VĂN CHÍNH LUẬN TRUNG ĐẠI VIỆT NAM -...

140
TRƢỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG KHOA SƢ PHẠM VĂN CHÍNH LUẬN TRUNG ĐẠI VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC – TIẾP BIẾN VÀ PHÁT TRIỂN NGUYỄN ĐỨC THĂNG AN GIANG, 4-2014

Transcript of VĂN CHÍNH LUẬN TRUNG ĐẠI VIỆT NAM -...

TRƢỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG

KHOA SƢ PHẠM

VĂN CHÍNH LUẬN TRUNG ĐẠI VIỆT NAM

VÀ TRUNG QUỐC – TIẾP BIẾN VÀ PHÁT TRIỂN

NGUYỄN ĐỨC THĂNG

AN GIANG, 4-2014

Đề tài nghiên cứu khoa học “Văn chính luận trung đại Việt Nam và Trung Quốc –

tiếp biến và phát triển”, do tác giả Nguyễn Đức Thăng, công tác tại Khoa Sƣ phạm thực

hiện. Tác giả đã báo cáo kết quả nghiên cứu và đƣợc Hội đồng Khoa học và Đào tạo

Trƣờng Đại học An Giang thông qua ngày 27 tháng 5 năm 2015

Thƣ kí

NGUYỄN THỊ LAN PHƢƠNG

Phản biện 1 Phản biện 2

TS. PHẠM THANH HÙNG TH.S NGUYỄN THANH PHONG

Chủ tịch Hội đồng

PGS,TS VÕ VĂN THẮNG

TÓM TẮT

Tên đề tài:

“Văn chính luận trung đại Việt Nam và Trung Quốc - tiếp biến và phát

triển”

Tóm tắt:

Thực hiện đề tài “Văn chính luận trung đại Việt Nam và Trung Quốc- tiếp biến và phát

triển”, nghiên cứu nhằm khẳng định những tiếp nhận, phát triển của văn chính luận trung đại Việt

Nam từ văn chính luận trung đại Trung Quốc. Để đạt những mục tiêu này, nghiên cứu sử dụng các

phƣơng pháp văn bản học, phƣơng pháp lịch sử, phƣơng pháp liên ngành, phƣơng pháp phân tích

tổng hợp và đã khẳng định những thành tựu quan trọng của văn chính luận trung đại việt nam ở hai

phƣơng diện nội dung và nghệ thuật.

Về nội dung, tƣ tƣởng yêu nƣớc trong văn chính luận trung đại Việt Nam thể hiện nhận thức,

quyết tâm bảo vệ chủ quyền độc lập của tổ quốc và tự do dân tộc. Thực thi sứ mệnh thiêng liêng, cao

cả và khó này, văn chính luận kêu gọi, ngợi ca dân tộc đoàn kết, tƣớng sĩ một lòng quyết tâm đánh

bại quân thù. Thậm chí, chúng ta còn mở những cuộc chinh phạt Trung Quốc nhằm phá tan âm mƣu

xâm chiếm tổ quốc Việt Nam của kẻ thù.

Về nghệ thuật, văn chính luận trung đại Việt Nam chủ yếu sử dụng ngôn ngữ chữ Hán để

truyền đạt tƣ tƣởng, bày tỏ lập trƣờng và tranh biện nhằm khẳng định và thực thi chân lí. Vì thế,

thông qua những áng văn chính luận, các nhà ngoại giao vừa thể hiện trình độ Hán học uyên thâm

vừa thể hiện sự sáng tạo, linh hoạt, sâu sắc trong sử dụng Hán ngữ tạo sức mạnh, sức thuyết phục

trong tranh biện. Đặc biệt dƣới thời Tây Sơn, xuất hiện một số văn bản chính luận viết bằng chữ

Nôm rất giàu cảm xúc và hình tƣợng; đồng thời thể hiện sâu sắc chính kiến, tƣ tƣởng và có tính

chiến đấu cao.

Tóm lại, văn chính luận trung đại Việt Nam không chỉ có ý nghĩa trong bồi dƣỡng, phát triển

tƣ tƣởng dân tộc mà còn có ý nghĩa quan trọng trong tiến trình văn học sử Việt Nam.

Từ khóa: Văn chính luận trung đại, tiếp biến và phát triển, tƣ tƣởng, thể loại, tiến trình.

ABSTRACT

Name of the thesis

“The literature of Political Commentary in the medieval times of Vietnam and China –

acculturation and development”

The implement of themes “The literature of Political Commentary in the medieval times of

Vietnam and China – acculturation and development” to cultural development of medieval holistic

Vietnam from medieval literature Chinese. To had used rhetorical aproach, methodology history,

interdisciplinary methods, synthetic methods of analysis to confirm these objectives.

In term of the content, patriotism thoughts in Vietnamese literature of political commentary

in the medieval times showed cognition and resolution in protecting the independent sovereignty of

the country as well as the freedom of Vietnamese people. To implement this holy, noble and tough

mission, literature of political commentary both praised and appealed for people’s solidarity, the

military all together had a determination to defeat the enemy. We even extended many conquests in

order to smash the Chinese invasion conspiracy.

In term of art, literature of political commentary in the medieval times of Vietnam mainly

used Han language to propagandize thoughts, to express viewpoint and debate in an attempt to

declare and enforce the universal truth. Therefore, by means of the political literary work, diplomats

represented both their thoughtful qualification of sinology, their creation, flexibility and profound

thinking in using Han language as a strength and convincingness during their debates. Especially,

during the times of the Tay Son Dynasty, the appearances of some political written texts using Nom

language were conveying enormous emotion, rich in images and they represented deeply political

views, nature, and had a highly heroic fighting spirit.

In conclusion, not only has the literature of political commentary in the medieval times of

Vietnam been playing a significant role in fostering, developing our people’s thoughts, it is also a

specially important part in the history of Vietnamese literature.

Keywords: holistic medieval literature, acculturation and development, thoughts, category,

privatization process

CAM KẾT KẾT QUẢ

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học

của riêng tôi. Các tài liệu, cũng như các kết quả nghiên cứu trong

công trình là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất

kỳ công trình nào khác.

An Giang, ngày 20 tháng 4 năm 2015

Tác giả

NGUYỄN ĐỨC THĂNG

MỤC LỤC

Chƣơng 1: GIỚI THIỆU

1.1 Tính cần thiết của đề tài .............................................................................................1

1.2 Mục tiêu nghiên cứu ...................................................................................................2

1.3 Đối tƣợng nghiên cứu .................................................................................................2

1.4 Nội dung nghiên cứu ....................................................................................................2

1.5 Tổng quan vấn đề nghiên cứu .....................................................................................3

1.6 Phƣơng pháp nghiên cứu……………..………………………………………..........4

Chƣơng 2. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VĂN CHÍNH LUẬN

TRUNG ĐẠI VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC

2.1 Văn chính luận trung đại Việt Nam và Trung Quốc trên bình diện

văn hóa xã hội ....................................................................................................................5

2.1.1 Thời trung đại Trung Quốc và Việt Nam đều lấy Nho giáo làm chỉ nam xây

dựng đời sống tinh thần, thiết chế xã hội, nền nếp gia phong .............................................5

2.1.2 Nội chiến và chiến tranh chống ngoại xâm, văn chính luận thể hiện tính

ƣu việt trong truyền bá tƣ tƣởng, tập hợp lực lƣợng, công kích đối phƣơng .....................12

2.1.3 Chiến tranh kết thúc, văn chính luận tiếp tục sứ mệnh lịch sử đối ngoại và

đối nội ................................................................................................................................21

2.2 Văn chính luận trung đại Việt Nam và Trung Quốc trên bình diện lí

thuyết lịch sử ....................................................................................................................27

2.2.1. Khái niệm về văn chính luận ...................................................................................27

2.2.2 Nguồn gốc, sự phát triển của văn chính luận ...........................................................30

2.3 Văn chính luận trung đại Việt Nam qua các thời kì ………………………….….31

2.3.1 Văn chính luận trung đại Việt Nam trƣớc thời khởi nghĩa Lam Sơn……...............31

2.3.2 Văn chính luận trung đại Việt Nam thời khởi nghĩa Lam Sơn…………..………...32

2.3.3 Văn chính luận trung đại Việt Nam thời khởi nghĩa Tây Sơn.…………..………...33

2.3.4 Văn chính luận trung đại Việt Nam thời thuộc Pháp………...…………..………..33

* Tiểu kết ..........................................................................................................................34

Chƣơng 3. VĂN CHÍNH LUẬN TRUNG ĐẠI VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC

TIẾP BIẾN VÀ PHÁT TRIỂN Ở PHƢƠNG DIỆN NỘI DUNG TƢ TƢỞNG

3.1 Khẳng định tổ quốc dân tộc ....................................................................................35

3.2 Khẳng định văn hiến, đề cao nhân nghĩa ..............................................................44

3.3 Khẳng định trí dũng, đề cao nhân dân ................................................................55

3.4 Luận bàn về phƣơng cách nhằm phát triển kinh tế, tăng cƣờng sức

mạnh quân sự chiến thắng quân thù ..............................................................................63

* Tiểu kết ...........................................................................................................................67

Chƣơng 4 VĂN CHÍNH LUẬN TRUNG ĐẠI VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC

TIẾP BIẾN VÀ PHÁT TRIỂN Ở PHƢƠNG DIỆN NGÔN NGỮ, THỂ LOẠI

4.1 Tiếp nhận Hán ngữ, phát triển ngôn ngữ dân tộc ...............................................69

4.2 Văn chính luận trung đại Việt Nam tiếp biến một số thể loại văn học

trung đại Trung Quốc ......................................................................................................73

4.2.1 Thể loại chiếu, cáo ...................................................................................................73

4.2.2 Thể loại hịch ............................................................................................................79

4.2.3 Thể loại biểu ............................................................................................................84

4.3 Thƣ, luận, thuyết thành tựu độc đáo của văn chính luận Việt Nam .................84

* Tiểu kết ...................................................................................................................……94

KẾT LUẬN ..........................................................................................................………95

TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………….………..98

PHỤ LỤC………………………………………………………………………………103

Bài 1: Nam quốc sơn hà, Lí Thƣờng Kiệt……………………………………………….103

Bài 2: Phạt Tống lộ bố văn, Lí Thƣờng Kiệt…………………………………………….103

Bài 3: Hịch Tƣớng sĩ, Trần Quốc Tuấn…………………………………………….……103

Bài 4: Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi…………………………………………………..111

Bài 5: Luân đài tội kỉ chiếu, Hán Vũ Đế………………………………………………...124

Bài 6: Lƣu Hầu Luận, Tô Thức………………………………………………………..…127

Bài 7: Quá Tần luận, Giả Nghị……………………………………………………………130

Bài 8: Cầu hiền chiếu, Hán Cao Đế…………………………………………………..…..135

1

CHƢƠNG 1

GIỚI THIỆU

Văn chính luận trung đại Việt Nam là một mảng quan trọng của văn học Việt Nam thế kỷ X

đến hết thế kỷ XIX nói riêng và toàn bộ nền văn học Việt Nam nói chung. Nó góp phần quan trọng

trong đấu tranh dựng nước, giữ nước và thể hiện sâu sắc tư tưởng của con người Việt Nam.

Văn chính luận là một thể loại văn học, một thể tài báo chí; thường nêu các vấn đề có tính thời

sự về chính trị, kinh tế xã hội văn hóa, văn học, tư tưởng…Nhìn tổng quát có thể thấy:

Mục tiêu của văn chính luận là tác động đến dư luận xã hội đương thời, đến lối sống, đến các

quyền lợi chính trị hiện hành; đề xuất việc củng cố hoặc thay đổi chúng cho phù hợp với

quyền lợi giai cấp hoặc với lí tưởng xã hội, đạo đức. Đối tượng của văn chính luận là toàn bộ

cuộc sống quá khứ và hiện tại, cuộc sống cá nhân, đời sống thực và đời sống được phản ánh

trong báo chí, nghệ thuật…chính luận là hành vi tranh đấu (ngấm ngầm hoặc công khai) về

chính trị, tôn giáo triết học, tư tưởng; nó luôn mang tính định hướng phe nhóm, đảng phái, ý

thức hệ. Phong cách văn chính luận nổi bật ở tính luận chiến, tính cảm xúc; nó gần gũi với

giọng điệu, kết cấu, chức năng của lời diễn thuyết”.

(Nhiều tác giả, 2014, tr.1941-1942)

Lịch sử văn học chính luận Việt Nam ghi lại nhiều tên tuổi lớn, như: Nguyễn Trãi, Ngô Thì

Nhậm, Nguyễn Trường Tộ. Lại có những tác giả văn chính luận viết không nhiều nhưng để lại những

tác phẩm xuất sắc, như Lý Thái Tổ với Chiếu dời đô, Lý Thường Kiệt với Nam quốc sơn hà, Phan

Châu Trinh với Thư thất điều, Hồ Chí Minh với Tuyên ngôn độc lập. Đó là những áng văn chính luận

bất hủ với thời gian.

Khảo sát đề tài: “Văn chính luận Việt Nam và Trung Quốc- tiếp biến và phát triển”, chủ yếu

nghiên cứu những đóng góp về nội dung - tư tưởng và nghệ thuật của văn chính luận trung đại Việt

Nam. Nghiên cứu những tiếp biến và phát triển chủ yếu đi đến luận bàn, khẳng định những tiếp biến

về tư tưởng, thể loại văn chính luận trung đại Việt Nam từ tư tưởng, thể loại văn chính luận trung đại

Trung Quốc. Những so sánh sát sao từng áng văn chương, từng giai đoạn của văn chính luận trung đại

Trung Quốc và văn chính luận trung đại Việt Nam thì chưa thực hiện được như mong muốn vì hạn

chế bởi thời gian, tư liệu. Những công việc này sẽ được nghiên cứu trong thời gian tiếp theo.

1.1 TÍNH CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

Đề tài nghiên cứu là một mảng quan trọng thuộc văn học trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến

hết thế kỉ XIX.

Tư tưởng văn học cổ trung đại có tầm quan trọng đối với đời sống văn hóa dân tộc, trong đó,

phần đóng góp của văn chính luận rất lớn lao. Đặc biệt, việc tiếp thu văn hóa Trung Quốc một cách

chủ động, chọn lọc, sáng tạo; vận dụng Nho giáo chống phong kiến phương Bắc xâm lược đã làm nên

những chiến tích trong lịch sử giữ nước và dựng nước. Những điểm này đã làm nên màu sắc riêng biệt

và tính luận chiến sắc sảo của văn chính luận Việt Nam.

Văn chính luận trung đại Việt Nam có tầm quan trọng đặc biệt trong giáo dục thế hệ trẻ nhận

thức về chủ quyền độc lập, vun đắp, bồi dưỡng tinh thần yêu nước, khí phách anh hùng, rèn luyện

nhân cách. Vì vậy, những bài văn chính luận tiêu biểu như: Chiếu dời đô của Lí Thái Tổ, Chiếu cầu

hiền của Ngô Thì Nhậm, Đại cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi đã được đưa vào giảng dạy ở bậc PTCS

và PTTH. Bộ phận văn chính luận này còn được nghiên cứu sâu trong chuyên đề Tác giả văn học

trung đại Việt Nam ở bậc đại học. Song song với việc nghiên cứu trong nhà trường, các học giả, các

nhà nghiên cứu tiếp tục có những phát hiện mới, những giá trị mới của văn chính luận cổ trung đại

Việt Nam. Đến thời kháng Pháp, Nguyễn Đình Chiểu còn viết một số bài hịch nổi tiếng như: Thảo thử

2

hịch (Hịch đánh chuột), Hịch kêu gọi nghĩa binh đánh Tây (Hịch đánh Tây). Đặc biệt những bài luận

thuyết Thiên hạ phân hợp đại thế luận của Nguyễn Trường Tộ, Thiên hạ đại thế luận của Nguyễn Lộ

Trạch thu hút sự chú ý giới trí thức cả nước. Thể tài văn chính luận còn tiếp tục tồn tại, phát triển

trong dòng văn học hiện đại sau này.

Đề tài “Văn chính luận trung đạiViệt Nam và Trung Quốc- tiếp biến và phát triển” được tập

trung nghiên cứu để khẳng định cha ông tiếp nhận văn hóa và những thể tài văn học của Trung Quốc,

song trên tinh thần chủ động, chọn lọc, sáng tạo, và đặc biệt ý thức về sức mạnh của “đao bút” trong

công cuộc chống ngoại xâm bảo vệ hòa bình, độc lập và xây dựng đất nước, văn chính luận đã trở

thành công cụ chiến đấu bảo vệ trời Nam, dẹp yên cõi Bắc. Đồng thời nghiên cứu còn đi đến khẳng

định những đóng góp mới về tư tưởng và nghệ thuật của văn chính luận trung đại Việt Nam.

Đề tài nghiên cứu thành công sẽ là một tài liệu cần thiết để học sinh, sinh viên, giáo viên

THCS và THPT tham khảo.

1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

Nghiên cứu đề tài hướng tới các mục tiêu:

Văn chính luận trung đại Việt Nam tiếp nhận, kế thừa truyền thống của văn chính luận Trung

Quốc. Tuy nhiên, văn chính luận trung đại Việt Nam trong quá trình phát triển đã có những khác biệt

văn chính luận của Trung Quốc.

Những áng văn chính luận của Trung Quốc thường chỉ là những văn kiện chính luận, hành

chính không hoặc có ít có giá trị văn học. Văn chính luận của Việt Nam, tư tưởng chính trị, tinh thần

chiến đấu và giá trị văn chương hòa quyện. Vì vậy, nhiều tác phẩm văn chính luận của Việt Nam vừa

là những văn kiện lịch sử quan trọng lại vừa là những áng văn chương bất hủ.

Đặc biệt, các thư từ luận chiến của Nguyễn Trãi với hàng tướng tá nhà Minh; thư từ bang giao

của Ngô Thì Nhậm với nhà Thanh thể hiện sự tinh tế, sắc sảo, tầm vóc và vẻ đẹp tâm hồn, trí tuệ của

con người Việt Nam. Những áng văn đó được đánh giá mang vẻ đẹp thâm trầm, tinh tế, tích chứa sức

mạnh và có giá trị triết lí sâu sắc.

Như vậy, thực hiện đề tài nhằm hướng tới mục tiêu:

- Làm rõ những khác biệt của văn chính luận Trung Quốc và văn chính luận Việt Nam.

- Khẳng định những đóng góp của văn chính luận Việt Nam trong lịch sử văn học dân tộc.

- Khẳng định những giá trị về phương diện tư tưởng của văn chính luận Việt Nam trong xây

dựng, vun đắp tình cảm yêu nước, tự hào và trong tranh biện, chiến thắng ngoại xâm.

- Khẳng định những giá trị văn chương đặc sắc của văn chính luận Việt Nam.

1.3 ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là mảng văn chính luận trung đại Việt Nam. Cụ thể là

những tác phẩm văn chính luận của các tác giả ở các giai đoạn chống quân Minh (tác giả Nguyễn

Trãi); giai đoạn chống quân Thanh (tác giả Ngô Thì Nhậm); giai đoạn chống Pháp (các tác giả

Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn Đình Chiểu). Bên

cạnh đó, một số bài văn chính luận trung đại của Trung Quốc cũng được đề cập, nghiên cứu để so

sánh, đối chiếu.

1.4 NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

Nội dung nghiên cứu gồm 3 mục:

3

Những vấn đề chung về văn chính luận trung đại Việt Nam và Trung Quốc (chương 2)

Văn chính luận trung đại Việt Nam và Trung Quốc tiếp biến và phát triển ở phƣơng

diện nội dung - tƣ tƣởng (chương 3)

Văn chính luận trung đại Việt Nam và Trung Quốc tiếp biến và phát triển ở phƣơng

diện ngôn ngữ - thể loại (chương 4)

1.5 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Đề tài “Văn chính luận trung đại Việt Nam và Trung Quốc- tiếp biến và phát triển” chưa được

nghiên cứu tập trung ở trong nước cũng như ở nước ngoài.

Tuy nhiên, những vấn đề liên quan đến nội dung đề tài, trong các công trình ở Việt Nam cũng

như ở nước ngoài đã có đề cập.

1.5.1 Ở Việt Nam

Nghiên cứu văn chính luận của Nguyễn Trãi có thể kể đến các bài:

Trần Huy Liệu, “Quân trung từ mệnh tập”, bài viết đánh giá khái quát giá trị của hơn 40 bức

thư trong Quân trung từ mệnh của Nguyễn Trãi (ở thời điểm đó, năm 1960, mới chỉ phát hiện số thư

trong Quân trung từ mệnh là 40 bức thư).

Bùi Duy Tân, “Nguyễn Trãi- nhà văn chính luận kiệt xuất” (Tạp chí Văn học, số 4-1980).

Bùi Văn Nguyên, “Quân trung từ mệnh, tập văn chiến đấu có ý nghĩa lịch sử quan trong ở thế

kỉ XV” (Văn chương Nguyễn Trãi, NXB ĐH & THCN, H.1984).

Phạm Tuấn Vũ, Văn chính luận Việt Nam thời trung đại, NXB KHXH, 2010. Đây là công

trình nghiên cứu khái quát về văn chính luận trung đại Việt Nam. Công trình này chưa chú trọng tính

chất tiếp biến phát triển của văn chính luận trung đại Việt Nam- Trung Quốc.

Nghiên cứu văn chính luận thời Tây Sơn , có thể kể đến các bài:

Mai Quốc Liên, Ngô Thì Nhậm (1746-1803) nhân vật lịch sử và văn hóa kiệt xuất, Luận án tiến sĩ (in

lại trong sách Ngô Thì Nhậm tác phẩm, NXB Văn học, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, 2001).

Nguyễn Đức Thăng, “Những áng văn chính luận đặc sắc thời Tây Sơn”, Chuyên đề tiến sĩ

(Trường ĐHKH XH & NV đưa lên trang mạng w.w.w.Slideshare.net/hieplt)

Nguyễn Đức Thăng, “Văn chương bang giao Việt Nam- Trung Quốc thời Tây Sơn”, Kỉ yếu

Hội thảo Những vấn đề lịch sử văn hóa Việt Nam và Trung Quốc, tháng 12 năm 2010 .

1.5.2 Ở nước ngoài

Sử kí Tư Mã Thiên, Nhữ Thành (dịch), NXB Văn học, H.1988. Đây là tác phẩm đồ sộ, một kì

thư của Trung Quốc, một trong những quyển cổ sử có tiếng nhất thế giới, gồm 52 vạn chữ, 130 thiên

chia thành 5 phần: bản kỉ, biểu, thư, thế gia và liệt truyện. Trong 5 phần này, những tư tưởng triết học,

nhất là tư tưởng Nho giáo được tác giả ghi lại và các tác giả văn chính luận vận dụng trong sáng tác

văn chính luận Trung Quốc và văn chính luận Việt Nam.

Lixêvich (học giả người Nga, sinh năm 1932), Tư tưởng văn học cổ Trung Quốc, NXB Giáo

Dục, 2000. Sách tập trung nghiên cứu về tư tưởng văn học cổ Trung Quốc. Tuy nhiên, sách có những

chương thể hiện những tư tưởng triết lí quan trong, như: Chương 1. Đại đạo- con đường vũ trụ / Đức-

sự thể hiện của Đạo/ Văn- sự thể hiện của đạo trong ngôn từ. Chương 2. Khí – sinh tạo và sáng tạo

nghệ thuật... Những chương này góp phần làm nền tư tưởng giúp người đọc hiểu sâu tư tưởng triết lí

trong văn chính luận.

Ngoài ra, những quyển sử quan trọng của Trung Quốc, như: Minh thực lục (ghi chép về mối

quan hệ Trung Quốc và Việt Nam, TK XIV đến TK XVII), và Thanh thực lục (Ghi chép về mối quan

hệ nhà Thanh với Tây Sơn những năm cuối TK XVIII đầu TK XIX) là những quyển sử rất quan trọng

4

của Trung Quốc trong đó có ghi chép một số bài chiếu, hịch liên quan đến việc nhà Minh và nhà

Thanh mở cuộc xâm lược Việt Nam.

*Nhận xét:

Những nghiên cứu văn chính luận trung đại ở trong nước nghiên cứu văn chính luận trung đại

Việt Nam, các học giả, các nhà nghiên cứu đã đi sâu vào một số vấn đề về tư tưởng hoặc nghệ thuật

và đã có những đóng góp có giá trị.

Những nghiên cứu ở nước ngoài cho thấy hệ tư tưởng Nho giáo được thể hiện tinh tế, tản mạn

trong một số công trình văn, sử, triết và nó được tác giả văn chính luận vận dụng vào sáng tác của

mình. Một số trường hợp những tư tưởng này thể hiện tính chất sâu xa có gốc từ Kinh Dịch.

1.6 PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Phương pháp văn bản học: đối tượng nghiên cứu là những tác phẩm văn bản cố nên việc

nghiên cứu văn bản có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Nghiên cứu kĩ văn bản để hiểu rõ nguyên ngữ, văn

cảnh, ý nghĩa của tư tưởng những học thuyết Trung Hoa trong truyền thống và sự di thực của những

tư tưởng ấy vào văn hóa Việt Nam, cho đến việc chí sĩ yêu nước Việt Nam vận dụng tư tưởng ấy một

cách sáng tạo, độc đáo để bảo vệ nền độc lập và xây dựng đất nước.

Đây là công việc rất khó trong tìm kiếm và khảo cứu tư liệu, cần thiết có sự hỗ trợ của các thư

viện quốc gia và các nhà nghiên cứu đầu ngành. Dự kiến công việc nghiên cứu như sau:

Làm việc ở Tp. Hồ Chí Minh:

Lần 1: từ 20/3 đến 27/3, nghiên cứu tư liệu tại Thư viện Khoa học Tổng hợp (số 69, bến

Thành, Q.I).

Lần 2: từ ngày 20/5 đến ngày 26/5, tiếp tục nghiên cứu tư liệu và làm việc vời các nhà nghiên

cứu:

GS. Nguyễn Lộc, chuyên gia văn học trung đại (Đ/C: 32/9A, đường Thống Nhất, Q. Gò Vấp ;

ĐT: 08.39966470).

GS. Trần Xuân Đề, chuyên gia văn học Trung Quốc (Đ/C 49/42, đường Lê Văn Sĩ, F.12, Q.3;

ĐT: 08.37316053 – 090346525).

PGS.TS Đoàn Lê Giang, Trưởng Khoa Văn học & Ngôn ngữ, Trường ĐH KHXH&NV

Tp.HCM; (ĐT: 0919553381).

Làm việc ở Hà Nội: thời gian từ 01/8 đến 08/8/2014, nghiên cứu tại Thư viện Viên Hán Nôm

(số 183 Đặng Tiến Đông, Q. Đống Đa, HN) và làm việc tại Viện Văn học với PGS. Phó Viện trưởng

Nguyễn Hữu Sơn, chuyên gia văn học Trung đại (ĐT: 0913031635); TS. Nguyễn Đức Mậu (ĐT:

0912255907), nghiên cứu viên (VHTĐ, Đ/C Viện Văn học, số 20, Lí Thái Tổ, Q.Hoàn Kiếm, HN).

Phương pháp thực chứng lịch sử; nghiên cứu những sự kiện lịch sử để làm rõ văn chính luận

vừa phản ánh, soi sáng vừa dẫn dắt sự chuyển mình, vận động, định hướng đi của lịch sử thời đại.

Phương pháp nghiên cứu liên ngành; vận dụng kiến thức liên ngành ngôn ngữ, văn hóa, triết

học văn học để khảo cứu những vấn đề khái quát và cụ thể của đề tài.

Phương pháp phân tích, tổng hợp: phân tích làm rõ những giá trị tư tưởng, nghệ thuật và

những đóng góp mới của văn chính luận Việt Nam, đồng thời tổng hợp, nhận định, đúc kết thành luận

điểm.

Phương pháp so sánh: so sánh tổng quát để ghi nhận những tương đồng và khác biệt của văn

chính luận Việt Nam và Trung Quốc.

5

CHƢƠNG 2

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VĂN CHÍNH LUẬN

TRUNG ĐẠI VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC

2.1 VĂN CHÍNH LUẬN TRUNG ĐẠI VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC, TRÊN BÌNH DIỆN

VĂN HÓA XÃ HỘI

2.1.1 Thời trung đại, Trung Quốc và Việt Nam đều lấy tƣ tƣởng Nho giáo làm chỉ nam xây

dựng đời sống tinh thần, thiết chế xã hội, nền nếp gia phong

Nghiên cứu triết lí Nho giáo trong đời sống tư tưởng dân tộc Trung Quốc và dân tộc Việt

Nam, rất đáng chú ý đến là phần Hình nhi thượng- phần triết lí siêu hình, gồm những tư tưởng về sự

biến hóa huyền diệu của vũ trụ. Ban sơ, vũ trụ chỉ là một khối hỗn mang, sinh hóa ra thái cực, thái cực

phân chia sinh ra lưỡng nghi (âm dương), lưỡng nghi sinh tứ tượng, bát quái, ngũ hành, tương sinh

tương khắc mà sinh ra vạn vật. Con người cũng được sinh ra từ thiên lí ấy, nên sống phải hiểu mệnh

trời, tuân mệnh trời (“Bất tri mệnh vô dĩ vi quân tử”- Khổng Tử). Nhưng mệnh trời là khối vô hình vĩ

đại, nên có thể cải được mệnh trời. Tóm lại, nội dung đề tài nghiên cứu sâu tư tưởng mệnh trời trong

Hình nhi thượng. Hình nhi hạ dạy về đạo làm người rất chi tiết, sâu sắc với những điểm chính:

Quân tử - tiểu nhân: Nho giáo chia con người xã hội thành 2 hạng là quân tử và tiểu nhân. Con

người cần biết lễ, học và thực thi lễ vì nhờ lễ mà những tình cảm tốt đẹp của con người được khơi lên

và giúp con người sống tốt.

Giữ “lễ” là biết sống đạo trung dung. Trung dung là không thái quá, không bất cập. Sống trung

dung, tinh thần và thể xác con người luôn quân bình, mực thước; hành động luôn sáng suốt, đúng

mực.

Giữ “lễ” để biết định lẽ phải trái, tình thân sơ, trật tự trên dưới: trong đối nhân xử thế, biết

phân định phải trái sáng suốt là việc làm hợp lễ; hiểu rõ tình thân sơ để có cách sống hợp đạo cũng là

việc làm của lễ; biết vị trí của mình để xác lập tôn ti, trật tự trong gia đình và ngoài xã hội là sống

trong vẻ đẹp của lễ. Nhờ đó mà có tình yêu thương chan hòa, sự gắn kết con người không ngừng vun

đắp, bản thân biết khắc chế để sống hòa hợp với mọi người, cách ứng xử này đúng tinh thần “khắc kỉ

phục lễ”.

Giữ “lễ” con người khắc chế lòng dục. Dục vọng luôn thôi thúc con người tìm cách thỏa mãn

nó. Chiều theo dụng vọng, con người sẽ đến bên bờ của hư hỏng. Khắc chế dục vọng là con người đi

vào cuộc chiến thường xuyên, trường kì với bàn thân. Trong cuộc chiến này, nỗ lực của con người sẽ

đưa chính họ đi trên con đường của lễ và tâm hồn sẽ thư thái, thảnh thơi. “Lễ” không những đủ sức

khắc chế dục vọng mà còn hướng dục vọng vào con đường cao thượng. Như vậy, lễ và luật pháp đều

nhằm ngăn chặn con người phạm điều xấu, tránh sự hư hỏng. Con người dùng luật pháp để ngăn chặn

và trừng trị người phạm tội, trong khi có lễ có vẻ đẹp và chiều sâu lí tưởng của sự giáo hóa. Đó chính

là tính ưu việt của lễ. Hữu Tử, một đồ đệ của Khổng Tử nói: "Lễ chi dụng, hòa vi quý. Tiên vương chi

đạo, tư vi mỹ; tiểu đại do chi. Hữu sở bất hành. Tri hòa nhi hòa, bất dĩ lễ tiết chi, diệc bất khả hành

dã". (Luận Ngữ, 1: 12 (Học Nhi). Chu Hi chú giải. Việt ngữ: "Công năng của lễ cốt ở thực dụng tạo ra

hòa hợp là điểm quý nhất. Chính vì vậy mà các bậc tiên vương đã coi việc áp dụng lễ như là một sự

cao quý, và giải quyết mọi việc lớn bé theo nghi lễ quy định. Nếu chỉ có tinh thần hòa hợp mà không

có lễ thì khó mà thành công được). Mặt khác, lễ cũng có công năng giúp con người biết tiết dục: "Lễ

dã, nhân nhân chi tình nhi vi chi tiết văn, dĩ vi dân phòng giả dã. (Tạm dịch: Từ tình cảm của con

người, lễ khiến ta tiết độ, và như vậy, giúp người dân biết phòng ngừa).

Điểm quan trọng khác, “lễ” còn có vai trò lớn để quốc gia ổn định. Tuân Tử coi công năng của

lễ như thể là quy tắc để ban phát bổng lộc, quyền lợi, cũng như trách nhiệm: "Người có đức, thì lẽ

6

đương nhiên phải có một địa vị tương xứng. Và có địa vị, thì lẽ dĩ nhiên phải có bổng lộc xứng hợp.

Mà bổng lộc thì phải tương xứng với cái công làm ra Lễ đối với việc quốc gia như quả cân và cán cân

đối với sự nặng nhẹ, như dây và mực đối với đường thẳng và đường cong. Cho nên người mà không

có lễ thì không sinh, việc mà không có lễ thì không nên, quốc gia mà không có lễ thì không yên. (“Lễ

chi ư chính quốc gia dã, như quyền hành chi ư khinh trọng dã, như thằng mặc chi ư khúc trực dã. Có

nhân vô lễ bất sinh, sự vô lễ bất thành, quốc gia vô lễ bất ninh” (Giản Chi & Nguyễn Hiến Lê, 2013,

Q Hạ, tr.563).

Bàn đôi nét về “lễ” không thể không nói đến chữ “nghĩa”. Hơn nữa, Nho giáo của Trung Quốc

du nhập vào Việt Nam đã trở thành “Nho giáo Việt Nam” và chữ “nghĩa” có vị trí quan trọng đặc biệt.

Giáo sư Lương Duy Thứ cũng tán thành ý này và góp thêm suy nghĩ về phạm trù chữ “nghĩa”. Ông

viết:

Có thể chấp nhận quan điểm của giáo sư Nhật Bản Tsuboi Yoshiharu mà cũng là quan điểm

của nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam rằng Nho giáo Việt Nam lấy chữ Nghĩa làm đầu (trong

lúc đó Nho giáo Trung Quốc lấy chữ Trung làm đầu, Nho giáo Hàn Quốc lấy chữ Thuần làm

đầu. Tôi không hiểu Nho giáo ở Nhật Bản, ở Hàn Quốc nhưng tôi bày tỏ lòng kính trọng đối

với giáo sư Tsuboi Yoshiharu vì ông đã thông cảm với người Việt Nam trong hoàn cảnh khác

người Nhật, người Hàn là luôn luôn bị phương Bắc đe doạ và Nho giáo đến với dân tộc chúng

tôi như một lý thuyết của thể chế cai trị và người Việt Nam đã khôn khéo tiếp biến nó để

chống lại sự xâm lược, tăng thêm nội lực của nền văn hoá dân tộc. Chính vì được sản sinh

trong hoàn cảnh như vậy cho nên người Việt Nam đề cao chữ “nghĩa”, là một phạm trù đạo

đức của Nho giáo và cả của Mặc gia trong đó nhấn mạnh sự đoàn kết tương thân tương ái và

còn nhấn mạnh cả kỷ cương trong quan hệ giữa cộng đồng và cá nhân. Chữ nghĩa gồm phần

trên là chữ “Dương” với thuộc tính cộng đồng, phần dưới là chữ “Ngã” với thuộc tính cá thể.

Như vậy “nghĩa” là một phạm trù đạo đức xác định sự gắn kết giữa người với người trong yêu

cầu đặt lợi ích cá nhân dưới lợi ích cộng đồng.

(Nhiều tác giả, 1990, tr.355)

Các triết gia Trung Quốc như Khổng Tử, Mạnh Tử…đều có đề cập đến phạm trù “nghĩa”.

Khổng Tử coi “nghĩa” gần với “nhân”, “nghĩa” gắn liền với “nhân”. Nếu như “nhân” là yêu người

muốn yêu người thì phải hiểu người. Nội dung của “nghĩa” nhấn mạnh ở việc cư xử cho thích hợp

(với người). Như vậy phải hiểu người để yêu người như là điều kiện bắt buộc. Mạnh Tử, người kế tục

tư tưởng của Khổng Tử về nhân, nghĩa để hướng đến thực hiện công bằng. Mối quan hệ nhân nghĩa

đối với Mạnh Tử, đó là sự hòa quyện thâm sâu từ bên trong nhưng hướng ra bên ngoài, biểu lộ cụ thể

để thực hiện “nghĩa”. Trong chương Cáo Tử, ông nói:

“Có tước của trời, có tước của người. Nhân, nghĩa, trung, tín, vui làm điều thiện mà không

thấy mệt, đó là tước của trời. Công khanh, đại phu, đó là tước của người. Người đời xưa sửa tước của

trời (tức là sửa đức hạnh) mà tước của người tự nhiên tới; người đời nay sửa cái tước của trời để cầu

cái tước của người rồi lại bỏ cái tước của trời đi, mê muội đến thế là cùng, thế nào rồi cũng mất mà

thôi”.

Như vậy, thực hiện nhân, nghĩa, trung tín là tác động đến Thiên mệnh, phù hợp Thiên mệnh

tạo ra những chuyển biến tích cực tạo sự hòa điệu giữa bộ máy đất trời. Mạnh Tử cũng khẳng định

7

nhân, nghĩa được biểu lộ bằng đức độ và định hướng, điều khiển việc làm. Có lần ông thẳng thắn

mắng những kẻ tước cao mà đức thấp: Kẻ kia cậy ở sự giàu có của nó, ta đây cậy ở cái nhân của ta; kẻ

kia cậy ở cái tước của nó, ta đây cậy ở cái nghĩa của ta; ta có điều gì thua kém đâu: “Bỉ dĩ kì phú, ngã

dĩ ngô nhân; bỉ dĩ kì tước, ngã dĩ ngô nghĩa; ngô hà khiểm hồ tai?” (Giản Chi & Nguyễn Hiến Lê,

tr.582-583).

Nếu như Mặc Tử muốn duy trì một trật tự xã hội đã đề xuất qui tắc “thiên hạ có ba bậc đáng

tôn”: tước, tuổi và đức. Ở triều đình không gì đáng tôn bằng tước. Ở hương đảng không gì đáng tôn

bằng tuổi. Giúp đời mà trị dân không gì đáng tôn bằng đức. Mạnh Tử không cho như vậy là đúng, ông

quan niệm đức phải đặc biệt được coi trong để duy trì xã hội. Khi một môn đệ là Đào Ứng hỏi:

Vua Thuấn làm thiên tử, ông Cao Dao coi về hình phạt, nếu ông Cổ Tẩu là cha vua Thuấn giết

người thì xử cách nào?

Mạnh Tử đáp:

Cứ theo phép mà thi hành chứ có gì đâu! Vậy vua Thuấn không cấm ư?

Vua Thuấn cấm làm sao được? Phép truyền thụ từ đời nọ sang đời kia là phép công mà.

Như vậy, dường như trên hai ngàn năm trước để thực hiện nghĩa tạo lập xã hội công bằng,

Mạnh Tử muốn đề nghị chủ nghĩa “tam quyền phân lập”, chủ nghĩa bình đẳng trước pháp luật và tinh

thần lập hiến trong chính thể quân chủ. Đó là một tư tưởng mới, tiến bộ.

Trong Hình nhi hạ, con người phải hiểu rõ tam cương, bao gồm:

Tam cương: ba giềng mối kết hợp các cá nhân để tạo nên một xã hội có trật tự. Đó là:

Quân thần cƣơng (đạo vua tôi): vua phải xứng đáng làm giềng mối để muôn dân nương tựa.

Dân chúng phải tuyệt đối trung thành với nhà vua.

Phụ tử cƣơng (đạo cha con): cha phải hết lòng yêu thương con cái, là chỗ dựa vững chắc,

xứng đáng để con cái nương tựa. Con cái phải yêu kính, hiếu thảo với cha mẹ.

Phu thê cƣơng (đạo vợ chồng): người chồng phải yêu thương, bao dung, chở che, nâng đỡ

người vợ. Vợ có bổn phận thủy chung, yêu thương, chăm sóc chồng.

Ngũ luân: đó là năm cách ăn ở cho hợp với nhân luân, thực hiện đạo làm người, gồm:

Đạo vua - tôi: vua hiền, tôi trung.

Đạo cha - con: cha từ, con hiếu.

Đạo vợ chồng: chồng xướng, vợ tùy.

Tình nghĩa anh em: anh nhường, em kính.

8

Tình bằng hữu: tin tưởng, giúp đỡ lẫn nhau.

Ngũ thƣờng: năm đức tính thiết yếu mỗi cá nhân phải trau giồi và thực hiện tốt trong cuộc

sống, gồm:

Nhân: là lòng thương người, thương mình; thái độ khoan dung, độ lượng trong cư xử giữa con

người với con người. Sống với đức nhân là con người sống trong vẻ đẹp của đạo.

Nghĩa: cách cư xử đúng phép với mọi người trong mọi hoàn cảnh; làm việc nghĩa là gắn với

thi ân nên thường kèm theo sự tri ân. Do vậy, trong thi ân, con người cần suy nghĩ, cân nhắc biết chọn

chữ nghĩa làm đầu.

Lễ: là sự cúng tế, tôn kính trời, tôn kính thần. Lễ còn là nghi thức con người cần giữ trong giao

tế với người khác.

Trí: là dùng sự hiểu biết, kinh nghiệm sống để xét người, xét hiện tượng, sự vật để có cách

hành xử khôn ngoan, hiệu quả.

Tín: là sự thành thật với mình, với người để xây dựng lòng tin với người khác.

Tam tòng: ba điều phải theo

Tại gia tòng phụ: khi ở nhà, người con gái chịu sự dạy dỗ và phụng dưỡng cha mẹ.

Xuất giá tòng phu: khi lấy chồng, người phụ nữ phải theo chồng, phải làm tròn nhiệm vụ của

người vợ.

Phu tử tòng tử: khi chồng chết, người phụ nữ phải thủ tiết nuôi con để giữ gìn phẩm hạnh cho

mình và cho con.

Tứ đức: bốn đức tính người phụ nữ cần học ở nhà để chuẩn bị đi lấy chồng.

Công: khéo léo trong công việc nội trợ

Dung: vẻ mặt hiền hậu, dịu dàng

Ngôn: nói năng nhỏ nhẹ, nghiêm trang

Hạnh: tính tình thuần hậu, kín đáo.

Trên là sự khái quát những điểm chính của Nho giáo. Nho giáo Trung Quốc truyền vào Việt

Nam từ đầu công nguyên trải qua các triều đại Lý, Trần càng ngày càng có ảnh hưởng sâu sắc. Nhưng

thế kỷ XV về sau, vào các triều Hậu Lê và Nguyễn mới hình thành một đội ngũ đông đảo các văn

nhân học sĩ giải thích, bàn luận về Nho giáo. Có thể thấy khuynh hướng chung là có cội nguồn Tống

Nho nhưng cũng có cả Hán Nho, Đường Nho. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần lưu ý: đời Hán có số

lượng nhà nho nhiều nhất và có khuynh hướng trọng sử, đề cao kinh Xuân Thu. Đổng Trọng Thư là

9

người luận giải Xuân Thu kỹ càng nhất. Ngoài ra còn có Tư Mã Thiên, Lưu Hướng, Lưu Hâm, Dương

Hùng, Vương Sung… Vào thời Lê, các học giả Ngô Thì Du, Phạm Đình Hổ, Phan Huy Chú, Cao Bát

Quát và sau đó Lý Văn Phức, Nguyễn Văn Siêu đều có xu hướng trọng Hán Nho, đề cao Xuân Thu

học tập Sử Ký. Mặt khác, nghiên cứu lịch sử triết học Trung Quốc, tác giả Giản Chi và Nguyễn Hiến

Lê ghi nhận:

“Tới thời Hán Vũ Đế (140-87), nhờ một danh nho là Đổng Trọng Thư ảnh hưởng Khổng học

càng mạnh. Vũ Đế nghe lời Đổng đặt ra nhà Đại học, nhưng vẫn không tin dùng hẳn Đổng. Từ

lúc đó, nhà Hán nửa dùng hình pháp của Thương Ưởng, Hàn Phi nửa dùng nhân chính của

Khổng - Mạnh. Chúng ta cần nhớ điều đó, vì từ trước người ta thường tin lầm rằng từ Hán cho

tới Thanh, Trung Hoa chỉ dùng chính sách chính trị của Khổng Tử”.

(Giản Chi & Nguyễn Hiến Lê, 2013, tr.537).

Thực ra ảnh hưởng của Nho giáo đến đời sống tư tưởng chính trị Trung Quốc rất lớn. Nhưng

sau Khổng Tử, tư tưởng của Lão Tử, Mặc Tử cũng đã đưa ra những giải pháp khác thảo luận, tranh

biện, phản bác với Khổng Tử, đề xuất đường lối chính trị riêng của mình. Lão Tử với chính sách “vô

vi”, “bất thượng hiền”, “thực phú”…Triết học của Mặc Tử đậm màu sắc chính trị thể hiện qua các

thiên: “Thiên chi”, “Kiêm ái”, “Thượng quỷ”, “Phi mệnh”, Tiết táng”, “Phi nhạc”, “Quí nghĩa”,

“Thượng hiền”, …nhất là chương “Thượng đồng” bàn nhiều về chính trị. Tựu trung lại đường lối trị

nước, trị dân của Khổng, Lão, Mặc và Thương Ưởng khác biệt ở chỗ cai trị bằng “vương đạo” hay

“bá đạo”. Vương đạo là dùng đức trị. Bá đạo là dùng lực trị “dĩ lực phục nhơn giả bá, dĩ đức phục

nhơn giả vương” (Mạnh Tử, Công Tôn Sửu). Giáo sư triết gia Kim Định (1914-1997) trả lời câu hỏi:

quyền bính thuộc về ai? Người có tài đức hay võ lực? Hoặc dòng tộc đã dựa vào năm nguyên tắc để

phân định, đánh giá. (Kim Định, Vương đạo hay bá đạo, Triết Việt- Tư tưởng VN, http:// new

viettart).

Về nguyên tắc Thƣợng hiền:

Chủ trương chọn người hiền đức lo việc quân quốc là cách hành xử theo vương đạo. trong

thiên “Thượng hiền”, Mặc Tử quan niệm: “Thượng hiền sự năng vi chính” (tôn trọng người có đức,

dùng người có tài năng làm chính sách là họ Mặc tỏ ra đồng tình với Khổng ở phương diện này.

Nhưng Lão Tử quan niệm khác hẳn. Trong chương 3 của Đạo đức kinh, Lão Tử viết: “Bất thượng

hiền, sử dân bất tranh; Bất quí nan đắc chi hoá, sử dân bất vi đạo. Bất kiến khả dục, Sử dân tâm bất

loạn. Thị dĩ thánh nhân chi trị, Hư kì tâm, Thực kì phúc, Nhược kì chí, Cường kì cốt, Thường sử dân

vô tri vô dục, Sử phù trí giả bất cảm vi dã. Vi vô vi, Tắc vô bất trị” (Nguyên văn chữ Hán:不尚賢,

使民不爭; 不貴難得之貨, 使民不爲盜; 不見可欲, 使 民心不亂. 是以聖人之治, 虛其心, 實其腹; 弱其志,

强其骨. 常使民無知無欲, 使夫智者不敢爲也, 爲無爲, 則無不治).

(Không đề cao bậc hiền tài, khiến cho dân không tranh giành; Không quí của khó đặng, khiến

cho dân không trộm cướp không phô điều ham muốn, khiến cho lòng dân không loạn. Vì vậy cái trị

của thánh nhân, hư lòng, No dạ, yếu chí, mạnh xương, thường khiến cho dân không biết, không ham,

khiến cho kẻ trí không dám dùng đến cái khôn của mình. Làm theo vô vi, ắt không có gì là không trị).

10

Nho giáo bàn sâu về tư tưởng trọng hiền. Mạnh Tử còn nói “lập hiền vô phương” (cắt đặt

người hiền thì không kể đến phương, đến nơi xuất xứ). Mạnh Tử còn viết: “Tam đại chi đắc thiên hạ

giả dĩ nhân, kì thất thiên hạ giả dĩ bất nhân (三代 之 得 天 下 也 以 仁 , 其 失 天 下 也 以 不 仁, ba đời

vua trước được thiên hạ vì có đức nhân, mà mất thiên hạ vì không có đức nhân. Những vị vua nhân

đức là: nhà Hạ với vua Vũ, nhà Thương với vua Thành Thang, nhà Chu với Châu Công. Những vị vua

thất nhân mất nước là: vua Kiệt, vua Văn Võ, và vua U, Lệ).

Song song tư tưởng trọng hiền, Khổng Tử còn đề cao sự quan trọng của chức quan đại thần.

Có người đặt vấn đề: Tại sao Vệ Linh Công vô đạo mà nước còn? Ông trả lời: Tại Linh Công biết

giao cho quan đại thần cai trị. Cụ thể Trọng Thúc Ngữ giữ ngoại giao. Chúc Đà giữ nội vụ. Vương

Tôn Giả giữ bộ binh…vì thế mà nước còn. Đó là tư tưởng quan cai trị, vua kiểm soát. Tính chất quan

trọng trong việc bảo tồn, chấn hưng dân nước đặt nơi quan không đặt nơi vua. Do vậy, quan phải

trung với đạo chứ không phải trung với cá nhân vua. Sách Luận ngữ ghi rõ: “Dĩ đạo sự quân, bất khả

tắc chỉ” (以道 事 君, 不 可 則止 , L.N,XI. 23). Chủ trương này của Khổng được Mạnh Tử thể hiện mạnh

mẽ trong nhận định: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”. Hoặc Tuân Tử cũng thẳng thắn: “Tru

bạo quốc chi quân nhược tru độc phu” (giết ông vua tàn bạo một nước cũng giống như giết một kẻ

độc phu).

Về nguyên tắc Giáo chi:

Khổng Tử có quan điểm mới mẻ, tiến bộ về giáo dục. Ông khẳng định mọi người phải được

học tập. Đối với xã hội phong kiến đương thời, quan điểm này tạo một dư chấn mạnh nhằm xóa bỏ

thực tế bất công, phi lí: giai cấp quyền quý độc quyền trong học tập. Câu nói xuất sắc thể hiện quan

điểm độc đáo của Khổng Tử về giáo dục: “Hữu giáo vô loài” (有教 無 類, LN, XV.38). Câu nói khẳng

định trong việc giáo hóa không phân biệt giai cấp sang quý hoặc hèn hạ. Nhận thức và đề xuất của

Khổng Tử không chỉ đáng ghi nhận, biểu dương ở Trung Quốc đương thời mà đặt nó trong bối cảnh

thế giới vẫn không thể không ngợi ca sự tiến bộ vượt bậc về tính cấp thiết toàn dân phải được học tập.

Ở phương Tây cũng phải tới năm 1850, giáo dục mới mở cửa cho toàn dân. Trái với tư tưởng của

Khổng Tử, Lão Tử lại cho rằng dân không cần học, vì dân khó cai trị là do nó học biết “dân chi nan

trị, dĩ kì trí dã”. (Đạo Đức Kinh, chương 65, nguyên văn: 古之善爲道者, 非以明民, 將以愚之.

民之難治, 以其智多. 故以智治國, 國之賊, 不以智治國, 國之福. 知此兩者, 亦稽式. 常知稽式, 是謂玄徳.

玄徳深矣, 遠矣, 與物反矣! 然後乃至大順. (Cổ chi thiện vi Đạo giả, phi dĩ minh dân, tương dĩ ngu chi.

Dân chi nan trị dĩ kì trí đa. Cố dĩ trí trị quốc, quốc chi tặc; bât dĩ trí trị quốc, quốc chi phúc. Trì thử

lưỡng giả diệc kê thức. Thường tri kê thức thị vị huyền đức. Huyền đức thâm hĩ, viễn hĩ; dữ vật phản

hĩ, nhiên hậu nãi chí đại thuận).

Về nguyên tắc Phú chi:

Khổng Tử quan niệm chính quyền phải chăm lo cho dân. Dân cần phải giàu lên: “Bá tánh bất

túc quân thục dữ túc” (百姓 不 足 , 君 孰 與 足 (L.N.XII.9). Bá tánh không đủ ăn thì vua đủ ăn với ai?

Mạnh Tử luôn đau đáu nỗi lo làm sao cho dân giàu? Tuy nhiên, điểm này Pháp gia có quan niệm trái

ngược. Họ chủ trương làm cho chúa giàu và dân yếu để dễ bề cai trị.

Về nguyên tắc Lễ trị:

11

Khổng Tử đặt lễ ở góc độ đạo đức trong chủ trương coi trọng con người và không phân biệt

quý tiện. Giữ lễ là thể hiện đức của người quân tử: “Quân tử vô chúng quả, vô tiểu đại” (君子 無 眾 寡,

無 小 大, Người quân tử không phân biệt ít hay đông, lớn hay nhỏ, ở đâu cũng phải cư xử cung kính,

trung tín. LN, XX, 20). Một cách tổng quát, cách xử sự của người quân tử phải tuân thủ: "Cư xử cung,

chấp sự kính. Dữ nhân trung. Tuy chi Di Địch, bất khả khí dã, 居處 恭, 執事 敬, 與人 忠, 雖之 夷 狄, 不

可 棄也 " (L.N XIII 19). Người quân tử cư xử phải tự trọng, khi thi hành việc (với người khác) phải

kính tôn. Đối với tha nhân phải trung tín. Dầu có sang miền Di, Địch (mường rợ) cũng không thể bỏ

được những nguyên tắc đó. (Không được phân biệt Kinh với Thượng trong lối cư xử. Ở đâu cũng là

người cả).

Về nguyên tắc chữ Tín:

Trong sách Luận ngữ, Tử Cống hỏi Khổng Tử về việc chính trị nên như thế nào? Khổng Tử

dạy: “Túc thực, túc binh, dân tín chi hỹ” (đủ ăn, đủ binh, dân tin mình vậy). Nhược bằng trong ba điều

ấy, bất đắc dĩ phải bỏ một điều, nên bỏ điều nào?- Bỏ việc binh.

Còn hai điều nữa mà bất đắc dĩ phải bỏ đi một điều nữa thì nên bỏ điều nào trước?- Bỏ ăn. Vì

bỏ ăn thì chết, nhưng xưa nay người ta vẫn chết, chứ dân mà không tin thì không sao đứng được”

(Nguyễn Khắc Viện, 2000, tr.67). (L.N, XII,7). Theo Khổng Tử, lễ trị là lối cai trị coi trọng người

dân, vì dân là người cộng tác với chính quyền. Con người cộng tác với nhau chữ tín phải được tôn

trọng, đề cao. Người trên càng phải ý thức và tuyệt đối giữ chữ tín để có được sự cộng tác nhiệt tình

của mọi người: “Thượng háo Tín tắc dân mạc cảm bất dụng tình” (上好 信 則 民 莫 敢 不 用 情, L.N,

XIII).

Nhìn tổng quát vấn đề và như đã nói, đạo Nho vào Việt Nam đã có những biến đổi thành một

“Nho giáo Việt Nam”. Giáo sư Trần Nghĩa đã có bài phân tích kĩ về “Quá trình hội nhập Nho – Phật –

Lão hay sự hình thành tư tưởng Tam giáo Đồng nguyên ở Việt Nam”. (Trần Nghĩa:

http://www.vientriethoc.com.vn).

Bài viết đánh giá tổng quát tư tưởng Nho, Phật Lão hội nhập Việt Nam trong 20 thế kỉ (TK I

đến hết TK XIX). Quá trình đó điễn ra như sau:

Nho giáo truyền vào Việt Nam từ đầu thế kỷ I. Đến thế kỷ II, ngoài Nho giáo, Việt Nam còn

có Phật giáo. Sang thế kỷ III, Lão giáo cũng đến Việt Nam. Tuy nhiên, ba thế kỷ đầu, sự hội nhập của

Nho, Phật, Lão vào Việt Nam nhưng ở thế “tam giáo đỉnh lập” (Nho, Phật, Lão tồn tại ở cái thế chân

vạc; tồn tại độc lập, phân lập và có công kích nhau nhằm khẳng định tôn giáo của mình).

Đến thời nhà Đinh (bắt đầu từ năm 968 sau khi Đinh Tiên Hoàng dẹp yên loạn 12 sứ quân) đã

có vụ án phạm nhân bị kết tội “không trung hiếu thờ cha và trưởng huynh, lại có ác tâm. Như vậy,

phạm nhân bị kết tội và hành hình dựa trên lập trường của Nho và Phật.

Đến triều Tiền Lê, nhà sư Pháp Thuận (915-990) trả lời vua Lê Đại Hành về phương cách giữ

ngôi báu bằng bài kệ Quốc Tộ. Nội dung bài kệ nhấn mạnh: muốn xây dựng cuộc thái bình thì người

người ở chốn cung điện phải giữ thái độ vô vi, tức “vô vi nhi vô bất vi” (không làm gì mà không gì

không làm – tức là làm tất cả trừ những việc trái đạo). Như vậy, từ đời Đinh, Tiền Lê đã có những dấu

chỉ cho thấy Nho, Phật, Lão đã có sự dung hợp. Có nhiều cách người ta diễn tả thực tại này: Tam giáo

dung hợp, tam giáo hỗn dung, tam giáo nhất gia…

Sang đời Lý, đời Trần, đời Lê sơ…tùy thuộc tình hình xã hội và nhận thức của giai cấp thống

trị mà vị thế của tôn giáo được đề cao. Đời Lý tư tưởng của Phật Giáo, Lão giáo đặc biệt được chú

12

trọng. Chẳng hạn thuyết “chân như diệu tính” được quan niệm như là bản thể của vũ trụ. Hoặc từ đời

Lê Sơ, do nhu cầu xây dựng một nhà nước phong kiến trung ương tập quyền, Nho giáo được triều

đình trọng dụng. Nhưng Nho giáo Việt Nam ở thời điểm này có đặc điểm của Tống Nho. Nếu như đời

Hán (Hán Nho), Sách Đại học và Trung dung được gộp vào Lễ ký, Hán Vũ Đế đưa Nho giáo lên hàng

quốc giáo và Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống bảo vệ chế độ phong kiến Trung Hoa trong

suốt hai ngàn năm thì đến đời Tống, Đại học và Trung dung được tách ra khỏi Lễ ký và cùng với

Luận ngữ và Mạnh Tử tạo thành Tứ thư. Tứ thư và Ngũ kinh là sách gối đầu giường của nhà nho.

Thời Tống nho có những tên tuổi lớn như: Chu Hy, Trình Hạo, Trình Di. Phương Tây gọi Tống Nho

là Tân Khổng giáo. Điểm khác biệt của Tống Nho với Nho giáo trước đó là việc bổ sung các yếu tố

“tâm linh” (lấy từ Phật giáo) và các yếu tố “siêu hình” (lấy từ Đạo giáo) phục vụ cho việc đào tạo

quan lại cai trị.

Nhận xét tổng quát về ảnh hưởng của Nho giáo đối với đời sống tư tưởng con người Việt

Nam, có thể thấy:

Nỗ lực tìm hiểu, nghiên cứu Nho giáo Trung Hoa, nho sĩ Việt Nam hiểu sâu sắc triết lý về vũ

trụ thể hiện trong hình nhi thượng và triết lý về nhân sinh thể hiện trong hình nhi hạ, từ đó có thể vận

dụng những tinh túy của nho giáo vào chính sự cũng như trong sinh hoạt cuộc sống thường ngày

trong gia đình và ngoài xã hội.

Nho giáo Trung Quốc giao thoa với văn hóa Việt Nam – nền văn hóa trọng nghĩa tình đã biến

Nho giáo Trung Hoa vốn đặt chữ Trung làm tâm điểm thành Nho giáo Việt Nam coi chữ Nghĩa là cứu

cánh.

Tư tưởng Nho giáo Việt Nam chủ yếu là Tống nho, sắc màu đã có sự dung hợp giữa Nho -

Phật - Đạo giáo; đồng thời Tống nho lại chịu ảnh hưởng bởi đời sống văn hóa Việt Nam nhất là lòng

ân tình nhân nghĩa sâu nặng của con người Việt Nam.

Vì vậy, nghiên cứu văn chính luận trung đại Việt Nam dễ dàng nhận thấy các nhà ngoại giao

như Nguyễn Trãi, Ngô Thì Nhậm đã vận dụng Nho giáo để chống xâm lược. Song đồng thời cũng

phải khẳng định phần đóng góp, sáng tạo lớn lao của các nhà nho- nhà ngoại giao đã có ý nghĩa sâu

sắc trong đời sống tư tưởng của nho sĩ Việt Nam.

2.1.2 Nội chiến và chiến tranh chống ngoại xâm, văn chính luận thể hiện tính ƣu việt trong

truyền bá tƣ tƣởng, tập hợp quần chúng, công kích đối phƣơng

Đối với Trung Quốc, trong văn chương có truyền thống quan niệm văn bắt nguồn từ tồn tại

khách quan. Đó chính là “Nguyên đạo”.

Bàn về “Nguyên đạo”, nên bắt đầu từ Khổng Tử. Trong Luận ngữ, ta thấy Khổng Tử đề cập

nhiều lần về Đạo, nhưng với lối giải thích hơi khác. Đạo không huyền bí. Đó là con Đường mà con

người cần tuân theo, chính đạo đem đến hạnh phúc cho nhân loại. Nếu Lễ là những qui định đạo đức

và nghi lễ, thì Đạo bao gồm cả những qui tắc về đạo đức của từng cá nhân và khuôn mẫu chính trị,

những khuôn mẫu này sẽ tạo được phúc lợi cũng như sự tự hiện thực hoá bản thân cho từng cá nhân.

Khổng Tử nói “Sáng mà nghe Đạo, chiều chết cũng cam”. Một khi con người biết Đạo rồi, tức

ta tự biết cái ngôi vị cao nhất của kiếp người. Và giác ngộ - biết Đạo và nhập Đạo, đó là quá đủ, nếu

có chết cũng cam lòng.

Nhưng Đạo (theo Khổng Tử) khác hẳn Đạo có tính huyền bí theo quan niệm của Đạo giáo về

sau. Ông nói: “Chỉ con người mới có thể phát huy cho Đạo được lớn mạnh sáng rỡ; chứ ngược lại

thì không”. Mười ba thế kỷ sau khi Khổng Tử mất, vị đại nho Hàn Dũ (đời Đường) đã phân biệt rất

13

kỹ sự khác biệt giữa Đạo của Khổng Tử và Đạo theo quan điểm Đạo giáo về sau. Trong bài “Nguyên

Đạo” (bàn về nguồn gốc của Đạo), Hàn Dũ viết: “Bác Ái (yêu khắp mọi người) gọi là Nhân thi hành

ra cho đúng thì gọi là Nghĩa, theo đó mà làm thì gọi là Đạo. Lòng mình đầy đủ không trông đợi bên

ngoài thì gọi là Đức”. Điều mà Lão Tử gọi là Đạo khác với cái Đạo Khổng Tử nói, điều mà ông gọi

là Đức thì khác với cái Đức các nhà nho gọi. Đạo Đức theo Lão Tử là loại bỏ Nhân Nghĩa.

Theo Hàn Dũ, cái Đạo lý tưởng ấy đã truyền thừa từ Nghiêu, Thuấn mãi đến Chu Công và rồi

đến Khổng Tử, Mạnh Tử. Đạo ấy không phải là cái Đạo bất biến và cố định, mà là cái Đạo uyển

chuyển thay đổi theo cá nhân và hoàn cảnh.

Khổng Tử xem Đạo là uyển chuyển như vậy nên ông không buộc môn đệ phải trung thành mù

quáng với vua chúa. Một vị đại thần là phụng sự vua, nhưng việc phụng sự này xuất phát từ Đạo, chứ

không phải vì bản thân nhà vua. Nếu vị đại thần không thể khuyên bảo vua theo Đạo lý, thì vị ấy nên

từ quan: “Người được gọi là đại thần thì lấy Đạo mà phụng sự vua. Nếu không được như vậy, thì hãy

rút lui từ quan”.

Tìm hiểu thêm về “Nguyên đạo”, Nguyễn Phúc Anh có bài viết “Thông diễn mới về thiên

nguyên đạo” trong Văn tâm điêu long của Lưu Hiệp. (Bài đã đăng kỉ yếu Hội thảo “Nghiên cứu và

đào tạo khoa học xã hội nhân văn ở Việt Nam: Thành tựu và kinh nghiệm”, Trường Đại học khoa học

xã hội và nhân văn, Đại học quốc gia Hà Nội, tháng 11 năm 2010).

Trước hết, tác giả luận về khái niệm “nguyên” và “nguyên đạo” của Lưu Hiệp. Hai chữ

“Nguyên đạo”xuất hiện đầu tiên trong sách Hoài Nam Tử 淮南子 (còn gọi là Hoài Nam Hồng Liệt

淮南鴻烈) do Hoài Nam vương Lưu An 淮南王劉安, người Đông Hán 東漢, và các môn khách của

ông đứng ra biên soạn. Ở đầu sách có một thiên tên là Nguyên Đạo huấn 原道訓 trình bày những ý

tưởng của tác giả về Đạo. Cao Dụ 高誘 chú thích cho hai chữ này: Chữ “nguyên” (原) trong “nguyên

đạo” được sử dụng như chữ bản (本) nghĩa là gốc vậy. Lấy gốc ở Đạo, bắt rễ ở Chân, ôm gọn cả thiên

địa để xét khắp vạn vật cho nên mới gọi là “nguyên đạo”, nhân đó mới lấy hai chữ “nguyên đạo” để

đặt tên cho thiên “Nguyên đạo huấn” ”. Nội dung tư tưởng trong Nguyên đạo rất hàm súc: “Đạo cao

đến mức không thể nào vươn đến được chiều cao của nó, nó sâu đến mức người ta không có cách nào

lường được độ sâu của nó. Đạo ôm gọn trong mình nó cả trời và đất, vạn vật đều được sự vô hình của

nó phú bẩm cho một hình hài. Những nguồn nước chảy trên mặt đất, những dòng suối vọt ra từ các

khe, ban đầu tất cả đều rỗng không, sau rồi mới dần dần đầy lên, ào ạt, gấp gáp, tuôn chảy không

ngừng. Cho nên đạo có thể lấp đầy khoảng giữa trời và đất, có thể đổ đầy bốn bể, lan xa đến tận cõi

vô cùng mà siêu việt thời gian không hề biết thế nào là sớm là muộn”.

Tuy nhiên, vấn đề cần được quan tâm hơn đó là việc diễn dịch tổng thể về “Nguyên đạo”. Trong Văn

tâm điêu long Lưu Hiệp viết: “Tầm quan trọng Đức của văn thực là to lớn vậy. Văn cũng ra dời một

lần với trời đất. Tại sao lại nói như vậy? Từ khi trời (cái thắm sắc xanh), đất (cái thắm sắc vàng) từ

chỗ còn hỗn độn đã tách ra làm cái thế vuông (đất) và cái thế tròn (trời), thì đã xuất hiện hai viên ngọc

là mặt trời và mặt trăng, nhằm nêu lên cái vẻ xán lạn của trời, cùng cái cảnh gấm vóc của núi sông để

phơi bày cảnh tượng uy nghi của đất. Những cái này đều là cái Văn của tự nhiên- tức là Đạo”. (Lưu

Hiệp, 1999, tr. 125). Như vậy, Đức phát lộ từ văn thật lớn lao thay. Mặt khác, trong muôn loài chỉ có

con người mới có thể can dự vào sự hóa dục của đất trời; cũng chỉ có con người được hun đúc từ cái

tính linh diệu của vũ trụ. Vì vậy, con người được sánh ngang cùng trời đất trở thành một “tiểu vũ trụ”

và chung ngự cùng một hệ thống” Thiên - Địa - Nhân. Từ cái lí tự nhiên đó, con người được tạo nên

14

từ cái khí thiêng của trời đất; cái khí thiêng ấy điều khiển các yếu tố ngũ hành hợp lại và con người

hiện hữu. (Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật

(道生一,一生二,二生三,三生萬物; Đạo đức kinh, chương 42). Và con người cũng được sinh ra từ

thiên lí ấy nên con người đã mang cái Tâm của trời đất. (Dịch viết: Vô cực mà là Thái cực. Thái cực

động thì sinh dương; tĩnh thì sinh âm; tĩnh cực lại động, một động một tĩnh, cùng làm căn bản cho

nhau. Rồi khi đã phân chia ra âm, dương thì Lưỡng nghi thành lập. Và đến lúc dương biến, âm lập thì

thủy, hỏa, mọc, kim, thổ sinh ra…ngũ hành sinh hóa đều có tính duy nhất. Cái chân không của vô

cực, cái tinh chất của âm dương và ngũ hành tất cả phối hợp một cách kì diệu và kết tụ lại với nhau.

