ngày càng

được mở rộng cả về quy mô và ý nghĩa.

Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát

huy di sản văn hóa phi vật thể:

Lễ hội đình Đồng Hòa do UBND xã tổ chức, thành lập Ban khánh tiết,

đảm bảo an ninh trật tự trong quá trình diễn ra lễ hội. Được toàn thể nhân dân,

con em xa quê và khách thập phương tham gia công đức tiền vàng, hiện vật

để tôn tạo trùng tu đình và bảo tồn lễ hội.

19. XÃ THỤY HƯNG

- Hội đền Bến Trấn

(Thôn Thu Cúc, xã Thụy Hưng, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Phạm Duy Chư

Sinh năm: 1967 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Phó chủ tịch

Địa chỉ liên lạc: xã Thụy Hưng, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình

(2) Họ và tên: Bùi Quốc Văn

Sinh năm:1978 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Công chức văn hóa

Địa chỉ liên lạc: Thôn Thu Cúc, xã Thụy Hưng, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(3) Họ và tên: Vũ Văn Đảng

Sinh năm:1943 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Thu Cúc, xã Thụy Hưng, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(4) Họ và tên: Vũ Xuân Thu

Sinh năm:1949 Dân tộc: Kinh

80

Page 84: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Thu Cúc, xã Thụy Hưng, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(5) Họ và tên: Phạm Duy Mong

Sinh năm:1950 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Thu Cúc, xã Thụy Hưng, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(6) Họ và tên: Nguyễn Vĩnh Chuẩn

Sinh năm:1950 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Thu Cúc, xã Thụy Hưng, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

Nhận diện hội đền Bến Trấn:

Đền Bến Trấn thờ nhị vị đức thánh là Ngô Thuần và Lý Nghị đại

vương. Lễ hội đền Bến Trấn diễn ra từ ngày 16 đến ngày 18 tháng 3 âm lịch

hàng năm. Các nghi thức chính: ngày 16 là lễ tế nhập tịch, ngày 17 chính hội,

ngày 18 ra đám. 2 năm dân làng mở hội chính một lần có tổ chức rước Thánh

đi quanh làng với hơn 400 người tham gia. Trong những ngày diễn ra lễ hội

các dòng họ và nhân dân trong làng làm lễ dâng hương, tế nam quan, tế nữ.

Các trò chơi trong hội có kéo co, đạp niêu, chọi gà...

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Hội đền Bến Trấn được tổ chức để cầu cho một năm quốc thái dân an,

cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, cầu mong mọi người sống

đoàn kết, nhà nhà bình an. Chính vì vậy mà trong tâm thức của người dân

thôn Thu Cúc hội đền Bến Trấn là nơi hội tụ những nét văn hóa truyền thống

của người dân trong làng.

Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát

huy di sản văn hóa phi vật thể:

81

Page 85: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Kinh phí tổ chức lễ hội chủ yếu là của nhân dân trong thôn, con em xa

quê đóng góp công đức, tiền mặt tham gia công tác chuẩn bị, tổ chức lễ hội.

Hiện nay ngôi đền Bến Trấn đang hư hỏng nặng, cộng đồng đề nghị các

cấp chính quyền, các ban ngành có liên quan hỗ trợ để ngôi đền sớm được

trùng tu sửa chữa tạo được không gian tổ chức lễ hội và sinh hoạt tín ngưỡng

tâm cho người dân thôn Thu Cúc.

- Hội đền Tam Lộng

(Thôn Tam Lộng, xã Thụy Hưng, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Nguyễn Ngọc Hoạt

Sinh năm:1945 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Tam Lộng, xã Thụy Hưng, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

(2) Họ và tên: Đỗ Hữu Lạc

Sinh năm:1942 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Tam Lộng, xã Thụy Hưng, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

(3) Họ và tên: Lã Quốc Tuấn

Sinh năm:1954 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Tam Lộng, xã Thụy Hưng, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

Nhận diện hội đền Tam Lộng:

Đền Tam Lộng thờ Tứ vị đại vương làm thành hoàng là Hoàng Công

đại vương, Châu Công đại vương, Vũ Công đại vương, Thụy Công đại vương.

Lễ hội tổ chức vào ngày 10 tháng 11 âm lịch, dân làng tổ chức dâng

hương, tế thánh.

82

Page 86: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng

Hội đền Tam Lộng được tổ chức là lúc người dân trong làng được nghỉ

ngơi, gặp gỡ nhau sau những tháng ngày làm ăn vất vả, tham gia các hoạt

động tế lễ, các trò chơi dân gian tạo nên nét đẹp văn hóa tinh thần của người

dân nơi đây.

Các biện pháp bảo vệ và phát huy đã và đang triển khai và đề xuất của

chủ thể để bảo vệ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể

Các cấp ủy Đảng, chính quyền cần tạo điều kiện về vật chất cũng như

nhân lực hơn nữa trong quá trình tổ chức lễ hội.

Các cấp chính quyền địa phương cần tuyên truyền sâu rộng hơn nữa về

ý nghĩa cũng như các giá trị tinh thần của lễ hội để người dân tham gia duy

trì, bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội hơn nữa.

- Hội đền Xá Thị

(Thôn Xá Thị, xã Thụy Hưng, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Vũ Đức Thuận

Sinh năm:1945 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Xá Thị, xã Thụy Hưng, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(2) Họ và tên: Phạm Công Mùi

Sinh năm:1950 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Xá Thị, xã Thụy Hưng, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(3) Họ và tên: Nguyễn Văn Tới

Sinh năm:1942 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Xá Thị, xã Thụy Hưng, huyện Thái Thụy, tỉnh

83

Page 87: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Thái Bình

Nhận diện hội đền Xá Thị:

Đền Xá Thị thờ bản cảnh thành hoàng là Tuấn Lương đệ tam giáp tiến

sĩ xá tế Phạm Tiên Sinh húy là Phạm Tử Hiền. Lễ hội hàng năm diễn ra vào

ngày 10 tháng 8 âm lịch. Trong những ngày diễn ra lễ hội dân làng tổ chức

giã bánh dầy dâng lễ đức Thánh và các nghi thức tế lễ cùng các trò chơi dân

gian như chọi gà, đập niêu...

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng

Lễ hội đền Xá Thị là dịp người dân tưởng nhớ ơn đức của các vị thánh

thần đã bảo hội, che chở cho người dân trong xã được an bình, sức khỏe và

nhớ đến công đức của tiến sĩ Phạm Tử Hiền giúp dân giúp nước. Hội cũng là

dịp để người dân địa phương được nghỉ ngơi sau những ngày tháng lao động

mệt nhọc, tham gia các hoạt động tế lễ, các trò chơi dân gian truyền thống.

Các biện pháp bảo vệ và phát huy đã và đang triển khai và đề xuất của

chủ thể để bảo vệ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể

Hiện nay nguồn kinh phí cho Ban QLDT và BTC lễ hội hàng năm hoạt

động rất khó khăn, chủ yếu là dựa vào nguồn vốn xã hội hóa để tạo điều kiện

lễ hội hoạt động hàng năm nhưng cũng rất eo hẹp.

Chi bộ Đảng và Chính quyền địa phương chủ yếu quản lý nhà nước về

công tác tổ chức lễ hội hàng năm không để cho các hoạt đồng trong hội vi

phạm pháp luật. Nguồn kinh phí ngân sách của địa phương cũng hầu như

không có đầu tư sửa chữa và cho các hoạt động lễ hội. Do đó, đề nghị ngành

văn hóa hỗ trợ địa phương nguồn kinh phí để đầu tư sửa chữa tôn tạo di tích

để có không tổ chức lễ hội được đảm bảo an toàn cho người dân hành hội.

20. XÃ THỤY XUÂN

- Hội đình Bình Lạng

(Thôn Bình An, xã Thụy Xuân, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Nguyễn Thị Thấm

84

Page 88: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Sinh năm:1965 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Trưởng ban khánh tiết nhà đền.

Địa chỉ liên lạc: Thụy Xuân - Thái Thụy – Thái Bình

Nhận diện hội đình Bình Lạng:

Đình làng Bình Lạng thờ Bản cảnh Thành hoàng. Lễ hội hàng năm diễn

ra ngày 10 tháng 7 âm lịch. Nghi thức chính: dâng hương, tế lễ. Các trò chơi có

cờ người. Hàng năm trước khi lễ hội làng tổ chức họp phân công cụ thể công

việc cho các giáp, các trai đinh (trai đinh phải là người thanh cát, nhanh nhẹn,

tắm gội sạch sẽ) các giáp phải chuẩn bị xôi lợn, rượu, hoa quả làm lễ tế thần.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng

Lễ hội diễn ra là dịp người dân tưởng nhớ công ơn lập làng của các vị

Thành hoàng làng, cầu mong các vị Thành hoàng phù hộ độ trì cho bản thân,

gia đình một năm sức khỏe, tài lộc, làm ăn tấn tới. Hội cũng là dịp người dân

được gặp gỡ, hội tụ nhau sau những ngày tháng mải làm ăn, buôn bán, từ đó

cố kết thêm tình làng nghĩa xóm.

Các biện pháp bảo vệ và phát huy đã và đang triển khai và đề xuất của

chủ thể để bảo vệ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể

UBND xã Thụy Xuân luôn chỉ đạo sát sao công tác chuẩn bị lễ hội,

tuyên truyền để loại bỏ các loại hình mê tín, dị đoan, cờ bạc khi lễ hội diễn ra.

Nguồn kinh phí tổ chức lễ hội chủ yếu là nhân dân trong thôn, xã công

đức cùng với con em xa quê, khách thập phương tiến cúng.

- Hội đền Phấn Vũ

(Thôn Minh Vũ, xã Thụy Xuân, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Nguyễn Xuân Sang, Trưởng Ban khánh tiết làng Phấn Vũ

Sinh năm: 82 tuổi Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Về hưu

Địa chỉ liên lạc: Thôn Minh Vũ, xã Thụy Xuân, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

85

Page 89: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

(2) Họ và tên: Nguyễn Thị Tuyết

Sinh năm: 78 tuổi Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Phó ban quản lý

Địa chỉ liên lạc: Thôn Xuân Bàng, xã Thụy Xuân.

(3) Họ và tên: Lâm Thị Kỳ (Trưởng Hội Phật giáo chùa Phấn Vũ)

Sinh năm:85 tuổi Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Vũ Đông, xã Thụy Xuân.

Nhận diện hội đền Phấn Vũ:

Đền thờ Đại Càn Quốc gia Nam Hải thánh mẫu được coi là vị thần cai

quản 12 cửa biển Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Tương truyền đền được lập nên

vào thế kỷ thứ XV đến năm 1729 bị cơn bão lớn, nước biển dâng cao cuốn

trôi đi, sau đó nhân dân xây dựng lại. Hiện đền có 7 sắc phong. Từ 3 đến 5

năm dân làng mở hội lớn một lần với những nghi thức rước lễ truyền thống.

Lễ hội hàng năm diễn ra vào ngày 12 tháng 7 với những nghi thức

chính là lễ rước thánh quanh làng, dâng hương, tế nữ quan, hát văn hầu đồng.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng

Hội đền Phấn Vũ được mở ra là dịp để cho người dân thôn Minh Vũ

được nghỉ ngơi sau những ngày tháng lao động mệt nhọc, tham gia các hoạt

động tế lễ, thỏa mãn nhu cầu tâm linh và tinh thần cố kết cộng đồng.

Các biện pháp bảo vệ và phát huy đã và đang triển khai và đề xuất của

chủ thể để bảo vệ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể

Chi bộ Đảng và Chính quyền xã Thụy Xuân, thôn Minh Vũ luôn quan

tâm, chỉ đạo, phân công các ban, ngành đoàn thể của xã Thụy Xuân tham gia

chuẩn bị nguồn nhân lực, có kế hoạch chi tiết để tổ chức lễ hội hàng năm.

Cộng đồng được sự hỗ trợ của chính quyền và các ban ngành tham gia

nhiệt tình thực hành các hoạt động hội.

- Hội đình Vạn Xuân

86

Page 90: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

(Thôn Bình Xuân, xã Thụy Xuân, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Hoàng Minh Họa

Sinh năm:1932 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Trưởng ban quản lý di tích

Địa chỉ liên lạc: Thôn Bình Xuân, xã Thụy Xuân, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

(2) Họ và tên: Nguyễn Văn Hiến

Sinh năm: Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Công chức văn hóa

Địa chỉ liên lạc: Xã Thụy Xuân, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình

Nhận diện hội đình Vạn Xuân:

Đình làng Vạn Xuân thờ Nam Hải đại vương. Lễ hội hàng năm diễn ra

vào ngày mồng 15 tháng 7. Nghi thức chính: dâng hương, tế nam quan, hát

văn hầu đồng. Các trò chơi có cờ tướng.Lễ hội hàng năm diễn ra vào ngày 12

tháng 7 với những nghi thức chính là lễ rước thánh quanh làng, dâng hương,

tế nữ quan, hát văn hầu đồng.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng

Hội đình Vạn Xuân được nhân dân thôn Bình Xuân đứng ra tổ chức,

sáng tạo, tái hiện các sinh hoạt văn hóa cộng đồng và hưởng thụ các giá trị

văn hóa tâm linh. Khi tất cả mọi người chìm vào không khí thiêng liêng, hứng

khởi của ngày hội thì khoảng cách giữa con người dường như không còn, mọi

người cùng nhau sáng tạo và hưởng thụ văn hóa.

Các biện pháp bảo vệ và phát huy đã và đang triển khai và đề xuất của

chủ thể để bảo vệ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể

Trong công tác tổ chức lễ hội hàng năm đã có sự phối hợp chặt chẽ và

sự vào cuộc của UBND xã Thụy Xuân, các cấp, các ngành tại địa phương

trong trong công tác quản lý và tổ chức lễ hội.

Công tác thanh tra, kiểm tra được tiến hành thường xuyên, liên tục và

87

Page 91: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

xử lý kịp thời và nghiêm minh những hành vi vi phạm trong hoạt động lễ hội

theo quy định của pháp luật.

Với sự chỉ đạo và hỗ trợ của các ban ngành, cộng đồng đã được tạo mọi

điều kiện để tham gia và các hoạt động hội, đáp ứng một phần nhu cầu tâm

linh của họ.

- Hội đền Mẫu Vạn Xuân

(Thôn Vạn Xuân, xã Thụy Xuân, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Hoàng Minh Họa

Sinh năm:1932 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Trưởng ban quản lý di tích

Địa chỉ liên lạc: Thôn Bình Xuân, xã Thụy Xuân, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

(2) Họ và tên: Lê Thị Hoa

Sinh năm: 1950 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Thủ từ

Địa chỉ liên lạc: Thôn Vạn Xuân, xã Thụy Xuân, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

Nhận diện hội đền Mẫu Vạn Xuân:

Đền thờ Đại Càn quốc gia Nam Hải tứ vị Hồng nương. Lễ hội hàng

năm diễn ra vào ngày mồng 15 tháng 7. Nghi thức chính: rước kiệu, dâng

hương, tế nam quan, tế nữ quan, hát văn hầu đồng. Các trò chơi có cờ tướng,

tổ tôm điếm. Hội đền Mẫu có từ xưa được khôi phục từ năm 1959, năm 1990

lễ hội được tổ chức như ngày hôm nay. Lễ hội đền mẫu Vạn Xuân ba năm tổ

chức hội lớn một lần, hàng năm chỉ tổ chức hội lệ. Xưa lễ rước thánh dân làng

phải bắc cầu bằng dải lụa trắng từ biển vào hai bên cắm cờ thần, khi rước có

các thiếu nữ đứng 2 bên và rước dọc làng. Ngày nay đoàn rước xuất phát từ

đền Mẫu ra đến bờ biển đến đình và quay trở về đến mẫu. Lễ hội đền Mẫu

được Đảng ủy, UBND xã, các đoàn thể, tập thể, cá nhân con em xa quê hương

88

Page 92: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

đóng góp công đức để tổ chức.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Lễ hội là sinh hoạt văn hóa gắn liền với đời sống nhân dân trong làng,

thể hiện tinh thần đoàn kết gắn bó cộng đồng dân cư. Người dân đứng ra tổ

chức lễ hội chính là lúc người dân đã tham gia cả vào quá trình bảo tồn và

phát huy các giá trị văn hóa của làng quê thông qua lễ hội, từ đó cố kết thêm

tình làng nghĩa xóm, đoàn kết nhau cùng xây dựng đời sống văn hóa ở khu

dân cư.

Các biện pháp bảo vệ và phát huy đã và đang triển khai và đề xuất của

chủ thể để bảo vệ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể:

Công tác tổ chức lễ hội đền Mẫu Vạn Xuân ngày một đi vào nề nếp.

UBND xã và Ban công tác Mặt trận thôn đã chú trọng đến công tác tuyên

truyền các giá trị lịch sử văn hóa và tôn vinh công trạng của Thánh Mẫu.

Cộng đồng đã tích cực tham gia và phát huy giá trị của di sản trong đời

sống tinh thần và là một phần trong văn hóa của họ.

- Hội đình Bẩy

(Thôn Vũ Đông, xã Thụy Xuân, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Trịnh Quang Dũng.

Sinh năm:1965 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Vũ Đông, xã Thụy Xuân.

(2) Họ và tên: Phạm Ngọc Cẩn

Sinh năm: 1932 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Phó BKT đình Bẩy

Địa chỉ liên lạc: Thôn Vũ Đông, xã Thụy Xuân.

Nhận diện hội đình Bẩy:

Đình Bẩy thờ Nam Hải đại vương và Thục An Dương Vương. Lễ hội

hàng năm diễn ra vào ngày mồng 10 tháng 7. Nghi thức chính trong ngày lễ

89

Page 93: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

hội là lễ rước thánh quanh làng, tế nam quan, nữ quan, hát văn hầu đồng của

những thanh đồng là con em trong xã và du khách thập phương.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Trong không khí tưng bừng của ngày hội làng, sự đoàn kết gắn bó giữa

các xóm trong thôn Vũ Đông được nâng lên, họ đến với lễ hội và hòa mình

vào niềm vui chung của thôn làng khiến cho tình yêu quê hương thêm mặn

nồng tha thiết, truyền thống văn hóa làng xã, các giá trị nhân văn được khơi

dậy trong tâm linh của mỗi người về dự hội.

Các biện pháp bảo vệ và phát huy đã và đang triển khai và đề xuất của

chủ thể để bảo vệ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể

Hàng năm UBND xã Thụy Xuân cùng với Ban QLDT lên kịch bản tổ

chức lễ hội đình Bấy đúng với phong tục tập quán và truyền thống của thôn

Vũ Đông.

Các Chương trình phục vụ lễ hội với sự tham gia của đại diện cộng

đồng đã được tính toán, cân nhắc kỹ lưỡng, có kế hoạch chi tiết, cụ thể phân

công cho từng tiểu ban tham gia phục vụ trong lễ hội.

BTC lễ hội, tổ chức các nghi lễ trang trọng, lành mạnh, giữ gìn bản sắc

văn hóa của địa phương, tổ chức các trò chơi dân gian truyền thống và tăng

cường các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao quần chúng với sự tham gia

tích cực của cộng đồng

21. XÃ THỤY QUỲNH

- Hội làng Bái Kiện

(Thôn Bái Kiện, xã Thụy Quỳnh, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Phạm văn Thợi

Sinh năm: 1945 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Cán bộ nghỉ Hưu

Địa chỉ liên lạc: Thôn Tứ Cường, xã Thụy Quỳnh, Thái Thụy, Thái Bình

90

Page 94: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

(2) Họ và tên: Phạm Văn Chang

Sinh năm: 1983 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Tứ Cường, xã Thụy Quỳnh, Thái Thụy, Thái Bình

(3) Họ và tên: Nguyễn thị Thúy

Sinh năm: 1970 Dân tộc: Kinh.

Nghề nghiệp: Cán bộ

Địa chỉ liên lạc: Thôn Tứ Cường, xã Thụy Quỳnh, Thái Thụy, Thái Bình

Nhận diện hội làng Bái Kiện:

Miếu Quốc Long thờ Linh Lôi đại vương, nghè thôn Bái Kiện thờ Nàng

Bạch Hoa những người có công lớn giúp vua Hùng dựng nước đánh giặc

ngoại xâm và khai lập ra trang An Bái xưa. Miếu Quốc Long còn là một địa

điểm trong hành cung Lưu Đồn thời nhà Trần đánh giặc nguyên Mông ở thế

kỷ 13, theo “phả ký Lưu Đồn”.

Đã thành niên lịch lễ hội làng Bái Kiện (khu di tích miếu Quốc Long,

nghè Bái Kiện) chính thức được tổ chức từ ngày mồng 7 đến ngày 9 tháng 08

âm lịch.

Vào cuối tháng 8 âm lịch hàng năm BTC lễ hội có trách nhiệm xây

dựng kế hoạch, họp bàn với nhân dân, trong thôn chuẩn bị cho công tác tổ

chức lễ hội và gửi kế hoạch báo cáo lên UBND xã. Ban tổ chức lễ hội gồm 28

thành viên, được phân công phân nhiệm với những công việc thích hợp cho

từng người và phụ trách điều hành lễ rước thuộc quần thể di tích.

Ban tổ chức lễ hội được chia thành các tiểu ban nhỏ, hoạt động theo

chức năng, nhiệm vụ cụ thể:

1. Điều hành - Gồm 02 người là Trưởng, phó ban chịu trách nhiệm

chung và tổ chức thực hiện.

2. Tiểu ban trang trí tiếp khách gồm 09 thành viên chịu trách nhiệm

treo băng, cờ thần, cờ phướn và trang trí cổng chào, chuẩn bị bàn ghế, tài liệu

và đi mời các đội thể thao, tiếp khách.

3. Tiểu ban nội dung gồm 08 thành viên chịu trách nhiệm chuẩn bị

91

Page 95: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

chương trình, nội dung để khai mạc Lễ hội, tổ chức, điều hành các giải thể thao...

4.Tiểu ban An ninh gồm 03 thành viên làm nhiệm vụ đảm bảo tốt công

tác An ninh trật tự trong suốt thời gian diễn ra tổ chức lễ hội.

5.Tiểu ban Tài chính gồm 03 thành viên chủ động thực hiện nhiệm vụ

toàn bộ công tác tài chính.

6.Tiểu ban Y tế- Môi trường gồm 03 thành viên thực hiện nhiệm vụ

đảm bảo thuốc, trang thiết bị phục vụ tốt công tác y tế, môi trường tại lễ hội.

7.Tiểu ban Khánh tiết thực hiện công tác lễ nghi của lễ hội do các cụ

cao tuổi đảm nhận.

Trong bất kỳ một lễ hội nào thì khâu chuẩn bị về thời gian và địa điểm,

cơ sở vật chất, nghi vật, nhân sự lễ hội và hoạt động sinh hoạt là rất quan

trọng và cẩn thận, chu đáo.

+ Địa điểm không gian tổ chức lễ hội: Đó là toàn bộ khuôn viên quần

thể di tích lịch sử văn hoá Miếu Quốc Long. Cơ sở vật chất, nghi vật bao

gồm kiến trúc của thiết chế Miếu, tượng Thánh và những nghi vật dành cho

Thánh. Các lễ vật dâng Thánh chủ yếu là sản vật của địa phương - sản

phẩm nông nghiệp được lựa chọn kỹ càng sao cho ngon nhất, đẹp nhất và

tươi nhất. Chính quan niệm các lễ vật ngoài vai trò là giao tiếp với Thánh

còn là phương tiện để ban phát khí thiêng chứa nhiều may mắn của Thánh

ban cho cộng đồng thông qua việc chia sẻ ăn uống của cộng đồng trong

không gian thiêng. Người ta đón nhận một cách hồ hởi, nồng nhiệt với thái

độ trân trọng “Một miếng lộc Thánh bằng một gánh lộc trần” hưởng lộc

cầu may “Ăn mày lộc Thánh”.

Nhân sự lễ hội là sự sắp xếp các cá nhân trực tiếp tham gia vào lễ hội,

những người có thứ hạng vai vế trong làng. Định mức cho nấc thang giá trị

cao nhất về xã hội và đạo đức. Đặc biệt với người chủ tế- người trực tiếp giao

tiếp với thánh và thay mặt đại diện cho tất cả mọi người cầu xin với thánh.Với

những người được tuyển lựa cho nhân sự lễ hội có sự kiêng cữ rất nghiêm

ngặt. Trước hết là việc tịnh thân với những người đã có gia đình. Trước khi lễ

92

Page 96: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

hội tổ chức phải ăn chay, uống nước và sinh hoạt trong đền không được gần

vợ con. Trước khi làm lễ một ngày phải tắm bằng nước ngũ vị để “tẩy uế” và

làm cho thân thể thơm tho. Về phần tượng Thánh và đền được trang hoàng và

thu xếp sạch sẽ. Tượng Thánh thường được bao sái sạch bằng nước ngũ vị và

trùm khăn đỏ khoảng một tuần trước ngày lễ. Trước khi lễ chính bắt đầu có lễ

Kỳ An do các sư ở các chùa, thủ nhang đồng đền và các cụ trong làng chủ trì.

Sau lễ Kỳ An mới được phép tháo khăn trùm ra khỏi tượng. Khăn này được

cắt ra từng mảnh nhỏ để cho mỗi người dân một ít làm bùa hộ mệnh. Với

những người ốm yếu, trẻ con miếng vải này rất có tác dụng (Điều này được

chứng minh từ kinh nghiệm của cha ông truyền lại). Trước đây phần lễ

thường được tổ chức vào lúc 5 giờ sáng do quan niệm nhất âm, nhất dương

nhưng sau đã thay đổi cho phù hợp, thường là vào thời điểm 6 giờ 30 sáng

ngày 07 tháng 8 âm lịch.

Lễ rước khai hội diễn ra vào ngày mồng 7 tháng 8 âm lịch, dân làng tổ

chức 06 đoàn rước từ Đình của làng và đi vòng quanh làng sau đó trở về Miếu

nơi phụng thờ Đức Thánh Lôi Công Đại Vương. Mỗi đoàn rước gồm 03 kiệu

“ Kiệu hoa ảnh Bác, kiệu Bát nhang, kiệu Bài vị, mỗi đoàn rước chuẩn bị cờ

Tổ quốc, cờ Thần, trống rước, Kỳ lân Sư tử và các đồ thờ khác có liên quan”.

Khi các đoàn rước về đến Miếu Quốc Long vào lúc 8 giờ 30 phút, ban tổ chức

điều hành sắp xếp các Kiệu rước, Bài vị, Bát nhang tại khu tập kết theo thứ tự

các bậc quan trong triều đình để chuẩn bị khai mạc lễ hội.

Do đặc thù và quy mô tổ chức của lễ hội làng Bái Kiện nên địa phương

tổ chức theo nghi thức địa phương.Vì vậy trong lễ khai mạc được diễn ra một

cách trình tự và nghiêm trang như sau:

- Ổn định tổ chức, tuyên bố lý do giới thiệu đại biểu.

- Lễ dâng hương (Mời đại diện lãnh đạo các cấp, chính quyền địa

phương, các cụ cao niên bản hạt lần lượt lên dâng hương).

- Lễ rước Bài vị vào các cung.

- Diễn văn khai mạc lễ hội, khai Chiêng Trống.

93

Page 97: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

- Các đoàn đại biểu tặng hoa chúc mừng

- Chương trình văn nghệ dân gian chào mừng lễ hội.

Kết thúc phần văn nghệ cũng là lúc bế mạc lễ khai mạc Lễ Hội và bắt

đầu chuyển sang phần Hội trong lễ hội truyền thống của địa phương.

+ Phần lễ:

- Niệm hương là màn lễ mở đầu. Chủ tế ăn mặc chỉnh tề (áo dài, khăn

xếp, đốt 3 cây hương to trịnh trọng tuyên bố khai mạc lễ hội và khai hương.

Sau đó quỳ 5 vái, chủ tế quỳ vái cũng là lúc nhân sự quỳ vái theo cùng nhân

dân. Sau tuần niệm hương kéo dài khoảng 15 đến 20 phút là tuần tế lễ Nam

quan. Đây là một màn tế rất đặc sắc. Sau phần tế Nam quan là phần tế Nữ

quan. Cũng với tuần tự trên nhưng mềm mại hơn. Tất cả những lễ thức này,

nhằm cầu cho “Mưa thuận, gió hoà, nhà nhà no ấm, nhân khang vật thịnh, cấy

cối tốt tươi, mùa màng bội thu, mua may bán đắt, người người khoẻ mạnh,

của cải dồi dào…”. Thông thường nghi thức tế lễ này kéo dài khoảng 3 tiếng

đồng hồ liền và kết thúc bằng bài văn nói với lời cảm ơn sâu sắc.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Ngày hội làng Bái Kiện là dịp dân làng ôn lại truyền thống xưa và thực

hành những nét đẹp trong phong tục tập quán cộng đồng. Hội làng Bái Kiện là

một trong những lễ hội dân gian cổ truyền đặc trưng của văn hoá Thái Bình.

Đó là lễ hội truyền thống lịch sử văn hoá mang yếu tố tâm linh mang đậm bản

sắc văn hoá của làng Bái Kiện xã Thụy Quỳnh nói riêng, đã góp phần bảo tồn,

củng cố, phát triển văn hoá cộng đồng và tôn vinh "Nền văn hoá Việt nam

tiến tiến đậm đà bản sắc dân tộc" như Nghị quyết Trung ương V (khoá 8) đã

đề ra. Đây là một giá trị tinh thần to lớn trong đời sống cộng đồng dân cư, là

nơi gửi gắm niềm tin cầu nguyện những giá trị văn hóa tâm linh, tín ngưỡng

thờ cúng của ông cha ta, của dân tộc ta để lại cho muôn đời sau

Các biện pháp bảo vệ và phát huy đã và đang triển khai và đề xuất của

chủ thể để bảo vệ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể:

Miếu Quốc Long được công nhận di tích lịch sử văn hoá cấp Tỉnh năm

94

Page 98: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

2005. Đây là một công trình kiến trúc cổ được thiết kế theo kiểu“ Tiền nhị-

Hậu đinh” là tài sản vô giá của nhân dân làng Tứ Cường nói riêng, cả nước

nói chung.

Để bảo tồn tài sản vô giá này, đồng thời tạo điều kiện cho các du khách

và nhân dân trong vùng về tham gia dự lễ hội được chu đáo. Ngay từ đầu năm

dương lịch, Đảng uỷ, UBND xã họp bàn triển khai kế hoạch lễ hội nhằm đưa

ra các biện pháp hữu hiệu nâng cao hiệu quả trông công tác quản lý di tích.

Để công tác quản lý hoạt động đồng bộ, UBND xã ra quyết định thành lập các

ban như: Ban quản lý, ban khánh tiết, ban giám sát và giao nhiệm vụ cho từng

ban thường xuyên hoạt động tại di tích. Ban quản lí di tích gồm 14 thành viên,

thường trực ban quản lý được UBND xã chỉ định ngay từ đầu nhiệm kỳ theo

cơ cấu cứng: Đồng chí phó chủ tịch UBND xã làm trưởng ban, đồng chí cán

bộ văn hoá xã làm phó ban, và các ủy viên do nhân dân trong thôn bầu ra.

Ban quản lý có nhiệm vụ quản lý toàn bộ cơ sở vật chất, đồ thờ tự và trực tiếp

điều hành các hoạt động tại di tích đồng thời chịu trách nhiệm về các hoạt

động liên quan diễn ra trong lễ hội.

Để quản lý tốt phần lễ nghi, theo dõi giám sát các nghi thức tế lễ của

quý khách và nhân dân về tham dự lễ hội. Ban khánh tiết được thành lập với 8

thành viên do thường trực người cao tuổi cử ra 01 cụ phụ trách, số còn lại do

các cụ trong thôn, làng cử ra.

Việc tổ chức các lễ nghi được các cụ quản lý và theo dõi, nếu khách

về dự hội mà có biểu hiện mê tín hoặc sai với nghi thức là các cụ nhắc nhở

kịp thời. Mặt khác các cụ là người giúp địa phương tuyên truyền cho quý

khách thập phương nắm được sơ lược về thần tích di tích lịch sử văn hoá

Miếu Quốc Long, đồng thời giúp nhà đền hướng dẫn cho khách tham quan

tế lễ khi có yêu cầu.

Đồng hành để làm công tác quản lý lễ hội là lực lượng làm công tác

an ninh trật tự, bộ phận này thường xuyên có mặt suốt trong thời gian diễn

ra lễ hội. Ngoài việc làm công tác trật tự lễ hội, Ban này còn có nhiệm vụ

95

Page 99: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

kiểm tra các hoạt động dịch vụ phục vụ lễ hội như Văn hoá phẩm, an toàn

vệ sinh thực phẩm, công tác vệ sinh môi trường trong khu vực diễn ra lễ

hội. Bộ phận này gồm 03 thành viên là công an xã, khi có yêu cầu nhiệm

vụ thì chủ động phối hợp với cán bộ quản lý văn hoá và cán bộ y tế cơ sở

trong kiểm tra đôn đốc thực hiện.

- Hội đình Hoa

(Thôn Hoa Quận, xã Thụy Quỳnh, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Phạm Mạnh Hoàng

Sinh năm: 1958 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Hoa Quận, xã Thụy Quỳnh, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

(2) Họ và tên: Phan Văn Rưỡng

Sinh năm: 1959 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Cán bộ

Địa chỉ liên lạc:Thôn Hoa Quận, xã Thụy Quỳnh, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

(3) Họ và tên: Lê Văn Huấn

Sinh năm: 1964 Dân tộc: kinh.

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Hoa Quận, xã Thụy Quỳnh, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

Nhận diện hội đình Hoa:

Đình làng Hoa, thôn Hoa Quận thờ A Đồng đại vương, được UBND

tỉnh Thái Bình công nhận DTLSVH cấp tỉnh năm 2008.

