VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là...

169
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI Nguyễn Hữu Phước PHÁP GIA TRONG LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI XÃ HỘI PHONG KIẾN VIỆT NAM LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC NỘI – 2016

Transcript of VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là...

Page 1: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Nguyễn Hữu Phước

PHÁP GIA TRONG LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI

TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI

XÃ HỘI PHONG KIẾN VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI – 2016

Page 2: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Nguyễn Hữu Phước

PHÁP GIA TRONG LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI

TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI

XÃ HỘI PHONG KIẾN VIỆT NAM

Chuyên ngành : Triết học

Mã số : 62 22 03 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS Trần Nguyên Việt

HÀ NỘI – 2016

Page 3: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của

riêng tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Trần Nguyên Việt.

Các tư liệu được sử dụng trong luận án là trung thực, có xuất

xứ rõ ràng; những kết luận mới về khoa học trong luận án là

kết quả nghiên cứu của tác giả luận án.

Hà Nội, ngày 15 tháng 5 năm 2016

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Nguyễn Hữu Phước

Page 4: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1

NỘI DUNG 5

Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI 5

1.1. Các công trình tiếp cận theo phương diện bối cảnh lịch sử Trung Hoa cổ đại và

những tiền đề cho sự ra đời của Pháp gia 5

1.2. Các công trình nghiên cứu chú trọng đến nội dung tư tưởng Pháp gia và vai

trò, vị thế của nó trong lịch sử tư tưởng chính trị - xã hội Trung Hoa cổ đại 11

1.3. Các công trình nghiên cứu về ảnh hưởng của Pháp gia trong đời sống chính trị -

xã hội Trung Quốc và Việt Nam thời phong kiến 17

1.4.Một số vấn đề cần giải quyết trong luận án 23

Tiểu kết chương 1 24

Chương 2. SỰ HÌNH THÀNH TRƯỜNG PHÁI PHÁP GIAVÀ NHỮNG

NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA NÓ 25

2.1. Bối cảnh lịch sử, xã hội Trung Hoa thời Xuân Thu – Chiến Quốc và

những tiền đề cơ bản cho sự hình thành trường phái Pháp gia 25

2.1.1. Bối cảnh lịch sử 25

2.1.2. Tình hình kinh tế 26

2.1.3. Tình hình chính trị - xã hội 27

2.2. Các tiền đề tư tưởng 30

2.2.1. Phong trào "Bách gia tranh minh" với sự hình thành tư tưởng Pháp gia 30

2.2.2. Ảnh hưởng của Nho gia và Đạo gia đến sự hình thành tư tưởng Pháp gia 31

2.2.3. Các cuộc biến pháp trước Hàn Phi là cơ sở cho sự phát triển và hoàn thiện học

thuyết pháp trị của Pháp gia 39

2.3. Hàn Phi – Tập đại thành những nội dung pháp trị căn bản của tư tưởng

Pháp gia 46

2.3.1. Quan niệm về “pháp” 47

2.3.2. Quan niệm về “Thế” 54

2.3.3. Quan niệm về “Thuật” 56

Page 5: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

2.3.4. Mối quan hệ hữu cơ giữa “Pháp – Thuật – Thế” trong tư tưởng pháp trị của

Hàn Phi 62

2.4. Một số nhận định khái quát về vai trò, vị thế của Pháp gia trong lịch sử tư

tưởng chính trị - xã hội Trung Hoa cổ đại 66

Tiểu kết chương 2 72

Chương 3. ẢNH HƯỞNG CỦA PHÁP GIA TRONG LỊCH SỬ CHẾ ĐỘ

PHONG KIẾN TRUNG HOA (221 Tr.CN – 1840) 74

3.1. Ảnh hưởng của Pháp gia trong sự hình thành và phát triển chế độ quân

chủ chuyên chế Trung Hoa 74

3.1.1. Vài nét khái quát về nhà nước quân chủ chuyên chế và vai trò của Pháp

gia trong hệ thống kiến trúc thượng tầng của nó 74

3.1.2. Ảnh hưởng của Pháp gia trong thực tiễn đời sống chính trị - xã hội Trung

Hoa dưới chế độ quân chủ chuyên chế nhà Tần 85

3.2. Sự dung hợp giữa Nho gia và Pháp gia thời Hán và ý nghĩa của sự dung hợp đó

đối với chế độ phong kiến Trung Hoa về sau 104

Tiểu kết chương 3 112

Chương 4. ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ ĐẾN ĐỜI

SỐNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI DƯỚI CHẾ ĐỘ PHONG KIẾN VIỆT

NAM TỪ THẾ KỶ X ĐẾN NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX 113

4.1. Ảnh hưởng của tư tưởng pháp trị đến xây dựng và phát triển chế độ phong kiến

trung ương tập quyền Việt Nam từ thế kỷ X đến nửa đầu thế kỷ XX 113

4.1.1. Ảnh hưởng của tư tưởng pháp trị trong việc tổ chức bộ máy nhà nước

phong kiến 113

4.1.2. Những biện pháp cơ bản nhằm củng cố và phát triển bộ máy nhà nước

phong kiến trung ương tập quyền 121

4.2. Ảnh hưởng tư tưởng pháp trị đến xây dựng luật pháp dưới chế độ phong kiến

Việt Nam từ thế kỷ X đến nửa đầu thế kỷ XX 127

4.2.1. Sự ra đời của "Hình thư" và "Hình luật" của chế độ phong kiến Việt Nam

thời kỳ đầu độc lập (từ thế kỷ X- cuối thế kỷ XIV) 127

Page 6: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

4.2.2. Ảnh hưởng của tư tưởng pháp trị đến sự ra đời và nội dung của “Quốc triều hình

luật” thời Hậu Lê và “Hoàng triều luật lệ” thời Nguyễn 131

4.3. Những giá trị và hạn chế của tư tưởng pháp trị trong đời sống chính trị - xã hội

phong kiến Việt Nam 140

4.3.1. Giá trị 140

4.3.2. Hạn chế 142

4.4. Bài học lịch sử từ sự vận dụng tư tưởng pháp trị trong chế độ phong kiến đối với

việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay 143

4.4.1 Tính tất yếu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở

Việt Nam hiện nay và những tiêu chí, đặc trưng của nó 143

4.4.2. Tiếp thu những giá trị cơ bản từ học thuyết pháp trị của Pháp gia trong

việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay 146

Tiểu kết chương 4 150

KẾT LUẬN 151

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 154

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 155

Page 7: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Cùng với Nho gia, Đạo gia, Mặc gia, Danh gia, Âm dương gia với tư cách là

sản phẩm của “Bách gia tranh minh” thì Pháp gia là một trong sáu học phái lớn

nhất, có tầm ảnh hưởng đến toàn xã hội Xuân Thu - Chiến Quốc ở Trung Quốc.

Pháp gia và học thuyết của trường phái này có lịch sử phát triển khá độc đáo trong

quá trình hình thành nhà nước quân chủ chuyên chế Trung Hoa cổ đại. Vai trò của

học thuyết Pháp gia không chỉ ở việc Tần Thủy Hoàng đã áp dụng thành công học

thuyết này trên đất Tần để kết thúc cục diện Xuân Thu – Chiến Quốc, mà còn tiếp

tục tác động đến xã hội phong kiến Trung Hoa và các nước phương Đông đồng văn,

trong đó có Việt Nam. Sở dĩ như vậy là vì nội dung tư tưởng biến pháp, cách dựng

luật, những phương thuật dùng người; các biện pháp để cải tạo xã hội, phương pháp

xây dựng nhà nước mạnh, cách thức phát triển kinh tế - xã hội… trong đường lối trị

nước là điều kiện cần thiết cho sự trường tồn của bất kỳ triều đại phong kiến nào.

Với giá trị to lớn đó, Pháp gia đã thu hút được sự quan tâm của nhiều học giả cũng

như các nhà hoạt động chính trị từ trước đến nay trên thế giới.

Ở Việt Nam, trong 70 năm qua kể từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, việc

nghiên cứu về Pháp gia và tư tưởng trị nước của trường phái này luôn được các học

giả quan tâm. Tuy nhiên, trên thực tế những nghiên cứu về vị thế và vai trò của Pháp

gia trong lịch sử tư tưởng chính trị - xã hội Trung Quốc cổ đại được đề cập còn khá

mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc thiết

lập thể chế, kiến tạo xã hội và hình thành nên một hệ thống pháp luật đồng bộ cho xã

hội phong kiến Việt Nam như thế nào, cho đến nay vẫn là vấn đề còn bỏ ngỏ.

Chính vì vậy, việc trình bày một cách có hệ thống nhằm lý giải nguyên

nhân ra đời của Pháp gia và những nội dung căn bản về tư tưởng chính trị - xã

hội của nó cũng như những tác động của hệ tư tưởng này đến đời sống chính trị

- xã hội phong kiến nước ta là một việc làm có ý nghĩa cả về lý luận lẫn thực

tiễn. Về lý luận, những kết quả nghiên cứu mới sẽ góp phần làm rõ thêm diện

mạo của trường Pháp gia trong lịch sử triết học chính trị, chỉ ra những giá trị và

Page 8: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

2

đóng góp của nó cho kho tàng văn hóa của phương Đông nói riêng, của toàn

nhân loại nói chung. Về thực tiễn, do nhu cầu quản lý xã hội không thể thiếu

pháp luật trong bất kỳ thời đại nào cũng như cách thức vận dụng những nội

dung phù hợp của tư tưởng pháp trị, cho nên việc tìm hiểu mức độ ảnh hưởng,

cách thức ảnh hưởng của Pháp gia trong lịch sử cũng như ngày nay là việc làm

có ý nghĩa. Trải qua 70 năm chính thể mới của chúng ta, đặc biệt là sau 30 năm

đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta

đã đạt được những thành tựu quan trọng trong lĩnh vực pháp luật. Đó là đổi

mới, hoàn thiện Hiến pháp cho phù hợp với từng giai đoạn lịch sử cụ thể, đáp

ứng nhu cầu về luật pháp để "đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước

công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương,

đồng thuận… tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau”

[31, tr.103]. Để hoàn thiện mục tiêu trên, chúng ta phải tiếp tục đổi mới toàn

diện và triệt để các lĩnh vực đời sống chính trị - xã hội, đặc biệt là hệ thống

chính trị XHCN, xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ để xây dựng

Nhà nước pháp quyền XHCN, nhà nước thực sự là của dân, do dân và vì dân.

Do đó, việc kế thừa có chọn lọc những tư tưởng và học thuyết chính trị - xã hội

trong lịch sử có vai trò rất quan trọng, trong đó có những giá trị tiến bộ của học

thuyết Pháp gia.

Để góp phần thực hiện các nhiệm vụ nêu trên, với tinh thần “ôn cố nhi tri tân”

cũng như “tiếp thu tinh hoa và góp phần làm phong phú thêm nền văn hóa của nhân

loại” [30, tr.115], chúng tôi mạnh dạn lựa chọn “Pháp gia trong lịch sử tư tưởng

chính trị - xã hội Trung Quốc cổ đại và ảnh hưởng của nó đối với xã hội phong kiến

Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu cho Luận án tiến sĩ Triết học của mình.

2. Mục đích, nhiệm vụ của luận án

* Mục đích: Làm rõ vị thế, vai trò của Pháp gia trong lịch sử tư tưởng chính trị -

xã hội Trung Hoa cổ đại và ảnh hưởng của tư tưởng pháp trị trong học thuyết này đến

chế độ phong kiến Trung Hoa, Việt Nam trên một số phương diện tiêu biểu.

Page 9: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

3

* Nhiệm vụ:Từ yêu cầu trên, luận án cần giải quyết và làm rõ những nội

dung căn bản sau:

Một là: Nghiên cứu tổng quan các công trình tiêu biểu nghiên cứu về Pháp gia

và tư tưởng của trường phái này, từ đó đặt ra những vấn đề cần nghiên cứu tiếp theo.

Hai là: Trên cơ sở phân tích bối cảnh lịch sử, những tiền đề cho sự ra đời

trường phái Pháp gia; những nội dung căn bản của trường phái này, luận án sẽ

tập trung làm rõ vị thế, vai trò của Pháp gia trong lịch sử tư tưởng chính trị - xã

hội Trung Hoa thời cổ đại.

Ba là: Luận án làm sáng tỏ tư tưởng pháp trị của Pháp gia đã tác động lên đời

sống chính trị - xã hội Trung Hoa cổ đại, đặc biệt là sự thúc đẩy thành lập nhà nước

quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền như thế nào, từ đó phân tích vì sao tư

tưởng pháp trị đã ảnh hưởng sâu sắc đến chế độ phong kiến Trung Hoa từ thời Hán

đến nửa đầu thế kỷ XIX.

Bốn là: Luận án sẽ luận giải sự ảnh hưởng của tư tưởng pháp trị đối với đời sống

chính trị - xã hội dưới chế độ phong kiến nước ta từ thế kỷ X đến nửa đầu thế kỷ XX, từ

đó rút ra ý nghĩa, bài học lịch sử cho công cuộc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp

quyền XHCN ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

* Đối tượng nghiên cứu:Pháp gia trong lịch sử tư tưởng chính trị - xã hội Trung

Quốc cổ đại và ảnh hưởng của nó đối với xã hội phong kiến Việt Nam.

* Phạm vi nghiên cứu:Do dung lượng luận án có giới hạn và việc xác định

mục tiêu của luận án, cho nên chúng tôi giới hạn phạm vi nghiên cứu như sau:

Nghiên cứu những nội dung căn bản về tư tưởng pháp trị của các Pháp gia thời

kỳ cổ đại mà đỉnh cao là tư tưởng Hàn Phi; chỉ ra vị trí, vai trò của hệ tư tưởng này

chi phối tư tưởng, đời sống chính trị - xã hội Trung Hoa cổ đại và ảnh hưởng của nó

đến nhà nước phong kiến Tung Hoa từ thời Hán đến nửa đầu thế kỷ XIX.

Làm rõ một số ảnh hưởng tiêu biểu tư tưởng của Pháp gia lên đời sống chính

trị - xã hội dưới chế độ phong kiến Việt Nam từ thế kỷ X đến đầu thế kỷ XX và rút ra

bài học cho công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta.

Page 10: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

4

4. Phương pháp nghiên cứu của luận án

Phương pháp nghiên cứu được sử dụng chủ đạo trong luận án là phương pháp

luận mácxít trong nghiên cứu lịch sử tư tưởng, cụ thể chúng tôi sử dụng tổ hợp các

phương pháp: lôgic - lịch sử, phân tích - tổng hợp, quy nạp - diễn dịch... Bên cạnh đó,

luận án còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội khác như: khảo

cứu tài liệu, so sánh - đối chiếu…

5. Những đóng góp mới của luận án

Trên cơ sở kế thừa thành tựu của các học giả đi trước, chúng tôi phát triển và

đưa ra một số điểm mới như sau:

Một là, làm rõ vị thế, vai trò của Pháp gia trong lịch sử tư tưởng chính trị - xã hội

Trung Hoa cổ đại.

Hai là, luận án đã làm sáng tỏ tư tưởng pháp trị của Pháp gia đã tác động lên

đời sống chính trị - xã hội Trung Hoa cổ đại, đặc biệt là sự thúc đẩy để thành lập nhà

nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền như thế nào, từ đó phân tích vì sao

tư tưởng pháp trị đã ảnh hưởng sâu sắc đến chế độ phong kiến Trung Hoa từ thời Hán

đến nửa đầu thế kỷ XIX.

Ba là, luận giải sự tiếp biến và vận dụng tư tưởng pháp trị của Pháp gia trong lịch sử xã

hội phong kiến Việt Nam từ thế kỷ X đến nửa đầu thế kỷ XX (trên một số phương diện tiêu

biểu). Từ đó rút ra ý nghĩa, bài học của học thuyết pháp trị của Pháp gia đối với thực tiễn xây

dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

6. Kết cấu của luận án

Ngoài các nội dung theo quy định, luận án được kết cấu: 3 phần chính là mở

đầu, nội dung và kết luận được luận giải trong 4 chương 14 tiết.

Page 11: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

5

NỘI DUNG

Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

1.1. Các công trình tiếp cận theo phương diện bối cảnh lịch sử Trung Hoa cổ đại và

những tiền đề cho sự ra đời của Pháp gia

* Các công trình nghiên cứu về lịch sử - xã hội - chính trị và học thuật của

Trung Hoa cổ đại

Ở nước ta, Nguyễn Hiến Lê là một trong những người đi đầu trong nghiên

cứu lịch sử tư tưởng nói chung và triết học Trung Hoa cổ đại nói riêng. Nghiên cứu

về Pháp gia, trong cuốn sách Hàn Phi Tử. Ông viết: “Trước khi đi vào tư tưởng thì

phải ôn lại phương diện: lịch sử - xã hội – chính trị và học thuật” [59, tr.2]. Theo

phương pháp này, căn cứ vào những tài liệu sớm nhất về Pháp gia còn lưu giữ được

cho đến nay, các nhà nghiên cứu chủ yếu dựa vào “Sử ký” của Tư Mã Thiên và

cuốn “Hàn Phi Tử” – trước tác của Hàn Phi.

Trước tiên là công trình lịch sử nổi tiếng của Trung Quốc, cuốn Sử ký của

Tư Mã Thiên do Phan Ngọc dịch (Nxb Thời đại, Hà Nội, 2010), trong đó Tư Mã

Thiên bộc bạch phương pháp thực hiện việc làm sử là “Chỉ thuật lại chuyện xưa,

sắp đặt lại chuyện chứ không sáng tác”[110, tr.17]. Bộ sử nhắc đến hàng nghìn

nhân vật, do đó những cái tên được nhắc đến trong “Sử ký” phải là điển hình. Các

đại biểu của Pháp gia và tư tưởng của họ tuy chiếm vị trí không nhiều trong tác

phẩm, nhưng rất đáng trân trọng, riêng Hàn Phi được nhắc đến 3 lần. Trong “Liệt

truyện” (liệt kê các câu chuyện dưới dạng thuật lại), các nhà tư tưởng lần lượt

hiện ra: Ngô Khởi trong “Tôn Tử”, “Ngô Khởi liệt truyện”; Thân Bất Hại, Hàn

Phi trong “Thân Bất Hại, Hàn Phi liệt truyện”; Thương Ưởng trong “Thương

quân liệt truyện”; Hàn Phi, Thương Quân trong “Lý Tư – Thân Bất Hại liệt

truyện”, Thận Đáo, Lý Khôi trong “Mạnh Tử, Tuân Khanh liệt truyện”. Mặc dù

các nhà tư tưởng xuất hiện ở từng câu chuyện khác nhau, nhưng nội dung đều kể

về chủ trương thực hành chính trị, pháp lý và vai trò của họ trong việc giúp các đế

vương phong kiến Trung Quốc thời cổ đại có được nước hùng, quân mạnh. Tuy

Page 12: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

6

nhiên, gắn liền những thành công cho xã hội là hàng loạt kết cục bi thảm đến với

cuộc đời các đại biểu ưu tú này.

Cùng quan điểm với Sử ký, cuốn Lịch sử Trung Quốc của Nguyễn Gia Phu –

Nguyễn Huy Quý (Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007) cho rằng:

Chủ trương dùng pháp luật để trị nước của Hàn Phi đưa ra để quản lý và phát triển xã

hội là đúng đắn… nhưng quá nhấn mạnh đến biện pháp trừng phạt nặng nề, lại phủ

nhận đạo đức, tình cảm, thủ tiêu văn hóa, giáo dục là đi ngược lại với văn minh, làm

cho mâu thuẫn xã hội trở nên gay gắt [78, tr.76].

Ngoài những nhận định về học phái Pháp gia, tác giả còn phân tích khá rõ nét

tình hình kinh tế - văn hóa - xã hội. Đặc biệt, chính trị thời kỳ này với nhiều biến động:

… Các nước thất hùng ngày càng mạnh. Trừ vua Sở đã xưng vương từ thời Xuân thu,

đến thế kỷ IV TCN, vua của các nước Ngụy, Tề, Tần, Hàn, Yên, Triệu đều lần lượt bỏ

danh hiệu “Công”,“Hầu” để xưng “Vương” [78, tr.29]. Điều này cũng được tác giả

Nguyễn Hiến Lê miêu tả: Thời chiến quốc là thời bảy người đuổi bắt một con hươu, kẻ

nào mưu mô, nhanh chân, khéo tay là được. Nhân nghĩa không đủ để làm nước hùng,

quân mạnh [59, tr.8].

Bằng phương pháp đối chứng lịch, tác giả Lê Giảng có cuốn Các triều đại

Trung Hoa (Nxb Từ điển Bách khoa, 2010). Trong sách, những nhân vật, sự kiện

được miêu tả thông qua những câu chuyện, qua bảng đối chiếu các niên đại. Thời

Xuân thu – Chiến quốc trong các thiên: Ngũ bá tranh hùng; Vương triều Tần; Sự

phát triển của Tần và biến Pháp Thương Ưởng; Văn hóa Tần; Một số học giả; Tần

Chinh phục lục quốc; Tần Thủy Hoàng và sự cai trị của ông. Tác phẩm cùng các cứ

liệu lịch sử khác, sẽ là những căn cứ quan trọng giúp những nhận định, đánh giá về

vai trò của Pháp gia trong lịch sử của chúng tôi được thỏa đáng hơn.

Có thể nói, những tư liệu sử học, mà tiêu biểu là cuốn “Sử ký” của Tư Mã

Thiên là công cụ rất quan trọng để nghiên cứu về Pháp gia, bởi lẽ người ta tìm đến

với “Sử ký” như tài liệu để thẩm định khoa học do tính chân thực của nó. Hơn nữa,

những công trình này sẽ trực tiếp giúp chúng tôi hoàn thành cơ sở lý luận và thực

tiễn cho sự ra đời, phát triển và ảnh hưởng của trường phái Pháp gia trong lịch sử tư

tưởng Trung Hoa cổ đại.

Page 13: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

7

Đồng hành cùng với Sử ký là tác phẩm văn học cùng tên Hàn Phi Tử - Hàn

Phi, do Phan Ngọc dịch (Nxb Văn học, Hà Nội, tái bản 2005). Sách được phân đoạn

làm 20 quyển với 55 thiên. Khảo sát kỹ lưỡng tác phẩm này sẽ giúp người nghiên

cứu nắm bắt được toàn bộ tư tưởng Hàn Phi và các bậc tiền bối Pháp gia trước ông.

Không dừng lại ở đó, “Hàn Phi Tử” còn là một bản cáo trạng khách quan, đầy đủ

nhất về chế độ quân chủ phân phong chuyên chế hà khắc trong lịch sử Trung Hoa.

Cùng nhận định trên, trong cuốn Lịch sử văn học Trung Quốc (tập 1), có đoạn viết:

“… các đoạn văn lý luận rõ ràng, phân tích sâu sắc, lời lẽ tươi đẹp. Về hình thức

biểu hiện, luận thuyết của Hàn Phi cũng đạt được thành quả cao nhất trong tân văn

chư tử thời Chiến quốc” [95, tr.300].

Cho đến nay, mặc dù vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau tranh luận về tính

“chân”, “giả” của một số “thiên” trong 55 “thiên” sách, nhưng để có được bản

dịch này, Phan Ngọc đã căn cứ vào ý kiến thống nhất của 50 nhà khoa học tên tuổi

và có kinh nghiệm nghiên cứu về Pháp gia của Trung Quốc, lấy đó làm điểm tựa để

ông dịch trung thành tác phẩm. Hơn nữa, bất luận ý kiến như thế nào đi nữa, thì sự

thật không thể phủ nhận được, nếu ai đã từng đọc tác phẩm này.

Thứ nhất, đây là một tác phẩm văn học công phu, miêu tả khá chi tiết về thân

thế, sự nghiệp Hàn Phi; những tư tưởng lỗi lạc của Hàn Phi xuất phát từ thực tế xã

hội thời Xuân thu – Chiến quốc. Thứ hai, tác phẩm là một “áng văntế” cho một nhà

chính trị kiệt xuất, với tư duy tàn bạo nhất trong lịch sử chế độ phong kiến Trung

Hoa, nhưng chính sự tàn khốc đó lại giúp nhà Tần thống nhất cảnh “hỗn chiến” vào

năm 221 Tr.CN, để xây dựng một chế độ quân chủ chuyên chế, điều mà các chính

trị gia trước đó chưa làm được. Thứ ba, tác phẩm có cách hành văn của một văn bản

nghị luận được viết dưới dạng văn xuôi. Cách viết này giúp độc giả có điều kiện

tiếp cận vấn đề rộng mở hơn, không gò ép, khô cứng.

Như vậy, tác phẩm “Hàn Phi Tử” là tài liệu quý giá cho những nhà nghiên

cứu ở các giác độ khác nhau, trong đó có chính trị học, triết học. Tuy nhiên, với tư

cách là một tác phẩm dịch, dịch giả Phan Ngọc chỉ tập trung đi vào chuyển tải ngôn

ngữ mà chưa có điều kiện để phân tích, đánh giá theo quan điểm của mình.

Page 14: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

8

Cùng với “Hàn Phi Tử” do Phan Ngọc (dịch) là cuốn “Hàn Phi Tử” của

Giản Chi, Nguyễn Hiến Lê (Nxb VHTT, Hà Nội, 1992), gồm hai phần: nghiên cứu

và trích dịch.

Liên quan đến tư liệu gốc, trong phần trích dịch, tác giả dành trọn vẹn hai

chương để miêu tả kỹ lưỡng đời sống, tác phẩm của Hàn Phi Tử, có đối chứng,

đánh giá khi khảo cứu các tài liệu, trước khi đi vào dịch 55 thiên sách dựa theo bản

dịch của ông Nguyễn Ngọc Huy (theo Nguyễn Hiến Lê).

So sánh hai tác phẩm dịch cùng tên “Hàn Phi Tử” của hai dịch giả khác

nhau, có thể nhận thấy là, tuy có cùng một mục đích là giới thiệu về thân thế, tác

phẩm của “Tập đại thành của tư tưởng Pháp gia - Hàn Phi”, nhưng có điểm khác

biệt đáng lưu ý. Về đối tượng nghiên cứu, nếu “Hàn Phi Tử” được Phan Ngọc dịch

là một tác phẩm văn học thì “Hàn Phi Tử” được Giản Chi, Nguyễn Hiến Lê trích

dịch và giới thiệu là tác phẩm văn – triết học. Theo đó, Phan Ngọc tôn trọng cổ văn

với trách nhiệm của dịch giả, cho nên chưa phân tích, đánh giá nhiều, còn Giản Chi

– Nguyễn Hiến Lê đã đưa ra những ý kiến của mình để đánh giá, phân tích, loại bỏ

những yếu tố phức tạp. Vì những lý do trên, chúng tôi chọn bản dịch của Phan Ngọc

làm tài liệu quy chiếu, trích dẫn; kể từ đây các trích dẫn trong luận án về con người

và tư tưởng Hàn Phi đều lấy từ bản dịch này.

Bên cạnh hai công trình trên, là tác phẩm Quản Trọng với nước Tề thời Xuân

Thu của tác giả Cao Liên Hân, do dịch giả Ông Văn Tùng dịch (Nxb Văn học, Hà Nội,

2010). Sách được chia làm hai phần:

Phần 1, tác giả đã miêu tả về thân thế, sự nghiệp và tư tưởng về pháp luật

của Quản Trọng, nội dung chủ yếu là “Đạo trị quốc”. Trong chính sách đối nội, đó

là “lấy dân làm gốc”, yêu dân như con; phát triển nông nghiệp, dịch vụ, công

nghiệp khai mỏ; thi hành chính sách phát triển quân đội mạnh, kết hợp với quản lý

hành chính, làm cho nước được hưng thịnh. Trong đối ngoại, Quản Trọng chủ

trương thiết lập quan hệ giao bang, giúp đỡ các nước khó khăn [11, tr.142]. Nhờ đó

nước Tề đã được các chư hầu nể phục.

Page 15: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

9

Phần 2, miêu tả về đường lối “Trị quốc, xưng bá” giúp Tề Hoàn Công với hai

chính sách lớn: một là, “Tướng địa suy trưng” - thẩm định độ màu mỡ của đất đai để

định mức thuế cho hợp lý; hai là, “Quan sơn hải” - tôn vinh vai trò của người dân biết

làm ăn, kinh doanh. Với phương châm tham nghiệm, thực tế, mà Quản Trọng đã phò tá

Tề Công có được địa vị “Cửu hợp chư hầu, nhất khuông thiên hạ” (thu phục được chín

nước chư hầu, đứng đầu thiên hạ) [11, tr.574].

Nhìn chung, tác giả Cao Liên Hân đã giới thiệu về Quản Trọng có vai trò là:

người làm nên cuộc cải cách lớn cho nước Tề; một Pháp gia thực hành chính trị và là

nhà quân sự xuất sắc. Với ngôn ngữ văn học, diễn đạt theo văn phong kể chuyện giúp

người đọc dễ hiểu, nó có nét giống tác phẩm Hàn Phi, nhưng dễ cảm nhận hơn!

Mặc dù rất hấp dẫn, nhưng các tác phẩm kể trên chưa thể làm sáng tỏ nội dung

tư tưởng chính trị - xã hội mà Pháp gia đã gây dựng nên. Do đó, cần phải tập hợp tư

tưởng của các nhà luân lý khác: Tử Sản, Ngô Khởi, Thận Đáo, Thân Bất Hại, Thương

Ưởng, Tuân Tử… để đi đến khẳng định về vị thế Pháp gia trong lịch sử tư tưởng Trung

Hoa cổ đại. Tuy nhiên, cho đến nay ở nước ta, vẫn chưa có đầy đủ các bản dịch từ

nguyên tác của các tác giả kể trên bằng tiếng Việt hiện đại, nguyên nhân có thể do

không có di cảo để dịch hoặc việc dịch thuật vẫn chưa được chú trọng. Đây cũng là trở

ngại lớn nhất khi chúng tôi thực hiện đề tài này.

* Các công trình nghiên cứu về nguồn gốc, sự hình thành trường Pháp gia

Trước hết là cuốn Lịch sử triết học (tập 1) – Triết học cổ đại của Trung tâm

KHXH&NV Quốc gia – Viện KHXH tại TP.HCM được Nxb KHXH, xuất bản năm

2002. Cuốn sách là công trình khoa học phản ánh sự chín muồi trong nghiên cứu

Lịch sử triết học của tác giả Nguyễn Thế Nghĩa, Doãn Chính, bởi tài liệu viện dẫn

hầu hết là những sản phẩm nghiên cứu đã được công bố của chính các tác giả này.

Trong công trình, Pháp gia và triết học Hàn Phi Tử được giới thiệu ở mục 12,

chương 2, phần thứ II. Qua mục này, tác giả đã lý giải vì sao Pháp gia xuất hiện

trong lịch sử, giới thiệu về thân thế, sự nghiệp của đại biểu tiêu biểu nhất trong

trường phái là Hàn Phi. Tư tưởng Hàn Phi Tử được tiếp cận từ các góc độ: Ảnh

hưởng từ trường phái nào, sự khác biệt ra sao [xem 116, tr.649-660]. Từ đó đưa ra

Page 16: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

10

kết luận về tư tưởng Hàn Phi Tử là sản phẩm kế thừa xuất sắc của “Bách gia chư tử”

và học thuyết của ông có giá trị cho các nhà nước phong kiến trung ương tập quyền.

Tiếp đến, một công trình có chung đối tượng nghiên cứu với công trình trên là

cuốn Lịch sử triết học phương Đông (Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2006) của

Nguyễn Đăng Thục. Tuy nhiên, điểm đặc biệt ở công trình này là chỉ đi sâu vào hai nền

triết học lớn: Trung Hoa và Ấn Độ. Trong đó, tư tưởng Pháp gia và quan hệ với các

học phái khác được trình bày từ chương XII đến chương XVIII. Theo tác giả, Pháp gia

chính là sản phẩm của quá trình chuyển biến từ “Lễ” sang “Pháp” với hệ quả là: giải

phóng Nô lệ khỏi cai trị của vua chúa và khuynh hướng chính trị biến đổi… Các nhà

Lão học cũng nhận ra sự biến đổi thời đại, nhưng Pháp gia là người đem lại những

biến đổi mang tính hệ thống ở thời đại này [106, tr.305-306].

Nói về tính tất yếu phải có học thuyết pháp trị và lý giải vì sao Nho – Mặc –

Lão không thể dùng được trong bối cảnh xã hội Trung Hoa thời Xuân Thu – Chiến

Quốc, tác giả Đỗ Đức Minh có bài viết, “Sự hình thành, phát triển của học thuyết

Pháp trị Trung Hoa cổ đại và ý nghĩa đối với công tác lý luận hiện nay” (Tạp chí

Khoa học chính trị, số 5/2010), cho rằng: … không chấp nhận cách cai trị bằng Lễ

đã thành truyền thống, Tử Sản, Quản Trọng chủ trương đề cao vai trò của pháp

luật trong cai trị [72, tr.52].

Nhìn nhận nguyên nhân ra đời tư tưởng pháp trị từ một chiều cạnh khác, ngoài

các lý do như các công trình đã công bố hoặc bàn đến, chẳng hạn Pháp gia xây dựng

tư tưởng pháp trị là do lợi ích hẹp hòi của con người vì thế cần phải có “pháp” để răn

đe, điều chỉnh xã hội, học giả Max Kaltenmark trong cuốn Triết học Trung Hoa nằm

trong Bộ sách giới thiệu những kiến thức thời đại (Que sais je – Tôi biết gì?) do (Nxb

Thế giới dịch, Hà Nội, 1999) … còn bổ sung thêm: … pháp trị còn ra đời để đáp ứng

nhu cầu thứ hai của kẻ cầm quyền là bù đắp sự sợ hãi [69, tr.64]. Nói về sự ra đời

của Pháp gia trong lịch sử tư tưởng Trung Hoa cổ đại, cần phải nhắc tới Lịch sử triết

học của Bùi Thanh Quất, Vũ Tình (Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2000). Các tác giả cho

rằng: Tư tưởng Pháp gia là sản phẩm của sự biến đổi xã hội thời Chiến quốc. Nó đại

Page 17: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

11

biểu cho tầng lớp địa chủ mới trỗi dậy do yêu cầu củng cố chế độ tập quyền trung

ương của nền chuyên chế quân chủ” [92, tr.103].

Tuy nhiên, cần phải làm rõ những vấn đề mà các công trình nêu trên còn bỏ

ngỏ, đó là phong trào “Bách gia tranh minh” có phải là động lực để tư tưởng Pháp

gia thăng hoa hay không? Các cuộc biến pháp của Pháp gia diễn ra như thế nào và

hiệu quả của nó ra sao? …

1.2. Các công trình nghiên cứu chú trọng đến nội dung tư tưởng Pháp gia và vai

trò, vị thế của nó trong lịch sử tư tưởng chính trị - xã hội Trung Hoa cổ đại

Ở lĩnh vực tư tưởng, các Pháp gia và tư tưởng của họ đã trở thành đối tượng

nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, khi giới thiệu về tác phẩm Hàn Phi Tử, Phan

Ngọc viết: … về tư tưởng,nó xác định vị trí Pháp gia là một trong bốn trường phái

lớn của triết học Trung Hoa cổ đại [38, tr.5]. Vì vậy, chúng tôi tiếp tục phân định

tài liệu theo các khuynh hướng nghiên cứu cơ bản sau:

* Khuynh hướng nghiên cứu đi sâu vào nội dung, đặc điểm tư tưởng Pháp gia

Về nội dung tư tưởng pháp trị của Pháp gia đã được nhiều học giả nghiên

cứu. Chẳng hạn trong cuốn Lịch sử triết học phương Đông do PGS.TS Doãn Chính

chủ biên (Nxb CTQG ST, Hà Nội, 2012), cho rằng, tư tưởng Pháp gia nói chung và

của Hàn Phinói riêng được trình bày theo ba nội dung căn bản:

Một là, Pháp gia là một trường phái triết học lớn nhất Trung Quốc với chủ

trương của nó là “Pháp - Thế - Thuật”; cơ sở triết học của Pháp gia là học thuyết về

Đạo. Xét về mặt nội dung, Pháp gia có thể được chia làm bốn phái “trọng thực”,

“trọng thế”, “ phái trọng thuật”, “ phái trọng pháp và biến pháp”.

Hai là, trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc cổ đại,quan điểm “hình pháp”

manh nha từ Quản Trọng khi ông cho rằng, cần phải chuyển từ trị nước bằng “lễ”

sang phép trị nước bằng “pháp luật”, đồng thời đề xuất việc lập pháp phải rõ ràng

và ban bố rộng rãi. Các trường phái khác có Tuân Tử được xem là một đại biểu của

Nho gia, hay Doãn Văn Tử của Danh gia cũng đều cho việc “kiểm hình”, “chính

danh, định phận” là cần thiết, vì thế mà quan điểm của hai nhà tư tưởng này, có thể

Page 18: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

12

nói, cũng góp phần tạo cơ sở lý luận cho các Pháp gia sau này, bởi vì Hàn Phi từng

là học trò của Tuân Tử, người đề xuất học thuyết tính ác của con người.

Ba là, Hàn Phi xây dựng học thuyết của mình dựa trên hai trụ cột là “đạo”

và “lý”, từ đó kết hợp với nội dung “Pháp – Thuật – Thế” của các pháp gia tiền

bối, làm nên học thuyết Pháp gia hoàn chỉnh. Với công lao to lớn đó, ông trở thành

đại biểu ưu tú nhất của Pháp gia, được mệnh danh là "tập đại thành" của trường

phái Pháp gia.

Đánh giá về vai trò của Hàn Phi, trong cuốn Đại cương lịch sử triết học

Trung Quốc (Nxb CTQG, Hà Nội, 2004), Doãn Chính cho rằng: Hình pháp xuất

hiện sớm ở Trung Quốc, Hàn Phi là học trò đã tập hợp các học thuyết của Pháp

gia, nhưng phát triển “Pháp – Thuật – Thế” [12, 328]. Sự phát triển ấy về thực chất

là đưa các phạm trù của các tiền bối dưới dạng đơn lẻ, độc lập về một chỉnh thể

thống nhất, được luận giải một cách chặt chẽ, đầy tính thuyết phục.

Cũng như quan điểm trên, nhưng ở mức độ “giản thuật”, tác giả Phạm Quýnh

trong cuốn Bách gia chư tử do Nguyễn Quốc Thái dịch (Nxb VHTT, Hà Nội, 2000). Với

chủ trương chỉ chọn lọc mà không trình bày toàn bộ các nhà tư tưởng trong lịch sử, ở đó

Hàn Phi được đại diện cho Pháp gia. Theo tác giả, Hàn Phi là người kiến tạo nên hệ tư

tưởng độc tài phong kiến, thông qua tài học thuật, Hàn Phi đã kết hợp được tư tưởng của

các “chư tử” thành sản phẩm “Pháp – Thuật – Thế” đặc sắc của mình. Bên cạnh đó, tác

giả còn so sánh điểm tương đồng, dị biệt giữa Hàn Phi với bậc tiền bối Ngô Khởi,

Thương Ưởng… và đưa ra nhận định cho rằng: "Hàn Phi Tử" là sách giáo khoa không

thể thiếu của các Đế vương phong kiến… Hàn Phi đã thắng lợi đích thực bởi, ai chết cho

con đường đi tới trước, thì cái chết của người ấy cũng đẹp hơn [91, tr.712-713].

Nói về “Ba phạm trù triết học chính trị của Hàn Phi”, tác giả Lê Nguyễn

Gia Thiện, Nguyễn Ngọc Kiện có bài “Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi” (Tạp chí

Nghiên cứu Trung Quốc, số 4-116/2001). Bằng phương pháp lịch sử, tiếp cận vấn

đề từ chung đến riêng: từ giới thiệu các học phái đến Pháp gia; từ lược sử Pháp gia

đến Hàn Phi Tử…, tác giả trình bày quan điểm của mình:

Về mặt lý luận, tư tưởng Hàn Phi là sự tổng hợp những gì tinh túy nhất của một

học phái nổi bật; về mặt thực tiễn, những tư tưởng trị nước an dân của Hàn Phi đã

Page 19: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

13

giúp Tần chinh phục “thất hùng”; vai trò của Pháp gia là sợi chỉ đỏ xuyên suốt các

triều đại phong kiến Trung Quốc [111, tr. 65-75].

Luận án tiến sĩ Triết học Tư tưởng Hàn Phi Tử của Vũ Kim Dung (Viện Triết

học, Hà Nội, 2003) trên cơ sở trình bày những tiền đề cho sự hình thành và phát triển

của tư tưởng Hàn Phi, tác giả đã tập trung phân tích tư tưởng triết học và chính trị của

Hàn Phi. Về triết học, những nội dung được đề cập là: Đạo và Lý, con người, nhận

thức sự vật, quan niệm về tiến hóa lịch sử; về tư tưởng chính trị - xã hội gồm: đường

lối chính trị với ba yếu tố “pháp – thuật – thế” và quan niệm làm cho nước giàu, binh

mạnh. Theo tác giả:

Tư tưởng triết học và tư tưởng chính trị của Hàn Phi có mối quan hệ mật thiết với

nhau. Đường lối chính trị cần đến triết học ở cơ sở lý luận, phương pháp luận để

nhận thức và đánh giá sự vật… Cho nên, khi nghiên cứu lĩnh vực xã hội, ông không

chỉ là nhà chính trị, mà còn là nhà kinh tế tài ba [28, tr.101, 105].

Tiếp cận từ phương diện con người theo quan niệm của Hàn Phi, tác giả

Triệu Quang Minh, Trần Thị Lan Hương (Tạp chí KHXH, số 2-215/2009)trong

bài “Vấn đề con người trong quan niệm pháp trị của Hàn Phi” , trình bày quan

niệm bản chất con người và giáo hóa đạo làm người của Hàn Phi, cho rằng: Pháp

gia thường được đề cập tới như một thứ công cụ để trị người hơn là dạy người và

dùng người [76, tr. 68].

Trái ngược với quan điểm trên, trong cuốn Tư tưởng phương Đông gợi

những điểm nhìn tham chiếu của học giả Cao Xuân Huy (Nxb Văn học, Hà Nội,

1995), ở mục “Canh chiến”, tác giả có nhìn nhận, đánh giá tích cực hơn khi tiếp

cận tư tưởng con người dưới con mắt của Pháp gia Hàn Phi, đó là: Không nhọc vì

canh (cày) mà được giàu, không nguy vì chiến mà được quý [46, tr. 532]. Rõ ràng,

với Pháp gia thì người dân lao động chiếm một vai trò không nhỏ.

Khi nói về đặc điểm rõ nét nhất của Pháp gia trong hệ thống triết học Trung Hoa

cổ đại, trong cuốn “Lịch sử triết học phương Đông” mà chúng tôi đã dẫn ở trên, tác giả

Nguyễn Đăng Thục viết: về căn bản, điểm giống nhau giữa Nho gia, Mặc gia và Đạo

gia làlấy dân làm gốc. CònPháp gia đứng về nhà thống trị [106, tr. 305].

Page 20: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

14

Lã Trấn Vũ được biết đến là một trong những học giả nổi tiếng trong lĩnh

vực nghiên cứu lịch sử tư tưởng chính trị - xã hội của Pháp gia với công trình Lịch

sử tư tưởng chính trị Trung Quốc do Trần Văn Tấn dịch (Nxb, Sự thật, Hà Nội,

1964). Trong phần5. Các dòng phái tư tưởng chính trị trong thời kỳ phát triển,

những mâu thuẫn của chế độ phong kiến sơ kỳ, các tư tưởng Pháp gia được trình

bày trong chương II & V.

Phân tích tư tưởng chính trị của Hàn Phi Tử, Lã Trấn Vũ cho rằng, hệ thống

“pháp – thuật – thế” phải được thực thi song hành. Lý giải tại sao phải đến Hàn Phi

thì Pháp gia và học thuyết pháp trị mới chính thức được sáng lập, ông cho biết:

… thời Chiến Quốc do địa vị các tầng lớp trong nội bộ giai cấp có biến động, nền

kinh tế của bọn địa chủ mới kiêm thương nhân phát triển, mới phân chia thành học

thuyết chính trị của phái Dương Chu. Học thuyết này mãi tới thời Hàn Phi nội bộ giai

cấp ấy mới thống nhất lại, nên triết học của nó cũng được thống nhất lại trong hệ

thống triết học Hàn Phi [55, tr.13].

Tác giả cũng khẳng định, “lợi kỷ chủ nghĩa” là nguyên nhân cuối cùng giải

thích vì sao tất yếu phải dùng luật pháp trong xã hội đương thời; đồng thời cho rằng:

… những điều làm cho dân nghèo đều do kết quả của “sự lười biếng xa xỉ” của bản

thân và dân giàu là do kết quả của sự “ra sức” kinh doanh. Vì thế phải bài trừ bệnh

“lười biếng xa xỉ” không thể không nêu lên chủ nghĩa lợi kỷ hẹp hòi, khen thưởng

dân giàu, áp chế kẻ nghèo…, do đó cái gọi là pháp luật nhà nước chỉ là cái đặt ra để

bảo vệ sự giàu có [55, tr.229].

Còn Nguyễn Hữu Vui trong giáo trình Lịch sử triết học, (Nxb CTQG, Hà Nội,

2000) thì nhận định: “Học thuyết Hàn Phi chủ yếu bàn về vấn đề chính trị - xã hội…

ở Hàn Phi Tử chỉ có tư tưởng về chính trị và về luân lý [136, tr. 49-51]. Cùng quan

điểm này, tác giả Nguyễn Tài Đông trong bài “50 năm nghiên cứu triết học Trung

Quốc ở Việt Nam” (Kỷ yếu hội thảo khoa học, Viện triết học, Hà Nội, 2001) tiếp tục

khẳng định “Pháp gia thực chất chỉ là một học thuyết chính trị, nặng về pháp luật

thực hành mà không chú ý tới phát triển lý luận [138, tr.153].

Mặc dù các công trình đã đề cập khá nhiều đến những nội dung, đặc điểm

căn bản học thuyết pháp trị của Pháp gia, nhưng vẫn còn những nội dung như: sự

Page 21: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

15

cần thiết áp dụng tư tưởng pháp trị cho việc xây dựng nhà nước trung ương tập

quyền như thế nào? Tần Thủy Hoàng và mô hình nhà nước quân chủ thuần túy

trong lịch sử ra sao? Những hạn chế nào trong thuyết lợi kỷ của kẻ cầm quyền dẫn

đến sự thất bại trong đường lối trị nước của nhà Tần? Pháp gia với tư duy phát triển

kinh tế, quản lý và ổn định xã hội ra sao?..., cho đến nay chưa được đề cập sâu sắc,

đòi hỏi cần có sự nghiên cứu kỹ lưỡng hơn.

* Khuynh hướng nghiên cứu chuyên sâu về vai trò và vị thế của Pháp gia

trong lịch sử chính trị - xã hội Trung Hoa cổ đại

Nói về quan hệ của Pháp gia với các trường phái, trong cuốn Những tư tưởng

gia vĩ đại ở phương Đông của IAN P.McGREAL do Phạm Khải dịch (Nxb Lao động,

Hà Nội, 2005) có đoạn viết: “Hàn Phi Tử là cao đồ của Tuân Tử, nhà nho cuối cùng

của thời Chiến Quốc. Ông tổng hợp các thuyết chính danh của Nho gia, Danh gia và

Đạo gia để hình thành chính sách Vô vi độc đáo nhất” [51, tr.201].

Tương tự với cách tiếp cận trên, khi giải thích về quan hệ giữa Pháp gia với

Nho và Đạo, trong Từ điển triết học Trung Quốc, tác giả Doãn Chính viết:

Cơ sở triết lý của Pháp gia, đó là học thuyết về “đạo” và “lý” có tính truyền thống

trong triết học Trung Quốc nói chung cũng như quan điểm về “đạo” và “đức” của

Lão Tử nói riêng... Về mặt luân lý đạo đức, đó là học thuyết về bản tính ác của người,

được khởi xướng từ Tuân Tử, mà Hàn Phi đã vận dụng sinh động vào học thuyết

pháp trị của mình [14, tr.514].

Từ quan điểm Phật giáo, Thảo Đường Cư sĩ Trần Hải Minhtrong cuốn Bách

gia chư tử – phần hai, cũng cho rằng: Thương Ưởng, Hàn Phi, Lý Tư và Lã Bất Vi là

lớp học trò thứ tư của Nho gia [140]. Điều đó có nghĩa là các nhà thực hành chính trị

trên đều xuất phát từ đạo Khổng

Luận bàn về đóng góp của “Bách gia chư tử” trong việc hình thành tư tưởng

của Hàn Phi, người có công tổng hợp và cho ra đời học thuyết pháp trị - sản phẩm

đặc thù của Pháp gia, tác giả Phan Ngọc viết:

Hàn Phi là con người duy nhất của Trung Quốc thực hiện được một sự tổng hợp ba

học thuyết Nho, Lão, Pháp. Ở đó, Nho là tài liệu xây dựng, Pháp là bản thiết kế,

nhưng Lão mới là kỹ thuật thi công của cái gọi là ngôi nhà độc đáo [38, tr.17].

Page 22: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

16

Không đồng tình với “cái gọi là Pháp gia”, trên quan điểm phản biện, tác giả

Hồ Thích trong tác phẩm Trung Quốc triết học sử đại cương (Nxb VHTT, Hà Nội,

2004) đã giải thích nguồn gốc và mối quan hệ của những “đại biểu Pháp gia” trước

Hàn Phi với các học phái khác. Trong“chương 2. Pháp gia là gì”, ông lập luận:

Thận Đáo thuộc hệ thống của Lão Tử, Dương Chu và Trang Tử… lại cũng nên biết

chính danh luận của Khổng tử, Thiên đạo luận của Lão Tử, quan niệm về Pháp của

Mặc gia đều là những quan niệm cơ bản của nền pháp lý học Trung Quốc [43, tr.521].

Vô hình chung, Hồ Thích đã thừa nhận rằng, nếu có một phái Pháp gia thực

sự, thì tư tưởng của họ được phái sinh từ “Bách gia chư tử” mà trước hết là: Lão,

Nho và Mặc gia.

Tác giả Phùng Hữu Lan trong công trình Đại cương triết học sử Trung Quốc

do Nguyễn Văn Dương dịch (Nxb Thanh Niên, Hà Nội, 1999) đã chú trọng phân

tích nội dung tư tưởng của Pháp gia. Sách được sắp xếp theo nhóm chuyên đề Lịch

sử triết học. Riêng Hàn Phi Tử và Pháp gia,được tác giả dành trọn vẹn chương 14

để giới thiệu. Trong đó, mối quan hệ giữa Pháp gia và Đạo gia được tác giả phân

tích khá rõ, cho rằng:

Đạo gia và pháp gia đều biểu thị cho hai thái cực tư tưởng Trung Quốc. Đạo thì chủ

trương con người hoàn toàn vô tội, Pháp thì cho rằng con người hoàn toàn là xấu…

nhưng trong tư tưởng vô vi, hai thái cực lại gặp nhau. Điều đó có nghĩa là họ có

điểm chung [79, tr.170].

Còn khi bàn về quan hệ với Nho gia, Phùng Hữu Lan cũng đánh giá:

Tư tưởng Nho gia có tính chất lý tưởng, tư tưởng Pháp gia thì thực tế. Bởi vậy,

trong lịch sử Trung Quốc, Nho gia thường chê Pháp gia là tầm thường, còn Pháp

gia thì chê Nho là sách vở, thiếu thực tế [79, tr.172].

Trong Luận án tiến sĩ Chính trị học về Tư tưởng chính trị Hàn Phi Tử của

tác giả Trương Văn Huyền (HVTC HCQG HCM, Hà Nội, 2012), đã đề cập đến

bối cảnh ra đời tư tưởng chính trị của Hàn Phi. Nếu luận án của Vũ Kim Dung chủ

yếu bàn về tư tưởng làm cho nước giàu, binh mạnh thì luận án của Trương Văn

Huyền quan tâm nhiều hơn đến những nội dung tư tưởng khác, đó là sự cần thiết

phải thay đổi phương thức cai trị, tư tưởng về con người chính trị, đồng thời nêu

Page 23: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

17

một số hạn chế, giá trị cần được kế thừa trong điều kiện nước ta hiện nay. Khi

phân biệt về sự khác nhau trong quan niệm “vua - tôi” giữa Nho gia với Pháp gia,

Trương Văn Huyền viết:

Điểm khác biệt trong quan niệm của Hàn Phi với các trường phái tư tưởng đương thời, đặc

biệt là trong tương quan với Nho gia là nhận thức về tiêu chuẩn của bậc vua chúa. Tuy vẫn

được đề cao, nhưng ông vua không như bậc thánh thần… mà chỉ yêu cầu một ông vua có

phẩm chất trung bình, nhưng biết đề ra pháp luật và điều hành xã hội… Đối với bề tôi,

quan trọng là sử dụng họ đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn… Đối với người dân,

chính là những người trực tiếp lao động làm cho nước giàu [47, tr.150-151].

Tựu trung lại, sự ra đời của Pháp gia và tư tưởng pháp trị của nó, ở mức độ nhất

định, có thể nói là sự tích hợp từ các dòng tư tưởng của “Bách gia chư tử” mà điển

hình là Nho, Mặc, Lão, Danh gia. Nhưng trải qua một quá trình hình thành và hoàn

thiện, nó thể hiện như một học thuyết triết học chính trị đặc thù, có tính thực tế cao, tạo

ra sức hấp dẫn và tầm ảnh hưởng lớn đến đường lối trị nước đương thời. Vì thế, khi

nghiên cứu tư tưởng thời đại này, chúng ta sẽ gặp những điểm tương đồng và khác biệt

giữa Pháp gia với các trường phái cùng thời, đặc biệt là Nho gia. Đây cũng chính là

một trong những nhiệm vụ đặt ra cho luận án của chúng tôi cần phải làm rõ.

1.3.Các công trình nghiên cứu về ảnh hưởng của Pháp gia trong đời sống chính trị -

xã hội Trung Quốc và Việt Namthời phong kiến

Một công trình nghiên cứu về Lịch sử triết học xuất hiện khá sớm của Trung

Quốcvà cũng sớm được dịch ra tiếng Việt của tập thể tác giả Hồng Tiềm, Nhiệm Hoa,

Uông Tử Tung, Trương Thế Anh, Trần Tú Mai, Chu Bá Côn là cuốn Lịch sử triết học

Trung Quốc do Lê Vũ Lang dịch (Nxb Sự thật, Hà Nội, 1957). Tư tưởng Pháp gia

được đề cập ở mục II. Chương 1. Triết học trong thời kỳ xã hội Nô lệ Trung Quốc

phát triển và tan rã (từ đời Ân đến Chiến quốc). Mặc dù những tư tưởng được đề cập

khá vắn tắt, song rất cô đọng, bao quát được toàn bộ nội dung tư tưởng của Pháp gia

và Hàn Phi. Bàn về vai trò của Hàn Phi trong lịch sử, các học giả nêu trên khẳng

định: Sự xuất hiện của học thuyết Hàn Phi đã kết thúc xã hội Nô lệ, đánh dấu sự

thắng lợi của chủ nghĩa chuyên chế phong kiến [28, tr.38]. Để cụ thể hơn cho luận

điểm này, tác giả Doãn Chính còn bổ sung thêm: Trong lịch sử tư tưởng Trung

Page 24: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

18

Quốc cổ đại, Pháp gia mà đại biểu xuất sắc là Hàn Phi Tử giữ vai trò đặc biệt

trong sự nghiệp thống nhất đất nước và phát triển xã hội [12, tr.328].

Cuốn sách Nho giáo Trung Quốc của Nguyễn Tôn Nhan được Nxb Văn hóa

Thông tin, Hà Nội biên dịch và xuất bản năm 2005. Mặc dù tiêu đề là Nho giáo, nhưng nội

dung của nó đã bàn đến vai trò của trường phái Pháp gia trong lịch sử tư tưởng chính trị -

xã hội Trung Quốc thời kỳ phong kiến bắt đầu từ nhà Hán. Đặc biệt, là các triều đại Hán,

Đường, Tống, Minh, Thanh đã lấy Nho giáo để ngụy trang cho chính sách cai trị bằng

pháp luật hà khắc của mình.

Với mong muốn làm nổi bật vai trò và ý nghĩa của học thuyết pháp trị và tư

tưởng Hàn Phi trong lịch sử, tác giả Nguyễn Văn Hiền có bài “Tư tưởng Pháp trị

của Hàn Phi Tử - ý nghĩa và bài học lịch sử” (Tạp chí KHXH, số 1- 113/2008). Bài

viết đưa ra những nhận định về giá trị của tư tưởng pháp trị:

… không chỉ ở chỗ đả phá tính giai cấp của xã hội phong kiến quý tộc, mà đã theo sự

tiến bộ của loài người, sự bình đẳng càng được tôn vinh là càng chứng tỏ cho xã hội

văn minh… là công cụ thiết thực, hữu ích trong việc giữ gìn trật tự xã hội [45, tr.5].

Nói về sức sống của tư tưởng pháp trị gắn liền với các quân vương, trong cuốn

Aristotle vàHàn Phi Tử - con người chính trị và thể chế chính trị, tác giả Nguyễn Văn

Vĩnh đã dẫn lời Will Durant (tác giả của bộ sách Lịch sử văn minh Trung Quốc):

Trong một thời gian dài trên trường chính trị, Pháp gia đã gây ảnh hưởng tới các vua

chúa ngang với ảnh hưởng của Nho giáo [137, tr.252]. Khi bàn về Pháp gia với tư

cách là một trong những sản phẩm đặc sắc của Trung Hoa, trong bài: “Trung Hoa

pháp hệ” - sảnphẩm đặc sắc của sự kết hợp giữa hai học thuyết Đức trị và Pháp trị

trong lịch sử phong kiến Trung Hoa (Tạp chíNhà nước và Pháp luật, số 3/2010), tác

giả Đỗ Đức Minh cho rằng:

Từ nền tảng ban đầu là học thuyết Đức trị của Khổng Tử và học thuyết Pháp trị của

Hàn Phi Tử, bằng sự tổng kết sâu sắc thực tiễn lịch sử đương thời (Tần Hán), Đổng

Trọng Thư, Lục Giả, Lưu Hâm và các thế hệ lý luận gia phong kiến đã không ngừng

tìm tòi, sáng tạo và phát triển lý luận theo nguyên tắc Lễ - Hình để hoàn thành xuất

sắc nhiệm vụ xây dựng nền tảng pháp lý của chế độ trung ương tập quyền tồn tại hơn

2000 năm [72, tr.17].

Page 25: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

19

Tầm vóc tư tưởng của Pháp gia, mà đại biểu ưu tú nhất là Hàn Phi không chỉ

nổ bật ở Trung Quốc và một số nước Á Đông, mà còn lan tỏa ra tới phạm vi toàn cầu,

được chào đón với tư cách là một trong những tư tưởng gia tiêu biểu đặt nền móng

cho bộ môn khoa học chính trị và nền lập pháp trên thế giới. Do đó, trên lĩnh vực tư

tưởng chính trị, pháp lý, Hàn Phi được các nhà nghiên cứu xếp ngang hàng với các

học giả: Aristotle của Hy lạp cổ đại hay Machiavelli của nước Ý thời Phục Hưng.

Chẳng hạn, Nguyễn Văn Vĩnh viết:

Về đại thể, học thuyết Pháp trị của Hàn Phi Tử có thể được xem như một trong

những nền tảng cơ sở cho thể chế chính trị phong kiến Trung Quốc; và tương tự học

thuyết chính trị của Aristotle có thể được xem như nền tảng cơ sở chính trị dân chủ

Athens Hy lạp cổ đại [137, tr.300].

Trên quan điểm toàn diện, khi đánh giá về vai trò lịch sử và ảnh hưởng của

Pháp gia, cụ thể là Hàn Phi, trong luận án của mình, Vũ Kim Dung viết:

Tư tưởng triết học và tư tưởng chính trị - xã hội của Hàn Phi có vai trò to lớn trong

lịch sử tư tưởng nhân loại, nhất là trong lịch sử Trung Quốc và các nước Á Đông

trong đó có Việt Nam... những giá trị trong học thuyết Hàn Phi vẫn còn có ý nghĩa

đối với xã hội hiện tại [28, tr.183].