Thế rồi Đạo Kiến làm thành trai, Đạo Khôn làm thành gái…(Nguyễn Hữu Lương, 1992, tr.34).

Và khi cái Tâm của trời đất hình thành trong ta thì ngôn ngữ được sinh ra, đến khi cái Văn của

con người có một hình thức biểu hiện là một diễn trình tự nhiên.

Nhìn tổng quát nền văn chương cổ Trung Quốc có thể thấy: những câu chuyện về Thần Nông,

Phục Hi được ghi lại trong Tam phần, nhưng năm tháng xa xôi nay đã thất truyền. Văn chương đời

Nghiêu, Thuấn ghi lại sự hưng thịnh của hai triều. Đời Thương, đời Chu văn phát triển cực thịnh. Đặc

biệt thời kỳ này xuất hiện Chu Công là người đa tài đã ghi lại sự nghiệp chói lọi của nhà Chu. Đến

Khổng Tử, ông sửa sang tính tình, tu sức văn chương, giống như tiếng mộc đạc kêu vang, thiên hạ

mọi người hưởng ứng. Ông được ghi nhận là người luôn làm mới mẻ cái đức của đất trời, cảm hóa

muôn dân trong thiên hạ.

Xuyên suốt thời gian lưu giữ, phát triển, các bậc thánh nhân nỗ lực lấy cái văn bảo bọc cái

đức, xem xét thiên văn để hiểu đến cùng cực lí trời, chiêm nghiệm cái thần linh diệu, tích tụ sức mạnh

của nó trong giáo hóa thiên hạ và tác động sự vận hành vũ trụ theo nguyên lí của Dịch: “Cổ thiên hạ

chi động giả tồn hồ từ”. Từ chi sở dĩ năng cổ thiên hạ giả, nãi đạo chi văn dã “易”曰:

鼓天下之動者存乎辭. 辭之所以能鼓天下者, 迺道之文也. Câu văn: “ Cổ thiên hạ chi động giả tồn hồ

từ”, Lưu Hiệp trích dẫn từ trong “Hệ từ thượng” của Chu dịch: “Cực thiên hạ chi trách giả tồn hồ

quái, cổ thiên hạ chi động giả tồn hồ từ 極天下之賾者, 存乎卦; 鼓天下之動者, 存乎辭” nghĩa “cái có

thể cùng cực được đến những nơi bí ẩn nhất của thiên hạ nằm trong các quẻ của Dịch, cái có thể thúc

đẩy sự biến động của toàn thiên hạ nằm trong những lời bình luận cho các quẻ của Dịch. (Nguyễn

Phúc Anh, 2011, Thông diễn mới về nguyên đạo).

Như vậy, Văn chứa Đạo là đạo của vũ trụ, tâm của đất trời nên tích chứa sức mạnh, sự vi diệu.

Chính vì vậy, nên trong văn chương còn lưu giữ bài văn tế sấu của Hàn Dũ, sáng tác năm 830, đại

lược nội dung: bài văn nói về một thế giới hoang dã. Và chúng ta có quyền uy hơn ngươi (chỉ loài

sấu), hãy hiểu như vậy và hãy rời đi, nếu không chúng ta sẽ hủy hoại các ngươi. Ở Việt Nam, năm

1282, thời vua Trần Nhân Tông (1279-1298), trong lúc nền ngoại giao Đại Việt và Mông Cổ có

những đợt “sóng ngầm” (do cuộc chiến năm 1257, quân Mông Cổ bị thua trận phải rút về), nhưng

chúng luôn có dã tâm xâm chiếm Đại Việt…Thời điểm đó, một sự việc xảy ra tại khúc sông Phú

Lương (sông Hồng), một con cá sấu to lớn xuất hiện, phá phách thuyền bè và giết hại dân chài. Vua

Trần Nhân Tông bèn sai ông Nguyễn Thuyên làm bài văn tế bằng chữ Nôm thả xuống sông để đuổi

sấu. Quả nhiên, sấu bỏ đi nơi khác! (Bài văn có những câu: Thánh thần nối dĩ bản triều nay / Dấy từ

Hải Ấp ngôi trời thay / Võ công lừng lẫy bốn phương tịnh / Biễn lặng, sông trong mới có rày. Hùm

thiêng xa dấu dân cày cấy / Nhân vật đều yên đâu ở đấy / Ta vâng đế mạng bảo cho mày / Hãy vào

biển đông mà vùng vẫy– Nguyễn Thuyên).

15

Có lẽ xuất phát từ những quẻ của “Dịch” và “Dịch” với tính chất huyền vi, sâu kín; điểm đặc

biệt của Dịch lại có thể vận dụng những “biến dịch” để giải thích, xây dựng những triết lí nhân sinh.

Do vậy, con người nhận thấy việc nghiên cứu ứng dụng của Dịch dường như vô cùng. Các nhà khoa

học phương Tây cũng từng nghiên cứu Kinh Dịch và khẳng định những đóng góp lớn lao của Dịch.

Xin đề cập đến một số trường hợp:

Người thực hiện sớm nhất có lẽ là Leibniz, triết gia và toán học gia người Đức (1646-1716).

Ông đã quan sát “Bát quái”, nghĩ ra phép nhị phân thay cho phép thập phân bằng cách chỉ dùng hai

con số: 1 làm dương và 0 làm âm để mã vào máy tính điện tử. Hai con số này thành mỗi nhóm 6 số và

gồm 64 nhóm, khi có điện vào đèn bật là 1 và khi điện tắt là 0, cứ như thế để truyền tín hiệu.

C.G.Jung- nhà phân tâm học người gốc Thụy Sĩ đã cùng với S.Freud lập khoa Phân tâm học

(Psychanalyse). Ông cũng là bạn thân của R. Wilhem, người đã dịch Kinh Dịch ra tiếng Đức. Jung

cho là có thể sử dụng Kinh Dịch để tìm hiểu tiềm thức con người.

Lưu Tử Hoa, một nhà bác học người Trung Quốc sống ở Anh cũng đã vận dụng nguyên lí

“Bát quái” từ năm 1930, đã tìm ra quỹ đạo hành tinh thứ 10 trong hệ Mặt trời.

Hai nhà vật lí học người Mĩ gốc Trung Hoa là Lí Chính Đạo (Tsung Tao Lee) giáo sư Đại học

Princeton và Dương Chấn Ninh (Tchen Ning Ang) giáo sư Đại học Colombia đã tuyên bố nhờ nghiên

cứu Kinh Dịch mà biết rằng trong thế giới điện tử, phía trái và phía phải không như nhau, dương thì 9

mà âm thì 6, có tỉ số là 3/2. Hai ông chứng minh khi hạt nguyên tử nổ thì làm bắn ra những li tử âm và

li tử dương, tia dương bắn xa hơn tia âm theo tỉ lệ 3/2 tạo ra định luật cơ ngẫu. Hai ông đã được giải

Nobel vật lí năm 1957.

Các bác sĩ Tây Âu ngày nay muốn học qua Đông y đều phải thuộc lí thuyết sinh khắc của âm

dương ngũ hành, đặc biệt là khoa châm cứu. Họ đều ngạc nhiên về kinh huyệt có thể châm tê để giải

phẫu một cách không đau cho người bệnh”. (Nguyễn Hữu Lương, (1992), tr.15).

Dịch không chỉ tác động mạnh trong nghiên cứu khoa học và đặc biệt- như đã nói Dịch chi

phối, tác động, dùng để giải thích, xây dựng những triết lí nhân sinh. Nhân tử Nguyễn Văn Thọ và

Huyền Linh Yến Lê đã bàn khá lí thú về vấn đề này trong Kinh Dịch Đại Toàn. (http://nhantu.net/...)

Ta biết rằng Dịch có Thái Cực, Thái Cực sinh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng, Tứ

Tượng sinh Bát Quái, Bát Quái sinh 64 Quái.

Kết hợp Thái cực đồ và Bát quái đồ

Để hoàn thiện hình vẽ, có thể đặt Thái cực đồ vào giữa Bát quái đồ, tạo thành một đồ hình trọn vẹn.

(Nguồn: Bát quái đồ - Wekipedia).

Dịch gồm 2 chiều thuận, nghịch. Từ Vô Cực, Thái Cực xuống tới Âm Dương, sinh hóa Vạn

Vật, đó là chiều thuận, chiều từ Thái Cực ra đến 64 quẻ của Phục Hi hoành đồ. Đạo gia gọi thế là

16

giáng bản lƣu mạt. Từ Vạn Vật, trở ngược về Bản thể, hay nói cách khác từ 64 quẻ trở về Tứ

Tượng, Âm Dương, Thái Cực gọi là chiều nghịch. Đạo gia gọi thế là từ ngọn trở về gốc, là tự

mạt phản bản.

Như vậy chiều thuận sẽ sinh nhân, sinh vật, chiều nghịch sẽ sinh Thánh, sinh Thần.

Vẽ ra đồ bản, ta thấy hai chiều thuận nghịch như sau:

Nhìn vào Tiên Thiên Bát Quái ta thấy hai chiều thuận nghịch như sau;

a)- Chiều thuận:

(Chiều thuận: từ Thái Cực tới Vạn Vật, từ khinh thanh (Càn) tới trọng trọc (Khôn)

b)- Chiều nghịch.

(Chiều nghịch, từ Vạn Hữu trở về Thái Cực, từ trọng trọc (Khôn) trở về khinh thanh (Càn), từ khinh-

thanh trở về Thái Cực) (Nguồn: http://nhantu.net/...)

17

Tác giả nghiên cứu, đúc kết và nhận xét bằng đồ bản sau:

Chiều nghịch: Âm tiêu

Dương trưởng

Vật chất thoái

Tinh thần tiến

Thiên lý thắng

Nhân dục vong

Định luật cứu cánh (Từ

quẻ Phục đến quẻ Kiền

để trở về Trung cung

Thái Cực)

Chiều thuận: Âm trưởng

Dương tiêu

Vật chất tiến

Tinh thần thoái

Nhân dục thắng

Thiên lý vong

Định luật nhân duyên chi

phối (Từ Trung cung ra

quẻ Cấn đến quẻ Khôn)

Vấn đề sẽ cụ thể hơn khi nghiên cứu Dịch tác động đến nhân sinh. Nghiên cứu quẻ thứ 30

trong số 64, đó là quẻ Ly (離 li: Li vi hỏa), được cắt nghĩa là: sáng sủa, trống trải, trống trơn, tỏa ra,

bám váo, phụ bám, phô trương ra ngoài.

Giải thích rõ hơn:

Ly ở nơi quẻ Đơn, có nghĩa là lửa. Nơi quẻ Kép có nghĩa là dựa nương. Ly là dựa nương. Mà

điểm tựa của con người là sự trung chính.

Ly trong hư, ngoài cương; trong nhu thuận (Âm), ngoài văn minh, sáng láng. Nếu tâm hồn con

người luôn luôn thuận phục luật Trời, luôn luôn dựa nương vào sự công chính, thì sẽ một ngày một trở

nên sáng láng. Nếu xét về căn cơ nội tại thì:

Ly trong có 1 hào Âm, nên chính là Chân Âm, Tượng trưng cho Hồn, cho Tâm (cho lòng

người).

Khảm trong có 1 hào Dương, nên chính là Chân Dương, tượng trưng cho Đạo Tâm, cho Thần

(lòng Trời).

18

(Quẻ Ly đơn, hào giữa là Âm. Tu luyện là biến Ly thành Kiền = thành Trời, tức là phải lấy

hào Dương của quẻ Khảm đơn, mà thay thế vào Hào Âm của quẻ Ly, vì Hào Dương của Khảm tượng

trưng cho Đạo tâm. Phương pháp này gọi là Dĩ Khảm điền Ly.)

Như vậy rõ ràng Dịch chứa cái tâm của đất trời và có tác động sâu rộng, mạnh mẽ đến nhân

sinh. Còn “Văn” chứa Đạo là đạo của vũ trụ, tâm của đất trời nên tích chứa sức mạnh. Quan niệm về

văn ngày xưa đều thể hiện nội dung tư tưởng này.

Đây chính là sự lặp lại của tư tưởng “Văn dĩ tải đạo” từ các nhà Lý học Trung Quốc. Vấn đề

này được bàn đến từ thời Tiên Tần. Trong Kinh Dịch có quan niệm coi chữ viết là do thánh nhân làm

ra, thể hiện “đạo”. Hệ từ hạ chương II – tiết 1 trong kinh Dịch chép:

Vua Phục Hy ngửa xem tượng trời, cúi xem phép tắc dưới đất, xem các văn vẻ của chim

muông cùng những thích nghi của trời đất. Gần thì lấy thân mình, xa thì lấy ở vật, thế rồi mới làm ra

Bát quái để thông suốt cái đức của thần minh và phân loại các tính của vạn vật.

Thời Ngụy Tấn Nam Bắc triều, Lưu Hiệp (465 - 520) trong sách Văn tâm điêu long đã dành

chương “Nguyên đạo” bàn về mối quan hệ này. Tác giả viết: “Đạo nhờ các thánh nhân mà thành văn

chương, ngược lại các thánh nhân dùng văn để làm sáng tỏ đạo. Làm như thế thì ở đâu cũng thông

suốt, không bị bế tắc, ngày nào cũng dùng mà không thấy thiếu”. (Aristote, 1999, tr.125).

Thời Đường- Tống đã dấy lên một cuộc tranh luận về mối quan hệ giữa văn và đạo: Liễu Khai

cho rằng: “Văn là cái nơm của Đạo”, Thạch Giới cho rằng: “Văn là cái dụng của đạo”, Lý Hán phát

biểu: “Văn là khí cụ để quán triệt đạo” (Văn giả quán đạo chi khí dã) Liễu Tông Nguyên nói: “Văn là

để sáng tỏ đạo” (“Văn dĩ minh đạo”)

Các nhà Lý học đời Tống đã kết lại cuộc tranh luận này bằng quan điểm “Văn là phương tiện

chở đạo” (“Văn sở dĩ tải đạo dã”). Chu Đôn Di viết: Văn là để chở đạo. Bánh xe, càng xe được trang

sức mà không dùng thì chỉ là đồ trang sức phí công, huống chi là chiếc xe không chở gì? Văn từ chỉ là

nghệ thuật thôi, đạo đức mới là thực. Dốc sức vào cái thực rồi dùng nghệ thuật viết ra nó”, khẳng định

“Đạo là gốc rễ của văn. Văn là cành lá của đạo. Gốc rễ của nó là ở đạo, cho nên phát ra từ văn đều là

đạo”. (Theo Đoàn Lê Giang, 2008, TL giảng dạy Cao học).

Về tính ích dụng của văn chương, Vương Sung, đời Hán quan niệm: “Vi thế dụng giả, bách

thiên vô hại; bất vi dụng giả, nhất chương vô bổ” (Có ích dụng cho đời thì văn chương trăm thiên

cũng vô hại; không ích dụng cho đời thì một chương cũng vô ích). (Khâu Chấn Thanh, 1992, tr.9).

Văn chương phải góp phần xây dựng con người và xã hội, chống cái ác, đem lại công bằng, hạnh

phúc cho con người.

Trong nền văn chương cổ Việt Nam, Nguyễn Trãi từng quan niệm về văn chương:

Văn chương chép lấy đôi câu thánh

Sự nghiệp tua gìn phải đạo trung

Trừ độc, trừ gian, trừ bạo ngược

Có nhân, có trí, có anh hùng

19

(Bảo kính cảnh giới, bài 5)

Có thể xem bài thơ trên thể hiện quan niệm của Nguyễn Trãi về văn chương. Văn chương

phải làm nhiệm vụ “trừ độc, trừ gian, trừ bạo ngược; nên khi dùng “đao bút” thì phải dốc toàn tâm,

toàn lực phát huy sức mạnh, sự linh diệu của văn chương trong trận chiến chính nghĩa khả dĩ bảo vệ

vững chắc trời Nam và dẹp yên cõi Bắc. Tư tưởng này Nguyễn Trãi đã bộc lộ trong cảm xúc của mình

qua áng thơ:

Đao bút phải dùng tài đã vẹn

Chỉ thư nấy chép việc càng chuyên

Vệ Nam mãi mãi ra tay thước

Điện Bắc đà đà yên phận tiên

(Bảo kính cảnh giới, bài 56)

Đến Ngô Thì Nhậm, không có những phát biểu trực tiếp của ông về văn chương, nhưng qua

những đối thoại, những tư tưởng được bộc lộ ở thơ văn, ta thấy rõ Ngô Thì Nhậm ý thức về “văn chở

đạo” và chức năng “đao bút” của văn thơ.

Vốn xuất thân từ dòng dõi chưa bao giờ hết tiến sĩ, tài năng của Ngô Thì Nhậm được đánh giá

rất cao. Phan Huy Ích trong bài tựa tập “Ngô Gia văn phái” hết lới ca tụng ông bạn tiến sĩ đồng khoa

và cũng là anh vợ mình: “Văn ông có ý tứ diễm lệ, vừa hàm súc, vừa phóng khoáng, càng ra nhiều lại

càng hay, bao quát được bách gia, khu khiển được cửu lưu, tài uyên bác thông đạt trở thành ngọn cờ

chót vót giữa rừng nho chúng ta”. Xét về tư tưởng của Ngô Thì Nhậm, trong bài Cô Châu, ông viết:

Nhân nghĩa vị cao, trung tín đà

Niên niên phiếm tác Đẩu quang xa

Tải đạo khứ lai, nhàn áp lãng

Bình tâm hành chỉ, đẳng doanh khoa

(Nhân nghĩa làm con sào, trung tín làm bánh lái

Đóng thành một chiếc bè, hàng năm giong lên vùng sao đẩu

Chở đạo thánh hiền ung dung đè làn sóng mà qua lại

Khi bơi, khi nghỉ, vững lòng đợi nước đầy mà vững tiến).

Cộng tác với Tây Sơn, ngay những ngày đầu Ngô Thì Nhậm đã có vai trò rất quan trọng. Khi

29 vạn quân Thanh tràn vào nước ta (ngày 28 thánh 10 năm Mậu Thân, 1788), Tôn Sĩ Nghị với chiêu

bài phò Lê, chiêu bài nhân nghĩa “hưng diệt, kế tuyệt” (dấy nước đã diệt, nối dòng đã tuyệt); đồng

thời phát “hịch” kêu gọi tướng sĩ Tây Sơn chống lại Tây Sơn dưới sự chi viện của quân “thiên triều”.

Tướng Tây Sơn Nguyễn Văn Diệm và Phan Khải Đức đóng ở Lạng Sơn, thấy hịch kinh sợ, quân lính

bỏ trốn quá nửa. Khải Đức hèn nhát đưa thư đền cửa ải xin hàng. Nguyễn Văn Diệm lui binh về Kinh

Bắc đưa thư cấp báo.

Ngày 25 tháng 11, quân Tôn Sĩ Nghị tiến đến Thị Cấu uy hiếp trực tiếp Thăng Long.

Ngô Thì Nhậm thảo cho Ngô Văn Sở một bức thư (dưới tên Ngô Hồng Chấn), do Nguyễn Quí Nha,

Trần Bá Lãm, Võ Huy Tấn…đem đến Nam Quan đề nghị “hoãn binh”. Mặt khác, Ngô Văn Sở họp

tướng lĩnh bàn cách đánh giữ. Chưởng phủ Ngô Văn Dụng đem kinh nghiệm của cuộc kháng chiến

chống Minh, Nguyễn Trãi thường dùng kế “dĩ dật đãi lao” (lấy nhàn để đối phó với quân mỏi mệt) lập

nên chiến công rạng rỡ muôn đời ngợi khen. Ngô Văn Sở bối rối chưa biết quyết định thế nào. Ngô

Thì Nhậm phân tích thời cuộc bác lại ý kiến Nguyễn Văn Dụng. Tuy nhiên, vấn đề thực không đơn

giản, chỉ khi nội hầu Lân “một mình một ngựa thoát chết” từ bến Như Nguyệt về thì kế hoạch lui binh

bảo vệ toàn quân “cho chúng ngủ trọ ở Thăng Long một đêm rồi lại đuổi đi” mới được Ngô Văn Sở

tích cực thực hiện. Sau này Nguyễn Huệ đã không tiếc lời khen ngợi: “Chịu nhịn để tránh sức mạnh

ban đầu của chúng, đành hãy chỉnh đốn đội ngũ, rút về giữ chỗ hiểm yếu, trong thì khiến cho lòng

20

quân kích thích, ngoài thì khiến cho lòng giặc kiêu căng, đó là một kế rất hay” (Nguyễn Đức Vân &

Kiều Thu Hoạch, (dịch) (1987), tr.305-306). Quả nhiên, quân Thanh vào Thăng Long bộc lộ rõ bản

chất xâm lược và thái độ khinh thường Tây Sơn. Cuối cùng, đội quân hùng hậu của Tôn Sĩ Nghị bị

đòn phản công thần tốc của Quang Trung và đại bại thảm hại. Trong chiến công chống giặc năm Kỷ

Dậu (1789) có phần đóng góp quan trọng về chiến lược của Ngô Thì Nhậm.

Quả thực, văn của Ngô Thì Nhậm “chở đạo thánh hiền, thong dong đè sóng mà đi lại”. Và với

chất đạo trong văn “lấy nhân nghĩa làm con sào, lấy trung tín làm bánh lái”, Ngô Thì Nhậm gián tiếp

bộc lộ quan niệm “văn dĩ tải đạo” khá tiêu biểu cho quan niệm văn chương thời trung đại.

Sau này Nguyễn Đình Chiểu cũng từng nhận định về văn chương phải chuyên chở đạo lí,

chống lại cái ác: “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm / Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà” (Than

đạo).

Những tác phẩm tập hợp sức mạnh đoàn kết dân tộc và chống ngoại xâm có thể kể đến: Lộ bố

văn (lời hịch của Lí Thường Kiệt trong cuộc Bắc phạt, năm 1075), Nam quốc sơn hà, Lí Thường Kiệt;

Hịch tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn; Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi; Hịch Tây Sơn của Nguyễn Hữu

Chỉnh, Hịch đánh Thanh, Hịch truyền quan lại, quân dân hai tỉnh Quảng Ngãi, Qui Nhơn của vua

Quang Trung…đều là những áng văn chính luận chan chứa tinh thần yêu nước, giàu giá trị nhân bản,

rất đáng tự hào. Tiêu biểu có thể nhắc lại Lời hiểu dụ của vua Quang Trung đọc tại Lễ Thệ sư, tổ chức

ở Thọ Hạc, Thanh Hóa, 1788:

“Đánh cho để dài tóc

Đánh cho để răng đen

Đánh cho chúng chích luân bất phản

Đánh cho chúng phiến giáp bất hoàn

Đánh cho sử tri Nam Quốc anh hùng chi hữu chủ”

Tƣợng đài Vua Quang Trung

21

2.1.3 Chiến tranh kết thúc, văn chính luận tiếp tục sứ mệnh lịch sử đối ngoại và đối nội

- Chính sách đối ngoại mềm mỏng, nhún nhƣờng, linh hoạt nhƣng kiên quyết dựa trên

nền tảng văn hóa “chữ trí’, “chữ nhân”

Một nhận xét chung mà ai cũng thừa nhận là nước ta giáp ranh giới với Trung Quốc-một nước

lớn gấp hàng chục lần Việt Nam nên việc bang giao vô cùng phức tạp. Chẳng hạn, khi từ chối việc

vua nhà Nguyên bắt ép sang chầu, vua Trần Nhân Tông nước ta đã dùng câu thành ngữ “Phổ thiên chi

hạ, mạc phi Vương thổ, suất thổ chi tân, mạc phi Vương thần” để khéo léo từ chối, qua câu trả lời

trực tiếp với viên Sứ thần Thượng thư Trương Lập Ðạo: “Phàm suốt cõi trời nầy , chẳng có đất nào

không phải là đất của Thiên tử; chẳng có dân nào không phải là dân của Thiên tử; vậy nước An Nam

là dân của Thiên tử, không có chí hướng nào khác. Bởi vậy bốn biển là nhà của Thiên tử, tuy Cô

không đến chầu, nhưng cũng là thần dân của Thiên tử vậy” (Lê Tắc, 1012, quyển 3, chương Thượng

Thư hành lục).

Tuy nhiên, lịch sử ngoại giao trong bang giao với Trung Quốc chúng ta cũng rút ra được nhiều

bài học. Lịch sử còn ghi lại, trong cuộc đấu tranh giành lại đất tại vùng Tụ Long, vua Lê Dụ Tông (tức

Lê Duy Đào, 1706-1729) đã khẳng định với vua Ung Chính nhà Thanh rằng biên giới hai nước nằm

tại sông Ðỗ Chú, tức sông nhỏ nằm cạnh đồn tấn Mã Bá:

Quốc vương An Nam Lê Duy Ðào kính cẩn tâu: vào ngày mồng 2 tháng 12, thần nhận được

sắc dụ, đốt hương duyệt đọc, mừng sợ giao tập. Trộm nghĩ châu Vị Xuyên nước thần cùng phủ Khai

Hóa, Vân Nam tiếp giáp; nguyên dùng sông Đỗ Chú, tức con sông nhỏ tại tấn Mã Bá làm ranh giới.

Các viên châu mục tại biên giới đời đời giữ đất, thần chưa từng thấy việc xâm chiếm đất của nội địa.

(Dẫn theo Hồ Bạch Thảo, Thanh thực lục, phần Thế Tông thực lục, quyển 31, tr. 28-31)

Cuối cùng thì vua Ung Chính chấp nhận, nhưng không tuyên bố trả lại đất, mà nói rằng đem

đất này thưởng cho An Nam. Lời vua Ung Chính như sau: “Xem lời tâu của Vương, cảm ơn và hối

lỗi, lời ý cung kính; khiến Trẫm đặc cách ban ơn lớn, lệnh Tổng đốc Vân Nam lấy 40 dặm đất, thưởng

cho An Nam”. (Dẫn theo Hồ Bạch Thảo, Thanh thực lục, phần Thế Tông thực lục, quyển 65, tr. 12-

17). Tuy nhiên, vấn đề không dừng lại ở đó. Vì khi đã được Ung Chính trả đất, triều đình nhà Lê cũng

không muốn có thêm những ghi nhận bằng giấy tờ để tránh căng thẳng. Có ai ngờ sau 150 năm sau

mấy từ “đặc cách ban ơn lớn” của vua Ung Chính còn gây hệ lụy.

Sau hòa ước Thiên Tân, (Bản hòa ước được chính phủ Pháp và nhà Thanh kí vào năm 1885,

sau chiến tranh Pháp – Thanh). Hai nước này đều tranh giành ảnh hưởng ở Việt Nam. Pháp buộc quân

Thanh phải rút khỏi Bắc kì và công nhận việc Pháp bảo hộ Việt Nam. Hòa ước này cũng chấm dứt lệ

triều cống của triều đình Huế ở địa vị phiên quốc đối với nhà Thanh.). Hai phái đoàn Pháp và Trung

Quốc họp để xác định đường biên giới. Phía Trung Quốc, Tổng đốc Vân Nam là Quí Châu Sầm Dục

Anh bèn tâu về triều, viện lẽ trước kia Việt Nam là phiên thuộc của Trung Quốc, bấy giờ vua Ung

Chính ban cho đất để làm phên dậu chế ngự các Di bốn phương; nay Việt Nam không còn là nước

phiên của Trung Quốc nữa, nên cần phải lấy đất về:

Ngày 19 tháng 10 năm Quang Tự thứ 11 (25/11/1885)

Ngành ngoại giao thuộc Quân Cơ trao bản sao tờ tấu của Tổng đốc Vân Quí Sầm Dục Anh,

xưng rằng:

22

Thần tra lại từ quan ải Mã Bạch là con đường trọng yếu đi vào Việt Nam, chỉ có đồn tấn gần

biên giới, cách sông Tiểu Ðổ Chú khoảng vài dặm. Ngoài ra vùng này địa hình bằng phẳng, ngã tư

giao lộ, không có địa hình hiểm yếu để chặn giữ. Từ Mã Bạch qua biên giới Việt Nam mấy chục dặm

có một địa danh là ngã tư mới Ðô Long địa hình vô cùng hiểm yếu, là một quan ải quan trọng bên

ngoài biên giới. Chốn này vốn nằm bên trong sông Ðại Ðổ Chú, biên giới cũ của Vân Nam bị mất vào

cuối đời Minh. Vào năm Ung Chính triều ta, viên Tổng đốc Cao Kỳ Trác, tâu xin tra khám, phụng chỉ

thu về nội địa. Sau vì nước Việt Nam đòi lại nên đã phụng chỉ ban cho 40 dặm ngoài đồn tấn Mã

Bạch, nên Ðô Long lại thuộc Việt Nam, tỉnh Vân Nam thì lấy sông Tiểu Ðổ Chú làm biên giới.

Thần nghĩ rằng khi Việt Nam là nước ngoại phiên của Trung Quốc, việc đem đất đai quan

trọng cho nước phiên, là để giúp trấn giữ các di bốn phương, nên không cần phải thu về. Hiện nay

nước Việt không thể tự bảo vệ được mình, làm sao có thể giữ chỗ hiểm cho nước ta. Nên chăng khi

khám định biên giới, bàn việc lấy Ðô Long, Nam Ðan trở về, để làm vững bờ cõi cùng nhờ vào đó làm

chỗ chặn giữ. Cúi xin Thánh thượng phán xét, cùng kính cẩn kèm theo phụ bản tâu trình đầy đủ của

Tuần phủ Trương Khải Tung cúi xin Thánh chỉ. Cẩn tấu.

Cuối cùng như ta đã biết, vùng đất rộng nằm giữa 2 con sông Ðỗ Chú thật (Sầm Dục Anh gọi

là Tiểu Ðổ Chú) và Ðổ Chú giả (S.D.A. gọi là Ðại Ðổ Chú) đã bị đưa vào lãnh thổ Trung Quốc (Dẫn

theo Hồ Bạch Thảo, Văn từ ngoại giao/ tp://www.vanchuongviet.org/index).

(Trước đây, đất biên giới tại hai châu Vị Xuyên và Thủy Vĩ bị Thổ ty Khai Hóa nhà Thanh xâm

chiếm gồm 120 dặm. Năm Ung Chính thứ 3 [1725] Cao Kỳ Trác, Tổng đốc Vân Nam nhà Thanh, lại

tâu với vua Thanh là cương giới An Nam có chỗ xâm lấn vào biên cảnh nội địa, xin thi hành việc tra

xét rõ ràng. Việc này triều đình nhà Lê đã đưa thư sang biện bạch ; Khổng Dục Tuân, Tổng đốc

Quảng Tây tâu bày đề đạt giúp, được vua nhà Thanh y cho. Triều đình bèn hạ lệnh cho Hồ Phi Tích

và Vũ Công Tể hội đồng với viên quan phái ủy của nhà Thanh là Phan Doãn Mẫn đi đến nơi khám

xét, hai bên vẫn giằng co nhau không giải quyết được. Ðến nay có tờ dụ của vua Thanh đưa sang,

triều đình bèn sai Ðình Ân đi hội đồng lập giới mốc ở dưới núi Xưởng Chì. Ðất nước ta được nhà

Thanh trả 80 dặm, còn 40 dặm là chỗ xưởng đồng vẫn còn chìm đắm vào phủ Khai Hóa” (Phan Thanh

Giản, 1960, tr.456-457).

Bang giao với Trung Quốc là vấn đề phức tạp, nhiều tấm gương can trường, dũng cảm, tài trí

trong ngoại giao để lại sự yêu mến kính phục và những bài học quý cho hậu thế về ngoại giao với

Trung Quốc (những gương như Giang Văn Minh khi đi sứ nhà Minh, Minh Tư Tông muốn làm nhục

An Nam đã nêu vế đối: “Đồng trụ chí kim đài dĩ lục”. Giang Văn Minh dõng dạc đối lại: “Đằng giang

tự cổ huyết do hồng”. Hoặc Trần Quốc Tuấn đã “gọt đầu dóc tóc” để gặp Sài Thung, và khi hiểu sự

thật, một tên hầu của Sài Thung đã đâm mũi tên vào đầu Trần Quốc Tuấn đến chảy máu. Trần Quốc

Tuấn sắc mặt không đổi vẫn tiếp tục nghị sự).

Cha ông xưa đã đúc kết kinh nghiệm ngoại giao với phương Bắc “nên kinh thời kinh, nên

quyền thời quyền”, nhưng nguyên tắc phải giữ, đó là: danh dự quốc gia không thể xúc phạm và quyền

lợi quốc gia không thể xâm phạm”, nhất là lãnh thổ phải giữ gìn tuyệt đối. Lời vua Lê Thánh Tông đã

căn dặn: “Một thước núi, một tấc sông của ta lẽ nào tự tiện vất bỏ đi được. Phải kiên quyết tranh đấu

không để cho họ lấn dần. Nếu họ không theo, còn có thể sai sứ sang tận triều đình cũa họ để biện bạch

rõ lẽ phải trái. Nếu người nào dám đem một tấc, một thước đất của vua Lê Thái Tổ để làm mồi cho

23

giặc thì người ấy sẽ bị trừng trị nặng” (vietnamthuquan.net; Đại Việt sử kí thực lục, quyển 3a, nhà

Hậu Lê, Lê Thánh Tông Hồng Đức năm thứ 4).

Những tác phẩm tiêu biểu: Biểu xin phong, Nguyễn Trãi, Đại cáo bình Ngô (Nguyễn Trãi),

Biểu trần tình (Ngô Thì Nhậm),…

Một số trích dẫn để thấy chính sách đối ngoại mềm mỏng nhằm giữ hàa bình với phương Bắc.

Chúng ta biết, từ khi được cử làm Tổng binh đàn áp lực lượng Lam Sơn, Vương Thông ba lần

bị đại nhục:

Lần thứ nhất: Mùa Đông năm Bính Ngọ (1426), quân Minh trên đất nước ta lâm vào tình thế

rất khốn quẫn. Để cứu nguy, tháng 10 năm đó, vua Minh liền sai Thành sơn hầu Vương Thông làm

tổng binh, cùng với bọn tham tướng Mã Anh, đem năm vạn quân và năm ngàn con ngựa, tiến thẳng

sang Thăng Long. Nhưng, vừa sang đến nơi, Vương Thông đã bị thất bại thảm hại trong trận Tốt

Động – Chúc Động. Vương Thông bị trọng thương, sau đó, cố thủ trong thành Thăng Long và kêu

cứu thảm thiết.

“Vua (chỉ Lê Lợi) thân đốc suất tướng sĩ vây đánh thành Đông Quan (tức thành Thăng Long)

suốt cả ngày đêm. Bọn tướng nhà Minh là Vương Thông, Sơn Thọ đánh trận nào thua trận đó, lấy làm

lo sợ lắm. Thấy hết cả mưu hay chước lạ, viện binh thì không đến, chúng bèn cho người mang thư tới

xin hoà, mong được an toàn về nước. Vua nói:

- Lời ấy đúng với ý ta. Vả chẳng, binh pháp nói là không đánh mà khuất phục được đối thủ

mới là kế hay nhất”.(Đại Việt Sử kí Toàn thư, Bản kỉ, quyển 10, tờ 25 a-b).

Lần thứ hai: Sau giảng hòa, Bấy giờ, bọn nguỵ quan là Đô ti Trần Phong, Tham chính Lương

Nhữ Hốt, Đô chỉ huy Trần An Vinh… đã can tội bán nước làm tay sai cho giặc, sợ rằng sau khi quân

Minh rút về, chúng sẽ không còn đất sống, nên cố ngấm ngầm làm kế phá hoại. Chúng nói với quân

Minh rằng:

- Trước kia, Ô Mã Nhi bị thua ở sông Bạch Đằng, phải đem quân về hàng. Hưng Đạo Vương

cũng cho hàng, nhưng lập mưu dùng thuyền lớn chở họ về nước, xong, lấy người giỏi bơi lặn làm phu

chèo thuyền. Thuyền ra đến ngoài biển, nhân lúc mọi người ngủ say, đang đêm, bọn phu thuyền lặn

xuống, đục thủng đáy thuyền, làm cho những người đầu hàng đều bị chết đuối cả, không một ai sống

sót trở về.

Bọn Vương Thông tin lời ấy, bèn ngờ vực mà nảy ý khác, sai quân đắp thêm thành luỹ, đào

hào và thả chông để tính kế chống đỡ, ngoài mặt nói hoà hiếu nhưng bên trong thì toan đánh lại.

Chúng bí mật sai người mang thư bọc sáp, theo lối tắt mà về nước để xin viện binh. Vua bắt được

người đưa thư, ghét chúng nuôi lòng tráo trở, liền bí mật mai phục khắp bốn phía thành Đông Quan,

đón bọn giặc do thám, bắt được hơn ba ngàn tên và hơn năm ngàn con ngựa. Từ đấy, quân Minh đóng

chặt cửa thành, không dám ra ngoài, sứ giả hai bên qua lại cũng dứt”.

24

Lần thứ ba: Cuối năm 1427, sau Hội thề, Vương Thông đã phải kí vào văn bản đầu hàng vô

điều kiện và rút quân về nước. Nguyễn Trãi theo lệnh Lê Lợi đã viết Đại cáo bình Ngô thuật lại chiến

thắng oanh liệt của nghĩa quân Lam Sơn và sự thất bại thảm hại của quân giặc.

Bình Ngô đại cáo thuật lại, Lê lợi chiến thắng quân Minh oanh liệt đến mức “Đô đốc Thôi Tụ

lê gối dâng tờ tạ tội, Thượng thư Hoàng Phúc trói tay tự xin hàng…Bắt tướng giặc mang về, nó đã

vẫy đuôi phục tội, thể lòng trời bất sát, ta cũng mở đường hiếu sinh... Mã Kì, Phương Chính cấp cho

năm trăm chiếc thuyền ra đến bể vẩn hồn xiêu phách lạc. Vương Thông, Mã Anh phát cho vài ngàn cỗ

ngựa về đến nước vẫn tim đập chân run…” (Cáo bình Ngô, Nguyễn Trãi).

Nhưng, sau đó khi xin nhà Minh sắc phong, ở bài Biểu cầu phong có lời lẽ khiêm tốn, nhún

nhường. Trần Cao là người đứng tên bài biểu, đại lược nội dung có những đoạn:

“Khi vua Thái Tổ Cao Hoàng Đế mới nối ngôi, tổ tiên tôi là Nhật Khuê vào triều cống trước

nhất, bấy giờ ngài có ban thưởng, phong cho tước vương. Từ đó nhà tôi vẫn nối đời giữ bờ cõi, không

bỏ thiếu lễ triều cống bao giờ.

…Nguyên lúc trước, vì trong nước có loạn, chạy trốn vào xứ Lão Qua, cũng là muốn làm chỗ

yên thân mà thôi. Không ngờ người trong nước, vẫn quen thói mọi, nhớ đến ân trạch nhà tôi thuở

trước, lại cố ý ép tôi phải về. Bất đắc dĩ, tôi phải theo.

Dẫu rằng trong khi vội vàng, bị người trong nước cố ép, nhưng cũng là cái tội tôi không biết

liệu xử. Mới đây, tôi đã có xin lỗi trước hàng quân, nhưng không ai chịu nghe. Bấy giờ người nước tôi

sợ phải tai vạ, liền đem nhau ra phòng bị ở các cửa ải, cũng là một kế giữ mình.

Ngờ đâu quan quân xa xôi mới đến thấy voi sợ hãi, tức khắc vỡ tan. Việc đã xảy ra như vậy,

dẫu bởi sự bất đắc dĩ của người trong nước cũng là lỗi của tôi. Nhưng bao nhiêu quân và ngựa bắt

được, đều phải thu dưỡng tử tế, không dám xâm phạm một thứ gì.

Dám xin hoàng thượng ngày nay lại theo như lời chiếu của vua Thái Tông văn hoàng đế, tìm

lấy con cháu họ Trần, nghĩ đến cái lòng thành vào triều cống trước nhất của tổ tiên tôi ngày xưa, mà

xá cái tội to như gò núi ấy, không bắt phải cái phạt nặng bằng búa rìu, khiến cho tôi được nối nghiệp ở

xứ nam, để giữ triều cống…” (Biểu cầu phong, Nguyễn Trãi). (Trần Trọng Kim, 1962, tr.222).

Vua nhà Minh lúc bấy giờ là Tuyên Tông xem biểu biết rằng giả dối, nhưng cũng muốn nhân

việc ấy kết thúc chiến tranh. Tờ biểu được đưa xuống cho quần thần xem. Mọi người đều tán thành.

Vua Minh sai quan Lễ bộ Thị lang là Lí Kì đưa chiếu sang phong cho Trần Cao.

Đối chiếu nội dung bài biểu với quá trình kháng chiến và chiến thắng của nghĩa quân Lam Sơn

dễ dàng nhận thấy tính chất linh hoạt của văn từ mệnh. Lời lẽ trong văn từ bang giao với thực tế lịch

sử đã có những “điểm uốn mềm mại” nhắm tới sự hòa hiếu và mục đích hòa bình bền vững. Thực tế ở

thời điểm này, ta là người chiến thắng, ta đã thu hoạch hoa trái từ cuộc chiến trải vô vàn đau thương,

những “đau lòng nhức óc, nếm mật nằm gai”, những tình cảnh hiểm nghèo Lê Lai phải liều thân cứu

chủ, những ngày tháng bị vây khốn trên núi Chí Linh phải giết voi chiến, ngựa trận cho quân sĩ cầm

hơi…Dấu vết cuộc chiến, nỗi đau sinh li tử biệt…và bây giờ chúng ta cần nghỉ ngơi, cần xây dựng,

25

cần hòa bình, những áng văn từ mệnh phải thực thi cho được sứ mệnh thiêng liêng ấy dù cho chúng ta

phải nén lòng, nhường nhịn ở văn từ.

Sau này, trong những áng văn chương bang giao thời Tây Sơn khi đại thắng quân Thanh

chúng ta cũng gặp cách ứng xử tương tự như vậy. Vì đứng trước một tình thế phức tạp, bị thua nhục

nhã, Càn Long có thể huy động đại binh đánh phục thù. Biểu trần tình của Ngô Thì Nhậm đã khéo

dẫn dắt để bắt Càn Long và triều thần phải “chuyển binh giáp thành hội áo xiêm”. Quả thực, những

áng văn từ mệnh thâm sâu, uyên áo, tinh tế của Ngô Thì Nhậm đã dẫn dắt đại cuộc một cách khéo léo,

tài tình. Từ việc ngăn chặn Càn Long động binh chín tỉnh kinh lí việc An Nam đến việc phong vương

cho Quang Trung, an trí bè lũ Lê Chiêu Thống, đó là những cuộc đấu trí căng thẳng về ngoại giao mà

Ngô Thì Nhậm đã đảm nhận thành công. Trong sắc phong vua Quang Trung, chính Càn Long còn viết

bài thơ ngự chế ban tặng tỏ lòng yêu quí vua Nam:

Phiên âm:

Tam phiên kì vũ phi giai binh,

Tạc tuế An Nam trùng hữu chinh.

Vô nại phục Lê, Lê yếm đức,

Viện giao phong Nguyễn, Nguyễn thâu thành.

Thủ phong cương vật tư tha tộc,

Truyền tử tôn hằng phụng Đại Thanh,

Hạnh mộc thiên âm khâm cừu đạo,

Bất hoàng nhật giám lẫm trì doanh.

Bản dịch:

Ba lần dụng võ chẳng ưa binh,

Năm ngoái An Nam lại viễn chinh.

Không thể phò Lê, Lê kém đức,

Đành phong họ Nguyễn, Nguyễn chân thành.

Biên cương chớ để lờn ngoại tộc,

Con cháu đời đời phụng Đại Thanh.

Tắm gội ơn trên bền những gốc,

26

Giữ gìn thành nghiệp rạng công danh

(Nguyễn Thế Long, 2005, tr.45)

(Trích Cao Tông thực lục, Bản chữ Hán, tr.381. Bản dịch của Hồ Bạch Thảo)

- Chính sách đối nội nhân ái, bao dung, chú trọng xây dựng tình đoàn kết dân tộc, phát

triển, nâng cao dân trí nhằm phát triển đất nƣớc, tạo sức mạnh chống thù trong giặc ngoài.

Chiến tranh gian khổ và việc kết thúc những cuộc chiến với Trung Quốc luôn vô cùng phức

tạp. Tình thế thêm một lần phức tạp vì dưới thời phong kiến các phe đảng rất nhiều nên công cuộc đối

nội sau chiến tranh không hề đơn giản.

Lịch sử ghi lại nhiều trang cảm động viết về tấm lòng nhân ái yêu thương dân của những vị

vua đức hạnh. Lê Thánh Tông là vị vua thánh đức ở ngai vàng gần bốn mươi năm (1469-1497), hai

lần đổi niên hiệu [(niên hiệu Quang Thuận, từ 1460 đến 1469); niên hiệu Hồng Đức, từ 1470-1497)].

Triều đại vua Lê Thánh Tông đã đưa đất nước phát triển đến đỉnh cao về nhiều mặt: chính trị, xã hội,

kinh tế, quốc phòng, văn hóa. Sử gia Ngô Sĩ Liên khen Lê Thánh Tông là “vua sáng lập chế độ, mở

mang đất đai, bờ cõi khá rộng, văn vật tốt đẹp, thật là vị vua anh hùng tài lược”.

Lịch sử ghi lại nhiều câu chuyện cảm động về lòng nhân ái của nhà vua.

Mùa đông, tháng 10 (1b), vua bảo quan tả hữu: “Trẫm ở trong cung, sưởi than xương thú, mặc

áo lông chồn còn rét thế này, nghĩ đến người tù bị giam trong ngục, khổ sở vì gông cùm, chưa rõ gian

ngay, ăn không no bụng, mặc không kín thân, khốn khổ vì gió rét, hoặc có kẻ chết không đáng tội,

trẫm rất thương xót. Vậy, lệnh cho Hữu ty phát chăn chiếu và cấp cơm ăn ngày hai bữa.

Mùa hạ, tháng 4 (4b), vua ngự ở Điện Thiên Khánh xử kiện, khi thấy công chúa Đông Thiên

đứng hầu bên cạnh, vua chỉ vào công chúa, bảo ngục quan: “Ta yêu con ta cũng như lòng ta là cha mẹ

dân, dân không hiểu biết mà mắc vào vòng hình pháp, trẫm rất thương xót. Từ nay về sau, không cứ

tội nặng hay nhẹ, đều nhất luật khoan giảm”. (Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử kí toàn thư, quyển 3a).

Lê Thánh Tông làm vua lúc 19 tuổi. Một năm sau, khi trách lỗi cựu thần Ngô Sĩ Liên, Nghiêm

Nhân Thọ, vị hoàng đế 20 tuổi bảo họ: "Ta mới coi chính sự, sửa mới đức tính, ngươi bảo nước ta là

hàng phiên bang của Trung Quốc thời xưa, thế là ngươi theo đường chết, mang lòng không vua". Đó

là tiếng nói của một ý chí tự cường dân tộc, động lực mãnh liệt đưa Lê Thánh Tông đạt tới vinh quang

trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước Việt Nam hồi thế kỷ 15.

Đứng đầu Hội Tao Đàn, vua Lê Thánh Tông có những vần thơ vô cùng hào sảng, thể hiện khí

phách một thời:

Nắng ấm nghi trượng tỏa trên ngọn cờ,

Khí thế ba quân át cày cáo.

Phương đông mặt trời mọc, áng mây nhẹ trôi,

27

Phóng mắt ngắm núi sông muôn dặm.

(Buổi sớm từ sông Cấm đi tuần biển Đông, Lê Thánh Tông)

Đến thời Tây Sơn, lịch sử ghi lại những nét đẹp về người anh hùng Nguyễn Huệ: “Ông

Nguyễn Huệ (sau đổi là Nguyễn Quang Bình) là một người có sức khỏe tuyệt trần, lại mưu trí, quyền

biến, mẹo lược như thần, khởi binh ở đất Tây Sơn, giúp anh là Nguyễn Nhạc lập nên nghiệp lớn, được

phong làm Bắc Bình Vương, đóng đô ở Phú Xuân”. (Trần Trọng Kim, 1962, tr. 369).

Năm 1788, quân Thanh dưới sự chỉ huy của Tôn Sĩ Nghị tràn vào nước ta, Nguyễn Huệ lên

ngôi hoàng đế trực tiếp chỉ huy quân đội Tây Sơn đánh tan 29 vạn quân Thanh xâm lược. Trong tờ

Chiếu lên ngôi, nhà vua thể hiện rõ thái độ thân dân, gần dân: “Trẫm là người áo vải ở Tây Sơn,

không có một tấc đất, vốn không có chí làm vua. Chỉ vì lòng người chán ghét loạn lạc, mong có vị

minh chúa để cứu đời yên dân. Cho nên tập hợp nghĩa quân, xông pha chông gai, phá núi mở rừng,

giúp Hoàng đại huynh giong ruổi binh mã, gây dựng nước ở cõi Tây, dẹp Tiêm La, Cao Miên ở phía

Nam, rồi hạ thành Phú Xuân, lấy thành Thăng Long…”. (Mai Quốc Liên (chủ biên) (2004). tr.172).

Bài chiếu mở ra ở tâm tình hoàng đế thân dân. Đó là một vị vua áo vải, không tấc đất cắm dùi,

nhưng đồng thời đó cũng là con người hùng võ có tài kinh bang tế thế. Đặc biệt tấm lòng thương dân

của nhà vua được biểu lộ bằng việc làm cụ thể. Trong 5 điều nhà vua sẽ thực thi với dân để thống nhất

lòng người, đánh đuổi ngoại bang, bước đầu xây dựng triều đại mới tiến bộ, thì điều thứ nhất:

“Các địa phương trong 13 đạo, thuế ruộng, thuế thân, thuế lực dịch về vụ đông năm nay, mười

phần tha cho năm phần. Những nơi bị binh hỏa làm điêu tàn, cho quan phân trì khám thực, tha miễn

cho cả”.

Sau Chiếu lên ngôi, các bài chiếu: Chiếu về việc ban ơn, Chiếu hiểu dụ các quan văn võ triều

cũ, Chiếu khuyến nông, Chiếu về việc lập nhà học, Chiếu cầu hiền, Chiếu về việc phát phối hàng binh

người nội địa, Chiếu dụ giặc Tàu Ô,…Tất cả đều toát lên tình cảm thân dân, nỗ lực thống nhất đất

nước, tấm lòng nhân ái của nhà vua và những việc làm cụ thể để gìn giữ và phát triển văn hóa, nâng

cao sự hiểu biết cho người dân.

2.2 VĂN CHÍNH LUẬN TRUNG ĐẠI VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC, TRÊN BÌNH DIỆN LÍ

THUYẾT LỊCH SỬ 2.2.1 Khái niệm về văn chính luận

Văn chính luận là “thể văn nghị luận viết về những vấn đề nóng bỏng thuộc nhiều lĩnh vực đời

sống khác nhau: chính trị, kinh tế, triết học, văn hóa...Mục đích của văn chính luận là bàn bạc,

thảo luận, phê phán hay truyền bá tức thời một tư tưởng, một quan điểm nào đó nhằm phục vụ

trực tiếp cho lợi ích của một tầng lớp, một giai cấp nhất định. Chính vì thế, tác phẩm chính

luận bao giờ cũng thể hiện khuynh hướng tư tưởng, lập trường công dân rõ ràng. Tình cảm sục

sôi, luận chiến quyết liệt và tính khuynh hướng công khai là những dấu hiệu quan trọng của

phong cách chính luận. Tất cả những cái đó làm cho giọng điệu, cấu trúc và chức năng của lời

văn chính luận gần gũi với giọng điệu, cấu trúc và chức năng của lời văn tuyên truyền, hùng

biện.

Đặc trưng cơ bản của văn chính luận là tính chất luận thuyết. Văn chính luận trình bày tư

tưởng và thuyết phục người đọc chủ yếu bằng lập luận, lí lẽ. Văn chính luận đôi khi cũng tái

hiện đời sống, miêu tả các tính cách và số phận chỉ nhằm mục đích đưa ra những ví dụ sinh

động làm cơ sở cho lập luận thường là những hình tượng minh họa, nó chỉ chứa đựng nội dung

28

phổ quát của chủng loại, chứ không phải là hiện tượng tiêu biểu cho cái độc đáo không lập

lại”.

( Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, (2010), tr. 400-401).

Các khái niệm về văn chính luận đã chỉ rõ những đặc điểm như tính chất luận thuyết, tính tư

tưởng, thuyết phục người đọc bằng lo gich lập luận. Trong lịch sử văn học Trung Quốc cũng như lịch

sử văn học Việt Nam, có thể thấy loại hình văn chính luận xuất hiện dưới những dạng sau:

1. Thư từ ngoại giao: những bức thư của Nguyễn Trãi trong Quân trung từ mệnh; những bức

thư ngoại giao thời Tây Sơn.

2. Các vấn đề đối nội với các thể văn hành chính: chiếu, cáo, hịch, tấu, biểu, bi văn (văn bia

của Thân Nhân Trung)

3. Tập trung là loại luận, thuyết, nghị, sách (cũng thuộc thể loại văn chức năng nói trên

nhưng tách ra): Thiên hạ đại thế luận và các điều trần của Nguyễn Trường Tộ; Thời vụ

sách và các điều trần của Nguyễn Lộ Trạch.

Để nhận xét những khác biệt giữa văn chính luận và văn xuôi tự sự (văn hình tượng), có thể so

sánh tổng quát hai tác phẩm chữ Hán cùng xuất hiện vào thời nhà Trần. Đó là tác phẩm chính luận

Hịch tướng sĩ văn của Trần Quốc Tuấn và tác phẩm văn xuôi tự sự Việt điện u linh của Lí Tế Xuyên.

Tháng 12 năm Giáp Thân (1284), đời Trần Nhân Tông, đại binh Thoát Hoan tiến đánh Chi

Lăng, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn thất thế đưa quân chạy về Vạn Kiếp. Tại đây, Hưng Đạo

Vương chiêu tập quân các đạo được hơn 20 vạn quân, thế lại nổi to. Bấy giờ Hưng Đạo Vương soạn

quyển Binh thư yếu lược (兵書要略); đồng thời thảo bài Dụ chư tì tướng hịch văn (諭諸裨將檄文)

thường gọi là bài Hịch tướng sĩ.

Việt điện u linh của Lí Tế Xuyên viết năm 1329, ghi chép những truyền thuyết về các vị nhân

thần được thờ phụng tại các đền miếu ở Việt Nam. Năm 1777, Lê Quý Đôn đếm được khoảng hơn 20

truyện trong Việt điện u linh tập, ông viết: “Đầu niên hiệu Khải Hiệu nhà Trần, Lí Tế Xuyên phụng

ngự chỉ soạn quyển Việt điện u linh, chép các việc thần dị, đền miếu, lịch đại đế vương 8 truyện, nhân

thần 12 truyện và hạo khí linh tính”. (Việt điện u linh, Lí Tế Xuyên, tr.8. Nguồn http://wwwlichsuvn).

Xét nội dung của Việt điện u linh, tác phẩm có giá trị tôn giáo, tác giả thể hiện niềm tin tưởng

vào linh hồn bất diệt của con người. Theo tác giả thì thánh không xa lạ với chúng ta. Thánh là những

con người đã sống một đời sống siêu phàm, trong cần lao gian khổ, trong phục vụ tích cực và nỗ lực

chống lại cái xấu trong xã hội và lòng dục quyến rũ bản thân mỗi người. Thánh là những người đã

sống trọn kiếp người, nỗ lực vươn tới tận cùng khả năng, giá trị của con người. Đến mức độ đó thì giá

trị con người tự nhiên vượt lên, siêu thăng vô hạn, họ nhập vào thế giới thiêng liêng, họ là thánh tiếp

tục quảng bá, thi ân những giá trị nhân ái, cương thường. Như vậy, những anh hùng là thánh, họ xứng

đáng nhận được sự ngưỡng mộ thờ kính của người dân.

Bên cạnh giá trị tôn giáo, Việt điện u linh còn có giá trị luân lí, giá trị lịch sử. Lí Tế Xuyên tin

vào một quan niệm luân lí phổ biến: mỗi người có hoàn cảnh riêng, cách sống riêng, nhưng bao giờ

họ cũng đặt những giá trị tinh thần lên trên hết. Ý thức cá nhân cao độ, con người phấn đấu sống

khoan dung, nâng cao học vấn; kẻ sĩ rèn luyện nhân cách, khí chất, trau dồi văn hóa, tham gia chính

trị làm việc ích quốc lợi dân.

Truyện viết về Lí Thường Kiệt:

Tông bái chức Hiệu úy Thái bảo. Ông làm quan kính cẩn, hành động đều tuân theo lễ pháp,

không một mảy may lầm lỗi, ơn vua trao cho Tiết Việt, được đi kinh lí hai quận Thanh Hóa và Nghệ

An, coi dân đến năm huyện, nếu có kẻ nghịch mệnh thì ủy thác cho quan trấn trừng trị; riêng có nước

Chiêm Thành nhác bỏ chức cống, vua phải thân hành chinh phạt”.

29

Một đoạn văn ngắn chứa đựng rõ rệt những giá trị luân lí. Lí Thường Kiệt đã nêu cao tấm

gương ưu bác về học vấn, đồng thời ông cũng là con người mẫu mực, khuôn phép không bao giờ sai

sót. Ông hết lòng trong bổn phận, dốc hết khả năng phục vụ và cũng biết dừng lại trước những việc

vượt khả năng mình. Những bài học luân lí này luôn có giá trị và tính thời sự.

Sau cùng, giá trị lịch sử: đó chính là việc quyển sách của Lí Tế Xuyên đã giúp chúng ta hiểu

biết thêm về lịch sử đời Lí Trần.

Về nghệ thuật miêu tả, tự sự, Lê Hữu Mục cũng đã có những nhận xét phù hợp. (Việt điện u

linh tập- Lí học Đông phương. Nguồn: wwwlihocdongphuong.org.vn).

Kĩ thuật mô tả và tự sự, đây là điểm mạnh của tác phẩm: “Một phong cảnh đẹp, một ngôi đền

ẩn trong đám lá xanh, một dòng sông quanh co hay bóng dáng e ấp của một thiếu nữ, vẻ bệ vệ của

một tiên ông, cách đi đứng hùng hổ của một võ tướng, Lí Tế Xuyên đều ghi chú trong một vài nét tinh

tế”.

Về tả cảnh, “cảnh thường có công dụng làm khung cho câu chuyện được xảy ra một cách tự

nhiên. Lí Tế Xuyên có một kĩ thuật tả cảnh nhịp nhàng. Đây là cảnh Dâm Đàm (Hồ Tây), nơi đã xảy

ra câu chuyện Lê Văn Thịnh hóa cọp định hãm hại Lí Nhân Tông: Một hôm vua Nhân Tông ngự ra

Tây Hồ xem cá, thuyền rồng thung dung, mái chèo khoan nhặt lượn chơi trên hồ rất vui vẻ; hốt nhiên

thấy mây mù kéo đến trên mặt hồ mù mịt, đối diện không trông thấy nhau, vắng vẻ nghe tiếng cọc

chèo vùn vụt lướt mù tiến đến, thấp thoáng có một con hổ lớn đang hé mồm nhe răng” (chuyện Mục

Thận)…Hoặc cảnh hoang phế được Lí Tế Xuyên miêu tả với một niềm ngậm ngùi làm cho người đọc

phải bâng khuâng. Đây là ngôi nhà đổ nát của Lí Ông Trọng: “Nhân đó Triệu Xương mới hỏi thăm

ngôi nhà cũ của Vương hồi xưa, chỉ thấy mù khói ngang trời; sông nước mênh mông, rêu phong

đường xá, xanh rơi cụm hoang, một mảnh nhàn vân phất phơ trên đám cỏ thôn hoa rụng” (Chuyện Lí

Ông Trọng).

Về tả người, Lí Tế Xuyên tả người qua dáng điệu linh động và mỗi người có ngôn ngữ riêng:

“Đêm ấy, Nguyễn Hỉ đang yên lặng nằm bên cửa sổ, hốt nhiên một trận thanh phong ào ào thổi đến,

bụi cuốn cát bay, rèm lay án động, có một người cưỡi một con hươu trắng từ trên không chạy xuống,

mày râu bạc phơ, áo xiêm sặc sỡ…” (Chuyện Tô Lịch). Y phục cũng đầy màu sắc: “Một người trạc

chừng 60, đội mão giải trai, bận áo tử hà, thắt lưng, tay cầm đao Thanh Long Yển Nguyệt đến trước

mặt vái chào…” (Chuyện Lí Hoằng). Đặc biệt tác giả có cảm hứng khi miêu tả vẻ đẹp, sức mạnh của

người anh hùng lúc sinh thời. Đây là hình ảnh oai hùng của Phùng Hưng: “Vương gia tư hào hữu, sức

lực dũng mãnh, đánh được hổ, vật được trâu; người em tên là Hãi cũng có sức mạnh kì dị, vác được

tảng đá nặng mười nghìn cân hay một chiếc thuyền con chở nghìn hộc mà đi hơn mười dặm” (Chuyện

Bố Cái Đại Vương). Tả sức mạnh của Lê Phụng Hiểu: “Vương thân hình cao đại kì dị; mày dài và

rậm, sức mạnh hơn người…, Vương lấy tay nhổ cả khóm trúc mà đánh, không một người nào dám

chống cự…” (Chuyện Lê Phụng Hiểu).

Về tả tình, Lê Hữu Mục qua nghiên cứu đã có nhận xét rất xác đáng: “Nghệ thuật tả tình của

Lí Tế Xuyên có nhiều điểm đặc sắc. Tác giả chú trọng đến sự tương quan giữa thể chất và tâm hồn, sự

thuần nhất của tình cảm trong thời gian, sự biểu hiện của tình cảm qua cử chỉ và ngôn ngữ”. Mặt

khác, sự sắp xếp tình tiết của truyện cho phù hợp với sự phát lộ của tình cảm.

Nghệ thuật xây dựng đối thoại giữa các nhân vật cũng góp phần đáng kể tạo nét sinh động,

linh hoạt của nhân vật.

Đó là những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm văn xuôi tự sự (lối văn hình

hình tượng) được viết bằng chữ Hán ở thời nhà Trần. Nếu tiếp tục bàn về lối văn này ở thời nhà Lê tác

phẩm tiêu biểu là Hoàng Lê nhất thống chí của nhóm tác giả thuộc dòng họ Ngô Thì chúng ta càng

thấy rõ những đặc sắc của lối văn hình tượng với thế mạnh của nghệ thuật tả cảnh, tả tình, dựng

những đoạn đối thoại. Song ở thể văn chính luận lại hoàn toàn khác. Tiêu biểu là bài Hịch tướng sĩ

30

của Trần Quốc Tuấn- tác phẩm viết dưới triều Trần, cùng thời với Việt điện u linh tập của Lí Tế

Xuyên.

Mấy lới giới thiệu của tác giả Trần Đình Sử về bài Hịch tướng sĩ đã cho thấy rõ về tính chất

khác biệt của hịch- thể văn chính luận với những tác phẩm văn xuôi tự sự (văn xuôi hình tượng):

“Hịch là thể văn nghị luận cổ xưa dùng để tập hợp lực lượng, lên án kẻ thù, kêu gọi hành

động, răn dạy, vỗ về quân sĩ, dân chúng. Người ta cũng gọi hịch là lộ bố, nghĩa là ban bố công

khai cho mọi người ai nấy đều hay. Hịch không phải là thể văn của thời bình, càng không phải

là thể văn của sinh hoạt đời thường. Đó là thể văn được viết ra vào những thời khắc khủng

hoảng, khi tổ quốc lâm nguy, gian đảng tiếm quyền hay tai họa khủng khiếp đe dọa tính mạng

dân chúng, đòi hỏi mọi người đồng sức đồng lòng đứng lên khắc phục. Để tập hợp mọi người,

hịch phải có lập trường chính trực, quan điểm rõ ràng, chứng cớ xác thực, lời lẽ đanh thép. Để

kêu gọi hành động, hịch phải biết kích động tình cảm, lời lẽ thống thiết, gây niềm công phẫn,

đau đớn, khiến người đọc có lương tâm không thể ngồi yên. Xét các yêu cầu đó, Hịch tướng sĩ

của Trần Quốc Tuấn là một kiệt tác vô song”.

(Trần Đình Sử, 2001, tr.26-27)

Lời giới thiệu của Trần Đình Sử vầ tác phẩm Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, một áng văn

chính luận mẫu mực, xuất sắc đã chỉ rõ mục đích viết, nhất là phong cách chính luận với hệ thống

luận điểm, luận cứ, cách luận chứng sắc sảo, đanh thép để phê phán, kết tội cái ác; nêu cao chính

nghĩa, kêu gọi con người hành động, nó là sản phẩm của tư duy logic khác hẳn lối văn hình tượng như

Việt điện u linh là sản phẩm của tư duy hình tượng.

2.2.2 Nguồn gốc, sự phát triển của văn chính luận

Văn chính luận có nguồn gốc từ đời sống xã hội và văn hóa Trung Quốc.

Đối chiếu lịch sử văn học ở Trung Quốc: căn cứ một số bộ giáo trình lịch sử văn học, văn hóa

Trung Quốc, tiêu biểu như bộ Văn học sử Trung Quốc do Du Quốc Ân chủ trì, có thể thấy tiến trình

lịch sử văn học và sự xuất hiện các loại thể văn học như sau:

Thời Tiên Tần: thần thoại, kinh thi, văn xuôi lịch sử, văn xuôi chư tử, sở từ, li tao, phú.

Thời Tần Hán: tản văn lịch sử (Lã Thị, Ban Cố), văn chính luận (Giả Nghị), từ phú, sử kí, phê

bình văn học, nhạc phủ, thơ ngũ ngôn.

Thời Ngụy Tấn: ca từ nhạc phủ, từ phú, thơ nhạc phủ, thơ điền viên, thơ sơn thủy, biền văn,

văn xuôi, chí quái, dật sử, phê bình văn học.

Thời Tùy Đường Ngũ Đại: thơ cổ thể, luật thi, cổ văn, truyện truyền kì, biến văn, tục phú,

thoại bản, từ.

Thời Tống: thơ, từ, luận văn, thi thoại, thoại bản.

Thời Nguyên: tạp kịch, ca dao, thơ, tản văn.

Thời Minh: tiểu thuyết chương hồi, thơ, văn, hí kịch, mô phỏng thoại bản.

Thời Thanh: thơ, tản văn, hí, kịch, truyện ngắn, văn văn ngôn, tiểu thuyết chương hồi. (dẫn

theo Trần Đình Sử, Trung Quốc Văn học sử, 4 tập, NXB Nhân dân văn học, Bắc Kinh, 1981).

Ở Việt Nam, Theo một số bộ giáo trình văn học sử Trung Quốc, như: Lịch sử văn học Trung

Quốc của Trần Xuân Đề, Giáo trình lịch sử văn học Trung Quốc (2 tập) của nhóm tác giả Trương

Chính, Trần Xuân Đề, Nguyễn Khắc Phi (NXB Giáo Dục năm 1961-1962) cũng có ghi nhận tương tự

những bộ giáo trình văn học sử của Trung Quốc xuất bản những thập niên gần đây.

Từ tiến trình lịch sử văn học và lịch sử văn hóa Trung Quốc, bước đầu chúng tôi nhận định:

31

Thượng Thư là bộ sách lịch sử sớm nhất của Trung Quốc. Về ngôn ngữ, sách Thượng Thư

ngôn ngữ tác phẩm có khí phách, sảng khoái, và có vần điệu, có cái đẹp lẫm liệt phi thường”. Tản văn

chư tử thời trước Tần có “tính xã hội phong phú, có tính triết lí sâu sắc, có tính thời đại rõ nét và tính

hình tượng văn học đậm đà”.

Bộ Luận ngữ ghi chép lời nói, việc làm của Khổng Tử thuộc thể văn ngũ lục... “ngôn ngữ giản

luyện, hàm súc, u mua và giàu giá trị triết lí”.