Lễ hội đình Hoa hàng năm diễn ra từ ngày mồng 7 đến ngày 9 tháng 08

âm lịch. Trước khi vào tổ chức lễ hội BQL di tích cùng nhân dân trong làng

họp bàn xây dựng kế hoạch báo cáo xin phép UBND xã. Sau đó thành lập ban

96

Page 100: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

tổ chức lễ hội gồm các tiểu ban phụ trách các công việc phục vụ lễ hội. Số

lượng người trong ban tổ chức từ 20 đến 25 người

Ngày mồng 7 tháng 8 đình Hoa khai hội. BTC khai mạc lễ hội, tuyên

bố lý do giới thiệu đại biểu, các đại biểu tặng hoa và dâng hương, sau khai

mạc là tế Nam Quan và tế Nữ Quan, rồi nhân dân và quý khách thập phương

vào dâng hương, dâng lễ. Các sản phẩm cúng, lễ chủ yếu là sản phẩm từ nhân

dân làm ra. Phần hội là các trò chơi dân gian như chọi gà, cờ tướng, kéo co,

văn nghệ, trò bắt vịt dưới hồ nước.

Các biện pháp bảo vệ và phát huy đã và đang triển khai và đề xuất của

chủ thể để bảo vệ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể:

Do cơ chế thị trường, hiện tại số lượng người có nhu cầu học tập để

bảo tồn các giá trị văn hóa phi vật thể rất ít và có xu hướng giảm theo từng

năm. Hình thức tổ chức lễ hội cũng có xu thế thu hẹp hơn trước kia, đơn

giản hơn. Tham gia hành hội là nhân dân trong làng, Hội cựu chiến binh,

Hội phụ nữ, Hội nông dân, Hội người cao tuổi, Đoàn Thanh niên, Ban công

tác mặt trận thôn.

Để bảo tồn tài sản vô giá này, đồng thời tạo điều kiện cho các du khách

và nhân dân trong vùng về tham gia dự lễ hội được chu đáo. Ngay từ đầu năm

dương lịch, Đảng uỷ, Uỷ ban nhân dân xã Thụy Quỳnh họp bàn triển khai kế

hoạch lễ hội nhằm đưa ra các biện pháp hữu hiệu nâng cao hiệu quả trông

công tác quản lý di tích.

- Hội đình Đoài

(Thôn Đông Đoài, xã Thụy Quỳnh, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Vũ Hoàng Côn

Sinh Năm: 1948 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Đông Đoài, xã Thụy Quỳnh, Thái Thụy, Thái Bình

(2) Họ và tên: Nguyễn Văn Nội

97

Page 101: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Sinh năm: 1943 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Cán bộ nghỉ hưu

Địa chỉ liên lạc: Thôn Đông Đoài, xã Thụy Quỳnh, Thái Thụy, Thái Bình

(3) Họ và tên Lâm Văn Khi

Sinh năm: 1938 Dân tộc: kinh.

Nghề nghiệp:: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc Thôn Đông Đoài, xã Thụy Quỳnh, Thái Thụy, Thái

Bình 5.

Nhận diện hội đình Đoài:

Đình thôn Đông Đoài thờ Đinh Trí đại vương làm Thành hoàng làng.

Đình Đông Đoài đã được UBND tỉnh Thái Bình công nhận DTLSVH cấp tỉnh

ngày 09/10/2003.

Hàng năm nhân dân thôn Đông Đoài đều duy trì tổ lễ hội diễn ra từ

ngày mồng 7 đến ngày 9 tháng 08 âm lịch. Trước khi vào tổ chức lễ hội BQL

di tích lịch sử văn hóa cùng nhân dân trong làng họp bàn xây dựng kế hoạch

báo cáo xin phép UBND xã thành lập Ban tổ chức lễ hội gồm các tiểu ban

phụ trách các công việc phục vụ lễ hội. Số lượng người trong ban tổ chức từ

20 đến 25 người. Phần lễ bao gồm: Chương trình khai mạc lễ hội, tuyên bố lý

do giới thiệu đại biểu, các đại biểu tặng hoa và dâng hương, sau khai mạc là lễ

tế Nam Quan và lễ tế Nữ Quan, rồi nhân dân và quý khách thập phương vào

dâng hương, dâng lễ. Lễ vật dâng lên Thành hoàng làng là những sản vật do

nhân dân trong làng làm ra. Trong ngày lễ hội nhân dân thôn Đông Đoài được

tham gia vào các trò chơi dân gian như: Chọi gà, cờ tướng, kéo co, văn nghệ,

trò bắt vịt dưới hồ nước.

Các biện pháp bảo vệ và phát huy đã và đang triển khai và đề xuất của

chủ thể để bảo vệ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể:

Để bảo tồn và phát huy lễ hội truyền thống làng Đông Đoài, tạo

điều kiện cho các du khách cùng nhân dân trong vùng về tham gia dự lễ

hội được chu đáo. Ngay từ đầu năm dương lịch, Đảng uỷ, Uỷ ban nhân

98

Page 102: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

dân xã họp bàn triển khai kế hoạch lễ hội nhằm đưa ra các biện pháp hữu

hiệu nâng cao hiệu quả trông công tác quản lý di tích. Để công tác quản lý

hoạt động đồng bộ, UBND xã ra quyết định thành lập các ban như: Ban

quản lý, Ban khánh tiết, Ban giám sát và giao nhiệm vụ cho từng ban

thường xuyên hoạt động tại di tích. Ban quản lí di tích gồm 11 thành viên,

thường trực ban quản lý được UBND xã chỉ định ngay từ đầu nhiệm kỳ

theo cơ cấu cứng: Đồng chí phó chủ tịch UBND xã làm trưởng ban, và

các ủy viên do nhân dân trong thôn bầu ra. Ban quản lý có nhiệm vụ quản

lý toàn bộ cơ sở vật chất, đồ thờ tự và trực tiếp điều hành các hoạt động

tại di tích đồng thời chịu trách nhiệm về các hoạt động liên quan diễn ra

trong lễ hội. Để quản lý tốt phần lễ nghi, theo dõi giám sát các nghi thức

tế lễ của quý khách và nhân dân về tham dự lễ hội. Ban khánh tiết được

thành lập với 7 thành viên do thường trực người cao tuổi cử ra 01 cụ phụ

trách, số còn lại do các cụ trong thôn, làng cử ra.

Hội từ Kha Lý

(Thôn Kha Lý, xã Thụy Quỳnh, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Lê Văn Luân

Sinh năm: 1958 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Kha Lý, xã Thụy Quỳnh, Thái Thụy, Thái Bình

(2) Họ và tên: Nguyễn Văn Tuấn

Sinh năm: 1979 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc:Thôn Kha Lý, xã Thụy Quỳnh, Thái Thụy, Thái Bình

(3) Họ và tên: Lê Văn Khương

Sinh năm: 1970 Dân tộc: kinh.

Nghề nghiệp:: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Kha Lý, xã Thụy Quỳnh, Thái Thụy, Thái Bình

99

Page 103: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Nhận diện hội từ Kha Lý:

Từ thôn Kha Lý, xã Thụy Quỳnh, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình thờ

đức Đông Hải đại vương và Đoàn Thượng làm Thành hoàng làng. Từ Kha Lý

đã được UBND tỉnh Thái Bình công nhận DTLSVH cấp tỉnh ngày 10/10/2008.

Lễ hội từ thôn Kha Lý hàng năm diễn ra từ ngày 11 đến ngày 13 tháng

08 âm lịch. Trước khi vào tổ chức lễ hội Ban QLDTLSVH cùng nhân dân

trong làng họp bàn xây dựng kế hoạch báo cáo xin phép UBND xã, thành lập

ban tổ chức lễ hội gồm các tiểu ban phụ trách các công việc phục vụ lễ hội

với số lượng người trong ban tổ chức từ 25 đến 30 người.

Sáng ngày 13 tháng 8 nhân dân thôn Kha Lý tề tựu đông đủ trước ngôi

từ của làng để tổ chức chương trình khai mạc lễ hội. Đại diện BTC tuyên bố

lý do giới thiệu đại biểu, các đại biểu tặng hoa và dâng hương tưởng nhớ đến

công lao của các vị thành hoàng làng. Lễ tế thành hoàng làng do đoàn tế nam

quan và đoàn tế nữ quan thực hiện. Lễ vật dâng lên các vị thành hoàng làng là

những sản vật do chính người dân tự làm ra. Trong những ngày diễn ra lễ hội

nhân dân thôn Kha Lý cùng nhau nghỉ ngơi tham gia vào các trò chơi dân

gian như chọi gà, cờ tướng, kéo co, buổi tối là hoạt động giao lưu văn nghệ

của người dân trong làng.

Các biện pháp bảo vệ và phát huy đã và đang triển khai và đề xuất của

chủ thể để bảo vệ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể:

Để bảo tồn tài sản vô giá này, đồng thời tạo điều kiện cho các du

khách và nhân dân trong vùng về tham gia dự lễ hội được chu đáo. Ngay

từ đầu năm dương lịch, Đảng uỷ, UBND xã họp bàn triển khai kế hoạch lễ

hội nhằm đưa ra các biện pháp hữu hiệu nâng cao hiệu quả trong công tác

quản lý di tích và phát huy được giá trị DSVHPVT của địa phương.

- Hội đình Quỳnh Lý

(Thôn Quỳnh Lý, xã Thụy Quỳnh, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Vũ Văn Vân

100

Page 104: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Sinh năm: 1947 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Cán bộ nghỉ hưu

Địa chỉ liên lạc: Thôn Quỳnh, xã Thụy Quỳnh, Thái Thụy, Thái Bình

(2) Họ và tên: Vũ Văn Nấng

Sinh năm: 1932 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Cán bộ nghỉ hưu

Địa chỉ liên lạc:Thôn Quỳnh Lý, xã Thụy Quỳnh, Thái Thụy, Thái Bình

(3) Họ và tên Vũ Trọng Rạng

Sinh năm: 1952 Dân tộc: kinh.

Nghề nghiệp:: Cán bộ nghỉ hưu

Địa chỉ liên lạc: Thôn Quỳnh Lý, xã Thụy Quỳnh, Thái Thụy, Thái Bình

Nhận diện hội đình Quỳnh Lý:

Đình thôn Quỳnh Lý thờ Nam Hải đại vương và phối thờ Cao Sơn đại

vương, Bến Quốc phu nhân đã được UBND tỉnh Thái Bình công nhận

DTLSVH cấp tỉnh ngày 12/10/2011.

Hàng năm nhân dân thôn Quỳnh Lý tổ chức lễ hội tưởng nhớ các vị

thành hoàng làng diễn ra từ ngày 13 đến ngày 15 tháng 08 âm lịch với nghi lễ

chính là lễ dâng hương của bà con nhân nhân và các nghi thức tế lễ của đội tế

nam quan, nữ quan làng Quỳnh Lý.

Trước khi vào tổ chức lễ hội Ban QLDTLSVH cùng nhân dân trong

làng họp bàn xây dựng kế hoạch báo cáo xin phép UBND xã.

Để duy trì tổ chức lễ hội hàng năm UBND xã Thụy Quỳnh chỉ đạo thôn

Quỳnh Lý thành lập BTC lễ hội gồm từ 15 đến 20 người chia thành các tiểu

ban phụ trách các công việc phục vụ trong lễ hội.

Lễ hội đình Quỳnh Lý gồm 2 phần. Phần đầu là lễ khai mạc, tuyên bố

lý do giới thiệu đại biểu, các đại biểu tặng hoa cho BTC và dâng hương tưởng

nhớ các vị thành hoàng làng. Phần thứ hai là lễ tế thành hoàng của đoàn tế

nam uan và tế nữ quan. Trong những ngày diễn ra lễ hội các dòng họ trong

làng cùng nhân dân và quý khách thập phương vào dâng hương, dâng lễ lên

101

Page 105: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

thành hoàng làng để cầu cho một năm mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu.

Trong những ngày hội làng không thể thiếu các trò chơi dân gian là chọi gà,

cờ tướng và kéo co giúp cho người dân thôn Quỳnh Lý cui chơi giải trí sau

những ngày lao động vất vả.

Các biện pháp bảo vệ và phát huy đã và đang triển khai và đề xuất của

chủ thể để bảo vệ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể:

Để công tác quản lý và tổ chức lễ hội hoạt động đồng bộ, UBND xã ra

quyết định thành lập các ban như: Ban quản lý, Ban khánh tiết, Ban giám sát

và giao nhiệm vụ cho từng ban thường xuyên hoạt động tại di tích. Ban quản

lý có nhiệm vụ quản lý toàn bộ cơ sở vật chất, đồ thờ tự và trực tiếp điều hành

các hoạt động tại di tích đồng thời chịu trách nhiệm về các hoạt động liên

quan diễn ra trong lễ hội.

- Hội đình Thọ Cách

(Thôn Thọ Cách, xã Thụy Quỳnh, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Lê văn Hừng

Sinh năm: 1958 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Cán bộ nghỉ hưu

Địa chỉ liên lạc: Thôn Thọ Cách, xã Thụy Quỳnh, Thái Thụy, Thái Bình

(2) Họ và tên: Nguyễn Đức Bảng

Sinh năm: 1950 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc:Thôn Cách, xã Thụy Quỳnh, Thái Thụy, Thái Bình

(3) Họ và tên: Lê Hồng Vích

Sinh năm: 1943 Dân tộc: kinh.

Nghề nghiệp:: Cán bộ nghỉ hưu

Địa chỉ liên lạc: Thôn Thọ cách, xã Thụy Quỳnh, Thái Thụy, Thái Bình

Nhận diện hội đình Thọ Cách:

Đình thôn Thọ Cách thờ Thượng đẳng thần Hùng Tài Kiên đã được

102

Page 106: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

UBND tỉnh Thái Bình công nhận DTLSVH cấp tỉnh ngày 02/4/1997.

Lễ hội hàng năm diễn ra từ ngày 10 đến ngày 13 tháng 08 âm lịch.

Trước khi vào tổ chức lễ hội Ban CTMT thôn cùng BQL di tích đình và nhân

dân thôn Thọ Cách họp bàn xây dựng kế hoạch báo cáo xin phép UBND xã

để tổ chức lễ hội truyền thống của làng. UBND xã thống nhất, giao Ban văn

hóa xã phối hợp với BQL di tích, Ban CTMT thôn thành lập ban tổ chức lễ

hội từ 25 đến 35 người chi thành các tiểu ban phụ trách các công việc trước

trong và sau lễ hội.

Ngày mồng 10 tháng 8 âm lịch dân làng Thọ Cách long trọng tổ chức

khai mạc lễ hội làng, đại diện BTC tuyên bố lý do giới thiệu đại biểu. Trưởng

BTC lễ hội lên đọc diễn văn khai mạc ôn lại lịch sử, kể về công lao của thành

hoàng làng đối với người dân thôn Thọ Cách. Đại diện các đại biểu tặng hoa

BTC và nhân dân làng Thọ Cách. Lễ dâng hương và lễ tế nam quan, nữ quan

là lúc để cho nhân dân trong làng cùng nhau thành kính dâng lễ đức thành

hoàng làng những sản vật địa phương và cầu mong ngài phụ trợ cho công việc

trong một năm được nhiều may mắn.

Các biện pháp bảo vệ và phát huy đã và đang triển khai và đề xuất của

chủ thể để bảo vệ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể:

Việc tổ chức các lễ nghi được BQL di tích, BTC lễ hội theo dõi sát

sao, nếu khách về dự hội mà có biểu hiện mê tín, thực hành nghi lễ không

đúng thuần phong mỹ tục của địa phương BTC nhắc nhở kịp thời. Mặt

khác, BQL di tích, BTC lễ hội còn tích cực tuyên truyền giúp cho nhân dân

và du khách thập phương nắm được sơ lược về thần tích di tích lịch sử văn

hoá Đình Thọ Cách, đồng thời giúp nhà đền hướng dẫn cho khách tham

quan tế lễ khi có yêu cầu.

22. XÃ THỤY HẢI

- Hội làng Quang Lang

(Thôn Quang Lang, Tam Đồng, xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

103

Page 107: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Phạm Thị Phất

Sinh năm:1955 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Quang Lang, xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

(2) Họ và tên: Lê Mạnh Hiển

Sinh năm: 1962 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Quang Lang, xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

(3) Họ và tên: Nguyễn Quang Thành

Sinh năm: 1954 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Quang Lang, xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

(4) Họ và tên: Nguyễn Quang Dương

Sinh năm: 1928 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Quang Lang, xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

(5) Họ và tên: Tạ Thị Phượng

Sinh năm: 1942 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Quang Lang, xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

(6) Họ và tên: Lê Thị Nga

Sinh năm: 1950 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

104

Page 108: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Địa chỉ liên lạc: Thôn Quang Lang, xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

(7) Họ và tên: Lê Thị Minh Hoa

Sinh năm: 1960 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Quang Lang, xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

(8) Họ và tên: Nguyễn Khắc Hồi Xuân

Sinh năm: 1948 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Quang Lang, xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

(9) Họ và tên: Tạ Thị Thảo

Sinh năm: 1934 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Quang Lang, xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

(10) Họ và tên: Nguyễn Xuân Mậu

Sinh năm: 1933 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Quang Lang, xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

(11) Họ và tên: Vũ Thị Hạnh

Sinh năm: 1968 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Tam Đồng, xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(12) Họ và tên: Bùi Đình Tháp

Sinh năm: 1964 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

105

Page 109: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Địa chỉ liên lạc: Thôn Tam Đồng, xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(13) Họ và tên: Vũ Đức Tuấn

Sinh năm: 1958 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Tam Đồng, xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

Nhận diện hội làng Quang Lang:

Xã Thụy Hải ngày nay gồm ba làng là Quang Lang Đông, Quang Lang

Đoài và làng Tam Đồng xưa thuộc huyện Thụy Vân, phủ Thái Bình, trấn Sơn

Nam Hạ. Từ xưa đến nay cư dân trong xã chủ yếu là diêm dân và ngư dân

sinh sống bằng nghề làm muối và đi biển gắn liền với tục thờ bà Chúa Muối

tại đền Bà Chúa Muối, chùa Hưng Quốc và Phủ Bà Chúa Muối.

Hàng năm đến mùa hoa Đùng nở dân làng Quang Lang và Tam Đồng

lại tổ chức lễ hội Bà Chúa Muối diễn ra từ ngày 12 đến ngày 14 tháng 4 âm

lịch, dân gian trong vùng quen gọi là hội Đùng hay hội làng Quang Lang, thu

hút hàng vạn du khách thập phương và người dân trong làng tham dự.

Theo lệ cũ vào ngày 10 tháng 4 dân làng sửa lễ xin bà Chúa Muối cho

được làm ông Đùng, bà Đà. Nguyên liệu làm Đùng là loại tre ngăn sóng biển

có tên gọi trúc xa, nay bằng nứa bánh tẻ. Thân Đùng được đan mắt cáo thành

hình nón cụt, đáy dưới chừng 80 phân, đáy trên chừng 60 phân. Xưa Đùng bố,

Đùng mẹ cao chừng 4 đến 5 mét, các Đùng con kích cớ nhỏ hơn. Mặt ông

Đùng được làm bằng nia, bằng mẹt rồi dùng sơn vẽ mặt lên trên. Mặt ông

Đùng, bà Đà và các Đùng con được vẽ với dáng vẻ ngộ ngĩnh, nhân từ và bao

dung. Tai Đùng được đeo hoa đùng đó là loại hoa dại mọc hoang dân gian

thường gọi là “hoa mò gà” mà quan niệm của người dân trong làng thì loại

hoa này có thể trừ được tà ma, quỷ quái.

Trong khoảng thời gian diễn ra lễ hội các đoàn tế nam quan, nữ quan

của người dân trong làng đã về các đền phủ để làm lễ dâng hương tế bà Chúa

106

Page 110: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Muối. Lễ tế diễn ra là để cho nhân dân trong làng cùng du khách thập phương

kính lễ, tưởng nhớ tới công đức của bà Chúa Muối trong giờ phút linh thiêng

của ngày hội. Lễ vật dâng lên ban thờ bà Chúa Muối không thể thiếu chè đỗ

đen, ngô luộc, khoai lang, dưa hấu và các sản vật của địa phương để tri ân

công đức của Bà. Những lễ vật truyền đời trong lễ hội bà Chúa Muối dễ làm

chúng ta liên tưởng đến dấu ấn tín của ngưỡng phồn thực và tục thờ sinh thực

khí của cư dân nông nghiệp xa xưa.

Trong ngày chính hội, tại đền bà Chúa Muối, chùa Hưng Quốc dân làng

đã chuẩn bị trang phục, sắp xếp lễ vật cho đoàn rước kiệu, rước đùng ra miếu

Ba Thôn và đi quanh làng. Nghi lễ rước bà Chúa Muối và rước Đùng là một

trong những nghi lễ long trọng nhất của ngày lễ hội. Đoàn kiệu rước xuất phát

từ đền bà Chúa Muối, chùa Hưng Quốc đi dọc theo đường làng đến miếu Ba

Thôn thu hút hàng vạn du khách cùng nhân dân trong làng tham dự. Các vai

kiệu là nam thanh nữ tú được tuyển chọn kỹ lưỡng trong làng. Đoàn rước kiệu

đi diễu quanh làng với cờ xí rợp trời, chiêng khua trống giục trong tiếng reo

hò của biển người xem hội. Hai bên đường người dân bày lễ vật như dưa hấu,

ngô, khoai, hoa đùng trên những bàn cao để cúng vọng bà Chúa Muối và cầu

xin cho gia đình được quanh năm no đủ, làm ăn may mắn. Đoàn rước ra đến

Miếu Ba Thôn, dân làng làm lễ dâng hương lễ thánh. Lễ xong đoàn rước ra

ngã ba đầu làng, qua bến cảng rồi quay trở về đền Bà Chúa Muối.

Năm 2016 hội làng Quang Lang, xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy tỉnh

Thái được ghi vào Danh mục VHPVT Quốc gia theo Quyết định Số

4036/QĐ-BVHTTDL ngày 21 tháng 11 tháng 2016 của Bộ trưởng Bộ Văn

hóa, Thể thao và Du lịch.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Lễ hội làng Quang Lang có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với đời sống

tâm linh và tinh thần của nhân dân nơi đây nói riêng và với diêm dân nói

chung. Đây là hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian mang yếu tố tín ngưỡng

bản địa, thể hiện bản sắc của cộng đồng cư dân Quang Lang, Thái Bình.

107

Page 111: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Tham gia lễ hội, người dân vừa cảm thấy tự hào về lịch sử của vùng đất, xuất

xứ về vị thần bảo hộ của làng, vừa được hưởng thụ các giá trị văn hóa, tâm

linh và vừa tìm lại được sự cân bằng và yên ổn trong tinh thần.

Lễ hội là một tài sản chung của cộng đồng, là sinh hoạt văn hóa cộng

đồng tiêu biểu trong đời sống văn hóa người dân Quang Lang, có vai trò và sự

ảnh hưởng lớn đối với mỗi dân làng. Được lựa chọn tham gia các hoạt động

trong lễ hội là niềm vinh dự của mỗi người dân nên họ đều mong muốn, tự

nguyện tham gia vào việc tổ chức và thực hành sinh hoạt văn hóa - tâm linh

mang tính cộng đồng này.

Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát

huy di sản văn hóa phi vật thể:

Ngày nay, dân làng Quang Lang vẫn duy trì lễ hội làng với những nghi

thức truyền thống và tất cả các hoạt động của lễ hội đều do cộng đồng dân

làng Quang Lang tổ chức và tham gia.

Hàng năm, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch của tỉnh Thái Bình đều

kiểm tra và hướng dẫn công tác quản lý lễ hội nhằm nâng cao nhận thức và kỹ

năng nghiệp vụ cho những người trực tiếp quản lý di tích cũng như cho cộng

đồng cư dân nơi đây, có biện pháp đảm bảo an ninh trật tự, quản lý tốt các

dịch vụ và cảnh quan môi trường, không gian tổ chức lễ hội, tuyệt đối không

để xảy ra các hoạt động mê tín dị đoan, chặt chém khách tham quan.

Quy trình thực hành lễ hội và các nghi thức liên quan trong lễ hội được

dân làng Quang Lang tổ chức và thực hiện gần nhất với nghi lễ truyền thống do

các thế hệ trước truyền lại. Khách đến tham dự lễ hội đều được nhắc nhở tôn

trọng tập tục của làng và những kiêng kỵ liên quan đến lễ hội.

Các nghệ nhân và những người cao tuổi nắm giữ các kỹ năng, tập tục

liên quan đến lễ hội (các bài cúng, lễ, đan nộm Đùng, vẽ mặt nạ, nấu nướng

đồ lễ vật...) đều trao truyền cho con cháu và cho thế hệ trẻ trực tiếp ngay tại

các mùa lễ hội. Các câu chuyện liên quan đến Bà Chúa Muối cũng được họ kể

lại cho con cháu và được xuất bản thành các tập sách, thơ để quảng bá.

108

Page 112: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

- Hội miếu Ba Thôn

(Thôn Quang Lang Đông, Quang Lang Đoài Tam Đồng, xã Thụy Hải

huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Tạ Thị Hạp

Sinh năm:1945 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Quang Lang, xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

(2) Họ và tên: Nguyễn Quang Doanh

Sinh năm: 1947 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Quang Lang, xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

(3) Họ và tên: Nguyễn Hùng

Sinh năm: 1943 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Quang Lang, xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

(4) Họ và tên: Lâm Thị Thúy

Sinh năm: 1951 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Quang Lang, xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

(5) Họ và tên: Tạ Quang Vinh

Sinh năm: 1941 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Quang Lang, xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

109

Page 113: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

(6) Họ và tên: Nguyễn Hữu Sỉnh

Sinh năm: 1952 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Quang Lang, xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

(7) Họ và tên: Hoàng Thị Lan

Sinh năm: 1940 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Quang Lang, xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

Nhận diện hội miếu Ba Thôn:

Miếu Ba thôn thờ Đông Hải đại vương, Nam hải đại vương, Tây Hải

đại vương và thành hoàng làng là Nguyễn Hãng.

Lễ hội hàng năm diễn ra từ ngày mồng 10 đến ngày 13 tháng 07 âm

lịch. Tuân tòng lệ cổ, những năm gần đây hội Miếu Ba Thôn còn giữ được

khá nhiều lễ thức của tục rước nước nhưng quy mô hoành tráng hơn và bổ

sung thêm nghi thức trình nghề gieo ống đánh bắt cá được xem như một hội

trình nghề độc nhất vô nhị của Việt Nam trong những thập kỷ cuối của thế kỷ

XX. Mở đầu tục rước nước là nghi lễ, lễ các yết Thành Hoàng tại miếu Ba

Thôn đưa lọ nước thờ từ năm trước từ ngai thờ lên kiệu rước ra bến sông. Đi

đầu đoàn rước lá cờ thần, cờ hội với lực lượng đi theo mang vác tiếp theo là

dàn nhạc hội và đoàn phù giá kiệu Thánh. Dân làng hai bên đường sắm lễ ở

cửa nhà cũng đồng tâm cầu xin rước nước năm trước hưởng lộc năm sau,

nam, phụ, lão, ấu ai nấy đều một lòng thành tâm, thành kính. Khi đoàn rước

kiệu Thánh, kiệu mẫu tới bến hàng nghìn người đã chầu chực trên hàng trăm

tàu thuyền lớn nhỏ được trang hoàng lộng lẫy thuyền nào cũng sắp sẵn cỗ

chay, cỗ mặn khói hương nghi ngút. Khi rước kiệu xuống thuyền, đoàn

thuyền hộ giá và khách trẩy hội cùng hướng ra khơi làm nghi lễ thay nước cũ

bằng nước mới. Một vùng biển sội động hướng về thời điểm thiêng liêng khi

110

Page 114: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

ông mạch bái đọc văn tế xin thần biển cho thay lọ nước giữa cửa biển Diêm

Điền. Chẳng biết từ khi nào những cư dân đánh cá biển ở Quan Lang đã sáng

tạo dùng những ống luồng lướt trên biển để khua nước, lùa cá vào lưới. Cho

đến nay chưa thấy tài liệu nào nói về nghề đánh cá biển bằng hình thức gieo

ống ở các vùng biển khác. Gieo ống là một phương thức đánh bắt cá mang

nặng tính thủ công nhưng để có hiệu quả đòi hỏi tài nghệ hài hòa, nhịp nhàng

của cả thập thể gieo ống, bơi ống, thả lưới, lái thuyền, thu ống với sự chỉ huy

của người đứng đầu mỗi “gieo” bằng hiệu lệnh tù và. Nếu không có hội trình

nghề thì hẳn là vào những năm cuối cùng của thế kỷ XX. Nghề gieo ống sẽ

chỉ được biết qua lời kể của số ít ngư dân Quan Lang nay đã là những cố lão

trong làng bởi từ sau những năm 50 trở lại đây phương tiện đánh bắt cá biển

ngày một hiện đại hơn không còn phải đánh bắt bằng hình thức gieo ống.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Lễ hội rước nước trình nghề gieo ống ở hội miếu Ba thôn chỉ diễn ra

trên biển một buổi sáng nhưng cả làng tấp nập chuẩn bị từ nhiều ngày với tâm

thức cầu mong sự an khang thịnh vượng và tâm thức uống nước nhớ nguồn

góp phần củng cố tính công mệnh, cộng cảm của những ngư dân cả đời gắn

bó với biển khơi.

Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát

huy di sản văn hóa phi vật thể:

Trước những biến đổi của văn hóa làng xã, việc bảo tồn lễ hội truyền

thống được nhân dân và các cấp chính quyền ở Thái Bình đặc biệt quan tâm.

Lễ hội miếu Ba thôn không chỉ là môi trường để duy trì những nghi lễ, những

lễ thức cổ truyền, mà còn là nơi gửi gắm bao ước vọng của người dân Quang

Lang về sự sinh sôi, nảy nở khi người dân tham gia thực hành và tổ chức lễ

hội hàng năm. Không gian tổ chức lễ hội là di tích được xếp hạng nên đã

được trùng tu tôn tạo, góp phần tái hiện lại không gian hoàn chỉnh của lễ hội,

góp phần thu hút khách du lịch và bảo tồn lễ hội một cách bền vững.

23. XÃ THỤY AN

111

Page 115: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

- Hội đình An Cố

(Thôn An Cố Tân, xã Thụy An, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên Ông Phạm Văn Được

Sinh: 1958 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn An Cố Tân, xã Thụy An, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(2) Họ và tên: Ông Lê Tất Dinh

Sinh năm: 1961 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Hưu trí

Địa chỉ liên lạc: Thôn An Cố Nam, xã Thụy An, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(3) Họ và tên: Ông Nguyễn Phi Trường

Sinh năm: 1981 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Cán bộ

Địa chỉ liên lạc: UBND xã Thụy An, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình

(4) Họ và tên: Ông Lê Trung Đoàn

Sinh năm:1958 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn An Cố Bắc, xã Thụy An, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(5) Họ và tên: Ông Mai Nhân Bến

Sinh năm:1953 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Hưu trí

Địa chỉ liên lạc: Thôn An Cố Trung, xã Thụy An, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

Nhận diện hội đình An Cố.

Đền, Đình An Cố thờ Thánh Nam Hải Đại vương, thượng đẳng phúc

thần hàng năm có rất nhiều lễ tiết, nhưng hội chính từ ngày 01 tháng 7 âm lịch

112

Page 116: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

đến hết 25 tháng 7 âm lịch. Nhằm tưởng nhớ công ơn nhà ngài. Cách đây gần

hai nghìn ba trăm năm, ở thời Hùng Vương thứ 18, vị vua trực tiếp cai quản

nước Văn Lang lúc bấy giờ là vua Hùng Duệ Vương (năm 257 trước công

nguyên) ở vùng cửa biển thuộc phường Nam Mai- châu Bố Chính, trong đó có

trang ấp An Cố chúng ta, ông Phạm Xuyến, và bà Phùng Thị Nguyên, làm

nghề chài lưới, chuyên tu nhân tích đức, chuẩn bần cứu khổ, khi tuổi đã cao,

ông bà mới được trời ban phúc có thai 12 tháng để đến ngày 10-2- năm Canh

dần thời đó sinh ra cậu con trai thần phong tuấn tú, khí vũ khôi kỳ, vượt vạn

vạn người trên trần thế. Ông Xuyến, bà Nguyên tạ ơn trời biển đã làm lễ đặt tên

cho con là Hải Công. Khi 13 tuổi, Hải Công đã đi khắp đó đây để tầm sư học

đạo, đọc văn luyện võ, nên tài lược thao, thiên văn địa lý, lục giáp thần phù đều

tinh thông nổi tiếng. Tuổi vị thành niên mà Hải Công đã lừng danh là thần

đồng giáng thế. Năm 21 tuổi, phụ thân, và phụ mẫu của Hải Công lần lượt qua

đời. Sau 3 năm tang hiếu giữ trọn đạo thờ cha cúng mẹ, Hải Công mới tính

chuyện đi tìm bạn hiền tài, chí cao tâm sáng, để chờ cơ vận, đem thân phù nước

giúp dân. Hải Công đến núi Tản Viên thuộc đạo Sơn Tây để kết giao với 3 anh

em nhà Sơn Thánh- họ đều là những anh hùng hào kiệt. Khi vua Hùng Duệ

Vương kén tuyển phò mã, gả công chúa Ngọc Hoa cho người anh cả là Sơn

Thánh, hai em ruột của Sơn Thánh là Cao Sơn, và Quý Minh, cùng bạn kết

nghĩa là Hải Công đều được vào triều nhận việc giúp vua. Hải Công chỉ huy

một trong bốn đạo quân của triều đình. Sau đó một thời gian, ở đạo Sơn Nam-

chính là quê gốc của Hải Công, thiên tai dịch bệnh hoành hành làm muôn dân

thống khổ. Được thần báo mộng: Hải Công là Thiên Thánh giáng trần, thủy

thần xuất thế, vua Hùng Duệ Vương đã triệu Hải Công phong chức Đô đài

Thiên quan, kiêm Đại nguyên soái dẫn quân về huyện Thụy Anh, phủ Thái

Ninh, lập đàn tế cáo trời đất tại cửa bể Bình Lạng, Đại Bàng. Nạn hồng thủy

được dẹp yên. Nhân dân An Cố nghênh đón Hải Công về trang ấp, coi đây là

niềm vinh hạnh, vì đã có người con quê hương ra tay trừ được thiên tai dịch

bệnh, đem lại yên vui cho cả đạo Sơn Nam. Sau chiến công đó, được vua ban

113

Page 117: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

thưởng, Hải Công tâu vua xin được trở về quê hương để làm chúa đạo Sơn

Nam. Ngài nhận dân An Cố là thần dân, rồi cho lính, và mọi người xây dựng

một cung sở tại trang ấp An Cố để Ngài tiện việc chỉ bảo thần dân tăng gia sản

xuất. Khi vua Hùng Duệ Vương tuổi cao, quân Thục Vương- tức Ai Lao đem

trăm vạn người, ngựa sang xâm chiếm nước ta. Sơn Thánh tâu vua triệu Hải

Công về triều để bàn kế phá giặc. Hải Công cùng Sơn Thánh tuyển mộ 30 vạn

quân hùng, tướng mạnh để bày binh, bố trận. Chỉ một trận đại chiến, 5 cánh

quân giặc Thục bị đánh tan tành. Thắng trận, vua ban thưởng, toàn dân ca hát

khải hoàn. Có công lớn, và được ban thưởng trong 2 đại sự Quốc gia, Hải Công

xin vua được đi chu du thiên hạ để thỏa chí tang bồng. Sau những tháng năm

chu du tứ hải nhân sơn, Hải Công trở về quê An Cố- Nam Mai làm lễ yết gia

bái đường. Qua 5 sáu ngày yến ẩm cùng bạn bè đồng mục, họ hàng dòng tộc,

ngày 15 thánh 11 âm lịch năm ấy, trời đất tối sầm, thú chầu, sóng dữ, Hải Công

đi về cửa bể phía nam hóa thánh về trời. Sau khi Hải Công về trời, thần dân An

Cố làm ăn bất ổn, cuộc sống bất thường. Có cây gỗ lớn cứ đêm đêm lại trôi vào

cung sở. Mọi người trong trang ấp An Cố đều được báo mộng rằng cây gỗ đó

chính là hiện thân của Hải Công, cần phải rước Thần hiệu của Ngài về viết vào

cây gỗ, rồi lập đình trên đất cung sở để thờ cúng. Thần dân An Cố liền viết biểu

tâu vua. Xét công lao to lớn của Hải Công trong việc trừ thiên tai dịch bệnh,

dẹp tan ngoại xâm, và dạy bảo thần dân An Cố làm ăn thịnh vượng, vua đã truy

phong Ngài là: Nam Hải Đại vương, thượng đẳng phúc thần. Đồng thời vua

cho kinh phí để lập đình, đền thờ đức thánh Nam Hải Đại vương tại trang ấp

An Cố. Lễ mừng Đức Thánh nhập đình, đền là ngày 25- tháng 7 năm đó. Trải

qua nhiều triều đại, nhiều đời vua, nhiều đời con cháu hậu duệ là thần dân An cố,

chắc chắn ngôi đình, ngôi đền dựng từ lần đầu tiên, đến nay đã được tôn tạo,

thay đổi nhiều lần. Nhưng dù ở triều đại nào, Đức Thánh Nam Hải Đại vương

vẫn phù dân giúp nước. Bằng chứng là 13 triều đại đều nhờ Ngài mà chiến thắng

ngoại xâm, nên các vị vua đã phong thần tri ân công đức của Ngài. Ngôi đình

An Cố được khởi công lắp ráp vào năm 1527 hoàn thành vào năm 1528.