Cùng chung quan điểm với Vũ Kim Dung, trong bài viết về “Học thuyết Pháp

trị Trung Hoa cổ đại trong hành trình lịch sử phong kiến phương Đông”, tác giả Đỗ

Đức Minh (Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc, số 8 108/2010 ) sau khi phác họa chân

dung Hàn Phi và những đặc điểm của tư tưởng Pháp gia, đường lối pháp trị, tác giả

tập trung phân tích những giá trị ảnh hưởng của tư tưởng Pháp trị đối với các nước

đồng văn Trung Hoa ở khu vực Đông Á như Triều Tiên, Hàn Quốc, Nhật Bản, Việt

Namđã đưa ra nhận định: Trung Quốc là một trong những nơi có nền văn minh sớm

nhất trên thế giới… thời cổ đại, trở thành trung tâm hấp dẫn các dân tộc châu Á tiến

lên học tập để hội lưu vào dòng thác phát triển của nhân loại [73, tr.76]

Đánh giá về những giá trị và hạn chế trong học thuyết pháp trị của Pháp gia,

tác giả Đỗ Đức Minh trong bài “Những giá trị và hạn chế của học thuyết Pháp trị

Trung Hoa cổ đại”, (Tạp chí KHXH, số 7-143/2010) đã đưa ra một số kết luận:

Page 26: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

20

Một là, Pháp gia, mà đại biểu ưu tú nhất là Hàn Phi Tử đã xây dựng học thuyết của

mình đạt đến tầm đỉnh cao của nhân loại, những giá trị của học thuyết này không

chỉ có giá trị lịch sử mà về cơ bản, những giá trị đó vẫn phù hợp với thực tiễn

đương đại. Hai là, những hạn chế của Pháp gia và Hàn Phi đưa họ đến bế tắc không

thể giải quyết được. Thể hiện, một mặt, họ muốn xây dựng pháp luật trên cơ sở

khách quan, tạo ra sự bình đẳng trong xã hội; mặt khác, xây dựng pháp luật nhằm

củng cố vị trí tuyệt đối của một ông vua, đó là điều không thể thực thi lâu dài, đặc

biệt trong xã hội phát triển [74, tr.20].

Bài viết “Nho Pháp tịnh dụng và con đường bành trường của thiên triều” của

Trần Đình Hượu khi nhận xét về sự vận dụng “ranh mãnh” tư tưởng Nho gia kết hợp

với Pháp gia trong chế độ độc tài Trung Quốc, đến mức làm biến tướng bản chất của cả

hai học thuyết, đã đưa ra khái niệm "Nho Pháp tịnh dụng" làm công cụ cho sự bành

trướng của chính chế độ ấy. Nội dung chính của bài phê bình tập trung ở hai luận điểm:

thứ nhất, chế độ chuyên chế hoàng đế - thiên tử, với tất cả những diễn biến trong triều

chính, những hệ lụy của chế độ chuyên chế; về việc ý thức hệ tư tưởng thống trị ăn sâu

vào tư tưởng nhân dân; thứ hai, tư tưởng Nho – Pháp cùng được sử dụng vào mục đích

chuyên chế và bành trướng. Sự "tịnh dụng" ấy được tác giả xác định, công cụ chính trị

cho mọi chính quyền từ thời kỳ phong kiến đến thời Mao Trạch Đông, làm cho quyền

lực thuộc về tay một người. Đó là cách phát huy cao độ những gì được gọi là tiêu cực

của học thuyết Pháp gia [xem 50, tr.689-713].

Khai thác về vai trò của pháp trị đối với lịch sử tư tưởng nước ta, trong Luận

án tiến sĩ Triết học Vấn đề Đức trị và Pháp trị trong lịch sử tư tưởng Việt Nam

(Viện KHXH Việt Nam, 2004), tác giả Phan Quốc Khánh đã đi vào phác họa những

nét cơ bản về Đức trị và Pháp trị trong lịch sử phong kiến Trung Quốc và Việt Nam

với tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, chính trị, pháp luật. Tác giả cho rằng:

Những khuynh hướng pháp trị nước ta, với tính cách là những cuộc cải cách, cơ bản

là sản phẩm của Việt Nam nhằm khắc phục những hạn chế của đường lối đức trị để

nhanh chóng khôi phục kỷ cương, nền nếp xã hội sau những thời kỳ rối ren, loạn

lạc…” [52, tr.183], do đó, tác giả đề xuất cần phải "gắn chặt quản lý xã hội bằng

pháp luật với tăng cường giáo dục đạo đức trên nguyên tắc Đức là gốc [52, tr.190].

Page 27: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

21

Với mục tiêu làm rõ vai trò của “đức trị” và “pháp trị” trong lịch sử phong

kiến Việt Nam, trong bài “Tư tưởng kết hợp Đức trị và Pháp trị trong đường lối trị

nước của triều đại Lê Sơ và ý nghĩa lịch sử của nó” tác giả Ngô Văn Hưởng (Tạp chí

Triết học, số 6-229/2010), viết:

… dưới triều đại nhà Trần có đến 2 lần biến pháp, lần thứ nhất sửa bộ Quốc triều

thông chế của nhà Lý để lại, lần thứ hai soạn bộ Hình thư… hay dưới triều nhà Lê

Sơ rất nổi tiếng khi cho ra đời bộ Quốc triều hình luật (Luật Hồng Đức) và được

vua Gia Long phát triển cho phù hợp thời Nguyễn bằng bộ Hoàng triều luật lệ (Luật

Gia Long) [xem 48, tr.63-65].

Xác nhận sự ảnh hưởng của tư tưởng Pháp gia đến đường lối cai trị dưới chế

độ phong kiến nước ta, trong cuốn Lịch sử tư tưởng Việt Nam của Huỳnh Công Bá

(Nxb Thuận Hóa, Thừa Thiên Huế, 2007) có viết:

Chịu ảnh hưởng của đường lối và tổ chức cai trị của Trung Quốc, các nhà chính trị

và nho gia Việt Nam cũng áp dụng chủ trương “ngoại Nho, nội Pháp” họ tiếp nhận

một cách đương nhiên chủ trương chủ trương cai trị dùng pháp luật của Pháp gia

mà không tự biết, vẫn cho đó là việc làm của đường lối nhân chính, đức trị, xem đó

là một công cụ phụ giúp cho việc cai trị [1, tr.135].

Điều đó cho thấy, ở nước tamặc dù tư tưởng Nho gia đóng vai trò chủ đạo

trong đời sống chính trị phong kiến, nhưng trên thực tế, các chuẩn mực đạo đức của

học thuyết này dường như được pháp trị hóa và luôn được thể hiện dưới hình thức

kết hợp giữa đức trị và pháp trị.

Điển hình cho những công trình về sự vận dụng tư tưởng Pháp gia vào nước

ta trong thời đại hiện nay có cuốn sách Tư tưởng Pháp trị của Pháp gia với sự

nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam của tác giả Doãn Chính – Nguyễn

Văn Trịnh (Nxb CTQG, Hà Nội, 2007). Trong công trình này, các tác giả chỉ ra khả

năng vận dụng được tư tưởng pháp trị của Pháp gia vào nước ta trong giai đoạn hiện

nay và cho rằng: “Pháp gia đã đưa ra được một mô hình khá tinh tế và đặc sắc về

tổ chức, phân công, chức năng, sắp xếp khoa học, chính xác nhân sự trong bộ máy,

tạo điều kiện cho con người phát huy hết khả năng của mình” [13, tr.114]. Trên cơ

sở khái quát về tư tưởng của các quân vương phong kiến nước ta, tư tưởng Hồ Chí

Page 28: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

22

Minh và Đảng cộng sản Việt Nam về Nhà nước pháp quyền; khảo sát những vấn đề

lý luận và thực tiễn Việt Nam hiện nay, các tác giả rút ra giá trị và những bài học

lịch sử trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Vận dụng tư tưởng pháp trị trong công tác quản lý, gần đây có Luận án

tiến sĩ Luật học Học thuyết pháp trị Trung Hoa cổ đại: Giá trị và sự kế thừa

trong quản lý xã hội ở nước ta hiện nay của Đỗ Đức Minh (HVCT HCQG HCM,

2011). Luận giải về lý do phải vận dụng tư tưởng pháp trị vào quản lý xã hội ở

nước ta trong thời đại mới, tác giả cho rằng:

… thực tiễn đổi mới đang đòi hỏi cần nghiên cứu tiếp thu có chọn lọc những

tinh hoa tư tưởng chính trị phát triển về nhà nước và pháp luật trong lịch sử

nhân loại; trong đó có học thuyết pháp trị Hàn Phi để khắc phục những hạn chế,

tồn tại và góp phần nâng cao hiệu quả quản lý xã hội… Tuy nhiên, học thuyết ra

đời đã lâu, trong khi hàm chứa những giá trị to lớn và lâu dài, tư tưởng pháp trị

cũng càng mắc phải những khuyết tật lớn [75, tr.188-190].

Tuy nhiên, nếu nhìn nhận vấn đề từ góc độ triết học trong sự vận dụng

luật pháp để duy trì hoạt động của bộ máy nhà nước, thì rõ ràng nhận định trên

chưa được thấu đáo.

Bên cạnh những công trình đã được khảo sát ở trên, còn rất nhiều công trình

khác, tuy tiêu đề không trực tiếp phản ánh ảnh hưởng của Pháp gia trong lịch sử tư

tưởng chính trị - xã hội nước ta, song nội dung của chúng ít nhiều đã đề cập đến vai

trò của đường lối pháp trị trong phương lược trị nước xưa và nay. Theo đó, một số

công trình có thể kể đến như: Sự phát triển của tư tưởng chính trị Việt Nam thế kỷ X

- XV của tác giả Nguyễn Hoài Văn (chủ biên, Nxb CTQG, Hà Nội, 2008); Đại

cương Lịch sử tư tưởng chính trị Việt Nam (từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX) của

Nguyễn Hoài Văn(Nxb CTQG, Hà Nội, 2010); Lịch sử tư tưởng Việt Nam (tập 1)

của Nguyễn Tài Thư (Nxb KHXH, Hà Nội, 1993). Lịch sử tư tưởng Việt Nam (tập

2) của Lê Sĩ Thắng (Nxb KHXH, Hà Nội, 1997); Đại cương Lịch sử tư tưởng triết

học Việt Nam (tập 1), của tác giả Nguyễn Hùng Hậu (Nxb ĐHQG HN, Hà Nội,

2002); Mười cuộc cải cách, đổi mới lớn trong lịch sử Việt Nam của Văn Tạo (Nxb

ĐHSP, Hà Nội, 2012)… Những công trình này chủ yếu bàn về lịch sử tư tưởng Việt

Page 29: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

23

Nam thời kỳ phong kiến, mà trọng tâm là những vấn đề về xây dựng, củng cố, gìn

giữ nền độc lập dân tộc, duy trì sự tồn tại lâu bền của các triều đại… Tuy nhiên,

chúng tôi nhận thấy còn một số nội dung: việc làm rõ tư tưởng pháp trị đã ảnh

hưởng đến hình thành hệ thống pháp điển như thế nào; mô hình và tổ chức bộ máy

nhà nước và thực thi nó ra sao; những chủ trương và biện pháp nào để xây dựng

một nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập ở nước ta xuyên suốt từ thế kỷ X

đến đầu thế kỷ XX… vẫn là những nội dung còn bỏ ngỏ, đây là cơ sở để chúng tôi

tiếp tục triển khai trong luận án.

1.4.Một số vấn đề cần giải quyết trong luận án

Từ việc khảo cứu, phân tích những công trình đã nêu ở trên về Pháp gia, trên cơ

sở kế thừa thành quả trong những công trình nghiên cứu của các học giả đi trước, luận

án của chúng tôi sẽ tập trung vào nghiên cứu một số vấn còn phải tiếp tục làm rõ hoặc

còn bỏ ngỏ sau đây:

Một là: Luận án làm rõ bối cảnh ra đời, những tiền đề căn bản cho sự ra

đời trường phái Pháp gia, những nội dung căn bản của trường phái này và vị thế,

vai trò của nó trong lịch sử tư tưởng chính trị - xã hội Trung Hoa thời cổ đại.

Hai là: Luận án khái quát những ảnh hưởng sâu sắc từ tư tưởng pháp trị của

Pháp gia lên đời sống chính trị gắn với việc thiết lập nhà nước quân chủ chuyên chế

trung ương tập quyền Trung Hoa cổ đại; những ảnh hưởng của tư tưởng đó đến các

triều đại phong kiến Trung Hoa từ thời Hán đến nửa đầu thế kỷ XIX.

Ba là: Luận án làm rõ sự ảnh hưởng của tư tưởng pháp trị đối với đời sống chính

trị - xã hội dưới chế độ phong kiến nước ta từ thế kỷ X đến nửa đầu thế kỷ XX trên một

số phương diện tiêu biểu. Đánh giá những giá trị, hạn chế của việc vận dụng tư tưởng

pháp trị dưới chế độ phong kiến nước ta, từ đó rút ra ý nghĩa, bài học cho công cuộc xây

dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.

Page 30: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

24

Tiểu kết chương 1

Có thể nói,các công trình khoa học được sử dụng làm tài liệu tham khảo về Pháp

gia và tư tưởng của nó từ trước tới nay có khá nhiều. Qua khảo sát, hệ thống hóa và phân

định tài liệu theo mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án cho thấy sự đa dạng về

cách tiếp cận và phong phú về nội dung. Tuy nhiên, phần lớn các công trình ít có sự tách

bạch thành những sách chuyên biệt. Do đó, ngoài cuốn Hàn Phi Tử, cần phải tiếp tục tiếp

cận tới các tài liệu văn học, sử học, triết học, v.v., để xác định nội dung tư tưởng pháp trị

của Pháp gia, đức trị của Nho gia, học thuyết về "Đạo" của Đạo gia đóng vai trò hết sức

quan trọng. Trong đó, các tài liệu về lịch sử, xã hội thời Xuân Thu – Chiến Quốc, ở đó

phản ánh đặc điểm và sự chuyển biến phức tạp trong đời sống chính trị - xã hội Trung

Hoa Cổ - Trung đại cần được khai thác một cách tối đa trong luận án.

Các công trình nghiên cứu chuyên sâu về nội dung tư tưởng Pháp gia là những

tài liệu liên quan mật thiết đến đề tài. Tư tưởng của các đại biểu Pháp gia, tiêu biểu là

của Hàn Phi được đề cập khá nhiều: về “pháp – thuật – thế”, về xây dựng nhà nước,

pháp luật, phát triển nông nghiệp, ảnh hưởng của Pháp gia trong lịch sử... Song,

những vấn đề như: xây dựng nhà nước trung ương tập quyền, cải cách và quản lý xã

hội bằng pháp luật, những chính sách kinh tế, … dường như mới bước đầu được đề cập

hoặc rất mờ nhạt. Đặc biệt, theo khảo cứu của chúng tôi, cho đến nay chưa có công

trình nào chuyên bàn về vai trò, vị thế và ảnh hưởng của tư tưởng Pháp gia đến đời

sống chính trị - xã hội Trung Quốc thời Tần, sự tiếp cận theo hướng nghiên cứu đối

sánh với Nho gia – Pháp gia với tư cách là hai học thuyết đối lập nhau về tư tưởng.

Bằng cách thức nghiên cứu đối sánh đó, chúng tôi trình bày khái quát ảnh

hưởng của tư tưởng pháp trị của Pháp gia tới tư tưởng trị nước dưới chế độ phong kiến

Trung Quốc, đặc biệt ở Việt Nam. Do đó, việc hệ thống hóa các công trình nghiên cứu

lịch sử tư tưởng chính trị - xã hội từ trước tới nay ở nước ta là hết sức cần thiết.

Page 31: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

25

Chương 2. SỰ HÌNH THÀNH TRƯỜNG PHÁI PHÁP GIAVÀ NHỮNG

NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA NÓ

2.1. Bối cảnh lịch sử, xã hội Trung Hoa thời Xuân Thu – Chiến Quốc và

những tiền đề cơ bản cho sự hình thành trường phái Pháp gia

2.1.1. Bối cảnh lịch sử

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, xét đến cùng thì sự vận động

và phát triển của xã hội tuân theo quy luật Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội.

Vì thế, khi nghiên cứu sự xuất hiện tư tưởng chính trị - xã hội cần phải xuất phát từ

chính nội bối cảnh xã hội đó. Khi mâu thuẫn giai cấp xuất hiện, xung đột về tư

tưởng xảy ra trong xã hội là sự phản ánh về cách thức sản xuất, kết cấu và tổ chức

dân cư tương ứng với điều kiện tự nhiên không còn phù hợp nữa. Đó là cơ sở để

một nhà nước mới ra đời với những thể chế, thiết chế phù hợp với lợi ích của người

cầm quyền. Và Trung Hoa cổ đại không thể nằm ngoài quy luật đó.

Trung Hoa cổ đại là một quốc gia rộng lớn, có lịch sử lâu đời từ cuối thiên

niên kỷ III Tr.CN kéo dài tới tận thế kỷ III Tr.CN. Trong hơn 2000 năm đó, lịch sử

Trung Hoa được phân chia làm 2 thời kỳ lớn: Từ thế kỷ IX Tr.CN trở về trước và từ

thế kỷ VIII Tr.CN đến cuối thế kỷ III Tr.CN. Tuy nhiên, do phạm vi nghiên cứu,

luận án này chỉ tập trung khảo cứu vai trò và vị thế của Pháp gia thời Xuân Thu –

Chiến Quốc (770 – 221 Tr.CN), đây là thời kỳ đánh dấu chế độ lãnh chúa mang tính

chất nô lệ chuyển sang chế độ phong kiến sơ kỳ. Kể từ đây nhà Chu chỉ tồn tại về

danh nghĩa, trên thực tế Thiên tử bị các chư hầu lấn át, họ xưng bá, xưng vương ở

khắp nơi, một cảnh tượng Bách gia chư tử bao phủ suốt mấy trăm năm, lịch sử còn

gọi là thời Xuân Thu - Chiến Quốc. Cục diện này chỉ kết thúc vào năm 221 Tr.CN

khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa cổ đại.

Trong bối cảnh đó, theo chúng tôi, nếu làm rõ được tình hình kinh tế, chính

trị - xã hội của Trung Hoa thời Xuân Thu - Chiến Quốc, sẽ lý giải được vì sao

phong trào Bách gia tranh minh xuất hiện, được xem là cội nguồn của các học

Page 32: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

26

thuyết chính trị - xã hội, trong đó Pháp gia và Nho gia là những trường phái tiêu

biểu, đóng vai trò chủ đạo cho sự phát triển của xã hội Trung Hoa thời kỳ này.

2.1.2. Tình hình kinh tế

Theo quan niệm của triết học mácxít: chính trị là sự biểu hiện tập trung của

kinh tế, cho nên phác họa bức tranh tổng thể về kinh tế thời Xuân Thu – Chiến

Quốc sẽ trả lời được câu hỏi vì sao Pháp gia xuất hiện trên vũ đài tư tưởng chính trị

Trung Hoa cổ đại là một tất yếu của lịch sử.

Xuân Thu – Chiến Quốc là thời kỳ có sự thay đổi mau lẹ về công cụ sản xuất

với cuộc cách mạng chuyển từ đồ đồng sang đồ sắt gắn liền với sức kéo bằng trâu,

bò thay thế sức người. Từ kỹ thuật sản xuất thay đổi, kéo theo sự thay đổi về cách

thức tổ chức lao động.

Trước hết, đó là vấn đề sở hữu ruộng đất, lúc này ruộng đất công không còn

được chia theo chế độ“tỉnh điền” nữa, [“tỉnh điền” vốn được áp dụng từ thời nhà

Thương với phương thức sở hữu vừa tư vừa công, theo đó trong một đơn vị ruộng đất

được chia làm 9 phần (theo hình chữ “tỉnh”), nhà nước giao cho nông dân 8 mảnh, còn

phần đất ở giữa là đất công, các hộ có sở hữu xung quanh có trách nhiệm cùng nhau cày

cấy và nộp sản phẩm làm ra từ mảnh ruộng này để nộp cho nhà nước (gọi là phép

“trợ”)]. Ruộng đất công được giao cho các gia đình nông nô canh tác lâu dài,

người nông dân nhờ đó có thể luân canh ổn định trên mảnh đất của mình, hay còn

gọi là chế độ “tư điền” [“tư điền” là hình thức sau khi giao ruộng đất cho nông dân,

nhà nước đánh thuế trên từng mẫu ruộng (gọi là thuế “sơ mẫu”)]. Cũng do nhu cầu sản

xuất nông nghiệp, chiến tranh mà các nghề sắt, rèn, đúc trở nên hưng thịnh.

Những vật dụng như: lưỡi cày, liềm, cuốc, rìu, dao; những vũ khí phục vụ cho

chiến tranh được luyện từ sắt… được sử dụng phổ biến. Sử nước Lỗ ghi chép:

Cuối thời Xuân Thu, nước Ngô dựng lò luyện sắt lớn đến 300 người thụt bễ, đổ

than. Nước Tấn trưng thu sắt để đúc đỉnh hình… [xem 15, tr.242].

Chính sách sở hữu thay đổi, công cụ sắc bén đã giúp cho việc khai hoang

nhân rộng, làm cho ruộng đất tư ngày một nhiều, bọn quý tộc cũng nhờ đó mà tìm

cách chiếm dần đất công để biến thành đất tư.

Page 33: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

27

Cùng với sự phát triển nông nghiệp và thủ công nghiệp, các ngành thương

nghiệp cũng phát triển theo, làm cơ sở cho sự hình thành một tầng lớp quý tộc mới,

đó là hạng thương nhân giàu có và ngày càng có thế lực, có thể kể đến một số đại

biểu như: Bão Thúc Nha - Quản Trọng (nước Tề), Huyền Cao (nước Trịnh), Tử

Cống (vốn là học trò Khổng Tử ở nước Lỗ), … những người này kết giao với các

chư hầu, đại phu, hoặc chuyển hẳn sang hoạt động chính trị nên họ có thanh thế

trong xã hội đương thời.

Sự xuất hiện giao thương đã đem lại cho xã hội hệ quả mang cả ý nghĩa tích

cực và tiêu cực: thứ nhất, hình thành nên hệ thống các trung tâm thương nghiệp với

số lượng và chủng loại hàng hoá ngày càng nhiều; thứ hai, trong sự biến chuyển đó

đã đánh dấu sự lên ngôi của một tầng lớp mới trên vũ đài chính trị, nó có tầm ảnh

hưởng ngày càng mạnh và đang có xu hướng leo lên tranh giành quyền lực với tầng

lớp quý tộc cũ, đặc biệt là đầu thời Chiến Quốc.

Như vậy, Pháp gia ra đời hồi đầu thế kỷ III Tr.CN trên một nền tảng những

điều kiện địa kinh tế thời đại tập trung ở nước Tần, khi mà xã hội chuyển từ mô

hình sở hữu ruộng đất công sang tư; từ cục diện nước nhỏ, ít dân sang nước lớn để

phục vụ nền sản xuất… những điều kiện này Nho, Mặc, Lão ra đời hồi thế kỷ VI

Tr.CN không thể biết đến, vì thế họ chỉ luận giải, thuyết giảng những luân lý đạo

đức với mong muốn ổn định xã hội. Trong khi đó, xã hội đang cần phải có quan

điểm cải tạo, biến pháp, đổi tục, chú trọng sản xuất làm cho nước giàu binh

mạnh… những yêu cầu này Pháp gia đã đáp ứng được. Vì thế, Pháp gia ra đời và

trở thành hệ thống tư tưởng thống trị là một tất yếu của lịch sử.

2.1.3. Tình hình chính trị - xã hội

Nếu như thời Tây Chu (từ thế kỷ XI – VIII Tr.CN), chế độ tông pháp “phong

hầu kiến địa” vừa có ý nghĩa ràng buộc về kinh tế, vừa có ý nghĩa ràng buộc về

huyết thống, tức “Thiên tử” có quyền phân phong đất đai, chức tước cho anh em,

họ hàng và công thần làm chư hầu để duy trì cơ nghiệp, thì đến thời Xuân Thu chế

độ này không còn được tôn trọng, Thiên tử nhà Chu không còn các quyền phán xét

về việc xâm lấn, thôn tính lẫn nhau giữa các chý hầu. Khổng Tử phải thốt lên rằng:

Page 34: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

28

bồi thần, lễ, nhạc, chinh phạt… không còn ban ra từ Thiên tử mà ban ra từ các

nước chư hầu.

Trong xã hội cảnh tôi giết vua, cha con hại nhau, vợ chồng chia lìa thường

xuyên xảy ra, tới mức vua nước Tề làTề Cảnh Công đã phải cay đắng thừa nhận:

Nếu như vua chẳng ra vua, tôi chẳng ra tôi, cha chẳng ra cha, con chẳng ra con, dẫu

ta có lúa (đầy kho), ta có thể ngồi mà ăn được chăng? [xem 16, tr.483-484].

Sự suy đồi của tầng lớp quí tộc trong xã hội như trên chứng tỏ hệ tư tưởng

dựa trên nền tảng của Chu Lễ mà người sáng lập Nho gia là Khổng Tử, chủ trương

của Nho là “Ngô tòng Chu” đang ngày càng trở nên bất cập, không còn đủ sức duy

trì trật tự xã hội, đồng thời đòi hỏi phải có một hệ lý tưởng mới có đủ khả năng

quản lý và điều hành xã hội.

Xuân Thu cũng là thời kỳ mà người dân phải gánh nhiều nghĩa vụ: sưu thuế,

phu phen, lao dịch nặng nề. Đây cũng là thời kỳ mà nạn cướp bóc nổi lên khắp mọi

nơi khiến đời sống nhân dân càng thêm cực khổ. Lao dịch, cướp bóc, chiến tranh…

khiến dân lưu vong, đồng ruộng bỏ hoang, tạo ra một khung cảnh xã hội điêu đứng,

người người phẫn uất. Trong khi đó, các vương hầu, lãnh chúa quý tộc lại sống rất

xa hoa. Họ xây cất cung điện nguy nga, như cung Bồng Đế của vua Tấn rộng đến

mấy dặm, trong cung chen chúc cung nữ (Tả truyện, Chiêu Công năm thứ ba). Hai

bức tranh đối lập xuất hiện trong xã hội, một bên là thế lực cầm quyền với quyền

hành vô độ và ăn chơi sa đoạ, một bên là cảnh cùng cực của dân chúng, điều đó

càng thúc đẩy mâu thuẫn xã hội nhanh chóng đạt tới đỉnh điểm.

Thêm vào đó, bao phủ thời Xuân Thu - Chiến Quốc là khung cảnh chiến

tranh. Thời Xuân Thu có khoảng 242 năm (770 – 475 Tr.CN) thì sử nước Lỗ ghi

được tới 483 cuộc chiến tranh lớn nhỏ, trung bình cứ mỗi năm diễn ra hai cuộc sát

chiến lẫn nhau. Tốc độ thôn tính giữa các nước cũng rất nhanh, nếu như đầu thời

Tây Chu có hàng nghìn nước thì sang thời Xuân Thu chỉ còn hơn một trăm nước

(chỉ trong khoảng 2 thế kỷ). Nếu năm 403 Tr.CN, mới chỉ có Hàn, Triệu, Ngụy là

các chư hầu thay nhau mượn danh thiên tử để thảo phạt nước khác với mục đích

Page 35: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

29

tranh dành ảnh hưởng và mở rộng đất đai, để bá chủ thiên hạ thì đến cuối thời Xuân

Thu đã hình thành nên cục diện “thất hùng” (7 nước mạnh).

Tiền thân của “Thất hùng” là “Ngũ bá” gồm: Hoàn Công nước Tề, Văn

Công nước Tấn, Mục Công nước Tần, Trang Vương nước Sở. Về sau có thêm Ngô

Vương Phù Sai và Việt Vương Câu Tiễn, lúc này chính thức tạo nên “Thất hùng”

phân phong cương vực. Ở phía Tây Hàm Cốc Quan có nước Tần, phía Đông có 6

nước là Tề, Tấn, Sở, Tống, Ngô, Việt thường gây chiến tranh với quy mô lớn và tàn

khốc hơn thời Xuân Thu, thay nhau làm bá chủ thiên hạ. Sở dĩ họ mạnh lên là nhờ

đã dùng phép trị nước theo “bá đạo”, tức đạo của các nước chư hầu, dùng sức

mạnh bạo lực, áp bức. Đây là chính sách cai trị trái ngược hẳn với lễ giáo nhà Chu

là “vương đạo”, lấy đạo đức nhân nghĩa để thu phục và cảm hóa lòng người. Như

vậy, xét về tiến bộ lịch sử thì những lãnh chúa trên đã rất thức thời, họ biết kết hợp

đường lối cai trị với phát triển kinh tế và quân sự để có nước hùng, quân mạnh. Điều

này càng được thể hiện rõ ở cuối thời Chiến Quốc, họ đã phát triển đất nước mình

thành các quốc gia độc lập.

Khi cục diện Chiến Quốc hình thành, những thủ đoạn và chính sách ngoại

giao về quân sự để đối phó lẫn nhau cũng được ra đời, đó là thế “hợp tung” và

“liên hoành”. Trong đó, Tô Tần (Thế kỷ IV Tr.CN, người Lạc Dương) đã đề xuất

thế “hợp tung”, tức hợp nhiều nước yếu để đánh nước mạnh và Trương Nghi (Thế

kỷ IV Tr.CN, người nước Ngụy) đề xuất thuật “liên hoành”, tôn trọng một nước

mạnh để đánh nước yếu. Với chính sách quân sự này, nước Tần là một trong các

“thất hùng” có uy tín lớn nhất.

Nguyên nhân để dẫn tới nước Tần hùng mạnh và có uy tín nhất được lý giải

là vào năm 362 Tr.CN, Tần Hiếu Công lên ngôi, vị vua này đã được sự trợ giúp của

nhà cải cách Thương Ưởng (trong khoảng thời gian từ 359 – 349 Tr.CN). Tần Hiếu

Công làm cuộc cách mạng trên các lĩnh vực: kinh tế, tổ chức hành chính, pháp luật,

tiền tệ, thuế khoá, chế độ khen thưởng, quan hệ gia trưởng… cuộc cách mạng này

đã đập tan cơ cấu xã hội theo kiểu công xã nông thôn ở nước Tần. Thêm vào đó với

đề xuất “hợp tung”, nước Tần đã nhận được sự trợ giúp của các nước yếu.

Page 36: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

30

Tuy nhiên, nhân tố quyết định để giúp Tần làm nên nghiệp lớn, trở thành

triều đại đầu tiên“nhất thống thiên hạ” vào năm 221 Tr.CN, chính là việc Lý Tư đề

xuất áp dụng triệt để tư tưởng “pháp trị” vào thực tiễn nước Tần. Nhờ những ưu

điểm của học thuyết pháp trị đã làm cho Tần vốn đã mạnh nay càng mạnh thêm,

không một quốc gia nào trong thất hùng sánh kịp.

Như vậy, nhờ những cải cách xã hội hợp lý mà vua Tần có được thiên hạ,

đồng thời chấm dứt cảnh hỗn chiến suốt mấy trăm năm. Sự thống nhất toàn Trung

Hoa khi đó đã đánh dấu chuyển biến xã hội từ cát cứ phân phong sang phong kiến

sơ kỳ theo hướng trung ương tập quyền, kiến tạo nên một chế độ quân chủ chuyên

chế đầu tiên ở Trung Hoa. Biến cố lịch sử này cũng đã đánh dấu sự thay đổi lớn

trong lịch sử tư tưởng chính trị Trung Quốc. Nó gắn liền với một hệ tư tưởng mang

màu sắc triết học chính trị có ảnh hưởng lớn thời bấy giờ là Pháp gia.

2.2. Các tiền đề tư tưởng

2.2.1. Phong trào "Bách gia tranh minh" với sự hình thành tư tưởng Pháp gia

Trước thực tiễn xã hội phát triển nhanh và phức tạp, chư hầu xưng hùng,

xưng bá. Các vua chúa, quý tộc cần đến kẻ sĩ để vạch mưu tính kế, do vậy việc đào

tạo kẻ sĩ đã trở thành nhu cầu trong xã hội. Nhờ những hình thức “chiêu hiền đãi

sĩ” như vậy mà kẻ sĩ ngày càng được tự do hơn, họ có thể đi hết nơi này đến nơi

khác để du thuyết, không phải cúi luồn trước một nhân chủ nào. Trong Sử ký Tư Mã

Thiên viết:

Trâu Diễn là thủ lĩnh của Âm Dương gia ở đời Chiến Quốc được trọng dụng ở nước

Tề. Sang nước Lương thì Lương Huệ Vương thân hành ra ngoại ô để nghênh đón

theo lễ tân chủ. Qua nước Triệu thì Bình Nguyên Vương đi nghiêng trải chiếu. Đi

nước Yên thì Chiêu Vương vác chổi đi trước xin ngồi vào hàng đệ tử mà thụ giáo”

(Mạnh Tuân liệt truyện) [38, tr.390]

Bức tranh trên chứng tỏ, ở Trung Quốc lúc này là một chế độ “đại nghị sĩ”,

nghĩa là các học phái dù to, dù nhỏ; cũ hay mới… đều có đại biểu tham gia bàn luận

chính trị, điều đó phản ánh rất sâu sắc không khí học thuật của thời đại.

Tuy nhiên, dưới con mắt của Hàn Phi thì đó là một dạng sâu mọt đeo bám xã

hội một cách vô lý: “Nho thì lấy văn làm rối loạn pháp luật, bọn du hiệp lấy vũ lực

Page 37: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

31

vi phạm những điều ngăn cấm… Phạm pháp và phạm cấm thì phải xử tội, thế mà

nhân chủ kính lễ như nhau” [38, tr.548-549].

Theo sách Hán thư, thiên Nghệ văn chí thì có 103 học phái, song chủ yếu là

sáu học phái: Nho gia, Mặc gia, Đạo gia, Pháp gia, Âm dương gia và Danh gia…

nên còn gọi là thời kỳ “Bách gia tranh minh”.

Mặc dù “trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng”, số lượng các phu tử xuất

hiện khá nhiều, song điều đáng lưu ý là trước khi Pháp gia xuất hiện với tư cách là

một học thuyết hoàn chỉnh, thì Trung Hoa cổ đại vẫn là một thế trận hỗn chiến,

phản ánh sự khủng hoảng sâu sắc về đường lối chính trị. Trước yêu cầu lịch sử đó,

Hàn Phi đã tổng hợp những tinh hoa của Chư tử Bách gia, ông đứng vững trên lập

trường Pháp gia để trở thành nhà tư tưởng vĩ đại. Như Phan Ngọc nhận xét: … ông

là người duy nhất của Trung Quốc thực hiện được sự tổng hợp ba học thuyết Nho,

Lão, Pháp [38, tr.17].

2.2.2. Ảnh hưởng của Nho gia và Đạo gia đến sự hình thành tư tưởng Pháp gia

2.2.2.1. Ảnh hưởng “chính danh” của Nho giáo Khổng Tử - Mạnh Tử; thuyết “tính ác”

và quan điểm của Tuân Tử về “lễ pháp kiêm trị” trong đường lối trị nước

Nho gia bắt đầu từ thời Xuân Thu do Khổng Tử (551 – 479 Tr.CN, người

nước Lỗ) sáng lập, đồng thời là một trong những học phái đầu tiên của “Chư tử”,

“Bách gia”. Đặc trưng nổi bật của học thuyết Nho gia là tư tưởng chính trị - xã hội

với chủ trương ổn định trật tự xã hội thông qua hệ thống giáo lý đạo đức chặt chẽ,

hay còn gọi là học thuyết về “đạo làm người”. Trong phạm vi nghiên cứu, chúng

tôi chỉ đề cập những nhân tố đặc sắc tư tưởng Nho gia có ảnh hưởng trực tiếp đến

hình thành tư tưởng Pháp gia, đặc biệt là Hàn Phi.

Thứ nhất, tư tưởng chính danh của phái Khổng – Mạnh

Trong xã hội Xuân Thu – Chiến Quốc thì không chỉ Nho gia và Pháp gia, mà

các trường phái triết học khác cũng đều mong muốn sớm ổn định xã hội theo một

trật tự nhất định. Mặc dù, mỗi trường phái có một chủ trương chính trị khác nhau,

mà trước hết là lý thuyết về xác lập địa vị của con người trong xã hội.

Page 38: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

32

Nho gia cho rằng, tiêu chuẩn để xác định hành vi và địa vị của con người là căn

cứ vào "chính danh". Tiêu biểu là Khổng tử, ông cho rằng: “chính danh” là yêu cầu

mọi người phải làm tròn bổn phận của mình, việc làm đúng tên gọi của nó. Khổng Tử

viết sách Xuân Thu, vốn là bộ biên niên sử và về sau trở thành một trong năm bộ kinh

quan trọng của Nho giáo, mục đích chính là để tuyên truyền học thuyết “chính danh”

của mình. Lý giải vì sao phải chính danh, Khổng Tử nói trong “Luận ngữ”:

… Danh bất chính tắc, ngôn bất thuận, ngôn bất thuận tắc sự bất thành, sự bất thành

tắc lễ nhạc bất hưng, lễ nhạc bất hưng tắc hình phạt bất trúng, hình phạt bất trúng

tắc dân vô sở thủ túc. Cố quân tử danh chi tất khả ngôn dã, ngôn chi bất khả hành

dã. Quân tử ư kỳ ngôn vô sở cẩu dĩ hĩ [xem 16, tr.498-499]

Còn mục đích của “chính danh” cốt là để cho vua cho ra vua, tôi cho ra tôi,

cha cho ra cha, con cho ra con.

“Luận ngữ” của Khổng Tử là một cuốn sách dạy về cách thức sắp đặt trật tự xã

hội, ở đó ông đưa ra quan điểm trọng danh hơn thực, trọng đức hơn hình, đồng thời

khẳng định phương pháp tu thân là xuất phát điểm để đạt tới mẫu người quân tử.

Kế thừa học thuyết “chính danh” của Nho gia, Pháp gia phát triển thành quy

tắc “hình - danh”. Hình danh phải tuân thủ theo nguyên tắc “danh – thực – lợi”,

tức lấy công dụng làm tiêu chuẩn, trong đó quan trọng nhất là “danh ” phải phù hợp

với “thực”. “Chính danh” là phương sách lãnh đạo của nhà vua, là thuật trị nước,

là yêu cầu mọi người phải làm đúng nghĩa vụ, bổn phận và trách nhiệm đối với nhà

vua. Trong “Nhị bính”, Hàn Phi viết: Bậc làm vua muốn cấm chuyện gian tà thì

phải xét kỹ tên gọi và việc làm xem có hợp nhau không. Phải xem việc làm có khác

lời nói không [38, tr.65]. Do đó Pháp gia chủ trương “theo danh mà trách thực”, việc

làm mà đúng danh thì thưởng, làm không đúng danh thì phạt tội, như thế thì kẻ không

đủ năng lực không dám tham quyền và kẻ có tài sẽ được trọng dụng. Về bản chất

“chính danh” của Pháp gia là “thuật dùng người”.

Thứ hai, quan niệm đối lập về “bản tính con người” trong tư tưởng Mạnh Tử

và Tuân Tử

Nho gia có rất nhiều học trò xuất sắc, nhưng người phát triển học thuyết Nho

gia lên đến đỉnh cao phải kể đến hai cao đồ của Khổng Tử là Mạnh Tử và Tuân Tử,

Page 39: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

33

hai đại biểu có chung nền tảng lý luận, có cùng mục đích, dùng chung phương pháp,

nhưng sử dụng phương tiện khác nhau, dẫn đến quan điểm trái ngược nhau trong

nội một học thuyết.

Mạnh Tử (372 – 289 Tr.CN), tên Kha, tự Tử Dư thuộc dòng dõi vua nước Lỗ,

từ nhỏ ông đã được giáo dục theo lễ giáo phong kiến rất chặt chẽ. Lớn lên học đạo

Khổng và trở thành cao đồ của Nho gia. Mạnh Tử phát triển học thuyết của Khổng Tử

về thiên mệnh theo hướng duy tâm, coi bản tính con người là thiện và chủ trương giáo

dục xã hội theo quan niệm của người xưa – “pháp tiên vương”(bắt chước các vua đời

trước), đề cao nhân nghĩa, đạo đức. Chúng tôi sẽ nói về quan điểm của Mạnh Tử trong

sự đối trọng tư tưởng với người cùng thời của Pháp gia là Thương Ưởng ở phần sau.

Tuân Tử (313 – 238 Tr.CN), tên Huống, tự Khanh người nước Triệu. Là học

trò của Khổng Tử, ông cũng đề cao nhân nghĩa, lễ nhạc, chủ trương chính danh,

trọng vương khinh bá… nhưng về chương trình hành động thì ông lại đi ngược lại

với Khổng – Mạnh cả về thế giới quan cũng như triết lý đạo đức, chính trị.

Về thế giới quan, Tuân Tử đứng trên lập trường duy vật, ông cho rằng trời

không thể quyết định được vận mệnh của con người; nếu con người biết đồng thuận,

tuân theo quy luật của tự nhiên thì con người sẽ có cuộc sống hạnh phúc. Đồng thời,

ông cũng cho rằng quan niệm, nghi thức tôn giáo như: cúng tế, cầu khẩn… chỉ làm

phong phú và sinh động thêm cuộc sống của con người. Trong “Thiên luận” Tuân Tử

cho rằng: Người quân tử lấy đó làm văn minh, trăm họ thì lấy đó làm thần linh; lấy làm

văn minh thì tốt, lấy làm thần linh thì xấu [xem 14, tr.854].

Trong quan niệm về luân lý đạo đức, nếu Khổng Tử cho rằng, bản tính của

con người do trời phú, do đó đều gần nhau, còn Mạnh Tử cho rằng, bản tính con

người là thiện, xuất phát từ luận điểm “nhân chi sơ tính bản thiện”. Cả hai ông đều

khẳng định, sở dĩ bản tính con người ngày càng trở nên khác xa nhau là do tập tính,

tập quán trong cuộc sống hàng ngày. Khác hẳn với Mạnh Tử, Tuân Tử cho rằng bản

tính người là ác. Tuân Tử cũng lý giải khá tường tận về cội nguồn của tính ác. Theo

ông, tính ác của con người là do sự ham muốn của nó theo những dục vọng cá nhân

mà ra. Tuân Tử nhận định, nếu hành động theo bản tính ấy thì trong xã hội tất nhiên

Page 40: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

34

sinh ra cướp bóc, tranh đoạt. Nghĩa là, mọi tệ nạn xã hộixảy ra đều do sự hám lợi

của con người.

Từ lập trường quan điểm về con người và bản tính của con người như trên.

Tuân Tử đã chuyển lập trường từ duy tâm sang duy vật. Ông đi đến kết luận, với

những bản tính xấu của con người thì không thể dùng những biện pháp noi gương,

giáo hóa theo phép trị nước của người xưa như Khổng – Mạnh đã làm. Tuân Tử

phản đối “pháp tiên vương”, đồng thời đề ra chủ trương “pháp hậu vương”, cho

rằng, việc trị nước phải theo thời thế giống các Pháp gia tiền bối. Cho nên, các nhà

nghiên cứu đã nhận định: Sách Tuân Tử đã tổng kết và phát triển tư tưởng Pháp gia

thời kỳ đầu, đồng thời phê phán Nho gia, đặc biệt là Mạnh Tử [14, tr.861].

Thứ ba, quan điểm của Tuân Tử về lễ pháp kiêm trị trong đường lối trị nước

Như ở trên chúng tôi đã đề cập đến Tuân Tử với tư cách là học trò xuất sắc

của Nho gia. Sở dĩ ông trở nên xuất sắc là nhờ đã khắc phục được triệt để những

hạn chế về thế giới quan duy tâm và bản thể luận siêu hình của Nho giáo. Không chỉ

dừng lại ở trường phái Nho gia, Tuân Tử còn trở thành “bản lề” cho các nhà tư

tưởng Pháp gia thiết lập nên trường phái của mình theo đúng nghĩa của nó, đồng

thời ông đã trở thành người thầy của hai đại biểu ưu tú nhất của trường phái Pháp

gia cổ đại. Hai đại biểu đó không ai khác chính là Hàn Phi và Lý Tư. Hàn Phi với

danh nghĩa là “Tập đại thành tư tưởng Pháp gia” và Lý Tư – người hiện thực hóa

mô hình pháp trị dưới thời Tần Thủy Hoàng. Cho nên, khi đề cập đến các cuộc biến

pháp của Pháp gia, chúng tôi không thể không trở lại đánh giá vai trò của Tuân Tử

với tư cách là một trong những đại biểu kiến tạo nên học phái Pháp gia.

Sinh thời, Tuân Tử là người hiểu biết rõ học thuyết của Thương Ưởng và sự

lớn mạnh không ngừng của nước Tần đương thời. Thực tế này đã chinh phục được

Tuân Tử, đặc biệt những giá trị về nghệ thuật trị nước, tính nghiêm minh và tổ chức

xã hội chặt chẽ, nhất là thắng lợi trong cuộc chiến tranh kiêm tính của nước này vào

nãm 241 Tr.CN đối với liên minh bốn nước lớn là Hàn, Vệ, Triệu và Chu. Tất thảy

những thành quả đó đã khẳng định sức sống mãnh liệt của tư tưởng Thương Ưởng.

Điều mà Tuân Tử tâm đắc và chịu ảnh hưởng khá rõ nét là biện pháp “thưởng –

Page 41: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

35

phạt” của Thương Ưởng, cho rằng thưởng - phạt cũng là biện pháp trị nước hữu

hiệu. Trong thiên “Phú quốc”, ông viết:

Chỉ dạy mà không trừng trị, giết chóc thì đám kẻ gian không sợ… chỉ giết chóc mà

không thưởng thì người dân cần mẫn không hưng khởi… Việc tưởng lệ không thể thi

hành thì người hiền không tiến lên được, việc trừng phạt không thể thi hành thì kẻ hư

không chịu rút lui. Người hiền không tiến lên, kẻ hư không rút lui, thì người tài năng và

người không tài năng đều không được đặt vào đúng chỗ cho ta dùng [58, tr.126-127].

Tuy nhiên, Tuân Tử cũng yêu cầu thưởng phạt phải thích hợp với công tội,

tức là:

Không có công thì không thưởng, không có tội thì không phạt. Song, quan trọng ở

chỗ là thưởng không nên “tiếm”, phạt không nên “lạm”. Thưởng tiếm thì lợi cho

tiểu nhân, phạt lạm thì hại đến quân tử. Nếu chẳng may thưởng phạt có quá thì thà

tiếm chớ đừng lạm. Làm lợi người hư còn hơn làm hại cho người thiện [58, tr.127].

Qua đó cho thấy, bản chất nhà nho trong ông với tinh thần “trung thứ” và “dĩ

hòa vi quí” đã hạn chế quan điểm thưởng phạt của ông không thể đạt tới “công minh”.

Điểm đáng chú ý nữa trong tư tưởng của Tuân Tử ở chỗ, mặc dù ông tán thành

việc phân chia xã hội thành những đẳng cấp, theo đó năng lực hoạt động và hưởng thụ

thành quả khác nhau, song do ảnh hưởng của Thương Ưởng, ông nhận thấy khả năng

của đẳng cấp thấp có thể tham gia vào công việc trị nước. Nói cách khác, ông thừa nhận

khả năng của con người ta trong xã hội là ngang bằng nhau. Tuy nhiên, Tuân Tử không

tiếp thu tư tưởng này của Thương Ưởng một cách cứng nhắc, mà đề xuất tư tưởng mới

trên nền tảng học thuyết về Lễ của Nho gia. Ông cho rằng:

Người hiền tài thì cất nhắc, chẳng cần theo thứ tự quan trật, người kém cỏi, bất lực thì

sa thải ngay, những quân đại gian, đại ác thì giết đứt, chẳng cần giáo hóa, với những

người dân bình thường dễ dạy thì dùng giáo hóa, chẳng cần hình phạt [58, tr.252]

Tuy nhiên, khi nói về Lễ Tuân Tử cho rằng, lễ là cái cùng cực của đạo người

vậy [xem 53, tr.321], vì thế nên tu thân, trị quốc… việc gì ông cũng lấy hai chữ long lễ

làm đầu. Trong trị quốc, ông nói: trọng lễ, quý nghĩa thì nước thịnh trị, giản lễ, rẻ

nghĩa thì nước loạn [xem 53, tr.324], điều này đã làm cho học thuyết của Tuân Tử

Page 42: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

36

mang một nội hàm mới. Nghĩa là, càng ngày Lễ của Tuân càng xa rời “lễ trị” của Nho

gia và có xu hướng xích lại gần hơn với “pháp trị” của Pháp gia. Ông viết:

Trời đất nhờ lễ (luật, thứ tự trong thiên nhiên) mà hòa hợp; mặt trăng, mặt trời nhờ lễ

mà sáng tỏ; bốn mùa nhờ lễ mà có thứ tự; tinh tú nhờ lễ mà chuyển vần; sông ngòi nhờ

lễ mà lưu thông; vạn vật nhờ lễ mà sống còn, toại ý; ưa ghét nhờ lễ mà đúng mức;

mừng giận nhờ lễ mà thích đáng, lễ khiến cho vạn vật biến đổi mà không rối loạn.

Không chuyên theo lễ thì diệt vong. Lễ há chẳng rất mực tốt lành đấy ư? …Lễ rất mực

uy nghi vì nó phân biệt trật tự trên dưới, lễ rất mực rành mạch, vì nó phân biệt lời phải,

lẽ trái. Thiên hạ theo lễ thì trị, không theo lễ thì loạn, theo lễ thì yên, không theo lễ thì

nguy, theo lễ thì còn, không theo lễ thì mất [xem 53, tr.306].

Vì lẽ tốt đẹp của Lễ như thế, cho nên, Tuân Tử xác định, con đường để giáo

dục Lễ là theo Pháp, ông viết: lễ là cái phận lớn của điển pháp, cái kỷ cương của

quần loại. Cho nên, phải học đến lễ mới thôi [xem 53, tr.325], tức là Lễ đã được

pháp luật hóa để trở thành đạo lớn cho con người noi theo.

Song, với tinh thần Luật hóaLễ phản ánh bước thay đổi về chất trong tư

tưởng Nho gia, từ đây phong trào “lễ pháp kiêm trị” được ứng dụng vào thực tiễn,

mà người phát kiến cho phong trào ấy là Tuân Tử. Nói cách khác, công lao của

Tuân Tử biểu hiện ở chỗ chính ông là người đã “xoay trục” hệ tư tưởng Nho gia

thuần túy sang pháp giáo hóalễ bằng phương pháp thế quyền bá đạo.

Chúng ta đều biết rằng, các đại biểu tiêu biểu của Pháp gia như Thận Đáo,

Thân Bất Hại, Lý Khôi, Ngô Khởi, Thương Ưởng đều là những đệ tử chính phái từ

Nho gia, đặc biệt Hàn Phi là một trong những cao đồ xuất sắc của Tuân Tử. Vì thế

mà các học giả đã đánh giá Tuân Tử là “cầu nối” chính thức giữa Nho và Pháp.

Theo tác giả Nguyễn Hiến Lê và Giản Chi, Hàn Phi chịu ảnh hưởng của Tuân Tử ít

nhất ở hai điểm: tính ác và không tin trời, quỷ thần [59, tr.167]. Còn Phan Ngọc thì

đánh giá: Hàn Phi là học trò lớn nhất của Tuân Tử, ông tiếp thu lý luận của Tuân

Tử về bản tính ác của con người [38, tr.11].

Như vậy, xét về quan hệ thì giữa Nho gia và Pháp gia có mối quan hệ phái

sinh, ở đó Nho là cái gốc. Cho nên, chúng ta không bất ngờ khi Hồ Thích cho rằng,

không có cái gọi là Pháp gia, về bản chất các Pháp gia chỉ đơn thuần là những nhà

Page 43: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

37

luân lý học. Hồ Thích viết: Thời cổ đại vốn không có cái mà chúng ta ngày nay gọi

là “Pháp gia”… Trung Quốc cổ đại chỉ có luân lý học, chỉ có học thuyết pháp trị

chứ không có cái gọi là “Pháp gia” [43, tr.521]. Dù pháp trị của Pháp gia hay đức

trị của Nho gia thì việc trị nước cũng đều phải xuất phát từ cách dùng người và ở

thời đại nào cũng phải trọng nhân tài, chỉ có điều trong cách hành xử để dùng

người, ở Nho gia thì quan điểm tôn đạo đức còn Pháp gia thì chú trọng pháp luật.

2.2.2.2 Ảnh hưởng của học thuyết về “Đạo” và “vô vi” từ Đạo gia

Người sáng lập Đạo gia là Lão Tử (? - ?, sống cùng thời với Khổng Tử). Hạt

nhân hợp lý trong học thuyết Đạo gia là tinh thần biện chứng có yếu tố duy vật.

Trong đó nổi lên ba nội dung: Học thuyết về “Đạo”, tư tưởng biện chứng và

phương pháp “vô vi”. Pháp gia trong quá trình xây dựng học thuyết của mình đã kế

thừa triệt để những yếu tố hợp lý trong tư tưởng Đạo gia.

Đặc điểm chung của các Pháp gia cổ đại là đều xuất thân từ những nhà thực

hành chính trị trước khi họ trở thành nhà tư tưởng. Trong quá trình hoạt động chính

trị của mình, họ đã tổng kết những vấn đề thực tiễn, khái quát thành lý luận cho nên

tư tưởng của họ mang tính thực chứng. Tuy nhiên, ở họ lại thiếu hụt tư duy lý luận,

nhất là cơ sở triết học để luận giải bản chất của vấn đề cần xem xét. Chẳng hạn, khi

các đại biểu Pháp gia quan niệm pháp luật giống như cái cân, nó vô tư, khách quan

và đúng đắn, nhưng lại không thể lý giải được là tại sao lại có được kết luận đó!

Đây là điểm hạn chế căn bản của các Pháp gia tiền bối, để khắc phục “lỗi hệ thống”

này, Hàn Phi đã dùng “mánh khóe” của mình để biến nội dung của Đạo đức kinh

vốn là lý thuyết tư biện thuần túy của Lão Tử thành một tác phẩm thực dụng thuần

túy của mình. Từ đây, học thuyết triết học của Lão Tử trở thành “bệ đỡ” về phương

pháp cho lý thuyết pháp trị của Pháp gia. Trong tác phẩm Hàn Phi Tử, Hàn Phi đã

dành hai thiên để “giải thích” (Giải lão) và “minh họa” (Dụ lão) Lão Tử. Bao trùm

hai thiên sách là sự tiếp thu hai phạm trù triết học “Đạo” và “vô vi” của Đạo gia.

Trước hết là phạm trù “Đạo”, trong hệ thống triết học của Lão Tử, phạm trù

đạo có một vị trí đặc biệt, nó là nền tảng chi phối hầu hết các quan điểm về vũ trụ,

con người trong triết học Trung Hoa cổ đại. Trong tư tưởng Lão Tử, “Đạo” được

Page 44: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

38

hiểu theo hai khía cạnh: Khía cạnh đầu tiên, “Đạo” là cái “bản thể”, bản nguyên của

vũ trụ:

Có một vật do hỗn hợp mà thành; nó sinh ra trước trời đất; vừa trống không vừa

yên lặng, đứng yên một mình mà không biến cải; trôi đi khắp nơi mà không thôi.

Có thể làm mẹ của thiên hạ. Ta không biết tên gì phải đặt tên chữ cho nó là Đạo và

gượng gọi nó là Đại (lớn) [109, tr.40].

Với nghĩa này, “Đạo” là giới tự nhiên huyền diệu. Khía cạnh thứ hai, “Đạo”

được diễn tả là quy luật của tự nhiên, xã hội, con người: “Người bắt chước Đất, Đất

bắt chước Trời, Trời bắt chước Đạo, Đạo bắt chước tự nhiên” [109, tr.60]. Nghĩa là,

mọi sự vật hiện tượng đều tuân theo trật tự quy luật của Đạo, cho nên khi nắm được

“Đạo” là nắm được các quy luật từ tự nhiên, xã hội đến con người. Còn hình thức tồn

tại “Đạo” của Lão Tử là “Đức”, nói cách khác, "Đức" là sự biểu hiện của "Đạo".

Khi giải thích Lão Tử (Giải lão) Hàn Phi viết:

Cái đức bắt đầu bằng vô vi và hoàn thành bằng vô dục [38, tr.170], đồng thời so

sánh giữa Đạo và Đức như sau: Nói chung đạo rộng lớn nhưng vô hình, đức thâm

nhập vào tất cả mọi vật và phổ biến mọi nơi, đến tận mọi sinh vật. Nếu châm chước đạo

và đức mà dùng thì muôn vật đều phồn thịnh… đạo có mặt trong mọi việc nên phải theo

đạo mà làm [38, tr.70].

Đạo là con đường để đi đến chân lý, do đó Hàn Phi khẳng định: nói chung

những người có thể có được nước, giữ được thân mình thế nào cũng phải đi theo

đạo [38, tr.180]. Theo ông, bậc vua chúa cần phải nắm được Đạo để sai khiến quần

thần, trị nước đúng đắn, hợp quy luật, hợp thời. Đi cùng với Đạo là quy luật tuần

hoàn của tự nhiên, cho nên Hàn Phi đã phát triển triệt để tinh thần “Đạo bắt chước

tự nhiên”. Ông cho rằng:

Nếu mùa đông cày ruộng và cấy thì dù có là Hậu Tắc cũng không thể làm cho lúa tốt

được. Gặp năm được mùa lúa tốt thì bọn tôi tớ cũng không thể làm cho nó xấu được.

Nếu dùng sức một người thì dù Hậu Tắc cũng không không đủ sức, nhưng nếu theo lẽ

tự nhiên thì kẻ tôi tớ cũng dư sức [38, tr.207].

Như vậy, Đạo từ chỗ được hiểu là quy luật tự nhiên đã được Hàn Phi vận

dụng để lý giải đời sống chính trị - xã hội, làm cho nó mang ý nghĩa lý luận và thực

Page 45: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

39

tiễn sâu sắc. Sự thành công này đã làm cho học thuyết pháp trị của Hàn Phi tuy

cứng nhắc nhưng lại có sức thuyết phục cao.

Thứ hai, Pháp gia kế thừa tư tưởng của Đạo gia về thuyết “vô vi” (không

làm mà không gì là không làm). Theo quan điểm của Hàn Phi, đức lớn duy nhất cần

cho nhà vua là theo thuyết “vô vi”, nghĩa là vua không cần làm gì cả, cái vua cần

làm là để người khác làm cho mình. Hàn Phi nói:

Như mặt trời, mặt trăng sáng chiếu, bốn mùa vận hành, mây giăng, gió thổi, vua

đừng để trí luỵ tâm, đừng để điều riêng hại mình. Gửi trị, loạn nơi pháp thuật, giao

phải trái nơi thưởng phạt, phó nặng nhẹ nơi quyền hành [38, tr.259].

Nói cách khác, vua dùng những công cụ gồm các cơ quan và những cận thần

để quản lý xã hội. Bản thân nhà vua không phải trực tiếp làm gì, mà lại không gì

không làm - đó là những điều căn bản của việc cai trị. Như vậy, từ học thuyết “vô

vi” của Lão Tử, Hàn Phi đã chuyển hóa thành tên gọi của Pháp gia là "thuật vô vi".

Tuy nhiên, Hàn Phi tiếp thu tinh thần “vô vi” trên tư thế chủ động, tức không

tiếp nhận “vô vi tự nhiên” nguyên bản của Lão Tử. Theo đó, nhà vua chỉ có thể điều

hành và quản lý xã hội bằng phương pháp “vô vi” chừng nào nhà nước được xây dựng

trên nền tảng một hệ thống pháp luật đầy đủ. Như vậy, “vô vi” là biện pháp “gửi việc

trị loạn ở pháp luật” cũng giống như “giao việc nặng – nhẹ cho cái cân”.