Sang thời Tần Hán (năm 221 tr.CN), văn chương chủ yếu là bộ Giản trục khách thư- một bộ

sách chính luận của Lí Tư. Văn phong của sách này có tính chất thuyết lí sinh động mạnh mẽ, có

phong độ hùng biện đời chiến quốc.

Đầu đời Tây Hán, Giả Nghị viết sách Tân thư, tác phẩm quan trọng của ông là Quá Tần luận

(gồm 3 bài) bàn bài học kinh nghiệm về sự thành bại của nhà Tần, thể hiện tư tưởng dân bản của ông.

Văn chương có khí thế mạnh, tình cảm dồi dào, giữ lại được văn phong thời Chiến Quốc.

Đến thời Ngụy Tấn Nam Bắc triều, thơ ca phát triển mạnh mẽ. Văn học Kiến An có các đại

biểu là “Tam Tào” (Tào Tháo, Tào Phi, Tào thực); nhóm “Kiến An thất tử”, gồm Khổng Dung,

Vương Xán, Trần Lâm, Lưu Trinh, Nguyễn Vũ, Tử Cán, Ứng Sướng đã góp phần làm nên “phong cốt

Kiến An” thể hiện tình cảm hào sảng, ý chí bi tráng. Cuối đời Tấn, đầu Lưu Tống, xuất hiện nhà thơ

vĩ đại Đào Tiềm với tác phẩm bất hủ Đào hoa nguyên đã hư cấu một “đào nguyên ngoài trần thế”

không áp bức, ai cũng lao động hồn nhiên tự tại.

Tản văn thời kì này có Hậu Hán thư, Lý Đạo Nguyên có Thủy kinh chú giỏi. Nhìn chung, thời

kì này thơ là thành tựu nổi bật. Văn chính luận thời kì này cũng như thời Tùy Đường dường như

không có thành tựu đáng kể.

Ở Việt Nam, thư từ bang giao giữa nước ta và các nước láng giềng, nhất là Trung Quốc là hình

thức quen thuộc từ xưa đến nay. Triệu Đà khi chiếm được Âu Lạc của An Dương Vương, lập nước

Nam Việt đã có thư từ trao đổi với Hán Văn Đế. Trải các triều Đinh, Tiền Lê, Lí, Trần các vua ta đều

có thư từ bang giao với các vua Trung Quốc; nhưng các văn bản này chỉ mang tính chất giao thiệp

thông thường, chưa phải là loại văn từ chiến đấu được coi là một mũi giáp công phản kích lợi hại.

2.3 VĂN CHÍNH LUẬN TRUNG ĐẠI VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KÌ

2.3.1 Văn chính luận trung đại Việt Nam trƣớc thời khởi nghĩa Lam Sơn

Trong khoảng mười thế kỉ đầu Tây lịch, nước ta đã ba lần Bắc thuộc:

Bắc thuộc lần thứ nhất (111 tr.TL đến năm 39 sau TL): Mùa xuân năm 40, Trưng Trắc và

Trưng Nhị khởi binh đánh Thái thú Tô Định. Hai bà làm vua được ba năm, đóng đô ở Mê Linh. Sau

Mã Viện sang đánh, hai bà thua phải tự trầm. Nước ta lại thuộc Tàu.

Bắc thuộc lần thứ hai (43-544): Mã Viện đánh được Trưng Vương đem đất Giao Chỉ về nhà

Hán như cũ cho đến thời Tiền Lí.

Thời Tiền Lí (544-602), có Lí Bôn (tục gọi là Lí Bí) vốn dòng dõi người Tàu, tổ tiên ông vào

đời Tây Hán, tránh loạn chạy sang Giao Châu. Đến đời nhà Lương bên Tàu, ông Lí Bôn tự xưng là

Nam Việt Đế, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân. Trước tình hình đó, năm Ất Sửu (545), nhà Lương sai

Dương Phiên sang làm Thứ sử Giao Châu và sai Trần Bà Tiên đem quân sang đánh Nam Việt, Lí

Nam Đế thua phải bỏ Long Biên về Gia Ninh. Năm sau, Lí Nam Đế đem hai vạn quân ra đánh Trần

Bà lại bị thua nên giao binh quyền cho Tả tướng quân là Triệu Quang Phục, Lí Nam Đế về nghỉ ở

Khuất Liêu. Đến năm Mậu Thìn (458) thì Lí Nam Đế qua đời.

Bắc thuộc lần thứ ba (603-939): Được tin vua Lí mất, Triệu Quang Phục xưng vương tức

Triệu Việt Vương. Việt Vương quyết đánh quân Tàu lấy lại được thành Long Biên. Trong khi đó, Lí

Phật Tử, người cháu họ của Lí Nam Đế đã nắm toàn binh quyền đem quân từ động Dã Năng (thuộc

Lào) về chống Triệu Việt Vương nhưng không thành. Sau mấy trận đánh, Lí Phật Tử xin chia đất và

giảng hòa. Đến năm Tân Mão (571), Lí Phật Tử bất ngờ đem quân đánh Triệu Việt Vương. Việt

32

Vương thua, chạy đến sông Đại Nha thì nhảy xuống sông tự tử. Lí Phật Tử lên làm vua. Trong khi, Lí

Phật Tử làm vua Nam Việt (nhà hậu Lí, 571-602), vua Văn Đế nhà Tùy đã thống nhất đất nước. Văn

Đế sai tướng là Lưu Phương đem quân sang đánh Nam Việt, Lí Phật Tử sợ hãi phải xin hàng. Từ đó

Giao Châu lại nước Tàu đô hộ, thời gian này đúng 336 năm.

Đến đời nhà Ngô, Ngô Quyền, năm 938, lãnh đạo nhân dân đánh tan quân Nam Hán trong trận

Bạch Đằng nổi tiếng, chính thức kết thúc hơn một thiên niên kỉ Bắc thuộc, mở ra thời kì độc lập lâu

dài của Việt Nam. Nhưng Ngô Quyền chỉ làm vua được sáu năm (938-944) thì mất. Đến đời Ngô

Xương Xí, loạn 12 sứ quân (945-967) gây cảnh nội loạn kéo dài hơn 20 năm. Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh

dẹp yên 12 sứ quân, lên ngôi hoàng đế tức là Tiên Hoàng Đế. Đinh Tiên Hoàng làm vua được 12 năm

thì mất. Vệ Vương lên ngôi khi mới 6 tuổi, quyền chính nằm trong tay Thập đạo tướng quân Lê Hoàn.

Và trước tình thế nhà Tống đưa quân vào An Nam, Lê Hoàn được tôn làm vua lãnh đạo cuộc kháng

Tống thành công. Nhà Tiền Lê làm vua được 3 đời, gồm 29 năm. Đến đời Lê Long Đĩnh, vì sống trụy

lạc ông mất năm 24 tuổi và con còn quá nhỏ, triều đình tôn Lí Công Uẩn lên ngôi vua, lập nên nhà Lí

(1010-1025).

Triều đại nhà Lí (1010-1225): khởi nghiệp là Lí Công Uẩn, lên ngôi tức Lí Thái Tổ, nhà vua

đã dời Thủ đô từ Hoa Lư về Thăng Long. Bài Chiếu dời đô của Lí Thái Tổ, có lẽ là áng văn chính

luận đầu tiên của Việt Nam được sử sách ghi lại. Nhà Lí trị vì được 216 năm, truyền ngôi được 9 đời.

Đến đời vua Lí Huệ Tông, nhà vua nhu nhược, bỏ việc chính trị đem giang sơn phó vào tay người con

gái còn thơ dại (Lí Chiêu Hoàng), khiến cơ nghiệp nhà Lí tiêu vong, mở ra triều đại mới: nhà Trần.

Nhà Trần (1225-1400): vua đầu tiên của nhà Trần là Trần Thái Tông (1225-1258) tức Trần

Cảnh là chồng của Lí Chiêu Hoàng. Với ý định thoán ngôi nhà Trần, Trần Thủ Độ đã ép Lí Chiêu

Hoàng nhường ngôi cho chồng. Nhà vua cuối cùng của nhà Trần Là Trần Thiếu Đế (1398-1400).

Triều đại nhà Trần truyền ngôi vua được 12 đời, trị nước 175 năm.

Tác phẩm văn chính luận trước thời khởi nghĩa Lam Sơn có thể kể đến: Chiếu dời đô của Lí

Thái Tổ, Phạt Tống lộ bố văn, Phạt Tống của Lí Thường Kiệt, Hịch tướng sĩ văn của Trần Quốc

Tuấn,…

2.3.2 Văn chính luận trung đại Việt Nam thời khởi nghĩa Lam Sơn

Bối cảnh lịch sử của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1418-1427): Đây là cuộc khởi nghĩa đánh đuổi quân Minh xâm lược do Lê Lợi lãnh đạo và kết thúc bằng

việc giành lại độc lập cho nước Đại Việt và sự thành lập nhà Hậu Lê.

Khởi nghĩa Lam Sơn gồm ba giai đoạn lớn: hoạt động ở vùng núi Thanh Hoá (1418-1423),

tiến vào phía nam (1424-1425) và giải phóng Đông Quan (1426-1427). Trong giai đoạn đầu, nghĩa

quân Lam Sơn gặp rất nhiều khó khăn, thường phải hứng chịu các cuộc càn quét của quân Minh.

Quân khởi nghĩa bắt đầu giành thế thắng khi Lê Lợi tiến quân ra đất Nghệ An vào năm 1424. Năm

1426, quân khởi nghĩa tiến đánh thành Đông Quan, và đánh tan nát quân Minh trong trận Tốt Động-

Chúc Động. Sang năm 1427, nghĩa quân đánh tan tác 10 vạn viện binh giết chết viên chỉ huy quân

Minh là Liễu Thăng, buộc viên Tổng chỉ huy quân Thanh là Vương Thông phải giảng hòa, thực chất

là đầu hàng. Nguyễn Trãi thừa lệnh của Lê Lợi đã viết bài Bình Ngô đại cáo để tuyên cáo cho toàn

quốc biết về chiến thắng vẻ vang của nghĩa quân Lam Sơn.

Tác phẩm văn chính luận thời khởi nghĩa Lam Sơn

Những tác phẩm tiêu biểu: thời Lê Lợi chống quân Minh xâm lược, văn chính luận có tập

Quân trung từ mệnh (gồm 68 văn kiện chính luận). Đó là những thư từ Nguyễn Trãi thay mặt Lê Lợi

viết gửi các tướng lĩnh nhà Minh - những bức thư luận chiến hùng hồn, đanh thép góp phần quan

33

trọng làm nên chiến thắng ít đổ xương máu “chẳng đánh mà lòng người tự khuất, ta đây mưu phạt

tâm công”. Sau chiến thắng, Lê Lợi sai Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo, áng văn chính luận này

được xem là hùng văn thiên cổ.

2.3.3 Văn chính luận trung đại Việt Nam thời khởi nghĩa Tây Sơn

Bối cảnh lịch sử của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn:

Trong thế kỷ 18, nước Đại Việt nằm dưới quyền cai trị tượng trưng của vua Lê, có danh mà

không có quyền hành chính trị. Quyền lực thực sự nằm trong tay hai gia đình phong kiến, các chúa

Trịnh ở phía bắc, kiểm soát nhà vua, điều khiển triều đình ở Thăng Long và các chúa Nguyễn ở phía

nam, đóng đô tại thành Phú Xuân. Hai bên từng đánh lẫn nhau để giành quyền kiểm soát toàn bộ đất

nước trong suốt 45 năm. Trong những năm này, hai phe Trịnh- Nguyễn đều tuyên bố trung thành với

nhà Lê để củng cố quyền lực cho mình.

Tây Sơn khởi nghĩa: Khởi phát từ đất Tây Sơn, lực lượng ban đầu chủ yếu là người thượng tập

hợp dưới cờ, đứng lên khởi nghĩa, lấy danh nghĩa chống lại quốc phó Trương Phúc Loan.

Năm 1773, Nguyễn Nhạc tự xưng là đệ nhất trại chủ, dùng mưu chiếm được thành Qui Nhơn.

Từ Qui Nhơn, quân Tây Sơn tỏa đánh xuống phía Nam kiểm soát vùng đất rộng lớn từ Quảng Ngãi

đến Bình Thuận.

Sau khi quân Trịnh tham chiến, có quân Nguyễn hợp sức, lúc đầu thế áp đảo Tây Sơn. Nhưng

đến tháng 7 năm 1775, Nguyễn Huệ đánh tan quân Nguyễn ở Phú Yên do tướng Nguyễn là Tống

Phúc Hiệp chỉ huy. Thế Tây Sơn rất mạnh, tướng Trịnh là Hoàng Ngũ Phúc phải xin chúa Trịnh Sâm

phong cho Nguyễn Nhạc làm trấn thủ Quảng Nam.

Tạm yên mặt Bắc, Tây Sơn tập trung đánh Gia Định. Trong gần 10 năm (1776-1783), Tây Sơn

4 lần đánh Gia Định và Gia Định đều thất thủ [ lần I (tháng 3/1776); lần II (tháng 3/1777); lần III

(tháng 4/1777); lần IV (tháng 3/1782)]. Lần 1, quân Tây Sơn do Nguyễn Lữ chỉ huy; 3 lần sau quân

Tây Sơn dưới quyền chỉ huy của danh tướng Nguyễn Huệ. Lần cuối cùng, Nguyễn Ánh phải trốn chạy

ra tận đảo Phú Quốc.

Năm 1786, Nguyễn Huệ ra Bắc diệt Trịnh.

Cuối năm 1788, vua Càn Long sai Tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị đem 29 vạn quân

sang xâm lựơc An Nam núp dưới danh nghĩa phù Lê.

Ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân (ngày 22.12.1788), Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế lấy hiệu

là Quang Trung, thống lĩnh quân thủy bộ xuất quân ra Bắc đánh đuổi quân Thanh.

Ngày 29 tháng 11 năm Mậu Thân, vua Quang Trung đến Nghệ An, tam dừng quân để tuyển

thêm lính.

Ngày 20 tháng Chạp năm Mậu Thân, vua Quang Trung đến núi Tam Điệp, Ninh Bình. Quan

sát tình hình, vua Quang Trung nói với tướng quân: chỉ trong 10 ngày ta sẽ đánh tan quân Thanh.

Thực tế chỉ 6 ngày, từ đêm 30 tháng chạp năm Mậu Tuất đến ngày mồng 5 tết năm Kỷ Dậu, vua

Quang Trung đã đánh tan quân Thanh và tiến vào làm chủ Thăng Long. Tôn Sĩ Nghị nửa đêm được

tin cấp báo, người không kịp mặc giáp, ngựa không kịp đóng yên, tháo chạy bỏ lại cả ấn tín.

Văn chính luận thời Tây Sơn:

Thời Tây Sơn, văn chính luận gồm 5 bức thư bằng chữ Nôm do vua Quang Trung viết và

những áng văn chương bang giao của Ngô Thì Nhậm trong “Bang giao hảo thoại” (gồm 53 văn kiện)

viết thay vua Quang Trung gửi nhà vua và triều đình Mãn Thanh đã tạo được sự hòa hiếu với phương

Bắc, cũng như sự vị nể đặc biệt của nhà Thanh đối với vương triều Tây Sơn.

2.3.4 Văn chính luận trung đại Việt Nam thời thuộc Pháp

34

Bối cảnh lịch sử

Năm 1858, liên quân Pháp - Tây Ban Nha đổ bộ tấn công vào cảng Đà Nẵng và sau đó xâm

chiếm Sài Gòn. Sau đó, quân Pháp mở rộng chiến tranh xâm lược ra toàn miền Nam Việt Nam. Năm

1862, vua Tự Đức ký hiệp ước nhượng ba tỉnh miền Đông Nam Bộ cho Pháp. Năm 1867, Pháp chiếm

nốt ba tỉnh miền Tây Nam Bộ đặt ách thống trị ở Nam Kỳ Lục tỉnh.

Sau khi củng cố vị trí vững chắc ở Nam Kỳ, từ năm 1873 đến năm 1886, Pháp dần xâm chiếm

nốt những phần còn lại của Việt Nam sau khi Pháp đánh bại những cuộc phản kích ở Bắc Kỳ với lực

lượng chủ chiến triều Nguyễn do Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Văn Tường, Hoàng Kế Viêm lãnh đạo và

quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc. Miền Bắc khi đó rất hỗn độn do những mối bất hòa giữa lương -

giáo. Triều đình Huế không thể kiểm soát nổi tình hình. Nhà Thanh của Trung Quốc đem đại quân

vào miền Bắc Việt Nam trên danh nghĩa giúp "chư hầu" nhà Nguyễn kháng Pháp, chiến tranh Pháp-

Thanh bùng nổ trên chiến trường miền Bắc. Cuối cùng thì liên quân Thanh-Nguyễn đã thất bại và

quân đội Pháp đã giành chiến thắng.

Văn chính luận thời thuộc Pháp

Đến thời thuộc Pháp, dưới triều vua Tự Đức, nhà văn chính luận tiêu biểu là Nguyễn Trường

Tộ (đã gửi triều đình Huế 58 bản điều trần) và những bản văn xuất sắc Tế cấp luận (Bàn về những vấn

đề khẩn cấp, 1863), Giáo môn luận (Bàn về tự do tôn giáo, 1863), đặc biệt, Thiên hạ phân hợp đại thế

luận (Bàn về những thế lớn phân và hợp trong thiên hạ). Sau đó, có thể kể đến Nguyễn Lộ Trạch với

Thời vụ sách thượng, Thời vụ sách hạ, nhất là tập Thiên hạ đại thế luận (Bàn về thế lớn trong thiên

hạ, cụ thể bàn về tình thế của các nước Đông Á trước nguy cơ thôn tính của phương Tây). Sau cùng,

văn chính luận thời kháng Pháp những tác phẩm Hịch đánh Tây, Hịch đánh chuột... của Nguyễn Đình

Chiểu rất có giá trị.

* Tiểu kết:

Trên bình diện văn hóa xã hội, thời trung đại Việt Nam đã tiếp nhận hầu hết tư tưởng văn hóa

trung đại của Trung Quốc. Tuy nhiên, tư tưởng Nho giáo của Khổng Tử ảnh hưởng sâu sắc, toàn diện,

lâu dài nhất trong đời sống tư tưởng xã hội của con người Việt Nam trung đại.

Điểm đặc biệt, giới trí thức phong kiến Việt Nam tiếp nhận tư tưởng Nho giáo của Trung

Quốc không thụ động mà có nghiên cứu sâu rộng để tìm ra những tương hợp giữa Nho giáo Trung

Quốc và văn hóa Việt Nam; đi xa hơn nữa là sự tiếp nhận tư tưởng Nho giáo Trung Quốc để đi đến

những sáng tạo, vận dụng xây dựng xã hội và đấu tranh chính trị.

Chính vì vậy, khi tiếp nhận thể tài văn chính luận Trung Quốc, các nhà chính luận Việt Nam

đã vận dụng sáng tạo tư tưởng Nho giáo và các tư tưởng tiến bộ phương Tây để có một hướng đi

đúng, vững chắc, chiếm ưu thế trong tranh biện với đối phương. Do đó, văn chính luận các thời trước

khởi nghĩa Lam Sơn, thời Lam Sơn, thời Tây Sơn, thời Pháp thuộc đã để lại dấu ấn tư tưởng và văn

phong thời đại rất đặc sắc.

35

CHƢƠNG 3

VĂN CHÍNH LUẬN TRUNG ĐẠI VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC - TIẾP BIẾN

VÀ PHÁT TRIỂN Ở PHƢƠNG DIỆN NỘI DUNG TƢ TƢỞNG

3.1 KHẲNG ĐỊNH TỔ QUỐC, DÂN TỘC

Trung Quốc thường coi dân An Nam là “man di mọi rợ”. Vậy “man di mọi rợ” có nghĩa là gì?

1. Man 蠻 theo Ngọc Thiên là Nam Di danh [玉篇] 南夷名 - hay tên gọi các rợ (mọi) ở

phương Nam,

2. Di 夷 có một biến âm là rợ, như di 遺 là rơi (A)(bỏ rơi, bỏ sót), di 移 là rời (dời), dụ 誘 dỗ,

ru, rũ (quyến rũ), (rù quyến), diệu 耀 rọi, rỡ (rực rỡ) ...

3. Mọi: theo Thiên Nam Ngữ Lục được viết bằng bộ khuyển hợp với chữ mỗi 每 (hài thanh,

chữ Nôm).

Tự điển Việt Bồ La (1651) ghi nhận cụm từ rợ mọi, đứa rợ mọi = người rừng ... Ngũ Thiên Tự

ghi Mạt Hạt là rợ mọi ... Bây giờ thì thấy dùng cụm từ mọi rợ nhiều hơn (Đại Nam Quốc Âm Tự Vị,

1895 mọi=rợ).

Tóm lại, cụm từ “man di mọi rợ” có thể chỉ cùng một nghĩa như man (dã man), nhưng ghép

các từ cùng nghĩa là di, và các dạng biến âm của man (mọi) và di (rợ). Đây là hiện tượng lặp lại nghĩa

qua nhiều giai đoạn (láy nghĩa), nhất là để nhấn mạnh tính chất tiêu cực như xấu xa ghê gớm, tồi tàn

...v.v...)

Dù hiểu theo cách nào thì cách gọi này Trung Quốc cũng thể hiện sự coi rẻ, khinh thường An

Nam. Đó là nhìn nhận vấn đề ở góc độ con người, dân tộc. Còn trên bình diện lãnh thổ, tổ quốc,

chúng chỉ coi An Nam là quận, huyện trực thuộc Trung Quốc. Do vậy, ngay từ những ngày đầu dựng

nước, giữ nước, cha ông ta đã ý thức khẳng định: đất nước Việt Nam là tổ quốc riêng biệt; dân tôc

Việt Nam có nền văn minh rất đáng tự hào sánh ngang bằng Trung Quốc.

Bài thơ Phạt Tống của Lí Thường Kiệt vốn được xem là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của

dân tộc đã khẳng định mạnh mẽ, đanh thép vấn đề quan trọng, thiêng liêng bậc nhất là: “Sông núi

nước Nam vua nam ở”. Bài thơ ra đời trong bối cảnh tương quan Việt Nam và Trung Quốc căng

thẳng, khốc liệt. (Chính sách đối ngoại của Vương An Thạch nhằm lập công với vua Tống đã khiến

An Nam đứng trước nguy cơ Tống xâm lược. Thấy rõ ý đồ bành trướng, bá quyền của nhà Tống, Lí

Thường Kiệt chủ động Bắc tiến. Được lệnh của vua Lí Nhân Tông (1072-1127), năm Ất Mão (1075),

Lí Thường Kiệt và Tôn Đản đem 10 vạn binh chia làm hai đạo tiến đánh tiêu diệt quân Tống Ở Khâm

Châu và Ung Châu gây tổn thất nặng nề cho quân Tống. Một năm sau nhà Tống mới ổn định tình

hình, sai hai tướng giỏi là Triệu Tiết và Quách Quỳ chinh phạt An Nam để nhận lấy bài học từ phòng

tuyến Như Nguyệt).

Sau cuộc Bắc phạt của nhà Lí, vua Tống vô cùng tức giận và mất mặt đến mức Tống Thần

Tông đã phải nhượng bộ nước Hạ ở phía Tây và chấp nhận cắt dâng đất cho nước Liêu để rảnh tay đối

phó với Đại Việt. Tám ngày sau khi Ung Châu bị triệt phá (tức ngày 9 tháng 2 năm 1076), Tống Thần

Tông đã ra chiếu đánh Đại Việt. Chiếu của vua Tống cho thấy rõ thâm ý của chúng không chỉ nhằm

đánh phục thù mà mục đích chiếm lấy Annam: “Lúc quân ta diệt được Giao Chỉ, uy ta sẽ có. Rồi ra

bá cáo cho Thiểm Tây biết, quân dân Thiểm Tây sẽ có thắng khí. Với khí thắng ấy, ta sẽ nuốt tươi

36

nước Hạ. Mà nếu nuốt tươi nước Hạ thì ai dám quấy nhiễu Trung Quốc nữa”. (Hoàng Xuân Hãn,

1966, tr.114).

Lực lượng quân Tống đánh Đại Việt khoảng mười vạn quân tinh nhuệ, đặt dưới sự chỉ huy của

Tuyên Huy nam viện sử Quách Quỳ và Triệu Tiết là phó tướng. Bên cạnh 10 vạn quân chiến đấu,

quân Tống còn có 20 vạn phu dịch và 1 vạn ngựa. Phía ta, Lí Thường Kiệt đem quân đón đánh quân

Tống tại phòng tuyến Như Nguyệt không cho chúng sang sông. Trận ấy quân nhà Tống chết hơn 1000

người. Quách Quỳ phải lui quân về phía Tây. Lí Thường Kiệt tiếp tục tiến quân vây đánh, quân giặc

chặt cây làm súng bắn đá bắn sang như mưa, quân An Nam thuyền bị thủng và quân lính chết đến

mấy ngàn. Tình thế căng thẳng, Lí Thường Kiệt ra sức chống đỡ và thảo hịch bằng thơ để khích lệ

tinh thần tướng sĩ. Đó là bài Phạt Tống, quen gọi là bài thơ Thần.

(Bối cảnh khi đó, đội quân tiên phong của địch đánh phá dữ dội, một mảng phòng tuyến có nguy cơ bĩ

vỡ. Lí Thường Kiệt quyết giành lại thế chủ động, buộc đập tan đội quân tiên phong của giặc mà trước

hết phải lấy lại tinh thần tướng sĩ của mình. Nhận rõ điều đó, Lí Thường Kiệt bí mật cho người vào

đền Trương Hống, Trướng Hát ngâm vang bài thơ Nam quốc sơn hà…Tương truyền đây là lời thần

linh. Nghe lời thơ, binh lính nức lòng quyết đánh đập tan mũi tiên phong, chặn đứng bước tiến của

quân giặc buộc chúng phải giảng hòa).

Nguyên văn như sau:

Nguyên bản chữ Hán:

南國山河

南 國 山 河 南 帝 居

截 然 定 分 在 天 書

如 何 逆 虜 來 侵 犯

汝 等 行 看 取 敗 虛

Bản phiên âm:

Nam quốc sơn hà

Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại Thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư!

Trong bài hịch- thơ, Lí Thường Kiệt rất ý thức khi dùng từ “quốc”.

Nhìn lại lịch sử của từ này, chúng ta thấy ý nghĩa sâu sắc của từ “quốc” (quốc:國) Lí Thường

Kiệt đã dùng. Khoảng trên dưới 1000 năm trước Công nguyên, chữ “quốc” (nước) gồm 2 vạch và chữ

khẩu, biểu thị một giới hạn không gian, trong đó có con người. Sau đó, khoảng 2.000 năm trước đây,

nó được gắn thêm một phù hiệu nữa là 戈 (qua) tượng trưng cho giáo mác, lực lượng vũ trang. Chữ

“quốc” lúc này có hàm nghĩa: có một giới hạn về không gian, có con người sinh sống và được bảo vệ

bằng lực lượng vũ trang. Khoảng trên dưới 1.500 trước đây, chữ “quốc” được gắn thêm một phù hiệu

nữa là: 囗 (囗: vi). Bộ “vi” bao bọc xung quanh các bộ phận khác và mang nghĩa: sự cố định về

cương giới, sự hoàn chỉnh của một quốc gia, sự gắn bó của tập thể người, cũng như tính chất bất khả

37

xâm phạm. Như vậy, từ “quốc” có hàm nghĩa khác biệt các từ cùng biểu thị một đơn vị đất đai như

gia, bang, châu, quận…

Luận bàn về chữ dùng trong Nam quốc sơn hà, Trần Thanh Tuấn viết:

Bàn về chữ đế, chúng ta cần tìm hiểu quan niệm về chữ đế của người xưa. Trong huyền thoại

của người Trung Quốc cổ xưa có những vị được gọi là đế như: Phục Hy- đế phương đông;

Chuyên Húc - đế phương Bắc; Thiếu Hạo- đế phương Tây; Thần Nông- đế phương nam,

Hoàng đế ở trung ương. Các vị này đều ngự ở trên trời. Như vậy chữ đế nguyên nghĩa là để

chỉ trời chứ vốn không có nghĩa là chỉ vua. Các triều đại Hạ, Thương, Chu đều dùng chữ

Vương để gọi vua (thời Tam Vương). Đến khi nhà Tần thôn tính xong sáu nước (Nguỵ, Yên,

Hàn, Tề , Sở, Triệu) thống nhất toàn cõi Trung Hoa, vua Tần là Doanh Chính cho rằng chữ

Vương (王) chưa xứng với tầm vóc, chưa tỏ rõ được uy quyền thống trị nên tự xưng là Hoàng

Đế; Thuỷ Hoàng Đế (vị vua đầu tiên của nhà Tần). Các triều đại sau đều noi theo thế mà gọi là

hoàng đế với ý nghĩa là kẻ thống trị toàn bộ thế giới này”.

(Trần Thanh Tuấn, 2009, số 89-90)

Như vậy, câu mở đầu: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” khẳng định mạnh mẽ, rõ rệt nước Nam

có vua Nam. Mặt khác, thi pháp thơ văn cổ chú trọng phép đối nên đọc câu thơ ai cũng hiểu ở phương

Bắc có “Bắc đế” thì ở phương Nam có “Nam đế”. Nam đế cũng ngang bằng Bắc đế, vị thế không

khác gì nhau. Câu thơ có hàm ý như vậy là thâm thúy, phép đối rất diệu thể hiện sâu sắc lòng tự hào

cũng như trí tuệ người viết cũng là trí tuệ của dân tộc. Và “đế”, từ nguyên dùng chỉ các vị vua trên

trời, cho nên cương vực, lãnh thổ của vương quốc đã ghi ở “thiên thư” (sách trời). Lời và ý của hai

câu thơ tương thích, hoàn hảo, sâu sắc.

Câu thơ thứ ba, tác giả dùng từ “xâm” (“như hà nghịch lỗ lai xâm phạm”) cũng rất độc đáo.

Xâm 侵: đánh lén lút, xâm phạm phi nghĩa. Do vậy, bài thơ có nhan đề Phạt Tống. Dùng từ “phạt:

Phạt 伐: Tiến đánh công khai, lấy chính nghĩa dụng binh đánh kẻ có tội” cũng rất đăng đối để tiếp sau

đó tác giả dùng từ “xâm”.

Câu kết “nhữ đẳng hanh khan thủ bại hư”, lời lẽ xem nhẹ, coi thường quân giặc (vì chúng bất

chính, hành động lén lút), đồng thời khẳng định chúng phải gánh chịu thất bại thảm hại.

Bài thơ vừa có giá trị hiện thực vừa nhuốm màu sắc linh thiêng, vì là lời của thần, vì những

giá trị hiển nhiên được thể hiện không chỉ con người cảm nhận mà còn được ghi ở sách trời. Bài thơ

chói ngời tình cảm yêu nước, khí phách chống giặc làm nên sức mạnh khiến quân thù phải khiếp sợ

trước chính nghĩa và trước anh linh hồn thiêng đất Việt…Cho nên nó làm “táng đởm kinh hồn bọn

gian cừu, làm vững lòng kẻ tín thần”. Đây quả là việc lấy “văn từ mà tuyên cáo, lấy vũ sư mà đồng

nhung”. Quả thực, nếu “Nam quốc sơn hà” không phải do chính Lí Thường Kiệt sáng tác thì tư tưởng,

văn khí của áng văn chương này cũng làm đẹp thêm cho tên tuổi Lí Thường Kiệt và con người của Lí

Thường Kiệt- con người bia đá ngàn năm ca ngợi: “Tiết tháo được thể nghiệm nên dân qui phụ, vậy

mà luôn dè dặt như đi trên băng mỏng; chăm lo đầy đủ khiến mình trong sạch, nhưng vẫn băn khoăn

như cưỡi ngựa nắm giữ dây cương sờn” (Chu Văn Thường, 1977, t1, tr.307).

38

Nếu như Nam quốc sơn hà còn tồn nghi về vấn đề tác giả, văn bản, thời điểm ra đời mà vẫn

không ai bác bỏ áng văn chương bất hủ này có liên hệ mật thiết với Lí Thường Kiệt thì Phạt Tống lộ

bố văn lại được xác định rõ rệt tác giả là vị Thái úy họ Lí tài hoa văn võ song toàn.

Bài văn gói tròn 150 chữ kể cả đầu đề nhưng đã thể hiện bao vấn đề quan trọng, lớn lao. Nó

vừa nêu sứ mệnh của thiên tử, vừa phê phán vua Tống ngu hèn, vừa cảm thương người dân Trung

Quốc “trăm họ mệt nhọc, lầm than để riêng thỏa cái mưu nuôi mình béo mập của Vương An Thạch”.

Sau khi công bố những điều thiết yếu và khẳng định “tính mệnh muôn dân đều phú bẩm tại

trời” và bể trầm luân muôn dân phải chịu đã khiến “lượng kẻ ở trên cố nhiên phải xót, tác giả dõng

dạc tuyên bố:

“Nay bản chức vâng mệnh quốc vương chỉ đường tiến quân lên Bắc, muốn dẹp yên làn sóng

yêu nghiệt, chỉ có ý phân biệt quốc thổ, không phân biệt chúng dân. Phải quét sạch nhơ bẩn hôi tanh

để đến thuở ca ngày Nghiêu, hưởng tháng Thuấn thăng bình!” (Bản chức phụng quốc vương mệnh,

chỉ đạo Bắc hành: dục thanh yêu nghiệt chi ba đào, hữu thân phổ vô phân dân chi ý; yếu tảo tinh uế

chi ô trọc, ca Nghiêu thiên thưởng Thuấn nguyệt chi giai kì) (bản dịch của Trần Văn Giáp).

Bài văn kết lại có tư tưởng sáng rõ và văn phong khúc chiết, gọn gàng: “Ta nay ra quân, cốt để

cứu vớt muôn dân dân khỏi nơi chìm đắm. Hịch văn truyền tới để mọi người cùng nghe. Ai nấy hãy tự

đắn đo chớ có mang lòng sợ hãi”.

Phạt Tống lộ bố văn nêu cao, khắc sâu tư tưởng nhân nghĩa làm cơ sở cho cuộc chiến. Vị Thái

úy triều Lí đứng trên tầm cao nhận thức của kẻ sĩ thể hiện trách nhiệm chăm sóc muôn dân bất luận

họ thuộc dân tộc nào khi lâm cảnh lầm than cơ khổ thì phải được cứu vớt. Tư tưởng nhân văn cao đẹp

ấy còn chứa đựng một nhận thức siêu việt, sự quả quyết mạnh mẽ, lòng dũng cảm phi thường, dám

tấn công đối phương, đập tan mưu đồ của một nước lớn chuẩn bị xâm lăng nước nhỏ đã thể hiện trí

dũng phi thường của người anh hùng Lí Thường Kiệt Hành động sáng suốt, trí tuệ siêu việt, Lí

Thường Kiệt đã đẩy đối thủ ngang tầm của mình là Vương An Thạch - nhà cải cách số một đang cố

sức cứu vãn Trung Hoa suy thoái - vào ngõ cụt và phá tan kế hoạch “thanh miêu trợ dịch” của đối

phương đến mức phải một năm sau vua tôi nhà Tống mới gượng dậy được mà tính kế phục thù An

Nam. ( phép “thanh miêu” là khi lúa còn xanh thì nhà nước cho dân vay tiền, khi lúa chín thì dân phải

trả tiền lại kèm theo tiền lời. Phép “trợ dịch” là cho phép người dân khi phải sưu-dịch thì được nộp

tiền thay thế. Sự cải tổ tài chính của Vương An Thạch thực chất là bòn rút của cải của người dân) Mặt

khác, cuộc tấn công vũ bão vào đất Trung Quốc đã bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền của đất Việt

và của vương triều Lí – một triều đại vừa mới trưởng thành. Thêm vào đó, uy vũ của dân tộc đã khiến

Trung Hoa thêm một lần nữa kiêng nể và tạo ra những chấn thương tâm lí khi chúng gây chiến với An

Nam, nó sẽ còn ám ảnh chúng mãi mãi sau này. Từ biến cố đó, chúng ta rút ra bài học: Trung Quốc

chỉ được tôn trọng khi xứng đáng là người bạn lớn của Việt Nam. Ngược lại, nếu chúng bạo ngược,

vô đạo thì chỉ đáng là một bóng ma độc ác sẽ phải trốn chạy trước con người Việt Nam trung dũng.

Có lẽ chúng ta từng ngạc nhiên khi thấy Nguyễn Trãi gọi vua Tuyên Đức nhà Thanh là “thằng nhãi

con” thì trước đó, ở thời điểm lịch sử đương thời (1076), có lẽ lần đầu tiên trong lịch sử ngoại giao

với Trung Quốc, Lí Thường Kiệt ngang nhiên mắng nhiếc từ vua Tống ngu hèn đến Tể tướng Vương

An Thạch tham tàn và các quan lại Trung Quốc trấn giữ biên cương chỉ tàn hại người dân. Lí Thường

Kiệt thật xứng đáng với những lời ngợi ca: “Thái úy trong thì sáng suốt khoan hòa, ngoài thì nhân từ

giản dị. Những việc đổi dời phong tục, nào có quản công. Làm việc thì siêng năng, sai bảo dân thì ôn

39

hậu, cho nên dân được nhờ vậy. Khoan hòa giúp đỡ quần chúng, nhân từ yêu mến mọi người, cho nên

nhân dân kính trọng. Dùng oai vũ để trừ bọn ác, đem minh chính để giải quyết ngục tụng…Tài giỏi

không khoe khoang, nuôi đến cả người già ở nơi thôn dã, cho nên người già nhờ đó mà được an thân.

Phép tắc nhờ đó có thể gọi là cái gốc trị nước”. ( Chu Văn Thường, 1977, tr.361)

Sau cuộc phạt Tống của triều Lí (năm 1076), đến thời Trần - Hồ quân Nguyên, quân Minh lại

quyết thực hiện dã tâm cướp nước ta. Trên mặt trận tư tưởng đối nội, đối ngoại, những áng văn chính

luận như Hịch tướng sĩ văn của Trần Quốc Tuấn, Đại cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi tiếp tục khẳng

định tổ quốc bất khả xâm phạm, độc lập chủ quyền phải vững bền, đời sống người dân phải được an

bình yên vui. Những tư tưởng này các nhà chính luận Việt Nam vận dụng rất hiệu quả, mặc dù cội

nguồn của nó đều được rút từ trong Luận ngữ của Khổng Tử:

Tử Cống hỏi việc chính trị nên như thế nào? Khổng Tử dạy: Túc thực, túc binh, dân tín chi

hỷ” – đủ ăn, đủ binh, dân tin mình vậy. Nhưng nhược bằng trong ba điều ấy, bất đắc dĩ phải bỏ một

điều thì nên bỏ điều nào trước? Bỏ việc binh.

Còn hai điều nữa mà bất đắc dĩ phải bỏ đi một điều nữa thì nên bỏ điều nào trước? Bỏ ăn. Vì

bỏ ăn thì chết, nhưng xưa nay người ta vẫn chết, chứ dân mà không tin thì không sao đứng được

(Luận ngữ, Nhan Uyên).

Đất nước linh thiêng, cuộc sống người dân quý giá, niềm tin của dân đối với chính quyền vô

cùng quan trọng, các vua thánh tôi hiền luôn ý thức sâu sắc điều này.

Đầu năm 1285, Thoát Hoan kéo đại binh sang An Nam lần thứ nhất, thế quân rất mạnh, Hưng

Đạo Vương quyết đánh nhưng không cản được bước tiến của quân thù, phải lui quân về Vạn Kiếp.

Được tin đó, vua Nhân Tông ngự một chiếc thuyền nhỏ xuống Hải Dương nói với Trần Quốc

Tuấn rằng: “Thế giặc to như vậy, mà chống với nó thì dân sự tàn hại, hay là trẫm hãy chịu hàng đi để

cứu muôn dân? Hưng Đạo Vương tâu rằng: “Bệ hạ nói câu ấy thật là lời nhân đức, nhưng còn tông

miếu xã tắc thì sao? Nếu bệ hạ muốn hàng, xin trước hãy chém đâu tôi đi đã”. (Trần Trọng Kim,

1962, tr.136).

Lời đối thoại ngắn của nhà vua và vị chủ soái thống lĩnh quân đội cho thấy rõ hoàn cảnh đất

nước khó khăn, khắc nghiệt, sự chọn lựa khó khăn, đầy kịch tính. Chúng ta hình dung rõ nét, trong

lòng vị tiết chế là hình ảnh tổ quốc cao cả, tôn miếu linh thiêng và sự đồng cảm sâu xa tấm lòng nhà

vua nhân từ, người tướng trí dũng hướng về người dân hiền lành ước mong cuộc sống yên vui.

Tại Vạn Kiếp, Trần Quốc Tuấn nỗ lực hiệu triệu tướng lĩnh, tập hợp binh lực, hội được hơn 20

vạn quân, Hịch tướng sĩ ra đời trong bối cảnh đó.

Bài hịch đã khắc họa chân dung vị nguyên soái thống lĩnh quân đội văn võ song toàn, cốt cách

hiên ngang, trong mọi tình huống lòng ông vững tựa bàn thạch.

Bài hịch nêu những gương trung thần nghĩa sĩ xả thân vì nước, đồng thời thể hiện tình cảm và

cách cư xử ân tình yêu thương của chủ soái với tướng sĩ; nêu tình hình vận nước lâm nguy, thể hiện

lập trường thái độ của chủ tướng “thề không đội trời chung với giặc”. Bài hịch ra đời, tướng sĩ thức

40

ngộ, ai nấy hết lòng luyện tập Binh thư yếu lược, tất cả đều lấy mực thích hai chữ “sát thát” (giết quân

Mông Cổ) vào cánh tay thề giết giặc. Tinh thần cảnh giác, ý thức phòng bị “nên cẩn thận như nơi củi

lửa, nên giữ gìn như kẻ húp canh, dạy bảo quân sĩ, luyện tập cung tên, khiến cho người nào cũng có

sức khỏe như Bàng Mông, Hậu Nghệ…” đã thấm vào máu huyết tạo thành một sức sống tiềm ẩn.

Trong bước đầu, đại quân của Thoát Hoan kéo vào nước ta, thế giặc rất mạnh, Hưng Đạo Vương phải

lui quân về Vạn Kiếp, rồi rước xa giá chạy vào Thanh Hóa. Khi Toa Đô đánh Nghệ An, Trần Quang

Khải địch không nổi phải lui quân ra mặt ngoài. Tại Thiên Trường, Trần Bình Trọng đánh quân

Nguyên, bị vây khốn rồi ông bị bắt và tử tiết. Thực cảnh đất nước “nguy như trứng chồng”, vua Nhân

Tông kinh hãi, Thượng hoàng ngày đêm lo sợ, chỉ duy Trần Hưng Đạo phụng xa giá đi, trèo non vượt

bể, thế cùng nhưng lòng không hề nao núng, tìm kế đánh giặc, lo liệu việc nước không lúc nào rối sợ.

Và quả nhiên, lời thề “không đội trời chung” với giặc của Trần Hưng Đạo, sức mạnh “sát thát” của

quân đội nhà Trần đã làm đảo lộn tình thế.

Trận Hàm Tử, Trần Nhật Duật phá quân Toa Đô. Trận Chương Dương, Trần Quang Khải khôi

phục Thăng Long. Trận Tây Kết, Toa Đô tử nạn. Trận Vạn Kiếp, Thoát Hoan phải trốn chạy về Tàu.

Trong 6 tháng, từ tháng chạp năm Giáp Thân (1284), đến tháng 6 năm Ất Dậu (1285), dưới sự

thống lĩnh của Trần Hưng Đạo, quân đội nhà Trần đã đánh tan 50 vạn quân Nguyên xâm lược. Từ đó,

bộ Binh thư yếu lược và bài Hịch tướng sĩ văn vĩnh viễn ghi dấu trong lịch sử quân sự cũng như kho

tàng văn chính luận Việt Nam.

Tư tưởng “túc thực, túc binh, dân tín” của Khổng Tử được cha ông ta tiếp nhận tinh tế, sáng

tạo.

Ngày nay, nghiên cứu tư tưởng yêu nước thương dân của Trần Quốc Tuấn chúng ta rút được

nhiều bài học quí. Để chiến thắng một đạo quân hùng mạnh, bạo tàn, chiến lược của vị tiết chế là

không nóng vội, phải làm cho quân giặc hao mòn suy yếu, đánh theo kế “dĩ dật đãi lao”, lấy nhàn chờ

mệt, lấy mạnh chờ yếu, lấy sung sức chờ hao mòn, tạo ra thế và thời cơ có lợi rồi phản công mãnh liệt

(các trận Hàm Tử, Chương Dương, Tây Kết và đặc biệt trận Vạn Kiếp khiến Thoát Hoan, Phàn Tiếp,

A bát xích phải cố sức đánh để lấy đường chạy) quân ta giành chiến thắng.. Đó còn là cách đánh “dĩ

đoản chế cường”, biết hạn chế sở trường của giặc, phát huy mặt mạnh của ta, từng bước chuyển hóa

lực lượng ta càng đánh càng mạnh, giặc càng đánh càng yếu và cuối cùng đại bại. Giặc rất mạnh với

lối đánh tổng lực, nhưng khi bị phân hóa thì chúng lúng túng, dao động và tinh thần, sức mạnh tụt

dốc. Những lời trăn trối với vua Anh Tông trước khi Trần Quốc Tuấn mất thật cảm động: “Trong

phép dùng binh “phải đồng lòng như cha con một nhà thì mới đánh được. Cách ấy cốt phải tự lúc bình

thì khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy” (Lê Văn Hưu, Phan

Phu Tiên và Ngô Sĩ Liên, 1993, 345).

Một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu về tư tưởng là văn chính luận trung đại Việt

Nam đã khắc sâu tư tưởng Việt Nam độc lập tự chủ. Việt nam đối diện với Trung Hoa luôn hung hãn,

bá quyền thì độc lập, tự chủ của nước ta là vấn đề nhức nhối xuyên suốt trong trường kì lịch sử. Năm

43, sau khi đánh bại cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, Mã Viện cho dựng cột đồng và ngạo mạn ghi

ở đó sáu chữ “đồng trụ chiết, An Nam diệt” (cột đồng gẫy, An Nam diệt). (Một số sách như Thủy

kinh chú giải của Lịch Đạo Nguyên, Đại Việt Sử Lược, Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim cũng

nói tới chi tiết cây cột đồng Mã Viện (VNSL, TTK, tr.49). Sách Lĩnh ngoại đại đáp của Chu Khứ Phi

41

(TQ), Sách An Nam chí lược của Lê Tắc (VN), chép “cột đồng Mã Viện được dựng ở vùng hang

động Cổ Sâm, thuộc Khâm Châu (nay thuộc Quảng Tây, TQ).

Mới đây một bài báo Trung Quốc lại gây phẫn nộ đối với dân tộc Việt và khiến thế giới bất

bình bằng giọng điệu bá quyền, hiếu chiến của Trung Quốc. (Trong xung đột Biển Đông, Tờ Tầm

nhìn (Gianzhan) Thâm Quyến (TQ), ngày 15.8.2014 đăng: Nếu quân đội Trung Quốc ra quân toàn

diện thì Việt Nam e rằng không chịu nổi 3 ngày và sẽ biến Việt Nam thành tỉnh của Trung Quốc).

Năm 1789, Vũ Huy Tấn được vua Quang Trung cử đi sứ Trung Quốc, khi đi ngang nơi dấu

tích cột đồng đã cảm khái ghi lại: “Than ôi! Cột Đồng kia, là đất cũ của nước ta…Trời đã phân ra

phần Bắc phần Nam bị chia cắt, chia đã lâu rồi cần hợp lại”. (Nguyễn Lộc, 1999, tr.165).

Năm 1075, Lí Thường Kiệt đem quân sang vây đánh Khâm Châu, sau đó rút quân về. Năm

1076, quân Tống kéo vào đia hạt nước ta, nhưng bị chặn đứng tại phòng tuyến Như Nguyệt, dù vậy,

chúng đã chiếm giữ các châu Quảng Nguyên, châu Tư Lang (nay là Quảng Uyên và Thượng Lang,

thuộc Cao Bằng), huyện Quảng Lang (Ôn Châu, tỉnh Lạng Sơn).

“Đến năm, 1078, vua Lí Nhân Tông sai Đào Tôn Nguyên đưa voi sang cống nhà Tống và đòi

lại những châu chúng đã chiếm. Sau khi thương lượng, năm sau (1079), phía ta trả 221 người Tống bị

bắt, và nhà Tống trả lại các châu, huyện cho nhà Lí. Đặc biệt khi trả những người Tống về, đối với

con trai từ 20 tuổi trở lên phải thích 3 chữ “Đầu Nam triều” vào trán, còn con gái thì thích 2 chữ

“Quan khách” vào cánh tay” (Trần Trọng Kim, 1962, tr. 108).

Mỗi khi đất nước bị quân giặc giày xéo, dân tộc lại vùng lên. Những lời thề đuổi giặc giữ nước

của chủ tướng và tướng lĩnh- tại lễ Hội thề tại Lũng Nhai, thuộc văn Hội thề- góp thành một mảng

quan trọng của văn chính luận. Ngày 9 tháng Giêng, Mậu Tuất (1418) có đoạn: “Thời nay, có giặc

nhà minh sang xâm chiếm nước ta, nguyền lấy nam làm tôi, người dân nước có vua, trời thương dân

đồ thán cho cầm được thần kiếm bảo ấn, y điếu dân phạt tội giữ lấy muôn dân khỏi khốn cực…cùng

nhau nguyện Hoàng Hà như đái, Thái Sơn như lệ…” (Dẫn theo Bùi Văn Nguyên, Chủ nghĩa yêu nước

trong văn học thời khởi nghĩa Lam Sơn, tr.176- Nguyên tác ghi: "Đái lệ sơn hà帶礪山河, "Đái lệ

帶礪" có nghĩa là đai áo và đá mài Sử ký, thiên Cao Tổ công thần hầu giả niên biểu ghi "Phong tước

chi thệ viết: 'Sử Hoàng hà như đái, Thái sơn nhược lệ. Quốc dĩ vĩnh ninh, viên cập miêu

duệ封爵之誓曰: „使黃河如帶, 泰山若属, 國以永寧 , 爰及苗裔‟... Khi được phong tuớc thề rằng:

'khiến sông Hoàng Hà như dây đai, núi Thái Sơn như đá, đất nước an định mãi mãi cho đến con cháu

đời sau". Đời sau, người ta coi Đái lệ là sùng của nhà vua ban cho)

Sau lời thề của Chủ tướng Lê Lợi, các tướng cùng thề: “Chư tướng chúng tôi, trên cùng vua

đến Chí Linh Sơn Đại An vương thần từ là nơi bầu trời linh hội, lạy tế mà thề, cùng dựng lại nhà ta

cho nên công nghiệp thử son quyển sắt cùng nhau. Mà nhược lũ chúng tôi thấy gian nan, mà bỏ đức

vua mà chẳng lo cùng nhau, chúng tôi lại manh tâm bội phản, hướng vua đầu giặc, mà chẳng từ khốn

khổ cùng đức vua, thời chúng tôi uống chén máu này vào, nguyện Hoàng thiên Thượng đế cập Chí

Linh sơn Đại An vương thần bắt chúng tôi chết, chưa làm nên việc thiên hạ cùng đức vua”.

“Tôi nguyền!”

Đến thời vua Lê Thánh Tông (1460-1497): Vua Lê Thánh Tông- vị vua hiền tài bậc nhất được

sử sách ca ngợi là “vị vua cao siêu, anh minh quyết đóan, có hùng tài đại lược, võ giỏi văn hay, tay

42

không lúc nào rời quyển sách”. Chính vua Lê Thánh Tông đã chủ động một số lần Bắc phạt, không

phải để giành dân chiếm đất, như để cho Trung Quốc thấy sức mạnh Việt Nam có thể phá tan những

âm mưu của Trung quốc từ trứng nước. Năm Mậu Ngọ (1438), quân ta đánh hai châu An Bình và Tư

Lăng (nay thuốc Quảng Tây, Trung Quốc). Tháng 6 năm Canh Tí (1480), quân ta tấn công Cảm Quả

chiếm ải Thông Quang (thuốc Quang Lang, Ôn Châu, Trung Quốc) rồi tiến vào xứ Ban Động dựng

rào chắn, sau đó tâu về triều đình, buộc sứ nhà Minh phải sang thương lượng. Sau mỗi lần Bắc phạt,

nhà vua đều cử sứ giả sang biện bạch. Bên cạnh việc vua Lê Thánh Tông kiên quyết ngăn chặn sự

xâm phạm biên giới của quân Minh bằng sức mạnh quân sự, nhà vua còn chủ trương ngoại giao mềm

dẻo, khéo léo nhưng kiên quyết không khoan nhượng. Tư tưởng của vua thể hiện rõ rệt khi nói với các

quan trấn ải biên cương mà đứng đầu là Thái bào Kiến dương bá Lê Cảnh Huy vào tháng 4 năm Quí

Tị:

“Một thước núi, một tấc sông của ta có lẽ nào tự tiện vất bỏ đi được. Phải kiên quyết tranh đấu

không để cho họ lấn dần. Nếu họ không theo còn có thể sai sứ sang tận triều đình của họ để biện bạch

rõ lẽ phải trái. Nếu người nào dám đem một thước, một tấc đất của vua Lê Thái Tổ để làm mồi cho

giặc thì người ấy sẽ bị trừng trị nặng”. (Phan Thanh Giản, Khâm định Việt Sử Thông giám Cương

mục, Chính biên, quyển thứ 47)

Đến thời Lê Chiêu Thống yếu hèn đã cầu cứu nhà Thanh. Nhân cơ hội này, vua Thanh quyết

định lấy An Nam. Cương mục viết: "Thái hậu đưa nguyên tử (con trai Chiêu Thống) đến yết kiến ở

trong sân, gào khóc xin cứu viện. Bọn Sĩ Nghị tâu với vua Thanh rằng tự hoàng nhà Lê đương phải

bôn ba, đối với đại nghĩa, ta nên cứu viện. Vả lại, An Nam là đất cũ của Trung Quốc, sau khi khôi

phục nhà Lê, ta nhân đó, đặt lính thú để đóng giữ. Thế là vừa làm cho nhà Lê được tồn tại, vừa chiếm

lấy được An Nam: thật là làm một chuyến mà được hai lợi.". (Khâm định Việt Sử Thông giám Cương

mục, Chính biên, quyển thứ 47)

Cuối năm 1788, 29 vạn quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị chỉ huy theo Lê Chiêu Thống tiến vào Đại

Việt chiếm đóng Thăng Long. Được tin cấp báo, để chính danh vị trong việc đánh đuổi quân xâm

lược. Ngày 22 tháng 12 năm Mậu Thân (1788), Nguyễn Huệ lập đàn tế cáo trời đất, lên ngôi hoàng

đế, tiến quân ra Bắc. Trong đêm trừ tịch ở Ninh Bình, vua Quang Trung đã truyền hịch, lời lẽ giản dị,

đanh thép làm nức lòng tướng sĩ:

Như vậy, sau Hịch tướng sĩ khoảng 500 năm, văn chính luận trung đại Việt Nam lại ghi nhận

lời hịch của vua Quang Trung vô cùng đanh thép hào hùng. Lời hịch ấy không chỉ chuyển tải quyết

tâm sắt đá của nhà vua là đánh bại quân Thanh dành chủ quyền cho đất nước mà nó còn là sự chung

đúc nghĩa khí anh hùng từ khí phách con người Nguyễn Huệ.

Nói về cái dũng của Nguyễn Huệ, chính sử triều Nguyễn ghi: “Nguyễn Huệ đã 4 lần đánh phá

Gia Định, lâm trận đi đầu các quân sĩ, hiệu lệnh rất nghiêm minh, quân sĩ đều kính phục” (Đại Nam

chính biên liệt truyện, Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, tờ 17b)

Trong cuộc chiến đánh đuổi quân Thanh, Nguyễn Huệ cưỡi voi đốc chiến. Chiến thắng quân

Thanh, tiến vào thành Thăng Long áo ngự bào của nhà vua đen sạm màu khói thuốc súng”.

Một tài liệu của Giáo hội Truyền giáo Bắc Hà gửi cho Giáo hội truyền giáo Trung ương ở Ba

Lê ghi lại: “Ngày 30.01.1789, Quang Trung rời Kẻ Vôi (Hà Hồi) trên lưng voi và đến chung sức,

43

khuyến khích đội ngũ ông, nhưng khi thấy họ chiến đấu không được hăng hái lắm, ông liền bỏ voi và

dùng ngựa. Theo lời đồn, ông đeo 2 cái đoản đao và chạy ngang dọc chém rơi đầu nhiều võ quan và

binh lính Trung Hoa, làm rất nhiều người chết về tay ông. Ông luôn mồm hò xung phong và lúc nào

cũng ở trận tuyến đầu”.

(Archives Nationnales de Paris, F5, A2, tr.267, Đặng Phương Nghi dịch, Tập san Sử Địa số 9,

10, tr.224)

Đánh nhanh đánh mạnh, đó là điểm đặc biệt trong phép dụng binh của Quang Trung. Nó khác

với sở trường của Hưng Đạo Vương là lối đánh “đoản binh”, dùng “đoản binh” chống lối “trường

trận”; nó cũng khác cách đánh của Lê Lợi “dĩ dật đãi lao” chuyên đánh du kích. Quang Trung với lối

đánh tổng lực, “vận động chiến”, “trận địa chiến”, kết hợp yếu tố bất ngờ, thần tốc làm nên những

chiến thắng chớp nhoáng khiến quân thù kinh ngạc, khiếp sợ.

Trong chiến dịch đánh bại quân Thanh vào xuân Kỉ Dậu (1789), vua Quang Trung chỉ với 40

ngày thần tốc, vượt lộ trình dài hơn 600 cây số, cùng số quân khoảng 10 vạn và 300 thớt voi đánh tan

29 vạn quân Thanh xâm lược. Hịch truyền của nhà vua “đánh cho chúng chích luân bất phản, đánh

cho chúng phiến giáp bất hoàn…”, cùng với chiến trận Ngọc Hồi – Đống Đa hiển hách đập tan ý đồ,

khát vọng cai trị Việt Nam của Càn Long.

Ngô Ngọc Du là một nhà thơ đương thời, đã ghi lại không khí tưng bừng của ngày chiến thắng

oanh liệt của Tây Sơn trong một bài thơ:

“Giặc đâu tàn bạo sang điên cuồng

Quân vua một giận oai bốn phương

Thần tốc ruổi dài xông thẳng tới,

Như trên trời xuống dám ai đương

Một trận rồng lửa giặc tan tành,

Bỏ thành cướp đò trốn cho nhanh

Ba quân đội ngũ chỉnh tề tiến,

Trăm họ chật đường vui tiếp nghênh

Mây tạnh mù tan trời lại sáng

Đầy thành già trẻ mặt như hoa,

Chen vai khoác cánh cùng nhau nói:

"Kinh đô vẫn thuộc núi sông ta”

(Ghi chép Việc khôi phục thành Thăng Long, Ngô Ngọc Du)

(Nguyễn Lộc (chủ biên), 1982, tâp 9b, tr.402)

Như vậy, có thể nói, nội dung tư tưởng văn chính luận trung đại Việt Nam khẳng định tổ quốc

dân tộc vừa có chiều sâu triết lí vừa chứa đựng hành vi cụ thể. Dựa vào tư tưởng thiên mệnh “tiệt

nhiên định phận tại thiên thư” như Lí Thường Kiệt đã khẳng định lãnh thổ của đất nước. Sau này,

nhiều chí sĩ yêu nước tiếp tục khắc sâu tư tưởng đó. Phạm Sư Mạnh nhìn thế núi hiểm trở nơi đất trời

nước Nam mà suy ngẫm: “Đất chia nam bắc, hiểm trở như thành bằng sắt, hào nước sôi, trời đặt nơi

đây phủ thần tiên, cao chênh vênh” (Phạm Sư Mạnh – Tam Thanh động). Hoặc khẳng định ranh giới

tổ quốc đã được phân định, ngoại bang bất khả xâm phạm và suy tư còn hàm chứa một lời hứa trung

kiên: “Trời có bắc nam, tầm mắt thênh thang, núi sông có chỗ bằng chỗ hiểm, tấc lòng trung trinh”

44

(Trần Nhân Tông – Tặng Bắc sứ Lí Tư Diễn). Và ngay cả trong lời sấm vĩ của một thiền sư khi nhìn

thấy sự suy vong của nhà Tiền Lê cũng như tiền đồ tươi sáng của triều đại nhà Lí trong lời tiên tri, dự

báo cũng vẫn nhắc đến biển bắc trời nam: “Cây tật lê chìm xuống biển bắc, cây mận mọc lên ở trời

nam, bốn phương dẹp yên binh lửa, tám cõi mời chúc thái bình” (Thiền sư Vạn Hạnh – Yết bảng thị

chúng).

Yếu tố thiên mệnh về tổ quốc làm cho cương vực tổ quốc trở nên linh thiêng bất khả xâm

phạm. Mặt khác, tình yêu tổ quốc, ý thức độc lập tự chủ của con người Việt Nam được thể hiện quyết

đoán, hào hùng. “Phạt Tống” và “Phạt Tống lộ bố văn” của Lí Thường Kiệt là những áng văn chính

luận cổ xưa nhất thể hiện trí tuệ, khí phách của dân tộc quyết tâm bảo vệ độc lập dân tộc bằng đòn

đánh phủ đầu triệt hạ hai châu Châu Khâm và Châu Ung khiến nhà Tống suy sụp.

Ý thức chân lí về độc lập, chủ quyền của tổ quốc Việt Nam gắn liền với tình yêu con người, đó

là minh triết là nhân ái Việt Nam đã được Lí Thái Tổ, Lí Thường Kiệt, Lê Thái Tổ, Nguyễn

Trãi…đúc kết thành triết lí sống và hành động. Vì vậy, quân thù dù hung hãn và bước đầu có thể

giành ưu thế nhưng cuối cùng chúng phải thất bại trước chính nghĩa và sức mạnh của nhân dân.

3.2 KHẲNG ĐỊNH VĂN HIẾN, ĐỀ CAO NHÂN NGHĨA

Về khái niệm văn hiến: Trần Trọng Dương trong bài “Từ nguyên của từ “văn hiến” qua bối

cảnh tri thức nho giáo Việt Nam – Trung Hoa” (http// www.khoavanhocngonngu.edu.vn) đã nghiên

cứu từ “văn hiến” trong lịch sử chữ Hán, ghi nhận:

Sách Luận ngữ thiên Bát dật có đoạn: Tử viết: Hạ lễ, ngô năng ngôn chi, Kỷ bất túc trưng dã;

Ân lễ, ngô năng ngôn chi, Tống bất túc trưng dã; văn hiến bất túc cố dã”

子曰夏禮吾能言之杞不足徴也殷禮吾能言之宋不足徴也文獻不足故也 nghĩa là “Lễ nhà Hạ thì ta

có thể bàn được, nhưng nước Kỷ (dòng dõi nhà Hạ) chẳng đủ để làm chứng; lễ của nhà Ân, thì ta

cũng bàn được, nhưng nước Tống (dòng dõi nhà Ân) chẳng đủ để làm chứng. Ấy là vì văn hiến hai

nước ấy không đủ”. Chu Hy chú: Văn, điển tịch dã; hiến, hiền dã 文典籍也獻賢也 nghĩa là: văn là

điển tịch; hiến là người hiền vậy.

Đây có thể coi là nghĩa nguyên bản nhất của từ văn hiến từ bối cảnh tri thức của Nho học

Trung Quốc, và cũng có thể coi đây là khái niệm trùng khít giữa Nho học Tiên Tần và Tân Nho học.

Sách Vũ cống đồi chỉ 禹貢錐指(quyển 19) của Hồ Vịnh đời Thanh:

“自兩漢以降嶺南之風氣漸移犀象毒冒珠璣銀銅果布之湊於是乎在魁奇忠信材徳之民於是乎生

一以為脂膏之地一以為文獻之邦 nghĩa là “từ đời lưỡng Hán về sau, phong khí Lĩnh Nam dần đổi;

cho nên sừng tê, ngà voi, đồi mồi, ngọc bích, vàng, đồng, hoa trái tích tụ đã nhiều; mà những bậc khôi

kỳ, trung tín, tài đức xuất hiện cũng lắm, có thể coi [Lĩnh Nam] vừa là đất màu mỡ, vừa là nước văn

hiến”.

Đoạn này nhấn mạnh đến nhân vật - yếu tố chủ thể làm nên văn hiến của một đất nước. Nhân

vật đó phải là bậc khôi kỳ, có đức trung tín và tài năng theo quan niệm của Nho giáo.

Từ điển Từ nguyên - cuốn từ điển phổ dụng được soạn vào đầu thế kỷ XX, đã giải thích trên

cơ sở định nghĩa của Chu Hy, nên đã viết: “văn trỏ những tư liệu văn tự liên quan đến điển chương

chế độ, hiến trỏ những người nghe rộng biết nhiều”.

45

Cách định nghĩa trên đây của từ điển Từ nguyên là tiếp thu tinh thần của Chu Hy. Tuy nhiên,

định nghĩa hiến (trỏ những người nghe rộng biết nhiều) lại mang nét nghĩa hơi hẹp hơn so với thực tế.

Bậc hiền đương nhiên là “bác lãm quần thư”, tri thức hoàn bị; song tri thức chỉ là một yếu tố, ngoài ra

người hiền còn phải đáp ứng nhiều tiêu chí khác như đức độ, khí tiết, phải có chính tích, có trứ thư lập

ngôn.

Từ điển Từ hải sau khi giải thích về từ nguyên, đã ghi nhận nghĩa của chữ văn hiến trong tiếng

Hoa hiện nay chỉ còn một nghĩa mở rộng là “những tư liệu văn vật có giá trị lịch sử như: lịch sử văn

hiến, đồng thời cũng chỉ những tư liệu sách vở quan trọng liên quan đến một ngành khoa học cụ thể,

ví dụ: y học văn hiến. Nay (văn hiến) còn là tên gọi chung cho bất cứ một dạng vật chất nào sử dụng

văn tự, tranh ảnh, phù hiệu, để kí tải tri thức, thông tin như: ấn phẩm, băng từ, đĩa CD, băng hình, bản

in ốp sét”.

Sách Dư Địa Chí của Nguyễn Trãi do Lý Tử Tấn viết thông luận, có đoạn: “từ khi người

Nguyên vào Trung Quốc, về sau thiên hạ biến thành nói tiếng Hồ, mặc áo Hồ. Không thay đổi thì chỉ

có nước ta cùng họ Chu ở Kim Lăng, họ triệu ở Kim Sơn mà thôi. Đến khi Thái tổ nhà Minh lên làm

vua, sai Dịch Tế Dân sang thông hiếu, vua Dụ Tông sai Doãn Thuấn Thần sang cống nhà Minh. Vua

Minh úy lạo hỏi quốc sứ khen phong tục, y phục vẫn giống như văn minh Trung Hoa, ban cho bài thơ

ngự chế rằng”:

安南際有陳

風俗不元人

衣冠周制度

禮樂宋君臣

An Nam tế hữu Trần

Phong tục bất Nguyên nhân

Y quan Chu chế độ

Lễ nhạc Tống quân thần.

(đất An Nam có họ Trần

phong tục không theo người Nguyên

áo mũ vẫn theo chế độ nhà Chu

lễ nhạc vẫn hệt như vua tôi nhà Tống)

Rồi cho bốn chữ “Văn Hiến Chi Bang” và thăng địa vị cho sứ thần của Đại Việt lên trên sứ

thần Triều Tiên ba cấp”.

Trong bài Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi (1428), có câu:

46

維我大越之國

實為文獻之邦

Duy ngã Đại Việt chi quốc

Thực vi văn hiến chi bang

Nghĩa là:

Như nước Đại Việt ta

Thực là nước văn hiến

Những trích dẫn trên cho thấy, chữ “văn hiến” giới trí thức trung đại Việt Nam sử dụng gồm

các nghĩa: phong tục, chế độ y quan, chế độ lễ nhạc và ngôn ngữ. Như vậy, có thể thâu tóm các lớp

nghĩa phong phú của từ văn hiến, gồm: các yếu tố ngôn ngữ- sách vở, con người (người hiền tài),

phong tục tập quán, những nghi thức lễ nhạc…nhất là việc con người ý thức bảo vệ, vun trồng, xây

dựng đất nước cũng như văn hóa dân tộc.

Bàn thêm về yếu tố con người (đặc biệt là người hiền tài), văn chính luận trung đại của Trung

Quốc và Việt Nam đều có đề cập.