114

Page 118: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Hàng năm đền An Cố có 3 lễ tiết chính:

10 tháng 2 Mở hội

25 tháng 7 Ngày cấp sắc

15 tháng 11 Ngày mất nhà ngài

Hội chính diễn ra vào ngày 25 tháng 7 âm lịch được chính quyền và

nhân dân xã Thụy An kết hợp với Ban quản lý di tích tổ chức lễ hội theo các

nghi thức truyền thống như tế cáo yết mở cửa đền, của đình, tế dâng hương, tế

nam quan, tế nữ quan, rước kiệu thánh từ Đền đi quanh làng rồi về Đình.

Hiện nay Thụy An có 4 thôn: An Cố Nam, An Cố Bắc, An Cố Trung và

An Cố Tân. Hàng năm vào dịp tổ chức lễ hội, nhân dân trong làng con cháu đi

làm ăn xa đều về lễ thánh. Đảng ủy, ủy ban nhân dân và các đoàn thể cùng

các cấp chính quyền đều tham gia trong công tác tổ chức lễ hội: Từ Mặt trận,

hội lão ông, lão bà, hội cựu chiến binh, hội chữ thập đỏ, hộ phụ nữ, đoàn

thanh niên, được Ban tổ chức lễ hội phân công từng việc: Ban tiếp tân, ban

hậu cần, ban lễ nghi, đội rước, đội tế nam quan, đội tế nữ quan. Hơn 200

người trực tiếp tham tham trực tiếp, còn đoàn rước có thể kéo dài đến vài km.

Hội ngày nay được các ban ngành đoàn thể như Ủy ban nhân dân xã,

mặt trận, phụ nữ, thanh thiếu niên và toàn thể nhân dân trong xã Thụy An

cùng nhau tổ chức. Hàng năm tổ chức lễ hội đều có các đôi trung, thanh thiếu

niên ra hỗ trợ các công việc làng cùng với các cụ trong ban lễ khánh tiết cũng

như nhân sự Ban tổ chức lễ hội tại địa phương.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Hội đền An Cố hàng năm đều được thực hành thường xuyên và là niềm

tự hào của mỗi người con Thụy An xa quê. Niềm tin lớn và ý thức cao của

chính quyền và nhân dân Thụy An là một trong những minh chứng cho những

giá trị vô giá mà di sản này đã đem lại cho cộng đồng địa phương, thể hiện là

một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của làng xã.

Các biện pháp bảo vệ và phát huy đã và đang triển khai và đề xuất của

chủ thể để bảo vệ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể

115

Page 119: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Hàng năm lễ hội được tổ chức với sự hỗ trợ của lãnh đạo, các ban ngành.

Các cấp chính quyền địa phương hỗ trợ thêm kinh phí và đảm bảo công

tác an ninh để bà con có những mùa lễ hội ý nghĩa, an toàn.

24. XÃ THÁI THƯỢNG

- Hội đền Hét

(Thôn Bạch Đằng, xã Thái Thượng, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Phạm Văn Mạnh

Sinh năm: 1953 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Cán bộ hưu

Địa chỉ: Thôn Bắc Cường, xã Thái Thượng, huyện Thái Thụy.

(2) Họ và tên: Phạm Đức Lân

Sinh năm: 1934 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Chủ tịch hội Người cao tuổi xã

Địa chỉ: Thôn Bích Du, xã Thái Thượng, huyện Thái Thụy.

(3) Họ và tên: Bùi Đình Tuyến

Sinh năm: 1952 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Cán bộ hưu

Địa chỉ: Thôn Bạch Đằng, xã Thái Thượng, huyện Thái Thụy.

(4) Họ và tên: Đỗ Quang Lợi

Sinh năm: 1952 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Thủ nhang

Địa chỉ: Thôn Bạch Đằng, xã Thái Thượng, huyện Thái Thụy

(5) Họ và tên: Nguyễn Xuân Thu

Sinh năm: 1948 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: tế chủ

Địa chỉ: Thôn Bạch Đằng, xã Thái Thượng, huyện Thái Thụy.

Nhận diện hội đền Hét:

Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông khi quân sỹ nhà Trần

116

Page 120: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

đóng tại làng Bích Du, Phạm Ngũ Lão đã sáng tạo ra nhiều hình thức phong

phú để rèn luyện thể lực và ý chí quả cảm cho quân sỹ trong đó có môn thể

thao là môn vật cầu. Môn thể thao này trước vốn được duy trì ở nhiều làng

ven biển thuộc Thái Bình, Hải Phòng. Luật chơi tuy khác nhau chút ít nhưng

nét chung là mang tính thượng võ cư dân vùng biển. Khi Phạm Ngũ Lão qua

đời, dân làng lập đền thờ ông, dân gian quen gọi là đền Hét.

Ðã thành thông lệ, hàng năm cứ vào mồng 8 tháng Giêng âm lịch, đông

đảo nhân dân xã Thái Thượng, con em xa quê, du khách thập phương lại nô

nức trở về tham dự lễ hội đền Hét, hoà mình trong các trò chơi dân gian độc

đáo, tưởng nhớ công lao to lớn của các bậc tiền nhân trong cuộc kháng chiến

chống giặc ngoại xâm bảo vệ yên bình cho vùng đất cửa biển nơi đây.

Trong lễ hội có phần lễ và phần hội thể hiện lòng thành kính đối với

tướng quân Phạm Ngũ Lão.

Phần lễ có tế lễ, rước, dâng hương (tế nam quan, tế nữ quan, cầu siêu,

tế tạ). Phần hội có các trò chơi dân gian và có môn vật cầu là tiêu biểu và đặc

sắc nhất là môn vật cầu. Môn vật cầu truyền thống tại lễ hội Đền Hét xã Thái

Thượng đã được lưu truyền và tổ chức hơn 1000 năm nay. Số lượng người

tham gia là 22 người được tuyển chọn là trai tráng trong làng và được chia

làm 2 đội, mỗi đội gồm 10 quân và 01 tướng. Bên mặc trang phục màu đỏ là

bên Tả đại diện cho Ngư nghiệp; Bên mặc trang phục màu xanh là bên Hữu

đại diện cho Nông nghiệp. Quả cầu được làm bằng củ chuối hột được trồng

tại di tích nặng khoảng 8-9 kg được đưa lên bàn thờ chính hội để tế thánh

trước khí được đem ra vật tại sân đấu vật của di tích. Mỗi đầu sân đấu được

bố trí 2 cây bồ cao khoảng 2,5m để các cầu thủ của đối phương ném vào, và

với thời gian 1 giờ được chia thành 2 hiệp, bên nào ném được quả cầu nhiều

lần hơn bên đó sẽ dành phần thắng. Hội đền Hét được các cụ cao tuổi trong

làng là những người giữ gìn và truyền lại cho con cháu đời sau những quy

định bắt buộc và các cách thức của trò chơi vật cầu

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

117

Page 121: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Có thể nói môn vật cầu tại lễ hội đền Hét xã Thái Thượng là có một

không hai trên địa bàn miền duyên hải. Do vậy, lễ hội đã được nhân dân địa

phương gìn giữ như di sản phi vật thể vô giá và đã được du khách thập

phương trân trọng chào đón mỗi khi mùa lễ hội Đền Hét đến.

Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát

huy di sản văn hóa phi vật thể:

- UBND xã đã trưng cầu ý kiến của các cụ cao tuổi trong làng về lễ hội

Đền Hét nói chung và môn vật cầu nói riêng để xây dựng cuốn cẩm nang về

môn vật cầu truyền lại cho muôn đời sau.

-Công đồng mong muốn Bộ VHTT&DL, Cục Di sản Văn hóa, và Sở

VHTT-DL lập hồ sơ đề nghị công nhận môn vật cầu tại lễ hội Đền Hét là Di

sản văn hóa phi vật thể trong thời gian tới.

- Hội Đền Sơn Thọ

(Thôn Sơn Thọ 2, xã Thái Thượng, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Giang Văn Thuyên

Sinh năm: 1952 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Trưởng ban khánh tiết

Địa chỉ:Thôn Sơn Thọ 3, xã Thái Thượng, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình

(2) Họ và tên: Nguyễn Văn Viễn

Chức vụ: Cán bộ văn hóa

Địa chỉ: UBND xã Thái Thượng, huyện Thái Thụy.

(3) Họ và tên: Giang Văn Tiền

Sinh năm: 1935 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ:Thôn Sơn Thọ 3, xã Thái Thượng, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình

(4) Họ và tên: Nguyễn Văn Hà

Sinh năm: 1936 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

118

Page 122: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Địa chỉ:Thôn Sơn Thọ 3, xã Thái Thượng, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình

(5) Họ và tên: Phạm Hữu Phượng

Sinh năm: 1938 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ:Thôn Sơn Thọ 3, xã Thái Thượng, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình

(6) Họ và tên: Phạm Khắc Hạ

Sinh năm: 1944 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ:Thôn Sơn Thọ 2, xã Thái Thượng, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình

(7) Họ và tên: Phạm Hữu Điều

Sinh năm: 1932 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ:Thôn Sơn Thọ 2, xã Thái Thượng, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình

Nhận diện hội đền Sơn Thọ:

- Đền được xây dựng năm 1889, năm 1925 xây dựng nhà tiền tế, năm

2000 xây dựng cổng. Đền thờ Đại càn quốc gia Nam Hải tứ vị Hồng Nương.

Lễ hội được tổ chức vào ngày 10 tháng 3 âm lịch hàng năm. Lễ hội tổ

chức dâng hương và tế nam quan, tế nữ quan. Đội tế có từ 16 – 18 người có

hình thức cân đối, thiện tâm, gia đình văn hóa. Đội được chia làm 5 bộ phận

gồm bộ phận phục vụ, bồi tế, xướng tế, dẫn tế và chín tế và ban nhạc phục.

Thời gian tùy theo từ 1 giờ đến 2 giờ. Địa điểm diễn ra bắt buộc phải được tổ

chức sân tiền tế (trước của di tích). Trong lễ hội có các trò chơi dần gian như

bịt mắt bắt dê, đi cầu kiều hái Lộc, kéo co cặp vợ chồng.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Lễ hội là dịp để cộng đồng thể hiện đức tin và sự tôn thờ vị thành

hoàng. Tế Nam quan – Nữ quan là một phần nghi lễ không thể thiếu trong lễ

hội, thể hiện sự tôn thờ và mong cầu vị thần che chở cho dân làng. Lễ hội là

dịp cộng đồng gắn kết các thành viên trong cộng đồng.

Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát

119

Page 123: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

huy di sản văn hóa phi vật thể:

UBND xã và các ban ngành tạo điều kiện hỗ trợ cộng đồng thực hành

lễ hội. Người dân tự nguyện, và đóng góp công sức, tiền của cho lễ hội

-Các bài văn tế, diễn trình tế, văn bia, câu đối đã được các cụ trong làng

ghi lại và truyền dạy cho các thế hệ sau.

- Hội đình Các Đông

(Thôn Các Đông, xã Thái Thượng, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Phạm Huy Thì

Sinh năm: 1952 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Trưởng ban Khánh tiết Đình Các Đông.

Địa chỉ:.Thôn Các Đông, xã Thái Thượng

(2) Họ và tên: Phạm Huy Thung

Sinh năm: 1949 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Cán bộ hưu

Địa chỉ: Thôn Các Đông, xã Thái Thượng, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

(3) Họ và tên: Đặng Xuân Nhất

Sinh năm: 1952 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Phó ban quản lý di tích đình Các Đông

Địa chỉ: Thôn Các Đông, xã Thái Thượng, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình..

Nhận diện hội đình Các Đông:

Đình Các Đông được xây dựng vào thời nhà Lê, đến thời nhà Nguyễn

tôn tạo lại, đại tu năm 1973, đình thờ Lý Nam Đế, đây là địa điểm cách mạng

kháng chiến. Lễ hội đình Các Đông được tổ chức hàng năm từ ngày 14 đến

ngày 16 tháng 2 âm lịch với những nghi lễ lễ dâng hương, lễ tế và tổ chức các

trò chơi dân gian như chơi kéo co nam, nữ, đi cà kheo đá bóng trên cạn, mỗi

đội 7 người có cầu môn, bóng ngày xưa các cụ làm bằng mây và to gấp 3 lần

quả bóng bình thường, đi cà kheo để bắt vịt, ai bắt được nhiều vịt người đó

dành chiến thắng. Các trò chơi trên đều được các người dân trong làng được

120

Page 124: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

thực hiện với ước muốn cầu bình an và một mùa đi biển bội thu

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Các trò chơi trên là bản sắc đặc thù của thôn làng mà chủ yếu là làm

nghề khai thác hải sản trên biển. Vì vậy, đã được dân làng gắn với tâm linh để

cầu cúng sao cho an toàn và mùa màng bội thu. Thông qua các trò chơi dân

gian trên với mong muốn là các thánh thần chứng giám phù hộ độ trì cho

Quốc thái dân an, nhà nhà hạnh phúc.

Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát

huy di sản văn hóa phi vật thể:

UBND xã giao cho Hội nghề cá và Ban tổ chức lễ hội tổng hợp danh

sách những người cao tuổi trong làng và những người biết thực hiện các trò

chơi dân gian để mở nhiều đợt tập huấn, thực hành

Hội đền Các Đông được nhân dân ủng hộ, UBND xã chỉ đạo Ban quản

lý di tích tổ chức thường xuyên vào các dịp lễ hội hàng năm tạo không khí vui

tươi phấn khởi trước thềm năm mới cho bà con nhân dân thôn Các Đông.

25. XÃ THÁI HỌC

- Hội đình Đông

(Thôn Đông, xã Thái Học, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Bùi Xuân Tiến

Sinh năm: 1944 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ: Thôn Đông, xã Thái Học, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

(2) Họ và tên: Phạm Văn Hãnh

Sinh năm: 1945 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ: Thôn Bắc, xã Thái Học, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

(3) Họ và tên: Đỗ Quốc Tuấn

Sinh năm: 1950 Dân tộc: Kinh

121

Page 125: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Nghề nghiệp: Ban quản lý đình Đông

Địa chỉ: Thôn Trung, xã Thái Học, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

(4) Họ và tên: Nguyễn Thị Huế

Sinh năm: 1953 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ: Thôn Bắc, xã Thái Học, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

(5) Họ và tên: Phạm Thị Nhài

Sinh năm: 1950 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ: Thôn Bắc, xã Thái Học, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

(6) Họ và tên: Nguyễn Thị Nhuận

Sinh năm: 1952 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ: Thôn Bắc, xã Thái Học, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

Nhận diện hội đình Đông:

Năm Giáp Thìn 1234, Tướng công Đỗ Biểu từ cửa biển thần phù Thanh

Hóa kinh lý về hướng Bắc đã dừng chân tại tổng Thuần nhuệ huyện Thanh

Lan, như ý trời đã định ông nhận thấy có hồn thiêng linh ứng và hội tụ trên

mảng đất này, cảnh sắc thiên nhiên và con người nơi đây đã gợi cho ông một

tầm nhìn chiến lược quân sự và ông đã đặt tại nơi đây một du cung để cùng

quân tướng nghỉ ngơi, bàn luận việc quân cơ.

Tướng công Đỗ Biểu có hai bà vợ một ở Thanh Hóa và một ở tổng

Thanh Lan (nay là xã Thái Học). Theo thần phả trong cùng ngày 6 tháng

giêng hai bà vợ cùng sinh được 6 người con trai và đều trở thành những người

tài giỏi, tướng giỏi của triều đình nhà Trần.

Khi có giặc Nguyên đến xâm lược, nơi đây là vùng đất chiêu mộ quân

binh và xuất quân ra trận của 7 cha con ông, trong suốt hơn 10 năm Hán binh

nơi cửa biển.

Sau khi tướng quân Đỗ Biểu qua đời ngày 12 tháng 9 năm Kỷ Sửu

122

Page 126: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

1277, 6 người con của ông tiếp tục cùng quân sĩ Thanh Lan chiến đấu chống

lại sự xâm lược của giặc Chiêm Thành và các ông đã anh dũng hi sinh vào

ngày mống 8 tháng giêng. Cảm phục trước tinh thần dũng cảm và ý chí sắt đá

của tướng quân Thần Nhuệ - Thanh Lan, xét thấy công lao to lớn của quân

thần triều đình với đất nước, thấy uy tín của các ông trong lòng nhân dân, xét

nguyện vọng của nhân dân muốn có một nơi thờ tự tôn nghiêm để ghi nhớ

công ơn của Người, vua Trần Thánh Tông đã phong cho tướng quân Đỗ Biểu

đến chức Mang Xá Đại Vương, phong cho 6 tướng trẻ: Đệ Nhất Kinh thành

Đại Vương, Đệ Nhị Sa Điện Đại Vương, Đệ Tam Cửa Triều Đại Vương, Đệ

Tứ Bát Hải Đại Vương, Đệ Ngũ Bến Nhuệ Đại Vương, Đệ Lục Bản Lộ Đại

Vương, cử Đại thần quốc lão Nguyễn Khắc Siêu về đất Thần Nhuệ (nay là xã

Thái Học) cắm đất lạp đình thờ tại Du cung ông dựng lên trước đó.Cho phép

dân Thanh Lan mở hội ăn mừng chiến thắng và tưởng niệm 7 cha con ông

tướng quân Đỗ Biểu trong 03 ngày. Ngày nay là lễ hội truyền thống di tích

lịch sử đình Đông xã Thái Học.

Trong một năm Đình Đông tổ chức 4 kỳ lễ hội vào các ngày:

- Ngày 6 tháng 1 là ngày sinh của 6 người con của tướng quân Đỗ Biểu;

- Ngày 8 tháng 1 là ngày mất của 6 người con của tướng quân Đỗ Biểu;

- Ngày 3 tháng 3 là ngày mất của 2 người vợ của tướng quân Đỗ Biểu;

- Ngày 12 tháng 9 là ngày mất của tướng quân Đỗ Biểu. Đây cũng là

ngày hội chính.

- Ngày nay do điều kiện kinh tế - xã hội có nhiều thay đổi được sự đồng

thuận của toàn dân, lễ hội chính mang qui mô lớn nhất trong năm được tổ

chức ngày 02 đến 04 tháng 3 âm lịch.

Lễ hội bao gồm phần lễ và phần hội:

Phần lễ với các nghi thức trang nghiêm, nhiều đặc sản được chế biến từ

nông sản mang đậm bản sắc ẩm thực của vùng quê lúa mang đến dâng hương

lễ Thánh. Cùng với đó là đội tế nam quan và nữ quan, các bài văn tế nêu rõ

công trạng và đức độ của các bậc thánh hiền, các quy định nghiêm ngặt của lễ

123

Page 127: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

giáo phong kiến và ý nghĩa của mỗi kỳ lễ hội. Sau đó các dòng họ, nhân dân

thành kính dâng hương và phát công tâm đức bằng tiền, hiện vật để tôn tạo

trùng tu di tích, bảo vệ lễ hội.

Phần hội tổ chức các trò chơi dân gian: chọi gà, cờ tướng, kéo co, đi

cầu treo. Và buổi tối là các đoàn văn nghệ quần chúng biểu diễn.

- Số lượng nghệ nhân hiện còn khả năng truyền dạy:

+ Nguyễn Thị Huế

+ Phạm Thị Nhài

+ Nguyễn Thị Nhuận

- Số lượng học viên hiện nay: 50 học viên

- Phương thức truyền dạy: Thực hành

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Trong tiềm thức của nhân dân Thái Học, đình Đông là một chốn linh

thiêng thờ đấng Thánh tối linh đã có công đánh giặc, giúp dân làng có cơm

no, áo ấm. Ngày hội là ngày nhân dân tỏ lòng thành kính đối với Thánh. Cầu

mong các đấng thần linh phù hộ che chở cho họ trong đời sống thường ngày,

cũng như trong công việc làm ăn buôn bán.

Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát

huy di sản văn hóa phi vật thể:

Hiện hội đình Đông được các ban ngành đoàn thể như: Ủy ban nhân

dân thị trấn, mặt trận, phụ nữ, thanh thiếu niên và toàn thể nhân dân trong xã;

Toàn thể nhân dân, con em xa quê và khách thập phương tham gia công đức

tiền vàng, hiện vật để tôn tạo trùng tu di tích và bảo tồn lễ hội.

Ban văn hóa xã hàng năm tiếp tục tăng cường công tác quản lý nhà

nước về lễ hội, Ban khánh tiết bồi dưỡng động viên các hạt nhân có tâm huyết

tham gia vào BTC lễ hội hàng năm.

26. XÃ THÁI NGUYÊN

- Hội đình Bích Đoài

(Thôn Bích Đoài, xã Thái Nguyên, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình).

124

Page 128: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Phạm Xuân Hiện

Sinh năm:1954 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Thủ nhang

Địa chỉ liên lạc: Thôn Bích Đoài, xã Thái Nguyên, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình.

(2) Họ và tên: Bùi Đình Duân

Sinh năm:1942 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Hưu trí – Ban khánh tiết

Địa chỉ liên lạc: Thôn Bích Đoài, xã Thái Nguyên, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình.

(3) Họ và tên: Nguyễn Thế Luật

Sinh năm:1942 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: trồng trọt

Địa chỉ liên lạc: Thôn Bích Đoài, xã Thái Nguyên, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình.

Nhận diện hội đình Bích Đoài:

Đình làng Bích Đoài được xây dựng vào thời Lê, mở rộng năm Duy

Tân thứ 5 (1911), gồm 3 tòa, bố cục chữ “công” nên còn được gọi là đình Ba

Nóc. Đình thờ Hoàng giáp, Thượng thư Nguyễn Mậu. Ông là người con của

làng Bích Đoài, tài đức vẹn toàn, làm quan qua hai triều vua Lê Nhân Tông và

Lê Thánh Tông. Ông được vua Lê Thánh Tông ban sắc phong làm Thành

hoàng làng.

Hàng năm vào ngày mồng 10 tháng Giêng âm lịch, nhân dân lại tổ chức

lễ hội để tưởng nhớ công lao của ông đối với dân làng. Trình tự của lễ hội bao

gồm: Sau khi UBND xã khai mạc lễ hội một vị có uy tín trong làng đọc bài

văn tế ca ngợi tài đức của Thành hoàng Nguyễn Mậu đối với đất nước và dân

làng Bích Đoài nói riêng. Sau đó là lễ dâng hương của các dòng họ trong xã.

Đan xen với các màn tế lễ nam quan, nữ quan là các trò chơi dân gian như: cờ

125

Page 129: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

tướng, chọi gà, đi cầu khỉ, vật cầu....

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Hàng năm cứ dịp Tết đến xuân về, dân làng mở lễ hội truyền thống cầu

cho quốc thái dân an, mùa màng bội thu, nhà nhà no ấm. Đây cũng là dịp

người dân tưởng nhớ công lao, tài đức của Thành hoàng Nguyễn Mậu đối với

đất nước nói chung và người dân Bích Đoài nói chung. Tài năng, đức độ của

ông mãi là tấm gương sáng cho các thế hệ mai sau noi theo. Lễ hội là dịp

người dân nghỉ ngơi, vui chơi, hội tụ nhau sau 1 năm lao động vất vả.

Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát

huy di sản văn hóa phi vật thể:

Các cấp chính quyền địa phương cần tạo điều kiện về kinh phí trùng tu,

tôn tạo lại di tích cũng như kinh phí cho tổ chức lễ hội.

UBND xã tổ chức lễ hội hàng năm, thành lập ban khánh tiết, đảm bảo

an ninh trật tự trong ngày diễn ra lễ hội;

Kinh phí tổ chức lễ hội do toàn thể nhân dân, con em xa quê đóng góp

công đức.

- Hội đình Đoài

(Thôn Ngọc Thịnh, xã Thái Nguyên, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình).

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Đàm Văn Đồng

Sinh năm:1957 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: trồng trọt

Địa chỉ liên lạc: Thôn Ngọc Thịnh, xã Thái Nguyên, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình.

(2) Họ và tên: Vũ Đình Luân

Sinh năm:1935 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Trồng trọt

Địa chỉ liên lạc: Thôn Ngọc Thịnh, xã Thái Nguyên, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình.

126

Page 130: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

(3) Họ và tên: Nguyễn Đình Thưởng

Sinh năm:1960 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Phó ban quản lý di tích đình

Địa chỉ liên lạc: Thôn Ngọc Thịnh, xã Thái Nguyên, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình.

Nhận diện hội đình Đoài:

Đình Đoài thôn Ngọc Thịnh được xây dựng vào thời Nguyễn thờ

Thành hoàng làng là Uy Linh Công và Quý Linh Công.

Hàng năm nhân dân thôn Ngọc Thịnh mở hội vào ngày mồng 4 tháng

Giêng âm lịch. Trình tự của lễ hội bao gồm: Sau khi UBND xã khai mạc lễ

hội – lễ khai bút đầu xuân cho các em học sinh cầu mong một năm học tiến

bộ. Sau đó là đội tế nam quan của làng thực hành nghi thức tế dâng Thánh

trong ngày lễ hội. Nghi thức tế lễ gồm ba phần: Tuần hương, tuần rượu, ẩm

phúc, thụ lộc. Trong những ngày hội dân làng Ngọc Thịnh được sống trong

không khí vui tươi ngày hội, hòa mình vào các trò chơi dân gian như: cờ

tướng, chọi gà, vật võ truyền thống đầy sôi nổi hứng khởi.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Hàng năm cứ mỗi dịp xuân về, nhân dân làng Ngọc Thịnh lại tổ chức lễ

hội truyền thống để cầu sức khỏe, tài lộc, các cháu học sinh khai bút cầu một

năm học thuận lợi, tiến bộ, tạo nên một nét đẹp văn hóa đầu năm, thầy cô thi

đua dạy tốt. Lễ hội cũng là dịp người dân nghỉ ngơi, hội tụ sau một năm làm

ăn vất vả. Từ đó làm gắn kết thêm tinh thần cộng đồng, cùng nhau xây dựng

đời sống mới trong khu dân cư.

Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát

huy di sản văn hóa phi vật thể:

Lễ hội đình Đoài được UBND xã tổ chức lễ hội hàng năm, lãnh đạo

thôn thành lập ban khánh tiết, đội tự vệ thôn đảm bảo an ninh trật tự trong

ngày diễn ra lễ hội. Các cấp chính quyền địa phương tạo điều kiện cho bà con,

nhân dân tổ chức và tham gia các hoạt động của hội.

127

Page 131: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

-Nhân dân và con em xa quê đóng góp, công đức kinh phí để tổ chức lễ

hội hàng năm.

27. THÁI HỒNG

- Hội miếu Đông

(Thôn Vị Dương Đông, xã Thái Hồng, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình).

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Bùi Văn Đãn

Sinh năm:1937 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Hưu trí – Thủ nhang

Địa chỉ liên lạc: Thôn Vị Dương Đông, xã Thái Hồng, huyện Thái

Thụy, tỉnh Thái Bình.

(2) Họ và tên: Bùi Xuân Nghĩa

Sinh năm:1974 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Trướng ban quản lý di tích

Địa chỉ liên lạc: Xã Thái Hồng, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

(3) Họ và tên: Bùi Văn Đức

Sinh năm:1969 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: cán bộ

Địa chỉ liên lạc:UBND xã Thái Hồng, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

Nhận diện hội miếu Đông:

Miếu Đông thôn Vị Dương Đông thờ Nhị vị Thành hoàng là hai anh

em sinh đôi Lê Hựu và Lê Thị Phương (Phương Nương) là những vị tướng có

công với dân với nước trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Tương truyền Lê Hựu

và Lễ Thị Phương tư chất thông minh, được nhân dân trong vùng nể phục.

Khi giặc Minh sang cướp nước ta, hai ông bà phất cờ tụ nghĩa tuyển chọn

được một đội quân hơn 500 người đi vào Lam Sơn hội nghĩa với quân khởi

nghĩa của Lê Lợi. Lê Lợi vui mừng, phong cho Lê Hựu chức “chỉ huy sứ

tướng quân” giao cho hoạt động vùng ven biển thuộc trấn Sơn Nam Hạ. Từ

khi gặp được chủ tướng, Lê Hựu và Phương Nương cùng đội nghĩa binh ngày

128

Page 132: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

càng ra sức đánh giặc, tấn công các đồn binh nhà Minh trong khu vực, thu

được nhiều thắng lợi. Trong một trận giao tranh ác liệt tướng Lê Hựu và

Phương Nương đã không thoát khỏi vòng vây của kẻ thù. Khi kháng chiến

chống giặc Minh thành công Lê Lợi lên ngôi vua, đã luận công đức của các

tướng đánh trận phong cho Lê Hựu và Phương Nương làm Phúc thần của

trang Vị Dương, cấp tiền bạc ruộng đất cho dân làng trong trang lập đền thờ

phụng hai nghĩa sĩ đã hi sinh oanh liệt trong kháng chiến dành độc lập dân

tộc. Lễ hội miếu Đông hàng năm được tổ chức hai kỳ, đó là vào ngày mồng 8

đến ngày mồng 10 tháng 2 âm lịch và ngày mồng 9 tháng 9 âm lịch để tưởng

nhớ công lao của của các vị Phúc thần của làng.

Lễ hội truyền thống hàng năm: 2 kỳ:

+ Kỳ thứ nhất: Diễn ra từ ngày mồng 8 đến ngày mồng 10 tháng 2 âm

lịch. Trình tự của lễ hội bao gồm: Sau khi UBND xã khai mạc lễ hội một vị

chủ tế đọc bài văn tế ca ngợi công lao đánh giặc giữ nước, ca ngợi tài đức của

2 vị Phúc thần Lê Hựu và Phương Nương. Sau đó là lễ dâng hương của các

dòng họ, của các trường học trong xã. Đan xen với các màn tế lễ nam quan,

nữ quan là các trò chơi dân gian như: cờ tướng, chọi gà, đi cầu khỉ. Buổi tối là

liên hoan giao lưu văn nghệ của đoàn thanh niên, hội phụ nữ, hội người cao

tuổi trong thôn Vị Dương Đông.

+ Kỳ thứ hai: Vào ngày mồng 9 tháng 9 âm lịch dân làng, Ban khánh

tiết tổ chức dâng hương, tế lễ trong phạm vi miếu Đông, mà không mở hội.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Lễ hội truyền thống miếu Đông là nơi người dân thôn Vị Dương Đông

tưởng nhớ công lao đánh giặc giữ nước, tài đức, sự hi sinh anh dũng và tỏ

lòng thành kính tới hai vị Phúc thần là Lê Hựu và Phương Nương. Lễ hội

cũng là dịp để giáo dục thêm các giá trị truyền thống tốt đẹp của cha ông ta

tới các thế hệ con cháu mai sau.

Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát

huy di sản văn hóa phi vật thể:

129

Page 133: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

UBND xã Thái Hồng tổ chức lễ hội hàng năm, thành lập Ban khánh

tiết, Ban hậu cần, đảm bảo an ninh trật tự trong ngày diễn ra lễ hội. Kinh phí

để tổ chức lễ hội do toàn thể nhân dân, con em xa quê và khách thập phương

đóng góp công đức.