Có thể nói, Nho gia và Đạo gia là hai nền tảng tư tưởng trực tiếp để xây dựng

nên hệ thống lý luận của Pháp gia. Về lý luận, Pháp gia đã kế thừa toàn bộ luân lý

của Nho gia, tiến hành cải biến nó theo lập trường của mình. Về thế giới quan và

phương pháp, thì Pháp gia đứng vững trên lập luận về Đạo của Lão Tử. Chính sự

kết hợp giữa Nho và Lão như trên đã giúp Pháp gia vượt xa tất cả những học thuyết

đương thời để đạt tới một tầm tư duy lý luận mới.

2.2.3. Các cuộc biến pháp trước Hàn Phi là cơ sở cho sự phát triển và hoàn thiện học

thuyết pháp trị của Pháp gia

Mặc dù Pháp gia không có một người khởi tạo như Nho, Đạo hay Mặc gia,

nhưng khi nhắc đến học phái này, người ta không thể không đề cập đến các đại biểu

tiền bối của nó. Họ là những đại biểu của Pháp gia cổ đại mà ở đây chúng ta có thể

chia thành bốn phái: Thời Xuân Thu có phái trọng thực gồm: Quản Trọng, Tử Sản,

Page 46: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

40

Lý Khôi, Ngô Khởi. Sang thời Chiến Quốc, Pháp gia đã hình thành 3 hệ phái rõ rệt

là: “trọng pháp” tiêu biểu có Thương Ưởng; “trọng thuật” rõ nhất là Thân Bất Hại,

“trọng thế” được biết đến là Thận Đáo. Người kế thừa “Bách gia chư tử”, tổng hợp

và hoàn thiện học thuyết này chính là Hàn Phi với chủ trương pháp trị là sự tổng

hợp giữa ba yếu tố “Pháp”, “Thuật”, “Thế”, còn người thực nghiệm thành công

trên nước Tần, đưa Pháp gia lên đến đỉnh cao chính là Lý Tư.

2.2.3.1 Quản Trọng (? – 645 Tr.CN)

Quản Trọng là tướng quốc nước Tề dưới thời Hoàn Công, cũng là người đầu

tiên bàn về “pháp” (pháp luật) như một cách thức cai trị và cần được ban bố một

cách rộng rãi. Cuộc cải cách quan trọng đầu tiên của Quản Trọng trên lĩnh vực tư

tưởng là ông đã đề ra chủ trương trị nước chuyển từ “Lễ” sang "Pháp".

Nội dung pháp luật của Quản Trọng được biên soạn trong bộ “Quản Tử”

gồm 76 thiên (sách do người đời sau chép lại), ghi chép các điển tích về tư tưởng

chính trị pháp chế, trong đó có nhiều thiên về pháp luật, như “Bản pháp”, “Lập

pháp”, “Cấm pháp”, “Trọng lệnh”, “Pháp lệnh” [xem 59, tr.41], nghĩa là trong

thuật trị nước cần phải coi trọng Luật, Lệnh, Hình và Chính. Theo ông, Luật là để

định phận cho mỗi người mà dân không tranh; Lệnh là để cho dân biết việc mà làm;

Hình để trừng trị những kẻ trái với luật, lệnh đã ban. Có năm loại tội hình chính, đó

là: tội chết, bị đày có hạn, tội giam, tội đày không có hạn và tội phạt tiền. Khi áp

dụng phải tùy theo tội danh, có như vậy dân mới không oán, kẻ hiền mới không sợ.

Còn Chính là sửa cho dân theo đường ngay, lẽ phải.

Không chỉ cải cách về lập trường tư tưởng, Quản Trọng cũng được biết đến với

tư cách nhà cải cách kinh tế, quân sự, cải cách hành chính tiêu biểu thời Xuân Thu. Tư

tưởng chính trị của Quản Trọng được Tề Hoàn Công thực hiện, với chủ trương “luận

tin hi dị hình”, tức là lời bàn không cao xa mà dễ thi hành. Còn mục đích của chính trị

là làm sao để có “phú quốc binh cường”. Quản Trọng cho rằng, kho lẫm đầy rồi mới

biết đến hành lễ tiết, y thực đủ rồi mới biết đến vinh nhục [59, tr.41].

Khi làm tướng quốc nước Tề dưới thời Hoàn Công, Quản Trọng cho thực

hiện hai chính sách lớn: Trong đối nội, ông thực hiện “Tướng địa suy trưng” và

Page 47: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

41

“Quan sơn hải”, thực chất đây là cách đánh thuế phù hợp trên những mảnh ruộng

có độ màu mỡ khác nhau và mở rộng thông thương buôn bán trong và ngoài nước;

Còn đối ngoại, ông rất chú trọng đến quan hệ giao bang với các nước, giúp yếu, phá

mạnh. Đường lối đối ngoại của Quản Trọng lúc này rất phù hợp cho thế “hợp tung”

của thời cuộc, nhờ đó mà vị thế nước Tề được nâng cao đến mức “Cửu hợp chư

hầu, nhất khuông thiên hạ” (đứng đầu chín nước chư hầu).

2.2.3.2 Tử sản (? - 522 Tr.CN)

Tử Sản là nhà cải cách kinh tế, xã hội, chính trị quan trọng của nước Trịnh

thời Xuân Thu. Trong sự nghiệp chính trị của mình, Tử Sản đã tiến hành nhiều cuộc

cải cách lớn về kinh tế, chính trị, đặc biệt là pháp lý.

Chấp chính năm thứ nhất, là sự mở đầu cho công cuộc cải cách về ruộng đất

của Tử Sản thực hiện trên đất Trịnh. Với phương châm "ruộng có mương, vườn có

giếng" (5 nhà chung 1 giếng), đem một số lượng lớn ruộng tư đương thời biên chế lại,

vạch rõ giới hạn, xác định quyền tư hữu. Việc cải cách ruộng đất do Tử Sản thực hiện

đã thúc đẩy kinh tế nước Trịnh ngày một đi lên.

Chấp chính năm thứ hai, Tử Sản tiến hành cải cách chính trị. Một mặt, ông

thu dụng hiền tài, và mặt khác, thực thi chính sách công khai.

Chấp chính năm thứ tám, Tử Sản cho đúc "Hình thư". "Hình thư" là loại

sách về luật hình. Với cách này, Tử Sản đã đem những điều luật cho khắc trên đỉnh,

công bố cho mọi người đều biết, nhờ đó hạn chế được những việc làm sai trái, thay

đổi hẳn tình trạng không có chỗ dựa pháp luật. Vì thế có người tôn Tử Sản là cha đẻ

của học phái Pháp gia.

Công hiệu pháp luật dưới thời Tử Sản ở nước Trịnh được sử sách ca ngợi và

ông được coi là một trong ba người nổi tiếng về cai trị dưới thời Xuân Thu - Chiến

Quốc:"Tử Sản cai trị đất Trịnh, dân không thể dối"; Tử Tiện trị đất Đan Phụ, dân

không nỡ dối; Tây Môn Báo trị đất Nghiệp, dân không dám dối... [38, tr.709].

2.2.3.3 Lý khôi (455 – 395 Tr.CN)

Lý Khôi còn gọi là Lý Khắc, người nước Ngụy. Với đầu óc thực tế trong mọi

hoạt động kinh tế, chính trị, trong thời gian hoạt động chính trị ở nước Ngụy thời Chiến

Page 48: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

42

Quốc, trên cương vị Tể tướng, Lý Khôi đã tiến hành những cải cách lớn cho nước

Ngụy trên tất cả các mặt: chính trị, kinh tế nhằm lật đổ chế độ nô lệ, đồng thời củng cố

nền thống trị mới đang lên. Ông đề xuất nguyên tắc: Thực hữu lao nhi lộc hữu công, sở

hữu năng nhi thưởng tất thành, phạt tất đương (người thực sự làm việc được ăn, người

thực sự có công được hưởng; người siêng năng làm việc được thưởng, hình phạt thích

đáng). Lý Khôi chủ trương bãi bỏ chế độ bài khanh thế lộc, lựa chọn quan lại dựa vào

năng lực và công lao cống hiến, tước đoạt quyền lực của bọn chủ nô, khích lệ các lực

lượng xã hội mới, kể cả cá thể trong nông dân khai thác tiềm lực của đất đai, nâng cao

quyền lực để mở rộng cơ sở kinh tế của chế độ phong kiến.

Các học giả cho rằng, Lý Khôi viết bộ sách “Pháp kinh”, lấy pháp luật để

bảo vệ chế độ sở hữu của giai cấp địa chủ mới ra đời (tuy nhiên nay đã thất truyền).

Những chính sách biến pháp của Lý Khôi đã làm cho Ngụy trở thành một trong

những nước hùng mạnh nhất thời Chiến Quốc.

2.2.3.4 Ngô Khởi (? – 381 Tr.CN)

Ngô Khởi được biết đến là người đẩy phái “trọng thực” lên đến đỉnh cao,

ông là người nước Vệ, nhưng làm quan ở nước Ngụy dưới thời Ngụy Văn Hầu, do

bị thế lực cũ ở nước Ngụy chèn ép, ông phải nhờ cậy vào nước Sở. Năm 382 Tr.CN,

được sự tin cẩn của Sở Điệu Vương, ông đã thi hành rộng rãi phương pháp cai trị

nước Sở. Dấu ấn cải cách quan trọng của Ngô Khởi ở hai bình diện là “trị quốc” và

“phát triển quân sự”.

Về trị quốc: Ngô Khởi sửa lại quan chế với chủ trương “phế công tộc”, tước

bỏ những chức quan không cần, làm cho con em các quan đại thần không được dựa

dẫm mà ăn lộc của nhà nước; định lệ cho những người trong công tộc từ năm đời

trở lên thì phải đi làm ăn, cũng coi như dân thường, còn từ năm đời trở xuống thì

cân nhắc họ gần họ xa mà cho lương bổng nhiều hoặc ít. Vì vậy, ngân sách chi tiêu

mỗi năm dôi ra kể hàng mấy vạn, nghĩa là tất cả quý tộc được phân phong đã truyền

qua ba đời trở lên đều phải bị tước lộc. Ngô Khởi đề cao “minh pháp nghiêm lệnh”

nhằm thi hành rộng rãi pháp chế của chế độ phong kiến, làm cho nước Sở mạnh hơn

thiên hạ, đến mức Tam Tấn (Hàn, Triệu, Ngụy) và Tề, Tần, đều phải kinh sợ.

Page 49: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

43

Về quân sự: chủ trương kén những quân tinh nhuệ trong nước, sớm tối luyện

tập, xét ai là người tài giỏi thì cho ăn nhiều lương, có người được tăng lương gấp

mấy lần so với trước. Bởi thế mà quân sĩ đều có lòng ganh đua nhau, binh lực nước

Sở mạnh hơn cả thiên hạ.

Biến pháp của Ngô Khởi đã giáng một đòn mạnh vào lực lượng quý tộc của

chủ nô cũ. Do đó, ngay sau khi Sở Điệu Vương chết, bọn quí tộc chủ nô cũ đã liên

kết chống lại Ngô Khởi và đã giết ông ngay bên thi thể nhà vua.

2.2.3.5 Thương Ưởng (? – 338 Tr.CN)

Thương Ưởng là đại biểu ưu tú trong các tiền bối của Pháp gia dưới thời

Chiến Quốc, ông là nhà cải cách chính trị, quân sự, xã hội; đặc biệt chú trọng biến

pháp. Thương Ưởng là người nước Vệ, nguyên họ là Công Tôn, tên Ưởng. Sau khi

đến nước Tần (năm 301 Tr.CN), ông được Tần Hiếu Công tin dùng, nhận được

công phong ở đất Thương, còn gọi là Thương Ưởng.

Những tư tưởng biến pháp trong Sách Thương Ưởng đã thể hiện đầy đủ tinh

thần chiến đấu của Pháp gia thời kỳ đầu, trong đó có đóng góp lớn của nhà chính trị

Thương Ưởng. Những cải cách chính trị - xã hội quan trọng của ông đã giúp Tần

dần bước lên vị trí đứng đầu thiên hạ về mọi mặt, đặt nền móng vững chãi cho công

cuộc mở đường đi đến thống nhất Trung Hoa.

Tuy nhiên, do Thương Ưởng chưa chú trọng đến “thuật” nhưlà nghệ thuật cai

trị, mà chỉ đề cao vai trò của “pháp” đến mức hà khắc, dẫn đến mất lòng người. Đó

cũng chính là lý do dẫn đến cái chết thương tâm của ông, bởi bọn quý tộc chủ nô đã

phản kích, truy đuổi Thương Ưởng khi Tần Hiếu Công qua đời, bọn chúng đã “phanh

thây” ông – một hình phạt tàn khốc do chính ông đề ra. Trong luận án này chúng tôi

sẽ tập trung phân tích vai trò hai cuộc biến pháp của ông có tác động mạnh mẽ không

chỉ về mặt lý luận, mà cả mặt thực tiễn cho sự hình thành và phát triển của Pháp gia,

đặc biệt là trong đường lối cai trị của Tần Thủy Hoàng.

2.2.3.6 Thân Bất Hại (khoảng 401 – 337 Tr.CN)

Thân Bất Hại chủ trương ly khai “đạo đức”, chống “Lễ” và đề cao “thuật”

trong phép trị nước. Ông là người đất Kinh thuộc nước Trịnh, xuất thân từ tầng lớp

Page 50: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

44

quý tộc mới, chuyên học về hình danh (học thuyết của phái Danh gia). Thân Bất Hại

trước làm một chức quan nhỏ ở nước Trịnh, sau làm tướng quốc nước Hàn dưới

thời Hàn Chiêu Hầu.

Thân Bất Hại kịch liệt phản đối chế độ phân phong, phản đối “lễ trị”, chủ

trương thiết lập nhà nước trung ương tập quyền, đồng thời đề cao “thuật cai trị”

nhằm thi hành pháp luật với các thủ pháp, mưu lược, sách lược của người cầm quyền

(nhà vua). Nếu Quản Trọng, Lý Khôi, Ngô Khởi được coi nhà những nhà nho thực

hiện biến pháp, thì Thân Bất Hại là người có tinh thần pháp trị triệt để nhất.

Theo Thân Bất Hại, "thuật" như cái lưới lớn không gì có thể lọt được, nhà

vua mà dùng “thuật” thì ông ta không phải lao tâm khổ tứ suy nghĩ mà vẫn trị nước

được. Bên cạnh đó, Thân Bất Hại còn đưa ra nguyên tắc “làm đúng chứcphận”, tức

là việc làm thì phải đúng công việc, chức trách của mình, thậm chí cái gì biết cũng

không được nói; không được làm kém hoặc hơn bổn phận đó. Quan điểm này khá

gần với tư tưởng “chính danh” của Nho gia, cho nên trong Sử ký, Tư Mã Thiên

chép: "Học thuyết của Thân Tử… lấy việc hình danh làm chủ" [110, tr.335].

Về sau Hàn Phi đã phê phán Thân Bất Hại là quá chú trọng dùng “thuật” mà

xem nhẹ “pháp”, do đó không giúp được Hàn Chiêu Hầu lập nên nghiệp bá. Nói cách

khác, về lý tưởng thì Thân Bất Hại là đúng, nhưng chưa đủ, bởi lẽ trong chủ trương của

ông còn thiếu một điều kiện để pháp luật được thực thi, đó là quyền lực.

2.2.3.7 Thận Đáo (370 – 290 Tr.CN)

Thận Đáo là người đầu tiên trước Hàn Phi bàn về “thế” và đề cao sức mạnh, tác

dụng của quyền thế trong lịch sử Pháp gia. Thận Đáo ở nước Triệu, năm thứ 18 vua Tề

Tuyên Vương (342 – 323 Tr.CN), tức khoảng năm 325 Tr.CN ông được phong chức

“thượng đại phu”. Cũng giống như Thân Bất Hại, ông cực lực đả kích chủ trương

nhân trị của giai cấp quý tộc cũ và cho rằng, cần phải xây dựng một nền chính trị dựa

trên cơ sở pháp trị. Theo ông: … pháp luật không hoàn hảo cũng còn hơn không có

pháp luật, vì nó có thể thống nhất được lòng người [55, tr.182]. Lã Trấn Vũ cho rằng:

Lập trường căn bản của Thận Đáo nhất trí với Thân Bất Hại, chỉ có điều tương đối

tinh tế và có phần tiến bộ hơn [55, tr.180].

Page 51: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

45

Thận Đáo nói về sức mạnh của “Thế”. Theo ông, thế là cái mà khi dựa vào

đó người ta mới thể hiện được sức mạnh chính trị của mình (tức đoạt được quyền

lực chính trị), khiến kẻ dưới phải phục tùng. Theo ông, chân lý pháp luật là nguyên

tắc cao nhất của chính trị, nhưng nếu không có quyền thế thì pháp luật cũng vô hiệu,

bởi lẽ quyền thế đặt ra pháp luật và đảm bảo cho pháp luật được thi hành.

Tóm lại, “thế” trong phép trị nước của Thận Đáo là địa vị, quyền hành của

người cai trị, là sức mạnh của đất nước, của dân ủng hộ mà nên. Tư tưởng đó thể

hiện ý chí giương cao uy quyền, xây dựng tập quyền của thế lực phong kiến và

thượng tôn luật pháp. Tuy việc phát hiện và đề cao quyền lực của Thận Đáo được

xem là bước tiến bộ hơn so với Thân Bất Hại, song điểm thiếu sót của Thận Đáo là

ở chỗ không lấy “thuật” làm cơ sở đảm bảo quyền lực được bền vững, thêm vào đó

tư tưởng của ông cũng chưa có sự kết nối giữa “thế” và “pháp”, cho nên khi áp

dụng vào thực tiễn, học thuyết của ông bị thất bại.

2.2.3.8 Lý Tư

Theo Sử ký Tư Mã Thiên, Lý Tư người đất Thượng Sái thuộc nước Sở [110, tr.517].

Ông theo Tuân Khanh học đạo làm đế vương. Từ rất sớm Lý Tư đã tỏ ra là người thức thời,

khi học hành thành tài ông từ biệt thầy Tuân Khanh vì được biết vua Tần muốn thống lĩnh

thiên hạ thì cho rằng, đó là lúc cho kẻ áo vải được bay nhảy, thời trổ tài của kẻ du thuyết. Khi

đến nước Tần đúng lúc Trang Tương Vương mất, Lý Tư xin làm môn hạ của Văn Tín Hầu Lã

Bất Vi (Thừa tướng nước Tần). Lý Tư nhờ vậy mà có thời cơ du thuyết và gần gũi Tần Doanh

Chính. Cũng nhờ tài hùng biện mà Lý Tư dần chiếm được cảm tình với vua Tần, từ đó vua

giao cho Lý Tư nhiều trọng trách: trước tiên là dùng tài biện hộ của Lý Tư cho đem theo vàng,

bạc, châu báu để mua chuộc các chư hầu, ai không nghe thì cho tướng đem quân giết… càng

về sau những kế sách trong chính sách đối nội và đối ngoại của Lý Tư đã thiết thực đem lại

hiệu quả cho Tần trở nên hùng mạnh.

Lý Tư giúp Tần được 20 năm thì nước hùng, quân mạnh, Sử ký viết: Cuối cùng

thì nhà vua dùng kế của Tư. Tư làm đến đình úy… nước Tần thôn tính thiên hạ. Vua làm

Hoàng đế, cho Tư làm thừa tướng [110, tr.522]. Kể từ đây Lý Tư thực hiện những cải

cách về văn hóa, tư tưởng; pháp lý, tô thuế, lao dịch… hết sức tàn bạo – một chính sách

Page 52: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

46

độc trị pháp luật, cực đoan vô nhân tính (những tư tưởng của Lý Tư chúng tôi sẽ trình

bày trong mục nhà Tần hiện thực hóa mô hình pháp trị của Pháp gia).

Song, cũng chính những chính sách thiên tư, khắc bạc, phản trắc của Lý Tư đã

đẩy ông đến cái chết bi thảm sau 30 năm Lý Tư giúp Tần làm nên nghiệp bá.

Nói tóm lại, các đại biểu Pháp gia tiền bối đều có điểm chung là muốn tước bỏ

các quyền lực và bổng lộc thừa kế theo hình thức tông pháp, đồng thời đề xuất các chủ

trương biến pháp nhằm thay đổi thể chế của xã hội Trung Hoa cổ đại đương thời. Tuy

nhiên, để có một hệ thống lý luận mang tính pháp trị cần phải khắc phục tính phiến diện

ở từng đại biểu nêu trên. Người thực hiện nhiệm vụ này chính là Hàn Phi, ông được

mệnh danh là “Tập đại thành” của tư tưởng Pháp gia.

2.3. Hàn Phi – Tập đại thành những nội dung pháp trị căn bản của tư tưởng

Pháp gia

Hàn Phi (khoảng 280 – 233 Tr.CN) được xem là “Tập đại thành” của tư tưởng

Pháp gia. Tư tưởng của ông được trình bày rất rõ trong sách “Hàn Phi Tử", nó đóng

vai trò quan trọng trong buổi đầu thống nhất toàn Trung Hoa cũng như thiết lập và

củng cố nhà nước phong kiến trung ương tập quyền dưới thời Tần Thủy Hoàng.

Hàn Phi xuất thân là công tử vương thất nước Hàn, cùng thời với Lý Tư

(tướng quốc nước Tần) học đạo Nho từ thầy Tuân Khanh (tức Tuân Tử). Từ nhỏ

Hàn Phi đã nổi tiếng thông minh, học rộng, biết nhiều, ông thông hiểu Nho gia,

nghiên cứu Đạo gia và thấu hiểu Mặc gia; rất thông thạo về lịch sử và bút pháp văn

chương, cho nên ông có được hệ thống tri thức vừa uyên bác vừa sâu sắc, nhưng

điều mà ông thích nhất là tư tưởng pháp trị. Chính vì vậy, khi nghiên cứu tư tưởng

của các đại biểu Pháp gia tiền bối, Hàn Phi … thích học cái “hình danh”, “pháp

luật”. Gốc của thuyết này là Hoàng đế, Lão Tử [110, tr.302].

Tuy nhiên, khác với các nhà thực hành chính trị như Quản Trọng, Tử Sản,

Lý Khôi, Ngô Khởi và những nhà kiến tạo nên ba học phái “Thế” - “Thuật” -

“Pháp” mà chúng tôi đã trình bày ở trên, Hàn Phi khẳng định rằng, sự tổng hợp

giữa “pháp - thế - thuật” là cần thiết cho sự cai trị của đế vương.

Page 53: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

47

Danh nghĩa “Tập đại thành” của Hàn Phi được người đời tôn vinh chính là ở sự

tổng hợp nhuần nhị giữa ba thành tố “pháp – thế – thuật”. Trong phép trị nước, ba nhân tố

này có quan hệ mật thiết với nhau cả về nội dung lẫn hình thức. Trong đó, “pháp” là nội

dung của chính sách cai trị, còn “thế”, “thuật” là phương tiện công cụ để đạt mục đích đó.

Cả “pháp” – “thế” – “thuật” đều là công cụ của đế vương. Đúng như học giả Cao Xuân

Huy nhận định: Hàn Phi là người tổng kết ba khuynh hướng tư tưởng trên của Pháp gia,

lại tham bác Lão Tử, Tuân Tử để lập thành một hệ thống tư tưởng chặt chẽ, có nội dung

phong phú” [46, tr.252].

Như vậy, quan điểm pháp trị được hình thành và phát triển khá sớm trong lịch

sử tư tưởng Trung Hoa cổ đại. Trải qua hàng trăm năm, từ những tiền bối như Quản

Trọng, Tử Sản, Lý Khôi, Ngô Khởi - những người “trọng thực”, sang thời Chiến Quốc

đã hình thành thêm ba học phái cơ bản khác, đó là "trọng thế” của Thận Đáo, "trọng

thuật” của Thân Bất Hại và "trọng pháp” của Thương Ưởng. Trong đó, mỗi hệ phái có

một vị trí và vai trò riêng và cũng đạt được những thành công nhất định giúp các quân

vương ổn định một thời. Người thực hiện sứ mệnh lịch sử đó chính là Hàn Phi - nhà

triết học, chính trị học đã tích hợp cả ba yếu tố “pháp – thuật – thế” để kiến tạo nên

một sức mạnh tổng hợp giúp các quân vương trị nước.

2.3.1. Quan niệm về “pháp”

2.3.1.1. Khái niệm "Pháp"

“Pháp”nguyên nghĩa là luật, pháp luật, hình pháp, phương pháp, cách thức,

phương thức; tiêu chuẩn mẫu mực; bắt chước, theo; phép, pháp thuật [14, tr.506].Chữ

“pháp” xuất hiện sớm trong lịch sử, ngay cả Nho gia cũng bàn về pháp theo nghĩa là

phép tắc, lễ giáo. Điển hình là Khổng Tử và Mạnh Tử với chủ trương “pháp tiên

vương” tức noi theo người xưa, họ thường lấy gương Nghiêu, Thuấn để răn dạy các

vua đời sau làm theo; còn Tuân Tử thì chủ trương “pháp hậu vương”, trọng thực tế,

việc trị nước phải tuân theo thời thế. Danh gia quan niệm “pháp” là khuôn mẫu và có

bốn loại gọi là “tứ trình”: một là, pháp bất biến là ngôi thứ quần thần thượng hạng; hai

là, pháp chỉnh đốn tập tục là năng lực coi thường đồng dị; ba là, pháp trị số đông là

thưởng phạt; bốn là, pháp thuế bình chuẩn là luật đo, cân, đếm [24, tr.11].

Page 54: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

48

Về phần mình Pháp gia cho rằng: “pháp” vừa là khuôn mẫu, mô phạm, vừa là

ngay thẳng, trừng phạt và khen thưởng. Bên cạnh đó “pháp” còn được hiểu với ý

nghĩa rộng hơn, đó là “biến pháp đổi tục”.

Kế thừa và phát triển học thuyết pháp trị của các tiền bối, Hàn Phi coi pháp luật

là công cụ cai trị của bậc đế vương. Nếu Quản Trọng, Thương Ưởng chú trọng đến

thực tế hành pháp, thì Hàn Phi lại quan tâm đến vấn đề định pháp, tức là cấu trúc và hệ

thống pháp luật. Trong chương “Định Pháp” ông viết:

…Pháp lệnh là hiến lệnh của công sở được biên chép vào sổ sách, đặt nơi quan

phủ, để ban khắp trăm họ… đó là điều bầy tôi phải tuân theo…nhà vua mà

không có pháp luật thì ở trên bị che đậy, bề tôi mà không có pháp luật thì cái

loạn sinh ra ở dưới [38, tr.478-479]. Nếu “bỏ pháp luật mà dùng cái tâm để trị,

thì Nghiêu cũng không thể chỉnh đốn một nước… ông vua bậc trung giữ pháp

luật… thì lập nên công danh [34, tr.13].

Lý giải vì sao pháp luật có thể thực hiện được? Hàn Phi viết: Pháp luậtkhông

hùa theo người sang… khi pháp luật được thi hành thì kẻ khôn cũng không dám

tranh. Trừng trị cái sai không tránh kẻ đại thần, thưởng cái đúng không bỏ sót kẻ

thất phu [38, tr.62].

2.3.1.2. Nội dung, nguyên tắc của “Pháp”

Pháp không chỉ là một phạm trù chính trị xuất hiện từ thời Tây Chu, thể hiện

tư tưởng pháp trị đối lập với tư tưởng đức trị truyền thống theo lễ giáo nhà Chu. Xét

về mặt xã hội, pháp trị là tư tưởng của giai cấp quý tộc địa chủ đang lên mà Pháp gia

là tiếng nói đại diện cho một quan hệ sản xuất mới chống lại giai cấp quý tộc cũ

là“thế khanh, thế tộc” của nhà Chu. Pháp gia cho rằng, dùng pháp luật để trị dân

trước là để ngăn ngừa, đấu tranh nhằm loại trừ những hành vi bất hợp pháp, sau là để

trừng trị gian tà. Chẳng hạn, Quản Trọng, sau khi được Tề Hoàn Công bái làm trọng

phụ, ông tiến hành cải cách kinh tế - xã hội ở nước Tề, tiến hành "ban bố hàng loạt

pháp lệnh, chế độ, treo cột vinh nhục, theo đó mà làm, lấy tín pháp luật làm tiêu

chuẩn để đánh giá thiện ác, thị phi, lấy thưởng phạt làm thước đo việc khuyến thiện,

trừ ác" [11, tr.195].

Page 55: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

49

Cùng với giáo dục, phòng ngừa thì pháp luật và hình phạt đóng vai trò như bức

tường ngăn chặn con người không bước đến điều cấm, Hàn Phi viết:

Bức tường cao mười nhận (một nhận tám thước, một thước 0,2 – 0,35 m), Lâu

Quý cũng không thể vượt qua vì nó dốc thẳng. Ngọn núi cao ngàn nhận, nhưng

con dê què vẫn ăn cỏ dễ dàng ở trên vì nó thoai thoải. Cho nên, vị vua sáng phải

làm pháp luật dốc thẳng và pháp luật phải nghiêm… Khi đã có pháp luật vững

chắc thì kẻ nào vi phạm tất phải phạt nặng, bởi thưởng thì không gì bằng hậu để

dân thấy lợi mà ham, còn phạt thì không gì bằng trừng phạt nặng [38, tr.547].

Theo quan điểm Thương Ưởng, đó là biện pháp “dùng hình phạt để loại bỏ

hình phạt” (dĩ hình khử hình), làm được điều này thì về lâu dài sẽ không phải dùng

hình phạt nữa. Từ đó ông đề xuất phải phạt nặng những tội nhẹ, bởi vì: tội nhẹ không

phạm thì tội nặng cũng không có… còn nếu tội nặng mà phạt nhẹ thì làm cho sự việc

nảy sinh… nýớc làm thế thì nhất định sẽ bị chia xẻ” [38, tr.481]. Tất nhiên, dùng hình

phạt vốn dĩ là điều nhân dân không mong muốn, nhất là phạt nặng những tội nhẹ. Tuy

lúc đầu dân tình kéo nhau tụ tập để phản đối, song việc áp dụng những cải cách của

Thương Ưởng đã làm cho nước Tần ngày càng hưng thịnh. Về việc này Hàn Phi viết:

Bậc thánh nhân trị dân thì xét ở cái gốc chứ không phải theo lòng mong muốn của dân,

chỉ cốt làm lợi cho dân mà thôi. Cho nên, thi hành hình phạt không phải là ghét dân

mà vì yêu cái gốc” [38, tr.481]. Như vậy, theo Hàn Phi, bên cạnh mục đích trị dân,

pháp luật còn có ý nghĩa là “thương dân, làm lợi cho dân”.

Cũng chính nhờ tính nghiêm khắc mà pháp luật có sức mạnh hơn tình thương.

Rất nhiều lần Hàn Phi đã dẫn tính hiệu quả của pháp luật khi cảm hoá con người, cụ thể

trong chương “Ngũ đố” ông viết:

Nay đứa con hư hỏng, cha mẹ giận nó, nhưng không thể làm cho nó sửa đổi; những người

trong làng chê bai nó nhưng cũng không làm nó lay chuyển… Cho nên, cha mẹ yêu con

không đủ để dạy con, thế nào cũng phải dùng đến hình phạt của Châu Quận. Dân chúng

nếu được thương yêu thì sinh kiêu căng, nhưng nghe theo uy lực” [38, tr.547].

Đây là quan điểm giáo dục trái ngược hẳn với Nho gia, khi Nho gia cho rằng,

“thánh nhân lấy đức để cảm hoá”, chẳng hạn trong chương "Vương chế" sách Tuân

Tử viết: Có pháp luật tốt mà vẫn loạn thì cũng thường có vậy; nhưng có người quân tử mà

Page 56: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

50

loạn, thì tự cổ tới nay chưa thấy bao giờ, bởi vì pháp luật không thể đứng một mình… có người

tốt thì mọi cái đó còn, không có người tốt thì mọi cái đó mất [55, tr.271].

Trái lại, Pháp gia cho rằng, nếu giáo dục cảm hoá con người bằng cách thuyết

phục sẽ chậm có kết quả. Hàn Phi viết:

Thuấn sửa chữa điều hư hỏng trong dân phải mất một năm mới được một điều, phải mất

ba năm mới chữa được ba điều hư hỏng. Sức Thuấn có hạn, tuổi thọ của Thuấn có hạn.

Nhưng hư hỏng trong thiên hạ không bao giờ hết. Lấy cái hữu hạn để đuổi cái vô hạn thì

những điều sửa chữa được thực ít vậy [38, tr.417].

Vì vậy, việc chú trọng thực thi pháp luật nghiêm khắc sẽ có tác dụng tốt hơn đức

nhân, do chỗ xuất phát điểm con người là vị kỷ.

Tóm lại, "pháp" là để trị nước, là công cụ của bậc đế vương để vua trị dân. Hàn

Phi viết:

Thánh nhân trị nước, không cậy người tự làm thiện, mà khiến người không được làm

trái. Cậy người không tự làm thiện thì trong xứ không được mươi người; khiến người

không được làm trái th một nước có thể khiến cho dân yên. Kẻ trị nước lấy số đông mà

bỏ ít, cho nên không vụ đức mà vụ pháp… còn đòi hỏi làm vừa lòng dân thì là cái mầm

gây loạn [xem 38, tr.568-571].

Khi xây dựng pháp luật, những người theo Pháp gia tuân theo nguyên lý

“Đạo” của Lão Tử. Theo đó, "Đạo" là khởi đầu của muôn vật, là tiêu chuẩn để phân

biệt phải, trái. Vì thế, con người muốn hiểu sự vật thì nắm lấy "Đạo", khi thông hiểu

về "Đạo" thì sẽ có những phán quyết đúng đắn. Đối với người cầm quyền thì đây là

một yêu cầu đặc biệt về mặt chính trị, bởi lẽ chỉ khi biết được đúng hay sai thì việc sử

dụng công cụ thưởng phạt mới kích thích hoặc răn được lòng người. Trong thiên

“Đại thể” (Những điều căn bản của thuật trị nước), Hàn Phi viết:

Dựa theo Đạo mà hoàn thành pháp luật thì người quân tử vui mà kẻ đại gian

ngừng. Nhàn nhã, yên tĩnh, dựa vào mệnh trời, nắm lấy cái đại thể, cho nên khiến

con người ta không phạm cái tội rời khỏi pháp luật… như vậy thiên hạ ít cái

không làm được [38, tr.261].

Cho nên nói, pháp luật là cái đạo để cho vua duy trì trật tự xã hội.

Cơ sở xuất phát để các Pháp gia yêu cầu phải dùng “pháp” hay “hình

phạt” là do “bản tính người là ác”. Như đã trình bày ở trên, Hàn Phi đã kế thừa

Page 57: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

51

tư tưởng về “tính ác” của Tuân Tử, coi bản chất của con người là lợi kỷ. Trong

“Bị nội” ông viết:

Thầy thuốc khéo hút mủ vết thương, ngậm máu người ta không phải vì tình

thương cốt nhục mà làm thế chẳng qua là vì lợi. Người đóng xe xong mong người

ta giàu sang, người đóng quan xong mong người ta thọ yểu. Người thợ đóng xe

không phải vì có lòng nhân, người đóng quan không phải ghét người ta, mà tất cả

vì cái lợi của anh [38, tr.150].

Theo Hàn Phi và các Pháp gia thì việc dùng pháp không thể tuỳ tiện mà

phải đảm bảo theo một trật tự lô gic có tính nguyên tắc như sau:

Nguyên tắc thứ nhất, pháp luật phải thống nhất, ổn định, công khai

Theo Pháp gia, công cụ cai trị của bậc đế vương trước tiên là đặt ra phép tắc.

Hàn Phi cho rằng, muốn đặt ra phép tắc thì “pháp luật không gì bằng thống nhất, khiến

cho dân biết nó” [38, tr.547]. Pháp luật thống nhất còn phải thể hiện là khi xây dựng

hệ thống pháp luật mới thì không thể dùng cái cũ để thực hiện. Bên cạnh sự thống nhất

thì pháp luật phải được xây dựng ổn định, có ổn định mới đem lại hiệu quả cao. Theo

Hàn Phi: pháp lệnh mà thay đổi thì việc lợi và hại cũng khác đi. Việc lợi và hại khác đi

thì việc làm của dân thay đổi… cho nên cứ lấy lý mà xét thì nếu việc lớn và nhiều mà

hay thay đổi thì ít thành công [38, tr.187]. Đây cũng là cơ sở phương pháp luận cho

Hàn Phi khi làm luật.

Cùng với biên soạn luật thành sách vở, in ấn cẩn thận thì phải giao cho quan

phủ công bố rộng rãi, Hàn Phi coi đây là việc làm quan trọng của bậc vua chúa, ông

yêu cầu: Pháp lệnh là hiến lệnh của công sở được biên chép vào sổ sách, đặt nơi quan

phủ, để ban khắp trăm họ [38, tr.478]. Mục đích của việc ban bố pháp luật là để ai

cũng biết, cho dù người dân có thấp kém nhất cũng đều nghe ra, chứ không chỉ người

trong miếu đường mới hiểu.

Nguyên tắc thứ hai, pháp luật phải công bằng

Theo Hàn Phi, khi dùng luật thì: không hùa theo người sang… khi pháp luật

được thi hành thì kẻ khôn cũng không dám tranh. Trừng trị cái sai không tránh kẻ

đại thần, thưởng cái đúng không bỏ sót kẻ thất phu [38, tr.62]. Pháp luật giống như

cái cân dùng để đo lường, cho nên thân, sơ, sang hèn tất thảy đều như nhau. Pháp

Page 58: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

52

gia cũng nhận thức sâu sắc rằng, nếu tất cả mọi người đều được đối xử công bằng

trước pháp luật thì xã hội sẽ dễ bề cai trị.

Nguyên tắc thứ ba, pháp luật phải rõ ràng, dễ hiểu, dễ thi hành

Xét đến cùng thì pháp luật là sự phản ánh khách quan những điều kiện sinh

hoạt xã hội. Vì thế, nhà nước như thế nào thì pháp luật như thế ấy. Những người

theo trường phái Pháp gia có đầu óc thực tế, họ nhìn thẳng vào hiện thực và đưa ra

những yêu cầu phù hợp. Hơn nữa, pháp luật muốn dễ thi hành thì phải hợp với trình

độ của dân, do đó trong thiên “Bát thuyết”, Hàn Phi nêu:

Những điều mà kẻ sĩ sâu sắc mới có thể hiểu được thì không thể đưa ra làm lệnh, vì

dân không phải tất cả đều sâu sắc. Những điều chỉ có những người hiền mới có thể làm

được thì không thể dùng làm pháp luật, vì dân không phải tất cả đều hiểu [38, tr.16].

Theo Hàn Phi, pháp luật soạn ra phải có sự minh bạch, tường tận, rõ ràng, để

ai đọc cũng có thể hiểu như nhau, nếu sơ sài, cô đọng quá thì mỗi người sẽ hiểu

theo những cách khác nhau, như thế sẽ dẫn đến hiểu sai pháp luật, từ đó không thể

tránh khỏi thi hành sai. Khi sai thì lại bị phạt, khi bị phạt không thể tránh khỏi việc

kiện tụng. Do đó, “pháp luật gọn thì việc kiện tụng của dân ít đi. Vì vậy, sách của

thánh nhân thế nào cũng lý luận rõ ràng, pháp luật của vị vua sáng thế nào cũng

xét việc rõ ràng” [38, tr.522].

Khi luật đã tường tận, rõ ràng thì các quan thực thi pháp luật, giữ gìn trị an sẽ dễ

dàng thực hiện, còn người dân thì biết được việc phải làm. Như thế sẽ giúp nhà vua

không phải bận tâm suy nghĩ, chẳng cần phải cực nhọc, vất vả mà vẫn cai quản tốt.

Nguyên tắc thứ tư, pháp luật phải hợp thời

Xuất phát từ hiện thực xã hội thời Chiến Quốc, con người bị “tha hoá”, trong

xã hội xuất hiện sự xảo trá, ranh mãnh làm cho nhà điều hành xã hội trở nên lúng

túng. Trong bối cảnh đó, Pháp gia đưa ra phương lược rõ ràng, Thận Đáo viết: có

thước tấc thì không thể lầm lẫn về chuyện dài ngắn; có pháp độ thì không ai có thể

lấy sự khéo léo để lừa dối được [55, tr.182]. Để làm rõ thêm lý do vì sao phải biến

pháp đổi tục trong “Thương Quân thư”, Thương Ưởngviết: Người xưa chất phác

mà đôn hậu, người nay khéo léo mà giả dối. Cho nên cách cai trị hiệu quả của thời

Page 59: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

53

xưa là dùng đức, còn cách cai trị hiệu quả của thời nay là dùng hình phạt trước rồi

đến pháp [14, tr.511].

Dưới con mắt lịch sử, Pháp gia yêu cầu phải xây dựng một hệ thống

chính trị phù hợp với những điều kiện hiện có của thời đại. Quan điểm này có

phần khá xa lạ với Nho gia. Với Nho gia, “lòng nhân” là trụ cột trong tư tưởng

hệ của Nho gia, họ quan niệm xây dựng con người trở thành những hiền nhân là

biện pháp để duy trì và đảm bảo cho một xã hội ổn định. Nhưng dưới con mắt

của các Pháp gia, thời thế đã thay đổi thì cách thức cai trị cũng phải biến cho

phù hợp, đặc biệt trong bối cảnh xã hội Xuân Thu – Chiến Quốc. Hàn Phi cho

rằng, nếu đợi người có lòng nhân nghĩa thì chẳng khác nào: chờ gỗ thẳng mới

làm tên, đợi gỗ tròn mới có xe [38, tr.568]. Vì thế, các bậc tiên vương cần nắm

lấy pháp luật. Bởi lẽ, pháp luật tuy giản dị nhưng không thể xâm phạm, còn

giáo hóa, trau dồi đức dày mà mong có sự bình trị trong thời loạn thì đó là điều

không tưởng. Do đó, theo Pháp gia:

Cai trị không có gì là cố định, chỉ có lấy pháp luật mà cai trị. Pháp luật phải

chuyển biến theo thời thế thì mới tốt, cai trị có theo thời thế thì mới hiệu quả…

thời thế đổi mà phép cai trị không đổi thì sẽ loạn, cấm lệnh không đổi thì sẽ suy

kém [38, tr.588].

Hàn Phi nhấn mạnh đến vai trò của biến pháp:

Thời đã khác thì việc phải khác, việc đã khác thì pháp luật phải thay đổi cho phù

hợp… thời thế đã thay đổi mà cách cai trị không thay đổi thì sinh loạn. Biết cai trị

dân chúng, nhưng lệnh ngăn cấm không thay đổi thì mới bị cắt. Cho nên, bậc thánh

nhân trị dân thì pháp luật phải theo thời mà thay đổi, và sự ngăn cấm theo khả năng

mà thay đổi [38, tr.588].

Cho nên, điều quan trọng là phải xây dựng được hệ thống pháp luật hợp thời, dựa

trên điều kiện thực tế mà bổ sung thêm pháp luật, có thế pháp luật mới trở nên thực thi.

Như vậy, “pháp” và những nguyên tắc để dùng pháp, theo Pháp gia là

công cụ trị nước của bậc đế vương, nó có vai trò quan trọng và có ý nghĩa đặc

biệt đối với phép trị nước của các quân vương. Thế nên, bậc vua sáng thì phải

dùng “pháp”, khi luật đã ban bố ở nơi cửa công thì hình phạt là biện pháp hữu

Page 60: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

54

hiện cho dân, khen thưởng cho những kẻ giữ pháp luật, phạt những kẻ trái lệnh

sẽ là biện pháp tốt nhất để xây dựng một xã hội lý tưởng.

Nói tóm lại, trong quan niệm về “pháp” của những người theo Pháp gia

có hai mặt. Một mặt,“pháp” là để phòng ngừa, những cái quy định sẵn, nếu

phạm vào điều cấm nào thì xử theo hình phạt ấy. Với ý nghĩa này, quan niệm

“pháp” của Pháp gia là công cụ đắc lực cho kẻ thống trị dùng với nhân dân,

cho nên nói “pháp” của Hàn Phi đi liền với “cấm”; Mặt khác, “pháp” để đảm

bảo quyền lợi chính đáng cho người dân, tạo ra một xã hội công bằng dưới ánh

sáng của pháp luật. Đây là giá trị đáng được bảo tồn để đi đến xây dựng một xã

hội dân sự hiện đại, lúc này pháp luật là để bảo vệ những quyền lợi chính đáng

của người dân.

2.3.2. Quan niệm về “Thế”

2.3.2.1. Khái niệm "Thế"

“Thế” là một thuật ngữ triết học chính trị có ý nghĩa quan trọng bậc

nhất đối với Pháp gia. Những người chủ trương dùng “thế” và đề cao “thế”

được gọi là phái “trọng thế”. Trước Hàn Phi, người đề cao và “trọng thế” là

Thận Đáo.

Tuy chưa đưa ra một khái niệm cụ thể, nhưng Pháp gia cũng đã bàn về

“thế”. Trong thiên “Nạn thế”, Hàn Phi dẫn lời Thận Đáo:

Con rồng bay cưỡi mây, con rắn lượn bay trong sương mù. Mây tan mù tạnh thì

con rồng con rắn cũng chẳng khác gì con giun con kiến vì đã mất chỗ dựa vào.

Người hiền mà phải khuất phục trước kẻ hư hỏng, đó là vì quyền mình nhẹ, địa

vị mình thấp. Người hư hỏng mà có khuất phục được người hiền, đó là vì quyền

cao, địa vị mình cao… Ta căn cứ vào đó thì biết cái thế và địa vị là đủ để nhờ

cậy, còn sự khôn ngoan sáng suốt không đủ cho ta hâm mộ… Do đó mà xét thì

tài giỏi khôn ngoan không đủ để làm cho dân chúng phục theo, mà cái thế và địa

vị đủ để cho người hiền giả phải khuất phục vậy [38, tr.467-468].

Có thể hiểu “thế” theo quan niệm của Thận Đáo là địa vị, quyền hành

của người cai trị, là sức mạnh của đất nước… nó có thể thay thế được bậc hiền

trí mà trị vì thiên hạ.

Page 61: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

55

2.3.2.2. Nội dung của "Thế"

Trong sách Hàn Phi Tử, có lúc Hàn Phi gọi “thế” là “thế vị”, có lúc là “uy

quyền”, “uy thế” hoặc “thế trọng”…Tất cảđều nói về quyền thống trị hay chủ

quyền. Theo Hàn Phi, “thế” trước hết là thế lực, quyền uy của kẻ cầm quyền, là sức

mạnh ủng hộ của nhân dân, quần thần, là thế của quốc gia, xu thế của lịch sử. Thế

của vua làm cho dân và người hiền thán phục, chứ không phải sự nể phục vì đạo

nghĩa hay tài giỏi. Trong “Ngũ đố” ông nêu ví dụ:

Lỗ Ai Công là một ông vua hạng thấp, nhưng không ai dám không chịu thán

phục vì dân vốn từng bị phục tùng người quyền thế. Bởi thế Trọng Ni hiền mà

phải làm bầy tôi, còn Ai Công dở mà cứ làm vua. Trọng Ni thờ Ai Công không

phải vì khen đạo nghĩa mà phải phục tùng cái thế của Ai Công [38, tr.546].

Do đó, hiền trí cao chưa đủ để thuyết phục thiên hạ, còn thế lực và địa vị lại

đủ để khuất phục người hiền. Bởi vậy, trong “Nạn thế”, ông viết: Những kẻ cai trị

đại đa số là những người trung bình [38, tr.147]. Trái lại, nếu không có uy vũ thì

đến Nghiêu Thuấn chất chứa trong mình đầy “chữ nhân” vẫn không thể thuyết phục

được thiên hạ: “Nghiêu khi làm kẻ thuộc hạ mà giáo dục thì dân chúng không nghe, nhưng

khi quay mặt về hướng nam làm thiên tử thì lệnh ban ra được thi hành” [38, tr.468].Hơn nữa,

thời Chiến Quốc là thời kỳ xã hội biến đổi mạnh mẽ, nhà vua phải dùng quyền lực

của mình mới yên trị được đất nước, chấm dứt chiến tranh, loạn lạc và cát cứ. Muốn

thế phải thực thi “nhà nước tập quyền”, trong nhà nước ấy chính trị phải theo người

trên, mệnh lệnh phải do nhà vua ban ra. Trong chương “Đức lập” ông viết: Lập ra

thiên tử chớ để chư hầu suy bì… Bề tôi có hai bè tất nước sẽ loạn… Bầy tôi suy bì

với vua thì nước không thể không nguy [55, tr.183].

Bởi vậy, uy thế là để thống trị thiên hạ, là chỗ dựa để sai khiến quần thần; có

quyền thế thì thấy sự tôn kính, ngược lại mất quyền thế sẽ bị mất nước. Khi mất

quyền thế thì con rồng, rắn cũng chỉ giống như những côn trùng mà thôi. Bởi thế

mà nhà vua phải nắm lấy thế, tuyệt đối không để thế lọt vào tay kẻ khác. Trong

chương "Hữu độ", Hàn Phi viết: Hình phạt nghiêm là để cho lệnh được thi hành và

trừng trị kẻ dưới. Cái uy không thể cho mượn, cái quyền không thể cùng chung với

người khác, nếu quyền chung với người khác thì bọn gian tà nhan nhản [38, tr.61].

Page 62: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

56

Khi quyền thế mà để rơi vào tay bề tôi thì kết quả là nhà vua bị coi thường,

cho nên trong “Nhị bính” ông viết tiếp:

Nếu ông vua không thể khiến cho uy quyền và cái lợi của việc thưởng phạt xuất phát từ

tay mình, mà thi hành theo lời bọn bề tôi thì những người trong nước sẽ sợ bọn bầy tôi

mà coi thường nhà vua [38, tr.63]. Cho nên, việc truyền ngôi cho kẻ khác không phải là

chuyện đáng khen (Ngũ đố) [38, tr.541].

Có thể nói, theo Pháp gia thì “thế” là uy thế, quyền lực, địa vị, xu thế do con

người đặt ra và có vị trí hàng đầu trong mối tương quan “pháp – thuật – thế”, thậm chí

còn hơn cả “pháp” và “thuật”. Bởi lẽ, nếu không có “thế” thì bậc minh chủ không thể

thi hành được pháp luật, còn việc vận dụng "thuật" là để bảo vệ quyền thế của vua, nếu

mất "thế" thì "thuật" cũng mất chỗ dựa. Vị vua sáng là người biết nắm lấy cái “thế” để

cùng với thiên thời, lòng người, kỹ năng đưa ông ta đến thành công.

2.3.3. Quan niệm về “Thuật”

2.3.3.1. Khái niệm "Thuật"

Pháp gia cho rằng, vua phải sử dụng “thuật”, vì “thuật” là “công cụ đế vương”.

Thuật là một trong những phạm trù triết học chính trị đặc sắc của Trung Hoa nói chung

và của Pháp gia nói riêng. Cùng với “pháp” và “thế”,“thuật” trở thành thế chân vạc

trong tư tưởng pháp trị của Pháp gia. Thuật được hiểu là: phương pháp, thủ thuật, cách

thức, mưu lược điều khiển công việc và dùng người, khiến người triệt để, tận tâm thực

hiện hiến lệnh của nhà vua mà không hiểu vua dùng họ như thế nào [15, tr.369]. Tóm

lại, “thuật” là nghệ thuật cai trị của nhà vua.

Như trên chúng tôi đã đề cập, người đầu tiên đề nghị sử dụng "thuật" là

Thân Bất Hại. Ông được coi là đại biểu của phái "trọng thuật" trong số các

pháp gia cổ đại. Thân Bất Hại cho rằng: Thuật là nhân tài năng mà giao chức

quan, theo cái danh mà trách thực, nắm quyền sinh sát trong tay mà xét khả

năng của quần thần [55, tr.178]. Tiếp nối tư tưởng của Thân Bất Hại, Hàn Phi

phát triển phạm trù "thuật" lên cao và sử dụng khái niệm này theo đúng nghĩa

là thủ đoạn chính trị của một ông vua, đó là cách thức, phương pháp, mưu lược,

trong việc tuyển người, dùng người, giao việc, xét đoán sự vật, sự việc mà nhờ

Page 63: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

57

đó pháp luật được thực hiện và nhà vua có thể trị quốc, bình thiên hạ. Trong

“Định pháp”, Hàn Phi viết:

Thuật là nhân trách nhiệm mà giao chức quan, theo tên gọi mà yêu cầu sự

thực, nhằm lấy cái quyền cho sống và giết chết, hiểu rõ năng lực của bầy tôi,

đó là điều vua cần nắm lấy [38, tr.392]. Còn ở thiên “Nạn tam”, ông viết:

Thuật trị nước là cái giấu trong bụng con người để kết hợp các đầu mối và

ngầm chế ngự bầy tôi [38, tr.374].

Theo nghĩa đó thì "thuật" có hai nội dung căn bản là “kỹ thuật” và “tâm

thuật”. Trong đó, "kỹ thuật" là nghệ thuật điều khiển, sai khiến bề tôi; còn "tâm

thuật" là cách thức nhà vua kiềm chế, giấu kín cảm xúc trong lòng không để bầy tôi

biết, do đó bề tôi không thể lợi dụng những sơ hở của vua để mua chuộc, lộng hành.

Có thể nói, "thuật" là cách thức, phương thuật, mưu kế sử dụng người, điều

khiển việc, thực hiện hiến lệnh đã ban ra của nhà vua. Khác với sự minh bạch, công

khai của pháp luật,"thuật" trị nước thì không cho người ta thấy [38, tr.547].

2.3.3.2. Nội dung, nguyên tắc dụng "Thuật"

Mặc dù “thuật” là danh từ đa nghĩa và tồn tại ở hai phương diện (kỹ thuật và

tâm thuật). Song, theo quan niệm của Pháp gia, "thuật" hàm chứa bốn nội dung căn bản

sau: thứ nhất, thuật trị quan lại và gian tà; thứ hai, thuật dùng người; thứ ba, thuật

thưởng phạt; thứ tư, tâm thuật.

Thứ nhất, là thuật trị quan lại và trừ gian tà đượcbậc minh chủ áp dụng vào việc

trị quan chứ không trị dân. Hơn nữa, bậc thứ dân thì luôn làm theo mệnh lệnh, thậm chí

đổ máu nơi xa trường cũng chỉ mong lập chút công để được thưởng tước lộc, nhưng bọn

quan lại thì có thể bên cạnh nhà vua, dùng những lời “vàng ngọc” để kiếm bổng lộc, đó

là lý do phải trị quan. Trong “Ngoại trữ truyện” Hàn Phi viết: Chỉ nghe thấy quan lại tuy

làm loạn nhưng vẫn cứ tốt, chứ không nghe có dân làm loạn nhưng quan lại vẫn trị an

một mình. Cho nên, bậc vua sáng trị quan lại mà không trị dân [38, tr.394]. Trong sách

“Hàn Phi Tử” có hàng chục chương bàn về việc trị quan như: Bát thuyết, Bát gian, Bát

kinh, Nam diện, Gian kiếp thí thần… và các thiên: Ngoại trữ thuyết thượng, Ngoại trừ

thuyết hạ. Ở đó Hàn Phi trình bày tổ hợp nguồn gốc xuất hiện gian thần và cách phòng

chống bè lũ đó.

Page 64: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

58

Gian thần thì chủ yếu là cận thần của vua, vợ con, anh em… ở bên cạnh vua, con

người ta khi có địa vị thì nảy sinh tính ích kỷ, ham lợi, trong khi họ có những điều kiện

khách quan để lạm quyền, thậm chí làm phản vua. Hàn Phi đã liệt kê những con đường

để nảy sinh gian tà trong “Bát gian” như sau:

… bọn chung giường chiếu (vợ vua, cung tần, mỹ nữ), bọn tả hữu thân cận, người

ruột thịt của vua (anh em, các công tử), nuôi tai hoạ (vua ham sắc dục sẽ bị lợi dụng),

bọn lưu manh (dùng tài sản nhà vua ban phát cho dân để gây thanh danh cho riêng

mình), bọn du thuyết (dùng lời nói suông để che mắt nhà vua), cưỡng ép (nhà vua a

dua theo bề tôi), bốn phương (bề tôi dùng sức bên ngoài để ép vua theo những mục

đích của chúng) [38, tr.75].

Cùng với gian thần là những mầm loạn, trong “Bát kinh” Hàn Phi cũng chỉ rõ

mầm loạn xuất phát từ sáu hạng người: mẹ vua, hậu phi, con cháu, anh em, những người

nổi tiếng là hiền… [38, tr.527].

Đó là cái khó của vua, nhưng không thể không đề phòng. Hàn Phi khuyến cáo:

bậc vua sáng không cậy vào chỗ người ta không làm phản mình, mà cậy vào chỗ người

ta không thể làm phản mình [38, tr.394].

Nhưng làm thế nào để ngăn chặn gian thần? Ngoài việc nêu gương, răn đe để làm

nghiêm pháp luật, Hàn Phi còn đề ra nhiều biện pháp để khống chế và trừ khử gian tà.

Chẳng hạn: nếu là người hiền thì có thể bắt vợ con, người thân thích của họ làm con tin;

nếu là kẻ tham lam thì cho họ tước lộc hậu hĩnh như đã hứa để an định họ; nếu là gian

thần phải làm cho họ khốn khổ bằng cách trừng phạt. Nếu muốn trừ khử họ thì bằng

phương pháp đầu độc, hoặc dùng kẻ thù của họ để giết hại, làm như thế sẽ không tổn hại

đến danh tiếng của nhà vua mà lại kín đáo.

Thứ hai, là thuật dùng người, phát triển học thuyết “chính danh” của Nho gia lại

có sự tham bác thuyết "Tam biểu" của Mặc gia để Pháp gia thực hiện nguyên tắc “theo

danh mà trách thực”. Ở đó, “thực” là những người giữ chức vụ trong chính quyền hay

bổn phận của người dân trong xã hội, cái đó giống như "nguyên" và "dụng" xét mọi việc

trước tai mắt trăm họ xem có lợi cho nước hay không. Còn “danh” là những chức vị,

được ví như cái "gốc" làm căn cứ để giao việc. Vua cứ theo “danh” mà trách “thực”.

Chỉ cần danh – thực không hợp nhau là có thể phân biệt được phải - trái, tốt - xấu, công –

Page 65: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

59

tội. Ngược lại, "danh" với "thực" hợp nhau là đúng, là phải, là chính danh. Khi phải trái

đã được phân biệt thì cứ thế mà thưởng – phạt công minh. Trong “Dương quyền”, Hàn

Phi viết: cái đạo bất biến của thuật cai trị là lấy cái danh làm đầu, cái danh đã chính thì

sự vật được xác định. Cái danh thiên lệch thì sự vật thay đổi [38, tr.68]. Như vậy, với

"thuật chính danh" thì từ thứ dân đến quan lại đều áp dụng như nhau, và nếu làm được

điều này thì trong thiên hạ sẽ không còn ai dám làm sai, làm vượt chức vụ của mình, còn

vua không làm gì mà trị được tất cả, giống “vô vi nhi trị” của Lão Tử. Thận Đáo nói:

Những bậc vua xưa kia chỉ làm rất ít, nhưng gợi cho người ta làm thì nhiều. Gợi cho

người ta làm đó là thuật của kẻ làm vua [55, tr.178].

Để chọn được người tài năng và giao đúng chức vụ, quyền hạn thì nhà vua cần

xem xét thực và danh có phù hợp với nhau không. Trong “Nhị bính”, Hàn Phi viết:

Khi bề tôi trình bày lời lẽ, thì vua căn cứ vào đó để giao việc, nhưng buộc họ phải

chịu trách nhiệm về kết quả tương ứng với lời nói, nếu hợp thì thưởng. Hễ công

trạng không hợp với lời nói hoặc lời nói không hợp với công trạng thì phạt… Đạo

của bậc vua chúa là ở chỗ bầy tôi không trình bày những lời nói không phù hợp với

công việc. Vì vậy bậc vua sáng thi hành việc khen thưởng thì tốt như trận mưa

đúng lúc, trăm họ đều được hưởng ân huệ. Khi thi hành hình phạt thì oai nghiêm

như sấm sét [38, tr.54].

Nhưng có phải cứ theo lời nói mà giao chức không? Theo Hàn Phi, có một

sai lầm mà các bậc quân vương hay mắc phải, đó là: đã giao trách nhiệm cho bầy

tôi, rồi lại dùng những kẻ không được giao trách nhiệm để đè phòng những người

trên… Những người ngày hôm nay nhà vua dùng để đề phòng lại là những người

ngày hôm qua nhà vua đề phòng [38, tr.153].