Cầu hiền chiếu 求賢詔

Hán Cao Đế 漢高帝

Nguyên văn 原文

蓋聞王者莫高於周文,伯者莫高於齊桓,皆待賢人而成名。今天下賢者智能,豈特古之人

乎?患在人主不交故也,士奚由進?今吾以天之靈,賢士大夫,定有天下,以為一家。欲其長

久,世世奉宗廟亡絕也。賢人已與我共平之矣,而不與吾共安利之,可乎?賢士大夫有肯從我

游者,吾能尊顯之。布告天下,使明知朕意。御史大夫昌下相國,相國酂侯下諸侯王,御史中

執法下郡守,其有意稱明德者,必身勸,為之駕,遣詣相國府,署行義年,有而弗言,覺免。

年老癃病,勿遣。

Dịch nghĩa

Từng nghe, trong các bậc vua không có ai qua Chu Văn Vương, trong các minh chủ chư hầu

không ai qua Tề Hằng Công, họ đều biết dựa vào người hiền tài để dựng thành cơ nghiệp. Như nay,

bàn về tài năng của hiền nhân trong thiên hạ, lẽ nào chỉ cổ nhân mới có những phẩm chất đó? Âu chỉ

do vua không thân cận với hiền nhân, thế thì hiền sĩ sao xuất đầu lộ diện? Nay ta được trời cao phù

trợ, được các hiền sĩ đại phu phụ tá, bình định thiên hạ thành một nhà. Muốn vận nước lâu dài, đời đời

phung thờ tông miếu không dứt. Hiền nhân đã cùng ta kề vai sát cánh bình định thiên hạ, lại không

cùng ta an hưởng thái bình, thế thì sao được? Hiền sĩ đại phu một lòng kề cận ta, ta sẽ khiến cho

47

người đó được tôn quý rỡ ràng. Nay ra chiếu bố cáo thiên hạ, khiển mọi người hiểu được ý trẫm. Ngự

sử đại phu Chu Xương truyền đạt cho thừa tướng, thừa tướng Tiêu Hà truyền cho các vua chư hầu,

Ngự sử trung chấp pháp truyền lệnh đến quan lại các quận. Thấy người nào đủ đức hạnh hiền minh thì

phải tự thân đến khuyến thỉnh, mang xe đến đón về phủ tướng quốc, ghi rõ lý lịch, dung mạo, tuổi tác;

nơi có hiền sĩ mà không báo lên, bị phát giác sẽ cho miễn chức. Người già cả bệnh tật không còn linh

hoạt thì thôi không mời. (Nguyễn Thanh Phong dịch, Đoàn Lê Giang hiệu đính).

Bài văn trên nguyên là Cao Đế cầu hiền chiếu, tức bài chiếu của Cao Tổ Lưu Bang cầu hiền

tài để giữ nghiệp đế lâu dài. Hán Cao Tổ tên thật là Lưu Bang (161-223), tự là Huyền Đức, ông là một

nhà chính trị, nhà quân sự và đã trở thành hoàng đế xây dựng nên nhà Thục Hán vào thời kì Tam

Quốc. Ông xưng đế năm 221 nhằm đáp trả lại hành động của Tào Phi và tại vị đến năm 223 với niên

hiệu Chương Vũ. Sau khi lên ngôi, ông đã ban chiếu cầu hiền. Bài chiếu này được ca ngợi có lí lẽ xác

đáng, lời văn sáng sủa, gẫy gọn, mạnh mẽ, được coi là mẫu mực.

Ở Việt Nam, sau khi lên ngôi hoàng đế vua Lê Thái Tổ, Hoàng đế Quang Trung đều có ban

chiếu cầu hiền. Chiếu cầu hiền của Hán Cao Đế ra đời trước Chiếu cầu hiền của Lê Thái Tổ khoảng

hơn 1200 năm và trước Chiếu cầu hiền của vua Quang Trung trên 1500 năm. So sánh những bài chiếu

cầu hiền của Trung Quốc và Việt Nam dễ nhận ra những tương đồng và khác biệt ở phương diện tư

tưởng và sắc thái thể hiện.

Về tư tưởng, Chiếu cầu hiền của Hán Cao Tổ đề cao thiên tử “ta được trời cao phù trợ, được

các hiền sĩ đại phu phụ tá, bình định thiên hạ thành một nhà”. Nhà vua là người được trạch tuyển giữa

muôn người, trở thành người cai trị muôn dân, quyền bính vô biên, địa vị sang quý, chúng dân phải

suy phục. Mặt khác, bài Chiếu cầu hiền còn đề cao người hiền đức. Họ đứng sau vua, tài đức của họ

xứng đáng ân hưởng bổng lộc, phú quý. Quan niệm này ảnh hưởng không ít đến đời sống kẻ sĩ Việt

Nam. Nguyễn Công Trứ đã có những lời hát nổi tiếng trong bài Kẻ sĩ: “Tước hữu ngũ sĩ cư kỳ liệt /

Dân hữu tứ sĩ vi chi tiên /, Có giang sơn thì sĩ đã có tên / Từ Chu Hán vốn sĩ này là quí”. Trong xã

hội của nho gia kẻ sĩ chiếm địa vị đặc biệt quan trọng. Nơi triều nội, sĩ là một trong năm tước (thượng

đại phu, hạ đại phu, thượng sĩ, trung sĩ và hạ sĩ); ngoài xã hội, sĩ đứng đầu tứ dân (sĩ, nông, công,

thương). Tuy nhiên, quan niệm về danh phận cao sang của kẻ sĩ thường gặp ở thơ văn, còn vẻ đẹp

thực sự của kẻ sĩ là con người hành động và gắn bó với người dân. Đây cũng là điểm làm nên sự khác

biệt quan trọng trong tư tưởng của văn chính luận Trung Quốc và Việt Nam thể hiện qua những bài

chiếu.

Như chúng ta đã biết, để tập hợp sức mạnh nhằm bao vây đánh bại Vương Thông, Bình Định

vương Lê Lợi đã ban chiếu dụ hào kiệt. Dưới đây là một đoạn trong bài chiếu:

“Hiện nay, các thành đã phá, chỉ còn thành Đông Quan là chưa hạ được, ta vì thế mà ngủ

không yên chiếu, ăn không ngon cơm, sớm hôm lo lắng. Và bên cạnh ta chưa có người tài giúp

rập…vì thế, ta nhún lòng, tỏ lòng thành thực khuyên các bậc hào kiệt nên cùng nhau gắng sức, cứu đỡ

muôn dân, dừng có kín tiếng, giấu tài, khiến thiên hạ phải hãm trong cảnh lầm than mãi mãi.

Lời của nhà vua còn rất thống thiết: “Nay trẫm vâng chịu trách nhiệm nặng nề, sớm khuya lo

sợ, như gần vực sâu, chính vì cầu hiền tài giúp việc mà chưa gặp. Vậy truyền cho các văn võ đại thần,

công, hầu, đại phu từ tam phẩm trở lên, mỗi người tiến cử một người, hoặc ở triều đình, hoặc ở thôn

dã, bất cứ làm quan hay chưa, nếu đủ tài văn võ, có thể trị dân, coi quân, thì trẫm sẽ tùy tài năng mà

trao chức”. (Bùi Văn Nguyên, 1980, tr.298)

Sau bài Chiếu cầu hiền của Bình Định Vương khoảng trên 300 năm, bài Chiếu cầu hiền của

vua Quang Trung do Ngô Thì Nhậm chấp bút là áng văn chương đẹp, mẫu mực của thể văn chiếu.

48

Bài Chiếu cầu hiền của Vua Quang Trung có những hình ảnh đẹp “người hiền ở trên đời như

sao sáng ở trên trời”, hoặc thái độ khiêm hạ của nhà vua và sự trọng quý hiền tài “trẫm đương để ý

lắng nghe, sớm hôm mong mỏi” để ngóng trông hiền tài.

Ở phần mở đầu bài Chiếu cầu hiền, Ngô Thì Nhậm đã lập luận bằng cách mượn lời Khổng Tử

trong sách Luận ngữ: Lấy đức mà cai trị đất nước, giống như sao Bắc Đẩu giữ đúng vị trí của mình,

các ngôi sao khác sẽ về chầu. Ngô Thì Nhậm đã viện ý trời làm nền tảng cho việc cầu hiền của vua

Quang Trung. Cách này vừa giúp tác giả tôn vinh được bậc thánh hiền của đạo Nho -giống như sao

sáng- vừa khẳng định với hiền tài, nho sĩ trong thiên hạ rằng triều đại mới là triều đại lấy đức cai trị

đất nước. Bằng cách mượn ý trời xem việc người hiền tài về chầu thiên tử là điều tất yếu, hợp quy

luật, hợp lòng người. Nếu người hiền tài tự giấu mình đi là trái với ý trời. Điều này giống như che mất

ánh sáng, giấu đi vẻ đẹp trí tuệ, có tài mà không được đời dùng thì đó cũng không phải là ý trời sinh

ra người hiền tài vậy. Làm vậy là trái với đạo thánh hiền, trái với luân thường đạo lý của kẻ sĩ. Lập

luận của tác giả vừa tôn vinh người hiền tài trong khắp cõi, vừa gọi vua Quang Trung là thiên tử, so

sánh vua Quang Trung với ngôi Bắc Đẩu đã tạo ra sự tin cậy đặc biệt cho những hiền tài chưa hiểu rõ

thời cuộc, còn đang lưỡng lự, phân vân.

Còn 4.000 năm văn hiến? Đọc sử kí Tư Mã Thiên, chương Việt Vương Câu Tiễn thế gia, có

đoạn:

Việt Vương Câu Tiễn dòng dõi vua Vũ mà con thứ của vua Hạ hậu thiếu Khang (2o79 tr.CN)

được phong ở đất Cối Kê thừa tự họ Vũ, vẽ mình, cắt tóc, phá cỏ rậm để lập ấp. Sau hơn 20

đời đến Ô Doãn Thường bấy giờ cùng với vua Ngô Hạp Lư đánh nhau gây thành thù oán.

Đoãn Thường mất, con là Việt Vương Câu Tiễn được nối ngôi làm vua nước Việt. Năm đầu,

vua nước Ngô là Hạp Lư nghe tin Doãn Thường đã chết mới kéo quân sang đánh nước Việt,

Việt Vương Câu Tiễn dùng mưu đem 300 tử tù đến trước cửa doanh trại vua Ngô, bầy hàng hô

lên rồi tự đâm vào cổ chết. Quân Ngô ra xem, quân Việt nhân thể đánh tập kích, quân Ngô

thua ở Tuy Lí. Quân Việt bắn trúng vua Ngô Hạp Lư. Trước khi chết, Hạp Lư nói với con là

Phù Sai rằng: “Không được quên mối thù đối với nước Việt.

(Tư Mã Thiên, 1988, tr.255).

Quả nhiên sau ba năm chuẩn bị, Phù Sai cất quân giao chiến với nước Việt. Câu Tiễn gạt lời

can ngăn của Phạm Lãi chủ động đánh trước. Việt Vương Câu Tiễn xuất quân. Vua nước Ngô đem

quân tinh nhuệ đánh bại quân Việt ở Phù Tiêu. Vua Việt thu quân còn lại khoảng 5000 người, cố thủ

ở Cối Kê. Như vậy, nếu căn cứ vào dòng dõi Việt Vương Câu Tiễn thì chủng tộc Việt Nam bắt đầu từ

nhà Hạ bên Tàu (2205-1770 tr.CN) mà họ Hồng Bàng theo Việt Sử có từ 2879 tr.CN, bắt đầu từ Kinh

Dương Vương truyền đến Hùng Vương, tên nước là Văn Lang đóng đô ở Phong Châu.

Sau này, khi đại quân nhà Nguyên ào ạt kéo vào nước ta, Trần Quốc Tuấn được vua Trần cử

làm Tổng chỉ huy quân đội. Các danh tướng Hưng Vũ Vương Nghiễn, Minh Hiến Vương Uất, Hưng

Nhương Vương Tảng, Hưng Trí Vương Hiệu đốc suất 20 vạn quân từ các xứ Bàng Hà, Na Sầm, Trà

Hương, Yên Linh, Long Nhãn đến hội quân ở Vạn Kiếp, theo quyền điều khiển của Hưng Đạo Đại

Vương. Trước khi trao nhiệm vụ cho Trần Quốc Tuấn, vua Trần Nhân Tông còn đề thơ tức sự nhắc

nhở vị Tổng chỉ huy:

會稽舊事君須記,

驩演猶存十萬兵。

Cối Kê cựu sự quân tu ký,

Hoan Diễn do tồn thập vạn binh

49

(Việc cũ ở Cối Kê ngươi nên nhớ,

Châu Hoan, Châu Diễn đang còn hàng chục vạn quân)

(Đại Việt sử kí toản thư, bản kỉ, quyển 5 (nhà Trần 1225-1293), sách

vietnamthuquan.net).

Như vậy, có thể lí giải con số 4.000 năm văn hiến của nước ta có nguồn gốc từ dòng dõi Việt

Vương Câu Tiễn.

Về tư tưởng nhân nghĩa, đây là một vấn đề trọng yếu trong triết thuyết của Khổng Tử. Tuy

nhiên tư tưởng ấy cũng nằm trong truyền thống triết học Trung Hoa và phản ánh đời sống tinh thần

của người dân Trung Quốc.

Trong văn hóa Trung Quốc, khái niệm chữ “nhân: 人 và đức “nhân”: 仁 là hai khái niệm gần nhau

nhưng không đồng nhất. Thuyết văn giải tự giải thích chữ “nhân” mang hàm nghĩa hai người thân

thích yêu thương như một (仁: 亲 也 . 从 人 从) = “Nhân”: thân dã, tòng nhân tòng nhị. Còn chữ

“nghĩa”, cũng theo Thuyết văn giải tự, khái niệm “nghĩa” được hiểu là mối quan hệ hài hòa, lợi ích

(利 者 , 義 之 和 也 lợi giả, nghĩa chi hoà dã). Khái niệm "nghĩa" còn là sự biểu thị mối quan hệ

giữa cá nhân của cái tôi- cái "ngã" (我) và với cái quần thể cộng đồng. Như vậy, “nhân nghĩa” không

chỉ là mối quan hệ với chính mình mà còn là mối quan hệ con người với cộng đồng. Nó diễn tả tình

yêu thương và những quan tâm đến lợi ích chung của con người. Nó thể hiện cái tôi bản ngã làm cơ sở

để con người yêu thương lẫn nhau và hướng tới tính cộng đồng, nâng cao tình yêu giữa hai người,

nhóm người, đến tình yêu nhiều người, tình yêu cộng đồng.

(Thuyết văn giải tự ( 說 文 解 序) là cuốn từ điển từ nguyên chữ Hán, cũng là cuốn từ điển

đầu tiên sắp xếp các chữ Hán theo bộ thủ. Sách do Hứa Thận (許 慎 ) sống khoảng 58- 147 vào thời

Đông Hán,một nhà ngôn ngữ học Trung Quốc biên soạn. Ông là người Yển Thành(隁 城) huyện Tháp

Hà (漯河) thuộc tỉnh Hà Nam ngày nay. Ông chuyên nghiên cứu Ngũ Kinh và đã viết Ngũ Kinh Dị

Nghĩa. Thuyết văn giải tự bao gồm hai phần: Thuyết văn và Trọng văn. Thuyết văn gồm 9353 chữ,

chia theo 540 bộ chữ. Trọng văn gồm 1163 chữ, chỉ ra những chữ cùng âm cùng nghĩa nhưng cách

viết khác nhau. Sách gồm 14 chương chính và một chương mục lục, tổng cộng có 133.441 chữ trong

lời ghi chú để giải thích chữ nghĩa. Sách Thuyết văn dùng hai phương pháp “Phản” và “Thiết” để tra

chữ, rồi giải thích nghĩa tạo ra tiền lệ, và trở thành quyển từ điển đầu tiên. Bản sách lưu truyền lại cho

đến ngày nay do Từ Huyền Hạch sống đầu đời Tống soạn lại. Bản mới in vào năm thứ 12 niên hiệu

Đông Thị nhà Thanh (1873), bản khắc do Trần Xương Trị thực hiện).

Học giả Trần Trọng Kim cũng lí giải tương tự như vậy. Chữ Nhân (仁) gồm có bộ nhân (人)

và bộ nhị (二) hợp lại thành một chữ hội ý, nghĩa là nói cái thể và cái đức chung của mọi người đều

có với nhau như một. (Trần Trọng Kim, 1971, tr.44). Tương tự như vậy, học giả Phùng Hữu Lan cũng

cho rằng “ Chữ Nhân 仁 gồm bộ thủ nhân (biến thể của chữ nhân (人), nghĩa là nhân ghép với chữ

nhị(二). Tức nó ngụ ý những phẩm chất đạo đức trong quan hệ giữa người với người”. (Phùng Hữu

Lan, 2006, tr.89). ngoài ra, cũng dựa vào mặt từ ngữ này, người ta còn diễn tả chữ nhân này như sau:

từ nhân có hai bộ, bộ nhân người (人) và bộ nhị (二); nghĩa là có ít nhất hai người trong thế giới này,

và nhân là cách sống với nhau hay cách đối xử với nhau.

50

Từ việc hiểu ngữ nghĩa của chữ “Nhân” như trên, có thể nhận xét ý nghĩa của chữ “nhân”:

Nhân là phương thế giúp người ta sống với nhau; là cách hành xử bình đẳng trong quan hệ giữa ta và

người; là đức tính nối kết ta với người thành một.

Quan niệm của Khổng Tử về phạm trù chữ “nhân”:

Đối với Khổng Tử, Nhân trước hết là sự biểu lộ của thiên đạo trong đời sống con người. Điều

này ông giả định rằng trong con người phải có cái gốc “nhân” nơi bản tính của mình, mà cái gốc

“nhân” ấy chính là cái con người đón nhận từ thiên mệnh mà có. Nói khác đi, trong quan niệm của

Khổng Tử, “nhân” chính là “đạo”, là mệnh. Cái đạo hay mệnh ấy có suy có thịnh hay không thì lại do

chính thiên mệnh quyết định: “Đạo chi tương hành dã hựu, mệnh dã”. Và từ quan niệm chính thiên

phú bẩm đạo đức cho con người nên ông cho rằng chẳng có ai có thể tước đoạt được cái đạo ấy, cũng

như nếu người nào không có cái đạo ấy thì không đáng được gọi là người quân tử. Do đó, người quân

tử phải là người kính sợ thiên mệnh, phải có lòng nhân, đi trong chính đạo. Kẻ sĩ phải có chí khí rộng

lớn và cương nghị, là vì gánh thì nặng mà đường thì xa, đức nhân là trách nhiệm mà mình phải gánh

lấy, há không nặng sao? Đã làm điều nhân thì phải làm cho đến chết mới thôi, như vậy con đường

chẳng phải là xa sao?

Khổng Tử không chỉ cho Nhân là cái thiên mệnh, là đạo mà con người lãnh nhận được từ thiên

mệnh, ông còn cho rằng “nhân” là cái vốn đã có sẵn trong con người. Bởi lẽ con người vốn có sẵn

một tiềm năng tự nhiên để trở nên tốt, nên thiện. “Nhân viễn hồ tai? Ngã dục nhân, tư nhân chí hĩ”

(điều nhân vốn có xa gì ta, ta muốn thì nó đến, Khổng Tử, Luận ngữ, Thuật nhi. Bản dịch của Nguyễn

Hiến Lê, nguồn vietnamthuquan.net).. Tuy nhiên, vì cái “nhân” vốn đã tồn hữu sẵn trong con người

nhưng nó chưa được tỏ lộ cách rõ ràng. Nó cần được trải qua tu dưỡng rèn luyện và thực hành thì

“nhân” trong con người mới sáng lên. Đến lúc đó, “nhân” mới có thể được tỏ hiện ra bên ngoài.

Như thế, Khổng Tử quan niệm về chữ “nhân” có tính hai chiều. Một mặt con người chịu sự

điều khiển của thiên mệnh; mặt khác, con người có thể sở đắc được “nhân” qua việc tu dưỡng, rèn

luyện của bản thân.

Khổng Tử còn nhấn mạnh, chọn chỗ ở cần chọn nơi có đức nhân: “Làng nào có đức nhân là

nơi ấy tốt. Chọn chỗ ở mà không chọn nơi có đức nhân thì sao gọi là sáng suốt (Lí nhân, IV.2). Đức

nhân còn là dấu chỉ của lòng kiên nhẫn, đức chịu đựng gian khổ và khả năng kềm chế niềm vui, dục

vọng. Khổng Tử nói: “Người có đức nhân có khả năng chịu đựng được cảnh khốn cùng mà không nao

núng, ngược lại, không có đức nhân khó sống lâu trong thử thách ngặt nghèo cũng không thể ở lâu

trong cảnh hoan lạc, người có đức nhân vui lòng làm điều nhân…”.

Quan niệm nhân nghĩa của Việt Nam không chỉ chịu ảnh hưởng của Nho giáo mà còn chịu chi

phối bởi triết lí Phật Giáo. (Phật Giáo là tôn giáo lớn có ảnh hưởng sâu rộng ở VN. VN có khoảng

6.802.318 tín đồ Phật Giáo (Tài liệu của Ban Tôn giáo Chính phủ, 2009).

Triết lí nhà Phật rất sâu sắc. Xin đơn cử lời Phật dạy trong kinh Từ Bi: “Không chấp vào tà

kiến mà nhận biết với đức hạnh viên mãn và khuất phục được ham muốn dục lạc, người như thế sẽ

không còn nhập vào bào thai”. (Kinh Từ Bi là một đoạn kệ ngắn trong tác phẩm Con Rắn (Uraga

Ragga), thuộc Kinh Tập (Sutta Nipata) là một bộ phận của Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka) trong hệ thống

kinh Nikaya).

51

Nội dung lời kinh rất rõ. Con đường giải thoát cho chúng sinh gồm 3 điểm quan trọng: không

vướng mắc, lệ thuộc vào những thiên kiến sai lạc; nhận biết đức hạnh là cứu cánh để con người xa

lánh mê lầm, thăng hoa trong chân, thiện, mĩ; chế ngự, đánh bại những ham muốn dục lạc của bản

thân là đang đi trên con đường của giải thoát, tức là con người đã vững tiến theo con đường của bát

chánh đạo.

Triết lí Phật giáo sâu xa, nhưng cũng rất linh hoạt mà nhà Phật thường gọi là "tùy duyên bất

biến; bất biến mà vẫn thường tùy duyên" nghĩa là tùy thuộc vào tình huống cụ thể mà người ta có thể

tu; có thể giải thích Phật giáo theo các cách khác nhau nhưng vẫn không xa rời giáo lý cơ bản của nhà

Phật. Ví dụ: Các vị bồ tát, các vị hòa thượng đều được gọi chung là Phật, Phật Bà Quan Âm (vốn là

bồ tát), Phật Di Lặc (vốn là hòa thượng),... Ngoài ra Phật ở Việt Nam mang dáng dấp hiền hòa và dân

dã: ông Bụt Ốc (Thích Ca tóc xoăn), ông Nhịn ăn mà mặc (chỉ Thích Ca Tuyết Sơn),... Trên đầu Phật

Bà Chùa Hương còn có lọn tóc đuôi gà rất truyền thống của phụ nữ Việt Nam.

Tính chất linh hoạt của tôn giáo và sự tiếp biến những tư tưởng này theo tinh thần dân tộc đã

làm thành nhận thức tư tưởng và hành động của con người Việt Nam.

Năm 1760, nhân trùng tu chùa Tam giáo (làng Kim Bảng), Ngô Thì Sĩ làm bài văn bia nêu lên

ý kiến của ông về Tam giáo như sau:

"Lời khuyên về tịnh độ của nhà Phật, lời bàn về cảnh tiên của nhà Đạo, thuyết tích chứa điều

lành có thừa điềm tốt của nhà Nho, thảy đều đúng cả. Đạo Phật chủ trương từ bi, Đạo gia

thanh tịnh, Nho gia lấy thuyết nhân nghĩa, trung chính mở đường cương thường của Trời để

dựng nên một trật tự cho người. Điều thiết yếu là hợp thế giới hữu hình vào một hư không siêu

hình, thu tất cả thiên hình vạn tượng khác nhau vào một chỗ nhất quán. Nhập thế và xuất thế,

tác dụng khác nhau mà thể tính thì cũng một. Tôi cho rằng đạo lý chỉ có một mà thôi. Tự do,

sáng suốt, không có phân chia đạo nọ đạo kia vậy. Liễu ngộ chỉ có bản tính yên lặng, giữ lấy

chỉ là tâm. Chỗ tịch diệt của Như lai, chỗ hư vô của Lão quân, chỗ không muốn nói của Phu tử

đều là gom cái tâm mình về chỗ chánh mà thôi. ( "Thích gia tịnh thổ chi khuyến, Đạo gia tiên

đô chi đàm, Nho gia tích thiện dư khương chi thuyết, giai thị dã. Thích từ bi, Đạo thanh tịnh,

Nho định dĩ nhân nghĩa, trung chính dĩ khai Thiên thường nhi lập nhân kỷ. Yếu kỳ hợp vạn

hữu vu nhất hư, hội vạn thù vu nhất quán. Kinh thế xuất thế, dụng dị nhi thể đồng. Dư duy

Đạo nhất nhi dĩ, hoạt bát bát tĩnh tĩnh, vô bỉ thử dã. Liễu ngộ vô phi tính, mặc thủ vô phi tâm.

Như lai chi tịch diệt, Lão quân chi hư vô, Phu tử chi dục vô ngôn dã, quy chính kỳ tâm nhĩ hĩ."

(Nguyễn Đăng Thục phiên âm theo bản chữ Hán trong microfilm BEFEO A.364, số hiệu 569).

Tiếp nhận “Tam giáo” để khẳng định vấn đề cốt tủy làm nên triết lí sống của con người là “tự

do, lương thiện, dũng cảm, sáng suốt”. Lịch sử ghi lại nhiều câu chuyện rất ý nghĩa minh chứng cho

triết lí sống này.

52

Đại Việt Sử kí Toàn thư ghi lại cuộc đối thoại giữa tướng giặc Nguyên là Ô Mã Nhi và bề tôi

nhà Trần là Trần Khắc Chung:

Năm 1285, trước thế mạnh của giặc Nguyên Mông, Đại Việt đứng trước họa xâm lăng, vua

muốn sai người dò xét tình hình giặc mà chưa tìm được ai. Chi hậu cục thủ Đỗ Khắc Chung tiến lên

tâu rằng:

"Thần hèn mọn bất tài, nhưng xin được đi".

Vua mừng, nói rằng:

"Ngờ đâu trong đám ngựa xe kéo xe muối lại có ngựa kỳ, ngựa ký như thế!"

Rồi sai đem thư xin giảng hoà.

Ô Mã Nhi hỏi Đỗ Khắc Chung:

"Quốc Vương ngươi vô lễ, sai người thích chữ "Sát Thát", khinh nhờn thiên binh, lỗi ấy to

lắm".

Khắc Chung đáp:

"Chó nhà cắn người lạ không phải [46a] tại chủ nó. Vì lòng trung phẫn mà họ tự thích chữ

thôi, Quốc Vương tôi không biết việc đó. Tôi là cận thần, tại sao lại không có?".

Nói rồi giơ cánh tay cho xem.

Ô Mã Nhi nói:

"Đại quân từ xa tới, nước ngươi sao không quay giáo đến hội kiến, lại còn chống lệnh. Càng

bọ ngựa cản bánh xe liệu sẽ ra sao?".

Khắc Chung nói :

"Hiền tướng không theo cái phương sách Hàn Tín bình nước Yên, đóng quân ở đầu biên giới,

đưa thư tin trước, nếu không thông hiếu thì mới là có lỗi. Nay lại bức nhau, người ta nói thú cùng thì

chống lại, chim cùng thì mổ lại, huống chi là người".

Ô Mã Nhi nói:

"Đại quân mượn đường để đi đánh Chiêm Thành, Quốc Vương ngươi nếu đến hội kiến thì

trong cõi yên ổn, không bị xâm phạm mảy may. Nếu cứ chấp nê thì trong khoảnh khắc núi sông sẽ

thành đất bằng, vua tôi sẽ thành cỏ nát".

Khắc Chung về rồi, Ô Mã Nhi bảo các tướng rằng:

"Người này ở vào lúc bị uy hiếp [46b] mà lời lẽ tự nhiên, không hạ chủ nó xuống là Chích,

không nịnh ta lên là Nghiêu, mà chỉ nói "Chó nhà cắn người"; giỏi ứng đối. Có thể nói là không nhục

mệnh vua. Nước nó còn có người giỏi, chưa dễ mưu tính được". Sai người đuổi theo Khắc Chung

nhưng không kịp.

53

Tranh biện trực tiếp trong thù ứng và tranh biện bằng văn từ mệnh với quân thù, các nhà chính

luận thường xuất phát từ “nhân-tín”. Những bức thư trong Quân trung từ mệnh của Nguyễn Trãi

nhiều lần đề cập đến nhân nghĩa. Ở thư thứ nhất- Thư xin hàng, ông mở đầu: “Tôi nghe nói: sinh đời

thái bình, người ta không ai là không được ở yên; gặp thời thánh minh, không ai là không được sống

thỏa. Nay tôi sinh trưởng nhằm minh thời, gặp đời thịnh trị, mà từng phải thở than về mất chỗ ở yên là

cớ sao?” (Mai Quốc Liên, 2001, tr.346).

Nêu vấn đề tác giả đã chỉ rõ thực cảnh sống hiện tại của người dân Việt là một nghịch lí để từ

đó tranh luận với viên quan Tổng binh Trần Trí. Nội dung bức thư chỉ rõ tội ác, sự tàn bạo, vô đạo của

quân Minh. Đó là tội ác của Mã Kì- một hoạn quan của nhà Minh tham tàn bạo ngược, chỉ huy quân

Minh ở Thanh Hóa, trực tiếp đàn áp nghĩa quân Lam Sơn. Tội ác của chúng được ghi rõ: “Nhữ Hốt

bèn báo cáo với quan Quản binh và Nội quan Mã Kì vô cớ dẫn quan quân đến đánh úp bọn chúng tôi,

chẳng kể già trẻ, đều bị chém đầu, bị cắt tai bên trái, bị bắt bớ, họ hàng đều bỏ trốn, vợ con lìa tan.

Chúng lại khai quật mồ mả cha ông tôi mà phơi bày hài cốt…”(Mai Quốc Liên, 2001, tr.346).

. Tội ác ấy đã gieo mối thù thâm sâu trong lòng tướng sĩ nghĩa quân Lam Sơn. Thái độ của tác

giả khiêm hạ: “Tôi không biết tính kế làm sao, đành phải chạy đi trốn tránh”, nhưng đồng thời chính

những tội ác ấy đã khiến con người nung nấu mối lòng căm thù, nghĩa quân đã phải : “Sống cho qua

năm tháng để chờ quan trên xét tình cho. Kiếm ăn nơi rừng núi đã sáu năm trời, ngày hai bữa ăn mà

chưa từng được no một lần nào. Nhưng chim tinh vệ há từ cái nhọc lấp biển, kẻ oan ức không nề sống

chết báo thù” (Thư số 1).

Nguyễn Trãi đã đi từ gốc chữ “nhân” để bày tỏ, tranh biện với viên Tổng đốc nhà Thanh.

Trong Luận ngữ, Khổng Tử nói: “Người không có đức nhân thì không thể ở lâu trong cảnh khốn

cùng, cũng không thể ở lâu trong cảnh hoan lạc. Người có đức nhân vui lòng làm điều nhân. Người

thông minh sáng suốt biết rằng đức nhân có lợi cho mình và cho người nên làm điều nhân” (chương

IV, Lí Nhân, câu 2). Như vậy, không trực tiếp mà gián tiếp Nguyễn Trãi phê phán, kết tội sự bất nhân

của quân Minh, đồng thời khẳng định đức nhân sâu thẳm của dân tộc Việt Nam, của lãnh tụ, của bộ

máy tham mưu và nghĩa quân Lam Sơn. Lập luận và tư tưởng của Nguyễn Trãi còn cho thấy, ông

ngầm cảnh báo quân giặc về ý chí, quyết tâm và sức mạnh của nghĩa quân. Bởi vì người có nhân tất

có trí, có dũng, có lẽ sống cao cả, lớn lao, khả năng phi thường như chim tinh vệ ôm chí lấp biển.

Trong Quân trung từ mệnh, những thư số 5, 7, 8 Nguyễn Trãi gửi Phương Chính luôn đề cao,

nhấn mạnh nhân nghĩa. Thư số 4, sau khi nghĩa quân hạ được đồn Đa Căng (năm Giáp Thìn, ngày

12/10/1424), Nguyễn Trãi gửi thư cho Phương Chính : “Tôi nghe: cái nỏ nghìn cân không vì một con

chuột nhắt mà bắn. Nay ngài là bậc danh tướng hiện thời, nắm binh quyền đại tướng mà lại đi tranh

thắng với một kẻ thất phu!”. Dù nói vậy, nhưng vị quân sư của Lê Lợi ngầm chê Phương Chính thiếu

tầm nhìn, thiếu quyền mưu, nên nhắc nhở: “(Ngài) Tuy có trí mà không giỏi lo liệu về sau, thì hối sao

cho kịp?”. Tiếp sau đó, như đứng trên đầu thù, Nguyễn Trãi thẳng thắn nói rõ với Phương Chính:

“Nay tính kế giúp ngài, không gì bằng cởi giáp nghi binh, ngồi yên chịu hàng, ấy là thượng sách. Tuy

54

đó là cái may cho chúng tôi và ngài, mà cũng là cái may cho muôn dân thiên hạ”. Lời kết tác giả vẫn

nghĩ đến muôn dân được sống yên vui không phải điêu linh trong cảnh chiến tranh.

Liên tiếp ba bức thư sau gửi cho Phương Chính, Nguyễn Trãi đối lập chính nghĩa với gian tà,

khẳng định “đạo làm tướng lấy nhân nghĩa làm gốc, lấy trí lực làm vốn”. Đặc biệt, Nguyễn Trãi phân

tích cho đối phương biết bất nhân, bất nghĩa là con đường đi đến thất bại: “Giết người vô tội, hãm

người vào đất chết” là tội ác, trái mệnh trời. “Vì vậy, nên nhiều năm liền chinh phạt thường chuốc lấy

thất bại” (Thư số 5, Lại thư trả lời Phương Chính).

Khi chiến thắng quân Minh, tổng kết cuộc chiến, Nguyễn Trãi đúc kết tư tưởng nhân nghĩa là

chỉ nam của cuộc chiến cũng là nhân tố làm nên sức mạnh chiến thắng quân thù. Tư tưởng ấy vô cùng

cao sâu. Bởi vì, bài cáo Lê Lợi sai Nguyễn Trãi viết không phải là bài cáo bình thường, đó là bài đại

cáo. Nếu so sánh bài đại cáo của Nguyễn Trãi với hai bài cáo của Trung Quốc: bài cáo của vua Thang

truyền đi sau khi đã đánh bại vua Kiệt của nhà Hạ và bài cáo của vua Vũ truyền đi sau khi đã đánh bại

vua Trụ nhà Thương thì tư tưởng bài đại cáo của Nguyễn Trãi cao sâu hơn. Bài cáo của vua Thang,

Vũ đứng trên lập trường người dân để chống lại Kiệt, Trụ gian ác. Bài đại cáo của Nguyễn Trãi không

chỉ đứng trên lập trường người dân Việt yêu chuộng công lí, hòa bình chống quân Minh xâm lược, tàn

ác mà còn đứng trên cả lập trường người dân Trung Quốc chống lại triều đại nhà Minh tham tàn xô

đẩy người dân Trung Quốc vào cuộc chiến phi nghĩa dẫn đến cảnh núi xương sông máu khiến sắc

diện đất trời cũng phải đổi thay “ghê gớm thay sắc phong vân phải đổi, thảm đạm thay ánh nhật

nguyệt phải mờ”. Như vậy, tính chất đánh giặc ngoại xâm và lập trường nhân nghĩa có tính nhân loại

là những tư tưởng sâu sắc mà bài đại cáo của Nguyễn Trãi vượt trên những bài cáo của vua Thang,

vua Vũ. Với ý nghĩa đó, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi mở rộng ở chiều kích và có sức nặng ở

độ sâu.

3.3 KHẲNG ĐỊNH TRÍ DŨNG, ĐỀ CAO NHÂN DÂN

Trí dũng của dân tộc trong ý thức độc lập, hành động dũng cảm trong bảo vệ tổ quốc.

Trên chính trường, những cuộc đấu trí chính trị của những phe đảng đối lập luôn tạo được sức

lôi cuốn, hấp dẫn. Những cuộc đấu trí này thường hấp dẫn ở lời lẽ khôn ngoan, trí tuệ sắc sảo, kiến

thức sâu rộng của các đối tượng.

Trong Tam quốc chí của La Quán Trung, muốn đánh giá con người Lưu Bị, Tào Tháo mời Lưu

Bị uống rượu. Tiiệc rượu đang vui, bất ngờ họ Tào hỏi họ Lưu:

Sứ quân từng lịch duyệt hồ hải, chơi khắp bốn phương, ắt rõ những ai là anh hùng xưa nay?

Xin nói cho biết? Và người đọc đã được thưởng thức “bữa tiệc” tinh thần và nhân cách về hai nhân

vật từng làm sóng gió thời Tam quốc. Sau khi được Tào gợi ý, họ Lưu dè dặt trình bày ý kiến của

mình. Trong thâm tâm, Tào thăm dò, đánh giá tư tưởng, tầm vóc họ Lưu. Những nhân vật Lưu Huyền

Đức đề cập đến, Tào đều chê: Viên Thuật ở Hoài Nam chỉ là “bộ xương khô, sớm tối ta sẽ bắt sống”;

Viên Thiệu ở Hà Bắc cũng chỉ là tên “mặt béo mà gan non”; còn Trương Tú, Trương Lỗ, Hàn

Toại…chỉ là nhóm dòi bọ lúc nhúc…

Cuối cùng, Tào lật trắng ván bài, nhìn Lưu Huyền Đức mà nói: Người anh hùng là người nuôi

chí lớn trong tim óc, lại phải có mưu cao kế giỏi, có tài bao tàng cả mấy vũ trụ trong lòng, có chí nuốt

55

trời mửa đất, ấy mới đáng mặt anh hùng chứ. Và Tào trỏ thẳng vào Lưu, lại trỏ vào mình nói dõng

dạc: Anh hùng trong thiên hạ ngày nay chỉ có sứ quân và…Tháo này thôi! Câu nói khiến Lưu Huyền

Đức giật nẩy mình, đôi đũa trên tay rơi xuống đất. Sau tiệc rượu, Tào không còn nghi ngờ, cũng

không đánh giá cao Huyền Đức để rồi nhận lấy thất bại trong trận Xích Bích.

Hoàng Lê nhất thống chí cũng kể lại cuộc gặp thú vị giữa Nguyễn Huệ và Trần Công Xán.

Sau khi hoàn tất sứ mệnh “phò Lê diệt Trịnh”, Nguyễn Huệ diện kiến vua Lê và các cựu thần

nhà Lê. Gặp Trần Công Xán, Nguyễn Huệ hạch tội họ Trần bày mưu cho chúa Trịnh chống quân Tây

Sơn. Trần Công Xán thản nhiên đáp: - Phải, người bày mưu ấy chính là tôi. Nguyễn Huệ truy vấn:

Nếu quả vậy thì ngài có ba điều không rồi vậy. Trần Côn Xán hỏi lại, ba điều không phải ấy là gỉ?

Nguyễn Huệ mỉm cười đáp: Quân Tây Sơn phò vua Lê diệt Trịnh, ngài lại bày mưu cho Trịnh đánh

quân nhà vua, ấy là bất trung. Quân Trịnh nghe hịch của tôi đều nhớ ơn vua quăng gươm giáo mà xin

hàng, vả lại họ Trịnh lúc bấy giờ tướng lười, binh kiêu, ngài lại bảo nhử giặc vào sâu rồi đánh một

trận là tiêu diệt được, ấy là bất trí. Bày mưu cho chúa Trịnh đánh vua, nay chúa mất rồi còn mặt mũi

nào theo về với vua, ấy là bất nghĩa. Bất trung, bất trí, bất nghĩa là ba điều không vậy. Trần Công Xán

cãi lại: Tướng quân truyền hịch phò Lê đánh Trịnh tiến quân vào nước tôi, trong lúc vàng thau lẫn lộn

biết đâu là thật giả, ngộ nhỡ diệt được Trịnh rồi tướng quân không trao nước cho vua tôi thì sao. Vậy

tôi bày mưu cho chúa đánh tướng quân giữ nước cho vua sao bảo là bất trung? Nay chúa Trịnh Khải

dù đã bị diệt nhưng dư đảng là Trịnh Lệ, Trịnh Bồng vẫn còn. Vả lại, nay được biết tướng quân thật

đã tôn phò, tôi mới phò vua mà không theo Trịnh sao bảo là bất nghĩa? Tôi bày việc quân cơ cho chúa

là kế hay, chỉ vì không có tướng tài đánh một trận là diệt xong địch như nhà Trần thuở trước, sao bảo

là tôi bất trí? Nghe Trần Công Xán nói xong, Nguyễn Huệ cười lớn và khen, tài biện luận và tấm lòng

của ngài quả thực ngài là người đại trung, đại nghĩa, đại trí.

Sau này, Trần Công Xán còn gặp Nguyễn Huệ thêm một lần để đòi lại đất Nghệ An trong vai

trò sứ giả vua Lê. Trước khi lên đường, Trần Công Xán bảo Nguyễn Hữu Chỉnh: Bắc Bình Vương là

người sâu hiểm khó lường, chuyến đi này vị tất ông ta đã nghe theo…và dặn Hữu Chỉnh phải phòng

bị, không được sơ sót.

Đến doanh trấn Nghệ An, Vũ Văn Nhậm đã cảnh báo Trần Công Xán rằng sẽ chém đầu Chỉnh

và hỏi tội vua Lê bội ơn dong kẻ làm phản; đồng thời cho biết Nghệ An là đất cỏn con cắt hay không

cắt có can hệ gì đến sự mất còn của nhà nước? Nhậm cũng nói thêm rằng, tôi chỉ e con chim đã rời tổ,

đến lúc bay về lại không có cành để đậu nữa mà thôi!

Trần Công Xán gặp Nguyễn Huệ, cuộc đối đáp giữa anh hùng và kẻ sĩ diễn ra căng thẳng mà

bộc lộ tài trí, khí phách, Hoàng Lê nhất thống chí ghi lại:

Khi đến Phú Xuân, các sứ thần bày lễ vật vào yết kiến Bắc Bình Vương. Xán trình quốc thư

lên. Bắc Bình Vương xem qua một lượt, rồi vứt xuống đất mà nói to:

- Thư này ai làm? Nói ra toàn điều vô nghĩa lý. Người Bắc quen dùng lời lẽ để dử người. Ta

không phải trẻ con mà lừa dối được đâu!

Xán vẫn không đổi nét mặt, ung dung trả lời:

- Xin đại vương hãy bớt giận, để tôi nói rõ. Nếu muốn giết tôi, tôi cũng xin nói một lời rồi

chết.

Bắc Bình Vương vốn trọng Xán, liền đổi nét mặt mà rằng:

56

- Ngày xưa ta vượt biển ra Bắc, phá Thăng Long, diệt họ Trịnh, cả nước khiếp sợ, trong triều

ngoài nội đều chịu bó tay, không ai dám làm gì. Lúc bấy giờ nếu ta chiếm giữ đất nước, xưng đế,

xưng vương, gì mà chả được? Nhưng vì ta xa mến đức của tiên đến, nên đem cả cõi đất nguyên vẹn

trả lại ngài. Cơ đồ thống nhất đều do tay ta gây dựng lại. Bắc triều lại dùng chế sách "thượng công" để

đền đáp ta. Chẳng biết "thượng công"? là danh hiệu gì? Đối với ta có thêm được cái gì không? Kịp

đến khi tiên đế chầu trời, lễ cả sơn lăng, ta giúp đỡ cho: tự vương nối ngôi, lễ lớn sách lập, ta chủ

trương cho. Nay không cảm ơn những việc của ta làm, lại chứa chấp kẻ phản ta, chống cự với ta, mưu

đồ dành lại đất Nghệ An. Xử sự như thế, nhân tình có ai nín nhịn được không? Ta đã phái ra hai vạn

binh mã, sai tả quân Võ Văn Nhậm thống lĩnh, thẳng tới Thăng Long, chặt đầu cha con giặc Chỉnh về

dâng. Chắc rằng khi Chỉnh nghe tin quân ta kéo ra, thế nào cũng kèm tự tôn bỏ chạy. Bấy giờ ở dưới

gươm đao, ngọc đá lẫn lộn, không biết tự tôn có giữ được yên lành hay không? Nếu có làm sao, người

trong nước lại qui oán về ta thì thật phiền.

Xán thưa:

- Xưa đức Lê Thái Tổ dẹp yên quân Ngô, mở mang nước nhà, công đức như trời. Vua Thánh

Tông tự mình làm nên thái bình, rạng danh đời trước, mở rộng về sau. Từ núi Thạch Bi ra bắc, từ dẫy

Đại Lĩnh (Thạch Bi ở Quảng Nam (Quảng Nam-Đà Nẵng) Đại Lĩnh ở Khánh Hoà (Phú Khánh)) vào

nam, đều làm tôi làm dân, ai ai cũng phải tôn kính, trải qua hàng trăm năm. Họ Mạc tiếm ngôi, cả

nước đều giận. Đấng tiên vương hội họp những người đồng chí, dựng lại họ Lê. Họ Trịnh nối theo

cũng vì có công phò Lê, cho nên mới sai bảo được bốn phương, và được mọi người hưởng ứng. Từ

mấy đời nay, chúa Trịnh tuy là hiếp chế vua Lê, nhưng chính sóc không đổi thay, chuông khánh vẫn ở

đấy, thiên hạ vẫn là thiên hạ của nhà Lê. Đại vương ruổi xe một mạch, thẳng đến kinh thành, tuy rằng

oai danh đã vang dậy khắp nơi, nhưng cũng do lấy nghĩa cả tôn phò, khiến người ta tin phục, mới

được như vậy. Nếu không, việc vào nước người ta, đâu có dễ dàng như thế. Tiên đế thoạt thấy đại

vương, tiếp đãi rất là long trọng. Trước ban sách mệnh làm tước công, rồi sau sẽ phong vương, đó là

điển cũ của bản triều, không phải trả ơn không hậu, chớ nên thấy như thế mà cho là bạc. Một nước đã

trải hơn ba trăm năm, trời cao chứng giám, lòng người tôn sùng. Đại vương đem cả cõi đất trả lại

nguyên vẹn, là thể thuận ý trời, chiều lòng dân, chưa có thể lấy đấy làm ơn. Tiên đế mất đi, hoàng

thượng nối ngôi, mọi việc đều bẩm trước với đại vương. Đại vương không làm chủ thì ai làm chủ nữa.

Lý đã đến thế, đừng cũng chẳng được. Tôi không dám khen ngợi để dâng lời ton hót. Đại quân về

Nam, Nguyễn Hữu Chỉnh đuổi theo, đại vương để hắn ở lại Nghệ An, sao lại bảo hắn làm phản? Nghệ

An vốn là đất cũ của bản triều, bản triều phải giữ lấy bờ cõi, sao lại nói là tranh giành? Đại vương

phái binh mã ra, nếu là để thăm hỏi, bản triều đã có lễ nghênh tiếp. Bằng không, thì như người xưa đã

nói: "Nước lớn có quân đánh dẹp, nước nhỏ có cách chống giữ". Tôi nay đã ra khỏi cõi, việc ấy không

còn dám biết đến. Tự hoàng của nước tôi, trời đã sai làm vua, đế vương có chân mệnh, gươm đao

cũng phải lựa chọn, đại vương chớ có lo. Nếu như đại vương cứ thuận lẽ trời mà làm, gây lại nước đã

suy, nối lại họ đã dứt, để cho nước của nhà họ Lê được yên ổn, thì những người làm tôi làm dân trong

cả nước ai chẳng cảm đội công đức, còn có oán gì? Nhược bằng làm trái lại, thì sự thế thay đổi khác

thường, tôi đây ngu dại, không thể nào mà thấy trước được.

Xán cứ cãi đi cãi lại mãi, không chịu khuất phục một lời nào. Đến lúc trời sắp tối, Bắc Bình

Vương bảo:

- Hãy ra nhà trọ mà nghĩ đi nghĩ lại cho kỹ!

57

Xán nói:

Nghĩ lắm luẩn quẩn lại dễ lầm lẫn, một chết là xong!

Bắc Bình Vương nổi giận, sai đem giam Xán vào ngục. Bọn án và Nho cũng đều bị chia ra

giam ở các nơi khác.

Xán vào ngục, cười nói như thường, Bắc Bình Vương sai người đến dò, thấy Xán viết ở chỗ

giam đôi câu đối như sau:

Đạt đức hữu tam, túng vị năng chi, nguyện học.

Tiểu tâm vô nhị, hành kỳ tố dã, hà vưu? (nghĩa là: Đạt đức có ba, dù chẳng làm nên xin học.

Giữ lòng như một, noi theo chí cũ, oán gì?)

Tư mã Ngô Văn Sở xin giết chết bọn Xán. Bắc Bình Vương còn tiếc tài của Xán, bèn bảo

trung thư Lê Văn Kỷ và viên quan bộ Lễ là Vũ Văn Trụ rằng:

- Nhân vật Bắc Hà, Xán cũng vào bậc giỏi đấy! Ta muốn thu phục hắn để dùng, nhưng mà

chắc hắn không chịu. Các ngươi thử hiểu dụ hắn một phen nữa xem sao?

Hai người bèn đến chỗ giam Xán, thấy Xán mang gông nằm sấp, liền nói:

- Ông già sao lại tự mình làm khổ mình như vậy?

Xán trả lời:

- Cũng là số mệnh đấy thôi!

Kỷ nói:

- Quân tử có khi không cần theo số mệnh, chế ngự được số mệnh là cốt ở mình. Ví như đánh

bạc, đồng tiền một sấp một ngửa; ta theo kẻ được mà đánh, thiên hạ sẽ khen ta là người đánh bạc giỏi.

Xán nói:

- Bởi thế cho nên đó chỉ là phường cờ bạc, chứ không phải đạo của người quân tử. Tôi nghe

nói: "Kẻ làm bề tôi phải chết vì chữ trung". Đấy là lời dạy của người xưa!

Hai người biết là không thể làm lung lay được ý chí của Xán, liền đi ra và nói với nhau:

- Nhà Hán có Tô Tử Khanh, nhà Lê có Trần Công Xán. Đáng thương, nhưng cũng đáng ghét

thay!

58

Vừa gặp lúc đó, vua Tây Sơn gửi thư ra kể tội lỗi của Bắc Bình Vương và sắp phái quân tới

đánh. Tướng sĩ dưới cờ của Bắc Bình Vương có kẻ trốn đi, Bắc Bình Vương liền bảo Trần Văn Kỷ

rằng:

- Nay nước ta có việc lôi thôi, lòng người còn phân vân. Việc biến trong nhà không nên để

nước láng giềng nghe biết. Sứ Bắc ở đây, tai vách mạch rừng. Họ ở xa đến để dò xét ta, giữ họ ở lại

thì họ biết rõ tình hình trong nước, hoặc giả nhân đó họ xúi giục, gây ra việc không hay. Thả họ về thì

lại bị họ rêu rao làm lộ việc, người Bắc Hà mà biết, thì lại sinh lòng khinh rẻ ta. Bởi thế, ta định ném

bọn họ xuống biển, để cho hết tiếng tăm dấu vết, vậy cứ theo chước đó mà làm.

Rồi Bắc Bình Vương sai đô đốc là Võ Văn Nguyệt sắp sẵn vài chiếc thuyền biển, nói phao là

đưa sứ thần về Bắc.

Lúc bọn Xán vào từ giã, Bắc bình vương nói:

- Các ông hãy về trước, chờ lúc tôi ra ngoài ấy vời vào gặp mặt, sẽ có cách xử trí việc Nghệ

An.

Rồi Bắc Bình Vương lại đem tặng họ một trăm nén bạc và bảo:

- Đây là của công chúa gửi tặng, các ông đừng chối từ.

Tiếng gọi là đưa họ về, nhưng thật ra Bắc bình vương đã ngầm bày mưu cho Nguyệt, người

ngoài không ai được biết.

Tháng ba, mùa xuân năm Đinh vị (1787) thuyền từ cửa Tư Dung (thuộc Thuận Hoá, nay là

cửa Tư Hiền) giương buồm ra đi, không mấy ngày đã đến cửa biển Đan Nhai thuộc thị trấn Nghệ An.

Nguyệt cùng bọn sứ thần ghé thuyền vào bờ, rồi cùng lên bộ.

Lúc ấy có người học trò của Xán là giám sinh Nguyễn Hiên, người huyện Chân Lộc, nghe tin

thầy học được về, vội mừng rỡ đến chào. Chợt thấy nét mặt Nguyệt có vẻ khác thường, Hiên ngầm

đoán được ý của hắn, bèn nói kín với Xán hãy xin đổi đi đường bộ.

Nhưng Nguyệt nói:

- Tôi vâng mệnh đưa sứ giả đi đường biển, thuận tiện mà ổn thoả, không nên đi đường bộ, trèo

non vượt suối vất vả.

Rồi đó, cả bọn lại lên thuyền ra biển.

Vừa ra đến ngoài khơi, Nguyệt liền bảo bọn lái thuyền đục thuyền cho nước vào, dìm cả bọn

sứ thần xuống biển. Hiên đứng trong bờ trông ra xa gào khóc hồi lâu mà về. Hôm ấy nhằm ngày 11

tháng 4, mùa hè năm Đinh vị (1787).

(Nguyễn Đức Vân, Kiều Thu Hoạch, 1997, TII, tr.112-113)

59

Sau này khi luận bàn cách cư xử của Nguyễn Huệ với kẻ sĩ, có người hỏi bà Mĩ Tuyết:

- Sao không dùng tài năng để thuyết phục Trần Công Xán như đã thuyết phục Nguyễn Huỳnh

Ðức?

Bà đáp: - Huỳnh Ðức là một võ tướng chỉ có lòng trung nghĩa. Còn Công Xán là kẻ sĩ học

rộng hiểu sâu. Một lưỡi dao con là ta, làm sao đốn nổi cây tùng trăm tuổi thọ? Lại hỏi: - Cũng thì

nhân tài mà sao đối với Nguyễn Huỳnh Ðức nhà vua lại khoan hồng hơn đối với Trần Công Xán.

Ðáp: - Tài của Huỳnh Ðức chỉ có thể lấy được thành. Tài của Trần Công Xán có thể chiếm trọn cả

nước, nếu biết thiện dụng, tận dụng. Chữ Nhân phải đi song song với chữ Trí mới tránh khỏi chữ Ngu.

Kẻ đại trượng phu không thích mang tiếng ngu với đời.

Văn chính luận trải các thời kì đều thể hiện sự kết hợp tuyệt diệu của trí, dũng và tài thao

lược.

Những áng văn của Nguyễn Trãi trong Quân trung từ mệnh, về nguyên tắc khởi xuất từ luận

đề nhân nghĩa nhưng có sức biến hóa diệu kì. Đứng trên lập trường nhân nghĩa, lời văn của Nguyễn

Trãi gay gắt, đanh thép kết tội tên ác tướng là Phương Chính. Trong bức thư số 5 gửi Phương Chính,

Nguyễn Trãi viết:

“Bảo mày nghịch tặc Phương Chính.

Ôi! Đạo làm tướng lấy nhân nghĩa làm gốc, lấy trí lực làm vốn. Nay bọn mày chỉ chuộng việc

lừa dối, bắt giết kẻ vô tội, hãm người ta vào chỗ chết mà chẳng xót thương, đó là lẽ gì? Như thế thì

trời đất không dung, thần người đều giận. Vì vậy, nên nhiều năm liền chinh phạt đều thất bại” (Thư số

5). Kết lại, ông vạch mặt Phương Chính hai tội: thừ nhất, miệng nói nhân nghĩa mà tay vấy máu xâm

lược nước ta; thứ hai, vì đưa quân đi xâm lược nước ta, nên lừa dối nhân dân Trung Quốc, đẩy họ đến

chỗ chết chóc thảm hại!

Bằng kiến thức sâu rộng, sắc sảo, Nguyễn Trãi còn đi sâu vào nội tình Trung Quốc, nắm rõ

những tai họa, bất ổn của họ, lấy đó làm chứng cứ thuyết phục minh họa chân lí: bất nhân bất nghĩa

tất phạm đến trời và búa rìu tự trời cao sẽ giáng xuống. Bức thư thứ tám, Nguyễn Trãi tiếp tục đánh

đòn cân não vào Phương Chính: “Nay ở nước mày, khắp dân tình, quỷ thần đều oán giận, lại tiếp có

tang vua, thế mà không biết tự xét lỗi, lại cố động binh không ngừng, đem lòng xâm lược phương xa,

khiến cho binh lính phải phơi, nhân dân phải chìm đắm! Ta e mối loạn của họ Quý không phải ở nước

Chuyên Du ở bên ngoài, mà chính ở trong tường vách vậy” (Quân trung từ mệnh, Thư số 8).

Nhưng chiến thắng ở Xương Giang là kết quả của sức mạnh “đao bút” kết hợp tài dụng binh

xuất sắc của Bộ Chỉ huy mà đứng đầu là Lê Lợi và Nguyễn Trãi.

Quân Minh sau những thất bại ở Chi Lăng, Cần Trạm, Phố Cát, Thôi Tụ dự tính vào Xương

Giang trú quân và tìm cách phối hợp với Vương Thông. Quân giặc tuy thất bại liên tiếp, nhưng chúng

còn đông và mạnh, quân Lam Sơn chủ trương không tiến công ngay mà bao vậy và gửi thư dụ hàng.

Bức thư thứ 20, Nguyễn Trãi viết: “Thành Xương Giang nhỏ bé kia sao dám chống lại mệnh trời? Ta

vì mệnh trời nổi giận đi đánh, nghĩa nên phải thế, việc không thể đừng. Nay ta đem núi Thái Sơn đè

bẹp một quả trứng, sức kia chịu được bao lâu?”. Đứng dưới thành là Thái Phúc, Nguyễn Trãi bắc loa

kêu gọi chúng đầu hàng. Ta đã kiên trì như vậy, nhưng chúng ngoan cố. Tình hình không cho phép

kéo dài thêm vì quân Liễu Thăng đã đến sát biên giới. Nghĩa quân được lệnh đào đường hầm, đánh

theo lối địa đạo. Trận đánh long trời lở đất diễn ra, bọn Kim Dận, Lí Nhậm đều bỏ mạng. Kết quả trận

60

đánh, nghĩa quân Lam Sơn tiêu diệt 5 vạn địch, bắt sống Thôi Tụ, Hoàng Phúc cùng với hơn 3 vạn

quân, bao gồm toàn bộ tướng chỉ huy của họ.

Nhưng đối với Vương Thông- viên tướng thay mặt vua Minh có toàn quyền ở Giao Chỉ,

Nguyễn Trãi bằng mọi cách khôn khéo, nhã nhặn làm cho y “sức cùng lực kiệt” phải mở cửa thành ra

làm lễ “hội thề” rồi được toàn mạng về nước, tránh bớt cảnh đổ máu của quân sĩ hai bên mà “thiên

triều” vẫn giữ được thể diện là công việc rất mực khó khăn. Cho nên những bức thư Nguyễn Trãi gửi

cho Vương Thông luôn có sự cân nhắc thận trong ở lời lẽ. Đối với y, Nguyễn Trãi thường dùng những

từ trang nhã nhất để xưng hô: “Kính gửi ngài Tổng binh”, “Kính đạt ngài Tổng binh Đại nhân”…Tuy

nhiên không vì sự trang nhã mà Nguyễn Trãi luôn luôn không biểu lộ sự cứng rắn. Thư số 39, Nguyễn

Trãi đã thẳng thắn: “Thư bảo cho Tổng binh ngươi biết. Cổ nhân có nói: “Giặc đến cùng, chớ nên

đuổi bức”. Nay ta đem ba bốn mươi vạn quân vây khốn thành của ngươi, chỉ e chim cùng thì mổ, thú

cùng thì vồ, cho nên ta không đem quân toàn thắng cùng quân tất tử để tranh thắng với lũ trẻ con

vậy…”. Như vậy, vẫn xuất phát từ luận đề nhân nghĩa nhưng có sức biến hóa và sự công phạt đối với

từng đối tượng khác nhau.

Đến thời Tây Sơn, sau chiến thắng Ngọc Hồi- Đống Đa (1789), vua Quang Trung đã phải tiến

hành một chính sách ngoại giao khôn khéo với nhà Thanh để tránh cuộc đối đầu quân sự, giữ vững

hòa bình và kiến tạo đất nước. Tuy nhiên, triều đại Tây Sơn luôn thể hiện thế mạnh uy vũ và sử dụng

sức mạnh chiến thắng đúng chỗ để tạo kết quả tối ưu trong quan hệ ngoại giao phức tạp với Trung

Quốc.

Xuyên suốt chiến dịch phá Thanh của vua Quang Trung, lời hịch “đánh cho chúng phiến giáp

bất hoàn” được triệt để thực hiện. Tính chất oai hùng và khí thế của cuộc chiến khiến Tôn Sĩ Nghị “sợ

mất mật”, “ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp” tháo chạy bỏ lại cả ấn tín. Thực tế

thảm hại này viên quan coi việc quân của nhà Thanh ở Quảng Tây đã chứng kiến tận mắt nên vô

cùng hoang mang, lo sợ. Vì vậy, ngay sau chiến thắng Đống Đa, Thang Hùng Nghiệp đã liên tiếp gửi

mật thư cho vua Quang Trung 4 lần để cầu hòa. Nhưng việc giải hòa này phải do phía Tây Sơn nêu

lên trước để nhà Thanh không mất thể diện. Do vậy, chỉ sau chiến thắng 7 ngày Thang Hùng Nghiệp

đã mật thư cho vua Quang Trung. Bức thư đề ngày 12 tháng Giêng năm Kỉ Dậu, Thang Hùng Nghiệp

sai quân lính chuyển đến Tây Sơn có đoạn:

Xét ra vua Lê nước An Nam phụng sự thiên triều đã lâu, khi bị họ Nguyễn Tây Sơn chiếm

đoạt quốc đô, Đại hoàng đế (vua Thanh) sai nguyên nhung đem quân ra cửa Nam Quan lấy lại đất cho

nhà Lê rồi lại nối phong cho là quốc vương. Không ngời Lê Duy Kì hèn yếu, không có tài năng,

không chẩn tác được gì lại ngầm đem mẹ đi trốn. Thế là họ Lê không dấy lên được, sau này Đại

hoàng đế không đem An Nam giao cho nữa…

Bản đạo nghĩ An Nam vô chủ, nếu đại binh lại tiến đánh thể tất các tỉnh chia đường đều tiến,

chẳng khỏi giết hại nhân dân. Họ Nguyễn tự liệu sức có thể kháng cự mãi được không? Vì vậy, ta mật

dụ đưa trát cho biết rằng: Họ Nguyễn Tây Sơn lúc này nhân chưa có dụ chỉ, chọn ngay một vài viên

quan lập tức đem biểu đến cửa Nam Quan tâu với Đại hoàng đế rằng: “Vì Duy Kì không được nhân

dân qui phục đã trốn tránh đi hết, nên phải đem quân đến thay vì trấn thủ. Không ngờ khi đi đường

gặp quân thiên triều, thế rất dữ dội gặp ai cũng giết. Bó tay chịu trói thế tất bị giết cả, bởi thế những

người cầm quân phải chống cự lại. Tự biết là mang tội rất nặng. Hiện đã tra ra những người kháng cự

thiên binh mà đem chém đi rồi…

Cuối bức thư, Thang Hùng nghiệp còn căn dặn: Ta sau này cùng An Nam giao thiệp rất nhiều,

bởi thế mật dụ cho biết. Sau này họ Nguyễn Tây Sơn trình bẩm Cung bảo đại nhân, quyết không nên

61

đề cập đến trát này của bản đạo, phải giữ cho kín. Thuận nghịch, họa phúc do họ Nguyễn Tây Sơn tự

chủ. Bản đạo không nói đến lần thứ 2 nữa đâu”.

(Ngô Thế Long, 2005, tr.19)

Bức thư gửi đi 3 ngày, Thang Hùng Nghiệp lại thấy quân Tây Sơn đang truy kích quân Thanh,

dù biết thư chưa tới tay Tây Sơn, Hùng Nghiệp viết tiếp bức thư thứ 2. Nguyên văn bức thư như sau:

Xét họ Lê nước An Nam hèn nhát không tài, không giữ được nghiệp tổ. Nay lại bỏ nước ngầm

trốn, thì người ấy quyết không thể lại cho làm chủ nước An Nam.

Bây giờ (chúng tôi) đang định tâu xin Đại hoàng đế cho lập người tài năng chính trực, để trấn

thủ nước An Nam, trên dâng lễ cống, dưới thỏa đời sống của nhân dân.

Ngươi là họ Nguyễn ở gần An Nam, chưa biết chừng được Đại hoàng đế phong làm An Nam

quốc vương. Bởi vì hiện tại, trừ họ Nguyễn Tây Sơn ra, không có người nào có thể chủ trì công việc

nước An Nam.

Bản đạo trước đã sai người đem tờ biểu dụ đến đô thành nhà Lê. Ngày ấy, chủ ngươi tất đã

làm tờ phúc đưa đến. Hiện lại nghe nói lũ quan mục các ngươi (quân Tây Sơn) đã đến Lạng Sơn,

nhưng không được làm hại quan dân trăm họ xứ ấy, phải để cho họ yên tĩnh, giữ phép, đợi chủ ngươi

phúc bẩm. Nếu các ngươi không ước thúc, các quan mục lại dám tự ý làm bậy, thì Đại hoàng đế

không những không ban ân điển mà còn tức giận cho họp quân tiến đánh, không thể khoan thứ được.

Nay dụ.

Ngày 15 tháng Giêng năm Kỉ Dậu,

Càn Long thứ 5

(Ngô Thế Long, 2005, tr.20-21)

Sau khi nhận 2 mật thư của Thang Hùng Nghiệp, Ngô Thì Nhậm viết một bức thư trả lời và

một tờ biểu dâng vua Càn Long nhờ Thang Hùng Nghiệp chuyển. Bức thư và tờ biểu Ngô Thì Nhậm

soạn có lời lẽ cứng rắn. Nội dung tờ biểu kết tội mẹ con Lê Duy Kì bán nước và Tôn Sĩ Nghị ức hiếp

nước Nam nên chuốc lấy thất bại. Tờ biểu cũng đòi vua Thanh phải trả lại Lê Duy Kì để Tây Sơn trị

tội. Mặt khác, bài biểu cũng nói lên ý muốn triều cống, nhưng đồng thời cũng đanh thép khẳng định:

“Nay quân đội cốt ở chỗ đoàn kết một lòng, không cứ ở chỗ đông, binh lính quý ở chỗ tinh nhuệ,

không quý ở chỗ nhiều. Kẻ khéo thắng là ở chỗ vô cùng mềm dẻo chứ không phải ỷ mạnh lấn yếu, lấy

đông hiếp ít đâu. Nếu tình hình ở trên không được bày tỏ, thiên triều không khoan dung, muốn động

binh chinh chiến, thì nước nhỏ không được thờ nước lớn, tôi cũng đành nhờ trời mà thôi.

Nhân tiện nộp kèm tờ hịch của Tôn Sĩ Nghị ức hiếp tôi để gây ra chinh chiến”.

Xem biểu, Thang Hùng Nghiệp cả kinh, viết gửi tiếp mật thư thứ 3 để phân tích tính không

hợp của biểu dâng; đồng thời trong mật thư lại kèm mật thư thứ 4: “Ta xem tờ biểu, ta thấy lạ lùng và

sợ hãi quá! Như thế thì nước ngươi không cần phải là Đại hoàng đế phong vương cho mà muốn gây

mối binh đao vậy!”

Thang Hùng Nghiệp khuyên Tây Sơn nên làm bài biểu khác.

Tình thế căng thẳng, Thang Hùng Nghiệp bối rối, lo sợ ra sức khuyến dụ Tây Sơn giảng hòa

và dâng tờ biểu khác để xin sắc phong. Không để tình hình bế tắc và nguy hiểm vì vua Quang Trung

rất hiểu cái phức tạp của một nước nhỏ ở cạnh nước lớn luôn có ý đồ bành trướng; đồng thời nhà vua

cũng muốn sớm kết thúc cảnh binh đao để dân chúng yên ổn làm ăn. Việc bang giao khó khăn này

62

nhà vua trao phó cho Ngô Thì Nhậm, vì trước đây Quang Trung đã từng khẳng định: “Phi Ngô Thì

Nhậm không ai làm được”.