Trường THCS xã Thái Hồng thường xuyên tổ chức các hoạt động

ngoại khóa tìm hiểu giá trị lịch sử của ngôi miếu Đông và lễ hội truyền thống

để giáo dục thêm giá trị truyền thống cho học sinh. Các em học sinh của các

trường trong xã cũng thường xuyên làm vệ sinh quang cảnh quanh đền.

Sở VHTT&DL, Phòng VHTT và UBND xã Thái Hồng cùng các cấp

chính quyền địa phương cần tạo điều kiện về kinh phí trùng tu, tôn tạo lại di

tích cũng như kinh phí cho tổ chức lễ hội hàng năm được diễn ra.

28. XÃ THÁI TÂN

- Hội đình Nam Thần Đầu

(Thôn Nghĩa Hưng, xã Thái Tân, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Phạm Đình Mùi

Sinh năm: 1952 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Chủ nhang Đình.

Địa chỉ: Thôn Nghĩa Hưng, xã Thái Tân, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

(2) Họ và tên: Phạm Xuân Trường

Sinh năm: 1962 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Chủ tịch UBND xã – Trưởng ban QLDT

Địa chỉ: Thôn Nghĩa Hưng, xã Thái Tân, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

(3) Họ và tên: Nguyễn Thị Dung

Sinh năm: 1990 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Cán bộ Văn hóa xã.

Địa chỉ: xã Thái Tân, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình

Nhận diện hội đình Nam Thần Đầu:

Đình Nam làng Thần Đầu thờ Tuấn Lương Đại Vương, theo truyền

130

Page 134: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

thuyết kể lại rằng vào thời Lý, ở động Tam Thanh có gia đình chồng họ Phạm

tên Long, vợ là Bùi Thị Mỹ giỏi bốc thuốc, chữa bệnh, cứu người. Hai vợ

chồng sống nhân hậu khắp vùng khen gợi. Nhưng tuổi đã cao mà chưa có con

trai nối dõi, một hôm hai vợ chồng làm lễ khấn tổ tiên, đêm mơ thấy một cụ

già tướng mạo vương phi dắt 1 đứa bé khoảng 2 tuổi đến ban cho gia đình

ông, sau đó vợ ông có thai đến mồng 10 tháng 2 sinh một cậu bé khôi ngô,

tuấn tú liền đặt tên là Tuấn Lương. Năm 16 tuổi cha mẹ đều qua đời. Ông

chọn nơi đất tốt để an táng hiếu trọn đủ 3 năm. Khi mãn tang nghe tin triều

đình ban chiếu chiêu dụ nhân tài, Tuấn Lương đến vương thành Lý Phật Mã

ứng đối và được phong là Hữu Tướng quân cùng với Lê Phụng Hiếu tả tướng

quân. Vào lúc đó quân Chiêm Thành sang quấy nhiễu Hữu tướng quân nhận

lệnh đem quân tuần tiễu các đạo, ông tới vùng đất Thầu Đầu, thấy đây là vùng

đất tốt nên đã truyền quân dân làm đồn để sau này đóng quân. Dân chúng gọi

Hữu tướng quân là Thần Tứ và xin đi theo. Hữu tướng quân cùng với Lê

Phụng Hiểu đem quân đi đánh đến đâu trời rung đất lở, quân Chiêm Thành

khiếp sợ chạy tan tác, quân ta toàn thắng từ đó đất nước thanh bình. Lý Phật

Mã ban chiếu cho các ngài về kinh dự tiệc nhưng chưa kịp dâng biểu tâu trình

thì bỗng dưng đất trời u ám và một đám mây vàng đã xuống đón Tuấn Lương

về trời nhằm ngày 18 tháng 6 âm lịch.

Lễ hội đình Nam Thần Đầu được diễn ra vào 4 dịp trong năm.

+ Ngày 10 tháng 2 là ngày thần sinh bao gồm lễ mân trên oản quả, mân

dưới thịt bò, lợn đen, gà, bánh dầy, ca hát 3 ngày.

+ Ngày 18 tháng 6 lễ ngày thần hóa, mân trên oản quả, mân dưới gà,

lợn, xôi, rượi.

+ Ngày 12 tháng 10 lễ ngày thần hiện lên, mâm trên đồ chay, mâm

dưới gồm bò, xôi, rượi.

+Trước cách mạng tháng 8 năm 1945, hàng năm nhân dân Thần Đầu tổ

chức lễ hội vào ngày mồng 10 tháng 2 là ngày sinh của Thần.

Trong ngày lễ hội dân làng chuẩn bị hoa quả, bánh dày, thịt bò, lợn

đen, gà đen và các đồ tế lễ khác tươm tất chu đáo. Công tác tổ chức được tiến

131

Page 135: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

hành như sau: Ngày mồng 9 tháng 2 BQL di tích tiến hành họp các thôn phân

chia nhiệm vụ. Buổi chiều các thôn ra giếng làng rước nước về tắm rửa ngai,

mũ, bài vị và đồ tế khí.

Đến sáng ngày mồng 10 tháng 2 sau tiếng trống khai hội dưới sự chủ trì

của Chủ tế nhân dân bắt đầu rước ngai, mũ của thần từ đình Nam ra ngoài

đình Đoài, cùng với đó là kéo ngựa gỗ. Tương truyền tại đây có lệ trên đường

rước tất cả các gia đình ven đường phải đóng kín cửa, người đi đường phải

tránh bóng ngựa của ngài. Sau đó tổ chức lễ tế đọc trúc văn tại đình Đoài.

Chiều ngày mồng 10 tháng 2 tổ chức lễ tế tại đình Đoài sau đó về đình

Nam tế lễ.

Sáng 11 tháng 2 tổ chức lễ tế tại đình Nam, sau đó các thôn lần lượt

dâng hương.

Chiều ngày 11 tháng 2 các đoàn tế thập phương vào tế lễ.

Phần hội là những trò chơi dân gian như cờ tướng, chọi gà, vật ngoài ra

buổi tối có tổ chức hát văn, hát Chèo.

Ngày nay nhân dân Thầu Đầu (thôn Nghĩa Hưng) vẫn tổ chức và duy

trì lễ hội đình vào ngày mồng 10 tháng 2 nhưng về qui mô và thời gian được

rút ngắn, hình thức đơn giản không rườm rà. Không tổ chức lễ rước mà chỉ có

tế lễ, dâng hương và tổ chức các trò chơi dân gian.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Lễ hội truyền thống đình Nam Thần Đầu có ý nghĩa vô cùng quan trọng

đối với đời sống tâm linh và tinh thần của nhân dân xã Thái Tân nói riêng

cũng như của khách thập phương. Đây là hình thức sinh hoạt văn hóa thu hút

đông đảo quần chúng nhân dân tham gia. Mọi người đến với lễ hội đều mong

muốn những điều tốt đẹp nhất đến với mình, với gia đình và hàng xóm.

Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát

huy di sản văn hóa phi vật thể:

Qui trình thực hành lễ hội và các nghi thức liên quan trong lễ hội được

cộng đồng, BQL di tích tổ chức và thực hiện gần nhất với nghi lễ truyền

132

Page 136: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

thống do các thế hệ trước truyền lại. Các nguồn lực khác tham gia bảo vệ là

toàn thể nhân dân xã Thái Tân tham gia đóng góp, công đức cả về công sức

cũng như tiền bạc trong quá trình tổ chức lễ hội cũng như trong công tác giữ

gìn bảo vệ và phát huy giá trị của lễ hội.

UBND xã Thái Tân, BTC lễ hội cần có những biện pháp bảo vệ đảm

bảo an ninh trật tự, và quản lý tốt các dịch vụ, tránh không để xảy ra các hoạt

động mê tín dị đoan, chặt chém khách tham quan.

- Hội đình Phú Uyên

(Thôn Phú Uyên, xã Thái Tân, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Nguyễn Hữu Khải

Sinh năm: 1957 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Chủ nhang Đình.

Địa chỉ: Thôn Phú Uyên, xã Thái Tân, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

(2) Họ và tên: Phạm Xuân Trường

Sinh năm: 1962 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Chủ tịch UBND xã – Trưởng ban QLDT

Địa chỉ: Thôn Nghĩa Hưng, xã Thái Tân, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

(3) Họ và tên: Nguyễn Thị Dung

Sinh năm: 1990 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Cán bộ Văn hóa xã.

Địa chỉ: xã Thái Tân, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình

Nhận diện hội đình Phú Uyên:

Đình Phú Uyên được xây dựng vào thế kỷ 17, đây là công trình kiến

trúc thời Lê. Đình Phú Uyên là nơi thờ Hoàng Giáp Quách Hữu Nghiêm một

danh nhân văn hóa của đất nước. Đình được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa

cấp tỉnh năm 1998 ngày 26 tháng 2. Quách Hữu nghiêm sinh ngày 03 tháng

10 năm 1442 trong một gia đình cha làm quan huyện ở làng Phúc Khê huyện

Thanh Lan. Do chăm học lại thông minh năm Quí Mùi 1463 ông thi đỗ cử

133

Page 137: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

nhân, ba năm sau năm Bính Tuất (1466) ông thi đình đỗ Đệ Nhị Giáp tiến sĩ

tức Hoàng Giáp. Trong 31 năm làm quan ở triều đình nhà Lê với tài năng xuất

sắc ông được Vua Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông trọng dụng giao cho nhiều

chức vụ quan trọng. Thượng thư Bộ Lại kiêm đô Ngự Sử. Ngày 09 tháng 9

tháng 1504 ông mất thọ 62 tuổi trước khi đỗ đạt ông có thời gian mở trường

dạy học ở làng Phú Uyên. Ông là người đem ánh sáng văn hóa đến cho nhân

dân cả vùng. Để ghi nhớ công ơn nhân dân làng Phú Uyên lập đền thờ ông

được các thời vua chúa gửi sắc về đình từ đời vua Huyền Tông đến đời vua

Khải Định thứ 9, hiện nay còn lưu giữ được 9 sắc.

Lễ hội truyền thống đình Phú Uyên được tổ chức vào ngày mồng 4 tết

âm lịch. Dân làng Phú Uyên chuẩn bị chu đáo từ khâu tổ chức đến khâu thực

hành. Trong lễ hội có tổ chức dâng hương, sau lễ dâng hương là lễ tế của đội

tế Nam quan, tế nữ quan và hát văn.

Vào ngày lập Hạ ở đây còn tổ chức lễ rước thuyền truyền thống, số

người dân tham lễ rước đông đảo khoảng 1500-1700 toàn thể nhân dân địa

phương và có cả con em xa quê, khách thập phương.

Ngoài lễ tế, lễ rước trong khi tổ chức lễ hội còn tổ chức các trò chơi

dân gian như chọi gà, cờ tướng, vật, tổ tôm…

Hiện trạng di sản văn hóa phi vật thể: Lễ hội đình Phú Uyên hàng năm

vẫn duy trì, và được tổ chức từ ngày 4 tết.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Lễ hội đình Phú Uyên nhắc nhở người dân nhớ đến Quách Hữu nghiêm

người có công trong việc dậy con cháu trong làng có cái chữ. Mang truyền

thống giáo dục cao, để nhân dân trong làng noi gương học tập nhiều người đỗ

đạt thành danh, phục vụ đất nước. Đây là nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh, là

nơi nhân dân trong làng hàng năm tuyên dương các cháu học giỏi, thi đỗ đạt.

Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát

huy di sản văn hóa phi vật thể:

Các nguồn lực khác tham gia bảo vệ di tích và lễ hội đình Phú Uyên do

134

Page 138: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

toàn thể nhân dân xã Thái Tân tham gia vào quá trình tổ chức lễ hội cũng như

trong công tác giữ gìn bảo vệ và phát huy giá trị của lễ hội.

BTC, Ban an ninh xã đã triển khai nhiều phương án đảm bảo an ninh,

trật tự trong quá trình tổ chức lễ hội.

Đề nghị các cấp ngành trung ương đầu tư kinh phí để nâng cấp đình

thành nơi tham quan du lịch làng quê, đầu tư cơ sở vật chất tu sửa những hạng

mục đã hư hỏng, tạo thêm cây xanh, vườn hoa cây cảnh, tôn nền đình cao

thêm 0,6m để lấy không gian cho các hoạt động lễ hội.

29. XÃ MỸ LỘC

- Hội đình Chiều

(Thôn Vũ Biên, xã Mỹ Lộc, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình).

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Nguyễn Quang Lân

Sinh năm:1950 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Thủ nhang chùa

Địa chỉ liên lạc: Thôn Vũ Biên, xã Mỹ Lộc, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

(2) Họ và tên: Giang Văn Thắng

Sinh năm:1975 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Trưởng thôn Vũ Biên

Địa chỉ liên lạc: Thôn Vũ Biên, xã Mỹ Lộc, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

(3) Họ và tên: Bùi Tiến Thuật

Sinh năm:1955 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Lao động tự do

Địa chỉ liên lạc: Thôn Vũ Biên, xã Mỹ Lộc, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

Nhận diện hội đình Chiều:

Đình Chiều được xây dựng vào khoảng thế kỷ XVIII. Tương truyền

trong một chuyến đi biển đánh bắt tôm cá dân làng Vũ Biên kéo được một

thanh kiếm lạ mắc vào, cứ thả xuống biển, sau lại kéo được kiếm mà không

đánh bắt được gì. Thấy lạ, dân làng quyết định mang thanh kiếm về làng. Từ

135

Page 139: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

khi mang thanh kiếm về nhân dân trong làng thấy có nhiều điềm lạ. Điều tra

ra thì đây là thanh kiếm của tướng quân Nguyễn Hữu Cầu (1712-1751), còn

có tên gọi khác là quận He, một lãnh tụ tiêu biểu của cuộc khởi nghĩa nông

dân Đàng Ngoài. Từ khi dân làng Vũ Biên dựng đình thờ Đức đại vương

Nguyễn Hữu Cầu cùng với thanh kiếm của Ngài thì nhân dân trong làng làm

ăn phát đạt. Từ một ngôi đình tường đất lợp rạ quay hướng Bắc, sau ba lần

trùng tu, tôn tạo, ngôi Đình mới khang trang như ngày hôm nay.

Hàng năm, cứ vào ngày mồng 9 đến ngày mồng 10 tháng 8 âm lịch

nhân dân làng Vũ Biên lại tụ họp về đây mở lễ hội truyền thống để tưởng nhớ

vị anh hùng Nguyễn Hữu Cầu được tôn thờ là Thành hoàng của đình Chiều,

vị Thánh trông coi 12 cửa biển canh giữ phía đông bắc của tổ quốc dọc miền

duyên hải trong đó có thôn Vũ Biên.

Vào ngày 9 tháng 8, sau khi nhân dân tập trung tại Đình, UBND xã tổ

chức khai mạc lễ hội. Sau đó là lễ dâng hương, dâng các sản vật của quê

hương như hương, hoa, xôi, thủ lợn lên đức Thành hoàng làng. Trong những

ngày hội cùng với những các hoạt động tế lễ của các đoàn tế nữ quan và nam

quan là các trò chơi dân gian như cờ tướng, chọi gà, kéo co. Buổi tối là liên

hoan văn nghệ của nhân dân xã Mỹ Lộc với các Câu lạc bộ người cao tuổi,

Hội phụ nữ các xã lân cận như Thái Xuyên, Thái Tân. Ngày 10 tháng 8 ban tổ

chức làm lễ tạ và bế mạc lễ hội.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Lễ hội là dịp để nhân dân xã Mỹ Lộc tưởng nhớ vị anh hùng nông dân,

vị lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa Nguyễn Hữu Cầu. Đây cũng là dịp để giáo dục

các giá trị truyền thống cho thế hệ trẻ, giữ gìn những giá trị văn hóa tinh thần

tốt đẹp của người dân nơi đây. Đình Chiều và lễ hội đình Chiều là một di sản

văn hóa quý báu và là niềm tự hào của quê hương.

Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát

huy di sản văn hóa phi vật thể:

136

Page 140: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

UBND xã Mỹ Lộc hàng năm đứng ra thành lập Ban Tổ chức, Ban

Khánh tiết, Ban Hậu cần, đảm bảo an ninh trật tự trong quá trình diễn ra lễ

hội, tạo mọi điều kiện cho bà con tham gia vào các hoạt động và tế lễ tại đình.

Nguồn kinh phí tổ chức lễ hội chủ yếu là của nhân dân trong xã, con

em xa quê, khách thập phương đóng góp công đức, tiền mặt, ngày công để tu

sửa nơi thờ tự, tham gia công tác chuẩn bị lễ hội góp phần giũ gìn và phát huy

giá trị của đình Chiều và lễ hội truyền thống của đình.

- Hội đền Phố Dâu

(Thôn Chỉ Thiện, xã Mỹ Lộc, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình).

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Bùi Văn Năm

Sinh năm:1957 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Ban khánh tiết

Địa chỉ liên lạc: Thôn Chỉ Thiện, xã Mỹ Lộc, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình.

(2) Họ và tên: Mạnh Tiến Thuật

Sinh năm:1968 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Trưởng ban khánh tiết

Địa chỉ liên lạc: Thôn Tân Minh, xã Mỹ Lộc, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình.

(3) Họ và tên: Bùi Văn Hạnh

Sinh năm:1963 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Lao động tự do

Địa chỉ liên lạc: Thôn Tân Minh, xã Mỹ Lộc, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình.

Nhận diện hội đền Phố Dâu:

Tương truyền đền Phố Dâu được xây dựng vào khoảng thế kỷ XVII

do người Hoa và người Cao Ly di cư sang đây xây dựng tại khu vực bãi

sông trà Lý (xưa kia đây là vùng đất màu mỡ nên các thuyền buôn của người

137

Page 141: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Hoa và người Cao Ly đã chọn nơi đây định cư). Đền Phố Dâu thờ nhị vị

thần hoàng là:

+ Đại càn quốc gia Nam Hải tứ vị thượng đẳng thần – Tống Thái Hậu.

Bà là mẹ của Tống Đế Bính triều Nam Tống thế kỷ XIII. Năm 1279, khi quân

Mông Cổ vây đánh nhà Tống, thấy quân nhà Tống bị giết rất nhiều bà đã cùng

2 công chúa nhảy xuống biển tự vẫn. Xác của bà dạt vào cửa biển Nghệ An và

được nhân dân lập miếu thờ. Bà thường hiển linh cứu giúp ngư dân gặp nạn

trên sông, trên biển. Khi vua Trần Anh Tông (1293-1314) xuất quân đi đánh

giặc Chiêm Thành đi qua nơi đây, nằm mộng thấy bà âm phù cho thắng trận.

Sau khi thắng trận trở về, vua đã phong sắc cho bà và lập đền thờ bà ở nhiều

nơi trong đó có Đền Phố Dâu.

+Thiên Hậu Thánh Mẫu nguyên trung đẳng thần. Bà tên là Lâm Mặc

Nương, người Phúc Kiến (Trung Quốc). Bà được xem như vị thần bảo trợ của

ngư phủ và người đi biển được tôn kinh đặc biệt cả trong Phật giáo và Đạo

giáo và các quốc gia Đông Nam Á. Với sự di cư của thương nhân ngoại quốc

việc thờ phụng bà đã du nhập vào nước ta. Thiên Hạ Thánh Mẫu được xem

như vị thần bảo trợ của những người di cư mới đến.

Hàng năm vào ngày 20 đến ngày 22 tháng 3 âm lịch người dân thôn Chỉ

Thiện lại cùng nhau tổ chức lễ hội để tưởng niệm công lao to lớn của hai bà.

Theo lời kể lại của nhiều người cao tuổi trong làng thì xưa kia lễ hội

truyền thống Đền Phố Dâu có lễ rước kiệu, rước nước quanh làng vào ngày 21

tháng 3 và vào ngày lễ hội đều có cá he, cá voi bơi về cửa Đền, khi hội kết

thúc cá cũng bơi ra biển. Tuy nhiên, hiện nay phần rước kiệu quanh làng đã bị

mai một, chưa được khôi phục lại. Ngày 20 tháng 3 sau phần tóm tắt lịch sử

ngôi đền Phố Dâu, công trạng của các vị Thánh Mẫu là phần đánh trống khai

hội, lễ dâng hương của các đoàn đại biểu, nhân dân trong xã và lễ tế nam

quan, nữ quan của các đoàn tế trong thôn ngoài xã. Trong các ngày hội đan

xen với hoạt động tế lễ là các trò chơi như bơi chải, bắt vịt, múa rối nước, cờ

tướng, buổi tối có các tiết mục giao lưu văn nghệ. Ngày 23 tháng 3 là ngày

138

Page 142: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

giã hội, BTC làm lễ tế lễ tạ và đóng cửa đền.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Lễ hội truyền thống Đền Phố Dâu là dịp con người được trở về với

nguồn cội, có ý nghĩa thiêng liêng trong tâm thức mỗi người dân nơi đây. Lễ

hội là nhu cầu sang tạo và hưởng thụ những giá trị tinh thần, là hình thức giáo

dục, chuyển giao cho các thế hệ sau biết giữ gìn, kế thừa và phát huy những

giá trị đạo đức quý báu của người dân thôn Chỉ Thiện theo cách riêng của họ.

Lễ hội cũng là lúc những người ngư dân, nông dân trong thôn Chỉ Thiện giải

tỏa, giãi bày phiền muộn, lo âu với thần linh, với nhị vị Thánh Mẫu và cầu

mong được Thánh Mẫu giúp đỡ, che chở, đặng vượt qua những thử thách

sóng to gió cả trong những chuyển đi khơi.

Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát

huy di sản văn hóa phi vật thể:

- Cấp ủy chính quyền địa phương quan tâm, tạo điều kiện cho bà con

thực hành hội.

- Ban Khánh tiết đền Phố Dâu đã tích cực, chủ động trong việc hỗ trợ

cộng đồng thực hành, trong việc xây dựng nội quy tổ chức lễ hội và công tác

bảo vệ môi trường quanh di tích được xanh sạch đẹp.

- Hội đình Chỉ Thiện

(Thôn Chỉ Thiện, xã Mỹ Lộc, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình).

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Mạnh Tiến Thuật

Sinh năm:1968 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Trưởng Ban khánh tiết

Địa chỉ liên lạc: Thôn Chí Thiện, xã Mỹ Lộc, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình.

(2) Họ và tên: Nguyễn Tường Bẩm

Sinh năm:1983 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Ngư dân

139

Page 143: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Địa chỉ liên lạc: Thôn Chỉ Thiện, xã Mỹ Lộc, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình.

(3) Họ và tên: Phạm Văn Dũng

Sinh năm:1958 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Chỉ Thiện, xã Mỹ Lộc, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình.

Nhận diện hội đình Chỉ Thiện:

Đình thôn Chỉ Thiện thờ Dinh điền sứ Nguyễn Công Trứ, người đã có

công khai hoang, lấn biển lập nên vùng đất Mỹ Lộc ngày nay. Hàng năm nhân

dân thôn Chỉ Thiên mở hội làng vào ngày 15 tháng 11 âm lịch để tướng nhớ

đến công lao của Thành hoàng làng Nguyễn Công Trứ người đã có công quai

đê lấn biển, mở ấp lập làng vùng cửa biển Thái Bình. Lễ hội đình Chỉ Thiện

bao gồm những nghi thức chính như sáng ngày 15 tháng 11 đại diện UBND

xã lên điều hành lễ khai mạc lễ hội, sau đó là lễ dâng hương của các dòng họ,

nhân dân trong xã. Lễ tế Thành hoàng làng do đoàn tế nam quan và nữ quan

thôn Chỉ Thiện thực hiện. Lễ vật dâng lên đức thành hoàng làng là những sản

vật địa phương như xôi, gà, trầu cau, rượu, hoa quả, hương đăng. Hội đình

Chỉ Thiện chỉ có phần tế lễ, tưởng nhớ công lao của thành hoàng làng mà

không tổ chức các trò chơi dân gian truyền thống.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Lễ hội truyền thống Đình Chỉ Thiện là nơi người dân tưởng nhớ công

lao và tỏ lòng thành kính tới vị anh hùng Nguyễn Công Trứ, người đã có công

khai hoang lấn biển hình thành nên vùng đất Thái Bình ngày nay. Lễ hội là

dịp cộng đồng cùng nhau thờ cúng người có công với dân với nước, là một

phần không thể thiếu trong cuộc sống tinh thần của người dân.

Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát

huy di sản văn hóa phi vật thể:

140

Page 144: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Hàng năm BQL di tích, Ban Khánh tiết, Ban công tác mặt trận thôn,

cùng cấp ủy thôn Chỉ Thiện chủ động trong công tác quản lý di tích và tổ

chức lễ hội hàng năm.

Cộng đồng đề nghị Cấp ủy chính quyền địa phương quan tâm hơn nữa

đến công tác tuyên truyền, vận động quảng bá về giá trị của lễ hội đến đông

đảo người dân trong thôn Chỉ Thiện và trong toàn xã Mỹ Lộc.

Ban văn hóa xã, Ban QLDT thực hiện công tác quản lý di tích và hỗ trợ

cộng đồng trong tổ chức các hoạt động của lễ.

- Hội đình Lũng Tả

(Thôn Lũng Tả, xã Mỹ Lộc, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình).

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Ngô Khải Kình

Sinh năm:1949 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Thủ nhang

Địa chỉ liên lạc: Thôn Lũng Tả, xã Mỹ Lộc, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

(2) Họ và tên: Nguyễn Văn Kiểm

Sinh năm:1956 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Ban khánh tiết Đình

Địa chỉ liên lạc: Thôn Lũng Tả, xã Mỹ Lộc, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

(3) Họ và tên: Ngô Đình Thuận

Sinh năm:1970 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Lao động tự do

Địa chỉ liên lạc: Thôn Lũng Tả, xã Mỹ Lộc, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình.

Nhận diện hội đình Lũng Tả:

Đình thôn Lũng Tả được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ XIX, được

nhân dân trong làng đóng góp, công đức trùng tu, tôn tạo vào năm 2012,

2015. Đình thôn Lũng Tả thờ Đại Càn Quốc gia Nam Hải đại vương làm

Thành hoàng làng bảo trợ của người dân trong thôn. Lễ hội truyền thống đình

141

Page 145: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Lũng Tả hàng năm diễn ra vào ngày mồng 10 tháng 3 âm lịch.

Sáng ngày mồng 10 tháng 3 đại diện UBND xã Mỹ Lộc thay mặt BTC

lên đọc diễn văn khai mạc lễ hội với nội dung ôn lại công lao của đức thánh

Đại Càn Quốc gia Nam Hải đại vương đối với nhân dân thôn Lũng Tả. Sau đó

là lễ dâng hương của các vị đại biểu huyện, xã và các dòng họ, nhân dân trong

thôn. Nghi thức trang trọng và linh thiêng nhất là lễ tế nam quan, sau đó là lễ

dâng hương của đoàn tế nữ quan thôn Lũng Tả. Lễ hội đình Lũng Tả chỉ diễn

ra trong vòng một ngày cho dân làng dâng hương lễ thánh mà không tổ chức

các trò chơi dân gian như nhiều lễ hội khác.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Lễ hội truyền thống đình Lũng Tả là di sản văn hóa của người dân thôn

Lũng Tả nói riêng và người dân xã Mỹ Lộc nói chung. Lễ hội hàng năm là dịp

người dân tỏ lòng thành kính và tạ ơn các vị thánh được thờ trong Đình đã

che chở, ban phúc lộc cho người dân. Lễ hội cũng là dịp truyền dạy lại các

nghi thức tế lễ, giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của cha ông để lại.

Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát

huy di sản văn hóa phi vật thể:

- Hội đình Lũng Tả là lễ hội làng diễn ra trong quy mô thôn làng,

việc tổ chức các hoạt động nghi lễ đều do BQL di tích, Ban khánh tiết cùng

cộng đồng chủ động trong tất cả các hoạt động dưới sự chỉ đạo của chính

quyền địa phương.

- BQL di tích đình Lũng Tả đề nghị UBND xã Mỹ Lộc, Phòng VHTT

huyện Thái Thụy quan tâm và tạo điều kiện về kinh phí cho công tác tổ chức

lễ hội Cộng đồng nhiệt tình tham gia và đóng góp tiền của trong tổ chức hội.

- Hội chùa Chỉ Thiện

(Thôn Chỉ Thiện, xã Mỹ Lộc, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình).

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Thích Đàm Nhương

Sinh năm:1948 Dân tộc: Kinh

142

Page 146: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Nghề nghiệp: Trụ trì

Địa chỉ liên lạc: Thôn Chỉ Thiện, xã Mỹ Lộc, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình.

(2) Họ và tên: Giang Văn Thâm

Sinh năm:1942 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Trưởng thôn Chỉ Thiện

Địa chỉ liên lạc: Thôn Chỉ Thiện, xã Mỹ Lộc, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình.

(3) Họ và tên: Bùi Văn Năm

Sinh năm:1955 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Vũ Biên, xã Mỹ Lộc, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình.

Nhận diện hội chùa Chỉ Thiện:

Chùa thôn Chỉ Thiện được xây dựng vào cuối thế kỷ XVIII. Đến năm

1904 được trùng tu tôn tạo lần thứ nhất. Trải qua nhiều biến cố của lịch sử,

chùa đã bị xuống cấp nghiêm trọng. Đến năm 2008, chùa được trùng tu tôn

tạo, xây dựng lại khang trang như ngày hôm nay.

Hàng năm vào ngày 5 tháng 3 âm lịch, chùa Chỉ Thiện lại mở lễ hội

truyền thống để đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, tâm linh của nhân dân trong thôn.

Hội chùa Chỉ Thiện được UBND xã Mỹ Lộc thống nhất chương trình

với Ban công tác mặt trận thôn, sư trụ trì về các công việc trong ngày hội.

Sáng ngày mồng 5 tháng 3 đại diện BTC lên đọc diễn văn khai mạc lễ hội,

sau đó là lễ dâng hương của đại diện UBND xã, chính quyền thôn, đại diện

các dòng họ trong thôn Chỉ Thiện và toàn thể nhân dân trong thôn. Trong

ngày lễ hội có lễ tế dâng hương phật, mẫu của đoàn tế nữ quan thôn Chỉ

Thiện.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Lễ hội truyền thống chùa Chỉ Thiện là một sinh hoạt văn hóa của người

143

Page 147: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

dân xã Mỹ Lộc nói chung và người dân thôn Chỉ Thiện nói riêng được thực

hành hàng năm nhằm đáp ứng nhu cầu tâm linh của người dân. Trong ngày lễ

hội dân làng đến dâng hương lễ Phật, để giải bày những phiền muộn, lo âu và

cầu mong phật thánh che trở cho gia đình một năm bình an, may mắn.

Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát

huy di sản văn hóa phi vật thể:

Hội chùa Chỉ Thiện hàng năm được nhân dân, con em xa quê và khách

thập phương đóng góp công đức, tạo nguồn kinh phí để tu bổ, phục hồi di tích

đồng thời lấy kinh phí tổ chức lễ hội. Trong quá trình tổ chức lễ hội được Đội

trật tự trong thôn đảm bảo an ninh trật tự cho bà con trong làng đi dâng hương

lễ phật. Cảnh quan kiến trúc chùa được Sư thầy quan tâm chỉnh trang để cho

mỗi người dân khi đến với chùa lòng được tĩnh tâm, hướng thiện.

30. XÃ THÁI HÀ

- Hội đền Côn Giang

(Thôn Thuyền Quang, xã Thái Hà, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Phạm Văn Tường

Sinh năm:1970 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: chủ tịch UBND xã – Trưởng ban khánh tiết

Địa chỉ liên lạc: UBND xã Thái Hà, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

(2) Họ và tên: Quách Đình Thuyên

Sinh năm:1972 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Thủ nhang

Địa chỉ liên lạc: Thôn Thuyền quang, xã Thái Hà, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình.

(3) Họ và tên: Nguyễn Tiến Dũng

Sinh năm:1975 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Ban tổ chức lễ hội

Địa chỉ liên lạc: UBND xã Thái Hà, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

144

Page 148: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Nhận diện hội đền Côn Giang:

Đền Côn Giang thôn Thuyền Quang nằm trong cụm di tích lịch sử cấp

quốc gia thờ danh nhân Quách Đình Bảo và Quách Hữu Nghiêm. Đền được

khởi công xây dựng từ đầu thế kỷ XVI, sửa lại năm Bảo Đại thứ 12 (1937),

gồm 3 tòa 17 gian, bố cục kiểu chữ “tam”. Sinh thời, Quách Hữu Nghiêm

thường cứu giúp dân ấp sông Cun (Côn Giang) mỗi khi khăn hoạn nạn. Trong

một lần về thăm quê ông đột nhiên lâm bệnh và mất, nhân dân trong làng nhớ

đến công đức của ông đã lập đền thờ ông.

Lễ hội truyền thống đền Côn Giang hàng năm diễn ra từ ngày mồng 7

đến ngày mồng 10 tháng 9 âm lịch để tưởng nhớ công lao của vị đại thần

Quách Hữu Nghiêm, người có công đầu trong việc đi sứ ngoại giao với Trung

Quốc thời hậu Lê và với nhân dân xã Thái Hà nói riêng.