Làm thế nào nhà vua biết được danh và thực có hợp nhau không để thưởng và

phạt cho đúng? Trả lời cho vấn đề này, theo Hàn Phi có hai cách để xét việc: Một là,

vua trực tiếp kiểm tra, thẩm định kết quả của bầy tôi đã làm. Hai là, vua dùng người

khác có đủ khả năng tài đức hoặc được vua giao, hoặc tự mình nhận nhiệm vụ, thay

mặt vua thẩm định kết quả công việc. Người được thay mặt vua đi thẩm định phải tuân

thủ tuyệt đối nguyên tắc “theo danh mà trách thực”. Nhưng, để kiểm soát được những

người thay mặt vua thực thi công việc, trong "Bát kinh” Hàn Phi viết:

Page 66: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

60

Những người có chức vụ cao và trách nhiệm lớn, nhà vua phải dùng ba cách để

nắm lấy họ. Một là nắm con tin, hai là nắm tinh thần, ba là nắm chắc sinh mạng.

Những người thân thích vợ con là con tin. Tước lộc hậu đó là tinh thần. Dùng từng

nhóm ba nhà, năm nhà để xét phạt đó là sinh mạng [38, tr.528].

Bằng thuật dùng người như thế vua sẽ có được hai điều lợi. Thứ nhất, vua sẽ

loại bỏ được kẻ bất tài và tuyển chọn được người đủ năng lực, kẻ không đủ năng lực

sẽ không dám nhận chức vụ mặc dù rất có danh vọng. Hai là, vua sẽ chọn được

những người thực sự trung thành với mình, không dám làm trái, không dám vượt

quyền. Thêm vào đó, nguyên tắc này còn tạo ra mối quan hệ vua tôi bền lâu. Chẳng

hạn trong “Dương quyền” Hàn Phi viết: Nhà vua nắm lấy cái danh, bề tôi làm ra sự

thực (hình), cái danh và thực hợp nhau thì trên dưới hoà hợp [38, tr.70]. Khi đó

những người giúp việc sẽ như tay phải, tay trái của nhà vua, cứ thế mà hành động

theo chức phận của mình.

Thứ ba, là thuật thưởng phạt. Pháp gia cho rằng, để sử dụng pháp luật hiệu quả

thì phải dùng thưởng phạt để trên thì mẫu mực, dưới phải nghiêm minh. Đây chính là

hai cái cán của đạo trị quốc mà ông vua nào cũng phải nắm. Thương Ưởng cho rằng,

“pháp luật không nghiêm được là do người trên phạm” [110, tr.332], và chính ông

cũng là người đã xử cả Thái tử phạm pháp, nhưng do Thái tử là người nối ngôi nên cho

khắc vào mặt thầy dạy của Thái tử. Cùng quan điểm với Thương Ưởng, trong “Nhị

bính” Hàn Phi viết:

Đấng minh chủ chế ngự được bầy tôi, chỉ nhờ hai cái cán mà thôi. Hai cái cán là

đức và hình, đức và hình là gì? Giết chóc là hình, khen thưởng là đức. Người làm

bầy tôi sợ hình phạt, thích khen thưởng. Vì thế bậc minh chủ dùng hình thì bề tôi

sợ mà theo về lợi [38, tr.63].

Như vậy, những phương thuật trị vì tốt sẽ tạo thanh thế, uy quyền cho nhà vua.

Điều quan trọng của thuật thuật trị nước là làm sao để lời nói của nhà vua khi ban phát ra

như sấm sét, mà không bị quần thần phát hiện ra. Pháp gia gọi cách giấu kín suy nghĩ của

người cầm quyền trong thủ thuật cai trị là “tâm thuật”.

Thứ tư là "tâm thuật" (điều bí ẩn bên trong), là một loại nghệ thuật tư duy, là

kỹ xảo để xử lý mối quan hệ vua tôi. Để dùng “tâm thuật” Hàn Phi yêu cầu bậc

Page 67: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

61

thánh minh: Thứ nhất, “cách tắc nhi bất thông, chu mật nhi bất hiện” (ngăn cách

đừng thông nhau, kín đáo đừng lộ liễu); Hai là, giấu kỹ tình cảm ghét thương.

Để làm được điều thứ nhất, nhà vua phải giữ kín tâm ý của mình, không cho

người khác biết mình nghĩ gì, đừng để họ thấy cử chỉ của mình mà đoán biết ý định

chân chính của mình, trong “Dương quyền” Hàn Phi viết: Cái đạo nghe người ta

nói thì làm ra vẻ ngây ngất như người say rượu… như thế thì ta có thể cho họ nói

trước. Ta nhân đó mà biết ý muốn của họ [38, tr.70-71]; thứ nữa là phải giấu kín

những biểu hiện về sở thích, ham muốn không biểu lộ ra ngoài, thì bầy tôi không có

cơ hội để gièm pha, tô vẽ, xu nịnh, chiếm đoạt ngôi vua. Trong “Chủ đạo”, Hàn Phi

nhắc nhở:

Nhà vua chớ để lộ cho người ta biết mình muốn gì, nếu nhà vua để lộ cho người ta biết

mình muốn gì thì thế nào cũng sẽ tô vẽ. Ông vua chớ để lộ ý mình. Nhà vua để lộ ý

mình thì bọn bầy tôi thế nào cũng biểu lộ cái khác với bản chất của họ [38, tr.50].

Nếu làm tốt những điều trên thì đám thân thuộc sẽ không có cách nào khai

thác hoặc lợi dụng được tình cảm của nhà vua.

Trong thuật trị nước, nhà vua không dùng tình cảm yêu ghét riêng ai, đừng tin ai

và tốt nhất là làm cho người khác luôn phải nghi hoặc về mình, cốt để họ không biết

vua muốn gì, thích gì, yêu gì, ghét gì…Trong “Chủ đạo”, Hàn Phi viết tiếp:

Khi nhà vua để lộ cái mình ghét thì bề tôi che dấu cái xấu của họ đi. Khi nhà

vua để lộ cái mình muốn thì bầy tôi khoe khoang tài năng của họ. Điều ham

muốn của nhà vua mà lộ ra thì bầy tôi có dịp biểu hiện tình cảm của mình cho

thích hợp [38, tr.150].

Vì khi bề tôi không biết được trong lòng của vua thì sẽ không bị mua chuộc,

cám dỗ, dối trá hay nói khác đi là vua không bị che lấp, Hàn Phi cho rằng: Bỏ điều

mình ham, bỏ điều mình ghét mới thấy rõ được bụng dạ của bầy tôi. Bỏ kinh

nghiệm,bỏ khôn ngoan của mình thì bầy tôi sẽ tự đề phòng [38, tr.50]. Đó là nguyên

lý lấy “vô” mà điều khiển “hữu”, dùng sự trống tĩnh khiến cái danh tự nó được lập ra,

sự việc tự nó được xác định. Hàn Phi viết: Cái đạo của bậc làm vua là lấy sự thanh

tĩnh, khiêm nhường làm quý. Không tự mình làm việc, mà biết thế nào là vụng, thế

nào là khéo [38, tr.53]. Như vậy là bỏ kinh nghiệm, bỏ khôn ngoan mà vượt lên kinh

Page 68: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

62

nghiệm và khôn ngoan đó là "sáng suốt vô vi" của bậc “thượng trí”. Khi đó nhà vua

không cần làm gì mà bầy tôi cứ tự giác, tận tâm làm mọi việc theo ý muốn nhà vua.

Có lẽ vì thế mà Machiavelli nói: Những quân sư giỏi, cho dù ở đâu ra đi chăng nữa,

có mặt trên đời này là nhờ sự khôn ngoan của quân vương, chứ không phải là nhờ

các quân sư giỏi mà quân vương mới có được khôn ngoan [77, tr.182].

Tóm lại, để trị nước hiệu quả nhà vua cần sử dụng “thuật trị nước”, kế sách vàng

để trị nước là phải biết cả “kỹ thuật” và “tâm thuật”. Trong đó, “kỹ thuật” gồm: Thuật

trị quan lại, thuật trừ gian, thuật thưởng phạt, thuật dụng nhân;còn “tâm thuật” là điều bí

ẩn bên trong chỉ nhà vua mới biết. Có thể so sánh một cách ước lệ rằng, nếu như "tâm

thuật" là nội dung bên trong, thì "kỹ thuật" là cách thức biểu hiện ra bên ngoài. Tuy mỗi

thành tố có một chức năng và nhiệm vụ riêng, nhưng chúng có chung một mục đích là

tạo ra công cụ đắc lực của bậc đế vương.

2.3.4. Mối quan hệ hữu cơ giữa “Pháp – Thuật – Thế” trong tư tưởng pháp trị của

Hàn Phi

Đặc điểm nổi bật Pháp gia là dùng "pháp" và đề cao pháp luật, do đó "pháp"

đứng ở vị trí trung tâm trong mọi tư tưởng và hành động. Dưới con mắt của Pháp gia thì

"pháp" vừa là phương tiện, vừa là phương pháp để nhà cầm quyền thực thi quyền lực

chính trị của mình.

Nội dung trụ cột của tư tưởng Pháp gia là mối quan hệ chân kiềng “pháp – thuật

– thế”. Nhưng trước khi trở thành một hệ thống triết học chính trị thì cả ba phạm trù này

cũng phải trải qua một quá trình hình thành và phát triển lâu dài, từ sự phát sinh mang

tính độc lập đến sự tổng hợp bởi Hàn Phi thành hệ thống tư tưởng pháp trị. Ba yếu tố,

“pháp”, “thuật”, “thế”nhờ đó có mối quan hệ khăng khít với nhau, làm cho học thuyết

pháp trị trở thành một hệ thống lý luận vững vàng, rất đắc dụng bởi tính linh hoạt, uyển

chuyển của chúng, trong đó mỗi thành tố có một chức năng và vai trò riêng: dùng “thế”

để thi hành “thuật”, “pháp”; có “pháp”, “thuật” thì mới giữ được “thế”. Cho nên, sẽ là

khiếm khuyết nếu không xét các cặp phạm trù đó trong mối quan hệ tương hỗ với nhau.

Trước hết, xét trong quan hệ “pháp - thuật”, đối với Pháp gia thì điều quan trọng

trước hết là phải có "pháp" và quan trọng hơn ở chỗ nó phải được thi hành nghiêm minh.

Page 69: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

63

Bởi vậy, trong “Định pháp” Hàn Phi viết: Nhà vua không có thuật trị nước thì trên bị

che đậy, còn bề tôi mà không có pháp luật thì cái loạn sinh ra ở dưới [38, tr.479].

Hàn Phi ví "pháp" và "thuật" giống như con người ta cần cơm để ăn và áo để

mặc. Khi trời rét mà không có áo thì chết, nhưng nếu thiếu ăn thì sự sống cũng

không thể duy trì, cho nên nói "pháp" và "thuật" cái nào quan trọng hơn là điều

không thể khẳng định. Chúng ta biết rằng, Thân Bất Hại dùng "thuật" ở nước Hàn đến

17 năm, nhưng do "pháp độ" không thống nhất, nên ông không thể giúp Hàn Chiêu Hầu

làm nên nghiệp bá; ngược lại Thương Ưởng làm tướng quốc nước Tần, trị quốc, "biến

pháp đổi tục" làm cho nước Tần trở nên giàu có nhưng rốt cuộc mấy mươi năm cũng

không thể giúp vua Tần Công trở thành đế vương, bởi lẽ, Thân Tử chưa đạt đến cái hoàn

mỹ của thuật, Thương Quân chưa đạt đến cái hoàn mỹ của pháp luật [38, tr.481].

Tuy nhiên, hai điều được xem là chưa hoàn mỹ ấy nếu biết kết hợp chúng lại thì

có thể trở thành cái tuyệt mỹ. Hàn Phi chỉ rõ: … hai cái đó không thể thiếu cái nào, đó

là công cụ trị quốc của bậc đế vương [38, tr.479]. Trong đó, có thể ví "thuật" là điều

kiện cần còn "pháp" là điều kiện đủ cho phép trị nước của một minh quân. Ở đây phát

sinh một vấn đề mâu thuẫn mà Hàn Phi không giải quyết đến tận cùng để làm rõ sự

thống nhất giữa “pháp” và “thuật”. Bởi lẽ, yêu cầu để phát huy sức mạnh của pháp là ở

tính công khai, công bố thành văn để mọi người biết mà thi hành; còn thuật lại được giấu

kín trong hành vi của người cầm quyền. Pháp của Pháp gia chủ trương “nhậm hiền”, “cử

hiền dữ năng”, còn thuật của nó là cách dùng người. Người có tài mới được tiếp nhận

(đó là nguyên tắc dụng người của Pháp gia), song có thể chính người đó cũng bị phế bỏ

do ý chí chủ quan của người cầm quyền. Do chỗ cái “thế”tối cao của kẻ trị vì thiên hạ.

Thứ hai, quan hệ giữa “pháp - thế”. Hàn Phi cho rằng, nếu chỉ có hai điều

“pháp” và “thuật” mà thiếu đi quyền lực để cưỡng bức người, thì dẫu người làm

vua có “thuật” điều khiển bầy tôi tốt đến mấy cũng không thể đảm bảo sự phục

tùng của bầy tôi đối với vua. Đồng thời, dẫu có “pháp luật”, nhưng nhân dân không

tuân theo, cũng không thể đảm bảo cho pháp luật được thực hiện có hiệu lực. Cho nên,

giữa "pháp" và "thế" có mối quan hệ đặc biệt và hết sức cần thiết.

Page 70: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

64

Hàn Phi lý giải, nếu thiếu "pháp" thì "thế" mất phương hướng, không thể phân biệt

được “danh phận” dễ đi đến chỗ bạo ngược, tàn ác. Trong “Nhân chủ”, Hàn Phi viết: Sở

dĩ bậc vua chúa thân nguy nước mất là vì quan đại thần quá sang và oai. Gọi là sang, bởi

vì không có pháp luật mà tự tiện hành động [38, tr.580].

Ngược lại, "pháp" chỉ có thể thực hiện được khi có "thế". Trong quan hệ này

thì "thế" nhờ "pháp" làm cơ sở, còn "pháp" nhờ "thế" mà biểu hiện, thực thi và bắt

mọi người phải tuân theo. Cũng giống như rồng mạnh được là nhờ vào mây, khi

mây tan mù tạnh thì dẫu có vùng vẫy đến mấy thì cũng chỉ như giun, như rắn vì đã

mất chỗ dựa, cho nên Hàn Phi viết: Nghiêu khi là thuộc hạ mà giáo dục thì dân

chúng không nghe, nhưng đến khi quay mặt về hướng nam thì lệnh ban ra được thi

hành [38, tr.468]. Ông vua là biểu hiện tập trung của "thế", có quyền lực tối cao và

cai quản thiên hạ bằng "pháp". Việc đặt ra pháp luật cốt là để tạo "thế" cho nhà vua,

cho nên nhà vua gương mẫu tuân thủ pháp luật là điều kiện tiên quyết để tạo ra "thế", giữ

"pháp độ" là phương pháp tốt nhất để duy trì "thế". Trong “Hiển học”, ông nói:

Phàm cái nhà mà nghiêm khắc thì không có đầy tớ dữ, nhưng bà mẹ hiền từ thì có

đứa con hư [38, tr.466]. Cũng tương tự:Nếu ông vua không thể làm sáng tỏ pháp luật

để khống chế cái uy của các đại thần thì không có cách nào làm cho những người

cấp dưới tin mình [38, tr.125].

Có thể nói, tư tưởng trị nước đến thời Hàn Phi dường như có đủ điều kiện để

hoàn bị, nhờ đó quan hệ "pháp – thế" đã được coi trọng đến mức có thể thay thế

được bậc hiền nhân. Đây cũng chính là cơ sở để Hàn Phi khẳng định lại quan điểm của

Pháp gia cho rằng, việc trị nước chỉ cần một ông vua có đức trung bình vẫn có thể trị vì

thiên hạ, miễn là ông vua đó biết dùng "pháp" và "thế". Hàn Phi nói: Bậc minh chúa

…lấy “thế” mà hành giáo nghiêm ngặt thì kẻ địch không dám làm trái… sau đó pháp

mới thi hành nhất trí [38, tr.472].

Thứ ba, quan hệ giữa “thuật - thế”. Trong tư tưởng pháp trị, “thuật” và “thế” là

hai công cụ, phương tiện để thi hành “pháp”, nó có quan hệ bổ trợ trực tiếp cho nhau.

Hàn Phi viết:

Page 71: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

65

Một nước là gì, là cái xe của nhà vua. Thế là gì, là ngựa của nhà vua. Không có thuật mà

điều khiển xe ngựa ấy dẫu có thân vất vả cũng không tránh khỏi loạn; nếu có thuật điều

khiển xe ngựa ấy thì thân vẫn nhàn nhã mà việc lại bằng các đế vương [38, tr.135].

Nhưng mục đích tối cao của “thuật” là để bảo vệ chỗ đứng của nhà vua, cho nên

khi biết phát huy “thế” của mình thì “thuật” mới có chỗ dựa. Trong “Nhân chủ”, Hàn

Phi nêu ví dụ:

Con ngựa sở dĩ có thể chở nặng, kéo xe xa là vì sức gân của nó mạnh. Bậc vua chúa có

thể khống chế được thiên hạ, chinh phục được chư hầu là nhờ cái uy thế của mình…

Hổ báo sở dĩ thắng được người và bắt được trăm loài thú là vì có nanh vuốt… Nhà vua

bỏ mất uy thế của mình thì cũng như hổ báo bỏ mất nanh vuốt [38, tr.580].

Nghĩa là, nếu không còn "thế" thì cho dù có khôn ngoan tài giỏi đến mấy cũng

không thể nào cai trị được.

Hàn Phi nhấn mạnh rằng, “thuật thưởng phạt” là biện pháp quan trọng để bảo

tồn “thế”. Thưởng phạt không chỉ là một phương cách để nhà vua sai khiến quần thần,

mà nó còn thể hiện uy thế của nhà vua. Ông ví thưởng phạt giống như tay phải, tay trái

của nhà vua trong đạo trị nước, nếu nắm chắc thưởng phạt trong tay sẽ tạo nên quyền lực

tuyệt đối cho nhà vua. Cho nên, điều tối kỵ là nhà vua cho kẻ khác mượn quyền, bởi sự

dễ dãi ấy chắc chắn làm cho vua mất thế và dẫn đến thảm họa.

Mặc dù ba bộ phận cấu thành “pháp”, “thuật”, “thế” có mối quan hệ thống

nhất chặt chẽ với nhau, nhưng mỗi yếu tố cũng có những nhiệm vụ cụ thể: khi cần

cơ sở để thưởng phạt thì dựa vào “pháp”; nếu cần uy thế để người ta theo thì xét ở

“thế”. Hàn Phi gọi đó là “hành pháp”, “chấp pháp”, “thị thế”…; còn khi sai khiến

quần thần thì không gì bằng “thuật”. Khi phân tách về công dụng và cách thể hiện

với tư cách là mục đích, phương tiệnthì “thuật”, “thế” cũng khác “pháp” ở ba

điểm chính:

Một là, nếu “pháp” dùng để trị dân, thì “thuật”, “thế” để duy trì và ổn định

bộ máy cai trị.

Hai là, nếu “pháp” do vua, các quan, đại thần nắm giữ, thì “thuật”, “thế”

chỉ trong tay duy nhất nhà vua.

Page 72: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

66

Ba là, nếu “pháp” là hiến lệnh ban khắp muôn dân trăm họ, thì“thế” dùng

để thị uy, còn “thuật” là cái sâu kín, mưu lược, thủ thuật, thủ đoạn của vua.

Như vậy, “pháp – thuật – thế” là các yếu tố trong một hệ thống mang tính

chỉnh thể, chúng có tương quan mật thiết với nhau như nội dung với hình thức, mục

đích với phương tiện. Trong đó, “pháp” là nội dung của chính sách cai trị, “thế”,

“thuật” là phương tiện để thực hiện chính sách đó. Bộ ba “pháp”, “thuật”, “thế”

đều là công cụ của đế vương. Đưa “pháp – thế - thuật” thành hệ thống không chỉ là

thành công của Hàn Phi, mà còn là giá trị chính yếu của học thuyết pháp trị. Giá trị

của học thuyết cũng không chỉ dừng lại với tư cách là hệ phái tư tưởng thuộc kiến

trúc thượng tầng của giới địa chủ theo khuynh hướng quý tộc đương thời. Hơn nữa,

nó còn là thuật cai trị có thể vận dụng trong nhiều tình huống chính trị, ở những giai

đoạn lịch sử khác nhau. Cho nên, học thuyết pháp trị ở mức độ xác định, có ý nghĩa

và sức sống lâu dài trong lịch sử nhân loại.

2.4. Một số nhận định khái quát về vai trò, vị thế của Pháp gia trong lịch sử tư

tưởng chính trị - xã hội Trung Hoa cổ đại

Để nhận định đúng vai trò và vị thế của Pháp gia trong lịch sử tư tưởng chính

trị - xã hội Trung Hoa cổ đại, theo chúng tôi, cần tiến hành nghiên cứu đối sánh tư

tưởng của hai trường phái Nho gia và Pháp gia. Nho gia thì chủ trương cai trị xã

hộithuần túy dựa trên nền tảng đạo đức còn gọi là (đức trị); còn Pháp gia thì có

đường lối trị nước là pháp trị. Các học thuyết khác như Đạo gia, Mặc gia thời bấy

giờ ít có ảnh hưởng đến đời sống xã hội. Bởi Đạo gia thì đề cao việc “thuần phác

hóa” con người, đưa con người trở về với bản tính tự nhiên, làm như thế thì người

cầm quyền chỉ cần vô vi trị (không phải làm gì mà nước vẫn trị được). Mặc gia lại

đề cao tình yêu thương con người, đem tình yêu đến với mọi người thì chiến tranh

sẽ không xảy ra. Vì thế, cả hai học thuyết Đạo gia, Mặc gia đều tỏ ra bất cập trong

điều kiện xã hội vô cùng loạn lạc bởi chiến tranh thôn tính giữa các nước chư hầu

với nhau.

Page 73: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

67

Trong khuôn khổ luận án, chúng tôi cố gắng trình bày sở trường và sở đoản

của hai học thuyết Nho gia và Pháp gia. Nho gia chủ trương dùng đạo đức để cảm

hóa con người. Sức mạnh của sự cảm hóa được Khổng Tử đề cao hơn cả hình pháp:

Dùng chính lệnh để dẫn dắt dân, dùng hình pháp để giữ trật tự, dân tránh khỏi tội

nhưng chưa biết hổ thẹn. Dùng đức để dẫn dắt, dùng lễ để giữ trật tự, dân biết hổ

thẹn mà tiến tới chỗ tốt lành [16, tr.215].

Đó là quan điểm của Nho gia, tuy nhiên bản thân Khổng Tử cũng không thể

phủ nhận vai trò của pháp luật. Khi được hỏi về việc ông xử kiện thế nào với tư

cách là Đại Tư khấu, ông đáp: Xử kiện thì ta cũng như mọi người thôi, sao cho khỏi

kiện cáo kìa [16, tr.215]. Nghĩa là, Khổng Tử coi việc xử kiện là nguyên tắc chung

buộc ai cũng phải tuân thủ, song để không xảy ra kiện cáo, chắc chắn Khổng Tử đề

cao tinh thần “dĩ hòa vi quí”. Đó là điều mà Pháp gia không chấp nhận.

Trong sách Hàn Phi Tửchúng ta bắt gặp nhiều chương, truyện mang tính

luận chiến của Hàn Phi phê phán thuyết tính thiện của Nho gia, theo ông thì tính

thiện trong học thuyết này là nguyên nhân gây ra tội phạm. Cho nên, Hàn Phi đã phản

đối việc dùng nhân nghĩa và sự mê tín để trị nước, bởi lẽ khi dùng nhân nghĩa thì không

thể thi hành pháp luật nghiêm ngặt được. Trái lại, Nho gia thường lấy Nghiêu, Thuấn ra

để giáo hoá theo nguyên lý “thánh nhân dùng đức, tiểu nhân dùng sức”. Qua điểm này,

Hàn Phi cho rằng, chính sách đó rất chậm cho kết quả, còn nếu dùng pháp luật, thì kết

quả được đem lại nhanh hơn. Ông viết: Người nào làm đúng pháp luật thì thưởng, không

đúng thì phạt. Lệnh buổi sáng thì buổi chiều sẽ thay đổi. Trong mười ngày thì mọi việc sẽ xong

hết, cần gì phải đợi đến trọn năm [38, tr.417]

Trong bối cảnh xã hội loạn lạc, mọi trật tự kỷ cương đều đảo lộn thì thuyết

“đức trị” của Khổng Tử cũng như các học trò của ôngđòi hỏi phải có thời gian theo

cách “mưa dầm thấm lâu thành lụt” mới thực hiện được mục đích “dĩ đức cảm

hóa”. Bởi vậy, khi Khổng Tử khẳng định rằng, nếu không dùng đức để trị nước thì

chỉ sau ba năm là nước loạn. Khẳng định này mang nặng yếu tố chủ quan của

Khổng Tử. Có lẽ không phải ngẫu nhiên mà vua những nước được Khổng Tử diện

kiến, trình bày quan điểm trị nước của mình (trong thời gian chu du thiên hạ), đều

không chấp nhận cái gọi là viển vông, thiếu thực tế của Khổng Tử. Sự thất bại của

Page 74: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

68

Khổng Tử và các học trò của ông sau này là minh chứng đầu tiên về sự bất cập của

tư tưởng đức trị trong bối cảnh xã hội loạn lạc. Trong khi đó, đường lối “pháp trị”

của Pháp gia mang tính khả thi theo thời gian “lệnh ban ra buổi sáng, buổi chiều được

thi hành”. Tính hiệu quả vượt trội này đã làm cho Nho gia khó có thể chống lại được

Pháp gia trong “cuộc xung đột” về tư tưởng trị nước.

Để minh chứng cho sự vượt trội của Pháp gia so với Nho gia, chúng tôi xin

trình bày quan điểm của Mạnh Tử, một học trò chân truyền của Nho gia, người

được đánh giá là “có tài nghệ bài xích các học thuyết khác” [53, tr.259], trong cuộc

đấu tranh tư tưởng với Thương Ưởng – đại biểu ưu tú của Pháp gia, người nổi tiếng

về biến pháp chính trị và có công trực tiếp đào tạo nên Tuân Tử, Hàn Phi – những

người hoàn thiện tư tưởng xây dựng nhà nước phong kiến quân chủ chuyên chế

trung ương tập quyền đương thời.

Trong khi Mạnh Tử cho rằng, bản tính con người ta là thiện và không tham

lam. Khi tranh biện với Cáo Tử, Mạnh Tử nói: "Bản tính người ta vốn thiện, cũng

như nước chảy xuống thấp vậy. Người ta chẳng ai là bất thiện, như nước luôn luôn

chảy xuống thấp vậy" [16, tr.1193], thì Thương Ưởng cho rằng, con người có lòng

tham bẩm sinh. Kế thừa quan điểm này, Tuân Tử còn coi đây là luận điểm quan

trọng, là tiền đề xuất phát khi đi vào giải quyết những vấn đề chính trị - xã hội. Qua

đó cho thấy, quan điểm của Mạnh Tử tuy là lời tranh biện với Cáo Tử, song trong

trường hợp này cũng đồng thời chống lại quan điểm của Thương Quân.

Cùng với quan niệm về con người, Mạnh Tử còn ủng hộ mối liên hệ huyết

thống và khôi phục hình thức công xã trong lịch sử (hình thức quan hệ sản xuất khi đất

đai còn chưa bị rơi vào sở hữu tư nhân), tức chế độ tỉnh điền thì Thương Ưởng lại ủng

hộ phát triển ruộng đất tư và quan điểm đó rất phù hợp với thực tiễn đương thời.

Nếu như Thương Ưởng khẳng định khả năng của con người ta là ngang

nhau, thì Mạnh Tử tiếp thu quan điểm của Khổng Tử về phân chia đẳng cấp xã hội

một cách cứng nhắc, cho rằng trong xã hội: một số lao động trí óc, còn số khác lao

động chân tay. Kẻ lao tâm quản lý kẻ lao lực, còn kẻ lao lực bị kẻ lao tâm cai trị.

Kẻ lao lực nuôi kẻ lao tâm.

Page 75: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

69

Mạnh Tử phê phán các quan điểm cơ bản của Thương Ưởng, đồng thời đưa

ra chủ trương chính trị của mình về trị nước, trị dân, được gọi là Nhân chính. Về nội

dung, Nhân chính có thể qui về tám vấn đề, trong đó người cầm quyền cần phải: 1.

thực hiện vai trò phụ mẫu của dân, coi nhà nước là gia đình của mình và chỉ dùng

biện pháp ép buộc trong trường hợp bất đắc dĩ; 2. chia ruộng cho dân và khôi phục

chế độ tỉnh điền, mỗi nhà 100 mẫu như nhau; 3. từ bỏ chiến tranh xâm lược; 4. giảm

hình phạt; 5. giảm thuế khóa và cống nạp; 6. xóa bỏ chế độ độc quyền nhà nước

trong việc sử dụng núi, đầm và ao hồ; 7. đảm bảo lương bổng thừa kế cho tầng lớp

quí tộc. Ngoài 7 mục nêu trên, cần phải thêm một mục nữa mới thể hiện sự đầy đủ

trong chủ trương chính trị của Mạnh Tử, đó là nhà cầm quyền cần trao quyền cai trị

nhà nước cho các quan tài giỏi.

Có thể dễ ràng nhận thấy, trong bối cảnh xã hội thời Chiến Quốc, khi các quy

tắc xử sự trong xã hội không thể điều chỉnh bằng đạo đức, buộc nhà cầm quyền phải

điều chỉnh hành vi con người bằng những quy phạm của pháp luật thì cách hành xử

theo lối cũ (8 điểm Mạnh Tử nêu ra) là không thể thực hiện được. Bởi những luận

điểm đó không đáp ứng được nhu cầu của các quân vương ở thời Chiến Quốc, vì xét

đến cùng thì muốn hiện thực hóa một chủ trương nào đó đều phải thông qua người

đứng đầu chính thể, đó là nhà vua. Chúng ta có thể phân tích 3 điểm chính yếu sau:

Thứ nhất, nghiên cứu lịch sử Trung Quốc thời Xuân Thu – Chiến Quốc

chúng ta thấy rõ một điều là không có nước nào kỳ vọng vào việc chia đều ruộng

đất trong điều kiện chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất, đồng thời chủ trương thu

thuế theo hình thức “tỉnh điền” của nhà Chu là cực kỳ khó khăn.

Thứ hai, việc kêu gọi “từ bỏ chiến tranh xâm lược” trong bối cảnh các liên

minh quân sự và các nước thường tiến hành các cuộc chiến tranh chống nhau là điều

không tưởng.

Thứ ba, việc kêu gọi giảm thuế khóa và cống nạp cũng khó thực hiện, bởi lẽ

các cuộc biến pháp liên quan đến cải cách hành chính, mở rộng bộ máy quan lại ở

tất các các vương quốc ở Trung Hoa đương thời kéo theo chi phí tốn kém về tiền

bạc và lương thực.

Page 76: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

70

Thứ tư, mơ ước quản lý xã hội bằng cách trao quyền lực của nhà vua cho các

quan lại cai trị theo phương thức Thiên tử - Chư hầu nhà Chu, đang trở thành vấn

nạn cho xã hội đương thời.

Chỉ cần phân tích một số điểm trong chủ trương của Mạnh Tử, chúng ta cũng

đủ thấy Mạnh Tử muốn xây dựng mô hình xã hội lý tưởng mà ở đó các yếu tố “bá

đạo” phải bị loại bỏ. Nghĩa là, những kỳ vọng đó của Mạnh Tử là đặt trong một xã

hội lý tưởng, ở đó không tính tới bối cảnh loạn lạc và những thay đổi lớn lao về

nhiều mặt của đời sống xã hội. Bởi thế chính ông đã đưa học thuyết Khổng – Mạnh

đến chỗ bế tắc, không có ảnh hưởng tích cực nào đến đời sống chính trị của Trung

Hoa đương thời. Đến nỗi Sử ký viết:

Mạnh Kha đi sang Lương. Lương Huệ Vương cũng do dự, thấy những lời Mạnh

Kha nói, cho là viển vông không sát sự tình. Lúc bấy giờ Tần dùng Thương Quân

mà nước giàu mạnh binh mạnh; Sở, Ngụy dùng Ngô Khởi mà đánh thắng, làm yếu

địch; Tề Uy Vương, Tề Tuyên Vương dùng bọn Tôn Tử, Điền Kỵ mà chư hầu

hướng về đông chầu Tề. Thiên hạ đang lo hợp tung, liên hoành, lấy việc đánh nhau

làm giỏi. Thế mà Mạnh Kha lại nói đạo đức của các đời Đường, Ngu, Tam đại. Vì

thế, ông đi đến đâu cũng không được vừa ý [110, tr.388].

Như vậy, trải qua nhiều năm tranh biện giữa Nho gia và Pháp gia, cuối cùng

tư tưởng đạo đức của Nho gia đem ra thuyết trình để cứu đời không còn hợp nữa.

Nguyên nhân trực tiếp của hiện tượng này là do tồn tại xã hội đã thay đổi, mô hình

giáo hóa của Nho gia chỉ phù hợp với một đất nước nhỏ, ở đó vua – dân biết nhau,

nhờ đó chủ trương “nhân trị”, dùng ảnh hưởng cá nhân của một ông vua mẫu mực

như Nghiêu – Thuấn để làm gương, giáo dục thiên hạ thì rất mực khâm phục và

tuân theo. Tuy nhiên, bối cảnh xã hội Chiến Quốc khi Thất hùng đã được thiết lập

với đặc điểm đất rộng, dân đông thì chủ trương nhân trị rõ ràng là không phù hợp

nữa. Cho nên, Thương Ưởng và các Pháp gia vốn là những người có đầu óc thực tế

đã không câu nệ vào gương trị nước của các vua huyền thoại, mà căn cứ vào những

thành quả do phong trào biến pháp đem lại, chỉ tôn trọng và sử dụng biện pháp quản

lý xã hội bằng hệ thống pháp luật đồng bộ là hoàn toàn hợp lý… Sự hợp lý này tự

nhiên đã nâng vị thế của Pháp gia lên một tầm cao mới.

Page 77: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

71

Với biến pháp, cách tân, Thương Ưởng đã đề xuất đường lối phát triển xã hội

là “trị thế bất nhất đạo, tiện quốc bất tất pháp cổ”, phản đối tư tưởng thủ cựu, chủ

trương coi trọng việc ngày nay, xem nhẹ việc xưa. Ông phản đối thuyết “thiên

mệnh” của Nho giáo, đồng thời làm cho con người tin vào sức mạnh của chính

mình cùng với một thế giới quan duy vật mộc mạc. Thương Ưởng cũng chủ trương

“lấy hình pháp để loại bỏ hình pháp”, đề cao sự biến hoá của sự vật, biểu hiện rõ tư

tưởng biện chứng thô sơ.

Ngoài Thương Ưởng, các đại biểu tiền bối khác của Pháp gia đã có những

đóng góp đáng kể trong việc đề xuất các phương án khác nhau về đường lối cai trị

của các nước trong hệ thống Thất hùng, đồng thời tạo đà cho Hàn Phi tích hợp, luận

giải, luận chứng cho một học thuyết hoàn chỉnh, đó chính là “Học thuyết pháp trị”.

Là người phát triển Học thuyết pháp trị lên đến đỉnh cao, cho nên những hạn

chế của Hàn Phi cũng chính là những hạn chế lịch sử của Pháp gia. Nói một cách

khách quan và công bằng thì tư tưởng Pháp gia là sản phẩm của lịch sử.

Ngoài việc tích hợp ba nội dung “pháp – thế – thuật” cho đường lối trị nước,

trong việc hoàn thiện học thuyết pháp trị, Hàn Phi còn đưa ra chủ trương xây dựng

nhà nước mạnh dựa trên nhiệm vụ quan trọng là “canh chiến”, tức sản xuất nông

nghiệp và thực hiện chiến tranh kiêm tính. Còn về văn hóa và giáo dục, theo Hàn

Phi, đều là những việc không cần thiết. Trong thiên “Ngũ đố” ông viết:

Nay chuyện trau dồi văn học, tập lối nói năng thì đã chẳng phải vất vả như cày

ruộng, lại có được cái thực tế là giàu có, chẳng phải nguy hiểm như chiến đấu lại có

được cái tôn quí được sang. Như thế thì ai mà chẳng làm? Kết quả một trăm người

dùng trí khôn mới có một người dùng sức lực, những người trau dồi cái trí đông thì

pháp luật hỏng, kẻ dùng sức lực ít thì nước nghèo. Vì vậy đời bị loạn lạc. Do đó,

nước của bậc vua sáng không có cái văn học trong sách vở, mà lấy pháp luật để dạy

dân, không có lời nói của các tiên vương mà lấy quan lại làm thầy… Vì vậy, dân

chúng trong nước khi nói năng đều nói theo phép tắc, mọi hành động đều cố lập

công, mọi sự dũng cảm đều nhằm vào việc quân [38, tr. 554].

Từ sự phân tích ở trên cho thấy, sở dĩ học thuyết pháp trị chiếm ưu thế trong

thời Chiến Quốc là bởi trong nội dung tư tưởng của nó hàm chứa những nhân tố

Page 78: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

72

hợp thời, lại được sự tích hợp và hoàn thiện bởi Hàn Phi, làm cho nó trở thành một

học thuyết có sức mạnh thuyết phục không chỉ về mặt lý luận, mà cả trên thực tiễn

đời sống xã hội. Chính vì vậy, không phải ngẫu nhiên mà người ta công nhận Hàn

Phi là “kiến trúc sư” vĩ đại, là “tập đại thành” của Pháp gia. Bằng hình tượng khá

sinh động, nhà nghiên cứu Phan Ngọc khi nói về nội dung tư tưởng của Pháp gia

dưới tài nghệ kiến tạo của Hàn Phi với bộ ba nguồn gốc, “ở đó Nho là vật liệu,

Pháp là bản thiết kế, Lão là kỹ thuật thi công” [38, tr.17].

Tiểu kết chương 2

Có thể nói, Pháp gia ra đời là sản phẩm tất yếu của lịch sử khi những điều

kiện kinh tế, chính trị - xã hội đã chín muồi. Cùng với Pháp gia, các hệ thống triết

học khác như: Nho gia, Đạo gia, Mặc gia… cũng phát triển rực rỡ và trở thành

những hệ thống triết học có ảnh hưởng lớn đến lịch sử tư tưởng chính trị - xã hội

Trung Quốc thời cổ đại.

Trong bức tranh “Bách gia tranh minh”, một mặt các học thuyết vừa đấu

tranh, phê phán nhau về lập trường tư tưởng, cách trị nước, nhưng mặt khác, chúng

lại bổ sung, hoàn thiện cho nhau về quan điểm chính trị xă hội. Điều này cũng lý

giải tại sao khi nói đến triết học Trung Hoa thời kỳ cổ đại là người ta liên tưởng đến

triết học xã hội mà nội dung chủ yếu đều bàn về chính trị. Căn nguyên của vấn đề

này là ở chỗ, hầu như các học phái đều đi tìm lời giải đáp cho vấn đề cấp thiết về ổn

định trật tự xã hội và thống nhất toàn bộ Trung Hoa vào thời điểm này. Đó là mục

đích chung của tất cả các phái trong phong trào “Bách gia tranh minh”, song

phương hướng và biện pháp của họ không giống nhau, thậm chí trái ngược nhau

dẫn đến đổ máu.

Trong phong trào đấu tranh tư tưởng ấy, các đại biểu tiền bối của Pháp gia đã

tìm cho mình con đường riêng. Nhờ những chủ trương thức thời, họ đã giúp cho

thân chủ của mình có được nước hùng, quân mạnh, đồng thời góp phần hình thành

nên một học thuyết có tính hệ thống hoàn chỉnh. Tuy nhiên, trong tư tưởng của từng

đại biểu, việc tiếp cận và đề xuất các phương án, ở mức độ nhất định, đều mang tính

Page 79: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

73

phiến diện, thiếu tính tổ hợp cho nên hiệu quả áp dụng các phương án đó chỉ dừng

lại ở việc tạo nên sức mạnh cho một nước (chư hầu) nào đó tin dùng họ.

Rốt cục, trước yêu cầu lịch sử này, Hàn Phi đã xuất hiện vừa với tư cách là học

trò của Nho gia, thông hiểu Đạo và Mặc, vừa kế thừa tư tưởng các đại biểu Pháp gia

tiền bối để tổng hợp và hoàn thiện hệ thống triết học chính trị của Pháp gia. Nội dung

ăn bản và cốt lõi của tư tưởng Pháp gia là mối quan hệ “pháp – thuật – thế”. Thành

côngcủa Pháp gia là tư tưởng của trường phái này đã được các lãnh chúa sử dụng đưa

vào thực tiễn. Sự lấn át lấn át các học thuyết chính trị - xã hội khác của Nho gia, Mặc

gia là bằng chứng sinh động khẳng định vị thế và vai trò của Pháp gia trong lịch sử tư

tưởng chính trị - xã hội Trung Hoa thời cổ đại. Cũng không phải ngẫu nhiên mà Tần

Thuỷ Hoàng tỏ ra rất tâm đắc với học thuyết này và vận dụng vào việc thống nhất

Trung Hoa vào năm 221 Tr.CN, mở đầu thời kỳ phong kiến Trung Hoa với mô hình

nhà nước quân chủ chuyên chế lấy tư tưởng pháp trị cấp tiến làm công cụ trị nước của

mình. Chính vì vậy, việc tìm hiểu ảnh hưởng của tư tưởng pháp trị để làm rõ vai trò của

Pháp gia dưới chế độ phong kiến Trung Hoa là hết sức cần thiết.

Page 80: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

74

Chương 3. ẢNH HƯỞNG CỦA PHÁP GIA TRONG LỊCH SỬCHẾ ĐỘ

PHONG KIẾN TRUNG HOA (221 Tr.CN – 1840)

3.1. Ảnh hưởng của Pháp gia trong sự hình thành và phát triển chế độ quân

chủ chuyên chế Trung Hoa

Có thể vắn tắt về ảnh hưởng của Pháp gia đến tư tưởng chính trị - xã hội Trung

Hoa qua ba thời kỳ: thứ nhất, là thời kỳ các nước chư hầu Tần; thứ hai, là thời kỳ đế

chế Tần thống nhất Trung Hoa cổ đại, thứ ba, là từ nhà Hán trở đi.

Theo đó, ở thời chư hầu Tần, sự vượt trội của Pháp gia trong thời kỳ Đông

Chu đã làm cho những nước áp dụng các cuộc biến pháp trở nên hùng mạnh. Sự thất

bại của tư tưởng Nho giáo trong cuộc chiến mà chúng tôi đã trình bày ở chương 2 đã

minh chứng cho điều đó. Tuy nhiên, khi đế chế Tần có được thiên hạ (221 Tr.CN), thì

lại áp dụng tư tưởng pháp trị một cách cấp tiến và cũng rất hà khắc, làm cho mâu

thuẫn xã hội ngày càng trở nên gay gắt. Do đó, chỉ sau 15 năm thống nhất đất nước,

nhà Tần đã bị sụp đổ bởi nhà Hán (năm 207 tr.CN), điều này cũng kết thúc sứ mệnh

lịch sử của học thuyết pháp trị đối với đế chế Tần. Từ thời Hán đến chiến tranh thuốc

phiện (năm 1840), nhà nước phong kiến Trung Hoa đã trải qua chín giai đoạn, sự

phân chia này về cơ bản tương ứng với các triều đại trị vì đất nước này. Rút kinh

nghiệm về đường lối trị nước của nhà Tần, các triều đại phong kiến về sau đã trải qua

những thử nghiệm trong lĩnh vực văn hóa chính trị, từ chủ trương “vô vi” của Đạo gia

đến sự dung hợp Nho – Pháp để tìm ra cách thức trị nước phù hợp. Phương án dung

hợp tỏ ra có hiệu quả hơn và phù hợp với hình thức tổ chức nhà nước quân chủ

chuyên chế Trung Hoa.

3.1.1. Vài nét khái quát về nhà nước quân chủ chuyên chế và vai trò của Pháp

gia trong hệ thống kiến trúc thượng tầng của nó

Theo từ điển tiếng Việt, chế độ quân chủ chuyên chế, hay còn gọi là chế độ

quân chủ tuyệt đối, là chế độ mà trong đó quyền lực của vua không có giới hạn và

không chịu sự kiểm soát nào cả [134, tr.805]. Quân chủ chuyên chế còn được biết

Page 81: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

75

đến với nguyên tắc phổ quát là truyền ngôi báu theo thể cha truyền con nối gắn liền

với đặc điểm căn bản nhất dùng hình thứcphân phong đất đai.

Trong lịch sử xã hội phong kiến Trung Hoa cổ đại, chế độ quân chủ chuyên

chế thường được chia ra hai hình thức là “quân chủ trung ương tập quyền” và

“quân chủ phân quyền cát cát cứ”. Trong thời kỳ đầu của nhà Chu, hình thức tổ

chức nhà nước theo lối phân phong, đứng đầu là Thiên tử (vua nhà Chu), tiếp đến là

các vua chư hầu (công, hầu, bá, tử, nam). Sự phân phong theo năm bậc đó tùy thuộc

vào đất đai và dân số của các nước chư hầu. Như vậy, hình thức tổ chức này về thực

chất là chế độ quân chủ phân quyền cát cứ, dẫn đến tình trạng các nước chư hầu có

xu hướng tách khỏi sự lệ thuộc vào Thiên tử nhà Chu và giữa chúng xuất hiện các

cuộc chiến tranh giành đất và phân chia thứ bậc.

Tình trạng cát cứ, nội chiến liệt diễn ra dưới thời Đông Chu (Xuân Thu –

Chiến Quốc; 770-221 Tr.CN) như chúng tôi đã trình bày ở chương 2, kéo dài hàng

trăm năm với nhiều cuộc chiến tranh thôn tính lẫn nhau, làm cho tình hình chính trị

- xã hội thời Đông Chu trở nên loạn lạc. Bối cảnh đó tất yếu dẫn đến xu hướng mới

trong sự phát triển của xã hội, đó là sự xuất hiện quá trình thống nhất Trung Hoa

không phải bằng con đường hiệp thương hòa bình, mà tiếp tục đẩy mạnh chiến

tranh kiêm tính để thống nhất toàn cục Trung Hoa.

Về mặt tư tưởng chính trị, thời đại Xuân Thu – Chiến Quốc là thời kỳ rất đặc biệt

của Trung Hoa cổ đại, các học phái nổi lên và tranh giành ảnh hưởng lẫn nhau không

kém phần khốc liệt. Sở dĩ gọi là đặc biệt, vì thời đó có hàng chục học phái, đến hàng

trăm học giả đưa ra các luận thuyết, họ đàm đạo về công việc đế vương, một cảnh tượng

“trăm hoa đua nở trong 2000 năm sau không thấy tái hiện nữa” [59, tr.31]. Sang thời

Chiến Quốc, có Nho gia, Đạo gia, Mặc gia, Danh gia, Pháp gia, Âm dương gia… là phát

triển nhất. Trong số những hệ phái trên lại có thể phân ra làm hai đường lối chính trị tiêu

biểu muốn thiết lập lại trật tự cho Trung Hoa, trong “Chiến Quốc sách”, Nguyễn Hiến

Lê phân định như sau:

Một chủ trương, muốn giữ lại chế độ cũ, chế độ phong kiến, tăng uy quyền cho

thiên tử, bắt các chư hầu phải phục tùng – khuynh hướng này có Nho gia và Mặc

gia. Mới đầu có Khổng Tử muốn cứu nhà Chu, nhưng về sau khi Chu quá suy đồi

Page 82: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

76

thì Mặc tử, Mạnh Tử, Tuân Tử muốn có một vị minh quân làm thiên tử để thay thế

nhà Chu thống trị Trung Quốc;

Chủ trương khác, muốn đạp đổ chế độ cũ vì biết rằng nó không thể tồn tại bao lâu nữa,

chủ trương này có Đạo gia, Pháp gia. Đạo gia muốn theo trật tự tự nhiên, đả phá chế độ

cổ (phong kiến sơ kỳ) để trở về với thời sơ khai của con người (tức đưa con người trở về

dạng thuần phác, không cần giáo hóa, nhà cầm quyền nhờ đó mà thực hành đường lối

chính trị "vô vi"). Ngược lại Pháp gia thì muốn dùng vũ lực lật đổ chế độ phân phong

điền địa chư hầu mà lập ra một chế độ quân chủ chuyên chế độc tài [57, tr.17-19].

Người thử nghiệm thành công xu hướng thứ hai chính là Thương Ưởng, ông đã

thử nghiệm trên đất Tần dưới thời Tần Hiếu Công và lý thuyết này được Hàn Phi công

bố thành học thuyết pháp trị.

Do đó, càng về cuối thời Chiến Quốc thì xu hướng chính trị càng đi nhanh về

hướng trung ương tập quyền theo sự chỉ đạo của tư tưởng Pháp gia. Thông qua con

đường pháp trị, lấy “pháp - thế - thuật” làm “kim chỉ nam” cho việc xây dựng nhà nước

lý tưởng. Theo đó, quyền lực của nhà vua là tối thượng và không chịu bất cứ một sự

hạn chế nào. Bộ máy nhà nước và hệ thống quan lại từ trung ương đến địa phương

chỉ là công cụ của nhà vua nhằm thực hiện sự cai trị của mình, ở đó không tồn tại

khái niệm công dân, mà chỉ có khái niệm thần dân hay thuộc dân.

Như trên đã đề cập, nhà nước quân chủ chuyên chế gắn liền với sự xuất hiện

trường phái Pháp gia, chủ trương pháp trị của trường phái này là mọi quyền lực đều

tập trung trong tay nhà vua; đất đai và thần dân cũng đều là của vua. Do đó, vua là

người cao nhất nắm mọi quyền hành về lập pháp và hành pháp, mọi chỉ thị, lệnh dụ

của vua, về nguyên tắc và ban đều mang tính pháp lý một cách vô điều kiện. Đặc

điểm đó của Pháp gia cũng là đặc điểm căn bản nhất của nhà nước quân chủ chuyên

chế trung ương tập quyền.

Tuy nhiên, ở nhà nước đó, hệ thống pháp lý phản ánh quyền lực của vua được

hình thành không phải là ngẫu nhiên thông qua tích hợp các mệnh lệnh ban bố trong đời

sống thực tiễn xã hội, mà hoàn toàn có cơ sở lý luận rõ ràng do các đại biểu của Pháp gia

đề xuất, tạo ra một nét đặc trưng thời kỳ này: điểm đặc biệt nhất trong thời kỳ Chiến

Page 83: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

77

Quốc là sự xuất hiện chế độ trung ương tập quyền, với việc quy tụ quyền sở hữu

ruộng đất và tập trung luật pháp, binh lực về chính phủ trung ương [13, tr.21]. Có

thể khái quát mô hình hình nhà nước quân chủ chuyên chế theo lý tưởng của Pháp gia

theo bốn đặc điểm như sau:

Thứ nhất, nhà nước thiết lập hệ thống pháp chế trung ương tập quyền

Một nguyên tắc đã trở thành chân lý của các xã hội có giai cấp, đó là hễ có quốc

gia thì phải có pháp luật và Trung Hoa đã có pháp điển từ lâu.

Tương truyền có các bộ Vũ hình (đời vua Vũ), Thang hình (đời vua Thang) và

Cửu hình (đời Chu) cả ba đều thành lập khi quốc gia loạn… Những hình luật đó

được chép trong sử mỗi nước. Chứng cứ là trong lần họp chư hầu ở Ninh Mẫu

(Sơn Đông) năm 653 Tr.CN. Quản Trọng bảo Tề Công rằng, các quyết định trong

cuộc họp đều được ghi vào sử mỗi nước chư hầu, tức khắc lên thẻ tre cất trong

thư khố của mỗi triều đình [59, tr.17].

Hơn nữa, đã là chế độ quân chủ chuyên chế thì càng đòi hỏi đấng minh quân phải

có công cụ để duy trì, bảo vệ đặc quyền, đặc lợi của ông vua. Công cụ đó không có gì

khác là hệ thống pháp luật thành văn.

Các đại biểu của Pháp gia tiền bối đặc biệt nêu cao tinh thần pháp luật, Quản

Trọng viết: Minh chủ thống nhất pháp độ, lập nghi thức bảo vệ và biểu hiện cho vững

chắc. Cho nên, mệnh lệnh ban ra, nhân dân theo. Luật pháp là hình thức của thiên hạ và

nghi biểu cho mọi công việc [xem 106, tr.313].

Năm 536 Tr.CN, Tử Sản cho đúc “Hình thư” ở nước Trịnh lên cái đỉnh bằng sắt

lớn. Khi Tử Sản cho đúc “Hình thư”, thì Khổng Tử (nước Lỗ) và Thúc Hướng (người

nước Tống) phản đối và cho rằng: làm như thế thì tới đời con cháu chúng ta, nước

Trịnh sẽ nguy mất [59, tr.51]. Tử Sản trả lời: Kiều tôi bất tài, đâu dám nghĩ đến đời con

cháu chúng ta, chỉ mong cứu đời lúc này thôi [59, tr.52]. Năm 513 Tr.CN Triệu Ưởng

cũng học theo Tử Sản cho đúc hình thư trên đỉnh ở nước Tấn. Năm 359 Tr.CN, Thương

Ưởng tiến hành biến pháp ở nước Tần, một vị đại thần tên là Cam Long e sợ, ông ta

muốn giữ lề cũ, Thương Ưởng đáp trả: kẻ trí giả làm ra pháp chế, kẻ ngu dại lại lo ngăn

cản người hiền thay đổi lễ [110, tr.330]. Năm 221 tr.CN, sau khi thống nhất các nước

Page 84: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

78

chư hầu, một trong những công việc đầu tiên mà Lý Tư giúp Tần Thuỷ Hoàng là gấp rút

thực hiện kế sách, mưu lược của Hàn Phi, Tư cho ban bố pháp luật trong toàn thiên hạ.

Tuy nhiên, dùng pháp luật thì không thể tuỳ tiện, nhất là với các đại biểu Pháp

gia, những người đã đề ra những nguyên tắc căn bản để xây dựng pháp luật. Với tinh

thần, Pháp lệnh là hiến lệnh của công sở được biên chép vào sổ sách, đặt nơi quan

phủ, để ban khắp trăm họ [38, tr.478]. Pháp gia đã yêu cầu, đó là hệ thống pháp luật

phải đảm bảo: thống nhất, ổn định, công khai; phải công bằng; phải rõ ràng, dễ hiểu,

dễ thi hành; phải hợp thời. Những nội dung cụ thể chúng tôi đã trình bày trong

nguyên tắc dùng pháp khi trình bày tư tưởng Hàn Phi và các Pháp gia.

Như vậy, hệ thống pháp chế tập quyền, theo Pháp gia là công cụ trị nước của

bậc đế vương, nó có vai trò quan trọng và có ý nghĩa đặc biệt đối với phép trị nước

của các quân vương.

Thứ hai, là nhà nước tập trung quyền lực trong tay nhà vua

Theo các Pháp gia, muốn tập quyền thì nhà vua phải có uy thế tuyệt đối, nắm hết

quyền hành trong tay, đích thân chế ngự quần thần mà không dùng nhân nghĩa, tình cảm.

Trong Quản Tử, thiên "Minh pháp giải" viết:

Sở dĩ vua khống chế được bề tôi bên dưới là do uy thế vậy. Cho nên uy thế ở

bên dưới thì vua chế ngự được bề tôi; uy thế ở trên, thì bề tôi chế ngự vua… Vì

thế vị vua sáng trong thiên hạ, uy thế chỉ là của vua, mà không dùng chung với

bề tôi, pháp chính chỉ được đặt ra ở vua… pháp chính muốn rõ ràng thì uy

quyền không thể đặt ở hai nơi, chính trị không thể ở hai cửa [xem 14, tr.643].

Còn Thận Đáo thì nghiêm cấm có một chính sách “lưỡng thể”, ông viết:

Lập ra thiên tử không để chư hầu suy bì; lập ra quan đại thần chớ để chư hầu suy bì, lập

ra vợ cả chớ để vợ thứ suy bì… có hai bè đảng thì sẽ tranh giành nhau. Có nhiều thì sẽ

làm hại nhau, hại vì chung đụng nhau chứ không phải có một [55, tr.183].

Đó là quan điểm khá tiến bộ, thể hiện tư tưởng một nhà nước tập quyền. Tư

tưởng này về sau được Hàn Phi tổng kết: Quyền thế là cái không thể cho người ta mượn.

Nếu nhà vua bỏ mất một thì bầy tôi sẽ biến nó thành trăm… nếu bề tôi mượn được quyền

thế thì bên trong bên ngoài đều mạnh, khi đó nhà vua bị che lấp [38, tr.392].

Page 85: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

79

Do đó, giữ quyền thế cũng giống như giữ pháp luật trong tay là biện pháp

song hành của nhà vua. Để tạo “thế” thì nhà vua phải dùng biện pháp nào? Trị

nước, trị quần thần thì nhà vua phải dùng pháp luật để khống chế cái uy quyền của

các đại thần, tôn địa vị của mình lên và hướng thần dân vào mình. Do đó Pháp gia

yêu cầu:

Một là, muốn giữ được pháp độ thì ông vua phải là người chấp pháp và

gương mẫu. Trước hết, đó là ông vua phải giữ nghiêm kỷ cương pháp luật. Những

người theo Pháp gia yêu cầu vua chấp hành pháp luật là một yêu cầu tiên quyết để

tạo ra cái thế.

Hai là, nhà vua muốn tạo thanh thế thì phải nắm chắc lấy hai công cụ sắc bén

để trị nước là "thưởng – phạt". Tiếp nối tư tưởng của Thương Ưởng về biến pháp,

Hàn Phi coi thưởng phạt là “hai tay của nhà vua”, ông viết:

Phàm trị thiên hạ, thì phải tuỳ theo nhân tình. Nhân tình có điều chuộng điều ghét,

nên thưởng phạt có thể dùng. Thưởng phạt có thể dùng thì lệnh cấm có thể lập, mà

đạo trị nước có đủ vậy [38, tr.524]. Cho nên, các tiên vương làm sáng tỏ sự thưởng

phạt để khuyến khích họ, lập hình phạt để ra uy. Việc thưởng phạt được soi sáng thì

dân quyết chết. Dân quyết chết thì quân đội mạnh và vua được đề cao [38, tr.168].

Khi thưởng phạt công minh thì dù dân có chết cũng không oán thán, được

thưởng cũng phải chịu ơn, còn trong trường hợp nếu như không có thưởng phạt,

khen để khuyến khích, không có cái uy của hình phạt, bỏ cái thế, bỏ pháp luật, thì

dù có Nghiêu Thuấn đến cửa thuyết từng nhà cũng có người cãi lại nên không quản

được ba nhà.

Do đó, “thưởng – phạt” lại là một nghệ thuật của đế vương. Nhưng thưởng phạt

như thế nào để có tác dụng nhất, Pháp gia đề ra một số nguyên tắc căn bản như: Thưởng

hậu – phạt nặng; thưởng phạt phải theo phép nước; vua phải nắm quyền thưởng phạt.

Bởi vì, khi phạt nặng thì dân thấy sợ mà tránh, nhưng dân vốn ham lợi nên thưởng để

dân thấy lợi mà ham. Vì thế, vị vua anh minh là người khi thưởng phải “tín”, phạt phải

“tất”. Nghĩa là, thưởng thì phải xác thực, còn phạt thì phải kiên quyết.