Quả thực, tài năng xuất chúng của Ngô Thì Nhậm đã biến cục diện phức tạp trong buổi đầu

chiến thắng quân Thanh thành mối quan hệ hòa hảo tương quí. Tây Sơn trong thế chủ động đã đạt

được nhiều thành quả ngoại giao quan trọng.

Bài Biểu trần tình (sau bài thứ I) của Ngô Thì Nhậm có lời lẽ mềm mại, nhún nhường khiến

Càn Long rất hài lòng:

“Tôi trộm nghĩ trong khoảng binh đao, thánh nhân cũng cho là sự vạn bất đắc dĩ. Đại hoàng đế

ở sâu chín tầng, công việc ngoài bờ cõi, Tôn Sĩ Nghị chưa từng tâu lên, che lấp tai trời, đến nỗi cơ sự

vỡ lở nhường ấy. Tôi thực đâu dám mang càng bọ ngựa chọi lại bánh xe. Chỉ vì cửa trời xa muôn

dặm, động một tí là bị kẻ bầy tôi ngoài ải hiếp đáp, không sao nhịn được, thành ra có vẻ dường như

chống lại thiên triều…Tôi đóng ở Long Biên, ngóng trông cửa trời, hiện có tờ biểu tỏ bày và tạ tội,

nhờ vị Phân Phủ Quảng Tây chuyển đệ tâu lên…

Lòng chầu về phương bắc, tha thiết mong chờ, hãi hùng khôn xiết. Nay kính tâu”. (Nguyễn

Lộc, 1982, tr.98-101).

Sau đó, hàng loạt những việc khó khăn khác, như: việc nước Nam đi chúc mừng lễ thượng thọ

vua Càn Long, đứng đầu phái đoàn chỉ là vua Quang Trung giả; việc vua Quang Trung không chịu

sang Yên Kinh nhận sắc phong. Vua Thanh đã nhượng bộ cử sứ thần sang Thăng Long để vua An

Nam thụ sắc, nhưng vua Quang Trung nhất định không ra Thăng Long nhận sắc mà ép sứ thần đem

sắc vào Thuận Hóa. Sứ thần nhà Thanh là Thành Lâm cho thế là trái lệ kiên quyết không vào Thuận

Hóa. Cuối cùng để cho êm đẹp, vua Quang Trung sai người cháu là Phạm Công Trị thay mình ra

Thăng Long nhận sắc.

Như vậy trong đối ngoại, nhất là đối với Trung Quốc, từ thời phong kiến cha ông đã ý thức

sức mạnh của quân sự Việt Nam sẽ đem lại nhiều kết quả tốt đẹp trong bang giao. Tuy nhiên, sức

mạnh ngoại giao còn ở chính nghĩa: sự quan tâm sâu sắc đến đời sống người dân Việt Nam và cả

người dân Trung Quốc đã làm cho tư tưởng và văn từ đủ sức mạnh đánh bại cái ác, cái phi nghĩa.

Thêm vào đó, lời lẽ mềm mỏng, nhún nhường “lấy nhu thắng cương” đã làm nên điểm đặc thù trong

bút pháp của văn chính luận Việt Nam.

3.4 LUẬN BÀN PHƢƠNG SÁCH NHẰM PHÁT TRIỂN KINH TẾ, TĂNG CƢỜNG SỨC

MẠNH QUÂN SỰ CHIẾN THẮNG QUÂN THÙ

Luận điểm trên đề cập đến một nội dung khá đặc sắc của văn chính luận trung đại Việt Nam.

Bối cảnh xã hội là đất nước Việt Nam vào thời thuộc Pháp.

Lịch sử phát triển của phương Tây gắn liền với việc mở mang thuộc địa bằng sức mạnh quân

sự. Pháp đến Việt Nam cũng bằng con đường ấy. Từ tháng 7/1858 Pháp nổ tiếng súng xâm lược đầu

tiên bắn vào cửa bể Đà Nẵng cho đến khi đặt xong ách bảo hộ Việt Nam (1884) là 26 năm. Quá trình

đó diễn ra nhanh chóng vì sự bất lực của triều đình nhà Nguyễn. Sau tiếng súng xâm lược đầu tiên của

Pháp, Nguyễn Tri Phương- quan Kinh lược sứ được đề cử làm Tổng đốc và Chu Phúc Minh là Đề đốc

vào chống với Quân Pháp và quân Y-Pha-Nho. Nguyễn Tri Phương lập đồn Liên Trì và đắp lũy dài từ

Hải Châu cho đến Phúc Ninh. Quân Pháp thấy sự chuẩn bị chu đáo và lòng quyết tâm chiến đấu của

quan dân nên Trung tướng Rigault De Genouilly quyết định bỏ Đà Nẵng tiến vào đánh Gia Định trù

phú và dễ chiếm.

Tiến đánh Sài Gòn, quân Pháp và Y-Pha-Nho có khoảng 1000 quân. Trong khi đó quân triều

đình có đến hàng vạn. Nguyễn Tri Phương lập đồn Kỳ Hòa rất kiên cố quyết đánh Pháp. Hai bên đánh

63

nhau mấy trận, nhưng phía ta dường như chỉ phòng ngự, không có khả năng tiến công vì quân lính ít

luYện tập, nhất là vũ khí qúa thô sơ.

Đến tháng 9 năm Canh Thân (1860), nhà Thanh bên Tàu kí hòa ước với Anh, Pháp, quân Pháp

tập trung về Việt Nam quyết lấy Gia Định.

Dưới sự chỉ huy của Trung tướng Charner, 70 chiếc tàu và 3.500 quân Pháp tiến đánh Gia

định. Hai ngày giao chiến dữ dội cả quân triều đình và quân Pháp đều thiệt hại nặng. Nguyễn Tri

Phương bị thương nặng, quân triều đình phải bỏ đồn Kì Hòa chạy về Biên Hòa.

Chiếm xong Gia Định, Pháp tiếp tục đánh chiếm Định Tường và biên hòa (1862). Đến năm

1867, Pháp chiếm nốt ba tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Như vậy, chưa đầy mười năm, Pháp

chiếm trọn lục tỉnh Nam kỳ.

Bối cảnh nước mất, sĩ phu Việt Nam tích cực hoạt động cứu nước trong đó có sự cống hiến tư

tưởng, phương cách cứu nước thông qua những bản điều trần. Xét ở phương diện thể loại, đó là những

áng văn chính luận xuất sắc của Nguyễn Trường Tộ.

64

Tác phẩm văn chính luận của Nguyễn Trường Tộ thể hiện tầm nhìn thời đại về hiện thực lịch

sử Việt Nam cũng như những chuyển biến nhanh chóng của cục diện thế giới. Giới sử học ghi nhận

Nguyễn Trường Tộ là nhà cải cách lớn của Việt Nam thế kỷ XIX.

Năm 1863, bước sang tuổi ba mươi ba, Nguyễn Trường Tộ đã thảo xong ba văn bản, làm

thành một kế hoạch hoàn chỉnh gửi lên triều đình Huế gồm: Tế cấp luận, Giáo môn luận, và Thiên hạ

phân hợp đại thế luận. Ba bản văn chính luận này xét về tầm quan trọng, chúng ta dễ nhận thấy tế cấp

luận có vị trí hàng đầu và sau đó là Thiên hạ phân hợp đại thế luận và Giáo môn luận.

Ở Giáo môn luận, tác giả xuất phát từ quan niệm của phương Đông: “Trộm nghĩ rằng cái đức

lớn của tạo vật là sự sống. Sống là gì? Là làm cho tạo vật bảo toàn thiên tính của nó”. Từ đó quan sát

lẽ hoá sinh của tạo vật để nhận biết lòng từ. Trên trời có sao sáng, mây đẹp thì cũng có gió lớn mưa

to; dưới đất có lúa có thóc tươi tốt thì cũng có cỏ xấu sâu độc. Tuy xấu tốt khác nhau, nhưng đều được

sinh nở không cái nào bị hại. Như vậy mới sáng tỏ cái đại toàn của trời đất. Từ đó tác giả liên hệ đến

vai trò của nhà vua. “Vua đối với dân là người thay trời mà chăn dắt, theo ý trời mà hành động. Và

bản chất, phẩm giá của người dân “phàm con người sinh ra trong trời đất, trung hiếu vốn là bản tính

chứ không phải cái gì giả tạo từ bên ngoài gán vào”. Song song với việc xác quyết lòng trung hiếu là

một phẩm giá của con người, tác giả bàn đến cội nguồn, sự phát triển cũng như đà hưng thịnh của

Công giáo. Nhưng điểm quan trọng nhất tác giả nhấn mạnh: “giáo dân cũng do tạo vật sinh dưỡng và

đạo giáo cũng do tạo vật bảo dưỡng” đặc biệt là “giáo dân cũng là một thành phần của nhân dân trong

nước” nên họ có lòng yêu nước. Đây cũng là một biểu hiện lòng yêu nước của Nguyễn Trường Tộ,

ông nỗ lực xây dựng tình đoàn kết mọi thành phần lương giáo làm nên sức mạnh dân tộc.

Thực vậy, Nguyễn Trường Tộ là một trí thức công giáo yêu nước. Suốt cuộc đời ông trăn trở,

học tập, sáng tạo, can đảm trình bày lên vua Tự Đức và triều đình những kiến văn, tri thức và đường

lối duy tân đất nước. Tuy nhiên, triều Tự Đức và thời cuộc bấy giờ phức tạp, nhà vua bối rối, lo lắng

nên tiếp nhận những kiến nghị của Nguyễn Trường Tộ mà không thực hiện được nội dung nào. Mặt

khác, trước họa Pháp xâm lăng, triều đình xuất hiện hai phe: phe chủ chiến và phe chủ hòa. Nguyễn

Trường Tộ thuộc phe chủ hòa nhưng mục đích củng cố thực lực để đánh Pháp. Tình thế phức tạp lại

thêm một phần khó khăn vì ông là người công giáo, đối tượng vốn bị nhà vua và triều đình nghi kị,

kết án. Cho nên những kiến nghị của ông cuối cùng chỉ là những di sản để lại nhiều tiếc nuối cho

người đời sau. Đọc 58 bản điều trần của ông, chúng ta nhận thấy rất rõ tư tưởng yêu nước mới, in đậm

chất thời đại của một con người hết lòng vì nước.

Dù không phải là một chính khách, một lãnh tụ, nhưng nổi bật trong việc làm, suy tư của

Nguyễn Trường Tộ là tư tưởng yêu nước, khí phách anh hùng. Dĩ nhiên khí phách ấy không phải bộc

lộ qua hành động người anh hùng chiến trận hay một chính khách mà thể hiện qua nhân cách, bản lĩnh

của một trí thức Việt Nam yêu nước.

Sinh ra trong một gia đình công giáo Nguyễn Trường Tộ gặp vô vàn khó khăn. Dù vậy, ông nỗ

lực hết sức tự “đề cử” mình để có thể góp phần xây dựng đất nước. Trong Bài trần tình,(Di thảo số 3)

có thể xem đó là lời tự bạch thống thiết, một sự “phơi trải” tấm lòng thành thực mong được “đèn trời”

soi tỏ. Đó là việc ông bộc bạch tâm tính: “Từ khi còn nhỏ, tôi thích yên tĩnh, không thích kinh đoanh,

không thích vợ con; những sự cầu danh, tham lợi, tôi đều coi như mây bay nước chảy”. Khi lớn lên

“tôi chu du các nước, những điều mắt thấy tai nghe góp vào một sự ích dụng lớn…thường người học

được như vậy thì dùng để cầu vinh, còn tôi thì dùng để đền đáp cái mà trời cho tôi học được”. Cụm từ

“còn tôi thì dùng để đền đáp cái mà trời cho tôi học được” thể hiện nét đặc thù trong tình cảm yêu

65

nước, tư tưởng chính trị của Nguyễn Trường Tộ. Nó có màu sắc quân chủ và phảng phất triết lí của

đạo Gia Tô. Dường như Nguyễn Trường Tộ quan niệm Vua, Thượng Đế, Ông Trời là một. Thượng

Đế cai quản muôn loài, Vua cũng thế. Ông Trời thi ân cho tạo vật chúng sinh, nhất là con người thì

Vua cũng làm ơn cho trăm họ và muôn dân phải tùng phục dốc sức làm việc để đáp đền ơn trên. Cho

nên Nguyễn Trường Tộ dùng học thức để đền đáp ơn Trời vừa chứa dựng tinh thần Nho giáo, vừa

phảng phất tinh thần dụ ngôn “Nén bạc” trong Phúc âm. Mặt khác, đọc “Ngôi vua là quý, chức quan

là trọng” (Di thảo số 13), chúng ta nhận thấy Nguyễn Trường Tộ cho rằng chế độ quân chủ là tốt đẹp,

nhưng quan niệm của ông có khác những sĩ phu đương thời vì nó đượm màu sắc dân chủ. Nhà nghiên

cứu Cao Tự Thanh nhận xét xác đáng rằng: “Người ta cũng thấy mệnh đề “ngôi vua là quý, chức quan

là trọng” trong một bản điều trần của ông (Nguyễn Trường Tộ), thực ra đã xuất phát từ cách đặt vấn

đề về tổ chức quản lí đất nước theo tinh thần pháp quyền tư sản, ở đó vua quan chỉ là những viên chức

trong hệ thống chính trị hành chính và đều phải làm tròn chức trách cũng như tuân thủ pháp luật, điều

này khác hẳn với tư tưởng tôn quân và quan niệm về trật tự xã hội theo truyền thống Nho giáo phương

Đông”. (Cao Tự Thanh, 1996, tr.123).

Lòng yêu nước của Nguyễn Trường Tộ thể hiện ở nhiệt huyết làm việc, ông không mệt mỏi

trong tìm kiếm, đề xuất những đường hướng duy tân (Lục lợi từ, Tế cấp bát điều, Kế hoạch thu hồi 6

tỉnh); thậm chí ông xin được trực tiếp đảm trách những công việc khó khăn, nguy hiểm (Kế hoạch

đánh úp Gia Định, Tiễu trừ giặc biển…). Mặt khác khi làm thông ngôn cho Pháp, ông luôn tìm hiểu

bộ máy thực dân, tìm hiểu công việc cai trị của chúng sẽ đưa đến những thiệt hại cho đất nước, những

khốn khổ cho người dân thì ông tìm cách mật báo triều đình. Khi biết rõ bộ mặt thực dân Pháp, ông

kiên quyết không hợp tác với chúng dù vẫn luôn ý thức làm việc cho chúng để tranh thủ việc ích quốc

lợi nhà. Hiểu rõ Pháp, ông căm ghét chúng, bộc lộ rõ rệt thái độ của mình. Có khi ông nhẹ nhàng chỉ

trích: cái xấu của thực dân lúc đầu tiềm ẩn như người đàn bà mới về làm dâu cái xấu chưa bộc lộ. Có

khi ông đánh giá sức mạnh của Pháp chỉ là nhất thời và “chuyện hưng vong, thịnh suy là điều vô

thường”. Những câu thơ ông gửi Phan Đại nhân: “Khói lửa trời Nam rồi sẽ dứt / Phương Tây binh

giáo tạm hùng thôi”, “Quảng Yên cá chậu sống bao lâu / Gia Định lừa kêu kế đã cùng” (Di thảo số

3)…cho thấy ông khẳng định Pháp không thật đáng sợ, và tin tưởng ta có thể đánh và sẽ đuổi được

Pháp.

Một điểm khác trong tư tưởng yêu nước của Nguyễn Trường Tộ đó là lòng yêu nước của một

trí thức hiện đại có tầm vóc thời đại.

Trong Thiên hạ đại thế luận, Lục lợi từ và Tế cấp bát điều, Nguyễn Trường Tộ đã trình bày

những vấn đề, những phương sách làm cho dân giàu nước mạnh. Thật đáng ngạc nhiên, từ nửa thế kỉ

XIX, Nguyễn Trường Tộ đã nhìn thấy và trình bày trong Lục lợi từ ý tưởng về sự liên minh với nước

khác tạo sự cân bằng thế lực để kềm chế lẫn nhau. Đó là một suy nghĩ mới, sâu sắc. Chúng ta cần giao

thiệp, liên kết với Anh, để kềm chế Pháp. Sau này sự phát triển của hai phe tư bản và xã hội chủ

nghĩa, cục diện thế giới vào thế cạnh tranh, đối lập, hai khối Nato (1949) và khối Warszawa (1955)

thành lập mục đích tạo sức mạnh kềm chế nhau.

Ở bản di thảo số 1, Bàn về những tình thế lớn trong thiên hạ, Nguyễn Trường Tộ viết: “Ngày

nay các nước phương Tây đã bao chiếm suốt từ Tây Nam cho đến Đông Bắc, toàn lãnh thổ châu Phi

cho tới Thiên Phương, Thiên Trúc, Miến Điện, Xiêm La, Tô Môn Đáp Lạp, trảo Nha, Lữ Tống, Cao

Ly, Nhật Bản, Trung Quốc và các đảo ngoài biển, kể cả Tây Châu, không đâu là không bị họ chẹn

họng, bám lưng”. Đó là thế mạnh của phương Tây không gì ngăn cản được.

66

Dường như Nguyễn Trường Tộ muốn thuyết phục triều đình tạm hoà với Pháp nên rất cố gắng

thuyết phục các quan chức trong triều nhất là người đứng đầu là vua Tự Đức. Tác giả lập luận thuyết

phục triều đình xuất phát từ quan niệm quen thuộc của phương Đông: thuyết Thiên mệnh. “Hãy nói

về thiên đạo trước. Khí đất là từ Bắc đến Nam, vận trời từ Tây sang Đông, theo Hà đồ thì thuỷ về

phương Bắc, hoả về phương Nam, kim ở phương Tây, mộc về phương Đông. Thuỷ diệt hoả, kim diệt

mộc, ấy lả lẽ tự nhiên của trời đất luôn luôn như vậy. Nhận thức thực tại, thế của người Âu như tằm

ăn cá nuốt; ở đâu thuận với họ thì phúc, trái với họ thì hoạ; ai hoà với họ thì được yên, ai cự lại thì

dùng binh lực giao tranh; trong thiên hạ không ai dám kháng cự lại họ. Như thế, nếu không phải là ý

trời định, địa thế xoay vần, thì sao không lấy số đông của bốn đại châu mà kháng cự lại người Tây

phương? Huống hồ nước Việt ta là một nước bé nhỏ, tại sao lại muốn trái đạo trời mà làm những việc

thiên hạ khó làm được?

Tiếp đến, Nguyễn Trường Tộ phân tích tình hình dựa vào kiến văn khoa học và thực tế thời

cuộc.

Trên, tác giả đã bàn sức mạnh bất khả kháng của phương Tây và đưa dẫn chứng: “Đến như

địa thế Trung Hoa chiếm một phần ba đông phương, nhân số đến 360 triệu, uy thế lẫy lừng, ai cũng

phải thần phục họ cả, thế mà từ đời Minh về sau, người Tây phương vượt biển sang Đông hai bên

đánh nhau thây chất thành đống, sau phải giảng hoà không biết bao nhiêu lần”. Tiếp đến, ông khẳng

định thực lực của Việt Nam hiện tại không thể đối địch với Pháp.

“Nếu như ngày kia Pháp đưa quân đến thì việc vượt biển cũng như đi trên đất bằng, trèo non

cũng như đi trên đường bộ đều không khó khăn. Nước ta tựa núi kề biển, địa thế như con rắn dài, nếu

họ dùng hoả thuyền chia nhau đánh cắt các tỉnh, rồi đổ bộ đánh những điểm xung yếu dọc bờ biển, lại

cho tàu lớn đậu ngoài biển triệt sự tải đường biển của ta, lại cho một đạo quân đóng giữ ở Hoành Sơn

để chặn tiếp tế bằng đường bộ và cắt đường qua lại của quân Cần Vương…” thì đã đẩy ta vào thế

hiểm nghèo. Tình thế ấy, thuỷ binh của ta trở nên vô dụng. Bộ binh thì đại lộ không thông, chỉ có

đường Vạn Tượng, Ai Lao, Trấn Minh và đất Cao Miên thì lại hiểm trở. Nếu họ đánh một trận thì ta

đã bị chia năm xẻ bảy.

Quân lính của ta lại chuyên dùng gươm giáo, gậy gộc, không thạo súng ống, dùng phục binh

cài bẫy, nhưng trận đồ như vậy chỉ hợp cho tình thế không cấp bách, chỉ đánh được gần chứ không

đánh được xa. Nếu họ dùng súng trường từ xa bắn tới thì quân ta chưa giáp trận mà gươm giáo đã tan

tành..”.

Xuất phát từ hiện thực lịch sử có những biến chuyển đặc biệt, Nguyễn Trường Tộ khảng khái

đề xuất: “Tôi thường nghiên cứu sự thế trong thiên hạ mà biết rằng hoà với Pháp là thượng sách. Hơn

nữa ở châu Âu, việc võ bị chỉ có nước Pháp là đứng hạng nhất, hùng mạnh nhất không thua ai cả. Họ

lại có tính khảng khái, hiếu chiến, với uy phong của một quân đội có xe sắt” (Bàn về những tình thế

lớn trong thiên hạ, di thảo số 1). Điểm quan trọng cần nói, Nguyễn Trường Tộ bàn hòa với Pháp

nhưng chỉ tạm thời để chúng ta có thời gian tăng cường sức mạnh kinh tế, quân sự đánh đuổi Pháp.

Chính vì vậy, trong Bài trần tình (di thảo số 3), ông viết: “Chuyện hưng thịnh, suy vong là điều vô

thường. Tôi lại đem những lợi hại của người phương Tây xa xôi ra so sánh để thấy rằng chúng mạnh

chỉ là tạm thời mà dễ yếu, còn ta tuy yếu mà dễ mạnh được lâu dài.

Tấm lòng yêu nước, nhận thức thời cuộc và niềm tin vào tương lai, Nguyễn Trường Tộ khẳng

định mạnh mẽ “ hòa với Pháp là thượng sách”, “sự thế hiện nay chỉ có hòa. Hòa thì trên không cưỡng

67

lại ý trời, dưới có thể làm cho dân khỏi khổ, chấm dứt được sự dòm ngó của bọn gian nghịch, ngăn

chặn được sự tranh giành của nước ngoài, thật là hay không thể kể xiết”. Song song việc chủ hòa là

những đề xuất cải cách nhằm chấn hưng kinh tế, tăng cường sức mạnh quân sự, tạo thời cơ đánh đuổi

Pháp.

Bản di thảo số 5: Kế hoạch làm cho dân giàu nước mạnh. Mở đầu bản văn, tác giả trích dẫn tư

tưởng Mạnh Tử: “Địch quốc ngoại hoạn” (nước thù địch hoạn nạn từ bên ngoài. Mạnh tử nói: nước ta

không có địch quốc ngoại hoạn thì thường dễ bị mất); đồng thời cũng đề cập học thuyết của Đổng

Trọng Thư thuyết về “Thiên tâm nhân ái” (Đổng Trọng Thư nói: lòng trời yêu thương con người nên

sinh ra nhiều chuyện bắt con người phải suy nghĩ, tính toán).

Như vậy, tất cả những biến cố phức tạp đang diễn ra ở Việt Nam không nằm ngoài tư tưởng

thiên mệnh. Điểm quan trọng là kẻ sĩ và nhất là bậc thiên tử phải thấu hiểu mệnh trời và phải biết

hành động đúng thiên mệnh.

Những việc làm cấp bách khác ông đề xuất như: làm hạt nổ, đúc súng, chế tạo ngũ kim, thị

học, trọng học, các phép khai mỏ…để tăng sức mạnh quân sự và làm cho nước giàu dân mạnh. Trong

Giáo môn luận, ông đề nghị nhà vua cho tự do tôn giáo, không phân biệt người lương, người theo đạo

để tạo sức mạnh đoàn kết dân tộc. Ở Tế cấp bát điều có nội dung rất phong phú. Có thể nói bản điều

trần này thể hiện cái nhìn toàn diện của tác giả về thực trạng trì trệ, lạc hậu của xã hội Việt Nam và

tính chất khẩn thiết phải canh tân đổi mới. Những việc phải làm gấp rút như: chấn chỉnh võ bị, sáp

nhập một số tỉnh, huyện để giảm bớt quan lại, đánh thuế xa xỉ, chấn chỉnh học thuật, sửa sang cương

giới, thống kê nhân khẩu, lập viện dục anh, trại tế bần.

Tất cả những đề nghị cải cách trên thể hiện tầm nhìn, tư tưởng của một trí thức hiện đại. Qua

việc trình quan những vấn đề quan trọng này, Nguyễn Trường Tộ trở thành nhà văn chính luận có

phong cách đặc biệt.

* Tiểu kết

Nhìn chung, về phương diện nội dung tư tưởng, có thể nói, trải mười thế kỉ văn chính luận

trung đại Việt Nam gắn bó sát sao với hiện thực đất nước đã đề cập, luận bàn, tranh đấu cho những

vấn đề lớn lao, linh thiêng của tổ quốc, dân tộc. Từ việc khẳng định tổ quốc, dân tộc, tranh đấu cho

quyền sống, quyền tự do của nhân dân; khẳng định sức dân như sức nước, cứu dân khẩn cấp hơn cứu

người chết đuối, đến việc tăng cường sức mạnh quân sự, phát triển văn hóa, kinh tế, chấn hưng đất

nước, văn chính luận đã hoàn tất xuất sắc sứ mệnh đó.

Tiếp nhận tư tưởng văn hóa, triết học Trung Quốc, nhất là Nho giáo, song tư tưởng văn chính

luận trung đại Việt Nam đã tạo ra một thứ “Nho giáo Việt Nam” đỉnh cao là tư tưởng nhân nghĩa sâu

sắc, phong phú, có sức mạnh làm nên chiến thắng diệu kì “chẳng đánh mà người tự khuất”. Đó là sự

cống hiến lớn lao của nhà tư tưởng, nhà chính luận Nguyễn Trãi.

Đến thời Tây Sơn, ý thức dân tộc và thiên tài quân sự kết tinh nơi Nguyễn Huệ- con người là

sự chung đúc của hùng khí núi rừng Tây Sơn; ý chí sức mạnh cũng quyện chặt trong lời hịch đánh

Thanh đanh thép “đánh cho để dài tóc, đánh cho để răng đen”…đã thần tốc đuổi gần ba mươi vạn

quân Thanh về nước khiến viên tướng tổng chỉ huy tháo chạy người không kịp mặc giáp, ngựa không

kịp đóng yên. Thiên tài quân sự và dũng khí của Nguyễn Huệ lại trùng phùng cùng một trí tuệ uyên

thâm, sâu thẳm của nhà chính luận- ngoại giao Ngô Thì Nhậm đã đưa tư tưởng chính trị thời Tây Sơn

lên đỉnh cao của thời đại.

68

Có thể thấy từ Nguyễn Trãi đến Ngô Thì Nhậm, tư tưởng nhân nghĩa của dân tộc Việt Nam

vẫn có một mạch sống ngầm mà sâu sắc, mãnh liệt. Nguyễn Trãi dùng nhân nghĩa vừa để tranh biện

vừa đi vào thực hành. Còn Ngô Thì Nhậm cũng dựa trên nền nhân nghĩa để định hướng, dẫn dắt đưa

triều Tây Sơn đi trên đường lớn. Thời Tây Sơn, nhân nghĩa không phải là thứ triết lí dùng để tranh

biện mà là hải đăng soi đường, là chỉ nam thực hành. Tư tưởng nhân nghĩa trong những bài văn đối

nội luôn hướng tới khẳng định: “Nhân, nghĩa, trung, chính là đầu mối lớn lao của đạo làm người”

(Chiếu lên ngôi). Chính sách đối ngoại, chiều sâu nhân nghĩa ẩn sâu trong sự khéo léo, mềm mỏng ở

văn từ ngoại giao “nên kinh thời kinh, nên quyền thời quyền” miễn sao giữ được sự hòa hiếu để “trăm

họ được hưởng thái bình”. Tiến xa hơn nữa, tư tưởng ấy còn dẫn dắt những bước đi ngoạn mục của

triều Tây Sơn nhằm đòi lại đất đai của tổ quốc mà phương Bắc đã chiếm đóng.

Những năm cuối thế kỉ XIX, tiếp nhận tư tưởng hiện đại phương Tây, các nhà chính luận Việt

Nam đã có nhận thức mới, toàn diện về đất nước, thời cuộc. Tư tưởng chính luận của Nguyễn Trường

Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, Phan Châu Trinh có thể được xem là một cuộc cách mạng về chính trị, văn hóa

triển vọng mở ra thời đại mới văn minh, tiến bộ cho đất nước, dân tộc.

69

CHƢƠNG 4

VĂN CHÍNH LUẬN TRUNG ĐẠI VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC

TIẾP BIẾN VÀ PHÁT TRIỂN Ở PHƢƠNG DIỆN NGÔN NGỮ, THỂ LOẠI

4.1 TIẾP NHẬN HÁN NGỮ, PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ DÂN TỘC

Chữ viết là một thành quả văn minh vĩ đại. Dân tộc Việt Nam có chữ viết từ bao giờ? Phải

chăng chữ viết của ta đã có từ thời cổ xưa.

Sách Thánh Tông di thảo chép: Vua Lê Thánh Tông nằm mộng thấy người con gái thời Lí Cao

Tông dâng thư bày tỏ nỗi oan khuất. Thư viết bằng chữ ngoằn ngoèo như giun bò không ai đọc được.

Sau đó, vua được thần linh mách bảo, đó là chữ viết cổ xưa của dân ta.

Sách Tiền Hán thư, một cổ sử của Trung Hoa ra đời dưới thời Đông Hán cũng ghi rằng: Ngay

từ thời Đào Đường (khoảng thiên niên kỉ thư 2 trước Công nguyên) người Việt đã có lối chữ riêng

trông như con nòng nọc. (Đặng Đức Siêu, 2004, tr.3-4)

Trong sách Thanh Hóa quan phong, Vương Duy Trinh, một nho sĩ thế kỉ XIX cũng nói đến

thứ chữ cổ của ta có dạng giống như chữ cổ ở vùng Mường Thanh Hóa.

Như vậy, có thể khẳng định chữ viết của ta có từ xa xưa. Nhưng sau đó, chữ viết cổ của Việt

Nam đã không tồn tại. Chúng ta đã mượn chữ Hán của Trung Quốc và sử dụng nó trong thời gian dài

hàng trăm năm. Do vậy, việc nghiên cứu những thư tịch bằng chữ Hán rất quan trọng.

Tiến hành công việc này trên cơ sở ý thức và chú trọng:

Nghiên cứu vấn đề chữ Hán ở Việt Nam không tách rời những kì công biểu lộ tài trí thông

minh của dân tộc trong công cuộc Việt hóa ngôn ngữ Hán cổ trên cả 3 mặt: âm đọc, ý nghĩa, pham vi

sử dụng.

Kết quả cụ thể của công cuộc lớn lao này là sự xuất hiện hàng loạt văn bản Hán văn cổ của các

tác giả Việt Nam bao gồm đủ loại thể, chứa dựng nội dung phong phú, sâu sắc, đậm đà sắc thái dân

tộc, rất độc đáo, sáng tạo, có giá trị học thuật và nghệ thuật cao.

Mặc dù nhà nước phong kiến Việt Nam coi chữ Hán là “quốc gia văn tự”, nhưng thực chất nó

được dùng trong phạm vi hẹp. Lĩnh vực hoạt động của nó là hành chính, học hành, thi cử. Còn hoạt

động ngôn ngữ sống động của toàn dân là tiếng Việt. Đây là nguyên nhân sâu xa và trực tiếp thúc đẩy

sự ra đời của chữ Nôm.

Phân tích một số trường hợp cụ thể để thấy các nhà chính luận sử dụng chữ Hán kết hợp tư

tưởng triết học Trung Hoa để khẳng định, tranh biện những vấn đề quan trọng, thiêng liêng.

Trước hết là vấn đề chủ quyền độc lập của Việt Nam. Nam quốc sơn hà- bài thơ của Lí

Thường Kiệt- cho đến nay vẫn là bài thơ sớm nhất nói về chủ quyền độc lập của Việt Nam. Bài thơ từ

xưa vẫn được giới nghiên cứu phê bành xem là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc.

Tính chất tuyên ngôn nêu rõ ở hai câu đầu: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư / Tiệt nhiên định

phận tại thiên thư”. Ở những văn kiện tuyên ngôn, điều quan trọng nhất là chữ nghĩa phải chính xác,

nội hàm phải sâu sắc. Câu mở đầu bài thơ đã xuất hiện những từ quan trọng, thiêng liêng. Ít nhất

chúng ta cũng thấy ngay từ “quốc” và từ “đế” rất quan trọng, đặc biệt là từ “quốc”. Theo ý kiến của

nhà nghiên cứu Trần Đình Sử khi dịch từ “quốc” không nên chuyển thành non sông, núi sông, bởi

“non sông”, “núi sông” chưa phải là nước. Nước là một lãnh thổ có biên giới phân biệt với nước khác,

lại có vua và tổ chức chính quyền cai trị. “Nước Nam” là nước bởi nó phân biệt với “nước Bắc”, lại

có vua Nam ở, tức là một nước có chủ quyền. Chỉ câu thứ nhất đã thể hiện đầy đủ ý thức quốc gia

của bài thơ”. (Trần Đ Sử, 2001, tr.9).

Nghiên cứu ở góc độ từ nguyên, góc độ lịch sử của từ “quốc”, tác giả Đặng Đức Siêu chỉ rõ

lịch sử hình thành từ này sẽ thấy rõ tác giả bài thơ ý thức sâu sắc và minh nhiên khẳng định với “nước

70

Bắc” rằng “nước Nam” có độc lập, có chủ quyền, có ý thức khẳng định kiên quyết chủ quyền ấy và có

sức mạnh bảo vệ chân lí hiển nhiên này. Câu thứ 2 nêu cơ sở pháp lí của chủ quyền đất nước. Theo

quan niệm ngày xưa thì đất trời có một mối tương thông, một liên hệ nhất thống. Mỗi một vùng trời

đều ứng với một vùng đất. Theo đó thì vùng sao Dực, sao Chẩn ứng với vùng đất “nước Nam”, tức

vùng Bách Việt. Sử sách ngày nay còn lưu truyền câu đối thú vị:

Dực Chẩn sơn hà cao chính khí

Lạc Hồng vũ trụ lẫm linh thanh.

Dịch:

Dực Chẩn non sông cao chính khí

Lạc Hồng trời đất dấy linh thanh.

Câu này cho biết nước Lạc Hồng định biên giới giữa sao Dực, sao Chẩn. Liên hệ với

câu trong Đằng vương các tự của Vương Bột: Tinh phân Dực Chẩn, Địa tiếp Hoành

Lư. Như vậy vùng đất tinh phân Dực Chẩn chẳng phải Việt Nam hay sao?

(Trần Lê Sáng, Phạm Kì Nam, Pham Đức Duật, 2008, tr.264)

Một trong những giai đoạn lịch sử văn chính luận phát triển đạt những thành tựu cao là vào

đầu thế kỉ XV trong cuộc kháng Minh 10 năm (1418-1427) của Lê Lợi. Người được Lê Lợi giao trọng

trách giao thiệp với nhà Minh là Nguyễn Trãi. Trong 10 năm đấu tranh chống giặc bằng sức mạnh

quân sự và cả sức mạnh “đao bút”, Nguyễn Trãi đã để lại 68 bài văn chính luận xuất sắc. Ngôn ngữ

trong những áng văn đặc sắc này, giới nghiên cứu vẫn phát hiện thêm những đặc sắc khi nghiên cứu

từ ở góc độ từ nguyên hoặc ở góc độ văn hóa.

Tuy nhiên độ sâu, tính hàm súc của văn từ vẫn là nghĩa của từ gắn liền với những nội dung tư

tưởng triết học Trung Hoa.

Một số cặp phạm trù Nguyễn Trãi dùng để thuyết minh, soi sáng hoặc thuyết phục, tranh biện

với các tướng lĩnh nhà Minh mà chúng ta thường gặp là các cặp phạm trù “nhân - nghĩa”, “tín –

thành”, “thời – thế”…

Trong bức thư thứ 9, gửi Tổng binh Vương Thông và Thái giám Sơn Thọ, Nguyễn Trãi sử

dụng ngôn ngữ nhã nhặn, thể hiện chiều sâu văn hóa tác động vào nhận thức của Sơn Thọ, nhất là

Vương Thông được đánh giá là viên tướng già giặn chiến trường và am hiểu thi thư.

“Ngay những dòng đầu tiên, Nguyễn Trãi viết: “Tôi nghe, trời đất đối với muôn vật tuy có khi

giận dữ sấm sét mà ý hiếu sinh vẫn ngầm bên trong; cha mẹ đối với con cái, dẫu có lúc trách mắng roi

vọt mà ơn cúc dục vẫn có ở đấy. Cúi nhận được thư đại nhân hứa cho sửa lỗi, tôi khôn xiết hân hạnh,

thật là đức lớn của trời đất, cha mẹ…” (Bộc văn thiên địa chi ư vạn vật giả, lôi đình chấn nộ, nhi sinh

sinh chi đạo hành hồ kì gian; phụ mẫu chi ư chúng tử giả, tiên si khiển trách, nhi cúc dục chi ân tại hồ

kì tế. Phục mông đại nhân thư, hứa dĩ tự tân, bất thăng hân hạnh. Thành thiên địa phụ mẫu chi đại đức

dã…).

Bối cảnh bức thư Nguyễn Trãi gửi cho Vương Thông, Sơn Thọ là vào tháng 10 năm Bính Ngọ

(1426), nhà Minh phái Vương Thông làm Tổng binh đem 5 vạn binh sang cứu thành Đông Quan. Một

bộ phận quân địch do Phương Chính, Lý An chỉ huy rút về đây. Số quân địch tập trung về Đông quan

lên đến 10 vạn. Sau một tháng cầm cự, và sau khi cuộc hành quân lớn của địch nhằm giành lại thế chủ

động và quét sạch lực lượng nghĩa quân ở vùng ngoại vi Đông Quan bị thất bại hoàn toàn, Vương

thông và Sơn Thọ phải gửi thư xin giảng hòa. Thư Nguyễn Trãi phúc đáp vào khoảng tháng 11 năm

Bính Ngọ (tháng 12 năm 1426).

Như vậy, trong chiến dịch đánh đuổi quân Minh, ta đang ở thế kiểm soát, làm chủ tình hình.

Tuy nhiên, nhằm mục đích “chẳng đánh mà lòng người chịu khuất, ta mưu phạt tâm công”, Nguyễn

Trãi đã dùng lời văn khiêm hạ và nội dung nhân nghĩa, trọng nghĩa, trọng đức để thuyết phục những

người đứng đầu quân Minh đi đến việc bãi binh, nhân dân bớt đổ máu và mở nền thái bình lâu dài.

71

Ngôn ngữ trong thư không chỉ nhã nhặn mà nội hàm ngôn ngữ còn chứa đựng nội dung đạo

đức cao sâu mang có màu sắc triết đạo.

Chúng ta biết trong Kinh Dịch, quẻ thứ 24: Quẻ Phục ((復) (gồm chấn dưới nghĩa là “lôi”

(sấm); “khôn” ở trên, là “địa” (đất). Quẻ này nói: phục kiến kì thiên địa chi tâm hồ, nghĩa là: xem Quẻ

Phục thì thấy lòng của trời đất. Trong “Quẻ Phục, tuy là có sấm, nhưng lại gồm một hào dương ở dưới

và 5 hào âm ở trên, nói lên cái tâm sinh hóa vô tận của trời đất

Từ một vấn đề triết học kinh điển mà bất kì một người có đọc thi thư đều biết là “cái tâm sinh

hóa của trời đất”, nghĩa là trời đất có khi nổi giận tạo sấm dông chớp giật nhưng cũng có khi mưa

thuận gióa hòa; có mùa đông giá lạnh tạo vật hoang tàn thì cũng có mùa xuân ấm áp cho cây cối đâm

chồi này lộc, tác giả hướng vấn đề về cuộc sống con người. Đó là tấm lòng cha mẹ đối với con cái. Dù

rằng đôi khi cha mẹ giận dữ trừng phạt con cái bằng roi vọt nhưng ơn cúc dục lại vô bờ. Bậc cha mẹ

ai lại không cưu mang và người con nào lại không thấu hiểu “đội ơn 9 chữ cao sâu…” để ngợi ca

công đức sinh thành của cha mẹ. (9 chữ ấy gồm: sinh (đẻ), cúc (nâng đỡ), phủ (vuốt ve), trưởng (nuôi

cho lớn), dục (nuôi, dạy dỗ), cố (trông nom), phục (xem tính tình mà dạy bảo), phúc (gìn giữ). Như

vậy, đi từ một vấn đề có tính triết lí về vũ trụ, tác giả hướng suy tư của những viên tướng đứng đầu

quân đội nhà Minh về vấn đề con người, vấn đề xã hội nhân sinh- vua quan là bậc cha mẹ của dân.

Trong tranh biện cách kết hợp lí và tình tế nhị, chặt chẽ, sâu sắc như vậy khiến đối phương vừa được

ve vuốt, đề cao, vừa được thức tỉnh một cách vô thức về lương tri, lương năng mà thực lòng hòa hiếu,

đó chính là cái cao tay về ngoại giao cũng như tài học của Nguyễn Trãi thể hiện xuất sắc. Tác giả

Trần Đình Hượu có bài viết Nguyễn Trãi và Nho giáo (Nguyễn Hữu Sơn sưu tầm, tuyển chọn, 2007,

tr.94) có xác định luận điểm “Nêu nhân nghĩa làm công lí, vận dụng Nho giáo chống quân Minh xâm

lược cũng đã phân tích, khẳng định sâu sắc nội dung này.

Về chữ trí trong truyền thống Nho giáo:

Hán tự ghép chữ “tri” và chữ “viết” thành chữ trí (智). Tri biểu thị cái hiểu biết nhanh như tên

bay; “nhật” chỉ sự sáng suốt tỏ rạng tựa ánh mặt trời. Khổng Tử quan niệm người có nhân tất có trí.

Vị trí của trí luôn đứng sau nhân. Nho giáo với thuyết nhân, nghĩa ,lễ, trí, tín thì trí đứng vị trí thứ tư.

Còn thuyết tam lập (tam bất hủ) thì “trí” ở vị trí thư 3: lập đức, lập công, lập ngôn. Như vậy, đức luôn

được đặt ở vị trí cao hơn trí. Về chữ tài và chữ tâm, tài phải đứng sau tâm (chữ tâm kia mới bằng ba

chữ tài).

Truyền thống Nho giáo trọng nhân nghĩa mà khinh quyền mưu. Chỉ bất đắc dĩ thánh nhân mới

dùng quyền, nhưng dùng quyền vẫn không đồng nghĩa với quyền mưu. Chính Nguyễn Trãi cũng

khẳng định vấn đề này:

Quyền mưu bản thị dụng trừ gian,

Nhân nghĩa duy trì quốc thề an

(Hạ qui Lam Sơn 1)

Đối với bọn giặc phương Bắc xâm lược, Nguyễn Trãi phải dùng quyền mưu vì ông hoàn toàn

không ảo tưởng có thể thuyết phục chúng bằng nhân nghĩa, lẽ phải. Do vậy, trong những hoàn cảnh

đặc biệt phải nhún nhường, kềm chế để tránh sức mạnh của chúng cũng như sự tàn ác chúng có thể

đem đến cho nhân dân. Thư đầu tiên phía nghĩa quân Lam Sơn gửi cho Sơn Thọ, Mã Kì là thư xin

hàng. Tình thế nghĩa quân lúc này cùng quẫn. Năm Nhâm Dần (1442), vua về đến núi Chí Linh, hai

tháng hết lương thực, chỉ ăn rau cỏ và măng tre mà thôi. Lúc bấy giờ quân sĩ mỏi mệt, muốn được

nghỉ ngơi, khuyên vua hòa với giặc. Trong bức thư, mở đầu là lời than thở về thực cảnh, tôi sinh

trưởng nhằm minh thời, mà từ phải thở than về cảnh mất chỗ ở yên. Tội lỗi tất cả đổ lên đầu Đỗ Phú

là người đồng hương với Lê Lợi đã gây ra những hiểu lầm giữa Lê Lợi và “thiên triều”. Thực chất câu

72

chuyện chỉ là việc giải quyết mâu thuẫn giữa Lê Lợi và người đồng hương. Rõ ràng thư đã tránh tất cả

những liên quan của cuộc khởi nghĩa với quân lính và những đại thần của “thiên triều”, biến một việc

to lớn, phức tạp thành câu chuyện nội bộ và việc giải quyết hiềm khích do tức giận, nóng này.

Đây chỉ là bước đầu, Nguyễn Trãi dùng thư từ trao đổi với các tướng lĩnh quân giặc. Phải đến

khi Vương Thông sang thay Sơn Thọ, cuộc chiến văn bút, cuộc chiến trên mặt trận ngoại giao mới

thực sự là cuộc đấu trí và chúng ta mới thấy rõ chữ “trí” của Nguyễn Trãi, của Lê Lợi biến hóa linh

hoạt thể hiện tài trí, đức độ của dân tộc kết tinh nơi những người con ưu tú lãnh đạo cuộc chiến khó

khăn, gian khổ trước quân thù hùng mạnh, gian ác và vô cùng nham hiểm.

Cuộc đấu trí của Nguyễn Trãi với Vương Thông- viên tướng dạn dày kinh nghiệm, thâm hiểm

và có kiến thức thi thư đã đưa những bức thư của Nguyễn Trãi lên hàng tuyệt bút. Nguyễn Trãi giữ lễ

trong đối đáp và cũng vận dụng thi thư trong tranh biện. Chẳng hạn, Vương Thông trách Lê Lợi

không thành, tức không thành khẩn, vì thất lễ trong việc nước nhỏ đối với nước lớn; nước nhỏ phải là

bề tôi vâng phục không được chống lại “thiên triều”. Nguyễn Trãi cũng trách Vương Thông không

thành, tức không thành tín:

“Kể ra người dùng binh giỏi là biết rõ thời thế mà thôi. Được thời có thế thì biến mất thành

còn, nhỏ hóa ra lớn; mất thời thất thế thì mạnh hóa ra yếu, yên lại chuyển nguy. Sự thay đổi chỉ trong

khoảnh khắc như trở bàn tay mà thôi.

Nay các ông không hiểu rõ thời thế, lại trang sức bằng lời dối trá, thế chẳng phải là bọn thất

phu hèn kém ư? Sao đáng để cùng bàn việc binh được? Trước đây thì bề ngoài tìm cách giảng hòa,

bên trong ngầm mưu gian trá, cứ đào hào, đắp lũy, ngồi đợi viện binh…” (Thư số 35, Thư lại dụ

Vương Thông).

Rõ ràng Nguyễn Trãi không nhằm thuyết phục Vương Thông bằng nhân nghĩa. Điểm chính,

Nguyễn Trãi muốn phân tích triệt để cho Vương Thông thấy chúng thua là tất yếu. Sau khi đã gay gắt

chỉ trích Vương Thông: “Các ông không hiểu sự thế, bị người đánh thua, lại còn chực mượn cái oai

Trương Phụ, thế là đấng đại trượng phu chăng?...Sự thế ngày nay, cho dẫu ngôi cao (tức chỉ vua

Minh), có đem quân cả nước sang chăng nữa cũng chỉ thúc nhanh sự bại vong mà thôi, huống hồ là

Trương Phụ chỉ tự đến đem nộp mạng thì đâu có gì đáng nói!”. Sau đó, Nguyễn Trãi thẳng thắn chỉ

thẳng cho Vương Thông biết có 6 điều chúng phải thua:

“Nay tính hộ các ông thì có 6 điều phải thua:

Nước lũ mùa hạ chảy tràn, cầu ván, rào lũy sụp lở, củi cỏ thiếu thốn, ngựa chết, quân ốm. Đó

là điều phải thua thứ nhất.

Xưa Đường Thái Tông bắt Kiến Đức mà Thế Sung ra hàng. Nay các con đường, cửa ải xa xôi

hiểm trở đều bị binh lính và voi chiến của tôi dồn giữ, nếu viện binh có đến thì muôn phần tất

phải thua, bọn các ông tất bị bắt. Đó là điều phải thua thứ hai.

Quân mạnh, ngựa khỏe nay đều đóng cả ở biên giới phía Bắc để phòng bị quân Nguyên,

không rỗi nhìn đến miền Nam. Đó là điều phải thua thứ ba.

Luôn luôn động binh đao, liên tiếp bày đánh dẹp, dân sống không yên, nhao nhao thất vọng.

Đó là điều phải thua thứ tư.

Gian thần chuyên chính, bạo chúa giữ ngôi, người cốt nhục hại nhau, chốn cung sinh biến. Đó

là điều phải thua thứ năm.

Nay tôi dấy nghĩa binh, trên dưới cùng lòng, anh hùng hết sức, quân sĩ càng luyện, khí giới

càng tinh, vừa cày ruộng lại vừa đánh giặc. Còn quân sĩ trong thành thì đều mỏi mệt, tự chuốc

bại vong. Đó là điều phải thua thứ sáu”.

(Thư lại dụ Vương Thông, thư số 35).

Tác giả kết hợp phân tích sức mạnh quân sự và thời cuộc biến đổi, khẳng định, chỉ rõ sức

mạnh của ta và sự suy yếu của quân địch. Chiến cuộc căng thẳng, quân Thanh phải cố thủ trong thành,

73

trong tình hình phải cứu quân thiên triều, rất có thể viên binh lại đến, nhưng Nguyễn Trãi chỉ rõ “nước

xa không cứu được lửa gần”, Vương Thông tất phải thất bại. Chữ “trí” ở đây rất khác chữ trí của Nho

giáo chỉ dựa vào đức, nhất là đức nhân của người quân tử.

Những phân tích trên cho thấy Nguyễn Trãi đã sử dụng chữ Hán và học thuyết Trung Hoa một

cách chủ động, sáng tạo, tấn công những đòn cân não khiến viên tướng có thi thư không khỏi kinh sợ,

tư tưởng bấn loạn, hoang mang cực độ.

Bàn thêm về chứ trí, chúng ta càng khẳng định việc sử dụng chữ Hán của tiền nhân rất chủ

động, sáng tạo.

Phạm trù trí tuệ trong các học thuyết triết học Trung Quốc thường gắn liền với chữ trí. Tuy

nhiên, Khổng Tử dường ít đề cập đến chữ trí. Chữ trí chỉ xuất hiện hai lần trong Kinh Thi, một lần

trong Kinh Lễ. Đối với Tứ Thư, Ngũ Kinh, chữ trí không thấy xuất hiện trong các sách Đại học,

Trung dung, Luận ngữ. Trong sách Mạnh Tử, chữ trí xuất hiện 27 lần.

Mạnh Tử quan niệm chữ “trí” hay trí tuệ là năng lực học tập không mệt mỏi, giống như Khổng

Tử từng nói “học nhi bất yếm, hối nhân bất quyện” (học mãi không chán, dạy người không mỏi). Sách

Mạnh Tử dẫn lời Tử Cống: “Học chẳng chán là trí, dạy người không mỏi là nhân. Đã nhân lại trí, Phu

Tử là thánh rồi vậy. Mặt khác, trí tuệ còn là năng lực nhận thức và hành động đúng đắn trước mọi vấn

đề của con người và xã hội. Tề Tuyên Vương hỏi Mạnh Tử “giao thiệp với các nước cũng có qui tắc

chăng? Ông trả lời: “Có! Chỉ có người nhân mới biết đãi với nước nhỏ; chỉ có người trí mới biết thờ

nước lớn”. Trong chương Công Tôn Sửu thượng, Mạnh Tử còn nói: “Lòng trắc ẩn là đầu mối của điều

nhân, lòng tu ố là đầu mối của điều nghĩa, lòng từ nhượng là đầu mối của lễ, lòng thị phi là đầu mối

của trí”. Trong quan niệm của Mạnh Tử, ông thường đặt “trí” như một phẩm chất của “nhân”. Trong

chương Li Lâu thượng, Mạnh Tử viết: “Yêu người mà người không thân ái, hãy xét lại lòng nhân của

mình. Sai khiến người mà người không phục, hãy xét lại trí sáng suốt của mình. Giữ lễ với người,

chẳng được đáp ứng, hãy xét lại thái độ của mình đã đủ cung kính chưa. Làm bất cứ việc gì không

được toại nguyện đều nên xét lại bản thân. Bản thân ngay thẳng, mọi người đều theo về” (Li Lâu

thượng, 4).

Eleanor Roosevelt – chính khách và là đệ nhất phu nhân Hoa Kì (những năm 1933-1945),

người đi tiên phong về vấn đề nhân quyền, nhất là ủng hộ nữ quyền từng nói: “Những trí óc lớn lao

bàn luận về tư tưởng, những trí óc trung bình bàn luận về sự kiện, những trí óc nhỏ bé bàn luận về con

người”. Cuộc tranh biện giữa Nguyễn Trãi và Vương Thông xưa kia là cuộc đấu trí về tư tưởng, có uy

vũ của sức mạnh quân sự can dự, đó là một cống hiến mới trong đối ngoại với phương Bắc của

Nguyễn Trãi. Chữ “trí” chứa đựng phẩm chất đạo đức không phải nguyên tắc đạo đức nghiêm ngặt

của kẻ sĩ mà là đạo đức gắn liền với hạnh phúc người dân : “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân. Quân

điếu phạt trước lo trừ bạo” (Cáo bình Ngô, Nguyễn Trãi”. Chữ “trí” ấy còn bao gồm một tầm hiểu biết

rộng về tình hình thế giới; vận dụng những biến đổi thời thế bao vây đối phương về tư tưởng và sức

mạnh quân sự, làm tiêu tan ý chí quân thù, buộc chúng phải chấp nhận đầu hàng. Chữ “trí” ấy hoàn

toàn khác quan niệm xưa của Khổng Mạnh “trí” như là hệ quả của “nhân”, là hệ quả của nhân và thấp

hơn nhân.

Những phân tích trên cho thấy, dân tộc ta tiếp nhận Hán ngữ và tư tưởng Nho giáo, trong quá

trình sử dụng, cha ông đã đem đến cho ngôn ngữ và tư tưởng những nội dung bổ sung làm phong phú

ý nghĩa nâng cao hiệu quả sử dụng.

4.2 VĂN CHÍNH LUẬN TRUNG ĐẠI VIỆT NAM TIẾP BIẾN MỘT SỐ THỂ LOẠI VĂN

HỌC TRUNG ĐẠI TRUNG QUỐC

4.2.1 Các thể loại chiếu, cáo

Thể loại chiếu

74

Những thư tịch của Trung Quốc không thấy bàn sâu về thể chiếu. sách Văn tuyển và sách Cổ

văn quan chỉ tuyển một số bài chiếu: Cao đế cầu hiền chiếu, Văn đế nghị tá bách tính chiếu, Cảnh đế

lệnh nhị thiên thạch tư chức chiếu, Vũ đế cầu mậu tài dị đẳng chiếu.

So sánh Chiếu cầu hiền của Hán Cao Tổ và Chiếu cầu hiền của vua Quang Trung sẽ thấy

những khác biệt và nhận ra những tiếp biến từ thể loại chiếu trung đại Trung Quốc và chiếu thời trung

đại của Việt Nam.

Năm 1788, sau khi lên ngôi, vua Quang Trung đã ban chiếu cầu hiền (do Ngô Thì Nhậm chấp

bút). Cầu hiền chiếu của Ngô Thì Nhậm có kết cấu rất chặt chẽ. Đoạn mở đầu tạo tiền đề vững chắc

khẳng định, ngợi ca nhất là trách nhiệm của hiền tài để nhà vua thiết tha cầu hiền. Đoạn tiếp theo diễn

tả lòng khát khao cầu hiền của vua Quang Trung. Đoạn cuối nhà vua tha thiết kêu gọi hiền tài ra giúp

dân, giúp nước.

Không phải văn hình tượng nhưng đọc Cầu hiền chiếu của vua Quang Trung người đọc dễ

hình dung hình ảnh Quang Trung- vị vua vừa có tầm nhìn xa, thấy rõ vai trò của hiền nhân trong xây

dựng đất nước; đồng thời còn bộc lộ những phẩm chất đạo đức của vị vua khiêm hạ, thấu hiểu lòng

người. Khó tìm được những lời tâm tình bộc bạch tạo sự gần gũi, gắn bó thắm tình vua – tôi như trong

Cầu hiền chiếu: “Đương khi trời còn thảo muội, là lúc quân tử thi thố kinh luân, nay buổi đầu đại

định, mọi việc còn đương mới mẻ. Mối giềng triều đình còn nhiều thiếu sót, công việc biên ải chính

lúc lo toan. Dân khổ chưa hồi sức, đức hóa chưa thấm nhuần, trẫm chăm chắm run sợ…Nghĩ rằng sức

một cây gỗ không chống nổi một tòa nhà to, mưu lược một kẻ sĩ không dựng được cuộc thái bình…”

Thái độ quí trọng hiền tài nơi vua Quang Trung không chỉ là lời hay ý đẹp mà được thể hiện

bằng việc làm cụ thể.

Sau khi trừ xong chúa Trịnh, Nguyễn Huệ lo toan nghiệp lớn. Biết được Nguyễn Thiếp tuy chỉ

đậu Hương giải (cử nhân) nhưng là người có "đạo học sâu xa" Nguyễn Huệ quyết mời cho được

Nguyễn Thiếp cộng tác cùng mình. Lần thứ nhất với tư cách An Nam Đại Nguyên suý, Nguyễn Huệ

sai hai đình thần mang vàng năm nén, lụa màu hai tấm mời La Sơn Phu tử ra giúp để "không những

riêng nước tôi may mắn, mà mười hai thừa tuyên ở Bắc cũng rất được may". Dù lễ hậu, dù được tôn là

bậc Y Chu, Nguyễn Thiếp không ra cộng tác và trả lại lễ vật. Thư Nguyễn Huệ đề niên hiệu Thái Đức

năm thứ 9, tháng 12 ngày 18, thư Nguyễn Thiếp trả lời đề niên hiệu Cảnh Hưng thứ 48, (9.1.1787).

Cụ vẫn là tôi của nhà Lê, không theo Tây Sơn.

Ngày 10/8 năm ấy với tư cách là Đại nguyên suý Tổng quốc Chính Bình vương, Nguyễn Huệ

viết thư "riêng sai hai viên thân tín (viên lưu thủ Danh phương hầu Nguyễn Văn Phương và viên Binh

bộ thị lang Giác Lý hầu Lê Tài) mang lễ vật đến chực đón", "mong Phu tử nghĩ đến thiên hạ với sinh

dân đi ra để cho quả đức có thầy mà thờ, cho đời này có người mà cậy". Nguyễn Thiếp không ra, trả

lại lễ vật và mong "được ở yên cho trọn vẹn" mà "làm một người cố vấn dự bị". Biết cụ từ chối nhưng

Nguyễn Huệ không nản mà càng trọng, càng quyết mời bằng được. Mười một ngày sau Tổng quốc

Chính Bình vương lại sai quan Hình bộ thượng thư Thuyên quang hầu Hồ Công Thuyên mang thư

đến tận núi Bùi Phong mời. Trong thư Nguyễn Huệ tự nhận mình là anh "chỉ trơ trọi là một tụi ấp

trưởng nổi lên ở phương Tây, may mà đánh được tụi yếu, dứt được kẻ hèn, gây dựng lên nghiệp bá,

chưa chắc đã phải là bậc chân nhân", lúc khởi binh đến nay "chưa chắc đã khỏi làm việc bất nghĩa,

giết kẻ vô tội để lấy được đất nước", "đạo trị dân đại để có nhiều điều làm cứng cỏi và phiền nhiễu".

Tổng quốc chính Bình vương "mong Phu tử soi xét đến tấm lòng thành, vụt đứng dậy mà đổi bụng,

75

lấy lòng vì Nghiên Thuấn quân dân ra mà dạy bảo, giúp đỡ. Quả đức xin im nghe lời dạy bảo, khiến

cho quả đức thoả được lòng ao ước tìm thầy và đời nay được nhờ khuôn phép của kẻ tiến giáo". Thật

là khiêm tốn, chân thành mà kiên trì hết mực.

Thế nhưng kẻ sĩ Nguyễn Thiếp vẫn không ra!

Tháng 3 năm Thái Đức thứ 11 (1788) ra Thăng Long giết Vũ Văn Nhậm, Nguyễn Huệ có mời

Nguyễn Thiếp đến hội kiến ở Phù Thạch. Cuộc hội kiến ấy diễn ra như thế nào, chưa có tài liệu nào

chắc chắn. Chỉ biết rằng sau đó Nguyễn Huệ đã nhờ Cụ tìm đất đóng đô. Trong thư ngày 3/9 năm ấy,

Nguyễn Huệ viết "quả cung đã ba lần mời triệu Tiên sinh vì mong Tiên sinh cùng nhau lo việc, Tiên

sinh gắng nghĩ giúp cho". Như vậy, có thể nói Nguyễn Huệ có một cái nhìn biệt nhãn ít có ở đời: quý

trọng, tin cậy, tất cả đều chân thành tận đáy lòng, như thể rằng Nguyễn Huệ đã quên đi sức mạnh sấm

sét của mình để sống với người tài bằng một quả tim lớn. Thử nghĩ lại xem, một con người đã coi ba

mươi vạn quân Thanh trước mắt chỉ như "những kẻ tự dẫn mình đến chỗ chết", lại khiêm cung trước

một La Sơn phu tử đến như vậy, tha thiết, nơm nớp, tự khu xử như học trò đối với thầy. Nguyễn Huệ

luôn luôn giữ ý niệm như thế đối với kẻ sĩ: với Trần Văn Kỷ, Ngô Thì Nhậm và Nguyễn Thiếp, dù là

bề tôi, họ vẫn vừa là khách, vừa là thầy của ông. Phải nói rằng Nguyễn Huệ chưa bao giờ biết sợ bất

cứ kẻ thù nào, ông chỉ đặc biệt kính trọng người hiền. Ngô Thì Nhậm, người đọc hết kim cổ, đã nhận

xét về năng lực trí tuệ của Nguyễn Huệ như sau: Quốc vương là người thiên tư hiếu học, tuy trong

chinh chiến gấp gáp vẫn không quên bàn bạc đạo lý. Trong nghị luận thường ngày, quốc vương diễn

đạt được một cách có thứ tự những cái mà sách vở đời trước chưa từng nói, tôi thực nhờ được gần gũi,

bơi lội trong kiến thức của quốc vương mà lĩnh hội được.

Cùng với Chiếu cầu hiền, Ngô Thì Nhậm còn viết nhiều bài chiếu khác, như: Chiếu lên ngôi,

Chiếu về việc ban ơn, Chiếu hiểu dụ các quan văn võ cựu triều, Chiếu lập học, Chiếu khuyến

nông…Nhận xét chung về giá trị tư tưởng, nghệ thuật của những bài chiếu này có thể thấy Mai Quốc

Liên đã có ý kiến xác đáng: “Ngô Thì Nhậm đã nâng cao vị thế của thể loại văn chiếu, biểu là một thể

loại văn học đã suy sút từ sau Nguyễn Trãi…Một số văn từ mệnh của Ngô Thì Nhậm đã theo kịp văn

từ mệnh của Nguyễn Trãi, người có “thiên cổ hùng văn”. Chất anh hùng ca kết hợp với cái hoa lệ của

từ chương cổ điển; tính chất chính luận, lo-gich chặt chẽ, khúc chiết đi liền với chất thơ đã làm cho

những bài văn này sống mãi cùng thời đại đã sản sinh ra nó” (Mai Quốc Liên (chủ biên), 2004, tập I,

tr.163).

Xuất hiện trước Chiếu cầu hiền gần tám trăm năm, Chiếu dời đô của Lí Thái Tổ cũng có giọng

điệu tâm tình, gần gũi. Mở đầu bài chiếu, Vua Lí Thái Tổ đã trích dẫn sử sách Trung Hoa “xưa nhà

Thương đến đời Bàn Canh năm lần dời đô, nhà Chu đến đời Thành Vương ba lần dời đô”. Điểm quan

trọng nhà vua nhấn mạnh là việc dời đô ấy các vua không tự ý mà để mưu nghiệp lớn, làm kế cho con

cháu muôn vạn đời, nhất là trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân. (nguyên văn:

以其圖大宅中,爲億万世子孫之計,上謹天命,下因民志 – dĩ kì đồ đại thạch trung, vi ức vạn thế tử

tôn chi kế; thượng cấn thiên mệnh, hạ nhân dân chí). Tiếp đế, nhà vua phân tích để mọi người thấy rõ

thế đất của Thăng Long. Vùng này mặt đất rộng và bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư

không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh…đúng là nơi thượng đô kinh sư

mãi muôn đời. Kết lại bài chiếu, nhà vua ân cần hỏi ý: “Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các

khanh nghĩ thế nào?

76

(Bản dịch của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, in trong Đại Việt sử ký toàn thư, NXB Khoa

học Xã hội, Hà Nội, 1993.)

Như vậy, tiếp nhận thể loại chiếu của Trung Quốc nhưng những bài chiếu thời trung đại Việt

Nam vẫn có những điểm riêng biệt.

Thể loại cáo

Cáo là thể văn hoàng đế bổ nhiệm hay phong tặng hoàng tử. Các triều đại phong kiến Trung

Quốc dùng cáo cũng có thay đổi. Đời nhà Chu thiên tử dùng cáo hiểu dụ dân chúng ban bố bốn

phương. Đời Tần không dùng cáo chỉ gọi chiếu, chế. Đời Hán lại dùng cáo; đến đời Đường lại bỏ

không gọi là cáo. Đời Minh Thanh cáo được dùng lại. Nhưng điểm riêng biệt của cáo thời này là lời

dạy của huynh trưởng đối với đàn em. Do vậy, sách cổ văn quan chí chép văn từ đời Chu đến đời

Minh không thấy có bài cáo nào.

Theo nhận xét của tác giả Trần Đình Sử, Nguyễn Trãi thay Lê Lợi viết Bình Ngô đại cáo là lấy

lại thể văn đời nhà Thương lấy tên Thiên đại cáo trong Kinh Thư. Đại cáo lấy lời của Chu Công bác

bỏ các luận điệu bàn lùi, kêu gọi chư hầu động binh chống lại bọn phản nghịch. (Trần Đình Sử, 1999,

tr.290). Điều đáng nói là Đại cáo, Thang cáo chỉ là lời phát biểu trước chư hầu, về sau sử quan ghi lại

chứ chưa viết thành bài có thể cách nhất định. Song, Đại cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi là một văn

kiện, một tuyên ngôn quan trọng thông cáo về cuộc kháng chiến 10 năm chống quân Minh gian khổ

đã kết thúc thắng lợi mở kỉ nguyên mới hòa bình độc lập cho toàn dân tộc.: “Càn khôn bĩ mà lại thái /

Nhật nguyệt hối mà lại minh/ Bốn phương biển cả thanh bình / Ban chiếu duy tân khắp chốn / Xa gần

bá cáo / Ai nấy đều hay”.

Về hình thức, thể loại, Đại cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi cấu trúc hoàn chỉnh, chặt chẽ, có

thể chia thành 5 phần rõ rệt:

Phần mở đầu: Tuyên bố khẳng định quyền độc lập của quốc gia Đại Việt.

Phần thứ hai: Nêu gắn gọn về triều Hồ, nội tình đất nước khiến quân Minh can thiệp và nỗi

thống khổ của người dân.

Phần thứ ba: Lịch trình cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (những ngày đầu gian khổ; chiến lược mưu

phạt tâm công…)

Phần thứ tư: Thuật lại những trận đánh lớn dẫn đến thắng lợi cuối cùng.

Phần thứ năm: Đoạn kết ngắn gọn.

Giá trị lớn lao của bài cáo được ghi nhận ở những điểm sau:

Đây là một văn kiện chính trị có ý nghĩa lịch sử lớn, tuyên bố thắng lợi của cuộc kháng Minh

(1427-1428), đồng thời thiết lập quốc gia tự chủ vương triều Lê (1428-1788).

Bài cáo thể hiện tư tưởng nhân nghĩa chói ngời của cuộc chiến chính nghĩa, của lòng nhân ái

dân tộc, đúc kết cô đọng tư tưởng nhân nghĩa đã được thể hiện xuyên suốt, sinh động trong Quân

trung từ mệnh của Nguyễn Trãi trước đó.