Vào ngày mồng 7 tháng 9 âm lịch sau tại đền Côn Giang xã Thái Hà

nhân dân và BTC lễ hội long trọng khai mạc lễ hội đền. Lễ hội hàng năm

nhân dân đền Côn Giang (xã Thái Hà) sang đền Thái Phúc (xã Thái Phúc) để

rước chân nhang ông Quách Hữu Nghiêm và vợ về đền tổ chức lễ hội. Đoàn

rước gồm đội múa lân, múa rồng, 2 ông ngựa, cờ thần, kiệu thần, đoàn tế nam

quan, nữ quan, phường bát âm cùng toàn thể nhân dân trong làng. Số lượng

người trực tiếp thực hành rước kiệu và tế lễ trong đền Côn Giang hiện có là

đội tế nữ quan 50 người, đội tế nam quan 30 người, đội khiêng kiệu 50 người,

đội lân, sư, rồng 30 người. Kiệu ngài Quách Hữu Nghiêm do những nam

thanh niên khỏe mạnh trong làng khiêng, còn kiệu Bà do những nữ thanh niên

tuổi từ 18 đến 20 được tuyển chọn kỹ càng tham gia rước kiệu. Đoàn rước

kiệu trống dong cờ mở sang sang đền Thái Phúc xin rước chân nhang về đền

Côn Giang để khai mạc lễ hội. Đại diện UBND xã Thái Hà đọc diễn văn khai

mạc với nội dung kể về công đức của đức thánh Quách Hữu Nghiêm đối với

nhân dân thôn Thuyền Quang nói riêng xã Thái Hà nói chung. Sau lễ khai

mạc là lễ dâng hương, dâng lễ vật bao gồm các sản vật nông sản của địa

phương của các cấp chính quyền địa phương, của dòng họ Quách, của các

145

Page 149: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

dòng họ trong xã và toàn thể nhân dân. Trong ngày lễ hội đoàn tế nam quan

và nữ quan của thôn Thuyền Quang thực hiện các nghi thức tế lễ dâng lễ vật

lên đức ngài Quách Hữu Nghiêm. Hội đền Côn Giang cũng là lúc nhân dân và

các đoàn tế trong trong vùng về đây dâng hương tưởng nhớ đến công đức của

Thượng thư Quách Hữu Nghiêm. Người dân trong thôn được tham gia vào

các trò chơi dân gian như cờ tướng, chọi gà và những buổi giao lưu văn nghệ

của nhân dân trong xã tại sân đền.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Hàng năm cứ mỗi dịp hội làng nhân dân thôn Thuyền Quang xã Thái Hà

lại tổ chức lễ hội truyền thống tưng bừng, trang trọng để tưởng nhớ công lao,

tài đức của vị Thành hoàng Quách Hữu Nghiêm đối với đất nước nói chung và

người dân xã Thái Hà nói riêng. Đồng thời, dân làng cầu mong một năm mưa

thuận gió hòa, mùa màng bội thu, cầu mong sức khỏe, tài lộc, con cháu học

hành, làm ăn tấn tới. Lễ hội cũng là dịp người dân nghỉ ngơi, tham gia các trò

chơi dân gian, hầu đồng, tế lễ, thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng, tâm linh.

Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát

huy di sản văn hóa phi vật thể:

- Hàng năm UBND xã đứng ra chỉ đạo thành lập BTC lễ hội, lãnh đạo

thôn thành lập Ban khánh tiết, Ban hậu cần đảm bảo công tác an ninh trật tự

trong những ngày diễn ra lễ hội. Hội Phụ nữ, Hội Người cao tuổi thôn cùng

các thành viên cộng đồng nhiệt tình tham gia vào công tác chuẩn bị, hậu cần,

khánh tiết của lễ hội.

- Nguồn kinh phí tổ chức lễ hội hàng năm do toàn thể nhân dân, con em

xa quê đóng góp công đức.

- Cộng đồng đề xuất với các cấp chính quyền, ngành văn hóa cấp trên

cần tạo điều kiện hơn nữa về kinh phí trùng tu, tôn tạo lại chùa cũng như kinh

phí cho tổ chức lễ hội cho đền Côn Giang hàng năm.

31. XÃ HỒNG QUỲNH

- Hội chùa Bụi

146

Page 150: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

(Thôn Đông Hòa, xã Hồng Quỳnh, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên (Bà) Nguyễn Thị Lĩnh

Sinh năm:1966 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Xã Hồng Quỳnh, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình

(2) Họ và tên (bà) Nguyễn Thị Niếp

Sinh năm: 1958 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Xã Hồng Quỳnh, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình

(3) Họ và tên (bà): Nguyễn Thị Hạt

Sinh năm:1953 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Xã Hồng Quỳnh, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình

(4) Họ và tên: Nguyễn Mậu Tuyến

Ngày, tháng, năm sinh: 1972 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Cán bộ xã

Địa chỉ liên lạc: UBND xã Hồng Quỳnh, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái

Bình.

(5) Họ và tên: Lễ Xuân Tuấn

Sinh năm: Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Công chức văn hóa

Địa chỉ liên lạc: UBND xã Hồng Quỳnh, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

Nhận diện hội chùa Bụi:

Chùa Bụi thôn Đông Hòa ngoài thờ phật còn phối thờ Hưng Đạo đại

vương. Năm 2005 nhân dân trong làng đóng góp xây dựng lại ngôi chùa

khang trang như ngày nay.

Hàng năm nhân dân thôn Đông Hòa tổ chức lễ hội chùa Bụi diễn ra từ

ngày 18 đến ngày 20 tháng 8 âm lịch để tưởng nhớ đến công lao dựng nước

147

Page 151: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

và giữ nước của Hưng Đạo đại vương. Sáng ngày 18 tháng 8 âm lịch nhân

dân thôn Đông Hòa, cùng các vị đại biểu trong xã Hồng Quỳnh tập chung

đông đủ tại sân chùa Bụi, đại diện BTC lễ hội lên đọc diễn văn khai mạc kể

về công lao của đức Thánh trần với nhân dân quê hương, sau đó là lễ dâng

hương của UBND xã, đại diện thôn, nhân dân trong làng và du khách thập

phương. Hội chùa Bụi 5 năm làng tổ chức hội lớn rước Thánh đi quanh làng

một lần, còn hàng năm chỉ tổ chức hội lệ với nghi thức tế lễ của đoàn tế nữ

quan tại sân chùa.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Lễ hội chùa Bụi được tổ chức để cầu cho nhân dân địa phương gặp

nhiều may mắn, mùa màng bội thu, người người khỏe mạnh, con em của quê

hương công tác và học hành đỗ đạt. Hội chùa Bụi hàng năm được tổ chức

nhằm đáp ứng nguyện vọng tâm linh của cộng đồng nhân dân địa phương.

Các biện pháp bảo vệ và phát huy đã và đang triển khai và đề xuất của

chủ thể để bảo vệ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể:

- Chính quyền và các ban ngành đã cùng nhau tham gia triển khai các

hoạt động hội.

-Hội chùa Bụi xã Hồng Quỳnh hàng năm vẫn được duy trì và thực hành

với sự tham gia nhiệt tình của các thành viên cộng đồng.

- Cộng đồng đóng góp kinh phí tổ chức lễ hội. Ngoài ra, con em xa quê

và khách thập phương cũng tham gia công đức, đóng góp tiền của cho các

hoạt động của lễ hội.

32. XÃ THÁI THÀNH

- Hội đình Đồng Nhân

(Thôn Đồng Nhân, xã Thái Thành, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình).

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Đào Văn Tòng

Sinh năm:1930 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Thủ nhang

148

Page 152: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Địa chỉ liên lạc: Thôn Đồng Nhân, xã Thái Thành, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình.

(2) Họ và tên: Nguyễn Văn Trìu

Sinh năm:1922 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Cán bộ hưu trí

Địa chỉ liên lạc: Thôn Đồng Nhân, xã Thái Thành, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình.

(3) Họ và tên: Bùi Văn Năm

Sinh năm:1955 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Vũ Biên, xã Mỹ Lộc, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình.

Nhận diện hội đình Đồng Nhân:

Năm 1828, khi thành lập làng Đồng Nhân dân làng dựng ba gian nhà

tranh lá để làm đình và là nơi hội họp của dân làng. Đến thời Tự Đức đình

được xây dựng kiên cố đến năm Thành Thái thứ 8 (1896), Khải Định thứ 6

(1922) đình được đại tu và có diện mạo như ngày hôm nay. Đình Đồng Nhân

thờ 3 vị thành hoàng là Trần Hưng Đạo đại vương, Dinh điền sứ Nguyễn

Công Trứ (người có công tổ chức khai hoang vùng cửa sông Trà Lý và Tân

Bồi) và Nguyễn Phúc Riền (ông là người tòng mộ, dẫn con em đến khẩn

hoang, lập nên thôn Đồng Nhân).

Hội đình Đồng Nhân hàng năm được nhân dân trong làng tổ chức vào

ngày 14 tháng 11 âm lịch để tưởng nhớ tới công lao của các vị Thành hoàng

có công với xóm làng. Theo lời các cụ kể lại trước kia ngoài màn tế lễ, dâng

hương của các dòng họ trong làng trong lễ hội làng còn tổ chức các trò chơi

dân gian như: đánh đu, cờ tướng, chọi gà và trò vật cầu. Quả cầu làm bằng củ

chuối hột, đẽo hình bầu dục thật nhẵn. Hai đội chơi, mỗi đội từ 5 đến 10

người đàn ông khỏe, đóng khố, cởi trần. Quả cầu được cất ở dưới 1 trong 3 hố

có đổ đầy bùn (hố đào hàm ếch, trên bé dưới to, miệng hố chỉ đựng vừa quả

149

Page 153: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

cầu dựng đứng, nếu để nằm ngang không lấy lên được). Bên cạnh các hố cầu

có một cái rọ đan bằng tre, hình phễu, dựng ngược. Hai đội tranh nhau quả

cầu để bỏ vào rọ của đối phương, đội nào bỏ được nhiều cầu thì thắng cuộc.

Trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử trò chơi vật cầu đền Đồng nhân

đến nay không còn.

Sáng sớm ngày 14 tháng 11 âm lịch nhân dân thôn Đồng Nhân tề tựu

đông đủ trước đình cùng BTC làm lễ mạc lễ hội. Đại diện UBND xã lên đọc

diễn văn khai mạc kể về công tích của các vị thành hoàng làng Đồng nhân sau

đó dân làng dâng lễ là những sản vật của địa phương do dân làng sản xuất

được. Lễ dâng hương của đại diện UBND xã, thôn, các dòng họ, nhân dân

trong xã. Tiếp theo là phần tế nam quan và nữ quan của các đoàn tế trong xã

và ngoài xã. Trong ngày hội đình Đồng Nhân dân làng còn được tham gia vào

các trò chơi dân gian đánh đu, cờ tướng, chọi gà.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Lễ hội truyền thống đình Đồng Nhân là nơi người dân tưởng nhớ công

lao và tỏ lòng thành kính tới các vị Thành hoàng làng đã có công khai hoang,

lập ấp, hình thành nên làng Đồng Nhân hiện nay. Lễ hội cũng là dịp người

dân được tham gia các hoạt động tế lễ, các trò chơi dân gian, sinh hoạt văn

hóa cộng đồng, từ đó gắn kết thêm tình làng, nghĩa xóm. Lễ hội có thể nói là

sợi dây kết nối các thành viên cộng đồng.

Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát

huy di sản văn hóa phi vật thể:

-UBND xã Thái Thành thành lập Ban tổ chức, Ban hậu cần, Ban khánh

tiết, đảm bảo an ninh, trật tự trong ngày diễn ra lễ hội. Nhân dân thôn Đồng

Nhân cùng người dân trong xã Thái Thành luôn có ý thức tham gia, bảo vệ và

phát huy giá trị di sản.

-Cộng đồng đề nghị các cấp chính quyền địa phương cần tạo điều kiện

về kinh phí trùng tu, tôn tạo lại di tích cũng như kinh phí khôi phục lại trò vật

cầu trong lễ hội đình Đồng Nhân.

150

Page 154: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

- Hội đình Tuân Nghĩa

(Thôn Tuân Nghĩa, xã Thái Thành, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình).

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Phạm Trọng Kự

Sinh năm:1936 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Tuân Nghĩa, xã Thái Thành, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình.

(2) Họ và tên: Phạm Thị Hòa

Sinh năm:1962 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Tuân Nghĩa, xã Thái Thành, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình.

Nhận diện hội đình Tuân Nghĩa:

Đình Tuân Nghĩa được khởi công xây dựng dưới thời Tự Đức là ngôi

đình lớn của vùng ven biển Thái Ninh. Đình đã bị thực dân Pháp san phẳng

năm 1950. Vào những năm 1994-1995, đình được khôi phục lại như ngày

hôm nay. Đình làng Tuân Nghĩa thờ ba vị thành hoàng làng là Nguyễn Công

Trứ, Triệu Vũ Đế và Phạm Đình Tuân là những người có công khai hoang,

lập ấp nên làng Tuân Nghĩa ngày nay.

Hàng năm nhân dân trong làng Tuân Nghĩa tổ chức lễ hội diễn ra từ

ngày mồng 6 đến ngày mồng 8 tháng 8 âm lịch để tưởng nhớ công lao của các

vị Thành hoàng làng.

Sáng ngày mồng 6 tháng 8 dân làng Tuân Nghĩa tập chung đông đủ

trước cửa đình làng, sau khi UBND xã làm khai mạc lễ hội là lễ rước kiệu từ

Đông làng sang Tây làng sau đó quay về đình. Đoàn rước gồm kiệu bát cống,

cờ, kiệu thần, đội bát âm, đội tế nam quan, nữ quan và nhân dân trong làng.

Sau khi rước thánh về đến đình là dâng lễ vật của các giáp trong làng.

Đoàn tế nam quan làm lễ tế Thỉnh sinh (tế lợn sống) vào chiều ngày

mồng 5 tháng 8 làm lễ mở cửa đình. Sáng ngày mồng 6 là nghi thức đại tế lễ

151

Page 155: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

vật bao gồm thủ lợn, xôi, hoa quả. Sau lễ tế nam quan là lễ tế của đoàn nữ

quan của các đoàn tế trong xã và ngoài xã. Trong ngày lễ hội dân làng còn

được đắm mình trong các trò chơi dân gian đánh đu, cờ tướng, chọi gà.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Lễ hội truyền thống đình Tuân Nghĩa là nơi người dân tưởng nhớ công

lao và tỏ lòng thành kính tới các vị Thành hoàng làng đã có công khai hoang,

lập ấp, hình thành nên làng Tuân Nghĩa hiện nay. Lễ hội cũng là dịp người

dân được tham gia các hoạt động tế lễ, các trò chơi dân gian, sinh hoạt văn

hóa cộng đồng, từ đó gắn kết thêm tình làng, nghĩa xóm.

Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát

huy di sản văn hóa phi vật thể:

-Lễ hội đình Tuân Nghĩa được sự quan tâm của UBND xã Thái Thành

đứng ra thành lập BTC lễ hội hàng năm, thành lập ban khánh tiết, ban hậu

cần, Ban an ninh để duy trì tổ chức lễ hội hàng năm.

-Kinh phí lễ hội chủ yếu dựa vào nguồn kinh phí xã hội hóa do nhân

dân, con em xa quê và khách thập phương đóng góp công đức.

- Hội đình Liên Khê

(Thôn Liên Khê, xã Thái Thành, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình).

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Trần Thị Én

Sinh năm: 1957 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Liên Khê, xã Thái Thành, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình.

(2) Họ và tên: Vũ Thị Yến

Sinh năm:1965 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Liên Khê, xã Thái Thành, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình.

152

Page 156: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Nhận diện hội đình Liên Khê:

Đình làng Liên Khê được xây dựng năm 1836 bằng tường đất lợp rạ.

Đến năm 1937 đình được xây lại bằng gạch gỗ. Đình đã bị thực dân Pháp san

phẳng năm 1950. Năm 2003 đình được khôi phục lại trên nền móng đình cũ

như ngày hôm nay. Đình thờ Thành hoàng làng Phí Hữu Đam.

Hàng năm nhân dân thôn Liên Khê tổ chức lễ hội từ ngày 14 đến ngày

16 tháng 11 âm lịch để tưởng nhớ công lao của vị Thành hoàng làng.

Sáng ngày 15 tháng 11 đại diện UBND xã khai mạc lễ hội là lễ rước

kiệu từ đình ra bốn ngôi miếu trong làng sau đó rước trở đình. Đoàn rước gồm

kiệu bát cống, cờ, kiệu thần, đội tế nam quan, nữ quan và nhân dân trong làng.

Sau khi về đình một vị chức sắc trong ban khánh tiết đọc chúc văn ca ngợi

công lao của Thành hoàng làng đối với nhân dân làng Liên Khê. Sau đó là các

dòng họ trong làng dâng lễ vật lên đức thánh. Trong ngày lễ hội đội tế nam

quan và nữa quan làm lễ tế thành hoàng làng thành kính trang nghiêm. Ngày

hội cũng là lúc dân làng được tham gia vào các trò chơi dân gian cờ tướng,

chọi gà. Buổi tối nhân dân thôn Liên Khê tổ chức giao lưu văn nghệ của Đoàn

thanh niên, Hội phụ nữ, Hội người cao tuổi.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Lễ hội truyền thống đình làng Liên Khê là nơi người dân tưởng nhớ

công lao và tỏ lòng thành kính tới vị Thành hoàng làng đã có công khai

hoang, lập ấp, hình thành nên làng Liên Khê hiện nay. Lễ hội cũng là dịp

để người dân nơi đây gặp gỡ lại những người con xa quê về dự hội, cùng

ôn lại truyền thống văn hóa tốt đẹp của cha ông, từ đó thêm gắn bó tình

làng nghĩa xóm.

Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát

huy di sản văn hóa phi vật thể:

-UBND xã Thái Thành đứng ra thành lập BTC lễ hội đình Liên Khê

hàng năm, thành lập Ban khánh tiết, Ban hậu cần, Ban an ninh để điều hành,

quản lý các hoạt động trong ngày lễ hội, tạo mọi điều kiện cho người dân

153

Page 157: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

tham gia hành hội.

-Nguồn kinh phí tổ chức lễ hội là nguồn xã hội hóa do nhân dân, con

em xa quê và khách thập phương đóng góp công đức.

- Hội đình Nghĩa Phong

(Thôn Nghĩa Phong, xã Thái Thành, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình).

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Phạm Thị Phương Đình

Sinh năm:1955 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Nghĩa Phong, xã Thái Thành, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình.

(2) Họ và tên: Trần Thị Rum

Sinh năm:1956 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Nghĩa Phong, xã Thái Thành, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình.

(3) Họ và tên: Phạm Văn Quỳ

Sinh năm:1928 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Nghĩa Phong, xã Thái Thành, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình.

(4) Họ và tên: Trần Văn Đạc

Sinh năm:1943 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Nghĩa Phong, xã Thái Thành, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình.

Nhận diện hội đình Nghĩa Phong:

Đình làng Nghĩa Phong được xây dựng lại trên nền móng cũ vào năm

1995, đến năm 2006 đình được trung tu, sửa chữa như ngày hôm nay. Đình

154

Page 158: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

làng Nghĩa Phong thờ Thủy Tề đại vương tôn thần. Hàng năm nhân dân thôn

Nghĩa Phong tổ chức lễ hội diễn ra từ ngày 15 đến ngày 16 tháng 8 âm lịch để

cầu mong Thủy Tề đại vương phù trợ cho dân làng. Nghi thức chính: Dâng

hương, tế lễ.

Ngày 15 tháng 8 đại diện UBND xã đọc diễn văn khai mạc lễ hội. Sau

đó là các dòng họ trong làng dâng lễ vật lên Thành hoàng làng. Trong ngày lễ

hội đội tế nam quan và nữa quan làm lễ tế thành hoàng làng thành kính trang

nghiêm, cầu mong đức thánh phù trợ cho dân làng một năm đi biển, làm ăn

gặp nhiều điều may mắn.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Hội đình Nghĩa Phong là nơi người dân trong tỏ lòng thành kính tới vị

Thành hoàng làng người đã che trở cho dân trong làng một năm qua. Lễ hội

cũng là dịp để người dân nơi đây gặp gỡ lại những người con xa quê về tham

dự lễ hội, cùng ôn lại truyền thống văn hóa tốt đẹp của cha ông, từ đó thêm

gắn bó tình làng nghĩa xóm.

Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát

huy di sản văn hóa phi vật thể:

- UBND xã Thái Thành chỉ đạo, tạo mọi điều kiện cho bà con thực

hành hội

- BTC lễ hội đình Nghĩa Phong,Ban khánh tiết, Ban hậu cần, Ban an

ninh để điều hành, quản lý và hỗ trợ cộng đồng trong các hoạt động trong

ngày lễ hội.

-Bà con đóng góp công sức và tiền của trong hành hội.

33. XÃ THÁI THUẦN

- Hội đình Đồng Kinh

(Thôn Đồng Kinh, xã Thái Thuần, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Phạm Văn Việt

Sinh năm: 1957 Dân tộc: Kinh

155

Page 159: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Nghề nghiệp: Trưởng BQL di tích

Địa chỉ: Xóm 1, thôn Đồng Kinh, xã Thái Thuần, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình.

(2) Họ và tên: Mai Công Chất

Sinh năm: 1935 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Cán bộ hưu

Địa chỉ: Xóm 1, thôn Đồng Kinh, xã Thái Thuần, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình.

(3) Họ và tên: Đào Duy Thưởng

Sinh năm: 1949 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Thương Binh

Địa chỉ: Xóm 2, thôn Đồng Kinh, xã Thái Thuần, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình.

(4) Họ và tên: Đỗ Thị Sửa

Sinh năm: 1955 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ: Thôn Đồng Kinh, xã Thái Thuần, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

(5) Họ và tên: Phạm Văn Xuân

Sinh năm: Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ: Thôn Đồng Kinh, xã Thái Thuần, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

(6) Họ và tên: Phạm Văn Lạc

Sinh năm: Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ: Thôn Đồng Kinh, xã Thái Thuần, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

Nhận diện hội đình Đồng Kinh:

Đình Đồng Kinh được xây dựng cuối năm 1790, là nơi thờ tự tam vị

Thần Hoàng đó là Đệ Nhất Phù Linh, Đệ nhị Uy linh và Đệ tam Minh linh.

Đây là ba vị tướng thời Lý có công giúp Lý Bôn đánh giặc lập lên nước Vạn

156

Page 160: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Xuân Độc Lập ở thế kỷ VI, giúp dân khai phá đất hoang, dạy cho dân biết

trồng lúa, trồng dâu nuôi tằm, ươm tơ dệt lụa. Tưởng nhớ công ơn của các vị

Thần hoàng người dân xã Thái Thuần đã thờ trong đình.

Lễ hội đình Đồng Kinh diễn ra mào ngày mồng 4 tháng Giêng âm lịch

hàng năm được Ban khánh tiết chuẩn bị chu đáo từ phần lễ cũng như phần hội.

BTC làm lễ khai mạc sau đó là lễ dâng hương của người dân trong làn.

Lễ vật dâng lên đức thánh gồm có hoa quả, xôi, gà. Sau lễ dâng hương là lễ tế

Nam quan và lễ tế Nữ quan do người dân thôn Đồng Kinh thực hiện. Trong

ngày hội dân làng Đồng Kinh còn được đắm mình trong các trò chơi dân gian

như bắt vịt, cờ tướng, chọi gà tạo nên không khí tươi vui, phấn khởi trong

toàn thể nhân dân. Buổi tối là chương trình giao lưu văn nghệ của nhân dân

thôn Đồng Kinh.

Hiện trạng di sản văn hóa phi vật thể: Lễ hội Đình Đông Kinh hàng

năm vẫn duy trì và tổ chức vào ngày mồng 4 tháng giêng âm lịch.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Lễ hội đình Đông Kinh ảnh hưởng sâu rộng tới toàn bộ người dân xã

Thái Thuần nhắc nhở ghi nhớ công lao của các vị Thần Hoàng có công xây

dựng và bảo vệ đất nước. Lễ hội là dịp cộng đồng cùng nhau tôn thờ vị thần

bảo trợ cho dân làng. Lễ hội là một phần không thể thiếu trong cuộc sống tinh

thần của người dân.

Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát

huy di sản văn hóa phi vật thể:

- UBND xã Thái Thuần chỉ đạo, tạo mọi điều kiện hỗ trợ cộng đồng

thực hành hội.

- Hàng năm BTC lễ hội đảm bảo công tác an ninh, trật tự, an toàn trong

quá trình diễn ra lễ hội.

34. XÃ THÁI PHÚC

- Hội chùa Phúc Lâm

(Thôn Phúc Tiền, xã Thái Phúc, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

157

Page 161: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Thích Thanh Khôi

Sinh Năm: 1942 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Sư trụ trì

Địa chỉ: Thôn Phúc Tiền, xã Thái Phúc, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

(2) Họ và tên: Quách Đình Khởi

Sinh năm: Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Cán bộ bán chuyên trách

Địa chỉ: UBND xã Thái Phúc, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

(3) Họ và tên: Phạm Thị Ngát

Sinh năm: 1952 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Thủ Nhang chùa Phúc Lâm

Địa chỉ: Thôn Phúc Tiền, xã Thái Phúc, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

(4) Họ và tên: Đỗ Văn Lịch

Sinh năm: Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Trưởng ban Quản lý di tích chùa Phúc Lâm.

Địa chỉ: Thôn Phúc Tiền, xã Thái Phúc, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

(5) Họ và tên: Nguyễn Thị Lương

Sinh năm: 1952 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ: Thôn Phúc Tiền, xã Thái Phúc, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

Nhận diện hội chùa Phúc Lâm:

Chùa Phúc Lâm là ngôi chùa cổ, xây dựng thời Lê (1707) thời Nguyễn

tôn tạo lại. Năm 2000 xây dựng nhà mẫu, năm 2001 xây nhà tổ. Chùa được

Ủy ban nhân dân tỉnh xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh năm 1992.

Hiện trong chùa còn rất nhiều hiện vật quí như chuông đồng thời Vĩnh Trị,

chuông đồng thời cảnh Thịnh và các trụ đá ghi chép lại tên tuổi.

Lễ hội chùa Phúc Lâm diễn ra ngày 20 tháng 8 âm lịch hàng năm.

158

Page 162: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Trong lễ hội thường diễn ra các hoạt động phong phú, đa dạng bao gồm phần

lễ gồm lễ dâng hương, lễ tế nam quan, tế nữ quan. Ngoài ra còn các các đội

bát âm, già lam, ngũ lôi. Phần hội gồm các trò chơi dân gian như cờ tướng,

kéo co, múa sư tử, vật võ, chọi gà, buổi tối là hát tuồng, hát chèo và các

chương trình văn nghệ do con em trong xã tham gia tạo không khí vui tươi,

phấn khởi, yên bình và ấm áp.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Lễ hội chùa Phúc Lâm không chỉ làm phong phú thêm đời sống tâm

linh cho cộng đồng cư dân thôn Phúc Tiền mà nó còn góp phần tích cực vào

việc giáo dục và hướng con người đến những điều tốt đẹp trong cuộc sống

như đạo Phật đã dạy.

Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát

huy di sản văn hóa phi vật thể:

Hàng năm người dân thôn Phúc Tiền vẫn duy trì và tổ chức lễ hội vào

ngày 20 tháng 8 âm lịch hàng năm trong phạm vị qui mô thôn, xóm và 5 năm

một lần UBND xã đứng ra tổ chức lễ hội lớn một lần.

Hiện nay lễ hội chùa Phúc Lâm được UBND xã giao cho thôn Phúc

Tiền giữ gìn, bảo vệ và ngày càng phát huy giá trị của lễ hội, để lễ hội được

diễn ra thường xuyên và ngày càng phong phú đa dạng hơn.

- Hội làng Phúc Tiền

(Thôn Phúc Tiền, xã Thái Phúc, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Quách Đình

Sinh năm: 1950 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng.

Địa chỉ: Thôn Phúc Tiền, xã Thái Phúc, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

(2) Họ và tên: Phạm Thị Mưa

Sinh năm: 1948 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

159

Page 163: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Địa chỉ: Thôn Phúc Tiền, xã Thái Phúc, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

(3) Họ và tên: Vũ Thị Ba

Sinh năm: 1950 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ: Thôn Phúc Tiền, xã Thái Phúc, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

Nhận diện hội làng Phúc Tiên:

Lễ hội làng Phúc Tiền diễn ra tại khu di tích từ đường thờ Thám hoa

Quách Đình Bảo và Hoàng giáp Quách Hữu Nghiêm. Các bộ sử lớn của quốc

gia Đại Việt có nhiều trang, dòng chép về công tích của anh em nhà họ Quách

trong các lĩnh vực kinh bang tế thế, giáo dục, ngoại giao, dưới các triều vua

anh minh như Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông. Quách Hữu Nghiêm, một sứ

thần tài ba, lịch sử bang giao hai nước Việt – Trung thể hiện tài ứng đối của

ông qua những lời bang khen là “Tam đại di tài”. Khi ông qua đời đã được

lập đền thờ. Từ đường thờ thám hoa Quách Đình Bảo và Hoàng Giáp Quách

Hữu Nghiêm được công nhận là di tích lịch sử cấp Quốc gia.

Hằng có hai kỳ lễ hội vào ngày 01 tháng 07 âm lịch là ngày giỗ của

Thám hoa Quách Đình Bảo và ngày 9 tháng 9 âm lịch hàng năm là ngày giỗ

của Hoàng giáp Quách Hữu Nghiêm.

Lễ hội hàng năm được tổ chức long trọng được đông đảo con em họa

Quách và người dân thôn Phúc Tiền tham gia. Ngoài dâng hương, tế lễ trong

ngày tổ chức hội còn có nhiều trò chơi, trò diễn dân gian được tổ chức như

đánh gậy, thi cờ người, chọi gà, đấu vật.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Năm nào cũng vậy người dân thôn Phúc Tiền và dòng họ Quách vẫn

duy trì tổ chức lễ hội vào ngày 01 tháng 7 và ngày 9 tháng 9 âm lịch nhằm

tưởng nhớ đến ngày sinh cũng như ngày mất của thờ thám hoa Quách Đình

Bảo và Hoàng Giáp Quách Hữu Nghiêm. Lễ hội thôn Phúc Tiền nhắc nhở

con cháu nhớ tổ tiên, hướng về cuội nguồn và không quên đạo lý uống

nước nhớ nguồn.

160

Page 164: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát

huy di sản văn hóa phi vật thể:

UBND xã Thái Phúc giao cho thôn Phúc Tiền, dòng họ Quách giữ gìn,

bảo vệ và ngày càng phát huy giá trị của lễ hội, để lễ hội được diễn ra thường

xuyên và ngày càng phong phú đa dạng hơn.

Ban quản lý di tích, BTC lễ hội đề nghị các cấp, các ngành phải có sự

quan tâm không chỉ về mặt tinh thần mà còn về vật chất để bảo tồn và phát

huy giá trị văn hóa phi vật thể của địa phương.

35. XÃ THÁI THỊNH

- Hội đền Nguyên Tiêu

(Thôn Đông Thịnh, xã Thái Thịnh, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình).

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Hà Văn Nhã

Sinh năm:1948 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Trưởng ban quản lý di tích

Địa chỉ liên lạc: Thôn Đông Thịnh, xã Thái Thịnh, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình.

(2) Họ và tên: Nguyễn Quang Trung

Sinh năm:1959 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Hưu trí

Địa chỉ liên lạc: Thôn Đông Thịnh, xã Thái Thịnh, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình.

(3) Họ và tên: Đinh Xuân Hoàn

Sinh năm:1976 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: ban Khánh tiết

Địa chỉ liên lạc: Thôn Đông Thịnh, xã Thái Thịnh, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình.

Nhận diện hội đền Nguyên Tiêu:

Đình được xây dựng vào thời Nguyễn thờ bản cảnh Thành hoàng của

161

Page 165: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

làng cùng Đức Thánh Trần. Hàng năm đền Nguyên Tiêu tổ chức 2 kỳ lễ hội

vào ngày mùng 3 tháng 3 và ngày 20 tháng 8 âm lịch.

Trình tự của lễ hội sau khi UBND xã khai mạc lễ hội, lễ dâng hương

của nhân dân và du khách thập phương, lễ khai bút đầu xuân cho các em học

sinh cầu mong một năm học hành tiến bộ. Sau đó là đội tế nam quan, tế nữa

quan của làng làm lễ dâng hương tế tế thánh. Nghi lễ tế thánh gồm ba phần

đầu tiên là củ soát tế vật, dân hương, dâng rượu, đọc chúc, ẩm phúc, thụ lộc

và cuối cùng là lễ tất.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Hàng năm dân làng mở hội tế Thánh tại đền Nguyên Tiêu để cầu mong

cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, cầu mong cho dân làng gặp nhiều

điều may mắn, sức khỏe, con em trong làng công tác học tập thành đạt. Hội

đền cũng là dịp người dân nghỉ ngơi, hội tụ sau một năm làm ăn vất vả. Từ đó

làm gắn kết thêm tinh thần cộng đồng, cùng nhau xây dựng đời sống mới

trong khu dân cư.

Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát

huy di sản văn hóa phi vật thể:

UBND xã Thái Thịnh tổ chức lễ hội hàng năm, lãnh đạo thôn thành lập

ban khánh tiết, đội tự vệ thôn đảm bảo an ninh trật tự trong ngày diễn ra lễ hộ.

Các cấp chính quyền địa phương tạo điều kiện về kinh phí trùng tu, tôn

tạo lại di tích cũng như kinh phí cho tổ chức lễ hội.

36. XÃ THÁI THỦY

- Hội chùa Phổ Linh

(Thôn Kiên Thắng, xã Thái Thủy, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình).

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Hoàng Hữu Khu

Sinh năm:1961 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Trưởng ban quản lý di tích

162

Page 166: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Địa chỉ liên lạc: UBND xã Thái Thủy, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

(2) Họ và tên: Hoàng Hữu Truông

Sinh năm:1935 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Thủ từ chùa Phổ Linh

Địa chỉ liên lạc: Thôn Kiên Thắng, xã Thái Thủy, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình.

(2) Họ và tên: Thích Thanh Thịnh

Sinh năm:1984 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Trụ trì chùa Phổ Linh

Địa chỉ liên lạc: xã Thái Thủy, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

Nhận diện hội chùa Phổ Linh:

Chùa được xây dựng vào năm 1640 thời Vua Lê Thần Tông - Niên hiệu

Vĩnh Tộ (1619 - 1643), từ đó đến nay ngôi chùa đã được trùng tu nâng cấp 3

lần. Theo thông lệ hàng năm vào ngày mồng 10 tháng 3 âm lịch, UBND xã

Thái Thủy - huyện Thái Thụy lại long trọng tổ chức lễ hội truyền thống văn

hóa lịch sử chùa Phổ Linh nhằm khơi dậy truyền thống quê hương Thái Thủy

anh hùng, cầu cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa

Lễ hội truyền thống hàng năm diễn ra từ ngày 10 tháng 3 đến 12 tháng

3 âm lịch. Vào ngày 10 tháng 3, nhân dân trong làng và các xã lân cận tập

trung tại chùa để chuẩn bị lễ rước kiệu bát cống quanh làng. Kiệu được rước

từ chùa sang miếu Đông quan miếu Tây đến miếu Thổ Kỳ về Phổ Linh tự. Đi

theo đoàn rước kiệu là đoàn hồng kỳ, kiệu thần, cờ thần, đoàn tế nam, đoàn tế

nữ và toàn thể nhân dân. Sau khi đoàn rước kiệu về tới chùa, sẽ tiến hành khai

hội. Đan xen với hoạt động của đoàn tế nam và tế nữ là các trò chơi dân gian

như: cờ tướng, chọi gà, kéo co.