Trong “Định pháp” Hàn Phi đã viết: thưởng thì không bỏ sót kẻ thất phu, nghĩa

là thưởng thì không có sự phân biệt đẳng cấp. Nếu khen thưởng đúng sẽ là liều thuốc tinh

Page 86: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

80

thần khiến thần dân chết mà vẫn theo, trong “Nội trữ truyện, Thất thuật” Hàn Phi viết:

nếu hưởng hậu và chắc chắn thì kẻ dưới coi thường cái chết [38, tr.265]. Tuy nhiên, ưu

điểm của dùng pháp luật còn thể hiện ở chỗ, bên cạnh làm theo phép công, thưởng phạt

cần phải không mâu thuẫn. Chẳng hạn, khi ban thưởng cho người lập được công mà lại

xem thường quan võ, hay kẻ gắng sức canh tác mà lại coi rẻ nghề nông, hoặc khen

thưởng người chém được đầu quân địch mà lại đề cao hành vi nhân từ là vô lý. Ở

phương diện này thì Hàn Phi đã thể hiện sự vượt trội so với các Pháp gia tiền bối. Ngoài

ra theo ông, vua phải nắm quyền thưởng phạt tuyệt đối,bởi thưởng phạt có sức mạnh cảm

hoá và thu phục con người, mà bản chất người là chạy theo cái lợi. Nếu nhà vua bỏ mất

một trong hai quyền đó thì vua sẽ bị quần thần khống chế.

Có thể nói, những đóng góp về lý luận pháp luật và xây dựng một thể chế

hùng mạnh của các Pháp gia là một cống hiến trong lịch sử lập, hành pháp. Dựa vào

lý thuyết này, Lý Tư đã giúp Tần Thủy Hoàng xây dựng bộ máy nhà nước quân chủ

độc tài sau khi thống nhất Trung Hoa.

Thứ ba, thiết lập một hệ thống chính trị - hành chính thống nhất

Cùng với hệ thống pháp luật chặt chẽ, để có một nhà nước mạnh, các Pháp gia

còn chú trọng đến việc xây dựng một hệ thống quản lý hành chính để vận hành pháp luật.

Trong “Phương lược cải cách của Quản Trọng” ở nước Tề, Quản Trọng đã phân chia

khu vực hành chính và thiết lập một bộ máy quan liêu. Cụ thể:

Các khu vực hành chính trong nội đô chia năm nhà một quỹ, mười quỹ một lý, bốn lý

một liên, mười liên một lương… Trong cả nước các khu hành chính chia theo: 30 nhà

một ấp, có ấp ti; 10 ấp là một tốt, tốt có tốt suý; 10 tốt là một hương, hương có hương

trưởng; 30 hương là một huyện, huyện có huyện suý; 10 huyện là một thuộc, thuộc có

đại phu. Triều đình lập năm đại phu, mỗi người cai quản cả nước, quan lại các cấp cai trị

trong phạm vi của mình [11, tr.196].

Như vậy, sự phân chia địa giới hành chính làm năm cấp và theo khu vực trên

phạm vi cả nước là một bước tiến bộ lớn trong lịch sử. Có lẽ gần một thế kỷ sau ở nước

Trịnh, Tử Sản cũng học theo Quản Trọng mà tiến hành cải cách hành chính, ông yêu

cầu mỗi khâu (= 16 tỉnh, mỗi tỉnh = 5 nhà) để quản lý. Với việc phân chia khu vực

Page 87: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

81

hành chính và các chức vụ quản lý tương ứng như trên đã chứng tỏ tư tưởng xây dựng

một nhà nước trung ương tập quyền đã được manh nha từ thời kỳ này.

Năm 359 tr.CN, Thương Ưởng cũng tiến hành cải cách hành chính ở nước

Tần, ông tiếp thu tư tưởng của Quản Trọng, Tử Sản về cách thức quản lý, nhưng

rất khắt khe, nhằm mục đích “liên gia tự quản để cáo gian”:

Tổ chức liên gia 5 nhà và 10 nhà, bắt phải tố cáo lẫn nhau, thấy kẻ có tội mà

không tố cáo thì chém ngang lưng, tố cáo thì thưởng như chém được đầu giặc;

chứa chấp kẻ gian thì tội như đầu hàng quân địch[110, tr.331].

Từ năm 350 – 348 Tr.CN, Thương Ưởng lại tiến hành biến pháp lần thứ hai

thiên về mặt hành chính: Cấm cha con, anh em ở chung một nhà; phân cư và hợp

tác các làng, xóm nhỏ lại thành huyện, đặt chức quan lệnh và thừa. Được tất cả

31 huyện [110, tr.333].

Sau Thương Ưởng gần hai thế kỷ, vẫn trên đất Tần, Tần Thuỷ Hoàng đã vận

dụng triệt để tư tưởng quản lý xã hội của Pháp gia vào một nhà nước quân chủ Trung

Hoa đa dân tộc thống nhất.

Về nội chính, để củng cố nền thống trị chuyên chế và tránh cục diện hỗn loạn,

Thuỷ Hoàng đã thiết lập bộ máy với quyền lực tối cao là “triều đình”, đứng đầu là

Hoàng đế cùng bộ máy cai trị độc tài. Tần Vương Doanh Chính cho rằng, để xứng

đáng với vị thế của quốc vương một nước rộng lớn, ông quy định gọi vua là Hoàng

đế, bản thân ông lấy hiệu là Thuỷ Hoàng đế (tức vị vua khởi thuỷ), các đời con cháu

sau này sẽ nối ngôi lần lượt là “Nhị thế”, “Tam thế”… đến vạn thế. Hoàng đế tự

xưng là “trẫm”, lời hoàng đế ban ra là “chiếu”, “chế”. Bộ máy quản lý của Tần gồm

hai cấp:

Ở Trung ương, dưới Hoàng đế là 3 chức quan: đứng đầu là Thừa tướng (tức tể tướng),

Thái uý và Ngự sử đại phu. Thừa tướng giúp Hoàng đế giải quyết việc chính trị, Thái uý

phụ trách về quân sự, Ngự sử đại phu trách văn thư và giám sát các quan. Dưới ba vị này

là 9 viên quan phụ trách các việc khác nhau như: Đình uý coi việc hình, Thiếu phủ coi

việc thuế khoá…

Ở địa phương, Tần Vương Doanh Chính chia đất của sáu nước thành quận, huyện

(thời Thương Ưởng, Tần đã chia làm nhiều huyện, mỗi huyện là một đơn vị hành

Page 88: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

82

chính trực thuộc triều đình, có một viên quan thu thuế). Sau lập thêm quận ở những

miền mới chiếm được. Quận là một quân khu lớn, nhất là ở những miền mới chiếm

được, đứng đầu là quận là Uý. Vì muốn thống nhất quốc gia, vua Tần bắt huyện tuỳ

thuộc quận, mỗi quận gồm nhiều huyện, viên chủ quận là một võ quan gọi là Lệnh.

Sau tổ chức lại, mỗi quận gồm một quận thú coi về dân sự, và một quận uý coi về

quân sự. Ở trên cả, có một viên giám ngự sử chỉ chịu trách nhiệm với nhà vua, như

vậy không một viên nào chuyên quyền được, không thể thành một ông chúa như

trong thời phong hầu. Thời Tần Thủy Hoàng, Trung Hoa chia thành 36 quận. Cả hai

vị trí đứng đầu quận, huyện đều do thiên đình bổ nhiệm, dưới nữa là các cấp Hương,

Đình, Lý [78, tr.79].

Nhà Tần dùng biện pháp phân chia quận, huyện và phân công người phụ trách là

một mục đích chính trị sâu xa. Nó vừa đảm bảo được sự thâu tóm mọi đặc quyền, đặc lợi

vào tay Hoàng đế, đồng thời tránh hậu hoạ về sau tranh giành quyền lực. Trong “Sử ký”

Tư Mã Thiên viết: Tần vương không phong cho ai bất kỳ một thước, một tấc đất nào,

không lập con em làm vương, các công thần làm chư hầu để đời sau khỏi lo việc các

nước đánh nhau [110, tr.522].

Nhìn chung, xã hội Tần lúc này đã huỷ chế độ “thế khanh, thế tộc”, thay vào

đó là sự hình thành 3 chế độ: chế độ quan lại, chế độ quận huyện và chế độ đẳng

cấp. Nhìn vào mô hình quản lý hành chính của Tần Thuỷ Hoàng có thể hiểu ra một thể

chế chính trị theo đúng lý luận mô phỏng của Pháp gia. Một mô hình được cấu tạo theo

hình tháp, trên đỉnh tháp là một ông vua, dưới vua là bộ máy giúp việc cai trị nhân dân.

Việc tuyển cử quan lại thay thế thân tộc là một cuộc cách mạng trong lịch sử phong kiến

Trung Quốc. Có được thay đổi lớn lao này là nhờ sự tổng kết những tinh hoa của

lịch sử, văn hoá, tư tưởng của nước Tần cùng sáu nước. Thông qua lăng kính của

Pháp gia đã tạo ra một hệ tư tưởng đặc sắc, một mô hình nhà nước phong kiến tập

quyền điển hình ở Trung Hoa.

Thứ tư, là mở rộng và thống lĩnh “thiên hạ”

Bao phủ thời Xuân Thu - Chiến Quốc là khung cảnh nội chiến loạn lạc do

Thất hùng giao tranh khốc liệt. Các nước này thay nhau làm bá chủ thiên hạ. Do đó,

yêu cầu lịch sử lúc này là “thống nhất bách tính”. Trong bối cảnh đó, các Pháp gia

Page 89: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

83

đã chủ trương tổ chức quân đội, luyện tập binh mã và thôn tính các nước chư hầu

nhằm thu non sông về một mối.

Để thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, thì xây dựng lực lượng quân đội vững mạnh

là một yêu cầu thiết yếu nhằm mục đích: về mặt đối nội, thì phát động toàn dân

tham gia canh chiến; về mặt đối ngoại, thì bành trướng, tiến hành chiến tranh giành

đất thống lĩnh thiên hạ.

Người tiếp tục sự nghiệp của Quản Trọng về phát triển quân đội trong xã hội

Chiến Quốc là Thương Ưởng. Ông học tập cách phân chia quân đội kết hợp với

hành chính áp dụng cho nước Tần. Nhưng lần này Thương Ưởng thiên về xây dựng

tổ chức quân lực gồm ba thứ quân:

Tráng nam họp thành một quân, tráng nữ họp thành một quân, còn các ông già

bà cả hoặc đàn bà ốm yếu hợp thành một quân gọi là tam quân. Quân tráng nam

thì cho ăn nhiều và luyện tập việc binh, sắp hàng đợi địch, quân tráng nữ cũng

cho ăn nhiều và đắp thành, sắp hàng đợi lệnh; … quân già yếu thì chăn bò, dê,

heo, trồng trọt, kiếm cây cỏ, thức ăn nào ăn được thì thu thập để nuôi bọn tráng

nam, tráng nữ [59, tr.74].

Thực chất, chính sách của Thương Ưởng là mô hình toàn dân tham gia đánh

giặc. Với cách thức tổ chức quân đội như trên lại kết hợp với quản lý từng “liên”

theo tổ chức gia đình sẽ tạo ra một hệ thống quân đội chặt chẽ.

Để đạt được mục tiêu bành trướng lãnh địa, Thương Ưởng dùng nghệ thuật

“dụ dân tham chiến”, khuyến khích nhân dân hăng hái chiến trận:

Trong quân đội, nếu chém được đầu quân địch phong một cấp, muốn làm qua thì

được phong một chức quan lương bổng là 50 thạch (100 thúng là một thạch), chặt

được hai đầu giặc được thăng hai cấp, muốn làm quan thì được phong một chức

lương bổng là 100 thạch …[59, tr.75].

Áp dụng trên diện rộng hơn, Thương Ưởng cho rằng chỉ có bọn đánh giặc

mới được giàu sang, tức ông muốn xây dựng một giai cấp quý tộc gồm các quân

nhân giống thời trung cổ ở Tây Âu. Nhờ đó, khi chiến tranh xảy ra, dân nghe thấy ra

trận là chúc mừng nhau, đứng ngồi, ăn uống lúc nào cũng ca hát chiến tranh. Có thể

Page 90: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

84

nói, đây là điều hiếm thấy trong lịch sử nhân loại, vì nhân dân thường chán ghét

chiến tranh, thì Thương Ưởng lại làm được điều ngược lại.

Sang đầu thế kỷ III Tr.CN, Tần Doanh Chính liên tục thực thi những chính

sách quân sự theo lý tưởng của Pháp gia.

Trong chính sách đối nội, một mặt Tần vương kế thừa toàn bộ tư tưởng của

Pháp gia (chia quận, huyện như đã trình bày ở phần trên), đồng thời ông cho kết hợp

quản lý hành chính với quân đội thành chính sách quân chủ thời chiến từ Hương,

Đình, Lý đến Quận, Huyện. Đứng đầu mỗi quận có một Quận uý để trông coi về

quân sự. Tráng đinh nào cũng phải đi lính tới già. Gia đình nào có ba người đàn ông

thì phải chia làm hai hộ... Nghĩa là, đến lúc này ở nước Tần đã bước đầu chuyên

nghiệp hoá quân đội từ trung ương đến địa phương, nhưng hình luật tàn khốc hơn

thời trước rất nhiều.

Chính sách đối ngoại, để ngăn chặn bọn Hung Nô, năm 214 Tr.CN Tần Thuỷ

Hoàng đã cho nối ba đoạn thành của ba nước Tần, Triệu, Yên thành một dãy trường

thành dài hơn 10 vạn dặm bắt đầu từ Lâm Thao (Cam Túc) ở phía tây đến Liêu Đông

ở phía đông, nay gọi là “Vạn lý trường thành”. Bên cạnh phòng bị vững chắc, Tần

Thuỷ Hoàng còn tiến hành nhiều cuộc chiến tranh chiến tranh giành đất với quy mô

lớn. Năm 218 Tr.CN đánh nước Việt, năm 214 Tr.CN nhà Tần chiếm được một vùng

đất rộng lớn gồm: Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây và một phần của Quý Châu

ngày nay, lập lên 4 quận mới là Mân Trung, Nam Hải, Quế Lâm và Tượng.

Như vậy, con đường mà các Pháp gia lựa chọn để xây dựng một nhà nước

trung ương tập quyền là chương trình hành động của tư duy độc tôn pháp trị. Hàn

Phi cho rằng, pháp trị là thuyết duy nhất thích hợp với yêu cầu chính trị của

“đương kim chi thế” (thời đại hiện nay) [38, tr.285]. Trong thể chế nhà nước đó,

ông vua là người nắm quyền lực tuyệt đối, phía dưới ông vua là một hệ thống quản

lý nghiêm ngặt và đội ngũ giúp việc đắc lực được bảo trợ bởi luật pháp và quân đội.

Tựu trung lại, mô hình nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền

mà các Pháp gia xây dựng là nhà nước của vua, do vua và vì vua.

Page 91: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

85

3.1.2. Ảnh hưởng của Pháp gia trong thực tiễn đời sống chính trị - xã hội Trung

Hoa dưới chế độ quân chủ chuyên chế nhà Tần

Như trên đã trình bày, vai trò của Pháp gia trong hệ thống kiến trúc thượng

tầng của nhà nước quân chủ chuyên chế là không thể phủ nhận. Tuy nhiên, vai trò

đó trong các giai đoạn lịch sử chế độ phong kiến Trung Hoa không hoàn toàn giống

nhau. Giai đoạn từ nhà Tần trở về trước là ảnh hưởng toàn diện, trực tiếp và chủ

đạo. Từ kết quả của đường lối canh chiến, nhà Tần đã thiết lập nên một nhà nước

Trung Hoa cổ đại thống nhất dưới đế chế Tần Thủy Hoàng. Từ thời Hán về sau là

ảnh hưởng có mức độ, có điều kiện và tư tưởng Pháp gia cũng bị biến tướng cho

phù hợp với mục đích chính trị của các triều đại. Song, những ưu điểm về phương

thức tổ chức nhà nước, quân đội, đặc biệt là trình độ lý luận về mặt xây dựng luật

pháp của Pháp gia đã được các triều đại sau đó sử dụng tới mức, theo thiển nghĩ của

chúng tôi, là không gì có thể thay thế được học thuyết này.

3.1.2.1. Nhà Tần hiện thực hóa mô hình nhà nước quân chủ chuyên chế của Pháp gia

Một là, sự thống nhất đất nước Trung Hoa là điều kiện tiên quyết của một nhà

nước quân chủ chuyên chế

Việc thực hiện biến pháp một cách triệt để của Thương Ưởng đã tạo nên sức

mạnh to lớn về kinh tế, chính trị và quân sự của nước Tần, làm cho nước Tần trở thành

một trong những nước hùng mạnh nhất Trung Quốc thời bấy giờ.

Khi vua Tần là Trang Tương Vương mất (năm 246 Tr.CN), Tần Doanh Chính lên

ngôi mới 13 tuổi, vì thế việc điều hành nhà nước do nhiếp chính Lã Bất Vi, một đại

thương gia gốc nước Vệ đảm nhiệm. Trong suốt 8 năm, nước Tần không có sự thay đổi

nào về chính sách đối nội, đối ngoại.

Đến tuổi trưởng thành (năm Thủy Hoàng 21 tuổi, tức năm 238 Tr.CN), Tần

Doanh Chính muốn tập trung toàn bộ quyền lực vào tay mình và không phải lệ thuộc vào

nhiếp chính Lã Bất Vi. Theo Sử ký của Tư Mã Thiên, Lã Bất Vi muốn loại bỏ ngai vị của

Doanh Chính. Vì vậy, ông ta đã sắp xếp cho thuộc hạ tin cậy của mình là Lao Ái tiếp cận

Hoàng Hậu, về sau lao Ái trở thành tình nhân của Hoàng hậu và thao túng quyền lực.

Page 92: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

86

Năm 238 Tr.CN, Lao Ái cướp ấn của vua và Hoàng hậu, cùng với nhóm người

của mình chiếm hoàng cung nhà Tần, nơi Doanh Chính đang ngự trị. Tuy nhiên, cuộc

đảo chính bất thành, toàn bộ những nghịch thần tham gia vào vụ ẩu đả đều bị giết, dân

chúng hưởng ứng thì bị đày đến vùng viễn xứ Tứ Xuyên. Năm 237 Tr.CN, Tần Doanh

Chính chính thức tước bỏ quyền nhiếp chính của Lã Bất Vi do liên quan đến vụ án nói

trên. Do lo sợ bị kết án tử hình, năm 234 Tr.CN, Lã Bất Vi tự tử.

Sau cuộc đàn áp bạo loạn và tiến hành một loạt các biện pháp ổn định trật tự trong

nước, Tần Doanh Chính bắt đầu thực thi chính sách ngoại giao bạo lực theo con đường

pháp trị với các nước khác. Thời bấy giờ, Lý Tư có vai trò rất quan trọng trong việc trực

tiếp đề xuất các biện pháp đối nội và đối ngoại cho Tần Doanh Chính.

Năm 230 Tr.CN, theo đề xuất của Lý Tư, Tần Doanh Chính đã điều một lực

lượng quân đội hùng mạnh tấn công nước Hàn. Quân Tần đánh tan quân Hàn và bắt sống

vua Hàn làm tù binh, đồng thời tuyên bố nước Hàn thuộc đất Tần. Đó là nước bị thôn

tính đầu tiên trong chuỗi bình định của vua Tần. Liên tiếp các năm sau đó, năm 229

Tr.CN Tần tấn công nước Triệu và chiếm được nước này vào năm 228 Tr.CN; năm 225

Tr.CN, quân Tần chiếm nước Vệ; năm 224 Tr.CN chiếm nước Chu và năm 223 Tr.CN

chiếm nước Tấn. Sự nghiệp hoàn thành vào năm 221 Tr.CN, khi Tần đánh bại là Tề.

Như vậy, nước Tần từ khi Tần Doanh Chính chính thức lên ngôi, đã lần lượt thôn

tính 6 nước trong "Chiến Quốc thất hùng" và thiết lập nên một nhà nước quân chủ thống

nhất, đồng thời kết thúc cuộc nội chiến kéo dài hàng trăm năm để thiết lập nhà nước

quân chủ trung ương tập quyền. Từ đó, vận mệnh của nhà nước này nằm trong tay Tần

Doanh Chính, tức Tần Thủy Hoàng với ý nghĩa nhà Tần mang mệnh “Thủy” chế khắc

mệnh “Hỏa” của nhà Chu.

Hai là, quan điểm chính trị của Tần Thủy Hoàng dựa trên nền tảng tư tưởng

Pháp gia

Năm 246 Tr.CN khi Doanh Chính lên ngôi tôn Lã Bất vi làm tướng quốc. Bất Vi

cho soạn sách Lã Thị Xuân Thu, Sử ký Tư Mã Thiên viết:

… bấy giờ ở Ngụy có Tín Lăng Quân, ở Sở có Xuân Thân Quân, đều đua nhau quí kẻ sĩ,

chiều tân khách. Bất Vi thấy Tần mạnh mà mình không bằng họ nên xấu hổ cũng đón mời

các kẻ sĩ đãi rất hậu, khách ăn trong nhà có đến ba nghìn. Khi ấy Chư hầu có nhiều biện sĩ

Page 93: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

87

như Tuân Khanh làm sách truyền bá ra thiên hạ. Bất Vi bèn sai các khách soạn ra những

điều mình biết, họp lại làm tám Lãm, sáu Luận, mười Kỷ gồm hơn hai mươi vạn chữ, cho

là đủ hết những việc trời, đất, muôn vật, xưa nay; đặt tên sách là Lã Thị Xuân Thu, bày ở

cửa chợ Hàm Dương, đặt nghìn lạng vàng lên trên, mời các du sĩ của chư hầu ai có thể

thêm bớt một chữ thì xin biếu một nghìn lạng vàng [110, tr.492].

Đương nhiên, Doanh Chính là người biết việc soạn thảo bộ sách nói trên và có

thể đã từng tham gia thảo luận với các tác giả của nó ở cung tướng quốc Bất Vi, cho nên

điều chúng ta có thể khẳng định được rằng, Doanh Chính ta đã đọc Lã Thị Xuân Thu.

Khi chưa nắm được quyền hành trong tay, Doanh Chính có thể rất quan tâm đến vấn đề

về nghệ thuật trị người được trình bày trong “Lã Thị Xuân Thu”, về nguồn gốc và con

đường thiết lập nhà nước mạnh cũng như quan điểm về quyền lực của vua... Thêm nữa,

thời đó ở nước Tần có cuốn sách nổi tiếng của người sáng lập Pháp gia là Thương Ưởng

dưới tên gọi "Thương Quân thư" đã bổ sung kiến thức pháp trị cho Doanh Chính. Chưa

kể, còn một học thuyết khác chắc chắn ảnh hưởng không nhỏ tới vị vua trẻ này là tư

tưởng của Đạo gia về "Trường sinh bất tử" mà bằng chứng là những năm cuối đời vì tin

vào điều đó mà Doanh Chính đã cho mọi người đóng thuyền bè đến ba hòn đảo ngoài

khơi xa là Bồng Lai, Phương Trượng và Doanh Châu để tìm thần dược. Sở dĩ chúng tôi

đề cập tới điều này vì trong tư liệu của Đạo gia cũng đề cập đến một số vấn đề về chính

trị, về "đạo", về con người cũng như tư tưởng của các học thuyết khác đương thời vốn

được các kẻ sĩ trình bày trong “Lã Thị Xuân Thu”.

Trong những cơ sở lý luận nói trên, có lẽ những gì diễn ra trong thực tiễn đời

sống chính trị của nhà Tần trước đây đã làm cho Tần Doanh Chính cảm kích và không

thể bỏ qua trong thực tiễn trị nước của mình, theo chúng tôi, chính là hai cuộc biến pháp

của Thương Ưởng trong 18 nãm làm Tả tướng nước Tần.Trên cơ sở kết quả của hai

cuộc biến pháp, Thương Ưởng đã có những đúc kết lý luận và được trình bày chủ

yếu trong “Thương Quân Thư” (Sách Thương Ưởng).

Nội dung chủ yếu trong biến pháp của Thương Ưởng là xoá bỏ chế độ sở

hữu của công xã nông thôn, thừa nhận quyền sở hữu ruộng đất, công nhận việc mua

bán ruộng đất. Ông chủ trương phá “tỉnh điền, bờ cõi” để mở rộng trồng trọt, phát

Page 94: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

88

triển nông nghiệp; ứng dụng triệt để cách thu thuế của nông dân tính theo diện tích

trồng trọt như Quản Trọng thực hiện trên đất Tề thời Xuân Thu.

Thực hiện mạnh mẽ và tuyệt đối “biến pháp đổi tục”, vẫn theo mô hình lấy

gia đình làm đơn vị hạt nhân giống nhý Quản Trọng, Tử Sản, nãm 350 Tr.CN, Vệ

Ưởng ra lệnh cấm cha, con, anh em cùng ở chung một nhà; phân cư và hợp các

làng, xóm nhỏ lại thành huyện, đặt chức quan lệnh và thừa, được tất cả ba mươi mốt

huyện; bỏ bờ ruộng, đường thiên đường mạch; thống nhất hộc, thùng, quả cân,

thước, tấc nhờ đó việc đánh thuế được tăng. Phương pháp quản lý của Thương

Ưởng là chia dân cư ra các đơn vị nhỏ, cứ năm gia đình hợp thành một ngũ, hai ngũ

thành một tập. Theo cách đó, cứ một nhà phạm tội thì chín nhà khác phải chịu vạ

lây, nếu tố cáo hoặc giết được địch thì thưởng như nhau. Một gia đình có hai tráng

binh thì phải ra ở riêng để phát huy tối đa khả năng lao động sản xuất, nếu không

chịu tách ra thì phải nộp gấp đôi. Bên cạnh đó, ông còn khuyến khích sản xuất phát

triển, nông dân cày cấy, dệt vải, nhà nào sản xuất nhiều thì miễn sưu dịch; bỏ hoang

ruộng đất không cày cấy để đi buôn, hoặc lười lao động… đến nỗi nghèo khổ đều bị

làm nô lệ.

Tiếp thu tư tưởng của Ngô Khởi, nhưng có phần triệt để hơn, Thương Ưởng đã

xoá bỏ chế độ “Thế khanh, thế tộc”, tước đoạt mọi đặc quyền của quý tộc chủ nô, đặt

tước quân công. Trong nhân dân bất kỳ ai lập được chiến công sẽ được ban tước lộc,

lập được công càng to thì ban thưởng càng lớn. Quý tộc không lập được chiến công

cũng không có tước vị. Theo tước vị cao thấp mà chiếm hữu ruộng đất ít hay nhiều. Cải

cách táo bạo này của Thương Ưởng đã mở đầu cho sự thương mại hóa đất đai, làm

xuất hiện tầng lớp địa chủ với sự gia tăng không ngừng về sở hữu ruộng tư.

Trong cuộc đấu tranh tư tưởng thời Chiến Quốc, những thành quả của hai cuộc

biến pháp trong đời sống chính trị, kinh tế và xã hội mà Thương Ưởng áp dụng ở nước

Tần, mặc dù đã đi ngược lại nguyện vọng của các nhà sáng lập Nho gia Khổng – Mạnh

(hệ tư tưởng chính trị chiếm ưu thế đương thời). Nhưng nó lại là nguyên nhân trực tiếp

để hình thành nhà nước chuyên chế ở Trung Hoa. Chúng ta xem xét những nội dung cơ

bản của hai cuộc biến pháp qua Thương Quân liệt truyện trong Sử ký của Tư Mã Thiên.

Page 95: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

89

Năm 356 Tr.CN, Thương Ưởng tiến hành biến pháp với những nội dung:

1. Ưởng sai chia dân thành từng nhóm, năm hộ, mười hộ, phải kiểm soát nhau và bị

rằng buộc vào nhau. Ai không tố cáo kẻ gian thì bị chém ngang lưng; ai tố cáo kẻ gian

thì cũng được thưởng ngang với người chém đầu quân địch; người che giấu kẻ gian bị

phạt ngang với người đầu hàng quân địch.

2. Gia đình có hai người con trai trở lên mà không chia của ở riêng thì bắt đánh

thuế gấp đôi.

3. Ai có quân công thì cứ theo thứ bậc mà được thưởng. Ai đánh nhau vì việc riêng

thì đều bị hình phạt lớn hay nhỏ, tùy theo nặng hay nhẹ mà trị.

4. Ai ra sức vào nghề nghiệp gốc, cày cấy, dệt vải, cung cấp nhiều lúa thì được tha

khỏi sưu dịch; trái lại ai theo cái lợi trên ngọn (ý nói buôn bán) cùng những người

lười mà nghèo thì đều bắt cùng với vợ con làm nô.

5. Người tôn thất mà không có quân công, thì không được ghi vào sổ sách họ nhà

vua định cấp bậc tước trật cao thấp rõ ràng. Ghi tên các ruộng vườn, thần thiếp, áo

quần theo số hiệu từng nhà. Ai có công thì hiển vinh, ai không có công thì tuy giàu

có cũng không được vinh hoa [110, tr.327-338].

Có thể vắn tắt 5 điểm cải cách, biến pháp của Thương Ưởng bằng cụm từ:

trọng nông, khuyến chiến, cáo gian và bài quý tộc. Theo đó, có thể dễ dàng nhận

thấy Thương Ưởng tập trung đánh vào tầng lớp quí tộc, làm thay đổi căn bản

nguyên tắc ban phẩm trật cho tầng lớp này. Lúc này, tầng lớp quí tộc bị lệ thuộc

trực tiếp vào vua và người được hưởng tước lộc căn cứ theo chiến tích chứ không

phải theo sự giàu có. Trên thực tế, nhà vua còn có quyền tước phẩm trật của quí tộc

không xứng đáng với danh hiệu đó. Đây là biện pháp củng cố quyền lực tập trung

trong tay nhà vua, đồng thời hạn chế ảnh hưởng của tầng lớp quí tộc và làm yếu vai

trò của các tổ chức địa phương.

Điều thú vị là Thương Ưởng không chỉ chú ý tới tầng lớp quí tộc, mà còn tới

cả những kẻ lười nhác và thương gia. Tuy nhiên, chương trình cải cách kinh tế của

Thương Ưởng không nhằm mục đích loại bỏ hoạt động của các thương gia, không

có tài liệu nào nói về việc kết tội các thương gia và thợ thủ công giàu có. Quan điểm

của Thương Ưởng là hướng tới việc loại bỏ một bộ phận thương gia làm ăn kém

hiệu quả, những người lười nhác - bọn lợi dụng vào tình hình sản xuất nông nghiệp

Page 96: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

90

để trục lợi và đặc biệt là những kẻ lang thang không nghề nghiệp. Điều đó dẫn tới

sự phản ứng mạnh mẽ từ phía quí tộc, “thương gia” và những người nghèo. Do uy

quyền của ông ta lúc đó đang lên, cho nên những người bị ghép vào "bọn dân làm

cho việc giáo hóa rối loạn" bị buộc phải "dời ra biên giới. Sau đó dân không ai dám

bàn bạc gì về pháp lệnh nữa" [110, tr.333].

Năm 350 Tr.CN, Thương Ưởng lại tiến hành biến pháp lần thứ hai với

việc cấm:

Cha con anh em cùng ở chung một nhà; phân cư và hợp các làng, xóm nhỏ thành

huyện, đặt chức quan Lệnh và Thừa. Được tất cả ba mươi mốt huyện. bỏ bờ ruộng,

đường thiên đường mạch, nhờ đó việc đánh thuế được tăng. Thống nhất hộc, thùng,

quả cân, thước tấc. Lệnh thi hành được bốn năm, Công tử Kiền lại phạm pháp bị

cắt mũi. Được năm năm người Tần giàu mạnh [110, tr.333].

Việc chia nước thành các huyện có nghĩa là từ đó chính quyền địa phương

lúc này do quan lại của triều đình cai quản. Cuộc biến pháp thứ hai này đã xóa sổ

quyền lực của tầng lớp quí tộc.

Dưới tác động sâu sắc tư tưởng biến pháp của Thương Ưởng, cộng với sự nỗ

lực của vua Tần, chương trình biến pháp đã thu được những thành tựu to lớn trên tất

cả các bình diện: kinh tế - chính trị - xã hội. Đỉnh cao của thành quả đó là mọi

quyền lực đều được thâu tóm vào tay vua Tần. Đó là cơ sở để Tần Doanh Chính áp

dụng vào lĩnh vực quản lý xã hội của mình

Bên cạnh các công trình trên, còn phải kể đến sách Hàn Phi Tử, tác phẩm đóng

vai trò quan trọng, thậm chí có thể mang tính quyết định đối với sự hình thành quan điểm

chính trị của Doanh Chính! Đó là hai thiên "Cô phẫn" và "Ngũ đố". Thủy Hoàng gặp

sách Hàn Phi “như cá gặp nước” trong điều kiện nhà vua trẻ đang tìm cơ sở lý giải cho

sự phản bội của thuộc hạ và của chính những người thân ruột thịt.

Sách "Cô phẫn" không lớn, chỉ chiếm một thiên (chương XI) trong Hàn Phi

Tử mà hiện nay chúng ta đang dùng, nhưng nó lại chứa đầy những tư tưởng và tư

vấn cho Doanh Chính trong hoạt động thực tiễn của ông. Nội dung chủ yếu của nó

là vấn đề làm thế nào để nắm giữ quyền lực ở mức độ cao nhất? Làm thế nào để

ngăn chặn được sự xâm phạm của tướng quốc tới đặc quyền của nhà vua?

Page 97: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

91

Về phương diện này, Hàn Phi nêu hai loại cận thần:

Một là, kẻ làm quan tài giỏi, trung thành với nhà vua, dốc toàn tâm toàn ý

của mình vào việc phục vụ vua, đồng thời là vị quan lý tưởng, vừa là tể tướng, vừa

là bạn thân của vua. Ông viết:

Những kẻ sĩ có mưu trí và có thuật thế nào cũng nhìn xa và xét đoán sáng suốt, vì

nếu không xét đoán sáng suốt thì không thấy rõ được niềm riêng tây. Những kẻ sĩ

biết nêu cao pháp luật thế nào cũng kiên nghị và thẳng thắn, vì nếu không kiên nghị

và thẳng thắn thì không thể nào sửa chữa được kẻ gian. Bọn bầy tôi nghe theo

mệnh lệnh và làm chức vụ, dựa theo pháp luật mà làm quan không phải là những

người được trọng [38, tr.105].

Hai là, kẻ làm quan thuộc loại khác, chỉ biết nghĩ về cái lợi riêng tư, loại đó

được Hàn Phi gọi là những kẻ được quí trọng: Những kẻ được trọng là những kẻ

không có mệnh lệnh mà tự chuyên, bẻ cong pháp luật để mưu lợi riêng, làm hao tổn

đến quốc gia để mưu lợi cho mình, sức có thể làm chủ được nhà vua [38, tr.105].

Do đó, nhà vua cần phải phân biệt ai là kẻ chân chính, ai là tà ngụy. Không

những thế, nhà cầm quyền cần phải dựa vào yếu tố tâm lý để phân biệt chính xác

hai loại người đó:

Những kẻ sĩ có mưu trí và có thuật, xét đoán sáng suốt, nếu được dùng thì sẽ thấy

rõ tâm địa riêng tư của bọn người được quí trọng. Những kẻ sĩ có thể đề cao pháp

luật, thẳng thắn, nếu được dùng sẽ sửa chữa những hành vi gian tà của những kẻ

được quí trọng. Cho nên, nếu những kẻ sĩ có mưu trí và có thuật biết đề cao pháp

luật được dùng thì bọn bầy tôi được quí trọng thế nào cũng bị gạt ra ngoài. Chính vì

vậy những kẻ sĩ có trí và thuật, biết đề cao pháp luật và những bọn hiện đang cầm

quyền là những kẻ thù của nhau không thể cùng sống [38, tr.106].

Ngược lại, khi những bọn cầm quyền nắm lấy mọi việc thì bên ngoài cũng

như bên trong họ chỉ lo mưu lợi riêng mà thôi. Cho nên:

… nếu Chư hầu không dựa vào họ thì công việc không thành. Kết quả là các nước địch

ca ngợi họ. Nếu những người chung quanh nhà vua không dựa vào họ thì không gần nhà

vua được, thế nên những người chung quanh nhà vua che giấu các sai lầm của họ.

Những kẻ sĩ có học nếu không dựa vào họ thì bổng lộc và địa vị thấp, cho nên những

người có học tán dương họ… Nói chung, những kẻ cầm quyền đối với nhà vua ít người

Page 98: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

92

không được nhà vua tin yêu. Vả lại, họ lại quen biết nhà vua từ lâu. Họ biết lòng nhà vua,

cùng yêu cùng ghét như nhà vua, đó là cách tiến thân của họ [38, tr.106-107].

Hàn Phi muốn phác họa chân dung hai loại người đối lập nhau cốt để nhà

cầm quyền chọn người thực thi nhiệm vụ. Loại thứ nhất, rất khó thuận tai nhà

vua khi vua yêu cầu họ nói thẳng, nói thật. Song, vì nắm được pháp luật và

phương thuật nên trước những vấn đề cần giải quyết, họ mới là những người

giúp ích cho nhà vua nhiều nhất. Tuy nhiên, việc tiếp cận nhà vua để bày tỏ

lòng mình đâu phải là dễ, do đó ông đặt tên cho cuốn sách là "Cô phẫn" (nỗi

phẫn uất của kẻ cô đơn).

Khi bàn về cái lợi của nhà vua và cái lợi của bề tôi khác nhau như thế nào,

Hàn Phi viết:

Cái lợi của nhà vua là bổ nhiệm những người có khả năng làm quan. Cái lợi của bề

tôi là ở chỗ không có khả năng mà được làm quan. Cái lợi của vua là có công lao

mới có tước lộc. Cái lợi của bầy tôi là ở chỗ không có công lao mà được giàu sang.

Cái lợi của ông vua là ở chỗ người hào kiệt được trổ tài năng; cái lợi của bầy tôi là

ở chỗ lập bè đảng làm việc riêng. Cho nên, nước bị chia cắt thì nhà riêng được giàu;

nhà vua bị hạ thấp thì các quan đại thần được tôn trọng. Cho nên ông vua mất thế

lực thì bầy tôi lấy được nước, ông vua phải làm phiên thần thì ông tướng quốc được

chẻ phù. Do đó bầy tôi lừa dối nhà vua để mưu việc riêng [38, tr.-112].

Chính vì vậy, để ngăn chặn sự lừa dối từ phía các quan lại, Hàn Phi yêu cầu nhà

vua phải dựa vào pháp luật và phạt nặng đối với các loại tội lừa dối vua (khi quân), theo

đó dù nặng nhẹ khác nhau, song phàm là tội lừa dối vua đều được xem là trọng tội và

phải bị xử tử. Việc xử tội phải bắt đầu từ trên xuống. Làm như vậy thì tình hình đất nước

mới có những thay đổi căn bản và nhà vua mới nắm được thực quyền ở mức độ cao nhất.

Ngược lại, "ở trên nhà vua có sai lầm lớn, ở dưới bọn bầy tôi có tội lớn mà muốn cho

nước không mất thì không thể nào được" [38, tr.113].

Quan điểm về trị nước của Hàn Phi trong "Cô phẫn" đã ảnh hưởng mạnh tới

quan điểm chính trị của Doanh Chính. Cuốn sách đã trở thành cẩm nang quý cho

Doanh Chính trong việc chống lại bè đảng của Thái hậu, Lao Ái và Lã Bất Vi. Sự

thành công của ông không chỉ dừng lại ở đó, mà về sau, khi trở thành Hoàng đế nhà

Page 99: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

93

Tần, Doanh Chính luôn thể hiện là người sáng suốt trong việc đánh giá phẩm chất

những đối tượng mà ông lựa chọn để cùng với mình trị nước.

Cuốn sách thứ hai là "Ngũ đố" (năm loại sâu mọt) có dung lượng lớn hơn

"Cô phẫn" rất nhiều, ở đó Hàn Phi trình bày những vấn đề chung về phép trị nước

trên nền tảng tư tưởng của Thương Ưởng nhưng có nhiều điểm khác.

Sách “Ngũ đố” được trình bày thành một thiên (chương 49) trong Hàn Phi

Tử. Phần đầu của sách, Hàn Phi luận về con đường của các vua thánh hiền đời xưa

và chú trọng đến hai đặc trưng cho các vị vua ấy, đó là sự quan tâm về điều dân cần

và biết xoay chuyển phương pháp trị nước cho phù hợp với hoàn cảnh đang biến

động. Nếu muốn trở thành vua thánh thì đừng giáo điều và khư khư giữ chặt các

chuẩn mực đã được thiết định. Ông đã dẫn ra câu chuyện ngụ ngôn về người nông

dân “ôm cây đợi thỏ” ở nước Tống, lấy đó làm bài học cho sự lựa chọn linh hoạt

cách thức trị nước. Thêm nữa, Hàn Phi còn chỉ ra nguyên nhân làm thay đổi các

chuẩn mực đạo đức và chỉ ra rằng, thời nay các ông vua quản lý [hạng dân] hoàn

toàn khác trước, bởi lẽ ngày nay “người thì đông mà của cải thì ít, làm việc vất vả

mà việc nuôi sống vẫn kém. Cho nên dân tranh giành… [Vả lại] một bên sang một

bên hèn thực tế rất khác nhau” [38, tr.541]. Từ đó ông cho rằng, những khái niệm

của Nho gia như nhân, từ, thiện và ác không cần bàn đến nữa. Sở dĩ như vậy là vì

hiện nay, trong đời thường, khi gặp cảnh đói kém thì người ở trên không còn quan

tâm đến kẻ dưới, còn trong lĩnh vực chính trị thì dân trở nên khác trước. Trong điều

kiện như vậy thì cách thức hoạt động của các ông vua thánh hiền không việc gì phải

quan tâm đến toàn dân bằng đức Nhân. Vì thế:

… bậc thánh nhân xét tình trạng của cải nhiều hay ít, bàn đến chỗ quyền thế nhiều

hay ít để làm chính trị. Vì vậy phạt nhẹ không phải là nhân từ, phạt nặng không

phải là độc ác, cứ phù hợp theo tục mà làm. Cho nên sự việc là dựa theo cái thế

mà thay đổi và việc phòng bị là phải thích hợp với công việc [38, tr.452].

Qua đó cho thấy cách lập luận của Hàn Phi cốt để làm rõ điều là đạo đức và

chính trị không dung hợp với nhau, đó cũng là quan điểm cơ bản của Pháp gia vốn

được hình thành từ Thương Ưởng. Tác giả của “Ngũ đố” đã tiếp thu quan điểm đó

Page 100: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

94

của Thương Ưởng và phát triển nó theo tinh thần truyền thống, đồng thời đưa ra

một loạt luận cứ lấy từ lịch sử Trung Hoa:

Vua Văn Vương ngày xưa ở giữa miền đất Phong, đất Cảo. Đất vuông ngàn dặm, làm

việc nhân nghĩa mà người Tây Nhung theo, kết quả làm vương thiên hạ. Vua nước Từ

là Yển Vương ở phía Đông sông Hán, đất vuông năm trăm dặm, làm việc nhân nghĩa,

có đến ba mươi sáu nước cắt đất để theo. Vua Văn Vương nước Kinh sợ ông ta làm hại

đến mình, đem quân đánh nước Từ, kết quả tiêu diệt nước Từ. Cho nên vua Văn

Vương làm nhân nghĩa thì làm vương thiên hạ, trái lại vua Yển Vương làm nhân nghĩa

nhưng diệt mất cái nước của mình. Như vậy tức là chuyện nhân nghĩa làm đời xưa thì

được, nhưng làm đời nay thì không được. Cho nên thời khác thì việc khác [38, tr.452].

Trong “Ngũ đố” Hàn Phi phân tích vấn đề về mối quan hệ giữa pháp luật và

đạo đức, lý giải vì sao Nho và Mặc hết lời ca ngợi các vua thánh hiền đời xưa trị

dân, yêu dân như con. Ông cũng tán thành quan điểm cho rằng, không ai thương

con bằng cha mẹ, song không phải trong gia đình lúc nào cũng êm thấm, kể cả tình

thương yêu của cha mẹ đối với con cái là vô bờ. Ông nhấn mạnh:

Dùng pháp luật hành hình mà nhà vua vì thế chảy nước mắt, đó là tỏ ra mình

có nhân chứ không phải làm cho nước được trị an… Nói chung, chảy nước mắt

và không muốn dùng hình phạt, đó là lòng nhân; thế nhưng không thể không

dùng hình phạt, đó là pháp luật. Các tiên vương chỉ nghe theo pháp luật chứ

không nghe theo tiếng khóc của họ. Như vậy là chữ nhân không thể dùng để trị

nước vậy [38, tr.545].

Suy cho cùng, sự phát triển quan điểm của Thương Ưởng về trị nước dựa vào

pháp luật mà Hàn Phi lập luận ở trên là nhằm mục đích làm cho con người bứt phá

khỏi sự ràng buộc của lối sống gia đình, dòng tộc theo các chuẩn mực đạo đức Nho

giáo hàng trăm năm để tạo điều kiện cho nhà cầm quyền thực thi pháp luật một cách

có hiệu quả theo yêu cầu của thời đại. Những dẫn dụ về thực hành đạo hiếu của con

đối với cha mà bỏ qua yêu cầu của pháp luật về tố giác tội phạm, theo Hàn Phi là

điều không thể chấp nhận được.

Do đó, vốn là học trò của Tuân Tử, Hàn Phi muốn kết hợp giữa lễ trị và pháp

trị, trong đó đặt pháp trị lên hàng đầu. Theo ông, pháp luật là thống nhất đối với tất

cả mọi người. Tư tưởng về tính phổ biến của pháp luật là sợi chỉ đỏ xuyên suốt sách

Page 101: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

95

“Ngũ đố”: “Cho nên cái đạo của vị vua sáng là thống nhất pháp luật mà không đòi

hỏi người ta phải khôn ngoan, củng cố cái thuật trị nước mà không hâm mộ chữ

tín” [38, tr.552]. Ngoài việc thống nhất về luật pháp, Hàn Phi còn yêu cầu sự rõ ràng,

dễ hiểu, dễ thi hành trong các văn bản pháp luật. Lý giải tại sao thời nay nhà nào cũng

đọc sách “Thương Quân thư”, “Quản Tử” mà dân vẫn nghèo là vì ở đó các vấn đề

được trình bày rất khó hiểu, nặng về lý luận. Khi ban hành luật pháp cần phải tránh sự

lập luận khó hiểu, đặc biệt là sự mập mờ trong các điều khoản của luật pháp.

Trong phần kết của “Ngũ đố”, Hàn Phi lại quay về với vấn đề mối quan hệ

giữa vua và dân (quân – dân) vốn là điều quan tâm của Pháp gia. Đó là làm thế nào

để dân chỉ nghĩ về sự thống nhất, tức là về “Canh chiến”? Canh chiến là tiền đề

quan trọng của thống nhất (kiêm tính) toàn thiên hạ. Do đó, ai cũng phải quan tâm,

đồng thời cũng là nhu cầu thời đại nhằm chấm dứt tình trạng cát cứ, nội chiến kéo

dài mấy trăm năm trong thời kỳ Xuân Thu – Chiến Quốc.

Nhận thấy trong bối cảnh xã hội loạn lạc, dân chúng đều muốn tránh hai việc

quan trọng là làm ruộng và chiến đấu, Hàn Phi cho rằng, cần phải làm cho quan

niệm của người dân về nghề làm ruộng là vinh quang, còn phục vụ trong quân đội

không có gì đáng sợ. Cũng như Thương Ưởng, Hàn Phi xác định trong đám dân

chúng, phần lớn là ở các đô thị, những kẻ không hưởng ứng tinh thần thống nhất,

gọi đó là lũ sâu mọt. Năm loại sâu mọt (ngũ đố) là những kẻ sẽ gây hại cho vua và

nhà nước, gồm:

1. Bọn học giả trong nước khen cái đạo của các tiên vương để tỏ ra mình nhân nghĩa;

sửa dung mạo, mặc y phục chỉnh tể để tô vẽ lối nói năng, tài biện luận, làm người ta

ngờ vực pháp lệnh đương thời và làm cho lòng nhà vua đâm phân vân;

2. Bọn nói năng thì bày ra những chuyện dối trá, mượn sức nước ngoài để thực hiện

điều riêng tư của mình và quên mất cái lợi của xã tắc;

3. Những kẻ cầm gươm tụ tập bè đảng, nêu cao tiết tháo để nêu cái danh của mình mà phạm

vào những điều ngăn cấm của năm chức quan (tư đồ, tư khấu, tư không, tư sĩ, tư mã);

4. Bọn thân tín của nhà vua tụ tập ở các nhà riêng, dùng tất cả của cải hối lộ những kẻ

có quyền để khỏi vất vả nơi chiến trận;

Page 102: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

96

5. Bọn thương nhân và bọn thợ chế tạo những vật vô dụng, tụ tập những của cải xa xỉ

để chứa chất lại chực giành cái lợi gấp đôi người cày [38, tr.559-560].

Hai hạng cuối chiếm phần lớn số dân cư. Do thuế cao, lại phải làm ruộng vất

vả, phải xung lính… nên nhiều người dân bỏ ruộng chạy vào những chỗ không bị

ép buộc bởi “Canh chiến”.

Đọc “Ngũ đố”, Doanh Chính chắc hẳn nhớ đến cải cách của Thương Ưởng

hơn một trăm năm trước về sự cần thiết phải quản lý dân số và nhân lực để chống

lại sự trốn tránh nghĩa vụ với nhà nước. Đặc biệt là đối với các hộ kinh tế tư nhân,

nhà nước phải quản lý chặt chẽ để nguồn thu nhập của họ chảy về một mối. Hàn Phi

tán thành quan điểm đó và kịch liệt chống lại hiện tượng giàu lên một cách nhanh

chóng và phi lý của giới thương gia và thợ thủ công. Những quan điểm đó của hai

Pháp gia đã cho Doanh Chính nhận thấy đó là biện pháp đòn bẩy kinh tế cần thiết

cho đất nước.

Cuối cùng, Hàn Phi khẳng định rằng:

… năm loại người này là những bọn sâu mọt cho nước nhà. Nhà vua nếu không trừ

bỏ năm loại sâu mọt này, không nuôi dưỡng những kẻ sĩ cày và chiến đấu, thì trong

thiên hạ sẽ xuất hiện những nước bị tàn phá và bị tiêu diệt, những triều đình bị diệt

vong. Điều đó không có gì lạ [38, tr.559].

Có thể nói, hai cuốn sách (sau này là hai thiên của cuốn “Hàn Phi Tử”) đã

làm cho Doanh Chính cảm kích. Việc phân tích hoạt động của Tần Thủy Hoàng sau

khi thống nhất đất nước sẽ cho phép chúng ta kiểm chứng vị hoàng đế này đã áp

dụng những gì khi đọc hai tác phẩm đó trong hoạt động chính trị của mình.

3.1.2.2 Đường lối cai trị của Tần Thủy Hoàng

Trong phạm vi nghiên cứu của mình, chúng tôi nhận thấy bằng chứng về việc áp

dụng tư tưởng Pháp gia vào hoạt động chính trị, cụ thể là việc trị nước của Tần Thủy

Hoàng, có thể khai thác ở cuốn Sử ký.

Sự phân tích tài liệu lịch sử nói trên chỉ ra rằng, toàn bộ hoạt động của Tần Thủy

Hoàng trong những năm đầu của đế chế Trung Hoa, cả trong lĩnh vực đối nội cũng như

đối ngoại đều tập trung vào việc củng cố vị thế giành được bằng các phương pháp của

Pháp gia. Trong một thời gian ngắn và bối cảnh đất nước hết sức phức tạp (221 – 216

Page 103: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

97

Tr.CN), Tần Thủy Hoàng dồn hết sức lực cho việc ổn định nội vụ. Cụ thể, vào năm 221

Tr.CN, ông ra lệnh tịch thu vũ khí trong dân, giải trừ các nhóm tàn quân của sáu nước.

Toàn bộ vũ khí thu được chuyển về Hàm Dương để đúc chuông và tượng. Theo Tư Mã

Thiên, kết quả là đúc được "tượng 12 người bằng kim khí, mỗi người nặng 1000 thạch,

đặt ở trong cung. Thống nhất pháp luật, các cân, phép đo lường, các thạch, trượng,

thước, trục xe đều dài như nhau, chữ viết cùng lối như nhau" [110, tr.44]. Cũng vào

năm đó, Tần Thủy Hoàng còn tiến hành một biện pháp, có thể nói là táo bạo, đó là "sai

dời các nhà hào phú trong thiên hạ đến Hàm Dương tất cả 12 vạn nhà" [110, tr.44].

Việc tổ chức bộ máy hành chính thống nhất, tập quyềnchínhlà sự vận dụng

“thuật làm đế vương” của Hàn Phi. Tần Thuỷ Hoàng rất chú trọng đến phân tầng

quản lý, cụ thể:

Ở trung ương, nhà Tần áp dụng triệt để biện pháp thiết lập hệ thống chính trị

- hành chính của Pháp gia, Tần Thủy Hoàng kết cấu bộ máy hành chính thành ba

cấp: đứng đầu là Hoàng đế, dưới Hoàng đế là Thừa tướng, Thái uý và Ngự sử đại

phu, mỗi chức vụ có một trọng trách. Chẳng hạn, Thừa tướng thì đảm trách việc

chính trị; Thái uý phụ trách về quân sự; Ngự sử phụ trách về văn thư và giám sát

các quan. Tiếp đến là 9 viên quan phụ trách các việc khác, như: Đình uý coi việc

hình, Thiếu phủ coi việc thuế khoá…

Ở địa phương, rút kinh nghiệm thời Tây Chu, lại thấu đáo tư tưởng của Hàn

Phi về những mối nguy mất nước (thân tín, vợ con, mẹ vua…). Tần Thuỷ Hoàng

không thi hành chế độ phân phong cho con em thân thích mà chia cả nước thành 36

quận. Dưới quận là huyện rồi đến các hương, đình, lý. Viên quan đứng đầu quận gọi

là Uý, đứng đầu huyện là Lệnh. Họ đều do trung ương bổ nhiệm.

Điều đáng chú ý trong bộ máy hành chính nhà Tần lúc này là sự thể hiện rõ

`nét đặc trưng về một nhà nước quân chủ cường quyền điển hình thời cổ đại, ở đó

vua nắm cả quyền “lập pháp, hành pháp” trong tay để thống trị thiên hạ.

Ngoài ra, Tần Thủy Hoàng còn tiến hành các biện pháp hà khắc đối với tầng lớp

quí tộc thừa kế cũng như quan lại của sáu nước bị diệt và ưu đãi đối với quan lại và các

tướng lĩnh quân đội nhà Tần. Bổ nhiệm các chức quan từ nhà Tần tới tất cả các bộ máy

Page 104: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

98

hành chính của sáu nước. Điều đó làm cho quan lại nhà Tần hoàn toàn được lợi và triển

vọng trở thành giàu có và danh vọng. Năm sau, trong khi đi tuần Lũng Tây, Bắc Địa,

Tần Thủy Hoàng "sai xây tiền điện Cam Tuyền đắp đường ống chạy mãi đến Hàm

Dương. Năm ấy thưởng tước một cấp, làm những con đường nhà vua đi" [110, tr.45].

Theo Tư Mã Thiên, đường ống là con đường hai bên là tường để vua đi không ai thấy.

Nó cũng là một kiến trúc phòng ngự thường dùng trong lúc vận chuyển lương thực.

Đường rộng 51 bộ chạy từ thủ đô đến tận biên giới phía đông và phía nam, hai bên trồng

cây. Qua đó cho thấy, tuy đã thống nhất toàn cõi, vua Tần vẫn lo lắng không chỉ tới mặt

tổ chức bộ máy nhà nước ở địa phương, mà còn chú trọng đến xây dựng đường sá để tiện

lợi cho việc giao thông, lưu thông hàng hóa và quản lý của trung ương đối với các địa

phương. Việc thưởng tước cho những người quản lý xây dựng đường sá cũng là cách

thức của Pháp gia về thưởng phạt nhằm thúc đẩy công việc đó một cách nhanh nhất.

Sử ký của Tư Mã Thiên cũng ghi lại việc Tần Thủy Hoàngđặt tiệc rượu ở cung

Hàm Dương, bảy mươi vị bác sĩ đến chúc thọ. Quan bộc dịch Chu Thanh Thần ca ngợi:

Ngày xưa đất Tần chẳng qua nghìn dặm, nay nhờ bệ hạ thần linh sáng suốt nên

bình định được bốn biển, đuổi được man di, mặt trời mặt trăng chiếu đến đâu thì

nơi ấy theo phục, đổi các nước chư hầu thành quận, huyện, mọi người thấy yên

vui không phải lo về nạn chiến tranh, truyền đến vạn đời, từ thượng cổ đến nay,

không ai uy đức bằng bệ hạ [110, tr.46].

Lời ngợi ca ấy không có gì đáng ngạc nhiên, nó cũng mang nội dung giống

với các bia đá dựng khắp nơi để ca ngợi công đức của Tần Thủy Hoàng. Tuy nhiên,

trong số các bác sĩ khi đó có Thuần Vu Việt, một người theo tinh thần cai trị của

Nho giáo đã nói rằng:

Tôi nghe nhà Ân và nhà Chu làm vua hơn nghìn năm, phong các con em và công

thần làm chi nhánh đẻ giúp đỡ cho mình. Nay bệ hạ có bốn biển nhưng con em vẫn

là kẻ thất phu nếu bỗng chốc có xảy ra việc như Điền Thường hay Lục Khanh, thì

không ai giúp đỡ, làm sao có thể cứu lẫn nhau được. Trong công việc, không bắt

chước đời xưa mà có thể lâu dài thì đó là điều chưa hề nghe nói. Nay bọn Thanh

Thần lại xiểm nịnh bệ hạ để làm cho điều sai lầm của bệ hạ thêm nặng. Như thế

không phải là kẻ trung thần [110, tr.46].

Page 105: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

99

Quan điểm của Thuần Vu Việt đã bị thừa tướng Lý Tư phản đối:

Điều Thuần Vu Việt nói là những việc của thời Tam đại, làm sao có thể đủ cho ta bắt

chước? Trước đây, các nước chư hầu tranh nhau, hậu đãi đón mời những người du

thuyết. Nhưng bây giờ thiên hạ đã bình định, luật pháp, mệnh lệnh đều từ một nơi ban ra,

trăm họ làm ăn ra sức lo về nghề nông, nghề công, kẻ sĩ thì học tập pháp luật, mệnh lệnh,

những điều ngăn cấm. Nay các nho sinh không theo thời nay mà học thời xưa để chê bai

thời nay làm cho bọn "đầu đen" rối loạn, thần Tư này là thừa tướng xin liều chết nói

rằng: Ngày xưa thiên hạ phân tán rối loạn không ai thống nhất được… Nhưng nay

Hoàng đế đã thâu tóm cả thiên hạ, phân biệt trắng đen mà định ra điều duy nhất được tôn

trọng. Những kẻ học Nho theo cái học riêng của mình lại cùng nhau chê cười pháp luật,

rồi đem dạy cho người ta. Khi nghe lệnh ban xuống thì họ đều lấy cái học riêng của mình

để bàn tán. Khi vào triều thì trong bụng chê bai. Ra đường thì bàn bạc chê vua của mình

để lấy danh, làm cho khác người để tỏ là cao, bày cho kẻ dưới phỉ báng. Nếu như thế mà

không cấm thì ở trên uy thế của nhà vua sẽ bị giảm sút; ở dưới các bè đảng sẽ nổi lên.

Nên cấm làm hơn… nhà vua nói: "Được" [38, tr.47-48].

Không dừng lại ở đó, Lý Tư còn đưa ra chủ trương diệt trừ các nhà nho và thiêu

hủy các loại sách của Nho gia. Lý Tư tâu với Thủy Hoàng:

Thần xin đốt tất cả các sách sử, trừ những sách sử của nhà Tần. Trừ những người làm

chức bác sĩ, ai cất giấu Kinh Thư, Kinh Thi, sách vở của trăm nhà thì đều đem đến các

quan thú, quan úy mà đốt đi, hai người dám bàn nhau về việc Kinh Thi, Kinh Thư thì

chém giữa chợ, lấy đời xưa mà chê đời nay thì giết cả họ. Quan lại biết mà không tố cáo

thì cũng bị tội… Những sách không bỏ là sách thuốc, sách bói, sách trồng cây. Ai muốn

học pháp luật thì thờ quan lại làm thầy [110, tr.48].