Đó là thiên cổ hùng văn- áng văn hùng tráng nghìn đời, có giá trị bất hủ về nội dung tư tưởng

và nghệ thuật thể hiện.

Ở phương diện nội dung, bài cáo thể hiện lòng yêu nước mãnh liệt, tinh thần chiến đấu ngoan

cường, mạnh mẽ, khí thế hào hùng, lòng thù giặc sôi sục. Mặt khác, tài năng quân sự của Lê Lợi,

Nguyễn Trãi và các tướng lĩnh Lam Sơn thể hiện xuất sắc trong chiến lược đúng đắn làm nên những

trận đánh long trời lở đất khiến quân thù khiếp sợ và thất bại nhục nhã: “Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng

tờ tạ tội / Thượng thư Hoàng Phúc trói tay tự xin hàng”. Đặc biệt, tư tưởng nhân nghĩa cao cả của dân

tộc thể hiện trong bài cáo khiến quân thù vừa kính phục lại vừa kinh sợ: “Mã Kì, Phương Chính phát

cho năm trăm chiếc thuyền ra đến bể vẫn hồn xiêu phách lạc / Vương Thông, Mã Anh phát cho vài

nghìn cỗ ngựa về đến nước vẫn tim đập chân run…”.

77

Ở phương diện nghệ thuật, thành công của bài cáo có nhiều, có thể bàn điểm nổi bật tính chất

anh hùng ca thể hiện rõ nét trong bài cáo.

Lược thuật những trận đánh lớn: những trận đánh ở Bồ Đằng, Trà Lân là những trận đánh trên

đường nghĩa quân Lam Sơn tiến vào Nam. Theo kế hoạch của tướng Nguyễn Chích, năm 1424 Lê Lợi

quyết định đưa quân vào đồng bằng Nghệ An. Trên đường đi, quân Lam Sơn hạ thành Đa Căng do

Lương Nhữ Hốt giữ, đánh lui quân cứu viện của viên tù trưởng đia phương theo quân Minh là Cầm

Bành. Sau đó, quân Lam Sơn đánh Trà Lân. Tướng Minh là Trần Trí mang quân từ Nghệ An cứu

Cầm Bành, bị quân Lam Sơn đánh lui. Lê lợi vây Cầm Bành, Trần Trí đóng ngoài xa không dám cứu.

Bị vây ngặt lâu ngày, Bành phải đầu hàng. Lê Lợi sai Đinh Liệt mang quân đánh Nghệ An, lại mang

quân chủ lực tiến vào, Trần Trí bị thua liền mấy trận phải rút vào thành cố thủ. Lí An, Phương Chính

đem quân từ Đông Quan vào cứu Trần Trí ở Nghệ An, Trí cũng mang quân ra ngoài đánh. Lê Lợi nhử

địch đến sông Độ Gia phá tan. Trí chạy về Đông Quan, còn An và Chính lại chạy vào thành Nghệ An.

Lê Lợi siết vòng vây Nghệ An và Tây Đô, đồng thời sai Trần Nguyên Hãn, Doãn Nỗ, Lê Đa Bồ đem

quân đánh Tân Bình, Thuận Hóa, buộc quân Minh phải rút vào cố thủ.

Như vậy đến cuối năm 1425, Lê Lợi làm chủ toàn bộ đất đai từ Thanh Hóa trở vào, các thành

địch đều bị bao vây.

Sau khi làm chủ tình hình, Lê Lợi mở chiến dịch giải phóng Nghệ An.

Mở đầu, quân Lam Sơn quyết định tiến theo đường núi vào Nghệ An, giải phóng miền núi

Nghệ An, và tiếp theo giải phóng miền đồng bằng tại đây.

Các trận đánh diễn ra:

Trận Đa Căng (ở Thọ Xuân) vào ngày 12.10.1424. Thành này do Lương Nhữ Hốt, một viên

tướng người Việt theo quân Minh, giữ chức Tham Chính làm chỉ huy. Quân Việt diệt hơn 1.000 giặc,

thu hết quân giới, đốt sạch trại thành. Lương Nhữ Hốt tháo chạy về thành Tây Đô. Quân Minh điều

thêm quân do Hoa Anh chỉ huy đến đánh, bị quân Việt đánh tan, cũng rút chạy về Tây Đô.

Trận thành Bồ Đằng, quân Minh ở đây có khoảng 5.000 quân. Đây là vùng rừng núi hiểm trở,

có núi cao trên 500m. Tại Bồ Đằng, nghĩa quân Lam Sơn đánh tan 2.000 quân Minh do Trần Tung chỉ

huy và Trần Tung bị chém đầu.

Trận Trà Lân, quân địch do Cầm Bành chỉ huy có khoảng 2.000 người. Quân Việt vây thành

Trà Lân, vừa đánh vừa dụ hàng. Cầm Bành cố thủ, nhưng quân lính trốn mất dần. Tổng binh Trần Trí

ở thành Nghệ An sau trận thua ở Bồ Đằng không dám đến cứu Cầm Bành. Sơn Thọ phải tha sứ của

quân Việt là Lê Trăn để xin Lê Lợi hòa hoãn. Sau 2 tháng bị vây, Cầm Bành xin hàng.

Nguyễn Trãi đã phản ánh rất trung thực những trận đánh này cũng như khí thế hừng hực của

nghĩa quân trấn áp làm suy sụp tinh thần quân giặc: “Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật / Miền trà

Lân trúc chẻ tro bay/ Sĩ khí đã hăng / Quân thanh càng mạnh / Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía

/ Lí An, Phương Chính nín thở cầu thoát thân…”.

Tiếp đến là chiến dịch Tốt Động, Chúc Động. Đây là chiến cuộc dữ dội, nghĩa quân Lam Sơn

đánh với 10 vạn quân Thanh ở Đông Quan (Thăng Long- Hà Nội). Địa điểm diễn ra là hai nơi cách

nhau khoảng 6-7 km đều thuộc địa bàn huyện Chương Mĩ (Hà Nội).

Nghĩa quân Lam Sơn sau khi chiếm lại vùng đất rộng lớn từ Thanh Hóa trở vào đến Tân Bình,

Thuận Hóa (Thừa Thiên – Huế ngày nay), bắt đầu chuyển hướng tấn công ra Bắc. Lê Lợi chia quân

cho các tướng thành 3 nhánh Bắc tiến. Phạm Văn xảo, Đỗ Bí, Trịnh Khả, Lê Triện ra phía Tây Bắc;

Lưu Nhân Chú, Bùi Bị ra phía Đông Bắc; Đinh Lễ, Nguyễn Xí ra đánh Đông Quan.

Quân Lam Sơn liên tiếp chiến thắng, buộc quân địch co cụm vào Đông Quan. Tình hình đó

buộc vua nhà Minh phải cử viện binh gồm 50 vạn do Vương Thông đứng đầu. Như vậy, Đông Quan

tập trung khoảng 100.000 quân Minh dành ưu thế về binh lực mở những trận đánh ra ngoại vi Đông

78

Quan hòng dành thế chiến lược chủ động. Tuy nhiên, những nỗ lực của vua Minh nhanh chóng bị đập

tan.

Vương Thông chia 10 vạn quân Minh ở Đông Quan thành ba cánh quân lần lượt kéo ra khỏi

thành Đông Quan. Cánh quân do Vương Thông chỉ huy kéo đến đóng tại bến đò trên sông Đáy ở làng

Cổ Sở làm cầu phao qua sông. Cánh quân của Phương Chính kéo đến Sa Đôi trên sông Nhuệ. Sơn

Thọ kéo theo đường qua làng Nhân Mục đến đóng đồn tại cầu Thanh Oai.

Phía ta, các tướng Lý Triện, Đỗ Bí ở Ninh Kiều đem quân và voi đến phục ở Cổ Lãm, rồi cho

quân đến đánh nhử Mã Kì. Mã Kì đem tất cả quân đánh đuổi đến cầu Tam La thì lọt vào phục binh

của Lí Triện. Quân phục binh đổ ra đánh chém hơn 1.000 quân Minh. Thừa thắng, Lí Triện thúc binh

đánh đạo quân Phương Chính. Quân Phương Chính tháo chạy, cùng với Mã Kì vừa một mình một

ngựa chạy thoát cùng về Cổ Sở hội với quân Vương Thông.

Vương Thông biết quân An Nam sẽ đến đánh nên phòng bị cẩn mật và đặt phục binh. Quân Lí

Triện xuất hiện, quân Thanh ra đánh rồi rút chạy kéo quân Lí Triện vào trận đia chông sắt. Tình thế

cấp bách, Lí triện cầu cứu Đinh Lễ và Nguyễn Xí đến cứu. Đinh Lễ và Nguyễn Xí đem 3.000 quân và

2 thớt voi lập tức lên đường đến Cao Bộ rồi phục binh ở Tốt Động và Chúc Động. Tại đây, phục binh

bắt được tên thám tử của quân Minh và biết được mưu đồ của chúng. Vương Thông đã đóng quân ở

Ninh Kiều, sẽ phối hợp với một đạo quân đánh tập hậu quân Lí Triện, chỉ nghe tiếng súng lệnh là hai

đạo quân đổ ra phối hợp đánh quân Lam Sơn.

Biết âm mưu quân giặc, Đinh Lễ chủ động tiến công cho nổ súng lệnh khiến quân Minh bị lừa.

Quân Minh toan tràn lên phối hợp thì đụng vào cánh quân dũng mãnh của Đinh Lễ, Nguyễn Xí.

Khoảng 5 vạn quân Minh bị giết, Thượng thư Trần Hiệp và nội quan Lí Lượng cũng bỏ mạng. Chính

Vương Thông cũng bị thương tháo chạy vào thành Đông Quan cố thủ.

Nguyễn Trãi đã ghi lại sự kiện này:

“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,

Lấy chí nhân để thay cường bạo.

Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,

Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.

Sĩ khí đã hăng

Quân thanh càng mạnh.

Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,

Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.

Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,

Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.

Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm

Tuỵ Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.

Phúc tâm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu

Mọt gian kẻ thù: Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.

Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy

Mã Anh cứu trận đánh mà quân ta hăng lại càng hăng.

Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt,

Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt tâm công”.

Đó là một trong những đoạn đậm chất anh hùng ca, tác giả đã khéo vận dụng đặc trưng của thể

văn tứ lục nhằm khắc họa những hình tượng đối lập làm nổi bật hùng khí của ta và sự thất bại thảm

hại của giặc.

Phía ta:

“Sĩ khí đã hăng / Quân thanh càng mạnh (câu 1,2)

79

Thừa thắng ruổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại / Tuyển binh tiến đánh Đông Đô đất cũ thu

về” (câu 3,4)

Quân giặc:

Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía / Lí An, Phương Chính nín thở cầu thoát thân (câu 5,6)

Ninh Kiều máu chảy thành sông tanh trôi vạn dặm / Tụy Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn

năm…” (câu 7,8).

Phép đối trong thể văn tứ lục gồm có chính đối và bàng đối. Phép chính đối nương theo luật

tương khắc. Trường hợp câu (1,2); (3,4) đối với câu (5,6), (7,8). Ở những câu này, tác giả xây dựng

hai hình tượng đối lập. Vẻ đẹp, hùng khí và chiến thắng hào hùng của nghĩa quân Lam Sơn đối lập

với hình tượng quân Minh mất nhuệ khí, suy sụp và bị tiêu diệt rất nhiều. Trường hợp những câu: câu

(1) và câu (2); câu (3) và câu (4)…là dùng lối bàng đối. Bàng đối lại nương theo luật tương sinh, chủ

yếu dựa vào phép đối thanh. Về mặt ý, ý sau là sự tiếp nối ý trước (“Sĩ khí…đã hăng; quân

thanh…càng mạnh). Hoặc ở phí quân giặc câu (5) và câu (6); câu (7) và câu (8), câu 6,8 cũng là sự

nối ý câu 5,6 tô đậm, làm tăng sự thất bại nhục nhã của giặc.

Trong bài Cáo bình Ngô, ở những đoạn in đậm chất anh hùng ca, Nguyễn Trãi đã vận dụng rất

thành công cách viết theo lối của thể văn tứ lục.

Như vậy, có thể nói, từ việc tiếp thu những thể văn cổ của Trung Quốc, Nguyễn Trãi đã góp

phần bổ sung, hoàn thiện thể cáo, làm nên áng văn chương bất hủ trong lịch sử văn học trung đại Việt

Nam.

4.2.2 Thể loại hịch

Hịch là một loại văn bố cáo công khai như chiếu nhưng sử dụng trong lĩnh vực quân sự nhằm

tố cáo, lên án một đối tượng nào đó, cũng có khi hịch được dùng để răn dạy khuyên nhủ kẻ dưới

quyền.

Trong Sử kí của Tư Mã Thiên, truyện Trương Nghi, lần đầu tiên đề cập đến tên gọi “hịch”.

Trương Nghi vốn là người nước Ngụy trước cùng Tô Tần theo học Quỷ Cốc tiên sinh. Trương Nghi

có học thức, có tài nhưng nhà nghèo. Trương Nghi làm bạn với tướng quốc nước Sở. Một lần đi uống

rượu với viên tướng quốc nước này, xảy việc viên tướng bị mất ngọc quý. Bị nghi ngờ lấy ngọc,

Trương Nghi đã phải chịu đòn oan đau đớn, nhục nhã, nhưng quyết không nhận nỗi oan trộm ngọc

nên được tha. Bỏ Ngụy sang nước Triệu, thêm một lần nữa Trương Nghi bị nước vua Triệu làm nhục

và ông đến Tần. Vua Tần ngầm giúp Trương Nghi và Trọng dụng ông. Khi làm Thừa tướng nước

Tần, Trương Nghi làm bài hịch gửi tướng quốc nước Sở: “Trước ta theo ngươi uống rượu, ta không

lấy trộm ngọc bích của ngươi, ngươi đánh đòn ta. Ngươi hãy giữ nước cho khéo, ta có ngày lấy trộm

thành của ngươi đấy!”. Có thể đây là áng văn đầu tiên của thể hịch trong lịch sử văn học.

Có thể nói hịch là thể loại văn thư đầu tiên trong phép dụng binh thời cổ đại, nó xuất hiện

trong buổi lễ “thệ sư”. Lễ “thệ sư” là ngày bắt đầu làm lễ xuất binh. Sách Thuyết văn giải tự viết:

“Hịch có khi còn gọi là vũ hịch, vũ là lông chim, có nghĩa là lúc gấp thì cắm lông chim để truyền

quân lệnh, hàm ý là quân lệnh được truyền nhanh như chim bay”. Những bài hịch nổi tiếng trong văn

học Trung Quốc là ba bài Dụ Ba Thục hịch của Tư Mã Tương Như, Vị Viên Thiệu hịch Tượng châu

của Trần Lâm, và Vị Từ Kính nghiệp thảo Võ Chiếu hịch của Lạc Tân vương. Ở Việt Nam Hịch

Tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, Hịch Tây Sơn, Hịch đánh Thanh trong văn học Tây Sơn là những bài

hịch có giá trị lịch sử và giá trị văn chương cao.

Xét tính chất và ngôn từ của hịch văn, ngày nay các nhà nghiên cứu về văn học cổ của Trung

Quốc đều phải tham chiếu tác phẩm Văn tâm điêu long của Lưu Hiệp ( 465-532) viết cách nay đã trên

dưới 1500 năm. Ông đã dành tới 30 năm để viết. Văn tâm điêu long được đánh giá rất cao "là tác

80

phẩm chứa đủ tinh hoa của muôn đời" (Tôn Mai - "Tứ lục tùng thoại"), là "kho báu ở chốn văn

tuyền... Phàm kẻ sỹ muốn trau chuốt văn chương... chưa ai có thể xa rời mà đi tìm lối dẫn dắt khác để

đến đích được" (Thúc Lâm).

Tác giả Nguyễn Phạm Hùng khi viết chuyên luận Văn học Lý - Trần đã cô đúc ý kiến của

Lưu Hiệp về thể hịch của Trung quốc như sau:

Hịch là loại văn "Tín thực quốc gia", nhưng nhằm mục đích kể tội, trách mắng lẫn nhau, ngôn

từ khoa trương, điêu trá, bịa đặt, có một hệ thống sắp xếp ngôn ngữ có phần bạo liệt, quyết đoán. Và

Đàm Gia Kiện, trong tác phẩm Lịch sử văn hóa Trung Quốc đã kết luận “thể văn hịch luôn dùng biền

thể không dùng văn vần”. (Nguyễn Cẩm Thúy, Nguyễn Phạm Hùng, 1997, tr.47).

Lưu Hiệp đưa ra sáu tiêu chí (lục quán) để xem xét tác phẩm. Ông viết: "Muốn xem xét tình

cảm và tư tưởng trong văn chương, thì trước hết phải theo sáu mặt để mà quan sát sau : Một là "Vị

thể" (chỉ nội dung, tư tưởng của tác phẩm); hai là "Trí từ" (dùng từ đặt câu); ba là "Thông biến" (tính

khoa học và sáng tạo của nội dung và hình thức); bốn là "Kỳ chính" (bố cục và hành văn có theo quy

cách không); năm là "Sự nghĩa" (điển cố và dẫn chứng có thỏa đáng không); và sáu là "Cung thương"

(âm điệu có hài hòa không). (Aristote, Lưu Hiệp, 1999, tr.204)

Từ điển Thuật ngữ Văn học viết: “(Hịch) Một thể văn thư cổ mà các tướng lĩnh, vua chúa hoặc

người thủ lĩnh một tổ chức, một phong trào dùng để kêu gọi, cổ vũ mọi người hăng hái chiến đấu tiêu

diệt kẻ thù”. (Lê Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử, 2010, tr.146).

Đối chiếu hịch của Trung Quốc và Việt Nam, xét từ tổng thể đến chi tiết đều có những khác

biệt. Về tổng thể, nhận xét nêu trên của Phạm Mạnh Hùng là có cơ sở. Những bài hịch của Trung

Quốc xuất hiện trong những cuộc chiến phi nghĩa của sự tranh giành quyền lực giữa các tập đoàn

phong kiến, do đó, tính chất công kích đối phương, những luận điệu khoa trương, xảo trá thể hiện ở

lời hịch là tất nhiên. Chẳng hạn thời Ngụy Tấn có hịch của Trần Lâm, Nguyễn Vũ, Chung Hội. Trần

Lâm thay Viên Thiệu viết hịch tố cáo tội trạng của Tào Tháo gây được lòng công phẫn và khinh miệt

họ Tào. Để kích thích sĩ khí, Trần Lâm còn phác họa quân Tào kém cỏi, địa thế bất lợi, chỉ đánh là

tan.

Hịch trong văn học trung đại của Việt Nam không chỉ xuất hiện trong bối cảnh chiến tranh

giữa những tập đoàn phong kiến mà đặc biệt hịch xuất hiện trong những cuộc kháng chiến chống

ngoại xâm giành độc lập chủ quyền cho đất nước, dân tộc. Hịch Tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn ra đời

năm 1284 (năm Thiệu Bảo thứ 6 (1284) đời Trần Nhân Tông, Trần Quốc Tuấn thống lãnh các đạo

quân đánh lại quân Nguyên, bị thua phải lui về Vạn Kiếp. Nhân việc phát cuốn Binh thư yếu lược cho

tướng sĩ, ông làm bài hịch này. Bài hịch gồm 74 vế, tản văn xen biền văn. Nội dung có 3 phần rõ rệt”

1/ Nêu gương trung thần nghĩa sĩ bỏ mình vì nước để nhắc nhở bổn phận của tướng sĩ với triều đình

và tổ quốc. 2/ Nêu nỗi nhục nước mất, cảnh cáo tướng sĩ chưa tận tâm trong nghĩa vụ, phân tích hậu

quả bi thảm nếu đánh giặc thất bại. 3/ Những lời khuyên nhủ tâm huyết của chủ tướng để thức tỉnh

tướng sĩ học tập Binh thư yếu lược hợp sức, quyết tâm cứu nạn cho nước.

Bài Hịch tướng sĩ được liệt vào hàng “thiên cổ hùng văn”. Bài hịch là sự kết hợp nhuần nhụy

nhiệt huyết yêu nước, lòng yêu thương tướng sĩ, trách nhiệm lớn lao của chủ tướng và tài năng nghệ

thuật viết văn chính luận của người anh hùng Trần Quốc Tuấn.

81

Mở đầu bài hịch, chủ tướng bằng giọng tâm tình trò chuyện nêu các gương trung thần nghĩa sĩ

để các tì tướng cảm nhận về tấm lòng, khí tiết kẻ sĩ- những người sống chết theo chủ như thực hiện lẽ

phải, đạo lí. Tác giả nêu gương trung thần theo lối liệt kê: Kỷ Tín chết thay cho Hán Cao Đế; Do Vu

che giáo cho Chiêu Vương; Dự Nhượng nuốt than báo thù cho chủ; Thân Khoái chết theo Trang

Công; Kính Đức cứu thoát Đường Thái Tông; Cảo Khanh mắng giặc, không theo kế giặc mà phản

chủ”. Nêu sáu gương trung thần, chủ tướng như nhẹ nhàng chất vấn bằng hai câu để tì tướng suy tư:

“Các bậc trung thần nghĩa sĩ ngày xưa bỏ mình vì nước đời nào không có? Giả sử mấy người ấy cứ

bo bo theo thói thường tình, chết già ở xó nhà, thì sao cho lưu danh sử sách đến nghìn muôn đời như

thế được?” Nêu gương trung thần có tác dụng kích thích chí lập công danh, lưu tên sử sách cho các tỳ

tướng, phù hợp quan niệm “có trung hiếu nên đứng trong trời đất, không công danh thà nát với cỏ

cây”. Tuy đã nêu sáu gương trung thần nhưng chủ tướng cho rằng những gương ấy đã lùi xa thời gian.

Vậy thời gian gần đây thì sao? Những tấm gương trong cuộc chiến tranh Tống, Nguyên mới đây:

Vương Công Kiên, Nguyễn Văn Lập người đời Tống chống Nguyên; Cốt Đãi Ngột Lang và Xích Tu

Tư thuộc quân Nguyên tiến đánh Nam Chiếu. Chủ tướng và tỳ tướng đều hợp sức lập công danh thơm

lưu mãi.

Những tấm gương trung thần được nêu nhằm khái quát, khẳng định đạo lí và truyền thống cao

đẹp: là tướng sĩ, mọi người phải dốc lòng phụng sự triều đình, vì vương chủ, vì đất nước, dù chết

cũng cam lòng. Cách trình bày của tác giả vừa có lập luận chặt chẽ vừa ràng buộc tỳ tướng bằng trách

nhiệm và tình cảm để tạo tâm thế đưa các tỳ tướng đối diện với hiện tình nguy nan của tổ quốc.

“Huống chi ta cùng các ngươi sinh ra phải thời loạn lạc…”. Viết Hịch tướng sĩ, Trần Quốc

Tuấn sang tuổi năm mươi ba. Kháng Nguyên lần thứ nhất (1258), khi ấy Trần Quốc Tuấn mới hai

mươi bốn tuổi đã từng được vua Trần Thái Tông giao đem binh lực lên chống giặc ở phía Bắc. Trần

Quốc Tuấn ít quân đánh không nổi phải lui về Sơn Tây. Quân Mông cổ tràn xuống sông Thao. Trần

Thái Tông phải ngự giá thân chinh nhưng vẫn không cản được bước tiến của quân giặc. Quân Mông

Cổ tiến đuổi quân nhà Trần đến Đông bộ đầu (phía đông sông Nhị Hà). Trần Thái Tông phải bỏ kinh

đô chạy về đóng ở Thiên Mạc (thuộc huyện Đông An, tỉnh Hưng Yên). Vào thành, quân Mông Cổ

thấy ba sứ giả bị trói. Cởi trói ra, một người đã chết. Ngột Lương Hợp Thai tức giận cho quân tàn sát

cả nam phụ lão ấu trong thành! Cái khốc liệt, dữ dội của ngoại bang cướp nước, cái tàn bạo, phũ

phàng của tội ác đã khiến hàng tướng lĩnh có người nao núng. Bi đát hãi hùng đến mức, khi vua Trần

lo lắng ngự thuyền đến hỏi Thái úy Trần Nhật Hiệu về thế giặc, không nói gì, viên Thái úy cầm sáo

viết trên mặt nước hai chữ “nhập Tống”. Vua Trần lại đi đến hỏi Thái sư Trần Thủ Độ. Trần Thủ Độ

nói rằng: “Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo!”.

Lòng quyết tâm đánh đuổi quân giặc của vua tôi nhà Trần, trận tập kích dũng mãnh của quân

đội nhà Trần vào ngày 28 tháng 1 năm 1258 đánh tan quân Mông Cổ. Chúng phải tháo chạy về Tàu

vội vã đến mức “không dám nhìn” dân chúng. Dân chúng thấy lạ mỉa mai và gọi chúng là “giặc Phật”.

Nhưng Nguyên sử chép trên tư thế "thiên triều" không chịu nhận thất bại, ghi rằng:

“Quan quân chiếm được kinh thành nước Nam, ở lại 9 ngày, vì khí hậu nóng nực nên rút

quân về. Lại sai sứ giả gọi Man vương Trần Nhật Cảnh về, trả lại nước cho. Quan quân tuần tiễu...

không cướp phá dân chúng, nên dân Man gọi là giặc Bụt”. (Từ điển Bách khoa mở)

Gần ba mươi năm sau (1285), quân Mông Cổ lại kéo đại binh xâm lược Việt Nam. Đất nước

lại một lần lâm cảnh nguy nan. Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn ra đời góp phần quan trọng hun

đúc lòng yêu nước, thức tỉnh tướng sĩ, kích thích tướng sĩ lập công lưu danh cùng hậu thế.

Bài hịch viết ra trôi chảy như một cuộc tâm tình, trò truyện thân mật giữa chủ soái và tỳ tướng

mà thể hiện tư tưởng yêu nước, thù giặc sâu sắc, nghệ thuật già giặn, linh hoạt thoát ra từ ngọn bút tài

hoa, nổi bật ở các điểm:

Kết cấu chặt chẽ, tư duy logic sắc sảo:

82

Đọc bài hịch ai cũng nhận thấy kết cấu của Hịch tướng sĩ rất chặt chẽ. Từ việc nêu gương

trung thần nghĩa sĩ chủ tướng nêu hiện tình nguy nan của tổ quốc, bày tỏ lòng lo lắng căm thù của

mình, phê phán thái độ bàng quan cầu an hửng lạc của tướng sĩ. Cuối cùng đanh thép khẳng định lập

trường đánh giặc, diệt giặc và buộc các tỳ tướng tuân thủ tuyệt đối mệnh lệnh này. Điểm đặc biệt của

bài hịch là tác giả chuyển tải một cách đơn giản những tư tưởng thiêng liêng cao cả của kẻ sĩ phải

thực hiện theo đạo lí nhà nho. Không luận bàn, triết lí mà nói trực diện vấn đề làm thành những câu

văn ngắn gọn, súc tích, thể hiện tư tưởng rõ ràng đi thẳng vào tim, óc tướng sĩ. Mạch logic trong tư

tưởng của bài hịch ta có thể cảm nhận và phác họa cụ thể. Mở đầu, Trần Quốc Tuấn nêu gương trung

thần nhằm làm nổi bật vấn đề đạo lí kẻ sĩ phải đi trong trung đạo, hết lòng vì nước vì vua. Đó là đạo

đức là lí tưởng thiêng liêng của người tướng. Tiếp đến, tác giả nêu hiện tình nguy nan của đất nước và

thái độ bàng quan của kẻ sĩ là đi vào vấn đề “kẻ sĩ đích thực và kẻ sĩ vô danh”. Một trong những đặc

điểm của kẻ sĩ đích thực là phải có tầm nhìn, sự mẫn cảm thời thế, phải thực sự là những con người

ưu thời mẫn thế. Dòng tư tưởng của chủ soái như một dòng chảy nhẹ trong khúc tâm tư trao gởi

những người tướng vốn dũng mãnh chốn sa trường mà không am hiểu nhiều về thi thư dễ bị cuộc

sống phù hoa chi phối để thức tỉnh đưa họ về chính lộ. Không bằng lí thuyết siêu hình cao sâu mà

bằng những hình ảnh sống động, những gương anh hùng đã sống bằng tâm, bằng khí để thức tỉnh

tướng sĩ và thuyết phục họ bằng tấm lòng yêu thương, sự cưu mang, đồng cam cộng khổ “lúc trận

mạc thì cùng nhau sống chết, lúc nhàn hạ thì cùng nhau vui cười” để cuối cùng khẳng định lập trường

“ta với giặc là kẻ thù không đội trời chung”. Dù phải “trăm thây này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này

gói trong da ngựa ta cũng nguyện xin làm”. Rõ ràng trong dòng tâm tư của chủ tướng qua lời lẽ tâm

tình cùng tỳ tướng có một logic chặt chẽ về trách nhiệm kẻ sĩ, trách nhiệm của người tướng với chủ

soái và tổ quốc.

Tư duy hình tượng phong phú tạo những hình ảnh sinh động có ý nghĩa, có giá trị thực tế. Có

thể nói đoạn văn tác giả phê phán thái độ bàng quan, cầu an của tướng sĩ thiên về lối tư duy hình

tượng:

“Nay các ngươi trông thấy chủ nhục mà không biết lo, trông thấy quốc sĩ mà không biết thẹn,

thân làm tướng phải hầu giặc mà không biết tức…”. Đoạn văn đưa ra hàng loạt những hình ảnh so

sánh giúp tỳ tướng hiểu hiện tình và viễn cảnh bi thương của đất nước rơi vào tay ngoại bang. Tác giả

không chỉ giúp tướng sĩ nhận thức về bổn phận của một công dân, nhất là bổn phận của một tướng

lĩnh đối với nhà vua và đất nước. Những từ được lặp lại “không biết lo, không biết thẹn, không biết

tức, không biết căm…” nhằm đánh thức lòng tự trọng, nhất là ý thức của người tướng về đạo đức và

trách nhiệm của mình. Không dừng lại ở đó, chủ soái còn đề cập đến cuộc sống rất đời thường của

người tướng, những thú vui, những hạnh phúc mà con người cần xếp lại hoặc phải hy sinh vì sự tồn

vong của đất nước. Thú vui chọi gà, thú tiêu khiển bằng đánh bạc, mê rượu ngon, thích tiếng hát,

thích săn bắn mà quên việc binh; những vui thú ruộng vườn, quyến luyến vợ con…Tất cả đều phải đặt

trong cảnh ngộ nguy nan của vận nước. Bởi vì, “chén rượu ngon không làm quân giặc say chết, tiếng

hát hay không là quân giặc điếc tai…Ngoại bang thống trị, con người tất rơi vào thảm cảnh. Khi bấy

giờ “chẳng những thái ấp của ta không còn mà bổng lộc của các ngươi cũng hết; chẳng những gia

quyến của ta bị đuổi mà vợ con các ngươi cũng nguy; chẳng những là ta chịu nhục bây giờ, mà trăm

năm về sau tiếng xấu vẫn còn mãi mãi, mà gia đình các ngươi cũng chẳng khỏi mang tiếng nhục, đến

bấy giờ dẫu các ngươi muốn vui vẻ phỏng có được không?”

Những câu văn này về mặt từ ngữ, có thể nói đã được Việt hóa cao độ. Văn chương chữ Hán ở

thể văn chính luận thường thấy tính chất trang trọng, cao nhã nhưng ở đây Trần Quốc Tuấn đã dùng

ngôn ngữ và cách nói dân dã đời thường “cựa gà trống không đâm thủng áo giáp, tiếng hát hay không

làm quân giặc điếc tai, chén rượu ngon không làm quân giặc say chết…” những cách nói hình ảnh, dễ

cảm nhận này đã đem lại hiệu quả hiểu biết và ý nghĩa tác động cao.

83

Dòng nhiệt huyết sục sôi qua lớp ngôn từ phong phú, uyển chuyển chuyển tải những cung bậc

tình cảm khác biệt mà luôn đi đến tận cùng của tình cảm, cảm xúc nêu thành triết lí sống, triết lí của

con tim. Đoạn văn tiêu biểu thể hiện lòng yêu nước, thù giặc và cách cư xử gắn bó, vị tha yêu thương

tướng sĩ của chủ tướng: “Ta đây, ngày thì quên ăn, đêm thì quên ngủ, ruột đau như cắt, nước mắt đầm

đìa, chỉ căm tức rằng chưa sả thịt lột da, nuốt gan, uống máu quân giặc, dẫu trăm thân này phơi ngoài

nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa…Các ngươi ở cùng ta coi giữ binh quyền đã lâu ngày, không

có mặc thì ta cho áo, không có cơm thì ta cho ăn, quan nhỏ thì ta thăng cấp, lương ít thì ta cấp bổng,

đi bộ thì ta cho ngựa, đi thủy thì ta cho thuyền, lúc trận mạc thì cùng nhau sống chết, lúc nhàn hạ thì

cùng nhau vui cười…”. Đoạn văn ngắn, tác giả sử dụng hình ảnh phong phú, chi tiết, hình ảnh nào

cũng có giá trị cực tả tình cảm mãnh liệt. Tình cảm luôn đẩy xa, mở rộng đi đến tận cùng. Yêu nước

đến “ngày quên ăn, đêm quên ngủ là một cung bậc cao; nhưng yêu nước đến nửa đêm “vỗ gối, ruột

đau như cắt, nước mắt đầm đìa” tình cảm ấy đã đặt ở mức tột đỉnh. Ở đây cách nói khoa trương hay

tấm lòng sôi sục chân thành của chủ soái đẩy ngôn ngữ chuyển dịch tự nhiên đi đến cung bậc vô cùng

của cảm xúc dường như khó phân định. Nếu chúng ta đọc sử đã từng thấy trong hoàn cảnh ngặt nghèo

của đất nước Trần Quốc Tuấn phải giả làm nhà tu hành để tiếp Sài Thung và bị quân lính hầu chọc vật

nhọn chảy máu đầu viên chủ soái vẫn điềm nhiên thương thảo thì ta mới hiểu được bản lĩnh và tình

cảm của vị chủ tướng thống lĩnh quân đội nhà Trần ba lần đại phá giặc Nguyên- Mông. Yêu nước gắn

liền với thù giặc, cảm xúc vẫn bộc lộ ở độ cao nhất tức giận, căm thù và hành động phải có đổ máu.

Đó là một xác lập rõ rệt, phải tiến hành một cuộc chiến khốc liệt, sẵng sàng hy sinh vì tổ quốc “trăm

thây phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác gói trong da ngựa…”. Tình cảm đang ở mức độ công phẫn bỗng

hướng về tướng sĩ trong những gắn bó, yêu thương. Vị chủ soái thực sự hiểu những viên tướng võ

biền từng cộng tác với mình, tin tưởng ở lòng tốt, tài năng đánh giặc và tư tưởng, nhận thức của họ

khá đơn giản. Chủ tướng cần nói về cách cư xử tình nghĩa chan đầy và lối sống chan hòa yêu thương

của mình đối với tỳ tướng “lúc trận mạc thì cùng nhau sống chết, lúc nhàn hạ thì cùng nhau vui cười”.

Có lẽ khó có lời nào diễn tả hết những cảm động của tỳ tướng trước những tỏ lòng gan ruột và tâm

tình thấm đẫm tin yêu của chủ tướng.

Có thể nói Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn là văn kiện hịch bằng chữ Hán tiêu biểu của

Việt Nam.

Tiếp sau hịch văn bằng chữ Hán xuất hiện hịch văn bằng chữ Nôm. Chữ Nôm xuất hiện và có

những sáng tác bằng chữ Nôm là bước tiến quan trọng về ngôn ngữ và văn học. Những bài hịch Nôm

tiêu biểu xuất hiện vào thời Tây Sơn (1778-1802), như: Xuất sư hịch của Nguyễn Hữu Chỉnh, Dụ

trung nghĩa hịch, Dụ các sứ phiên thần hịch, Dụ Thanh Nghệ sứ nhị hịch…của Lê Huy Dao. Hịch

Nôm thời Tây Sơn ra đời trong tình hình nội chiến, phục vụ quyền lợi cho các lực lượng xã hội đối

kháng nên có tính chất phức tạp. Hịch Nôm xuất hiện cho thấy những điểm quan trọng sau của thể

loại này.

Cùng với những diễn biến phức tạp của lịch sử xã hội văn chương chữ Nôm không chỉ được

dùng để biểu lộ tình cảm của con người mà còn tham gia vào những hoạt động quan trọng, lớn lao của

xã hội, thể hiện lập trường chính trị đấu tranh giữa những lực lượng đối lập trong xã hội.

Hịch Nôm dùng ngôn ngữ giản dị, đời thường khá biểu cảm nhưng vẫn thể hiện tính logic,

chặt chẽ và thể hiện tư tưởng rõ rệt, súc tích.

Trong hịch Nôm tính chất trữ tình của văn hình tượng và tính logic trong lập luận của văn

chính luận hòa quyện.

Bài hịch Nôm tiêu biểu là Xuất sư hịch, tương truyền tác giả là Nguyễn Hữu Chỉnh. Phần mở

đầu bài hịch nêu lí do Tây Sơn đánh chiếm Quảng Nam và Phú Xuân nhằm trừ đảng nghịch Trương

Phúc Loan. Tiếp đến giải thích việc Tây Sơn ra Bắc phù Lê diệt Trịnh vì Trịnh Tông bất tài thất đức.

84

Bài hịch kết lại ở lời kêu gọi nhân sĩ và người dân Bắc Hà phân định đúng sai, phải trái mà hết lòng

ủng hộ Tây Sơn.

Hịch Tây Sơn không nhiều, hiện nay ghi nhận còn 4 bài. Tuy nhiên, chính nghĩa triều Tây Sơn

và hiện thực lịch sử phản ánh chân thực trong lời hịch nó có giá trị thức tỉnh, tập hợp quần chúng đã

làm nên sức mạnh Tây Sơn như một “cơn sóng thần” làm sụp đổ các tập đoàn phong kiến Lê- Trịnh-

Nguyễn thối nát, đánh tan hơn 20 vạn quân Thanh và mấy vạn quân Xiêm xâm lược Việt Nam.

4.2.3 Thể loại biểu

Biểu nằm trong các loại văn thư như tấu, nghị, khải, sớ…là loại văn thần tử gửi cho vua trình

bày sự kiện, ý kiến, tạ ơn. Biểu xuất hiện vào đời nhà Hán. Những bài biểu can gián, đề nghị như

Gián phạt Mân biểu của Hoài Nam Vương An, Tiền, hậu xuất xư biểu của Gia Cát Khổng Minh. Đến

đời Đường những bản văn để tạ ơn được gọi là biểu.

Biểu trong văn học Việt Nam cũng có hình thức và nội dung tương tự như biểu của Trung

Quốc. Tuy nhiên, thời Tây Sơn, trong văn học Tây Sơn có 2 bài biểu xuất sắc đã thực sự tham gia vào

những việc quan trọng, lớn lao. Đó là bài Biểu trần tình do Ngô Thì Nhậm viết. Việc này chính vua

Quang Trung trước khi xuất quân đánh quân Thanh trù bị trước việc bang giao với Trung Quốc đã

khẳng định việc ấy “phi Ngô Thì Nhậm không ai làm được”. Giá trị lớn lao của Biểu trần tình đã ngăn

chặn việc vua Càn Long động binh 9 tỉnh chinh phạt An Nam. Bài thứ hai Bài biểu xin trả lại bảy

châu thuộc trấn Hưng Hóa. Bài biểu đanh thép khẳng định: “Nước tôi liền một dải duyên biên, phía

tây bắc giáp với ba phủ Lâm An, Quảng Nam, Khai Hóa về đất thượng quốc…”; đồng thời chỉ rõ bảy

châu ấy là: Trung Lăng, Lễ Tuyền, Hoàng Nham, Tuy Phụ, Hợp Phì, Lai Châu, Khiêm Châu đều

thuộc về trấn Hưng Hóa nước tôi. Bài biểu chỉ rõ những biến cố lịch sử phức tạp trừ triều Mạc, dẫn

đến việc những châu này bị sáp nhập vào Trung Quốc. Thêm vào đó, các quan miền duyên của

thượng quốc tự tiện bắt dân tôi phải đổi lối ăn mặc, đeo bài mà đánh thuế. Đó là việc là không đúng.

Vậy “dám mạo muội làm tờ biểu này…Tôi xin ở đầu địa giới Nam quan sai nhân viên ứng trực, và sai

viên mục văn vũ đều đến cả địa đấu trấn Hưng Hóa, tiết thứ thanh tra, hỏi cho đích xác địa giới bảy

châu, đem về cho sổ sách nước tôi”. Bài biểu thực sự trở thành phương tiện tranh đấu đòi lại chủ

quyền lãnh thổ những vùng đất Việt Nam bị Trung Quốc chiếm đóng.

4.3 THƢ, LUẬN, THUYẾT- THÀNH TỰU ĐỘC ĐÁO CỦA VĂN CHÍNH LUẬN TRUNG

ĐẠI VIỆT NAM

Ở bộ phận văn chính luận, có thể thấy thể loại thư, luận, biện, thuyết là thành tựu độc đáo của

văn chính luận Việt Nam. Trước hết, vấn đề thuật ngữ:

Luận là một thể văn phân tích sự lí, phán đoán đúng sai. Luận là tổ chức, sắp xếp các ý kiến

để làm sáng rõ một chân lí nào đó. Luận bắt đầu từ Khổng Tử, trước đó không có chữ luận. Luận khác

sử luận vì nó chủ về đạo lí. Tuân Tử có Lễ luận, Nhạc luận, Hán nho có Thạch cừ luận, Bạch hồ

luận...

Biện là phân biệt phải trái, phản bác cái sai. Triệu Phương đời nhà Thanh nói, biện chủ về

phân biệt phải trái, đúng sai, giống nhau và khác nhau. Ngô Tằng Kì (cũng đời nhà Thanh) nói, biện

cũng như luận, nhưng xuất hiện sau.

Thuyết, cũng thuộc loại biện luận, nhưng nặng về giải thích, người xưa dùng để giải thích

kinh nghĩa. Ví dụ như Thuyết quái trong Chu dịch, Thi thuyết của Hàn Anh.

Thƣ là thể văn dùng để trao đổi quan điểm, lập trường, từ đó thực hiện những đối sách cụ thể.

Đó cũng là một dạng nghị luận thuộc thể văn chính luận.

Như vậy, có thể nói hàng trăm bức thư trong Quân trung từ mệnh của Nguyễn Trãi và Bang

giao hảo thoại của Ngô Thì Nhậm là tổng hợp các thể loại Thư, Luận, Biện, Thuyết có nguồn gốc từ

Trung Quốc.

85

Tác giả Trần Đình sử trong sách Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam, tr.301 đã

viết: “Văn học Trung Quốc đã có truyền thống thư, luận, thuyết rất hùng hậu. Ví như Hàn Dũ có

Nguyên đạo, Nguyên tính, Huy biện, Sư thuyết,…Âu Dương Tu có Phong kiến luận, Đồng Diệp Phong

đệ biện, Tăng củng có Đường luận…”

Xét về thể loại này, văn học Việt Nam chưa được phong phú. Tuy nhiên tác giả cũng đã liệt kê

một số tác phẩm. Đời Trần, Trần Thái Tông có Phổ thuyết sắc thân trong Khóa hư lục. Cũng trong

Khóa hư lục còn có các tác phẩm: Thu giới luận, Niệm Phật luận, Tọa thiền luận, Tuệ giáo giám

luận…Tiếp đến Lê Văn Hưu là người mở đầu sử luận. Sử luận của Lê Văn Hưu đã có những ý kiến

riêng của tác giả, những ý kiến này có giá trị độc lập đối với việc chép sử. Lê Văn Hưu luận sử đặc

sắc ở điểm thể hiện chất thực và cách luận thể hiện tính chất đanh thép, cứng cỏi. Chẳng hạn: “Trưng

Trắc, Trưng Nhị là đàn bà mà hô một tiếng mà Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố và sáu mươi lăm

thành ở lĩnh ngoại đều hưởng ứng, việc dựng nước, xưng vương dễ như trở bàn tay. Như thế đủ biết

tình thế nước Việt ta có thể dựng được cơ nghiệp bá vương. Tiếc rằng nối sau họ Triệu đến trước họ

Ngô, trong khoảng hơn một nghìn năm bọn đàn ông chỉ cúi đầu bó tay, chịu làm tôi tớ cho người

phương Bắc, chưa từng biết xấu hổ với hai người họ Trưng là con gái…” (Trần Đình Sử, 1999, tr.

302). Khác với Lê Văn Hưu, sử luận của Ngô Sĩ Liên hoàn toàn theo quan điểm Nho gia, xét đạo đức

theo các phạm trù, nghĩa, tín…Và xu hướng sử luận này còn thấy trong sách Quần thư khảo biện của

Lê Quý Đôn.

Những quan niệm trên của Trần Đình Sử rất chính xác. Tuy nhiên, vấn đề cần suy nghĩ thêm

vì chưa thấy tác giả bàn đến các thư trong Quân trung từ mệnh của Nguyễn Trãi, Bang giao hảo thoại

của Ngô Thì Nhậm, Thư thất điều của Phan Châu Trinh, Hải ngoại huyết thư của Phan Bội Châu,

…Có thể nói, 68 bức thư của Nguyễn Trãi trong Quân Trung từ mệnh, và 58 thư điều trần của

Nguyễn Trường Tộ gửi triều đình nhà Nguyễn đã làm nên những phong cách chính luận lớn thì đó

chính là sự tiếp biến đặc sắc của văn chính luận Việt Nam ở thể loại thư, luận, thuyết từ các thể loại

văn chính luận Trung Quốc. Nghiên cứu kĩ hơn vấn đề này sẽ ghi nhận những điểm mới đặc sắc.

Đọc những bức thư, những bài luận thuyết trong văn học trung đại có thể phân loại theo nội

dung, mục đích:

Loại thƣ luận thuyết dùng để trao đổi tranh biện: những bức thư của Nguyễn Trãi theo lệnh

Lê Lợi viết để trao đổi, tranh biện với hàng tướng lĩnh của nhà Minh.

Loại đề xuất, thỉnh nghị. Có thể kể đến những bức thư Nguyễn Huệ gửi Nguyễn Thiếp; những

thư trần tình (khoảng 58 thư) của Nguyễn Trường Tộ gửi triều đình Huế.

Loại thư kể tội, kết án như Hải ngoại huyết thư của Phan Bội Châu, Thư thất điều của Phan

Châu Trinh. Loại này có số lượng không nhiều nhưng khá đặc sắc.

Xét phương diện nghệ thuật, những thư trong Quân trung từ mệnh của Nguyễn Trãi có nghệ

thuật đặc sắc. Nó là sản phẩm của một nhân cách, trí tuệ lớn. Giới nho sĩ, học giả kính trọng, ngưỡng

mộ tài năng Nguyễn Trãi dường như tuyệt đối. Nguyễn Năng Tĩnh (quê ở Hà Tĩnh, đồng khoa với

Nguyễn Công Trứ) viết tựa Ức Trai di tập như sau: “Những người có tài trí lỗi lạc, đức độ bao la, khi

đem tài đức ấy thi thố ra việc làm, thì là sự nghiệp, thổ lộ ra lời nói, thì là văn chương. Vì rằng, trời đã

định trao phó cho người nào trách nhiệm gánh vác việc đời, tất nhiên phú cho người ấy đủ tài đủ đức,

hãy xem việc đời cổ, thiên Nhất đức của Y Doãn, sách Binh thư của Thái Công chẳng có thể gọi là

những áng văn chương đó sao?”

Nguyễn Mộng Tuân trong một thi phẩm đã hết lời ngợi ca Nguyễn Trãi:

Hoàng các thanh phong ngọc thự tiên

Kinh bang hoa quốc cổ vô tiền…

Nho lâm kỉ hứa chiêm Sơn, Đẩu,

Hảo vị triều đình lực tiến hiền.

86

(Nguyễn Mộng Tuân – Tặng Gián nghị đại phu Nguyễn công)

(Trên gác vàng, vẻ thanh cao của ông như một vị tiên trong lầu ngọc,

Cái tài kinh bang tế thế, làm rạng rỡ cho nước, từ xưa chưa có bao giờ.

Lâu nay rừng nho trông ngóng ông như núi Thái Sơn, như sao Bắc Đẩu,

Ông nên vì triều đình mà tiến cử kẻ hiền tài).

Trong sáng tác văn chương, Nguyễn Trãi đã thể hiện quan niệm văn chương có ích dụng lớn,

có thể góp phần quan trọng trong xây dựng bảo vệ đất nước:

Đao bút phải dùng tài đã vẹn,

Chỉ thư nấy chép việc càng chuyên.

Vệ Nam mãi mãi ra tay thước,

Điện Bắc đà đà yên phận tiên

(Bảo kính cảnh giới, bài 5).

Nguyễn Trãi đã vận dụng quan niệm văn chương trên triệt để vào trong hoạt động chính trị,

nhất là những ngày sát cánh cùng Lê Lợi chỉ huy cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đánh đuổi quân Minh ra

khỏi bờ cõi.

Toàn bộ 68 văn kiện chính luận của Nguyễn Trãi không chỉ thể hiện tư tưởng vững vàng mà

còn có một phương pháp tư tưởng nhạy bén. Hệ thống tư tưởng nhất quán thể hiện tư tưởng nhân văn

cao đẹp của lòng nhân nghĩa, vị tha, đại lượng gói chặt ở hệ thống luận điểm tạo sức mạnh bẻ gẫy

những luận điệu xảo trá, những toan tính thâm hiểm đi đến chỗ soi sáng nhận thức, hành động, khiến

đối phương bừng tỉnh thấy rõ chân lí buộc phải đi theo đường lớn của chính nghĩa; hoặc dù chúng có

gian trá, độc ác cũng không có khả năng chống lại.

Như vậy, nghiên cứu Quân trung từ mệnh của Nguyễn Trãi không chỉ giúp chúng ta nhận thức

những tư tưởng lớn của tác giả mà còn thấy được sự độc đáo của phương pháp lập luận, bút pháp luận

chiến mà chính tác giả nhấn mạnh đó là thứ “đao bút” mà nó có thể làm “vững lòng kẻ tín thần, làm

nhụt chí kẻ gian cừu, làm chiến xa lớn trăm thước phải gãy gục, làm tòa thành cao vạn trĩ phải sụp đổ

trước sức mạnh ngôn từ, tư tưởng”. Nhận xét về vấn đề này, nhà nghiên cứu Nguyễn Huệ Chi viết:

Có đặt (các bức thư theo trình tự thời gian) vào trong cái chuỗi kế tiếp của toàn tập như thế,

mới thấy hết tính chất móc xích của các luận điểm, thấy cái tinh tế, uyển chuyển cũng như cái

cứng rắn của ngòi bút Nguyễn Trãi, sự thấu suốt của tác giả đối với từng đối tượng mà ông

thuyết phục, khả năng dự đoán tài tình chiều hướng diễn biến tư tưởng của đối tượng, phản

ứng mau lẹ và chính xác đối với chiều hướng diễn biến tư tưởng ấy, v.v. Và tất cả, hợp lại sẽ

tạo nên trong toàn tác phẩm một sức mạnh tinh thần đáng sợ, sức mạnh của tư tưởng…Sức

mạnh tư tưởng của Quân trung từ mệnh tập là sức mạnh của bản thân tập văn, sức mạnh của lí

trí và tình cảm. Trực tiếp làm nên nguồn sức mạnh này, hẳn không ai khác ngoài người viết

thư: nhà tư tưởng và cố vấn chiến lược Nguyễn Trãi.

(Nguyễn Huệ Chi, 2007, tr.229).

Một điểm rất đáng lưu ý trong thảo luận tranh biện, Nguyễn Trãi ý thức sâu sắc đối tượng luận

chiến của mình là những con người từng được giáo dục trong nền văn hóa Nho giáo; có những viên

tướng như Vương Thông được đánh giá là thông hiểu thi thư. Do vậy, nghiên cứu Quân trung từ

mệnh tập dễ nhận thấy một điểm rất rõ: Nguyễn Trãi đã vận dụng Nho giáo chống quân xâm lược. Cụ

thể Nguyễn Trãi đã vận dụng nhất quán, sắc sảo, linh hoạt, hiệu quả, biến lí thuyết thành sức mạnh tư

tưởng, hành động từ nội hàm sâu rộng và linh diệu của các cặp phạm trù: “nhân - nghĩa”; “tín –

thành” và “thời - thế”.

Về cặp phạm trù “nhân – nghĩa”:

Ngay bức thư đầu tiên trong Quân trung từ mệnh Nguyễn Trãi đã gián tiếp đề cập đến quân

thù xúc phạm nhân nghĩa: “Tôi nghe nói: sinh đời thái bình, người ta không ai là không được ở yên;

87

gặp thời thánh minh, không ai là không được sống thỏa. Nay tôi sinh trưởng nhằm minh thời, gặp đời

thịnh trị mà từng phải thở than về nỗi mất chỗ ở yên là cớ sao?” (Thư xin hàng, thư số 1). (Mai Quốc

Liên (chủ biên), (2001), tr.346). Sau này, khi chiến thắng quân Minh, mở đầu Bình Ngô đại cáo

Nguyễn Trãi nêu luận đề nhân nghĩa trang trọng, sáng ngời ở ngay hai câu đầu: “Việc nhân nghĩa cốt

ở yên dân / Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”.

Trở lại bức Thư xin hàng, Nguyễn Trãi nhấn mạnh: “Nay nghe quan Tổng binh đức lớn thấm

người, ơn rộng tới, lấy cái lòng dụ địch của Đặng Vũ làm lòng, dựng chính sách dạy dân của Hoàng

Bá làm chính thật là dịp cho tôi sửa lỗi…”. Đọc bức thư ta thấy lời lẽ tinh tế, phân tích nguyên nhân

của việc dân Nam phản ứng cũng là không thể đừng bởi trước cái chết con người phải tìm đường

sống. Mặt khác, dù xin hàng song chí khí, lòng kiên nhẫn, quả cảm luôn khẳng định: “Nhưng chim

tinh vệ há từ cái nhọc lấp biển, kẻ oan ức không nề sống chết báo thù”. Tuy vậy con người cần có tư

tưởng, hành động để thực thi nhân nghĩa. Quan Tổng binh hãy hành động như Đặng Vũ, Hoàng Bá và

chúng tôi sẽ “sửa lỗi”, đổi mới. Lí, tình đã đủ, lập trường rõ rệt, con người phải sống, hành động trên

con đường lớn của nhân - nghĩa, tư tưởng nhân - nghĩa phải là khởi đầu và kết thúc mọi việc.

Sức mạnh và tầm vóc lớn lao của tưởng nhân nghĩa đã chuyển hóa thành sức mạnh của “đao

bút” nên đối với viên tướng tàn bạo Phương Chính, Nguyễn Trãi thẳng thắn mắng nhiếc:

“Bảo cho mày nghịch tặc Phương Chính:

“Ôi! Đạo làm tướng lấy nhân nghĩa làm gốc, lấy trí lực làm vốn. Nay bọn mày chỉ chuộng lừa

dối, bắt giết kẻ vô tội, hãm người vào chỗ chết mà chẳng xót thương, đó là lẽ gì? Như thế thì trời đất

không dung, thần người đều giận” (Thư số 5). Trong bức thư số 7, Nguyễn Trãi tiếp tục truy vấn

Phương Chính: “Ta nghe nói bậc danh tướng thì trọng nhân nghĩa mà khinh quyền mưu. Nay bọn

mày quyền mưu còn chưa đủ, huống hồ là nhân nghĩa”. Tin tưởng sức mạnh chính nghĩa, tài thao

lược của nghĩa quân, tài điều binh khiển tướng của tướng lĩnh Lam Sơn, ông thách thức Phương

Chính trực tiếp so tài, “quyết một trận sống mái, phân rõ thắng bại để không mãi làm khổ quân hai

nước” (Thư số 5 và thư số 7). Ở đây tư tưởng nhân nghĩa không chỉ hướng về những người lính nước

Nam mà còn hướng tới cả binh sĩ Trung Quốc.

Có thể nói cặp phạm trù “nhân – nghĩa” xuất hiện xuyên suốt trong Quân trung từ mệnh,

nhưng không chỉ như vậy mà nhân nghĩa trở thành máu huyết, sự sống bên trong luôn tồn tại, phát

triển, biểu lộ ra bên ngoài trở thành một lo gich trong tư tưởng, một phương pháp tư tưởng được

Nguyễn Trãi nâng lên và phả sức sống trở thành một ý thức, một quan điểm triết học. Thực thế, vào

năm 1435, sau khi chiến tranh kết thúc bảy năm, một lần hình quan kết án chém bảy tên trộm trẻ con

can tội tái phạm. Vua Lê Thái Tông hỏi ý kiến Nguyễn Trãi, ông tâu rằng: “Pháp lệnh không bằng

nhân nghĩa, điều đó đã rõ ràng. Nay một lúc giết bảy người, sợ không phải việc làm có đức tốt. Kinh

Thư nói: “Hãy yên ở chỗ dừng của ngươi. Sách Truyện nói: “Biết dừng lại rồi sau mới yên được”. Tôi

xin thuật lại nghĩa chữ “chỉ” để bệ hạ nghe. “Chỉ” nghĩa là ở yên nơi đáng dừng.. Như trong cung là

nơi bệ hạ ở yên; thảng hoặc đôi khi cũng ngự đi ra chỗ khác thì không thể ở yên như lúc thường, sớm

muộn cũng phải trở về cung, bấy giời mới yên. Người làm vua đối với điều nhân nghĩa cũng thế. Phải

để tâm vào nhân nghĩa và lấy đó làm nơi ở yên. Tuy cũng có khi ra oai giận dữ, nhưng không thể kéo

dài” (Đại Việt sử ký toàn thư, T III, tr.103).

Như vậy, xét trên bình diện cuộc sống xã hội, theo Nguyễn Trãi điều quan trọng nhất của mỗi

con người là phải xác định, phải chọn cho mình một chỗ đứng. Chỗ đứng đó phải thích hợp để nhờ

vậy mà con người luôn đứng vững, không run sợ, chao đảo trước những biến động, cũng không tự

mâu thuẫn với mình trong ứng xử, chọn lựa giải quyết những vấn đề trong cuộc sống. Có thể nói đó là

triết lí là tinh hoa của học thuyết “an chỉ”. Vấn đề này được Nguyễn Trãi thể hiện trong một lô gich

như những mắt xích liên kết chặt chẽ xuyên suốt Quân trung từ mệnh.

88

Tiếp sau cặp phạm trù “nhân – nghĩa”, Nguyễn Trãi sử dụng cặp phạm trù “thời – thế” với

cách triển khai luận điểm phối hợp lô gich lập luận tạo thành những vòng vây khép chặt uy hiếp tư

tưởng đối phương, đẩy chúng vào thế bế tắc tuyệt đối mà phải qui thuận theo kế hoạch của ta.

Từ bức thư thứ 15, Nguyễn Trãi dồn dập thuyết hàng Vương Thông. Lời lẽ trong các thư rất

mực kính cẩn, song từng lời, từng câu ràng buộc tư tưởng, bẻ gãy những toan tính lắt léo, những suy

tư ngoan cố, đánh sập mọi hi vọng dù nhỏ bé nhất của đối phương.

Mở đầu Thư số 15, Nguyễn Trãi viết:

Kính cẩn gửi thư đến trước cửa quân quan Tổng binh cùng các vị đại nhân.

Kể ra người dùng binh giỏi là ở chỗ biết rõ thời thế mà thôi. Được thời có thế , thì mất biến

thành còn, nhỏ hóa ra lớn; mất thời thất thế, thì mạnh hóa ra yếu, yên lại chuyển nguy. Sự thay

đổi ấy chỉ trong khoảnh khắc trở bàn tay mà thôi. Nay các ông không hiểu rõ thời thế, lại

trang sức bằng lời dối trá, thế chẳng phải là bọn thất phu hèn kém ư? Sao đáng để bàn việc

binh được? Trước đây bề ngoài thì giả cách giảng hòa, bên trong ngầm mưu gian trá, cứ đào

hào, đắp lũy, ngồi đợi viện binh, tâm tích không minh bạch, trong ngoài lại khác nhau, sao có

thể khiến tôi tin tưởng mà không nghi ngờ được. Cổ nhân có nói: “Bụng dạ người khác, ta

lường đoán biết”, nghĩa là thế đó”.

(Mai Quốc Liên, chủ biên, 2001, tr.415)

Các thư 35,36,37,38…loạt thư Nguyễn Trãi liên tiếp gửi Vương Thông như một “chiến dịch

công tâm”, đánh truy kích tư tưởng viên tướng vốn được xưng tụng thông hiểu thi thư khiến Vương

Thông phải bối rối, lung lạc tinh thần dẫn đến suy bại ở mặt trận tư tưởng. Những mũi tiến công của

Nguyễn Trãi mở ra truy kích không khoan nhượng vào sự giả dối, gian ác của đối phương để khẳng

định sự hết thời của chúng. Thư 35, ở trích dẫn trên Nguyễn Trãi đã vạch trần bụng dạ xảo trá, tầm

thường của đối phương để kết lại chúng bị đánh giá là bọn “thất phu hèn kém”. Sự hết thời của chúng

Nguyễn Trãi cũng chỉ rõ cho viên Tổng chỉ huy Vương Thông thấy rõ “có thể ngồi mà tính”: “Nay

các ông với vài nghìn tàn tốt, đơn độc bám giữ một thành trơ trọi, lương sắp hết mà viện binh không

thấy đến, lòng người rã đám mà quân ngày một giảm. Cái thế mạnh yếu được thua có thể ngồi mà

tính. Huống hồ nước An Nam binh tượng thì nhiều, tâm lực hợp nhau, chiến cụ ngày càng tinh…”.

Tiếp tục dòng phân tích mở ra chỉ rõ quân địch nông cạn, hời hợt. Một trận thắng của chúng do bất

cẩn của một số quan chức Lam Sơn không ảnh hưởng tới đại cục. Quả thực, việc múc đi một gáo

nước biển không vì thế mà cạn, đổ thêm một gáo nước biển không vì thế mà đầy. Giặc huy động một

lực lượng hùng hậu gồm “những tướng hiệu ở các xứ Tân Bình, Thuận Hóa, Diễn Châu, Nghệ An

cùng các sở Tiền Vệ, Tam Giang, Xương Giang, Trấn Di cùng là quan Thái Đô đốc và các quan Tam

ty chỉ huy, quân nhân một vạn vài nghìn người, trai gái lớn nhỏ hơn ba vạn người bị các ông làm lầm

lỡ kia, mà so với vài viên tỳ tướng của tôi, thì ai hơn ai kém, ai được ai thua”. Quân giặc tuy thắng,

nhưng phải lấy thế làm lo. Lí do rất thuyết phục. Bởi vì chúng đem lực lượng rất hùng hậu nhưng chỉ

đạt kết quả không đáng kể. Trái lại việc huy động lực lượng lớn ấy đã gây phiên nhiễu, bất bình,

khiến “mấy vạn người lầm lỡ”. Đó thực là việc phải lo lắng. Ngược lại, nếu đem việc đó lấy làm mãn

nguyện mà thỏa thích vui cười thì thực là: “lửa rực bén cháy cột nhà mà chim én làm tổ trên nóc còn

nhơn nhơn vui vẻ cùng nhau”. Cái yếu kém trong suy tưởng, nhận thức của đối phương Nguyễn Trãi

đã chỉ cho chúng hiểu rõ mà nhận thức chữ “thời” suy kiệt, vận mệnh của chúng sắp chấm dứt.

Một khía cạnh khác Nguyễn Trãi đi sâu để buộc đối phương chấp nhận thất bại, đó là tác giả

tập trung phân tích cho bọn tướng tá nhà Minh hiểu rõ “thời biến”. Đó là vận trời tuần hoàn, nay chữ

thời gắn liền với cơ trời đã thuộc về nước Nam. Trái lại, gắn liền với vận mệnh Trung Quốc là “thời

biến”. Thực ra bằng sự bao quát tình hình để chọn cách ứng xử tối ưu tạo nền thái bình lâu dài cho đất

nước, Nguyễn Trãi không chỉ am hiểu nội tình quân Minh viễn chinh ở nước Nam mà ông còn thấu

89

triệt tình hình phức tạp ngay chính đất nước của “thiên triều”. Tình hình phức tạp ấy Nguyễn Trãi chỉ

rõ:

Tai họa thứ nhất: Quốc vương liền năm tử táng, cốt nhục tàn hại lẫn nhau. Tháng 7 năm Giáp

Thìn (1424), Minh Thành Tổ chết; tháng 6 năm Ất Tỵ (1425), Minh Nhân Tông chết.

Thứ hai, mất mùa liên tiếp, chính lệnh phiền hà, giặc cướp nổi lên như ong.

Thứ ba, từ niên hiệu Hồng Vũ (tức Minh Thái Tổ) đến nay, nước các ông theo đuổi chiến

tranh, tổn hao sức người, sức của, nhân dân mệt nhọc…Do vậy, trời giáng họa. Những phân tích này

khiến Vương Thông – viên tướng hiểu, tin ở mệnh trời không khỏi bối rối, lo lắng. Trong khi đó,

Nguyễn Trãi không ngần ngại nói về thực lực của ta với niềm tin tưởng, tự hào. Lí do chính Nguyễn

Trãi nhấn mạnh cũng nhằm khẳng định với Vương Thông là mệnh trời đã quyết. Do vậy, với thời

gian, thực lực quân ta nhỏ đã biến thành lớn, yếu đã biến thành mạnh. Nhớ lại cái thuở cơm ăn ngày

không nề hai bữa, áo mặc không phân biệt đông hè, quân lính chỉ độ vài trăm. Thế mà bọn Phương

Chính, Mã Kỳ, Vương Thanh, Phùng Quí lại liên tiếp quanh năm chẳng ngừng tiến đánh. Song, trong

khốn nguy mà lại hanh thông. Quân tôi càng đánh càng thắng…Mà nay thì với số lương thực lấy được

của các ngươi kia ăn được đến ba chục năm! Quân sĩ ngày nay ở Thanh Hóa không dưới hai vạn; số

quân có tiếng tinh tráng dũng cảm ở Diễn Châu, Tân bình, Thuận Hóa cũng không dưới vài vạn, cùng

đội quân đồng tâm đồng lực ở các lộ Giao Châu không dưới mười vạn. Thông báo như thế là chỉ ra

cái thế “lấy núi Thái Sơn mà đè lên quả trứng”- như Nguyễn Trãi thường nói, thời gian sẽ là bao lâu?

Cặp phạm trù “tín – thành”:

Tính chất lô gich trong lập luận, sự chặt chẽ trong tư tưởng, Nguyễn Trãi còn vận dụng cặp

phạm trù “tín – thành” để phê phán sự dối trá, trái đạo của Vương Thông, Sơn Thọ. Các bức thư số

14, 15,17…Nguyễn Trãi dùng chữ tín để nhắc nhở những tên tướng đứng đầu quân Minh. Thiếu chữ

tín thì không thể làm việc. Thiếu chữ tín cũng không thể làm người. Thất tín là xúc phạm đến thiên lí.

Trong thư số 15, Nguyễn Trãi viết: “Tôi nghe nói chữ tín là vật báu của nước. Người mà không có

chữ tín thì dựa vào đâu để làm việc? Thư số 23, Nguyễn Trãi bàn đến chiều sâu, sự linh diệu của lòng

tín thành: “Lấy thành thật đãi người thì người cũng lấy thành thật mà đáp lại. Ôi, cái đạo chí thành có

thể cảm được quỷ thần, động đến trời đất, huống chi là với người?. Nay ngài vâng lệnh ra ngoài cửa

khổn, nên lấy thành thật đãi người, thế mà lại dối trá lừa người, tự cho như thế là cao, cho tôi là kẻ

không biết rằng việc quân gian trá…”. Không chỉ bằng lí thuyết mà Nguyễn Trãi phân tích sự việc

luôn gắn với thực tiễn. Thực tiễn làm cơ sở, củng cố làm tăng sức mạnh của lí. Cũng trong thư số 23,

Nguyễn Trãi cho Vương Thông biết quân Lam Sơn ở các thành Diễn, Nghệ tập hợp đến sáu, bảy

nghìn người, thế mà lời nói của ngài vẫn như “bắt gió chụp bóng”. Như vậy, ngài không chỉ lừa dối

một mình tôi mà lừa dối sáu, bảy nghìn người. Những người này đang căm thù ngài đến tận xương

tủy, ai cũng nghiến răng, nắm tay thề không mặt mũi nào trông thấy mặt ngài nữa, họ đều xin quyết

một phen tử chiến. Tiếp sau là lời răn đe đầy sức mạnh: “Nếu ngài lại theo lời nói trước mà tìm ước

cũ, thì nên rút quân về để trọn lời giao hảo ngày trước. Nếu không như thế, tôi xin đem số quân đang

ngậm oan ở các thành cùng ba mươi vạn quân quân của tôi đi quanh dưới chân thành để nghe ngài

xử trí ra làm sao!”.