Ngày 11 tháng 3 sẽ khai mạc giải vật võ cổ truyền vời 13 màn đấu vật

của đôi nam, đấu vật đôi nữ, đấu vật tự do, đấu vật giao lưu, đấu vật thanh

niên làng đặc biệt là đấu vật đôi nam nữ đây là nét độc đáo của lễ hội chùa

Phổ Linh. Các hoạt động tế lễ, dâng hương diễn ra đan xen với các trò chơi

163

Page 167: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

dân gian. Các buổi tối có hoạt động giao lưu văn nghệ của các đoàn văn nghệ

địa phương và các xã bạn. Vào cuối ngày 12 tháng 3 ban tổ chức sẽ trao giải

cho các cuộc thi trò chơi dân gian và bế mạc lễ hội.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Lễ hội được tổ chức nhằm ôn lại những giá trị lịch sử văn hóa của quê

hương Khai Lai. Cầu cho một năm quốc thái dân an, cầu mong mưa thuận gió

hòa, mùa màng bội thu, cầu mong mọi người sống đoàn kết, nhà nhà bình an.

Chính vì vậy mà trong tâm thức của người dân xã Thái Thủy luôn háo hức

chờ mong lễ hội chùa Phổ Linh diễn ra. Quy mô của lễ hội ngày càng được

mở rộng cả về quy mô và ý nghĩa.

Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát

huy di sản văn hóa phi vật thể:

Kinh phí tổ chức lễ hội chủ yếu là của nhân dân trong xã, con em xa

quê đóng góp công đức, tiền mặt, ngày công để tu sửa chùa, tham gia công tác

chuẩn bị lễ hội. UBND xã tổ chức lễ hội, thành lập ban khánh tiết, ban hậu

cần, đảm bảo an ninh trật tự trong quá trình diễn ra lễ hội, đặc biệt khách đến

lễ hội được trông xe, uống nước chè, hút thuốc lào Khai Lai miễn phí.

37. XÃ THÁI GIANG

- Hội đình Phất Lộc

(Thôn Phất Lộc, xã Thái Giang, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Cao Xuân Biên

Sinh năm: 1964 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Cán bộ Văn hóa xã – Trưởng ban Quản lý di tích đình.

Địa chỉ: Thôn Hạ Liệt, xã Thái Giang, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

(2) Họ và tên: Nguyễn Quốc Hoa

Sinh năm: 1944 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Thủ từ đình Phất Lộc

Địa chỉ: Thôn Phất Lộc Tiến, xã Thái Giang, huyện Thái Thụy, tỉnh

164

Page 168: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Thái Bình.

(3) Họ và tên: Bùi Ngọc Đến

Sinh năm: 1930 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ: Thôn Phất Lộc Tiến, xã Thái Giang, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

Nhận diện hội đình Phất Lộc:

Đình Phất Lộc được xây dựng vào thời nhà Lê cách đây gần 400 năm.

Đình thờ Đức Thánh Trần Triều Bảo Hoa công chúa con gái vua Trần Duệ

Tông cùng Đông Hải đại vương và Tây Hải đại vương cùng các vị thành

hoàng làng người đã có công khai hoang lập ấp. Bảo Hoa công chúa là người

có công trong việc dậy dân làm ăn, hướng dẫn đạo lý làm người.

Lễ hội truyền thống đình Phất Lộc được tổ chức ngày 1 tháng 4 đến

ngày 5 tháng 4 âm lịch hàng năm. Trước đây để lễ hội được diễn ra chu đáo

và thuận lợi thì cứ ngày 30 tháng 3 âm lịch các phe giáp cùng các dòng họ

trong làng sẽ ra đình để chuẩn bị các đồ tế khí cho lễ hội. Sáng này 1 tháng 4

các của họ sẽ có lễ dâng hương vào đình. Hiện nay cứ vào dịp lễ hội đến vào

ngày 25 tháng 3 âm lịch nhân dân xã tập trung, chuẩn bị đồ thờ tế khí, kiểm

tra kiệu, chấp kích và các dụng cụ phục vụ cho lễ rước vào ngày 2 tháng 4.

Sáng ngày mồng 1 tháng 4 âm lịch lễ hội chính thức khai mạc chính quyền

địa phương trong xã, các dòng họ, các đoàn tế lễ và toàn thể nhân dân sẽ tập

trung tại sân đình cùng khai hội.

Đến chiều ngày 2 tháng 4 âm lịch tiến hành lễ rước kiệu. Lễ rước được

tiến hành bắt đầu từ đình Phất Lộc, cùng đi theo đoàn rước có đội múa lân,

đội nhạc, đội trống Ngũ Lôi. Đoàn lễ diễu hành qua làng Hạ Liệt, về đền Họ

trần, điểm kết thúc là chùa Phúc Khánh. Tại đây đoàn tế lễ sẽ làm lễ thỉnh

kinh ở chùa, sau đó rước về đình Phất Lộc.

Sau lễ rước có các đoàn tế Nam quan, Nữ quan cùng các trò chơi dân

gian được tổ chức tại đình như cờ tướng, chọi gà, đu quay..

165

Page 169: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Ngày 12 đến ngày 15 tháng 9 âm lịch tại đình tổ chức lễ kỳ phúc để

tưởng nhớ ngày sinh của bà. Trong ba ngày này chỉ tổ chức các hoạt động tế

lễ trong đình.

Hiện trạng di sản văn hóa phi vật thể đình Phất Lộc hàng năm vẫn duy

trì tổ chức ngày 1 tháng 4 âm lịch. Số lượng người thực hành lễ rước gồm có

khoảng 30 đến 40 người (một ca rước có 8 người một đoàn rước thường có 4

ca); đội tế nam quan, nữ quan có 16 người một đội.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Cũng như nhiều lễ hội khác, lễ hội đình Phất Lộc thể hiện nét đẹp văn

hóa tinh thần của những người dân nơi đây. Thể hiện những giá trị truyền

thống lịch sử lâu đời, đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của người dân Việt

Nam. Biểu hiện cho một nét đẹp của đời sống văn hóa tâm linh của con người

nơi đây.

Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát

huy di sản văn hóa phi vật thể:

Các nguồn lực khác tham gia tổ chức lễ hội hủ yếu là xã hội hóa, của

nhân dân trong xã, con em xa quê và khách thập phương. UBND xã cùng

chính thôn đã chỉ đạo công tác đảm bảo an ninh, trật tự trong quá trình tổ

chức lễ hội.

Cộng đồng đề nghị ngành văn hóa phát triển hội đình Phất Lộc gắn với

du lịch văn hóa tâm linh gắn với lễ hội truyền thống đế ngày càng quảng bá

sâu rộng về Phúc Lộc đến tất cả người dân địa phương cũng như khách thập

phương biết đến.

38. XÃ THÁI SƠN

- Hội chùa Quài

(Thôn Nam Hưng Tây, xã Thái Sơn, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Thích Diệu Huệ

Sinh năm:1987 Dân tộc: Kinh

166

Page 170: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Nghề nghiệp: Trụ trì chùa

Địa chỉ liên lạc:

Thôn Nam Hưng Tây, xã Thái Sơn, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

(2) Họ và tên: Phạm Đăng Quân

Sinh năm:1964 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Chủ tịch UBND xã – trưởng ban khánh tiết

Địa chỉ liên lạc: xã Thái Sơn, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

(3) Họ và tên: Đinh Bá Lượng

Sinh năm:1971 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Phó trưởng ban Khánh tiết

Địa chỉ liên lạc: xã Thái Sơn, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

Nhận diện hội chùa Quài:

Chùa được xây dựng vào thời Lê, trùng tu thời Nguyễn, tu sửa năm

1981 hậu cung, năm 2013 tu sửa phần mái chùa.

Hàng năm nhân dân thôn Nam Hưng Tây tổ chức lễ hội vào ngày mồng

4 tháng Giêng âm lịch. Trình tự của lễ hội bao gồm sau khi UBND xã khai

mạc lễ hội là tế lễ dâng hương của các dòng họ, của nhân dân trong xã. Đan

xen với các màn tế nam quan, nữ quan là các trò chơi dân gian như cờ tướng,

chọi gà, kéo co. Số lượng người thực hành tế lễ bao gồm đội tế nữ quan gồm

40 người, đội tế nam quan 20 người.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Hàng năm cứ mỗi dịp 4 tháng Giêng âm lịch, nhân dân lại tổ chức lễ hội

truyền thống cầu mong một năm mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, cầu

mong sức khỏe, tài lộc, con cháu học hành, làm ăn tấn tới. Lễ hội cũng là dịp

người dân nghỉ ngơi, hội tụ sau một năm làm ăn vất vả. Từ đó làm gắn kết

thêm tinh thần cộng đồng, cùng nhau xây dựng đời sống mới trong khu dân cư.

Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát

huy di sản văn hóa phi vật thể:

UBND xã tổ chức lễ hội hàng năm, lãnh đạo thôn thành lập ban khánh

167

Page 171: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

tiết, đội tự vệ thôn đảm bảo an ninh trật tự trong ngày diễn ra lễ hội; Hội Phụ

nữ, Hội Người cao tuổi tham gia vào công tác chuẩn bị, hậu cần của lễ hội;

Kinh phí tổ chức lễ hội do toàn thể nhân dân, con em xa quê đóng góp công

đức. Các cấp chính quyền địa phương cần tạo điều kiện hơn nữa về kinh phí

trùng tu, tôn tạo lại chùa cũng như kinh phí cho tổ chức lễ hội.

- Hội đền Quài

(Thôn Kim Thành, xã Thái Sơn, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Phạm Huy Mão

Sinh năm:1954 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Thủ nhang

Địa chỉ liên lạc:

Thôn Kim Thành, xã Thái Sơn, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

(2) Họ và tên: Phạm Đăng Quân

Sinh năm:1964 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Chủ tịch UBND xã – trưởng ban khánh tiết

Địa chỉ liên lạc: xã Thái Sơn, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

(3) Họ và tên: Vũ Xuân Hoàng

Sinh năm:1950 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Trưởng thôn

Địa chỉ liên lạc: Thôn Kim Thành,xã Thái Sơn, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình.

Nhận diện hội đền Quài:

Đền được xây dựng thời Nguyễn, đại tu tòa hậu cung năm 2008, xây

dựng tòa tiền tế năm 2010. Đền Quài thờ Nam Hải đại vương thượng đẳng

thần. Hàng năm tổ chức lễ hội vào ngày 16 tháng 2 âm lịch để tưởng nhớ

công lao của vị Thành hoàng làng đã che trở cho dân làng. Sáng ngày 16

tháng Giêng đại diện BTC lên đọc diễn văn khai mạc tưởng nhớ đến đức

Thành hoàng làng, rồi đến lễ dâng hương của các vị đại biểu thôn, xã, lễ dâng

168

Page 172: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

hương của các dòng họ và nhân dân trong thôn. Trong ngày lễ hội các đoàn tế

nữ quan của làng làm lễ dâng hương tế thánh, nhân dân trong làng được tham

gia vào các trò chơi dân gian như cờ tướng, chọi gà, kéo co sôi nổi.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Hàng năm cứ mỗi dịp lễ hội 16 tháng 2 âm lịch, nhân dân lại tổ chức

các nghi thức tế lễ, dâng hương truyền thống để tưởng nhớ công lao của Nam

Hải Đại Vương đối với dân làng, đồng thời cũng cầu mong một năm mưa

thuận gió hòa, mùa màng bội thu, cầu mong sức khỏe, tài lộc, con cháu học

hành, làm ăn tấn tới.

Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát

huy di sản văn hóa phi vật thể:

Hội đền Quài hàng năm được UBND xã chỉ đạo Ban công tác mặt trận

thôn, Ban quản lý di tích đứng ra tổ chức.

Cộng đồng địa phương đề nghị các cấp chính quyền địa phương tạo

điều kiện hơn nữa về kinh phí trùng tu, tôn tạo lại chùa cũng như kinh phí cho

tổ chức lễ hội.

39. XÃ THÁI HÒA

- Hội đình Tử Các

(Thôn Tử Các, xã Thái Hòa, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Đoàn Công Phượng

Sinh năm: Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Thủ nhang đình.

Địa chỉ: Thôn Tử Các, xã Thái Hòa, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

(2) Họ và tên: Nguyễn Văn Long

Sinh năm: 1968 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Chủ tịch UBND xã – Trưởng ban Quản lý di tích đình.

Địa chỉ: Xã Thái Hòa, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

(3) Họ và tên: Nguyễn Công Bảy

169

Page 173: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Sinh năm: 1963 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Công chức Văn hóa xã

Địa chỉ: Xã Thái Hòa, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

Nhận diện hội đình Tử Các:

Đình thôn Tử Các tương truyền có từ thế kỷ thứ 6, nơi đây thờ đức vua

Triều Lý Nam Đế là Lý Bí được coi là Quốc miếu. Theo thần phả ghi lại

trong đình Lý Bí sinh thời sống ở phủ Long Hưng (Thái Bình) có cha là Lý

Căng dòng dõi Lý Thuần, mẹ là Lương Thị Hằng. Trong một lần hành binh

qua cửa Diêm Hộ thấy vùng đất này địa lợi nhân hòa bèn dừng chân xây dựng

đồn lũy tại đây và cho dựng lầu son gác tía. Các làng lân cận như Văn Hàn,

Quảng Nạp, Hổ Đội là nơi làm việc của các văn thần võ tướng hoặc là những

đồn binh trấn giữ phòng tuyến hiểm yếu nơi của biên. Khi Lý Bí dẹp tan quân

Lương xưng Đế, mới khao thưởng cho dân Từ Đường đã có công khuông phù

nhà vua tụ nghĩa. Khi Lý Nam Đế qua đời để tưởng nhớ công ơn dân đã lập

đền thờ tại đây.

Đình Tử Các là di tích lịch sử cấp quốc gia được Bộ Văn hóa, Thông

tin xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia vào 16 tháng 12 tháng 1993. Hàng

năm cứ đến ngày 10 tháng 2 âm lịch làng Tử Các lại mở hội truyền thống và

cứ 5 năm một lần thì UBND xã Thái Hòa đứng ra tổ chức rước lớn quanh

làng. Trong ngày chính hội mồng 10 tháng 2 dân làng tổ chức lễ dâng hương,

tế nam quan và tế nữ quan. Ngoài ra còn tổ chức các trò chơi dân gian vật đô,

vật cầu, đấu roi, đấu gậy.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Lễ hội đình Tử Các nhằm tôn vinh các bậc tiền nhân, những người có

công với dân với nước. Đồng thời, lễ hội giáo dục truyền thống cho lớp trẻ và

nhân dân trong việc bảo tồn và phát huy những giá trị truyền thống của lễ hội.

Hội đình Tử Các có sức lôi cuốn cư dân khắp nơi trong và ngoài tỉnh đổ về trẩy

hội với tâm linh tưởng niệm vị Thánh đã khai sinh ra nhà nước Vạn Xuân.

Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát

170

Page 174: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

huy di sản văn hóa phi vật thể:

- Lãnh đạo cùng cộng đồng tiếp tục duy trì và bảo vệ lễ hội để lễ hội

ngày càng tổ chức rộng rãi hơn nữa.

-Đảm bảo công tác an ninh, trật tự, an toàn trong quá trình diễn ra lễ

hội. Việc tổ chức lễ hội cũng như trùng tu tôn tạo di tích còn khó khăn về mặt

kinh phí đề nghị các cấp có thẩm quyền đầu tư hỗ trợ.

41. XÃ THÁI XUYÊN

- Hội đình Từ

(Thôn Lục Bắc, xã Thái Xuyên, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Giang Văn Khái

Sinh năm: 1934 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Chủ nhang Đình Từ

Địa chỉ: Thôn Lục Bắc, xã Thái Xuyên, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

(2) Họ và tên: Vũ Văn Bình

Sinh năm: 1947 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Trưởng thôn Lục Bắc, phó ban khánh tiết

Địa chỉ: Thôn Lục Bắc, xã Thái Xuyên, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

(3) Họ và tên: Vũ Văn Cường

Sinh năm: 1963 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Chủ tịch UBND xã – Trưởng Ban Khánh tiết

Địa chỉ: xã Thái Xuyên, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

Nhận diện di sản:

Đình Từ là nơi thờ Gia quốc công Vũ Văn Uyên và Khánh Vương hầu

Vũ Văn Mật, hai công thần thời Lê Trung Hưng có công phò giúp nhà Lê

đánh thắng nhà Mạc, trấn hưng đất nước. Di tích đã được xếp hạng di tích lịch

sử cấp tỉnh năm 1994. Hằng năm nhân dân tổ chức lễ hội nhằm bảo tồn và

phát huy các giá trị lịch sử của Đình đồng thời tưởng nhớ công lao của các vị

Thánh được thờ tại đây.

171

Page 175: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Trong một năm Đình Từ tổ chức 2 kỳ lễ hội vào các ngày:

- Ngày 10 tháng 3 là ngày giỗ Tổ Hùng Vương;

- Ngày 11 tháng 11 là ngày mất của Gia quốc công Vũ Văn Uyên;

Theo lời kể của cụ Thủ nhang trong đình thì xưa kia Đình chỉ tổ chức lễ

hội vào ngày 11 tháng 11 âm lịch là ngày giỗ của đức Thánh Đình Từ. Từ khi

di tích được công nhận là di tích cấp tỉnh năm 1994, do điều kiện kinh tế - xã

hội có nhiều thay đổi được sự đồng thuận của toàn dân, lễ hội chính mang qui

mô lớn nhất trong năm được tổ chức ngày 10 đến 11 tháng 3 âm lịch. Còn

ngày 11 tháng 11 chỉ tổ chức dâng hương, tế nam quan, nữ quan trong Đình.

Công tác chuẩn bị được tiến hành từ chiều ngày 9 tháng 3: Đi viếng

nghĩa trang liệt sĩ để tỏ lòng biết ơn các anh đã hi sinh bảo vệ đất nước, sau đó

trở về Đình tổ chức cúng khai hội. Sáng ngày 10 tháng 3 Ban tổ chức tuyên

bố khai hội, sau đó một người có uy tín trong làng đứng lên đọc bài văn tế nói

về công lao của các vị Thánh đối với đất nước nói chung và người dân xã

Thái Xuyên nói riêng. Các sản vật được chế biến từ nông sản như xôi, thủ lợn,

bánh chưng, bánh giầy, hương hoa được các dòng họ, nhân dân trong làng

dâng lên đức Thánh. Phần lễ diễn ra với các nghi thức trang nghiêm. Sau đó

là đội tế nam quan và nữ quan trong làng và các xã lân cận như xã Mỹ Lộc,

Thái Tân, Thái Hưng. Đan xen với phần lễ là các trò chơi dân gian: chọi gà,

cờ tướng, kéo co, đi cầu treo. Và buổi tối là các đoàn văn nghệ quần chúng

biểu diễn. Vào cuối ngày 11 tháng 3 Ban tổ chức tổng kết bế mạc lễ hội.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Từ xa xưa, lễ hội là dịp nhân dân xã Thái Xuyên tỏ lòng thành kính tới

đức Thánh, mặt khác là cơ hội tiếp tục giữ gìn bản sắc văn hóa của người dân

thôn Lục Bắc xã Thái Xuyên, khơi dậy trong lòng con em địa phương và

người dân xa quê truyền thống đạo lý tốt đẹp của cha ông. Lễ hội hiện nay là

một phần không thể thiếu trong cuộc sống tinh thần của cộng đồng người dân

địa phương.

172

Page 176: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát

huy di sản văn hóa phi vật thể:

- Trong những năm qua, UDNB xã Thái Xuyên đã đẩy mạnh công tác

tuyên truyền, giới thiệu quảng bá hình ảnh lễ hội, giá trị của di sản văn hóa

trên các phương tiên thông tin đại chúng.

- UBND xã đứng ra tổ chức lễ hội, thành lập Ban Tổ chức, Ban Khánh

tiết, Ban Hậu cần, Ban an ninh để duy trì tổ chức lễ hội hàng năm.

- Hội đình đình Đông

(Thôn Lũng đầu, xã Thái Xuyên, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Vũ Văn Tuấn

Sinh năm: 1952 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Chủ nhang Đình Đông

Địa chỉ: Thôn Lũng đầu, xã Thái Xuyên, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

(2) Họ và tên: Trần Viết Bảy

Sinh năm: 19462 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Trưởng ban khánh tiết

Địa chỉ: Thôn Lũng đầu, xã Thái Xuyên, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

(3) Họ và tên: Vũ Trọng Đạt

Sinh năm: 1976 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Trưởng ban Quản lý di tích – Cán bộ Văn hóa xã.

Địa chỉ: xã Thái Xuyên, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

Nhận diện hội đình đình Đông:

Đình Đông được xây dựng vào thế kỷ thứ 17, thờ tướng quân Phạm

Ngũ Lão. Theo thần tích tướng quân là người làng Phù Ủng, huyện Đường

Hào, tỉnh Hải Dương là bộ tướng của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn.

Trong hai cuộc chống quân xâm lược nhà Nguyên (1285-1288) Ông lập được

nhiều chiến công. Năm 1285, trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên

Mông làn thứ hai ông cùng Trần Quang Khải đánh trận Chương Dương, Hàm

173

Page 177: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Tử đập tan đội binh thuyền khổng lồ của giặc và diệt quân Nguyên chiếm

đóng Thăng Long. Sau đó ông được lệnh mang 3 vạn quân phục kích đánh

địch ở Vạn Kiếp chạy đường rút chạy lên biên giới phía Bắc và diệt được hai

phó tướng địch là Lý Quán và Lý Hằng. Trong cuộc kháng chiến chống quân

Nguyên Mông lần thứ ba, Phạm Ngũ Lão cùng các tướng bày trận phục kích

đường rút lui của giặc trên sông Bạch Đằng, trong trận này quân nhà Trần bắt

sống các tướng nhà Nguyên là Phàm Tiếp, Ô Mã Nhi. Năm 1290, vua Trần

Nhân Tông giao cho ông cai quản quân Thánh Dực, phong chức Hữu Kim

Ngô đại tướng quân. Đến đời vua Trần Anh Tông, ông được thăng chức tới

chức Điện Súy Thượng Tướng quân. Phạm Ngũ Lão đã ba lần cất quân đi

trừng phạt sự xâm chiếm, quấy nhiễu của quân Ai Lao vào các năm 1294,

1297, 1301. Hai lần Nam Chinh đánh thắng quân Chiêm Thành. Ông được

Trần Hưng Đạo gả con gái là quận chúa Anh Nguyên. Ngày 1 tháng 11 năm

1320, ông qua đời, cảm phục về tài năng và đức độ cũng như công lao đóng

góp của ông nhân dân trong vùng đã xây dựng đền thờ Tướng quân tại đình

Đán, do thiên tai và chiến tranh ngôi đình Đán bị phá hủy, nhân dân đã rước

ngài về phối thờ tại di tích Đình Đông.

Lễ hội hàng năm được tổ chức vào ngày mùng 9 tháng 3 âm lịch.Trước

đây trong tổ chức lễ hội có tổ chức lễ rước nhưng ngày nay lễ rước không còn

mà chỉ còn tổ chức dâng hương và tế lễ. Đầu tiên là chuẩn bị đồ cúng tế lễ

như rượu thịt, hoa, quả, xôi, gà. Sáng ngày mồng 9 tháng 3 BTC lễ hội khai

mạc lễ hội đình Đông để tưởng nhớ đến công lao đánh giặc của tướng quân

Phạm Ngũ Lão. Sau lễ khai mạc là lễ dâng hương của các thôn trong xã Thái

Xuyên đến dâng lễ lên đức Thành hoàng. Lễ trình thánh của đội tế Nam quan

và tế Nữ quan thôn Lũng Đầu. Phần hội cũng được tổ chức sôi động bao gồm

các trò chơi dân gian như kéo co, bắt vịt, cầu khỉ, ném vòng cổ chai, cờ

tướng, trong không khí vui tươi, phấn khởi tất cả mọi người tham gia chơi và

cổ vũ nhiệt tình.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

174

Page 178: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Theo dòng chảy của thời gian người dân xã Thái Xuyên luôn nhớ về

những truyền thống tốt đẹp của tổ tiên và ông cha. Lễ hội truyền thống Đình

Đông nhắc nhở người dân phải nhớ tới truyền thống đạo lý “uống nước nhớ

nguồn” chung tay xây dựng quê hương giàu đẹp, văn minh.

Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát

huy di sản văn hóa phi vật thể:

UBND xã Thái Xuyên đang đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng bá

để nâng cao giá trị của lễ hội đình Đông, về giá trị lịch sử cũng như tầm vóc

của vị thành hoàng Phạm Ngũ Lão mà nhân dân thôn Lũng Đầu thờ cúng.

Trong công tác triển khai tổ chức lễ hội UBND xã Thái Xuyên đã chỉ

đạo Ban công tác mặt trận thôn, Ban quản lý di tích phối kết hợp thành lập

BTC lễ hội để triển khai các hoạt động trong lễ hội hàng năm.

42. XÃ THÁI HƯNG

- Hội đình Đoài

(Thôn Vũ Thành Đông, xã Thái Hưng, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Phạm Thanh Miềm

Sinh năm: 1937 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Trưởng ban Quản lý di tích đình Đoài.

Địa chỉ: Thôn Vũ Thành Đông, xã Thái Hưng, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình.

(2) Họ và tên: Nguyễn Khắc Đăng

Sinh năm: 1982 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Trưởng thôn.

Địa chỉ: Thôn Vũ Thành Đoài, xã Thái Hưng, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình.

(3) Họ và tên: Lê Tuấn Mãn

Sinh năm; Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Công chức Văn hóa xã

175

Page 179: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Địa chỉ: Xã Thái Hưng, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

Nhận diện hội đình Đoài:

Theo thần tích đình Đoài có từ thời nhà Lê thuốc phủ Khoái Châu, tỉnh

Hưng Yên. Tri phủ Khoái Châu là ông Bùi Công Đán một lần đi kinh lý miền

duyên hải, thấy nơi đây có phong cảnh hữu tình, tả long, hữu khổ, đất đai màu

mỡ, phì nhiêu, dân tình thuần hậu cần cù, liền cho quân lính đóng lại nghỉ

ngơi. Mời các bô lão ra để hỏi han bày tỏ ý định khai ấp, lập làng. Ý định đó

được mọi người hưởng ứng. Sau đó ông kết duyên cùng bà Cẩm Dung, dòng

họ Giang Công, xây tư thất. Từ đó hai ông bà ra sức chiêu mộ dân chúng các

nơi đắp đập, khai hoang, trồng lúa, trồng dâu, nuôi tằm. Khi lập xong làng Vũ

Nghị, bà Cẩm Dung sinh hạ con trai 20 năm sau trở danh tướng nhà Trần. Sau

sinh con được một tháng bà qua đời, an táng tại tư thất. Dân làng nhớ công ơn

của hai ông bà đã lập đình thờ và tôn làm thành hoàng làng.

Lễ hội truyền thống đình Đoài được nhân dân xã Thái Hưng tổ chức

vào ngày 15 tháng 2 âm lịch hàng năm trong quần thế di tích đình Đoài.

Trước khi dâng hương, tế lễ một ngày dân làng tổ chức lễ rước bát hương, bài

vị nhị vị đức thánh xung quanh làng, đến các đình để biểu dương công đức

khai hoang lập ấp của hai ông bà. Đoàn rước được sắp xếp theo thứ tự đi đầu

là đội kỳ lân, tiếp đến là đội bát âm, cờ ngũ hành, bát bảo, chấp kích, tiếp theo

là kiệu thánh sau là đoàn tế. Sau khi rước về đình dân làng tổ chức tế nam

quan, tế nữ quan khai hội tháng 2. Trong lễ hội đình Đoài còn tổ chức các trò

chơi dân gian truyền thống như: Chọi gà, kéo co, cờ tướng, tổ tôm, đi cầu nổi,

bắt vịt, vật cầu, đập niêu, buổi tối là chương trình giao lưu văn nghệ của

người dân trong làng.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Lễ hội đình Đoài được tổ chức hàng năm nhắc nhở người dân trong xã

Thái Hưng về công đức mở ấp, lập làng của hai ông bà Bùi Công Đán và Cẩm

Dung, về những nét thuần phong mỹ tục quê hương Thái Hưng. Lễ hội là một

phần cuộc sống tinh thần của người dân.

176

Page 180: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát

huy di sản văn hóa phi vật thể:

Hàng năm thôn Vũ Thành Đoài vẫn tổ chức và duy trì lễ hội truyền

thống vào ngày 15 tháng 2 âm lịch. Hàng năm Phòng VHTT đều kiểm tra và

hướng dẫn công tác quản lý lễ hội nhằm nâng cao nhận thức và nghiệp vụ cho

người trực tiếp quản lí di tích cũng như cộng đồng cư dân nơi đây. UBND xã

đã có những biện pháp bảo vệ đảm bảo an ninh trật tự, và quản lý tốt các dịch

vụ, tránh không để xảy ra các hoạt động mê tín dị đoan, chặt chém khách

tham quan.

43. XÃ THÁI DƯƠNG

- Hội chùa Đông

(Thôn Đồng Tỉnh, xã Thái Dương, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Vũ Đình Thản

Sinh năm:1931 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Thủ nhang chùa

Địa chỉ liên lạc: Thôn Đồng Tỉnh, xã Thái Dương, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình.

(2) Họ và tên: Bùi Văn Bẩy

Sinh năm:1963 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Trưởng ban quản lý di tích

Địa chỉ liên lạc: Thôn Chợ Phố, xã Thái Dương, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình.

(3) Họ và tên: Phạm Văn Thuấn

Sinh năm:1960 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Trưởng thôn Đồng Tỉnh, Phó ban quản lý di tích

Địa chỉ liên lạc: Thôn Đồng Tỉnh, xã Thái Dương, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình.

Nhận diện hội chùa Đông:

Chùa Đông còn được gọi là Vĩ Long tự được xây dựng khi nào không

177

Page 181: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

ai rõ chỉ biết rằng năm Vĩnh Thịnh thứ tư triều vua Lê Dụ Tông (năm 1708),

chùa được chuyển về khu đất nổi, địa thế rất đẹp gần sông Diêm Hộ để phục

vụ nhu cầu tín ngưỡng của người dân. Trước kia làng tổ chức lễ hội từ ngày

mồng 1 đến ngày mồng 3 tháng 3 âm lịch là ngày kỷ niệm khánh hạ Đức

Thánh Mẫu. Từ khi chùa được công nhận là di tích lịch sử cấp tỉnh năm 2003

thì UBND xã đứng ra tổ chức 2 năm 1 lần.

Lễ hội truyền thống hàng năm diễn ra từ ngày mồng 1 đến ngày mồng 3

tháng 3 âm lịch. Vào ngày 1 tháng 3, nhân dân trong làng tập trung tại chùa

để chuẩn bị lễ hội. Sau khi Ban tổ chức đọc diễn văn khai mạc là phần tế lễ

bao gồm dâng hương của các dòng họ, nhân dân trong làng, tế nam quan và tế

nữ quan. Đan xem với các phần tế lễ là các trò chơi dân gian như: bắt vịt chọi

gà, cờ tướng. Vào buổi tối có các chương trình giao lưu văn nghệ của đội văn

nghệ xã thái Dương với các xã lân cận.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Người dân thôn Đồng Tỉnh nói riêng và người dân xã Thái Dương nói

chung chủ yếu theo đạo Phật và đạo thờ cúng tổ tiên. Ngày Khánh Hạ Đức

Thánh Mẫu (3 tháng 3 âm lịch) là dịp để người dân tưởng nhớ công lao của

các bậc Thánh Mẫu, cầu mong đức Mẫu phù hộ cho quốc thái dân an, mưa

thuận gió hòa, mùa màng bội thu, cầu mong cho bản thân, gia đình được

mạnh khỏe, hạnh phúc.

Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát

huy di sản văn hóa phi vật thể:

UBND xã Thái Dương tổ chức lễ hội 2 năm một lần, thành lập Ban Tổ

chức, Ban Khánh tiết, Ban Hậu cần, đảm bảo an ninh trật tự trong quá trình

diễn ra lễ hội. Kinh phí tổ chức lễ hội chủ yếu là của nhân dân trong xã, con

em xa quê đóng góp công đức, tiền mặt, ngày công để tu sửa chùa, tham gia

công tác chuẩn bị lễ hội góp phần giũ gìn và phát huy giá trị của chùa Đông

và lễ hội truyền thống của chùa. Toàn thể nhân dân, con em xa quê và khách

thập phương tham gia công đức tiền vàng, hiện vật để tôn tạo trùng tu Chùa

178

Page 182: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

và bảo tồn lễ hội.

8.2. Nghề thủ công truyền thống

Hiện nay trên địa bàn huyện Thái Thụy có 13 di sản nghề thủ công

truyền thống được được thực hành trong các cộng đồng thôn làng.