Về những chính sách bạo chúa Tần Thủy Hoàng được Tư Mã Thiên ghi

chép khá nhiều. Việc chém giết bừa bãi để gây sợ hãi trong hàng ngũ quan lại và

xã hội vô hình chung đã tạo nên sự phản tác dụng mà chính nhà vua phải nhận

lấy. Sử ký chép:

Thủy Hoàng tính khí bướng bỉnh, gàn dở, chỉ nghe theo mình. Xuất thân là Chư

hầu, thâu tóm cả thiên hạ, ý chí tự đắc, muốn gì được nấy, tự cho rằng từ xưa đến

nay không ai bằng mình, chuyên dùng bọn pháp quan. Bọn pháp quan được yêu

quý, bác sĩ tuy có hơn 70 người nhưng chỉ cho đủ số chứ không được dùng. Thừa

Page 106: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

100

tướng và các quan đại thần đều nhận được những điều đã quyết định xong còn việc

làm là ở nhà vua. Nhà vua thích việc hình phạt chém giết để ra uy. Thiên hạ sợ tội

muốn giữ bổng lộc không ai dám hết lòng trung. Nhà vua không nghe nói đến sai

lầm của mình nên ngày càng kiêu ngạo. Ở dưới thì sợ nép một bề, nói dối để được

dung thân… sai ngự sử xét tất cả các nhà nho. Các nhà nho tố giác lẫn nhau, có hơn

460 người phạm điều đã cấm. Thủy Hoàng sai chôn sống tất cả ở Hàm Dương, báo

cho thiên hạ biết điều đó để làm răn [100, tr.51-52].

Như vậy, thực hiện triệt để đường lối cai trị của Pháp gia chính là độc tôn

pháp luật. Tần Thủy Hoàng coi “mọi việc đều dùng pháp luật để quyết định, không

dùng nhân đức, ân nghĩa”, điều đó thể hiện quan điểm pháp trị nhất quán của nhà

Tần. Chính sách đoạn tuyệt với các trường phái khác ngày càng quyết liệt, số người

bị xử tội, tù đày nhiều vô kể chỉ trong vòng khoảng 10 năm, sau khi Tần thống nhất,

con số này đã lên đến hàng chục vạn người.

Về kinh tế, triều đình ra sức bòn rút sức dân bằng những chính sách mà các

đại biểu Pháp gia đề xuất trước đây. Đó là khuyến khích sản xuất nông nghiệp cũng

như các ngành nghề khác; chính sách thuế khóa, tài chính, tham nghiệm… đều

nhằm mục đích phục vụ thiên triều, đặc biệt là dưới thời Tần Thủy Hoàng, ông đề

cao lao động sản xuất, chú trọng đắp đê, trị thủy, ưu tiên sản xuất nông nghiệp….

xét đến cùng không phải vì cuộc sống người dân, trái lại là để phục vụ lợi ích của

riêng mình.

Về văn hóa, Tần Thủy Hoàng bắt nhân dân xây dựng các cung điện xa hoa,

lộng lẫy, những điểm nổi tiếng như: cung Ly Sơn (khu lăng mộ của Thủy Hoàng), A

Phòng (nơi để tiếp các triều thần, có tài liệu cho rằng đó là nơi nghỉ mát mùa hè

của nhà vua) và hơn 700 hành cung khác rải rác cả nước [78, tr.80]. Bên cạnh đó,

còn có công trình“Vạn lý trường thành”dài vạn dặm, bao bọc lãnh địa của đế chế

Tần. Nhân lực để xây dựng các công trình này lên đến hàng vạn người, họ chủ yếu là

những phạm nhân do chính sách hà khắc của luật pháp, “chỉ riêng việc xây dựng

cung A Phòng và lăng Ly Sơn đã dùng hơn 700.000 người phạm tội” [78, tr.80].

Trong chính sách đối ngoại, Tần Thủy Hoàng tiếp tục thực hiện nhiều cuộc

chiến tranh xâm lược. Chẳng hạn, năm 218 Tr.CN xâm lược nước Việt, năm 214

Page 107: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

101

Tr.CN chiếm được Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, một phần Quý Châu ngày

nay. Tần gây chiến tranh xâm lược ngoại bang ngoài mục đích bành trướng, còn

nhằm phục vụ những ham muốn sản vật: sừng voi, tê giác, ngọc trai ở các vùng này.

Công việc này chỉ dừng lại khi Tần Thủy Hoàng mất vào năm 210 Tr.CN.

Những hành động khắc bạc của Tần Thủy Hoàng xuất phát từ mong muốn

nôn nóng để bình trị thiên hạ dưới sức mạnh pháp luật và biện pháp này cũng đã rất

hữu ích cho Thủy Hoàng trong thời kỳ đầu.

Sau khi Thủy Hoàng mất, con trai thứ của ông là Hồ Hợi lên ngôi năm 209

Tr.CN lấy hiệu Nhị Thế. Tần Nhị Thế không những không rút kinh nghiệm từ Thủy

Hoàng, trái lại còn thi hành chính sách tàn bạo hơn. Hành động đầu tiên được sử

sách nhắc đến là khi mai táng Thủy Hoàng, Hồ Hợi đem chôn những cung phi chưa

có con, khi công việc đã xong thì bịt kín cửa hầm không cho những người trong đó

ra để đảm bảo tính bí mật.

Khi Tần Thủy Hoàng chết, công trình cung A Phòng vẫn chưa hoàn thành.

Để chứng tỏ việc xây dựng cung A Phòng của cha là đúng đắn, Hồ Hợi tiếp tục xây

dựng công trình này. Ngoài ra, Hồ Hợi còn nuôi nhiều gia súc, gia cầm ở khắp nơi

sai vận chuyển đến Hàm Dương, quy định vận chuyển nội 300 dặm thì phải tự túc

lương thực.

Hồ Hợi cũng được biết đến là một ông vua thẳng tay chém giết các quan đại

thần và các công tử, khi giết các vị quan th giết luôn các vị quan nhỏ dưới trướng

những người này. Ông ban hành thêm nhiều luật lệ, mệnh lệnh… hà khắc khác. Vì

thế, nhà Tần tuy mới thống nhất Trung Hoa được chưa đầy một thập kỷ, nhưng mâu

thuẫn xã hội đã gay gắt đến đỉnh cao. Cục diện chính trị này lại báo hiệu một cuộc

khủng hoảng mới.

Dưới sự thống trị khắc nghiệt của nhà Tần, nhân dân Trung Quốc vô cùng kỳ

cực khổ. Đại đa số nhân dân sống trong cảnh bần cùng, đến mức “nhân dân phải

mặc áo của bò ngựa, ăn thức ăn của chó lợn” [78, tr.84]. Trong khi đó pháp luật

của nhà Tần lại rất hà khắc, nên những người bị xử và tù đày không kể hết. Họ chỉ

chờ thời cơ đến để lật đổ nhà Tần.

Page 108: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

102

Do tính độc tài, bạo chúa của cha con Tần Thủy Hoàng lên tới cực điểm mà

khắp các vùng viễn xứ đã xuất hiện các cuộc phản kháng chống lại nhà Tần. Theo

Sử ký của Tư Mã Thiên:

Năm thứ 36, sao Huỳnh Hoặc ở vào khu vực của sao Tâm, có ngôi sao rơi xuống

Đông Quận. Khi rơi xuống đất thì thành đá. Có bọn "đầu đen" khắc vào đá: "Thủy

Hoàng chết thì đất bị chia". Thủy Hoàng nghe tin ấy, sai ngự sử tra hỏi, nhưng không

ai thú, bèn bắt tất cả những người ở gần đấy giết đi và đốt chảy hòn đá [110, tr.52].

Sự truy sát dân chúng, đốt sách và chôn nho và cuối cùng là sự kiện những

dòng chữ ghi trên hòn hóa thạch năm 211 Tr.CN là minh chứng về mâu thuẫn gay

gắt trong xã hội nước Tần, phản ánh sự kìm hãm tiêu cực đời sống kinh tế, văn hóa

và tư tưởng nước Tần thời kỳ này.

Trước bối cảnh đó, các cuộc khởi nghĩa nông dân đã nổ ra, điển hình như:

phong trào do Trần Thắng, Ngô Quảng lãnh đạo năm 209 Tr.CN. Tuy nhiên, do

xuất phát điểm là giai cấp nông dân trong phát triển phong trào, đặc điểm sở hữu

nhỏ của nông dân đã làm họ có những thói quen xấu ích kỷ, hẹp hòi, tính tổ chức

không cao. Bởi vậy, phong trào phát triển được không lâu thì nội bộ chia rẽ, lực

lượng bị phân tán, giết hại lẫn nhau… cho nên, phong trào đã nhanh chóng bị quân

Tần thu phục. Mặc dù cuộc khởi nghĩa thất bại, nhưng sự kiện này là hành động

châm ngòi nổ cho các cuộc nổi dậy của nhân dân, đồng thời báo hiệu sự diệt vong

không thể tránh khỏi của nhà Tần.

Cùng với cuộc khởi nghĩa của Trần Thắng, Ngô Quảng, nhiều người ở các

tầng lớp khác ở phía đông cũng nổi dậy, trong đó có lực lượng của hai chú cháu

Hạng Lương, Hạng Vũ và Lưu Bang.

Hạng Lương, Hạng Vũ quê ở Hạ Tương (thuộc tỉnh Giang Tô ngày nay),

Hạng Lương tìm được một người cháu của Sở Hoài Vương ở nước Tần lập nên làm

vua, phong gọi là Sở Hoài Vương, sau đó dựng cờ khởi nghĩa vào năm 209 Tr.CN.

Cùng thời gian này, Lưu Bang vốn là một Đình trưởng ở huyện Bái (cũng thuộc

Giang Tô ngày nay) hưởng ứng phong trào của Trần Thắng. Lúc đầu do lực lượng

còn yếu, nên Lưu Bang nhập vào đội quân của Hạng Lương.

Page 109: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

103

Năm 207 Tr.CN, Chương Hàm (một vị tướng Tần) đem quân đánh Triệu. Sở

Hoài Vương cử Tống Nghĩa, Hạng Vũ đi cứu Triệu; Lưu Bang đi đánh Tần. Tống

Nghĩa chần chừ không tấn công, Hạng Vũ giết Tống Nghĩa, một mình chỉ huy quân

đội đánh tan Tần.

Trong khi đó, ở Hàm Dương, triều đình nhà Tần càng rối ren, Triệu Cao ép chết

Nhị Thế, lập Tử Anh (con anh trai Nhị Thế) lên làm vua. Năm 206 Tr.CN quân Lưu Bang

đem quân sát Hàm Dương sai người bảo Tử Anh đầu hàng. Tử Anh đem ấn đến đầu hàng

quân Lưu Bang, sự kiện này đánh dấu sự phá sản hoàn toàn của đế chế Tần.

Có thể nói, đế chế Tần sụp đổ là bài học về sự vận dụng tư tưởng pháp trị của Pháp

gia một cách máy móc. Chủ trương thiên tư, khắc bạc, lợi kỷ… bản thân Thủy Hoàng chỉ

thích ca tụng về những kết quả tích cực từ việc duy pháp mà không thích nhận xét, phản

ánh những điều trái ngược của các đại thần trong quá trình thực thi pháp luật, cùng với

những hành vi phỉ báng con người của vua Tần đã không đáp ứng được mong muốn của

nhân dân. Đó là nguyên nhân cơ bản để đế chế Tần đi đến sự cáo chung. Đúng như lời của

Machiavelli đã nói về những kẻ đoạt được vương quốc bằng tội ác: … không thể gọi là tài

năng khi tàn sát đồng bào, lừa dối đồng minh, phản trắc, không biết xót thương… những

điều đó có thể đem lại cả đế chế nhưng không đem đến vinh quang [77, tr.84]. Nước Tần là

một trường hợp như thế.

Tóm lại, chủ trương của Pháp gia đã giúp Tần Doanh Chính thống nhất được đất

nước, trở thành vị vua đầu tiên của Trung Hoa, lập nên một thể chế quân chủ chuyên chế -

nhà nước phong kiến đầu tiên của nước này. Sau khi lên ngôi, Tần Thủy Hoàng cũng thực

hiện được những toan tính chính trị - xã hội: thi hành pháp luật rộng rãi, cải cách thể chế,

hành chính, quân đội… Tuy nhiên, với những chính sách hà khắc, bạo chúa, độc tôn pháp

luật của nhà Tần đã không thể giúp ước mơ của vị thủy tổ này thực hiện được mong ước trị

vì thiên hạ đến muôn đời. Nhà Tần vì thế đã sụp đổ chỉ sau 15 năm thống nhất và cai trị

thiên hạ.

Page 110: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

104

3.2. Sự dung hợp giữa Nho gia và Pháp gia thời Hán và ý nghĩa của sự dung hợp đó

đối với chế độ phong kiến Trung Hoa về sau

Từ thời Hán trở về sau, các nhà Nho đều phê phán Pháp gia, do đường lối đức trị,

lễ trị của Nho gia (hệ tư tưởng được Hán Vũ Đế chọn làm tư tưởng chính thống) trái với

pháp trị. Tuy nhiên, trên nhiều phương diện, tư tưởng trị nước do các Pháp gia đề xuất từ

thời Xuân Thu – Chiến Quốc vẫn được duy trì trong đời sống chính trị triều Hán. Điều này

được tác giả của "Tiền Hán thư" là Ban Cố (39-92) đề cập, cho rằng: trong thế kỷ II Tr.CN

có điều luật được áp dụng về trách nhiệm liên đới, theo đó nếu người nào đó vi phạm luật

pháp thì những người thân của nó như cha mẹ, vợ con, anh em ruột đều bị bắt làm nô lệ.

Còn Tư Mã Thiên chép trong Sử ký: Nhà Hán nổi lên thừa kế những điều tệ hại của nhà

Tần [110, tr.170]. Đặc biệt, việc nhà Hán đặt ra lệ mua quan bán tước, dân được dùng tiền

để chuộc tội; các quan tâu xin đặt những qui định về thưởng quan, làm cho chức quan mất

giá trị. Chính vì vậy, việc hạn chế sự lộng hành của quan lại là cần thiết và từ đó xuất hiện

các đạo luật để quản trị quan lại. Về vấn đề này Sử ký chép:

Từ khi Công Tôn Hoằng nhờ việc giải nghĩa Kinh Xuân Thu gò bó kẻ làm tôi mà làm đến

thừa tướng nhà Hán; từ khi Trương Thang dùng lối văn án nghiêm khắc, gắt gao mà được

làm đình úy thì đạo luật về cái tội "kiến tri"1 sinh ra, và người ta trừng trị hết sức nặng

những người cản trở hay phỉ báng mệnh lệnh của nhà vua [110, tr.176].

Đặc biệt, để củng cố thế lực của mình, triều đình đã tăng cường việc quản lý tài sản

quốc gia để tăng ngân sách, cụ thể là sản xuất và tiêu thụ muối và sắt. Đây là hai mặt hàng

có tầm quan trọng đối với ngân khố quốc gia thời bấy giờ, cho nên sau một thời gian thực

hiện việc mở mang khai thác, sản xuất mang tính tự do tự phát đến mọi người dân thì giờ

đây triều đình thấy cần thiết phải thay đổi chính sách, dẫn đến cuộc chiến giữa Nho gia và

Pháp gia trong cái gọi là "Diêm thiết luận" (luận về muối và sắt). Trong cuộc luận chiến

này, Pháp gia có ảnh hưởng đáng kể tới chính sách kinh tế của nhà Hán, coi việc độc

quyền về muối và sắt như một thứ đòn bẩy kinh tế mà người mang tư tưởng Pháp gia đứng

ra luận chiến chính là Ngự sử đại phu Tang Hoằng Dương với các đại biểu của Nho gia.

Nho gia cho rằng: Dân thành thật thì đồ dùng đủ, dân xa xỉ thì đói rét nẩy sinh. Mong

1Kiến tri: quan lại thấy ai biết mà không tố giác thì khép vào tội "kiến tri", tức là "thấy biết". Điều đó chứng

tỏ tư tưởng của Thương Ưởng trong "Thương Quân thư" về tố giác tội phạm vẫn còn giá trị trong thời Hán.

Page 111: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

105

được bãi bỏ muối sắt, độc quyền rượu, chuyển vận. Do vậy, bồi gốc lui ngọn, đem lợi rộng

rãi cho nông nghiệp là yên ổn [67, tr.389].

Đáp lại quan điểm đó, Tang Hoằng Dương cho rằng:

Chi phí biên giới không đủ, nên phải thi hành (chế độ) muối sắt, độc quyền rượu, bày ra

vận chuyển thuận lợi để có tiền của lâu dài, giúp đỡ chi phí biên cương. Nay bàn muốn bãi

bỏ những (chế độ) ấy, trong thì kho lẫm trống trơn, ngoài thì thiếu tiền dùng lo việc phòng

bị, làm cho quân sĩ nơi biên giới đói rét, lấy gì cung cấp cho họ đây? Bãi bỏ những điều ấy

là không tiện vậy [67, tr.391].

Cuộc luận chiến kết thúc bằng thắng lợi của những người đứng về phía Tang

Hoằng Dương trong việc giải quyết các vấn đề đối nội và đối ngoại và những người theo

quan điểm của Nho gia phải chấp thuận, dẫn đến tính tất yếu của việc dung hợp Nho -

Pháp trong một quá trình lâu dài, trở thành hiện tượng thống nhất hai mặt đối lập để xây

dựng một hệ tư tưởng chiết trung có lợi cho nhà nước phong kiến quan liêu tập quyền.

Như vậy, Pháp gia đóng vai trò quan trọng trong sự hình thành hệ tư tưởng chính

thống của Nho giáo, đồng thời được coi là "sự làm phong phú thêm nội dung tư tưởng của

Nho giáo". Trong các giai đoạn lịch sử khác nhau, cả thời kỳ Trung đại cũng như thời Cận

hiện đại, các nhà hoạt động chính trị Trung Quốc thường dựa vào Pháp gia để tìm kiếm

"thực đơn" cho những căn bệnh khủng hoảng của đất nước.

Chẳng hạn Vương An Thạch (1021 - 1086), một đại biểu của Nho học Bắc Tống

đã tiến hành một loạt các cuộc cải cách nhằm củng cố bộ máy nhà nước và hạn chế quyền

lực của bọn quí tộc lớn tương tự như các cuộc biến pháp của Thương Ưởng. Là nhà Nho,

nhưng ông lại có thiện cảm với tác giả "Thương Quân thư", thậm chí còn làm thơ ngợi ca

Thương Ưởng về các cách thức trị nước, đặc biệt là thưởng phạt và chịu các tội liên đới mà

chúng tôi đã dẫn ra ở trên. Để giúp nhà vua trị nước có hiệu quả, ông đã làm ra sách Chu

quan tân nghĩa nhằm giải thích nội dung và ý nghĩa của Chu lễ.

Đạo trong việc chính trị, có vị trí quí hay tiện, có trật tự sau hay trước, có số lượng

nhiều hay ít, có thời gian chậm hay mau. Chế ra để dùng, giữ ở phép tắc, đưa ra thi

hành giữ ở người. Người đó đủ để làm quan, quan chức đó đủ để thi hành pháp lệnh,

không gì hưng thịnh bằng thời Thành Chu. Pháp lệnh đó có thể thi hành đến mấy đời

sau, văn chương ấy có trong thư tịch, không gì đầy đủ bằng sách "Chu quan"… Hầu

Page 112: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

106

hết những câu giải thích từng chữ trong "Chu lễ" là nhằm mục đích xác nhận trách

nhiệm của từng chức vụ để quản lý quốc gia theo định hướng tốt nhất, biểu hiện trọn

vẹn tư tưởng trị nước của Vương An Thạch [67, tr. 853-854].

Nhà Minh dưới thời Chu Nguyên Chương. Một mặt, ông vừa khắc phục hậu

quả của chính sách cai trị hà khắc của triều Nguyên và chiến tranh; mặt khác, Chu

Nguyên Chương tiến hành một số chính sách có lợi cho người dân nhưng rất nghiêm

khắc với bọn quan lại tham nhũng. Cụ thể:

- Trả lại tự do cho những người bị biến thành nô tì trong thời gian loạn lạc, đồng thời cấm

cưỡng bức hoặc mua bán dân tự do làm nô tì.

- Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho việc khôi phục và phát triển sản xuất nông nghiệp như

kêu gọi nhân dân khai khẩn đất hoang, cho họ có quyền sở hữu vĩnh viễn và không đánh

thuế; …giảm nhẹ thuế khóa, cứu tế nhân dân những nơi mất mùa.

- Bỏ những hình phạt tàn khốc thời Nguyên như thích chữ vào mặt, cắt mũi, chặt chân,

thiến, v.v., đồng thời dùng nguyên tắc khoan hồng trong việc xét xử.

- Nghiêm trị bọn quan lại tham ô. Nếu quan lại phạm tội tham ô thì bị xử bằng các cực hình như

chém bêu đầu, tùng xẻo, giết cả họ, thậm chí còn lột da treo ở công đường để làm gương…

Song mặt khác, là một ông vua phong kiến, Minh Thái Tổ rất quan tâm đến việc xây dựng

chế độ quân chủ chuyên chế tập quyền trung ương" [78, tr.156].

Dẫn chứng nêu trên cho thấy, để xây dựng chế độ quân chủ chuyên chế tập quyền

trung ương thì vấn đề kết hợp Nho và Pháp là tất yếu, ở đó chính sách thân dân phải gắn

liền với việc quản lý bộ máy quan lại. Chính vì vậy mà ở thời kỳ đầu nhà Minh đã xây

dựng bộ luật dưới tên gọi là Đại Minh luật và sự ra đời của bộ luật này được xem là một

trong những bước tiến lớn nhất thời đại. Minh Thái Tổ đã yêu cầu các quan làm luật phải

đưa ra một bộ luật dễ hiểu và bao hàm toàn bộ đời sống xã hội và kín kẽ. Do hệ tư tưởng

của triều đại dựa trên học thuyết Nho giáo, cho nên trong nội dung của bộ luật này như

chúng tôi đã dẫn ở trên, có sự đối xử mang tính nhân văn hơn các triều đại trước đối với nô

lệ, nô tì. Phần lớn các điều luật dành cho các mối quan hệ gia đình theo chuẩn mực đạo

đức Nho giáo.

Tuy nhiên, nếu như đầu triều Minh, Chu Nguyên Chương dùng hình phạt nghiêm

khắc để trừng trị quan lại tham ô, tạo dựng được thế ổn định bởi phong khí liêm chính

trong bộ máy quan liêu, thì đến cuối triều đại này, hoàng đế vì mục đích riêng đã sử dụng

Page 113: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

107

những người thân tín, tạo điều kiện cho bọn tầm thường dễ ở ngôi cao, kết bè đảng với

nhau để kiếm lợi riêng. Dù có Đại Minh luật nhưng một khi hoàng đế đã phạm phải sai

lầm trong việc dùng người thì bề tôi càng có cơ hội dùng người thân tín.

Pháp lệnh có thể trừng trị tội phạm, nhưng không thể ngăn ngừa được người phạm tội. Vả

chăng pháp lệnh đưa ra để đối phó với tội phạm thì người phạm tội cũng có thể tìm ra mọi

kẽ hở để đối phố với pháp lệnh bằng cách câu kết ngay với chính bọn quan lại thi hành

pháp lệnh" [67, tr. 1332].

Đó cũng là một trong những nguyên nhân khiến nhà Minh sụp đổ trước sự xâm

lược của Mãn Thanh.

Nhà Thanh sau khi thay thế nhà Minh cũng lấy Nho giáo làm hệ tư tưởng cho triều

đại. Tuy nhiên, là một vương triều thống trị dựa vào chiến tranh chém giết. Do đó, những

lý luận cao siêu về lý, khí, tâm, tính không thích hợp, do đó vương triều này sùng thượng

Nho thuật, chỉ chú trọng đến mặt thực dụng.

Một vương triều mới thành lập, đương nhiên rất cần trọng dụng nhân tài. Nhưng nhân tài

trong quan niệm buổi đầu nhà Thanh là phải "đạt dụng": (thông đạt về thực dụng) như chữ

dùng trong "Thanh sử cảo". Căn cứ thể lẫn dụng đều được coi là kinh điển Nho gia. ..

Vương triều Thanh dựng nước dựa phần nhiều theo chế độ triều Minh, tất nhiên cũng nối

tiếp nhiều chính sách về học thuật của Minh [67, tr.1370].

Những người thực hiện mục đích trên là Cố Viêm Võ, Hoàng Tông Hi và Vương

Phu Chi. Cả Cố và Vương đều tập trung nghiên cứu nguyên nhân mất nước của triều Minh

và đưa ra nhận định chung cho rằng, thủ phạm chính là học thuyết của Vương Dương

Minh. Riêng Hoàng Tông Hi không kết tội làm mất nước bởi học thuyết Vương Dương

Minh, mà cho là vì vua không ra vua, tôi không ra tôi. Từ đó Hoàng Tông Hi viết "Minh di

đãi phỏng lục" mà chương đầu có tên gọi là "Nguyên quân" dành cho việc tìm hiểu bản

chất và trách nhiệm của quân vương. Cũng như các nhà nho khác, Hoàng Tông Hi muốn

các vua đời sau noi theo gương các vua thời "tam đại" (Hạ, Thương, Chu) bởi theo ông,

"vua phải là vua của thời "tam đại", tôi thần phải là tôi thần của thời kỳ "tam đại", do từ đó,

những tổ chức khác, cũng nên coi "tam đại" là mẫu mực" [67, tr.1378].

Các nhà nho từ thời Hán trở đi thường qui kết tội cho Thương Ưởng trong việc phá

vỡ chế độ tỉnh điền, một chế độ vốn được Khổng Tử và Mạnh Tử ca ngợi. Tuy nhiên,

Page 114: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

108

trước biến pháp của Thương Ưởng điều đó đã xảy ra và trên thực tế, nhờ có sự "bãi bỏ" đó

mà nông nghiệp phát triển. Hoàng Tông Hi muốn đi tìm sự an trị trong điều kiện vua tôi

chân chính như một thứ lý tưởng mà Nho giáo trong suốt hai ngàn năm hướng tới. Theo

Nguyễn Tôn Nhan, về vấn đề này Vương Phu Chi tỏ ra tỉnh táo và thực tế hơn Hoàng

Tông Hi. Ông viết:

Vương Phu Chi trong cảnh lưu vong sống nơi vắng vẻ nhận ra được rằng thời cổ đại cũng

chẳng có giá trị gì để hướng tới. Từ đó quan niệm của Vương Phu Chi phát triển giúp ông

tỉnh táo nhận ra rằng, khôi phục lại các chế độ như tỉnh điền, phong kiến, ngu binh ư nông

ở thời kỳ "tam đại" về nguyên tắc là không thể" [67, tr.1378].

Vương Phu Chi đề cao thuyết mệnh trời, cho rằng:

Nguồn gốc lòng nhân ở trời, thì không thể không có cha con; nguồn gốc lòng nghĩa

ở trời, thì không thể không có vua tôi… Mỗi ngày trời giáng xuống, mỗi ngày trời

ban mệnh cho, mỗi ngày người ta nhận lấy đó. Mệnh ban từ trời, nhận lấy là tính.

Vĩnh viễn suốt đời, hay khoảnh khắc ăn uống, có gì là lúc không nhận lấy mệnh?

Đều là mệnh cả thôi, tức đều là tính cả. Mệnh trời gọi là tính, há chỉ riêng nhận

được lúc mới ra đời đâu? [67, tr.1386]

Đề cao thuyết mệnh trời đối với Vương Phu Chi rõ ràng phản ánh thái độ chính

trị của ông. Một là, ông muốn nhấn mạnh tư tưởng của Đổng Trọng Thư về "thiên nhân

hợp nhất", nhưng bổ sung thêm cho nó sự biến hóa khôn lường mà bất kỷ thời điểm nào,

ở đâu cũng đều có sự chi phối của trời; Hai là, trong bối cảnh bị Mãn Thanh thống trị,

ông chỉ còn biết tin vào trời và mệnh trời và từng là người tổ chức nhân dân chống

Thanh. Chống triều đình nhà Thanh cũng tức là chống lại chế độ quân chủ chuyên chế và

yêu cầu cải cách xã hội.

Có thể thấy, sau cuộc kiến tạo tư tưởng thần kỳ dưới bàn tay của Nho gia Đổng

Trọng Thư nhằm biến Nho giáo trở thành học thuyết chính trị - pháp lý. Kể từ đây phương

pháp trị nước theo phương thuật “nội thánh ngoại vương”,“dương Nho âm Pháp”, “đức

chủ pháp bổ”... bản chất là “Nho Pháp tịnh dụng” đã ngự trị suốt hơn 2000 năm lịch sử

các triều đại phong kiến Trung Hoa. Thật vậy?

Page 115: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

109

Triều Hán lại có thể chia ra làm hai giai đoạn: Tây Hán (206 Tr.CN – 25 SCN) và

Đông Hán (25 - 2220). Thời Tây Hán, Hán Vũ Đế sử dụng Nho giáo làm hệ tư tưởng

chính thống cho nền chính trị của mình. Nhưng đến cuối thời Đông Hán nội chiến của các

tập đoàn phong kiến cuối thời Đông Hán (Ngụy, Thục, Ngô) gần 4 thế kỷ.

Đến năm 581 nhà Tùy lại thống nhất Trung Quốc, nhưng chỉ sau đó 37 năm nhà

Đường lại lật đổ nhà Tùy. Trong công tác đối nội nhà Đường đã chủ trương: an dân minh

quốc (Dân yên ổn, nước thái bình); ước pháp tỉnh hình (pháp luật soạn đơn giản, hình phạt

nhẹ). Việc áp dụng Đường luật có phần thiên về hướng dẫn thực hành (một chủ trương của

Pháp gia), nhà Đường chú trọng ban hành luật, lệnh. Trong đó, luật là dựa vào đó để định

tội và xử phạt. Để cụ thể hơn nhà Đường đã thực hiện điều chỉnh các điều luật và các điều

luật khá tỷ mỉ và rộng rãi, đối tượng điều chỉnh được xếp theo các chương, mục khá rõ

ràng. Lúc này luật pháp cũng thể hiện sự nhân đạo hơn, nó xóa bỏ tất cả những hình phạt

tàn khốc như: lăng trì (xẻo thịt), liệt (xé xác). Năm loại hình được quy định trong Đường

luật sớ nghị là: xuy, trượng, đồ, lưu, tử (gồm hai bậc trảm và khảo). Đường luật sớ nghị là

bộ luật nổi tiếng trong pháp điển phong kiến Trung Quốc và ảnh hưởng lớn đến pháp luật

phong kiến sau này. Khi nghiên cứu tư tưởng phong kiến Việt Nam chúng ta sẽ thấy luật

nhà Đường ảnh hưởng khá sâu sắc đến cách dựng và làm luật của Hình thư nhà Lý, Hình

luật nhà Trần ở nước ta.

Sang đời Tống, trên cơ sở nhà Tống kế thừa luật nhà Đường đã cho ra đời bộ

“Tống hình thông”. Bộ Tống hình thông có thời gian biên chép khá dài từ thời Đường

Khai Nguyên (năm 714) đến Tống Sơ Kiên (năm 962), tức khoảng 150 năm mới thẩm

định và biên chép thành sách. Trong thực thi, phát triển quan điểm của Pháp gia trong điều

kiện mới, nhà Tống áp dụng Lệ - Lệ, đây là những bản án do các quan xét xử, khi luật

chưa quy định rõ ràng thì các quan được phép đối chiếu, so sánh thành lệ rồi định án.

Nghĩa là, lệ cũng có hiệu lực pháp lý – đây là điểm mà các triều đại phong kiến Việt Nam

áp dụng khá triệt để.

Nhà Nguyên, Hốt Tất Liệt cho ban bố pháp luật lần đầu có tên gọi là Chí Nguyên

tân cách, đến năm 1323 có bộ luật thứ hai là Đại Nguyên thống chế. Pháp luật nhà Nguyên

thể hiện rõ sự kỳ thị và áp bức dân tộc.

Page 116: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

110

Đời Minh có Đại Minh luật với những hình phạt khánghiêm khắc. Để bổ sung

thêm tính chặt chẽ của pháp lý đến năm 1500 nhà Minh còn cho ban hành thêm Vấn hình

điều lệ để quy định về việc dùng lệ nhằm bổ sung cho những gì luật quy định còn

thiếu sót.

Sang thời nhà Thanh có bộ Đại Thanh luật, đến đời Càn Long năm thứ 5 (tức

năm 1740) sửa lại thành Đại Thanh luật lệ gồm 1412 điều. Đây là bộ luật điều

chỉnh nhiều lĩnh vực khác nhau, các quan hệ dân sự như: ruộng đất, hôn nhân và gia

đình, thừa kế, mua bán…; các quy định hình sự về những trọng tội được quy định

rất tỷ mỉ. Bên cạnh đó, các vua nhà Thanh còn cho biên soạn rất nhiều những bộ hội

điển (pháp luật hành chính nhà nước) như: Khang Hi hội điển, Càn Long hội điển,

Gia Khánh hội điển, Quang Tự hội điển…

Nhìn chung, pháp luật của nhà nước phong kiến Trung Quốc thể hiện trung

thành với tư tưởng chính trị. Cho nên, nổi bật lên là tính thống nhất trong sự kết hợp

giữa Lễ và Hình. Thể hiện sự kết hợp chủ trương Đức trị với Pháp trị và hòa đồng

giữa quy phạm pháp luật với quy phạm đạo đức. Sự kết hợp này, đặc biệt là sự bổ

sung Lễ vào trong luật định để phù hợp với từng địa phương là phương pháp làm

luật đặc thù của phương Đông.

Luật hình được chế định trong các triều đại phong kiến Trung Quốc từ thời

Hán trở đi đều hướng tới việc bảo vệ đạo đức Nho giáo mà mục đích của nó cốt để:

một là, thắt chặt mối quan hệ gia đình và họ hàng; hai là, tôn vinh vai trò của

Khổng Tử. Tuy nhiên, sự tác động trực tiếu tới sự phát triển của nhà nước Trung

Hoa, tư tưởng chính trị và pháp luật không chỉ từ các quan điểm riêng của Pháp gia

hay Nho gia, hoặc là từ sự kết hợp của hai học thuyết đó, mà chính là thực tế về sự

đồng hành của hai cách thức khác nhau về đường lối trị nước, một đằng do Khổng

Tử đề xuất là Lễ và đằng khác, do Thương Ưởng đưa ra là Hình pháp. Lịch sử chính

trị Trung Quốc đã chỉ ra rằng, trong thực tế không một cách thức nào nói trên hoạt

động dưới dạng thuần túy của nó, mặc dù bắt đầu từ Tần Thủy Hoàng trở đi các

hoàng đế đều công bố đứng hẳn về một phía, hoặc là Lễ, hoặc là Pháp.

Page 117: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

111

Chính vì vậy, việc đưa ra sự so sánh hai học thuyết này để chỉ ra học thuyết

nào mạnh hơn, tốt hơn chỉ là tương đối, bởi lẽ sự phù hợp của một trong hai học

thuyết đó, về cơ bản là phụ thuộc vào thực tiễn đời sống chính trị - xã hội. Đúng

như định đề của Hêghen (1770 - 1831, nhà Triết học lỗi cận đại lỗi lạc của nước

Đức) đã chỉ ra quy luật: cái gì tồn tại được là bởi nó hợp lý, và cái gì có hợp lý thì

mới tồn tại được. Do đó, sự xác định vai trò và vị thế của Pháp gia trong lịch sử

chính trị - xã hội Trung Quốc cổ đại, theo chúng tôi là khả dĩ, còn dưới chế độ

phong kiến của Trung Quốc thì quả là phức tạp, bởi từ thời Hán trở đi, Nho giáo đã

chiếm địa vị độc tôn trong lĩnh vực đời sống chính trị - xã hội.

Như vậy, về mặt tư tưởng, quan điểm của Pháp gia cũng được các nhà Nho về sau

kế thừa, cải tạo và phát huy. Tư tưởng “tam cương” của nhà nho lớn nhất đời Hán là Đổng

Trọng Thư có nguồn gốc từ tư tưởng Hàn Phi, khi yêu cầu nhà vua phải “độc thị” (tự mình

quan sát), “độc thính” (tự mình nghe ngóng), “độc đoán” (tự mình giải quyết) … đến các

nhân vật lịch sử được xem là những người có tư duy pháp trị như: Hán Vũ Đế, Tào Tháo,

Đường Thái Tông, Tống Thái Tổ, Thành Cát Tư Hãn… đều được người đời sau đánh giá

là những anh hùng của đất nước Trung Quốc. Thậm chí đến những năm 60 của thế kỷ thứ

XX, rất nhiều nhà khoa học cho rằng, quan điểm Pháp gia là đường lối duy vật, tích cực

trong lịch sử Trung Quốc. Chính bản chất khoa học và thực tế của tư tưởng pháp trị cần

cho người cai trị, mà các triều đại phong kiến Trung Hoa tận dụng triệt để xây dựng luật

pháp, củng cố chính quyền, quản lý xã hội… dẫn đến nhiều giả thiết đặt ra khi nghiên cứu

lịch sử tư tưởng chính trị phong kiến nước ta từ thế kỷ X đến nửa đầu thế kỷ XX rằng: có

hay không sự ảnh hưởng của Pháp gia đối với chế độ phong kiến Việt Nam; phải chăng

hai bộ pháp điển tiêu biểu được xây dựng dưới thời Lê Sơ là Quốc triều hình luật

(1428) và Hoàng Việt luật lệ (1812) nhà Nguyễn là bản sao hoặc kế thừa sâu sắc hai

bộ Đại Minh luật và Đại Thanh luật lệ, nhất là bộ Hoàng Việt luật lệ.

Page 118: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

112

Tiểu kết chương 3

Có thể vắn tắt về ảnh hưởng của Pháp gia đến tư tưởng chính trị - xã hội Trung

Hoa qua ba thời kỳ: thứ nhất, là thời kỳ các nước chư hầu Tần; thứ hai, là thời kỳ đế

chế Tần thống nhất Trung Hoa cổ đại, thứ ba, là từ nhà Hán trở đi.

Trong hai thời kỳ đầu, Pháp gia đã có công lao rất lớn khi thúc đẩy cục diện chính

trị - xã hội đi đến kết thúc tình trạng hỗn loạn, cát cứ và nội chiến xảy ra triền miên suốt

thời Xuân Thu sang Chiến Quốc. Với vai trò của đế chế Tần gắn với tư tưởng pháp trị của

Pháp gia. Sở dĩ Tần trở nên hùng mạnh là do đã tiếp thu, áp dụng thành công tư tưởng

pháp trị của Thương Ưởng, Hàn Phi: cách tân xã hội, cải biến pháp chế, chấn hưng quân

đội, thúc đẩy sản xuất... Vì thế nhà Tần đã thôn tính tất cả sáu nước còn lại và thực hiện

việc thống nhất toàn Trung Hoa năm 221 Tr.CN, thiết lập một hệ tư tưởng trị nước bằng

pháp luật mà cẩm nang của nó là Thương Quân Thư và Hàn Phi Tử.

Tuy nhiên, ở thời kỳ thứ hai, với chủ trương xây dựng một chế độ phong kiến quân

chủ chuyên chế, ở đó độc tôn pháp luật; mọi quyền và lợi ích đều trung trong tay nhà vua,

cha con Tần Thuỷ Hoàng lúc này đã đẩy các biện pháp để thực hiện chủ trương đó tới đỉnh

điểm của sự cực đoan, tạo nên bầu không khí chính trị - xã hội nghẹt thở làm cho tư tưởng

Pháp gia biến thái, trở nên tàn bạo trong lịch sử. Vô hình chung, nhà Tần đã đẩy triều đại

mình đến chỗ diệt vong.

Vì thế, rút kinh nghiệm từ cách thức trị nước theo tinh thần độc tôn pháp thuật với

chính sách đối nội phản nhân văn của nhà Tần, sau khi nhà Hán lật đổ đế chế Tần đã thiết

lập một chế độ phong kiến quân chủ trung ương tập quyền với cách thức trị nước mới theo

tinh thần “đức trị” kết hợp với “thần quyền” theo phương châm “nội thánh ngoại

vương”,“dương Nho âm Pháp”, “đức chủ pháp bổ”... dường như được chấp nhận, điểu

này đã giúp cho chế độ phong kiến Trung Hoa ngự trị suốt hơn 2000 năm lịch sử. Và sự

thật xu thế này đã trở nên phổ biến đối với nhà nước phong kiến trung ương tập quyền

phương Đông, trong đó có phong kiến Việt Nam. Các triều đại phong kiến nước ta đã áp

dụng phương thức tích hợp này, có những điều chỉnh nhất định sao cho phù hợp với điều

kiện tự nhiên và xã hội, nhờ đó chế độ phong kiến Việt Nam tồn tại gần 1000 năm.

Page 119: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

113

Chương 4. ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG PHÁP TR Ị ĐẾN ĐỜI SỐNG

CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI DƯỚI CHẾ ĐỘ PHONG KIẾN VIỆT NAM TỪ

THẾ KỶ X ĐẾN NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX

4.1. Ảnh hưởng của tư tưởng pháp trị đến xây dựng và phát triển chế độ phong kiến

trung ương tập quyền Việt Nam từ thế kỷ X đến nửa đầu thế kỷ XX

4.1.1. Ảnh hưởng của tư tưởng pháp trị trong việc tổ chức bộ máy nhà nước

phong kiến

Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 đã khép lại hơn 10 thế kỷ nước ta bị phong

kiến phương Bắc đô hộ, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc – kỷ nguyên xây

dựng nhà nước phong kiến Việt Nam độc lập, tự chủ. Từ năm 938 – 1884, lịch sử

chế độ phong kiến nước ta trải qua 10 triều đại. Cho dù cách thức, thời gian quản lý,

trị vì là không giống nhau, song độc lập dân tộc gắn liền với củng cố nhà nước trung

ương tập quyền luôn là xu hướng phát triển xuyên suốt cả thời kỳ phong kiến. Căn

cứ vào trình độ phát triển nhà nước giai đoạn này, có thể phân định lịch sử ra làm ba

thời kỳ như sau:

* Thời kỳ thiết lập chính quyền, thế kỷ X được coi là thế kỷ bản lề của dân tộc,

nó chứng kiến sự xác lập cương vực của các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, đồng thời

gắn với cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, chống lại các thế lực cát cứ và sự xâm

lược của nhà Tống để xây dựng nhà nước phong kiến tự chủ. Tuy nhiên, các triều đại

này đều có chung đặc điểm là thời gian tồn tại khá ngắn và thường xuyên phải đối mặt

với chiến tranh. Cho nên, đặc trưng của nhà nước lúc này là gắn liền với hành chính

hóa quân sự và pháp luật cùng những hình phạt, có thể nói là khá dã man.

* Thời kỳ củng cố và giữ vững chính quyền, từ thế kỷ XI – XIV dưới các triều đại

Lý – Trần – Hồ, chế độ phong kiến nước ta tiếp tục khẳng định nền độc lập, đánh thắng

các thế lực xâm lược phương Bắc; bước đầu xây dựng, phát triển nhà nước tập quyền và

hệ thống pháp luật thống nhất trên phạm vi cả nước, đặc biệt dưới triều Lý, Trần.

Nhà Lý trải qua 225 năm với 9 đời vua, bắt đầu từ Lý Thái Tổ (1010 - 1028) và

kết thúc bởi Lý Chiêu Hoàng (1224 - 1225). Triều đại Lý được biết đến với công lao to

Page 120: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

114

lớn: định đô ở Thăng Long, đổi quốc hiệu thành Đại Việt, hai lần đánh thắng quân xâm

lược nhà Tống, khẳng định vững chắc chủ quyền dân tộc.

Kế tục sự nghiệp của nhà Lý, nhà Trần tiếp tục tạo dựng chế độ quân chủ quý

tộc, tăng cường công hiệu của pháp luật trong quản lý. Trải qua 12 đời vua trong suốt

175 năm trị vì từ Trần Thái Tông (1225 - 1258) đến Trần Thiếu Đế (1398 - 1400), nhà

Trần đã làm nên những chiến công hiển hách cho lịch sử dân tộc: 3 lần đánh thắng

quân Nguyên Mông, củng cố pháp luật, phát triển kinh tế hưng thịnh. Thời Lý – Trần

cũng được biết đến với 2 bộ pháp điển là Hình thư thời Lý và Hình luật thời Trần.

Đặc điểm xã hội phong kiến Việt Nam thế kỷ X – XIV ở chỗ, từ cuối thế kỷ

X đã chia thành các tầng lớp, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thiết lập vững chắc

chính quyền trung ương trong nước. Dưới vua, trong xã hội hình thành ba lực

lượng: Thứ nhất, "thần dân" là các quan lại được giao những trọng trách nhất định.

Lực lượng này tuy chiếm số lượng không nhiều, nhưng lại rất cần thiết cho sự ổn

định của bộ máy nhà nước với hai ban là quan văn và quan võ, trong đó các võ

tướng có vai trò rất lớn, bởi sự hiện diện của họ thể hiện sự kiểm soát lãnh thổ của

một nhà nước; Thứ hai, là"trăm họ"(bách tính), chính là tổ chức dân sự được tập

hợp từ những nông dân công xã và tầng lớp trên trong làng, họ có vai trò vừa bảo vệ

chính quyền, đất nước khi có chiến tranh, vừa chăm lo sản xuất, cống nạp cho triều

chính; Thứ ba là"tôn giáo", để tập quyền nhà nước, nhà Lý cần đến tôn giáo. Sự

thống nhất và suy tôn một tôn giáo nào đó có ý nghĩa thống nhất về tư tưởng để trên

cơ sở đó, đi đến thống nhất quốc gia, từ sự thống nhất trong đa dạng các hình thức

tín ngưỡng, đến hệ tư tưởng. Ở Đại Việt lúc này, tôn giáo đó chỉ có thể là Phật giáo.

Điều đặc biệt là trong giai đoạn từ thế kỷ X - XIII, khi Nho giáo chưa chiếm

địa vị thống trị, dưới xã hội Lý - Trần ngoài những chức quan theo phẩm hàm từ

trung ương xuống địa phương, các triều đại này còn xuất hiện các chức vụ như:

quốc sư, tăng thống, tăng lục, tăng chính. Những vị quan này thường là những

người có học vấn uyên bác, phương lược uyên thâm, có tầm ảnh hưởng lớn trong xã

hội, họ trực tiếp giúp các tân vương khởi nghiệp bằng mọi thủ đoạn chính trị, thậm

chí ngay cả những hành vi tàn bạo đã từng bị lịch sử lên án của trường phái Pháp

Page 121: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

115

gia cổ đại Trung Hoa cũng được họ áp dụng, miễn sao có thể đạt được mục đích

chính trị, tiêu biểu triều Lý có sư Vạn Hạnh bằng sấm vĩ để tôn Lý Công Uẩn lên

ngôi, triều Trần có Trần Thủ Độ dùng mưu sự để hợp thức hóa nhà Trần dưới chiêu

bài nhường ngôi từ nhà Lý.

Về mặt hành chính – tổ chức, từ thời Lý trải qua các triều đại Trần, Hồ, sang

Lê Sơ luôn tồn tại hình thức chính quyền "lưỡng chế". Đây là thể chế được hình

thành với hai cấp (trung ương và địa phương), nó giống với mô hình mà các Pháp

gia cổ đại đã dùng. Mặc dù ở mỗi cấp có chức năng, nhiệm vụ khác nhau nhưng từ

trung ương xuống đến địa phương đều có chung một mục đích là bảo vệ và phục

tùng bộ máy quan liêu phong kiến trung ương tập quyền.

Ở trung ương, là hệ thống các quan lại được các vua chúa trực tiếp ban

phong. Họ có đặc quyền, đặc lợi và đặc ân từ nhà vua, được cấp lương bổng, ruộng

đất theo hàm phẩm. Trong đó, có hệ thống các quan văn và quan võ. Các quan văn

được tuyển mộ thông qua hình thức thi cử, từ thi hương, thi hội, thi đình mà tuyển

chọn ra hoặc được những người có uy tín tiến cử. Các quan võ thì được chọn cử từ

dũng tướng, võ quan được trưởng thành trong quân đội và có nhiệm vụ đặc nhiệm

bảo vệ cung thất (cung vua, phủ chúa) và nơi biên ải để chống quân xâm lược.

Trong lịch sử dựng nước và giữ nước thời kỳ phong kiến Việt Nam, đặc biệt là

trong lịch sử các cuộc kháng chiến chống xâm lăng phương Bắc và Tây Nam, vai

trò của các võ tướng luôn được đề cao.

Ở địa phương, để tập trung quyền lực vào tay nhà vua, bên dưới bộ máy

chính quyền quan liêu như trên, các triều đại phong kiến nước ta còn phân chia địa

giới hành chính giao cho các quan lại được chỉ định một chức quan ở địa phương

giúp nhà vua cai quản. Dưới các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý đất nước được

chia thành các lộ, phủ, châu, giáp, xã. Mỗi xã có một Chánh lệnh trưởng, Tá lệnh

trưởng trông coi. Trên xã là hương (nhiều xã) sau đổi thành giáp mỗi giáp có Quản

giáp và Phó Quản giáp trông coi. Sang thời Trần, thay vì chia nước thành 24 lộ như

triều Lý ("Hoan châu" và "Ái châu"), nhà Trần chia đất nước làm 12 lộ, ở mỗi lộ có

quan cai trị gọi là "An phủ sứ". Tuy nhiên, cuộc cải cách của nhà Trần không phải là

Page 122: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

116

việc kết cấu lại các lộ, mà là sự đổi mới cơ chế quản lý nhân sự, xây dựng nên một

trật tự khá chặt chẽ trong ngạch nhân sự hành chính cấp xã. Lúc này trong hàng ngũ

quan lại nhà Trần đã đặt các xã quan, các xã đặt các chức đại, tiểu tư xã, từ ngũ

phẩm trở lên là Đại tư xã, từ lục phẩmtrở xuống là Tiểu tư xã. Tóm lại, xã quan là

hình thức quan lại cấp thấp nhất, nó chỉ được công nhận từ thời Trần dưới chế độ

phong kiến Việt Nam nhưng tính hiệu quả của nó đã được các nhà nước sau đó xác

nhận và áp dụng.

* Thời kỳ phát triển, hung thịnh và suy tàn của nhà nước trung ương tập

quyền, bắt đầu từ thế kỷ XV (thời Lê Sơ), Lê Thánh Tông với chủ trương xây dựng

một nhà nước trung ương tập quyền mạnh mà toàn bộ quyền lực tập trung vào tay

vua trên tất cả các phương diện: ban hành, thực hiện pháp luật và xét xử. Cho nên,

các nhóm đại thần Thái úy, Thiếu úy… không có tính phân quyền như thời kỳ đặt các

quan Tư đồ, Tư mã, Tư không như trước đây, mà chỉ là các chức vụ thừa hành, vua

vẫn lấy ý kiến của các Thiếu, Thái, Lục Bộ, Lục Tự… song, điều đó chỉ mang tính

tham vấn. Nhà Lê phân chia lãnh thổ thành 5 đạo để quản lý gồm (Đông Đạo, Bắc

Đạo, Tây Đạo, Nam Đạo), đứng đầu mỗi đạo là chức Hành khiển, bên cạnh đó có

chức Tổng quản chỉ huy các vệ quân trong đạo. Dưới đạo có các đơn vị hành chính

như: trấn, lộ, phủ, huyện, châu. Ở trấn có chức Trấn phủ sứ, Tuyên úy sứ. Lộ có An

phủ sứ,Tổng quản. Ở phủ có Tri phủ, Đồng tri phủ. Huyện có Chuyển vận sứ. Ở

Châu có Phòng ngự sử, Chiêu thảo sử. Riêng vùng thiểu số có Tri châu, Đại tri châu.

Đơn vị hành chính nhỏ nhất dưới triều Lê là xã. Năm 1428 Lê Lợi chia xã làm 3 loại:

đại xã (100 hộ trở lên), trung xã (50 hộ trở lên) và tiểu xã (10 hộ trở lên) do các quan

xã đứng đầu. Số lượng xã quan được quy định: đại xã (3 người), trung xã (2 người),

tiểu xã (1 người).

Mặc dù số lượng quan lại được qui định rất rõ và hạn chế, nhưng dưới triều

Lê Sơ, hoạt động của bộ máy hành chính nhìn chung khá hiệu quả. Để có được chất

lượng tốt này, triều đình không chỉ nhờ cơ cấu tổ chức, đội ngũ quan lại có chất

lượng, mà còn tùy thuộc vào chất lượng vận hành các quy tắc đó. Như vậy, thay vì

chia các cụm dân cư thành từng nhóm 5 nhà, 10 nhà... để bẩm báo, cáo giác lẫn

Page 123: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

117

nhau như trong chủ trương biến pháp của Thương Ưởng, mà mang tính phân cấp

với những chức quan đứng đầu chịu trách nhiệm trước triều đình để thắt chặt mối

liên hệ giữa trung ương và địa phương. Bởi lẽ, do triều đại này đã lấy Nho giáo làm

chủ đạo cho hệ tư tưởng, cho nên ở các cấp ấy, con người sống với nhau theo tinh

thần "tứ hải giai huynh đệ" của Nho giáo, nhưng không vì thế mà họ bỏ qua những

công dụng của hình thức tổ chức cụm dân cư như vậy.

Sau thời Lê Sơ, một chính quyền lưỡng chế được hình thành ở hai miền đất

nước. Phía Bắc có vua Lê chúa Trịnh, phía Nam là tập đoàn Trung hưng chúa

Nguyễn. Nhìn chung đó là mô hình tồn tại song hành quyền lực giữa vua và chúa,

nhưng thực quyền thuộc về các chúa, lúc này vua chỉ có ý nghĩa tượng trưng.

Chẳng hạn, ở phía Bắc vua Lê có vai trò, chức năng trong một Hội đồng nhà

nước mở rộng. Triều đình mỗi tháng họp hai kỳ (vào ngày sóc mùng một và ngày

vọng rằm) và những ngày đại lễ, vua Lê họp Thị Triều trong cung thành, triệu tập

đông đảo văn võ bá quan đến dự, nghi thức rất long trọng. Chúa Trịnh ngồi bên tả,

ngang hàng, cạnh vua Lê, nhưng thấp hơn một chút.

Tồn tại song song với triều đình là phủ chúa. Phủ chúa có chức năng là một

bộ máy hành pháp, bàn bạc cụ thể những chủ trương chính sách thực thi hành động.

Hàng tháng chúa Trịnh chủ trì 9 phiên họp, số lần họp nhiều hơn triều đình, nhưng

số người tham dự ít hơn, đặc biệt vua Lê không tham dự các phiên họp này.

Ở địa phương, vua Lê - chúa Trịnh vẫn duy trì trật tự giống thời Lê Sõ theo

mô hình từ trấn xuống xã. Nhà Lê - Trịnh cố gắng nắm lấy cấp chính quyền cơ sở

này, do đó đã xây dựng cơ cấu chính quyền cấp xã khá đầy đủ thành phần gồm: xã

trưởng, xã sử, xã tư, chọn các nho sinh, nho đồ đảm nhiệm những chức ấy, giao cho

chỉnh lý việc làng, khám hỏi việc kiện cáo. Mặt khác, chính quyền làng xã cũng mở

rộng quyền tự trị của mình theo xu hướng ly tâm, nhất là những khi chính quyền

trung ương tỏ ra suy yếu, không còn đủ khả năng kiểm soát chặt chẽ cộng đồng làng

xã. Còn ở phía Nam, chúa Nguyễn đang trong công cuộc bình định và mở mang bờ

cõi, cho nên ra sức mua chuộc các tù trưởng ở các địa phương, do đó công cuộc

Page 124: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

118

quản lý ở cấp địa phương, làng xã vẫn do những lực lượng này tự quản và tô thuế

cũng có phần nhẹ nhàng.

Có thể nói, suốt gần 10 thế kỷ các vua chúa phong kiến Việt Nam bằng nhiều

biện pháp với nhiều thủ đoạn khác nhau, liên tục cải cách để thiết lập một bộ máy

hành chính nhà nước theo hướng quân chủ tập quyền. Song, công cuộc này phải tới

thế kỷ XVIII, trên nền tảng những thắng lợi bước đầu do phong trào Tây Sơn tái

thiết một bộ máy chính quyền mang nặng tính quân sự hóa của Quang Trung, nhà

Nguyễn đã ra sức củng cố, tăng cường chế độ chuyên chế để trở thành nhà nước

trung ương tập quyền tuyệt đối thống nhất trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Tuy nhiên,

như chúng tôi đã đề cập ở trên, một lần nữa chính nhà Tây Sơn đã tự tái diễn cát cứ,

tự làm suy yếu mình để triều Nguyễn có cơ hội thay thế.

Nhà Nguyễn lật đổ nhà Tây Sơn, đã thiết lập chế độ chuyên chế mới, theo đó

Hoàng đế vừa là người đứng đầu triều chính, vừa là vị tổng tư lệnh tối cao trong

quản lý hành chính và quân đội. Vua có quyền hành vô độ đối với dân, còn dân phải

phục tùng tuyệt đối vô điều kiện với vua, bất kỳ ai cũng phải sống chết vì vua. Về

mặt quản lý, nhà Nguyễn áp dụng cách thức như thời Lê Thánh Tông để xây dựng

một thiết chế theo mô hình pháp trị, đứng đầu là vua (bản thân Minh Mệnh là một

ông vua tài trí rất tâm đắc cách thức trị vì của vị vua Lê này). Dưới vua là bộ máy

cai trị gồm các bộ (có tổng cộng 6 bộ: Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công) đứng đầu các

bộ là thượng thư, tham tri, tham lang giúp việc. Bên cạnh 6 bộ là các khoa, tự (thái

thường, đại lý, quang lộc, hồng lô, thái lộc, thượng bảo) do tự khanh đứng đầu.

Người đứng đầu mỗi bộ, khoa, tự chịu trách nhiệm trước vua; cấp thấp nhất của đơn

vị hành chính là xã giống các triều đại trước.

Bên cạnh các bộ phận chức năng, dưới triều Nguyễn còn thành lập các cơ

quan tham mưu, giúp việc, đó là ngoài các bộ, khoa, tự còn có các cơ quan chuyên

môn gọi là các viện, giám, ty, phủ. Đó là Hàn lâm viện coi việc biên soạn, thảo văn

tự, sắc, lệnh của nhà vua, thảo luận kinh điển; Quốc tử giám coi việc kinh sách, đào

tạo nhân tài, sửa sang quy thức giáo hóa; Khâm thiên giám trông coi thiên văn, làm

lịch; Thái y viện nghiên cứu bốc thuốc chữa bệnh…

Page 125: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

119

Ở bên vua là hai cơ quan tham vấn rất quan trọng, đó là Văn phòng sau Minh

Mệnh đổi thành Nội các là đơn vị lo những việc sổ sách, văn thư, giấy tờ, thảo văn

áng, luật lệnh, bộ phận này chỉ những quan lại có phẩm hàm từ tam phẩm, tứ phẩm

mới được làm việc; Cơ mật viện là cơ quan tư vấn có nhiệm vụ tham mưu cơ mật

quân sự, thành viên của Viện là bốn đại thần được tuyển mộ từ các bộ.

Như vậy, về thể chế triều Nguyễn mà đỉnh cao là thời Minh Mệnh là một chế

độ quân chủ trung ương tập quyền. Mặc dù quyền quyết định tối thượng thuộc về

Hoàng đế, nhưng có sự tham mưu của một số viên quan đại thần đứng đầu Lục bộ,

Nội các hoặc Cơ mật viện.

Ở địa phương, bên cạnh những quan hệ pháp lý, kinh tế từ phủ, tổng, huyện

là quan hệ theo thể chế làng xã với bộ máy là một hội đồng kỳ mục có lực lượng hậu

thuẫn là tầng lớp địa chủ.Cấp xã là đơn vị hành chính cơ sở do các xã trưởng đứng

đầu. Nhiệm vụ trước tiên và quan trọng nhất của bộ máy hành chính cấp xã là thay

mặt nhà nước quản lý đất đai ở các xã thôn, vì thế chỉ sau 2 năm lên ngôi vua Gia

Long đã ra lệnh làm sổ địa bạ cho các làng xã và trong vòng 30 năm đầu kể từ khi

vương triều được thành lập, nhà Nguyễn đã hoàn thành công việc này. Có thể nói,

đây là cơ sở pháp lý đặc biệt quan trọng để nhà nước thực hiện việc quản lý đất đai

một cách thống nhất trên toàn quốc. Việc làm này còn có ý nghĩa khác, đó là nhằm

hạn chế sự lũng lạm của bộ máy quản lý làng xã trong việc ẩn lậu ruộng đất.