Trong phân tích, biện luận Nguyễn Trãi luôn xuất phát từ một chân lí đã được con người thừa

nhận, nhưng không chỉ có thế mà nó còn có chiều sâu triết lí của học thuyết Nho giáo có tính chất

huyền nhiệm như mệnh trời, như thiên lí, do vậy có sức mạnh linh thiêng nhằm thức ngộ những viên

tướng Minh vốn tin tưởng thiên mệnh hoặc chí ít cũng dùng Nho giáo để uy hiếp tư tưởng, hoạt động

của người dân nước Nam phải phản tỉnh, tự thức.

Loại thƣ đề xuất, thỉnh nghị dùng để tâu trình, kiến nghị lên triều đình về tầm nhìn thời đại

và những giải pháp trước thời cuộc. Đó là những bản điều trần Nguyễn Trường Tộ gửi triều đình Huế.

Có thể kể thêm Thiên hạ đại thế luận của Nguyễn Lộ Trạch.

90

Nguyễn Trường Tộ là nhân vật lịch sử quan trọng sống ở nửa đầu thế kỉ XIX (ông sinh năm

1830), nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng đã viết trong lời giới thiệu sách Nguyễn Trường Tộ - Con

người và di thảo:

Nếu Nguyễn Trường Tộ là một người lương, các “điều trần” của ông vẫn đặc biệt như Nguyễn

Lộ Trạch, nhưng Nguyễn Trường Tộ là một tín đồ đạo Thiên Chúa, các “điều trần” của ông

càng tôn vinh ông. Tôi không đi vào khía cạnh “đổi mới tư duy” mà ông kiên trì, tôi chỉ muốn

nhấn mạnh những kiến nghị vì lợi ích của đất nước, mà với tư cách một tín đồ đạo Thiên Chúa

đang bị triều đình ngược đãi, dân chúng nghi kỵ, ông không ngần ngại trình bày, hy vọng nhà

vua đảo ngược thế cờ, chuyển nguy thành an, chuyển yếu thành mạnh, chuyển lạc hậu thành

tiên tiến cho cả quốc gia, bấy giờ, đứng trước khả năng sụp đổ không phải khó thấy.

Nguyễn Trường Tộ là một trí thức - theo nghĩa gần với hiện đại. “Phân tích kỹ các “điều trần”,

chúng ta dễ dàng phát hiện tính “không tưởng” ở một số chủ trương của Nguyễn Trường Tộ -

Ông nóng vội và nhất là ông không biết cơ chế của triều Tự Đức không bao giờ cho phép suy

nghĩ của ông trở thành hiện thực bởi chúng đụng đến bức tường lạc hậu kinh khủng về học

vấn, về khoa học, sự mụ mẫm trong đầu các quan lại cao cấp, kể cả đấng chí tôn- nhưng ông

vẫn không mệt mỏi. Tấm lòng yêu nước thúc đẩy ông. Ta quý Nguyễn Trường Tộ ở chỗ đó”.

(Trương Bá Cần ,2002, tr.9)

Theo GS. Nguyễn Huệ Chi, thì:

Các bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ đã nói lên rất rõ tấm lòng yêu nước thiết tha của

ông. Ông tin tưởng vào triển vọng canh tân của Nhật Bản, đặt hết hy vọng vào thế hệ trẻ được

đào tạo bằng thực nghiệp có thể làm mạnh thế nước... Tuy chưa có ý thức thay thế thể chế

phong kiến bằng một thể chế dân chủ, bởi tình thế đất nước chưa có phép làm điều đó, nhưng

tư tưởng của ông đã tiến rất gần các nhà tư tưởng tiến hóa luận của phương Tây. Có thể nói,

ông đã gợi ra cho người lãnh đạo đất nước những cách nghĩ, cách nhìn cởi mở và táo bạo mà

hàng thế kỷ về sau vẫn đáng để suy gẫm. Tóm lại, ông quả là một con người có trí thông minh,

nhìn xa thấy rộng, có khả năng ứng dụng vào thực tế vốn liếng tri thức uyên bác cũng như

những điều mình sở đắc. Tiếc thay, ông lại "sinh không gặp thời", do đó ông đã không thực sự

đóng một vai trò nào trong lịch sử, ngoài vai trò "làm chứng về tấm lòng của một con người,

về vận hội của một đất nước".

Về đóng góp cho văn học Việt, ông đã để lại một lối văn mang phong cách "chính luận - trữ

tình": vừa phải đảm bảo sự chặt chẽ, sắc bén, khúc chiết trong phân tích (chịu ảnh hưởng khá

rõ tư duy lôgic phương Tây); nhưng cũng vừa thấm đẫm cảm hứng trữ tình của tác giả (vì ông

phơi trải hết lòng mình), nên có sức thuyết phục rất mạnh. Ngoài ra, ông còn để lại một số di

cảo thơ. Nhìn chung thơ ông mang phong cách trữ tình khoáng đạt, và có thể chia thành hai

mảng: những bài "tức cảnh, sinh tình" và những bài "Ngôn chí, tự tình".

(Nguyễn Huệ Chi, 2004, tr. 1208-1209) .

Nghiên cứu tác giả Nguyễn Trường Tộ qua 58 bản điều trần có thể nhận xét: Tất cả những vấn

đề cải cách (về chính trị, kinh tế, quốc phòng…) đã thể hiện tầm nhìn, tư tưởng của một trí thức hiện

đại. Qua việc trình bày súc tích những vấn đề quan trọng này, Nguyễn Trường Tộ trở thành nhà văn

chính luận có phong cách độc đáo.

Điểm nổi bật trong phong cách chính luận của Nguyễn trường Tộ, trước hết là tư tưởng và lập

luận xuất phát từ hiện thực: Việt Nam lạc hậu đang đối đầu với phương Tây hiện đại. Tư tưởng và

91

cách lập luận này khác trước, vì không bắt đầu từ những lời dạy bảo của thánh hiền, hay tư tưởng triết

lí của Khổng – Mạnh. Những lập luận dựa trên hiện thực và biện chứng làm nên những bản văn sinh

động, có sắc thái riêng biệt in đậm chất hiện đại.

Trong Thiên hạ đại thế luận, Nguyễn trường Tộ kiến nghị nước ta nên hòa với nước Pháp, vì

ta chưa đủ lực chống Pháp.

Nhìn cục diện đông Nam Á, ông nhận thấy nhiều nước đã bị phương Tây chiếm, ngay cả

Trung Quốc là nước lớn mà cũng bất lực trước sức mạnh tấn công của Pháp và Anh. Hơn thế nữa,

thực tế Việt Nam lúc này (năm 1863), sau hòa ước Giáp Tuất (1862), Pháp đã làm chủ Sài Gòn, Biên

Hóa, Mỹ Tho và còn muốn thôn tính Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Só sánh sức mạnh quân sự thì ta

kém thua xa người Pháp. Ta chỉ có gươm, giáo, gậy gộc, những khẩu súng cổ thì “bắn mười phát

không đậu một”, tinh thần quân lính thì bạc nhược. Trái lại, quân Pháp có vũ khí hiện đại, quân lính

đầy dũng khí, thế trận của giặc “xông lên thì như nước chảy xiết, ngừng lại thì như núi dựng”. Hiện

tình trong nước lại rối loạn, ở triều đình, “quan chỉ biết xu nịnh, làm trò hề”, dân chúng phân tán, lòng

người rời rạc. Không hòa với Pháp, tất chúng sẽ gây chiến, ta sẽ thất bại.

Điểm thứ hai trong phong cách chính luận của Nguyễn Trường Tộ là lập luận có sự vận động

mạnh mẽ, linh hoạt, đạt đến đích điểm.

Luận bàn về cải cách võ bị, để quân đội mạnh mẽ tạo uy vũ cho đất nước, ông nhận định

tướng cần giỏi, quân cần tinh nhuệ: “Cứ xem năm trước, Anh, Pháp Bắc Kinh, chỉ có hai vạn năm

nghìn quân thì đủ biết quân cần tinh nhuệ chứ không cần nhiều”. Do vậy, nay xin triều đình sửa dần

dần, chọn lấy tránh binh từ hai mươi trở lên, chưa có gia đình. Ngoài ra thải bớt binh lính già yếu. Bớt

đi một nửa số lính…về sĩ quan điều khiển cũng phải bớt đi nửa số. Quan võ cần giỏi chứ không cần

nhiều: “Nay một vệ sư đổi lại còn một ngàn người, một đội còn một trăm người và chỉ cần một chánh,

một phó quân vệ cũng đủ điều khiển. Cho nên phải cẩn trọng chọn quan giỏi Đó phải là hạng người có

trí thuật hơn người và không chỉ khảo hạch một lần mà phải hết sức phân biệt, nghiệm xét mới được”.

Tướng giỏi, quân tinh nhuệ, song chỉnh đốn uy lực quốc gia còn cần phải sửa sang đồn lũy,

chế tạo vũ khí mới lạ, tỉnh thành phải trồng nhiều cây xanh, kinh thành phải xây dựng lại cho hợp

binh pháp…

Điểm sau cùng, phong cách văn chính luận của Nguyễn Trường Tộ trong lập luận là luận cứ,

luận chứng lấy tứ cuộc sống đa dạng, phức tạp hướng theo tinh thần thời đại.

Trong Tế cấp bát điều, điều thứ 4, xin sửa đổi học thuật, chú trọng học thực dụng. Tác giả

khẳng định: “Không có một nền học thuật sáng suốt thì phong tục ngày càng bại hoại, lòng người sẽ

ngày một giả dối, trống rỗng. Đặt vấn đề: học là gì? Ông trả lời: “Là học những gì chưa biết để đem ra

thực hành. Thực hành ở đâu? Thực hành ở thực tế trước mắt mà còn để ích lợi cho đời về sau”. Từ đó,

tác giả phê phán lối học cũ- từ chương, sáo mòn, xa rời thực tế. Cách học cũ chỉ tạo ra một lớp người

dường như cà đời chỉ biết trau chuốt câu hay chữ khéo. Thật đáng buồn thay! Cách học mới cần

nghiên cứu thực tế đi đôi với thực hành như lập trận đồ, binh pháp, đắp thành, giữ nước, sử dụng súng

ống. Suy luận thiết thực, ông đi đến nhận xét: “Thực cảnh bi đát của nước hiện nay không phải lỗi do

con người mà chính ở học thuật”.

Loại thƣ kể tội, kết án dùng để kết tội vua cùng triều nhà Nguyễn thối nát, bóc lột dân chúng,

đầu hàng thực dân Pháp. Hải ngoại huyết thư của Phan Bội Châu và Thư thất điều của Phan Châu

Trinh là những tác phẩm tiêu biểu.

Hải ngoại huyết thư- lá thư máu viết từ hải ngoại, Phan Bội Châu viết tác phẩm này bằng chữ

Hán, Từ Long Lê Đại dịch sang tiếng Việt. Đây là bản dịch thành công, nó rất phổ biến dường như

thay bản chính. Hải ngoại huyết thư bao hàm súc tích toàn bộ chủ nghĩa yêu nước của Phan Bội châu.

Tác giả viết nhằm cổ võ phong trào Duy Tân.

92

Phong trào Duy Tân, Phong trào Duy Tân ở Trung Kỳ, do Phan Châu Trinh (1872 - 1926)

phát động năm 1906 cho đến năm 1908 thì kết thúc sau khi bị thực dân Pháp đàn áp.

Phong trào Duy Tân chủ trương bất bạo động, khôi phục đất nước bằng con đường nâng cao

dân trí, cải tổ xã hội về mọi mặt, trong đó có kinh tế, giáo dục và văn hoá, với các hoạt động thực tiễn

như là mở mang kinh tế, lập các nhà buôn lớn để tự lực, mở trường dạy học hiện đại: dạy quốc ngữ,

bỏ lối học khoa bảng từ chương, thêm khoa học và ngoại ngữ cũng như hướng đến nền chính trị dân

chủ.

Sau khi phong trào Cần vương và phong trào Văn thân thất bại, nhiều cuộc đấu tranh chống

thực dân Pháp ở Việt Nam lại tiếp tục nổ ra, nhưng theo hướng mới. Trong số đó, theo đường lối duy

tân (theo cái mới), nổi bật có Duy Tân hội cùng phong trào Đông Du (1905-1909) do Phan Bội Châu

đề xướng và Phong trào Duy Tân do Phan Châu Trinh phát động tại miền Trung Việt Nam.

Tinh thần duy tân được coi như bắt đầu từ những bản điều trần của Phạm Phú Thứ (1821-

1882), Nguyễn Trường Tộ (1828-1871) và Nguyễn Lộ Trạch (1852-1895) với văn bản "Thiên hạ đại

thế luận" (1892).

Để cứu nước, Phan Bội Châu chủ trương dựa theo mô hình Nhật Bản để xây dựng lực lượng.

Vì vậy, ông đã lập ra Hội Duy Tân (1904) với mục đích là lập ra một nước Việt Nam độc lập. Trong

quá trình hoạt động của hội, năm 1905, Phan Bội Châu phát động phong trào Đông Du. Năm 1906,

Phan Bội Châu viết Hải ngoại huyết thư để thức tỉnh lòng yêu nước, cổ võ phong trào Duy Tân.

Tác phẩm gồm 738 câu thơ, dịch sang tiếng Việt theo thể song thất lục bát. Chẳng hạn, sau khi

kể tội thực dân Pháp, tác giả kêu gọi:

Nay còn lúc giống ngưới chưa hết

Chữ tự cường nên biết khuyên nhau

Cũng người trong cõi năm châu

Nó che tiếng nó, mình lo sự mình

(Lê Đại, dịch)

Xét kết cấu, Hải ngoại huyết thư trình bày ba vấn đề chính, chia thành ba phần rõ rệt:

Phần 1: kể tội ác thực dân Pháp; luận bàn bản chất thâm độc dã man của chúng đối với dân tộc

Việt Nam. Tác giả đưa hàng loạt chứng cứ cho thấy Pháp chủ trương chính sách khủng bố chính trị,

bóc lột kinh tế, nô dịch văn hóa…thể hiện sự cai trị tàn bạo.

Phần 2: lí giải nguyên nhân mất nước, theo Phan Bội Châu, chính sách đối nội lạc hậu, hà

khắc, chính sách đối ngoại mù quáng, hèn hạ của triều Nguyễn là nguyên dân sâu xa và trực tiếp dẫn

đến mất nước.

93

Phần 3: kêu gọi vận động cứu nước; thức tỉnh lòng yêu nước và chủ trương đoàn kết mọi

thành phần trong xã hội.

Với mục đích sáng tác, kết cấu bài văn, thể loại và phương pháp lập luận, Hải ngoại huyết thư,

cùng với Thư thất điều của Phan Châu Trinh thực sự là những áng văn đanh thép kết tội thực dân

Pháp, triều đình phong kiến và có ý nghĩa lớn lao trong việc thức tỉnh, cổ võ và bồi bổ lòng yêu nước

cho dân tộc.

Phan Châu Trinh viết Thư thất điều năm 1922, khi vua Khải Định sang Pháp dự đấu xảo

Marseille kể tội Khải Định và khuyên vua về nước gấp đừng làm nhục quốc thể. Bảy tội Phan Châu

Trinh kể về Khải Định gồm: tội tôn quân quyền, tội thưởng phạt không công minh, tội chuộng sự quỳ

lạy, tội xa xỉ vô đạo, tội phục sức không đúng phép, tội du hạnh vô độ, tội Pháp du am muội.

Trong Thư thất điều (tác phẩm viết bằng chữ Hán, Nhà xuất bản Anh Minh dịch, in năm 1958

tại Huế) Phan Châu Trinh có cách lập luận gần với cách lập luận hiện đại. Với lối công kích trực diện

đối tượng đứng đầu nhà nước phong kiến – vua Khải Định nên tác giả đã có phần dẫn dắt nêu rõ thực

cảnh Việt Nam là “thời nước nhà nghiêng ngập” trong khi thế giới đua tranh tiến bộ. Tác giả cũng

khẳng định mình là người “thích bình dân chủ nghĩa, ghét chuyên chế quân quyền, đau đớn vì quan lại

tham lam, thương xót vì dân sinh khốn khổ, nên dám liều cả sinh mạng tôi ra gánh vác việc đời”.

Phần bị chú của thư cũng đặc biệt. Tác giả nói rõ mục đích làm thư và thái độ của mình. Thư này

được viết một bản bằng Hán văn gửi bệ hạ, lại dịch ra Pháp văn đăng trên báo Pháp và rải truyền đơn,

để rộng đường công luận của người Pháp. Về thái độ, Phan Châu Trinh nói rõ: giữa tôi và bệ hạ, đã

đoạn tuyệt nhất thiết quan hệ, chỉ đứng trên địa vị đối đãi mà thôi, cho nên nói “gởi” mà không nói

“dâng”; còn hai chữ “bệ hạ” là theo Hán văn, xưng hô như vậy cho tiện, chứ không phải tôn kính đâu.

Trong lập luận, tác giả nêu luận điểm rõ rệt, trước khi nêu bảy tội tác giả có lời dẫn:

Nay tôi trích ra bảy việc quan hệ thứ nhất đến dân, đến nước chúng tôi, bảy việc đó là bảy tội

của bệ hạ, tôi sẽ xét đoán bắt buộc như sau này. Khi bệ hạ được thư này thì bệ hạ phải tự xử lấy.

1. Một là tội tôn quân quyền

2. ……

Luận tội này, Phan Châu Trinh cũng mượn Nho giáo: xưa vua Định Công hỏi đức Khổng Tử

rằng: “Có câu gì vua nói ra làm cho nước thạnh trị được không?” Đức Khổng Tử rằng: “Có, làm vua

khó lắm, mà làm tôi cũng không dễ”. Tiếp tục tác giả dẫn Mạnh Tử: “Trong nước, dân là quý nhất,

đất cát và sản vật thứ nhì, còn vua là khinh”. Những trường hợp vua Kiệt, vua Trụ bị giết và thánh

nhân lại bảo: Nghe nói giết một người tàn bạo tên là Trụ chứ chẳng phải giết vua”.

Dẫn Nho giáo, tác giả còn dẫn các học thuyết phương Tây và chỉ cho Khải Định thấy: ông

vua hay ông giám quốc, chẳng qua là người thay mặt cho một nước, cũng như người quản lí thay mặt

cho công ty mà thôi. Do vậy, “ai chịu trách nhiệm nấy, hay hưởng được cái quyền lợi, thời phải làm

cho hết cái bổn phận mình đối với dân, đối với nước. Nếu không thế, thời cũng bị phạt, bị tội như mọi

người vậy”. Sau đó, tác giả kết tội Khải Định rất nặng nề theo một lô gich chặt chẽ. Tự tôn là một sai

lầm. Sai lầm ấy là cái gốc dẫn đến xâu chuỗi những sai lầm khác. Sự hủ bại dẫn đến việc sai lầm trong

94

dạy dỗ; thế hệ học trò nối tiếp ra đời là những kẻ dốt nát, trở thành những viên quan bất tài thất đức.

Đó là nguyên nhân sâu xa cũng là duyên cớ trực tiếp dẫn đến thực trạng mất nước.

Cuối cùng tác giả kết lại:

Vậy cho nên đến nay nước nhà ngày một sa sút, càng ngày càng tàn mạt, chẳng còn đứng vào

bực nào cả; nếu không bị nước Pháp lấy, thời cũng không biết nước ta trôi nổi vào tay ai!”

Cách lập luận như trên: nêu, triển khai luận điểm, cuối cùng đúc kết, khắc sâu rất gần cách lập

luận hiện đại.

* Tiểu kết:

Ở phương diện ngôn ngữ thể loại, văn chính luận trung đại Việt Nam tiếp nhận Hán ngữ chủ

động, sáng tạo. Các nhà chính luận hiểu sâu Hán ngữ- thứ ngôn ngữ để tiếp thu nền văn hóa và những

tư tưởng triết học Trung Hoa, nhất là Nho giáo. Từ đó, trong bang giao, tranh biện các nhà chính luận

chủ động hướng đối phương vào đường lối, kế hoạch của mình. Cho nên chúng ta không ngạc nhiên

nhận thấy trong cuộc chiến chống phong kiến phương Bắc, cha ông ta đã dùng chính Nho giáo để

chống Trung Quốc xâm lược. Điểm đặc biệt, dựa vào chữ Hán, cha ông đã sáng tạo chữ Nôm. Bộ

phận văn chính luận chữ Nôm ra đời trở thành di sản riêng, đặc sắc trong nền văn học Việt Nam.

Các nhà chính luận Việt Nam không chỉ tiếp nhận các thể tài văn chính luận trung đại Trung

Quốc mà còn hoàn chỉnh và đi đến sáng tạo. Các thể loại như hịch, cáo, chiếu…đã được các tác giả

chính luận nhất là Nguyễn Trãi, Ngô Thì Nhậm đã mở rộng thể tài và hoàn thiện loại thể. Những vấn

đề lớn của quốc gia, dân tộc như độc lập, chống ngoại xâm; vấn đề nhân nghĩa, tự do…không chỉ

được chuyển tải bằng những luận đề cô đọng, sắc sảo mà còn được thuyết minh, truyền bá bằng

những câu văn giàu hình tượng sinh động hay những hình ảnh giản dị, quen thuộc. Đặc biệt những

vấn đề chính luận được trình bày, bàn luận, khẳng định và kêu gọi bằng những lời thơ hay những câu

văn giàu nhịp điệu như thơ là những điểm mới của văn học chính luận Việt Nam.

95

KẾT LUẬN

1. Văn chính luận là thể văn đã có từ rất lâu đời (từ thời nhà Tần, năm 221 tr.CN) trong nền

văn học cổ Trung quốc. Thể văn này đã du nhập vào Việt Nam cùng với thời gian Trung Quốc đô hộ

Việt nam. Những tác phẩm văn chính luận đầu tiên trong nền văn học viết của Việt Nam có thể kể

đến, như: Chiếu dời đô của Lí Công Uẩn, Phạt Tống lộ bố văn của Lí thường Kiệt, Hịch Tướng sĩ văn

của Trần Quốc Tuấn…Cho đến hết thời trung đại, văn chính luận trung đại Việt Nam đã ghi nhận

hàng trăm tác phẩm. Trong di sản văn học cổ, tác phẩm văn chính luận không chỉ có ý nghĩa tư tưởng,

ý nghĩa nhân văn sâu sắc mà còn có giá trị văn học lớn.

2. Sự tiếp biến – phát triển của văn chính luận Việt Nam đối với văn chính luận trung Quốc, về

phương diện tư tưởng có thể thấy:

Văn chính luận Trung Quốc lấy tư tưởng Nho giáo làm chỉ nam xây dựng đường lối chính trị

xã hội. Những áng văn chính luận như: Cao đế cầu hiền chiếu, Văn đế nghị tá bách tính chiếu, Cảnh

đế lệnh nhị thiên thạch tư chức chiếu, Vũ đế cầu mậu tài dị đẳng chiếu…, tuy có nói đến việc vua

phải sửa mình và mời gọi hiền tài cộng tác với minh quân nhưng thực chất nhằm ca ngợi tài đức nhà

vua, khẳng định triều đình, khẳng định uy vũ buộc dân chúng phải thần phục, trung thành. Trong nội

chiến, những bài văn chính luận nhằm phê phán, công kích đối phương thường không phản ánh trung

thực hiện thực nên nội dung tư tưởng thiếu tính xác thực.

Văn chính luận trung đại của Việt Nam thường ra đời trong những hoàn cảnh đặc biệt quan

trọng: dời kinh đô để thực hiện việc trị quốc an dân lâu dài, chấn hưng kinh tế, mở rộng bang giao;

kêu gọi kháng chiến khi vận nước lâm nguy, kinh thành thất thủ; hoặc sau những chiến thắng vang

dội, tuyên bố độc lập…Vì vậy so với văn chính luận Trung Quốc, về phương diện tư tưởng văn chính

luận Việt Nam xuất hiện những nội dung mới hướng về đất nước, dân tộc. Nước mất thì “nửa đêm vỗ

gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa”. Dân tộc điêu linh thì “tự ta ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu

người chết đuối”. Trong nhắn nhủ bề tôi thì “một tấc đất của tổ tiên lẽ nào để chúng xâm phạm”…Do

vậy, văn chính luận trung đại của Việt Nam có những nội dung mới và tầm tư tưởng cao sâu so với

văn chính luận trung đại Trung Quốc.

Đến thời Tây sơn, vua Quang Trung có chính sách đề cao, coi trọng chữ Nôm (lập Sùng chính

viện, dịch những văn bản chữ Hán ra chữ Nôm), văn chính luận bằng chữ Nôm ra đời đã diễn tả

những tư tưởng lớn lao, quan trọng một cách giản dị, giàu hình ảnh và người bình dân đã tiếp nhận tư

tưởng yêu nước, tự do giản dị, dễ dàng hơn; đồng thời họ cũng cảm nhận sự gần gũi trong lí tưởng và

tình cảm của mình với những người “anh hùng áo vải”. Đây cũng là một điểm rất quan trọng về

phương diện tư tưởng góp phần từng bước tạo nền cho người dân tiếp nhận tư tưởng dân chủ sau này.

Sang thời cận đại (cuối TK XIX đầu TK XX), văn chính luận trung đại Việt Nam xuất hiện

những tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, Phan Châu Trinh đã thể hiện tầm

nhìn, tư tưởng thời đại, có sự tiếp nhận những tư tưởng mới của phương Tây. Các tác giả thể hiện

những tư tưởng mới mang tầm vóc thời đại. Trong cái nhìn đại cục về chiến tranh, Nguyễn Trường Tộ

với Thiên hạ phân hợp đại thế luận và Nguyễn Lộ Trạch với Đại thế luận đã thấy nước ta cần gắn bó

với Anh tạo thế liên hợp kềm chế Pháp là những điểm mới ở tầm tư tưởng trước đây chưa xuất hiện,

chưa ai bàn. Đó là tầm nhìn ra khu vực và thế giới. Còn trong nước, những tư tưởng mới của những

nhà văn chính luận thời đại thể hiện tính chất xung đột mạnh mẽ giữa ý thức hệ mới tiếp nhận văn

minh phương Tây với tư tưởng phong kiến lạc hậu của các triều đại phong kiến Việt Nam. Từ đó, các

tác giả đề xuất những cải cách về chính trị, quân sự, kinh tế theo tinh thần thời đại mà các nước

phương Tây đã đạt được những thành tựu vượt bậc. Những vấn đề lớn về độc lập, tự do, nhân vị, phát

triển đều được bàn bằng tầm nhìn thời đại vừa bao quát vừa cụ thể. Cuối cùng, những khẳng định,

những bài bác cũng được các tác giả bàn bạc rõ ràng thể hiện dứt khoát lập trường tư tưởng của mình.

96

Có thể nói cuối thời cận đại, văn chính luận trung đại Việt Nam đã có bước đột phá về nhận thức bắc

nhịp cầu chuyển giao tư tưởng góp phần quan trọng để người dân Việt Nam chuyển nhịp bước vào

cuộc sống hiện đại.

3. Về phương diện thể loại và ngôn ngữ

Thể loại văn chính luận truyền thống thường dùng chữ Hán và viết bằng văn xuôi nghị luận.

Những áng văn chính luận bằng chữ Hán thể hiện sự trang trọng, tính lô gich của lập luận và tính chất

hùng biện, vấn đề được trình bày linh hoạt, sắc sảo, đi đến tận cùng làm sáng tỏ chân lí.

Khi đề xuất các luận điểm, Nguyễn Trãi triển khai tư tưởng đến tận cùng bằng lập luận suy lí

chặt chẽ kết hợp với thực tế cuộc chiến. Thực chất đây là sự phối hợp nhuần nhuyễn giữa chính trị,

quân sự, ngoại giao hướng tới những mục tiêu đã được bộ tham mưu nghĩa quân Lam Sơn bàn bạc

thống nhất cụ thể, chuẩn bị những phương án hành động rất khoa học. Vì thế, khi luận điểm đã triển

khai thấu tình, trọn ý, thư thường có một kết thúc mở nhẹ nhàng, thư thái, đầy chất nhân văn: “ Như

giữ lòng tín – thành thì hai bên hết mọi hiềm nghi, mà cái ơn như trời đất cha mẹ của ngài mới trọn

vẹn trước sau. Tôi dẫu kết cỏ ngậm vành, sao dủ báo đáp (thư số 34).

Đến văn chính luận của Ngô Thì Nhậm – cây đại bút của văn học Tây Sơn lại nổi bật những

điểm rất riêng về tư tưởng nghệ thuật. Đó là sự mềm dẻo có thể nói là “nhẫn nhục” về sách lược,

nhưng cứng rắn ở nguyên tắc “nên kinh thời kinh, nên quyền thời quyền, miễn sao cho xong việc

nước”. Đó là sự mẫn cảm, thông minh, là ý chí, sức mạnh là trí tuệ của Việt Nam qua sự biến ảo của

từ chương để có sự hòa điệu giữa chính trị, quân sự, ngoại giao để đạt đến những kết quả lớn, chung

cục tốt.

Với trí tuệ xuất chúng, vốn văn hóa sâu rộng, nhận thức sâu sắc, hành động chính xác, Ngô

Thì Nhậm đã viết hàng loạt thư từ mệnh mềm mại, uyên thâm mà tích chứa sức mạnh. Từ Biểu trần

tình sau đại thắng quân Thanh đã buộc Càn Long bãi việc động binh chín tỉnh, chuyển binh giáp thành

“hội áo xiêm” đến việc phong vương cho vua Quang Trung nhà Thanh rất lúng túng và nhiều lần phải

xuống thang nhượng bộ. Đây cũng là cuộc đấu tranh ngoại giao căng thẳng theo diễn trình khẳng định

ưu thế thuộc Tây Sơn. Lúc đầu nhà Thanh buộc vua Quang Trung phải sang chầu nhân lễ mừng thọ

Càn Long 80 tuổi. Các nhà ngoại giao Tây Sơn kiên quyết không chịu yêu sách hỗn xược của kẻ bại

trận cho dù chúng là nước lớn dồi dào binh lực. Giải quyết vụ việc, Thang Hùng Nghiệp và Phúc An

Khang đã đề nghị sẽ phong vương khi vua Quang Trung đi qua cửa ải Nam Quan. Các nhà ngoại giao

Tây Sơn tiếp tục đấu tranh đòi việc phong vương phải được thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam. Cuối

cùng, sứ giả nhà Thanh phải đến Thăng Long thực hiện việc phong vương. Một lần nừa, vua Quang

Trung không chịu ra Thăng Long và đòi sứ giả Tàu phải vào Thuận Hóa. Tình thế phức tạp, căng

thẳng, để xong việc vua Quang Trung cử người ra nhận sắc phong, bản thân nhà vua kiên quyết không

ra. Cũng như sau này vua Quang Trung không sang chầu vua Thanh mà cử người cháu họ là Phạm

Công Trị đóng giả Quang Trung dẫn đầu phái đoàn mừng thọ. Tiếp sau đó, việc vua Quang Trung sai

Ngô Thì Nhậm soạn biểu gửi vua Càn Long đòi lại bẩy châu ở Hưng Hóa; đòi lại đất ở hai tỉnh Quảng

Đông và Quảng Tây là những bước đi lớn, ngoạn mục trong ngoại giao với Trung Quốc mà triều Tây

Sơn dưới ánh hào quang rực rỡ của vua Quang Trung và thiên tài ngoại giao của Ngô Thì Nhậm đã

thực hiện.

Không chỉ ở lĩnh vực đối ngoại mà trong đối nội Ngô Thì Nhậm cũng góp bao tâm huyết, tài

năng làm vinh hiển triều đại Quang Trung. Những bài Chiếu lên ngôi, Chiếu lập học, Chiếu khuyến

nông, Chiếu hiểu dụ các quan văn võ cựu triều, Chiếu phân phối hàng binh Trung Quốc vào quân

ngũ, Chiếu dụ giặc Tàu ô…đã góp phần lớn lao cho vương triều Quang Trung hiển trị, ổn định và

phát triển.

Cuối thời trung đại chuyển sang cận đại, lịch sử văn học Việt Nam lại ghi nhận những áng văn

chính luận xuất sắc của Nguyễn Trường Tộ- một con người đầu đội khăn đóng, mình mặc áo dài the

97

đen mà tâm hồn, trí tuệ mang theo cả một “trời Tây” tri thức. Nguyễn Trường Tộ viết văn chính luận

mới mẻ ở kiến thức và phương pháp lập luận. Từ luận điểm đến cách luận chứng đều chứa dựng kiến

thức, tầm nhìn thời đại; thái độ yêu nước cũng kết tinh trong phẩm chất của một trí thức hiện đại. Ở

chừng mực nào đó có thể thấy Nguyễn Trường Tộ là một kho bách khoa tri thức về kinh tế, chính trị,

quân sự, học thuật, kiến trúc, môi trường,…Do vậy, trong lịch sử Việt Nam những năm cuối thời

trung đại, Nguyễn Trường Tộ được ghi nhận là “nhà cải cách lớn của Việt Nam cuối thế kỉ XIX”.

Bên cạnh nhà chính luận Nguyễn Trường Tộ còn xuất hiện những áng văn chính luận của

Nguyễn Lộ Trạch, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Châu Trinh…làm nên nét riêng của văn chính luận thời

thuộc Pháp. Chất chính luận thời này khác biệt trước đó là tư tưởng hiện đại do tiếp nhận tư tưởng,

kiến thức, nền học thuật phương Tây. Phương Tây với lối tư duy tuyến tính, kèm theo là năng lực

phân tích khác hẳn phương Đông với phương thức tư duy cầu tính, mang tính chất hỗn hợp giữa trực

giác và lí tính, hữu thức và vô thức, ít năng lực duy lí và phân tích. Như vậy, có thể nói những nhà

văn chính luận cuối thời trung đại đã có những đóng góp quan trọng về tư tưởng và phương pháp tư

duy cho lịch sử văn học dân tộc.

Nhìn chung, văn chính luận trung đại Việt Nam xuất hiện từ triều đại nhà Lí và kết thúc khi

thực dân Pháp xâm lược và cai trị Việt Nam. Trải mười thế kỉ, văn chính luận đã để lại hàng trăm tác

phẩm giá trị, trong số đó, nhiều tác phẩm đã thành mẫu mực, đạt giá trị cao về tư tưởng nghệ thuật trở

thành những tác phẩm mang màu sắc cổ điển trong kho tàng văn học trung đại Việt Nam.

Có thể nói trong thời trung đại, từ những tác phẩm chính luận đầu tiên đến tác phẩm cuối

cùng, văn chính luận trung đại Việt đã có những bước phát triển đặc sắc. Từ việc dùng ngôn ngữ chữ

Hán đến việc dùng ngôn ngữ chữ Nôm; từ việc dùng thể văn xuôi đến thể thơ để thể hiện những vấn

đề chính luận quan trọng nhất là đánh đuổi ngoại xâm, bảo vệ độc lập, gìn giữ bờ cõi non sông văn

chính luận khẳng định tầm quan trọng không thể thiếu trong những hoạt động quan trọng của đất

nước.

Tóm lại, nghiên cứu vấn đề “văn chính luận trung đại Việt Nam và Trung Quốc – tiếp biến và

phát triển đã khẳng định được những đóng góp quan trọng của văn chính luận trung đại Việt Nam

trong lịch trình tư tưởng của dân tộc, góp phần quan trọng vào ý thức bảo vệ chủ quyền độc lập, cũng

như chuẩn bị tư tưởng, năng lực để con người Việt Nam bước vào cuộc sống hiện đại. Mặt khác, con

người Việt Nam vốn yêu chuộng văn chương, dễ thích nghi với nền văn minh, tiến bộ của nhân loại,

tiếp nhận thể loại văn chính luận của Trung Quốc, các nhà văn chính luận Việt Nam đã sáng tác thành

công và để lại nhiều áng văn chương bất hủ thể hiện vẻ đẹp tâm hồn, trí tuệ tạo dấu ấn sâu đậm của

con người Việt Nam ở từng thời đại.

98

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Nguyễn Phúc Anh. (2011). Thông diễn mới về “nguyên đạo” trong Văn tâm điêu long của

Lưu Hiệp. Tạp chí Văn hóa Nghệ An, số 11.

Aristote. (1999). Lưu Hiệp Văn tâm điêu long. Hà nội: Nhà xuất bản Văn học.

Trương Bá Cần. (2002). Nguyễn Trường Tộ- con người và di thảo. Nhà xuất bản TP. Hồ

Chí Minh.

Phạm Tú Châu. (1997). Hoàng Lê nhất thống chí, văn bản, tác giả và nhân vật. Hà Nội:

Nhà xuất bản Khoa học Xã hội.

Hà Như Chi. Việt Nam thi văn giảng luận. Sống mới xuất bản.

Giản Chi, Nguyễn Hiến Lê. (2004). Đại cương triết học Trung Quốc. Nhà xuất bản Thanh

Niên.

Nguyễn Đổng Chi. (1942). Việt Nam cổ văn học sử. Nhà xuất bản Hàn Thuyên.

Nguyễn Đổng Chi. (1959). Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam. Nhà xuất bản Văn Sử Địa.

Phan Huy Chú. (1992). Lịch triều hiến chương loại chí T.III. Hà Nội. Nhà xuất bản Khoa

học Xã hội.

Phan Trần Chúc. (1960). Văn chương quốc âm thế kỉ XIX. Nhà sách Khai Trí phát hành.

Phan Trần Chúc. (1994). Việt Nam sử học triều Tây Sơn. Nhà xuất bản Văn hóa.

Phan Trần Chúc. (2001). Bằng quận công Nguyễn Hữu Chỉnh. Nhà xuất bản Văn hóa.

Phan Trần Chúc. 2002). Cuộc đời trôi nổi và đau thương của Lê Chiêu Thống. Hà Nội:

Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin.

Nguyễn Ngọc Cư (dịch). (1986). Những ngày tàn của Tây Sơn dưới con mắt các giáo sĩ

phương Tây. Tập san Sử Địa , số 9-10, tr.141-186.

Quỳnh Cư, Nguyễn Đức Hùng. (2001). Các triều đại Việt Nam. Hà Nội. Nhà xuất bản

Thanh niên.

Đinh Mạnh Cường. (1980). Góp phần tìm hiểu những cải cách của vua Quang Trung. Nhà

xuất bản Bình Trị Thiên.

D.M. (1956). Giới thiệu văn học Việt Nam thời Tây Sơn Nghiên cứu Văn Sử Địa.

Đỗ Đức Dục. 91986). Tính cách điể hình trong Hoàng Lê nhất thống chí. Tạp chí Văn học,

số 2.

Phạm Văn Đang. (1973). Văn học Tây Sơn. Sài Gòn: Nhà xuất bản Lửa thiêng.

Nguyễn Sĩ Đạo. (1941). Đại Việt văn học lịch sử. Hà Nội: Nhà xuất bản Tân Hóa.

Nguyễn Đình Đầu. (2013). Nguyễn Trường Tộ với triều đình Tự Đức. Nhà xuất bản Trẻ.

Kim Định, Vương đạo hay bá đạo, Triết Việt- Tư tưởng Việt Nam, http: //new viettart.

Lê Quý Đôn. (1964). Phủ biên tạp lục. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học Xã hội.

Lê Quý Đôn. (1993). Đại Việt thông sử. Đồng Tháp: Nhà xuất bản Tổng hợp.

Lê Quý Đôn. (1997). Lê Quý Đôn Toàn tập. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học Xã hội.

Lê Quý Đôn. (1962). Vân đài loại ngữ, tập I. Hà Nội: Nhà xuất bản Hà Nội.

Đoàn Lê Giang. (2008). Tài liệu giảng dạy Cao học. Bản đánh máy.

Nguyễn Thạch Giang. (Chủ biên). (2004). Tinh tuyển văn học Việt Nam. Hà Nội: Nhà xuất

bản Khoa học Xã hội.

Thạch Trung Giả. (1999). Văn học phân tích toàn thư. Hà Nội: Nhà xuất bản Văn học.

Trần Văn Giáp. (1963). Nguyễn Huệ với bia tiến sĩ ở Hà Nội. Tạp chí nghiên cứu Lịch sử,

số 46.

99

Phan thanh Giản. (Tổng tài). (1960). Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục. Hà Nội:

Nhà xuất bản Văn-Sử- Địa.

AJV.Giurevich. (1996). Các phạm trù văn hóa Trung cổ (bản dịch). Hà Nội: Nhà xuất bản

Giáo dục.

Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi. (2010). Từ điển thuật ngữ văn học. Hà Nội:

Nhà xuất bản Giáo dục.

Dương Quảng Hàm. (1943). Việt nam văn học sử yếu. Nha học chính Đông Pháp xuất bản.

Nguyễn Bá Huân. (1998). Tây Sơn văn thần liệt truyện. Sở Văn hóa Thông tin Nghĩa Bình

xuất bản.

Cao Xuân Huy, Thạch Can. (chủ biên). (1978). Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm, tập II.

Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học Xã hội.

Nguyễn Văn Hoàn. (1990). Lịch sử văn học Việt Nam, tập I. Hà Nội. Nhà xuất bản Khoa

học Xã hội.

Nguyễn Mạnh Hùng. (2001). Trên hành trình văn học trung đại. Hà Nội: Nhà xuất bản

Đại học Quốc Gia Hà Nội.

Lý Văn Hùng. Nguồn động lực Nam tiến vùng đất Tây Sơn. Tập san Sử- địa số 9-10, tr.

129-133.

Hoàng Xuân Hãn. (dịch). Việt – Thanh sử chiến, Ngụy Nguyên. Tập san Sử- Địa, số 9-10,

tr.3-8.

Hoàng Xuân Hãn. (1966). Lí Thường Kiệt- Lịch sử ngoại giao và tông giáo. Hà Nội: Nhà

xuất bản Hà Nội.

Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên…soạn thảo Đại Việt Sử kí Toàn thư, 1272-1697,

Viện Khoa học Xã hội Việt Nam dịch 1985-1992. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội ấn hành năm

1993.

Trần Đình Hượu. (1999). Nho giáo và văn học trung đại Việt Nam. Nhà xuất bản Giáo

dục.

Đinh Gia Khánh. (chủ biên), Bùi Duy Tân, Mai Cao Chương. (1997). Văn học Việt Nam từ

TK X đến nửa đấu TK XVIII. Hà NỘi: Nhà xuất bản Giáo dục.

Huỳnh Thiên Kim. (1962). Cận đại Việt sử diễn ca. Dân Sanh phục xã xuất bản.

Trần Trọng Kim. (1962). Việt Nam sử lược. Trung tâm Học liệu xuất bản.

Trần Trọng Kim. (1962). Nho giáo, quyển hạ, in lần thứ 3. Nhà xuất bản Tân Việt.

Konrat. (1997). Phương Tây và phương Đông. (Trịnh Bá Đĩnh, dịch. Hà Nội: Nhà xuất

bản Giáo dục.

Vũ Khiêu. (1986). Thơ Ngô Thì Nhậm. Hà Nội: Nhà xuất bản Văn học.

Kỉ yếu Hội thảo quốc tế. (1990). Hồ Chí Minh anh hùng giải phóng dân tộc. Hà Nội: Nhà

xuất bản Khoa học Xã hội.

Kỉ yếu Hội thảo. (11.2010). Nghiên cứu và Đào tạo Khoa học Xã hội và Nhân văn ở Việt

Nam: Thành tựu và kinh nghiệm, Trường ĐHKh XH&NV ĐH QG Hà Nội.

Phùng Hữu Lan. (2008). Lịch sử triết học Trung Quốc. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học

Xã hội.

Lê Cao Lãng. (1975). Lịch triều tạp kỉ, tập I, Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học Xã hội.

Thanh Lãng. (1967). Bảng lược đồ văn học Việt Nam. Q. Thượng & Q.Hạ. Nhà xuất bản

Trình bày.

Đặng Thanh Lê. (1978). Lịch sử văn học Việt Nam, tập III. Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo

dục.

100

Đặng Thanh Lê, Hoàng Hữu Yên, Phạm Luận. ( 1999). Văn học Việt Nam nửa cuối TK

XVIII đầu TK XIX. Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục.

Mai Quốc Liên. (1986). Dưới gốc me vườn Nguyễn Huệ. Sở Văn hóa Thông tin Nghĩa

Bình xuất bản.

Mai Quốc Liên. (2001). Ngô Thì Nhậm, Tác phẩm, tập I. Trung tâm Quốc học xuất bản.

Lixêvich. (1994). (Trần Đình Sử, dịch). Tư tưởng văn học cổ Trung Quốc. Hà Nội: Nhà

xuất bản Giáo dục.

Nguyễn Thế Long. (2005). Bang giao Đại Việt thời Tây Sơn. Hà Nội: Nhà xuất bản Văn

hóa Thông tin.

Nguyễn Lộc. (1999). (Tái bản lần thứ 3). Văn học Việt Nam từ nửa cuối TK XVIII đến hết

TK XIX. Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục.

Phương Lựu. (1997). Góp phần xác lập hệ thống quan niệm văn học trung đại. Hà Nội:

Nhà xuất bản Giáo dục.

Huỳnh Lý. (1983). Hợp tuyển thơ văn Việt Nam. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học Xã hội.

Nguyễn Hữu Lương. (1992). Kinh Dịch với vũ trụ quan Đông phương. Nhà xuất bản TP.

Hồ Chí Minh.

Nguyễn Đăng Na. (2001). Đặc điểm văn học trung đại- Những vấn đề văn xuôi tự sự. Hà

Nội: Nhà xuất bản Giáo dục.

Đặng Phương Nghi (dịch), Archives Nationnales de Paris, F5, A2, tr.267, Tập san Sử Địa,

số 9-10.

Trần Nghĩa. (1970). Góp phần tìm hiểu quan niệm văn dĩ tải đạo trong văn học cổ Việt

Nam. Tạp chí Văn học, số 2.

Trần Nghĩa. (1973). Trìm hiểu thái độ chính trị của Ngô Thì Nhậm. Tạp chí Văn học, số 4.

Bùi Văn Nguyên. (1980). Chủ nghĩa yêu nước trong văn học thời khởi nghĩa Lam Sơn. Hà

Nội: Nhà xuất bản Khoa học Xã hội.

Trần Nghĩa. http: // www. Vientriethoc.com.vn

Bùi Văn Nguyên. (1984). Văn chương Nguyễn Trãi. Hà Nội: Nhà xuất bản Đại học và

Trung học Chuyên nghiệp.

Phạm Thế Ngũ. (1997). (Tái bản). Việt Nam văn học sử giản ước tân biên. Tập I, II,III.

Nhà xuất bản Đồng Tháp.

Nguyễn Nhã. Tài dùng binh của Nguyễn Huệ. Tập san Sử - Địa, số 13, tr.205-227.

Nguyễn Nhã. Tài dùng binh của Nguyễn Huệ. Tập san Sử Địa, số 13, tr. 205-227.

Nguyễn Xuân Nhân. (1999). Văn học dân gian Tây Sơn. Nhà xuất bản Trẻ.

Nguyễn Xuân Nhân. (2001). Các ngôi sao Tây Sơn. Nhà xuất bản Văn Nghệ TP. Hồ Chí

Minh.

Nhiều tác giả. (1978) (Tái bản). Hợp tuyển thơ văn Việt Nam. Tập III. Hà Nội: Nhà xuất

bản Văn học.

Nhiều tác giả. (1983). Góp phần tìm hiểu phong trào nông dân Tây Sơn- Nguyễn Huệ. Sở

Văn hóa Thông tin Nghĩa Bình xuất bản.

Nhiều tác giả. (2004). Từ điển Văn học. Hà Nội: Nhà xuất bản Thế giới.

101

Nhiều tác giả. (2001). Văn học sử những quan niệm mới, những tiếp cận mới. Trung tâm

Khoa học Xã hội và Nhân văn xuất bản.

Nhiều tác giả. (1990). Kỉ yếu Hội thảo quốc tế: Hồ Chí Minh- anh hùng giải phóng dân

tộc. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội.

Niculin. Việt Nam văn học sơ khảo (Lê Xuân Vĩnh, dịch). Hà Nội: Tư liệu Viện văn học

D.344.

Trương Bá Phát. Cuộc khởi dấy và chiến tranh Tây Sơn. Tập san Sử- Địa, kỉ niệm 200

năm phong trào Tây Sơn.

Nguyễn Khắc Phi. (998). Thơ văn cổ Trung Hoa mảnh đất quen mà lạ. Hà Nội: Nhà xuất

bản Giáo dục.

Nguyễn Văn Sâm. (1972). Văn học Nam hà. Nhà xuất bản Lửa thiêng. Sài Gòn.

Đặng Đức Siêu. (2004). Văn hóa cổ truyền phương Đông (TQ). Hà Nội: Nhà xuất bản

Giáo dục.

Đặng Đức Siêu, (2004). Ngữ văn Hán Nôm T I. Nhà xuất bản Đại học Sư phạm.

Trần Đình Sử. (2001). Đọc văn học văn. Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục.

Nguyễn Hữu Sơn (sưu tầm và tuyển chọn). (2007). Nguyễn Trãi tác gia và tác phẩm. Nhà

xuất bản Giáo dục.

Trần Đình Sử. (1999). Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam. Hà Nội. Nhà xuất

bản Giáo dục.

Trần Đình Sử. (1993). Một số vấn đề thi pháp hiện đại. Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục.

Bùi Duy Tân. (1998). Văn học chữ Nôm tinh hoa sáng tạo của văn học cổ điển Việt Nam

thời trung đại. Tạp chí Văn học số 8.

Bùi Duy Tân. (1999). Khảo và luận một số tác gia tác phẩm văn học trung đại. Hà Nội:

Nhà xuất bản Giáo dục.

Phan Sĩ Tấn, Trần Thanh Đạm. (1980). Thơ văn Nguyễn Trãi. Hà Nội: Nhà xuất bản Văn

học.

Chu Văn Thường. (1977). Bài kí bia chùa Bảo Ân. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học Xã

hội.

Cao Tự Thanh. (1996). Nho giáo ở Gia Định. Nhà xuất bản TP. Hồ Chí Minh.

Khâu Chấn Thanh. (1992). Lí luận văn học cổ điển Trung Quốc. Nhà xuất bản Văn học.

Hồ Bạch Thảo. (2008). Thanh thực lục. Hà Nội: Nhà xuất bản Hà Nội.

102

Hồ Bạch Thảo. Văn từ ngoại giao. http://www.vanhoanghean.

Chương Thâu. (2014). Nguyễn Trường Tộ- nhà cải cách lớn của Việt Nam TK XIX. Nhà

xuất bản Văn hóa.

Tư Mã Thiên. (1988). Sử kí Tư Mã Thiên. Hà Nội: Nhà xuất bản Văn học.

Nguyễn Đăng Thục. Thái độ kẻ sĩ triều Tây Sơn. Tập san Sử - Địa, số 9-10, tr.107-127.

Nguyễn Đăng Thục. (1968). Trận Đống Đa với chính nghĩa quốc gia. Tập san Sử - Địa, số

9-10, tr.9-20.

Nguyễn Đăng Thục. (1998). Lịch sử tư tưởng Việt Nam. Tập I-IV. Nhà xuất bản TP. Hồ

Chí Minh.

Lê Tắc. An Nam chí lược. (2012). q.III, chương Thượng thư hành lục. Nhà xuất bản Đông

Tây.

Trần Thanh Tuấn. (2011). Nghĩ thêm về Nam quốc sơn hà. Tạp chí Hội Nhà văn, số tháng

3.

Phạm Việt Truyền. (1965). Văn học miền Nam thời Nam – Bắc phân tranh. Nhà xuất bản

Khai trí, Sài Gòn.

Tạ Chí Đại Trường. (1973). Lịch sử nội chiến Việt Nam từ 1771-1802. Nhà xuất bản Văn-

Sử-Địa.

Ủy ban Khoa học Xã hội. (1971). Lịch sữ Việt Nam, tập I. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học

Xã hội.

Nguyễn Đức Vân, Kiều Thu Hoạch. (1997). Hoàng Lê nhất thống chí, tập I,II. Hà Nội:

Nhà xuất bản Văn học.

Trần Trung Viên. (2004). Văn đàn bảo giám. Hà Nội: Nhà xuất bản Văn học.

Lê Trí Viễn. (1987). Đặc điểm lịch sử văn học Việt Nam. Nhà xuất bản Đại học và Trung

học chuyên nghiệp.

Trần Ngọc Vương. (1996). Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung. Hà Nội: Nhà

xuất bản Giáo dục.

---------------------

103

PHỤ LỤC

Bài 1: Nam Quốc Sơn Hà, Lí Thƣờng Kiệt

Nguyên bản chữ Hán[6]:

南國山河

南 國 山 河 南 帝 居

截 然 分 定 在 天 書

如 何 逆 虜 來 侵 犯

汝 等 行 看 取 敗 虛

Nam quốc sơn hà Nam quốc sơn hà Nam đế cư,

Tiệt nhiên phân định tại Thiên thư.

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

Bản dịch thơ:

Sông núi nƣớc Nam Sông núi nước Nam, Nam đế ở,

Rành rành phân định tại sách trời

Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm

Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời

Bài 2: Phạt Tống Lộ bố văn, Lí Thƣờng Kiệt

PHẠT TỐNG LỘ BỐ VĂN

104

Phiên âm:

Thiên sinh chưng dân, quân đức tắc mục. Quân dân chi đạo, vụ tại dưỡng dân. Kim văn, Tống

chủ hôn dung, bất tuần thánh phạm. Thính An Thạch tham tà chi kế, tác "thanh miêu", "trợ dịch" chi

khoa. Sử bách tính cao chi đồ địa, nhi tư kỳ phì kỷ chi mưu.

Cái vạn dân tư phú ư thiên, hốt lạc na yếu li chi độc. Tại thượng cố nghi khả mẫn, tòng tiền

thiết mạc tu ngôn.

Bản chức phụng quốc vương mệnh, chỉ đạo Bắc hành: dục thanh yêu nghiệt chi ba đào, hữu

phân thổ vô phân dân chi ý; yếu tảo tinh uế chi ô trọc, ca Nghêu thiên thưởng Thuấn nguyệt chi giai

kỳ.

Ngã kim xuất binh, cố tương chửng tế. Hịch văn đáo nhật, dụng quảng văn tri. Thiết tự tư

lường, mạc hoài chấn bố.

Dịch nghĩa

BÀI VĂN LỘ BỐ KHI ĐÁNH TỐNG

Trời sinh ra dân chúng, Vua hiền ắt hoà mục. Đạo làm chủ dân, cốt ở nuôi dân. Nay nghe vua

Tống ngu hèn, chẳng tuân theo khuôn phép thánh nhân, lại tin kế tham tà của Vương An Thạch, bày

những phép "thanh miêu","trợ dịch", khiến trăm họ mệt nhọc lầm than mà riêng thỏa cái mưu nuôi

mình béo mập.

Bởi tính mệnh muôn dân đều phú bẩm tự trời, thế mà bỗng sa vào cảnh éo le độc hại. Lượng

kẻ ở trên cố nhiên phải xót. Những việc từ trước, thôi nói làm gì!

Nay bản chức vâng mệnh quốc vương chỉ đường tiến quân lên Bắc, muốn dẹp yên làn sóng

yêu nghiệt, chỉ có ý phân biệt quốc thổ, không phân biệt chúng dân. Phải quét sạch nhơ bẩn hôi tanh

để đến thuở ca ngày Nghiêu, hưởng tháng Thuấn thăng bình!

Ta nay ra quân, cốt để cứu vớt muôn dân khỏi nơi chìm đắm. Hịch văn truyền tới để mọi

người cùng nghe. Ai nấy hãy tự đắn đo, chớ có mang lòng sợ hãi!

TRẦN VĂN GIÁP

Bài 3: Hịch Tƣớng sĩ, Trần Quốc Tuấn

Nguyên bản tiếng Hán

Phiên âm tiếng Việt

余常聞之 Dư thường văn chi:

紀信以身代死而脫高帝 Kỷ Tín dĩ thân đại tử nhi thoát Cao Đế;

105

由于以背受戈而蔽昭王 Do Vu dĩ bối thụ qua nhi tế Chiêu Vương.

豫讓吞炭而復主讎 Dự Nhượng thốn thán nhi phục chủ thù;

申蒯断臂而赴國難 Thân Khoái đoạn tí nhi phó quốc nạn.

敬德一小生也 身翼太宗而得免世充之圍 Kính Đức nhất tiểu sinh dã, thân dực Thái Tông nhi

đắc miễn Thế Sung chi vi;

杲卿一遠臣也 口罵禄山而不從逆賊之計 Cảo Khanh nhất viễn thần dã, khẩu mạ Lộc Sơn nhi

bất tòng nghịch tặc chi kế.

自古忠臣義士 以身死國 何代無之 Tự cổ trung thần nghĩa sĩ, dĩ thân tử quốc hà đại vô

chi?

設使數子區區為兒女子之態 Thiết sử sổ tử khu khu vi nhi nữ tử chi thái,

徒死牖下 烏能名垂竹白 Đồ tử dũ hạ, ô năng danh thùy trúc bạch,

與天地相為不朽哉 Dữ thiên địa tương vi bất hủ tai!

汝等世為將種 不曉文義 Nhữ đẳng thế vi tướng chủng, bất hiểu văn nghĩa,

其聞其說 疑信相半 Kỳ văn kỳ thuyết, nghi tín tương bán.

古先之事姑置勿論 Cổ tiên chi sự cô trí vật luận.

今余以宋韃之事言之 Kim dư dĩ Tống, Thát chi sự ngôn chi:

王公堅何人也 Vương Công Kiên hà nhân dã?

其裨將阮文立又何人也 Kỳ tỳ tướng Nguyễn Văn Lập hựu hà nhân dã?

以釣魚瑣瑣斗大之城 Dĩ Điếu Ngư tỏa tỏa đẩu đại chi thành,

當蒙哥堂堂百萬之鋒 Đương Mông Kha đường đường bách vạn chi

phong,

使宋之生靈至今受賜 Sử Tống chi sinh linh chí kim thụ tứ!

骨䚟兀郎何人也 Cốt Đãi Ngột Lang hà nhân dã?

其裨將赤脩思又何人也 Kỳ tỳ tướng Xích Tu Tư hựu hà nhân dã?

冒瘴厲於萬里之途 Mạo chướng lệ ư vạn lý chi đồ,

獗南詔於數旬之頃 Quệ Nam Chiếu ư sổ tuần chi khoảnh,

使韃之君長至今留名 Sử Thát chi quân trưởng chí kim lưu danh!

況余與汝等生於擾攘之秋 Huống dư dữ nhữ đẳng, Sinh ư nhiễu nhương chi

thu;

長於艱難之勢 Trưởng ư gian nan chi tế.

106

竊見偽使往來 道途旁午 Thiết kiến ngụy sứ vãng lai, đạo đồ bàng ngọ.

掉鴞烏之寸舌而凌辱朝廷 Trạo hào ô chi thốn thiệt nhi lăng nhục triều đình;

委犬羊之尺軀而倨傲宰祔 Ủy khuyển dương chi xích khu nhi cứ ngạo tể phụ.

托忽必列之令而索玉帛以事無已之誅求 Thác Hốt Tất Liệt chi lệnh nhi sách ngọc bạch, dĩ sự

vô dĩ chi tru cầu;

假雲南王之號而揫金銀以竭有限之傥庫 Giả Vân Nam Vương chi hiệu nhi khu kim ngân, dĩ

kiệt hữu hạn chi thảng hố.

譬猶以肉投餒虎寧能免遺後患也哉 Thí do dĩ nhục đầu nỗi hổ, ninh năng miễn di hậu

hoạn dã tai?

余常臨餐忘食 中夜撫枕 Dư thường lâm xan vong thực, Trung dạ phủ chẩm,

涕泗交痍 心腹如搗 Thế tứ giao di, Tâm phúc như đảo.

常以未能食肉寢皮 絮肝飲血為恨也 Thường dĩ vị năng thực nhục tẩm bì, nhứ can ẩm

huyết vi hận dã.

雖余之百身高於草野 Tuy dư chi bách thân, cao ư thảo dã;

余之千屍裹於馬革 Dư chi thiên thi, khỏa ư mã cách,

亦願為之 Diệc nguyện vi chi.

汝等久居門下 掌握兵權 Nhữ đẳng cửu cư môn hạ, Chưởng ác binh quyền.

無衣者則衣之以衣 Vô y giả tắc ý chi dĩ y;

無食者則食之以食 Vô thực giả tắc tự chi dĩ thực.

官卑者則遷其爵 Quan ti giả tắc thiên kỳ tước;

祿薄者則給其俸 Lộc bạc giả tắc cấp kỳ bổng.

水行給舟 陸行給馬 Thủy hành cấp chu; Lục hành cấp mã.

委之以兵則生死同其所為 Ủy chi dĩ binh, tắc sinh tử đồng kỳ sở vi;

進之在寢則笑語同其所樂 Tiến chi tại tẩm, tắc tiếu ngữ đồng kỳ sở lạc.

其是公堅之為偏裨 兀郎之為副貳亦未下爾 Kỳ thị Công Kiên chi vi thiên tì, Ngột Lang chi vi

phó nhị, Diệc vị hạ nhĩ.

汝等坐視主辱曾不為憂 Nhữ đẳng tọa thị chủ nhục, tằng bất vi ưu;

身當國恥曾不為愧 Thân đương quốc sỉ, tằng bất vi quý.

為邦國之將侍立夷宿而無忿心 Vi bang quốc chi tướng, thị lập di tú nhi vô phẫn

tâm;

聽太常之樂宴饗偽使而無怒色 Thính thái thường chi nhạc, yến hưởng ngụy sứ nhi

vô nộ sắc.

107

或鬥雞以為樂或賭博以為娛 Hoặc đấu kê dĩ vi lạc; Hoặc đổ bác dĩ vi ngu.

或事田園以養其家 Hoặc sự điền viên dĩ dưỡng kỳ gia;

或戀妻子以私於己 Hoặc luyến thê tử dĩ tư ư kỷ.

修生產之業而忘軍國之務 Tu sinh sản chi nghiệp, nhi vong quân quốc chi vụ;

恣田獵之遊而怠攻守之習 Tứ điền liệp chi du, nhi đãi công thủ chi tập.

或甘美酒或嗜淫聲 Hoặc cam mỹ tửu; Hoặc thị dâm thanh.

脱有蒙韃之寇來 Thoát hữu Mông Thát chi khấu lai,

雄雞之距不足以穿虜甲 Hùng kê chi cự, bất túc dĩ xuyên lỗ giáp;

賭博之術不足以施軍謀 Đổ bác chi thuật, bất túc dĩ thi quân mưu.

田園之富不足以贖千金之軀 Ðiền viên chi phú, bất túc dĩ thục thiên kim chi khu;

妻孥之累不足以充軍國之用 Thê noa chi lụy, bất túc dĩ sung quân quốc chi dụng.

生產之多不足以購虜首 Sinh sản chi đa, bất túc dĩ cấu lỗ thủ;

獵犬之力不足以驅賊眾 Liệp khuyển chi lực, bất túc dĩ khu tặc chúng.

美酒不足以沈虜軍 Mỹ tửu bất túc dĩ trấm lỗ quân;

淫聲不足以聾虜耳 Dâm thanh bất túc dĩ lung lỗ nhĩ.

當此之時 我家臣主就縛 甚可痛哉 Ðương thử chi thời, Ngã gia thần chủ tựu phọc,

Thậm khả thống tai!

不唯余之采邑被削 Bất duy dư chi thái ấp bị tước,

而汝等之俸祿亦為他人之所有 Nhi nhữ đẳng chi bổng lộc diệc vi tha nhân chi sở

hữu;

不唯余之家小被驅 Bất duy dư chi gia tiểu bị khu,

而汝等之妻孥亦為他人之所虜 Nhi nhữ đẳng chi thê noa diệc vi tha nhân chi sở lỗ;

不唯余之祖宗社稷為他人之所踐侵 Bất duy dư chi tổ tông xã tắc, vi tha nhân chi sở tiễn

xâm,

而汝等之父母墳墓亦為他人之所發掘 Nhi nhữ đẳng chi phụ mẫu phần mộ, diệc vi tha

nhân chi sở phát quật;

不唯余之今生受辱 雖百世之下 臭名難洗

惡謚長存

Bất duy dư chi kim sinh thụ nhục, tuy bách thế chi

hạ, xú danh nan tẩy, ác thụy trường tồn,

而汝等之家清 亦不免名為敗將矣 Nhi nhữ đẳng chi gia thanh, diệc bất miễn danh vi

bại tướng hĩ!

108

當此之時汝等雖欲肆其娛樂得乎 Ðương thử chi thời, Nhữ đẳng tuy dục tứ kỳ ngu lạc,

đắc hồ?

今余明告汝等 Kim dư minh cáo nhữ đẳng,

當以措火積薪為危 Đương dĩ thố hỏa tích tân vi nguy;

當以懲羹吹虀為戒 Đương dĩ trừng canh xuy tê vi giới.

訓練士卒習爾弓矢 Huấn luyện sĩ tốt; Tập nhĩ cung thỉ.

使 Sử

人人逄蒙家家后羿 Nhân nhân Bàng Mông; Gia gia Hậu Nghệ.

購必烈之頭於闕下 Cưu Tất Liệt chi đầu ư khuyết hạ;

朽雲南之肉於杲街 Hủ Vân Nam chi nhục ư cảo nhai.

不唯余之采邑永為青氈 Bất duy dư chi thái ấp vĩnh vi thanh chiên,

而汝等之俸祿亦終身之受賜 Nhi nhữ đẳng chi bổng lộc diệc chung thân chi thụ

tứ;

不唯余之家小安床褥 Bất duy dư chi gia tiểu đắc an sàng nhục,

而汝等之妻孥亦百年之佳老 Nhi nhữ đẳng chi thê noa diệc bách niên chi giai lão;

不唯余之宗廟萬世享祀 Bất duy dư chi tông miếu vạn thế hưởng tự,

而汝等之祖父亦春秋之血食 Nhi nhữ đẳng chi tổ phụ diệc xuân thu chi huyết

thực;

不唯余之今生得志 Bất duy dư chi kim sinh đắc chí,

而汝等百世之下芳名不朽 Nhi nhữ đẳng bách thế chi hạ, phương danh bất hủ;

不唯余之美謚永垂 Bất duy dư chi mỹ thụy vĩnh thùy,

而汝等之姓名亦遺芳於青史矣 Nhi nhữ đẳng chi tính danh diệc di phương ư thanh

sử hĩ.

當此之時汝等雖欲不為娛樂得乎 Ðương thử chi thời, Nhữ đẳng tuy dục bất vi ngu

lạc, đắc hồ!

今余歷選諸家兵法為一書名曰兵書要略 Kim dư lịch tuyển chư gia binh pháp vi nhất thư,

danh viết Binh thư yếu lược.

汝等或能專習是書 受余教誨 是夙世之臣主也 Nhữ đẳng hoặc năng chuyên tập thị thư, thụ dư giáo

hối, thị túc thế chi thần chủ dã;

或暴棄是書 違余教誨 是夙世之仇讎也 Hoặc bạo khí thị thư, vi dư giáo hối, thị túc thế chi

cừu thù dã.

何則 Hà tắc?

109

蒙韃乃不共戴天之讎 Mông Thát nãi bất cộng đái thiên chi thù,

汝等記恬然不以雪恥為念 不以除凶為心 Nhữ đẳng ký điềm nhiên, bất dĩ tuyết sỉ vi niệm, bất

dĩ trừ hung vi tâm,

而又不教士卒 是倒戈迎降 空拳受敵 Nhi hựu bất giáo sĩ tốt, thị đảo qua nghênh hàng,

không quyền thụ địch;

使平虜之後 萬世遺羞 Sử bình lỗ chi hậu, vạn thế di tu,

上有何面目立於天地覆載之間耶 Thượng hữu hà diện mục lập ư thiên địa phú tái chi

gian da?

故欲汝等明知余心 因筆以檄云 Cố dục nhữ đẳng minh tri dư tâm, Nhân bút dĩ hịch

vân.