1. THỊ TRẤN DIÊM ĐIỀN

- Nghề chế biến thủy sản

(Thị trấn Diêm Điền, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Nguyễn Văn Lang

Sinh năm: Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Ngư dân

Địa chỉ liên lạc: Khu 9 Thị trấn Diêm Điền, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái

Bình

(2) Họ và tên: Bà Đỗ Thị Nhung

Sinh năm: 1983 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Công chức văn hóa

Địa chỉ liên lạc: UBND thị trấn Diêm Điền, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(3) Họ và tên: Nguyễn Công Thủy

Sinh năm: Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Ngư dân

Địa chỉ liên lạc: Khu 9 Thị trấn Diêm Điền, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

Miêu tả về nghề thủ công:

Ngư dân Diêm Điền đánh bắt, nuôi trồng được hàng ngàn tấn tôm, cá

tạo nguồn nguyên liệu dồi dào cho nghề chế biến thủy sản. Sản phẩm chủ yếu

là cá khô, nước mắm, mắm tôm. Nước mắm Diêm Điền sản xuất theo phương

thức thủ công truyền thống cá tươi đem về ủ muối, phơi dưới ánh nắng mặt

trời sau 1 đến 2 năm đem ra kéo, rút, lọc kết hợp dây chuyền đóng chai hiện

179

Page 183: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

đại bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, nước mắm Diêm Điền vẫn được

khẳng định được thương hiệu của mình, từng bước chiếm lĩnh thị trường hầu

hết các tỉnh phía Bắc. Ngày nay, nghề chế biến thủy sản đang phát triển, đa

dạng về chủng loại, hình thức và quy mô sản xuất.

Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát

huy di sản văn hóa phi vật thể:

Hiện nay nghề chế biến thủy sản ở thị trấn Diêm Điền đã có những đột

phá mới, từ chỗ chỉ sản xuất những sản phẩm truyền thống phục vụ nhu cầu

nhỏ lẻ trong dân thì nay thủy sản chế biến của Diêm Điền đã trở thành sản

phẩm hàng hoá, nhiều mặt hàng mới ra đời, như: cá khô tẩm gia vị, tôm cá

đông lạnh, nước mắm, mắm tôm xuất đi hầu hết thị trường các tỉnh trong nước

và xuất khẩu ra nước ngoài. Trong số mặt hàng mới, chế biến sứa xuất khẩu

phát triển rất mạnh, bởi có nguồn nguyên liệu dồi dào, thị trường tiêu thụ lớn,

thu hút nhiều lao động cả người tham gia đánh bắt và chế biến, nên đã góp

phần tăng thu nhập, xoá đói giảm nghèo cho ngư dân ven biển. Nếu như trước

đây, địa phương chỉ có duy nhất sản phẩm sứa ngâm sú vẹt truyền thống của bà

con, giá trị thấp, đến nay các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất ở thị trấn Diêm Điền

đã năng động đầu tư thiết bị máy móc, nhà xưởng chế biến sản phẩm sứa ăn

liền, sứa khô đạt tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm xuất khẩu sang Trung

Quốc, cung cấp cho các nhà hàng, siêu thị ở Hà Nội, Hải Phòng.

2. XÃ THỤY DÂN

- Nghề ren làng An Tiêm

(Thôn An Tiêm, xã Thụy Dân, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Trịnh Quốc Rạng

Sinh năm:1960 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Thợ rèn

Địa chỉ liên lạc: Thôn An Tiêm, xã Thụy Dân, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

180

Page 184: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

(2) Họ và tên Nguyễn Văn Phương

Năm sinh; 1978 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Thợ rèn

Địa chỉ liên lạc: Thôn An Tiêm, xã Thụy Dân, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(3) Họ và tên: Trịnh Trọng Nam

Năm sinh; 1958 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Thợ rèn

Địa chỉ liên lạc: Thôn An Tiêm 1, xã Thụy Dân, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

Miêu tả về nghề thủ công:

Thôn An Tiêm, xã Thuỵ Dân, huyện Thái Thụy từ lâu đã nổi tiếng với

nghề rèn truyền thống. Theo tư liệu để lại, nghề rèn có từ năm 1288, khi Hưng

Đạo Đại Vương lập doanh trại ở Lưu Đồn (nay là xã Thụy Hồng, huyện Thái

Thụy tỉnh Thái Bình) và tổ chức xưởng rèn chuẩn bị vũ khí cho quân đội.

Nghề rèn làng An Tiêm thờ Ngũ vị tổ sư là; Tống Đình Uyên, Lê Đình

Ngay, Trịnh Thiện Tính, Bùi Đình Lành, Phan Thuần Mỹ được phối thờ tại đình

An Tiêm. Trong 5 người đứng đầu xưởng rèn thì có tới 4 vị quê ở An Tiêm. Vì

có công lao lớn đối với đất nước, cả 5 vị đều được vua Trần Nhân Tông sắc

phong là “ Ngũ vị tổ sư nghề rèn”. Nghề rèn An Tiêm cũng bắt đầu từ đó.

Đối với người thợ rèn kỹ năng quan trọng là kỹ năng chọn thép

(nguyên liệu tốt), đánh khung đúng, nung đủ nhiệt độ, làm nguội, mài lưỡi,

đánh chấu và sau cùng là tôi sản phẩm, đánh bóng, mài lại lấy độ sắc hoàn

hỏa. Ngoài những kỹ thuật điêu luyện còn cần có rất nhiều kinh nghiệm kỹ

năng riêng của mỗi gia đình, mỗi nghệ nhân. Hiện ở Thụy Dân có 654 hộ gia

đình đang thường xuyên làm nghề, thu nhập chính từ nghề rèn.

Để làm ra một sản phẩm, người thợ rèn An Tiêm phải trải qua rất nhiều

công đoạn. Nhưng dường như đối với mỗi người thợ nơi đây, những công

đoạn ấy đã “ngấm vào máu”, nên công việc nhịp nhàng, nhanh thoăn thoắt.

181

Page 185: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Nghề nào cũng đòi hỏi bí quyết và kinh nghiệm. Với thợ rèn, để sản phẩm

làm ra đạt chất lượng, đòi hỏi người thợ phải lựa chọn sắt thép, biết nhìn lửa

để tạo ra độ sắc, bền cho từng sản phẩm. Mỗi lò rèn đều có bí kíp gia truyền

riêng của mình; chẳng hạn như dùng loại than đốt lò như thế nào cho lửa tốt;

rồi cắt sắt tạo hình, nung qua lửa ra sao. Việc này đòi hỏi người thợ phải có

kinh nghiệm mới cảm nhận tinh tường được. Một khâu nữa không kém phần

quan trọng đó là tôi sản phẩm. Để có được nước tôi vừa đủ, phụ thuộc rất

nhiều vào trình độ và kinh nghiệm của thợ. Chỉ cần tôi thép già hay non một

chút là sản phẩm sẽ không đạt chất lượng. Do vậy, để đạt được trình độ nhất

định ngay từ khi mới vào nghề, thợ học việc đã được các lớp đàn anh đi trước

hướng dẫn tỷ mỷ. Người nào nhanh cũng phải mất tới vài ba năm. Nghề rèn

vô cùng vất vả, suốt ngày người ướt mồ hôi vì lửa nóng, đen thui thủi vì bụi

than, nhưng là nghề truyền thống, truyền từ đời ông, đời cha. Thế nên, những

người thợ ở làng rèn nơi đây luôn lấy làm tự hào cho cái nghiệp của mình.

Sản phẩm của nghề rất đa dạng, từ những vật dụng sinh hoạt như

dao, kéo, búa, liềm, đến những chi tiết máy móc phức tạp. Với trình độ tay

nghề cao cùng với việc giữ gìn và phát huy thương hiệu được xây dựng từ

trước đó, các sản phẩm của những bễ rèn Thuỵ Dân ngày càng chiếm ưu

thế trên thị trường, sản phẩm được tiêu thụ trong cả nước. Hiên nay thương

lái khắp nơi về làng An Tiêm lấy buôn đi bán khắp các miền đất nước phục

vụ nhu cầu của nhân dân sản xuất nông nghiệp, sinh hoạt hàng ngày và cả

trong sản xuất công nghiệp.

Từ năm 2005 trở lại đây, nghề rèn có xu hướng phát triển mạnh,

chuyển từ hộ gia đình nhỏ lẻ sang sản xuất tập trung với khối lượng sản phẩm

lớn. Trong năm 2005, làng An Tiêm có 3 bễ lò được trang bị búa máy hiện

đại, sau tăng lên 9 búa máy với mức đầu tư từ 25- 100 triệu đồng cho một búa

máy, nâng công suất lên từ 5 đến 7 lần so với các công cụ cổ truyền. Hiện tại,

cả làng có hơn 60 lò rèn, thu hút trên 300 lao động với mức thu nhập bình

quân đầu người từ 1,2 triệu đến 1,7 triệu đồng tháng tháng, riêng thợ cả thu

182

Page 186: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

nhập lên tới trên 3 triệu tháng tháng.

Hàng năm tết xuân, nhân dân và các lò rèn trong làng nghỉ làm, sau lễ

tạ kỳ an hôm rằm tại đình làng các lò ở nhà mới bắt đầu đỏ lửa. Lễ hội làng

An Tiêm (nay gồm các thôn An Tiêm 1, 2, 3, 4) từ ngày 11 đến 16 tháng 3 âm

lịch hàng năm, bao giờ cũng có thi làm rèn tại sân đình.

Danh sách hộ và người thực hành nghề:

Số gia đình, nhóm người đang thực hành nghề 220Số người đang thực hành nghề 675Số người có khả năng truyền dạy 10Số người đang học nghề 150

Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát

huy di sản văn hóa phi vật thể:

-Nghề rèn đã mang lại không chỉ công ăn việc làm mà còn mang lại

nguồn thu lớn là nghề phụ nhưng thu nhập chính đã góp phần thúc đẩy sự

phát triển kinh tế chung của xã.

- Ngày nay, lớp thanh niên ít ai chọn nghề rèn để gắn bó, lập nghiệp lâu

dài. Ngay cả con cháu trong làng rèn, biết chút ít nghề nhưng cũng tìm chọn

những công việc khác nhẹ nhàng hơn để mưu sinh. Tuy vậy những người thợ

rèn truyền thống An Tiêm vẫn rất tự hào và ý thức cao về việc gìn giữ làng

nghề truyền thống của ông cha để lại.

-Những nghệ nhân đề nghị quan tâm hỗ trợ của Nhà nước để mở rộng

cơ sở sản xuất, đầu tư máy móc nhằm giảm bớt sức lao động, sản xuất đạt

hiệu quả kinh tế hơn.

3. XÃ THỤY DƯƠNG

- Hương Lai Triều

(Thôn Lai Triều, xã Thụy Dương, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Đoàn Văn Thành

Sinh năm:1955 Dân tộc: Kinh

183

Page 187: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Nghề nghiệp: Làm hương

Địa chỉ liên lạc: Thôn Lai Triều, xã Thụy Dương, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

(2) Họ và tên: Đỗ Phi Hoằng

Sinh năm:1965 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm hương

Địa chỉ liên lạc: Thôn Lai Triều, xã Thụy Dương, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

(3) Họ và tên: Bùi Quang Bạch

Sinh năm: 1960 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm hương

Địa chỉ liên lạc: Thôn Lai Triều, xã Thụy Dương, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

(4) Họ và tên: Đoàn Văn Thạo

Sinh năm:1965 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm hương

Địa chỉ liên lạc: Thôn Lai Triều, xã Thụy Dương, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

(5) Họ và tên: Đàm Thị Băng

Sinh năm:1973 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm hương

Địa chỉ liên lạc: Thôn Lai Triều, xã Thụy Dương, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

(6) Họ và tên: Đoàn Văn Thành

Sinh năm: 1955 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm hương

Địa chỉ liên lạc: Thôn Lai Triều, xã Thụy Dương, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

(7) Họ và tên: Đoàn Văn Chuyên

184

Page 188: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Sinh năm:1976 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm hương

Địa chỉ liên lạc: Thôn Lai Triều, xã Thụy Dương, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

Nhận diện nghề hương Lai Triều:

Tương truyền nghề làm hương của làng Lai Triều do cụ tổ là Bùi Nhâm

Toàn thôn Phúc Nghiệp sống vào thời Lê học nghề làm hương từ phương xa

về truyền dạy cho con cháu trong làng. Ngày nay lễ hội tri ân tổ nghề hương

được tổ chức vào ngày mồng 6 tháng Giêng âm lịch hàng năm.

Hương Lai Triều được làm từ các nguyên liệu tự nhiên của địa phương

như: bột rễ cây hương bài, than đốt từ các loại thảo mộc, mía, nhựa trám.Qua

các công đoạn thì chọn lọc nhựa đến phơi sấy, đốt than làm tăm hương và

cuối cùng là lăn thuốc thành những nén hương. Tất cả những công đoạn này

đều phải hết sức tỉ mỉ, đúng quy trình, đúng tỷ lệ các loại nguyên liệu mới

đảm bảo chất lượng và bản chất từng có của hương Lai Triều. Hương ở đây

chủ yếu được xe bằng tay, nhựa trám được vuốt trên tăm tre bánh tẻ, được xoa

bọc với một lớp bột cây mía và rễ cây hương bài. Nguyên liệu tự nhiên đã

giúp hương Lai Triều thơm, cháy đượm, rất riêng so với hương của nơi khác.

Ngoài nguyên liệu tự nhiên thì cách pha trộn và kỹ thuật phơi hương cũng là

bí quyết để tạo nên sản phẩm hương trầm chất lượng. Cụ thể như tỷ lệ pha

trộn nguyên liệu phải hài hòa, vừa đủ, khi phơi cũng phải chú ý để hương

không bị mất mùi thơm.

Cho đến nay, nghề làm hương đã trở thành một nghề chính, tồn tại

cùng với sản xuất nông nghiệp. Trước đây, làng có 120 hộ thì có tới gần 100

hộ làm hương. Ngày nay, số hộ làm hương tuy đã giảm nhưng nhiều gia đình

đã chuyển từ sản xuất nhỏ sang sản xuất theo quy mô lớn hơn, thu hút được

nhiều lao động. Hiện nay, tại Lai Triều, có cả gia đình cùng làm hương và

người làm ở mọi độ tuổi: từ người già, trung niên tới trẻ nhỏ.Danh sách hộ và người làm hương:

185

Page 189: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Số gia đình, nhóm người đang thực hành nghề 60

số người đang thực hành nghề 300

số người có khả năng truyền dạy 20

số người đang học nghề 30

Ý nghĩa của nghề này đối với cồng đồng địa phương:

Đây là một nghề truyền thống của dân gian với tri thức dân gian được

truyền lại từ bao đời nay. Trong những năm gần đây nghề hương cũng đang

đứng trước nguy cơ mai một do những nguyên nhân như thiếu nguyên liệu,

thiếu địa điểm sản xuất, không tiêu thụ được sản sẩm trên thị trường. Nghề

làm hương là nét văn hóa riêng của làng Lai Triều vừa mang ý nghĩa văn hóa,

ý nghĩa tâm linh sâu sắc được người dân trong làng giữ qua bao thế hệ. Trong

làng nghề không truyền cho con gái chỉ truyền cho con trai và con dâu để giữ

bí quyết làng nghề.

Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát

huy di sản văn hóa phi vật thể:

- Ngày nay nghề làm hương đã trở thành nghề chính của làng Lai Triều.

Năm 2006 thôn đã thành lập “Hội phường hương Lai Triều” để cho các hộ

sản xuất kinh doanh tập hợp lại cùng nhau trao đổi kinh nghiệm và giúp nhau

vay vốn sản xuất, kinh doanh, quảng bá tiêu thụ sản phẩm đem lại hiệu quả

kinh tế cao.

- Cùng với làm hương thủ công, để phát triển nghề, những năm gần đây

một số hộ đã đưa máy móc vào sản xuất, góp phần nâng cao sản lượng, vì thế

hương Lai Triều cũng được mở rộng thị trường tiêu thụ ra khắp các tỉnh,

thành phố trong cả nước và nước ngoài.

- Cộng đồng đã năng động tìm đầu ra và nâng cao thu nhập cho

người dân.

4. XÃ THỤY DUYÊN

- Nghề làm bún

186

Page 190: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

(Thôn Hóa Tài, xã Thụy Duyên, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Bùi Xuân Hải

Sinh năm: 1964 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc:

Thôn Hóa Tài, xã Thụy Duyên, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

(2) Họ và tên: Bùi Thị Dần

Sinh năm: 1963 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc:

Thôn Hóa Tài, xã Thụy Duyên, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

Nhận diện nghề làm bún:

Nghề làm bún của làng Hóa Tài không biết có từ bao giờ hiện này do

dòng họ Bùi trong làng làm là chủ yếu. Bún của làng Hóa Tài sợi bún thơm

dẻo, trắng trong giòn, bánh đúc giòn ngon là những đặc trưng của nghề bún

làng Hóa Tài. Sợi bún ngon là bún có mùi đặc trưng, có màu trắng ngà của

gạo, không bị bở mà giòn, dai tự nhiên, sợi bún khô bong, tơi, không rã nát

trong nước, không có vị chua, mặn, không pha bột năng, bột lọc hay chất tẩy.

Bí quyết sản xuất bún bảo đảm chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm của hộ

gia đình sản xuất bún tại ở làng Hóa Tài còn ở khâu chọn gạo, đó phải là loại

gạo thuần chủng, không cũ quá mà cũng không mới quá khi xay làm bột mới

đạt được yêu cầu.

Hiện trạng di sản văn hóa phi vật thể:

- Hiện nay trong làng còn hơn 10 hộ gia đình vẫn làm nghề bún,

bánh đúc truyền thống cung cấp cho người dân trong thôn, xã và trong

huyện Thái Thụy.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Nghề làm bún làng Hóa Tài thể hiện tri thức làng nghề, cũng như kỹ

187

Page 191: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

năng sản xuất và tiêu thụ của cộng đồng. Làng nghề làm bún là một trong

những nghề được duy trì nhằm bảo lưu các giá trị văn hóa, gắn kết các thành

viên, cùng nhau xây dựng văn hóa nghề và hỗ trợ nhau trong sản xuất và tiêu

thụ sản phẩm.

Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát

huy di sản văn hóa phi vật thể:

- Các gia đình của dòng họ Bùi với nghề sản xuất bún đã tạo việc làm

cho nhiều người, truyền nghề cho các thành viên cộng đồng và cho lớp trẻ.

- Họ đã cùng nhau góp phần giữ gìn, phát triển nghề truyền thống của

quê hương, đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của xã.

- Nghề đan manh

(Thôn Hóa Tài, xã Thụy Duyên, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Trần Thị Nở

Sinh năm: 1965 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc:

Thôn Hóa Tài, xã Thụy Duyên, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

(2) Họ và tên: Phạm Xuân Nghiêm

Sinh năm: 1964 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: trưởng thôn

Địa chỉ liên lạc:

Thôn Hóa Tài, xã Thụy Duyên, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

(3) Họ và tên: Nguyễn Văn Hạnh

Sinh năm: 1958 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Trưởng ban mặt trận

Địa chỉ liên lạc: 01674377891

Thôn Hóa Tài, xã Thụy Duyên, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

Nhận diện nghề đan manh:

188

Page 192: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Nghề đan manh có từ lâu đời ở làng Hóa Tài, người dân sử dụng loại

cõi to, chắc cán mỏng để đan thành các tấm mang sau đó khâu thành những

chiếc túi, sọt, dó bằng cõi.

Nguyên liệu chủ yếu là cõi. Cõi được phơi khô sau đó được cán mỏng

qua máy ép cõi cho mềm, mỏng là có thể sử dụng được.

Nghề đan manh, đan dó bằng cói không khó nhưng quan trọng là

khâu xử lý cói. Nguyên liệu cói phải được xử lý sao cho trắng, đẹp, không

mốc thì sản phẩm đan xong mới đẹp và bắt mắt. Nhân công lao động chủ

yếu là trẻ em, người già, phụ nữ những lúc nhàn rỗi đều có thể đan. Những

người ban ngày đi làm việc khác, vào buổi tối cũng có thể đan manh để

kiếm thêm thu nhập.

Hiện trạng di sản văn hóa phi vật thể:

Hiện nay có hơn 30% số hộ gia đình của thôn Hóa Tài vẫn tham gia sản

xuất, sản phẩm được xuất khẩu đi các nước trên thế giới như Malaysia, Ăngola.

Nguy cơ hoặc nguyên nhân mai một của di sản văn hóa phi vật thể:

Các gia đình mua nguyên liệu nhận mẫu gia công lại cho các công ty

sau đó họ xuất ra nước ngoài.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Nghề đan manh là tri thức và kỹ năng của cộng đồng, tạo nên những

nét văn hóa truyền thống của làng, là sợi dây gắn kết cộng đồng.

Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát

huy di sản văn hóa phi vật thể:

-Những người có kinh nghiệm truyền nghề đan manh cho bà con và

những thanh niên, tạo việc làm cho nhiều người.

- Cộng đồng cùng nhau góp phần giữ gìn, phát triển nghề truyền thống

của quê hương, đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của xã.

- Nghề móc mi tháng (làm mi giả)

(Thôn Hóa Tài, xã Thụy Duyên, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Bùi Xuân Hải

189

Page 193: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Sinh năm: 1964 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc:

Thôn Hóa Tài, xã Thụy Duyên, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

(2) Họ và tên: Bùi Thị Dần

Sinh năm: 1963 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc:

Thôn Hóa Tài, xã Thụy Duyên, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

Nhận diện nghề móc mi:

Nghề móc mi được du nhập vào làng Hóa Tài khoảng gần chục năm trở

lại đây. Nghề làm lông mi giả nguyên liệu chủ yếu là tóc. Khi thắt lông mi,

từng sợi hoặc từng đôi tóc được xếp lại và buộc rút vào một sợi chỉ, sau đó

quét qua lớp keo mỏng, giữ chắc mối thắt. Lông mi có loại thưa, ngắn hoặc

dày, dài. Mỗi chiếc dài 3,4 đến 3,5 cm tùy theo yêu cầu của khách hàng. Thắt

mới là công đoạn đầu tiên, để được chiếc lông mi hoàn chỉnh, phải thực hiện

tiếp các công đoạn cần thiết như: Ủi, hấp, tỉa và uốn cong.

Hiện này thôn Hóa Tài có khoảng 30% phụ nữ làm nghề này trong thời

gian nông nhàn. Các hộ gia đình làm gia công cho các cơ sở sản xuất kinh

doanh là chính.

Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể với đời sống cộng đồng:

Nghề móc mi là một nghề độc đáo thể hiện những kỹ năng của người

phụ nữ, trao truyền cho các em gái, đem lại thu nhập ổn định cho các hộ gia

đình sản xuất.

Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát

huy di sản văn hóa phi vật thể:

- Nghề móc mi của thôn Hóa Tài là một nghề đã được cộng đồng xây

dựng và phát triển, các gia đình sản xuất đều là tự phát theo nhu cầu của các

cơ sở kinh doanh. Hiện nay, các cấp chính quyền chưa có kế hoạch cụ thể cho

việc duy trì và mở rộng làng nghề, mà hoàn toàn do nhu cầu thị trường. Do

190

Page 194: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

vậy, cộng đồng những hộ gia đình là nghề mong muốn được sự quan tâm của

các ban ngành liên quan để duy trì và phát triển làng nghề, tạo thêm thu nhập

cho bà con.

5. XÃ THỤY THANH

- Nghề làm lưỡi câu

(Thôn Thanh Do, xã Thụy Thanh, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Nguyễn Văn Tuấn

Sinh năm:1956 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm lưỡi câu

Địa chỉ liên lạc: Thôn Thanh Do, xã Thụy Thanh, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

(2) Họ và tên: Đỗ Thị Xuân

Sinh năm: 1980 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm lưỡi câu

Địa chỉ liên lạc: Thôn Thanh Do, xã Thụy Thanh, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

(3) Họ và tên: Nguyễn Thị Hoa

Sinh năm:1985 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm lưỡi câu

Địa chỉ liên lạc: Thôn Thanh Do, xã Thụy Thanh, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

Nhận diện nghề làm lưỡi câu:

Nghề làm lưỡi câu ở Thanh Do đã có từ hơn 20 năm nay đem lại cho

người dân làng nghề một công việc bán thời vụ khá ổn định, đặc biệt từ em bé

10 tuổi đến cụ già 70 tuổi đều có thể tham gia vào các công đoạn sản xuất. Để

làm được một chiếc lưỡi câu, qui trình sản xuất phải qua khá nhiều các công

đoạn từ cán thẳng dây, chặt khúc, dập ngạnh, mài lưỡi, sửa mũi, làm khuôn,

uốn lưỡi, cắt 2 ngạnh, dập đít đến rang nóng cho lưỡi cứng, xóc bóng, tóm

191

Page 195: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

câu, đóng gói. Tuy hiện nay có đến 80% công đoạn được làm bằng máy

nhưng việc chỉnh lưỡi câu vẫn phải làm thủ công với sự hỗ trợ của chiếc đe

gỗ, trên đó người thợ tiến hành mài giũa chỉnh mũi. Hiện nay nghề làm lưỡi

câu ở thôn Thanh Do hơn 100 hộ tham gia sản xuất. Sản phẩm cung cấp cho

các xã trong vùng, trong tỉnh và cả nước. Nghề làm lưỡi câu đã mang lại đời

sống ổn định cho các hộ gia đình sản xuất.

Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát

huy di sản văn hóa phi vật thể:

Phát triển nghề và làng nghề là giải pháp then chốt giảm tỷ lệ lao động

trong nông nghiệp, tăng thu nhập cho người dân trong quá trình xây dựng

nông thôn mới hiện nay. Vì vậy, để nghề và làng nghề phát triển ổn định, bền

vững, xã Thụy Thanh cần có một giải pháp khắc phục tổng thể. Đối với làng

nghề truyền thống, sản phẩm vẫn có thị trường tiêu thụ nhưng bị suy giảm thì

cần tập trung đầu tư, hỗ trợ, khôi phục bảo tồn làng nghề. Đối với những làng

nghề suy giảm mà sản phẩm làng nghề không còn thị trường, thu nhập của

người lao động quá thấp thì cần mở rộng, du nhập nghề mới cho dân.

6. XÃ THỤY DŨNG

- Nghề đan vó

(Thôn Đông Dương, Diêm Tỉnh, Phương Man, Đầm Sen, xã Thụy

Dũng, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Vũ Trọng Liên

Sinh năm:17 tháng 01 tháng 1943 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Phương Man, xã Thụy Dũng, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

(2) Họ và tên: Nguyễn Thị Làn

Sinh năm: 1949 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

192

Page 196: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Địa chỉ liên lạc: Xã Thụy Dũng, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình

(3) Họ và tên Hoàng Thị Tạp.

Sinh năm: 1952 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Xã Thụy Dũng, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình

Nhận diện nghề đan Vó:

Qua tìm hiểu đến nay không ai nhớ Nghề đan vó có từ bao giờ, Ông

chủ Tổ nghề là ai, nhưng chỉ biết rằng từ hàng trăm năm nay, khi mùa nước

nổi từ tháng 4 đến tháng 11 hàng năm, tôm cá, cua trên các sông ngòi, trên

những cánh đồng nhiều vô kể, để đánh bắt cá nhân dân đã nghĩ ra việc đan vó

để có thể một lúc có thể bắt được cả Tôm, Cua và Cá. Việc đan vó ra đời như

thế, từ bao đời nay, Cha truyền - con nối, Nghề đan vó được duy trì cho đến

ngày nay. Có kỹ năng chọn cây Gai (nguyên liệu tốt), tỉa và chắp sợi nhỏ đều,

Xe sợi săn, làm dây giềng, dóc ghim, vót Cữ và sau cùng là đan thành vó.

Ngoài những kỹ thuật điêu luyện còn cần có rất nhiều kinh nghiệm kỹ năng

riêng của mỗi gia đình, mỗi nghệ nhân để có chiếc vó chuông đẹp. Các thế hệ

trong làng đều có thể thực hành. Tuy nhiên Hiện nay ở Thụy Dũng chỉ có

khoảng vài chục hộ gia đình đang thường xuyên làm nghề, thu nhập chính từ

nghề đan vó. Hiện nay nghề đan vó đã mai một do có nhiều hình thức đánh

bắt khác mang lại hiệu quả cao hơn.

Quy trình đan: Dùng vỏ cây gai ngâm nước từ 1 – 2 ngày tùy thuộc vào

cây non hay già, vớt ra dùng chày giã cua đập dập vỏ, lấy dao cạo bỏ toàn bộ

lớp biểu bì, chỉ lấy lớp vỏ lụa của thân cây gai mang phơi khô. Dùng móng

tay tách, vuốt vỏ gai thành những sợi nhỏ, đều chắp lại thành sợi dài, cuộn

thành lô và mang ra dùng xe (xa) xe 4 sợi thành 2 sợi săn đều, cuộn thành

danh (giún) phơi khô hoàn thành nguyên liệu chính. Xe, kết diềng thành

khung vó tùy kích thước như 1 sải, 1 sải rưỡi, 1 sải vực, hai sải. Buộc khung

diềng vào sào. Dùng ghim để ghim sợi, lấy mảnh tre vót thành cữ để đan vó,

các loại cứ có độ to, nhỏ khác nhau để đan vó từ thưa đến dày. Tiến hành đan

193

Page 197: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

vó bắt đầu từ đầu gọng xuống đến tùng theo thứ tự cữ từ thưa đến dày theo

nhu cầu người dùng cho đến khi hoàn thành chiếc vó. Nguyên liệu chính để

làm ra các sản phẩm Vó là vỏ cây Gai. Hiện nay do cây Gai dần khan hiếm,

nguyên liệu đang dần được thay thế bằng sợi tơ tằm hoặc sợi nilon.

Sản phẩm của nghề rất đa dạng, từ những Vó to, vó nhỏ, vó thưa, vó

dày tùy nhu cầu bắt cá, tôm. Hiện nay vó được bán cho nhân dân các vùng lân

cận, thương lái lấy buôn đi bán khắp các miền đất nước phục vụ nhu cầu của

nhân dân nơi có ao hồ, sông ngòi có cá, tôm, cua.

Từ năm 2005 trở lại đây, nghề đan vó có xu hướng phát triển chậm lại

và mất dần, nhiều hộ gia đình chuyển sang đan lưới ngư cụ cho tàu đánh bắt

cá biển. Số hộ gia đình và người biết làm nghề ngày càng giảm. Phần vì nhu

cầu thị trường giảm, phần vì ngày công lao động thấp nên ít người làm, chỉ

còn đa số là những người không có khả năng lao động nặng, không thể đi lao

động ở các công ty, xí nghiệp mới làm nghề vó.Danh sách hộ và người đan Vó:

Số gia đình, nhóm người đang thực hành nghề 50

Số người đang thực hành nghề 100

Số người có khả năng truyền dạy 50

Số người đang học nghề 0

Nguyên nhân nguy cơ mai một đối với nghề đan vó hiện nay là thiếu

nhân công, sức cạnh tranh kém và không có thị trường tiêu thụ. Mai một mất

một nghề truyền thống đã được cha ông truyền dạy từ bao đời đó là điều

không ai mong muốn, nhưng thực tế làm nghề này cũng vô cùng vất vả, nhiều

công đoạn, đòi hỏi kỹ năng cao nhưng thu nhập lại thấp. Chúng tôi vì có

truyền thống rồi nên lúc nào cũng mong sản phẩm của mình đứng vững trên

thị trường, có nhiều đơn hàng tạo công ăn việc làm cho con cháu.

Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát

huy di sản văn hóa phi vật thể:

Đảng ủy, UBND xã Thụy Dũng đã khuyến khích nhân dân giữ nghề

194

Page 198: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

truyền thống, tạo mọi điều kiện cho các hộ gia đình sản xuất và tiêu thụ sản

phẩm Vó.

Chính quyền địa phương đã nghiêm cấm việc đánh bắt thủy sản bằng te

kích điện để giữ nguồn cá, tôm cho nhân dân cất vó. Xưa thì chỉ đơn thuần

làm hoàn toàn truyền thống bằng tay, ngày nay đã có máy móc hỗ trợ làm sợi

nên về mất sức đỡ hơn.

7. XÃ THỤY CHÍNH

- Nghề Móc sợi

(Thôn Hòe Nha, xã Thụy Chính, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Nguyễn Văn Thanh

Sinh năm:1955 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Bí thư chi bộ

Địa chỉ liên lạc: Thôn Hòe Nha, xã Thụy Chính, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(2) Họ và tên: Lê Xuân Hạnh

Sinh năm: 1975 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Trưởng thôn

Địa chỉ liên lạc: Thôn Hòe Nha, xã Thụy Chính, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(3) Họ và tên: Phạm Ngọc Nam

Sinh năm:1955 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Hòe Nha, xã Thụy Chính, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

Nhận diện nghề móc sợi:

Nghề móc sợi xuất khẩu không đạt được mức thu nhập cao nhưng lại

được bà con nông dân hăng hái đón nhận để làm trong lúc nông nhàn. Cũng vì

tính chất của nghề không đòi hỏi yêu cầu kỹ thuật cao nên các chị em độ tuổi

195

Page 199: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

từ 40 - 60 vẫn làm ra được sản phẩm theo đúng yêu cầu. Bởi thế mỗi tháng ai

cũng có thu nhập thêm ít nhất vài trăm nghìn từ nghề phụ.

Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát

huy di sản văn hóa phi vật thể:

Các cấp ủy chính quyền địa phường cần phải đẩy mạnh tuyên truyền

nâng cao nhận thức cho cán bộ và người dân về tầm quan trọng của nghề và

làng nghề. Ưu tiên bố trí nguồn vốn, giúp các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất

được hưởng thụ các chính sách ưu đãi trong sản xuất, kinh doanh, đào tạo

nghề, tiêu thụ sản phẩm nhằm tạo thêm nhiều việc làm, nâng cao thu nhập cho

lao động nông thôn.

8. XÃ THỤY SƠN

- Mây tre đan

(Thôn Thượng Phúc, xã Thụy Sơn, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Trần Văn Cự

Sinh năm:1955 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Hưu trí

Địa chỉ liên lạc: Thôn Thượng Phúc, xã Thụy Sơn, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

(2) Họ và tên: Bùi Văn Dụng

Sinh năm: 1960 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Thượng Phúc, xã Thụy Sơn, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

(3) Họ và tên: Làm ruộng

Sinh năm:1972 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Trồng trọt

Địa chỉ liên lạc: Thôn Thượng Phúc, xã Thụy Sơn, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

196

Page 200: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Nhận diện nghề mây tre đan:

Nghề mây tre đan của làng có từ rất lâu đời gắn liền với cuộc sống của

người nông dân. Trước đây các sản phẩm chủ yếu phụ vụ sinh hoạt hàng ngày

của những người nông dân trong làng. Người nông dân có thể đan quanh năm,

nhất là khi mùa màng đã song bà con tranh thủ đan lát và làm nghề, tranh thủ khi

lúc nông nhàn. Những người làm nghề đan có thể là nam, nữ, già trẻ. Kỹ thuật

đan lát của làng đa dạng hoá, các sản phẩm làm ra đẹp mắt, bền khi sử dụng.