Như vậy, trải qua các triều đại Lý, Trần, Hồ, Lê Sơ, Nguyễn… mô hình

triều chính nhà nước vẫn phỏng theo một mô hình nhà nước phong kiến Trung

Hoa, trên có tướng quốc, thượng thư, tham lang… dưới là các Lễ, Lại, Lục, Bộ…

Sự mô phỏng này có thể là kế thừa một phần hoặc bắt chước mô hình nhà nước

phong kiến Trung Hoa từ thời Tần, song ranh giới để phân biệt sự khác nhau

giữa phương thức tổ chức chính trị - hành chính của các triều đại phong kiến

nước ta với Trung Quốc là ở chỗ:

Thứ nhất, nếu mô hình nhà nước phong kiến Trung Hoa, đặc biệt là thời

kỳ cổ đại theo xu hướng trung ương hóa tập quyền dưới tay Hoàng đế, thì các

quân vương ở nước ta lại củng cố quyền lực thuận theo sức mạnh toàn dân, dựa

Page 126: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

120

vào dân, quân dân cùng hưởng phúc họa. Nói cách khác, đó là một mô hình quân

chủ an dân. Về đặc điểm này, tác giả Nguyễn Hoài Văn nhận xét:

Phần nhiều hoàng đế chỉ là biểu tượng quốc gia được chấp nhận, giữ vai trò đại

diện trung gian giữa Trời và Người cần đến một danh nghĩa chính thống và một

đức độ sáng suốt, khả năng tập hợp động viên các bề tôi và thần dân mà không

quan trọng ở thực tài và tuổi tác [130, tr.80].

Thứ hai, điểm khác biệt căn bản giữa chế độ quân chủ cầm quyền ở nước ta

với Trung Hoa là ở chỗ, nếu ở Trung Hoa thực hiện mô hình quân chủ cường quyền

theo lập trường của trường phái Pháp gia, lần đầu tiên được Tần Thủy Hoàng thiết

lập, các triều đại về sau để tránh "vết xe đổ" bởi tính cường quyền đó, đã bọc thêm

cho chế độ mình cái vỏ đạo đức, nhân trị. Nghĩa là, một chế độ mà mọi quyền lực

đều thuộc về tay nhà vua, nhà vua vừa là người lập pháp, hành pháp. Ngoài "phép

vua" – “thế quyền” ra, các triều đại phong kiến Trung Hoa còn lợi dụng sức mạnh

của tôn giáo để giáo dục nhân dân, chẳng hạn như Nho giáo lấy “trời” để thu phục

lòng dân, coi đó là lực lượng “thần quyền” với phương châm "lưới trời tuy thưa mà

không lọt", đã làm tăng hiệu lực của pháp luật. Đó là đường lối trị nước đức trị kết

hợp với thần quyền.

Không giống với phong kiến Trung Quốc, các triều đại phong kiến nước ta

suốt từ thời Lý đến thời Lê Sơ, ngay cả giai đoạn tập quyền cao như ở triều Nguyễn,

đều tôn trọng những phong tục, tập quán của từng vùng miền, cho nên việc thiết lập

chính quyền làng xã luôn tồn tại song song với chính quyền trung ương. Bộ máy cai

trị trung ương chỉ giới hạn đến các châu, huyện, phủ, còn ở địa phương có hệ thống

quản lý cấp làng, xã với những người đứng đầu: chánh tổng, lý trưởng, xã trưởng…

những chức quan rất đặc thù - thể hiện một mô hình lưỡng chế (chế độ cai trị quan

lại và chế độ tự quản làng xã).

Nói tóm lại, dù là sự mô phỏng hay bắt chước mô hình nhà nước phong kiến

phương Bắc, các triều đại phong kiến Việt Nam vẫn hướng tới mục đích tối ưu nhất,

đó là xây dựng nhà nước phong kiến trung ương tập quyền. Để quyền lực tập trung

trong tay nhà vua, việc kiến tạo nên một cơ cấu hành chính thống nhất từ trung ương

Page 127: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

121

đến địa phương để chống tình trạng cát cứ là điều hết sức cần thiết. Tuy nhiên, về

cách thức tổ chức quản lý thì có những điểm rất đặc thù bản sắc văn hóa Việt Nam.

4.1.2. Những biện pháp cơ bản nhằm củng cố và phát triển bộ máy nhà nước

phong kiến trung ương tập quyền

* Thiết lập quan hệ sở hữu ruộng đất tập trung vào tay nhà vua

Cơ sở cốt yếu và sâu xa để hình thành chế độ trung ương tập quyền dưới

phương thức sản xuất nông nghiệp của phong kiến Việt Nam chính là sở hữu ruộng

đất. Chẳng hạn, ngay từ thế kỷ X dưới thời Lý, đại bộ phận ruộng đất lúc đó là đất

công giao cho nông dân cày cấy và thu tô. Trên danh nghĩa là người sở hữu tối cao

về ruộng đất, nhà vua thực hiện chế độ cấp, phong cho những người có công, thân

tộc và tầng lớp quan lại. Nhờ chế độ phong cấp này đã hình thành nên các thái ấp

tư, chủ trương này của nhà Lý là nguồn cội của sở hữu tư về ruộng đất. Sang thời

Trần, chế độ tư hữu ruộng đất đã khá phát triển, "lúc nàychế độ thuế khóa được quy

định trên cơ sở sở hữu ruộng đất" [98, tr.26].

Khác với triều Lý, Trần, sang thời Lê Sơ chế độ ruộng đất có những biến

chuyển đáng kể, thời kỳ này về cơ bản đã xóa bỏ chế độ "điền trang", "thái ấp". Thay

thế cho "thái ấp" thời trước là chế độ "lộc điền". Lộc điền là chế độ cấp, phong

nhưng có thời hạn và chỉ được hưởng phần hoa lợi, dưới thời Lê Sơ chế độ "quân

điền" cũng được ban hành, lúc này các binh lính và quan lại gắn liền với việc phân

phối và sử dụng đất đai ở làng xã, trong đó binh lính được ưu tiên nhất. Thời Lê Sơ là

thời kỳ đánh dấu bước chuyển đáng kể về sở hữu ruộng đất, từ đó nhà nước chính

thức công nhận việc mua bán, kế thừa ruộng đất tư dưới sự bảo hộ của luật pháp. Đây

là biện pháp để hợp thức hóa về sở hữu ruộng đất cho tầng lớp địa chủ, phong kiến

thân vua. Lúc này thân phận của người nông dân trong quan hệ với nhà nước chỉ là

một "tá điền" (người cày cấy) và chịu nộp tô, thuế cũng như có nghĩa vụ với nhà vua.

Chế độ này có ưu điểm là bảo tồn được công xã với tư cách là cơ sở bóc lột của nhà

nước trung ương đối với tá điền. Việc nhà nước cho phép mua bán ruộng đất có thể

được xem là tất yếu lịch sử và điều này đã được Thương Ưởng tiến hành trong các

cuộc biến pháp của mình thời Chiến Quốc.

Page 128: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

122

Sau khi bình định xong Tây Sơn, nhà Nguyễn đứng đầu là vua Gia Long tiếp

tục theo đuổi mục tiêu: chiếm đoạt và tập trung hóa ruộng đất vào tay địa chủ, bần

cùng hóa nông dân. Gia long ra lệnh tịch thu ruộng đất của những người theo Tây

Sơn và bắt nông dân trả lại toàn bộ ruộng đất mà trước đây phong trào này đã chia

cho họ. "Đó là cách tước đoạt trắng trợn thành quả đấu tranh của nông dân và là

biện pháp phục hồi, củng cố chế độ sở hữu ruộng đất của địa chủ" [124, tr.375].

Như vậy, sự thiết lập và củng cố chính quyền nhà nước phong kiến Việt Nam

đi theo con đường tập trung ruộng đất vào tay quan lại (đại diện cho bộ máy chính

quyền trung ương) và tầng lớp địa chủ (tồn tại ở các địa phương và là công cụ bóc

lột cho nhà nước). Con đường xây dựng nhà nước phong kiến Việt Nam đương thời

làm chúng ta liên tưởng tới bức tranh xã hội hồi thế kỷ III Tr.CN ở Trung Hoa, khi

các Pháp gia chủ trương thiết lập một bộ máy trung ương tập quyền tàn bạo trên cơ

sở nền móng là bảo vệ và hợp pháp hóa ruộng đất cho một tầng lớp mới đang phát

triển, thân chính quyền - đó là bọn địa chủ Trung Hoa.

* Phát triển lực lượng quân đội thân dân

Trên nền tảng một quốc gia độc lập, nhà nước phong kiến được thiết lập dựa

trên nền tảng cố kết cộng đồng dân tộc. Trải qua các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê,

Lý, Trần, Hồ, Lê Sơ, Tây Sơn và Nguyễn, công tác phát triển quân đội luôn được

chú trọng. Ngoài quy luật chung là quân đội ra đời để bảo vệ nhà nước, chế độ, lực

lượng quân đội phong kiến nước ta còn có nhiệm vụ quan trọng khác, đó là bảo vệ

nền độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, mang lại cuộc sống bình yên cho nhân dân.

Ngay từ thời nhà Đinh, vua Đinh Tiên Hoàng đã cho thành lập các đạo,

quân, lữ, tốt, ngũ được tổ chức theo nguyên tắc: cứ một đạo có 10 quân, 1 quân có

10 lữ, 1 lữ có 10 tốt, 1 tốt có 10 ngũ, 1 ngũ 10 người. Tuy nhiên, việc phát triển

quân đội theo hướng chuyên nghiệp thì phải tới thời nhà Lý.

Để xây dựng lực lượng quân đội hùng mạnh, nhà Lý tuyển mộ quân nhân tối

đa từ các dân đinh. Các trai tráng từ 18 tuổi trở lên được biên tên vào cuốn sổ vàng,

gọi là hoàng nam, từ 20 tuổi trở lên gọi là đại hoàng nam. Luật còn quy định cấm

nuôi tư nô và những người đến tuổi hoàng nam; người che giấu đại hoàng nam sẽ bị

Page 129: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

123

trị tội. Trong thời bình, những người đăng lính vẫn được ở nhà cày bừa, mỗi tháng

mới phải đi phiên một kỳ ngắn. Đó là chính sách “ngụ binh ư nông” (giữ quân lính

ở nhà nông) vừa đảm bảo số quân cần thiết phòng khi có chiến tranh. Chỉ những

người đủ sức khỏe thì đi luyện tập khi đến hạn, những người già yếu, tàn tật hay ốm

yếu thì chỉ biên tên vào sổ, khi có việc mới gọi đến [90, tr.125]. Rõ ràng đây là một

chính sách quân sự có sự chỉ đạo của nhà nước và ủng hộ của nhân dân.

Về tổ chức quân đội, nhà Lý đặt cấm quân dưới sự chỉ huy trực tiếp của các

tướng lĩnh dưới quyền chỉ huy của vua và đạt đến một trình độ tổ chức và huấn

luyện khá cao, phiên chế thành các đơn vị quân, vệ. Dưới thời Lý Thánh Tông, Ngài

đã định quân hiệu và chia ra làm tả hữu tiền hậu 4 bộ, bao gồm: bộ binh, thủy binh,

kỵ binh, tượng binh[90, tr.125], chỉ huy quân binh là các: Đô thống, Nguyên soái,

Thống quản, Thượng tướng, Đại tướng, Đô tướng.

Bên cạnh quân chủ lực do nhà vua trực tiếp chỉ đạo còn có quân tại các địa

phương gọi là lộ quân hay sương quân (quân ở phủ, châu); ngoài ra còn có hương

binh ở đồng bằng và thổ binh ở miền núi. Những lực lượng quân đội này không cho

lẫn với nhau.

Binh pháp nhà Lý bấy giờ có tiếng là giỏi, nhà Tống bên Trung Hoa cũng

phải bắt chước. Sử còn ghi lại: Tri châu đất Hoạt của nhà Tống là Thái Duyên

Khánh đã phỏng theo phép tổ chức quân sự của nhà Lý đối với quân đội do mình

quản lý đã được vua Tống khen ngợi[90, tr.126].

Sang thời Trần, trước thế giặc Nguyên Mông mạnh, Trần Hưng Đạo soạn ra

“Binh thư yếu lược”. Đây là một cuốn cẩm nang tập hợp kế sách, binh pháp chống

và đánh địch. Trần Hưng Đạo viết: Nay ta soạn hết các binh pháp của các nhà danh

gia hợp lại làm một quyển gọi là binh thư yếu lược [53, tr.147].

Cùng với soạn Binh thư, nhà Trần còn ra sức tổ chức phát triển quân đội. Kế

thừa mô hình quân đội của nhà Lý, đặc biệt là chính sách “ngụ binh ư nông”.Lúc

mới thành lập quân đội, nhà Trần lấy đinh tráng các lộ làm lính, phân quân ngũ ra

làm quân và đô: mỗi quân có 30 đô, mỗi đô có 80 người cho ẩn cư trong làng xã và

luyện tập thường xuyên. Trên cơ sở lực lượng quân đội nòng cốt này, nhà Trần phát

Page 130: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

124

triển thành các lộ với quy mô lớn được phân bổ trên khắp các địa phương từ Nam

chí Bắc, đứng đầu mỗi quân là một đại tướng quân.

Qua cách tổ chức quân đội dưới thời Lý - Trần cho chúng ta thấy, từ cách

thức tuyển dụng quân binh đến việc tổ chức, xây dựng quân sự, đặc biệt là mô hình

liên ngũ hợp thành đô, quân… Thực ra đây là mô hình tinh quản binh chế theo tư

duy Pháp gia thời Xuân Thu – Chiến Quốc với mô hình từ quản lý hành chính theo

ngũ, mỗi ngũ (5 hoặc 10 hộ), cứ 10 - 15 ngũ hợp lại thành liên nhằm giám sát, cai

quản lẫn nhau để đảm bảo an ninh, trật tự xã hội và sẵn sàng chiến đấu. Song, điểm

khác biệt căn bản trong cấu trúc và mô hình quân đội dưới thời Lý - Trần với tư

tưởng Pháp gia cổ đại là ở chỗ, nếu như Pháp gia coi trọng phát triển quân sự đến

mức biến chúng trở thành công cụ đắc lực giúp nhà nước độc tài cai quản nhân dân

và tiến hành chiến tranh thôn tính các nước khác, thì nhà nước Lý - Trần lại chủ

trương xây dựng một lực lượng quân hùng, tướng dũng nhằm bảo vệ cả vua lẫn tôi,

tất cả đều được hưởng thái bình, tuân thủ nguyên tắc "lòng dân ưng thuận, vua tôi

đồng lòng, anh em hòa mục, cả nước góp sức, giặc tự bị bắt" của Hưng Đạo Đại

Vương (Trần Quốc Tuấn). Cho nên, trước khi lâm chung, Hưng Đạo đã dặn dò vua

Trần Anh Tông: … dùng binh phải đồng lòng như cha con một nhà thì mới có thể

đánh được giặc. Cách ấy cốt phải tự lúc bình thì khoan thư sức dân, để làm kế sâu

rễ, bền gốc, đó là thuật giữ nước hay hơn cả [53, tr.172].

Tư tưởng "khoan thư sức dân" của Trần Quốc Tuấn không phải là mới, mà

có nguồn gốc từ tư tưởng "huệ dân" của Nho giáo, được Lý Công Uẩn thực hiện khi

lên ngôi đó là "Chiếu xá thuế", về sau được nhiều ông vua làm theo. Khoan thư sức

dân còn được thể hiện ở chỗ "sử dân dĩ thời", có thể nói, là cơ sở cho việc xây dựng

khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời bình và là sức mạnh vô địch khi chiến

tranh xảy ra. Có lẽ do chính sách xây dựng quân đội thân dân đúng đắn mà nhà Trần

đã chống phá được đội quân xâm lăng hung hãn nhất thời bấy giờ là quân Nguyên

Mông, làm nên hào khí Đông A.

Dưới triều Lê Sơ, nguy cơ giặc giã vẫn còn chiếm đóng, nhà nước tiếp tục

triển khai kế sách “ngụ binh ư nông” như triều Lý - Trần từng thi hành, nhưng tính

Page 131: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

125

thực thi cao hơn các triều đại trước. Sau khi lên ngôi, vua Lê Thái Tổ đã cho thực

hiện chính sách quân điền (lấy ruộng công - công thổ mà chia cho nhân dân). Chính

sách này đã có tác động lớn đến nhận thức của binh sĩ và nhân dân. Nhân dân coi

chiến đấu, bảo vệ tổ quốc là bảo vệ chính miếng cơm, manh áo của mình và nhà

vua. Nhờ đó chính sách ngụ binh ư nông của nhà Lê Sơ được đẩy mạnh. Lúc này

quân đội nhà Lê Sơ trên danh nghĩa có đến 25 vạn quân binh, nhưng sau khi lấy

được Đông Đô rồi thì triều đình cho 15 vạn về quê làm ăn, chỉ giữ lại 10 vạn để

phòng bị, chia thành 5 phiên. Một biện pháp tuy không phải là mới, song nó vừa

giúp cho quân binh được dưỡng sức, nghỉ ngơi, lại được sum họp với gia đình, có

điều kiện phụng dưỡng cha, mẹ và chăm sóc vợ, con, vừa giảm thiểu được sự chi

phí cho quân đội. Với chính sách phù hợp như vậy không chỉ duy trì được sức mạnh

quân đội, mà còn tạo điều kiện cho sự kết hợp củng cố quốc phòng toàn dân để

không bị động khi xảy ra binh biến, ngoại xâm.

Sang giai đoạn chính quyền lưỡng thể, do nhu cầu chiến tranh thôn tính lẫn

nhau giữa các thế lực đối lập trở nên cấp thiết, tập đoàn Lê - Trịnh ở Đàng Ngoài

cũng như chúa Nguyễn ở Đàng Trong đều ráo riết luyện tập võ bị. Nhà Lê - Trịnh

thì mở trường võ luyện tập thường xuyên cho con cháu và các võ tướng, còn chúa

Nguyễn thì chia quân cơ, đúc súng, mở trường bắn…

Sau khi giành được quyền thống trị trên toàn cõi, nhà Nguyễn cho thực hiện

binh chế thông qua phép giản binh, thông qua đầu đinh để kén lính, ở mỗi địa

phương lại quy định khác nhau (từ Quảng Bình đến Bình Thuận cứ 3 đinh chọn 1

lính, từ Hà Tĩnh trở ra Bắc thì cứ 5 đinh lấy 1 lính); ở Kinh thành thì đặt ra thân

binh, cấm binh, tinh binh. Các Trấn thì đặt ra lính cơ, lính mộ, số lính này luôn

phiên túc trực cho nhau [26, tr.230]. Quân số nhà Nguyễn có khi lên đến 3 vạn để

giành thế chủ động đánh Chiêm Thành, Chân Lạp với mục đích mở mang bờ cõi.

Dưới triều Nguyễn, đất đai được mở rộng về phía Nam dọc theo bờ biển. Trong

điều kiện như vậy nhà Nguyễn rất lưu tâm đến binh thuyền, lấy người ở gần biển chia

làm 6 vệ thủy quân đóng tại kinh thành, còn mỗi hải khẩu có một cơ lính thủy coi giữ,

Nhà vua trang bị cả thuyền lớn vỏ bọc đồng để tuần duyên miền biển [53, tr.456].

Page 132: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

126

Dưới triều Nguyễn (thời vua Minh Mạng) trình độ kỹ thuật quân sự ở nhiều

phương diện đã đạt đến trình độ khá cao:

Thời Minh Mệnh đã sản xuất được thứ thuốc súng nổ mạnh theo kiểu phương tây;

… huấn luyện phương án tác chiến kết hợp giữa hai binh chủng bộ binh và thủy

binh… cả Gia Long và Minh Mệnh đã bắt đầu hiện đại hóa quân đội, đưa nó trở

thành mạnh nhất vào thời đó trên bán đảo Đông Dương [130, tr.210].

Mặc dù chế độ bắt lính rất nghiêm ngặt và quân đội được hiện đại hóa nhờ

tăng cường trang bị kỹ thuật cho quân sự, nhưng do quân đội được tập luyện ít, mặt

khác do năng lực trị nước của các ông vua triều Nguyễn sau Minh Mệnh ngày càng

yếu kém, thêm vào đó là sự bành trướng của chủ nghĩa tư bản phương Tây đang

chuyển sang phương Đông, dẫn đến sự thất bại của quân đội triều Nguyễn trước đội

quân thiện chiến, có trang bị vũ khí hiện đại. Đó là tất yếu không thể tránh khỏi.

Như vậy, trong thời gian hơn 1000 Bắc thuộc, các học thuyết từ bên ngoài du nhập

vào nước ta đã tiếp biến với cái bản địa, từ đó, trải qua thời gian dài, mặc dù nền văn hóa

dân tộc bị áp lực bởi chủ trương đồng hóa văn hóa của nhà Hán, song bản lĩnh văn hóa của

dân tộc về cơ bản vẫn được bảo tồn. Tuy nhiên, lĩnh vực chính trị có những đặc thù của nó,

ngoài những tập quán, lối sống và cách thức quản lý xã hội truyền thống, hệ thống chính trị

và hình thức quản lý xã hội luôn thay đổi cho phù hợp với những biến đổi của tồn tại xã

hội. Vì thế, khi đất nước giành được độc lập (năm 938), chủ quyền quốc gia được khẳng

định thì tất yếu kéo theo sự thiết lập thượng tầng kiến trúc của xã hội trong việc xây dựng

và hoàn thiện nhà nước phong kiến. Bởi vậy, ở ba triều đại đầu tiên (Ngô, Đinh và Tiền

Lê), mặc dù các thể chế của nó có thể chưa đầy đủ, song theo thời gian, sự hoàn thiện các

thể chế đó là tất nhiên và kéo theo đó là sự lựa chọn hệ tư tưởng thời đại, đường lối trị

nước của các triều đại đó.

Tuy nhiên, mô hình nhà nước phong kiến trong buổi đầu độc lập mà ngày nay

chúng ta có đủ cơ sở để xác nhận, đó là triều đại Đinh và Tiền Lê từng định đô ở Hoa Lư

Ninh Bình. Cả hai triều đại này tuy không chú trọng đến Nho giáo và Nho học, song vấn

đề tổ chức mô hình nhà nước và quản lý xã hội đều bắt chước các triều đại phong kiến

Trung Hoa, cụ thể là nhà Tống. Chính vì vậy, có thể nói, cách thức quản lý nhà nước nói

riêng, xã hội nói chung, đều không thể không chịu ảnh hưởng của tư tưởng pháp trị vốn

Page 133: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

127

là sản phẩm của sự dung hợp Nho – Pháp từ thời Hán. Trong sự dung hợp đó, ảnh hưởng

của tư tưởng pháp trị hay đức trị đến tư tưởng và cách thức trị nước đều tùy thuộc vào

tâm thế của mỗi thời đại, mỗi triều đại phong kiến cụ thể. Tuy nhiên, một thực tế không

thể phủ nhận là, dù triều đại nào lấy tư tưởng Nho giáo hay Phật giáo làm trụ đỡ hệ tư

tưởng, việc trị nước của nó không thể thiếu yếu tố pháp trị. Bởi lẽ, trong đối nội, pháp

luật đảm trách là công cụ để trấn giữ và quản lý đất nước.

4.2. Ảnh hưởng tư tưởng pháp trị đến xây dựng luật pháp dưới chế độ phong kiến

Việt Nam từ thế kỷ X đến nửa đầu thế kỷ XX

Dù đề cao bất kỳ học thuyết chính trị - xã hội nào thì việc trị nước, dưới hình thức

này hay hình thức khác, pháp luật là điều không thể thiếu. Do đó, khi đề cập đến đường lối

trị nước của các triều đại phong kiến Việt Nam, một vấn đề đặt ra là cần phải phân biệt

pháp trị với pháp luật để làm rõ nội dung của đường lối đó. Pháp trị là thuật ngữ để chỉ

phương pháp trị nước của một thể chế chính trị mà các thiết chế pháp luật đóng vai tr

thống trị tuyệt đối, các yếu tố khác chủ yếu để bổ trợ cho sự thực thi pháp luật dưới chế độ

ấy. Nói cách khác, pháp trị là chế độ của một nước lấy pháp luật quy chiếu cho mọi quan

hệ xã hội. Còn pháp luật là những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung mà giai cấp

cầm quyền đặt ra để duy trì trật tự xã hội và bảo vệ địa vị chính trị của chính mình.

Có một thực tế là, ở nước ta trong lịch sử chế độ phong kiến không có bất kỳ một

quân vương nào thừa nhận đường lối trị nước của mình là pháp trị. Điều đó hoàn toàn có

cơ sở, bởi chế độ quân chủ chuyên chế dựa trên nền tảng pháp trị đã bị phủ định sau 15

năm cầm quyền của Tần Thủy Hoàng ở Trung Quốc. Từ thời Hán, hình thức nhà nước đó

không còn tồn tại, nhưng sức sống của một trong những yếu tố quan trọng của nó là pháp

luật vẫn được duy trì. Tuy nhiên, trong phương lược trị nước của các triều đại phong kiến

Việt Nam thì pháp luật rõ ràng được coi là phương tiện thiết yếu để quản lý xã hội.

4.2.1. Sự ra đời của "Hình thư" và "Hình luật" của chế độ phong kiến Việt Nam

thời kỳ đầu độc lập (từ thế kỷ X- cuối thế kỷ XIV)

Các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, trong buổi đầu xây dựng triều chính, nếu

xét về mặt văn bản pháp luật thì rất ít ỏi, nhưng các triều đại này đã coi pháp luật là

công cụ để thiết lập chế độ, ổn định xã hội. Cụ thể:

Page 134: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

128

Đinh Tiên Hoàng muốn dùng oai lực để chế trị thiên hạ, mới đặt vạc lớn ở sân,

nuôi hổ giữ ở cũi, hạ lệnh: hễ kẻ nào vi phạm thì bắt bỏ vào nấu trong vạc, hay

cho hổ ăn thịt. Ai nấy sợ hãi không giám phạm pháp [13, tr.120]. Đến thời Lê

Long Đĩnh, nhà vua thường áp dụng những hình phạt giết người dã man tàn bạo

như: thiêu người, xẻo thịt cho đến chết dần (lăng trì), giam người vào nhà tù dưới

nước (thủy lạo) để nước dâng lên làm ngập chết, bắt trèo cây rồi đẵn cho đổ, róc

mía trên đầu sư [81, tr.55]

Đó là những hình phạt tàn bạo, song xét về căn nguyên xã hội thì lại có lý do

hợp lý của nó. Trước hết, Đinh Tiên Hoàng là người có công dẹp loạn 12 sứ quân

để thống nhất thiên hạ, tuy không thể sánh với Tần Thủy Hoàng, nhưng rõ ràng

triều Đinh vẫn ẩn chứa nguy cơ tái diễn cát cứ và xung đột. Việc dùng hổ dữ để xé

xác hoặc vạc dầu để tử hình những ai dám làm phản, xét về bản chất, là tàn bạo,

song điều đó chưa hẳn là sự thấm nhuần tư tưởng pháp trị của Pháp gia, mà Đinh

Tiên Hoàng và về sau là Lê Long Đĩnh buộc phải dùng bạo lực cốt để bảo vệ quyền

lực của mình mà thôi.

Thời Lý - Trần, Phật giáo được tôn làm quốc giáo trong đời sống tinh thần

của xã hội. Tuy nhiên, về mặt tổ chức nhà nước thì Phật giáo vốn không phải là một

học thuyết chính trị - xã hội, do đó giữa tam giáo (Nho, Phật và Đạo) lại có sự phân

công nhau theo từng lĩnh vực, tương ứng với thế mạnh của từng học thuyết. Nho

giáo thì phục vụ cho công tác thi cử, tuyển chọn các quan lại, đồng thời thực hiện sứ

mệnh ổn định xã hội theo hệ thống luôn lý chặt chẽ - những luân thường, đạo lý làm

người (nhân, lễ, nghĩa, trí, tín; tam cương; ngũ thường…). Phật giáo và Đạo giáo có

đặc điểm là những tôn giáo bình dân gắn liền với đời sống tâm linh. Tuy nhiên, khi

nhà nước cần đến, nhiều nhà sư có học vấn uyên bác cũng sẵn sàng tham dự các

công việc triều chính, tới mức được phong làm quốc sư. Ngoài ra, một số quân

vương còn là những nhà Phật học, lúc này nhà sư có thể thậm sẵn sàng dứt bỏ ngai

vàng để thực hiện cuộc sống tu hành, xuất thế.

Tuy nhiên, một thực tế cho thấy, do yêu cầu quản lý xã hội theo xu hướng xây

dựng thể chế nhà nước phong kiến trung ương tập quyền, các triều đại này không thể

Page 135: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

129

không sử dụng phương diện hình pháp để thiết lập trật tự xã hội và duy trì quyền lực

thống trị của mình.

Dưới triều đại nhà Lý, luật pháp được chỉnh trang, thể chế hóa và quy định chặt

chẽ dưới hình thức thành văn. Năm 1042 vua Lý Thái Tông cho ban hành bộ Hình thư

màtrước đó, các triều Ngô, Đinh, Tiền Lê xây dựng thành hệ thống.

Hình thư được đánh giá là bộ luật cổ nhất Việt Nam xuất hiện dưới triều nhà Lý,

gồm ba quyển với nội dung như sau: Hình thư nói về cách thức tổ chức triều đình, quân

đội và quan lại; quy định biện pháp trừng trị với những hành vi nguy hiểm cho xã hội;

quy định về quyền sở hữu ruộng đất, thuế khóa [xem 139, tr.272-273]. Điều đó có thể

khẳng định, ở nước ta đã có pháp điển từ thế kỷ thứ XI qua bộ Hình thư.

Về lý do ban hành Hình thư, sách Đại Việt Sử ký toàn thư viết:

… trước kia, việc kiện tụng trong nước phiền nhiễu, quan lại giữ luật pháp câu nệ

luật văn, cốt làm cho khắc nghiệt, thậm chí có người bị oan ủi quá đáng, vua thấy

làm thương xót, sai trung thư san định luật lệnh, châm trước cho thích dụng với

thời thế, chia ra môn loại, biên thành điều khoản. Sách làm xong, chiếu ban ra cho

thi hành. Ai nấy đều thấy tiện [121, tr.323].

Về mục đích, cũng giống như những bộ luật khác, Hình thư ra đời trước hết là

để bảo vệ quyền lợi và địa vị của chế độ phong kiến thống trị, sau đó mới đem lại sự ổn

định cho xã hội. Trong Hình luật chí quy định các bậc hình phạt, cách tra hỏi và cho

phép người già, trẻ em trừ mười điều cấm (thập ác) được dùng tiền để chuộc tội. Thập

ác gồm: Phản quốc, đại nghịch, giết vua, giết cha mẹ, nổi loạn, phản bội, hung ác bạo

nghịch, không có đạo đức, bất kính, bất hiếu, loạn luân [22, tr.11]. Nhà Lý quy định

về thể lệ chuộc tội như sau: người già trên 70 tuổi và trẻ em dưới 15, những người

có nhược tật, những người họ nhà vua và có công lớn, nếu phạm tội có thể chuộc

bằng tiền trừ phạm vào thập ác [22, tr.13]. Hình thức “chuộc tội” này có nguồn

gốc từ quan điểm của những Pháp gia tiền bối như Quản Trọng, Lý Khôi, Thương

Ưởng thời cổ đại, đã được luật hóa trong hệ thống pháp luật nhà Tống ở Trung

Hoa và được nhà Lý tiếp thu.

Page 136: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

130

Sau khi thay thế nhà Lý, triều Trần vẫn tiếp tục phát huy tác dụng của Hình

thư và có chỉnh lý, bổ sung để phục vụ mục đích cai trị, nhờ đó mà an ninh, chính trị

và trật tự xã hội được ổn định, trong cõi được yên. Tác giả Trần Trọng Kim nhận xét:

Thời bấy giờ vua hiền, tôi trung, phép tắc nghiêm trang, thưởng phạt phân minh,

chính trị không có điều gì hồ đồ [53, tr.170].

Phát triển bộ Hình thư nhà Lý, các vua Trần đã chú tâm đến việc sửa chữa

quan chế, luật lệ. Ngay sau khi lên ngôi, Trần Thái Tông tiến hành ngay việc định

luật vào năm 1226 và đến năm 1230, vua ban hành Quốc triều thông chế (20 quyển),

nội dung chủ yếu là quy định về tổ chức chính quyền. Sau vài lần sửa chữa vua Trần

Dụ Tông giao cho Trương Hán Siêu và Nguyễn Trung Ngạn biên dịch bộ Hoàng

triều đại điển và khảo soạn bộ Hình thư để ban hành Hình luật (Quốc triều hình luật)

vào năm 1341.

Về nội dung, Hình luật dưới thời Trần đã có nhiều bổ sung, chỉnh sửa so với

Hình thư. Chẳng hạn, về sở hữu đất đai và tài sản, hình phạt, thủ tục tố tụng, phân

chia đẳng cấp, quan hệ tiền bạc… được pháp luật thừa nhận và bảo hộ.

Trước hết, nhà Trần rất quan tâm đến những quy định về sở hữu tài sản và

đất đai bởi vì lúc này nhà nước ra sức khuyến khích phát triển ruộng đất tư và chế

độ mua bán ruộng đất. Bên cạnh đó, quan hệ tiền tệ cũng được pháp luật nhà Trần

thừa nhận, theo đó lệ chuộc tội bằng tiền cũng được quy định một cách cụ thể; việc

mua bán chuyển nhượng vợ con làm nô tỳ trở nên công khai và hợp pháp, vì vậy nô

tỳ là tầng lớp đông đảo, thấp hèn trong xã hội, nhưng lại trở thành hàng hóa.

Cùng với quyền sở hữu là quyền chiếm hữu, ranh giới đẳng cấp cũng chính

thức được pháp luật thừa nhận kể từ thời kỳ này. Tầng lớp đại phong kiến (hoàng

gia) và vua được pháp luật bảo vệ tuyệt đối, riêng tông thất nhà Trần nếu bị tội được

xử nhẹ hơn. Các nô tỳ thì bị thích chữ vào trán theo hàm hiệu của chủ; nô tỳ không

có quyền kết hôn với quý tộc… Bên cạnh đó, pháp luật thời Trần cũng rất chú trọng

đến sản xuất nông nghiệp, vì vậy luật có thêm những điều khoản về bảo vệ trâu, bò

và các công trình thủy lợi, đặc biệt coi việc sửa chữa đê điều là việc làm của toàn

dân và triều đình.

Page 137: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

131

Mặc dù hệ thống pháp luật nước ta dưới triều đại Lý - Trần xuất hiện dưới

dạng các chiếu, dụ, sắc… hay các bộ luật vàcho đến nay cả hai bộ luật thời Lý - Trần

đều đã thất truyền2. Song có thể nói, sự xuất hiện hai bộ luật ngay sau khi nước ta

giành được độc lập là một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử luật pháp nước ta. Sự

xuất hiện này phản ánh phương pháp cai trị của các quân vương phong kiến Việt

Nam không mang tính chung chung, trừu tượng, khó hiểu như những phạm trù đạo

đức của Nho giáo, mà mọi quyền và nghĩa vụ từ vua đến đại thần hay thứ dân đã

được quy định bằng hệ thống pháp lý - một căn cứ căn bản, ở mức độ nhất định, có

thể nói, là sự quản lý xã hội theo hướng tiếp cận văn minh.

Theo chúng tôi, sở dĩ hai bộ luật thời Lý – Trần xuất hiện là để đáp ứng nhu

cầu về xây dựng một chế độ phong kiến mang tính trung ương tập quyền. Nhờ có

pháp luật mà nhà nước có thể huy động sức người, sức của vào việc tái thiết đất

nước, bảo vệ đê điều cũng như trong trường hợp có chiến tranh. Tuy nhiên, mặt hạn

chế của hai bộ luật này thể hiện ở chỗ thiếu sự bình đẳng đối với con người trước

pháp luật, thậm chí hình luật "không đến" với hoàng tộc. Thêm vào đó, việc chuộc

tội bằng tiền sẽ tạo điều kiện cho tầng lớp giàu có trong xã hội dễ phạm luật, hệ quả

là tính răn đe chưa cao.

4.2.2. Ảnh hưởng của tư tưởng pháp trị đến sự ra đời và nội dung của “Quốc triều hình

luật” thời Hậu Lê và “Hoàng triều luật lệ” thời Nguyễn

Xung quanh vấn đề có hay không sự độc tôn Nho giáo ở thế kỷ XV từ lâu đã

trở thành chủ đề tranh luận của các học giả. Phần lớn các học giả cho rằng, nhà Lê

sơ đã đưa Nho giáo lên địa vị thống trị giống như thời Tây Hán, sau khi Hán Vũ Đế

lật đổ nhà Tần. Chúng tôi tán thành quan điểm của Trần Đình Hượu cho rằng:

Từ giữa thế kỷ XV Nho giáo mới thành độc tôn, chi phối mọi mặt hoạt động. Nói

độc tôn là nói Nho giáo thay thế Phật giáo, nhà nho thay nhà sư trong đời sống

chính trị nhà nước [chữ in đậm do chúng tôi nhấn mạnh – NHP], còn trong xã hội

thì Phật giáo, Ðạo giáo vẫn còn ảnh hưởng rộng rãi trong nhân dân[123, tr.108].

2 Theo các nguồn tư liệu sử, thì vào đầu thế kỷ XV khi quân Minh sang xâm lược nước ta, chúng đã cướp và

mang về Trung Hoa nhiều sách, tư liệu quý, trong đó có 2 bộ luật thời Lý và Trần.

Page 138: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

132

Như vậy, việc xác nhận có sự độc tôn Nho giáo ở đây mang tính phân định

địa hạt ảnh hưởng của nó trong lĩnh vực cụ thể là chính trị nhà nước. Do đó, Trần

Đình Hượu nhấn mạnh thêm:

Nói Nho giáo được độc tôn không có nghĩa là Phật giáo, tư tưởng Lão Trang

và Đạo giáo bị phủ định. Về mặt nội dung, Tống Nho là một hệ thống hỗn hợp

Nho Phật. Về mặt vai trò xã hội hầu như đã thành sự thỏa thuận với nhau giữa

tam giáo về một sự phân công, phân vùng. Nho giáo giành toàn quyền trong

việc học hành thi cử - với ý nghĩa đào tạo nhân tài cho bộ máy nhà nước –

Trong các địa hạt khác như xã hội, văn học nghệ thuật, tín ngưỡng, … Tam

giáo song song tồn tại [123, tr.110].

Qua đó cho thấy, vai trò của Nho giáo trong hệ điều hành đất nước bằng các

chuẩn mực đạo đức của mình không còn đơn thuần "cảm hóa" nữa, mà bản thân nó

phải được pháp luật hóa một số nội dung cần thiết cho việc trị nước. Nếu như "Khổng

Tử thời Hán" là Đổng Trọng Thư (179 – 104 TCN) đề xuất cách thức trị nước đức trị

kết hợp với thần quyền, ở đó vai trò của Trời là tối thượng, theo đó trời toàn quyền

trong việc thưởng phạt thông qua điềm trời và các hiện tượng tự phát của tự nhiên, thì

ở thế kỷ XV, quan điểm trị nước của Lê Lợi, tức Lê Thái Tổ cho rằng:

… từ xưa đến nay, trị nước phải có pháp luật, không có pháp luật thì sẽ loạn. Cho

nên, học tập đời xưa đặt ra pháp luật là để dạy các tướng hiệu, quan lại dưới đến

dân chúng trăm họ biết thế nào là thiện, là ác, điều thiện thì làm, điều chẳng lành

thì tránh, chớ để đến nỗi phạm pháp [121, tr.291].

Lê Thánh Tông nhận thấy rằng, nếu chỉ cứng nhắc theo tư tưởng Khổng,

Mạnh đề cao nhân, đức mà xem thường lợi thì khó mà ổn định được xã hội, ông

nói: nước mà không có thưởng phạt thì dẫu Đường, Ngu cũng không thể trị được

thiên hạ [122, tr.430]. Hai ông vua của triều Lê Sơ đại diện cho hai giai đoạn hình

thành và phát triển của triều đại đều tuyên bố cho rằng, đường lối trị nước của họ

không thể thiếu pháp luật, nghĩa là dù học thuyết Nho giáo mà họ chú trọng phát

triển, giao cho nó trọng trách về hệ tư tưởng của triều đại đến mức nào đi nữa, thì

chưa đủ. Nó cách khác, điều kiện cần của việc trị nước theo họ, chính là Nho giáo,

Page 139: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

133

song phải có thêm yếu tố pháp luật mới đủ. Điều này đã được Tuân Tử, một trong

ba nhà sáng lập Nho giáo sơ kỳ tiêu biểu khẳng định.

Tuy nhiên, trên cơ sở điều kiện thực tại ở nước ta mà nhà Lê sơ đã chủ trương

kết hợp chặt chẽ hai yếu tố đức trị và pháp trị trong đường lối trị nước, trong đó đức

trị làm chỗ dựa, đồng thời tạo đà cho pháp trị được thi hành. Đây là điểm khác biệt

căn bản với tư tưởng Pháp gia Trung Hoa, khi phái này tuyệt đối hóa vai trò của pháp

luật, không cần đến đạo đức. Nho giáo ở Việt Nam thời Lê Sơ cũng cách biệt khá xa

với Nho tiên Tần vốn chủ yếu đề cao vai trò của Thiên tử (tôn quân quyền). Tư tưởng

“đức hình kết hợp” mà nhà nước Lê sơ áp dụng có nguồn gốc từ chủ trương “đức

chủ pháp bổ” – một chính sách mà nhà Hán đã sử dụng. Bởi thế, từ đời Hán trở về

sau, tư tưởng lễ trị lấy tam cương ngũ thường, thiên nhân cảm hứng làm cơ sở lý

luận, cũng là tư tưởng chính thống của pháp luật Trung Hoa [25, tr.48].

Để đáp ứng yêu cầu trị nước vụ đức, trọng pháp, năm 1483 Lê Thánh Tông

chính thức cho ban hành bộ luật Quốc triều hình luật, đây là bộ luật phong kiến thứ

ba ở nước ta sau hai bộ Hình thư và Hình luật thời Lý - Trần. Bộ luật này còn có tên

gọi trùng với niên hiệu của Lê Thánh Tông là Hồng Đức.

Quốc triều hình luật là một bộ luật gồm 722 điều, chia làm 6 quyển, 15

chương [135, tr.6]. Bộ luật là sản phẩm được biên chép từ các đời vua trước (có

tham khảo Đại Minh luật), sau đó sửa soạn lại, cho ban hành và được áp dụng trong

suốt thời gian từ thời nhà Lê (Lê Sơ). Đến thời Lê Trung Hưng bộ luật này tiếp tục

được sửa chữa, bổ sung và đổi tên thành Lê triều Hình luật được sử dụng qua các

thế kỷ XV đến XVIII.

Nội dung của bộ luật chủ yếu nhằm bảo vệ chế độ quân chủ quan liêu triều

Lê, bảo vệ tài sản và thu tô thuế, bắt phu, bắt lính của nhà nước, bảo vệ kỷ cương xã

hội…, bảo vệ chế độ gia tộc phụ quyền và các nguyên tắc về luân lý đạo đức phong

kiến. Bộ luật này quy định rõ về kiện tụng, phân chia ruộng đất công xã, một số quy

định về hình phạt, ân xá…

Điều đáng chú ý và cho đến nay, Bộ luật Hồng Đức vẫn còn mang ý nghĩa

lịch sử đáng quan tâm, bởi nội dung những điều khoản xét xử các vụ kiện cáo, cấm

Page 140: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

134

hối lộ, hoạt động giao thiệp với nước ngoài… được quy định khá rõ. Về sau, đến

đời vua Lê Nhân Tông có ban hành thêm 14 điều về quyền sở hữu ruộng đất,

nguyên tắc xét xử những hành vi xâm phạm đến quyền tư hữu đó. Về mặt này một

số nhà nghiên cứu nhận xét:

Bộ luật Hồng Đức là bộ pháp điển hoàn chỉnh xưa nhất còn lại của nước ta [10, tr.34]; là

một di sản pháp luật đặc sắc của dân tộc ta, có giá trị lịch sử rất cao, không chỉ có ý nghĩa

với Việt Nam mà còn có ý nghĩa đối với các nhà nghiên cứu thế giới [10, tr.7].

Với những thành tựu lập pháp nói trên, có thể nói, BộluậtHồng Đức là đóng

góp to lớn của triều Lê Sơ trên lĩnh vực luật pháp và điển chế.

Bộ luật Hồng Đứccũng là bộ luật phức hợp nhất dưới triều đại phong kiến nước

ta, bao gồm nhiều quy phạm pháp luật thuộc nhiều ngành luật mà khoa học pháp lý

ngày nay phân biệt như: hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, luật tố tụng. Chẳng

hạn, về hình phạt có các tội danh và mức độ hình phạt như: tội xuy, chia ra làm 5 bậc từ

10 đến 50 roi; tội trượng, chia làm 5 bậc từ 60 đến 100 trượng; tội đồ, chia làm ba bậc:

đồ làm dịch đinh, đồ làm lính chuồng voi và đồ làm lính đồn điền; tội lưu, chia làm ba

bậc: lưu cận châu, lưu đi viễn châu và lưu đi ngoại châu; tội tử, chia làm ba bậc: tội thắt

cổ và chém, tội chém bêu đầu và tội lăng trì [xem 135, tr.37-41]. Thời bấy giờ trong xã

hộ vẫn còn nhiều kẻ du đãng, rượu chè không chăm lo sản xuất, nhà Lê thấy đó là sâu

mọt của xã hội nên quy định: nếu bắt được đánh bạc thì chặt ngón tay một phân, nếu

không có việc gì mà tụ tập thì phạt trượng…

Như vậy, pháp luật dưới triều nhà Lê đã thể hiện ý chí của người cầm quyền

muốn dùng pháp luật để quản lý xã hội. Pháp luật không chỉ quan tâm đến tội hình,

công tác tố tụng, mà còn quy định cả những phạm trù đạo đức của con người… những

điều mà trước đây người ta chỉ thấy được sự giáo hóa thông qua hệ thống giáo dục mà

biện pháp của nó là thuyết phục, cảm hóa con người.

Bộ luật Hồng Đứccũng thể hiện rất nhiều điểm tiến bộ, nó không chỉ mang ý

nghĩa vượt thời gian, mà còn thể hiện như một bộ luật vượt qua những ràng buộc

của tư tưởng Nho giáo. Ví dụ, về Luật hương hỏa (điều 391) quy định: Người giữ

hương hỏa nếu có con trai thì dùng con trai trưởng, không có con trai trưởng thì

dùng con gái trưởng [135, tr.178], việc thừa hưởng ruộng đất hương hỏa thì như

Page 141: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

135

nhau.Những quy định dân sự tiến bộ trong Luật Hồng Đức cách đây 5 thế kỷ không

chỉ đáp ứng được yêu cầu hiện thời hồi thế kỷ XV ở nước ta, mà nó còn có ý nghĩa

tới tận ngày nay khi nhân loại đang tiến tới bình đẳng giới. Nói về điểm tiến bộ của

Luật Hồng Đức, Phan Huy Chú nhận xét:

Hình phạt của nhà Lý thì lỗi ở khoan rộng, hình của nhà Trần thì lỗi ở nghiêm khắc,

nhẹ nặng không đúng mức, đều chưa gọi là phép hay được… Hình luật đời Hồng

Đức thật là mẫu mực[18, tr.287].

Sang thời Lê Trung Hưng về căn bản pháp luật vẫn giống như thời trước, cho

nên các chuyên gia Luật học cho rằng:

Bộ luật Hồng Đức thế kỷ XV vẫn được áp dụng trong suốt các thế kỷ sau này từ thế

kỷ XVI đến XVIII và được coi là mẫu mực để noi theo, ngay cả dưới thời Tây Sơn,

pháp luật nhà Lê vẫn được coi là nền tảng cơ bản[81, tr.126].

Vào cuối thời Lê sơ, triều đình ngày càng trở nên suy yếu, làm cho cục diện

chính trị phong kiến nước ta lâm vào tình trạng nội chiến suốt 3 thế kỷ. Cục diện

này chỉ kết thúc khi vua Quang Trung ra Bắc lần thứ hai, chấm dứt hoàn toàn sự cát

cứ Đàng Trong, Đàng Ngoài. Tuy nhiên, triều đại Tây Sơn một lần nữa lại mắc phải

sai lầm trong việc phân chia quyền lợi, dẫn đến sự tái diễn cát cứ. Cuối cùng, chính

Nguyễn Ánh (vua Gia Long) lập ra vương triều nhà Nguyễn vào năm 1802 và thống

nhất toàn cõi từ đó.

Để củng cố địa vị mới, đồng thời ổn định lại xã hội sau ba thế kỷ khủng

hoảng, Gia Long đã gấp rút cho các quần thần biên soạn bộ luật mới có tên Hoàng

Việt Luật lệ vào năm 1815 (còn gọi là Luật Gia long). Vua Gia Long đã khẳng định

vai trò quan trọng của pháp luật trong việc trị nước như sau:

Việc hình là để ngăn cấm giữ dân, có sáng rõ thì kẻ ngu ngoan mới biết đường đi

lối tránh. Pháp luật là của chung của thiên hạ, có nhất định thì quan lại mới biết có

chỗ nắm theo[87, tr.256].

Năm 1835 Minh Mệnh cho hiệu chỉnh bộ luật này để phù hợp với thời cuộc.

Theo bản dịch từ chữ Hán, Hoàng Việt Luật lệ gồm 398 điều, chia thành 22 quyển. Nội

dung chia thành 6 mảng tương ứng với 6 bộ, đại thể có: lại luật, quy định về tổ chức

nhà nước và hệ thống quan lại; hình luật, quy định về tội danh và hình phạt; hộ luật,

Page 142: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

136

quy định về hộ dân và đất đai; lễ luật, quy định về ngoại giao và nghi lễ cung đình;

binh luật, quy định về tổ chức quân đội và quốc phòng; công luật, quy định về xây

dựng, lăng tẩm [102, tr.15-16]. Những nội dung của Hoàng Việt Luật lệ ngoài kế thừa

Luật Hồng Đức, có rất nhiều điểm theo sự mô phỏng của Đại Thanh Luật lệ.

Giống như Luật Hồng Đức, Bộ Luật Gia Long là bộ luật tổng hợp nhiều lĩnh

vực của đời sống xã hội, song phần lớn là quy định các điều khoản dưới dạng các

quy phạm pháp luật hình sự và áp dụng các chế tài hình sự theo diện rộng hơn.

Chẳng hạn, quy định về trách nhiệm tập thể được áp dụng với những nội dung quan

trọng, nhất là những tội làm ảnh hưởng đến nhà vua và thân tộc của vua. Điều 223

quy định:

Tội mưu phản, mưu nghịch thì ông, cha, con, cháu trai, anh em của can phạm đều

bị chém; từ 15 tuổi trở xuống cùng với mẹ, con gái, vợ, chi, em, con dâu đều bị bắt

làm nô tỳ ở nhà quyền quý, toàn bộ tài sản bị tịch thu[xem 81, tr.144].

Luật Gia Long nói riêng và pháp luật nhà Nguyễn thế kỷ XIX nói chung, là

nền tảng pháp luật phong kiến, phản ánh việc củng cố các quan hệ sản xuất phong

kiến ở mức cao nhất của chế độ phong kiến Việt Nam đương thời. Nó thể hiện ý chí

tập quyền cao nhất của triều Nguyễn trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam. Để

tập trung quyền lực vào tay nhà vua, nhà Nguyễn đã luật hóa các chuẩn mực đạo

đức Nho giáo về luân thường, đạo lý, nghĩa là lấy Nho giáo làm công cụ thực hiện

mục đích chính trị của mình. Trong Bộ Hoàng Việt luật lệ, điều tối quan trọng là

Tam cương, Ngũ thường, mà nội dung của nó là trung thành tuyệt đối với nhà vua

và chế độ trên cơ sở "lấy trung làm hiếu".

Có thể coi, sau Quốc triều hình luật thời Hậu Lê thì Hoàng Việt Luật lệ là bộ

luật lớn nhất của chế độ phong kiến Việt Nam. Có thể nói đây là bộ luật đầy đủ và

hoàn chỉnh nhất của nền cổ luật Việt Nam [99, tr.VIII]. Tất nhiên, những nội dung

này có sự kế thừa sâu sắc pháp luật thời Hậu Lê và tham bác về phương pháp làm

luật của các Pháp gia, đặc biệt dưới thời Thanh.

Tóm lại, từ thế kỷ X ở nước ta, nhà nước dân tộc đã được hình thành. Đặc

biệt, từ thế kỷ XI do chủ trương từng bước xây dựng chế độ phong kiến trung ương

tập quyền ngày càng cao, cho nên trong lĩnh vực trị nước, các triều đại phong kiến

Page 143: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

137

nước ta không thể không tham bác tư tưởng pháp trị, thậm chí coi đó là một tất yếu

trên cả phương diện tổ chức và thiết chế. Công cụ để thiết lập nhà nước là hệ thống

pháp luật, các triều đại Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hồ, Lê Sơ, Trung Hưng, Tây Sơn

và Nguyễn đều coi trọng luật pháp, coi nó là công cụ thực hiện các nhiệm vụ chính

trị sau đây:

Thứ nhất, pháp luật ra đời từ hình thức thấp dưới thời Lý – Trần (Hình luật,

Hình thư) đến mức cao hơn là hai bộ luật hoàn chỉnh của chế độ phong kiến Lê –

Nguyễn (Hồng Đức và Gia Long), nhằm giải quyết hai vấn đề cơ bản nhất, một là

ổn định trật tự xã hội, hai là bảo vệ quyền lợi của vương triều và các tầng lớp trên

trong xã hội. Nhà nước phong kiến Việt Nam đã dùng pháp luật để luật hóa các

phạm trù đạo đức (vốn là công cụ cai trị của Nho gia) vào quản lý, trị vì xã hội;

thông qua hệ thống pháp luật để nâng cao vị thế, quyền lực của nhà vua theo đúng

nghĩa quân chủ chuyên chế tập quyền. Bước tiến bộ trong quá trình lập pháp là vua

chúa đã khẳng định pháp luật là công cụ để quản lý xã hội, như Gia Long đã coi

"pháp luật là của chung của thiên hạ".

Thứ hai, pháp luật còn là công cụ để hợp pháp hóa sở hữu tư nhân về ruộng

đất, công khai thừa nhận vị trí thống trị của bọn phong kiến, điền sản. Sự thừa nhận

sở hữu đó là cơ sở vững bền cho chủ trương tập quyền của nhà nước phong kiến

Việt Nam.

Thứ ba, sau vấn đề lập pháp là thực thi pháp luật. Để thực hiện mục đích chuyên

quyền, không phải ông vua nào cũng làm được điều đó, trên thực tế chỉ có số ít, thậm

chí rất ít các ông vua làm được. Về vấn đề này, Nguyễn Hoài Văn đã đúng khi đưa ra

nhận xét: Thực ra trong lịch sử Việt Nam không phải tất cả (ngược lại là khá ít) những

vị vua thực sự có bản lĩnh, tài năng để tập trung quyền lực cai trị đất nước (như Lê

Thánh Tông và Minh Mệnh) để trở thành chuyên chế [129, tr.80].

Trong thực hành chính trị, để thực thi pháp luật, các vị vua Việt đã quán triệt

sâu sắc tinh thần sống và làm việc theo pháp luật, mọi người từ quan lại cho đến thứ

dân đều bình đẳng trước ánh sáng của luật pháp, đặc biệt dưới thời Lê Thánh Tông.

Về vấn đề này, sách Đại Việt sử ký toàn thư viết:

Page 144: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

138

Năm 1468, vua dụ các quan trong triều rằng: Xem Trần Phong xin cho Lê Bô3

phạm pháp bị “tội kình” được chuộc tội, như thế là người giàu có nhiều của hối lộ

thì được miễn tội, còn người nghèo thì vô cớ mà bị tội, là cả gan vi phạm phép tắc

mà tổ tông đạt ra… Đại lý tự phải chiếu luật để trị tội [122, tr.435].

Qua đó cho thấy, Lê Thánh Tông khi hành pháp đã không để tình cảm riêng tư

xen ngang mà để xẩy ra tình trạng châm chước. Hành động này chứng tỏ Lê Thánh

Tông là hình ảnh của một pháp gia ngay thẳng trong hành pháp.

Theo Lê Thánh Tông, các quan lại là người phải thông hiểu luật pháp hơn ai

hết, vì đó là những người thay vua thi hành pháp luật. Họ là những người cầm cân,

nảy mực, cho nên muốn thi hành pháp luật đúng thì bản thân những người này phải

rất thông thạo pháp luật, có kỹ năng và kinh nghiệm nhất định để vận dụng pháp

luật vào thực tiễn đời sống. Điều này cũng lý giải vì sao trong các đợt tuyển chọn

nhân tài từ thi hương, hội, đến thi đình, nội dung chính của đề thi là tìm hiểu về

pháp luật, thi viết chiếu, chỉ, sắc, dụ của vua.

Việc tuyển chọn những kẻ sĩ thông hiểu pháp luật còn có tác dụng cộng hưởng

và bài trừ trong công tác hành pháp. Công tác hành pháp sẽ đạt hiệu quả cao hơn khi

những quan lại gương mẫu thực thi pháp luật, trái lại nếu quan tham, lạm nhũng… thì

sử dụng chính quốc pháp để nghiêm minh. Quốctriều hình luật ghi rất rõ rằng: … ép

dân phu vác đưa đón và lấy lương thực, vật liệu quá nhiều thì bị tội xuy đánh 50 roi,

biếm một tư phải bồi thường gấp đôi tang vật trả cho dân (Vi chế) [135, tr.105-106].

Các điều 636, 638, 639… đều quy định về việc cấm các quan lại sách nhiễu nhân

dân. Điển hình là năm 1467, Lê Thánh Tông đã bãi chức Tây quân Đô đốc Lê Thiệt

vì để cấp dưới đi tuần ngoài biên giới đã “dọa nạt lấy bạc của người châu Thoát”

[122, tr.423]. Về bản chất, biện pháp lựa chọn quan lại thông hiểu luật pháp là hành

động nhất cử lưỡng tiện – một tư duy hành pháp của Pháp gia được ứng dụng dưới

thời Lê Thánh Tông.

Sang thời Lê – Trịnh, một học giả khác có tư duy hành pháp khá táo bạo đó

là Lê Quý Đôn, tư tưởng của ông được trình bày trong sách “Quần thư khảo

3 Trần Phong từng là thầy của Lê Thánh Tông, còn Lê Bô là một trong những người tham gia vụ giết vua Lê

Nghi Dân

Page 145: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

139

biện”với chủ trương chọn cử người giúp việc cho nước phải kết hợp cả đức và tài,

“không những thế ông còn thiên về mặt tài” [133, tr.436]. Quan niệm trọng dụng

nhân tài của Lê Quý Đôn về thực chất là sự cải tạo Nho giáo bằng tư tưởng pháp trị

theo một số nội dung cơ bản.

Với tư cách là một “Lê Thánh Tông thu nhỏ” dưới triều Nguyễn, vua Minh

Mệnh là người tiếp tục đưa Nho giáo lên đến địa vị độc tôn, hay nói cách khác, là

thực hiện sự tái độc tôn Nho giáo dưới triều Nguyễn. Tuy nhiên, Minh Mệnh cũng

được biết đến là người giữ và sử dụng pháp luật một cách minh chính, ông nói: “Ta

từ khi lên ngôi, chỉ giữ phép công bằng, không hề thiên vị, dù các hoàng tử, tước

công hay hầu” [34, tr.11]. Trong thời gian trị vì 20 năm (1820 - 1841), Minh Mệnh

luôn tỏ ra là người áp dụng các hình phạt nghiêm khắc, nhưng thấu tình đạt lý. Kế

tục tư duy của Lê Thánh Tông, ông không chấp nhận hình thức của Nho giáo cho

con, cháu chịu tội thay, nghĩa là, ai có tội thì xử người đó, mọi người đều bình đẳng

trước pháp luật.