Dịch nghĩa:

Ta thường nghe chuyện: Kỷ Tín 紀 信 liều thân chịu chết thay cho vua Cao-đế; Do Vu 由 于

lấy mình đỡ ngọn giáo cho vua Chiêu-vượng; Dư Nhượng 豫 讓 nuốt than để báo thù cho chủ; Thân

Khoái 申 蒯 chặt tay để cứu nạn cho nước; Kính Đức 敬 德 là một chức quan còn nhỏ, mà liều thân

cứu vua Thái-tông được thoát vòng vây; Kiểu Khanh 杲 卿 là một bề tôi ở xa, mà kể tội mắng thằng

Lộc Sơn 祿 山 là quân nghịch-tặc. Các bậc trung-thần nghĩa-sĩ ngày xưa, bỏ mình vì nước, đời nào

không có? Giả-sử mấy người ấy cũng cứ bo bo theo lối thường tình, chết già ở xó nhà thì sao cho lưu

danh sử-sách đến nghìn muôn đời như thế được?

Nay các ngươi vốn dòng vũ-tướng, không hiểu văn-nghĩa, nghe những chuyện cổ-tích ấy, nửa

tin nửa ngờ, ta không nói làm gì nữa; ta hãy đem chuyện đời Tống, Nguyên mới rồi mà nói: Vương

công Kiên 王 公 堅 là người thế nào? Tỳ-tướng của Vương công Kiên là Nguyễn văn Lập 阮 文 立

lại là người thế nào, mà giữ một thành Điếu-ngư[1]

nhỏ mọn, chống với quân Mông-kha[2]

kể hàng

trăm vạn, khiến cho dân sự nhà Tống, đến nay còn đội ơn sâu. Đường ngột Ngại là người như thế

nào? Tỳ-tướng của Đường ngột Ngại là Xích tu Tư lại là người thế nào, mà xông vào chỗ lam-chướng

xa xôi, đánh được quân Nam-chiếu trong vài ba tuần, khiến cho quân-trướng đời Nguyên đến nay còn

lưu tiếng tốt. Huống chi ta cùng các ngươi sinh ở đời nhiễu-nhương, gặp phải buổi gian-nan này,

trông thấy những ngụy-sứ đi lại rầm-rập ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà xỉ-mắng triều-đình, đem

thân dê chó mà bắt-nạt tổ-phụ, lại cậy thế Hốt tất Liệt 忽 必 烈 mà đòi ngọc-lụa, ỷ thế Vân-nam-

vương[3]

để vét bạc vàng; của kho có hạn, lòng tham không cùng, khác nào như đem thịt mà nuôi hổ

đói, giữ sao cho khỏi tai-vạ về sau!

Ta đây, ngày thì quên ăn, đêm thì quên ngủ, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm-tức

rằng chưa được sả thịt lột da của quân giặc, dẫu thân này phơi ngoài nội cỏ, xác này gói trong da

ngựa, thì cũng đành lòng. Các ngươi ở cùng ta coi giữ binh-quyền, cũng đã lâu ngày, không có áo thì

ta cho áo, không có ăn thì ta cho ăn, quan còn nhỏ thì ta thăng thưởng, lương có ít thì ta tăng cấp, đi

thủy thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa, lúc hoạn-nạn thì cùng nhau sống chết, lúc nhàn-hạ thì

110

cùng nhau vui cười, những cách cư-xử so với Vương công Kiên, Đường ngột Ngại ngày xưa cũng

chẳng kém gì.

Nay các ngươi trông thấy chủ nhục mà không biết lo, trông thấy quốc-sỉ mà không biết thẹn,

thân làm tướng phải hầu giặc, mà không biết tức, tai nghe nhạc để hiến ngụy sứ, mà không biết căm;

hoặc lấy việc chọi gà làm vui-đùa, hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu-khiển, hoặc vui thú về vườn ruộng,

hoặc quyến-luyến về vợ con, hoặc nghĩ về lợi riêng mà quên việc nước, hoặc ham về săn-bắn mà quên

việc binh, hoặc thích rượu ngon, hoặc mê tiếng hát. Nếu có giặc đến, thì cựa gà trống sao cho đâm

thủng được áo-giáp; mẹo cờ-bạc sao cho dùng nổi được quân-mưu; dẫu rằng ruộng lắm vườn nhiều,

thân ấy nghìn vàng khôn chuộc; vả lại vợ bìu con díu, nước này trăm sự nghĩ sao; tiền-của đâu mà

mua cho được đầu giặc; chó săn ấy thì địch sao nổi quân thù; chén rượu ngon không làm được cho

giặc say chết, tiếng hát hay không làm được cho giặc điếc tai; khi bấy giờ chẳng những là thái-ấp của

ta không còn, mà bổng-lộc của các ngươi cũng hết; chẳng những là gia-quyến của ta bị đuổi, mà vợ

con của các ngươi cũng nguy; chẳng những là ta chịu nhục bây giờ, mà trăm năm về sau, tiếng xấu

hãy còn mãi mãi; mà gia-thanh của các ngươi cũng chẳng khỏi mang tiếng nhục, đến lúc bấy giờ các

ngươi dẫu muốn vui-vẻ, phỏng có được hay không?

Nay ta bảo thật các ngươi: nên cẩn-thận như nơi củi lửa, nên giữ-gìn như kẻ húp canh, dạy-bảo

quân-sĩ, luyện-tập cung tên, khiến cho người nào cũng có sức khỏe như Bàng Mông và Hậu Nghệ, thì

mới có thể dẹp tan được quân giặc, mà lập nên được công-danh. Chẳng những là thái-ấp ta được vững

bền, mà các ngươi cũng đều được hưởng bổng-lộc; chẳng những là gia-quyến của ta được yên-ổn, mà

các ngươi cũng đều được vui với vợ con, chẳng những là tiên-nhân ta được vẻ-vang, mà các ngươi

cũng được phụng-thờ tổ-phụ, trăm năm vinh-hiển; chẳng những là một mình ta được sung-sướng, mà

các ngươi cũng được lưu-truyền sử sách, nghìn đời thơm-tho; đến bấy giờ các ngươi dầu không vui-

vẻ, cũng tự khắc được vui-vẻ.

Nay ta soạn hết các binh-pháp của các nhà danh-gia hợp lại làm một quyển gọi là « Binh-thư

yếu-lược ». Nếu các ngươi biết chuyên-tập sách này, theo lời dạy-bảo, thì mới phải đạo thần-tử;

nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời dạy-bảo, thì tức là kẻ nghịch-thù.

Bởi cớ sao? Bởi giặc Nguyên cùng ta, là kẻ thù không đội trời chung, thế mà các ngươi cứ điềm-nhiên

không nghĩ đến việc báo thù, lại không biết dạy quân-sĩ, khác nào như quay ngọn giáo mà đi theo kẻ

thù, giơ tay không mà chịu thua quân giặc, khiến cho sau trận Bình-lỗ[4]

mà ta phải chịu tiếng xấu

muôn đời, thì còn mặt-mũi nào đứng trong trời đất nữa. Vậy nên ta phải làm ra bài hịch này để cho

các ngươi biết bụng ta.

Chú thích cuối trang

1. Điếu-ngư là tên núi, thuộc phủ Trùng-khánh tỉnh Tứ xuyên.

2. Mông-kha (Mungke) là vua Mông-cổ, anh Hốt tất Liệt.

3. Khi quân Mông-cổ lấy được đất Vân nam rồi, Hốt tất Liệt phong cho con là Hốt kha Kích là

Vân-nam-vương.

4. Bình-lỗ là tên thành, nhưng sử cũ không chép rõ ở đâu và ai xây lên. Sách « Khâm-định Việt-

sử » chép rằng theo bộ « Địa-dư-chí » của ông Nguyễn Trãi, thì đời nhà Lý có đào con sông

Bình-lỗ để đi lên Thái-nguyên cho tiện. Vậy thành Bình-lỗ có lẽ ở vào hạt Thái-nguyên. Xem

111

lời dặn của Trần Hưng-đạo-vương thì thành Bình-lỗ này xây vào đời Đinh hay đời Tiền-Lê,

rồi Lý thường Kiệt đời Lý đã đánh quân Tống ở đó.

-

"Thế giặc to như vậy, mà chống với chúng thì dân chúng bị tàn sát, nhà cửa bị phá hại, hay là

trẫm sẽ chịu hàng để cứu muôn dân ?"

Hưng Đạo Vương tâu: "Bệ hạ nói câu ấy là lời nhân đức, nhưng Tôn miếu Xã tắc thì sao? Nếu

Bệ hạ muốn hàng, xin trước hết hãy chém đầu thần đi đã, rồi sau hãy hàng !!"

quân Nam, và thảo bài Dụ chƣ tỳ tƣớng hịch văn (諭諸裨將檄文), thường gọi là Hịch tƣớng sĩ

2. Dụ chư tỳ tướng hịch văn (諭諸裨將檄文), thường được gọi là Hịch Tướng Sĩ

Cũng như hầu hết các tác phẩm khác ở thời Lý Trần, Hịch tướng sĩ của Trần Quốc

Tuấn được vi

Bài 4: Bình Ngô Đại cáo, Nguyễn Trãi

Phần chữ Hán:

平吳大告

代天行化皇上若曰。

蓋聞:

仁義之舉,要在安民,

弔伐之師莫先去暴。

惟,我大越之國,

實為文獻之邦。

山川之封域既殊,

南北之風俗亦異。

自趙丁李陳之肇造我國,

與漢唐宋元而各帝一方。

112

雖強弱時有不同

而豪傑世未常乏。

故劉龔貪功以取敗,

而趙禼好大以促亡。

唆都既擒於鹹子關,

烏馬又殪於白藤海。

嵇諸往古,

厥有明徵。

頃因胡政之煩苛。

至使人心之怨叛。

狂明伺隙,因以毒我民;

惡黨懷奸,竟以賣我國。

焮蒼生於虐焰,

陷赤子於禍坑。

欺天罔民,詭計蓋千萬狀;

連兵結釁稔惡殆二十年。

敗義傷仁,乾坤幾乎欲息;

重科厚歛,山澤靡有孑遺。

開金場塞冒嵐瘴而斧山淘沙,

採明珠則觸蛟龍而緪腰汆海。

擾民設玄鹿之陷阱,

殄物織翠禽之網羅。

昆虫草木皆不得以遂其生,

鰥寡顛連俱不獲以安其所。

浚生靈之血以潤桀黠之吻牙;

極土木之功以崇公私之廨宇。

州里之征徭重困,

閭閻之杼柚皆空。

決東海之水不足以濯其污,

罄南山之竹不足以書其惡。

神民之所共憤,

天地之所不容。

予:

113

奮跡藍山,

棲身荒野。

念世讎豈可共戴,

誓逆賊難與俱生。

痛心疾首者垂十餘年,

嘗膽臥薪者蓋非一日。

發憤忘食,每研覃韜略之書,

即古驗今,細推究興亡之理。

圖回之志,

寤寐不忘。

當義旗初起之時,

正賊勢方張之日。

奈以:

人才秋葉,

俊傑晨星。

奔走先後者既乏其人,

謀謨帷幄者又寡其助。

特以救民之念,每鬱鬱而欲東;

故於待賢之車,常汲汲已虛左。

然其:

得人之效茫若望洋,

由己之誠甚於拯溺。

憤兇徒之未滅,

念國步之遭迍。

靈山之食盡兼旬,

瑰縣之眾無一旅。

蓋天欲困我以降厥任,

故與益勵志以濟于難。

揭竿為旗,氓隸之徒四集

投醪饗士,父子之兵一心。

以弱制彊,或攻人之不備;

以寡敵眾常設伏以出奇。

114

卒能:

以大義而勝兇殘,

以至仁而易彊暴。

蒲藤之霆驅電掣,

茶麟之竹破灰飛。

士氣以之益增,

軍聲以之大振。

陳智山壽聞風而;褫魄,

李安方政假息以偷生。

乘勝長驅,西京既為我有;

選兵進取,東都盡復舊疆。

寧橋之血成川,流腥萬里;

窣洞之屍積野,遺臭千年。

陳洽賊之腹心,既梟其首;

李亮賊之奸蠹,又暴厥屍。

王通理亂而焚者益焚,

馬瑛救鬥而怒者益怒。

彼智窮而力盡,束手待亡;

我謀伐而心攻,不戰自屈。

謂彼必易心而改慮,

豈意復作孽以速辜。

執一己之見以嫁禍於他人,

貪一時之功以貽笑於天下。

遂靈宣德之狡童,黷兵無厭;

仍命晟昇之懦將,以油救焚。

丁未九月柳昇遂引兵猶邱溫而進,

本年十月木晟又分途自雲南而來。

予前既選兵塞險以摧其鋒,

予後再調兵截路以斷其食。

本月十八日柳昇為我軍所攻,計墜於支稜之野;

本月二十日柳昇又為我軍所敗,身死於馬鞍之山。

二十五日保定伯梁銘陣陷而喪軀,

二十八日尚書李慶計窮而刎首。

115

我遂迎刃而解,

彼自倒戈相攻。

繼而四面添兵以包圍,

期以十月中旬而殄滅。

爰選貔貅之士,

申命爪牙之臣。

飲象而河水乾,

磨刀而山石鈌。

一鼓而鯨刳鱷斷,

再鼓而鳥散麇驚。

決潰蟻於崩堤,

振剛風於稿葉。

都督崔聚膝行而送款,

尚書黃福面縛以就擒。

僵屍塞諒江諒山之途,

戰血赤昌江平灘之水。

風雲為之變色,

日月慘以無光。

其雲南兵為我軍所扼於梨花,自恫疑虛喝而先以破腑;

其沐晟眾聞昇軍所敗於芹站,遂躪藉奔潰而僅得脫身。

冷溝之血杵漂,江水為之嗚咽;

丹舍之屍山積,野草為之殷紅。

兩路救兵既不旋踵而俱敗,

各城窮寇亦將解甲以出降。

賊首成擒,彼既掉餓虎乞憐之尾;

神武不殺,予亦體上帝孝生之心。

參將方政,內官馬騏,先給艦五百餘艘,既渡海而猶且魂飛魄散;

總兵王通,參政馬瑛,又給馬數千餘匹,已還國而益自股慄心驚。

彼既畏死貪生,而修好有誠;

予以全軍為上,而欲民之得息。

非惟謀計之極其深遠,

蓋亦古今之所未見聞。

社稷以之奠安,

116

山川以之改觀。

乾坤既否而復泰,

日月既晦而復明。

于以開萬世太平之基,

于以雪天地無窮之恥。

是由天地祖宗之靈有,

以默相陰佑而致然也!

於戲!

一戎大定,

迄成無兢之功;

四海永清,

誕布維新之誥。

播告遐邇,

咸使聞知。

Phiên âm:

Bình Ngô đại cáo

Đại thiên hành hoá hoàng thượng nhược viết.

Cái văn:

Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân,

Điếu phạt chi sư mạc tiên khử bạo.

Duy, ngã Đại Việt chi quốc,

Thực vi văn hiến chi bang.

Sơn xuyên chi phong vực ký thù,

Nam bắc chi phong tục diệc dị.

Tự Triệu, Đinh, Lý, Trần chi triệu tạo ngã quốc,

Dữ Hán, Đường, Tống, Nguyên nhi các đế nhất phương.

Tuy cường nhược thì hữu bất đồng,

Nhi hào kiệt thế vị thường phạp.

Cố Lưu Cung tham công dĩ thủ bại,

Nhi Triệu Tiết hiếu đại dĩ xúc vong.

Toa Đô ký cầm ư Hàm Tử quan,

Ô Mã hựu ế ư Bạch Đằng hải.

Kê chư vãng cổ,

Quyết hữu minh trưng.

Khoảnh nhân Hồ chính chi phiền hà.

117

Chí sử nhân tâm chi oán bạn.

Cuồng Minh tứ khích, nhân dĩ độc ngã dân;

Ác đảng hoài gian, cánh dĩ mại ngã quốc.

Hân thương sinh ư ngược diệm,

Hãm xích tử ư hoạ khanh.

Khi thiên võng dân, quỷ kế cái thiên vạn trạng;

Liên binh kết hấn nẫm ác đãi nhị thập niên.

Bại nghĩa thương nhân, càn khôn kỷ hồ dục tức;

Trọng khoa hậu liễm, sơn trạch mi hữu kiết di.

Khai kim trường tái mạo lam chướng nhi phủ sơn đào sa,

Thái minh châu tắc xúc giao long nhi căng yêu thộn hải.

Nhiễu dân thiết huyền lộc chi hãm tịnh,

Điển vật chức thuý cầm chi võng la.

Côn trùng thảo mộc giai bất đắc dĩ toại kỳ sinh,

Quan quả điên liên câu bất hoạch dĩ an kỳ sở.

Tuấn sinh linh chi huyết dĩ nhuận kiệt hiệt chi vẫn nha;

Cực thổ mộc chi công dĩ sùng công tư chi giải vũ.

Châu lý chi chinh dao trọng khốn,

Lư diêm chi trữ trục giai không.

Quyết Đông Hải chi thuỷ bất túc dĩ trạc kỳ ô,

Khánh Nam Sơn chi trúc bất túc dĩ thư kỳ ác.

Thần dân chi sở cộng phẫn,

Thiên địa chi sở bất dung.

Dư:

Phấn tích Lam Sơn,

Thê thân hoang dã.

Niệm thế thù khởi khả cộng đới,

Thệ nghịch tặc nan dữ câu sinh.

Thống tâm tật thủ giả thuỳ thập dư niên,

Thường đảm ngoạ tân giả cái phi nhất nhật.

Phát phẫn vong thực, mỗi nghiên đàm thao lược chi thư,

Tức cổ nghiệm kim, tế suy cứu hưng vong chi lý.

Đồ hồi chi chí,

Ngộ mị bất vong.

Đương nghĩa kỳ sơ khởi chi thì,

Chính tặc thế phương trương chi nhật.

Nại dĩ:

Nhân tài thu diệp,

Tuấn kiệt thần tinh.

Bôn tẩu tiên hậu giả ký phạp kỳ nhân,

Mưu mô duy ác giả hựu quả kỳ trợ.

Đặc dĩ cứu dân chi niệm, mỗi uất uất nhi dục đông;

Cố ư đãi hiền chi xa, thường cấp cấp dĩ hư tả.

118

Nhiên kỳ:

Đắc nhân chi hiệu mang nhược vọng dương,

Do kỷ chi thành thậm ư chửng nịch.

Phẫn hung đồ chi vị diệt,

Niệm quốc bộ chi tao truân.

Linh Sơn chi thực tận kiêm tuần,

Khôi Huyện chi chúng vô nhất lữ.

Cái thiên dục khốn ngã dĩ giáng quyết nhiệm,

Cố dữ ích lệ chí dĩ tế vu nan.

Yết can vi kỳ, manh lệ chi đồ tứ tập;

Đầu giao hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm.

Dĩ nhược chế cường, hoặc công nhân chi bất bị;

Dĩ quả địch chúng thường thiết phục dĩ xuất kỳ.

Tốt năng:

Dĩ đại nghĩa nhi thắng hung tàn,

Dĩ chí nhân nhi dị cường bạo.

Bồ Đằng chi đình khu điện xế,

Trà Lân chi trúc phá hôi phi.

Sĩ khí dĩ chi ích tăng,

Quân thanh dĩ chi đại chấn.

Trần Trí, Sơn Thọ văn phong nhi sỉ phách,

Lý An, Phương Chính giả tức dĩ thâu sinh.

Thừa thắng trường khu, Tây Kinh ký vị ngã hữu;

Tuyển binh tiến thủ, Đông Đô tận phục cựu cương.

Ninh Kiều chi huyết thành xuyên, lưu tinh vạn lý;

Tốt Động chi thi tích dã, di xú thiên niên.

Trần Hiệp tặc chi phúc tâm, ký kiêu kỳ thủ;

Lý Lượng tặc chi gian đố, hựu bạo quyết thi.

Vương Thông lý loạn nhi phần giả ích phần,

Mã Anh cứu đấu nhi nộ giả ích nộ.

Bỉ trí cùng nhi lực tận, thúc thủ đãi vong;

Ngã mưu phạt nhi tâm công, bất chiến tự khuất.

Vị bỉ tất dị tâm nhi cải lự,

Khởi ý phục tác nghiệt dĩ tốc cô.

Chấp nhất kỷ chi kiến dĩ giá hoạ ư tha nhân,

Tham nhất thì chi công dĩ di tiếu ư thiên hạ.

Toại linh Tuyên Đức chi giảo đồng, độc binh vô yếm;

Nhưng mệnh Thạnh Thăng chi noạ tướng, dĩ du cứu phần.

Đinh vị cửu nguyệt Liễu Thăng toại dẫn binh do Khâu Ôn nhi tiến,

Nản niên thập nguyệt Mộc Thạnh hựu phân đồ tự Vân Nam nhi lai.

Dư tiền ký tuyển binh tái hiểm dĩ tồi kỳ phong,

Dư hậu tái điều binh tiệt lộ dĩ đoạn kỳ thực.

Bản nguyệt thập bát nhật Liễu Thăng vị ngã quân sở công, kế truỵ ư Chi Lăng chi dã;

Bản nguyệt nhị thập nhật Liễu Thăng hựu vị ngã quân sở bại, thân tử ư Mã An chi sơn.

Nhị thập ngũ nhật Bảo Định bá Lương Minh trận hãm nhi táng khu,

119

Nhị thập bát nhật Thượng thư Lý Khánh kế cùng nhi vẫn thủ.

Ngã toại nghênh nhận nhi giải,

Bỉ tự đảo qua tương công.

Kế nhi tứ diện thiêm binh dĩ bao vi,

Kỳ dĩ thập nguyệt trung tuần nhi điễn diệt.

Viên tuyển tì hưu chi sĩ,

Thân mệnh trảo nha chi thần.

Ẩm tượng nhi hà thuỷ càn,

Ma đao nhi sơn thạch khuyết.

Nhất cổ nhi kình khô ngạc đoạn,

Tái cổ nhi điểu tán quân kinh.

Quyết hội nghĩ ư băng đê,

Chấn cương phong ư cảo diệp.

Đô đốc Thôi Tụ tất hành nhi tống khoản,

Thượng thư Hoàng Phúc diện phọc dĩ tựu cầm.

Cương thi tái Lượng Giang Lượng Sơn chi đồ,

Chiến huyết xích Xương Giang Bình Than chi thuỷ.

Phong vân vị chi biến sắc,

Nhật nguyệt thảm dĩ vô quang.

Kỳ Vân Nam binh vị ngã quân sở ách ư Lê Hoa, tự đỗng nghi hư hạt nhi tiên dĩ phá phủ;

Kỳ Mộc Thạnh chúng văn Thăng quân sở bại ư Cần Trạm, toại lận tạ bôn hội nhi cận đắc thoát thân.

Lãnh Câu chi huyết chử phiếu, giang thuỷ vị chi ô yết;

Đan Xá chi thi sơn tích, dã thảo vị chi ân hồng.

Lưỡng lộ cứu binh ký bất toàn chủng nhi câu bại,

Các thành cùng khấu diệc tướng giải giáp dĩ xuất hàng.

Tặc thủ thành cầm, bỉ ký trạo ngạ hổ khất liên chi vĩ;

Thần võ bất sát, dư diệc thể thượng đế hiếu sinh chi tâm.

Tham tướng Phương Chính, Nội quan Mã Kỳ, tiên cấp hạm ngũ bách dư sưu, ký độ hải nhi do thả hồn

phi phách tán;

Tổng binh Vương Thông, Tham chính Mã Anh, hựu cấp mã sổ thiên dư thất, dĩ hoàn quốc nhi ích tự

cổ lật tâm kinh.

Bỉ ký uý tử tham sinh, nhi tu hảo hữu thành;

Dư dĩ toàn quân vi thượng, nhi dục dân chi đắc tức.

Phi duy mưu kế chi cực kỳ thâm viễn,

Cái diệc cổ kim chi sở vị kiến văn.

Xã tắc dĩ chi điện an,

Sơn xuyên dĩ chi cải quan.

Càn khôn ký bĩ nhi phục thái,

Nhật nguyệt ký hối nhi phục minh.

Vu dĩ khai vạn thế thái bình chi cơ,

Vu dĩ tuyết thiên địa vô cùng chi sỉ.

Thị do thiên địa tổ tông chi linh hữu,

Dĩ mặc tương âm hữu nhi trí nhiên dã.

Ô hô!

Nhất nhung đại định,

120

Hất thành vô cạnh chi công;

Tứ hải vĩnh thanh,

Đản bố duy tân chi cáo.

Bá cáo hà nhĩ,

Hàm sử văn tri.

Dịch nghĩa:

Thay trời hành hoá, hoàng thượng truyền rằng.

Từng nghe:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;

Như nước Đại Việt ta từ trước,

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,

Núi sông bờ cỏi đã chia,

Phong tục Bắc Nam cũng khác;

Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương;

Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,

Song hào kiệt thời nào cũng có.

Cho nên:

Lưu Cung tham công nên thất bại;

Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong;

Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô

Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã

Việc xưa xem xét, chứng cứ còn ghi.

Vừa rồi:

Nhân họ Hồ chính sự phiền hà

Để trong nước lòng dân oán hận

Quân cuồng Minh thưà cơ gây hoạ

Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ

Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế

Gây thù kết oán trải mấy mươi năm

Bại nhân nghĩa nát cả đất trời.

Nặng thuế khoá sạch không đầm núi.

Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.

Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.

Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng.

Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.

Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,

121

Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.

Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán,

Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa?

Nặng nề những nổi phu phen

Tan tác cả nghề canh cửi.

Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,

Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi !

Lẽ nào trời đất dung tha? Ai bảo thần dân chịu được?

Ta đây:

Núi Lam sơn dấy nghĩa

Chốn hoang dã nương mình

Ngẫm thù lớn há đội trời chung

Căm giặc nước thề không cùng sống

Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời

Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.

Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,

Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.

Những trằn trọc trong cơn mộng mị,

Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi

Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,

Chính lúc quân thù đang mạnh.

Lại ngặt vì:

Tuấn kiệt như sao buổi sớm,

Nhân tài như lá mùa thu,

Việc bôn tẩu thiếu kẻ đở đần,

Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,

Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông,

Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả.

Thế mà:

Trông người, người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi.

Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối.

Phần vì giận quân thù ngang dọc,

Phần vì lo vận nước khó khăn,

Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,

Lúc Khôi Huyện quân không một đội.

Trời thử lòng trao cho mệnh lớn

Ta gắng trí khắc phục gian nan.

Nhân dân bốn cỏi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới

Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào.

Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,

Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.

Trọn hay:

122

Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,

Lấy chí nhân để thay cường bạo.

Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,

Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.

Sĩ khí đã hăng

Quân thanh càng mạnh.

Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,

Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.

Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,

Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.

Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm

Tuỵ Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.

Phúc tâm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu

Mọt gian kẻ thù: Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.

Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy

Mã Anh cứu trận đánh mà quân ta hăng lại càng hăng.

Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt,

Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt tâm công.

Ngờ đâu vẫn đương mưu tính lại còn chuốc tội gây oan.

Giữ ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác,

Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian.

Bởi thế:

Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng

Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy

Đinh mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại

Năm ấy tháng mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.

Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong

Sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực

Ngày mười tháng tám, trận Chi Lăng Liễu Thăng thất thế

Ngày hai mươi, trận Mã Yên Liễu Thăng cụt đầu

Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong

Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.

Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá

Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau

Lại thêm quân bốn mặt vây thành

Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc

Sĩ tốt kén người hùng hổ

Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh

Gươm mài đá, đá núi cũng mòn

Voi uống nước, nước sông phải cạn.

Đánh một trận, sạch không kình ngạc

Đánh hai trận tan tác chim muông.

Cơn gió to trút sạch lá khô,

Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.

Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,

123

Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.

Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường

Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước

Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,

Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ

Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật!

Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.

Suối Lãnh Câu, máu chảy thành sông, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc

Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.

Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,

Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng

Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng

Thần Vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh

Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,

Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.

Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng

Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.

Chẳng những mưu kế kì diệu

Cũng là chưa thấy xưa nay

Xã tắc từ đây vững bền

Giang sơn từ đây đổi mới

Càn khôn bĩ rồi lại thái

Nhật nguyệt hối rồi lại minh

Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu

Muôn thuở nền thái bình vững chắc

Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;

Than ôi!

Một cỗ nhung y chiến thắng,

nên công oanh liệt ngàn năm

Bốn phương biển cả thanh bình,

ban chiếu duy tân khắp chốn.

Xa gần bá cáo,

Ai nấy đều hay.

124

MỘT SỐ VĂN BẢN CHÍNH LUẬN CỦA TRUNG QUỐC

Bài 5: Luân Đài tội kỉ chiếu《輪台罪己詔》

Hán Vũ Đế 漢步帝

Nguyên văn:

前有司奏,欲益民賦三十助邊用,是重困老弱孤獨也。而今又請遣卒田輪台。輪台西於車師千余

裡,前開陵侯擊車師時,危須、尉犁、樓蘭六國子弟在京師者皆先歸,發畜食迎漢軍,又自發兵,凡

數萬人,王各自將,共圍車師,降其王。諸國兵便罷,力不能復至道上食漢軍。漢軍破城,食至多,

然士自載不足以竟師,強者盡食畜產,羸者道死數千人。朕發酒泉驢、橐駝負食,出玉門迎軍。吏卒

起張掖,不甚遠,然尚廝留其眾。曩者,朕之不明,以軍候弘上書言“匈奴縛馬前後足,置城下,馳言

„秦人,我若馬‟”,又漢使者久留不還,故興遣貳師將軍,欲以為使者威重也。古者卿大夫與謀,參以

蓍龜,不吉不行。乃者以縛馬書遍視丞相、御史、二千石、諸大夫、郎為文學者,乃至郡屬國都尉成

忠、趙破奴等,皆以“虜自縛其馬,不祥甚哉!”或以為“欲以見強,夫不足者視人有余。”《易》之卦

得《大過》,爻在九五,匈奴困敗。公軍方士、太史治星望氣,及太蔔龜蓍,皆以為吉,匈奴必破,

時不可再得也。又曰:“北伐行將,於鬴山必克。”卦諸將,貳師最吉。故朕親發貳師下鬴山,詔之必

毋深入。今計謀卦兆皆反繆。重合侯得虜候者,言:“聞漢軍當來,匈奴使巫埋羊牛所出諸道及水上以

詛軍。單於遺天子馬裘,常使巫祝之。縛馬者,詛軍事也。”又蔔“漢軍一將不吉”。匈奴常言:“漢極

大,然不能飢渴,失一狼,走千羊。”

乃者貳師敗,軍士死略離散,悲痛常在朕心。今請遠田輪台,欲起亭隧,是擾勞天下,非所以優

民也。今朕不忍聞。大鴻臚等又議,欲募囚徒送匈奴使者,明封侯之賞以報忿,五伯所弗能為也。且

匈奴得漢降者,常提掖搜索,問以所聞。今邊塞未正,闌出不禁,障候長吏使卒獵獸,以皮肉為利,

卒苦而烽火乏,失亦上集不得,後降者來,若捕生口虜,乃知之。當今務在禁苛暴,止擅賦,力本農

,修馬復令,以補缺,毋乏步備而已。郡國二千石各上進畜馬方略補邊狀,與計對。

(征和四年)三月,上耕於鉅定。還,幸泰山,修封。庚寅,祀於明堂。癸巳,禪石閭,見群臣

,上乃言曰:“朕即位以來,所為狂悖,使天下愁苦,不可追悔。自今事有傷害百姓,糜費天下者,悉

罷之”。田千秋曰:“方士言神仙者甚眾,而無顯功,臣請皆罷斥遣之!”上曰:“大鴻臚言是也。”於是

悉罷諸方士候神人者。是後上每對群臣自嘆:“向時愚惑,為方士所欺。天下豈有仙人,盡妖妄耳!節

食服藥,差可少病而已”。

Dịch nghĩa:

Chiếu tự trách tội ở Luân Đài

Trước đây, có quan dâng tấu chương xin tăng thuế, mỗi người dân nộp thêm 30 tiền để tăng gia

phòng bị biên thùy. Làm thế rõ ràng đã tăng thêm gánh nặng cho người già yếu cô độc. Nay lại có tấu

chương xin phái binh đến Luân Đài khai hoang đồn điền. Luân Đài cách Xa Sư về phía tây hơn 1000

dặm, trước đây khi Khai Lăng Hầu đánh chiếm Xa Sư, con cháu của 6 nước gồm Nguy Tu, Úy Lê,

Lâu Lan ở kinh sư đều lần lượt dẫn binh về tây tham chiến, vận tải lương thảo tiếp ứng quân Hán,

quốc vương tự mình phát binh hơn vạn người, thống ngự tướng soái công phá thành Xa Sư, ép vua Xa

Sư phải quy hàng, giành được thắng lợi.Mặc dù trong thành lương thực sung túc, nhưng binh sĩ không

cách nào mang hết lương thực ban sư hồi triều, người mạnh khỏe thì dốc hết sức có thể, người bệnh

125

yếu chết trên đường hết mấy ngàn người. Trẫm phái đội lừa và lạc đà của Tửu Tuyền ra ải Ngọc Môn

hộ tống quân lương, nghênh tiếp quân đội, nhưng binh sĩ trở về đến Trương Dịch không nhiều, rất

đông người không trở về được.

Trẫm từng nhất thời hồ đồ, tin theo tấu thư của một quân hầu tên Hoằng, rằng người Hung Nô

trói chặt bốn chân ngựa quăng xuống dưới thành, bảo là tặng ngựa cho nhà Hán ta. Hung Nô từng bắt

nhốt sứ giả Hán triều không cho trở về, nên mới phái Nhị sư tướng quân Lý Quảng Lợi cất binh chinh

phạt, giữ gìn sự uy nghiêm của sứ Hán. Ngày trước, các quan đại phu dâng tấu chương, vua đều gieo

quẻ dò xét ý trời, không có điềm lành thì tuyệt không thể thi hành. Vì thế, Nhị sư tướng quân lần này

trước khi xuất binh, trẫm đã trưng cầu ý kiến của đại thần trong triều, cùng với quận quốc các nơi như

Đô úy Thành Trung, Triệu Phá Nô. Mọi người đều cho rằng: “Người Hung Nô trói chân chiến mã của

mình, đó là điềm xấu lớn nhất của họ”; có người thì cho rằng: “Người Hung Nô muốn phô bày sự

cường thịnh trước mặt Hán triều, cố ý bảo rằng sức mạnh có thừa đầy thôi”. Các phương sĩ bói toán

và chiêm tinh gia trong triều đều cho rằng Nhị sư tướng quân xuất chinh “điểm lành rõ ràng, Hung Nô

ắt bại, chẳng mất thời cơ”, còn bảo: “Phái Nhị sư tướng quân lãnh binh bắc phạt, đến Phũ Sơn là

giành chiến thắng”. Quẻ bói bảo phái Nhị sư tướng quân tác chiến là phù hợp nhất, nên trẫm mới phái

Lý Quảng Lợi lãnh binh xuất chinh, còn nhắc ông ta thận trọng khi vào đất Hung Nô. Nhưng ai ngờ,

những lời cầu thần bói toán hoàn toàn trái với hiện thực. Tù binh Hung Nô bị quân Hán bắt được cho

biết rằng: “Người Hung Nô nghe nói quân Hán sắp đến, bèn phái pháp sư phá hết các con đường trâu

dê đi, lắp hết giếng nước, chửi rủa quân Hán. Lúc Đan Vu gửi đến vua Hán áo cừu ngựa tốt, bèn cho

pháp sư cầu nguyện vận lành cho Hung Nô. Người Hung Nô mới trói chân ngựa chiến là để nguyền

rủa quân Hán, còn bói được rằng: „Quân Hán có một vị tướng lĩnh vận mệnh bất lợi‟. Người Hung

Nô lại nói: „Hán triều tuy lớn mạnh, nhưng người Hán không chịu đựng được đói khát trong sa mạc.

Hung Nô thả ra một con sói, quân Hán đã tổn thất một nghìn con dê rồi‟”.

Đợi đến khi Lý Quảng Lợi binh bại, các tướng sĩ lớp bị giết chết, lớp bị bắt làm tù binh, tất cả

khiến trẫm đau xót khôn cùng. Hôm nay các ông Tang Hoằng Dương dâng tấu chương xin phái quân

binh đến Luân Đài khẩn hoang lập đồn điền, xây dựng thành lũy ngăn giặc, việc này nhọc dân tốn

của, không phải ý kiến hay vỗ an bá tánh, trẫm không thể chuẩn tấu. Đại Hồng Lư kiến nghị chiêu mộ

phạm nhân phong hầu tưởng thưởng, nhân cơ hội tiễn sứ giả Hung Nô về nước, hành thích vua Đan

Vu của Hung Nô, giải tỏa mọi oán hận của ta, việc này ngay cả ngũ bá thời Xuân Thu cũng không

làm, huống chi Hung Nô sẽ lục soát người Hán đầu hàng họ, khảo tra tỉ mỉnhững điều tù nhân người

Hán biết. Nay đang lúc biên thùy phòng bị chưa chắc chắn, trong cung người tùy tiện ra vào, quan hầu

phòng thủ biên cương chuyên sai khiến binh sĩ săn bắn lấy thịt ăn, binh sĩ lao khổ mà lơi lỏng đốt lửa

báo hiệu, những tù binh còn sống sót chạy về đều biết việc này. Nay nhiệm vụ quan trọng nhất là quan

lại các cấp không được đối xử hà khắc bạo người với bá tánh, phế bỏ mọi pháp lệnh muốn tăng thuế,

cổ vũ bá tánh dốc sức sản xuất nông nghiệp, khôi phục pháp lệnh miễn lao dịch thuế má cho người

nuôi ngựa dùng cho đất nước, lấy đó bổ sung cho chiến mã bị khuyết tổn, khiến cho quân bị của đất

nước không suy yếu. Các quận quốc có quan viên từ hai ngàn thạch trở lên cần có kế hoạch huấn

luyện ngựa tốt và bổ sung vật tư cho biên giới. Cuối năm dâng báo cáo công vụ cả năm lên cho triều

đình.

Tháng 3 năm Chinh Hòa thứ 4, Hán Vũ Đế đích thân đến huyện Cự Định cày ruộng. Trên

đường hồi kinh tuần du Thái Sơn, mở rộng đàn tế trời. Ngày 26 năm Canh Dần, tiến hành nghi thức tế

tự tại minh đường, ngày 29 năm Ất Tỵ ở núi Thạch Lư tế thần đất, tiếp kiến quần thần, Hán Vũ Đế

truyền rằng: “Trẫm từ tức vị tới nay, làm nhiều chuyện cuồng vọng trái lẽ, khiến người trong thiên hạ

sầu khổ, trẫm hối hận không kịp. Từ nay về sau, phảm những việc tổn hại cho bá tánh, lãng phí tài

lực trong thiên hạ đều bỏ đi!” Điền Thiên Thu tâu rằng: “Rất nhiều đều bàn luận về chuyện thần tiên,

126

không có công lao gì rõ ràng, cầu xin hoàng thượng bãi chức giải tán”. Hán Vũ Đế bảo: “Ông Đại

hồng lư nói phải!” Thế là các phương sĩ cầu thần tiên đều bị bãi chức. Từ đó về sau, Hán Vũ Đế

thường tự than trước mặt quần thần rằng: “Ta ngày trước ngu muội, bị bọn phương sĩ lường gạt.

Trong thiên hạ làm gì có thần tiên, toàn là bọn dối trá! Thế nên ta tiết chế ăn uống, ít dùng dược liệu

quý, nhờ đó mà ít bị sinh bệnh đó thôi”.

Chú thích:

Luân Đài tội kỉ chiếu của Hán Vũ Đế là văn kiện chính thức tự phê bình mình của hoàng đế. Bài

chiếu này là tài liệu xưa nhất có nội dung phong phú và được bảo tồn hoàn chỉnh trong lịch sử Trung

Quốc. Về sau, mỗi khi triều đình gặp phải khủng hoảng, quốc gia chịu đựng thiên tai nhân họa, chính

quyền lâm vào cảnh nguy nan thì nhà vua ban bố “tội kỉ chiếu” (chiếu vạch tội chính mình) để tiến

hành phản tỉnh, kiểm điểm và khiển trách sai lầm, tội lỗi của chính bản thân mình. Việc ban bố Luân

Đài tội kỉ chiếu, khiến cho phương châm thống trị của nhà Hán có sự thay đổi, bắt đầu bước vào quỹ

đạo khoan thư sức dân, xem trong phát triển kinh tế, nhờ đó thoát khỏi cục diện nhanh chóng bại vong

của nhà Tần.

127

Bài 6: Lƣu Hầu Luận 《留侯論》

Tô Thức 蘇軾

Nguyên văn:

古之所謂豪傑之士者,必有過人之節,人情有所不能忍者,匹夫見辱,拔劍而起,挺身而鬥,此

不足為勇也。天下有大勇者,卒然臨之而不驚,無故加之而不怒,此其所挾持者甚大,而其志甚逺也

夫子房受書於圯上之老人也,其事甚怪,然亦安知其非秦之世有隠君子者出而試之,觀其所以,

微見其意者,皆聖賢相與警戒之意,而世不察,以為鬼物,亦已過矣!且其意不在書,當韓之亡,秦

之方盛也,以刀鋸鼎鑊,待天下之士,其平居無罪夷滅者不可勝數,雖有賁育,無所復施。夫持法太

急者,其鋒不可犯,而其勢未可乘,子房不忍忿忿之心,以匹夫之力,而逞於一擊之間。當此之時,

子房之不死者,其間不能容發,蓋亦已危矣!千金之子不死於盜賊何者?其身之可愛,而盜賊之不足

以死也。子房以蓋世之才,不為伊尹太公之謀,而特出於荊軻、聶政之計,以僥幸於不死,此圯上之

老人所為深惜者也。是故倨傲鮮腆而深折之,彼其能有所忍也,然後可以就大事。故曰孺子可敎也。

楚莊王伐鄭,鄭伯肉袒牽羊以逆。莊王曰:其君能下人,必能信用其民矣!遂舍之。勾踐之困於?稽,

而歸臣妾於呉者,三年而不倦。且夫有報人之志而不能下人者,是匹夫之剛也,夫老人者以為子房才

有余而憂其度量之不足,故深折其少年剛鋭之氣,使之忍小忿而就大謀,何則?非有生平之素,卒然

相遇於草野之間,而命以僕妾之役,油然而不怪者,此固秦皇之所不能驚,而項籍之所不能怒也。觀

夫髙祖之所以勝,而項籍之所以敗者,在能忍與不能忍之間而已矣。項籍唯不能忍,是以百戰百勝而

輕用其鋒;髙祖忍之,養其全鋒而待其斃。此子房敎之也。當淮陰破齊而欲自王,髙祖發怒,見於詞

色,由此觀之,猶有剛強不忍之氣,非子房其誰全之?太史公疑子房,以為魁梧竒偉而其狀貌乃如婦

人女子,不稱其志氣,嗚呼!此其所以為子房歟!

Dịch nghĩa:

Thời xưa, người tự xưng là chí sĩ hào kiệt nhất định phải có khí độ tiết tháo vượt hẳn người

thường. Người thường gặp phải chuyện không thể nhẫn nhịn thì rút kiếm lao vào giao đấu, đây không

phải là thật sự dũng cảm. Trong thiên hạ có người đại trí đại dũng, gặp chuyện đột ngột xảy ra ngoài ý

muốn không chút kinh hoảng, vô duyên vô cớ lăng nhục cũng không khiến họ nổi giận, đó là bởi vì

cái mộng họ ôm ấp vô cùng to lớn, chí hướng đặc biệt cao xa.

Có chuyện Trương Lương ở đấ Kỉ được một ông lão tặng cuốn binh thư, việc này quả thực quá

kì lạ. Há đó không phải là bậc quân tử ẩn cư thời Tần có ý thử thách Trương Lương sao? Thấy họ mỗi

người đề có thâm ý không tiện nói rành, bậc đại trí với nhau mới suy xét dò đoán được.

Người thế tục xem ông lão đất Kỉ như quỷ thần thì đã sai lầm rồi, còn xem dụng ý của ông lão là

ban sách cho Trương Lương thì lại càng không đúng. Đương lúc nước Hàn diệt vong, nước Tần đang

ở vào thế cường thịnh, vua Tần dùng bao loại hình phạt tàn khốc như dao, cưa, đỉnh, vạc để đối phó

với người tài trong thiên hạ. Bình thường giết người vô cớ, số thật không thể nào đếm hết được. Lúc

đó dù có các dũng sĩ như Mạnh Phần, Hạ Dục thời xưa thì cũng không cách nào thi triển được bản

lĩnh. Người giống Tần Thủy Hoàng thi hành hình pháp nghiêm ngặt gấp gáp như vậy, mũi dao của họ

khó mà che chắn được, nhưng đợi đến khi hắn mệt mỏi thì có thể thừa cơ phản kích. Vậy mà chàng

trai Trương Lương lại không nhịn được phẫn nộ nhất thời, muốn dùng sức của bản thân mặc sức đối

chọi với khiên giáp. Trương Lương dù may mắn thoát chết, nhưng thực tế thì khoảng cách sinh tử

128

mong manh hơn cả sợi tóc, sao lại lao vào nguy hiểm như thế chứ! Con cháu của quý tộc, không

muốn chết trong tay bọn đạo tặc, đó là vì sao? Vì họ hiểu được giá trị của sự sống, không thèm tranh

đấu với chúng mà chết đi. Giống như Trương Lương là anh tài cao hơn mọi người, không giống như

Y Doãn và Khương Thái Công mưu sâu nghĩ xa, chỉ có kế nhỏ là dùng thích khách như Kinh Kha và

Niếp Chính, mưu toan may mắn bảo toàn tính mạng. Đây chính là chỗ ông lão đất Kỉ tiếc hận sâu xa

dùm cho ông ta. Vì thế, ông lão mới cố tình thể hiện tư thái vô lễ cao ngạo trước mặt Trương Lương,

khiến ông ta bực mình nổi giận, nếu có thể nhẫn nhịn được mới mong có thể thành tựu được đại

nghiệp. Trương đã nhẫn nhịn được, nên ông già mới bảo: “Tiểu tử này có thể dạy bảo đây!”

Sở Trang Vương thời Tuyên Công năm thứ 12 thảo phạt nước Trịnh, Trịnh Nhương Công cởi

trần để lộ nửa người dắt dê đến nghênh tiếp biểu lộ sự thần phục. Sở Trang Vương nói: “Vua của một

nước có thể hạ thấp mình tôn người đến thế, bá tánh ắt sẽ tin phục mà đem mạng sống phò tá ông ta.

Thế là Sở Trang Vương hạ lệnh lui binh giảng hòa. Việt Vương Câu Tiễn bị Ngô Vương Phù Sai vây

khốn ở núi Cối Kê, bị bức đến nỗi phải mang vợ mình đến nước Ngô làm con tin, suốt 3 năm không

biểu lột chút bất mãn uất hận nào. Trương Lương thuở thiếu thời tuy có chí lớn phục thù, nhưng

không thể hạ mình tôn người, đó chẳng qua chỉ là cái dũng mãnh của kẻ phàm phu tục tử. Ông lão ở

đất Kỉ đó cho rằng Trương Lương tài trí có dư, nhưng lo lắng Trương không có sức chịu đựng, nên

mới cố tình khiêu khích tính khí bộc trực cứng rắn của người trẻ tuổi, khiến Trương có thể chịu đựng

cơn giận không đáng là gì kia, mà thực hiện mưu lược thâm viễn của mình. Ông lão đất Kỉ và Trương

Lương bình sinh vốn không quen biết, đột nhiên gặp nhau nơi hoang dã, lại ngạo mạn ra lệnh Trương

Lương làm thay ông chững chuyên kẻ nô bộc làm, mà Trương Lương lại mười phần thản nhiên không

ngại, không biểu lộ chút phẫn nộ ngại ngần gì. Điều này chứng minh Trương Lương đã trưởng thành,

Tần Thủy Hoàng không thể xem thường mưu lược của Trương mà hành xử manh động, Hạng Vũ

cũng không cách nào chọc giận Trương chui đầu vào chốn mạo hiểm.

Giờ xem Lưu Bang và Hạng Vũ tranh đoạt thiên hạ, cuối cùng sở dĩ Lưu Bang toàn thắng, Hạng

Vũ thất bại đều bởi do một đằng biết chịu đựng, một đằng không biết nhẫn nhục mà thôi. Chính vì

Hạng Vũ không biết nhẫn nại, dù cho trên đời không còn địch thủ, nhưng Hạng dùng vũ lực theo tính

khí nóng nảy nên chung quy thất bại. Lưu Bang biết cẩn trọng nhẫn nhịn để bảo toàn thực lực, phát

triển quân đội, đời thời cơ đến mà tiêu diệt Hạng Vũ. Đầy hoàn toàn là mưu lược của Trương Lương

hiến cho ông ta. Đang lúc Hoài Âm Hầu Hàn Tín đoạt lấy đất Tề, xin Lưu Bang phong cho Hàn làm

Giả Vương, Lưu Bang nổi giận, lập tức thể hiện ra sắc mặt và lời nói. Từ đây có thể thấy, Lưu Bang

vẫn không giỏi nhẫn nại, nếu không có Trương Lương kịp thời ngăn cản thì rốt cuộc làm sao Lưu có

thể giành được thắng lợi chứ?

Tư Mã Thiên từng tưởng tượng Trương Lương là nhân vật cao lớn kì dị, sau mới biết tướng mạo

Trương giống đàn bà con gái, cảm thấy tướng mạo với chí hướng khí tiết của Trương hoàn toàn khác

xa. Kỳ thực đây chính la chỗ hơn người của Trương Lương.

129

Bài 7: Quá Tần luận 過秦論

Giả Nghị 賈誼

Nguyên văn

秦孝公據殽函之固,擁雍州之地,君臣固守以窺周室,有席卷天下,包舉宇內,囊括四海之意,

並吞八荒之心。當是時也,商君佐之,內立法度,務耕織,修守戰之具,外連衡而鬥諸侯。於是秦人

拱手而取西河之外。

孝公既沒,惠代、步、昭襄蒙故業,因遺策,南取漢中,西舉巴、蜀,東割膏腴之地,北收要害

之郡。諸侯恐懼,會盟而謀弱秦,不愛珍器重寶肥饒之地,以致天下之士,合從締交,相與為一。當

此之時,齊有孟嘗,趙有平原,楚有春申,魏有信陵。此四君者皆明智而忠信,寬厚而愛人,尊賢而

重士,約從離衡,兼韓、魏、燕、楚、齊、趙、宋、衛、中山之眾。於是六國之士,有寧越、徐尚、

蘇秦、杜赫之屬為之謀;齊明、周最、陳軫、召滑、樓緩、翟景、蘇厲、樂毅之徒通其意;吳起、孫

臏、帶佗、倪良、王廖、田忌、廉頗、趙奢之倫制其兵。嘗以十倍之地,百萬之師,叩關而攻秦。秦

人開關延敵,九國之師,逡巡而不敢進。秦無亡矢遺鏃之費,而天下諸侯已困矣。於是從散約敗,爭

割地而賂秦。秦有余力而制其弊,追亡逐北,伏屍百萬,流血漂櫓;因利乘便,宰割天下,分裂山河

。強國請服,弱國入朝。

延及孝代王、莊襄王,享國之日淺,國家無事。及至始皇,奮六世之余烈,振長策而御宇內,吞

二周而亡諸侯,履至尊而制六合,執敲撲而鞭笞天下,威振四海。南取百越之地,以為桂林、像郡,

百越之君,俛首系頸,委命下吏。乃使蒙恬北築長城而守藩籬,卻匈奴七百余裡;胡人不敢南下而牧

馬,士不敢彎弓而報怨。

於是廢先王之道,焚百家之言,以愚黔首;隳名城,殺豪傑;收天下之兵,聚之鹹陽,銷鋒鏑,

鑄以為金人十二,以弱天下之民。然後踐華為城,因河為池,據億丈之城,臨不測之淵以為固。良將

勁弩守要害之處,信臣精卒陳利兵而誰何。天下已定,始皇之心,自以為關中之固,金城千裡,子孫

帝王萬世之業也。

秦王既沒,余威震於殊俗。陳涉,甕牖繩樞之子,甿隸之人,而遷徒也,才能不及中人,非有仲

尼,墨翟賢,陶朱、猗頓之富;躡足行伍之間,而倔起阡陌之中,率疲弊之卒,將數百之眾,轉而攻

秦;斬木為兵,揭竿為旗,天下雲集響應,贏糧而景從。山東豪俊遂並起而亡秦族矣。

且夫天下非小弱也,雍州之地,殽函之固,自若也。陳涉之位,非尊於齊、楚、燕、趙、韓、魏

、宋、衛、中山之君也;鉏耰棘矜,非銛於鉤戟長鎩也;謫戍之眾,非抗於九國之師也;深謀遠慮,

行軍用兵之道,非及向時之士也。然而成敗異變,功業相反也。試使山東之國與陳涉度長絜大,比權

量力,則不可同年而語矣。

然秦以區區之地,致萬乘之勢,序八州而朝同列,百有余年矣;然後以六合之家,殽函為官;一

夫作難而七廟隳,身死人手,為天下笑者,何也?仁義不施而攻守之勢異也。

Dịch nghĩa:

130

Tần Hiếu Công chiếm cứ những nơi hiểm yếu như Hào Sơn, cửa ải Hàm Cốc, gồm thâu một dải

Ung Châu rộng lớn như vậy. Quân thần nước Tần cố thủ lấy để dò xét vương triều nhà Chu, có ý đồ

thôn tính thiên hạ, chiếm lĩnh lãnh thổ, khống chế cả nước, có dã tâm thôn tính hết tám phương. Vào

lúc này, Thương Ưởng phò tá cho Trần Hiếu Công, trong nước thì xây dựng chế độ pháp luật, dốc sức

vào cày cấy dệt may, rèn đúc vũ khí phòng thủ tấn công, bên ngoài thì thực hiện liên hoành, khiến cho

các nước chư hầu tranh đấu với nhau. Vậy nên người Tần không tốn một chút sức lực nào cũng có thể

lấy được một dải đất từ sông Hoàng Hà về Tây.

Sau khi Tần Hiếu Công mất đi, Huệ Vương, Võ Vương, Chiêu Nhương thay nhau kế thừa đại

nghiệp của tiên đế, tiếp tục thực hiện sách lược mà tiền nhân lưu lại, hướng về nam chiếm lĩnh luôn

Hán Trung, hướng về tây công phá luôn một dãy Ba Thục, hướng về đông chiếm lấy mảnh đất phì

nhiêu, hướng về bắc thu lấy những thành trì và đất đai hiểm yếu. Các chư hầu kinh hoảng sợ hãi, tập

hợp liên minh lại đề tìm phương làm yếu nhà Tần, không tiếc những vật dụng quý giá, những bảo bối

trân quý, những mảnh đất phì nhiêu để chiêu nạp nhân tài chí sĩ trong thiên hạ, sử dụng sách lược hợp

tung để liên minh kết hợp, cùng tượng trợ chi viện nhau thành một khối thống nhất. Thời kỳ đó, nước

Tề có Mạnh Thường Quân, nước Triệu có Bình Nguyên Quân, nước Sở có Thân Nguyên Quân, nước

Ngụy có Tín Lăng Quân. Bốn người anh hùng này thông minh trí tuệ, lại trung thành thủ tín, đã khoan

hậu lại còn yêu mến người hiền, đã tôn kính hiền tài lại còn trọng đãi mưu sĩ, cùng nhau mưu tính hợp

tung, làm tan rã thế liên hoành của nước Tần, tụ tập các lực lượng Hàn, Ngụy, Yên, Sở, Tề, Triệu,

Tống, Vệ, Trung Sơn. Thế nên mưu sĩ của 6 nước gồm Ninh Việt, Từ Thương, Tô Tần, Đỗ Hách cùng

nhau bàn mưu lập kế; lại có Tề Minh, Chu Tối, Trần Chẩn, Thiều Hoạt, Lâu Hoãn, Địch Cảnh, Tô

Lệ, Nhạc Nghị ủng hộ ý kiến của họ; lại có Ngô Khởi, Tôn Tẫn, Đái Đà, Nghê Lương, Vương Liêu,

Điền Kỵ, Liêm Pha, Triệu Xa thống lãnh quân đội của họ. Họ đã dựa vào lãnh thổ rộng gấp 10 lần,

quân đội động hơn trăm vạn, thắng tiến vào cửa Hàm Cốc để tấn công nước Tần. Quân Tần mở rộng

cửa ải nghênh địch, quân đội của 9 nước bồn chồn không dám tiến vào. Nước Tần không mất một mũi

tên cây cung nào cũng có thể làm cho các nước chư hầu trong thiên hạ mười phần khốn quẫn. Vậy là

kế hoạch hợp tung thất bại, liên minh giải tán, các nước tranh nhau cắt đất mua chuộc nước Tần.

Nước Tần có đầy đủ sức mạnh để lợi dụng nhược điểm của họ, truy đuổi bại quân bỏ chạy, khiến cho

vô số thi thể nằm ngang dọc, máu chảy thành dòng có thể làm nổi cả khiên giáp. Nhân hình thế và

điều kiện có lợi này tiến hành xâm chiếm các nước chư hầu, chiến lấy đất đai trong thiên hạ. Vì thế

các nước mạnh thỉnh cầu quy phục, các nước yếu lần lượt dến triều bái.

Vương quyền truyền đến đời Hiếu Đại Vương, Trang Nhương Vương, thời gian tại vị rất ngắn,

đất nước không có đại sự. Đến đời Tần Thủy Hoàng, đề cao công nghiệp của 6 đời tổ tiên truyền lại,

giống như dùng roi dài thúc ngựa để chở lấy thiên hạ, thôn tính Tây Chu và Đông Chu, diệt các nước

chư hầu, bước lên ngôi vị hoàng đế tôn quý thống trị toàn Trung Nguyên, dùng hình phạt tàn khốc để

nô dịch bá tánh trong thiên hạ, uy thế chấn động 4 biển. Chiếm đoạt đất đai của các bộ lạc tộc Việt ở

phương Nam, đổi chúng thành Quế Lâm Quận và Tượng Quận, thủ lĩnh của các bộ lạc người Việt cúi

đầu xin hàng, trở thành các quan lại nhỏ của nước Tần. Tần Thủy Hoàng bèn phái đại tướng quân

Mông Điềm xây dựng Trường Thành ở phương Bắc để bảo vệ lãnh thổ, đánh lùi quân Hung Nô hơn

700 dặm. Người Hồ sợ không dám đến phía Nam để chăn ngựa, di thần của 6 nước bị mất không dám

cầm vũ khí để rửa hận vong quốc.

Thế là Tần Thủy Hoàng xóa bỏ phương pháp trị nước của các bậc đế vương cổ đại, đốt sạch trứ

tác của các học phái, dụng ý là làm cho bá tánh ngu muội hồ đồ; hủy hoại hết các thành quách nổi

tiếng, giết hại những nhân vật kiệt xuất; thu hết binh khí trong thiên hạ tập trung về kinh đô Hàm

131

Dương, đốt chảy đao kiếm cung tên để đúc thành 12 hình nhân bằng đồng, làm yếu mòn sức lực của

bá tánh trong thiên hạ. Sau đó mượn núi Hoa Sơn làm tường thành, lấy sông Hoàng Hà làm hào giữ

thành, dựa vào ngọn Hoa Sơn cao lớn muôn ức, sông Hoàng Hà sâu không thể lường, lấy đó là bức

bình phong che chắn kiên cố. Các tướng lĩnh anh tài, sức mạnh cung nỏ đầy đủ, phòng thủ nơi hiểm

yếu; quần thần thì trung thành, binh sĩ thì tinh nhuệ, binh thí rèn mài sắc bén, thì ai dám đá động tới.

Thiên hạ đã được bình định, lòng Tần Thủy Hoàng tin rằng cửa Hàm Cốc đã dựng kiên cố, giống như

tường đồng vách sắt dài ngàn dặm, quả đúng là cơ nghiệp xưng vương xưng đế muôn đời không lay

chuyển của tử tôn con cháu.

Tần Thủy Hoàng mất đi, tiếng tăm uy vọng còn chấn động tới vùng biên viễn xa xôi. Vậy mà

Trần Thiệp là con cháu của hạng cùng khổ dám lấy trứng vỡ làm cửa sổ, lấy dây thừng để buộc trục

cửa, mang phận nô lệ cày ruộng, còn là một chiến binh điều đi giữ thành Ngư Dương, tài năng không

qua người bình thường, đức hạnh tài năng không bằng Khổng Tử, Mặc Tử, giàu sang không bằng Đào

Chu, Ỷ Đốn; xuất thân từ trong quân đội, lại đột nhiên dám khởi nghĩa nơi điền dã, suất lĩnh binh sĩ

khốn đốn mệt mỏi, dẫn đầu mấy trăm người quay đầu lại đánh nhà Tần. Họ đồn hạ cây rừng làm vũ

khí, nâng cao gậy trúc làm cờ trướng, bá tánh trong thiên hạ tụ đông như mây hợp, như tiếng vọng

đáp lại lời gọi, vác theo lương thực, gấp gáp theo về như bóng theo hình. Anh hùng hào kiệt từ Hào

Sơn về phía đông cũng đồng loạt nổi dậy lật đổ sự thống trị của nhà Tần.

Lực lượng thống trị của nhà Tần lúc này vẫn không hề thu hẹp hay suy yếu. Đất đai ở Ung

Châu, cửa Hàm Cốc ở Hào Sơn vẫn kiên cố hiểm yếu giống như thuở trước. Địa vị của Trần Thiệp

không tôn quý như quân vương của 9 nước Tề, Sở, Triệu, Yên, Hàn, Ngụy, Tống, Vệ, Trung Sơn;

dụng cụ gậy gộc không bén nhọn bằng mâu kích gươm đao, các binh sĩ giữ thành nơi biên ải không

mạnh bằng quân đội chính quy 9 nước, không có mưu lược sâu xa, không có sách lược hành quân tác

chiến, cũng không có những mưu sĩ giỏi. Thế nhưng thành công và thất bại lại không giống nhau,

công trạng sự nghiệp lại hoàn toàn tương phản. Nếu đem các nước phía đông Hào Sơn so sánh lớn

nhỏ thiệt hơn với quân Trần Thiệp về sức mạnh và quyền thế thì không còn gì để bàn. Thế nhưng,

nước Tần đất không rộng mà đoạt được quyền thế đế vương, thống lĩnh 8 châu, khiến cho 6 nước

ngang hàng phải đến triều bái kéo dài hơn trăm năm, rồi sau xem thiên hạ là nhà, xem Hàm Cốc quan

ở Hào Sơn như là nội cung; vậy mà một người phát động khởi nghĩa, cơ nghiệp đế vương theo đó mà

hủy diệt, hoàng đế chết trong tay người khác, bị người trong thiên hạ chế nhạo, đó là bởi do đâu? Đó

là do không chịu thực thi nhân nghĩa, không biết dùng sức mạnh để bảo vệ thiên hạ mà đi đánh chiếm

thiên hạ.

Chú thích:

1. Giả Nghị: (200 TCN – 168 TCN), người Lạc Dương thời Tây Hán, là nhà chính luận nổi tiếng. Quá

Tần Luận gồm 3 thiên, trên đây chỉ là thiên đầu tiên. Quá Tần luận nghĩa là bàn về những sai lầm của

nhà Tần.

2. Tần Hiếu Công: vua nước Tần, dùng biến pháp của Thương Ưởng khiến quốc phú binh cường.

3. Hào Sơn Hàm Cốc Quan: núi Hào Sơn và cửa Hàm Cốc. Hào Sơn ở phía đông cửa Hàm Cốc.

4. Ung Châu: hiện nay là vùng đất gồm miền trung và bắc Thiểm Tây, phía đông nam Thanh Hải và

Cam Túc, cùng với dải đất Ninh Hạ.

132

5. Huệ Đại, Võ, Chiêu Nhương: tức Huệ Đại Vương, Võ Vương và Chiêu Nhương Vương. Huệ Đại

Vương là con của Tần Hiếu Công, Võ Vương là con của Huệ Đại Vương, Chiêu Nhương Vương là

em khác mẹ của Võ Vương.

6. Mạnh Thường Quân, tên thật Điền Đại, là nhà quý tộc nước Tề; Bình Nguyên Quân, tên thật Triệu

Thắng, là con của vua Việt Võ Linh; Xuân Thân Quân, tên thật Hoàng Hiết, là quy tộc nước Sở; Tín

Lăng Quân, tên thật Vô Kỵ, quý tộc nước Ngụy.

7. Ninh Việt người nước Việt, Từ Thương người nước Tống, Tô Tần người Lạc Dương, Đỗ Hách

người Chu đều là các nhà mưu lược nổi tiếng.

8. Tề Minh là đại thần Đông Chu, Chu Tối là con trai vua Đông Chu, Trần Chẩn là người nước Sở,

Thiều Hoạt là đại thần nước Sở, Lâu Hoãn là tướng quốc nước Ngụy, Địch Cảnh là người nước

Ngụy, Tô Lệ là em Tô Tần, Nhạc Nghị là tướng quân nước Yên.

9. Ngô Khởi là tướng quân Ngụy; Tôn Tẫn là tướng nước Tề; Đái Đà là tướng nước Sở; Nghê Lương,

Vương Liêu là những binh gia nổi tiếng đương thời; Điền Kỵ là tướng nước Tề; Liêm Pha, Triệu Xa

đều là tướng nước Triệu.

10. Bách Việt: thời cổ đại tộc Việt sống các vùng Trường Giang, Chiết Giang, Mân (Phúc Kiến), Việt

(Quảng Đông, Quảng Tây).

11. Quế Lâm, Tượng Quận: hiện là dải đất khu tự trị dân tộc Choang tỉnh Quảng Tây.

12. Mông Điềm: tướng Tần, thời Tần Thủy Hoàng trị vì thống lĩnh 30 vạn quân bắc phạt Hung Nô,

xây dựng Vạn Lý Trường Thành.

13. Đào Chu: là Phạm Lãi người nước Việt thời Xuân Thu, sau khi giúp đỡ Việt Vương Câu Tiễn diệt

Ngô xong, rời khỏi nước Việt đến đất Đào tự xưng là Đào Chu Công, làm ăn kinh doanh giàu có. Ỷ

Đốn người nước Lỗ thời Chiến Quốc, học cách làm giàu của Đào Chu Công, chăn nuôi gia súc trâu dê

mà làm giàu.

133

Bài 8: Cầu hiền chiếu 求賢詔

Hán Cao Đế 漢高帝

Nguyên văn 原文

蓋聞王者莫高於周文,伯者莫高於齊桓,皆待賢人而成名。今天下賢者智能,豈特古之人乎?患在

人主不交故也,士奚由進?今吾以天之靈,賢士大夫,定有天下,以為一家。欲其長久,世世奉宗廟

亡絕也。賢人已與我共平之矣,而不與吾共安利之,可乎?賢士大夫有肯從我游者,吾能尊顯之。布

告天下,使明知朕意。御史大夫昌下相國,相國酂侯下諸侯王,御史中執法下郡守,其有意稱明德者

,必身勸,為之駕,遣詣相國府,署行義年,有而弗言,覺免。年老癃病,勿遣。

Dịch nghĩa

Từng nghe, trong các bậc vua không có ai qua Chu Văn Vương, trong các minh chủ chư hầu

không ai qua Tề Hằng Công, họ đều biết dựa vào người hiền tài để dựng thành cơ nghiệp. Như nay,

bàn về tài năng của hiền nhân trong thiên hạ, lẽ nào chỉ cổ nhân mới có những phẩm chất đó? Âu chỉ

do vua không thân cận với hiền nhân, thế thì hiền sĩ sao xuất đầu lộ diện? Nay ta được trời cao phù

trợ, được các hiền sĩ đại phu phụ tá, bình định thiên hạ thành một nhà. Muốn vận nước lâu dài, đời đời

phung thờ tông miếu không dứt. Hiền nhân đã cùng ta kề vai sát cánh bình định thiên hạ, lại không

cùng ta an hưởng thái bình, thế thì sao được? Hiền sĩ đại phu một lòng kề cận ta, ta sẽ khiến cho

người đó được tôn quý rỡ ràng. Nay ra chiếu bố cáo thiên hạ, khiển mọi người hiểu được ý trẫm. Ngự

sử đại phu Chu Xương truyền đạt cho thừa tướng, thừa tướng Tiêu Hà truyền cho các vua chư hầu,

Ngự sử trung chấp pháp truyền lệnh đến quan lại các quận. Thấy người nào đủ đức hạnh hiền minh thì

phải tự thân đến khuyến thỉnh, mang xe đến đón về phủ tướng quốc, ghi rõ lý lịch, dung mạo, tuổi tác;

nơi có hiền sĩ mà không báo lên, bị phát giác sẽ cho miễn chức. Người già cả bệnh tật không còn linh

hoạt thì thôi không mời.

(Những bài văn chính luận của Trung Quốc do Nguyễn Thanh Phong, Bộ môn Ngữ văn, Khoa Sư

phạm, Trường Đại học An Giang dịch).

------------------