Các quy trình chính trong quá trình làm ra sản phẩm của nghề đan bao

gồm: Đầu tiên là bổ tre, sau đó ra nan, vuốt nan cho mềm, nan được chẻ đều

nhau theo các sản phẩm định đan như: đan rổ, rá, nong, nia, dần, sàng.

Nguyên liệu chủ yếu là tre hoá, hiện nay tre hoá rất ít trong làng quê lên họ

phải mua tre vầu về để đan. Mây dùng để nức cạp rổ, rá cho bền đẹp. Sản

phẩm hiện nay chủ yếu tự cung tự cấp trong nhân dân ngoài ra bà con mang

đi các chợ trong vùng.

Nghề mây tre đan là một nghề thủ công truyền thống rất được sử dụng

trong điều kiện hiện nay do đó việc thực hiện và duy trì để cung cấp hàng hoá

cho nhân dân sử dụng. Nếu trường hợp bị mai một nó sẽ mất đi truyền thống

văn hoá của người Việt vì nghề mây tre đan thân thiện với môi trường, đảm

bảo môi trường sinh thái, bền đẹp có giá trị với cộng đồng làng xóm.

Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát

huy di sản văn hóa phi vật thể:

Đề nghị các cấp các ngành cần quan tâm lưu giữ bảo vệ, tìm hướng đi

cho sản phẩm, để nghề may tre đan không bị mai một.

Tuyên truyền vận động nhân dân làm nghề trong thời gian nông nhàn

để tăng cao thu nhập. Nhà nước cần hỗ trợ đầu tư kinh phí và có chính sách

hỗ trợ khuyến cáo mọi người dân tham gia sử dụng để bảo vệ môi trường.

9. XÃ THỤY TRÌNH

- Nghề đan nón

(Thôn Quảng Nạp, xã Thụy Trình, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

197

Page 201: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

(1) Họ và tên: Phạm Thị Duyên

Sinh năm:1959 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Quảng Nạp, xã Thụy Trình, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

(2) Họ và tên: Tạ Thị Lương

Sinh năm:1953 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Quảng Nạp, xã Thụy Trình, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

(3) Họ và tên: Tạ Quốc Trị

Sinh năm: 1948 Dân tộc: kinh

Nghề nghiệp: làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Quảng Nạp, xã Thụy Trình, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

(4) Họ và tên: Phạm Đình Thêm

Sinh năm: 1950 Dân tộc: kinh

Nghề nghiệp: làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Quảng Nạp, xã Thụy Trình, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

(5) Họ và tên: Nguyễn Thị Nhẫn

Sinh năm: 1960 Dân tộc: kinh

Nghề nghiệp: làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Xã Thụy Trình, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình

Nhận diện nghề đan nón:

Làng nghề nón Quảng Nạp ra đời cách đây 80 năm khi cụ Tạ Văn Trạch

mang nghề khâu nón từ Quảng Bình về quê. Ban đầu, nghề chỉ được cụ truyền

cho con cháu trong nhà, về sau, những khi mất mùa, chiếc nón lá đã lo cho

người dân trong làng đủ “cơm no, áo mặc”, dần trở thành nghề chính của làng.

198

Page 202: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Để có được chiếc nón lá Quảng Nạp bền đẹp, đòi hỏi người làm nón

phải có sự khéo léo của đôi bàn tay và có óc thẩm mỹ cao. Sau khi mua lá nón

về, người thợ phơi nắng, sau đó hấp sinh diêm để lá có độ trắng đẹp và không

bị mốc khi gặp trời mưa. Xong công đoạn đó thì người thợ đặt từng chiếc lá

trên lưỡi cầy nung nóng sau đó dùng giẻ vuốt đều trên mặt bằng làm cho lá

phẳng ra, rồi xếp lên khuôn làm hai lớp lá trong và ngoài, giữa hai lớp lá là

một lớp mo nang mỏng được lấy từ mo tre và buộc lại cho chắc chắn trên

khung nón. Tiếp theo là tới công đoạn khâu. Đôi bàn tay khéo léo, thoăn thoắt

luồn mũi kim lên xuống đều đặn sao cho lỗ khâu thật nhỏ và khít đều đi từ

đỉnh nón qua các vòng xuống vành ngoài cùng. Người thợ khéo tay khi khâu

nón thường là người có tài khâu lấn chỉ và khéo léo giấu những nốt nối vào

trong lòng chiếc nón lá. Bên trong chiếc nón thường được trang trí thêm

những họa tiết, màu sắc của sợi chỉ khâu tạo thành nhôi nón làm cho chiếc

nón lá trở nên sinh động và phong phú hơn. Chiếc quai nón vừa để giữ chiếc

nón, vừa để điểm tô cho người đội thêm duyên dáng, thêm sang trọng và quí

phái theo cái nhìn thẩm mỹ hiện đại. Trước khi sử dụng nón lá họ thường

quang một lớp dầu và đem ra phơi nắng vài giờ đồng hồ để làm bóng nón lá và

làm tăng sức bền với thời gian cho sản phẩm này.

Hiện nay, thôn Quảng Nạp có 384 hộ gia đình làm nón lá chiếm gần

20% tổng số các hộ gia đình trong toàn xã. Làng nghề làm nón lá truyền

thống phát triển, đời sống nhân dân trong làng Quảng Nạp được nâng cao,

góp phần cải thiện mức sống của người dân nơi đây. Nhiều hộ gia đình làm

nghề nón lá đã xây dựng được nhà cao tầng, đường làng, ngõ xóm sạch sẽ,

các công trình phúc lợi công cộng được xây dựng khang trang và hiện đại.

Như gia đình nhà bà Nguyễn Thị Huê thôn Bắc Quảng Nạp là một trong

những hộ làm nón lá có tiếng cả về số lượng và chất lượng sản phẩm. Trung

bình một ngày, mỗi người lao động sẽ làm ra một chiếc nón với mức giá bán

ra thị trường từ 60 – 70 nghìn đồng, trừ chi phí, nguyên liệu khoảng từ 15 –

20 nghìn đồng, thì công lao động một ngày là từ 40 – 50 nghìn đồng. Tổng

199

Page 203: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

thu nhập bình quân của tháng là 1.200.000 – 1.500.000 đồng tháng 1 người

lao động, góp phần cải thiện và nâng cao đời sống cho các gia đình, làm cho

bộ mặt nông thôn ngày càng đổi mới.

Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát

huy di sản văn hóa phi vật thể:

Đất nước ta đang bước và thời kỳ đổi mới và hội nhập, nhiều mốt thời

trang hiện đại xuất hiện; có cả trăm nghìn loại nón, mũ khác nhau, đa dạng về

màu sắc, kiểu dáng điều đó dẫn đến nón lá làng Quảng Nạp đang mất dần thị

trường có nguy cơ mai một. Hiện nay ở Quảng Nạp còn rất nhiều người cao

tuổi muốn gìn giữ và phát triển nghề làm nón truyền thống vốn từ lâu đã được

coi như “kế sinh nhai” của dân làng. Tuy nhiên, bà con cũng rất mong có sự

quan tâm hỗ trợ, giúp đỡ của các cấp, các ngành để nghề truyền thống của

làng không bị mai một và nón lá Quảng Nạp tiếp tục hiện diện như một nét

văn hóa đặc sắc, riêng có tự bao đời.

Chính quyền địa phương cần phải có những giải pháp, chính sách hỗ

trợ tìm thị trường tiêu thụ sản phẩm và giá trị sản phẩm đảm bảo được mức

thu nhập cho người làm ra sản phẩm. Bên cạnh đó cần tăng cường công tác

tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng về giá trị và ý nghĩa của

nghề thủ công truyền thống này.

10. XÃ THỤY HẢI

- Nghề làm muối

(Thôn Tam Đồng, xã Thụy Hải huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Bùi Đình Tháp

Sinh năm:1964 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm muối

Địa chỉ liên lạc: Thôn Tam Đồng, xã Thụy Hải huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(2) Họ và tên: Vũ Đức Tuấn

200

Page 204: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Sinh năm:1958 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Bí thư thôn

Địa chỉ liên lạc: Thôn Tam Đồng, xã Thụy Hải huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(3) Họ và tên: Bùi Thị Đoàn

Sinh năm: 1952 Dân tộc: kinh

Nghề nghiệp: Làm muối

Địa chỉ liên lạc: Thôn Tam Đồng, xã Thụy Hải huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(4) Họ và tên: Vũ Thị Minh Thu

Sinh năm: 1970 Dân tộc: kinh

Nghề nghiệp: Chủ nhiệm HTX muối Đại Đồng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Tam Đồng, xã Thụy Hải huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(5) Họ và tên: Nguyễn Thanh Sơn

Sinh năm: 1968 Dân tộc: kinh

Nghề nghiệp: Phó chủ tịch

Địa chỉ liên lạc: Thôn Tam Đồng, xã Thụy Hải huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(6) Họ và tên: Vũ Đức Cường

Sinh năm: Dân tộc: kinh

Nghề nghiệp: Trưởng ban Kiểm soát HTX muối Đại Đồng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Tam Đồng, xã Thụy Hải huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

Nhận diện nghề làm muối:

Tương truyền tổ nghề làm muối là bà Nguyệt Ảnh dân gian gọi là bà

Chúa Muối được thờ tại phủ Bà Chúa Muối thôn Tam Đồng.

Quy trình làm muối bắt đầu từ rãi cát, chạt cát lần 1 (thu cát vào bể

lọc), chạt cát lần 2 (đổ nước mặn vào bể lọc), múc nước ra thảng (bể tròn),

201

Page 205: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

chạt cát ra phơi, thu muối (đổ nước ra sân vô phơi cho kết tinh). Hiện nay

trong thôn còn khoảng 40 đến 50 gia đình còn giữ nghề muối. Sản phẩm chủ

yếu tiêu thụ trong vùng.

Nghề làm muối ở Thụy Hải thường bắt đầu từ khoảng tháng 4 - 10 Âm

lịch hàng năm. Lao động chủ yếu là trẻ em từ 11 - 18 tuổi, người già và phụ

nữ. Ông Tạ Duy Bình, Phó Chủ tịch UBND xã Thụy Hải cho biết: Hiện nay,

cả xã có 360 hộ làm muối với tổng diện tích đồng muối khoảng 40 ha. Xã

Thụy Hải thời kỳ cực thịnh có đến 100% số hộ làm muối nhưng đến nay có

đến 60% số hộ bỏ ruộng muối.Tính đến hết năm 2016 thu nhập từ nghề muối

của xã cũng chỉ đạt hơn 550 triệu đồng. Ông Vũ Đức Cường, Trưởng ban

Kiểm soát HTX Muối Đại Đồng không khỏi xót xa cho biết “có những hộ cả

đời gắn bó với muối nhưng đến nay muối đang dần bỏ người". Những năm

gần đây, lượng mưa và thời gian mưa tăng cao so với các năm trước làm độ

mặn của nước biển giảm nên năng suất giảm đi đáng kể. Trước đây, năng suất

muối bình quân đạt 70 - 100 tấn tháng ha tháng năm, năng suất lao động 50 -

100 kg tháng ngày nhưng hiện nay năng suất giảm rõ rệt. Vào mùa sản xuất

chính (tháng 4, 5, 6, 7, 8), trong 1 tháng diêm dân cũng chỉ có từ 2 đến 8 ngày

sản xuất được muối". Bên cạnh đó, cùng với việc phải thường xuyên đầu tư tu

sửa ô, bể chạt và sân phơi thì những năm gần đây, một lượng lớn muối từ nơi

khác được chuyển về địa phương bán với giá cạnh tranh nên muối của xã sản

xuất ra rất khó tiêu thụ. Đến nay, muối Thụy Hải vẫn không có đơn vị nào

đứng ra bao tiêu và Nhà nước chưa có chính sách hỗ trợ cho giá muối nên

diêm dân vẫn phải "tự bơi". Cũng theo ông Cường, đến nay, Thụy Hải đã có

khoảng 24ha không sản xuất để hoang hóa và dự báo những năm sau diện tích

bỏ hoang sẽ tăng hơn. Trước những khó khăn của nghề muối, đa phần diêm

dân đều mong muốn được chuyển đổi mô hình sang làm đầm nước lợ và trồng

màu để nâng cao hiệu quả kinh tế.

Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát

huy di sản văn hóa phi vật thể:

202

Page 206: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Nhà nước và tỉnh cũng đã có một số chính sách hỗ trợ cho diêm dân để

cải tạo và đầu tư trang thiết bị cho việc sản xuất muối. Bên cạnh đó, xã cũng

đã tổ chức mở các khóa đào tạo dạy nghề về cách làm muối sạch, muối đảm

bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.

Năm 2006, Hợp tác xã muối Đại Đồng, xã Thụy Hải đã đầu tư cải tiến

hệ thống chạt lọc giúp năng suất muối tăng lên đáng kể. Sản lượng muối của

thôn Tam Đồng đạt 3.000 tấn tháng năm, nhưng do chi phí đầu tư lớn, khoảng

2,5 - 3 triệu đồng tháng chạt lọc nên diêm dân vẫn không mấy mặn mà bởi

không tìm được đầu ra cho muối. Trước khó khăn của diêm dân, từ năm 2011

- 2013, Trung tâm Khuyến nông Thái Bình đã triển khai Dự án “Xây dựng mô

hình tổ hợp tác và áp dụng tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất muối sạch” tại

HTX Muối Đại Đồng. Dự án đã giúp diêm dân hỗ trợ nhau trong sản xuất và

tiêu thụ sản phẩm, đồng thời áp dụng công nghệ mới làm tăng chất lượng hạt

muối, giảm tạp chất.

11. XÃ THÁI XUYÊN

- Nghề đan mây

(Thôn Lục Nam, Lục Bắc, Lũng Đầu, xã Thái Xuyên, huyện Thái

Thụy, tỉnh Thái Bình)

Những người đại diện:

(1) Họ và tên: Giang Văn Khái

Sinh năm:1934 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc:

Thôn Lục Bắc, xã Thái Xuyên, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

(2) Họ và tên: Vũ Văn Bình

Sinh năm:1947 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Trưởng thôn Lục Bắc

Địa chỉ liên lạc: Thôn Lục Bắc, xã Thái Học, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình.

203

Page 207: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

(3) Họ và tên: Vũ Văn Cường

Sinh năm:1963 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Chủ tịch UBND

Địa chỉ liên lạc: xã Thái Xuyên, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

(4) Họ và tên: Vũ Văn Tuấn

Sinh năm:1952 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Lũng đầu, xã Thái Xuyên, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình.

(5) Họ và tên: Trần Viết Bảy

Sinh năm:1962 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Lũng đầu, xã Thái Xuyên, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình.

(6) Họ và tên: Vũ Trọng Đạt

Sinh năm:1976 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Cán bộ Văn hóa xã.

Địa chỉ liên lạc: xã Thái Xuyên, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

Nhận diện nghề đan mây:

Xã Thái Xuyên có nghề mây tre đan từ những năm 30 của thế kỷ XX

chủ yếu phụ vụ cuộc sống sinh hoạt hàng ngày. Nghề thủ công truyền thống

mây đan là một trong những nguồn thu nhập chính của làng nghề mây Thái

Xuyên. Cây mây thật gần gũi đối với mỗi người Thái Xuyên, từ xa xưa cây

mây đã mọc bao quanh từng nhà như những hàng rào bảo vệ. Không rõ cây

mây sinh ra và phát triển tại nơi đây từ bao giờ, nhưng người có công tạo

dựng và phát triển nghề đan mây ở Thái Xuyên từ những năm đầu thế kỷ XX

là Cụ Nguyễn Quang Xíu và Cụ Nguyễn Ngọc Khánh. Những sản phẩm ban

đầu đơn giản như rổ, giỏ hoa, những người thợ Thái Xuyên đến nay đã tích

luỹ được cho mình kỹ năng sản xuất hàng nghìn loại sản phẩm khác nhau sử

204

Page 208: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

dụng chất liệu mây như các loại lẵng hoa, giỏ hoa, hộp, túi, khay, thùng đựng.

Sản phẩm của Thái Xuyên được khách hàng nước ngoài hết sức ưa chuộng,

trong đó phải kể đến những khách hàng chính như Nhật Bản, Mỹ, Đức, Tây

Ban Nha, Đài Loan, đem lại kim ngạch hàng năm lên tới hàng chục tỷ đồng.

Có thể nói, cái tạo nên sức cuốn hút lớn của hàng mây đan Thái Xuyên không

chỉ ở nét duyên dáng mà còn là sự kết hợp hài hoà các chất liệu tự nhiên cũng

như cách phối trộn màu mang tính nghệ thuật cao. Mỗi một sản phẩm khi đã

hoàn thành đều qua sấy khô, quang dầu, tạo độ bóng, sản phẩm được cách

điệu hơn khi nhuộm màu đan xen kẽ nhau tạo nên những trang trí đặc sắc.

Không chỉ vậy, hàng mây Thái Xuyên cũng thường được kết hợp với cói, đay

tạo nên sự thanh thoát trong các sản phẩm. Việc đi sâu vào khai thác và sử

dụng ruột mây để tạo dáng sản phẩm đã đem lại nét riêng độc đáo của hàng

mây Thái Xuyên so với hàng mây của các làng nghề khác trên cả nước. Công

việc sản xuất hàng mây ở đây mang tính chuyên môn hóa cao. Mỗi hộ gia

đình tiến hành các công đoạn sản xuất khác nhau, hộ chuyên khai thác mây,

hộ chuyên chẻ mây nguyên liệu, trong khi đa số các hộ tập trung vào đan lát.

Việc hoàn thiện sản phẩm thường được tiến hành tập trung để đảm bảo tính

đồng nhất chất lượng của sản phẩm.

Các biện pháp bảo vệ hiện có và đề xuất của chủ thể để bảo vệ và phát

huy di sản văn hóa phi vật thể:

Phát huy thế mạnh của làng nghề truyền thống, nhiều doanh nghiệp đã

được thành lập để đưa các sản phẩm mây của Thái Xuyên đi đến nhiều quốc

gia trên thế giới, trong đó có những doanh nghiệp lớn như Doanh nghiệp Tạ

Văn Bình, mỗi tháng xuất khẩu hàng trăm nghìn sản phẩm các loại, đem lại

công việc cho hàng trăm lao động. Với việc hình thành cụm công nghiệp làng

nghề trong thời gian tới, Thái Xuyên hứa hẹn một sự phát triển, khẳng định

tiềm năng ngày một mạnh và tạo dựng nên một thương hiệu trong lòng các

bạn hàng thế giới.

8.3. Nghệ Thuật trình diễn dân gian

205

Page 209: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

1. XÃ THỤY HẢI

- Tục múa Đùng

(Thôn Quang Lang, Tam Đồng, xã Thụy Hải huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình)

Những người đại diện gồm:

(1) Họ và tên: Phạm Thị Phất

Sinh năm:1955 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm ruộng

Địa chỉ liên lạc: Thôn Quang Lang, xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy,

tỉnh Thái Bình

(2) Họ và tên: Lê Mạnh Hiển

Sinh năm:1962 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp:

Địa chỉ liên lạc:

(3) Họ và tên: Nguyễn Quang Thành

Sinh năm:1954 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp:

Địa chỉ liên lạc:

(4) Họ và tên: Bùi Thị Đoàn

Sinh năm:1952 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Làm muối

Địa chỉ liên lạc: Thôn Tam Đồng, xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(5) Họ và tên: Vũ Thị Hạnh

Sinh năm:1968 Dân tộc: Kinh

Nghề nghiệp: Thủ từ phủ bà chúa muối

Địa chỉ liên lạc: Thôn Tam Đồng, xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

(6) Họ và tên: Vũ Đức Tuấn

Sinh năm:1958 Dân tộc: Kinh

206

Page 210: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Nghề nghiệp: Bí thư chi bộ thôn

Địa chỉ liên lạc: Thôn Tam Đồng, xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình

Nhận diện tục múa Đùng:

Tục múa ông Đùng bà Đùng (hay bà Đà) không chỉ có ở Thái Bình mà

còn có ở nhiều nơi thuộc đồng bằng Bắc Bộ, đi theo môtíp của truyền thuyết

về hai chị em sinh đôi, khi sinh ra đã có tầm vóc cao to khác người. Do bị

hàng xóm chê bai, bố mẹ họ đã bỏ họ ngoài bìa rừng. Càng trưởng thành, họ

lại càng cao lớn khác thường nên không tìm được ai để kết hôn. Hai chị em

buồn bã, chia tay nhau bỏ đi xa và hẹn rằng nếu gặp ai có cùng vóc dáng ở

trên đường thì sẽ lấy người đó. Số phẩm run rủi cho họ cuối cùng lại vẫn gặp

nhau mà không gặp được ai khác nên cho rằng, đó là định mệnh mà lấy nhau.

Tin đồn về hai chị em lấy nhau đến tai vua, vua liền xử chém họ vì tội loạn

luân. Sau khi chết, hai người rất linh thiêng và luôn phù hộ cho bà con trong

làng nên được dân làng lập đền thờ và hàng năm làm hình nộm cúng tế nhằm

ngày mất của họ. Cũng có tích truyện rằng, có hai anh em nhà nọ được thần

linh báo trước về một trận đại hồng thủy nên chui vào quả bầu mà sống sót.

Khi nước rút đi, họ chui ra nhưng không tìm thấy ai xung quanh, bèn chia tay

nhau đi hai hướng vòng quanh quả núi, hẹn rằng nếu gặp ai trên đường đi thì

sẽ kết hôn với người đó. Hai người đi quanh quả núi không gặp một ai mà

cuối cùng lại gặp nhau nên đành phải lấy nhau để duy trì nòi giống. Sau này,

chết đi được con cháu lập đền thờ phụng và hàng năm mở hội vào ngày mất

của họ, làm hình nộm để tưởng nhớ, gọi là ông Đùng bà Đùng tháng bà Đà.

Với người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ, tục thờ ông Đùng bà Đà gắn với tín

ngưỡng phồn thực, có từ ngàn xưa và được duy trì đến ngày nay, mặc dù có

nhiều sự biến đổi và có những biến thể ở từng vùng miền (có nơi gọi là ông

Cồ bà Cộc, ông Đực mụ Cái...). Lý giải về người khổng lồ, dân gian coi họ là

“những người lao động dầu tiên đã đào sông, xây núi và làm ra đất nước”. Có

thể thấy, từ các quan niệm dân gian, hình tượng người khổng lồ đã hình thành

207

Page 211: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

và tồn tại trong quan niệm của nhiều cộng đồng, nhiều dân tộc và đến nay,

bằng hình thức này hay hình thức khác, họ vẫn thờ cúng những người khổng

lồ, vừa để bày tỏ sự biết ơn, vừa để khẳng định sự tồn tại của họ trong dòng

văn hóa tâm linh truyền thống và cũng thể hiện mong muốn về việc giải thích

một thế giới còn nhiều bí ẩn mà họ chưa hiểu hết.

Chuẩn bị ông Đùng: Thân Đùng thường cao 2m, hình trụ rỗng có bán

kính khoảng 80cm, để một người (người chạy Đùng) có thể chui được vào và

mùa Đùng. Thân được đan bằng cây trúc sa, là loại tre nhỏ trồng ngoài bãi biển

ven làng, chẻ thành nan nhỏ, dài để đan mắt cáo; mặt làm bằng cái nia vẽ hình

mặt người ngộ ngĩnh, quần áo bằng vải buồm. Người được chọn để múa Đùng

phải là những thanh niên khỏe mạnh, cường tráng để có thể chui vào trong rước

Đùng quanh làng 1 vòng buổi sáng cùng đám rước, 1 vòng buổi tối vừa rước

vừa múa Đùng. Gia đình có người được chọn múa Đùng cũng phải là những

nhà vợ chồng, con cái 2 bề khỏe mạnh, hạnh phúc, nhà không có bụi.

Vì mang tính phồn thực nên múa Đùng chỉ được diễn ra ngoài sân mà

không được vào trong đền. Khi múa, các hình nộm lúc thì nghiêng ngả, hết

quay sang phải rồi lại quay sang trái, cho ông bà có cơ hội bày tỏ tình cảm với

nhau. Các vai ông Đùng bà Đà phải phối hợp sao cho có những lần giáp mặt,

thân chập vào nhau. Người làng Quang Lang giải thích: đó là lúc ông bà "ăn

nằm" với nhau. Trước đây, trong lúc Đùng múa, những người xem xướng

vang những câu ca tụng công đức của bà Chúa Muối như: “Lạy chúa! Muối

của Chúa năm nay được mùa lắm! lạy Chúa, lạy Chúa!” Họ cũng hô vang

“Lạy bố, lạy mẹ” để các Đùng vui với quan niệm, Chúa và Thành hoàng làng

vui thì dân làng mới được mùa mà khá giả. Còn ngày nay, thanh niên trai gái

hô vang: “Ôm nhau đi” và xô các Đùng va vào nhau.

Khi lễ múa Đùng kết thúc cả mọi người không ai bảo ai, đều háo hức

xô nhau để cố gắng lấy được chiếc mặt nạ hay một nan tre trên thân hình nộm

các Đùng để lấy khước. Sau khi lấy được nan tre, họ đem về gác đầu giường

hy vọng sẽ khỏe mạnh, những người trong độ tuổi sinh nở thì sớm sinh con

208

Page 212: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

theo ý muốn, cắm xuống thuyền thì thuyền ra khơi vào lộng bình an may

mắn, cắm ra ruộng muối thì ruộng muối bội thu.

Các biện pháp bảo vệ và những đề xuất để bảo tồn, phát huy di sản văn

hóa phi vật thể:

Các nghệ nhân và những người cao tuổi nắm giữ các kỹ năng, tập tục

liên quan đến đan nộm Đùng, vẽ mặt nạ đều trao truyền lại cho con cháu và

cho thế hệ trẻ trực tiếp ngay tại các mùa lễ hội.

Bên cạnh đó hàng năm, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch của tỉnh Thái

Bình đều kiểm tra và hướng dẫn công tác quản lý lễ hội nhằm nâng cao nhận

thức và kỹ năng nghiệp vụ cho những người trực tiếp quản lý di tích cũng như

cho cộng đồng cư dân nơi đây, có biện pháp đảm bảo an ninh trật tự, quản lý

tốt các dịch vụ và cảnh quan môi trường, không gian tổ chức lễ hội.

Tục Ông Đùng Bà Đà mang tính phồn thực và biểu tượng cao. Ý nghĩa

của tập tục về sự sinh sôi, về sự may mắn, về thịnh vượng là một chất xúc tác

để cộng đồng tích cực trong thực hành và trao truyền. Cộng đồng đóng vai trò

chủ động trong mọi khâu tổ chức, từ việc chuẩn bị đến các hoạt động mang

tính nghi lễ và biểu tượng. Những tập tục này không có sự can thiệp của

người ngoài, vẫn luôn giữ được ý nghĩa của nó cho cộng đồng. Điều này

khiến cho di sản được bảo vệ và luôn được thực hành.

IX. TỔNG KẾT VẤN ĐỀ BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY DSVHPVT

Thái Thụy là một huyện đồng bằng ven biển nằm ở phía Đông Bắc của

tỉnh Thái Bình với địa bàn hành chính trải rộng trên phạm vi 48 xã/thị trấn.

Sau hơn một tháng tiến hành công tác kiểm kê các nghiên cứu viên, chuyên

viên Sở VHTT&DL, Phòng VHTT huyện, cán bộ công chức các xã có di sản

văn hóa phi vật thể đã tiến hành xong công tác kiểm kê Di sản văn hóa phi vật

thể trên địa bàn các xã của huyện Thái Thụy. Trong quá trình kiểm kê tổ công

tác đã sử dụng các phương pháp để thu thập thông tin kiểm kê gồm phỏng vấn

bảng hỏi, phỏng vấn sâu, quan sát, ghi chép thông qua thảo luận nhóm, hồi

cố, thống kê, quay phim, chụp ảnh, lập bản đồ theo quan điểm tôn trọng tiếng

209

Page 213: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

nói của cộng đồng trong việc đồng thuận với nội dung giới thiệu về di sản văn

hóa do chính cộng đồng sáng tạo và bảo tồn trong lịch sử.

Qua công tác kiểm kê cho thấy hiện nay trên địa bàn toàn huyện Thái

Thụy có 44/48 xã/thị trấn có di sản văn hóa phi vật thể với tổng số 96

DSVHPVT, trong đó lễ lễ hội truyền thống có 82 di sản (chiếm 85%), nghề thủ

công truyền thống có 13 di sản (chiếm 14 %), nghệ thuật trình diễn dân gian có

01 di sản (chiếm 1,0%), 03 xã là Thái Thọ, Thái An, Thụy Tân và Thái Đô là

những xã không có DSVHPVT. Trong đó có 01 di sản được ghi vào Danh mục

di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia. Di sản VHPVT thuộc loại hình lễ hội

truyền thống chiếm phần lớn, diễn ra chủ yếu vào tháng Giêng, tháng Hai,

tháng Ba, tháng Bảy và tháng Tám âm lịch với 63 lễ hội, chiếm 77% tổng số lễ

hội diễn ra trong cả năm của huyện Thái Thụy. Trong đó có 01 di sản lễ hội

truyền thống được ghi vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

Công tác bảo vệ và phát huy các giá trị di sản văn hóa phi vật thể của

huyện Thái Thụy đang được đẩy mạnh, các loại hình lễ hội dân gian, diễn

xướng dân gian đã từng bước được khôi phục và phát huy. Các DSVHPVT

tiêu biểu của địa phương đang được phục hồi và phát huy mạnh mẽ như lễ hội

đền Hét của xã Thái Thượng, hội bơi Chải ở thị trấn Diêm Điền, hội làng Lễ

Củ xã Thụy Duyên, hội đền Hệ xã Thụy Ninh, hội đền Phố Dâu xã Mỹ Lộc,

hội làng Quang Lang, hội miếu Ba Thôn xã Thụy Hải…, được chính quyền

địa phương quan tâm, hỗ trợ, cộng đồng tham gia hành hội, trao truyền, đóng

góp, được các cơ quan, ban ngành, các tổ chức phi quan phương, tổ chức phi

chính phủ hỗ trợ kinh phí để tổ chức lễ hội hàng năm. Bên cạnh đó có những

làng nghề truyền thống đang được bảo tồn phát triển như nghề làm hương Lai

Triều xã Thụy Dương, nghề rèn làng An Tiêm xã Thụy Dân, nghề làm muối

xã Thụy Hải, nghề đan manh xã Thụy Duyên..v.v. Năm 2016 lễ hội làng

Quang Lang xã Thụy Hải đã được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du

lịch đưa vào Danh mục VHPVT Quốc gia theo Quyết định số 4036/QĐ-

BVHTTDL ngày 21 tháng 11 tháng 2016.

210

Page 214: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

Về cơ bản đa số những di sản văn hóa phi vật thể của huyện Thái Thụy

là những lễ hội có quy mô nhỏ mang tính chất thôn làng đang được khôi phục

và thực hành tốt. Bên cạnh đó cũng có những lễ hội đứng trước những nguy

cơ mai một nếu không có sự can thiệp kịp thời từ chính quyền địa phương

như: Hội đền Tứ Xá xã Thụy Việt, hội đền Bến Trấn, hội đền Xá Thị của xã

Thụy Hưng, hội đình Nghĩa Phong xã Thái Thành. Trong quá trình tiến hành

điều tra trực tiếp tại các thôn/làng chúng tôi nhận thấy, rất nhiều DSVHPVT

đã bị mai một như nghề rèn ở thôn Cao Dương, nghề trồng mía ở thôn Thu

Cúc xã Thụy Hưng, nghề dệt chiếu ở thôn Hóa Tài xã Thụy Duyên, nghề

trồng dâu nuôi tằm ở thôn An Cúc, xã Thụy Việt, nghề mây tre đan của thôn

Hòa Nha xã Thụy Chính, tục thi lợn ‘hống’ trong lễ hội đền Hệ xã Thụy Ninh,

tục vật cầu trong lễ hội đình Lạng, xã Thụy Chính cũng không còn được thực

hành và duy trì trong cộng đồng. Những đề xuất của cộng đồng nói chung về

vấn đề bảo vệ di sản như; hỗ trợ kinh phí, tạo điều kiện trong công tác tổ chức

lễ hội hàng năm. Đối với những nghề thủ công, cộng đồng mong muốn được

duy trì với sự hỗ trợ nhà nước về công tác quảng bá, đầu ra như nghề đan vó,

nghề đan mây, nghề làm muối...

Báo cáo cũng thấy rằng những di sản mang tính nghi lễ như các lễ hội

truyền thống, các tập tục như tục Ông Đùng Bà Đùng mang tính phồn thực

cao, ý nghĩa của nó đối với cộng đồng, những người thực hành vẫn được duy

trì, thì công tác bảo vệ mang tính bền vững. Những nguy cơ tác động đến sự

sống còn của di sản như hiện đại hóa, công nghiệp hóa không có ảnh hưởng

nhiều. Ngược lại, những DSVHPVT như các làng nghề mây tre đan, nghề đan

nón do bị tác động bởi hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa, hàng hóa nhập khẩu và

hàng công nghiệp đã lấn át, khiến cho làng nghề truyền thống bị hạn chế đầu

ra, teo nhỏ lại. Vấn đề duy trì và phát triển những làng nghề này là một nhiệm

vụ của ngành văn hóa. Một số làng nghề mang tính truyền thống, hội tụ nhiều

tri thức dân gian, kỹ năng như nghề rèn An Tiêm, nghề hương Lai Triều rất

cần có sự quan tâm của chính quyền các cấp, hiệp hội làng nghề để hỗ trợ các

211

Page 215: dsvhpvt.dsvh.gov.vndsvhpvt.dsvh.gov.vn/Upload/Document/2018/Document19_4... · Web viewSỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH. BÁO CÁO KIỂM KÊ KHOA HỌC. DI SẢN VĂN HÓA

hộ gia đình, các nghệ nhân duy trì nghề và trao truyền cho thế hệ trẻ./.

212