Nguyên tắc xử sự của Minh Mệnh là đại thần vi phạm thì cũng xử lý. Cho

nên, trong thời gian trị vì, ông đã cách chức, giáng chức 4 thượng thư, kể cả thượng

thư bộ hình do lỗi thiếu trách nhiệm hoặc móc ngoặc gian thần dẫn ðến gây hậu quả

xấu. Minh Mệnh cũng là ông vua áp dụng những biện pháp xử phạt nghiêm khắc

nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam với việc sử dụng hình phạt tử hình thời

trung cổ như chém đầu và cho thắt cổ chết, điển hình là vụ án năm 1832 khi Minh

Mệnh cho xử một số quan lại phạm tội trong văn phòng của nhà vua.

Về nguyên tắc thực hành pháp luật, Minh mệnh càng thể hiện rõ tinh thần

hành pháp của một Pháp gia trong triều đại phong kiến Việt Nam: Trong số các vua

triều Nguyễn thì Minh Mệnh là hiện tượng đặc biệt, ông vừa đề cao Nho gia vừa

chú trọng vai trò của pháp luật trong đạo trị nước [28, tr.169].

Không chỉ trên phương diện pháp luật, Minh Mệnh cũng được biết đến với

công cuộc cải cách hành chính, tinh giản biên chế và nâng cao chất lượng bộ máy

quan lại. Theo đó:

…ngoài việc dựa vào các điều luật trong bộ luật nói trên, Minh Mệnh còn định thêm

các điều luật mới như: Định lệ chi tiết phân xử sự làm việc sai lầm của các thuộc viên

Page 146: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

140

và các đường quan ở kinh đô và các tỉnh. Định lệ về việc xử phạt quan lại tham nhũng

và hối lộ. Định lệ về việc xét các địa phương xử án hay hoặc dở… nhằm hạn chế sự tha

hóa của quan lại [120, tr.412].

Nói tóm lại, việc định pháp là tất yếu của mọi nhà nước, song vấn đề quan

trọng là ở việc thực thi pháp luật. Nếu pháp trị của một nước không thực thi nghiêm

minh pháp luật thì việc lập pháp, định pháp hoàn toàn không có ý nghĩa. Điều đó

cũng có ý nghĩa và bài học lịch sử quan trọng đối với luật pháp nước ta hiện nay.

4.3. Những giá trị và hạn chế của tư tưởng pháp trị trong đời sống chính trị - xã hội

phong kiến Việt Nam

4.3.1. Giá trị

Trải qua 10 thế kỷ, công cuộc dựng nước, giữ nước và phát triển chế độ phong kiến

Việt Nam đã đạt được những thành quả nhất định, đặc biệt trong việc củng cố chế độ trung

ương tập quyền. Để có được thành công đó, các quân vương trong lịch sử chế độ phong

kiến nước ta đã tiếp thu và vận dụng các học thuyết chính trị - xã hội, trong đó có tư tưởng

pháp trị vào đường lối trị nước để đạt mục đích an dân và duy trì lâu dài sự thống trị của

triều đại mình. Sự vận dụng đó phản ánh những giá trị nhất định, đó là:

Thứ nhất, tư tưởng pháp trị là cơ sở lý luận vững chắc giúp các triều đại phong kiến

Việt Nam có cơ sở phương pháp để lập pháp. Trải qua 10 thế kỷ với hàng chục triều đại đã

cho ra đời hàng nghìn chỉ, dụ, sắc…, đặc biệt có 4 bộ luật thành văn ra đời: Hình thư, Hình

Luật thời Lý, Trần; Quốc triều hình luật thời Lê Sơ, Hoàng triều luật lệ thời Nguyễn. Đó

là những sản phẩm trí tuệ của hệ thống kiến trúc thượng tầng chế độ phong kiến nước ta.

Sau khi ra đời, các bộ luật đó đã đi vào cuộc sống và đáp ứng được yêu cầu cai trị của các

triều đại phong kiến Việt Nam trong lĩnh vực hợp pháp hóa hình thức sở hữu ruộng đất tư

nhân cho các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là quý tộc địa chủ, đồng thời bảo hộ những quyền

và lợi ích liên quan đến tông tộc nhà vua và điều chỉnh những quan hệ xã hội khác bằng hệ

thống pháp luật hà khắc, ngay cả những quan hệ đạo đức cũng được pháp luật quy định …

Không chỉ trên phương diện xây dựng luật pháp, mà ngay cả những nội dung quy

định trong những bộ pháp điển này, đặc biệt là Quốc triều hình luật nhà Lê Sơ, những quy

định về: sự bình đẳng giới, hôn nhân, các quy định dân sự khác… phản ánh sự tiến bộ hơn

so với luật nhà Minh, cho đến nay vẫn còn mang tính thời sự đối với công tác lập pháp.

Page 147: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

141

Thứ hai, cùng với hệ tư tưởng có sự điều phối bằng pháp luật, một chính thể nhà

nước quân chủ chuyển động tích cực theo hướng tập quyền, bằng phương pháp hợp pháp

hóa quyền và lợi ích của tầng lớp trên thông qua hệ thống pháp luật, nhà nước phong kiến

từng bước thâu tóm quyền lực thông qua bộ máy quan lại giúp việc ở các cấp. Từ trung

ương xuống địa phương các triều đại đã phân cấp quản lý hành chính theo cấp, đại thể có 4

cấp: từ triềuđình phân ra các bộ, lại rồi xuống các tri, phủ và cuối cùng là hương, xã. Mô

hình quản lý hành chính cũng đồng thời là phương tiện quản lý kinh tế, nơi tận thu tài

chính cho triều đình, đồng thời khi có binh biến xảy ra thì mô hình này cũng rất linh hoạt

chuyển sang cơ chế quản lý quân đội thời chiến. Như vậy, bộ máy hành chính của chế độ

phong kiến Việt Nam là công cụ đa phương tiện giúp nhà vua quản lý đất nước, xã hội -

một phương pháp tập quyền đặc thù kiểu phong kiến Việt Nam. Đặc biệt, cơ chế tự quản ở

cấp địa phương là bài học quý báu cho công cuộc cải cách hành chính ở cấp xã, phường

hiện nay.

Thứ ba, cùng với những chính sách quản lý thông qua hệ thống pháp luật, bức

tranh xã hội phong kiến Việt Nam hiện ra với những nét đặc trưng:

- Trên lĩnh vực kinh tế, phản ánh một nền kinh tế thuần nông có pha trộn thủ

công, mỹ nghệ và thương nghiệp. Dưới các triều đại Lý, Trần, Lê Sơ chính sách ruộng

đất, thuế khóa có phần hợp lý, thuận lòng dân, làm cho nền sản xuất phát triển.

- Nền văn hóa, tư tưởng, giáo dục dân tộc cũng có sự phát triển rực rỡ, bên cạnh

văn hóa dân gian là tư tưởng bác học du nhập chủ yếu từ Trung Quốc, Ấn Độ dần được

Việt hóa bằng những chủ trương được ấn định trong các bộ luật, đặc biệt là Nho giáo và

Phật giáo.

Thứ tư, mặc dù có sự kế thừa và mô phỏng kinh nghiệm trị nước của các triều đại

phong kiến Trung Hoa cũng như những học thuyết chính trị xã hội của nước này, nhưng

trong cách cai trị và quản lý xã hội của các nhà nước phong kiến Việt Nam chúng ta chưa

thấy triều đại nào lại áp dụng nguyên xi mà luôn có sự phát triển bổ sung về cách thức cai

trị. Sở dĩ như vậy là vì các triều đại phong kiến với những quân vương sáng suốt như Lê

Thánh Tông thời Lê Sơ và Minh Mệnh thời Nguyễn đã có tầm nhìn vượt qua được những

khuôn mẫu, gò ép của Nho giáo. Nếu như ở Luật Hồng Đức có nhiều điều khoản thể hiện

Page 148: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

142

sự quan tâm của nhà nước tới phụ nữ, những người cô quả, thì trong Hoàng Việt luật lệ

chúng ta thấy luật pháp luôn được điều chỉnh bằng lệ cho phù hợp với điều kiện thực tế, nó

vượt bỏ tính pháp cổ, pháp tiên vương của Nho gia, Pháp gia.

Ngày nay chế độ phong kiến đã lùi xa vào quá khứ lịch sử, song đường lối trị nước

của các triều đại phong kiến đã áp dụng tư tưởng pháp trị một cách phù hợp sẽ giúp cho

việc quản lý xã hội một cách khá hiệu quả. Trong suốt một ngàn năm, chế độ phong kiến

đã để lại cho chúng ta bài học lịch sử về vai trò của pháp luật thông qua việc định pháp và

hành pháp là hết sức quan trọng.

4.3.2. Hạn chế

Mặc dù tư tưởng pháp trị của Pháp gia đã giúp các quân vương phong kiến

Việt Nam có được quyền thế trong tay và trong chừng mực nào đó đã giúp xã hội có

những bước tiến dài trong 10 thế kỷ, song những hạn chế cố hữu của nó khi vận dụng

vào thời kỳ phong kiến nước ta là điều không tránh khỏi. Đó là:

Thứ nhất, mặc dù các triều đại phong kiến Việt Nam đã xây dựng được một hệ

thống pháp luật khá mạnh để quản lý xã hội, nhưng xét về bản chất, đây là những bộ luật

được sinh ra để bảo vệ chính thể quân chủ, cho nên nó chưa phản ánh được ý chí và

nguyện vọng thiết thực của nhân dân. Đó cũng là điều tất nhiên, bởi lẽ luật pháp của nhà

nước là do giai cấp cầm quyền quyết định. Trong 4 bộ luật được ra đời trong lịch sử chế

độ phong kiến nước ta thì có đến 3 bộ luật đặc biệt chú trọng đến luật hình, những hình

phạt nặng nhất đối với người vi phạm là tội khi quân, phản quốc. Ngoại lệ, chỉ có Luật

Hồng Đức là điều chỉnh các quan hệ dân sự và tố tụng.

Thứ hai, để khắc phục những sai lầm của tư tưởng pháp trị, các triều đại phong

kiến Việt Nam đã ra sức đề cao các học thuyết khác (Nho, Phật, Đạo) với hy vọng

những giáo lý này sẽ làm bệ đỡ cho việc thi hành những chính sách cai trị của nhà

nước. Tuy nhiên, do lợi ích căn bản giữa triều đình với người dân là khác nhau, cho

nên ở bất kỳ triều đại nào sự dung hợp lợi ích cũng chỉ đạt được ở thời mới thành lập,

ngay cả triều đại tiến bộ nhất trong lịch sử là nhà Lê Sơ, điều này cũng lý giải vì sao

trong xã hội phong kiến Việt Nam liên tục diễn ra các cuộc khủng hoảng ngắn về

chính trị - xã hội.

Page 149: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

143

Thứ ba, do áp dụng máy móc phương thức quản lý xã hội bằng con đường

pháp luật, lại thêm ý thức hệ bảo thủ của tư tưởng Nho giáo thống trị đã làm cho

chế độ phong kiến Việt Nam gặp phải mâu thuẫn trong chính nó. Một mặt, bằng con

đường pháp trị các quân vương phong kiến đã xây dựng được bộ máy nhà nước

trung ương tập quyền; mặt khác, lại chậm đổi mới, không gắn với lợi ích thiết thực

của người dân, cho nên bộ máy nhà nước đó là quan liêu, tập quyền.

Thứ tư, tư tưởng pháp trị đòi hỏi nhà nước phải thực hiện biện pháp sử dụng

con người theo tinh thần "cử hiền dữ năng" (tiến cử và sử dụng người hiền tài theo

đúng năng lực) trong các bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, do tính duy tình cao hơn duy

lý đã làm cho hầu hết các triều đại phong kiến Việt Nam thực hiện việc “nhậm hiền

trong khuôn khổ thân thân”, tức đi ngược với chủ trương của Pháp gia. Thậm chí

bất công, thể hiện khi những cuộc kháng chiến thành công, tiến hành xây dựng

vương triều thì triều đình tìm mọi cách loại bỏ những người ngoài họ để cất nhắc

những người hoàng tộc.

4.4. Bài học lịch sử từ sự vận dụng tư tưởng pháp trị trong chế độ phong kiến đối với

việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay

4.4.1 Tính tất yếu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở

Việt Nam hiện nay và những tiêu chí, đặc trưng của nó

Với mục tiêu "Độc lập - Tự do - Hạnh phúc", sau cuộc Cách mạng tháng 8

năm 1945, Đảng và nhà nước ta xây dựng một xã hội mới vì "dân chủ - công bằng -

văn minh". Trải qua hơn 70 năm xây dựng và phát triển, thành tựu nổi bật là đã hình

thành một hệ thống chính trị vững chắc trên nền tảng khối thống nhất giữa chính

quyền nhà nước với nhân dân dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng cộng sản Việt

Nam.Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa ở nước ta ở chỗ:

Một là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm đáp ứng

yêu cầu của tiến trình toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ. Hai là, xây dựng Nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam xuất phát từ yêu cầu quản lý và phát

triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ba là, xây dựng Nhà nước

Page 150: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

144

pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam xuất phát từ yêu cầu phát triển xã hội theo

hướng dân chủ, hài hòa và bền vững [68, tr.3-4].

Tuy nhiên, phải đến Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII

(1994) thì cụm từ “xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân

dân, vì nhân dân” [39, tr.161], lần đầu tiên mới được sử dụng theo đúng nghĩa của

nó. Phương hướng đó được cụ thể hóa một bước tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung

ương lần thứ tám, khóa VII đầu năm 1995. Tại Hội nghị này, 5 quan điểm cơ bản để

tiến hành cải cách bộ máy nhà nước theo định hướng xây dựng Nhà nước pháp

quyền được xác định. Tiếp đến, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta

một lần nữa khẳng định 5 quan điểm cơ bản nêu trên. Đó là:

- Xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân; lấy liên minh giai

cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản

lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội,

chuyên chính với mọi hoạt động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và nhân dân.

- Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan

nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp,tư pháp.

- Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước.

- Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt

Nam. Quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức.

- Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước [29, tr.129].

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (2011) của Đảng tiếp tục khẳng định:

Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì nhân dân. Tất cả

quyền lực thuộc về nhân dân mà nền tảng là giai cấp công nhân và đội ngũ trí thức

do ĐCS Việt Nam lãnh đạo[31, tr.85].

Quá trình nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì

dân với những đặc điểm như trên là những nỗ lực đáng trân trọng của toàn Đảng,

toàn dân trong suốt mấy thập kỷ. Thành quả đó đã được Đại hội Đảng toàn quốc lần

thứ XII (2016) ghi nhận: Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị

được chú trọng và đạt kết quả quan trọng [32].

Page 151: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

145

Như vậy, từ khi ra đời cho đến nay, trong đường lối của Đảng Cộng sản Việt

Nam luôn luôn quán triệt tư tưởng xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân ở

Việt Nam, coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật - phương tiện

quan trọng trong quản lý nhà nước. Tư tưởng về nhà nước pháp quyền và thực tiễn

xây dựng nhà nước pháp quyền trong lịch sử nhân loại vốn được đặt ra và tiến hành

từ lâu, trở thành xu hướng phổ biến của nhiều nước trên thế giới. Do đó, không chỉ

do tính cấp thiết của sự nghiệp toàn cầu hóa và quản lý xã hội ở nước hiện nay, mà

có cả tính lịch sử văn minh nhân loại qui định. Về vấn đề này PGS.TS. Phạm Văn

Đức nêu rõ:

Nhà nước pháp quyền ở từng nước cụ thể là sự thống nhất biện chứng giữa cái phổ

biến và cái đặc thù, trong đó cái phổ biến là cái tồn tại trong tất cả các nhà nước

pháp quyền, còn cái đặc thù là cái chỉ tồn tại trong một số nước, thậm chí trong một

vài nước mà thôi [35, tr.7].

Cái đặc thù ở nước ta do chính sự tồn tại xã hội nước ta qui định, nó được thể hiện

ở sự phân công, phối hợp giữa “tam quyền” và nhà nước được đặt dưới sự lãnh

đạo của Đảng: Tính chất xã hội chủ nghĩa của Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam

do tính định hướng xã hội chủ nghĩa của cơ sở kinh tế qui định… Tính chất xã hội

chủ nghĩa của nhà nước pháp quyền đòi hỏi phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng

Cộng sản [xem 35, tr.8-10].

Tóm lại, đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt

Nam có thể khái quát bằng những tiêu chí như sau:

- Một là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của

nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thể hiện quyền làm chủ của nhân dân.

- Hai là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tổ chức và hoạt

động trên cơ sở Hiến pháp, tôn trọng và bảo vệ Hiến pháp.

- Ba là, Nhà nước pháp quyền Việt Nam quản lý xã hội bằng pháp luật, bảo

đảm vị trí tối thượng của pháp luật trong đời sống xã hội.

- Bốn là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tôn trọng và bảo

vệ quyền con người, các quyền và tự do của công dân, giữ vững mối liên hệ giữa

Nhà nước và công dân, giữa Nhà nước và xã hội.

Page 152: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

146

- Năm là, trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực

nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước

trong việc thực hiện các quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp, có sự kiểm tra,

giám sát chặt chẽ việc thực hiện quyền lực nhà nước.

- Sáu là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước do

Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

4.4.2. Tiếp thu những giá trị cơ bản từ học thuyết pháp trị của Pháp gia trong

việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay

Xét về nguyên tắc thì pháp luật đương thời ở nước ta hoặc ở Trung Quốc

khác xa pháp luật thời kỳ phong kiến có nguồn gốc từ Pháp gia. Tuy nhiên, căn cứ

vào những đặc trưng căn bản của Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam, chúng

tôi thấy những yếu tố tích cực từ học thuyết pháp trị do Pháp gia xây dựng cho đến

nay vẫn còn có ý nghĩa nhất định. Đó là tinh thần thượng tôn pháp luật, yêu cầu luật

pháp thành văn, ổn định, công bằng, nghiêm trị; những thủ thuật cai trị, giám sát,

kiểm tra; những biện pháp công khai, phổ biến, giáo dục pháp luật… là cẩm nang

quý để xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Bài học lịch sử từ học thuyết pháp trị của Pháp gia, theo chúng tôi, có thể được vận

dụng ở một số phương diện về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa ở nước ta như sau:

Một là, xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp trên tinh thần thượng tôn

pháp luật

Nguồn của các đạo luật chính là Hiến pháp và Luật nhà nước. Các bản Hiến pháp

1946, 1959, 1980, 1992 và đặc biệt là Hiến pháp năm 2013 (sửa đổi, bổ sung) là sự phát

triển không ngừng chế độ dân chủ nhân dân để phục vụ Nhà nước pháp quyền XHCN.

Từ khát vọng có được một bản Hiến pháp, được thể hiện trong “Bản yêu sách của nhân

dân An Nam” do Nguyễn Ái Quốc gửi tới Hội nghị Vécxây năm 1919, nhưng phải sau

27 năm (tức năm 1946) khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, trên cương vị

là người đứng đầu nhà nước, chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gấp rút cho xây dựng

một bản Hiến pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Người nói:

Page 153: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

147

Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân

không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có hiến pháp. Nhân dân không được

hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một bản hiến pháp dân chủ" [41, tr.8].

Chính vì vậy, Hiến pháp đầu tiên của nước ta năm 1946 là sự đề cao phát

huy dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân trong một xã hội mới; Hiến pháp năm

1959 thì đề ra nhiệm vụ cách mạng của hai miền trong cuộc đấu tranh giành độc lập

toàn vẹn lãnh thổ; Hiến pháp 1980 là bản Hiến pháp của thời kỳ quá độ lên chủ

nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước; Hiến pháp 1992 thể hiện ý chí, nguyện vọng của

nhân dân trong thời kỳ đổi mới; Hiến pháp năm 2013 lŕ sự sửa đổi Hiến pháp 1992

"để đảm bảo đổi mới toàn diện về chính trị, kinh tế, xây dựng nhà nước pháp quyền

XHCN" [2, tr.8]. Tất cả các bản Hiến pháp đều gắn liền với thực tiễn cách mạng của

Đảng và nhân dân ta trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Song, điểm chung nhất

mang tính nguyên tắc là Nhà nước quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật,

thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ [85, tr.3].

Tư tưởng pháp trị của Pháp gia thật sự là bài học bổ ích và thiết thực trong

quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật ở nước ta hiện nay. Đó là pháp

luật phải thống nhất, ổn định, rõ ràng, hợp thời và nghiêm trị; pháp luật phải có sự

phân công, phân cấp, phân quyền minh bạch; sau cùng là pháp luật phải công khai

rộng rãi cho người dân được biết.

Hai là, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân

Về bản chất pháp luật ra đời là công cụ để thực hiện chức năng quản lý của

nhà nước. Với Pháp gia dưới chế độ phong kiến thì quyền làm chủ là của các quân

vương, bởi lẽ đất đai và thần dân đều là của vua. Còn ngày nay, nhà nước ta là của

nhân dân, điều này được Hồ Chủ tịch khẳng định:

“Nước ta là nước dân chủ

Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.

Bao nhiêu quyền hạn đều của dân” [42, 698]

Quan điểm nhà nước của dân được quy định rất rõ trong Hiến pháp. Vì thế, mọi

hoạt động của chính quyền, hoạt động của tư pháp phải tuân theo nguyên tắc: dân biết,

dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.

Page 154: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

148

Tuy nhiên, để người dân thực hiện được quyền làm chủ của mình thì cần đề ra

và phát huy tốt chức năng giám sát, kiểm tra cùng với công tác chuẩn hoá pháp

luật.Đồng thời không ngừng củng cố bộ máy chính quyền và công tác cán bộ; để tăng

hiệu quả của pháp luật trong đời sống, thì mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính

sách pháp luật của nhà nước phải được công khai, minh bạch và có quy định cụ thể.

Mục đích là để dân bàn, dân kiểm tra, hay nói cách khác là tăng cường cơ chế giám sát

của nhân dân. Đặc biệt, việc công khai và minh bạch trong sử dụng nguồn ngân sách

nhà nước, kiểm soát tính hiệu quả của sử dụng tài sản công, tài chính trong Đảng, đoàn

thể, các quỹ do dân đóng góp…, ngày càng được khẳng định trong sự song hành cùng

với sự hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

Hiện nay, tham nhũng vẫn là một trong bốn nguy cơ mà Đảng ta xác định là

quốc nạn. Cuộc chiến chống tham nhũng cũng sẽ không thể đem lại kết quả mong đợi

nếu thiếu đi vai trò kiểm tra, giám sát của người dân. Trong thời gian gần đây, phần lớn

các vụ tham nhũng là do nhân dân phát giác. Người dân đã cung cấp thông tin cho báo

chí để vạch ra những hiện tượng tiêu cực, nhiều hành vi tham nhũng ... Cho nên, trong

xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, nhà nước của dân, do dân, vì dân thì công tác

kiểm tra, giám sát việc thực thi pháp luật không chỉ là nhiệm vụ chung của Đảng, nhà

nước, các tổ chức chính trị - xã hội, mà còn có vai trò của người dân – lực lượng đông

đảo có ý kiến phản biện lớn nhất, khách quan nhất, trung thực nhất, tường tận công việc

nhất, kiên trung nhất… trong việc đấu tranh với những biểu hiện sai trái.

Muốn tăng cường vai trò giám sát của người dân với các hoạt động của nhà

nước thì cần phải không ngừng nâng cao ý thức pháp luật cho người dân, để trước hết

là người dân hiểu và thực hiện đúng những quy định của pháp luật; sau nữa là từ sự

hiểu biết pháp luật của người dân, họ sẽ đấu tranh khi có những biểu hiện sai trái.

Muốn thế phải tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho toàn xã hội.

Có thể nói, nghiên cứu học thuyết pháp trị của Pháp gia, chúng tôi nhận

thấy những tư tưởng đề cao vai trò của pháp luật trong quản lý xã hội; phương

pháp giáo dục phổ biến pháp luật; sự nghiêm minh của của pháp luật; công tác

kiểm tra, kiểm soát quyền lực trong quản lý… là những bài học bổ ích để cần và

Page 155: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

149

có thể sử dụng đối với xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam trong

giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, học thuyết pháp trị cũng đã ra đời cách đây hơn 2000

năm, cho nên khi vận dụng chúng ta cũng cần lưu ý đến sự phù hợp của học thuyết

với tình hình thực tiễn, bởi bản thân nội học thuyết pháp trị cũng còn nhiều khiếm

khuyết như: chưa thấy được quan hệ đạo đức với pháp luật; chưa biết đến sự tác

động của ngoại cảnh đến nội dung pháp luật; cũng chưa thể hiểu các yếu tố thời

đại tác động đến công tác quản lý và xây dựng pháp luật như thế nào; đồng thời

chưa làm rõ được các yếu tố để đảm bảo quyền con người trong pháp luật. Đó cũng

là những hạn chế do lịch sử quy định đối với Pháp gia.

Page 156: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

150

Tiểu kết chương 4

Sự ảnh hưởng của tư tưởng trị nước ấy đối với chế độ phong kiến Việt Nam vốn

mang tính dung hợp giữa Nho gia và Pháp gia từ thời Hán trên các phương diện tiêu

biểu: lập pháp, xây dựng bộ máy chính quyền chuyên chế và các chức năng hành pháp.

Những hạt nhân hợp lý từ sự dung hợp ấy là cơ sở để đảm bảo cho nhà nước phong

kiến trung ương tập quyền Trung Hoa và Việt Nam tồn tại hàng trăm năm.

Trong quá trình xây dựng và củng cố chế độ phong kiến trung ương tập

quyền ở Việt Nam, công cụ thống trị xã hội của các triều đại, các tập đoàn phong

kiến chính là các bộ pháp điển. Từ Hình Thư thời Lý, đến Hình Luật nhà Trần, đặc

biệt là hai bộ luật Quốc triều hình luật và Hoàng Việt luật lệ dưới thời Lê – Nguyễn

được dùng làm căn cứ pháp lý quan trọng cho hoạt động triều chính. Nhờ đó mà các

nhà nước phong kiến Việt Nam đã thu được những thành quả nhất định.

Tuy nhiên, do hạn chế nguyên thủy của tư tưởng pháp trị mà suốt 10 thế kỷ, chế

độ phong kiến Việt Nam luôn mắc phải những sai lầm mang tính nguyên tắc, đó là: xây

dựng một hệ thống pháp luật bảo hộ thể chế cầm quyền. Biểu hiện, đó là bộ quy tắc

hình hóa những giáo lý đạo đức để ràng buộc nhân dân gắn với tầng lớp thống trị, sự

tinh vi đó đã trở thành những thủ ðoạn chính trị khôn ngoan của kẻ cầm quyền. Nhưng

trướcnhững biến đổi của lịch sử, những thủ đoạn chính trị mang nặng tính bảo thủ,

thêm vào đó là sự phản trắc, truy sát các trung thần… là những nguyên nhân chính dẫn

đến sự khủng hoảng của các triều đại phong kiến, mà thất bại điển hình là sự sụp đổ

hoàn toàn nhà Nguyễn hồi giữa thế kỷ XX.

Mặc dù nhà nước phong kiến đã thành công nhờ ứng dụng học thuyết pháp trị

của Pháp gia và sụp đổ cũng có phần do áp dụng máy móc học thuyết này và bản thân

Pháp gia cũng đã ra đời hơn 2000 năm. Song, những tư tưởng tiến bộ của nó vẫn còn

đang và sẽ cần cho xây dựng một nhà nước mới - Nhà nước pháp quyền XHCN, nhà

nước của dân, do dân, vì dân. Bởi chúng ta không thể xây dựng một kiến trúc thượng

tầng mà không xây dựng trên nền tảng văn hoá bản địa.

Page 157: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

151

KẾT LUẬN

Mặc dù Pháp gia không có người sáng lập chính thống giống một số trường

phái khác như: Nho gia, Đạo gia, Mặc gia, song sự ra đời của nó không phải là một

hiện tượng ngẫu nhiên, mà do đòi hỏi tất yếu của thời đại. Pháp gia là sản phẩm trực

tiếp từ lịch sử xã hội thời Xuân Thu – Chiến Quốc, được hun đúc từ chính phong

trào Bách gia tranh minh và được kết tinh bởi chủ trương "tích cực hữu vi" thông

qua các cuộc biến pháp của các nhà luân lý chính trị đương thời: Quản Trọng, Tử

Sản, Lý Khôi, Ngô Khởi, Thân Bất Hại, Thận Đáo, Thương Ưởng; Tuân Tử, Hàn

Phi, Lý Tư để đi đến hoàn thiện luận thuyết pháp trị. Đề xuất trị nước bằng pháp trị

là sự phản ánh đúng đắn cục diện của thời đại, khi xã hội chuyển từ mô hình nước

nhỏ, dân ít, ở đó vua dân biết nhau… chuyển sang quy mô nước lớn, dân đông thì

không thể dùng nhân trị (noi gương, giáo dục đạo đức) để quản lý xã hội được, vì

thế các quân vương cần và phải sử dụng đến công hiệu của pháp luật.

Mục đích của tư tưởng Pháp gia là làm sao để có nước hùng, quân mạnh.

Trong đối nội, Pháp gia sử dụng uyển chuyển công cụ “pháp – thuật – thế”, biến

chúng thành những nguyên tắc vận hành cho bộ máy nhà nước trên các phương diện

chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… ở đó nhà vua là người có quyền lực tối thượng

và quyền lực này được bảo hộ bằng hệ thống pháp luật chặt chẽ. Trong đối ngoại,

Pháp gia chủ trương bá đạo, bành trướng, cướp đất và thống lĩnh các vương hầu

nhằm thiết lập ra một đế chế mới dưới sự trị vì của Hoàng đế.

Vai trò và vị thế của Pháp gia không chỉ dừng lại ở thành tích kết thúc cục

diện Xuân Thu – Chiến Quốc, đưa Trung Hoa cổ đại về một mối, mà những giá trị

khoa học về cách dựng luật, phương pháp xây dựng nhà nước mạnh, biện pháp quản

lý xã hội, cách thức thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội… đã làm cho nó có sức sống

lâu dài trong hệ tư tưởng của chế độ phong kiến Trung Hoa cũng như các nước

đồng văn khác, trong đó có Việt Nam với sự biểu hiện dưới các hình thức khác

nhau. Theo đó, vai trò của Pháp gia được thể hiện trong luận chiến, phê phán thuyết

tính thiện, tư tưởng bảo thủ về phương pháp quản lý xã hội của các thánh vương đời

Page 158: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

152

xưa (pháp cổ, pháp tiên vương) của Nho gia, mặc dù đa số các đại biểu của Pháp gia

đã từng là môn đệ của Nho gia và kế thừa một cách có chọn lọc những thành quả

của nó cho hoạt động lý luận và thực tiễn của mình. Nhờ đó họ đã làm cho Pháp gia

có vị thế đặc biệt trong lịch sử tư tưởng chính trị - xã hội của Trung Hoa cổ đại. Có

được vị thế đó, theo chúng tôi, là tính hợp thời của học thuyết này trong điều kiện

xã hội Trung Hoa cổ đại đang lâm vào tình trạng nội chiến và loạn lạc.

Tuy nhiên, do sự vận dụng tư tưởng pháp trị của Pháp gia dưới thời Tần thủy

Hoàng một cách cực đoan, quá tả trên phạm vi một nước Trung Hoa rộng lớn vừa

mới được thống nhất dẫn đến những bất cập không thể tránh khỏi. Đó là sự cứng

nhắc trong thực thi pháp luật, nhà Tần muốn dùng pháp luật để trị thiên hạ hơn là

quản lý xã hội bởi những hình phạt tàn khốc, vô nhân tính. Điều này trái hẳn với

thói quen đời sống nhân dân sống nơi thôn dã, vốn là những người trọng tình nghĩa,

hơn nữa nó đảo lộn trật tự với quan điểm của Nho giáo – hệ tư tưởng chính trị đã ăn

sâu vào đời sống xã hội cổ đại Trung Hoa. Tất cả những lý do này cũng nguyên

nhân chính dẫn đến sự cáo chung của đế chế Tần, một triều đại có công thống nhất

các chư hầu, nhưng chỉ tồn tại 15 năm (từ 221 – 205 Tr.CN).

Bài học lịch sử về sự sụp đổ của nhà Tần có ý nghĩa to lớn không chỉ cho chế

độ phong kiến trung ương tập quyền Trung Hoa, mà cho cả các nước đồng văn về

cách thức sử dụng học thuyết pháp trị.

Đối với lịch sử phong kiến Trung Hoa, sau thời Tần, Nho giáo được đưa lên vị

trí hàng đầu trong hệ tư tưởng của chế độ phong kiến kéo dài đến chiến tranh thuốc

phiện (1840), dẫn đến cục diện chế độ phong kiến thuộc địa đến tận Cách mạng Tân

Hợi (1911). Tuy nhiên, trong hệ tư tưởng đó chúng ta vẫn tìm thấy chỗ đứng của tư

tưởng pháp trị, bởi lẽ thiếu nó, nhà cầm quyền không thể trị nước có hiệu quả. Vì vậy,

từ thời Hán trở đi chế độ phong kiến Trung Hoa thường sử dụng biện pháp trị nước tổ

hợp “nội thánh ngoại vương”, “đức chủ pháp bổ”, “đức trị - pháp trị”… mà bản

chất là “Nho Pháp tịnh dụng”, lấy cái mềm mại của Nho gia để bù vào phần khô

cứng của Pháp gia, biện pháp này không chỉ giúp nhà Hán tồn tại suốt bốn trăm năm

mà còn giúp cho chế độ phong kiến Trung Hoa tồn tại gần hai ngàn năm.

Page 159: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

153

Trong lịch sử tư tưởng chính trị phong kiến Việt Nam, qua nghiên cứu, trình

bày ở trên, chúng ta dễ dàng nhận diện tư tưởng trị nước trong khoảng 10 thế kỷ

dưới chế độ quân chủ chuyên chế ở nước ta đó là chủ trương dùng Đức trị và Pháp

trị song hành. Tất nhiên, mức độ sử dụng pháp hay đức thì còn tùy thuộc vào hoàn

cảnh lịch sử cụ thể và tâm thế của mỗi triều đại. Có thể tạm phân định để đánh giá

về tỷ trọng giữa đức trị và pháp trị trong đường lối trị nước thời phong kiến Việt

Nam qua ba giai đoạn lịch sử như sau: Thời kỳ đầu độc lập (Ngô, Đinh và Tiền Lê

từ năm 938 – 1009), đây là thời kỳ chưa có học thuyết nào đứng ở vị trí chủ đạo

trong hệ tư tưởng; Thời Lý - Trần (từ thế kỷ XI - XIII), lúc này Phật giáo là quốc

giáo nhưng Nho giáo từng bước xác lập vị thế của nó trên lĩnh vực chính trị; Thời

Lê – Nguyễn (từ thế kỷ XIV – đầu thế kỷ XX), đây là thời kỳ lấy Nho giáo làm bệ đỡ

hệ tư tưởng. Trong suốt 10 thế kỷ, mặc dù các quân vương phong Việt Nam chưa

bao giờ thừa nhận theo chủ trương pháp trị, nhưng trên thực tế cả ba giai đoạn lịch

sử nói trên đều xuất hiện tư tưởng pháp trị trong phương lược trị nước của các triều

đại, nhất là trong lĩnh vực xây dựng và củng cố chế độ phong kiến trung ương tập

quyền. Đồng thời để bảo vệ chế độ ấy, các bộ pháp điển đã ra đời và là công cụ đắc

dụng để nhà nước phong kiến Việt Nam tồn tại và phát triển đến đầu thế kỷ XX.

Không dừng lại ở đó, những giá trị tích cực của tư tưởng pháp trị về cách

thức làm luật; phương thức quản lý nhà nước, quản lý xã hội… vẫn còn có ý nghĩa

và tác dụng tích cực đối với sự nghiệp xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp

quyền XHCN ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Bài học lịch sử mà Pháp gia để

lại cho chúng ta, trước hết là sự minh bạch, nhất quán, thống nhất trong hoạt động

lập pháp, tư pháp và hành pháp trên cơ sở thượng tôn pháp luật. Gắn liền vớ i

thượng tôn pháp luật, cần thiết lập một cơ chế quản lý, giám sát hữu hiệu. Bên

cạnh đó là những phương thức giáo dục ý thức pháp luật công hiệu cho người dân.

Page 160: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

154

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

[1]. Nguyễn Hữu Phước (2015), Bốn nguyên tắc dùng “pháp” của pháp gia và ý

nghĩa hiện thời của nó, Tạp chí Triết học số 3(286), tr. 70-78.

[2]. Nguyễn Hữu Phước (2015), Hàn Phi – người kế thừa và hoàn thiện tư tưởng

của các Pháp gia tiền bối, Tạp chí nhân lực Khoa học xã hội, số 3(22), tr. 51-61.

[3]. Nguyễn Hữu Phước (2015), Sự xung đột giữa Nho gia và Pháp gia về tư tưởng

trị nước, Tạp chí Giáo dục lý luận, số 231(2015), tr.60-64.

Page 161: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

155

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Huỳnh Công Bá (2007), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nxb Thuận Hóa,

Thừa Thiên Huế

[2]. Ban tuyên giáo Trung ương, Tài liệu hỏi - đáp về Hiến pháp nước

CHXHCN Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội, 2014

[3]. Đỗ Bang (Chủ biên, 1997), Tổ chức bộ máy nhà nước triều Nguyễn

(1802 - 1884), Nxb Thuận Hóa, TP. HCM

[4]. Nguyễn Thanh Bình (2007), Tư tưởng về “Đạo trị nước” ở các nhà Nho

Việt Nam, Tạp chí Triết học, số 1, tr. 37 – 42

[5]. Nguyễn Thanh Bình (2007), Nội dung và giá trị cơ bản về quyền con người

trong Bộ luật Hồng Đức, Tạp chí Bảo hiển xã hội, số 4, tr. 27 – 30

[6]. Nguyễn Thanh Bình (2008), Vấn đề phòng chống tham ô, tham nhũng

trong Quốc triều hình luật, Tạp chí Bảo hiển xã hội, số 1, tr. 37 – 41

[7]. Nguyễn Thị Kim Bình (2008), Tư tưởng trị nước của Pháp gia và vai trò của nó

trong lịch sử, Tạp chí KH&CN Đại học Đà Nẵng, số 3(26), tr. 134 - 139

[8]. Bộ Quốc phòng (2014), Lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam, tập 1, Nxb

CTQG - ST, Hà Nội

[9]. Bộ Quốc phòng (2014), Lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam, tập 2, Nxb

CTQG - ST, Hà Nội

[10]. Bộ Tư Pháp (2008), Quốc triều Hình luật những giá trị lịch sử và đương đạị

góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, Nxb Tư Pháp, Hà Nội

[11]. Cao Liêu Hân (2010), Quản Trọng với nước Tề thời xuân thu, (Ông Văn Tùng -

dịch), Nxb Văn học, Hà Nội

[12]. Doãn Chính (Chủ biên, 2004), Đại cương lịch sử triết học Trung Quốc,

Nxb CTQG, Hà Nội

[13]. Doãn Chính, Nguyễn Văn Trịnh (2007), Tư tưởng pháp trị của Pháp gia với

sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội

[14]. Doãn Chính (2010), Từ điển Triết học Trung Quốc, Nxb CTQG, Hà Nội

Page 162: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

156

[15]. Doãn Chính (Chủ biên, 2012), Lịch sử triết học phương Đông, Nxb CTQG, Hà Nội

[16]. Chu Hi, Tứ thư tập chú, (Nguyễn Đức Lân - dịch 1998), Nxb VHTT, Hà Nội

[17]. Phan Huy Chú (1992), Lịch triều hiến chương loại chí, tập 1, Nxb KHXH, Hà Nội

[18]. Phan Huy Chú (1992), Lịch triều hiến chương loại chí, tập 2, Nxb KHXH, Hà Nội

[19]. Phan Huy Chú (Tái bản, 2014), Lịch triều hiến chương loại chí, tập 1,

Nxb Trẻ, TP. HCM

[20]. Phan Huy Chú (Tái bản, 2014), Lịch triều hiến chương loại chí, tập 2,

Nxb Trẻ, TP. HCM

[21]. Phan Huy Chú (Tái bản, 2014), Lịch triều hiến chương loại chí, tập 3,

Nxb Trẻ, TP. HCM

[22]. Phan Huy Chú (Tái bản, 2014), Lịch triều hiến chương loại chí, tập 4,

Nxb Trẻ, TP. HCM

[23]. Phan Huy Chú (Tái bản, 2014), Lịch triều hiến chương loại chí, tập 5,

Nxb Trẻ, TP. HCM

[24]. Doãn Văn Tử, Chư tử tập thành, tập 6 (lược dịch 1962), Nxb Trung Hoa Thư cục,

Bắc Kinh

[25]. Phan Đại Doãn, Nguyễn Minh Tường, Hoàng Phương, Lê Thành Lân,

Nguyễn Ngọc Quỳnh (1998), Một số vấn đề quan chế triều Nguyễn, Nxb

Thuận Hóa, TP. HCM

[26]. Phan Đại Doãn (Chủ biên, 1998), Một số vấn đề Nho giáo Việt Nam,

Nxb CTQG, Hà Nội

[27]. Nguyễn Đăng Dung (1997), Tổ chức chính quyền nhà nước ở địa phương

(lịch sử và hiện tại), Nxb Đồng Nai

[28]. Vũ Kim Dung (2003), Tư tưởng Hàn Phi, LATS Triết học, Viện Triết học, Hà Nội.

[29]. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

VIII, Nxb CTQG, Hà Nội 1996

[30]. Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Văn Kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ IX, Nxb CTQG, Hà Nội

[31]. Đảng cộng sản Việt Nam (2011), Văn Kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội

Page 163: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

157

[32]. Đảng cộng sản Việt Nam (2016), Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XII

[33]. Bùi Xuân Đính (1998), Hương ước và quản lý làng xã, Nxb KHXH, Hà Nội

[34]. Bùi Xuân Đính (2000), Vua Minh Mệnh với việc áp dụng hình phạt, Tạp chí

Luật học, số 1, tr. 8-13

[35]. Phạm Văn Đức (2005), Về một số nét đặc thù của Nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Tạp chí Triết học, số 9/2005, tr.7 – 11

[36]. Trần Nguyễn Du Sa, Trần Thế San, Nguyễn Anh Dũng, Tăng Văn Mùi, Nguyễn

Hiếu Nghĩa (2004), Bách khoa lịch sử thế giới những sự kiện nổi bật trong lịch sử

thế giới (Giai đoạn từ thời tiền sử đến năm 2000), Nxb VHTT, Hà Nội

[37]. Lê Giảng (2010), Các triều đại Trung Hoa, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội

[38]. Hàn Phi, Hàn Phi Tử, (Phan Ngọc - dịch, 2005), Nxb Văn học, Hà Nội

[39]. Lê Mậu Hãn, Đảng cộng sản Việt Nam các Đại hội và Hội nghị trung

ương, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995

[40]. Nguyễn Hùng Hậu (Chủ biên, 2002), Đại cương lịch sử tư tưởng triết học

Việt Nam, tập 1, Nxb ĐHQG Hà Nội

[41]. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, Hà Nội, 1999

[42]. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội, 1999

[43]. Hồ Thích (2004), Trung Quốc triết học sử Đại cương, Nxb VHTT, Hà Nội

[44]. Hồng Tiềm, Nhiệm Hoa, Uông Tử Tung, Trương Thế Anh (1957), Lịch sử

triết học Trung Quốc, Nxb Sự thật, Hà Nội

[45]. Nguyễn Văn Hiền, “Tư tưởng Pháp trị của hàn Phi Tử - ý nghĩa và bài học

lịch sử”, Tạp chí KHXH (Triết học, Chính trị học), số 1 (113), 2008, tr. 3-12

[46]. Cao Xuân Huy, Tư tưởng phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu

(Nguyễn Huệ Chi giới thiệu, 1995), Nxb Văn học, Hà Nội

[47]. Trương Văn Huyền (2012), Tư tưởng chính trị Hàn Phi, LATS Chính trị

học, Học viện CTHCQG HCM, Hà Nội

[48]. Ngô Văn Hưởng (2010), Tư tưởng kết hợp Đức trị với Pháp trị trong đường lối trị nước

của triều đại Lê Sơ và ý nghĩa lịch sử của nó, Tạp chí Triết học, số 6 (229), tr 61 – 66

Page 164: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

158

[49]. Ngô Văn Hưởng (2014), Tư tưởng trị nước thời Lê Sơ và ý nghĩa lịch sử của nó, LATS

Triết học, Học viện KHXH – Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam, Hà Nội

[50]. Trần Đình Hượu (2007), Tuyển tập, Nxb Giáo dục, Hà Nội

[51]. IAN PNL GEAL, Những tư tưởng gia vĩ đại phương Đông (Phạm khải - dịch, 2005),

Hà Nội

[52]. Phan Quốc Khánh (2004), Vấn đề Đức trị và Pháp trị trong lịch sử tư tưởng

Việt Nam, LATS Triết học, Viện KHXH Việt Nam, TP. HCM

[53]. Trần Trọng Kim (2012), Việt Nam sử lược, Nxb Văn học, Hà Nội

[54]. Vũ Khiêu (1995), Đức trị và Pháp trị trong Nho giáo, Nxb KHXH, Hà Nội

[55]. Lã Trấn Vũ (1964), Lịch sử tư tưởng chính trị Trung Quốc, Nxb Sự thật, Hà Nội

56]. Nguyễn Hiến Lê (1983), Sử Trung Quốc, Nxb Sài Gòn, TP. HCM

[57]. Nguyễn Hiến Lê, Giản Chi (1989), Chiến quốc sách, Nxb Trẻ TP.HCM

[58]. Nguyễn Hiến Lê, Giản Chi (1994), Tuân Tử, Nxb VHTT, Hà Nội

[59]. Nguyễn Hiến Lê, Giản Chi (1994), Hàn Phi Tử, Nxb VHTT, Hà Nội

[60]. Nguyễn Hiến Lê (1994), Lão Tử Đạo Đức Kinh, Nxb VHTT, Hà Nội

[61]. Nguyễn Hiến Lê (1995), Mặc học (Mặc Tử và Biệt Mặc),Nxb VHTT, Hà Nội

[62]. Nguyễn Hiến Lê (1996), Khổng Tử, Nxb VHTT, Hà Nội

[63]. Nguyễn Hiến Lê (1996), Mạnh Tử, Nxb VHTT, Hà Nội

[64]. Phan Huy Lê, Chu Thiên, Vương Hoàng Tuyên, Đinh Xuân Lâm (1960),

Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, tập III, Nxb Giáo dục, Hà Nội

[65]. Nguyễn Thị Vĩnh Linh (2009), Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử và giá

trị của nó đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam

hiện nay, LVThS triết học, HVCT HCQG Hồ Chí Minh

[66]. Ngô Sĩ Liên, Đại Việt Sử ký toàn thư (trọn bộ, 2013), Nxb Thời Đại, Hà Nội

[67]. Nguyễn Tôn Nhan (2005), Nho giáo Trung Quốc, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội

[68]. Ngọ Văn Nhân, Một số điểm mới về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa Việt Nam qua văn kiện Đại hội XI của Đảng, Tạp chí Triết học,

số 3/2011, tr.3 – 4

[69]. Max Kantenmark (2000), Triết học Trung Hoa, Nxb Thế giới, Hà Nội

Page 165: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

159

[70]. Đinh Văn Mậu, Phạm Hồng Thái (1997), Lịch sử các học thuyết chính trị

pháp lý, Nxb TP. HCM, TP. HCM

[71]. Đỗ Đức Minh (2010), Hàn Phi - Người sáng lập học thuyết pháp trị

Trung Hoa cổ đại, Tạp chí Luật học, số 3, tr. 33 – 41

[72]. Đỗ Đức Minh (2010), "Trung Hoa pháp hệ" - sản phẩm đặc sắc của sự kết

hợp giữa hai học thuyết Đức trị và Pháp trị trong lịch sử phong kiến Trung

Hoa, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 3, tr.8 – 17

[73]. Đỗ Đức Minh (2010), Học thuyết pháp trị Trung Hoa cổ đại trong hành trình

lịch sử phong kiến phương Đông, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 8 (108),

tr.72 – 82

[74]. Đỗ Đức Minh (2010), Những giá và hạn chế của học thuyết pháp trị Trung

Hoa cổ đại, Tạp chí KHXH, số 7(143), tr. 8 - 20

[75]. Đỗ Đức Minh (2011), Học thuyết pháp trị Trung Hoa cổ đại: Giá trị và kế

thừa trong quản lý xã hội ở nước ta hiện nay, LATS Lý luận và lịch sử

NN&PL, Học viện CTHCQG HCM, Hà Nội

[76]. Triệu Quang Minh - Trần Thị Lan Hương (2009), Vấn đề con người trong

triết học Hàn Phi, Tạp chí Triết học, số 2(213), tháng 2, tr. 68 - 74

[77]. Niccolo Machiavelli, Quân vương - thuật cai trị, (Vũ Thái Hà - dịch,

2013), Nxb Thế giới, Hà Nội

[78]. Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Huy Quý (2007), Lịch sử Trung Quốc, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

[79]. Phùng Hữu Lan (1998), Đại cương triết học sử Trung Quốc (Nguyễn Văn

Dương - dịch), Nxb Thanh Niên, TP. HCM

[80]. Lịch sử các học thuyết chính trị thế giới (Lưu Kiến Thành, Phạm Hồng

Thái dịch, 1993), Nxb CTQG, Hà Nội.

[81]. Vũ Thị Phụng (2007), Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam, Nxb ĐHQG, Hà Nội.

[82]. Nguyễn Hữu Phước (2015), Bốn nguyên tắc dùng “pháp” của pháp gia và

ý nghĩa hiện thời của nó, Tạp chí Triết học số 3(286), tr. 70 – 78

[83]. Nguyễn Hữu Phước (2015), Hàn Phi – người kế thừa và hoàn thiện tư

tưởng của các Pháp gia tiền bối, Tạp chí nhân lực Khoa học xã hội, số

3(22), tr. 51 – 56

Page 166: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

160

[84]. Nguyễn Hữu Phước (2015), Sự xung đột giữa Nho gia và Pháp gia về tư

tưởng trị nước, Tạp chí Giáo dục lý luận, số 231(2015), tr.60 – 64

[85]. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2014), Hiến pháp 2013, Nxb Tư pháp, Hà Nội

[86]. Quốc sử quán triều Nguyễn, Minh Mệnh chính yếu, (Hà Minh Xuyền,

Hoàng Văn Luyện - dịch, 1960), Nxb Thuận Hóa, Huế

[87]. Quốc sử quán triều Nguyễn (1962), Đại Nam thực lục chính biên, tập IV,

Nxb KHXH, Hà Nội

[88]. Trương Hữu Quýnh, Nguyễn Đức Nghinh (1980), Lịch sử Việt Nam (Quyển 1),

Nxb Giáo dục, Hà Nội

[89]. Trương Hữu Quýnh, Nguyễn Phan Quang, Nguyễn Cảnh Minh (1980),

Lịch sử Việt Nam, quyển 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội

[90]. Trương Hữu Quýnh (2008), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập 1, Nxb Giáo

dục, Hà Nội, Nxb Giáo dục, Hà Nội

[91]. Phạm Quýnh, Bách gia chư tử (giản thuật), (Nguyễn Quốc Thái - dịch,

2000), Nxb VHTT, Hà Nội

[92]. Bùi Thanh Quất (2000), Lịch sử triết học, Nxb Giáo dục, Hà Nội

[93]. Trần Nguyễn Du Sa, Trần Thế San, Nguyễn Anh Dũng, Tăng Văn Mùi, Nguyễn

Hiếu Nghĩa (Biên soạn, 2004), Bách khoa lịch sử thế giới, (những sự kiện nổi bật

từ tiền sử đến năm 2000), Nxb VHTT, Hà Nội

94]. Phương Kỳ Sơn (2000), Lịch sử triết học, Nxb CTQG, Hà Nội

[95]. Sở nghiên cứu văn học (Học viện KHXH Trung Quốc), Lịch sử văn học

Trung Quốc, (Lê Huy Tiêu - Chủ biên dịch, 2007), Nxb Giáo dục, Hà Nội

[96]. Văn Tạo (2012), Mười cuộc cải cách đổi mới lớn trong lịch sử Việt

Nam, Nxb ĐHSP, Hà Nội

[97]. Vũ Minh Tâm (1997), Tư tưởng triết học về con người, Nxb Giáo dục, Hà Nội

[98]. Hà Văn Tấn, Phạm Thị Tâm (1970), Cuộc kháng chiến chống quân xâm

lược Nguyên Mông thế kỷ XIII, Nxb KHXH, Hà Nội

[99]. Trần Văn Thành, Vũ Trinh, Trần Hựu, Hoàng Việt luật lệ, (Nguyễn Q. Thắng,

Trần Văn Tài - dịch, 1994), tập 1, Nxb VHTT, Hà Nội.

Page 167: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

161

[100]. Trần Văn Thành, Vũ Trinh, Trần Hựu, Hoàng Việt luật lệ, (Nguyễn Q. Thắng,

Trần Văn Tài - dịch, 1994), tập 2, Nxb VHTT, Hà Nội

[101]. Trần Văn Thành, Vũ Trinh, Trần Hựu, Hoàng Việt luật lệ, (Nguyễn Q. Thắng,

Trần Văn Tài - dịch, 1994), tập 3, Nxb VHTT, Hà Nội

[102]. Nguyễn Q. Thắng (2002), Lược khảo Hoàng Việt Lệ luật, Nxb VHTT, Hà Nội

[103]. Đoàn Quang Thọ (Chủ biên, 1997), Đại cương lịch sử triết học, Nxb

Thống kê, Hà Nội

[104]. Nguyễn Huy Thúc (1957), Mấy điểm cần biết về chế độ pháp trị,

Nxb Phổ thông, Hà Nội

[105]. Nguyễn Khắc Thuần (2006), Tiến trình văn hóa Việt Nam từ khởi

thủy đến thế kỷ XIX, Nxb Giáo dục, Hà Nội

[106]. Nguyễn Đăng Thục (2006), Lịch sử triết học phương Đông, Nxb Từ

điển Bách khoa, Hà Nội

[107]. Nguyễn Tài Thư (1984), Mấy vấn đề lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tạp

chí Triết học số 4 (47) tháng 11, tr. 14 – 26

[108]. Lê Đức Tiết (2007), Lê Thánh Tông vị vua anh minh, nhà cách tân vĩ

đại, Nxb Tư Pháp, Hà Nội

[109]. Ngô Tất Tố (1992), Lão Tử, Nxb TP. Hồ Chí Minh, TP. HCM

[110]. Tư Mã Thiên, Sử ký, (Phan Ngọc - dịch, 2010),Nxb Thời đại, Hà Nội

[111]. Lê Nguyễn Gia Thiện, Nguyễn Ngọc Kiện, Tư tưởng Pháp trị của Hàn

Phi, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 4 (116), 2001, tr. 65 - 75

[112]. Nguyễn Văn Trịnh, Về ba phạm trù triết học chính trị Hàn Phi, Tạp chí

KHXH, số 4(68), 2004, tr. 38 – 44

[113]. Truyện thông sử Trung Quốc, Quyển thượng, tập 1, (Dương Thu Ái,

Nguyễn Kim Hanh - dịch, 2000), Nxb VHTT, Hà Nội

[114]. Truyện thông sử Trung Quốc, Quyển thượng, tập 2, (Dương Thu Ái,

Nguyễn Kim Hanh - dịch, 2000), Nxb VHTT, Hà Nội

[115]. Trung tâm KHXH&NV Quốc gia (Viện Triết học, 1997), Lịch sử tư tưởng

Việt Nam, tập II, Nxb KHXH, Hà Nội

Page 168: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

162

[116]. Trung tâm KHXH&NV Quốc gia (Viện KHXH TPHCM, 2002), Lịch sử

triết học, tập 1, Nxb KHXH, TP. HCM.

[117]. Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Lịch sử nhà nước và pháp

luật Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội

[118]. Hà Minh Tuấn (2004), Dân chủ trong chế độ phong kiến Việt Nam, Tạp chí

Nghiên cứu lập pháp, số 10 (45), tr 62 – 67

[119]. Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn (1997), Binh thư yếu lược, Nxb Đồng Tháp

[120]. Nguyễn Minh Tường (2012), Lịch sử tư tưởng phương Đông và Việt Nam,

Nxb KHXH, Hà Nội

[121]. Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam (1993), Đại Việt Sử ký toàn thư, tập 1,

Nxb KHXH, Hà Nội

[122]. Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam (1998), Đại Việt Sử ký toàn thư, tập 2,

Nxb KHXH, Hà Nội

[123]. Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam (1984), Một số vấn đề lý luận về lịch

sử tư tưởng Việt Nam, Viện Triết học, Hà Nội

[124]. Ủy ban KHXH Việt Nam (1971), Lịch sử Việt Nam, tập 1, Nxb KHXH, Hà Nội

[125]. Ủy ban KHXH Việt Nam (1985), Lịch sử Việt Nam, tập 2, Nxb KHXH, Hà Nội

[126]. Ủy ban KHXH Việt Nam (1977), Thơ văn Lý – Trần, tập 1, Nxb KHXH, Hà Nội

[127]. Ủy ban KHXH Việt Nam (1988), Thơ văn Lý – Trần, tập 2, Nxb KHXH, Hà Nội

[128]. Nguyễn Hoài Văn (2008), Sự phát triển của tư tưởng chính trị từ thế kỷ X -

XV, Nxb CTQG, Hà Nội

[129]. Nguyễn Hoài Văn (2010), Đại cương lịch sử tư tưởng chính trị Việt Nam từ

thế kỷ XVI - XIX, Nxb CTQG, Hà Nội

[130]. Nguyễn Hoài Văn, Đặng Duy Thìn (2012), Đại cương lịch sử tư tưởng

chính trị Việt Nam từ thế kỷ XVI - XIX, Nxb CTQG, Hà Nội

[131]. Viện KHXH Việt Nam (Viện Nghiên cứu Trung Quốc, 2008), Nghiên cứu

Trung Quốc học (Những bài viết chọn lọc), Nxb KHXH, Hà Nội

[132]. Viện KHXH Việt Nam (Viện Triết học, 1993), Lịch sử tư tưởng Việt Nam,

tập I, Nxb KHXH, Hà Nội

Page 169: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM - gass.edu.vn · mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc

163

[133]. Viện KHXH Việt Nam (Viện Triết học, 2006), Lịch sử tư tưởng triết học

Việt Nam, tập I, Nxb KHXH, Hà Nội

[134]. Viện Ngôn ngữ học (2003), Từ điển tiếng Việt, Trung tâm từ điển học, Nxb

Đà Nẵng, Hà Nội – Đà Nẵng

[135]. Viện Sử học, Quốc triều hình luật, (Nguyễn Ngọc Nhuận, Nguyễn Tá Nhí

– dịch, 2013) Nxb Tư Pháp, Hà Nội

[136]. Viện Triết học (2001), Nửa thế kỷ nghiên cứu và giảng dạy triết học ở Việt

Nam, (Kỷ yếu), Hà Nội

[137]. Nguyễn Văn Vĩnh (Chủ biên, 2007), Aristole và Hàn Phi Tử con người

chính trị và thế chế chính trị, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội

[138]. Nguyễn Hữu Vui (2000), Lịch sử triết học, Nxb CTQG, Hà Nội.

[139]. Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn (1960), Lịch sử chế độ phong kiến Việt

Nam, tập 1, Nxb Giáo dục Hà Hội

[140]. http://chimviet.free.fr, Bách gia Chư tử, Thảo Đường Cư sĩ Trần Văn

Hải Minh (biên soạn)

[141]. http://vnthuquan.org, Bảy đại triết gia tiêu biểu, Ngô Quân, 18/6/2005